text
stringlengths 0
512k
|
---|
Châu Hải (tiếng Trung: 珠海; bính âm: Zhūhǎi; nghĩa là "Biển Ngọc"; thường bị phiên âm sai thành Chu Hải) là một thành phố trực thuộc tỉnh (địa cấp thị) ở bờ biển phía nam tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.
Lịch sử
Trên bản đồ Châu Hải chỉ xuất hiện khoảng chừng 1979, trước đó nó chỉ là một làng đánh cá không quan trọng. Dưới bóng của Macao nó phát triển nhất là kể từ năm 1980, khi nó được chọn lựa làm một vùng kinh tế đặc biệt, trở thành một thành phố kinh tế và du lịch.
Vị trí
Tọa lạc ở đồng bằng châu thổ sông Châu Giang, Châu Hải giáp Giang Môn ở phía tây bắc, Trung Sơn phía bắc và Ma Cao phía nam. Châu Hải cách Quảng Châu 140 km về phía tây nam. Châu Hải bao gồm 146 hòn đảo, bãi biển dài tổng cộng 690 km, diện tích 1.653 km², dân số 1,38 triệu.
Hành chính
Châu Hải được chia ra thành 3 đơn vị hành chính cấp huyện, toàn bộ đều là quận.
Quận: Hương Châu (香洲区), Đẩu Môn (斗门区), Kim Loan (金湾区)
Kinh tế
GDP: 54,62 tỷ NDT, GDP trên đầu người: 41.800 NDT. Châu Hải trở thành một thành phố độc lập vào năm 1979, thời kỳ Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình đã mở cửa kinh tế, Châu Hải là một trong những đặc khu kinh tế do vị trí giáp Ma Cao như Thâm Quyến liền kề Hồng Kông vậy. Thành phố đã phát triển thành một trung tâm cảng, khoa học giáo dục, du lịch của Trung Quốc. Các tập đoàn kinh tế lớn như: EssoMobil, British Petroleum, Siemens, Carrefour và Matsushita v.v đều có cơ sở tại đây. Hồng Kông vẫn là vùng lãnh thổ đầu tư lớn nhất vào đây, chiếm 22% tổng vốn nước ngoài. Thành phố có 5 khu công nghệ cao và công nghiệp nặng: điện tử, phần mềm, công nghệ sinh học, dược phẩm, máy móc thiết bị, lọc hóa dầu. 5 khu kinh tế của Châu Hải:
Khu phát triển công nghiệp công nghệ cao quốc gia Châu Hải
Khu thương mại tự do Châu Hải
Khu công nghiệp cảng (cấp tỉnh)
Khu thực nghiệm phát triển hải dương Vạn Sơn (cấp tỉnh)
Khu phát triển kinh tế Hoành Cầm (cấp tỉnh)
Giao thông
Sân bay: Sân bay Kim Loan Châu Hải
Đường bộ: Đường cao tốc nối Châu Hải với Phật San. Cầu nối Châu Hải với Ma Cao (Lotus Bridge) xây dựng năm 1999. Dự án cầu Hồng Kông-Châu Hải-Ma Cao đang triển khai.
Cảng biển: Cảng nước sâu với môi trường sạch. Hai cảng biển quốc tế: Cửu Châu (九州港) và Cao Lan (高蘭港). Cao Lan là cảng hàng đầu ở Quảng Đông, Cửu Châu là cảng hành khách đi đường biển lớn.
Do môi trường sạch đẹp, năm 2002, thành phố đã đón 1,3 triệu khách quốc tế và 3,64 triệu khách nội địa. Sau Quảng Châu và Thâm Quyến, Chu Hải là thành phố đạt doanh thu du lịch lớn thứ ba của tỉnh Quảng Đông (0,5 tỷ USD). Công viên Viên Minh Tân (圓明新園) rộng 1,39 km² bao gồm hồ rộng 80.000 m² là nơi tham quan thu hút du khách dựa theo mô hình của Di Hòa Viên ở Bắc Kinh bị liên quân Anh-Pháp phá hủy năm 1860 trong cuộc Chiến tranh Nha phiến.
Biểu tượng
Chim biểu tượng của thành phố là hải âu (Larus canus), hoa biểu tượng là hoa giấy (lặc đỗ quyên/tam giác mai) (Bougainvillea spectabilis), cây biểu tượng là ban hoa đỏ (hồng hoa tử kinh)
Ghi chú
Thành phố tỉnh Quảng Đông
Đặc khu kinh tế Trung Quốc
Chu Hải
Đồng bằng Châu Giang |
Sicherheitsdienst (tiếng Đức của "Cục An ninh", viết tắt SD) là một cơ quan thuộc lực lượng SS của Đức Quốc xã. SD là một tên tắt đã gây kinh hoàng cho nhiều người Đức và sau đấy là cho dân cư các vùng bị quân đội của Adolf Hitler chiếm đóng. Từ năm 1944, SD nắm luôn ngành Quân báo.
Khởi đầu do Heinrich Himmler thành lập năm 1932 như là bộ phận tình báo của SS, và do Reinhard Heydrich được Himmler bổ nhiệm làm chỉ huy trưởng, chức năng của SD là rình rập đảng viên và báo cáo hành động khả nghi. Năm 1938, một luật mới giao nhiệm vụ cho SD bao trùm cả Đế chế thứ Ba.
Dưới bàn tay lão luyện của Heydrich, cựu sĩ quan quân báo trong Hải quân, chẳng bao lâu SD giăng lưới hoạt động toàn quốc, sử dụng 100.000 người làm mật báo viên bán thời gian. Những người này nhận chỉ thị theo dõi dân chúng và báo cáo bất cứ biểu hiện lớn nhỏ cho thấy sự chống đối chế độ. Không một ai – nếu không phải là điên rồ – nói và làm điều gì có thể bị ghép là "chống Quốc xã" mà không kiểm tra trước liệu lời nói có bị thu âm lén hoặc bị nghe trộm hay không. Người dân không biết được liệu người con, hoặc người cha, người vợ, anh em họ, bạn thân, người chủ hoặc thư ký là mật báo viên cho SD hay không, và tốt hơn là không nên tin ai cả.
Nhân viên mật thám làm việc toàn thời gian cho SD có lẽ không bao giờ quá 3.000 trong thập kỷ 1930. Phần lớn bọn họ được tuyển dụng từ giới trí thức không thể tìm việc làm thích hợp hoặc không có chỗ ổn định trong xã hội bình thường. Vì thế, trong số những điệp viên chuyên nghiệp này luôn luôn có bầu không khí thông thái rởm. Tuy thế, người nước ngoài khó mà tiếp xúc với họ, dù Heydrick thỉnh thoảng xuất hiện trong một hộp đêm ở Berlin.
Rình rập việc bỏ phiếu
Một trong những nhiệm vụ của SD là tìm xem ai đã bỏ phiếu chống lại ý muốn của Hitler trong những cuộc trưng cầu dân ý. Trong số tài liệu được đưa ra trước Tòa án Nürnberg có một báo cáo mật của SD về việc theo dõi cuộc trưng cầu dân ý ngày 10 tháng 4 năm 1938. Theo báo cáo này, hội đồng bầu cử ghi bằng sữa vào mặt sau của các lá phiếu một số thứ tự, và trong cuộc bỏ phiếu họ phát các lá phiếu theo số thứ tự, và ghi lại tên người bỏ phiếu. Vì thế, sau đấy có thể tìm ra lá phiếu chống đối là của ai.
"Đêm Thủy tinh"
SD can dự vào "Đêm thủy tinh" vào đêm 9 tháng 11 rạng sáng 10 tháng 11 năm 1938, là một đêm kinh hoàng trên toàn nước Đức. Giáo đường, nhà ở và cửa hàng của người Do Thái bị đốt cháy, một số đàn ông, phụ nữ và trẻ em Do Thái bị sát hại trong khi cố thoát ra khỏi ngọn lửa.
Một hệ lụy của biến cố này là việc loại trừ người Do Thái ra khỏi nền kinh tế của Đức; chuyển mọi cơ sở kinh doanh và tài sản, kể cả nữ trang và tác phẩm nghệ thuật, vào tay người Aryan với ít đền bù qua trái phiếu để người Do Thái có thể sử dụng tiền lãi nhưng không thể rút tiền vốn. Một ủy ban xem xét việc loại người Do Thái ra khỏi trường học, khu nghỉ dưỡng, công viên...
Ngụy tạo Ba Lan tấn công Đức
SD thực hiện công tác ngụy tạo việc quân đội Ba Lan "tấn công" Đức để Quốc xã có cớ xâm lăng Ba Lan. Chính Heydrich chọn Alfred Naujocks, một thứ găng-tơ tri thức. Anh này đã theo học ngành kỹ thuật tại Đại học Kiel, nơi anh ta tham gia xô xát với người chống Quốc xã; có lần bị người Cộng sản đánh vỡ mũi. Anh gia nhập lực lượng SS năm 1931 và được điều đến lực lượng SD khi lực lượng này ra đời. Chính Naujocks tham gia trong chiến dịch cải trang binh sĩ Đức trong quân phục bộ đội biên phòng Hà Lan và Bỉ vào tháng 5 năm 1940. Trong giai đoạn đầu của Thế chiến II, Naujocks chỉ huy một bộ phận của SD làm hộ chiếu giả để phục vụ việc thả tiền giả của Anh trên đất Anh.
Ngày 19 tháng 10 năm 1944, Naujocks đào ngũ qua quân Mỹ, và năm sau tại Nürnberg viết một số bản cung khai có tuyên thệ, có một bản kể lại việc anh ta tham gia vào cuộc tấn công giả tạo.
Khoảng ngày 10 tháng 8 năm 1939, Chỉ huy trưởng SD Heydrich đích thân ra lệnh tôi giả tạo một cuộc tấn công vào đài truyền thanh ở Gleiwitz, gần biên giới Ba Lan, để tạo vẻ lực lượng tấn công là quân đội Ba Lan. Heydrich nói: "Cần có chứng cứ về cuộc tấn công của Ba Lan để cung cấp cho báo chí nước ngoài cũng như cho hệ thống tuyên truyền của Đức"...
Chỉ thị cho tôi là chiếm lấy đài truyền thanh trong một thời gian để một người Đức nói tiếng Ba Lan truyền một bài phát biểu bằng tiếng Ba Lan. Heydrich bảo tôi rằng bài phát biểu phải nói đã đến lúc cho cuộc xung đột giữa Đức và Ba Lan... Heydrich cũng nói với tôi rằng Đức sẽ tấn công Ba Lan trong vài ngày.
Tôi đi đến Gleiwitz và chờ đợi ở đây trong 14 ngày... Giữa các ngày 25-31 tháng 8, tôi đến gặp Heinrich Mueller, chỉ huy Mật vụ. Trước mặt tôi, Mueller thảo luận với một người tên Mehlhorn về kế hoạch cho một biến cố khác ở biên giới, trong đó giả tạo ra vụ binh sĩ Ba Lan tấn công Đức... Mueller nói ông có 12, 13 phạm nhân sẽ mặc quân phục Ba Lan và để cho nằm chết ở hiện trường, cho thấy họ đã bị bắn chết khi tấn công. Họ sẽ bị một bác sĩ của Heydrich chích thuốc cho chết. Họ cũng bị bắn để tạo ra vết thương. Sau khi vụ việc xảy ra, báo chí và những người khác sẽ được đưa đến xem...
Mueller bảo tôi là Heydrich chỉ thị ông ta điều các tội phạm cho tôi sử dụng ở Gleiwitz...
Bắt cóc và nổ bom
Buổi tối 8 tháng 11 năm 1939, mười hai phút sau khi Hitler chấm dứt bài diễn văn hàng năm – lần này ngắn hơn các năm trước – tưởng niệm vụ Đảo chính Nhà hàng bia ở München, một quả bom phát nổ sau khán đài ở một nhà hàng bia, khiến 7 người thiệt mạng và 63 người bị thương. Lúc ấy, tất cả nhân vật quan trọng của Quốc xã đã vội vã rời khỏi khu vực theo sau Hitler, dù mỗi năm trước họ đều nán lại uống bia mà cùng với chiến hữu cũ hồi tưởng lại vụ bạo loạn năm xưa.
Sáng hôm sau, chỉ duy nhất tờ báo của Quốc xã đưa tin Mật vụ Anh, và ngay cả Thủ tướng Anh Arthur Neville Chamberlain, đã chủ mưu vụ ám sát.
Đức đã tạo ra chứng cứ. Vài giờ sau khi bom nổ, chỉ huy trưởng SS và Mật vụ Heinrich Himmler nhân danh Hitler để ra lệnh cho Walter Schellenberg, một trong những nhân viên SS đang lên, ngày hôm sau vượt biên giới qua Hà Lan để bắt cóc hai nhân viên mật vụ Anh mà Schellenberg có quan hệ.
Lệnh của Himmler dẫn đến một trong những sự kiện lạ kỳ nhất trong cuộc chiến. Trong hơn một tháng nay, Schellenberg có quan hệ với hai nhân viên tình báo Anh ở Hà Lan: Đại úy S. Payne Best và Thiếu tá R.H. Stevens. Đối với họ, Schellenberg giả danh là "Thiếu tá Schaemmel" ở Bộ Tổng tham mưu thuộc nhóm chống đối Hitler (Schellenberg lấy tên thật của một thiếu tá còn sống) và tạo ra một câu chuyện đáng tin là tướng lĩnh Đức đang quyết tâm lật đổ Hitler. Ông nói rằng các tướng lĩnh cần được Anh đảm bảo sẽ đối xử công bằng với chế độ mới. Vì lẽ phía Anh đã nghe những câu chuyện tương tự, họ muốn thiết lập mối quan hệ mật thiết với "Thiếu tá Schaemmel." Best và Stevens cung cấp cho ông một máy thu phát sóng; sau đấy là nhiều cuộc liên lạc vô tuyến và gặp gỡ ở nhiều thị trấn ở Hà Lan. Đến ngày 7 tháng 11, hai nhân viên tình báo Anh mang đến cho "Schaemmel" bản văn từ London phác thảo những điều kiện chung chung làm cơ sở cho nền hòa bình dưới chế độ mới. Hai bên hẹn nhau là "Schaemmel" sẽ dẫn một vị tướng Đức đến để bắt đầu những cuộc đàm phán. Cuộc họp này được ấn định vào ngày 9 tháng 11.
Lúc ấy, mục đích của mỗi bên là rõ ràng. Phía Anh muốn liên lạc trực tiếp với nhóm chống đối Hitler nhằm khuyến khích và hỗ trợ họ. Himmler muốn tìm hiểu qua phía Anh những ai nằm trong nhóm chống đối và mối quan hệ giữa họ với kẻ thù là như thế nào. Hiển nhiên là Himmler và Hitler đã nghi ngờ vài tướng lĩnh cũng như vài sĩ quan ở Cục Quân báo. Nhưng vào đêm 8 tháng 11, họ có một mục đích mới: bắt cóc hai nhân viên tình báo Anh này và tố cáo họ đã cho nổ bom!
Một nhân viên quen thuộc bây giờ xuất hiện. Alfred Naujocks, người đã giả tạo "cuộc tấn công của Ba Lan" vào đài truyền thanh Đức, chỉ huy một toán SD hung tợn để trợ giúp Schellenberg trong vụ bắt cóc. Công việc tiến hành suôn sẻ. Thế là, vào ngày 21 tháng 11, Himmler thông báo với công luận rằng âm mưu ám sát Hitler đã được làm rõ: do sự xúi dục của hai nhân viên tình báo Anh – Best và Stevens – bị bắt ở "biên giới Hà Lan-Đức." Kẻ chủ mưu được cho là Georg Elser, một đảng viên Cộng sản ở München.
Nhưng Himmler đạt được mục đích: thuyết phục người Đức cả tin rằng chính phủ Anh cố thắng cuộc chiến bằng cách ám sát Hitler và những nhân vật thân cận của ông.
Ai đã thật sự chủ mưu vụ nổ bom thì không bao giờ được làm rõ. Elser là người có trí thông minh hạn chế nhưng khá thành thật. Dĩ nhiên ông không gặp Best và Stevens trước vụ mưu sát, nhưng khi bị nhốt trong trại tập trung, ông kể lại cho Best nghe vụ việc – tuy không hợp lý hẳn.
Elser cho biết đã được gọi lên văn phòng chỉ huy trại và được hai người lạ mặt giải thích rằng cần trừ khử vài kẻ phản phúc với Hitler bằng cách cho nổ một quả bom ngay sau khi Hitler đọc xong bài diễn văn. Vì lẽ Elser là thợ mộc, điện và hàn lành nghề, hai người đề nghị Elser làm việc này. Nếu ông chịu làm, họ hứa sẽ thu xếp cho ông trốn qua Thụy Sĩ cùng một số tiền lớn để có cuộc sống thoải mái ở đấy. Để chứng tỏ họ nghiêm túc, Elser được hưởng chế độ đặc biệt: thức ăn ngon, quần áo dân sự, thuốc lá đầy đủ (Elser nghiện nặng thuốc lá) và dụng cụ nghề mộc. Nơi đây, Elser lắp đặt một quả bom thô sơ nhưng có cơ chế đồng hồ để định giờ nổ và cũng có thể cho nổ bằng công-tắc điện. Rồi ông được dẫn đến hiện trường để đặt quả bom vào một cây cột dưới tầng hầm của nhà hàng bia.
Buổi tối 8 tháng 11, trong khoảng thời gian quả bom được định giờ cho nổ, Elser được dẫn đi đến biên giới Thụy Sĩ, được trao một số tiền và – điều này là lạ lùng nhất – một bức ảnh tầng hầm của nhà hàng bia với cây cột nơi gài quả bom. Nhưng thay vì được dẫn qua biên giới, ông bị Mật vụ bắt giữ, cùng với bức ảnh và mọi thứ khác. Rồi Mật vụ thuyết phục ông nên cáo giác Best và Stevens trong phiên tòa sắp đến.
Sau đấy, trong trại tập trung Dachau, Elser kể câu chuyện tương tự cho Mục sư Niemöller nghe, và ông này tin rằng vụ nổ bom là do Hitler ngụy tạo. Tuy nhiên, Gisevius khai trước Tòa án Nürnberg rằng Elser thật sự muốn ám sát Hitler.
Không hề có phiên tòa xử vụ việc. Chỉ sau này, người ta mới biết Himmler không dám tổ chức phiên tòa. Và cũng sau này, người ta mới biết Elser tiếp tục bị giam trong trại tập trung, nhưng được đối xử tử tế, hiển nhiên là do lệnh trực tiếp của Hitler. Nhưng Himmler canh giữ ông nghiêm nhặt cho đến phút cuối; để ông ta sống sót mà kể lại vụ việc thì không ổn. Ít lâu trước khi chiến tranh kết thúc, ngày 16 tháng 4 năm 1945, Mật vụ thông cáo rằng Georg Elser bị giết trong một cuộc thả bom của Đồng minh vào ngày trước. Bây giờ, người ta biết rằng Mật vụ đã sát hại ông.
Hành quyết tù binh chiến tranh
Đối với hàng triệu tù binh chiến tranh, việc sử dụng họ làm công nhân nhà máy hoặc làm khổ sai chiến trường là nỗi lo lắng nhẹ nhất. Điều quan trọng nhất đối với họ là sống sót cho đến sau chiến tranh. Nếu họ là người Nga thì cơ may rất ít. Số tù binh người Nga là khoảng 3,8 triệu trong tổng số tù binh khoảng 5,75 triệu người. Khi Đồng minh giải thoát các trại tù binh vào năm 1945, chỉ còn khoảng một triệu người còn sống. Khoảng một triệu người được thả tự do hoặc được phép làm việc trong những đơn vị tập thể cho Quân đội Đức thành lập. Hai triệu người Nga chết trong các trại tù binh của Đức – do đói khát, giá lạnh và bệnh tật. Người ta không bao giờ biết gần hai triệu người Nga còn lại sống chết ra sao, và tại Tòa án Nürnberg có ý kiến cho rằng phần lớn đã chết vì những lý do nêu trên hoặc bị lực lượng SD hành quyết.
Otto Ohkendorf, một trong những tên sát nhân khét tiếng nhất của SD tiết lộ trong một bản cung khai:
Mọi người Do Thái và quan chức của Liên Xô bị mang ra khỏi trại tù binh và bị hành quyết. Theo tôi được biết, hành động này được thực hiện khắp cả chiến dịch Liên Xô.
Đôi lúc phi công bị bắt được chuyển cho binh sĩ SD cho việc mà đặc ngữ Quốc xã gọi là "đối xử đặc biệt." Khoảng 47 phi công Mỹ, Anh và Hà Lan, đều là sĩ quan, bị hành quyết một cách tàn nhẫn tại trại tập trung Mauthausen vào tháng 9 năm 1944. Một nhân chứng, người Pháp Maurice Lampe bị giam giữ trong trại, mô tả trước Tòa án Nürnberg:
Bốn mươi bảy sĩ quan đi chân đất bị dẫn đến mỏ đá... Ở bậc thang dưới cùng, lính gác chất đá lên lưng họ và họ phải mang lên phía trên. Trong chuyến đầu họ mang đá nặng khoảng 30 kí-lô và bị đánh đập... Trong chuyến thứ hai, đá nặng hơn, và người nào gục xuống dưới sức nặng đều bị lính canh đá và đánh bằng dùi cui... đến tối hai mươi mốt tử thi nằm la liệt dọc con đường. Hai mưoi sáu người khác chết vào sáng hôm sau.
Đấy là cách thức "hành quyết" thông thường tại Mauthausen và được áp dụng cho nhiều tù binh Nga cũng như một số người khác.
Khoảng mười lăm người của nhóm đặc mệnh quân sự Anh-Mỹ – kể cả một phóng viên chiến tranh của hãng thông tấn Associated Press – tất cả đều mặc quân phục, nhảy dù xuống Slovakia vào tháng 1/1945. Họ bị hành quyết ở trại tập trung Mauthausen theo lệnh của TS. Ernst Kaltenbrunner, người kế nhiệm Heydrich đứng đầu lực lượng SD và bị tòa án quân sự của Mỹ xử tử hình. Nếu không nhờ lời khai của một phụ tá chỉ huy đã chứng kiến vụ hành quyết, vụ việc đã không được đưa ra ánh sáng.
"Lệnh Đêm đen và Sương mù"
Trong số những tội ác chiến tranh mà trước Tòa án Nürnberg Tướng Keitel khai đã thi hành theo lệnh của Hitler, "tệ hại nhất trong tất cả" là "Lệnh Đêm đen và Sương mù." Himmler ban hành lệnh kinh tởm này vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, để nhắm vào những dân thường không may trên những vùng miền Tây bị chiếm đóng. Như cái tên kỳ dị cho thấy, mục đích của lệnh này là bắt giữ "người nguy hại đối với an ninh của Đức" nhưng không hành quyết ngay, mà khiến cho họ mất tung tích trong đêm đen và sương mù ở một vùng hẻo lánh nào đấy trên đất Đức. Gia đình nạn nhân không hề nhận được tin tức gì về số phận của họ, ngay cả nơi chôn xác.
Ngày 12 tháng 12 năm 1941, Keitel ra một chỉ thị làm rõ lệnh của Hitler: "Trên nguyên tắc, hình phạt cho những tội trạng chống nhà nước Đức là tử hình." Tuy nhiên nếu tuyên án tù, ngay cả tù khổ sai hoặc chung thân, cho những tội trạng này sẽ bị xem là dấu hiệu của sự yếu đuối. Chỉ có thể răn đe được hiệu quả qua án tử hình hoặc qua những biện pháp theo đấy thân nhân của can phạm và dân chúng không biết số phận của anh ta."
Tháng 2, 1942, Keitel mở rộng Lệnh Đêm đen và Sương mù. Trong trường hợp không tuyên án tử hình trong vòng tám ngày sau khi bắt giữphải bí mật chuyển tù nhân đến Đức... những biện pháp này sẽ có hiệu lực răn đe bởi vì(a) tù nhân sẽ biến mất mà không để lại dấu tích gì,(b) không đưa tin tức gì về nơi chốn hoặc số phận của họ.Lực lượng SD được giao thi hành nhiệm vụ khủng khiếp này, và hồ sơ của họ tịch thu được chứa đầy những lệnh về "NN" (theo chữ Đức Nacht und Nebel – Đêm đen và Sương mù), đặc biệt khi giữ tuyệt đối bí mật nơi chôn xác nạn nhân. Tòa án Nürnberg không thể làm rõ bao nhiêu người đã mất dấu tích trong "Đêm đen và Sương mù" nhưng xem dường rất ít người thoát chết khi bị ghép vào trường hợp này.
"Đội Đặc nhiệm"
Hồ sơ của SD còn thể hiện vài con số khác liên quan đến nạn nhân của tấn trò khủng bố ở Liên Xô, phụ trách bởi các Đội Đặc nhiệm (Einsatzgruppen) mà theo cách họ làm phải gọi là "Đội Thủ tiêu" thì đúng hơn. Con số đầu tiên được tiết lộ một cách cách tình cờ tại Tòa án Nürnberg.
Trước khi phiên tòa nhóm họp, Thiếu tá Whitney R. Harris của phía công tố Mỹ thẩm vấn Otto Ohlendorf về những hành động trong chiến tranh của anh này. Trong những năm cuối cùng của cuộc chiến Ohlendorf làm chuyên gia ngoại thương tại Bộ Kinh tế. Anh ta khai rằng ngoài một năm, thời gian còn lại anh làm việc ở Berlin. Khi được hỏi đã làm gì trong một năm này, anh đáp "Tôi cầm đầu Đội Đặc nhiệm D."
Là một luật sư và làm tình báo về những sự vụ Đức, lúc này Harris đã biết được ít nhiều về các Đội Đặc nhiệm. Thế nên, ông hỏi ngay:
"Trong năm cầm đầu Đội Đặc nhiệm D, đội của anh đã giết bao nhiêu đàn ông, phụ nữ và trẻ em?
Harris kể lại, Ohlendorf nhún vai và không hề chần chừ, trả lời:
"Chín chục nghìn!"
Ban đầu, Himmler và Heydrich tổ chức các Đội Đặc nhiệm để đi theo Quân đội Đức tiến vào Ba Lan năm 1939, và ở đây họ bắt giữ người Do Thái và đưa vào những khu biệt lập. Đến chiến dịch đánh Liên Xô, theo sự thỏa thuận với Quân đội Đức các Đội Đặc nhiệm đi theo để thực hiện bước đầu của "giải pháp cuối cùng." Bốn Đội Đặc nhiệm được thành lập cho mục đích này: A, B, C và D. Ohlendorf chỉ huy Đội D từ tháng 6 năm 1941 đến tháng 6 năm 1942, được giao phụ trách vùng cực nam của Ukraina.
Trước Tòa án Nürnberg, khi được hỏi đã nhận lệnh gì, Ohlendorf trả lời:
"Lệnh là phải loại trừ người Do Thái và chính ủy của Liên Xô."
"Và khi anh nói ‘loại trừ,’ có phải anh muốn nói ‘giết’?
"Vâng, tôi muốn nói giết." Và Ohlendorf giải thích đấy là gồm cả phụ nữ và trẻ em.
CHÁNH ÁN: Lý do nào mà cả trẻ em cũng bị tàn sát?
OHLENDORF: Lệnh ban ra là phải tiêu diệt hoàn toàn dân Do Thái.
CHÁNH ÁN: Ngay cả trẻ em?
OHLENDORF: Vâng.
CHÁNH ÁN: Có phải tất cả trẻ em đều bị giết?
OHLENDORF: Vâng.
Khi trả lời thêm câu hỏi và viết bản cung khai, Ohlendorf mô tả:Đội Đặc nhiệm đi vào một làng hoặc thị trấn, ra lệnh cho công dân Do Thái có địa vị tập hợp tất cả người Do Thái cho mục đích "tái định cư." Họ được yêu cầu giao lại mọi món có giá trị, và trước khi hành quyết được lệnh giao lại quần áo mặc ngoài. Họ được chở bằng xe tải đến nơi hành quyết, thường thường là rãnh đào chống tăng – lúc nào cũng đủ số người phải hành quyết một lúc. Cách này là nhằm duy trì thời gian ngắn nhất từ lúc nạn nhân biết chuyện gì sẽ xảy ra với họ đến lúc thực hiện cuộc hành quyết.Rồi đội hành quyết bắn họ, quỳ hoặc đứng, rồi ném xác họ xuống rãnh đào. Tôi không bao giờ cho phép bắn từng cá nhân, mà ra lệnh vài người bắn cùng lúc để tránh trách nhiệm cá nhân trực tiếp. Chỉ huy của các đội khác đòi nạn nhân nằm sấp xuống để bị bắn sau gáy. Tôi không chấp nhận phương pháp này."Tại sao?"
"Bởi vì, xét theo tâm lý học, đấy là gánh nặng mà cả nạn nhân và người thực hiện hành quyết không thể chịu đựng được."
không có ước tính số chính ủy của Liên Xô bị các Đội Đặc nhiệm hành quyết. Phần lớn các báo cáo của lực lượng SD gộp chung họ với người Do Thái. Trong báo cáo của Đội A đề ngày 15 tháng 10 năm 1941, có 3.387 "Cộng sản" trong tổng số 121.817 bị hành quyết, còn lại là người Do Thái.
Cái chết của Heydrich
Reinhard Heydrich, Chỉ huy trưởng SD, gặp một cái chết bạo lực.
Vào buổi sáng 29 tháng 5 năm 1942, khi ông đi trên chiếc Mercedes thể thao mui trần từ ngôi biệt thự đồng quê để đến làm việc ở tòa lâu đài, một quả bom được ném vào xe ông, phá tan chiếc xe thành nhiều mảnh vụ và phá nát cột sống của ông. Hai thủ phạm là người Séc, Jan Kubis và Josef Gabeik, thuộc quân đội lưu vong Tiệp Khắc tại Anh, nhảy dù từ một máy bay của Không quân Hoàng gia Anh. Các tu sĩ của dòng Karl Borromaeus ở Praha che chở cho hai người ẩn thân.
Heydrich chết vì vết thương ngày 4 tháng 6, và Đức mở chiến dịch dã man để trả thù. Theo một báo cáo của Mật vụ, 1.331 người Séc kể cả 201 bị xử tử lập tức. Lực lượng SS bao vây rồi hạ sát hai người ném bom cùng 120 chiến sĩ kháng chiến Séc lẩn trốn trong nhà thờ Karl Borromaeus. Vào ngày mưu sát, Göbbels ra lệnh bắt giữ 500 người Do Thái ở Ba Lan, và vào ngày Heydrich chết 152 người trong số này bị hành quyết để "trả đũa."
Nhưng trong số mọi hệ lụy từ cái chết của Heydrich, có lẽ thế giới văn minh sẽ nhớ lâu nhất đến ngôi làng nhỏ bé gần thị trấn hầm mỏ Kladno gần Praha. Một cuộc tàn sát dã man xảy ra ở ngôi làng nông thôn an bình này, chỉ dựa trên lý do duy nhất là ra bài học cho một dân tộc bị thôn tính đã dám lấy đi sinh mạng của một quan chức cai trị.
Buổi sáng 9 tháng 6 năm 1942, mười chiếc xe tải chở đầy nhân viên SD Đức dưới quyền chỉ huy của Đại úy Max Rostock đến bao vây ngôi làng. (Sau này Rostock bị xử tử.) Không ai được đi ra, tuy người nào ở đấy đã đi ra có thể trở vào. Một cậu bé 12 tuổi vì hoảng sợ cố chạy ra ngoài, bị bắn chết. Một phụ nữ nông dân chạy ra cánh đồng bên ngoài bị bắn chết. Tất cả đàn ông bị nhốt trong nhà kho, chuồng gia súc và tầng hầm của một nông dân tên Horak, cũng là xã trưởng.
Ngày kế, từ sáng sớm cho đến 4 giờ chiều, từng tốp 10 người bị dẫn ra khu vườn phía sau nhà kho, và bị Cảnh sát An ninh hành quyết. Tổng cộng có 172 đàn ông và trẻ trai bị bắn ở đây. Thêm 19 dân làng đang làm việc trong hầm mỏ Kladno sau đấy bị bố ráp và giải đến Praha.
Bảy phụ nữ bị đưa đến Praha để chịu hành quyết. Những phụ nữ sống trong ngôi làng, gồm 195 người, bị mang đến trại tập trung Ravensbrueck ở Đức, cuối cùng có bảy người vào phòng hơi ngạt, 3 "biến mất" và 42 chết vì bị đối xử tệ hại. Bốn phụ nữ Lidice đang mang thai được đưa đến bệnh viện phụ sản, các trẻ sơ sinh bị giết, rồi các bà mẹ được đưa trở lại Ravensbrueck.
Phải ghi nhận là người Đức không bắn trẻ em của Lidice, bây giờ có cha bị giết và mẹ bị vào tù. Chúng được đưa đến một trại tập trung tại Gneisenau. Tổng cộng có 90 trẻ, và trong số này 7 trẻ dưới một tuổi, được Quốc xã chọn sau khi các "chuyên gia chủng tộc" của Himmler xem xét, để được đưa đến Đức nuôi thành người Đức dưới tên họ Đức. Sau này, những đứa trẻ khác đều bị xử lý.
Chính phủ Tiệp Khắc trình cho Tòa án Nürnberg một báo cáo chính thức về vụ Lidice, kết luận: "Không có dấu vết gì của các trẻ."
Điều may là sau này có vài dấu vết được tìm ra. Vào mùa thu 1945, báo chí ở vùng được Đồng minh kiểm soát được các bà mẹ sống sót cậy đăng, kêu gọi dân Đức giúp thông báo tông tích của con cái họ. Có 17 trẻ được tìm ra và được đưa về cho các bà mẹ ở Tiệp Khắc.
Còn lại, ngôi làng Lidice bị xóa sạch. Sau khi đã hành quyết mọi đàn ông và giải đi tất cả phụ nữ và trẻ em, nhân viên SD đốt trụi ngôi làng, đặt chất nổ phá tan đống đổ nát rồi san phẳng.
Xét xử cấp lãnh đạo SD
Ohlendorf cùng 23 bị cáo khác bị xét xử trước Tòa án Quân sự Mỹ. Mười bốn người bị án tử hình. Chỉ có Ohlendorf cùng 3 người khác bị xử tử tại nhà tù Landsberg – ngày 8 tháng 1 năm 1951, khoảng ba năm rưỡi sau khi tuyên án. Những tử tội khác được giảm án.
Đại úy Max Rostock chỉ huy vụ tàn sát ở ngôi làng Lidice cũng bị xử tử.
Tham khảo
Der SD in Dänemark 1940-1945. Heydrichs Elite und der "Gegenterror", của Matthias Bath. Neuhaus: Berlin, 2015. ISBN 978-3-937294-03-2.
The rise and fall of the Third Reich – A history of Nazi Germany'', của William L. Shirer. Nhà xuất bản: Simon and Schuster, Inc., New York, N.Y., 1960.
SS
Cơ quan tình báo
Đức Quốc xã
Từ và cụm từ tiếng Đức |
Thanh Đảo (chữ Hán giản thể: 青岛; chữ Hán phồn thể: 青島; bính âm Hán ngữ: Qīngdǎo; phát âm: ; nghĩa "Đảo Xanh") là thành phố nằm ở phía đông tỉnh Sơn Đông, trên bán đảo Sơn Đông, Trung Quốc. Diện tích thành phố vào khoảng 10.654 km², dân số xấp xỉ 7,5 triệu người.
Từ thời Tuỳ Đường trở đi, Thanh Đảo đã trở thành một hải cảng quan trọng của Trung Quốc. Năm 1891 triều đình nhà Thanh đổi tên Thanh Đảo là Giao Áo (膠澳).
Các đơn vị hành chính
Thành phố phó tỉnh Thanh Đảo có 10 đơn vị cấp huyện, bao gồm 7 quận và 3 thành phố cấp huyện.
Các thành phố kết nghĩa
Thanh Đảo có các thành phố kết nghĩa sau:
- Wilhelmshaven, Đức
- Paderborn, Đức
- Shimonoseki, Nhật Bản (từ ngày 3 tháng 10 năm 1979)
- Long Beach, Hoa Kỳ (ngày 12 tháng 4 năm 1985)
- Acapulco, México (ngày 21 tháng 8 năm 1985)
- Odessa, Ukraina (ngày 29 tháng 4 năm 1993)
- Taegu, Hàn Quốc (ngày 4 tháng 12 năm 1993)
- Nes Ziyyona, Israel (ngày 2 tháng 12 năm 1997)
- Velsen, Hà Lan (ngày 9 tháng 12 năm 1998)
- Southampton, Anh (ngày 27 tháng 12 năm 1998)
- Puerto Montt, Chile (ngày 17 tháng 8 năm 1999)
- Montevideo, Uruguay, (ngày 15 tháng 4 năm 2004)
- Klaipėda, Litva (ngày 30 tháng 5 năm 2004)
- Bilbao, Tây Ban Nha (ngày 2 tháng 8 năm 2004)
- Nantes, Pháp (ngày 4 tháng 6 năm 2005) |
SD hay sd là một từ viết tắt từ chữ đầu có thể chỉ đến:
Sicherheitsdienst, một cơ quan thuộc lực lượng SS của Đức Quốc xã
South Dakota, tiểu bang Hoa Kỳ
San Diego, thành phố Hoa Kỳ thuộc tiểu bang California
SanDisk, công ty quốc tế có tổng hành dinh ở Hoa Kỳ và chế những sản phẩm bộ nhớ flash
SafeDisc, sản phẩm cấm sao chép CD/DVD của Macrovision Corporation
Tiếng Sindhi (mã ISO)
Độ lệch chuẩn (standard deviation) trong khoa học thống kê
Sudan (mã ISO)
Sudan Airways (mã IATA)
Truyền hình độ nét chuẩn |
Đại dương là khu vực tạo nên phần lớn thủy quyển của một hành tinh. Trên Trái Đất, mỗi đại dương là một đại bộ phận quy ước của đại dương thế giới (hay đại dương toàn cầu). Theo thứ tự diện tích giảm dần, chúng gồm Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, Nam Đại Dương, và Bắc Băng Dương.
Xét Trái Đất, nước mặn bao phủ một diện tích khoảng 360.000.000 km² và thường được chia thành một số đại dương chính và những biển nhỏ hơn, trong đó đại dương chiếm khoảng 71% bề mặt và 90% sinh quyển. 97% lượng nước trên Trái Đất thuộc về đại dương và các nhà hải dương học đã phát biểu rằng hơn 95% đại dương thế giới chưa được khám phá. Tổng dung tích đại dương vào khoảng 1,35 tỷ km³ với độ sâu trung bình gần 3.700 m (12.100 ft).
Vì là thành phần chủ yếu của thủy quyển Trái Đất, đại dương thế giới không thể thiếu đối với toàn bộ sự sống đã biết; nó làm thành một phần chu trình cacbon, ảnh hưởng đến khí hậu và các kiểu thời tiết. Đại dương là sinh cảnh của 230.000 loài đã biết, song do phần lớn chưa được khám phá, thực tế số loài tồn tại nhiều hơn nhiều, khả năng hơn hai triệu. Con người vẫn chưa biết về nguồn gốc đại dương trên Trái Đất; chúng được cho là hình thành vào thời hỏa thành và có lẽ đã thúc đẩy sự sống xuất hiện.
Các đại dương ngoài Trái Đất có thể cấu tạo từ nước hoặc những nguyên tố và hợp chất khác. Khối chất lỏng bề mặt ngoài Trái Đất lớn và ổn định được xác nhận duy nhất là các hồ Titan, dù vậy có chứng cứ về sự tồn tại của các đại dương đâu đó trong Hệ Mặt Trời. Vào thời kỳ đầu, Sao Hỏa và Sao Kim được cho là có những đại dương nước lớn. Giả thuyết đại dương Sao Hỏa đề xuất rằng gần một phần ba bề mặt Sao Hỏa từng bị nước bao phủ, và hiệu ứng nhà kính mất kiểm soát có thể đã đun cạn toàn bộ đại dương của Sao Kim. Các hợp chất như muối và amonia hòa tan trong nước hạ thấp điểm đóng băng để nước có thể tồn tại trong môi trường ngoài Trái Đất dưới dạng nước mặn hoặc băng đối lưu. Theo suy đoán, phía dưới bề mặt của nhiều hành tinh lùn và vệ tinh tự nhiên có các đại dương; đáng chú ý, đại dương của Europa sở hữu dung tích nước ước tính gấp hơn hai lần Trái Đất. Các hành tinh khổng lồ trong Hệ Mặt Trời cũng được cho có lớp khí quyển lỏng. Đại dương còn có thể tồn tại trên những hành tinh và vệ tinh ngoài Hệ Mặt Trời. Hành tinh đại dương là một kiểu hành tinh với chất lỏng bao phủ gần như hoàn toàn bề mặt.
Các đại dương
Thái Bình Dương
Đại Tây Dương
Ấn Độ Dương
Bắc Băng Dương
Nam Đại Dương
Tổng quan
Mặc dù nói chung được công nhận như là các đại dương 'tách biệt', nhưng các vùng nước mặn này tạo thành một khối nước nối liền với nhau trên toàn cầu, thường được gọi chung là Đại dương thế giới hay đại dương toàn cầu.<ref name="UNAoO">"Distribution of land and water on the planet ". UN Atlas of the Oceans</ref> Khái niệm về đại dương toàn cầu như là một khối nước liên tục với sự trao đổi tương đối tự do giữa các bộ phận của nó có tầm quan trọng nền tảng cho hải dương học. Các phần đại dương chính được định nghĩa một phần dựa vào các châu lục, các quần đảo khác nhau cùng các tiêu chí khác: các phần này là (theo trật tự giảm dần của diện tích) Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, Nam Đại Dương (đôi khi được phân chia và tạo thành phần phía nam của Thái Bình Dương, Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương) và Bắc Băng Dương (đôi khi được coi là một biển của Đại Tây Dương). Thái Bình Dương và Đại Tây Dương cũng có thể phân chia tiếp bởi đường xích đạo thành các phần Bắc và Nam. Các khu vực nhỏ hơn của đại dương được gọi là các biển, vịnh hay một số các tên gọi khác. Cũng tồn tại một số khối nước mặn nhỏ hơn trong đất liền và không nối với Đại dương thế giới, như biển Aral, Great Salt Lake (Hồ Muối Lớn) – mặc dù chúng có thể coi như là các 'biển', nhưng thực ra chúng là các hồ nước mặn. Có 5 đại dương trên thế giới, trong đó Thái Bình Dương là lớn nhất và sâu nhất, thứ hai về diện tích và độ sâu là Đại Tây Dương, tiếp theo là Ấn Độ Dương, Nam Đại Dương còn nhỏ và nông nhất là Bắc Băng Dương.
Nước đại dương luôn luôn chuyển động do tác động của thủy triều, gây ra bởi lực hấp dẫn của Mặt Trăng và Mặt Trời đối với Trái Đất, sóng và hải lưu do tác dụng của gió. Các dòng bù trừ phát sinh do sự thiếu hụt của nước. Chẳng hạn nước của Địa Trung Hải bị bốc hơi rất mạnh, ít sông suối đổ vào, do đó nước có độ mặn cao và có tỉ trọng lớn. Nước ở dưới sâu chảy từ Địa Trung Hải ra Đại Tây Dương tạo ra sự thiếu hụt, vì thế một hải lưu bề mặt lại chảy từ Đại Tây Dương vào Địa Trung Hải để bù vào chỗ thiếu hụt đó.
Do độ che phủ bề mặt Trái Đất tới 71% nên các đại dương có ảnh hưởng lớn tới sinh quyển. Sự bốc hơi nước của các đại dương quyết định phần lớn lượng giáng thủy mà Trái Đất nhận được, nhiệt độ nước của các đại dương cũng quyết định phần lớn khí hậu và kiểu gió trên Trái Đất. Sự sống trong lòng đại dương có lịch sử tiến hóa diễn ra khoảng 3 tỷ năm trước khi có sự di chuyển của động, thực vật lên trên đất liền. Lượng sự sống và khoảng cách tính từ bờ biển (yếu tố vô sinh) ảnh hưởng tới sự phân bố chính của quần xã sinh vật biển. Các sinh vật như tảo, rong, rêu sinh sống trong khu vực giáp giới thủy triều (nơi đất liền gặp biển) sẽ cố định chúng vào đá vì thế chúng không bị rửa trôi bởi thủy triều. Đại dương cũng là nơi sinh sống của nhiều loài và có thể phân chia thành vài đới (vùng, tầng) như vùng biển khơi, vùng đáy, vùng chiếu sáng, vùng thiếu sáng v.v.
Về mặt địa chất, đại dương là nơi mà lớp vỏ đại dương được nước che phủ. Lớp vỏ đại dương dày trung bình khoảng 4,5 km, bao gồm một lớp trầm tích mỏng che phủ trên lớp bazan núi lửa mỏng đã đông cứng. Lớp bazan này che phủ lớp peridotit thuộc mặt ngoài của lớp phủ Trái Đất tại những nơi không có châu lục nào. Xét theo quan điểm này thì ngày nay có 3 "đại dương": Đại dương thế giới, biển Caspi và biển Đen, trong đó 2 "đại dương" sau được hình thành do va chạm của mảng Cimmeria với Laurasia. Địa Trung Hải có thể coi là một "đại dương" gần như riêng biệt, nối thông với Đại dương thế giới qua eo biển Gibraltar và trên thực tế đã vài lần trong vài triệu năm trước chuyển động của châu Phi đã đóng kín eo biển này hoàn toàn. Biển Đen thông với Địa Trung Hải qua Bosporus, nhưng là do tác động của một kênh tự nhiên cắt qua lớp đá lục địa vào khoảng 7.000 năm trước, chứ không phải một mảng của đáy biển như eo biển Gibraltar.
Tính chất vật lý
Diện tích của Đại dương thế giới là khoảng 361 triệu km² (139 triệu dặm vuông), dung tích của nó khoảng 1,3 tỷ kilômét khối (310 triệu dặm khối), và độ sâu trung bình khoảng 3.790 mét (12.430 ft). Gần một nửa nước của đại dương thế giới nằm sâu dưới 3.000 m (9.800 ft). Sự mở rộng khổng lồ của đại dương sâu (những gì dưới độ sâu 200m) che phủ khoảng 66% bề mặt Trái Đất. Nó không bao gồm các biển không nối với Đại dương thế giới, chẳng hạn như biển Caspi.
Tổng khối lượng của thủy quyển khoảng 1,4 × 1021 kilôgam, chiếm khoảng 0,023% khối lượng Trái Đất. Dưới 2% là nước ngọt; phần còn lại là nước mặn, chủ yếu trong các đại dương.
Một sai lầm phổ biến cho rằng nước biển có màu xanh lam chủ yếu là do bầu trời có màu xanh lam. Trên thực tế, nước có màu xanh lam rất nhạt chỉ khi được nhìn thấy với một thể tích lớn. Trong khi sự phản chiếu bầu trời có đóng góp vào biểu hiện màu xanh lam của bề mặt đại dương, nhưng nó không phải là nguyên nhân chính Nguyên nhân chủ yếu là sự hấp thụ của các hạt nhân các phân tử nước đối với các photon màu đỏ từ ánh sáng chiếu tới, ví dụ đã biết duy nhất về màu sắc trong tự nhiên tạo ra từ động lực học dao động chứ không phải động lực học điện tử.
Nhiều thủy thủ và các nhà hàng hải chuyên nghiệp thông báo rằng đại dương thường bức xạ ánh sáng nhìn thấy hay phát quang, có thể trải dài hàng dặm vào ban đêm. Năm 2005, các nhà khoa học đã thông báo điều này lần đầu tiên, chứng cứ bằng hình ảnh cũng đã thu được đối với sự phát sáng này. Nó có thể là do phát quang sinh học.
Thám hiểm
Đi lại trên bề mặt đại dương bằng tàu thuyền đã diễn ra từ thời tiền sử, nhưng mãi đến ngày nay, việc khám phá và di chuyển bên dưới đại dương mới có thể thực hiện được nhờ sự phát triển của khoa học và công nghệ.
Điểm sâu nhất trong đại dương nằm ở phía nam rãnh Mariana thuộc Thái Bình Dương, gần quần đảo Bắc Mariana. Nó có độ sâu tối đa là 10.923 m (35.838 ft). Nó được khảo sát chi tiết lần đầu tiên năm 1951 bởi tàu "Challenger II" của hải quân Anh và điểm sâu nhất này được đặt tên theo tên tàu này là "Challenger Deep". Năm 1960, tàu thăm dò biển sâu Trieste đã xuống thành công tới đáy của rãnh, được điều khiển bởi một thủy thủ đoàn gồm 2 người.
Phần lớn đáy các đại dương vẫn chưa được thám hiểm và lập bản đồ. Hình ảnh toàn cầu của nhiều đặc trưng ngầm lớn hơn 10 km (6 dặm) được tạo ra năm 1995 dựa trên các méo mó hấp dẫn của bề mặt biển cận kề.
Các khu vực/tầng
Đại dương được chia ra thành nhiều khu vực hay tầng, phụ thuộc vào các điều kiện vật lý và sinh học của các khu vực này. Vùng biển khơi bao gồm mọi khu vực chứa nước của biển cả (không bao gồm phần đáy biển) và nó có thể phân chia tiếp thành các khu vực con theo độ sâu và độ chiếu sáng. Vùng chiếu sáng che phủ đại dương từ bề mặt tới độ sâu 200 m. Đây là khu vực trong đó sự quang hợp diễn ra phổ biến nhất và vì thế chứa sự đa dạng sinh học lớn nhất trong lòng đại dương. Do thực vật chỉ có thể sinh tồn với quá trình quang hợp nên bất kỳ sự sống nào tìm thấy dưới độ sâu này hoặc phải dựa trên các vật chất trôi nổi chìm xuống từ phía trên (xem tuyết biển) hoặc tìm các nguồn chủ lực khác; điều này thường xuất hiện dưới dạng miệng phun thủy nhiệt trong khu vực gọi là vùng thiếu sáng (tất cả các độ sâu nằm dưới mức 200 m). Phần biển khơi của vùng chiếu sáng được gọi là vùng biển khơi mặt (epipelagic). Phần biển khơi của vùng thiếu sáng có thể chia tiếp thành các vùng nối tiếp nhau theo chiều thẳng đứng. Vùng biển khơi trung (mesopelagic) là tầng trên cùng, với ranh giới thấp nhất tại lớp dị nhiệt là 12 °C, trong đó tại khu vực nhiệt đới nói chung nó nằm ở độ sâu giữa 700 với 1.000 m. Dưới tầng này là vùng biển khơi sâu (bathypelagic) nằm giữa 10 °C và 4 °C, hay độ sâu giữa khoảng 700-1.000 m với 2.000-4.000 m. Nằm dọc theo phần trên của vùng bình nguyên sâu thẳm là vùng biển khơi sâu thẳm (abyssalpelagic) với ranh giới dưới của nó nằm ở độ sâu khoảng 6.000 m. Vùng cuối cùng nằm tại các rãnh đại dương và được gọi chung là vùng biển khơi tăm tối (hadalpelagic). Nó nằm giữa độ sâu từ 6.000 m tới 10.000 m và là vùng sâu nhất của đại dương.
Cùng với các vùng biển khơi thiếu sáng còn có các vùng đáy thiếu sáng, chúng tương ứng với ba vùng biển khơi sâu nhất. Vùng đáy sâu che phủ sườn dốc lục địa và kéo dài xuống độ sâu khoảng 4.000 m. Vùng đáy sâu thẳm che phủ các bình nguyên sâu thẳm ở độ sâu 4.000 – 6.000 m. Cuối cùng là vùng đáy tăm tối tương ứng với vùng biển khơi tăm tối, tìm thấy ở các rãnh đại dương.
Vùng biển khơi cũng có thể chia ra thành hai vùng con, là vùng ven bờ (neritic) và vùng đại dương. Vùng neritic bao gồm khối nước nằm ngay trên các thềm lục địa, trong khi vùng đại dương bao gồm toàn bộ vùng nước biển cả còn lại.
Ngược lại, vùng duyên hải bao phủ khu vực nằm giữa các mức thủy triều cao và thấp nhất, nó là khu vực chuyển tiếp giữa các điều kiện đại dương và đất liền. Nó cũng có thể gọi là vùng liên thủy triều do nó là khu vực trong đó mức thủy triều có ảnh hưởng mạnh tới các điều kiện của khu vực.
Ảnh hưởng khí hậu
Một trong những dạng thời tiết gây ấn tượng nhất diễn ra trên các đại dương là các xoáy thuận nhiệt đới, bao gồm bão và áp thấp nhiệt đới. Các hải lưu có ảnh hưởng lớn tới khí hậu Trái Đất bằng cách chuyển dịch các luồng không khí nóng hay lạnh cũng như giáng thủy tới các vùng ven biển, nơi chúng có thể được đưa vào đất liền nhờ gió. Hải lưu vòng Nam Cực xoay quanh châu lục này, có ảnh hưởng tới khí hậu khu vực và nối liền các hải lưu trong các đại dương khác.
Sinh thái học
Các dạng sự sống trong lòng đại dương bao gồm (trong số các dạng khác):
Động vật đối xứng tỏa tròn như sứa và sứa lược
Cá
Các dạng cá voi như cá voi, cá heo và cá nhà táng.
Động vật chân đầu như bạch tuộc, mực.
Động vật giáp xác như cua, tôm hùm và tôm
Giun biển
Sinh vật phù du
Nhuyễn thể
Động vật da gai (đuôi rắn, sao biển, hải sâm, nhím biển)
Thực vật như tảo, rong biển
Kinh tế
Các đại dương là thiết yếu trong vận tải: phần lớn hàng hóa trên thế giới được vận chuyển bằng tàu biển giữa các hải cảng trên thế giới. Các kênh vận tải quan trọng có đường thủy Saint Lawrence, kênh đào Panama, kênh đào Suez.
Các đại dương cũng là nguồn quan trọng cung cấp các sản phẩm có giá trị trong ngư nghiệp. Trong số này có tôm, cua, cá.
Đại dương cổ
Trôi dạt lục địa đã tái định hình thể cho các đại dương của Trái Đất, kết hợp và chia cắt các đại dương cổ để tạo ra các đại dương như hiện nay. Các đại dương cổ có:
Đại dương sông Bridge, đại dương nằm giữa quần đảo Insular cổ đại và Bắc Mỹ.
Đại dương Iapetus, đại dương ở Nam bán cầu nằm giữa Baltica và Avalonia.
Panthalassa, đại dương toàn cầu rộng lớn mênh mông, bao quanh siêu lục địa Pangaea.
Đại dương Rheic
Đại dương núi Slide, đại dương nằm giữa quần đảo Intermontane cổ đại và Bắc Mỹ.
Đại dương Tethys, đại dương nằm giữa các lục địa cổ Gondwana và Laurasia.
Đại dương Khanty, đại dương nằm giữa Baltica và Siberia.
Mirovia, đại dương bao quanh siêu lục địa Rodinia.
Đại dương Paleo-Tethys, đại dương nằm giữa Gondwana và địa hình Hunic.
Đại dương Proto-Tethys,
Đại dương Pan-Africa, đại dương bao quanh siêu lục địa Pannotia.
Superocean, đại dương bao quanh siêu lục địa toàn cầu.
Đại dương Ural, đại dương nằm giữa Siberia và Baltica.
Đại dương ngoài Trái Đất
Xem thêm Nước lỏng ngoài Trái ĐấtTrái Đất là hành tinh duy nhất đã biết có nước lỏng trên bề mặt và có lẽ cũng là duy nhất trong hệ Mặt Trời. Tuy nhiên, nước lỏng được cho là tồn tại dưới bề mặt của các vệ tinh Galileo Europa và ít chắc chắn hơn là Callisto cùng Ganymede. Các mạch nước phun cũng đã được tìm thấy trên Enceladus, mặc dù chúng có thể không đòi hỏi phải có các khối nước lỏng. Các vệ tinh bị đóng băng khác có thể đã từng có các đại dương bên trong mà hiện nay đã bị đóng băng, chẳng hạn như Triton. Các hành tinh như Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương có thể cũng chiếm hữu các đại dương lớn chứa nước lỏng phía dưới bầu khí quyển dày của chúng, mặc dù cấu trúc nội tại của chúng hiện nay vẫn chưa được hiểu rõ.
Hiện tại còn nhiều tranh cãi về việc Sao Hỏa đã từng có hay không có đại dương chứa nước tại bắc bán cầu của nó và về điều gì đã xảy ra đối với các đại dương này nếu như chúng đã từng tồn tại; các tìm kiếm gần đây của phi vụ Mars Exploration Rover chỉ ra rằng nó có một số lượng nước tồn tại trong thời gian dài ở ít nhất một vị trí nhưng phạm vi của nó lại chưa rõ.
Các nhà thiên văn học tin rằng Sao Kim từng có nước lỏng và có lẽ có cả các đại dương trong lịch sử rất sớm của nó. Nếu chúng từng tồn tại, mọi dấu vết của chúng dường như đã bị làm tan biến trong quá trình tái tạo bề mặt của Sao Kim.
Các hydrocarbon lỏng được cho là tồn tại trên bề mặt Titan, mặc dù chúng có lẽ chính xác hơn nên miêu tả như là các "hồ" thay vì các "đại dương". Phi vụ tàu vũ trụ Cassini-Huygens ban đầu đã phát hiện ra chỉ những cái dường như là các đáy hồ và các lòng sông khô kiệt, gợi ý rằng Titan đã đánh mất các chất lỏng bề mặt mà nó có thể đã từng có. Chuyến bay gần đây sát Titan của Cassini đã chụp lại các bức ảnh radar gợi ý mạnh mẽ rằng các hồ hydrocarbon gần vùng cực của Titan, nơi nó lạnh hơn. Titan cũng được cho là có đại dương nước dưới mặt đất do sự phối trộn của băng và các hydrocarbon tạo ra lớp vỏ ngoài cùng của nó.
Ceres thể hiện sự phân dị thành lõi đá và lớp phủ băng và có thể tồn tại một đại dương ước lỏng bên dưới bề mặt của nó. Sao Diêm Vương cũng có thể chứa lớp đại dương dưới bề mặt, và do đó có khả năng hình thành sự sống.
Ngoài hệ Mặt Trời, Gliese 581 c là hành tinh nằm ở khoảng cách hợp lý từ mặt trời của nó (sao lùn đỏ Gliese 581) để nước lỏng có thể tồn tại trên bề mặt hành tinh này. Do nó không đi ngang qua mặt trời của nó nên không có cách nào để biết là trên đó có nước hay không. HD 209458b có thể có hơi nước trong khí quyển của nó—điều này hiện nay còn gây tranh cãi lớn. Gliese 436 b được tin tưởng là có "băng nóng". Không có hành tinh nào trong số hai hành tinh này đủ lạnh để nước lỏng có thể tồn tại—nhưng nếu các phân tử nước tồn tại tại đó thì chúng rất có thể cũng được tìm thấy trê các hành tinh ở nhiệt độ phù hợp.
Xem thêm
Axít hóa đại dương
Ấn Độ Dương
Bảy biển
Bắc Băng Dương
Biển
Biển giữa lục địa
Biển nội địa
Biển ven lục địa hay biển ven bờ, biển thềm lục địa
Đại Tây Dương
Earthdive
Hải dương học
Luật biển
Lục địa
Muối biển
Mực nước biển và Sự nâng lên của mực nước biển
Nam Đại Dương
Ngày Đại dương Thế giới
Nước
Rác bãi biển
Sinh học biển
Thái Bình Dương
Tổ chức hàng hải quốc tế
Trạng thái biển
Vùng biển khơi
Tham khảo
Tài liệu
Matthias Tomczak và J. Stuart Godfrey. 2003. Regional Oceanography: an Introduction. (xem website )
"Origins of the oceans and continents ". Bản đồ đại dương thế giới của Liên hiệp quốc.
Colorado Center for Astrodynamics Research, "Mean Sea Level" Accessed ngày 19 tháng 12 năm 2005
Fahnestock, Mark (ngày 4 tháng 12 năm 2004), "Report shows movement of glacier has doubled speed", University of New Hampshire press release. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2005
National Snow and Ice Data Center (ngày 14 tháng 3 năm 2005), "Is Global Sea Level Rising? ". Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2005
Pilkey, Orrin and Robert Young, The Rising Sea, Shearwater, July 2009 ISBN 978-1-59726-191-3
Liên kết ngoài
Ocean Explorer – Nguồn tài liệu giáo dục và tham khảo từ NOAA
Hình ảnh hải dương học trong ngày – từ Viện hải dương học Woods Hole
Ocean Motion - Nguồn tài liệu giáo dục và tham khảo từ NASA
NOS Data Explorer – Cổng thông tin để thu thập dữ liệu từ Cục đại dương quốc gia (NOS) của NOAA
Science taps into ocean secrets
Why is the ocean salty?
Ủy ban hải dương học liên chính phủ
Oceana – Bảo vệ Đại dương của Thế giới
CORE - Côngxoocxiom về nghiên cứu và giáo dục hải dương học
NOPP - National Oceanographic Partnership Program
NOSB - National Ocean Sciences Bowl
CoML - Census of Marine Life
World Ocean Observatory
Greenpeace Defending our Oceans
The Last Days of the Ocean, a Mother Jones special report on the state of the ocean
Dự án The Ocean
Ocean Voyager, chuyến hành trình năm phần để bảo vệ biển, do tạp chí Mother Jones'' tạo ra
The Ocean Conservancy - Advocates for Wild, Healthy Oceans
NOAA DChart – Biểu đồ và dữ liệu đại dương từ Google Earth
Bản đồ các đại dương của Liên hiệp quốc
Hiệp hội nghề cá Hoa Kỳ
Hiệp hội Cousteau
Viện nghiên cứu môi trường biển
Cục ngư nghiệp của NOAA
Cục đại dương quốc gia của NOAA
Ocean Alliance
Hiệp hội Ocean Futures
National Office for Integrated and Sustained Ocean Observations
One Fish
Blue Ocean Institute
Changing Currents: Charting a Course of Action for the Future of Oceans
Shuttle Views the Earth: Oceans from Space
World Ocean Day - Celebrate our World's Ocean!
Hải dương học
Vùng nước
Địa mạo đại dương và duyên hải |
Trần Quốc Toản (chữ Hán: 陳國瓚; (1267 - 1285), hiệu là Hoài Văn hầu (懷文侯), sau truy tặng tước vương, là một tông thất nhà Trần, sống ở thời kỳ trị vì của Trần Thánh Tông cùng Trần Nhân Tông. Ông nổi tiếng có công tham gia kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai.
Câu chuyện của ông được lưu truyền trong văn hóa Việt Nam với hình ảnh "Lá cờ thêu sáu chữ vàng", dựa vào điển tích ông tự thêu lên cờ 6 chữ Hán là "Phá cường địch, báo hoàng ân" (破強敵報皇恩 - phá giặc mạnh, báo ơn vua) để nâng cao sĩ khí cho đội quân của mình.
Cuộc đời
Sự tích của Trần Quốc Toản được ghi lại rất ít trong các bộ chính sử. Căn cứ Đại Việt sử ký toàn thư cùng Khâm định Việt sử thông giám cương mục, vào tháng 10 năm 1282, vua Trần Nhân Tông mở hội nghị Bình Than, cùng quan viên bàn kế chống quân Nguyên. Nhà vua thấy Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản, Hoài Nhân Vương Kiện đều còn trẻ tuổi, không cho dự bàn. Quốc Toản trong lòng hổ thẹn, phẫn khích, tay cầm thanh kiếm, tay kia bóp nát quả cam lúc nào không hay. Sau đó Quốc Toản lui về thái ấp, huy động hơn nghìn gia nô và người nhà thân thuộc, sắm vũ khí, đóng chiến thuyền, viết lên cờ sáu chữ:"Phá cường địch, báo hoàng ân" (Nghĩa là phá giặc mạnh, báo ơn vua). Sau này, khi đối trận với giặc, tự mình xông lên trước quân sĩ, giặc trông thấy phải lui tránh, không dám chống lại.
Tháng 4 năm 1285, Trần Nhân Tông sai Chiêu Thành vương (khuyết danh), Hoài Văn hầu Quốc Toản cùng tướng quân Nguyễn Khoái đem tiệp binh đón đánh quân Nguyên ở bến Tây Kết. Ngày 10 tháng 5 năm đó, có người về báo cho triều đình là Thượng tướng Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải, Hoài Văn hầu Quốc Toản và Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp cùng em là Nguyễn Truyền đem dân binh các lộ đánh bại quân giặc ở các xứ Kinh Thành, Chương Dương. Quân giặc tan vỡ lớn, Thoát Hoan, Bình chương A Lạt phải rút chạy qua sông Lô.
Cái chết
Sau trận Chương Dương, sách sử không đề cập đến Trần Quốc Toản nữa. Thế nhưng trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, hình ảnh Trần Quốc Toản thường được định hình là hi sinh khi còn trẻ, cho nên phần lớn tác phẩm phim truyện đều ngầm mặc định Trần Quốc Toản mất vào thời điểm trận Chương Dương diễn ra, tức là năm 1285 theo dương lịch.
Xét ghi chép trong các chính sử của Việt Nam như Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Việt sử tiêu án, thậm chí là các quyển sử soạn gần đây như Việt sử tân biên của Phạm Văn Sơn, Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, Trần Hưng Đạo của Hoàng Thúc Trâm, đều không thấy đề cập đến cái chết của Trần Quốc Toản. Riêng có Đại Việt sử ký toàn thư bản kỷ quyển V có viết:"Đến khi mất, vua rất thương tiếc, thân làm văn tế, lại gia phong tước vương", nhưng không ghi rõ cụ thể năm nào. Các tài liệu đương thời của nhà Nguyên cũng không có manh mối, trong Nguyên sử, quyển 209 phần An Nam truyện chỉ ghi:"Quan quân đến sông Như Nguyệt, thì Nhật Huyên sai Hoài Văn hầu đến đánh", về sau không đề cập nữa, mà trong Nguyên văn loại (元文類), quyển 41 cũng chỉ viết: "Đến sông Như Nguyệt, Nhật Huyên sai Hoài Văn hầu đến đuổi giết". Hoàn toàn không có chi tiết nào liên quan việc Trần Quốc Toản tử trận.
Chỉ riêng sách Việt sử kỷ yếu của Trần Xuân Sinh, khi Ô Mã Nhi đánh vào Vân Đồn để cướp lại lương thực thì quân của Trần Quốc Toản và Trần Khánh Dư chống đỡ kịch liệt. Quốc Toản hăng hái cự địch, không may qua đời ngày 2 tháng 2 âm lịch. Không rõ Trần Xuân Sinh dựa vào nguồn nào để ghi chép.
Xuất thân và tuổi tác
Các bộ chính sử như Toàn thư, Cương mục, thậm chí An Nam chí lược của Lê Tắc, đều không hề ghi chép về xuất thân của Trần Quốc Toản, cho nên hiện tại không biết cha mẹ Quốc Toản là ai, thuộc phân nhánh nào của hoàng tộc nhà Trần. Nhiều bài báo mạng có thông tin song thân Trần Quốc Toản là Vũ Uy vương Trần Nhật Duy, con trai vua Trần Thái Tông và vợ là vương phi Trần Ý Ninh, nhưng khi tra xét cẩn thận thì đó là nhân vật từ bộ tiểu thuyết kiếm hiệp của Trần Đại Sỹ có tựa là "Anh hùng Đông A - Gươm thiên Hàm Tử", không phải là nguồn tư liệu đáng tin cậy.
Về vấn đề tuổi tác, năm sinh cùng năm mất, không có chính sử đương thời nào ghi chép thống nhất. Căn cứ Toàn thư, Tiêu án cùng Cương mục, khi sự kiện Hội nghị Bình Than diễn ra, Trần Quốc Toản không được nhà vua triệu kiến vì "Còn quá trẻ" (Nguyên văn: Niên ấu 年幼), ngoài ra không có thêm chi tiết nào khác. Cả ba bộ sử đều không ghi rõ ông bao nhiêu tuổi vào thời điểm ấy. Nhưng dựa theo ghi chép từ cuốn Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, chi tiết về Quốc Toản đột nhiên có chuyển biến, khi tác giả mặc định Quốc Toản chỉ mới 15 tuổi hoặc 16 tuổi khi ấy, cho nên không được dự hội nghị. Trước mắt không rõ Trần Trọng Kim dựa vào nguồn nào để ghi chép.
Di sản
Trần Quốc Toản đã đi vào lịch sử Việt Nam với lòng dũng cảm và tinh thần yêu nước, dám hi sinh mạng sống vì dân tộc của mình. Khí phách ấy đã được nói rõ trên lá cờ thêu sáu chữ vàng của ông:"Phá cường địch, báo hoàng ân" (Nguyên văn chữ Hán: 破強敵報皇恩).
Tên của ông được đặt cho nhiều ngôi trường tiểu học, trung học ở Việt Nam, một số con đường của các thành phố, tỉnh,... Ngoài ra, tên của ông còn được đặt cho một chiến hạm HQ-06 của Hải quân Việt Nam Cộng hòa.
Trần Quốc Toản là cảm hứng cho nhà văn Nguyễn Huy Tưởng sáng tác tiểu thuyết lịch sử "Lá cờ thêu sáu chữ vàng", trong đó ông là nhân vật chính của tác phẩm.
Hồ Chí Minh trong tác phẩm "Lịch sử nước ta" có ca ngợi về Trần Quốc Toản như sau:
Quốc Toản là trẻ có tài,
Mới mười sáu tuổi ra oai trận tiền,
Mấy lần đánh thắng quân Nguyên,
Được phong làm tướng cầm quyền binh nhung
Thật là một đấng anh hùng,
Trẻ con Nam Việt nên cùng noi theo.
Ghi chú
Võ tướng nhà Trần
Người tham gia lực lượng kháng chiến của Đại Việt chống quân Nguyên–Mông xâm lược |
Haiku (tiếng Nhật: 俳句, âm Hán Việt: Bài cú) là loại thơ độc đáo của Nhật Bản, xuất phát từ ba câu đầu (発句 hokku, phát cú) của những bài renga (連歌 liên ca) có tính trào phúng gọi là renga no haikai (連歌の俳諧) mà sau gọi là haikai (俳諧 bài hài).
Xuất sinh
Thể thơ haiku ra đời vào thế kỷ 17 và phát triển mạnh vào thời kỳ Edo (1603 - 1867). Lúc sơ khởi haiku mang sắc thái trào phúng nhưng dần chuyển sang mang âm hưởng lắng tịnh của Thiền tông. Thiền giả thi sĩ lỗi lạc Matsuo Bashō được coi là người khai sinh thể loại và Yosa Buson cùng Masaoka Shiki đã phát triển thể thơ này thêm hoàn thiện, cho nó thể thức, tên gọi như ta thấy ngày nay.
Haiku có lẽ là thể thơ ngắn nhất thế giới bởi mỗi bài haiku, mặc dù đôi khi có bài biến thể, nhưng đại để chỉ vỏn vẹn 17 âm tiết trong 3 câu, ngắt thành 5 + 7 + 5. Tuy gọi là ba câu nhưng theo truyền thống thì người Nhật viết cả bài haiku theo hàng dọc thẳng một cột chứ không chia thành ba. 17 âm tiết tiếng Nhật có khi chỉ vài ba từ ít ỏi. Bài thơ "Con ếch" nổi tiếng của Matsuo Bashō trong tập Xuân nhật (Haru no hi, 1686) là một bài tiêu biểu có cú pháp 5 + 7 + 5 âm tiết:
古池や (fu-ru-i-ke ya)
蛙飛込む (ka-wa-zu to-bi-ko-mu)
水の音 (mi-zu no o-to)
Bài thơ trên có thể viết theo ba dạng:
古池や蛙飛込む水の音 (kanji)
ふるいけやかわずとびこむみずのおと (hiragana)
furuike ya kawazu tobikomu mizu no oto (rōmaji)
Dịch nghĩa:
Ao xưa;
con ếch nhảy vào
vang tiếng nước xao.
Tạm chuyển thể 5 + 7 + 5:
Thửa ao nước ngày xưa
con ếch kia chợt nhảy tòm vào
tiếng nước bắn tóe ùm
Nội dung
Về nội dung haiku có luật cơ bản là không đả động đến cảm xúc mà chủ yếu chỉ ghi lại sự việc xảy ra trước mắt. Vì số chữ giới hạn trong 17 âm tiết nên thơ haiku thường chỉ diễn tả được một sự kiện diễn ra nhãn tiền ngay tức thì. Tuy là một sự việc nhưng haiku lại lồng hai ý tưởng bất ngờ lại với nhau.
Ôi những hạt sương (sự kiện hiện tại)
Trân châu từng hạt (ý tưởng thứ 1)
Hiện hình cố hương (ý tưởng thứ 2)
Một bài Haiku Nhật luôn tuân thủ hai nguyên lý tối thiểu, đó là bốn mùa của thiên nhiên và tính tương quan giữa hai ý tưởng. Trong thơ bắt buộc phải có kigo (quý ngữ) nghĩa là từ miêu tả mùa màng một cách gián tiếp. Trong bài không thì không nói rõ xuân, hạ, thu, đông nhưng sẽ nhắc đến hoa anh đào, lá úa vàng, tuyết phủ trắng... Ngoài ra bài thơ sẽ liên kết một hình ảnh bao la của vũ trụ ăn khớp với một hình ảnh bé nhỏ của đời thường.
Tiếng ve kêu râm ran (tiếng ve kêu chỉ mùa hạ)
Như tan vào trong than trong đá
Ôi, sao tĩnh lặng quá!
Ðọc thơ Haiku, ta cảm được vị trí đứng ở ngoài sự kiện của tác giả vì có hình sắc, có âm thanh mà cảm xúc thì không bộc bạch.
Cỏ hoang trong đồng ruộng
Dẫy xong bỏ tại chỗ
Phân bón!
Dù không nói ra nhưng người đọc vẫn có thể nghiệm được tình cảm của tác giả, một tình cảm nhè nhẹ, bàng bạc trong cả bài thơ, nói lên niềm vui sống hay sự cô đơn, đôi khi cũng nêu ra điểm tác giả thắc mắc về cuộc đời của con người: ngắn ngủi, phù du, trước sự vĩnh hằng của thiên nhiên.
Thế giới này như giọt sương kia
Có lẽ là một giọt sương
Tuy nhiên, tuy nhiên...
Thơ có khuynh hướng gợi ý hay ám chỉ gián tiếp nhẹ nhàng qua hai hình ảnh tương phản: một là trừu tượng sống động và linh hoạt, một là cụ thể ghi dấu thời gian và nơi chốn.
Trăng soi (hình ảnh trừu tượng)
Một bầy ốc nhỏ (hình ảnh cụ thể)
Khóc than đáy nồi (nơi chốn cụ thể)
Nhà thơ không giải thích hay luận về sự liên kết giữa hai hình ảnh này, chỉ diễn tả sự vật theo bản chất tự nhiên của nó. Người làm thơ phải tự đặt mình như một đứa trẻ lúc nào cũng có cảm giác bỡ ngỡ, lạ lùng khi tiếp xúc lần đầu tiên với ngoại giới. Một bài thơ haiku hay là làm sống lại những gì đã chôn sâu trong ký ức và đưa ra những cảm giác sâu sắc, tế nhị, để tự nó khơi lại trí tưởng tượng và mơ ước của người đọc để người đọc tự suy diễn, cảm nhận.
Chim vân tước bay
Thở ra sương gió
Dẫm lướt từng mây
Thơ có âm hưởng như một bài kệ, sàn lọc từng chữ, không dư mà cũng không thiếu, cốt sao nói đến chính cái đang là - "đương hạ tức thị". Nó nắm bắt thực tại ngay trong giây phút nảy mầm, cái đang xảy ra lắm khi chuyên chở cả một vũ trụ thu gọn vào trong thời điểm đó, tiểu thế giới và đại thế giới hòa nhập vào nhau. Một diễn tiến trước mắt khiến ta liên tưởng đến một hiện tượng hay biến cố nào đó trong một kinh nghiệm sống của riêng mình. Kỹ xảo của haiku là giản lược tối đa chữ nghĩa trong thơ để vận dụng trí tưởng tượng nơi người đọc. Kết quả là nó phá bỏ ngăn cách giữa thi sĩ và độc giả để cả hai nhập làm một, đồng âm cộng hưởng trong niềm rung cảm với sự liên hệ rất tinh tế và hài hòa của đất trời.
Niêm luật cơ bản của haiku cổ điển
Trong thơ haiku cổ điển bắt buộc phải có kigo (季語, quý ngữ) nghĩa là từ miêu tả một mùa nào đó trong năm. Từ này có thể trực tiếp chỉ mùa (mùa Xuân, mùa Thu...) hay gián tiếp thông qua các hình ảnh, loài hoa, loài cây cỏ động vật, hoạt động, lễ hội... mang đặc trưng của một mùa trong năm.
Một bài haiku thường chỉ "gợi" chứ không "tả", và kết thúc thường không có gì rõ ràng, vậy nên hình ảnh và cảm nhận sau khi đọc thơ hoàn toàn phụ thuộc người đọc.
Mỗi bài haiku thông thường có cấu trúc âm tiết 5 + 7 + 5 trong ba câu. Tuy nhiên, ngay cả tổ sư của haiku Matsuo Basho cũng đôi khi sử dụng ít hơn hoặc nhiều hơn số âm tiết đã nói trên; chẳng hạn bài thơ sau đây có 19 âm tiết:
Kareeda ni (5 âm) / Trên cành khô
Karasu no tomarikeri (9 âm) / Quạ đậu
Aki no kure (5 âm) / Chiều thu
Tứ trụ haiku Nhật Bản
Matsuo Basho (松尾芭蕉) (1644 - 1694)
Yosa Buson (与謝蕪村) (1716 - 1784)
Kobayashi Issa (小林一茶) (1763 - 1828?)
Masaoka Shiki (正岡子規) (1867 - 1902) |
Rừng Na Uy có thể mang một trong các nghĩa sau:
Rừng Na Uy, tiểu thuyết của nhà văn Murakami Haruki
Rừng Na Uy (phim), phim chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên
Chỉ rừng của quốc gia Na Uy
Một cách dịch sai của "Norwegian Wood (This Bird Has Flown)", bài hát của ban nhạc The Beatles |
Hám Sơn (1546-1623, zh. 憨山 hānshān) là một đại sư Phật giáo thuộc Thiền Tông và Tịnh Độ tông. Sư được mệnh danh là một trong 4 vị "thánh tăng" đời nhà Minh (ba vị còn lại là Tử Bá Đạt Quán, Liên Trì và Ngẫu Ích). Hám Sơn là người để lại rất nhiều bài giảng dành cho mọi tầng lớp người trong xã hội bấy giờ.
Sau khi nhập diệt, sư đã để lại nhục thân không bị hư thối. Nhục thân của sư được đặt tại chùa Tào Khê cùng với nhục thân của thiền sư Huệ Năng và thiền sư Đan Điền (nay thuộc Nam Hoa Thiền tự, huyện Thiều Quang, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc).
Lịch sử
Đại sư Hám Sơn (hay còn gọi là Hám Sơn Đức Thanh) tên tục là Thái Đức Thanh, hiệu Trừng Ấn. Sư sinh ngày 5 tháng 11 năm 1546 tại Toàn Tiêu, Kim Lăng (nay là tỉnh An Huy). Vào sinh nhật đầu tiên (thôi nôi) ông đột nhiên bị bệnh trầm kha không chữa nổi, mẹ sư đã phát nguyện với bồ tát Quán Thế Âm tại chùa là nếu sư thoát chết thì sẽ cho sư được xuất gia. Quả nhiên bệnh thuyên giảm. Thuở thơ ấu sư rất thường tư lự về nguyên nhân của vòng sinh tử. Trong suốt cuộc đời mình sư hay bị ốm yếu và bị các mụt nhọt lớn hành hạ.
Năm 11 tuổi, sư thuyết phục được người cha vốn không muốn cho con mình đi tu cho phép làm một sa di tại chùa Báo Ân nhưng sư vẫn chưa được chính thức xuất gia. Tại đây sư theo pháp sư Tây Lâm Vĩnh Ninh học tập kinh điển và học thông cả Nho giáo, Đạo giáo.
Năm 19 tuổi, sư mới được chính thức xuất gia. sư đến tham học với Thiền sư Vân Cốc Pháp Hội ở chùa Thê Hà. Nhân đọc được quảng lục của Thiền sư Trung Phong Minh Bản, sư quyết chí tu theo Thiền Tông. Sau đó sư trở lại chùa Báo Ân thọ giới cụ túc với pháp sư Vô Cực Minh Tín. Tại đây, sư nghe pháp sư Vô Cực giảng luận Hoa Nghiêm Huyền Đàm và vì cảm mộ đức hạnh của ngài Thanh Lương Trừng Quán nên sư lấy hiệu là Trừng Quán.
Năm 20 tuổi, sư quay lại tham yết ngài Vân Cốc và được trao công án "Niệm Phật là ai?". Từ đó sư chuyên tâm tham cứu thoại đầu, nhân một hôm đi hành kinh rồi nhập định. Sư không còn thấy thân tâm mình ở đâu nữa. Việc đạt được kiến tánh khiến sư viết lên bài kệ:
Khoảnh khắc nhất niệm, tâm cuồng ngưng
Căn trần nội ngoại, đều thấu suốt
Thân bay độc phá, thái hư không
Vạn tượng sum la, từ đây diệt.
Năm đó sư được ba mươi mốt tuổi.
Bắt đầu từ năm 1471, sư vân du nhiều nơi, đến tham học tại các trường giảng dạy Phật pháp ở kinh đô và viết ra nhiều tác phẩm về Phật học. Năm 1973, sư lên núi Ngũ Đài tĩnh tu, thấy cảnh ngọn núi Hàm Sơn kỳ vĩ, thanh thoát nên lấy hiệu là Hám Sơn.
Đến năm 1595, nhân một vu cáo vì tranh chấp đất đai chùa Hải Ấn, sư bị giam cầm tra tấn ép cung dã man bắt sư nhận tội lấy 3000 lạng vàng công quỹ nhưng số tiền đó đã được chứng minh qua sổ sách triều đinh là được dùng trong việc cứu đói ở Sơn Đông (1593). Sau cùng, sư chỉ bị xử tội xây chùa trái phép, sư bị buộc hoàn tục lưu đày đến Lôi Châu (thuộc biên giới tỉnh Quảng Châu) vào tháng 11 năm 1596.
Trong lúc bị lưu đày, mặc dù đã hoàn tục nhưng sư vẫn tiếp tục công việc giảng pháp, chú giải và in ấn kinh sách Phật giáo. Cũng tại Quảng Châu, sư đã tiến hành giải hòa cho một xung đột có thể gây chết nhiều sinh linh giữa người Quảng Đông và các lái buôn Phúc Kiến. Nhờ việc này mà sư được tổng đốc Quảng Châu cho phép về và trùng tu lại Tổ đình Thiền tông ở Tào Khê (nơi Lục Tổ Huệ Năng đã từng hoằng pháp).
Năm 1606, nhân việc Thái tử nhà Minh sinh con trai, sư được tạm thời xá tội. Trong lúc này, sư vẫn phải ở lại tiếp tục hoằng pháp tại Tào khê và Quảng Đông cho đến khi lệnh chính thức ân xá ban (1610). Sau đó, sư đến Khuôn Sơn. Năm 1614, sư cạo tóc và sử dụng lại cà sa.
Năm 1622, sư về chùa Hoa Nam Tào Khê và thị tịch tại đó nhằm ngày 5 tháng 11.
Tư tưởng
Hám Sơn chủ trương dung hợp giữa giáo lý Thiền Tông và Hoa Nghiêm Tông.
Sư cũng đề xướng thuyết Thiền Tịnh vô biệt: Thuyết này cho rằng Thiền Tông và Tịnh Độ Tông vốn tương đồng không khác biệt nhau.
Ngoài ra, sư kế thừa và phát triển tư tưởng Tam giáo nhất trí của các đại sư đi trước như Khuê Phong Tông Mật, Vĩnh Minh Diên Thọ: Tư tưởng này cho rằng Phật giáo, Lão giáo và Nho giáo căn bản đều dạy giống như nhau, đều khuyên con người hướng thiện, tu nhân, sống đạo đức. Có lẽ mục đích của nó nhằm xoa dịu sự mâu thuẫn, đối chọi giữa Lão giáo và Nho giáo đối với Phật giáo đồng thời đoàn kết họ lại với nhau.
Hành trạng chi tiết
1546: Sanh ngày 5, tháng 11
1557: Làm Sa Di tại chùa Báo Ân
1564: Được hòa thượng Tây Lâm truyền giới
1565: Hành Thiền tại chùa Thiên Giới
1567: Dạy tại trường Nghĩa Học
1571: Du hành đến Giang Tây
1572: Du hành đến Bắc Kinh
1574: Du hành với Diệu Phong đến Sơn Tây. Đạt giác ngộ
1575: Trụ tại núi Ngũ Đài (đến 1582)
1576: Gặp đại sư Liên Trì (Vân Thê Châu Hoằng)
1577: Viết Kinh Hoa Nghiêm bằng máu
1580: Cứu núi Ngũ Đài khỏi bị thuế
1583: Đến núi Lao Sơn (ở cho đến 1589)
1586: Xây chùa Hải Ấn
1588: Giảng pháp tại chùa Hải Ấn
1589: Trở về Nam Kinh
1593: Cứu trợ nạn đói tại Sơn Đông
1595: Bị bắt và xử án tại Bắc Kinh
1596: Bị giải đày đến Lôi Châu (Quảng Đông)
1597: Đến Quảng Đông
1599: Cổ động phong trào phóng sanh theo truyền thống Phật giáo
1600: Giải hòa một vụ nổi loạn tại Quảng Đông
1601: Đến Tào Khê (cho tới năm 1610)
1604: Trở về Lôi Châu; thành lập viện Đông Lâm hàn lâm
1605: Đến Hải Nam; trở về Tào Khê
1606: Trở lại Lôi Châu; được xác nhận triều đình ban lịnh ân xá
1607: Thành tăng sĩ trở lại
1608: Trùng tu am Bảo Nguyệt
1610: Rời Tào Khê; đến trú trên sông Phù Dong
1610: Ở tại Cao Yếu; chánh thức được ân xá
1612: Giảng pháp tại Quảng Đông
1613: Bị nhức lưng dữ dội do mụt nhọt; rời Quảng Đông đến Khuông Sơn
1614: Cạo tóc, đắp y ca sa lại
1616: Đến miền đông duyên hải
1617: Giảng kinh tại Tông Kính Đường; an dưỡng tại Khuông Sơn
1618: Xây chùa Pháp Vân tại Khuông Sơn
1619: Nhất tâm tu pháp môn Tịnh Độ
1621: Giảng pháp tại Khuông Sơn; in Mộng Du Thi Tập
1622: Trở về Tào Khê
1623: Nhập tịch ngày 5 tháng 11 tại Tào Khê
Tác phẩm và tiểu phẩm
Số lượng tác phẩm do sư viết, dịch hay luận rất nhiều trong đó bao gồm (Xin xem thêm một số chi tiết về các tác phẩm đã dịch ra Việt hay Anh ngữ của đại sư trong phần tham khảo)
1576: "Hám Sơn Trứ Ngôn"
1586: "Lăng Nghiêm Huyền Cảnh"
1587: "Tâm Kinh Trực Thuyết"
1597: "Lăng Già Bổ Di"
1597: "Trung Dung Trực Chỉ"
1598: "Pháp Hoa Cổ Tiết"
1604: "Xuân Thu Tả Thị Tâm Pháp"
1607: "Đạo Đức Kinh Chú"
1609: "Kim Cang Quyết Nghi"
1610: "Đại Học Quyết Nghi"
1612: "Pháp Hoa Phẩm Tiết"
1614: "Lăng Nghiêm Thông Nghĩa"
1615: "Pháp Hoa Thông Nghĩa"
1615: "Khởi Tín Sơ Lược"
1616: "Triệu Luận Chú"
1616: "Tánh Tướng Thông Thuyết"
1619-1622: "Hoa Nghiêm Cương Yếu"
1620: "Khởi Tín Luận Trực Giải"
1620: "Viên Giác Kinh Trực Giải"
1620: "Trang Tử Nội Thất Biến Chú" |
Train à grande vitesse, viết tắt TGV, là hệ thống tàu tốc hành của Pháp, sử dụng động cơ điện và hệ thống điện cao áp nhằm đạt được vận tốc tối đa tới 320 km/h.
Hệ thống TGV được xây dựng vào năm 1981 bởi hai công ty SNCF và Alstom, thay thế cho hệ thống tàu điện liên tỉnh cũ. Tính tới năm 2017, khoảng 2.600 km đường sắt đã được hoạt động tại Pháp, góp phần biến quốc gia này trở thành mạng lưới đường sắt lớn nhất Châu Âu và lớn thứ tư thế giới, chỉ sau Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản. Alstom sau đó phụ trách việc xây dựng, mở rộng hệ thống và hiện đại hóa các dịch vụ (với sự đầu tư từ Bombardier Transport). Hệ thống máy và động cơ được sản xuất tại Belfort, đầu kéo được sản xuất tại Aytré, và các linh kiện khác được Alstom sản xuất rải rác tại nhiều địa điểm khác trên nước Pháp.
TGV thường được cấu trúc với hai đầu máy độc lập, chạy trên hệ thống đường ray lắp ghép với từ 8-10 toa. Những chiếc tàu TGV TMST trong khuôn khổ dự án Eurostar lại có những thiết kế khác, do những yêu cầu đặc biệt đáp ứng với việc chạy ngầm xuyên qua eo biển Manche.
Sau khi loại bỏ hệ thống TGV cỡ nhỏ (TGV postal) vào năm 2015 do Hãng bưu chính quốc gia La Poste sử dụng để nối hai điểm Paris và Cavaillon, ngày nay tất cả các tàu TGV của Pháp chỉ còn phục vụ vận tải hành khách. Công ty đường sắt quốc gia SCNF đặt tên dịch vụ này là TGV inOui và Ouigo và chia sẻ hệ thống đường sắt này cùng nhiều đối tác khác. TGV được khai thác bởi SNCF, các đối tác châu Âu của SNCF (Eurostar và Thalys), và các công ty vận tải trong nước (Lyria, Alleo và Renfe-SNCF en Coopération). Những máy móc thanh lý của TGV Pháp hiện đang được sử dụng tại Hàn Quốc, Hoa Kỳ và Tây Ban Nha, tuy nhiên đã được cải tiến với những dịch vụ mới không liên quan tới máy móc ban đầu.
Kỷ lục tốc độ xe lửa nhanh nhất thuộc về chiếc TGV thử nghiệm chạy ngày 3 tháng 4 năm 2007, đạt vận tốc 574,8 km/h.
Lịch sử
Sau lần vận hành đầu tiên vào năm 1981 từ Paris tới Lyon, mạng lưới TGV với trung tâm là Paris ngay càng được mở rộng nối liền các thành phố của nước Pháp, được lựa chọn cho những tuyến đường sắt huyết mạch.
Sự thành công của tuyến đường sắt đầu tiên kéo theo nhanh chóng sư mở rộng của mạng lưới, cùng với sự xây cất nhiều tuyến đường TGV về phía nam, phía tây, phía bắc nước Pháp. Với sự thành công ở Pháp, nhiều nước láng giềng Pháp (như là Bỉ, Ý, Thụy Sĩ) đã nối liền các tuyến đường sắt với Pháp. TGV cũng nối liền Đức và Hà Lan từ nút đường sắt của Bruxelles-Midi ở Bỉ dưới tên Thalys, và Anh quốc dưới tên Eurostar từ điểm xuất phát là Paris-Nord và Bruxelles-Midi. Rất nhiều tuyến TGV đang được lên kế hoạch ở Pháp để nối liền các địa danh quốc tế.
Nhiều loại tàu điện phát triển từ TGV đã lăn bánh ở Hàn Quốc (KTX), ở Tây Ban Nha (AVE) và ở Mỹ (Acela).
Từ ngày khánh thành tuyến đầu tiên (1981) đến ngày 28 tháng 11 năm 2003, TGV đã chuyên chở một tỷ lượt khách. Con số hai tỷ được mong đợi vào năm 2010, tuy nhiên phải tới năm 2013 mới đạt mục tiêu này do số lượng người sử dụng TGV sụt giảm trong thập niên 2010.
Kỹ thuật
TGV có thể phục vụ với vận tốc lên tới 320 km/h. Để đạt vận tốc cao, TGV phải sử dụng đường ray đặc biệt, ở đó những đường ray vòng được nâng cao, và hàng loạt những cải tiến cho phép tàu lăn bánh ở tốc độ cao. Những cải tiến này về cơ bản bao gồm:
Mô tơ điện công suất lớn
Trọng tâm của tàu phải thấp
Hình dáng khí động học
Những chỗ móc nối đảm bảo
Tín hiệu hỗ trợ cho lái tàu khi không thể quan sát được hai bên lúc tàu chạy với vận tốc cao.
TGV được chế tạo bởi Alstom, lắp đặt bởi Bombardier, và một số công ty phụ trách sửa chữa và bảo dưỡng.
Ưu thế
Tuy nhiên TGV không thực sự mang lại lợi nhuận cho SNCF, công ty đường sắt quốc gia khai thác hệ thống.
TGV chiếm ưu thế so với máy bay trong việc lưu thông giữa các thành phố (mà khoảng cách dưới 1.000 km), nhờ vào thời gian nhanh (đặc biệt khi hành trình dưới ba giờ đồng hồ), thủ tục đăng ký đơn giản, sắp xếp hành lý nhanh hơn, và vị trí của nhà ga là ở trung tâm của thành phố. Hơn nữa, việc dùng TGV là an toàn, chưa một tai nạn nào từ khi ra mắt năm 1981. |
Thiên Tân (; ), giản xưng Tân (津); là một trực hạt thị, đồng thời là thành thị trung tâm quốc gia và thành thị mở cửa ven biển lớn nhất ở phía bắc của Trung Quốc. Năm 2018, Thiên Tân là đơn vị hành chính (gồm 04 thành phố trực thuộc trung ương, 22 tỉnh, 05 khu tự tri dân tộc và 02 đặc khu hành chính) đông thứ hai mươi bảy về số dân, đứng thứ mười chín về dân số Trung Quốc với 15,5 triệu dân, tương đương với Somalia và GDP đạt 1.881 tỉ NDT (284,2 tỉ USD) tương ứng với Bangladesh. Thiên Tân có chỉ số GDP đầu người đứng thứ ba Trung Quốc, chỉ sau Bắc Kinh và Thượng Hải, đạt 120.711 NDT (tương đương 18.241 USD).
Thiên Tân nằm trên bình nguyên Hoa Bắc, là nơi các chi lưu của Hải Hà hợp lưu với nhau, giáp với Bột Hải ở phía đông và dựa vào Yên Sơn ở phía bắc. Hải Hà chảy uốn lượn qua trung tâm đô thị của thành phố, các cây cầu bắc qua Hoài Hà hình thành nên cảnh tượng "nhất kiều nhất cảnh" cho Thiên Tân.
Từ thời cổ, Thiên Tân đã trở nên hưng thịnh nhờ vào vận tải đường thủy. Ngày 23 tháng 12 năm 1402, thành Thiên Tân chính thức được xây dựng, là thành thị duy nhất có thời gian xây thành chính xác vào thời cổ tại Trung Quốc. Kể từ năm 1860, sau khi Thiên Tân trở thành một cảng thông thương với ngoại quốc, nhiều nước phương Tây đã lập tô giới tại Thiên Tân. Bên cạnh đó, Dương Vụ phái (洋务派) cũng lập ra các thể chế kinh tế tại Thiên Tân, khiến Thiên Tân trở thành tiền tuyến mở cửa ở phương Bắc Trung Quốc và là căn cứ của Dương Vụ vận động (洋务运动) vào thời cận đại ở Trung Quốc. Với vị thế là nơi tiên phong, Thiên Tân vào thời cận đại có nền công nghiệp, thương nghiệp, tài chính phát triển nhanh chóng. Khi đó, Thiên Tân là nơi tiến hành "hiện đại hóa" quân sự, và là một trong những nơi đầu tiên tại Trung Quốc có đường sắt, điện báo, điện thoại, bưu chính, khai mỏ, giáo dục và tư pháp cận đại. Đương thời, Thiên Tân trở thành thành thị công thương nghiệp lớn thứ hai và trung tâm tài chính lớn nhất tại phía bắc Trung Quốc
Ngày 22 tháng 3 năm 2006, Quốc vụ viện Trung Quốc đã phê duyệt "Quy hoạch tổng thể thành phố Thiên Tân", theo đó Thiên Tân sẽ trở thành một thành phố cảng quốc tế, một trung tâm kinh tế phương Bắc và một thành phố sinh thái. Ngoài ra, còn đưa sự phát triển và mở cửa của tân khu Tân Hải vào trong chiến lược phát triển quốc gia của Trung Quốc, biến Thiên Tân thành cực tăng trưởng thứ ba của kinh tế Trung Quốc.
Lịch sử
Cổ đại
Thiên Tân nằm trên vùng đồng bằng phù sa do sông Hoàng Hà bồi đắp vào thời Cổ đại, trước khi sông chuyển dòng về phía nam như ngày nay. Vào thời cổ, Hoàng Hà từng ba lần đổi dòng để đổ ra biển tại phụ cận Thiên Tân: đổ ra biển ở phụ cận huyện Ninh Hà vào 3000 năm trước, đổ ra biển tại phụ cận Hoàng Hoa vào thời Tây Hán, đổ ra biển tại nam thành Thiên Tân vào thời Bắc Tống. Đến thời nhà Kim, Hoàng Hà đổi dòng về phía nam, bờ biển Thiên Tân ổn định. Muộn nhất là trong thời Chiến Quốc, ở khu vực Thiên Tân đã có các cư dân lao động và sinh sống đầu tiên. Thời Tây Hán, Hán Vũ Đế đã thiết lập diêm quan tại Vũ Thanh. Thời nhà Tùy, Đại Vận Hà khai thông, khiến cho nơi giao nhau giữa Bắc Vận Hà và Nam Vận Hà, Tam Xóa Hà Khẩu (三岔河口), trở thành nơi phát sinh sớm nhất của Thiên Tân. Thời nhà Đường, đã mở ruộng muối tại Lô Đài, lập kho muối tại Bảo Trì. Từ sau thời Trung Đường, Thiên Tân trở thành bến tiếp nhận các vật tư như lương thực và tơ lụa từ phương Nam vận chuyển lên phương Bắc. Thời Tống-Liêu, Hải Hà từng là sông ranh giới, phía bắc sông là đất Liêu, phía nam sông là đất Tống. Thời Tống, ở phía nam Hải Hà, triều Tống cho thiết lập rất nhiều cứ điểm quân sự, như: Nam Hà, Sa Qua, Độc Lưu để đề phòng quân Liêu tiến xuống phía nam. Thời nhà Kim, triều đình đã cho thiết lập trọng trấn "Trực Cô trại" tại Tam Xóa Khẩu, đương thời khu vực phụ cận Thiên hậu cung đã hình thành đường phố. Thời nhà Nguyên, vận chuyển đường biển được khai thông, Trực Cô trở thành trung tâm vận chuyển đường thủy, có tiếp vận thính và kho lương, Thiên Hậu cung cũng được xây dựng. Năm Diên Hựu thứ 3 (1316), tại Trực Cô đã thiết lập "Hải Tân trấn", là trọng trấn quân sự và trung tâm vận chuyển đường thủy đương thời. Thời nhà Minh, khi Yên vương Chu Lệ tranh đoạt ngôi vị với người cháu là Minh Huệ Đế, đã vượt sông tại khu vực Thiên Tân để tiến về phía nam. Năm Vĩnh Lạc thứ hai (1404), Minh Thành Tổ Chu Lệ đã ban tên gọi "Thiên Tân", có ý là Thiên tử vượt bến sông, xây thành thiết lập Thiên Tân vệ. Cùng với việc nhân khẩu gia tăng và thương nghiệp phát triển, triều đình nhà Minh liên tiếp thiết lập quan nha, xây trường học, đưa các vùng đất bên ngoài vào phạm vi thuộc thẩm quyền của Thiên Tân. Thời nhà Thanh, Thiên Tân được đổi từ vệ thành châu, rồi được thăng từ châu thành phủ. Cuối thời Thanh, Thiên Tân là trú địa của Trực Lệ tổng đốc, trở thành căn cứ của Lý Hồng Chương và Viên Thế Khải trong việc thiết lập Dương Vụ vận động và phát triển thế lực Bắc Dương.
Mở cửa thông thương cuối thời Thanh
Từ trước khi mở cửa thông thương với ngoại quốc, đặc biệt là trong thời gian xảy ra Chiến tranh Nha phiến lần thứ hai, các cường quốc phương Tây đã từng nhiều lần phát động chiến tranh nhằm chiếm đóng Đại Cô Khẩu- cửa sông của Hải Hà. Ngày 20 tháng 5 năm 1858, liên quân Anh-Pháp đổ bộ vào mặt bên của pháo đài, quân Thanh bắn pháo phản kích, sát thương gần một trăm binh sĩ liên quân. Tuy nhiên, do Trực Lệ tổng đốc Đàm Đình Tương (谭廷襄) từ bỏ chạy trốn, khiến cho pháo đài nam bắc liên tiếp bị công chiếm. Triều đình nhà Thanh bí bách, đã phân biệt ký vào Điều ước Thiên Tân với bốn nước Nga, Anh, Pháp, Mỹ. Ngày 20 tháng 6 năm 1859, công sứ ba nước Anh-Pháp-Mỹ đến ngoài Đại Cô Khẩu, được triều đình Thanh yêu cầu vào bờ tại Bắc Đường, rồi được quân Thanh bảo vệ đến Bắc Kinh hoán ước. Liên quân Anh-Pháp cự tuyệt, tấn công Đại Cô Khẩu, mở đầu cho chiến tranh Đại Cô Khẩu lần thứ hai, quân Thanh bắn pháo phản kích, đánh chìm 4 chiếc quân hạm của liên quân Anh-Pháp, quân Anh-Pháp bị tổn thất nặng nề và phải triệt thoái. Đây là một chiến thẳng hiếm hoi trước ngoại bang của quân Thanh vào mạt kỳ của triều đại này. Ngày 1 tháng 8 năm 1860, liên quân Anh-Pháp huy động hơn 30 quân hạm với đội quân lục chiến gồm 5.000 người đổ bộ thuận lợi vào vùng phụ cận Bắc Đường, mở đầu chiến tranh Đại Cô Khẩu lần thứ ba, liên tục công hạ các pháo đài Tân Hà, Đường Cô và Đại Cô Khẩu Bắc. Hàm Phong hoàng đế hạ lệnh bỏ pháo đài Nam, đám quân Thanh còn lại triệt thoái về thành Thiên Tân, Đại Cô Khẩu thất thủ.
Ngày 24 tháng 10 năm 1860, triều đình nhà Thanh cùng Anh-Pháp đã ký kết điều ước Bắc Kinh. Chín cường quốc gồm Anh, Mỹ, Pháp, Đức, Nhật, Nga, Ý, Áo-Hung, Bỉ trước sau đã thiết lập tô giới tại Thiên Tân, tiến hành cải tạo đất trong các tô giới, nạo vét Hải Hà, cải thiện hoàn cảnh đầu tư của Thiên Tân. Thiên Tân dần dần trở thành tiền tuyến mở cửa ở phương Bắc Trung Quốc và là căn cứ của Dương Vụ vận động (洋务运动) vào thời cận đại ở Trung Quốc. Khi đó, Thiên Tân là nơi tiến hành "hiện đại hóa" quân sự, và là một trong những nơi đầu tiên tại Trung Quốc có đường sắt, điện báo, điện thoại, bưu chính, khai mỏ, giáo dục và tư pháp cận đại. Ngày 5 tháng 7 năm 1900, liên quân tám nước công chiếm Thiên Tân, sau đó tiến hành hai năm thống trị thực dân tại Thiên Tân, và đến năm 1901 thì họ đã ra lệnh phá bỏ tường thành Thiên Tân. Năm Quang Tự thứ 29 (1903), Trực Lệ tổng đốc kiêm Bắc Dương thông thương đại thần Viên Thế Khải đã bắt đầu cho phát triển các khu đô thị mới tại bờ bắc Hải Hà ở Thiên Tân, tức Hà Bắc tân khu, áp dụng cách quy hoạch thành thị hiện đại phương Tây, còn được gọi là "Bắc Dương tân thành".
Thời kỳ Dân Quốc
Tháng 3 năm 1912, Viên Thế Khải nhậm chức đại tổng thống của Trung Hoa Dân Quốc, chính phủ Bắc Dương được thành lập. Ngày 1 tháng 7 cùng năm, Thiên Tân huyện thự bị bãi bỏ, các cơ cấu trực thuộc được đưa sang cho Thiên Tân phủ tiếp quản. Tháng 4 năm 1913, khôi phục Thiên Tân huyện, bãi bỏ Thiên Tân phủ. Huyện thự được thiết lập tại phủ thự trước đó, sau đổi tên thành Thiên Tân huyện hành chính công thự. Ngày 20 tháng 10 năm 1916, Pháp công khai bắt bớ cảnh sát Trung Quốc, mưu tính chiếm Lão Tây Khai. Người dân Thiên Tân hợp thành "Duy trì quốc quyền quốc thổ hội", vài nghìn người tiến hành thị uy. Sau này, do thỏa hiệp của chính phủ Bắc Dương, Lão Tây Khai trở thành nơi Trung-Pháp cùng quản lý, lịch sử gọi là "sự kiện Lão Tây Khai". Ngày 14 tháng 3 năm 1914, chính phủ Trung Quốc tuyên chiến với Đế quốc Đức và Đế quốc Áo-Hung trong chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, quân đội và cảnh sát Trung Quốc tiến vào thu phục tô giới Đức và tô giới Áo tại Thiên Tân. Tháng 6 năm 1923, Lê Nguyên Hồng từng tuyên bố di dời chính phủ Quốc dân đến Thiên Tân, thực tế là tại tô giới Anh tại Thiên Tân, thiết lập nơi chiêu đãi nghị viên, khiến cho tô giới Anh tại Thiên Tân trong một thời gian đã trở thành nơi trú chân của đại tổng thống Dân Quốc.
Tháng 6 năm 1928, Quốc dân Cách mạng quân chiếm lĩnh Thiên Tân, chính phủ Quốc dân Nam Kinh thiết lập thành phố đặc biệt Thiên Tân và thành lập chính phủ thành phố đặc biệt Thiên Tân. Tháng 6 năm 1930, thành phố đặc biệt Thiên Tân chuyển sang thuộc quyền quản lý trực tiếp của Hành chính viện thuộc Chính phủ Quốc dân Nam Kinh. Tháng 11 cùng năm, do thủ phủ của tỉnh Hà Bắc được chuyển từ Bắc Bình đến Thiên Tân, Thiên Tân lại trở thành một thành phố thuộc tỉnh; tháng 6 năm 1935, thủ phủ Hà Bắc được chuyển đến Bảo Định, Thiên Tân được khôi phục là một thành phố trực thuộc chính phủ Trung ương.
Sau sự kiện Lư Câu Kiều vào ngày 7 tháng 7 năm 1937, Thiên Tân ngay lập tức chìm trong ngọn lửa chiến tranh. Ngày 29 tháng 7, quân Nhật Bản đã phái phi cơ đến oanh tạc Thiên Tân. Ngày 30 tháng 7, quân Nhật Bản chiếm lĩnh Thiên Tân, thành lập "Hội duy trì trị an thành phố Thiên Tân", bổ nhiệm Cao Lăng Úy làm ủy viên trưởng. Ngày 17 tháng 12 cùng năm, đổi thành "công thự đặc biệt thành phố Thiên Tân". Ngày 9 tháng 4 năm 1939, giám đốc hải quan Thiên Tân mới nhậm chức là Trình Tích Canh (程锡庚) thuộc phái thân Nhật đã bị những người kháng Nhật ám sát tại tô giới Anh ở Thiên Tân, dẫn đến tranh chấp ngoại giao giữa Anh Quốc và Nhật Bản. Từ ngày 14 tháng 6 cùng năm, quân Nhật Bản tiến hành phong tỏa vũ trang tô giới Anh và tô giới Pháp tại Thiên Tân trong suốt một năm. Sau khi bùng phát chiến tranh Thái Bình Dương, quân Nhật Bản tiến chiếm tô giới Anh tại Thiên Tân. Tháng 8 đến tháng 10 cùng năm, Thiên Tân xảy ra lụt lội, khiến cho 80% diện tích khu vực đô thị của thành phố bị ngập. Ngày 14 tháng 8 năm 1945, Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc thu phục Thiên Tân cùng tô giới các nước tại Thiên Tân. Ngày 30 tháng 9, đội hải quân lục chiến Hoa Kỳ gồm hơn 20.000 lính đã đổ bộ tại khu vực Đường Cô, đến ngày 8 tháng 10, tại quảng trường trước cửa bộ Tư lệnh quân Mỹ trú tại Thiên Tân, đã cử hành nghi thức quân Nhật ký vào bản đầu hàng. Sau khi nội chiến Quốc-Cộng bùng phát, vào ngày 29 tháng 11 năm 1948, chiến dịch Bình Tân bắt đầu. Từ ngày 2 tháng 1 năm 1949, 340.000 quân Cộng sản tham dự chiến dịch Bình Tân đã tập kết quanh Thiên Tân, sang ngày 14 tháng 1 thì tiến hành tổng công kích, trải qua 29 giờ chiến đấu đã đánh bại Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc, nắm giữ toàn bộ Thiên Tân.
Đương đại
Trong khoảng thời gian từ năm 1949 đến tháng 2 năm 1958, Thiên Tân là một thành phố trực thuộc Trung ương. Ngày 11 tháng 2 năm 1958, do "Đại nhảy vọt" và các cơ sở công nghiệp hùng hậu tại Thiên Tân, thành phố được sáp nhập vào tỉnh Hà Bắc, Tỉnh lị Hà Bắc được đặt tại Thiên Tân trong vòng 8 năm, trong thời gian này một lượng lớn công xưởng và học hiệu được di chuyển ra các nơi khác tại Hà Bắc, điều này có ảnh hưởng bất lợi đến sự phát triển kinh tế của thành phố. Ngày 2 tháng 1 năm 1967, do "bị chiến, bị hoang" và lo ngại rằng Thiên Tân sẽ trở thành chiến trường, tỉnh Hà Bắc đã dời tỉnh lị về Bảo Định, Thiên Tân khôi phục vị thế là một thành phố trực thuộc Trung ương, duy trì cho đến nay.
Ngày 28 tháng 7 năm 1976, đã xảy ra trận động đất Đường Sơn có cường độ 7,8 độ richter, Thiên Tân phải hứng chịu các sóng địa chấn gây ra thiệt hại. Trận động đất đã khiến 24.345 cư dân thành phố tử vong, 21.497 cư dân thành phố trọng thương. Trên 60% công trình kiến trúc toàn thành phố chịu sự phá hoại của động đất, gần 700.000 người mất nhà cửa. Trận động đất khiến nền công nghiệp Thiên Tân chịu tổn thất nghiêm trọng, trên 30% xí nghiệp bị phá hoại ở mức độ nghiêm trọng. Đồng thời, hồ chứa Bắc Đại Cảng và hồ chứa Vu Kiều cũng bị động đất phá hoại nghiêm trọng. Năm 1981, hồ chứa Mật Vân đã được xây dựng trên thượng du Hải Hà thuộc Bắc Kinh nhằm cung cấp nước cho thủ đô, con sông không còn là nguồn cung cấp nước cho Hà Bắc và Thiên Tân nữa, khiên hai địa phương này gặp phải khó khăn. Cùng năm, Quốc vụ viện Trung Quốc quyết định cho xây dựng công trình "dẫn Loan nhập Tân", vấn đề cung cấp nước cho Thiên Tân cuối cùng đã được giải quyết.
Năm 1984, vào đầu cải cách mở cửa, Thiên Tân được Quốc vụ viện xác định là một trong 14 thành phố mở cửa ven biển của Trung Quốc, kinh tế bắt đầu phát triển nhanh chóng. Năm 1994, Thiên Tân bắt đầu chiến lược di chuyển về phía đông đối với ngành công nghiệp, xây dựng tân khu Tân Hải. Tháng 10 năm 2005, một hội nghị của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã quyết định đưa sự phát triển mở cửa của tân khu Tân Hải vào trong quy hoạch 5 năm lần thứ 11 và chiến lược phát triển quốc gia. Ngày 22 tháng 3 năm 2006, hội nghị Thường vụ Quốc vụ viện đã xác định vị thế của Thiên Tân là thành phố cảng quốc tế, trung tâm kinh tế phương Bắc, thành phố sinh thái. Do đó việc cạnh tranh vị thế trung tâm kinh tế phương bắc giữa Bắc Kinh và Thiên Tân cuối cùng đã kết thúc.
Địa lý
Vị trí
Thiên Tân có tọa độ giới hạn trong 116°43′-118°04' độ kinh Đông, 38°34′-40°15′ độ vĩ Bắc, cách thủ đô Bắc Kinh 120 km về phía bắc-tây bắc, giáp với các địa cấp thị Đường Sơn, Thừa Đức, Lang Phường, Thương Châu của tỉnh Hà Bắc. Tổng diện tích của thành phố là 11.860,63 km²., với 153 km đường bờ biển, 1137,48 km đường ranh giới trên đất liền
Địa mạo, địa chất
Thiên Tân có địa thế chủ yếu là đồng bằng và đất trũng, vùng đồng bằng bồi tích có diện tích 11.192,7 km², ước tính chiếm 93% tổng diện tích của thành phố Bắc bộ Thiên Tân là có các núi thấp và gò đồi, thấp dần từ bắc xuống nam, thuộc khu vực quá độ từ dãy núi Yên Sơn xuống bình nguyên Tân Hải. Đông nam Thiên Tân là vịnh Bột Hải, độ cao trung bình là 3,5 mét so với mực nước biển, là vùng thấp nhất tại bình nguyên Hoa Bắc, cũng là thành thị ven biển có cao độ so với mực nước biển thấp nhất tại Trung Quốc. Điểm cao nhất của Thiên Tân là Cửu Đính Sơn thuộc huyện Kế với cao độ 1078,5 mét so với mực nước biển. Thảm thực vật của Thiên Tân bao gồm: rừng lá kim, rừng hỗn giao lá rộng và lá kim, rừng lá rộng rụng lá, đám cây bụi, đồng cỏ, thực vật diêm sinh, thực vật đầm lầy, thực vật thủy sinh, thực vật sa sinh, rừng trồng và các loại cây trồng. Ở khu vực đô thị của Thiên Tân, bạch mao dương từng là cây xanh chủ đạo, vì thế vào cuối xuân đầu hè xảy ra hiện tượng bông từ của hoa loài cây này bay lơ lửng. Lịch sử địa chất Thiên Tân đã có trên 3 tỷ năm, phát triển từ liên đại Thái cổ đến kỷ Đệ Tứ thì hình thành địa mạo ngày nay, với ba giai đoạn. Đặc biệt, môi trường cổ địa lý ở huyện Kế có các đặc điểm dộc đáo, có nhiều loại hình di tích địa chất trên vùng núi bắc bộ, phân bố rộng, có giá trị lớn. Công viên địa chất quốc gia đầu tiên của Trung Quốc là công viện địa chất quốc gia huyện Kế Thiên Tân.
Thủy văn
Thiên Tân nằm ở hạ du lưu vực Hải Hà, là nơi năm chi lưu lớn: Nam Vận Hà (南运河), Bắc Vận Hà (北运河), Tử Nha Hà (子牙河), Đại Thanh Hà (大清河), Vĩnh Định Hà (永定河) hợp lưu rồi đổ ra biển. Dòng chính của Hải Hà chảy qua trung bộ Thiên Tân, chiều dài từ Tam Xóa Hà đến cửa sông là 73 km, Hài Hà được xem là "sông mẹ" của Thiên Tân. Thành phố nằm ở phía bắc của Đại Vận Hà, kết nối giữa sông Hoàng Hà và sông Dương Tử. Đô thị nói chung là phẳng, và đầm lầy gần bờ biển, nhưng có nhiều đồi núi ở cực bắc thành phố.
Thiên Tân nằm ở phía tây vùng biển Bột Hải, bờ biển dài 153 km nhìn ra các tỉnh Sơn Đông và Liêu Ninh gần đó. Tài nguyên hải dương của Thiên Tân bao phủ một khu vực có diện tích hơn 370 km², có tài nguyên đất bùn ven biển, có nhiều tài nguyên sinh vật phù du, sinh vật trôi, sinh vật đáy, sinh vật bãi triều. Ngoài ra, lợi dụng tài nguyên nước biển, Thiên Tân đã trở thành vùng sản xuất muối nổi tiếng từ xưa đến nay, có diêm trường lớn nhất Trung Quốc là diêm trường Trường Lô (长芦盐场), chiếm một phần tư tổng sản lượng muối biển của Trung Quốc. Trong những năm gần đây, công trình ngọt hóa nước biển đã giúp giải quyết vấn đề thiếu nước ngọt của đô thị Thiên Tân. Tài nguyên dầu khí hải dương của Thiên Tân phong phú, hiện đã phát hiện 45 cấu tạo có chứa dầu, trữ lượng rất khả quan.
Khí hậu
Thiên Tân có vĩ độ trung trên đường bờ biển phía đông của đại lục Á-Âu, thuộc đới khí hậu ôn đới gió mùa, chủ yếu chịu ảnh hưởng của hoàn lưu gió mùa nên có bốn mùa phân biệt rõ rệt. Thành phố có mùa đông lạnh, nhiều gió và rất khô do ảnh hưởng từ áp cao Siberia, và mùa hè nóng, ẩm ướt do ảnh hưởng của gió mùa Đông Á. Mùa xuân ở thành phố khô và lộng gió, thỉnh thoảng nhìn thấy những cơn bão cát thổi từ sa mạc Gobi, có khả năng kéo dài trong vài ngày. Nhiệt độ trung bình hàng tháng 24 giờ dao động từ -3,4 °C (25,9 °F) vào tháng Giêng đến 26,8 °C (80,2 °F) vào tháng 7, với mức trung bình hàng năm là 12,90 °C (55,2 °F). Với tỷ lệ phần trăm ánh sáng mặt trời hàng tháng có thể dao động từ 48% trong tháng 7 đến 61% trong tháng 10, thành phố nhận được 2.522 giờ ánh nắng mặt trời hàng năm. Tổng lượng mưa trung bình hàng năm khá thấp khi chỉ đạt 511 mm (20,1 inch), và gần 3/5 lượng mưa xảy ra vào tháng 7 và tháng 8. Thành phố nằm trong vùng bán khô cằn, với một phần của đô thị có khí hậu lục địa ẩm ướt (Köppen Dwa / BSk, tương ứng).
Nhiệt độ cực hạn dao động từ -22.9 °C (-9 °F) đến 40.5 °C (105 °F). Bình quân mỗi năm thành phố có 196~246 ngày không có sương giá. Vấn đề ô nhiễm không khí của Thiên Tân khá nghiêm trọng, song căn cứ các nghiên cứu thì trong gần 10 năm nay, về mặt tổng thể thì mức độ ô nhiễm không khí đã ổn định.
Hành chính
Chính trị
Chính trị của Thiên Tân được cấu trúc trong một hệ thống chính quyền đôi đảng giống như tất cả các cơ quan chính quyền khác ở Trung Quốc đại lục.
Quản lý hành chính thành phố Thiên Tân là Chính phủ Nhân dân thành phố Thiên Tân, lãnh đạo bởi Thị trưởng Chính phủ Nhân dân thành phố Thiên Tân, tương đương với Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân. Cơ quan Đảng tại Thiên Tân là Thành ủy Thiên Tân, lãnh đạo bởi Bí thư Thành ủy thành phố Thiên Tân, tương đương với Bí thư Tỉnh ủy. Bí thư Thành ủy thành phố Thiên Tân là lãnh đạo Thiên Tân tối cao, Thị trưởng Chính phủ Nhân dân thành phố Thiên Tân là chức vụ ở vị trí thứ hai.
Nhân khẩu
Vào cuối năm 2009, dân số của thành phố Thiên Tân là 12.280.000, trong đó 9.800.000 là người cư trú của Thiên Tân hukou (thường trú). Trong số cư dân sinh sống lâu dài của Thiên Tân, 5,99 triệu người là thành thị, và 3,81 triệu người ở nông thôn. Thiên Tân gần đây đã chuyển sang tăng trưởng dân số nhanh, dân số đã đạt 14,72 triệu vào năm 2013.
Khu đô thị bao gồm khu vực đô thị được ước tính bởi Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế của OECD, tính đến năm 2010, dân số 15,4 triệu người.
Phần lớn cư dân Thiên Tân là người Hán. Ngoài ra còn có 51 trong số 55 nhóm dân tộc thiểu số Trung Quốc sống ở Thiên Tân. Các dân tộc thiểu số bao gồm người Hồi, người Triều Tiên, người Mãn, và người Mông Cổ.
Tôn giáo
Cư dân Thiên Tân tham gia vào các tôn giáo bản địa, như sự tôn kính của nữ thần Thiên Hậu Thánh mẫu. Ngoài ra, Thiên Tân còn có một ngôi đền Phật giáo từ bi vĩ đại, một nhà thờ Công giáo St. Joseph (Nhà thờ Laoxikai), một nhà thờ Công giáo Đức Mẹ chiến thắng (Nhà thờ Wanghailou). Một giáo phận Công giáo La Mã ở Thiên Tân tồn tại. [56] Theo khảo sát xã hội chung của Trung Quốc năm 2009, Kitô hữu chiếm 1,51% dân số thành phố. Thiên Tân đã được mô tả là một "trung tâm" của Hồi giáo ở Trung Quốc. Theo truyền thống, Tây Bắc Thiên Tân là vị trí của khu phố Hồi giáo của thành phố, nơi họ đã sống hàng thế kỷ gần Nhà thờ Hồi giáo vĩ đại khổng lồ của thành phố, QingZH si, được thành lập vào năm 1703. Các nhà thờ Hồi giáo khác bao gồm Nhà thờ Hồi giáo Dahuoxiang.
Kinh tế
GDP của Thiên Tân đạt 1.572 tỷ NDT vào năm 2014, tăng 10,0% so với năm 2013. Thành phố Thiên Tân ghi nhận mức GDP bình quân đầu người cao nhất của Trung Quốc với 17.126 USD, tiếp theo là Bắc Kinh với 16.278 USD và Thượng Hải với 15.847 USD.
Đô thị này đã ghi nhận mức tăng GDP 16,5% trong năm 2009, chỉ đứng sau mức tăng trưởng 16,9% ở Mông Cổ giàu tài nguyên và gần gấp đôi tốc độ tăng trưởng quốc gia. Trong ngắn hạn, chi tiêu cơ sở hạ tầng sẽ làm phao nền kinh tế của Thiên Tân. Có nhiều dự án đang triển khai để mở rộng hệ thống tàu điện ngầm và cải thiện đường nối và đường sắt với thủ đô quốc gia Bắc Kinh ở gần đó.
Mặc dù cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế lan rộng nhanh chóng và tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới đang chậm lại, nhưng nền kinh tế của Thiên Tân vẫn duy trì ở tốc độ ổn định và tăng trưởng nhanh. Trong năm 2008, tổng giá trị sản lượng của Thiên Tân là RMB 635.438 tỷ đồng, tăng 16.5%, nói RMB 130.398 tỷ tăng so với năm ngoái, lần đầu tiên với mức tăng hơn 100 tỷ RMB. Tổng giá trị sản lượng bình quân đầu người ở Thiên Tân là US $ 7,800, gần mức trung bình của các nước phát triển. Thiên Tân đã nhận được khoản đầu tư nước ngoài trực tiếp ký kết lên đến 13.256 tỉ đô la, tăng 15.1%, và vốn đóng góp thực tế là 7.420 đô la, tăng 40,6% so với năm ngoái. Cho đến nay Thiên Tân đã có 21.048 công ty có vốn đầu tư nước ngoài, với số vốn đầu tư nước ngoài tích lũy là 47,2 tỷ đô la.
Đồng thời, Thiên Tân đang tích cực phát triển cải cách tài chính và đổi mới. Ngân hàng Trung Quốc Bohai, ngân hàng thương mại quốc gia đầu tiên bị hạn chế bởi các cổ phiếu có trụ sở chính tại Thiên Tân, đã thành lập sáu chi nhánh và 14 văn phòng mở cửa cho công chúng vào cuối năm 2008. Trong tháng 3 năm 2008, (OTC) được thành lập tại Thiên Tân sau khi được Hội đồng Nhà nước thông qua. Thiên Tân đã trở thành thành phố thí điểm với nhiều quỹ đầu tư công nghiệp nhất tại Trung Quốc. Diễn đàn Tài chính Cá nhân Quốc gia Trung Quốc được tổ chức tại Thiên Tân một lần nữa, với khoảng 500 công ty đầu tư và các tổ chức tài chính tư nhân cũng như khoảng 2.000 doanh nghiệp đang phát triển liên quan đến việc lưu thông vốn toàn cầu thông qua Capital Connection ở Thiên Tân. Được hỗ trợ bởi sự trao đổi hàng hóa thực tế mạnh mẽ, Thiên Tân có sự phát triển của ngành công nghiệp tương lai như một phần quan trọng trong cải cách và đổi mới tài chính. Vào tháng 7 năm 2008, Công ty môi giới hàng hóa Yide Futures đã chuyển trụ sở chính lên Thiên Tân. Dự án Tài chính Thiên Tân, Đường Bắc Jiefang làm trục của nó, đã được bắt đầu. Nó sẽ được xây dựng thành một khu vực dịch vụ tài chính mở và trí tuệ toàn diện trong vòng 10 năm.
Thiên Tân đang chuyển đổi thành một thành phố trung tâm cho vận chuyển quốc tế và hậu cần, sản xuất hiện đại và nghiên cứu và phát triển. GDP danh nghĩa của Thiên Tân đã tăng 2,8 lần từ 184 tỷ nhân dân tệ năm 2001 lên 505 tỷ nhân dân tệ năm 2007. Ngành công nghiệp trụ cột của Thiên Tân là công nghệ thông tin điện tử, ô tô, công nghệ sinh học và dược phẩm, luyện kim và hóa dầu. Khu vực ven biển mới, bao gồm Cảng Thiên Tân, Khu phát triển Công nghệ và Kinh tế Thiên Tân và Khu vực Bondjin Thiên Tân, đã thu hút được nhiều doanh nghiệp nổi tiếng thế giới như Motorola, Toyota và Samsung. Toàn cầu hoá và mở cửa nền kinh tế với phần còn lại của thế giới đã mang lại những lợi ích đáng kể cho sự phát triển kinh tế của Thiên Tân.
Doanh thu từ tài chính của Thiên Tân đã tăng gấp ba lần từ 16 tỷ RMB năm 2001 lên 54 tỷ RMB năm 2007. Khi doanh thu tăng, chi cho khoa học và công nghệ, giáo dục, văn hoá, y tế và thể thao cũng tăng theo, đạt 10 tỷ RMB 2004, chiếm 30,7% chi tiêu tài chính của thành phố. Doanh thu cũng đã được sử dụng trong xây dựng cơ sở hạ tầng như đường mới, cầu mới và nhà thương mại. Một trong những mục tiêu phát triển của Kế hoạch 5 năm lần thứ 11 là có doanh thu tài chính tăng trưởng 16% mỗi năm.
Tổng đầu tư vào tài sản cố định tại Thiên Tân đã tăng từ 62 tỷ RMB năm 2001 lên 239 tỷ nhân dân tệ năm 2007, tăng 3,9 lần so với thời gian 6 năm. Thiên Tân đã xây dựng được lợi thế cạnh tranh trong lĩnh vực đầu tư như: dịch vụ vận tải cảng thuận tiện, thị trường mở, dịch vụ hậu cần tiên tiến, các chính sách ưu đãi quyến rũ và có các dịch vụ của chính phủ hiệu quả. Đến cuối năm 2004, hơn 118 quốc gia và khu vực đã đầu tư vào Thiên Tân, thành lập khoảng 16.000 doanh nghiệp. Hiện tại, Thiên Tân đang phát triển thành một thành phố sinh thái, do đó mang lại nhiều triển vọng cho đầu tư vào tài sản cố định trong các khoảng thời gian tiếp theo.
Năm 2018, Thiên Tân là đơn vị hành chính (gồm 04 thành phố trực thuộc trung ương, 22 tỉnh, 05 khu tự tri dân tộc và 02 đặc khu hành chính) đông thứ hai mươi bảy về số dân, đứng thứ mười chín về kinh tế Trung Quốc với 15,5 triệu dân, tương đương với Somalia và GDP đạt 1.881 tỉ NDT (284,2 tỉ USD) tương ứng với Bangladesh. Thiên Tân có chỉ số GDP đầu người đứng thứ năm Trung Quốc, sau Hồng Kông, Ma Cao, Bắc Kinh, Thượng Hải, đạt 120.711 NDT (tương đương 18.241 USD).
liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp_tin:%E7%82%AB%E5%BD%A9%E6%B4%A5%E9%97%A86Tianjin_Jinwan_Plaza.jpg|giữa|nhỏ|1107x1107px|Quảng trường Thiên Tân
Du lịch
Thành phố có nhiều điểm tham quan; đường phố của nó - một sự kết hợp của kiến trúc châu Âu vào thế kỷ thứ mười chín và đầu thế kỷ 20, xếp chồng lên nhau bằng các khối đá bê tông và thủy tinh của Trung Quốc đương đại - là điểm thu hút nhất của nó. Mặc dù những đường viền rộng của thành phố đang được xây dựng lại, phần lớn các kiến trúc thuộc địa đã được đặt dưới sự bảo hộ, và những cơ hội mua sắm, đặc biệt đối với đồ cổ, chỉ là về biện minh cho một chuyến đi trong ngày từ thủ đô, một tiếng đồng hồ đi bằng tàu hỏa.
Vào thế kỷ thứ mười chín, thành phố cảng đã thu hút sự chú ý của các cường quốc phương Tây đi biển, người đã sử dụng việc lên tàu của một chiếc tàu Anh bởi quân đội Trung Quốc như một cái cớ để tuyên chiến. Với pháo hạm nổi vũ trang, họ đã yên tâm về chiến thắng, và Hiệp ước Thiên Tân, đã ký vào năm 1856, đã đưa ra những người châu Âu quyền thành lập chín căn cứ ưu đãi trên đất liền, từ đó họ có thể tiến hành thương mại và bán thuốc phiện. Những nhượng bộ này, dọc theo bờ sông Hải, là những thế giới tưởng tượng Châu Âu khép kín: các lâu đài và cao ốc trang trí thanh lịch của Pháp, trong khi Đức xây những biệt thự Bavarian đỏ lát. Căng thẳng giữa người dân bản địa và người nước ngoài đã phát nổ trong Incident Thiên Tân của năm 1870, khi một đám đông Trung Quốc đã tấn công một trại trẻ mồ côi Pháp-run, và một lần nữa trong cuộc nổi dậy Boxer vào năm 1900, sau đó người nước ngoài chững những bức tường xung quanh thành phố cổ của Trung Quốc để cho phép họ để mắt đến cư dân của mình.
Mạng lưới đường bộ của các đường phố được chuyển nhượng ở phía nam và phía tây của ga tàu trung tâm và phía nam sông Hải hiện đang là khu vực quan tâm nhất đối với du khách. Không thể nhầm lẫn là những lâu đài của sự nhượng bộ của Pháp, giờ đây tạo thành khu trung tâm thành phố nằm ở phía nam sông, và những căn biệt thự kiêu căng mà người Anh xây dựng ở phía đông của đây. Xa hơn nữa về phía đông, cũng ở phía Nam của con sông, kiến trúc của một quận không có gì đáng chú ý là có rải các công trình khắc nghiệt của Đức.
Văn hóa
Người dân Thiên Tân nói phương ngữ Thiên Tân của tiếng Quan Thoại. Mặc dù gần Bắc Kinh, phương ngữ Thiên Tân có vẻ khác hẳn với phương ngữ Bắc Kinh, nó tạo nền tảng cho Putonghua, ngôn ngữ chính thức của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Giống Bắc Kinh, Thiên Tân cũng là nguồn gốc của kinh kịch, một trong những hình thức uy tín nhất của vở opera Trung Quốc.
Thiên Tân nổi tiếng với những bộ phim hài và hài kịch như Guo Degang và Ma Sanli. Ma Sanli (马三立) (1914-2003. Người Hồi, dân tộc và cư dân lâu năm ở Thiên Tân, nổi tiếng về hình xiangsheng (相声), hình thức giải trí Trung Quốc rất phổ biến tương tự như hài kịch. Ma Sanli đưa một số xiangsheng của mình bằng phương ngữ Thiên Tân. Thiên Tân, cùng với Bắc Kinh, là một trung tâm nghệ thuật của xiangsheng. Thương hiệu nổi tiếng của Thiên Tân nổi lên cũng bao gồm việc sử dụng các nhịp điệu nhịp nhàng "Kuaiban".
Yangliuqing (Green Willows), thị trấn cách thành phố Thiên Tân khoảng 15 km (9,3 mi) về phía tây, thuộc là quận Tây Thanh, nổi tiếng với các bức tranh sơn dầu màu sắc đầy màu sắc theo chủ đề Tết Trung Quốc. Thiên Tân cũng nổi tiếng với những bức tượng nhỏ bằng đất sét của Zhang, đó là một loại tượng nhỏ đầy màu sắc miêu tả nhiều nhân vật sống động và diều của Wei ở Thiên Tân, có thể gấp lại thành một phần nhỏ so với kích thước đầy đủ của chúng.
Vào ngày 28 tháng 9 năm 2015, trường Juilliard ở thành phố New York đã thông báo mở rộng thành Thiên Tân trong chuyến viếng thăm của đệ nhất phu nhân Trung Quốc, Bành Lệ Viện, cuộc thâm nhập toàn diện đầu tiên của tổ chức ở bên ngoài nước Mỹ, với kế hoạch cung cấp bằng thạc sĩ chương trình.
Ẩm thực
Ẩm thực Thiên Tân đặt trọng tâm vào hải sản, do Thiên Tân gần biển. Nó có thể được phân loại thành nhiều loại khác nhau, bao gồm các loại thô (Trung Quốc: 粗, pinyin: cū), mịn (giản thể Trung Quốc: 细, truyền thống Trung Quốc: 細, pinyin: xì), và cao (Trung Quốc: 高; pinyin: gāo). Các thực đơn nổi bật bao gồm Tám Bát Đại (Trung Hoa: 八 大碗, Bính âm: Bādà wǎn), kết hợp tám món thịt chủ yếu, và Bốn món ăn ngon (Trung Quốc: 四大 扒, pinyin: sì dà bā), thực sự đề cập đến rất nhiều món hầm, bao gồm thịt gà, vịt, hải sản, thịt bò, và thịt cừu.
Bốn món ngon của Thiên Tân bao gồm bánh bao Goubuli, Guifaxiang Shibajie Mahua (tiếng Trung: 十八 街 麻花, pinyin: shíbā jiē máhuā), Erduoyan Zhagao (tiếng Trung: 耳朵眼 炸糕, pinyin: erduoyǎn zhà gāo) và sủi cảo Maobuwen (tiếng Trung: 猫 不闻 饺子; bính âm: māo bù wén jiǎozi). Các món ăn nổi tiếng bao gồm thịt heo Caoji, thịt cừu Bazhen của Guanshengyuan, Luji Tangmian Zhagao, Baiji Shuijiao, Gaogan của Zhilanzhai, Guobacai của Dafulai, Subao của Shitoumenkan và hạt dẻ Xiaobao. Những món ăn nhẹ nổi tiếng này có ở phố Thực phẩm Nanshi, là một thẻ gọi điện thoại nổi tiếng của Thiên Tân về ẩm thực.
Giao thông
Đường thủy
Cảng Thiên Tân là cảng hàng đầu thế giới và bến cảng nước sâu nhân tạo lớn nhất của Trung Quốc, và năng lực thông qua hàng thứ năm trên thế giới. Nằm trong Khu kinh tế Tân Hải, một khu kinh tế mới của Trung Quốc, bến cảng Thiên Tân là cảng ghé cảng du lịch quốc tế đi thăm khu vực rộng lớn hơn, bao gồm cả Bắc Kinh.
Đường sắt
Có một số ga đường sắt trong thành phố, ga Thiên Tân là một trong những chính. Nó được xây dựng vào năm 1888. Trạm ban đầu được đặt tại Wangdaozhuang (tiếng Trung giản thể: 旺 道 庄, truyền thống Trung Quốc: 旺 道 莊, bính âm: Wàngdàozhuāng). Trạm này sau đó đã được chuyển đến Laolongtou (tiếng Hoa giản thể: 老 龙头, truyền thống Trung Quốc: 老 龍頭, bính âm: Lǎolóngtóu) trên bờ sông Hải Ân vào năm 1892, vì vậy trạm được đổi tên thành Ga Laolongtou. Trạm này được xây dựng lại từ đầu năm 1988. Công việc xây dựng lại bắt đầu vào ngày 15 tháng 4 năm 1987 và kết thúc vào ngày 1 tháng 10 năm 1988. Trạm Thiên Tân cũng được gọi là 'Trạm Đông', do vị trí địa lý. Vào tháng 1 năm 2007, nhà ga đã bắt đầu một dự án tái cơ cấu dài hạn để hiện đại hóa cơ sở này và là một phần của dự án trung tâm vận tải Thiên Tân lớn hơn bao gồm các tuyến tàu điện ngầm Tianjin 2, 3 và 9 cũng như tuyến đường sắt cao tốc Thiên Tân - Bắc Kinh.
Trạm đường sắt Tây Thiên Tân và Trạm Bắc Bắc Thiên Tân cũng là các ga đường sắt lớn ở Thiên Tân. Ngoài ra còn có ga Tanggu nằm trong khu vực cảng quan trọng của Quận Tanggu, Ga Binhai và Trạm Bắc Binhai nằm ở TEDA, phía bắc Tanggu. Có một số ga đường sắt khác trong thành phố không xử lý giao thông hành khách. Việc xây dựng tuyến đường sắt cao tốc Bắc Kinh - Thiên Tân bắt đầu vào ngày 4 tháng 7 năm 2005 và đã hoàn thành vào tháng 8 năm 2008.
Các tuyến đường sắt sau đi qua Thiên Tân:
Đường sắt Jingshan, từ Bắc Kinh đến Shanhai Pass
Đường sắt Jinpu, từ Tianjin đến Quận Pukou, Nam Kinh
Đường sắt Jinji, từ khu đô thị Thiên Tân đến Quận Ji, Thiên Tân
Đường sắt Jinba, từ Tianjin đến Bazhou, Hà Bắc
Các chuyến tàu liên thành phố giữa Bắc Kinh và Thiên Tân sẽ thông qua một hệ thống số mới: Cxxxx (C là viết tắt của InterCity). Số lượng tàu có khoảng từ C2001 ~ C2298:
C2001 ~ C2198: Từ Trạm Bắc Nam đến Thiên Tân, không ngừng.
C2201 ~ C2268: Từ Trạm Bắc Kinh Bắc đến Thiên Tân, dừng tại Trạm Wuqing (武清 站);
C2271 ~ C2298: Từ Trạm Bắc Nam đến Trạm Yujiapu của Thiên Tân
Các chuyến tàu mới C chỉ mất 30 phút giữa Bắc Kinh và Thiên Tân, cắt giảm thời gian tàu D trước đó bằng hơn một nửa. Giá vé vào ngày 15 Tháng Tám 08 là 69 RMB cho ghế hạng nhất và 58 RMB cho ghế hạng hai.
Xe điện
Khu vực bến cảng của Tân Hải / Teda của Thiên Tân có hệ thống xe điện cao tốc hiện đại cao, mệt mỏi, là tuyến đường xe điện đầu tiên ở Trung Quốc và Châu Á. Được xây dựng vào năm 2006, điều này đánh dấu sự trở lại của chiếc xe điện đến Thiên Tân, một lần có một mạng lưới xe điện có bánh xe bằng thép có tiêu chuẩn. Mạng lưới xe điện Thiên Tân ban đầu được xây dựng bởi một công ty của Bỉ vào năm 1904 và mở cửa vào năm 1906. Đây là hệ thống xe điện đầu tiên trên toàn thành phố Trung Quốc. Nó đóng cửa vào năm 1972.
Metro
Thành phố này bao gồm hai hệ thống vận chuyển nhanh, Tàu điện ngầm Thiên Tân và Giao thông công cộng Tân Hải. Tuyến vận chuyển hàng loạt Tân Hải chạy giữa trung tâm thành phố Thiên Tân và TEDA (Khu vực phát triển kinh tế Thiên Tân) ở khu vực ven biển của Tân Hải. Chúng hiện đang được mở rộng dày đặc từ năm đến chín tuyến. Năm tuyến hiện đang hoạt động cả trong thành phố và khu vực Tân Hải. Tính đến tháng 10 năm 2016, toàn bộ mạng lưới của Tàu điện ngầm Thiên Tân và Tân Hải có 95 ga và 5 tuyến.
Công trình xây dựng trên Metro Thiên Tân bắt đầu vào ngày 4 tháng 7 năm 1970. Đây là tàu điện ngầm thứ hai được xây dựng ở Trung Quốc và bắt đầu dịch vụ vào năm 1984. Tổng chiều dài của đường đua là 7,4 km (5 dặm). Dịch vụ tàu điện ngầm đã bị đình chỉ vào ngày 9 tháng 10 năm 2001 để tái thiết. Tuyến ban đầu hiện là một phần của Tuyến 1 của hệ thống tàu điện ngầm mới. Nó đã được mở lại cho công chúng vào tháng 6 năm 2006. Đường đua được mở rộng tới 26.188 km (16.272 dặm) và có tổng cộng 22 trạm. Công việc xây dựng trên Tuyến 2 và Tuyến 3 đã hoàn thành vào năm 2012 và hai tuyến hiện đang hoạt động. Một số tuyến tàu điện ngầm mới được lên kế hoạch.
Có hai nhà khai thác vận chuyển nhanh chóng ở Thiên Tân:
Tàu điện ngầm Thiên Tân, hiện đang hoạt động với 63 ga và bốn tuyến
Hệ thống vận chuyển hàng loạt Tân Hải (BMT), hiện đang vận hành 33 trạm
Đường không
Sân bay quốc tế Tân Hải Thiên Tân (ZBTJ) nằm ở quận Đông Lệ cách trung tâm thành phố khoảng 13 km (8 dặm). Thành phố này cũng sẽ được phục vụ bởi Sân bay Thủ Đô Bắc Kinh thứ hai ở Bắc Kinh, hiện đang được xây dựng và hoàn thành vào năm 2017.
Sân bay quốc tế Tân Hải Thiên Tân hiện có một nhà ga có diện tích 25.000 m2 (269.000 sq ft), một kho hàng hóa với diện tích 29.500 m2 (318.000 sq ft) và đường băng đo tổng cộng 3,6 km (2,2 dặm). Nó có một đường băng loại 4E, mà tất cả các loại máy bay lớn có thể cất cánh từ và đất an toàn trên. Sân bay quốc tế Tân Hải Thiên Tân có 59 tuyến bay, nối liền 48 thành phố, trong đó có 30 thành phố trong nước và 17 thành phố nước ngoài. Các hãng hàng không như Japan Airlines, All Nippon Airways, Korean Air, Asiana Airlines, Singapore Airlines Cargo và Martinair Holland đều có các chuyến bay đến sân bay này.
Các trường đại học
Đại học Nam Khai (南开大学)
Đại học Thiên Tân (天津大学)
Đại học Y khoa Thiên Tân (天津医科大学)
Đại học Sư phạm Thiên Tân (天津师范大学)
Đại học Công nghiệp Thiên Tân (天津工业大学)
Đại học Tài chính - Kinh tế Thiên Tân (天津财经大学)
Đại học Khoa học - Kỹ thuật Thiên Tân (天津科技大学)
Đại học Khoa học - Công nghệ Thiên Tân (天津理工大学)
Đại học Thương nghiệp Thiên Tân (天津商业大学)
Đại học Xây dựng Đô thị Thiên Tân (天津城建大学)
Đại học Ngoại ngữ Thiên Tân (天津外国语大学)
Đại Học Trung Y-Dược Thiên Tân (天津中医药大学)
Đại học Sư phạm - Kỹ thuật Thiên Tân (天津职业技术师范大学)
Học viện Âm nhạc Thiên Tân (天津音乐学院)
Học viện Thể dục Thiên Tân (天津体育学院)
Học viện Nông nghiệp Thiên Tân (天津农学院)
Học viện Mỹ thuật Thiên Tân (天津美术学院)
Đại học Hàng không Dân dụng Trung Quốc (中国民航大学)
Thành phố kết nghĩa và đối tác |
Xá-lị hay xá-lợi (tiếng Phạn: शरीर sarira; chữ Hán: 舍利) là những hạt nhỏ có dạng viên tròn trông giống ngọc trai hay pha lê hình thành sau khi thi thể được hỏa táng hoặc thân cốt sau khi viên tịch của các vị cao tăng Phật giáo. Trong kinh Đại Bát Niết Bàn thì xá-lị của Đức Phật còn được gọi là dhātu. Xá-lị được lưu giữ với mục đích để tỏa ra 'phước lành' hoặc 'ân sủng' (tiếng Phạn: adhiṣṭhāna) trong tâm trí và kinh nghiệm của những người có liên hệ với nó. Xá lị cũng được tin có khả năng xua đuổi tà ác trong truyền thống Phật giáo Himalaya.
Tên gọi
Danh từ Xá Lợi do âm tiếng Phạn là Sàrìrikadhàtu. Trước đó nói đến Xá Lợi, người ta nghĩ đến Xá Lợi của Đức Phật. Sau này có những vị tăng và sư đắc đạo, sau khi làm lễ trà tỳ, đệ tử cũng thu được nhiều xá lị. Tất cả những đồ dùng là di tích của Phật và các vị tăng như y, bình bát, tích trượng, v.v. đều gọi là xá lị. Hiện nay ở Miến Điện, người ta còn thờ tóc và móng tay của Đức Phật khi ngài còn sống đã cắt cho hai vị đệ tử tại gia đầu tiên. Trong kinh tạng Pali thường đề cập đến Xá Lợi Xương, Xá Lợi Răng và Ngọc Xá Lợi.
Các sách của Phật giáo có ghi rõ: sau khi đức Phật tạ thế, thi thể ông được hoả táng, sau đó trong tro cốt người ta thu được nhiều viên cứng, có những viên trong suốt, long lanh như ngọc, đựng đầy trong 8 hộc 4 đấu. Người ta gọi đó là xá lợi.
Trong các lịch đại cũng đều có hiện tượng "xá lợi" của các chư tăng: pháp sư Quang Âm viên tịch tại Đài Loan năm 1975, di thể ngài để lại hơn 1.000 viên xá lợi màu nâu lấp lánh, viên to nhất có đường kính tới 4 cm, hơn 30 viên có đường kính 3 cm. Pháp sư Hồng Thuyên ở Singapore, viên tịch tháng 12/1990, tro cốt có tới 450 viên giống như thủy tinh các màu: hồng, trắng, bạc, vàng, nâu, đen... có viên còn lấp lánh như đá hoa cương.
Nguyên nhân hình thành
Hiện nay, khoa học chưa lý giải được nguyên nhân hình thành xá lợi. Có nhiều giả thuyết giải thích sự hình thành của xá lị như:
Hình thành từ thói quen ăn uống đồ chay: Các nhà sư do thói quen ăn chay, thường xuyên sử dụng một khối lượng lớn chất xơ và chất khoáng, quá trình tiêu hóa và hấp thu rất dễ tạo ra các muối phosphate và cacbonat. Những tinh thể muối đó tích lũy dần trong các bộ phận của cơ thể và cuối cùng biến thành xá-lị. Tuy nhiên, giả thuyết này có phần không hợp lý vì có nhiều người ăn chay dù không theo đạo Phật, hoặc nhiều Phật tử cũng ăn chay nhưng thi hài của họ không hề có xá lợi như các cao tăng Phật giáo.
Hình thành do bệnh lý: Một số nhà khoa học cho rằng, có thể xá lị là một hiện tượng có tính bệnh lý, tương tự như bệnh sỏi thận, sỏi bàng quang, sỏi mật... Giả thuyết này được xem là thiếu hợp lý nhất, vì các viên sỏi thận, sỏi mật không hề có hình dạng tròn đều và màu sắc lấp lánh như nhiều viên xá lợi có được. Mặt khác, đây là các chứng bệnh có nhiều người mắc phải nhưng thi hài của họ không hề có xá lợi, ngược lại nhiều cao tăng Phật giáo đến khi viên tịch vẫn không hề mắc các chứng bệnh trên, nhưng di thể của họ lại có xá lợi. Giả sử trong cơ thể của một người có hàng ngàn viên cứng như sắt đá thì nhất định hoạt động sinh lý trong cơ thể sẽ rối loạn và dẫn tới bệnh tật, còn ở các vị cao tăng có xá lợi, họ đều không có bệnh mà chỉ viên tịch do lão hóa cơ thể.
Theo ba nhà vật lý Holden, Phakey và Clement thuộc đại học Monash, Melbourne, Úc trên tạp chí Khoa học pháp y quốc tế số tháng 6/1995, thấy cho rằng trong quá trình tinh thể hóa xương do hỏa táng, các tinh thể hình dạng khác nhau sẽ được hình thành nếu quá trình hỏa táng ở nhiệt độ thích hợp. Họ đã theo dõi quá trình tinh thể hóa xương đùi của những người từ 1 tới 97 tuổi trong dải nhiệt độ 200 - 1.600 °C trong khoảng thời gian 2, 12, 18 và 24 giờ. Kết quả là sự tinh thể hóa các khoáng trong xương (chiếm 2/3 trọng lượng xương) bắt đầu xuất hiện từ nhiệt độ 600 °C với nhiều hình dạng khác nhau: hình cầu, lục giác, hạt nhỏ và hình dạng không đều. Các hạt nhỏ đó có thể kết tinh thành các khối lớn hơn trong khoảng 1.000 - 1.400 °C. Và khi nhiệt độ đạt tới 1.600 °C, các khối tinh thể bắt đầu tan chảy. Như vậy, nếu điều kiện hỏa táng thích hợp, xá lợi có thể xuất hiện do quá trình tinh thể hóa các khoáng vốn có rất nhiều trong xương người.
Còn có 1 quan điểm khác cho rằng Xá lợi được tạo ra nhờ sự tôi luyện dẫn dắt chân khí qua ngồi thiền (khi cảm giác lên 1 điểm nào đó trong cơ thể xuất hiện tức là chân khí có đi qua điểm đó, hãy nghĩ nó như dòng điện sinh học). Các cao tăng tu luyện đến mức cao có thể dẫn dắt chân khí đi một cách đều đặn, luân chuyển khắp cơ thể, từ đó có thể tạo ra các xá lợi. Do đó không nhất thiết phải các cao tăng mới có xá lợi mà chỉ cần người bình thường có sự tập luyện thiền đến mức độ cao cũng có thể có được.
Theo quan điểm tâm linh của Nhà Phật thì cho rằng xá lị là kết quả của quá trình tu hành và khổ luyện và là kết quả của quá trình tu dưỡng đạo đức, chỉ xuất hiện ở những người có tấm lòng đại từ đại bi, luôn làm việc thiện.
Những mẫu vật
Theo kinh sách của đạo Phật, khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập Niết bàn, thi thể Phật Thích Ca được các đệ tử hỏa táng. Sau khi lửa tàn, người ta tìm thấy trong tro có rất nhiều tinh thể trong suốt, hình dạng và kích thước khác nhau, cứng như thép, lóng lánh và tỏa ra những tia sáng muôn màu, giống như những viên ngọc quý, tất cả được 84.000 viên, đựng đầy trong 8 hộc và 4 đấu.
Trước đây nhiều người không theo Phật giáo không tin là có xá-lợi Phật, họ cho rằng đó chỉ là truyền thuyết. Mãi đến năm 1898, ông William Claxton Peppé, người Pháp, tiến hành khảo cổ tại vùng Pīprāvā (huyện Siddharth Nagar, bang Uttar Pradesh, Ấn Độ), gần Lumbini ở phía nam Nepal, đã tìm thấy một cái hộp bằng đá khá lớn, trong đó có chứa hai chiếc bình bằng đá và vài dụng cụ bằng đá khác như tách trà. Hai bình đá một lớn một nhỏ đều có chứa những viên xá-lợi. Bình đá nhỏ dạng hình cầu, chia thành hai phần thượng hạ. Nửa phần trên có hình tay cầm, khắc niên đại của vua Asoka và nội dung của nó như sau: "Đây là xá-lợi của Đức Phật. Phần xá-lợi này do bộ tộc Śākya, nước Śrāvastī phụng thờ". Chiếc bình đã chứng minh nội dung trong kinh Trường A-hàm và rải rác ở những bộ kinh khác về việc phân chia xá-lợi của Phật Thích Ca thành 8 phần cho 8 quốc gia cổ đại Ấn Độ sau khi Phật nhập Niết-bàn hoàn toàn là sự thật.
Các hạt xá lị thường được đặt trong chén thủy tinh trên bàn thờ trong các chùa, đặt trong tượng Phật, hoặc đặt trên đỉnh tháp trong chùa. Theo như truyền thuyết thì tượng Phật vàng ở thủ đô Bangkok của Thái Lan có đến 7 hạt xá lị. Tại Việt Nam, ngọc xá lợi của Phật Thích Ca được Đại đức Narada Mahathera, tọa chủ chùa Vajirarama ở Sri Lanka tặng năm 1953 và được thờ tại Chùa Xá Lợi. Trong vườn tháp Huệ Quang trên núi Yên Tử, Việt Nam, có ngọn tháp tổ 9 tầng bằng đá là nơi thờ xá lị vua Trần Nhân Tông - vị tổ thứ nhất của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Ngoài ra, tại khu du lịch Đại Nam ở tỉnh Bình Dương, Việt Nam cũng có 2 hạt xá lợi được thờ ở khu chánh điện.
Trong lịch sử Việt Nam
Xá lợi cũng được ghi chép trong lịch sử Việt Nam. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, sau khi Phật hoàng Trần Nhân Tông viên tịch, đệ tử là Pháp Loa "thiêu được hơn ba ngàn hạt xá lỵ mang về chùa Tư Phúc ở kinh sư." Theo Thánh đăng ngữ lục và Tam tổ thực lục, xá lợi của Điều ngự được Trần Anh Tông chia làm ba phần, tôn trí vào ba nơi: lăng Quy Đức (phủ Long Hưng), bảo tháp Huệ Quang tại chùa Hoa Yên (Yên Tử) và chùa Phổ Minh (Thiên Trường).
Quan điểm xá lị đã được Ngô Sĩ Liên giải thích trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư - Bản Kỷ - Quyển II thời Lý Thái Tông như sau: "Thuyết nhà Phật gọi xá lỵ là tinh túy do tinh khí tụ lại, khi đốt xác, lửa không đốt cháy được cho nên gọi là bảo. Tương truyền người nào học Phật thành thì thân hóa như thế. Có lẽ vì sự đoạn tuyệt tình dục thì tinh khí kết lại thành ra như thế ấy. Người đời không thường thấy, cho là lạ, có biết đâu là tinh khí dương tụ lại mà thành thôi." Tóm lại, Ngô Sĩ Liên cho rằng xá lợi là do việc kiêng tình dục ở các vị sư tạo nên, cách giải thích này ngày nay được cho là không hợp lý (vì nếu đúng thì lẽ ra các thái giám cũng phải có xá lợi vì họ không có quan hệ tình dục).
Hiện nay nhiều nơi còn lưu giữ toàn thân xá lợi (nhục thân không bị hủy hoại) của các vị cao tăng, như chùa Đậu có toàn thân xá lợi của 2 thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường, chùa Tiêu có toàn thân xá lợi của thiền sư Như Trí,...
Năm 1963, để chống lại chính sách đàn áp Phật giáo của chế độ Mỹ Diệm, hòa thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu. Thi hài ông được hỏa táng sau đó, nhưng trái tim của ông không hề bị thiêu cháy mà vẫn còn mềm, nóng, rồi mới nguội dần và cứng lại, biến thành một viên Xá lợi lớn, màu nâu thẫm. Khoảng 100 đệ tử có mặt trong lễ hỏa táng đã tận mắt chứng kiến hiện tượng lạ lùng đó. Đây cũng là một hiện tượng chưa ai giải thích được. "Trái tim xá lợi" được thỉnh về chùa Xá Lợi rồi mang sang chùa Việt Nam Quốc Tự để bảo vệ, vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. |
Nguyễn Văn Tính (8 tháng 4 năm 1944-22 tháng 8 năm 2006) là Thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Công an Việt Nam.
Tiểu sử
Ông quê ở xã Nam Thắng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Sau khi học nghiệp vụ An ninh tại Công an Thành phố Hải Phòng, năm 1965 Nguyễn Văn Tính bắt đầu quá trình công tác trong ngành công an tại tỉnh Bắc Thái. Là sinh viên khoá D1(1969-1974) Trường Công an TW. Năm 1986, ông được bổ nhiệm Giám đốc Công an tỉnh Bắc Thái. Giám đốc Công an tỉnh Thái Nguyên.
Ông đã từng giữ chức vụ Tổng cục trưởng Tổng cục Xây dựng Lực lượng, Bộ Công an Việt Nam (1991-1996). Từ tháng 10 năm 1996, ông là Thứ trưởng Bộ Công an.
Ông được phong hàm Thiếu tướng năm 1992, Trung tướng năm 2002 và Thượng tướng năm 2005.
Ông mất vì một cơn nhồi máu cơ tim khi đang công tác tại Thanh Hóa, thọ 62 tuổi. Ông đã được tặng thưởng: Huân chương Chiến công hạng nhất, Huân chương Chiến công hạng nhì, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhì, Huy chương Vì an ninh Tổ quốc và nhiều huân, huy chương và kỷ niệm chương khác. |
Gestapo là tên gọi tắt của Geheime Staatspolizei, là lực lượng cảnh sát bí mật (hoặc Mật vụ) của tổ chức SS do Đức Quốc xã lập ra.
Nhiệm vụ của Gestapo
Gestapo, giống như Hitler, cũng là luật. Tổ chức này khởi đầu được Hermann Göring với tư cách Thống đốc Bang Phổ thành lập vào năm 1933 cho Bang Phổ, là công cụ mà ông sử dụng để giam cầm và sát hại những đối thủ của chế độ Quốc xã. Khi Göring bổ nhiệm Heinrich Himmler làm chỉ huy phó Gestapo Phổ, lực lượng này bắt đầu mở rộng thành một nhánh của SS rồi nắm quyền sinh sát trên toàn nước Đức.
Nhiệm vụ chính của Gestapo là tình báo an ninh, nhưng cũng đảm trách thêm việc thành lập và điều hành trại tập trung. Đặc biệt, Gestapo phụ trách những nhân vật có tiếng tăm trong và ngoài nước như tướng lĩnh, cựu thủ tướng, cựu bộ trưởng... Gestapo thường thi hành nhiệm vụ theo dõi, giam giữ, tra tấn và – khi có lệnh của chính Adolf Hitler hoặc chỉ huy trưởng SS Heinrich Himmler – thủ tiêu những người này.
Các chỉ huy trưởng Gestapo là Rudolf Diels (1933-1934), Hermann Göring (1934-1936), Đại tướng SS Reinhard Heydrich (1936-1939), và Đại tướng SS Heinrich Müller (1939-1945).
Vài vụ việc khét tiếng có sự can dự của Gestapo được trình bày dưới đây.
Vụ cháy Toà nhà Nghị viện
Vào buổi tối 27/2/1933, tòa nhà Nghị viện bị cháy. Chỉ huy trưởng Gestapo Rudolf Diels viết ra trong một tờ cung khai rằng "Göring đã biết chính xác đám cháy bộc phát như thế nào" và ra lệnh cho anh ta "trước khi đám cháy xảy ra, phải chuẩn bị một danh sách những người sẽ bắt giữ lập tức."
Lợi dụng biến cố này, một ngày sau vụ cháy, Hitler yêu cầu Tổng thống Ludwig von Hindenburg ký "Nghị định cho việc Bảo vệ Nhân dân và Nhà nước" đình chỉ bảy mục trong Hiến pháp đảm bảo quyền tự do cá nhân. Theo tinh thần Nghị định này:
Hạn chế tự do cá nhân, quyền tự do phát biểu ý kiến, kể cả quyền tự do báo chí; quyền tụ tập và lập hiệp hội; và những sự vi phạm tính riêng tư của thư tín, điện tín và điện thoại; và giấy phép lục soát nhà, lệnh tịch thu cũng như hạn chế về tài sản, cũng được cho phép vượt quá những quy định khác.
Thêm nữa, Nghị định còn cho phép chính phủ của Hitler hành xử mọi quyền hạn của các bang khi cần thiết, và áp dụng hình phạt tử hình cho một số tội phạm, kể cả "làm mất trật tự trị an một cách nghiêm trọng" do người có vũ trang.
Thanh trừng đẫm máu
Đầu năm 1934, trong nội bộ Đảng Quốc xã nổi lên một cuộc tranh giành quyền lực mới không khoan nhượng. Göring và Himmler cùng liên kết với nhau để chống lại Ernst Röhm, là Tham mưu trưởng Lực lượng SA.
Không bao giờ người ta biết chính xác bao nhiêu người bị sát hại. Hitler thông báo có 61 người bị bắn, kể cả 19 "lãnh đạo SA cấp cao," thêm 13 người chết vì "chống lại lệnh bắt giữ: và 3 người "tự tử" – tổng cộng 77 người. Di dân ở Paris xuất bản một quyển sách cho biết có 401 người bị giết, nhưng chỉ có thể kể tên 116 người. Trong phiên tòa năm 1957, con số được đưa ra là "hơn 1000."
Cần đề cập một vụ giết người nhầm lẫn. Buổi tối 30/6/1934, Tiến sĩ Willi Schmid, nhà phê bình âm nhạc nổi tiếng, đang chơi nhạc trong nhà trong khi bà vợ đang nấu ăn và ba đứa con đang chơi đùa. Chuông cửa vang lên, bốn nhân viên SS xuất hiện và bắt ông đi mà không giải thích gì cả. Bốn ngày sau, xác của ông được trả về trong một quan tài với lệnh của Gestapo là không được mở ra trong bất cứ trường hợp nào. Tiến sĩ Willi Schmid chưa bao giờ tham gia chính trị. Có lẽ SS nhầm ông với Willi Schmidt, chỉ huy SA ở địa phương, cùng lúc bị một toán SS khác sát hại. Kate Eva Hoerlin, vợ của Willi Schmid, kể lại vụ việc trong một tờ khai được tuyên thệ nộp năm 1945 ở Mỹ. Bà đã nhập quốc tịch Mỹ năm 1944. Để che đậy tính dã man, Rudolf Heß đích thân đến thăm bà, ngỏ ý xin lỗi về sự "nhầm lẫn" và giúp tìm cho một khoản tiền về hưu từ chính phủ Đức. Tờ khai của bà được trình ra trước Tòa án Nürnberg.
Công cụ đàn áp tôn giáo
Ngày 1/7/1937, Mục sư Friedrich Niemöller bị bắt giam rồi ngày 2/3/1938 bị đưa ra trước "Tòa án Đặc biệt" do Quốc xã thiết lập nhằm xét xử tội chống lại Nhà nước. Ông bị phạt 2.000 Mác Đức và 7 tháng tù vì tội "lạm dụng bục giảng" và giữ tiền giáo dân đóng góp trong nhà thờ của ông. Vì đã bị giam hơn 7 tháng, tòa án truyền trả tự do cho ông, nhưng Gestapo bắt giữ ông ngay khi ông bước ra khỏi tòa án. Ông được "canh giữ bảo vệ" cho đến khi quân Đồng minh tiến vào giải thoát.
Đứng trên luật
Hitler, và đôi khi Göring, có quyền hủy bỏ phiên xử. Trong số hồ sơ đưa ra ở Nürnberg, có trường hợp Bộ trưởng Tư pháp đề xuất mạnh mẽ khởi tố một nhân viên Gestapo cấp cao và một nhóm binh sĩ SA vì có chứng cứ rõ ràng là họ phạm tội tra tấn người bị giam trong trại tập trung. Hitler ra lệnh hủy bỏ việc khởi tố.
Dàn cảnh ám hại Tư lệnh Lục quân
Himmler tạo ra một cách dàn cảnh ám hại nhân vật cao cấp của quân đội khiến người ta khó tin lại xảy ra ngay cả trong thế giới bạo lực của SS và Quốc xã. Ngày 25/1/1938, Himmler trình ra một hồ sơ cho thấy Đại tướng Tư lệnh Lục quân Werner von Fritsch phạm tội đồng tính luyến ái chiếu theo Điều 175 của luật hình sự Đức, và rằng ông đã chi trả cho một cựu tù nhân tống tiền ông từ năm 1935 để làm êm thấm vụ việc. Các chứng cứ của Gestapo xem dường rõ ràng đến nỗi Hitler tin vào lời cáo buộc.
Đại tá Hossback, tùy viên của Hitler, có mặt khi hồ sơ của Gestapo được trình ra, cũng cảm thấy bàng hoàng. Dù Hitler đã cấm tiết lộ vụ việc, Hossback vẫn vội đến tìm Fritsch để báo tin. Nhà quý tộc Phổ Fritsch ít nói cảm thấy sửng sốt khi nhận được tin từ Hossback, thốt lên: "Sự bịa đặt thối tha!" Khi bình tĩnh lại, ông trấn an sĩ quan đàn em với lời nói danh dự là những cáo giác đều là vô căn cứ. Sáng sớm hôm sau, không còn biết sợ hậu quả, Hossbach nói với Hitler về việc đi gặp Fritsch, báo cáo lời phủ nhận của vị tướng, và khẩn cầu Hitler cho Fritsch cơ hội để giải trình và tự mình chối bỏ tội trạng.
Hitler đồng ý, và Fritsch được triệu đến Phủ Thủ tướng vào buổi tối cùng ngày. Ông kinh qua hoàn cảnh mà chương trình đào tạo cho giới quý tộc và sĩ quan đã không chuẩn bị cho ông đối phó. Buổi họp diễn ra trong phòng đọc sách của Thủ tướng, lần này cả Himmler và Göring đều có mặt. Sau khi Hitler đã tóm tắt các cáo giác, Fritsch lấy danh dự của một sĩ quan quân đội mà nói rằng những cáo giác ấy đều là không đúng. Nhưng lời khẳng định như thế không còn có giá trị trong Đế chế thứ Ba. Bây giờ Himmler – người đã chờ đợi 3 năm cho cơ hội này – đưa một người có vẻ suy đồi, lê bước đi ra từ cánh cửa bên. Anh ta hẳn là người lạ kỳ nhất, nếu không nói là người mang tai tiếng nhất, từng được đưa vào văn phòng của Thủ tướng nước Đức. Tên anh này là Hans Schmidt, có nhiều tiền án bắt đầu từ thời gian được đưa vào trại cải tạo cho thiếu niên. điểm yếu chủ yếu của anh ta là rình rập người đồng tính luyến ái rồi tống tiền họ. Bây giờ anh ta khai nhận ra Tướng von Fritsch là sĩ quan quân đội mà anh ta bắt gặp, trong một con hẻm tối tăm gần nhà ga Potsdam ở Berlin, có hành vi đồng tính luyến ái với một người trong giới giang hồ có bí danh "Joe Bayern". Schmidt khai với ba nhân vật có quyền lực nhất nước Đức rằng vị sĩ quan này đã trả tiền cho anh ta giữ kín vụ việc, và việc chi trả chỉ ngưng khi anh ta bị tống vào ngục.
Tướng Freiherr von Fritsch cảm thấy bị sỉ nhục quá mức đến nỗi không trả lời được. Cảnh tượng vị nguyên thủ quốc gia đưa ra một nhân vật ô danh như thế ở nơi chốn như thế với mục đích như thế đối với ông là quá sức chịu đựng. Khi ông không tự biện hộ, Hitler càng tin là ông có tội và yêu cầu ông từ chức. Fritsch từ chối, thay vào đấy yêu cầu được ra tòa án danh dự của quân đội. Nhưng Hitler không muốn giao vụ việc cho quân đội xử lý. Đây là cơ hội trời cho mà ông không bỏ qua, để dập tắt mọi chống đối của tướng lĩnh nào không muốn cúi đầu theo ý nguyện của ông. Thế là Hitler ra lệnh cho Fritsch nghỉ phép vô thời hạn, đồng nghĩa với việc ngưng chức Tư lệnh Lục quân. Ngày kế, Hitler tham khảo với Tướng Wilhelm Keitel (Tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu Quân lực) để tìm người thay thế cả Thống chế Werner von Blomberg (Bộ trưởng Chiến tranh kiêm Tổng Tham mưu trưởng Quân lực) lẫn Fritsch, và cải tổ toàn bộ cơ cấu của quân đội.
Một cuộc điều tra sơ khởi của Quân đội phối hợp với Bộ Tư pháp cho thấy Tướng von Fritsch là nạn nhân vô tội do Gestapo dàn cảnh dưới sự chỉ đạo của Himmler. Kết quả điều tra cho thấy Schmidt đúng là đã bắt gặp một sĩ quan Quân đội có hành vi bất bình thường trong bóng tối của nhà ga Potsdam và đã tống tiền ông này trong nhiều năm. Nhưng ông này mang tên không phải Fritsch mà là Frisch, một sĩ quan kỵ binh bệnh hoạn đã về hưu, có tên trong sổ sách của Quân đội là Rittmeister von Frisch. Điều này thì Gestapo đã biết, nhưng họ đã bắt giữ Schmidt và dọa giết anh này nếu anh ta không chịu tố cáo vị Tư lệnh Lục quân. Rittmeister cũng bị bắt giữ để không cho khai báo, nhưng rốt cuộc Quân đội đã giành được hai người này và giữ họ ở nơi an toàn để họ có thể cung khai trước tòa án.
Phiên xử Tướng von Fritsch nhóm họp ngày 17/3/1938. Sau khi Göring đóng vai thẩm phán công bằng nhất, nhân chứng Schmidt nhìn nhận rằng Gestapo đã dọa lấy mạng sống anh ta trừ khi anh tố cáo Tướng von Fritsch, và hai cái tên gần giống nhau: Fritsch (của vị tướng đương nhiệm) và Frisch (của người sĩ quan về hưu) dẫn đến việc dàn cảnh. Fritsch và Quân đội không làm gì để làm rõ vai trò thực sự của Gestapo, cũng như làm rõ tội trạng cá nhân của Himmler và Heydrich trong việc tạo dựng lời cáo gian. Qua ngày 18/3, phiên tòa kết luận với phán quyết là bị cáo vô tội.
Cá nhân Tướng von Fritsch được minh oan, nhưng ông không được phục hồi chức vụ. Vì là phiên tòa xử kín, công chúng không biết gì cả về vụ việc. Ngày 25/1, Hitler gửi một bức điện tín chúc mừng Fritsch đã "hồi phục sức khỏe." Chỉ có thế.
Giam giữ tù nhân nổi tiếng
Gestapo phụ trách giam giữ một số từ nhân nổi tiếng, kể cả Tiến sĩ Kurt Schuschnigg (cựu Thủ tướng Áo, vào tù khi Đức sáp nhập Áo), tiến sĩ Hjalmar Schacht (hai lần là cựu Thống đốc Ngân hàng Quốc gia Đức), Léon Blum (cựu Thủ tướng Pháp) cùng với vợ, Thượng tướng Alexander von Falkenhausen (cựu chỉ huy quân quản Bỉ và bắc Pháp, tham gia nhóm chống Hitler), Mục sư Friedrich Niemöller (hoạt động chống Hitler, được tòa án tha bổng nhưng vẫn bị Gestapo giam giữ vô thời hạn), Hoàng thân Philip Xứ Hesse....
Ngày 12 tháng 3 năm 1938, Đức xua quân tiến vào Áo và tuyên bố sáp nhập Áo vào Đức. Thủ tướng Áo tiến sĩ Schuschnigg bị đối xử một cách hèn hạ đến nỗi khó mà tin rằng đấy không phải là do lệnh của chính Hitler. Ông bị giam lỏng ở nhà trong thời gian từ 12/3 đến 28/5, và Gestapo làm đủ mọi cách để ông không ngủ được. Kế đến, ông bị mang đến tổng hành dinh Gestapo trong Khách sạn Metropole ở Viên, nơi ông bị giam trong một căn phòng nhỏ trong 7 tháng kế tiếp. Với một chiếc khăn tắm được phân phát để sử dụng cá nhân, ông bị bắt phải lau chùi nhà ngủ, bồn rửa mặt, nhà vệ sinh của bảo vệ SS và những công việc chân tay thấp kém khác mà Gestapo có thể nghĩ ra. Ngày 11/2, đúng một năm sau khi ông bị mất chức, ông sụt đi 25 kg nhưng bác sĩ vẫn báo cáo ông có sức khỏe rất tốt. Những năm bị giam cô lập và kế tiếp cuộc sống "giữa những người chết" trong những trại tập trung.
Ngay sau khi bị bắt, ông được phép kết hôn bằng cách ủy quyền với nguyên Nữ Bá tước Vera Czernin, và trong những năm cuối của Thế chiến II, bà được phép sống cùng ông trong trại tập trung cùng đứa con sinh năm 1941. Làm thế nào họ sống sót được trong cảnh giam cầm là một phép lạ. Cùng sống sót với họ là một số nạn nhân nổi tiếng kể trên.
Ngày 1/5/1945, một nhóm tù nhân gồm những nhân vật nổi tiếng như thế, được vội vã mang ra khỏi Dachau và đưa về miền nam để tránh quân đội Mỹ đến giải thoát. Họ đến một ngôi làng nằm cao trên dãy núi ở miền nam Tyrol. Gestapo cho Schuschnigg xem bản danh sách những người mà, theo lệnh của Himmler, sẽ bị xử tử để không cho rơi vào tay Đồng Minh. Schuschnigg thấy tên của ông và của vợ ông. Tinh thần ông trĩu nặng, Schuschnigg đã sống sót sau một thời gian dài như thế này – và rồi bị xử tử vào phút cuối.
Tuy nhiên, ngày 4/5, Schuschnigg ghi trong nhật ký:
Vào lúc 2 giờ chiều nay, còi báo động! Quân Mỹ!
Một toán binh sĩ Mỹ chiếm lấy khách sạn.
Chúng ta được tự do!
Đàn áp phong trào chống đối của sinh viên
Vào đầu năm 1943, có một sự nổi dậy tự phát trên nước Đức mà dù có tầm mức nhỏ, đã giúp vực dậy tinh thần của nhóm chống đối Hitler. Vụ việc cũng cho thấy lời cảnh cáo Quốc xã tàn bạo đến mức nào khi dập tắt dấu hiệu chống đối nhỏ nhất.
Sinh viên đại học ở Đức nằm trong số những người Quốc xã cuồng tín nhất ở đầu thập kỷ 1930. Nhưng mười năm sống dưới chế độ của Hitler đã làm tan vỡ ảo mộng, càng nặng nề thêm do Đức đã không thể thắng cuộc chiến. Nằm trong thành phố vốn là cái nôi của chủ nghĩa Quốc xã, Đại học München (Munich) trở thành trung tâm chống đối của sinh viên. Hai sinh viên cầm đầu là Hans Scholl, 25 tuổi đang học y khoa, và cô em Sophie 21 tuổi đang học môn sinh học. Thầy đỡ đầu của họ là Kurt Huber, giáo sư triết học. Họ đã thực hiện việc tuyên truyền chống Quốc xã ở những đại học khác, và cũng liên lạc với nhóm âm mưu ở Berlin.
Một ngày vào tháng 3/1943, Xứ ủy Paul Giesler của Bang Bayern, đã được Gestapo thông báo về hoạt động của nhóm sinh viên, tụ họp sinh viên đến và cho biết những sinh viên nam thiếu sức khỏe – người đủ sức khỏe đã vào Quân đội – phải làm việc gì đấy hữu ích hơn cho cuộc chiến, và với lời lẽ dâm đãng khuyên sinh viên nữ mỗi năm nên đẻ một đứa con để phục vụ Tổ quốc. Ông thêm: "Nếu cô nào không đủ hấp dẫn để kiếm được bạn tình, tôi sẽ cử những trợ lý của tôi... và tôi có thể cam đoan cô ấy sẽ có một kinh nghiệm hoàn toàn vui thú."
Viên Xứ ủy đã khét tiếng vì hay có lời lẽ tiếu lâm, nhưng sinh viên không thể chịu được cách nói thô bỉ này. Họ la ó đòi ông bước xuống và đẩy ra khỏi phòng những binh sĩ Gestapo-SS đến để bảo vệ ông. Buổi chiều ngày ấy có thêm những cuộc biểu tình của sinh viên chống Quốc xã trên đường phố München – lần đầu tiên xảy ra trên Đế chế thứ Ba. Bây giờ, các sinh viên dưới sự dẫn dắt của hai anh em nhà Scholl, bắt đầu phân phát truyền đơn kêu gọi giới trẻ Đức vùng lên. Ngày 19/2, một giám thị trông thấy Hans và Sophie Scholl tung truyền đơn từ lan can của tòa nhà đại học, bèn báo cho Gestapo.
Số phận hai người bị định đoạt một cách nhanh chóng và dã man. Họ bị đưa ra trước Tòa án Nhân dân do Roland Freisler chủ trì. Ông này có lẽ là đảng viên Quốc xã khát máu nhất sau Heydrich. Hai sinh viên bị kết tội phản quốc và nhận án tử hình. Sophie Stroll bị hành hạ nặng nề trong quá trình Gestapo điều tra đến nỗi cô xuất hiện trước tòa với một chân bị gãy. Nhưng tinh thần cô vẫn bất khuất. Khi Freisler mắng mỏ cô một cách hung bạo, cô chỉ điềm tĩnh trả lời: "Ông cũng như chúng tôi đều biết là ta đã thua trận. Tại sao ông hèn nhát đến nỗi không dám thú nhận điều này?"
Cô đi khập khiễng đến giàn treo cổ với thái độ rất dũng cảm, cũng như người anh. Vài ngày sau, Giáo sư Huber cùng một số sinh viên khác bị xử tử.
Đàn áp nhóm chống đối Hitler
Sau vụ Đại tá Klaus von Stauffenberg ám sát hụt Hitler ngày 20/7/1944, theo một nguồn tin, có khoảng 4.980 người bị hành quyết. Gestapo liệt kê 7.000 người bị bắt.
Những nhân vật cấp cao bị hành quyết gồm có Tướng Fritz Lindemann (Cục trưởng Quân cụ), Đại tá Georg von Boeselager (thuộc Tập đoàn quân Trung tâm), Mục sư Dietrich Bonhoeffer (đã đi Thụy Điển tiếp xúc với Giám mục địa phận Chichester), Đại tá Georg Hansen của Quân báo, Bá tước von Helldorf (chỉ huy trưởng cảnh sát Berlin), Đại tá von Hofacker (thuộc tổng hành dinh của Stülpnagel tại Paris), Tiến sĩ Jens Peter Jessen (giáo sư kinh tế học tại Đại học Berlin), Otto Kiep (thuộc Bộ Ngoại giao), Wilhelm Leuschner (đại diện nghiệp đoàn), Artur Nebe (chỉ huy cảnh sát hình sự), GS. Adolf Reichwein (cánh Xã hội chủ nghĩa), Bá tước Berthold von Stauffenberg (anh của Klau Stauffenberg), Tướng Thiele (Tổng cục trưởng Thông tin thuộc Bộ Tổng tham mưu) và Tướng von Thüngen (tham gia vụ ám sát Hitler ngày 20 tháng 7 năm 1944).
Tóm thâu Quân báo
Từ lâu, Himmler đã có ý kèn cựa với Cục Quân báo của Bộ Tổng tham mưu Quân lực Đức và muốn thâu tóm hoạt động này của cục vào lực lượng SS, nên không ngừng theo đuổi mục đích này.
Vào mùa thu 1942, một doanh nhân ở München bị bắt vì đã mang lậu ngoại tệ vượt biên giới qua Thụy Sĩ. Ông này thật ra là một nhân viên Quân báo, nhưng khoản tiền ông mang là cho một nhóm người Do Thái tỵ nạn ở Thụy Sĩ. Đây là một trọng tội ở Đế chế thứ Ba cho dù can phạm là nhân viên Quân báo. Khi Đô đốc Wilhelm Franz Canaris không thể che chở cho ông, ông khai với Gestapo những gì mình biết trong nội tình Quân báo. Ông tố giác Hans von Dohnanyi, người cùng với Đại tá Hans Oster (phụ tá chính cho Đô đốc Canaris) tham gia nhóm âm mưu. Ông kể về hoạt động của Tiến sĩ Josef Mueller ở Vatican vào năm 1940 khi tiếp xúc với phía Anh thông qua Giáo hoàng. Ông tiết lộ Mục sư Dietrich Bonhoeffer đã dùng hộ chiếu giả do Quân báo cấp để đi đến Stockholm tiếp xúc với Giám mục địa phận Chichester của Anh. Ông cho vài chi tiết về những âm mưu của Oster nhằm loại trừ Hitler.
Sau những tháng điều tra, Gestapo ra tay. Dohnanyi, Mueller và Bonhoeffer bị bắt ngày 5/4/1943. Oster đã cố tiêu hủy những tài liệu có liên quan trước khi bị buộc phải từ chức và bị quản thúc tại gia ở Leipzig. Bonhoeffer, Dohnanyi và Oster bị SS hành quyết ngày 9/4/1945, không đầy một tháng trước khi Đức đầu hàng. Riêng Mueller là thoát chết.
Việc bắt giữ những nhân vật quan trọng là đòn nặng cho nhóm âm mưu chống Hitler. Oster đã là một trong những nhân vật chủ chốt từ năm 1938, còn Dohnanyi là người trợ lý đắc lực. Bonhoeffer theo Tin lành và Mueller theo Công giáo không những đã mang đến sức mạnh tâm linh cho phong trào mà còn nêu gương dũng cảm khi thực hiện những chuyến đi ra nước ngoài cũng như khi bị tra tấn mà không chịu cung khai ra đồng chí.
Nhưng nghiêm trọng nhất là với những người trong Quân báo bị lộ, nhóm âm mưu đã mất "lớp vỏ bọc" cùng phương tiện thông tin với nhau, với những tướng lĩnh lưỡng lự, với những bạn hữu ở phương Tây.
Trong vài tháng kế, nhân viên của Himmler còn phát hiện thêm nhiều tình tiết khiến cho Quân báo và Đô đốc Canaris bị đình chỉ hoạt động hẳn.
Một sự phát hiện là từ buổi tiệc trà của bà Solf diễn ra ngày 10/9/1943. Bà Anna Solf là quả phụ của cựu Bộ trưởng Thuộc địa trong triều đình Hoàng đế Wilhelm II, từ lâu đã cầm đầu một nhóm chống Quốc xã ở Berlin. Trong số khách đến dự bữa tiệc trà do bà tổ chức có một số nhân vật nổi danh, kể cả Nữ Bá tước Hanna von Bredow, cháu của Bismarck; Bá tước Albrecht von Bernstorff, cháu của đại sứ Đức tại Mỹ trong Thế chiến I; Mục sư dòng Tên nổi danh Erxleben; Otto Kiep, nhân viên cao cấp Bộ Ngoại giao, cựu tổng lãnh sự Đức tại New York; và Elisabeth von Thadden, hiệu trưởng một trường nữ có tiếng tăm.
Bà von Thadden đã dẫn đến bữa tiệc trà một bác sĩ trẻ người Thụy Sĩ tên Reckse, dễ gây cảm tình, đang hành nghề tại Bệnh viện Charité ở Berlin. Giống như phần đông người Thụy Sĩ khác, Bác sĩ Reckse bày tỏ tư tưởng chống Quốc xã, và nhiều người trong bữa tiệc trà hưởng ứng. Trước khi buổi tiệc trà kết thúc, Reckse đã tỏ ý tình nguyện mang bất kỳ thư nào mà bà Solf hoặc khách mời muốn gửi cho bạn bè của họ ở Thụy Sĩ – di dân Đức chống Quốc xã và nhân viên ngoại giao Anh-Mỹ. Một số người chấp nhận sự giúp đỡ này.
Không may cho họ, Bác sĩ Reckse là nhân viên của Gestapo, nên ông này trao lại các bức thư nhờ chuyển cùng một báo cáo về bữa tiệc trà cho Gestapo.
Bá tước von Moltke biết được tin này qua một người bạn ở Bộ Hàng không đã ghi âm một số cuộc gọi điện thoại giữa Reckse và Gestapo. Moltke vội thông báo cho Kiep, và Kiep báo lại cho cả nhóm của Solf. Nhưng Himmler đã nắm được bằng cớ. Ông chờ trong 4 tháng rồi mới ra tay, có lẽ vì muốn truy ra thêm những người khác. Ngày 12/9, tất cả những người hiện diện trong bữa tiệc trà bị bắt, xét xử rồi chịu tử hình, ngoại trừ bà Solf và con gái Ballestrem. Hai người bị đưa vào trại tập trung và thoát cái chết một cách kỳ lạ. Có vẻ như Himmler truy ra được những người khác: khoảng 70 người bị bắt vì hành động của Reckse.
Bá tước von Moltke bị bắt do dính dáng đến Kiep. Nhưng đấy không chỉ là hệ lụy duy nhất từ Kiep. Vụ việc còn lan xa và cuối cùng khiến cho Cục Quân báo bị xóa sổ, và Himmler đoạt lấy chức năng tình báo quân đội.
Trong số những người bạn thân chống Quốc xã của Kiep có Erich Vermehren và người vợ xinh đẹp, nguyên là Nữ Bá tước Elisabeth von Plettenberg. Cũng như nhiều người khác chống lại chế độ, cả hai gia nhập Quân báo và được cử đi Istanbul. Gestapo gọi họ về Berlin để điều tra trường hợp của Kiep. Biết trước số phận sẽ ra sao, cả hai từ chối trở về, liên lạc với tình báo Anh và được đưa đến Anh.
Đức nghi ngờ hai vợ chồng bị bắt cóc với mọi mật mã của Quân báo rồi trao mật mã cho phía Anh – nhưng sau này thấy không đúng. Hitler không thể chịu được nữa, và càng thêm nghi kỵ Canaris. Ngày 18/2/1944, ông ra lệnh giải tán Cục Quân báo và giao cho cơ quan RSHA đảm nhiệm công tác tình báo. Đây là thắng lợi lớn cho Himmler, vốn từ lâu đã hiềm khích với Quân đội đặc biệt là vụ cáo giác Tướng von Frisch năm 1938. Đây cũng là sự mất mát thông tin tình báo cho Quân đội, củng cố thanh thế của Himmler đối với các tướng lĩnh.
Thủ tiêu Canaris
Trong nhiều năm, bức màn bí ẩn bao trùm trường hợp của Đô đốc Canaris, Cựu Giám đốc Quân báo, đã giúp đỡ nhiều cho nhóm âm mưu chống đối Hitler nhưng không trực tiếp can dự vào vụ ám sát Hitler ngày 20/7/1944. Ông bị bắt, Tòa án Danh dự Quân sự do Tướng Keitel chủ trì trong một cử chỉ tử tế hiếm hoi cố ngăn chặn việc đưa ông ra xử trước Tòa án Nhân dân. Giận dữ vì sự trì hoãn, Hitler ra lệnh một tòa án SS xét xử ông. Quy trình này cũng chậm chạp, nhưng rốt cuộc Canaris cùng với Đại tá cựu trợ lý Oster và 4 người khác bị đem ra xét xử ngày 9/4/1945 – không đầy một tháng trước khi chiến tranh chấm dứt – rồi nhận án tử hình. Nhưng lúc ấy không ai biết rõ Canaris có bị hành quyết hay không. Phải mất 10 năm sự thật mới sáng tỏ.
Năm 1955, khi viên công tố Gestapo trong phiên tòa xử Canaris bị mang ra xét xử, một số lớn nhân chứng khai họ đã thấy Canaris bị treo cổ ngày 9 tháng 4 năm 1945. Một nhân chứng, đại tá Lunding người Na Uy, khai đã thấy Canaris bị lôi trần truồng từ nhà giam ra giàn xử án. Oster bị xử tử cùng lúc.
Số phận của các lãnh đạo Gestapo
Rudolf Diels là mục tiêu trong vụ thanh trừng đẫm máu kể trên vì Quốc xã muốn giết người bịt miệng sau vụ dàn cảnh đốt Tòa nhà Nghị viện, nhưng ông trốn thoát được. Sau chiến tranh, ông không bị truy tố vì chỉ làm chỉ huy trưởng Gestapo trong thời gian ngắn lúc đầu lúc Gestapo chưa phạm tội ác chiến tranh. Nhưng ông được Tòa án Nürnberg gọi ra làm nhân chứng trong các phiên xử.
Hermann Göring bị Tòa án Nürnberg tuyên án tử hình. Hai tiếng đồng hồ trước khi đến lượt bị thi hành án bằng cách treo cổ, Göring nuốt thuốc độc trước đấy đã được lén đưa vào nhà tù.
Reinhard Heydrich bị quân kháng chiến Tiệp Khắc sát hại năm 1942.
Heinrich Müller có lẽ là người mang tội nhiều nhất vì giữ vai trò quan trọng trong việc thủ tiêu người Do Thái và chỉ huy việc truy lùng nhóm âm mưu ám sát Hitler. Ông mất tung tích sau khi Hitler tự sát ngày 30 tháng 4 năm 1945. |
Nhà Triệu là một triều đại, hay một giai đoạn lịch sử có nhiều đánh giá mâu thuẫn trong các tài liệu sử học Việt Nam.
Quan điểm lịch sử
Sử học Việt Nam từ xưa tới nay có 2 quan điểm trái ngược nhau về triều đại này:
Triệu Vũ Đế đánh bại An Dương Vương, sáp nhập Âu Lạc vào Nam Việt và tiến hành cai trị vùng này, vậy thì nhà Triệu là triều đại chính thống của Việt Nam. Nhà Triệu là một nước riêng, từng tồn tại độc lập với nhà Hán (ở Trung Quốc) trong 1 thời gian trước khi quy phục nhà Hán. Nhà Triệu mất là khởi đầu thời kỳ Bắc thuộc (năm 111 trước công nguyên). Đây là quan điểm của một số sử gia Việt Nam thời phong kiến
Triệu Đà là người Trung Hoa phương Bắc (nay gọi là người Hán ở Trung Quốc). Triệu Đà quê ở Chân Định (nay thuộc tỉnh Hà Bắc ở miền Bắc Trung Quốc), là quan của nhà Tần, theo lệnh Tần Thủy Hoàng đem quân đánh chiếm vùng Lĩnh Nam (là nơi cư trú của các bộ tộc Bách Việt), đem di dân người Trung Hoa xuống để giành đất và được nhà Tần cho làm Huyện lệnh Long Xuyên thuộc quận Nam Hải mới chiếm được. Khi nhà Tần mất thì Triệu Đà mới nhân cơ hội tách ra cát cứ, do đó Triệu Đà vẫn là người Trung Hoa đến xâm lược nước Âu Lạc. Như vậy An Dương Vương mất nước là mở đầu thời kỳ Bắc thuộc. Đây là quan điểm của một số sử gia cận đại (bắt đầu từ Ngô Thì Sĩ thời Hậu Lê) và giới sử học Việt Nam hiện đại ủng hộ quan điểm này. |
Sơn Tinh – Thủy Tinh hay Sơn Thần – Thủy Quái là tên gọi của một truyền thuyết của văn hóa Việt Nam.
Câu chuyện kể về cuộc chiến giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh khi tranh giành nàng Mỵ Nương, con gái của Vua Hùng thứ 18 (Hùng Duệ Vương). Thủy Tinh đem sính lễ muộn, Sơn Tinh dẫn Mỵ Nương theo trước, do đó Thủy Tinh nổi giận gây chiến tranh giành nàng Mỵ Nương. Câu chuyện mang yếu tố thần thoại và quỷ dị, nhưng vẫn thường là đề tài bất tận trong thi ca và nghệ thuật của Việt Nam.
Trong văn học trung đại Việt Nam, Sơn Tinh thường được gọi là Tản Viên Sơn Thánh, do Sơn Tinh ngự trị trên núi Tản Viên (nay gọi là núi Ba Vì).
Nội dung
Việt điện u linh tập
Sơn Tinh - Thủy Tinh được ghi chép trong Việt điện u linh tập với nhan đề Tản Viên Hựu Thánh Khuông Quốc Hiển Linh Ứng vương, gọn lại là Hựu Thánh Hiện Ứng vương (佑聖顯應王). Đây là một quyển sách ra đời khá sớm, ước tính vào thời nhà Trần, chuyên ghi chép những câu chuyện thần lịch quỷ dị của nước Đại Việt. Truyện lấy bối cảnh thời Hùng vương thứ mười tám
Lĩnh Nam chích quái
Bên cạnh Việt điện u linh tập, tác phẩm Lĩnh Nam chích quái cũng ghi lại truyền thuyết này với tựa đề là Tản Viên sơn truyện (傘圓山傳; tạm hiểu là Câu chuyện về thần núi Tản Viên).
Đại Việt Sử ký Toàn thư
Truyền thuyết này vốn không được ghi trong những cuốn sử biên niên như Đại Việt sử ký, Đại Việt sử lược, nhưng đến Đại Việt sử ký toàn thư thời Hậu Lê thì lại chép vào, phần ngoại kỷ thời Hồng Bàng Thị - Hùng vương.
{{WPːKHONG}}
Phiên bản Sách giáo khoa ngữ văn
Câu chuyện Sơn Tinh - Thủy Tinh phổ biến thì lại có một số chi tiết khác hẳn. Đặc biệt là phiên bản Sách giáo khoa (SGK) Ngữ Văn tập 2 lớp 6, Nhà Xuất bản Giáo dục.
Cảm hứng
Truyền thuyết này đã trở thành chất liệu để nhiều người khác sáng tác nhạc, truyện, thơ và kịch. Có thể kể đến:
Bài thơ "Sơn Tinh, Thủy Tinh" do Nguyễn Nhược Pháp sáng tác.
Truyện "Sự tích những ngày đẹp trời" do Hòa Vang sáng tác.
Bài hát "Chuyện tình Thủy Thần" do Trần Lập sáng tác, ban nhạc Bức Tường thể hiện.
Vở kịch "Truyền thuyết Sơn Tinh và Thủy Tinh" do Thanh Phương viết kịch bản. |
DotNetNuke là một hệ thống quản lý nội dung mã nguồn mở viết bằng ngôn ngữ lập trình VB.NET trên nền tảng ASP.NET. Tuy nhiên, các nhà phát triển đã bắt đầu chuyển DotNetNuke core trên nền C#. Đây là một hệ thống mở, tùy biến dựa trên skin và module. DotNetNuke có thể được sử dụng để tạo các trang web cộng đồng một cách dễ dàng và nhanh chóng.
Giới thiệu
DotNetNuke được phát triển dựa trên cổng điện tử IBuySpy được Microsoft giới thiệu như là một ứng dụng mẫu dựa trên nền tảng .NET Framework. DotNetNuke đã được phát triển qua nhiều phiên bản và hiện nay đang ở phiên bản 8.0.1 Phiên bản hiện tại đòi hỏi.NET Framework 3.5 trong khi các phiên bản trước đó chạy trên nền.NET Framework 1.1.
Một cài đặt DotNetNuke có thể phục vụ nhiều trang web, mỗi trang có thể có giao diện và cộng đồng người sử dụng riêng biệt. Phiên bản hiện tại cũng cho phép chức năng đa ngôn ngữ.
Tên DotNetNuke đã được đặt để phản ánh nền tảng .NET mà nó sử dụng đồng thời theo trào lưu của một số cổng điện tử khá thành công trước đó như PHP-Nuke và PostNuke. Tên này cũng đã được công ty Perpetual Motion Interactive Systems Inc. Đăng ký bảo hộ vào ngày 15 tháng 11 năm 2004 (TMA 625.364). Shaun Walker, chủ tịch của công ty này, chính là người tạo ra và duy trì DotNetNuke.
Khả năng mở rộng
DotNetNuke có một nhân cơ bản có thể mở rộng với các module để bổ sung các tính năng mới; giao diện của hệ thống có thể tùy biến nhờ vào kỹ thuật skin.
Module
Khoảng hơn 10 module cơ bản được cung cấp cùng với bản DotNetNuke. Các module khác có thể được download từ trang web của DotNetNuke trong đó có các module như: thương mại điện tử, album ảnh, blog, forum, wiki, mailling list... Các module bổ sung khác cũng được các cộng đồng nguồn mở và các công ty phần mềm thương mại cung cấp.
Các module này có thể được cài đặt bổ sung dễ dàng bằng cách upload chúng thông qua giao diện của trang quản trị.
Các địa chỉ tốt để mua các modules thương mại là trang web của tập đoàn DotNetNuke (http://store.dnnsoftware.com/)
Skin
Giao diện của DotNetNuke được thiết kế với kiến trúc sử dụng skin cho phép tách biệt nội dung và giao diện của hệ thống. Kiến trúc này cho phép người thiết kế giao diện có khả năng làm việc độc lập với quá trình phát triển trong ASP.NET và chỉ đòi hỏi kiến thức về HTML cùng với cách thức thiết kế skin của DotNetNuke. Skin bao gồm một số file HTML cơ bản, trong đó có các vị trí để đặt nội dung, menu và các tính năng khác cùng với các file ảnh, file định dạng (stylesheets), Javascript; tất cả thường được đóng gói trong một file Zip.
Giống như module, skin có thể được upload và cài đặt tự động thông qua trang quản trị.
Bộ gõ tiếng Việt
Bạn có thể dùng AVIM (Advanced Vietnamese Input Method) do Đặng Trần Hiếu viết để có thể gõ tiếng Việt. Các bạn có thể tải xuống version mới nhất của AVIM ở đây:
http://sourceforge.net/projects/rhos
Đây là bộ gõ dễ gắn và thích ứng với FCKeditor (HTML editor) đã được sử dụng trong DotNetNuke (DNN) version 4.
1/ Upload avim.js vào /js folder trên website của bạn
2/ Đây là phần bạn phải thêm vào 3 chỗ trên website của bạn
\yourwebsite\admin\Skins\copyright.ascx (vào cuối trang)
\yourwebsite\Providers\HtmlEditorProviders\Fck\FCKeditor\editor\fckeditor.html (ở gần cuối trang, giữa
và </body>)
\yourwebsite\Providers\HtmlEditorProviders\Fck\FCKeditor\editor\fckeditor.original.html (ở gần cuối trang, giữa
và </body>)
Thí dụ:
</ table></body>
Sau khi gắn, bạn sẽ có thể gõ tiếng Việt ở phần search, phần editor mà không cần sự hỗ trợ của một bộ gõ nào khác trong máy.
Nhược điểm
DotNetNuke không hỗ trợ trên nhiều hệ điều hành mà chỉ chạy trên nền Windows. Bên cạnh đó, nó cũng không hỗ trợ runtimes(CLR) phần mềm mã tự do như dự án Mono. |
Đế quốc Đức (), () hay Đế chế thứ hai hay Đệ nhị Đế chế () được tuyên bố thiết lập vào ngày 18 tháng 1 năm 1871 sau khi thống nhất nước Đức vài tháng sau đó chấm dứt Chiến tranh Pháp-Phổ. Đây là đỉnh cao của một quá trình quân sự, kinh tế, ngoại giao, chính trị được kết thúc với chiến thắng vẻ vang của Vương quốc Phổ trước Áo sau trận chiến quyết định tại Königgrätz vào năm 1866 và đại thắng của người Phổ trước quân nước Pháp trong trận Sedan vào năm 1870. Các vùng đất riêng rẽ ở Đức đã được thống nhất bằng chính sách "máu và sắt". Đế quốc Đức ra đời, với lãnh thổ tuân theo chủ trương "Tiểu Đức" do Phổ ủng hộ để loại trừ nước Áo hoặc phần nói tiếng Đức của nó, và người Phổ lãnh đạo Đế quốc: Vua Phổ là Wilhelm I lên ngôi Hoàng đế Đức. Thủ tướng Otto von Bismarck - người lập công đầu trong công cuộc nhất thống quốc gia, trở thành vị đại anh hùng dân tộc.
Sự ra đời của Đế quốc Đức là một thay đổi lớn lao trong cán cân quyền lực châu Âu. Nhà nước ấy là một nền quân chủ lập hiến bán nghị viện có tổ chức liên bang, với 41 triệu dân cho đến năm 1918 thì dân số tăng lên đến 65 triệu người với diện tích là 540.857,54 km2 (không tính các thuộc địa của Đức). Trong suốt quãng thời gian tồn tại của mình, Đế quốc Đức là quốc gia hàng đầu của châu Âu: về quân sự và kinh tế, Đức vượt trội. Khoa học, công nghệ, giáo dục và hành chính Đức trở thành mẫu mực. Nước Đức cũng nắm vai trò quyết định trong quan hệ quốc tế, và chấm dứt vào năm 1918 sau khi bại trận trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất dẫn tới thỏa hiệp năm 1919.
Nguồn gốc
Nguồn gốc của Đế quốc Đức là vương quốc Phổ, là vương quốc khởi sinh từ công quốc Brandenburg (tiếng Đức: Kurfürstentum Brandenburg) từ thế kỷ 11. Dưới quyền gia tộc nhà Hohenzollern trị vì xứ Brandenburg, các dân tộc Sla-vơ, chủ yếu là Ba Lan, dần dần bị đẩy lui về dọc bờ Biển Baltic. Những người kháng cự sẽ bị tiêu diệt hoặc trở thành nông nô.
Điểm yếu của Phổ là về địa lý. Do kết quả của các cuộc hôn nhân và thừa kế trong quá khứ, lãnh thổ của vương quốc bị tách rời nhau khắp vùng đồng bằng Bắc Âu. Lãnh thổ xa nhất về phía tây là Công quốc Cleves, nằm dọc bờ Sông Rhine; xa nhất về phía đông là Công quốc Đông Phổ. Brandenburg không có đường đi ra biển, thiếu tài nguyên thiên nhiên, và đất không được màu mỡ. Lãnh thổ vương quốc luôn bị quân Tin lành và Cơ đốc tàn phá và giết chóc.
Tuy nhiên, năm 1640 công quốc đã sản sinh một nhà lãnh đạo kiệt xuất: Tuyển hầu tước (Elector) Friedrich Wilhelm I của Brandenburg. Dù lãnh thổ bị phân tán và nghèo khó, ông đã mơ đến một vương quốc độc lập, đoàn kết và hùng mạnh. Ông tạo dựng một guồng máy đưa Phổ lên hàng đầu ở châu Âu. Ông tổ chức một chính phủ tập trung có năng lực, có kỷ luật, thêm hệ thống bưu điện và biểu thuế lũy tiến. Đến năm 1688, sau 48 năm trị vì, ông đã gây dựng quân đội chính quy với 30.000 người trong tổng số dân chỉ có một triệu.
Các hậu duệ của ông gây dựng tiếp trên nền móng ông đã đặt ra. Đến năm 1701, uy thế của Phổ đã lên đến mức Tuyển hầu tước Friedrich II, con của Friedrich Wilhelm I, không tự mãn với tước hiệu Tuyển hầu tước. Ông muốn trở thành vua. Người có quyền ban tước hiệu này là Hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh đóng đô ở Viên thì lưỡng lự: nếu phong Friedrich làm vua thì các Tuyển hầu tước của Hannover, Bayern và Sachsen cũng sẽ muốn làm vua. Nhưng Hoàng đế không có chọn lựa khác, cuối cùng phải ưng thuận. Ngày 18/1/1701, Friedrich III tự đội lên đầu chiếc vương miện để trở thành Vua Friedrich I của Phổ.
Năm 1713, Vua Friedrich I qua đời, và con trai là Friedrich Wilhelm I lên kế vị. Có tính cương nghị còn hơn cả người cha và ông nội, vị vua này đặt ra mục tiêu của Phổ là trở nên một cường quốc quân sự. Mọi việc đều theo chiều hướng này: nền kinh tế đủ mạnh để nuôi sống một đội quân hùng hậu, bộ máy hành chính có hiệu năng để tận thu thuế hầu trả đủ lương cho binh sĩ, một hệ thống giáo dục xuất chúng nhằm tạo ra binh sĩ có trình độ. Trái ngược với nước Pháp lo đổ tiền của vào các công trình kiến trúc xa hoa phung phí, Phổ lo xây dựng chỉ với mục đích quân sự: nhà máy làm thuốc súng, lò đúc đại bác, kho vũ khí, doanh trại quân đội. Nhà vua còn đối xử khắt khe với con của ông là Hoàng thái tử Friedrich.
Vào năm 1740, vua Friedrich Wilhelm I qua đời, và Hoàng thái tử Friedrich lên nối ngôi - tức là vua Friedrich II. Chỉ trong vòng vài tháng, vị vua trẻ đã điều khiển đoàn quân – mà ông nội và người cha đã dày công gây dựng – đi đánh trận. Trong sự ngỡ ngàng của châu Âu, ông xâm chiếm tỉnh Silesia, thậm chí gây hấn với Đế quốc La Mã Thần thánh của dòng họ Habsburg. Đấy là chiến dịch đầu tiên trong những chiến dịch xuất chúng khiến cho ông được tôn vinh là Friedrich Đại đế. Người đương thời mến mộ ông và nhà sử học say mê ông.
Vào thời gian này, Phổ đã vươn lên thành một cường quốc quân sự ở châu Âu, nhưng vẫn thiếu tiềm lực cốt lõi. Đất khô cằn, không có khoáng sản; dân số ít ỏi. Không có thị trấn lớn, không có công nghiệp, nền văn hóa thì nghèo nàn. Thậm chí giới quý tộc cũng nghèo túng, và nông dân không có đất canh tác, sống cuộc đời vô cùng cực khổ. Tuy thế, với ý chí sắt đá và thiên tài tổ chức, Vương triều Hohenzollern nỗ lực gây dựng một vương quốc quân sự khắc khổ có quân đội được rèn luyện chu đáo, đánh thắng hết trận này qua trận khác. Họ cũng theo đuổi chính sách ngoại giao mềm dẻo, sẵn sàng liên minh với bất kỳ thế lực nào. Từ đấy, vương quốc mở rộng dần lãnh thổ.
Sự hình thành Đế quốc Đức
Trong giai đoạn 1866-1871, thiên tài chính trị Otto von Bismarck chấm dứt tình trạng chia rẽ giữa các lãnh thổ do người Đức cai trị, vốn đã hiện diện gần một nghìn năm, thay vào đấy là nước Đức - Phổ. Bismarck đã tạo dựng nên một Đế quốc Đức quy tụ dân tộc có thiên bẩm, năng động.
Khi nắm quyền Thủ tướng nước Phổ năm 1862, Otto von Bismarck đã tuyên bố: Những vấn đề trọng đại hiện giờ sẽ không được giải quyết bằng lá phiếu theo đa số, mà qua cách thức sắt máu. Chính xác đấy là cách ông tiến hành, dù ông cũng sử dụng đường lối ngoại giao nhưng thường có tính dối trá. Mục tiêu của Bismarck là xóa bỏ tự do, củng cố quyền lực theo đường lối bảo thủ – đấy là quyền lực của tầng lớp quý tộc Junker, của quân đội và vương triều – và biến Đế quốc Đức thành cường quốc.
Bismarck trước tiên lo gây dựng quân đội Phổ vốn là nòng cốt cho lực lượng quân sự của đế quốc. Khi nghị viện không chịu biểu quyết thêm ngân sách, ông giải tán nghị viện rồi tự huy động nguồn kinh phí. Sau khi đã tăng cường quân đội, Bismarck phát động ba cuộc chiến. Khởi đầu là đánh Đan Mạch năm 1864, sáp nhập các công quốc Schleswig và Holstein vào lãnh thổ Đức. Kế tiếp là đánh Áo năm 1866, giành được chiến thắng lừng lẫy trong trận đánh quyết định tại Königgrätz. Sau đó, cuộc chiến tranh Pháp-Phổ bùng nổ, Quân đội Phổ đại thắng trong trận Sedan, buộc quân Pháp phải xin hàng.
Nước Phổ sáp nhập mọi công quốc của người Đức nằm về phía bắc sông Main: Hanover, Hesse, Nassua, Frankfurt và Elbe. Vào năm 1870, thấy nước Phổ ngày một lớn mạnh, Pháp hung hăng gây chiến. Nhưng nước Phổ liên minh với các nước miền Nam Đức, có vũ trang tốt hơn, tổ chức cao hơn và chiến đấu tốt hơn, đã dễ dàng đối phó với quân thù. Chỉ chưa đầy 2 tháng, sức mạnh của Pháp đã tan tành mây khói. Trong trận đánh kịch liệt tại Sedan, liên quân Đức xông pha như vũ bão đập tan nát địch quân. Hoàng đế Pháp là Napoléon III bị bắt, để rồi Pháp phải chịu thất bại nhục nhã. Những lãnh thổ miền nam nước Đức, đứng đầu là vương quốc Bayern, được sáp nhập vào nước Đức-Phổ.
Sự phát triển
Thành tựu quang vinh của Thủ tướng Bismarck là sự ra đời của Đế quốc Đức ngày 18/1/1871, khi Vua Wilhelm I của Phổ cử hành lễ đăng quang làm Hoàng đế Đức trong Điện Versailles của Pháp. Đế quốc Đức được thống nhất nhờ quân lực Phổ. Vào lúc này, đấy là cường quốc hùng mạnh nhất ở lục địa châu Âu; đối thủ duy nhất trên toàn châu Âu chỉ có Vương quốc Anh.
Tuy thế, có một nhược điểm nghiêm trọng. Trên thực tế, Đế quốc Đức chỉ là nước Phổ mở rộng; thực lực của Đế quốc chỉ là thực lực của Phổ. Đấy là sự thật, và gây hậu quả tai hại cho chính người Đức. Từ năm 1871 đến năm 1933 và thật ra cho đến ngày tàn của Hitler năm 1945, dòng lịch sử của Đức cứ thẳng tiến theo cách như thế, ngoại trừ nền Cộng hòa Đức ngắn ngủi (1918-1933).
Dù cho vẻ bề ngoài dân chủ qua việc thành lập Nghị viện, Đế quốc Đức thật ra là chế độ chuyên chế quân phiệt dưới quyền của Vua nước Phổ, cũng là Hoàng đế Đức. Nghị viện không có nhiều quyền hành, mà chỉ là một diễn đàn để đại diện nhân dân bàn cãi cho hả dạ hoặc mặc cả quyền lợi nhỏ nhoi cho giai cấp mà họ làm đại diện. Ngai vàng nắm quyền hành – theo ý niệm thiêng liêng. Tuy Hoàng đế Friedrich III (lên ngôi vào năm 1888), gắn bó mãnh liệt với phong trào chủ nghĩa tự do nước Đức thời đó, ông lại mất sớm. Về sau này, năm 1910, Hoàng đế Wilhelm II còn tuyên bố rằng ngai vàng "chỉ do Thượng đế trao cho, chứ không phải từ nghị viện hoặc qua dân chúng." Ông còn nói thêm: "Vì bản thân Trẫm là công cụ của Thượng đế, Trẫm làm theo ý mình."
Hoàng đế không bị Nghị viện ngăn trở. Ông bổ nhiệm Thủ tướng để chịu trách nhiệm với chính ông, không phải với Nghị viện vốn không có quyền bất tín nhiệm. Vì thế, trái ngược với sự tiến hóa của các quốc gia khác ở Tây Âu, ý niệm về dân chủ, về quyền hạn của nghị viện không bao giờ bén rễ ở Đức, ngay vào đầu thế kỷ 20. Dù cho các đảng phái lớn tiếng đòi hỏi chế độ quân chủ nghị viện, họ vẫn không thành công. Các tầng lớp trung lưu, được hưởng lợi từ cuộc cách mạng công nghiệp và bị lóa mắt vì chính sách hiếu chiến của Bismarck, chỉ biết tiếp nhận lợi ích vật chất mà không thiết tha gì đến tự do chính trị mà họ có quyền hưởng. Họ chấp nhận chế độ chuyên chế của vương triều Hohenzollern. Họ cam lòng nép dưới bộ máy cai trị của tầng lớp quý tộc Junker và chế độ quân phiệt của Phổ.
Giai cấp công nhân Đức cũng có thái độ tương tự. Để ngăn chặn chủ nghĩa xã hội, trong giai đoạn 1883-1889 Bismarck thiết lập chương trình an ninh xã hội rộng rãi, bao gồm bảo hiểm cho lương hưu, bệnh tật, tai nạn và thương tật. Dù cho Nhà nước tổ chức, nguồn kinh phí được lấy từ chủ và thợ. Việc này khiến cho giai cấp công nhân đánh giá cao an ninh xã hội hơn là tự do về chính trị, và xem Nhà nước là ân nhân của họ. Hitler sau này lợi dụng triệt để tâm lý ấy. Trong quyển Mein Kampf, ông viết: "Tôi đã nghiên cứu pháp chế chủ nghĩa xã hội của Bismarck." Nước Đức vươn lên, và hầu như toàn dân Đức đều nức lòng làm theo tất cả những gì mà nhà lãnh đạo đòi hỏi.
Sau chiến thắng trong cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ, Bismarck thiết lập liên minh với Đế quốc Áo-Hung và Đế quốc Nga ở phía Đông, do phía Tây là mối đe dọa lớn nhất cho Đế quốc Đức. Tuy nhiên, Đức hoàng Wilhelm II sau khi lên ngôi đã sa thải Bismarck vào năm 1890. Đức hoàng cũng xé bỏ liên minh với Nga, buộc Nga phải thành lập liên minh quân sự với nước Pháp đang khao khát báo thù. Vào năm 1914, cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. Quân đội Đế quốc Đức - dưới sự chỉ huy của tướng Paul von Hindenburg - đại phá quân Nga trong trận Tannenberg vào tháng 9 năm đó. Chiến thắng này được xem là sự báo thù của dân tộc Đức cho đại bại của các Hiệp sĩ Teuton trước quân Nga trong trận Grunwald vào năm 1410.
Phân cấp hành chính
Các bang
Đế quốc Đức có 27 nhà nước thành viên, trong đó có 23 nhà nước quân chủ thế tục (4 Vương quốc, 6 Đại công quốc, 6 Công quốc và 7 Thân vương quốc), 3 thành bang Hanse là Hamburg, Bremen, Lübeck và 1 Lãnh thổ hoàng gia là Alsace-Lorraine.
Sự tiếp nối
Đế chế thứ hai là ý niệm gán cho Đế quốc Đức (1871-1918), tiếp theo Đế chế thứ Nhất là ý niệm gán cho Đế quốc La Mã Thần thánh. Tiếp nối là Đế chế thứ ba của những người theo Đảng Đức Quốc xã do Adolf Hitler làm Lãnh tụ.
Tên gốc theo tiếng Đức Deutsches Reich cũng là tên chính thức được tiếp tục sử dụng cho Cộng hòa Đức (1919-1933) và nước Đức dưới chế độ Quốc xã (1933-1945). Hiến pháp Đức có hiệu lực trong thời gian 1919-1933, do hội nghị đại biểu nhân dân soạn ra ở Thành phố Weimar (vì thế có tên thông dụng là Hiến pháp Weimar vẫn mang tựa chính thức là Verfassung des Deutschen Reichs (Hiến pháp của Đế quốc Đức) giống như tựa của bản hiến pháp có hiệu lực trong thời gian 1871-1919.
Trước tiên là Bismarck, kế đến là Đức hoàng Wilhelm II và cuối cùng Hitler đã thành công trong việc nuôi dưỡng tham vọng về quyền lực và thống trị, với sự hỗ trợ của giai cấp quân phiệt. Từ đấy dẫn đến xu hướng thích sử dụng quân đội, khinh thường dân chủ và tự do cá nhân, chỉ theo đuổi chế độ chuyên chế. Theo chiều hướng như thế, Đế quốc Đức nổi lên đến tầm cao mới, xuống dốc rồi vươn lên lại trong Đế chế thứ Ba, cho đến lúc xem chừng bị hủy diệt cùng với Hitler vào mùa xuân 1945.
Đế quốc Đức và Adolf Hitler
Hitler luôn tìm cách khơi dậy trong lòng người Đức về vinh quang của Đế quốc Đức trước đó. Ví dụ nổi bật nhất là sau khi Tòa nhà Nghị viện bị cháy năm 1933, Hitler khai mạc phiên họp Nghị viện mới trong Nhà thờ Doanh trại Potsdam, là thánh địa của nước Phổ xa xưa, gợi lại trong lòng người Đức nhiều hoài niệm. Đây chính là nơi mà vua Friedrich II Đại Đế yên nghỉ (nhưng thi hài ông được dời về Cung điện Sanssouci vào tháng 8 năm 1991), nơi tôn thờ các hoàng đế vương triều Hohenzollern. Ngày được chọn để cử hành lễ khai mạc Nghị viện đầu tiên của Quốc xã, 21/3, cũng có ý nghĩa. Đấy là ngày kỷ niệm Bismarck khai mạc Nghị viện đầu tiên của Đế chế thứ hai vào năm 1871.
Hitler luôn có ảm ảnh về "không gian sinh tồn" – là chủ đề vương vấn ông cho đến ngày cuối, được trình bày trong quyển sách Mein Kampf của ông. Theo Hitler, Hoàng gia Hohenzollern đã sai lầm khi tìm kiếm thuộc địa xa xôi ở châu Phi. Ông nghĩ Đức phải mở rộng lãnh thổ bằng cách chiếm đất ở miền Đông, theo đường ranh giới "600 năm về trước" vì vào thời kỳ này, Đế chế thứ Nhất trở nên cực thịnh. Từ ý tưởng phục hồi đế quốc này mà Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ.
Hitler nghiên cứu Đế chế thứ Hai khá kỹ. Đối với ông, cho dù có sai lầm, Đế chế thứ Hai là thành tựu sáng chói mà người Đức đạt được. Đấy là nước Đức mà Hitler muốn tái lập. Trong quyển Mein Kampf, Hitler bàn sâu về những lý do khiến cho Đế chế thứ Hai sụp đổ: việc dung dưỡng người Do Thái và người theo Mác-xít, tư tưởng trọng vật chất và ích kỷ của giới trung lưu, ảnh hưởng bất chính của những kẻ "luồn cúi và xu nịnh" quanh ngai vàng Hohenzollern, "chính sách liên minh tai hại" với Vương triều Habsburg suy đồi và người Ý không đáng tin thay vì với Anh, thiếu chính sách về chủng tộc và xã hội cơ bản. Đây là những thất bại mà Hitler hứa Đức Quốc xã sẽ khắc phục. |
Trường Sa (tiếng Hoa giản thể: 长沙; tiếng Hoa phồn thể: 長沙; pinyin: Chángshā; Wade-Giles: Chang-sha) là thủ phủ và là thành phố đông dân nhất của tỉnh Hồ Nam, thuộc vùng Nam Trung Bộ Trung Quốc, tọa lạc tại hạ lưu sông Tương Giang (湘江) hoặc Tương Thủy (湘水), một nhánh của sông Dương Tử. Trường Sa có diện tích 11.819 km², Dân số thành phố là 7.431.800 theo số liệu điều tra năm 2015, chiếm 10,72% dân số của tỉnh.
Trường Sa nằm ở đồng bằng thung lũng sông Tương, giáp với dãy núi La Tiêu ở phía đông, dãy núi Vũ ở phía tây, uốn lượn ở hồ Động Đình ở phía bắc và nằm ở phía nam bởi dãy núi Hoà Sơn. Thành phố có khí hậu cận nhiệt đới ẩm gió mùa, với nhiệt độ không khí trung bình hàng năm từ 16,8 đến 17,3 °C (62,2 đến 63,1 °F) và lượng mưa hàng năm từ 1.353,6 đến 1,552,5 mm (53,49 đến 61,12 in).
Trường Sa có lịch sử phát triển hơn 3.000 năm. Trường Sa là kinh đô của Vương quốc Trường Sa vào thời nhà Hán (206 TCN - 220) và là kinh đô của nước Sở (907-951) trong thời kỳ Ngũ đại Thập quốc. Các đồ sơn mài và các văn bản lụa được phục hồi từ Mã Vương Đối (thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên) có một dấu hiệu cho thấy sự phong phú của các truyền thống thủ công địa phương. Năm 1904, Trường Sa được mở cửa cho ngoại thương, và một số lượng lớn người châu Âu và người Mỹ định cư ở đó. Trường Sa là nơi chuyển đổi của Mao Trạch Đông sang chủ nghĩa cộng sản. Thành phố cũng là nơi diễn ra những trận đánh lớn trong Chiến tranh Trung-Nhật (1931-1945) và bị Nhật chiếm đóng trong một thời gian ngắn. Trường Sa hiện là một trung tâm thương mại, sản xuất và vận chuyển quan trọng.
Lịch sử
Thời phong kiến
Sự phát triển có lẽ đã bắt đầu ở đây vào khoảng năm 3000 trước Công nguyên khi Trường Sa phát triển với sự phát triển của văn hóa Long Sơn, mặc dù không có bằng chứng chắc chắn nào về mối liên hệ đó. Bằng chứng tồn tại cho rằng cư dân đã sống và phát triển trong khu vực vào thời đại đồ đồng. Vô số ví dụ về đồ gốm và các cổ vật khác đã được phát hiện.
Các truyền thuyết Trung Quốc sau này liên quan đến việc Viêm Đế và Hoàng Đế đã đến thăm khu vực này. Sử ký của Tư Mã Thiên nói rằng Hoàng Đế đã ban cho con trai cả của ông là Thiếu Hạo vùng đất Trường Sa và các nước láng giềng. Trong thời kỳ Xuân Thu (thế kỷ VIII TCN- thế kỷ V TCN), văn hóa Bách Việt lan rộng ra khu vực xung quanh Trường Sa. Trong thời Chiến Quốc, nước Sở nắm quyền kiểm soát Trường Sa. kinh đô của nó, Thanh Dương, trở thành một tiền đồn phía nam quan trọng của vương quốc. Vào năm 1951, các nhà khảo cổ học đã khám phá nhiều ngôi mộ của hoàng tộc nước Sở lớn và vừa từ thời Chiến Quốc. Hơn 3.000 ngôi mộ đã được phát hiện. Dưới thời nhà Tần (221 TCN- 206 TCN), Trường Sa là một vị trí dàn dựng cho các cuộc viễn chinh về phía nam vào Quảng Đông dẫn đến các cuộc chinh phạt và sự thành lập của vương quốc Nam Việt.
Đến năm 202 TCN, đây đã là một thành trì kiên cố. Trong thời nhà Hán, đây là kinh đô của Vương quốc Trường Sa. Đầu tiên, đây là một quốc gia phụ thuộc được nắm giữ bởi đồng minh Bách Việt của Lưu Bang, Ngô Nhuế, phục vụ như một phương tiện kiểm soát người Sở đang hồi phục và như một quốc gia đệm chống lại nước Nam Việt của Triệu Đà. Đến năm 202 trước Công nguyên, Linxiang đã có những bức tường thành phố để bảo vệ nó trước các nguy cơ bị xâm lược. Những mộ tại Mã Vương Đôi (馬王堆, Mawangdui) nổi tiếng thời nhà Hán được xây dựng khoảng 186-165 trước Công Nguyên. Mộ sớm nhất được khai quật vào thập niên 1970, trong đó có thi hài của bà Tân Truy (辛追) vẫn còn trong tình trạng tốt. Người ta cũng tìm thấy trong mộ phiên bản sớm nhất của Đạo Đức Kinh do Lão Tử viết.
Khi Ngô Trứ, hậu duệ của Ngô Nhuế (吳, Wú Zhù) qua đời mà không có con nối vào năm 157 trước Công nguyên, Hán Cảnh Đế phong con thứ là Lưu Phát (劉發) làm Trường Sa Định vương; đánh dấu giai đoạn họ Lưu thay họ Ngô cai quản khu vực này. Vương quốc đã bị hủy bỏ dưới thời nhà Tân của Vương Mãng và được hồi sinh trong một thời gian ngắn bởi nhà Đông Hán. Vào năm 33, hoàng tử Lưu Hưng của vương quốc đã bị giáng chức và khu vực này được giao cho quận Lâm Hương và Bộ chỉ huy Trường Sa quản lí. Trong thời Tam Quốc, Trường Sa là một chiến trường ác liệt giữa các quân phiệt. Sau gia đoạn hỗn loạn của Tam Quốc, Tấn Vũ Đế đã ban tặng Trường Sa cho con trai thứ sáu của ông là Tư Mã Nghệ. Chính quyền địa phương có hơn 100 quận vào đầu triều đại. Trong suốt triều đại, chính quyền địa phương Trường Sa mất quyền kiểm soát một vài quận, khiến họ phải cai trị địa phương.
Sau thời kỳ loạn lạc Nam-Bắc triều, nhà Tùy (thế kỷ VI) đã đổi tên Trường Sa thành huyện Tân Châu. Chính quyền 3 cấp bậc của Trường Sa đã được đơn giản hóa thành hệ thống nhà nước và huyện 2 bậc, loại bỏ cấp bậc giữa. Dưới thời nhà Đường, Trường Sa phát triển thịnh vượng như một trung tâm thương mại giữa miền trung Trung Quốc và Đông Nam Á nhưng đã từng bị tàn phá trong cuộc nổi loạn An Sử vào nửa sau thế kỷ VIII, khi nó rơi vào tay phiến quân.
Dưới triều đại nhà Bắc Tống, Thư viện Nhạc Lộc (trường học) được thành lập năm 976 ở Trường Sa, nó bị phá hủy trong chiến tranh Kim-Tống vào năm 1127 và xây dựng lại năm 1165 (nhà Nam Tống). Triết gia nổi tiếng Chu Hi (朱熹) đã giảng dạy ở đây năm 1165. Ngôi trường bị người Mông Cổ phá hủy trong quá trình thành lập nhà Nguyên nhưng được phục chế lại vào cuối thế kỷ 15 (nhà Minh). Những sinh viên tốt nghiệp đầu thế kỷ 19 của học viện đã hình thành cái mà một nhà sử học gọi là "mạng lưới cựu sinh viên thiên sai", bao gồm Tăng Quốc Phiên, kiến trúc sư của Phục chế Tong Chi, Thái Ngạc, một nhà lãnh đạo chính trong quốc phòng của Trung Hoa Dân Quốc. Năm 1903, nó trở thành Trường Trung học Hồ Nam. Đại học Hồ Nam ngày nay là hậu duệ của ngôi trường trên. Một số công trình của nó đã được tu sửa từ năm 1981 đến năm 1986 theo thiết kế ban đầu của nhà Tống. Trong cuộc chinh phạt của người Mông Cổ ở Nam Tống, Tân Châu đã được quân Tống địa phương bảo vệ quyết liệt. Sau khi khu vực này thất thủ, những tướng lĩnh ở đây đã tự sát hàng loạt. Dưới thời nhà Minh (1368-1644), Tân Châu một lần nữa được đổi tên thành Trường Sa và trở thành một quận cấp cao.
Dưới thời nhà Thanh (1644-1911), Trường Sa là thủ phủ của Hồ Nam và phát triển thịnh vượng như là một trong những thị trường gạo chính của Trung Quốc. Trong cuộc nổi dậy Thái Bình Thiên Quốc, thành phố bị phiến quân bao vây vào năm 1852 hoặc 1854, trong ba tháng nhưng không bao giờ sụp đổ. Phiến quân khi ấy buộc phải chuyển sang tấn công Vũ Hán, nhưng Trường Sa sau đó trở thành căn cứ chính cho chiến dịch đàn áp của triều đình đối với cuộc nổi loạn này.
Thời hiện đại
Năm 1903, Hiệp ước Thượng Hải Trung-Nhật đã mở cửa Trường Sa cho hoạt động ngoại thương, bắt đầu có hiệu lực từ năm 1904. Các điều khoản quốc gia được ưa chuộng nhất trong các hiệp ước bất bình đẳng khác cũng mở rộng lợi ích của đế quốc Nhật Bản đối với các cường quốc phương Tây. Do đó, vốn quốc tế đã vào thị trấn và các nhà máy, nhà thờ và trường học được xây dựng. Một trường đại học đã được Đại học Yale xây dựng sau này đã trở thành trung tâm y khoa, tên gọi Xiangya.
Sau cuộc cách mạng Tân Hợi, sự phát triển tiếp theo sau khi tuyến đường sắt đến Hán Khẩu ở tỉnh Hồ Bắc được mở năm 1918, sau đó được mở rộng đến Quảng Châu ở tỉnh Quảng Đông vào năm 1936. Mặc dù dân số của Trường Sa tăng lên, thành phố vẫn chủ yếu mang tính thương mại. Trước năm 1937, nó có ít ngành công nghiệp ngoài một số nhà máy dệt bông nhỏ, thủy tinh và kim loại màu và các doanh nghiệp thủ công mỹ nghệ.
Mao Trạch Đông, người sáng lập nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bắt đầu sự nghiệp chính trị ở Trường Sa. Mao Trạch Đông đã học ở trường Sư phạm số 1 Hồ Nam từ 1913 đến 1918. Sau đó ông trở thành giáo viên rồi hiệu trưởng từ 1920-1922. Trường bị phá hủy trong Nội chiến Trung Quốc nhưng sau đó đã được khôi phục. Văn phòng làm việc của ông tại trường thời đó nay là bảo tàng bao gồm khu nhà ở của Mao, ảnh và các vật phẩm lịch sử khác từ những năm 1920. Ở Trường Sa có Bảo tàng Mao Trạch Đông.
Cho đến tháng 5 năm 1927, sự ủng hộ của chủ nghĩa cộng sản vẫn mạnh mẽ ở Trường Sa trước khi vụ thảm sát được thực hiện bởi phe cánh hữu của quân đội Quốc dân đảng. Phe này có lòng trung thành với Tưởng Giới Thạch trong cuộc tấn công chống lại phe cánh tả của Quốc dân đảng dưới thời Uông Tinh Vệ, người sau đó đã liên minh chặt chẽ với Cộng sản. Việc thanh trừng những người cộng sản và những người cộng sản bị nghi ngờ là một phần trong kế hoạch của Tưởng nhằm củng cố sự nắm giữ của ông đối với Quốc dân đảng, làm suy yếu sự kiểm soát của Uông, và do đó trên toàn bộ Trung Quốc. Trong khoảng thời gian hai mươi ngày, lực lượng của Tưởng đã giết chết hơn mười nghìn người ở Trường Sa và vùng ngoại ô của nó.
Trong thời Chiến tranh Trung-Nhật lần 2, do vị trí chiến lược nên Trường Sa là tâm điểm của 4 chiến dịch của quân Nhật nhằm chiếm đóng thành phố: bao gồm Trường Sa 1, Trường Sa 2, Trường Sa 3 và Trường Sa 4. Thành phố đã đẩy lùi ba cuộc tấn công đầu tiên của quân Nhật nhờ vào sự lãnh đạo của Tiết Nhạ, nhưng cuối cùng rơi vào tay Nhật Bản vào năm 1944 trong một năm cho đến khi quân Nhật bị phe Đồng Minh đánh bại trong chiến tranh thế giới thứ hai và buộc phải đầu hàng. Trước các chiến dịch này của Nhật Bản, thành phố gần như đã bị phá hủy bởi trận hỏa hoạn Trường Sa năm 1938, một vụ hỏa hoạn có chủ ý do các chỉ huy của Quốc dân đảng, người đã lầm tưởng rằng thành phố sắp rơi vào tay người Nhật; Tưởng Giới Thạch đã ra lệnh đốt cháy thành phố để phát xít Nhật Bản không thu được gì sau khi vào đó.
Sau chiến thắng của phe Đảng Cộng sản Trung Quốc trong Nội chiến Trung Quốc, Trường Sa dần hồi phục sau thiệt hại trước đây. Kể từ chính sách cải cách và mở cửa của Đặng Tiểu Bình, Trường Sa đã nhanh chóng phát triển từ những năm 1990, trở thành một trong những thành phố quan trọng ở khu vực miền trung và miền tây đất nước. Vào cuối năm 2007, Trường Sa, Chu Châu và Tương Đàm đã nhận được sự chấp thuận của Hội đồng Nhà nước về "Khu vực thí điểm cải cách toàn diện xã hội và tiết kiệm tài nguyên của Trường-Chu-Đàm (Đại Sa)", một động cơ quan trọng trong sự phát triển của miền trung Trung Quốc. Năm 2015, Khu vực mới Tương Giang đã được phê duyệt là khu vực mới quốc gia.
Hành chính
Trường Sa có 6 quận, 1 huyện, 2 thành phố cấp huyện
Quận:
Phù Dung
Thiên Tâm
Nhạc Lộc
Khai Phúc
Vũ Hoa
Vọng Thành
Huyện:
Trường Sa
Thành phố cấp huyện
Lưu Dương
Ninh Hương
Địa lý
Trường Sa nằm ở phía đông bắc tỉnh Hồ Nam, vùng hạ lưu của sông Tương và phần phía tây của lưu vực Trường Lưu. Nó nằm trong khoảng từ 111 ° 53 'đến 114 ° 15' kinh độ đông và 27 ° 51 'đến 28 ° 41' vĩ độ Bắc. Trường Sa tiếp giáp với Nhạc Dương và Ích Dương ở phía bắc, Lâu Để ở phía tây, Tương Đàm và Chu Châu ở phía nam, Giang Tây và Giang Tây của tỉnh Giang Tây ở phía đông. Độ rộng của thành phố trải dài khoảng 230 km từ đông sang tây và khoảng 88 km từ bắc xuống nam. Trường Sa có diện tích 11.819 km2 (4.563 dặm vuông), trong đó diện tích đô thị là 2.150,9 km2 (830,5 dặm vuông), diện tích xây dựng đô thị là 374,64 km2 (144,65 dặm vuông). Điểm cao nhất của Trường Sa là Núi Thất Tinh (岭) tại thị trấn Đại Vi Sơn, 1.607,9 m (5.275 ft). Điểm thấp nhất là Trạm Hồ (湖) ở thị trấn Kiều Khẩu, 23,5 m (77 ft).
Tương Giang là con sông chính trong thành phố, trải dài 74 km (46 mi) về phía bắc qua lãnh thổ. 15 nhánh sông chảy vào Tương Giang, trong đó Lưu Dương, Lao Đao, Cận Giang và Vi Thuỷ là bốn nhánh lớn nhất. Tương Giang chia thành phố thành hai phần. Phần phía đông chủ yếu là thương mại và phía tây chủ yếu là văn hóa và giáo dục. Vào ngày 10 tháng 10 năm 2001, trụ sở hành chính của thành phố Trường Sa đã được chuyển từ phố Fanzheng sang Guanshaling. Kể từ đó, nền kinh tế của cả hai bên sông Tương đã đạt được sự phát triển cân bằng.
Khí hậu
Trường Sa có khí hậu cận nhiệt đới ẩm (phân loại khí hậu Köppen: Cfa). Nhiệt độ trung bình hàng năm là 17,40 °C (63,3 °F), với nhiệt độ trung bình 4,9 °C (40,8 °F) vào tháng 1 và 29,2 °C (84,6 °F) trong tháng 7. Lượng mưa trung bình hàng năm là 1.428 mm (56,2 in), với thời gian không có sương giá trong 275 ngày. Với tỷ lệ phần trăm ánh nắng mặt trời hàng tháng có thể dao động từ 19% trong tháng 3 đến 57% trong tháng 8, thành phố nhận được 1.545 giờ nắng sáng hàng năm. Thành phố có bốn mùa rõ rệt. Mùa hè dài và rất nóng, với lượng mưa lớn, mùa thu mát mẻ và là mùa khô nhất. Mùa đông thường lạnh lẽo và u ám với lượng mưa ít hơn nhiều; sóng lạnh có thể xảy ra với nhiệt độ đôi khi giảm xuống dưới mức đóng băng. Mùa xuân đặc biệt mưa và ẩm ướt với ánh mặt trời chiếu dưới 30% thời gian. Nhiệt độ tối thiểu từng được ghi nhận kể từ năm 1951 tại Trạm quan sát thời tiết Vương Thành Ba hiện tại là −12,0 °C (10,4 °F), được ghi nhận vào ngày 9 tháng 2 năm 1972. Nhiệt độ tối đa là 40,6 °C (105,1 °F) vào ngày 13 tháng 8 năm 1953 và ngày 2 tháng 8 năm 2003 [bản ghi không chính thức 43,0 °C (109,4 °F) được thiết lập vào ngày 10 tháng 8 năm 1934].
Nhân khẩu
Trường Sa có dân số đô thị là 7.044.118 người. Tổng cộng có 12.966.836 người cư trú tại khu vực đô thị. Phần lớn những người sống ở Trường Sa là người Hán. Một dân số đáng kể của các nhóm dân tộc thiểu số cũng sống ở Trường Sa. Ba nhóm dân tộc thiểu số lớn nhất là các dân tộc Hồi, Thổ Gia và Miêu. Cuộc điều tra dân số năm 2000 cho thấy 48.564 thành viên của các dân tộc thiểu số sống ở Trường Sa, chiếm 0,7% dân số cả thành phố. Các nhóm thiểu số khác chiếm một phần nhỏ hơn đáng kể trong dân số. Hai mươi dân tộc thiểu số có ít hơn 1.000 thành viên sống trong thành phố.
Kinh tế
Dân số của Trường Sa gần như tăng gấp ba lần từ khi bắt đầu xây dựng lại vào năm 1949 và đầu những năm 1980. Thành phố hiện là một cảng lớn, xử lý gạo, sợi bông, gỗ và chăn nuôi, và cũng là một điểm thu gom và phân phối trên tuyến đường sắt từ Hán Khẩu đến Quảng Châu. Đây là một trung tâm xay xát gạo và cũng có khai thác dầu, sản xuất trà và thuốc lá, và các nhà máy chế biến thịt. Ngành công nghiệp dệt may của thành phố sản xuất sợi bông và vải và tham gia vào nhuộm và in ấn. Hóa chất nông nghiệp và phân bón, nông cụ và máy bơm cũng được sản xuất.
Trường Sa có một trạm phát nhiệt lớn được liên kết bởi một mạng lưới điện với các trung tâm công nghiệp gần đó là Chu Châu và Tương Đàm; ba thành phố được chỉ định vào những năm 1970 là hạt nhân của một khu công nghiệp lớn. Trong những năm 1960 đã có sự phát triển của ngành công nghiệp nặng. Việc sản xuất máy móc, đặc biệt là máy công cụ và công cụ chính xác, trở nên quan trọng và Trường Sa trở thành một trung tâm của ngành công nghiệp nhôm của Trung Quốc. Thành phố cũng có các nhà máy xi măng, cao su, gốm sứ và sản xuất giấy và là trung tâm của nhiều loại thủ công truyền thống, sản xuất thêu Tương, hàng da, ô, và nút. Than được khai thác trong vùng lân cận.
Năm 2003, GDP danh nghĩa của Trường Sa 92,82 tỷ NDT (11.2 tỷ USD), xếp 42 thành phố Trung Quốc với GDP đầu người là 15.506 NDT (1.872 USD). Đến năm 2008, GDP danh nghĩa của Trường Sa là ¥300,1 tỷ (43 tỷ USD), tăng trưởng 15,1% so với năm trước và GDP bình quân đầu người là ¥45,765 (US $ 6,589). GDP thành phố tăng trưởng trung bình 14% mỗi năm từ 2001 đến 2005, so với mức trung bình quốc gia là 9% trong giai đoạn này. Tính đến năm 2005, ngành dịch vụ đã tạo ra khoảng 49% GDP của Trường Sa, tăng 112% so với số liệu năm 2001, dẫn đến thu nhập khả dụng cho cư dân đô thị là 12.343 RMB mỗi năm. Sự tăng trưởng này dự kiến sẽ tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của thành phố. Các ngành sản xuất và xây dựng đã tăng trưởng tương đối ổn định, tăng trưởng 116% trong giai đoạn 2001-2005. Khu vực chính, bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi và thủy sản, đã tăng trưởng nhẹ so với cùng kỳ. Ngoài ra, thị trường tiêu dùng đã tăng trưởng mạnh mẽ cùng với mức thu nhập, với mức lương tối thiểu là 600 RMB mỗi tháng so với Bắc Kinh ở mức 640 RMB hoặc Thượng Hải là 750 RMB mỗi tháng. Cư dân thành thị năm 2005 có thu nhập trung bình khoảng 1.500 đô la Mỹ, cao hơn 15% so với mức trung bình quốc gia và tăng 10% so với số liệu năm 2001.
Trường Sa là một trong 15 thành phố "phát triển và kinh tế" nhất của Trung Quốc với GDP bình quân đầu người trên 20.000 đô la vào năm 2019, được coi là tình trạng thu nhập cao của Ngân hàng Thế giới và là thành phố phát triển chính theo tiêu chuẩn quốc tế. Năm 2015, GDP danh nghĩa của Trường Sa 851,01 tỷ NDT (136.6 tỷ USD), xếp thứ 14 thành phố Trung Quốc với GDP đầu người là 115.443 NDT (18.535 USD). Năm 2017, Trường Sa trở thành thành phố thứ 13 ở Trung Quốc có GDP trên một nghìn tỷ nhân dân tệ (154 tỷ đô la Mỹ). Hơn nữa, cổng thông tin tài chính Yicai.com đã phát hành bảng xếp hạng năm 2017 của Trung Quốc về các thành phố cấp 1 mới của Trung Quốc và Trường Sa là một sự xuất hiện mới. Nhiều đột phá đáng kể ở Trung Quốc đã được sinh ra ở Trường Sa bao gồm siêu máy tính Thiên Hà 1 cũng như gạo tạp chủng.
Trường Sa đã thu hút một mức độ đáng kể của đầu tư nước ngoài. Ví dụ, năm 2005, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trị giá gần 1 tỷ USD đã đổ vào thành phố, chủ yếu là công nghệ cao, sản xuất, sản xuất thực phẩm và dịch vụ. Con số này tăng 40% so với năm 2001. 59% tổng vốn FDI đến từ Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapore và Nhật Bản; 28% đến từ Châu Mỹ và 9% từ Châu Âu. Đến cuối năm 2008, hơn 500 công ty nước ngoài đã đầu tư hơn 10 triệu đô la Mỹ vào Trường Sa. Trường Sa có tổng doanh số bán lẻ là 74 tỷ RMB năm 2006.
Nhưng tăng trưởng kinh tế nhanh chóng đã khiến ô nhiễm môi trường trở thành một vấn đề nghiêm trọng ở Trường Sa, gây ra bởi số lượng ô tô tư nhân tăng nhanh, các công trường xây dựng rộng rãi và nhiều cơ sở công nghiệp ở ngoại ô thành phố.
Giao thông
Trường Sa được kết nối tốt bởi các phương thức vận tải đường bộ, đường sông, đường sắt và đường hàng không, và là một trung tâm khu vực cho các ngành công nghiệp, du lịch và dịch vụ.
Hệ thống giao thông công cộng của thành phố bao gồm một mạng lưới xe buýt rộng khắp với hơn 100 tuyến. Metro Trường Sa đang lên kế hoạch cho một mạng lưới 6 đường. Tuyến số 2 khai trương vào ngày 29 tháng 4 năm 2014 và 20 ga cho Tuyến 2 đã mở vào ngày 28 tháng 6 năm 2016. Bốn dòng nữa được lên kế hoạch xây dựng vào năm 2025. Tuyến 3 sẽ chạy theo hướng tây nam về phía đông bắc và sẽ dài 33,4 km (20,8 mi), tuyến 4 tây bắc-đông nam và dài 29,1 km (18,1 mi). Một liên kết maglev chạy 16,5 km (10,3 mi) giữa nhà ga Trường Sa và sân bay Trường Sa được khai trương vào tháng 4 năm 2016, với chi phí xây dựng là 400 triệu euro. Kết nối Trường Sa với Chu Châu và Tương Đàm, Đường sắt liên tỉnh Trường-Chu-Đàm khai trương vào ngày 26 tháng 12 năm 2016.
G4, G4E, G4W2, G5513 và G0401 của Đường cao tốc quốc gia, G107, G106 và G319 của Quốc lộ, S20, S21, S40, S41, S50, S60 và S71 của Đường cao tốc tỉnh Hồ Nam, kết nối với khu vực tàu điện ngầm Trường Sa trên toàn quốc. Có ba bến xe buýt chính ở Trường Sa: Ga Nam, Ga Đông và Ga Tây, gửi các chuyến đi dài và ngắn đến các thành phố trong và ngoài tỉnh Hồ Nam. Trường Sa được bao quanh bởi các con sông lớn, bao gồm sông Tương và các nhánh của nó như Lưu Dương, Cận Giang, Vi Thuỷ, Cảng Long Vương và Lao Đao. Tàu chủ yếu vận chuyển hàng hóa từ cảng Tương Ninh ở Bắc Trường Sa trong nước và quốc tế.
Ga xe lửa Trường Sa nằm ở trung tâm thành phố và cung cấp các dịch vụ chuyển phát nhanh và thường xuyên cho hầu hết các thành phố của Trung Quốc thông qua Đường sắt Bắc Kinh-Quảng Châu và đường sắt Thạch Môn-Trường Sa. Ga xe lửa phía Nam Trường Sa là ga đường sắt cao tốc mới ở quận Vũ Hoa trên tuyến đường sắt cao tốc Bắc Kinh Quảng Châu (là một phần của tuyến đường sắt cao tốc Bắc Kinh Quảng Châu Quảng Châu, Quảng Châu). Nhà ga, với tám cửa, được mở vào ngày 26 tháng 12 năm 2009. Kể từ đó, lượng hành khách đã tăng lên rất nhiều. Khu vực Hàng Châu-Trường Sa-Hoài Hoa của tuyến đường sắt cao tốc Thượng Hải-Trường Sa-Côn Minh được đưa vào sử dụng năm 2014.
Sân bay quốc tế Hoàng Hoa Trường Sa là một trung tâm khu vực của China Southern Airlines. Sân bay có các chuyến bay hàng ngày đến các thành phố lớn ở Trung Quốc, bao gồm Bắc Kinh, Thượng Hải và Quảng Châu, cũng như Hồng Kông, Ma Cao và Đài Bắc. Các hãng hàng không lớn khác cũng cung cấp dịch vụ hàng ngày giữa Trường Sa và các điểm đến trong nước và quốc tế khác. Sân bay cung cấp các chuyến bay trực tiếp đến 45 thành phố quốc tế lớn, bao gồm Los Angeles, Singapore, Seoul, Busan, Osaka, Tokyo, Kuala Lumpur, Luân Đôn (Sân bay Heathrow), Frankfurt và Sydney. Tính đến ngày 5 tháng 8 năm 2016, sân bay đã vận chuyển 70.011 hành khách mỗi ngày.
Người nổi tiếng
Mao Trạch Đông (1894-1976) - Nhà sáng lập và là chủ tịch đầu tiên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Tăng Quốc Phiên (1811-1872) - Nhà chính trị tư tưởng có tầm ảnh hưởng lớn vào thế kỷ XIX
Lưu Thiếu Kỳ (1898-1969) - Chủ tịch Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ năm 1959-1968
Chu Dung Cơ (sinh 1928) - Tổng lý Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ năm 1997-2002
Hồ Diệu Bang (1915-1989) - Đại tướng Đảng Cộng sản Trung Quốc từ năm 1980-1987
Dương Khai Tuệ (1901-1930) - Vợ đầu của Mao Trạch Đông
Hoàng Hưng (1874-1916) - Lãnh đạo cách mạng và là tổng tư lệnh quân đội của Trung Hoa Dân quốc
Điền Hán (1898-1968) - Người sáng tác bài ca Nghĩa dũng quân tiến hành khúc, quốc ca của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Lôi Phong (1940-1962) - Một chiến sĩ là biểu tượng văn hóa của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc
Châu Bút Sướng (sinh 1985) - Ca sĩ và diễn viên
Mạnh Giai (sinh 1990) - Ca sĩ và diễn viên, cựu thành viên nhóm Miss A
Lưu Nhã Sắt (13/01/1989)- Diễn viên và ca sĩ, Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất trong lễ trao giải Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 40.
Lay (sinh 1991) - Ca sĩ và diễn viên, thành viên nhóm nhạc EXO
Tề Bạch Thạch (1864-1957) - Họa sĩ
Hà Cảnh (sinh 1974) - Một trong những người dẫn chương trình nổi tiếng ở Trung Quốc |
Liên đoàn bóng đá Ả Rập Xê Út (SAFF) () là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Ả Rập Xê Út. SAFF quản lý bóng đá nam và nữ, tổ chức các giải bóng đá như Giải vô địch bóng đá Ả Rập Xê Út, Cúp bóng đá Ả Rập Xê Út,... SAFF là thành viên của cả Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Tây Á (WAFF).
Chủ tịch của Liên đoàn bóng đá Ả Rập Xê Út hiện nay là Hoàng thân Sultan bin Fahad Bin Abdul Aziz. |
Liên đoàn bóng đá Ấn Độ, tên chính thức là Liên đoàn bóng đá toàn Ấn Độ ( - AIFF, ) là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Ấn Độ. AIFF quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia nam và nữ, tổ chức các giải bóng đá như I-League, cúp liên đoàn, cúp Santosh, cúp Durand,.... AIFF là thành viên của cả Liên đoàn bóng đá Quốc tế (FIFA), Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Nam Á (SAFF). AIFF bị FIFA và AFC đình chỉ liên đoàn vào 16 tháng 8 năm 2022 do vi phạm quy chế của họ về sự can thiệp của bên thứ ba khiến Ấn Độ đã bị tước quyền đăng cai các giải đấu bóng đá quốc tế, bao gồm cả Giải vô địch bóng đá nữ U-17 thế giới 2022 dự kiến diễn ra vào ngày 11 tháng 10 năm 2022. Và sau đó hủy cấm vào ngày 27 tháng 8 năm 2022.
Chủ tịch của Liên đoàn bóng đá Ấn Độ hiện nay là ông Priyaranjan Das Munshi. |
Hiệp hội bóng đá Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (DKFA) () là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. DKFA quản lý các đội tuyển bóng đá quốc gia nam và nữ, tổ chức các giải bóng đá như giải vô địch bóng đá Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, cúp bóng đá Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên,.... DKFA là thành viên của cả Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Đông Á (EAFF).
Chủ tịch của Hiệp hội bóng đá Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên hiện nay là ông Ri Ryong-nam.
Tổ chức
Hiệp hội bóng đá Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên mang tiếng là "rất khó liên lạc". Ông Jérôme Champagne từng kể lại rằng: "FIFA khá thường xuyên gửi fax nhưng chỉ đôi khi được hồi âm". Hiện nay thậm chí cả FIFA cũng không có thông tin về hệ thống giải đấu bóng đá của nước này và những đội nào đang thi đấu tại giải đấu đó. |
Liên đoàn bóng đá Afghanistan (AFF) () là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Afghanistan. AFF quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia Afghanistan, tổ chức các giải bóng đá như giải vô địch bóng đá Afghanistan (V-League), cúp bóng đá Afghanistan,.... AFF là thành viên của cả Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Trung Á.
Chủ tịch của Liên đoàn bóng đá Afghanistan hiện nay là ông Karim Karamuddin. |
Hiệp hội bóng đá Bahrain (BFA) (tiếng Ả Rập: الاتحاد البحريني لكرة القد) là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Bahrain. BFA quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia Bahrain, tổ chức các giải bóng đá như giải vô địch bóng đá Bahrain, cúp bóng đá Bahrain,.... BFA là thành viên của cả Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Tây Á (WAFF).
Chủ tịch của Hiệp hội bóng đá Bahrain hiện nay là ông Shaikh Salman bin Ibrahim Al-Khalifa. |
Liên đoàn bóng đá Bangladesh (BFF) () là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Bangladesh. BFF quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia Bangladesh, tổ chức các giải bóng đá như giải vô địch bóng đá Bangladesh, cúp bóng đá Bangladesh,.... BFF là thành viên của cả Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Nam Á.
Chủ tịch của Liên đoàn bóng đá Bangladesh hiện nay là ông S.A. Sultan. |
Liên đoàn bóng đá Bhutan (BFF) () là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Bhutan. BFF quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia Bhutan, tổ chức các giải bóng đá như giải vô địch bóng đá Bhutan, cúp bóng đá Bhutan,.... BFF là thành viên của cả Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Nam Á.
Chủ tịch của Liên đoàn bóng đá Bhutan hiện nay là ông Lyonpo Khandu Wangchuk. |
Hiệp hội bóng đá Brunei (; ) là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Brunei đến năm 2008.
Lệnh cấm FIFA 2009
Tháng 9 năm 2009 hiệp hội đã bị FIFA cấm trên toàn cầu do có sự can thiệp của chính phủ vào hoạt động của hiệp hội. Ngày 30 tháng 5 năm 2011 lệnh cấm của FIFA lên bóng đá Brunei đã được tháo gỡ, đó là sự thành công của tổ chức chức mới FABD (Hiệp hội bóng đá Brunei Darussalam). |
Hiệp hội bóng đá Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAEFA) () là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. UAEFA tổ chức các giải như giải vô địch quốc gia và cúp quốc gia. UAEFA là thành viên Liên đoàn bóng đá thế giới, Liên đoàn bóng đá châu Á và Liên đoàn bóng đá Tây Á.
Ban Huấn Luyện |
Hiệp hội bóng đá Trung Hoa Dân quốc () hay còn gọi là Hiệp hội bóng đá Đài Bắc Trung Hoa ( - CTFA) là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Đài Loan (tên chính thức là Trung Hoa Dân quốc). CTFA quản lý các đội tuyển bóng đá quốc gia nam và nữ, tổ chức các giải bóng đá như giải bóng đá vô địch quốc gia Trung Hoa Đài Bắc, cúp bóng đá Trung Hoa Đài Bắc,.... CTFA là thành viên của cả Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Đông Á (EAFF).
Chủ tịch của Hiệp hội bóng đá Đài Loan hiện nay là ông Lâm Chấn Nghĩa. |
Liên đoàn bóng đá Campuchia (FFC) (; ) là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Campuchia. FFC quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia Campuchia, tổ chức các giải bóng đá như giải vô địch bóng đá Campuchia, cúp bóng đá Campuchia,.... FFC là thành viên của cả Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Đông Nam Á.
Chủ tịch của Liên đoàn bóng đá Campuchia là Sao Sokha. |
Liên đoàn bóng đá Đông Timor ( - FFTL) là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Đông Timor. FFTL quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia Đông Timor, tổ chức các giải bóng đá như giải vô địch bóng đá Đông Timor, cúp bóng đá Đông Timor,.... FFTL là thành viên của cả Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Đông Nam Á.
Chủ tịch của Liên đoàn bóng đá Đông Timor hiện nay là ông Francisco Kalbuadi Lay. |
Hiệp hội bóng đá Guam (GFA) () là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Guam. GFA quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia Guam, tổ chức các giải bóng đá như giải vô địch bóng đá Guam, cúp bóng đá Guam,.... GFA là thành viên của cả Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Đông Á (EAFF).
Chủ tịch của Hiệp hội bóng đá Guam hiện nay là ông Richard Lai. |
Hiệp hội bóng đá Đại Hàn (, Hanja: 大韓蹴球協會, Hán-Việt: Đại Hàn Thúc cầu Hiệp hội, - KFA) hay Hiệp hội Bóng đá Hàn Quốc là cơ quan quản lý bóng đá tại Đại Hàn Dân Quốc. Cơ quan quản lý bóng đá đầu tiên tại Hàn Quốc là Hiệp hội bóng đá Triều Tiên (; Hanja: 朝鮮足球協會, Hán-Việt: Triều Tiên Túc cầu Hiệp hội), được thành lập ngày 19 tháng 9 năm 1933, cho đến khi hai miền Triều Tiên bị chia cắt.
Park Seung-bin là chủ tịch đầu tiên của KFA, đã thực hiện nhiệm vụ thúc đẩy và mở rộng tổ chức bóng đá tại Hàn Quốc.
Lịch sử
Triều Tiên có lịch sử chơi bóng từ lâu đời. Thời cổ đại, có một loại trò chơi bóng Triều Tiên gọi là chuk-guk tương tự với bóng đá hiện đại. Tuy nhiên, Người Triều Tiên lần đầu chứng kiến phiên bản hiện tại của bóng đá là vào năm 1882 khi các thủy thủ người Anh thi đấu trong thời gian tàu của họ lưu lại tại cảng Incheon.
Năm 1921, Giải bóng đá toàn Triều Tiên đầu tiên được tổ chức, và tới năm 1933, Hiệp hội bóng đá Triều Tiên được thành lập (sau sự ra đời của Hiệp hội trọng tài Joseon năm 1928), tạo nền tảng cho sự phổ biến và phát triển của thể thao.
Hiệp hội bóng đá Đại Hàn được tái thành lập năm 1948, sau sự ra đời của Đại Hàn Dân Quốc. KFA trở thành thành viên của FIFA, cơ quan quản lý bóng đá quốc tế vào cùng năm đó. Sau đó họ gia nhập AFC (Liên đoàn bóng đá châu Á) năm 1954.
Ngày 23 tháng 1 năm 2013, KFA bầu Chung Mong-Gyu làm chủ tịch mới.
Các giải đấu
Không còn tồn tại
Korea Cup
Giải vô địch bóng đá Hàn Quốc
Giải bóng đá quốc gia Cúp Tổng thống Hàn Quốc (Quốc nội)
Hiện tại
K League Classic: Giải VĐQG
K League Challenge: Giải hạng nhất
Korea National League: Giải hạng Nhì
K3 League: Giải hạng ba
Cúp Quốc gia Hàn Quốc
Đội tuyển quốc gia
Nam
Đội tuyển bóng đá quốc gia Hàn Quốc
Đội tuyển bóng đá U-23 quốc gia Hàn Quốc
Đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Hàn Quốc
Đội tuyển bóng đá U-17 quốc gia Hàn Quốc
Đội tuyển bóng đá trong nhà quốc gia Hàn Quốc
Đội tuyển bóng đá bãi biển quốc gia Hàn Quốc
Nữ
Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Hàn Quốc
Đội tuyển bóng đá U-20 nữ quốc gia Hàn Quốc
Đội tuyển bóng đá U-17 nữ quốc gia Hàn Quốc
Đội tuyển bóng đá trong nhà nữ quốc gia Hàn Quốc
Giải thưởng
Cầu thủ bóng đá xuất sắc nhất năm (nam)
1969: Kim Ho
1970: Lee Hoe-taik
1971: Kim Jung-nam
1972: Park Lee-chun
1973: Cha Bum-kun
1974: Byun Ho-young
1975: Kim Ho-gon
1976: Choi Jong-duk
1977: Cho Young-jeung
1978: Kim Jae-han
1979: Park Sung-wha
1980: Lee Young-moo
1981: Cho Kwang-rae
1982-2009: Gián đoạn
2010: Park Ji-sung
2011: Ki Sung-yueng
2012: Ki Sung-yueng
2013: Son Heung-min
2014: Son Heung-min
2015: Kim Young-gwon
Cầu thủ bóng đá xuất sắc nhất năm (nữ)
2010: Ji So-yun
2011: Ji So-yun
2012: Jeoun Eun-ha
2013: Ji So-yun
2014: Ji So-yun
2015: Cho So-hyun
Đội hình tiêu biểu |
Hiệp hội bóng đá Hồng Kông (; ; viết tắt: HKFA) là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Hồng Kông. HKFA quản lý các đội tuyển bóng đá quốc gia nam và nữ, tổ chức các giải bóng đá như Giải bóng đá Ngoại hạng Hồng Kông, cúp bóng đá Hồng Kông,... HKFA là thành viên của cả Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Đông Á (EAFF).
Chủ tịch của Hiệp hội bóng đá Hồng Kông hiện nay là ông Timothy Fok. |
Hiệp hội bóng đá Indonesia (tiếng Indonesia: Persatuan Sepakbola Seluruh Indonesia, viết tắt: PSSI; ) là tổ chức quản lý và điều hành các hoạt động bóng đá ở Indonesia. PSSI quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia Indonesia, tổ chức các giải bóng đá như giải vô địch bóng đá Indonesia, cúp bóng đá Indonesia... PSSI là thành viên của cả Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Đông Nam Á (AFF).
Chủ tịch của Hiệp hội bóng đá Indonesia hiện nay là ông Erick Thohir. |
Liên đoàn bóng đá Cộng hòa Hồi giáo Iran (, - FFIRI), hay đơn giản hơn là Liên đoàn bóng đá Iran, là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Iran. FFIRI quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia Iran, tổ chức các giải bóng đá như giải vô địch bóng đá Iran, cúp bóng đá Iran,.... FFIRI là thành viên của FIFA, AFC và Liên đoàn bóng đá Trung Á (CAFA).
Chủ tịch của Liên đoàn bóng đá Iran hiện nay là ông Mehdi Taj. |
Hiệp hội bóng đá Iraq (IFA) (tiếng Ả Rập: الاتحاد العراقي لكرة القدم) là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Iraq. IFA quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia Iraq, tổ chức các giải bóng đá như giải vô địch bóng đá Iraq, cúp bóng đá Iraq,.... IFA là thành viên của cả Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Tây Á (WAFF).
Chủ tịch của Hiệp hội bóng đá Iraq hiện nay là ông Timothy Tsun Ting FOK. |
Hiệp hội bóng đá Jordan (JFA) () là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Jordan. JFA quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia Jordan, tổ chức các giải bóng đá như giải vô địch bóng đá Jordan, cúp bóng đá Jordan,.... JFA là thành viên của cả Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Tây Á (WAFF).
Chủ tịch của Hiệp hội bóng đá Jordan hiện nay là Hoàng tử Ali Bin Al-Hussein. |
Liên đoàn bóng đá Kyrgyzstan (; , - KFU) là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Kyrgyzstan. KFU quản lý Đôi tuyển bóng đá quốc gia Kyrgyzstan, tổ chức các giải bóng đá như Giải vô địch bóng đá Kyrgyzstan, Cúp bóng đá Kyrgyzstan. KFU là thành viên của FIFA, Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Hiệp hội bóng đá Trung Á (CAFA).
Chủ tịch tạm quyền của Liên đoàn bóng đá Kyrgyzstan hiện nay là Amangeldi Muraliev. |
Hiệp hội bóng đá Kuwait (KFA) là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Kuwait. KFA quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia Kuwait, tổ chức các giải bóng đá như giải vô địch bóng đá Kuwait, cúp bóng đá Kuwait,.... KFA là thành viên của cả Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Tây Á (WAFF).
Chủ tịch của Hiệp hội bóng đá Kuwait hiện nay là ông Sheikh Ahmad Al Sabah. |
Hiệp hội bóng đá Liban (FLFA) (; ) là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Liban. FLFA quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia Liban, tổ chức các giải bóng đá như giải vô địch bóng đá Liban, cúp bóng đá Liban,.... FLFA là thành viên của cả Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Tây Á (WAFF).
Chủ tịch của Hiệp hội bóng đá Liban hiện nay là ông Hachem Haidar. |
Liên đoàn bóng đá Lào (LFF) (; ; ) là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Lào. LFF quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia Lào, tổ chức các giải bóng đá như giải vô địch Lào, cúp Lào,.... LFF là thành viên của cả Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Đông Nam Á (AFF). |
Hiệp hội bóng đá Malaysia (FAM) (; ) là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Malaysia. FAM quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia Malaysia, tổ chức các giải bóng đá như giải vô địch bóng đá Malaysia, cúp bóng đá Malaysia,.... FAM là thành viên của cả Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Đông Nam Á (AFF).
Chủ tịch của Hiệp hội bóng đá Malaysia hiện nay là Vua Ahmad Shah. |
Hiệp hội bóng đá Ma Cao (MFA) (; ) là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở đặc khu hành chính Ma Cao, nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. MFA quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia Ma Cao, tổ chức các giải bóng đá như giải vô địch bóng đá Ma Cao, cúp bóng đá Ma Cao,.... MFA là thành viên của cả Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Đông Á (EAFF).
Chủ tịch của Hiệp hội bóng đá Ma Cao hiện nay là ông Cheung Lup Kwan. |
Hiệp hội bóng đá Maldives (FAM) là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Maldives. FAM quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia Maldives, tổ chức các giải bóng đá như giải vô địch bóng đá Maldives, cúp bóng đá Maldives, FAM là thành viên của cả Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Nam Á (SAFF).
Chủ tịch của Hiệp hội bóng đá Maldives hiện nay là ông Abdul Shakoor. |
Liên đoàn bóng đá Mông Cổ (MFF) () là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Mông Cổ. MFF quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia Mông Cổ, tổ chức các giải bóng đá như giải vô địch bóng đá Mông Cổ, cúp bóng đá Mông Cổ,.... MFF là thành viên của cả Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Đông Á (EAFF).
Chủ tịch của Liên đoàn bóng đá Mông Cổ hiện nay là ông Renchinnyam Amarjargal. |
Liên đoàn bóng đá Myanmar (MFF) (, ) là cơ quan quản lý bóng đá Myanmar. MFF giám sát đội tuyển nam quốc gia, đội tuyển nữ quốc gia, và đội tuyển trẻ quốc gia Miến Điện cũng như giải vô địch bóng đá quốc gia và các giải thi đấu câu lạc bộ chuyên nghiệp. |
Hiệp hội bóng đá toàn Nepal (ANFA) () là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Nepal. ANFA quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia Nepal, tổ chức các giải bóng đá như giải vô địch bóng đá Nepal, cúp bóng đá Nepal, ANFA là thành viên của cả Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Nam Á (SAFF).
Chủ tịch của Hiệp hội bóng đá toàn Nepal hiện nay là ông Ganesh Thapa. |
là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Nhật Bản. JFA quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia nam và nữ, tổ chức các giải bóng đá như giải vô địch bóng đá Nhật Bản dành cho nam (J-League) và nữ, cúp Thiên Hoàng... JFA là thành viên của FIFA, Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Đông Á (EAFF).
Chủ tịch của Hiệp hội bóng đá Nhật Bản hiện nay là ông Tashima Kozo. |
Hiệp hội bóng đá Oman (OFA) () là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Oman. OFA quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia Oman, tổ chức các giải bóng đá như giải vô địch bóng đá Oman, cúp bóng đá Oman,.... OFA là thành viên của cả Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Tây Á (WAFF).
Chủ tịch của Hiệp hội bóng đá Oman hiện nay là ông Sheikh Khalil Al-Khalili. |
Hiệp hội bóng đá Qatar (QFA) () là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Qatar. QFA quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia Qatar, tổ chức các giải bóng đá như giải vô địch bóng đá Qatar, cúp bóng đá Qatar. QFA là thành viên của cả Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Tây Á (WAFF). |
Liên đoàn bóng đá Philippines (PFF) (; ; là cơ quan quản lý bóng đá Philippines. Được thành lập với tư cách là Hiệp hội bóng đá nghiệp dư Philippines (PAFA) vào năm 1907, PFF là 1 thành viên sáng lập của Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC). PAFA được tổ chức lại thành Hiệp hội bóng đá Philippines (PFA) và sau đó là Liên đoàn bóng đá Philippines.
Ngoài việc là thành viên của AFC, PFF cũng là thành viên của Liên đoàn bóng đá Đông Nam Á. Nó được công nhận là hiệp hội thể thao quốc gia (NSA) cho môn thể thao bóng đá quốc tế Philippines của Ủy ban Olympic Philippines.
Nó tổ chức các đội tuyển bóng đá nam, nữ và trẻ quốc gia Philippines (cũng như các đội tuyển quốc gia cho các biến thể bóng đá của bóng đá trong nhà và bóng đá bãi biển). Nó cũng chịu trách nhiệm tổ chức các giải đấu bóng đá trong nước ở Philippines như giải bóng đá vô địch quốc gia Philippines và Copa Paulino Alcantara thông qua Liga Futbol Inc., và PFF Women's League.
Cấu trúc
Hiệp hội thành viên
Có 33 hiệp hội thành viên theo PFF.
Agusan del Sur – Surigao del Sur RFA
Bukidnon FA
Butuan – Agusan del Norte FA
Central Bicol RFA
Central Luzon RFA
Central Visayas R.F.A.
Cordillera RFA
Davao R.F.A.
East Visayas R.F.A.
Federated F.A. of Masbate
FA of Rizal
Golden Davao RFA
Iligan – Lanao del Norte – Lanao del Sur RFA
Iloilo FA
Laguna – Cavite RFA
Legazpi City – Albay Federated RFA
Maguindanao – Cotabato City FA
Misamis Occidental – Ozamiz FA
Misamis Oriental Camiguin – Gingoog El Salvador Cagayan de Oro RFA
Mount Apo RFA
National Capital Region F.A.
Negros Occidental F.A.
Negros Oriental – Siquijor RFA
North Davao RFA
Oriental Mindoro FA
Pagadian – Zamboanga del Sur – Sibugay RFA
Quezon – Batangas RFA
RFA of Camarines Norte
South Cotabato – Sarangani – Gen. Santos City RFA (SOCSARGEN RFA)
Sultan Kudarat RFA
Surigao del Norte và Dinagat Islands RFA
Zamboanga – Basilan – Sulu – Tawi-tawi FA (ZAMBASULTA FA)
Zamboanga del Norte – Dipolog RFA
Các chủ tịch |
Liên đoàn bóng đá Pakistan (PFF) là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Pakistan. PFF quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia Pakistan, tổ chức các giải bóng đá như giải vô địch bóng đá Pakistan, cúp bóng đá Pakistan, PFF là thành viên của cả Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Nam Á (SAFF).
Chủ tịch của Liên đoàn bóng đá Pakistan hiện nay là ông Makhdoom Syed Faisal Saleh Hayat. |
Hiệp hội bóng đá Palestine (PFA) () là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Palestine. PFA quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia Palestine, tổ chức các giải bóng đá như giải vô địch bóng đá Palestine, cúp bóng đá Palestine,.... PFA là thành viên của cả Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA), Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Tây Á (WAFF).
Chủ tịch của Hiệp hội bóng đá Palestine hiện nay là ông Brig. Ahmed Afifi. |
Cristiano Ronaldo dos Santos Aveiro (; sinh ngày 5 tháng 2 năm 1985) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Bồ Đào Nha hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo và là đội trưởng của câu lạc bộ Saudi Pro League Al Nassr và đội tuyển bóng đá quốc gia Bồ Đào Nha. Được coi là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất mọi thời đại, Ronaldo là chủ nhân của 5 Quả bóng vàng và 4 Chiếc giày vàng châu Âu. Anh đã giành được 33 danh hiệu trong sự nghiệp của mình, bao gồm 7 chức vô địch quốc gia, 5 UEFA Champions League, 1 UEFA European Championship và 1 UEFA Nations League. Ronaldo nắm giữ kỷ lục có số lần ra sân nhiều nhất (183), nhiều bàn thắng nhất (140) và nhiều pha kiến tạo nhất (42) ở Champions League, nhiều bàn thắng nhất ở giải vô địch châu Âu (14), nhiều bàn thắng quốc tế nhất (127) và có số lần ra sân quốc tế nhiều nhất (203). Anh là một trong số ít những cầu thủ đã có hơn 1.100 lần ra sân và đã ghi hơn 800 bàn thắng chính thức trong sự nghiệp cho câu lạc bộ và đội tuyển quốc gia, giúp anh trở thành cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất mọi thời đại.
Ronaldo bắt đầu sự nghiệp chuyên nghiệp của mình trong màu áo Sporting CP, trước khi ký hợp đồng với Manchester United vào năm 2003, giành FA Cup trong mùa giải đầu tiên. Anh sau đó liên tiếp giành được ba chức vô địch Premier League, Champions League và FIFA Club World Cup; ở tuổi 23, anh đã giành được Quả bóng vàng đầu tiên. Ronaldo là thương vụ chuyển nhượng đắt giá nhất thế giới bóng đá thời điểm đó khi anh ký hợp đồng với Real Madrid vào năm 2009 với giá trị chuyển nhượng 94 triệu euro (80 triệu bảng). Anh đóng vai trò quan trọng và tạo thành bộ ba tấn công cùng Karim Benzema và Gareth Bale, giúp Real giành bốn chức vô địch Champions League từ 2014 đến 2018, bao gồm cả La Décima. Trong khoảng thời gian này, Ronaldo đã liên tiếp giành Quả bóng vàng vào các năm 2013 và 2014, một lần nữa vào các năm 2016 và 2017, đồng thời ba lần về nhì sau Lionel Messi, đối thủ được coi là lớn nhất trong sự nghiệp của mình. Anh cũng trở thành cầu thủ ghi bàn nhiều nhất mọi thời đại của câu lạc bộ và cầu thủ ghi bàn nhiều nhất mọi thời đại ở đấu trường Champions League, đồng thời còn là vua phá lưới của giải đấu này trong sáu mùa giải liên tiếp từ 2012 đến 2018. Cùng với Real, Ronaldo đã giành được hai chức vô địch La Liga, hai Copa del Rey, bốn Champions League, ba Siêu cúp UEFA và ba Club World Cup. Năm 2018, anh ký hợp đồng với Juventus với giá trị chuyển nhượng ban đầu là 100 triệu euro (88 triệu bảng Anh), thương vụ chuyển nhượng đắt giá nhất cho một câu lạc bộ Ý và cho một cầu thủ trên 30 tuổi. Anh đã giành được hai chức vô địch Serie A, hai Supercoppa Italiana và một Coppa Italia, trở thành Cầu thủ xuất sắc nhất Serie A và là cầu thủ bóng đá đầu tiên kết thúc mùa giải với tư cách Vua phá lưới ở các giải vô địch quốc gia Anh, Tây Ban Nha và Ý. Anh trở lại Manchester United vào năm 2021, hoàn thành mùa giải đầu tiên duy nhất của mình với tư cách là cầu thủ ghi bàn hàng đầu của câu lạc bộ, trước khi anh bị chấm dứt hợp đồng vào năm 2022. Năm 2023, Ronaldo ký hợp đồng với Al Nassr.
Ronaldo đã có trận ra mắt cho đội tuyển quốc gia Bồ Đào Nha vào năm 2003 ở tuổi 18 và kể từ đó đến nay đã có 200 lần ra sân, anh trở thành cầu thủ khoác áo đội tuyển Bồ Đào Nha nhiều nhất. Với hơn 100 bàn thắng ở cấp độ quốc tế, anh cũng là tay săn bàn số một mọi thời đại của đất nước quê hương mình. Ronaldo đã góp mặt và lập công tại 11 giải đấu lớn; anh ghi bàn thắng quốc tế đầu tiên của mình tại Euro 2004, nơi anh đã giúp Bồ Đào Nha lọt vào trận chung kết. Anh đảm nhận băng đội trưởng của đội tuyển quốc gia vào tháng 7 năm 2008. Năm 2015, Ronaldo được Liên đoàn bóng đá Bồ Đào Nha bầu chọn là cầu thủ Bồ Đào Nha xuất sắc nhất mọi thời đại. Năm sau đó, anh đã dẫn dắt Bồ Đào Nha lên ngôi vô địch giải đấu lớn đầu tiên của họ tại Euro 2016, và nhận Chiếc giày bạc với tư cách cầu thủ ghi bàn nhiều thứ hai của giải. Anh cũng dẫn dắt họ giành chức vô địch UEFA Nations League vào năm 2019, và sau đó nhận Chiếc giày vàng với tư cách Vua phá lưới Euro 2020.
Là một trong những vận động viên nổi tiếng và được tiếp thị nhiều nhất thế giới, Ronaldo được Forbes xếp là vận động viên được trả lương cao nhất thế giới vào năm 2016 và 2017 và là vận động viên nổi tiếng nhất thế giới bởi ESPN từ năm 2016 đến năm 2019. Đồng thời, Time xếp anh vào danh sách 100 người có ảnh hưởng nhất trên thế giới năm 2014. Ronaldo là cầu thủ bóng đá đầu tiên, cũng như vận động viên thể thao thứ ba, kiếm được 1 tỷ đô la trong suốt sự nghiệp.
Thiếu thời
Cristiano Ronaldo dos Santos Aveiro sinh ngày 5 tháng 2 năm 1985 ở São Pedro, Funchal, vốn là thủ phủ của hòn đảo Madeira thuộc Bồ Đào Nha và lớn lên tại Santo António, Funchal. Anh là con thứ tư và là con út của Maria Dolores dos Santos Viveiros da Aveiro, một đầu bếp và José Dinis Aveiro, một người làm vườn và kit man (người quản lý trang phục thi đấu của các cầu thủ bóng đá) bán thời gian. Bà cố nội của anh, Isabel da Piedade, có xuất thân từ đảo São Vicente, Cabo Verde. Ronaldo có một người anh trai, Hugo và hai chị gái, Elma và Liliana Cátia "Katia". Mẹ anh tiết lộ rằng bà từng muốn phá thai vì gia cảnh nghèo khó, cha anh nghiện rượu và đã có quá nhiều con, nhưng bác sĩ của bà đã từ chối thực hiện phẫu thuật. Ronaldo lớn lên trong một gia đình nghèo khó theo đạo Công giáo, phải ở chung phòng với tất cả các anh chị của mình.
Khi còn là một đứa trẻ, Ronaldo chơi cho Andorinha từ năm 1992 đến năm 1995, nơi cha anh đang làm kit man (người quản lý trang phục của các cầu thủ), và sau đó đã có hai năm tại Nacional. Năm 1997, ở tuổi 12, anh đã có ba ngày thử việc với Sporting CP rồi ký hợp đồng gia nhập câu lạc bộ này với mức phí 1.500 bảng. Sau đó, anh chuyển từ Madeira đến Alcochete, gần Lisboa, gia nhập học viện bóng đá trẻ Sporting. Đến năm 14 tuổi, Ronaldo tin rằng anh có khả năng thi đấu bán chuyên và đồng ý với mẹ mình rằng sẽ dừng việc học để tập trung hoàn toàn vào bóng đá. Trong khi đang nhận được sự chú ý của các học sinh khác ở trường, anh đã bị đuổi học sau khi ném ghế vào một giáo viên, người mà Ronaldo cho là đã "không tôn trọng" anh. Tuy nhiên, một năm sau, anh được chẩn đoán mắc chứng tim đập nhanh, một tình trạng bệnh có thể khiến anh phải từ bỏ việc chơi bóng. Ronaldo trải qua cuộc phẫu thuật sử dụng tia laser đốt một số đường dẫn truyền trong tim để tim chỉ còn một đường dẫn nhịp duy nhất, điều này làm thay đổi hoàn toàn nhịp tim lúc nghỉ ngơi của anh. Anh được xuất viện vài giờ sau ca phẫu thuật và tiếp tục tập luyện vài ngày sau đó.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Sporting CP
Ở tuổi 16, Ronaldo được tuyển vào đội trẻ của Sporting bởi huấn luyện viên đội một László Bölöni, người rất ấn tượng với khả năng rê dắt bóng của anh. Sau đó, anh trở thành cầu thủ đầu tiên thi đấu cho các đội U-16, U-17, U-18, đội B và đội một của câu lạc bộ chỉ trong vòng một mùa giải. Một năm sau, vào ngày 29 tháng 9 năm 2002, Ronaldo có trận ra mắt gặp Braga ở Primeira Liga và vào ngày 7 tháng 10 năm 2002, anh ghi hai bàn vào lưới Moreirense trong chiến thắng 3–0 của họ. Trong suốt mùa giải 2002–03, người đại diện của Ronaldo đã đề xuất anh với huấn luyện viên Liverpool Gérard Houllier và chủ tịch Barcelona Joan Laporta. Huấn luyện viên Arsène Wenger đã gặp anh tại sân nhà của Arsenal vào tháng 11 nhằm thảo luận về một thương vụ chuyển nhượng có thể xảy ra.
Huấn luyện viên Manchester United Alex Ferguson quyết tâm phải mua bằng được Ronaldo, sau khi Sporting đánh bại United 3–1 tại lễ khánh thành sân vận động José Alvalade vào tháng 8 năm 2003. Ban đầu, Man United chỉ định ký hợp đồng với Ronaldo và sau đó cho Sporting mượn lại trong một năm. Bị ấn tượng, các cầu thủ Manchester United đã thúc giục Ferguson nhanh chóng ký hợp đồng với anh. Sau trận đấu, Ferguson đồng ý trả cho Sporting 12,24 triệu bảng để tận mắt nhìn thấy "một trong những cầu thủ trẻ thú vị nhất" mà ông từng chứng kiến. Một thập kỷ sau khi anh rời câu lạc bộ, vào tháng 4 năm 2013, Sporting vinh danh Ronaldo bằng việc chọn anh trở thành thành viên thứ 100.000 của họ.
Manchester United
2003–2007: Phát triển sự nghiệp và đột phá
Ronaldo trở thành cầu thủ Bồ Đào Nha đầu tiên chơi cho Manchester United khi anh ký hợp đồng trước mùa giải 2003–04. Phí chuyển nhượng 12,24 triệu bảng của Ronaldo vào thời điểm đó, đưa anh trở thành cầu thủ thiếu niên đắt giá nhất lịch sử bóng đá Anh. Mặc dù ban đầu anh yêu cầu mặc áo số 28, số áo của anh ở Sporting, nhưng anh đã được nhận chiếc áo số 7 của câu lạc bộ, chiếc áo mà trước đó đã được mặc bởi các cầu thủ United nổi tiếng như George Best, Eric Cantona và David Beckham. Việc khoác áo số 7 trở thành nguồn động lực lớn lao của Ronaldo. Một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự thăng tiến của Ronaldo tại Anh được minh chứng là huấn luyện viên Alex Ferguson, người mà sau này anh nói: "Ông ấy là cha tôi trong lĩnh vực thể thao, một trong những nhân tố quan trọng và có ảnh hưởng nhất đến sự nghiệp của tôi."
Ronaldo có trận ra mắt tại Premier League trong chiến thắng 4–0 trên sân nhà trước Bolton Wanderers vào ngày 16 tháng 8 năm 2003, nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt khi anh vào sân thay cho Nicky Butt. Màn trình diễn của anh còn nhận được lời khen có cánh từ George Best, người đã ca ngợi đây là "màn ra mắt thú vị nhất" mà ông từng xem. Ronaldo ghi bàn thắng đầu tiên cho Manchester United từ một quả đá phạt trong chiến thắng 3–0 trước Portsmouth vào ngày 1 tháng 11. Ronaldo tiếp tục ghi thêm ba bàn thắng nữa tại giải đấu này trong nửa sau mùa giải, bàn thắng thứ tư là trong trận gặp Aston Villa vào ngày bế mạc mùa giải Premier League, trận đấu mà anh phải nhận thẻ đỏ lần đầu tiên. Ronaldo kết thúc mùa giải đầu tiên của mình ở Anh bằng việc ghi bàn mở tỷ số trong chiến thắng 3–0 của United trước Millwall tại chung kết FA Cup 2004, giành được danh hiệu đầu tiên cho cá nhân anh. Chuyên gia bóng đá của BBC Alan Hansen mô tả anh là ngôi sao của trận chung kết. Báo chí Anh lúc bấy giờ liên tục chỉ trích Ronaldo vì những pha đảo chân "rườm rà" của anh nhằm cố gắng vượt qua cầu thủ đối phương, tuy nhiên người đồng đội Gary Neville lại cho rằng anh "không phải là một cầu thủ chỉ biết phô diễn kỹ thuật, mà là một tài năng thật sự", và dự đoán anh sẽ trở thành một cầu thủ đẳng cấp thế giới trong tương lai.
Vào đầu năm 2005, Ronaldo đã chơi hai trong số những trận đấu hay nhất của mình ở mùa giải 2004–05, ghi một bàn và có một pha kiến tạo vào lưới Aston Villa và ghi hai bàn vào lưới đại kình địch Arsenal. Anh đã chơi trọn vẹn 120 phút trong trận chung kết FA Cup 2005 với Arsenal, kết thúc với tỷ số hòa không bàn thắng, Man United để thua trong loạt sút luân lưu. Ronaldo ghi bàn thắng thứ 1000 của Manchester United tại Premier League vào ngày 29 tháng 10, bàn thắng duy nhất của họ trong trận thua 4–1 trước Middlesbrough. Vào tháng 11, anh ký bản hợp đồng mới có thời hạn đến năm 2010. Ronaldo giành được danh hiệu thứ hai của mình ở Anh, Cúp Liên đoàn, sau khi ghi bàn thắng thứ ba trong chiến thắng 4–0 của United trước Wigan Athletic tại trận chung kết.
Trong mùa giải thứ ba ở Anh, Ronaldo vướng vào một số rắc rối. Anh bị UEFA cấm thi đấu một trận vì hành vi giơ ngón giữa trước mặt cổ động viên Benfica, và bị đuổi khỏi sân trong trận derby Manchester (thất bại 3–1) vì đá vào cầu thủ Manchester City Andy Cole (vốn là cựu cầu thủ United). Ronaldo đã xảy ra xích mích với tiền đạo Ruud van Nistelrooy, người đã bày tỏ thái độ khó chịu trước lối chơi phô trương của anh. Sau FIFA World Cup 2006, nơi anh góp phần khiến cho người đồng đội tại câu lạc bộ Wayne Rooney bị đuổi khỏi sân, Ronaldo yêu cầu được ra đi, than thở về việc thiếu sự hỗ trợ từ câu lạc bộ sau sự việc vừa qua. United bác bỏ khả năng anh rời câu lạc bộ.
Mặc cho mối quan hệ bất ổn giữa anh với Rooney tại World Cup dẫn đến việc Ronaldo bị la ó trong suốt mùa giải 2006–07, đó vẫn là năm đột phá của anh, khi anh phá vỡ rào cản 20 bàn thắng và lần đầu tiên giành chức vô địch Premier League. Một nhân tố quan trọng dẫn đến thành công này là sự huấn luyện một-một với trợ lý huấn luyện viên René Meulensteen, người đã dạy anh cách làm cho bản thân mình trở nên khó đoán hơn, cải thiện tinh thần đồng đội, chủ động kiếm bóng và tận dụng các cơ hội ghi bàn thay vì chờ đợi cơ hội để ghi những bàn thắng đẹp mắt như trước đây. Anh đã ghi ba cú đúp liên tiếp vào cuối tháng 12, trước Aston Villa (chiến thắng đưa United lên ngôi đầu bảng), Wigan Athletic và Reading. Ronaldo được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất Premier League vào tháng 11 và tháng 12, trở thành cầu thủ thứ ba liên tiếp nhận được giải thưởng này.
2007–2008: Thành công tập thể và cá nhân
Tại vòng tứ kết UEFA Champions League 2006–07, Ronaldo ghi bàn trong trận đấu thứ 30 của anh ở giải đấu này, lập cú đúp trong chiến thắng 7–1 trước Roma. Anh ghi bàn trong bốn phút ở trận bán kết lượt đi với Milan, kết thúc với chiến thắng 3–2, nhưng sau đó United để thua 3–0 lượt về tại San Siro. Anh cũng giúp United lọt vào chung kết FA Cup 2007, nhưng bị Chelsea đánh bại với tỷ số 1–0. Ronaldo ghi bàn thắng duy nhất trong trận derby Manchester vào ngày 5 tháng 5 năm 2007 (bàn thắng thứ 50 của anh cho câu lạc bộ), khi Manchester United giành chức vô địch Premier League lần đầu tiên sau bốn năm. Nhờ những màn trình diễn ấn tượng của mình, anh đã nhận được một loạt các giải thưởng cá nhân trong mùa giải đó. Anh giành được các giải thưởng của Hiệp hội Cầu thủ Chuyên nghiệp bao gồm Cầu thủ xuất sắc nhất, Cầu thủ được người hâm mộ yêu thích nhất và Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất cũng như giải Cầu thủ xuất sắc nhất của Hiệp hội Nhà báo Bóng đá, trở thành cầu thủ đầu tiên giành được cả bốn giải thưởng chính của PFA và FWA. Mức lương câu lạc bộ của anh được tăng lên 120.000 bảng một tuần (tổng cộng 31 triệu bảng một năm) như một phần của bản hợp đồng 5 năm với United. Ronaldo là á quân Quả bóng vàng 2007 sau Kaká, anh còn đứng thứ ba trong cuộc chạy đua giành danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất năm 2007 của FIFA sau Kaká và Lionel Messi.
Ronaldo lập hat-trick đầu tiên và duy nhất cho Manchester United trong chiến thắng 6–0 trước Newcastle United vào ngày 12 tháng 1 năm 2008, đưa United vươn lên ngôi đầu bảng xếp hạng Premier League. Một tháng sau, vào ngày 19 tháng 3, anh đảm nhận băng đội trưởng United lần đầu tiên trong chiến thắng trên sân nhà trước Bolton, ghi cả hai bàn thắng của trận đấu. Bàn thắng thứ hai của Ronaldo trong trận đấu này là bàn thắng thứ 33 của anh tại mùa giải đó, vượt qua 32 bàn thắng của George Best ở mùa giải 1967–68, thiết lập kỷ lục mới của câu lạc bộ về số bàn thắng ghi được trong một mùa giải bởi một tiền vệ. Với 31 bàn thắng, anh giành được Chiếc giày vàng Premier League, cũng như Chiếc giày vàng châu Âu, giúp anh trở thành cầu thủ chạy cánh đầu tiên giành được giải thưởng này. Anh đồng thời nhận được giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất năm của PFA và Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FWA trong mùa giải thứ hai liên tiếp. Tại vòng 16 đội UEFA Champions League, Ronaldo ghi bàn quyết định vào lưới Lyon, giúp United góp mặt ở tứ kết với tổng tỷ số 2–1, anh ghi bàn thắng bằng đầu trong chiến thắng 3–0 tứ kết trước Roma. United tiến đến trận chung kết gặp Chelsea ở Moskva, anh ghi bàn thắng mở tỷ số và thực hiện không thành công lượt sút của mình trong loạt luân lưu, Manchester United lên ngôi vô địch. Với tư cách là Vua phá lưới Champions League, Ronaldo được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất mùa bóng của UEFA.
Anh đã ghi tổng cộng 42 bàn thắng trên mọi đấu trường trong mùa giải 2007–08, mùa giải thành công nhất của Ronaldo trong thời gian ở Anh. Ronaldo bị treo giò ba trận sau khi húc đầu vào một cầu thủ Portsmouth trong giai đoạn đầu mùa giải. Có tin đồn cho rằng Ronaldo sẽ chuyển đến Real Madrid, United đã đệ đơn khiếu nại lên FIFA cáo buộc Madrid cố tình theo đuổi cầu thủ của họ, nhưng sau đó Madrid lên tiếng bác bỏ thông tin này. Chủ tịch FIFA Sepp Blatter khẳng định rằng anh được phép rời câu lạc bộ chủ quản, mô tả nó là "chế độ nô lệ thời hiện đại". Bất chấp việc Ronaldo công khai ủng hộ Blatter, anh vẫn ở lại United thêm một năm nữa.
2008–2009: Mùa giải cuối cùng và tiếp tục thành công
Trước mùa giải 2008–09, vào ngày 7 tháng 7, Ronaldo trải qua cuộc phẫu thuật mắt cá chân, khiến anh phải nghỉ thi đấu trong 10 tuần. Sau khi trở lại, anh ghi bàn thắng thứ 100 trên mọi đấu trường cho United bằng quả đá phạt trong chiến thắng 5–0 trước Stoke City vào ngày 15 tháng 11, anh đã chọc thủng lưới tất cả 19 đội ở Premier League vào thời điểm đó. Vào cuối năm 2008, Ronaldo giúp United giành chức vô địch FIFA Club World Cup 2008 tại Nhật Bản, kiến tạo bàn thắng duy nhất vào lưới Liga de Quito ở chung kết và giành Quả bóng bạc. Với Quả bóng vàng 2008 và Cầu thủ xuất sắc nhất năm 2008 của FIFA, Ronaldo trở thành cầu thủ United đầu tiên giành Quả bóng vàng kể từ George Best vào năm 1968, và là cầu thủ Premier League đầu tiên được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA.
Bàn thắng ấn định tỷ số của anh trong trận lượt về với Porto, một cú sút xa 40m, đã mang về cho anh giải thưởng FIFA Puskás đầu tiên, do FIFA trao tặng để ghi nhận bàn thắng đẹp nhất năm; sau đó anh gọi đây là bàn thắng đẹp nhất mà anh từng ghi được. United tiến đến trận chung kết tại Rome, anh thi đấu mờ nhạt trong thất bại 2–0 của United trước Barcelona. Ronaldo kết thúc thời gian ở Anh với chín danh hiệu, khi United giành chức vô địch Premier League lần thứ ba liên tiếp và một Cúp Liên đoàn. Anh kết thúc mùa giải với 26 bàn thắng trên mọi đấu trường, ít hơn 16 bàn và nhiều hơn bốn lần ra sân so với mùa giải trước. Bàn thắng cuối cùng của anh cho United đến vào ngày 10 tháng 5 năm 2009 từ một quả đá phạt trong trận derby Manchester tại Old Trafford.
Real Madrid
Trước mùa giải 2009–10, Ronaldo gia nhập Real Madrid với mức phí chuyển nhượng kỷ lục thế giới vào thời điểm đó, 80 triệu bảng (94 triệu euro). Hợp đồng của anh có thời hạn đến năm 2015, với mức lương 11 triệu euro mỗi mùa và có điều khoản mua đứt 1 tỷ euro. Ít nhất 80.000 người hâm mộ đã tham dự buổi lễ ra mắt của anh tại Santiago Bernabéu, vượt qua kỷ lục 75.000 người hâm mộ đến chào đón Diego Maradona tại Napoli 25 năm về trước. Kể từ khi Raúl mặc áo số 7 (số áo mà Ronaldo đã mặc ở United), Ronaldo đã nhận chiếc áo số 9, được trao bởi cựu cầu thủ Madrid Alfredo Di Stéfano.
2009–2013: Thương vụ chuyển nhượng kỷ lục thế giới và chức vô địch La Liga
Ronaldo có trận ra mắt tại La Liga vào ngày 29 tháng 8 năm 2009, gặp Deportivo La Coruña, anh ghi bàn từ chấm phạt đền trong chiến thắng 3–2 trên sân nhà của Madrid. Anh ghi bàn mỗi trận trong số bốn trận đấu đầu tiên của mình với câu lạc bộ, là cầu thủ Madrid đầu tiên làm được điều đó. Những bàn thắng đầu tiên của anh cho Real Madrid tại Champions League là hai quả đá phạt trực tiếp trong trận đấu đầu tiên vòng bảng với Zürich. Khởi đầu ấn tượng của anh mùa giải đó đã bị gián đoạn khi anh dính chấn thương mắt cá chân vào tháng 10 trong khi thực hiện nghĩa vụ quốc gia, khiến anh phải ngồi ngoài trong bảy tuần. Một tuần sau khi trở lại, anh nhận thẻ đỏ đầu tiên ở Tây Ban Nha trong trận đấu với Almería. Giữa mùa giải, Ronaldo đứng thứ hai trong cuộc chạy đua giành danh hiệu Quả bóng vàng 2009 và Cầu thủ xuất sắc nhất năm 2009 của FIFA, sau Lionel Messi của Barcelona. Anh kết thúc mùa giải với 33 bàn thắng trên mọi đấu trường, bao gồm một cú hat-trick trong chiến thắng 4–1 trước Mallorca vào ngày 5 tháng 5 năm 2010, đây là cú hat-trick đầu tiên của anh tại Tây Ban Nha. Mùa giải đầu tiên của anh tại Real Madrid kết thúc mà không giành được một danh hiệu nào.
Sau sự ra đi của Raúl, Ronaldo đã được trao lại chiếc áo số 7 trước mùa giải 2010–11. Lần đầu tiên trong sự nghiệp, anh ghi bốn bàn một trận trong chiến thắng 6–1 trước Racing Santander vào ngày 23 tháng 10. Anh kết thúc chuỗi ghi bàn trong sáu trận đấu liên tiếp (ba ở La Liga, một ở Champions League và hai cho đội tuyển Bồ Đào Nha) với tổng số 11 bàn thắng, nhiều nhất trong một tháng. Ronaldo sau đó lập cú hat-trick vào lưới Athletic Bilbao, Levante, Villarreal và Málaga. Bất chấp màn trình diễn của mình, anh đã không được đề cử Quả bóng vàng FIFA 2010 lần đầu tiên.
Một trong chuỗi bốn trận Clásico liên tiếp trước đại kình địch Barcelona vào tháng 4 năm 2011, Ronaldo lập cú đúp để cân bằng kỷ lục ghi 42 bàn trên mọi đấu trường trong một mùa giải. Mặc dù anh không ghi bàn trong trận bán kết Champions League mà Madrid bị loại, nhưng anh đã thực hiện thành công quả phạt đền trong trận lượt về và ghi bàn thắng quyết định ở phút thứ 103 tại trận chung kết Copa del Rey 2011, giành danh hiệu đầu tiên của anh ở Tây Ban Nha. Hai bàn thắng của anh trong trận đấu cuối cùng mùa giải, trước Almería, giúp anh trở thành cầu thủ đầu tiên tại La Liga ghi được 40 bàn thắng. Ngoài danh hiệu Pichichi, Ronaldo còn giành được Chiếc giày vàng châu Âu lần thứ hai, trở thành cầu thủ đầu tiên giành được giải thưởng này ở cả hai giải đấu khác nhau.
Trong mùa giải tiếp theo, mùa 2011–12, Ronaldo đã vượt qua thành tích ghi bàn trước đó của chính mình với 60 bàn thắng trên mọi đấu trường. Anh góp mặt trở lại trong đề cử Quả bóng vàng FIFA 2011, với vị trí á quân sau Messi, sau khi ghi hat-trick vào lưới Real Zaragoza, Rayo Vallecano, Málaga, Osasuna và Sevilla, đưa Madrid lên ngôi đầu bảng trong giai đoạn giữa mùa.
Ronaldo giúp Real Madrid giành chức vô địch La Liga sớm lần đầu tiên sau 4 năm, với kỷ lục 100 điểm. Sau cú hat-trick vào lưới Levante, tiếp tục nới rộng khoảng cách điểm số với Barcelona, anh ghi bàn thắng thứ 100 tại giải đấu cho Madrid trong chiến thắng 5–1 trước Real Sociedad vào ngày 24 tháng 3 năm 2012, một cột mốc mà anh đạt được chỉ sau 92 trận ra sân trong ba mùa giải, phá vỡ kỷ lục trước đó do Ferenc Puskás nắm giữ. Một hat-trick khác trong trận derby Madrid với Atlético Madrid đã nâng tổng số bàn thắng tại giải đấu này của anh lên 40 bàn, bằng với số bàn thắng kỷ lục của anh ở mùa giải trước. Bàn thắng cuối cùng của anh ở La Liga mùa giải đó vào lưới Mallorca, nâng tổng số bàn thắng của anh lên 46 bàn, kém 4 bàn so với kỷ lục vừa mới được thiết lập bởi Messi, và anh được vinh danh là cầu thủ đầu tiên chọc thủng lưới tất cả 19 đội trong một mùa giải ở La Liga.
Ronaldo bắt đầu mùa giải 2012–13 bằng việc giành chức vô địch Supercopa de España 2012, danh hiệu thứ ba của anh tại Tây Ban Nha. Với bàn thắng ở mỗi lượt trận của Ronaldo, Madrid đã giành Siêu cúp Tây Ban Nha nhờ luật bàn thắng trên sân khách sau trận hòa chung cuộc 4–4 trước Barcelona. Mặc dù Ronaldo công khai bình luận rằng anh không hài lòng về "vấn đề chuyên môn" của câu lạc bộ, bằng chứng là việc anh không ăn mừng bàn thắng thứ 150 của mình cho Madrid, tỷ lệ ghi bàn của anh không bị ảnh hưởng quá nhiều. Sau khi lập hat-trick, bao gồm hai quả phạt đền, vào lưới Deportivo La Coruña, anh ghi hat-trick đầu tiên ở Champions League trong chiến thắng 4–1 trước Ajax. Bốn ngày sau, anh trở thành cầu thủ đầu tiên ghi bàn trong sáu trận Clásico liên tiếp khi lập một cú đúp trong trận hòa 2–2 tại Camp Nou. Ronaldo một lần nữa đứng thứ hai trong cuộc chạy đua giành Quả bóng vàng FIFA 2012, sau Messi.
2013–2015: Liên tiếp giành Quả bóng vàng FIFA và La Décima
Sau kỳ nghỉ đông mùa giải 2012–13, Ronaldo đeo băng đội trưởng Real Madrid lần đầu tiên trong một trận đấu chính thức, lập cú đúp để giúp Madrid giành chiến thắng 4–3 trước Real Sociedad vào ngày 6 tháng 1. Sau đó, anh trở thành cầu thủ không phải người Tây Ban Nha đầu tiên sau 60 năm mang băng đội trưởng Madrid góp mặt trong trận El Clasico vào ngày 30 tháng 1, trận đấu này cũng đánh dấu lần ra sân thứ 500 của anh cho câu lạc bộ. Ba ngày trước, anh đã ghi bàn thắng thứ 300 cho câu lạc bộ với cú hat-trick vào lưới Getafe. Anh ghi bàn thắng thứ 200 cho Real Madrid vào ngày 8 tháng 5 trong chiến thắng 6–2 trước Málaga, sau 197 trận ra sân. Anh giúp Madrid lọt vào trận chung kết Copa del Rey 2013 bằng việc ghi hai bàn trong trận El Clásico, đánh dấu trận đấu thứ sáu liên tiếp tại Camp Nou mà anh ghi bàn, một kỷ lục của Real Madrid. Trong trận chung kết, anh đánh đầu ghi bàn thắng mở tỷ số trong trận thua 2–1 trước Atlético Madrid, nhưng sau đó bị nhận thẻ đỏ vì hành vi bạo lực. Tại vòng 16 đội Champions League, Ronaldo đối đầu với đội bóng cũ Manchester United lần đầu tiên. Sau khi ghi bàn gỡ hòa trong trận hòa 1–1 tại Santiago Bernabéu, anh ghi bàn ấn định chiến thắng 2–1 trong ngày trở lại Old Trafford. Anh không ăn mừng khi ghi bàn vào lưới đội bóng cũ nhằm thể hiện sự tôn trọng. Sau khi ghi ba bàn vào lưới Galatasaray tại tứ kết, anh ghi bàn thắng duy nhất cho Madrid trong trận thua 4–1 trước Borussia Dortmund ở bán kết lượt đi, và thắng 2–0 lượt về, họ đã bị loại ở bán kết năm thứ ba liên tiếp.
Vào đầu mùa giải 2013–14, Ronaldo ký bản hợp đồng mới kéo dài thêm 3 năm đến năm 2018, với mức lương 17 triệu euro, giúp anh trở thành cầu thủ được trả lương cao nhất thế giới. Sau đó tiền đạo cánh Gareth Bale gia nhập câu lạc bộ với mức phí chuyển nhượng kỷ lục thế giới 100 triệu euro, vượt qua 94 triệu euro mà Madrid trả cho Ronaldo bốn năm về trước. Cùng với tiền đạo Karim Benzema, họ tạo thành bộ ba tấn công được mệnh danh là "BBC" (từ viết tắt của Bale, Benzema và Cristiano), và cũng là tên của đài truyền hình dịch vụ công của Anh, British Broadcasting Corporation (BBC). Tính đến cuối tháng 11, Ronaldo đã ghi 32 bàn sau 22 trận cho câu lạc bộ và đội tuyển quốc gia, bao gồm cả hat-trick vào lưới Galatasaray, Sevilla, Real Sociedad, Bắc Ireland và Thụy Điển. Ronaldo kết thúc năm 2013 với 69 bàn sau 59 lần ra sân, số bàn thắng nhiều nhất của anh trong một năm. Anh giành Quả bóng vàng FIFA 2013, sự kết hợp giữa Quả bóng vàng và Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA, lần đầu tiên trong sự nghiệp.
Bên cạnh những thành tích cá nhân, Ronaldo đã có được thành công lớn nhất cùng đội bóng thủ đô Tây Ban Nha từ trước đến nay, khi anh giúp Real Madrid hoàn thành La Décima, chiếc cúp châu Âu thứ 10 của họ. Bàn thắng của anh trong chiến thắng 3–0 trên sân nhà trước Borussia Dortmund (trận đấu thứ 100 của anh tại Champions League) đã nâng tổng số bàn thắng của anh trong mùa giải lên 14 bàn, cân bằng với kỷ lục mà Messi đã thiết lập hai năm trước đó. Sau khi lập cú đúp trong trận thắng 4–0 trước Bayern Munich tại Allianz Arena, anh ghi bàn từ chấm phạt đền ở phút 120 trong chiến thắng 4–1 tại trận chung kết trước Atlético Madrid, trở thành cầu thủ đầu tiên ghi bàn trong hai trận chung kết cho hai đội bóng khác nhau. Màn trình diễn của Ronaldo trong trận chung kết bị ảnh hưởng ít nhiều do mắc viêm gân bánh chè và các vấn đề liên quan đến gân khoeo, vốn đã gây khó khăn cho anh trong những tháng cuối cùng của mùa giải. Ronaldo đã thi đấu trận chung kết mặc cho lời khuyên can của nhân viên y tế, sau đó bình luận: "Trong cuộc sống, bạn không thể chiến thắng nếu không hy sinh và bạn phải chấp nhận rủi ro". Là vua phá lưới Champions League lần thứ ba, với kỷ lục 17 bàn thắng, anh được vinh danh là Cầu thủ nam xuất sắc nhất năm của UEFA.
Tại Copa del Rey, Ronaldo đã giúp Madrid tiến vào chung kết bằng việc thực hiện thành công hai quả phạt đền trước Atlético Madrid tại Vicente Calderón. Những vấn đề liên quan đến đầu gối và đùi của Ronaldo khiến anh bỏ lỡ trận chung kết, nơi Real Madrid đánh bại Barcelona 2–1 để giành chức vô địch. Ronaldo đã ghi 31 bàn sau 30 trận ở giải vô địch quốc gia, giúp anh giành được danh hiệu Pichichi và Chiếc giày vàng châu Âu, cùng với tiền đạo Luis Suárez của Liverpool. Trong số đó, anh có bàn thắng thứ 400 trong sự nghiệp, trong lần ra sân thứ 653 cho câu lạc bộ và đội tuyển quốc gia, với cú đúp vào lưới Celta Vigo vào ngày 6 tháng 1; anh đã dành tặng những bàn thắng của mình cho Eusébio, người đã qua đời hai ngày trước đó. Cú vô lê ở phút cuối vào lưới Valencia ngày 4 tháng 5 (bàn thắng thứ 50 của anh trên mọi đấu trường) đã được Liga Nacional de Fútbol Profesional công nhận là bàn thắng đẹp nhất mùa giải, Ronaldo còn được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất La Liga.
Trong mùa giải 2014–15, Ronaldo lập kỷ lục mới là 61 bàn thắng, bằng việc ghi cả hai bàn trong chiến thắng 2–0 của Madrid trước Sevilla ở Siêu cúp châu Âu. Sau đó, anh đã đạt được thành tích ghi bàn tốt nhất từ trước đến nay trong một mùa giải La Liga, với 15 bàn thắng chỉ trong tám vòng đầu đầu tiên. Cú hat-trick kỷ lục thứ 23 tại La Liga của anh vào lưới Celta Vigo ngày 6 tháng 12, giúp anh trở thành cầu thủ nhanh nhất đạt cột mốc 200 bàn thắng ở La Liga trong 178 lần ra sân. Sau khi giành chức vô địch FIFA Club World Cup 2014, Ronaldo nhận được Quả bóng vàng 2014, cân bằng với ba lần nhận giải của Johan Cruyff, Michel Platini và Marco van Basten. Madrid kết thúc ở vị trí thứ hai ở La Liga và dừng bước ở bán kết Champions League. Ronaldo tiếp tục kéo dài chuỗi trận ghi bàn của mình lên thành 12 trận với pha lập công trong chiến thắng 2–0 tại vòng 16 đội trước Schalke 04. Anh đã ghi cả hai bàn cho Real Madrid trong trận bán kết với Juventus, nơi Madrid để thua 3–2 chung cuộc. Với 10 bàn thắng, anh trở thành vua phá lưới mùa thứ ba liên tiếp, cùng với Messi và Neymar. Vào ngày 5 tháng 4, anh ghi năm bàn một trận lần đầu tiên trong sự nghiệp, bao gồm một cú hat-trick trong tám phút, ở trận thắng 9–1 trước Granada. Bàn thắng thứ 300 của anh cho câu lạc bộ diễn ra sau đó ba ngày trong chiến thắng 2–0 trước Rayo Vallecano. Những cú hat-trick tiếp theo vào lưới Sevilla, Espanyol và Getafe đã nâng tổng số cú hat-trick của anh cho Madrid lên 31, vượt qua kỷ lục câu lạc bộ của Di Stéfano là 28. Anh kết thúc mùa giải với 48 bàn thắng, giành danh hiệu Pichichi thứ hai liên tiếp và Chiếc giày vàng châu Âu kỷ lục lần thứ tư.
2015–2017: Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất mọi thời đại của Real Madrid
Vào đầu mùa giải thứ bảy của anh tại Madrid, mùa 2015–16, Ronaldo trở thành cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất mọi thời đại của câu lạc bộ, đầu tiên là tại La Liga và sau đó là trên mọi đấu trường. Năm bàn thắng của anh trong chiến thắng 6–0 trước Espanyol vào ngày 12 tháng 9 đã nâng tổng số bàn thắng của anh ở La Liga lên 230 bàn sau 203 trận, vượt qua Raúl. Một tháng sau, vào ngày 17 tháng 10, anh tiếp tục vượt qua Raúl khi ghi bàn thắng thứ hai trong trận thắng 3–0 trước Levante tại Bernabéu để nâng tổng số bàn thắng của anh cho câu lạc bộ lên 324 bàn. Ronaldo cũng vượt qua Messi để trở thành cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất mọi thời đại ở Champions League với một hat-trick trong trận đấu đầu tiên với Shakhtar Donetsk. Hai bàn trong chiến thắng 2–0 trên sân khách trước Malmö FF vào ngày 30 tháng 9 giúp anh đạt cột mốc 500 bàn thắng trong sự nghiệp cho câu lạc bộ và đội tuyển quốc gia. Sau đó anh trở thành cầu thủ đầu tiên vượt mốc 10 bàn thắng ở vòng bảng UEFA Champions League, với kỷ lục 11 bàn, trong đó có 4 bàn thắng khác cũng vào lưới Malmö.
Bốn bàn thắng của Ronaldo trong chiến thắng 7–1 trên sân nhà trước Celta de Vigo vào ngày 5 tháng 3 năm 2016 đã nâng tổng số bàn thắng của anh tại La Liga lên 252 bàn, trở thành cầu thủ ghi bàn nhiều thứ hai trong lịch sử giải đấu sau Messi. Anh lập một cú hat-trick vào lưới VfL Wolfsburg để giúp Real Madrid tiến vào bán kết Champions League. Cú hat-trick này đã nâng tổng số bàn thắng của anh tại giải đấu lên 16 bàn, giúp anh trở thành Vua phá lưới trong mùa giải thứ 4 liên tiếp ở Real Madrid và là lần thứ 5 trong sự nghiệp. Gặp vấn đề về thể lực, Ronaldo đã có màn trình diễn kém thuyết phục trong trận chung kết gặp lại Atlético, mặc dù anh đã thực hiện thành công lượt sút quyết định trong loạt luân lưu để mang về chức vô địch thứ 11 cho Madrid. Năm thứ sáu liên tiếp, anh kết thúc mùa giải với hơn 50 bàn thắng trên mọi đấu trường. Với những nỗ lực trong suốt mùa giải, anh lần thứ hai nhận được giải thưởng Cầu thủ nam xuất sắc nhất năm của UEFA.
Ronaldo bỏ lỡ ba trận đấu đầu tiên của Madrid ở mùa giải 2016–17, bao gồm cả Siêu cúp châu Âu 2016 với Sevilla, khi anh phải hồi phục chấn thương đầu gối gặp phải trong trận chung kết Euro 2016 trước Pháp. Vào ngày 15 tháng 9, anh đã không ăn mừng bàn thắng từ quả phạt đền trong trận đấu với Sporting CP ở Champions League, Ronaldo sau trận đấu nói rằng "họ đã biến tôi trở thành một con người như hiện tại." Vào ngày 7 tháng 11, hợp đồng của anh đã được cập nhật lần thứ hai và được gia hạn thêm ba năm cho đến năm 2021. Vào ngày 19 tháng 11, anh lập một cú hat-trick trong chiến thắng 3–0 trước Atlético, giúp anh trở thành cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất mọi thời đại trong trận derby Madrid với 18 bàn. Vào ngày 15 tháng 12, Ronaldo ghi bàn thắng thứ 500 trong sự nghiệp cho câu lạc bộ tại trận thắng 2–0 trước Club América ở bán kết FIFA Club World Cup 2016. Sau đó, anh lập một cú hat-trick trong chiến thắng 4–2 trước câu lạc bộ Nhật Bản Kashima Antlers tại trận chung kết. Ronaldo kết thúc giải đấu khi là vua phá lưới với bốn bàn thắng và cũng được vinh danh là cầu thủ xuất sắc nhất giải. Anh giành Quả bóng vàng 2016, lần thứ tư trong sự nghiệp và còn nhận được giải Cầu thủ nam xuất sắc nhất năm 2016 của FIFA, một sự hồi sinh của Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA kiểu cũ, nhờ vào thành công của anh khi cùng Bồ Đào Nha lên ngôi vô địch Euro 2016.
Trong trận tứ kết UEFA Champions League 2016–17 với Bayern vào tháng 4, Ronaldo ghi cả hai bàn trong chiến thắng 2–1 trên sân khách, giúp anh làm nên lịch sử khi trở thành cầu thủ đầu tiên đạt mốc 100 bàn thắng tại giải đấu danh giá nhất cấp câu lạc bộ của UEFA. Trong trận tứ kết lượt về, Ronaldo đã lập một cú hat-trick 'hoàn hảo' và cán mốc bàn thắng thứ 100 tại Champions League, trở thành cầu thủ đầu tiên làm được điều này khi Madrid một lần nữa đánh bại Bayern với tỷ số 4–2 sau hiệp phụ. Vào ngày 2 tháng 5, Ronaldo lập một cú hat-trick khác khi Madrid đánh bại Atlético 3–0 trong trận bán kết lượt đi Champions League. Vào ngày 17 tháng 5, Ronaldo vượt qua Jimmy Greaves để trở thành cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất mọi thời đại ở năm giải vô địch quốc gia hàng đầu châu Âu, với hai bàn thắng vào lưới Celta de Vigo. Anh kết thúc mùa giải với 42 bàn thắng trên mọi đấu trường khi giúp Madrid giành chức vô địch La Liga lần đầu tiên kể từ năm 2012. Trong trận chung kết Champions League, Ronaldo ghi hai bàn trong chiến thắng trước Juventus và trở thành cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất trong mùa giải thứ năm liên tiếp và là thứ sáu trong sự nghiệp, với 12 bàn, đồng thời trở thành cầu thủ đầu tiên ghi bàn ở ba trận chung kết trong kỷ nguyên Champions League cũng như đạt mốc bàn thắng thứ 600 trong sự nghiệp. Madrid cũng trở thành đội bóng đầu tiên giành chiến thắng liên tiếp trong các trận chung kết ở kỷ nguyên Champions League.
2017–2018: Chức vô địch Champions League thứ năm và Quả bóng vàng thứ năm
Vào đầu mùa giải 2017–18, Ronaldo ghi bàn thắng thứ hai cho Madrid ở phút 80 trong chiến thắng 3–1 trước Barcelona tại trận lượt đi Supercopa de España 2017 ở Camp Nou; tuy nhiên, anh bị đuổi khỏi sân hai phút sau đó và bỏ lỡ trận lượt về. Vào ngày 23 tháng 10, màn trình diễn của anh trong suốt năm 2017 đã giúp anh giành giải Cầu thủ nam xuất sắc nhất năm của FIFA lần thứ hai liên tiếp. Vào ngày 6 tháng 12, anh trở thành cầu thủ đầu tiên ghi bàn trong cả sáu trận vòng bảng Champions League với cú cứa lòng trên sân nhà trước Dortmund. Một ngày sau, Ronaldo giành Quả bóng vàng 2017, đây là lần thứ năm anh nhận giải thưởng này, trên Tháp Eiffel ở Paris. Vào ngày 16 tháng 12, anh ghi bàn thắng quyết định từ quả đá phạt trực tiếp, giúp Madrid giành chức vô địch FIFA Club World Cup thứ hai liên tiếp khi đánh bại Gremio trong trận chung kết. Vào ngày 3 tháng 3 năm 2018, anh ghi hai bàn trong chiến thắng 3–1 trên sân nhà trước Getafe, đây là bàn thắng thứ 300 sau 286 lần ra sân của anh tại La Liga, giúp anh trở thành cầu thủ nhanh nhất đạt được cột mốc này và là cầu thủ thứ hai làm được điều đó sau Messi. Vào ngày 18 tháng 3, anh lập cú hat-trick thứ 50 trong sự nghiệp, ghi bốn bàn ở trận thắng 6–3 trước Girona.
Vào ngày 3 tháng 4, Ronaldo ghi hai bàn trong chiến thắng 3–0 trên sân khách trước Juventus ở tứ kết UEFA Champions League 2017–18, bàn thắng thứ hai của anh là một cú ngả bàn đèn. Được hậu vệ Juventus Andrea Barzagli mô tả như một "bàn thắng trên PlayStation", chân của Ronaldo cách mặt đất xấp xỉ , nó nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt từ những cổ động viên đội đối phương trong sân vận động cũng như rất nhiều lời khen ngợi từ các đồng nghiệp, bác sĩ và huấn luyện viên. Vào ngày 11 tháng 4, anh ghi bàn trong trận lượt về trên sân nhà trước Juventus, quả phạt đền ở phút bù giờ thứ 98 trong trận thua 3–1, đồng nghĩa với việc Madrid giành chiến thắng 4–3 chung cuộc. Đó là bàn thắng thứ mười của anh vào lưới Juventus, một kỷ lục Champions League đối với một câu lạc bộ duy nhất. Trong trận chung kết vào ngày 26 tháng 5, Madrid đã đánh bại Liverpool với tỷ số 3–1, mang về chức vô địch Champions League thứ năm cho cá nhân Ronaldo, anh là cầu thủ đầu tiên làm được điều đó. Anh là Vua phá lưới của giải đấu trong mùa giải thứ sáu liên tiếp với 15 bàn thắng. Sau trận chung kết, Ronaldo đề cập đến khoảng thời gian của anh tại Madrid trong quá khứ, làm dấy lên suy đoán rằng anh có thể rời câu lạc bộ.
Juventus
Bất chấp nhiều tháng đàm phán về một bản hợp đồng mới với Real Madrid, vào ngày 10 tháng 7 năm 2018, Ronaldo ký hợp đồng có thời hạn 4 năm với câu lạc bộ Ý Juventus sau khi hoàn tất thương vụ chuyển nhượng trị giá 100 triệu euro, bao gồm thêm 12 triệu euro phụ phí khác. Đây là thương vụ chuyển nhượng đắt giá nhất từ trước đến nay đối với một cầu thủ trên 30 tuổi, và là mức trả cao nhất của một câu lạc bộ Ý. Khi ký hợp đồng, Ronaldo cho rằng anh rời Madrid vì muốn tìm kiếm một thử thách mới, nhưng sau đó lại cho rằng việc chuyển nhượng là do thiếu sự ủng hộ mà anh nhận được từ chủ tịch câu lạc bộ Florentino Pérez.
2018–2020: Các chức vô địch Serie A liên tiếp
Vào ngày 18 tháng 8, Ronaldo có trận ra mắt trong chiến thắng 3–2 trên sân khách trước ChievoVerona. Vào ngày 16 tháng 9, Ronaldo ghi hai bàn thắng đầu tiên cho Juventus trong lần ra sân thứ tư ở trận thắng 2–1 trên sân nhà trước Sassuolo ở Serie A; bàn thắng thứ hai của Ronaldo là bàn thắng thứ 400 trong sự nghiệp của anh. Vào ngày 19 tháng 9, trong trận đấu đầu tiên tại Champions League cho Juventus, anh bị đuổi khỏi sân ở phút 29 vì "hành vi bạo lực", đây là thẻ đỏ đầu tiên của anh sau 154 lần ra sân tại giải đấu này. Ronaldo trở thành cầu thủ đầu tiên trong lịch sử thắng 100 trận tại Champions League, kiến tạo cho Mario Mandžukić lập công trong chiến thắng 1–0 trên sân nhà trước Valencia, giúp Juventus vượt qua vòng bảng. Vào tháng 12, anh ghi bàn thắng thứ 10 của anh tại Serie A, bàn thắng ấn định từ chấm phạt đền trong chiến thắng 3–0 trên sân khách trước Fiorentina. Sau khi đứng thứ hai ở cả hai giải Cầu thủ nam xuất sắc nhất năm 2017 của UEFA và Cầu thủ nam xuất sắc nhất năm 2017 của FIFA lần đầu tiên sau ba năm, xếp sau Luka Modrić, màn trình diễn của Ronaldo trong năm 2018 cũng giúp anh được bầu chọn là Á quân Quả bóng vàng 2018, một lần nữa đứng sau người đồng đội cũ tại Real Madrid. Ronaldo giành được danh hiệu đầu tiên cùng với câu lạc bộ vào ngày 16 tháng 1 năm 2019, Supercoppa Italiana 2018, sau khi anh ghi bàn thắng duy nhất từ một cú đánh đầu vào lưới AC Milan.
Vào ngày 10 tháng 2, Ronaldo ghi bàn trong chiến thắng 3–0 trước Sassuolo, trận đấu sân khách thứ 9 liên tiếp mà anh ghi bàn tại giải đấu, san bằng kỷ lục ghi ít nhất một bàn thắng trong mùa giải Serie A của Giuseppe Signori. Vào ngày 12 tháng 3, Ronaldo lập cú hat-trick trong chiến thắng 3–0 trên sân nhà trước Atlético ở trận lượt về vòng 16 đội Champions League, giúp Juventus tiến vào tứ kết. Tháng sau, Ronaldo ghi bàn thắng thứ 125 tại Champions League, bàn mở tỷ số trong trận hòa 1–1 trên sân khách ở trận tứ kết lượt đi với Ajax, vào ngày 10 tháng 4. Trong trận lượt về tại Turin vào ngày 16 tháng 4, anh ghi bàn mở tỷ số, nhưng cuối cùng Juventus đã để thua với tỷ số 2–1 và bị loại khỏi giải. Vào ngày 20 tháng 4, Ronaldo thi đấu trong trận tranh scudetto với Fiorentina, Juventus giành chức vô địch lần thứ tám liên tiếp sau chiến thắng 2–1 trên sân nhà, qua đó anh trở thành cầu thủ đầu tiên giành chức vô địch ở Anh, Tây Ban Nha và Ý. Vào ngày 27 tháng 4, anh ghi bàn thắng thứ 600 cho câu lạc bộ, bàn gỡ hòa trong trận hòa 1–1 trên sân khách trước Inter Milan tại Derby d'Italia. Kết thúc mùa giải Serie A đầu tiên của mình với 21 bàn thắng và 8 đường kiến tạo, Ronaldo giành giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất Serie A.
Ronaldo ghi bàn thắng đầu tiên trong mùa giải 2019–20 tại trận thắng 4–3 trên sân nhà trước Napoli ở Serie A vào ngày 31 tháng 8 năm 2019. Vào ngày 23 tháng 9, anh đứng vị trí thứ 3 tại giải thưởng Cầu thủ nam xuất sắc nhất năm 2019 của FIFA. Vào ngày 1 tháng 10, anh đã đạt được một số cột mốc trong chiến thắng 3–0 của Juventus tại Champions League trước Bayer Leverkusen: anh ghi bàn trong mùa giải Champions League thứ 14 liên tiếp, san bằng kỷ lục của Raúl và Messi; anh cũng phá kỷ lục cầu thủ có nhiều trận thắng nhất mọi thời đại của Iker Casillas và cân bằng kỷ lục ghi bàn vào lưới 33 đội bóng khác nhau của Raúl tại Champions League. Vào ngày 6 tháng 11, trong chiến thắng 2–1 trên sân khách trước Lokomotiv Moskva, anh đã cân bằng với Paolo Maldini để trở thành cầu thủ ra sân nhiều thứ hai trong các giải đấu cấp câu lạc bộ của UEFA với 174 lần ra sân. Vào ngày 18 tháng 12, Ronaldo bật nhảy lên độ cao , cao hơn xà ngang, để đánh đầu ghi bàn ấn định chiến thắng 2–1 trước Sampdoria trên sân khách. Ronaldo lập cú hat-trick đầu tiên tại Serie A vào ngày 6 tháng 1 năm 2020, trong chiến thắng 4–0 trên sân nhà trước Cagliari. Đây là cú hat-trick thứ 56 trong sự nghiệp, anh trở thành cầu thủ thứ hai sau Alexis Sánchez lập hat-trick ở Premier League, La Liga và Serie A. Vào ngày 2 tháng 2, anh ghi hai bàn từ chấm phạt đền trong chiến thắng 3–0 trên sân nhà trước Fiorentina, san bằng kỷ lục ghi bàn của David Trezeguet trong chín trận đấu liên tiếp ở Serie A, và đã phá kỷ lục sáu ngày sau đó bằng việc ghi bàn trong trận đấu thứ mười liên tiếp của anh, thất bại 2–1 trên sân khách trước Hellas Verona. Vào ngày 22 tháng 2, Ronaldo ghi bàn trong trận đấu thứ 11 liên tiếp ở Serie A, ngang bằng với Gabriel Batistuta và Fabio Quagliarella, trong trận đấu chuyên nghiệp thứ 1.000 của anh, chiến thắng 2–1 trên sân khách trước SPAL.
Vào ngày 22 tháng 6, anh thực hiện thành công một quả phạt đền trong chiến thắng 2–0 trên sân khách trước Bologna, vượt qua Rui Costa để trở thành cầu thủ Bồ Đào Nha ghi nhiều bàn thắng nhất trong lịch sử Serie A. Vào ngày 4 tháng 7, anh ghi bàn thắng thứ 25 trong mùa giải từ một quả đá phạt trong chiến thắng 4–1 trên sân nhà trước Torino, trở thành cầu thủ Juventus đầu tiên đạt được cột mốc này kể từ Omar Sívori năm 1961; bàn thắng này cũng là bàn thắng đầu tiên của anh từ một quả đá phạt cho câu lạc bộ sau 43 lần thực hiện không thành công. Vào ngày 20 tháng 7, Ronaldo ghi hai bàn trong chiến thắng 2–1 trên sân nhà trước Lazio; bàn thắng đầu tiên của anh là bàn thắng thứ 50 tại Serie A. Anh trở thành cầu thủ nhanh thứ hai đạt được cột mốc này, sau Gunnar Nordahl, và là cầu thủ đầu tiên trong lịch sử đạt mốc 50 bàn thắng ở Premier League, La Liga và Serie A. Với cú đúp của mình, anh cũng đạt được cột mốc 30 bàn thắng trong mùa giải, trở thành cầu thủ thứ ba (sau Felice Borel năm 1934 và John Hansen năm 1952) trong lịch sử Juventus đạt được cột mốc đó trong một mùa giải. Ngoài ra, anh còn trở thành cầu thủ lớn tuổi nhất, ở tuổi 35 và 166 ngày, ghi được hơn 30 bàn thắng ở một trong năm giải vô địch quốc gia hàng đầu châu Âu kể từ khi Ronnie Rooke khoác áo Arsenal năm 1948. Vào ngày 26 tháng 7, Ronaldo ghi bàn mở tỷ số trong chiến thắng 2–0 trên sân nhà trước Sampdoria, giúp Juventus giành chức vô địch Serie A lần thứ chín liên tiếp. Anh kết thúc mùa giải thứ hai với 31 bàn thắng, trở thành cầu thủ ghi nhiều bàn thắng thứ hai tại giải đấu, sau người giành Chiếc giày vàng châu Âu Ciro Immobile, với 36 bàn. Vào ngày 7 tháng 8, Ronaldo lập một cú đúp trong chiến thắng 2–1 trên sân nhà trước Lyon ở trận lượt về vòng 16 đội Champions League, giúp anh kết thúc mùa giải với 37 bàn thắng; phá vỡ kỷ lục câu lạc bộ của Borel với 36 bàn thắng trong một mùa giải. Mặc dù giành chiến thắng, trận đấu kết thúc với tổng tỷ số hòa 2–2 và Juventus bị loại khỏi giải vì luật bàn thắng sân khách.
2020–2021: 100 bàn thắng cho Juventus, Capocannoniere và rời câu lạc bộ
Vào ngày 20 tháng 9 năm 2020, Ronaldo ghi bàn trong trận đấu mở màn mùa giải của Juventus, chiến thắng 3–0 trên sân nhà trước Sampdoria. Vào ngày 1 tháng 11, sau khi Ronaldo mất gần ba tuần để điều trị COVID-19, anh trở lại trong trận đấu gặp Spezia; anh vào sân từ băng ghế dự bị trong hiệp hai và ghi bàn trong vòng ba phút đầu tiên, trước khi ghi bàn thắng thứ hai từ chấm phạt đền trong chiến thắng 4–1 trên sân khách. Vào ngày 2 tháng 12, anh ghi bàn vào lưới Dynamo Kyiv trong trận đấu vòng bảng Champions League, cán mốc bàn thắng thứ 750 trong sự nghiệp. Ronaldo thi đấu trận thứ 100 trên mọi đấu trường cho Juventus vào ngày 13 tháng 12, thực hiện thành công hai quả phạt đền trong chiến thắng 3–1 trước Genoa trên sân khách, nâng tổng số bàn thắng của anh lên 79. Vào ngày 20 tháng 1 năm 2021, Juventus giành chức vô địch Supercoppa Italiana 2020 sau chiến thắng 2–0 trước Napoli, với bàn thắng mở tỷ số của Ronaldo. Vào ngày 2 tháng 3, anh ghi bàn trong chiến thắng 3–0 trước Spezia trong trận đấu thứ 600 tại Serie A, trở thành cầu thủ đầu tiên ghi ít nhất 20 bàn trong 12 mùa giải liên tiếp ở năm giải vô địch quốc gia hàng đầu châu Âu. Vào ngày 9 tháng 3, Juventus bị Porto loại khỏi Champions League ngay ở vòng 16 đội, một lần nữa theo luật bàn thắng sân khách (tổng tỷ số 4–4). Vào ngày 14 tháng 3, anh lập cú hat-trick thứ 57 trong sự nghiệp ở trận thắng 3–1 trên sân khách trước Cagliari. Vào ngày 12 tháng 5, Ronaldo ghi một bàn trong chiến thắng 3–1 trên sân khách trước Sassuolo, đạt mốc bàn thắng thứ 100 cho Juventus trên mọi đấu trường trong lần ra sân thứ 131 của anh, trở thành cầu thủ Juventus nhanh nhất đạt được thành tích này. Với chiến thắng của Juventus trong trận chung kết Coppa Italia 2021 vào ngày 19 tháng 5, Ronaldo trở thành cầu thủ đầu tiên trong lịch sử giành được mọi danh hiệu quốc nội lớn ở Anh, Tây Ban Nha và Ý. Ronaldo kết thúc mùa giải với 29 bàn thắng ở Serie A, giành giải Capocannoniere cho cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất và trở thành cầu thủ đầu tiên kết thúc với tư cách Vua phá lưới ở các giải Anh, Tây Ban Nha và Ý.
Vào ngày 22 tháng 8, Ronaldo bắt đầu trận đấu đầu tiên của mùa giải mới trên băng ghế dự bị, vào sân thay cho Álvaro Morata trong trận hòa 2–2 trước Udinese Calcio. Mặc dù huấn luyện viên trưởng Massimiliano Allegri xác nhận đó là quyết định của chính Ronaldo do tình trạng thể lực, nhưng nó được đưa ra trong bối cảnh có thông tin anh sẽ rời câu lạc bộ trước khi kỳ chuyển nhượng mùa hè đóng cửa, và Ronaldo đã nói với Allegri rằng anh "không có ý định" tiếp tục ở lại Juventus. Vào ngày 26 tháng 8, Ronaldo và người đại diện Jorge Mendes đã đạt được thỏa thuận riêng với Manchester City về các điều khoản cá nhân, nhưng câu lạc bộ đã rút khỏi thỏa thuận vào ngày hôm sau do chi phí chuyển nhượng. Cùng ngày, có thông tin xác nhận rằng đại kình địch của Man City là Manchester United, câu lạc bộ cũ của Ronaldo, đang đàm phán để ký hợp đồng với anh, trong khi cựu huấn luyện viên Alex Ferguson và một số đồng đội cũ đã thuyết phục anh tái ký hợp đồng với United.
Trở lại Manchester United
2021–2022: 100 bàn thắng ở Premier League và nội bộ lục đục
Vào ngày 27 tháng 8 năm 2021, Manchester United thông báo rằng họ đã đạt được thỏa thuận với Juventus để tái ký hợp đồng với Ronaldo, tùy thuộc vào thỏa thuận liên quan đến các điều khoản cá nhân, thị thực và y tế. Thương vụ chuyển nhượng được cho là có giá trị ban đầu là 12,85 triệu bảng, có thời hạn hai năm cộng với tùy chọn gia hạn thêm một năm, được công bố vào ngày 31 tháng 8. Ronaldo sẽ mặc áo số 7 sau khi Edinson Cavani đồng ý chuyển sang số 21. Doanh số bán áo đấu trong 24 giờ đầu tiên của Ronaldo được cho là đã phá kỷ lục mọi thời đại sau một thương vụ chuyển nhượng, vượt qua Messi sau khi anh chuyển đến Paris Saint-Germain trước đó.
Vào ngày 11 tháng 9, Ronaldo có trận tái xuất tại Old Trafford, ghi hai bàn mở tỷ số trong chiến thắng 4–1 trước Newcastle United. Vào ngày 29 tháng 9, anh ghi bàn thắng ấn định tỷ số ở phút cuối cùng trong chiến thắng 2–1 của United trên sân nhà trước Villarreal ở Champions League, vượt qua Iker Casillas để trở thành cầu thủ có nhiều lần ra sân nhất giải đấu. Trong trận đấu tiếp theo tại Champions League vào ngày 20 tháng 10, Ronaldo một lần nữa ghi bàn thắng quyết định vào phút cuối, giúp United thắng ngược 3–2 trên sân nhà trước Atalanta, và lập cú đúp, bao gồm cả bàn gỡ hòa ở phút cuối, trong trận đấu gặp lại Atalanta vào ngày 2 tháng 11. Vào ngày 23 tháng 11, Ronaldo trở thành cầu thủ đầu tiên ghi bàn trong 5 trận liên tiếp ở một mùa giải Champions League cho một câu lạc bộ Anh, sau khi mở tỷ số cho United trong chiến thắng 2–0 trước Villarreal, sáu bàn thắng của anh đóng vai trò quan trọng giúp United giành quyền vào vòng 16 đội với tư cách là đội đứng đầu bảng. Vào ngày 2 tháng 12, Ronaldo ghi hai bàn trong chiến thắng 3–2 trên sân nhà trước Arsenal ở Premier League, trở thành cầu thủ đầu tiên ghi hơn 800 bàn thắng trong sự nghiệp.
Tháng sau, sau khi mối quan hệ với các đồng đội và huấn luyện viên tạm quyền Ralf Rangnick rạn nứt, màn trình diễn của anh và câu lạc bộ đã sa sút trong mùa giải, với việc Ronaldo cân bằng thành tích ghi bàn tệ nhất kể từ năm 2010 trong thời gian khoác áo Real Madrid, anh đã không thể ghi bàn trong vòng hai tháng, trước khi ghi bàn đầu tiên trong năm mới, mở tỷ số trong chiến thắng 2–0 của United trên sân nhà trước Brighton & Hove Albion vào ngày 15 tháng 2 năm 2022. Sau chấn thương gân khoeo khiến anh bỏ lỡ trận derby Manchester với Manchester City, Ronaldo đã trở lại sau chấn thương vào ngày 12 tháng 3, ghi một hat-trick trong chiến thắng 3–2 trước Tottenham Hotspur, giúp anh vượt qua kỷ lục ghi bàn của Josef Bican trong bóng đá chuyên nghiệp với 807 bàn thắng trong suốt sự nghiệp, mặc dù Liên đoàn bóng đá Cộng hòa Séc lập luận rằng Bican đã ghi được 821 bàn thắng. Vào ngày 16 tháng 4, anh ghi hat-trick thứ 50 ở cấp độ câu lạc bộ trong chiến thắng 3–2 trước Norwich City. Vào ngày 23 tháng 4, anh ghi bàn thắng thứ 100 tại Premier League trong trận thua 1–3 trước Arsenal. Sau khi ghi bàn trong các trận đấu tiếp theo gặp Chelsea và Brentford, anh được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất tháng của Premier League vào tháng 4.
Anh kết thúc mùa giải với 24 bàn thắng trên mọi đấu trường, 18 trong số đó là ở Premier League, giúp anh trở thành cầu thủ ghi bàn nhiều thứ ba trong giải đấu này sau những người đoạt Chiếc giày vàng Mohamed Salah và Son Heung-min, góp mặt vào Đội hình xuất sắc nhất năm của Premier League và là người chiến thắng giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Sir Matt Busby, được trao cho cầu thủ xuất sắc nhất của United trong mùa giải trước; tuy nhiên, với việc United kết thúc ở vị trí thứ sáu đáng thất vọng và chỉ đủ điều kiện tham dự UEFA Europa League, Ronaldo lần đầu tiên trắng tay kể từ năm 2010.
2022: Mùa giải cuối cùng và rời câu lạc bộ
Sau khi ngày càng bất mãn với cách thức lãnh đạo của United trong và ngoài sân cỏ, Ronaldo đã bỏ lỡ chuyến du đấu tiền mùa giải của câu lạc bộ ở Thái Lan và Úc vì lý do gia đình, trong bối cảnh có thông tin cho rằng anh muốn rời đi để gia nhập một câu lạc bộ thi đấu ở Champions League, mặc dù tân huấn luyện viên Erik ten Hag khẳng định rằng anh không phải để bán và là một phần trong kế hoạch của câu lạc bộ. Người đại diện Jorge Mendes bắt đầu đàm phán với nhiều câu lạc bộ khác nhau để chuyển nhượng anh theo dạng cho mượn hoặc chuyển nhượng tự do, bao gồm Bayern Munich, Paris Saint-Germain và Chelsea, với việc giới chủ mới của câu lạc bộ là Todd Boehly rất muốn sở hữu Ronaldo. Tuy nhiên, do vấn đề tuổi tác, chi phí chuyển nhượng tổng thể và yêu cầu lương bổng cao, nhiều câu lạc bộ châu Âu đã từ chối cơ hội ký hợp đồng với anh, bao gồm cả Chelsea sau khi huấn luyện viên Thomas Tuchel không chấp thuận việc ký hợp đồng với Ronaldo.
Thất bại trong việc chuyển nhượng, Ronaldo mất vị trí trong đội hình xuất phát vào tay Marcus Rashford và Anthony Martial, anh chỉ ra sân trong các trận đấu ở Europa League. Anh ghi bàn thắng đầu tiên của mình trong giải đấu ở tuổi 37, thực hiện thành công quả phạt đền để nâng tỷ số lên 2–0 trước Sheriff Tiraspol vào ngày 15 tháng 9. Vào ngày 2 tháng 10, Ronaldo không được ra sân trong trận thua 6–3 của United trước Manchester City, Ten Hag nói rằng ông từ chối tung Ronaldo vào sân vì "sự tôn trọng dành cho sự nghiệp vĩ đại của anh". Vào ngày 9 tháng 10, Ronaldo vào sân thay người và ghi bàn thắng thứ 700 trong sự nghiệp cho câu lạc bộ trong chiến thắng 2–1 trước Everton. Mười ngày sau, Ronaldo từ chối được tung vào sân trong trận đấu trên sân nhà với Tottenham và rời khỏi trước khi tiếng còi mãn cuộc vang lên; Ten Hag đã trừng phạt siêu sao người Bồ Đào Nha bằng việc loại anh khỏi đội hình ra sân trong trận đấu sắp tới với Chelsea và bắt anh xuống tập với đội trẻ. Sau khi thảo luận với huấn luyện viên, Ronaldo đã trở lại tập luyện và đá chính trong trận thắng trên sân nhà trước Sheriff vào ngày 27 tháng 10, anh ghi bàn thắng thứ ba và giúp United giành quyền vào vòng loại trực tiếp Europa League. Ten Hag chỉ định Ronaldo mang băng đội trưởng trong trận thua 3–1 trước Aston Villa vào ngày 6 tháng 11, nói rằng Ronaldo là "một phần quan trọng của đội bóng, chúng tôi hài lòng với anh ấy và giờ anh ấy phải đảm nhận nhiều hơn nữa vai trò thủ lĩnh". Ronaldo sau đó đã bỏ lỡ những trận đấu tiếp theo của United trước khi tạm nghỉ để nhường chỗ cho World Cup, Ten Hag nói rằng Ronaldo bị ốm.
Vào ngày 14 tháng 11, buổi phỏng vấn với Piers Morgan đã được công bố, trong đó Ronaldo cho biết anh cảm thấy bị "phản bội" bởi chính Ten Hag và các giám đốc điều hành cấp cao, những người muốn Ronaldo rời câu lạc bộ, đồng thời cáo buộc câu lạc bộ đã nghi ngờ anh về bệnh tình của cô con gái dẫn tới việc bỏ lỡ giai đoạn tiền mùa giải, anh bổ sung thêm rằng bản thân không tôn trọng ten Hag "vì ông ta không thể hiện sự tôn trọng đối với tôi", khiến anh thất vọng về cách đối thoại của câu lạc bộ. Ronaldo cho rằng Ten Hag đã cố tình khiêu khích anh bằng việc để mình ngồi dự bị trong trận gặp City, sau đó muốn đưa anh vào sân trong những phút cuối trận gặp Tottenham, nhưng nói thêm rằng anh cảm thấy hối hận vì đã quyết định rời sân sớm. Anh cũng đặt dấu hỏi về việc bổ nhiệm Rangnick vào mùa giải trước vì cho rằng ông là "giám đốc thể thao chứ không phải huấn luyện viên". Về phía câu lạc bộ, Ronaldo tuyên bố "không có sự tiến triển" kể từ khi cựu huấn luyện viên Alex Ferguson ra đi vào năm 2013, mặc dù anh mong đợi những thay đổi về "công nghệ, cơ sở hạ tầng". Ronaldo tuyên bố rằng gia đình Glazer "không quan tâm gì đến câu lạc bộ" vì anh chưa bao giờ nói chuyện với họ và mô tả United là một "câu lạc bộ tiếp thị". Sau khi cuộc phỏng vấn được phát sóng thành hai phần vào ngày 16 và 17 tháng 11, United bắt đầu tìm kiếm hành động pháp lý về việc liệu Ronaldo có vi phạm hợp đồng hay không, và đang tìm cách chấm dứt hợp đồng với anh. Vào ngày 22 tháng 11, Ronaldo bị chấm dứt hợp đồng theo thỏa thuận chung và có hiệu lực ngay lập tức.
Al Nassr
Vào ngày 30 tháng 12 năm 2022, câu lạc bộ Ả Rập Xê Út Al Nassr đã đạt được thỏa thuận chiêu mộ Ronaldo với bản hợp đồng có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2023, thời hạn kéo dài đến năm 2025. Theo nguồn tin từ Fabrizio Romano của The Guardian, Ronaldo nhận mức lương cao nhất trong lịch sử bóng đá trị giá 200 triệu euro mỗi năm; bao gồm mức lương được đảm bảo hàng năm là 90 triệu euro, cùng với các hợp đồng thương mại và tài trợ khác nâng tổng tiền lương thường niên của anh lên 200 triệu euro. Anh cũng được cho là đã nhận khoản tiền thưởng khi gia nhập câu lạc bộ trị giá 100 triệu euro. Cũng theo Romano, Ronaldo đã từ chối lời mời chuyển tới câu lạc bộ Major League Soccer Sporting Kansas City để gia nhập Al Nassr.
2022–2023: Mùa giải ra mắt và á quân giải vô địch quốc gia
Ronaldo dự kiến sẽ ra sân trong trận đấu gặp Al-Tai vào ngày 5 tháng 1 năm 2023, nhưng anh phải chấp hành án phạt cấm thi đấu hai trận khi còn ở Manchester United vì đã đập vỡ điện thoại của một cổ động viên Everton 14 tuổi sau trận thua 1–0 tại Goodison Park vào tháng 4 năm 2022. Vào ngày 19 tháng 1, Ronaldo ra sân lần đầu tiên kể từ khi chuyển tới Ả Rập Xê Út trong một trận đấu giao hữu giữa đội bóng tập hợp gồm những cầu thủ Al Nassr và Al Hilal với Paris Saint-Germain. Ronaldo ghi hai bàn trong trận thua 5–4. Anh có trận đấu đầu tiên cho Al Nassr vào ngày 22 tháng 1, với tư cách là đội trưởng của câu lạc bộ, chơi trọn vẹn 90 phút trong chiến thắng 1–0 trước Al-Ettifaq, và ghi bàn thắng đầu tiên trên chấm phạt đền vào phút cuối trong trận hòa 2–2 trước Al-Fateh. Vào ngày 9 tháng 2, Ronaldo ghi bốn bàn trong chiến thắng 4–0 trước Al Wehda, bàn thắng đầu tiên của anh trong trận đấu này là bàn thắng thứ 500 ở các giải vô địch quốc gia trong sự nghiệp. Tám ngày sau, Ronaldo ghi hai pha kiến tạo trong chiến thắng 2-1 trước Al-Taawoun. Ngày 25 tháng 2, anh ghi hat-trick thứ hai cho câu lạc bộ, giúp Al Nassr giành chiến thắng 3–0 trên sân khách trước Damac và nâng tổng số bàn thắng của anh lên thành 8 bàn. Ronaldo được trao giải Cầu thủ xuất sắc nhất tháng 2 sau khi ghi 8 bàn và có 2 pha kiến tạo. Ronaldo đã trải qua một mùa giải nữa trắng tay khi Al Nassr về nhì tại giải vô địch quốc gia mùa 2022–23.
2023–nay: Vô địch Arab Club Champions Cup
Ronaldo ghi bàn thắng đầu tiên ở mùa giải 2023–24 trong chiến thắng 4–1 trước Union Monastirienne tại Arab Club Champions Cup vào ngày 31 tháng 7. Trong trận đấu Arab Club Champions Cup tiếp theo vào ngày 3 tháng 8, Ronaldo ghi bàn thắng ấn định tỷ số vào phút cuối trước Zamalek, giúp đội bóng của anh có được trận hòa 1–1 và giành quyền vào tứ kết ở vị trí thứ hai trong bảng của mình. Trong trận bán kết vào ngày 9 tháng 8, Ronaldo đã ghi bàn thắng duy nhất trong chiến thắng trước Al-Shorta, thực hiện thành công quả phạt đền để giúp Al Nassr lọt vào trận chung kết Arab Club Champions Cup đầu tiên trong lịch sử câu lạc bộ. Trong trận chung kết vào ngày 12 tháng 8, Ronaldo đã ghi cả hai bàn thắng cho Al Nassr dù đội bóng chỉ còn 10 người trên sân, khi họ đánh bại Al-Hilal với tỷ số 2–1 sau hiệp phụ để giành chức vô địch Arab Club Champions Cup lần đầu tiên trong lịch sử. Ronaldo cũng đã nhận giải vua phá lưới của giải đấu này với 6 pha lập công. Vào ngày 18 tháng 8, Ronaldo có trận đấu đầu tiên tại Saudi Pro League mùa giải này trong trận thua 2–0 trước Al-Taawoun. Vào ngày 25 tháng 8, Ronaldo đã ghi hat-trick đầu tiên của mình ở Saudi Pro League trong trận thắng 5–0 trên sân khách trước Al-Fateh. Vào ngày 29 tháng 8, Ronaldo ghi cú đúp và có pha kiến tạo trong chiến thắng 4–0 trước Al-Shabab. Ronaldo được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất tháng 8 sau khi ghi được 5 bàn thắng và có 2 đường kiến tạo. Vào ngày 2 tháng 9, anh ghi một bàn trong chiến thắng 5–1 trên sân khách của Al-Nassr trước Al-Hazem, đây là bàn thắng thứ 850 trong sự nghiệp của siêu sao người Bồ Đào Nha. Vào ngày 19 tháng 9, Ronaldo có trận ra mắt tại AFC Champions League, trong chiến thắng 2–0 trước Persepolis, giúp anh trở thành cầu thủ đầu tiên trong lịch sử bóng đá đạt mốc 1000 trận đấu không thua trong sự nghiệp. Vào ngày 2 tháng 10, anh ghi bàn thắng đầu tiên tại AFC Champions League trong trận đấu trên sân nhà với Istiklol, bàn gỡ hòa trong chiến thắng chung cuộc 3–1. Vào ngày 3 tháng 10, Ronaldo nhận được giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất tháng 9 tại SPL trong tháng thứ hai liên tiếp, với 5 bàn thắng và 3 pha kiến tạo sau 4 trận.
Sự nghiệp quốc tế
2001–2007: Cấp độ trẻ và ra mắt đội tuyển quốc gia
Ronaldo bắt đầu sự nghiệp quốc tế của mình với đội tuyển U-15 Bồ Đào Nha vào năm 2001. Trong suốt sự nghiệp tuyển trẻ quốc tế của mình, Ronaldo đã thi đấu cho các cấp độ đội tuyển U-15, U-17, U-20, U-21 và U-23 quốc gia, có 34 lần ra sân và ghi tổng cộng 18 bàn thắng.
Ở tuổi 18, Ronaldo ra sân trận đầu tiên cho đội tuyển Bồ Đào Nha trong chiến thắng 1–0 trước Kazakhstan vào ngày 20 tháng 8 năm 2003. Sau đó, anh được gọi tham dự UEFA Euro 2004 diễn ra tại quê nhà. Trong trận khai mạc với Hy Lạp, anh ghi bàn thắng quốc tế đầu tiên, nhưng trước đó cũng đã phạm lỗi trong vòng cấm khiến đội nhà bị phat đền và thủng lưới, Bồ Đào Nha thua 1–2. Sau khi thực hiện thành công lượt sút trong loạt luân lưu trước Anh ở tứ kết, anh góp phần giúp Bồ Đào Nha lọt vào chung kết bằng việc ghi bàn mở tỷ số trong chiến thắng 2–1 trước Hà Lan. Anh có mặt trong đội hình xuất sắc nhất giải đấu, với hai đường kiến tạo bên cạnh hai bàn thắng.
Ronaldo là cầu thủ ghi bàn nhiều thứ hai của Bồ Đào Nha tại vòng loại FIFA World Cup 2006 với bảy bàn thắng. Trong giải đấu này, anh đã ghi bàn thắng đầu tiên tại World Cup vào lưới Iran bằng một quả phạt đền trong trận đấu thứ hai vòng bảng. Trong trận đấu giữa Bồ Đào Nha với Hà Lan ở vòng 16 đội, một trận đấu thô bỉ, Ronaldo dính chấn thương buộc phải rời sân sớm trong hiệp một, sau một pha truy cản từ hậu vệ Khalid Boulahrouz của Hà Lan. Sau chiến thắng 1–0 của Bồ Đào Nha, Ronaldo lên tiếng tố cáo Boulahrouz vì đã cố tình gây thương tích cho anh, mặc dù anh đã kịp thời bình phục để góp mặt ở vòng đấu tiếp theo. Trong trận tứ kết giữa Bồ Đào Nha với Anh, người đồng đội của Ronaldo ở Manchester United, Wayne Rooney bị đuổi khỏi sân vì hành vi đạp vào hậu vệ Ricardo Carvalho của Bồ Đào Nha. Mặc dù trọng tài sau đó phân trần rằng thẻ đỏ là do chính Rooney đã phạm lỗi, truyền thông Anh lại suy đoán rằng Ronaldo đã tác động đến quyết định của ông, sau đó anh được nhìn thấy là đã có hành động nháy mắt với băng ghế dự bị của Bồ Đào Nha sau khi Rooney bị đuổi. Ronaldo tiếp tục thực hiện thành công lượt sút quyết định trong loạt luân lưu đưa Bồ Đào Nha vào bán kết. Ronaldo sau đó bị la ó trong trận thua 1–0 ở bán kết trước Pháp. Nhóm nghiên cứu kỹ thuật của FIFA đã loại anh khỏi giải thưởng Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất giải đấu và trao nó cho Lukas Podolski của Đức, với lý do hành vi của anh là một yếu tố then chốt. Sau World Cup 2006, Ronaldo tiếp tục cùng Bồ Đào Nha tham dự bốn trận đấu vòng loại Euro 2008, ghi được hai bàn thắng.
2007–2012: Đảm nhận băng đội trưởng
Một ngày sau sinh nhật tuổi 22 của mình, Ronaldo lần đầu tiên đảm nhận băng đội trưởng của Bồ Đào Nha trong trận giao hữu với Brazil vào ngày 6 tháng 2 năm 2007, theo yêu cầu của chủ tịch Liên đoàn bóng đá Bồ Đào Nha Carlos Silva, người đã qua đời hai ngày trước đó. Trước thềm Euro 2008, anh đã được khoác áo số 7 lần đầu tiên. Trong khi anh ghi được tám bàn thắng tại vòng loại, thành tích cao thứ hai, anh chỉ ghi được một bàn thắng trong suốt giải đấu, bàn thắng thứ hai trong chiến thắng 3–1 của Bồ Đào Nha trước Cộng hòa Séc tại vòng bảng; trong trận đấu đó, anh cũng tham gia kiến tạo bàn thắng thứ ba cho Bồ Đào Nha ở phút bù giờ, được ghi bởi Quaresma và được bầu là cầu thủ xuất sắc nhất trận vì màn trình diễn của anh. Bồ Đào Nha bị loại ở vòng tứ kết với thất bại 3–2 trước Đức.
Sau màn trình diễn không thuyết phục của Bồ Đào Nha ở giải vô địch châu Âu, Luiz Felipe Scolari buộc phải nhường chức huấn luyện viên trưởng cho Carlos Queiroz, người trước đây từng là trợ lý huấn luyện viên tại United. Queiroz đã đưa Ronaldo trở thành đội trưởng thường trực của đội tuyển vào tháng 7 năm 2008. Ronaldo đã không ghi được một bàn thắng nào tại vòng loại World Cup 2010, khi Bồ Đào Nha suýt bị loại khỏi giải đấu trước khi giành chiến thắng trong trận play-off với đội tuyển Bosnia và Herzegovina. Ở vòng bảng World Cup, anh được bầu là cầu thủ xuất sắc nhất trong cả 3 trận đấu với Bờ Biển Ngà, Bắc Triều Tiên và Brazil. Bàn thắng duy nhất của anh tại giải đấu là trong trận thắng đậm 7–0 của họ trước Bắc Triều Tiên, đánh dấu bàn thắng quốc tế đầu tiên của anh sau 16 tháng. Bồ Đào Nha dừng bước tại World Cup với thất bại 1–0 trước nhà vô địch Tây Ban Nha ở vòng 16 đội.
Ronaldo đã ghi bảy bàn thắng tại vòng loại Euro 2012, bao gồm hai bàn thắng vào lưới Bosnia và Herzegovina ở trận play-off, giúp Bồ Đào Nha đến với giải đấu, nơi họ bị xếp vào "bảng đấu tử thần". Trong trận đấu cuối cùng vòng bảng với Hà Lan, Ronaldo đã lập cú đúp để ấn định chiến thắng 2–1. Anh đã đánh đầu ghi bàn trong trận tứ kết với Cộng hòa Séc để giúp Bồ Đào Nha giành chiến thắng 1–0. Trong cả hai trận đấu với Hà Lan và Cộng hòa Séc, anh được bầu là cầu thủ xuất sắc nhất trận. Sau khi trận bán kết với Tây Ban Nha kết thúc thời gian thi đấu chính thức mà không có bàn thắng nào, với việc Ronaldo đã tung ra ba cú sút vọt xà, Bồ Đào Nha thất bại trong loạt sút luân lưu. Ronaldo chưa kịp sút quả phạt đền vì anh dự kiến sẽ thực hiện lượt sút thứ năm, một quyết định đã bị giới truyền thông đặt dấu hỏi. Đồng đội của Ronaldo, Nani, nói rằng Ronaldo "đòi" được hưởng quả đá phạt đền cuối cùng. Là Vua phá lưới với ba bàn thắng, cùng với năm cầu thủ khác, anh một lần nữa được xếp vào đội hình xuất sắc nhất giải.
2012–2016: Cầu thủ Bồ Đào Nha ghi nhiều bàn thắng nhất mọi thời đại và vô địch châu Âu
Ở vòng loại World Cup 2014, Ronaldo đã ghi tổng cộng 8 bàn thắng. Trận hòa 1–1 trước Bắc Ireland vào ngày 17 tháng 10 năm 2012 giúp anh có lần ra sân thứ 100. Hat-trick quốc tế đầu tiên của anh là trong trận thắng 4–2 trước Bắc Ireland vào ngày 6 tháng 9 năm 2013, khi anh ghi ba bàn chỉ trong vòng 15 phút. Sau khi Bồ Đào Nha không vượt qua được vòng loại, Ronaldo đã ghi tất cả bốn bàn thắng của Bồ Đào Nha trong trận play-off với Thụy Điển – được coi là trận chiến giữa Ronaldo và Zlatan Ibrahimović – giành tấm vé quyết định đến Brazil. Hat-trick của anh trong trận lượt về đã nâng tổng số bàn thắng quốc tế của anh lên 47 bàn, cân bằng kỷ lục của Pauleta. Ronaldo sau đó ghi hai bàn trong chiến thắng 5–1 giao hữu trước Cameroon vào ngày 5 tháng 3 năm 2014 để trở thành cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất mọi thời đại của đất nước mình.
Ronaldo đã tham dự giải đấu mặc dù bị chấn thương đùi, gây rủi ro tiềm tàng cho sự nghiệp của anh. Ronaldo sau đó bình luận: "Nếu chúng tôi có hai hoặc ba Cristiano Ronaldo trong đội hình, tôi sẽ cảm thấy thoải mái hơn. Nhưng giờ chúng tôi không có điều đó." Bất chấp những ngờ vực liên tiếp về thể lực của mình, hai lần bị buộc phải bỏ tập, Ronaldo đã chơi trọn vẹn 90 phút trong trận mở màn với Đức, mặc dù anh không thể ngăn cản thất bại 4–0. Sau khi kiến tạo bàn gỡ hòa 2–2 ở phút bù giờ trước Hoa Kỳ, anh đã ghi một bàn thắng cuối trận trong chiến thắng 2–1 trước Ghana. Bàn thắng quốc tế thứ 50 của Ronaldo đã giúp anh trở thành cầu thủ Bồ Đào Nha đầu tiên ra sân và ghi bàn trong ba kỳ World Cup. Bồ Đào Nha đã bị loại ngay từ vòng bảng do hiệu số bàn thắng bại.
Ronaldo đã ghi 5 bàn, trong đó có một hat-trick vào lưới Armenia, ở vòng loại Euro 2016. Với bàn thắng duy nhất trong một chiến thắng khác trước Armenia vào ngày 14 tháng 11 năm 2014, anh đã có được 23 bàn thắng ở giải vô địch châu Âu, bao gồm cả các trận vòng loại, trở thành cầu thủ ghi nhiều bàn nhất mọi thời đại của giải đấu. Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu giải, Ronaldo đã không thể chuyển hóa cơ hội của mình thành bàn thắng trong những trận hòa của Bồ Đào Nha trước Iceland và Áo, mặc dù đã thực hiện tổng cộng 20 cú sút trúng khung thành. Trong trận đấu thứ hai, anh vượt qua Luís Figo để trở thành cầu thủ khoác áo đội tuyển quốc gia nhiều nhất với 128 lần, trận đấu kết thúc mà không có bàn thắng nào sau khi anh bỏ lỡ một quả phạt đền trong hiệp hai. Với hai bàn thắng và một pha kiến tạo trong trận đấu cuối cùng vòng bảng, trận hòa 3–3 trước Hungary, Ronaldo trở thành cầu thủ đầu tiên ghi bàn ở bốn kỳ Euro, sau 17 lần ra sân tại giải đấu. Mặc dù xếp thứ ba trong bảng đấu của họ sau Hungary và Iceland, Bồ Đào Nha đủ điều kiện bước vào vòng loại trực tiếp do thể thức mới của giải.
Trong trận đấu loại trực tiếp đầu tiên của Bồ Đào Nha, nỗ lực để có một bàn thắng của Ronaldo đã bị thủ môn Danijel Subašić của Croatia cản phá thành công, nhưng sau đó Ricardo Quaresma có pha dứt điểm ấn định chiến thắng 1–0 vào cuối hiệp phụ. Sau khi Bồ Đào Nha vượt qua Ba Lan trên chấm phạt đền, Ronaldo trở thành cầu thủ đầu tiên góp mặt trong 3 trận bán kết giải vô địch châu Âu; anh ghi bàn mở tỷ số và kiến tạo bàn thứ hai trong chiến thắng 2–0 trước Wales, cân bằng kỷ lục của Michel Platini để trở thành cầu thủ ghi bàn nhiều nhất mọi thời đại của giải đấu với chín bàn thắng. Trong trận chung kết với chủ nhà Pháp, Ronaldo bị buộc phải rời sân sớm chỉ hơn 25 phút sau pha phạm lỗi của Dimitri Payet. Sau nhiều lần điều trị và cố gắng thi đấu, anh rời sân và được thay thế bằng Quaresma. Trong hiệp phụ, cầu thủ vào sân thay người Eder ghi bàn ở phút thứ 109 mang về chiến thắng 1–0 cho Bồ Đào Nha. Với tư cách đội trưởng, Ronaldo đã nâng cao danh hiệu lớn đầu tiên của Bồ Đào Nha. Anh cũng được trao tặng Chiếc giày bạc với tư cách là cầu thủ ghi bàn nhiều thứ hai, với ba bàn thắng và ba đường kiến tạo, được xếp vào đội hình xuất sắc nhất giải lần thứ ba trong sự nghiệp.
2016–2018: Giai đoạn sau chức vô địch châu Âu và World Cup
Sau thành công ở Euro 2016, Ronaldo đã chơi trận đấu chuyên nghiệp đầu tiên trên hòn đảo quê nhà Madeira vào ngày 28 tháng 3 năm 2017 ở tuổi 32, trong trận thua 2-3 giao hữu trước Thụy Điển tại Estádio dos Barreiros. Với bàn thắng trong trận đấu này, anh cùng Miroslav Klose với 71 bàn thắng trở thành cầu thủ châu Âu ghi bàn nhiều thứ ba trong màu áo đội tuyển quốc gia.
Trong trận mở màn FIFA Confederations Cup 2017 của Bồ Đào Nha gặp Mexico vào ngày 17 tháng 6, Cristiano Ronaldo đã kiến tạo bàn mở tỷ số cho Quaresma lập công trong trận hòa 2–2. Ba ngày sau, anh ghi bàn trong chiến thắng 1–0 trước chủ nhà Nga. Vào ngày 24 tháng 6, anh ghi bàn từ một quả phạt đền trong chiến thắng 4–0 trước New Zealand, giúp Bồ Đào Nha đứng đầu bảng và tiến vào bán kết. Với bàn thắng quốc tế thứ 75 của mình, Ronaldo cũng cân bằng với Sándor Kocsis để trở thành cầu thủ ghi bàn quốc tế nhiều thứ hai mọi thời đại ở châu Âu, chỉ sau Ferenc Puskás. Anh được bầu là cầu thủ xuất sắc nhất trong cả ba trận đấu vòng bảng của Bồ Đào Nha. Ronaldo rời giải sớm sau khi Chile đánh bại Bồ Đào Nha với tỷ số 3–0 trên loạt luân lưu ở bán kết, anh được phép trở về nhà để ở bên những đứa con mới sinh của mình. Do đó, anh đã bỏ lỡ trận tranh hạng ba của Bồ Đào Nha, Bồ Đào Nha đánh bại Mexico 2–1 sau hiệp phụ.
Vào ngày 31 tháng 8 năm 2017, Ronaldo đã lập hat-trick trong chiến thắng 5–1 tại vòng loại World Cup trước Quần đảo Faroe, giúp anh vượt qua Pelé và ngang bằng Hussein Saeed để vươn lên đứng thứ năm trong danh sách chân sút ghi nhiều bàn nhất bóng đá quốc tế với 78 bàn thắng. Những bàn thắng này đã nâng tổng số bàn thắng của anh ở vòng loại World Cup 2018 lên con số 14, ngang bằng với kỷ lục ghi nhiều bàn thắng nhất của Predrag Mijatović, đồng thời anh phá kỷ lục ghi nhiều bàn thắng nhất trong một vòng loại khu vực châu Âu, kỷ lục trước đó là 13 bàn do David Healy và Robert Lewandowski thiết lập. Hat-trick này của Ronaldo đã nâng tổng số bàn thắng ở vòng loại World Cup của anh lên 29 bàn, giúp anh trở thành cầu thủ ghi bàn nhiều nhất ở vòng loại World Cup khu vực châu Âu, vượt qua Andriy Shevchenko, và là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất trong cả các trận vòng loại và vòng chung kết World Cup, với 32 bàn, vượt qua Miroslav Klose. Ronaldo sau đó ghi một bàn thắng vào lưới Andorra trong chiến thắng 2–0.
Vào ngày 15 tháng 6 năm 2018, Ronaldo trở thành cầu thủ lớn tuổi nhất lập hat-trick trong một trận đấu ở World Cup, giúp Bồ Đào Nha có trận hòa 3–3 trước Tây Ban Nha (bàn thắng thứ ba của anh là cú sút phạt trực tiếp từ cự ly 30 mét trong hai phút chính thức cuối cùng) tại trận mở màn. Qua đó, anh trở thành cầu thủ Bồ Đào Nha đầu tiên ghi bàn trong bốn kỳ World Cup và là một trong bốn cầu thủ làm được điều này. Vào ngày 20 tháng 6, Ronaldo ghi bàn thắng duy nhất trong chiến thắng 1–0 trước Morocco, phá kỷ lục của Ferenc Puskás để trở thành cầu thủ ghi nhiều bàn nhất mọi thời đại ở châu Âu, với 85 bàn thắng quốc tế. Trong trận đấu cuối cùng vòng bảng với Iran vào ngày 25 tháng 6, Ronaldo đã bỏ lỡ một quả phạt đền trong trận hòa 1–1 đưa Bồ Đào Nha tiến vào vòng thứ hai với tư cách là đội nhì bảng sau Tây Ban Nha. Vào ngày 30 tháng 6, Bồ Đào Nha bị loại sau thất bại 2–1 trước Uruguay ở vòng 16 đội. Với những màn trình diễn của anh trong giải đấu, Ronaldo sau đó được xếp vào Đội hình trong mơ FIFA World Cup 2018.
2018–2020: Chức vô địch Nations League và 100 bàn thắng quốc tế
Sau FIFA World Cup 2018, Ronaldo đã bỏ lỡ sáu trận đấu quốc tế, bao gồm cả giai đoạn đầu UEFA Nations League 2018–19. Ronaldo thi đấu cho đội chủ nhà Bồ Đào Nha tại vòng chung kết Nations League khai mạc vào tháng 6 năm 2019. Trong trận bán kết vào ngày 5 tháng 6, anh ghi một hat-trick vào lưới Thụy Sĩ để giành một suất vào chung kết. Sau khi ghi bàn mở tỷ số trận đấu, anh trở thành cầu thủ đầu tiên ghi bàn trong 10 giải đấu quốc tế liên tiếp, phá vỡ kỷ lục của Asamoah Gyan. Trong trận chung kết của giải đấu sau đó 4 ngày, Bồ Đào Nha đã đánh bại Hà Lan với tỷ số 1–0.
Vào ngày 10 tháng 9 năm 2019, Ronaldo ghi bốn bàn trong chiến thắng 5–1 trên sân khách trước Lithuania trong trận đấu thuộc vòng loại Euro 2020; anh vượt qua Robbie Keane (23 bàn) để trở thành cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất tại vòng loại UEFA Euro, với 25 bàn thắng. Nhân dịp đó, Ronaldo cũng lập kỷ lục mới là cầu thủ ghi bàn vào lưới các đội tuyển quốc gia nhiều nhất, 40 bàn, đồng thời hoàn thành cú hat-trick quốc tế thứ tám của mình. Vào ngày 14 tháng 10, anh ghi bàn thắng thứ 700 trong sự nghiệp cho câu lạc bộ và quốc gia từ chấm phạt đền, trong lần ra sân thứ 974 trong sự nghiệp, trận thua 2-1 trên sân khách trước Ukraine ở vòng loại Euro 2020. Vào ngày 17 tháng 11, Ronaldo ghi bàn thắng quốc tế thứ 99 trong chiến thắng 2–0 trước Luxembourg, đưa Bồ Đào Nha vượt qua vòng loại Euro 2020. Vào ngày 8 tháng 9 năm 2020, Ronaldo ghi bàn thắng quốc tế thứ 100 và 101 trong chiến thắng 2–0 trên sân khách trước Thụy Điển tại UEFA Nations League 2020–21, trở thành nam cầu thủ thứ hai từ trước đến nay, sau Ali Daei của Iran – và là cầu thủ đầu tiên của châu Âu – đạt được cột mốc này. Vào ngày 13 tháng 10 năm 2020, Liên đoàn bóng đá Bồ Đào Nha thông báo rằng Ronaldo có kết quả xét nghiệm dương tính với COVID-19 mặc dù không có triệu chứng. Đến ngày 30 tháng 10, Ronaldo đã hồi phục.
2021–nay: Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng quốc tế nhất mọi thời đại
Vào ngày 15 tháng 6 năm 2021, Ronaldo ghi hai bàn trong trận đấu đầu tiên của Bồ Đào Nha tại Euro 2020, chiến thắng 3–0 trước Hungary tại Budapest. Nó đã nâng tổng số bàn thắng của anh lên 11 bàn ở giải vô địch châu Âu, hơn hai bàn so với Michel Platini để trở thành cầu thủ ghi nhiều bàn nhất mọi thời đại trong lịch sử giải đấu. Ngoài ra, anh còn trở thành cầu thủ đầu tiên ra sân và ghi bàn tại 5 kỳ Euro, và trong mười một giải đấu quốc tế lớn liên tiếp. Anh cũng trở thành cầu thủ lớn tuổi nhất ghi được hai bàn thắng trong một trận đấu tại giải vô địch châu Âu, và là cầu thủ lớn tuổi nhất ghi bàn cho Bồ Đào Nha tại một giải đấu lớn.
Trong một cuộc họp báo trước trận đấu vào ngày 14 tháng 6, Ronaldo đã cất hai chai Coca-Cola được nhà tài trợ chuẩn bị sẵn sang một bên và thay bằng một chai nước lọc. Hành động đó trùng với việc giá cổ phiếu Coca-Cola giảm 1,6%, giá trị vốn hóa thị trường ước tính thiệt hại 4 tỷ USD. Trong trận đấu tiếp theo vào ngày 19 tháng 6, anh ghi bàn mở tỷ số và sau đó kiến tạo cho Diogo Jota lập công trong trận thua 4–2 trước Đức. Vào ngày 23 tháng 6, anh đã thực hiện thành công hai quả phạt đền trong trận hòa 2–2 trước Pháp trong trận đấu cuối cùng tại vòng bảng của Bồ Đào Nha, cân bằng kỷ lục 109 bàn thắng quốc tế của Daei. Ngoài ra, anh đã trở thành cầu thủ ghi bàn nhiều nhất trong các vòng chung kết giải vô địch châu Âu, phá vỡ kỷ lục trước đó của Miroslav Klose. Vào ngày 27 tháng 6, Bồ Đào Nha bị loại khỏi giải sau trận thua 1–0 trước Bỉ ở vòng 16 đội. Ronaldo kết thúc giải đấu với 5 bàn thắng (cân bằng với Patrik Schick của Cộng hòa Séc) và 1 pha kiến tạo, giúp anh giành được danh hiệu Chiếc giày vàng.
Vào ngày 1 tháng 9, Ronaldo lập cú đúp trong chiến thắng 2–1 trước Ireland, chính thức trở thành cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất cho một đội tuyển quốc gia với 111 bàn, vượt qua cột mốc của huyền thoại người Iran Ali Daei trước đó là 109 bàn. Vào ngày 9 tháng 10, anh ghi bàn mở tỷ số trong chiến thắng 3–0 giao hữu trước Qatar tại Sân vận động Algarve; với 181 lần ra sân, anh cũng vượt qua Sergio Ramos để trở thành cầu thủ ra sân nhiều nhất cho một đội tuyển quốc gia ở châu Âu. Trong trận đấu tiếp theo gặp Luxembourg tại vòng loại World Cup 2022 diễn ra vào ngày 12 tháng 10, anh trở thành cầu thủ đầu tiên ghi được 10 cú hat-trick ở cấp độ đội tuyển quốc gia.
Ronaldo góp mặt trong đội hình Bồ Đào Nha tham dự FIFA World Cup 2022 tại Qatar, đánh dấu kỳ World Cup thứ năm của anh. Vào ngày 24 tháng 11, trong trận mở màn của Bồ Đào Nha gặp Ghana, Ronaldo đã thực hiện thành công quả phạt đền và trở thành cầu thủ nam đầu tiên ghi bàn ở 5 kỳ World Cup khác nhau. Trong trận đấu cuối cùng vòng bảng gặp Hàn Quốc, Ronaldo đã nhận về nhiều lời chỉ trích từ chính huấn luyện viên vì phản ứng không đúng mực của anh khi bị thay ra. Anh bị loại khỏi đội hình xuất phát trong trận đấu vòng 16 đội của Bồ Đào Nha gặp Thụy Sĩ, đánh dấu lần đầu tiên kể từ Euro 2008, anh đã không đá chính một trận đấu của Bồ Đào Nha tại một giải đấu quốc tế lớn, và là lần đầu tiên Bồ Đào Nha bắt đầu một trận đấu loại trực tiếp mà không có Ronaldo trong đội hình xuất phát tại một giải đấu quốc tế kể từ Euro 2000. Anh vào sân muộn từ băng ghế dự bị khi Bồ Đào Nha đã thắng 6–1, trận thắng đậm nhất của họ trong một trận đấu loại trực tiếp tại World Cup kể từ World Cup 1966, người thay thế Ronaldo là Gonçalo Ramos lập một hat-trick. Bồ Đào Nha sử dụng chiến thuật tương tự trong trận tứ kết với Morocco, Ronaldo một lần nữa vào sân từ băng ghế dự bị; qua đó anh đã san bằng kỷ lục ra sân quốc tế của Bader Al-Mutawa, trở thành nam cầu thủ khoác áo đội tuyển quốc gia nhiều nhất mọi thời đại, với 196 lần ra sân. Bồ Đào Nha để thua 1–0, Morocco trở thành quốc gia thuộc CAF đầu tiên lọt vào bán kết World Cup.
Sau World Cup, trước tương lai bị đặt dấu hỏi của anh trong màu áo đội tuyển quốc gia, Ronaldo đã được tân huấn luyện viên Roberto Martínez triệu tập vào đội tuyển Bồ Đào Nha tham dự vòng loại UEFA Euro 2024 gặp Liechtenstein và Luxembourg. Ngày 23 tháng 3, Ronaldo đã ghi cú đúp trong chiến thắng 4–0 trước Liechtenstein; với lần ra sân quốc tế thứ 197, anh đã phá kỷ lục của Al-Mutawa và trở thành cầu thủ nam khoác áo đội tuyển quốc gia nhiều nhất mọi thời đại. Ngày 20 tháng 6, Ronaldo đã có lần ra sân thứ 200 cho đội tuyển quốc gia trong sự nghiệp của mình, ghi bàn thắng duy nhất trong trận thắng trên sân khách trước Iceland ở vòng loại Euro, giúp anh trở thành cầu thủ đầu tiên trong lịch sử bóng đá nam quốc tế có 200 lần ra sân cho đất nước của mình. Ngày 13 tháng 11, Ronaldo lập cú đúp trong chiến thắng 3–2 trước Slovakia, giúp Bồ Đào Nha giành vé tham dự Euro 2024.
Hồ sơ cầu thủ
Phong cách chơi bóng
Là cầu thủ tấn công đa năng, Ronaldo có khả năng chơi ở hai cánh cũng như bó vào trung lộ, nhìn bề ngoài anh là người thuận chân phải, nhưng thực chất anh thuận cả hai chân. Anh được xếp trong số những cầu thủ bóng đá chạy nhanh nhất thế giới, cả khi có bóng hoặc không bóng. Về mặt chiến thuật, Ronaldo đã trải qua một số bước tiến trong suốt sự nghiệp. Khi ở Sporting và trong mùa giải đầu tiên ở Manchester United, anh thường được bố trí đá như một tiền vệ cánh phải truyền thống, nơi anh thường xuyên thực hiện những quả tạt vào vòng cấm. Tại vị trí này, anh có thể sử dụng tốc độ, sự nhanh nhẹn và kỹ thuật của mình để vượt qua đối phương trong các tình huống một chọi một. Ronaldo nổi tiếng với khả năng lừa bóng rất khó đoán, thường thực hiện một loạt các kỹ thuật và động tác giả, chẳng hạn như những pha đảo chân và những cú 'chop' đã trở thành thương hiệu; anh còn được biết đến là người sử dụng flip–flap.
Khi Ronaldo trưởng thành, anh trải qua một số biến chuyển đáng kể về mặt thể chất, phát triển một thân hình cơ bắp cho phép anh có khả năng kiểm soát bóng khi chịu áp lực, cùng với đó là một đôi chân mạnh mẽ mang lại cho anh khả năng bật nhảy xuất chúng. Sức bền và khả năng bật nhảy của anh, kết hợp với độ chính xác khi đánh đầu và chiều cao ấn tượng , giúp anh có lợi thế trong việc giành chiến thắng ở các cuộc không chiến. Những điều này cho phép anh hoạt động như một tiền đạo mục tiêu và khiến anh trở thành một mối đe dọa thực sự trong vòng cấm với các tình huống không chiến; do đó nhiều bàn thắng mà anh ghi được là bằng đầu. Cùng với việc tăng cường thể lực và tốc độ chơi bóng, khả năng ghi bàn của anh được cải thiện đáng kể ở bên phía cánh trái, nơi anh được tự do di chuyển vào trung lộ để kết thúc các đợt tấn công. Anh cũng ngày một đóng vai trò kiến thiết lối chơi cho đội bóng của mình, thường xuyên lùi sâu để nhận bóng, tham gia xây dựng lối chơi chung và tạo cơ hội cho đồng đội, nhờ nhãn quan và khả năng chuyền bóng của mình.
Trong những mùa giải cuối cùng tại United, Ronaldo thậm chí còn chơi ở vai trò mang tính trung tâm và giàu sức tấn công hơn nữa, hoạt động như một tiền đạo cắm và một tiền đạo lùi, hoặc đôi khi là một tiền vệ tấn công. Anh dần trở thành một tay săn bàn lão luyện, có khả năng dứt điểm tốt cả trong và ngoài vòng cấm với những cú sút chính xác và uy lực, tất cả đều nhờ vào khả năng của anh. Là một cầu thủ luôn thực hiện thành công các quả phạt đền, anh còn trở thành một chuyên gia đá phạt, nổi tiếng với những cú sút vô cùng uy lực và có quỹ đạo khó lường. Khi thực hiện các quả đá phạt, Ronaldo được biết đến với việc sử dụng kỹ thuật knuckleball, do Juninho Pernambucano phát triển. Ronaldo còn có một tư thế chuẩn bị sút phạt đặc trưng, anh đứng với hai chân dang rộng. Về phong cách sút phạt độc đáo của Ronaldo, cựu trợ lý huấn luyện viên ở Manchester United, Mike Phelan nhận định: "Người khác thì thường đặt bóng xuống, lấy đà, chạy đà và sút. Anh ấy thì đặt bóng xuống, tập trung cao độ, lùi vài bước, chọn cho mình một tư thế đứng hoàn hảo để có thể tiếp xúc bóng ở vị trí tốt nhất. Ronaldo thích là ngôi sao sáng nhất. Anh ấy có chút kiêu ngạo khi sắn quần lên, để lộ cặp đùi, cứ như thể đang muốn nói "Nhìn tôi này". Ronaldo nắm được khía cạnh tiếp thị của một cú sút phạt. Cách Ronaldo sắp đặt nó, cả thế giới đang dõi theo anh ấy."
Tại Real Madrid, Ronaldo tiếp tục chơi ở vai trò thiên về tấn công, trong khi nhiệm vụ kiến tạo và phòng ngự dần trở nên hạn chế hơn, dù không hoàn toàn giảm hẳn. Ban đầu anh được Manuel Pellegrini và José Mourinho bố trí đá như một tiền đạo trung tâm, Ronaldo về sau lại dạt sang cánh trái, mặc dù vẫn chơi tự do. Vị trí này cho phép anh di chuyển vào trung lộ để kết thúc các đường chọc khe, hoặc loại bỏ hậu vệ đối phương bằng những pha chạy chỗ rồi để lại khoảng trống cho đồng đội phía sau khai thác. Lối chơi tấn công của Madrid còn cho phép anh trở thành một cầu thủ hiệu quả và ổn định hơn, bằng chứng là anh đã lập nhiều kỷ lục ghi bàn. Trong khi nhận được lời khen ngợi trên các phương tiện truyền thông vì khả năng ghi bàn ấn tượng của mình, Ronaldo còn chứng tỏ khả năng kiến tạo hiệu quả cũng trong vai trò này. Vai trò độc đáo này đã được nhiều chuyên gia mô tả là một "cầu thủ biến ảo", "cầu thủ tấn công" hoặc "cầu thủ chạy cánh ghi bàn", vì Ronaldo đôi khi hoạt động hiệu quả như một tiền đạo với những pha chạy chỗ vào vòng cấm, mặc dù anh thực sự chơi ở bên phía cánh trái. Từ năm 2013 trở đi, dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên Carlo Ancelotti, anh đã điều chỉnh lại phong cách thi đấu của mình một cách hiệu quả hơn do những tác động tuổi tác với việc di chuyển không bóng và tham gia đóng góp lối chơi chung ngày càng giảm, ít pha rê bóng và chuyền bóng hơn mỗi trận, thay vào đó tập trung tạo cơ hội và ghi bàn trong cự ly ngắn. Kể từ năm 2017, Ronaldo lại một lần nữa thay đổi lối chơi của mình để trở thành một trung phong tự do dưới thời huấn luyện viên Zinedine Zidane, nơi mà anh tiếp tục thể hiện phong độ xuất sắc và duy trì những kỷ lục làm bàn ấn tượng; ở vị trí này, anh đã nhận được lời tán dương trên các phương tiện truyền thông nhờ khả năng di chuyển thông minh cả khi có bóng và không bóng, khả năng chọn vị trí, cách phối hợp với đồng đội, khả năng dự đoán và thoát khỏi sự kèm cặp của hậu vệ đối phương, tìm kiếm khoảng trống trong vòng cấm và ghi bàn chỉ từ vài pha chạm bóng hoặc cơ hội.
Trong mùa giải đầu tiên tại Juventus, Ronaldo tiếp tục đóng vai trò tấn công ở nhiều vị trí khác nhau dưới thời huấn luyện viên Massimiliano Allegri, tùy thuộc vào đồng đội mà anh được chơi cùng. Mặc dù anh đã đảm nhiệm vai trò tấn công ngày càng mạnh mẽ hơn trong những năm cuối cùng ở Real Madrid, nhưng đôi lúc anh lại chơi ở vị trí tự do, đóng vai trò tiền đạo cắm hoặc trong vai trò bên cánh trái quen thuộc, trong sơ đồ 4–2–3–1 hoặc 4–3–3, trong đó anh thường hoán đổi vị trí với Mario Mandžukić. Tại vị trí này, anh được phép lùi sâu hoặc thậm chí dạt sang cánh phải để nhận bóng và tham gia vào việc xây dựng lối chơi tấn công. Bên cạnh việc ghi bàn cho bản thân, anh bắt đầu tăng cường khả năng đối đầu với cầu thủ đối phương và tạo cơ hội cho đồng đội một cách thường xuyên hơn so với những mùa giải cuối ở Real Madrid. Khi không bóng, anh còn có khả năng tạo ra khoảng trống cho đồng đội bằng việc di chuyển và chạy chỗ vào trong vòng cấm và kết thúc các cơ hội bằng đầu hoặc chân sau khi đón được đường chuyền từ đồng đội. Đôi khi Ronaldo cũng chơi phối hợp tấn công cùng với Mandžukić trong sơ đồ 4–3–1–2, 4–4–2 hoặc 3–5–2. Anh tiếp tục đảm nhiệm vai trò tương tự trong mùa giải thứ hai với câu lạc bộ dưới thời huấn luyện viên Maurizio Sarri.
Hình tượng
Ronaldo được coi là một trong hai cầu thủ xuất sắc nhất trong thế hệ của mình, bên cạnh Lionel Messi. Giành Quả bóng vàng đầu tiên ở tuổi 23 vào năm 2008 nhờ số phiếu bầu cao kỷ lục, trong một thập kỷ tiếp theo, Ronaldo thường xuyên xuất hiện trong các cuộc tranh luận xem ai sẽ là cầu thủ vĩ đại nhất trong lịch sử. Được đánh giá cao với khả năng ghi bàn ổn định, anh được coi là nhân tố quyết định làm thay đổi cục diện trận đấu, đặc biệt là trong những thời điểm quan trọng và chịu áp lực khủng khiếp.
Ronaldo gây chú ý vì tinh thần thi đấu, điều kiện cơ thể lý tưởng và sự cống hiến trên sân tập, cũng như có tố chất thiên bẩm của một người thủ lĩnh. Về tuổi đời cầu thủ và "những chuẩn bị vô cùng đặc biệt về mặt thể chất" của anh, Adam Bate của Sky Sports nói: "Sự cống hiến là một phần rất lớn trong việc duy trì phong độ đỉnh cao và sự tập trung của Ronaldo trong từng trận đấu." Cựu tuyển thủ Brazil Ronaldo từng chia sẻ rằng mình với Cristiano đều có phong cách chơi bóng khác nhau và chỉ chung khát khao ghi bàn, thế nhưng anh vẫn dành lời khen cho phương pháp tập luyện của cầu thủ người Bồ Đào Nha, nói rằng "chẳng mấy ai biết chăm lo cho cơ thể mình như cậu ta cả. Tôi tập luyện vì đó là nghĩa vụ, còn cậu ta tập luyện vì đam mê." Động lực và quyết tâm thành công của anh được thúc đẩy bởi mong muốn được nhắc đến cùng những danh thủ khác như Pelé và Diego Maradona sau khi giải nghệ. Anh cùng với người đồng hương, huấn luyện viên José Mourinho, được ghi nhận là người truyền cảm hứng cho những thay đổi của bóng đá Bồ Đào Nha trong những năm 2010 và 2020. Đôi khi, anh bị chỉ trích vì hay ăn vạ khi bị đối phương vào bóng. Anh cũng thỉnh thoảng bị huấn luyện viên Alex Ferguson, đồng đội và giới truyền thông chỉ trích vì tính ích kỷ hoặc khoa trương quá mức. Jonathan Wilson của The Guardian cho rằng Ronaldo đã khiến Juventus, câu lạc bộ mà anh gia nhập vào năm 2018 ở tuổi 33, thụt lùi hơn, do "sự mất cân xứng giữa anh với đội bóng", ngay cả khi hiệu suất ghi bàn của anh vẫn tương đối cao.
Trong sự nghiệp của mình, Ronaldo còn được mô tả với "hình tượng kiêu ngạo" trên sân cỏ, Ronaldo nói rằng anh đã trở thành "nạn nhân" vì cách mà bản thân mình được miêu tả trên các phương tiện truyền thông. Người ta thường thấy anh than vãn, lẩm bẩm và cau có trong khi cố gắng truyền động lực cho đội bóng để giành chiến thắng, Ronaldo nhấn mạnh rằng bản tính cạnh tranh trong anh không nên bị nhầm lẫn với sự kiêu ngạo. Nhiều huấn luyện viên, đồng đội và nhà báo cho rằng những hành động này đã tạo nên một hình ảnh không được đẹp về anh.
Ăn mừng bàn thắng
Ronaldo đã thực hiện một số màn ăn mừng bàn thắng khác nhau trong suốt sự nghiệp, bao gồm màn ăn mừng đã được đưa tin rộng rãi trên các phương tiện truyền thông, khi anh ngồi xổm với tay chống cằm và nhìn thẳng vào camera bên góc sân. Sau khi lập công, anh thường ăn mừng bằng một "cú bật nhảy thật cao" rồi "xoay người", trước khi "tiếp đất theo kiểu đại bàng dang cánh" tạo thành "tư thế phô diễn sức mạch đặc trưng" của mình, đồng thời hét lên "Sí" (theo tiếng Tây Ban Nha và tiếng Ý nghĩa là "có"). Màn ăn mừng thương hiệu này được mệnh danh là "Sii!" trên các phương tiện truyền thông.
So sánh với Lionel Messi
Cả hai cầu thủ đều ghi bàn trong nhiều trận chung kết UEFA Champions League và thường xuyên phá vỡ cột mốc 50 bàn thắng trong một mùa giải. Các nhà báo và chuyên gia thể thao thường xuyên tranh luận về thành tích cá nhân của cả hai cầu thủ nhằm xem ai sẽ là cầu thủ xuất sắc nhất bóng đá hiện đại hoặc trong lịch sử của môn thể thao này. Nó được so sánh với một số cuộc cạnh tranh thể thao trước đây, trong số đó là Muhammad Ali–Joe Frazier của môn quyền anh, Borg–McEnroe của môn quần vợt và Senna–Prost của môn đua xe Công thức Một. Một số bình luận viên chọn cách phân tích sự khác biệt về ngoại hình và phong cách chơi bóng của cả hai. Một phần của cuộc tranh luận còn xoay quanh tính cách trái ngược của cả hai cầu thủ, Ronaldo đôi khi được miêu tả là một kẻ kiêu ngạo và khoa trương, trong khi Messi được miêu tả là một kẻ nhút nhát, khiêm tốn.
Trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2012, Ronaldo nhận xét về sự kình địch rằng: "Tôi nghĩ đôi khi chúng tôi thúc đẩy nhau trong từng giải đấu, đây là lý do tại sao sự cạnh tranh này là vô cùng khốc liệt." Alex Ferguson, huấn luyện viên của Ronaldo trong thời gian ở Manchester United, nhận xét: "Tôi không nghĩ sự ganh đua lẫn nhau khiến họ cảm thấy khó chịu. Tôi nghĩ họ có niềm tự tôn riêng về việc muốn trở thành người giỏi nhất." Bản thân Messi cũng phủ nhận mọi sự ganh đua, nói rằng "chỉ có truyền thông, báo chí, những người muốn thổi phồng chúng tôi lên, tôi chưa bao giờ muốn đối đầu với Cristiano." Đáp lại những tuyên bố cho rằng anh và Messi không hợp nhau trên phương diện cá nhân, Ronaldo bình luận: "Chúng tôi không có mối quan hệ ngoài thế giới bóng đá, cũng như chúng tôi không có mối quan hệ với nhiều cầu thủ khác." Ronaldo nói thêm rằng trong nhiều năm tới, anh hy vọng họ có thể cười cùng nhau về điều đó, nói rằng: "Chúng tôi phải nhìn vào sự cạnh tranh này với một tinh thần tích cực, bởi vì đó là một điều tốt." Thi đấu cho Barcelona và Real Madrid, cả hai cầu thủ đều đã đối đầu với nhau ít nhất hai lần mỗi mùa trong El Clásico, một trong những sự kiện thể thao thường niên được theo dõi nhiều nhất trên thế giới.
Trong một cuộc tranh luận tại Oxford Union vào tháng 10 năm 2013, khi được hỏi liệu chủ tịch FIFA Sepp Blatter thích Messi hay Ronaldo hơn, Blatter đã bày tỏ sự tôn vinh dành cho tinh thần thi đấu của cầu thủ người Argentina trước khi lên tiếng mỉa mai Ronaldo, tuyên bố "một trong số họ dành nhiều chi phí cho tiệm làm tóc hơn người còn lại." Real Madrid đã yêu cầu và ngay lập tức nhận được lời xin lỗi. Đáp lại bình luận của Blatter, Ronaldo đã thực hiện một màn ăn mừng khiêu khích sau khi ghi bàn vào lưới Sevilla. Vào tháng 8 năm 2019, Ronaldo và Messi đã được phỏng vấn khi ngồi cạnh nhau trước thềm lễ trao giải Cầu thủ nam xuất sắc nhất năm của UEFA, Ronaldo nói: "Tôi đẩy anh ấy và anh ấy cũng đẩy tôi. Vì vậy, thật tốt khi trở thành một phần của lịch sử bóng đá."
Vào tháng 9 năm 2023, Ronaldo tuyên bố rằng cuộc cạnh tranh giữa anh và Messi đã kết thúc và "biến mất", sau 36 trận đấu chính thức và 15 năm "cùng chia sẻ sân khấu".
Bên ngoài sân cỏ
Khi danh tiếng của anh tăng lên từ thời còn ở Manchester United, Ronaldo đã ký nhiều hợp đồng tài trợ cho các sản phẩm tiêu dùng, bao gồm quần áo thể thao, giày bóng đá — kể từ tháng 11 năm 2012, Ronaldo đã mang chiếc Nike Mercurial Vapor phiên bản cá nhân hóa, nước ngọt, quần áo, dầu nhớt ô tô, tài chính dịch vụ, thiết bị điện tử và trò chơi điện tử. Ronaldo xuất hiện trên bìa trò chơi điện tử FIFA 18 của EA Sports và tham gia rất nhiều vào việc quảng bá trò chơi. Màn ăn mừng bàn thắng 'Siiii' của Ronaldo có mặt trong loạt trò chơi điện tử FIFA, kèm theo phần lồng tiếng của chính anh. Anh cũng là gương mặt đại diện cho Pro Evolution Soccer, xuất hiện trên bìa PES 2008, PES 2012 và PES 2013.
Với thu nhập 720 triệu euro (615 triệu bảng) từ năm 2010 đến năm 2019, Ronaldo xếp thứ hai trong danh sách vận động viên thể thao được trả lương cao nhất thập kỷ của Forbes, sau võ sĩ Floyd Mayweather Jr.. Forbes hai lần xếp Ronaldo đứng đầu tiên trong danh sách cầu thủ bóng đá được trả lương cao nhất thế giới; tổng thu nhập của anh đến từ tiền lương, tiền thưởng và các hợp đồng quảng cáo là 73 triệu đô la trong năm 2013–14 và 79 triệu đô la trong năm 2014–15. Thu nhập sau này giúp anh xếp sau Mayweather trong danh sách vận động viên thể thao được trả lương cao nhất thế giới của Forbes. Năm 2016, anh trở thành cầu thủ bóng đá đầu tiên đứng đầu danh sách vận động viên thể thao có thu nhập cao nhất của Forbes, với tổng thu nhập 88 triệu đô la đến từ tiền lương và các hợp đồng quảng cáo của anh trong năm 2015–16. Anh đứng đầu danh sách trong năm thứ hai liên tiếp với tổng thu nhập 93 triệu đô la trong năm 2016–17. Anh là cầu thủ bóng đá đầu tiên và là vận động viên thể thao thứ ba kiếm được 1 tỷ đô la trong sự nghiệp. Ronaldo là một trong những vận động viên thể thao được tiếp thị nhiều nhất thế giới: SportsPro đánh giá anh là vận động viên được tiếp thị nhiều thứ năm vào năm 2012 và là vận động viên thể thao được tiếp thị nhiều thứ tám vào năm 2013, trong đó cầu thủ bóng đá người Brazil Neymar đứng đầu cả hai danh sách. Công ty nghiên cứu thị trường thể thao Repucom đã vinh danh Ronaldo là cầu thủ bóng đá được tiếp thị và được công nhận nhiều nhất trên thế giới vào tháng 5 năm 2014. Anh còn góp mặt trong Time 100 năm 2014, danh sách thường niên của Time về những người có ảnh hưởng nhất trên thế giới. ESPN vinh danh Ronaldo là vận động viên thể thao nổi tiếng nhất thế giới vào năm 2016, 2017, 2018 và 2019.
Là vận động viên thể thao nổi tiếng nhất trên mạng xã hội, anh đã có tổng cộng hơn 500 triệu người theo dõi trên Facebook, Twitter và Instagram vào tháng 2 năm 2021, khiến anh trở thành người đầu tiên vượt qua nửa tỷ người theo dõi. Là người được theo dõi nhiều nhất trên Facebook (148 triệu), người được theo dõi nhiều nhất trên Instagram (310 triệu) và vận động viên thể thao được theo dõi nhiều nhất trên Twitter (92 triệu), những nhà tài trợ của Ronaldo đã kiếm được 936 triệu USD giá trị truyền thông trên các tài khoản mạng xã hội của anh từ tháng 6 năm 2016 đến tháng 6 năm 2017. Ronaldo đã phát hành hai ứng dụng di động. Vào tháng 12 năm 2011, anh ra mắt một trò chơi điện tử trên iPhone có tên là Heads Up with Cristiano, do nhà phát triển RockLive tạo ra, và vào tháng 12 năm 2013, anh ra mắt Viva Ronaldo, một trang web và ứng dụng mạng xã hội chuyên dụng. Công ty bảo mật máy tính McAfee đã đưa ra một báo cáo vào năm 2012 xếp hạng các cầu thủ bóng đá dựa theo xác suất tìm kiếm trên Internet dẫn đến một trang web không an toàn, trong đó tên của Ronaldo đứng đầu danh sách.
Ronaldo là chủ đề chính của một số tác phẩm. Cuốn tự truyện về anh, có tựa đề Moments, được xuất bản vào tháng 12 năm 2007. Nhà tài trợ Castrol của anh đã sản xuất bộ phim truyền hình Ronaldo: Tested to the Limit, trong đó anh được kiểm tra thể chất và tinh thần ở một số lĩnh vực; do đó, hiệu suất thể chất của anh bị truyền thông thế giới soi mói khi bộ phim được phát hành vào tháng 9 năm 2011. Cristiano Ronaldo: The World at His Feet, một bộ phim tài liệu do nam diễn viên Benedict Cumberbatch tường thuật lại, được phát hành qua Vimeo vào tháng 6 năm 2014. Một bộ phim tài liệu của đạo diễn Anthony Wonke nói về cuộc đời và sự nghiệp của anh, có tựa đề Ronaldo, được phát hành vào ngày 9 tháng 11 năm 2015.
Nhu cầu tiêu thụ một chiếc áo bản sao của Ronaldo đã tăng cao trong suốt sự nghiệp của anh. Năm 2008, chiếc áo số 7 Manchester United của Ronaldo là sản phẩm thể thao bán chạy nhất tại Premier League. Năm 2015, chiếc áo số 7 Real Madrid của Ronaldo là sản phẩm thể thao bán chạy thứ hai trên toàn thế giới, sau chiếc áo số 10 Barcelona của Messi. Vào năm 2018, trong vòng 24 giờ đầu tiên kể từ khi chiếc áo số 7 của anh được ra mắt, hơn 520.000 chiếc áo đã được bán, thu về 62,4 triệu đô la.
Ronaldo đã khai trương một cửa hàng thời trang mang tên CR7 (tên viết tắt và số áo của anh) trên đảo Madeira vào năm 2006 và tiếp tục mở thêm cửa hàng thứ hai ở Lisboa vào năm 2008. Hợp tác với nhà sản xuất JBS Textile Group và nhà thiết kế thời trang người Mỹ Richard Chai, Ronaldo đã đồng thiết kế một loạt các dòng đồ lót và tất, được phát hành vào tháng 11 năm 2013. Anh mở rộng thương hiệu thời trang CR7 của mình bằng việc tung ra một dòng sản phẩm áo sơ mi và giày cao cấp vào tháng 7 năm 2014. Vào tháng 9 năm 2015, Ronaldo phát hành sản phẩm nước hoa của riêng mình, "Legacy", hợp tác với Eden Parfums.
Năm 2007, C.D. Nacional đã đổi tên khuôn viên đào tạo trẻ của mình thành Cristiano Ronaldo Campus Futebol (Khuôn viên bóng đá Cristiano Ronaldo). Vào tháng 12 năm 2013, Ronaldo khai trương một bảo tàng, Museu CR7, ở quê nhà Funchal, Madeira, nhằm lưu giữ những danh hiệu và kỷ vật; bảo tàng là nhà tài trợ chính thức của đội bóng địa phương União da Madeira. Tại một buổi lễ được tổ chức ở Cung điện Belém vào tháng 1 năm 2014, Tổng thống Bồ Đào Nha Aníbal Cavaco Silva đã trao tặng cho Ronaldo Huân chương Hoàng tử Henry đệ tam đẳng "nhằm công nhận một vận động viên nổi tiếng thế giới đã trở thành biểu tượng của Bồ Đào Nha trên toàn cầu, đóng góp vào tầm nhìn quốc tế của đất nước và là tấm gương về sự bền bỉ cho các thế hệ mai sau." Một bức tượng bằng đồng của Ronaldo, do nghệ sĩ Ricardo Madeira Veloso thiết kế, đã được khánh thành tại Funchal vào ngày 21 tháng 12 năm 2014.
Vào tháng 6 năm 2010, trong khi đang tham dự World Cup, Ronaldo trở thành cầu thủ bóng đá thứ tư – sau Steven Gerrard, Pelé và David Beckham – được làm tượng sáp tại Madame Tussauds London. Một bức tượng sáp khác của anh đã được giới thiệu tại Bảo tàng Sáp Madrid vào tháng 12 năm 2013. Vào tháng 6 năm 2015, các nhà thiên văn học do David Sobral dẫn đầu đến từ Lisboa và Leiden đã phát hiện ra một thiên hà mà họ đặt tên là Cosmos Redshift 7 (CR7) nhằm tri ân Ronaldo.
Vào ngày 23 tháng 7 năm 2016, sau khi Bồ Đào Nha lên ngôi vô địch Euro 2016, sân bay Madeira ở Funchal được đổi tên thành sân bay quốc tế Cristiano Ronaldo. Buổi lễ đổi tên được chính thức diễn ra vào ngày 29 tháng 3 năm 2017, trong đó một bức tượng bán thân của anh được trưng bày. Bức tượng bán thân và việc đổi tên đã gây ra tranh cãi, sự thiếu chính xác của bức tượng bán thân với Ronaldo bị nhiều diễn viên hài chế giễu, bao gồm cả Saturday Night Live, trong khi việc đổi tên là một chủ đề tranh luận tại địa phương của một số chính trị gia và người dân, những người thậm chí đã làm một bản kiến nghị phản đối lại hành động này, một việc làm bị chỉ trích bởi Thống đốc Madeira Miguel Albuquerque. Một năm sau, trang web thể thao Bleacher Report đã ủy quyền cho nhà điêu khắc Emanuel Santos tạo ra một bức tượng bán thân khác; tuy nhiên, bức tượng bán thân này đã không bao giờ được sử dụng và một bức tượng mới được thực hiện bởi một nhà điêu khắc người Tây Ban Nha, được trưng bày trước công chúng vào ngày 15 tháng 6 năm 2018.
Đời tư
Gia đình, con cái và các mối quan hệ
Ronaldo có năm người con. Anh trở thành cha lần đầu tiên vào ngày 17 tháng 6 năm 2010 tại Hoa Kỳ, khi cậu con trai của anh được chào đời. Ronaldo tuyên bố rằng anh có toàn quyền chăm sóc đứa trẻ và đã đồng ý không tiết lộ danh tính của người mẹ theo một thỏa thuận với cô. Vào tháng 1 năm 2015, Ronaldo tuyên bố kết thúc mối quan hệ kéo dài 5 năm với người mẫu Nga Irina Shayk.
Ronaldo sau đó trở thành cha của cặp song sinh, cùng sinh ngày 8 tháng 6 năm 2017 tại Hoa Kỳ thông qua mang thai hộ. Anh hiện đang có quan hệ tình cảm với người mẫu Tây Ban Nha gốc Argentina Georgina Rodríguez, người đã hạ sinh một cô con gái vào ngày 12 tháng 11 năm 2017. Cặp đôi dự kiến sẽ chào đón thêm một cặp sinh đôi nữa vào năm 2022. Tuy nhiên bé trai không may đã qua đời trong quá trình hộ sinh và chỉ có bé gái còn sống sót.
Cha của Ronaldo là José đã qua đời do một căn bệnh gan liên quan đến chứng nghiện rượu ở tuổi 52 vào tháng 9 năm 2005 khi Ronaldo mới 20 tuổi.
Tháng 1 năm 2023, sau khi Ronaldo cùng gia đình chuyển tới Ả Rập Xê Út, không lâu sau bản hợp đồng với đội bóng đang thi đấu ở Saudi Pro League Al Nassr FC, các quan chức của đất nước Hồi giáo này đã đặt ra ngoại lệ cho Ronaldo trong quy định không cho phép những cặp đôi chưa kết hôn sống chung với nhau tại Ả Rập Xê Út. Một luật sư người Ả Rập Xê Út giấu tên đã nói với hãng thông tấn Tây Ban Nha EFE rằng "luật pháp của Vương quốc này vẫn cấm sống chung mà không có hợp đồng hôn nhân", nhưng chính quyền Ả Rập Xê Út đã bắt đầu "nhắm mắt làm ngơ và ngừng truy tố bất kỳ ai, ngay cả khi các điều luật đó được áp dụng khi có sự cố hoặc tội phạm xảy ra."
Sức khỏe
Ronaldo nói rằng anh không uống rượu, và anh đã nhận được khoản tiền bồi thường về tội vu khống sau khi một bài báo trên tờ Daily Mirror cho rằng anh đã uống nhiều rượu trong một hộp đêm khi đang hồi phục chấn thương vào tháng 7 năm 2008. Ronaldo cũng không có bất kỳ một hình xăm nào vì anh thường xuyên đi hiến máu và hiến tủy.
Từ thiện
Ronaldo đã đóng góp vào nhiều hoạt động thiện nguyện khác nhau trong suốt sự nghiệp. Đoạn video trên truyền hình về trận động đất và sóng thần Ấn Độ Dương 2004 đã ghi lại hình ảnh một cậu bé 8 tuổi còn sống sót tên là Martunis đang mặc áo thi đấu của đội tuyển Bồ Đào Nha bị mắc kẹt trong 19 ngày sau khi gia đình cậu bị thiệt mạng. Sau đó, Ronaldo đến thăm Aceh, Indonesia, để gây quỹ phục hồi và tái thiết lại nơi này. Sau khi nhận được phí bồi thường thiệt hại không được tiết lộ liên quan đến vụ kiện phỉ báng chống lại tờ The Sun vào năm 2008, Ronaldo đã quyên góp khoản tiền đó cho một tổ chức từ thiện ở Madeira. Năm 2009, Ronaldo đã quyên góp 100.000 bảng cho bệnh viện đã cứu sống mẹ anh ở Madeira sau khi bà chiến đấu với căn bệnh ung thư, để họ có thể xây dựng một trung tâm điều trị ung thư trên đảo. Nhằm ủng hộ các nạn nhân của trận lũ lụt Madeira 2010, Ronaldo cam kết sẽ ra sân trong một trận đấu từ thiện tại Madeira giữa câu lạc bộ Primeira Liga Porto và các cầu thủ đến từ hai câu lạc bộ Marítimo và Nacional có trụ sở ở Madeira.
Vào năm 2012, Ronaldo và người đại diện của anh đã trả tiền điều trị chuyên khoa cho một cậu bé người Canaria 9 tuổi bị ung thư giai đoạn cuối. Vào tháng 12 năm 2012, Ronaldo tham gia chương trình "11 for Health" của FIFA nhằm nâng cao nhận thức của trẻ em về cách phòng tránh ma túy, HIV, sốt rét và béo phì. Vào tháng 1 năm 2013, Ronaldo trở thành Đại sứ Toàn cầu mới của Save the Children, nơi anh hy vọng sẽ giúp chống lại nạn đói và béo phì ở trẻ em. Vào tháng 3, Ronaldo đồng ý làm đại sứ cho Diễn đàn Chăm nom Rừng ngập mặn ở Indonesia, một tổ chức nhằm nâng cao nhận thức về bảo tồn rừng ngập mặn.
Ronaldo được vinh danh là vận động viên thể thao làm từ thiện nhiều nhất thế giới năm 2015 sau khi quyên góp 5 triệu bảng cho nỗ lực cứu trợ sau trận động đất ở Nepal khiến hơn 8.000 người thiệt mạng. Vào tháng 6 năm 2016, Ronaldo đã quyên góp toàn bộ số tiền thưởng trị giá 600.000 euro sau khi Real Madrid vô địch Champions League. Vào tháng 8, Ronaldo ra mắt CR7Selfie, một ứng dụng chụp ảnh tự sướng dành riêng cho Save the Children, cho phép những người tham gia có thể selfie cùng anh với nhiều bộ trang phục và tư thế khác nhau.
Các vấn đề pháp lý
Vào tháng 7 năm 2017, Ronaldo bị buộc tội gian lận gần 15 triệu euro tiền thuế từ năm 2011 đến năm 2014, anh đã phủ nhận tuyên bố này vào thời điểm đó. Tháng 6 năm 2018, Ronaldo bị kết án hai năm tù treo và phải nộp khoản phạt 18,8 triệu euro, nhưng sau đó giảm xuống còn 16,8 triệu euro sau khi anh đạt được thỏa thuận với những nhà chức trách Tây Ban Nha. Bản án được chấp hành dưới hình thức quản chế mà không có thời gian tù giam nào, miễn là anh không tái phạm.
Sau khi bị hai người phụ nữ đưa ra cáo buộc hiếp dâm vào năm 2005, Ronaldo và một người đàn ông khác đã bị Cơ quan Công tố Vương quốc Anh điều tra. Trong vòng vài ngày, hai người phụ nữ trên đã rút lại lời cáo buộc của mình và Scotland Yard sau đó đã đưa ra tuyên bố không có đủ bằng chứng để truy tố.
Tháng 4 năm 2017, có thông tin Ronaldo đang bị Sở cảnh sát Las Vegas điều tra về cáo buộc của một người phụ nữ cho rằng anh đã cưỡng hiếp cô vào năm 2009. Các tài liệu được xác nhận bởi những luật sư của Ronaldo cho biết Ronaldo đã trả cho người phụ nữ đó 375.000 đô la Mỹ trong một thỏa thuận không được tiết lộ thông tin. Ronaldo và những luật sư của anh đã bác bỏ tất cả các cáo buộc, mô tả nó là một "chiến dịch bôi nhọ có chủ đích" với những phần "bị thay đổi và/hoặc bịa đặt hoàn toàn", nhưng Der Spiegel đã thẳng thừng phủ nhận tuyên bố đó. Vào tháng 7 năm 2019, các công tố viên Las Vegas cho biết họ sẽ không khởi tố Ronaldo về cáo buộc hiếp dâm; tuyên bố nói rằng: "Dựa trên việc xem xét thông tin hiện có, những cáo buộc tấn công tình dục nhắm vào Cristiano Ronaldo không thể được chứng minh ngoài một sự nghi ngờ hợp lý." Cũng chính người phụ nữ này đã đệ đơn kiện dân sự ở Nevada vào tháng 9 năm 2018 cáo buộc Ronaldo tội hiếp dâm. The Daily Mirror, trích dẫn từ tài liệu tòa án, đưa tin vào năm 2021 cho biết người phụ nữ đã yêu cầu Ronaldo bồi thường 56 triệu bảng. Tháng 10 năm 2021, thẩm phán liên bang Daniel Albregts đã đề xuất bãi bỏ vụ kiện, với lý do luật sư của người phụ nữ, Leslie Stovall, đã "hành động không trung thực bằng việc yêu cầu, nhận và sử dụng các tài liệu Football Leaks để khởi tố" trong vụ kiện này, bất chấp những tài liệu đó chứa đựng các "thông tin đặc quyền" giữa Ronaldo và luật sư của anh. Ngoài ra, Albregts cũng cho rằng không có bằng chứng nào phát hiện được rằng các luật sư của Ronaldo đã "đe dọa [người phụ nữ] hoặc cản trở lực lượng chức năng thực thi pháp luật" trong thỏa thuận năm 2010 với cô. Tháng 6 năm 2022, vụ kiện hiếp dâm của người phụ nữ đã bị bác bỏ với sự thiên vị tại Tòa án Quận Nevada, khi thẩm phán quận Jennifer A. Dorsey ra phán quyết rằng việc Stovall nhiều lần sử dụng "những tài liệu đặc quyền giữa luật sư và khách hàng đã bị đánh cắp thông qua các cuộc tấn công mạng" là hành động thể hiện "sự lạm dụng và vi phạm trắng trợn quy trình tố tụng hợp pháp".
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Đội tuyển quốc gia
Ghi chú
Danh hiệu
Sporting CP
Supertaça Cândido de Oliveira: 2002
Manchester United
Premier League: 2006–07, 2007–08, 2008–09
FA Cup: 2003–04
EFL Cup: 2005–06, 2008–09
FA Community Shield: 2007
UEFA Champions League: 2007–08
FIFA Club World Cup: 2008
Real Madrid
La Liga: 2011–12, 2016–17
Copa del Rey: 2010–11, 2013–14
Supercopa de España: 2012, 2017
UEFA Champions League: 2013–14, 2015–16, 2016–17, 2017–18
UEFA Super Cup: 2014, 2016, 2017
FIFA Club World Cup: 2014, 2016, 2017
Juventus
Serie A: 2018–19, 2019–20
Coppa Italia: 2020–21
Supercoppa Italiana: 2018, 2020
Al Nassr
Arab Club Champions Cup: 2023
U20 Bồ Đào Nha
Giải Toulon: 2003
Bồ Đào Nha
UEFA Euro: 2016
UEFA Nations League: 2018–19
Cá nhân
Quả bóng vàng FIFA/Quả bóng vàng châu Âu: 2008, 2013, 2014, 2016, 2017
Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA: 2008
Cầu thủ nam xuất sắc nhất năm của FIFA (): 2016, 2017
Giải thưởng Đặc biệt của FIFA dành cho Thành tựu nghề nghiệp xuất sắc (): 2021
Giải thưởng Cầu thủ nam xuất sắc nhất năm của UEFA: 2007–08, 2013–14, 2015–16, 2016–17
Chiếc giày vàng châu Âu: 2007–08, 2010–11, 2013–14, 2014–15
Bàn chân vàng: 2020
Quả bóng vàng FIFA Club World Cup: 2016
Giải thưởng FIFA Puskás: 2009
Đội hình xuất sắc nhất giải vô địch bóng đá châu Âu: 2004; 2012; 2016
Chiếc giày vàng giải vô địch bóng đá châu Âu: 2020
Cầu thủ Ngoại hạng Anh xuất sắc nhất mùa giải: 2006–07, 2007–08
Cầu thủ xuất sắc nhất La Liga: 2013–14
Cầu thủ xuất sắc nhất Serie A: 2019, 2020
Chiếc giày vàng Ngoại hạng Anh: 2007–08
Cúp Pichichi: 2010–11, 2013–14, 2014–15
Capocannoniere: 2020–21
Cầu thủ Bồ Đào Nha xuất sắc nhất năm của FPF: 2016, 2017, 2018, 2019, 2022
Huân chương
Huân chương Công trạng, Huân chương Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội xứ Vila Viçosa (Hoàng gia Bồ Đào Nha)
Huân chương Hoàng tử Henry đệ tam đẳng (Grande-Oficial – GOIH)
Huân chương Công trạng đệ tam đẳng (Comendador – ComM)
Cordão Autonómico de Distinção |
Hiệp hội bóng đá Trung Quốc (CFA) (chữ Hán phồn thể: 中國足球協會; giản thể: 中国足球协会) là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Trung Quốc. CFA quản lý các đội tuyển bóng đá quốc gia nam và nữ, tổ chức các giải bóng đá như giải bóng đá vô địch quốc gia Trung Quốc (Chinese Super League), cúp bóng đá Trung Quốc,.... CFA là thành viên của cả FIFA, Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Đông Á (EAFF).
Chủ tịch của Hiệp hội bóng đá Trung Quốc hiện nay là ông Trần Tuất Nguyên. |
Liên đoàn Bóng đá Việt Nam (LĐBĐVN; ), tên đầy đủ hơn là Liên đoàn Bóng đá nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hay còn có tên gọi khác nữa trên giới truyền thông quốc tế là Hiệp hội bóng đá Việt Nam, là tổ chức quản lý và điều hành tất cả các hoạt động bóng đá ở Việt Nam.
VFF hiện là thành viên của Liên đoàn Bóng đá Quốc tế (FIFA), Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Đông Nam Á (AFF). Trụ sở VFF nằm ở đường Lê Quang Đạo, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội.
Chủ tịch hiện tại của VFF là ông Trần Quốc Tuấn và Tổng thư ký là ông Dương Nghiệp Khôi .
Lịch sử
Tổ chức tiền thân của Liên đoàn bóng đá Việt Nam là Hội bóng đá Việt Nam (Vietnam Football Association,viết tắt là VFA). Hội thành lập năm 1960 có chủ tịch là Hà Đăng Ấn và phó chủ tịch là Trương Tấn Bửu.
Tháng 8 năm 1989 tại Đại hội lần thứ nhất, Liên đoàn Bóng đá Việt Nam ra đời thay thế Hội bóng đá Việt Nam, chủ tịch liên đoàn là Trịnh Ngọc Chữ, phó chủ tịch là Ngô Xuân Quýnh, Trần Vĩnh Lộc và Lê Bửu. Tổng thư ký là Lê Thế Thọ.
Liên đoàn đã tổ chức thêm 8 lần đại hội vào các năm 1993, 1997, 2001, 2005, 2009, 2014, 2018 và 2022.
Chủ tịch
Trịnh Ngọc Chữ (tháng 8 năm 1989–1991)
Dương Nghiệp Chí (quyền chủ tịch, 1991–tháng 10 năm 1993)
Đoàn Văn Xê (tháng 10 năm 1993–tháng 10 năm 1997)
Mai Văn Muôn (tháng 10 năm 1997–tháng 8 năm 2001)
Hồ Đức Việt (tháng 8 năm 2001–2003)
Trần Duy Ly (quyền chủ tịch, tháng 1 đến tháng 8 năm 2003)
Mai Liêm Trực (năm 2003–tháng 6 năm 2005)
Nguyễn Trọng Hỷ (tháng 6 năm 2005–2013)
Lê Hùng Dũng (quyền chủ tịch từ tháng 12/2013 đến tháng 3/2014; chủ tịch chính thức từ 3/2014 đến tháng 12/2018)
Lê Khánh Hải (từ tháng 12 năm 2018 - 31 tháng 12 năm 2021)
Trần Quốc Tuấn (quyền chủ tịch từ 31 tháng 12 năm 2021 - 6 tháng 11 năm 2022; chủ tịch chính thức từ 6 tháng 11 năm 2022 - nay)
Tổng thư ký
Lê Thế Thọ (tháng 8 năm 1989–tháng 10 năm 1993)
Trần Bẩy (tháng 10 năm 1993–tháng 10 năm 1997)
Phạm Ngọc Viễn (tháng 10 năm 1997–21 tháng 1 năm 2005, từ chứcÔng Phan Anh Tú nhận chức quyền Tổng thư ký LĐBĐVN, VnExpress, ngày 22 tháng 1 năm 2005)
Phan Anh Tú (quyền tổng thư ký, 21 tháng 1 năm 2005–tháng 6 năm 2005)
Trần Quốc Tuấn (ngày 2 tháng 6 năm 2005–26 tháng 12 năm 2011)
Ngô Lê Bằng (ngày 28 tháng 2 năm 2012–2014)
Lê Hoài Anh (ngày 31 tháng 3 năm 2014-ngày 6 tháng 11 năm 2022)
Dương Nghiệp Khôi (ngày 6 tháng 11 năm 2022 đến nay)
Lãnh đạo hiện nay
Chủ tịch: Trần Quốc Tuấn
Phó Chủ tịch thường trực (phụ trách chuyên môn): Trần Anh Tú
Phó Chủ tịch (phụ trách truyền thông - đối ngoại): Nguyễn Xuân Vũ
Phó Chủ tịch (phụ trách tài chính - tài trợ): Nguyễn Trung Kiên
Tổng thư ký: Dương Nghiệp Khôi
Liên đoàn thành viên
Hiện tại có 24 tổ chức liên đoàn bóng đá tỉnh thành là thành viên của VFF:
Miền Bắc
Tây Bắc Bộ
Liên đoàn bóng đá Yên Bái
Liên đoàn bóng đá Hòa Bình
Đông Bắc Bộ
Liên đoàn bóng đá Lạng Sơn
Liên đoàn bóng đá Quảng Ninh
Liên đoàn bóng đá Thái Nguyên
Đồng bằng sông Hồng
Liên đoàn bóng đá Hà Nội
Liên đoàn bóng đá Hải Phòng
Liên đoàn bóng đá Nam Định
Miền Trung
Bắc Trung Bộ
Liên đoàn bóng đá Nghệ An
Liên đoàn bóng đá Thanh Hóa
Liên đoàn bóng đá Thừa Thiên Huế
Duyên hải Nam Trung Bộ
Liên đoàn bóng đá Bình Định
Liên đoàn bóng đá Đà Nẵng
Liên đoàn bóng đá Quảng Nam
Liên đoàn bóng đá Quảng Ngãi
Liên đoàn bóng đá Phú Yên
Tây Nguyên
Liên đoàn bóng đá Đắk Lắk
Liên đoàn bóng đá Gia Lai
Liên đoàn bóng đá Kon Tum
Liên đoàn bóng đá Lâm Đồng
Miền Nam
Đông Nam Bộ
Liên đoàn bóng đá Bình Dương
Liên đoàn bóng đá Thành phố Hồ Chí Minh
Liên đoàn bóng đá Tây Ninh
Tây Nam Bộ
Liên đoàn bóng đá An Giang
Liên đoàn bóng đá Cần Thơ
Liên đoàn bóng đá Long An
Liên đoàn bóng đá Tiền Giang
Liên đoàn bóng đá Vĩnh Long
Quản lý
Đội tuyển
Nam
Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá U-23 quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá U-22 quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá U-19 quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá U-16 quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá U-14 quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá trong nhà quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá trong nhà U-20 quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá bãi biển quốc gia Việt Nam
Nữ
Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá U-19 nữ quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá U-16 nữ quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá U-14 nữ quốc gia Việt Nam
Đội tuyển bóng đá trong nhà nữ quốc gia Việt Nam
Giải đấu
Nam
Giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam (V.League 1)
Giải bóng đá hạng nhất quốc gia Việt Nam (V.League 2)
Giải bóng đá hạng nhì quốc gia Việt Nam (V.League 3)
Giải bóng đá hạng ba quốc gia Việt Nam (V.League 4)
Giải vô địch bóng đá U21 Việt Nam
Giải vô địch bóng đá U19 Việt Nam
Giải vô địch bóng đá U17 Việt Nam
Giải vô địch bóng đá U15 Việt Nam
Giải vô địch bóng đá thiếu niên Việt Nam
Giải vô địch bóng đá nhi đồng Việt Nam
Giải vô địch bóng đá trong nhà quốc gia Việt Nam
Giải bóng đá bãi biển vô địch quốc gia
Cúp bóng đá Việt Nam
Siêu cúp bóng đá Việt Nam
Giải bóng đá trong nhà cúp quốc gia Việt Nam
Nữ
Giải vô địch bóng đá nữ Việt Nam
Giải vô địch bóng đá U19 nữ Việt Nam
Biểu trưng
Năm 1994, Ban Chấp hành Liên đòn bóng đá Việt Nam nhiệm kỳ II tổ chức cuộc thi vẽ mẫu biểu trưng VFF. Kết quả, mẫu của hoạ sỹ Nguyễn Ngọc Thân trúng giải Nhất, được Liên đoàn chọn làm biểu trưng chính thức của Liên đoàn. Biểu trưng nền màu vàng, màu đỏ là màu cờ Tổ quốc, màu xanh ở vòng trong cùng là màu sân bóng đá, tên Liên đoàn bóng đá Việt Nam được in đậm nét màu đen. Trong hình tam giác màu đỏ có hình quả bóng đá cách điệu, nó cũng giống với hình ngôi sao vàng trên nền cờ đỏ. Những nét đỏ và vàng phía bên phải có hình 3 chữ VFF (viết tắt của Vietnam Football Federation trong tiếng Anh).
Biểu trưng hiện tại của VFF lấy hình ảnh quả bóng đá có hình 3 chữ VFF bên trong quả bóng và quốc kỳ Việt Nam nền đỏ sao vàng trong thế phát triển vút cao nhằm tôn vinh các giá trị của bóng đá Việt Nam trong quá trình hình thành phát triển và khẳng định đáp ứng thịnh tình của người hâm mộ trong nước, bạn bè quốc tế và các tổ chức bóng đá quốc tế biết thêm về bóng đá Việt Nam. Nó được thiết kế bởi Nguyễn Công Quang và được sử dụng từ năm 2008 đến nay.
Ngày 28/4/2008, Ban chấp hành VFF đã chính thức ra quyết định công bố sử dụng biểu trưng mới của VFF trong mọi giao dịch có liên quan từ ngày 01/5/2008. Việc sử dụng biểu trưng cũ kết thúc vào ngày 31/12/2008.
Chú thích |
Hiệp hội bóng đá Thái Lan ( - FA Thailand), tên đầy đủ là Hiệp hội bóng đá Thái Lan dưới sự ban ân của Đức Vua () là cơ quan quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Thái Lan. FAT quản lý các đội tuyển bóng đá quốc gia nam và nữ. Hiệp hội được thành lập vào ngày 25 tháng 4 năm 1916 bởi Vua Vajiravudh, là thành viên của FIFA vào ngày 23 tháng 6 năm 1925 và AFC vào năm 1954. |
Phước Lộc Thọ có thể là:
3 điều ước muốn của người châu Á, tượng trưng cho hạnh phúc đời người. Cũng là tên 3 vị Thần Phúc Lộc Thọ.
Thương xá Phước Lộc Thọ của người Mỹ gốc Việt tại Little Saigon, Westminster, California, Hoa Kỳ.
Phước Lộc Thọ (Nhật Bản) một vị thần trong thần thoại Nhật Bản |
Bertrand Arthur William Russell, Bá tước Russell III, (phiên âm tiếng Việt: Béctơrăng Rátxen; sinh ngày 18 tháng 5 năm 1872 – mất ngày 2 tháng 2 năm 1970), là một triết gia, nhà lôgic học, nhà toán học người Anh của thế kỷ 20. Là một tác giả có nhiều tác phẩm, ông còn là người mang triết học đến với đại chúng và là một nhà bình luận đối với nhiều chủ đề đa dạng, từ các vấn đề rất nghiêm túc cho đến những điều trần tục. Nối tiếp truyền thống gia đình trong lĩnh vực chính trị, ông là một người theo chủ nghĩa tự do với vị thế nổi bật, ông còn là một người dân chủ xã hội (socialist) và người hoạt động chống chiến tranh trong phần lớn cuộc đời dài của mình. Hàng triệu người coi ông như là một nhà tiên tri của cuộc sống sáng tạo và duy lý; đồng thời, quan điểm của ông về nhiều chủ đề đã gây nên rất nhiều tranh cãi.
Russell sinh ra vào thời đỉnh cao của nền kinh tế và uy thế chính trị của nước Anh. Sau đó gần một thế kỷ, ông qua đời vì bệnh cúm, khi Đế quốc Anh đã biến mất, sức mạnh của nó đã bị hao mòn bởi hai cuộc chiến tranh thế giới. Là một trong những trí thức nổi tiếng nhất của thế giới, tiếng nói của Russel mang một quyền lực đạo đức, thậm chí cả khi ông đã vào tuổi 90. Trong các hoạt động chính trị của ông, Russell là một người kêu gọi đầy nhiệt huyết cho việc giải trừ vũ khí hạt nhân và một người phê phán mạnh mẽ chế độ toàn trị tại Liên bang Xô viết và sự can thiệp của quân đội Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam.
Năm 1950, Russell được tặng Giải Nobel Văn học, "để ghi nhận các tác phẩm đầy ý nghĩa mà trong đó ông đã đề cao các tư tưởng nhân đạo và tự do về tư tưởng".
Tiểu sử
Bertrand Russell sinh ngày 18 tháng 5 năm 1872 tại Trellech, Monmouthshire, nay là Wales, trong một gia đình quý tộc người Anh. Ông nội của ông, John Russell - bá tước Russell I, từng làm thủ tướng Anh trong các thập kỷ 1840 và 1860 và là con trai thứ hai của John Russell, quận công Bedford VI. Mẹ của Russell, Kate (tên họ thời con gái là Stanley), cũng xuất thân từ một gia đình quý tộc và là chị em gái với Rosalind Howard, Nữ bá tước Carlisle. Cha mẹ của Russell là những người khá cấp tiến vào thời của họ—cha Russell, John Russell - tử tước Amberley, là một người vô thần, ông đồng tình với cuộc tình của vợ mình với thầy giáo của các con - nhà sinh vật học Douglas Spalding. Cả hai là những người ủng hộ đầu tiên cho các biện pháp tránh thai mà thời đó được coi là đầy tai tiếng. John Stuart Mill, nhà triết học theo thuyết vị lợi, là cha đỡ đầu của Russell.
Russell có hai anh chị: Frank Russell - Bá tước Russell II (hơn Bertrand gần 7 tuổi), và Rachel (hơn 4 tuổi). Tháng 6 năm 1875, mẹ Russell qua đời vì bệnh bạch hầu, ít lâu sau Rachel cũng vậy, và vào tháng 1 năm 1876 cha ông cũng qua đời vì bệnh viêm phế quản sau một thời gian dài bị trầm cảm. Sau đó, Frank và Bertrand được chăm sóc bởi ông bà nội, những người trung thành với các tiêu chuẩn đạo đức thời Victoria. Họ sống tại Pembroke Lodge tại Richmond Park. Bá tước Russell I qua đời năm 1878, bà quả phụ - nữ bá tước Russell (tên thời con gái là Frances Elliot) là người thân quan trọng nhất đối với phần còn lại của tuổi thơ và tuổi trẻ của Russell. Bà bá tước xuất thân từ một gia đình người Scotland theo giáo phái Kevin. Bà đã kiến nghị được một tòa án Anh để bỏ một điều khoản trong di chúc của Amberley rằng các con của ông phải được nuôi dạy thành những người theo thuyết bất khả tri. Mặc dù có tư tưởng bảo thủ tôn giáo, bà vẫn giữ các quan niệm tiến bộ trong các lĩnh vực khác (chấp nhận thuyết Darwin và ủng hộ Irish Home Rule (luật nội bộ Ireland)), và ảnh hưởng của bà đối với quan điểm của Bertrand Russell về công bằng xã hội và sự bảo vệ nguyên tắc đã ở lại trong ông suốt cuộc đời. Tuy nhiên, bầu không khí tại Pembroke Lodge luôn đầy những lời cầu nguyện, sự kìm nén cảm xúc và các nghi thức thủ tục - Frank đã phản ứng với điều này bằng sự nổi loạn công khai, còn Bertrand trẻ tuổi đã học được cách giấu những tình cảm của mình.
Thời thanh niên, Russell rất cô đơn, ông thường dự tính tự tử. Trong hồi ký của mình, ông đã ghi nhận rằng những mối quan tâm sâu sắc nhất của ông là tình dục, tôn giáo và toán học, và rằng mong muốn hiểu biết nhiều hơn về toán học là điều duy nhất đã giúp ông không tự tử. Ông được giáo dục tại nhà bởi một loạt các gia sư, và ông đã ngồi nhiều giờ trong thư viện của ông nội. Frank, người anh trai của ông, đã giới thiệu với ông về Euclid, sự kiện này đã thay đổi cuộc đời của Russell.
Russell giành được một học bổng cho ngành toán học tại Trinity College, Đại học Cambridge, và ông bắt đầu học tại đó từ năm 1890. Tại đây, ông đã làm quen với George Edward Moore và bắt đầu chịu ảnh hưởng của Alfred North Whitehead, người đã giới thiệu ông với hội kín Các thánh tông đồ Cambridge (Cambridge Apostles). Ông nhanh chóng trở thành sinh viên nổi bật trong các môn toán học và triết học. Ông lấy bằng cử nhân Toán học năm 1893 và được nhận vào làm nghiên cứu viên triết học năm 1895.
Năm 17 tuổi, Russell lần đầu gặp mặt Alys Pearsall Smith, một tín đồ Quaker người Mỹ. Ông phải lòng cô Alys đạo đức với tâm hồn cao thượng, người có quan hệ với một số nhà hoạt động tôn giáo và giáo dục. Trái ý bà nội, ông đã cưới Alys vào tháng 12 năm 1894. Cuộc hôn nhân của họ bắt đầu tan vỡ vào năm 1902, khi Russell nhận ra rằng ông không còn yêu vợ; 19 năm sau họ li dị. Trong thời kỳ này, Russell đã có những cuộc tình say đắm (và thường là cùng lúc) với nhiều phụ nữ, trong đó có Công nương Ottoline Morrell và nghệ sĩ, Công nương Constance Malleson. Trong suốt những năm này, Alys mòn mỏi mong đợi ông và bà vẫn tiếp tục yêu Russell trong suốt phần đời còn lại.
Russell bắt đầu xuất bản các tác phẩm của mình vào năm 1896 với cuốn German Social Democracy (Nền dân chủ xã hội Đức), đây là nghiên cứu chính trị đã báo hiệu sớm cho một mối quan tâm cả đời đối với chính trị và các học thuyết xã hội. Năm 1896, ông dạy môn Dân chủ xã hội Đức tại Trường Kinh tế Luân Đôn (London School of Economics), cũng là nơi ông đã giảng về khoa học của quyền lực vào mùa thu năm 1937.
Năm 1908, Russell trở thành thành viên của Hội Hoàng gia (tiếng Anh: Royal Society). Tập đầu tiên trong bộ Principia Mathematica (viết chung với Whitehead) được xuất bản năm 1910. Bộ sách này cùng với tác phẩm The Principles of Mathematics trước đó đã nhanh chóng làm cho Russell trở nên nổi tiếng thế giới trong lĩnh vực toán học. Năm 1911, ông gặp Ludwig Wittgenstein, một sinh viên ngành kỹ thuật người Áo. Ông sớm nhận ra tài năng xuất chúng của Wittgenstein và coi anh ta là một người kế tục các công trình của ông về lôgic toán học. Ông đã dành nhiều thời gian giúp đỡ Wittgenstein vượt qua nhiều nỗi ám ảnh và sự thất vọng thường xuyên. Ông đã khuyến khích sự phát triển hàn lâm của Wittgenstein, trong đó có việc xuất bản cuốn Tractatus Logico-Philosophicus của Wittgenstein năm 1922.
Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Russell tham gia các hoạt động kêu gọi hòa bình, và năm 1916, ông bị Trinity College sa thải sau khi ông bị buộc tội theo Defence of the Realm Act - đạo luật phòng vệ được nghị viện Anh thông qua năm 1914. Ông đã phải ngồi tù 6 tháng tại nhà tù Brixton.
Năm 1920, Russell đến nước Nga với vai trò thành viên của một đoàn đại biểu chính thức được chính phủ Anh gửi đến để nghiên cứu các hiệu ứng của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga. Cũng thời gian đó, Dora Black, người tình của Russell cũng đến thăm Nga một cách độc lập. Bà đã rất nhiệt tình với cuộc cách mạng này, nhưng những gì Russell chứng kiến đã phá hủy dự định của ông về việc hỗ trợ cuộc cách mạng này.
Sau đó, Russell dạy triết học tại Bắc Kinh trong một năm với Dora đi cùng. Trong khi ở Trung Quốc, Russell đã viêm phổi nặng, báo chí Nhật đã đăng tin nhầm về cái chết của ông. Khi hai người đến thăm Nhật Bản trên đường về Anh, Dora đã nói với các nhà báo rằng "Vì theo báo Nhật thì Bertrand Russell đã chết, nên ông không thể trả lời phỏng vấn của các phóng viên Nhật được".
Trên đường về Anh năm 1921, Dora có mang 5 tháng, Russell thu xếp một cuộc li dị vội vã với Alys, 6 ngày sau khi ly dị xong, ông cưới Dora. Các con của họ là John Conrad Russell - Bá tước Russell IV và Katharine Russell (hiện là Công nương Katharine Tait). Trong thời gian này, Russell kiếm sống từ việc viết các cuốn sách phổ thông giải thích các vấn đề về vật lý học, luân lý học và giáo dục dành cho người không chuyên. Cùng với Dora, ông còn thành lập trường thực nghiệm Beacon Hill vào năm 1927. Sau khi ông rời trường vào năm 1932, Dora còn tiếp tục điều hành trường cho đến năm 1943.
Sau cái chết của người anh vào năm 1931, Russell trở thành Bá tước Russell III. Ông đã từng nói rằng danh hiệu của ông hữu hiệu chủ yếu trong việc giữ phòng khách sạn.
Cuộc hôn nhân với Dora trở nên ngày càng mong manh, và đổ vỡ khi bà có hai người con với Griffin Barry, một nhà báo Mỹ. Năm 1936, Russell kết hôn lần ba, với một sinh viên trường Đại học Oxford tên là Patricia ("Peter") Spence, người đã từng là gia sư của các con ông từ mùa hè năm 1930. Russell và Peter có một người con trai, Conrad Russell - Bá tước Russell V, người sau này trở thành một nhà sử học nổi bật và là một trong những nhân vật lãnh đạo của Đảng Dân chủ Tự do Anh.
Mùa xuân năm 1939, Russell chuyển đến Santa Barbara để giảng dạy tại Đại học California tại Los Angeles. Sau đó, ông được chọn làm giáo sư tại CCNY (City College of New York) vào năm 1940, nhưng việc bổ nhiệm này đã bị hủy bỏ bởi phán quyết của một phiên tòa sau một vụ phản đối của quần chúng: các quan điểm của ông (đặc biệt là các quan điểm liên quan đến đạo đức tình dục, trình bày trong tác phẩm Hôn nhân và đạo đức 10 năm trước đó) đã làm ông "không phù hợp về mặt đạo đức" cho việc giảng dạy đại học. Vụ phản đối này đã bắt đầu từ mẹ của một sinh viên không được học cao học môn lôgic toán của ông (do là nữ). Nhiều trí thức do John Dewey dẫn đầu đã phản đối cách xử sự này của Russell. Dewey và Horace M. Kallen đã biên tập một loạt các bài viết về vụ CCNY trong The Bertrand Russell Case (Vụ Bertrand Russell). Ít lâu sau, Russell gia nhập Barnes Foundation, giảng lịch sử triết học cho nhiều kiểu người nghe - các bài giảng này đã lập thành cơ sở cho cuốn A History of Western Philosophy (Lịch sử triết học phương Tây) của ông. Quan hệ của ông với Albert C. Barnes lập dị trở nên xấu đi một cách nhanh chóng, và ông quay trở lại Anh năm 1944 để lại về làm việc tại Trinity College.
Trong những năm 1940 và 1950, Russell tham gia nhiều chương trình phát thanh của BBC về nhiều chủ đề triết học và thời sự. Đến thời điểm này, Russell đã nổi tiếng trên thế giới bên ngoài cộng đồng hàn lâm, ông thường là chủ đề hoặc tác giả của các bài đăng trên các báo và tạp chí, ông còn được đề nghị đưa ra quan điểm về một diện rộng các chủ đề, kể cả các chủ đề trần tục. Tháng 10 năm 1948, trên đường đi giảng tại Trondheim, Russell đã thoát chết trong một vụ máy bay rơi. Cuốn Lịch sử triết học phương Tây (1945) trở nên một tên sách bán chạy nhất và mang lại cho Russell một nguồn thu nhập ổn định trong suốt phần đời còn lại. Cùng với Albert Einstein, bạn của ông, Russell đã đạt đến vị thế siêu sao với vai trò một nhà trí thức. Năm 1949, Russell được tặng Order of Merit (Huân chương Công lao của Khối Thịnh vượng chung Anh), và năm sau, ông nhận được Giải Nobel Văn học.
Năm 1952, Peter bỏ Russell, ông đã rất bất hạnh trong cuộc hôn nhân này. Conrad, con trai của Russell với Peter, đã không gặp cha trong suốt thời gian từ vụ li dị đến năm 1968 (khi quyết định gặp mặt cha của Conrad đã gây nên một sự sứt mẻ vĩnh viễn trong quan hệ với mẹ). Sau vụ li dị, Russell nhanh chóng cưới người vợ thứ tư, Edith Finch. Họ đã biết nhau từ năm 1925, Edith đã giảng dạy tại Bryn Mawr College gần Philadelphia, Pennsylvania, bà ở chung nhà trong 20 năm với Lucy Donnelly - người bạn cũ của Russell. Edith đã sống cùng ông cho đến khi ông qua đời, và tất cả mọi người đều nói rằng mối quan hệ của hai người gần gũi và đầy yêu thương trong suốt cuộc hôn nhân của họ. John, con trai cả của Russell bị bệnh tâm thần nặng. Đây là nguồn gốc của những cuộc cãi vã dai dẳng giữa Russell và Dora - vợ cũ của Russell và mẹ của John. Susan, vợ của John, cũng bị bệnh tâm thần. Và cuối cùng thì Russell và Edith trở thành những người bảo trợ hợp pháp của ba người con gái của vợ chồng John (hai trong ba người con gái về sau đã được chẩn đoán mắc chứng tâm thần phân liệt).
Russell dành hai thập kỷ 1950 và 1960 cho nhiều hoạt động chính trị, chủ yếu liên quan đến giải trừ vũ khí hạt nhân và phản đối Chiến tranh Việt Nam. Trong thời kỳ này, ông đã viết rất nhiều thư gửi các nhà lãnh đạo của thế giới. Trong lúc đó, Hoa Kỳ bắt đầu cuộc công kích, thả bom ở miền Bắc Việt Nam. Không lâu sau, ông gửi điện đến Chủ tịch Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Hồ Chí Minh. Trong điện này ông nêu ra quan điểm chống lại sự can thiệp của Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Đáp lại, Hồ Chí Minh lại gửi điện đến Russel vào ngày 10 tháng 8 năm 1964, trong đó có đoạn:
Ông cũng đã trở thành một người anh hùng đối với nhiều thành viên trẻ của New Left - một phong trào cánh tả cấp tiến trong những năm 1960. Đặc biệt, trong thập kỷ 1960, Russell đã trở nên ngày càng lớn tiếng phản đối các chính sách của chính quyền Mỹ. Năm 1963, ông là người đầu tiên được nhận Giải Jerusalem, một giải thưởng dành cho các tác giả viết về tự do cá nhân trong xã hội.
Bertrand Russell xuất bản bộ hồi ký dài ba tập vào cuối những năm 1960. Khi sức khỏe sa sút, ông vẫn minh mẫn cho đến khi ông qua đời vào năm 1970 tại nhà riêng tại Plas Penrhyn, Penrhyndeudraeth, Merioneth, Wales. Theo di chúc, ông đã được hỏa táng và tro được rải rắc khắp nơi.
Nghiên cứu triết học
Triết học phân tích
Russell thường được xem là một trong những người đặt nền móng cho triết học phân tích và thậm chí một số nhánh của ngành này. Vào đầu thế kỷ 20, cùng với George Edward Moore, Russell đã gần như khởi xướng "cuộc nổi dậy" tại nước Anh chống lại chủ nghĩa duy tâm" - một trường phái triết học chịu ảnh hưởng lớn bởi Georg Hegel và vị thánh tông đồ người Anh của ông F. H. Bradley. 30 năm sau, cuộc nổi dậy này còn được vọng lại tại Viên với "cuộc nổi dậy" của những người theo chủ nghĩa chứng thực lôgic chống lại siêu hình học. Russell đặc biệt phê phán mạnh mẽ học thuyết duy tâm về các quan hệ nội tại - quan niệm cho rằng để hiểu về một vật cụ thể nào đó, ta phải hiểu tất cả các quan hệ của nó. Russell đã chỉ ra rằng quan niệm này sẽ làm cho không gian, thời gian, khoa học và khái niệm về số trở thành không thể hiểu được. Các công trình lôgic của Russell và Whitehead đã tiếp tục đề tài này.
Russell và Moore đã cố gắng loại bỏ những gì mà họ cho là các khẳng định vô nghĩa và không mạch lạc trong triết học, họ tìm kiếm sự trong sáng và tính chính xác trong luận cứ bằng ngôn ngữ chính xác và bằng cách phân tách các mệnh đề triết học thành các thành phần đơn giản nhất. Cụ thể, Russell coi lôgic và khoa học là các công cụ chính của các nhà triết học. Khác với đa số các nhà triết học trước ông và nhiều người cùng thời, Russell không tin rằng có một phương pháp riêng dành cho triết học. Ông tin rằng nhiệm vụ chính của nhà triết học là làm sáng tỏ các mệnh đề tổng quát nhất về thế giới và loại bỏ những mơ hồ và nhầm lẫn. Cụ thể, ông đã muốn chấm dứt cái mà ông coi là những thứ quá mức của siêu hình học.
Nhận thức luận
Nhận thức luận của Russell trải qua nhiều giai đoạn. Thời trẻ, ông đã từ bỏ chủ nghĩa Tân Hegel và giữ nguyên là một người theo thuyết duy thực triết học trong suốt phần đời còn lại. Ông tin rằng các trải nghiệm trực tiếp có tầm quan trọng bậc nhất đối với việc đạt được tri thức. Tuy một số quan niệm của ông không còn được hâm mộ, nhưng ông vẫn có ảnh hưởng mạnh mẽ trong sự phân biệt giữa hai cách mà theo đó ta có thể làm quen với các đối tượng: "tri thức từ nhận biết" và "tri thức từ mô tả". Có một thời gian, Russell đã cho rằng ta chỉ có thể nhận biết bằng dữ liệu giác quan của chính ta — các tri giác nhất thời về màu sắc, âm thanh và những thứ tương tự—và rằng tất cả những thứ khác, trong đó có các đối tượng vật lý mà ta chỉ có thể thu được các dữ liệu giác quan về chúng bằng cách suy luận hoặc lập luận— nghĩa là được biết bởi mô tả— không được biết một cách trực tiếp. Sự phân biệt này đã được ứng dụng rộng rãi, tuy sau này Russell đã loại bỏ quan niệm về dữ liệu giác quan trực tiếp.
Trong triết học của ông về cuối đời, Russell đã chia sẻ quan điểm với một dạng chủ nghĩa nhất nguyên trung dung (neutral monism), trong đó, tại phân tích cuối cùng, ông cho rằng những khác biệt giữa các thế giới vật chất và tinh thần là tùy ý, và rằng cả hai đều có thể được suy giảm về một tính chất trung gian— một quan niệm tương đồng với quan niệm của một nhà triết học Mỹ, William James, và là quan niệm đã được phát biểu đầu tiên bởi Baruch Spinoza, người mà Russell rất ngưỡng mộ. Tuy nhiên, thay vì "trải nghiệm thuần túy" của James, Russell đã mô tả đặc điểm của bản chất các trạng thái khởi đầu của tri giác là các "biến cố", một quan điểm tương đồng một cách kỳ lạ với triết học quá trình (process philosophy) của Alfred North Whitehead - người thầy cũ của Russell.
Luân lý học
Tuy Russell viết rất nhiều về các chủ đề luân lý học, ông không tin rằng chủ đề này thuộc về triết học hay rằng ông đã dùng năng lực của một nhà triết học khi viết về luân lý học. Thời trẻ, Russell chịu ảnh hưởng lớn của tác phẩm Principia Ethica của George Edward Moore. Cùng với Moore, khi đó ông đã tin rằng các sự kiện đạo đức có tính chất khách quan nhưng chỉ được biết qua trực quan, và rằng chúng là các tính chất đơn giản của các đối tượng chứ không tương đương với các đối tượng tự nhiên mà chúng thường được gán cho (xem Ngụy biện tự nhiên). Ông cho rằng các tính chất đạo đức đơn giản không định nghĩa được này không thể được phân tích dựa trên các tính chất có không thuộc về đạo đức mà chúng có quan hệ. Tuy nhiên, theo thời gian, ông đi đến đồng quan điểm với người hùng triết học của ông, David Hume, người tin rằng các thuật ngữ luân lý học nói đến các giá trị chủ quan mà không thể được chứng thực theo cách mà người ta vẫn làm đối với các vấn đề sự kiện. Cùng với các học thuyết khác của Russell, quan niệm này đã ảnh hưởng tới các nhà chứng thực lôgic, những người đã thiết lập lý thuyết emotivism với quan điểm rằng các mệnh đề luân lý (cũng như các mệnh đề siêu hình học) về bản chất là vô nghĩa và vô lý, hay cùng lắm cũng không hơn các biểu đạt về thái độ và sự ưu tiên là bao.
Mặc dù vậy. chính Russell lại không hiểu các mệnh đề luân lý theo cách hẹp như các nhà triết học chứng thực, vì ông tin rằng các suy xét luân lý học không chỉ có ý nghĩa mà còn là một chủ đề sống còn đối với giao tiếp thông thường. Quả thực, tuy Russell thường được mô tả là ông thần bảo hộ của sự hợp lý, ông đã đồng ý với Hume, người nói rằng lý tính nên giữ vị trí kém quan trọng hơn các suy xét luân lý.
Russell đã viết một số cuốn sách về các vấn đề luân lý thực tiễn chẳng hạn như hôn nhân. Ông có các quan điểm tự do về lĩnh vực này. Ông cho rằng các quan hệ tình dục ngoài hôn nhân là chấp nhận được. Trong cuốn Human Society in Ethics and Politics (1954), ông ủng hộ quan niệm rằng ta nên nhìn các vấn đề đạo đức từ góc nhìn của các mong muốn cá nhân. Các cá nhân được phép làm những gì họ mong muốn, miễn là không có xung đột giữa mong muốn của những cá nhân khác nhau. Bản thân các mong muốn không xấu, chỉ có đôi khi các hậu quả tiềm năng hay thực tế của chúng là xấu. Russell còn viết rằng sự trừng phạt chỉ quan trọng với ý nghĩa một công cụ. Do đó, ta không nên trừng phạt một ai đó chỉ vì mục đích trừng phạt.
Thuyết nguyên tử lôgic
Có lẽ lối phân tích triết học hệ thống hóa nhất và thuyết logic với trọng tâm là chủ nghĩa kinh nghiệm (empiricist-centric logicism) của Russell được thể hiện rõ nhất trong cái mà ông gọi là thuyết nguyên tử lôgic (logical atomism), học thuyết này được phát triển trong một tập hợp các bài giảng. Trong các bài giảng này, Russell trình bày khái niệm của ông về một ngôn ngữ đẳng cấu lý tưởng mà nó có thể phản ánh chính xác thế giới, trong ngôn ngữ đó, tri thức của ta có thể được suy giản về các mệnh đề nguyên tử và các kết hợp của chúng với ý nghĩa như các hàm chân giá trị (truth function). Thuyết nguyên tử lôgic là một hình thức chủ nghĩa kinh nghiệm cấp tiến, vì Russell tin rằng yêu cầu quan trọng nhất đối với một ngôn ngữ lý tưởng như vậy là: mọi mệnh đề có nghĩa đều phải bao gồm các thuật ngữ chỉ trực tiếp đến các đối tượng mà ta biết. Russell loại trừ một số thuật ngữ lôgic hình thức nhất định, chẳng hạn tất cả, mọi, là, v.v.. khỏi yêu cầu của ông về tính đẳng cấu. Nhưng ông chưa bao giờ hoàn toàn hài lòng với cách hiểu của chúng ta về những từ này. Một trong những chủ đề trung tâm của thuyết nguyên tử của Russell là: thế giới bao gồm các sự kiện độc lập với nhau về lôgic, tính đa nguyên của các sự kiện, và rằng tri thức của ta phụ thuộc vào dữ liệu của trải nghiệm trực tiếp của ta về các sự kiện đó.
Về cuối đời, Russell trở nên nghi ngờ các khía cạnh của thuyết nguyên tử lôgic, đặc biệt là nguyên lý đẳng cấu của ông, tuy ông vẫn tiếp tục tin rằng một quá trình triết học cần phải phân tích sự kiện/tri thức thành những thành phần đơn giản nhất, ngay cả khi ta có thể không hoàn toàn đạt đến một sự kiện tuyệt đối nguyên tử.
Lôgic và triết học của toán học
Tôn giáo và thần học
Trong phần lớn cuộc đời, Russell nghĩ rằng rất ít khả năng tồn tại một vị Chúa trời, và ông cho rằng tôn giáo chỉ hơn mê tín dị đoan tí chút và mặc dù tôn giáo có thể có hiệu ứng tích cực, nói chung tôn giáo vẫn có hại đối với dân chúng. Ông tin rằng tôn giáo và lối suy nghĩ tôn giáo (ông coi chủ nghĩa cộng sản và các hệ tư tưởng hệ thống hóa khác cũng là các dạng tôn giáo) làm cản trở tri thức, nuôi dưỡng sự sợ hãi và phụ thuộc, và phải chịu trách nhiệm cho phần lớn các cuộc chiến tranh, đàn áp và đau khổ trên thế giới.
Quan điểm của Russell về tôn giáo thể hiện trong cuốn sách nổi tiếng của ông Why I Am Not a Christian and Other Essays on Religion and Related Subjects (Tại sao tôi không phải tín đồ Kitô giáo, và các bài luận khác về tôn giáo và các chủ đề liên quan) (ISBN 0-671-20323-1). Cuốn sách còn chứa những bài luận mà trong đó Russell xem xét một loạt các luận cứ lôgic về sự tồn tại của Chúa trời, bao gồm luận cứ nguyên nhân đầu tiên, luận cứ quy luật tự nhiên (natural-law argument - thuyết cho rằng Chúa trời đã tạo ra các quy luật tự nhiên), luận cứ thiết kế (argument from design) và các luận cứ đạo đức khác. Ông còn bàn luận cụ thể về thần học Ki-tô giáo.
Kết luận của ông:
Danh sách chọn lọc các tác phẩm của Russell
Danh sách chọn lọc các tác phẩm của Russell xếp theo năm của lần xuất bản đầu tiên.
1896, German Social Democracy (Phái dân chủ xã hội Đức)
1897, An Essay on the Foundations of Geometry (Kinh nghiệm luận chứng hình học)
1900, A Critical Exposition of the Philosophy of Leibniz
1903, The Principles of Mathematics (Những nguyên lý của toán học)
1910, Philosophical Essays (Những tiểu luận triết học), tập tiểu luận
1910 – 1913, Principia Mathematica (đồng tác giả với Alfred North Whitehead), 3 tập
1912, The_Problems_of_Philosophy (Các vấn đề của triết học)
1914, Our Knowledge of the External World as a Field for Scientific Method in Philosophy (Nhận thức của chúng ta về thế giới bên ngoài như lĩnh vực tác động của phương pháp khoa học trong triết học)
1916, Principles of Social Reconstruction (Các nguyên tắc tái thiết xã hội)
1916, Justice in War-time
1917, Political Ideals (Những ý tưởng chính trị)
1918, Mysticism and Logic and Other Essays (Chủ nghĩa thần bí và logic học), hợp tuyển
1918, Roads to Freedom: Socialism, Anarchism, and Syndicalism (Con đường dẫn đến tự do)
1919, Introduction to Mathematical Philosophy (Lời nói đầu cho triết học toán học)
1920, The Practice and Theory of Bolshevism (Thực tiễn và lý luận của chủ nghĩa Bolshevik)
1921, The Analysis of Mind (Phân tích tinh thần)
1922, The Problem of China (Vấn đề của Trung Hoa)
1923, The Prospects of Industrial Civilization (đồng tác giả với Dora Russell)
1923, The ABC of Atoms
1924, Icarus, or the Future of Science
1925, The ABC of Relativity
1925, What I Believe (Những điều tôi tin)
1926, On Education, Especially in Early Childhood (Về giáo dục trẻ em ở độ tuổi trước khi đến trường)
1927, The Analysis of Matter (Phân tích vật chất)
1927, An Outline of Philosophy (Lược khảo triết học)
1927, Why I Am Not a Christian (Tại sao tôi không phải là người Công giáo), bài nói chuyện
1927, Selected Papers of Bertrand Russell
1928, Sceptical Essays
1929, Marriage and Morals (Hôn nhân và đạo đức), khảo luận
1930, The Conquest of Happiness
1931, The Scientific Outlook
1932, Education and the Social Order (Giáo dục và Văn minh)
1934, Freedom and Organization, 1814–1914
1935, In Praise of Idleness
1935, Religion and Science
1936, Which Way to Peace?
1937, The Amberley Papers: The Letters and Diaries of Lord and Lady Amberley (với Patricia Russell), 2 tập
1938, Power: A New Social Analysis (Quyền lực: Một phân tích xã hội)
1940, An Inquiry into Meaning and Truth (Nghiên cứu nghĩa và chân lý)
1945, A History of Western Philosophy and Its Connection with Political and Social Circumstances from the Earliest Times to the Present Day (Lịch sử Triết học Phương Tây)
1948, Human Knowledge: Its Scope and Limits (Nhận thức của con người: Lĩnh vực và giới hạn của nó
1949, Authority and the Individual (Quyền lực và cá nhân)
1950, Unpopular Essays
1951, New Hopes for a Changing World
1952, The Impact of Science on Society
1953, Satan in the Suburbs and Other Stories
1954, Human Society in Ethics and Politics
1954, Nightmares of Eminent Persons and Other Stories
1956, Portraits from Memory and Other Essays
1956, Logic and Knowledge: Essays 1901–1950 (biên tập bởi Robert C. Marsh)
1957, Why I Am Not A Christian and Other Essays on Religion and Related Subjects (biên tập bởi Paul Edwards)
1958, Understanding History and Other Essays
1959, Common Sense and Nuclear Warfare (Lương tri và chiến tranh nguyên tử)
1959, My Philosophical Development (Sự phát triển triết học của tôi)
1959, Wisdom of the West (biên tập bởi Paul Foulkes)
1960, Bertrand Russell Speaks His Mind
1961, The Basic Writings of Bertrand Russell (biên tập bởi R.E. Egner và L.E. Denonn) (Các ghi chép cơ bản của Bertrand Russell)
1961, Fact and Fiction
1961, Has Man a Future? (Con người có tương lai hay không)
1963, Essays in Skepticism
1963, Unarmed Victory (Chiến thắng vũ khí)
1965, On the Philosophy of Science (biên tập bởi Charles A. Fritz, Jr)
1967, Russell's Peace Appeals (biên tập bởi Tsutomu Makino và Kazuteru Hitaka)
1967, War Crimes in Vietnam (Tội ác chiến tranh ở Việt Nam)
1967 – 1969, The Autobiography of Bertrand Russell (Tự truyện Bertrand Russell, 3 tập)
1969, Dear Bertrand Russell... A Selection of his Correspondence with the General Public 1950–1968 (biên tập bởi Barry Feinberg và Ronald Kasrils)
Lưu ý: Đây chỉ là một danh sách rất chọn lọc, vì Russel còn là tác giả của nhiều cuốn sách nhỏ, các lời mở đầu, các bài báo và các lá thư gửi tòa soạn. Tác phẩm của ông còn có trong nhiều hợp tuyển và tuyển tập, có lẽ nổi bật nhất là cuốn The Collected Papers of Bertrand Russell được Đại học McMaster bắt đầu xuất bản từ năm 1983. Tuyển tập này gồm các tác phẩm ngắn và chưa được xuất bản trước đó, đến nay đã lên tới 16 tập, và sắp tới còn nhiều tập nữa. Kèm theo là một bộ ca-ta-lô gồm 3 tập chỉ dành liệt kê danh sách các tác phẩm của ông. Kho tài liệu về Russell tại Đại học McMaster còn có hơn 30000 lá thư mà ông đã viết.
Chú thích |
Phúc Châu (chữ Hán: 福州; bính âm: Fúzhōu; Wade-Giles: Fu-chou) là tỉnh lỵ của tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, còn được gọi là Dung Thành/Dong Thành (榕城, có nghĩa là "Thành phố cây đa"). Diện tích: 12.000 km², dân số: 8.29 triệu người. GDP đầu người: 15419 USD (năm 2018), xếp thứ 24/659 thành phố của Trung Quốc.
Lịch sử
Người ta không rõ ngày thành lập thành phố. Khi nước Việt ở phía Bắc Phúc Kiến bị nhà Chu thôn tính năm 306 trước Công nguyên, một nhánh của hoàng gia của nước Việt chạy trốn đến Phúc Kiến và trở thành bộ lạc Mân Việt. (閩越, Minyue). Thành đầu tiên của Phúc Châu được xây dựng năm 202 trước Công nguyên khi Lưu Bang, người sáng lập nhà Hán cho phép Vô Chư (無諸) - vương của Mân Việt đóng đô ở Phúc Châu. Thành được gọi là Dã (冶, Ye) - nghĩa là "Diêm dúa". Tên này bị thay đổi nhiều nhưng thành không bị phá từ năm 202 sau Công nguyên.
Năm 110 trước Công nguyên, nhà Hán thôn tín Mân Việt, Phúc Châu trở thành huyện Dã.
Trong thời nhà Tấn, Tây Hồ và Đông Hồ và một số kênh được đào (năm 282).
Khi nhà Tấn sụp đổ, một làn sóng dân di cư đến Phúc Kiến (năm 308). Trong thời nhà Đường (năm 725), thành phố bắt đầu được gọi là Phúc Châu. Năm 892, khi nhà Đường sụp đổ, nhiều di dân đến Phúc Kiến hơn, họ Vương lập kinh đô Mân quốc (909-947) đóng đô tại Phúc Châu. Tên gọi Phúc Kiến thời này có Mân Nam, sông chảy qua Phúc Châu gọi là Mân Giang. Người ta xây thành vào các năm: 282, 901, 905 và 975 do đó thành phố có nhiều lớp thành, hơn kinh đô Trung Hoa.
Hoàng đế nhà Tống hạ lệnh phá hủy thành năm 978 nhưng lại cho xây lại sau đó. Lần xây thành cuối cùng là 1371. Trong thời Nam Tống, Phúc Châu thịnh vượng, nhiều học giả đến sống và làm việc tại đây, trong đó có Chu Hi - nhà triết học chỉ xếp sau Khổng Tử và nhà thơ Tân Khí Tật (辛棄疾), nhà thơ vĩ đại nhất của thể loại từ. Marco Polo cũng đã đến đây. Đền Hoa Lâm được coi là di sản quốc gia Trung Quốc. Thời kỳ 1405-1433 đội tàu của nhà Minh do Trịnh Hòa lãnh đạo đã xuất phát từ Phúc Châu đi Ấn Độ Dương 7 lần.
Thời nhà Thanh, nơi đây là nha môn của Tổng đốc Mân Chiết, quản lý các tỉnh Phúc Kiến, Chiết Giang và đảo Đài Loan. Cuối thời nhà Thanh nơi đây có Phúc châu thuyền chính cục là cơ quan quản lý hàng hải có quy mô lớn ở vùng duyên hải đông nam. Xưởng đóng tàu Phúc châu nằm ở Mã vĩ nên cũng có tên là xưởng Mã vĩ, một trong những công xưởng lớn nhất Trung Quốc lúc bấy giờ. Khi chiến tranh Trung Pháp xảy ra năm 1884, hải quân Pháp tấn công hạm đội Phúc kiến neo tàu tại đây và làm hạm đội thiệt hại nặng nề. Sau đó xưởng mới lại được xây dựng lại trên nền cũ.
Ngày 8 tháng 11 năm 1911, những người cách mạng khởi nghĩa ở Phúc Châu, sau một đêm đánh nhau trên đường phố, nhà Thanh đầu hàng. Ngày 22 tháng 11 năm 1933, đội quân thứ 19 lập một chính phủ tồn tại trong thời gian ngắn "Trung Hoa Cộng Hòa Quốc" (中華共和國) (khác với Trung Hoa Dân Quốc) ở Phúc Châu nhưng sụp đổ sau đó mấy tháng.
Phúc Châu có sân bay quốc tế Trường Lạc.
Hành chính
Phúc Châu hiện có 6 khu, 1 thành phố cấp huyện và 6 huyện.
Quận:
Cổ Lâu, Đài Giang, Thương Sơn, Mã Vĩ, Tấn An, Trường Lạc
Thành phố cấp huyện:
Phúc Thanh
Huyện:
Mân Hầu, Liên Giang, La Nguyên, Mân Thanh, Vĩnh Thái, Bình Đàm
Phúc Châu trong tiểu thuyết võ hiệp
Phúc Châu là tên địa danh xuất hiện trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung: Tiếu ngạo giang hồ. Trong đó, Phúc Châu trong tiểu thuyết là đô thị sầm uất, có Phúc Uy tiêu cục, là quê hương của Lâm Bình Chi. Tên Phúc Châu nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong tác phẩm.
Thành phố kết nghĩa
Nagasaki, Nhật Bản
Naha, Nhật Bản
Syracuse, Hoa Kỳ
Tacoma, Hoa Kỳ
Campinas, Bồ Đào Nha
City of Shoalhaven, Úc
Georgetown, Guyana
Koszalin, Ba Lan
Mombasa, Kenya
Río Gallegos, Argentina
Omsk, Nga
Semarang, Indonesia
Hobart, Úc
Manila, Philippines
Liège, Bỉ
Nouadhibou, Mauritanie
Xiêm Riệp, Campuchia
Các trường đại học và cao đẳng
Đại học Phúc Châu (福州大學);
Đại học Sư phạm Phúc Kiến (福建師範大學) (thành lập năm 1907);
Đại học Nông Lâm Phúc Kiến (福建農林大學);
Đại học Y khoa Phúc Kiến (福建醫科大學);
Đại học Đông y Phúc Kiến (福建中醫藥大學);
Học viện Mân Giang (閩江學院);
Học viện Công trình Phúc Kiến (福建工程學院);
Học viện Giang Hạ Phúc Kiến (福建江夏學院).
Ghi chú: chỉ liệt kê các trường có chương trình đào tạo cử nhân toàn phần. |
Stefan Banach (30 tháng 3 năm 1892 ở Kraków, Đế chế Áo-Hung bây giờ là Ba Lan– 31 tháng 8 năm 1945 ở Lwów, vùng Ba Lan bị Liên Xô chiếm đóng), là một nhà toán học nổi tiếng người Ba Lan, một trong những người dẫn đầu Trường phái toán học Lwów ở Ba Lan trước chiến tranh. Ông tự học toán; tài năng toán của ông được khám phá một cách tình cờ bởi Juliusz Mien và sau này là Hugo Steinhaus.
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu, Banach là Chủ tịch Hội toán học Ba Lan và là giáo sư tại Đại học Lwów. Là một thành viên của Viện Hàn lâm khoa học Cộng hòa Xô viết Ukraina, và có quan hệ tốt với các nhà toán học Liên Xô, ông được phép giữ vị trí đó mặc cho sự chiếm đóng thành phố của Hồng quân Xô viết từ năm 1939. Banach sống sót các trận chiếm đóng tàn bạo sau đó của quân Đức từ tháng 7 năm 1941 đến tháng 2 năm 1944, sống sót bằng cách hiến máu cho Viện nghiên cứu Typhus của giáo sư Rudolf Weigl. Sức khỏe của ông suy giảm trong thời bị chiếm đóng, và ông bị nhiễm ung thư phổi. Sau chiến tranh Lwów được sáp nhập vào Liên Xô, và Banach qua đời trước khi có thể được đưa về an nghỉ ở Kraków, Ba Lan. Ông được chôn cất tại Nghĩa trang Lyczakowski.
Các tác phẩm
Teoria operacji liniowych (Lý thuyết về các toán tử tuyến tính), 1932, được xem như là công trình có ảnh hưởng lớn nhất của Banach. Trong đó ông hình thức hóa khái niệm bây giờ được biết đến như là không gian Banach, và chứng minh nhiều định lý cơ sở của giải tích hàm. Ông cũng là người khởi xướng và biên tập tạp chí Studia Mathematica.
Ngoài việc là một trong những người sáng lập ra giải tích hàm, Banach cũng có các đóng góp quan trọng vào lý thuyết độ đo, lý thuyết tập hợp, và các ngành khác của toán.
Các câu nói nổi tiếng
Stanisław Marcin Ulam, một nhà toán học khác của Trường phái toán học Lwów, trong tự truyện, đã nói về Banach như thế này:
"Nhà toán học giỏi thấy các điều tương tự. Nhà toán học vĩ đại thấy các điều tương tự giữa các điều tương tự."
Hugo Steinhaus nói về Banach:
"Một trí tuệ ngoại lệ, những khám phá ngoại lệ... ông đã đóng góp cho khoa học Ba Lan hơn tất cả mọi người khác."
"Banach là khám phá khoa học vĩ đại nhất của tôi." |
Johnny Trí Nguyễn (sinh ngày 16 tháng 1 năm 1974) là một nam diễn viên điện ảnh người Mỹ gốc Việt. Anh để lại ấn tượng với khán giả qua các vai nam chính trong các phim võ thuật Dòng máu anh hùng, Bẫy rồng và Bụi đời Chợ Lớn. Ngoài ra, anh cũng có lối diễn xuất hài hước trong các phim hài Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Nụ hôn thần chết và Cưới ngay kẻo lỡ, Tèo em.
Anh là em trai của đạo diễn Việt kiều Charlie Nguyễn, 2 anh em của Trí với danh hài Vân Sơn đều là cháu ruột của cố NSƯT Nguyễn Chánh Tín.
Tiểu sử
Anh tên thật là Nguyễn Chánh Minh Trí; sinh ngày 16 tháng 1 năm 1974 tại Bình Dương, nhưng cùng gia đình (cha, mẹ và anh, chị) đi định cư ở Los Angeles, California, Hoa Kỳ vào năm 1982, anh lấy tên tiếng Anh là Johnny Trí Nguyễn. Từ nhỏ, Trí đã được học võ vì gia đình anh có truyền thống võ học. Học và nghiên cứu khá nhiều loại võ, nhưng cho đến khi làm quen với wushu, Trí mới thực sự tìm thấy đam mê. Anh từng được vào đội tuyển wushu của Mỹ, đại diện cho Hoa Kỳ tranh giải wushu toàn thế giới. Cũng chính nhờ đó, Trí có cơ hội mời đóng stunt (người đóng thế thân) cho loạt phim truyền hình Mortal Kombat: Conquest và sau đó còn được mời đóng một vai nhỏ trong Martial Law, bước chân đầu tiên đến Hollywood.
Làm người đóng thế được vài năm, Trí ngừng hẳn việc đóng phim, tập trung luyện võ. Cũng trong thời gian này, Trí đi làm ánh sáng và phụ quay cho các đoàn phim để kiếm sống và có tiền ăn học. Thế rồi những lời mời lại tiếp tục kéo Trí rời khỏi ghế trường đại học.
Làm người đóng thế ở Hollywood đem đến cuộc sống tạm ổn. Giới người đóng thế không nhiều, đóng phim này, quen người mới, lại được giới thiệu sang phim khác. Trí Nguyễn lần lượt đóng thế các pha hành động trong nhiều bộ phim, từ những vai nhỏ cho đến những vai lớn, qua các phim We Were Soldiers, Spider-Man (đóng thế cho Green Goblin), Ella Enchanted, Starship Troopers 2: Hero of the Federation, Spider-Man 2 (đóng thế cho Người Nhện trong pha đánh nhau trên nóc tàu cao tốc), Collateral, Color Blind (phim ngắn của đạo diễn Việt Kiều Ethan Trần, do vợ chồng Trí cùng thủ vai chính), Serenity, Jarhead và The Perfect Sleep.
Cũng chính nhờ đó, tên tuổi của Trí bắt đầu được chú ý. Một người bạn Trí khi làm phim Tom-Yum-Goong ở Thái Lan nghe đoàn phim này đang casting một nam diễn viên người Việt biết võ thuật để vào vai kẻ thù của Tony Jaa đã giới thiệu Trí. Trí gửi băng demo sang, và anh được mời tham gia. Tom-Yum-Goong là một phim hành động, vì thế đất diễn của Trí Nguyễn cũng chỉ là những pha đánh đấm ngoạn mục.
Trí ấp ủ có một vai diễn riêng cho mình. Về Việt Nam, Trí quyết định bắt tay vào làm một bộ phim cho chính mình. Anh bắt đầu nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, đồng thời tìm hiểu sách dạy viết kịch bản của Robert McKee để chuẩn bị cho bộ phim Dòng máu anh hùng - The Rebel. Định mời quay phim Trinh Hoan đảm nhận phần hình ảnh, Trí bất ngờ nhận được lời mời của Trinh Hoan và đạo diễn Nguyễn Quang Dũng đóng vai chính trong bộ phim Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Ngay khi đọc bản thảo kịch bản phim Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Trí đã bị lôi cuốn và nhận lời ngay tức thì. Sau khi hoàn thành vai diễn trong phim Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Trí lập tức bắt tay vào bộ phim Dòng máu anh hùng.
Trí không những giỏi võ thuật mà anh cũng rất cừ trong các môn khác như bóng rổ, cưỡi ngựa, bơi lội, đua xe, trượt tuyết, bắn súng, chơi Ghi-ta. Mùa hè 1988, anh là thành viên trong đội tuyển Wushu Hoa Kỳ, anh đã đoạt được 1 huy chương vàng tại giải Vô địch Panamerican Wushu kỳ 2 tại Toronto.
Một phần võ thuật của anh là học từ ông nội, võ sư Nguyễn Chánh Minh. Trong những năm 1930, ông Minh học được rất nhiều bài quyền khác nhau từ các võ sư khắp Nam Kỳ và ông đã chắt lọc tinh túy, đúc kết các kỹ thuật để dạy cho các con và môn đệ một phong cách võ mới gọi là Liên Phong. Từ tháng 4 năm 2012, Trí Nguyễn đã mở lò dạy võ gia truyền tại Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.
Anh kết hôn với ca sĩ Việt Thi (Vũ Lynn Cathy) vào năm 2000 và có hai con gái: Minh Trang Hailey và Thanh An Tailor. Trước đây, Johnny Trí Nguyễn (với nghệ danh cũ Minh Trí) cùng vợ có làm ca sĩ độc quyền cho Trung tâm Vân Sơn và có phát hành 1 CD là Asian Girls với những bài hát Anh-Việt do Trí viết lời như Vietnamese Boy, Ánh mắt đưa tình, One Night in Saigon...Cả hai đã ngừng chung sống với nhau từ năm 2008. Hiện nay anh đang hẹn hò với nữ diễn viên Nhung Kate.
Sự nghiệp
Phim Việt Nam đã tham gia
Phim nước ngoài đã tham gia
Irumbu Kuthirai (2014)
7 Aum Arivu (2011)
Adrift (2009)
Force of Five (2009)
Adventures of Johnny Tao: Rock Around the Dragon (2007)
Da 5 Bloods (2020)
House of the Dead 2: Dead Aim (2005)
Tom-Yum-Goong (2005, tái phát hành The Protector năm 2006)
Demon Hunter (2005)
Color Blind (2005)
Confessions of an Action Star (2005)
Sledge: The Untold Story (2005)
Max Havoc: Curse of the Dragon (2004)
Ella Enchanted (2004)
XMA (2004)
The Shield (2004)
Alias (2003)
Cradle 2 the Grave (2003)
The Master of Disguise (2002)
Martial Law (1998)
Phim đã đóng thế
The Perfect Sleep (2005)
Jarhead (2005)
Serenity (2005)
Color Blind (2005)
Ella Enchanted (2004)
Spider-Man 2 (2004)
Collateral (2004)
Starship Troopers 2: Hero of Federation (2004)
Nudity Required (2002)
Spider-Man (2002)
We Were Soldiers (2002)
Angel (1999)
Charmed (1998)
Mortal Kombat: Conquest (1998)
Buffy the Vampire Slayer'' (1997)
Với trung tâm Vân Sơn
Con Gái (Ngọc Lễ) - với Vân Sơn, Thanh Trúc, Việt Thi - Vân Sơn 4 (1996)
Lột Xác (Trần Anh Việt) - với Quang Minh, Hồng Đào, Vân Sơn, Giáng Ngọc, Thúy Ái - Vân Sơn 14 (1999)
Girl Of The New Millenium - với Việt Thi - Vân Sơn 15 (2000)
Super Heroes (Minh Trí, Việt Thi) - với Việt Thi - Vân Sơn 16 (2000)
Love (LV: Minh Trí) - với Lương Tùng Quang, Việt Thi - Vân Sơn 17 (2000)
Saying Goodbye - Vân Sơn 18 (2000)
Best Friend - với Việt Thi - Vân Sơn 19 (2001)
Can't Take My Eye Of You - với Lương Tùng Quang, Nguyễn Thắng - Vân Sơn 19 (2001)
One Night In Sai Gon - với Việt Thi - Vân Sơn 20 (2001)
Em Cô Gái Việt Nam (Huỳnh Nhật Tân, Nguyễn Cư) - với Vân Sơn, Bảo Liêm, Quang Minh, Trường Vũ, Nguyễn Thắng - Vân Sơn 21 (2002)
Sugar Sugar - với Việt Thi - Vân Sơn 21 (2002)
Ba Tháng Chớp Nhoáng (Vicky Vũ) - với Quang Minh, Hồng Đào, Việt Thi - Vân Sơn 21 (2002)
Party - Vân Sơn 23 (2002)
Asian Girls (Minh Trí) - với Nguyễn Thắng - Vân Sơn 24 (2003)
Oriental Cowgirl (LV: Minh Trí) - với Việt Thi - Vân Sơn 25 (2003)
LK New Wave 80's - với Cát Tiên, Andy Quách, Việt Thi - Vân Sơn 26 (2004)
Nắng Lạ phần 2,3 - với Vân Sơn, Bảo Liêm, Hồng Đào, Lê Huỳnh - Vân Sơn 26 (2004)
Vietnamese Boy - với Việt Thi - Vân Sơn 26 (2004)
When I Left That Day - Vân Sơn 27 (2004)
Khúc Hát Xót Xa - Vân Sơn 29 (2005)
Đã Lỡ Yêu Em - Vân Sơn 30 (2005)
Ánh Mắt Đưa Tình - với Việt Thi - Vân Sơn 31 (2005)
Mơ - Vân Sơn 32 (2005) |
Leyna Nguyễn (sinh năm 1969 tại Đông Hà, Quảng Trị) là người dẫn chương trình thời sự và phóng viên truyền hình người Mỹ gốc Việt từ Los Angeles, California. Cô dẫn chương trình thời sự cho KCAL-TV tại Los Angeles kể từ tháng 12 năm 1997 và trước đó cô từng làm cho đài KCRA tại Sacramento, California, và CBS, KCBS. Leyna là phát thanh viên đầu tiên trong lịch sử truyền thông Mỹ cùng một lúc cộng tác với hai nhà đài trong cùng một khu vực. Hiện nay, cô dẫn chương trình trên Đài Truyền hình số 9 tại khu vực miền nam California.
Lúc Leyna được 5 tuổi, cô theo gia đình di tản qua Hoa Kỳ năm 1975 và định cư tại tiểu bang Minnesota. Cô đã là hoa hậu người Mỹ gốc châu Á (Miss Asia) năm 1987 và Leyna đã một lần làm cô giáo thay thế. Năm 22 tuổi, Leyna tốt nghiệp chuyên ngành Mass Communications (Truyền thông đại chúng) từ trường đại học Webster tại St. Louis. Ngoài việc làm phóng viên, cô còn tham dự những chương trình giải trí Việt Nam (như làm MC cho những chương trình nhạc của Trung tâm Asia) và xuất hiện trong phim (như vai phụ trong các phim Hollywood như Paparazzi, Duplex, The Day After Tomorrow và Price of Glory). Năm 2000, cô từng được bình chọn là một trong 25 người Mỹ gốc Việt có ảnh hưởng nhất tại Mỹ.
Năm 1997, cô thành lập tổ chức phi lợi nhuận Love Across The Ocean để quyên góp giúp đỡ các trẻ em kém may mắn ở Việt Nam, số tiền đó cô dùng để xây trường học, cung cấp sách vở cho học sinh nghèo. Năm 2005, cô lập gia đình với Michael Muriano (một người Mỹ gốc Ý và là đạo diễn và sản xuất phim) vào ngày 11 tháng Tư, tại thị trấn Đông Hà thuộc tỉnh Quảng Trị theo phong tục Việt Nam với áo dài khăn đóng .
Năm 2008, cô được trao tặng 2 giải Emmy , Giải thưởng cao quý nhất của ngành truyền hình Mỹ cho vai trò MC của cô trong hai show truyền hình Special Olympics Summer Games và Heal the Bay.
Tháng 3 năm 2011, Leyna Nguyễn đã được Nghị viện bang California trao tặng giải thưởng Phụ nữ của năm 2011 (Woman of the Year 2011), vinh danh những đóng góp của cô trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và cộng đồng.
Năm 2009, cô và chồng mua một căn nhà trị giá gần 1,5 triệu USD tại Los Angeles, Mỹ
Hiện nay, cô làm việc tại Đài KCAL9 của CBS, phụ trách mảng tin tức vào 16.00 giờ và 21.00 giờ địa phương .
Chú thích |
Betty Nguyễn là người dẫn chương trình thời sự Mỹ gốc Việt hiện giờ đang làm cho kênh truyền hình Mỹ CBS. Betty Nguyễn sinh tại Sài Gòn, Việt Nam. Gia đình cô di cư đến Mỹ sau những sự kiện 30 tháng 4 năm 1975. |
Dạ cổ hoài lang là bản nhạc cổ do nhạc sĩ Cao Văn Lầu sáng tác, nói về tâm sự người vợ nhớ chồng lúc về đêm. Từ bản Dạ cổ hoài lang mỗi câu 2 nhịp, các nghệ sĩ sau này chuyển lên 4 nhịp rồi 8 nhịp, mà thành bài vọng cổ đầu tiên.
Nguyên nhân ra đời
Theo báo Thanh Niên, thì Cao Văn Lầu (Sáu Lầu) đã thổ lộ với bạn thân rằng:
Tôi đặt bài này bởi tôi rất thương vợ. Năm viết bản Dạ cổ hoài lang, tôi đã ăn ở với vợ tôi được 3 năm mà không có con...Tiếng ra, tiếng vào của gia đình buộc tôi phải thôi vợ, nhưng tôi không đành. Tôi âm thầm chống lại nghiêm lệnh của gia đình, không đem vợ trả về cho cha mẹ mà đem gởi đến một gia đình có tấm lòng nhân hậu...
Tác giả bài báo kể tiếp:
Trong thời gian dài, phu thê phải cam chịu cảnh "đêm đông gối chiếc cô phòng", Sáu Lầu thường mượn tiếng đàn để vơi cơn phiền muộn. Và bản Dạ cổ hoài lang đã ra đời trong bối cảnh như thế...
Tác giả Trung Tín trong một bài viết, cho biết thêm hai lời kể nữa:
Lời kể của nhạc sĩ Hai Ngưu :
Trong một đêm ông Sáu Lầu trực gác tại Nhà đèn Bạc Liêu vào năm 1920, do đau khổ trong hoàn cảnh nợ duyên ngang trái, ông xúc cảm viết thành bản nhạc lòng Dạ cổ hoài lang (Đêm khuya nghe tiếng trống nhớ chồng). Sau khi bản Dạ cổ hoài lang ra đời...ít lâu sau (nhờ vợ ông có thai) hai vợ chồng ông được tái hợp, để rồi sau đó hai ông bà đã có với nhau 7 người con.
Lời kể của nhà giáo Trịnh Thiên Tư với ông Chín Tâm (nguyên giảng viên Trường Quốc gia âm nhạc và kịch nghệ Sài Gòn):
Năm ông Sáu Lầu 28 tuổi, ông được lệnh mẹ phải thôi vợ vì lý do "tam niên vô tự bất thành thê". Ông Sáu Lầu đau khổ nhưng không dám cãi lời mẹ dạy. Chiều chiều ông ôm cây đàn kìm ra sau vườn làm bạn tâm tình...Bài này lúc đầu có 22 câu và ông đặt tên là Hoài lang. Danh ca Bảy Kiên nhận thấy có vài câu trùng ý, đề nghị rút lại còn 20 câu. Đồng thời ông Kiên còn thêm vào hai chữ "dạ cổ", thành ra "Dạ cổ hoài lang". Về lời ca, nhạc sĩ Sáu Lầu phóng tác theo bài thơ "Chinh phụ thán" của nhạc sư Nguyệt Chiếu – trụ trì chùa Phật Hòa Bình ở Bạc Liêu. Bài thơ mang âm hưởng tích "Tô Huệ Chức Cẩm Hồi Văn" đời nhà Tần bên Tàu.
Nhưng theo Trần Tấn Hưng (Năm Nhỏ) và những người đồng môn với ông Cao Văn Lầu, thì ông Lầu đã soạn được phần nhạc trước khi xa vợ. Ông Hưng kể:Ông Cao Văn Lầu cùng các bạn học đồng thời đã được thầy là nhạc sư Lê Tài Khí (Nhạc Khị) hướng dẫn sáng tác theo một chủ đề là "Chinh phụ vọng chinh phu", được rút ra từ bản Nam ai Tô Huệ chức cẩm hồi văn. Lúc đó có nhiều người sáng tác, riêng ông Cao Văn Lầu trong năm Đinh Tỵ (1917) đã sáng tác một bản nhạc 22 câu, nhưng gặp phải hoàn cảnh vợ chồng ly tán...Vì quá đau buồn nên ông không thể tiếp tục đặt lời ca, mãi đến năm sau vợ chồng hàn gắn lại ông mới có đủ tinh thần chỉnh lý bản nhạc. Ông đã theo lời khuyên của bạn đồng môn là Ba Chột (tác giả bản Liêu Giang, tác phẩm được sáng tác cùng thời và cùng một chủ đề vừa nêu trên) bỏ bớt 2 câu trùng lắp còn lại 20 câu và tiếp tục đặt lời ca...Và cũng theo ông Hưng, cái tên Dạ cổ hoài lang là của một nhà sư đặt cho bản nhạc:Bản nhạc và lời ca đã sáng tác xong nhưng chưa có tên. Lại vừa đến rằm Trung thu (Mậu Ngọ, 1918) ông Lầu cùng các bạn đến thăm thầy luôn tiện đem bản nhạc ra trình. Ông Lầu đã dùng chiếc đàn tranh vừa độc tấu một lần và vừa đàn vừa ca thêm một lần nữa. Lúc đó, ngoài các thầy trò còn có mặt nhà sư Nguyệt Chiếu (một người rất tinh thâm Hán học và nhạc cổ truyền), chính thầy Nhạc Khị đã nhờ nhà sư đặt tên cho bản nhạc vừa tấu và nhà sư đã đặt tên là Dạ cổ hoài lang. Vậy, bản Dạ cổ hoài lang 20 câu nhịp đôi đã chính thức ra đời kể từ đêm đó..
Trần Phước Thuận ở Hội Khoa học Lịch sử Bạc Liêu, trong một bài viết đã kết luận:Bản Dạ cổ hoài lang về nguyên nhân sáng tác tuy có dính líu một phần nào với hoàn cảnh chia ly của vợ chồng Cao Văn Lầu, nhưng nguyên nhân chính vẫn là nhờ sự hướng dẫn sáng tác của thầy Nhạc Khị với một tiêu đề định sẵn...Thời điểm ra đời
Thời điểm Dạ cổ hoài lang ra đời, ngoài những chi tiết khá khác nhau qua lời kể ở phần trên, còn có nhiều ý kiến chưa tương đồng nữa, kể cả ông Cao Kiến Thiết và Cao Văn Bỉnh, là hai người con của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu cũng chưa xác định được thời điểm, vì có lúc hai ông nói năm 1919 là năm ra đời bản Dạ cổ, có lúc hai ông lại nói năm 1919 là năm đổi tên Dạ cổ thành Vọng cổ .
Và theo các nhà nghiên cứu khác, thì:
Ông Thành Châu (báo Văn học nghệ thuật, tháng 8 năm 1977), nhà thơ kiêm soạn giả cải lương Kiên Giang (Báo Long An, ngày 18 tháng 7 năm 1986), đồng cho rằng bài Dạ cổ hoài lang ra đời năm 1917.
Nhạc sĩ Trọng Nguyễn (Kỷ yếu Từ Dạ cổ hoài lang, tr.40), Nghệ sĩ nhân dân Ba Vân tức Lê Long Vân (Kể chuyện cải lương, 1988, tr. 67), nhà nghiên cứu Đắc Nhẫn (Tìm hiểu âm nhạc cải lương, Nhà xuất bản TP. HCM, 1987, tr. 41), hai nhà sử học Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế (Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản KHXH, 1992) không cho biết năm khởi thảo, nhưng đều nói bài Dạ cổ hoài lang ra đời năm 1918.
Nhạc sĩ Trương Bỉnh Tòng (Kỷ yếu Từ Dạ cổ hoài lang, Nhà xuất bản Mũi Cà Mau, 1992, tr. 50), Lâm Tường Vân (Đặc san Quý Dậu 1993, Hội Ái hữu Bạc Liêu Nam Cali, tr. 28), Nguyễn Tư Quang (Tạp chí Bách Khoa số 63, Sài Gòn, 1959) thì năm sinh của bài Dạ cổ hoài lang là năm 1919.
GS. Trần Quang Hải (con trai của GS. Trần Văn Khê) cho là ca khúc ra đời vào năm 1920 và nhà nghiên cứu Toan Ánh nói "vào khoảng năm 1920" (Tìm hiểu nghệ thuật cầm ca, Nhà xuất bản Đồng Tháp, 1998, tr. 207-208)
Ông Anh Đệ (Nghệ thuật sân khấu, Viện sân khấu, 1987, tr. 59) cho rằng năm sinh của bài Dạ cổ hoài lang là 1915.
Tuy nhiên, ý kiến cho rằng bài Dạ cổ hoài lang ra đời ngày 15 tháng 8 (âm lịch) năm Mậu Ngọ (nhằm ngày 19 tháng 9 năm 1918) được đa số nghệ sĩ Bạc Liêu và nhiều người đồng thuận hơn.
Nghi vấn
Ông Nguyễn Tư Quang, tác giả bài báo Thử tìm xuất xứ bài Vọng cổ cho biết:... Thoát thai của bản nhạc vốn là bài thơ có dạng như là một bài phú 20 câu lấy nhan đề là Dạ cổ hoài lang. Bài này do một nhà sư có pháp danh Nguyệt Chiếu, không rõ họ tên thật, tu trong một ngôi chùa ở làng Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu. Bài Dạ cổ ra đời năm 1919...Ý kiến này được nhà nghiên cứu Toan Ánh đồng thuận, ông viết:Ở chùa Hòa Bình tỉnh Bạc Liêu, có một nhà sư pháp danh là Nguyệt Chiếu. Thấy nhà sư nho học uyên thâm với tư tưởng ẩn dật, người ta đoán chừng là một văn nhân chống Pháp trong thời Cần Vương, nay thất thời nên tạm lánh mình vào cửa Phật...Tuy đã đi tu nhưng vẫn mang nặng tình non nước…nên nhà sư mới đem tâm sự mình ký gủi vào bài từ, đề là Dạ cổ hoài lang. Và bài thơ này được ông Sáu Lầu phổ ra nhạc...Năm 1989, tại cuộc hội thảo ở Bạc Liêu, nhạc sĩ Trương Bỉnh Tòng cũng đã phát biểu: Vào những năm 1950-1952, nhóm sưu tầm nghiên cứu dân ca và cổ nhạc Nam Bộ gồm nhạc sĩ Quách Vũ, Ngọc Cung và ông. Rất tiếc là lúc ấy ông Cao Văn Lầu đang bệnh không ra được vùng giải phóng. Nhưng cũng may là nhóm tài tử ở Long Điền có người biết rành cho hay ông Sáu đã dựa vào bài thơ của nhà sư Nguyệt Chiếu mà phổ nhạc. Nhạc của nó là sự kết hợp giữa hai bài Hành Vân và Xuân nữ .
Nhưng qua tìm hiểu của ông Trần Phước Thuận ở Hội Khoa học Lịch sử Bạc Liêu, thì:
Ở Bạc Liêu chỉ có một nhà sư pháp danh là Đạt Bảo tự Nguyệt Chiếu (1882–1947), trước ở chùa Vĩnh Phước An sau dời về chùa Vĩnh Đức, hiện mồ mả của nhà sư nằm ở sau chùa Vĩnh Đức. Không có chùa nào mang tên Hòa Bình như các tài liệu trên đã ghi. Ông vốn là tiền bối về nhạc lễ cổ truyền nhưng ông chưa bao giờ làm thơ. Các đệ tử của ông hiện còn sống đều xác nhận như vậy và chẳng ai nghe thầy nói gì về bài thơ trên. Như vậy, cái thuyết cho rằng "ông sáu Lầu đã dựa vào bài thơ của nhà sư Nguyệt Chiếu để sáng tác ra bản Dạ cổ hoài lang năm 1919" là hoàn toàn không có căn cứ.
Lời bài ca
Giá trị
Ông Trần Phước Thuận nhận xét:
Bản Dạ cổ hoài lang không dừng lại ở nguyên dạng như các bản nhạc cổ khác mà dần dần biến đổi hình thức, phát triển thành bản Vọng cổ làm thay đổi một phần lớn bộ mặt Cải lương. Đây cũng là điều tối ưu của nó, có lẽ là do tiếng nhạc du dương và lời ca bình dị rất hợp với người Nam Bộ; hình ảnh người chinh phụ ở đây đã hòa nhập thực sự vào cuộc đời thường, phản ảnh đúng tâm trạng yếu đuối của người phụ nữ khi xa chồng, nhất là trong những hoàn cảnh bắt buộc phải chia duyên rẽ thúy. Có lẽ chính cái "tính thường" này đã làm rung cảm người nghe...
Thông tin thêm
Bài này được đưa lên sân khấu lần đầu bởi gánh hát Năm Tú ở Mỹ Tho, rồi sau đó được sử dụng rộng rãi, nhất là trong tuồng cải lương. Và cũng vì thế, bản Dạ cổ hoài lang được chuyển dần thành nhiều nhịp. Năm 1924, tăng lên nhịp bốn. Từ khoảng 1934 đến 1944, tăng lên nhịp tám. Từ khoảng 1944 đến 1954, Vọng cổ tăng lên nhịp 16. Từ 1955 đến 1964, tăng lên nhịp 32 rồi nhịp 64 từ năm 1965 đến nay.
Nhạc sĩ Cao Văn Lầu là cha đẻ Dạ cổ hoài lang khởi điểm từ nhịp hai. Bản Vọng cổ từ nhịp bốn trở đi, trên những chặng đường phát triển, thuộc công trình chung của tài tử bốn phương. Và ông tổ cải lương không phải là Cao Văn Lầu, vì bản Dạ cổ hoài lang chào đời năm 1918, trong khi sân khấu cải lương ra đời khoảng năm 1916.
Chuyển thể
Kịch nói Dạ cổ hoài lang: do NSƯT Thanh Hoàng sáng tác năm 1994 dựa trên bài hát Dạ cổ hoài lang. Vở diễn do NSƯT Công Ninh làm đạo diễn và ra mắt lần đầu tại Nhà hát 5B Võ Văn Tần, Thành phố Hồ Chí Minh. Các nghệ sĩ nổi tiếng tham gia diễn gồm có NSƯT Thành Lộc (vai ông Tư), NSND Việt Anh (vai ông Năm)... Vở diễn thành công đến mức đã đoạt được 4 huy chương vàng cho 4 nghệ sĩ khác nhau tại Liên hoan Sân khấu Chuyên nghiệp Toàn quốc năm 1995. Về sau vở Dạ cổ hoài lang được trình diễn ở Sân khấu kịch IDECAF, với sự tham gia của NSƯT Thành Lộc (vai ông Tư) và NSƯT Hữu Châu (vai ông Năm). Ngoài ra bản thân NSƯT Thanh Hoàng, NSƯT Hoài Linh... cũng từng thử sức với vai ông Tư trên sân khấu.
Phim điện ảnh Dạ cổ hoài lang: do Nguyễn Quang Dũng làm đạo diễn, được công chiếu năm 2017. Bộ phim có sự tham gia của NSƯT Hoài Linh (vai ông Tư), Chí Tài (vai ông Năm), NSƯT Ngọc Hiệp (vai bà Tư), cùng các diễn viên trẻ như Will (vai ông Tư lúc trẻ), Đình Hiếu (vai ông Năm lúc trẻ) cùng các diễn viên khác. |
Vì đó là em là một sáng tác của nhạc sĩ Diệu Hương. Ca sĩ Quang Dũng đã hát trong CD solo đầu tay Biển nghìn thu ở lại (2003), và có thể nói CD này (và nhất là bài hát này) đã tạo "bước ngoặt" cho giọng hát Quang Dũng nhanh chóng nổi tiếng hơn, với bài hát này Quang Dũng đoạt giải Mai Vàng 2003. Tuy nhiên, sau đó bài nhạc này bị nhà nước Việt Nam tạm cấm lưu hành, vì phát hiện ra Diệu Hương là Nhạc sĩ ở hải ngoại và cần có giấy phép riêng, bài này chỉ mới được cấp giấy phép lưu hành chính thức trở lại vào cuối năm 2005. |
Dame Te Atairangikaahu ONZ, DBE (23 tháng 7 năm 1931 – 15 tháng 8 năm 2006), là nữ hoàng Maori trong vòng 40 năm, là người trị vì lâu nhất trong các quốc vương Maori. Tên và danh hiệu đầy đủ của bà là Te Arikinui Dame Te Atairangikaahu. Danh hiệu Te Arikinui (có nghĩa là Lãnh tụ vĩ đại) và tên Te Atairangikaahu (cũng là tên mẹ bà) được thêm vào tên bà khi bà trở thành quốc vương; trước đó bà được biết đến như Công chúa Piki Mahuta và Công chúa Piki Paki sau khi bà kết hôn.
Cuộc sống
Bà là con một của Koroki Mahuta và Te Atairangikaahu Herangi; bố cô còn có một cô con gái khác lớn tuổi hơn – Tuura – với mối quan hệ trước. Dame Te Atairangikaahu nhận một cặp sinh đôi làm con nuôi, bao gồm Sir Robert Mahuta, con gái ông Nanaia Mahuta là thành viên chính phủ. |
Chuột rút, hay vọp bẻ, là cảm giác đau gây ra bởi sự co rút, thường là co cơ. Nó có thể do lạnh hay hoạt động quá sức. Việc sức khỏe giảm sút hoặc bị ngộ độc cũng có thể gây ra chuột rút, đặc biệt ở dạ dày.
Nguyên nhân
Có hai nguyên nhân chính dẫn đến chuột rút. Nguyên nhân thứ nhất là thiếu oxy đến cơ, nguyên nhân thứ hai là thiếu nước và muối ăn. Các rối loạn điện giải có thể gây ra chuột rút hay tetany của cơ, đặc biệt là hạ calci máu (thiếu calci) hoặc hạ kali máu (thiếu kali) (chẳng hạn như khi ra mồ hôi quá nhiều mà không được bù đắp).
Ở phụ nữ, sự hành kinh cũng gây ra chuột rút ở mức độ nhất định tại vùng bụng gây đau lan tỏa ra thắt lưng và đùi. Lý do là máu phải chảy qua cổ tử cung nhiều hơn.
Một số phụ nữ mang thai cũng hay bị chuột rút, nhiều khi vào ban đêm.
Hậu quả
Chuột rút có thể xảy ra với những vận động viên thể thao hoạt động với cường độ cao, mất nước và khoáng chất do ra mồ hôi nhiều, ảnh hưởng đến thành tích thể thao.
Chuột rút nguy hiểm nếu xảy ra trong khi bơi lội, cơn đau do chuột rút có thể dẫn đến giảm khả năng bơi và nghiêm trọng hơn là tử vong do chết đuối.
Phòng ngừa
Có bác sĩ cho rằng để phòng tránh chuột rút, có thể uống nhiều nước, ăn đủ muối khoáng; cung cấp các chất này thường xuyên sau khi ra mồ hôi. Trước khi bơi lội hay hoạt động thể thao, các bác sĩ đề nghị khởi động để điều hòa tuần hoàn máu, tránh tiếp xúc với nước lạnh đột ngột để giảm nguy cơ máu khó tuần hoàn, ăn uống đủ dinh dưỡng (đủ calo) để giữ ấm cơ thể.
+ Nếu đang bơi, hãy lật nằm ngửa, đẩy thẳng hai chân dang mạnh ra, uốn 10 ngón chân ngược lên phía mặt, đập mạnh 2 gót xuống nước.
+ Nếu đang ngồi nên đứng bật dậy, chân trái xoải thẳng ra phía sau, lật ngược 5 ngón chân ép chặt đất. Chân phải co gối, úp mạnh lòng bàn chân lên mặt đất, sau 2 phút đổi động tác 2 chân.
Chữa trị
Chuột rút do thiếu oxy có thể được chữa bằng việc hít thở sâu, và làm giãn cơ. Chuột rút do thiếu nước và muối ăn có thể chữa bằng việc giãn cơ, uống thêm nước và ăn thêm muối. Với chuột rút do gắng sức do bất thường về chất điện giải (chủ yếu là mất kali và không phải calci, magnesi và natri), chất lỏng thích hợp và đủ kali giúp cải thiện triệu chứng.
Chuột rút cơ bắp cũng được chữa bằng cách xoa bóp nhẹ lên chỗ bị đau, giãn cơ và chườm nóng hoặc chườm lạnh. Việc chườm nóng làm tăng tuần hoàn máu và làm cơ đàn hồi hơn, tuy nhiên một số người cảm thấy việc chườm nóng làm đau hơn là chườm đá. Sau khi đỡ đau cũng có thể vận động nhẹ tăng dần để máu lưu thông tốt hơn.
Chuột rút do kinh nguyệt có thể được chữa bằng uống các thuốc loại ibuprofen, tập thể dục giãn cơ hoặc tắm bồn nước nóng. Nếu các biện pháp trên không giúp giảm đau, đây có thể không phải chuột rút mà là các bệnh khác và có thể khám phụ khoa.
Trường hợp chuột rút thường xuyên, kéo dài, hay bị vào ban đêm do thiếu máu chi dưới nên sử dụng các thuốc hoạt huyết hay Varicause để điều trị.
Thuốc
Quinine là một phương pháp điều trị truyền thống, nhưng chỉ được chứng minh là có hiệu quả trong khoảng 40% trường hợp. Do hiệu quả thấp và tác dụng phụ tiêu cực, việc sử dụng nó như một loại thuốc không được FDA khuyến cáo. Vitamin B phức hợp, naftidrofuryl, lidocaine và thuốc chẹn kênh calci có thể có hiệu quả đối với chứng chuột rút cơ bắp.
Chuột rút chân lúc ngủ đêm
Chuột rút chân lúc ngủ đêm là sự co cơ có thể xảy ra ở cơ bắp chân, cơ bàn chân trong lúc ngủ hay nằm nghỉ. Triệu chứng có thể là cẳng chân duỗi đơ với các ngón chân quắp xuống. Chuột rút kiểu này có thể xảy thoáng qua trong vài giây hoặc vài phút và sự đau kéo dài một lúc sau đó. Chuột rút kiểu này hay xảy ra với người lớn tuổi, nhưng cũng có thể xảy ra với bất cứ ai.
Kiểu chuột rút này vẫn chưa rõ nguyên nhân. Có thể lý do là thiếu một số khoáng chất (magiê, kali, calci và natri), thiếu nước hoặc nằm bất động lâu quá. Các nguyên nhân hiếm gặp hơn có thể gây ra bởi tác dụng phụ của thuốc men.
Cần thận trọng với các trường hợp chuột rút thường xuyên, kéo dài đặc biệt xảy ra vào ban đêm. Đó là dấu hiệu của thiếu máu chi dưới, bệnh viêm tắc động mạch chi mạn tính. Cần phải đến cơ sở y tế để tránh nguy cơ cắt cụt chi.
Để dứt cơn chuột rút này nhanh chóng, bạn có thể đứng thẳng để máu cung cấp tới hai chân nhanh hơn, cơn chuột rút sẽ chấm dứt sau vài giây. |
Trong toán học, không gian xác suất là nền tảng của lý thuyết xác suất.
Định nghĩa
Một không gian xác suất (Ω, F, P) là một không gian được trang bị một độ đo với độ đo toàn thể bằng 1 (nghĩa là P(Ω)=1).
Thành phần đầu, Ω (xem không gian mẫu), là một tập không rỗng, với các phần tử thường được biết như là các "kết quả" hay "trạng thái tự nhiên" (ví dụ trạng thái sấp hay ngửa của đồng tiền,...). Một trạng thái tự nhiên luôn tồn tại với một xác suất nào đó. Một phần tử của Ω thường được ký hiệu bởi ω.
Thành phần thứ hai, F, là một tập hợp mà các phần tử của nó được gọi là các sự kiện (event). Các sự kiện là các tập con của Ω. Tập F phải thỏa mãn một vài điều kiện, đặc biệt nó phải là một σ-đại số. Cùng với nhau, Ω và F tạo thành một không gian đo được. Một sự kiện là một tập hợp các kết quả hay trạng thái tự nhiên mà ta có thể xác định xác suất của nó.
Thành phần thứ ba, P, được gọi là "độ đo xác suất", hay "xác suất". Nó là một hàm số từ F vào tập số thực, cho tương ứng mỗi sự kiện với một xác suất có giá trị nằm giữa 0 và 1. Nó cần thỏa mãn các điều kiện, đó là nó phải là một độ đo và P(Ω)=1.
Các độ đo xác suất thường được viết đậm có gạch, ví dụ hay . Khi chỉ có một độ đo xác suất được đề cập trong bài, nó thường được ký hiệu là Pr, nghĩa là "probability of...".
Ví dụ
Ta tung một đồng tiền cân bằng, khi đó các kết quả là sấp (S) và ngửa (N). Các sự kiện là
{S} sấp, xác suất là 0.5.
{N} ngửa, xác suất là 0.5.
{ }= không sấp cũng không ngửa, xác suất là 0.
{S,N} sấp hoặc ngửa, chính là tập mẹ Ω, có xác suất là 1.
Nếu một số ngẫu nhiên Z được lấy theo phân phối chuẩn, thì tập hợp các kết quả là các số thực. Ta có thể lấy ví dụ về sự kiện như sự kiện Z là một số dương. Lưu ý không phải bất kỳ tập con nào của R cũng là các sự kiện. Ở đây, các sự kiện phải là các tập số thực đo được Lebesgue hoặc đo được Borel.
Điều này cho thấy không phải tất cả các tập kết quả đều nhất thiết là các sự kiện. Nếu Ω là một tập đếm được, thì sẽ không có vấn đề gì nếu lấy F là tập tất cả các tập con của Ω.
Một vài khái niệm khác
Biến ngẫu nhiên
Một biến ngẫu nhiên là một ánh xạ từ Ω đến một tập hợp khác, thông thường là tập các số thực. Đặc biệt, nó phải là một hàm đo được. Điều này có nghĩa là, ví dụ, nếu X là một biến ngẫu nhiên thực, thì tập hợp các kết quả sao cho X là dương, {ω∈Ω:X(ω)>0}, phải là một sự kiện.
Người ta thường tóm gọn cách viết {ω∈Ω:X(ω)>0} thành {X>0} và viết P(X>0) thay vì viết P({X>0}).
Độc lập
Hai sự kiện, A và B được gọi là độc lập nếu P(A∩B)=P(A)P(B).
Hai biến ngẫu nhiên, X và Y, được gọi là độc lập nhau nếu bất kì sự kiện nào xác định bởi X là độc lập với mọi sự kiện xác định bởi Y. Một cách hình thức, chúng sinh ra các σ-đại số độc lập, trong đó hai σ-đại số G và H, là các tập con của F được gọi là độc lập nếu mọi phần tử của G là độc lập với mọi phần tử của H.
Khái niệm độc lập là nơi bắt nguồn của lý thuyết xác suất từ lý thuyết độ đo.
Loại trừ lẫn nhau
Hai sự kiện, A và B được gọi là loại trừ lẫn nhau hay "rời rạc" nếu P(A∩B)=0. (yếu hơn khái niệm A∩B=∅, vốn là định nghĩa rời rạc của các tập hợp).
Nếu A và B là các sự kiện rời rạc nhau, thì P(A∪B)=P(A)+P(B). Điều này vẫn đúng cho một dãy (hữu hạn hoặc vô hạn đếm được) các sự kiện. Tuy nhiên, điều này không co nghĩa là xác suất của hợp không đếm được các sự kiện bằng tổng các xác suất. Ví dụ, nếu Z là một biến ngẫu nhiên phân phối bình thường, thì P(Z=x) bằng 0 với mọi x, nhưng P(Z là số thực)=1.
Sự kiện A∩B nghĩa là A và B, và sự kiện A∪B nghĩa là A hoặc B. |
Trong phân loại sinh học, một vực (regio, domain, empire) hay liên giới (cũng gọi siêu giới, lãnh giới, lĩnh giới: superregnum, superkingdom) là một đơn vị phân loại ở cấp cao nhất cho sinh vật, hơn cả giới. Vực là bao gồm chung nhất trong việc gộp nhóm sinh học. Việc sắp xếp các đơn vị phân loại này phản ánh các khác biệt tiến hóa nền tảng trong các bộ gen.
Hiện tại tồn tại một số kiểu phân loại vực của sự sống. Trong số này có:
Hệ thống hai vực, với việc gộp nhóm ở cấp cao nhất với hai vực là Sinh vật nhân sơ (Prokaryota hay Monera) và Sinh vật nhân chuẩn (Eukaryota).
Hệ thống bốn giới với việc gộp nhóm cao nhất gồm 4 giới: Sinh vật nguyên sinh (Protista), Giới Khởi sinh (Monera) gồm Vi khuẩn và Nấm, Thực vật (Plantae), Động vật (Animalia).
Hệ thống năm giới với việc gộp nhóm cao nhất gồm 5 giới: Sinh vật nguyên sinh (Protista), Vi khuẩn (Monera), Nấm (Fungi), Thực vật (Plantae), Động vật (Animalia).
Hệ thống sáu giới với việc gộp nhóm cao nhất gồm 6 giới: Sinh vật nguyên sinh (Protista), Vi khuẩn cổ (Archaebacteria), Vi khuẩn thật sự (Eubacteria), Nấm (Fungi), Thực vật (Plantae), Động vật (Animalia).
và gần đây nhất là:
Hệ thống ba vực do Carl Woese đề xuất năm 1990, với việc gộp nhóm cao nhất là 3 vực Cổ khuẩn (Archaea), Vi khuẩn (Bacteria) và Sinh vật nhân chuẩn (Eukarya).
Do những việc gộp nhóm này phụ thuộc chủ yếu vào phân tích các dữ liệu chuỗi gen và miêu tả theo nhánh học, nên các sắp xếp đề xuất bổ sung là hoàn toàn có thể sẽ diễn ra. |
Phúc Lộc Thọ hay Phước Lộc Thọ (Giản thể: 福禄寿; Phồn thể: 福祿壽; bính âm: Fú Lù Shòu) là thuật ngữ thường được sử dụng trong văn hóa Trung Hoa và những nền văn hóa lân cận để diễn tả ba điều cơ bản trong cuộc sống tốt đẹp: may mắn (Phúc), giàu sang (Lộc), và sống lâu (Thọ). Mỗi ý niệm được nhân cách hóa thành bộ ba vị thần, gọi chung là 3 ông "Phúc-Lộc-Thọ" hay Tam Đa.
Các nhân vật
Ông Phúc
Ông Phúc tượng trưng cho sự may mắn, tốt lành. Tương truyền, Ông Phúc là một quan thanh liêm. Theo quan niệm xưa, nhà đông con là nhà có phúc nên hình ảnh ông Phúc còn đi kèm với một hai đứa trẻ, khi thì bồng trên tay, khi thì đứng cạnh bên. Ngoài ra ông Phúc thường đi liền với con dơi bay lượn vì dơi âm Hán-Việt là "bức" cận âm với "phúc".
Ông Lộc
Ông Lộc tượng trưng cho sự giàu có, thịnh vượng. Theo truyền thuyết, Ông sinh tại Giang Tây, sống thời Thục Hán, ra làm quan nên trang phục của ông là triều phục, đầu đội mũ cánh chuồn. Ông thường mặc áo màu xanh lục vì trong tiếng Hoa, "lộc" phát âm gần với "lục", tay cầm hốt "như ý". Kề bên ông thường có con hươu vì hươu âm Hán-Việt cũng là "lộc".
Ông Thọ
Ông Thọ tượng trưng cho sự sống lâu với hình ảnh là một ông già râu tóc bạc trắng, trán hói và dô cao, tay cầm quả đào, bên cạnh thường có thêm có con hạc. Trên gậy có buộc thêm hồ lô. Tất cả các biểu tượng đều tượng trưng cho sự trường thọ, bất tử.
Thần tiên Trung Hoa
Nhân vật truyền thuyết Trung Hoa |
Bill Nguyễn (born 1971) hay phổ thông hơn qua cách viết tiếng Anh Bill Nguyen, là một triệu phú đô la người Mỹ gốc Việt, được tập đoàn truyền thông MSNBC (Mỹ) bầu chọn đứng đầu trong số 10 gương mặt triển vọng nhất năm 2001 với lời bình: "Có khả năng thay đổi bộ mặt công nghệ thông tin toàn cầu" và được tạp chí Forbes bình chọn là một trong 40 người dưới 40 tuổi giàu nhất nước Mỹ .
Ăn mặc giản dị, vui tính hay cười, mê chơi game nhưng nghiêm khắc trong công việc, nỗ lực không mệt mỏi, chỉ ngủ 3 giờ mỗi ngày, anh được xếp vào "Top 100 nhà phát minh hàng đầu thế giới" do tạp chí Technology của Học viện kỹ thuật Massachusetts (MIT) bầu chọn năm 2002 từ 7 ngành công nghệ mũi nhọn .
Sự nghiệp
Vượt biên từ Việt Nam sang Mỹ từ nhỏ, từ năm 16 tuổi, Bill Nguyễn làm nghề phụ bán xe hơi cũ vào cuối tuần, để có tiền học và phụ giúp gia đình. Thích nghiên cứu, đeo đuổi tới cùng để phát triển ý tưởng, nên Bill Nguyễn rẽ ngang khỏi Đại học Houston để ra kinh doanh, và đến nay, đã thành lập liên tiếp 7 công ty .
Tên tuổi của Bill Nguyễn được nhắc đến nhiều vào năm 1999 khi anh bán lại công ty Onebox, do anh thành lập năm 1998 và chuyên về phần mềm chuyển tin nhắn, với giá 850 triệu đô la Mỹ .
Từ năm 2000, Bill Nguyễn là sáng lập viên, giám đốc và là thành viên của hội đồng quản trị Công ty phần mềm Seven Networks. Phần mềm của Seven ứng dụng cho các thiết bị vô tuyến hỗ trợ truy cập dữ liệu (mobile email), được sử dụng rộng rãi (như hai tập đoàn British Telecom ở Anh Quốc và NTT DoCoMo tại Nhật Bản mua bản quyền sử dụng) và đoạt nhiều giải thưởng danh giá bao gồm giải Sản phẩm của năm do tạp chí Network Magazine bình chọn
LaLa.com
Năm 2006, Bill Nguyễn đã dùng công nghệ Web 2.0 và "lấy một chút MySpace, một tẹo iTunes và một phần Netflix để kết hợp với hệ thống chia sẻ ngang hàng Napster. Kết quả là Lala.com, trang khám phá âm nhạc, kết nối những người có cùng sở thích nghe nhạc với nhau", nơi mọi người có thể trao đổi với nhau những dĩa CD cũ với giá 1 đô la (theo Newsweek ). Hiện nay ông đang có tham vọng biến trang web lala.com của ông thành nơi trao đổi và mua bán đĩa CD lớn nhất thế giới. Đến tháng 11 năm 2006, chỉ sau vài tháng, lala.com đã có trên 200 ngàn thành viên đăng ký sử dụng dịch vụ tại trang web này và hơn nửa triệu CD đã được chuyền tay tại đây . Theo Bill Nguyễn và với 9 triệu đô la đầu tư cho Lala.com, năm 2006 Lala.com đã có trong tay hơn 1,8 triệu đĩa CD khác nhau. Điều đáng chú ý, mạng Lala.com cam kết sẽ trích 20% lợi nhuận để hỗ trợ cho các nhạc sĩ .
Đến năm 2009, LaLa có khoảng 8 triệu bài hát trong dạng nhạc nén MP3 để khách hàng có thể nghe miễn phí 1 lần, sau đó họ có thể gửi (với giá 10 xu Mỹ) hoặc tải về (với giá 99 xu). Từ tháng 10 năm 2009, Lala đã cung cấp dịch vụ gửi và tải nhạc này qua mạng xã hội Facebook và trong tương lai cũng sẽ có một kế hoạch hợp tác với Google, iTunes .
Ngày 5 tháng 12 năm 2009, Lala.com đã được mua bởi Apple Inc với giá hơn 80 triệu USD . Tháng 4 năm 2010, Apple thông báo rằng lala.com đã ngưng dịch vụ hoàn toàn vào 31 tháng 5 năm 2010 và kết hợp vào iTunes.
Những công ty ông tham gia
Onebox (nay sáp nhập với Phone.com)
Openwave Systems Inc
Seven Networks, Inc.
Lala Media Inc.
Câu nói
Mỗi khi bạn bắt tay vào một vụ làm ăn mới, không nhất thiết bạn phải phát minh lại thế giới .
Chúng ta phải quay lại với bài học cũ, mà trong đó, nhân vật chính là các kỹ sư chứ không phải các trò phù phép tiếp thị .
Những Bill Nguyễn khác
Bill Nguyễn, và vợ là Tina Nguyễn, người gốc Việt, nguyên là chủ tiệm làm móng tay (nail) tại tiểu bang Nam Dakota, Hoa Kỳ trúng giải xổ số Powerball với hơn 116,8 triệu đô la USD vào tháng 6 năm 2006.
Chú thích |
Trong toán học và khoa học máy tính, Mã Golay ám chỉ đến:
Mã Golay nhị phân - về mã Golay nhị phân (cơ số 2)
Mã Golay tam phân - về mã Golay tam phân (cơ số 3)
Lý thuyết mã hóa |
Đinh Đồng Phụng Việt (sinh 22 tháng 2 năm 1968), được biết nhiều hơn với tên tiếng Anh như Viet Dinh, Viet D. Dinh, hoặc ngắn gọn Đinh Việt, là Trợ lý Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ (Assistant Attorney General) từ 2001 đến 2003, tác giả đạo luật chống khủng bố PATRIOT Act sau sự kiện 11 tháng 9. Từng tham gia ban điều hành của tập đoàn News Corporation (cũ) nay ông là Giám Đốc Pháp lý và Chính sách của Tập đoàn truyền thông Fox Corporation.
Tiểu sử
Sinh ngày 22 tháng 2 năm 1968 tại Sài Gòn, Việt Nam Cộng hòa
Là thuyền nhân đến Hoa Kỳ tị nạn từ năm 1978
Bằng tiến sĩ luật của Đại học Harvard, năm 1993
Từng là Giám đốc Chương trình Nghiên cứu chính trị và pháp luật châu Á, Giám đốc Chương trình Hành chính doanh nghiệp và pháp luật.
Trợ lý Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống George W. Bush, từ ngày 31 tháng 5 năm 2001 đến năm 2003. Ở cương vị này, ông phụ trách Cục Chính sách Pháp lý (Office of Legal Policy) của Bộ Tư pháp Hoa Kỳ.
Hiện nay ông là giáo sư tại Đại học Georgetown, Phó chủ nhiệm khoa Luật tại trường này.
Từ 16 tháng 4 năm 2004 ông là thành viên Hội đồng Quản trị (Board of Directors) của tập đoàn truyền thông News Corporation (cũ), nay là Tập đoàn Fox Corporation. . Ngoài ra ông còn có khả năng được đề cử vào Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ.
Những chức vụ đã đảm nhiệm
Giám đốc điều hành (Corporate directors) của tập đoàn News Corporation (từ năm 2004), nay là Fox Corporation
Giáo sư Đại học Georgetown, Phó chủ nhiệm khoa luật
Cố vấn đặc biệt trong Uỷ ban điều tra vụ Whitewater
Giám đốc Chương trình Nghiên cứu chính trị và pháp luật châu Á
Giám đốc Chương trình Hành chính doanh nghiệp và pháp luật
Thư ký Tòa án tối cao Liên bang Hoa Kỳ
Trợ lý Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ
Chú thích |
Tứ nhân bang (giản thể: 四人帮, phồn thể; 四人幫, bính âm: Sì rén bāng) hay còn được gọi là "bè lũ bốn tên" theo các phương tiện truyền thông của Việt Nam, là cụm từ để chỉ một nhóm lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc bị nhà cầm quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cho là cấu kết với nhau lộng quyền và để sát hại những Đảng viên không theo phe cánh từ Đại hội X của Đảng Cộng sản Trung Quốc nhưng sau đó bị bắt và xét xử năm 1976 sau khi Mao Trạch Đông mất. "Bè lũ bốn tên" là những thành viên hoạt động tích cực nhất trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc. "Bè lũ bốn tên" bao gồm: Giang Thanh (vợ thứ tư của Mao Trạch Đông), Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên và Vương Hồng Văn.
Tứ nhân bang kiểm soát các cơ quan quyền lực của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong các giai đoạn sau của Cách mạng Văn hóa, mặc dù vẫn chưa rõ quyết định nào là do Mao Trạch Đông đưa ra để nhóm này thực hiện và đâu là do kế hoạch riêng của Tứ nhân bang.
Tứ nhân bang và tướng Lâm Bưu(qua đời năm 1971), được coi là hai "lực lượng phản cách mạng" chính của Cách mạng Văn hóa và bị chính phủ Trung Quốc chính thức quy trách nhiệm về những hành vi quá mức tồi tệ được gây ra trong sự hỗn loạn xã hội xảy ra sau đó trong 10 năm xáo trộn. Sự sụp đổ của họ vào ngày 6 tháng 10 năm 1976, một tháng sau khi Mao qua đời, những lễ kỷ niệm lớn trên đường phố Bắc Kinh đã được tổ chức cũng như đánh dấu cho sự kết thúc của một kỷ nguyên chính trị hỗn loạn ở Trung Quốc.
Lúc Mao Trạch Đông đang hấp hối, một cuộc tranh giành quyền lực đã nảy sinh giữa Tứ nhân bang và liên minh của Đặng Tiểu Bình, Chu Ân Lai và Diệp Kiếm Anh. Khi Chu Ân Lai mất năm 1976, Hoa Quốc Phong được chính thức bổ nhiệm làm Thủ tướng Quốc vụ viện. Năm 1981, Tứ nhân bang bị đưa ra xét xử với tội danh chống Đảng. Sau khi mãn hạn tù, Giang Thanh mất năm 1991, Vương Hồng Văn mất năm 1992, Trương Xuân Kiều và Diêu Văn Nguyên mất năm 2005.
Thành lập
Nhóm này do Giang Thanh lãnh đạo, và bao gồm ba cộng sự thân cận của bà là Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên và Vương Hồng Văn. Hai người khác đã chết vào năm 1976, Khang Sinh và , được coi là một phần của "băng nhóm" này. và - cháu của Mao Trạch Đông - cũng được coi là một số cộng sự thân cận của Tứ nhân bang.
Hầu hết các sách vở phương Tây đều cho rằng ban lãnh đạo thực sự của Cách mạng Văn hóa bao gồm một nhóm rộng hơn, chủ yếu đề cập đến các thành viên của . Nổi bật nhất trong nhóm là Lâm Bưu, cho đến khi ông có ý định đào tẩu khỏi Trung Quốc và thiệt mạng trong một vụ tai nạn máy bay năm 1971. Trần Bá Đạt thường được coi là thành viên của phe Lâm Bưu hơn là phe Giang Thanh.
Vai trò
Vào đầu cuộc Cách mạng Văn hóa, vào ngày 10 tháng 11 năm 1965, Diêu Văn Nguyên đã đăng một bài báo trên Văn hối báo chỉ trích vở kịch Hải Thụy bãi quan. Bài báo cho rằng vở kịch này thực sự là một sự miêu tả đầy thiện cảm về những nỗ lực cải cách của anh hùng quân đội Bành Đức Hoài và do đó là một đòn công kích vào cuộc Đại nhảy vọt của Mao Chủ tịch. Mao sau đó đã cách hết quyền lực của Bành. Bài báo được coi là tia lửa phát động cuộc Cách mạng Văn hóa.
Giang Thanh sau đó đã dàn dựng các vở nhạc kịch cách mạng trong Cách mạng Văn hóa và gặp gỡ các Hồng vệ binh.
Việc loại bỏ quyền lực của nhóm này đôi khi được coi là đánh dấu sự kết thúc của Cách mạng Văn hóa do Mao phát động vào năm 1966 như một phần trong cuộc đấu tranh quyền lực của ông với các nhà lãnh đạo như Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình và Bành Chân. Mao đưa vợ mình là Giang Thanh, một cựu nữ diễn viên điện ảnh mà trước năm 1966 chưa đảm nhận vai trò chính trị quần chúng nào, chuyển sang phụ trách bộ máy văn hóa của Trung Quốc. Trương, Diêm và Vương là các lãnh đạo trong đảng ở Thượng Hải, họ đã đóng vai trò hàng đầu trong việc đảm bảo thành phố này ủng hộ Mao trong cuộc Cách mạng Văn hóa.
Khoảng thời gian Lâm Bưu qua đời năm 1971, Cách mạng Văn hóa bắt đầu mất dần động lực. Các chỉ huy mới của Quân Giải phóng Nhân dân đã yêu cầu thiết lập lại trật tự trước tình hình nguy hiểm dọc theo biên giới với Liên Xô (xem Chia rẽ Trung-Xô). Thủ tướng Chu Ân Lai, người đã chấp nhận Cách mạng Văn hóa, nhưng không bao giờ hoàn toàn ủng hộ nó, đã giành lại quyền hành và sử dụng quyền này để đưa Đặng Tiểu Bình trở lại vị trí lãnh đạo Đảng tại Đại hội Đảng lần thứ 10 năm 1973. Cùng thời điểm đó Lưu Thiếu Kỳ đã chết trong tù vào năm 1969.
Gần cuối đời Mao, một cuộc tranh giành quyền lực đã xảy ra giữa Tứ nhân bang và liên minh của Đặng Tiểu Bình, Chu Ân Lai và Diệp Kiếm Anh.
Thất sủng
Chu Ân Lai qua đời vào tháng 1 năm 1976 và trong những tháng để tang sau đó, một cuộc tranh giành quyền lực đã xảy ra trong các cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng. Nhà cải cách Đặng Tiểu Bình được giao chức quyền thủ tướng, trong khi Tứ nhân bang bắt đầu sử dụng báo chí để chỉ trích Đặng và huy động các nhóm dân quân đô thị của họ. Phần lớn quân đội và an ninh đảng vẫn nằm dưới sự kiểm soát của các trưởng lão trong đảng thuộc Ủy ban Trung ương, những người thường đóng một vai trò thận trọng trong việc làm trung gian giữa nhà cải cách Đặng và Tứ nhân bang vốn cực đoan. Họ đồng ý cách chức Đặng khỏi chức vụ sau Sự cố Thiên An Môn tháng 4 nhưng thực hiện các bước để đảm bảo rằng Đặng và các đồng minh của ông sẽ không bị tổn hại về mặt cá nhân trong quá trình này.
Ngày 9 tháng 9, Mao Trạch Đông qua đời. Trong vài tuần tiếp theo, Tứ nhân bang giữ quyền kiểm soát các phương tiện truyền thông của chính phủ, nhiều bài báo đã xuất hiện về chủ đề "các nguyên tắc được Mao đặt ra" (hoặc "được Mao thiết lập") lúc gần cuối đời. (Bản thân các từ "các nguyên tắc được đặt ra" được cho là trích dẫn từ Mao nhưng tình trạng của chúng đang bị tranh chấp.) Các đơn vị dân quân đô thị do những người ủng hộ nhóm cấp tiến chỉ huy đã được đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu cao độ.
Thủ tướng Hoa Quốc Phong đã công kích đường dây truyền thông của phe cấp tiến tại cuộc họp của Bộ Chính trị vào cuối tháng 9 nhưng Giang Thanh hoàn toàn không đồng ý với Hứa và bà khăng khăng rằng bà được chỉ định làm Chủ tịch đảng mới. Cuộc họp kết thúc bất phân thắng bại. Vào ngày 4 tháng 10, nhóm cấp tiến đã cảnh báo, thông qua một bài báo trên Quang minh Nhật báo, rằng bất kỳ người nào xét lại hay can thiệp vào các nguyên tắc đã được thiết lập sẽ "không có kết cục tốt đẹp".
Những người cấp tiến hy vọng rằng các nhà lãnh đạo quân sự chủ chốt Uông Đông Hưng và Trần Tích Liên sẽ ủng hộ họ nhưng có vẻ như Hoa đã giành được sự ủng hộ của quân đội. Vào ngày 6 tháng 10 năm 1976, Hoa Quốc Phong đã bắt giữ Tứ nhân bang và một số cộng sự kém cỏi của họ. Han Suyin đã kể chi tiết về cuộc lật đổ này:
Theo nhà sử học Immanuel CY Hsü, chiến dịch này có đổ máu - Vương Hồng Văn đã giết chết hai lính canh khi họ cố gắng bắt anh ta và tự làm bản thân bị thương trước khi bị bị bắt.
Bắt đầu từ ngày 21 tháng 10, các chiến dịch tố cáo trên toàn quốc đối với Tứ nhân bang bắt đầu, đỉnh điểm là tháng 12 công bố các hồ sơ liên quan đến những tội ác bị cáo buộc của Tứ nhân bang cho công chúng xem. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đưa ra lời tố cáo Tứ nhân bang là "có vẻ là cánh tả nhưng thực tế là cực hữu". Truyền thông chính phủ đổ lỗi cho Tứ nhân bang và Lâm Bưu về sự cực đoan của Cách mạng Văn hóa. Lễ kỷ niệm đã được diễn ra nổi bật và không giới hạn trên đường phố Bắc Kinh và các thành phố lớn khác. Trong "Phong trào phơi bày, chỉ trích và bóc trần (揭批 查 运动)" trên toàn quốc "hàng triệu" người theo "phe nổi dậy (造反 派)" trước đây và các hồng vệ binh đã bị chỉ trích công khai vì họ được cho là có liên quan đến Tứ nhân bang. |
Ngã Bảy là một thành phố thuộc tỉnh Hậu Giang, Việt Nam.
Thành phố Ngã Bảy là nơi gặp nhau của bảy dòng kênh (Cái Côn, Quản Lộ – Phụng Hiệp, Lái Hiếu, Mang Cá, Mương Lộ, Xẻo Dong, Xẻo Môn), đồng thời là đầu mối giao thông thủy quan trọng ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ngã Bảy nằm giữa các trục giao thông quan trọng như: Quốc lộ 1, đường Quản Lộ – Phụng Hiệp, đường tỉnh 927, đường tỉnh 927C nối với đường Nam Sông Hậu... tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế cho địa phương.
Hiện nay, thành phố Ngã Bảy là đô thị loại III, là trung tâm kinh tế - văn hóa - xã hội, đầu mối giao thông chính thứ hai của tỉnh Hậu Giang sau thành phố Vị Thanh.
Địa lý
Thành phố Ngã Bảy nằm ở phía đông bắc tỉnh Hậu Giang, ven kênh Phụng Hiệp, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng
Phía tây và phía nam giáp huyện Phụng Hiệp
Phía bắc giáp huyện Châu Thành.
Thành phố Ngã Bảy cách thành phố Vị Thanh, tỉnh lỵ tỉnh Hậu Giang khoảng 60 km (đường Quốc lộ). Ngã Bảy có những đặc điểm thuận lợi về vị trí địa lý và điều kiện phát triển giao thông, giao thương. Ngã Bảy nằm trên tuyến Quốc lộ 1, giữa trung tâm thành phố Cần Thơ và thành phố Sóc Trăng (mỗi thành phố cách Ngã Bảy khoảng 30 km). Ngã Bảy là điểm đầu của tuyến Quốc lộ Quản Lộ – Phụng Hiệp nối liền thành phố Ngã Bảy với thành phố Cà Mau, tương lại nằm trong trục của tuyến cao tốc thành phố Hồ Chí Minh - Cần Thơ - Cà Mau.
Địa hình, địa mạo
Thành phố có địa hình tương đối bằng phẳng nằm ở độ cao phổ biến từ 0,3 – 1,0m so với mực nước biển, bị chia cắt bởi nhiều sông, kênh, rạch và có xu hướng thấp dần từ Bắc xuống Nam, từ Đông và Tây có hướng thấp dần vào giữa thành phố, trong thời gian qua do quá trình đô thị hoá mạnh nên nền địa hình ngày càng được nâng cao.
Khí hậu
Thành phố nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, ít bão, quanh năm nóng ẩm, với những đặc trưng chủ yếu sau:
Chế độ nhiệt: trung bình hàng năm khoảng 26,7°C, thường tháng 1 có nhiệt độ thấp nhất khoảng 25,5°C, tháng 4 có nhiệt độ cao nhất khoảng 28,2°C.
Chế độ mưa: mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4 năm sau, lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1.300mm, tập trung chủ yếu vào mùa mưa (chiếm trên 90% tổng lượng mưa).
Chế độ ẩm: cao và ổn định, ít biến đổi qua các năm, trung bình năm dao động từ 82% - 87%, trong năm độ ẩm thấp nhất vào mùa khô, cao nhất vào mùa mưa.
Chế độ nắng: số giờ nắng trong năm khá cao, khoảng 2.445 giờ/năm.
Thủy văn
Thành phố có 7 tuyến sông, kênh lớn và nhiều tuyến nhỏ chịu tác động mạnh bởi chế độ dòng chảy chính của sông Hậu, hệ thống sông Cái Lớn, chế độ triều biển Đông và chế độ triều biển Tây.
Tài nguyên đất
Hiện nay trên địa bàn thành phố có 3 nhóm đất chính là đất phù sa, đất phèn và đất nhân tác. Trong đó:
Nhóm đất phù sa: nhóm đất này chỉ có một loại đó là đất phù sa gley, với diện tích khoảng 3.896 ha, chiếm 49,84% tổng diện tích tự nhiên của thành phố, tập trung nhiều ở xã Đại Thành, Tân Thành và phường Ngã Bảy, một ít nằm ở các xã, phường còn lại.
Nhóm đất phèn: bao gồm đất phèn hoạt động nông và đất phèn hoạt động sâu, với diện tích 1.768 ha, chiếm 22,62% tổng diện tích tự nhiên, phân bố chủ yếu ở phường Hiệp Thành, Lái Hiếu và phường Hiệp Lợi.
Nhóm đất nhân tác: Diện tích 1.947,4 ha, chiếm 24,91% diện tích tự nhiên, hình thành do có sự tác động của con người, nhóm đất này phân bố tập trung dọc theo các tuyến sông, kênh, rạch, các trục lộ giao thông lớn và các cụm, tuyến dân cư tập trung.
Ngoài ra, đất sông, kênh, rạch có diện tích 205,70 ha, chiếm 2,63% diện tích tự nhiên, phân đều trên địa bàn thành phố.
Tài nguyên nước
Nước mặt: do được cung cấp từ nước mưa và hệ thống sông, kênh, rạch khá dày đặc trên địa bàn, đặc biệt là nguồn nước từ sông Hậu thông qua sông Cái Côn nên rất dồi dào. Đây là nguồn nước chủ yếu cung cấp cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.
Nước dưới đất: được phân bố khá rộng, nước ngọt phân bố chủ yếu ở các tầng chứa nước Pleistoxen, Plioxen, Mioxen ở độ sâu 100 – 500m, một số nơi chưa đến 50m đã có nước dưới đất với chất lượng khá tốt.
Hành chính
Thành phố Ngã Bảy có 6 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 4 phường: Hiệp Lợi, Hiệp Thành, Lái Hiếu, Ngã Bảy và 2 xã: Đại Thành, Tân Thành với 40 ấp, khu vực.
Lịch sử
Từ thời Pháp thuộc cho đến năm 1975, làng Phụng Hiệp và sau năm 1956 là xã Phụng Hiệp liên tục giữ vai trò là quận lỵ quận Phụng Hiệp, tỉnh Cần Thơ.
Sau năm 1975, quận Phụng Hiệp đổi thành huyện Phụng Hiệp, đồng thời tách đất xã Phụng Hiệp để thành lập thị trấn Phụng Hiệp và xã Đại Thành, về sau lại tách đất xã Đại Thành để thành lập xã Tân Thành. Từ đó, thị trấn Phụng Hiệp tiếp tục giữ vai trò là huyện lỵ huyện Phụng Hiệp, tỉnh Cần Thơ (đến năm 2004 thuộc tỉnh Hậu Giang).
Ngày 26 tháng 7 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định 98/2005/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Phụng Hiệp để thành lập thị xã Tân Hiệp và các phường, xã thuộc thị xã Tân Hiệp. Theo đó:
Thành lập thị xã Tân Hiệp trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị trấn Phụng Hiệp và 2 xã: Đại Thành, Tân Thành; 1.932,76 ha diện tích tự nhiên và 11.482 nhân khẩu của xã Phụng Hiệp; 220 ha diện tích tự nhiên và 1.170 nhân khẩu của xã Tân Phước Hưng thuộc huyện Phụng Hiệp.
Thành lập phường Ngã Bảy trên cơ sở 217,61 ha diện tích tự nhiên và 8.964 nhân khẩu của thị trấn Phụng Hiệp, 78,65 ha diện tích tự nhiên và 1.500 nhân khẩu của xã Phụng Hiệp, 176,69 ha diện tích tự nhiên và 3.100 nhân khẩu của xã Đại Thành.
Thành lập phường Lái Hiếu trên cơ sở 357,99 ha diện tích tự nhiên và 7.160 nhân khẩu của thị trấn Phụng Hiệp, 338,38 ha diện tích tự nhiên và 1.996 nhân khẩu của xã Phụng Hiệp, 120 ha diện tích tự nhiên và 670 nhân khẩu của xã Tân Phước Hưng.
Thành lập phường Hiệp Thành trên cơ sở 828,57 ha diện tích tự nhiên và 8.632 nhân khẩu của thị trấn Phụng Hiệp, 296,61 ha diện tích tự nhiên và 1.917 nhân khẩu của xã Đại Thành, 100 ha diện tích tự nhiên và 500 nhân khẩu của xã Tân Phước Hưng.
Thành lập xã Hiệp Lợi trên cơ sở 1.515,73 ha diện tích tự nhiên và 7.986 nhân khẩu của xã Phụng Hiệp.
Sau khi thành lập, thị xã Tân Hiệp có 7.894,93 ha diện tích tự nhiên và 61.024 nhân khẩu với 6 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 3 phường: Ngã Bảy, Lái Hiếu, Hiệp Thành và 3 xã: Hiệp Lợi, Đại Thành, Tân Thành.
Ngày 27 tháng 10 năm 2006, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 124/2006/NĐ-CP. Theo đó, đổi tên thị xã Tân Hiệp thành thị xã Ngã Bảy.
Ngày 30 tháng 12 năm 2015, Bộ Xây dựng ban hành quyết định số 1589/QĐ-BXD công nhận thị xã Ngã Bảy là đô thị loại III trực thuộc tỉnh Hậu Giang.
Ngày 10 tháng 1 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 869/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Hậu Giang (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 2 năm 2020). Theo đó:
Thành lập phường Hiệp Lợi thuộc thị xã Ngã Bảy trên cơ sở toàn bộ 14,05 km² diện tích tự nhiên và 9.435 người của xã Hiệp Lợi.
Thành lập thành phố Ngã Bảy thuộc tỉnh Hậu Giang trên cơ sở toàn bộ 78,07 km² diện tích tự nhiên và 101.192 người của thị xã Ngã Bảy.
Sau khi thành lập, thành phố Ngã Bảy có 4 phường và 2 xã như hiện nay.
Kinh tế - xã hội
Năm 1915, chợ nổi Ngã Bảy ra đời sau 10 năm đào kinh xáng, 7 ngã sông hình thành. Vùng trung tâm " bảy sông dồn nước" lập tức trở thành đầu mối giao thông thủy lớn nhất Nam Kỳ, song hành với trung tâm giao thương hàng hoá lớn của miền Nam, tác động mạnh đến thị trường nông sản miền Tây. Nền nông nghiệp hàng hoá nơi đây đã sớm bắt nhịp cùng nhu cầu giao thương, vượt khỏi quy mô làng xã của cư dân đồng bằng. Ngã Bảy là chợ tổng hợp, có thể mua sỉ, bán lẻ; phong phú đa dạng đủ loại hàng hóa mang đặc trưng sắc màu cuộc sống Nam Bộ. Thời mở cửa, sản phẩm đồng bằng theo dòng nước lớn qua Ngã Bảy, ra tận đất Bắc, vượt biên giới đến với bạn bè năm châu.
Giai đoạn 2016-2020, tổng giá trị sản xuất (giá so sánh 2010) đạt 22.631,74 tỷ đồng, tăng 50,25% so với giai đoạn 2010-2015 trong đó: khu vực I đạt 4.563,24 tỷ đồng, khu vực II đạt 9.069,18 tỷ đồng, khu vực III đạt 8.999,32 tỷ đồng, tỷ trọng khu vực nông, lâm và thủy sản chiếm 20,24%, khu vực công
nghiệp - xây dựng chiếm 37,03%, khu vực thương mại – dịch vụ chiếm 42,73%. Cơ cấu kinh tế của thành phố chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông
nghiệp - thủy sản, tăng tỷ trọng thương mại - dịch vụ và công nghiệp - xây dựng.
Nông nghiệp - thủy sản
Sản xuất nông nghiệp và thủy sản đã từng bước phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, ứng dụng công nghệ - kỹ thuật cao và hình thành các vùng sản xuất tập trung có năng suất, chất lượng cao gắn liền với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ, nhưng do biến động của thị trường nên giá trị sản xuất nông nghiệp (giá so sánh năm 2010) của thành phố hàng năm tăng trưởng không đồng đều, vì vậy giai đoạn 2011-2020, tốc độ tăng bình quân giảm 5,54%/năm.
Trồng trọt
Cây lúa: Năm 2020, diện tích canh tác lúa ổn định khoảng 1.516 ha giảm 5.343 ha so với năm 2010, tổng sản lượng lương thực đạt 9.308 tấn giảm 29.393 tấn so với năm 2010.
Hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày: diện tích giảm qua các năm đến năm 2020 đạt 2.380 ha, tăng 491 ha so với năm 2010, tổng sản lượng đạt 31.195 tấn, giảm 69.195 tấn so với năm 2010.
Cây lâu năm: Năm 2020, diện tích là 3.262 ha, tăng 754 ha so với năm 2010; tổng sản lượng đạt 27.921 tấn, tăng 9.485 tấn so với năm 2010. Nhìn chung, vườn cây ăn trái của thành phố phát triển theo hướng nâng cao chất lượng qua việc thay đổi giống và chủng loại cây, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật đểsản xuất sản phẩm có chất lượng cao, chủ yếu là: cam, quýt, bưởi, nhãn, xoài, chôm chôm,...
Chăn nuôi
Năm 2020, tổng đàn gia súc 11.720 con, tăng 9.060 con so với năm 2010 và đàn gia cầm là 391.150 con tăng 196.965 con so với năm 2010.
Thủy sản
Trong những năm qua, mặc dù thị trường xuất khẩu gặp nhiều khó khăn nhưng ngành thủy sản đã đạt được những thành quả đáng ghi nhận. Năm 2020, tổng diện tích nuôi đạt 294 ha, tăng 116 ha so với năm 2010.
Thành phố thực hiện mạnh chuyển đổi cơ cấu ngành từ cây lúa sang mía và cây ăn trái như; cam sành, chôm chôm, bưởi năm roi...Đồng thời khuyến khích phát triển nuôi trồng thủy sản:
Diện tích trồng lúa khoảng 4.100ha (2015) với sản lượng 24.390 tấn.
Diện tích trồng mía ổn định khoảng 1000ha.
Đặc biệt, Cam sành được xem là cây trồng chủ lực với diện tích khoãng 1500 - 2000 ha, thương hiệu " Cam sành Ngã Bảy" đã được đăng ký chứng nhận.
Lĩnh vực thủy sản: Cá tra là đối tượng nuôi chủ lực; nuôi với hình thức thâm canh, ven các sông lớn và sông nhánh của thành phố, tập trung chủ yếu ở xã Đại Thành và Tân Thành.
Công nghiệp - xây dựng
Trong những năm qua, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn và thách thức nhưng sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn vẫn cố gắng vươn lên, duy trì phát triển và cung cấp sản phẩm ngày càng đa dạng, với ngành nghề chủ lực như xay xát, chế biến lương thực, cưa xẻ gỗ, ghe xuồng,... Năm 2020, giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh năm 2010) là 1.238.006 triệu đồng, tăng 998.589 triệu đồng so với năm 2010, tăng bình quân 13,92%/năm; số cơ sở sản xuất công nghiệp là 632 cơ sở, tăng 87 cơ sở so với năm 2010; số lao động là 1.933 người, giảm 39 người so với năm 2010.
Xây dựng: Ngành xây dựng chủ yếu là xây dựng các công trình phục vụ cho phát triển đô thị của thành phố và xây dựng nhà ở trong dân. Trong giai đoạn 2011-2020, thành phố đã xây dựng được các công trình như: Khu hành chính mới; bến xe thành phố; bờ kè khu Liên hiệp Đình Chiến; bờ kè Trần Hưng Đạo – Lê Lợi; bệnh viện đa khoa khu vực Ngã Bảy; tuyến dân cư Vượt lũ Cái Côn; 5 tuyến lộ nội thị; đường ô tô về trung tâm xã Đại Thành, Tân Thành; các cầu trên tuyến dân cư vượt lũ Cái Côn; xây dựng 05 trường mầm non, mẫu giáo; xây mới và mở rộng các trường tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông,... Với tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt trên 10.000 tỷ đồng, trong đó, vốn xây dựng
cơ bản khoảng 5.200 tỷ.
Thương mại - Dịch vụ
Thương mại – dịch vụ là khu vực có tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu kinh tế của thành phố. Hoạt động thương mại, dịch vụ có bước phát triển nhanh theo hướng đa dạng hóa loại hình, hoạt động kinh doanh mua bán phát triển ổn định, chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Các doanh nghiệp đã quan tâm mở rộng thị trường nội địa; kết cấu hạ tầng thương mại được đầu tư xây dựng, hệ thống chợ đang được sắp xếp chỉnh trang; bán buôn, bán lẻ hàng hóa và khối lượng hàng hóa lưu thông tăng cao, góp phần đáng kể trong việc ổn định thị trường và đáp ứng nhu cầu hàng hóa cho nhân dân trong quá trình đô thị hoá. Năm 2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ là 6.763.430 triệu đồng, tăng 3.398.569 triệu đồng so với năm 2010.
Lĩnh vực thương mại – dịch vụ trở thành mũi nhọn phát triển nhanh và mạnh nhất của thành phố. Ngã Bảy rất quan tâm đến công tác đầu tư xây dựng, nâng cấp chợ. Hiện nay, chợ Ngã Bảy là chợ trung tâm nên tập trung rất đông người dân kinh doanh buôn bán. Trong đó, nhà lồng chợ có 123 lô, sạp; khu thương mại có 56 kiốt và khoảng hơn 200 hộ kinh doanh buôn bán nhỏ, lẻ ở các con đường nội ô. Bên cạnh chợ trung tâm Ngã Bảy, siêu thị Co.opMart đã đi vào hoạt động đáp ứng nhu cầu mua sắm hiện đại và tham quan giải trí của người dân.
Hệ thống chợ vệ tinh ven các xã phường cũng được đầu tư xây dựng. Sắp tới, thành phố sẽ tập trung nâng cấp chợ Ngã Bảy, Tân Thành, Hiệp Thành... đặc biệt triển khai dự án đầu tư xây dựng công trình bảo tồn và phát huy chợ nổi Ngã Bảy gắn với du lịch sông nước miệt vườn.
Với vai trò trung tâm kinh tế phía Đông Bắc của Hậu Giang, Ngã Bảy đang đứng trước yêu cầu phát triển đột phá, tăng tốc theo hướng công nghiệp và dịch vụ, trở thành đô thị lớn, văn minh, hiện đại, người dân có mức sống cao. Chính vì vậy, thành phố đang đẩy mạnh xây dựng hạ tầng cơ sở. Hiện đang có đề án về đầu tư nâng cấp hạ tầng, khai thác quỹ đất tạo vốn, đầu tư xây dựng hoàn chỉnh khu dân cư với hạ tầng đồng bộ, giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường, chỉnh trang và phát triển đô thị hiện đại. Đề án này đang được gấp rút thực hiện với tổng kinh phí gần 1.000 tỷ đồng.
Năm 2007, thành phố đã hoàn thành 21 công trình giao thông với tổng kinh phí 5.761 triệu đồng. Trong đó, có 18.650 m đường giao thông, 6 cây cầu bê tông cốt thép, 13.150 m công trình thủy lợi, tổng khối lượng hoàn thành là 75.215 m³. Thành phố Ngã Bảy được xem là một trong hai trung tâm lớn, có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Hậu Giang.
Giáo dục
Trên địa bàn có 15 trường mầm non - mẫu giáo (trong đó: 6 trường công lập và 9 trường ngoài công lập), 9 trường tiểu học, 6 trường trung học cơ sở, 2 trường trung học phổ thông (THPT Nguyễn Minh Quang và THPT Lê Quý Đôn), số trường đạt chuẩn quốc gia (chiếm 95,65% tổng số trường). Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, phổ cập giáo dục THCS; tỷ lệ học sinh bỏ học cấp phổ thông giảm hàng năm còn dưới 1%.
Ngoài ra, thành phố còn có 1 trường Cao đẳng Cộng Đồng tỉnh Hậu Giang (cơ sở 2, cơ sở 3), 1 trường Trung cấp Kỹ thuật – Công nghệ tỉnh Hậu Giang, 1 trung tâm giáo dục thường xuyên và 6 trung tâm học tập cộng đồng ở 6 phường, xã.
Y tế
Đến nay, thành phố có 1 bệnh viện đa khoa; 1 trung tâm y tế và 6 trạm y tế tại 6 xã, phường, tất cả đã được công nhận đạt tiêu chuẩn Quốc gia về y tế, 100% ấp, khu vực có nhân viên y tế; tỷ lệ người tham gia các hình thức bảo hiểm y tế đạt 90,2%. Nhìn chung, mạng lưới y tế trên địa bàn được hình thành và phát triển rộng khắp, trang thiết bị ngày càng được tăng cường nên đã góp phần nâng cao hiệu quả khám và chữa bệnh cho nhân dân ở các tuyến cơ sở.
Dân số
Tổng dân số toàn thành phố tính cả dân số quy đổi đến năm 2018 là 100.696 người; Trong đó dân số nội thị là 49.484 người (49,14%), dân số ngoại thị là 51.212 người (50,86%). Tỷ lệ tăng dân số trung bình năm 2018 khoảng 0,71%, tăng nhẹ so với các năm trước. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của thành phố duy trì ở mức 0,91%. Mật độ dân số trung bình toàn thành phố là 1.290 người/km² - trong đó khu vực nội thị
1.973 người/km², khu vực ngoại thị 1.290 người/km². Dân cư phân bố toàn thành phố khá đồng đều tuy nhiên tại khu vực nội thị mật độ dân số cao hơn, đặc biệt là phường Ngã Bảy - đây cũng là khu vực có cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội được đầu tư xây dựng tương đối đồng bộ.
Thành phố Ngã Bảy có diện tích 78,07 km², dân số năm 2019 là 61.209 người, mật độ dân số đạt 791 người/km². Ngã Bảy là đơn vị hành chính cấp huyện có mật độ dân số cao nhất tỉnh Hậu Giang.
Năm 2020, thành phố Ngã Bảy có diện tích 78,17 km², dân số khoảng 55.674 người với mật độ 712 người/km². Trong đó, trong độ tuổi lao động khoảng 34.968 người (chiếm 57,41% dân số). Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên hàng năm 1,0%.
Thành phố Ngã Bảy đã đẩy mạnh và thực hiện tốt công tác xã hội hóa đào tạo nghề với các loại hình đào tạo đa dạng, phong phú phù hợp với điều kiện và
nhu cầu thực tế sản xuất trên địa bàn. Giai đoạn 2015-2020, đào tạo nghề cho 10.164 lao động, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 58%. Thu nhập bình quân đầu người đạt 59,7 triệu đồng/người/năm, tăng gấp 2,05 lần so với năm 2015.
Văn hóa - Du lịch
Văn hóa
Địa danh này cùng kênh Phụng Hiệp được nhắc đến trong nhạc phẩm Tình anh bán chiếu của soạn giả Viễn Châu:
Chiếu Cà Mau nhuộm màu tươi thắm, công tôi cực lắm mưɑ nắng dãi dầu.
Chiếu nàу tôi chẳng bán đâu, tìm cô không gặp, hòòòòo...... ooơơơi, tôi gối đầu mỗi đêm.
Ghe chiếu Cà Mau đã cắm sào trên bờ kinh Ngã Bảу, sao cô gái năm xưɑ chẳng thấу ra....... chào.
Cửɑ νườn cô đã khoá kín tự hôm nào.
Tôi đã vác đôi chiếu bông từ dưới ghe lên xóm rẫy, chiếc áo nhuộm bùn đã lấm tấm giọt mồ hôi.
Nhà củɑ cô sɑu trước νắng tɑnh, gió lạnh chiều đông bỗng có ɑi dạo lên tiếng nguуệt cầm, như gieo νào lòng tôi một nỗi buồn thê thảm...
Thơ xuôi:
Ngã Bảy chia dòng xuôi lục tỉnh
Cà Mau, Rạch Giá nối Hậu Giang
Khách thương hồ nổi trôi sông nước
Năm tháng thuyền dong lướt dặm ngàn.
Phim ảnh:
Ván bài lật ngửa (1982) - Nhân vật chính Nguyễn Thành Luân ở đầu phim từ Khu 9 ra chợ Phụng Hiệp để bắt xe về Sài Gòn
Chuyện Ngã Bảy (1996)
Du lịch
Di tích Khu liên hiệp đình chiến Nam Bộ (Di tích lịch sử cấp Quốc gia)
Chợ nổi Ngã Bảy
Làng nghề đan cần xé
Làng nghề đóng ghe xuồng
Làng nghề hầm than gỗ
Vườn dâu Thiên Ân
Già Lam Cổ Tự
Giao thông
Giao thông bộ
Quốc lộ 1 đoạn qua thành phố dài hơn 12 km, mặt đường rộng từ 11-19 m.
Quốc lộ Quản Lộ – Phụng Hiệp: Bắt đầu từ phường Ngã Bảy đi Cà Mau, đoạn qua thành phố khoảng 7 km, mặt đường rộng 11 m, tất cả đều được thảm bê tông nhựa.
Đường tỉnh: có 2 tuyến ĐT.927, ĐT.927C đoạn qua thành phố có chiều dài 11,3 km.
Đường thành phố quản lý: các tuyến đường có chiều rộng mặt đường thường từ 3,5m đến 12,0m, nhưng cũng có những tuyến mặt đường rộng hơn 20m như đường Nguyễn Huệ, đường Nguyễn Thị Minh Khai.
Đường liên xã và giao thông nông thôn: đến nay 2/2 xã trong thành phố đã có hệ thống đường nhựa cho xe ô tô lưu thông đến trung tâm xã. Các tuyến đường trên địa bàn tất cả các ấp đã được thảm nhựa hoặc bê tông xi măng.
Các tuyến đường chính
Đường Hùng Vương (quốc lộ 1 đi qua các phường Hiệp Lợi, Hiệp Thành và Ngã Bảy)
Quốc lộ Quản Lộ – Phụng Hiệp (đi qua phường Hiệp Thành)
Đường 3 Tháng 2 (đường tránh quốc lộ 1 đi qua xã Đại Thành và các phường Hiệp Lợi, Hiệp Thành)
Đường 30 Tháng 4 (tỉnh lộ 927 đi qua phường Lái Hiếu)
Đường Nguyễn Trãi (tỉnh lộ 927 đi qua các phường Ngã Bảy và Lái Hiếu)
Đường Nguyễn Trung Trực (đi qua phường Lái Hiếu)
Đường Trần Nam Phú (đi qua phường Hiệp Thành)
Tỉnh lộ 927C (đi qua phường Ngã Bảy, xã Đại Thành, xã Tân Thành).
Đường nội ô
Phường Ngã Bảy: Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Lý Thường Kiệt, Mạc Đĩnh Chi, Triệu Ẩu, Bạch Đằng, Nguyễn Minh Quang, Phạm Hùng, Đoàn Văn Chia, Nguyễn Huệ, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Phan Đình Phùng, Châu Văn Liêm, Nguyễn Văn Nết và Nguyễn Thị Xem.
Phường Lái Hiếu: Triệu Vĩnh Tường, Ngô Quyền và Nguyễn Thị Định.
Phường Hiệp Thành: 1 Tháng 5, Cao Thắng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Du và Trương Thị Hoa.
Giao thông thủy
Ngã Bảy có các tuyến sông, kênh lớn tỏa ra như một ngôi sao vươn tới các vùng miền lân cận như: Mang Cá, Cái Côn, Búng Tàu, Lái Hiếu, Sóc Trăng, Xẻo Môn, Xẻo Vông, các tuyến này có thể lưu thông tàu thuyền tải trọng từ 100 – 2.000 tấn.
Ngoài ra, còn có các tuyến kênh rạch tự nhiên khác phục vụ cho lưu thông đường thủy và phân bố tương đối đều trên địa bàn tạo thành hệ thống giao thông đường thủy dày đặc, đáp ứng tốt nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hoá của nhân dân.
Bảy dòng kênh lịch sử
Bảy dòng kênh tạo nên nét đẹp đặc trưng của Ngã Bảy đã được thực dân Pháp lên kế hoạch đào từ những năm đầu thế kỷ XX cho đến 1915 thì hoàn thành. Các con kênh đã biến một vùng đất lau sậy trở nên màu mỡ và sung túc, bắt đầu cho sự phát triển phồn thịnh của Ngã Bảy - Phụng Hiệp từ ngày ấy cho đến tận bây giờ.
Theo thứ tự có thể liệt kê về tên gọi và lịch sử của các dòng kênh như sau:
- Kênh Mương Lộ: Nối từ Ngã Bảy đi Sóc Trăng (Ở Tp. Sóc Trăng có tên gọi là sông Maspero) được đào khoảng 1901-1905 dài khoảng 30km. Khi đào con kênh này, người Pháp đã dùng đất đấp lộ Đông Dương đi Sóc Trăng dọc theo bờ kênh (Nay là Quốc lộ 1A đoạn Ngã Bảy - Sóc Trăng) nên vì thế có tên gọi là Mương Lộ.
- Kênh Xẻo Vông: Nối từ Ngã Bảy đi về hướng Cần Thơ cặp theo lộ Đông Dương (Nay là Quốc lộ 1A Ngã Bảy - Cần Thơ) con kênh được đào mở rộng vào những năm 1908-1912 từ một con rạch nhỏ vốn sơ khai có nhiều cây vông nước nên gọi là Kênh Xẻo Vông.
- Kênh Xẻo Môn: Nối từ Ngã Bảy đi Hòa Mỹ hòa vào các con kênh khác tạo tuyến đường đi đến những cánh đồng rộng lớn bên trong như Rạch Gòi, Kinh Cùng... Con kênh sơ khai có nhiều cây môn nước nên được gọi là Xẻo Môn.
- Kênh Mang Cá: Nối từ Ngã Bảy đi Kế Sách tỉnh Sóc Trăng, từ đó hòa vào sông Kế Sách ra sông Hậu có thể đi các vùng lân cận phía Cù Lao Dung hoặc Trà Vinh... Đầu kênh được đào ngay sát bên cạnh cầu Quay Phụng Hiệp ngày xưa những vị trí như vậy được gọi là mang cá cầu, nên kênh được gọi là Mang Cá.
- Kênh Cái Côn: Nối từ Ngã Bảy ra sông Hậu, là con kênh chính và quan trong nhất của hệ thống dẫn nước từ sông Hậu rồi tỏa ra các dòng kênh còn lại đi vào nội đồng. Kênh đổ ra sông Hậu tại chợ Cái Côn nên có lẽ vì thế được gọi là kênh Cái Côn.
- Kênh Quản lộ - Phụng Hiệp: Nối từ Ngã Bảy đi Cà Mau, đây là con kênh dài nhất trong hệ thống với chiều dài lên đến 140km mang nước sông Hậu đến với vùng bán đảo Cà Mau rộng lớn. Kênh được đào từ Ngã Bảy xưa là chợ Phụng Hiệp đến Cà Mau tiếp giáp với kênh Quản lộ chảy về tới Tp Cà Mau nên được gọi là Quản Lộ - Phụng Hiệp. Ngày nay dọc theo con kênh là tuyến quốc lộ Quản Lộ - Phụng Hiệp điểm đầu tại TP. Ngãy Bảy điểm cuối tại TP. Cà Mau rút ngắn đoạn đường từ Cần Thơ đi Cà Mau đến 40Km.
- Kênh Lái Hiếu: Nối từ Ngã Bảy đi Long Mỹ từ đây hòa vào sông Nước Đục ra Sông Cái Lớn để đi về hướng Gò Quau, Miệt Thứ, Rạch Giá... Kênh được đặt theo tên của một lái buôn trong vùng tên Hiếu nên được gọi là kênh Lái Hiếu.
Có một con kênh nhỏ được đào phía mang cá cầu đối điện với Kênh Mang Cá được người dân trong vùng gọi là Kênh Lò Heo nối từ Ngã Bảy đi đến Phú Hữu, Mái Dầm hòa vào Kênh Nàng Mau. Dòng kênh này hiện tại cũng đi ngang qua trung tâm của 2 xã duy nhất của Tp Ngã Bảy là Đại Thành và Tân Thành, tuy nhiên do quy mô nhỏ nên không được tính thành một ngã trong hệ thống của kênh đào của Ngã Bảy xưa. Ngày nay điểm đầu dòng kênh đang thu hẹp dần do hiện tượng bồi lắp phù sa và không được nạo vét nên vào mùa khô nếu đi theo dòng kênh này sẽ không đi được đến Ngã Bảy mà phải rẽ sang một hướng khác ra kênh Cái Côn rồi đi tiếp tới Ngã Bảy.
Tại điểm giao nhau của các dòng kênh là các mỏm đất nhô ra gọi là Doi. Có doi Chợ là mỏm đất tại chợ Ngã Bảy ngày nay; Doi Đình nằm giữa Xẻo Môn và Xẻo Vông có một ngôi đình cổ mang tên Đình thần Phụng Hiệp nằm ngay đầu doi; Doi Cát nằm giữa kênh Cái Côn và Kênh Mương Lộ xưa có nhiều đụn cát, nơi đây xưa được trồng hiều hoa màu nên gọi còn được gọi là xóm rẫy nơi được nhắc đến trong bài vọng cổ Tình anh bán chiếu của cố Soạn giả NSND Viễn Châu: "Tôi vác đôi chiếu bông từ dưới ghe lên xóm rẫy chiếc áo nhuộm bùn đã lấm tấm giọt mồ hôi"; Doi Chành nằm giữa kênh Mương Lộ và kênh Quản lộ Phụng Hiệp xưa có nhiều chành lúa (Vựa thu mua, lưu trữ, vận chuyển lúa); Doi Tân Thới Hòa giữa kênh Quản lộ - Phụng Hiệp và kênh Lái Hiếu được đặt tên theo một hiệu buôn có tiếng ngày xưa tại mỏm đất này.
Chú thích |
Guitar (phiên âm: ghita, tiếng Pháp: guitare; tiếng Anh: guitar), còn được biết đến dưới tên gọi Tây ban cầm (西班琴), Cát tha (吉他) vốn xuất xứ là một nhạc cụ có cách đây hơn 500 năm (loại guitar cổ), sau này người Tây Ban Nha mới cải tiến nó thành đàn guitar ngày nay. Đàn guitar trước kia chỉ vỏn vẹn có 1 dây, ngày nay có 6 dây, tuy nhiên vẫn tồn tại những loại đàn guitar có 4, 7, 8, 10 và 12 dây. Nó là một loại nhạc cụ có phím và dây, có ứng dụng rộng rãi trong các loại nhạc, có thể đệm cho hát, hòa tấu hoặc độc tấu.
Guitar là một loại nhạc cụ có dây, theo truyền thống được làm từ gỗ và dùng dây bằng ruột động vật, ni lông hoặc dây thép và phân biệt với các nhạc cụ có dây khác bằng cách làm và cách chỉnh âm. Cây đàn guitar hiện đại được kế thừa từ các loại đàn gittern, vihuela, guitar bốn thời Phục hưng, và guitar 5 thời baroque, tất cả đều góp phần vào sự phát triển của nhạc cụ sáu dây hiện đại này.
Có ba loại chính của guitar acoustic hiện đại: guitar cổ điển (dây ni lông), guitar acoustic dây thép, và guitar archtop, mà đôi khi được gọi là "guitar jazz". Các giai điệu của một cây guitar acoustic được tạo ra bởi sự rung động của dây, khuếch đại bởi hộp đàn rỗng của đàn guitar, hoạt động như một buồng cộng hưởng. Cây guitar cổ điển thường được chơi như một nhạc cụ độc tấu bằng cách sử dụng kỹ thuật ngón tay toàn diện, trong đó mỗi dây được tách riêng bằng ngón tay của người chơi, trái ngược với đánh hợp âm. Thuật ngữ "tỉa ngón tay" cũng có thể ám chỉ đến một truyền thống nhạc dân gian, nhạc blues, bluegrass và nhạc đồng quê ở Hoa Kỳ. Guitar bass acoustic là một nhạc cụ có độ cao nốt trầm thấp, dưới một quãng tám so với một cây đàn guitar thông thường.
Guitar dùng vĩ kéo
Bowed guitar (guitar dùng cây vĩ) là một phương pháp chơi guitar, acoustic hoặc điện, trong đó guitarist sử dụng một cây vĩ (cung vĩ của violin hay cello), chứ không phải dùng móng gảy phổ biến hơn, để làm rung các dây của nhạc cụ, tương tự như chơi violin. Không giống như các nhạc cụ dùng vĩ kéo truyền thống như violin, guitar thường có bán kính cầu tương đối bằng phẳng và các dây có vị trí gần nhau, gây khó khăn cho việc ghi các nốt riêng lẻ trên dây giữa. Kỹ thuật này thường được liên kết với Trang Jimmy của Led Zeppelin và Yardbirds, cũng như Jónsi của Sigur Ros. Eddie Phillips thuộc nhóm Sáng tạo Anh, là một trong những nghệ sĩ guitar rock đầu tiên sử dụng cây cung trong bài hát "Making Time" năm 1966 của họ.
Lịch sử
Đàn guitar có một lịch sử phát triển lâu dài, có lẽ khởi đầu từ chiếc dây cung của những người thợ săn cổ. Tiếng bật của dây cung khi mũi tên được phóng đi đã gợi ý cho người xưa sáng tạo ra đàn lia, đàn hạc và đàn lutz. Những chiếc đàn này được làm từ gỗ, mai rùa và gân động vật. Ở Hy Lạp, thế kỷ 7, người ta thấy xuất hiện phổ biến đàn lia và đàn cithara (một loại đàn lớn cồng kềnh, bắt chước cơ cấu của đàn lia với mặt gỗ to bản).
Từ "guitar" bắt nguồn từ chữ cithara. Cây đàn guitar đầu tiên có lẽ xuất hiện ở Ai Cập và Babylon từ 1000 năm trước Công nguyên. Trải qua nhiều biến đổi, nó được những đạo quân xâm lược mang đến châu Âu khoảng thế kỷ thứ 8 và phát triển rực rỡ vào thế kỷ 14, đặc biệt tại Tây Ban Nha. Người ta không biết từ guitarra xuất hiện ở Tây Ban Nha từ khi nào. Tuy nhiên, trong suốt thế kỷ 14, có hai loại nhạc cụ mang tên guittara là đàn guittara Latina và guittara Morisca đã chiếm ngôi vị độc tôn ở xứ sở bò tót.
Cùng với những nhạc cụ biểu diễn lưu động khác, cây đàn rebec (đàn violon 3 dây thời cổ) có bầu tròn đã theo chân các đạo quân xâm lược tới Tây Ban Nha, trở thành một nhạc cụ phổ biến, làm nên một làn gió mới cho cuộc sống của những người dân nơi đây. Rất nhiều nhạc sĩ đã sáng tác Văn bản liên kết dựa trên thanh âm của đàn Rebec. Thậm chí Giáo hội Tây Ban Nha đã phải ra lệnh cấm các nhà thờ được chơi loại nhạc cụ này vì tính chất phóng khoáng xô bồ của nó.
Nhạc cụ bộ dây cổ nhất được tìm thấy tại khu vực Alaja Huyuk (thuộc bán đảo Anatoli) có niên đại 1400 năm trước Công nguyên. Người ta còn tìm thấy một bức tượng đá cổ ở Hy Lạp minh hoạ một phụ nữ đang ôm đàn. Điểm đặc biệt là tư thế của nàng trùng khớp với tư thế chơi đàn của các nghệ sĩ guitar ngày nay.
Vào thế kỷ thứ 15 vihuela là nhạc cụ đầu tiên mang đầy đủ những đặc trưng của cây đàn guitar. Những bản nhạc viết cho nhạc cụ này còn lưu giữ được cho thấy sự hoàn thiện đáng kinh ngạc. Những cây đàn đầu tiên tại Ý mang lại những cải tiến đáng kể, làm nên đặc trưng của cây guitar ngày nay. Đàn có một lỗ thoát âm duy nhất, một cần đàn và các khoá. Dây đàn thường gồm 4 dây đôi (như đàn mandoline) và một dây đơn. Hộp đàn có hình số 8 và dài hơn so với cây đàn guitar hiện đại.
Tuy nhiên, phải đợi đến thế kỷ 19, dưới bàn tay tài hoa của nghệ nhân bậc thầy Antonio de Torres Jurado (1817-1892) cây đàn guitar mới tìm được sự hoàn hảo của mình: đơn giản và thanh thoát. Đầu tiên phải kể đến tỉ lệ cân xứng. Trong thùng đàn, de Torres đã thay cho 4 hoặc 5 thanh ngang truyền thống bằng một hệ thống 7 thanh gỗ hình dẻ quạt. Chúng được phân chia tỷ lệ một cách chuẩn xác đến mức sau này không ai có thể vượt qua và nhờ đó những cây đàn của de Torres luôn có âm thanh mượt mà, truyền cảm và sức ngân vang rất êm, rất sâu. De Torres cũng là người tìm ra độ dài chuẩn mực của dây đàn là 65 cm. Có thể nói cho đến nay, khó ai có thể vượt qua sự mẫu mực về thanh âm và hình dáng của cây đàn của de Torres.
Một trong những giai đoạn phát triển tột bậc của cây đàn sáu dây là thời vua Ludwig XIV. Người ta có thể thưởng thức tiếng đàn từ trong cung đình giàu sang tới những góc chợ nhỏ của những người bình dân. Ai ai cũng say mê guitar cho dù họ ở giai tầng nào của xã hội. Tuy nhiên, chính vì ý nghĩ kỳ quái của tầng lớp quý tộc rằng họ đang cùng thưởng thức âm nhạc với giới bình dân mà cây đàn guitar đã có một thời gian dài không hề xuất hiện ở nơi cung đình.
Dù thế, cây đàn guitar vẫn âm thầm phát triển. Với cảm hứng nghệ thuật từ cuộc sống bình dân, họa sĩ Michelangelo Merisi da Caravaggio đã sáng lập ra một trường phái nghệ thuật pha trộn giữa tĩnh vật và phồn thực mà tâm điểm của nó là tiếng đàn guitar phóng khoáng và những bước nhảy vui nhộn bên bàn tiệc của những cô nàng hầu gái và những anh chàng nông phu hồn hậu. Có thể nói đây cũng là tiền đề dần hình thành nên dòng nhạc flamenco vô cùng quyến rũ, đặc trưng Tây Ban Nha.
Những tên tuổi như Ferdinando Carulli (1770-1841), Fernando Sor (1778-1839), Mauro Giuliani (1781-1829), Matteo Carcassi (1792-1853) và đặc biệt là Francisco Tárrega (1852-1909) đẵ góp phần đưa tiếng đàn guitar trở lại đời sống âm nhạc hàn lâm. Những bản nhạc kinh điển không chỉ mô phạm mà còn tràn đầy tính biểu cảm và sự tinh tế. Với mong muốn cây guitar có một vị trí trong dàn nhạc giao hưởng, Tárrega đã không ngừng phát triển kỹ thuật chơi nhạc guitar, chuyển soạn các tác phẩm của Frédéric Chopin, Robert Schumann, Johann Sebastian Bach cho guitar. Sau này, tiếp nối con đường của Francisco Tárrega, Andrés Segovia (1893-1987) cùng với cây lục huyền cầm lần lượt chinh phục tất cả các phòng hòa nhạc.
Bên cạnh sự phát triển của dòng nhạc hàn lâm, cây guitar của Torres cũng rẽ nhánh sang dòng âm nhạc bình dân mà đáng kể nhất phải nói đến flamenco. Kết hợp giữa tiếng guitar chau chuốt, nhịp điệu nhanh, những bước nhảy, tiếng vỗ tay hay là dậm gót của các vũ công, flamenco thực sự mang đến cho người thưởng thức sự tươi đẹp của tâm hồn Tây Ban Nha. Biết bao thế hệ nghệ sĩ flamenco đã nói tiếp nhau giữ gìn và mở rộng dòng nhạc này. Tuy nhiên, họ kế nghiệp nhau chủ yếu bằng cách học truyền khẩu nên tên tuổi và âm nhạc của họ cũng chỉ được "truyền khẩu" trong dân gian. Ramón Montoya (1880-1942) là người duy nhất đã đưa được flamenco tới các phòng hòa nhạc. Làm được điều này là do ông đã kết hợp một cách hài hoà sự thuần khiết của flamenco và tính kỹ thuật của guitar cổ điển.
Sang đầu thế kỷ 20, cây guitar sáu dây đã có sự phát triển mạnh mẽ trong mọi tầng lớp xã hội. Cùng với những biến chuyển mới trong đời sống nghệ thuật, kinh tế, xã hội, chính trị, tiếng đàn guitar đã rẽ sang các nhánh mới như nhạc rock, nhạc jazz và trở thành nhạc cụ phổ thông nhất trong đời sống âm nhạc hiện đại.
Cấu tạo
Bộ phận quan trọng nhất của đàn là dây đàn và thùng đàn. Thùng có tác dụng cộng hưởng và khuếch đại âm thanh. Khi ta gảy dây đàn tức là làm cho dây đàn rung động, thùng đàn sẽ cộng hưởng với tần số rung động của dây đàn, làm cho lớp không khí xung quanh mặt thùng đàn dao động với cùng tần số và tai ta nghe được âm thanh. Tùy theo tần số dao động của dây đàn mà tai ta nghe được các âm thanh trầm bổng khác nhau.
Phần cơ bản
Phân loại
Theo dòng phát triển của thời gian, cùng với những biến đổi tất yếu của xã hội, tư tưởng, ý thức của con người mà cây đàn guitar cũng có những cải biến đáng kể.
Xét theo dòng nhạc, guitar được phân chia thành 2 dòng chính thống: guitar cổ điển và guitar nhạc nhẹ. Guitar cổ điển thường là đàn gỗ, có 6 dây, đôi khi được thiết kế thành 12 dây. Trong nhạc nhẹ, có nhiều thể loại phong phú hơn nên người ta cũng đồng thời chia guitar thành các dòng như guitar flamenco, jazz hay rock.
Xét về cấu tạo, đàn guitar được chia thành guitar điện, guitar Hawaii, guitar phím lõm, guitar đệm (bass), guitar hai cần, guitar 4 dây, 7 dây, 12 dây. Nhưng thông thường guitar được chia làm 2 nhóm lớn: guitar thùng (acoustic guitar) và guitar điện (electric guitar).
Guitar thùng
Guitar thùng đã thâm nhập vào rất nhiều thể loại âm nhạc khác nhau. Bên cạnh vai trò là những nhà solo tuyệt vời, acoustic cũng đã hòa nhập rất hài hòa với các dụng cụ âm nhạc khác.
Guitar thùng về cơ bản là nhạc cụ không dùng điện, khối lượng nhẹ, thường được làm chủ yếu từ gỗ, dễ mang theo khi di chuyển. Dây đàn được làm chủ yếu từ dây sắt hoặc dây nilon. Trái với Guitar điện, cây đàn guitar thùng không sử dụng một thiết bị tăng âm nào gắn vào cây đàn, trái lại nó sử dụng một miếng gỗ tăng âm gắn vào phía trước thân đàn. Vì vậy, so với các nhạc cụ khác trong một dàn nhạc giao hưởng, âm thanh của cây guitar thùng thường nhỏ hơn và vi vậy khi guitar được chơi chung trong các dàn nhạc, nó thường được gắn thêm các bộ phận cảm ứng từ dùng để khuếch đại âm thanh (gọi là pick-up). Các guitar thùng hiện nay sử dụng rất nhiều loại pick-up khác nhau để các nhạc công có thể dễ dàng điều chỉnh âm lượng của guitar.
Đàn guitar thùng có khả năng trình diễn ở nhiều thể loại nhạc khác nhau từ nhạc cổ điển, nhạc đồng quê, nhạc jazz cho đến flamenco với tính biểu cảm tuyệt vời.
Guitar thùng thường có:
phím đàn hẹp hơn guitar cổ điển
thùng đàn hơi mỏng hơn cổ điển, phía trên thường có một miếng hình khuyết để trang trí và tránh làm xước thùng đàn khi đánh miếng gảy
Một số cây, ở mặt bên trên của thùng đàn còn có chỗ để móc dây thiết kế sẵn để móc dây đeo vào đứng đánh
Ta có thể chia guitar thùng ra thành nhiều nhóm lớn: guitar cổ điển và guitar flamenco; guitar dây thép với phần đầu phẳng (còn gọi là guitar dân gian - folk guitar); guitar 12 dây; guitar đầu vòm. Guitar thùng còn bao hàm một số loại guitar không gắn các bộ phận tăng âm và dùng trong một số trường hợp như loại guitar thùng để đánh đệm trong các ban nhạc, chúng có cùng tông với loại guitar điện cùng dùng để đánh đệm.
Một số biến thể của guitar thùng:
Phiên bản đầu tiên của guitar thùng là cây đàn guitar cổ điển (classical guitar)
Đàn dây kim loại: được tạo vào khoảng thế kỉ 19. So với dây đàn của guitar cổ điển, điểm khác biệt lớn nhất là nó được căng dây kim loại và đôi khi thùng đàn to hơn. Cùng với guitar điện (electric guitar), nó đã trở thành một nhạc cụ cốt lõi trong nhạc pop.
Guitar cộng hưởng (resonator guitar): có thân đàn thường được làm từ kim loại. Cách làm này giúp nâng cao âm thanh để chơi trong dàn nhạc giao hưởng và thính phòng. Nó ra đời ở vùng trung tâm phía Bắc Mĩ vào khoảng thập niên 1920 và thập niên 1930.
Đàn 12 dây: có số dây đàn là 12, gấp đôi một cây đàn bình thường. Cứ mỗi cặp 2 dây sẽ thể hiện một cao độ. Với cây đàn này một nghệ sĩ có thể thể hiện như 2 người đang cùng chơi. Do tính chất 2 dây/1 cao độ, tính cộng hưởng là rất cao nên có ảnh hưởng rất rõ ràng và tích cực tới người nghe.
Guitar Torres: được coi là bậc tiền bối trong dòng guitar thùng hiện đại. Nó có thân đàn to hơn một chút và rất giống cây đàn guitar cổ điển.
Ngoài ra, ở Việt Nam thì quen chơi đàn thùng. Đàn thùng thì cũng tương tự như đàn cổ điển, có cái thân rỗng và có lỗ âm thanh. Dây thì thường là sắt bao đồng, dây cứng hơn loại nylon, và dây đàn được giữ trên mình đàn bằng sáu cái chốt nhựa hoặc kim loại, chứ không cột lại như đàn nylon.
Ba-rốc/Phục Hưng
Tiền thân của guitar hiện đại. So với guitar cổ điển, nó nhỏ và thanh tú hơn, và âm thanh phát ra cũng nhỏ hơn. Nó có dây đạt thành cặp như guitar 12 dây, nhưng chỉ có 3-4 cặp, khác với guitar 12 dây có 6 cặp ứng với đủ 12 dây. Guitar Ba-rốc được dùng để đánh đệm cũng như đánh đơn, và thường được thấy trong các buổi biểu diễn âm nhạc vào thời kỳ sớm của lịch sử âm nhạc (500-1760 CN) (Instrucción de Música sobre la Guitarra Española của Gaspar Sanz xuất bản vào năm 1674 bao gồm rất nhiều bài guitar đánh đơn trong thời kỳ đó). Trong khi guitar Ba-rốc có thân đàng phẳng thì guitar Phục Hưng được trang trí rất cầu kỳ với những lớp gỗ và ngà voi trang trí trên khắp thân và cổ đàn, và một paper-cutout inverted "bánh cưới" phía trong lỗ thân đàn.
Cổ điển
Nhạc cụ này được chế tạo từ một bản thiết kế vào khoảng 150 năm trước đây. Nó là loại đàn guitar thùng có 6 dây (thường làm bằng nilon), âm thanh phát ra nghe êm dịu. Nhạc cụ này có thể được dùng trong rất nhiều loại thể loại nhạc khác nhau: từ nhạc Tây Ban Nha, folk, jazz cho tới nhạc độc tấu và hòa tấu và thường được chơi khi nhạc công ngồi tại một vị trí cố định.
Guitar cổ điển thuộc bộ dây, âm vực rộng khoảng 3 quãng tám, được chế tạo từ nhiều loại gỗ khác nhau, có chiều dài xấp xỉ 1 m. Nhạc cụ này phát triển từ thời Trung cổ. Thời kỳ đầu, nó xuất hiện ở Tây Ban Nha và Ý, giai đoạn ấy nó có hình dáng nhỏ gọn hơn loại Guitar cổ điển ngày nay.
Hiện nay, các loại guitar cổ điển sử dụng trong dàn nhạc giao hưởng Niibori Guitar được phân loại như sau:
Guitar sopranino hay guitar piccolo, với quãng tám và quãng năm cao hơn bình thường một chút.
Guitar soprano, với quãng tám cao hơn bình thường.
Guitar alto, với quãng năm cao hơn bình thường.
Guitar chính (guitar cổ điển nguyên mẫu).
Guitar đệm Niibori, với quãng bốn thấp hơn bình thường. Niibori thường chỉ đơn giản gọi đó là "guitar đệm", mặc dù guitar đệm của Niibori khác với các loại guitar đệm thông thường.
Đại hồ cầm, với quãng tám thấp hơn bình thường.
Loại 12 dây
Là loại đàn guitar có 12 dây, nhiều gấp đôi số lượng dây của loại guitar thùng chuẩn mực. Nói cách khác, nó là loại guitar có 6 cặp dây dựa theo loại guitar thông thường: cặp dây số 1 là nốt Mi; cặp số 2 là nốt Si; cặp số 3 là nốt Sol; cặp số 4 là nốt Rê; cặp số 5 là nốt La và cặp số 6 là nốt Mi (thấp hơn nốt Mi của cặp dây số 1 đúng 2 quãng tám).
Guitar 12 dây thuộc bộ dây, âm vực khoảng 3 quãng tám, được chế tạo từ gỗ, kim loại và plastic. Đầu thế kỷ 19, người ta đã gắn thêm volume để nhạc cụ này tăng thêm cường độ âm thanh. Trong ban nhạc, nhiệm vụ của guitar 12 dây là đệm hợp âm giữ nhịp. Nó phát ra âm thanh khá "chói tai" như thể có 2 cây guitar cùng được sử dụng một lúc.
Torres
Nhạc cụ này là kẻ tiền nhiệm của loại guitar thùng hiện đại. Nó có những thiết bị tăng âm nằm trong khuôn đúc hình nan quạt ở cạnh dưới của mặt thân đàn. Những thiết bị này giúp âm thanh phát ra lớn hơn.
Guitar Torres thuộc bộ dây, âm vực rộng 3,5 quãng tám, tổng chiều dài 81 cm. Thân đàn bằng gỗ với 6 dây ruột mèo (gut). Trước năm 1852, nghệ nhân Tây Ban Nha Antonio de Torres Jurrado đã chế tạo ra nhạc cụ này, do đó nó được đặt tên là Torres guitar, một loại nhạc cụ đã trở thành chuẩn mực cho loại classical guitar hiện đại. Guitar Torres lớn hơn những loại guitar trước đấy, đặc biệt là ở phần thân đàn. Về sau, người ta đã tái cấu trúc phần bên trong thân đàn để âm thanh vang lớn hơn nữa.
Hawaii
Guitar Hawaii (tiếng Việt: Hạ Uy cầm, đàn Hạ Uy Di) có 6 dây nhưng không có phím. Người chơi dùng một thanh (khối) kim loại (bằng đồng, thép không rỉ...) ở tay trái chặn trên cần đàn để tạo nên các phím. Độ dài ngắn của đoạn dây đàn bị chặn sẽ tạo ra các nốt. Guitar Hawaii chơi rất nhiều bồi âm, có rất nhiều bồi âm vì độ dài dây đàn có thể thay đổi được, và các bồi âm ấy du dương hơn tiếng guitar thông thường.
Tay phải để gẩy có 1 bộ bốn móng (tương tự móng của người chơi đàn tranh) lắp vào 4 ngón: cái, trỏ, giữa, nhẫn.
Dây của guitar Hawaii là dây trơn, không có vỏ bọc cả sáu dây. 6 dây này cũng không được lên theo các nốt mi, la, rê, sol, si, mi như đàn guitar Tây Ban Nha.
Người chơi khi diễn tấu thì đặt đàn trên đùi, Gần giống tư thế của những người chơi đàn tranh hoặc đàn tam thập lục.
Tại nước Việt Nam, vào giai đoạn trước 1954 có nhiều nhạc sĩ chơi đàn Hạ Uy cầm như Đoàn Chuẩn, Hoàng Giác, Nguyễn Thiện Tơ, Nguyễn Văn Khánh, Xuân Lôi, Lan Đài, Nguyễn Văn Đông,...
Thép pêđan
Đây cũng là một loại với guitar Hawaii. Nhạc cụ này không có thân đàn, nhưng lại có 2 cần đàn (mỗi cần 10 dây) được đóng khung trên một bàn phím. Guitar thép pêđan là loại đàn có nhiều bàn đạp để chỉnh độ cao của các dây. Để tạo ra những nốt riêng lẻ và các hợp âm, người ta khảy dây và dùng một thanh thép hoặc một ống lướt nhẹ dọc theo chiều dài của dây.
Guitar thép pêđan có âm vực rộng 6 quãng tám, thân đàn và chân thẳng đứng bằng gỗ hoặc kim loại. Nhạc cụ này cao 23 cm, dài từ 71 đến 91 cm. Vào khoảng năm 1830, người ta mang loại đàn này từ Mexico đến Hawaii, thế rồi nhạc cụ này phát triển mạnh và trở thành vật đặc trưng của cư dân đảo Hawaii từ thập niên 1940. Joseph Kekuku (nghệ sĩ Hawaii) là người đầu tiên đã dùng một vật gì đó lướt dọc theo chiều dài của dây trong lúc khảy đàn để tạo ra âm thanh "nhão". Sau đó, người ta mới sử dụng một thanh thép hoặc một ống để thay thế dụng cụ này.
Một trong những kỹ thuật phổ biến khi chơi Guitar thép pêđan là sử dụng các bàn đạp và đòn bẩy đầu gối để thay đổi độ cao thấp, tạo ra những âm thanh luyến láy.
Điện đầu vòm
Là loại đàn guitar đầu vòm truyền thống đã được cải tiến vào cuối thập niên 1930. Guitar điện đầu vòm thuộc bộ dây, có âm vực rộng trên 3 quãng tám, thân đàn làm bằng gỗ với 6 dây đàn kim loại. Nhạc cụ này rất thông dụng đối với những nhạc sĩ chơi nhạc Jazz. Trong thập niên 1940, guitar điện đầu vòm được cải tiến khá nhiều, kết hợp thêm một cutaway, những bộ cảm ứng âm thanh và một công tắc chọn độ rung âm thanh (selector switch). Loại đàn này phát ra tiếng êm dịu và ấm. Nếu gắn thêm những thiết bị điện tử khác, người ta có thể chơi những nốt riêng lẻ hay tạo thành giai điệu hoặc độc tấu.
Guitar điện đầu vòm là nhạc cụ gợi ý cho sự phát triển loại guitar điện tử có thân đàn rắn đặc ngày nay.
Phím lõm
Lục huyền cầm hay guitar Việt Nam, guitar phím lõm, guitar vọng cổ hoặc guitar cải lương là cây đàn được cải biến từ đàn guitar (guitare espagnole moderne) do các nghệ sĩ cải lương Việt Nam sáng tạo ra. Từ cây đàn guitar 6 dây ban đầu, người ta khoét các phím lõm xuống chừng 1 cm, hình bán nguyệt nhằm tạo ra âm thanh khác biệt, tạo độ ngân rung đặc trưng của ca vọng cổ. Khi dùng chơi nhạc cổ, guitar phím lõm không dùng dây 6. Dây đàn được lên theo âm giai ngũ cung (pentatonic). Guitar phím lõm được chủ yếu chơi trong dàn nhạc của cải lương, đờn ca tài tử Nam Bộ.
Guitar điện
Guitar điện, về cấu tạo cơ bản, vẫn giống guitar cổ điển. Gồm 3 phần chính: đầu (machine head), cần (neck) và thân (body). Điểm khác biệt chủ yếu của guitar điện nằm ở phần thân đàn. Guitar điện có thân đàn đặc và phẳng. Vì không có thân đàn rỗng, guitar điện được khuếch âm bằng những bộ phận cảm ứng từ (pick-up) nối với các cuộn cảm ứng quấn quanh các lõi (bobbin) đặt chìm trong thân đàn. Mỗi cây guitar điện có thể có từ 1 đến 3 pick-up. Trên thân đàn còn có 2 núm điều chỉnh âm lượng và âm sắc (tone) và lỗ để cắm dây dẫn (jack) đến ampli. So với đàn gỗ, dây đàn điện có khuynh hướng mỏng và dẻo hơn.
Ngoài ra, cần của guitar điện thường có 22-24 có thể lên đến 28 ngăn, khuynh hướng thường nhỏ dần từ đầu đàn đến thân đàn. Guitar điện thuộc bộ dây, âm vực thấp hơn hoặc bằng 4 quãng tám. Nó là sản phẩm tổng hợp từ gỗ, kim loại và plastic. Chiều dài của đàn từ 97 cm đến 102 cm. Ở Mỹ, người ta đã nhiều lần thử nghiệm nhạc cụ này từ thập niên 1920 đến thập niên 1930. Ban đầu, nó là một guitar thùng gắn bộ khuếch âm ở thân đàn. Đến đầu thập niên 1950, Paul Bigsby và sau đó là Leo Fender đã cải tiến thành đàn guitar rắn đặc với hình dạng như ngày nay ta thường thấy.
Guitar điện thường được diễn tấu chủ yếu theo phong cách nhạc nhẹ. Tùy vào từng thể loại, từng dòng nhạc mà guitar điện được chế tạo theo những nét riêng biệt một cách phù hợp nhất. Với người chơi jazz, blues, cây guitar có 3 pick-ups đơn (single-coiled pick-ups) tạo ra âm sắc lạnh và "leng keng" rất được ưa chuộng. Còn với những người chơi nhạc rock, cây guitar có 2 pick-ups kép (humbuckle tone) tạo nên âm sắc trầm ấm, dày dặn co tính kim loai đặc trưng luôn là lựa chọn số 1.
Les Paul
Nhạc cụ này xuất hiện vào năm 1952. Người ta đã lấy tên của Les Paul, một nhạc công guitar cuối thập niên 1940 và đầu thập niên 1950, để đặt tên cho loại đàn này. Những mẫu thiết kế đầu tiên của nhạc cụ này do hãng Gibson sản xuất vào đầu thập niên 1950. Tuy nhiên, trong thời kỳ ấy, nhạc cụ này chưa được phổ biến rộng rãi nên ít người mua, vì thế hãng Gibson tạm ngưng sản xuất vào năm 1960. Đến giữa thập niên 1960, nhờ sự chuyển động mạnh của dòng nhạc pop rock nên nhạc cụ này được phục hồi và trở nên chuẩn mực cho tới ngày nay.
Guitar điện Les Paul thuộc bộ dây, âm vực rộng trên 5 quãng tám, làm từ gỗ và có 6 dây đàn bằng kim loại. Nhạc cụ này dài từ 97 đến 102 cm.
Cộng hưởng
Guitar cộng hưởng (resonator, resophobic hay dobro) là loại đàn guitar thùng có những đĩa nhôm hình nón gắn bên trong thân đàn để khuếch đại âm thanh. Nhạc cụ này phát ra âm thanh đủ lớn để nghe trong những buổi hòa nhạc trực tiếp mà không cần máy khuếch âm (ampli). Guitar cộng hưởng và những loại đàn có gắn thiết bị khuếch âm khác như Dobros và Naitionals xuất hiện lần đầu tiên trong thập niên 1930. Người ta sử dụng các nhạc cụ này trong những ban nhạc khiêu vũ, nhạc Jazz và Blue. Loại đàn này thuộc bộ dây, âm vực rộng 3 quãng tám. Thân đàn làm bằng gỗ, plastic hoặc kim loại. Chiều dài của nhạc cụ này từ 1,02 đến 1,07 m.
Guitar trầm (bass guitar)
Guitar trầm có nguồn gốc từ cây đàn Đại hồ cầm, chịu trách nhiệm bè trầm, nối kết giữa trống và guitar lại với nhau tạo nên một hoà âm hoàn chỉnh. Dựa trên hình mẫu của cây Guitar điện, người ta bắt đầu tạo ra cây Guitar bass gồm 4 dây (E, A, D, G) bằng kim loại, cần đàn được chia thành các ngăn (từ 22-24 ngăn) với thùng đàn đặc và bộ phận khuếch âm. Đến năm 1967 thì cây Guitar đệm 5 dây và 6 dây cũng ra đời và, cho đến nay, đã có loại Guitar bass 7 dây. Tuy nhiên về cấu tạo thì hầu như không có gì thay đổi nữa. Bass điện cũng sử dụng những đồ nghề giống như Guitar điện.
Bass có âm vực thấp hơn guitar điện. Nhạc cụ này có hai vai trò quan trọng trong dàn nhạc: phát ra những nốt trầm để hỗ trợ giai điệu chính, và cùng với trống, nó giữ nhịp để giúp những nhạc cụ khác chơi đúng nhịp điệu chung của ban nhạc. Guitar bass thuộc bộ dây, âm vực rộng 3 quãng tám. Nhạc cụ này có chiều dài 1,1 m, được chế tạo bằng vật liệu tổng hợp như gỗ, kim loại và plastic.
Guitar bass do Leo Fender thiết kế lần đầu vào năm 1951. Người ta có thể tạo ra những âm thanh khác nhau cho từng nốt trên nhạc cụ này bằng cách sử dụng hệ thống khuếch âm (ampli), fuzz box, hệ thống gây tiếng vọng (echo) và nhiều loại thiết bị nhỏ khác. Ngày nay, cây Guitar bass 4 dây xuất hiện phổ biến ở các dòng nhạc jazz, blues, rock và bán cổ điển.
Bass không phím
Guitar đệm không phím (fretless bass guitar) xuất hiện từ thập niên 1970, được sử dụng rộng rãi như loại đàn đại hồ cầm truyền thống. Nhạc cụ này cho phép bạn lướt nhẹ qua các nốt để thay đổi độ cao thấp của âm thanh. Guitar đệm không ngăn phím phát ra âm thanh phong phú, rất thông dụng với những nhạc công chơi thể loại jazz và rock fusion.
Đây là nhạc cụ thuộc bộ dây, âm vực khoảng 3 quãng tám, được chế tạo từ gỗ, kim loại và plastic. Chiều dài của nó từ 1,1 đến 1,2 m.
Về cơ bản, Guitar đệm Streinberger được thiết kế khác biệt so với bất kỳ loại guitar nào. Thân đàn thường được làm bằng plastic dày, rắn chắn hơn gỗ của loại đàn bass truyền thống. Nó phát ra âm thanh thô cứng, rõ ràng. Thân đàn rỗng và nhỏ, chứa những thiết bị điện tử mà ampli và bộ khuếch âm cho phép tạo ra nhiều loại âm thanh khác nhau.
Guitar đệm Streinberger thuộc bộ dây, âm vực khoảng 3 quãng tám. Để chế tạo nhạc cụ này, người ta sử dụng nhựa aboxit gia cố với carbon và sợi thủy ngân (một loại than chì). Đây là những chất liệu mới nhất mà Ned Steinberger dùng để chế tạo nhạc cụ này vào đầu thập niên 1980. Theo các chuyên gia, loại than chì để làm đàn này đặc gấp 2 lần và cứng hơn 10 lần so với gỗ và lại bền và nhẹ hơn thép.
Các nghệ sĩ
Ferdinando Carulli
Fernando Sor
Mauro Giuliani
Matteo Carcassi
Francisco Tárrega
Ramón Montoya
Andrés Segovia
Miguel Llobet
Lê Minh Đảo
Nguyễn Văn Minh
Eddie van Der Meer
Các nghệ nhân
Antonio de Torres
Manuel Ramirez
Herman Hause
Jose Luis Romanillos
Werner Schar
Ở Việt Nam
Hình thành
Đàn guitar xuất hiện ở Việt Nam từ bao giờ là một câu trả lời khó. Giả thuyết hiện nay được nhiều người đồng ý là đàn guitar đã theo chân các cố đạo Tây Ban Nha du nhập vào Việt Nam từ đầu thế kỷ 19. Nhưng phải đến năm 1920 mới bắt đầu xuất hiện những người Việt Nam chơi guitar.
Những người chơi guitar đầu tiên ở Việt Nam chính là các nghệ sĩ cải lương. Với óc sáng tạo của mình, họ đã tạo ra cây guitar cải lương. Đây là dòng guitar rất phổ biến trong nhạc tài tử Nam Bộ trước 1945 với những tên tuổi như Tư Chơi, Ba Kéo, Bây Cây, Chín Hòa, Phùng Há, Năm Phỉ, Văn Vĩ... Guitar phím lõm là guitar du nhập từ nước ngoài được khoét lõm phím đàn và lên dây theo âm giai ngũ cung (pentatonic) "Líu, Xề, Líu Hò, Lìu" để đàn các bài bản cải lương.
Vào thập niên 1930, tân nhạc Việt Nam phát triển cùng với số lượng người chơi guitar theo lối mới tăng lên. Bên cạnh những người diễn tấu người nước ngoài đã xuất hiện những tên tuổi Việt Nam như Phan Văn Trường, Canh Thân, Đỗ Chí Khang, Thiện Tơ, Dương Thiệu Tước. Tuy nhiên, họ đều tự học là chính chứ không được đào tạo một cách bài bản. Điều này đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của guitar, các hình thức biểu diễn và diễn tấu đều mang tính tự phát. Phổ biến nhất là dạng ban nhạc gồm 4 nhạc cụ: guitar Hawaii, guitar 6 dây, Đại hồ cầm và guitar 4 dây Hawaii (ukulele), chơi hòa tấu trong các phòng trà hoặc quán bar. Các hình thức khác như song tấu hay độc tấu mãi tới thập niên 1940 về sau này mới phát triển với các tên tuổi nổi danh như Tạ Tấn, Phạm Ngữ...
Năm 1932, xuất hiện cây đàn guitar đầu tiên do người Việt Nam làm là cây đàn do cụ Xuân Lan, người làng Đào Xá (Hà Nội) chế tác. Thời kỳ này cũng xuất hiện nhiều cửa hiệu làm đàn như Nhạc Sơn, Kim Thanh, Tạ Tấn.
Phát triển
Giữa thập niên 1940, cây guitar đã giành được vị thế quan trọng trong giới mộ điệu của Việt Nam. Với tính chất dễ chơi, dễ học, gọn nhẹ, guitar đã trở thành bạn đường thân thiết của các nhạc sĩ kháng chiến, giới học sinh sinh viên và nhiều người yêu nhạc.
Nhiều tác giả đồng thời là người đệm guitar rất giỏi đã xuất hiện như Nguyễn Xuân Khoát, Đỗ Nhuận, Phạm Duy, Văn Ký, Hoàng Vân, Trọng Bằng, Văn Chung, Tô Vũ, Nguyễn Văn Tý...
Trước 1975
Tuy nhiên, vì yếu tố chiến tranh, đất nước bị chia cắt, mà nghệ thuật guitar cũng vì thế trở nên thăng trầm. Dần dần có sự phân hoá rõ rệt tại hai vùng Nam - Bắc của đất nước. Tại mỗi nơi, guitar có những đặc thù nhất định.
Tại miền Bắc, cùng với sự ra đời của bộ môn guitar trong khoá giảng dạy đầu tiên của trường Âm nhạc Việt Nam (1956) do Tạ Tấn làm chủ nhiệm đã đánh dấu bước đi quan trọng cho thấy guitar được chính thức chấp nhận một cách rộng rãi.
Nhạc phẩm và sách giáo khoa có giá trị được biên soạn cho guitar được xuất bản một cách rộng rãi. Các nhạc phẩm của thời kỳ này hầu hết là được chuyển soạn (arrangement) từ các ca khúc Việt Nam hay biến tấu (variation) trên các làn điệu dân ca. Hầu hết các trung tâm nghệ thuật quần chúng, chẳng hạn như nhà văn hoá đều có các lớp dạy đàn guitar. Nguồn tiếp xúc chủ yếu của các nghệ sĩ guitar miền Bắc là thông qua sự viện trợ các băng nhạc nước ngoài của Liên Xô và các nước Đông Âu. Buổi trình diễn guitar độc tấu đầu tiên ra mắt công chúng tại Hà Nội năm 1973 đã được hoan nghênh nhiệt liệt.
Sự mở rộng phát triển của guitar dần dần đã tạo nên lớp nghệ sĩ trẻ mới bên cạnh những đàn anh đi trước như Tạ Tấn, Văn Vượng, Hải Thoại, Đỗ Trường Giang, Vũ Bảo Lâm, Quang Khôi, Phạm Văn Phúc, Nguyễn Văn Ti, Nguyễn Quang Tôn,...
Song, do hoàn cảnh chiến tranh, thiếu bài bản và điều kiện tổ chức, thiếu cả sự liên hệ với nền nghệ thuật guitar thế giới, và thiếu cả nghệ sĩ guitar bậc thầy được đào tạo chính quy nên nghệ thuật guitar ở miền Bắc lúc đó phát triển chậm và không đều.
Ở miền Nam, sự phát triển của guitar có phần thuận lợi hơn. Đàn guitar được đưa vào chương trình giảng dạy của trường Quốc gia Âm nhạc Huế và trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn từ 1956. Thêm vào đó, giới mộ điệu ở Sài Gòn được tiếp xúc nhiều hơn với guitar cổ điển thế giới thông qua những buổi trình diễn của các bậc thầy như Siegfried Behrend, Julian Bream, Alice Artzt,... Guitar từ chỗ phổ biến ở phòng trà, dần dần đã đi vào đời sống thường nhật. Có rất nhiều dòng guitar cùng song song tồn tại và hỗ trợ cho nhau rất tốt như guitar cổ điển, guitar flamenco, guitar jazz. Một vài tên tuổi trong thời kỳ này phải kể đến Đỗ Đình Phương, Trương Huệ Mẫn, Võ Tá Hân, Hoàng Bửu, Trần Văn Phú hay Hoàng Liêm, Văn Trổ...
Sau 1975
Đất nước thống nhất, nghệ sĩ guitar ở hai miền có dịp gặp nhau, trao đổi kinh nghiệm, bài bản và kỹ thuật. Từ đó tạo cơ sở cho nền nghệ thuật guitar non trẻ của Việt Nam có dịp phát triển lên một trình độ mới.
Chính từ những cuộc biểu diễn khá đều đặn trong thập niên 1980 tại thính phòng nhỏ của Nhà văn hóa quận Phú Nhuận mà công chúng yêu nhạc cổ điển Sài Gòn đã biết đến một loạt tên tuổi mới của làng guitar như Phạm Quang Huy, Châu Đăng Khoa, Nguyễn Thái Cường, Huỳnh Hữu Đoan, Dương Kim Dũng,... có cả những nghệ sĩ nữ tài năng như Ngô Thị Minh, Nguyễn Thị Phi Loan...
Thập niên 1980 cũng có thể nói là giai đoạn chín mùi về tài năng và đỉnh cao về nghệ thuật của Phùng Tuấn Vũ một trong những nghệ sĩ guitar hàng đầu Việt Nam và là người góp phần đào tạo hàng loạt tên tuổi mới của guitar Việt Nam sau nàỵ. Trong khi đó, ở Hà Nội cũng xuất hiện những tài năng mới đầy triển vọng như Đặng Ngọc Long, Phan Đình Tân, Phạm Văn Phương, Nguyễn Lan Anh... Trong số những cái tên vừa kể, Đặng Ngọc Long, được tu nghiệp ở Đông Đức, Phan Đình Tân - tốt nghiệp tại Nhạc viện Tchaikovsky (Kiev) - là những nghệ sĩ guitar (guitarists) đầu tiên của Việt Nam được theo học tại các quốc gia có nền nghệ thuật guitar phát triển. Năm 1992, sau khi tốt nghiệp xuất sắc (Bằng đỏ) tại Nhạc viện Tchaikovsky (Kiev), Phan Đình Tân được Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa-Thông tin và Đại sứ quán Việt Nam tại Ukraina cho phép tiếp tục học nghiên cứu sinh (1993-1997) và nghiên cứu sinh cao cấp (1997-1999), bảo vệ thành công Tiến sĩ năm 1997 và Tiến sĩ khoa học (Doctor of Science) năm 1999 chuyên ngành Lý luận và Lịch sử Văn hóa. Phan Đình Tân là tác giả của nhiều công trình và khoảng trên 30 bài báo chuyên đề. Trong đó nhiều công trình được đưa vào giảng dạy và làm tài liệu tham khảo tại các quốc gia sử dụng tiếng Nga (Vấn đề Đông-Tây và văn hóa nghệ thuật Đông Nam Á; Từ điển Guitar; Vấn đề Đông-Tây: Tích phân và hội tụ nghệ thuật...). Sau khi về nước, từ năm 2001-2003, tham gia giảng dạy tại Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh (Đại học KHXHNV), Phan Đình Tân đã tiếp tục nghiên cứu các công trình thuộc lĩnh vực văn hóa học (Từ điển Văn hóa học; Tìm hiểu giá trị các lý thuyết văn hóa học; Địa văn hóa và bức tranh địa văn hóa thế giới; Văn hóa học nghệ thuật...).
Hiện tại
Kể từ sau năm 1990, guitar cổ điển cũng như nghệ thuật guitar nói chung dường như bước vào thoái trào
. Giới guitar cổ điển chỉ còn gói gọn trong các nhạc viện. Những nghệ sĩ lớn hầu hết đều chuyển sang chơi nhạc nhẹ hoặc rời ra nước ngoài. Nghề làm đàn guitar, vĩ cầm, mandoline… cũng đang ngày càng tàn lụi, cả Sài Gòn chỉ còn khoảng 10 điểm sản xuất đàn với 2 – 3 nghệ nhân sống chết với nghề. Và hiếm hoi lắm người ta mới tìm được một thương hiệu guitar nghiêm túc tại Sài Gòn nói riêng và Việt Nam nói chung.
Tuy nhiên guitar vẫn luôn có chỗ trong lòng công chúng yêu nhạc. Rất nhiều cuộc thi có quy mô đã được tổ chức. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, mạng Internet, sự giao lưu của những người yêu guitar đã không bị giới hạn trong một vùng cụ thể mà có thể thường xuyên tìm hiểu trao đổi học hỏi với bên ngoài.
Chú thích |
Chu Ân Lai () (5 tháng 3 năm 1898 – 8 tháng 1 năm 1976), là một lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản Trung Quốc, từng giữ chức Thủ tướng Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa từ 1949 cho tới khi ông qua đời tháng 1 năm 1976, và Bộ trưởng Ngoại giao từ năm 1949 tới năm 1958. Chu Ân Lai đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh giành quyền lực của Đảng Cộng sản, và sau này trong việc xây dựng nền kinh tế Trung Quốc cũng như tái cơ cấu xã hội Trung Quốc. Trên bình diện quốc tế, Chu Ân Lai là một nhà ngoại giao tài năng, là người ủng hộ quan điểm chung sống hòa bình và từng tham gia vào Hội nghị Geneva năm 1954. Nhờ phẩm chất đạo đức của mình, ông rất được lòng dân chúng, và cái chết của Chu Ân Lai khiến sự ủng hộ của dân chúng tăng mạnh trở thành yếu tố then chốt trong cuộc chuyển giao quyền lực ở Trung Quốc từ Mao Trạch Đông sang Đặng Tiểu Bình.
Tuổi trẻ
Chu Ân Lai sinh ngày 5 tháng 3 năm 1898 tại huyện Sơn Dương, phủ Hoài An (nay là địa cấp thị Hoài An), tỉnh Giang Tô, Trung Quốc nhưng quê gốc ở địa cấp thị Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang. Gia đình ông, dù thuộc tầng lớp trí thức, nhưng không phong lưu. Ông nội ông là một quan chức cấp thấp trong triều với mức lương ít ỏi. Cha ông liên tục trượt trong các kỳ thi, và trong suốt cuộc đời ông chỉ làm những chân thư ký cấp thấp.
Chu Ân Lai là con trai lớn nhất và cháu đích tôn của họ Chu. Khi chưa tới một tuổi, ông được người em út của cha nhận làm con nuôi, ông này khi ấy đang mỏi mòn vì bệnh lao. Cha ông hy vọng rằng việc nhận con nuôi sẽ giúp người em trai không chết trẻ, nhưng đây là một vấn đề nghiêm trọng đối với một gia đình theo truyền thống Khổng giáo.
Bà Trần, mẹ nuôi của ông, bắt đầu dạy chữ Hán cho ông khi ông mới chập chững. Khi lên bốn tuổi ông đã có thể đọc và viết hàng trăm chữ.
Năm 1907, mẹ ruột của ông chết vì bệnh lao, và vào mùa hè năm 1908 bà Trần cũng qua đời. Chu Ân Lai mồ côi khi mới lên mười, vì thế mọi người thu xếp để ông rời Hoài An tới thành phố Thẩm Dương ở Mãn Châu sống với người cậu, Di Canh. Khi mười hai tuổi, Chu Ân Lai theo học trường Đông Quan, nơi có cách "giáo dục mới," như toán học và khoa học tự nhiên, cũng như lịch sử Trung Quốc, địa lý và văn học. Các học sinh cũng được tiếp cận với những bản dịch các cuốn sách phương Tây, nơi Chu Ân Lai học được về tự do, dân chủ và các cuộc cách mạng Mỹ, Pháp.
Năm 1913, lúc mười lăm tuổi, Chu Ân Lai tốt nghiệp trường Đông Quan và vào tháng 9 năm ấy ông ghi tên theo học trường Nam Khai tại Thiên Tân. Trong suốt thời gian học tập của ông, Trung Quốc luôn ở trong tình trạng hỗn loạn. Năm 1911 cuộc Cách mạng Tân Hợi của Tôn Dật Tiên lật đổ nhà Thanh thành lập nước Trung Hoa Dân Quốc. Cuộc Đại chiến thế giới bùng nổ tại châu Âu khiến sức ép từ những kẻ xâm lược châu Âu có giảm bớt, nhưng mang lại cho Nhật Bản cơ hội mở rộng tầm ảnh hưởng của mình. Chu Ân Lai thấy rằng Trung Quốc đang bị phá hoại bởi những cuộc can thiệp từ bên ngoài. Ông tham gia các cuộc phản kháng và biểu tình cho đất nước.
Tiếp đó Chu Ân Lai theo học đại học tại Tokyo. Mục tiêu của ông là trở thành một giáo viên để có thể gây ảnh hưởng tới giới trẻ Trung Quốc. Nhưng ông thấy mình không thể tập trung. Ông không thể học và tiếng Nhật của ông cũng kém, khiến ông không theo kịp bài giảng. Tại Nam Khai ông đã viết và phát biểu chống lại sức ép quân sự và chính trị của Nhật tại Trung Quốc và tình trạng rối loạn không thể tránh khỏi trong nước. Ông hô hào các bạn học hành động để cứu vãn Trung Quốc. Sau đó ông quyết định rời Nhật Bản do một phần bị ảnh hưởng bởi quyết định rời Nhật Bản một người bạn học trong trường Nam Khai thời điểm đó là Đồng Quan Hiền (chữ Hoa giản thể: 童冠贤,chữ Hoa phồn thể: 童冠賢).
Đầu tháng 5 năm 1919, thất vọng và không thể hoàn thành công việc học tập, ông rời Nhật Bản. Chu Ân Lai tới Thiên Tân ngày 9 tháng 5, vừa kịp để tham dự Phong trào mùng 4 tháng 5 năm 1919.
Các hoạt động cách mạng
Chu Ân Lai lần đầu tiên nổi tiếng là một nhà hoạt động trên phạm vi quốc gia trong Phong trào mùng 4 tháng 5. Ông đã ghi tên theo học khoa văn trường Đại học Nam Khai, khiến ông có cơ hội tới thăm các khoa trong trường, nhưng ông không bao giờ tới lớp học. Ông trở thành một trong những người tổ chức Hiệp hội Sinh viên Thiên Tân, với mục tiêu công khai là "đấu tranh chống các lãnh chúa và chống chủ nghĩa đế quốc, và cứu Trung Hoa khỏi diệt chủng." Chu Ân Lai trở thành chủ bút tờ báo của hiệp hội sinh viên, tờ Sinh viên Thiên Tân. Tháng 9, ông thành lập Hội cứu tế (Awareness Society) với mười hai nam giới và tám phụ nữ. Đặng Dĩnh Siêu, cô gái mười lăm tuổi, vợ của Chu Ân Lai sau này, cũng là một thành viên sáng lập. (Nhưng mãi tới ngày 8 tháng 8 năm 1925 họ mới lập gia đình). Chu Ân Lai đóng vai trò then chốt trong việc sáp nhập giữa Hiệp hội Sinh viên Thiên Tân toàn nam giới và Hội Phụ nữ Yêu nước toàn nữ giới.
Tháng 1 năm 1920, cảnh sát bố ráp xưởng in và bắt giữ nhiều thành viên Hội cứu tế. Chu Ân Lai dẫn đầu một nhóm sinh viên phản đối các vụ bắt giữ, và chính ông cũng bị bắt với 28 người khác. Sau phiên toà vào tháng 7, họ chỉ bị kết án một tội nhỏ và được thả. Quốc tế Cộng sản III đã muốn thu nhập Chu Ân Lai vào Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhưng dù đang nghiên cứu Chủ nghĩa Marx ông vẫn chưa tham gia. Thay vì đi sang Moskva học tập, ông chọn sang Pháp với tư cách một nhà tổ chức sinh viên. Đặng Dĩnh Siêu ở lại chịu trách nhiệm điều hành Hội cứu tế khi ông vắng mặt.
Học tập tại Pháp và những năm tháng ở châu Âu
Ngày 7 tháng 11 năm 1920, Chu Ân Lai và 196 sinh viên Trung Quốc khác đi thuyền từ Thượng Hải tới Marseille, Pháp. Tại Marseille họ được một thành viên Ủy ban Giáo dục Trung-Pháp tiếp đón và lên tàu hoả tới Paris. Hầu như ngay khi tới nơi, Chu Ân Lai đã rơi vào một cuộc tranh luận giữa các sinh viên và các cơ quan giáo dục đang điều hành chương trình "làm việc và học tập". Theo đó, các sinh viên sẽ được cho vào làm việc bán thời gian tại các nhà máy và theo học bán thời gian. Tuy nhiên, vì sự tham nhũng và mua chuộc trong Ủy ban Giáo dục, các sinh viên không được trả tiền. Vì thế, họ đơn giản chỉ là những lao động rẻ tiền cho các ông chủ nhà máy Pháp và đổi lại nhận được rất ít sự giáo dục. Chu Ân Lai đã viết những bài báo gửi về Trung Quốc lên án uỷ ban và các quan chức chính phủ tham nhũng.
Chu Ân Lai tới Anh Quốc vào tháng 1; ông xin và được chấp nhận làm sinh viên tại Đại học Edinburgh. Nhưng mãi tới tháng 10 chương trình học mới bắt đầu, vì thế ông quay lại Pháp, đến ở với Lưu Thanh Dương và Trương Thân Phủ, những người đã thành lập một chi bộ Cộng sản. Chu Ân Lai gia nhập nhóm và được giao phó nhiệm vụ chính trị và tổ chức. Có một số tranh cãi về thời điểm Chu Ân Lai gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Để giữ bí mật các thành viên không mang theo thẻ đảng. Chính Chu Ân Lai đã viết "mùa thu, 1922" trong một lần thẩm tra của Đại hội Đảng lần thứ 7 năm 1945.
Có khoảng 2.000 sinh viên Trung Quốc tại Pháp, khoảng 200 tại Bỉ và Anh và khoảng 300 tới 400 tại Đức. Trong bốn năm tiếp sau, Chu Ân Lai là người phụ trách tuyển mộ, tổ chức và phối hợp các hoạt động của Liên đoàn Thanh niên Xã hội chủ nghĩa. Ông đi lại liên tục giữa Bỉ, Đức và Pháp, hộ tống các thành viên của Đảng qua Berlin đi tàu tới Moskva, học cách tổ chức cách mạng.
Ban đầu, Đảng Cộng sản Trung Quốc, được Trần Độc Tú thành lập tháng 7 năm 1921, từ chối đề xuất của Quốc tế Cộng sản III rằng họ sẽ thành lập một "mặt trận thống nhất" với Quốc Dân Đảng mới ra đời của Tôn Dật Tiên, nhưng vào năm 1923 Đảng Cộng sản đã thay đổi chính sách. Chu Ân Lai khi ấy chịu trách nhiệm phối hợp hoạt động giữa hai phong trào khác biệt chính trị này ở châu Âu. Rõ ràng ông đã làm việc rất hiệu quả nên được ra lệnh quay trở lại Trung Quốc nhận nhiệm vụ thống nhất mặt trận ở cứ điểm mạnh của Quốc Dân Đảng tại Quảng Châu. Ông tới Hồng Kông tháng 7 năm 1924.
Mặt trận thống nhất thứ nhất
Tháng 1 năm 1924, Tôn Dật Tiên đã chính thức tuyên bố liên minh giữa Quốc Dân Đảng và những người Cộng sản, và một kế hoạch viễn chinh quân sự nhằm thống nhất Trung Quốc và tiêu diệt các lãnh chúa. Viện Hàn lâm Quân sự Hoàng Phố được thành lập vào tháng 3 nhằm đào tạo các vị sĩ quan cho quân đội để đối đầu với các lãnh chúa. Tàu chiến Nga cung cấp vũ khí tại các cảng ở Quảng Châu. Các cố vấn của Quốc tế Cộng sản III từ Mátxcơva cũng có mặt. Tháng 10, một thời gian ngắn sau khi quay trở về từ châu Âu, Chu Ân Lai được chỉ định làm phó giám đốc ban chính trị Trường quân sự Hoàng Phố tại Quảng Châu.
Chu Ân Lai nhanh chóng nhận ra Quốc Dân Đảng đang lo mưu đồ cho riêng mình. Phe hữu mạnh trong Quốc Dân Đảng phản đối kịch liệt liên minh với Cộng sản. Chu Ân Lai tin rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc, để tồn tại phải có một đội quân của riêng mình. "Quốc Dân Đảng là một liên minh của những quân phiệt hay phản bội" ông đã nói với người bạn là Nhiếp Vinh Trăn, mới tới từ Moskva và được chỉ định làm phó giám đốc Học viện. Cùng nhau họ đã tổ chức một nhóm các sĩ quan nòng cốt là các thành viên Đảng Cộng sản và theo các nguyên tắc của Marx. Trong một thời gian họ không gặp cản trở nào, thậm chí từ phía cả Tưởng Giới Thạch, giám đốc Trường Hoàng Phố.
Tôn Dật Tiên mất ngày 12 tháng 3 năm 1925. Ngay khi ông mất, rắc rối nảy sinh tại Quảng Châu. Một lãnh chúa tên là Trần Quýnh Minh Tổng trưởng nội chính kiêm Tổng trưởng lục quân, tổng tư lệnh và tỉnh trưởng Việt quân tìm cách chiếm giữ thành phố và tỉnh này. Cuộc Đông Chinh, do Chu Ân Lai lãnh đạo, được tổ chức như một chiến dịch quân sự chống lại Trần. Với những sĩ quan nòng cốt của Đảng Cộng sản họ đã thắng lợi lớn. Chu Ân Lai được thăng chức lãnh đạo phòng thiết quân luật của Trường Hoàng Phố. Ông nhanh chóng dẹp tan một âm mưu lật đổ của một vị lãnh chúa khác trong thành phố. Trần Quýnh Minh một lần nữa tổ chức hành quân vào tháng 10 năm 1925. Một lần nữa Chu Ân Lai lại đánh bại ông tà và lần này chiếm được thành phố Sán Đầu quan trọng trên bờ biển phía nam Trung Quốc. Chu Ân Lai được chỉ định làm uỷ viên đặc biệt của Sán Đầu và vùng xung quanh. Ông bắt đầu xây dựng một nhánh đảng tại Sán Đầu và giữ bí mật tên tuổi những người tham gia.
Ngày 8 tháng 8 năm 1925, ông và Đặng Dĩnh Siêu tổ chức lễ cưới sau một thời gian yêu nhau dài tới năm năm. Họ chưa có con nhưng nhận đỡ đầu nhiều trẻ em mồ côi thuộc đội "cảm tử cách mạng"; một người trong số đó sau này trở thành thủ tướng Lý Bằng.
Sau cái chết của Tôn Dật Tiên, Quốc Dân Đảng nằm dưới sự quản lý của một chế độ tam đầu chế gồm Tưởng Giới Thạch, Liêu Trọng Khải và Uông Tinh Vệ, nhưng vào tháng 8 năm 1925 thành viên cánh tả, Liêu Trọng Khải, bị ám sát. Tưởng Giới Thạch lợi dụng vụ này để tuyên bố thiết quân luật và củng cố quyền kiểm soát của phe cánh hữu. Ngày 18 tháng 3 năm 1926, trong khi Mikhail Borodin, vị cố vấn Quốc tế Cộng sản III người Nga của Mặt trận Thống nhất, đang ở Thượng Hải, Tưởng Giới Thạch đạo diễn một vụ việc mới để cướp quyền của những người Cộng sản. Vị chỉ huy và các thủy thủ một thuyền chiến của Quốc Dân Đảng bị bắt tại cảng Hoàng Phố, Xem Vụ việc tàu chiến Trung Sơn. Tiếp sau là những cuộc bố ráp vào Trụ sở Quân đoàn số 1 và Trường Quân sự Hoàng Phố. Tổng cộng 65 đảng viên Cộng sản bị bắt giữ, gồm cả Nhiếp Vinh Trăn. Tình trạng khẩn cấp quốc gia được ban hành và lệnh giới nghiêm được áp dụng. Chu Ân Lai vừa mới quay trở về từ Shantou và cũng bị giữ 48 giờ. Khi được thả ông đối đầu với Tưởng Giới Thạch và buộc tội ông ta phá hoại Mặt trận Thống nhất nhưng Tưởng cho rằng ông ta chỉ tiêu diệt một âm mưu của những người Cộng sản. Khi Borodin từ Thượng Hải quay về ông tin vào lời lẽ của Tưởng Giới Thạch và khiển trách Chu Ân Lai. Theo yêu cầu của Tưởng, Borodin đưa ra một danh sách các thành viên Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng là các thành viên Quốc Dân Đảng. Những thành viên duy nhất thoát khỏi danh sách này là những người mới được Chu Ân Lai tuyển mộ. Tưởng Giới Thạch cách chức tất cả các sĩ quan Đảng Cộng sản khỏi Quân đoàn thứ nhất. Uông Tinh Vệ, bị coi là có cảm tình với những người cộng sản, được thuyết phục ra đi theo một "chuyến nghiên cứu" tại châu Âu. Chu Ân Lai bị tước mọi trách nhiệm liên quan tới Mặt trận Thống nhất, trao lại quyền điều hành tuyệt đối cho Tưởng Giới Thạch.
Từ Thượng Hải tới Diên An
Sau khi cuộc Bắc phạt bắt đầu, ông trở thành người tuyên truyền tầng lớp lao động. Năm 1926, ông tổ chức một cuộc tổng đình công tại Thượng Hải, mở ngỏ thành phố cho Quốc Dân Đảng. Khi liên minh Quốc-Cộng tan vỡ, Chu Ân Lai phải bỏ trốn trước cuộc khủng bố trắng. Cuối cùng ông tới vùng căn cứ Giang Tây và dần chuyển từ hệ tư tưởng chính thống đô thị sang nhánh Mao ủng hộ cách mạng nông thôn bên trong Đảng Cộng sản Trung Quốc, và trở thành một thành viên nổi bật của Đảng. Sự chuyển biến này đã hoàn thành ngay từ đầu cuộc Vạn lý Trường chinh, khi vào tháng 1 năm 1935 Chu Ân Lai hoàn toàn ủng hộ Mao trong cuộc đấu tranh với nhóm 28 người bolshevik.
Những năm tại Diên An, Chu Ân Lai là người tích cực ủng hộ một mặt trận thống nhất chống Nhật Bản. Vì thế ông đóng vai trò quan trọng trong sự biến Tây An, giúp Tưởng Giới Thạch được thả, và đàm phán Mặt trận Thống nhất Quốc-Cộng thứ hai, và đưa ra câu nói nổi tiếng "Người Trung Quốc không nên đánh nhau với người Trung Quốc mà với một kẻ thù chung: quân xâm lược". Trong Chiến tranh Trung-Nhật (1937-1945) Chu Ân Lai đóng vai trò đại sứ trong chính phủ thời chiến của Tưởng Giới Thạch ở Trùng Khánh và tham gia vào những cuộc đàm phán thất bại sau Thế chiến II.
Nắm quyền thủ tướng
Năm 1949, với sự thành lập nhà nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Chu Ân Lai lên nắm quyền Thủ tướng và Bộ trưởng ngoại giao. Tháng 6 năm 1953, ông đưa ra năm tuyên bố hoà bình. Ông dẫn đầu phái đoàn Cộng sản Trung Quốc tham gia Hội nghị Geneva và Hội nghị Bandung (1955). Ông đã thoát nạn sau một âm mưu ám sát của phe Quốc Dân Đảng dưới quyền Tưởng Giới Thạch trên đường trở về từ Bandung. Một quả mìn MK7 đã được giấu trên chiếc máy bay thuê Kashmir Princess chở ông. Chu Ân Lai đã đổi máy bay nhưng tất cả 16 người trong đội đều thiệt mạng. Với thái độ ôn hoà và ảnh hưởng trong khối các nước không liên kết thời Chiến tranh Lạnh, chính sách ngoại giao của ông nhằm tăng cường quan hệ với các quốc gia trong vùng như Ấn Độ, Myanma và các nước Đông Nam Á, cũng như các quốc gia châu Phi. Năm 1958, chức Bộ trưởng ngoại giao được trao lại cho Trần Nghị, Chu Ân Lai tiếp tục giữ chức vụ Thủ tướng cho tới khi ông qua đời năm 1976.
Trọng tâm trong nước của ông sau khi trở thành Thủ tướng là nền kinh tế Trung Quốc, đang ở tình trạng lạc hậu sau nhiều thập kỷ chiến tranh. Ông đặt mục tiêu tăng trưởng sản xuất nông nghiệp thông qua việc tái phân phối ruộng đất. Phát triển công nghiệp cũng là một ưu tiên của ông. Ngoài ra ông còn đưa ra những sáng kiến cải cách môi trường đầu tiên ở Trung Quốc. Trong chính phủ, Mao là người vạch chính sách còn Chu Ân Lai là người thực thi.
Năm 1958, Mao Trạch Đông bắt đầu chương trình Đại nhảy vọt, với mục tiêu tăng mức sản xuất công nghiệp và nông nghiệp của Trung Quốc lên những tầm không tưởng. Là nhà quản lý thực tế và được lòng dân, Chu Ân Lai vẫn giữ được chức vụ của mình trong thời gian này. Cách mạng Văn hoá (1966-1976) ảnh hưởng lớn tới ông tuy nhiên Chu Ân Lai được Mao xem là người có năng lực và ngoan ngoãn phục tùng Mao vì thế ông đã không bị thanh trừng trong cuộc Cách mạng văn hóa như những lãnh đạo khác dám có ý kiến phản đối Mao. Ở những giai đoạn cuối cuộc cách mạng này năm 1975, ông đã đưa ra "bốn hiện đại hoá" để sửa chữa những sai lầm do nó gây ra và sau này trở thành trọng tâm trong chính sách đối nội của Đặng Tiểu Bình.
Nổi tiếng là một nhà ngoại giao có tài, Chu Ân Lai chịu trách nhiệm chính trong việc tái lập các mối quan hệ với phương Tây hồi đầu thập niên 1970. Ông đã chào mừng Tổng thống Richard Nixon tới Trung Quốc tháng 2 năm 1972, và ký kết Thông cáo Thượng Hải.
Sau khi biết mình bị ung thư, ông bắt đầu chuyển giao nhiều trách nhiệm của mình cho Đặng Tiểu Bình. Trong những giai đoạn cuối cuộc Cách mạng Văn hoá, Chu Ân Lai chính là mục tiêu mới của các chiến dịch chính trị của Bè lũ bốn tên của Chủ tịch Mao năm 1975 với khẩu hiệu "chỉ trích Tống Giang, đánh giá Thủy hử", ám chỉ tới một tác phẩm văn học Trung Quốc, coi Chu Ân Lai là một hình mẫu kẻ thất bại chính trị. Ngoài ra chiến dịch Chỉ trích Lâm, Chỉ trích Khổng (Phê Lâm phê Khổng vận động) cũng nhắm mục tiêu vào Thủ tướng Chu Ân Lai bởi ông bị coi là một trong những đối thủ chính trị của Bè lũ bốn tên.
Cái chết và các phản ứng
Năm 1974 Chu Ân Lai phải vào viện vì ung thư bàng quang, nhưng vẫn tiếp tục điều hành công việc từ bên trong bệnh viện, còn Đặng Tiểu Bình là Phó thủ tướng thứ nhất chịu trách nhiệm hầu hết các vấn đề quan trọng của Quốc vụ viện. Chu Ân Lai mất buổi sáng ngày 8 tháng 1 năm 1976, 8 tháng trước Mao Trạch Đông. Trong cuốn sách của mình, Mao: Câu chuyện chưa biết, Jung Chang (Trương Nhung) và Jon Halliday xác nhận rằng Mao cố tình không cho Chu Ân Lai chữa bệnh ung thư bởi ông không muốn Chu Ân Lai sống lâu hơn mình. Nhiều quốc gia trong Phong trào không liên kết đã gửi lời chia buồn trước cái chết của Chu Ân Lai một nhà ngoại giao và nhà thương thuyết nổi tiếng trên trường quốc tế, nhiều nước coi cái chết của ông là một mất mát to lớn. Ngày 15 tháng 1 năm 1976, lễ quốc tang dành cho ông được tổ chức trang trọng, Phó Thủ tướng Quốc vụ viện Đặng Tiểu Bình làm trưởng ban lễ tang. Sau đó, thi thể ông được hoả thiêu và tro được rải từ máy bay xuống các ngọn đồi và thung lũng, theo đúng nguyện vọng của ông.
Bên trong Trung Quốc, nhóm Bè lũ bốn tên (Giang Thanh và đồng bọn) coi cái chết của Chu là một thuận lợi lớn cho mưu đồ chính trị của họ, bởi vật cản lớn duy nhất còn lại trước ngôi báu quyền lực tuyệt đối ở Trung Quốc của họ đã mất. Sau lễ quốc tang Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình đã có bài điếu văn chính thức ca ngợi Chu Ân Lai, nhưng sau này ông đã bị buộc rời bỏ chính trị sau cái chết của Mao.
Từ khi mất, một căn phòng tưởng niệm đã được dành riêng cho ông và người vợ yêu dấu tại Thiên Tân, được đặt tên là Phòng tưởng niệm Chu Ân Lai và vợ Thiên Tân (天津周恩來鄧穎超紀念館), và một bức tượng đã được dựng lên ở Thành phố Nam Kinh, nơi ông từng làm việc với Quốc Dân Đảng trong thập niên 1940. Một con tem quốc gia cũng được phát hành kỷ niệm một năm ngày mất của ông năm 1977, và một lần nữa năm 1998 kỷ niệm ngày sinh lần thứ 100 của ông.
Di sản
Chu Ân Lai thường được coi là một nhà thương thuyết có tài, một bậc thầy về thực hiện chính sách, một nhà cách mạng toàn tâm, một chính khách thực tế với sự kiên nhẫn vô biên và sự chú trọng đặc biệt tới các chi tiết công việc. Ông cũng nổi tiếng về lao động không mệt mỏi và đạo đức. Ông được coi là vị chính khách cuối cùng của tư tưởng Khổng giáo truyền thống. Phong cách chính trị của Chu Ân Lai cần được xem xét theo triết lý chính trị và nhân cách của ông. Ở mức độ lớn hơn, Chu Ân Lai là một nhân vật kết hợp giữa chính khách cộng sản và nền giáo dục Trung Hoa truyền thống: từng có tư tưởng bảo thủ và cực đoan, thực dụng và có ý thức hệ, đồng thời có niềm tin vào trật tự và sự hoà hợp cũng như một lòng tin vào sự phản kháng và cách mạng.
Dù là người có lòng tin tưởng nhiệt thành vào các lý tưởng Cộng sản, lý tưởng cơ bản của nhà nước Trung Hoa hiện đại, Chu Ân Lai thường được nhiều người cho là có ảnh hưởng ôn hoà trên một số tư tưởng thái quá của chế độ Mao, dù ông không có quyền lực cần thiết để có thể chống lại những chính sách của Mao. Có những ý kiến cho rằng ông đã sử dụng quyền lực của mình để bảo vệ một số địa điểm tôn giáo và hoàng gia cổ Trung Quốc khỏi những cuộc cướp phá của lực lượng Hồng vệ binh cũng như bảo vệ nhiều tướng lĩnh và lãnh đạo hàng đầu chính phủ khỏi các cuộc thanh trừng. Dù trong những năm gần đây Mao bị đánh giá lại, rất ít người Trung Quốc cũng như cộng đồng Hoa Kiều ở nước ngoài phê phán Chu nặng nề như Mao. Chu để lại cảm tình khá tốt trong dân chúng và giới học giả Trung Quốc.
Ông là một trong số ít nhà lãnh đạo Trung Quốc thể hiện sự tôn trọng đúng mực đối với các nước nhỏ như Việt Nam. Chu Ân Lai đã từng nói: "Nếu các bạn không thích thì chúng tôi sẽ ra đi ngay" khi Việt Nam khéo léo phản ứng việc Hồng vệ binh Trung Quốc hô hào các khẩu hiệu của Đại cách mạng văn hóa vô sản ở Hà Nội năm 1967. Và chính ông cũng nhận Hồ Chí Minh là "lão đại ca".
Gia đình
Phu nhân của ông là Đặng Dĩnh Siêu, Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XI, XII, Chủ tịch Hội nghị Hiệp thương chính trị nhân dân Trung Quốc từ năm 1983 - 1988, Bí thư thứ hai Ủy ban Kiểm tra - Kỷ luật Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội Phụ nữ Trung Quốc.
Mặc dù Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu không có con cái nhưng hai người đã dành rất nhiều tình thương yêu cho những đứa con của các liệt sĩ, như: Tôn Duy Thế (con gái của liệt sĩ Tôn Bính Văn) và Lý My (con gái của liệt sĩ Lý Tiểu Thạch),... Thủ tướng thứ tư của Quốc vụ viện Trung Quốc Lý Bằng cũng là con nuôi của vợ chồng Chu Ân Lai. |
Tình dục hậu môn, (tiếng Anh: anal sex) hay còn gọi là giao hợp hậu môn (anal intercourse), giang giao hoặc kê gian, thường chỉ hành vi tình dục trong đó có đưa dương vật đã cương cứng vào hậu môn (và có thể là cả trực tràng) của một người để đạt được khoái cảm tình dục. Thuật ngữ này cũng bao gồm các hành vi tình dục khác liên quan đến hậu môn, trong đó có việc tiếp xúc miệng với hậu môn, pegging, cũng như đưa ngón tay hoặc vật thể (đồ chơi tình dục) vào hậu môn. Mặc dù thuật ngữ tình dục hậu môn thường dùng để chỉ thâm nhập dương vậthậu môn, các nguồn đôi khi sử dụng thuật ngữ giao hợp hậu môn để biểu thị duy nhất việc thâm nhập dương vậthậu môn, và tình dục hậu môn để biểu thị bất kỳ hình thức hoạt động tình dục qua đường hậu môn nào, đặc biệt là giữa các cặp đôi, đối lập với thủ dâm hậu môn.
Trong khi quan hệ tình dục qua đường hậu môn thường có liên quan đến đồng tính luyến ái nam, nghiên cứu cho thấy rằng không phải tất cả người đồng tính nam đều tham gia vào quan hệ tình dục qua đường hậu môn và việc quan hệ tình dục khác giới qua đường hậu môn không hề hiếm gặp. Các kiểu quan hệ tình dục qua đường hậu môn cũng có thể là một phần của thực hành tình dục đồng tính nữ. Mọi người có thể cảm thấy khoái cảm khi quan hệ tình dục qua đường hậu môn bằng cách kích thích các đầu dây thần kinh hậu môn, và cực khoái có thể đạt được khi thâm nhập qua đường hậu môn – bằng cách kích thích gián tiếp tuyến tiền liệt ở nam giới, kích thích gián tiếp âm vật hoặc một vùng của âm đạo (đôi khi được gọi là điểm G) ở phụ nữ, và các dây thần kinh cảm giác khác (đặc biệt là dây thần kinh thẹn trong). Tuy nhiên, mọi người cũng có thể thấy đau đớn khi quan hệ tình dục qua đường hậu môn, đôi khi là vô cùng dữ dội, có thể do yếu tố tâm lý trong một số trường hợp.
Như với hầu hết các hình thức hoạt động tình dục, những người tham gia quan hệ tình dục qua đường hậu môn có nguy cơ mắc các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục (STI). Quan hệ tình dục qua đường hậu môn được coi là một thực hành tình dục có nguy cơ cao vì hậu môn và trực tràng dễ bị tổn thương. Các mô hậu môn và trực tràng rất mỏng manh và không tiết ra chất bôi trơn như âm đạo, vì vậy chúng có thể dễ dàng bị rách và cho phép lây truyền bệnh, đặc biệt nếu không sử dụng dầu bôi trơn cá nhân. Quan hệ tình dục qua đường hậu môn mà không có bao cao su bảo vệ được coi là hình thức hoạt động tình dục nguy hiểm nhất, và do đó các cơ quan y tế như Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã khuyến nghị các phương thức tình dục an toàn cho quan hệ tình dục qua đường hậu môn.
Nhiều quan điểm nặng nề thường được bày tỏ về quan hệ tình dục qua đường hậu môn. Nó gây tranh cãi ở nhiều nền văn hóa khác nhau, đặc biệt là liên quan đến những sự cấm đoán trong tôn giáo. Điều này thường do các lệnh cấm quan hệ tình dục qua đường hậu môn giữa nam giới hoặc những lời dạy về mục đích sinh sản của hoạt động tình dục. Nó có thể bị coi là điều cấm kỵ hoặc không tự nhiên, và là một tội hình sự ở một số quốc gia, có thể bị trừng phạt bằng nhục hình hoặc tử hình. Ngược lại, quan hệ tình dục qua đường hậu môn cũng có thể được coi là một hình thức hoạt động tình dục tự nhiên và hợp lệ để thỏa mãn như các biểu hiện tình dục mong muốn khác, và có thể là một yếu tố nâng cao hoặc yếu tố chính trong đời sống tình dục của một con người.
Giải phẫu và sự kích thích
nhỏ|Giải phẫu bộ phận sinh dục nam, cho thấy vị trí của tuyến tiền liệt và mối liên quan đến trực tràng
Sự phong phú của các đầu dây thần kinh ở vùng hậu môn và trực tràng có thể khiến cho nam hoặc nữ quan hệ tình dục qua đường hậu môn đều đạt khoái cảm. Các cơ vòng trong và ngoài kiểm soát sự đóng mở của hậu môn; những cơ này, là những màng nhạy cảm được tạo thành từ nhiều đầu dây thần kinh, tạo điều kiện cho khoái cảm hoặc đau đớn khi quan hệ tình dục qua đường hậu môn. Human Sexuality: An Encyclopedia nói rằng "một phần ba bên trong của ống hậu môn ít nhạy cảm hơn khi chạm vào so với hai phần ba bên ngoài, nhưng nhạy cảm hơn với áp lực" và "trực tràng là một ống cong dài khoảng 8 hoặc 9 inch và có khả năng mở rộng, giống như hậu môn".
Nghiên cứu chỉ ra rằng quan hệ tình dục qua đường hậu môn xảy ra ít thường xuyên hơn một cách đáng kể so với các hành vi tình dục khác, nhưng sự liên quan của nó với hành vi thống trị và phục tùng, cũng như sự cấm kỵ, khiến nó trở thành một yếu tố kích thích hấp dẫn đối với những người thuộc mọi xu hướng tính dục. Ngoài việc thâm nhập tình dục bằng dương vật, mọi người có thể sử dụng đồ chơi tình dục như dương vật giả, nút bịt mông hoặc chuỗi hạt hậu môn, thâm nhập vào trong bằng ngón tay, liếm hậu môn, pegging, thủ dâm qua đường hậu môn hoặc fisting cho hoạt động tình dục qua đường hậu môn, và các tư thế quan hệ tình dục khác nhau cũng có thể được áp dụng. Fisting là hoạt động ít được thực hành nhất, một phần là do việc ít gặp người tham gia có thể thư giãn đủ để chứa một vật to bằng nắm tay được đưa vào trong hậu môn.
Ở một bạn tình dễ tiếp nhận là nam, việc thâm nhập qua đường hậu môn có thể tạo ra một cảm giác khoái lạc do dương vật đưa vào cọ xát hoặc cọ xát với tuyến tiền liệt qua thành hậu môn. Điều này có thể dẫn đến cảm giác sảng khoái dễ chịu và có thể dẫn đến cực khoái trong một số trường hợp. Kích thích tuyến tiền liệt có thể tạo ra cực khoái sâu hơn, đôi khi được nam giới mô tả là lan rộng và mãnh liệt hơn, kéo dài hơn và cho phép cảm giác sung sướng hơn là cực khoái chỉ được khêu gợi bằng kích thích dương vật. Tuyến tiền liệt của nam giới nằm bên cạnh trực tràng và có kích thước lớn hơn, phát triển hơn so với tuyến tương đồng (biến thể) là tuyến Skene của nữ giới. Việc một người đàn ông không thể đạt được cực khoái với tư cách là một người bạn tình dễ tiếp nhận chỉ từ quan hệ tình dục qua đường hậu môn cũng là một điển hình thường gặp.
Các thống kê chung chỉ ra rằng 70–80% phụ nữ yêu cầu kích thích âm vật trực tiếp để đạt được cực khoái. Các thành âm đạo chứa ít đầu dây thần kinh hơn đáng kể so với âm vật (nơi có nhiều đầu dây thần kinh dành riêng cho cực khoái), và do đó khoái cảm tình dục mãnh liệt, bao gồm cả cực khoái, từ kích thích tình dục âm đạo ít có khả năng xảy ra hơn so với kích thích âm vật trực tiếp ở phần lớn phụ nữ. Âm vật bao gồm nhiều hơn là phần đầu âm vật có thể nhìn thấy bên ngoài. Ví dụ, âm đạo được đặt ở hai bên bởi gối âm vật, phần mô ống chân bên trong của âm vật, rất nhạy cảm và phình to chứa đầy máu khi bị kích thích tình dục. Sự kích thích gián tiếp âm vật thông qua sự thâm nhập qua đường hậu môn có thể được gây ra bởi các dây thần kinh cảm giác chung, đặc biệt là dây thần kinh thẹn trong, phần tạo ra đám rối thần kinh trực tràng dưới và chia thành dây thần kinh đáy chậu và dây thần kinh mu âm vật. Mặc dù hậu môn có nhiều đầu dây thần kinh, nhưng mục đích của chúng không đặc biệt dành cho việc gây cực khoái, và do đó, việc người phụ nữ đạt được cực khoái chỉ bằng cách kích thích hậu môn là rất hiếm.
Điểm Gräfenberg, hoặc điểm G, là một khu vực giải phẫu phụ nữ đang được tranh luận, đặc biệt là giữa các bác sĩ và nhà nghiên cứu, nhưng nó thường được mô tả là nằm sau xương mu phụ nữ bao quanh niệu đạo và có thể tiếp cận được qua thành trước của âm đạo; nó và các khu vực khác của âm đạo được coi là có mô và dây thần kinh liên quan đến âm vật. Kích thích trực tiếp âm vật, khu vực điểm G hoặc cả hai trong khi quan hệ tình dục qua đường hậu môn có thể giúp một số phụ nữ thích thú với hoạt động này và đạt được cực khoái trong khi quan hệ.
Ngoài ra, sự kích thích từ quan hệ tình dục qua đường hậu môn cũng có thể bị ảnh hưởng bởi nhận thức hoặc mô tả phổ biến về hoạt động, chẳng hạn như erotica hoặc khiêu dâm. Trong nội dung khiêu dâm, quan hệ tình dục qua đường hậu môn thường được miêu tả như một thói quen mong muốn, không gây đau đớn và không cần dầu bôi trơn cá nhân; điều này có thể dẫn đến việc các cặp đôi thực hiện quan hệ tình dục qua đường hậu môn mà không có sự cẩn trọng, và nam giới và phụ nữ tin rằng phụ nữ, với tư cách là bạn tình dễ tiếp nhận, không thường cảm thấy khó chịu hoặc đau đớn thay vì cảm thấy thích thú từ hoạt động này. Ngược lại, cơ vòng của mỗi người có sự phản ứng khác nhau với sự thâm nhập, cơ vòng hậu môn có các mô dễ bị rách hơn, và hậu môn và trực tràng không tiết ra chất bôi trơn để xâm nhập tình dục như âm đạo. Các nhà nghiên cứu cho biết việc áp dụng đầy đủ chất bôi trơn cá nhân, thư giãn và giao tiếp giữa các đối tác tình dục là rất quan trọng để tránh gây đau hoặc tổn thương vùng hậu môn hoặc trực tràng. Ngoài ra, việc đảm bảo rằng khu vực hậu môn sạch sẽ và ruột rỗng, vì cả về mặt thẩm mỹ và thực tiễn, có thể được những người tham gia mong muốn.
Quan hệ nam - nữ
Hành vi và quan điểm
nhỏ|Tranh thạch bản năm 1892 của Paul Avril mô tả quan hệ tình dục qua đường hậu môn giữa nam và nữ
Cơ vòng hậu môn thường chặt hơn cơ sản chậu của âm đạo, có thể nâng cao khoái cảm cho nam giới khi quan hệ tình dục qua đường hậu môn giữa nam và nữ do áp lực tác dụng lên dương vật. Nam giới cũng có thể tận hưởng vai trò thâm nhập trong khi quan hệ tình dục qua đường hậu môn vì nó liên quan đến sự thống trị, vì sự hấp dẫn hơn đến từ việc đối tác nữ hoặc xã hội nói chung nhấn mạnh sự cấm đoán của nó, hoặc bởi vì nó cho thấy thêm một lựa chọn để thâm nhập.
Trong khi một số phụ nữ nhận thấy việc trở thành một đối tác dễ tiếp nhận khi giao hợp qua đường hậu môn gây đau đớn hoặc không thoải mái, hoặc chỉ tham gia vào hành động để làm hài lòng bạn tình nam, những phụ nữ khác thấy hoạt động này thú vị hoặc thích nó hơn giao hợp âm đạo.
Trong một bài báo đánh giá lâm sàng năm 2010 về quan hệ tình dục khác giới qua đường hậu môn, thuật ngữ giao hợp hậu môn được sử dụng để biểu thị cụ thể sự thâm nhập dương vật vào hậu môn, và tình dục hậu môn được sử dụng để biểu thị bất kỳ hình thức hoạt động tình dục qua đường hậu môn nào. Đánh giá này cho thấy rằng quan hệ tình dục qua đường hậu môn là một điều kỳ lạ trong số các thực hành tình dục của một số người dị tính và rằng "đối với một số người khác giới, giao hợp qua đường hậu môn khá thú vị, kích thích và có lẽ được coi là thân mật hơn quan hệ tình dục qua đường âm đạo".
Giao hợp qua đường hậu môn đôi khi được sử dụng để thay thế cho giao hợp qua đường âm đạo trong thời kỳ kinh nguyệt. Khả năng mang thai xảy ra khi quan hệ tình dục qua đường hậu môn sẽ giảm đáng kể, vì chỉ quan hệ tình dục qua đường hậu môn không thể dẫn đến mang thai trừ khi tinh trùng được vận chuyển bằng cách nào đó đến cửa âm đạo. Do đó, một số cặp vợ chồng thực hiện giao hợp qua đường hậu môn như một hình thức tránh thai, thường là không sử dụng bao cao su.
Quan hệ tình dục nam nữ qua đường hậu môn thường được xem như một cách giữ gìn trinh tiết của phụ nữ vì nó không sinh sản và không làm rách màng trinh; một người, đặc biệt là một cô gái hoặc phụ nữ tuổi vị thành niên, quan hệ tình dục qua đường hậu môn hoặc hoạt động tình dục khác mà không có tiền sử giao hợp qua đường âm đạo thường được các nhà nghiên cứu và những người dị tính coi là chưa bị mất trinh. Điều này đôi khi được gọi là trinh tiết kỹ thuật. Những người khác giới có thể xem quan hệ tình dục qua đường hậu môn là "trò lừa bịp" hoặc chỉ như màn dạo đầu; học giả Laura M. Carpenter tuyên bố rằng quan điểm này "có từ cuối những năm 1600, với những 'quy tắc' rõ ràng xuất hiện vào khoảng đầu thế kỷ XX, như trong các sách hướng dẫn hôn nhân định nghĩa vuốt ve là 'mọi sự vuốt ve theo nghĩa đen đối với các cặp vợ chồng đã kết hôn nhưng không bao gồm quan hệ tình dục đầy đủ.'"
Mức độ phổ biến
Bởi vì hầu hết các nghiên cứu về quan hệ tình dục qua đường hậu môn đều đề cập đến những người đàn ông quan hệ tình dục đồng giới, rất ít dữ liệu tồn tại về tỷ lệ quan hệ tình dục qua đường hậu môn giữa các cặp đôi khác giới. Trong đánh giá lâm sàng năm 2010 của Kimberly R. McBride về quan hệ tình dục khác giới qua đường hậu môn và các hình thức sinh hoạt tình dục qua đường hậu môn khác, người ta cho rằng việc thay đổi các tiêu chuẩn có thể ảnh hưởng đến tần suất quan hệ tình dục khác giới qua đường hậu môn. McBride và các đồng nghiệp của cô đã điều tra tỷ lệ phổ biến của hành vi quan hệ tình dục qua đường hậu môn không giao hợp giữa một mẫu những người đàn ông (n = 1,299) và phụ nữ (n = 1,919) so với trải nghiệm quan hệ qua đường hậu môn, và thấy rằng 51% đàn ông và 43% phụ nữ đã tham gia trong ít nhất một hành động quan hệ tình dục hậu môn bằng miệng, bằng tay, hoặc sử dụng đồ chơi tình dục qua đường hậu môn. Báo cáo cho biết phần lớn đàn ông (n = 631) và phụ nữ (n = 856) đã tường thuật quan hệ tình dục khác giới qua đường hậu môn trong 12 tháng qua là quan hệ một vợ một chồng: 69% và 73%, tương ứng. Bài đánh giá cho biết thêm rằng vì "có tương đối ít sự chú ý đối với quan hệ tình dục qua đường hậu môn và các hành vi quan hệ tình dục qua đường hậu môn khác giữa các bạn tình khác giới", điều này có nghĩa là "khá hiếm" nghiên cứu nào tồn tại có "phân biệt cụ thể hậu môn như một cơ quan sinh dục hoặc các địa chỉ chức năng hoặc rối loạn chức năng tình dục qua đường hậu môn là những chủ đề hợp pháp. Do đó, chúng ta không thể biết mức độ khác biệt về tính chất giữa giao hợp qua đường hậu môn với quan hệ tình dục thông thường."
Theo một nghiên cứu năm 2010 từ Khảo sát Quốc gia về Hành vi và Sức khỏe Tình dục (NSSHB) được thực hiện bởi Debby Herbenick và cộng sự, mặc dù quan hệ tình dục qua đường hậu môn được ít phụ nữ tường thuật hơn các hành vi quan hệ tình dục với bạn tình khác, nhưng phụ nữ có quan hệ tình dục ở các nhóm tuổi từ 18 đến 49 người cho biết họ có quan hệ tình dục qua đường hậu môn trong 90 ngày trước đó cao hơn đáng kể. Phụ nữ quan hệ qua đường hậu môn ít hơn nam giới. Giao hợp qua đường âm đạo được thực hành nhiều hơn giao hợp qua đường hậu môn ở nam giới, nhưng 13% đến 15% nam giới từ 25 đến 49 tuổi có thực hành giao hợp qua đường hậu môn.
Đối với thanh thiếu niên, dữ liệu bị hạn chế cũng tồn tại. Điều này có thể là do tính chất cấm kỵ của quan hệ tình dục qua đường hậu môn và do đó thanh thiếu niên và người chăm sóc tránh nói chuyện với nhau về chủ đề này. Các hội đồng xét duyệt môn học và trường học cũng thường né tránh môn học này. Một nghiên cứu năm 2000 cho thấy 22,9% sinh viên đại học tự nhận là không còn trinh đã quan hệ tình dục qua đường hậu môn. Họ sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục qua đường hậu môn là 20,9% thời gian so với 42,9% thời gian khi quan hệ qua đường âm đạo.
Quan hệ tình dục qua đường hậu môn ngày nay phổ biến hơn ở những người khác giới so với trước đây có liên quan đến sự gia tăng tiêu thụ nội dung khiêu dâm qua đường hậu môn ở nam giới, đặc biệt là ở những người xem nó thường xuyên. [39] [40] [52] Seidman và cộng sự. lập luận rằng "phương tiện truyền thông tương tác rẻ, dễ tiếp cận và đặc biệt đã cho phép nhiều người sản xuất cũng như tiêu thụ nội dung khiêu dâm" và rằng cách sản xuất nội dung khiêu dâm hiện đại này, ngoài việc mông và hậu môn trở nên khiêu dâm hơn, đã dẫn đến một mối quan tâm đáng kể hoặc ám ảnh về quan hệ tình dục qua đường hậu môn ở nam giới. [52]
Quan hệ tình dục qua đường hậu môn ngày nay phổ biến hơn ở những người khác giới so với trước đây có liên quan đến sự gia tăng tiêu thụ nội dung khiêu dâm qua đường hậu môn ở nam giới, đặc biệt là ở những người xem nó thường xuyên. Seidman lập luận rằng "phương tiện truyền thông giá rẻ, dễ tiếp cận và đặc biệt là có thể tương tác đã cho phép nhiều người sản xuất cũng như tiêu thụ nội dung khiêu dâm", và rằng cách sản xuất nội dung khiêu dâm hiện đại này, ngoài việc mông và hậu môn trở nên khiêu dâm hơn, đã dẫn đến một mối quan tâm đáng kể hoặc ám ảnh về quan hệ tình dục qua đường hậu môn ở nam giới.
Quan hệ nam - nam
Hành vi và quan điểm
nhỏ|Diễn giải khiêu dâm thế kỷ 19 của Hadrian và Antinous (chi tiết), bởi Paul Avril
Trong lịch sử, quan hệ tình dục qua đường hậu môn thường có liên quan đến đồng tính luyến ái nam. Tuy nhiên, nhiều người đồng tính nam và nam quan hệ tình dục đồng giới nói chung (những người xác định là đồng tính nam, song tính, dị tính hoặc chưa xác định bản dạng tình dục - sexual identity) không quan hệ tình dục qua đường hậu môn. Trong số những người đàn ông quan hệ tình dục qua đường hậu môn với những người đàn ông khác, đối tác thâm nhập có thể được gọi là top (người phía trên) và người được thâm nhập có thể được gọi là bottom (người phía dưới). Những người thích cả hai vai trò này có thể được gọi là versatile (người linh hoạt).
Những người đồng tính nam thích quan hệ tình dục qua đường hậu môn có thể coi đó là phiên bản giao hợp của họ và là một biểu hiện tự nhiên của sự thân mật có khả năng mang lại khoái cảm. Quan điểm cho rằng nó có thể cộng hưởng với những người đồng tính nam với ý nghĩa tình cảm giống như quan hệ tình dục qua đường âm đạo cộng hưởng với những người khác giới cũng đã được xem xét. Tuy nhiên, một số nam giới có quan hệ tình dục đồng giới tin rằng việc trở thành một đối tác dễ tiếp nhận trong khi quan hệ tình dục qua đường hậu môn sẽ đặt ra câu hỏi về sự nam tính của họ.
Những người đàn ông quan hệ tình dục đồng giới cũng có thể thích tham gia vào quan hệ tình dục qua đường hậu môn hoặc các hình thức thủ dâm lẫn nhau khác vì họ thấy thú vị hơn hoặc tình cảm hơn, để giữ gìn sự trinh tiết kỹ thuật, hoặc như các lựa chọn tình dục an toàn thay thế cho quan hệ tình dục qua đường hậu môn, trong khi những người ủng hộ quan hệ tình dục qua đường hậu môn khác lại tố cáo quan hệ tình dục qua đường hậu môn làm suy giảm đối tác dễ tiếp thu và rủi ro không cần thiết.
Những người đàn ông quan hệ tình dục đồng giới cũng có thể thích tham gia vào frot (cọ xát dương vật của hai người nam lẫn nhau) hoặc các hình thức thủ dâm lẫn nhau khác vì họ thấy thú vị hơn hoặc tình cảm hơn, để giữ gìn trinh tiết kỹ thuật, hoặc như các lựa chọn tình dục an toàn thay thế cho quan hệ tình dục qua đường hậu môn, trong khi những người ủng hộ frot khác lại tố cáo tình dục hậu môn làm giảm giá trị của đối tác dễ tiếp nhận và gây ra rủi ro không cần thiết.
Mức độ phổ biến
Các báo cáo về tỷ lệ quan hệ tình dục qua đường hậu môn ở những người đồng tính nam và những người đàn ông khác có quan hệ tình dục đồng giới là khác nhau. Một cuộc khảo sát trên tạp chí The Advocate năm 1994 chỉ ra rằng 46% đàn ông đồng tính nam thích thâm nhập vào bạn tình của họ, trong khi 43% thích trở thành bạn tình dễ tiếp thu. Các nguồn khác cho thấy rằng khoảng 3/4 nam giới đồng tính nam đã từng quan hệ tình dục qua đường hậu môn vào lúc này hay lúc khác, với tỷ lệ phần trăm tham gia là đỉnh và đáy tương đương nhau. Một cuộc khảo sát về tình dục năm 2012 của NSSHB ở Mỹ cho thấy những người đồng tính nam có tỷ lệ tham gia quan hệ tình dục qua đường hậu môn suốt đời cao: 83,3% cho biết đã từng tham gia quan hệ tình dục qua đường hậu môn ở tư thế quan hệ và 90% ở tư thế tiếp nhận, ngay cả khi chỉ từ 1/3 đến 1/4 bản thân. -báo cáo sự tham gia rất gần đây trong hoạt động, được định nghĩa là 30 ngày hoặc ít hơn.
Các báo cáo về tỷ lệ quan hệ tình dục qua đường hậu môn ở những người đồng tính nam và những người đàn ông khác có quan hệ tình dục đồng giới là khác nhau. Một cuộc khảo sát trên tạp chí The Advocate năm 1994 chỉ ra rằng 46% đàn ông đồng tính nam thích thâm nhập vào bạn tình của họ, trong khi 43% thích trở thành bạn tình dễ tiếp nhận. Các nguồn khác cho thấy rằng khoảng 3/4 nam giới đồng tính nam đã từng quan hệ tình dục qua đường hậu môn vào lúc này hay lúc khác, với tỷ lệ phần trăm tham gia là top và bottom là tương đương nhau. Một cuộc khảo sát về tình dục năm 2012 của NSSHB ở Mỹ cho thấy những người đồng tính nam có tỷ lệ cao tham gia quan hệ tình dục qua đường hậu môn trong suốt cuộc đời: 83.3% cho biết đã từng tham gia quan hệ tình dục qua đường hậu môn ở tư thế quan hệ và 90% ở tư thế tiếp nhận, ngay cả khi chỉ từ 1/3 đến 1/4 tự chia sẻ có thực hiện hoạt động rất gần đây, được định nghĩa là 30 ngày hoặc ít hơn.
Quan hệ tình dục bằng miệng và thủ dâm lẫn nhau phổ biến hơn so với kích thích hậu môn ở nam giới khi quan hệ tình dục với nam giới khác. Theo Weiten, quan hệ tình dục qua đường hậu môn thường phổ biến hơn ở các cặp đồng tính nam hơn là các cặp dị tính, nhưng "nó xếp sau quan hệ tình dục bằng miệng và thủ dâm lẫn nhau" ở cả hai xu hướng tình dục. Weiten báo cáo rằng "sự tương đồng của 'quan hệ tình dục đồng giới' với quan hệ tình dục 'qua đường hậu môn' ở nam giới là phổ biến giữa các chuyên gia y tế và giáo dân" và "một cuộc khảo sát trên Internet với 180.000 MSM (nam giới có quan hệ đồng tính) trên khắp châu Âu (EMIS, 2011) cho thấy quan hệ tình dục bằng miệng được thực hiện phổ biến nhất, tiếp theo là thủ dâm lẫn nhau, với giao hợp qua đường hậu môn ở vị trí thứ ba".
Quan hệ nữ - nam
Phụ nữ có thể kích thích tình dục hậu môn của đàn ông bằng cách dùng ngón tay sờ vào vùng bên ngoài hoặc bên trong hậu môn; họ cũng có thể kích thích vùng đáy chậu (đối với nam giới, nằm giữa đáy bìu và hậu môn), xoa bóp tuyến tiền liệt hoặc thực hiện liếm hậu môn. Đồ chơi tình dục, chẳng hạn như dương vật giả, cũng có thể được sử dụng. Việc một người phụ nữ thâm nhập vào hậu môn của một người đàn ông bằng dương vật giả có dây đeo để sinh hoạt tình dục được gọi là pegging.
Thông thường, đàn ông dị tính thường từ chối ý định trở thành bạn tình trong khi quan hệ tình dục qua đường hậu môn vì họ tin rằng đó là một hành động thể hiện nữ tính, có thể khiến họ bị tổn thương hoặc mâu thuẫn với xu hướng tình dục của họ (ví dụ, đó là dấu hiệu cho thấy họ là người đồng tính nam). Tuy nhiên, tập san BMJ đã đưa tin vào năm 1999:Reece báo cáo vào năm 2010 rằng quan hệ tình dục qua đường hậu môn mang tính tiếp nhận nói chung không thường xuyên gặp ở nam giới, nói rằng "ước tính 7% nam giới từ 14 đến 94 tuổi báo cáo là bạn tình dễ tiếp nhận trong khi giao hợp qua đường hậu môn".
Quan hệ nữ - nữ
phải|nhỏ|Một người phụ nữ đang thực hiện liếm hậu môn (quan hệ tình dục hậu môn bằng miệng) trên một người phụ nữ khác
Đối với các hoạt động tình dục đồng tính nữ, quan hệ tình dục qua đường hậu môn bao gồm quan hệ xâm nhập bằng ngón tay, sử dụng dương vật giả hoặc đồ chơi tình dục khác, hoặc liếm hậu môn.
Có ít nghiên cứu về hoạt động tình dục qua đường hậu môn ở những phụ nữ có quan hệ tình dục đồng giới so với các cặp có xu hướng tình dục khác. Năm 1987, một nghiên cứu phi khoa học (Munson) được thực hiện trên 100 thành viên của một tổ chức xã hội đồng tính nữ ở Colorado. Khi được hỏi họ đã sử dụng kỹ thuật nào trong 10 lần quan hệ tình dục gần đây nhất, những người đồng tính nữ ở độ tuổi 30 có khả năng sẽ thực hiện kích thích hậu môn (bằng ngón tay hoặc dương vật giả) cao gấp đôi các nhóm tuổi khác. Một nghiên cứu năm 2014 về phụ nữ đồng tính nữ ở Canada và Hoa Kỳ đã phát hiện ra rằng 7% tham gia vào việc kích thích hoặc thâm nhập hậu môn ít nhất một lần một tuần; khoảng 10% đã làm như vậy hằng tháng và 70% thì không làm bao giờ. Liếm hậu môn cũng ít được thực hành hơn trong các cặp đồng tính nữ.
Rủi ro sức khỏe
Rủi ro chung
trái|nhỏ|Niêm mạc trực tràng
Quan hệ tình dục qua đường hậu môn có thể khiến những người tham gia phải đối mặt với hai mối nguy hiểm chính: nhiễm trùng do số lượng vi sinh vật lây nhiễm cao không thấy được ở những nơi khác trên cơ thể, và tổn thương thể chất đối với hậu môn và trực tràng do chúng tương đối mỏng manh. Sự thâm nhập dương vật-hậu môn không được bảo vệ, thường được gọi là barebacking, có nguy cơ lây nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STI) cao hơn vì cơ vòng hậu môn là một mô mỏng manh, dễ bị rách có thể là nơi cho mầm bệnh xâm nhập. Sử dụng bao cao su, bôi trơn nhiều để giảm nguy cơ rách cơ hậu môn, và thực hành quan hệ tình dục an toàn hơn nói chung, giúp giảm nguy cơ mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Tuy nhiên, bao cao su có thể bị rách hoặc bị bung ra khi quan hệ tình dục qua đường hậu môn, và điều này dễ xảy ra với quan hệ tình dục qua đường hậu môn hơn so với các hành vi quan hệ tình dục khác, vì sự co thắt của các cơ vòng hậu môn khi ma sát.
Quan hệ tình dục qua đường hậu môn không được bảo vệ (với bạn tình nhiễm HIV) là hành vi tình dục có nhiều khả năng lây truyền HIV nhất. Các bệnh nhiễm trùng khác có thể lây truyền khi quan hệ tình dục qua đường hậu môn không được bảo vệ là vi rút papilloma ở người (HPV) (có thể làm tăng nguy cơ ung thư hậu môn); sốt thương hàn; bệnh lỵ amip; chlamydia; bệnh cryptosporidiosis; nhiễm khuẩn E. coli; sốt hải ly; bệnh lậu; viêm gan siêu vi A; viêm gan siêu vi B; viêm gan siêu vi C; herpes đơn dạng; virus herpes liên quan đến sarcoma Kaposi (HHV-8); bệnh hột xoài (lymphogranuloma venereum); nhiễm khuẩn Mycoplasma hominis; nhiễm khuẩn Mycoplasma genitalium; bệnh rận mu; nhiễm khuẩn samonella; nhiễm khuẩn shigella; bệnh giang mai; bệnh lao; và nhiễm khuẩn Ureaplasma urealyticum.
Cũng như các hoạt động tình dục khác, những người không có kiến thức tốt về các nguy cơ tình dục liên quan rất dễ bị các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Do quan điểm cho rằng quan hệ tình dục qua đường hậu môn không phải là "quan hệ tình dục thực sự" và do đó không dẫn đến mất trinh hoặc mang thai, thanh thiếu niên và những người trẻ tuổi khác có thể coi giao hợp qua đường âm đạo rủi ro hơn giao hợp qua đường hậu môn và tin rằng bệnh lây truyền qua đường tình dục chỉ có thể là do giao hợp qua đường âm đạo. Có thể do những quan điểm này mà việc sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục qua đường hậu môn thường được báo cáo là thấp và không nhất quán ở tất cả các nhóm ở các quốc gia khác nhau.
Mặc dù quan hệ tình dục chỉ qua đường hậu môn không dẫn đến có thai, nhưng việc mang thai vẫn có thể xảy ra khi quan hệ tình dục qua đường hậu môn hoặc các hình thức sinh hoạt tình dục khác nếu dương vật ở gần âm đạo (chẳng hạn như khi quan hệ tình dục giữa hai chân hoặc các hình thức cọ xát lẫn nhau cơ quan sinh dục khác) và tinh trùng của nó đọng lại gần lối vào của âm đạo và chảy vào cùng chất lỏng bôi trơn của âm đạo; nguy cơ có thai cũng có thể xảy ra nếu dương vật không ở gần âm đạo, vì tinh trùng có thể được vận chuyển đến cửa âm đạo, do âm đạo tiếp xúc với ngón tay hoặc các bộ phận cơ thể không thuộc bộ phận sinh dục khác có tiếp xúc với tinh dịch.
Có nhiều yếu tố làm cho giao hợp qua đường hậu môn giữa nam và nữ có nguy cơ cao hơn so với giao hợp qua đường âm đạo đối với nữ, bao gồm nguy cơ lây truyền HIV khi giao hợp qua đường hậu môn cao hơn so với giao hợp qua đường âm đạo. Nguy cơ bị thương cho người phụ nữ khi giao hợp qua đường hậu môn cũng cao hơn đáng kể so với nguy cơ bị thương cho người phụ nữ khi giao hợp qua đường âm đạo bởi độ bền của các mô âm đạo so với các mô ở hậu môn. Ngoài ra, nếu một người đàn ông chuyển từ giao hợp qua đường hậu môn ngay lập tức sang giao hợp âm đạo mà không có bao cao su hoặc không thay bao cao su, nhiễm trùng có thể phát sinh trong âm đạo (hoặc theo đường tiết niệu) do vi khuẩn hiện diện trong hậu môn; những bệnh nhiễm trùng này cũng có thể là kết quả của việc chuyển đổi giữa quan hệ tình dục qua đường âm đạo và quan hệ tình dục qua đường hậu môn bằng cách sử dụng ngón tay hoặc đồ chơi tình dục.
Cảm giác đau khi quan hệ tình dục qua đường hậu môn giữa những người đồng tính nam (hoặc những người đàn ông có quan hệ tình dục đồng giới) chính thức được gọi là chứng đau rát hậu môn (anodyspareunia). Trong một nghiên cứu, 61% nam giới đồng tính hoặc lưỡng tính cho biết họ từng trải qua quan hệ tình dục qua đường hậu môn rất đau đớn và đó là khó khăn tình dục thường xuyên nhất mà họ từng trải qua. Ngược lại, 24% nam giới đồng tính hoặc lưỡng tính nói rằng họ luôn cảm thấy đau ở một mức độ nào đó khi quan hệ tình dục qua đường hậu môn, và khoảng 12% nam giới đồng tính cảm thấy quá đau đớn khi theo đuổi quan hệ tình dục qua đường hậu môn một cách dễ dàng; người ta kết luận rằng nhận thức về quan hệ tình dục qua đường hậu môn là đau đớn có khả năng dựa trên tâm lý hoặc tình cảm cũng như dựa trên thể chất. Các yếu tố dự báo cơn đau khi quan hệ tình dục qua đường hậu môn bao gồm không đủ chất bôi trơn, cảm thấy căng thẳng hoặc lo lắng, thiếu kích thích, cũng như thiếu sự thoải mái với xã hội khi là người đồng tính nam và sống khép kín. Nghiên cứu đã phát hiện ra rằng các yếu tố tâm lý trên thực tế có thể là nguyên nhân chính gây ra cảm giác đau khi quan hệ tình dục qua đường hậu môn và việc giao tiếp đầy đủ giữa các đối tác tình dục có thể ngăn ngừa điều đó, chống lại quan điểm cho rằng cảm giác đau luôn không thể tránh khỏi khi quan hệ tình dục qua đường hậu môn.
Quan hệ tình dục qua đường hậu môn không được bảo vệ là một yếu tố nguy cơ hình thành các kháng thể kháng tinh trùng (ASA) ở người nhận. Ở một số người, ASA có thể gây vô sinh tự miễn dịch. Kháng thể kháng tinh trùng làm suy giảm khả năng thụ tinh, ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình làm tổ và làm suy giảm sự tăng trưởng và phát triển của phôi.
Thiệt hại về thể chất và ung thư
Quan hệ tình dục qua đường hậu môn có thể làm trầm trọng thêm bệnh trĩ và do đó dẫn đến chảy máu; trong những trường hợp khác, sự hình thành của trĩ được cho là do quan hệ tình dục qua đường hậu môn. Nếu chảy máu xảy ra do quan hệ tình dục qua đường hậu môn, nó cũng có thể là do vết rách ở mô hậu môn hoặc trực tràng (nứt hậu môn) hoặc bị thủng (tạo thành lỗ) trong đại tràng, là một vấn đề y tế nghiêm trọng cần được khắc phục bằng chăm sóc y tế ngay lập tức. Do trực tràng không có tính đàn hồi, niêm mạc hậu môn mỏng và các mạch máu nhỏ hiện diện ngay bên dưới niêm mạc, các vết rách nhỏ và chảy máu trong trực tràng thường là do quan hệ tình dục qua đường hậu môn, mặc dù chảy máu thường ít và do đó thường không thể thấy. Ngược lại với các hành vi quan hệ tình dục qua đường hậu môn khác, fisting với hậu môn gây ra nguy cơ tổn thương nghiêm trọng hơn do sự cố tình kéo căng các mô hậu môn và trực tràng; các vết thương khi fisting với hậu môn bao gồm vết rách cơ thắt hậu môn và thủng trực tràng và đại tràng sigma (trực tràng), có thể dẫn đến tử vong.
Quan hệ tình dục qua đường hậu môn nhiều lần có thể dẫn đến cơ vòng hậu môn bị suy yếu, có thể gây sa trực tràng hoặc ảnh hưởng đến khả năng giữ phân (một tình trạng được gọi là tiểu không kiểm soát). Tuy nhiên, sa trực tràng tương đối không phổ biến, đặc biệt là ở nam giới và nguyên nhân của nó vẫn chưa được hiểu rõ. Các bài tập Kegel đã được sử dụng để tăng cường cơ vòng hậu môn và tổng thể cơ sàn chậu, và có thể giúp ngăn ngừa hoặc khắc phục chứng tiểu không kiểm soát.
Hầu hết các trường hợp ung thư hậu môn có liên quan đến việc nhiễm vi rút papilloma ở người (HPV). Việc chỉ quan hệ tình dục qua đường hậu môn không gây ung thư hậu môn; nguy cơ ung thư hậu môn khi quan hệ tình dục qua đường hậu môn là do nhiễm vi rút HPV, thường lây nhiễm khi quan hệ tình dục qua đường hậu môn không được bảo vệ. Ung thư hậu môn tương đối hiếm, và ít phổ biến hơn đáng kể so với ung thư ruột kết hoặc trực tràng (ung thư đại trực tràng); Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ tuyên bố rằng nó ảnh hưởng đến khoảng 7.060 người (4.430 ở phụ nữ và 2.630 ở nam giới) và dẫn đến khoảng 880 ca tử vong (550 ở phụ nữ và 330 ở nam giới) ở Hoa Kỳ, và điều đó, mặc dù số ca ung thư hậu môn đã tăng trong nhiều năm, nó chủ yếu được chẩn đoán ở người lớn, "với độ tuổi trung bình là đầu độ tuổi 60" và nó "ảnh hưởng đến phụ nữ thường xuyên hơn nam giới." Mặc dù bệnh ung thư hậu môn nghiêm trọng, nhưng việc điều trị bệnh "thường rất hiệu quả" và hầu hết bệnh nhân ung thư hậu môn có thể được chữa khỏi bệnh; Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ cho biết thêm rằng "quan hệ qua đường hậu môn dễ dàng cũng làm tăng nguy cơ ung thư hậu môn ở cả nam giới và phụ nữ, đặc biệt là ở những người trẻ hơn 30 tuổi. Do đó, những người đàn ông quan hệ tình dục đồng giới có nguy cơ cao mắc bệnh ung thư này."
Dị tính luyến ái
Hiện nay ở các nước phương Tây, tình dục hậu môn là một cách quan hệ tình dục ngày càng phổ biến giữa nam và nữ. Một nguyên nhân là khả năng có thai rất thấp khi quan hệ hậu môn không dùng bảo vệ. Ngoài ra tình dục hậu môn tránh làm rách màng trinh. Bên cạnh đó, tình dục hậu môn cho dương vật cảm giác nhiều hơn vì hậu môn chặt hơn âm đạo.
Người ta cho rằng tình dục hậu môn gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng là vì tình dục hậu môn ngày càng phổ biến mà nhận thức về các vấn đề sức khỏe liên quan chưa đầy đủ do sự yếu kém về giáo dục giới tính và thông tin đại chúng.
Tình dục hậu môn và trinh tiết
Mặc dù mất trinh có nghĩa là đã từng quan hệ tình dục, vài người cứng nhắc cho rằng nếu màng trinh còn nguyên thì vẫn còn trinh tiết.
Pegging
Pegging chỉ việc một phụ nữ dùng dương vật giả đưa vào hậu môn một người đàn ông để kích thích. Vì tuyến tiền liệt nằm gần trực tràng, người ta cho rằng khi được kích thích hậu môn, đàn ông có thể đạt sự thỏa mãn hơn phụ nữ.
Sự phổ biến
Cơ quan kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (US Center for Disease Control) trong một nghiên cứu của mình vào năm 2005 cho thấy số người dị tính luyến ái quan hệ đường hậu môn gia tăng. Thống kê cho kết quả 40% đàn ông và 35% phụ nữ độ tuổi từ 25 đến 44 từng quan hệ tình dục hậu môn; vào năm 1992, một thống kê tương tự khác phát hiện 25,6% đàn ông từ 28 đến 59 tuổi và 20,4% phụ nữ từ 18 đến 59 tuổi từng quan hệ tình dục hậu môn. Một giả thuyết cho rằng tình dục hậu môn đối với người dị tính luyến ái là do "văn hóa đồng tính luyến ái ngày càng được chấp nhận, đặc biệt là giới trẻ, cách quan hệ thường thấy của người đồng tính nam, như tình dục hậu môn, trở nên phổ biến đối với phần còn lại của xã hội". Số lượng phụ nữ dùng tình dục hậu môn nhiều gấp bảy lần số lượng người đồng tính nam dùng tình dục hậu môn, vì số người dị tính luyến ái nhiều hơn đồng tính luyến ái.
Một thống kê ở Pháp vào năm 2001 đối với 500 phụ nữ kết luận rằng 29% có thực hiện tình dục hậu môn, trong đó 1/3 xác nhận là có thích việc này. Một nghiên cứu năm 1999 ở Hàn Quốc đối với 586 phụ nữ cho thấy chỉ 3,5% thực hiện tình dục hậu môn.
Đồng tính luyến ái
Đầu tiên, tình dục hậu môn phổ biến trong nhóm đồng tính nam và nhóm nam có quan hệ tình dục với nam (MSM). Tuy nhiên nhiều MSM không làm tình đường hậu môn và nhiều người dùng phương pháp đấu kiếm. Tình dục hậu môn bị lên án là có thể ảnh hưởng đến sức khỏe. Quan điểm này viện dẫn lý do nguy cơ nhiễm HIV cao hơn và sự khác biệt về sinh lý của âm đạo và hậu môn.
Trong tình dục hậu môn của hai người nam, người làm top (người cho) sẽ đưa dương vật vào hậu môn của người làm bottom (người nhận, hoặc gọi ngắn là bot). Sự ưa thích làm top hay bot tùy từng người và có thể linh hoạt thay đổi.
Kích thích tuyến tiền liệt
Người nhận có thể có khoái cảm vì dương vật kích thích vào tuyến tiền liệt nằm sát thành hậu môn. Người nhận có thể bị đau nếu không được bôi trơn đủ.
Tuyến tiền liệt (còn được gọi là điểm G của đàn ông hay điểm A) có thể được kích thích trong tình dục hậu môn. Kích thích tuyến tiền liệt có thể gây ra khoái cảm và dẫn tới một dạng cực khoái khác biệt trong vài trường hợp.
Tuyến tiền liệt của nam nằm cạnh trực tràng, to và phát triển hơn tuyến Skene tương ứng ở phụ nữ là tuyến có liên quan đến điểm G ở phụ nữ. Tuyến Skene đôi khi được gọi là tuyến tiền liệt của phụ nữ và nằm gần ống đái và có thể được kích thích qua thành âm đạo.
Sự phổ biến
Ở thời điểm hiện nay, theo bác sĩ John Dean và bác sĩ David Delvin, "có giả thuyết rằng về số lượng, các cặp nam nữ (dị tính luyến ái) làm tình đường hậu môn nhiều hơn các cặp đồng tính".
Sự phổ biến của tình dục hậu môn trong những người đồng tính ở phương Tây thay đổi theo thời gian. Magnus Hirschfeld, trong một tác phẩm 1914, Đồng tính luyến ái ở nam giới và phụ nữ, nói rằng tỉ lệ đồng tính nam làm tình đường hậu môn là 8%, đây là con số thấp nhất trong các tài liệu ghi nhận.
Những năm 50 của thế kỷ 20, ở Vương quốc Anh, khoảng 15% người đồng tính nam làm tình đường hậu môn. Nghiên cứu người đồng tính nam ở thành thị (P.I. Stall, UCSF) và Nghiên cứu nam thanh niên (YMS, PI Osmond/Catania, UCSF) cho thấy 50% nam làm tình đường hậu môn. Nghiên cứu Laumann cho rằng 80% đồng tính nam dùng cách này trong khi 20% còn lại không bao giờ dùng.
Một nghiên cứu từ năm 1994 đến năm 1997 ở San Francisco bởi dự án Ngăn chặn AIDS cho thấy trong nhóm nam có quan hệ tình dục với nam, tỉ lệ làm tình đường hậu môn tăng từ 57,6% đến 62,2%.
Sức khỏe
Cách quan hệ tình dục này có hai nguy hiểm cơ bản, thứ nhất đó là sự lây nhiễm từ các vi sinh vật trong hậu môn, thứ hai là sự tổn thương của trực tràng và hậu môn.
Các nghiên cứu gần đây cho thấy nguy cơ tăng lên ở nam có quan hệ tình dục với nam. Tương tự, ở nam quan hệ với nữ, một nghiên cứu 1992 đối với nam giới Puerto Rico có quan hệ rộng về mặt xã hội và tình dục cho thấy khi quan hệ với nữ rất ít sử dụng bao cao su. Ở những người đồng tính nam, quan hệ tình dục không dùng bao cao su gọi là barebacking.
HIV/AIDS và các bệnh lây truyền khác
Tình dục hậu môn không có bảo vệ làm lây nhiễm HIV, HPV (human papilloma virus) (virút làm tăng nguy cơ mắc ung thư hậu môn) , sốt thương hàn và các vấn đề liên quan đến bài tiết và sinh dục. Trong đó có nhiễm khuẩn amip, chlamydia, cryptosporidiosis, nhiễm khuẩn E. coli, giardiasis, bệnh lậu, viêm gan siêu vi A, viêm gan siêu vi B, viêm gan siêu vi C, bệnh mụn giộp, papillomavirus, Kaposi's sarcoma-associated herpesvirus (HHV-8), bệnh hoa liễu, chấy rận lông mu, salmonellosis, shigella, syphilis, bệnh lao.
Sự tập trung nhiều bạch cầu ở trực tràng, vết rách trực tràng nếu xảy ra kết hợp với chức năng hấp thu chất lỏng của trực tràng làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV. Y học khuyến cáo dùng bao cao su và cẩn thận khi quan hệ để giảm nguy cơ lây nhiễm. Làm bottom trong tình dục hậu môn không dùng bảo vệ là một trong những nguy cơ lây nhiễm HIV cao nhất.
Ung thư hậu môn do HPV
Hầu hết các ca ung thư hậu môn liên quan đến HPV. Bệnh này tăng 160% ở nam và 78% ở nữ trong 30 năm qua, theo một nghiên cứu 2004 của Mỹ. Tỉ lệ tăng khi kết hợp với hành vi tình dục và hút thuốc lá. Hút thuốc tăng nguy cơ ung thư hậu môn lên bốn lần và từng có nhiều bạn tình (15 hoặc nhiều hơn) hoặc làm bottom trong quan hệ tăng nguy cơ lên bảy lần.
Tổn thương
Tình dục hậu môn có thể gây ra tổn thương hậu môn và trực tràng, trĩ, nứt hậu môn và sa trực tràng. Nếu không đủ chất bôi trơn có thể gây đau đớn hoặc tổn thương. Nguy cơ tổn thương cao hơn nếu quan hệ một cách bạo lực, sử dụng rượu bia, chất kích thích sẽ làm giảm độ khoái cảm, kết quả tương tự nếu như kỹ thuật không khéo léo cùng với việc không có sự ăn ý trong khi quan hệ.
Mất điều khiển hậu môn
Tổn thương thường xuyên hoặc đưa vật có kích thước lớn vào hậu môn hoặc quan hệ hậu môn quá thường xuyên có thể dẫn đến giãn cơ vòng hậu môn và mất điều khiển hậu môn.
Phương diện văn hóa
Lịch sử cho thấy trong một số nền văn hóa có xuất hiện tình dục hậu môn giữa những người nam. Những người nam này không chỉ quan hệ như vậy và cũng không loại trừ việc họ có quan hệ với phụ nữ. Những việc này xảy ra trong các nhà thổ có trai mại dâm.
Ở các cặp bạn tình nam nữ trước kia hành vi này bị gọi là hành vi tình dục không bình thường giống như bạo dâm, ác dâm. Ngày nay với quan niệm tình dục là hưởng thụ khoái cảm từ bạn tình thì tình dục đồng giới cũng được nhìn nhận một cách cởi mở như một sở thích, xu hướng tình dục bình thường, không có gì đáng lên án, kỳ thị. Chính vì vậy hành vi giao hợp hậu môn ngày nay cũng được coi như một sở thích tình dục (miễn là cả hai người cùng tự nguyện và cảm thấy hứng thú, hưng phấn khi thực hiện hành vi này). Một số cặp tình nhân cũng tìm đến giao hợp hậu môn như một trải nghiệm trong việc khám phá, tìm hiểu những cảm giác mới trong quan hệ tình dục. |
Khiêm Vương Mạc Kính Điển (chữ Hán: 謙王 莫敬典; 1525? - 1580), tự Kinh Phủ, là đại công thần có công lớn trong việc gìn giữ cơ nghiệp nhà Mạc, được nhà Mạc phong tước Khiêm vương.
Tiểu sử
Mạc Kính Điển là người hương Cao Đôi, huyện Bình Hà, Dương Kinh (nay là thôn Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Ông là con thứ ba của Mạc Đăng Doanh (tức vua Mạc Thái Tông).
Mạc Kính Điển thuở nhỏ ốm yếu, dù vua Mạc cho đổi nhiều nhũ mẫu nhưng không kết quả. Gặp lúc vợ đại thần Phạm Quỳnh mới sinh, bèn gọi đến làm nhũ mẫu cho Kính Điển. Từ lúc có nhũ mẫu mới, Kính Điển mạnh khỏe khác hẳn trước. Bởi thế sau này Kính Điển rất sủng ái cha con Phạm Quỳnh và Phạm Dao.
Phụ chính lần thứ nhất
Dẹp loạn Phạm Tử Nghi
Năm 1546, Mạc Hiến Tông mất, con là Mạc Phúc Nguyên còn nhỏ lên thay, tức là Mạc Tuyên Tông. Khiêm vương Mạc Kính Điển là người được Hiến Tông chọn làm phụ chính. Trong triều xảy ra biến loạn: Tứ Dương hầu Phạm Tử Nghi muốn lập người em của Mạc Thái Tông là Hoằng vương Mạc Chính Trung (con thứ hai của Mạc Thái Tổ) đã trưởng thành nhưng Mạc Kính Điển không thuận, quyết phò Phúc Nguyên là dòng đích lên ngôi. Tử Nghi bèn cùng Chính Trung khởi binh nổi loạn.
Ban đầu Phạm Tử Nghi thắng thế, Mạc Kính Điển cùng Tây quận công Nguyễn Kính đi đánh Tử Nghi bị bại trận. Tuy nhiên sau đó Tử Nghi nhiều lần tiến đánh Đông Kinh nhưng đều bị Kính Điển kiên cường chống trả nên Tử Nghi không thể chiếm được thành, hao binh tổn tướng, phải đem Mạc Chính Trung chạy ra chiếm cứ Yên Quảng (Quảng Ninh) và thường kéo về cướp phá Hải Dương. Sau Tử Nghi quay sang đánh phá sang Quảng Đông, Quảng Tây, nhà Minh không kiềm chế nổi, sai người sang trách nhà Mạc.
Sau Tử Nghi lại đem Chính Trung quay về Yên Quảng định đánh Đông Kinh. Năm 1551, Mạc Kính Điển mang quân đi dẹp Phạm Tử Nghi, sai kẻ dưới quyền lừa bắt được Tử Nghi đem chém. Mạc Chính Trung bỏ chạy sang Trung Quốc và bị giết. Có thuyết nói Tử Nghi chết về tay người Minh.
Chuyển nguy thành an
Năm 1550, trong khi chưa dẹp xong Mạc Chính Trung thì trong triều lại xảy ra biến loạn khác. Thái tể Lê Bá Ly quyền thế quá lớn, có phần hống hách. Phạm Quỳnh, Phạm Dao xin Mạc Tuyên Tông vây bắt. Vua Mạc nghe theo. Bá Ly cùng thông gia là Nguyễn Thiến mang gia quyến gồm các tướng Nguyễn Quyện, Nguyễn Khải Khang, Lê Khắc Thận chạy vào Thanh Hóa hàng theo nhà Lê.
Nhà Mạc bị tổn thất nặng về nhân sự, nhân tâm dao động, lãnh đạo phe Lê là Thái sư Lượng quốc công Trịnh Kiểm thừa cơ hợp binh với tướng cát cứ ở Tuyên Quang là Vũ Văn Mật tiến đánh. Theo Đại Việt thông sử, lúc đó độc có Mạc Kính Điển tận tụy trung thành phò tá vua Mạc, mang xa giá rời kinh thành sang sông, chạy đến Kim Thành (Hải Dương). Mạc Kính Điển ở lại đốc suất quân sĩ chống cự. Trịnh Kiểm thấy thực lực nhà Mạc còn mạnh, nhân tâm chưa hẳn hướng về nhà Lê, bèn lui quân về.
Tình thế yên ổn trở lại, Kính Điển chủ động mang quân đánh địch trước. Liên tiếp mấy năm mang quân vào Thanh Hóa, dù không thắng lợi nhưng đẩy quân Lê vào thế bị động, kiềm chế sức tấn công của đối phương. Có lần bị tướng Lê là Vũ Lăng hầu Phạm Đức Kỳ đánh thua nặng, Kính Điển phải nhảy xuống sông trốn thoát một mình, ẩn náu trong hang núi 3 ngày, ôm được cây chuối theo dòng nước sông mà thoát về.
Sau khi được con Nguyễn Thiến là Nguyễn Quyện quay về theo nhà Mạc, tình thế quân Mạc phấn chấn hơn, đánh lui được các đợt tấn công của quân Lê.
Phụ chính lần thứ hai
Năm 1561, Mạc Tuyên Tông mất, con là Mạc Mậu Hợp mới 2 tuổi lên nối ngôi. Mạc Kính Điển cử người em út là Mạc Đôn Nhượng làm nội phụ chính để lo đỡ việc bên trong để ông tập trung lo việc quân cơ bên ngoài. Quyền quyết định chính sự thực chất đều do Khiêm vương Kính Điển điều hành.
Năm 1570, Thượng tướng Thái quốc công Trịnh Kiểm chết, hai con là Trịnh Cối và Trịnh Tùng tranh ngôi. Mạc Kính Điển thừa cơ mang đại quân vào đánh Thanh Hoá. Trịnh Cối bị kẹp giữa hai bên địch quân phải hàng Mạc. Kính Điển thúc quân đánh nhiều tháng nhưng cuối cùng không thắng được quân Trịnh Tùng. Nhờ Trịnh Tùng là người thay thế xứng đáng của Trịnh Kiểm nên nhà Lê vẫn duy trì được thế cân bằng với nhà Mạc.
Nhà Lê tuy đứng vững nhưng chỉ chủ yếu trên địa bàn Thanh Hóa. Mạc Kính Điển nhiều lần đánh Thanh Hóa không thắng nhưng khi đốc suất thủy quân vào đánh Nghệ An, nhờ sức tướng Nguyễn Quyện và Hoàng Quận công Mạc Đăng Lượng, lần nào cũng thắng. Đại Việt sử ký toàn thư ghi nhận: "Dân Nghệ An sợ thế giặc (Mạc) đã lâu, quan quân (nhà Lê) xa cách không thể cứu ứng được, phần nhiều hàng họ Mạc". Từ sông Lam vào Nam lại theo nhà Mạc. Sau đó phía nam nhà Mạc bị mất nốt Thuận Hoá, Quảng Nam vì xa cách nên không thể cứu ứng, tướng Mạc Lập Bạo gặp phải địch thủ lớn là Nguyễn Hoàng bị thua trận chết. Mặc dù Nguyễn Quyện và Hoàng quận công Mạc Đăng Lượng đánh thắng quân Lê nhiều lần ở Nghệ An nhưng vì địa thế cách trở, xa Đông Kinh ở Bắc Bộ không tiếp ứng được nên cuối cùng quân chủ lực của Mạc lại phải rút đi, quân Mạc lại yếu thế trước quân Trịnh. Lê Trịnh được yên phía nam nhờ sức của Nguyễn Hoàng. Nhà Mạc mất hẳn phía nam và chỉ còn kiểm soát Bắc Hà.
Những năm sau đó Mạc Kính Điển tiếp tục vào đánh Thanh Hóa vài lần nhưng vẫn không đánh bại được quân Lê-Trịnh.
Tháng 10 năm 1580, Mạc Kính Điển mất, Mạc Đôn Nhượng lên thay làm phụ chính. Nhà Mạc không có ai thay thế xứng đáng vai trò của ông nên chỉ hơn 10 năm sau thì bị Lê-Trịnh đánh bại (1592).
Nhận định
Tài năng, đức độ của Mạc Kính Điển chẳng những khiến người trong triều Mạc tôn kính mà ngay phía đối phương cũng phải nể sợ. Cho dù nhà Mạc là kẻ thù không đội trời chung với nhà Lê trung hưng, sách Đại Việt Sử ký Toàn thư do các sử gia nhà Lê soạn phải thừa nhận: "Kính Điển là người nhân hậu, dũng lược, thông minh, tài trí, nhạy bén, hiểu đời, từng trải nhiều gian nan nguy hiểm, cần lao, trung thành"; sách Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn cũng ghi nhận: "Ông tiếp đãi quan liêu có lễ độ, đối với quân sĩ có ân nghĩa, từng trải qua biết bao sự gian hiểm, mà vẫn cần lao trung thành, thời bấy giờ tựa vào ông làm trọng. khi ông chết, lòng người trong nước đều dao động!" và "Kính Điển là người nhân hậu, linh mẫn, dũng cảm có thừa".
Mặc dù trong những lần mang quân vào đánh Thanh Hoá, Mạc Kính Điển thường không thắng được quân nhà Lê nhưng tài chèo lái của ông với nhà Mạc trước nhiều cơn nguy biến và những cuộc chống trả thành công của ông trước những cuộc tấn công ra bắc của họ Trịnh khiến nhà Mạc vẫn đứng vững.
Sau khi Thái tổ Mạc Đăng Dung mất, ông là trụ cột lớn nhất; và sau khi ông mất không có người thay thế xứng đáng cho nhà Mạc. Cái chết của Mạc Kính Điển là tổn thất không thể bù đắp với nhà Mạc. Bởi vậy không lâu sau sự ra đi của ông, nhà Mạc mất theo.
Ông mất đi nhưng ảnh hưởng của ông đối với người trong nước vẫn còn, người ta nhớ đến ông mà không nhớ Mạc Mậu Hợp. Bởi thế sau khi mất Thăng Long, các gia thuộc khác của họ Mạc nhanh chóng bị dẹp tan, trong khi đó các con ông là Mạc Kính Chỉ, Mạc Kính Cung còn chiếm cứ nhiều nơi ở Bắc Bộ trong vài chục năm và các cháu, chắt là Mạc Kính Khoan, Mạc Kính Vũ tiếp tục duy trì cục diện cát cứ ở Cao Bằng thêm gần 1 thế kỷ nữa.
Hậu duệ
Theo Đại Việt thông sử, Mạc Kính Điển có chín người con trai và 9 người con gái |
Công ước Genève về đối xử nhân đạo đối với tù binh, hàng binh chiến tranh là công ước về các quy tắc mà các nước đã phê chuẩn hoặc chưa phê chuẩn được khuyến cáo tuân theo khi đối xử với tù binh, hàng binh chiến tranh và dân thường trong vùng chiếm đóng.
Sự cần thiết
Lịch sử loài người gần như là lịch sử của các cuộc xung đột liên miên giành đất đai, tài sản, quyền lực giữa các phe nhóm, dân tộc và không tránh khỏi việc có nhiều người bị tổn hại tính mạng, tài sản, danh dự hoặc bị truy bức, chịu nhục hình như các tù binh, hàng binh, dân thường trong vùng bị chiếm đóng. Để giảm bớt các tổn hại mà người của các bên đều gặp phải trong các cuộc xung đột, một số nước ở châu Âu đã lập ra công ước Genève và sau này nó được nhiều nước khác tham gia, phê chuẩn.
Các khái niệm
Tù binh chiến tranh là những quân nhân bị bắt khi tham gia chiến đấu trong một cuộc chiến giữa các bên.
Hàng binh chiến tranh là quân nhân đầu hàng trong một cuộc chiến giữa các bên.
Trong một cuộc chiếm đóng, một số người lính hoặc dân theo một tổ chức hoặc nhóm chống đối sự chiếm đóng bằng vũ lực không có đồng phục, phù hiệu, biên chế cụ thể còn gọi là các du kích vẫn được hưởng quy chế đối xử nhân đạo như là tù binh và hàng binh chiến tranh khi bị bắt hoặc đầu hàng lực lượng chiếm đóng.
Nội dung
Đối xử nhân đạo với tù binh và hàng binh chiến tranh là các hướng dẫn về việc bảo toàn an toàn tính mạng, danh dự, phẩm giá tù binh và hàng binh. Nó bao gồm các khuyến cáo về việc trợ giúp cứu chữa cho người bị thương; các hành vi bị khuyến cáo không được phép dùng để truy bức về tinh thần và thể xác; các hình thức, các nhục hình và các lời nói làm xúc phạm đến nhân phẩm người bị bắt hoặc xúc phạm niềm tin tôn giáo, tín ngưỡng hoặc lý tưởng người bị bắt; các khuyến cáo về việc không được dùng tù binh và hàng binh làm con tin hoặc bia đỡ đạn, hoặc lao động khổ sai... các hướng dẫn về việc sinh hoạt tối thiểu của người bị bắt về vệ sinh, lương thực, thuốc men, thực phẩm tuỳ theo điều kiện cho phép của các bên và tình hình chiến trường.
Công ước Genève cũng khuyến cáo các hành vi của lực lượng chiếm đóng đối với dân thường trong việc nhanh chóng lập lại trật tự xã hội, đảm bảo an toàn tính mạng, tài sản của dân thường và việc cung cấp các phương tiện sống căn bản và chăm sóc y tế căn bản cho nạn nhân chiến tranh.
Công ước Genève cũng xác định các quyền lợi và nghĩa vụ của lực lượng chiếm đóng trong việc được tiếp tục sở hữu các tài sản và quyền lợi của chính quyền cũ về cơ sở hạ tầng và cơ sở kinh tế nhưng lực lượng chiếm đóng phải gánh chịu các nghĩa vụ nợ của chính quyền cũ, kể cả các món nợ lương và lương hưu của các nhân viên dân sự phục vụ chính quyền cũ hoặc các món nợ kinh tế vay từ bên ngoài không phục vụ trực tiếp cho chiến tranh.
Thực hiện
Tuy rằng có phê chuẩn và mở rộng các khái niệm giúp cho các đối xử với tù binh, hàng binh và dân thường trong vùng bị chiếm đóng có tốt hơn, nhân đạo hơn so với trước khi có Công ước nhưng Công ước này chỉ được các bên thực hiện theo tình hình thực tế chiến trường và phần nào theo ý thức của cấp chỉ huy cũng như binh lính.
Đức quốc xã
Sau khi mở rộng khái niệm về lực lượng du kích người Đức đã xem các thành viên lực lượng này khi bị bắt là tù binh hoặc tù binh nhưng có nhiều nguồn cho thấy quân đội phát xít Đức đã không tuân thủ nghiêm Công ước và đã dùng nhục hình, ép buộc lao động khổ sai và giết hại tù binh Liên Xô cũng như các tù binh của nước đồng minh khác như trong các vụ Thảm sát tại Malmédy, Thảm sát tại Boves,
Đế quốc Nhật
Quân đội Phát xít Nhật bị xem là vi phạm Công ước khi tàn sát thường dân ở Nam Kinh trong vùng họ chiếm đóng, họ cũng bị xem là vi phạm nghiêm trọng Công ước Genève khi tiếp tục chính sách nhổ lúa trồng đay của Chính quyền thực dân Pháp đồng thời không tổ chức vận chuyển lương thực từ miền Nam ra Bắc đúng mức, bàng quan trước cái chết của gần 2 triệu người dân Việt trong Nạn đói Ất Dậu, họ được nhiều người biết đã truy bức, nhục hình và buộc lao động khổ sai các tù binh người da trắng trong các trại ở Thái Lan, Miến Điện khi thi công tuyến đường sắt qua sông Kwai.
Liên Xô
Học giả Nicolas Werth cho biết chỉ trong 2 tháng năm 1918, số nạn nhân bị giết của tân chế độ Lenin là từ 10.000 đến 15.000. Con số này lấy từ báo cáo của Mật vụ Cheka, sau khi tác giả ghi lại các huấn thị của chính Lenin về việc phải trừng phạt những kẻ bất phục tùng được gọi là những "tên Gulaks. Dù vậy, số người bị giết ở mức ước lượng tối thiểu trong chỉ 2 tháng dưới chế độ Lenin đã nhiều gấp hơn 10 lần so với số nạn nhân của chế độ Nga Hoàng trọn năm 1906 là năm đàn áp dữ dội nhất do phản ứng chống cuộc cách mạng 1905. Theo tác giả trong vòng gần một thế kỷ dưới chế độ Nga hoàng kể từ 1825 đến 1917, tổng số người bị giết chỉ có 6.321 nạn nhân. Số người bị tống vào tù dưới chế độ Lenin thì trong 2 năm từ 1919 tới 1921 đã tăng từ 16 ngàn lên 70 ngàn không kể nhiều trại tù địa phương có nơi lên tới 50 ngàn trong mùa thu 1921.
Tại Estonia, ngày 14 tháng 1 năm 1920, trước khi rút lui vì thất bại, Hồng quân giết 250 người tại Tartu và hơn 1000 người tại Rakvere. Khi Wesenburg được giải phóng vào ngày 17 tháng 1 năm 1920, người ta khám phá ra 3 mồ chôn tập thể với 86 tử thi. Tại Tartu, các con tin bị bắn ngày 26 tháng 12 năm 1919 sau khi bị đập gãy tay chân và có người bị khoét mắt. Ngày 14tháng 1 năm 1920, nhóm Bolshevik chỉ kịp giết 20 người trong số 200 người bị giam giữ ở Tartu. Tổng giám mục Plato bị giết vào dịp này nhưng "bởi vì những nạn nhân đã bị đánh túi bụi bằng búa rìu và báng súng nên cực kỳ khó khăn để nhận diện".
Liên Xô là một nước có phê chuẩn công ước này nhưng cũng có nguồn cho rằng quân đội Liên Xô cũng có giết hại tù binh Đức hoặc tù binh Ba Lan.
Sau việc sáp nhập Ba Lan năm 1939, hàng ngàn sĩ quan Ba Lan gồm cả quân dự bị, đã bị hành quyết vào mùa xuân năm 1940, trong cái sau này được biết đến là cuộc Thảm sát Katyn.
Xô Viết còn quyết tâm trừng phạt những kẻ mà họ cho là hợp tác với Đức trong chiến tranh. Hàng triệu người Ba Lan, Latvia, Gruzia, Ukraina và các sắc tộc thiểu số khác bị trục xuất tới các Gulag ở Siberi, vào khoảng 13 triệu vào năm 1953 và giảm còn 5 triệu vào năm 1956-1957. Trong tổng số 12,4 triệu thường dân Liên Xô chết trong Chiến tranh thế giới thứ hai, từ 2,5 cho tới 3,2 triệu người đã chết không phải do sự chiếm đóng của quân Đức mà do sự trả thù của chính quyền Xô viết với những người họ cho là đã cộng tác với quân Đức của chính quyền Xô viết
Có tới 600.000 thường dân tại 3 quốc gia ven biển Baltic là Latvia, Litva và Estonia, 2 triệu rưỡi người Ba Lan, 80.000 người Tiệp Khắc cùng 300.000 người România đã bị bắt giữ, tù đày hoặc sát hại bởi lực lượng Liên Xô
Trung Quốc
Trong trận Hải chiến Hoàng Sa 1974 một số tù binh Việt Nam Cộng hòa đã được Trung Quốc giao trả qua Hội chữ thập đỏ Hồng Kông. Trung Quốc cũng đã bị phê phán vi phạm Công ước trong cuộc Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979 khi họ đập phá trường học, bệnh xá, đâm lủng nồi, đổ thuốc độc xuống giếng nước, nhằm mục đích gây khó khăn cho cuộc sống 3,5 triệu người dân thường Việt Nam ở vùng biên giới. Việc cản trở cứu nạn các chiến sĩ hải quân của Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở quần đảo Trường Sa sau khi bị Trung Quốc bắn chìm tàu cũng được xem là cố ý vi phạm công ước này..
Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là nước đã phê chuẩn Công ước và Chính phủ Hoa Kỳ có ý thức bảo vệ công ước này cũng như chịu sự theo dõi của báo chí Hoa Kỳ cũng như Hội chữ thập đỏ quốc tế về việc thực hiện Công ước. Nhưng trong Chiến tranh Việt Nam binh lính Hoa Kỳ đã không nghiêm chỉnh chấp hành công ước, đã có bằng chứng về sự giết hại tù binh, hàng binh chiến tranh cũng như giết hại dân thường trong vùng họ chiếm đóng. Nhìn chung quân lính Hoa Kỳ, hoặc không phân biệt được du kích và dân thường, hoặc do tâm lý ám ảnh giết chóc và hoảng loạn nên đã giết nhiều dân thường vô tội ở các nơi trên thế giới. Tiêu biểu là Thảm sát Mỹ Lai bị vạch trần bởi cuộc điều tra độc lập của một nhà báo.
Không quân Hoa Kỳ cũng thường xuyên ném bom giết hại dân thường. Trong cuộc không kích Dredsen, ước tính có từ 50 tới 300 ngàn thường dân bị giết hại. Trong cuộc Ném bom Tokyo 1945, bom Napan giết hại hơn 200 ngàn dân thường Nhật. Đặc biệt là 2 vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki với tổng số nạn nhân bị chết là 250 ngàn, đa số là dân thường. Trong các vụ ném bom thuộc chiến dịch Sấm rền, ước tính đã có khoảng 72.000 dân thường bị chết
Ngày 13 tháng 1 năm 2001 trong cuộc Chiến tranh chống khủng bố lần đầu tiên sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush ký lệnh thiết lập tòa án quân đội để xét xử người nước ngoài nào bị nghi ngờ có liên hệ với kế hoạch khủng bố tại Hoa Kỳ. Tuy nhiên, Hoa Kỳ không công nhận các "chiến sĩ tử vì đạo" của các Tổ chức chiến đấu Hồi giáo hoặc các tổ chức mà Chính phủ Hoa Kỳ xác định là tổ chức khủng bố là các quân nhân hoặc du kích vì vậy các đối tượng này không được hưởng các chế độ dành cho tù binh, hàng binh của Hoa Kỳ, họ bị giam giữ không thông qua xét xử ở Guatanamo (Cuba) hoặc chuyên chở qua một số nước châu Âu để giam trong các nhà tù bí mật mặc dù một phần trong số đó bị bắt trên chiến trường, có vũ khí, có tổ chức. Vụ bê bối nhà tù Guantanamo với việc binh lính Mĩ tra tấn và lăng nhục tù nhân, cùng với các cáo giác rằng CIA đã tra tấn các tù nhân ở châu Âu đã trở thành chủ đề tranh cãi lớn trên thế giới.
Anh
Chính phủ Anh đã phê chuẩn Công ước Genève nhưng quân lính của Hoàng gia Anh cũng bị phê phán là đã không chấp hành đúng công ước này trong khi cai trị các thuộc địa Anh. Chính phủ Hoàng gia Anh đã bị nhà thơ Rabindranath Tagore, người đạt được giải Nobel văn chương 1913 phản đối vì vi phạm công ước khi trong cuộc cuộc thảm sát Jaliyaanwala Bagh, Amritsar, Ấn Độ vào năm 1919, lính Anh đã nã súng vào nhóm thường dân tụ tập không vũ trang, giết hơn 500 người đàn ông, phụ nữ và trẻ em vô tội.
Ngoài ra, Chính phủ Anh lại có cách hiểu tương tự Hoa Kỳ về cái gọi là "phần tử khủng bố". Một số thành viên của các tổ chức mà bị Chính phủ Anh liệt vào danh sách khủng bố hoặc một số người dân có các hành vi gây ra nghi ngờ là khủng bố có thể bị Cảnh sát Anh bắn chết ngay tại chỗ dù đã bị bắt. Những người này không được Chính phủ Anh xem là tù binh và hàng binh chiến tranh thậm chí trong trường hợp khi bị bắt họ có vũ khí và họ hành động có tổ chức. Chính phủ Anh đã bị báo chí tố cáo là ngầm cho phép các chuyến bay chở các nghi phạm khủng bố của Hoa Kỳ bay qua không phận Anh mà không xem xét tư cách của các người này vì rằng họ chưa qua xét xử tức không phải là tù nhân chiến tranh, họ cũng không phải là tù binh chiến tranh.
Ngày nay nhiều nước phê chuẩn và mở rộng các khái niệm về tù binh và hàng binh chiến tranh, có nước quy định việc dùng tù binh hoặc dân thường làm bia đỡ đạn là tôi phạm chiến tranh, có nước còn nghiêm cấm việc đưa hình ảnh của tù binh có ý bôi bác nhân phẩm hoặc làm thay đổi cách nhìn của người dân lên báo chí, phim ảnh hoặc mạng Internet, có nước nghiêm cấm việc đưa các hình ảnh có cảnh hành hạ thi thể tù binh.
Nhưng chừng nào còn có xung đột, mâu thuẫn mà các bên không phổ biến công khai, rộng rãi nội dung của công ước này; không tổ chức học tập công ước đến tận người lính, người dân thường, thì việc vi phạm công ước lại càng dễ dàng xảy ra.
Đặc biệt là khi có sự chênh lệch lớn về lực lượng, trình độ vũ khí của các bên thì tù binh, hàng binh và người dân thường của bên mạnh hơn lại càng ít được công ước này bảo vệ, họ trở thành con tin và vũ khí tuyên truyền của bên yếu thế hơn.
Chú thích |
Đảng uỷ Khối các cơ quan Trung ương hay còn gọi là Ban Chấp hành Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương là cấp ủy trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp và thường xuyên của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Đây cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương giữa hai nhiệm kỳ Đại hội, có chức năng lãnh đạo, kiểm tra, giám sát các tổ chức cơ sở đảng trực thuộc phát huy vai trò hạt nhân chính trị, lãnh đạo cán bộ đảng viên và cán bộ, công chức, viên chức, người lao động chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của cấp ủy cấp trên, của Đảng ủy, bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của Ngành, của cơ quan đơn vị. Xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh gắn với xây dựng chính quyền và các đoàn thể trong Khối các cơ quan Trung ương vững mạnh.
Lịch sử
Năm 2007, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định thành lập Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương trên cơ sở tổ chức lại 7 đảng bộ khối trực thuộc Trung ương và Ban Cán sự Đảng Ngoài nước, bao gồm tổ chức đảng trong các cơ quan Trung ương của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, tổ chức xã hội ở cả trong và ngoài nước.
Từ 92 tổ chức đảng trực thuộc Đảng ủy Khối đến năm 2010 còn 60 tổ chức đảng trực thuộc, trong đó có 34 đảng bộ cấp trên cơ sở, 26 đảng bộ cơ sở.
Đến 6/2020, Đảng ủy Khối có 34 đảng bộ cấp trên cơ sở, 563 đảng bộ cơ sở, 533 chi bộ cơ sở, 101 đảng bộ bộ phận, 5.437 chi bộ trực thuộc đảng ủy.
Chức năng
Tại Quy định số 64-QĐ/TW ngày 20 tháng 2 năm 2003 của Ban Chấp hành Trung ương về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Đảng uỷ khối cơ quan Trung ương, Ban Bí thư đã quy định chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Đảng uỷ khối cơ quan Trung ương như sau: Đảng uỷ khối cơ quan Trung ương là cấp uỷ cấp trên trực tiếp của các đảng bộ, chi bộ trong các cơ quan Trung ương (thuộc khối), đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư; có chức năng lãnh đạo các tổ chức cơ sở đảng trong các cơ quan Trung ương (thuộc khối) phát huy vai trò hạt nhân chính trị lãnh đạo cán bộ, đảng viên và công nhân viên trong cơ quan, đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, xây dựng đảng bộ trong sạch, vững mạnh gắn với xây dựng cơ quan và đoàn thể ở các cơ quan, đơn vị trong khối vững mạnh.
Nhiệm vụ
Lãnh đạo, chỉ đạo các đảng bộ, chi bộ trực thuộc phát huy vai trò hạt nhân chính trị lãnh đạo cán bộ, đảng viên và công nhân viên trong cơ quan, đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao đúng với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; không ngừng cải tiến, nâng cao hiệu quả, hiệu suất công tác; góp ý kiến với lãnh đạo các cơ quan, đơn vị và đề xuất với Trung ương những vấn đề cần thiết nhằm bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ chính trị của các cơ quan thuộc khối.
Lãnh đạo các đảng bộ, chi bộ làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và công nhân viên trong cơ quan, đơn vị quán triệt và chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị; bồi dưỡng nâng cao trình độ kiến thức, năng lực hoạt động thực tiễn cho cán bộ, đảng viên.
Lãnh đạo đảng bộ thực hiện công tác kiểm tra, giữ gìn kỷ luật đảng, phát hiện cán bộ, đảng viên vi phạm, ngăn chặn kịp thời những biểu hiện về tư tưởng và việc làm trái với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; chống quan liêu, cục bộ, gia trưởng, vi phạm về tổ chức, kỷ luật, suy thoái về tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác; bảo đảm đoàn kết nội bộ.
Lãnh đạo, chỉ đạo và hướng dẫn xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh, thực hiện đúng Điều lệ Đảng và các quy định của Trung ương về nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng; bồi dưỡng cấp uỷ viên về phẩm chất, năng lực lãnh đạo; chăm lo công tác phát triển đảng viên; thực hiện việc khen thưởng và kỷ luật.
Lãnh đạo, chỉ đạo các đảng bộ, chi bộ chăm lo xây dựng các đoàn thể trong các cơ quan, đơn vị thuộc khối bảo đảm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo Điều lệ của các đoàn thể.
Tham gia ý kiến về nhân sự diện Trung ương quản lý theo quy chế quản lý cán bộ của Trung ương.
Lãnh đạo đảng bộ thực hiện các chủ trương của Trung ương về công tác bảo vệ chính trị nội bộ; nhiệm vụ quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đề cao cảnh giác, giữ gìn bí mật của Đảng và Nhà nước.
Mối quan hệ
Quan hệ giữa đảng ủy khối với các Ban Đảng ở Trung ương trong khối là quan hệ phối hợp công tác, định kỳ thông báo tình hình và kế hoạch công tác hoặc khi cần thiết tổ chức họp liên tịch đảng ủy khối và lãnh đạo ban để góp ý kiến và phối hợp lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chuyên môn và xây dựng đảng bộ.
Quan hệ giữa Đảng ủy khối với Đảng đoàn và Ban Cán sự Đảng trong khối là quan hệ phối hợp nhằm gắn công tác xây dựng các tổ chức đảng trong khối với xây dựng cơ quan bộ, ngành, đoàn thể thuộc khối và thúc đẩy hoàn thành nhiệm vụ chính trị. Định kỳ đảng ủy khối thông báo tình hình và chủ trương xây dựng Đảng bộ để lãnh đạo các Ban Đảng, các Đảng đoàn, Ban Cán sự Đảng trong khối chủ động có kế hoạch phối hợp và góp ý kiến; khi cần thiết có thể họp liên tịch. Đối với các cuộc họp liên tịch nói ở điểm 1 và 2, tuỳ tính chất, yêu cầu, nội dung cần phối hợp mà Đảng ủy khối hoặc lãnh đạo Ban Đảng hoặc Đảng đoàn, Ban Cán sự Đảng chủ động đề xuất và mời, sau khi đã trao đổi thống nhất trước.
Quan hệ giữa Đảng ủy khối với các cấp ủy địa phương là quan hệ phối hợp để quản lý và kiểm tra hoạt động của đảng viên trong khối được giới thiệu về giữ mối liên hệ với đảng ủy, chi ủy nơi cư trú và tham gia sinh hoạt trên địa bàn dân cư.
Ban Thường vụ Đảng ủy Khối khóa XIII (2020 - 2025)
Cơ quan giúp việc
Văn phòng
Ban Tổ chức
Ban Tuyên giáo
Ban Dân vận
Ủy ban kiểm tra
Đoàn Thanh niên
Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị
Các Đảng bộ, đảng ủy trực thuộc
Các cơ quan của Đảng
Đảng ủy Văn phòng Trung ương Đảng
Đảng ủy Ủy ban Kiểm tra Trung ương
Đảng ủy Ban Tổ chức Trung ương
Đảng ủy Ban Tuyên giáo Trung ương
Đảng ủy Ban Nội chính Trung ương
Đảng ủy Ban Kinh tế Trung ương
Đảng ủy Ban Đối ngoại Trung ương
Đảng ủy Ban Dân vận Trung ương
Đảng ủy Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Đảng ủy Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật
Đảng ủy Báo Nhân dân
Đảng ủy Tạp chí Cộng sản
Các cơ quan của Quốc hội
Đảng ủy Văn phòng Quốc hội
Các cơ quan của Chính phủ
Đảng ủy Bộ Công Thương
Đảng ủy Bộ Giáo dục và Đào tạo
Đảng ủy Bộ Giao thông Vận tải
Đảng ủy Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Đảng ủy Bộ Khoa học và Công nghệ
Đảng ủy Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội
Đảng ủy Bộ Ngoại giao
Đảng ủy Bộ Nội vụ
Đảng ủy Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Đảng ủy Bộ Tài chính
Đảng ủy Bộ Tài nguyên và Môi trường
Đảng ủy Bộ Thông tin và Truyền thông
Đảng ủy Bộ Tư pháp
Đảng ủy Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Đảng ủy Bộ Xây dựng
Đảng ủy Bộ Y tế
Đảng ủy Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Đảng ủy Thanh tra Chính phủ
Đảng ủy Văn phòng Chính phủ
Đảng ủy Ủy ban Dân tộc
Đảng ủy Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp
Đảng ủy Văn phòng Chủ tịch nước
Đảng ủy Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
Đảng ủy Bảo hiểm Xã hội Việt Nam
Đảng ủy Đài Truyền hình Việt Nam
Đảng ủy Đài Tiếng nói Việt Nam
Đảng ủy Thông tấn xã Việt Nam
Đảng ủy Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Đảng ủy Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Các cơ quan khác
Đảng ủy Tòa án nhân dân tối cao
Đảng ủy Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Đảng ủy Kiểm toán Nhà nước
Đảng ủy Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Đảng ủy Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
Ban Chấp hành Đảng bộ qua các thời kỳ |
Bình phương tối thiểu tuyến tính là một kỹ thuật trong ngành tối ưu toán học để tìm một nghiệm gần đúng cho một hệ phương trình tuyến tính không có nghiệm chính xác. Điều này thường xảy ra khi số phương trình là (m) lớn hơn số biến (n). (Xem thêm linear regression.)
Định nghĩa
Theo từ ngữ toán học, chúng ta muốn tìm nghiệm của "phương trình"
,
với A là một ma trận cỡ m-nhân-n (với m > n) và x và b theo thứ tự đó là vectơ cột với n- và m-hàng. Một cách chính xác hơn, ta muốn làm tối thiểu chuẩn Euclidean bình phương của phần dư Ax − b, nghĩa là, đại lượng
với [Ax]i ký hiệu phần tử thứ i của vectơ Ax. Do đó mà có cái tên "bình phương tối thiểu".
Sử dụng sự kiện bình phương chuẩn của v là vTv, với vT ký hiệu cho ma trận chuyển của v, ta viết lại biểu thức trên như là
Hai hạng tử ở giữa là như nhau, do đó giá trị tối thiểu có thể được tìm tại zero của đạo hàm theo biến x,
Do vậy là tối thiểu x là nghiệm của phương trình normal sau đây
Để ý rằng điều này tương đương với một hệ phương trình tuyến tính. Ma trận ATA ở phía bên trái là một ma trận vuông, và khả nghịch nếu như A có đầy rank theo cột (nghĩa là, nếu như rank của A là n). Trong trường hợp đó, nghiệm của hệ phương trình tuyến tính là duy nhất và được cho bởi
Ma trận gọi là ma trận giả nghịch đảo của A. Chúng ta không thể sử dụng ma trận nghịch đảo thật sự của A (nghĩa là, ), vì nó không tồn tại do A không phải là một ma trận vuông (m ≠ n).
Tính toán
Nếu ma trận ATA đầy rank và ổn định (well-conditioned), phương trình normal có thể được giải trực tiếp bằng phân tích Cholesky ATA = RTR, cho ta:
với R là một ma trận tam giác trên (ma trận mà các số phía dưới đường chéo đều bằng 0,upper triangular matrix).
Một phương pháp chậm hơn nhưng ổn định hơn, vẫn làm việc nếu A không đầy rank, có thể đạt được bằng cách tính phân tích QR A = Q R. Sau đó ta có thể giải
với Q là một ma trận trực giao và R là một ma trận tam giác trên.
Một cách thứ ba là sử dụng singular value decomposition (SVD). Nếu là singular value decomposition của A, thì ma trận giả nghịch đảo của A là
V Σ+ U*, so
với Σ+ là ma trận chuyển của Σ với mọi phần tử khác 0 được thay bằng phần tử nghịch đảo. Phương pháp này cần dùng nhiều sức máy nhất, nhưng rất hữu ích nếu như ma trận A rất không ổn định (i.e. nếu như số điều kiện của nó nhân với sai số của máy khá lớn). Trong trường hợp đó, thêm vào những giá trị nhỏ nhất của các giá trị singular trong ma trận nghịch đảo chỉ cộng thêm nhiễu vào đáp số. Điều này có thể được chữa bằng tiếp cận sử dụng SVD, cho ra một lời giải chính xác hơn và ổn định hơn, bằng cách đặt bằng zero tất cả các giá trị singular dưới một ngưỡng nào đó và mặc kệ chúng, trước khi tính toán ma trận giả nghịch đảo.
Áp dụng
Phương pháp bình phương tối thiểu tuyến tính có thể được sử dụng để tìm một hàm affine Rn → R khớp nhất với một tập hợp dữ liệu cho trước (xem phương pháp bình phương tối thiểu).
Ví dụ
là một mô hình regression tuyến tính, với phần phải là một tổ hợp tuyến tính của các tham số α, β, và γ; hơn nữa, các đánh giá bình phương tối thiểu của các tham số này là tuyến tính trong vector của các giá trị quan sát y.
Chúng ta viết hàm tuyến tính cần tìm như là một ma trận 1-nhân-n xT (do đó x thật ra là 1 vectơ cột, xem thêm biến đổi tuyến tính).
Tập dữ liệu gồm có m (n + 1)-bộ số (x1,..., xn, y). Những giá trị này được viết vào một ma trận m-nhân-n A và một vector b, với mỗi bộ tương ứng với một hàng của A, và y trở thành các phần tử tương ứng trong b.
Sau đó,
Ax ≈ b
cho ta hàm số x cần tìm.
Ví dụ
Cho các điểm (0, 3), (2, 3), (4, 4), (−1, 2). Chúng ta tìm một lời giải có dạng αx + β = y, nghĩa là,
Chúng ta sau đó có thể lập ma trận A:
và vectơ b
và sau đó
Do đó, phương trình normal là
Sau đó,
and
và đường thẳng tốt nhất là (20/59)x + 152/59 = y. |
Sihanoukville (tiếng Khmer: ក្រុងព្រះសីហនុ), phiên âm tiếng Việt là Xi-ha-núc-vin, tên khác: Kampong Som, Kampong Saom, Kâm Póng Sao, là một thành phố cảng ở phía nam Campuchia và là thủ phủ của tỉnh Sihanoukville (Preah Sihanouk). Thành phố này có cảng nước sâu duy nhất ở Campuchia, có các bãi biển thu hút khách du lịch.
Thành phố được đặt tên theo cựu quốc vương Campuchia Norodom Sihanouk, có dân số khoảng 89.800 người và khoảng 66.700 người ở trung tâm đô thị năm 2008. Đây là một thành phố tương đối trẻ, nó đã phát triển song song với việc xây dựng Cảng tự trị Sihanoukville, bắt đầu vào tháng 6 năm 1955, là cửa ngõ của quốc gia để trực tiếp và thương mại biển quốc tế không hạn chế. Thành phố có cảng nước sâu duy nhất ở Campuchia bao gồm một nhà ga dầu mỏ và một cơ sở hậu cần vận chuyển. Nhơ đó, Sihanoukville đã trở thành một trung tâm quốc gia hàng đầu về thương mại, thương mại, giao thông và sản xuất quy trình.
Nhiều bãi biển của Sihanoukville và các hòn đảo gần đó đã trở thành khu nghỉ mát ven biển hàng đầu của Campuchia với số lượng khách du lịch quốc tế tăng dần kể từ cuối thế kỷ 20. Nhờ vào sự đa dạng về kinh tế, vẻ đẹp tự nhiên của khu vực và tiềm năng giải trí đáng kể, số lượng người dân nước ngoài thường trú theo mùa và thường xuyên làm cho Sihanoukville trở thành một trong những trung tâm dân cư đa dạng về văn hóa và năng động nhất ở Campuchia. Tính đến năm 2014, ngành du lịch vẫn không đáng kể so với các nước láng giềng như Thái Lan. Tương lai của Sihanoukville sẽ được xác định bởi khả năng quản lý cân đối thành công của chính quyền nhằm bảo vệ và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và nhu cầu phát triển đô thị và nhỏ, tăng số lượng khách truy cập, mở rộng cơ sở hạ tầng, khu vực công nghiệp và tăng dân số mặt khác.
Mặc dù là điểm đến hàng đầu của đất nước, sau nhiều thập kỷ chiến tranh và biến động thị trấn và cơ sở hạ tầng của nó vẫn còn rất rời rạc và kiến trúc không ấn tượng. Các vấn đề về cơ sở hạ tầng tồn tại, đặc biệt liên quan đến nguồn cung cấp nước và điện, trong khi các cơ sở y tế tiêu chuẩn quốc tế vẫn còn hạn chế.
Sihanoukville cũng phải đối mặt với những thách thức liên quan đến tội phạm, an ninh và an toàn với thành phố thường xuyên là trọng tâm của vụ bê bối liên quan đến tội phạm có tổ chức nghiêm trọng, tội phạm nhỏ và tham nhũng.
Tên gọi
Tên chính thức của Sihanoukville trong tiếng Khmer là Krông (thành phố), Preah (thánh) và Sihanouk, đặt tên theo Norodom Sihanouk vị vua đầu tiên của Campuchia, có nghĩa là Thành phố của vua Sihanouk.
"Sihanouk" bắt nguồn từ tiếng Phạn qua tiếng Pali là siha (sư tử) và hanu (hàm). Tên tiếng Pháp Sihanoukville cũng có nghĩa là "thành phố của Sihanouk", với Sihanouk và -ville, trong tiếng Pháp nghĩa là "trấn", như Louisville, Brazzaville,...
Tên thay thế, Kompong Saom (cũng được viết tắt là Kompong Som và Kampong Som), (tiếng Khmer: កំពង់សោម) có nghĩa là "Cảng thần trăng" hoặc "cảng Shiva".
Kompong giống như kampung trong tiếng Malay có nghĩa là làng xóm. Saom có nguồn gốc từ tiếng Phạn "saumya", kinh Vệ Đà là soma'' một thức uống nghi lễ trong văn hóa Vệ Đà cổ, có được bằng cách ép cây soma.
Lịch sử
Thời sơ khai
Trước các công trình nền móng của cảng và thành phố năm 1955, cảng Kompong Som phải chỉ có tầm quan trọng của khu vực - do thiếu các tuyến đường thủy có thể điều khiển kết nối cảng với các trung tâm giải quyết của vương quốc. Trong nhiều thế kỷ trước và trong thời Angkor - từ Phù Nam đến Chân Lạp và trong thời Đế quốc Khmer, thương mại khu vực tập trung tại O Keo (tiếng Việt: Óc Eo) ở đồng bằng sông Cửu Long, nay thuộc An Giang ở Việt Nam. Thị trấn Prey Nokor (Sài Gòn) là một trung tâm thương mại của Đế quốc Khmer. Biên niên sử Samtec Cauva Vamn Juon, một trong những biên niên sử Hoàng gia Campuchia thế kỷ 18 và 19, đề cập ngắn gọn về khu vực khi đất nước được chia thành ba phần trong cuộc nội chiến kéo dài 9 năm từ năm 1476 đến năm 1485: "Năm 1479, Dhammaraja tiếp tục ngai vàng tại Chatomuk (Phnôm Pênh) và kiểm soát các tỉnh Samraong Tong, Thbong, Kompong Saom, Kampot đến Bassak, Preah Trapeang, Kramuon Sah, Koh Slaket và Peam "(miệng sông Mekong).
Thời cận đại
Từ cuối thế kỷ 17, Campuchia đã mất quyền kiểm soát tuyến đường sông Mê Kông khi mà sức mạnh bành trướng của Việt Nam mở rộng ra vùng hạ lưu con sông này. Trong Chiến tranh Nguyễn-Xiêm (1717–1718), một hạm đội Xiêm đã đốt cháy cảng Kompong Som năm 1717 nhưng đã bị người Việt đánh bại tại Hà Tiên. Một vị vua Campuchia vào cuối thế kỷ 18, Outey-Reachea II liên minh với một công thần nhà Nguyễn gốc Trung Quốc, Mạc Thiên Tứ, người đã thiết lập một chính trị tự trị tại Hà Tiên và kiểm soát mạng lưới hàng hải ở phần phía Đông của Vịnh Thái Lan. Hà Tiên là điểm mà một con sông nối với sông Hậu chảy vào vịnh Thái Lan. Campuchia bị cố định giữ cố gắng tiếp cận với thương mại hàng hải qua Hà Tiên. Năm 1757 Hà Tiên mua lại các cảng Kampot và Kompong Som như một phần thưởng cho sự hỗ trợ quân sự của Mạc cho vua Campuchia. Cho đến khi nó bị phá hủy vào năm 1771, cảng đã phát triển thành một cảng trung chuyển miễn thuế độc lập liên kết với một số mạng lưới kinh doanh của Trung Quốc.
Alexander Hamilton, người đi du lịch đến Vịnh Thái Lan năm 1720, đã viết rằng "Kompong Som và Banteay Meas (sau này là Hà Tiên) thuộc về Campuchia, vì Nam Kỳ được chia từ Campuchia bởi một con sông (sông Bassac) của ba khu vực rộng lớn. " và "Vua Ang Em xây dựng một con đường từ thủ đô Oudong đến Kampot". Kampot vẫn là cảng biển quốc tế duy nhất của Campuchia. "Thời gian đi lại giữa Udong và Kampot là tám ngày bởi xe bò kéo và bốn ngày bởi voi." Người Pháp Résident Adhemard Leclère viết: "... Cho đến những năm 1840, người Việt Nam cai trị Kampot và Péam [đồng bằng sông Cửu Long], nhưng Kompong Som thuộc về Campuchia. Người Việt đã xây dựng một con đường từ Hà Tiên đến Svai - trên biên giới với Kompong-Som — Kampot. "
Đế quốc Anh theo sau một chính sách khác biệt vào những năm 1850, tìm cách củng cố ảnh hưởng của nó. Báo cáo nhân chứng đưa ra những hiểu biết hiếm hoi, đại diện của Ngoại trưởng Lord Palmerston, John Crawfurd đưa tin: "Campuchia là... chìa khóa của chính sách của chúng ta ở các nước này, Vua của vương quốc cổ đại đó sẵn sàng tự ném mình dưới sự bảo hộ của bất kỳ quốc gia châu Âu nào... Người Việt Nam đã can thiệp vào việc buôn bán ở Kampot, và đây sẽ là cơ sở của một cách tiếp cận... "Palmerston kết luận:" Giao dịch tại Kampot - một trong số ít các cảng còn lại, không bao giờ đáng kể, do hậu quả của lối vào chính của đất nước, sông Mêkông, với tất cả những người cấp nước chảy vào biển qua lãnh thổ của Nam Kỳ. Nước này cũng đã bị tàn phá bởi các cuộc chiến tranh gần đây của Việt Nam - Việt Nam. bất kỳ cảng nào khác ở Campuchia, không bao giờ có thể trở thành một trung tâm thương mại. " Crawfurd sau này đã viết: "Người dân Campuchia... đã tìm cách sử dụng khoảng thời gian hòa bình trong cuộc chiến tranh Việt-Xiêm (1841-1845) để phát triển giao hợp với các quốc gia bên ngoài. Việc buôn bán tại Kampot mà họ tìm cách nuôi dưỡng đã bị cướp biển." có thể được chèn vào, điều này sẽ mở ra thông thương của Bán đảo Đông Dương sang Thương mại Anh, vì dòng sông lớn của người Campuchia trải qua toàn bộ chiều dài của nó và thậm chí còn trao đổi thông tin vào trung tâm của Xiêm ".
Thời Pháp thuộc
Dưới sự cai trị của thực dân Pháp, Việt Nam, Lào và Campuchia trở thành một đơn vị hành chính và kinh tế duy nhất. Vùng ven biển Ronsidentielle với Kampot là thủ phủ của nó gồm các huyện Kampot, Kompong Som, Trang và Kong-Pisey. Việc thành lập một trung tâm thương mại quốc tế khác gần thành phố Sài Gòn hiện tại không được coi là cần thiết. Tập trung vẫn là sông Mekong và ý tưởng thiết lập một tuyến đường thay thế cho các thị trường Trung Quốc và Thái Lan dọc theo một tuyến đường thủy có thể điều hướng không bị gián đoạn từ phía nam đến đồng bằng sông Cửu Long.
Một cuộc nổi dậy diễn ra từ năm 1885 đến năm 1887 càng làm nản lòng tham vọng của người Pháp. Nó bắt đầu ở Kampot và nhanh chóng lan sang Veal Rinh, Kampong Seila, và Kompong Som, nơi quân nổi dậy được dẫn dắt bởi một tên cướp biển Trung Quốc tên là Quan-Khiêm. Ông quản lý để kiểm soát phần phía bắc của Preah Sihanouk một thời gian cho đến khi ông - một ông già - đã bị bắt giữ bởi thống đốc địa phương.
Cải thiện cơ sở hạ tầng đáng chú ý nhất trong giai đoạn này là xây dựng Route Coloniale số 17, sau đó đổi tên thành Quốc lộ 3 và hệ thống đường sắt quốc gia, mặc dù hoạt động trên "Tuyến phía Nam" - từ Phnom Penh đến Sihanoukville - chỉ bắt đầu vào năm 1960.
Thời kì độc lập
Tên thay thế của thành phố và tỉnh Kampong som đã được thông qua từ cộng đồng bản địa địa phương. Sau khi giải thể Đông Dương thuộc Pháp vào năm 1954, rõ ràng là việc kiểm soát chặt chẽ đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam yêu cầu một giải pháp để tiếp cận không hạn chế đối với các vùng biển. Kế hoạch đã được thực hiện để xây dựng một cảng nước sâu hoàn toàn mới. Kompong Saom (Kampong Som) đã được chọn cho độ sâu nước và dễ tiếp cận. Vào tháng 8 năm 1955, một đội xây dựng Pháp / Campuchia đã cắt một căn cứ vào khu rừng hoang vắng trong khu vực mà bây giờ được gọi là Bãi biển Hawaii. Kinh phí xây dựng cảng đến từ Pháp và đường được tài trợ bởi Hoa Kỳ.
Trong chiến tranh Việt Nam, cảng đã trở thành một cơ sở quân sự cho cả hai phía: phục vụ Mặt trận Quốc gia giải phóng miền Nam Việt Nam và sau năm 1970, dưới sự lãnh đạo của Lon Nol, phục vụ Hoa Kỳ.
Cảng này là nơi cuối cùng được quân đội Hoa Kỳ sơ tán, chỉ vài ngày trước khi các du kích Khmer Đỏ nắm quyền kiểm soát chính phủ vào tháng 4 năm 1975. Các sự kiện xung quanh việc đưa tàu container của Mỹ SS Mayaguez và thủy thủ đoàn của nó vào ngày 12 tháng 5 bởi Khmer Đỏ và chiến dịch cứu hộ tiếp theo của Hải quân Hoa Kỳ diễn ra trên vùng biển Koh Tang ngoài khơi bờ biển Sihanoukville. Trong hai ngày hành động, Mỹ bắt đầu cuộc không kích vào các mục tiêu trên đất liền Sihanoukville bao gồm cảng, Căn cứ Hải quân Ream, sân bay, sân đường sắt và nhà máy lọc dầu ngoài các cuộc đình công và bắn súng hải quân trên một số hòn đảo.
Sau sự sụp đổ của chế độ Khmer Đỏ năm 1979 và việc mở cửa nền kinh tế tiếp theo, cảng Sihanoukville đã trở lại tầm quan trọng của nó trong sự phát triển và phục hồi của đất nước. Với việc mở thêm thị trường mới vào năm 1999, thành phố đã lấy lại vai trò của mình trong sự tăng trưởng kinh tế của Campuchia.
Năm 1993, Vườn Quốc gia Ream được thành lập theo sắc lệnh hoàng gia của cựu vua Sihanouk.
Thành phố Sihanoukville được nâng lên thành một tỉnh vào ngày 22 tháng 12 năm 2008 sau khi Vua Norodom Sihamoni ký nghị định hoàng gia chuyển đổi các đô thị của Kep, Pailin và Sihanoukville thành các tỉnh.
Năm 2006, Tập đoàn Đầu tư Koh Puos (Campuchia) đã nộp đơn, dự định đầu tư 276 triệu đô la Mỹ để chuyển đổi đảo Koh Puos rộng 116 ha, Đảo Rắn thành khu phức hợp dân cư và nghỉ dưỡng sang trọng. Sau khi hoàn thành các yếu tố nhất định của cơ sở hạ tầng, nhà đầu tư đã thông báo những thay đổi về bản thiết kế ban đầu, như "Tái đăng ký xin phép sẽ xảy ra vào năm 2014..." theo Hội đồng Phát triển Campuchia.
Vào ngày 26 tháng 5 năm 2011, khu vực Preah Sihanouk đã được gia nhập 1 câu lạc bộ ở Paris, Les Plus Belles Baies Du Monde, ("câu lạc bộ những vịnh đẹp nhất thế giới"). Tổ chức đã chính thức chấp nhận Vịnh Campuchia là một trong những thành viên của nó tại Đại hội đồng lần thứ 7 của nó.
Địa lí
Địa hình
Thị trấn Sihanoukville nằm ở đầu những ngọn đồi thoai thoải của bán đảo trên vịnh Thái Lan. Về phía tây bắc và ở trung tâm nó tăng lên đến 15 mét (49 ft) trên mực nước biển, trong khi đất nhẹ nhàng và đều đặn hướng tới các đồng bằng ven biển mở rộng, đầm lầy và bãi biển ở phía nam và đông nam. Những ngọn đồi, có một loạt các mặt bằng nhà ở, quan điểm tốt về đồng bằng ven biển, các bãi biển, các con sông, biển và các hòn đảo xác định tính chất và giá trị tự nhiên của khu vực. Một thực tế dễ chịu khác là độ sâu thấp của vịnh Thái Lan và khí hậu địa phương, vừa phải đối lập với Biển Đông ở phía đông và Ấn Độ Dương ở phía tây, nơi bão nhiệt đới Tây Bắc Thái Bình Dương và gió mùa cực đoan liên tục xảy ra hàng năm.
Kiến trúc và cảnh quan
Do mục đích được xác định rõ ràng, lịch sử rất ngắn nhưng hỗn loạn và đặc điểm vị trí của nó, Sihanoukville khác với các trung tâm đô thị khác ở Campuchia. Được thành lập sau thời kỳ bảo hộ của Pháp, các khu phong cách thuộc địa tư sản như ở Kampot, Xiêm Riệp, hoặc Phnôm Pênh không tồn tại. Kiến trúc và bố cục đường phố phụ thuộc vào các khái niệm hiện đại. Kiến trúc sư nổi tiếng người Campuchia Vann Molyvann thiết kế các vật thể trang nhã, các tòa nhà công cộng với chức năng riêng biệt, một số vẫn hoạt động. Thời kỳ ngắn ngủi của kiến trúc Khmer mới đã kết thúc vào năm 1970. Sự mâu thuẫn và hỗn loạn trong các cuộc nội chiến kéo dài đã tác động lớn hơn đến hình ảnh hiện tại của thành phố.
Năm 1959, kế hoạch đô thị đầu tiên của thành phố đã được hoàn thành cho dân số 55.000 cư dân; nó bao gồm các đường đi xe đạp và không gian xanh. Kế hoạch cũng đã đánh dấu rõ ràng việc khoanh vùng cho cảng, mạng lưới đường sắt, trung tâm thị trấn với các văn phòng thành phố, nhà ở kinh doanh và dân cư, và cuối cùng là khu du lịch ở phía nam dọc theo các bãi biển. Một nghiên cứu khả thi của Cơ quan điều hành Hoa Kỳ (USOM) đã xem xét việc cung cấp nguồn cung cấp nước mới từ Prek Tuk Sap và các đầm phá hiện có; sau đó được cải thiện (cắt từ biển) và được sử dụng làm nguồn cung cấp thị trấn ban đầu. Các hồ chứa vẫn hoạt động, mặc dù không đủ cho nhu cầu hiện nay
Những năm bất ổn sau đó có nghĩa là ít kế hoạch ban đầu đã được thực hiện. Trạng thái hiện tại của sự không nhất quán về cấu trúc là bằng chứng cho nhiều thập kỷ biến động khi lập kế hoạch bố trí là không có nghĩa là một chủ đề cân nhắc thẩm mỹ và khoa học ứng dụng.
Bắt đầu từ bến cảng, một con đường rạch vừa phải trải dài đến ngọn đồi Trạm thời tiết (Đồi Victory) và dọc theo bãi biển địa phương (Chiến thắng). Giữa khu phức hợp Ngân hàng Quốc gia và Bến tàu Victory Beach là một trong số ít các điểm trong thị trấn mang lại ấn tượng về việc đã được lên kế hoạch trước. Khu vực này kết nối với trung tâm thành phố dọc theo một đường cao tốc duy nhất thông qua các thành công bất thường điển hình của các tòa nhà dân cư, không có bất kỳ tính năng và điểm mốc nào khác biệt. Các đường cao tốc này được thiết kế để kết nối rất ít và phân tán rộng rãi các cơ sở giải quyết thực tế. Các vùng lân cận thiếu sự thân mật, do cơ sở hạ tầng một chiều. Trung tâm của thành phố là một chuỗi các khối đơn lẻ của các tòa nhà đô thị vững chắc, như ngân hàng, khách sạn trung lưu, trạm xăng, nhà thuốc, tiệm bánh Trung Quốc và các nhà bán lẻ điện tử, sau đó là các cửa hàng thực phẩm cấp thấp, cửa hàng tạm thời, xe máy dịch vụ sửa chữa xe đạp, chợ nhỏ, dịch vụ giặt ủi, gas, dịch vụ chọn lọc và cửa hàng điện thoại di động.
Quang cảnh vùng biển Ochheuteal/Serendipity
Bãi biển
Các bãi biển của Sihanoukville là một trong những nguồn tài nguyên sinh thái và kinh tế có giá trị nhất của thành phố với mức độ khai thác thương mại khác nhau. Các bãi biển được liệt kê trong phần này không bao gồm bất kỳ bãi biển nào trên đảo.
Bãi biển Ochheuteal, ឆ្នេរ អូរ ឈើទាល: là một dải dài bãi biển cát trắng dài 3,3 km (2 dặm) và mặc dù tên được dịch thành "Lạch / Cửa sông của cây Tiel" được lót bằng cây Casuarina và Tamarisk. Ô dù cỏ, ghế cho thuê trước khoảng 30 túp lều trên bãi biển tiêu chuẩn phục vụ các bữa ăn, đồ uống và giải trí. Các khách sạn hạng trung được thiết lập tốt và nhà ở cao cấp nằm dọc theo bãi biển dọc theo phần phía Bắc của nó. Sự bền vững của bãi biển Ochheuteal là sự cân nhắc chính của các bên liên quan khác nhau, mang lại sự phát triển của kế hoạch phát triển và quản lý du lịch trong năm 2005. Nửa phía Nam vẫn còn - ngoài một số khách sạn ở đầu xa - về cơ bản chưa phát triển.
Bãi biển Serendipity: là cuối phía bắc (khoảng một phần năm hoặc 600 m) của Bãi biển Ochheuteal, rất phổ biến với khách du lịch, được đặt tên bởi một người Mỹ tên là Chuck vào khoảng năm 2001 khi ông sở hữu một căn lều nhỏ trên bãi biển [49] [50]
Otres Beach, ឆ្នេរ អូរ ត្រេ ស: Được đặt tên theo dòng sông Ou Trojak Jet (dòng sông hạnh phúc thanh bình của tôi) Otres dài khoảng 4,6 km (3 dặm) và vượt ra ngoài mũi đất "Queen hill" nhỏ ở cuối phía nam của Bãi biển Ochheuteal. Dải cát trắng dài của nó, cũng được lót hoàn toàn bằng cây Casuarina và Tamarisk, ít được phát triển và thương mại hóa hơn Bãi biển Ochheuteal và đã phát triển thành một nơi nghỉ ưa thích cho du khách phương Tây. Các bãi biển được chia thành 3 khu vực chính Otres 1 hai km của khách sạn và bãi biển shacks, bãi biển dài, khu vực công viên chưa phát triển và Otres 2 với shacks và khách sạn lớn dọc theo bãi biển và liền kề sông. Từ năm 2004 đến năm 2011, bãi biển dài bị chiếm đóng bởi rất nhiều nhà gỗ và phòng ngủ tập thể, do người phương Tây điều hành. Do yếu tố bất hợp pháp của chỗ ở trên bãi biển, trong số các lý do khác, cảnh sát đã dọn dẹp khu vực vào tháng 5 năm 2011, loại bỏ phần lớn hơn của các bungalow bên bãi biển. Cấu trúc vĩnh viễn vượt ra khỏi con đường bãi biển bổ sung những nơi còn lại kể từ năm 2012. Đây là một kỳ nghỉ dưỡng rất phổ biến, được thiết lập tốt - nơi giá đã tăng đáng kể trong những năm qua. Trong năm qua vào năm 2017 đã có một số phát triển xung quanh khu vực của ngôi chùa, phía bắc của đường tiếp cận mới đến quốc lộ 4 và gần hơn vào Otres chính nó trên đường Otres chính, nơi một thị trấn Trung Quốc đang được xây dựng vào tháng 4 năm 2017.
Bãi biển Sokha: Bãi biển Sokha dài khoảng 1,2 km (1 dặm) và nằm ở phía tây Bãi biển Serendipity. Bãi biển thuộc sở hữu tư nhân của - và nửa phía nam của nó chiếm đóng bởi Sokha Beach Hotel, [51] là khách sạn 5 sao sang trọng đầu tiên ở Campuchia. Trong khi bãi biển được lưu giữ tốt và nhiều tiện nghi được cung cấp, du khách phải trả tiền cho việc sử dụng của họ và các nhà cung cấp bãi biển không được phép.
Bãi biển Độc lập: Bãi biển Độc lập dài khoảng 1,3 km (1 dặm) và nằm ở phía tây bắc của Bãi biển Sokha. Bãi biển được đặt theo tên Khách sạn Độc lập, một ví dụ khác về Kiến trúc Khmer mới, cao chót vót trên đỉnh của một tảng đá ở cuối bãi biển phía bắc.
Victory Beach: Bãi biển Victory dài khoảng 300 mét (980 feet) và nằm ở phía bắc xa nhất của bán đảo Sihanoukville. Nó đã được sử dụng rất nhiều bởi du khách ba lô và vẫn còn phổ biến với khách du lịch ngân sách. Cảng nước sâu nằm ở cuối phía bắc của bãi biển. Một tập đoàn của các doanh nhân Nga đã tiến hành phát triển quy mô lớn ở đây. Bãi biển thường xuyên được duy trì.
Bãi biển Lamherkay / Hawaii: là kế vị phía nam của Bãi biển Victory, nằm ở phía bắc của Bãi biển Độc lập. Nó là một dải có chiều dài tương tự như Victory Beach - khoảng 300 m. Đây là nơi mà nền tảng của đội xây dựng Pháp / Campuchia bắt đầu xây dựng Cảng tự trị Sihanoukville vào năm 1955.
Hun Sen (Prek Treng) Beach, ឆ្នេរ ព្រែក ត្រែង: là bãi biển phía bắc của thành phố với chiều dài khoảng 1,5 km (0,93 dặm), nằm phía sau cổng địa phương và về cơ bản có sản phẩm nào mà không túp lều bãi biển và quầy bar, nó thấy chỉ cuối tuần - và ngày lễ khách. Nước rất nông, nhưng khu vực này thiếu cơ sở hạ tầng thuận lợi và không được làm sạch thường xuyên.
Sông
Do vị trí gần biển, rừng ngập mặn chiếm phần lớn các con sông.
Rừng ngập mặn được bao bọc bởi dòng sông Ou Trojak Jet chạy từ chùa Otres đến bãi biển Otres là con sông dài nhất của Sihanoukville với cả những người chèo xuồng và đứng lên chèo thuyền. Trong khu vực rừng ngập mặn, rừng ngập mặn và barracuda là mục tiêu giải thưởng cho những người chơi thể thao, phần dưới chứa bến du thuyền. Các nhà hàng dọc theo bờ phía nam của con sông phục vụ hải sản tươi sống được cung cấp bởi các tàu đánh bắt xa bờ của địa phương.
Đảo
Tất cả các đảo được liệt kê dưới đây thuộc quyền quản lý của quận Mittakpheap của Sihanoukville. Phần lớn là trong quá trình hoặc đã được giao cho phát triển du lịch. Koh Rong và Koh Rong Sanloem nói riêng cho đến nay đã trải qua nhiều năm phát triển không được phối hợp và thực hiện riêng lẻ. Một số nhà khách và khu nghỉ mát resort cung cấp chỗ ở có nhiều tiêu chuẩn khác nhau bên bãi biển hoặc trong khu rừng tươi tốt. Mặc dù cơ sở hạ tầng rất khiêm tốn, số lượng khách tham quan đã tăng lên nhanh chóng.
Koh Rong, កោះ រ៉ុ ង: Nằm 26 km (16 dặm) về phía tây bờ biển Sihanoukville. Koh Rong là đảo lớn nhất của tỉnh Sihanoukville. Nó bao gồm một diện tích 78 km2 (30 dặm vuông). Địa hình chủ yếu là đồi núi với một ngọn núi khá lớn 316 mét (1.037 ft) tại phía tây bắc của hòn đảo này. Những ngọn đồi cung cấp nước cho lạch, đầm phá và cửa sông. Nội thất của hòn đảo gần như hoàn toàn có rừng. Mặc dù đã có rất nhiều nhà khách và quán rượu trong và xung quanh làng Koh Tuich, hòn đảo này hầu như vắng vẻ - kích thước tuyệt đối của nó lùn lùn tất cả các trung tâm giải quyết. Tính đến năm 2016, có một mạng phà hoạt động tốt giữa Sihanoukville và Koh Rong.
Koh Rong Sanloem, កោះរុងសន្លឹម: Phía Nam đảo Koh Rong và những bãi biển nhỏ xinh đẹp nằm ở phía tây và bờ biển phía đông. Nó giống với hàng xóm lớn hơn của Koh Rong về hình dạng và địa lý - mặc dù mỏng hơn một chút, được bao phủ trong khu rừng rậm rạp, thường bằng phẳng hơn (mặc dù có những ngọn đồi lớn) và ít đất đai hơn đáng kể so với bờ biển của nó. Sinh vật biển quanh Koh Rong Sanloem rất đa dạng và có nhiều điểm lặn. Tính đến năm 2016, có một mạng phà hoạt động tốt giữa Sihanoukville và Koh Rong Sanloem.
Koh Kaong Kang / Thass, កោះ កោងកាង / ថា ស: Đảo ngập mặn, Ile des Paletuviers (tên cũ của Pháp), Koh Kaong Kang / Thass - một trong những hòn đảo bên trong - đó là một nơi phổ biến cho người lặn. Koh Kaong Kang / Thass là rất bằng phẳng, do đó nước ngọt là khan hiếm - một trong những lý do tại sao không ai sống ở đó vĩnh viễn.
Koh Koun, កោះ កូន: Đảo trẻ em, Ile de Cone (tên cũ của Pháp), một hòn đảo nhỏ giữa Koh Rong và Koh Rong Sanloem, không có bãi biển, không có người ở, nhưng là điểm lặn và ống thở nổi tiếng.
Koh Tuich, កោះតូច: Đảo nhỏ, một hòn đảo nhỏ và xinh đẹp bên ngoài ngôi làng Koh Tuich của đảo Koh Rong. Có một ngôi chùa nhỏ trên đó phục vụ kể từ khoảng năm 2010. Vùng nước cạn cung cấp những điểm lặn tốt quanh đảo.
Koh Puos, កោះពស់: còn được gọi là Đảo Rắn hoặc Đảo Morakot. Hòn đảo này nằm cách Bãi biển Victory của thành phố Sihanoukville 800 m (2,625 ft). Nó đang được phát triển bởi các nhà đầu tư Nga và chuyển đổi thành một điểm đến kỳ nghỉ sang trọng và khu dân cư tiêu chuẩn cao. [54] Đảo rắn được liên kết với đất liền thông qua một cây cầu đường bộ thường xuyên kể từ khoảng tháng 7 năm 2011. Cây cầu hiện không mở cửa cho giao thông công cộng.
Koh Dek Koul, កោះ ដេក កោ ល: Hòn đảo nhỏ này nằm cách Bãi biển Chiến thắng 7 km (4 dặm) và chỉ cách Đảo Rắn vài trăm mét nữa. Công ty Nga Mirax Luxury Resort hoạt động kinh doanh khách sạn trên hòn đảo chủ yếu là đá này.
Koh Bong Po-oun / Sông Saa, កោះ បង កោះ ប្អូន: - Anh chị em / Quần đảo Lovers - Les Frères (tên cũ của Pháp), đổi tên thành đảo Koh Song Saa - Lovers - hai hòn đảo nhỏ ngoài khơi phía đông bắc Koh Rong.
Khí hậu
Sihanoukville nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa (Am). Thành phố có hai mùa: mùa mưa và mùa khô.
Nhiệt độ trung bình tối đa là khoảng 30 °C (86 °F); tối thiểu trung bình, khoảng 24 °C (75 °F). Tuy nhiên, nhiệt độ tối đa cao hơn 32 °C (90 °F) là phổ biến và ngay trước khi bắt đầu mùa mưa, chúng có thể tăng lên hơn 38 °C (100 °F). Nhiệt độ ban đêm tối thiểu thỉnh thoảng giảm xuống dưới 20 °C (68 °F). vào tháng Giêng, tháng lạnh nhất. Tháng 5 là tháng ấm nhất - mặc dù chịu ảnh hưởng mạnh từ đầu mùa mưa, vì khu vực này tạo nên rìa phía đông của gió mùa tây nam. Cơn bão nhiệt đới hiếm khi gây thiệt hại ở Campuchia.
Tổng lượng mưa trung bình năm từ 1.000 đến 1.500 mm (39,4 và 59,1 in). Lượng mưa tối đa rơi vào tháng 8 và tháng 9. Độ ẩm tương đối cao trong cả năm; thường vượt quá 90%. Trong mùa khô, độ ẩm ban ngày trung bình khoảng 50 phần trăm hoặc thấp hơn một chút, leo lên khoảng 90 phần trăm trong mùa mưa.
Các đơn vị hành chính
Thành phố Sihanoukville là thủ phủ của tỉnh Sihanoukville và được điều hành bởi một phó thống đốc của tỉnh. Thành phố Sihanoukville bao gồm các sangkat sau: Sangkat Muoy, Sangkat Pi, Sangkat Bei, Sangkat Buon. Cảng có chính quyền tự trị của riêng mình. Các sangkat được chia thành 19 làng. Sangkat thứ năm đã được tách thành Thành phố Koh Rong từ năm 2019.
Nhân khẩu
Cuộc điều tra dân số năm 2008 của Campuchia có 89.846 cư dân của thành phố Sihanoukville và khoảng 66.700 người ở trung tâm đô thị. [100]
Dân số của thành phố tách biệt với hậu duệ của những người dân bản địa không quá 3 thế hệ như sản phẩm của lịch sử gần đây, chẳng hạn như cộng đồng người Campuchia và khủng hoảng nhân đạo Campuchia và sau thời kỳ Pol Pot. Các sự kiện lịch sử dẫn đến biến động nhân khẩu học ở Campuchia là điều hiển nhiên trong xu hướng nhân khẩu học của thành phố. Với sự xuất hiện của những người tị nạn di dời, trong những thập kỷ và thế kỷ tiếp theo, một người không phải người gốc Khmer, hỗn hợp châu Á đã tăng lên một tỷ lệ cao trong tổng dân số ở khu vực thành thị.
Ngoài người Khmer, các nhóm sắc tộc như Việt Nam, Trung Quốc, Chăm, Thái Lan, Hàn Quốc, Pháp, Anh, Châu Âu, Úc và Mỹ sống trong khu vực đô thị. Do vị thế là cảng quốc tế, khối lượng và mật độ thương mại cao và tác động của ngành dịch vụ liên quan đến ngành du lịch, Krong Preah Sihanouk có chỉ số phát triển con người cao (HDI) tương đối cao 0.750, so với HDI trung bình quốc gia trong tổng số 0,523.
Kinh tế
Sihanoukville được thành lập như một cửa ngõ quốc tế trên biển và kết quả là nền kinh tế địa phương chủ yếu được xác định bởi cảng nước sâu và bến cảng dầu gần đó. Kèm theo là một cơ sở kho vận và hậu cần hàng hóa được hiện đại hóa thường xuyên, phục vụ nhiều công ty vận chuyển, giao nhận vận tải, nhà cung cấp và các nhà thầu bảo trì. Tất cả những thứ này đều nằm trong vùng lân cận của cảng. Hành lang giao thông Phnom Penh – Sihanoukville là tuyến thương mại quốc gia hàng đầu, chiếm khoảng 75% lưu lượng giao thương của Campuchia.
Các ngành kinh tế lớn khác của thành phố là thủy sản, nuôi trồng thủy sản và chế biến tôm đông lạnh, công nghiệp may mặc, sản xuất và chế biến thực phẩm, ngành du lịch không ngừng phát triển với ngành dịch vụ nổi bật và thị trường bất động sản liên quan.
Vùng kinh tế đặc biệt Sihanoukville
Khu kinh tế đặc biệt Sihanoukville (SSEZ) là khu hợp tác kinh tế và thương mại ở nước ngoài được thiết kế để thúc đẩy các điều kiện thị trường thuận lợi như: lợi thế chính sách, môi trường chính trị an toàn, tình trạng thương mại thuận lợi, hỗ trợ cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh, chi phí lao động thấp, và dịch vụ tuyệt vời. Ngoài các khu vực xung quanh cảng, một trung tâm công nghiệp khá lớn, độc quyền bao gồm các công ty Trung Quốc đã được phát triển từ năm 2010
|title= Cambodian, Chinese companies lay foundation of special economic zone in Sihanoukville |publisher= CAAI News Media |date= ngày 24 tháng 2 năm 2008 |access-date =ngày 25 tháng 6 năm 2016}}</ref>
Các công ty chính
Eurogate Garment Limited
Sary Paper Co., Ltd.
K. Som Textile Co, Ltd
Javelin Co., Ltd Industrial steel processing
Angkor Beer
Giao dịch thương mại
Giao dịch chiếm tỷ lệ cao trong nền kinh tế của thành phố. Thành phố nhập khẩu hàng hóa từ Thái Lan, Hồng Kông, Singapore và Trung Quốc trong khi xuất khẩu hàng hóa sang Hoa Kỳ, Canada, Đức và Vương quốc Anh. Thành phố này thường tái xuất nhiều loại hàng hóa nhập khẩu như điện tử, thuốc lá, xe cộ và vàng. Ngày nay, xuất khẩu chính của thành phố là hàng may mặc, nhưng nó cũng sản xuất và xuất khẩu gỗ, gỗ tròn và cao su với số lượng nhỏ.
Campuchia là một trong số ít các nước kém phát triển nhất (LDCs) xuất khẩu trên 2 tỷ USD. Kể từ khi Campuchia trở thành LDC đầu tiên gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2004, thương mại đã tăng đều đặn và Hoa Kỳ là đối tác thương mại lớn nhất của Campuchia. So với 2,3 tỷ USD xuất khẩu sang Mỹ và 153 triệu USD xuất khẩu sang Campuchia trong năm 2010, từ tháng 1 đến tháng 10 năm 2011, xuất khẩu của Campuchia sang Mỹ là 2,29 tỷ USD và xuất khẩu của Mỹ sang Campuchia là 152,6 triệu USD. [70] [ 71]
Các ngân hàng thương mại ở Sihanoukville bao gồm Ngân hàng Thương mại Campuchia, Ngân hàng Thương mại Liên minh, Ngân hàng Á Châu Campuchia, Ngân hàng Công cộng Campuchia, Ngân hàng Ngoại thương.
Cảng Tự trị
Cảng Tự trị Sihanoukville nằm trong Sangkat 1 với diện tích khoảng 124,76 ha. Cảng nằm cách 18 km từ sân bay Kaong Kang và 4 km từ trung tâm thị trấn Sihanoukville. Hành khách của tàu thủy được phép thăm thị trấn Sihanoukville. Nhà ga này cung cấp một phần các nhà vệ sinh, không có thêm các dịch vụ, như các trung tâm mua sắm, các cơ sở ngân hàng hoặc các văn phòng du lịch.
Giao thông
Đường bộ
Quốc lộ 4 (QL4): Phnôm Pênh và Sihanoukville được kết nối qua Quốc lộ 4. Con đường được xây dựng và tài trợ bởi Hoa Kỳ để chứa các tàu chở hàng nặng và xe bồn xăng kết nối cảng nước sâu với Phnom Penh. Có ba trạm thu phí dọc theo chiều dài khoảng 250 km (155 mi). Tuy nhiên, nó được coi là con đường nguy hiểm nhất của Campuchia. Khu dân cư và giao thông địa phương gắn liền với lưu lượng xe luôn chạy với tốc độ cao, gây ra nhiều tai nạn giao thông.
Quốc lộ 3: Kết nối Sihanoukville với tỉnh Kampot. Con đường tham gia NR4 tại Quận Prey Nob tại thị trấn đường giao nhau của Veal Rinh. Nó được niêm phong, nhưng thiếu dấu hiệu giao thông. Gia súc roaming miễn phí và vật nuôi khác thường xuyên chặn đường giao thông. Con đường trải qua quá trình nâng cấp đáng kể trong năm 2008 và tạo thành một phần của "hành lang kinh tế Bắc-Nam" quốc tế từ Côn Minh ở Trung Quốc đến Bangkok ở Thái Lan.
Quốc lộ 48: Kết nối Sihanoukville và Phnom Penh với tỉnh Koh Kong về phía tây nam. Con đường kết thúc tại biên giới Thái Lan - Campuchia.
Đường không
Sân bay quốc tế Sihanoukville (KOS) trước đây gọi là Sân bay Kang Keng (ព្រ លាន យន្តហោះ កង កេង) được đặt tên theo Bộ trưởng Bộ Y tế của chế độ Cộng hòa Khmer trong những năm 1970. Sân bay nằm ở xã Ream ở trung tâm tỉnh Sihanoukville. Nó nằm gần quốc lộ số 4, chỉ khoảng 500 mét (1.600 feet) từ bãi biển Ream trên đỉnh một đầm phá rừng ngập mặn đã được lấp lại, chỉ cần khoảng 18 km (11 dặm) từ thành phố Sihanoukville.
Đường thủy
Dịch vụ phà hàng hải quốc gia hàng ngày cuối cùng từ / đến thành phố Sihanoukville đến / từ Krong Koh Kong ngừng hoạt động với việc hoàn thành Quốc lộ 48 năm 2007.
Đảo Koh Rong và đảo Koh Rong Sanloem có dịch vụ phà hàng ngày.
Lối vào các đảo nhỏ hơn thường được cung cấp bởi các resort nghỉ dưỡng địa phương, bến du thuyền Otres, các nhà khai thác lặn hoặc các nhà khai thác tư nhân. Ngoài ra, thuyền đuôi dài nhỏ và tàu thuyền cỡ trung bình có thể được thuê riêng cho các chuyến tham quan, câu cá, lặn và ăn uống tại Otres marina, nhà khách, cơ quan du lịch và các nhà khai thác lặn.
Marina Oceania - bến du thuyền đầu tiên ở Campuchia hoạt động và trang bị đầy đủ kể từ năm 2013 cho các du thuyền và tàu thuyền dài tới 25 mét (82 feet) với cầu tàu sâu từ 4 đến 5 mét cho 20 chiếc thuyền. Nó nằm ở bến tàu của cảng địa phương, gần đảo Koh Preab. (tọa độ: 10 ° 39 '59 "N / 103 ° 30' 41" E).
Tàu du lịch Holiday Cruise thỉnh thoảng dừng tại cảng này trong suốt chuyến đi của con tàu ở Đông Nam Á.
Thành phố kết nghĩa
Miami, United States
Seattle, United States
Tampa, United States |
Phạm Ngũ Lão (chữ Hán: 范五老; 1255 – 1320) là danh tướng nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông là người góp công rất lớn trong cả hai cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên lần thứ hai năm 1285 và lần thứ ba năm 1288. Đương thời, danh tiếng của ông chỉ xếp sau Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn – người được xem như vị tướng vĩ đại nhất trong lịch sử quân sự phong kiến Việt Nam.
Cuộc đời và sự nghiệp
Phạm Ngũ Lão là người làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, Hải Dương (nay là làng Phù Ủng xã Phù Ủng huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên), Việt Nam. Theo sách Tông phả kỷ yếu tân biên của Phạm Côn Sơn dẫn gia phả họ Phạm, ông là cháu 8 đời của tướng Phạm Hạp thời nhà Đinh. Ngay từ thuở nhỏ, cậu bé Ngũ Lão đã tỏ ra khác thường, tính tình khẳng khái. Khi ở làng có người đỗ Tiến sĩ (Bùi Công Tiến) tổ chức ăn mừng, cả làng kéo đến, riêng Ngũ Lão thì không. Người mẹ hỏi con tại sao không đến, Ngũ Lão thưa với mẹ: chí làm trai phải lập công danh rạng rỡ non sông mà con chưa lập được bằng người, đi mừng người ta nhục lắm.
Cũng thời gian ấy, Hưng Đạo Vương có việc quân qua vùng đất Phù Ủng. Phạm Ngũ Lão đang ngồi đan sọt ngoài đường mải nghĩ về cuốn sách Binh thư nên không biết quan quân trảy đến. Một người lính dẹp đường quát mãi, chàng trai đan sọt vẫn cứ ngồi yên. Người lính bèn dùng giáo xuyên vào đùi kẻ cản đường, vậy mà người đan sọt cứ như không. Tướng công thấy vậy bèn ra nói chuyện với chàng trai. Qua đối đáp trôi chảy của chàng trai nông dân, Tướng công thầm hiểu đây sẽ là một vị lương tướng của triều đình. Ông sai lính lấy thuốc trị vết thương rồi cho mời về triều.
Sau khi về kinh đô, Hưng Đạo Vương tiến cử Phạm Ngũ Lão lên Triều đình với chức cai quản quân Cấm vệ. Vệ sĩ biết ông là nông dân thì không phục bèn xin tâu được cùng ông thử sức. Phạm Ngũ Lão bằng lòng, nhưng trước khi vào đấu sức, ông xin về quê 3 tháng. Về quê, ngày nào Phạm Ngũ Lão cũng ra cái gò lớn ngoài đồng, đứng cách một tầm mà nhảy lên, nhảy mãi cho đến khi cái gò bị sạt mất một nửa. Hết hạn, ông trở về cấm thành, cùng các vệ sĩ so tài. Thấy ông tiến thoái như bay, tay đấm, chân đá thoăn thoắt, xem ra sức có thể địch nổi cả vài chục người. Từ đó, quân vệ sĩ bái phục ông.
Quân sự
Trong hai cuộc chiến chống quân xâm lược nhà Nguyên (1285-1288) Phạm Ngũ Lão lập được nhiều chiến công. Năm 1285, trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai ông cùng với Trần Quang Khải tiến đánh Chương Dương, Hàm Tử, đập tan đội binh thuyền khổng lồ của giặc và diệt quân Nguyên chiếm đóng Thăng Long. Sau đó, Phạm Ngũ Lão được lệnh mang 3 vạn quân phục kích đánh địch ở Vạn Kiếp, chặn đường địch rút chạy lên biên giới phía bắc và diệt được hai phó tướng địch là Lý Quán và Lý Hằng.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ ba (12 - 1287), Phạm Ngũ Lão cùng các tướng bày trận phục kích đường rút lui của giặc trên sông Bạch Đằng, trong trận này quân nhà Trần bắt sống các tướng nhà Nguyên là Phàn Tiếp, Áo Lỗ Xích, Ô Mã Nhi. Phạm Ngũ Lão tiếp tục truy kích cánh quân của Thoát Hoan trên đường bộ.
Năm 1290, vua Trần Nhân Tông giao cho ông cai quản quân Thánh Dực, phong chức Hữu Kim ngô Đại tướng quân. Năm Giáp Ngọ (1294) nhờ lập công khi đi đánh ở Ai Lao, ông được ban Kim Phù (tức binh phù làm bằng vàng). Năm Đinh Dậu (1297) cũng nhờ lập công khi đi đánh trận ở Ai Lao, ông được ban Vân Phù (tức binh phù có khắc chạm hình mây). Năm Tân Sửu (1301), ông được phong làm Thân Vệ Đại tướng quân và được ban Quy Phù (tức binh phù có chạm hình con rùa). Đến đời vua Trần Anh Tông, ông được thăng tới chức Điện súy Thượng tướng quân, tước Quan nội hầu. Một người con gái của Phạm Ngũ Lão hiệu là Tĩnh Huệ là thứ phi của vua Anh Tông.
Phạm Ngũ Lão đã ba lần cất quân đi trừng phạt sự xâm chiếm, quấy nhiễu của quân Ai Lao vào các năm 1294, 1297 và 1301; hai lần Nam chinh đánh thắng quân Chiêm Thành vào năm 1312, buộc vua Chiêm là Chế Chí phải xin hàng và 1318 vua Chế Năng phải bỏ chạy sang Java.
Văn học
Không chỉ có tài về quân sự, mà ông còn để lại nhiều bài thơ về chí trai, lòng yêu nước. Tiếc là hiện nay tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài là Thuật hoài (Tỏ lòng) và Vãn Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương (Viếng Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương).
Đời tư
Ông được Trần Hưng Đạo gả con gái (giả làm con gái nuôi của Trần Hưng Đạo vì nhà Trần có quy định chỉ gả con gái trong dòng tộc) là quận chúa Anh Nguyên.
Qua đời
Ngày 1 tháng 11 năm 1320, Phạm Ngũ Lão mất, hưởng thọ 65 tuổi. Vua Trần Minh Tông nghỉ chầu 5 ngày và phong ông là Thượng Đẳng Phúc Thần, đây là một đặc ân của nhà vua đối với ông.
Nhân dân xã Phù Ủng dựng đền thờ ngay trên nền nhà cũ của ông. Ông cũng được phối thờ tại đền Kiếp Bạc, Chí Linh, Hải Dương tại đền thờ Trần Hưng Đạo.
Tác phẩm
Mặc dù chuyên lo việc quân, song Phạm Ngũ Lão vẫn "thích đọc sách, ngâm thơ" (Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 4, tờ 38a). Thơ văn ông hiện chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán:
Thuật hoài (Kể nỗi lòng) làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt.
Vãn Hưng Đạo Đại vương (Viếng Hưng Đạo Đại vương) làm theo thể thất ngôn bát cú. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng bài này là của Bùi Tông Hoan.
Nhận định
Nhà sử học lỗi lạc của nước nhà ở thế kỉ XV là Tiến Sĩ Ngô Sĩ Liên đã đánh giá rất cao về tài năng phi thường của ông:
“Tôi từng thấy các danh tướng nhà Trần như Hưng Đạo Vương thì học vấn tỏ ra ở bài hịch, Phạm Điện Súy (chỉ Phạm Ngũ Lão) thì học vấn biểu hiện ở câu thơ, nào phải riêng chuyên về nghề võ. Thế mà dùng binh tinh diệu, hễ đánh là thắng, hễ tấn công là chiếm được, người xưa cũng không ai có thể vượt qua nổi các ông”.
Bài hịch mà Tiến Sĩ Ngô Sĩ Liên nói đến chính là bài Hịch tướng sĩ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, còn lời thơ mà Tiến Sĩ Ngô Sĩ Liên nhắc tới chính là lời thơ trong bài tứ tuyệt của Phạm Ngũ Lão, được hậu thế đặt cho tiêu đề là Công Đoàn.
Ngày nay tại Việt Nam đang có những con đường, phố và ngôi trường mang tên ông. |
Huyết lình (còn có tên là Lục lình) là máu của khỉ cái chảy ra sau khi sinh đẻ. Ở một số loài khỉ, vào mùa sinh sản (tháng 6 - 7), khỉ cái thường ra những chỗ mỏm đá cheo leo để đẻ và chúng chùi máu tiết ra tử cung lên mặt đá.
Lợi ích
Huyết lình là một bài thuốc tốt, bổ máu cho phụ nữ sau khi sinh, người ốm yếu, xanh xao hay trẻ biếng ăn, gầy gò. Dùng ngoài dưới hình thức ngâm rượu để xoa bóp cho trường hợp đau nhức,ngã sưng đau
Cách chế biến
Để chế thuốc, người ta cạo lấy những mảng huyết đã khô, màu đen đem về bẻ thành những miếng nhỏ, loại bỏ tạp chất, phơi nắng, sấy khô rồi để nơi khô ráo. Khi dùng thì tán ra thành bột để uống. Huyết lình sau khi đã chế biến có màu đen, vị mặn và mùi tanh. Muốn khử mùi tanh của huyết lình thì cho thêm một ít gừng giã nhỏ.
Chú thích |
Họ Mã đề, danh pháp khoa học: Plantaginaceae, là một họ thực vật có hoa trong bộ Hoa môi (Lamiales). Chi điển hình là Plantago.
Trong các phân loại cũ thì họ này là họ duy nhất trong bộ Mã đề (Plantaginales), nhưng hàng loạt các nghiên cứu phát sinh chủng loài, được Angiosperm Phylogeny Group tổng quát hóa, đã chỉ ra rằng đơn vị phân loại này nên được gộp chung vào bộ Hoa môi.
Họ Mã đề theo định nghĩa truyền thống chỉ bao gồm ba chi là Bougueria, Littorella và Plantago. Tuy nhiên, các nghiên cứu phát sinh chủng loài mới nhất đã chỉ ra rằng họ Plantaginaceae nghĩa hẹp (sensu stricto) được lồng vào cùng phạm vi với vài chi trước đây đã xếp trong họ Scrophulariaceae (nhưng không bao gồm chi điển hình của họ này là Scrophularia). Mặc dù tên gọi Veronicaceae (1782) là lâu đời nhất cho nhóm này, nhưng Plantaginaceae (1789) là tên gọi được bảo toàn theo quy định của ICBN và vì thế nó có độ ưu tiên cao hơn bất kỳ tên gọi sớm hơn nào trong phạm vi định nghĩa của bất kỳ nhóm nào có chứa họ Plantaginaceae. Ngoài ra, ICBN không coi các tên gọi cho các họ thực vật được công bố trước năm 1789 là các tên gọi thích hợp để bảo toàn, điều này đã loại tên gọi Veronicaceae ra ngoài. Tên gọi Antirrhinaceae (Mõm chó/sói) cũng đã được đề nghị để thay cho tên gọi Plantaginaceae. Trong khi chờ đợi, Angiosperm Phylogeny Group đã chấp nhận tên gọi Plantaginaceae. Tuy nhiên, Olmstead (2003) đã chọn tên gọi Veronicaceae để chỉ họ này.
Họ Plantaginaceae nghĩa rộng (sensu lato) là một họ đa dạng, phổ biến toàn cầu, nhưng chủ yếu tại các khu vực ôn đới. Nó bao gồm chủ yếu là các cây thân thảo, cây bụi và một ít cây thủy sinh có rễ mọc trong đất (chẳng hạn chi Callitriche). Do tính phổ biến đa dạng nên rất khó thiết lập giới hạn cho họ này.
Lá của chúng mọc thành vòng xoắn hoặc mọc đối, các lá có dạng lá đơn hay lá kép. Đặc điểm bất thường của họ này so với bộ Hoa môi nói chung là sự thiếu vắng của các phần phân chia theo chiều dọc trong đầu các sợi lông có tuyến.
Cấu trúc và hình dạng của hoa rất đa dạng. Một số chi có 4 đài hoa và 4 cánh hoa, những loài khác có từ 5-8 đài/cánh hoa, chẳng hạn chi Sibthorpia. Hoa của phần lớn các chi là đối xứng theo nhiều mặt phẳng. Tràng hoa thông thường có 2 môi. Trong một số chi, bộ nhị được hình thành trước tràng hoa.
Quả là dạng quả nang, thường nứt ra tại các phần chia giữa các ngăn. Trong chi Veronica phần phân chia này theo chiều dài; trong các loài của chi Antirrhinum thì khi quả nứt nó giải phóng phấn hoa thông qua các lỗ ở đầu bao phấn; hoặc nó có thể xoay chuyển thông qua đường tuần hoàn ngang xung quanh bao vỏ.
Một nhóm các chi, bao gồm cả chi Lindernia, gần đây đã được tách ra thành họ Linderniaceae, nhưng họ này không được chấp nhận rộng rãi.
Phân loại
Họ Plantaginaceae (nghĩa rộng)/Veronicaceae mở rộng bao gồm khoảng 90-94 chi và khoảng 1.700-1.900 loài. Chi lớn nhất là Veronica (Thủy cự) với khoảng 450 loài. Veronica hiện nay bao gồm cả các chi Hebe, Parahebe và Synthyris mà trước đây thường được coi là các chi riêng rẽ.
Tông Angelonieae
Angelonia
Basistemon (bao gồm cả: Desdemona, Hassleropsis, Saccanthus)
Melosperma
Monopera
Monttea (bao gồm cả: Oxycladus)
Ourisia
Tông Antirrhineae
Acanthorrhinum (có thể gộp cả Pseudomisopates).
Albraunia
Anarrhinum
Antirrhinum: Mõm chó.Trước đây thuộc họ Scrophulariaceae và trong tiếng Việt được lấy làm tên gọi phổ biến nhất cho họ này.
Asarina
Chaenorhinum (bao gồm cả: Hueblia, Microrrhinum): Trước đây thuộc họ Scrophulariaceae.
Cymbalaria: Trước đây thuộc họ Scrophulariaceae.
Epixiphium
Galvezia
Gambelia
Holmgrenanthe
Holzneria
Howelliella
Kickxia (bao gồm cả: Elatinoides): Trước đây thuộc họ Scrophulariaceae.
Linaria (bao gồm cả: Trimerocalyx): Liễu ngư, liễu xuyên ngư. Trước đây thuộc họ Scrophulariaceae.
Lophospermum
Mabrya
Maurandya (có thể gộp cả Epixiphium và Maurandella)
Misopates: Trước đây thuộc họ Scrophulariaceae.
Mohavea
Neogaerrhinum
Nuttallanthus: Trước đây gộp trong Linaria và thuộc họ Scrophulariaceae.
Pseudomisopates (có thể gộp trong Acanthorrhinum).
Pseudorontium
Rhodochiton
Sairocarpus
Schweinfurthia
Tông Callitricheae
Callitriche: Diễm mao, thủy mã xỉ. Trước đây thuộc họ Callitrichaceae.
Hippuris: Trước đây thuộc họ Hippuridaceae.
Tông Cheloneae
Brookea
Chelone
Chionophila (bao gồm cả: Penstemonopsis)
Collinsia
Keckiella (bao gồm cả: Keckia, Lepidostemon)
Nothochelone
Penstemon (bao gồm cả: Bartramia, Penslemon, Penstemum, Pentastemon, Pentastemum): Trước đây thuộc họ Scrophulariaceae.
Tonella
Uroskinnera
Tông Digitalideae
Digitalis (bao gồm cả: Isoplexis): Dương (mao) địa hoàng. Trước đây thuộc họ Scrophulariaceae.
Erinus
Tông Globularieae
Campylanthus (bao gồm cả: Chamaeacanthus)
Globularia (bao gồm cả: Carradoria, Lytanthus): Trước đây thuộc họ Globulariaceae.
Poskea (bao gồm cả: Cockburnia)
Tông Gratioleae
Achetaria (bao gồm cả: Beyrichia)
Adenosma (bao gồm cả: Pterostigma): Hoắc hương núi (chè nội), nhân trần, bồ bồ, tuyến hương.
Bacopa (bao gồm cả: Allocalyx, Ancistrostylis, Geochorda, Herpestis, Hydrotrida, Ildefonsia, Moniera, Monocardia, Sinobacopa): Rau sam đắng, rau ruột gà, rau đắng biển, ba kích.
Benjaminia
Boelckea
Capraria
Cheilophyllum
Conobea
Darcya
Deinostema
Dizygostemon
Dopatrium
Fonkia
Geochorda
Gratiola (có thể bao gồm cả: Fonkia, Tragiola): Trước đây thuộc họ Scrophulariaceae.
Hydranthelium
Hydrotriche
Ildefonsia
Leucospora
Limnophila (bao gồm cả: Ambulia, Bonnayodes, Stemodiacra)
Maeviella
Mecardonia (bao gồm cả: Pagesia)
Otacanthus (bao gồm cả: Tetraplacus)
Philcoxia
Schistophragma
Schizosepala
Scoparia: Cam thảo nam. Trước đây thuộc họ Scrophulariaceae.
Sophronanthe
Stemodia (bao gồm cả: Anamaria, Choadophyton, Lendneria, Phaelypea, Poarium, Stemodiacra, Valeria, Verena)
Tetraulacium
Tông Hemiphragmeae
Hemiphragma
Tông Plantagineae
Aragoa
Littorella
Plantago (bao gồm cả: Asterogeum, Bougueria, Littorella, Psyllium)
Tông Russelieae
Russelia
Tetranema
Tông Sibthorpieae
Ellisophyllum (?)
Sibthorpia: Trước đây thuộc họ Scrophulariaceae.
Tông Veroniceae
Kashmiria
Lagotis (bao gồm cả: Kokonoria)
Neopicrorhiza
Paederota
Picrorhiza
Scrofella
Veronica (bao gồm cả: Besseya, Chionohebe, Cochlidiosperma, Derwentia, Detzneria, Diplophyllum, Hebe, Heliohebe, Leonohebe, Odicardis, Oligospermum, Parahebe, Pseudolysimachion, Pygmaea, Synthyris, Veronicella): Thủy cự. Trước đây thuộc họ Scrophulariaceae.
Veronicastrum (bao gồm cả: Botryopleuron, Calorhabdos)
Wulfenia
Wulfeniopsis
Mặc dù GRIN gộp Lafuentea trong tông Antirrhineae, nhưng trong phân tích phát sinh chủng loài của Fernández-Mazuecos et al. (2013), Vargas et al. (2013) nó lại có quan hệ chị em với toàn bộ Antirrhineae, giống như lưu ý của Albach (2005). Hiện tại nó được coi là ngoại nhóm đối với Antirrhineae.
Loại ra
Bryodes: Sang họ Phrymaceae.
Bythophyton: Sang họ Phrymaceae. |
Scrophulariaceae là danh pháp khoa học của một họ thực vật, trong một số tài liệu về thực vật bằng tiếng Việt trước đây gọi là họ Mõm sói/chó hoặc họ hoa Mõm sói/chó, tuy nhiên các tên gọi này hiện nay không thể coi là chính xác được nữa, do loài hoa mõm sói (Antirrhinum majus) và toàn bộ chi chứa loài này là chi Antirrhinum đã được APG chuyển sang họ Mã đề (Plantaginaceae). Trong khi đó, chi điển hình của họ này là Scrophularia L., cho dù họ này được hiểu theo nghĩa hẹp (sensu stricto) hay nghĩa rộng (sensu lato) đều không thay đổi, không phụ thuộc vào hệ thống phân loại mới hay cũ. Đây là lý do tại sao Wikipedia tiếng Việt tạm thời chọn huyền sâm (Scrophularia bucrgeriana Miq.), một loài cây được biết khá nhiều tại Việt Nam như là một loài cây thuốc trong Đông y làm tên gọi cho họ này, mặc dù chưa thấy tài liệu nào ngoài Wikipedia gọi như vậy, ngoại trừ việc dịch thẳng các từ figwort / fig-wort từ tiếng Anh sang.
Trong quá khứ họ này được coi là chứa khoảng 275 chi và trên 5.000 loài, nhưng định nghĩa của nó đã được thay đổi đáng kể kể từ khi hàng loạt các nghiên cứu phát sinh loài ở mức phân tử đã chỉ ra rằng định nghĩa truyền thống là cực kỳ cận ngành. Nhiều chi gần đây đã được chuyển sang các họ khác trong phạm vi bộ Hoa môi (Lamiales), bao gồm một số họ mới (Olmstead và những người khác, năm 2001; hay Olmstead năm 2003). Các họ khác trong bộ Hoa môi cũng có định nghĩa được mở rộng để thích hợp với các chi được chuyển từ họ Scrophulariacae nghĩa rộng sang. Các thành viên trong họ Scrophulariaceae phân bổ rộng khắp thế giới, với đa số được tìm thấy ở vùng ôn đới, bao gồm cả các khu vực miền núi thuộc vùng nhiệt đới.
Họ này chủ yếu là cây thân thảo, ít thây cây thân gỗ hay cây bụi, với hoa không có quy luật. Ước tính hiện nay có khoảng 1.700 loài thuộc 56-65 chi được coi là thuộc về họ này (APG II, cập nhật tháng 12 năm 2005). Nó bao gồm một số loài cây thuốc, trong số đó có:
Leptandra
Rehmannia, Địa hoàng Trung Hoa, sử dụng trong y học cổ truyền Trung Quốc
Scrophularia, Huyền sâm
Verbascum, Hoa phổi
Các chi
Agalinis Raf. – giả Địa hoàng
Alectra Thunb.- Hắc sóc
Alonsoa Ruiz & Pav.
Aureolaria Raf. – giả Địa hoàng
Brachystigma Pennell – Địa hoàng sa mạc
Buchnera L. -- Hắc thảo
Buddleja—Bọ chó
Capraria L.
Dasistoma Raf.
Diplacus Nutt.
Gerardia
Hemianthus Nutt. -- Trân châu (hay bị viết sai thành chân trâu/chân châu/trân trâu)
Ilysanthes
Lendneria Minod
Leptandra
Leucospora Nutt.
Macranthera Nutt.
Mimetanthe Greene
Rehmannia Libosch. -- Sinh địa (thục địa), địa hoàng
Schwalbea L.
Scrophularia L. – Huyền sâm
Seymeria Pursh
Striga Lour. -- Cỏ ma ký sinh
Tomanthera
Torenia L. -- Tô liên, cỏ hồ điệp
Verbascum L. -- Hoa phổi
và còn nhiều nữa.
Các chi đã chuyển
Các chi sau đây, theo truyền thống được đặt trong họ Scrophulariaceae, hiện nay đã được Angiosperm Phylogeny Group chuyển sang các họ khác, dựa trên các chứng cứ di truyền học:
Calceolariaceae
Calceolaria
Jovellana
Porodittia
Họ Lệ dương/Cỏ chổi - Orobanchaceae
Bartsia
Bellardia
Castilleja
Cordylanthus
Euphrasia
Melampyrum
Odontites
Orobanche
Orthocarpus
Parentucellia
Pedicularis
Rhinanthus
Triphysaria
Họ Hông - Paulowniaceae
Paulownia - Hông, bao (bào, phao, pháo) đồng
Họ Thấu cốt thảo - Phrymaceae
Glossostigma
Mazus
Mimulus
Họ Mã đề - Plantaginaceae
Amphianthus
Angelonia
Antirrhinum
Bacopa
Besseya
Chaenorrhinum
Chelone
Chionophila
Collinsia
Cymbalaria
Digitalis - Mao địa hoàng
Dopatrium
Epixiphium
Galvezia
Gambelia
Gratiola
Hebe
Holmgrenanthe
Howelliella
Keckiella
Kickxia
Lagotis
Leucophyllum
Limnophila
Limosella
Linaria
Lindernia
Lophospermum
Mabrya
Maurandella
Maurandya
Mecardonia
Micranthemum
Misopates
Mohavea
Nemesia
Neogaerrhinum
Nothochelone
Nuttallanthus
Penstemon
Pseudorontium
Russelia
Sairocarpus
Schistophragma
Scoparia
Stemodia
Synthyris
Tonella
Veronica
Veronicastrum |
Thiên hoàng có thể có một trong các nghĩa sau:
Thiên hoàng của Nhật Bản.
Thiên Hoàng, là một trong ba vị vua đầu tiên theo truyền thuyết thượng cổ của Trung Quốc (thời kỳ Tam Hoàng Ngũ Đế).
Thiên Hoàng (thần): một vị thần tối cao của Đạo giáo.
Thiên Hoàng (Chu Thử): niên hiệu của Chu Thử nhà Đường (784).
Thiên hoàng: là tôn hiệu của một số vị hoàng đế Trung Quốc |
Trần Quý Hai (1913-1985) là một tướng lĩnh cấp cao quân đội , quân hàm Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam <ref
name="tdbkqs1006">Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam 2004 - Trần Quý Hai (tr. 1006)</ref>. Nguyên Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước, Chánh Thanh tra quân đội, Trưởng Ban Cơ yếu Trung Ương, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần. Nguyên Xứ uỷ viên dự khuyết Xứ uỷ Trung Bộ, Uỷ viên Trung ương Đảng khoá III. Huân chương Sao vàng .
Tiểu sử
Ông tên thật là Bùi Chấn, quê ở xã Châu Sa (Gò Rồng, Kim Lộc, Tịnh Châu); nay là xã Tịnh Châu, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.
+ Trong kháng chiến chống Pháp:
Năm 1930, ông được Kết nạp vào Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm 1939, ông bị giặc Pháp bắt, giam ở nhà lao Quảng Ngãi, Ban Mê Thuột. Năm 1944 đưa đi an trí ở "căng" giam tù chính trị Ba Tơ, tại đây ông tham gia thành lập chi bộ Đảng (Tỉnh ủy lâm thời) trong tù.
Tháng 3 năm 1945, khi Nhật đảo chính Pháp, ông tham gia thành lập Ủy ban Vận động cứu quốc tỉnh Quảng Ngãi, tham gia lãnh đạo Khởi nghĩa Ba Tơ, rồi khởi nghĩa giành chính quyền tỉnh Quảng Ngãi. Ông được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy, Ủy viên thường trực Ủy ban kháng chiến tỉnh Quảng Ngãi.
Năm 1946, là Xứ uỷ viên dự khuyết Xứ uỷ Trung Bộ, phụ trách ba tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà. Sau đó ông gia nhập Quân đội. Cuối 1946 Trung ương điều ra Huế tham gia Ủy viên Dân - Chính - Đảng Thừa Thiên Huế, Chính trị ủy viên Trung đoàn Trần Cao Vân (e101)
Những năm 1947 - 1952: Chính uỷ, rồi Tư lệnh Mặt trận Bình-Trị-Thiên, Phó Bí thư Liên khu 4.
1953-1954: chính ủy đầu tiên Đại đoàn 325, Chính ủy mặt trận Trung Lào, Tư lệnh kiêm Chính ủy Mặt trận Hạ Lào - Đông bắc Campuchia.
+ Năm 1955 ông tập kết ra Bắc:
Tháng 3 năm 1955, ông được bổ nhiệm làm Trưởng Ban Nghiên cứu sân bay, trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu, đơn vị tiền thân của Không quân Nhân dân Việt Nam (Ngày 3 tháng 3 năm 1955, được lấy làm ngày truyền thống của Không quân Nhân dân Việt Nam).
9/1955-1960, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Bí thư Đảng ủy Bộ Tổng Tham mưu.
1961 - 1963, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước kiêm Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Bí thư Đảng ủy Tổng cục Hậu cần.
1971-1972, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông từng là Tư lệnh Mặt trận Đường 9 Khe Sanh, Tư lệnh Mặt trận B5 – Quảng Trị.
1973-1980, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng thường trực Bộ Quốc phòng, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra quân đội.
1980-1985, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Trưởng Ban Cơ yếu Trung ương.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (tháng 9 năm 1960) ông được bầu là Ủy viên dự khuyết, tới Hội nghị TW lần thứ 9 khóa III (12/1963): được chuyển thành Uỷ viên Chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khoá III (1960-1976).
Lịch sử thụ phong quân hàm
Khen thưởng và Vinh danh
Huân chương Sao vàng (Truy tặng: 28/4/2008).
Huân chương Hồ Chí Minh
2 Huân chương Quân công hạng Nhất
Huân chương Chiến thắng hạng Nhất
Huân chương Kháng chiến hạng Nhất
Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất
^ Tên ông [Trần Quý Hai], được gắn biển cho:
*Đường Trần Quý Hai tại phường Trần Phú, thành phố Quảng Ngãi.
*Một đường phố thuộc Phường Hòa Thọ Đông, Quận Cẩm Lệ, Đà Nẵng.
*Một đường phố tại KĐT Vĩnh Điềm Trung, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà.
* Trường Tiểu Học và Trường Trung Học Cơ Sở tại Xã Tịnh Châu, Thành phố Quảng Ngãi được mang tên ông [Trần Quý Hai].
*Di tích Nhà Lưu niệm Trung tướng Trần Quý Hai tại Kim Lộc, xã Tịnh Châu, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi được xếp hạng di tích cấp Tỉnh.
Tác phẩm
• Tác phẩm hồi ký "Những ngày khói lửa" (mà Ông là tác giả) - Đây là một tác phẩm tiểu thuyết tự truyện, viết về giai đoạn tác giả ở Chiến khu Hòa Mỹ và Chiến khu Dương Hòa của tỉnh Bình Trị Thiên trong cuộc thời kỳ Chiến tranh Đông Dương (1946-1954) và một phần được viết ở chiến khu Quảng Bình - Quảng Trị - Huế trong thời kỳ đầu Chiến tranh Việt Nam.
• Theo cuốn "Bên thắng cuộc" thì ông nguyên là Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng thường trực BQP, là người trực Quân ủy Trung ương vào ngày xảy ra Sự kiện Vịnh Bắc Bộ lần thứ nhất (ngày 2 tháng 8 năm 1964), và chính ông đã ra lệnh cho phép nổ súng.
Chú thích
Người Quảng Ngãi
Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam
Tổng cục Hậu cần, Bộ Quốc phòng Việt Nam
Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam
Chỉ huy quân sự Việt Nam (Chiến tranh Đông Dương)
Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam
Không quân Nhân dân Việt Nam
Huân chương Sao Vàng
Huân chương Hồ Chí Minh
Huân chương Quân công
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam
Tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam thụ phong thập niên 1970
Người họ Bùi tại Việt Nam |
Diego Armando Maradona (; 30 tháng 10 năm 196025 tháng 11 năm 2020), thường được gọi đơn giản là Diego Maradona hay Maradona, là một cựu cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá người Argentina. Được coi là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất lịch sử, ông là một trong hai người cùng nhận giải Cầu thủ xuất sắc nhất thế kỷ 20 của FIFA. Nhãn quan chiến thuật, khả năng chuyền bóng, kiểm soát bóng và rê bóng của Maradona kết hợp với vóc dáng nhỏ con của ông, giúp ông có trọng tâm thấp cho phép Maradona cơ động hơn hầu hết các cầu thủ khác. Sự hiện diện và khả năng lãnh đạo của ông trên sân có ảnh hưởng lớn đến thành tích chung của toàn đội, mặc dù ông thường bị các cầu thủ đối phương theo sát. Ngoài khả năng sáng tạo, ông còn sở hữu con mắt săn bàn nhạy bén và được biết đến như một chuyên gia sút phạt. Là một tài năng trời phú, Maradona được đặt cho biệt danh "El Pibe de Oro" ("Cậu bé vàng"), cái tên gắn liền với ông trong suốt sự nghiệp. Ông cũng có một cuộc sống ngoài sân cỏ đầy rắc rối, bị cấm thi đấu vào năm 1991 và 1994 vì lạm dụng ma túy.
Là một tiền vệ kiến thiết hoạt động ở vị trí số 10 cổ điển, Maradona là cầu thủ đầu tiên hai lần lập kỷ lục thế giới về phí chuyển nhượng: năm 1982 khi chuyển đến Barcelona với giá 5 triệu bảng và năm 1984 khi chuyển đến Napoli với mức phí 6,9 triệu bảng. Ông đã chơi cho Argentinos Juniors, Boca Juniors, Barcelona, Napoli, Sevilla và Newell's Old Boys trong suốt sự nghiệp câu lạc bộ của mình, và nổi tiếng nhất là trong thời gian ở Napoli, nơi ông giành được nhiều danh hiệu.
Trong sự nghiệp quốc tế của mình với đội tuyển Argentina, ông đã có 91 lần ra sân và ghi được 34 bàn thắng. Maradona đã góp mặt ở 4 kỳ FIFA World Cup, bao gồm cả World Cup 1986 ở Mexico, nơi ông đã dẫn dắt Argentina giành chiến thắng trước Tây Đức trong trận chung kết, và giành Quả bóng vàng với tư cách cầu thủ xuất sắc nhất giải. Tại trận tứ kết World Cup 1986, ông đi vào lịch sử bóng đá với hai bàn thắng vào lưới Anh trong chiến thắng 2–1. Bàn thắng đầu tiên là một pha xử lý không chuẩn xác được gọi là "Bàn tay của Chúa", trong khi bàn thắng thứ hai diễn ra sau một pha lừa bóng qua 5 cầu thủ Anh, được bầu chọn là "Bàn thắng của thế kỷ" bởi FIFA.com năm 2002.
Maradona trở thành huấn luyện viên trưởng của đội tuyển bóng đá quốc gia Argentina vào tháng 11 năm 2008. Ông là người dẫn dắt đội tuyển tại World Cup 2010 ở Nam Phi trước khi rời nhiệm vào cuối giải đấu. Sau đó, ông huấn luyện câu lạc bộ Al Wasl có trụ sở tại Dubai thi đấu ở UAE Pro-League mùa giải 2011–12. Năm 2017, Maradona trở thành huấn luyện viên của Fujairah trước khi rời nhiệm vào cuối mùa giải. Vào tháng 5 năm 2018, Maradona được công bố là tân chủ tịch của câu lạc bộ Belarus Dynamo Brest. Ông đến Brest và bắt đầu công việc của mình vào tháng 7. Từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 6 năm 2019, Maradona là huấn luyện viên của câu lạc bộ Mexico Dorados. Ông là huấn luyện viên của câu lạc bộ Argentina Primera División Gimnasia de La Plata từ tháng 9 năm 2019 cho đến khi qua đời vào tháng 11 năm 2020.
Tuổi thơ
Diego Armando Maradona sinh ngày 30 tháng 10 năm 1960, tại Bệnh viện Policlínico (Phòng khám đa khoa) Evita ở Lanús, tỉnh Buenos Aires trong một gia đình nghèo chuyển đến từ tỉnh Corrientes; anh lớn lên ở Villa Fiorito, một khu ổ chuột ở ngoại ô phía nam của Buenos Aires, Argentina. Ông là con trai đầu lòng sau bốn chị gái, và còn có hai người em trai, Hugo (el Turco) và Raúl (Lalo), cả hai đều từng là cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp. Cha của anh, Diego Maradona "Chitoro" (1927–2015), là người Guaraní, và mẹ anh, Dalma Salvadora Franco, 'Doña Tota' (1930–2011), là người gốc Ý. Narciso Binayán, một nhà báo người Argentina cũng cho biết Maradona có tổ tiên xa là người gốc Croatia.
Cha mẹ của Maradona đều sinh ra và lớn lên ở thị trấn Esquina thuộc tỉnh Corrientes, phía đông bắc của tỉnh Corrientes, sống cách nhau chỉ hai trăm mét bên bờ sông Corriente. Năm 1950, họ rời Esquina và định cư ở Buenos Aires. Maradona nhận được quả bóng đá đầu tiên của mình như một món quà vào năm 3 tuổi và nhanh chóng trở nên say mê môn thể thao này. Khi mới 8 tuổi, Maradona được một nhà tuyển trạch tài năng phát hiện khi anh đang chơi cho câu lạc bộ lân cận Estrella Roja. Ông trở thành một trụ cột của Los Cebollitas (The Little Onion), đội trẻ của Argentinos Juniors của Buenos Aires. Khi mới là một cậu bé nhặt bóng 12 tuổi, Maradona đã khiến khán giả thích thú khi thể hiện khả năng tâng bóng trong thời gian nghỉ giữa hiệp của các trận đấu giải hạng nhất. Ông coi cầu thủ người Brazil Rivelino và cầu thủ chạy cánh của Manchester United, George Best là những nguồn cảm hứng khi trưởng thành.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Argentinos Juniors và Boca Juniors
Vào ngày 20 tháng 10 năm 1976, Maradona có trận ra mắt chuyên nghiệp cho Argentinos Juniors, 10 ngày trước sinh nhật thứ 16 của anh, khi đối đầu với đội Talleres de Córdoba. Anh vào sân với chiếc áo số 16 và trở thành cầu thủ trẻ nhất trong lịch sử của Primera División Argentina. Ít phút sau khi ra mắt, Maradona đã sút bóng qua giữa 2 chân Juan Domingo Cabrera, tạo nên một cú xỏ lỗ kim trở thành huyền thoại. Sau trận đấu, Maradona nói: “Hôm đó tôi cảm thấy mình đã nắm cả bầu trời trong tay”. Ba mươi năm sau, Cabrera nhớ lại trận ra mắt của Maradona: “Tôi đã ở bên phải sân và tiến đến dồn ép Maradona, nhưng anh ấy không cho tôi cơ hội. Anh ấy sút bóng qua giữa hai chân tôi và khi tôi quay lại, anh ấy đã ở rất xa rồi". Maradona ghi bàn thắng đầu tiên ở Primera División vào lưới đội Marplatense, San Lorenzo vào ngày 14 tháng 11 năm 1976, hai tuần sau khi bước sang tuổi 16.
Maradona đã có 5 năm ở Argentinos Juniors, từ năm 1976 đến năm 1981, ghi 115 bàn thắng sau 167 lần ra sân trước khi chuyển đến Boca Juniors với số tiền chuyển nhượng 4 triệu đô la Mỹ. Maradona đã nhận được đề nghị gia nhập các câu lạc bộ khác, trong đó có River Plate, với mức lương đề nghị biến Maradona trở thành cầu thủ được trả lương cao nhất của câu lạc bộ. Tuy nhiên, Maradona bày tỏ ý muốn được chuyển đến Boca Juniors, đội bóng mà anh luôn muốn thi đấu.
Maradona ký hợp đồng với Boca Juniors vào ngày 20 tháng 2 năm 1981. Anh có trận ra mắt hai ngày sau đó trước Talleres de Córdoba, ghi hai bàn trong chiến thắng 4–1 của câu lạc bộ. Vào ngày 10 tháng 4, Maradona chơi trận Superclásico đầu tiên với River Plate tại sân vận động La Bombonera. Boca đánh bại River 3–0 khi Maradona ghi bàn sau khi lừa bóng qua Alberto Tarantini và Fillol. Bất chấp mối quan hệ không tin cậy lẫn nhau giữa Maradona và huấn luyện viên của Boca Juniors, Silvio Marzolini, Boca đã có một mùa giải thành công, giành chức vô địch giải đấu quốc nội sau khi giành được một điểm trước Racing Club. Đó là danh hiệu duy nhất mà Maradona giành được ở giải quốc nội Argentina.
Barcelona
Sau World Cup 1982, vào tháng 6, Maradona được chuyển đến Barcelona ở Tây Ban Nha với mức phí kỷ lục thế giới lúc bấy giờ là 5 triệu bảng (7,6 triệu USD). Năm 1983, dưới thời huấn luyện viên César Luis Menotti, Barcelona và Maradona đã giành Copa del Rey (giải đấu cúp quốc gia hàng năm của Tây Ban Nha) sau khi đánh bại Real Madrid, và Siêu cúp Tây Ban Nha sau khi đánh bại Athletic Bilbao. Vào ngày 26 tháng 6 năm 1983, Barcelona đánh bại Real Madrid tại một trong những trận đấu bóng đá cấp câu lạc bộ lớn nhất thế giới, El Clásico, trận đấu mà Maradona ghi bàn và trở thành cầu thủ Barcelona đầu tiên được các cổ động viên của Real Madrid vỗ tay. Maradona lừa bóng qua thủ môn Agustín của Real Madrid, và khi tiếp cận khung thành trống, ông dừng lại ngay khi hậu vệ Juan José của Real Madrid lao đến cản phá, khiến José trượt chân trong nỗ lực tuyệt vọng và đâm vào cột dọc, chỉ khi đó Maradona mới sút bóng vào lưới. Cách thức ghi bàn này khiến nhiều người bên trong sân vận động bắt đầu vỗ tay; Chỉ Ronaldinho (vào tháng 11 năm 2005) và Andrés Iniesta (vào tháng 11 năm 2015) đã được các cầu thủ Barcelona hoan nghênh như vậy từ những người hâm mộ Madrid tại Santiago Bernabéu.
Do ốm đau và chấn thương cũng như những sự cố gây tranh cãi trên sân, Maradona đã có một thời gian khó khăn ở Barcelona. Đầu tiên là một đợt viêm gan, sau đó là gãy mắt cá chân trong trận đấu La Liga tại Camp Nou vào tháng 9 năm 1983 do một pha tắc bóng không đúng lúc của Andoni Goikoetxea của Athletic Bilbao. Chấn thương này đe dọa sẽ gây nguy hiểm cho sự nghiệp của Maradona, nhưng với việc điều trị và trị liệu, ông trở lại sân cỏ sau thời gian ba tháng hồi phục.
Cuối mùa giải 1983–84 bao gồm một cuộc chiến bạo lực và hỗn loạn mà Maradona đã tham gia trực tiếp vào trận chung kết Copa del Rey năm 1984 tại Santiago Bernabéu ở Madrid với Athletic Bilbao. Sau khi nhận một pha vào bóng thô bạo khác của Goikoetxea khiến anh bị thương ở chân, bị chế nhạo với những lời lẽ bài ngoại, những lời lăng mạ phân biệt chủng tộc liên quan đến tổ tiên người Mỹ bản địa của cha mình trong suốt trận đấu bởi những người hâm mộ Bilbao, và bị Miguel Sola của Bilbao khiêu khích khi hết giờ và Barcelona thua 1–0, Maradona trở nên cáu kỉnh. Ông hùng hổ đứng dậy, đứng cách mặt Sola vài inch và hai người trao đổi với nhau. Điều này bắt đầu một chuỗi phản ứng cảm xúc của cả hai đội. Sử dụng những từ ngữ tục tĩu, Sola bắt chước một cử chỉ từ đám đông đối với Maradona bằng cách sử dụng thuật ngữ bài ngoại. Maradona sau đó húc đầu vào Sola, thúc cùi chỏ vào mặt một cầu thủ Bilbao khác và nhào vào đầu một cầu thủ khác khiến anh ta ngất tại chỗ. Đội hình Bilbao bao vây Maradona để ra đòn đáp trả với Goikoetxea bắt đầu với một cú đá cao vào ngực của Maradona, trước khi phần còn lại của đội Barcelona tham gia hỗ trợ Maradona. Từ thời điểm này, các cầu thủ Barcelona và Bilbao đã ẩu đả trên sân với Maradona là trung tâm, ông lao vào đá và đấm bất cứ ai trong màu áo Bilbao.
Cuộc ẩu đả diễn ra ngay trước mặt Vua Tây Ban Nha Juan Carlos và 100.000 khán giả bên trong sân vận động, và hơn một nửa dân số Tây Ban Nha đang xem trên truyền hình. Sau khi người hâm mộ bắt đầu ném các vật rắn trên sân vào các cầu thủ, huấn luyện viên và thậm chí cả nhiếp ảnh gia, 60 người đã bị thương. Sự cố này khiến Maradona bị chuyển nhượng khỏi câu lạc bộ và đây là trận đấu cuối cùng của ông trong màu áo Barcelona. Một giám đốc điều hành của Barcelona tuyên bố: "Khi tôi nhìn thấy cảnh Maradona chiến đấu và sự hỗn loạn sau đó, tôi nhận ra rằng chúng tôi không thể đi tiếp với cầu thủ này." Maradona thường xuyên tranh chấp với các giám đốc điều hành của FC Barcelona, đặc biệt là với chủ tịch câu lạc bộ Josep Lluís Núñez. Mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm với yêu cầu được chuyển khỏi Camp Nou của Maradona vào năm 1984. Trong hai mùa giải dính chấn thương ở Barcelona, Maradona đã ghi 38 bàn sau 58 trận. Maradona chuyển đến Napoli ở Serie A của Ý với mức phí kỷ lục thế giới mới, 6,9 triệu bảng (10,48 triệu đô la Mỹ).
Napoli
Maradona đến Napoli và được giới thiệu với giới truyền thông thế giới với tư cách là một cầu thủ Napoli vào ngày 5 tháng 7 năm 1984, nơi anh được 75.000 người hâm mộ chào đón trong buổi ra mắt tại Stadio San Paolo. Cây viết thể thao David Goldblatt bình luận: "Họ [những người hâm mộ] tin chắc rằng vị cứu tinh của họ đã tới." Một tờ báo địa phương tuyên bố rằng mặc dù thiếu "thị trưởng, nhà ở, trường học, xe buýt, việc làm và vệ sinh, nhưng không có gì đáng lo vì chúng ta có Maradona". Trước khi Maradona đến, bóng đá Ý bị các đội bóng từ miền bắc và trung tâm của nước Ý, chẳng hạn như AC Milan, Juventus, Inter Milan và Roma, thống trị, và không có đội bóng nào ở miền nam bán đảo Ý từng giành được chức vô địch.
Tại Napoli, Maradona đạt đến đỉnh cao của sự nghiệp bóng đá chuyên nghiệp của mình: ông đã sớm thừa hưởng băng đội trưởng Napoli từ hậu vệ kỳ cựu Giuseppe Bruscolotti và nhanh chóng trở thành một ngôi sao được yêu mến trong cộng đồng fan của câu lạc bộ; trong thời gian ở đó, ông đã đưa đội bóng lên kỷ nguyên thành công nhất trong lịch sử. Maradona chơi cho Napoli vào thời kỳ căng thẳng nam - bắc ở Ý lên đến đỉnh điểm do nhiều vấn đề, đặc biệt là sự khác biệt kinh tế giữa hai vùng đất này. Được Maradona dẫn dắt, Napoli đã giành chức vô địch Serie A đầu tiên của họ vào năm 1986–87. Goldblatt viết, “Các lễ ăn mừng vô địch rất náo động. Một loạt các bữa tiệc và lễ hội đường phố ngẫu hứng đã nổ ra liên tục trên khắp thành phố trong một lễ hội hóa trang kéo dài suốt hơn một tuần. Thế giới bị đảo lộn. Người Napoli đã tổ chức tang lễ giả cho Juventus và Milan, đốt quan tài của họ, giấy báo tử của họ viết 'Tháng 5 năm 1987, phần còn lại của nước Ý đã bị đánh bại. Một đế chế mới ra đời." Các bức tranh tường hình Maradona được vẽ trên các tòa nhà cổ kính của thành phố, và những đứa trẻ sơ sinh được đặt tên là Diego để vinh danh ông. Mùa giải tiếp theo, bộ ba tấn công sung mãn của đội bao gồm Maradona, Bruno Giordano và Careca, sau này được mệnh danh là tuyến đầu "Ma-Gi-Ca" (magical).
Napoli giành chức vô địch quốc gia Ý thứ hai vào năm 1989–90 và hai lần về nhì ở giải này, vào các năm 1987–88 và 1988–89. Các danh hiệu khác trong kỷ nguyên Maradona tại Napoli bao gồm Coppa Italia năm 1987, (cũng như vị trí thứ hai ở Coppa Italia năm 1989), Cúp UEFA năm 1989 và Siêu cúp Italia năm 1990. Trong trận Chung kết Cúp UEFA năm 1989 với Stuttgart, Maradona đã ghi bàn từ một quả phạt đền trong chiến thắng 2-1 trên sân nhà ở lượt đi, sau đó giúp Careca ghi bàn ấn định chiến thắng trong trận đấu này, trong trận lượt về vào ngày 17 tháng 5 - hòa 3–3 trên sân khách, ông đánh đầu kiến tạo cho Ciro Ferrara ghi bàn. Mặc dù chủ yếu chơi ở vai trò tiền vệ tấn công, Maradona là Vua phá lưới Serie A giai đoạn 1987–88 với 15 bàn thắng, và là cầu thủ ghi bàn hàng đầu mọi thời đại của Napoli, với 115 bàn thắng. Kỷ lục này đã bị Marek Hamšík phá vỡ vào năm 2017. Khi được hỏi ai là cầu thủ khó khăn nhất mà ông từng đối mặt, trung vệ Franco Baresi của AC Milan nói rằng đó là Maradona, và đồng đội Milan của ông, Paolo Maldini, cũng có cùng quan điểm. Maldini đã coi Maradona và Ronaldo là những cầu thủ hay nhất mà ông từng đối mặt. Ông nói vào năm 2008, "Cầu thủ hay nhất tôi từng đối đầu là Maradona."
Trong khi Maradona thành công trên sân cỏ trong thời gian ở Ý, các vấn đề cá nhân của ông lại gia tăng. Việc sử dụng cocaine của Maradona vẫn tiếp tục, và ông đã bị câu lạc bộ phạt 70.000 đô la Mỹ vì bỏ lỡ các trận đấu và các buổi luyện tập, với lý do bên ngoài là vì "quá căng thẳng". Maradona phải đối mặt với một vụ bê bối ở đó liên quan đến một đứa con trai ngoài giá thú, và ông cũng là đối tượng bị nghi ngờ về tình bạn được cho là với giới mafia Camorra. Sau đó, để tôn vinh Maradona và những thành tích của ông trong sự nghiệp tại Napoli, chiếc áo số 10 của Napoli đã chính thức được loại ra khỏi danh sách số áo của đội bóng.
Sevilla, Newell's Old Boys và Boca Juniors
Sau khi chấp hành án phạt cấm thi đấu 15 tháng vì bị kiểm tra chất kích thích và phát hiện cocaine, Maradona rời Napoli trong tủi hổ vào năm 1992. Bất chấp sự quan tâm từ Real Madrid và Marseille, Maradona đã ký hợp đồng với Sevilla, và ở lại đó trong một năm. Năm 1993, ông chơi cho Newell's Old Boys và năm 1995 trở lại Boca Juniors trong hai năm. Maradona cũng đá cho Tottenham Hotspur trong trận đấu vinh danh Osvaldo Ardiles gặp Internazionale, ngay trước World Cup 1986. Năm 1996, ông chơi trong một trận giao hữu cùng với anh trai Raul của mình cho đội Toronto Italia chống lại đội bóng các ngôi sao của Giải bóng đá quốc gia Canada. Bản thân Maradona đã được vinh danh trong một trận đấu vào tháng 11 năm 2001, với Maradona tham gia thi đấu giữa một đội World XI toàn ngôi sao thế giới và đội tuyển quốc gia Argentina.
Sự nghiệp quốc tế
Trong thời gian khoác áo đội tuyển Argentina, Maradona đã ghi 34 bàn sau 91 lần ra sân. Ông có trận ra mắt quốc tế đầy đủ ở tuổi 16, trong trận đấu với Hungary, vào ngày 27 tháng 2 năm 1977. Maradona bị huấn luyện viên César Luis Menotti loại khỏi đội tuyển Argentina tham dự World Cup 1978 trên sân nhà, khi ông cảm thấy anh còn quá trẻ ở tuổi 17 Ở tuổi 18, Maradona đã chơi ở Giải vô địch trẻ thế giới năm 1979 tại Nhật Bản và nổi lên như một ngôi sao của giải đấu, tỏa sáng trong chiến thắng chung cuộc 3–1 của Argentina trước Liên Xô, ghi tổng cộng 6 bàn thắng sau 6 lần ra sân tại giải đấu này. Vào ngày 2 tháng 6 năm 1979, Maradona ghi bàn thắng quốc tế đầu tiên trong trận thắng 3–1 trước Scotland tại Hampden Park. Anh tiếp tục chơi cho Argentina trong hai trận Copa América năm 1979 trong tháng 8 năm 1979, trận thua 2–1 trước Brazil và chiến thắng 3–0 trước Bolivia, trong đó anh ghi bàn thắng thứ ba cho đội bóng của mình.
Phát biểu sau 30 năm về tác động của màn trình diễn của Maradona vào năm 1979, Chủ tịch FIFA Sepp Blatter tuyên bố: “Mọi người đều có ý kiến về Diego Armando Maradona, và đó là trường hợp của anh ta kể từ những ngày còn thi đấu. Hồi ức sống động nhất của tôi là về cậu bé có năng khiếu tuyệt vời này tại FIFA U-20 World Cup lần thứ hai tại Nhật Bản năm 1979. Cậu ta khiến mọi người phải há hốc mồm mỗi khi có bóng." Maradona và người đồng hương Lionel Messi là những cầu thủ duy nhất giành Quả bóng vàng ở cả FIFA U-20 World Cup và FIFA World Cup. Maradona đã làm như vậy vào năm 1979 và 1986, và Messi đã có thành tích tương tự vào năm 2005 và 2014.
World Cup 1982
Maradona đã chơi giải đấu World Cup đầu tiên của mình vào năm 1982 tại Tây Ban Nha, nơi ông mới chuyển đến thi đấu. Argentina đấu với Bỉ trong trận mở màn Cúp quốc gia năm 1982 tại sân Nou Camp ở Barcelona. Khán giả xứ Catalan háo hức chứng kiến bản hợp đồng kỷ lục thế giới mới Maradona của họ thi đấu, nhưng Maradona đã không đạt được kỳ vọng, khi nhà đương kim vô địch Argentina thua 1–0. Mặc dù sau đó Argentina đã đánh bại cả Hungary và El Salvador một cách thuyết phục ở Alicante để tiến vào vòng hai, nhưng đã có những căng thẳng trong nội bộ đội bóng, với những cầu thủ trẻ hơn, ít kinh nghiệm hơn đối đầu với những cầu thủ lớn tuổi hơn, nhiều kinh nghiệm hơn. Trong một đội cũng bao gồm những cầu thủ như Mario Kempes, Osvaldo Ardiles, Ramón Díaz, Daniel Bertoni, Alberto Tarantini, Ubaldo Fillol và Daniel Passarella, đội bóng Argentina đã bị Brazil và Ý - đội bóng sau đó lên ngôi vô địch - đánh bại ở vòng hai. Trận đấu với đội Ý nổi tiếng với việc Maradona được Claudio Gentile kèm người rất chặt, và Ý đánh bại Argentina tại Sân vận động Sarrià ở Barcelona với tỷ số 2–1.
Maradona ra sân cả năm trận mà không bị thay ra lần nào, lập cú đúp vào lưới Hungary. Ông đã bị phạm lỗi liên tục trong cả năm trận đấu và đặc biệt là trong trận đấu cuối cùng với Brazil tại Sarrià, một trận đấu bị tàn phá bởi những pha phạm lỗi thô bạo và nghiêm trọng. Khi Argentina đã bị Brazil dẫn trước 3–0, sự nóng nảy của Maradona cuối cùng đã khiến ông trở nên thô lỗ và ông bị đuổi khỏi sân khi còn lại năm phút vì một pha trả đũa nghiêm trọng với Batista.
World Cup 1986
Với tư cách đội trưởng, Maradona đã dẫn dắt đội tuyển quốc gia Argentina vô địch World Cup 1986 tại Mexico, giành chiến thắng trong trận chung kết tại Mexico City với Tây Đức. Trong suốt giải đấu, Maradona đã khẳng định được sự thống trị của mình và là cầu thủ năng động nhất của giải đấu. Ông chơi tất cả thời gian trong mỗi trận đấu của Argentina, ghi 5 bàn và thực hiện 5 pha kiến tạo, 3 trong số đó là trong trận mở màn với Hàn Quốc tại Sân vận động Olímpico Universitario ở Mexico City. Bàn thắng đầu tiên của anh trong giải đấu là vào lưới Ý trong trận đấu thứ hai tại Puebla. Argentina loại Uruguay ở vòng loại trực tiếp đầu tiên ở Puebla, lập trận đấu với Anh trên sân vận động Azteca, cũng ở thành phố Mexico. Sau khi ghi hai bàn thắng tương phản trong chiến thắng 2-1 trước đội tuyển Anh, huyền thoại của ông đã trở nên vững chắc. Sự vĩ đại của bàn thắng thứ hai và tai tiếng của bàn thắng đầu tiên đã khiến tờ L'Equipe của Pháp mô tả Maradona là "nửa thiên thần, nửa ác quỷ". Trận đấu này được diễn ra với bối cảnh Chiến tranh Falklands giữa Argentina và Vương quốc Anh. Các video phát lại cho thấy bàn thắng đầu tiên được ghi bằng tay đập bóng vào lưới. Maradona lảng tránh một cách rụt rè, mô tả nó là "một chút với cái đầu của Maradona và một chút với bàn tay của Chúa". Nó được gọi là "Bàn tay của Chúa". Cuối cùng, vào ngày 22 tháng 8 năm 2005, Maradona thừa nhận trên chương trình truyền hình của mình rằng ông đã cố tình đấm bóng bằng tay và không có cú va chạm nào của trái bóng với đầu mình, và ngay khi bóng vào lưới ông đã biết bàn thắng là không hợp pháp. Đây được coi là một thất bại quốc tế trong lịch sử World Cup. Bàn thắng được công nhận trước sự phẫn nộ của các cầu thủ Anh.
Bàn thắng thứ hai của Maradona, chỉ 4 phút sau pha ghi bàn bằng tay, sau đó được FIFA bầu chọn là bàn thắng vĩ đại nhất lịch sử World Cup. Maradona nhận bóng trong phần sân của mình, xoay người và với 11 lần chạm bóng đã chạy dài hơn một nửa chiều dài của sân, lừa bóng qua năm cầu thủ Anh (Peter Beardsley, Steve Hodge, Peter Reid, Terry Butcher và Terry Fenwick) trước khi anh lừa thủ môn Peter Shilton ngã khi bắt trượt bóng, và dùng chân đẩy bóng vào lưới. Bàn thắng này đã được bầu chọn là "Bàn thắng của thế kỷ" trong một cuộc bình chọn trực tuyến năm 2002 do FIFA thực hiện. Một cuộc thăm dò của Kênh 4 ở Anh năm 2002 cho thấy màn trình diễn của Maradona xếp thứ 6 trong danh sách 100 khoảnh khắc thể thao tuyệt vời nhất.
Maradona tiếp nối điều này với hai bàn thắng nữa trong trận bán kết với Bỉ tại Azteca, bao gồm một màn lừa bóng điêu luyện khác để ghi bàn thắng thứ hai. Trong trận đấu cuối cùng, Tây Đức đã cố gắng kiềm chế Maradona bằng cách ghi hai bàn, nhưng ông vẫn tìm được khoảng trống vượt qua cầu thủ Tây Đức Lothar Matthäus để cuối cùng chuyền bóng cho Jorge Burruchaga ghi bàn thắng. Argentina đánh bại Tây Đức 3–2 trước 115.000 người hâm mộ trên sân Azteca với Maradona nâng cao chức vô địch World Cup với tư cách đội trưởng.
Trong suốt giải đấu, Maradona đã cố gắng hoặc tạo ra hơn một nửa số cú sút của Argentina, cố gắng thực hiện 90 pha rê dắt bóng hay nhất giải đấu - nhiều hơn ba lần so với bất kỳ cầu thủ nào khác - và bị phạm lỗi kỷ lục 53 lần, giúp đội của ông có gấp đôi số quả đá phạt so với bất kỳ cầu thủ nào khác trong đội. Maradona đã ghi hoặc kiến tạo 10 trong số 14 bàn thắng của Argentina (71%), bao gồm cả pha kiến tạo thành bàn trong trận chung kết, đảm bảo rằng ông sẽ được nhớ đến như một trong những cái tên vĩ đại nhất trong lịch sử bóng đá. Khi bế mạc giải đấu, Maradona tiếp tục giành Quả bóng vàng với tư cách là cầu thủ xuất sắc nhất của giải đấu theo phiếu bầu nhất trí và được nhiều người coi là Argentina đã vô địch World Cup hầu như chỉ bằng sức lực của cá nhân ông, mà sau đó ông tuyên bố rằng ông không hoàn toàn đồng ý với nhận định đó. Zinedine Zidane, xem World Cup 1986 khi mới 14 tuổi, nói Maradona "ở một đẳng cấp khác". Để tri ân, chính quyền sân vận động Azteca đã dựng một bức tượng Maradona ghi "Bàn thắng của thế kỷ" và đặt nó ở lối vào của sân vận động.
Về màn trình diễn của Maradona tại World Cup 1986 ở Mexico, năm 2014, Roger Bennett của ESPN FC mô tả đó là "màn trình diễn điêu luyện nhất mà một kỳ World Cup từng chứng kiến", trong khi Kevin Baxter của Los Angeles Times gọi đó là "một trong số những màn trình diễn cá nhân vĩ đại nhất trong lịch sử giải đấu," với Steven Goff của The Washington Post thay vào đó gọi màn trình diễn của Maradona là "một trong những trận đấu hay nhất trong lịch sử giải đấu." Năm 2002, Russell Thomas của tờ The Guardian mô tả bàn thắng thứ hai của Maradona vào lưới Anh ở tứ kết World Cup 1986 là "bàn thắng cá nhân vĩ đại nhất từ trước đến nay." Trong một bài báo năm 2009 cho CBC Sports, John Molinaro đã mô tả bàn thắng này là "bàn thắng vĩ đại nhất từng được ghi trong giải đấu này - và có thể là trong toàn bộ lịch sử bóng đá." Trong một bài báo năm 2018 cho Sportsnet, ông nói thêm: "Không có cầu thủ nào khác, kể cả Pelé năm 1958 hay Paolo Rossi năm 1982, đã thống trị một giải đấu duy nhất như cách Maradona đã làm ở Mexico." Ông cũng tiếp tục nói về màn trình diễn của Maradona: "Người nghệ sĩ Argentina xuất sắc đã một tay mang về cho đất nước của mình chức vô địch World Cup thứ hai." Về hai bàn thắng đáng nhớ của mình vào lưới Anh ở tứ kết, ông nhận xét: “Đúng, đó là bàn tay của Maradona, chứ không phải của Chúa, chịu trách nhiệm cho bàn thua đầu tiên vào lưới Anh. Nhưng trong khi bàn thắng của 'Bàn tay của Chúa' vẫn là một trong những khoảnh khắc gây tranh cãi nhất trong lịch sử World Cup, không có gì phải bàn cãi khi bàn thắng thứ hai của Maradona vào lưới đội tuyển Anh được coi là bàn thắng vĩ đại nhất từng được ghi trong giải đấu. Nó vượt qua cả thể thao đơn thuần - mục tiêu của Maradona là nghệ thuật thuần túy. "
World Cup 1990
Maradona lại là đội trưởng của Argentina ở World Cup 1990 tại Ý và đi tới một trận chung kết World Cup nữa. Chấn thương mắt cá chân đã ảnh hưởng đến thành tích chung của ông, và ông kém nổi trội hơn nhiều so với 4 năm trước đó. Sau khi để thua trận mở màn trước Cameroon tại San Siro ở Milan, Argentina gần như đã bị loại ngay từ vòng bảng, chỉ giành được vị trí thứ 3 so với bảng đấu. Ở trận đấu vòng 16 đội với Brazil tại Turin, Claudio Caniggia là cầu thủ ghi bàn duy nhất sau đường kiến tạo của Maradona.
Trong trận tứ kết, Argentina đối đầu Nam Tư tại Florence; trận đấu kết thúc với tỷ số 0–0 sau 120 phút, khi Argentina vượt lên trong loạt sút luân lưu dù Maradona đã cản phá được cú sút yếu ớt về phía bên phải của thủ môn. Trận bán kết với nước chủ nhà Ý tại sân vận động câu lạc bộ của Maradona ở Naples, Stadio San Paolo, cũng được giải quyết trên chấm phạt đền sau khi hòa 1-1. Tuy nhiên, lần này, Maradona đã thực hiện thành công quả bóng nỗ lực của mình khi dũng mãnh đưa bóng vào lưới với bản sao gần như chính xác cú đá không thành công của anh ở vòng trước. Tại trận chung kết ở Rome, Argentina thua Tây Đức 1–0, bàn thắng duy nhất do công của Andreas Brehme ở phút 85 sau một pha phạm lỗi gây tranh cãi với Rudi Völler.
World Cup 1994
Tại World Cup 1994 trên đất Mỹ, Maradona chỉ chơi hai trận (đều ở sân Foxboro gần Boston), ghi một bàn vào lưới Hy Lạp, trước khi bị đuổi về nước sau khi không qua được cuộc kiểm tra chất kích thích ephedrine. Sau khi ghi bàn vào lưới Hy Lạp, Maradona đã có một trong những màn ăn mừng bàn thắng đáng chú ý nhất World Cup khi chạy về phía một trong những máy quay bên lề và hét lên với khuôn mặt méo mó và đôi mắt lồi. Đây là bàn thắng quốc tế cuối cùng của Maradona cho Argentina. Trong trận đấu thứ hai, chiến thắng 2-1 trước Nigeria, trận đấu cuối cùng của ông cho Argentina, Maradona đã ghi cả hai bàn thắng cho đội mình từ những quả đá phạt, bàn thứ hai là một pha kiến tạo cho Caniggia.
Trong cuốn tự truyện của mình, Maradona cho rằng kết quả kiểm tra dương tính là do huấn luyện viên cá nhân cho anh uống nước tăng lực Rip Fuel. Tuyên bố của Maradona nói rằng ông đã lỡ dùng phiên bản của Mỹ, không giống như phiên bản của Argentina, có chứa hóa chất và do đã hết liều lượng sử dụng ở Argentina, huấn luyện viên của ông đã vô tình mua chai nước của Mỹ. FIFA đã đuổi Maradona khỏi USA '94, và Argentina sau đó bị Romania loại ở vòng 16 trong trận đấu ở Los Angeles. Maradona cũng tuyên bố riêng rằng ông đã có một thỏa thuận với FIFA, theo đó tổ chức này đã gia hạn, cho phép anh sử dụng thuốc giảm cân trước khi thi đấu để có thể thi đấu. Cuộc thử nghiệm chất kích thích cho kết quả dương tính của Maradona tại World Cup 1994 báo hiệu sự kết thúc sự nghiệp quốc tế của ông, kéo dài 17 năm và ghi được 34 bàn thắng sau 91 trận, cũng như một lần vô địch và một lần á quân tại World Cup.
Hồ sơ cầu thủ
Phong cách thi đấu
Được mô tả như một " số 10 cổ điển " trên các phương tiện truyền thông, Maradona là một cầu thủ chơi truyền thống thường chơi ở vai trò tự do, hoặc như một tiền vệ tấn công phía sau tiền đạo, hoặc như một tiền đạo thứ hai ở hàng tiền đạo hai, mặc dù ông đôi khi cũng được triển khai như một tiền vệ trung tâm thiên về tấn công trong sơ đồ 4–4–2. Maradona nổi tiếng với khả năng rê dắt, tầm nhìn, kiểm soát bóng gần, chuyền bóng và sáng tạo, và được coi là một trong những cầu thủ khéo léo nhất trong môn thể thao này. Maradona có một vóc dáng nhỏ gọn, và với đôi chân khỏe, trọng tâm thấp và dẫn đến có khả năng cân bằng tốt hơn, ông có thể chịu được áp lực vật lý tốt khi chạy với bóng, mặc dù vóc dáng nhỏ bé, trong khi khả năng tăng tốc, đôi chân nhanh nhẹn và sự linh hoạt, kết hợp với kỹ năng rê bóng và kiểm soát tốc độ chặt chẽ, Maradona có thể thay đổi hướng nhanh chóng, khiến đối thủ khó lòng chống đỡ.
Maradona được coi là một trong những cầu thủ rê dắt bóng xuất sắc nhất trong lịch sử bóng đá. Cựu danh thủ Hà Lan, Johan Cruyff, nhận thấy sự tương đồng giữa Maradona và Lionel Messi với quả bóng dường như gắn liền với cơ thể của họ khi rê bóng. Điểm mạnh về thể chất của Maradona đã được thể hiện qua hai bàn thắng vào lưới Bỉ ở World Cup 1986. Mặc dù nổi tiếng với thiên hướng thực hiện các pha chạy bóng cá nhân, Mardona cũng là một chiến lược gia và là một cầu thủ thông minh, có khả năng nhận biết không gian tuyệt vời, cũng như có kỹ thuật cao với trái bóng. Ông có thể xoay xở hiệu quả trong không gian hạn chế, và sẽ thu hút các hậu vệ và sau đó nhanh chóng thoát" ra khỏi cuộc hỗn chiến (như trong bàn thắng thứ hai năm 1986 vào lưới Anh), hoặc hỗ trợ cho một đồng đội tự do. Maradona có thể cầm bóng ngắn, nhưng mạnh mẽ, và có thể cầm bóng đủ lâu với một hậu vệ ở phía sau lưng để chờ đồng đội chạy chỗ hoặc tìm khoảng trống để sút nhanh. Ông đã thể hiện phẩm chất lãnh đạo trên sân và là đội trưởng Argentina trong các chiến dịch chinh phục World Cup 1986, 1990 và 1994. Trong khi chủ yếu là một cầu thủ chơi sáng tạo, Maradona cũng được biết đến với khả năng dứt điểm và ghi bàn. Cựu huấn luyện viên của Milan, Arrigo Sacchi cũng đã ca ngợi Maradona về tỷ lệ phòng ngự phản công trong một cuộc phỏng vấn năm 2010 với Il Corriere dello Sport.
Maradona là người lãnh đạo đội trong và ngoài sân - ông sẽ thay mặt các cầu thủ lên tiếng về một loạt vấn đề. Khả năng của Maradona với tư cách là một cầu thủ và tính cách mạnh mẽ của ông có ảnh hưởng tích cực lớn đến đội bóng. Người đồng đội ở World Cup 1986, Jorge Valdano nói rõ:
"Maradona là một nhà lãnh đạo kỹ thuật: một người giải quyết mọi khó khăn có thể xảy ra trên sân cỏ. Thứ nhất, anh ấy có nhiệm vụ làm nên những điều kỳ diệu, đó là điều khiến các đồng đội rất tự tin. Thứ hai, phạm vi nổi tiếng của anh ấy đến mức anh ấy thay mặt các đồng đội của mình hấp thụ mọi áp lực. Ý tôi là: mọi người ngủ ngon vào đêm trước trận đấu không chỉ vì bạn biết bạn đang chơi bên cạnh Diego và Diego đã làm những điều mà không một cầu thủ nào khác trên thế giới có thể làm được, mà còn bởi vì vô thức chúng tôi biết rằng nếu xảy ra trường hợp mà chúng tôi thua thì Maradona sẽ gánh nhiều áp lực hơn, sẽ bị đổ lỗi nhiều hơn những người còn lại. Đó là loại ảnh hưởng của anh ấy đối với đội bóng."
Ca ngợi "sức hút" của Maradona, một đồng đội khác của ông ở Argentina, tiền đạo có phong độ sung mãn Gabriel Batistuta, tuyên bố, "Diego có thể chỉ huy cả sân vận động, để mọi người phải dán mắt vào anh ấy. Tôi đã chơi với anh ấy và tôi có thể cho bạn biết anh ấy có ý nghĩa quyết định như thế nào về mặt kỹ thuật đối với đội ". Cựu chủ tịch của Napoli - Corrado Ferlaino - nhận xét về phẩm chất lãnh đạo của Maradona trong thời gian thi đấu cho câu lạc bộ vào năm 2008, mô tả ông là "một huấn luyện viên trên sân cỏ."
Một trong những cú đi bóng nổi tiếng của Maradona là đi bóng tốc độ tối đa bên cánh phải, tiếp cận sát vạch biên ngang khung thành đối phương, và sau đó chuyền ngược lại chính xác cho đồng đội ở khu cấm địa. Một cú đi bóng có thương hiệu khác là rabona, một cú sút chéo góc phía sau chân với toàn bộ trọng lượng. Sự cơ động này dẫn đến một số pha kiến tạo, chẳng hạn như đường chuyền cho Ramón Díaz đánh đầu vào lưới Thụy Sĩ năm 1980. Anh cũng là một cầu đá phạt và sút phạt đền nguy hiểm, người nổi tiếng với khả năng bẻ cong bóng từ các quả phạt góc và các tình huống trực tiếp. Được coi là một trong những chuyên gia sút phạt xuất sắc nhất mọi thời đại, kỹ thuật sút phạt của Maradona thường nâng đầu gối ở góc cao khi chạm bóng, do đó tạo điều kiện cho Maradona nâng bóng lên cao qua bức tường người, cho phép Maradona sút phạt ngay cả từ cự ly gần, trong vòng 22 đến 17 yard (20 đến 16 mét) từ khung thành, hoặc thậm chí ngay bên ngoài vòng cấm. Phong cách sút phạt của Maradona ảnh hưởng đến một số chuyên gia sút phạt khác, bao gồm Gianfranco Zola, Andrea Pirlo, và Lionel Messi.
Maradona nổi tiếng với tính cách gian xảo khi chơi bóng. Một số nhà phê bình coi bàn thắng gây tranh cãi "Bàn tay của Chúa" tại World Cup 1986 là một động tác thông minh, với một trong những cầu thủ đối phương, Glenn Hoddle, thừa nhận rằng Maradona đã ngụy trang bằng cách hất đầu cùng lúc khi chạm tay vào bóng. Bản thân bàn thắng này đã được xem như một hiện thân của thị trấn tồi tàn Maradona ở Buenos Aires đã được nuôi dưỡng và khái niệm của nó về viveza criolla - "sự xảo quyệt của bọn criollos". Trong khi chỉ trích bàn thắng đầu tiên bất hợp pháp, tiền đạo Gary Lineker của Anh thừa nhận, "Khi Diego ghi bàn thắng thứ hai vào lưới chúng tôi, tôi cảm thấy muốn vỗ tay. Tôi chưa bao giờ cảm thấy như vậy trước đây, nhưng đó là sự thật... và không chỉ vì đây là một trận đấu quan trọng. Không thể nào ghi một bàn thắng đẹp như vậy. Anh ấy là cầu thủ vĩ đại nhất mọi thời đại, vượt lên trên hẳn những người khác. Một hiện tượng chân thực. " Maradona đã sử dụng tay của mình ở World Cup 1990, một lần nữa mà không bị trừng phạt, và lần này là trên đường vạch vôi cầu môn của đội nhà, để ngăn Liên Xô ghi bàn. Một số ấn phẩm đã gọi Maradona là Artful Dodger, một kẻ móc túi trong tác phẩm Oliver Twist của Charles Dickens.
Maradona chủ yếu thuận chân trái, thường sử dụng chân trái ngay cả khi bóng được đặt ở vị trí thích hợp hơn để dùng chân phải. Bàn thắng đầu tiên của ông vào lưới Bỉ ở bán kết World Cup 1986 là một chỉ số xứng đáng cho điều đó; Maradona đã băng vào bên trong cánh phải để nhận đường chuyền nhưng lại để bóng đi đến chân trái, đòi hỏi nhiều kỹ thuật hơn. Trong lần vượt qua một số cầu thủ Anh ở vòng trước với "Bàn thắng của thế kỷ", Maradona đã không sử dụng chân phải một lần nào, mặc dù đã dành toàn bộ thời gian di chuyển ở bên phải sân. Trong trận đấu ở vòng hai World Cup 1990 với Brazil, Maradona đã sử dụng chân phải của mình để thực hiện cú chuyền dọn cỗ cho Claudio Caniggia ấn định chiến thắng, do bị hai cầu thủ của Brazil kèm chặt buộc Maradona phải chuyền bóng ở một vị trí mà việc sử dụng chân trái là không thực tế.
Đón nhận
Maradona được nhiều người coi là cầu thủ xuất sắc nhất trong thế hệ của ông, cũng như một trong những cầu thủ vĩ đại nhất mọi thời đại bởi một số chuyên gia, cầu thủ và nhà quản lý, và đối với một số người là cầu thủ giỏi nhất mọi thời đại. Ông nổi tiếng là một trong những cầu thủ khéo léo nhất trong lịch sử bóng đá, cũng như được coi là một trong những cầu thủ rê dắt bóng giỏi nhất và sút phạt tốt nhất trong lịch sử của môn thể thao này. Được coi là một tài năng sớm khi còn trẻ, ngoài khả năng chơi bóng, Maradona còn nhận được lời khen ngợi từ huấn luyện viên cũ Menotti vì sự cống hiến, quyết tâm và đạo đức làm việc mà ông đã thể hiện để cải thiện khía cạnh kỹ thuật. Menotti nhận xét: "Tôi luôn thận trọng khi sử dụng từ 'thiên tài'. Tôi thấy khó có thể áp dụng điều đó ngay cả với Mozart. Vẻ đẹp trong trò chơi của Diego có yếu tố di truyền - khả năng chơi bóng tự nhiên của cậu ta - nhưng nó cũng nhờ rất nhiều vào khả năng học hỏi nữa: rất nhiều nét vẽ, những nét vẽ của 'thiên tài', thực chất là sản phẩm của sự chăm chỉ làm việc của Maradona. Diego đã làm việc rất chăm chỉ để trở thành người giỏi nhất. " Cựu HLV Napoli của Maradona - Ottavio Bianchi - cũng ca ngợi tính kỷ luật trong huấn luyện của ông, nhận xét: “Diego khác với những gì họ miêu tả. Khi bạn để anh ta một mình, anh ta là một đứa trẻ rất ngoan. Thật tuyệt vời khi được xem và huấn luyện Maradona. Tất cả mọi người đều nói về chuyện cậu ta không chịu tập luyện nhưng không đúng vì Diego là người cuối cùng rời sân, tôi cần phải đuổi cậu ta đi vì nếu không cậu ta sẽ ở lại hàng giờ để sáng chế ra những kiểu đá phạt mới. ” Tuy nhiên, như Bianchi đã lưu ý, Maradona được biết đến là người đã thực hiện "những pha chơi bóng tuyệt vời" và làm "những điều không tưởng" và "không thể tin được" với trái bóng trong các buổi tập, và thậm chí trải qua những khoảng thời gian tập luyện nghiêm ngặt, Maradona vẫn được biết đến với tỷ lệ tập luyện khi không có bóng hạn chế, và thậm chí còn bị tai tiếng trong thời gian ở Ý vì bỏ lỡ các buổi tập với Napoli, và Maradona thường tập luyện một mình thay vì cùng với cả đội.
Trong một bộ phim tài liệu năm 2019 về cuộc đời của ông, Diego Maradona, Maradona đã thú nhận rằng chế độ sống hàng tuần của ông bao gồm "chơi một trận vào Chủ nhật, đi chơi cho đến thứ tư, sau đó tập thể dục bắt đầu từ thứ năm." Về chế độ luyện tập không nhất quán của Maradona, đạo diễn của phim, Asif Kapadia, vào năm 2020 đã nhận xét: “Anh ấy bị rối loạn chuyển hóa. Anh ấy trông sẽ vô cùng thất thường, nhưng sau đó anh ấy sẽ tập luyện như điên và đổ mồ hôi cho đến khi ngày thi đấu đến. Hình dạng cơ thể của anh ấy trông không giống một cầu thủ bóng đá, nhưng sau đó anh ấy có khả năng tập luyện và sự cân bằng này. Anh ấy có một cách tồn tại riêng và ý tưởng nói chuyện thành thật với anh ấy về cách Maradona làm gì trong một tuần điển hình diễn ra khá tuyệt vời. " Ông cũng tiết lộ rằng Maradona đã đi trước thời đại vì có một huấn luyện viên thể lực cá nhân - Fernando Signorini - người đã huấn luyện Maradona trong nhiều lĩnh vực khác nhau, ngoài việc chăm sóc thể chất của anh ấy, và nói thêm: "Trong khi anh ấy [Maradona] ở trong một đội bóng, anh ấy có chế độ ăn uống và tập luyện riêng của mình. Có bao nhiêu cầu thủ sẽ làm điều đó? Có bao nhiêu cầu thủ thậm chí biết suy nghĩ như vậy? 'Tôi khác với bất kỳ ai khác nên tôi cần phải rèn luyện những gì tôi giỏi và những gì tôi yếu.' Signorini đọc rất tốt và rất thông minh. Ông sẽ nói theo nghĩa đen, 'Đây là cách tôi sẽ huấn luyện bạn, hãy đọc cuốn sách này.' Ông sẽ giúp Maradona về mặt tâm lý, ông ấy nói chuyện với Maradona về triết học, và những thứ tương tự. " Hơn nữa, Maradona nổi tiếng với chế độ ăn uống nghèo nàn và lối sống cực đoan ngoài sân cỏ, bao gồm cả việc sử dụng ma túy bất hợp pháp và lạm dụng rượu, cùng với các vấn đề cá nhân, sự trao đổi chất của anh ta, thuốc mà anh ta được kê đơn và thời gian không hoạt động do chấn thương và đình chỉ thi đấu, dẫn đến việc Maradona bị tăng cân đáng kể và suy giảm thể chất khi sự nghiệp của anh ấy kéo dài; Sự thiếu kỷ luật và những khó khăn trong cuộc sống cá nhân đầy sóng gió của Maradona được một số người trong môn thể thao này cho rằng đã ảnh hưởng tiêu cực đến màn trình diễn và tuổi thọ của Maradona trong những năm cuối sự nghiệp thi đấu.
Là một nhân vật gây tranh cãi trong môn thể thao này, trong khi Maradona nhận được sự tán thưởng từ các cầu thủ, chuyên gia và huấn luyện viên về phong cách chơi của mình, ông cũng bị giới truyền thông chỉ trích vì sự nóng nảy và hành vi đối đầu của mình, cả trong và ngoài sân cỏ. Tuy nhiên, vào năm 2005, Paolo Maldini, mô tả Maradona vừa là cầu thủ vĩ đại nhất mà ông từng đối mặt, vừa là người trung thực nhất, nói rằng: "Anh ấy là một hình mẫu về hành vi tốt trên sân cỏ - anh ấy tôn trọng tất cả mọi người, từ những cầu thủ vĩ đại tới các cầu thủ bình thường. Anh ấy luôn bị phạm lỗi, bị chèn ngã khắp nơi trên sân và anh ấy không bao giờ phàn nàn - không giống như một số tiền đạo ngày nay." Câu lạc bộ phòng ngự cũ và đồng đội quốc tế của anh ấy, Baresi, đã nói khi ông được hỏi ai là đối thủ lớn nhất của mình: "Maradona; khi anh ấy đang ở phong độ cao, gần như không có cách nào để ngăn cản anh ấy," trong khi cựu hậu vệ Ý Giuseppe Bergomi đã mô tả Maradona là cầu thủ vĩ đại nhất mọi thời đại vào năm 2018.
Năm 1999, Maradona được World Soccer xếp thứ hai sau Pelé trong danh sách "100 cầu thủ vĩ đại nhất thế kỷ 20" của tạp chí này. Cùng với Pelé, Maradona là một trong hai người cùng giành giải "Cầu thủ xuất sắc nhất thế kỷ của FIFA" năm 2000, và cũng đứng thứ năm trong "Cuộc bầu cử thế kỷ của IFFHS". Trong một cuộc thăm dò của FIFA năm 2014, Maradona được bầu chọn là số 10 vĩ đại thứ hai mọi thời đại, chỉ sau Pelé, và cuối năm đó, được xếp thứ hai trong danh sách 100 cầu thủ vĩ đại nhất World Cup của The Guardian -thời gian, trước World Cup 2014 ở Brazil, một lần nữa xếp sau Pelé. Năm 2017, FourFourTwo xếp Maradona ở vị trí đầu tiên trong danh sách "100 cầu thủ vĩ đại nhất", trong khi vào năm 2018, Maradona được cùng một tạp chí xếp hạng nhất trong danh sách "Cầu thủ bóng đá vĩ đại nhất trong lịch sử World Cup"; vào tháng 3 năm 2020, anh cũng được Jack Gallagher của 90min.com xếp hạng nhất trong danh sách "50 cầu thủ vĩ đại nhất mọi thời đại". Vào tháng 5 năm 2020, Sky Sports xếp Maradona là cầu thủ xuất sắc nhất chưa từng vô địch Champions League hoặc Cúp C1 châu Âu.
Nghỉ hưu và tri ân
Bị báo chí săn đón trong nhiều năm, Maradona từng bắn một phát súng trường hơi nén vào các phóng viên mà ông cho rằng đang xâm phạm quyền riêng tư của mình. Câu nói này của đồng đội cũ Jorge Valdano tóm tắt cảm xúc của nhiều người:
Anh ấy là một người mà nhiều người muốn noi theo, một nhân vật gây tranh cãi, được yêu mến, bị ghét bỏ, người đã gây ra biến động lớn, đặc biệt là ở Argentina... Làm căng thẳng thêm cuộc sống cá nhân của anh ấy là một sai lầm. Maradona không có đồng nghiệp bên trong sân cỏ, nhưng anh ấy đã biến cuộc đời mình thành một cuộc trình diễn, và sống trong một thử thách cá nhân mà người khác không nên bắt chước.
Năm 1990, Quỹ Konex từ Argentina đã trao cho anh Giải thưởng Konex Kim cương, một trong những giải thưởng văn hóa danh giá nhất ở Argentina, là nhân vật quan trọng nhất trong Thể thao trong thập kỷ qua ở đất nước này. Vào tháng 4 năm 1996, Maradona đã có một trận đấu quyền anh ba hiệp với Santos Laciar để làm từ thiện. Năm 2000, Maradona xuất bản cuốn tự truyện Yo Soy El Diego ("Tôi là Diego "), cuốn sách này đã trở thành cuốn sách bán chạy nhất ở Argentina. Hai năm sau, Maradona tặng lại tiền bản quyền tại Cuba của cuốn sách của ông cho "người dân Cuba và Fidel ".
Năm 2000, Maradona giành được giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất thế kỷ của FIFA, giải thưởng được quyết định bởi các phiếu bầu trên trang web chính thức, tạp chí chính thức của họ và một ban giám khảo lớn. Maradona đã giành chiến thắng trong cuộc thăm dò dựa trên Internet, thu được 53,6% phiếu bầu so với 18,53% cho Pelé. Bất chấp điều này, và ngay trước buổi lễ, FIFA đã bổ sung giải thưởng thứ hai và chỉ định một ủy ban "Gia đình bóng đá" bao gồm các nhà báo bóng đá cũng đã trao cho Pelé danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất thế kỷ để tạo kết quả hòa. Maradona cũng đứng thứ 5 trong cuộc bầu chọn của IFFHS (Liên đoàn thống kê và lịch sử bóng đá quốc tế). Năm 2001, Liên đoàn bóng đá Argentina (AFA) hỏi FIFA cho phép số áo 10 cho Maradona được nghỉ không dùng vĩnh viễn. FIFA đã không chấp nhận yêu cầu này, mặc dù các quan chức Argentina vẫn khẳng định rằng FIFA ám chỉ rằng điều đó sẽ xảy ra.
Maradona đã đứng đầu một số cuộc bình chọn của người hâm mộ, bao gồm cuộc thăm dò của FIFA năm 2002, trong đó bàn thắng thứ hai của anh vào lưới đội tuyển Anh được chọn là bàn thắng đẹp nhất từng ghi ở một kỳ World Cup; Maradona cũng giành được nhiều phiếu bầu nhất trong một cuộc thăm dò để xác định Đội bóng xuất sắc nhất mọi thời đại của World Cup. Vào ngày 22 tháng 3 năm 2010, Maradona được chọn là số 1 trong 10 cầu thủ xuất sắc nhất World Cup mọi thời đại của tờ báo The Times có trụ sở tại London. Argentinos Juniors đặt tên sân vận động của mình theo tên Maradona vào ngày 26 tháng 12 năm 2003. Năm 2003, Maradona được cầu thủ bóng đá người Libya Al-Saadi Gaddafi, con trai thứ ba của Đại tá Muammar Gaddafi, tuyển dụng làm "cố vấn kỹ thuật", trong khi Al-Saadi đang chơi cho câu lạc bộ Ý, Perugia, mà đang chơi ở Serie A vào lúc đó.
Vào ngày 22 tháng 6 năm 2005, có thông báo rằng Maradona sẽ trở lại câu lạc bộ cũ Boca Juniors với tư cách là phó chủ tịch thể thao phụ trách quản lý đội hình giải hạng Nhất (sau mùa giải 2004–05 đáng thất vọng, trùng với kỷ niệm một trăm năm của Boca). Hợp đồng của anh ấy bắt đầu từ ngày 1 tháng 8 năm 2005, và một trong những khuyến nghị đầu tiên của Maradona tỏ ra rất hiệu quả khi khuyên câu lạc bộ thuê Alfio Basile làm huấn luyện viên mới. Với việc Maradona nuôi dưỡng mối quan hệ thân thiết với các cầu thủ, Boca đã giành Apertura 2005, Clausura 2006, Copa Sudamericana 2005 và Recopa Sudamericana 2005.
Vào ngày 15 tháng 8 năm 2005, Maradona xuất hiện lần đầu tiên với tư cách là người dẫn chương trình tạp kỹ trên kênh truyền hình Argentina, La Noche del 10 ("Đêm của số 10"). Khách mời chính của Maradona trong đêm khai mạc là Pelé; hai người trò chuyện thân mật, không có dấu hiệu nào của mâu thuẫn trong quá khứ. Tuy nhiên, chương trình cũng bao gồm một nhân vật phản diện hoạt hình có hình thể rõ ràng giống với Pelé. Trong các buổi tối tiếp theo, anh ấy dẫn đầu bảng xếp hạng trong tất cả các trường hợp, trừ một lần. Hầu hết các khách mời đến từ thế giới bóng đá và kinh doanh biểu diễn, bao gồm Ronaldo và Zinedine Zidane, nhưng cũng bao gồm các cuộc phỏng vấn với những người bạn và nhân vật đáng chú ý khác như nhà lãnh đạo Cuba Fidel Castro, các võ sĩ quyền anh Roberto Durán và Mike Tyson. Maradona đã tặng cho mỗi vị khách của mình một chiếc áo đấu có chữ ký của Argentina mà Tyson đã mặc khi đến Brazil, đối thủ lớn nhất của Argentina. Tuy nhiên, vào tháng 11 năm 2005, Maradona từ chối lời đề nghị làm việc với đội tuyển bóng đá quốc gia Argentina.
Vào tháng 5 năm 2006, Maradona đồng ý tham gia vào chương trình Soccer Aid của Vương quốc Anh (một chương trình quyên góp tiền cho UNICEF). Vào tháng 9 năm 2006, Maradona, trong chiếc áo số 10 trắng xanh nổi tiếng của mình, là đội trưởng của Argentina trong giải bóng đá trong nhà World Cup kéo dài 3 ngày ở Tây Ban Nha. Vào ngày 26 tháng 8 năm 2006, có thông báo rằng Maradona sẽ từ bỏ vị trí của mình trong câu lạc bộ Boca Juniors vì bất đồng với AFA, người đã chọn Alfio Basile làm huấn luyện viên mới của đội tuyển quốc gia Argentina. Năm 2008, nhà làm phim người Serbia Emir Kusturica đã thực hiện Maradona, một bộ phim tài liệu về cuộc đời Maradona.
Vào ngày 1 tháng 9 năm 2014, Maradona, cùng với nhiều ngôi sao bóng đá hiện tại và trước đây, tham gia "Trận đấu vì hòa bình", được tổ chức tại Stadio Olimpico ở Rome, với số tiền thu được sẽ được quyên góp hoàn toàn cho tổ chức từ thiện. Maradona đã kiến tạo cho Roberto Baggio ghi bàn trong hiệp một của trận đấu, với một pha đi bóng lắt léo qua hàng phòng ngự đối phương bằng chân trái. Điều bất thường là cả Baggio và Maradona đều mặc áo số 10 dù thi đấu cho cùng một đội. Vào ngày 17 tháng 8 năm 2015, Maradona đã đến thăm Ali Bin Nasser, trọng tài người Tunisia trong trận tứ kết Argentina - Anh tại World Cup 1986, nơi Maradona đã ghi Bàn tay của Chúa, và bày tỏ lòng biết ơn với Nasserr bằng cách tặng ông một chiếc áo đấu Argentina có chữ ký của ông.
Sự nghiệp huấn luyện viên
Huấn luyện câu lạc bộ
Maradona bắt đầu sự nghiệp huấn luyện viên của mình cùng với đồng đội cũ ở Argentinos Juniors, Carlos Fren. Cặp đôi này đã dẫn dắt Mandiyú của Corrientes vào năm 1994 và Racing Club vào năm 1995, nhưng không mấy thành công. Vào tháng 5 năm 2011, anh trở thành huấn luyện viên của câu lạc bộ Dubai Al Wasl FC ở Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Maradona bị sa thải vào ngày 10 tháng 7 năm 2012. Vào tháng 8 năm 2013, Maradona chuyển sang làm huấn luyện viên tâm thần cho câu lạc bộ Argentina Deportivo Riestra. Maradona đã rời bỏ vai trò này vào năm 2017 để trở thành huấn luyện viên trưởng của Fujairah, ở giải hạng hai UAE, trước khi rời đi vào cuối mùa giải khi câu lạc bộ không thể thăng hạng. Vào tháng 9 năm 2018, ông được bổ nhiệm làm huấn luyện viên của đội bóng hạng hai Mexico Dorados. Anh có trận ra mắt với Dorados vào ngày 17 tháng 9 năm 2018 với chiến thắng 4–1 trước Cafetaleros de Tapachula. Vào ngày 13 tháng 6 năm 2019, sau khi Dorados không giành được suất thăng hạng lên giải hàng đầu Mexico, luật sư của Maradona đã thông báo rằng ông sẽ từ bỏ cương vị này, với lý do sức khỏe.
Vào ngày 5 tháng 9 năm 2019, Maradona được tiết lộ với tư cách là huấn luyện viên trưởng mới của Gimnasia de La Plata, ký hợp đồng đến cuối mùa giải. Sau hai tháng phụ trách, Maradona rời câu lạc bộ vào ngày 19 tháng 11. Tuy nhiên, hai ngày sau, Maradona trở lại câu lạc bộ với tư cách là huấn luyện viên, và nói rằng "cuối cùng chúng tôi đã đạt được sự thống nhất chính trị trong câu lạc bộ". Maradona khẳng định rằng Gabriel Pellegrino vẫn là Chủ tịch câu lạc bộ nếu ông ở lại với Gimnisia de La Plata. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ liệu Pellegrino, người đã từ chối tái tranh cử, có ở lại làm Chủ tịch câu lạc bộ hay không. Ban đầu dự kiến được tổ chức vào ngày 23 tháng 11 năm 2019, cuộc bầu cử đã bị trì hoãn 15 ngày. Vào ngày 15 tháng 12 năm 2019, Pellegrino, người được Maradona khuyến khích tái tranh cử, đã được bầu lại với nhiệm kỳ ba năm. Mặc dù có thành tích không tốt trong mùa giải 2019–20, Gimnasia đã gia hạn hợp đồng với Maradona vào ngày 3 tháng 6 năm 2020 cho đến hết mùa giải 2020–21.
Huấn luyện đội tuyển quốc gia
Sau khi huấn luyện viên đội tuyển quốc gia Argentina Alfio Basile từ chức vào năm 2008, Maradona ngay lập tức đề xuất ứng cử cho vị trí còn trống. Theo một số nguồn tin báo chí, những người thách thức anh ấy bao gồm Diego Simeone, Carlos Bianchi, Miguel Ángel Russo và Sergio Batista. Vào ngày 29 tháng 10 năm 2008, chủ tịch AFA Julio Grondona xác nhận rằng Maradona sẽ là huấn luyện viên trưởng của đội tuyển quốc gia Argentina. Vào ngày 19 tháng 11 năm 2008, Maradona đã dẫn dắt Argentina lần đầu tiên khi họ đấu với Scotland tại Hampden Park ở Glasgow, Argentina đã thắng 1-0.
Sau khi giành chiến thắng trong ba trận đầu tiên dẫn dắt đội tuyển quốc gia, đội tuyển Argentina do Maradona huấn luyện đã thất bại 6–1 trước Bolivia, cân bằng với kỷ lục thất bại tồi tệ nhất từ trước đến nay của đội tuyển. Với hai trận đấu còn lại ở vòng loại World Cup 2010, Argentina đứng ở vị trí thứ năm và đối mặt với khả năng không thể vượt qua vòng loại, nhưng chiến thắng trong hai trận đấu cuối cùng đảm bảo suất dự vòng chung kết. Sau khi Argentina đã có suất, Maradona đã sử dụng ngôn từ lăng mạ trong cuộc họp báo trực tiếp sau trận đấu, nói với các thành viên của giới truyền thông rằng "hãy bú c. đi và tiếp tục bú c.". FIFA đã đáp trả bằng lệnh cấm Maradona hai tháng đối với tất cả các hoạt động bóng đá, hết hạn vào ngày 15 tháng 1 năm 2010 và phạt 25.000 CHF, kèm theo lời cảnh báo về hành vi trong tương lai. Trận giao hữu dự kiến diễn ra trên sân nhà với Cộng Hòa Séc vào ngày 15/12, trong thời gian bị cấm thi đấu, đã bị hủy bỏ. Trận đấu duy nhất mà Argentina thi đấu trong thời gian Maradona bị cấm là trận giao hữu trên sân khách với Catalonia, kết quả thua 4–2.
Tại vòng chung kết World Cup vào tháng 6 năm 2010, Argentina bắt đầu bằng chiến thắng 1–0 trước Nigeria, tiếp theo là chiến thắng 4–1 trước Hàn Quốc nhờ cú hat-trick của Gonzalo Higuaín. Ở trận đấu cuối cùng của vòng bảng, Argentina đã giành chiến thắng 2–0 trước Hy Lạp để giành vé đi tiếp và vào vòng hai, gặp Mexico. Tuy nhiên, sau khi đánh bại Mexico 3–1, Argentina đã bị Đức đè bẹp 4–0 trong trận tứ kết. Argentina đứng thứ 5 trong giải đấu. Sau thất bại trước Đức, Maradona thừa nhận rằng ông đang xem xét tương lai của mình với tư cách là huấn luyện viên đội tuyển Argentina, tuyên bố: "Tôi có thể ra đi vào ngày mai." Vào ngày 15 tháng 7 năm 2010, AFA cho biết rằng Maradona sẽ được đề nghị một hợp đồng mới có thời hạn 4 năm và ông tiếp tục nắm quyền đến mùa hè năm 2014 khi Brazil đăng quang World Cup. Tuy nhiên, vào ngày 27 tháng 7, AFA thông báo rằng hội đồng quản trị của họ đã nhất trí quyết định không gia hạn hợp đồng với Maradona, khác với đội trưởng vô địch World Cup 1978 và đồng đội năm 1986, Daniel Passarella. Sau đó, vào ngày 29 tháng 7, Maradona tuyên bố rằng chủ tịch AFA Julio Grondona và giám đốc các đội tuyển quốc gia (cũng như cựu huấn luyện viên đội tuyển quốc gia Argentina và Sevilla) Carlos Bilardo đã "nói dối", "phản bội" và sa thải ông khỏi ban huấn luyện. Ông nói, "Họ muốn tôi tiếp tục, nhưng họ muốn loại bảy nhân viên của tôi ra khỏi ban huấn luyện, nếu người ta đã nói với tôi như vậy, có nghĩa là họ không muốn tôi tiếp tục làm việc."
Đời tư
Gia đình
Sinh ra trong một gia đình Công giáo La Mã, cha mẹ của ông là Diego Maradona Senior và Dalma Salvadora Franco. Maradona kết hôn với vị hôn thê lâu năm Claudia Villafañe vào ngày 7 tháng 11 năm 1984 tại Buenos Aires, và họ có hai con gái, Dalma Nerea sinh ngày (2 tháng 4 năm 1987) và Gianinna Dinorah sinh ngày (16 tháng 5 năm 1989), người mà cho Maradona lên chức ông ngoại vào năm 2009.
Maradona và Villafañe ly hôn năm 2004. Con gái Dalma kể từ đó đã khẳng định rằng ly hôn là giải pháp tốt nhất cho hai người, vì cha mẹ cô vẫn giữ mối quan hệ thân thiện. Họ đã cùng nhau đến Napoli để thăm lại chốn cũ vào tháng 6 năm 2005 và được nhìn thấy cùng nhau trong những dịp khác, bao gồm cả các trận đấu của Argentina trong World Cup 2006.
Trong quá trình ly hôn, Maradona thừa nhận anh là cha của Diego Sinagra (sinh ra ở Naples ngày 20 tháng 9 năm 1986). Tòa án Ý đã ra phán quyết như vậy vào năm 1993, sau khi Maradona từ chối kiểm tra DNA để chứng minh hoặc bác bỏ quan hệ cha con của mình. Diego Junior gặp Maradona lần đầu tiên vào tháng 5 năm 2003 sau khi dùng mẹo vào một sân gôn ở Ý nơi Maradona đang chơi. Sinagra hiện là một cầu thủ bóng đá đang chơi bóng ở Ý. Sau khi ly hôn, Claudia bắt tay vào sự nghiệp của một nhà sản xuất sân khấu, và Dalma đang tìm kiếm sự nghiệp diễn xuất; cô đã bày tỏ mong muốn được tham dự Xưởng phim của Diễn viên ở Los Angeles.
Mối quan hệ của Maradona với gia đình ruột thịt của anh ấy là một mối quan hệ thân thiết, và trong một cuộc phỏng vấn năm 1990 với Sports Illustrated, Maradona đã cho thấy hóa đơn điện thoại mà ông đã chi tối thiểu 15.000 đô la Mỹ mỗi tháng để gọi cho bố mẹ và anh chị em của mình. Mẹ của Maradona, bà Dalma, qua đời vào ngày 19 tháng 11 năm 2011. Anh ấy đang ở Dubai vào thời điểm đó, và cố gắng bay ngược lại để gặp mẹ, nhưng đã quá muộn. Bà chết khi 81 tuổi. Cha của anh, "Don" Diego, qua đời vào ngày 25 tháng 6 năm 2015 ở tuổi 87.
Cháu trai của Maradona là Hernán López là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp.
Sử dụng ma túy và các vấn đề về sức khỏe
Từ giữa những năm 1980 cho đến năm 2004, Maradona nghiện cocaine. Ông bị cáo buộc bắt đầu sử dụng ma túy ở Barcelona vào năm 1983. Thời còn chơi cho Napoli, chứng nghiện ngập của Maradona đạt đỉnh, bắt đầu cản trở khả năng chơi bóng của ông. Giữa cuộc khủng hoảng ma túy vào năm 1991, Maradona được các nhà báo hỏi liệu bài hát nổi tiếng Mi enfermedad (nghĩa đen: Bệnh của tôi) có phải được dành riêng cho ông.
Maradona có xu hướng tăng cân và ngày càng bị béo phì, có thời điểm nặng . Ông bị béo phì từ khi kết thúc sự nghiệp thi đấu cho đến khi trải qua ca phẫu thuật cắt bỏ dạ dày tại một phòng khám ở Cartagena de Indias, Colombia, vào ngày 6 tháng 3 năm 2005. Bác sĩ phẫu thuật của anh ấy nói rằng Maradona sẽ theo một chế độ ăn uống chất lỏng trong ba tháng để có thể trở lại cân nặng bình thường. Khi Maradona tiếp tục xuất hiện trước công chúng ngay sau đó, ông đã có một thân hình gầy hơn đáng kể.
Vào ngày 29 tháng 3 năm 2007, Maradona được chuyển đến một bệnh viện ở Buenos Aires. Ông đã được điều trị viêm gan và ảnh hưởng của việc lạm dụng rượu và được ra viện vào ngày 11 tháng 4, nhưng hai ngày sau lại phải nhập viện trở lại. Những ngày sau đó, liên tục có tin đồn về sức khỏe của ông, trong đó có ba lần tuyên bố sai về cái chết của ông trong vòng một tháng. Sau khi chuyển đến một phòng khám tâm thần chuyên về các vấn đề liên quan đến rượu, Maradona đã được xuất viện vào ngày 7/5. Vào ngày 8 tháng 5 năm 2007, Maradona xuất hiện trên truyền hình Argentina và tuyên bố rằng anh đã bỏ rượu và không sử dụng ma túy trong hai năm rưỡi. Trong trận đấu World Cup 2018 giữa Argentina và Nigeria, hình ảnh Maradona đã được chiếu trên camera truyền hình cho thấy những hành vi cực kỳ thất thường, với rất nhiều cặn trắng có thể nhìn thấy trên kính trước ghế ngồi trên khán đài. Các vết ố có thể là dấu vân tay, và sau đó anh ta đổ lỗi cho hành vi của mình là do uống nhiều rượu vang. Vào tháng 1 năm 2019, Maradona đã trải qua cuộc phẫu thuật sau khi bị thoát vị gây chảy máu trong dạ dày.
Quan điểm chính trị
Trước đây Maradona đã lên tiếng ủng hộ Tổng thống Argentina theo chủ nghĩa tân tự do Carlos Menem và nhà kinh tế học Domingo Cavallo của Đại học Harvard, nên Maradona tỏ ra đồng cảm với các hệ tư tưởng cánh tả. Ông ủng hộ việc thành lập một nhà nước Palestine độc lập và lên án Israel tấn công quân sự vào Gaza trong cuộc xung đột Israel-2014 Gaza, nói: 'Những gì Israel đang làm để người Palestine là đáng xấu hổ' Ông kết thân với lãnh tụ Cuba Fidel Castro khi được điều trị trên đảo này, Castro nói: “Diego là một người bạn tuyệt vời và cũng rất cao quý. Không nghi ngờ gì nữa, anh ấy là một vận động viên tuyệt vời và đã duy trì một tình bạn với Cuba không vì lợi ích vật chất của riêng mình. " Maradona có một bức chân dung của Castro được xăm ở chân trái và một trong những người bạn chí cốt của Fidel, người đồng hương Argentina Che Guevara trên cánh tay phải. Trong cuốn tự truyện của mình, El Diego, ông đã dành tặng cuốn sách cho nhiều người, bao gồm cả Castro. Ông viết, "Gửi Fidel Castro và thông qua ông, gửi toàn thể nhân dân Cuba."
Maradona lên tiếng ủng hộ tổng thống bị lật đổ của Bolivia, Evo Morales và cũng là người ủng hộ cựu Tổng thống Venezuela Hugo Chávez. Năm 2005, ông đến Venezuela để gặp Chávez, người đã tiếp ông tại Cung điện Miraflores. Sau cuộc gặp, Maradona nói rằng ông đã đến để gặp một "người đàn ông vĩ đại" (un grande, cũng có thể có nghĩa là "một người đàn ông lớn", trong tiếng Tây Ban Nha), nhưng thay vào đó đã gặp một người đàn ông khổng lồ (un gigante). Maradona cũng tuyên bố, “Tôi tin vào Chávez, tôi là một Chavista. Tất cả những gì Fidel làm, tất cả những gì Chávez làm, đối với tôi là tốt nhất. " Maradona là khách mời danh dự của Chávez tại trận khai mạc Copa América 2007 được tổ chức tại Venezuela.
Năm 2004, Maradona tham gia một cuộc biểu tình phản đối cuộc chiến do Mỹ dẫn dắt ở Iraq. Maradona tuyên bố phản đối cái mà ông xác định là chủ nghĩa đế quốc, đặc biệt trong Hội nghị thượng đỉnh châu Mỹ năm 2005 ở Mar del Plata, Argentina. Ở đó, ông phản đối sự hiện diện của George W. Bush ở Argentina, mặc một chiếc áo phông có nhãn " "(với chữ" s "trong" Bush "được thay thế bằng chữ vạn) và gọi Bush là" rác của loài người ". Vào tháng 8 năm 2007, Maradona đã tiến xa hơn, xuất hiện trên chương trình truyền hình hàng tuần Alo Presidente của Chávez và nói, “Tôi ghét tất cả những gì đến từ Hoa Kỳ. Tôi ghét nó với tất cả sức mạnh của mình. " Tuy nhiên, đến tháng 12 năm 2008, Maradona đã có thái độ thân Mỹ hơn và bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với người kế nhiệm Bush, Tổng thống đắc cử lúc đó là Barack Obama, người mà ông rất kỳ vọng.
Lớn lên ở một thị trấn tồi tàn nghèo khó, Maradona đã nuôi dưỡng một nhân cách con người của quần chúng. Trong cuộc gặp với Giáo hoàng John Paul II tại Vatican năm 1987, hai người đã xung đột về vấn đề chênh lệch giàu nghèo, Maradona nói rằng, "Tôi đã tranh luận với ông ấy bởi vì tôi ở Vatican và tôi đã nhìn thấy tất cả những trần nhà bằng vàng này và sau đó tôi nghe thấy Giáo hoàng nói rằng Giáo hội lo lắng về phúc lợi của trẻ em nghèo. Hãy bán trần nhà của bạn và làm cái gì đó đi! " Vào tháng 9 năm 2014, Maradona đã gặp Giáo hoàng Phanxicô tại Rôma, ghi công Đức Phanxicô đã truyền cảm hứng cho ông trở lại tôn giáo sau nhiều năm xa cách; ông tuyên bố, “Tất cả chúng ta nên noi gương Đức Thánh Cha Phanxicô. Nếu mỗi người chúng ta cho người khác một thứ gì đó, thì không ai trên thế giới này sẽ chết đói nữa."
Vào tháng 12 năm 2007, Maradona đã tặng một chiếc áo có chữ ký với thông điệp ủng hộ người dân Iran: nó được trưng bày trong bảo tàng của Bộ Ngoại giao Iran. Vào tháng 4 năm 2013, Maradona đã đến thăm lăng mộ của Hugo Chávez và kêu gọi người dân Venezuela bầu chọn người kế nhiệm được chỉ định của nhà lãnh đạo quá cố, Nicolás Maduro, để tiếp tục di sản của nhà lãnh đạo xã hội chủ nghĩa; "Hãy tiếp tục cuộc đấu tranh," Maradona nói trên truyền hình. Maradona đã tham dự cuộc biểu tình cuối cùng của chiến dịch tranh cử của Maduro ở Caracas, ký hợp đồng với bóng đá và đá chúng trước đám đông, và tặng Maduro một chiếc áo đấu của Argentina. Sau khi đến thăm lăng mộ của Chávez cùng với Maradona, Maduro nói, "Nói chuyện với Diego rất xúc động vì comandante Chávez cũng rất yêu thích anh ấy." Maradona đã tham gia và khiêu vũ tại cuộc mít tinh vận động bầu cử trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2018 ở Venezuela. Trong cuộc khủng hoảng tổng thống ở Venezuela năm 2019, Liên đoàn bóng đá Mexico đã phạt Maradona vì vi phạm quy tắc đạo đức của họ khi dành chiến thắng của đội bóng cho Nicolás Maduro.
Trong cuốn tự truyện năm 2006 Yo Soy El Diego Maradona đã liên hệ bàn thắng "Bàn tay của Chúa" vào lưới đội Anh tại World Cup 1986 với Chiến tranh Falkland: "Mặc dù trước trận đấu chúng tôi đã nói rằng bóng đá không liên quan gì đến Chiến tranh Malvinas [Falklands], chúng tôi biết họ đã giết rất nhiều trai trẻ Argentina ở đó, giết họ như những con chim nhỏ. Và đây chính là sự trả thù. " Vào tháng 10 năm 2015, Maradona cảm ơn Nữ hoàng Elizabeth II và Nhà Quốc hội ở London vì đã cho ông cơ hội cung cấp "công lý thực sự" với tư cách là người đứng đầu một tổ chức được thiết kế để giúp đỡ trẻ nhỏ. Trong một video được phát hành trên trang Facebook chính thức của mình, Maradona xác nhận rằng ông sẽ chấp nhận đề cử của họ để trở thành giám đốc khu vực Mỹ Latinh cho tổ chức phi chính phủ Football for Unity.
Các vấn đề tài chính
Vào tháng 3 năm 2009, các quan chức Ý thông báo rằng Maradona vẫn nợ chính phủ Ý 37 triệu € tiền thuế địa phương, 23,5 triệu € trong số đó là lãi phát sinh trên khoản nợ ban đầu. Họ báo cáo rằng vào thời điểm đó, Maradona chỉ trả 42.000 euro, hai chiếc đồng hồ sang trọng và một bộ hoa tai.
Qua đời và tang lễ
Ngày 2 tháng 11 năm 2020, Maradona nhập viện ở La Plata, được cho là vì lý do tâm lý. Đại diện của cựu cầu thủ cho biết tình trạng của ông không nghiêm trọng. Một ngày sau, ông được phẫu thuật não khẩn cấp để điều trị tụ máu dưới màng cứng. Maradona được ra viện vào ngày 12 tháng 11 sau khi phẫu thuật thành công và được các bác sĩ giám sát như một bệnh nhân ngoại trú. Vào ngày 25 tháng 11 năm 2020, Maradona qua đời vì một cơn đau tim tại nhà riêng ở Tigre, Buenos Aires, Argentina, không lâu sau sinh nhật lần thứ 60. Trong một tuyên bố trên mạng xã hội, Liên đoàn bóng đá Argentina bày tỏ "nỗi buồn sâu sắc nhất đối với cái chết của huyền thoại của chúng tôi", đồng thời nói thêm: "Ông sẽ luôn ở trong trái tim chúng tôi." Tổng thống Alberto Fernández đã công bố ba ngày quốc tang. UEFA thông báo rằng mọi trận đấu ở Champions League và Europa League sẽ diễn ra với một phút tưởng nhớ Maradona trước khi thi đấu.
Chính quyền thành phố Napoli cũng thông báo kế hoạch đổi tên sân vận động San Paolo thành sân vận động Diego Maradona để tưởng nhớ Maradona.
Sau tang lễ của Maradona, Liên đoàn bóng đá Argentina cũng quyết định đổi tên Cup Liên đoàn Chuyên nghiệp Argentina thành Cup Diego Armando Maradona.
Nghi vấn về cái chết
Ngày 22/6/2022, tám bác sỹ có trách nhiệm chăm sóc cho Maradona đã bị tòa án Argentina đưa ra phán xử về tội mưu sát danh thủ này, họ bị cáo buộc về hành vi tắc trách trong đạo đức nghề nghiệp, thiếu thận trọng và lơ là chểnh mảng trong công vụ, cụ thể họ đã cố tình để cho huyền thoại bóng đá này suốt 12 tiếng trong tình trạng đau đớn vật vã mà thiếu sự hỗ trợ của vật tư y tế.
Thống kê
Sự nghiệp cầu thủ
Câu lạc bộ
Ghi chú
Quốc tế
Ghi chú
Sự nghiệp huấn luyện
Danh hiệu
Câu lạc bộ
Boca Juniors
Argentine Primera División: 1981 Metropolitano
Barcelona
Copa del Rey: 1983
Copa de la Liga: 1983
Napoli
Serie A (2): 1986–87, 1989–90
Coppa Italia: 1986–87
UEFA Cup: 1988–89
Supercoppa Italiana: 1990
Quốc tế
Argentina Youth
FIFA World Youth Championship: 1979
Argentina
FIFA World Cup: 1986
Artemio Franchi Trophy: 1993
Danh hiệu cá nhân
Vua phá lưới Giải vô địch bóng đá quốc gia Argentina - Metropolitano - (1978, 1979 và 1980)
Cầu thủ xuất sắc nhất Giải vô địch bóng đá trẻ thế giới tại Nhật Bản - (1979)
Vua phá lưới Giải vô địch bóng đá quốc gia Argentina - Nacional - (1979 và 1980)
Olimpia de Oro al Mejor Deportista Argentino, según el Círculo de Periodistas Deportivos (CPD) - (1979, 1980, 1986)
Olimpia de Plata al Mejor Deportista Argentino, según el Círculo de Periodistas Deportivos (CPD) - (1979, 1980, 1981, 1986)
Balón de Oro al Mejor Futbolista del año, según el Centro de Periodistas Acreditados en la AFA (CEPA) - (1979, 1980, 1981)
Mejor Futbolista de América, según encuesta diario El Mundo, de Caracas - (1979, 1980, 1986, 1989, 1990 y 1992)
Diploma al Mérito Konex - (1980 y 1990)
Trofeo Gandulla al Mejor Futbolista del Año - (1981)
Danh hiệu Đại sứ của UNICEF - (1985)
Cầu thủ xuất sắc nhất (Quả bóng vàng) Giải vô địch bóng đá thế giới 1986 do FIFA bình chọn - (1986)
Đứng thứ hai danh sách Vua phá lưới Giải vô địch bóng đá thế giới 1986 - (1986)
Pluma de Oro al Mejor Deportista de Europa - (1986)
Cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu (Onze d'Or) do tạp chí Onze bình chọn - (1986 và 1987)
Designado entre los Siete Magníficos del deporte, por Gueron Sportivo - (1986)
Cầu thủ của năm do World Soccer Magazine bình chọn - (1986)
Danh hiệu Công dân danh dự (Ciudadano Ilustre) do Thành phố Buenos Aires trao tặng - (1986)
Vua phá lưới Giải vô địch bóng đá quốc gia Ý - (1987)
Vua phá lưới Cúp quốc gia Ý - (1988)
Quả bóng đồng Giải vô địch bóng đá thế giới 1990 do FIFA bình chọn - (1990)
Danh hiệu Đại sứ thể thao (Embajador Deportivo) do Tổng thống Argentina phong tặng - (1990)
Premio Konex de Brillante - (1990)
Premio Konex de Platino - (1990)
Danh hiệu Cầu thủ bóng đá Argentina xuất sắc nhất mọi thời đại do Liên đoàn bóng đá Argentina (AFA) trao tặng - (1993)
Elegido Maestro Inspirador de Sueños por la Universidad de Oxford, Inglaterra - (1995)
Quả bóng vàng danh dự cho sự nghiệp thi đấu do France Football trao tặng - (1995)
Đứng thứ hai trong danh sách Cầu thủ bóng đá xuất sắc nhất mọi thời đại do các cầu thủ từng đoạt Quả bóng vàng bầu chọn - (1999)
Danh hiệu Bàn thắng đẹp nhất trong lịch sử bóng đá - (1999)
Olimpia de Platino al Deportista Argentino del siglo XX, según el Círculo de Periodistas Deportivos (CPD) - (1999)
Danh hiệu Vận động viên thể thao của thế kỷ (Deportista del Siglo) do nhật báo Diario Clarín bầu chọn - (1999)
Danh hiệu Cầu thủ bóng đá xuất sắc nhất mọi thời đại (Fifa Internet Award) do FIFA tổ chức - (2000)
Một trong các Vận động viên thể thao xuất sắc nhất châu Mỹ Latinh thế kỷ 20 do hãng thông tấn Prensa Latina tại La Habana bình chọn - (2003)
Một trong các cầu thủ của danh sách FIFA 100 - (2004)
Premio Domingo Faustino Sarmiento entregado por el Senado de la Nación Argentina - (2005)
Declarado deportista meritorio y vecino ilustre del partido de Ezeiza - (2007) |
Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển, viết tắt là UNCTAD (United Nations Conference on Trade and Development, hay Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên Hợp Quốc), được thành lập năm 1964 theo nghị quyết 1995 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc.
UNCTAD hiện có 194 thành viên quốc gia và vùng lãnh thổ, đặt trụ sở tại Genève, Thụy Sĩ. UNCTAD được coi là tổ chức kinh tế thương mại lớn nhất thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc. Mục đích của UNCTAD là thúc đẩy sự phát triển kinh tế nói chung và thương mại nói riêng của tất cả các nước thành viên, nhất là các nước đang phát triển.
Lịch sử
Hoạt động
Các hội nghị diễn ra 4 năm một lần, gồm:
Điều hành
Các Tổng thư ký điều hành |
Phùng Quán (1932–1995) là một nhà văn, nhà thơ Việt Nam, bắt đầu viết trong khoảng thời gian của cuộc chiến tranh Đông Dương và khẳng định được văn tài với Vượt Côn Đảo nhưng ông được biết đến nhiều hơn sau Đổi mới. Ông là cháu gọi Tố Hữu bằng cậu (Tố Hữu với mẹ của Phùng Quán là hai anh em cô cậu ruột, theo cách gọi của người miền Bắc là bác).
Tiểu sử
Phùng Quán sinh tháng 1 năm 1932, quê tại xã Thủy Dương, huyện Hương Thủy (nay là phường Thủy Dương, thị xã Hương Thủy), tỉnh Thừa Thiên Huế. Cha ông là Phùng Văn Nguyện (còn có tên là Phùng Quý Đông) là con trai cả của Phùng Kiểm (nhà nho, mất 1957) và Lê Thị Me. Ông còn có hai người chú ruột là Phùng Lưu (tức Nguyễn Vạn, Tư Bốn, sinh 1916, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế) và Phùng Thị.
Năm 1945, ông tham gia Vệ quốc quân, là chiến sĩ trinh sát Trung đoàn 101 (tiền thân là Trung đoàn Trần Cao Vân). Sau đó ông tham gia Thiếu sinh quân Liên khu IV, đoàn Văn công Liên khu IV.
Đầu năm 1954, ông làm việc tại Cơ quan sinh hoạt Văn nghệ quân đội thuộc Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam (tiền thân của Tạp chí Văn nghệ Quân đội).
Tác phẩm đầu tay Vượt Côn Đảo của ông được giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1955. Về quá trình viết tác phẩm này, trong di cảo hồi ký "Tôi đã trở thành nhà văn như thế nào" do Nhà xuất bản Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2007, ông kể nhiều chi tiết rất thú vị về sự ngẫu nhiên và tình cờ đưa ông từ một người lính trở thành một nhà văn và những biến cố phải gánh chịu nhưng với giọng kể rất hóm hỉnh, không một chút trách móc hay thù hận. Không lâu sau đó, Phùng Quán tham gia phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm bằng hai bài thơ "Lời mẹ dặn" và "Chống tham ô lãng phí" (1957). Khi phong trào này chấm dứt dưới tác động của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Phùng Quán bị kỷ luật, ra khỏi quân đội, sau đó mất đi tư cách hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và phải đi lao động thực tế ở nhiều nơi.
Từ đó đến khi được nhìn nhận lại vào thời kỳ Đổi mới, Phùng Quán hầu như không có một tác phẩm nào được xuất bản, ông phải tìm cách xuất bản một số tác phẩm của mình dưới bút danh khác và câu cá ở Hồ Tây để kiếm sống. Vì thế, bạn bè văn nghệ thường gói gọn cuộc đời ông thời kỳ này bằng sáu chữ: "cá trộm, rượu chịu, văn chui".
Năm 1988, cuốn tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán được xuất bản và nhận Giải thưởng Văn học Thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam hai năm sau đó. Ngoài văn xuôi, Phùng Quán còn sáng tác thơ và có nhiều bài thơ nổi tiếng như: Hoa sen, Hôn, Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe. Vợ ông là nhà giáo Vũ Thị Bội Trâm, giảng dạy tại Trường PTTH Chu Văn An (Hà Nội).
Ông mất ngày 22 tháng 1 năm 1995 tại Hà Nội. Năm 2010, sau khi vợ ông mất, thể theo nguyện vọng của ông lúc sinh thời, gia đình và bạn bè đã đưa hài cốt ông bà về an táng tại quê nhà: phường Thủy Dương, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Năm 2007, Phùng Quán được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, do Chủ tịch nước ký quyết định tặng riêng cùng với Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm.
Tác phẩm
Vượt Côn Đảo, Tiểu thuyết, 1955 - Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật, 2007
Tôi muốn mời đến Tổ quốc tôi. Thơ, 1955. Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, 1955; Báo Phụ nữ Liên Xô dịch và in, 1957
Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo, Thơ, 1955 - Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật, 2007
Thạch Sanh cháu Bác Hồ. Truyện thiếu nhi, Nhà xuất bản Thanh niên, 1955; Nhà xuất bản Thượng Hải (Trung Quốc) dịch và in năm 1956
Bên bờ Hiền Lương. Bút ký, Nhà xuất bản Văn nghệ, 1955; Nhà xuất bản Thượng Hải (Trung Quốc) dịch và in năm 1956
Cuộc đời một đôi dép cao su. Truyện thiếu nhi, Nhà xuất bản Thanh niên, 1956
Như con cò vàng trong cổ tích. Tập truyện thiếu nhi, (tác phẩm ký bút danh Vũ Quang Khải, em trai vợ, lúc đang làm cán bộ ở Diễn Châu, Nghệ An); Giải nhất cuộc thi sáng tác văn học nghệ thuật kỷ niệm 100 năm ngày sinh Lenin do hãng Thông tấn Nôvôxti (Liên Xô) tổ chức năm 1970; Sở Văn hóa Thông tin Bình Trị Thiên xuất bản, 1987
Vĩnh Linh, lịch sử văn hóa (ký tên tác giả là Nguyễn Huy). Nhà xuất bản Văn hóa, năm 1982. In 6.100 bản
Dũng sĩ chép còm. Truyện thiếu nhi; Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1987, đang in với bút danh Trần Vỹ Dạ (do nhà thơ Thanh Tịnh chuyển). Khi Phùng Quán được phục hồi hội tịch mới đổi lại tên Phùng Quán (in 40.000 cuốn), tái bản tại Nhà xuất bản Kim Đồng
Tuổi thơ dữ dội, Tiểu thuyết, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 1987 - Giải A văn học thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam, 1988. Năm 1990 được đạo diễn Nguyễn Vinh Sơn dựng thành phim, Giải thưởng Bộ Quốc phòng 2000, Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007
Người du kích hói đầu. Truyện thiếu nhi, 1990
Tiếng đàn trong rừng thẳm. Truyện thiếu nhi, 1991
Đôi bạn tật nguyền kỳ lạ. Truyện thiếu nhi, Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1991, in 4000 cuốn
Thơ Phùng Quán, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, 1995
Bản hùng ca về 17 Vệ quốc Đoàn. Tủ sách Tuổi hồng, Nhà xuất bản Trẻ, 1993
Trăng hoàng cung, Tiểu thuyết thơ, Nhà xuất bản Thanh Văn, USA 1993. Năm 2007, Nhà xuất bản Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh tái bản Trăng hoàng cung & Phùng Quán viết Trăng hoàng cung (tiểu thuyết tình 13 chương của Phùng Quán & Hồi ức của nhà văn Hà Khánh Linh) kể về những câu chuyện xung quanh thi phẩm này.
Phùng Quán, Thơ, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 2003
Ba phút sự thật, Ký, Nhà xuất bản Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 2006, tái bản bổ sung 2009
Tôi đã trở thành nhà văn như thế nào?, Hồi ký, Nhà xuất bản Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 2007.
Phùng Quán còn đây, Di cảo của Phùng Quán và Hồi ức của bạn bè, Nhà xuất bản Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 2007.
Một vài bài thơ
Lời mẹ dặn
Tôi mồ côi cha năm hai tuổi
Mẹ tôi thương con không lấy chồng
Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải
Nuôi tôi đến ngày lớn khôn.
Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ
Ngày ấy tôi mới lên năm
Có lần tôi nói dối mẹ
Hôm sau tưởng phải ăn đòn.
Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn
Ôm tôi hôn lên mái tóc:
- Con ơi! trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suốt đời
Phải làm một người chân thật.
- Mẹ ơi, chân thật là gì?
Mẹ tôi hôn lên đôi mắt
Con ơi một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc là khóc.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu
Từ đấy người lớn hỏi tôi:
- Bé ơi, Bé yêu ai nhất?
Nhớ lời mẹ tôi trả lời:
- Bé yêu những người chân thật.
Người lớn nhìn tôi không tin
Cho tôi là con vẹt nhỏ
Nhưng không! những lời dặn đó
In vào trí óc của tôi
Như trang giấy trắng tuyệt vời
In lên vết son đỏ chói
Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi
Đứa bé mồ côi thành nhà văn
Nhưng lời mẹ dặn thuở lên năm
Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ.
Người làm xiếc đi dây rất khó
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêụ
Tôi muốn làm nhà văn chân thật, chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.
(1957)
Hôn
Trời đã sinh ra emĐể mà xinh mà đẹpTrời đã sinh ra anhĐể yêu em tha thiết
Khi người ta yêu nhauHôn nhau trong say đắmCòn anh, anh yêu emAnh phải ra mặt trận
Yêu nhau ai không muốnGần nhau và hôn nhauNhưng anh, anh không muốnHôn em trong tủi sầu
Em ơi rất có thểAnh chết giữa chiến trườngĐôi môi tươi đạn xéChưa bao giờ được hôn
Nhưng dù chết em ơiYêu em anh không thểHôn em bằng đôi môiCủa một người nô lệ.(1956)
Chú thích |
Ouagadougou (; tiếng Mossi: ) là thủ đô của Burkina Faso và là trung tâm hành chính, văn hóa, và kinh tế của đất nước. Đây cũng là thành phố lớn nhất Burkina Faso, với dân số 1.475.223 . Tên thành phố thường được rút ngắn thành Ouaga, và người dân ở đây được gọi là ouagalais.
Ngành công nghiệp chính của Ouagadougou là chế biến thực phẩm và dệt. Thành phố có một sân bay quốc tế, và có một tuyến được sắt nối liền tới Abidjan ở Bờ Biển Ngà. Không có tuyến đường sắt đi tới Kaya. Ngoài ra, có một tuyến đường trải nhựa tới Niamey, Niger, nam tới Ghana, và tây nam tới Bờ Biển Nga. Chợ lớn Ouagadougou tọa lạc tại đây, nó là một trong những chợ lớn nhất Tây Phi, từng bị cháy vào năm 2003 nhưng đã được phục hồi. Bảo tàng Quốc gia Burkina Faso, Cung điện Moro-Naba (nơi tổ chức lễ Moro-Naba), Bảo tàng Âm nhạc Quốc gia, và nhiều chợ thủ công cũng hiện diện tại Ouagadougou.
Cái tên Ouagadougou bắt nguồn từ thế kỷ 15 khi các bộ lạc Ninsi sinh sống trong khu vực.[4] Họ đã xung đột liên tục cho đến năm 1441 khi Wubri, một anh hùng Yonyonse và là một nhân vật quan trọng trong lịch sử của Burkina Faso, dẫn dắt bộ lạc của mình đến chiến thắng. Sau đó, ông đổi tên khu vực từ "Kumbee-Tenga", như người Ninsi đã gọi nó, thành "Wage saber soba koumbem tenga", nghĩa là "làng trưởng của chiến tranh trưởng". Ouagadougou là một cách đánh vần tên tiếng Pháp. Thành phố trở thành thủ đô của Đế chế Mossi vào năm 1441 và trở thành nơi thường trú của các hoàng đế Mossi (Moro-Naba) vào năm 1681.[5] Nghi lễ Moro-Naba vẫn được thực hiện vào thứ Sáu hàng tuần bởi Moro-Naba và tòa án của ông. Năm 1919, người Pháp đã biến Ouagadougou trở thành thủ đô của lãnh thổ Thượng Volta (về cơ bản là cùng khu vực với Burkina Faso đương đại). Năm 1954, tuyến đường sắt từ Bờ Biển Ngà đến thành phố. Dân số của Ouagadougou đã tăng gấp đôi từ năm 1954 đến 1960 và đã tăng gấp đôi sau mỗi mười năm kể từ đó.[5] Vào ngày 15 tháng 1 năm 2016, các tay súng được trang bị vũ khí hạng nặng đã tấn công trung tâm Ouagadougou tại nhà hàng Cappuccino và khách sạn tráng lệ. Có 28 người đã thiệt mạng,[6][7] và ít nhất 56 người bị thương; Sau một cuộc phản công của chính phủ, tổng cộng 176 con tin đã được thả ra[8] vào buổi sáng sau cuộc tấn công ban đầu. Ba trong số các thủ phạm cũng bị giết.
Ouagadougou, nằm trên cao nguyên trung tâm (12,4 ° N 1,5 ° W), vây quanh cung điện hoàng gia của Mogho Naaba. Là một trung tâm hành chính của chế độ thuộc địa, nó đã trở thành một trung tâm đô thị quan trọng trong thời kỳ hậu thuộc địa. Đầu tiên, là thủ đô của Vương quốc Mossi và sau là Thượng Volta và Burkina Faso, Ouagadougou trở thành một trung tâm xã hội thực sự vào năm 1995.
Khí hậu của Ouagadougou nóng bán khô cằn (BSh) theo phân loại của Köppen-Geiger, và gần biên giới với ẩm ướt và khô nhiệt đới (Aw). Thành phố này là một phần của khu vực Sudano-Sahelian, với lượng mưa hàng năm khoảng 800 mm (31 in). Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, chiều cao của nó từ tháng 6 đến tháng 9, với nhiệt độ trung bình là 28 °C (82 °F). Mùa lạnh kéo dài từ tháng 12 đến tháng 1, với nhiệt độ trung bình tối thiểu là 16 °C (61 °F). Nhiệt độ tối đa trong mùa nóng, kéo dài từ tháng 3 đến tháng 5, có thể đạt tới 43 °C (109 °F). Mây (gió khô) và gió mùa là hai yếu tố chính quyết định khí hậu của Ouagadougou. Mặc dù Ouagadougou nằm xa xích đạo hơn, nhiệt độ những tháng nóng nhất của nó nóng hơn một chút so với Bobo-Dioulasso, thành phố đông dân thứ hai của đất nước. |
Hồng Tú Toàn (chữ Hán: 洪秀全, bính âm: Hóng xiù quán), tự là Hỏa Tú (火秀), xuất thân từ một gia đình người Khách Gia là lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc chống lại triều đình Mãn Thanh. Ông tự xưng là Thiên Vương, thành lập ra Thái Bình Thiên Quốc và từng chiếm lĩnh nhiều vùng đất rộng lớn ở Đông-nam Trung Quốc. Ông tự xưng là em trai của Chúa Giêsu.
Tiểu sử
Hồng Tú Toàn sinh năm 1814 (cũng có tài liệu ghi 1813) trong một gia đình trung nông có 3 trai 1 gái ở thôn Phúc Nguyên Thủy (福源水村), huyện Hoa (花縣) (ngày nay là quận Hoa Đô, thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông), Quảng Đông, Trung Quốc. Cha ông là Hồng Cảnh Dương (洪競揚) và mẹ ông là Vương thị (王氏). Ông học hành thông minh nhưng đi thi nhiều lần không đỗ. Ông sau đó chuyển đến sống tại thôn Quan Lộc (官祿㘵村). Sau đó ông đã kết hôn với Lại Tích Anh (賴惜英).
Hồng Tú Toàn bắt đầu học tại Thư Phòng các (书房阁) lúc bảy tuổi. Sau sáu năm, ông đã có thể đọc thuộc Tứ thư, Ngũ kinh. Vào lúc 15 tuổi, cha mẹ của ông không còn đủ khả năng để cho ông tiếp tục, do đó, ông trở thành một thầy giáo cho trẻ em trong làng của mình và tiếp tục học một mình. Năm 22 tuổi, vào năm 1836, ông đi thi Tú tài tại trường thi Quảng Châu, nhưng bị trượt. Ông thi lại bốn lần, nhưng không lần nào thành công. Điều này một phần là do không có tiền hối lộ cho các quan.
Hồng Tú Toàn sau đó trở thành một thục sư (塾师) tại Thư phòng các và một số trường học ở Liên Hoa Đường (莲花塘) và vài làng khác.
Sự nghiệp
Năm 1837. sau khi thi trượt lần thứ hai, Hồng Tú Toàn bị bệnh nặng và mơ thấy một ông vua đưa mình một thanh kiếm, đi diệt trừ Nhà Thanh đang khinh rẻ nông dân. Hồng Tú Toàn kể rằng trong giấc mơ ông cũng thấy một người trẻ tuổi hơn, ông gọi bằng anh. Bảy năm sau, vào năm 1843, tình cờ đọc cuốn Lời lành răn đời của Hội Truyền bá đạo Thiên Chúa xuất bản ở Quảng Châu, ông nhận ra trong giấc mơ của mình ông gặp được Thượng đế, cùng với Chúa Giê-xu, người mà ông gọi bằng anh. Sẵn có tâm lý không bằng lòng với chế độ khoa cử và những quy định bất công của triều đình nhà Thanh, ông đã lấy chủ nghĩa bình đẳng của đạo Thiên Chúa làm gốc, sáng lập ra đạo "Bái Thượng đế" để tập hợp người dân chống lại chính quyền.
Năm 1844, Hồng Tú Toàn đi truyền đạo. Đến năm 1850, ông phát động cuộc khởi nghĩa tại vùng núi tỉnh Quảng Tây. Sau khi giành được một số thắng lợi, ông tuyến bố thành lập chính quyền mới gọi là Thái Bình Thiên Quốc, tự xưng là Thiên vương và phân phong cho các tướng lĩnh. Thế lực của quân Hồng Tú Toàn rất mạnh, chỉ trong vòng chưa đầy nửa năm họ đã chiếm được hết hơn 16 phủ, 600 huyện, làm triều đình nhà Thanh rung chuyển. Tháng 3 năm 1853, quân nổi dậy chiếm được thành phố quan trọng phía nam của Mãn Thanh là Nam Kinh. Hồng Tú Toàn đã quyết định đổi tên thành phố thành Thiên Kinh và lấy đó làm thủ đô của Thái Bình Thiên Quốc.
Nhưng Thái Bình Thiên Quốc đã không xây dựng những căn cứ vững chắc trong những vùng mình chiếm đóng. Bộ phận lãnh đạo phạm vào nhiều sai lầm về chính trị và quân sự. Năm 1856, Hồng Tú Toàn thủ tiêu một số tướng tá có thế lực của Thái Bình Thiên Quốc (trong đó có Đông vương Dương Tú Thanh, một viên tướng tài giỏi, thành phần cố nông) không ăn cánh với mình, làm cho lực lượng khởi nghĩa giảm sút đi nhiều.
Các nước tư bản phương Tây là Anh, Pháp, Hoa Kỳ lợi dụng sự rối ren hiện nay tại Trung Quốc, trước hết dùng vũ lực buộc triều đình Mãn Thanh khuất phục, khiến cuộc chiến tranh Nha phiến lần thứ 2 (1857-1860) xảy ra, sau đó tích cực giúp đỡ triều đình Mãn Thanh và tầng lớp địa chủ quan liêu vũ trang tấn công Thái Bình Thiên Quốc. Năm 1864, Thiên Kinh bị quân đội nhà Thanh và đội vũ trang của địa chủ quan liêu bao vây chặt. Quân đội và tàu chiến của Anh, Pháp, Hoa Kỳ cũng tham gia tấn công. Quân Thái Bình Thiên Quốc cùng với dân chúng trong thành chiến đấu dũng cảm. Ngày 1 tháng 6 năm 1864, khi thành Thiên Kinh sắp thất thủ, Hồng Tú Toàn đã tự vẫn.
Tác phẩm văn chương
Bài thơ sau đây, bài thơ có tiêu đề là Thuật chí thi (述志詩), được viết vào năm 1837 bởi Hồng Tú Toàn, minh họa suy nghĩ tôn giáo của mình và mục đích mà sau này dẫn đến việc thành lập Thái Bình Thiên Quốc.
Nguyên văn chữ Hán
《述志詩》
手握乾坤殺伐權,
斬邪留正解民懸。
眼通西北江山外,
聲振東南日月邊。
展爪似嫌雲路小,
騰身何怕漢程偏。
風雷鼓舞三千浪,
易象飛龍定在天。
Dịch Hán Việt
Thuật chí thi
Thủ ác càn khôn sát phạt quyền,
Trảm tà lưu chính giải dân huyền.
Nhãn thông tây bắc giang sơn ngoại,
Thanh chấn đông nam nhật nguyệt biên.
Triển trảo tự hiềm vân lộ tiểu,
Đằng thân hà phạ Hán trình thiên.
Phong lôi cổ vũ tam thiên lãng,
Dịch tượng phi long định tại thiên.
Nhận định
Nguồn tham khảo
In Chinese:余杰:读潘旭澜著《太平杂说》
Google translation
Tiếng Trung:撕下历史的"面膜"——读潘旭澜教授《太平杂说》
Google translation
(tiếng Anh) Truyện tranh Hồng Tú Toàn
(tiếng Trung) 洪秀全漫画 |
Thanh Cao Tông (chữ Hán: 清高宗, , 25 tháng 9 năm 1711 – 7 tháng 2 năm 1799), Hãn hiệu Đằng Cách Lý Đặc Cổ Cách Kỳ hãn, Tây Tạng tôn vị Văn Thù Hoàng Đế (文殊皇帝), là Hoàng đế thứ sáu của Nhà Thanh và là Hoàng Đế Mãn Thanh thứ tư sau khi nhập quan. Trong thời gian trị vì của mình, ông chỉ dùng niên hiệu Càn Long (乾隆), nên còn gọi là Càn Long Đế (乾隆帝).
Là vị Hoàng đế có tuổi thọ cao nhất trong lịch sử Trung Quốc, thời kỳ trị vì của Càn Long kéo dài gần 60 năm; từ 11 tháng 10 năm 1735 đến 1 tháng 9 năm 1795; và là thời cực thịnh về kinh tế cũng như quân sự của Đại Thanh. Vào thời này, lãnh thổ nhà Thanh kéo dài đến Châu thổ sông Y Lê và Tân Cương, lãnh thổ Trung Quốc mở rộng đến tối đa, khoảng hơn 13.000.000 km² (so với 9.600.000 km² hiện nay).
Càn Long học theo cách thức cai trị của ông nội mình là Thanh Thánh Tổ Khang Hi, người mà ông rất ngưỡng mộ. Khi còn trẻ, Càn Long đã khiến Khang Hi ngạc nhiên về rất nhiều lĩnh vực, nhất là về văn học nghệ thuật. Khang Hi đã cho rằng Càn Long sẽ xứng đáng trở thành hoàng đế kế vị sau Ung Chính. Lúc lên ngôi, Càn Long có mở một số cuộc viễn chinh với kết quả lẫn lộn, ông cũng thu nạp nhiều phi tần, tuần du các nơi, thi hành nhiều chính sách hợp lý khiến quốc lực cường thịnh, xứng đáng được khen ngợi là vị vua có tài cai trị. Nhưng vào giai đoạn cuối đời, ông trở nên tự mãn và tiêu xài hoang phí, khiến ngân khố bắt đầu thiếu hụt. Ông cũng dung túng cho lộng thần tham nhũng là Hòa Thân, khiến đội ngũ quan lại nhà Thanh dần bị tha hoá. Sự suy yếu của nhà Thanh, trên thực tế đã bắt đầu từ giai đoạn cuối đời Càn Long.
Năm 1796, Càn Long nhường ngôi cho con trai thứ 15 là Vĩnh Diễm, lên làm Thái thượng hoàng, vẫn giữ quyền chính trong cung, sử gọi là Huấn chính (训政). Đến năm Gia Khánh thứ 4 (1799) thì ông mới qua đời, hưởng thọ 88 tuổi. Ông là một trong 4 vị Hoàng đế thọ nhất của Trung Hoa (88 tuổi), ba người kia là Lương Vũ Đế (86 tuổi), Võ Tắc Thiên (82 tuổi) và Tống Cao Tông (81 tuổi).
Thân thế
Thời thơ ấu
Càn Long tên thật là Hoằng Lịch (chữ Hán: 弘曆, ), sinh vào ngày 13 tháng 8 (tức ngày 25 tháng 9 dương lịch) năm Khang Hy thứ 50 (1711), vào lúc nửa đêm tại Đông thư viện của phủ Ung Thân vương, tên khi còn nhỏ là Nguyên Thọ (元寿). Thân phụ của ông là Thanh Thế Tông Ung Chính, khi ấy còn là Ung Thân vương. Còn thân mẫu ông là Nữu Hỗ Lộc thị, khi ấy còn là Cách cách trong phủ Ung Thân vương.
Khi Hoằng Lịch chào đời, huynh trưởng của ông là Hoằng Huy (弘暉), Hoằng Phán (弘昐), Hoằng Quân (弘昀) đều sớm tạ thế. Hoằng Thời, anh trai thứ 4 (trên danh nghĩa là thứ 3) của Hoằng Lịch, là người con trai trưởng thành nhất của Ung Thân vương. Hoằng Lịch là con trai thứ 5 (trên danh nghĩa là thứ 4) của Ung Thân vương, thực tế là đứng thứ 2. Từ nhỏ, Hoằng Lịch tư chất hơn người, học đâu nhớ đó. Năm Khang Hy thứ 60 (1721), Khang Hy nghe nói cháu nội Hoằng Lịch ở Ung Thân vương phủ rất thông minh, bèn cho mời gặp. Sau khi gặp, Khang Hy rất thích Hoằng Lịch, lệnh đưa vào cung học vấn, sau đó còn cho đi theo mình đến hành cung Nhiệt Hà. Khi đó, Hoằng Lịch mới 10 tuổi.
Khi Khang Hi Đế qua đời (1722), Ung Thân vương đăng cơ, lấy niên hiệu là Ung Chính. Con trưởng Hoằng Thời hành vi phóng túng, rất không được Ung Chính yêu thích, mà Hoằng Lịch vào những năm cuối, được Khang Hy sủng ái, nên vô hình trung đã khiến địa vị của Hoằng Lịch trong cuộc tranh đoạt Hoàng vị suôn sẻ hơn. Đây có lẽ là lý do Ung Chính đã ngấm ngầm chọn Hoằng Lịch làm Trữ quân.
Vấn đề về sinh mẫu
Một trong những truyền thuyết phổ biến nhất về thân thế của Càn Long lưu truyền trong các câu chuyện dân gian, các bộ tiểu thuyết, dã sử chính là giả thuyết Càn Long là con cháu dòng họ Trần ở Hải Ninh, Chiết Giang.
Chuyện kể rằng, vào ngày 13 tháng 8 năm Khang Hi thứ 50, tức năm 1711, phủ của Ung Thân Vương, người sau này trở thành Hoàng đế Ung Chính, trở nên nhộn nhịp vui vẻ lạ thường. Hôm đó, Hoàng tử Dận Chân có thêm một đứa con. Cùng trong ngày hôm đó, nhà họ Trần ở Hải Ninh cũng có thêm một đứa trẻ. Nhà họ Trần ở đây chính là chỉ Trần Thế Quán, hay còn gọi là "Trần Các Lão", một người từng làm quan dưới thời Khang Hy và có quan hệ cực kỳ mật thiết với Hoàng tử thứ 4, Ung Thân vương Dận Chân (tức Ung Chính Hoàng đế). Lúc bấy giờ, Vương phi của Hoàng tử Dận Chân và vợ của Trần Các Lão đều mang thai. Không lâu sau đó, cả hai người cùng sinh vào một ngày, Vương phi của Ung Chính sinh ra một cách cách còn vợ của Trần Các Lão thì sinh ra một bé trai. Ung Chính nghe nói con trai của Trần Các Lão sinh cùng ngày với cách cách của mình mới lệnh cho Trần Các Lão mang con trai vào Vương phủ của mình để xem mặt. Lệnh của Vương gia không thể không nghe, Trần Các Lão không còn cách nào khác đành phải mang con của mình đưa vào Vương phủ. Tuy nhiên, khi đứa bé được trả về cho nhà họ Trần thì ban đầu là con trai giờ lại hóa thành con gái. Đứa con trai nhà họ Trần bị đánh tráo vào phủ Ung Chính sau này chính là Hoằng Lịch.
Lại có một truyền thuyết khác, sinh mẫu của Hoằng Lịch vốn tên là Lý Kim Quế (李金桂). Đây chỉ là một truyền thuyết dân gian, nhưng bên cạnh sự tích nhà họ Trần bên trên, thì thuyết này cũng nổi tiếng không kém. Theo truyền thuyết này, Lý Kim Quế vốn là một cung nữ ở Hành cung Nhiệt Hà. Tại đây, trong một lần uống rượu máu hươu (lộc huyết; 鹿血), Ung Chính Đế đã nổi hứng lâm hạnh Lý Kim Quế. Sau khi xong việc, Ung Chính vì cảm thấy Lý thị nhan sắc kém cỏi, xuất thân đê hèn, trong khi ấy ông đang cạnh tranh với các Hoàng tử khác trong sự kiện "Đoạt đích", do đó sau khi Lý thị sinh ra Hoằng Lịch, thì Ung Chính bèn nhanh chóng đưa đứa bé đến cho Nữu Hỗ Lộc thị nuôi nấng, xưng là mẹ ruột. Kết cuộc của Lý Kim Quế được truyền lại rằng bà vẫn còn sống khi Hoằng Lịch lên ngôi, nhưng lại chọn giả điên dại, bảo toàn thể diện hoàng gia.
Những thuyết trên tuy về mặt sử liệu cực kỳ đáng nghi và vớ vẩn, nhưng lại rất dễ trở thành tư liệu sáng tác cho tiểu thuyết cùng phim ảnh, do vậy nó vẫn tồn tại trong các truyện thuyết cổ trang. Câu chuyện về họ Trần đã được Kim Dung hư cấu thành bộ tiểu thuyết Thư kiếm ân cừu lục, còn về Lý Kim Quế đã được sử dụng trong hai loạt phim truyền hình nổi tiếng Hậu cung Chân Hoàn truyện và Như Ý truyện. Một khúc Hí kịch tên Phong võ hành cung (风雨行宫) cũng dựa trên truyền thuyết về Lý Kim Quế.
Thời kỳ Hoàng tử
Trước khi Hoằng Lịch lên ngôi, tin tức về người kế vị đã được nhiều người biết đến. Hoằng Lịch chính là người được tổ phụ là Khang Hi và phụ hoàng là Ung Chính đánh giá cao. Trên thực tế, Ung Chính đã giao cho Hoằng Lịch nhiều công việc quan trọng từ khi Hoằng Lịch còn là hoàng tử, bao gồm cả những việc triều chính liên quan đến các chiến lược quân sự.
Theo mật chỉ do Ung Chính công bố, ngay từ năm Ung Chính nguyên niên (1723), tháng 8, Ung Chính đã chỉ định Hoàng tứ tử Hoằng Lịch chính thức trở thành Trữ quân. Do vậy, sự giáo dục của Hoằng Lịch từ thời khắc đó trở nên chú trọng hơn, bao gồm các lão thần Trương Đình Ngọc, Từ Nguyên Mộng, Thái Thế Xa,... ngoài ra các Hoàng thân như Doãn Lộc, Doãn Hi cũng đều kèm cặp cưỡi ngựa bắn cung cho Hoằng Lịch, để Hoằng Lịch không quên đi nguồn gốc tổ tiên. Do đó, Hoằng Lịch nhanh chóng trở thành hoàng tử hiểu biết Mãn, Hán, Mông văn.
Năm Ung Chính thứ 2 (1724), tháng 11, ngày kị của Khang Hy, Ung Chính sai Hoằng Lịch thay mình tế Cảnh lăng.
Năm thứ 4 (1726), tháng 5, 3 năm ngày giỗ của Nhân Thọ Hoàng thái hậu, Ung Chính muốn đích thân đến tế lăng nhưng vương công đại thần ra sức khuyên ngăn, lo lắng mùa hè nóng nực sẽ ảnh hưởng đến thánh cung. Hơn nữa cả đi lẫn về tổng cộng hơn năm sáu trăm dặm, lại đang mùa gặt hái, một đường phu dịch không khỏi làm chậm trễ công việc nhà nông. Ung Chính nghe theo, phái Hoằng Lịch thay mặt đi tế lễ.
Tháng 11, Ung Chính hạ lệnh phái quan viên tế Vĩnh lăng, Phúc lăng, Chiêu Tây lăng, Hiếu lăng và Hiếu Đông lăng, lại phái Hoằng Lịch tế Cảnh lăng.
Tháng 12, Hoằng Lịch cùng Trang Thân vương Doãn Lộc được phái đi thăm Mã Vũ đang ốm nặng. Ung Chính Đế ra chỉ dụ "Mã Vũ ôm bệnh nguy cấp, văn chi thâm vi thê trắc, Mã Vũ phụng sự Hoàng khảo Khang Hi hơn năm mươi năm, sớm chiều hầu hạ trái phải không rời, khác cung cẩn thận, mọi chuyện đều ngưỡng thể thánh tâm". Không lâu sau, Mã Vũ qua đời, Ung Chính phái Hoằng Lịch, Di Thân vương Doãn Tường, Trang Thân vương Doãn Lộc, cùng với Bộ viện Đại thần và Nhất đẳng Thị vệ của bốn kỳ Tả dực, đến tế rượu cho Mã Vũ.
Năm thứ 5 (1727), tháng 7, đại hôn, Hoằng Lịch được Ung Chính ban hôn cho Phú Sát thị, con gái Sáp Cáp Nhĩ tổng quản Lý Vinh Bảo, xuất thân từ dòng họ Sa Tế Phú Sát thị của Tương Hoàng kỳ. Đại hôn cử hành ở Tây Nhị sở trong Tử Cấm Thành (về sau Càn Long Đế đổi tên thành Trọng Hoa cung).
Năm thứ 8 (1730), Đích tử của Hoằng Lịch ra đời, Ung Chính đích thân đặt tên Vĩnh Liễn, còn đặc biệt đem Nhạc Thiện đường toàn tập (乐善堂全集) ban chúc mừng.
Năm thứ 9 (1731), tháng 8, Đại học sĩ Trung Đạt Công, Phủ Viễn Đại tướng quân Mã Nhĩ Tái chuẩn bị lên đường, Ung Chính mệnh Hoằng Lịch cáo tế Phụng tiên điện, tất cả vương công, quan viên đều đến bên ngoài Tây Trường An môn đưa tiễn.
Năm thứ 11 (1733), ông được gia phong Bảo Thân vương (寶親王). Cùng năm này, Ung Chính Đế cho phép Hoằng Lịch tham gia nghị định đàn áp Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ và người Miêu ở Quý Châu. Đây đều là đại chính sự khi đó của Đại Thanh, cho thấy tư cách kế vị của Hoằng Lịch đã rõ ràng hơn bao giờ hết. Ngoài ra, việc tế lăng, tế Khổng, tế Quan Thánh Đế Quân, tế Miếu,... những việc tế tự trọng đại đều do Hoằng Lịch đích thân chủ trì.
Để tránh lặp lại một cuộc tranh giành quyền lực – điều vốn để lại vết nhơ trong con đường đến ngai vàng của mình, ngay từ năm đầu đăng cơ, tức Ung Chính nguyên niên tháng 8 (1723), Ung Chính Đế đã viết sẵn tên người kế ngôi, đưa vào trong một chiếc hộp niêm phong cẩn thận được đặt phía sau tấm bảng Chính đại quang minh (正大光明) phía trên ngai vàng tại Cung Càn Thanh. Tên người kế vị sẽ được công khai cho các hoàng thân trong cuộc họp mặt của tất cả các quan đại thần, sau khi Hoàng đế mất. Đây chính là hình thức xác nhận ngôi vị Trữ quân mà các hoàng đế Nhà Thanh áp dụng cho đến khi Cách mạng Tân Hợi (1911) nổ ra, chấm dứt triều Thanh.
Vào năm Ung Chính thứ 13 (1735), ngày 23 tháng 8, Ung Chính qua đời. Nội thị lấy chỉ dụ đã được soạn sẵn, công bố trước triều đình. Theo đó, Bảo Thân vương Hoằng Lịch kế thừa Đế vị. Do Hoằng Lịch là được bí mật tuyên chiếu lập vị, ông được mệnh các đại thần phù trợ, bao gồm Trang Thân vương Doãn Lộc, Quả Thân vương Doãn Lễ, Đại học sĩ Ngạc Nhĩ Thái và đại thần Trương Đình Ngọc. Ngày 3 tháng 9, Hoằng Lịch lên ngôi ở điện Thái Hòa, lấy năm sau là năm đầu niên hiệu Càn Long (乾隆). Ngày 27 tháng 9, di cư Dưỡng Tâm điện.
Hoàng đế Đại Thanh
Chính sách đối nội
Càn Long là vị Hoàng đế rất chuyên tâm đến triều chính, đã xóa bỏ chế độ chính trị hà khắc của Ung Chính, thay vào đó là chính sách khoan dung độ lượng. Ông giải phóng tất cả những người trong tông thất bị cầm tù, những người chú, bác bị bức hại mà chết đều được ghi trong ngọc điệp, phong anh em mình làm Thân vương; thời Ung Chính bắt bớ giam cầm những văn sĩ vô tội, gia tộc của họ bị đày tới biên giới làm nô lệ, nay đều được ông trả về quê cũ. Từ khi cơ cấu quyền lực tối cao chỉ sau Hoàng đế là Quân cơ xứ được thành lập, hàng ngày Càn Long đều đích thân tới Quân cơ xứ để xử lý việc triều chính. Sáng đi sớm tối về muộn, buổi tối cũng thường xuyên triệu kiến các Quân cơ đại thần, chính vì vậy mà từ thời ông, Quân cơ xứ dần dần hình thành nên chế độ trực đêm, sau này sợ một người không xử lý nổi, nên vào mỗi sáng sớm còn có một người tới giúp đỡ. Bên cạnh đó, Càn Long cũng quản lý rất nghiêm khắc hoạn quan và ngoại thích, trước hết là cấm hoạn quan học hành, xóa bỏ Nội thư đường vốn là nơi đọc sách, học chữ của hoạn quan; tiếp đến phàm những hoạn quan là sai tấu sự thì đều đổi họ là Vương, như vậy sẽ khiến các quan bên ngoài khó mà phân biệt được, từ đó tránh để họ câu kết với nhau.
Về mặt phát triển xã hội, Càn Long chủ yếu kế thừa chế độ kinh tế và chính trị của Khang Hi và Ung Chính, đặc biệt là thực thi triệt để các chính sách như "cải thổ quy lưu", "than định nhập mẫu" và "hỏa hao quy công". Những chính sách này đã đưa triều Thanh lên đỉnh cao của sự phát triển. Đất nước dưới thời Càn Long bắt đầu bước vào giai đoạn cực thịnh.
Các cuộc chiến tranh biên giới
Càn Long được đánh giá là một nhà quân sự tài ba. Ngay sau khi lên ngôi, ông đã cho quân đàn áp cuộc khởi nghĩa của người Miêu vào năm 1735–1736. Những chiến dịch sau đó của ông đã làm mở rộng đáng kể lãnh thổ của Nhà Thanh. Sự thành công này một phần cậy nhờ vào sức mạnh quân sự, phần còn lại là sự chia rẽ và ngày một suy yếu của những dân tộc Nội Á.
Dưới thời Càn Long, Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ đặt dưới sự cai trị của Nhà Thanh; sau đó nó đã đổi tên thành Tân Cương; trong khi đó, ở phía Tây, vùng Nội Mông là một đơn vị đồn trú của quân đội Nhà Thanh. Sự sáp nhập Tân Cương vào trong lãnh thổ Nhà Thanh là kết quả của các chiến thắng quân sự và sự sụp đổ của Hãn Quốc Chuẩn Cát Nhĩ, một liên minh giữa các bộ tộc Tây Mông Cổ. Theo học giả Ngụy Viên (đời Nhà Thanh), 40% trong tổng số 600,000 người Chuẩn Cát Nhĩ đã chết do bệnh đậu mùa, 20% phải di dân đến các khu vực của tộc người Nga, người Kazakh, 30% bị quân đội nhà Thanh tiêu diệt. Còn sử gia Peter Perdue cho rằng sự suy giảm dân số của người Chuẩn Cát Nhĩ là kết quả của chính sách diệt chủng triệt để của Càn Long.
Cuộc diệt chủng của hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ đã được so sánh với chiến dịch Thập toàn Võ công vào năm 1776, cũng xảy ra trong thời của Càn Long. Khi quân chiến thắng trở về Bắc Kinh, một bài thánh ca được hát để tôn vinh họ. Một phiên bản tiếng Mãn Châu của bài thánh ca được ghi lại bởi Dòng Tên Amoit và gửi đến Paris. Nhà Thanh đã thuê Triệu Dực và Jiang Yongzhi tại Sở Lưu trữ Quân sự, với tư cách là thành viên của Hàn Lâm Viện, để biên soạn các tác phẩm về chiến dịch này, như Chiến lược bình định Chuẩn Cát Nhĩ (Pingding Zhunge'er fanglue). Những bài thơ tôn vinh cuộc chinh phục nhà Thanh được viết bởi Triệu Dực, người đã viết phong cách Yanpu trong "phong cách ghi chép", nơi mà các khoản chi tiêu quân sự của triều đại Càn Long được ghi lại. Càn Long đã được ca ngợi là nguồn gốc của "Hòa bình và thịnh vượng của thế kỷ 18" theo mô tả của Triệu Dực. Các phiến quân Khalkha của Mông Cổ dưới trướng hoàng tử Chingünjav đã lập mưu cùng với khả hãn Chuẩn Cát Nhĩ Amursana và lãnh đạo một cuộc nổi dậy chống lại đế quốc Thanh cùng thời với Chuẩn Cát Nhĩ. Quân đội nhà Thanh đã đàn áp cuộc nổi dậy và hành quyết Chingünjav cũng như cả gia đình ông ta.
Suốt thời gian này đã tiếp tục diễn ra sự can thiệp của người Mông Cổ vào Tây Tạng; ở chiều ngược lại đó là sự thâm nhập của Phật giáo Tây Tạng vào Mông Cổ. Sau cuộc bạo loạn ở Llasa vào năm 1750, Càn Long đã trao quyền trị vì Tây Tạng cho Đà Lai Lạt Ma nhưng song song đó, lại đặt nó dưới sự giám sát của các quan Đại thần và quân đội Nhà Thanh đồn trú tại đây nhằm bảo vệ chủ quyền của Trung Hoa. Ở những mặt trận xa hơn, ông đã thu phục được người Nepal, người Gukhas. Năm 1791, Gurkha (nay là Nepal) xâm chiếm Tây Tạng. Chúng đi tới đâu là cướp của giết người tới đó, khiến nhân dân Tây Tạng lâm vào cảnh đau thương, khốn đốn. Càn Long lập tức phái Phúc Khang An và Hải Lan Sát dẫn quân đến nghênh chiến. Quân Thanh nhanh chóng đánh đuổi được quân Gurkha ra khỏi Tây Tạng. Quân Gurkha phái sứ giả tới cầu hòa, cam kết sẽ không bao giờ xâm phạm Tây Tạng nữa, và trả lại số vàng bạc châu báu cướp được, Càn Long đã chấp nhận điều kiện ngừng chiến này của Gurkha. Sau việc này, Càn Long cảm thấy chính phủ Tây Tạng đã quá thối nát, không thể chống đỡ nổi sự tấn công của quân xâm lược, vậy nên đã phái Phúc Khang An soạn thảo điều lệ giải quyết vấn đề nan giải của Tây Tạng, đây chính là "Khâm định Tây Tạng chương trình" nổi tiếng trong lịch sử.
Ngoài ra, Càn Long cũng đã có âm mưu thôn tính xứ Miến Điện nhưng cuối cùng đã thất bại hoàn toàn trong cuộc chiến tranh Thanh–Miến. Ban đầu ông tin rằng sẽ giành được chiến thắng dễ dàng, và chỉ gửi quân đội ở tỉnh Vân Nam, giáp biên giới Miến Điện. Cuộc xâm lược của nhà Thanh bắt đầu khi phần lớn lực lượng Miến Điện được triển khai trong cuộc xâm lược mới nhất của họ đối với Vương quốc Ayutthaya của Xiêm. Tuy nhiên, quân đội Miến Điện đã đánh bại hai cuộc xâm lược đầu tiên vào năm 1765–66 và 1766–67 tại khu vực biên giới. Cuộc xung đột khu vực hiện đang leo thang đến một cuộc chiến tranh lớn liên quan đến diễn tập quân sự trên toàn quốc ở cả hai quốc gia. Cuộc xâm lược thứ ba (1767–1768) do quân Bát Kỳ tinh nhuệ thực hiện gần như thành công khi đã tiến sâu vào địa phận Miến Điện trong vòng vài ngày diễu hành từ kinh đô nước này, Inwa. Tuy nhiên, lực lượng từ miền Bắc Trung Quốc này lại không thể thích nghi nổi với khí hậu nhiệt đới không quen thuộc và các bệnh dịch đặc hữu gây chết người", và phải rút quân về nước với những tổn thất nặng nề. Sau cuộc gọi cận kề, Vua Hsinbyushin đã tái bố trí quân đội của mình từ Xiêm sang đối phó với Trung Quốc. Cuộc xâm lược thứ tư và lớn nhất đã bị sa lầy ở biên giới. Khi lực lượng nhà Thanh bị bao vây hoàn toàn, một thỏa thuận ngừng bắn đã được thực hiện giữa các chỉ huy chiến trường của hai bên vào tháng 12 năm 1769. Lực lượng nhà Thanh giữ một đội hình quân sự hạng nặng ở khu vực biên giới Vân Nam trong khoảng một thập kỷ để cố gắng tiến hành một cuộc chiến khác trong khi áp đặt lệnh cấm buôn bán liên biên giới trong hai thập kỷ. Khi Miến Điện và Trung Quốc nối lại mối quan hệ ngoại giao vào năm 1790, chính quyền nhà Thanh đã đơn phương xem hành động này là sự phục tùng của Miến Điện, và tuyên bố chiến thắng.
Mặc dù thất bại ở miền Nam, tổng thể cuộc mở rộng quân sự của Hoàng đế Càn Long đã tăng gần gấp đôi diện tích của Đế chế nhà Thanh rộng lớn, và đưa vào lãnh thổ nhiều dân tộc không thuộc Hán tộc như người Duy Ngô Nhĩ, người Kazakhs, người Kyrgyzs, người Evenks và người Mông Cổ – những bộ tộc thù địch với triều đình. Đây cũng là một chiến dịch quân sự rất hao tiền; số tiền trong Kho bạc Hoàng gia hầu như được đưa vào các cuộc viễn chinh quân sự. Mặc dù hầu hết các cuộc chiến tranh đã thành công, quân Thanh không quá áp đảo như vậy. Quân đội nhà Thanh đã bị thiệt hại đáng kể và gặp khó khăn khi đối mặt với một số kẻ thù bị đánh giá yếu hơn nhiều: chiến dịch chống lại Thập toàn Võ công mất 2–3 năm – lúc đầu quân đội nhà Thanh liên tục thua trận, mặc dù Nhạc Chung Kỳ (hậu duệ của Nhạc Phi) sau đó nắm quyền kiểm soát tình hình. Cuộc chiến với hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ đã nhiều lần diễn ra với cục diện giằng co, và gây ra thiệt hại nặng nề ở cả hai bên.
Vào giai đoạn cuối cuộc chiến tranh biên giới, quân đội nhà Thanh đã bắt đầu suy yếu đáng kể. Ngoài một hệ thống quân sự khoan dung hơn, các tướng lĩnh trở nên đắm chìm trong lối sống hưởng thụ xa xỉ. Vì hầu hết các cuộc chiến đã diễn ra, các vị tướng không còn thấy bất kỳ lý do gì để huấn luyện quân đội của họ, dẫn đến một sự suy yếu quân sự nhanh chóng vào cuối triều đại của Hoàng đế Càn Long. Đây là lý do chính cho sự thất bại của quân đội nhà Thanh để ngăn chặn cuộc khởi nghĩa Bạch Liên giáo, bắt đầu vào cuối triều đại của Càn Long và mở rộng vào thời của Gia Khánh.
Điều quân sang nước Đại Việt
Những năm cuối thế kỷ XVIII, nước Đại Việt xảy ra xung đột giữa nhà Hậu Lê với nhà Tây Sơn. Tháng 5 năm 1788, vua Lê Chiêu Thống cùng các bầy tôi sang Long Châu cầu viện nhà Thanh phát binh đánh nhà Tây Sơn. Tháng 7 năm 1788, Lê Chiêu Thống ở Kinh Bắc cũng sai người sang Trung Quốc cầu cứu. Càn Long thấy vậy bèn phát binh đánh Đại Việt. Cuối năm 1788, Càn Long sai Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị chỉ huy hơn 29 vạn quân, huy động từ Lưỡng Quảng, Vân Nam và Quý Châu hộ tống Lê Chiêu Thống về Đại Việt với danh nghĩa phù Lê diệt Tây Sơn, và phong cho Lê Chiêu Thống là An Nam Quốc vương để vào chiếm đóng Thăng Long (Hà Nội). Quân đội nhà Thanh nhanh chóng áp đảo và dễ dàng chiếm kinh thành Thăng Long, buộc hai tướng Ngô Văn Sở và Ngô Thì Nhậm phải rút quân vào Phú Xuân báo cho tướng nhà Tây Sơn là Bắc Bình vương Nguyễn Huệ.
Ngày 20 tháng 12 năm Mậu Thân (15 tháng 1 năm 1789), đại quân của Quang Trung đã ra đến Tam Điệp, Ninh Bình. Khi đó, quân sĩ được lệnh ăn Tết trước. Và sau đó, Quang Trung ra lệnh cho quân sĩ chia thành 5 đạo quân để tiến ra Thăng Long. Sau khi thăm dò tình hình (bằng cách viết thư cho Tôn Sĩ Nghị giả vờ đầu hàng), vua Quang Trung thông báo chỉ trong 10 ngày là quét sạch quân Mãn Thanh.
Sớm hơn cả dự kiến, trong vòng 6 ngày kể từ đêm 30 Tết âm lịch, quân Tây Sơn đã đánh tan 29 vạn quân Mãn Thanh mà trận Ngọc Hồi – Đống Đa là tiêu biểu. Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết..., thây ngổn ngang đầy đồng, máu chảy thành suối. Quân Thanh đại bại (Hoàng Lê nhất thống chí). Trưa mồng 5 Tết Kỷ Dậu – 1789, quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long.
Trưa mồng 5 Tết Kỷ Dậu – 1789, quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị và Lê Chiêu Thống sợ hãi dẫn đám tàn quân vượt sông Hồng chạy thoát về Trung Quốc. Quang Trung tuy đánh bại quân Thanh, nhưng biết Đại Thanh là nước lớn, vả lại còn đang phải chống lại thế lực Nguyễn Ánh ở miền Nam Đại Việt, nên quyết định xưng thần với nhà Thanh. Về phía Đại Thanh, Càn Long biết Đại Việt khó đánh, mà đánh được cũng khó giữ, nên chấp nhận sự giảng hòa của Quang Trung. Càn Long vẫn giữ nhóm vua tôi Lê Chiêu Thống trên đất Trung Quốc nhưng phớt lờ tất cả mọi nỗ lực của họ khi đòi người Thanh tiếp tục đưa quân sang đánh báo thù Tây Sơn.
Bản sắc chính trị Trung Quốc và chính sách biên cương
Hoàng đế Càn Long và những người tiền nhiệm của ông, kể từ Hoàng đế Thuận Trị, đã xác định Trung Quốc và Đế quốc Thanh là như nhau, và trong các hiệp ước và các tài liệu ngoại giao, Đế quốc Thanh gọi đó là "Trung Quốc". Hoàng đế Càn Long đã bác bỏ những ý kiến trước đó rằng chỉ người Hán mới có thể là người Trung Quốc và chỉ có đất Hán mới có thể được coi là một phần của Trung Quốc, vì vậy ông đã định nghĩa lại Trung Quốc là đa sắc tộc, nói rằng vào năm 1755, "tồn tại quan điểm về Trung Quốc (zhongxia), theo mà những người không phải người Hán không thể trở thành chủ thể của Trung Quốc và đất đai của họ không thể hòa nhập vào lãnh thổ Trung Quốc. Điều này không thể hiện sự hiểu biết về triều đại của chúng ta về Trung Quốc, mà thay vào đó là các triều đại Hán, Đường, Tống và Minh trước đó. "
Hoàng đế Càn Long bác bỏ quan điểm của các quan chức Hán, người nói rằng Tân Cương không phải là một phần của Trung Quốc và ông không nên chinh phục nó, đưa ra quan điểm rằng Trung Quốc là đa sắc tộc và không chỉ đề cập đến người Hán. Hoàng đế Càn Long đã so sánh thành tích của mình với thành tích của nhà Hán và nhà Đường khi viễn chinh vào Trung Á.
Quan hệ với phương Tây
Đối mặt với thực dân phương Tây liên tục dòm ngó, Càn Long đã chọn thái độ cứng rắn, từ chối thẳng thừng những yêu cầu vô lý của họ. Cùng với đó, ông chọn thái độ hữu hảo với những nước có thành ý với Trung Quốc, tuy nhiên vẫn dứt khoát từ chối đề xuất thông thương của họ. Quan điểm của ông là, tiếp tục duy trì chính sách bế quan tỏa cảng của quốc gia, cũng chính vì vậy mà đã khiến khoa học kỹ thuật của Trung Quốc tụt hậu khá xa so với châu Âu.
Thành tựu văn hóa
Giống như hoàng đế tiền nhiệm, Càn Long coi trọng vai trò văn hóa của bản thân mình. Trước hết, Càn Long cố gắng bảo tồn di sản Mãn Châu, thứ mà ông luôn xem như là nền tảng của tính cách đạo đức của người Mãn Châu và do đó là sức mạnh của triều Thanh. Ông ra lệnh biên soạn các phả hệ ngôn ngữ Mãn Châu, lịch sử, và các cẩm nang nghi lễ và vào năm 1747 đã bí mật ra lệnh biên soạn Bộ luật Shaman, được xuất bản sau trong Tứ khố toàn thư. Ông tiếp tục củng cố các yêu sách văn hóa và tôn giáo của các triều đại ở Trung Á bằng cách đặt một bản sao của cung điện Potala, một ngôi đền Tây Tạng, được xây dựng trên nền tảng của Tị Thử Sơn Trang ở Thừa Đức. Để trình bày bản thân với người Tây Tạng và người Mông Cổ trong Phật giáo hơn là trong các thuật ngữ Nho giáo, ông đã đưa một bức tranh thangka, hay thiêng liêng, mô tả ông là văn–thù–sư–lợi, Bồ Tát của trí tuệ.
Càn Long là một người bảo trợ chính và là "người bảo quản và phục chế" quan trọng của văn hóa Nho giáo. Ông đã có một sự thèm ăn vô độ để thu thập, và có được nhiều "bộ sưu tập tư nhân vĩ đại" của Trung Quốc bằng bất kỳ phương tiện nào cần thiết, và "tích trữ lại kho báu của họ vào bộ sưu tập hoàng gia." Càn Long, nhiều hơn bất kỳ hoàng đế Mãn Châu nào khác, đã yêu mến bộ sưu tập hoàng gia với sự chú ý và nỗ lực của mình::
Bộ sưu tập hoàng gia có nguồn gốc từ thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, và đã trải qua nhiều thăng trầm của hỏa hoạn, nội chiến và các cuộc xâm lược của nước ngoài trong các thế kỷ tiếp theo. Nhưng chính Càn Long đã dành sự chú ý lớn nhất cho nó, chắc chắn là của bất kỳ nhà cai trị người Mãn nào... Một trong nhiều vai trò của Càn Long, với sự siêng năng thông thường của ông, là hoàng đế với tư cách là nhà sưu tầm và giám tuyển.... Càn Long theo dõi thị trường nghệ thuật một cách cẩn thận như thế nào trong các bức tranh và cổ vật quý hiếm, sử dụng một đội ngũ cố vấn văn hóa, từ văn nhân Trung Quốc cao tuổi đến những người sành chơi Mãn Châu mới nổi. Những người đàn ông này sẽ giúp hoàng đế phát hiện ra những bộ sưu tập tư nhân vĩ đại sắp được bán, bởi vì vận may của một số gia đình thương nhân giàu có trước đây đang làm sáng tỏ hoặc bởi vì những đồ vật quý giá được mua bởi ông bà Mãn hoặc Trung Quốc trong thời kỳ hỗn loạn không có còn giá trị bởi những người thừa kế còn sống của những gia đình đó. Đôi khi, Càn Long cũng sẽ gây áp lực hoặc thậm chí buộc các cận thần giàu có phải đưa ra các đối tượng nghệ thuật lựa chọn: ông đã làm điều này bằng cách chỉ ra những thất bại trong công việc của họ, có thể được miễn nếu họ làm một "món quà" nào đó, hoặc, trong một vài lễ kỷ niệm trường hợp, bằng cách thuyết phục các chủ sở hữu hiện tại rằng chỉ có các bức tường an toàn của Thành phố bị cấm và những người bảo vệ của nó có thể cứu một số bức tranh quý giá khỏi trộm cắp hoặc từ hỏa hoạn.
Bộ sưu tập nghệ thuật đồ sộ của Hoàng đế Càn Long đã trở thành một phần thân mật trong cuộc đời ông; ông đã mang theo những bức tranh phong cảnh trong chuyến du lịch của mình để so sánh chúng với phong cảnh thực tế, hoặc treo chúng trong những căn phòng đặc biệt trong cung điện nơi ông ở, để khắc ghi chúng trong mỗi lần đến đó. "Ông cũng thường xuyên thêm các dòng chữ thơ vào các bức tranh của bộ sưu tập hoàng gia, theo gương của các hoàng đế của triều đại nhà Tống và các họa sĩ văn chương của triều đại nhà Minh. Chúng là một dấu ấn riêng biệt cho tác phẩm và là dấu hiệu hữu hình của ông Vai trò chính đáng của hoàng đế. Đặc biệt nhất đối với Hoàng đế Càn Long là một loại chữ khắc khác, cho thấy một cách thực hành độc đáo đối với các tác phẩm nghệ thuật mà ông dường như đã phát triển cho chính mình. Trong một số thời gian cố định, ông đã chiêm ngưỡng một số bức tranh hoặc các tác phẩm thư pháp sở hữu ý nghĩa đặc biệt đối với anh ta, ghi chép thường xuyên với các ghi chú chủ yếu là riêng tư về hoàn cảnh thưởng thức chúng, sử dụng chúng gần như một cuốn nhật ký. "
"Hầu hết vài ngàn vật phẩm ngọc bích trong bộ sưu tập hoàng gia kể từ thời trị vì của ông. Hoàng đế (Càn Long) cũng đặc biệt quan tâm đến việc thu thập các đồng tiền cổ, gương đồng và dấu niêm," ngoài đồ gốm, gốm sứ và nghệ thuật ứng dụng như như pháp lam, gia công kim loại và công việc sơn mài, phát triển rực rỡ trong triều đại của ông; một phần đáng kể trong bộ sưu tập của ông là trong Quỹ Percival David ở London. Bảo tàng Victoria và Albert và Bảo tàng Anh cũng có những bộ sưu tập nghệ thuật từ thời Càn Long.
"Hoàng đế Càn Long là một nhà thơ và nhà tiểu luận say mê. Trong các tác phẩm thu thập của ông, được xuất bản trong một loạt mười lần giữa 1749 và 1800, hơn 40.000 bài thơ và 1.300 văn bản văn xuôi được liệt kê, làm cho ông trở thành một trong những nhà văn nổi tiếng nhất mọi thời đại. Có một truyền thống lâu dài các bài thơ thuộc thể loại này để ca ngợi các đối tượng cụ thể ('yongwu shi), và Hoàng đế Càn Long đã sử dụng nó để liên kết tên của mình cả về thể chất và trí tuệ với truyền thống nghệ thuật cổ đại. "
Một trong những dự án lớn nhất của Hoàng đế Càn Long là "tập hợp một nhóm các học giả giỏi nhất của Trung Quốc cho mục đích lắp ráp, chỉnh sửa và in bộ sưu tập lớn nhất từng được tạo ra từ triết học, lịch sử và văn học Trung Quốc." Được gọi là Bốn Kho báu Dự án (hay Siku Quanshu), nó đã được xuất bản thành 36.000 tập, chứa khoảng 3.450 tác phẩm hoàn chỉnh và sử dụng tới 15.000 người sao chép. Nó bảo tồn rất nhiều sách, nhưng cũng được dùng như một cách để loại bỏ và đàn áp các đối thủ chính trị, đòi hỏi phải "kiểm tra cẩn thận các thư viện tư nhân để tập hợp một danh sách khoảng mười một nghìn tác phẩm từ trước đến nay, trong đó khoảng một phần ba được chọn để xuất bản. Các tác phẩm không được bao gồm hoặc được tóm tắt hoặc trong nhiều trường hợp mà đã lên kế hoạch phá hủy. "
Biên soạn "Tứ Khố Toàn Thư"
Tứ khố toàn thư (tiếng Trung: 四庫全書) là bách khoa lớn nhất trong lịch sử phong kiến Trung Quốc.[1] Nó được Hoàng đế Càn Long nhà Thanh giao cho 361 học giả, đứng đầu là Kỉ Quân và Lục Tích Hùng, biên soạn trong khoảng thời gian từ 1773 đến 1782, nó đã trải qua vô vàn sóng gió cùng với máu tanh vì trong thời gian này chế độ vua chúa nhà Thanh bắt bớ gắt gao những người có tư tưởng phản Thanh phục Minh dù là trong thơ ca. Với 4 phần lớn là Kinh (經), Sử (史), Tử (子), Tập (集), Tứ khố toàn thư đã tập hợp trên 10.000 bản thảo từ các bộ sưu tập của những triều đại phong kiến Trung Quốc (kể cả 3.000 bản thảo bị đốt vì nghi có tư tưởng chống Thanh) thuộc tất cả các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, lịch sử, triết học và văn học nghệ thuật. Tổng cộng bộ sách này có 79.897 phần[2] nằm trong 36.381 quyển, 2,3 triệu trang sách và khoảng 800 triệu chữ.[3][4][5]
Có 16 người được giao chịu trách nhiệm chính để biên soạn Tứ khố toàn thư. Ngoài ra còn có 60 quan lại và những nhân vật trí thức tiên tiến cùng tham gia: Chất Trang Thân vương Vĩnh Dung, Đại học sĩ Lưu Thống Huân, Vũ Mẫn. Sau 15 năm trời, bộ Tứ khố toàn thư được chép xong, đến năm 1793 công việc biên soạn mới hoàn toàn kết thúc. Tứ khố toàn thư được chia làm ba loại: sao chép, khắc in và tồn mục. "Tồn mục" là những sách mà vua Càn Long cho là xúc phạm đến triều đình Mãn Thanh, bất lợi cho sự thống trị của triều đình, chỉ được giữ lại tên sách trong "Tứ khố toàn thư". "Tứ khố toàn thư" được chép làm 7 bản chính, mỗi bản gồm 36.275 quyển, được cất giữ tại Văn Hàm các, Văn Nguyên các, Văn Tố các, Văn Lan các. Một bản dự trữ được cất tại Hàn Lâm viện tại Bắc Kinh. Ngày nay, chỉ còn bản được lưu trữ tại Văn Tân các ở Sơn trang nghỉ mát của vua Càn Long còn nguyên vẹn.
Hoàng đế Càn Long hạ lệnh làm thành 7 bản sao của Tứ khố toàn thư. Bốn bản đầu tiên là cho Hoàng đế và được giữ ở phía bắc. Hoàng đế Càn Long xây dựng những thư viện đặc biệt cho nó. Các bản sao được đặt tại Tử Cấm Thành, Vườn Viên Minh, Thẩm Dương và Thừa Đức. Ba bản còn lại được gửi về phía nam. Chúng được gửi vào các thư viện trong các thành phố Hàng Châu, Trấn Giang và Dương Châu.[6] Tất cả bảy thư viện cũng nhận được bản sao của bách khoa toàn thư Hoàng gia năm 1725 Cổ kim đồ thư tập thành.
Bản sao lưu giữ trong Vườn Viên Minh đã bị phá hủy trong Chiến tranh Nha phiến lần thứ 2 vào năm 1860. Trong cuộc chiến với quân Anh và Pháp, bản sao Cung điện Mùa hè cũ đã bị đốt cháy. Hai bản sao lưu giữ ở Trấn Giang và Dương Châu đã hoàn toàn bị phá hủy trong khi bản sao lưu giữ tại Hàng Châu chỉ khoảng 70 đến 80 phần trăm bị phá hủy, trong cuộc nổi loạn Thái Bình Thiên Quốc. Bốn bản còn lại bị một số thiệt hại trong Chiến tranh Trung – Nhật lần thứ 2. Ngày nay, những bản sao này có thể được đặt tại Thư viện Quốc gia Trung Quốc ở Bắc Kinh, Bảo tàng Cung điện Quốc gia ở Đài Bắc, Thư viện Cam Túc ở Lan Châu và Thư viện Chiết Giang ở Hàng Châu.
Đốt sách và chỉnh sửa nội dung
Khoảng 2.300 tác phẩm đã được liệt kê cho tổng cuộc đàn áp và 350 công trình khác để xóa bỏ một phần. Mục đích là để xóa bỏ các tác phẩm chống lại nhà Thanh hoặc có tính nổi loạn, mà xúc phạm các triều đại "man di" trước đó, hoặc những thông tin nhạy cảm với các vấn đề biên giới hay phòng thủ. Việc chỉnh sửa đầy đủ của Siku Quanshu đã hoàn thành trong khoảng mười năm; trong mười năm qua, 3100 đầu sách (hoặc tác phẩm), khoảng 150.000 bản sách bị đốt cháy hoặc bị cấm. Trong số những tập đã được phân loại vào Siku Quanshu, nhiều sách đã bị xóa và sửa đổi. Đăc biệt, những cuốn sách được xuất bản trong thời nhà Minh là những tác phẩm bị thiệt hại lớn nhất.
Quan chức sẽ rà soát bất kỳ ký tự hoặc bất kỳ tính trung lập nào của câu văn; nếu chính quyền đã quyết định những lời này, hoặc câu văn, là xúc phạm hoặc hoài nghi đối với triều đình nhà Thanh, thì hình phạt sẽ bắt đầu. Trong thời gian trị vì của Hoàng đế Càn Long, đã có 53 vụ án về việc tác phẩm văn học bị xem là cổ suý nổi loạn chống triều đình, dẫn đến các nạn nhân bị hành hình bằng cách chém đầu hoặc tùng xẻo, hoặc xác chết của họ bị băm nát (nếu họ đã chết).
Tác phẩm văn học
Năm 1743, sau lần viếng thăm đầu tiên của ông tới Mukden (ngày nay là Thẩm Dương, Liêu Ninh), Càn Long đã dùng tiếng Trung để viết "Ode to Mukden" (Shengjing fu / Mukden–i fujurun bithe), một kiểu viết theo phong cách cổ điển, một bài thơ ca ngợi Mukden, vào thời điểm đó một thuật ngữ chung cho những gì sau này được gọi là Mãn Châu, mô tả vẻ đẹp của nó và các giá trị lịch sử. Ông mô tả những ngọn núi và động vật hoang dã, sử dụng chúng để biện minh cho niềm tin của mình rằng vương triều sẽ tồn tại lâu dài. Một bản dịch tiếng Mãn sau đó được thực hiện. Năm 1748, ông ra lệnh in ấn cho cả hai tiếng Trung Quốc và Mãn Châu, sử dụng một số hình thức tiền thân, nhưng phong cách Mãn Châu phải được phát minh và không thể đọc được.
Năm 1777, Càn Long cho xuất bản bộ sách Mãn Châu nguyên lưu khảo (滿洲源流考, Researches on Manchu Origins) nghiên cứu về nguồn gốc Mãn Châu. Đây là một cuốn sách lịch sử quan trọng được chính quyền nhà Thanh. Hoàng đế Càn Long đã tài trợ cho việc biên soạn nó với mục tiêu hợp pháp hóa sự cai trị của nhà Thanh, cũng như xác định nhà Thanh là người kế vị nhà Kim (1115–1234). Mãn Châu nguyên lưu khảo cũng củng cố quan niệm của Càn Long về người Mãn Châu như một chủng tộc nghệ thuật. Bộ sách bao gồm 4 phần: bộ lạc Mãn Châu, lãnh thổ, địa hình (núi và sông) và văn hóa. Nhà sử học Pamela Kyle Crossley đã phân tích bộ sách này như là đỉnh cao trong nỗ lực của triều đại nhà Thanh nhằm "thể chế hóa tài liệu" về di sản Mãn Châu và từ đó, bản sắc dân tộc Mãn Châu. Các nghiên cứu về Nguồn gốc Mãn Châu bao gồm một danh sách sửa các từ trong ngôn ngữ Nữ Chân được phiên âm được tìm thấy trong Kim sử ở Chương 135, sử dụng ngôn ngữ Mãn Châu để sửa chúng ở Chương 18. Mãn Châu nguyên lưu khảo được biên soạn dưới góc nhìn của giai cấp thống trị Mãn Thanh, thoát khỏi ghi chép lịch sử về các thủ thư theo quan điểm lấy người Hán làm trung tâm. Đó là tài liệu cho thấy dân tộc mà họ đã có từ xa xưa, từ các bộ tộc Nữ Chân đến các bộ tộc Mãn Châu. Dòng dõi của người Nữ Chân và người Mãn được kế tục từ Phù Dư, Cao Câu Ly, Cao Ly, Tam Hàn, Bách Tế, Tân La, Túc Thận, Bột Hải, và Nữ Chân theo thời đại.
Ngôn ngữ
Trong thời thơ ấu của mình, Càn Long được dạy kèm tiếng Mãn, tiếng Hán và tiếng Mông Cổ, được bố trí để được dạy kèm bằng tiếng Tây Tạng, và nói tiếng bộ lạc Chagatai (Turki hoặc Uyghur hiện đại) và Tangut. Tuy nhiên, ông thậm chí còn quan tâm nhiều hơn những người tiền nhiệm của mình để bảo tồn và quảng bá ngôn ngữ Mãn Châu giữa những người theo ông, như ông tuyên bố rằng "chìa khóa cho Mãn Châu là ngôn ngữ." Ông đã đưa các bộ từ điển tiếng Mãn mới, và chỉ đạo việc chuẩn bị từ điển Pentaglot đưa ra các từ tương đương cho các thuật ngữ Mãn Châu trong tiếng Mông Cổ, Tây Tạng và Thổ Nhĩ Kỳ, và có kinh điển Phật giáo dịch sang tiếng Mãn Châu, được coi là "ngôn ngữ quốc gia". Ông chỉ đạo việc loại bỏ các khoản vay mượn từ Trung Quốc và thay thế chúng bằng các bản dịch bình thường được đưa vào từ điển Mãn Châu mới. Mãn dịch các tác phẩm của Trung Quốc trong triều đại của ông là những bản dịch trực tiếp tương phản với những cuốn sách của Mãn Châu được dịch trong thời Khang Hy, là phiên âm trong chữ Mãn Châu của các ký tự Trung Quốc.
Hoàng đế Càn Long đã ủy nhiệm cho Yuding Xiyu Tongwen Zhi ("Vùng Tây Phương Tây") là một từ điển tên địa lý ở Tân Cương ở Oirat Mongol, Mãn Châu, Trung Quốc, Tây Tạng và Turki (Uyghur hiện đại).
Phật giáo Tây Tạng
Sự kết hợp lâu dài của quyền cai trị Mãn Châu với Bồ Tát văn–thù–sư–lợi và sự quan tâm riêng của ông đối với Phật giáo Tây Tạng đã tạo nên sự tin tưởng cho sự bảo trợ của Càn Long về nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng và sự bảo trợ các bản dịch kinh điển Phật giáo. Các tài khoản trong hồ sơ triều đình và các nguồn ngôn ngữ Tây Tạng khẳng định cam kết cá nhân của mình. Ông nhanh chóng học đọc ngôn ngữ Tây Tạng và nghiên cứu văn bản Phật giáo một cách chắc chắn. Niềm tin của ông được phản ánh trong hình ảnh Phật giáo Tây Tạng về lăng mộ của ông, có lẽ là biểu hiện cá nhân và riêng tư nhất về cuộc đời của hoàng đế. Ngài ủng hộ Giáo hội Vàng (giáo phái Phật giáo Tây Tạng cách–lỗ–phái) để "duy trì hòa bình giữa người Mông Cổ" vì người Mông Cổ là tín đồ của đạt–lai–Lạt–ma và ban–thiền–Lạt–ma của Giáo hội Vàng, và Hoàng đế Càn Long đã giải thích điều này trong Ung Hòa Cung. Bắc Kinh trên một bia có tên "Lama Shuo" (trên Lamas) vào năm 1792, và ông cũng nói rằng "chỉ đơn thuần là theo đuổi chính sách mở rộng tình cảm của chúng ta cho kẻ yếu đuối." dẫn ông đến bảo trợ Giáo hội Vàng. Mark Elliott kết luận rằng những hành động này mang lại lợi ích chính trị nhưng "liên kết chặt chẽ với đức tin cá nhân của ông ấy."
Lời giải thích về việc ủng hộ các Phật tử Tây Tạng "Những chiếc mũ vàng" vì những lý do thực tế đã được sử dụng để làm chệch hướng những lời chỉ trích của Han về chính sách này bởi Hoàng đế Càn Long, người có bia "Lama Shuo" khắc bằng tiếng Tây Tạng, Mông Cổ, Mãn Châu và Trung Quốc. Bằng cách bảo trợ Giáo hội Vàng, chúng ta duy trì hòa bình giữa người Mông Cổ, đây là một nhiệm vụ quan trọng mà chúng ta không thể bảo vệ (tôn giáo) này (khi làm như vậy), chúng ta không thể hiện sự thiên vị, và cũng không muốn tôn thờ các linh mục Tây Tạng như (được thực hiện trong thời nhà Nguyên).
Càn Long biến Ung Hòa Cung thành một ngôi chùa Phật giáo Tây Tạng cho người Mông Cổ vào năm 1744 và có một sắc lệnh được ghi trên bia để tưởng niệm nó bằng tiếng Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Quốc và Mãn Châu. đã viết phiên bản tiếng Trung trước tiếng Mãn.
Sự đàn áp các Kitô hữu bởi cha ông trở nên tồi tệ hơn trong triều đại của ông.
Cung điện
Càn Long là một người tích cực trong việc xây dựng cung điện, hoa viên. Trong những ngọn đồi phía tây bắc của Bắc Kinh, ông mở rộng dinh thự được gọi là "Viên Minh Viên" (Yuanmingyuan) (bây giờ được gọi là Cung điện mùa hè cũ) được xây dựng bởi cha mình. Cuối cùng, ông đã thêm hai dinh thự mới, "Vườn mùa xuân vĩnh cửu" và "Vườn mùa xuân thanh lịch". Theo thời gian, Cung điện mùa hè cũ sẽ rộng 860 mẫu Anh (350 ha), lớn hơn năm lần so với Tử Cấm Thành. Để kỷ niệm sinh nhật lần thứ 60 của mẹ mình, Sùng Khánh Hoàng thái hậu, Càn Long đã ra lệnh xây cho một hồ ở "Vườn Ripples" (Qingyiyuan) (nay gọi là Di Hòa viên), nạo vét kĩ lưỡng, đặt tên là hồ Côn Minh, và cải tạo một dinh thự trên bờ phía đông của hồ.
Hoàng đế Càn Long cũng mở rộng Cung điện mùa hè Hoàng gia ở Nhiệt Hà, vượt ra ngoài Vạn Lý Trường Thành. Nhiệt Hà cuối cùng trở thành kinh đô thứ ba và ở đây, Càn Long đã tổ chức triều đình với nhiều quý tộc Mông Cổ khác nhau. Hoàng đế cũng dành thời gian tại khu đất săn bắn ở phía bắc Nhiệt Hà, nơi ông tổ chức cuộc săn bắn hoàng gia mỗi năm.
Phong cách châu Âu
Đối với Vườn Viên Minh, Hoàng đế Càn Long đã ủy thác cho Dòng Tên người Ý Giuseppe Castiglione cho việc xây dựng Xiyang Lou, hay biệt thự theo phong cách phương Tây, để thỏa mãn sở thích của mình đối với các tòa nhà và đồ vật kỳ lạ. Ông cũng ủy thác cho tu sĩ Dòng Tên người Pháp Michel Benoist, thiết kế một loạt các công trình nước và đài phun nước theo thời gian hoàn chỉnh với máy móc và đường ống ngầm, để tạo ra một nơi giải trí cho gia đình hoàng gia. Dòng Tên Pháp Jean Denis Attiret cũng trở thành họa sĩ cho hoàng đế. Jean–Damascène Sallusti cũng là một họa sĩ triều đình. Ông đồng thiết kế, với Castiglione và Ignatius Sichelbart, tác phẩm Battle Copper Prints.
Kiến trúc khác
Trong triều đại của Hoàng đế Càn Long, Minaret Emin được xây dựng ở Turfan để tưởng nhớ Emin Khoja, một thủ lĩnh người Duy Ngô Nhĩ từ Turfan, người đã đệ trình lên Đế quốc Thanh như một chư hầu để được hỗ trợ từ nhà Thanh để chống lại Zunghars.
Biện pháp chống súng
Các bộ lạc Tác Luân (索伦部) được Càn Long Đế ra lệnh ngừng sử dụng súng trường và thay vào đó là luyện tập bắn cung truyền thống. Hoàng đế ban hành sắc lệnh cho các lực lượng được cấp cho súng phải trao lại cho chính phủ.
Quý tộc Trung Quốc
Càn Long đã ban tước hiệu Ngũ kinh Bác sĩ (五经博士; 經; Wǔjīng Bóshì) cho con cháu của Trương Tái (張載), Phục Sinh (伏生) và Nhan Hồi.
Con gái của Nhiêu Dư Mẫn Thân vương A Ba Thái đã gả cho hàng tướng người Hán là Lý Vĩnh Phương (李永芳), hậu duệ của Lỹ Vĩnh Phương đã được ban tước hiệu Tam đẳng Tử (三等子). Lý Vĩnh Phương là ông cố của Lý Thị Nghiêu (李侍堯), một quan viên có tài dưới triều đại Càn Long, hai lần phạm tội lớn đáng lý phải xử tử, nhưng Càn Long không nỡ giết, đến lúc qua đời còn được truy thụy "Cung Nghị".
Giải quyết đất đai cho người Hán
Nông dân Trung Quốc đã được tái định cư từ phía bắc Trung Quốc bởi chính quyền nhà Thanh ở khu vực dọc theo sông Liêu Hà để khôi phục lại đất canh tác. Đất hoang đã được khai hoang bởi những người nông dân Hán ngoài những người Hán khác thuê đất từ các địa chủ người Mãn. Mặc dù chính thức cấm người Hán định cư trên vùng đất Mãn Châu và Mông Cổ, vào thế kỷ 18 chính quyền nhà Thanh đã quyết định giải quyết người tị nạn Hán từ miền bắc Trung Quốc bị nạn đói, lũ lụt và hạn hán vào Mãn Châu và Nội Mông. Do đó, người Hán đã trồng 500.000 ha ở Mãn Châu và hàng chục ngàn hecta ở Nội Mông vào những năm 1780. Càn Long cho phép nông dân Hán bị hạn hán để di chuyển vào Mãn Châu mặc dù ông đã ban hành sắc lệnh ủng hộ cấm họ từ năm 1740–76. Người thuê nhà người Hán thuê hoặc thậm chí tuyên bố quyền sở hữu đất đai từ "khu vực hoàng gia" và Mãn Châu Bannerlands trong khu vực. Bên cạnh di chuyển vào khu vực Liao ở miền nam Mãn Châu, con đường nối Cẩm Châu, Thẩm Dương, Thiết Lĩnh, Trường Xuân, Hulubuir và Ninh An đã được giải quyết bởi người Hán trong triều đại của Càn Long, và người Hán là đa số ở các khu vực đô thị của Mãn Châu vào năm 1800. Để tăng doanh thu của kho bạc Hoàng gia, chính quyền nhà Thanh đã bán đất dọc theo sông Tùng Hoa trước đây dành riêng cho Mãn Châu cho người Hán vào đầu thời vua Đạo Quang, và người Hán lấp đầy hầu hết các thị trấn Mãn Châu vào những năm 1840, theo Abbé Huc.
Những năm cuối đời
Trong những năm cuối đời, Càn Long bắt đầu sống hưởng lạc, xa hoa sau khi đã đạt được mọi quyền lực và vinh quang. Ông tỏ ra tự mãn, và bắt đầu đặt niềm tin vào các quan chức tham nhũng, đặc biệt là Hòa Thân.
Vì Hòa Thân là quan lại có quyền hành cao nhất và được Càn Long ưa chuộng nhất vào thời điểm đó, việc quản trị đất nước bị bỏ lại trong tay ông ta, trong khi Hoàng đế sống hưởng lạc với những thú vui như nghệ thuật, xa hoa và văn học. Khi Hòa Thân sau này bị con của Càn Long là vua Gia Khánh thanh trừng, chính quyền nhà Thanh phát hiện ra rằng tài sản cá nhân của Hòa Thân vượt quá ngân quỹ cạn kiệt của Đế quốc, lên tới 900 triệu bạc, tổng cộng 12 năm thặng dư của kho bạc của triều đình nhà Thanh.
Những câu chuyện về sáu chuyến tuần du của Càn Long tới miền nam Trung Quốc được ngụy trang như một thường dân đã là một chủ đề phổ biến trong nhiều thế hệ. Tổng cộng, ông đã viếng thăm miền nam Trung Quốc sáu lần – cùng số lần với ông nội của mình, Hoàng đế Khang Hi.
Khi Càn Long bắt đầu làm vua, có khoảng 33,95 triệu lạng bạc trong ngân khố. Vào thời điểm Càn Long trị vì cực thịnh, khoảng năm 1775, ngay cả khi cắt giảm thuế, thặng dư kho bạc vẫn đạt 73,9 triệu lạng bạc, một kỷ lục chưa từng có tính từ những người tiền nhiệm của ông, các Hoàng đế Khang Hi và Ung Chính, cả hai đều đã thực hiện các chính sách cắt giảm thuế đáng kể.
Tuy nhiên về cuối đời Càn Long thì ngân khố bắt đầu sụt giảm nhanh chóng do nhiều yếu tố như: nạn tham ô của các quan lại, các cuộc tuần du thường xuyên ở phía nam, các công trình xây dựng cung điện khổng lồ, nhiều cuộc viễn chinh quân sự cũng như lối sống xa hoa của riêng Càn Long, tất cả những chi phí này lên tới 150,2 triệu lạng bạc. Điều này, cùng với tuổi già của Càn Long và thiếu các cải cách chính trị, đã khiến nhà Thanh từ giai đoạn thịnh trị đã bắt đầu suy thoái vào những năm cuối cuộc đời của ông.
Sứ giả Macartney
Vào giữa thế kỷ 18, các cường quốc châu Âu bắt đầu gây áp lực đối với nhà Thanh cho sự gia tăng trong thương mại nước ngoài đang phát triển và các tiền đồn trên bờ biển Trung Quốc, yêu cầu mà vị hoàng đế Càn Long già nua luôn khước từ. Năm 1793, Vua George III của Liên hiệp Anh và Ireland đã phái một đoàn sứ giả quy mô lớn đến để trình bày trực tiếp các yêu cầu của họ với hoàng đế ở Bắc Kinh, đứng đầu là George Macartney, một trong những nhà ngoại giao dày dạn kinh nghiệm nhất của Anh. Người Anh đã gửi một mẫu hàng hóa thương mại mà họ dự định bán ở Trung Quốc; điều này đã bị hiểu sai là cống phẩm được coi là có chất lượng thấp.
Các nhà sử học ở Trung Quốc và nước ngoài từ lâu đã trình bày về sự thất bại của sứ mệnh đạt được mục tiêu của mình như là một minh chứng cho sự từ chối thay đổi và không có khả năng hiện đại hóa của Trung Quốc. Họ giải thích sự từ chối đầu tiên trên thực tế là sự tương tác với các vương quốc nước ngoài chỉ giới hạn ở các quốc gia phụ lưu lân cận. Hơn nữa, thế giới quan của hai bên không tương thích, Trung Quốc giữ niềm tin cố thủ rằng Trung Quốc là "vương quốc trung tâm". Tuy nhiên, sau khi xuất bản vào những năm 1990 của một loạt các tài liệu lưu trữ đầy đủ hơn về chuyến thăm, những tuyên bố này đã bị thách thức. Một số người khẳng định rằng sự tự trị và hiện đại hóa thành công ngày nay của Trung Quốc đã đưa các hành động của Hoàng đế Càn Long sang một khía cạnh mới. Một nhà sử học đã tóm tắt quan điểm mới được sửa đổi bằng cách mô tả hoàng đế và triều đình của ông là "nhà điều hành chính trị rõ ràng thông minh và có thẩm quyền". Họ đã hành động trong các yêu sách chính thức của nhà Thanh về tuyên bố cai trị toàn cầu, nhưng cũng chỉ đơn giản là phản ứng thận trọng bằng cách xoa dịu người Anh bằng những lời hứa không xác định để tránh xung đột quân sự và mất giao dịch thương mại.
Macartney được cho phép đến yết kiến với Hoàng đế Càn Long trong hai ngày, lần thứ hai trùng với sinh nhật lần thứ 82 của hoàng đế. Tiếp tục có cuộc tranh luận về bản chất của cuộc triều kiến này và mức độ của các nghi lễ đã được thực hiện. Macartney viết rằng ông đã chống lại yêu cầu của nhà Thanh về việc các đại sứ thương mại Anh phải quỳ xuống và thể hiện sự thi lễ (cúi đầu chạm đất) trước mặt Càn Long và cuộc tranh luận vẫn tiếp tục như những gì đã xảy ra, những ý kiến khác nhau được ghi lại bởi các triều thần nhà Thanh và các sứ giả Anh.
Càn Long đã gửi cho Macartney một bức thư cho nhà vua Anh nêu rõ lý do rằng ông sẽ không chấp nhận yêu cầu của Macartney:
Hôm qua, sứ giả của ngươi đã kiến nghị các thượng thư của ta để trình bày với ta về vấn đề thương mại của ngươi với Trung Quốc, nhưng đề xuất của ngươi không phù hợp với chính sách triều đại của ta và không thể dễ dãi thông qua. Cho đến nay, tất cả các quốc gia châu Âu, bao gồm cả thương nhân man di của đất nước ngươi, đã thực hiện giao dịch với Đế chế Thiên hạ của chúng ta tại Quảng Đông. Điều đó đã là thủ tục trong nhiều năm, mặc dù Đế chế Thiên hạ của chúng ta sở hữu tất cả mọi thứ trong sự phong phú và không thiếu thứ gì trong biên giới riêng của mình.
Yêu cầu của ngươi về một hòn đảo nhỏ gần Chu San, nơi thương nhân của ngươi có thể cư trú và hàng hóa được nhập kho, xuất phát từ mong muốn phát triển thương mại của ngươi... Hơn nữa, nước Anh không phải là vùng đất man di duy nhất muốn thiết lập... buôn bán với Đế chế của chúng ta: giả sử rằng các quốc gia khác đều bắt chước ví dụ xấu xa của ngươi và cầu xin ta trình bày cho bọn chúng tất cả mọi thứ với một địa điểm cho mục đích giao dịch, làm thế nào ta có thể tuân thủ? Đây cũng là một sự vi phạm trắng trợn đối với việc sử dụng đế chế của ta và không thể xem nhẹ được.
Cho đến nay, các thương nhân man di ở châu Âu đã có một địa phương xác định được giao cho chúng tại Ma Cao để cư trú và buôn bán, và đã bị cấm lấn chiếm một inch vượt quá giới hạn được giao cho địa phương đó.... Nếu những hạn chế này được rút lại, chắc chắn sẽ xảy ra xích mích xảy ra giữa người Trung Quốc và đối tượng man di của ngươi...
Về việc tôn thờ Thiên Chúa của quốc gia các ngươi, đó là tôn giáo giống như các quốc gia châu Âu khác. Ngay từ khi bắt đầu lịch sử, các Hoàng đế hiền triết và các nhà cai trị khôn ngoan đã ban cho Trung Quốc một hệ thống đạo đức và khắc sâu trong một bộ luật, từ thời xa xưa đã được các đối tượng của ta quan sát là một tôn giáo tiêu chuẩn. Không có khao khát gì sau các học thuyết không chính thống. Ngay cả các quan chức châu Âu (truyền giáo) ở kinh đô của ta cũng bị cấm tổ chức giao tiếp với các đối tượng Trung Quốc...
Bức thư được lưu giữ trong kho lưu trữ nhưng phần lớn không được công chúng biết đến cho đến năm 1914.
Sự hoài nghi của Hoàng đế Càn Long đối với Đế quốc Anh sau này sẽ chứng tỏ tiên tri. Sau khi Vương quốc Anh bắt đầu nhập khẩu trà Trung Quốc, cán cân thương mại không còn ủng hộ Anh, và đế chế đã đưa ra chiến lược buộc Trung Quốc trở thành một thị trường cho một hàng hóa mà các thương nhân Anh có thể bán vì chính sách thương mại của nhà Thanh chỉ cho phép các thương nhân của họ chấp nhận bạc như thanh toán cho xuất khẩu chè. Các thương nhân người Anh sẽ chịu trách nhiệm buôn lậu một lượng lớn thuốc phiện cho miền nam Trung Quốc, gây ra một cuộc khủng hoảng nghiện thuốc phiện trên toàn quốc gia và dẫn đến hai cuộc chiến tranh Nha phiến sau này.
Sứ giả Titsingh
Một sứ giả quán Hà Lan đã đến triều đình của Hoàng đế Càn Long vào năm 1795, đó sẽ là lần cuối cùng bất kỳ người châu Âu nào xuất hiện trước triều đình nhà Thanh trong bối cảnh quan hệ đối ngoại truyền thống của Trung Quốc.
Đại diện cho lợi ích của Công ty Đông Ấn Hà Lan, Isaac Titsingh đã đến Bắc Kinh vào năm 1794–95 để tham dự lễ kỷ niệm 60 năm trị vì của Hoàng đế Càn Long. Phái đoàn Titsingh cũng bao gồm Andreas Everardus van Braam Houckgeest, người Mỹ gốc Hà Lan, có mô tả chi tiết về đại sứ này trước triều đình nhà Thanh ngay sau khi được công bố tại Hoa Kỳ và Châu Âu. Dịch giả người Pháp của Titsingh, Chrétien–Louis–Joseph de Guignes, đã xuất bản nguồn riêng của mình về nhiệm vụ của Titsingh năm 1808. Voyage a Pékin, Manille et l'Ile de France cung cấp một quan điểm thay thế và một phản biện hữu ích cho các báo cáo khác đang được lưu hành. Titsingh đã chết trước khi anh có thể xuất bản phiên bản sự kiện của mình.
Trái ngược với Macartney, Isaac Titsingh, sứ giả Hà Lan và Công ty Đông Ấn Hà Lan năm 1795 đã không từ chối thi lễ trước mắt hoàng đế. Nhưng trong năm sau khi từ chối thi lễ giống Mccartney, Titsingh và các đồng nghiệp của ông đã bị Trung Quốc phản đối nhiều vì những gì được hiểu là dường như là phải tuân thủ nghi thức của triều đình thông thường.
Qua đời
Vào tháng 10 năm 1795, Càn Long chính thức thông báo rằng vào mùa xuân năm sau, ông sẽ tự nguyện thoái vị ngai vàng và chuyển ngai vàng cho con trai mình. Người ta nói rằng Càn Long đã thực hiện một lời hứa trong năm của ông còn tại vị là sẽ không ở ngôi lâu hơn ông nội của ông, Hoàng đế Khang Hi, người đã ở trên ngai vàng đến 61 năm.
Hoàng đế Càn Long đã chính thức thoái vị ở tuổi 85, vào năm thứ 60 ở triều đại của ông, trao lại ngôi vua cho người con trai thứ 15 của mình là Vĩnh Diễm, tức vua Gia Khánh, vào năm 1795. Trong bốn năm tiếp theo, Càn Long giữ danh hiệu "Thái Thượng hoàng" (太上皇), mặc dù trên thực tế ông vẫn tiếp tục nắm giữ quyền lực và Gia Khánh chỉ có vai trò biểu tượng. Ông không bao giờ chuyển đến các phòng hưu trí của mình trong khu vườn Càn Long. Thượng hoàng Càn Long mất vào tháng 2 năm 1799 ở tuổi 87.
Thụy giản xưng của Càn Long là Thuần Hoàng Đế (純皇帝, )
Xây dựng Tử Quang Các
Càn Long đế trị vì 60 năm, đã nối tiếp ông nội Khang Hi của mình người mà hoàng đế Càn Long vô cùng ngưỡng mộ khi còn nhỏ, làm nên thời kỳ thịnh thế của nhà Thanh với " thập toàn võ công ", tự cho mình công lao tái thế không có Hoàng đế nào trong lịch sử Trung Quốc có thể sánh bằng, vì thế Càn Long học theo Đường Thái Tông và mô phỏng Yên Lăng Các của nhà Đường để xây dựng lên Tử Quang Các công thần tượng (紫光阁功臣像) để thờ phụng các công thần dưới triều Càn Long. Năm 1755, nhân bình định đắc thắng Tây Vực chuẩn bộ, hồi bộ, Càn Long quyết định trọng thưởng công thần: Hoàng thượng đối với công tích của chư thần tử, nhân việc tu bổ lại tư các mới, vẽ hình công thần Đại học sĩ Trung Dũng công Phó Hằng cùng 100 người từ định biên tướng quân Nhất đẳng Vũ Nghị Mưu Dũng công Hộ bộ thượng thư Triệu Huệ trở xuống đưa vào các. Trong đó 50 người danh liệt đầu tiên do đích thân Càn Long hoàng đế tự đề khen ngợi, từ ngữ do nho thần biên soạn.
Thời Càn Long, Tử Quang Các vẽ và treo tranh của tổng cộng hơn 280 vị công thần dưới thời Càn Long bao gồm Triệu Huệ, Phó Hằng, Hòa Thân, Phúc Khang An, Kỷ Hiểu Lam, Lưu Dung, A Quế, Chu Khuê, Hòa Lâm... Các thời hoàng đế về sau tiếp tục cho vẽ và treo thêm các vị khác. Người đầu tiên được vẽ và đứng đầu trong các vị công thần dưới thời Càn Long kể từ sau chiến thắng bình định Tây Vực chính là Đại học sĩ Nhất đẳng Trung Dũng công Phó Hằng.
Quan hệ Càn Long – Hòa Thân
Giai thoại
Vua cha Ung Chính có một nàng phi, nhan sắc diễm lệ. Lúc ấy Càn Long còn là Hoàng tử Hoằng Lịch, tuổi gần 20. Một lần có việc vào nội cung, Hoằng Lịch tình cờ gặp nàng đang soi gương chải tóc. Hoằng Lịch bèn đi vòng phía sau lưng bất ngờ vòng tay ra trước bịt mắt nàng ấy.
Thực ra Hoằng Lịch chỉ muốn đùa mà thôi, nhưng nàng phi ấy không biết đó là Hoàng tử, bị bất ngờ nên hoảng hốt vung chiếc lược đánh ra phía sau trúng ngay vào trán Hoằng Lịch làm thành một vết thương nhỏ. Hôm sau Hoằng Lịch tiến cung thăm mẫu thân là Hoàng hậu của vua Ung Chính.
Hoàng hậu thấy trên trán có vết thương bèn hỏi nhưng Hoằng Lịch cứ ấp úng mãi, Hoàng hậu sinh nghi gặng hỏi, Hoằng Lịch đành nói là bị nàng phi kia đánh. Hoàng hậu nổi trận lôi đình, nghi là nàng phi kia cố ý trêu ghẹo Thái tử, bèn bắt nàng ấy tự vẫn. Hoằng Lịch kinh hoảng muốn thừa nhận là lỗi của mình nhưng lại không dám nói thẳng, trù trừ mãi không nghĩ ra cách gì. Đến khi chạy tới phòng của nàng phi ấy thì nàng đã treo cổ trên xà nhà. Hoằng Lịch vô cùng đau đớn, dùng ngón tay ấn vào hộp son rồi chấm lên cổ thi hài, khấn thầm rằng: "Là ta đã hại nàng. Hồn như có linh thiêng thì sau này hãy đến cùng ta gặp gỡ". Khấn rồi buồn bã về cung.
Năm 1735, Ung Chính băng hà, Hoàng tử Hoằng Lịch 25 tuổi lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Càn Long, bắt đầu thi thố tài năng, trong suốt gần 30 năm lập nhiều công trạng lớn lao về văn nghiệp cũng như võ công.
Một hôm Càn Long dạo chơi ở Viên Minh Viên, lúc sáng trời mát nhưng đến trưa thì bỗng nắng gay gắt. Lúc này đám thị vệ mới vội vàng chạy đi tìm lọng vàng che nắng cho vua nhưng không có vì quên mang theo, bị Càn Long mắng cho một trận. Bỗng trong đội có một người bước ra thưa: "Những người giữ điển lễ không được từ chối trách nhiệm của mình". Càn Long quay lại nhìn thấy một thiếu niên trắng trẻo, môi hồng răng trắng, dung mạo trông rất quen, bèn hỏi "Ngươi là ai?", người ấy đáp: "Nô tài tên gọi Hòa Thân, gốc Mãn Châu, thuộc Chính hồng kỳ, hiện là sai dịch trong đội Loan Nghi".
Càn Long cảm thấy như đã gặp ở đâu rồi, nhưng nhất thời không nhớ ra, sau khi về cung vẫn cứ suy nghĩ mãi. Bất chợt Càn Long nhớ ra câu chuyện hai mươi năm trước, lập tức cho triệu Hòa Thân vào quỳ trước mặt, ngắm thật kỹ thấy dáng mạo Hòa Thân giống hệt nàng phi thuở nọ. Lại nâng cổ Hòa Thân lên xem thấy có nốt ruồi son lớn bằng đầu ngón tay. Lúc này, Càn Long khẳng định rằng Hòa Thân chính là kiếp sau của nàng phi xưa, lòng vô cùng thương cảm. Qua hỏi han biết Hòa Thân tuy nhà nghèo nhưng chịu khó học hành, tinh thông bốn loại văn tự là Mãn, Hán, Mông Cổ, Tây Tạng. Càn Long bèn thăng Hòa Thân từ một chân khiêng kiệu lên đến chức tổng quản trong cung.
Hòa Thân lanh lợi khéo léo, lời nói dễ nghe, làm việc mau mắn, tính nết hòa nhã rất là vừa ý Càn Long. Hễ Càn Long thích cô gái nào là Hòa Thân tìm mọi giá để đưa dâng Hoàng thượng. Hầu như ngày nào không gặp được Hòa Thân là Càn Long không chịu được, sự sủng ái thậm chí còn hơn cả Hán Ai Đế đối với Đổng Hiền xưa. Hoàng đế Càn Long là người tôn sùng Phật giáo, rất tin vào thuyết sinh tử luân hồi, muốn thi ân bố đức Hòa Thân để báo đáp nàng phi trong tiền kiếp. Tựa hồ Càn Long nghĩ rằng sủng ái Hòa Thân một phần sẽ giảm nhẹ nỗi bi thương với nàng phi ngày xưa được một phần. Hòa Thân từ một Thị vệ được Càn Long đưa lên làm Hộ bộ Thị lang, một nơi rất dễ kiếm tiền. Hòa Thân ham thích châu báu, vơ vét của dân, càng lúc càng lộng hành không lâu sau bị các Quan ngự sử liên tiếp dâng sớ hạch tội nhưng Càn Long chỉ để ngoài tai. Ngay Hoàng thái tử Vĩnh Diễm, Quan ngự sử Tiền Phong, đại thần Lưu Dung nhiều lần hợp lực chặn đứng thế lực Hòa Thân nhưng đều bị Hòa Thân hóa giải.
Sự ưu ái của Càn Long Đế dành cho Hoà Thân
Trong hơn 20 năm, Hòa Thân được thăng chức 47 lần. Cả đời Hòa Thân từng giữ và kiêm nhiệm đến hơn 6 chức quan trọng yếu. "Sở văn lục" viết: "Đời Thanh Cao Tông Càn Long Hoà Thân làm quan, quyền thế khuynh đảo thiên hạ. Kết bè kết đảng, đi lệch chính đạo mà kẻ sĩ trong triều chẳng dám ngăn trở".
Khi Hòa Thân được thăng lên đến chức Quân cơ đại thần, được phong tước Văn Hoa điện Đại học sĩ, hàm Nhất đẳng công, thì em trai là Hòa Lâm cũng thăng quan tiến chức như diều gặp gió, được phong Binh bộ Thị lang rồi Công bộ Thượng thư, được Càn Long chọn làm thầy của Phúc Khang An.
Trong mắt mọi người, gia đình Hòa Thân đúng là một nhà với Hoàng đế Càn Long. Bởi vậy mà hầu hết đại thần trong triều là phe cánh của y. Của cải chứa trong nhà Hòa Thân còn nhiều hơn trong Hoàng cung, nhiều gia nô của họ Hòa cũng mặc sức hoành hành, không ai dám nói.
Gia ân của Càn Long Đế dành cho đại gian thần Hoà Thân
Có giả thuyết cho rằng: Càn Long đế dù biết Hoà Thân là đại tham quan nhưng vì quá sủng ái y nên vẫn làm ngơ xem như không biết, mặc cho y ra sức vơ vét quốc khố, mua quan bán tước, khuynh đảo chính trường, ông cũng đoán rằng khi mình qua đời thì Gia Khánh Đế sẽ truy thu lại toàn bộ số của cải của y sung vào quốc khố.
Dù vậy Càn Long vẫn không quên toan tính đường thoát cho đứa con độc nhất của sủng thần là Phong Thân Ân Đức. Càn Long đã đem Thập Công chúa, đứa con gái út mà Càn Long yêu mến nhất (tức Cố Luân Hòa Hiếu Công chúa) gả cho con trai Hòa Thân với mục đích giữ lại huyết mạch cho y. Về sau đến tháng 1 năm Gia Khánh thứ 4 (tức tháng 2 năm 1799), Thái Thượng hoàng Càn Long băng hà, không lâu sau Gia Khánh Đế đã bãi nhiệm và tống giam Hoà Thân, sau một thời gian xét xử, thẩm vấn đến ngày 22/2/1799, Hoà Thân được ban cho tự vẫn. Còn về con trai y và gia quyến đều được tha tội, hơn thế nữa vì nể tình của Cố Luân Hòa Hiếu Công chúa, Gia Khánh Đế chẳng những không xử chết Phong Thân Ân Đức, mà còn bảo lưu chức vị Ngạch phò cho y. Về sau vì lo cho hạnh phúc cả đời của em gái, nhà vua đã quyết định ban con của Phong Thân Ân Đức là Phúc Ân làm con thừa tự cho Công chúa. Đây cũng chính là gia ân cuối cùng của Càn Long đế dành cho sủng thần của mình vậy.
Lăng mộ
Càn Long cho khởi công xây cất Dụ lăng làm nơi an nghỉ ngàn thu của mình từ năm Càn Long thứ 8 (1743) tới năm Càn Long thứ 17 (1752) thì hoàn công. Trong địa cung chôn cất 6 người, ngoài Càn Long Đế còn có nhị vị Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu và Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu, cùng 3 vị Triết Mẫn, Tuệ Hiền và Thục Gia Hoàng quý phi. Vì vậy, Dụ Lăng có địa cung hợp táng nhiều người nhất trong số các hoàng lăng của nhà Thanh.
Năm 1928, quân phiệt Tôn Điện Anh đã đem quân vào khu vực lăng tẩm nhà Thanh ở Hà Bắc, quật mộ của Càn Long và Từ Hy Thái hậu. Chỉ có lăng của Khang Hy là còn toàn vẹn, vì khi bẫy mở được cửa lăng thì một khối nước màu vàng từ bên trong tuôn tràn ra rất mạnh, quân sĩ sợ hãi quá phải bỏ chạy.
Bên trong mộ của các vua chúa này được xây cất như sau:
Đường hầm dẫn vào những ngôi mộ của họ lát đá hoa trắng, xuyên qua bốn cái cổng được chạm trổ rất công phu bằng đá. Nơi để quan tài yên nghỉ của họ là một khuôn hình bát giác, trên vòm trần khắc chín con rồng bằng vàng lóng lánh. Khu vực yên nghỉ khá rộng, lớn bằng điện Trung Hoà trong Tử Cấm Thành. Càn Long Đế được chôn trong hai lần quan tài. Quan tài bên trong và bên ngoài được làm bằng một loại gỗ đặc biệt quý. Những báu vật trong hai ngôi mộ này gồm rất nhiều ngọc ngà châu báu cực kỳ quý giá và đắt tiền, ngoài ra còn có những hoạ phẩm, kiếm báu, sách quý, ngà voi và các tượng Phật. Các đồ quý làm bằng lụa và gấm thì chỉ một thời gian là bị mục rã.
Sau khi bị khai quật, đồ tuỳ táng của Dụ lăng bị thất thoát nghiêm trọng, thi cốt của Hoàng đế và hậu phi cũng hoàn toàn nhiễu loạn, tứ tán trên mặt đất. Tin các lăng tẩm của Càn Long Đế và Từ Hi Thái hậu bị khai quật để lấy của đã gây chấn động và căm phẫn sâu sắc cho Phổ Nghi và các thành viên Hoàng tộc, cựu thần nhà Thanh. Về sau Phổ Nghi cho người đi thu thập di hài cũng chỉ tìm được vài phần, miễn cưỡng đem Đế – Hậu hợp táng vào một cỗ.
Dụ lăng phi viên tẩm
Phi viên tẩm là nơi mai táng phi tần của Càn Long, được bố trí ở phía Tây Dụ lăng. Phi viên tẩm bắt đầu xây dựng năm Càn Long thứ 10 (1745), hoàn thành năm thứ 12 (1747). Đến năm thứ 17 (1752) trải qua một lần đại tu. Năm Càn Long thứ 25 (1760), nhân dịp Thuần Huệ Hoàng quý phi nhập táng, phi viên tẩm lại được trùng tu một lần nữa.
Gia quyến
Ông nội: Thanh Thánh Tổ Khang Hy Hoàng đế.
Cha: Thanh Thế Tông Ung Chính Hoàng đế.
Mẹ: Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị, tôn hiệu Sùng Khánh Hoàng thái hậu.
Hoàng hậu
Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu Phú Sát thị (1712–1748) là con gái của Lý Vinh Bảo. Bà là Đích phúc tấn của Càn Long từ khi ông chưa lên ngôi và được sách lập làm Hoàng hậu vào năm 1737. Bà là sinh mẫu của Đoan Tuệ Hoàng thái tử Vĩnh Liễn, Triết Thân vương Vĩnh Tông, Hoàng trưởng nữ và Cố Luân Hòa Kính Công chúa.
Kế Hoàng hậu Na Lạp thị (1718–1766) xuất thân từ Mãn Châu Tương Lam kỳ, là con gái của Na Nhĩ Bố (). Bà được Càn Long cưới vào tiềm để với thân phận Trắc Phúc tấn và được ông phong làm Nhàn phi sau khi lên ngôi. Sau khi Hiếu Hiền Hoàng hậu qua đời, bà được Càn Long phong làm Nhiếp lục cung sự Hoàng quý phi, có tư cách đứng đầu hậu cung tương đương hoàng hậu lâm thời. Đến năm 1750, bà chính thức trở thành Hoàng hậu thứ 2 của Càn Long. Sau khi qua đời, bà không có thụy hiệu. Bà sinh được Bối lặc Vĩnh Cơ, Vĩnh Cảnh và Hoàng ngũ nữ
Hiếu Nghi Thuần hoàng hậu Ngụy Giai thị (1727–1775) xuất thân từ tầng lớp Bao y, là con gái của Ngụy Thanh Thái. Bà chưa từng lên ngôi Hoàng hậu khi còn sống, tước vị cao nhất của bà là Hoàng quý phi. Sau khi qua đời, bà trước truy thụy là Lệnh Ý Hoàng quý phi. Đến khi con trai là Vĩnh Diễm được chọn làm trữ quân, bà được truy tặng làm Hoàng hậu. Ngoài Vĩnh Diễm, bà còn sinh được Khánh Hy Thân vương Vĩnh Lân, Cố Luân Hòa Tĩnh Công chúa, Hòa Thạc Hòa Khác Công chúa và Hoàng thập tứ tử cùng hoàng thập lục tử (2 vị này đều chết yểu).
Phi tần
Hoàng quý phi
Tuệ Hiền Hoàng quý phi Cao Giai thị (1711–1745) xuất thân từ tầng lớp Bao y, là Cách cách trong phủ Bảo Thân vương, sau đó được phong làm Trắc Phúc tấn. Sau khi Càn Long lên ngôi, bà được phong làm Quý phi. Năm 1745, bà được phong làm Hoàng quý phi, sau đó 2 ngày thì qua đời.
Triết Mẫn Hoàng quý phi Phú Sát thị (1711–1735) xuất thân từ tầng lớp Bao y, được xem là Cách cách đầu tiên khi Càn Long còn ở tiềm để. Sau khi lên ngôi, Càn Long truy phong bà làm "Triết phi" rồi "Triết Mẫn Hoàng quý phi". Bà là mẹ của Định An Thân vương Vĩnh Hoàng, con trai đầu tiên của Càn Long.
Thuần Huệ Hoàng quý phi Tô thị (1713–1760) xuất thân là người Hán không thuộc Bát kỳ, là Cách cách trong phủ Bảo Thân vương, sau khi Càn Long lên ngôi thì được phong làm Thuần tần. Năm 1760, bà được phong làm Hoàng quý phi trước khi qua đời sau đó không lâu. Bà sinh được Tuần Quận vương Vĩnh Chương, Chất Trang Thân vương Vĩnh Dung và Hòa Thạc Hòa Gia Công chúa.
Thục Gia Hoàng quý phi Kim Giai thị (1713–1755) vốn có tổ tiên là người Triều Tiên được phân vào giai cấp Bao y của Cao Ly Tá lĩnh. Bà trở thành Cách cách của Càn Long khi ông còn là Thân vương, sau khi ông lên ngôi thì bà được phong làm Quý nhân. Tước vị cao nhất khi còn sống của bà là Quý phi, và chỉ được truy phong làm Hoàng quý phi sau khi qua đời. Bà sinh được Lý Đoan Thân vương Vĩnh Thành, Nghi Thận Thân vương Vĩnh Tuyền, Thành Triết Thân vương Vĩnh Tinh và Hoàng cửu tử chết yểu.
Khánh Cung Hoàng quý phi Lục thị (1724–1774) xuất thân là người Hán không thuộc Bát kỳ, được phong làm Thường tại vào năm 1748 và dần thăng đến Quý phi vào năm 1768. Bà không có con, nhưng là người được Càn Long giao cho nuôi nấng Gia Khánh. Sau khi qua đời, bà được truy phong làm Hoàng quý phi.
Quý phi
Du Quý phi Kha Lý Diệp Đặc thị (1714–1792) vốn xuất thân từ dòng họ Kha Lý Diệp Đặc của Mông Cổ Tương Lam kỳ, là một trong những Cách cách khi còn ở tiềm để. Bà chỉ sinh được Vinh Thuần Thân vương Vĩnh Kỳ và được truy phong làm Quý phi sau khi qua đời.
Uyển Quý phi Trần thị (1716–1807) là Cách cách khi còn ở tiềm để, bà được Càn Long phong làm Thường tại và dần thăng đến tước Phi vào năm 1794. Sau khi Gia Khánh lên ngôi đã tấn tôn bà làm Uyển Quý Thái phi vào năm 1801. Bà là người sống thọ nhất trong số hậu phi của Càn Long.
Dĩnh Quý phi Ba Lâm thị (1731–1800) xuất thân từ Mông Cổ Tương Hồng kỳ, là con gái của Nạp Thân (). Sau khi nhập cung, bà được phong làm Thường tại và dần thăng đến Quý phi vào năm 1798. Bà là người nuôi dưỡng Vĩnh Lân, em trai ruột của Gia Khánh.
Hãn Quý phi Đới Giai thị (?–1764) nhập cung vào năm 1753 và được đặc cách phong tước Tần. Bà qua đời ở tước Phi khi đang mang thai và được an táng theo nghi lễ của Quý phi. Bà sinh được 2 người con gái nhưng đều mất sớm.
Tuần Quý phi Y Nhĩ Căn Giác La thị (1758–1797) là con gái của Tổng đốc Quế Lâm. Bà nhập cung vào năm 1776 và được tấn phong tước Tần. Năm 1794, bà được phong làm Tuần phi. Không có tài liệu chính thức đề cập đến việc bà được truy phong làm Quý phi, nhưng Thanh hoàng thất tứ phổ và một tài liệu khác đều gọi bà là Tuần Quý phi.
Phi
Thư phi Diệp Hách Na Lạp thị (1728–1777) vốn là hậu duệ của Kim Đài Cát, quốc chủ của Diệp Hách. Bà nhập cung và được phong Quý nhân vào năm 1741, sau đó dần thăng lên tước Phi vào năm 1749. Bà sinh được một con trai nhưng mất sớm, trở thành người nuôi dưỡng Hòa Thạc Hòa Khác Công chúa.
Dự phi Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị (1730–1774) xuất thân từ Mông Cổ Minh kỳ, là con gái của Căn Đôn – Tể tang của bộ tộc Chuẩn Cát Lặc Tạp Đặc, vốn thuộc Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ, sau quy phụ Đại Thanh. Bà từng mang thai nhưng sinh non, về sau nuôi dưỡng Cố Luân Hòa Tĩnh Công chúa.
Dung phi Hòa Trác thị (1734–1774) vốn là người Duy Ngô Nhĩ. Từ khi nhập cung, bà luôn có mặt trong các chuyến du tuần của Càn Long.
Tấn phi Phú Sát thị (?–1822) là người cùng tộc với Hiếu Hiền Hoàng hậu. Bà trở thành Quý nhân của Càn Long sau khi ông trở thành Thái thượng hoàng. Đến thời Đạo Quang, bà được tấn tôn làm Hoàng tổ Tấn phi.
Đôn phi Uông thị (1746–1806) vốn xuất thân từ Bao y và nhập cung với thân phận Quan nữ tử. Về sau bà được phong làm Thường tại và dần thăng đến tước Phi vào năm 1774. Bà sinh hạ Cố Luân Hòa Hiếu Công chúa.
Phương phi Trần thị (?–1801) vốn xuất thân là dân thường ở Dương Châu và dần được phong đến tước Tần vào năm 1794. Bà được tấn tôn làm Thái thượng hoàng Phương phi dưới triều Gia Khánh.
Tần
Nghi tần Hoàng thị (?–1737) là một Cách cách khi còn ở tiềm để của Càn Long,mất sớm.
Di tần Bách thị (?–1757) xuất thân từ người Hán không thuộc Bát kỳ.
Tuân tần Hoắc Thạc Đặc thị (?–1761) xuất thân từ Mông Cổ Minh kỳ, sau khi qua đời được truy phong tước Tần.
Cung tần Lâm thị (?–1805) xuất thân từ Bao y.
Thận tần Bái Nhĩ Cát Tư thị (?–1765) xuất thân từ Mông Cổ Minh kỳ.
Thành tần Nữu Hỗ Lộc thị (?–1784) là hậu duệ của Hoằng Nghị công phủ.
Các ngự thiếp khác
Thuận Quý nhân Nữu Hỗ Lộc thị (1748–1788) là hậu duệ của Hoằng Nghị công phủ. Bà vốn đã thăng đến tước Phi vào năm 1779 nhưng sau đó bị giáng làm Quý nhân vào năm 1788.
Thụy Quý nhân Tác Xước Lạc thị (?–1765) là con gái của Lễ bộ Thượng thư Đức Bảo (; 1719–1789), do Lệnh phi dạy dỗ quy củ vị này quá độ khiến bản thân Lệnh phi sảy thai.
Ngạc Quý nhân Tây Lâm Giác La thị (?–1765) là con gái của Tổng đốc Ngạc Lạc Thuấn (), được Gia Khánh tôn làm Ngạc Thái Quý nhân.
Bạch Quý nhân Bách thị (?–1805) là em gái của Di tần, được Gia Khánh tôn làm Bạch Thái Quý nhân.
Lộc Quý nhân Lục thị (?–1788) là một người Hán gốc Tô Châu.
Thọ Quý nhân Bách thị (?–1809)
Tân Quý nhân Tăng thị (?–1775)
Phúc Quý nhân (?–1764)
Kim Quý nhân Kim thị (?–1778)
Võ Quý nhân Võ thị (?–1781)
Tú Quý nhân (?–1745)
Quỹ Thường tại (?–1757)
Ninh Thường tại (?–1781)
Bình Thường tại (?–1778)
Trương Thường tại (?–1745)
Tường Đáp ứng (?–1774)
Na Đáp ứng (?–1789) vốn được phong Thường tại vào năm 1765 nhưng sau đó bị giáng làm Đáp ứng vào năm 1776. Có giả thuyết cho rằng bà và Thọ Quý nhân là cùng 1 người.
Hậu duệ
Con trai
Vĩnh Hoàng (1728–1750), mẹ là Triết Mẫn Hoàng quý phi, được truy phong làm Định An Thân vương.
Vĩnh Liễn (1730–1738), mẹ là Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu, được truy phong làm Đoan Tuệ Hoàng thái tử, trở thành Thái tử duy nhất của triều Thanh có lăng tẩm riêng.
Vĩnh Chương (1735–1760), mẹ là Thuần Huệ Hoàng quý phi, được truy phong làm Tuần Quận vương.
Vĩnh Thành (1739–1777), mẹ là Thục Gia Hoàng quý phi, về sau trở thành con thừa tự của Lý Ý Thân vương Dận Đào, con trai thứ 12 của Khang Hy Đế. Sau khi qua đời, được truy thụy thành Lý Đoan Thân vương.
Vĩnh Kỳ (1741–1766), mẹ là Du Quý phi, được truy phong làm Vinh Thuần Thân vương.
Vĩnh Dung (1744–1790), mẹ là Thuần Huệ Hoàng quý phi, về sau trở thành con thừa tự của Thận Tĩnh Quận vương Dận Hi, con trai thứ 21 của Khang Hy Đế. Sau khi qua đời được truy thụy thành Chất Trang Thân vương.
Vĩnh Tông (1746–1748), mẹ là Hiếu Hiền Thuần hoàng hậu. Là đích tử nhưng mất sớm, được truy phong làm Triết Thân vương.
Vĩnh Tuyền (1746–1832), mẹ là Thục Gia Hoàng quý phi. Mặc dù có tật ở chân nhưng ông là Hoàng tử sống thọ nhất của nhà Thanh. Sau khi qua đời được truy thụy thành Nghi Thận Thân vương.
Hoàng cửu tử (1748–1749), mẹ là Thục Gia Hoàng quý phi, chết yểu.
Hoàng thập tử (1751–1753), mẹ là Thư phi, chết yểu
Vĩnh Tinh (1752–1823), mẹ là Thục Gia Hoàng quý phi, là 1 trong Tứ đại thư pháp đương thời. Sau khi qua đời được truy thụy thành Thành Triết Thân vương.
Vĩnh Cơ (1752–1776), mẹ là Kế Hoàng Hậu. Là con đích xuất, nhưng không được coi trọng, chỉ có danh xưng Bối lặc.
Vĩnh Cảnh (1756–1757), mẹ là Kế Hoàng Hậu, chết yểu.
Vĩnh Lộ (1757–1760), mẹ là Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu, chết yểu.
Vĩnh Diễm (1760–1820), mẹ là Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu, kế vị trở thành Gia Khánh Đế, tức Nhân Tông Duệ Hoàng đế.
Hoàng thập lục tử (1763–1765), mẹ là Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu, chết yểu.
Vĩnh Lân (1766–1820), mẹ là Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu, sau khi qua đời được truy thụy thành Khánh Hy Thân vương.
Con gái
Hoàng trưởng nữ (1728–1729), mẹ là Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu, chết yểu.
Hoàng nhị nữ (1731), mẹ là Triết Mẫn Hoàng quý phi, chết yểu.
Cố Luân Hòa Kính Công chúa (1731–1792), tên thật là Nại Nhật Lặc Thổ Hạ Kỳ Dương Quý, mẹ là Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu. Bà là con gái đích xuất duy nhất còn sống đến tuổi trường thành của Càn Long, về sau hạ giá lấy Sắc Bố Đằng Ba Lạc Châu Nhĩ của Khoa Nhĩ Thấm.Có một con trai.
Hòa Thạc Hòa Gia Công chúa (1745–1767), mẹ là Thuần Huệ Hoàng quý phi, về sau hạ giá lấy Phúc Long An,có một con trai.
Hoàng ngũ nữ (1753–1755), mẹ là Kế hoàng hậu, chết yểu.
Hoàng lục nữ (1755–1758), mẹ là Hãn Quý phi, chết yểu.
Cố Luân Hòa Tĩnh Công chúa (1756–1775), mẹ là Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu, về sau hạ giá lấy Lạp Vượng Đa Nhĩ Tể, cháu của Siêu Dũng Thân vương Sách Lăng- Ngạch phò của Thuần Khác Công chúa.
Hoàng bát nữ (1758–1767), mẹ là Hãn Quý phi, mất sớm.
Hòa Thạc Hòa Khác Công chúa (1758–1780), mẹ là Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu, về sau hạ giá lấy Trát Lan Thái, con trai của Vũ Nghị Mưu Dũng công Triệu Huệ, có duy nhất một con gái.
Cố Luân Hòa Hiếu Công chúa (1775–1823), mẹ là Đôn phi.10 tuổi sơ phong Hòa Thạc Công chúa,12 tuổi đặc cách tấn phong Cố Luân Công chúa. Về sau hạ giá lấy Phong Thân Ân Đức, con trai của Hòa Thân,có một con trai nhưng chết yểu.
Con nuôi: Hòa Thạc Hòa Uyển Công chúa (1734–1760), là con gái của Hòa Cung Thân vương Hoằng Trú, em trai Càn Long, về sau hạ giá lấy Đức Lặc Khắc, vương công của Ba Lâm Bát Nhĩ Tế Cát Đặc thị.
Trong văn hoá đại chúng |
Norodom Sihanouk (tiếng Khmer: , phát âm như "No-rô-đom Xơi-ha-nụ", , ; sinh ngày 31 tháng 10 năm 1922 tại Phnôm Pênh – mất ngày 15 tháng 10 năm 2012 tại Bắc Kinh) là cố Quốc vương, Thái thượng vương của Vương quốc Campuchia.
Ông từng là vua của Campuchia trong nhiều giai đoạn cho đến ngày thoái vị để nhường ngôi cho quốc vương Norodom Sihamoni (7 tháng 10 năm 2004). Sihanouk là con trai của cựu quốc vương Norodom Suramarit và vương hậu Sisowath Kossamak. Sihanouk đã đảm nhiệm nhiều chức vụ khác nhau kể từ 1941, nhiều vị trí đến nỗi Sách Kỷ lục Guinness đã đưa ông vào danh sách các chính khách giữ nhiều chức vụ nhất, bao gồm 2 lần làm vua, 2 lần thái tử, 1 lần chủ tịch nước, 2 lần thủ tướng và một lần quốc trưởng Campuchia và nhiều chức vụ khác nữa của chính phủ lưu vong. Phần lớn là chức vụ hình thức, kể cả lần cuối làm vua (trị vì nhưng không cai trị). Thời gian trị vì thực sự của ông là từ 9 tháng 11 năm 1953 đến 18 tháng 3 năm 1970 (khi bị Lon Nol phế truất chức vụ Quốc trưởng).
Thời niên thiếu
Sihanouk học tiểu học tại Phnôm Pênh (École François Baudoin), học trung học tại Sài Gòn (Lycée Chasseloup Laubat) cho đến khi lên ngôi, sau đó học tại trường võ bị Saumur, Pháp. Khi vua Sisowath Monivong (ông ngoại của Sihanouk) băng hà vào ngày 23 tháng 4 năm 1941, Hội đồng Tôn vương đưa Sihanouk lên ngôi vua. Ông đăng quang vào tháng 11 năm 1941.
Thời kỳ trị vì
Giai đoạn 1941–1945
Trong giai đoạn 1941–1945 vua Sihanouk chưa bộc lộ xu hướng dân tộc chủ nghĩa của mình. Khi người Pháp bắt giữ, khép án chung thân và đày ra Côn Đảo, các trí thức tập hợp xung quanh Viện Phật giáo và báo Khmer Nagarawatta vì lên kế hoạch bắt giữ các quan chức Pháp và tuyên bố độc lập sau khi một phần đất ở miền Tây Campuchia bị Thái Lan chiếm, Sihanouk đã không bày tỏ thái độ phản đối.
Giai đoạn 1945–1953
Tháng 3 năm 1945, sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Campuchia, cơ quan an ninh quân sự Kempeitai khuyên Norodom Sihanouk nên tuyên bố độc lập và lãnh đạo chính quyền mới của Campuchia. Sau khi quân đội Đồng minh tái chiếm Đông Dương vào cuối năm 1945, người Pháp trở lại Campuchia, Sihanouk hợp tác trở lại với người Pháp, do đó người Pháp cho phép chính quyền Sihanouk tổ chức bầu cử Quốc hội năm 1946. Trong cuộc bầu cử 1946, Đảng Dân chủ được cả người Pháp và Hoàng gia hậu thuẫn giành được 50 trong số 69 ghế, trong khi Đảng Tự do của Hoàng thân Norindeth chỉ được 16 ghế. Sau cuộc bầu cử năm 1951, Đảng dân chủ vẫn giữ 53 ghế còn Đảng Tự do 18 ghế. Quốc hội này đã thông qua bản Hiến pháp thành lập chính thể quân chủ lập hiến.
Ngày 15/6/1952, do tình hình chính trị bất ổn Sihanouk đã giải tán nội các Huy Kanthol và thay ông này làm Thủ tướng. Ngày 11/1/1953, ông cũng giải tán luôn Quốc hội và cho bắt giữ 17 đảng viên Dân chủ, giam họ 8 tháng mà không hề xét xử. Cũng trong giai đoạn này Norodom Sihanouk thực hiện chiến dịch mà ông gọi là 'Thánh chiến cho Độc lập' bằng các cuộc vận động ngoại giao ở Montreal, Washington và Tokyo. Trong thời gian này, ông cũng không chịu về Phnom Penh, mà ở Siem Reap và Battambang. Ông làm việc này với mục tiêu giành độc lập hoàn toàn cho Campuchia trong vòng ba năm.
Tháng 5 năm 1953, ông sang tị nạn tại Thái Lan và từ chối hồi hương cho đến khi có độc lập. Ông về nước ngày 9 tháng 11 năm 1953. Người Pháp trong khi đang thua trận ở miền Bắc Việt Nam, không còn sức lực đối phó với một tiền tuyến thứ hai nên đồng ý giao trả chủ quyền lại cho Campuchia vào ngày 9/11/1953, trước khi Việt Nam và Lào giành được độc lập..
Giai đoạn 1954–1964
Ngày 17/2/1955 Sihanouk cho mở một cuộc trưng cầu dân ý với câu hỏi:"Người dân có hài lòng với việc Quốc vương thực hiện cam kết Thánh chiến Hoàng gia của mình hay không?" Kết quả cuộc trưng cầu dân ý là 99,9% người được hỏi trả lời "Có".
Ngày 2 tháng 3 năm 1955, ông thoái vị nhường ngôi cho cha mình là Suramarit. Sau đó ông giữ chức Thủ tướng vài tháng. Đầu tháng 4/1955, ông tuyên bố thành lập đảng Sangkum Reastr Niyum (Cộng đồng Xã hội Chủ nghĩa Bình dân) do ông lãnh đạo. Trong cuộc bầu cử Quốc hội ngày 11/9/1955, bằng các biện pháp ép buộc và dọa dẫm, đảng Sangkum Reastr Niyum giành 83% số phiếu và toàn bộ số ghế trong Quốc hội.
Từ 18/4/1955 đến 24/4/1955, Sihanouk dẫn đầu một đoàn đại biểu đi Bandung dự hội nghị của Phong trào Không liên kết. Từ năm 1956 Sihanouk bắt đầu trở nên thân thiết với Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai và Kim Nhật Thành. Sau này ông vẫn gắn bó với Trung Quốc đến mức sống những ngày cuối đời ở đất nước này.
Sau khi cha ông mất năm 1960, Sihanouk không đề cử ai làm Quốc vương mà được Quốc hội bổ nhiệm vào chức Quốc trưởng với danh vị hoàng thân.
Khi Chiến tranh Việt Nam xảy ra, Sihanouk tán thành chính sách Bên thứ 3 chủ trương Campuchia trung lập, đứng ngoài cuộc chiến, cùng đồng thời có quan hệ ngoại giao với cả Trung Quốc và Hoa Kỳ. Năm 1963, ông khước từ cứu trợ của Hoa Kỳ.
Tháng 2/1959, cơ quan Tình báo Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa hợp tác với tướng Campuchia Dap Chhoun âm mưu đảo chính lật đổ Sihanouk để đưa Sơn Ngọc Thành lên làm lãnh đạo Campuchia do Sihanouk có khuynh hướng ngả theo Bắc Kinh. Khi cuộc đảo chính bùng nổ thì lực lượng Quân khu V và Quân khu II của Việt Nam Cộng hòa sẽ tiến đến biên giới giúp Dap Chhoun chiếm lĩnh khu vực Đông – Bắc Campuchia. Tuy nhiên, giờ khởi sự bị đình lại vì Sơn Ngọc Thành qua Thái Lan để xin viện trợ quân sự cho mặt trận phía Tây. Chính sự trì hoãn này đã làm cho âm mưu bị bại lộ. Ngay khi phát hiện âm mưu đảo chính, Sihanouk giao Lon Nol thống lãnh lực lượng lính dù mở cuộc tấn công chớp nhoáng vào Siem Reap khi Dap Chhoun còn ngủ. Dap Chhoun cải trang trốn thoát. Quân Lon Nol chiếm dinh thống đốc Siem Reap và bắt được đầy đủ tang vật gồm 100 kg vàng, hai điệp viên Việt Nam Cộng hòa và đài vô tuyến cùng một số vũ khí. Hôm sau, Sihanouk mời tất cả viên chức ngoại giao nước ngoài, trong đó có ông Ngô Trọng Hiếu, đặc sứ Việt Nam Cộng hòa tại Campuchia, đến Siem Reap. Tại dinh thống đốc Siem Reap, Sihanouk không ngớt lời thóa mạ "kẻ thù dân tộc Khmer" và bọn "tay sai đế quốc" rồi trưng ra tất cả nhân chứng lẫn vật chứng trong đó có 100 kg vàng đóng dấu ngân khố Việt Nam Cộng hòa, hệ thống điện đài và hai điệp viên mang thông hành Việt Nam Cộng hòa. Hai điệp viên Việt Nam Cộng hòa bị kết án tử hình còn Dap Chhoun bị lực lượng lính dù của Lon Nol bắt và hạ sát.
Báo Nhân dân dẫn theo các báo Campuchia ngày 22 tháng 6 năm1961 cho biết tòa án Quân sự Campuchia kết án tử hình một điệp viên chính quyền Ngô Đình Diệm, về tội "mưu sát quốc vương và hoàng hậu Campuchia" và tội "làm gián điệp cho Mỹ – Diệm phá hoại nền an ninh Campuchia". Người này là chủ nhiệm tờ Hồn Việt và tờ Tự do xuất bản tại Nông Pênh các năm 1956–1957. Chính phủ Campuchia bắt được nhiều giấy tờ tỏ rõ điệp viên này nhận lệnh của chính quyền Ngô Đình Diệm "âm mưu phá hoại nền an ninh Campuchia", trong đó có cả thư khen của ông Diệm gửi cho ông ta. Kế hoạch ám sát Sihanouk được ông Ngô Đình Nhu và Trần Kim Tuyến thảo luận chi tiết, sau khi mưu đảo chính tại Campuchia thất bại. Tuy nhiên âm mưu ám sát bất thành do Sihanouk may mắn thoát chết.. Phạm Trọng Nhơn là thủ phạm của vụ này. Theo báo An ninh Thế giới, Sihanouk thoát chết là nhờ một điệp viên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Ba Quốc (tên thật là Đặng Trần Đức), phụ tá Phó Giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị Xã hội Việt Nam Cộng hòa, tham gia vào âm mưu ám sát đã cài đặt bom lệch giờ.
Giai đoạn 1965–1969
Đến năm 1965, sau khi Mỹ đưa quân vào Việt Nam bảo vệ Việt Nam Cộng hòa, ông cắt đứt quan hệ ngoại giao với Mỹ và Anh. Mùa xuân 1965, ông thỏa thuận với Trung Quốc và Bắc Việt Nam cho phép sự hiện diện của các căn cứ của lực lượng cộng sản Việt Nam ở sát biên giới Campuchia – Việt Nam đồng thời cho phép viện trợ của Trung Quốc cho cộng sản Việt Nam thông qua các cảng Campuchia. Campuchia được đền bù bằng cách Trung Quốc mua gạo của Campuchia với giá cao. Ông cũng nhiều lần lên tiếng rằng chiến thắng của phe cộng sản ở Đông Nam Á là không thể tránh khỏi và cho rằng chủ nghĩa Mao đáng để mọi người thi đua. Chính sách hữu hảo với Trung Quốc của ông bị phá sản do thái độ cực đoan của Trung Quốc vào thời kỳ cao trào của Cách mạng văn hóa.
Trong giai đoạn 1966–1967, Sihanouk đã đàn áp chính trị loại bỏ các đảng cánh tả ở Campuchia. Ông đàn áp đảng Pracheachon cánh tả bằng cách buộc tội thành viên của đảng này hoạt động phục vụ Hà Nội nhưng cũng làm mất lòng phe hữu do ông không nhận thức được tình hình kinh tế suy thoái do việc thực hiện quốc hữu hóa và độc quyền nhiều ngành công nghiệp, dịch vụ (bị trầm trọng thêm bởi việc mất đi nguồn xuất khẩu gạo, do lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam thu mua mất) và do sự hiện diện ngày càng tăng của lực lượng quân sự cộng sản trên đất Campuchia. Việc đàn áp phe tả và mất tín nhiệm trước phe hữu cùng với những thay đổi trong chính sách ngoại giao làm cho thái độ cân bằng các bên để giữ thế trung lập khó duy trì được.
Bị phế truất và hợp tác với Khmer Đỏ
Ngày 18 tháng 3, 1970, trong lúc ông đang đi nghỉ ở biệt thự riêng của gia đình tại miền nam nước Pháp, Lon Nol – thủ tướng chính phủ cho quân đội bắt giữ chính quyền dân sự ở Phnom Penh và bố trí xe tăng bao vây toà nhà Quốc hội sau đó triệu tập Quốc hội bỏ phiếu phế truất Sihanouk khỏi vị trí Quốc trưởng và trao quyền lực khẩn cấp cho Lon Nol. Việc đàn áp đối lập và các chính sách kinh tế sai lầm của Sihanouk, cũng như thái độ xích lại gần Việt Nam và Trung Quốc của ông cùng với áp lực của Lon Nol khiến Quốc hội bỏ phiếu bãi nhiệm ông. Sihanouk gọi đây là âm mưu đảo chính của CIA.
Hoàng thân Sirik Matak – người được chính phủ Pháp loại bỏ để trao ngôi vị cho Sihanouk – đã được giao chức Phó Thủ tướng. Sau khi mất quyền lực, Hoàng thân Sihanouk đến Bắc Kinh và bắt đầu ủng hộ Khmer Đỏ trong cuộc chiến lật đổ chính phủ Lon Nol ở Phnom Penh. Sihanouk đã đến nhiều nước trên thế giới để kêu gọi sự ủng hộ cho Khmer Đỏ. Khi nước Cộng hòa Khmer rơi vào tay Khmer Đỏ vào năm 1975, Hoàng thân Sihanouk trở thành nguyên thủ quốc gia hình thức của chính phủ mới khi Pol Pot còn nắm quyền lực. Ngày 4 tháng 4 năm 1976, Sihanouk từ chức vì sự tàn bạo của Khmer đỏ và nghỉ hưu. Sihanouk sang tị nạn tại Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Việc Sihanouk đứng đầu Khmer Đỏ trong suốt 6 năm từ 1971 đến 1976 là điều mà giới trí thức Campuchia không bao giờ quên được.
Năm 1978, quân đội Việt Nam sang lãnh thổ Campuchia đánh đổ Khmer Đỏ. Tháng 1/1979, Sihanouk tiếp tục tới Liên Hợp Quốc ở New York để vận động cho Khmer Đỏ và kêu gọi Liên Hợp Quốc gửi quân đến Campuchia tấn công quân Việt Nam.
Năm 1982, ông trở thành Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp Campuchia Dân chủ bao gồm: Đảng Funcinpec của mình, Mặt trận giải phóng Campuchia của Son Sann và Khmer Đỏ. Quân Việt Nam rút khỏi Campuchia năm 1989, trả lại một Campuchia hoà bình, Thủ tướng Hun Sen lãnh đạo Nước cộng hòa Nhân dân Campuchia.
Tuy nhiên, năm 1977 và 1987, Sihanouk tham dự lễ Cách mạng Tháng Mười của Liên Xô, để xoa dịu giới chức Xô viết ở vấn đề Khmer Đỏ.
Lần trị vì cuối cùng
Các đảng phái ở Campuchia đã đàm phán đến năm 1991 và các bên đã đồng ý ký thỏa thuận hòa giải toàn diện ở Paris. Ngày 14 tháng 11 năm 1991, Hoàng thân Norodom Sihanouk trở về Campuchia sau 13 năm lưu vong. Trong cuộc bầu cử 1993, đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia thất cử. Sihanouk đã can thiệp để buộc con trai là Hoàng thân Ranariddh và đảng FUNCIPEC của ông này tiếp nhận Hun Sen làm đồng thủ tướng nhằm đổi lấy việc trở lại ngai vàng. Sau đó Hun Sen thực hiện đảo chính đổ máu lật đổ Hoàng thân Ranariddh vào năm 1997.
Năm 1993, Sihanouk lại trở thành quốc vương Campuchia và con trai ông, thái tử Norodom Ranariddh làm thủ tướng. Theo Hiến pháp của Campuchia, quốc vương chỉ "trị vì nhưng không cai trị". Do bệnh tật, ông phải đi lại chữa trị ở Bắc Kinh nhiều lần. Thú tiêu khiển của Sihanouk: sáng tác âm nhạc bằng các thứ tiếng khác nhau (tiếng Khmer, tiếng Pháp và tiếng Anh), đạo diễn nhiều bộ phim và chỉ huy dàn nhạc. Ông có website riêng. Tháng 1 năm 2004, ông tự chuyển sang sống lưu vong tại Bình Nhưỡng, sau đó là Bắc Kinh, lấy lý do sức khỏe kém, ông tuyên bố thoái vị ngày 7 tháng 10 năm 2004. Hiến pháp Campuchia không cho phép tự thoái vị. Chea Sim, Chủ tịch Thượng viện Campuchia, tạm nắm giữ chức Quyền nguyên thủ Nhà nước cho đến ngày 14 tháng 10 khi Hội đồng Tôn vương bầu Norodom Sihamoni – một trong những người con trai của Sihanouk - lên làm quốc vương mới.
Qua đời
Sihanouk qua đời vì bệnh tim tại thủ đô Bắc Kinh của Trung Quốc vào lúc 2 giờ 25 phút ngày 15 tháng 10 năm 2012 theo giờ địa phương. Hai ngày sau, Quốc vương Norodom Sihamoni tới Bắc Kinh mang di hài cha mình về Campuchia.
Tang lễ
Sau một tuần tang lễ vào tháng 10 năm 2012, thi hài ông được lưu giữ trong Cung điện Hoàng gia để người dân tới bày tỏ sự tôn kính cuối cùng.
Vào ngày 4 tháng 2 năm 2013 (sau ba tháng được lưu giữ trong Cung điện Hoàng gia), Campuchia tiến hành lễ hỏa thiêu thi hài cựu quốc vương Norodom Sihanouk.
Một phần tro cốt của ông được rải gần nơi hợp lưu của bốn con sông tại Phnom Penh. Trong khi phần tro cốt còn lại sẽ được đưa về cung điện hoàng gia vào ngày 7 tháng 2 năm 2013, nằm cạnh công chúa Kunthea Buppha, theo ý nguyện của cựu quốc vương.
Gia phổ Miên triều thế kỷ 19–21 |
Heinrich Luitpold Himmler (; 7 tháng 10 năm 1900 – 23 tháng 5 năm 1945) là Reichsführer (Thống chế SS) của Schutzstaffel (Đội cận vệ; SS), và là một thành viên hàng đầu trong Đảng Quốc xã (NSDAP) của Đức. Lãnh tụ Đức Quốc xã Adolf Hitler từng bổ nhiệm ông làm chỉ huy quân sự và sau đó là Tư lệnh Quân đội Thay thế, và Toàn quyền cai trị toàn bộ Đế chế Thứ ba trong một thời gian ngắn (Generalbevollmächtigter für die Verwaltung). Himmler là một trong số những nhân vật quyền lực nhất của Đức Quốc xã và là một trong những người có vai trò quan trọng nhất phải chịu trách nhiệm chính cho cuộc diệt chủng Holocaust.
Với tư cách là một thành viên của tiểu đoàn dự bị trong chiến tranh thế giới thứ nhất, Himmler không phải phục vụ cho quân đội. Ông từng học nông học tại trường đại học trước khi gia nhập Đảng Quốc xã vào năm 1923 và lực lượng SS vào năm 1925. Năm 1929, ông được Hitler bổ nhiệm làm Reichsführer-SS (Thống chế SS). Trong 16 năm tiếp theo, ông đã phát triển lực lượng SS từ chỉ một tiểu đoàn 290 người thành một lực lượng bán quân sự hùng mạnh quy mô một triệu người; đồng thời theo lệnh Hitler thành lập và chỉ huy hoạt động của các trại tập trung. Himmler được biết đến là người có kỹ năng tổ chức tốt và rất có năng lực trong việc lựa chọn cấp dưới, một ví dụ là trường hợp Reinhard Heydrich năm 1931. Kể từ năm 1943, ông đồng thời đảm nhiệm chức Chỉ huy trưởng Cảnh sát Đức và Bộ trưởng Nội vụ, giám sát toàn bộ lực lượng an ninh và cảnh sát trong và ngoài, bao gồm cả Gestapo (Lực lượng Cảnh sát Bí mật, hay Mật vụ).
Thay mặt Hitler, Himmler thành lập lực lượng Einsatzgruppen và cho xây dựng các trại hủy diệt. Là cố vấn và giám sát của các trại tập trung, Himmler đã chỉ đạo việc sát hại khoảng sáu triệu người Do Thái, 200.000 đến 500.000 người Di-gan, và nhiều nạn nhân khác; tổng số thường dân bị giết dưới chế độ phát xít ước tính trong khoảng từ 11 đến 14 triệu người. Hầu hết trong đó là công dân các nước Ba Lan và Liên Xô.
Vào giai đoạn cuối của chiến tranh thế giới thứ hai, Hitler giao cho Himmler chức chỉ huy Cụm tập đoàn quân Thượng sông Rhine và Cụm tập đoàn quân sông Wisla; ông thất bại với các nhiệm vụ được giao và Hitler đã thay thế các chức vụ trên. Sau khi nhận ra nước Đức sẽ thất bại trong cuộc chiến, Himmler cố gắng mở các cuộc đàm phán hòa bình với Đồng Minh phương Tây không lâu trước thời điểm chiến tranh kết thúc và Hitler không hề biết đến điều này. Khi nghe được thông tin trên, Hitler tước bỏ tất cả mọi chức vụ của Himmler vào tháng 4 năm 1945 và ra lệnh bắt giữ. Himmler nỗ lực chạy trốn nhưng đã bị lính Anh phát hiện. Ông tự sát vào ngày 23 tháng 5 năm 1945, trong sự giam giữ của quân Anh.
Thuở thiếu thời
Heinrich Luitpold Himmler sinh ngày 7 tháng 10 năm 1900 tại Munich trong một gia đình trung lưu bảo thủ theo Công giáo La Mã. Cha ông là Gebhard Himmler (17 tháng 5 năm 1865 - 29 tháng 10 năm 1936), một giáo viên, và mẹ là Anna Maria Himmler (nhũ danh: Heyder; 16 tháng 1, 1866 - 10 tháng 9 năm 1941), một người sùng đạo Công giáo La Mã. Heinrich có hai anh em trai, Gebhard Ludwig (29 tháng 7 năm 1898 – 1982) và Ernst Hermann (23 tháng 12 năm 1905 – 2 tháng 5 năm 1945).
Tên của Himmler, Heinrich, lấy từ cha đỡ đầu của ông, Thái tử Heinrich xứ Bavaria, một thành viên của gia đình hoàng gia Bavaria, người đã được Gebhard Himmler kèm cặp. Himmler từng theo học tại một trường trung học ở Landshut, nơi mà cha ông làm phó hiệu trưởng. Ông thực hiện tốt việc học nhưng gặp khó với các môn thể thao. Sức khỏe của Himmler không được tốt, ông đã phải chịu đựng những cơn đau dạ dày trong suốt cuộc đời cùng những bệnh tật, đau đớn khác. Thời niên thiếu ông rèn luyện hàng ngày với tạ và các bài tập để cơ thể trở nên khỏe khoắn hơn. Các chàng trai cùng trường sau này nhớ đến ông là một người chăm học và vụng về trong giao tiếp, hoạt động xã hội.
Trong cuốn nhật ký mà Himmler viết một cách không liên tục từ năm 10 tuổi cho thấy ông tỏ ra quan tâm đến những sự kiện hiện thời, các cuộc đấu tay đôi, và "bàn luận nghiêm túc về tôn giáo và tình dục". Vào năm 1915, ông bắt đầu rèn luyện cùng với Quân đoàn Học viên Landshut. Cha ông đã tận dụng những mối quan hệ với gia đình hoàng gia để giúp ông được chấp nhận là một ứng cử viên cho chức sĩ quan, và Himmler gia nhập tiểu đoàn dự bị thuộc Trung đoàn Bavaria số 11 vào tháng 12 năm 1917. Gebhard, cha của Himmler, tham gia chiến đấu trên mặt trận phía Tây, từng nhận huân chương Thập tự Sắt và cuối cùng được thăng chức Trung úy. Vào tháng 11 năm 1918, trong khi Himmler vẫn đang trong quá trình huấn luyện, chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc với thất bại của nước Đức, khiến Himmler không còn cơ hội trở thành một sĩ quan hay được tham gia chiến đấu. Sau khi giải ngũ vào ngày 18 tháng 12, ông quay trở về Landshut.
Chiến tranh kết thúc, Himmler hoàn thành chương trình trung học. Từ năm 1919 đến 1922, ông học nông học tại Technische Hochschule Munich (nay là Đại học Kỹ thuật Munich), sau đó là một giai đoạn ngắn học việc ở một trang trại và một đợt ốm đau tiếp theo xảy đến.
Mặc dù nhiều quy định phân biệt đối xử chống lại những người ngoài Kitô giáo, bao gồm cả người Do Thái và những nhóm dân tộc thiểu số khác, đã được loại bỏ trong quá trình thống nhất nước Đức vào năm 1871, chủ nghĩa bài Do Thái vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển mạnh ở Đức và các nơi khác ở châu Âu. Himmler bài Do Thái từ thời điểm ông vào trường đại học, nhưng không quá gay gắt; sinh viên tại trường của ông cũng lảng tránh những bạn học người Do Thái. Thời sinh viên, ông vẫn là một tín đồ Công giáo tận tâm và dành hầu hết thời gian rảnh rỗi cùng những thành viên của hội đấu kiếm "League of Apollo", chủ tịch của hội này là người Do Thái. Himmler đã giữ một thái độ lịch sự với vị chủ tịch cũng như những thành viên người Do Thái khác của hội, bất chấp mức độ bài Do Thái trong ông đang dần tăng lên. Trong năm thứ hai đại học, Himmler nỗ lực lên gấp đôi nhằm theo đuổi sự nghiệp quân sự. Mặc dù không thành công tuy nhiên ông vẫn có thể tiếp tục tham gia trong lực lượng bán quân sự ở Munich. Đó là thời điểm ông gặp Ernst Röhm, một trong những thành viên gia nhập Đảng Quốc xã đầu tiên và là người đồng sáng lập ra tổ chức Sturmabteilung ("Tiểu đoàn Bão táp"; SA). Himmler ngưỡng mộ Röhm vì ông ta là một người lính chiến đấu kỳ cựu với nhiều huy chương, và Himmler đã gia nhập nhóm chủ nghĩa dân tộc bài Do Thái của Röhm, Bund Reichskriegsflagge (tạm dịch: Liên minh Lá cờ Chiến tranh Đế quốc), theo lời mời gọi của ông ta.
Vào năm 1922, Himmler trở nên quan tâm nhiều hơn đến "vấn đề Do Thái", với những lời nhận xét bài Do Thái tăng lên trong các mục của cuốn nhật ký và việc ghi lại một số cuộc thảo luận về người Do Thái với bạn học cùng lớp. Danh sách những tài liệu ông đọc, theo như ghi trong cuốn nhật ký, chủ yếu là những sách nhỏ có nội dung bài Do Thái, thần thoại về Đức, các vùng đất huyền bí. Sau cái chết của Bộ trưởng Ngoại giao Walther Rathenau vào ngày 24 tháng 6, quan điểm chính trị của Himmler nghiêng hoàn toàn về phía cánh hữu, và ông đã tham gia vào những cuộc biểu tình phản đối Hiệp ước Versailles. Vào mùa hè năm đó, siêu lạm phát hoành hành tại Đức, và cha mẹ Himmler đã không còn có thể chu cấp việc học cho cả ba người con. Thất vọng vì không thể có được một sự nghiệp quân sự và cha mẹ không có khả năng tài trợ cho những nghiên cứu tiến sĩ của mình, ông buộc phải nhận lấy một công việc văn phòng thu nhập thấp sau khi có được tấm bằng nông nghiệp. Ông duy trì công việc này cho đến tháng 9 năm 1923.
Hoạt động trong Đảng Quốc xã
Himmler gia nhập Đảng Quốc xã (NSDAP) vào tháng 8 năm 1923, số hiệu đảng 14.303. Với tư cách là thành viên trong đơn vị bán quân sự của Röhm, Himmler dính líu đến vụ đảo chính nhà hàng bia—một nỗ lực không thành của Hitler và Đảng Quốc xã nhằm thâu tóm quyền lực ở Munich. Sự kiện này đã dẫn cuộc đời Himmler theo con đường chính trị. Ông đã bị cảnh sát thẩm vấn về vai trò trong cuộc đảo chính nhưng không bị buộc tội vì không đủ bằng chứng. Tuy nhiên, ông bị mất việc và không thể tìm được việc làm mới với tấm bằng nông học, và ông chuyển đến sống cùng cha mẹ ở Munich. Chán nản vì những thất bại, ông trở nên cáu kỉnh, hung hăng, ngoan cố hơn bao giờ hết, đồng thời xa lánh cả bạn bè và những người thân trong gia đình.
Giai đoạn 1923-1924, Himmler trong khi đang tìm kiếm một thế giới quan đã từ bỏ Công giáo và tập trung vào sự huyền bí và chủ nghĩa bài Do Thái. Thần thoại Đức được bổ sung những ý tưởng huyền bí trở thành tôn giáo của ông. Himmler nhận thấy sự lôi cuốn của Đảng Quốc xã vì những quan điểm chính trị của đảng này phù hợp với quan điểm cá nhân của mình. Ban đầu, ông không được hưởng lợi từ uy tín của Hitler hay từ sự tôn sùng đối với vị lãnh tụ tương lai. Sau khi tìm hiểu nhiều hơn về Hitler, Himmler bắt đầu chú ý đến ông ta như là một nhân vật có năng lực trong đảng, rồi tiếp theo là đến ngưỡng mộ và thậm chí tôn sùng. Để củng cố và nâng cao vị thế của mình, Himmler đã lợi dụng tình hình xáo trộn trong đảng sau khi Hitler bị bắt giữ bởi vụ đảo chính nhà hàng bia. Từ giữa năm 1924 Himmler làm thư ký của đảng và hỗ trợ tuyên truyền dưới quyền Gregor Strasser. Ông đã đi khắp vùng Bavaria để kích động cho đảng, kèm theo đó là những bài diễn thuyết và phát tán truyền đơn. Theo sự phân công của Strasser, Himmler phụ trách văn phòng đảng tại vùng Hạ Bavaria từ năm 1924, ông có nhiệm vụ tập hợp các thành viên trong khu vực vào Đảng Quốc xã dưới sự lãnh đạo của Hitler khi đảng này tái thành lập vào tháng 2 năm 1925.
Cũng trong năm 1925, Himmler trở thành SS-Führer (Thủ lĩnh-SS) khi gia nhập Schutzstaffel (SS); số hiệu của ông trong lực lượng là 168. SS, ban đầu là một phần của tổ chức lớn hơn nhiều là SA, thành lập vào năm 1923 với mục đích bảo vệ cá nhân Hitler, và được tái thành lập vào năm 1925 như là một đơn vị tinh nhuệ của SA. Vị trí lãnh đạo đầu tiên của Himmler là SS-Gauführer (thủ lĩnh địa hạt) tại vùng Hạ Bavaria từ năm 1926. Vào tháng 1 năm 1927 Strasser bổ nhiệm Himmler làm phó chánh tuyên truyền. Với tư cách là nhân vật điển hình trong đảng, Himmler hành động tự do một cách đáng kể với chức vụ của mình và điều này ngày một tăng lên theo thời gian. Ông bắt đầu thu thập các số liệu thống kê về số lượng người Do Thái, người thuộc Hội Tam Điểm, những kẻ thù của đảng, và để đáp ứng nhu cầu kiểm soát mạnh mẽ của mình, ông đã phát triển một bộ máy quan liêu kỹ càng. Vào tháng 9 năm 1927, Himmler nói với Hitler về tầm nhìn của mình, đó là chuyển đổi SS thành một đơn vị trung thành, hùng mạnh, ưu tú tinh khiết về chủng tộc. Tin tưởng Himmler là một người được việc, Hitler bổ nhiệm ông làm Phó Reichsführer-SS (Thống chế SS), với cấp bậc SS-Oberführer (Binh đoàn trưởng).
Trong khoảng thời gian đó, Himmler tham gia Artamanen-Gesellschaft (Liên đoàn Artaman), một nhóm Völkisch trẻ tuổi . Tại đây ông gặp Rudolf Hess(Rudolf Heß), chỉ huy của trại tập trung Auschwitz sau này; và Walther Darré, tác giả với cuốn sách The Peasantry as the Life Source of the Nordic Race (tạm dịch:Tầng lớp nông dân là nguồn sống của chủng tộc Bắc Âu) đã thu hút được sự chú ý của Hitler, dẫn đến việc sau này ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Thực phẩm. Darré là một tín đồ trung kiên về sự ưu việt của chủng tộc Bắc Âu, và triết lý của ông đã ảnh hướng lớn đến Himmler.
Thăng tiến trong lực lượng SS
Sau khi thủ lĩnh SS Erhard Heiden từ chức vào tháng 1 năm 1929, Hitler phê chuẩn cho Himmler đảm đương chức vụ Reichsführer-SS (Thống chế SS); và ông vẫn thực hiện nhiệm vụ của mình tại sở chỉ huy truyền thông. Một trong những việc đầu tiên của Himmler là tái cơ cấu SS tại Đại hội Nuremberg vào tháng 9 năm đó. Trong năm tiếp theo, Himmler phát triển SS từ một lực lượng 290 người lên thành khoảng 3.000 người. Đến năm 1930 Himmler đã thuyết phục được Hitler cho SS hoạt động như là một tổ chức riêng biệt, mặc dù về mặt chính thức nó vẫn còn trực thuộc SA.
Để thâu tóm quyền lực chính trị, Đảng Quốc xã đã khai thác lợi thế kinh tế tụt dốc trong cuộc Đại Suy thoái. Chính phủ liên hiệp của Cộng hòa Weimar không thể cải thiện tình hình kinh tế, nên nhiều cử tri đã chuyển hướng sang tư tưởng chính trị cực đoan, trong đó có Đảng Quốc xã. Hitler đã dùng thuật hùng biện dân túy, trong đó đổ lỗi cho những "bia đỡ đạn" khác-đặc biệt là người Do Thái-cho những khó khăn của nền kinh tế. Trong cuộc bầu cử năm 1932, Đảng Quốc xã thắng 37,3% số phiếu bầu và 230 ghế trong Reichstag (một cơ quan lập pháp; nghị viện). Hitler được Tổng thống Paul von Hindenburg bổ nhiệm làm Thủ tướng Đức vào ngày 30 tháng 1 năm 1933, dẫn đầu một liên minh tồn tại ngắn ngủi bao gồm những thành viên Quốc xã và Đảng Nhân dân Quốc gia Đức. Nội các mới ban đầu chỉ bao gồm ba thành viên của Đảng Quốc xã; Hitler, Hermann Göring với tư cách một bộ trưởng không bộ và Bộ trưởng Nội vụ Phổ, và Wilhelm Frick với tư cách Bộ trưởng Nội vụ Đế chế. Chưa đầy một tháng sau, tòa nhà Reichstag bị cháy. Hitler lợi dụng sự kiện này để buộc von Hindenburg ký nghị định hỏa hoạn Reichstag (hay "Nghị định của Tổng thống Đế chế cho việc Bảo vệ Nhân dân và Nhà nước"), trong đó đình chỉ các quyền cơ bản và cho phép giam giữ không qua xét xử. Đạo luật Trao quyền (Ermächtigungsgesetz, tên chính thức: Gesetz zur Behebung der Not von Volk und Reich, tạm dịch: "Luật Khắc phục Tai họa của Nhân dân và Đế chế") được Reichstag cho thông qua vào năm 1933 giúp Hitler nắm trong tay đầy đủ quyền lập pháp, và trên thực tế đất nước đã trở thành một chế độ độc tài. Vào ngày 1 tháng 8 năm 1934, nội các của Hitler đã cho thông qua một luật trong đó quy định rằng vào thời điểm von Hindenburg chết, chức vụ tổng thống sẽ bị bãi bỏ và những quyền hạn của nó sẽ được sáp nhập với quyền hạn của thủ tướng. Von Hindenburg qua đời sáng hôm sau, và Hitler đã trở thành người đứng đầu nhà nước và chính phủ dưới danh nghĩa Führer und Reichskanzler (Lãnh tụ và Thủ tướng).
Đảng Quốc xã lên nắm quyền tạo điều kiện cho Himler và đội quân SS thăng tiến mạnh mẽ. Đến năm 1933, số thành viên SS đã tăng lên thành 52.000. Những yêu cầu tuyển chọn là nghiêm ngạt để đảm bảo tất cả thành viên đều thuộc chủng tộc thượng đẳng (Herrenvolk) Aryan của Hitler. Các ứng viên đã được xem xét kỹ lưỡng những phẩm chất Bắc Âu-trong lời của Himmler: "giống như một người làm vườn cố gắng tái tạo những giống cũ, tốt mà đã bị pha trộn và làm giảm giá trị; chúng ta bắt đầu từ các nguyên tắc lựa chọn cây trồng và tiếp theo hành động hoàn toàn không ngại ngùng để loại trừ những người mà chúng ta không nghĩ là chúng ta có thể sử dụng cho việc xây dựng SS." Có một số rất ít người đã dám nêu ra rằng với những tiêu chuẩn mà Himmler đưa ra thì chính ông ta cũng không đáp ứng được.
Khả năng tổ chức, trí tuệ ham học hỏi đã giúp ích cho Himmler khi ông bắt đầu thiết lập các phòng ban SS khác nhau. Vào năm 1931 ông bổ nhiệm Reinhard Heydrich làm người đứng đầu cơ quan tình báo mới ('Ic Service'), sang năm 1932 nó được đổi tên thành Sicherheitsdienst (Cơ quan An ninh). Himmler sau này chính thức bổ nhiệm Heydrich làm phụ tá của mình. Hai người đã có một mối quan hệ tốt trong công việc và có sự tôn trọng lẫn nhau. Vào năm 1933, họ bắt đầu tách SS ra khỏi sự kiểm soát của SA. Cùng với Bộ trưởng Nội vụ Frick, bọn họ kỳ vọng tạo nên một lực lượng cảnh sát Đức thống nhất. Tháng 3 năm 1933, Thống đốc Đế chế vùng Bavaria Franz Ritter von Epp bổ nhiệm Himmler chức Trưởng Cảnh sát Munich. Himmler bổ nhiệm Heydrich làm chỉ huy cục IV, cảnh sát mật. Cũng trong năm đó, Hitler thăng cho Himmler lên cấp bậc SS-Obergruppenführer (Trung tướng SS), tương đương chỉ huy cao cấp của SA. Kể từ đó, Himmler và Heydrich nhanh chóng tiếp quản lực lượng cảnh sát mật hết bang này đến bang khác; chỉ còn Phổ là nằm dưới quyền kiểm soát của Göring.
Himmler còn thành lập thêm SS-Rasse- und Siedlungshauptamt (hay RuSHA, tạm dịch: Cơ quan Trung ương Định cư và Chủng tộc SS), một tổ chức phân biệt chủng tộc và bài Do Thái. Ông bổ nhiệm Darré, cấp bậc SS-Gruppenführer (Thiếu tướng SS), làm người đứng đầu cơ quan này. Chức năng của nó là thực hiện các chính sách chủng tộc và theo dõi "tính toàn vẹn chủng tộc" của các thành viên SS. Vấn đề chủng tộc được soi xét rất kỹ trong lý lịch của các thành viên. Vào ngày 31 tháng 12 năm 1931, Himmler giới thiệu "quy định kết hôn", trong đó yêu cầu thành viên SS muốn kết hôn phải cung cấp gia phả chứng minh rằng cả hai bên gia đình đều thuộc dòng dõi Aryan, từ năm 1800 đến hiện tại. Trong cuộc điều tra chủng tộc, nếu tìm thấy bất kỳ ai trong gia phả không phải người Aryan, cá nhân liên quan sẽ bị trục xuất ra khỏi SS. Mỗi người sẽ phải đưa ra một Sippenbuch, một hồ sơ phả hệ chi tiết về lịch sử nguồn gốc của mình. Himmler mong muốn mỗi cuộc hôn nhân của các thành viên SS sẽ tạo ra ít nhất bốn đứa trẻ, từ đó gia tăng nhanh chóng số lượng người mang chủng tộc ưu việt và đó sẽ là những thành viên SS tương lai. Tuy nhiên, chương trình này đem lại kết quả đáng thất vọng, chỉ có ít hơn 40% thành viên SS kết hôn và trung bình mỗi người trong số đó chỉ tạo ra được tầm một đứa trẻ.
Vào tháng 3 năm 1933, chưa đầy ba tháng kể từ thời điểm Quốc xã lên nắm quyền, Himmler cho thành lập trại tập trung chính thức đầu tiên ở Dachau. Hitler phát biểu rằng ông không muốn nó chỉ là một trại tù hay trại giam giữ khác. Himmler bổ nhiệm Theodor Eicke, một tội phạm nghiêm trọng từng bị kết án và cuồng nhiệt lý tưởng Quốc xã làm chỉ huy điều hành trại vào tháng 6 năm 1933. Eicke đã phát minh ra một hệ thống được sử dụng như là hình mẫu cho các trại tập trung tương lai trên khắp nước Đức. Những điểm đặc trưng của nó bao gồm khả năng cô lập các nạn nhân với thế giới bên ngoài, những chi tiết công việc và các cuộc gọi điểm danh được sửa soạn công phu, sử dụng vũ lực và hành quyết để buộc tù nhân phải vâng lời, và một bộ luật nghiêm khắc về tính kỷ luật cho những lính canh. Các tù nhân và lính canh đều được trao đồng phục; trong đó đồng phục của lính canh có một phù hiệu Totenkopf (đầu lâu) đặc biệt trên cổ áo. Đến thời điểm kết thúc năm 1934, Himmler đã giành quyền kiểm soát các trại dưới sự bảo hộ của SS và tạo ra một lực lượng riêng biệt: SS-Totenkopfverbände (Đơn vị Đầu Tử thần).
Ban đầu các khu trại dành để giam giữ những đối thủ chính trị; qua thời gian, trại tiếp nhận thêm các đối tượng mà xã hội Đức không mong muốn như tội phạm, những người lang thang, người không bình thường (người lệch chuẩn). Một nghị định của Hitler ban hành vào tháng 12 năm 1937 đã cho phép bắt giữ bất kỳ người nào mà chế độ cho rằng đó là thành viên không mong muốn của xã hội. Trong đó bao gồm người Do Thái, người Di-gan, người cộng sản, những người thuộc bất kỳ nền văn hóa, chủng tộc, chính trị, hay tôn giáo nào khác mà Quốc xã cho là Untermensch (hạ đẳng, chưa giống con người). Tính đến thời điểm chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ vào mùa thu năm 1939, đã có 6 trại được thành lập và chúng là nơi ở của khoảng 27.000 tù nhân. Số nạn nhân thiệt mạng trong các trại là cao.
Củng cố quyền lực
Vào đầu năm 1934, Hitler và những thủ lĩnh Quốc xã trở nên lo ngại rằng Röhm đang lên kế hoạch cho một cuộc đảo chính. Röhm có những quan điểm dân túy và xã hội chủ nghĩa, và có niềm tin rằng một cuộc cách mạng thực sự vẫn chưa bắt đầu. Ông ta cảm nhận rằng SA hiện tại đã có khoảng ba triệu người, vượt xa so với quân đội, phải trở thành các quân đoàn vũ trang duy nhất của nhà nước, và rằng quân đội phải được sáp nhập vào SA dưới sự lãnh đạo của ông ta. Röhm vận động hành lang để có được chức Bộ trưởng Quốc phòng, vị trí hiện do Trung tướng Werner von Blomberg nắm giữ.
Göring đã tạo ra một lực lượng cảnh sát mật Phổ, Geheime Staatspolizei hay Gestapo vào tháng 11 năm 1933, và bổ nhiệm Rudolf Diels làm người đứng đầu tổ chức này. Do lo ngại rằng Diels không có đủ sự tàn nhẫn để sử dụng Gestapo một cách hiệu quả chống lại quyền lực của SA, Göring đã bàn giao quyền kiểm soát cho Himmler vào ngày 20 tháng 4 năm 1934. Cũng trong ngày hôm đó, Hitler bổ nhiệm Himmler làm thủ lĩnh của tất cả các lực lượng cảnh sát Đức ngoài bang Phổ. Vào ngày 22 tháng 4 năm 1934, Heydrich được Himmler chỉ định làm thủ lĩnh của Gestapo, đồng thời vẫn giữ chức vụ đứng đầu Sicherheitsdienst (SD).
Vào ngày 21 tháng 6 Hitler đi đến quyết định rằng Röhm và các lãnh đạo của SA phải bị trừ khử. Hitler cử Göring đến Berlin vào ngày 29 tháng 6 để gặp Himmler và Heydrich nhằm lên kế hoạch hành động. Hitler phụ trách việc ở Munich, nơi Röhm bị bắt; ông ta cho Röhm một sự lựa chọn: tự sát hoặc bị bắn. Röhm từ chối tự sát và bị hai sĩ quan SS bắn chết. Khoảng 85 đến 200 thành viên thuộc giới lãnh đạo của SA và những kẻ thù chính trị khác, bao gồm Gregor Strasser, đã bị giết trong khoảng từ ngày 30 tháng 6 đến 2 tháng 7 năm 1934, trong cuộc thanh trừng được biết đến với tên gọi Đêm của những con dao dài. Với việc quyền lực của SA suy giảm sau sự kiện này, SS đã trở thành một tổ chức độc lập chỉ nghe theo lệnh Hitler vào ngày 20 tháng 7 năm 1934. Tước vị Reichsführer-SS của Himmler trở thành cấp bậc cao nhất theo thể thức của SS, tương đương với một Thống chế trong quân đội. Sau cuộc thanh trừng SA tuy vẫn tồn tại dưới sự lãnh đạo của Viktor Lutze nhưng đã suy giảm vị thế và nhân lực đi nhiều. Từ năm 1939, vai trò của SA được thiết lập chính thức như là một trường đào tạo lực lượng vũ trang với sự thành lập của SA Wehrmannschaften (Các đơn vị Quân sự SA).
Vào ngày 15 tháng 9 năm 1935, Hitler trình hai bộ luật-được biết đến như là Các Bộ luật Nuremberg-đến Reichstag (Nghị viện). Các luật này cấm những người Do Thái Đức kết hôn với người không phải Do Thái và ngăn cấm những gia đình Do Thái thuê phụ nữ dưới 45 tuổi không phải Do Thái. Các luật cũng tước đi những lợi ích của công dân Đức không thuộc chủng tộc Aryan. Đây cũng là một trong những biện pháp chủng tộc nền tảng đầu tiên được Đế chế Thứ ba tiến hành.
Himmler và Heydrich muốn bành trướng thế lực của SS; do đó họ thúc giục Hitler cho phép thành lập một lực lượng cảnh sát quốc gia đặt dưới sự giám sát của SS để bảo vệ Quốc xã chống lại những kẻ thù hiện tại Bộ trưởng Nội vụ Frick cũng muốn có một lực lượng cảnh sát quốc gia, nhưng phải đặt dưới sự kiểm soát của ông ta với Kurt Daluege làm chỉ huy. Hitler để cho Heydrich và Himmler đi làm việc với Frick. Himmler và Heydrich có khả năng thương lượng cao hơn khi họ đã liên minh với kẻ thù cũ của Frick, Göring. Heydrich đã viết ra một tập hợp các đề nghị và được Himmler cử đi gặp Frick. Frick với sự giận dữ sau đó đã đi tham khảo ý kiến của Hitler, và nhận được lời khuyên rằng nên đồng ý với các đề nghị. Với sự nhượng bộ của Frick, vào ngày 17 tháng 6 năm 1936 Hitler ra sắc lệnh thống nhất mọi lực lượng cảnh sát của Đế chế, và chỉ định Himmler làm Chỉ huy của Lực lượng Cảnh sát. Với chức vụ mới, Himmler trên danh nghĩa vẫn là cấp dưới của Frick. Tuy nhiên về mặt thực tế cảnh sát hiện tại là một bộ phận của SS, do đó độc lập khỏi sự kiểm soát của Frick. Bước đi này đã cho phép Himmler kiểm soát sự hoạt động của lực lượng trinh thám trên toàn nước Đức. Ông đồng thời nắm quyền kiểm soát toàn bộ các cơ quan thực thi luật pháp đồng phục của Đức, chúng đã được hợp nhất lại thành một tổ chức mới Ordnungspolizei (Orpo hay "Cảnh sát Trật tự") và trở thành một chi nhánh của SS dưới quyền Daluege.
Một thời gian ngắn sau, Himmler tạo ra Kriminalpolizei (Kripo: Cảnh sát Tội phạm) có tác dụng như là một tổ chức ô dù cho tất cả các cơ quan điều tra tội phạm ở Đức. Kripo đã hợp nhất với Gestapo thành Sicherheitspolizei (SiPo: Cảnh sát An ninh) dưới sự chỉ huy của Heydrich. Vào tháng 9 năm 1939, sau sự bùng nổ của thế chiến thứ II, Himmler thành lập nên SS-Reichssicherheitshauptamt (RSHA: Cơ quan An ninh Trung ương Đế chế) để làm chiếc ô cùng che chở cho SiPo (gồm Gestapo và Kripo) và SD. Một lần nữa Himmler lại dành vị trí đứng đầu cho Heydrich.
Dưới sự lãnh đạo của Himmler, SS đã phát triển lực lượng quân sự của riêng mình, SS-Verfügungstruppe (SS-VT), sau này nó đã trở thành Waffen-SS. Trên danh nghĩa dưới quyền chỉ đạo của Himmler, cơ cấu bộ máy chỉ huy và hoạt động của Waffen-SS được quân sự hóa hoàn toàn. Nó đã phát triển từ ba trung đoàn lên thành hơn 38 sư đoàn trong thế chiến thứ II, cùng tham gia phục vụ chiến đấu tuy nhiên không bao giờ trở thành một bộ phận chính thức của Heer (quân đội).
Ngoài tham vọng về quân sự, Himmler còn thiết lập sự khởi đầu của một nền kinh tế song song dưới sự bảo trợ của SS. Để phục vụ mục đích này, người cầm quyền Oswald Pohl đã lập ra Deutsche Wirtschaftsbetriebe (Doanh nghiệp Kinh tế Đức) vào năm 1940. Dưới sự bảo trợ của Văn phòng Lãnh đạo Quản lý và Kinh tế SS, công ty mẹ này sở hữu các công ty địa ốc, các nhà máy, và các nhà xuất bản. Pohl nhanh chóng lợi dụng các công ty cho lợi ích cá nhân. Ngược lại, Himmler là người trung thực trong vấn đề tiền bạc và kinh doanh.
Vào năm 1938, như là một phần trong những sự chuẩn bị cho chiến tranh, Hitler chấm dứt thỏa thuận liên minh giữa Đức và Trung Quốc và ký kết một thỏa thuận với Nhật Bản, quốc gia hiện đại hơn. Cũng trong năm đó, Áo sáp nhập vào Đức trong một hoạt động mà phía Đức gọi là Anschluss (Sáp nhập hay Kết nối), và hiệp định Munich đã cho phép Đức Quốc xã kiểm soát Sudetenland-một phần của Tiệp Khắc. Một trong những động cơ hàng đầu thúc đẩy Hitler khơi mào chiến tranh đó là chiếm thêm Lebensraum ("không gian sống") cho người Đức, chủng tộc được cho là thượng đẳng theo như tư tưởng Quốc xã. Mục tiêu thứ hai là loại bỏ các chủng tộc mà Quốc xã cho là hạ đẳng, đặc biệt là người Do Thái và Slav, khỏi các vùng lãnh thổ nằm dưới sự kiểm soát của Đế chế Thứ ba. Từ năm 1933 đến 1938, hàng trăm ngàn người Do Thái đã di cư sang các nước như là Mỹ, Palestine, Anh, và một số quốc gia khác. Một số người đã chuyển đổi sang đạo Cơ Đốc.
Đấu tranh chống Giáo hội
Himmler thấy rằng một trong những nhiệm vụ cơ bản của SS là "hành động như là người đi tiên phong trong công cuộc đánh bại Công giáo và phục hồi lối sống Đức", nó như một phần trong sự chuẩn bị cho cuộc xung đột giữa "con người và (những kẻ) chưa giống con người". Giáo sư sử học Peter Longerich viết, trong khi phong trào Quốc xã như một tổng thể tự bản thân nó lao vào chống lại người Do Thái và Cộng sản, "bằng cách liên kết khử Công giáo với tái Đức hóa, Himmler đã cung cấp cho SS một mục tiêu và mục đích của riêng họ". Himmler đã kịch liệt phản đối đạo đức giới tính của Kitô giáo và "nguyên tắc của lòng nhân từ của Kitô giáo", cả hai đều được ông coi là chướng ngại nguy hiểm cho kế hoạch chiến đấu với "(những kẻ) chưa giống con người". Vào năm 1937, Himmler tuyên bố:
Thế chiến thứ hai
Khi Hitler và các tướng lĩnh quân đội của ông ta yêu cầu một cái cớ để xâm lược Ba Lan vào năm 1939; Himmler, Heydrich và Heinrich Müller đã vạch kế hoạch và tiến hành một hoạt động cờ giả mang mật danh Chiến dịch Himmler. Những lính Đức sẽ mặc quân phục của Ba Lan và thực hiện các cuộc đụng độ ở biên giới, giả vờ như Ba Lan đang gây hấn với Đức. Truyền thông Đức Quốc xã lấy các cuộc xô xát làm lý do để biện hộ cho việc xâm lược Ba Lan, sự kiện mở màn thế chiến thứ hai. Ở giai đoạn khởi đầu của cuộc chiến, Hitler đã cho phép tiêu diệt những thường dân Ba Lan, bao gồm cả người Do Thái và người thuộc dân tộc Ba Lan. Einsatzgruppen (lực lượng đặc nhiệm SS) đã được thành lập từ đầu bởi Heydrich để bảo vệ các văn phòng và hồ sơ chính phủ trong những khu vực mà Đức Quốc xã tiếp nhận quyền kiểm soát trước thế chiến thứ hai. Với sự cho phép của Hitler và dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Himmler và Heydrich, các đơn vị Einsatzgruppen-giờ trở thành các đội quân giết chóc-theo chân Heer (quân đội) tiến vào Ba Lan, và đến cuối năm 1939 họ đã tàn sát khoảng 65.000 trí thức và những dân thường Ba Lan khác. Các đơn vị Heer và lực lượng dân quân cũng nhúng tay vào hoạt động giết người. Dưới lệnh của Himmler thông qua Cơ quan An ninh Trung ương (RSHA), các đội quân này đồng thời còn được giao nhiệm vụ vây bắt dồn người Do Thái và những chủng tộc khác vào trong các khu Do Thái và các trại tập trung.
Đức Quốc xã sau đó đã xâm chiếm Pháp, Đan Mạch, Na Uy, Hà Lan, và bắt đầu ném bom nước Anh để chuẩn bị cho cuộc xâm lược quốc gia này. Vào ngày 21 tháng 6 năm 1941, một ngày trước thời điểm Đức Quốc xã xâm lược Liên Xô, Himmler đã được phân công chuẩn bị cho Generalplan Ost (Kế hoạch Tổng thể cho phía Đông), dự thảo kế hoạch hoàn thành vào tháng 7 năm 1942. Nội dung của nó là hướng đến sự xâm chiếm thành công các quốc gia vùng Baltic, Ba Lan, Tây Ukraine, Byelorussia để làm nơi tái định cư cho 10 triệu công dân Đức. Những cư dân hiện tại-khoảng 31 triệu người-sẽ bị trục xuất xa hơn về phía Đông, bị bỏ đói hoặc sử dụng làm lao động cưỡng bức. Kế hoạch này sẽ mở rộng biên giới của Đức thêm 1.000 km về phía Đông. Himmler dự kiến thời gian hoàn thành là 20 cho đến 30 năm, với chi phí đầu tư 67 tỉ Reichsmark. Himmler tuyên bố công khai: "Đây là vấn đề của sự tồn vong, do đó nó sẽ là một cuộc đấu tranh chủng tộc khốc liệt tàn bạo, trong đó khoảng 20 đến 30 triệu người Do Thái và Slav sẽ bị tiêu diệt thông qua các hoạt động quân sự hoặc các cuộc khủng hoảng (thiếu) lương thực."
Tuyên bố của Himmler rằng cuộc chiến ở phía Đông là một cuộc thập tự chinh của toàn châu Âu để bảo vệ các giá trị truyền thống châu Âu cổ xưa khỏi "Đám người Bolshevik vô đạo" đã thu hút những tình nguyện viên đến từ khắp mọi nơi trên lục địa già gia nhập Waffen-SS. Ban đầu ông chọn các tân binh đến từ Bắc và Tây Âu: Scandinavia, Liechtenstein, Luxembourg, Flanders, Hà Lan, và Thụy Sĩ; những người mà ông cho là đến từ "các quốc gia có quan hệ dòng dõi". Tây Ban Nha và Italia cũng là hai quốc gia cung cấp nhân lực cho các đơn vị Waffen-SS. Trong số các nước Tây Âu, số tình nguyện viên thay đổi từ mức cao tầm 25.000 như Hà Lan đến khoảng 300 như các nước Thụy Điển và Thụy Sĩ. Với các nước phía Đông, quốc gia có số người tham gia tình nguyện cao nhất là Lithuania (50.000) và thấp nhất là Bulgary (600). Kể từ sau năm 1943 hầu hết những lính đến từ phía Đông đều là bị ép buộc. Tính tổng thể thì sự thể hiện của các đơn vị Waffen-SS phương Đông là chưa đạt tiêu chuẩn.
Vào mùa thu năm 1941, Hitler chỉ định Heydrich làm Người bảo vệ Ủy quyền của vùng bảo hộ Bohemia và Moravia mới thành lập. Heydrich bắt đầu phân loại người Séc theo chủng tộc và trục xuất nhiều người đến các trại tập trung. Việc những phần tử chống đối bị bắn đã mang đến cho Heydrich biệt hiệu "Gã đồ tể của Praha". Sự bổ nhiệm này của Hitler làm tăng cường mối hợp tác giữa Himmler và Heydrich, và Himmler tự hào vì có quyền kiểm soát SS trên khắp đất nước. Mặc dù có thể tiếp cận trực tiếp với Hitler, lòng trung thành của Heydrich với Himmler vẫn không hề thay đổi.
Với sự đồng thuận từ Hitler, Himmler tái thiết lập Einsatzgruppen trong sự chuẩn bị hướng đến cuộc xâm lược Liên Xô theo kế hoạch. Vào tháng 3 năm 1941, Hitler nói chuyện với các tướng lĩnh quân đội, trình bày ý định nghiền nát Liên Xô và tiêu diệt giới trí thức, lãnh đạo Liên Xô. Chỉ thị đặc biệt của Hitler, "Các nguyên tắc trong Phạm vi Đặc biệt tại Chỉ thị số 21 (Chiến dịch Barbarossa)", có ghi: "Trong khu vực các chiến dịch của quân đội, Reichsführer-SS đã được trao những nhiệm vụ đặc biệt theo lệnh của Führer (Lãnh tụ: Hitler), để chuẩn bị cai quản về chính trị. Những nhiệm vụ này phát sinh từ cuộc đấu tranh cuối cùng sắp tới của hai hệ thống chính trị đối lập. Trong khuôn khổ các nhiệm vụ này, Reichsführer-SS hành động độc lập và dựa trên trách nhiệm của bản thân." Theo đó Hitler có ý ngăn chặn sự bất đồng nội bộ điều như đã từng xảy ra trước đó tại Ba Lan vào năm 1939, khi một số tướng lĩnh Quân đội Đức đã tìm cách đem các thủ lĩnh Einsatzgruppen ra xét xử cho các hành vi tàn sát mà họ đã tiến hành.
Theo chân quân đội tiến vào lãnh thổ Liên Xô, Einsatzgruppen đã vây bắt, tiêu diệt người Do Thái và các chủng tộc khác mà Quốc xã cho là đáng ghét. Những báo cáo thường xuyên được gửi đến Hitler. Tổng cộng 2,8 triệu tù binh chiến tranh Liên Xô đã chết do bị bỏ đói, ngược đãi hay bị hành quyết chỉ trong tám tháng những năm 1941-1942. Bên cạnh đó có khoảng 500.000 tù binh chiến tranh Liên Xô đã chết hoặc bị hành quyết trong các trại tập trung trong tiến trình thế chiến thứ hai; hầu hết bọn họ đều bị bắn hoặc bị đưa đến các phòng hơi ngạt. Vào mùa xuân năm 1941, theo lệnh của Himmler, 10 trại tập trung được xây dựng trong đó các tù nhân bị ép làm lao động cưỡng bức. Những người Do Thái từ khắp mọi nơi trên nước Đức và các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng bị trục xuất đến các khu trại hoặc bị giam hãm trong các khu Do Thái (khu biệt lập). Khi quân Đức bị đẩy lùi khỏi Moscow vào tháng 12 năm 1941, dấu hiệu cho thấy cuộc xâm lược Liên Xô đã thất bại, Hitler và các sĩ quan Đức Quốc xã khác nhận ra rằng các hoạt động trục xuất hàng loạt sang phía Đông sẽ không còn có thể thực hiện. Do đó, thay vì tiếp tục trục xuất, rất nhiều người Do Thái ở châu Âu đã được trù định cho cái chết.
Cuộc tàn sát chủng tộc
Những chính sách chủng tộc của Đức Quốc xã, bao gồm quan điểm cho rằng những người thuộc chủng tộc thấp kém không có quyền được sống; quay trở lại những ngày đầu tiên của đảng Quốc xã; đã được Hitler bàn luận trong cuốn Mein Kampf. Vào thời điểm nào đó quanh khoảng thời gian Đức tuyên chiến với Mỹ vào tháng 12 năm 1941, Hitler cuối cùng đã quyết định rằng những người Do Thái ở châu Âu phải bị tận diệt. Heydrich đã sắp xếp một cuộc họp được tổ chức vào ngày 20 tháng 1 năm 1942 tại Wannsee, một khu vực ở ngoại ô Berlin. Cuộc họp có sự tham dự của các sĩ quan hàng đầu của Đức Quốc xã, mục đích là phác thảo ra các kế hoạch cho "giải pháp cuối cùng cho vấn đề Do Thái". Heydrich nêu chi tiết rằng những người Do Thái nào có thể làm việc sẽ phải làm việc cho đến chết; còn những người không thể làm việc sẽ bị giết ngay lập tức. Heydrich tính toán sẽ có khoảng 11 triệu Do Thái bị tiêu diệt, và nói với những người tham dự rằng Hitler đã đặt vai trò phụ trách cho Himmler.
Vào tháng 6 năm 1942, Heydrich bị ám sát ở Praha sau một chiến dịch do Jozef Gabčík và Jan Kubiš, các thành viên của quân đội lưu vong Tiệp Khắc, cầm đầu. Trong hai đám tang, Himmler-trưởng ban lễ tang-đã nhận trách nhiệm về hai đứa con của Heydrich, và ông đã đọc điếu văn tại Berlin. Vào ngày 9 tháng 6, sau cuộc thảo luận với Himmler và Karl Hermann Frank, Hitler ra lệnh thực hiện các cuộc trả thù tàn bạo cho cái chết của Heydrich. Hơn 13.000 người đã bị bắt, và ngôi làng Lidice bị san phẳng, những cư dân là nam giới của ngôi làng này và tất cả mọi người lớn ở ngôi làng Ležáky đều bị tàn sát. Ít nhất 1.300 người đã bị xử bắn. Himmler đã tiếp quản vị trí lãnh đạo của Cơ quan An ninh Trung ương (RSHA) và đẩy nhanh tốc độ tiêu diệt người Do Thái trong Aktion Reinhard (Chiến dịch Reinhard), một chiến dịch được đặt theo tên Heydrich. Ông ra lệnh thành lập các trại Aktion Reinhard-các trại hủy diệt đầu tiên-tại Bełżec, Sobibór, và Treblinka.
Ban đầu các nạn nhân bị hành quyết bằng các xe hơi ngạt hoặc xử bắn, nhưng những phương pháp này đã chứng minh rằng chúng không thể đáp ứng được một hoạt động có quy mô lớn như vậy. Vào tháng 8 năm 1941, Himmler có mặt trong đợt xử bắn 100 người Do Thái tại Minsk. Sau khi tận mắt chứng kiến, ông cảm thấy buồn nôn và run rẩy, và lo ngại về tác động của những việc làm như vậy đến sức khỏe tâm thần của lính SS. Ông quyết định phải đi tìm các phương pháp thay thế. Theo lệnh Himmler, đến mùa xuân năm 1942 khu trại ở Auschwitz đã được mở rộng lên đáng kể, bao gồm việc xây thêm các phòng hơi ngạt làm nơi tiêu diệt các tù nhân bằng việc sử dụng thuốc trừ sâu Zyklon B. Tính đến thời điểm chiến tranh kết thúc, đã có ít nhất 5,5 triệu người Do Thái bỏ mạng dưới chế độ phát xít; hầu hết các ước tính có phạm vi gần với con số 6 triệu người. Vào đầu năm 1943 Himmler tham quan trại Sobibór, cho đến thời điểm đó đã có 250.000 người bị giết chỉ riêng tại khu trại. Sau khi chứng kiến một đợt hành quyết bằng khí độc, ông thăng chức cho 28 người, và ra lệnh cho trại hoạt động thư giãn. Trong một cuộc nổi dậy vào tháng 10, các tù nhân đã tiêu diệt hầu hết các lính bảo vệ và nhân viên SS và 300 tù nhân đã bỏ trốn. Hai trăm người đã chạy thoát; một vài gia nhập các đơn bị kháng chiến hoạt động trên địa bàn. Những người còn lại bị giết. Khu trại được dỡ bỏ vào tháng 12 năm 1943.
Himmler là kiến trúc sư trưởng của Holocaust, ông đã lợi dụng niềm tin sâu sắc vào hệ tư tưởng phân biệt chủng tộc của Quốc xã để chứng minh tính đúng đắn của việc sát hại hàng triệu người. Quốc xã đã lên kế hoạch tiêu diệt những trí thức Ba Lan và hạn chế phổ cập giáo dục đến lớp bốn đối với những ai không phải người Đức trong vùng lãnh thổ Generalgouvernement cũng như những vùng lãnh thổ đã chinh phục. Hitler muốn một chủng tộc thượng đẳng thuần Aryan Bắc Âu thống trị tại Đức. Từng là một nhà nông học và nông dân Himmler đã được làm quen với các nguyên tắc lựa chọn giống, phương pháp mà ông đã đề xuất áp dụng cho con người. Ví dụ, Himmler tin rằng ông có thể sắp đặt cho quần chúng Đức có được diện mạo Bắc Âu trong vòng vài thập kỷ sau khi chiến tranh kết thúc thông qua thuyết ưu sinh.
Diễn văn Posen
Vào ngày 4 tháng 10 năm 1943, trong một cuộc họp bí mật với các sĩ quan SS hàng đầu tại thành phố Poznań (Posen), và vào ngày 6 tháng 10, trong một bài diễn văn với các thành viên ưu tú của đảng—lãnh đạo Gau và các lãnh đạo Đế chế—Himmler đã đề cập một cách rõ ràng đến "sự hủy diệt" (tiếng Đức:Ausrottung) người Do Thái. Một trích đoạn được phiên dịch từ bài diễn văn của ngày 4 tháng 10 như sau:
Động cơ của Hitler gửi trong các bài diễn thuyết của Himmler là để bảo đảm rằng tất cả các lãnh đạo của đảng đều được nhận thức về các kế hoạch và hành động. Do đó sau này họ sẽ không thể phủ nhận sự hiểu biết của mình về cuộc tàn sát chủng tộc. Bởi vì quân Đồng Minh cho thấy rằng họ sẽ theo đuổi cáo buộc hình sự những tội ác chiến tranh của Đức, Hitler cố gắng để có được sự trung thành và im lặng của cấp dưới bằng cách lôi tất cả bọn họ tham gia vào kế hoạch diệt chủng.
Đức hóa vùng chiếm đóng
Với tư cách Ủy viên Đế chế về Tăng cường Tính quốc gia Đức (RKFDV) Himmler dính líu sâu sắc đến chương trình Đức hóa vùng phía Đông, đặc biệt là Ba Lan. Khi Kế hoạch Tổng thể cho phía Đông được sắp đặt, mục đích của nó là trục xuất, tiêu diệt, hoặc buộc các cư dân địa phương làm nô lệ và tạo ra Lebensraum ("không gian sống") cho Volksdeutsche (dân tộc Đức). Himmler vẫn tiếp tục kế hoạch thực dân hóa vùng phía Đông của mình, kể cả khi nhiều người Đức không tự nguyện muốn chuyển đến đó ở, và bất chấp những ảnh hưởng tiêu cực của việc làm này đến nỗ lực chiến tranh.
Các nhóm chủng tộc của Himmler bắt đầu với Volksliste, phân nhóm người được cho là mang dòng máu Đức. Himmler ra lệnh những người từ chối để được phân loại làm người dân tộc Đức sẽ bị trục xuất đến các trại tập trung, hoặc bị chỉ định làm lao động cưỡng bức, và con của họ sẽ bị đem đi. Niềm tin của Himmler rằng "khả năng chịu đựng nằm trong bản chất của dòng máu Đức" dẫn ông tới kết luận người Baltic hay người Slav, những chủng tộc kháng lại được Đức hóa sẽ là những chủng tộc ưu việt đối với những kẻ biết nghe lời hơn. Ông tuyên bố rằng không giọt máu Đức nào sẽ bị mất hay bị bỏ lại để trộn lẫn với một "chủng tộc nước ngoài" khác.
Kế hoạch này cũng bao gồm việc bắt cóc trẻ em Đông Âu. Himmler thúc giục:
Những đứa trẻ "có giá trị chủng tộc" đều bị cắt đứt mọi mối liên hệ với người Ba Lan và sẽ lớn lên với tư cách là người Đức, với tên của người Đức. Himmler tuyên bố, "Chúng ta có niềm tin trên tất cả trong dòng máu này của chúng ta, dòng máu đã chảy vào một dân tộc ngoại bang qua sự thăng trầm của lịch sử nước Đức. Chúng ta cam đoan rằng những triết lý và lý tưởng của chúng ta sẽ vang dội trong tâm hồn của những đứa trẻ mà dòng dõi của chúng thuộc về chúng ta." Những đứa trẻ được các gia đình Đức nhận làm con nuôi. Đứa trẻ nào mà ban đầu được tập hợp nhưng về sau bị từ chối sẽ được đưa đến một khu Do Thái ở Łódź, nơi mà cuối cùng hầu hết trong số chúng sẽ chết.
Đến tháng 1 năm 1943, Himmler báo cáo rằng có 629.000 người dân tộc Đức đã được di dời đến nơi ở mới; tuy nhiên, hầu hết những người Đức tái định cư không được sống trong những trang trại nhỏ như mường tượng, mà là trong các trại tạm bợ hoặc các khu nhà trong thị trấn. Nửa triệu cư dân của những vùng lãnh thổ Ba Lan sáp nhập, cũng như những cư dân đến từ Slovenia, Alsace, Lorraine, và Luxembourg bị trục xuất đến Generalgouvernement hoặc đưa đến Đức làm lao động nô lệ. Himmler ra chỉ thị rằng nước Đức nên nhìn nhận những lao động nước ngoài như là một mối nguy hiểm cho dòng giống Đức. Theo luật chủng tộc Đức, quan hệ tình dục giữa người Đức và người nước ngoài bị cấm và được cho là Rassenschande (làm ô uế chủng tộc).
Âm mưu 20 tháng 7
Vào ngày 20 tháng 7 năm 1944, một nhóm sĩ quan quân đội Đức — trong đó bao gồm một số thành viên cấp cao hàng đầu của quân đội — dẫn đầu bởi Claus von Stauffenberg đã cố gắng ám sát Hitler, nhưng không thành. Ngày hôm sau, Himmler thành lập một ủy ban đặc biệt, hơn 5.000 nghi phạm và những kẻ chống đối chế độ đã bị bắt. Hitler ra lệnh trả thù tàn bạo, kết quả là hơn 4.900 người đã bị xử tử. Mặc dù Himmler cảm thấy bối rối vì thất bại trong việc ngăn chặn âm mưu, nhưng cách giải quyết sau đó đã làm tăng thêm uy tín và quyền lực của ông.
Đại tướng Friedrich Fromm, tổng tư lệnh của Quân đội Dự bị (hay quân Thay thế) (Ersatzheer) và là cấp trên trực tiếp của Stauffenberg, là một trong những người có dính líu đến âm mưu. Hitler đã cách chức Fromm và chỉ định Himmler làm người thay thế. Ông bổ nhiệm Hans Jüttner, giám đốc Cơ quan Trung ương Lãnh đạo SS làm phụ tá của mình, và bắt đầu lấp đầy những chức vụ hàng đầu của Quân đội Thay thế bằng lính SS. Vào tháng 11 năm 1944 Himmler sáp nhập bộ phận tuyển mộ sĩ quan quân đội với cơ quan SS tương tự và vận động thành công về việc gia tăng hạn ngạch đối với những tân binh SS mới tuyển mộ.
Vào thời điểm đó, Hitler đã bổ nhiệm Himmler làm Bộ trưởng Nội vụ và Đặc mệnh Toàn quyền Hành chính (Generalbevollmächtigter für die Verwaltung). Vào tháng 8 năm 1944 Hitler ủy quyền cho Himmler tái cơ cấu tổ chức và quản lý Waffen-SS, quân đội, và lực lượng cảnh sát. Với tư cách người đứng đầu Quân đội Dự bị, Himmler giờ chịu trách nhiệm về các tù binh chiến tranh. Ông còn đồng thời phụ trách hệ thống hình sự Wehrmacht và chèo lái, định hướng sự phát triển của các lực lượng vũ trang Wehrmacht cho đến tháng 1 năm 1945.
Chỉ huy quân sự
Vào ngày 6 tháng 6 năm 1944 quân Đồng Minh phương Tây đổ bộ vào miền Bắc nước Pháp trong Chiến dịch Overlord. Nhằm ứng phó, Cụm tập đoàn quân Thượng sông Rhine (Heeresgruppe Oberrhein) được thành lập để đối đầu với Tập đoàn quân số 7 của Mỹ (dưới sự chỉ huy của Tướng Alexander Patch) và Tập đoàn quân số 1 của Pháp (do Tướng Jean de Lattre de Tassigny dẫn đầu) tại vùng Grand Est dọc bờ Tây sông Rhine. Cuối năm 1944, Hitler bổ nhiệm Himmler làm tổng tư lệnh Cụm tập đoàn quân Thượng sông Rhine.
Vào ngày 26 tháng 9 năm 1944 Hitler ra lệnh cho Himmler tạo ra những đơn vị quân đội đặc biệt, Volkssturm ("Bão tố Nhân dân" hay "Quân đội Nhân dân"). Tất cả nam giới tuổi từ 16 đến 60 đủ tư cách đều phải buộc gia nhập vào lực lượng dân quân này theo như sự xác nhận của Bộ trưởng Vũ trang Albert Speer, người đã ghi nhận việc những lao động lành nghề không thể thay thế bị buộc phải rời bỏ công việc sản xuất vũ khí. Hitler đầy tự tin cho rằng số lượng nam giới có thể tăng lên đến sáu triệu, và những đội quân mới sẽ "khởi xướng một cuộc chiến tranh nhân dân chống lại kẻ thù xâm lược". Những hy vọng này là hết sức lạc quan. Trong tháng 10 năm 1944, những đứa trẻ tầm 14 tuổi cũng được liệt kê vào danh sách. Do thiếu hụt nghiêm trọng vũ khí và trang bị cũng như thiếu sự đào tạo, các thành viên của Volkssturm có sự chuẩn bị nghèo nàn cho trận chiến, và khoảng 175.000 người trong số họ đã chết trong những tháng cuối cùng của chiến tranh.
Vào ngày 1 tháng 1 năm 1945 Hitler và các tướng lĩnh của ông phát động Chiến dịch Gió phương Bắc (Unternehmen Nordwind). Mục tiêu của chiến dịch là phá vỡ sự liên kết giữa Tập đoàn quân số 7 của Mỹ và Tập đoàn quân số 1 của Pháp để hỗ trợ cuộc tấn công phía Nam trong trận Ardennes, cuộc tấn công lớn cuối cùng của Đức trong chiến tranh thế giới thứ hai. Sau khi để quân Đức đạt được một số kết quả hạn chế ban đầu, phía Mỹ đã chặn đứng cuộc tấn công. Đến ngày 25 tháng 1, Chiến dịch Gió phương Bắc chính thức khép lại.
Vào ngày 25 tháng 1 năm 1945, bất chấp việc Himmler thiếu kinh nghiệm về quân sự, Hitler vẫn bổ nhiệm ông làm tư lệnh của Cụm tập đoàn quân sông Wisla (Heeresgruppe Weichsel) để ngăn chặn Chiến dịch Wisla-Oder của Hồng quân Liên Xô. Tướng thiết giáp Heinz Guderian đã phát hoảng với quyết định này. Hiểu được rằng Himmler cần tất cả mọi sự trợ giúp có thể, Guderian chỉ định Tướng Walther Wenck, một sĩ quan tham mưu nhiều kinh nghiệm, làm tham mưu trưởng cho Himmler. Himmler thành lập trung tâm chỉ huy tại Schneidemühl và sử dụng đoàn tàu đặc biệt của mình, Sonderzug Steiermark, làm sở chỉ huy. Con tàu chỉ có một đường điện thoại, các bản đồ không phù hợp, và không có những binh chủng thông tin hay radio để tạo sự liên lạc và phát đi các mệnh lệnh. Himmler hiếm khi rời khỏi đoàn tàu, chỉ làm việc khoảng bốn tiếng một ngày và cứ nhất định đòi được xoa bóp trước khi bắt đầu làm việc; và sau bữa trưa là một giấc ngủ dài. Chiến dịch Solstice, một cuộc tấn công từ Pomerania chống lại cánh quân Bắc của Phương diện quân Belarusian số 1 của Nguyên soái Georgy Zhukov, được phát động vào ngày 16 tháng 2 năm 1945, nhưng lại có thể làm nên được chút tiến triển trước Tập đoàn quân số 61 của Thượng tướng Pavel Alexeyevich Belov và Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 2 của Nguyên soái Semyon Bogdanov. Zhukov phản ứng bằng cách chuyển hai tập đoàn quân xe tăng sang đối đầu với quân Đức. Trong vòng năm ngày, những chiếc xe tăng của Hồng quân đã tiến tới vùng Baltic, bao vây quân Đức, lực lượng giờ đang tìm cách trốn thoát bằng đường biển. Himmler đã không thể bày ra bất kỳ kế hoạch khả thi nào để hoàn thành những mục tiêu quân sự của mình. Dưới áp lực từ Hitler bởi tình hình quân sự tồi tệ, Himmler trở nên lo lắng và không thể đưa ra những báo cáo nhất quán. Hitler không muốn thừa nhận rằng sự lựa chọn của ông ta cho chức chỉ huy là không thỏa đáng. Sau một cuộc tranh cãi nảy lửa với Tướng Heinz Guderian, người mà nhất quyết đòi thay đổi vị trí tư lệnh Cụm tập đoàn quân sông Wisla, Hitler cử Wenck đến chỗ sở chỉ huy của Himmler để tiếp quản nhiệm vụ chỉ huy một cuộc phản công hạn chế; Hitler sau đó quan sát thấy việc di chuyển các đơn vị quân cần thiết cho kế hoạch của Guderian tấn công gọng kìm đôi từ các vùng lân cận là không thể. Khi cuộc phản công thất bại, Hitler quy trách nhiệm cho Himmler và kết tội ông không nghe theo mệnh lệnh. Quãng thời gian làm một chỉ huy quân sự của Himmler chấm dứt vào ngày 20 tháng 3, thời điểm mà Hitler chỉ định Tướng Gotthard Heinrici làm tổng tư lệnh Cụm tập đoàn quân sông Wisla. Sau đó Himmler lẩn trốn đến một viện điều dưỡng ở Hohenlychen, khi kể từ ngày 18 tháng 2 ông luôn cần đến sự chăm sóc của bác sĩ riêng. Hitler lệnh cho Guderian thực hiện một đợt nghỉ phép y tế bắt buộc, và ông đã xin thôi chức Tham mưu trưởng cho Hans Krebs vào ngày 29 tháng 3. Thất bại của Himmler và phản ứng của Hitler đánh dấu sự đi xuống nghiêm trọng trong quan hệ giữa hai người. Đến thời điểm đó, số lượng những người thân cận mà Hitler tin tưởng đã giảm xuống một cách nhanh chóng.
Đàm phán hòa bình
Vào mùa xuân năm 1945, những nỗ lực chiến tranh của Đức Quốc xã đứng bên bờ sụp đổ và mối quan hệ giữa Himmler với Hitler trở nên xấu đi hơn bao giờ hết. Himmler cất nhắc tự mình dàn xếp một thỏa thuận hòa bình. Người làm công việc xoa bóp cho ông, Felix Kersten, đã đi đến Thụy Điển để đóng vai trò làm trung gian trong các cuộc đàm phán với Bá tước Folke Bernadotte, người đứng đầu Hội Chữ thập Đỏ Thụy Điển. Giữa hai người đã có những bức thư được trao đổi cùng các cuộc gặp mặt trực tiếp được Walter Schellenberg của Cơ quan An ninh Trung ương (RSHA) dàn xếp.
Himmler và Hitler gặp nhau lần cuối tại Berlin vào ngày sinh nhật của Hitler, ngày 20 tháng 4 năm 1945, khi đó Himmler đã thề hoàn toàn trung thành với Hitler. Cũng trong ngày hôm đó, trong lúc đang chỉ đạo về quân sự, Hitler tuyên bố rằng ông sẽ không rời Berlin, bất chấp Hồng quân Liên Xô đang tiến đến. Himmler và Göring nhanh chóng rời thủ đô sau đó. Vào ngày 21 tháng 4, Himmler có cuộc gặp với Norbert Masur, một đại biểu của Hội đồng Do Thái Thế giới, để bàn luận về việc giải phóng những tù nhân trong các trại tập trung Do Thái. Kết quả của các cuộc đàm phán là 20.000 tù nhân đã được thả tự do trong chiến dịch Xe buýt Trắng. Trong quá trình đàm phán, Himmler đã khẳng định dối trá rằng lò thiêu được xây dựng là để xử lý xác các nạn nhân của dịch sốt phát ban. Ông đồng thời xác nhận tỉ lệ sống sót tại các trại tập trung Auschwitz và Bergen-Belsen là rất cao, thậm chí cả khi các khu trại đó đã được giải phóng chứng minh rõ ràng rằng số liệu mà Himmler đưa ra là sai lệch.
Hai ngày sau, Himmler có cuộc gặp gỡ trực tiếp với Bernadotte tại tòa lãnh sự Thụy Điển ở Lübeck. Ông tự nhận mình là lãnh đạo lâm thời của nước Đức, và tuyên bố rằng Hitler sẽ chết trong vòng vài ngày tới. Kỳ vọng vào việc quân Anh và Mỹ sẽ chung cánh với lực lượng Wehrmacht còn lại để đối đầu với Liên Xô, Himmler yêu cầu Bernadotte đi báo tin cho Tướng Dwight Eisenhower rằng nước Đức mong muốn đầu hàng trước phương Tây. Bernadotte đòi Himmler trình bày đề nghị bằng văn bản, Himmler buộc phải làm theo.
Tuy nhiên, vài giờ trước đó, Göring đã gửi một bức điện trong đó yêu cầu được phép tiếp quản vị trí lãnh đạo đất nước—một hành động mà Hitler, dưới sự kích động của Martin Bormann, hiểu đó như là một yêu sách đòi hạ bệ hay một cuộc đảo chính. Vào ngày 27 tháng 4 đại diện của Himmler tại tổng hành dinh của Hitler ở Berlin là Hermann Fegelein bị bắt trong bộ dạng thường phục với ý đồ chuẩn bị bỏ trốn và bị giải đến Führerbunker (boongke của Hitler). Tối ngày 28 tháng 4, đài BBC phát một bản tin thuật lại từ Reuters nói về những nỗ lực đàm phán của Himmler với quân Đồng Minh phương Tây. Hitler, người có niềm tin sâu sắc rằng Himmler là kẻ trung thành thứ hai chỉ sau Joseph Goebbels-người mà đã gọi Himmler là "der treue Heinrich" (Heinrich trung thành)-rơi vào một cơn điên loạn bởi sự phản bội rõ ràng ngay trước mặt. Hitler nói với những người đang ở trong tổ hợp boongke rằng hành động của Himmler là một sự phản bội kinh khủng nhất mà ông từng biết đến và ra lệnh bắt giữ. Còn Fegelein thì bị đưa ra tòa án quân sự và bị bắn chết.
Vào thời điểm đó, Hồng quân Liên Xô đã tiến đến Potsdamerplatz, chỉ cách Phủ Thủ tướng Đế chế có 300 m, và đang chuẩn bị một cuộc tấn công vũ bão. Thông tin này, cộng với sự phản bội của Himmler, đã thúc giục Hitler viết ra bản di chúc cuối cùng. Bản di chúc hoàn thành vào ngày 29 tháng 4, một ngày trước khi ông tự sát, trong đó ông tuyên bố rằng cả Himmler và Göring đều là những kẻ phản bội. Hitler đã tước bỏ tất các mọi chức vụ trong đảng và trong các cơ quan nhà nước đồng thời trục xuất Himmler ra khỏi đảng.
Hitler chỉ định Thủy sư đô đốc Karl Dönitz làm người kế vị ông. Himmler đã gặp Dönitz ở Flensburg và đề nghị được làm nhân vật lãnh đạo số hai. Himmler cho rằng mình được phép có một vị trí trong chính phủ lâm thời của Dönitz với chức vụ Reichsführer-SS, ông tin rằng SS sẽ có một địa vị tốt để phục hồi và duy trì trật tự sau chiến tranh. Dönitz lặp đi lặp lại tuyên bố bác bỏ lời đề nghị của Himmler và khởi xướng những cuộc đàm phán hòa bình với Đồng Minh. Vào ngày 6 tháng 5, hai ngày trước khi Văn kiện đầu hàng của Đức được đưa ra, Dönitz viết một bức thư trong đó chính thức loại bỏ Himmler ra khỏi tất cả chức vụ mà ông đang nắm giữ.
Bị bắt và tự sát
Với việc bị Dönitz từ chối và bị quân Đồng Minh săn lùng, Himmler đã cố gắng chạy trốn. Ông không có những sự chuẩn bị đầy đủ cho điều này, ngoài một cuốn sổ nợ giả dưới tên Trung sĩ Heinrich Hitzinger. Vào ngày 11 Himmler cùng với một nhóm bạn đi xuống phía Nam đến Friedrichskoog, khi đó trong đầu ông vẫn chưa xác định được đích đến cuối cùng. Bọn họ tiếp tục đi tới Neuhaus, tại đây nhóm đã tách ra. Ngày 21 tháng 5, Himmler và hai sĩ quan phụ tá bị chặn lại và bị giam giữ tại một điểm kiểm tra được dựng lên bởi các cựu tù binh chiến tranh Liên Xô. Trong hai ngày tiếp theo ông đã được dẫn đi quanh một vài khu trại, trước khi bị đem đến Trại Thẩm vấn Thường dân số 31 của Anh ở gần Lüneburg vào ngày 23 tháng 5.
Sĩ quan phụ trách, đội trưởng Thomas Selvester, bắt đầu tiến hành một cuộc thẩm vấn như thường lệ. Himmler thừa nhận danh tính và Selvester đã thực hiện khám xét. Sau đó Himmler được đưa tới sở chỉ huy Tập đoàn quân số 2 của Anh ở Lüneburg, nơi mà bác sĩ Wells đã tiến hành một cuộc khám xét y tế với ông. Vị bác sĩ cố gắng kiểm tra bên trong miệng của Himmler, nhưng ông không muốn mở miệng và ngoắc đầu ra. Himmler sau đó cắn vỡ một viên xyanua giấu trong miệng và ngã xuống sàn. Ông chết trong vòng 15 phút. Thi thể của ông được chôn vào một ngôi mộ mang tên ông. Vị trí của ngôi mộ này cũng ở gần mộ của Adolf Hitler.
Chủ nghĩa thần bí và biểu tượng
Himmler quan tâm đến thuyết thần bí từ khi còn trẻ. Ông đã liên hệ mối quan tâm này với triết lý phân biệt chủng tộc của mình và đi tìm những bằng chứng về tính ưu việt của chủng tộc Aryan và Bắc Âu từ thời cổ đại. Ông sáng lập ra một giáo phái thờ phụng tổ tiên dành riêng cho những thành viên SS như là một cách để gìn giữ chủng tộc thuần khiết và mang lại sự bất diệt cho dân tộc.
Quan sát thấy SS như là một "giai cấp" theo dòng Teuton, Himmler đã để cho lực lượng này tiếp quản Nhà thờ Dòng Teuton ở Viên vào năm 1939. Ông bắt đầu thay thế Kitô giáo bằng một quy tắc đạo đức mới trong đó loại bỏ chủ nghĩa nhân đạo và không thừa nhân quan niệm hôn nhân của Kitô giáo. Vào năm 1935 Himmler thành lập nên viện nghiên cứu xã hội Ahnenerbe và nó đã tiến hành nghiên cứu nhằm tìm kiếm bằng chứng về sự ưu việt và nguồn gốc cổ xưa của chủng tộc Đức trên phạm vi toàn thế giới.
Mọi biểu trưng và quân phục của Đức Quốc xã, đặc biệt là của SS, đều sử dụng biểu tượng do họ thiết kế. Himmler lựa chọn những biểu tượng chữ rune được thông qua làm phù hiệu. Các chữ rune "SS" hình hai tia sét được cách điệu hóa có nguồn gốc từ chữ rune Armanen của Guido von List. Himmler đã sửa đổi những tục lệ đa dạng hiện tại để nhấn mạnh đến sự phát triển của các tầng lớp ưu tú trong xã hội và vai trò trung tâm của SS; một nghi lễ đặt tên của SS được thay cho lễ rửa tội, các hình thức cưới bị biến đổi, một nghi lễ chôn cất riêng của SS được tổ chức bên cạnh các nghi lễ Kitô giáo, và những lễ kỷ niệm mà SS là trung tâm được tiến hành vào các ngày đông chí và hạ chí. Shcrek chọn biểu tượng Totenkopf (đầu lâu) từng được các đơn vị quân đội Đức sử dụng trong hàng trăm năm làm biểu tượng cho SS. Himmler đánh giá những chiếc nhẫn đầu lâu có tầm quan trọng đặc biệt; chúng sẽ không bao giờ bị bán và sẽ được thu hồi khi chủ sở hữu của chúng qua đời. Ông giải thích rằng biểu tượng đầu lâu mang ý nghĩa đoàn kết vì sự nghiệp và tận tâm cho đến lúc chết.
Mối quan hệ với Hitler
Với tư cách là lãnh đạo số hai của SS rồi tiếp đến là Reichsführer-SS, Himmler có sự tiếp xúc thường xuyên với Hitler để sắp xếp vai trò cận vệ cho lính SS. Himmler không can dự vào các quyết định làm nên chính sách của Đảng Quốc xã trong giai đoạn đảng này đang dần thâu tóm quyền lực. Từ cuối thập niên 1930, SS trở nên độc lập khỏi sự kiểm soát của các cơ quan nhà nước khác hay các cơ quan chính phủ, và ông chỉ báo cáo tin tức trực tiếp đến cho mình Hitler.
Phong cách lãnh đạo của Hitler là tạo ra những mệnh lệnh mâu thuẫn đến cấp dưới và đặt họ vào những vị trí mà trách nhiệm và nhiệm vụ của người này chồng lẫn với trách nhiệm và nhiệm vụ của người khác. Bằng cách này, Hitler nuôi dưỡng sự ngờ vực, sự cạnh tranh, và sự đấu đá nội bộ giữa cấp dưới để củng cố và phát huy tối đa quyền lực của mình. Nội các của Hitler chưa bao giờ họp mặt kể từ sau năm 1938, và ông ngăn cản những cuộc gặp độc lập của các bộ trưởng. Hitler thường không đưa ra những mệnh lênh bằng văn bản mà phát đi bằng lời nói trong những cuộc họp hay trong những cuộc trao đổi bằng điện thoại; ông đồng thời có thư ký Bormann là người truyền đạt mệnh lệnh. Bormann đã tận dụng vị thế của mình để kiểm soát luồng thông tin và con đường tiếp cận đến Hitler, và thu lợi từ những kẻ thù, trong đó có Himmler.
Hitler đã đề xướng và thực hiện Führerprinzip (nguyên tắc lãnh đạo). Nguyên tắc này đòi hỏi sự phục tùng tuyệt đối của tất cả các cấp từ trên xuống dưới; do đó Hitler nhìn nhận kết cấu chính quyền như một kim tự tháp, với bản thân ông ta-người lãnh đạo không thể sai lầm-đứng trên đỉnh tháp. Theo đó, Himmler tự đặt mình ở một vị trí phụ thuộc vào Hitler và tuân theo mọi mệnh lệnh một cách vô điều kiện. Tuy vậy, cũng như những quan chức Quốc xã hàng đầu khác, Himmler có nguyện vọng một ngày nào đó sẽ kế tục Hitler làm người đứng đầu Đế chế. Ông nhận định Speer là một địch thủ vô cùng nguy hiểm, cả hai đều là những nhân vật quyền lực trong chính phủ và là những người thừa kế tiềm năng ngôi vị của Hitler. Speer đã từ chối lời mời gọi của Himmler về một cấp bậc cao SS-Oberst-Gruppenführer, vì ông cảm thấy rằng làm như vậy sẽ khiến mình như là món nợ của Himmler và buộc phải cho phép Himmler có tiếng nói trong việc sản xuất vũ khí.
Hitler đã gọi những mối quan tâm đến sự huyền bí và những dòng tôn giáo không chính thống của Himmler là "vô nghĩa". Himmler không phải là một thành viên thuộc vòng tròn bên trong của Hitler (ám chỉ những người thân cận nhất); hai người không quá gần gũi và hiếm khi thấy tính chất quan hệ xã hội giữa họ. Lòng trung thành vô điều kiện và những nỗ lực làm hài lòng Hitler đã giúp Himmler có được biệt danh der treue Heinrich (Heinrich trung thành). Trong những ngày cuối cùng của chiến tranh, khi mà ý định ở lại và chết tại Berlin của Hitler trở nên rõ ràng, Himmler đã rời bỏ chức vụ cấp cao mà ông từng nắm giữ trong một thời gian dài và cố gắng tìm cách tự cứu lấy bản thân.
Hôn nhân và gia đình
Himmler gặp người vợ tương lai của mình, Margarete Boden, vào năm 1927. Boden hơn Himmler 7 tuổi và là một y tá, người đã cùng chia sẻ mối quan tâm của ông về thảo dược và vi lượng đồng căn; bên cạnh đó bà còn là một trong những chủ sở hữu của một bệnh viện tư nhỏ. Hai người kết hôn vào tháng 7 năm 1928 và sinh được một người con gái duy nhất là Gudrun vào ngày 8 tháng 8 năm 1929. Họ đồng thời là bố mẹ nuôi của cậu bé có tên Gerhard von Ahe, con trai một sĩ quan SS từng qua đời trước chiến tranh. Margarete đã bán số cổ phần của bà trong bệnh viện và dùng số tiền thu được để mua một mảnh đất ở Waldtrudering, gần Munich, tại đó họ dựng lên một căn nhà lắp ghép. Himmler luôn phải đi công chuyện cho đảng, do đó vợ ông đã phụ trách thêm khoản chăn nuôi gia súc để bán, nhưng đa phần là không thành công. Bọn họ cũng nuôi một chú chó có tên Töhle. Sau khi Quốc xã lên nắm quyền, gia đình Himmler đã chuyển nơi ở, lần đầu là từ Möhlstrasse sang Munich, lần tiếp theo là họ chuyển đến Lake Tegern và mua một căn nhà ở đó vào năm 1934. Himmler sau đó cũng đã được nhận miễn phí một căn nhà lớn ở Dahlem ngoại ô Berlin và lấy đó làm nơi ở chính thức. Hai vợ chồng dần ít gặp mặt nhau khi Himmler trở nên hoàn toàn miệt mài với công việc. Mối quan hệ giữa họ là căng thẳng. Tuy vậy hai người đoàn kết trong việc thực hiện những nghĩa vụ xã hội, họ là những vị khách thường xuyên tại nhà Heyrich. Trách nhiệm của Margarete là đưa ra lời mời đến những người vợ của các lãnh đạo SS cấp cao về những buổi đi uống cà phê và trà vào mỗi chiều thứ tư.
Hedwig Potthast là thư ký của Himmler từ năm 1936 và bà đã trở thành tình nhân của ông vào năm 1939. Potthast bỏ việc vào năm 1941. Himmler đã sắp xếp nơi ăn chốn ở cho bà, đầu tiên là tại Mecklenburg, sau đó đến Berchtesgaden. Ông có hai người con với Potthast; một con trai tên Helge (sinh ngày 15 tháng 2 năm 1942) và một con gái tên Nanette Dorothea (sinh ngày 20 tháng 7 năm 1944 tại Berchtesgaden). Margarete biết được mối quan hệ này vào khoảng năm 1941; vốn đã ly thân và sống cùng con gái ở Gmund, bà quyết định bỏ qua việc này vì lợi ích của con mình. Trong chiến tranh bà là y tá của Hội Chữ thập Đỏ và được bổ nhiệm làm người giám sát tại Khu Quân sự III (Berlin-Brandenburg). Himmler có mối quan hệ gần gũi với Gudrun-người con gái đầu được ông đặt cho biệt danh Püppi ("bé búp bê"); ông thường gọi điện vài ngày một lần và đến thăm con thường xuyên mỗi khi có thể.
Những cuốn nhật ký của Margarete tiết lộ rằng Gerhard, con nuôi của bà và Himmler, đã rời bỏ Học viện Đào tạo Chính trị Quốc gia tại Berlin vì những kết quả học tập nghèo nàn. Vào năm 16 tuổi Gerhard gia nhập SS tại Brno và tham gia chiến đấu không lâu sau. Gerhard bị lính Nga bắt giữ nhưng sau đó được thả quay trở về và sống tại miền Bắc nước Đức.
Hedwig và Margarete, cả hai vẫn giữ lòng trung nghĩa với Himmler. Trong bức thư gửi cho Gebhard vào tháng 2 năm 1945, Margarete viết: "Thật tuyệt vời làm sao khi mà ông ấy đã từng được giao cho những nhiệm vụ lớn và đáp ứng được chúng. Cả nước Đức đang trông chờ vào ông ấy." Hedwig cũng diễn tả những cảm nghĩ tương tự trong một bức thư gửi đến Himmler vào tháng 1. Margarete và Gudrun rời Gmund khi quân Đồng Minh tiến đến khu vực này. Bọn họ bị lính Mỹ bắt giữ tại Bolzano, Italy, và bị nhốt trong những trại giam khác nhau ở Italy, Pháp và Đức. Sau đó hai người bị đem đến Nuremberg để lấy lời khai tại các phiên tòa, họ được thả tự do vào tháng 11 năm 1946. Gudrun hồi phục từ những trải nghiệm cay đắng bởi sự ngược đãi vô căn cứ và bà vẫn tiếp tục tưởng nhớ đến người cha của mình.
Đánh giá
Albert Speer nói rằng mặc dù Himmler coi bộ bề ngoài hay làm ra vẻ mẫu mực và tầm thường nhưng ông thực tế là người giỏi đưa ra những quyết định, có tài lựa chọn cán bộ, và thành công trong việc lồng ghép SS vào mọi mặt của cuộc sống thường ngày. Nhà sử học Peter Longerich quan sát thấy khả năng hợp nhất những trách nhiệm và quyền lực ngày càng gia tăng thành một hệ thống chặt chẽ dưới sự bảo trợ của SS đã giúp ông ta trở thành một trong những nhân vật thế lực nhất của Đế chế Thứ ba.
Nhà sử học Wolfgang Sauer nói: "Mặc dù hay ra vẻ mẫu mực, độc đoán, và tối dạ, Himmler nổi lên dưới thời Hitler như là nhân vật số hai xét về quyền lực thực tế. Sức mạnh của ông ta nằm ở sự kết hợp giữa tính khôn ngoan đột xuất, tham vọng cháy bỏng, và lòng trung thành như nô lệ đối với Hitler." Nhà sử học Peter Padfield phát biểu: "Himmler... xuất hiện là người đàn ông quyền lực nhất dưới quyền Hitler. Không thể nói rằng ông ta có năng lực hay không, và hỏi về điều đó là vô nghĩa, bởi ông ta không bao giờ chuẩn bị cho việc sử dụng trực tiếp quyền lực của mình để thay đổi tiến trình các sự kiện..."
Nhà sử học John Toland thuật lại một câu chuyện từ Günter Syrup, cấp dưới của Heydrich. Heydrich đã cho Syrup thấy một bức chân dung của Himmler và nói: "Nửa trên (khuôn mặt) là giáo viên nhưng nửa dưới là kẻ tàn bạo." Nhà sử học Adrian Weale bình luận rằng Himmler và SS đi theo những chính sách của Hitler mà không hề có thắc mắc hay suy xét về vấn đề đạo đức. Himmler tiếp nhận ý thức hệ của Quốc xã và Hitler, và xem SS như là một dòng Teuton hào hiệp của nước Đức mới. Hitler đã cho thông qua học thuyết Auftragstaktik ("chỉ thị nhiệm vụ"), theo đó những mệnh lệnh được ban hành như những chỉ thị rộng rãi, với thẩm quyền được giao xuống đến mức độ thích hợp để thực hiện chúng một cách kịp thời và hiệu quả. Weale cho rằng ý thức hệ của SS đã cho Himmler một khuôn khổ lý thuyết, và các phương thức chỉ huy nhiệm vụ đã cho phép những sĩ quan cấp dưới hành động chậm trễ theo sáng kiến của họ để đạt được những kết quả như mong đợi.
Theo như biên bản nội các chiến tranh Anh công bố vào năm 2006, Winston Churchill đã ủng hộ việc ám sát Himmler. Phản ứng trước những nỗ lực mở các cuộc đàm phán hòa bình với quân Đồng Minh vào năm 1945 thông qua Bá tước Bernadotte của Himmler, Churchill hỏi bọn họ có nên điều đình với Himmler và "sau đó khử hắn ta" không. "Hoàn toàn được quyền làm như vậy", Churchill nói. Đề xuất này nhận được một vài sự ủng hộ từ Bộ Nội vụ Anh.
Vào năm 2008 tạp chí thời sự Der Spiegel của Đức đã mô tả Himmler như là một trong số những kẻ giết người hàng loạt tàn bạo nhất trong lịch sử và là kiến trúc sư của Holocaust. |
Kỷ lục Thế giới Guinness (tiếng Anh: Guinness World Records, phát âm như Ghi-nét) hay Sách Kỷ lục Guinness (The Guinness Book of Records) là một sách tra cứu được xuất bản hàng năm, ghi lại tập hợp các kỷ lục thế giới được công nhận trên toàn thế giới, gồm kỷ lục do loài người thực hiện được và cả kỷ lục của thiên nhiên tạo ra. Quyển sách này tự nó cũng tạo ra một kỷ lục là xê-ri (series) sách có bản quyền bán chạy nhất thế giới.
Sự ra đời
Ngày 10 tháng 11 năm 1951, Ông Hugh Beaver khi đó là giám đốc điều hành của hãng bia Guinness đã đi săn ở North Slob, bên sông Slaney ở Quận Wexford, Ireland. Ông ta tự hỏi ở châu Âu loài chim bị săn nào bay nhanh hơn: chim choi choi vàng hay gà gô?
Tối hôm đó, ở tòa nhà Castlebridge, ông nhận thấy rằng hầu như không thể xác nhận trong các sách tra cứu nào để chắc chắn loài choi choi vàng có phải là loài chim nhanh nhất hay không.
Beaver cho rằng ắt hẳn có rất nhiều tranh cãi ở 81.400 quán rượu ở Anh và Ireland hàng đêm về các kỷ lục. Do đó ông đã nhận rằng sách kỷ lục giải quyết các tranh cãi này chắc sẽ rất nổi tiếng. Ý tưởng của Beaver đã trở thành hiện thực khi nhân viên của hãng Guinness là Christopher Chataway đề nghị ý kiến này với các bạn ở trường đại học là Norris McWhirter và Ross McWhirter - những người đang điều hành một hãng đi tìm sự thực (fact-finding agency) ở London.
Anh em nhà McWhirter được giao nhiệm vụ biên soạn Sách Kỷ lục Guinness (The Guinness Book of Records) vào tháng 8 năm 1954. Một ngàn bản đã được in và bán vào lúc đó.
Sau khi sáng lập Sách Kỷ lục Guinness tại địa chỉ 107 Phố Fleet, quyển sách được ấn bản lần đầu, dày 198 trang, vào ngày 27 tháng 8 năm 1955 đã nằm trong danh sách các sách bán chạy nhất của Anh trước lễ Giáng Sinh. Beaver cho rằng đây là một cuốn sách bán rẻ để tiếp thị chứ không có ý định kiếm lời.
Năm sau, khi vào thị trường Hoa Kỳ, 70.000 bản đã được bán hết. Sau khi nổi tiếng, có nhiều ấn bản nữa được phát hành dẫn đến mỗi năm có một bản cập nhật, in vào tháng 10 để trùng vào dịp bán hàng Giáng Sinh. Anh em nhà McWhirters tiếp tục xuất bản sách này và các sách liên quan khác trong nhiều năm. Ross bị nhóm vũ trang Cộng hòa Ireland (Irish Republican Army) ám sát năm 1975. Norris có trí nhớ tuyệt vời, trong một xê-ri truyền hình về những người phá kỷ lục, ông có thể trả lời các câu hỏi của trẻ em về các kỷ lục.
Những ấn bản gần đây tập trung vào các kỷ lục phi thường do những đấu thủ ghi được: từ cử tạ, khoảng cách ném trứng hay số lượng bánh mỳ kẹp một người có thể ăn trong 10 phút dù các kỷ lục về ăn hoặc uống bia rượu này không bao giờ được công nhận do sợ tranh chấp. Ngoài các kỷ lục về thi đấu, sách này cũng còn ghi lại những kỷ lục như chiều cao con người, khối u nặng nhất, cây độc nhất, sông ngắn nhất, vở kịch dài nhất, người bán hàng thành công nhất... Tiêu chí để chọn lựa kỷ lục thay đổi theo thời gian.
Phát triển
Các ấn bản gần đây đã tập trung vào các sự kiện kỷ lục của các cuộc thi. Các cuộc thi có những lĩnh vực rõ ràng như cử tạ Olympic đến thời gian ném trứng dài nhất, hoặc dành thời gian dài nhất để chơi Grand Theft Auto IV hoặc số lượng hotdog mà có thể ăn hết trong 10 phút, mặc dù các mục ăn uống và rượu không còn được chấp nhận nữa do lo ngại về kiện tụng. Bên cạnh kỷ lục về cuộc thi, nó còn chứa đựng những dữ kiện như là khối u nặng nhất, cây độc hại nhất, dòng sông ngắn nhất (sông Roe), hai bộ phim dài nhất ( General Hispital và Guiding Light ) ở Mỹ và nhân viên bán hàng thành công nhất thế giới (Joe Girard). Nhiều kỷ lục cũng liên quan đến người trẻ nhất đã đạt được điều gì đó, chẳng hạn như người trẻ nhất đến thăm tất cả các quốc gia trên thế giới, là Maurizio Giuliano.
Clyde Beatty giữ kỷ lục nhốt 43 sư tử và hổ trong một cái lồng
Mỗi lần xuất bản lại có một số kỉ lục được lựa chọn cho cơ sở dữ liệu Guinness. Đối với việc lựa chọn kỉ lục mới, các tiêu chí để xếp loại kỉ lục thay đổi qua nhiều năm.
Việc sa thải Norris McWhirter - với vai trò tư vấn của Guiness vào năm 1995 và quyết định tiếp theo của Diageo Plc bán thương hiệu Guinness World Records đã chuyển nó từ một cuốn sách sang một cuốn sách tham khảo ("style over substance"). Đa số các kỷ lục thế giới không còn được liệt kê trong sách hoặc trên trang web, và chỉ có thể được xác định bởi một ứng dụng ghi vào kỷ lục Guinness để 'phá vỡ' kỷ lục. Đối với những người không thể đợi 4-6 tuần để trả lời, Guinness sẽ xử lý đơn đăng ký nhanh với mức £ 300 (450 đô la Mỹ).
Các Guinness Book of Records là cuốn sách có bản quyền bán nhiều nhất thế giới. Một số sách spin-off và series truyền hình cũng đã được sản xuất.
Guinness World Records trao tặng kỷ lục của "Cuốn sách với hầu hết các kỉ lục" trên Ashrita Furman của Queens, NY vào tháng 4 năm 2009. Tại thời điểm đó, nó đã có 100 kỉ lục.
Năm 2005, Guinness đã định ngày 9 tháng 11 là Ngày kỷ lục Thế giới Guinness thế giới để khuyến khích phá vỡ kỷ lục thế giới. Năm 2006, ước tính có 100.000 người tham gia trên 10 quốc gia. Guinness đã báo cáo 2.244 kỉ lục mới trong 12 tháng, tăng 173% so với năm trước. Vào tháng 2 năm 2008, NBC phát sóng Top 100 kỷ lục Guinness World Records của mọi thời đại và Guinness World Records làm danh sách đầy đủ có sẵn trên trang web của họ.
Ví dụ
Người cao nhất: Robert Wadlow, 2.72 m (8 ft 11.09 in)
Người cao nhất còn sống: Sultan Kösen, 2.51 m (8 ft 2.82 in)
Người lùn nhất: Chandra Bahadur Dangi, 0.546 m (1 ft 9.5 in)]
Người lùn nhất còn sống: Jyoti Amge, 0.628 m (2 ft 0.73 in)]
Người đàn ông nặng nhất: Jon Brower Minnoch, 635 kg (1,400 lb; 100.0 st)
Người phụ nữ nặng nhất: Carol Yager, hơn 545 kg (1,200 lb; 85.8 st)
Người nặng nhất còn sống: Manuel Uribe, 597 kg (1,320 lb; 94.0 st) |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.