text
stringlengths
0
512k
Cơm hến là một đặc sản ẩm thực Huế. Cơm hến được trình bày dưới hình thức là cơm nguội trộn với hến xào qua dầu và gia vị, nước hến, mắm ruốc, môn bạc hà, bẹ chuối, rau má, rau thơm, giá đỗ, tóp mỡ hoặc bóng bì chiên giòn, sợi mì chiên giòn, ớt màu, đậu phộng nguyên hạt, ớt chưng, tiêu, bột ngọt và muối. Các món cải biên như bún hến và mì hến không phải là đặc sản Huế. Cách làm Hến ngâm nước gạo một thời gian để thải hết bùn đất, rửa sạch, đem luộc cho đến khi hến mở vỏ. Lấy nước luộc sau khi đã để lắng, đổ hến ra sàng để lấy thịt hến. Thịt hến và nước hến là hai vị chính của cơm hến, ngoài ra thì cũng không thể thiếu các loại gia vị đi kèm. Các phần khác gồm có: cơm trắng để nguội, khế chua hoặc xoài chua, rau thơm, dọc mùng hay còn gọi là môn bạc hà, bắp chuối thái chỉ, nước mắm, tiêu, tóp mỡ, da heo phơi khô chiên phồng, mắm ruốc sống, đậu phộng rang vàng nguyên hạt, ớt bột tao dầu. Tất cả đều để nguội. Duy có nước hến phải được giữ cho nóng sôi. Bát cơm hến được trộn từ tất cả các thành phần trên rồi chan một chút nước hến. Cơm hến thường được ăn với ớt thật cay mới đúng vị; còn đối với bún hến thì có lẽ sẽ ngon hơn nếu ăn khô (tức là không chan nước hến khi ăn).
Lịch sử Thái Lan bắt đầu từ những người Thái di cư vào khu vực Thái Lan hiện nay trong thiên niên kỷ thứ nhất. Người Thái thành lập những quốc gia riêng của họ. Những quốc gia này bị đe dọa bởi Miến Điện và Đại Việt, cũng như sự đối đầu giữa người Thái và người Lào. Trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, Thái Lan là quốc gia duy nhất ở Đông Nam Á không trở thành thuộc địa của các đế quốc châu Âu. Sau sự kết thúc của nền quân chủ chuyên chế năm 1932, Thái Lan nằm dưới chế độ quân sự trong 60 năm trước khi chuyển sang thể chế quân chủ lập hiến như hiện nay. Thời kỳ đầu Các khảo cổ học đã tìm thấy tại Ban Chiang, Thái Lan nhiều công cụ đồ đồng và nền văn minh lúa nước tồn tại vào khoảng 3600 năm TCN. Các nền văn minh Malay, Mon và Khmer từng phát triển thịnh vương trên lãnh thổ Thái Lan hiện nay. Đáng chú ý là Vương quốc Srivijaya ở miền nam, Dvaravati ở miền trung và Đế chế Khmer ở Angkor. Người Thái có liên hệ ngôn ngữ với một số dân tộc tại miền Nam của Trung Quốc, và có lẽ sự di dân từ miền Nam Trung Quốc đã xảy ra rất sớm, qua phía bắc của Lào. Vương quốc Sukhothai Những nhóm người Thái có lẽ đã bắt đầu di cư đến vùng đất ngày nay là Thái Lan ngay từ thế kỷ thứ VIII. Người Khmer đã dùng họ làm lính từ thế kỷ XII. Nhưng khi quyền lực của người Môn và người Khmer suy yếu thì quyền lực của các vương triều khác bắt đầu tăng lên. Vào năm 1238, người Thái ở Sukhothai không chỉ từ chối đóng thuế sử dụng nước cho những lãnh chúa người Khmer mà họ còn đánh đuổi luôn những lãnh chúa đó ra khỏi vùng đất này và thiết lập nên một nhà nước mới. Vị thủ lĩnh mới là Sri Indradit chiếm lấy ngai vàng. Với các thần dân của mình, ông ta giống như một người cha hơn là một ông vua, một thủ lĩnh đáng kính hơn là một nhà cai trị độc tài. Dưới triều đức vua vĩ đại nhất của mình, vua Ramkhamhaeng (1279 ? - 1317 ?), người Sukhothai đã xâm chiếm lãnh thổ của người Khmer đến tận miền Nam Nakhon Si Thammarat. Cũng chính ông vua này đã tạo ra bảng chữ cái đầu tiên của người Thái và đã làm cho thần dân của ông hiểu rõ sự coi trọng của ông dành cho nghệ thuật. Nhưng sau cái chết của ông vào năm 1300 đã báo hiệu sự suy đồi của đế quốc Sukhothai. Thoạt đầu những tỉnh nằm quanh Sukhothai đã hủy bỏ tất cả những ràng buộc với đế quốc này. Rồi đến lượt người Môm của Pegu tấn công và chiếm một phần bán đảo Malay. Cuối cùng một nhà nước mới ra đời vào năm 1378, nó tấn công và chiếm đóng Sukhothai. Từ đó trở đi vương quốc Ayuthaya, được thành lập vào năm 1350, trở thành nhà nước hùng mạnh nhất trong số tất cả những vương quốc Thái từng tồn tại cho đến bây giờ. Vương quốc Ayutthaya Ayutthaya là một nhà nước mà ở đó đức Vua được xem như vị chúa tể của mọi sinh linh trong vương quốc. Thậm chí người ta phải dùng một thứ ngôn ngữ dành riêng cho hoàng gia khi nói về đức Vua hay gia đình của ngài. Tổ chức xã hội của Ayutthaya được định hình dưới triều Vua Trailok (1448 - 1488). Các quý tộc thuộc những tầng lớp khác nhau được phân loại và ban tước hiệu tùy theo họ có bao nhiêu đất; thường dân không được cho phép có những quan hệ thông thường với họ. Chế độ nô lệ rất phổ biến, mà nạn nhân thường là các tù binh chiến tranh. Bành trướng mở rộng và chiến tranh với những nước láng giềng là những sự kiện nổi bật trong hai thế kỷ đầu tiên của triều đại Ayutthaya. Sau khi tiêu diệt được Sukhothai, triều đại Ayutthaya, còn được biết đến dưới cái tên Xiêm La (Siam), bắt đầu xâm chiếm miền Nam. Vào năm 1431, Vua Boromaraja đệ nhị cướp thành phố Khmer Angkor Thom, buộc những người Khmer phải dời về Phnom Penh. Sự kiện này đã đặt dấu chấm hết cho quyền lực của người Khmer trong địa hạt tôn giáo. Nhưng vương quốc Xiêm đã thất bại trong việc chinh phục vương quốc Chiang Mai ở miền Bắc. Dưới sự cai trị của Vua Tilokaraja, Chiang Mai đã đứng vững trước tất cả những cuộc tấn công của Xiêm. Trong thời gian đó, một hiểm họa mới đã nổi lên ở sườn phía Tây nước Xiêm, khi các triều vua Miến Điện đầy tham vọng bắt đầu tiến vào vùng đất này. Thậm chí Chiang Mai cũng bị rơi vào tay quân xâm lăng vào năm 1557. Còn Ayutthaya thì phải đầu hàng vào năm 1569. Xiêm trở thành lãnh thổ của Miến Điện mãi cho đến năm 1584, khi hoàng tử Naresuan nắm lấy cơ hội từ cuộc chiến tranh ở Miến Điện, ông đã tuyên bố độc lập. Naresuan lên ngôi vua vào năm 1590, và chỉ trong vòng ba năm ông đã đuổi hết người Miến Điện ra khỏi đất nước. Ông trở thành người cai trị một vùng đất mênh mông, bao gồm tất cả các vùng lãnh thổ miền Bắc và một phần của Lào. Trong thế kỷ tiếp theo, vương quốc Xiêm bắt đầu thu hút sự chú ý của người phương Tây. Những thương nhân Hà Lan đã đến buôn bán ở miền Nam Pattani từ năm 1601, và những lái buôn người Anh đã đến Ayutthaya vào năm 1612. Người Châu Âu cạnh tranh nhau nhằm giành những đặc quyền về bến cảng và buôn bán, và cuộc cạnh tranh đã lên đến đỉnh điểm dưới thời Narai Đại đế (1656 - 1688). Vua Xiêm cử các sứ thần đến nước Pháp, và vua Pháp Louis XIV đã cử một sứ thần đến gặp vua Narai để đáp lễ. Nhưng với cái chết của Narai, người châu Âu bỗng thấy mình không còn được ưu đãi như trước nữa, trong khi đó những cuộc nổi loạn đã bùng nổ ở khắp xứ Xiêm. Ngay lập tức người Miến Điện tranh thủ cơ hội chiếm lấy miền Bắc. Vương quốc Xiêm suy yếu giờ đây không còn là đối thủ của Miến Điện nữa. Trong khi Ayutthaya đang hưởng thời kỳ ổn định cuối cùng dưới triều vua Boromakot (1733 - 1753), thì tháng 4 năm 1767 binh lính Miến Điện đã thiêu rụi kinh đô Xiêm. Thời kỳ 1763-1782 Khi vương quốc Ayutthaya sụp đổ, một vị tướng người Xiêm có tên là Taksin cũng đang ở đó. Tập hợp những người ủng hộ mình thành một đội quân, một năm sau đó ông đã chiếm lại được thành phố, nhưng Ayutthaya đã bị tàn phá trơ trụi đến nỗi ông quyết định dời thủ đô ra xa hơn, xuôi theo dòng sông đến Thonburi. Năm 1763 cuộc tấn công lớn nhất của người Miến Điện diễn ra. Những người Xiêm ngay lập tức phát động một cuộc phản công. Taksin, một vị tướng gốc Hán, đã tổ chức kháng chiến, đẩy lùi người Miến Điện và lập ra một thủ đô mới ở Bangkok. Với sự giúp sức của hai vị tướng khác là anh em Chao Phraya Chakri và Chao Phraya Surasih, Taksin đã chinh phục được các nước chư hầu, và chiếm lại miền Bắc từ người Miến Điện. Từ đó ông bắt đầu cuộc chinh phục toàn bộ các dân tộc Thái. Taksin tấn công người Miến Điện ở phía bắc năm 1774 và chiếm Chiang Mai năm 1776, thống nhất Thái Lan. Nhưng những thành công liên tiếp rốt cuộc đã khiến ông ta mất hết lý trí, và trở nên tàn ác cực kỳ. Những viên tướng thuộc hạ đã truất ngôi và chém đầu ông ta vào năm 1782. Năm 1782 Chaophraya Chakri phế truất Taksin khỏi ngôi vua nước Xiêm, lên ngôi và trở thành vua Rama I, lập ra triều đại nhà Chakri, tồn tại cho đến ngày nay. Vương triều Chakri Chao Phraya Chakri, thường được biết nhiều hơn dưới cái tên Rama đệ Nhất, đã trở thành vị vua mới. Ông là người khai sinh triều đại Chakri vẫn tồn tại cho đến tận ngày nay. Rama đệ Nhất lại dời đô, lần này là về Bangkok, ông cho xây dựng thành phố theo kiểu mẫu Ayutthaya. Ông cũng làm hồi sinh nền nghệ thuật và văn hóa Thái Lan, một phần dựa vào trí nhớ của những người già cả đã đào thoát được khi Ayutthaya bị hủy diệt. Thời kỳ 1782-1932 Năm 1782 Chaophraya Chakri phế truất Taksin khỏi ngôi vua nước Xiêm, lên ngôi và trở thành vua Rama I, lập ra triều đại nhà Chakri. Thời kỳ đầu của vương triều Chakri là một nhà nước quân chủ chuyên chế được gọi là Xiêm La hay Vương quốc Rattanakosin. Thời kỳ này Xiêm là một vương quốc hùng mạnh ở trong khu vực, ngay trước khi có các cuộc xâm lược thực dân của các nước Phương Tây tại khu vực Đông Nam Á vào thế kỷ 19. Châu Âu thời đó đang bận rộn với cuộc chiến tranh Napoleon. Nhưng từ năm 1818, Xiêm lại mở cửa và tiếp xúc với phương Tây, bắt đầu bằng một hiệp định với người Bồ Đào Nha. Với mục tiêu chung là giành được những điều khoản buôn bán tối huệ và những đặc quyền đặc lợi khác, hai nước Anh và Mỹ đã ký kết các hiệp ước với Xiêm vào các năm 1826 và năm 1833. Chế độ quân sự Năm 1932, Thái Lan chuyển từ chế độ quân chủ chuyên chế sang lập hiến. Thái Lan nằm dưới chế độ độc tài quân sự. Nền dân chủ Nền dân chủ của Thái Lan được thành lập sau sự kết thúc của chế độ độc tài quân sự năm 1992.
Lịch sử Canada bắt đầu khi người Da đỏ cổ đại đến vào hàng nghìn năm trước. Các nhóm dân nguyên trú sinh sống tại Canada trong hàng thiên niên kỷ, với những mạng lưới mậu dịch, tín ngưỡng tinh thần, và phân tầng xã hội riêng biệt. Một số nền văn minh trong số đó tàn phai từ lâu trước khi có những người châu Âu đầu tiên đến và chúng được phát hiện thông qua nghiên cứu khảo cổ học. Nhiều hiệp ước và điều luật được chế định giữa người định cư châu Âu và dân cư nguyên trú. Bắt đầu từ cuối thế kỷ 15, những đoàn thám hiểm của người Pháp và người Anh thám hiểm, rồi sau đó là định cư, dọc theo duyên hải Đại Tây Dương. Sau Chiến tranh Bảy năm, Pháp nhượng toàn bộ thuộc địa của họ tại Bắc Mỹ cho Anh Quốc vào năm 1763. Đến năm 1867, ba thuộc địa của Anh Quốc tại Bắc Mỹ liên hiệp, hình thành Quốc gia tự trị Canada gồm bốn tỉnh. Tiếp theo, Canada có những biến thiên về lãnh thổ và tăng quyền tự trị từ Đế quốc Anh, chính thức hóa bằng Pháp lệnh Westminster năm 1931. Đạo luật Canada năm 1982 cắt đứt những tàn dư của sự phụ thuộc tư pháp vào nghị viện Anh Quốc. Mặc dù chính phủ chịu trách nhiệm đã tồn tại ở Canada từ năm 1848, Anh vẫn tiếp tục thiết lập các chính sách đối ngoại và quốc phòng của mình cho đến khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc. Việc thông qua Quy chế Westminster vào năm 1931 công nhận rằng Canada đã trở thành đồng bình đẳng với Vương quốc Anh. Sau khi Hiến pháp là yêu nước vào năm 1982 , dấu vết cuối cùng của sự phụ thuộc pháp lý vào quốc hội Anh đã bị xóa bỏ. Canada hiện bao gồm mười tỉnh và ba vùng lãnh thổ và là một dân chủ nghị viện và chế độ quân chủ lập hiến với Queen Elizabeth II với tư cách là nguyên thủ quốc gia của nó. Qua nhiều thế kỷ, các yếu tố của phong tục dân cư nguyên trú, người Pháp, người Anh, và người nhập cư gần đây kết hợp thành văn hóa Canada. Văn hóa Canada cũng chịu ảnh hưởng mạnh của láng giềng là Hoa Kỳ. Canada hiện gồm có mười tỉnh và ba lãnh thổ và sở hữu một chế độ dân chủ nghị viện và một chế độ quân chủ lập hiến với nguyên thủ quốc gia là Elizabeth II. Thời kỳ tiền thuộc địa Dân cư nguyên trú Theo bằng chứng khảo cổ học và di truyền học, Bắc và Nam Mỹ là những lục địa cuối cùng trên thế giới có con người cư trú. Trong thời kỳ Đóng băng Wisconsin, 50.00017.000 năm trước, mực nước biển xuống thấp tạo điều kiện cho loài người di chuyển qua cầu lục địa Bering (Beringia) vốn liên kết Siberia đến tây bắc của Bắc Mỹ (Alaska). Đương thời, vỉa băng Laurentide bao phủ hầu hết Canada và chặn họ lại, khiến họ bị hạn chế trong Alaska hàng nghìn năm. Khoảng 16.000 năm trước, các sông băng bắt đầu tan, tạo điều kiện cho loài người chuyển từ Alaska về phía nam và đông vào Canada. Niên đại và lộ tuyến chính xác của việc di dân tại châu Mỹ vẫn là chủ đề tranh luận. Khí hậu Bắc Mỹ trở nên ổn định vào khoảng năm 8000 TCN, điều kiện khí hậu tương tự như mô hình hiện nay; song các vỉa băng đang rút đi vẫn bao phủ nhiều vùng đất rộng, tạo nên các hồ nước băng tan. Hầu hết các nhóm dân cư trong thời kỳ cổ đại vẫn là những người săn bắn hái lượm có tính lưu động ở mức cao. Tuy nhiên, có những nhóm riêng lẻ bắt đầu tập trung vào tài nguyên sẵn có cho họ tại địa phương; do đó theo thời gian, có một mô hình tổng quát hóa khu vực ngày càng tăng. Thời kỳ văn hóa Woodland có niên đại từ khoảng 2000 TCN đến 1000 CN, bao phủ Ontario, Quebec, và các khu vực Hàng hải. Việc sử dụng đồ gốm giúp phân biệt văn hóa Woodland với những dân cư thời cổ đại trước đó. Nhân dân sống gần sông St. Lawrence tại Ontario sản xuất đồ gốm có niên đại cổ nhất từng phát hiện được tại Canada. Truyền thống Hopewell là một nền văn hóa dân nguyên trú hưng thịnh dọc theo các sông tại Bắc Mỹ từ 300 TCN đến 500 CN. Khi quy mô ở mức lớn nhất, hệ thống trao đổi Hopewell liên kết các văn hóa và xã hội của những dân tộc sinh sống bên phần bờ hồ Ontario thuộc Canada. Các khu vực đất rừng miền đông của Canada là nơi cư trú của các dân tộc Algonquin và Iroquois. Ngôn ngữ Algonquin được cho là bắt nguồn từ cao nguyên miền tây của Idaho hoặc các bình nguyên của Montana và chuyển dịch về phía đông, cuối cùng mở rộng từ vịnh Hudson đến Nova Scotia ngày nay ở phía đông và xa về phía nam đến khu vực Tidewater của Virginia. Những dân tộc nói ngôn ngữ Đông Algonquin gồm có Mi'kmaq và Abenaki tại khu vực Hàng hải và người Beothuk có lẽ đã tuyệt chủng tại Newfoundland. Người Ojibwa và các dân tộc nói tiếng Anishinaabe thuộc nhóm Trung Algonquin ghi nhớ một truyền thuyết truyền khẩu là họ chuyển từ biển đến vùng đất của họ nằm quanh phía tây và trung Ngũ Đại Hồ, có vẻ là từ duyên hải phía đông. Liên minh Iroquois (Haudenosaunee) được tập trung từ muộn nhất là 1000 CN tại miền bắc New York, song tầm ảnh hưởng của họ khuếch trương đến khu vực nay là miền nam Ontario và khu vực Montréal. Tại Đại Bình nguyên, người Cree dựa vào các bầy lớn bò rừng bizon để đáp ứng nhu cầu về thực phẩm và nhiều nhu cầu khác. Phía tây bắc là nơi cư trú của những người nói các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Na-Dene, bao gồm những người nói tiếng Athapaskan và Tlingit. Ngữ hệ Na-Dene được cho là có liên kết với ngữ hệ Yenisei tại Siberi. Người Dene ở miền tây khu vực Bắc Cực có thể đại diện cho một làn sóng riêng biệt của người nhập cư từ châu Á đến Bắc Mỹ. Vùng Nội địa của British Columbia là nơi sinh sống của những dân tộc nói ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Salish như Shuswap, Okanagan và nhóm Nam Athabaskan, chủ yếu là Dakelh và Tsilhqot'in. Các vịnh nhỏ và thung lũng của Duyên hải British Columbia là nơi cư trú của một lượng dân số lớn và đặc biệt, như Haida, Kwakwaka'wakw, và Nuu-chah-nulth, sinh kế của họ dựa vào nguồn cá hồi và tôm sò phong phú trong khu vực. Những dân tộc này phát triển những nền văn hóa phức tạp dựa trên tuyết tùng đỏ miền Tây, với nhà gỗ, xuồng đánh cá voi và xuồng chiến đấu, các biểu tượng potlatch và cột vật tổ được chạm khắc tỉ mỉ. Tại quần đảo khu vực Bắc Cực, từng có những người Eskimo cổ đại được gọi là Dorset, văn hóa của họ truy nguyên từ khoảng năm 500 TCN, và đến khoảng năm 1500 thì họ bị tổ tiên của người Inuit hiện nay thay thế. Sự chuyển tiếp này được chứng minh thông qua những hồ sơ khảo cổ học và thần thoại Inuit kể về việc trục xuất Tuniit hoặc 'các dân cư đầu tiên'. Tiếp xúc với người châu Âu Có những báo cáo về việc tiếp xúc giữa các dân tộc Trước tiên, người Inuit và những người đến từ các lục địa khác từ trước chuyến thám hiểm năm 1492 của Cristoforo Colombo và thời đại khám phá. Chuyến thám hiểm Canada sớm nhất được ghi chép là trong những saga Iceland, thuật chi tiết về nỗ lực của người Norse nhằm thuộc địa hóa châu Mỹ. Theo những Saga, người châu Âu đầu tiên trông thấy Canada là Bjarni Herjólfsson, ông bị gió thổi lệch khỏi hành trình từ Iceland đến Greenland vào mùa hè năm 985 hoặc 986 CN. Khoảng năm 1001, các Saga đề cập đến cuộc đổ bộ của Leif Ericson lên ba địa điểm ở phía tây, hai địa điểm đầu là Helluland (có thể là đảo Baffin) và Markland (có thể là Labrador). Leif Ericson đổ bộ lần thứ ba lên một địa điểm mà ông gọi là Vinland (có thể là Newfoundland). Người Norse cố gắng thuộc địa hóa vùng đất mới; song khí hậu địa phơng và sự quấy nhiễu của dân cư bản địa khiến họ phải rời đi. Chứng cứ khảo cổ học về một khu định cư tồn tại ngắn của người Norse được phát hiện tại L'Anse aux Meadows, Newfoundland. Dựa trên Hiệp ước Tordesillas, Quân chủ Bồ Đào Nha tuyên bố có quyền lãnh thổ tại khu vực mà Giovanni Caboto đi đến vào năm 1497 và 1498. Nhằm mục đích này, vào năm 1499 và 1500, thủy thủ người Bồ Đào Nha tên là João Fernandes Lavrador đi đến khu duyên hải Bắc Đại Tây Dương, dẫn đến sự xuất hiện của "Labrador" trên những bản đổ địa hình trong giai đoạn này. Sau đó, vào năm 1501 và 1502, anh em nhà Corte-Real thám hiểm Newfoundland (Terra Nova) và Labrador, tuyên bố những vùng đất này là bộ phận của Đế quốc Bồ Đào Nha. Năm 1506, Quốc vương Manuel I của Bồ Đào Nha áp thuế đối với hoạt động đánh bắt cá tuyết tại vùng biển Newfoundland. João Álvares Fagundes và Pêro de Barcelos thiết lập các tiền đồn ngư nghiệp tại Newfoundland và Nova Scotia vào khoảng năm 1521; tuy nhiên, sau đó chúng bị bỏ hoang do những nhà thực dân Bồ Đào Nha tập trung những nỗ lực của họ tại Nam Mỹ. Quy mô và tính chất về hoạt động của người Bồ Đào Nha tại Canada đại lục trong thế kỷ 16 vẫn chưa rõ ràng và gây tranh luận. Tân Pháp và thuộc địa hóa 1534–1763 Năm 1524, Quốc vương François I của Pháp bảo trợ cho Giovanni da Verrazzano tiến hành chuyến đi theo đường biển đến khu vực giữa Florida và Newfoundland với hy vọng phát hiện một tuyến đường đến Thái Bình Dương. Năm 1534, Jacques Cartier cho đóng một cây Thánh giá tại bán đảo Gaspé và tuyên bố chủ quyền với vùng đất nhân danh François I. Các nỗ lực thuộc địa hóa ban đầu của Cartier tại Charlesbourg-Royal vào năm 1541, của Marquis de La Roche-Mesgouez tại đảo Sable vào năm 1598, và của François Gravé Du Pont tại Tadoussac vào năm 1600 có kết quả thất bại. Bất chấp những thất bại ban đầu này, các đội tàu đánh cá của Pháp bắt đầu đi đến vùng duyên hải Đại Tây Dương và vào trong sông Saint-Laurent, giao dịch và thiết lập liên minh với các dân tộc Trước tiên. Năm 1604, độc quyền mậu dịch da lông thú tại Bắc Mỹ được trao cho Pierre Dugua Sieur de Monts. Pierre Dugua dẫn đầu đoàn thám hiểm thuộc địa hóa đầu tiên của ông đến một hòn đảo nằm gần cửa sông St. Croix. Trong số những phó thủ của ông ta có một nhà địa lý học tên là Samuel de Champlain, người này lập tức tiến hành một cuộc thám hiểm lớn tại vùng bờ biển Đông Bắc Hoa Kỳ ngày nay. Đến mùa xuân năm 1605, dưới quyền Samuel de Champlain, khu định cư St. Croix mới được chuyển đến Port Royal (Annapolis Royal, Nova Scotia ngày nay). Năm 1608, Samuel de Champlain thành lập khu định cư là tiền thân của thành phố Québec ngày nay, trở thành khu định cư vĩnh cửu đầu tiên và là thủ đô của Tân Pháp. Ông nắm giữ quyền quản lý cá nhân đối với thành phố cùng các sự vụ tại đây, và cử các đoàn thám hiểm đi thăm dò vùng nội địa. Samuel de Champlain tự thân thám hiểm hồ Champlain vào năm 1609. Năm 1615, ông đi bằng xuồng ngược dòng sông Ottawa rồi qua hồ Nipissing và vịnh Georgian đến trung tâm lãnh thổ của người Huron gần hồ Simcoe. Trong những hành trình này, Samuel de Champlain viện trợ người Wendat (Huron) trong những trận chiến của họ với Liên minh Iroquois. Kết quả là Iroquois trở thành địch thủ của Pháp và hai bên tham gia vào nhiều xung đột cho kết khi ký kết Đại hòa ước Montréal vào năm 1701. Năm 1583, người Anh dưới quyền Humphrey Gilbert tuyên bố chủ quyền đối với St. John's, Newfoundland theo đặc quyền vương thất của Nữ vương Elizabeth I, đây là thuộc địa đầu tiên của Anh tại Bắc Mỹ. Trong thời gian trị vì của Quốc vương James VI và I, người Anh thiết lập thêm các thuộc địa tại Cupids và Ferryland, Newfoundland, không lâu sau khi người Anh thiết lập khu định cư vĩnh cửu thành công đầu tiên tại Virginia ở phía nam. Ngày 29 tháng 9 năm 1621, Quốc vương James VI và I cấp một đặc quyền về việc thành lập một thuộc địa Scotland tại Tân Thế giới cho William Alexander. Năm 1622, những người định cư đầu tiên rời Scotland. Ban đầu, họ thất bại và phải đến năm 1629 vào cuối Chiến tranh Anh-Pháp thì các khu định cư Nova Scotia vĩnh cửu mới trở nên vững chắc. Tuy nhiên, theo Hiệp định Suza nhằm kết thúc chiến tranh được ký kết vào năm 1631, Nova Scotia được trả lại cho Pháp. Sau khi ký kết Hiệp định Saint-Germain-en-Laye vào năm 1632, người Pháp khôi phục hoàn toàn quyền lực tại Tân Pháp. Điều này dẫn đến việc có những người Pháp nhập cư mới và thành lập khu định cư vĩnh cửu thứ nhì tại Tân Pháp là Trois-Rivières vào năm 1634. Trong giai đoạn này, biên giới nội địa của Tân Pháp cuối cùng bao phủ một khu vực rộng lớn, với một mạng lưới thưa tập trung vào mậu dịch da lông thú, các nhà truyền giáo nỗ lực tiến hành cải đạo, thiết lập và tuyên bố một đế quốc, và các nỗ lực quân sự nhằm bảo vệ và xúc tiến những nỗ lực đó. Sau khi Samuel de Champlain mất vào năm 1635, Giáo hội Công giáo La Mã và Dòng Tên trở thành thế lực có ảnh hưởng nhất tại Tân Pháp và hy vọng về việc thiết lập một cộng đồng Cơ Đốc giáo utopia của người Âu và người nguyên trú. Năm 1642, Hội Linh mục Xuân Bích bảo trợ cho một nhóm người định cư dưới quyền Paul Chomedey de Maisonneuve, ông thành lập Ville-Marie, tiền thân của Montréal. Năm 1663, quân chủ Pháp nhận lấy quyền kiểm soát trực tiếp các thuộc địa từ Công ty Tân Pháp. Dưới quyền kiểm soát trực tiếp từ Pháp, tỷ lệ nhập cư đến Tân Pháp vẫn thấp, hầu hết nhân dân là nông dân, và tỷ lệ tăng trưởng dân số trong những người định cư đã rất cao. Số con trung bình của một phụ nữ tại Tân Pháp cao hơn 30% so với phụ nữ tại Pháp. Kết quả điều tra nhân khẩu tại Tân Pháp được tiến hành vào mùa đông 1665–1666 cho thấy có 3.215 người Acadia và habitants (nông dân gốc Pháp) trong những khu vực hành chính của Acadia và Canada. Điều tra cũng cho thấy có khác biệt lớn về giới tính với 2.034 nam và 1.181 nữ. Chiến tranh thời thuộc địa Đến đầu thập niên 1700, những người định cư Tân Pháp đã xác lập vững chắc dọc bờ sông Saint-Laurent và khu vực Nova Scotia, với dân số khoảng 16.000. Tuy nhiên, do việc nhập cư từ Pháp ngưng lại trong nhiều thập niên liên tiếp, khiến số người Anh và Scotland định cư tại Newfoundland, Nova Scotia, và Mười ba thuộc địa đông hơn nhiều so với dân số người Pháp, xấp xỉ mười lần vào thập niên 1750. Từ 1670, thông qua Công ty Vịnh Hudson, người Anh cũng đưa ra tuyên bố chủ quyền đối với vịnh Hudson và lưu vực của nó (Đất Rupert), thiết lập các trạm mậu dịch và pháo đài mới, trong khi tiếp tục điều hành các khu định cư ngư nghiệp tại Newfoundland. Người Pháp khuếch trương dọc các tuyến xuồng Canada, thách thức tuyên bố chủ quyền của Công ty Vịnh Hudson, và đến năm 1686, Pierre Troyes dẫn một đoàn viễn chinh bằng đường bộ từ Montréal đến bờ vịnh Hudson, họ tìm cách chiếm một số tiền đồn tại đây. Các cuộc viễn chinh của La Salle cho phép Pháp tuyên bố chủ quyền đối với thung lũng sông Mississippi, tại đó những người bẫy thú lấy da lông và một số người định cư thiết lập các pháo đài và khu định cư nằm rải rác. Mười ba thuộc địa của Anh và Tân Pháp xảy ra bốn cuộc chiến, cộng thêm là hai cuộc chiến tại Acadia và Nova Scotia, từ năm 1689 đến 1763. Trong Chiến tranh Quốc vương William (1689 đến 1697), các xung đột quân sự tại Acadia gồm có: trận Port Royal (1690); một hải chiến trên vịnh Fundy; và Đột kích Chignecto (1696). Hiệp ước Ryswick năm 1697 kết thúc chiến tranh giữa hai thế lực thuộc địa Anh và Pháp trong một thời gian ngắn. Trong Chiến tranh Nữ vương Anne (1702 đến 1713), người Anh xâm chiếm Acadia vào năm 1710, kết quả là Nova Scotia (trừ đảo Cape Breton) chính thức bị nhượng cho Anh theo Hiệp ước Utrecht, ngoài ra Pháp còn nhượng Đất Rupert mà họ chiếm được từ cuối thế kỷ 17 cho Anh. Sau thất bại này, Pháp cho dựng pháo đài Louisbourg kiên cường trên đảo Cape Breton. Pháo đài Louisbourg được dự định đóng vai trò là một căn cứ quân sự và hải quân quanh năm cho lãnh thổ còn lại của Pháp tại Bắc Mỹ và bảo vệ lối vào sông Saint-Laurent. Chiến tranh Cha Rale khiến cho Tân Pháp bị mất ảnh hưởng tại Maine ngày nay. Trong Chiến tranh Quốc vương George (1744 đến 1748), một quân đội của người New England dưới quyền William Pepperrell đem 90 thuyền và 4.000 binh sĩ chống pháo đài Louisbourg vào năm 1745. Quân Pháp tại pháo đài Louisbourg đầu hàng trong vòng ba tháng. Người Pháp tái kiểm soát pháo đài Louisbourg theo hòa ước được người Anh thúc đẩy nhằm hình thành Halifax vào năm 1749. Hai đế quốc Anh và Pháp chính thức đình chiến theo Hiệp ước Aix-la-Chapelle; song xung đột tại Acadia và Nova Scotia tiếp tục với Chiến tranh Cha Le Loutre. Trong Chiến tranh với Pháp và người Da đỏ (1754–1763), Anh ra lệnh trục xuất người Acadia khỏi đất đai của họ vào năm 1755, sự kiện được gọi là le Grand Dérangement trong tiếng Pháp. Hành động trục xuất dẫn đến khoảng 12.000 người Acadia bị chở bằng thuyền đến những địa điểm trên khắp Bắc Mỹ thuộc Anh và đến Pháp, Québec, và thuộc địa Saint-Domingue của Pháp tại Caribe. Làn sóng đầu tiên nhằm trục xuất người Acadia bắt đầu với chiến dịch vịnh Fundy (1755) và làn sóng thứ nhì bắt đầu sau khi kết thúc cuộc bao vây pháo đài Louisbourg (1758). Nhiều người Acadia định cư tại miền nam Louisiana, hình thành văn hóa Cajun tại đó. Anh lần lượt giành quyền kiểm soát thành phố Québec và Montréal vào năm 1759 và năm 1760. Anh Quốc cai trị (1763–1867) Với việc kết thúc Chiến tranh Bảy năm và ký kết Hiệp định Paris (1763), Pháp nhượng hầu như toàn bộ lãnh thổ của mình tại Bắc Mỹ đại lục, ngoại trừ quyền ngư nghiệp ngoài khơi Newfoundland và hai đảo nhỏ làm nơi phơi sấy cá cho khô. Đổi lại, Pháp được nhận lại thuộc địa sản xuất đường là Guadeloupe, đương thời là nơi được xem như có giá trị hơn Canada. Những người thống trị mới là Anh Quốc duy trì và bảo hộ hầu hết tài sản, tôn giáo, chính trị, và văn hóa xã hội của habitants Pháp ngữ, đảm bảo quyền của Canadiens được thực hành đức tin Công giáo và được sử dụng luật dân sự Pháp thông qua Đạo luật Quebec năm 1774. George III của Anh ban bố Tuyên ngôn Hoàng gia 1763 sau khi Anh Quốc thu được lãnh thổ của Pháp. Tuyên ngôn thiết lập đế quốc Bắc Mỹ mới của Anh và ổn định hóa những quan hệ giữa chính quyền quân chủ Anh Quốc và nhân dân nguyên trú thông qua pháp quy về mậu dịch, định cư, và mua đất tại biên giới miền tây. Cách mạng Mỹ và những người Trung thành Trong Cách mạng Mỹ, người Acadia và New England tại Nova Scotia phần nào đồng tình với đại nghiệp Mỹ. Không bên nào tham gia quân nổi dậy, song có vài trăm cá nhân gia nhập đại nghiệp cách mạng. Năm 1775, Lục quân Lục địa tiến hành một cuộc xâm chiếm Canada, một mục tiêu là nhằm đưa Quebec ra khỏi quyền kiểm soát của người Anh, song bị quân Anh chặn lại trong trận Quebec với sự trợ giúp của dân quân địa phương. Thất bại của quân Anh trong Cuộc vây hãm Yorktown vào tháng 10 năm 1781 đánh dấu kết thúc cuộc chiến đấu của người Anh nhằm đàn áp Cách mạng Mỹ. Khi người Anh triệt thoái khỏi thành phố New York vào năm 1783, họ đưa nhiều người Trung thành đến Nova Scotia, trong khi những người Trung thành khác đến miền tây nam Quebec. Do có nhiều người Trung thành đến bên bờ sông St. John, một thuộc địa riêng biệt là New Brunswick được tạo thành vào năm 1784; đến năm 1791 thì Quebec được phân chia thành Hạ Canada chủ yếu Pháp ngữ dọc theo sông St. Lawrence và bán đảo Gaspé và thành Thượng Canada của những người Trung thành Anh ngữ với thủ đô được định tại York (nay là Toronto) vào năm 1796. Sau năm 1790, hầu hết những người định cư mới là các nông dân Hoa Kỳ tìm kiếm những vùng đất mới; mặc dù những người này thường tán thành chủ nghĩa cộng hòa, song họ tương đối phi chính trị và giữ trung lập trong Chiến tranh năm 1812. Hiệp định Paris 1783 chính thức kết thúc chiến tranh, Anh tiến hành một số nhượng bộ về lãnh thổ cho Hoa Kỳ. Đáng chú ý là biên giới Canada-Hoa Kỳ được chính thức phân định; toàn bộ lãnh thổ phía nam của Ngũ Đại Hồ, nguyên là bộ phận của tỉnh Quebec, được nhượng cho Hoa Kỳ. Hoa Kỳ được trao quyền ngư nghiệp trong vịnh St. Lawrence và ở vùng bờ biển Newfoundland và Grand Banks. Anh Quốc bác bỏ một phần của hiệp định và duy trì các tiền đồn quân sự của họ tại những khu vực đã nhượng cho Hoa Kỳ, và họ tiếp tục tiếp tế đạn dược cho những đồng minh thổ dân của mình. Anh Quốc triệt thoái khỏi các tiền đồn theo Hiệp định Jay năm 1795, song tiếp tục tiếp tế đạn dược khiến Hoa Kỳ tức giận. Chiến tranh 1812 Chiến tranh năm 1812 diễn ra giữa Hoa Kỳ và Anh Quốc, trong đó các thuộc địa Bắc Mỹ thuộc Anh tham gia ở mức độ lớn. Do Hải quân Hoàng gia Anh vượt trội về hỏa lực, các kế hoạch chiến tranh của Hoa Kỳ tập trung vào một cuộc xâm chiếm Canada (đặc biệt là miền đông và tây nam Ontario hiện nay). Các bang biên giới của Hoa Kỳ ủng hộ chiến tranh nhằm ngăn chặn những vụ đột kích của những dân tộc Trước tiên vốn khiến cho những người định cư tại biên giới thoái trí. Mục tiêu khác có thể sáp nhập Canada. Chiến tranh biên giới với Hoa Kỳ có đặc điểm là một loạt những vụ xâm chiếm thất bại và thảm bại của hai phía. Lực lượng Hoa Kỳ nằm quyền kiểm soát hồ Erie vào năm 1813, đẩy quân Anh khỏi miền tây Ontario, giết thủ lĩnh Da đỏ Tecumseh, và phá vỡ thực lực quân sự của liên minh Tecumseh. Người giám sát bên phía Anh là các sĩ quan như Isaac Brock và Charles de Salaberry, họ nhận được hỗ trợ của các dân tộc Trước tiên và những người đưa tin trung thanh, nổi tiếng nhất là Laura Secord. Chiến tranh kết thúc bằng Hiệp định Ghent năm 1814, và Hiệp định Rush–Bagot năm 1817. Một kết quả nhân khẩu học là người Mỹ di trú chuyển từ Thượng Canada đến Ohio, Indiana và Michigan. Sau chiến tranh, những người ủng hộ Anh Quốc nỗ lực nhằm đàn áp chủ nghĩa cộng hòa tại Canada, vốn phổ biến trong những người Mỹ nhập cư đến Canada. Ký ức bất an về chiến tranh và những vụ Hoa Kỳ xâm chiếm khắc vào tâm trí của người Canada, khiến họ không tin vào ý định của Hoa Kỳ đối với sự hiện diện của Anh Quốc tại Bắc Mỹ.pp. 254–255 Nổi dậy và Báo cáo Durham Các cuộc nổi dậy 1837 nhằm chống lại chính phủ thực dân Anh Quốc diễn ra tại cả Thượng và Hạ Canada. Tại Thượng Canada, một nhóm người Cải cách dưới sự lãnh đạo của William Lyon Mackenzie tiến hành một loạt cuộc chạm trán quanh Toronto, London, và Hamilton, song cuối cùng thất bại. Tại Hạ Canada, hoạt động nổi dậy chống thực dân Anh nhiều hơn đáng kể, với những phiến quân người Canada gốc Anh cũng như gốc Pháp, đôi khi sử dụng những căn cứ lại Hoa Kỳ trung lập, có một số vụ giao tranh với nhà cầm quyền. Các thị trấn Chambly và Sorel rơi vào tay phiến quân, và thành phố Québec bị cô lập với phần còn lại của thuộc địa. Lãnh đạo nổi dậy tại khu vực Montréal là Robert Nelson đọc "Tuyên ngôn Độc lập Hạ Canada" trước quần chúng tập hợp tại thị trấn Napierville vào năm 1838. Cuộc nổi dậy của phong trào ái quốc bị đánh bại sau các trận chiến tại Québec. Hàng trăm người bị bắt giữ, và một số làng bị đốt cháy nhằm trả thù. Chính phủ Anh Quốc phái Bá tước John Lambton xứ Durham đi khảo sát tình hình; ông ở Canada năm tháng rồi trở về Anh Quốc và mang theo Báo cáo Durham, trong đó khuyến khích mạnh mẽ về chính phủ trách nhiệm. Một đề nghị ít được hoan nghênh là hợp nhất Thượng và Hạ Canada nhằm đồng hóa có chủ đích dân cư Pháp ngữ. Hai thuộc địa hợp nhất thành tỉnh Liên hiệp Canada theo Đạo luật Liên hiệp năm 1840, và đạt được chính phủ trách nhiệm vào năm 1848, một vài tháng sau Nova Scotia. Một đám đông Bảo thủ phóng hỏa Quốc hội của Canada tại Montréal vào năm 1849 sau khi Quốc hội thông qua một dự luật bồi thường cho nhân dân chịu tổn thất trong cuộc nổi dậy tại Hạ Canada. Từ Các cuộc chiến tranh của Napoléon đến năm 1850, có khoảng 800.000 người nhập cư đến các thuộc địa của Anh Quốc tại Bắc Mỹ, chủ yếu là từ quần đảo Anh. Họ gồm có những người Scot vùng cao nói tiếng Gael do bị cưỡng ép di dời nên đến Nova Scotia, những người Scotland và người Anh đến Canada, chủ yếu là Thượng Canada. Nạn đói Ireland thập niên 1840 làm gia tăng đáng kể tốc độ nhập cư của người Ireland theo Công giáo đến Bắc Mỹ thuộc Anh, với trên 35.000 người Ireland khốn cùng đổ bộ lên Toronto chỉ trong năm 1847 và 1848. Các thuộc địa Thái Bình Dương Những nhà thám hiểm người Tây Ban Nha là những người châu Âu đầu tiên thám hiểm duyên hải Tây Bắc Thái Bình Dương, với những hành trình của Juan José Pérez Hernández vào năm 1774 và 1775. Vào thời điểm người Tây Ban Nha quyết tâm xây một pháo đài trên đảo Vancouver, nhà hàng hải người Anh James Cook đã đến Nootka Sound và lập hải đồ vùng bờ biển xa đến Alaska. Trong khi đó, những thương nhân da lông thú hàng hải người Anh và Mỹ bắt đầu một thời đại bận rộn trong giao dịch với các dân tộc duyên hải nhằm đáp ứng thị trường da rái cá biển phát đạt tại Trung Quốc, do đó khởi đầu cho điều được gọi là "Mậu dịch Trung Quốc". Năm 1789, giữa Anh Quốc và Tây Ban Nha xảy ra hăm dọa chiến tranh giành quyền lợi; Khủng hoảng Nootka được giải quyết về cơ bản là hòa bình theo hướng có lợi cho Anh Quốc với thực lực hải quân mạnh hơn rất nhiều. Năm 1793, một người Canada làm việc cho Công ty North West tên là Alexander MacKenzie vượt qua lục địa, đến được cửa của sông Bella Coola, hoàn thành chuyến vượt lục địa đầu tiên ở phía bắc Mexico, sau chuyến thám hiểm lập hải đồ của George Vancouver đến khu vực chỉ một vài tuần. Năm 1821, Công ty North West và Công ty Vịnh Hudson hợp nhất, có một lãnh thổ mậu dịch kết hợp được mở rộng theo một giấy phép đối với các khu vực da lông Tây-Bắc, Columbia, New Caledonia, vươn tới Bắc Băng Dương ở phía bắc và Thái Bình Dương ở phía tây. Thuộc địa Đảo Vancouver được cấp quyền vào năm 1849, với thủ đô là trạm mậu dịch tại Fort Victoria. Tiếp theo đó là việc hình thành Thuộc địa Quần đảo Queen Charlotte vào năm 1853, tạo thành Thuộc địa British Columbia vào năm 1858 và Lãnh thổ Stikine vào năm 1861, ba lãnh thổ này được hình thành chỉ nhằm bảo vệ chúng khỏi bị những người đào vàng người Mỹ tràn ngập và sáp nhập. Đến năm 1853, Thuộc địa Quần đảo Queen Charlotte và hầu hết Lãnh thổ Stikine được hợp nhất vào Thuộc địa British Columbia (phần còn lại ở phía bắc vĩ tuyến 60°B trở thành bộ phận của Lãnh thổ Tây-Bắc). Liên minh 72 quyết nghị từ Hội nghị Quebec và Hội nghị Charlottetown năm 1864 đặt khuôn khổ cho việc thống nhất các thuộc địa của Anh Quốc tại Bắc Mỹ thành một liên bang. Các quyết nghị này là nền tảng cho Hội nghị London năm 1866, vốn dẫn đến việc hình thành Quốc gia tự trị Canada vào ngày 1 tháng 7 năm 1867. Thuật ngữ dominion được lựa chọn nhằm biểu thị tình trạng của Canada là một thuộc địa tự trị của Đế quốc Anh, đây là lần đầu tiên nó được sử dụng trong một quốc hiệu. Khi Đạo luật Bắc Mỹ thuộc Anh năm 1867 có hiệu lực, Canada, New Brunswick, và Nova Scotia trở thành một vương quốc liên hợp. Liên bang hình thành từ nhiều nguyên nhân: Anh Quốc muốn Canada tự phòng thủ; khu vực Hàng hải cần liên kết đường sắt; chủ nghĩa dân tộc Canada Anh mưu cầu thống nhất các vùng đất thành một quốc gia, nơi mà tiếng Anh và văn hóa Anh chiếm ưu thế; nhiều người Canada gốc Pháp nhận thấy cơ hội phát huy quyền kiểm soát chính trị trong một Québec mới chủ yếu Pháp ngữpp. 323–324 và lo sợ về khả năng Hoa Kỳ khuếch trương về phía bắc. Trên một cấp độ chính trị, có mong muốn về mở rộng chính phủ trách nhiệm và loại trừ bế tắc lập pháp giữa Thượng và Hạ Canada, và thay thế bằng những nghị viện cấp tỉnh trong một liên bang. Phong trào Cải cách tự do tại Thượng Canada và Parti rouge gốc Pháp tại Hạ Canada đặc biệt xúc tiến việc này, họ ủng hộ một liên bang phi tập trung hóa; trong khi đó đảng Bảo thủ Thượng Canada và ở một mức độ nhất định là Parti bleu tại Hạ Canada ủng hộ một liên bang tập trung hóa. Canada hậu liên minh 1867–1914 Biến thiên lãnh thổ của Canada Năm 1866, Thuộc địa British Columbia và Thuộc địa Đảo Vancouver hợp nhất thành Thuộc địa British Columbia, tồn tại cho đến khi gia nhập Liên bang Canada vào năm 1871. Thuộc địa Hàng hải Đảo Hoàng tử Edward lựa chọn không gia nhập liên bang vào năm 1867, song đến năm 1873 thì sáp nhập với Canada. Cũng trong năm 1873, Thủ tướng Canada John A. Macdonald cho thành lập Kị cảnh Tây-Bắc (nay là Kị cảnh Hoàng gia Canada) nhằm giúp giữ trật tự Các Lãnh thổ Tây Bắc. Nhiệm vụ cụ thể của kị cảnh là khẳng định chủ quyền của Canada trước sự xâm phạm tiềm năng từ Hoa Kỳ vào khu vực có dân cư thưa thớt. Nhiệm vụ quy mô lớn đầu tiên của Kị cảnh là đàn áp phong trào độc lập lần thứ nhì của người lai da trắng-da đỏ Métis tại Manitoba, là dân tộc có nguồn gốc từ giữa thế kỷ 17. Khát vọng độc lập nổ ra trong Nổi dậy sông Red vào năm 1869 và sau đó là Nổi dậy Tây-Bắc vào năm 1885 dưới quyền Louis Riel. Năm 1905, khi Saskatchewan và Alberta được nhận vào liên bang với vị thế là tỉnh, các lãnh thổ này phát triển nhanh chóng nhờ canh tác lúa mì, thu hút người nhập cư Ukraina và Bắc-Trung Âu cũng như từ Hoa Kỳ, Anh Quốc và miền Đông Canada đến các bình nguyên. Tranh chấp biên giới với Alaska căng thẳng kể từ Thương vụ Alaska vào năm 1867, đạt đến đỉnh điểm khi vàng được phát hiện tại Yukon vào cuối thập niên 1890, với việc Hoa Kỳ kiểm soát toàn bộ các cảng có thể tiếp cận. Canada cho rằng biên giới của họ gồm cả cảng Skagway. Tranh chấp được giải quyết vào năm 1903, song phái đoàn Anh Quốc đứng về phía Hoa Kỳ, khiến người Canada tức giận do cảm thấy bị người Anh phản bội lợi ích của Canada để bợ đỡ Hoa Kỳ. Năm 1893, các chuyên gia pháp lý soạn thảo một khuôn khổ cho luật dân sự và hình sự, đỉnh điểm là luật hình sự Canada. Hành động này củng cố quan điểm tự do về "bình đẳng trước pháp luật" theo cách tạo một nguyên tắc trừu tượng cho mỗi hiện thực hữu hình cho mọi người Canada trưởng thành. Thủ tướng thứ bảy của Canada là Wilfrid Laurier (nhiệm kỳ 1896–1911) nhận thấy Canada ở trên bờ để trở thành một cường quốc thế giới, và tuyên bố rằng thế kỷ 20 sẽ "thuộc về Canada" Wilfrid Laurier ký kết một hiệp định hỗ huệ với Hoa Kỳ, theo đó hai bên sẽ giảm thuế quan cho nhau. Đảng Bảo thủ dưới sự lãnh đạo của Robert Borden phản đối hiệp định, nói rằng nó sẽ tích hợp kinh tế Canada vào kinh tế Hoa Kỳ và khiến các quan hệ với Anh Quốc trở nên lỏng lẻo. Đảng Bảo thủ thắng cử trong tuyển cử liên bang năm 1911. Giai đoạn 1914–1945 Chiến tranh thế giới thứ nhất Việc quân đội và thường dân Canada tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất giúp bồi dưỡng một ý tức quốc gia Canada-Anh. Những thành tựu quân sự lớn của Canada trong Chiến tranh thế giới thứ nhất là trong các trận chiến Somme, Vimy, Passchendaele và một hành động quân sự mà sau được gọi là "Một trăm ngày của Canada". Danh tiếng mà binh sĩ Canada đạt được, cùng với thành công của các phi công xuất sắc người Canada gồm William George Barker và Billy Bishop, giúp đem đến cho quốc gia một ý thức mới về bản sắc. Năm 1922, Bộ Chiến tranh Anh Quốc báo cáo Canada có khoảng 67.000 người thiệt mạng và 173.000 người bị thương trong đại chiến. Số liệu này không bao gồm những thường dân thiệt mạng trong các sự kiện thời chiến như Vụ nổ Halifax. Sự hỗ trợ của Canada cho Anh Quốc trong Chiến tranh thế giới thứ nhất dẫn đến một cuộc khủng hoảng chính trị lớn xung quanh chế độ cưỡng bách tòng quân, khi dân cư Pháp ngữ, chủ yếu là từ Québec, cự tuyệt các chính sách quốc gia. Trong cuộc khủng hoảng, một số lượng lớn ngoại kiều từ phía đối địch (đặc biệt là người Ukraina và người Đức) bị đặt dưới quyền kiểm soát của chính phủ. Đảng Tự do phân hóa sâu sắc, hầu hết các lãnh đạo Anh ngữ của đảng này gia nhập chính phủ thống nhất của Thủ tướng Robert Borden- lãnh đạo của đảng Bảo thủ. Đảng Tự do giành lại ảnh hưởng sau chiến tranh dưới sự lãnh đạo của William Lyon Mackenzie King, ông đảm nhiệm chức vụ thủ tướng trong ba nhiệm kỳ riêng biệt từ giữa năm 1921 và 1949. Quyền bầu cử của phụ nữ Phụ nữ có quyền bỏ phiếu tại một số tỉnh, như tại miền Tây tỉnh Canada (nay là Ontario) từ năm 1850, tại đây phụ nữ sở hữu đất có thể bầu ban giám hiệu trường học. Đến khoảng năm 1900, các tỉnh khác áp dụng các quy định tương tự, và đến năm 1916 Manitoba đi đầu trong việc mở rộng đầy đủ quyền bỏ phiếu của phụ nữ. Đồng thời, những người tán thành trao quyền tuyển cử cho nữ giới cũng mạnh mẽ ủng hộ phong trào cấm rượu, đặc biệt là tại Ontario và các tỉnh miền Tây. Đạo luật người bầu cử quân sự năm 1917 trao quyền bầu cử cho nữ giới là góa phụ chiến tranh hoặc có con trai hoặc chồng phục vụ tại hải ngoại. Thủ tướng Robert Borden đích thân cam kết trong chiến dịch bầu cử năm 1917 về quyền tuyển cử bình đẳng cho nữ giới. Sau khi giành thắng lợi, Robert Borden trình một dự luật vào năm 1918 nhằm mở rộng quyền tuyển cử cho nữ giới. Dự luật được thông qua một cách đồng thuận, song không áp dụng cho tuyển cử cấp tỉnh tại Québec và bầu cử cấp đô thị. Nữ giới tại Québec giành được quyền tuyển cử đầy đủ vào năm 1940. Những năm 1920 Trên sân khấu thế giới Nhờ đóng góp cho chiến thắng của Đồng Minh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Canada trở nên quyết đoán hơn và bớt cung kính quyền uy của Anh Quốc. Cho rằng Canada chứng minh được bản thân trên chiến trường châu Âu, Thủ tướng Robert Borden yêu cầu rằng Canada phải có một ghế riêng tại Hội nghị hòa bình Paris năm 1919. Ban đầu, yêu cầu này bị Anh Quốc lẫn Hoa Kỳ phản đối, Hoa Kỳ cho rằng việc này sẽ cho Anh Quốc thêm một phiếu. Thủ tướng Anh Quốc David Lloyd George cuối cùng quyết định nhượng bộ, và thuyết phục người Mỹ chấp thuận sự hiện diện của các phái đoàn từ Canada, Ấn Độ, Úc, Newfoundland, New Zealand và Nam Phi. Các quốc gia tự trị này cũng có ghế trong Hội Quốc Liên. Canada yêu cầu không nhằm đòi bồi thường hay ủy nhiệm, quốc gia này chỉ đóng một vai trò khiêm tốn tại Paris, song việc có một ghế là một vấn đề về niềm kiêu hãnh. Canada lạc quan một cách thận trọng về Hội Quốc Liên mới thành lập, Canada đóng một vai trò tích cực và độc lập trong tổ chức này. Năm 1923, Thủ tướng Anh Quốc David Lloyd George nhiều lần kêu gọi sự ủng hộ của Canada trong cuộc Khủng hoảng Chanak với Thổ Nhĩ Kỳ, song Canada khước từ. Bộ Ngoại giao Canada khuếch trương và xúc tiến quyền tự chủ của Canada khi Canada giảm phụ thuộc vào những nhà ngoại giao Anh Quốc và sử dụng phục vụ đối ngoại riêng. Năm 1931, Quốc hội Anh Quốc thông qua Đạo luật Westminster, trao cho mỗi quốc gia tự trị cơ hội được độc lập gần như hoàn toàn về mặt lập pháp khỏi Luân Đôn. Newfoundland chưa từng thông qua đạo luật, song đối với Canada, Đạo luật Westminster trở thành tuyên ngôn độc lập của quốc gia. Đối nội Từ năm 1921 đến 1926, chính phủ Tự do của William Lyon Mackenzie King theo đuổi một chính sách đối nội bảo thủ nhằm mục đích giảm thuế từ thời chiến và đặc biệt là làm dịu căng thẳng sắc tộc từ thời chiến, cũng như xoa dịu xung đột lao động hậu chiến. Những người Cấp tiến từ chối tham gia chính phủ, song giúp Đảng Tự do đánh bại các đề nghị bất tín nhiệm. William Lyon Mackenzie King đối diện với việc phải có hành động cân bằng một cách tinh tế nhằm giảm thuế vừa đủ để làm hài lòng những người Cấp tiến có căn cứ tại khu vực Thảo nguyên, song không được quá nhiều để tránh mất đi sự ủng hộ sống còn của ông tại các tỉnh công nghiệp là Ontario và Québec, vốn cần thuế quan để cạnh tranh với hàng nhập khẩu từ Hoa Kỳ. William Lyon Mackenzie King và lãnh đạo Bảo thủ Arthur Meighen tranh luận liên miên và quyết liệt. Nhà cải cách xã hội J.S. Woodsworth dần giành được ảnh hưởng và quyền lực trong Đảng Cấp tiến, và ông đạt được một dàn xếp với William Lyon Mackenzie King về các vấn đề chính sách. Năm 1926, Thủ tướng William Lyon Mackenzie King kiến nghị Toàn quyền Julian Byng giải tán Quốc hội và yêu cầu tuyển cử, song Julian Byng khước từ, đây là lần đầu tiên Toàn quyền thi hành một quyền lực như vậy. Thay vào đó, Julian Byng yêu cầu lãnh đạo đảng Bảo thủ là Arthur Meighen thành lập một chính phủ. Tuy nhiên, Arthur Meighen không thể giành được đa số trong Hạ viện, rồi ông cũng kiến nghị giải tán Quốc hội và được chấp thuận. Sự kiện này đánh dấu một khủng hoảng hiến pháp được giải quyết theo một truyền thống mới, theo đó chính phủ Anh Quốc hoàn toàn không can thiệp vào chính sự của Canada. Đại suy thoái Canada bị ảnh hưởng mạnh từ Đại suy thoái toàn cầu vốn bắt đầu từ năm 1929. Từ năm 1929 đến năm 1933, tổng sản phẩm quốc nội giảm 40% (so với 37% tại Hoa Kỳ). Tỷ lệ thất nghiệp đạt 27% vào đáy của Đại suy thoái năm 1933. Theo điều tra năm 1931, tỷ lệ thất nghiệp đô thị trên toàn quốc là 19%, những nông dân ở tại trang trại của họ không được tính là thất nghiệp. Năm 1930, trong giai đoạn đầu của Đại suy thoái, Thủ tướng William Lyon Mackenzie King cho rằng cuộc khủng hoảng là biến động tạm thời của chu kỳ kinh doanh và rằng kinh tế sẽ sớm phục hồi mà không cần chính phủ can thiệp. Ông từ chối cung cấp trợ cấp thất nghiệp hay viện trợ liên bang cho các tỉnh. Richard Bedford Bennett và Đảng Bảo thủ giành thắng lợi trong tổng tuyển cử năm 1930, Bennett hứa hẹn về thuế quan cao và chi tiêu quy mô lớn, song do thâm hụt gia tăng nên ông trở nên thận trọng và cắt giảm mạnh chi tiêu liên bang. Mất đi sự ủng hộ và suy thoái trầm trọng thêm, Bennett cố gắng đưa vào các chính sách dựa trên New Deal của Tổng thống Franklin D. Roosevelt tại Hoa Kỳ, song ít được thông qua. Sự thất bại của Đảng Bảo thủ trong việc khôi phục sự thịnh vượng dẫn đến việc Đảng Tự do của Mackenzie King chiến thắng trong tổng tuyển cử năm 1935. Chính phủ Mackenzie King thông qua Hiệp định mậu dịch tương hỗ với Hoa Kỳ vào năm 1935, đánh dấu bước ngoặt trong quan hệ kinh tế Canada-Hoa Kỳ, đảo nghịch chiến tranh mậu dịch thảm khốc hồi 1930-31, giảm thuế quan, và lợi nhuận tăng đáng kể trong mậu dịch. Cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất đã qua vào năm 1935, khi Ottawa đưa ra các chương trình cứu trợ như Đạo luật Nhà ở Quốc gia và Ủy ban Việc làm Quốc gia. Canadian Broadcasting Corporation trở thành Crown Corporation vào năm 1936. Trans-Canada Airlines (tiền thân của Air Canada) được thành lập vào năm 1937, cũng như National Film Board of Canada vào năm 1939. Năm 1938, Quốc hội đã chuyển đổi Ngân hàng Canada từ một tổ chức tư nhân thành một công ty chính thức. Một phản ứng chính trị là chính sách nhập cư hạn chế cao và sự gia tăng chủ nghĩa nativ. Thời gian đặc biệt khó khăn ở miền tây Canada, nơi mà sự phục hồi hoàn toàn không xảy ra cho đến khi Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu vào năm 1939. Một phản ứng là việc thành lập các đảng chính trị mới như phong trào tín dụng xã hội và Liên đoàn thịnh vượng chung hợp tác, cũng như cuộc biểu tình phổ biến dưới hình thức Chuyến đi tới Ottawa. Quy chế của Westminster Sau Tuyên bố Balfour năm 1926, Quốc hội Anh đã thông qua Quy chế của Westminster vào năm 1931, trong đó thừa nhận Canada là đồng phạm với Vương quốc Anh và Vương quốc thịnh vượng chung. Đó là một bước quan trọng trong sự phát triển của Canada với tư cách là một tiểu bang riêng biệt, trong đó nó cung cấp quyền tự chủ lập pháp gần như hoàn toàn từ Nghị viện Vương quốc Anh. Mặc dù Vương quốc Anh vẫn giữ thẩm quyền chính thức đối với một số thay đổi hiến pháp của Canada, nhưng Vương quốc Anh đã từ bỏ thẩm quyền này khi thông qua Đạo luật Canada 1982, đây là bước cuối cùng để đạt được chủ quyền hoàn toàn. Chiến tranh thế giới thứ hai Canada bắt đầu tham dự Chiến tranh thế giới thứ hai khi tuyên chiến với Đức Quốc xã và ngày 10 tháng 9 năm 1939, chậm một tuần sau khi Anh Quốc tuyên chiến nhằm biểu thị tương trưng về tính độc lập. Đại chiến khôi phục tình hình kinh tế và sự tự tin của Canada khi mà quốc gia này đóng một vai trò lớn tại Đại Tây Dương và tại châu Âu. Trong chiến tranh, Canada trở nên liên kết chặt chẽ hơn với Hoa Kỳ. Hoa Kỳ nắm quyền kiểm soát thực tế tại Yukon nhằm xây dựng Xa lộ Alaska, và có sự hiện diện lớn tại Newfoundland với những căn cứ không quân lớn. Sau khi bắt đầu chiến tranh với Nhật Bản vào tháng 12 năm 1941, chính phủ Canada bắt đầu bắt giữ người Canada gốc Nhật, đưa 22.000 dân cư British Columbia gốc Nhật đến các trại nằm xa bờ biển. Nguyên nhân của hành động này là yêu cầu mạnh mẽ từ quần chúng và lo sợ về tình báo hoặc phá hoại. Leonard W. Murray chỉ huy lực lượng Canada trong trận chiến Đại Tây Dương. Các tàu ngầm của Đức hoạt động tại vùng biển Canada và Newfoundland trong suốt đại chiến, đánh chìm nhiều chiến thuyền và thương thuyền do Canada chịu trách nhiệm phòng thủ miền Tây Đại Tây Dương. Quân đội Canada tham dự phòng thủ Hồng Kông, đột kích Dieppe bất thành vào tháng 8 năm 1942, Đồng Minh xâm nhập Ý, và xâm nhập Pháp cùng Hà Lan năm 1944-45. Khủng hoảng tòng quân 1944 ảnh hưởng rất lớn đến tính thống nhất giữa những người Canada Pháp ngữ và Anh ngữ, song không phải là xâm phạm về mặt chính trị như trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trong tổng cộng 11,5 triệu dân Canada, 1,1 triệu người phục vụ trong quân đội trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Tổng cộng, Canada chịu tổn thất 45.000 nhân mạng, và có 55.000 người bị thương. Thời kỳ hậu chiến (1945–1960) Canada phục hồi sự thịnh vượng trong Chiến tranh thế giới thứ hai và tiếp tục trong nhiều năm sau, với sự phát triển của y tế toàn dân, lương hưu trí, và trợ cấp cựu chiến binh. Khủng hoảng tài chính trong Đại suy thoái khiến cho Quốc gia tự trị Newfoundland từ bỏ chính phủ trách nhiệm vào năm 1934 và trở thành một thuộc địa vương thất với một thống đốc Anh Quốc. Năm 1948, chính phủ Anh Quốc trao cho cử tri Newfoundland ba lựa chọn trong trưng cầu dân ý. Sau khi tranh luận gay gắt, người Newfoundland bỏ phiếu gia nhập Canada vào năm 1949 với vị thế một tỉnh. Chính sách đối ngoại của Canada trong Chiến tranh Lạnh là liên kết chặt chẽ với Hoa Kỳ. Canada là một thành viên sáng lập của NATO (tổ chức mà Canada cũng muốn trở thành một liên minh kinh tế và chính trị xuyên Đại Tây Dương). Năm 1950, Canada gửi bộ đội tác chiến đến tham dự Chiến tranh Triều Tiên với vị thế là bộ phận của lực lượng Liên Hợp Quốc. Khát vọng của chính phủ liên bang nhằm khẳng định tuyên bố chủ quyền lãnh thổ tại khu vực Bắc Cực trong Chiến tranh Lạnh được biểu thị thông qua tái định cư High Arctic, trong đó người Inuit được chuyển từ Nunavik (thuộc Québec) đến đảo Cornwallis khô cằn; Năm 1956, Liên Hợp Quốc phản ứng với Khủng hoảng Suez bằng việc triệu tập một Lực lượng khẩn cấp Liên Hợp Quốc đi giám sát việc triệt thoái của các lực lượng xâm chiếm. Lực lượng gìn giữ hòa bình được khái niệm hóa ban đầu bởi Bộ trưởng Ngoại giao đương thời là Lester B. Pearson. Trong suốt thập niên 1950, Thủ tướng Louis St. Laurent và người kế nhiệm là John Diefenbaker nỗ lực nhằm tạo ra một loại máy bay tiêm kích mới, tiên tiến cao độ là Avro Arrow. Năm 1958, Canada cùng với Hoa Kỳ thiết lập Bộ tư lệnh phòng không Bắc Mỹ (NORAD). 1960–1981 Trong thập niên 1960, sự kiện được gọi là Cách mạng yên tĩnh diễn ra tại Québec, lật đổ tổ chức cũ vốn tập trung vào Tổng giáo phận Québec của Giáo hội Công giáo và dẫn đến hiện đại hóa kinh tế và xã hội. Những người Québec dân tộc chủ nghĩa yêu cầu độc lập, và căng thẳng gia tăng đến khi bạo lực bùng nổ trong Khủng hoảng Tháng Mười năm 1970. Năm 1976, Đảng người Québec lên nắm quyền tại Québec thông qua bầu cử, với một quan điểm dân tộc chủ nghĩa mà theo đó bảo đảm quyền ngôn ngữ Pháp trong tỉnh và mưu cầu một hình thức chủ quyền cho Québec. Trong trưng cầu dân ý năm 1980 tại Quebec về vấn đề chủ quyền-liên kết, có 59% cử tri bác bỏ. Năm 1965, Canada thông qua quốc kỳ lá phong, mặc dù có những tranh luận và nghi ngại đáng kể trong một lượng lớn người Canada gốc Anh. Hạn chế pháp lý nhằm thiên vị người Anh Quốc và những người nhập cư châu Âu khác được sửa đổi trong thập niên 1960, mở cửa cho người nhập cư từ mọi nơi trên thế giới. Trong khi vào thập niên 1950 chứng kiến hiện tượng nhập cư ở mức độ cao từ Anh Quốc, Ireland, Ý, và miền bắc châu Âu lục địa, thì đến thập niên 1970 ngày càng có nhiều người nhập cư đến từ Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam, Jamaica và Haiti. Người nhập cư có xu hướng định cư tại các trung tâm đô thị lớn, đặc biệt là Toronto, Montréal và Vancouver. Trong suốt nhiệm kỳ của mình, Thủ tướng Pierre Trudeau lấy thay đổi về xã hội và văn hóa làm những mục tiêu chính trị của mình, bao gồm cả mưu cầu song ngữ chính thức tại Canada và các kế hoạch nhằm sửa đổi hiến pháp. Ở miền Tây, đặc biệt là những tỉnh sản xuất dầu thô như Alberta, phản đối nhiều chính sách do Trung ương Canada ban hành, như Chương trình năng lượng quốc gia gây ra sự phản đối đáng kể và gia tăng dị hóa miền Tây. Đa văn hóa tại Canada được thông qua với tư cách là chính sách chính thức của chính phủ Canada trong nhiệm kỳ thủ tướng của Pierre Trudeau. 1982–1992 Năm 1982, Quốc hội Anh Quốc thông qua Đạo luật Canada, được Nữ vương Elizabeth II ban ngự chuẩn vào ngày 29 tháng 3; còn Đạo luật Hiến pháp được Quốc hội Canada thông qua và được Nữ vương ban ngự chuẩn vào ngày 17 tháng 4, do đó chuyển giao quyền kiểm soát Hiến pháp Canada. Trước đó, hiến pháp chỉ tồn tại như một đạo luật do quốc hội Anh Quốc thông qua, song nó không thể được sửa đổi nếu Canada không tán thành. Chính phủ Bảo thủ Cấp tiến của Brian Mulroney bắt đầu những nỗ lực nhằm đạt được sự ủng hộ của Québec đối với Đạo luật Hiến pháp 1982 và chấm dứt dị hóa miền tây. Năm 1987, các cuộc thương lượng về Hòa ước Meech Lake bắt đầu giữa các chính phủ cấp tỉnh và liên bang, tìm kiếm những thay đổi hiến pháp thuận lợi cho Québec. Quá trình cải cách hiến pháp dưới thời Thủ tướng Mulroney lên đến đỉnh điểm với thất bại của Hòa ước Charlottetown vốn công nhận Québec là một "xã hội riêng biệt" song bị từ chối vào năm 1992 với số dư hẹp. Dưới thời Brian Mulroney, quan thệ với Hoa Kỳ bắt đầu phát triển tích hợp chặt chẽ hơn. Năm 1989, chính phủ Canada thông qua hiệp định thương mại tự do với Hoa Kỳ bất chấp những lo ngại về tác động kinh tế và văn hóa khi kết hợp chặt chẽ với Hoa Kỳ. Tháng 8 năm 1990, Canada là một trong những quốc gia đầu tiên chỉ trích sự kiện Iraq xâm chiếm Kuwait, và chấp thuận tham gia liên minh do Hoa Kỳ lãnh đạo. Lịch sử gần đây (1992 đến nay) Sau khi Mulroney từ chức thủ tướng vào năm 1993, Kim Campbell lên nắm quyền và trở thành nữ thủ tướng đầu tiên của Canada. Campbell chỉ tại vị trong vài tháng do Đảng Bảo thủ Cấp tiến đại bại trong tổng tuyển cử năm 1993, trong khi khối người Québec trở thành đảng đối lập chính thức. Thủ tướng Jean Chrétien của Đảng Tự do nhậm chức vào tháng 11 năm 1993 với một chính phủ đa số và tái đắc cử với đa số phiếu trong tổng tuyển cử năm 1997 và 2000. Năm 1995, chính phủ Québec tổ chức trưng cầu dân ý lần thứ nhì về chủ quyền, đề xuất độc lập bị bác bỏ với 50,6% so với tỷ lệ ủng hộ là 49,4%. Năm 1998, Tòa án Tối cao Canada phán quyết rằng đơn phương ly khai của một tỉnh là vi hiến, và Quốc hội thông qua Đạo luật Minh bạch để phác thảo các điều khoản của một sự khởi đầu đàm phán. Canada trở thành quốc gia thứ tư trên thế giới và quốc gia đầu tiên tại châu Mỹ hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính trên toàn quốc khi ban hành Đạo luật Hôn nhân dân sự vào năm 2005. Liên minh Canada và Đảng Bảo thủ Cấp tiến sáp nhập thành Đảng Bảo thủ Canada vào năm 2003. Đảng thắng cử hai lần vào năm 2006 và 2008 và hình thành một chính phủ thiểu số dưới quyền lãnh đạo của Stephen Harper. Đảng Bảo thủ giành đa số trong tổng tuyển cử liên bang năm 2011, Đảng Tân Dân chủ lần đầu tiên tạo thành đối lập chính thức. Dưới sự lãnh đạo của Stephen Harper, Canada và Hoa Kỳ tiếp tục hợp nhất các cơ quan quốc gia và cấp tỉnh nhằm tăng cường an ninh dọc theo biên giới thông qua Sáng kiến lữ hành Tây Bán cầu. Canada tham dự Chiến tranh vùng Vịnh năm 1990 với vị thế là một phần trong lực lượng liên minh do Hoa Kỳ lãnh đạo, và hoạt động trong một số sứ mệnh gin giữ hòa bình trong thập kỷ 1990, bao gồm sứ mệnh UNPROFOR tại Nam Tư cũ. Canada cử quân đến Afghanistan vào năm 2001, song từ chối tham gia cuộc xâm chiếm Iraq do Hoa Kỳ dẫn đầu vào năm 2003. Năm 2009, kinh tế Canada chịu tổn thất trong Đại suy thoái toàn cầu, song phục hồi một cách khiêm tốn. Năm 2011, các lực lượng của Canada tham gia vào cuộc can thiệp do NATO dẫn đầu trong Nội chiến Libya. Lịch sử học Cuộc chinh phục nước Pháp mới luôn là chủ đề trọng tâm và gây tranh cãi trong trí nhớ của người Canada. Cornelius Jaenen lập luận: Cuộc chinh phục vẫn là một chủ đề khó đối với các nhà sử học người Canada gốc Pháp vì nó có thể được coi là một thảm họa về mặt kinh tế và ý thức hệ hoặc là một sự can thiệp tình cờ để cho phép người Canada duy trì ngôn ngữ và tôn giáo của họ dưới sự cai trị của Anh. Đối với hầu như tất cả các nhà sử học Anglophone, đó là một chiến thắng cho ưu thế quân sự, chính trị và kinh tế của Anh mà cuối cùng sẽ chỉ có lợi cho những người bị chinh phục. Các nhà sử học của những năm 1950 đã cố gắng giải thích sự kém cỏi kinh tế của người Pháp-Canada bằng cách lập luận rằng Cuộc chinh phục: Ở một cực khác, là những nhà sử học Pháp ngữ nhìn thấy lợi ích tích cực của việc cho phép bảo tồn ngôn ngữ, tôn giáo và phong tục truyền thống dưới sự cai trị của Anh. Các cuộc tranh luận của người Canada ở Pháp đã leo thang kể từ những năm 1960, vì Cuộc chinh phục được coi là thời điểm quan trọng trong lịch sử chủ nghĩa dân tộc của Québec. Nhà sử học Jocelyn Létourneau cho rằng vào thế kỷ 21, "1759 chủ yếu không thuộc về quá khứ mà chúng ta có thể muốn nghiên cứu và hiểu, mà là hiện tại và tương lai mà chúng ta có thể muốn định hình và kiểm soát." Mặt khác, các nhà sử học Anglophone miêu tả Cuộc chinh phạt là một chiến thắng cho sự vượt trội về quân sự, chính trị và kinh tế của Anh vốn là lợi ích lâu dài cho người Pháp. Allan Greer cho rằng lịch sử Whig đã từng là phong cách thống trị của các học giả. Anh ấy nói: các kế hoạch diễn giải đã thống trị việc viết sử của Canada trong những thập kỷ giữa của thế kỷ XX được xây dựng dựa trên giả định rằng lịch sử có một hướng và dòng chảy rõ ràng. Canada đã hướng tới một mục tiêu trong thế kỷ XIX; cho dù điểm cuối này là việc xây dựng một liên minh xuyên lục địa, thương mại và chính trị, sự phát triển của chính phủ nghị viện, hay sự bảo tồn và phục sinh của Canada thuộc Pháp, thì đó chắc chắn là một Điều tốt. Vì vậy, những người nổi dậy năm 1837 đã hoàn toàn đi sai hướng. Họ thua bởi vì họ phải thua; họ không chỉ đơn giản là bị áp đảo bởi sức mạnh vượt trội, họ đã bị trừng phạt một cách chính đáng bởi Thần Lịch sử.
Lãnh thổ Việt Nam qua từng thời kỳ là sự biến đổi không gian sinh tồn của người Việt. Sự biến đổi này mang tính chất phức tạp, lúc bị mất lãnh thổ về các nhà nước khác, lúc xâm chiếm chinh phục được lãnh thổ mới. Vùng lãnh thổ cốt lõi ban đầu của người Việt là vùng châu thổ sông Hồng, sau nhiều thế kỷ chinh phục, đồng hóa, khai khẩn mà lãnh thổ đã trải dài đến vùng đồng bằng sông Cửu Long ngày nay. Đến nay, diện tích lãnh thổ đã mở rộng ra hơn 3 lần so với ban đầu vào thế kỷ 10. Bên cạnh sự mở rộng về lãnh thổ đất liền trong nhiều thế kỷ, người Việt cũng từng bước mở rộng quyền sở hữu, kiểm soát và khai thác lãnh thổ trên biển–đảo (lãnh hải) xung quanh mình. Phạm vi đó kéo dài từ vịnh Bắc Bộ đến vịnh Thái Lan, dài hơn 3.400 km, với khoảng 4.000 hòn đảo lớn nhỏ gần bờ và ngoài khơi xa. Bản đồ thay đổi lãnh thổ Việt Nam trong lịch sử Thời Hồng Bàng Một số sử liệu và huyền thoại cho rằng vào đầu thời kỳ Hồng Bàng, bộ tộc Việt có lãnh thổ rộng lớn từ phía nam sông Dương Tử (Trung Quốc) đến vùng Thanh Hóa. Bộ tộc Bách Việt có nguồn gốc từ nước Xích Quỷ do Lạc Long Quân lập nên, từ khi phân tán thì trở thành nhiều bộ tộc khác nhỏ hơn, hay gọi chung tộc là Bách Việt. Văn Lang Nước Văn Lang của bộ tộc Lạc Việt hình thành trên vùng bình nguyên bao gồm đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Mã và đồng bằng sông Lam. Âu Lạc Thục Phán – vua của người Âu Việt (nước Tây Âu), sau khi chiếm được Văn Lang đã sáp nhập vào đất của mình tạo thành Âu Lạc, nước Âu Lạc có lãnh thổ từ phía nam sông Tả Giang (Quảng Tây, Trung Quốc) kéo xuống dãy Hoành Sơn (Hà Tĩnh). Thời Bắc thuộc Nếu coi nhà Triệu (207 – 111 TCN) là một phần của hệ thống phân chia lịch sử thời kỳ Bắc thuộc lần 1 thì lãnh thổ Việt Nam thuộc nước Nam Việt của 5 đời vua Triệu. Năm 111 TCN, nhà Triệu mất nước về tay nhà Hán. Sau đó lãnh thổ Nam Việt cũ bị chia thành 6 quận, đồng thời xác lập thêm đất 3 quận mới là Nhật Nam, Chu Nhai, Đạm Nhĩ: Nam Hải (nay là tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc) Thương Ngô (nay thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc) Uất Lâm (nay thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc) Hợp Phố (nam Quảng Tây và tây nam Quảng Đông ngày nay) Chu Nhai (thuộc đảo Hải Nam ngày nay) Đạm Nhĩ (thuộc đảo Hải Nam ngày nay) Giao Chỉ (nay là miền Bắc Việt Nam và phía đông Quảng Tây) Cửu Chân (nay là 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh) Nhật Nam (từ Đèo Ngang đến Quảng Nam) Lãnh thổ của dân tộc Việt thời kỳ này, trong sự cai quản của chính quyền trung ương các triều đại Trung Hoa, tiến về phía nam đến vùng Hà Tĩnh hiện nay, thỉnh thoảng các quan cai trị Giao Chỉ (hoặc Giao Châu) tiến xuống phía nam đánh Chiêm Thành và đưa thêm vùng đất từ đèo Ngang đến đèo Hải Vân vào cai trị nhưng không giữ được lâu vì sau đó Chiêm Thành thường lấy lại được. Hán thư ghi nhận quận Nam Hải gồm có 6 huyện: Phiên Ngung, Trung Túc, Bác La, Long Xuyên, Tứ Hội, Yết Dương. Quận Uất Lâm gồm có 12 huyện: Bố Sơn, An Quảng, Hà Lâm, Quảng Đô, Trung Lưu, Quế Lâm, Đàm Trung, Lâm Trần, Định Chu, Lĩnh Phương, Tăng Thực, Ung Kê. Quận Thương Ngô gồm có 10 huyện: Quảng Tín, Tạ Mộc, Cao Yếu, Phong Dương, Lâm Hạ, Đoan Khê, Phùng Thừa, Phú Xuyên, Lệ Phổ, Mãnh Lăng. Quận Hợp Phố gồm có 5 huyện: Từ Văn, Cao Lương, Hợp Phố, Lâm Doãn, Chu Lô. Quận Giao Chỉ gồm có 10 huyện: Liên Lâu, An Định, Câu Lậu, Mê Linh, Khúc Dương, Bắc Đái. Kê Tử, Tây Vu, Long Biên, Chu Diên. Quận Cửu Chân gồm có 7 huyện: Tư Phố, Cư Phong, Đô Lung, Dư Phát, Hàm Hoan, Vô Thiết (hay Vô Biên), Vô Biên. Quận Nhật Nam do nhà Hán mới đặt sau khi đánh chiếm Nam Việt, gồm có 5 huyện: Chu Ngô, Tây Quyển, Lô Dung, Ty Ảnh và Tượng Lâm. Thời nhà Tân, Vương Mãng đổi gọi là Nhật Nam đình. Bốn quận Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô và Hợp Phố cũng thuộc nước Nam Việt thời nhà Triệu và trực thuộc bộ Giao Chỉ thời Tây Hán nhưng lãnh thổ đều nằm bên ngoài Việt Nam hiện nay. Năm 40 Công nguyên, Thái thú Giao Chỉ tên là Tô Định cai trị hà khắc dẫn tới việc Hai Bà Trưng khởi binh chống lại nhà Đông Hán. Các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng. Hai bà lấy được 65 thành ở vùng Lĩnh Nam. Tuy nhiên cuộc khởi nghĩa nhanh chóng bị dập tắt bởi tướng Mã Viện năm 43 CN. Nhà nước Vạn Xuân Sau khi Lý Bí đánh đuổi quân Lương, ông xưng là hoàng đế và đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Uyên. Giành chiến thắng trước quân Lương, toàn bộ đất Giao Châu (gồm Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ của Việt Nam ngày nay và một phần đất Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Quốc) đều thuộc quyền kiểm soát của nhà Tiền Lý). Vạn Xuân tồn tại đến năm 602 thì Lý Phật Tử bị nhà Tùy đánh bại và đô hộ Việt Nam một lần nữa, bắt đầu thời kỳ Bắc thuộc lần 3. Thời phong kiến tự chủ Sau khi Khúc Thừa Dụ tự xưng là Tiết độ sứ của Tĩnh Hải quân năm 905, Việt Nam bắt đầu thời kỳ độc lập tự chủ. Lãnh thổ Tĩnh Hải quân gồm 12 châu là: Giao Lục Phúc Lộc Phong Thang Trường Chi Vũ Nga Vũ An Ái Hoan Diễn Việt Nam chính thức bước vào kỷ nguyên độc lập từ khi Ngô Quyền đánh bại nhà Nam Hán vào năm 938. Tuy nhiên lãnh thổ bị co lại chỉ còn 8 châu: Giao, Lục, Phúc Lộc, Phong, Trường, Ái, Hoan, Diễn. 4 châu bị Nam Hán chiếm là Thang, Chi, Vũ Nga và Vũ An. Năm 968, Đinh Tiên Hoàng đặt quốc hiệu trở lại sau hơn 400 năm, là Đại Cồ Việt, sau đó Lý Thánh Tông đổi tên nước là Đại Việt năm 1054. Lãnh thổ Việt Nam thời kỳ đầu độc lập bao gồm khu vực Bắc Bộ và 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, tương đương với lãnh thổ truyền thuyết nước Văn Lang của các vua Hùng. Sáp nhập Tây-Bắc Vùng Tây Bắc vốn thuộc các châu ki mi của An Nam đô hộ phủ, bị Nam Chiếu đánh chiếm cuối thế kỷ IX. Năm 1014-1015, tướng nước Đại Lý là Đoàn Kính Chí đem quân vào chiếm đóng châu Vị Long (Vị Xuyên Hà Giang và Tụ Long) và châu Đô Kim, Bình Nguyên (nay là Bắc Quang, Hàm Yên thuộc Tuyên Quang), vua Lý Thái Tổ sai em trai là Dực Thánh vương đi đánh dẹp, quân Đại Lý đại bại, nhân cơ hội đó nhà Lý sáp nhập luôn khu vực ngày nay là Hà Giang vào Đại Việt. Năm 1158-1159, nhân khi nước Đại Lý suy yếu, vua Lý Anh Tông và Tô Hiến Thành đã tiến hành thu phục vùng đất của các tù trưởng dân tộc thiểu số người Thái (châu Văn Bàn, châu Thủy Vĩ) ở bắc Yên Bái, nam Lào Cai vào lãnh thổ Đại Việt. Đại Việt sử ký tiền biên viếtː tháng 5 năm Mậu Dần (1158), Ngưu Hống và Ai Lao làm phản. trước đây Ngưu Hống từng dâng voi, hươu,... đến bây giờ làm phản, vua sai Tô Hiến Thành đi đánh... Năm 1280, Trần Nhân Tông sai Trần Nhật Duật coi giữ đạo Đà Giang, đi thu phục Trịnh Giác Mật ở đạo Đà Giang (vùng sông Đà thuộc khoảng các huyện Đà Bắc và Cao Phong tỉnh Hòa Bình ngày nay). Năm 1294, thượng hoàng Trần Nhân Tông, cùng Phạm Ngũ Lão, đi đánh bại Ai Lao thu nạp đất đai. Năm 1297, Trần Anh Tông sai Trần Nhật Duật đánh A Lộc (Ai Lao), Trần Quốc Tảng đánh Sầm Tử, Phạm Ngũ Lão đánh tan Ai Lao thu lại đất cũ ở sông Chàng Long. Năm 1301, Phạm Ngũ Lão đánh Ai Lao ở Mường Mai (Châu Mai, nay là đất Mai Châu). Các vùng đất thu nạp được thời kỳ này nhà Trần đặt làm huyện Mông đạo Đà Giang, đến thời thuộc Minh là đất hai huyện Mông và Tư Mang, sang thời nhà Lê sơ là toàn bộ châu Mộc (Mộc Châu (nay là Mộc Châu, Vân Hồ), Đà Bắc, Mã Nam) và châu Mai phủ Gia Hưng. Năm 1329, thượng hoàng Trần Minh Tông đi đánh mán Ngưu Hống ở Mang Việt đạo Đà Giang thu nạp đất châu Yên (Mang Việt), Phù Hoa, Mường Mỗi (châu Thuận) là các vùng đất nay là các huyện Yên Châu, Phù Yên, Thuận Châu, Tuần Giáo, thành phố Sơn La, Mai Sơn của tỉnh Sơn La. Theo Minh sử, năm 1405, Đèo Cát Hãn dâng sớ lên triều đình nhà Minh tố cáo nhà Hồ đánh chiếm 7 trại Mãnh Man thuộc châu Ninh Viễn dưới quyền Đèo Cát Hãn, vốn thuộc phủ Lâm An của tỉnh Vân Nam, giết con rể của ông, bắt con gái của ông để khống chế. Trong các nguyên do mà nhà Minh viện ra khi sang đánh nhà Hồ có lý do này. Nhà Hồ lúc đó yếu thế phải trả lại Đèo Cát Hãn các trại này. Châu Ninh Viễn đến thời Lê sơ gọi là Mường Lễ. Đến năm 1431, Lê Lợi thu phục Đèo Cát Hãn, có thêm châu Phục Lễ (Mường Lễ), vùng thượng lưu sông Đà do Đèo Cát Hãn cai quản, từng là châu Ninh Viễn của Vân Nam, nhập về. Mường Lễ sau đổi Thành Phục Lễ phủ An Tây gồmː đất Mường Lễ (châu Lai), Tuy Phụ (Mường Tè), Hoàng Nham (Mường Toong, Mường Nhé), Chiêu Tấn (Phong Thổ), Lễ Tuyền (Mường Boum), Hợp Phì (Xiềng My, nay là Giả Mễ huyện Kim Bình, Vân Nam), Khiêm Châu (Mường Tinh), Quảng Lăng (Mường La, nay là Mường Lạp huyện Kim Bình, Vân Nam), Tung Lăng (Phù Phang), Luân Châu (Mường Báng), Quỳnh Nhai (Mường Chăn). Năm 1467, Lê Thánh Tông thu nạp vùng sách Câu Lộng (Mã Giang) từ Ai Lao (nay là khoảng huyện Sông Mã tỉnh Sơn La). Năm 1478, vua Lê Thánh Tông, sau khi thu phục tiểu vương quốc Bồn Man đã sáp nhập vùng phía tây Sơn La (thượng lưu sông Mã, nay là khoảng các huyện Sốp Cộp, Sông Mã tỉnh Sơn La), các huyện phía tây Thanh Hóa, Nghệ An và tỉnh Hủa Phăn của Lào ngày nay vào đất Đại Việt. Năm 1768–1769, quân nhà Lê-Trịnh, tiến đánh Hoàng Công Chất cát cứ Mường Thanh của Lào Lung, thu nạp đất này lập ra châu Ninh Biên (Điện Biên Phủ) thuộc trấn Hưng Hóa. Quá trình Nam tiến Các triều đại quân chủ của Việt Nam liên tục mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam. Nhà Lý Năm 1069, Lý Thánh Tông nam chinh đánh Chiêm Thành và bắt được vua Chiêm là Chế Củ (Jaya Rudravarman), đem về Thăng Long. Để được tha vua Chiêm đã cắt vùng đất phía bắc Chiêm Thành gồm ba châu Bố Chính, Ma Linh, Địa Lý cho Đại Việt. Những châu ấy nay ở địa hạt các huyện Quảng Ninh, Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hoá, Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình và huyện Bến Hải tỉnh Quảng Trị. Nhà Trần Năm 1306 vua Chế Mân (Jaya Simhavarman) của Chiêm Thành cắt đất hai châu Ô và Rí cho vua Trần Anh Tông để làm sính lễ cưới công chúa Huyền Trân của Đại Việt, vùng đất mà ngày nay là nam Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế. Biên giới phía nam của Đại Việt lúc này tiến đến đèo Hải Vân. Nhà Hậu Lê Năm 1471 vua Lê Thánh Tông đưa 20 vạn quân tiến đánh vào kinh đô Vijaya (Bình Định) của Chiêm Thành, kinh đô Vijaya bị thất thủ. Lê Thánh Tông đã sáp nhập vùng đất bắc Chiêm Thành vào Đại Việt (ngày nay là 3 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định). Phần đất còn lại của Chiêm Thành vua Lê Thánh Tông đã chia làm 3 vương quốc và giao cho tướng, hoàng thân còn lại của Chiêm Thành trấn giữ và có nghĩa vụ triều cống Đại Việt. Đến năm 1471 lãnh thổ phía nam của Đại Việt tiến đến đèo Cù Mông (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên ngày nay). Suốt 5 thế kỷ chiến tranh với Đại Việt kể từ khi nước này giành được độc lập (năm 938), Champa không ngừng mất dần lãnh thổ. Sự thất bại trong việc chống cự cuộc tấn công năm 1471 của Đại Việt đánh dấu Champa không còn có thể gượng dậy đe dọa Đại Việt những thời kỳ sau đó. Chúa Nguyễn về sau thừa hưởng thành quả này, dễ dàng trong các cuộc mở rộng tiếp theo mà không có nhiều lực cản. Chúa Nguyễn (Đàng Trong) Thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh, do áp lực tấn công của các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và nhu cầu đất đai, các chúa Nguyễn đã tiến hành những đợt nam tiến, mở rộng lãnh thổ Đại Việt về phương Nam chưa từng thấy. Năm 1611, chúa Nguyễn Hoàng tiến chiếm vùng đất của Chiêm Thành mà ngày nay là Phú Yên. Năm 1623, chúa Nguyễn Phúc Nguyên được vua Chân Lạp là Chey Chettha II chấp thuận nhượng vùng đất Mô Xoài, lập 2 thương điểm (đồn thu thuế) là Kas Krobei và Prei Nokor để tiến hành thu thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho cư dân Việt phát triển. Năm 1653, chúa Nguyễn Phúc Tần tiến chiếm vùng Khánh Hòa của Chiêm Thành. Lấy sông Phan Rang làm ranh giới. Vùng phía Đông sông đến địa đầu Phú Yên (vùng Kauthara) đặt dinh Thái Khang. Phần phía Tây sông (vùng Panduranga) vẫn thuộc về Chăm Pa. Năm 1693, thời chúa Nguyễn Phúc Chu, tướng Nguyễn Hữu Cảnh tiến chiếm và chính thức sáp nhập phần còn lại của vương quốc Chiêm Thành lập trấn Thuận Thành; là Bình Thuận, Ninh Thuận ngày nay, tuy nhiên chính quyền Đàng Trong vẫn dành cho người Chăm chế độ tự trị ở đây cho đến năm 1832. Như vậy, phạm vi đất đai Chăm Pa lịch sử tương ứng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ hiện nay, rộng 80.000 - 90.000 km² (30.000 - 34.000 mile2) được tích hợp vào lãnh thổ của người Việt. Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng nên dinh Trấn Biên (lỵ sở nay là thôn Phước Lư), lập xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn (quận sở nay gần Tân Đồn). Chính thức đưa khu vực các tỉnh miền Đông Nam Bộ của Chân Lạp vào lãnh thổ Đàng Trong. Năm 1708, Mạc Cửu (thương nhân người Hoa) người khai phá vùng đất Hà Tiên, Kiên Giang (của Chân Lạp) xin nội thuộc chúa Nguyễn, chúa Nguyễn phong chức Tổng binh cai quản Từ năm 1736-1739, Mạc Thiên Tứ (con Mạc Cửu) khai phá thêm vùng đất Cà Mau, Bạc Liêu, Cần Thơ (của Chân Lạp) đưa vào lãnh thổ Đàng Trong. Năm 1732, chúa Nguyễn Phúc Chú nhận đất dâng từ vua Chân Lạp là Nặc Tha (Satha II), hai vùng đất là Peam Mesar (Mỹ Tho) và Longhôr (Vĩnh Long). Năm 1756, vua Chân Lạp là Nặc Nguyên (Ang Snguon) sau khi bị chúa Nguyễn Phúc Khoát đánh bại đã dâng vùng đất Tân An, Gò Công để cầu hòa. Năm 1757, vua Nặc Nguyên chết, chú là Nặc Nhuận (Neac Ang Nhuan) dâng 2 xứ Preah Trapeang và Basac (vùng đất Trà Vinh và Sóc Trăng) để được chúa Nguyễn Phúc Khoát phong làm vua Chân Lạp. Sau khi Nặc Nhuận chết, chúa Nguyễn Phúc Khoát đã hỗ trợ Nặc Tôn (Outey II) lên ngôi và bảo vệ trước sự tấn công của Xiêm La, vua Nặc Tôn đã dâng vùng đất ngày nay là Châu Đốc, Sa Đéc cho chúa Nguyễn. Riêng Mạc Thiên Tứ, Nặc Tôn dâng năm phủ Hương Úc, Cần Bột, Trực Sâm, Sài Mạt và Lình Quỳnh để đền ơn giúp đỡ. Mạc Thiên Tứ đem hết đất ấy dâng cho Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn cho sáp nhập vào Hà Tiên trấn, giao cho họ Mạc cai quản. Khi đặt chân vào vùng Nam Bộ, Chúa Nguyễn không phải đối mặt với đế chế Khmer hùng mạnh (sụp đổ vào năm 1432) mà đối mặt với các nhà nước rời rạc của người Khmer, những vương quốc nhỏ, yếu ớt, chia rẽ, thậm chí nhiều lần hiến đất để các chúa Nguyễn dùng quân đội hỗ trợ các tranh chấp giữa họ với nhau. Chúa Nguyễn cuối cùng tích hợp được vùng đất mà ngày nay gọi là Đông Nam Bộ rộng khoảng 23.600 km² (9.100 mile2) và tích hợp vùng đất màu mỡ nhất của khu vực châu thổ Mê Kông nằm ở hạ lưu rộng 40.000 km² (15.400 mile2) và nằm ở vị trí địa lý chiến lược nhất, Campuchia không còn đường ra biển qua cửa sông Mê Kông. Các hướng mở rộng khác Nhà Nguyễn Cùng với việc mở rộng lãnh thổ trên đất liền, chính quyền Đàng Trong lần lượt đưa người ra khai thác và kiểm soát các hòn đảo lớn và quần đảo trên biển Đông và vịnh Thái Lan. Quần đảo Hoàng Sa được khai thác và kiểm soát từ đầu thế kỷ 17, Côn Đảo từ năm 1704, Phú Quốc từ năm 1708 và quần đảo Trường Sa từ năm 1711. Năm 1816, vua Gia Long chính thức cho cắm cờ, xác lập chủ quyền, giao đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải thay mặt quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trước đó khoảng 200 năm các chúa Nguyễn cũng đã lập đội Hoàng Sa hằng năm đi ra các đảo tìm kiếm sản vật. Năm 1830, vua Minh Mạng sáp nhập vùng Tây Nguyên, rộng khoảng 60.000 km² (~23.000 mile2) vào lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên các bộ tộc người Thượng vẫn được quyền tự trị của mình cho tới năm 1898 khi người Pháp trực tiếp tổ chức cai trị ở đây. Lãnh thổ Việt Nam dưới thời Minh Mạng được xem là rộng lớn nhất trong lịch sử Việt Nam, diện tích bao phủ gần hết bán đảo Đông Dương dưới những mức độ và tính chất chính trị khác nhau (nhiều vùng xa xôi phía tây trên đất Lào và Campuchia chỉ triều cống). Thời Pháp đô hộ Hòa ước Nhâm Tuất (1862) buộc triều đình nhà Nguyễn nhượng 3 tỉnh Nam Kỳ là Biên Hòa, Gia Định, Mỹ Tho cho Pháp. Tiếp sau đó tỉnh Hà Tiên, An Giang, Vĩnh Long cũng bị sáp nhập nốt vào lãnh thổ bảo hộ của Pháp. Năm 1870, Pháp cùng Cao Miên điều chỉnh ranh giới tại vùng thượng nguồn giữa hai sông Vàm Cỏ Tây, Vàm Cỏ Đông, vốn thuộc hai hạt Trảng Bàng và Tây Ninh của Nam Kỳ: phần lớn đất đai vùng này là vùng lồi Svay Tieep-Svay Rieng (nay thuộc tỉnh Svay Rieng) giao cho Campuchia, bù lại cắt một phần đất nhỏ dọc bờ tây nam rạch Cái Cậy (thượng lưu của sông Vàm Cỏ Đông) vốn thuộc tỉnh Prey Veng lúc đó giao cho Nam Kỳ (về sau vùng này lại trả về cho Campuchia bởi nghị định của Toàn quyền Đông Dương năm 1914). Năm 1873, Pháp hoàn thành việc cắt chỉnh địa giới hai hạt Hà Tiên và Châu Đốc của Nam Kỳ, phần đất phía bắc kênh Vĩnh Tế và thị xã Hà Tiên ngày nay giao cho Campuchia. Năm 1874, Pháp ký với triều đình Huế Hòa ước Giáp Tuất (1874) công nhận sự thống trị của Pháp với toàn Nam Kỳ. Năm 1893, hiệp ước Pháp-Xiêm (1893) theo đó nhượng toàn bộ vùng lãnh thổ phía Đông sông Mê Kông cho Pháp, gạt bỏ lực lượng quân sự và những ảnh hưởng của Xiêm tại vùng cao nguyên thượng sông Sêrêpôk. Vùng đất nhượng lại này bao gồm cả tỉnh Stung Treng, năm 1899 địa khu Đắk Lắk được thành lập từ Stung Treng. Năm 1904, Đắk Lắk được sáp nhập vào Việt Nam. Năm 1899, phần lớn tỉnh Stung Treng chuyển giao lại cho Campuchia từ Lào. Phần lãnh thổ bên phải sông Đắk Đăm (prek Dak Dam) chuyển về cho Việt Nam. Năm 1939, Toàn quyền Pháp Jules Brévié đã thông qua đường Brévié phân chia quản lý hành chính tại vịnh Thái Lan, trong khi vẫn bảo lưu nguyên trạng về chủ quyền lãnh thổ các bên. Thực dân Pháp thành lập Liên bang Đông Dương bao gồm: Lào (Laos) Cao Miên (Cambodge) Bắc kỳ (Tonkin), từ Ninh Bình trở ra Trung kỳ (Annam), từ Thanh Hóa vào tới Bình Thuận Nam kỳ (Cochinchine), từ Đồng Nai tới Cà Mau Người Pháp đã có những tranh chấp với nhà Thanh (Trung Quốc) ở phía bắc về lãnh thổ. Tới năm 1895, từ Công ước Pháp-Thanh 1895 đã đưa về phần lớn vùng đất Lai Châu, Điện Biên và một phần Lào Cai ngày nay thuộc về xứ Bắc Kỳ còn một phần đất ở bắc sông Bắc Luân thuộc về nhà Thanh. Sầm Châu (Huaphanh) và Xiêng Khoảng bị cắt cho Lào. Tại Nam Kỳ theo Thống đốc Marie Jules Dupré ghi nhận năm 1874 cũng bao gồm một số hải đảo trong Vịnh Xiêm La phụ thuộc Hà Tiên mà sau đó Toàn quyền Đông Dương Joseph Jules Brévié ra nghị quyết năm 1939 ấn định lằn ranh Brévié trao cho Cam Bốt quản lý vì lý do địa lý, nhưng không có nghĩa là Nam Kỳ khước bỏ chủ quyền. Những đảo này là: Hòn Dừa (tiếng Pháp: Ile de la Baie), Hòn Năng Trong (Ile du Milieu), Hòn Năng Ngoài (Ile à l'Eau), Hòn Tre Nấm (Archipel des Pirates Nord), Hòn Tai (Ile du Pic), Hòn Kiến Vàng (Ile des Fourmis), và Hòn Keo Ngựa (Ile du Cheval). Thời kỳ Chiến tranh Việt Nam Từ 1954 đến 1975, Việt Nam tạm thời bị chia thành 2 vùng tập kết quân sự với giới tuyến tạm thời tại vĩ tuyến 17: Miền Bắc là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Miền Nam là Việt Nam Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam Việt Nam Cộng hòa tiếp tục tuyên bố chủ quyền với những hòn đảo trong Vịnh Xiêm La như: Hòn Dừa (tiếng Pháp: Ile de la Baie), bị Cam Bốt chiếm năm 1938 Hòn Năng Trong (Ile du Milieu), chiếm năm 1956 Hòn Năng Ngoài (Ile à l'Eau), chiếm năm 1956 Hòn Tre Nấm (Archipel des Pirates Nord), chiếm năm 1958 Hòn Tai (Ile du Pic), chiếm năm 1958 Hòn Kiến Vàng (Ile des Fourmis), chiếm năm 1960 Hòn Keo Ngựa (Ile du Cheval), chiếm năm 1960. Việt Nam Cộng hòa cũng tiếp thu quần đảo Hoàng Sa (nhóm Trăng Khuyết) kế tục từ Quốc gia Việt Nam, nhưng bị Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chiếm năm 1974; và quản lý Quần đảo Trường Sa cho đến 1975 thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam kế tục quản lý. Lãnh thổ không còn kiểm soát Đất mất về Trung Hoa Xưa thuộc Cao Bằng Thời Lý mấy châu Quảng Nguyên, Vật Dương, và Vật Ác bị nhà Tống chiếm đoạt. Sau triều đình lấy lại được Quảng Nguyên (với mỏ bạc Tụ Long) nhưng Vật Dương và Vật Ác mất hẳn. Xưa thuộc Hà Giang Đất Tụ Long đến thời nhà Nguyễn mạt thuộc trấn Tuyên Quang. Theo Công ước Pháp-Thanh 1887 thì Pháp nhường 3/4 đất tổng Tụ Long gồm cả các xã Tụ Long, Bình Di và một phần xã Phấn Vũ thuộc tỉnh Hà Giang, Bắc Kỳ cho tỉnh Vân Nam thuộc nhà Thanh với diện tích khoảng 750 km². Xưa thuộc Quảng Yên Thời nhà Mạc, Mạc Đăng Dung nộp 6 động của châu Vĩnh An, trấn Yên Bang cho nhà Minh. Năm 1887 người Pháp nhân danh nước bảo hộ triều đình Huế ký Hiệp ước Pháp-Thanh nhường thêm một dải đất duyên hải cho nhà Thanh. Sông Dương Hà (sông An Nam Giang) trước kia là đường biên giới nay lùi biên giới xuống phía nam, lấy cửa sông Bắc Luân ở Hải Ninh (Móng Cái) làm địa giới. Thuộc và giáp với Điện Biên, Lai Châu ngày nay Đời Cảnh Hưng nhà Hậu Lê, các châu Tung Lăng, Lễ Tuyền, Hoàng Nham, Hợp Phì, Tuy Phụ, và Khiêm của phủ An Tây, trấn Hưng Hóa bị mất về tay nhà Thanh, nhập vào tỉnh Vân Nam. Theo Lê Quý Đôn: Châu Tuy Phụ (綏阜) thổ âm gọi là Mường Tè có 2 động là: Nậm Mạ và Nậm Lân. Châu Hoàng Nham (黃岩) thổ âm gọi là Mường Tông (Mường Toong), có 2 động là: Ngà và Mỏ Sạch. Động Ngà có mỏ Vàng còn Mỏ Sạch là đất mỏ sắt. Châu Tung Lăng (嵩陵) thổ âm gọi là Phù Phang, có 3 động là: Cống Võng, Nậm Cảm và Suối Vàng. Châu Khiêm (謙州) thổ âm gọi là Mường Tinh (Nay không rõ ở đâu, nhưng có thể là Mường Teun (khoảng Lão Tập Trại huyện Kim Bình tỉnh Vân Nam). Cũng có thể là M.Boum (nay khoảng xã Bum Nưa, Bum Tở huyện Mường Tè nằm giữa xã Mường Toong (Hoàng Nham xưa) và thị xã Mường Lay (Mường Lễ xưa), theo đoạn viết về sông Đà bên dưới). Châu Lễ Tuyền (醴泉) thổ âm gọi là Mường Bẩm (có thể là mường Boum (M.Boum), nhưng cũng có thể là địa danh M.Léo (gần Ki Ma Pa (骑马坝) trong bản đồ Bắc Kỳ năm 1902 mà nay là khoảng hương Bán Pha (半坡) huyện Lục Xuân châu Hồng Hà tỉnh Vân Nam Trung Quốc). Châu Hợp Phì (合淝) thổ âm gọi là Mường Mày (có thể là Mường Mì hay Xiềng My, nay là hương Giả Mễ (者米乡, Zhe-mi-xiang) huyện Kim Bình châu Hồng Hà tỉnh Vân Nam). Châu Quảng Lăng (廣陵), (khác với Tung Lăng), thổ âm gọi là Mường La (nay là hương Mường Lạp, Meng-la-xiāng (勐拉乡) huyện Kim Bình châu Hồng Hà tỉnh Vân Nam Trung Quốc), có 3 phố người Hoa là: Hồ Quảng, Quảng Tây và Khai Hóa, nằm bên dưới 6 châu kể trên và bên trên châu Chiêu Tấn. (Quan niệm trên dưới của Lê Quý Đôn có lẽ là theo hướng đường bộ đi từ Mường Thu (Chiêu Tấn) qua Quảng Lăng mới đến 6 châu kể trên.) Cả bảy châu này đến thời Lê Quý Đôn đều mất về Trung Quốc. Riêng về châu Quảng Lăng, Lê Quý Đôn viết: "Châu Quảng Lăng thổ âm là Mường La, bên trái sông Kim Tử (Trung Quốc) và ở phía trên châu Chiêu Tấn, đi từ Mường Thu phải 2 ngày, từ Văn Bàn phải 6 ngày, từ Kinh ra đi phải 26 ngày. Trước châu này bị viên huyện Kiến Thủy (Trung Quốc) chiếm riêng, đến nay (năm Đinh Dậu niên hiệu Cảnh Hưng) đã 93 năm,..." Mặt khác, Lê Quý Đôn viết về sông Đà như sau:"... Sông Đà ở về bên trái sông Mã, phát nguyên từ châu Ninh Viễn tỉnh Vân Nam Trung Quốc, chảy đến bên phải chỗ ngã ba thuộc huyện Kiến Thủy,... (Đoạn này Quý Đôn nói về sông Mê Kông và nhầm 2 sông thông với nhau) ..., về đường chính có một chi chảy xuống làm thành sông Hắc Thủy, chảy qua Tuy Phụ (Mường Tè), Hoàng Nham (Mường Tông), Khiêm Châu đến Mường Lễ thuộc Lai Châu nước ta. Về bên trái là sông Na, từ sông Kim Tử (Kim Thủy Hà (金水河) châu Quảng Lăng (Mãnh Lạp (勐拉, Meng La)) chảy đến hội tụ, đấy là sông Đà, nước sông trong suốt, chảy xuống các động Phù Tây, Hảo Tế thuộc châu Quỳnh Nhai,..." Theo Phạm Thận Duật: Châu Lai (Lai (châu) tiếp giáp châu Quỳnh Nhai và châu Luân ở phía Đông, phía Nam giáp châu Ninh Biên và nước Ai Lao, phía Tây giáp huyện Kiến Thủy phủ Lâm An (臨安府) tỉnh Vân Nam Trung Quốc thời nhà Thanh và sông Cửu Long (theo Hưng Hóa kỷ lược), phía Bắc giáp châu Quảng Lăng của Trung Quốc và sông Kim Tử thuộc châu Chiêu Tấn. (Sông Kim Tử là Kim Thủy Hà (金氺河) nay thuộc Vân Nam Trung Quốc. Sông Cửu Long ở đây có lẽ là sông Nam Ou chi lưu của Mekong ở bắc Lào.) Khoảng 03 châu hạ lưu sông Đà kể từ châu Tuy Phụ trở xuống là: Tuy Phụ (tức Mường Tè), Hoàng Nham (tức Mường Tông, Mường Nhé) và có thể là Khiềm Châu, đến Công ước Pháp-Thanh năm 1895 thời Pháp thuộc, người Pháp đã thương lượng lấy lại được về thuộc Bắc Kỳ, nhưng đổi lại cắt thêm các vùng đất còn lại của Tụ Long tỉnh Hà Giang cho nhà Thanh. Đất mất về Lào Xưa thuộc Thanh Hóa Đời nhà Nguyễn huyện Sầm Nưa, phủ Trấn Biên, Thanh Hóa thuộc Việt Nam năm 1827, sau bị nhập vào nước Lào. Xưa thuộc Nghệ An Trấn Ninh bị mất một phần về tay Xiêm La sau cuộc chiến Việt Xiêm (1833-1834). Năm 1893, lúc này Pháp đã thành lập liên bang Đông Dương, đã dựa theo địa hình và cắt tỉnh Huaphanh (Hủa Phăn), Xiêng Khoảng giao về lãnh thổ Lào (Ai Lao). Ba huyện Cam Môn, Cam Cát, và Cam Linh, phủ Trấn Định, Nghệ An, thuộc Việt Nam năm 1827, mất về tay người Lào năm 1840. Phủ Trấn Ninh gồm bảy huyện Khám Liên, Quảng, Khang, Cát, Xuy, Mộc, và Liêm cũng nhập vào nước Lào, nay là Xiêng Khoảng của Lào. Phủ Lạc Biên, nội thuộc Việt Nam năm 1828 sau tách theo Lào, nay là Savannakhet. Xưa thuộc Quảng Trị Tám châu Mang Vanh, Na Bôn, Thượng Kế, Tá Bang, Xương Thịnh, Tầm Bồn, Ba Lan, Mang Bổng, và Làng Thìn thuộc Việt Nam năm 1827, sau tách nhập về Lào. Đất mất về Campuchia Trấn Tây Thành Trấn Tây Thành là một Trấn của nước Đại Nam nhà Nguyễn giai đoạn 1835 đến 1841. Vùng này đánh chiếm được từ Campuchia, nhưng sau 6 năm thì nhà Nguyễn phải rút khỏi vùng này, trả lại cho Campuchia. Đây là vùng lãnh thổ thuộc Đông Nam Campuchia ngày nay. Xưa thuộc Hà Tiên Năm phủ Vũng Thơm, Cần Bọt, Chân Sum, Sài Mạt, và Linh Quỳnh đến triều Tự Đức thì quan quân nhà Nguyễn rút bỏ, trả về Campuchia. Đối với những hải đảo trong Vịnh Xiêm La như Hòn Dừa (tiếng Pháp: Ile de la Baie), bị Cam Bốt chiếm năm 1938; Hòn Năng Trong (Ile du Milieu), chiếm năm 1956; Hòn Năng Ngoài (Ile à l'Eau), chiếm năm 1956; Hòn Tre Nấm (Archipel des Pirates Nord), chiếm năm 1958; Hòn Tai (Ile du Pic), chiếm năm 1958; Hòn Kiến Vàng (Ile des Fourmis), chiếm năm 1960; Hòn Keo Ngựa (Ile du Cheval), chiếm năm 1960 thì Việt Nam Cộng hòa vẫn không thay đổi lập trường chủ quyền với những đảo trên. Năm 1966 Campuchia lại đòi chủ quyền với Hòn Trọc (Poulo Wai) nhưng Hải quân Việt Nam Cộng hòa vẫn kiểm soát đảo này cho đến năm 1975. Ngày 17 tháng 4 năm 1975, Khmer Đỏ tấn công và chiếm được đảo Hòn Trọc. Ngày 4 tháng 6 năm 1975, Hải quân nhân dân Việt Nam xuất phát từ bờ để tấn công chiếm lại Hòn Trọc. Cuộc giao tranh giữa Hải quân nhân dân Việt Nam và quân Khmer Đỏ diễn ra từ ngày 5. Tới ngày 13 tháng 6 năm 1975, Hải quân Nhân dân Việt Nam hoàn toàn làm chủ đảo Hòn Trọc. Năm 1976, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chính thức nhường Hòn Trọc cho Campuchia. Từ đầu thế kỷ XVIII cho đến trước năm 1939, về lịch sử và pháp lý, toàn bộ các đảo giữa Việt Nam và Campuchia thuộc chủ quyền của Việt Nam. Từ khi bị Pháp xâm lược, Việt Nam mất dần kiểm soát khu vực này. Chỉ từ năm 1939, Campuchia mới chính thức quản lý về mặt hành chính và cảnh sát các đảo ở phía Bắc đường Brévié. Các đảo phía Nam đường Brévié do chính quyền Nam Kỳ quản lý. Nhưng sau đó lại tiếp tục mất 8 đảo nữa (danh sách ở trên). Danh sách đảo Campuchia Lãnh thổ có tranh chấp với nước khác Các lãnh thổ mà Việt Nam có tranh chấp với nước khác chủ yếu là các hòn đảo nhỏ trên Biển Đông. Các đảo này chưa được quốc tế công nhận thuộc về chủ quyền của bất kỳ nước nào, các nước tranh chấp (trong đó có Việt Nam) đều tự tuyên bố có chủ quyền và không công nhận chủ quyền của nước khác. Tranh chấp với Đài Loan (Trung Hoa Dân Quốc) Ngày 12 tháng 12 năm 1946, với danh nghĩa giải giáp quân phát xít Nhật, Trung Hoa Dân Quốc cho tàu chiến Thái Bình đem quân đổ bộ lên đảo Ba Bình. Sau đó, do thất bại trong cuộc nội chiến nên Trung Hoa Dân Quốc phải tháo chạy ra đảo Đài Loan đồng thời rút quân khỏi đảo Ba Bình vào năm 1950. Đến 1956, Đài Loan mang quân trở lại chiếm đóng. Tranh chấp với Philippines Tranh chấp với Malaysia Lãnh thổ bị chiếm đóng bởi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Quần đảo Hoàng Sa Toàn bộ quần đảo Quần đảo Trường Sa: Đá Châu Viên Đá Chữ Thập Cụm đá Ga Ven Đá Gạc Ma Đá Tư Nghĩa Đá Vành Khăn Đá Xu Bi Lãnh thổ đã phục hồi chủ quyền Lãnh thổ có hoạt động tái khẳng định chủ quyền Chú ý: đơn vị diện tích trong các bảng là khác nhau Việt Nam ngày nay Lãnh thổ Việt Nam ngày nay có hình chữ S chạy dài theo hướng Đông Nam của bán đảo Đông Dương, từ Hà Giang tới Cà Mau. Diện tích khoảng 331.230,8 km² Khoảng cách từ bắc tới nam là khoảng 1.650 km Đường bờ biển dài 3.444 km không kể các đảo. Lãnh hải rộng lớn, Việt Nam tuyên bố 12 hải lý (22,2 km) phạm vi lãnh hải, thêm 12 hải lý vùng tiếp giáp lãnh hải, và 200 hải lý (370,4 km) vùng đặc quyền kinh tế. Hai quần đảo lớn là Trường Sa, Hoàng Sa. Đảo lớn nhất là Phú Quốc và rất nhiều các hòn đảo nhỏ khác. Quần đảo Trường Sa Hiện tại Quần đảo Trường Sa đang bị nhiều quốc gia trong khu vực tranh chấp do có tiềm năng lớn về dầu khí và nguồn cá dồi dào. Việt Nam là quốc gia nắm giữ nhiều đảo nhất. Các quốc gia và lãnh thổ đang tranh chấp chủ quyền gồm: Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Malaysia, Brunei. Ghi chú Chú thích
Trong vũ trụ học, kỷ nguyên Planck đặt theo tên nhà vật lý nổi tiếng người Đức Max Planck được dùng để chỉ khoảng thời gian sớm nhất của lịch sử vũ trụ từ lúc 0 cho đến giây (bằng một thời gian Planck), tức khắc ngay sau Vụ Nổ Lớn, trong thời gian đó bốn lực cơ bản được thống nhất. Đây là một thời khoảng lý thuyết mà tất cả những định luật của nền vật lý cổ điển cũng như vật lý lượng tử đều không áp dụng được. Có nghĩa là, trước đó, chúng ta hoàn toàn không biết gì về vũ trụ với những lý thuyết vật lý hiện tại của chúng ta. Bức tường Planck Bức tường Planck (đặt theo tên nhà vật lý Max Planck) chỉ khoảng thời gian của lịch sử vũ trụ trong đó vũ trụ có độ tuổi bằng thời gian Planck, tức là khoảng giây. Trước thời gian này là khoảng thời gian được gọi là kỷ nguyên Planck, là khoảng thời gian trong đó tất cả các định luật vật lý cổ điển hiện tại như các định luật của vật lý lượng tử gặp phải giới hạn và cần thiết phải có một mô tả ở cấp vi mô về lực hấp dẫn (ta gọi một thuyết như vậy là lý thuyết hấp dẫn lượng tử), mà đến nay vẫn còn là điều bí ẩn. Những hiểu biết của chúng ta do vậy vướng phải một "bức tường" trừu tượng. Các độ đo vật lý như áp suất, nhiệt độ cao đến mức mà không-thời gian có vẻ như đạt đến một độ cong (curvature) vô hạn, mà ta còn gọi là một điểm kỳ dị trong thuyết tương đối rộng. Kích thước của vũ trụ tại thời điểm này có độ lớn bằng độ dài Planck, ký hiệu , và có giá trị xấp xỉ , là độ dài vật lý nhỏ nhất có nghĩa trong các lý thuyết vật lý hiện tại. Nó thể hiện một độ dài tự nhiên theo đó có thể xuất hiện một lý thuyết hấp dẫn lượng tử nào đó. Thời gian và không gian mà chúng ta hay quy ước trở thành các khái niệm rõ ràng là phức tạp hơn nhiều "bên ngoài" bức tường Planck, tức là trong suốt kỷ nguyên Planck. Những nghiên cứu gần đây trong ngành lý thuyết dây và trong ngành lý thuyết hấp dẫn lượng tử vòng cũng đều cho rằng thời gian và không gian có lẽ không phải là những khái niệm nguyên thủy mà xuất phát từ một thực tế lý thuyết phức tạp hơn thế. Chẳng hạn như một khi đạt dến kích thước Planck, thời gian và không gian sẽ không liên tục nữa mà dần dần có tính chất rời rạc và không liên tục. Chú thích
IELTS (International English Language Testing System) là một hệ thống bài kiểm tra về khả năng sử dụng thành thạo tiếng Anh trải dài qua cả bốn kĩ năng Nghe, Nói, Đọc, Viết. Bài thi được đồng điều hành bởi ba tổ chức ESOL của Đại học Cambridge (University of Cambridge ESOL), Hội đồng Anh (British Council) và tổ chức giáo dục IDP của Úc và được triển khai từ năm 1989. Người thi có thể lựa chọn giữa hai hình thức: Academic (học thuật) hoặc General training module (đào tạo chung): Loại hình học thuật dành cho những ai muốn học ở bậc đại học hoặc những học viện, các hình thức đào tạo sau đại học. Loại hình đào tạo chung dành cho những ai muốn tham gia những khóa học nghề, muốn tìm việc làm, hoặc vì mục đích di cư. IELTS được chấp nhận bởi phần lớn các học viện ở Úc, Anh, Canada, Ireland, New Zealand, Hoa Kỳ và nhiều tổ chức nghề nghiệp. Nó cũng là một yêu cầu bắt buộc đối với việc di cư đến Úc và Canada. Kết quả của kì kiểm tra IELTS (TRF-Test Report Form) sẽ có hiệu lực trong vòng 2 năm. Trong năm 2007, đã có hơn một triệu thí sinh tham dự kì kiểm tra IELTS. IELTS cũng đã trở thành hệ thống kiểm tra ngôn ngữ tiếng Anh dành cho bậc sau đại học và người di cư phổ biến nhất trên thế giới. Những tính chất đặc trưng của kì thi Bài thi IELTS bao gồm những nét đặc trưng sau: Trong bài kiểm tra sẽ có nhiều kiểu giọng tiếng Anh của các nơi như: Anh, Mĩ, Úc để tránh sự phân biệt ngôn ngữ. Trong khi TOEFL chỉ bao gồm tiếng Anh của vùng Bắc Mĩ, IELTS luôn được công nhận là đáng tin cậy hơn TOEFL bởi một số cá nhân và tổ chức (đặc biệt là các tổ chức ngoài Mĩ), mặc dù nhìn bề ngoài thì có bao gồm cả những bài thi nghe của giọng Anh và giọng Úc. IELTS kiểm tra khả năng nghe, nói, đọc và viết bằng tiếng Anh. Hai dạng bài thi có thể được lựa chọn 1: Học thuật và dạng đào tạo chung. Điểm sẽ được chấm cho từng kĩ năng nhỏ (nghe, nói, đọc, viết). Thang điểm từ 1 (không biết sử dụng) đến 9 (sử dụng thông thạo). Bài kiểm tra kĩ năng nói, một nét đáng chú ý của IELTS, sẽ được thực hiện dưới hình thức giao tiếp trực tiếp giữa thí sinh và người chấm thi. Người chấm thi sẽ đánh giá thí sinh khi họ đang thực hiện bài nói của mình. Bài nói cũng được ghi âm để chấm lại, đối chiếu với bảng điểm đánh giá đã đưa ra trước đó. Đội ngũ những người chấm thi IELTS đến từ nhiều nơi trên thế giới: Mỹ, Anh, Úc, New Zealand, Canada, Ireland và các nước nói tiếng Anh khác. Cấu trúc bài thi IELTS Bài thi IELTS đánh giá toàn diện 4 kỹ năng nghe, nói, đọc và viết. Các thí sinh sẽ thi chung phần nghe và nói trong khi phần thi viết và đọc sẽ khác biệt tuỳ theo việc thí sinh đó đăng ký hình thức thi Học thuật hay Đào tạo chung. Bài thi nghe (Listening) Thời gian làm bài thi nghe là 30 phút với 40 câu hỏi. Thí sinh sẽ nghe tất cả các câu hỏi và độ khó của từng phần sẽ tăng dần. Bài thi bao gồm nhiều dạng khác nhau như thông tin từ một người, cuộc đàm thoại của 2 hoặc nhiều người. Và thí sinh sẽ nghe nhiều giọng phát âm của nhiều quốc gia khác nhau. Tuy nhiên, bạn sẽ có thời gian để đọc câu hỏi và chuẩn bị câu trả lời. Bài thi nghe có 4 phần, mỗi phần có 10 câu hỏi, thí sinh chỉ được nghe duy nhất một lần, các đoạn nghỉ được ghi kèm trong băng hoặc đĩa. Cuối bài thi các thí sinh sẽ có 10 phút để ghi lại kết quả vào Phiếu trả lời câu hỏi. Phần 1: là các tình huống đời thường (đăng ký hoạt động, thuê nhà, nhập học) thường là 1 cuộc đối thoại nhưng là hỏi đáp, và người đáp thường nói nhiều hơn. Phần 2: là các tình huống hướng dẫn và giới thiệu về 1 chủ đề quen thuộc (trường học, khu du lịch, chương trình ca nhạc, triển lãm,..) thường chỉ nói bởi 1 người. Phần 3: là các tình huống đối thoại giữa ít nhất 2 người, đây là các cuộc thảo luận có tính chất học thuật hơn (Ví dụ: chọn chủ đề khóa luận, đề tài nghiên cứu khoa học). Phần 4: là 1 bài thuyết trình về 1 chủ đề học thuật, thường do 1 người nói và dùng nhiều từ ngữ mang tính chất học thuật. Lưu ý: Cập nhật một số thay đổi mà IELTS Official đã công bố về cấu trúc mới của IELTS Listening (có hiệu lực từ 4/1/2020): - Các bài trong bài Listening sẽ không được gọi là "Section" nữa mà sẽ gọi là "Part". Số lượng bài thi vẫn là 4. - Trong phần mở đầu bài thi ở Section 1 (nay là Part 1), thí sinh sẽ không được nghe ví dụ mẫu thực hiện bài làm như trước. - Trong mỗi bài, hướng dẫn cho thí sinh sẽ không đề cập cụ thể số trang trên đề đó nữa (Ví dụ: Mở trang 2 trong đề và nhìn vào…) Bài thi đọc (Reading) Dành cho dạng học thuật (Academic). Bài thi gồm khoảng 40 câu hỏi, thời gian làm bài là 60 phút (không có thời gian dành cho ghi lại câu trả lời cuối bài thi). Bài thi thông thường bao gồm 3 phần và phần trả lời câu hỏi. Mỗi phần là 1 đoạn văn khoảng 1500 từ với câu hỏi được chia tương đối đều. Các đề tài thường trích dẫn từ sách, báo, tạp chí hoặc tập san và những đề tài này không mang tính chất chuyên môn. Bài thi thông thường bao gồm 1 đề tài thảo luận. Dành cho dạng không học thuật (General Training). Thời gian làm bài thi cũng là 60 phút, gồm 40 câu hỏi như bài Đọc của dạng thi Academic. Các đề tài trong bài thi đọc thông thường liên quan đến các tình huống hàng ngày ở các nước nói tiếng Anh. Các đề tài thường trích dẫn từ sách, báo, mẫu quảng cáo, các hướng dẫn sử dụng mục đích để đánh giá khả năng hiểu và xử lý thông tin của từng thí sinh. Các đề tài trong bài thi thông thường bao gồm đoạn văn mô tả hơn là những bài luận văn. Bài thi viết (Writing) Dành cho dạng học thuật (Academic). Thời gian làm bài thi là 60 phút (thí sinh phải tự phân phối thời gian). Được chia làm 2 phần: Phần 1: thí sinh thường được yêu cầu viết bài báo cáo ít nhất 150 từ để mô tả và giải thích các số liệu, dữ liệu trên các biểu đồ, một quá trình, một hiện tượng,... được biểu diễn dưới dạng hình vẽ. Phần này nên được hoàn thành trong khoảng 20 phút. Phần 2: thí sinh thường được yêu cầu viết bài tiểu luận ít nhất 250 từ để đưa ra những chính kiến tranh luận hay nhận định về 1 ý kiến hoặc vấn đề. Thí sinh nên đưa ra những tình huống và ví dụ cụ thể để hỗ trợ cho nhận định của mình. Phần này nên được hoàn thành trong khoảng 40 phút và được tính điểm gấp đôi so với phần 1. Dành cho dạng không học thuật (General Training). Thời gian làm bài thi cũng là 60 phút, được chia làm 2 phần: Phần 1: thí sinh thường được yêu cầu viết bức thư ít nhất 150 từ với mục đích là hỏi thông tin hay giải thích về 1 tình huống trong cuộc sống. Phần này nên được hoàn thành trong không quá 20 phút. Phần 2: thí sinh thường được yêu cầu viết bài tiểu luận ít nhất 250 từ để đưa ra quan điểm của 1 sự việc hay vấn đề. Thí sinh cần phải đưa ra chính kiến của mình hoặc trích dẫn ý kiến. Thí sinh nên đưa ra những tình huống và ví dụ cụ thể để hỗ trợ cho nhận định của mình. Phần này nên được hoàn thành trong không quá 40 phút và được tính điểm gấp đôi so với phần 1. Bài thi nói (Speaking) Thời gian của bài thi nói thông thường là từ 11 - 14 phút. Thí sinh sẽ trò chuyện trực tiếp với giám khảo. Thí sinh cần thể hiện các khả năng: trả lời lưu loát các câu hỏi, thông thạo các đề tài và khả năng giao tiếp với giám khảo. Giám khảo sẽ đánh giá trình độ tiếng Anh của thí sinh dựa vào 4 yếu tố: Từ vựng, Ngữ pháp, Lưu loát và Phát âm. Có thể tạm chia bài thi nói ra 3 phần: Phần 1: Trả lời các câu hỏi về bản thân. Giám khảo sẽ hỏi về quê hương, gia đình, sở thích,... Phần 2: Giám khảo sẽ đưa cho bạn 1 chủ đề trên một tấm thẻ (hoặc tờ giấy), trong đó sẽ có 4 gợi ý để thí sinh có thể dễ dàng phát triển ý. Thí sinh có 2 phút để trả lời. Trước khi bắt đầu nói, thí sinh có 1 phút để suy nghĩ, trong quá trình suy nghĩ có thể ghi chú ngoài giấy nháp. Kết thúc phần trả lời, người hỏi có thể sẽ hỏi thêm 1 đến 2 câu hỏi. Phần 3: Người hỏi sẽ hỏi bạn các câu hỏi liên quan tới chủ đề mà bạn đã trình bày ở phần 2. Các câu hỏi ở phần này thường là các loại sau: Discuss (bàn luận), Compare (so sánh), Speculate (dự đoán), Analyse (phân tích), Explain (giải thích), Evaluate (đánh giá). Tổng thời gian thi Toàn bộ bài thi sẽ diễn ra trong khoảng 2 giờ 45 phút cho các kỹ năng Nghe, Đọc và Viết. Bài thi nghe: 40 phút, 30 phút là thời gian đoạn băng được phát cho bài thi nghe, và sẽ có 10 phút sau đó để thí sinh điền đáp án vào phiếu trả lời. Bài thi đọc: 60 phút. Bài thi viết: 60 phút. Bài thi nói: 11–14 phút. (Lưu ý: Không có thời gian cộng thêm cho thí sinh để điền đáp án cho 2 phần thi đọc và viết) Thứ tự của 3 bài thi đầu tiên luôn là Listening, Reading và Writing sẽ được diễn ra và hoàn tất trong vòng một ngày, trên thực tế sẽ không có thời gian nghỉ giải lao giữa các phần thi. Phần thi Speaking có thể diễn ra cùng ngày hoặc không quá 7 ngày trước hoặc sau ngày thi các phần thi khác. Bài thi được thiết kế để khai thác hết khả năng của người học từ người mới học cho đến chuyên gia. Hệ thống điểm IELTS Cách tính điểm Thang điểm của IELTS là từ 1 – 9. Trên bảng kết quả của thí sinh sẽ thể hiện điểm của từng kỹ năng thi. Phần điểm tổng sẽ được tính dựa trên điểm trung bình cộng của 4 kỹ năng. Điểm tổng của 4 kỹ năng sẽ được làm tròn số theo quy ước chung như sau: Nếu điểm trung bình cộng của 4 kỹ năng có số lẻ là.25, thì sẽ được làm tròn lên thành.5, còn nếu là.75 sẽ được làm tròn thành 1.0. Ví dụ: một thí sinh có số điểm như sau: 6.5 (Nghe), 6.5 (Đọc), 5.0 (Viết) và 7.0 (Nói). Điểm trung bình của thí sinh này là 6.5 (25 ÷ 4 = 6.25 = 6.5) Tương tự cách tính, một thí sinh có số điểm như sau: 4.0 (Nghe); 3.5 (Đọc), 4.0 (Viết) và 4.0 (Nói). Như vậy điểm trung bình sẽ là 4.0 (15.5 ÷ 4 = 3.875 = 4.0) Trong trường hợp thí sinh có số điểm là 6.5 (Nghe), 6.0 (Đọc), 6.0 (Viết) và 6.0 (Nói). Như vậy điểm trung bình của thí sinh này là 6 (24.5 ÷ 4 = 6.125 = 6) Phần thi Nghe và Đọc Bài thi Nghe và Đọc bao gồm 40 câu. 1 câu trả lời đúng thí sinh sẽ được 1 điểm; Số điểm tối đa có thể đạt được là 40 cho từng bài thi. Thang điểm từ 1 – 9 sẽ được tính dựa trên số câu trả lời đúng. Mặc dù tất cả các câu hỏi đã qua nhiều công đoạn như: Khảo sát bài thi, thi thử trước khi các câu hỏi này có thể sử dụng trong đề thi chính thức. Tuy nhiên sẽ vẫn có những chêch lệch nhỏ về độ khó dễ của từng bài thi. Do vậy, để tạo sự công bằng cho từng bài thi, thang điểm chuyển đổi sẽ có thay đổi theo từng bài thi. Điều này có nghĩa là cùng điểm 6 nhưng sẽ có sự chêch lệch số câu trả đúng cho từng bài thi khác nhau. Bảng thông tin bên dưới giúp các bạn hiểu thêm về cách chuyển đổi điểm của thí sinh theo từng cấp độ khác nhau của bài thi: Nghe và Đọc của năm 2021. Ngoài ra, bạn cũng sẽ hiểu thêm về cách chuyển đổi từ số câu hỏi đúng thành điểm cuối cùng của bài thi. Cách chấm điểm của cả hai dạng bài thi: học thuật (AC) và không học thuật (GT). Điểm khác biệt giữa 2 bài thi này là về thể loại và ngôn ngữ sử dụng trong bài thi. Hầu hết đề thi của loại hình học thuật thường có nhiều từ vựng khó và cấu trúc câu phức tạp hơn. Do vậy, cùng một điểm số nhưng thông thường số câu trả lời đúng của loại hình không học thuật (GT) yêu cầu phải nhiều hơn loại hình học thuật (AC). Bài thi Viết và Nói Giám khảo sẽ dựa vào bảng mô tả chi tiết thang điểm 1 – 9 của thí sinh để chấm điểm cho bài thi Viết và Nói. Bài thi Viết: Giám khảo sẽ chấm điểm theo từng tiêu chí (số điểm cho mỗi tiêu chí là như nhau) bao gồm: Task achievement – khả năng hoàn thành yêu cầu bài thi – đối với phần 1, hay Task response – khả năng trả lời yêu cầu bài thi – đối với phần 2. Coherence and cohesion – tính gắn kết và mạch lạc giữa các câu, đoạn văn. Lexical Resource – vốn từ. Grammatical range and accuracy – ngữ pháp. Bài thi Nói: Giám khảo sẽ chấm điểm theo từng tiêu chí bao gồm: Fluency and Coherence – sự lưu loát và tính gắn kết của bài nói, Lexical Resource – vốn từ, Grammatical range and accuracy – ngữ pháp và Pronunciation – cách phát âm. Số điểm cho mỗi phần là như nhau. Các bảng mô tả thang điểm cho bài thi Viết và nói luôn được cập nhật để giúp các thí sinh hiểu rõ hơn về các yêu cầu của từng phần. Các giám khảo IELTS phải trải qua khóa đào tạo tập trung về các quy chuẩn chấm thi để đảm bảo chắc chắn cho việc chấm bài thi một cách chính xác và đúng tiêu chuẩn. Bạn có thể tham khảo các bảng mô tả thang điểm cho bài Viết - Phần 1, Phần 2 và cho bài thi Nói. Thang điểm đánh giá IELTS không có đỗ và trượt. Thí sinh sẽ nhận được Giấy chứng nhận kết quả và trên đó thể hiện số điểm từ 1 – 9. Giấy chứng nhận kết quả sẽ ghi rõ tổng điểm và điểm trung bình cho từng phần thi. Kết quả bài thi IELTS được đánh giá trên một thang điểm 9 cấp. Mỗi một mức điểm điểm ứng với từng trình độ khác nhau, trong đó có tính đến điểm 0.5 (Ví dụ như 6.5 hay 7.5). 9 - Thông thạo: Đã hoàn toàn nắm vững ngôn ngữ với một sự phù hợp, chính xác, lưu loát và thông hiểu hoàn toàn đầy đủ. 8 - Rất tốt: Hoàn toàn nắm vững ngôn ngữ, chỉ đôi khi mắc những lỗi như không chính xác, không phù hợp nhưng lỗi này chưa thành hệ thống. Trong những tình huống không quen thuộc có thể sẽ không hiểu. Sử dụng tốt với những chủ đề tranh luận phức tạp, tinh vi. 7 - Tốt: Nắm vững ngôn ngữ, nhưng đôi khi có những sự không chính xác, không phù hợp, không hiểu trong một số tình huống. Nói chung là sử dụng tốt ngôn ngữ phức tạp và hiểu những lý lẽ tinh vi. 6 - Khá: Sử dụng ngôn ngữ tương đối hiệu quả tuy có những chỗ không chính xác, không phù hợp, không hiểu. Có thể sử dụng và hiểu tốt ngôn ngữ phức tạp, đặc biệt là trong những tình huống quen thuộc. 5 - Bình thường: Sử dụng được một phần ngôn ngữ, nắm được nghĩa tổng quát trong phần lớn các tình huống, dù thường xuyên mắc lỗi. Có thể sử dụng ngôn ngữ trong những lĩnh vực riêng quen thuộc của mình. 4 - Hạn chế: Có sự thành thạo cơ bản bị hạn chế trong những tình huống quen thuộc. Thường có khó khăn trong việc sử dụng ngôn ngữ phức tạp. 3 - Cực kì hạn chế: Có thể nói và hiểu trong những tình huống rất quen thuộc. Thường thất bại trong giao tiếp. 2 - Lúc được lúc không: Không có những giao tiếp thực sự ngoại trừ những thông tin cơ bản nhất với những từ ngữ riêng lẻ hoặc những cú pháp ngắn trong tình huống thông thường để đạt được mục đích tức thời. Khó khăn lớn trong việc nói và viết tiếng Anh. 1 - Không biết sử dụng: Hoàn toàn không có khả năng sử dụng tiếng Anh ngoài vài từ riêng lẻ. 0 - Bỏ thi: Không một thông tin nào để chấm bài. Người dự thi đã không thể tham dự kì thi. Địa điểm và ngày thi Có khoảng 300 trung tâm dự thi trên toàn thế giới. Số lượng thí sinh đã tăng khoảng 100 ngàn người năm 1999 lên nửa triệu người năm 2003. Ba quốc gia có nhiều thí sinh nhất năm 2003 là Trung Quốc, Ấn Độ và Anh cho kì thi học thuật và Ấn Độ, Trung Quốc và Úc cho kì thi đào tạo chung. Đối với lựa chọn làm bài thi trên giấy, có đến 48 ngày thi hợp lệ trong một năm, và mỗi trung tâm tổ chức nhiều nhất là 4 kì thi mỗi tháng tùy nhu cầu từng địa phương.
Gianluca Zambrotta (sinh ngày 19 tháng 2 năm 1977 tại Como, Ý) là cầu thủ bóng đá Ý chơi ở vị trí hậu vệ biên. Anh bắt đầu sự nghiệp ở vị trí tiền vệ phải, từng là một trong những hậu vệ cánh hay nhất thế giới với khả năng chơi tốt cả hai cánh, anh còn có thể chơi ở vị trí tiền vệ trụ. Sự nghiệp Zambrotta bắt đầu sự nghiệp năm 1994 tại Como Calcio ở Serie B. Vị trí của anh khi đó là tiền vệ cánh phải. Mùa bóng 1996/97 do Como phải xuống hạng C buộc Zambrotta phải chuyển sang chơi cho CLB A.S. Bari. Ở Serie A "Zambro" đã chứng tỏ tài năng của mình với vai trò thủ lĩnh của Bari. Anh chuyển sang chơi cho CLB Juventus năm 1999 với giá chuyển nhượng gần 16 triệu Euro. Mùa bóng 2002 khi hậu vệ trái Gianluca Pessotto bị chấn thương khiến huấn luyện viên của Juventus lúc đó là Marcello Lippi phải thế anh vào vị trí này. Cùng với Juventus, Zambrotta đã giành 4 danh hiệu Scudetto và 2 Siêu cúp quốc gia Ý. Năm 2003 anh đã cùng với Juve vào đến trận chung kết Champions League và chỉ thua A.C. Milan trong loạt đá luân lưu 11m. Sau 7 năm gắn bó ở Torino, mùa bóng 2006-2007 anh cùng Lilian Thuram chuyển sang chơi cho nhà ĐKVĐ UEFA Champions League F.C. Barcelona sau khi Juve dính líu vào một vụ scandal dàn xếp tỉ số. Năm 2008, sau khi "đế chế Rijkaard" sụp đổ, Pep Guardiola lên dẫn dắt đội và Zambrotta phải chuyển sang chơi cho A.C. Milan. Danh hiệu Vô địch thế giới: 2006 Á quân Euro: 2000 Scudetto: 2001-2002, 2002-2003 (Juventus - 2 Scudetto 2004-2005 và 2005-2006 bị tước bởi Calciopoli), 2010-2011 (A.C. Milan) Siêu cúp bóng đá Ý: 2002, 2003 (Juventus), 2010-2011 (A.C. Milan) Cúp Intertoto: 1999 Chú thích
TOEFL ( ), viết tắt của Test Of English as a Foreign Language, là bài kiểm tra năng lực Tiếng Anh quốc tế của ETS (Viện khảo thí về giáo dục của Mỹ) nhằm kiểm tra khả năng tiếng Anh của bạn trong môi trường học thuật, cụ thể hơn là ở môi trường tại các quốc gia nói tiếng Anh (Mĩ). Bài kiểm tra này bao gồm các kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. TOEFL đánh giá kĩ năng hiểu và sử dụng tiếng Anh Mỹ của một người có đạt đến trình độ có thể sử dụng ở bậc đại học. Điểm TOEFL quy định là một trong những yêu cầu để xét chấp nhận cho học viên nước ngoài vào học tại hầu hết các trường đại học và cao đẳng ở Mĩ. Ngoài ra, các tổ chức như cơ quan chính phủ, cơ quan cấp giấy phép, doanh nghiệp, hoặc học bổng chương trình có thể yêu cầu chứng chỉ này để cử học viên đi du học hay đề bạt. Điểm số TOEFL có giá trị trong 2 năm. Bài thi TOEFL là thương hiệu độc quyền của Viện Khảo thí giáo dục Hoa Kỳ (Educational Testing Service - ETS) và được tổ chức trên toàn thế giới. Bài thi lần đầu được tổ chức vào năm 1964 và cho đến nay đã có hơn 25 triệu thí sinh dự thi. Thí sinh được báo một mức điểm tương ứng với trình độ thông thạo tiếng Anh của họ và không có khái niệm đỗ hoặc trượt. Tuy vậy, những trường hợp cần kết quả TOEFL sẽ yêu cầu phải đạt một mức điểm nào đó, và điểm càng cao hơn mức sàn càng mang lại cơ hội lớn hơn cho người ứng thí. TOEFL có các dạng đề thi như: TOEFL Primary (dành cho học sinh tiểu học), TOEFL Junior (dành cho học sinh phổ thông), TOEFL iBT (dành cho học sinh THPT có định hướng du học), TOEFL ITP (dành cho học sinh THPT để xét tốt nghiệp Tú tài hoặc cử nhân chuyển tiếp, học cao học trong nước) … Các dạng thi TOEFL TOEFL Primary TOEFL Primary là bài thi được Viện Khảo thí Giáo dục Hoa Kỳ (ETS) nghiên cứu và thiết kế dành riêng cho học sinh tiểu học nhằm đánh giá trình độ sử dụng tiếng Anh và nâng cao kỹ năng suy luận cho trẻ ngay từ lúc nhỏ. Cũng tương tự như các bài thi Cambrige YLE (Starters/Movers/Flyers), TOEFL Primary là công cụ hữu ích để các thầy cô và cha mẹ đo lường, đánh giá năng lực trong quá trình trẻ học tập và sử dụng tiếng Anh. TOEFL Primary mang tính kế thừa và nằm trong hệ thống “Gia đình TOEFL” gồm TOEFL Primary (dành cho học sinh tiểu học), TOEFL Junior (dành cho học sinh phổ thông), TOEFL iBT (dành cho học sinh THPT có định hướng du học), TOEFL ITP (dành cho học sinh THPT để xét tốt nghiệp Tú tài hoặc cử nhân chuyển tiếp, học cao học trong nước) … TOEFL Primary ra đời đánh dấu bước hoàn thiện của Hệ thống TOEFL, giúp cho TOEFL trở thành hệ thống đánh giá năng lực sử dụng tiếng Anh như một ngoại ngữ có tính nhất quán và xuyên suốt từ thấp đến cao. Không chỉ đo lường khả năng tiếng Anh của trẻ tiểu học, bài thi TOEFL Primary còn góp phần phát triển kỹ năng tư duy cho trẻ ngay từ lúc nhỏ. Tùy vào số lượng sao đạt được, phiếu điểm kết quả của bài thi TOEFL Primary Step 1 cũng như TOEFL Primary Step 2 sẽ cung cấp những thông tin cụ thể về năng lực tiếng Anh hiện tại của học sinh, đồng thời đưa ra những khuyến nghị về việc học tập tiếp theo. Ví dụ về khả năng và khuyến nghị ở mức điểm 1 sao và 4 sao của TOEFL Primary Step 1 như sau: TOEFL Junior TOEFL Junior là bài thi được Viện Khảo thí Giáo dục Hoa Kỳ (ETS) nghiên cứu và thiết kế dành riêng cho học sinh THCS và đầu THPT. Trong khi bài thi TOEFL ở cấp độ đại học của ETS hiện đang là một trong những tiêu chuẩn đánh giá trình độ tiếng Anh trên toàn thế giới, bài thi TOEFL Junior lại có vai trò đo lường mức độ mà học sinh trung học cơ sở hoặc học sinh đầu trung học phổ thông đạt được đối với kỹ năng tiếng Anh học thuật (academic English) và tiếng Anh thường thức (social English) tiêu biểu cho môi trường giảng dạy bằng tiếng Anh. Bài thi TOEFL Junior: cung cấp cho phụ huynh, học sinh và giáo viên những thông tin khách quan về sự tiến bộ của học sinh trong việc phát triển các kỹ năng tiếng Anh theo thời gian. phục vụ như một công cụ đo lường giúp hỗ trợ việc phân loại trình độ đầu vào của học sinh trong các chương trình đào tạo tiếng Anh. đánh giá kỹ năng giao tiếp tiếng Anh ở giai đoạn đang phát triển của trẻ để chuẩn bị cho việc học tập, nghiên cứu bằng tiếng Anh trong tương lai. cung cấp các thông tin hữu ích phục vụ cho mục đích giảng dạy. Bài thi TOEFL Junior là bài thi trên giấy bao gồm 126 câu hỏi trắc nghiệm, chia làm 3 phần — Nghe hiểu, Ngữ pháp và từ vựng, và Đọc hiểu. Mỗi phần bao gồm 42 câu hỏi, mỗi câu hỏi có 4 đáp án lựa chọn, tổng thời gian làm bài thi là 1 tiếng 55 phút. Một số câu hỏi trong bài thi có thể không được tính vào điểm của phần thi đó hoặc tổng điểm. Đối với những câu hỏi được tính điểm, mỗi câu trả lời đúng đều được tính điểm ngang nhau. Nội dung từng bài thi của TOEFL Junior: Bài thi Nghe hiểu đánh giá khả năng nghe và hiểu tiếng Anh sử dụng trong cuộc sống thường nhật và trong môi trường học tập của thí sinh. Bài thi Ngữ pháp và từ vựng đánh giá mức độ thông thạo của thí sinh đối với các kỹ năng tiếng Anh quan trọng như ngữ pháp và từ vựng sử dụng trong ngữ cảnh cụ thể. Bài thi Đọc hiểu đánh giá khả năng đọc và hiểu các văn bản học thuật và phi học thuật bằng tiếng Anh. 1. Bài thi Nghe hiểu (Listening) Phần thi Nghe hiểu kiểm tra khả năng nghe những đoạn tiếng Anh giao tiếp thường nhật và học thuật. Phần thi có 42 câu hỏi. Thí sinh được yêu cầu trả lời câu hỏi về các cuộc hội thoại và trò chuyện bằng tiếng Anh phát trong đoạn CD ghi âm. Thời gian làm bài thi cho phần này là khoảng 40 phút. Thí sinh chỉ được nghe một lần duy nhất. Các dạng bài nghe Dạng bài nghe đầu tiên là cuộc trò chuyện giữa một giáo viên hoặc cán bộ nhà trường với học sinh. Sau mỗi cuộc trò chuyện sẽ là một câu hỏi. Thí sinh được yêu cầu chọn câu trả lời đúng nhất cho mỗi câu hỏi và tô đáp án tương ứng trên phiếu trả lời. Dạng bài nghe thứ hai bao gồm các cuộc hội thoại ngắn. Sau mỗi một cuộc hội thoại sẽ có 3 câu hỏi hoặc nhiều hơn. Thí sinh sẽ được yêu cầu chọn câu trả lời đúng nhất cho mỗi câu hỏi và tô vào đáp án tương ứng trên phiếu trả lời. Dạng câu hỏi thứ ba sẽ là cuộc trò chuyện hoặc thảo luận về các chủ đề học thuật. Sau mỗi cuộc trò chuyện hay thảo luận sẽ có bốn câu hỏi hoặc nhiều hơn. Thí sinh sẽ được yêu cầu chọn câu trả lời đúng nhất cho mỗi câu hỏi và tô vào ô tương ứng trên phiếu trả lời. 2. Bài thi Ngữ pháp và từ vựng (Language form and meaning) Phần Ngữ pháp và từ vựng đánh giá mức độ thông thạo của thí sinh đối với các kĩ năng tiếng Anh quan trọng như ngữ pháp và từ vựng sử dụng trong ngữ cảnh cụ thể. Phần này bao gồm 42 câu hỏi. Trong mỗi câu hỏi sẽ có một ô chứa bốn lựa chọn khác nhau. Thí sinh sẽ được yêu cầu chọn đáp án chính xác nhất để hoàn thành câu hội thoại. Thời gian làm bài cho phần này là 25 phút. 3. Bài thi Đọc hiểu (Reading) Phần Đọc hiểu đánh giá trình độ đọc và hiểu các văn bản học thuật và phi học thuật bằng tiếng Anh của thí sinh. Phần Đọc hiểu có 42 câu hỏi và thời gian làm bài là 50 phút. Sau khi đọc xong mỗi đoạn văn, thí sinh sẽ đọc những câu hỏi về đoạn văn đó, mỗi câu hỏi sẽ có bốn lựa chọn đáp án khác nhau. Thí sinh sẽ chọn đáp án chính xác nhất. TOEFL trên Internet (iBT) Đây là bài thi TOEFL thế hệ mới, sử dụng Internet để chuyển đề thi từ ETS về đến trung tâm tổ chức thi. Kể từ khi được giới thiệu vào cuối năm 2005, TOEFL iBT đang từng bước thay thế hoàn toàn dạng thi trên giấy (PBT) và dạng thi trên máy tính (CBT). Kì thi đã được tổ chức ở các quốc gia Mĩ, Canada, Pháp, Đức và Ý vào năm 2005 và các quốc gia khác vào năm 2006. Bài thi TOEFL kéo dài trong 4 giờ và gồm có 4 phần, đòi hỏi thí sinh phải sử dụng thành thạo 4 kĩ năng. Nội dung của bài thi tập trung vào việc sử dụng tiếng Anh trong môi trường đại học hoặc cao học. Trong khi làm bài thí sinh có thể ghi chú. Đọc: Có hai hình thức là dài (long form) và ngắn (short form). Ở dạng dài, thí sinh sẽ trả lời câu hỏi về 4 bài đọc trích từ các sách giáo trình của trường đại học hoặc cao đẳng ở Bắc Mỹ. Ở dạng ngắn, thí sinh phải trả lời câu hỏi về 3 bài đọc cũng có độ dài từ 700-750 từ nhưng với thời gian ngắn hơn là 60 phút (so với 80 phút của dạng dài). Trong 4 bài đọc của dạng dài thì sẽ có 1 bài không được chấm điểm (Thí sinh sẽ không biết là bài nào trong 4 bài). Thí sinh có thể quay lại thay đổi đáp án của câu hỏi trước đó. Nghe: Khoảng 34-50 câu hỏi, kéo dài từ 60-90 phút. Phần nghe bao gồm 6 đoạn, mỗi đoạn kéo dài 3-5 phút và kèm theo câu hỏi về đoạn văn. Trong đó có 2 đoạn đối thoại của sinh viên và 4 đoạn thảo luận hoặc bài giảng về học thuật và chỉ nghe một lần. Mỗi cuộc hội thoại được có 5 câu hỏi và mỗi bài giảng có 6 câu hỏi. Các câu hỏi với mục đích đánh giá khả năng hiểu ý chính, thông tin chi tiết quan trọng, mục đích và thái độ của người nói. Thí sinh không thể thay đổi câu trả lời của câu hỏi trước đó. Nội dung các bài nghe lấy trong bối cảnh của một trường đại học hay cao đẳng ở một nước nói tiếng Anh. Nói: Gồm 6 bài nói. 2 bài đầu là hình thức bài nói riêng (Independent Task) về một đề tài quen thuộc trong xã hội và sinh hoạt hằng ngày. Thí sinh sẽ được đánh giá về khả năng nói chuyện tự nhiên và cách thức truyền đạt ý tưởng. Bài nói số 1 sẽ yêu cầu thí sinh nói về một chủ đề được cho trước, ví dụ như là "Ai là người có ảnh hưởng nhất với bạn?"; bài nói số 2 sẽ yêu cầu thi sinh lựa chọn giữa 2 quan điểm hoặc ý kiến, hoặc thể hiện quan điểm của mình với một quan điểm được cho trước, ví dụ: "Bạn nghĩ việc kiểm tra học sinh bằng cách ra bài kiểm tra hay cho làm một bài luận sẽ tốt hơn?".Thí sinh có 45 giây để nói và 15 giây để chuẩn bị. 4 bài nói tiếp theo là bài nói tích hợp (Integrated Task). Bài nói số 3 và số 4 thí sinh sẽ được đọc 1 bài đọc ngắn, sau đó sẽ được nghe 1 đoạn hội thoại (số 3) hoặc 1 bài giảng (số 4), cuối cùng sẽ phải trả lời dựa trên nội dung cả hai phần. Ở bài nói số 5 và số 6 thí sinh sẽ được nghe một đoạn hội thoại (số 5) hoặc 1 bài giảng (số 6), sau đó thí sinh sẽ phải đưa ra câu trả lời từ đoạn nghe. Thí sinh phải nghe một đoạn hội thoại hay một bài thuyết giảng và sau đó trả lời dựa theo câu hỏi đưa ra có liên quan đến đoạn hội thoại hay bài thuyết giảng. Bài nói số 3 và số 5 sẽ liên quan đến các chủ đề học đường (campus life), còn bài nói số 4 và số 6 sẽ liên quan đến chủ đề học thuật (trên lớp học), đây cũng là 2 bài nói được đánh giá khó nhất trong phần nói TOEFL đối với thí sinh Việt Nam. Thí sinh sẽ được đánh giá về khả năng tổng hợp và truyền đạt thông tin từ các tài liệu. Ở phần này, thí sinh có 60 giây để nói và 30 giây để chuẩn bị. Viết: Gồm 2 bài viết. Bài thứ nhất là dạng Integrated Task. Thí sinh phải đọc một đoạn văn sau đó nghe một bài thuyết giảng rồi tóm tắt lại và nêu mối quan hệ giữa đoạn văn và bài thuyết giảng. Bài viết phải tối thiểu từ 150-225 từ. Thí sinh có 20 phút để viết. Bài thứ hai là dạng Independant Task về một đề tài trong xã hội. Bài viết phải tối thiểu từ 300-350 từ. Thí sinh có 30 phút để viết. TOEFL trên máy tính (CBT) TOEFL trên máy tính (CBT) được tổ chức đầu tiên vào ngày 30 tháng 9 năm 2006. Bài thi cũng được chia ra làm 4 phần: nghe, cấu trúc ngữ pháp, đọc hiểu và viết. Trong lúc làm bài thí sinh không được phép ghi chú. Tổng lượng thời gian làm bài tối đa là 4 tiếng và mức điểm tối đa đạt được của thí sinh là 300. Phần nghe (45-70 phút). gồm 2 dạng: thí sinh sẽ nghe những đoạn đối thoại giữa 2 hoặc nhiều người trong lớp học hoặc trong trường đại học; hoặc những mẫu đối thoại giữa sinh viên với giảng viên. Các câu hỏi thường là dạng: ai, chủ đề của câu chuyện và ở đâu. Phần ngữ pháp (15-20 phút). thường là dạng nhận định chỗ sai trong câu và điền từ thích hợp vào chỗ trống. Phần đọc hiểu (70-90 phút). Thí sinh sẽ đọc đoạn văn và trả lời các câu hỏi liên quan, thường là các dạng như: chủ đề của đoạn văn, các câu hỏi liên quan đến tác giả, các ý kiến được suy ra từ nội dung của đoạn văn... Phần viết bài luận (30 phút). Viết một bài luận về một chủ đề thông thường và nêu ra quan điểm chủ quan của thí sinh về chủ đề đó. Bài thi TOEFL trên máy tính (CBT) được lập trình để chỉ cung cấp cho thí sinh những câu hỏi có độ khó phù hợp với năng lực ngôn ngữ của thí sinh, căn cứ vào kết quả những câu trả lời đầu tiên, và tất nhiên mức điểm của thí sinh nhận được cũng sẽ ở mức tương ứng. Xét về tính chất tùy biến thì dạng thi này gọi là CAT (Computer Adaptive Test: bài thi tương tác hoặc tùy biến qua máy tính). Điểm số sẽ được chấm thành 3 phần theo thang điểm 0-30: nghe, đọc hiểu-ngữ pháp (gộp chung) và viết. 3 phần điểm sau đó được qui đổi thành điểm cuối cùng với thang điểm từ 0-300. Điểm viết sẽ được cho biết riêng theo thang điểm 0-6. TOEFL trên giấy (PBT) Đây là dạng thi TOEFL truyền thống mà thí sinh dùng bút chì để làm bài thi trên giấy. Dạng này hầu như đã không còn được sử dụng trừ những khu vực không có điều kiện để thi iBT hoặc CBT. Tổng thời lượng làm bài khoảng 3 tiếng. Cấu trúc bài thi PBT cũng tương tự như bài thi CBT chỉ có số câu hỏi nhiều hơn và thang điểm rộng hơn. Thang điểm tổng kết của TOEFL PBT từ 310 tới tối đa là 677 và được qui đổi từ 3 cột điểm: nghe (31-68), ngữ pháp (31-68) và đọc (31-67). Khác với CBT, điểm phần viết (TWE - Test of Written English) không được tính vào điểm tổng kết mà được cho riêng biệt với thang điểm từ 0-6. Thang điểm TOEFL iBT Thang điểm cho một bài thi TOEFL iBT là 0 - 120 điểm. Mỗi phần: Nghe, Nói, Đọc, Viết có thang điểm từ 0 - 30 điểm. Tổng điểm của cả bốn phần sẽ là điểm của bài thi. Đầu tiên, phần Nói sẽ có thang điểm 0 - 4 điểm, phần Viết có thang điểm 0 - 5 điểm. Sau đó sẽ được chuyển qua thang điểm 0 - 30 điểm để tính tổng điểm cho bài thi.
Tổ Chức Theo Dõi Nhân Quyền (tiếng Anh: Human Rights Watch) (viết tắt là: HRW) là một tổ chức phi chính phủ quốc tế, có trụ sở tại Thành phố New York, Hoa Kỳ. Họ điều tra và lập báo cáo về các vụ lạm dụng nhân quyền trên khắp thế giới. Tổ chức này thường hành động nhắm đến Chính phủ các nước, các nhà hoạch định chính sách, hoặc các Tập đoàn nhằm thúc đẩy sự thay đổi về Luật pháp, Chính sách, và Thực tiễn theo hướng đòi hỏi công bằng, công lý, phẩm giá cho các thành phần xã hội thiểu số bị tổn thương. Họ thường hoạt động nhân danh Nạn nhân chiến tranh, Người tị nạn, Trẻ em, Người di cư, Nhà hoạt động xã hội, Phụ nữ, LGBT, Người khuyết tật, Tù nhân chính trị. Lịch sử Tổ chức Theo dõi Nhân quyền được thành lập năm 1978 dưới tên Helsinki Watch để giám sát Liên Xô, thu thập tư liệu về việc Liên Xô thực hiện các quy ước của Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE) và để giúp đỡ "các nhóm bảo vệ nhân quyền trong Liên bang Xô Viết". Năm 1988 Helsinki Watch hợp nhất với các tổ chức quốc tế khác có cùng chung mục đích trở thành Human Rights Watch. Một trong những người thành lập và giám đốc đầu tiên của tổ chức là Robert L. Bernstein. Tổ chức Theo dõi Nhân quyền tập trung vào việc điều tra và tường thuật về những hành động họ cho là vi phạm nhân quyền. Mối quan tâm chính của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền được họ nói là ngăn cản tham nhũng, ngăn cản phân biệt đối xử về giới tính hay về giai cấp xã hội trong chính phủ và chống lạm dụng quyền lực nhà nước (thí dụ như tra tấn hay giam tù biệt lập). Tổ chức Theo dõi Nhân quyền có một bộ phận chuyên về vi phạm quyền con người đối với phụ nữ. Tổ chức ủng hộ hòa bình trong liên kết với những quyền con người cơ bản như quyền tự do tín ngưỡng và tự do báo chí. Năm 1998 Tổ chức Theo dõi Nhân quyền là một trong 6 tổ chức phi chính phủ thành lập Coalition to Stop the Use of Child Soldiers (Liên minh chấm dứt sử dụng lính trẻ em). Tổ chức cũng là thành viên thành lập tổ chức IFEX, mạng lưới của các tổ chức phi chính phủ theo dõi việc kiểm duyệt trên toàn thế giới. Cũng như phần lớn các tổ chức về nhân quyền khác Tổ chức Theo dõi Nhân quyền không chấp nhận hình phạt tử hình và ủng hộ việc phá thai công khai. Tổ chức Theo dõi Nhân quyền trao tặng khoản tài trợ Hellman/Hammet hằng năm cho các nhà văn có khó khăn về tài chính và theo tổ chức là nạn nhân bị ngược đãi về mặt chính trị. Chức năng nhiệm vụ Căn cứ vào Tuyên ngôn Nhân quyền, Human Rights Watch phản đối hành vi vi phạm của những gì được coi là quyền cơ bản của con người, bao gồm cả án tử hình và phân biệt đối xử dựa trên giới tính. Human Rights Watch ủng hộ quyền tự do kết hợp với các quyền cơ bản của con người, như tự do tôn giáo và tự do báo chí. Human Rights Watch ra báo cáo nghiên cứu về vi phạm nhân quyền quốc tế theo quy định của bản Tuyên ngôn Nhân quyền và các quyền con người mà quốc tế công nhận. Những báo cáo này được sử dụng làm cơ sở cho việc thu hút sự chú ý quốc tế về các vụ lạm dụng và gây sức ép với chính phủ và các tổ chức quốc tế nhằm cải cách theo chiều hướng tốt hơn. Các nhà nghiên cứu tiến hành tìm hiểu thực tế nhiệm vụ để điều tra trường hợp nghi ngờ và đưa ra tuyên bố trên các phương tiện truyền thông địa phương và quốc tế. Vấn đề đặt ra trong các báo cáo nhân quyền này bao gồm: phân biệt đối xử xã hội và phân biệt giới tính, tra tấn, sử dụng trẻ em trong quân đội, tham nhũng chính trị, lạm dụng trong các hệ thống tòa án, và hợp pháp hoá phá thai. Human Rights Watch ghi lại và báo cáo các hành vi vi phạm pháp luật và luật nhân đạo quốc tế trong các cuộc chiến tranh. Giải thưởng Giải thưởng Hellman/Hammett Human Rights Watch cũng hỗ trợ các nhà văn trên toàn thế giới đang bị bức hại vì công việc cầm bút của mình và đang cần sự trợ giúp tài chính. Chương trình Hellman/Hammett được cấp tài trợ nhờ các quỹ quản lý các bất động sản của nhà viết kịch Lillian Hellman mang tên của cô và của người bạn lâu năm, tiểu thuyết gia Dashiell Hammett. Ngoài việc cung cấp hỗ trợ tài chính, quỹ Hellman/Hammett trợ giúp nâng cao nhận thức của dư luận quốc tế về các nhà hoạt động nhân quyền đang bịt miệng vì đã dám nói để bảo vệ quyền con người. Giải thưởng Bảo vệ Nhân quyền Mỗi năm, Human Rights Watch trao tặng giải thưởng Bảo vệ Nhân quyền cho các nhà hoạt động trên khắp thế giới đã thể hiện khả năng lãnh đạo và lòng dũng cảm trong việc bảo vệ quyền con người. Những người giành giải thưởng sẽ hợp tác chặt chẽ với Human Rights Watch trong việc điều tra và phơi bày những vi phạm nhân quyền. Sự tham gia khác Human Rights Watch là một trong sáu tổ chức phi chính phủ quốc tế nằm trong một liên minh Coalition to Stop the Use of Child Soldiers (Liên minh làm ngừng việc sử dụng các binh lính trẻ em) vào năm 1998. Tổ chức này cũng là đồng chủ tịch của Chiến dịch Quốc tế Cấm Bom mìn, một liên minh toàn cầu của các nhóm xã hội dân sự đã vận động hành lang thành công để khai sinh Hiệp ước Ottawa, một hiệp ước cấm sử dụng bom mìn chống cá nhân. Human Rights Watch là một thành viên sáng lập của tổ chức IFEX (International Freedom of Expression Exchange), một mạng lưới toàn cầu của các tổ chức phi chính phủ theo dõi kiểm duyệt trên toàn thế giới. Tổ chức này cũng đồng sáng lập Cluster Munition Coalition (Liên minh cấm các loại vũ khí), đưa ra một công ước quốc tế cấm vũ khí. Human Rights Watch có hơn 275 nhân viên - các chuyên gia, luật sư, nhà báo tầm cỡ quốc gia, và các viện nghiên cứu - hoạt động tại hơn 90 quốc gia trên thế giới. Giám đốc điều hành hiện tại của Human Rights Watch là Kenneth Roth, người đã giữ vị trí này từ năm 1993. Roth đã tiến hành điều tra về sự lạm dụng ở Ba Lan sau khi nước này tuyên bố thiết quân luật vào năm 1981. Sau đó ông tập trung vào Haiti, nơi vừa thoát khỏi chế độ độc tài Duvalier nhưng vẫn gặp khó khăn. Những nhận thức về quyền con người của Roth bắt đầu với những câu chuyện cha ông đã kể cho ông nghe về cuộc trốn chạy khỏi Đức Quốc Xã vào năm 1938. Ông tốt nghiệp trường luật Yale và Brown University. Nguồn tài trợ Vào tháng 6 năm 2008, tổ chức này đã báo cáo là nhận được đóng góp là 44 triệu USD. năm 2009 tổ chức ra thông báo là 75% mức đóng góp đến từ Bắc Mỹ, 25% đến từ Tây Âu và ít hơn 1% từ các nơi khác. Trong một báo cáo về tài chính trong năm 2008, tổ chức khẳng định "là một tổ chức độc lập, phi chính phủ, chỉ nhận đóng góp từ tư nhân, không nhận bất cứ đóng góp của chính phủ nào, trực tiếp hay gián tiếp". Đáng chú ý, tỷ phú tài chính và nhà từ thiện George Soros trong năm 2010 đã công bố ý định của mình tặng 100 triệu USD cho HRW trong khoảng thời gian mười năm. Ông nói, "Human Rights Watch là một trong những tổ chức nhân quyền hiệu quả nhất mà tôi hỗ trợ với nguyện vọng củng cố quyền con người vĩ đại nhất của chúng ta:.. Họ đang ở trung tâm của các xã hội mở". Việc hiến tặng đã tăng ngân sách hoạt động nhân quyền của từ $ 48 triệu lên đến 80 triệu đôla. Charity Navigator xếp hạng bốn sao cho Human Rights Watch, con số xếp hạng cao nhất có thể. The Better Business Bureau nói rằng Human Rights Watch đáp ứng tiêu chuẩn của mình về trách nhiệm tổ chức từ thiện. Hiện tại Vào ngày 2 tháng 3 năm 2005 Tổ chức Theo dõi Nhân quyền đã đệ đơn kiện Donald Rumsfeld tại tòa án tại Illinois, Hoa Kỳ, cáo buộc Rumsfeld đã cố tình dung túng cho việc tra tấn trong các trại giam của quân đội Hoa Kỳ. Đây là đơn kiện đầu tiên về việc này đối với một thành viên cao cấp của chính phủ Hoa Kỳ. Trong Chiến tranh Liban 2006, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền đã công khai tố cáo Israel gây tội ác chiến tranh trong cuộc không kích Kana, tấn công nhiều bệnh viện, xe cứu thương có ký hiệu rõ rệt, các đoàn xe người tỵ nạn mang cờ trắng cũng như sử dụng vũ khí bị quốc tế lên án thí dụ như bom phosphor. Các vấn đề được quan tâm Quyền phá thai Quyền đồng tính luyến ái An toàn dân sự trong chiến tranh, chống sử dụng đạn dược thứ cấp Lính trẻ em Lao động trẻ em Trẻ em đường phố Tội diệt chủng, tội phạm chiến tranh và tội phạm nhân quyền Tra tấn Chỉ trích Một số chỉ trích nhằm vào Tổ chức Theo dõi Nhân quyền có thể chia ra thành bốn loại: chỉ trích việc ít nghiên cứu thông tin trước khi viết báo cáo khiến nó không chính xác, chỉ trích báo cáo sai sự thật và thiên vị, chỉ trích báo cáo lệch hoàn toàn và lợi dụng ý thức hệ, và chỉ trích về nguồn vốn hoạt động . Quan điểm chỉ trích thứ hai cho rằng tổ chức này đã hoàn toàn thiên vị chỉ sử dụng thông tin chống lại nhiều nước, đặc biệt là các nước trái ý thức hệ tư bản, các nước theo chủ nghĩa xã hội và đạo Hồi, trong đó có Liên Xô, Liên bang Nga, Trung Quốc, Việt Nam, Sri Lanka, Ethiopia v.v. và thiên vị Hoa Kỳ... Năm 2008 Venezuela đã trục xuất tất cả các thành viên của tổ chức này vì các lời chỉ trích trên. Theo quan điểm chỉ trích thứ ba thì tổ chức này đã lợi dụng tâm lý chống Israel để viết báo cáo và gây quỹ tại Ả Rập Xê Út. Tổ chức phi chính phủ Theo dõi Nhân quyền bị chỉ trích là chịu quá nhiều ảnh hưởng từ chính phủ Hoa Kỳ, đặc biệt đối với các báo cáo về châu Mỹ La Tinh làm ngơ với hoạt động bài Hồi giáo và nơi bị bài Hồi giáo. Vào ngày 19 tháng 10 năm 2009, chủ tịch danh dự Human Rights Watch Robert Bernstein, người sáng lập tổ chức này và đã lãnh đạo nó trong suốt 20 năm, đã chỉ trích công khai về vai trò của HRW trong cuộc xung đột Ả Rập - Israel. Ông cho rằng tổ chức đã đi ngược với sứ mệnh ban đầu khi nó chỉ trích Israel, một xã hội mở với một chế độ dân chủ, nhiều hơn các chế độ độc tài trong khu vực. HRW cũng là một trong số những tổ chức phi chính phủ (cùng với Ân xá Quốc tế, Phóng viên không biên giới, Freedom House, v.v.) thường xuyên bị nêu tên và chỉ trích đặc biệt gay gắt hàng năm trên các bài bình luận, phê bình của một số cơ quan báo chí tại Việt Nam như báo Nhân Dân, báo Quân đội nhân dân, Tạp chí Quốc phòng toàn dân và một số báo khác. Ngày 10 tháng 2 năm 2020, báo Quân đội Nhân dân có bài bình luận với tiêu đề: "Đội lốt "theo dõi nhân quyền" can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam là trái công ước quốc tế", trong đó cáo buộc tổ chức HRW đã (thường xuyên) can thiệp trắng trợn vào công việc nội bộ của Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng công ước và nguyên tắc quốc tế (dẫn theo điều 2, Hiến chương Liên Hợp Quốc 1945 về nguyên tắc cấm can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác), khẳng định "xuyên tạc nhân quyền Việt Nam là bản chất của Human Rights Watch". Hay như bài bình luận với tiêu đề "Lại thêm một 'tiếng nói lạc điệu' cố ý xuyên tạc tình hình Việt Nam", có một số nội dung như sau:" [...] Trong bản báo cáo năm 2021 mà họ tự cho là cập nhật và đánh giá tình hình nhân quyền của hàng trăm quốc gia trên khắp thế giới, như thường lệ, HRW tiếp tục khoác "chiếc áo quan tòa" phán xét vấn đề quyền con người ở Việt Nam. Thực chất, Báo cáo Thế giới năm 2021 này không có gì mới. Đó vẫn là những cáo buộc vô căn cứ về cái gọi là "Việt Nam gia tăng trấn áp những người cổ vũ cho các quyền dân sự và chính trị cơ bản"; hay cái gọi là "Việt Nam lo sợ dân chủ, truyền thông độc lập và các quyền tự do". Trong bản báo cáo này, Tổ chức Theo dõi nhân quyền tiếp tục bao che, dung túng cho những kẻ lợi dụng quyền tự do ngôn luận, báo chí, sử dụng mạng xã hội vi phạm an ninh quốc gia, trật tự xã hội, cổ súy tuyên truyền chống phá đất nước... [...] Nói vậy để thấy rằng, Tổ chức Theo dõi nhân quyền đã cố tình thông tin lập lờ, đánh giá sai lệch hoàn toàn về tình hình nhân quyền Việt Nam. Tổ chức này đã can thiệp vào công việc nội bộ của một quốc gia, vi phạm các quy chuẩn quốc tế. [...] HRW đã nhiều lần đưa ra những thông tin thiếu khách quan, sai lệch về Việt Nam; cổ súy cho những đối tượng chống đối cũng như các hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam. Việc họ vội vã kết luận "Năm 2020, thêm một năm tồi tệ khủng khiếp nữa với nhân quyền ở Việt Nam", là hoàn toàn sai sự thật và không thể chấp nhận được. Người dân Việt Nam nhận thức rõ những động cơ xấu của Tổ chức theo dõi nhân quyền, họ không hướng tới những giá trị tốt đẹp của cuộc sống người dân, mà thực chất họ chỉ muốn lợi dụng cái gọi là vi phạm nhân quyền như một cái cớ để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, của các quốc gia có chủ quyền."
Władysław Szpilman (, 5 tháng 12 năm 1911 – 6 tháng 7 năm 2000) là một nghệ sĩ dương cầm người Do Thái, sinh ra và lớn lên tại Ba Lan. Ông là tác giả của cuốn hồi ký Nghệ sĩ dương cầm kể về cuộc đời ông trong thời kì chiến tranh thế giới thứ hai, làm thế nào ông đã sống sót sau khi Đức chiếm đóng Warszawa và Holocaust. Szpilman học piano tại các học viện âm nhạc ở Berlin và Warsaw. Anh ấy đã trở thành một người biểu diễn nổi tiếng trên đài phát thanh Ba Lan và trong buổi hòa nhạc. Bị giam cầm trong khu ổ chuột Warsaw sau Cuộc xâm lược Ba Lan của Đức, Szpilman đã ở ẩn hai năm. Đến cuối thời gian che giấu, anh được một sĩ quan Đức Wilhelm Adalbert Hosenfeld giúp đỡ, người chán ghét chính sách tàn bạo của Đức Quốc xã. Sau Thế chiến II, Szpilman nối lại sự nghiệp trên đài phát thanh Ba Lan. Szpilman cũng là một nhà soạn nhạc tài ba; tác phẩm của ông bao gồm hàng trăm bài hát và nhiều bản hòa tấu. Nghề nghiệp nghệ sĩ piano Szpilman bắt đầu nghiên cứu về piano tại Học viện âm nhạc Chopin tại Warsaw, Ba Lan, nơi anh học piano với Aleksander Michałowski và Józef Śmidowicz, học trò thế hệ thứ nhất và thứ hai của Franz Liszt. Năm 1931, ông là sinh viên của Học viện Nghệ thuật danh tiếng ở Berlin, Đức, nơi ông học cùng Artur Schnabel, Franz Schreker và Leonid Kreutzer. Sau khi Adolf Hitler được bổ nhiệm làm Thủ tướng Đức vào năm 1933, Szpilman trở lại Warsaw, nơi ông nhanh chóng trở thành một nghệ sĩ piano và nhà soạn nhạc nổi tiếng của cả nhạc cổ điển và âm nhạc đại chúng. Chủ yếu là một nghệ sĩ độc tấu, ông cũng là đối tác âm nhạc thính phòng của những nghệ sĩ violin nổi tiếng như Roman Totenberg, Ida Haendel và Henryk Szeryng, và vào năm 1934, ông đã đi lưu diễn Ba Lan với nghệ sĩ violin Hoa Kỳ, Bronislav Gimpel. Tiểu sử
Nghệ sĩ dương cầm (tựa tiếng Anh: The Pianist) là bộ phim điện ảnh chính kịch thuộc thể loại tiểu sử, chiến tranh do Roman Polanski đạo diễn và Adrien Brody thủ vai chính. Phim dựa trên cuốn hồi ký cùng tên của nghệ sĩ dương cầm và nhà soạn nhạc người Do Thái-Ba Lan Władysław Szpilman, người đã sống sót cuộc diệt chủng người Do Thái Holocaust. Phim là một thành phẩm hợp tác sản xuất giữa Ba Lan, Pháp, Đức và Anh. Tại Lễ trao giải Oscar lần thứ 75, Nghệ sĩ dương cầm đã thu về chiến thắng ở 3 hạng mục, trong đó có giải Đạo diễn xuất sắc nhất, Nam diễn viên chính xuất sắc nhất, Kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất, và 4 đề cử ở các hạng mục khác, bao gồm Phim hay nhất. Bên cạnh đó, phim cũng đã thu về nhiều chiến thắng tại các liên hoan phim khác nhau, trong đó có giải Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Cannes 2002, Giải BAFTA cho phim hay nhất, Giải BAFTA cho đạo diễn xuất sắc nhất, và 7 giải César của Pháp, trong đó có Hình ảnh đẹp nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất và Nam diễn viên xuất sắc nhất cho Brody. Phim lọt vào danh sách 100 phim hay nhất thế kỷ 21 theo BBC năm 2016. Cốt truyện Władysław Szpilman (Brody), một nghệ sĩ dương cầm người Ba Lan gốc Do Thái nổi tiếng làm việc tại đài phát thanh Warsaw, nhìn thấy thành phố của mình đổ sập trong Chiến tranh thế giới thứ hai và sự xâm lược Ba Lan của Đức Quốc Xã vào ngày 1 tháng 9 năm 1939. Sau khi đài phát thanh bị phá hủy bởi bom đạn Đức, Szpilman về nhà và biết được rằng Anh và Pháp đã tuyên chiến với phát xít Đức. Anh và cả nhà vui mừng tin rằng chiến tranh sẽ sớm kết thúc. Quân SS chiếm đóng Warsaw sau khi quân Wehrmacht rời đi, từ đây điều kiện sống của người Do Thái ngày càng tồi tệ hơn, các quyền của họ dần bị hủy bỏ: đầu tiên là chỉ cho phép sở hữu một lượng tiền giới hạn trong mỗi gia đình, sau đó họ phải đeo băng trên tay với ngôi sao sáu cánh màu xanh da trời như là dấu hiệu của người Do Thái, rồi đến cuối năm 1940, họ buộc phải chuyển đến khu dơ dáy và bẩn thỉu dành cho người Do Thái. Ở đó, họ đối mặt với sự ngược đãi, sự tra khảo, sự sỉ nhục của lính SS, nạn đói và cái chết. Quân phát xít càng trở nên tàn ác hơn và gia đình Szpilman đã chứng kiến rất nhiều hành động man rợ nhắm vào người Do Thái. Trong đó có cảnh một toán Einsatzgruppen, dẫn đầu là một tên hạ sĩ quan, đến căn hộ của một gia đình đối diện gia đình Szpilman. Bọn lính yêu cầu gia đình đứng dậy, một người già nhất trong gia đình đó ngồi xe lăn không thể đứng nên chúng đã ném ông ta từ ban công xuống đất. Những người còn lại của gia đình này bị đưa xuống đường và bắn, sau đó xác họ bị xe cán qua. Gia đình Szpilman cùng hàng nghìn người khác bị tách ra để đưa tới trại thiêu xác ở Treblinka. Khi những người khác đang bị đưa đi, Szpilman được cứu thoát vào phút cuối bởi một người cảnh sát Do Thái, người bạn của gia đình anh. Bị tách ra khỏi gia đình, Szpilman xoay xở để sống sót. Anh trở thành nô lệ lao động làm việc cho quân Đức bên trong trại tập trung. Trong thời gian này một người bí mật tiết lộ với Szpilman hai thông tin. Một là rất nhiều người Do Thái còn sống sót biết về âm mưu diệt chủng người Do Thái của quân Đức, hai là có một kế hoạch nổi dậy chống lại quân Đức đang được chuẩn bị. Szpilman tình nguyện tham gia giúp đỡ cho kế hoạch này. Anh vận chuyển vũ khí vào trong khu trại tập trung và một lần suýt bị phát hiện. Trước khi kế hoạch nổi dậy bắt đầu, Szpilman quyết định ẩn nấp ở ngoài khu trại tập trung, nhờ sự giúp đỡ của một gia đình không phải Do Thái - những người vẫn nhớ anh là đồng nghiệp cũ ở đài phát thanh. Trong khi sống ẩn, anh nhìn thấy rất nhiều tội ác man rợ của lính SS như giết người hàng loạt, thiêu sống những người Do Thái, những người kháng chiến. Năm 1943, Szpilman còn chứng kiến cảnh nổi dậy ở trại tập trung Warsaw mà anh đã từng giúp, kết quả là lính SS bằng hỏa lực mạnh đã vào được trại tập trung và giết gần hết những người kháng chiến. Một năm trôi qua, cuộc sống ở Warsaw càng tồi tệ hơn. Szpilman buộc phải bỏ trốn khỏi nơi ẩn náu đầu tiên sau khi một hàng xóm độc ác (có lẽ là chủ nhà, đã hỏi anh về giấy chứng minh) phát hiện ra sự có mặt của anh và đe dọa sẽ gọi lính bắt anh. Ở nơi ẩn náu thứ hai, gần bệnh viện quân sự Đức, anh được chỉ cho một căn phòng với cây đàn dương cầm và được dặn giữ im lặng nhất có thể. Szpilman tất nhiên không thể chống lại đam mê và mở bàn phím cây đàn. Cũng ở đây, anh suýt chết vì bệnh vàng da và ngộ độc thực phẩm. Tháng 8 năm 1944, lực lượng kháng chiến Ba Lan nổi dậy chống lại sự chiếm đóng của quân Đức. Szpilman chứng kiến những người kháng chiến chiến đấu bên ngoài cửa sổ. Lại một lần nữa Szpilman thoát khỏi cái chết khi đạn pháo xe tăng Đức bắn vào căn hộ nơi anh đang trốn. Warsaw gần như bị san bằng và không có người sinh sống, kết quả của những trận đánh. Lúc này Hồng Quân Liên Xô cũng đang đến gần, những người dân Warsaw còn sống sót di tản khỏi thành phố đổ nát, Szpilman bị bỏ lại một mình. Trong những ngôi nhà còn lại, anh tìm kiếm thức ăn. Một lần cố mở một hộp thức ăn, anh đã bị phát hiện bởi sĩ quan Wehrmacht Wilm Hosenfeld (Kretschmann). Hosenfeld hỏi Szpilman và biết được anh là một nghệ sĩ dương cầm, gã sĩ quan này yêu cầu Szpilman chơi cây đàn dương cầm còn lại trong ngôi nhà. Szpilman yếu đuối, chỉ như một cái bóng của nghệ sĩ dương cầm chói lọi ngày nào, chơi một bản nhạc rút ngắn của Frédéric Chopin. Hosenfeld để Szpilman tiếp tục ẩn nấp trên gác mái của ngôi nhà, và thậm chí còn mang thức ăn đến giúp anh sống qua ngày. Vài tuần sau, quân Đức buộc phải rút khỏi Warsaw bởi sự tấn công của Hồng Quân. Trước khi rời đi, Hosenfeld hỏi tên Szpilman vì một ngày nào đó có thể sẽ nghe đến nó, và còn nhận xét rằng đó là một cách nói khác của "nhạc sĩ dương cầm" (Szpilman trong tiếng Ba Lan chuyển qua tiếng Đức có nghĩa là người biểu diễn). Hosenfeld còn hứa là sẽ nghe Szpilman biểu diễn trên đài phát thanh Ba Lan. Gã đưa cho Szpilman chiếc áo khoác rồi bỏ đi. Sau đó chiếc áo khoác này gây ra hiểu lầm khi Hồng Quân tưởng Szpilman là lính Đức, tuy nhiên anh đã thuyết phục được họ. Những người tù nhân Do Thái được trả tự do từ những trại tập trung trở về nhà đi ngang qua hàng rào, trong đó có những tù binh Đức được canh gác bởi lính Liên Xô. Một người tù binh Đức bị thương đã gọi một người đi ngang và cho anh này biết tên mình là Hosenfeld, bảo anh ta nói với Szpilman giúp mình được tự do. Tuy nhiên khi Szpilman tới nơi thì họ đã đi khỏi đó, tất cả trại, hàng rào đã được dọn. Trong cảnh cuối phim, Szpilman vui mừng chơi bài Grand Polonaise brillante của Chopin cho rất nhiều khán giả Warsaw thưởng thức. Dòng chữ cuối phim cho biết rằng Szpilman tiếp tục sống ở Warsaw và qua đời vào năm 2000, còn Hosenfeld chết năm 1952 ở trại giam KGB, tuy nhiên sau khi chết được vinh danh vì đã cứu sống Szpilman và thiên hướng chống lại chế độ độc ác của chính đất nước mình. Diễn viên Adrien Brody trong vai Władysław Szpilman Thomas Kretschmann trong vai Đại úy Wilm Hosenfeld Emilia Fox trong vai Dorota Michał Żebrowski trong vai Jurek Ed Stoppard trong vai Henryk Frank Finlay trong vai Ông Szpilman Maureen Lipman trong vai Bà Szpilman Jessica Kate Meyer trong vai Halina Julia Rayner trong vai Regina Richard Ridings trong vai Ông Lipa Daniel Caltagirone trong vai Majorek Valentine Pelka trong vai Chồng của Dorota Sản xuất Câu chuyện có một mối quan hệ sâu sắc với đạo diễn Roman Polanski vì bản thân ông đã trốn khỏi khu người Do Thái của Kraków khi còn là một đứa trẻ sau cái chết của mẹ. Ông đã về sống ở một trang trại gia súc Ba Lan cho đến khi chiến tranh kết thúc. Bố ông suýt chết trong trại tập trung, nhưng hai cha con đã gặp lại nhau sau khi chiến tranh kết thúc. Joseph Fiennes là lựa chọn đầu tiên của Polanski cho vai diễn chính, nhưng anh từ chối lời mời vì công việc ở nhà hát. Hơn 1400 diễn viên thử vai Wladyslaw Szpilman trong buổi thử vai ở Luân Đôn. Do không có tìm thấy ai vừa ý trong số những người tham gia thử vai, đạo diễn Roman Polanski tìm đến Adrien Brody, người mà ông nghĩ sẽ là một vai diễn lý tưởng trong cuộc gặp gỡ của họ lần đầu ở Paris. Nghệ sĩ dương cầm bắt đầu được bấm máy vào 9 tháng 2 năm 2001 tại phim Babelsberg ở Potsdam, Đức. Khu người Do Thái của Warszawa và các khu phố tiếp giáp được tái tạo ở khu ngoại cảnh của phim trường Babelsberg như những thứ họ đã chứng kiến trong chiến tranh. Doanh trại quân đội Liên Xô cũ được sử dụng để mô phỏng thành phố đổ nát, do nó trước sau cũng sẽ bị dỡ bỏ. Cảnh đầu tiên của phim được bấm máy ở doanh trại quân đội cũ. Ngay sau đó, đoàn làm phim dời đến biệt thự ở Potsdam nơi mà trong phim là ngôi nhà mà Szpilman gặp Hosenfeld. Ngày 2 tháng 3 năm 2001, công tác quay phim chuyển đến một bệnh viện quân đội Liên Xô bỏ hoang ở Beelizt, Đức. Những cảnh hỏa lực của Đức phá hủy bệnh viện cùng với súng phun lửa được quay ở đây. Ngày 15 tháng 3 việc quay phim cuối cùng dời đến xưởng phim Babelsberg. Cảnh đầu tiên tại xưởng phim là cảnh mà Szpilman chứng kiến một sự kháng cự của người Do Thái từ trại tập trung. Đây là cảnh quay phức tạp và yêu cầu kỹ thuật bao gồm những pha nhào lộn và các vụ nổ. Công tác quay phim tại phim trường kết thúc vào ngày 2 tháng 3. Đoàn làm phim sau đó di chuyển tới Warszawa vào 29 tháng 3. Quận Praga-Północ được chọn để quay phim bởi vì nó vẫn chứa rất nhiều căn hộ còn giữ lại những nét cổ điển. Đoàn làm phim đã cố gắng tái tạo lại hình ảnh Ba Lan những năm Chiến tranh thế giới thứ hai bằng những biển hiệu, áp phích từ thời xưa. Những cảnh còn lại của phim được quay tại các khu phố ở quanh Warszawa. Cảnh Umschlagplatz nơi mà Szpilman cùng gia đình và hàng trăm người Do Thái khác đợi để đưa đến trại thiêu xác được quay ở Đại học Quốc phòng Quốc gia ở Warszawa. Việc quay phim kết thúc vào tháng 7 năm 2001 và được xử lý hậu kỳ vài tháng sau đó ở Paris, Pháp. Phê bình Bộ phim nhận được rất nhiều cái nhìn tích cực từ những nhà phê bình và vai diễn Adrien Brody được nhìn nhận với sự hoan nghênh chung. "The Pianist" hiện tại giữ điểm số 95% trong bầu chọn phim của website Rotten Tomatoes, with the Cream of the Crop critics rating the movie with a score of 100%. Metacritic rates the movie as 85% based on 40 reviews. Roger Ebert nói "có lẽ chính sự dửng dưng đã phản ánh những gì mà Polansky muốn nói… Bằng cách đưa ra nhân vật Szpilman như một người sống sót nhưng không phải là một kẻ chiến đấu hay một anh hùng-như là một con người mà làm những gì anh ta có thể để cứu sống chính anh ta, nhưng sẽ chết nếu không có sự may mắn to lớn và sự tốt bụng của một vài người không phải Do Thái-Polanski đang phản ánh cảm giác trong sâu thẳm tâm hồn của ông: rằng ông đã sống sót, và mẹ ông đã chết và bỏ lại vết thương không thể lành". Phát hành Bộ phim được phát hành trên DVD vào 26 tháng 5 năm 2003 trong một phiên bản DVD đặc biệt hai mặt. Mặt đầu tiên là bộ phim không có "bonus material". Mặt kia bao gồm "bonus material". Một vài "bonus material " bao gồm cảnh làm phim, phỏng vấn Adrien Brody, Roman Polanski và Ronald Harwood, và đoạn quay Wladyslaw Szpilman chơi dương cầm. Phiên bản DVD tiếng Ba Lan bao gồm cả đoạn ghi tiếng bình luận bởi thiết kế sản xuất Allan Starski và đạo diễn quay phim Pawel Edelman. The film was released on DVD on ngày 26 tháng 5 năm 2003 in a double-sided "flipper" disc Special Edition DVD. The first side of the disk had the film with no bonus material. The second side of the disc included the Bonus Material. Some Bonus Material included a making-of, interviews with Adrien Brody, Roman Polanski and Ronald Harwood, and clips of Władysław Szpilman playing the piano. Polish DVD edition included audio commentary track (in Polish) by production designer Allan Starski and director of photography Paweł Edelman. Optimum Home Entertainment phát hành "The Pianist" tới hội chợ châu Âu trong đĩa Bluray như là một phần của bộ "sưu tập StudioCanal" vào 13 tháng 9 năm 2010 và đây là phim thứ 2 được phát hành trên Bluray. Phim đầu tiên có một vài vấn đề với phụ đề: bản BD gốc thiếu phụ đề cho đoạn hội thoại tiếng Đức. Sau đó thì lỗi này đã được sửa nhưng phiên bản phát hành đầu vẫn thiếu tiếng động của các hiệu ứng. Phiên bản StudioCanal Collection bao gồm cả cảnh hậu trường trông giống như một vài cảnh phỏng vấn với nhà làm phim và những người thân Szpilman. Âm nhạc Phần nhạc nghe lúc bắt đầu bộ phim là Nocturne in C-sharp minor Lento con gran espressione của Chopin. Phần nhạc dương cầm mà được nghe từ nhà hàng xóm trong khi Szpilman đang ẩn trốn tại căn hộ là the Mazurka in A Minor, Op. 17, No. 4 của Frederic Chopin. Phần dương cầm được nghe trong căn nhà hoang khi Szpilman vừa mới phát hiện ra nơi ẩn nấp trên gác mái là Moonlight Sonata của Beethoven. Bản mà sau đó phát hiện ra rằng chính sĩ quan người Đức Hosenfeld là nghệ sĩ. Một sáng tác của Đức đặt cạnh cùng với một tác phẩm Ba Lan (Chopin) sau sự lựa chọn của Szpilman. Phần dương cầm được chơi khi Szpilman đối mặt với Hosenfeld là Ballade No. 1 in G minor, Op. 23 của Chopin, là phiên bản được rút ngắn. Cả phần đó đầy đủ dài 9-10 phút. Phần nhạc hồ cầm (cello) ở giữa phim chơi bởi Dorota là đoạn mở đầu của Cello Suite No. 1 được viết bởi Bach. Phần giao hưởng nghe ở cuối phim được chơi bởi dàn nhạc là Grande Polonaise brillante, Op. 22 của Chopin Cảnh khi tay của Szpilman chơi trên piano đã đóng được cung cấp bởi nghệ sĩ dương cầm cổ điển Ba Lan Janusz Olejniczak (b.1952), người còn biểu diễn trong cả tập album của phim. Do Polanski muốn bộ phim trở nên thật nhất có thể, bất kỳ cảnh nào của Brody chơi đều là do chính anh biểu diễn thông qua sự ghi âm được cung cấp bởi Janusz Olejniczak. Để phần biểu diễn của Brody giống với trình độ của Wladyslaw Szpilman, anh đã phải bỏ ra rất nhiều tháng trước và trong quá trình làm phim luyện tập để những phím đánh trên dương cầm thuyết phục được người xem rằng anh đang chơi. Giải thưởng và đề cử Đoạt giải Academy Award for Best Actor - Adrien Brody Academy Award for Best Director - Roman Polanski Academy Award for Writing Adapted Screenplay - Ronald Harwood Palme d'Or, 2002 Cannes Film Festival BAFTA Award for Best Film BAFTA Award for Best Direction - Roman Polanski César Award for Best Actor César Award for Best Director César Award for Best Film César Award for Best Music Written for a Film César Award for Best Cinematography César Award for Best Production Design César Award for Best Sound Goya Award for Best European Film Đề cử Academy Award for Best Cinematography - Paweł Edelman Academy Award for Best Costume Design - Anna B. Sheppard Academy Award for Film Editing - Hervé de Luze Academy Award for Best Picture BAFTA Award for Best Cinematography - Paweł Edelman BAFTA Award for Best Actor in a Leading Role - Adrien Brody BAFTA Award for Best Adapted Screenplay - Ronald Harwood BAFTA Award for Best Sound - Jean-Marie Blondel, Dean Humphreys, Gérard Hardy
Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung là tên gọi của khu vực kinh tế động lực tại miền Trung Việt Nam, bao gồm 5 tỉnh và thành phố: Thừa Thiên Huế, thành phố Đà Nẵng (hạt nhân), Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định. Đây là vùng kinh tế lớn thứ 3 tại Việt Nam. Đặc trưng của vùng này là các khu kinh tế cảng biển tổng hợp. Các khu kinh tế gồm có: khu kinh tế mở Chu Lai, khu kinh tế Dung Quất, khu kinh tế Chân Mây, và khu kinh tế Nhơn Hội. So với hai vùng kinh tế trọng điểm còn lại, vùng kinh tế này yếu kém hơn về mặt hạ tầng và nhân lực nhưng lại có tiềm năng lớn về cảng biển trung chuyển lớn và phát triển du lịch nghỉ dưỡng (chiếm phần lớn các dự án khu nghỉ mát biển của cả nước) và di sản thế giới (khu vực Trung Bộ chiếm 5/9 di sản thế giới tại Việt Nam). Khu vực này cũng có tiềm năng về phát triển công nghiệp đóng tàu và dịch vụ hàng hải. Hạ tầng gồm có: sân bay quốc tế Đà Nẵng, sân bay trung chuyển hàng hóa Chu Lai (tương lai); cảng Liên Chiểu và đặc biệt là dự án cảng trung chuyển Vân Phong có tổng vốn lên đến 15 tỷ USD do Tập đoàn Sumimoto chủ trì đầu tư; Quốc lộ 1, đường Hồ Chí Minh. Đà Nẵng là điểm cuối trong Hành lang kinh tế Đông - Tây nối Đông Bắc Thái Lan, Trung Lào và Trung Trung Bộ Việt Nam.
CAN SLIM là một phương pháp chọn mua chứng khoán nổi tiếng được nhiều người biết đến do William O'Neil - người sáng lập ra tờ Investor's Business Daily, sáng tạo ra. Phương pháp này chọn mua chứng khoán bao hàm cả phân tích cơ bản và phân tích kĩ thuật. Thành phần viết tắt (1) C = Lãi ròng trên mỗi cổ phần quý hiện tại hay gọi nôm na là “EPS quý hiện tại” (Current Earning Per Share), tiêu chuẩn này yêu cầu EPS tăng dần và tăng càng cao càng tốt. Có thể kể đến mức EPS hấp dẫn và tăng đều như cổ phiếu FPT, SZE, PJS…. So sánh lãi sau thuế chứ không phải eps vì eps có thể giảm khi cổ phiếu chia tách nhiều hơn mặc cho lãi sau thuế của công ty tiếp tục tăng. So sánh cần mang tính chu kì năm để tránh các khoản thu một lần và các khoản thu mang tính chu kì (2) A = Tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận hàng năm (Annual Earning Increases). Điều này có nghĩa là cổ phiếu tốt là cổ phiếu có mức gia tăng lợi nhuận đều đặn năm sau so với năm trước (chỉ tiêu thông thường được tính cho 03 năm) và nhà đầu tư cần đặc biệt lưu ý tới các cổ phiếu có mức gia tăng lợi nhuận hàng năm trên vốn cổ phần đạt từ (ROE) từ 17% trở lên, những công ty tốt nhất sẽ có lợi suất từ 25% - 50%. Có thể lấy ví dụ như SZE, … (3) N = Những thông tin mới về công ty như sản phẩm mới, ban lãnh đạo mới, đỉnh giá mới... (New Products, New Management, New highs). Thực tiễn cho thấy, giá cổ phiếu tăng thường gắn với một điều gì đó mới mẻ từ công ty. (4) S = Quan hệ cung cầu của cổ phiếu (Supply and Demand). Cổ phiếu cũng là một loại hàng hoá, do vậy, giá cả chịu sự điều chỉnh của quan hệ cung cầu. Cách tốt nhất để ước lượng cung cầu của một cổ phiếu là theo dõi số lượng cổ phần giao dịch hàng ngày của nó. Nếu một cổ phiếu giảm giá, khối lượng giao dịch không tăng thể hiện không có áp lực bán ra đáng kể, ngược lại, khi nó tăng giá khối lượng sẽ tăng dần thể hiện cổ phiếu đang được mua vào. (5) L = Xem xét vai trò của cổ phiếu đó trên thị trường là cổ phiếu “dẫn đầu” hay chỉ là cổ phiếu “đội sổ” (leader/laggard). Hãy chỉ quan tâm đến cổ phiếu dẫn đầu trên thị trường và tránh xa những cổ phiếu “đội sổ” mặc dù giá cổ phiếu đó đã giảm rất mạnh và chỉ ngang cốc trà đá. Có thể kể đến các cổ phiếu dẫn dắt thị trường như VNM, VCB, SZE, FPT… (6) I = Sự quan tâm của các tổ chức, định chế tài chính lớn đến cổ phiếu (Institutional Sponsorship). Nhà đầu tư sẽ an tâm hơn để đầu tư khi cổ phiếu mà mình đầu tư cũng được sự quan tâm và mua vào của các tổ chức lớn, các thiết chế tài chính lớn và có uy tín. Các quỹ ETF và các quỹ đầu tư nước ngoài, các quỹ đầu tư lớn… nếu quan tâm và mua vào một cổ phiếu trên thị trường thì cổ phiếu đó đã được nghiên cứu rất kỹ và sẽ có một xu hướng tăng khá mạnh. Như các cổ phiếu được các quỹ nước ngoài yêu thích như: VNM, FPT, VCB… (7) M = Xu hướng thị trường (Market Direction) là yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của phương án đầu tư. Hãy xác định xu hướng chung thị trường và sự vận động của các dòng cổ phiếu để lên kế hoạch trading hiệu quả. Thực tế, để tìm được một cổ phiếu hội tụ toàn bộ 7 yếu tố trên là rất khó, vậy nên, những yếu tố trên chỉ mang tính lý thuyết để lựa chọn cổ phiếu, và tìm ra những cổ phiếu gần đủ các yếu tố trên cũng đã đảm bảo rằng nhà đầu tư đã lựa chọn được danh mục ít rủi ro trong hàng trăm mã cổ phiếu trên thị trường.
Hoành Bồ là một huyện cũ thuộc tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam. Huyện Hoành Bồ được sáp nhập vào thành phố Hạ Long vào ngày 1 tháng 1 năm 2020. Địa lý Huyện Hoành Bồ nằm ở trung tâm tỉnh Quảng Ninh, có vị trí địa lý: Phía đông giáp thành phố Cẩm Phả Phía tây giáp thành phố Uông Bí Phía nam giáp thành phố Hạ Long (với ranh giới là vịnh Cửa Lục) và thị xã Quảng Yên Phía bắc giáp huyện Ba Chẽ và tỉnh Bắc Giang. Trước khi giải thể, huyện có diện tích 843,54 km², dân số là 51.003 người, mật độ dân số đạt 60 người/km². Lịch sử Theo Đồng Khánh địa dư chí, Hoành Bồ là một trong ba huyện thuộc phủ Hải Đông, thừa tuyên An Bang, được đặt tên năm Quang Thuận thứ 10 (1469) đời Lê Thánh Tông. Năm Minh Mạng thứ 17 (1836), huyện Hoành Bồ thuộc phủ Sơn Định, tỉnh Quảng Yên. Huyện có 4 tổng, gồm 26 xã, thôn, phường, động. Tổng Vạn Yên có 4 xã: Vạn Yên, Vị Lại, Đãi Đán, Tiêu Dao và phường Trúc Võng Tổng Dương Huy có 7 xã: Dương Huy, Yên Thổ, Lưỡng Kỳ, Vũ Uy, Lương Mông, Đạp Thanh và động Dương Huy Tổng Yên Mỹ có 6 xã: Yên Mỹ, Lũ Phong, Xích Thổ, Từ Xá, Sơn Dương, Hiệp Khẩu và phường Giang Võng Tổng Trí Xuyên có 5 xã: Trí Xuyên, Quảng La, Tân Ốc, Kênh Trạo, Dương Hưu và phường Nam Giang. Huyện lỵ của huyện đặt tại xã Trí Xuyên. Ngày 21 tháng 1 năm 1949, Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu I ban hành Quyết định số 46PC/1. Theo đó, huyện Hoành Bồ thuộc tỉnh Quảng Yên, gồm 10 xã: Đoàn Kết, Cộng Hòa, Lê Lợi, Việt Hưng, Tân Dân, Dân Chủ, Sơn Dương, Quảng La, Bằng Cả, Dương Huy Động. Ngày 5 tháng 10 năm 1949, Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu I ban hành Quyết định số 911PC/2 sáp nhập huyện Hoành Bồ vào Đặc khu Hòn Gai. Ngày 5 tháng 10 năm 1950, sáp nhập hai xã Cộng Hòa và Đoàn Kết thành xã Thống Nhất. Ngày 22 tháng 2 năm 1955, Đặc khu Hòn Gai sáp nhập với tỉnh Quảng Yên thành khu Hồng Quảng, huyện Hoành Bồ thuộc khu Hồng Quảng. Ngày 2 tháng 3 năm 1956, Ủy ban hành chính khu Hồng Quảng ban hành Quyết định số 192-TCCB chia xã Song Huy thành 4 xã: Đồng Quặng, Lưỡng Kỳ, Hòa Bình, Dương Huy. Ngày 16 tháng 6 năm 1956, Ủy ban hành chính khu Hồng Quảng ban hành Quyết định số 647-TCCB sáp nhập thôn Đại Đán thuộc xã Việt Hưng vào xã Minh Thành, huyện Yên Hưng. Ngày 17 tháng 6 năm 1958, chuyển xã Thành Công về thị xã Hòn Gai quản lý (nay xã Thành Công đã sáp nhập vào phường Cao Xanh thuộc thành phố Hạ Long). Ngày 11 tháng 5 năm 1959, chia xã Bằng Cả thành hai xã Bằng Cả và Quảng La. Ngày 17 tháng 5 năm 1961, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 69-CP tách các thôn Vạn Nho, Đại Đán, Yên Cư thuộc xã Minh Thành, huyện Yên Hưng để thành lập xã Đại Yên thuộc huyện Hoành Bồ. Ngày 30 tháng 10 năm 1963, khu Hồng Quảng sáp nhập với tỉnh Hải Ninh thành tỉnh Quảng Ninh, huyện Hoành Bồ thuộc tỉnh Quảng Ninh. Ngày 2 tháng 7 năm 1964, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 106-CP. Theo đó, sáp nhập xã Tuần Châu và các xóm Cái Dăm, Cái Lân, Đồng Mang, khu vực Xí nghiệp gạch Giếng Đáy thuộc xã Việt Hưng vào thị xã Hồng Gai. Ngày 16 tháng 1 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 17-CP. Theo đó: Tách hai thôn Tiêu Dao, Yên Tiêm thuộc xã Việt Hưng, huyện Hoành Bồ và tiểu khu Giếng Đáy thuộc thị trấn Bãi Cháy, thị xã Hồng Gai để thành lập thị trấn Giếng Đáy trực thuộc thị xã Hồng Gai Chuyển xã Dương Huy về thị xã Cẩm Phả quản lý. Ngày 15 tháng 7 năm 1983, chia xã Đồng Quặng thành 2 xã: Đồng Lâm và Đồng Sơn. Ngày 16 tháng 8 năm 2001, chuyển 2 xã Đại Yên và Việt Hưng về thành phố Hạ Long quản lý (nay là 2 phường có tên tương ứng). Đến cuối năm 2018, huyện Hoành Bồ có 13 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Trới (huyện lỵ) và 12 xã: Bằng Cả, Dân Chủ, Đồng Lâm, Đồng Sơn, Hòa Bình, Kỳ Thượng, Lê Lợi, Quảng La, Sơn Dương, Tân Dân, Thống Nhất, Vũ Oai. Ngày 17 tháng 12 năm 2019, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 837/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Quảng Ninh (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó, sáp nhập toàn bộ diện tích và dân số của huyện Hoành Bồ vào thành phố Hạ Long. Thành lập phường Hoành Bồ thuộc thành phố Hạ Long trên cơ sở toàn bộ 12,24 km² diện tích tự nhiên và 10.858 người của thị trấn Trới. Chú thích Hành chính Quảng Ninh
John Clifton "Jack" Bogle (8 tháng 5 năm 1929 - 16 tháng 2 năm 2019) tại Montclair, New Jersey là một nhà đầu tư, nhà từ thiện nổi tiếng người Mỹ, và là Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm nhà sáng lập Tập đoàn Vanguard, ông là người sáng lập tạo ra quỹ đầu tư theo chỉ số đầu tiên. Ông có tên trong danh sách một trăm người quyền lực và có tầm ảnh hưởng nhất thế giới, do tạp chí TIME bình chọn. Tờ FORTUNE gọi ông là một trong bốn "người khổng lồ của thế kỷ 20" trong lĩnh vực đầu tư. Trong thời gian chưa đến 30 năm, Vanguard đã trở thành quỹ đầu tư lớn thứ nhì toàn thế giới sau iShares của BlackRock. Sách
Đài Bắc 101 () – hay Taipei 101, từng được gọi là Trung tâm Tài chính Thế giới Đài Bắc – là một tòa nhà cao tầng có tính dấu mốc tại quận Tín Nghĩa, Đài Bắc, Đài Loan. Tòa nhà được chính thức xác định là cao nhất thế giới trong năm 2004, và duy trì vị thế này cho đến khi tòa nhà Burj Khalifa tại Dubai khánh thành vào năm 2010. Năm 2011, tòa nhà được trao tặng giấy chứng nhận bạch kim LEED, giải thưởng cao nhất theo hệ thống xếp hạng LEED, và trở thành tòa nhà xanh cao nhất và lớn nhất trên thế giới. Đài Bắc 101 do Lý Tổ Nguyên và các đối tác thiết kế là Samsung C&T và KTRT Joint Venture xây dựng. Quá trình xây dựng tòa tháp cao 101 tầng khởi công vào năm 1999 và hoàn thành vào năm 2004. Tháp đóng vai trò là một biểu tượng cho Đài Loan hiện đại từ khi nó khánh thành. Tòa nhà trên phương diện kiến trúc tạo thành một biểu trưng cho sự tiến triển kỹ thuật và truyền thống châu Á. Phong cách hậu hiện đại của tòa nhà tiếp cận với phong cách kết hợp các yếu tố thiết kế truyền thống và có cách thức xử lý hiện đại với chúng. Tháp được thiết kế để chịu được các cơn bão nhiệt đới và động đất. Một khu mua sắm nhiều đẳng cấp nằm kế bên tháp, với hàng trăm cửa hiệu, nhà hàng và câu lạc bộ. Pháo hoa được bắn từ Đài Bắc 101 là một đặc điểm nổi bật trên truyền thông quốc tế trong dịp đón Tết Dương lịch. Đài Bắc 101 chủ yếu thuộc quyền sở hữu của Tập đoàn Quốc tế Đính Tân, trách nhiệm quản lý tài sản và cho thuê là của hãng Urban Retail Properties. Tên dự tính ban đầu của tòa nhà là Trung tâm Tài chính Quốc tế Đài Bắc. Đặc điểm Chiều cao Đài Bắc 101 có 101 tầng trên nền, cùng 5 tầng hầm. Đây không những là tòa nhà đầu tiên trên thế giới vượt trên độ cao nửa km, mà còn là tòa nhà cao nhất thế giới từ tháng 3 năm 2004 đến ngày 10 tháng 3 năm 2010 , đây vẫn là công trình xanh lớn nhất và cao nhất được sử dụng. Khi hoàn thành, Đài Bắc 101 là tòa nhà có người ở cao nhất trên thế giới, với nếu đo đến đỉnh kiến trúc thì vượt qua Tháp đôi Petronas có độ cao . Chiều cao nếu tính từ nóc nhà là , và tính đến tầng khả dụng cao nhất là , vượt qua các kỷ lục trước đó là và của Tháp Willis. Nó cũng vượt qua Tòa nhà Tuntex Sky cao tại Cao Hùng để trở thành tòa nhà cao nhất tại Đài Loan, và vượt qua Tòa nhà Bảo hiểm Nhân thọ Tân Quang cao để trở thành tòa nhà cao nhất tại Đài Bắc. Đài Bắc 101 yêu cầu ghi nhận chính thức cho kỷ lục đồng hồ mặt trời lớn nhất thế giới và đồng hồ đếm ngược đón Tết Dương lịch lớn nhất thế giới. Một số nguồn, trong đó có nguồn của chủ sở hữu tòa nhà, đưa ra số liệu chiều cao của Đài Bắc 101 là , chiều cao mái và chiều cao tầng đỉnh là và . Số liệu thấp hơn do chưa tính chiều cao của thềm tại chân tháp. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn CTBUH tính cả chiều cao của thềm trong chiều cao tổng thể, do nó đại diện cho bộ phận của cấu trúc nhân tạo và nằm phía trên của mặt lát xung quanh. Đài Bắc 101 thay thế Tháp đôi Petronas làm tòa nhà cao nhất thế giới với chênh lệch . Kỷ lục cao nhất thế giới từ mặt đất đến đỉnh tháp của Đài Bắc 101 bị Burj Khalifa cao tại Dubai vượt qua vào năm 2010. Kỷ lục cao nhất về mái và tầng khả dụng bị Trung tâm Tài chính Thế giới Thượng Hải vượt qua vào năm 2008, kỷ lục này sau đó cũng rơi vào tay Burj Khalifa. Thiết kế Đài Bắc 101 được thiết kế để chịu được gió bão và rung động động đất, là những hiện tượng phổ biến tại khu vực phía đông của Đài Loan. Những người lập kế hoạch thiết kế Đài Bắc 101 chịu được gió có tốc độ , (), cũng như các trận động đất lớn nhất trong một chu kỳ 2.500 năm. Đài Bắc 101 được thiết kế để linh hoạt, cũng như khả năng kháng cự trên phương diện cấu trúc, vì dù tính linh hoạt ngăn chặn kiến trúc bị tổn hại, song kháng cự đảm bảo an toàn cho những người trong tòa nhà và bảo vệ kính, mặt dựng và các đặc điểm khác. Hầu hết thiết kế đạt được độ vững chắc cần thiết bằng cách khuếch trương các thành phần cấu trúc then chốt như giằng. Do chiều cao của Đài Bắc 101, kết hợp với địa chất khu vực xung quanh — tòa nhà nằm ngay sát một đường đứt gãy lớn — Đài Bắc 101 sử dụng cách xây dựng thép hiệu năng cao và 36 cột, trong đó có tám cột rất lớn được đổ bê tông. Các giàn rầm chìa (Outrigger trusses), nằm trong quãng tám tầng, liên kết các cột trong lõi tòa nhà đến các cột bên ngoài. Các đặc điểm này kết hợp vơí độ vững chắc của móng khiến Đài Bắc 101 nằm trong số các tòa nhà ổn định nhất từng được xây dựng. Móng được gia cố bằng 380 cọc được đóng sâu xuống đất, cắm sâu đến vào móng địa chất. Mỗi cọc có đường kính và có thể chịu tải . Trong quá trình xây dựng, vào ngày 31 tháng 3 năm 2002, một trận động đất mạnh 6,8 độ làm rung chuyển Đài Bắc; hai cần trục từ tầng thứ 56, tức tầng cao nhất của tòa nhà lúc đó, bị đổ khiến năm người thiệt mạng, song một cuộc kiểm tra cho thấy tòa nhà không có thiệt hại về mặt cấu trúc. RWDI thiết kế một con lắc thép nặng đóng vai trò làm một thiết bị giảm chấn khối lượng điều chỉnh, có chi phí là 132 triệu Đài tệ (4 triệu USD). Được treo lơ lửng từ tầng 92 xuống tầng 87, con lắc đu đưa để bù chuyển động trong tòa nhà do các cơn gió mạnh gây ra. Khối cầu của thiết bị này là khối cầu giảm chấn lớn nhất trên thế giới, gồm có 41 tấm thép tròn có đường kính khác nhau, mỗi tấm dày , được hàn vào nhau để hình thành một khối cầu có đường kính . Hai thiết bị giảm chấn khối lượng điều chỉnh khác, mỗi cái nặng , được đặt tại đỉnh của chóp để giúp tránh tổn thất cho cấu trúc do gió mạnh. Ngày 8 tháng 8 năm 2015, gió mạnh từ Bão Soudelor làm đu đưa thiết bị giảm chấn chính  – chuyển động lớn nhất từng ghi nhận được. Thiết bị giảm chấn trở thành một điểm thu hút du khách, thành phố tạo ra một linh vật là the Damper Baby. Bốn phiên bản của Damper Baby: "Rich Gold", ""Cool Black", "Smart Silver" và "Lucky Red" được thiết kế và được làm thành các tượng nhỏ và vật kỷ niệm bán trong các cửa hàng quà tặng của Đài Bắc 101. Damper Baby có vẻ dễ thương thu hút mọi lứa tuổi, trở thành một biểu tượng địa phương phổ biến. Bề ngoài Vách kính dựng màu lam-lục đặc trưng của Đài Bắc 101 là kính nổi kép và được tráng men, tạo bảo vệ nhiệt và tia cực tím đủ để ngăn 50% nhiệt bên ngoài, và có thể chịu được va đập . Hệ thống lập diện gồm các tấm thép và nhôm được đặt vào một lưới chịu mô men nằm nghiêng, có thể chịu được chuyển dịch nằm ngang trong địa chấn lên đến 95 mm mà không chịu tổn thất. Các góc nguyên bản của hệ thống lập diện được thử nghiệm tại RWDI tại Ontario, Canada. Mô phỏng một cơn bão trăm năm tại RWDI tạo ra một xoáy tạo thành gió trong ba giây trên độ cao 10 mét, hay tương đương với mức dao động ngang của tháp gây ra dao động gió bên lớn. Một thiết kế gối trục vạt cạnh đôi được tạo ra để giảm đáng kể dao động gió bên này, kết quả là hệ thống lập diện có góc "bậc thang đôi" trong thiết kế chung cuộc. Kiến trúc sư Lý Tổ Nguyên cũng sử dụng các yếu tố lập diện trên quy mô rộng để biểu thị cho đặc tính tượng trưng mà ông theo đuổi. Các yếu tố lập diện này gồm có kính nhuộm màu lục để trông giống loài tre mảnh bản địa, tám bậc nghiêng hướng ra ngoài và lên trên giống với các tầng của chùa và mỗi bậc có tám tầng, một gậy như ý và một biểu tượng hộp tiền nằm giữa hai đoạn lập diện. Hệ thống nước tái chế từ mái và lập diện của Đài Bắc 101 đáp ứng 20-30% nhu cầu nước của tòa nhà. Trong tháng 7 năm 2011, Đài Bắc 101 được chứng nhận là "tòa nhà xanh cao nhất thế giới" theo tiêu chuẩn LEED. Biểu trưng Chiều cao các tầng của 101 tượng trưng sự tái sinh của thời gian: thế kỷ mới đến khi tòa nhà đang được xây (100+1) và toàn bộ năm mới sau đó (1 tháng 1 = 1-01). Nó tượng trưng cho tư tưởng trọng cao khi lấy một số tốt hơn 100, vốn là số hoàn hảo theo truyền thống. Số này cũng gợi lên hệ nhị phân dùng trong kỹ thuật số. Tháp chính có đặc điểm là một chuỗi gồm tám đoạn, mỗi đoạn có tám tầng. Trong văn hóa Trung Hoa, số 8 (bát) có liên hệ với sự giàu có, thịnh vượng và may mắn. Trong các nền văn hóa quy định một tuần có bảy ngày thì số tám tượng trưng cho tái sinh thời gian (7+1). Trong kỹ thuật số, số tám có liên quan đến byte, là 8 bit. Một bit là đơn vị (tối thiểu) cơ bản của thông tin. Các đoạn đồng thời gợi lại sự nhịp nhàng của một chùa châu Á (một tháp liên kết đất và trời, cũng được gợi lên tại Tháp đôi Petronas), một thân tre (tượng trưng cho học tập và phát triển), và một sấp hộp thỏi hay tiền Trung Quốc cổ đại (tượng trưng cho giàu có). Dân chúng đôi khi ví hình dáng của tòa nhà như một sấp hộp đồ ăn Trung Quốc kiểu Tây; tất nhiên, hình dạng có thể xếp chồng của các hộp này bắt nguồn từ các hộp tiền cổ. Bốn đĩa gắn trên mỗi mặt của tòa nhà nơi bệ gặp tháp tượng trưng cho tiền xu cổ. Huy hiệu được đặt trên lối vào thể hiện ba đồng xu vàng với thiết kế cô đại với lỗ ở giữa với ngụ ý về số 1-0-1. Các hình tượng 'như ý' xoắn xuất hiện khắp cấu trúc với tư cách một mô típ thiết kế. Mặc dù hình dạng của mỗi gậy như ý tại Đài Bắc 101 theo truyền thống, song dựng hình nó trên kim loại công nghiệp rõ ràng mang tính hiện đại. Gậy như ý là một bùa có nguồn gốc cổ đại, nó được cho là giúp chữa bệnh, bảo vệ và ứng nghiệm. Nó xuất hiện trong các lễ kỷ niệm đạt được điểm cao sự nghiệp mới. Mái cong sâu rộng của phố mua sắm kế bên còn có một gậy như ý khổng lồ che mưa nắng cho khách bộ hành. Mỗi trang trí gậy như ý tại ngoại thất của Đài Bắc 101 cao ít nhất . Vào ban đêm, tia sáng màu vàng tươi từ tháp nhọn khiến Đài Bắc 101 đóng vai trò của một ngọn nến hay đuốc duy trì các ý tưởng về tự do và hoan nghênh. Từ 6 giờ tối đến 10 giờ tối mỗi ngày các đèn của tháp chiếu một trong bảy màu quang phổ. Các màu tương ứng với các ngày trong tuần: Giống như nhiều tòa nhà lân cận, Đài Bắc 101 cho thấy ảnh hưởng của triết lý phong thủy. Một ví dụ thể hiện trong hình dạng một đài phun nước granit lớn nằm tại giao lộ của đường Tùng Liêm và đường Tín Nghĩa gần lối vào phía đông của tháp. Một quả cầu ở trên cùng của đài phun nước quay tròn về phía tháp. Với tư cách là một công trình nghệ thuật công cộng, đài phun nước thể hiện tương phản với tháp trong cấu tạo còn thiết kế của nó phản chiếu nhịp của tháp. Đài phun nước cũng có một chức năng thực tiễn trong "phong thủy". Một giao lộ hình chữ T gần lối vào tòa nhà đại diện cho dòng chảy tiềm tàng của năng lượng dương, hay Khí, từ cấu trúc và người trong đó. Đặt nước chảy như vậy được cho là giúp chuyển hướng dòng khí. Nội thất Đài Bắc 101 là tòa nhà chọc trời đầu tiên lập kỷ lục trong thế kỷ 21. Nó thể hiện một số đặc điểm tiến bộ trên phương diện kỹ thuật trong khi tạo nên một trung tâm kinh doanh và giải trí. Cáp quang và Internet vệ tinh của tòa nhà vào năm 2004 cho phép truyền dữ liệu lên tới một gigabyte mỗi giây. Các thang máy hai tầng được Công ty Toshiba Elevator and Building Systems Corporation (TELC) của Nhật Bản xây dựng, lập kỷ lục mới trong năm 2004 với hạng mục tốc độ tăng tốc nhanh nhất thế giới, với trên giờ, hay trên giây, tốc độ các thang máy của Đài Bắc 101 nhanh hơn 34,7% so với tòa nhà nắm giữ kỷ lục trước đó là thang máy Yokohama Landmark Tower tại Nhật Bản, với tốc độ mỗi giây (45,0 km/h, 28,0 mi/h). Các thang máy của Đài Bắc 101 đưa du khách từ tầng thứ năm lên đài quan sát trên tầng 89 chỉ mất 37 giây. Mỗi thang máy mang đặc điểm của một vật thể khí động lực, điều áp đầy đủ, hệ thống hãm phanh khẩn cấp tân tiến, và hệ thống chống quá xung ba tầng đầu tiên của thế giới. Chi phí cho mỗi thang máy là 80 triệu Đài tệ (2,4 triệu USD). Một Bộ hấp thụ dao động thụ động dạng khối lượng (TMD) nằm giữa các tầng 87 và 91, giữ thăng bằng cho tháp chống lại sự dịch chuyển do gió trên cao gây ra. Bộ hấp thụ có thể giảm thiểu còn 40% sự dịch chuyển của tháp. Toàn bộ du khách có thể trông thấy TMD từ tầng 87 đến tầng 91. Hai nhà hàng được mở trên tầng 85: Diamond Tony's/隨意鳥地方 có hải sản và thịt nướng kiểu Âu, và Shin Yeh 101 (欣葉) phục vụ ẩm thực Đài Loan. Toàn bộ tầng 86 là nhà hàng Đài Loan Ding Xian 101/頂鮮101. Din Tai Fung, một số cơ sở ăn uống quốc tế và cửa hàng bán lẻ cũng hoạt động tại phố mua sắm liền kề. Phố mua sắm bán lẻ nhiều tầng liền kề tháp là nơi có hàng trăm cửa hàng thời trang, nhà hàng, câu lạc bộ và các điểm tham quan khác. Nội thất khu mua sắm được thiết kế hiện đại dù có sử dụng các yếu tố truyền thống. Nhiều đặc điểm nội thất cũng tuân theo truyền thống phong thủy. Danh mục tầng Tầng thứ 101 có một câu lạc bộ VIP riêng tư mang tên Summit 101, theo tài liệu đài quan sát. Trước năm 2014, không có thông tin công khai về câu lạc bộ này. Năm 2014, các bức ảnh về câu lạc bộ độc nhất này được trình chiếu trên TV lần đầu tiên. Một người phát ngôn của Công ty Trung tâm Tài chính Đài Bắc nói rằng chỉ các chức sắc ngoại quốc, diễn viên điện ảnh Hollywood, và người chi tiêu cao tại khu mua sắm Đài Bắc 101 (trên 1 triệu Đài tệ) mới được mời vào câu lạc bộ VIP. Muốn tiếp cận tầng 101 cần phải qua hai lần chuyển thang máy tại tầng 89 và tầng 93. Chỉ có một thang máy để lên chín tầng trên cùng (93-101). Tầng 101 được chia thành ba mức: 101F (thấp), 101MF (lửng) và 101RF (mái). Câu lạc bộ VIP hiện diện tại mức thấp, còn 101RF là sàn máy móc có thể tiếp cận đến tháp chóp cao 60 mét có 24 mức và chỉ có thể tiếp cận bằng thang. Từ tầng 92 đến tầng 100 chính thức được xác định là các tầng truyền thông, song không rõ có đài phát thanh và truyền hình nào hiện phát sóng từ đỉnh của Đài Bắc 101. Đài quan sát tầng thứ 91 là tầng cao nhất mở cửa cho công chúng, song không giống như các tầng cho thuê/kín từ tầng 7 đến tầng 90, không có dấu hiệu có thể tiếp cận các tầng cao nhất tại đó. 4 là con số không may mắn trong văn hóa Trung Hoa, do đó tầng thứ 44 được ghi là tầng 43, còn tầng thứ 43 được ghi là tầng 42A để bù cho con số bị bỏ qua. Có một thang máy chở hàng để tiếp cận các tầng từ hầm 5 đến 91, với một nút bấm mỗi tầng. Sàn quan sát Đài Bắc 101 có một sàn quan sát trong nhà (tầng 88 và 89) và một sàn quan sát ngoài trời (tầng 91). Chúng đều có góc nhìn 360 độ và thu hút du khách khắp thế giới. Đài quan sát trong nhà nằm trên độ cao từ mặt đất, tạo môi trường thoải mái, các cửa sổ lớn bảo vệ khỏi tia UV, hướng dẫn du lịch ghi âm sẵn bằng tám ngôn ngữ, và màn hình hiển thị thông tin cùng vật trưng bày đặc biệt. Tại đây mọi người có thể ngắm nhìn bộ hấp thụ dao động chính của tòa nhà, mua thực phẩm, đồ uống và quà tặng. Đài quan sát ngoài trời nằm trên độ cao so với mặt đất, là sàn quan sát cao thứ hai trên thế giới trong một tòa nhà cao tầng và là sàn cao nhất tại Đài Loan. Đài quan sát trong nhà mở cửa mười ba tiếng một ngày (9–22 giờ) suốt tuần cũng như trong các dịp đặc biệt; Đài quan sát ngoài trời cũng mở cửa cùng thời điểm khi thời tiết cho phép. Vé có thể mua tại khu mua sắm (tầng 5) hoặc trả trước tại trang tin điện tử. Giá vé là NT$500 (US$17, tính đến 9 tháng 9 năm 2013) và cho phép tiếp cận từ tầng 88 đến 91 thông qua thang máy tốc độ cao. Nghệ thuật Nhiều công trình nghệ thuật xuất hiện trong hoặc xung quanh Đài Bắc 101. Chúng gồm Dialogue between Yin and Yangcủa nghệ sĩ người Đức Rebecca Hornin vào năm 2002 (gang, thép), 1-0 vào năm 2002 và Love vào năm 2003 của nghệ sĩ người Mỹ Robert Indiana (nhôm), Between Earth and Sky của nghệ sĩ người Pháp Ariel Moscovici vào năm 2002 (rose de la claret granite), Global Circle của nghệ sĩ người Đài Loan Chung Pu vào năm 2002 (granite đen, cẩm thạch trắng), City Composition của nghệ sĩ người Anh Jill Watson vào năm 2002 (đồng), và Infinite Life của nghệ sĩ người Đài Loan Kang Mu Hsiang vào năm 2013 (nhôm). Hơn nữa, Đài quan sát trong nhà có một loạt cuộc triển lãm thường lệ. Các nghệ sĩ biểu diễn gồm Wu Ching (điêu khắc vàng), Ping-huang Chang (hội họa truyền thống) và Po-lin Chi (nhiếp ảnh không trung). Lịch sử Xây dựng Kế hoạch xây dựng Đài Bắc 101 bắt đầu vào tháng 7 năm 1997 thời Trần Thủy Biển làm thị trưởng Đài Bắc. Thảo luận giữa các thương gia và quan chức chính quyền thành phố ban đầu tập trung vào một đề xuất một tòa tháp 66 tầng làm điểm nhấn cho sự phát triển mới của khu kinh doanh. Những người lập kế hoạch xem xét đưa ra một cấu trúc mới tham vọng hơn về chiều cao chỉ sau khi một người nước ngoài đề xuất, cùng với nhiều đặc điểm khác được sử dụng trong thiết kế của tòa nhà. Phải đến mùa hè năm 2001, thành phố mới cấp phép để xây dựng một tòa tháp 101 tầng lầu tại địa điểm trên. Trong khi đó, việc xây dựng đã được tiến hành và cột tháp đầu tiên được dựng vào mùa hè năm 2000. Một trận động đất lớn diễn ra tại Đài Loan vào ngày 31 tháng 3 năm 2002 đã phá hủy một cần trục xây dựng trên nóc, khi đó là tầng số 47. Cần trục rơi xuống đường Tín Nghĩa bên dưới tháp, nghiền nát một số xe và khiến năm người thiệt mạng, gồm hai thợ máy cần trục và ba công nhân không được trang bị lao động phù hợp. Tuy nhiên, một cuộc thanh tra cho thấy không có thiệt hại về cấu trúc cho tòa nhà, và công tác xây dựng có thể tái khởi động trong một tuần. Mái của Đài Bắc 101 hoàn thành sau ba năm vào ngày 1 tháng 7 năm 2003. Thị trưởng Đài Bắc đương thời là Mã Anh Cửu cài chặt một mũi tên vàng nhằm biểu thị thành tích. Lễ khánh thành chính thức được tiến hành vào tối đón năm mới 2004. Tổng thống Trần Thủy Biển, Thị trưởng Mã Anh Cửu và Viện trưởng Tư pháp viện Vương Kim Bình cắt băng khánh thành. Hòa nhạc ngoài trời có sự tham gia của một số người nổi tiếng như Trương Huệ Muội và Tôn Yến Tư. Du khách đi thang máy đến đài quan sát lần đầu tiên. Một vài giờ sau đó pháo hoa lần đầu được bắn ra từ Đài Bắc 101 để chào năm mới. Niên biểu Các thời điểm quan trọng trong quá trình lập kế hoạch và xây dựng Đài Bắc 101 bao gồm: Sự kiện Đài Bắc 101 là địa điểm diễn ra nhiều sự kiện đặc biệt. Các triển lãm nghệ thuật được diễn ra thường lệ tại đài quan sát. Ngày 28 tháng 2 năm 2005, cựu Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton đến thăm và ký vào các cuốn tự truyện của ông. Ngày 19 tháng 4 năm 2005, tháp hiển thị công thức "E=mc2" bằng đèn nhằm kỷ niệm 100 năm công bố thuyết tương đối của Einstein. Quy mô hiển thị tại tháp là lớn nhất trong 65.000 chỗ trong 47 quốc gia, nằm trong lễ kỷ niệm quốc tế Vật lý học khai sáng thế giới. Ngày 20 tháng 10 năm 2006, tháp hiển thị một dải băng màu hồng bằng đèn để nâng cao nhận thức ung thư vú. Chiến dịch mười ngày được đơn vị sở hữu Đài Bắc 101 và Estée Lauder bảo trợ. Ngày 25 tháng 12 năm 2004, nhà leo trèo người Pháp Alain Robert tiến hành leo hợp pháp lên đỉnh của tháp nhọn trong bốn giờ. Ngày 12 tháng 12 năm 2007, một người chơi base jumper từ Áo là Felix Baumgartner tiến hành nhảy dù trái phép từ tầng 91 của Đài Bắc 101. Ngày 20 tháng 11 năm 2005, giải Taipei 101 Run Up thường niên đầu tiên được tổ chức khi các vận động viên bước qua 2.046 bậc từ tầng 1 lên tầng 91. Tiền thu được sẽ cấp cho đội tuyển Olympic Đài Loan. Người thắng giải của nam là Paul Crake đến từ Úc (10 phút 29 giây) và chiến thắng cuộc đua của nữ là Andrea Mayr đến từ Áo (12 phút, 38 giây). Ngày 15 tháng 6 năm 2008, Taipei 101 Run Up thu hút 2.500 người tham gia. Người chiến thắng giải của nam là Thomas Dold đến từ Đức (10 phút 53 giây). Phát triển Công ty Trung tâm Tài chính Đài Bắc (TFCC) vào ngày 2 tháng 11 năm 2009 công bố kế hoạch nhằm biến Đài Bắc 101 thành "kiến trúc xanh cao nhất thế giới" vào mùa hè năm 2011 theo tiêu chuẩn LEED. Cấu trúc đã được thiết kế để tiết kiệm năng lượng, với các cửa kính hai lớp ngăn đến 50% nhiệt từ bên ngoài và nước tái chế đáp ứng 20-30 phần trăm nhu cầu của tòa nhà. Chứng chỉ LEED đòi hỏi kiểm tra và nâng cấp trong hệ thống dây điện, nước và thiết bị chiếu sáng với chi phí 60 triệu Đài tệ (1,8 triệu USD). Ước tính khoản tiết kiệm từ việc sửa đổi sẽ bù đắp đủ kinh phí bỏ ra trong ba năm. Dự án được tiến hành dưới sự chỉ đạo của một đội quốc tế gồm Siemens Building Technologies, nhà thiết kế kiến trúc và nội thất Steven Leach Group và hãng tư vấn LEED EcoTech International. Công ty thỉnh cầu được trao chứng nhận hạng bạch kim từ LEED vào đầu năm 2011. Ngày 28 tháng 7 năm 2011, Đài Bắc 101 nhận chứng chỉ bạch kim LEED với tên "Kiến trúc hiện hữu: Vận hành và Bảo trì". Nó thay thế Bank of America Tower tại Manhattan là kiến trúc xanh cao nhất thế giới và được sử dụng cao nhất, trong khi tòa nhà Environmental Protection Agency tại Florida là kiến trúc xanh cao nhất thế giới. Mặc dù dự án có chi phí 60 triệu Đài tệ (U2,08 triệu USD), nó dự kiến sẽ tiết kiệm 14,4 triệu KWh điện năng, hay là tiết kiệm 18% điện năng, tương đương 36 triệu Đài tệ (1,2 triệu USD) mỗi năm.
ROE là viết tắt của cụm từ tiếng Anh return on equity, có nghĩa là Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu hay lợi nhuận trên vốn. ROE được tính bằng cách lấy lãi ròng sau thuế chia cho tổng giá trị vốn chủ sở hữu dựa vào bảng cân đối kế toán và bảng báo cáo tài chính cuối kỳ này(6 tháng đầu năm, 6 tháng cuối năm). Công thức {| style="vertical-aligne: middle; border-collapse: collapse; text-align: center" cellspacing=1 | rowspan="2" | ROE = 100% x | style="border-bottom: 1px solid black" |Lợi nhuận ròng sau thuế kỳ này |- |Tổng vốn chủ đầu kỳ |} Ví dụ Doanh nghiệp X dựa vào bảng cân đối kế toán cuối.kỳ này: Lợi nhuận ròng sau thuế kỳ này là: 10.000.000đ Tổng giá trị vốn chủ sở hữu đầu kỳ là: 100.000.000đ ROE = 10.000.000/100.000.000 = 0,1 hay 10% Điều này có nghĩa là 0,1 đồng lợi nhuận ròng đạt được từ 1 đồng vốn kinh doanh bỏ ra. Doanh nghiệp thường dùng chỉ số này để so sánh mức sinh lời từng quý của một doanh nghiệp hoặc của các doanh nghiệp khác nhau. Ý nghĩa Về mặt lý thuyết, ROE càng cao thì sử dụng vốn càng có hiệu quả. Các loại cổ phiếu có ROE cao thường được các nhà đầu tư ưa chuộng.
Về cấu trúc đồ thị, xem bài Rừng (lý thuyết đồ thị) nhỏ|270px|Rừng mưa nhiệt đới ở đảo Sainte Marie, Madagascar Rừng là quần xã sinh vật trong đó cây rừng là thành phần chủ yếu. Nói cách khác, rừng là tập hợp của nhiều cây. Quần xã sinh vật phải có diện tích đủ lớn. Giữa quần xã sinh vật và môi trường, các thành phần trong quần xã sinh vật phải có mối quan hệ mật thiết để đảm bảo khác biệt giữa hoàn cảnh rừng và các hoàn cảnh khác. Định nghĩa Ngay từ thuở sơ khai, con người đã có những khái niệm cơ bản nhất về rừng. Rừng là nơi cung cấp những thứ phục vụ cuộc sống của họ. Lịch sử càng phát triển, những khái niệm về rừng được tích lũy, hoàn thiện thành những học thuyết về rừng. Năm 1817, H.Cotta (người Đức) đã xuất bản tác phẩm Những chỉ dẫn về lâm học, đã trình bày tổng hợp những khái niệm về rừng. Ông có công xây dựng học thuyết về rừng có ảnh hưởng đến nước Đức và châu Âu trong thế kỷ 19. Năm 1912, G.F.Morodop công bố tác phẩm Học thuyết về rừng. Sự phát triển hoàn thiện của học thuyết này về rừng gắn liền với những thành tựu về sinh thái học. Năm 1930, Morozov đưa ra khái niệm: Rừng là một tổng thể cây gỗ, có mối liên hệ lẫn nhau, nó chiếm một phạm vi không gian nhất định ở mặt đất và trong khí quyển. Rừng chiếm phần lớn bề mặt Trái Đất và là một bộ phận của cảnh quan địa lý. Năm 1952, M.E. Tcachenco phát biểu: Rừng là một bộ phận của cảnh quan địa lý, trong đó bao gồm một tổng thể các cây gỗ, cây bụi, cây cỏ, động vật và vi sinh vật. Trong quá trình phát triển của mình chúng có mối quan hệ sinh học và ảnh hưởng lẫn nhau và với hoàn cảnh bên ngoài. Năm 1974, I.S. Mê-lê-khôp cho rằng: Rừng là sự hình thành phức tạp của tự nhiên, là thành phần cơ bản của sinh quyển địa cầu. Vai trò Nếu như tất cả thực vật trên Trái Đất đã tạo ra 53 tỷ tấn sinh khối (ở trạng thái khô tuyệt đối là 64%) thì rừng chiếm 37 tỷ tấn (70%). Và các cây rừng sẽ thải ra 52,5 tỷ tấn (hay 44%) oxy để phục vụ cho hô hấp của con người, động vật và sâu bọ trên Trái Đất trong khoảng 2 năm (S.V. Belov 1976). Rừng là thảm thực vật của những cây thân gỗ trên bề mặt Trái Đất, giữ vai trò to lớn đối với con người như: cung cấp nguồn gỗ, củi, điều hòa khí hậu, tạo ra oxy, điều hòa nước, nơi cư trú động thực vật và tàng trữ các nguồn gen quý hiếm. Một hecta rừng hàng năm tạo nên sinh khối khoảng 300 – 500 kg, 16 tấn oxy (rừng thông 30 tấn, rừng trồng 3 - 10 tấn). Mỗi người một năm cần 4.000kg O2 tương ứng với lượng oxy do 1.000 - 3.000 m² cây xanh tạo ra trong một năm. Nhiệt độ không khí rừng thường thấp hơn nhiệt độ đất trống khoảng 3 - 5 °C. Rừng bảo vệ và ngăn chặn gió bão, cát. Lượng đất xói mòn của vùng có rừng chỉ bằng 10% lượng đất xói mòn của vùng không có rừng. Rừng là nguồn cung cấp gen vô tận cho con người, là nơi cư trú của các loài động thực vật quý hiếm. Vì vậy tỷ lệ đất có rừng che phủ của một quốc gia là một chỉ tiêu an ninh môi trường quan trọng (diện tích đất có rừng đảm bảo an toàn môi trường của một quốc gia tối ưu là ≥ 45% tổng diện tích). Đặc điểm Rừng là một thể tổng hợp phức tạp có mối quan hệ qua lại giữa các cá thể trong quần thể, giữa các quần thể trong quần xã và có sự thống nhất giữa chúng với hoàn cảnh trong tổng hợp đó. Rừng luôn luôn có sự cân bằng động, có tính ổn định, tự điều hòa và tự phục hồi để chống lại những biến đổi của hoàn cảnh và những biến đổi về số lượng sinh vật, những khả năng này được hình thành do kết quả của sự tiến hóa lâu dài và kết quả của sự chọn lọc tự nhiên của tất cả các thành phần rừng. Rừng có khả năng tự phục hồi và trao đổi cao. Rừng có sự cân bằng đặc biệt về sự trao đổi năng lượng và vật chất, luôn luôn tồn tại quá trình tuần hoàn sinh vật, trao đổi vật chất năng lượng, đồng thời nó thải ra khỏi hệ sinh thái các chất và bổ sung thêm vào đó một số chất từ các hệ sinh thái khác. Sự vận động của các quá trình nằm trong các tác động tương hỗ phức tạp dẫn tới sự ổn định bền vững của hệ sinh thái rừng. Rừng có phân bố địa lý,khắp trên thế giới Cấu trúc rừng Cấu trúc rừng là quy luật sắp xếp tổ hợp của các thành phần cấu tạo nên quần thể thực vật rừng theo không gian và thời gian. Cấu trúc tổ thành Tổ thành là nhân tố diễn tả số loài tham gia và số cá thể của từng loài trong thành phần cây gỗ của rừng. Hiểu một cách khác,tổ thành cho biết sự tổ hợp và mức độ tham gia của các loài cây khác nhau trên cùng đơn vị thể tích. Trong một khu rừng nếu một loài cây nào đó chiếm trên 95% thì rừng đó được coi là rừng thuần loài, còn rừng có từ 2 loài cây trở lên với tỷ lệ sấp xỉ nhau thì là rừng hỗn loài. Tổ thành của các khu rừng nhiệt đới thường phong phú về các loài hơn là tổ thành các loài cây của rừng ôn đới. Cấu trúc tầng thứ Sự phân bố theo không gian của tầng cây gỗ theo chiều thẳng đứng, phụ thuộc vào đặc tính sinh thái học, nhu cầu ánh sáng của các loài tham gia tổ thành. Cấu trúc tầng thứ của các hệ sinh thái rừng nhiệt đới thước nhiều tầng thứ hơn các hệ sinh thái rừng ôn đới. Một số cách phân chia tầng tán: Tầng vượt tán: Các loài cây vươn cao trội hẳn lên, không có tính liên tục. Tầng tán chính (tầng ưu thế sinh thái): Cấu tạo nên tầng rừng chính,có tính liên tục. Tầng dưới tán: Gồm những cây tái sinh và những cây gỗ ưa bóng. Tầng thảm tươi: Chủ yếu là các loài thảm tươi. Thực vật ngoại tầng: Chủ yếu là các loài thân leo. Cấu trúc tuổi Cấu trúc về mặt thời gian, trạng thái tuổi tác của các loài cây tham gia hệ sinh thái rừng, sự phân bố này có mối liên quan chặt chẽ với cấu trúc về mặt không gian. Trong nghiên cứu và kinh doanh rừng người ta thường phân tuổi lâm phần thành các cấp tuổi. Thường thì mỗi cấp tuổi có thời gian là 5 năm, nhiều khi là các mức 10, 15, hoặc 20 năm tùy theo đổi tượng và mục đích. Cấu trúc mật độ Cấu trúc mật độ phản ánh số cây trên một đơn vị diện tích. Phản ảnh mức độ tác động giữa các cá thể trong lâm phần. Mật độ ảnh hưởng đến tiểu hoàn cảnh rừng, khả năng sản xuất của rừng. Theo thời gian, cấp tuổi của rừng thì mật độ luôn thay đổi. Đây chính là cơ sở của việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh trong kinh doanh rừng. Một số chỉ tiêu cấu trúc khác Độ che phủ: Là tỷ lệ diện tích rừng trên một đơn vị diện tích hay lãnh thổ. Ví dụ độ che phủ của rừng ở Việt Nam năm 2005 là 35,5%. Độ tàn che: Là mức độ che phủ của tán cây rừng. Người ta thường phân chia theo các mức từ: 0,1; 0,2;...0.9;1. Mức độ khép tán: Mức độ này thể hiện sự giao tán giãu các cá thể. Cũng là chỉ tiêu để xác định giai đoạn rừng. Phân bố mật độ theo đường kính: Biểu đồ và hàm toán học phân bố mật độ cây rừng theo chỉ tiêu đường kính. Phân bố mật độ theo chiều cao: Tương tự như với đường kính chỉ khác là căn cứ theo chiều cao. Phát triển của rừng Giống cá thể sinh vật, rừng cũng có sự biến đổi theo thời gian. Nesterop (1949) đã chia quá trình phát triển của rừng thành các giai đoạn: (chủ yếu áp dụng cho rừng trồng, rừng ôn đới). Rừng non: Mối quan hệ giữa các cây gỗ là mối quan hệ hỗ trợ. Chỉ xuất hiện mối quan hệ cạnh tranh giữ cây gỗ và cây bụi thảm tươi. Rừng sào: Rừng bắt đầu khép tán, xuất hiện quan hệ cạnh tranh gay gắt về ánh sáng và chiều cao giữa các cá thể cây gỗ. Giai đoạn này cây gỗ phát triển mạnh về chiều cao. Rừng trung niên: Rừng khép tán hoàn toàn, sự phát triển về chiều cao chậm lại, có sự phát triển về đường kính. Rừng đã thành thục về tái sinh. Rừng gần già: Giai đoạn này có sự phân chia không rõ với 2 giai đoạn liền trước và liền sau của nó. Trong giai đoạn này cây rừng vẫn có sự ra hoa kết quả và tăng trưởng về đường kính. Rừng già: Trữ lượng cây gỗ đạt tối đa. Có một vài cây gỗ già, chết. Tán cây thưa dần, cây rừng vẫn ra hoa kết quả nhưng chất lượng không tốt. Rừng quá già: Cây tầng cao ngừng trệ sinh trưởng, ra hoa quả ít, chống đỡ bệnh tật kém, có hiện tượng rỗng ruột và dễ dàng gãy đổ. Diễn thế rừng Hệ sinh thái rừng với những đặc trưng riêng, luôn vận động và biến đổi không ngừng. Quá trình này được gọi chung là động thái rừng. Diễn thế rừng là một trong các trạng thái vận động của hệ sinh thái rừng bao. Diễn thế rừng là sự thay thế thế hệ rừng này bằng thế hệ rừng khác mà trong đó tổ thành loài cây cao - nhất là loài cây ưu thế sinh thái - có sự thay đổi cơ bản. Nói cách khác, diễn thế rừng là sự thay thế hệ sinh thái rừng này bằng hệ sinh thái rừng khác. Hiểu theo một các đơn giản nhất, diễn thế rừng không phải là sự thay thế các thế hệ cây rừng mà là sự thay thế các loài cây rừng. Ví dụ: Cỏ → Cây bụi → Cây cao ưa sáng → Cây cao chịu bóng. Rừng → Rừng gỗ + Tre nứa → Cây bụi → Cỏ. Nguyên nhân của diễn thế rừng theo Sucasov (1954, 1964) có thể là mối quan hệ tác động cạnh tranh lẫn nhau giữa các loài, loài nào cạnh tranh tốt thì sẽ chiếm ưu thế, Ví dụ như diễn thế rừng ngập mặn: Mắm → Giá, Vẹt. Hoặc có thể là do sự cạnh tranh giữa các loài làm thay đổi môi trường sống, xuất hiện 1 loài mới đến định cư. Ngoài ra còn chịu tác động của nhiều nguyên nhân bên ngoài khác như: đất đai biến đổi, các nạn dịch sâu bệnh (ví dụ: dịch châu chấu), tác động mãnh liệt của con người. Phân loại diễn thế theo các căn cứ khác nhau: Theo chiều hướng diễn thế, phân thành hai loại: Diễn thế tiến hóa và diễn thế thoái hoá. Theo nguồn gốc diễn thế, phân thành hai loại: Diễn thế nguyên sinh và diễn thế thứ sinh. Diễn thế nguyên sinh Là sự hình thành rừng ở những nơi hoàn toàn chưa hề có rừng, trải qua 1 loạt các sự biến đổi của các quần xã thực vật khác nhau cuối cùng hình thành nên quần xã thực vật rừng tương đối ổn định. Diễn thế nguyên sinh gồm 4 pha: Di cư: Sự di cư các mầm mống thực vật đến vùng đất mới. Định cư: Các mầm mống thực vật thích nghi, phát triển những thế hệ đầu tiên. Quần tập: Xuất hiện tái sinh tự nhiên. Xâm nhập: Nhóm thực vật khác xâm nhập vào nhóm thực vật đã thích nghi ổn định trước và đã tác động đến môi trường sống. Ví dụ: Diễn thế rừng ngập mặn. Cây Mắm, Sú đã tiên phong xâm nhập vùng đất ngập nước mới lắng động cát ở ven bờ, chúng thích nghi và phát triển, cố định cát bùn, làm thay đổi dần môi trường sống, đến 1 giai đoạn nào đó sẽ xuất hiện sự xâm nhập của Vẹt, Rà, các loài này sẽ chiếm ưu thế và lấn áp loài cũ để phát triển thành quần xã ưu thế, môi trướng sống sẽ thay đổi,tích lũy nhiều mùn hơn, cạn hơn. Sau giai đoạn này sẽ xuất hiện các loài sống bán ngập (Đước), tiến dần đế xuất hiện các loài thực vật sống cạn (Tràm). Diễn thế thứ sinh Diễn thế thứ sinh diễn ra trên cơ sở diễn thế nguyên sinh, bắt đầu từ khi hệ sinh thái rừng bị tác động từ bên ngoài (khai thác, chặt phá, nương rẫy...), sau đó là phục hồi rừng và hình thành nên các rừng thứ sinh. Các nhân tố ảnh hưởng đến diễn thế thứ sinh: Hình thức và mức độ tác động vào rừng, điều kiện khí hậu,thổ nhưỡng. Ví dụ: Nương rẫy hoang hóa → Cây bụi → Các loài ưa sáng → Rừng thứ sinh. Các loại rừng Rừng nguyên sinh Rừng thứ sinh Rừng thường xanh Rừng rậm Rừng thưa Rừng khộp Rừng rụng lá ôn đới Rừng núi cao Rừng ôn đới Rừng mưa Rừng mưa nhiệt đới Rừng mưa ôn đới Rừng mưa Amazon Rừng ngập nước Rừng sương mù Rừng ngập mặn Rừng lá rộng và hỗn hợp ôn đới Rừng lá kim ôn đới Rừng lá kim nhiệt đới và cận nhiệt đới Rừng lá kim hỗn hợp Rừng lá rộng khô cận nhiệt đới và nhiệt đới Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới Việt Nam Rừng đặc dụng
Lâm phần (tiếng Anhː forest stand) là một khoảnh rừng mà đặc trưng kết cấu bên trong (kết cấu tầng gỗ bên trên, đặc tính của thực vật thân gỗ, cây bụi, thân thảo và rêu dưới tán rừng,...) đồng nhất và khác biệt rõ nét với các khoảnh rừng xung quanh. Phân loại Theo mục đích kinh doanh, nghiên cứu khoa học, người ta phân loại lâm phần bằng các chỉ tiêu khác nhau, nhưng chủ yếu chỉ dựa vào các thông tin liên quan của loài cây rừng chủ đích tại lâm phần đó, thường là các loài cây gỗ lớn trong kinh doanh rừng. Nguồn gốc Nguồn gốc lâm phần phản ánh nguyên nhân phát sinh của mỗi lâm phần. Các lâm phần có nguồn gốc khác nhau có những đặc trưng kết cấu, giá trị kinh tế và mục đích kinh doanh khác nhau. Dựa vào nguồn gốc có thể chia thành các loại sau: Lâm phần tự nhiên Lâm phần nhân tạo Lâm phần chồi Lâm phần hạt Tổ thành Tổ thành lâm phần biểu thị tỷ trọng của mỗi loài cây hay nhóm loài cây gỗ lớn có chủ đích kinh doanh trong lâm phần. Tùy theo số lượng loài cây có mặt trong lâm phần mà chia thành các loại lâm phần: thuần loài (có 1 loài cây duy nhất) và hỗn giao (có từ 2 loài cây trở lên). Tuổi Tuổi lâm phần là nhân tố cấu trúc về mặt thời gian, phản ánh giai đoạn sinh trưởng phát triển của lâm phần theo cây rừng có chủ đích kinh doanh tại lâm phần. Tuổi của lâm phầm chủ yếu áp dụng và hiệu quả phân loại chính xác đối với các loại rừng trồng. Cấp tuổi của rừng trồng lại phụ thuộc vào đặc điểm tốc độ sinh trưởng nhanh hoặc chậm của từng loài cây trồng rừng có thời gian ngăn hay dài: Cấp tuổi 1: lâm phần rừng non Cấp tuổi 2: lâm phần rừng sào Cấp tuổi 3: lâm phần rừng trung niên Cấp tuổi 4: lâm phần rừng gần thành thục Cấp tuổi 5: lâm phần rừng thành thục Cấp tuổi 6: lâm phần rừng quá thành thục Tuổi của lâm phầm cũng không phải là yếu tố đồng nhất để tách biệt lâm phần riêng, do vậy đôi khi nhân tố này lại được dùng mô tả cho đặc điểm về mặt thành phần thời gian của lâm phần: lâm phần khác tuổi và lâm phần đều tuổi. Các vấn đề trong lâm học nhiệt đới Ở các nước nhiệt đới, rừng mưa nhiệt đới là rừng hỗn giao khác tuổi, dạng rừng rất phức tạp, thường có nhiều tầng không tách biệt, rừng khép tán cả theo chiều thẳng đứng. Vì vậy nó ít đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của khái niệm lâm phần.
nhỏ|258x258px|Hiệu ứng xung đối do phản xạ ngược trên đất đá Mặt Trăng làm bừng sáng lên bóng của phi hành gia Buzz Aldrin. Hiệu ứng xung đối hay hiệu ứng Seeliger là sự bừng sáng của một bề mặt gồ ghề khi nó được chiếu sáng trực tiếp từ nguồn sáng phía sau người quan sát. Thuật ngữ này thường được dùng nhiều nhất trong thiên văn học để chỉ sự gia tăng độ sáng thấy được của một thiên thể như các hành tinh, mặt trăng, hay sao chổi khi góc pha của nó đối với người quan sát tiến đến 0. Nó được có tên như vậy là do ánh sáng phản xạ từ Mặt Trăng và Sao Hỏa có cường độ sáng đáng kể hơn dự đoán theo thuyết phản xạ Lambert đơn giản khi nó ở vị trí xung đối thiên văn.
Quốc kỳ Hàn Quốc () hay còn được gọi là Cờ Thái cực (태극기, Taegeukgi, "Thái cực kỳ") có dạng hình chữ nhật nền trắng, ở giữa có hình tròn thái cực âm dương (trong tiếng Hàn gọi là Taegeuk) với màu đỏ ở trên và màu xanh dương ở dưới, bốn góc là 4 quẻ bát quái là Càn, Khôn, Khảm, Ly. Lá cờ này được Hàn Quốc sử dụng từ năm 1950 đến nay. Nguồn gốc Quốc kỳ được Triều Tiên Cao Tông hoặc Park Young-hyo thiết kế năm 1882 và chính thức trở thành quốc kỳ của nhà Triều Tiên vào ngày 6 tháng 3 năm 1883. Sau khi độc lập, cả hai miền Bắc và Nam trên bán đảo Triều Tiên đều sử dụng phiên bản quốc kỳ này, nhưng sau đó Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ở phía bắc thay đổi quốc kỳ của mình bằng một thiết kế của Liên Xô. Quốc hội lập hiến của Hàn Quốc đã chính thức thông qua việc thừa nhận lá quốc kỳ này từ ngày 12 tháng 7 năm 1948. Thiết kế Nền trắng tượng trưng cho sự trong sạch của dân tộc. Thái cực đồ đại diện cho nguồn gốc của vạn vật trong vũ trụ để giữ hai nguyên tắc âm và dương trong một sự cân bằng hoàn hảo, khía cạnh tiêu cực là màu xanh lam, khía cạnh tích cực là màu đỏ. Bốn quẻ bát quái: Định dạng chuẩn Màu sắc Màu sắc được quy định theo hệ thống màu Munsell và hệ thống màu CIE: Các mẫu quốc kỳ từng xuất hiện trong lịch sử
Nhật ký tình yêu TIO là tên một cuốn sách của Trần Thu Trang viết cho lứa tuổi mới lớn. Nó được xuất bản ở Việt Nam trong khoảng thời gian đầu năm 2006 nhưng đã được một nhóm người sử dụng Internet biết đến từ năm 2003 như một tự truyện hấp dẫn về tình yêu. Xuất phát từ một loạt bài viết dài kỳ mang tên Nhật ký tình yêu HN trên Diễn đàn Trái tim Việt Nam, câu chuyện này đã thu hút được một lượng độc giả đông đảo. Sau đó, tác giả đăng tải lại loạt bài viết này ở một diễn đàn trên mạng khác có quy mô nhỏ hơn mang tên Hanoicorner và cũng nhận được sự hưởng ứng đáng kể với hơn 30.000 lượt đọc . Đến đầu năm 2006, loạt bài viết này được biên tập lại và đặt tên là Nhật ký tình yêu TIO. Nó được một công ty thiết kế đồ hoạ mua bản quyền để liên kết với Nhà xuất bản Mỹ thuật phát hành dưới dạng sách-quà tặng. Bộ quà tặng bao gồm sách, sổ nhật ký, thiếp và túi được thiết kế với màu sắc chủ đạo là hồng và trắng, được bán tại các cửa hàng lưu niệm chứ không phát hành qua hệ thống hiệu sách thông thường. Giá của nó là 50.000 đồng. Cuối năm 2006, Nhật ký tình yêu TIO đã được tái bản với hình thức mới và phát hành tại các hiệu sách thông thường. Cuối năm 2007 đầu 2008, cuốn sách được nhà xuất bản hội nhà văn tái bản lần thứ hai. Nội dung tóm tắt Nhật ký tình yêu TIO kể lại một tình yêu đơn phương giữa một cô gái có nickname TIO với một chàng trai có nickname HN. Hai nhân vật trong độ tuổi 20, quen nhau qua mạng Internet và hẹn gặp nhau ngoài đời. HN có những điểm giống với mẫu người lý tưởng của TIO nên sau khi gặp HN, TIO đã có những đoạn viết hài hước và mơ mộng về mối quan hệ của hai người. Loạt bài viết trên Diễn đàn Trái tim Việt Nam kết thúc bằng hành động bày tỏ tình cảm từ phía cô gái TIO và việc chàng trai HN dần dần đáp lại. Những diễn biến tiếp theo của mối quan hệ giữa TIO và HN được công bố thêm trên Diễn đàn Hanoicorner nhưng rất tiếc câu chuyện tình yêu này có một kết thúc buồn. Từ cuối năm 2003, tác giả của loạt bài viết đã không cập nhật thêm một thông tin nào nữa.
Sân bay Pleiku hay Cảng hàng không Pleiku (mã IATA: PXU; mã ICAO: VVPK) là một sân bay nội địa tọa lạc tại đường 17/3, phường Thống Nhất, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai, cách trung tâm thành phố Pleiku khoảng 3 km về phía Tây Nam. Sân bay này do Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam quản lý. Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, đây là một căn cứ không quân của Không lực Việt Nam Cộng hòa và Không lực Hoa Kỳ. Sân bay có đường băng dài 1817 m và đã được kéo dài lên 2400 m (hoàn thành và đưa vào sử dụng vào ngày 1 tháng 9 năm 2015) và hiện có thể tiếp nhận những máy bay tầm trung như Airbus A321. Nhà ga đã được mở rộng và đến thời điểm tháng 9/2015 có công suất phục vụ 1 triệu lượt khách mỗi năm. Năm 2013, lượng hành khách qua sân bay này là 319.000 lượt khách, năm 2014 dự kiến đạt 329.600 lượt khách. Hiện nay, trung bình mỗi ngày sân bay phục vụ 22 chuyến bay đi và đến với trên 3.000 lượt hành khách. Lịch sử hình thành và phát triển Sân bay được xây dựng từ những năm 1960, sử dụng phục vụ mục đích quân sự là chính. Ngày 18 tháng 3 năm 1975, Pleiku được giải phóng, sân bay Pleiku là căn cứ của Không quân Việt Nam. Tháng 5/1977, Tổng cục Hàng không dân dụng tổ chức mạng đường bay: Tân Sơn Nhất – Pleiku – Gia Lâm, Gia Lâm – Đà Nẵng – Pleiku – Gia lâm tần suất một chuyến/tuần bằng các loại máy bay AN 24, YAK 40, DC4. DC6…. Để đáp ứng nhu cầu phục vụ, tháng 11/1991, sân bay Pleiku được xây dựng nhà ga hành khách mới có tổng diện tích 600 m2, vào giờ cao điểm nhà ga có thể phục vụ được 60 lượt khách. Năm 1999, sân bay được đầu tư nâng cấp đường cất - hạ cánh bị hư hỏng, bảo đảm việc khai thác an toàn, hiệu quả các chuyến bay. Năm 2001, sân bay được đầu tư xây dựng mới khu hàng không dân dụng, bao gồm các công trình chính: nhà ga hàng không dân dụng, nhà điều hành, nhà xe ngoại trường, đài chỉ huy… Trong đó, nhà ga hành khách có diện tích tầng 1 là 1.432m2, tầng 2 là 1.140m2 phục vụ 150 lượt hành khách giờ cao điểm, sân đậu tàu bay với 3 vị trí đậu cho loại Bombardier, Forker, ATR72 và 2 chỗ cho loại máy bay có trọng tải dưới 7 tấn, sân đậu ô tô có sức chứa 130 ô tô các loại. Tháng 3/2003, khu hàng không dân dụng mới chính thức đi vào hoạt động. Ngày 28/9/2014, Tổng công ty cảng hàng không Việt Nam (ACV) đã tổ chức khởi công dự án cải tạo, nâng cấp đồng bộ công suất Cảng hàng không Pleiku gồm 2 dự án: Dự án “Kéo dài, nâng cấp đường cất hạ cánh, đường lăn và sân đậu máy bay” và dự án “cải tạo, mở rộng nhà ga hành khách”. Mục tiêu của dự án nhằm đảm bảo khai thác các loại máy bay A320, A321, Boeing 737 và tương đương, nâng cao chất lượng phục vụ hành khách, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Gia Lai, phù hợp với kế hoạch phát triển đội bay của các hãng hàng không Vietnam Airlines, Vietjet Air, Pacific Airlines, Bamboo Airways. Sau khi mở rộng và nâng cấp, Cảng hàng không Pleiku có đường cất hạ cánh 2.400m x 45m, hệ thống trang thiết bị hiện đại, hệ thống đèn tín hiệu hàng không hoạt động 24h/24h, đảm bảo khai thác các loại máy bay A320/321, Boeing 737; có 05 vị trí đỗ máy bay theo phương thức tàu bay tự lăn vào/lăn ra, trong đó có 2 vị trí đậu máy bay A320, A321 và tương đương và 3 vị trí đậu máy bay ATR72 và tương đương. Dự án cải tạo, nâng cấp đồng bộ công suất Cảng hàng không Pleiku được khánh thành và đưa vào khai thác từ ngày 5/9/2015. Năm 2016, Cảng hàng không Pleiku được Tổng công ty cảng hàng không Việt Nam (ACV) đầu tư thêm dự án Hệ thống hạ cánh chính xác ILS; Dự án Mở rộng sân đỗ máy bay thêm 3 vị trí đỗ dành cho máy bay A320/A321 và tương đương. Nhà ga hành khách Tổng diện tích là 3.174,53m2, gồm 2 tầng, 2 cửa ra máy bay, đáp ứng 300 hành khách/giờ cao điểm, có khả năng phục vụ 600.000 lượt hành khách/năm. Nhà ga được trang bị đầy đủ hệ thống kỹ thuật hàng không chuyên dụng hiện đại, tiên tiến với nhiều tiện ích phục vụ hành khách như: 10 quầy làm thủ tục hàng không, 22 màn hình hiển thị thông tin chuyến bay; hệ thống cổng từ, máy dò kim loại, máy soi chiếu kiểm tra an ninh, máy soi chiếu kiểm tra hành lý; hệ thống camera giám sát; hệ thống thiết bị wifi; hệ thống biển báo, biển chỉ dẫn thoát hiểm; hệ thống báo cháy, PCCC tự động, hệ thống chống sét; cung cấp đầy đủ xe đẩy hành lý và xe dành cho người khuyết tật… Các hãng hàng không hoạt động và tuyến bay Thống kê Hình ảnh
Chế ước ngân sách, thuật ngữ trong kinh tế học vi mô, là giới hạn ngân sách có thể chi vào việc mua hàng hóa tiêu dùng. Chế ước ngân sách thường được thể hiện bằng đường ngân sách hay còn gọi là đường chế ước ngân sách. Thông thường, đường này là đường thẳng, dốc xuống và giao với hai trục của một trục tọa độ hai chiều. Giả định rằng người tiêu dùng chỉ có kế hoạch mua hai mặt hàng. Với chế ước ngân sách, người tiêu dùng không thể tăng lượng mua mặt hàng này mà không buộc phải giảm lượng mua mặt hàng kia. Kinh tế học gọi quyết định này là đánh đổi.
Trong kinh tế học vi mô, thỏa dụng là sự thỏa mãn hay hài lòng của người tiêu dùng khi tiêu dùng hàng hóa. Kinh tế học vi mô giả định rằng, người tiêu dùng điển hình sẽ luôn muốn có mức độ thỏa dụng càng lớn càng tốt. Song, họ gặp phải chế ước ngân sách cho chi tiêu vào mua hàng. Vì thế, họ sẽ có khuynh hướng tối đa hóa thỏa dụng với chế ước ngân sách của mình. Việc lựa chọn một kết hợp hàng hóa để có thể tối đa hóa mức thỏa dụng trong điều kiện ngân sách hạn chế là bài toán kinh điển miêu tả hành vi của người tiêu dùng. Từ bài toán này, có thể xây dựng một bài toán khác thông qua bổ đề Shephard, theo đó người tiêu dùng sẽ lựa chọn một kết hợp hàng hóa nào đó để có thể tối thiểu hóa chi tiêu mà vẫn thu được mức thỏa dụng nhất định nào đó.
Khu kinh tế mở Chu Lai là một khu kinh tế được thành lập theo Quyết định số 108/2003/QĐ-TTg ngày 5/6/2003 của Thủ tướng Chính phủ. Khu kinh tế mở Chu Lai thuộc tỉnh Quảng Nam, là một đòn bẩy quan trọng của Vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ. Khu kinh tế mở Chu Lai bao trùm thị trấn Núi Thành, xã Tam Nghĩa (trừ sân bay Chu Lai) và các xã Tam Quang, Tam Hải, Tam Giang, Tam Hòa, Tam Hiệp, Tam Anh, Tam Tiến và Tam Xuân 1 thuộc huyện Núi Thành và các xã Tam Thanh, Tam Phú, Tam Thăng và phường An Phú thuộc thành phố Tam Kỳ. Tọa độ 108°26'16" đến 108°44'04" độ kinh Đông, 15°23'38" đến 15°38'43" độ vỹ Bắc. Phía Đông nhìn ra biển Đông Việt Nam, phía Tây giáp Tam Mỹ và Tam Thanh, phía Nam giáp huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi), phía Bắc giáp huyện Thăng Bình (Quảng Nam). Khu kinh tế mở Chu Lai bao gồm tiểu khu thuế quan và phi thuế quan. Tiểu khu phi thuế quan (hay khu cảng tự do) gắn với cảng Kỳ Hà bao gồm các hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu và hàng phục vụ tại chỗ (cả gia công, tác chế), thương mại hàng hóa (bao gồm cả xuất khẩu, nhập khẩu, chuyển khẩu, tam nhập - tái xuất, phân phối, siêu thị bán lẻ), thương mại dịch vụ (phân loại, đóng gói, vận chuyển giao nhận hàng hoá quá cảnh, bảo quản, kho tàng bưu chính, viễn thông, tài chính, ngân hàng, vận tải, bảo hiểm, vui chơi, kho giải trí, nhà hàng ăn uống) xúc tiến thương mại (giới thiệu sản phẩm, hội chợ triển lãm; đặt chi nhánh, văn phòng đại diện của các công ty trong nước và nước ngoài, bao gồm cả các tổ chức tài chính, ngân hàng) và các hoạt động thương mại khác. Khu thuế quan có các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu giải trí đặc biệt, khu dịch vụ, khu dân cư và hành chính. Khu kinh tế mở Chu Lai nổi tiếng với nhà máy của Trường Hải Auto.
Biên, thuật ngữ trong kinh tế học, chỉ kết quả xảy ra thêm khi tiêu dùng hay sản xuất thêm một đơn vị hàng hóa. Thuật ngữ này xuất phát từ toán học. Khi đại lượng X phụ thuộc vào đại lượng Y, thì mức thay đổi của X khi Y thay đổi một đơn vị được gọi là biên của X (dX/dY).
Tỷ trọng là tỷ số giữa khối lượng riêng của một chất so với khối lượng riêng của chất đối chứng, thường là nước. Tỷ trọng (RD) được tính như sau: trong đó ρsubstance là khối lượng riêng của chất cần đo và ρreference khối lượng riêng của chất chuẩn (chất đối chứng). - Theo TCVN: tỷ trọng được xác định ở 15 độ C - Theo ASTM: tỷ trọng được xác định ở 60 độ F tức ở 15,6 độ Chú thích
WWE RAW là một chương trình biểu diễn đấu vật chuyên nghiệp được diễn ra hàng tuần vào các đêm thứ hai của World Wrestling Entertainment (WWE). Ngoài ra, RAW còn được nhiều người xem là thể loại đứng đầu WWE trong ba thể loại Raw, SmackDown và ECW (nay là NXT). Khác với hai thể loại trên, RAW là nơi có một quá trình lịch sử lâu dài. Lần đầu tiên chương trình mang tên WWF Monday Night RAW, sau đó chuyển thành RAW IS WAR và cuối cùng là WWE Raw. RAW đã thay đổi võ đài sau khi ký hợp đồng với kênh truyền hình USA Network thay cho kênh Spike TV vào năm 2005. Chương trình của Raw hiện nay được truyền hình trực tiếp và phát sóng đều đặn hàng tuần trên kênh USA Network của Mỹ, kênh Sky Sports 3 của Anh Quốc và Ireland. Đồng thời được phát sóng muộn ở các nước khác như kênh The Score và Global Quebec của Canada, kênh Ten Sports của Ấn Độ và Pakistan, kênh Super Sport Action của Thái Lan, kênh SIC Radical của Bồ Đào Nha, kênh SubTV của Phần Lan, kênh FOX8 của Úc, kênh SKY 1 của New Zealand, kênh Chilevisión của Chile, kênh truyền hình ATV của Peru và SCTV Thể thao với SSport2 - SCTV15 của Việt Nam. Lịch sử chương trình Format ban đầu của chương trình Bắt đầu với cái tên WWF Monday Night Raw, chương trình đầu tiên được phát sóng vào ngày 11 tháng 1 năm 1993 trên kênh USA Network trong một giờ đồng hồ. Tất cả các đô vật đều được tham gia, trong đó có Shawn Michaels và The Undertaker. RAW ban đầu được thi đấu tại Grand Ballroom ở Manhattan Center Studios, một nhà hát nhỏ ở New York và được tổ chức hàng tuần. Từ đầu năm 1994 cho đến tháng 9 năm 1999, RAW được phát trực tiếp,. Và ngày hôm sau thì được phát lại. Người dẫn chương trình lúc đầu của RAW là Vince McMahon, Rob Bartlett và "Macho Man" Randy Savage. Khoảng năm 1994, RAW ròi khỏi Manhattan Center Studios và rồi đi du đấu khắp mọi nơi ở nước Mỹ Chương trình đặc biệt Những người quản lý Bình luận viên Người giới thiệu đô vật Chương trình do đô vật sản xuất Các nhà vô địch A.M. Raw WWE A.M. Raw, là một chương trình của WWE được phát sóng vào lúc 2 AM ET trên kênh USA Network. Chương trình này chiếu lại nội dung của RAW phát sóng vào thứ hai vừa rồi cùng với các tin tức của WWE, các chuyến du đấu của WWE ở phía dòng dưới của màn hình. Chương trình hiện nay không còn được phát sóng.
Neptuni (tên Latinh: Neptunium) là một nguyên tố hóa học ký hiệu Np, có số nguyên tử 93 trong bảng tuần hoàn, được đặt tên theo tên của Sao Hải Vương (Neptune). Neptuni là nguyên tố siêu urani đầu tiên được tạo ra bằng tổng hợp hạt nhân. Đây là nguyên tố rất đặc biệt bởi vì tuy là thuộc nhóm actini, neptuni lại có thể tồn tại hóa trị VII. Nguyên tử neptuni có 93 proton và 93 electron, trong đó 7 electron là electron hóa trị. Kim loại neptuni có màu bạc và bị xỉn màu khi tiếp xúc với không khí. Nguyên tố này xuất hiện trong ba dạng đồng vị và thường biểu hiện năm trạng thái oxy hóa, từ +3 đến +7. Nó có tính phóng xạ, độc hại, tự bốc cháy, và có thể tích lũy trong xương, khiến cho việc cầm nắm neptuni nguy hiểm. Mặc dù nhiều tuyên bố sai lầm về phát hiện của nó đã được thực hiện qua nhiều năm, nguyên tố này lần đầu tiên được tổng hợp bởi Edwin McMillan và Philip H. Abelson tại Phòng thí nghiệm bức xạ Berkeley năm 1940. Kể từ đó, hầu hết neptuni đã và vẫn được sản xuất bằng cách chiếu xạ neutron trong các lò phản ứng hạt nhân. Đại đa số được tạo ra như một sản phẩm phụ trong các lò phản ứng điện hạt nhân thông thường. Trong khi chính neptuni không có sử dụng thương mại hiện nay, nó được sử dụng như một tiền chất cho sự hình thành plutoni-238, được sử dụng trong các máy phát nhiệt đồng vị phóng xạ để cung cấp điện cho tàu vũ trụ. Neptuni cũng đã được sử dụng trong các máy dò hạt neutron năng lượng cao. Đồng vị ổn định nhất của neptuni, neptuni-237, là một sản phẩm phụ của các lò phản ứng hạt nhân và sản xuất plutoni. Nó, và đồng vị neptuni-239, cũng được tìm thấy với số lượng vết trong quặng urani do phản ứng bắt neutron và phân rã beta.
Dubna (tiếng Nga: Дубна) là một thành phố ở Nga với dân số năm 2002 là 60.951 người. Thành phố này nằm cách Moskva 125 km về phía bắc, cạnh sông Volga. Dubna được xây năm 1956, cùng với Viện Liên hiệp nghiên cứu hạt nhân Dubna, một phòng thí nghiệm quốc tế lớn hoạt động trong lĩnh vực vật lý hạt, các nguyên tố siêu urani và sinh học phóng xạ. Nguyên tố hóa học thứ 105 dubni được đặt tên theo thành phố này.
Ngày Valentine được tổ chức vào ngày 14 tháng 2. Ngày này ban đầu được coi là ngày tưởng niệm thánh Valentinô và được giới thiệu vào ngày 14 tháng 2 được Giáo hoàng Gelasiô I giới thiệu vào năm 496 cho toàn thể Giáo hội nhưng đã bị loại bỏ khỏi lịch chung Rôma vào năm 1969. Sau này, ngày lễ này cũng là ngày mà cả thế giới tôn vinh tình yêu đôi lứa, tình cảm giữa các đôi tình nhân, và bạn bè khác giới. Thông thường, người con gái bày tỏ tình cảm của mình bằng cách gửi thiệp Valentine, hoa hồng, sô-cô-la và một số loại quà tặng đặc biệt khác cho người con trai họ yêu. Trước đây ngày Valentine (hiện nay là ngày 14 tháng 2 hàng năm) là ngày lễ chỉ ở Bắc Mỹ và Châu Âu, nhưng ngày nay nó được phổ biến ở hầu hết các quốc gia. Theo văn hóa Thế giới phương Đông (Trung Quốc, Việt Nam và các nước lân cận) là ngày lễ tình yêu được tổ chức vào ngày Thất tịch. Giả thuyết về nguồn gốc Đã có nhiều vị thánh tử vì đạo của Kitô giáo tên là Valentinô. Valentines có vinh danh vào ngày 14 tháng 2 là Valentine thành Roma (Valentinus presb. M. Romae) và Valentine của Terni (Valentinus ep. Interamnensis m. Romae). Valentine của Rome là một linh mục ở Rome, người đã chịu tử đạo khoảng năm 269 và được chôn cất trên con đường Via Flaminia. Di hài của ông hiện nay đặt tại nhà thờ của thánh Praxed tại Rome và nhà thờ Whitefriar dòng Cát Minh, ở Dublin, Ireland. Valentine thành Terni đã trở thành giám mục của Interamna (hiện nay là Terni) khoảng năm 197 và được cho là đã tử vì đạo trong cuộc đàn áp dưới thời hoàng đế Aurelianus. Ông cũng được chôn cất trên đường Via Flaminia, nhưng ở một vị trí khác so với Valentine của Rome. Di hài của ông hiện nay đặt tại Vương cung thánh đường Thánh Valentine ở Terni (Basilica di San Valentino). Bách khoa toàn thư Công giáo cũng nói về một vị thánh thứ ba có tên là Valentine đã được đề cập trong danh sách những người tử vì đạo trong ngày 14 tháng 2. Ông đã chịu tử đạo ở châu Phi với một số đồng đạo, nhưng không có thông tin nào khác. Không có yếu tố lãng mạn nào có mặt trong tiểu sử của các vị thánh tử đạo này vào đầu thời trung cổ. Vào thời điểm một vị thánh Valentine liên quan đến chuyện tình lãng mạn vào thế kỷ XIV, thì sự phân biệt giữa Valentine thành Rome và Valentine thành Terni đã hoàn toàn bị mất. Vào năm 1969, trong việc sửa đổi Lịch các thánh, ngày lễ Thánh Valentine vào ngày 14 tháng 2 đã được đưa ra khỏi Lịch chung và được đưa vào hạng đặc biệt (lịch địa phương hoặc thậm chí quốc gia). Truyền thuyết Có rất nhiều thông tin về nguồn gốc của ngày lễ này, giả thuyết mà nhiều người chấp nhận nhất là: Valentine là một linh mục dưới thời Hoàng đế La Mã Claudius II. Lúc bấy giờ là thế kỷ thứ III, Đế quốc La Mã phải tham gia nhiều cuộc chiến tranh đẫm máu và không được dân ủng hộ. Do gặp phải khó khăn khi kêu gọi các chàng trai trẻ gia nhập vào quân đội, Claudius II cho rằng nguyên nhân chính là đàn ông La Mã không muốn rời xa gia đình hay người yêu của họ và hôn nhân chỉ làm người đàn ông yếu mềm; do đó, Claudius II ra lệnh cấm tổ chức các đám cưới hoặc lễ đính hôn để tập trung cho các cuộc chiến. Linh mục Valentine ở thành La Mã, cùng Thánh Marius đã chống lại sắc lệnh của vị hoàng đế hùng mạnh và tiếp tục cử hành lễ cưới cho các đôi vợ chồng trẻ trong bí mật. Khi bị phát hiện, linh mục Valentine đã bị bắt và kết án tử hình bằng hình thức kéo lê và bị ném đá cho đến chết. Buổi chiều trước khi ra pháp trường, ông gửi tấm "thiệp Valentine" đầu tiên cho cô con gái của viên cai tù Asterius, người thiếu nữ mù lòa bẩm sinh đã được ông chữa lành bằng phép lạ trước đó, và ký tên "dal vostro Valentino" - from your Valentine ("Từ Valentine"). Cho đến nay, các cặp tình nhân vẫn có truyền thống ký tên bằng cụm từ "From your Valentine" của ngày xưa thay vì tên mình trong các tấm thiệp Valentine. Dần dần, ngày 14 tháng 2 hàng năm đã trở thành ngày trao đổi các bức thông điệp của tình yêu và Thánh Valentine đã trở thành vị Thánh bổn mạng của những lứa đôi. Người ta kỷ niệm ngày này bằng cách gửi cho nhau những bài thơ và tặng cho nhau những món quà truyền thống là hoa hồng và sô-cô-la. Các truyền thống được công nhận Lễ Lupercalia Tuy các nguồn tài liệu thời hiện đại nói không rõ về ngày lễ về và tình yêu của Văn hoá Hy Lạp-Rôma nằm vào tháng hai, giáo sư Jack Oruch của viện khoa học của Kansas cho là không có sự liên kết nào của vị thánh tên Valentinus và tình yêu lãng mạn. Những nguồn liên kết trước đó nhắm vào sự hy sinh thay vì tình yêu lãng mạn. Trong lịch Attic, thời kỳ giữa tháng giêng đến giữa tháng hai trong lịch của lịch Hy Lạp, là thời gian tưởng nhiệm về đám cưới linh thiêng của Zeus và Hera. Trong thời kỳ La Mã cổ đại, ngày lễ Lupercalia được tổ chức vào ngày 13-15 tháng hai, là một nghi thức cổ xưa về sinh sản. Lupercalia là ngày lễ của riêng về thành phố của Rome. Ngày lễ được tổ chức với quy mô quốc gia là lễ Juno Februa, nghĩa là "Juno, đấng trong sạch" hoặc "Juno, đấng đồng trinh" được tổ chức vào ngày 13–14 tháng hai. Đức giáo hoàng Gelasius I (492–496) đã xóa bỏ ngày lễ Lupercalia. Một số nhà sử học đoán rằng ngày lễ Candlemas (nhằm vào ngày 14 tháng hai, nhưng sau này chuyển thành ngày 2 tháng hai) được đưa ra thay thế cho lễ Lupercalia, nhưng lễ Candlemas đã được bắt đầu từ thành phố Jerusalem vào năm 381 trước công nguyên. Vào năm 500 của Công Nguyên, đức Giáo hoàng chuyển ngày lễ Valentine vào ngày 15 tháng hai. Những cánh chim tình của Chaucer Năm 1382, nhà thơ Geoffrey Chaucer viết một bài thơ Nghị hội của đám đông (Parlement of Foules), trong đó có những câu sau: For this was on saint Valentine's day When every bird came there to choose his make... Vì thế, Vào ngày Thánh Valentine, Những cánh chim bay về đây Để chọn những bạn đời... Bài thơ này được viết để tôn vinh kỷ niệm một năm lễ đính hôn của Vua Richard II của Anh với Anne của Bohemia. Một hiệp ước hôn nhân đã được ký kết vào ngày 02 tháng 5 năm 1381, và hôn lễ được cử hành 8 tháng sau đó. Người đọc cho rằng Chaucer đã đề cập đến ngày 14 tháng 2 là ngày Thánh Valentine, tuy nhiên, giữa tháng hai không phải là thời điểm thích hợp cho các loài chim bắt cặp và làm tổ ở Anh. Henry Ansgar Kelly đã chỉ ra rằng Chaucer có thể đã đề cập đến ngày 3 tháng năm, trong lịch phụng vụ là lễ kỷ niệm của Valentine của Genova, một giám mục đầu tiên của Genova, người đã qua đời khoảng năm 307. Jack B. Oruch cho rằng ngày đó là bắt đầu của mùa xuân và đã bị thay đổi từ khi áp dụng lịch Gregory vào năm 1582. Thời tiết sẽ tương ứng với ngày 23 tháng 2 hiện đại, thời điểm một số loài chim đã bắt đầu cặp đôi để giao phối và làm tổ ở Anh. Dường như những vần thơ của Chaucer trong "Nghị hội của đám đông" nhắc đến một truyền thống cổ, nhưng trong thực tế, không có dấu hiệu nào cho thấy có truyền thống như vậy trước đó. Lời giải thích những phong tục cổ như là sự kiện lịch sử, có nguồn gốc trong ngành khảo cổ học thế kỷ XVIII, đặc biệt là Alban Butler, tác giả của sách "Đời sống các Thánh của Butler", và đã được cả các học giả đáng kính hiện đại truyền lại. Đáng chú ý nhất "ý tưởng là ngày Valentine bắt nguồn từ ngày lễ Lupercalia của La Mã đã được chấp nhận không phê phán và lặp đi lặp lại, trong các hình thức khác nhau, cho đến ngày nay". Có ba tác giả khác cũng đã làm bài thơ về các loài chim cặp đôi trong ngày Thánh Valentine trong cùng một năm: Otton de Grandson từ Savoy, John Gower từ Anh, và một hiệp sĩ được gọi là Pardo từ Valencia. Chaucer có lẽ là nổi bật hơn cả, nhưng do thiếu dữ liệu để xác minh với các tác phẩm thời trung cổ, chúng ta không thể biết chắc chắn trong bốn người đó, ai là người có ý tưởng đầu tiên và ảnh hưởng đến những người khác. Thời hiện đại Vào năm 1797, một nhà báo Anh ra một cuốn sách The Young Man’s Valentine Writer, bao gồm một số câu mẫu tình cảm dành cho những người trẻ tuổi không thể tự sáng tác. Các máy in bắt đầu sản xuất một số các thiệp với lời và hình ảnh tình cảm, còn gọi là "máy valentine," và sự hạ giá của giá tem bưu chính và các mặt hàng thơ từ trong thế kỷ sau đó đã làm phong trào gửi thư, thiệp trong ngày lễ tình nhân tăng cao. Điều đó cũng tạo ra những cơ hội gửi thiệp ẩn danh, và sự phát triển mạnh mẽ của thiệp Valentine cũng bất ngờ làm xuất hiện những vần thơ tình ái đặc sắc trong thời đại hoàng kim của Victoria của Anh. Giấy trang trí Valentine trở thành rất phổ biến ở Anh từ đầu thế kỷ XIX, tới mức đã có một số xưởng in được ra đời để phục vụ nhu cầu. Các thiệp Valentine nghệ thuật được làm từ ren thật và ruy băng, với sự ra đời đầu tiên của ren giấy vào giữa thế kỷ XIX. Sự sống lại ngày lễ của thánh Valatine từ năm 1840 được phát động bởi Leigh Eric Schmidt. Là một nhà báo trong Graham's American Monthly viết trong năm 1849, "Ngày Thánh Valentine"... đã dần dần trở thành, ngày lễ quốc gia." Ở Hoa Kỳ, đợt bán thiệp Valentine với số lượng lớn vào năm 1847 sau khi được phát động bởi cô Esther Howland (1828–1904) người xứ Worcester, Massachusetts. Cha của cô là chủ của một tiệm sách lớn, nhưng cô lấy nguồn cảm hứng từ một người bạn thương gia buôn bán thiệp valentine bên nước Anh của ba cô. Cô lên kế hoạch để tổ chức ngày lễ Valentine giống như vậy, Howland bắt đầu cơ nghiệp của mình với việc mua các mặt hàng làm thiệp valentine từ Anh. Thói quen gửi thiệp Valentine bên nước Anh trở thành quen thuộc tới nỗi nó là nội dung cho tác phẩm của nhà viết văn tiểu thuyết Elizabeth Gaskell, cuốn tiểu thuyết Mr. Harrison's Confessions (1851). Từ năm 2001, Hội Thiệp Chào Đón bắt đầu trao tặng giải "Esther Howland Award" mỗi năm cho người có trí sáng tạo hay. Từ thế kỷ XIX, thiệp viết bằng tay được phổ biến với sự sản xuất hàng loại của các loại thiệp. Vào giữa thế kỷ XIX ngày lễ Valentine được nhiều nhà kinh doanh dùng để kiếm lợi nhuận, và làm cầu nối cho nhiều thị trường thương mại của các lễ hội khác ở Hoa Kỳ. Trong nửa thập kỷ sau của thế kỷ XX, thói quen gửi thiệp đã trở thành quà lịch sự trong Hoa Kỳ. Những món quà như vậy bao gồm hoa hồng và sô-cô-la được gói bằng giấy satin đỏ, hộp trái tim. Vào những năm của thập niên 1980, những tập đoàn bán kim cương đã dùng ngày lễ Valentine để đẩy mạnh thương mại kim cương, bằng cách khuyến khích tặng đồ nữ trang thay vì thiệp. Trong Hoa Kỳ, Hội Thiệp Mừng (U.S. Greeting Card Association) ước tính khoảng 190 triệu thiệp valentine được gửi tặng mỗi năm trong Hoa Kỳ. Một nửa trong số ấy được tặng cho những người thân ngoài vợ với chồng, thường thì cho các đứa con. Nếu tính luôn những thiệp làm trong trường thì có thể lên tới 1 tỉ thiệp, và các thầy cô là người nhận được thiệp nhiều nhất. Trong một số nước trên thế giới, các học sinh tiểu học làm thiệp và gửi cho nhau và thầy cô. Trong thiệp của các em cũng bày tỏ cảm xúc yêu mến đến các bạn khác giới. Vào thiên niên kỷ mới, mới sự ra đời và lớn mạnh của Internet đã dần dần tạo thành những truyền thống tặng thiệp mới. Hàng triệu người trên thế giới bắt đầu sử dụng thiệp in ra được trên mạng hoặc gửi thiệp bằng mạng như thiệp điện tử. Ước tính khoảng 15 triệu thiệp điện tử được gửi vào năm 2010. Valentine trong chiến tranh Valentine là ngày lễ của tình yêu trong sáng và thật thà của tuổi trẻ thơ mộng mới biết yêu. Nó còn có ý nghĩa quan trọng đối với những người thân trong gia đình. Những người đã trải qua ngày này khi còn trẻ này đã thành vợ chồng. Nhưng tiếc thay chiến tranh đã làm tan tác những ý niệm đẹp trong ngày valentine. Ngày tình nhân tại các quốc gia Theo hiệp hội U.S. Greeting Card Association Mỹ, mỗi năm có hơn 1 tỷ thiệp Valentine được trao tay trong ngày lễ này trên thế giới, chỉ xếp hạng sau ngày Lễ Giáng Sinh. Tổ chức này ước lượng khoảng 85% khách hàng mua thiệp Valentine là phụ nữ. Tại các trường tiểu học tại Bắc Mỹ, các giáo viên thường cho các em học sinh tự làm thủ công thiệp Valentine cho bạn bè trong lớp, các tấm thiệp đơn sơ do các em tự cắt vẽ và tô màu này phản ảnh những điều mà các em cảm kích về mỗi người bạn khác phái của mình trong lớp học. Người Anh và Pháp đã tổ chức lễ này từ thời Trung cổ, nhưng đến thế kỷ XVII, tập tục tặng thiệp làm bằng tay cho người yêu mới phổ biến. Hình ảnh thường thấy là hình trái tim, hoa hồng, mũi tên và vị thần tình yêu Cupid. Tại Nhật Bản, nhiều nữ nhân viên có bổn phận phải tặng chocolate, bánh kẹo, hoa quả cho các nam đồng nghiệp. Tục lệ này mang tên giri-choko (義理チョコ); giri có nghĩa là "bổn phận", choko là chocolate. Đúng một tháng sau đó, trong ngày 14 tháng 3, tức ngày White Day, phía nam có bổn phận phải tặng quà lại cho các nữ đồng nghiệp đã chiếu cố đến mình trong ngày Valentine, những món quà này thông thường phải mang màu trắng. Tại Iran, Ả Rập Xê Út, Malaysia và vài quốc gia theo Hồi giáo, cấm tổ chức các hoạt động kỷ niệm, mừng và bán những món quà ngày lễ tình nhân, kể cả hoa hồng đỏ vì họ cho rằng ngày Valentine là khuyến khích các quan hệ ngoài hôn nhân, nên bị cấm "nhằm ngăn chặn sự lây lan của văn hóa phương Tây". Tại Việt Nam, lễ tình nhân mới du nhập vào thời gian gần đây. Ngày 14 tháng 2 của năm 2008, nhiều cặp tình nhân đã tổ chức cưới tập thể dưới nước tại Hòn Mun, Nha Trang. Một hội thi hôn tập thể tại Đà Lạt cũng được tổ chức vào ngày này. và khác với các quốc gia khác, đàn ông sẽ tặng Chocolate cho bạn gái. Tại Hàn Quốc những người còn độc thân sẽ tổ chức ngày lễ Black Day vào ngày 14/4 với hy vọng sẽ tìm được một nửa của mình. Tại Brasil, ngày Dia dos Namorados (Ngày của các tình nhân) được tổ chức vào ngày 12 tháng 6. Trong khi đó, tại Trung Quốc và vài quốc gia châu Á, ngày truyền thống tình yêu là ngày 7 tháng 7 âm lịch, còn gọi là "Thất tịch". Hình ảnh một số thiệp xưa Thiệp Valentines vào giữa thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Bưu thiếp, máy Valentines, thiệp nổi vào khoảng 1900–1930 Thiệp valentine cho em bé Bánh & Sô cô la Liên quan
Giải vô địch bóng đá hạng nhất 2006 (Cúp Alphanam/Fuji) vì lý do tài trợ, là mùa giải thứ 9 của Giải bóng đá hạng nhất quốc gia Việt Nam kể từ khi thành lập năm 1997. Mùa giải này, có 14 đội bóng tham dự: Quảng Nam, Đồng Nai, Sơn Đồng Tâm Long An, Tây Ninh, Tiền Giang, Quân khu 4, Halida Thanh Hóa, Xổ số kiến thiết Lâm Đồng, Quân khu 5, Halida Thanh Hóa, Đá Mỹ Nghệ Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh, An Giang và Huda Huế. Với sự góp mặt của 14 đội bóng trên khắp cả nước tranh tài để xác định 2 suất thăng hạng lên chơi tại Giải bóng đá vô địch quốc gia và 2 suất phải xuống chơi tại Giải bóng đá hạng Nhì Quốc gia, đội bóng xếp thứ 3 phải đá trận play-off diễn ra từ 14 tháng 1 đến 19 tháng 8 2006. Danh sách các đội bóng tham dự Cầu thủ ngoại binh và nhập tịch Mỗi CLB phải đăng ký 4 cầu thủ ngoại nhưng chỉ ra sân là 2 cầu thủ ngoại Bảng xếp hạng Lịch thi đấu và kết quả Play-off V-League 2007 Giữa đội xếp thứ 12 giải chuyên nghiệp và đội xếp thứ 3 giải hạng nhất. Tổng kết mùa giải Vô địch: Đồng Tháp Lên hạng chuyên nghiệp: Đồng Tháp và Thanh Hóa Đá play-off với đội xếp thứ 12 giải chuyên nghiệp: Huda Huế Xuống hạng nhì: Thành phố Hồ Chí Minh (đây là đội bóng đá lấy nòng cốt là câu lạc bộ Thành Long và mang tên Câu lạc bộ Thành phố Hồ Chí Minh, cần phải ghi chú rõ ràng tránh nhầm lẫn với tên sau này của câu lạc bộ Cảng Sài Gòn, cũng đổi tên như trên) và Lâm Đồng Vua phá lưới: Đặng Phương Nam (10, Thể Công) - 14 bàn thắng Giải phong cách: Câu lạc bộ bóng đá Đồng Tháp Tổng hợp: 425 bàn thắng (2,3 bàn/trận); 678 thẻ vàng (3,8 thẻ/trận); 49 thẻ đỏ (0,26 thẻ/trận); 460.200 khán giả (2.528 người/trận).
Blenz là một hệ thống bao gồm các cửa hàng cà phê. Cửa hàng đầu tiên được mở tại phố Robson, Vancouver, British Columbia (Canada) vào năm 1992. Blenz hiện có chi nhánh tại Trung Quốc, Nhật Bản.
Ngày lễ tình yêu có thể là: Valentine, ngày lễ tình yêu xuất phát từ nền Văn hóa phương Tây Thất tịch, ngày lễ tình yêu xuất phát từ nền văn hóa phương Đông
Thính gạo, thường gọi là thính, là một loại gia vị trong ẩm thực Việt Nam. Thông thường, thính được làm bằng cách rang gạo cho vàng rồi giã mịn. Có nơi lại làm thính bằng cách nướng bánh tráng tới khi vàng giòn rồi giã nhuyễn mịn. Cũng có một số loại thính không làm từ gạo mà làm từ ngô hoặc vừng vàng. Thính là thành phần không thể thiếu trong nhiều món ăn, đặc biệt là nem thính (còn gọi là nem chạo). Thính có mùi thơm rất lôi cuốn, nên nhiều người câu cá hoặc đánh vó tôm còn dùng thính để nhử mồi. Các món ăn thường dùng thính làm gia vị: Nem chạo, nem tai (một biến thể của nem chạo) Nem nướng Một số loại mắm như mắm tép, mắm ruốc, mắm cáy, mắm cá... Bê thui. Các loại gỏi như gỏi cá, dê tái thính. tré (một món đặc sản miền Trung). Cá thính Nguyên liệu Nguyên liệu cần để làm thính gạo là: Gạo nếp và Gạo tẻ. Ngoài ra có thể có ngô, đậu tương. Chế biến Đầu tiên trộn hai loại gạo vào và ngâm với nước khoảng 1,2 tiếng. Tiếp theo khi ngâm xong thì để ráo nước và bỏ lên chảo chiên cho tới khi có màu vàng sậm. Sau khi để nguội bớt thì giã thành từng mảnh nhỏ.
Thính có thể nói về một trong các nghĩa sau: Thính giác – khả năng nghe. Thính gạo – bột gạo rang vàng, giã mịn. Theo ngôn ngữ của tuổi trẻ hiện đại: người ta còn sử dụng "thính" dưới cụm từ "thả thính" để miêu tả hành động cưa cẩm nhưng không có mục đích tiến tới một mối quan hệ chân thành. Mỗi khi đi câu cá người ta dùng mồi nhử cá
Trịnh Hữu Châu (tên tiếng Anh: Eugene Trinh; sinh năm 1950 ở Sài Gòn, Quốc Gia Việt Nam) là nhà vật lý thiên văn. Là người tham gia vào chuyến bay STS-50 của NASA, ông trở thành người Mỹ gốc Việt đầu tiên bay vào vũ trụ vào ngày 25 tháng 6 năm 1992, và là người Việt Nam thứ 2 (sau Phạm Tuân) bay vào vũ trụ. Ông ở ngoài vũ trụ 13 ngày 19 giờ 30 phút. Tiểu sử Eugene Trinh sinh ngày 14 tháng 9 năm 1950 tại Sài Gòn trong một gia đình. Gia đình ông chuyển qua sống ở Paris, Pháp khi năm ông 2 tuổi. Ông là con trai út trong gia đình kỹ sư Trịnh Ngọc Sang. Từ năm 1968, ông sang định cư tại Mỹ. Ông tốt nghiệp Đại học Columbia năm 1972, rồi sau đó nhận học bổng và hoàn thành luận án thạc sĩ vật lý và triết học trong hai năm 1974 và 1975. Hai năm sau (1977), ông tiếp tục nhận bằng tiến sĩ vật lý ứng dụng ở Đại học Yale. Năm 1979, ông được nhận vào làm việc tại NASA tại phòng thí nghiệm về sức đẩy phản lực. Hiện tại, ông đang làm giám đốc bộ phận khoa học tự nhiên tại trụ sở của NASA ở thủ đô Washington, D.C.. Phi vụ STS-50 Cùng với phi hành đoàn tàu Columbia STS-50, ông đã tiến hành các thí nghiệm về động lực học chất lỏng, kỹ thuật điều khiển chất lỏng trong điều kiện không bình chứa ở trên quỹ đạo trong thời gian gần 14 ngày (từ cuối tháng 6 đến đầu tháng 7 năm 1992).
Tòa nhà Empire State là một tòa nhà 102 tầng tại giao điểm của Đại lộ 5 và Phố 34 West Street Thành phố New York, Hoa Kỳ. Tổng chiều cao của nó là 1454 foot (443,3 m) nếu tính cả ăng-ten. Tên tòa nhà được đặt theo biệt danh của tiểu bang New York. Tòa nhà được thiết kế bởi Shreve, Lamb and Harmon. Ngày 22 tháng 1 năm 1930, Empire State được chính thức khởi công xây dựng (động thổ). Nó được hoàn thành vào ngày 1 tháng 5 năm 1931 và là tòa nhà cao nhất thế giới cho đến năm 1972 cho tới khi tòa nhà World Trade Center hoàn thành. Sau sự kiện 11 tháng 9, khi tòa nhà World Trade Center bị phá hủy, tòa nhà này một lần nữa trở thành tòa nhà cao nhất New York, cho đến khi One World Trade Center với độ cao lớn hơn được hoàn thành vào 30 tháng 4 năm 2012. Empire State được xem là một biểu tượng văn hóa của Hoa Kỳ. Nó được thiết kế theo phong cách Art Deco và được mệnh danh là một trong 7 kỳ quan thế giới hiện đại theo American Society of Civil Engineers. Toàn nhà và nội thất tầng trên của nó được chỉ định là các biểu tượng của Ủy ban Bảo tồn Landmark thành phố New York, và được xác nhận bởi New York City Board of Estimate. Nó được chỉ định là biểu tượng lịch sử quốc gia Hoa Kỳ năm 1986. Năm 2007, tòa nhà được xếp hạng nhất theo danh sách các công trình kiến trúc Hoa Kỳ được ưa thích của AIA. Tòa nhà thuộc sở hữu của Empire State Realty Trust do ông Anthony Malkin làm giám đốc, chủ tịch và CEO. Năm 2010, Empire State Building được đại trùng tu với chi phí 550 triệu USD, trong đó 120 triệu USD dành cho việc chuyển đổi tòa nhà thành cấu trúc tiết kiệm năng lượng và thân thiện môi trường hơn. Nhận được giải vàng về thiết kế môi trường và năng lượng (LEED) vào tháng 9 năm 2011, Empire State Building là LEED cho tòa nhà cao nhất được chứng nhận ở Hoa Kỳ. Chú thích Danh mục tham khảo <cite id=Goldman>
Pocket PC là một loại thiết bị vi tính thường được dùng vào những năm 90 và đầu thế kỉ 21 như một chiếc máy tính bỏ túi thay thế cho những chiếc máy tính cồng kềnh vào thời đó. Các Pocket PC thường được cài đặt các phiên bản của hệ điều hành Windows CE (hiện có tên là Windows Mobile). Pocket PC có thể có chức năng như là điện thoại di động nhưng không thể gọi thuê bao. Phần mềm ActiveSync cũng thường được sử dụng để kết nối Pocket PC với máy tính để bàn hay máy tính xách tay để tải tập tin hoặc kết nối vào Internet. Định nghĩa Theo Microsoft, Pocket PC là "một thiết bị cầm tay giúp cho phép người dùng lưu trữ và nhận thư điện tử, danh bạ, lịch làm việc, chơi các trò chơi và các tệp đa phương tiện, trao tin nhắn tới Windows Live Messenger (trước là MSN Messenger), duyệt Web và rất nhiều việc khác." Về mặt công nghệ, "Pocket PC" là một chuẩn của Microsoft cho phần cứng và phần mềm của thiết bị di động mang nhãn hiệu "Pocket PC". Vì vậy, mọi thiết bị được coi là Pocket PC nếu: Sử dụng Microsoft's Windows Mobile, phiên bản Pocket PC. Đi kèm với một số gói phần mềm nạp sẵn trong ROM. ''Lưu ý: Tên gọi Windows Mobile bao gồm cả hệ điều hành Windows CE và gói các phần mềm cơ bản cùng giao diện người dùng. Có màn hình cảm ứng. Có bàn cảm ứng hoặc nút chỉ hướng. Có một nhóm các nút cho ứng dụng. Dựa trên bộ vi xử lý tương thích với ARM phiên bản 4, Intel XScale, MIPS hoặc SH3. Các phiên bản hệ điều hành Windows CE Windows CE 3.0 Windows Moblie 2000 Windows Mobile 2002 Windows Mobile 2003 Windows Mobile 2003 SE Windows Mobile 5.0 Windows Mobile 6.0 Các hãng sản xuất Pocket PC HTC O2 Hewlett-Packard Dell i-mate Dopob HP Eten nokia
Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng (1868–1949) là Giám mục người Việt đầu tiên của Giáo hội Công giáo La Mã, được cử hành nghi thức tấn phong giám mục vào năm 1933. Ông đảm nhiệm chức vụ Hạt đại diện Tông Tòa Giáo phận Phát Diệm trong khoảng thời gian 8 năm, từ năm 1935 đến năm 1943. Giám mục Nguyễn Bá Tòng sinh tại Gò Công. Bắt đầu từ năm 10 tuổi, ông theo học các cấp học tại các chủng viện Công giáo khác nhau và hoàn thành việc tu học, được phong chức linh mục 18 năm sau đó vào năm 1896. Trở thành linh mục, ông đảm nhận các vai trò khác nhau như Thư ký Tòa giám mục, linh mục chính xứ Tân Định và Bà Rịa. Tòa Thánh loan tin bổ nhiệm linh mục Gioan Baotixta Nguyễn Bá Tòng làm giám mục phó đại diện tông tòa địa phận Phát Diệm. Với việc bổ nhiệm này, ông trở thành giám mục Công giáo Việt Nam đầu tiên. Nghi thức tấn phong tổ chức tại Rôma do giáo hoàng Piô XI chủ sự. Ông đảm nhiệm vai trò Đại diện Tông Tòa địa phận từ năm 1935 đến năm 1943 khi hồi hưu. Sau đó, giám mục Tông quản lý địa phận trong cương vị giám quản hơn một năm từ năm 1944 đến năm 1945 khi giám mục kế vị Gioan Maria Phan Đình Phùng đột ngột qua đời. Nguyễn Bá Tòng được ghi nhận về việc biên soạn tuồng Thương Khó, xây dựng và cơi nới các giáo xứ ông quản nhiệm. Giám mục Tòng còn nổi tiếng với tài hùng biện, giao thiệp, kiến trúc và viết kịch bản. Với việc đắp đê (Sê) Kim Tùng bảo vệ mùa màng và tạo việc làm cho dân nghèo, Nguyễn Bá Tòng được trao thưởng Bắc Đẩu Bội tinh của Pháp và Nam Long Bội tinh của triều đình Huế. Thân thế và tu nghiệp Nguyễn Bá Tòng sinh ngày 7 tháng 8 năm 1868 tại tỉnh Gò Công (nay thuộc thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang, thuộc Giáo phận Mỹ Tho ngày nay) trong một gia đình đạo đức. Cha mẹ ông là ông Giacôbê Nguyễn Gia Tuấn và bà Mađalêna Nguyễn Thị Chi. Thân phụ ông trước có du học Penang, sau này trở về Việt Nam hành nghề thông dịch viên tại Gò Công và Trà Vinh. Năm 1878, khi lên 10 tuổi, cậu bé Nguyễn Bá Tòng được gửi vào trường Tiểu học La San tại Định Tường. Khi ngôi trường bị đóng cửa năm 1880, cậu được gửi về Sài Gòn và theo học Collège d’Adran. Tại đây, cậu được gặp linh mục Jean Dépierre (tên Việt: Để, 1855–1898), giáo sư môn Latinh Tiểu chủng viện Sài Gòn kiêm Tuyên úy trường La san d’Adran, quý mến và đỡ đầu. Lên 15 tuổi, linh mục Dépierre Để giới thiệu cậu bé Tòng vào học Tiểu chủng viện, thời gian này dưới quyền giám đốc của Linh mục Thiriet, là một người thông thái. Những năm học ở Tiểu chủng viện, cậu luôn được xem là một chủng sinh xuất sắc. Năm 1887, chủng sinh Nguyễn Bá Tòng được nhận vào học Đại chủng viện Sài Gòn và học tại đây cho đến khi tốt nghiệp năm 1896. Thời kỳ linh mục Ngày 19 tháng 9 năm 1896, giám mục Jean Dépierre Để, Đại diện Tông tòa Hạt Đại diện Tông Tòa Tây Đàng Trong cử hành nghi thức phong chức linh mục cho Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng tại Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn. Ngay sau khi được truyền chức, linh mục Tòng được giám mục Dépierre bổ nhiệm làm Thư ký Tòa giám mục. Ba năm sau đó, tân giám mục địa phận Tây Đàng Trong Lucien Mossard Mão vẫn chọn linh mục Tòng đảm nhận vai trò dưới thời giám mục tiền nhiệm. Trong thời gian này, trên cương vị Quản lý Tòa Giám mục, linh mục Nguyễn Bá Tòng nhiều lần bảo trợ những người bạn linh mục người Việt Nam bị thực dân Pháp bắt đày nơi Côn Đảo. Đó là 3 linh mục Đậu Quang Lĩnh, Nguyễn Thần Đồng, Nguyễn Văn Tường. Cả ba vị linh mục này hưởng ứng phong trào Đông Du của lãnh tụ Phan Bội Châu. Trong thời gian này, ông cũng thường xuyên đi giảng tĩnh tâm cho các nhà dòng nam nữ. Sau nhiều năm giữ chức Quản lý Tòa Giám mục, do sức khỏe suy yếu nên ngày 2 tháng 4 năm 1917, linh mục Gioan Baotixita Tòng được chuyển về làm Quản xứ Bà Rịa. Tại đây, ông đã có nhiều đóng góp trong các công tác xã hội như hướng dẫn xây cất trường học, nhà hát. Ông cũng dựng vở tuồng mang tên Thương Khó do chính ông sáng tác tại đây, buổi diễn này là lần thứ hai sau lần diễn năm 1913 tại chủng viện. Năm 1922, trong chuyến tháp tùng vua Khải Định sang Pháp và đến Roma, Thượng thư Nguyễn Hữu Bài, cũng đồng thời là một giáo dân, đã dâng thỉnh nguyện thư tới Giáo hoàng Piô XI xin lập hàng giáo phẩm Việt Nam. Tòa Thánh đã cử đặc sứ sang Việt Nam mở nhiều hội nghị ở Phát Diệm, Sài Gòn. Giám mục Marcou Thành từ địa phận Phát Diệm đến Sài Gòn để thăm dò và được giám mục quản lý tại đây giới thiệu linh mục Nguyễn Bá Tòng. Cùng trong năm này, tuồng Thương Khó được phát hành chính thức. Đây là một vở tuồng được đánh giá cao trong nền văn học giai đoạn 1930–1945. Năm 1926, Đại diện Tông Tòa Sài Gòn là Giám mục Isidore Dumortier (tên Việt: Đượm) thuyên chuyển linh mục Tòng về làm linh mục chính xứ Giáo xứ Tân Định, một giáo xứ lớn vào dạng bậc nhất Sài Gòn và kiêm Giám đốc Tân Định ấn quán, một nhà in lớn thành lập từ năm 1864, chuyên in phát hành sách báo Công giáo. Tại giáo xứ Tân Định, linh mục Nguyễn Bá Tòng cũng cho xây dựng kiến tạo nhiều công trình như mở rộng nhà thờ, xây tháp chuông cao 52 mét với đồ án do chính ông thiết kế. Linh mục Tòng cũng là một diễn giả nổi tiếng, năm 1928, giám mục Grangeon mời linh mục Nguyễn Bá Tòng đến giảng giải cấm phòng tại Qui Nhơn. Những bài giảng của ông tại đây được dân chúng hoan nghênh và tờ báo Địa phận mang tên Mémorial cho đăng các bài giảng này trong nhiều tháng liên tiếp. Linh mục Tòng cũng đến Hà Nội với mục đích giảng cấm phòng trong hai đợt, đồng thời nhận lời giám mục Marcou Thành đến giảng cấm phòng tại Thanh Hóa. Giám mục người Việt Tiên khởi Bổ nhiệm và tấn phong Khi Giáo hoàng Piô XI ban hành thông điệp Sự việc Giáo hội (Rerum Ecclesiae) nhằm cổ vũ việc trao quyền cho hàng giáo sĩ địa phương, Giám mục Alexandre Marcou Thành là người đầu tiên hưởng ứng, với việc đề cử linh mục Gioan Baotixita Tòng làm người kế vị mình tại Hạt Đại diện Tông Tòa Phát Diệm vào năm 1933. Cùng được giám mục Marcou đề cử còn có linh mục Đa Minh Hồ Ngọc Cẩn. Ngày 10 tháng 1 năm 1933, Giáo hoàng Piô XI ra sắc chỉ bổ nhiệm linh mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng làm Giám mục Hiệu tòa Sozopolis in Haemimonto, giữ chức Phó đại diện Tông Tòa với quyền kế vị Hạt Đại diện Tông Tòa Phát Diệm. Một tháng sau đó, ngày 10 tháng 2, hồng y Carolus Salotti từ Bộ Truyền giáo Roma, gửi thư thông báo rằng giáo hoàng mong muốn tấn phong cho tân giám mục tại Vương cung thánh đường thánh Phêrô, Roma. Việc bổ nhiệm linh mục Nguyễn Bá Tòng làm giám mục người Việt tiên khởi đã gây sự chú ý trong dư luận, riêng hai địa phận Sài Gòn và Phát Diệm rất vui mừng trước thông tin này. Nhận được đề nghị từ Hồng y Salotti, Nguyễn Bá Tòng rời Việt Nam ngày 1 tháng 5 năm 1933. Trên đường đi, ông đến cử hành lễ tại nhà thờ chính tòa Marseille và giảng lễ về ngày Chúa Thăng thiên. Bài giảng của giám mục tân cử ngưởi Việt lôi cuốn được các thính giả người Pháp. Sau đó Nguyễn Bá Tòng rời Marseille đến Paris và được Hội Truyền giáo hải ngoại Paris đón rước. Hộ tống tân giám mục có linh mục Phaolô Vàng, Thư ký của ông và ba linh mục khác. Hành trình đến Rôma của họ đi theo cung đường đến Singapore, Djibouti, Colombo, Port Said và Pháp. Ngày 11 tháng 6 năm 1933, lễ tấn phong giám mục của Nguyễn Bá Tòng được tổ chức tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, Vatican với phần nghi thức truyền chức giám mục đích thân Giáo hoàng Piô XI làm chủ phong, hai Hồng y Luigi Costantini và Carlo Salotti là phụ phong trong nghi thức này. Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng trở thành người Việt đầu tiên được phong chức Giám mục, sau ngót nghét 4 thế kỷ từ khi Công giáo du nhập vào Việt Nam. Địa phận Phát Diệm cũng vì thế trở thành địa phận đầu tiên được quản lý bởi giáo sĩ bản địa. Giám mục Nguyễn Bá Tòng chọn khẩu hiệu Giám mục của mình là: "In electis meis mitte radices" (Hãy châm rễ sâu trong dân ta chọn). Cùng đợt phong này với ông, còn có 4 Giám mục khác đến từ châu Á là Giám mục Attipetty của Ấn Độ và ba Giám mục Trung Quốc là Mátthêu Lý Dung Triệu (Mathêu Ly), Giuse Phàn Hằng An (Giuse Fan) và Giuse Thôi Thủ Tuân (Ts’oei). Sau lễ truyền chức, Giám mục tân cử Nguyễn Bá Tòng quay lại Pháp. Trong chuyến viếng thăm Lyon, báo chí thủ đô Pháp, các bích chương được dán khắp nơi nhằm giới thiệu tiểu sử tân giám mục người Việt. Tại Vương cung thánh đường Notre Dame de Paris ngày 2 tháng 7 năm 1933, với buổi chủ sự chầu Thánh Thể, Nguyễn Bá Tòng đã thể hiện khả năng hùng biện và tiếng Pháp. Dịp trở lại Pháp sau lễ tấn phong có mục đích thăm viếng các thừa sai truyền giáo, trong đó có viếng thăm Hội Thừa sai Paris. Việc mục vụ địa phận Tân Giám mục Nguyễn Bá Tòng rời Rôma trên cung đường đi qua Li Băng và vùng đất thánh Palestine. Ông trở về Việt Nam bằng cách đi qua Phnôm Pênh. Sáng ngày 23 tháng 10 năm 1933, một phái đoàn gồm có ông Haasz từ Hội đồng thành phố Sài Gòn và Hội đồng giáo xứ Tân Định đến Nam Vang đón rước tân Giám mục về đến Sài Gòn chiều ngày 24 tháng 10 năm 1933. Tại đây, giám mục Tòng cử hành nhiều lễ tạ ơn tại Sài Gòn cũng như Bà Rịa. Trên hành trình tiến về phía Bắc, tân giám mục ghé thăm cố đô Huế và được triều đình nhà Nguyễn chào đón. Ngày 10 tháng 11 tháng 11 năm 1933, ông đặt chân đến Ninh Bình, thuộc địa phận Phát Diệm và giữa tháng này đến chào các quan chức Pháp tại Hà Nội. Các quan chức này đánh giá cao khả năng giao thiệp của giám mục Tòng. Hàng nghìn người đã chào đón giám mục Nguyễn Bá Tòng tại đây, bao gồm nhiều trẻ em, vì trường học cho chúng nghỉ học vào ngày này. Trên quãng đường đi lên phía Bắc, giám mục Nguyễn Bá Tòng đi qua nhiều địa điểm như Nha Trang, Qui Nhơn, Huế, Vinh, Thanh Hóa, Bùi Chu và Phát Diệm, hàng nghìn người cũng đã đứng để chào đón tân giám mục. Tại Hà Nội, ba ngày sau khi đến đây, Nguyễn Bá Tòng thuyết giảng tại Nhà thờ Lớn Hà Nội, đồng thời trở thành giáo sĩ Việt Nam đầu tiên giảng lễ trong nhà thờ này, kể từ khi nó được xây dựng năm 1886. Việc phong chức giám mục Tòng và hai năm sau đó là giám mục Đa Minh Maria Hồ Ngọc Cẩn làm hàng giáo sĩ Việt Nam phấn khởi. Một nhà quan sát phấn khởi nhận định việc tấn phong giám mục cho Nguyễn Bá Tòng và Hồ Ngọc Cẩn đã làm cho các giám mục này mặt thể chất không còn khác biệt với các giám mục châu Âu tiền nhiệm. Tác giả này nhận định giám mục Nguyễn Bá Tòng thường bị nhầm lẫn là giám mục Ý vì không để râu trong khi vị giám mục Cẩn bị nhầm là một giám mục Pháp với bộ râu trắng dài. Năm 1934, giám mục Gioan Baotixita Tòng được bầu vào Ủy ban nghiên cứu về tài chính của Giáo hội Việt Nam. Ngày 15 tháng 10 năm 1935, nhân ngày kỷ niệm 40 năm trở thành giám mục, Giám mục Alexandre Marcou Thành về nghỉ hưu tại Thanh Hóa. Giám mục Tòng chính thức trở thành Đại diện Tông tòa Hạt Đại diện Tông Tòa Phát Diệm. Cũng trong năm này, Nguyễn Bá Tòng có bài phát biểu tại Nhà thờ chính tòa Paris. Giám mục Nguyễn Bá Tòng cho xây dựng nhà Tập dòng Mến Thánh giá ở Lưu Phương nhằm đào tạo các nữ tu có nhiệm vụ truyền giáo. Ngoài ra, ông còn thiết lập các tổ chức tôn giáo khác như: trường Thầy giảng, dòng Carmel và trường Thử tại Trì Chính, Hội quán Thanh niên Công giáo Phát Diệm. Đầu năm 1936, ông cho mời dòng Phước Sơn tại Quảng Trị lập chi nhánh tại Phát Diệm. Với công tác đào tạo linh mục, giám mục Tòng nâng cao trình độ đại chủng sinh bằng việc tuyển lựa giáo sư chủng viện bằng các giáo sư người Việt nổi tiếng, trong đó có linh mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi. Việc mời dòng Châu Sơn đến địa phận Phát Diệm được xúc tiến trong một lần giám mục Nguyễn Bá Tòng đến thăm Đan viện Phước Sơn Huế và bày tỏ với linh mục Bề Trên dòng này rằng ông mong muốn có một dòng tu nam chiêm niệm trong địa phận Phát Diệm. Hiện thức hóa mong muốn của giám mục Tòng, ngày 12 tháng 7 năm 1936, công nghị đan sĩ Phước Sơn chọn linh mục Anselmô Tađêô Lê Hữu Từ làm bề trên tiên khởi Đan viện Thánh Mẫu Châu Sơn. Giám mục Nguyễn Bá Tòng cũng quan tâm đến đời sống tầng lớp thanh niên. Tháng 3 năm 1935, ông diễn thuyết chủ đề Thanh niên Việt Nam đang lúc 20 tuổi phải làm gì? Bài diễn thuyết này được nhiều báo chí đánh giá cao. Ông cũng chú trọng huấn luyện thành phần truyền giáo của địa phận. Ông cũng tổ chức đại hội thanh niên địa phận Phát Diệm năm 1937 và đại hội thanh niên năm 1938 tại Phú Nhai, với sự trợ giúp của giám mục Đa Minh Maria Hồ Ngọc Cẩn. Tại đại hội năm 1938, giám mục Nguyễn Bá Tòng tham gia diễn thuyết đề tài Nghĩa vụ thanh niên đối với bản thân, Tổ quốc và Giáo hội. Trong thời kỳ này, sách Bài giảng giáo lý của ông được phát hành. Cùng trong năm 1937, ông có hai bài phát biểu: bài thứ nhất tại đại hội Thánh Thể thế giới tại Manila với chủ đề “Evangélisation des Frères Prêcheurs” (tạm dịch: Sứ vụ Phúc âm hóa) và bài thứ hai trong lễ tấn phong giám mục François Arsène Jean Marie Eugène Lemasle Lễ với đề tài “Temps Nouveaux Doctrines Nouvelles” (tạm dịch: Thời đại mới, Giáo lý mới). Hai bài phát biểu này được in lại trên báo Trung Hòa Hà Nội. Ngày 3 tháng 12 năm 1940, Giám mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng đóng vai trò phụ phong trong buổi lễ tấn phong chức giám mục cho linh mục Gioan Maria Phan Đình Phùng, được tổ chức tại Nhà thờ chính tòa Phát Diệm. Sau lễ tấn phong là lễ gắn huy chương Bắc Đẩu Bội tinh cho giám mục Tòng do Toàn quyền Decoux thay mặt Thống chế Pétain, Quốc trưởng Pháp, trao tặng, với sự tham dự của các quan quyền các cấp. Ông cũng được triều đình Huế trao Nam Long Bội tinh và Kim khánh. Cả hai tặng thưởng từ triều đình và Pháp đều để ghi nhận công lao giám mục Nguyễn Bá Tòng cho tiến hành đắp đê Kim Tùng, góp phần bảo vệ mùa màng và tạo việc làm cho người nghèo. Giám mục Nguyễn Bá Tòng có sức viết khỏe, trong thời gian quản lý địa phận, ông viết 70 lá thư “Luân Lưu” đề cập nhiều vấn đề của địa phận. Tác giả Hoàng Xuân Việt viết trong sách Thắng cảnh Phát Diệm nhận định rằng trong bình diện văn học, giám mục Nguyễn Bá Tòng thuộc đội ngũ nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam từ giai đoạn 1930–1949. Hưu dưỡng và Giám quản Địa phận Ngày 27 tháng 12 năm 1943, giám mục Nguyễn Bá Tòng trao quyền quản lý địa phận cho giám mục phó Gioan Maria Phan Đình Phùng. Giám mục Tòng quyết định về Xuân Đài để nghỉ dưỡng. Tuy vậy, chỉ vài tháng sau khi chấp chính giáo phận, giám mục Phan Đình Phùng qua đời cuối tháng 5 năm 1944. Nhận được tin, giám mục Tòng quay về địa phận và tổ chức lễ tang cho giám mục Phùng. Kể từ ngày 8 tháng 6 năm 1944, ông đảm nhận vai trò Giám quản Tông Tòa Địa phận Phát Diệm để chờ Tòa Thánh chọn người kế vị. Nguyễn Bá Tòng theo đường hướng của linh mục Trần Lục để quyết định khai khẩn, lấy đất lấp biển ở vùng Cồn Thoi. Với việc này, ông tạo việc làm cho người dân không phân biệt lương giáo và thiết lập được nhiều xứ đạo nơi vùng đất mới trong thời kỳ khó khăn năm 1945. Đại diện cho các giám mục Việt Nam, ngày 23 tháng 9 năm 1945, Giám mục Nguyễn Bá Tòng viết điện văn gửi Tòa Thánh Vatican, Anh và Hoa Kỳ. Trong thư, ông kêu gọi Tòa Thánh và toàn bộ giáo sĩ, giáo dân ủng hộ nền độc lập cho Việt Nam và hai quốc gia Anh, Hoa Kỳ can thiệp ủng hộ cho nền độc lập [của nước Việt Nam]. Giám mục Tòng đề cử linh mục Tađêô Lê Hữu Từ, tu viện trưởng dòng Châu Sơn và Tòa Thánh quyết định chọn linh mục này làm giám mục. Lễ tấn phong cho giám mục Từ diễn ra cuối tháng 10 năm 1945 và giám mục Tòng bàn giao lại địa phận cho giám mục Từ, trở lại Xuân Đài để nghỉ hưu. Tại đây, ông nhiều lần trò chuyện cùng giám mục Hồ Ngọc Cẩn và gặp giám mục Cẩn một ngày trước khi giám mục này qua đời. Cuối tháng 6 năm 1949, Giám mục Nguyễn Bá Tòng nhận thấy sức đã kiệt, rời nơi hưu dưỡng về Phát Diệm. Ông bày tỏ mong muốn muốn được qua đời tại Phát Diệm. Giám mục Tòng qua đời ngày 11 tháng 7 năm 1949, an táng tại Nhà thờ chính tòa Phát Diệm. Tưởng nhớ Tại Sài Gòn trước 1975 có trường Trung học Nguyễn Bá Tòng. Hiện ngôi trường này mang tên là trường Trung học phổ thông Bùi Thị Xuân, tọa lạc tại quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Tại thành phố này cũng có Nhà in Nguyễn Bá Tòng, sau này trở thành nhà in Nhà máy In Tổng Hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2018, một cựu tiểu chủng sinh Tiểu chủng viện Sài Gòn là ông Nguyễn Toàn Thắng đã trao tặng bức khảm linh mục đoàn địa phận Phát Diệm dâng tặng giám mục Nguyễn Bá Tòng cho Giám quản Tông Tòa Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh Giuse Đỗ Mạnh Hùng. Bức khảm này đã lưu lạc hàng thập niên ở Pháp và được ông Thắng chuộc về. Giám mục Hùng thay mặt nhận tấm khảm và cho biết sẽ trao lại cho giám mục giáo phận Phát Diệm Giuse Nguyễn Năng. Tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có con đường mang tên Nguyễn Bá Tòng tại Phường Tân Thành, quận Tân Phú. Tông truyền Giám mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng được tấn phong giám mục năm 1933, dưới thời Giáo hoàng Piô XI, bởi: Chủ phong: Giáo hoàng Piô XI, giáo hoàng giáo hội Công giáo Rôma. Hai vị phụ phong: Tổng giám mục Khâm sứ Tòa Thánh tại Trung Quốc Celso Benigno Luigi Costantini và Hồng y inpectore – Tổng giám mục Carlo Salotti, Tổng thư ký Thánh bộ Truyền giáo. Giám mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng là giám mục truyền chức linh mục cho giám mục: Năm 1937, Phaolô Bùi Chu Tạo, cố giám mục chính tòa Giáo phận Phát Diệm. Giám mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng đóng vai trò chủ phong trong nghi thức truyền chức giám mục cho: Năm 1945, Tađêô Lê Hữu Từ, cố Đại diện Tông Tòa Phát Diệm. Giám mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng đóng vai trò phụ phong trong nghi thức truyền chức giám mục cho các giám mục sau: Năm 1935, Đa Minh Maria Hồ Ngọc Cẩn, cố Đại diện Tông Tòa Bùi Chu. Năm 1940, Gioan Maria Phan Đình Phùng, cố Đại diện Tông Tòa Phát Diệm. Tóm tắt chức vụ Thứ tự bổ nhiệm – tấn phong giám mục Chú thích Ghi chú Nguồn Sách
Nokia 6600 là chiếc điện thoại di động được ra mắt vào quý 2 năm 2003, với giá bán khi đó là khoảng 600 €. Đây là sản phẩm cao cấp cuối cùng dòng điện thoại 6xxx. Khi mới xuất hiện, nó được coi là chiếc điện thoại tiên tiến nhất của Nokia. Nokia 6600 là điện thoại thông minh (smartphone) chạy trên nền tảng hệ điều hành Symbian OS dựa theo Nokia Series 60. Một số sản phẩm khác được chế tạo sau này của Nokia cũng có cùng tên với Nokia 6600 là Nokia 6600 fold và Nokia 6600 slide. Nokia 6600 có một biến thể khác là Nokia 6620, chiếc điện thoại được chế tạo riêng cho thị trường Hoa Kỳ. Trong những phiên bản đầu tiên được tung ra thị trường, một số chiếc đã gặp phải vấn đề với phần mềm khi chúng hoạt động không ổn định, nhưng sau đó đã có những biện pháp khác phục từ nhà sản xuất. Nokia 6600 có 2 màu trắng và đen. Sau này xuất hiện thêm phiên bản màu xanh, trắng và hồng nhằm mục đích quảng cáo. Chiếc điện thoại được Nokia chính thức ngừng sản xuất vào năm 2007. Tại thị trường Ấn Độ, Nokia 6600 đã là chiếc điện thoại được ưa chuộng nhất trong nhiều năm. Tính năng Máy ảnh kỹ thuật số (VGA 640x480) Chức năng quay video hỗ trợ âm thanh Kết nối không dây với Bluetooth và Hồng ngoại Bộ nhớ trong 6 MB Hỗ trợ thẻ nhớ ngoài Java MIDP 2.0 và ứng dụng cho Symbian(series 60) Đồng bộ dữ liệu với máy tính qua PC Suite và iSync Hỗ trợ 3 băng tầng Văn bản liên kếtGSM E900/1800/1900 ARM compatible (ARM4T architecture) Hệ điều hành Symbian 7.0s CPU chạy với tốc độ 104 MHz Màn hình TFT 176x208 (65,536 màu) Phím điều khiển 5 chiều HSCSD và GPRS, kết nối internet/WAP Nokia 6600 trên phim ảnh và trên MV ca nhạc Nokia 6600 được xuất hiện trong một số bộ phim: Cellular (2004), được nam diễn viên Chris Evans' sử dụng Silver Hawk (2004) Transporter 2 (2005) Aamir (2008), được nhân vật chính sử dụng Kidnap (2008), do diễn viên Imran Khan's sử dụng Manmathan (2004), diễn viên Silambarasan's sử dụng Flight of the Conchords-A Texan Odyssey (2006)(Doco), chiếc điện thoại được đặt trên một chiếc bàn. Và còn được xuất hiện trong một số MV ca nhạc: Dĩ vãng cuộc đời - Trương Đan Huy Nắng xuân - Trần Tâm ft. Như Ý Chú thích
Chung thân là hình phạt tù không thời hạn, thông thường được hiểu là người bị kết án (phạm nhân) sẽ phải chấp hành án tù (lao động, học tập, cải tạo...) gần như là suốt cả cuộc đời của mình ở trong trại giam. Hình phạt này được quy định trong luật hình sự do toà án tuyên, chủ yếu được áp dụng cho những người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, gây ra nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội, tuy nhiên lại chưa đến mức phải chịu án tử hình (ở những quốc gia còn có hình phạt này) hay dù đã bị kết án tử hình nhưng người đó lại được nguyên thủ quốc gia ân giảm hoặc được khoan hồng đặc biệt trong nhiều trường hợp khác. Tại một số nước khác thì chung thân là hình phạt cao nhất, nghiêm khắc nhất do tại đó không còn án tử hình. Cũng như các hình phạt khác trong luật hình sự, chung thân được áp dụng cho những người phạm tội và đã bị toà án xét xử chính thức tuyên án, bản án đã có hiệu lực pháp luật thì người đó mới phải chấp hành bản án đó. Trẻ em và người chưa thành niên Theo thông lệ quốc tế, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều không áp dụng hình phạt tù chung thân đối với trẻ em cũng như đối với người chưa thành niên dù họ có phạm tội nghiêm trọng như thế nào. Tuy vậy, tại một số ít nước trên thế giới, theo báo cáo của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền trên thế giới và tổ chức Ân xá quốc tế, trong năm 2005 vẫn còn áp dụng tù chung thân cho trẻ em và người chưa thành niên là Hoa Kỳ, Israel, Cộng hoà Nam Phi, Tanzania. Mỹ đứng đầu với 9.700 trường hợp, 2.200 đã được phóng thích tạm thời vì có bảo lãnh. Án chung thân trên thế giới Châu Âu Tại Áo tù chung thân có nghĩa là tù nhân phải bị cầm tù cho tới khi người đó chết. Tuy nhiên, trên thực tế khoảng 15 năm sau khi bị kết án người đó có thể được phóng thích sau khi đã có bảo lãnh và cam kết sẽ không tiếp tục phạm pháp. Cũng tại nước này chung thân sẽ không được áp dụng đối với những người có tuổi đời dưới 21 tính ở thời điểm người đó thực hiện hành vi phạm tội. Những người này có thể sẽ phải chịu một mức án tù giam có thời hạn là 20 năm. Tại Bỉ, án tù chung thân sẽ tự động được đổi thành án tù giam với thời hạn là 30 năm. Và sau khi người bị kết án đã chấp hành được khoảng 1 phần 3 thời gian đó có thể được xem xét để phóng thích. Đan Mạch, tối đa là 16 năm tù giam. Na Uy, tù chung thân được giới hạn thời gian mà tù nhân phải chấp hành là 21 năm. Trên thực tế thì khi đã qua 2/3 thời gian đó là họ có thể được ân xá. Châu Á Châu Mỹ Châu Phi Châu Úc Án chung thân ở Việt Nam Theo quy định tại Điều 39 Bộ Luật Hình sự Việt Nam thì: Tù chung thân là hình phạt tù không thời hạn được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình. Không áp dụng hình phạt tù chung thân đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Như vậy theo quy định này, người dưới 18 tuổi tại thời điểm thực hiện hành vi vi phạm luật hình sự, dù hành vi đó nguy hiểm như thế nào đi nữa thì khi xét xử (kể cả khi đó đã đủ 18 tuổi) cũng sẽ không bị áp dụng hình phạt tù chung thân. Tại Việt Nam tù chung thân không có nghĩa là phạm nhân sẽ phải chấp hành hình phạt tù giam suốt cả cuộc đời của mình trong trại giam. Mà thông thường, theo chính sách nhân đạo của Nhà nước Việt Nam, phạm nhân bị kết án chung thân có thể được tha tù, thời gian tha sớm hay muộn là tuỳ thuộc vào việc người đó có nghiêm chỉnh chấp hành án hay không. Nếu tốt họ có thể được ra tù sau 20 năm bị kết án, hay muộn hơn là 30 năm. Một số trường hợp khác như phạm nhân đã già yếu hoặc bị bệnh hiểm nghèo đều được xem xét cho ra tù trước thời hạn.
Lựa chọn tối ưu của người tiêu dùng là kết hợp hàng tiêu dùng thông thường ứng với tiếp điểm giữa đường bàng quan và đường chế ước ngân sách. Trong trường hợp đặc biệt, lựa chọn tối ưu có thể không phải đáp án nói trên (gọi là đáp án thông thường hay đáp án bên trong) mà là một đáp án góc.
Mashimaro là một nhân vật hoạt hình khá phổ biến ở Hàn Quốc có hình dáng như một con thỏ béo. Mashimaro được thiết kế bởi Kim Jae In và Jang Mi Yeong, vào tháng 6 năm 2000, và xuất hiện trên những sêri Flash(thường không có đối thoại) trên internet. Tuy nhiên Mashimaro xuất hiện nhiều hơn trên các hàng lưu niệm, giống như Hello Kitty. Các hàng lưu niệm của Mashimaro có thể tìm thấy ở internet, hay ở mọi cộng đồng người Hàn. Hầu hết những flash hoạt hình của Mashimaro theo kiểu hài toilet. Do đó Mashimaro thường được vẽ cùng với cái hút cống cắm ở trên đầu. Đối nghịch với những nhân vật dễ thương và ngoan ngoãn, như Hello Kitty, Mashimaro được miêu tả là một nhân vật phá cách, thường dùng vũ lực để đạt được mục đích. Cái tên "Mashimaro" đến từ cách đọc tiếng Hàn Quốc của từ "marshmallow"(nghĩa là kẹo dẻo). Nhân vật trong phim Boogaloo & Boomba Pista & Pistachi Mero Noonoo Piyoz
Westlife là một boyband nhạc pop đến từ Ireland và được thành lập năm 1998, ông bầu của nhóm là Louis Walsh. Nhóm đã đạt được thành công lớn ở Anh và Ireland cũng như ở các nước khác tại Châu Âu và một số nơi như Úc, Châu Á và Châu Phi. Westlife đã có 14 đĩa đơn đạt vị trí #1 trong bảng xếp hạng Anh (tính từ năm 1999 đến năm 2006), xếp thứ 3 trong số những nghệ sĩ và ban nhạc có nhiều đĩa đơn #1 nhất tại Anh (chỉ sau Elvis Presley và The Beatles, xếp ngang với Cliff Richard). Westlife là ban nhạc duy nhất trong lịch sử bảng xếp hạng Anh có 7 đĩa đơn liên tiếp đạt vị trí #1 và giành giải "Ghi Âm của Năm" tại Anh 4 lần. Ban nhạc đã bán được tổng cộng hơn 44 triệu album tại hơn 40 nước trong đó có hơn 12 triệu album tính riêng tại Anh, 14 lần đĩa đơn #1 tại Anh và 13 lần đĩa đơn #1 tại Ireland. Ngày 19 tháng 10 năm 2011, 4 thành viên Westlife đột ngột tuyên bố tan rã và thông báo sẽ có một chuyến lưu diễn tạm biệt vào mùa xuân năm 2012. Đến năm 2018, nhóm này đã tái hợp và phát hành album phòng thu thứ 11, Spectrum, vào năm 2019. 1998 - 2003 Westlife được thành lập tháng 7 năm 1998 với năm thành viên: Mark Feehily, Shane Filan, Kian Egan, Nicky Byrne và Brian McFadden. Tên ban nhạc là Westlife xuất phát từ việc có 3 thành viên trong nhóm đến từ Sligo (Tây Bắc Ireland) (lúc đầu nhóm mang tên Westside nhưng do trùng với một nhóm nhạc khác nên đã đổi thành Westlife). Ban đầu, Shane, Mark và Kian tham gia một ban nhạc địa phương gồm 6 thành viên mang tên IOU. IOU từng phát hành một đĩa đơn với tên "Together Girl Forever". Sau đó mẹ của Shane đã liên hệ với Louis Walsh (ông bầu cũ của nhóm Boyzone) nhưng nhóm vẫn chưa được hãng BMG chấp nhận ký hợp đồng ghi âm nên cần phải thay đổi lại thành phần của nhóm. Kết quả là 3 thành viên đã rời nhóm, chỉ còn lại Mark, Shane và Kian. Sau đó, một cuộc tuyển chọn đã được tổ chức và Nicky, Brian đã gia nhập Westlife. Cựu thành viên của Boyzone, Ronan Keating, đã trở thành người đồng quản lý của nhóm cùng Louis Walsh. Lần xuất hiện đầu tiên của Westlife trước công chúng là khi nhóm hát mở màn cho tour diễn của Boyzone ở Dublin (Ireland) năm 1998. Tháng 3 năm 1999, Westlife phát hành đĩa đơn đầu tiên "Swear It Again". Đĩa đơn này nhanh chóng chiếm ngôi vị quán quân tại bảng xếp hạng Anh & Ireland. Nhóm tiếp tục đạt thành công khi liên tục có các đĩa đơn #1 trong bảng xếp hạng gồm: "If I Let You Go" (tháng 8/1999), "Flying Without Wings" (tháng 11/1999) và đĩa đơn đôi "I Have A Dream/Seasons In The Sun" (vào tuần đầu tiên của thiên niên kỷ mới). Album đầu tiên của nhóm được lấy tựa đơn giản "Westlife", phát hành vào tháng 11/1999 và cũng đạt thành công lớn khi đứng #2 trong bảng xếp hạng Anh. Đĩa đơn cuối cùng của album này là "Fool Again" (#1 tháng 4/2000). Album tiếp theo của nhóm được phát hành tháng 11/2000 với tên gọi "Coast To Coast" và nhanh chóng đạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạng, đồng thời cũng trở thành album bán chạy thứ tư trong năm 2000 tại Anh. Đĩa đơn đầu tiên trích từ album này là một ca khúc song ca với nữ ca sĩ Mariah Carey với tựa đề "Against All Odds" (cover của Phil Collins) và đã đạt #1 tháng 9/2000. Đĩa đơn thứ hai của album là bản ballad "My Love" (#1 cuối tháng 11/2000), đồng thời cũng đưa nhóm trở thành ban nhạc đầu tiên trong lịch sử nền ghi âm ở Anh có 7 đĩa đơn liên tiếp đạt #1. Tuy nhiên kỷ lục này đã kết thúc khi đĩa đơn thứ 8 của nhóm, "What Makes A Man", phát hành vào dịp giáng sinh năm 2000 chỉ đạt vị trí #2. Vào năm 2001, nhóm đã thực hiện tour diễn đầu tiên vòng quanh thế giới. Tháng 9/2001, album thứ ba của Westlife được phát hành mang tên "World Of Our Own" (nhóm đồng sáng tác 8 ca khúc trong album). Album này đã đạt vị trí quán quân tại Anh và 4 đĩa đơn trích từ album cũng đều đạt thành công, gồm: "Uptown Girl" (phát hành tháng 2/2001 và đạt #1 nhưng sau đó mới được đưa và album), "Queen Of My Heart" (#1 tháng 11/2001), "World Of Our Own" (#1 tháng 2/2002) và "Bop Bop Baby" (#5 tháng 5/2002). Tháng 11/2002, Westlife phát hành album "Unbreakable - The Greatest Hits Vol I" gồm toàn bộ các đĩa đơn đã phát hành và một số ca khúc mới. Album này lại một lần nữa đưa Westlife lên ngôi vị quán quân trong bảng xếp hạng Anh. Các đĩa đơn trích từ album gồm có: "Unbreakable" (#1 tháng 11/2002), "Tonight/Miss You Nights" (#3 tháng 3/2003). "Turnaround", album thứ năm của Westlife được phát hành ngày 24 tháng 11 năm 2003 là album thứ tư liên tiếp của Westlife đạt #1 tại Anh. Album này đã sinh ra các hit gồm: "Hey Whatever" (số 4 tháng 9/2003), "Mandy" (Cover của Barry Manilow, #1 tháng 11/2003), "Obvious" (#3 tháng 2/2004). 2004 - 2012 Ngày 9 tháng 3 năm 2004, Brian McFadden tuyên bố rời nhóm để dành nhiều thời gian hơn cho gia đình riêng. (Vợ Brian là Kerry Katona, cựu thành viên ban nhạc Atomic Kitten và họ đã có hai con gái là Molly & Lilly-Sue. Tuy nhiên, hai người đã chia tay tháng 11/2004.) Nhiều người tin rằng Westlife sẽ sớm tan rã nhưng sự thực không phải như vậy. Với 4 thành viên còn lại, vào tháng 11/2004, Westlife đã phát hành album thứ sáu, "Allow Us To Be Frank", với phong cách nhạc Swing và nhạc Jazz, gồm những ca khúc từ thập niên 1950, thập niên 1960 được cover lại của các nghệ sĩ như Frank Sinatra, Nat King Cole... Album đã vươn tới vị trí #3 tại Anh. Ngày 24 tháng 10 năm 2005, đĩa đơn "You Raise Me Up" được phát hành và nhanh chóng đạt vị trí số một trong bảng xếp hạng Anh. Một tuần lễ sau, nhóm phát hành album thứ bảy với tựa "Face To Face". Album này lại đưa Westlife tới ngôi quán quân bảng xếp hạng, cùng thời điểm đó, "You Raise Me Up" vẫn đứng vững ở vị trí số 1, Westlife đã trở thành ban nhạc đầu tiên trong lịch sử tại Anh có đĩa đơn và album cùng đạt số một trong một tuần lễ. Các đĩa đơn còn lại trích từ album gồm: "When You Tell Me That You Love Me" (Song ca với Diana Ross, #2 tháng 12/2005), "Amazing" (#4 tháng 2/2006). Album thứ tám của Westlife, "The Love Album", đã được phát hành ngày 20 tháng 11 năm 2006 và ngay lập tức đạt #1 tại Anh và Ireland. Trước đó hai tuần lễ, đĩa đơn "The Rose" (phát hành ngày 6 tháng 11) cũng đã trở thành ca khúc #1 thứ 14 của Westlife tại Anh. Theo người quản lý của Westlife, nhóm chưa có dự định phát hành single thứ hai từ album mặc dù lúc đầu "Total Eclipse Of The Heart" đã được chọn. Vào năm 2007, Westlife đã ra album thứ 9, "Back Home" với 3 single rất thành công: Home, Us against the world và Something right. Cuối năm 2008, nhóm nhạc tiếp tục thực hiện tour diễn "10 years of Westlife" tại Croke Park Stadium kỉ niệm chặng đường 10 năm thành lập nhóm và 1 tour diễn tại St.Patrick Park vào ngày 15 tháng 3 năm 2009. Mới đây, Westlife đã xếp thứ 3 trong 5 nhóm nhạc vĩ đại nhất Anh quốc. Vào cuối tháng 11 năm 2009, Westlife đã phát hành album thứ 10 của họ: "Where We Are". Album đã đứng vị trí thứ 28 ở bảng xếp hạng album cuối năm ở Anh. "What About Now"(phát hành vào 10/2009) là single duy nhất được trích từ album, đứng vị trí thứ 2 ở bảng xếp hạng "Irish Single Chart". Vào tháng 5 năm 2010, Westlife tổ chức "Where we are tour", một tour diễn đi qua các nước ở châu Âu Danh sách đĩa hát Các Album Westlife (1999) Coast to Coast (2000) World of Our Own (2001) Unbreakable - The Greatest Hits Vol. 1 (2002) Turnaround (2003) Allow us to be frank (2004) Face to Face (2005) The Love Album (2006) Back Home (2007) Where we are(2009) Gravity (2010) Westlife: Greatest Hits (2011) Spectrum (2019) Các đĩa đơn #1 tại Anh
Tổng công ty Truyền thông đa phương tiện VTC (tên giao dịch quốc tế là VTC - Vietnam Multimedia Corporation) hay còn có cách gọi khác là Tổng công ty Truyền thông đa phương tiện Việt Nam, gọi tắt là VTC là doanh nghiệp nhà nước, trực thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam. Lịch sử VTC có nguồn gốc từ xí nghiệp Dịch vụ sửa chữa bảo hành thiết bị phát thanh - truyền hình, thành lập vào ngày 12 tháng 2 năm 1988 theo Quyết định số 33/QĐ-BTT của Bộ Thông tin. Sau đó, vào ngày 25 tháng 3 năm 1993, xí nghiệp này chuyển đổi thành Công ty Đầu tư và Phát triển kỹ thuật thông tin (Intedico) theo Quyết định số 288/QĐ của Bộ Văn hóa - Thông tin. Trong tháng 12 năm 1996, Công ty Đầu tư và Phát triển Công nghệ truyền hình Việt Nam (VTC) được thành lập thông qua việc sáp nhập hai công ty Ratimex và Telexim vào Công ty Intedico, trực thuộc Đài Truyền hình Việt Nam. Vào ngày 26 tháng 6 năm 2003, VTC chuyển từ Đài Truyền hình Việt Nam về trực thuộc Bộ Bưu chính Viễn thông (nay là Bộ TT&TT) theo Quyết định số 129/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Sau đó, ngày 29/7/2005, Công ty Đầu tư và Phát triển Công nghệ Truyền hình Việt Nam chuyển đổi thành Tổng công ty Truyền thông đa phương tiện - VTC theo Quyết định số 192/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Ngày 28 tháng 6 năm 2010, Tổng công ty VTC chuyển đổi thành Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên (TNHH MTV) do Nhà nước làm chủ sở hữu theo Quyết định số 929/QĐ-BTTTT của Bộ TT&TT. Trong giai đoạn từ 2012 đến 2015, VTC thực hiện Đề án "Tái cơ cấu Tổng công ty VTC giai đoạn 2012-2015" theo Quyết định số 28/QĐ-BTTTT ngày 11 tháng 1 năm 2013 của Bộ TT&TT, tập trung vào việc thu gọn đầu mối và tập trung vào nhóm, lĩnh vực kinh doanh mũi nhọn. Ban lãnh đạo Hội đồng Thành viên Phụ trách HĐTV: Chu Tiến Đạt Thành viên HĐTV: Lê Việt Thương Huyền Đàm Mỹ Nghiệp Ban Tổng Giám đốc Quyền Tổng Giám đốc: Nguyễn Ngọc Bảo Phó Tổng Giám đốc: Dương Thế Lương Phan Minh Thế Bê bối Vấn đề bản quyền World Cup 2006, FPT mua độc quyền giải đấu này và ban đầu chỉ bán lại cho VTV và HTV. VTC sau đó đã phải liên tục thương thuyết đàm phán với FPT cùng VTV để mua lại bằng mọi giá bản quyền World Cup 2006 và đã thành công. Tháng 10 năm 2006, VTV cảnh cáo sẽ kiện VTC vì vi phạm bản quyền phát sóng Hoa hậu Thế giới mà VTV đã mua bản quyền độc quyền. VTC đã gửi lời xin lỗi đến VTV và xin bồi thường thiệt hại với TVplus. Kể từ cuối năm 2006, VTC đã mua được các bản quyền quan trọng gồm World Cup các câu lạc bộ thế giới, AFF Cup 2006 (tên gọi cũ là Tiger Cup), F1, Oscar 49, Mister World, Hoa hậu Hoàn vũ, Copa America 2007 và đặc biệt là AFC Asian Cup 2007 khi Việt Nam là một trong 4 nước chủ nhà. Năm 2007, VTC ký được hợp đồng độc quyền phát sóng giải Ngoại hạng Anh ở Việt Nam trong 3 mùa bóng liên tiếp từ 2007 đến 2010 với đối tác ESPN và Star Sports với mức giá được công bố là 1,2 triệu đô la. Đầu kĩ thuật số Những người dân biết đến VTC nhờ bộ giải mã tín hiệu truyền hình số được gọi là VTC-Digital (với các phiên bản là T5, T9, T10, T11, T12, T13 v.v.). VTC đã quảng bá rằng họ sẽ tăng kênh cho đầu thu VTC-Digital phiên bản T13, nhưng sau đó, khi các kênh VTC3, VTC6 ra đời và bị khóa mã Irdeto, điều đó đã cho thấy VTC không hề hỗ trợ các đầu thu cũ mà mã hóa kênh đó để chỉ có đầu thu mới VTC-Digital D901, E901 dùng thẻ giải mã mới xem được. Việc này khiến nhiều khách hàng của VTC không hài lòng vì đã không được xem những kênh mình mong muốn. Vào năm 2009, họ tung ra thị trường 2 bộ thu giải mã l à VTC-HD và VTC-SD để thu tín hiệu truyền hình vệ tinh do VTC cung cấp (43 chương trình trong đó có 9 chương trình HD). Họ tiếp tục khóa mã thêm nhiều kênh sử dụng phương thức khóa mã Irdeto.
Mã Ngọc (phồn thể:馬鈺, giản thể:马钰, 1123 - 7/1/1184), nguyên danh là Tùng Nghĩa (從義), tự Nghi Phủ (宜甫), hiệu xưng là Mã Bán Châu (马半洲), ông là người Ninh Hải (nay là Mưu Bình, tỉnh Sơn Đông). Năm 1167, khi Vương Trùng Dương tới huyện Ninh Hải truyền đạo, ông cùng vợ là Tôn Bất Nhị đã quy y. Sau khi theo đạo, ông đổi tên thành Ngọc (鈺) và tự là Huyền Bảo (玄寶), hiệu Đan Dương Tử. Ông là chưởng môn thứ hai của Toàn Chân giáo, sau Vương Trùng Dương. Ông có đạo hiệu là Đan Dương Tử, vì thế còn được gọi là Mã Đan Dương. Ông cùng năm vị sư đệ và một vị sư muội (Tôn Bất Nhị) lập thành bảy đạo sĩ của Toàn Chân Thất Tử. Chi phái nhỏ do ông sáng lập ra gọi là "Ngộ Tiên phái". Các tác phẩm của ông còn lưu giữ được là Thần quang xán và Động huyền kim ngọc tập gồm 10 quyển. Nguyên Thế Tổ sau này phong ông là "Đan Dương Bão Nhất Vô Vi Chân Nhân" (丹陽抱一无为真人), đến thời Nguyên Vũ Tông phong thêm thành "Đan Dương Bão Nhất Vô Vi Phổ Hoá Chân Quân" (丹阳抱一无为普化真君). Tiểu thuyết hóa Mã Ngọc được Kim Dung hình tượng hóa trong các tiểu thuyết như Xạ điêu anh hùng truyện, Thần điêu hiệp lữ cũng như trong Võ Lâm Ngũ Bá, một tiểu thuyết dựa Kim Dung. Thông tin thêm Mã Ngọc và Tôn Bất Nhị có với nhau 3 đứa con. Thông tin về con của họ không được nhắc tới nhiều. Phim ảnh Anh hùng xạ điêu Thang Cẩm Đường (1976), Trương Anh Tài (1983), Hoàng Quán Hùng (1988), Quảng Tá Huy (1994), Lý Tâm Mẫn (2003), Dương Nghệ (2008), Vương Lực (2017), Thần điêu hiệp lữ
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (tên giao dịch quốc tế: Joint Stock Commercial Bank for Foreign Trade of Vietnam) tên viết tắt: "Vietcombank", là công ty lớn nhất trên thị trường chứng khoán Việt Nam tính theo vốn hóa. Hiện tại Ngân hàng nhà nước Việt Nam nắm giữ 75% cổ phần và là cổ đông lớn nhất. Lịch sử Ngày 01/04/1963, Vietcombank chính thức khai trương hoạt động theo Nghị định số 115/CP ngày 30/10/1962 do Hội đồng Chính phủ ban hành trên cơ sở tách ra từ Cục Ngoại hối trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trong giai đoạn 1963 – 1975, thời kỳ chiến tranh chống Mỹ ác liệt, Vietcombank đã đảm đương thành công nhiệm vụ lịch sử lớn lao là một ngân hàng thương mại đối ngoại duy nhất tại Việt Nam, góp phần xây dựng và phát triển kinh tế miền Bắc, đồng thời hỗ trợ chi viện cho chiến trường Miền Nam.<ref name=":0" Để tiếp nhận nguồn vốn viện trợ ngoại tệ, tháng 4/1965 theo chỉ thị của Bộ Chính trị, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thành lập một tổ chức chuyên trách nghiệp vụ thanh toán đặc biệt với bí danh B29 tại Vietcombank.<ref name=":0" Năm 1990, Đề án đổi mới hoạt động ngân hàng được Hội đồng Bộ trưởng thông qua, từ đây Vietcombank đã trở thành ngân hàng thương mại quốc doanh, kinh doanh trong lĩnh vực đối ngoại.<ref name=":0" Với chức năng thực hiện quản lí vốn ngoại tệ tập trung vào năm 1993, Vietcombank đã chính thức tham gia sâu rộng hơn vào thị trường tiền tệ thế giới, gia nhập tổ chức thanh toán quốc tế SWIFT, là thành viên của Hiệp hội ngân hàng châu Á vào năm 1995, gia nhập tổ chức thẻ quốc tế và là ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam phát hành các loại thẻ tín dụng quốc tế là Mastercard và Visa card năm 1996, đồng thời Vietcombank là ngân hàng sáng lập Hội thẻ ngân hàng Việt Nam, tiên phong trong ứng dụng công nghệ vào hoạt động ngân hàng. Trong giai đoạn này, Vietcombank đã tham gia đầu tư vào một loạt các dự án lớn trong các lĩnh vực trọng yếu của đất nước như đường ống khí đốt Nam Côn Sơn, Đạm Phú Mỹ, Đuôi hơi Phú Mỹ, Thủy điện Yaly…<ref name=":0" Năm 2007, Vietcombank tiên phong cổ phần hóa trong ngành ngân hàng và thực hiện thành công kế hoạch phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng.<ref name=":0" Ngày 2/6/2008, Vietcombank đã chính thức hoàn tất chuyển đổi và hoạt động theo mô hình ngân hàng thương mại cổ phần.<ref name=":0" Ngày 30/6/2009, cổ phiếu Vietcombank (mã chứng khoán VCB) chính thức được niêm yết giao dịch tại Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, minh bạch hóa thông tin, thu hút sự quan tâm của đông đảo các nhà đầu tư trong và ngoài nước.<ref name=":0" Tháng 9/2011, Vietcombank ký kết Hợp đồng cổ đông chiến lược với Mizuho Corporate Bank.<ref name=":0" Ngày 01/04/2013, Vietcombank chính thức thay đổi bộ nhận diện thuơng hiệu mới. Cơ cấu tổ chức Tại ngày 30/06/2020, Vietcombank có 30.115 nhân viên, Ngân hàng có 1 Trụ sở chính, 1 Trường Đào tạo và Phát triển nguồn nhân lực Vietcombank, 2 Trung tâm xử lý tiền mặt, 116 chi nhánh trên toàn quốc, 4 công ty con tại Việt Nam, 3 Công ty con tại nước ngoài, 2 công ty liên doanh, 1 công ty liên kết, 1 văn phòng đại diện đặt tại Mỹ, 1 văn phòng đại diện đặt tại Singapore và 1 văn phòng đại diện đặt tại thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, Vietcombank còn phát triển một hệ thống Autobank với hơn 2.100 máy ATM và trên 49.500 điểm chấp nhận thanh toán thẻ (POS) trên toàn quốc. Hoạt động ngân hàng còn được hỗ trợ bởi mạng lưới hơn 1.800 ngân hàng đại lý tại trên 155 quốc gia và vùng lãnh thổ. Công ty con Công ty TNHH MTV Chứng khoán Vietcombank Công ty Cho thuê tài chính Vietcombank Công ty Quản lý nợ và Khai thác tài sản Vietcombank Công ty Tài chính Việt Nam (Vinafico) tại Hồng Kông Công ty liên doanh TNHH Cao Ốc VCB 198. Công ty Quản lý Quỹ đầu tư Chứng khoán Vietcombank Ngoài ra còn có các công ty góp vốn: Góp vốn đầu tư dài hạn vào 15 đối tác (Ngân hàng và công ty). Góp vốn liên kết với 5 đối tác (Ngân hàng và công ty) Ngân hàng là thành viên của: Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam Hiệp hội Ngân hàng Châu Á Tổ chức Thanh toán Toàn cầu Swift Tổ chức Thẻ quốc tế Visa Tổ chức Thẻ quốc tế Mastercard Tổ chức Thẻ quốc tế JCB Tổ chức Thẻ quốc tế American Express Hoạt động kinh doanh Cá nhân Tài khoản Thẻ Tiết kiệm & đầu tư Chuyển & nhận tiền Cho vay cá nhân Bảo hiểm Doanh nghiệp Dịch vụ thanh toán Dịch vụ séc Trả lương tự động Thanh toán Billing Dịch vụ bảo lãnh Dịch vụ cho vay Thuê mua tài chính Doanh nghiệp phát hành trái phiếu trong nước và nước ngoài Kinh doanh ngoại tệ Định chế tài chính Ngân hàng đại lý Dịch vụ tài khoản Mua bán ngoại tệ Kinh doanh vốn Tài trợ thương mại Bao thanh toán Doanh nghiệp vừa và nhỏ Ngân hàng điện tử Ngân hàng số VCB Digibank Ngân hàng số SME VCB DigiBiz VCB-SMS B@nking VCB-Phone B@nking VCBPAY Ban lãnh đạo Chủ tịch Hội đồng quản trị: Phạm Quang Dũng Phó Tổng Giám đốc: Đào Minh Tuấn Phó Tổng Giám đốc: Phạm Mạnh Thắng Phó Tổng Giám đốc: Nguyễn Thị Kim Oanh Phó Tổng Giám đốc: Đinh Thị Thái Phó Tổng Giám đốc: Shojiro Mizoguchi Phó Tổng Giám đốc: Phùng Nguyễn Hải Yến Giám đốc tài chính: Trần Văn Tráng Giải thưởng Giải thưởng Thương hiệu Quốc gia (7 lần liên tiếp) Top 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam Top 500 doanh nghiệp lợi nhuận tốt nhất Việt Nam Ngân hàng bán lẻ tốt nhất Việt Nam Top 10 ngân hàng lớn nhất Việt Nam Ngân hàng được quản trị tốt nhất trong đại dịch COVID-19 Ngân hàng quản trị trị rủi ro tốt nhất Ngân hàng có quan hệ đầu tư tốt nhất trong ngành tài chính - ngân hàng Giải thưởng Sao Khuê 2021 Top 50 công ty giá trị nhất Việt Nam Top 100 công ty đại chúng lớn nhất Việt Nam Giải thưởng Chuyển đổi số Việt Nam 2021 Danh hiệu Huân chương Lao động hạng Nhất (năm 2018) kỷ niệm 55 năm Ngày thành lập. Danh hiệu Anh hùng Lao động thời kì đổi mới (năm 2023).
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (tên giao dịch quốc tế: Vietnam Bank for Agriculture and Rural Development) viết tắt: "Agribank", là ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam tính theo tổng khối lượng tài sản, thuộc loại doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt. Theo báo cáo của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) năm 2007, Agribank cũng là doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam. Lịch sử Agribank được thành lập ngày 26 tháng 3 năm 1988. Lúc mới thành lập, ngân hàng mang tên là Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam. Cuối năm 1990, ngân hàng được đổi tên thành Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam. Cuối năm 1996 ngân hàng lại được đổi tên thành tên gọi như hiện nay. Năm 2003, Chủ tịch nước Việt Nam đã trao tặng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ Đổi mới. Quy mô Agribank là ngân hàng lớn nhất Việt Nam cả về vốn, tài sản, đội ngũ cán bộ nhân viên, mạng lưới hoạt động và số lượng khách hàng. Đến tháng 3/2007, vị thế dẫn đầu của Agribank vẫn được khẳng định trên nhiều phương diện: Tổng nguồn vốn đạt gần 26.700 tỷ đồng, vốn tự có gần 15.000 tỷ đồng; Tổng dư nợ đạt gần 23.900 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu theo chuẩn mực mới, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế là 1,9%. Năm 2007, Agribank có hơn 2200 chi nhánh và điểm giao dịch được bố trí rộng khắp trên toàn quốc với gần 30.000 cán bộ nhân viên. Năm 2017, tổng tài sản của Agribank vượt 1 triệu tỷ đồng. Năm 2019, tổng tài sản của ngân hàng đạt 1,4 triệu tỷ đồng; nguồn vốn huy động đạt 1,29 triệu tỷ đồng; dư nợ cho vay nền kinh tế đạt hơn 1,05 triệu tỷ. Như vậy, Agribank là ngân hàng đứng thứ 2 (sau BIDV) về tổng tài sản trong toàn hệ thống ngân hàng. Lợi nhuận 10 tháng đầu năm 2019 của Agribank đạt trên 10.350 tỷ đồng, vượt 35% kế hoạch 10.000 tỷ đồng đề ra cho cả năm 2019 Năm 2020, Agribank là ngân hàng thương mại nhà nước hàng đầu Việt Nam cả về vốn điều lệ, tổng tài sản, quy mô mạng lưới, đội ngũ cán bộ công nhân viên và số lượng khách hàng với gần 40.000 cán bộ viên chức; 2.300 chi nhánh và phòng giao dịch trong toàn hệ thống. Tổng tài sản của Agribank đạt trên 1,57 triệu tỷ đồng, vượt qua BIDV để đứng thứ nhất trong số các ngân hàng tại Việt Nam. Nguồn vốn đạt trên 1,45 triệu tỷ đồng. Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế đạt trên 1,21 triệu tỷ đồng; tỷ trọng dư nợ nông nghiệp - nông thôn chiếm xấp xỉ 70% dư nợ cho vay. Agribank đã thiết lập quan hệ với gần 900 ngân hàng tại 90 quốc gia và vùng lãnh thổ Là ngân hàng 100% vốn Nhà nước với dư nợ cho vay nông nghiệp - nông thôn chiếm xấp xỉ 70% tổng dư nợ và là ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong việc cấp tín dụng "Tam nông" tại Việt Nam, Agribank là đơn vị tiên phong, chủ lực để Chính phủ Việt Nam triển khai 07 chương trình tín dụng chính sách và 02 chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững. Agribank đã được trao tặng nhiều danh hiệu như: Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới, Huân chương Lao động, Sao Vàng đất Việt, Doanh nghiệp phát triển bền vững; Doanh nghiệp có thành tích xuất sắc phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn và nông dân trong thời kỳ đổi mới; Doanh nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội và phát triển cộng đồng; Top 10 Doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam VNR500; Top 3 Doanh nghiệp nộp thuế thu nhập doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam; Top 50 Doanh nghiệp xuất sắc nhất Việt Nam; Ngân hàng tiêu biểu về hỗ trợ đầu tư nông nghiệp công nghệ cao, Ngân hàng tiêu biểu vì cộng đồng Năm 2022, Brand Finance cũng xếp Agribank ở vị trí thứ 6/50 thương hiệu giá trị nhất Việt Nam bởi duy trì được đà tăng trưởng ổn định với giá trị tăng trưởng 22%. Agribank được định giá 1,412 tỉ USD năm 2022 và xếp hạng AA+. Các dịch vụ Tài khoản cá nhân Tài khoản doanh nghiệp Tài khoản tiết kiệm Dịch vụ thẻ Thanh toán quốc tế Dịch vụ Ngân hàng điện tử Các vụ án kinh tế Năm 2012 được coi là năm đầy khó khăn đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam. Tính đến hết ngày 30/6/2012, Agribank có tỷ lệ nợ xấu cao nhất trong nhóm các ngân hàng thương mại Nhà nước. Theo số liệu của các tổ chức tín dụng báo cáo, tỉ lệ nợ xấu của Ngân hàng Agribank chiếm 6,14%. Theo thông báo được Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang công bố tại Hội nghị ở Hà Nội ngày 23 tháng 1 năm 2013 thì ông Phạm Thanh Tân, nguyên Tổng giám đốc Agribank đã bị cơ quan điều tra bắt và khởi tố về tội "thiếu trách nhiệm trong quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng". Báo Tuổi Trẻ hôm sau cho hay ông Tân cùng một số cá nhân khác bị khởi tố và bắt tạm giam do liên quan đến vụ thiệt hại 3.900 tỷ đồng tại Agribank chi nhánh Nam Hà Nội. Trước đó, Cơ quan điều tra Bộ Công an đã khởi tố và bắt tạm giam bà Phạm Thị Bích Lương (44 tuổi), nguyên giám đốc Agribank chi nhánh Nam Hà Nội, về sai phạm trong việc cho Công ty liên doanh Lifepro Vietnam vay vốn đầu tư dự án.. Ngày 9 tháng 1 năm 2014, ông Kiều Trọng Tuyến, nguyên Phó Tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn VN (Agribank), đã bị khởi tố, bắt tạm giam để điều tra cũng về hành vi thiếu trách nhiệm trong quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Tháng 7 2014, ông Phạm Ngọc Ngoạn, nguyên Ủy viên hội đồng thành viên Agribank, nguyên Giám đốc, Chủ tịch HĐTV Công ty In – Thương mại và Dịch vụ Agribank, bị bắt. Ngày 20 tháng 9 năm 2014, ông Đỗ Tất Ngọc, nguyên Chủ tịch HĐTV Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank) đã bị bắt giam để điều tra về những hành vi vi phạm pháp luật, cụ thể là hành vi "Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng". Theo tờ Đầu tư chứng khoán, trong năm 2009, thực hiện chủ trương di chuyển nhà máy in ngân hàng I ra khỏi nội thành, ông Ngọc đã ký quyết định của Hội đồng thành viên Ngân hàng Agribank phê duyệt đầu tư Dự án nhà máy in ngân hàng tại huyện Mê Linh, Hà Nội. Từ đó, Công ty In dịch vụ ngân hàng thuộc Agribank đã ký hợp đồng kinh tế với Công ty INED để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thuê trả tiền hàng năm tại khu vực Quang Minh, huyện Mê Linh, Hà Nội, hơn 20.300 m2 đất, trị giá hơn 93 tỷ đồng. Đến nay dự án xây dựng nhà máy in vẫn chưa triển khai. Trong khi đó, Agribank đã chuyển hơn 90 tỷ đồng cho Công ty INED, hiện không có khả năng thu hồi cho Nhà nước. Gần đây cơ quan điều tra cũng đã khởi tố, bắt tạm giam đối với ông Phạm Ngọc Ngoạn (58 tuổi, trú tại phố Hàng Bài, Hà Nội), nguyên thành viên Hội đồng thành viên Agribank; nguyên Giám đốc, Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty In – Thương mại và Dịch vụ Agribank (nay là công ty TNHH một thành viên dịch vụ Agribank, về hành vi "Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Từ tháng 10 đến tháng 12 năm 2015, Tòa án nhân dân tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã khởi án 4 vụ về tội Vi phạm quy định về cho vay làm cho Agribank mất 450 tỷ, 600 tỷ, 966 tỷ, và 2.755 tỉ đồng. Một cựu tổng giám đốc Công ty con của Agribank đã bị xử 5 lần, lần cuối bị 18 năm tù, sau 2 lần bị án 12 và 15 năm tù và 2 lần bị án tử hình. Biểu trưng Ý nghĩa thiết kế Hình vuông của Logo mô phỏng chiếc bánh Chưng trong truyền thuyết “Sự tích bánh Chưng, bánh Dày” thời Vua Hùng dựng nước Cây lúa hình chữ S là hình dáng đất nước Việt Nam Hình hai đường thẳng kẻ chéo đi lên mô phỏng đồ thị tăng trưởng, phản ánh quan hệ gắn bó, đồng hành giữa Agribank và khách hàng. Ý nghĩa màu sắc Màu xanh lá cây tượng trưng cho cây và biển trời Màu đỏ đô tượng trưng cho phù sa Màu trắng tượng trưng cho nước Màu vàng tượng trưng cho sự thịnh vượng và phát triển của đất nước, của khách hàng và Agribank
VISA là một tập đoàn dịch vụ tài chính đa quốc gia của Mỹ có trụ sở chính tại Thành phố Foster, California, Hoa Kỳ. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển tiền điện tử trên khắp thế giới, phổ biến nhất là thông qua thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ và thẻ trả trước mang thương hiệu Visa. Visa là một trong những công ty có giá trị nhất thế giới. Phân loại Visa cung cấp thông qua các thành viên phát hành các loại thẻ sau: Thẻ ghi nợ (thanh toán từ tài khoản séc/tiết kiệm) Thẻ tín dụng (thanh toán hàng tháng có hoặc không có lãi suất tùy thuộc vào khách hàng thanh toán đúng hạn) Thẻ trả trước (thanh toán từ tài khoản tiền mặt không có đặc quyền viết séc) Visa vận hành mạng máy rút tiền tự động Plus và mạng điểm bán hàng Interlink EFTPOS, hỗ trợ giao thức "ghi nợ" được sử dụng với thẻ ghi nợ và thẻ trả trước. Họ cũng cung cấp các giải pháp thanh toán thương mại cho các doanh nghiệp nhỏ, các tập đoàn vừa và lớn, và các chính phủ. Visa đã hợp tác với Apple vào tháng 9 năm 2014, để kết hợp tính năng ví điện thoại di động mới vào các mẫu iPhone mới của Apple, cho phép người dùng sử dụng Visa và các thẻ tín dụng/thẻ ghi nợ khác của họ dễ dàng hơn.
YouTube là một nền tảng chia sẻ video trực tuyến của Mỹ có trụ sở chính tại San Bruno, California. Nền tảng này được tạo ra vào tháng 2 năm 2005 bởi ba nhân viên cũ của PayPal — Chad Hurley, Steve Chen và Jawed Karim — đã được Google mua lại vào tháng 11 năm 2006 với giá 1,65 tỷ đô la Mỹ và hiện hoạt động như một trong những công ty con của Google. YouTube là trang web được truy cập nhiều thứ hai sau Google Tìm kiếm, theo xếp hạng của Alexa Internet. Trang web cho phép người dùng tải lên, xem, chia sẻ, thêm vào danh sách phát, báo cáo và nhận xét về video, đăng ký người dùng khác và sử dụng công nghệ WebM, H.264/VP9 và Adobe Flash Player để hiển thị nhiều video đa phương tiện do người dùng và doanh nghiệp tạo ra. Nội dung có sẵn bao gồm video clip, đoạn chương trình truyền hình, video âm nhạc, phim tài liệu ngắn và tài liệu, bản ghi âm, đoạn giới thiệu phim và các nội dung khác như viết blog bằng video, video sáng tạo ngắn và video giáo dục. Hầu hết nội dung trên YouTube được các cá nhân tải lên, nhưng các công ty truyền thông bao gồm CBS, BBC, Vevo và Hulu cung cấp một số tài liệu của họ qua YouTube như một phần của chương trình đối tác với YouTube. Người dùng không đăng ký vẫn có thể xem được hầu hết video ở trang, còn người dùng đăng ký được phép tải lên số lượng video vô hạn. Một số video chỉ dành cho người dùng trên 18 tuổi (ví dụ video có chứa những nội dung nhạy cảm hoặc có khả năng xúc phạm). YouTube kiếm doanh thu quảng cáo từ Google AdSense, một chương trình nhắm mục tiêu quảng cáo theo nội dung và của trang web. YouTube có YouTube Premium (trước đây là YouTube Red), một dịch vụ thuê bao cung cấp quyền truy cập vào nội dung độc quyền được thực hiện với những người dùng hiện có, và YouTube Music, một dịch vụ stream và nghe các bài hát của nghệ sĩ trên trang web. Tính đến tháng 8 năm 2019, trang web này được Alexa Internet, một công ty phân tích lưu lượng truy cập web, xếp hạng là trang web phổ biến thứ hai trên toàn cầu. Lịch sử 2005–2010 YouTube do Chad Hurley, Steve Chen và Jawed Karim, tất cả đều là những nhân viên đầu tiên của PayPal. Trước khi đến với PayPal, Hurley học thiết kế ở Đại học Indiana của Pennsylvania. Chen và Karim học khoa học máy tính cùng nhau tại Đại học Illiois ở Urbana-Champaign. Karim cho biết ý tưởng ban đầu của YouTube đến từ màn trình diễn của Janet Jackson trong Super Bowl XXXVIII, khi bà để lộ bộ ngực của mình trước công chúng và trận sóng thần thương tâm Ấn Độ Dương năm 2004. Karim không thể tìm thấy video quay lại hai sự kiện trên, khiến anh nảy ra cảm hứng xây dựng một dịch vụ chia sẻ video riêng. Hurley và Chen tiết lộ ý tưởng ban đầu cho YouTube là xây dựng trang web thành một dịch vụ hẹn hò trực tuyến, điều này do ảnh hưởng từ trang Hot or Not. Khó khăn trong việc tìm kiếm những video hẹn hò, dẫn đến ý tưởng phải thay đổi và xây dựng trang web thành nơi mà mọi loại video đều có thể tải lên. Sau khi PayPal bị eBay mua lại với giá 1,5 tỉ USD, cả ba người quyết định ra riêng và tự thành lập một công ty mới. Đầu năm 2005, cả ba cùng rời PayPal và bàn kế hoạch tại quán café Max's Opera gần trường Đại học Stanford. Trụ sở đầu tiên của YouTube là tại thung lũng Silicon. Những tác giả cung cấp bản xem thử của trang web trước công chúng vào tháng 5 năm 2005, sáu tháng trước khi YouTube chính thức ra mắt. Tên miền "youtube.com" được kích hoạt vào ngày 14 tháng 2 năm 2005 và trang web được phát triển vài tháng sau đó. Video đầu tiên trên YouTube có tên Me at the zoo, được đồng sáng lập trang web Jawed Karim quay tại Sở thú San Diego và đăng tải lên vào ngày 23 tháng 4 năm 2005, video hiện tại vẫn có thể được tìm thấy và xem. YouTube công bố bản thử nghiệm beta cho trang web vào tháng 5 năm 2005. Video đầu tiên đạt 1 triệu lượt xem là một đoạn phim quảng cáo của Nike có sự góp mặt của cầu thủ bóng đá người Brasil Ronaldinho vào tháng 12 năm 2005. Nhận số tiền đầu tư 3,5 triệu đô la từ công ty đầu tư Sequoia Capital vào tháng 11, YouTube chính thức ra mắt vào 15 tháng 12 năm 2005, thời gian này trang web nhận 8 triệu lượt xem mỗi ngày. Giống như nhiều công ty công nghệ mới thành lập, YouTube khởi đầu với một công ty đầu tư mạo hiểm từ một văn phòng tạm thời ở một ga-ra. Roelof Botha, người cộng tác của Sequoia Capital và là cựu CFO của PayPal, đã gia nhập ban giám đốc của YouTube. Vào tháng 4 năm 2006, Sequoia đặt thêm 8 triệu USD vào công ty, và tiếp theo là thời kỳ phổ biến cực nhanh trong vòng vài tháng đầu. Trong mùa hè năm 2006, YouTube là một trong những trang web phát triển nhanh nhất trong cộng đồng Web, và được xếp hạng thứ 5 trong những trang web phổ biến nhất trên Alexa, với tốc độ tăng trưởng thậm chí còn nhanh hơn MySpace. Theo cuộc điều tra vào ngày 16 tháng 7 năm 2006, 100 triệu video clip được xem hàng ngày trên YouTube, cộng thêm 65.000 video mới được tải lên mỗi ngày. Trang web có trung bình 20 triệu lượt truy cập mỗi tháng, theo như Nielsen/NetRatings, trong đó khoảng 44% là nữ giới, 56% nam giới, và khoảng tuổi từ 12 đến 28 tuổi chiếm ưu thế. Điểm ưu việt của YouTube trong thị trường video online đó là sự thực tế. Theo như trang web Hitwise.com, YouTube làm chủ tới 64% thị phần video online ở Anh. Vào ngày 9 tháng 10 năm 2006, đã có thông báo rằng công ty Google sẽ mua lại công ty với giá là 1,65 tỷ USD bằng cổ phiếu. Thỏa thuận giữa Google và YouTube đến sau khi YouTube đưa ra ba bản thỏa thuận với những công ty truyền thông trong nỗ lực tránh nguy cơ kiện tụng do vi phạm bản quyền. YouTube sẽ tiếp tục hoạt động độc lập, với những đồng sáng lập và 67 nhân viên làm việc trong công ty. Sự giao kèo để mua lại YouTube đã kết thúc vào ngày 13 tháng 11, vào lúc đó, Google là người trả giá cao thứ hai. Cùng tháng, YouTube di chuyển đến một trụ sở mới tại San Bruno, thuộc bang California. Tháng 11 năm 2006, tên miền "www.youtube.com" dẫn đến một trang có tên tương tự, "www.utube.com". Chủ sở hữu "utube.com", Universal Tube & Rollform Equipment, đã kiện YouTube vì tình trạng truy cập quá tải bởi người dùng YouTube. Universal Tube đã thay đổi tên trang thành "www.utubeonline.com". Năm 2007, YouTube công bố Giải thưởng YouTube (YouTube Award), một giải thưởng hàng năm trao cho người dùng nhằm công nhận các video hay nhất của YouTube do cộng đồng bình chọn. Đầu năm 2009, YouTube đăng ký tên miền mới "www.youtube-nocookie.com" cho các video YouTube được nhúng trên trang của chính phủ Hoa Kỳ. Vào tháng 3 năm 2010, YouTube bắt đầu phát trực tuyến một số nội dung, 60 trận cricket của Giải Ngoại hạng Cricket Ấn Độ được công chiếu trực tuyến. Đánh dấu đây là lần phát trực tuyến đầu tiên trên thế giới về một sự kiện thể thao lớn. Vào ngày 31 tháng 3 năm, YouTube đã thiết kế lại và đơn giản hóa giao diện, giúp tăng thời gian người dùng sử dụng trang web. Theo giám đốc sản phẩm của Google, Shiva Rajaraman cho rằng: "Chúng tôi phải quay lại và loại bỏ sự lộn xộn." Vào tháng 5 năm 2010, khoảng 2 tỷ lượt xem video tăng mỗi ngày. Con số này tăng lên ba tỷ vào tháng 5 năm 2011, và đạt ngưỡng 4 tỷ lượt xem vào năm 2012. Tháng 2 năm 2017, tổng cộng có 1 tỷ giờ xem video trên YouTube. Theo dữ liệu năm 2010 do công ty nghiên cứu thị trường comScore báo cáo, YouTube là dịch vụ cung cấp video trực tuyến thống trị thị trường Hoa Kỳ, khi thị phần chỉ khoảng 43% và có hơn 14 tỷ lượt xem video suốt tháng 5 năm này. Tháng 10 năm 2010, Chad Hurley từ chức giám đốc điều hành của YouTube để đảm nhận vai trò cố vấn, đồng thời Salar Kamangar giữ chức vụ CEO. Vào tháng 4 năm 2011, James Zern, một kỹ sư phần mềm YouTube, cho biết tất cả 30% video trên YouTube chiếm 99% lượt xem trên trang. Vào tháng 11 năm 2011, trang mạng xã hội Google+ được tích hợp vào YouTube và trình duyệt Chrome, cho phép người dùng xem trực tiếp video của YouTube từ trong giao diện Google+. 2011–nay Tháng 12 năm 2011, YouTube ra mắt giao diện mới của trang web, các mục và số kênh đã đăng ký được xếp vào một cột trên trang chủ. Logo YouTube được bố trí với màu đỏ tối hơn, sau logo từ năm 2006. Năm 2012, tổng cộng 60 giờ video được tải lên mỗi phút, 3/4 nội dung trên YouTube đến từ ngoài Hoa Kỳ. Tại thời điểm này, trang web chào đón hơn 8 triệu người dùng mỗi tháng. Vào tháng 10 năm 2012, sau khi trở thành đối tác với ABC News, YouTube lần đầu phát một buổi trực tiếp cuộc tranh luận của tổng thống Hoa Kỳ. Khẩu hiệu Broadcast Yourself được gỡ xuống sau những lần phát trực tiếp nhiều cuộc tranh luận tương tự. Ngày 4 tháng 12 năm 2012, YouTube thiết kể lại giao diện để phù hợp với phiên bản trên điện thoại di động và máy tính bảng. Ngày 21 tháng 12, ca khúc Gangnam Style của ca sĩ người Hàn Quốc Psy trở thành video đầu tiên đạt một tỷ lượt xem. Tháng 3 năm 2013, số lượng truy cập YouTube đạt 1 tỷ người hàng tháng. Đến tháng 5, YouTube tiếp tục hướng đến truyền thông, cho ra mắt YouTube Comedy Week, một sự kiện trong tuần nhằm tập hợp những người ấn tượng trong thể loại hài kịch và Giải thưởng Âm nhạc YouTube (YouTube Music Award), trao cho những video âm nhạc xuất sắc nhất. Cùng năm, kênh chính thức của YouTube, "YouTube", vượt qua kênh "PewDiePie của Felix Kjellberg để trở thành kênh có nhiều lượt đăng ký nhất. Điều này do hệ thống phân loại nội dung của trang web đưa đến người dùng những kênh theo thể loại, cùng với các kênh của YouTube, do đó họ có thể đăng ký và xem chủ đề mình thích. Vào tháng 2 năm 2014, Susan Wojcicki được bổ nhiệm làm CEO tiếp theo của YouTube. Tháng 11 cùng năm, YouTube cho ra một dịch vụ âm nhạc tên "Music Key", cho phép phát trực tuyến âm nhạc miễn phí không quảng cáo trên YouTube cùng với dịch vụ Google Play Music. Vào tháng 2 năm 2015, YouTube phát hành ứng dụng di động thứ hai có tên YouTube Kids. Ứng dụng này nhắm vào những nội dung chỉ phù hợp cho trẻ em và do phụ huynh kiểm soát. Ngày 26 tháng 8, YouTube ra mắt YouTube Gaming, một ứng dụng nhắm vào chủ đề trò chơi điện tử, chơi và phát trực tiếp game. Nó cũng cạnh tranh với Twitch của Amazon.com. Vào tháng 10 năm 2015, YouTube công bố YouTube Red (nay là YouTube Premium), một dịch vụ cung cấp loạt phim gốc do chính YouTube sản xuất có sự tham gia của các YouTuber, là tiền nhiệm của Music Key, dịch vụ này chứa quảng cáo với người dùng miễn phí và ngược lại với người trả phí để xem. YouTube cũng phát hành YouTube Music, ứng dụng di động thứ ba hướng đến việc phát trực tuyến âm nhạc và nghe một kho bài hát thuộc YouTube. Đầu năm 2016, YouTube mở rộng diện tích trụ sở tại San Bruno sau khi mua lại một công viên với giá 215 triệu USD. Sau khi mở rộng, diện tích trụ sở tăng thêm 554,000 ft và có sức chứa khoảng 2,800 nhân viên. Vào 29 tháng 7 năm 2017, YouTube ra mắt một logo mới, là thiết kế lại của logo cũ dựa trên ngôn ngữ thiết kế Material Design, chữ và biểu tượng nút play màu đỏ (đậm hơn) được tách riêng. Ngày 3 tháng 4 năm 2018, một vụ xả súng đã xảy ra tại trụ sở YouTube ở San Bruno, California. Vào ngày 17 tháng 5, YouTube đổi tên thương hiệu YouTube Red thành YouTube Premium (kèm theo đó là mở rộng dịch vụ sang Canada và 13 thị trường châu Âu), đồng thời ra mắt phiên bản mới của YouTube Music. Ngày 30 tháng 5, YouTube đóng cửa trang YouTube Gaming để ghép nền tảng này vào trang YouTube chính. Nhân viên của công ty lập luận rằng nền tảng này dễ gây nhầm lẫn và việc ghép vào trang chính sẽ xuất hiện tính năng mới (mỗi trò chơi được bổ sung một thông tin để khám phá các video liên quan), điều này cũng nhằm phát triển cộng đồng lớn mạnh hơn. Tháng 7 năm 2021, Youtube chính thức ra mắt Youtube Short, tính năng cho phép người dùng tạo ra các video ngắn có thời lượng tối đa 1 phút. Tính năng Công nghệ video YouTube thường sử dụng định dạng VP9 và H.264/MPEG-4 AVC cho video. YouTube cũng bắt đầu dùng định dạng AV1. Phát lại Trước đây để xem một video YouTube trên máy tính, YouTube thường yêu cầu cài đặt Adobe Flash Player vào trình duyệt. Tháng 1 năm 2010, YouTube cho ra phiên bản thử nghiệm của trang web, phiên bản này sử dụng khả năng đa phương tiện được tích hợp các trình duyệt web có tiêu chuẩn HTML5, giúp người dùng có thể phát nhiều video cùng lúc. Tính năng này cho phép xem video mà không cần cài đặt Adobe Flash Player. Chỉ những trình duyệt hỗ trợ HTML cho video nhờ dùng định dạng MP4 (video H.264) hay WebM (video VP8) có thể phát video trên web. Tải lên Người dùng YouTube có thể tải video lên với thời lượng tối đa 15 phút. Người dùng có tình trạng tốt về việc tuân thủ Nguyên tắc cộng đồng có thể tải lên video với thời lượng tối đa 12 giờ, cũng như phát trực tiếp, việc này cần yêu cầu xác minh tài khoản. Khi lần đầu ra mắt, YouTube cho phép tải video lên với giới hạn thời lượng 10 phút, công ty bắt đầu nhận ra những video dài hơn thời lượng này thường là các đoạn chương trình truyền hình và phim. Trước đây, tải video có thời lượng hơn 12 giờ lên là không thể, dung lượng tải lên chỉ nằm ở mức 128GB. YouTube hỗ trợ các định dạng tệp như MOV, MPEG4, MP4, AVI, WMV, MPEGPS, FLV, DNxHD, ProRes, CineForm và HEVC (h265). Ngoài ra còn hai định dạng tệp khác được hỗ trợ là 3GPP và WebM, giúp video có thể tải lên từ điện thoại di động. Phụ đề video được thực hiện tự động bằng công nghệ nhận dạng giọng nói sau khi tải lên. Phụ đề tự động thường không chính xác, do đó YouTube cung cấp một số tùy chọn như tải lên phụ đề đã viết sẵn để sửa lại một cách thủ công. Chất lượng và định dạng Thời gian đầu, YouTube cung cấp cho video chất lượng rất thấp, với độ phân giải 320×240 pixel và sử dụng dạng âm thanh MP3. Vào tháng 6 năm 2007, định dạng video 3GP được hỗ trợ trên điện thoại di dộng. Cùng với sự cải tiến chất lượng vào tháng 3 năm 2008, độ phân giải đã tăng lên 480×360 pixel. Tháng 12 cùng năm, độ phân giải HD 720p được thêm vào. Trình phát video của YouTube chuyển tỷ lệ khung hình từ 4:3 sang tỷ lệ màn hình rộng 16:9 sau đó. YouTube bắt đầu đặt H.264/MPEG-4 AVC là định dạng video mặc định trên trang web. Vào tháng 11 năm 2009, độ phân giải 1080p ra mắt, kèm theo là sự xuất hiện của chất lượng 4K vào tháng 7 năm 2010, khi độ phân giải chiếm đến 4096×3072 pixel. Tháng 6 năm 2015, YouTube hỗ trợ chất lượng 8K cùng với độ phân giải 7680×4320 pixel. 2016, YouTube công bố dải tương phản động mở rộng (HDR) cho video, HDR có thể mã hóa với hai định dạng HLG và PQ. Vào tháng 10 năm 2014, YouTube giới thiệu tốc độ khung hình 60FPS cho video, nhằm sửa đổi tốc độ khung hình của trò chơi điện tử sau khi quay cho phù hợp. Mỗi chất lượng có một tên riêng, như chất lượng tiêu chuẩn được đánh dấu bằng SQ, chất lượng cao (HQ) và độ phân giải cao (HD), nay đã được thay bằng các giá trị phân giải (480p, 1080p,..) hiện có của video. Luồng video được mã hóa ở định dạng P9 với dạng âm thanh Opus; nếu VP9/WebM không được hỗ trợ trong trình duyệt, thì định dạng H.264/MPEG-4 AVC kèm theo dạng âm thanh AAC sẽ thay thế. Chú thích Từ năm 2008 đến 2017, người dùng có thể thêm chú thích vào video, các chú thích hiển thị dưới dạng ô vuông kèm theo văn bản ghi chú hoặc liên kết. Vào tháng 3 năm 2017, trình chỉnh sửa chú thích ngừng hoạt động, vì tính năng này ít người sử dụng, người dùng cho biết những tấm chú thích hiện trên video dễ gây khó chịu và nó không hiển thị trên phiên bản di động. Toàn bộ chú thích bị xóa hoàn toàn khỏi các video từ ngày 15 tháng 1 năm 2019. YouTube giới thiệu một tính năng tiện ích hơn là thêm "Màn hình kết thúc" (End Screens; một màn hình thu nhỏ hiển thị video khác) vào cuối video và "thẻ" (Cards), được biểu tượng bằng "(i)", thay thế cho chú thích khi người dùng có thể chèn danh sách phát và bình chọn. Video 3D Video 3D lần đầu tiên ra mắt trên YouTube vào ngày 21 tháng 7 năm 2009, và có thể xem bằng nhiều cách khác nhau như sử dụng ống kính anaglyph (ống kính màu đỏ/lam) để đạt hiệu ứng 3D. Vào tháng 5 năm 2011, phiên bản HTML5 của trình phát video YouTube bắt đầu hỗ trợ các cảnh quay 3D. Vì tính năng bị giảm, video 3D hiện nay chỉ hỗ trợ kính anaglyph đỏ/lam. Video 360 độ Video 360° là video hình cầu giúp người xem trải nghiệm thực tế và tương tác với nội dung thay vì chỉ ngồi yên. Lần đầu được Google công bố vào tháng 1 năm 2015 và bắt đầu hỗ trợ trên YouTube từ tháng 3, video 360 độ có thể xem từ Google Cardboard (thiết bị xem thực tế ảo của Google) và từ nhiều tai nghe thực tế ảo khác. Phát trực tiếp ở định dạng này được hỗ trợ với độ phân giải 4K và giúp người xem trải nghiệm trực tiếp sự kiện đang diễn ra. Năm 2017, YouTube bắt đầu một định dạng video lập thể được gọi là VR180, được quay ở góc nhìn đơn giản 180 độ và dễ sản xuất hơn video 360 độ, định dạng này cũng có thể dùng Google Cardboard. Tính năng cho người dùng Người xem có tài khoản đã đăng nhập có thể thích hoặc không thích (thao tác để xếp hạng video), tạo/lưu danh sách phát, đăng nhận xét, báo cáo và đăng tải lên một video. Đối với những người không có tài khoản, họ vẫn có thể truy cập và trang web và xem bình thường. YouTube cũng cung cấp cho người dùng khả năng xem video của họ trên các trang web bên ngoài trang của YouTube. Người dùng còn có thể đặt video ở chế độ Công khai, ai cũng đều xem được; không công khai, chỉ những ai có liên kết đến video mới xem được và Riêng tư, chỉ người dùng xem được. Mỗi video có kèm theo một đoạn HTML để nhúng video đó vào bất kỳ trang nào trên Web. Các video YouTube thường được nhúng vào các trang mạng xã hội và blog. Trước đây, hệ thống đánh giá năm sao () thường dùng để xếp hạng video trước khi hai nút Thích và Không thích xuất hiện, nhưng đã bị loại bỏ sau khi YouTube nhận thấy ít khi sao 2-4 được chọn mà thường chỉ có sao 1 và 5, hệ thống này cũng được công ty đánh giá là không hữu ích. Ngoài ra, chủ sở hữu video có thể vô hiệu hóa khả năng nhúng video, xếp hạng và nhận xét. Người dùng giữ bản quyền tác phẩm của mình theo giấy phép chuẩn của YouTube. Kể từ tháng 7 năm 2012, người dùng có thể chọn giấy phép Creative Commons làm mặc định, cho phép người dùng khác sử dụng và phối lại tác phẩm theo điều khoản của giấy phép. Phát trực tiếp YouTube đã thử nghiệm sớm tính năng khi phát trực tiếp (livestream) buổi hòa nhạc của U2 vào năm 2009 và buổi trò chuyện của Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama vào năm 2010. Tính năng này dựa vào công nghệ từ các đối tác bên thứ ba, nhưng không lâu sau đó YouTube bắt đầu tự thử nghiệm tính năng phát trực tiếp cho riêng mình. Vào tháng 4 năm 2011, YouTube triển khai YouTube Live cùng với trang URL "www.youtube.com/live". Việc tạo luồng trực tiếp ban đầu chỉ giới hạn ở số người sáng tạo nội dung. Tính năng này cũng tự động tắt trong một khoảng thời gian giới hạn nếu kênh của người dùng bị cảnh cáo Nguyên tắc cộng đồng hay dính phải vấn đề vi phạm bản quyền. Tháng 5 năm 2013, những kênh có ít nhất 1,000 lượt đăng ký mới có thể phát trực tiếp, điều này lại thay đổi vào tháng 8 cùng năm khi các kênh với ít nhất 100 lượt đăng ký có thể phát trực tiếp, vào tháng 12, giới hạn lượt đăng ký để sử dụng tính năng này được loại bỏ. Tháng 2 năm 2017, YouTube giới thiệu tính năng phát trực tiếp trên phiên bản di động. Những kênh với ít nhất 10,000 lượt đăng ký mới có thể dùng tính năng này, nhưng điều này thay đổi với các kênh có ít nhất 1000 lượt đăng ký. Phát trực tiếp được hỗ trợ ở độ phân giải 4K với tốc độ khung hình 60fps cho cả video thường và video 360°. Năm 2017, tính năng Super Chat được hỗ trợ trong trình phát trực tiếp, cho phép người xem đóng góp từ 1 đến 500 đô la, khi dùng Super Chat nhận xét của họ sẽ được gắn màu và ghim trong khoảng thời gian ngắn. Tab Cộng đồng Vào ngày 13 tháng 9 năm 2016, YouTube ra mắt bản beta công khai của Tab cộng đồng, một "mạng xã hội" cho phép người dùng tương tác với khán giả nhờ những bài đăng bằng văn bản, hình ảnh, GIF và cuộc thăm dò ý kiến. Những kênh sở hữu tính năng này đều mất mục Thảo luận. Để sử dụng Tab Cộng đồng người dùng phải ít nhất có 500 lượt đăng ký mới có thể dùng tính năng này. Tuy nhiên, về sau nếu người dùng phát triển kênh tốt trong 2 tháng thì cũng sẽ có Tab Cộng Đồng. Câu chuyện Vào tháng 11 năm 2018, YouTube giới thiệu tính năng "Câu chuyện" cho phiên bản di động, tương tự như Snapchat và Instagram, cho phép người dùng tương tác với người hâm mộ mà không cần đăng hoàn toàn một video. Các câu chuyện được thực hiện bằng những video tự tạo dài 30 giây, cho phép người dùng thêm bộ lọc, nhạc, văn bản và nhãn dán vào video. Câu chuyện có thể được tạo nhiều lần và sẽ biến mất sau 7 ngày. Câu chuyện được hiển thị dưới dạng một tab riêng biệt trên kênh của người dùng và xuất hiện trên giao diện video, trang chủ. Những người có ít nhất 10,000 lượt đăng mới có thể dùng tính năng này. Ban đầu nó chỉ là phiên bản beta dùng để thử nghiệm và nhận phản hồi từ những người dùng nhất định. Nếu người dùng sử dụng quá mức "Câu chuyện", nó có thể xuất hiện hàng loạt trên trang chủ dưới dạng đề xuất và dễ làm phiền người xem. Sản phẩm và nền tảng YouTube Premium YouTube Premium (tên cũ là YouTube Red) là một dịch vụ của YouTube. Dịch vụ này cung cấp nội dung độc quyền là những bộ phim gốc không quảng cáo, phát lại video ngoại tuyến và cho phép truy cập vào dịch vụ "All Access" của Google Play Music. YouTube Premium lần đầu tiên được công bố dưới tên "Music Key" vào ngày 12 tháng 11 năm 2014, một dịch vụ phát nhạc trực tuyến được tích hợp với và thay thế cho dịch vụ "All Access" của Google Play Music. Vào ngày 28 tháng 10 năm 2015, dịch vụ được giới thiệu lại với tên YouTube Red. Tính đến tháng 11 năm 2016, đã có 1,5 triệu người đăng ký dịch vụ với hơn một triệu người dùng thử miễn phí, và đến tháng 6 năm 2017, mùa đầu tiên của YouTube Red Originals nhận được tổng cộng 250 triệu lượt xem. Trong một tuyên bố với Financial Times vào tháng 6 năm 2014, khi dịch vụ này còn là Music Key, Robert Kyncl, giám đốc kinh doanh tại YouTube, đã xác nhận YouTube sẽ chặn nội dung của các hãng thu không đàm phán thỏa thuận đã ký trong dịch vụ, để đảm bảo rằng "tất cả nội dung trên dịch vụ được điều chỉnh theo các điều khoản hợp đồng mới". Ông cho biết 90% hãng thu đã đạt thỏa thuận với YouTube, nói thêm: "Chúng tôi ước tính rằng mình có tỷ lệ thành công 100%, nhưng chúng tôi hiểu đó không phải là mục tiêu có thể đạt được và do đó, chúng tôi có trách nhiệm với người dùng và với ngành công nghiệp để mang lại sự trải nghiệm âm nhạc cao". Financial Times cũng báo cáo YouTube đã thỏa thuận với Merlin Network — một nhóm đại diện cho hơn 20,000 hãng thu độc lập vì quyền kĩ thuật số, để đưa nhóm này vào dịch vụ. Tuy nhiên, YouTube chưa xác nhận thỏa thuận. YouTube Music Dịch vụ phát nhạc trực tuyến của YouTube bắt đầu ra mắt vào ngày 12 tháng 11 năm 2015, với hi vọng cạnh tranh với dịch vụ khác như Spotify và Apple Music. Dịch vụ cung cấp tính năng cho người dùng nghe nhạc từ các nghệ sĩ trên YouTube, bao gồm các bài hát phổ biến. Người dùng có thể lưu một bài hát vào thư viện hoặc stream bài hát dưới dạng radio. Nếu là thành viên của YouTube Music Premium, người dùng nghe nhạc sẽ không gặp quảng cáo và có thể phát bài hát trong nền. Ngày 22 tháng 5 năm 2018, YouTube Music chính thức ra mắt sau 2 năm dùng thử. YouTube Kids YouTube Kids là ứng dụng trên điện thoại được thiết kế với những nội dung dành cho trẻ em, lần đầu ra mắt ngày 22 tháng 2 năm 2015. Ứng dụng phân thành bốn loại nội dung; "Chương trình", "Âm nhạc", "Học tập" và "Khám phá", các danh mục được tuyển chọn từ những kênh phù hợp cho trẻ em. Ứng dụng được quản lý bởi phụ huynh của trẻ và có công cụ báo cáo nội dung. Bất chấp điều này, có những nội dung độc hại (bạo lực, khiêu dâm) được đề xuất như "Elsagate", gây ra các mối lo ngại về sự an toàn của trẻ và thuật toán của YouTube. Năm 2018, Youtube Kids chính thức ra mắt ở Việt Nam. YouTube TV Vào ngày 28 tháng 2 năm 2017, trong một thông cáo báo chí tổ chức tại YouTube Space Los Angeles, YouTube đã công bố YouTube TV, một dịch vụ đăng ký phát trực tiếp cho khách hàng Hoa Kỳ với mức giá 35 đô la/tháng. Dịch vụ ra mắt tại năm khu vực đầu tiên: Thành phố New York, Los Angeles, Chicago, Philadelphia và San Francisco vào ngày 5 tháng 4 năm 2017, dịch vụ cung cấp các nội dung trực tiếp từ năm mạng phát sóng lớn (ABC, CBS, CW, Fox và NBC) và từ 40 kênh truyền hình cáp (bao gồm Bravo, USA Network, Syfy, Disney Channel, CNN, Cartoon Network, E!, Fox Sports 1, Freeform, FX và ESPN). YouTube Go YouTube Go là một ứng dụng Android giúp YouTube dễ dàng truy cập hơn trên thiết bị di động ở các thị trường mới nổi. Người dùng có thể tải video xuống để xem ngoại tuyến và chia sẻ video với người dùng khác qua Bluetooth, cũng như tùy chọn xem trước và chỉnh độ phân giải video. YouTube giới thiệu ứng dụng lần đầu vào năm 2016 tại một sự kiện ở Ấn Độ. YouTube Go chính thức ra mắt tại Ấn Độ vào tháng 2 năm 2017 và đã mở rộng sang 14 quốc gia từ tháng 11 cùng năm, bao gồm Nigeria, Indonesia, Thái Lan, Việt Nam, Malaysia, Thái Lan, Philippines, Kenya và Nam Phi. Ứng dụng tổng cộng có mặt ở 130 quốc gia, gồm Brasil, Mexico, Thổ Nhĩ Kỳ và Iraq vào ngày 1 tháng 2 năm 2018, chiếm 60% dân số thế giới. Android Năm 2018, Youtube Go được mặc định cài sẵn trên các máy chạy Android Go. Nền tảng Hầu như các điện thoại thông minh đều có khả năng truy cập vào các video của YouTube, trong một ứng dụng hoặc thông qua một trang web được tối ưu hóa. YouTube trên điện thoại được ra mắt vào tháng 6 năm 2007, sử dụng giao thức RTSP cho video. Không phải tất cả video trên trang web đều có sẵn ở phiên bản di động. Kể từ tháng 6 năm 2007, video của YouTube có thể xem khả dụng trên các sản phẩm của Apple. Điều này cần yêu cầu video của YouTube phải chạy trên mã video tiêu chuẩn của Apple, H.264, một quá trình có thể mất đến vài tháng, video của YouTube có thể xem trên Apple TV, iPod Touch và iPhone. Vào tháng 7 năm 2010, tranh web của phiên bản di động có thêm HTML5, tránh việc phải sử dụng Adobe Flash Player để xem video, công ty phát hành ứng dụng YouTube trên nền tảng Android cho các điện thoại di động tại thời điểm này. Vào tháng 9 năm 2012, YouTube phát hành ứng dụng của công ty trên iPhone, khiến YouTube là một trong ứng dụng được tải trước trên iPhone 5 và hệ điều hành iOS 6. Theo GlobalWebIndex, có khoảng 35% người dùng điện thoại thông minh sử dụng YouTube giữa tháng 4 và tháng 6 năm 2013, trở thành ứng dụng được dùng nhiều nhất thứ ba. Một bản cập nhật của dịch vụ TiVo vào tháng 7 năm 2008 cho phép nó tìm kiếm và xem các video YouTube. Vào tháng 1 năm 2009, YouTube ra mắt "YouTube cho TV", một phiên bản của trang web được thiết kế cho các thiết bị đa phương tiện trên TV kèm với trình duyệt web, cho phép xem video của YouTube trên máy chơi game PlayStation 3 và Wii. YouTube XL được giới thiệu vào tháng 6 năm 2009, nhằm đơn giản hóa giao diện khi xem trên một màn hình TV chuẩn. YouTube là ứng dụng đã xuất hiện trên Xbox Live năm 2011 và Wii vào tháng 11 năm 2012, cho phép YouTube có thể xem được từ kênh của Wii. YouTube khả dụng trên Wii U và Nintendo 3DS, video của nó có thể xem trên trình duyệt web của Wii U sử dụng HTML5. Google phát hành YouTube trên trình phát Roku vào 17 tháng 12 năm 2013, và trên PlayStation 4 của Sony vào tháng 10 năm 2014. Tháng 11 năm 2018, YouTube ra mắt nó là ứng dụng tải được cho Nintendo Switch. Nguyên tắc cộng đồng YouTube có một chính sách nhất định gồm những nguyên tắc cho cộng đồng nhằm giảm sự lạm dụng trang web. Các nội dung bị cấm thường là nội dung mang tính khiêu dâm, video ngược đãi động vật, video gây sốc, nội dung được tải lên mà không có sự đồng ý của chủ bản quyền, ngôn từ kích động, quấy rối hay bạo lực (liên quan đến chiến tranh, xung đột chínn trị, thiên tai, bi kịch), mạo danh, đe dọa và spam. Bất chấp các nguyên tắc trên, YouTube phải đối mặt với chỉ trích từ các nguồn tin về nội dung vi phạm chính sách. Nội dung có bản quyền Trước đây, khi chuẩn bị tải lên một video, người dùng YouTube nhận một lời nhắc tránh vi phạm bản quyền. Dù vậy có nhiều video trái phép bản quyền được đăng tải lên YouTube. YouTube không xem xét video trước khi video đó được đăng công khai, khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm bản quyền, chủ bản quyền sẽ thông báo gỡ video xuống theo Đạo luật bản quyền thiên niên kỷ kỹ thuật số (DMCA). Ba cảnh cáo vi phạm bản quyền đến với người dùng dẫn đến việc việc tài khoản và tất cả video của người dùng đó sẽ bị xóa. Viacom, Mediaset và Giải Ngoại hạng Anh từng nộp đơn kiện YouTube vì trang web không thể chặn số lượng lớn video sử dụng nội dung có bản quyền của họ một cách trái phép. Viacom đã yêu cầu YouTube bồi thường ít nhất 1 tỷ đô la sau khi họ tìm thấy hơn 150.000 video chứa bản quyền của mình được đăng tải lên YouTube, tất cả những video được xem tổng cộng 1,5 tỷ lần. YouTube đã đáp lại bằng cách cho rằng điều này vượt xa giới hạn các nghĩa vụ pháp lý của công ty trong việc hỗ trợ chủ sở hữu bản quyền bảo vệ tác phẩm của họ. Trong cùng một phiên tòa, Viacom đã thắng phán quyết của tòa án yêu cầu YouTube phải trao 12 terabyte (tương đương 12,288 gigabyte) từ cơ sở dữ liệu nhật ký về thói quen xem video của người dùng trên trang web. Quyết định này bị chỉ trích bởi Tổ chức Biên giới Điện tử, cho rằng phán quyết của tòa là xâm phạm quyền riêng tư. Vào tháng 6 năm 2010, vụ kiện của Viacom đối với Google bị từ chối trong một bản án, Thẩm phán liên bang Hoa Kỳ Louis L. Stanton tuyên bố Google được bảo vệ bởi các điều khoản của DMCA. Viacom kháng cáo lại phán quyết này. Vào ngày 5 tháng 4 năm 2012, Tòa phúc thẩm Hoa Kỳ cho phép vụ kiện được xét xử lại tại tòa. Vào ngày 18 tháng 3 năm 2014, Viacom hòa giải và dừng vụ kiện sau bảy năm. Vào tháng 4 năm 2012, một tòa án tại Hamburg của Đức đã phán quyết YouTube có thể phải chịu trách nhiệm cho các nội dung có bản quyền được đăng bởi người dùng. Tổ chức quyền âm nhạc GEMA lập luận YouTube đã không ngăn chặn hết những video chứa nhạc có bản quyền của quốc gia này. YouTube đáp lại: Content ID Vào tháng 6 năm 2007, YouTube bắt đầu thử nghiệm một hệ thống tự nhận diện các video vi phạm bản quyền, gọi là "Content ID". Giám đốc điều hành của Google, Eric Schmidt, nhận xét hệ thống này là cần thiết để giải quyết các vụ kiện trong tương lai. Hệ thống ban đầu dược đặt tên "Video Identification" cho đến khi được gọi là Content ID, hệ thống này tạo một tệp tham chiếu cho âm thanh và video có bản quyền, sau đó đưa nó vào cơ sở dữ liệu. Khi một video được tải lên, Content ID sẽ quét video đó và đối chiếu với tệp trong cơ sở dữ liệu, nếu trùng khớp, video đó được đánh dấu là vi phạm bản quyền. Sau đó, chủ bản quyền có lựa chọn chặn và gỡ bỏ video vi phạm, hay chạy quảng cáo lên video và kiếm tiền từ video đó, hoặc theo dõi số liệu phân tích lượt xem của video. Những người đáp ứng đủ tiêu chí cụ thể mới có quyền sử dụng Content ID. Năm 2016, Google cho biết công ty đã chi ra 60 triệu đô la để phát triển Content ID và đã trả hơn 2 tỷ đô cho người giữ bản quyền, gấp 2 lần so với năm 2014. Vào năm 2018, phí phát triển hệ thống này tăng lên 100 triệu đô, cùng với đó là khoảng 3 tỷ đô đã trả cho bên giữ bản quyền. Mùa hè cùng năm, Google ra mắt "Copyright Match", một công cụ tương đương với Content ID, dành cho những kênh có hơn 100.000 lượt đăng ký. Khác với Content ID là gửi thông báo video vi phạm đến chủ bản quyền, Copyright Match quét tất cả video trùng khớp với video gốc của người giữ bản quyền, và cho họ tùy chọn liên lạc với người tải lên hoặc yêu cầu YouTube gỡ video đó xuống. Một thử nghiệm tải lên nhiều phiên bản của một bài hát vào năm 2009 cho thấy Content ID hoạt động tốt trong việc tìm kiếm các video vi phạm bản quyền. Việc sử dụng hệ thống tự động Content ID để gỡ bỏ các video dẫn đến nhiều tranh cãi, vì một số video không được kiểm tra đã được sử dụng hợp lý hay chưa. Nếu người dùng không không đồng ý với quyết định của Content ID, họ có thể điền vào một biểu mẫu tranh chấp này gửi đến chủ sở hữu bản quyền và phản hồi trong 30 ngày. Trước năm 2016, người dùng không thể kiếm tiền đến khi cuộc tranh chấp được giải quyết. Kể từ tháng 4 năm 2016, video có thể được kiếm tiền trong cuộc tranh chấp và tiền sẽ về tay người thắng. Nếu người dùng muốn kiếm tiền từ video lần nữa, họ có thể tắt tiếng trong Trình quản lý video. YouTube công nhận tính hiệu quả của Content ID là một trong những lý do khiến quy tắc của trang web phải sửa đổi lại vào tháng 12 năm 2010 để cho phép người dùng tải lên có thời lượng không giới hạn. Ngành công nghiệp âm nhạc nhận xét Content ID hoạt động không hiệu quả, đôi khi nó có thể bị "hỏng". Universal Music Publishing Group (UMPG) cho biết Content ID để lọt khoảng 40% các video vi phạm bản quyền của UMPG trên YouTube". Google phản bác lại nhận định này tuyên bố hệ thống Content ID chặn được khoảng 98% các video vi phạm bản quyền trong khi để con người làm điều này thì chỉ 2%. Vào tháng 12 năm 2018, một người dùng tên Ramjets đã lợi dụng hệ thống này để tố cáo bản quyền TheFatRat bài hát "The Calling", mà thực tế do chính anh sáng tác, nghệ sĩ người Đức đã nhận khiếu nại về vi phạm bản quyền và mất số thu nhập từ video trên do về tay người tố cáo. Vài ngày sau, TheFatRat cho biết video của anh được phục hồi cùng với kênh của Ramjets biến mất. Video gây tranh cãi Video gây tranh cãi là những video gây nên sự tranh cãi xung quanh một nội dung mà nó hướng đến, như bạo lực, xúc phạm, khiêu dâm, hận thù... YouTube đã đối mặt với những chỉ trích về việc xử lý các video gây khó chịu. Tải lên các video có nội dung độc hại bị cấm theo Nguyên tắc cộng đồng của YouTube. YouTube dựa vào báo cáo của người dùng về một video bị gắn cờ, nhân viên của họ sẽ xác định liệu video đó có vi phạm các nguyên tắc hay không. Vào ngày 6 tháng 4 năm 2017, YouTube thông báo họ đảm bảo "doanh thu chỉ vào tay những người sáng tạo nội dung chơi theo luật", công ty yêu cầu kênh của người dùng phải tuân thủ tốt chính sách đến khi có ít nhất 10.000 lượt xem, họ có thể tham gia Chương trình đối tác của YouTube. YouTube từng công bố siết chặt chính sách hơn cho Chương trình đối tác vào 16 tháng 1 năm 2018 để xác định người sáng tạo đóng góp tích cực cho cộng đồng. Theo đó, các kênh có ít nhất 4.000 giờ xem trong vòng 12 tháng qua và 1.000 lượt đăng ký mới có thể bật kiếm tiền. Các video cho chương trình Google Preferred sẽ được phê duyệt để xếp hạng video đó dựa trên mức độ phù hợp. Việc thay đổi chính sách theo cách này dẫn đến sự chỉ trích từ các kênh YouTube độc lập, họ cho rằng thuật toán của YouTube đang tạo sự nổi bật cho các nội dung được sản xuất chuyên nghiệp (như video âm nhạc và các chương trình trò chuyện đêm khuya), thu hút lượng người xem rộng và có nguy cơ loại bỏ các nhà quảng cáo, chi phí của những người sáng tạo chuyên nghiệp đã góp phần tăng sự phổ biến cho trang web. Bảo vệ trẻ em Trong tháng 11 năm 2017, giới truyền thông báo cáo một lượng lớn video có sự góp mặt của trẻ em, thường hiển thị nội dung bình thường như chơi đồ chơi hoặc biểu diễn dụng cụ thể dụcđã thu hút nhiều bình luận từ những cá nhân ấu dâm với tính "săn mồi" thường lưu video qua một danh sách phát riêng tư hoặc nhập một số từ khóa bằng tiếng Nga. Các video chỉ hướng trung tâm đến trẻ em bắt đầu lan truyền trên những trang web tối và các diễn đàn của nhiều cá nhân ấu dâm. Năm 2017, YouTube thông báo thời gian xem các video vlog về chủ đề gia đình đã tăng lên 90%. Với lượng lớn video về trẻ em càng tăng, YouTube bắt đầu xảy ra các cuộc tranh cãi và chỉ trích về sự an toàn cho trẻ em tránh khỏi các nội dung xấu trên trang web. Cuối năm 2017, YouTube đã bị chỉ trích vì hiển thị nội dung không phù hợp cho trẻ em và thường chứa cảnh người nổi tiếng xuất hiện trong các tình huống bạo lực hay gây rối tình dục, nhiều trong số đó thu hút hàng triệu lượt xem và xuất hiện tràn lan trên YouTube Kids, một ứng dụng của YouTube vốn chỉ dành cho trẻ em. "Elsagate" được ngành báo chí xem là thuật ngữ trên Internet đề cập đến tất cả cuộc tranh cãi về chủ đề này. Vào ngày 11 tháng 11 năm 2017, YouTube cho biết họ cố gắng tăng cường bảo mật trang web để bảo vệ trẻ em khỏi nội dung xấu. Cuối tháng, công ty bắt đầu xóa hàng loạt video và các kênh có video không thân thiện với gia đình. Trẻ em cũng tham gia vào các hoạt động xấu hay nguy hiểm dưới sự chỉ dẫn của người lớn. Đáng chú ý nhất là công ty đã loại bỏ kênh Toy Freaks, sở hữu hơn 8,5 triệu người đăng ký, nội dung thường là một người cha cùng hai cô con gái làm những tình huống kỳ quặc và khó chịu. Theo số liệu phân tích từ Social Blade, kênh này kiếm được khoảng 8,7 triệu bảng Anh mỗi năm trước khi bị chấm dứt. Đầu năm 2019, YouTube thay đổi chính sách về các trào lưu, trò đùa, thử thách có thể gây tổn thất nghiêm trọng về mặt thể xác (như Tide Pod Challenge, thách thức người chơi uống viên nước giặt của hãng Tide) từ "không khuyến khích" sang "cấm chính thức" cho các nội dung trên. Chúng được cho dễ gây hại về mặt cảm xúc của trẻ em. Nội dung khai thác ấu dâm từ trẻ em Vào tháng 12 năm 2018, The Times phát hiện hơn 100 trường hợp thao túng trẻ em thực hiện hành vi liên quan đến tình dục. Một phóng viên đã gắn cờ các video, nhưng chỉ một nửa trong tổng số chúng biến mất. Phần còn lại đã bị xóa sau khi The Times liên hệ với bộ phận của YouTube. Vào tháng 2 năm 2019, vlogger Matt Watson xác định một "lỗ hổng" khiến thuật toán của YouTube đề xuất cho người xem nội dung tình dục về trẻ em và làm hệ thống chỉ đề xuất mỗi loại nội dung này. Hầu hết các video này có nhận xét ​​kèm dấu thời gian (timestamp) khi nào "cảnh đó" sẽ xuất hiện với trẻ em từ những cá nhân ấu dâm. Trường hợp khác, người dùng tải lại và đăng lên những video thuộc nội dung này, liên kết video liên quan ở dưới, sau đó kiếm tiền từ nó. Ghi nhận các vụ tranh cãi, YouTube đã xóa hơn 400 kênh và hàng chục triệu bình luận chứa nội dung tình dục, đồng thời báo cáo những người dùng vi phạm đến cơ quan pháp luật Trung tâm quốc gia về trẻ bị mất tích và bóc lột (NCMEC). Người phát ngôn của công ty giải thích: "Bất kỳ nội dung nàogồm cả nhận xétgây nguy hiểm cho trẻ vị thành niên được xem là kinh tởm và chúng tôi có chính sách rõ ràng cấm trường hợp này trên YouTube. Còn nhiều việc phải thi hành và chúng tôi sẽ tiếp tục cải thiện, nhanh chóng thâu tóm nội dung lạm dụng". Bất chấp phát ngôn này, AT&T, Disney, Dr. Oetker, Epic Games, và Nestlé đã tạm dừng quảng cáo của họ trên YouTube. YouTube bắt đầu chặn quảng cáo trên các loại video thu hút những bình luận kích dục. Công ty giải thích đây là một biện pháp tạm thời để họ tìm ra các phương pháp khác loại bỏ vấn đề này. YouTube cũng bắt đầu chấm dứt các kênh chủ yếu về trẻ em và vô hiệu hóa phần bình luận. Những "đối tác đáng tin cậy" có thể yêu cầu bật lại tính năng bình luận, song họ phải chịu trách nhiệm kiểm duyệt bình luận. Hành động này nhằm đảm bảo nếu người xem video là trẻ mới biết đi. YouTube cho biết họ cũng đang triển khai một hệ thống có thể xóa các bình luận ấu dâm trên kênh. Nhận xét Hầu hết các video cho phép người dùng để lại nhận xét, nhưng các khía cạnh tiêu cực, không phù hợp cũng hướng đến hình thức nội dung mà họ viết. Google trao lại cho người dùng một công cụ để quản lý và lọc nhận xét. Những nhận xét xấu thường được báo cáo và bị YouTube xóa. Đầu năm 2019, YouTube vô hiệu hóa phần Nhận xét hầu hết trên các video có nội dung về trẻ vị thành niên, nhằm ngăn chặn những ý kiến mang tính kích dục. Vào năm 2006, tạp chí Time đã ca ngợi thế hệ Web 2.0 vì cho phép "cộng đồng cộng tác trên quy mô chưa từng thấy" và cho rằng YouTube đang khai thác "sự ngu ngốc" và "sự khôn ngoan" của đám đông. Một số ý kiến trên YouTube không bao giờ bận tâm đến "sự tục tĩu" và "hận thù". The Guardian đã chỉ trích nhận xét của người dùng YouTube vào năm 2009 là "hung hăng", "sai chính tả", "phân biệt giới tính" và sử dụng từ ngữ "vô nghĩa", các bình luận trên YouTube được tờ nhật báo miêu tả là một "cuộc tranh luận sôi nổi". Vào tháng 9 năm 2008, tờ The Daily Telegraph đã bình luận YouTube "khét tiếng" vì những nhận xét mang tính "đối đầu", trong khi The Huffington Post cho rằng các nhận xét trên YouTube dễ "xúc phạm", "ngu ngốc và thô bỉ". Triển khai thuật toán Vào giữa tháng 3 năm 2018, YouTube cho biết hệ thống của họ sẽ tự động thêm các hộp thông tin vào video mà thuật toán của hệ thống cho là có thể đưa ra các lý thuyết âm mưu và tin tức giả mạo, hộp thông tin này liên kết đến Encyclopedia Britannica và Wikipedia, nhằm giảm thiểu việc truyền bá thông tin sai lệch mà không ảnh hưởng đến sự tự do ngôn luận. Sau vụ hỏa hoạn nhà thờ Đức Bà tại Paris vào ngày 15 tháng 4 năm 2019, một số video do người dùng tải lên về vụ cháy được YouTube liên kết đến sự kiện 11 tháng 9 trên Encyclopedia Britannica. Một số người dùng đã phàn nàn với YouTube về sai lầm này, họ xin lỗi và cho biết thuật toán đã xác định nhầm thông tin. Năm nhà sáng tạo nội dung hàng đầu sở hữu các kênh thuộc LGBTQ+ đã đệ đơn kiện YouTube vào tháng 8 năm 2019, cho biết thuật toán của công ty làm ảnh hưởng đến doanh thu của họ. Nguyên đơn tuyên bố thuật toán đã ngăn chặn và hạn chế các nội dung của họ chứa từ như "gay" (đồng tính nam) hay '"lesbian" (đồng tính nữ), họ cho rằng YouTube đang nắm giữ vị trí quyền lực trong dịch vụ chia sẻ video và công ty đang lạm dụng vị trí đó. Lợi nhuận Google không cung cấp số liệu chi tiết cho phí hoạt động và doanh thu của YouTube, vì cả hai được ghi nhận là "không quan trọng" trong hồ sơ. Vào tháng 6 năm 2008, một bài báo của tạp chí Forbes đã dự đoán mức doanh thu của trang web vào năm 2008 là 200 triệu đô la. Vào tháng 1 năm 2012, người ta ước tính khách truy cập YouTube đã dành trung bình 15 phút mỗi ngày, thấp hơn với một công dân Mỹ xem truyền hình chỉ bốn đến năm giờ mỗi ngày. Cùng năm, doanh thu của YouTube từ chương trình quảng cáo của công ty được ước tính khoảng 3,7 tỷ đô. Năm 2013, dự đoán doanh thu có thể đạt 5,6 tỷ trong khi các cá nhân khác dự tính là chỉ 4,7 tỷ. Vào tháng 5 năm 2013, YouTube giới thiệu một chương trình dùng thử gồm 53 kênh với phí xem từ 0,99 đô la đến 6,99 đô la mỗi tháng. Động thái này được coi là một nỗ lực cạnh tranh với các nhà cung cấp dịch vụ khác như Netflix và Hulu. Trong năm 2017, trung bình người dùng xem YouTube trên thiết bị di động hơn một giờ mỗi ngày. Quan hệ đối tác quảng cáo YouTube đã thiết lập mối quan hệ đối tác và tiếp thị quảng cáo với NBC vào tháng 6 năm 2006. Vào tháng 3 năm 2007, công ty ký thỏa thuận với BBC cho ba kênh có nội dung của BBC, một cho tin tức và hai cho giải trí. Vào tháng 11 năm 2008, YouTube đạt được thỏa thuận với MGM, Lions Gate Entertainment và CBS, cho phép YouTube đăng các bộ phim của ba hãng lên trang web kèm theo quảng cáo. Động thái này nhằm tạo sự cạnh tranh với các trang như Hulu, nơi chứa tài liệu từ NBC, Fox và Disney. Quan hệ đối tác với nhà sáng tạo nội dung Vào tháng 5 năm 2007, YouTube ra mắt Chương trình đối tác YouTube (YPP), một chương trình cho phép nhà sáng tạo nội dung kiếm doanh thu từ quảng cáo trên trang web thông qua tài khoản AdSense của họ. YouTube thường lấy 45% doanh thu quảng cáo từ các video trong Chương trình đối tác, 55% còn lại được chuyển về cho nhà sáng tạo. Những video vi phạm chính sách của YouTube thường không thể kiếm tiền vì video đó bị chặn hoặc hạn chế. Vào tháng 4 năm 2017, YouTube đặt điều kiện để tham gia vào chương trình đối tác, người dùng phải có ít nhất 10.000 lượt xem trên kênh. Vào ngày 16 tháng 1 năm 2018, công ty quy định những kênh muốn kiếm tiền cần đạt ngưỡng 4.000 giờ xem trong 12 tháng qua và có ít nhất 1.000 lượt đăng ký. Nút Play YouTube là một phần của Giải thưởng người sáng tạo trên YouTube (YouTube Creator Awards), được trao cho những kênh phổ biến nhất. Những chiếc nút được làm từ hợp kim đồng-nickel, đồng mạ vàng, kim loại mạ bạc, đá ruby và pha lê được trao cho các kênh có ít nhất một trăm nghìn (100.000), một triệu (1.000.000), mười triệu (10.000.000), năm mươi triệu (50.000.000) lượt đăng ký và một trăm triệu (100.000.000) lượt đăng kí. Chia sẻ doanh thu với người giữ bản quyền YouTube thường trả tiền cho chủ sở hữu bản quyền của video. Trong năm 2010, gần 1/3 video chứa quảng cáo đã được tải lên mà không có sự cho phép của chủ bản quyền. YouTube cung cấp tùy chọn cho chủ bản quyền để họ theo dõi, xóa hoặc kiếm doanh thu từ video đó. Vào tháng 5 năm 2013, Nintendo bắt đầu yêu cầu doanh thu quảng cáo từ những người tải lên video chứa ảnh chụp các trò chơi bản quyền của hãng. Vào tháng 2 năm 2015, Nintendo đồng ý chia sẻ doanh thu với những người sáng tạo nội dung. Tác động xã hội Trước khi YouTube xuất hiện vào năm 2005, có rất ít phương pháp dễ dàng cho người dùng máy tính thông thường tải lên những đoạn video trực tuyến. Bằng giao diện đơn giản, YouTube khiến cho bất cứ ai cũng có thể gửi lên một đoạn video mà mọi người trên thế giới có thể xem được trong vòng vài phút, chỉ với một kết nối Internet. Các chủ đề với lĩnh vực đa dạng mà YouTube bao trùm đã khiến cho việc chia sẻ video trở thành một trong những phần quan trọng nhất của việc trao đổi trên Internet. Ảnh hưởng đến văn hóa xã hội Một ví dụ về tác động xã hội của YouTube là sự thành công của video "The Bus Uncle" trong năm 2006. Đoạn video cho thấy cuộc hội thoại sôi nổi giữa một thanh niên và người đàn ông lớn tuổi trên chuyến xe buýt ở Hồng Kông. Đoạn video đã thu hút dư luận khắp nơi trên các phương tiện truyền thông chủ yếu. Một video khác trên YouTube cũng thu được lượng lớn sự chú ý của khán giả là "guitar". Đoạn video biểu diễn bằng guitar điện bài "Canon" - một bản nhạc nổi tiếng do nhà soạn nhạc baroque người Đức tên Johann Pachelbel sáng tác. Tên người biểu diễn không được đưa ra trong đoạn video. Đoạn video đã nhận được hàng triệu lượt xem, cùng với đó video đã truyền cảm hứng chơi guitar đến hàng trăm người. Tạp chí The New York Times tiết lộ danh tính của tay guitar là Lim Jeong-hyun, 23 tuổi đến từ Hàn Quốc. Anh đã thu lại đoạn biểu diễn trong phòng ngủ của mình. "Charlie Bit My Finger" (Charlie cắn ngón tay) cũng là một video có tính lan truyền rất lớn, một thời là video YouTube được xem nhiều nhất mọi thời đại. Tính đến tháng 11 năm 2010, đoạn video đã thu hút hơn 245 triệu lượt truy cập. Đoạn clip miêu tả cảnh hai anh em người Anh, trong đó bé Charlie một tuổi cắn ngón tay người anh trai ba tuổi của mình là Harry. "Charlie Bit My Finger" từng đứng danh sách xếp hạng 50 video YouTube có tính lan truyền mãnh liệt nhất của tạp chí Time. Năm 2008, YouTube được trao một giải thưởng Peabody Award và được biểu dương vì đã trở thành "một 'góc dư luận', góp phần cụ thể hóa và xúc tiến nền dân chủ". Tuần báo Entertainment xếp YouTube đứng đầu danh sách trong số cuối thập kỉ. Tờ báo nói rằng YouTube đã "chu cấp một ngôi nhà an toàn từ năm 2005 cho những con mèo chơi piano, người nổi tiếng với những phút bất cẩn, và những ca sĩ hát theo tích cực quá mức." Sự thừa nhận của giới truyền thông YouTube đã có được một sự tăng trưởng về mặt đại chúng cực nhanh, chủ yếu nhờ vào sự truyền miệng trên mạng. Trang web đạt được sự phổ biến từ ban đầu khi nó lưu trữ chương trình ngắn Lazy Sunday của Saturday Night Live. Tuy nhiên, chính sách chính thức của YouTube ngăn cấm việc truyền lên những tài liệu có bản quyền, và NBC Universal, sở hữu SNL, ngay sau đó đã quyết định sẽ hành động. Vào tháng 2 năm 2006, NBC đã yêu cầu loại bỏ một số nội dung có bản quyền của họ ra khỏi YouTube, trong đó có đoạn phim Lazy Sunday và Thế vận hội Mùa đông 2006. Tháng sau đó, trong một nỗ lực nhằm gia cố chính sách của mình để chống lại sự vi phạm bản quyền, YouTube đã thiết lập giới hạn thời gian cho một đoạn video là 10 phút. Mặc dù những người dùng trước đó được miễn chính sách này, những thành viên mới không thể tải lên những đoạn video dài quá 10 phút. Những người tự sáng tạo ra clip của mình có thể nộp đơn yêu cầu dỡ bỏ giới hạn này. Sự giới hạn này có thể dễ dàng bị người dùng phá vỡ, vì họ chỉ cần tách video gốc thành những phần nhỏ hơn, mỗi phần dưới lượng '10 phút' tối đa. Mặc dù YouTube đã thỏa mãn yêu cầu của NBC, tình tiết này đã tạo nên một tin tức nóng hổi, khiến cho trang web càng trở nên phổ biến. Do sự phổ biến của YouTube ngày càng tăng cao, NBC bắt đầu nhận ra khả năng của trang web, và tuyên bố, vào tháng 6 năm 2006, một sự hợp tác chiến lược với YouTube. Theo thỏa thuận này, kênh NBC chính thức được cài đặt trên YouTube, trình chiếu đoạn clip quảng bá cho loạt phim The Office. YouTube cũng sẽ quảng bá video NBC trên trang của nó. CBS, công ty cũng yêu cầu YouTube gỡ bỏ một số clip, đã theo gương NBC vào tháng 7 năm 2006. Trong một bài phát biểu nói về sự nhận thức của YouTube (cũng như các trang web tương tự) về truyền thông truyền thống đã thay đổi như thế nào, Sean McManus, chủ tịch CBS News và Sports có nói: Vào tháng 8 năm 2006, YouTube công bố mục tiêu của mình, là trong vòng 18 tháng, sẽ cung cấp mọi video âm nhạc đã từng được làm, trong khi vẫn duy trì sự miễn phí. Warner Music Group và EMI đã xác nhận họ là một trong những công ty đang thỏa thuận để hoàn thành kế hoạch này. Vào tháng 9 năm 2006, Warner Music và YouTube đã ký một thỏa thuận, trong đó nói rằng trang web sẽ được phép lưu trữ bất kỳ video ca nhạc nào của Warner Music với điều kiện chia sẻ một phần thu nhập từ quảng cáo. Hơn nữa, những đoạn video do người dùng tạo nên trên YouTube sẽ được phép sử dụng bài hát của Warner trong nhạc nền của họ. Vào ngày 9 tháng 10 năm 2006, CBS, Universal Music Group, và Sony BMG Music Entertainment đã công bố một thỏa thuận cung cấp nội dung cho YouTube. Vào ngày 29 tháng 1 năm 2007, đồng sáng lập YouTube Chad Hurley đã công bố rằng dịch vụ video trực tuyến sẽ trả tiền cho những thành viên đóng góp tích cực (những người thực chất là chủ sở hữu bản quyền thực sự) một phần lợi nhuận từ quảng cáo của trang web. Tuy nhiên, tại Diễn đàn kinh tế thế giới, Hurley không đề cập đến số tiền cụ thể mà YouTube sẽ trả cho những thành viên đóng góp là bao nhiêu. Sự theo dõi của báo chí Wall Street Journal và New York Times đã bình luận các nội dung đã tải lên YouTube, và tác động của nó đối với giao tiếp và tuyển dụng của công ty vào năm 2006. Tạp chí PC World đưa YouTube vào hàng thứ 9 trong Top 10 sản phẩm tốt nhất năm 2006. Vào năm 2007, cả Sports Illustrated và Dime Magazine đã có những bài bình luận xuất sắc về những đoạn phim hấp dẫn của bóng rổ có tựa đề, The Ultimate Pistol Pete Maravich MIX Do sự mua lại của Google, nó đôi khi còn được nhắc đến với tên "GooTube". Ảnh hưởng các sự kiện trên thế giới Đoạn video Sự ngây thơ của người Hồi giáo (Innoennce of Muslim) trên YouTube năm 2012, được sản xuất riêng ở Hoa Kỳ, được một số người Hồi giáo cho là báng bổ vị tiên tri Muhammad, làm dấy lên những cuộc biểu tình bạo lực chống lại Mỹ, dù video đã bị lên án bởi các quan chức chính phủ Hoa Kỳ. Cuộc biểu tình nhanh chóng lan ra các nước Hồi giáo khác. Một video quay bằng camera điện thoại di động ghi lại cái chết của một sinh viên Iran bị bắn có tên Neda Agha-Soltan trong cuộc biểu tình bầu cử tổng thống Iran năm 2009, video đã nhận được giải George Polk trong ngành báo chí. Video, cũng như cô gái trẻ đã trở thành một biểu tượng của phong trào đối lập Iran. Hội đồng giải thưởng cho biết họ muốn thừa nhận vai trò của người công dân này, đặc biệt là trong các tình huống mà phóng viên không thể hành động. Tòa án các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) năm 2013 đã kết án một năm tù cho 8 người vì tải lên một đoạn phim tài liệu giả mạo trên YouTube về "văn hóa gangsta" của những thanh thiếu niên UAE, trong video miêu tả những thanh thiếu niên quốc gia này là người sống ôn hòa. Chính phủ cho biết 8 người trên đã phỉ báng hình ảnh của xã hội UAE tại nước ngoài. Các tổ chức tuyên truyền từ Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant (còn được gọi là IS, Daesh hoặc ISIS) đã công khai các video tuyên truyền khủng bố trên YouTube, khiến các cơ quan thực thi pháp luật phải hợp tác chặt chẽ với những công ty truyền thông để có biện pháp đối phó, họ nhanh chóng xóa nội dung này và chấm dứt tài khoản người dùng. Một số cơ quan chính phủ đã ưu tiên báo cáo nội dung mang tính nguy hiểm hoặc bất hợp pháp trên YouTube. Tiếp cận một lượng khán giả lớn YouTube được sử dụng để tăng lượng khán giả, bởi các nghệ sĩ chưa mấy nổi bật và bởi các công ty lớn. Sự phát triển của YouTube như một nền tảng cho các cá nhân và công ty. Tháng 6 năm 2006, các công ty trong ngành công nghiệp âm nhạc và Hollywood đã bắt đầu thiết lập mối quan hệ kinh doanh chính thức với YouTube. YouTube đã hình thành mối quan hệ đối tác đầu tiên với NBC, để quảng bá cho dòng sản phẩm truyền hình vào mùa thu. Vào tháng 10 năm 2006, Google trả 1,65 tỷ đô la để mua lại YouTube với 67 nhân viên hiện tại trong công ty, với mong muốn tìm kiếm một nền tảng mà khán giả và nhà quảng cáo sẽ chuyển từ truyền hình sang Internet. Google thiết lập YouTube hướng đến doanh nghiệp nhiều hơn, khi họ bắt đầu phủ các biểu ngữ quảng cáo lên video vào tháng 8 năm 2007. Các nghệ sĩ độc lập đã xây dựng được số lượng người theo dõi lên tới hàng ngàn với chi phí hoặc công sức rất ít, họ phải bán lẻ và quảng bá sản phẩm của mình trên đài phát thanh. Đầu năm 2006, YouTube đã thuyết phục được bốn nhãn hiệu âm nhạc lớn, những nhãn hiệu này ban đầu đã cảnh giác với YouTube vì số lượng lớn tài liệu có bản quyền của họ khi họ hợp tác cùng trang web, tuy nhiên công ty đã thuyết phục với các nhãn hiệu rằng YouTube có thể giúp họ kiếm được nhiều tiền hơn bằng cách giúp họ với kết nối lượng khán giả Internet đang ngày càng tăng. Vào năm 2009, YouTube và Vivendi hợp tác cùng nhau để xây dựng nên dịch vụ video âm nhạc Vevo trên trang web. Chương trình đối tác của YouTube ra mắt vào năm 2007, tính đến đầu năm 2012 đã có tới hơn 30.000 đối tác, 500 đối tác hàng đầu cho biết họ kiếm được hơn 100.000 đô la mỗi năm. Có một bản báo cáo cho thấy vào cuối tháng 6 năm 2015, 10 kênh YouTube có thu nhập cao nhất đã thu từ 2,5 triệu - 12 triệu đô la, vào đầu tháng 6 năm 2017, mười người có doanh thu cao nhất đã thu được 127 triệu đô la. Kinh tế của YouTube Trước khi được bán cho Google, YouTube đã công khai mô hình kinh doanh là dựa trên quảng cáo, lợi nhuận 15 triệu đô la một năm. Một vài nhà bình luận công nghiệp suy đoán rằng chi phí hoạt động của YouTube – đặc biệt là chi phí cho băng thông – có thể lên tới 5 đến 6 triệu USD mỗi tháng, do đó đã có những lời chỉ trích rằng công ty, giống như nhiều công ty Internet mới khởi nghiệp, không có một mô hình kinh doanh được thực hiện hiệu quả. Trang web bắt đầu quảng cáo vào tháng 3 năm 2006. Vào tháng 4, YouTube bắt đầu sử dụng Google AdSense. Trang web sau đó ngừng sử dụng AdSense, tại một số khu vực địa phương còn sử dụng. Quốc tế hóa Vào ngày 19 tháng 6 năm 2007, CEO Google là Eric Schmidt đã du lịch đến Paris để ra mắt một hệ thống địa phương hóa mới. Toàn bộ giao diện của trang web hiện đã có những phiên bản địa phương hóa ở 102 quốc gia, một vùng lãnh thổ (Hồng Kông) và toàn thế giới: Google nhắm đến việc cạnh tranh với những trang web chia sẻ video địa phương như Dailymotion ở Pháp. Nó cũng thỏa thuận với những kênh truyền hình địa phương như M6 và France Télévisions để phát sóng nội dung của họ một cách hợp pháp. Việc thay đổi quốc gia sẽ không thay đổi ngôn ngữ của YouTube. Vào ngày 17 tháng 10 năm 2007, công ty tuyên bố rằng phiên bản Hồng Kông đã được ra mắt. Steve Chen của YouTube nói rằng mục tiêu tiếp theo sẽ là Đài Loan. YouTube bị chặn tại Trung Quốc đại lục từ ngày 18 tháng 10 do sự kiểm duyệt cờ Đài Loan. URL đến YouTube được chuyển hướng đến trang tìm kiếm Baidu của Trung Quốc. YouTube được mở khóa trở lại vào 31 tháng 10. Tranh cãi Chặn các tài khoản Vào 27 tháng 11 năm 2007, YouTube chặn tài khoản của Wael Abbas, một nhà hoạt động nhân quyền người Ai Cập, đã đăng tải các video ghi hình cảnh sát tàn bạo và các cuộc biểu tình chống chính phủ dưới chế độ Mubarak, mà dịch vụ cho là chứa "nội dung không phù hợp". Theo Reuters, Abbas tải lên ít nhất 100 bức ảnh lên YouTube, 12 hoặc 13 trong số đó chứa cảnh bạo lực trong đồn cảnh sát. Ba ngày sau, tài khoản cùng với 187 video của ông được phục hồi. Vào ngày 31 tháng 12 năm 2017, diễn viên hài người Mỹ Logan Paul đăng tải một video anh cùng bạn bè du lịch đến Nhật Bản. Khi vào khu rừng Aokigahara dưới chân núi Phú Sĩ, Paul tình cờ ghi hình xác chết của một người đàn ông treo cổ tự tử. Paul cùng nhóm bạn báo cho cơ quan chức năng giải quyết và hủy kế hoạch của chuyến đi. Video thu hút hơn 6,3 triệu lượt xem trong vòng 24 giờ. Logan Paul bị chỉ trích vì có thái độ vô cảm với nạn nhân, khiến anh phải xóa video và lên tiếng xin lỗi, cho rằng mình không có ý phỉ báng nạn nhân. Ngày 11 tháng 1 năm 2018, YouTube thông báo loại bỏ Logan Paul khỏi chương trình quảng cáo Google Preferred của công ty, và đến ngày 9 tháng 2, trang web chặn các quảng cáo trên kênh của anh suốt 18 ngày vì các hành động trước đây. Tháng 2 năm 2018, kênh chính thức của chính phủ Pakistan bị gỡ xuống do vi phạm bản quyền, chính phủ đã lấy một đoạn phim từ vlogger tên Irfan Junejo mà không xin phép anh trước. Kênh của chính phủ trở lại sau đó. Những sự việc tương tự như vào tháng 7 năm 2018, YouTube chấm dứt kênh của Alex Jones, một người dẫn chương trình radio, trong 90 ngày vì có phát ngôn thù hận, và cùng tháng, kênh FamilyOfFive bị gỡ xuống vĩnh viễn do chứa nội dung gây nguy hiểm cho trẻ em trong video của mình. Vào tháng 6 năm 2019, kênh của bình luận viên Steven Crowder bị chặn quảng cáo và tắt kiếm tiền vì gây tổn thương cho một cộng đồng sau khi có những từ ngữ phê bình xúc phạm, dù vậy YouTube vẫn cho rằng Crowder không vi phạm chính sách của công ty. Vấn đề bản quyền Vào ngày 24 tháng 5 năm 2016, Matt Hosseinzadeh, có biệt danh "Bold Guy" và sở hữu kênh YouTube MattHossZone, đã đệ đơn kiện Ethan và Hila Klein từ kênh YouTube h3h3Productions vì đã chỉ trích nội dung của ông trong một video châm biếm. Luật sư của Hosseinzadeh cho biết khoảng 70% nội dung của ông được họ đưa vào video. Người dùng Philip DeFranco đã gây quỹ trên GoFundMe với chiến dịch mang tên "Trợ giúp cho H3H3" nhằm bảo vệ quyền sử dụng hợp lý trên YouTube, tổng quyên góp thu được 170.000 đô la. Tháng sau, nhà Klein thông báo qua một video bất kỳ khoản tiền nào còn sót từ vụ kiện sẽ được giao vào tài khoản ký quỹ "Tài khoản bảo vệ quyền sử dụng hợp lý" (FUPA), nhằm cho những người dùng khác cần hỗ trợ trong trường hợp họ bị kiện do vi phạm bản quyền. Vào ngày 30 tháng 1 năm 2019, ObbyRaidz, một kênh với hơn 6.000 người đăng ký, đã tweet trên Twitter rằng ai đó tên VengefulFlame gửi một tin nhắn cho biết kênh của anh đã nhận hai cảnh cáo vi phạm bản quyền (copyright strike), nhưng thực tế anh không vi phạm gì, người này đe dọa anh giao nộp 150 đô la hoặc không tài khoản của ObbyRaidz sẽ nhận cảnh cáo thứ ba và mất kênh. VengefulFlame đồng thời nhắn tin cho anh về đoạn tweet: Kenzo, một kênh với 60.000 người đăng ký, cho biết đã nhận tin nhắn tương tự từ VengefulFlame, người này đe dọa anh trả 400 hoặc 600 đô la giá bitcoin. Nhận được thông tin từ hai sự việc, YouTube vào cuộc giải quyết cảnh cáo và chấm dứt kênh của VengefulFlame. Kiểm duyệt Dù vị trí hoạt động của YouTube đặt ở toàn cầu nhưng trang web bị chặn ở một số quốc gia do lệnh kiểm duyệt. Ở các quốc gia khác, YouTube có thể truy cập được nhưng một số video bị chặn. Các doanh nghiệp, trường học, cơ quan chính phủ và các tổ chức tư nhân khác thường chặn các trang mạng xã hội như YouTube vì những lí do, như giới hạn băng thông hoặc việc trang web dễ gây mất tập trung. Armenia Sau cuộc bầu cử tổng thống gây tranh cãi vào tháng 2 năm 2008, chính phủ Armenia đã chặn quyền truy cập YouTube của người dùng Internet trong một tháng vì lý do phe đối lập Armenia đã sử dụng trang web này để công khai video về sự tàn bạo của cảnh sát đối với những người biểu tình chống chính phủ. Bangladesh Vào tháng 3 năm 2009, YouTube đã bị chặn ở Bangladesh sau khi đoạn ghi âm cuộc họp giữa thủ tướng và sĩ quan quân đội được đăng tải lên, đoạn ghi âm ghi lại sự tức giận của quân đội về cách chính phủ xử lý một cuộc nổi loạn của lính biên phòng ở thủ đô Dhaka. Lệnh cấm được dỡ bỏ vào 21 tháng 3. YouTube lần nữa bị chặn tại quốc gia này vào 12 tháng 9 năm 2012, khi có những vụ tranh cãi xảy ra về các video liên quan đến đoạn phim ngắn Sự ngây thơ của người Hồi giáo, với nội dung chống người Hồi giáo. Lệnh cấm được dỡ bỏ vào 5 tháng 6 năm 2013. Brasil Vào tháng 1 năm 2007, YouTube bị kiện bởi người mẫu Brasil Daniella Cicarelli và bạn trai cô, khi trang web lưu trữ một đoạn video ghi lại cảnh trong đó cô và bạn trai đang quan hệ tình dục trên một bãi biển tại Tây Ban Nha. Vụ kiện yêu cầu YouTube bị chặn ở Brasil cho đến khi tất cả các video liên quan đều bị xóa. Vào ngày 6 tháng 1 năm 2007, một lệnh cấm hợp pháp đã áp dụng các bộ lọc để ngăn người dùng ở Brasil truy cập vào YouTube. Đoạn video không chỉ có sẵn trên YouTube mà còn trên các trang web khác. Vào thứ ba, ngày 9 tháng 1 năm 2007, một tòa án đã gỡ bỏ các bộ lọc. Các video vẫn bị chặn và bị xóa khỏi trang web. Vào tháng 6 năm 2007, một thẩm phán đã ra án cho Cicarelli và bạn trai cô phải trả các chi phí tòa án và luật sư, cũng như 10.000 BRL (khoảng 3,203 USD) cho ba bị cáo, YouTube, Globo và iG, với lý do không thiện chí trong việc loại bỏ sự riêng tư khi hành động ở nơi công cộng. Hiện tại lệnh cấm đã gỡ bỏ vào tháng 7 năm 2007 Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống Nhất Cơ quan quản lý viễn thông (TRA) của Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất đã chặn YouTube từ tháng 8 năm 2006 vì lo ngại lượng nội dung về "người lớn" ngày càng tăng. Theo TRA, YouTube đã không phân loại và tách nội dung khiêu dâm người lớn ra khỏi nội dung thông thường. Lệnh cấm được gỡ bỏ vào tháng 10. Đức YouTube bị chặn từ năm 2009 đến năm 2016 Việc chặn video thuộc YouTube ở Đức là một phần của tranh chấp trên cơ sở bản quyền giữa YouTube và Gesellschaft für musikalische Aufführungs- und machische Vervielfältigungsrechte (GEMA), một tổ chức quyền âm nhạc ở Đức. Theo một tòa án Đức tại Hamburg, công ty con YouTube của Google có thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi lưu trữ video có bản quyền mà không có sự cho phép của chủ sở hữu. Do đó, các video âm nhạc cho các nghệ sĩ lớn trên YouTube, cũng như nhiều video có chứa nhạc nền, đã không có sẵn ở Đức kể từ cuối tháng 3 năm 2009, sau khi thỏa thuận trước đó đã hết hạn. Vào ngày 31 tháng 10 năm 2016, YouTube và GEMA đã đạt thỏa thuận về tiền bản quyền, kết thúc 7 năm chặn quyền truy cập vào các video âm nhạc ở Đức. Một nghiên cứu từ trang lưu trữ video của Đức, MyVideo, ước tính rằng 61,5% trong số 1000 video được xem nhiều nhất YouTube bị chặn ở Đức. Con số này cao hơn đáng kể so với, ví dụ, Hoa Kỳ (0,9%) hoặc ở Thụy Sĩ (1,2%). Một nghiên cứu khác cho thấy khoảng 3% trong số các video trên YouTube và 10% trong các video đó có hơn một triệu lượt xem, đều bị chặn ở Đức. Nghị quyết của Nghị viện đang chờ xử lý năm 2019 Điều 13 trong Chỉ thị về bản quyền hiện là mối lo ngại của những nhà sáng tạo nội dụng và có khả năng kiểm duyệt, bắt buộc đối với các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu trong vòng hai năm nếu được thông qua. Indonesia Vào ngày 1 tháng 4 năm 2008, Bộ trưởng Thông tin Indonesia Muhammad Nuh đã yêu cầu YouTube loại bỏ Fitna, một đoạn phim ngắn gây tranh cãi của chính trị gia cánh hữu người Hà Lan Geert Wilders. Chính phủ cho hai ngày để công ty xóa video hoặc YouTube sẽ bị chặn ở nước này. Vào ngày 4 tháng 4, YouTube không hề xóa video, Nuh đã yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) chặn quyền truy cập vào YouTube. Vào ngày 5 tháng 4, YouTube đã bị chặn khoảng thời gian ngắn bởi một ISP để thử nghiệm. Vào ngày 8 tháng 4, YouTube, cùng với MySpace, Metacafe, RapidShare, Multiply, LiveLeak và trang web của đoạn phim Fitna, đã bị chặn ở Indonesia trên các ISP. Việc chặn được gỡ bỏ vào ngày 10 tháng 4. Iran YouTube cùng với một số trang web khác bị chặn tại Iran vào ngày 3 tháng 6 năm 2006, sau khi cho rằng các trang này đã vi phạm các quy tắc ứng xử xã hội và đạo đức. YouTube bị chặn sau khi có một video quay lại cảnh một ngôi sao opera Iran đang quan hệ tình dục. Việc chặn được gỡ bỏ sau cuộc bầu cử tổng thống Iran năm 2009, nhưng vào năm 2012, YouTube lần nữa bị chặn sau khi đoạn trailer của bộ phim Sự ngây thơ của người Hồi giáo được đăng tải lên. Iran gỡ bỏ việc chặn YouTube cho các trường học vào tháng 8 năm 2017 vì nhu cầu học tập. Libya Vào ngày 24 tháng 1 năm 2010, Libya đã chặn YouTube vì những video về các cuộc biểu tình của gia đình những người bị giết trong nhà tù Abu Salim năm 1996 tại thành phố Benghazi. Việc chặn sau đó bị Tổ chức Theo dõi Nhân quyền lên án. Vào tháng 11 năm 2011, YouTube được mở khóa trở lại sau nội chiến Libya. Malaysia Vào tháng 5 năm 2013, YouTube bị chặn vì các video chỉ trích chính phủ Malaysia mặc dù chính phủ đã hứa rằng sẽ không kiểm duyệt Internet. Nga Video chịu trách nhiệm về vụ đánh bom ga điện ngầm Moscow năm 2010, đã nhanh chóng đạt được 800.000 lượt xem sau bốn ngày, nhưng đồng thời bị xóa, tất cả các video của Dokka Khamatovich Umarov cũng bị xóa tương tự. Hơn 300 video của trang web Kavkaz Center được Nga yêu cầu YouTube xóa vì có "nội dung không phù hợp". Nga bị chỉ trích vì gây áp lực lên YouTube để chấm dứt hàng trăm video. Ngày 29 tháng 7 năm 2010, một tòa án tại thành phố Komsomolsk-na-Amure đã yêu cầu các ISP địa phương chặn quyền truy cập vào youtube.com, web.archive.org và các trang web cho phép tải sách miễn phí, vì chúng được cho là chứa tài liệu cực đoan. Tuy nhiên, yêu cầu này bị loại bỏ và không được thực hiện. Pakistan Vào tháng 2 năm 2008, Cơ quan Viễn thông Pakistan (PTA) đã chặn quyền truy cập YouTube trên mọi ISP của Pakistan, lý do là vì trang web chứa hàng loạt video về đoạn phim báng bổ Hồi giáo của chính trị gia người Hà Lan Geert Wilders. Tuy nhiên, PTA đã vô tình chặn quyền truy cập vào YouTube trên toàn thế giới suốt hai giờ vào ngày 25 tháng 2 năm 2008. Việc chặn được gỡ vào ngày 27 tháng 2 năm 2008 cùng với đó là các video phỉ báng đã bị xóa. Vào ngày 20 tháng 5 năm 2010, là ngày "Everybody Draw Mohammed Day" (Ngày mọi người vẽ Mohammed), Pakistan một lần nữa chặn trang web vì những bức tranh báng bổ nhà tiên tri Mohammed. Lệnh cấm đã được dỡ bỏ vào ngày 27 tháng 5 năm 2010, sau khi YouTube đã xóa chúng theo yêu cầu của chính phủ. Các video riêng lẻ được coi là xúc phạm người Hồi giáo được đăng tải lên vẫn tiếp tục bị chặn. Vào tháng 9 năm 2012, PTA chặn YouTube lần nữa vì trang web không xóa đoạn phim có nội dung chống Hồi giáo Sự ngây thơ của người Hồi giáo được sản xuất tại Hoa Kỳ. YouTube tiếp tục bị chặn cho đến khi nào bộ phim được gỡ bỏ. Ngày 25 tháng 7 năm 2013, chính phủ thông báo họ sẽ xem xét lại việc mở khóa YouTube vào tuần hai của tháng 8. Một ủy ban gồm 12 thành viên đã hành động dưới hiệu lệnh của Bộ trưởng Bộ Công nghệ Thông tin và Viễn thông tại Pakistan, Anusha Rahman, để dò sát và gỡ bỏ những nội dung phản cảm. Cơ quan Viễn thông Pakistan (PTA) đã bất lực trong việc lọc nội dung này. Vào ngày 11 tháng 12, PTA đã thuyết phục được ban quản lý Google cung cấp phiên bản địa phương với tên miền "youtube.com.pk" cho Pakistan, chính quyền địa phương sẽ dễ dàng xóa nội dung phản cảm từ phiên bản địa phương hơn so với phiên bản quốc tế của YouTube. Tuy nhiên, phiên bản này chỉ được cung cấp sau khi chính phủ Pakistan đáp ứng một số yêu cầu. Vào ngày 21 tháng 4 năm 2014, Ủy ban Thường vụ về Nhân quyền của Thượng viện Pakistan đã yêu cầu chính phủ liên bang gỡ bỏ lệnh cấm đối với YouTube. Ngày 6 tháng 5 năm 2014, Quốc hội Pakistan đã nhất trí thông qua một nghị quyết để dỡ bỏ lệnh cấm YouTube, nó bắt đầu có hiệu lực từ ngày 2 tháng 8. Vào ngày 8 tháng 2 năm 2015, chính phủ thông báo YouTube vẫn sẽ bị chặn "vô thời hạn" vì họ không thể tìm ra một công cụ hay giải pháp nào để chặn toàn bộ nội dung gây phản cảm. Vào tháng 6, đúng 1.000 ngày YouTube bị chặn kể từ tháng 9 năm 2012, lệnh cấm vẫn có hiệu lực. Lệnh cấm được dỡ bỏ do lỗi trục trặc kỹ thuật vào ngày 6 tháng 12 năm 2015, theo các ISP. Vào 18 tháng 1 năm 2016, lệnh cấm chính thức đã được gỡ bỏ, YouTube ra mắt một phiên bản địa phương cho trang web tại Pakistan. Phần Lan Vào ngày 30 tháng 11 năm 2017, các video có chứa âm nhạc Phần Lan trên YouTube đều bị chặn bởi một tổ chức quyền âm nhạc phi lợi nhuận tên "Teosto" tại quốc gia này. Theo Teosto, Google đã chặn các video của họ vì Teosto không có thỏa thuận hiển thị video âm nhạc ở Phần Lan. Họ và Google đã thỏa thuận tạm thời để hiển thị các video này vào sáng cùng ngày. Các video âm nhạc quay trở lại YouTube Phần Lan vào ngày hôm sau. Tajikistan Vào tháng 7 năm 2012, chính quyền Tajikistan đã chặn YouTube để đáp trả các video được tải lên cho thấy các cuộc biểu tình phản đối các cuộc đụng độ của các chiến binh. Tám ngày sau, lệnh cấm được dỡ bỏ . Cùng năm đó, chính phủ Tajikistan lại chặn trang web, lần này vì các video mô tả tổng thống Emomali Rakhmon được cho là xúc phạm chính phủ. Năm 2013, Tajikistan đã chặn YouTube lần thứ ba vì một video mô tả Tổng thống Rakhmon nhảy múa và hát lạc điệu trong tiệc cưới của con trai ông vào năm 2007. Vào ngày 9 tháng 6 năm 2014, YouTube không thể truy cập được trong một thời gian ngắn vì một lý do không xác định. Beg Zuhurov, Giám đốc Cơ quan Truyền thông quốc gia của Tajikistan, tuyên bố rằng điều này là do "sự cố kỹ thuật". Vào ngày 25 tháng 8 năm 2015, YouTube một lần nữa bị một số ISP chặn theo lệnh của Cơ quan Truyền thông quốc gia của Tajikistan. Lệnh chặn đã được dỡ bỏ vào giữa năm 2017. Vào ngày 23 tháng 5 năm 2019, sau khi Tổng thống Tajikistan chỉ trích internet là "tiếp tay cho chủ nghĩa khủng bố", chính quyền Tajikistan đã mở rộng lệnh chặn tất cả các tài nguyên của Google (bao gồm cả YouTube). Tuy nhiên, lệnh cấm sau đó đã được dỡ bỏ. Thái Lan Năm 2006, Thái Lan đã chặn quyền truy cập vào YouTube đối với người dùng có địa chỉ IP của Thái. Chính quyền Thái xác nhận có hơn 20 video gây khó chịu và yêu cầu Google xóa chúng trước khi YouTube bị chặn tại quốc gia này. Ngày 8 tháng 3 năm 2007, YouTube bị chặn. Mặc dù không có lời giải thích phù hợp cho việc này, nhiều blogger tin rằng lý do vì có một đoạn video của CNN ghi lại bài phát biểu của cựu Thủ tướng Thaksin Shinawatra. YouTube được bỏ chặn vào ngày 10 tháng 3. Đêm ngày 3 tháng 4 năm 2007, YouTube tiếp tục bị chặn. Chính phủ cho rằng có một video nhục mạ vị vua đại đế Thái Bhumibol Adulyadej. Bộ Thông tin và Công nghệ Truyền thông của Thái cho biết họ sẽ bỏ chặn YouTube trong vài ngày, cho đến khi những trang web chứa video này bị chặn hoàn toàn. Bộ trưởng Truyền thông Sitthichai Pokai-udom nói: "Khi họ quyết định xóa video, chúng tôi sẽ rút lệnh cấm". YouTube được bỏ chặn vào ngày 30 tháng 8 năm 2007, sau khi công ty đồng ý xóa các video được chính quyền Thái Lan xét là xúc phạm. Thổ Nhĩ Kỳ YouTube từng bị chặn nhiều lần tại Thổ Nhĩ Kỳ, dù vậy trang web có thể truy cập bằng cách sửa đổi tham số kết nối để sử dụng các máy chủ DNS. Ngoài ra, YouTube là trang web phổ biến thứ tám tại quốc gia này theo Alexa. Một tòa án tại thành phố Istanbul đã ra lệnh chặn quyền truy cập vào YouTube. Điều này do Türk Telekom, một công ty viễn thông, chặn trang web theo một quyết định của tòa án ban hành vào ngày 6 tháng 3 năm 2007. YouTube từng bị kiện vì xúc phạm tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, quyền truy cập vào trang web tạm khóa đến khi các video chứa nội dung này bị xóa. Ban luật sư phía YouTube đã gửi bằng chứng xóa video cho công tố viên tòa án, quyền truy cập sau đó được khôi phục vào ngày 9 tháng 3 năm 2007. Tòa án khác tại thủ đô Ankara, Thổ Nhĩ Kỳ đã ra lệnh chặn sử dụng YouTube từ 5 tháng 5 năm 2008 cho tới 30 tháng 10 năm 2010. Lý do là nó chứa hàng chục video bị cho là nhục mạ người thành lập ra nước Thổ Nhĩ Kỳ tân tiến Mustafa Kemal Atatürk. Ngày 1 tháng 12 năm 2015, Tòa án Nhân quyền châu Âu (EGMR) ở Straßburg, theo đơn kiện của 3 luật gia Thổ, đã phán là, quyết định này đã vi phạm quyền tiếp nhận và loan truyền thông tin. Theo quan điểm của EGMR Ankara, YouTube đã vi phạm công ước về Quyền được thông tin, qua mặt luật pháp Thổ. Vào tháng 6 năm 2010, Tổng thống của Thổ, Abdullah Gül, đã không tán thành trên Twitter của ông về việc chặn YouTube, bởi quyền chặn YouTube cũng gây khó khăn khi truy cập vào dịch vụ khác của Google. Gül cho biết ông đã chỉ đạo các quan chức tìm cách phù hợp cho phép truy cập. Thổ Nhĩ Kỳ đã dỡ bỏ lệnh cấm vào ngày 30 tháng 10 năm 2010. Vào tháng 11, một video gây tranh cãi bao gồm chính trị gia Thổ Nhĩ KìDeniz Baykal trong đó đã khiến trang web bị chặn lần nữa. Vào ngày 6 tháng 4 năm 2015, YouTube tiếp tục bị chặn một thời gian ngắn sau khi gỡ lệnh cấm, cùng với Facebook và Twitter, do sự xuất hiện của đoạn phim cho thấy một công tố viên bị giết trong cuộc khủng hoảng con tin. Vào ngày 23 tháng 12 năm 2016, YouTube lần nữa không thể truy cập, theo các báo cáo của nhóm giám sát internet Turkey Blocks, có một đoạn phim trong đó các binh sĩ Thổ Nhĩ Kỳ bị thiêu sống. Trang web được mở khóa trở lại vào hai ngày sau. Triều Tiên YouTube bị chặn tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên vì luật pháp của đất nước về việc kiểm duyệt Internet. Trang web bị chặn hoàn toàn kể từ tháng 4 năm 2016 và chính phủ Triều Tiên cảnh báo rằng bất cứ ai cố gắng truy cập vào YouTube sẽ phải chịu phạt. Trung Quốc YouTube lần đầu bị chặn tại Trung Quốc suốt năm tháng từ ngày 16 tháng 10 năm 2007 đến 22 tháng 3 năm 2008. Trang web bị chặn lần nữa vào 24 tháng 3, dù Bộ Ngoại giao không xác nhận liệu YouTube có thực sự bị chặn. YouTube không thể truy cập từ Trung Quốc, nhưng có thể truy cập từ Hồng Kông, Ma Cao và Đài Loan. Trang web vẫn có thể truy cập từ khu công nghiệp Shanghai Free Trade Zone và một số khách sạn khác. Kể từ năm 2018, nếu cụm từ "YouTube" được tìm kiếm trên Baidu, một dòng nhắn "Theo quy định và chính sách của địa phương, một số kết quả không thể hiển thị" sẽ xuất hiện. Mặc dù YouTube bị chặn dưới Phòng hỏa trường thành, nhiều phương tiện truyền thông Trung Quốc như CCTV, CGTN có tài khoản YouTube chính thức. Alexa xếp hạng YouTube là trang web được truy cập nhiều thứ 11 tại quốc gia này. Logo Ghi chú
Nam Tiến có thể là một trong số các địa danh sau đây: Phường Nam Tiến, thành phố Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên Xã Nam Tiến, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội Xã Nam Tiến, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định Xã Nam Tiến, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa
Adele Bloch-Bauer I là tên bức tranh kiệt tác của họa sĩ Gustav Klimt, một họa sĩ theo trường phái biểu hiện, được vẽ năm 1907, miêu tả chân dung bà quý tộc Adele Bloch-Bauer. Theo các báo cáo thì vào tháng 6 năm 2006, bức tranh đã được bán cho Ronald Lauder với giá kỉ lục 135 triệu USD cho Neue Galerie của ông tại New York. Đây là bức tranh có giá cao nhất vào thời điểm đó và bắt đầu được trưng bày tại phòng tranh từ tháng 7 năm 2006. Klimt cũng vẽ Adele Bloch-Bauer một lần nữa trong bức tranh Adele Bloch-Bauer II.
Dữ liệu nửa cấu trúc (tiếng Anh: Semi-structured data) là loại dữ liệu tự mô tả và không có giản đồ (schema), nghĩa là không có mô tả riêng biệt về kiểu và cấu trúc của dữ liệu. Thay vào đó, trong dữ liệu nửa cấu trúc, ta trực tiếp mô tả dữ liệu bằng cách sử dụng một loại cú pháp đơn giản. Ví dụ, dưới đây là dữ liệu về ba người. {người: {tên: "An", điện_thoại: 1234567, email: "[email protected]"}. người: {tên: {tên_riêng: "Bình", tên_họ: "Lê"}, điện thoại: 37654321, email: "[email protected]" }. người: {tên: "Cường", điện_thoại: 1726354, chiều_cao: 170}. } Ví dụ trên tương đương với cấu trúc đồ thị (cây) sau: Lưu ý rằng các bộ dữ liệu (tuple) người không bắt buộc phải thuộc cùng một kiểu. Một trong những thế mạnh của dữ liệu nửa cấu trúc là khả năng đáp ứng các đa dạng về cấu trúc. Mặc dù hoàn toàn có thể xây dựng và truy vấn các đồ thị hoàn toàn ngẫu nhiên, ta thường làm việc với các cấu trúc "gần với" một kiểu nào đó. Các khác biệt nhỏ so với "kiểu dữ liệu" đó thường bao gồm thiếu dữ liệu, lặp trường dữ liệu, hoặc các thay đổi nhỏ trong biểu diễn dữ liệu như trong ví dụ trên.
là một loạt manga Nhật Bản được viết và minh họa bởi Kishimoto Masashi. Manga được đăng lần đầu trên tạp chí Weekly Shonen Jump từ tháng 9 năm 1999 đến tháng 11 năm 2014, và sau đó được Shueisha phát hành thành 72 tập tankōbon. Câu chuyện xoay quanh Uzumaki Naruto, một ninja trẻ muốn tìm cách khẳng định mình để được mọi người công nhận và nuôi ước mơ trở thành Hokage - người lãnh đạo Làng Lá. Cốt truyện được chia làm hai phần – phần đầu lấy bối cảnh vài năm trước tuổi thiếu niên (Naruto Dattebayo) và phần thứ hai là ở tuổi thiếu niên của Naruto (Naruto Shippuden). Series dựa trên hai Yomikiri của Kishimoto: Karakuri (1995), đã giúp Kishimoto đạt danh hiệu Hop Step Award hàng tháng của Shueisha ở những năm tiếp theo, và Naruto (1997). Naruto được đăng tải trên Weekly Shōnen Jump, tạp chí của Shueisha từ năm 1999 đến 2014, và được đóng gói dưới dạng tankōbon với 72 tập. Manga được chuyển thể thành một chuỗi anime do Pierrot và Aniplex đồng sản xuất, có tổng cộng 220 tập phát sóng tại Nhật Bản từ 2002 đến 2007; chuyển thể tiếng Anh của series được phát sóng trên Cartoon Network và YTV từ 2005 đến 2009 còn phiên bản lồng tiếng Việt của series được phát sóng trên HTV3 từ 2014 đến 2016 và POPS Worldwide phát hành trên nền tảng kỹ thuật số với bản lồng tiếng Việt mới từ tháng 12 năm 2020. Phần tiếp theo của truyện, Naruto: Shippuden, bắt đầu ra mắt tại Nhật Bản từ 2007 và kết thúc vào năm 2017 với tổng số tập phim là 500 tập. Chuyển thể tiếng Anh được phát sóng trên Disney XD từ 2009 đến 2011 với 98 tập đầu, và sau đó được chuyển đến khung giờ Toonami của kênh Adult Swim vào tháng 1 năm 2014, bắt đầu từ tập một. Chuyển thể tiếng Anh vẫn tiếp tục phát sóng hàng tuần trên Adult Swim. Phiên bản lồng tiếng Việt của Naruto được phát sóng trên HTV3 trong năm 2016 và 2017 với 196 tập đầu. Bên cạnh các series anime, Pierrot đồng thời phát triển mười một phim điện ảnh và mười hai OVA. Các nhượng quyền thương hiệu khác liên quan đến Naruto bao gồm light novel, trò chơi video và trading card được phát triển bởi những công ty khác nhau. Viz Media cấp phép sản xuất manga và anime tại Bắc Mỹ và đăng tải Naruto trên tạp chí Weekly Shonen Jump kỹ thuật số của họ. Bộ anime bắt đầu phát sóng tại Hoa Kỳ và Canada từ 2005 còn tại Anh Quốc và Australia tương ứng vào 2006 và 2007. Các phim điện ảnh và hầu hết các OVA từ xê-ri đều được phát hành bởi Viz,với phần phim đầu tiên được trình chiếu rạp. Viz Media bắt đầu stream hai phần anime trên dịch vụ streaming của họ Neon Alley vào tháng 12 năm 2012. Chuyện của Naruto vẫn tiếp tục cho đến đời con của Naruto, Uzumaki Boruto, trong Boruto: Naruto Next Generations: Boruto ước nguyện đi theo theo con đường ninja riêng chính mình thay vì dựa dẫm vào cha mình. Naruto nằm ở vị trí thứ tư trong danh sách manga bán chạy nhất, bán được 250 triệu bản trên toàn thế giới, với 153 triệu bản được bán ra chỉ tính riêng ở Nhật Bản và 97 triệu bản còn lại là ở những nơi khác. Tác phẩm trở thành một trong những seri manga bán chạy của của Viz Media; các bản dịch tiếng Anh của tập truyện nhiều lần xuất hiện trong danh sách bán chạy nhất của USA Today và The New York Times, và tập thứ bảy giành được giải Quill Award vào năm 2006. Được các nhà phê bình đánh giá tích cực về sự phát triển nhân vật của manga, cốt truyện mạnh mẽ, các cảnh chiến đấu được thực hiện khá tốt, mặc dù các cảnh đánh nhau làm chậm nhịp câu chuyện. Giới chuyên môn còn nhấn mạnh rằng manga, mang chủ đề tuổi thành niên, sử dụng các tham chiếu văn hóa từ thần thoại Nhật Bản và Nho giáo. Nội dung Truyện lấy bối cảnh bắt nguồn từ sự việc xảy ra vào mười hai năm trước, con Hồ Ly Chín Đuôi (Kyuubi-Kurama) đã tấn công . Với lượng sức mạnh khổng lồ, nó có thể dễ dàng khiến sóng thần nổi dậy và san bằng núi non chỉ với một trong số chín cái đuôi, nó đã gây ra sự hỗn loạn tột cùng và giết chết nhiều người, cho tới khi người lãnh đạo của làng Lá – ngài Hokage Đệ Tứ (Namikaze Minato) đã hi sinh để phong ấn con quái thú vào cơ thể con trai mình - Naruto khi cậu chỉ vừa mới được sinh ra, bằng cấm thuật: Kin Jutsu Ogi! "Shiki Fuin" (Thi Quỷ Phong Tận - một thuật cấm phải đánh đổi bằng tính mạng). Hokage Đệ Tứ, người được vinh danh vì đã phong ấn con yêu hồ, khi nhắm mắt xuôi tay đã mong muốn Naruto được người dân tôn trọng khi có thân xác là nơi chứa đựng con quái vật. Dù vậy, Naruto trải qua thời thơ ấu không mấy êm đềm khi người dân làng Lá không ngừng xa lánh và bộc lộ sự sợ hãi cũng như tức giận dành cho cậu, đối xử với Naruto như thể cậu chính là con yêu hồ, là mối đe dọa tiềm tàng dành cho làng Lá. Một quy định đã được đặt ra bởi Hokage Đệ Tam nhằm ngăn cấm mọi người không được bàn luận hay đề cập đến vụ tấn công của con yêu hồ với bất kì ai, thậm chí là với con cái của mình. Dù vậy, điều này cũng không thể ngăn cản họ khỏi việc coi cậu như một kẻ ngoài lề. Cậu đã lớn lên mồ côi mà không có gia đình, bạn bè, hay bất kì sự thừa nhận nào. Vì không thể ép buộc mọi người làm bạn và quan tâm đến cậu, vậy nên cậu mới phải tìm cách gây sự chú ý và mong muốn được công nhận bằng các trò phá phách và nghịch ngợm. Tuy nhiên, mọi chuyện đã thay đổi khi Naruto tốt nghiệp Học viện Ninja bằng cách sử dụng Ảnh Phân Thân Chi Thuật (Kage Bunshin No Jutsu) để cứu thầy Umino Iruka, một kỹ thuật cậu học từ một quyển trục phong ấn mà cậu bị lừa để lấy cắp từ tên ninja phản bội Mizuki. Vụ chạm trán đó đã cho Naruto biết 2 điều: cậu là người chứa đựng Cửu Vĩ - Hồ ly chín đuôi và vẫn còn có người thật lòng quan tâm cậu ta - ngài Hokage Đệ Tam. Việc cậu tốt nghiệp học viện đã mở ra cánh cửa dẫn tới những sự kiện, những người sẽ làm thay đổi và định nghĩa lại thế giới quan của cậu, trong đó có cả nhẫn đạo của cậu. Câu chuyện là quá trình trưởng thành và tiến bộ của Naruto với những người bạn của cậu khi làm ninja, nhấn mạnh mối quan hệ giữa họ cùng sự tác động từ quá khứ đến sự hình thành tính cách của họ. Hai người bạn đồng hành đầu tiên của cậu là Uchiha Sasuke và Haruno Sakura, hai ninja trẻ cùng trang lứa được chỉ định để thành lập tổ đội 3 người cùng với Naruto dưới sự giám sát của một giáo viên () đầy kinh nghiệm tên là Hatake Kakashi. Xuyên suốt bộ truyện, Naruto đã gặp gỡ nhiều nhân vật khác, tìm hiểu nhau, học các chiêu thức mới và biết thêm về các ngôi làng khác. Sự nhấn mạnh lên mức tiến bộ của nhân vật làm thay đổi cốt truyện, với rất ít sự kiện ngẫu nhiên. Lúc đầu, câu chuyện chủ yếu xoay quanh Naruto, Sasuke, và Sakura, những thành viên của Đội 7. Dần dần, tuyến nhân vật phụ cũng bắt đầu được phát triển như Kakashi, Tsunade, và Jiraiya, cũng như những người cùng trang lứa với Naruto ở những làng khác. Câu chuyện còn có sự tham gia của tuyến nhân vật phản diện, đầu tiên là Momochi Zabuza, một ninja lưu vong của Làng Sương Mù và bạn đồng hành của hắn là Haku; tiếp đó là Orochimaru, một ninja lưu vong hạng S đứng đầu danh sách truy nã của làng Lá và cánh tay phải trung thành của hắn - Yakushi Kabuto trong Kỳ thi Ninja Trung Đẳng. Những ngày tháng chung đội và cùng nhau cố gắng, Naruto đã xem Đội 7 như gia đình của mình. Việc Uchiha Sasuke vì hận thù với anh trai mà rời bỏ làng Lá để theo Orochimaru, Naruto quyết định đem Sasuke quay về bằng chính sức lực của mình, diễn biến câu truyện được đẩy sang phần mới với những thách thức to lớn hơn. Bên cạnh đó, Naruto cũng được thu nhận làm đệ tử của một trong ba Sanin Huyền Thoại ngài Jiraiya. Ở cuối phần II (Naruto: Dattebayo), sau khi thực hiện các nhiệm vụ cùng bạn bè ở làng Lá, Naruto theo ngài Jiraiya đi ra ngoài Làng Lá luyện tập ở tập 220. Sang phần II (Naruto: Shippuden), câu chuyện diễn biến phức tạp hơn, bên cạnh quá trình tìm kiếm Sasuke, một tổ chức bí ẩn có tên Akatsuki bắt đầu truy đuổi Naruto để trích xuất con Cửu Vĩ Hồ Ly được phong ấn bên trong cậu. Sản xuất Phát triển Năm 1995, Shueisha phát hành Karakuri, một manga one-shot của Kishimoto Masashi được vinh danh trong Hop Step Award vào năm 1996. Tuy nhiên, Kishimoto cảm thấy chưa hài lòng với những bản thảo tiếp theo nên quyết định bắt tay vào một dự án khác. Dự án mới ban đầu dự định cho Naruto làm đầu bếp, nhưng phiên bản này chưa bao giờ được in ấn. Kishimoto ban đầu muốn Naruto từ một đứa trẻ có thể biến thành cáo, cho nên ông đã tạo ra one-shot Naruto cho ấn phẩm mùa hè 1997 của Akamaru Jump dựa trên ý tưởng này. Mặc dù nhận được phản hồi tích cực trong cuộc thăm dò ý kiến độc giả, song Kishimoto vẫn không hài lòng với đồ họa và cốt truyện, vì thế nên ông đã viết ra câu chuyện về những ninja. Tám chương truyện đầu tiên của Naruto được lên kế hoạch từ sớm trước khi xuất hiện trong Weekly Shōnen Jump, và những chương này ban đầu dùng nhiều đồ họa phức tạp để minh họa làng Lá. Khi mà Naruto ra mắt, đồ họa nền đã được giảm bớt, thay vào đó là nhấn mạnh vào nhân vật. Dù Kishimoto lo ngại rằng chakra (nguồn năng lượng được sử dụng bởi các ninja trong Naruto) sẽ khiến xê-ri trở nên quá Nhật Bản, nhưng ông vẫn tin tưởng rằng đây sẽ là một cuốn sách thú vị để đọc. Kishimoto là một fan hâm mộ của Godzilla, và quái thú thần thoại có đuôi được đưa vào vì Kishimoto muốn có một cái cớ để lôi kéo các quái vật đến. Ông nói rằng chủ đề trọng tâm Phần I của Naruto là cách mọi người chấp nhận đối phương, trích dẫn sự phát triển của Naruto xuyên suốt xê-ri là một điển hình. Đối với phần II của manga, Kishimoto cố gắng giữ mạch truyện và cốt truyện để độc giả dễ dàng theo dõi, đồng thời tránh "làm quá theo phong cách manga đặc trưng". Ông ấy cho rằng phong cách vẽ của mình đã thay đổi từ "phong cách manga cổ điển sang một thứ gì đó thực tế hơn." Vì muốn kết thúc chương liên quan đến Uchiha Sasuke tìm anh trai- Itachi, trong một tập lẻ, Kishimoto quyết định chọn tập 43 chứa nhiều chương hơn các tập thông thường. Do đó, Kishimoto đã xin lỗi độc giả vì tập 43 đắt hơn tập thường. Nhân vật Khi sáng tạo ra Naruto, Kishimoto đã xem qua các manga shōnen khác để tìm ý tưởng và cố gắng làm cho nhân vật của mình trở nên độc đáo, đồng thời dựa trên các câu chuyện trong văn hóa Nhật Bản. Việc tách các nhân vật thành những nhóm khác nhau nhằm tạo cho mỗi nhóm một cá tính riêng. Kishimoto muốn mỗi thành viên chỉ có một tuyệt kỹ ở cấp độ cao và không có năng khiếu ở một tuyệt kỹ khác. Ông cảm thấy khó khăn khi viết về sự lãng mạn, nhưng lại nhấn mạnh nhiều ở Phần II của manga, bắt đầu từ tập 28. Ông đã đưa các nhân vật phản diện vào câu chuyện nhằm đối nghịch giá trị đạo đức của các nhân vật và minh họa rõ ràng sự khác biệt của họ. Theo kết quả đó các nhân vật trẻ hơn yếu thế hơn các nhân vật phản diện một cách đáng kể, Kishimoto đã đặt dấu lửng bên trong để khi họ có tuổi và trở nên mạnh mẽ hơn trong suốt thời gian này. Thiết lập Kishimoto sử dụng truyền thống cung hoàng đạo Trung Quốc, đã có mặt lâu đời ở Nhật Bản. Các thủ ấn hoàng đạo bắt nguồn từ đây. Khi Kishimoto đang tạo bối cảnh chính cho manga Naruto, ban đầu ông tập trung cho các thiết kế ở Làng Lá. Ý tưởng về bối cảnh đến với ông "khá tự nhiên mà không cần suy nghĩ nhiều", nhưng thừa rằng khung cảnh dựa trên quê hương ông ở Okayama. Vì cốt truyện không nêu rõ thời điểm nên ông đã thêm các yếu tố hiện đại vào như cửa hàng tiện lợi. Ông đã cân nhắc cả ô tô, máy bay và máy tính đơn giản, nhưng loại trừ vũ khí và phương tiện ra khỏi cốt truyện. Thế giới Naruto Trong thế giới Naruto, mỗi đất nước hoạt động như một thực thể chính trị độc lập và được thống trị bởi lãnh chúa. Trong những đất nước này có những ẩn lý (ngôi làng ẩn dật)–隠れ里|kakurezato, khu định cư của những ninja (nhẫn giả), là những chiến binh có thể sử dụng khả năng siêu nhiên để chiến đấu. Một ẩn lý duy trì nền kinh tế của đất nước bằng cách đào tạo ninja và nhận làm những nhiệm vụ mà những đất nước khác giao. Đội quân ninja của một ẩn lý được coi như là một lực lượng quân sự của nước nhà. Lãnh đạo của một ẩn lý cũng có chức vị ngang bằng với lãnh chúa của khu vực đó. Năm đất nước trong thế giới Naruto: Thổ Quốc, Hỏa Quốc, Lôi Quốc, Thủy Quốc và Phong Quốc được coi là "Ngũ Đại Cường Quốc Ninja". Đây là những đất nước mạnh mẽ nhất trong thế giới Naruto. Người đứng đầu là Lãnh chúa (tiếng Nhật: Daimyō | 大名 (Đại danh)) và người lãnh đạo của những ẩn lý trong những vùng đất này mang danh hiệu Kage. Truyền thông Manga Naruto được đăng tải trên tạp chí Weekly Shōnen Jump của Shueisha từ 21 tháng 9, 1999 đến 10 tháng 11, 2014. Manga sau đó được đóng gói dưới dạng tankōbon, phát hành 72 tập—27 tập cho phần I, và còn lại là Phần II. 238 chương đầu thuộc phần I và tạo nên cốt truyện ban đầu cho Naruto. Chương 239 đến 244 nằm trong một gaiden (ngoại truyện) tập trung về lý lịch của Hatake Kakashi. Các chương còn lại (245 đến 700) thuộc về phần II, tiếp tục sau hai năm rưỡi trong dòng thời gian câu chuyện. Tankōbon đầu tiên được phát hành vào ngày 3 tháng 3, 2000. Shueisha cũng cho phát hành các tankōbon ani-manga, dựa trên các phim điện ảnh Naruto, và đã phát hành xê-ri bằng tiếng Nhật dành cho điện thoại di động trên trang web của họ Shueisha Manga Capsule. Một mini xê-ri có tựa , tập trung vào con của các nhân vật chính, được đăng tải định kỳ bằng tiếng Nhật và tiếng Anh trên Weekly Shōnen Jump từ 27 tháng 4, 2015, và kết thúc vào 6 tháng 7, 2015 gồm 10 chương. Naruto được scan (dịch bởi người hâm mộ) và có sẵn trực tuyến trước khi trước phiên bản có bản quyền được cấp phép phát hành ở Bắc Mỹ; Viz Media giành được bản quyền tác phẩm, bắt đầu đăng tải Naruto trên tạp chí truyện tranh tuyển tập Shonen Jump, bắt đầu từ số phát hành tháng 1 năm 2003. Lịch phát hành dad được đẩy nhanh vào cuối năm 2007 để bắt kịp phiên bản tiếng Nhật, và một lần nữa vào đầu năm 2009, với 11 tập (từ 34 đến 44) xuất hiện trong ga tháng, sau đó trở lại lịch hàng quý. Tất cả 27 tập của phần I được phát hành trong một box set vào 13 tháng 11, 2007. Vào ngày 3 tháng 5, 2011, Viz bắt đầu bán manga ở định dạng omnibus với mỗi cuốn gồm 3 tập. Nhượng quyền thương hiệu đã được cấp phép ở 90 quốc gia, và manga được xuất bản ở 35 quốc gia. Madman Entertainment bắt đầu phát hành các tập Naruto ở Australia và New Zealand vào tháng 3 năm 2008 sau khi đạt được thỏa thuận phân phối với Viz Media. Carlsen Comics cấp phép xê-ri, qua các phân khu vùng, và phát hành xê-ri bằng tiếng Đức và tiếng Đan Mạch. Xê-ri cũng được cấp phép cho vùng ngôn ngữ tiếng Pháp và tiếng Hà Lan Kana, trong tiếng Ba Lan bởi Japonica Polonica Fantastica, trong tiếng Nga bởi Comix-ART, trong tiếng Phần Lan bởi Sangatsu Manga, trong tiếng Thụy Điển bởi Bonnier Carlsen, và tiếng Ý bởi Panini Comics. Kể từ tháng 4 năm 2008, bộ truyện nổi tiếng này đã chính thức được TVM Comics mua bản quyền và xuất bản phiên bản tiếng Việt tại Việt Nam. Anime Được đạo diễn bởi Hayato Date và sản xuất bởi Studio Pierrot cùng TV Tokyo, bộ phim hoạt hình Naruto được công chiếu tập đầu ở Nhật Bản trên kênh TV Tokyo vào ngày 3 tháng 10 năm 2002, và hoàn thành 220 tập vào ngày 8 tháng 2 năm 2007. 130 tập đầu tiên được lấy từ 27 tập truyện, trong khi 90 tập còn lại là các tập bổ sung có những cốt truyện không thấy trong manga. Viz đã cấp giấy phép của bộ anime cho việc phát sóng và phân phối tại khu thương mại mã Vùng 1. Bộ anime tiếng Anh bắt đầu phát sóng vào 10 tháng 9 năm 2005. Các tập phim được chiếu trên chương trình Toonami của Cartoon Network, Bionix của YTV và kênh Jetix Anh. Tại Mỹ, những hình ảnh liên quan đến rượu, văn hoá Nhật Bản, và ngay cả máu me hay giết chóc đôi khi được lược bỏ khi phát sóng, nhưng vẫn để nguyên trạng trong DVD. Những mạng lưới khác còn chỉnh sửa khác với bản chỉnh sửa của Cartoon Network, ví dụ như Jetix đã nghiêm khắc hơn trong việc lược bỏ máu me, ngôn ngữ, hút thuốc lá hay tương tự. Naruto Shippuden Naruto Shippuden là bộ anime nối tiếp với bộ anime Naruto Dattebayo và có mặt trong bộ manga Naruto từ tập 28 trở đi. Sau khi huấn luyện 2 năm rưỡi với Jiraiya, Naruto trở về làng Lá, đoàn tụ với những người bạn cậu đã chia tay và lập lại Nhóm 7, giờ được gọi là Nhóm Kakashi, với Sai thế chỗ Sasuke. Tất cả những người bạn của Naruto đều đã trưởng thành và thăng cấp, có người hơn người khác. Không giống như phần đầu khi họ chỉ đóng vai trò phụ, tổ chức Akatsuki chiếm lấy vai trò đối nghịch chính trong tham vọng thống trị thế giới. Naruto Shippuden công chiếu ở Philippines vào 28 tháng 1 năm 2008, trên kênh ABS-CBN làm Naruto: Phần 5. ABS-CBN là mạng lưới đầu tiên ở ngoài Nhật Bản chiếu phần mới. ABS-CBN chỉ mới chiếu 40 tập đầu của Naruto Shippuuden vì bộ anime vẫn đang được chiếu ở Nhật Bản. Hiện tại, nó đang được chiếu qua kênh truyền hình cáp Hero TV. Tại Việt Nam, xê-ri bắt đầu được phát sóng trên kênh HTV3 vào ngày 10 tháng 6 năm 2016 dưới nhan đề Naruto – Sức mạnh vĩ thú kết thúc vào tháng 3 năm 2017. Nhạc nền Tất cả nhạc nền của Naruto Dattebayo được sáng tác và soạn thảo bởi Toshio Masuda. Đĩa đầu tiên: Naruto Original Soundtrack, được phát hành vào 3 tháng 4 năm 2003 và có 22 bài xuất hiện trong phần một của anime. Đĩa thứ hai Naruto Original Soundtrack II được phát hành vào ngày 18 tháng 3 năm 2004 và có 19 bài. Đĩa thứ ba, Naruto Original Soundtrack III được phát hành vào ngày 27 tháng 4 năm 2005 và có 23 bài. Còn có 2 đĩa nhạc nền chứa tất cả nhạc mở đầu và kết thúc trong phim hoạt hình, có tên là Naruto: Best Hit Collection và Naruto: Best Hit Collection II được phát hành vào 17 tháng 11 năm 2004 và 2 tháng 8 năm 2006, respectively. Trong số tất cả những bài trong phim, 8 bài được chọn và kết hợp thành một CD có tên Naruto in Rock -The Very Best Hit Collection Instrumental Version- được phát hành vào 19 tháng 12 năm 2007. Mỗi bộ phim của phần đầu tiên có đĩa nhạc nền được phát hành gần với ngày công chiếu của nó. Đĩa nhạc nền của Naruto Shippuuden được sản xuất bởi Yasuharu Takanashi. Đĩa đầu tiên, Naruto Shippūden Original Soundtrack được phát hành vào 9 tháng 12 năm 2007 và Naruto Shippūden the Movie: Original Soundtrack được phát hành vào 1 tháng 8 năm 2007. OVA Có tổng cộng 4 OVA cho Naruto. Hai phim đầu tiên, Tìm kiếm Cỏ-Bốn-Lá Đỏ thẫm! và Nhiệm vụ: Bảo vệ Ngôi làng Thác nước!, được chiếu tại Jump Festa 2003 và Jump Festa 2004 của Shonen Jump, và về sau được phát hành qua DVD. OVA thứ ba, Cuối cùng đã đụng độ! Thượng đẳng đối đầu Hạ đẳng!! Giải đấu khổng lồ có một không hai!!, đã được phát hành trên một đĩa bổ sung với trò chơi Naruto: Narutimate Hero 3 cho hệ PlayStation 2. OVA thứ tư, Lễ hội Thể thao Mộc Diệp Hàng năm, là một đoạn phim ngắn phát hành cùng với phim Naruto. Còn có một chức năng đặc biệt trong đĩa DVD tổng hợp Naruto: Shippūden dựa trên đoạn kết thúc thứ hai của phim có tên Gió xoáy! Cuộc phiêu lưu của "Học viện Mộc Diệp". Phim chiếu rạp Sau khi seri Naruto kết thúc, tính đến hiện tại thì có 10 bộ phim liên quan được phát hành: Cuộc chiến ở Tuyết Quốc, Huyền thoại đá Gelel, Những lính gác của Nguyệt Quốc, Cái chết tiên đoán, Nhiệm vụ bí mật, Người kế thừa ngọn lửa ý chí, Tòa tháp bị mất, Huyết ngục, Đường tới Ninja và Trận chiến cuối cùng. Trong đó, bộ phim tiếp nối giữa phần đầu tiên với phần Shippūden có tên Naruto the Movie: Shippūden đã được phát hành trong khi bộ phim thứ hai Nhiệm vụ bí mật được lên lịch phát hành vào 2 tháng 8 năm 2008. Ở Hoa Kỳ, Cuộc chiến ở Tuyết Quốc đã được phổ biến trong khi Huyền thoại đá Gelel và Những lính gác của Nguyệt Quốc phát hành vào năm 2008. Một số phim còn mượn nhân vật trong truyện như phim "Truyền thuyết dòng suối thần" hay "Thần rừng". Phần cuối của loạt phim điện ảnh này là Trận chiến cuối cùng, ra mắt năm 2014. Tiểu thuyết Đến nay đã có 2 tiểu thuyết Naruto do Masatoshi Kusakabe sáng tác đã được phát hành ở Nhật Bản bởi Shueisha và ở Hoa Kỳ bởi Viz. Quyển đầu tiên, Naruto: Trái tim Vô tội, Dòng máu Hiểm ác dựa trên phần đầu của phim, và quyển thứ hai Naruto: Nhiệm vụ: Bảo vệ Ngôi làng Thác nước! dựa trên OVA thứ hai của anime. Trò chơi điện tử Các trò chơi điện tử Naruto đã xuất hiện trên nhiều hệ từ Nintendo, Sony, Microsoft, đến Bandai. Trò chơi điện tử Naruto đầu tiên là Naruto: Konoha Ninpouchou, được phát hành ở Nhật Bản vào 27 tháng 3 năm 2003, cho hệ WonderSwan Color. Hầu hết các trò chơi điện tử Naruto chỉ được phát hành ở Nhật Bản. Phải cho đến 7 tháng 3 năm 2006, khi trò chơi đầu tiên của loạt game Naruto: Gekitou Ninja Taisen và loạt game Naruto: Saikyou Ninja Daikesshu được phát hành tại Bắc Mỹ dưới tựa Naruto: Clash of Ninja và Naruto: Ninja Council thì trò chơi Naruto mới chính thức có mặt ngoài phạm vi Nhật Bản. Những trò này có phiên bản lồng tiếng Anh của anime. Gần đây, hai trò chơi Naruto mới cho hệ Nintendo DS và Wii đã được tiết lộ tại Triển lãm Game Tokyo. Ngoài ra, quá trình sản xuất cho Narutimate Hero thứ 5 đã được thông báo. Cũng có một trò chơi Naruto mới phát hành cho Xbox 360: Rise of a Ninja và một trò hoàn toàn khác cho Playstation 3 đang được phát triển bởi CyberConnect2 và Namco để phát hành vào năm 2008. Ban đầu nó có tên Naruto: PS3 Project, nhưng nó đã có tựa chính thức là Naruto: Ultimate Ninja Storm.Trong truyện naruto gồm nhiều loại thuật đa dạng:như Suiton(Thủy),Suiton Daibakufu no jutsu Trò chơi Sưu tập Quân bài Phát hành bởi Bandai, Trò chơi Sưu tập Quân bài Naruto là một trò chơi sưu tập quân bài (CCG) dựa trên loạt phim Naruto. Trò chơi này đã được giới thiệu vào năm 2006. Cũng tìm thấy nhiều tài liệu tham khảo về trò chơi thẻ bài và những trò chơi khác trên cửa hàng Naruto chính thức Sự đón nhận Bộ manga Naruto trở thành một trong những nguồn doanh thu đứng đầu của Viz, chiếm gần 10% toàn bộ doanh số manga trong năm 2006. Tập 7 do Viz phát hành đã xuất sắc nhận giải "Truyện Tranh Xuất sắc nhất" năm 2006 và Naruto trở thành bộ manga đầu tiên đoạt giải thưởng Quill. Cho đến tập 36, bộ manga đã bán được hơn 71 triệu bản ở Nhật Bản. Tại Việt Nam, bộ manga cũng mau chóng trở thành một trong những đầu truyện ăn khách nhất. Bộ manga cũng xuất hiện trong Danh sách Tựa sách USA Today với tập 11 giữ danh hiệu manga được xếp hạng cao nhất, cho đến khi bị vượt qua bởi tập 28 khi nó đã đứng hạng 17 trong tuần phát hành đầu tiên vào tháng 3 năm 2008. Tập 28 cũng là một trong những manga có số tuần ra mắt thành công nhất trong năm và hiện là tựa manga bán chạy nhất trong năm 2008. Trong thời gian phát hành, tập 29 đứng hạng 57, trong khi tập 28 tụt xuống hạng 139. Vào tháng 4 năm 2007, tập 14 đoạt giải Gem cho mục "Manga Thương mại Bìa mềm của Năm" từ Nhà phân phối Truyện tranh Diamond cho Viz. Bộ anime Naruto đoạt "Giải Chương trình Hoạt hình Thời lượng Dài Xuất sắc nhất" trong lễ trao giải Third UStv tổ chức ở Đại học Santo Tomas tại Manila, Philippines. Trong bảng Xếp hạng 100 Anime mới nhất của TV Asahi, Naruto đứng hàng thứ 17. Vài nhà phê bình đã chỉ trích gay gắt OVA Battle at Hidden Falls, vì đó là bước đi lùi so với tập mới nhất của loạt Naruto. Nhà phê bình của Anime News Network gọi đó là sự bổ sung kém cỏi vào sản phẩm Naruto và đã không "thực hiện được công lý" nhưng có thể khiến khán giả cảm kích khi thấy được bộ phim đã đi xa đến mức nào kể từ tập đầu tiên.
là một họa sĩ truyện tranh đã được biết đến qua bộ truyện tranh nổi tiếng thế giới Naruto. Người em song sinh của Masashi, Kishimoto Seishi, cũng là một họa sĩ truyện tranh, tác giả của 666 Satan và Blazer Drive. Công việc Tác phẩm đầu tay của Masashi là Karakuri được anh gửi cho nhà xuất bản Shueisha vào năm 1995. Bộ truyện này đã đem về cho anh giải thưởng "Hop Step Award" hàng tháng của tập san Weekly Shōnen Jump và mở ra con đường đầy triển vọng cho anh. Tháng 11 năm 1999, Naruto bắt đầu được đăng trên Weekly Shōnen Jump. Hiện tại series chính của bộ truyện Naruto đã kết thúc với 700 chương chính và một số bộ ngoại truyện. Bộ truyện cũng đã được chuyển thể thành hai bộ anime tổng cộng 720 tập, 12 phần phim lẻ (movie) và 8 phần OVA rất thành công. Hiện tại anh đảm nhiệm vai trò viết kịch bản cho series Boruto – Naruto hậu sinh khả úy. Cuộc sống Sống ở tỉnh Okayama, Kishimoto Masashi đã bắt đầu nghiệp vẽ rất sớm, trước cả tuổi đi học. Từ khi còn là học sinh tiểu học, Masashi đã có ước muốn trở thành một họa sĩ vẽ truyện tranh. Một trong những bộ truyện mà Masashi yêu thích nhất, là bộ Doraemon nổi tiếng. Masashi còn là một fan bự của truyện tranh Bảy viên ngọc rồng. Tác phẩm Manga Truyện ngắn Karakuri (1995, thắng giải Hop Step Award, đăng trên Hop Step Award Phần 18 ('95~'96)) Naruto pilot (1997, published in Akamaru Jump, đăng trên Naruto tập 1) Karakuri (Tháng 4 năm 1998 - Tháng 5 năm 1998, đăng trên Weekly Shōnen Jump) Naruto (21 tháng 9 năm 1999 – 10 tháng 11 năm 2014, đăng trên Weekly Shōnen Jump) Boruto – Naruto hậu sinh khả úy (cố vấn trực tiếp từ năm 2015) Samurai 8: Hành trình của Hachimaru Khác UZUMAKI MASASHI KISHIMOTO NARUTO MASASHI KISHIMOTO UZUMAKI NARUTO MASASHI KISHIMOTO Sách "Lâm Thư" (Sách thông tin thứ nhất)(NARUTO -ナルト- 秘伝・臨の書 キャラクターオフィシャルデータBOOK, NARUTO Hiden: Rin no Sho Kyarakutā Ofisharu DētaBOOK) Sách "Binh Thư" (Sách thông tin thứ hai) (NARUTO -ナルト- 秘伝・闘の書 キャラクターオフィシャルデータBOOK, NARUTO Hiden: Tō no Sho Kyarakutā Ofisharu DētaBOOK) Sách "Đấu Thư" (Sách thông tin thứ ba)(NARUTO -ナルト- 秘伝・者の書 キャラクターオフィシャルデータBOOK, NARUTO Hiden: Sha no Sho Kyarakutā Ofisharu DētaBOOK) Sách "Giả Thư" (Sách thông tin thứ tư) (NARUTO -ナルト- 秘伝・陣の書 キャラクターオフィシャルデータBOOK, NARUTO Hiden: Jin no Sho Kyarakutā Ofisharu DētaBOOK) The Naruto Secret: Scroll of Soldiers Official Fanbook (Fanbook thứ nhất) (NARUTO -ナルト-秘伝・兵の書 オフィシャルファンBOOK, NARUTO Hiden: Hyō no Sho Ofisharu FanBOOK) The Naruto Secret: Scroll of Everyone Official Fanbook (Fanbook thứ hai) (NARUTO -ナルト- 秘伝・皆の書 オフィシャルファンBOOK, NARUTO Hiden: Kai no Sho Ofisharu FanBOOK) PAINT JUMP: Những bức vẽ của Naruto Dự án NARUTO: Tân thời đại khai mạc (NARUTO‐ナルト‐新時代開幕プロジェクト, Naruto: Shinjidai Kaimaku Purojekuto) Naruto Bí truyện: Liệt thư [The Naruto Secret: Scroll of Line Official Movie Guidebook (NARUTO -ナルト- 秘伝・列の書 オフィシャルムービーガイドBOOK, NARUTO Hiden: Retsu no Sho Ofisharu Mūbī GaidoBOOK)] Naruto thiên: Phong thư [The Naruto Exhibition Official Guestbook New Style: Scroll of Wind (NARUTO -ナルト-展オフィシャルゲストBOOK 新伝・風の書, Naruto-ten Ofisharu GesutoBOOK Shinden: Fū no Sho)] Naruto thiên: Lôi thư [The Naruto Exhibition Premium Fanbook New Style: Scroll of Thunder (NARUTO -ナルト-展プレミアムファンBOOK 新伝・雷の書, Naruto-ten Puremiamu FanBOOK Shinden: Rai no Sho)] Naruto ngoại truyện: Hokage đệ thất & Mùa hoa đỏ [Naruto Gaiden: The Seventh Hokage and the Scarlet Spring (NARUTO -ナルト- 外伝 ~七代目火影と緋色の花つ月~, Naruto Gaiden: Nanadaime Hokage to Akairo no Hanatsuzuki)] Naruto Bí truyện: Tại thư [The Naruto Secret: Scroll of Country Official Moviebook (NARUTO -ナルト- 秘伝・在の書 オフィシャルムービーBOOK, NARUTO Hiden: Zai no Sho Ofisharu MūbīBOOK)]
Aladdin ("A-lát-đin", ), còn được biết tới với tên Aladdin và cây đèn thần ở Việt Nam là một trong những truyện đặc sắc nhất trong bộ truyện Nghìn lẻ một đêm của vùng Trung Đông. Nội dung Ngày xưa, tại kinh đô một nước, có bà vợ góa của một người thợ may nghèo tên là Mustapha sống với con trai tên là Aladdin. Năm Aladdin 15 tuổi, có một lão phù thủy cao tay cất công từ châu Phi sang, làm quen với mẹ con Aladdin để thực hiện một mưu đồ to lớn của lão. Lão dụ dỗ Aladdin đến một cái hầm bí mật lấy cho lão cái đèn dầu "cũ kĩ" nằm trong đó. Khi lấy được rồi, vì Aladdin nấn ná không chịu đưa cây đèn nên lão phù thủy tức giận đọc thần chú bịt kín miệng hầm để nhốt Aladdin. Cái nhẫn thần mà lão phù thủy đưa cho Aladdin trước khi vào xuống hầm đã giúp Aladdin thoát khỏi hang. Có cây đèn thần trong tay, cuộc sống của mẹ con Aladdin đã khá hơn trước. Đến năm 18 tuổi, bằng sự trợ giúp đắc lực của Thần đèn (jinni), Aladdin đã cưới được công chúa Badroulbadour. Nhiều năm trôi qua, lão phù thủy phát hiện Aladdin vẫn còn sống và sống rất hạnh phúc bên nàng công chúa xinh đẹp. Lão bèn quyết lấy cho bằng được cây đèn thần. Nhờ mưu mẹo, lão dễ dàng đoạt được cây đèn thần của Aladdin. Lão bắt cóc công chúa và sai Thần đèn lấy tất cả của cải đem sang châu Phi, ép công chúa phải lấy lão. Mất cây đèn thần, Aladdin tiếp cận công chúa nhờ vào Thần nhẫn. Hai người lập mưu lấy lại cây đèn. Công chúa mưu lược đã dụ lão phù thủy uống thuốc độc rồi chết. Thế là Aladdin lấy lại được cây đèn thần và rước công chúa về sống. Sau một năm, em trai của tên phù thủy biết được tin anh mình đã chết dưới tay Aladdin, bèn cấp tốc về Trung Hoa, đóng giả làm một phụ nữ trung hậu và trả thù. Tuy nhiên, Aladdin may mắn đã được cây đèn thần mách bảo ý niệm xấu xa ấy của tên phù thủy và đã giết tên phù thủy, tránh được kiếp nạn thứ 3, cũng là kiếp nạn cuối cùng của chàng. Cuối cùng, sau khi vua mất, công chúa Barunbuđua và Aladdin lên thay ngôi báu trị vì và sống với nhau cuộc sống hạnh phúc cùng một đàn con đông vui và vững mạnh. Nhân vật Aladdin Thần đèn Công chúa Lão phù thủy Điện ảnh Aladdin và cây đèn thần được hãng hoạt hình Walt Disney đưa lên màn ảnh 3 lần sau 3 phần phim Aladdin và cây đèn thần Aladdin và cây đèn thần (phim), năm 1992 Sự trở lại của Jafar, là phần tiếp theo của phim Aladdin và cây đèn thần, công chiếu năm 1994 Aladdin và vua trộm, là phần 3 của phim Aladdin và cây đèn thần, công chiếu năm 1996 Năm 2019, Walt Disney Pictures phát hành phim Aladdin là phiên bản live-action (người đóng). Ghi chú
Nguyễn Quỳnh (1677–1748) là một danh sĩ thời Lê – Trịnh (vua Lê Hiển Tông), từng thi đỗ Hương cống nên còn gọi là Cống Quỳnh. Ông nổi tiếng với sự trào lộng, hài hước tạo nên nhiều giai thoại nên trong dân gian vẫn thường gọi ông là Trạng Quỳnh dù ông không đỗ Trạng nguyên. Ông còn có tên Thưởng, hiệu Ôn Như, thụy Điệp Hiên, quê tại làng Bột Thượng, trấn Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa, nay thuộc thôn Hưng Tiến, xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Thân sinh ông là ông Nguyễn Bổng và bà Nguyễn Thị Hương. Thuở nhỏ, ông học với ông nội và cha (vốn là giám sinh ở Quốc Tử Giám). Năm 1696, Quỳnh thi đỗ Giải nguyên; nhưng đi thi Hội nhiều lần bị hỏng. Về sau, triều đình bổ nhậm ông làm giáo thụ các huyện Thạch Thất, Phúc Lộc (Sơn Tây), tiếp đến làm huấn đạo phủ Phụng Thiên ở kinh thành Thăng Long. Năm 1718, đỗ khoa Sỹ vọng được bổ làm tri phủ Thái Bình, rồi về làm Viên ngoại lang ở Bộ Lễ; sau bị giáng xuống chức Tu soạn ở Viện Hàn lâm. Tuy không đỗ đại khoa, Quỳnh vẫn nổi tiếng là người học hành xuất sắc. Đương thời đã có câu: "Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Nham, thiên hạ vô tam" (nghĩa là thiên hạ không có người thứ ba giỏi như hai ông). Sách Nam Thiên lịch đại tư lược sử đã nhận xét về ông: "... Nguyễn Quỳnh văn chương nổi tiếng ở đời, nói năng kinh người, thạo quốc âm, giỏi hài hước...". Tác phẩm còn lại của Nguyễn Quỳnh, gồm một số bài ký, văn tế mẹ, văn khóc em (vốn tài hoa, nhưng chết yểu ở tuổi 14) và hai bài phú chép trong tập Lịch triều danh phú. Lịch triều danh phú là tuyển tập của các danh sĩ thời bấy giờ, tất cả đều đỗ đại khoa, chỉ có hai người đỗ Hương cống là Nguyễn Quỳnh và Đặng Trần Côn. Tương truyền ông là bạn thơ của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. 接:王红夫人 諸葛夫人 Do tính cách trào phúng nên dân gian thường đồng hóa ông vào nhân vật Trạng Quỳnh – một ông Trạng dân gian nổi tiếng với tính trào lộng. Để tôn vinh ông, Nhà nước Việt Nam đã cho xây dựng nhà lưu niệm Trạng Quỳnh tại quê hương ông.
Đội quân đất nung hay Tượng binh mã Tần Thủy Hoàng (tiếng Hoa phồn thể: 兵馬俑; tiếng Hoa giản thể: 兵马俑; pinyin: bīng mǎ yǒng; Hán-Việt: Binh mã dũng, có nghĩa là "Tượng đội quân và ngựa") là một quần thể tượng người, ngựa bằng đất nung gần Lăng mộ Tần Thủy Hoàng. Đội quân đất nung được phát hiện ngày 29 tháng 3 năm 1974 gần thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây, tây bắc Trung Quốc. Giới thiệu Đội quân đất nung được chôn theo Hoàng đế Tần Thủy Hoàng của nhà Tần, trong thời gian 210-209 trước Công nguyên. Đội quân đất nung được phát hiện ngày 29 tháng 3 năm 1974 khi một người nông dân đào giếng ở phía Đông Lệ Sơn ở nơi có khoảng cách phía đông mộ Tần Thủy Hoàng. Theo sách sử, việc xây dựng lăng mộ Tần Thủy Hoàng bắt đầu năm 246 trước Công nguyên và sử dụng đến 700.000 nhân công và thợ thủ công trong 38 năm. Hoàng đế Tần Thủy Hoàng được chôn trong quan tài cùng với nhiều ngọc ngà châu báu, nhiều tác phẩm thủ công và một mô hình vũ trụ hoàn chỉnh được khảm ngọc và đặt trong dòng thủy ngân dùng để biểu tượng cho dòng sông đang chảy hoặc có thể dùng để diệt khuẩn và gây độc chết người về sau cho người muốn phá mộ. Những viên trân châu được đặt trên nóc mộ dùng để biểu tượng cho những ngôi sao và các hành tinh. Những khai quật gần đây cho thấy có một lượng thủy ngân cao trong đất của núi Lệ Sơn xác nhận sự trùng hợp với sách cổ. Lăng mộ Tần Thủy Hoàng gần giống như một kim tự tháp bằng đất cao 76 m và rộng gần 350 m². Cho đến nay lăng mộ này vẫn chưa được khai quật. Trung Quốc đang có kế hoạch xây tường bao và mái bảo vệ khu lăng mộ tránh bị xâm thực của thiên nhiên. Khu lăng mộ Tần Thủy Hoàng đã được thiết kế như một tổ hợp các cung điện đền đài bao quanh bởi thành quách. Để giữ bí mật thông tin về lối vào mộ và của cải trong đó nhà Tần đã giết hết lực lượng tham gia xây dựng khu lăng mộ bằng cách bít đường ra vào lăng mộ và chôn sống họ cũng như giết hết một số người liên quan đến việc chôn sống này. Đội quân đất nung được xây dựng kế bên nhằm mục đích bảo vệ cho Tần Thủy Hoàng sau khi ông qua đời. Người ta đã phát hiện thấy mức thủy ngân cao trong đất ở gò đất mộ, đã minh chứng cho ghi chép của Tư Mã Thiên. Các ghi chép lịch sử sau này cho rằng ngôi mộ đã bị Hạng Vũ cướp phá. Tuy nhiên, đã có những dấu hiệu cho thấy ngôi mộ đã không bị cướp bóc. Khảo cổ Kể từ khi được phát hiện ra năm 1974, việc khai quật khảo cổ vẫn được tiến hành trong thời gian qua. Việc khai quật kéo dài do binh mã bằng đất nung rất dễ vỡ và việc bảo vệ những bức tượng này rất khó khăn (bị phong hóa, bị vi khuẩn phá hoại...). Những tượng binh mã được nặn từ đất sét, nung trong lò ở nhiệt độ thấp, sau khi nung xong được phết một lớp sơn lên bên ngoài để tăng độ bền. Khuôn mặt, kích cỡ, màu sơn theo các nhà khảo cổ không có tượng nào giống nhau, sống động như đội quân thật. Cho đến nay đã có 8.099 pho tượng đã được khai quật ra khỏi lòng đất. Các bức tượng người có lính bộ binh, cung thủ, các tướng lĩnh trong tư thế đứng thẳng hoặc cúi mình cầm cung, kích, giáo, mác, gươm bọc đồng... đây là những vũ khí được sử dụng ở Trung Hoa thời đó. Ngoài tượng binh mã, tượng xe ngựa có kích cỡ và tinh xảo như thật cũng được phát hiện trong khu tượng binh mã. Quần thể tượng được đặt trong 3 hầm mộ riêng biệt, hầm mộ thứ 4 là hầm trống. Người ta cho rằng, hầm mộ thứ nhất có pho tượng 6000 binh mã, là đội quân chủ lực của Tần Thủy Hoàng. Hầm mộ thứ nhất nằm mặt Tây của Lăng mộ. Hầm mộ thứ hai chứa khoảng 1400 pho tượng kị binh và bộ binh đi cùng xe ngựa, đây được xem là đội cảnh binh, trên diện tích 19.659 m². Hầm mộ thứ ba là đội chỉ huy các cấp khác nhau và một xe tứ mã trên diện tích 1524 m² có 68 pho tượng. Hình ảnh
Phân cấp hành chính Việt Nam là sự phân chia các đơn vị hành chính của Việt Nam thành từng tầng, cấp theo chiều dọc. Theo đó cấp hành chính ở trên (cấp trên) sẽ có quyền quyết định cao hơn, bắt buộc đối với cấp hành chính ở dưới (hay cấp dưới). Phân cấp hành chính Việt Nam hiện nay theo Điều 110 Hiến pháp 2013 và Điều 2 Luật Tổ chức chính quyền địa phương gồm 3 cấp hành chính là: Cấp tỉnh: Tỉnh / Thành phố trực thuộc trung ương Cấp huyện: Quận / Huyện / Thị xã / Thành phố thuộc tỉnh / Thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương Cấp xã: Xã / Phường / Thị trấn. Ngoài ra còn có đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập. Dưới xã có làng / thôn / bản / buôn / sóc / ấp..., dưới phường / thị trấn có khu dân cư / khu phố / khu vực / khóm / ấp. Khi lượng dân cư đông thì thôn làng dưới xã có thể chia ra các xóm, còn khu dân cư ở phường/thị trấn thì chia ra tổ dân phố, dưới tổ dân phố còn chia ra cụm dân cư. Đây là cấp cơ sở không pháp nhân, phục vụ cho quản lý dân cư nhưng không được xem là cấp hành chính, và những người tham gia quản lý hoạt động ở cấp này chỉ hưởng phụ cấp công tác mà không được coi là công chức. Lịch sử Thời quân chủ Thời Pháp thuộc Sau khi bình định toàn bộ Việt Nam, Pháp tiến hành chia nước ta làm 3 xứ: Bắc Kỳ và Trung Kỳ đặt dưới chế độ bảo hộ và Nam Kỳ đặt dưới chế độ thuộc địa, tất cả đều trực thuộc liên bang Đông Dương. Về cơ bản, hệ thống hành chính không có nhiều sự thay đổi rõ rệt so với thời nhà Nguyễn. Pháp giữ nguyên các cấp hành chính như cũ, chỉ thực hiện một số thay đổi nhằm áp đặt sự cai trị. Cụ thể, các cấp hành chính như sau: Cấp tỉnh: Có các tỉnh, thành phố và đạo quan binh do người Pháp đứng đầu. Cấp phủ: Có các phủ ở đồng bằng và châu ở miền núi. Các cấp này do người bản xứ đứng đầu. Ngoài ra trong cấp này còn có các tiểu quân khu ở các đạo quan binh, do các sĩ quan Pháp đứng đầu. Cấp huyện: Người bản xứ quản lý. Cấp xã: Người bản xứ quản lý. Tại các thành phố, cấp tương đương là quận (arrondissement), chỉ nằm dưới cấp tỉnh. Tại Nam Kỳ, các cấp hành chính đều do người Pháp quản lý. Thời kỳ 1945 - 1954 Vào thời đế quốc Việt Nam, Việt Nam không còn là ba xứ riêng biệt. Các cấp hành chính gần như không thay đổi, tất cả đều do người Việt quản lý. Sau cách mạng tháng Tám, theo điều 57, chương V, Hiến pháp năm 1946:Nước Việt Nam về phương diện hành chính gồm có ba bộ: Bắc, Trung, Nam. Mỗi bộ chia thành tỉnh, mỗi tỉnh chia thành huyện, mỗi huyện chia thành xã.Như vậy vào thời kỳ này các đơn vị hành chính của Việt Nam được phân thành 4 cấp, ngoài các cấp xã, huyện, tỉnh như sau này thì vẫn còn có cấp Bộ (cả nước có 3 Bộ: Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ). Cấp phủ, châu bị bãi bỏ. Các tỉnh thời kỳ 1945 - 1946 (69 tỉnh, thành phố): Bắc Bộ có 27 tỉnh và 2 thành phố: 1. TP. Hà Nội2. TP. Hải Phòng3. Bắc Giang4. Bắc Kạn5. Bắc Ninh6. Cao Bằng7. Hà Đông8. Hà Giang9. Hà Nam10. Hải Dương11. Hải Ninh12. Hòa Bình13. Hưng Yên14. Kiến An15. Lai Châu16. Lạng Sơn17. Lào Cai18. Nam Định19. Ninh Bình20. Phú Thọ21. Phúc Yên22. Quảng Yên23. Sơn La24. Sơn Tây25. Thái Bình26. Thái Nguyên27. Tuyên Quang28. Vĩnh Yên29. Yên Bái Trung Bộ có 18 tỉnh và 1 thành phố: 1. TP. Đà Nẵng2. Thanh Hóa3. Nghệ An4. Hà Tĩnh5. Quảng Bình6. Quảng Trị7. Thừa Thiên8. Quảng Nam9. Quảng Ngãi10. Bình Định11. Phú Yên12. Khánh Hòa13. Phan Rang14. Bình Thuận15. Kon Tum16. Plây Cu17. Darlac18. Lâm Viên (Lang Biang)19. Đồng Nai Thượng Nam Bộ có 20 tỉnh và 1 thành phố: 1. TP. Sài Gòn2. Chợ Lớn3. Gia Định4. Bà Rịa5. Biên Hòa6. Thủ Dầu Một7. Tây Ninh8. Tân An9. Mỹ Tho10. Bến Tre11. Vĩnh Long12. Trà Vinh13. Sa Đéc14. Châu Đốc15. Hà Tiên16. Long Xuyên17. Cần Thơ18. Sóc Trăng19. Gò Công20. Rạch Giá21. Bạc Liêu Tuy nhiên, đơn vị hành chính cấp Bộ (của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà) chỉ tồn tại trong khoảng vài năm rồi bỏ. Nhưng chính quyền Quốc gia Việt Nam thân Pháp thì lập chức Thủ hiến cho mỗi Phần (chính là Bộ theo cách gọi của họ). Ngày 19/7/1946, thành lập Đặc khu Hồng Gai trên cơ sở tách khỏi tỉnh Quảng Yên. Ngày 12/9/1947, Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ (chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), thay đổi sắp xếp lại hành chính 2 tỉnh Châu Đốc và Long Xuyên để thành lập các tỉnh mới có tên là Long Châu Tiền và Long Châu Hậu. Ngày 12/2/1950, thành lập tỉnh Vĩnh Phúc trên cơ sở sáp nhập 2 tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên. Tháng 8/1950, thành lập đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn trên cơ sở thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn. Tháng 10/1950, thành lập tỉnh Long Châu Hà trên cơ sở sáp nhập 2 tỉnh Long Châu Hậu và Hà Tiên. Tháng 6/1951, 2 tỉnh Long Châu Tiền và Sa Đéc hợp nhất thành tỉnh Long Châu Sa. Tháng 5/1951, Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ đã thay đổi sắp xếp hành chính nhiều tỉnh ở Nam Bộ như sau: Tỉnh Rạch Giá bị giải thể và bị xé lẻ, nhập vào các tỉnh Bạc Liêu, Cần Thơ, Sóc Trăng. Hợp nhất 3 tỉnh Mỹ Tho, Tân An, Gò Công thành 1 tỉnh có tên là tỉnh Mỹ Tho (còn gọi là tỉnh Tân Mỹ Gò). Hợp nhất 2 tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh lại thành 1 tỉnh có tên là tỉnh Vĩnh Trà. Hợp nhất 2 tỉnh Bà Rịa và Chợ Lớn lại thành 1 tỉnh có tên là tỉnh Bà Rịa - Chợ Lớn (còn gọi là tỉnh Bà Chợ). Hợp nhất 2 tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa lại thành 1 tỉnh có tên là tỉnh Thủ Biên. Hợp nhất 2 tỉnh Gia Định và Tây Ninh lại thành 1 tỉnh có tên là tỉnh Gia Định Ninh. Các tỉnh mới này ở Nam Bộ tồn tại đến tháng 8/1954 thì giải thể, phân chia đơn vị hành chính trở lại giống như thời gian trước năm 1947. Thời kỳ 1954 - 1975 Miền Bắc Việt Nam Trong thành phố trực thuộc trung ương, thời kỳ 1954-1958 có các cấp hành chính quận (ở cả nội thành và ngoại thành), dưới quận có khu phố (ở nội thành) và xã (ở ngoại thành, ngoài ra có phố là cấp không thông dụng, như phố Gia Lâm ở Hà Nội). Năm 1958, nội thành bỏ quận, thay bằng khu, dưới khu là khối dân phố, ngoại thành có quận (từ năm 1961 đổi là huyện) và xã. Năm 1974, đổi tên gọi khối dân phố thành cấp tiểu khu. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1954 có 34 đơn vị hành chính: Bắc Bộ có 26 tỉnh, 2 thành phố trực thuộc trung ương và 1 đặc khu: 1. TP. Hà Nội2. TP. Hải Phòng3. Bắc Giang4. Bắc Cạn5. Bắc Ninh6. Cao Bằng7. Hà Đông8. Hà Giang9. Hà Nam10. Hải Dương11. Hải Ninh12. Hòa Bình13. Hưng Yên14. Kiến An15. Lai Châu16. Lạng Sơn17. Lào Cai18. Nam Định19. Ninh Bình20. Phú Thọ21. Quảng Yên22. Sơn La23. Sơn Tây24. Thái Bình25. Thái Nguyên26 Tuyên Quang27. Vĩnh Phúc28. Yên Bái29. Đặc khu Hồng Gai Trung Bộ có 4 tỉnh và 1 đặc khu: 30. Thanh Hóa31. Nghệ An32. Hà Tĩnh33. Quảng Bình34. Đặc khu Vĩnh Linh (vốn thuộc tỉnh Quảng Trị) Năm 1955: Tỉnh Quảng Yên và đặc khu Hòn Gai hợp nhất thành khu Hồng Quảng; bỏ 2 tỉnh Lai Châu, Sơn La để lập Khu tự trị Thái Mèo. Cả nước có 29 tỉnh thành. Theo Hiến pháp năm 1959, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phân cấp hành chính như sau: Các đơn vị hành chính trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phân định như sau: Nước chia thành tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương. Tỉnh chia thành huyện, thành phố, thị xã. Huyện chia thành xã, thị trấn. Các đơn vị hành chính trong khu vực tự trị do luật định (chương VII, Điều 78). Như vậy ở thời kỳ này cấp Bộ đã không còn, nhưng lại xuất hiện các khu tự trị. Miền Bắc Việt Nam có 2 khu tự trị, được thành lập từ năm 1955-1956: Khu tự trị Tây Bắc (ban đầu gọi là Khu tự trị Thái Mèo) và Khu tự trị Việt Bắc. Khu tự trị Tây Bắc lúc đầu chỉ có các cấp châu (tương đương huyện) và xã, bỏ cấp tỉnh, nhưng đến năm 1963 đã lập lại các tỉnh. 2 khu tự trị này tồn tại đến tháng 12/1975. Năm 1961, Quốc hội quyết định mở rộng địa giới Hà Nội, sáp nhập thêm một số xã của Hà Đông, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc và Hưng Yên. Năm 1962, 2 tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh hợp nhất thành tỉnh Hà Bắc, tỉnh Kiến An nhập vào thành phố Hải Phòng; tái lập 2 tỉnh Lai Châu, Sơn La từ Khu tự trị Thái Mèo và thành lập tỉnh Nghĩa Lộ thuộc khu tự trị Tây Bắc. Cả nước có 30 tỉnh thành. Năm 1963, tỉnh Hải Ninh và khu Hồng Quảng hợp nhất thành tỉnh Quảng Ninh. Cả nước có 30 tỉnh thành. Năm 1965, 2 tỉnh Bắc Cạn, Thái Nguyên hợp nhất thành tỉnh Bắc Thái; 2 tỉnh Hà Nam, Nam Định hợp nhất thành tỉnh Nam Hà, 2 tỉnh Hà Đông và Sơn Tây hợp nhất thành tỉnh Hà Tây. Cả nước có 27 tỉnh thành. Năm 1968, 2 tỉnh Hưng Yên, Hải Dương hợp nhất thành tỉnh Hải Hưng; 2 tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc hợp nhất thành tỉnh Vĩnh Phú. Cả nước có 25 tỉnh thành. Đến năm 1975, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có 2 thành phố trực thuộc trung ương và 23 tỉnh: 1. Tp Hà Nội2. Tp Hải Phòng3. Bắc Thái4. Cao Bằng5. Hà Giang6. Hà Tây7. Hải Hưng8. Hà Bắc9. Hòa Bình10. Lào Cai11. Lạng Sơn12. Nam Hà13. Nghệ An14. Hà Tĩnh15. Ninh Bình16. Quảng Bình17. Quảng Ninh18. Lai Châu19. Sơn La20. Nghĩa Lộ21. Yên Bái22. Thái Bình23. Thanh Hóa24. Tuyên Quang25. Vĩnh Phú Miền Nam Việt Nam Chính quyền Việt Nam Cộng hòa phân ra các cấp hành chính: tỉnh, quận (tương đương với quận và huyện ngày nay), xã; ngoài ra còn có 10 thị xã tự trị. Toàn miền Nam Việt Nam từ khoảng năm 1965 chia thành 44 tỉnh. Về mặt quân sự, trên cấp tỉnh còn có Vùng chiến thuật (lập ra năm 1961) và đến năm 1970 đổi tên thành Quân khu. Tất cả miền Nam Việt Nam có 4 Vùng chiến thuật (Quân khu). Cấp tỉnh đóng trụ sở tại thị xã, về mặt quân sự gọi là tiểu khu, cấp quận đóng trụ sở tại thị trấn quận lị, về mặt quân sự gọi là chi khu. Tỉnh Gia Định về sau cùng với thủ đô Sài Gòn trở thành Biệt khu Thủ đô, đứng đầu là Đô trưởng. Năm 1974, Việt Nam Cộng hòa gồm 43 tỉnh và Đô thành Sài Gòn, trong đó có 10 thị xã và 257 quận: Từ năm 1975, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam chỉ dùng tên gọi quận cho khu vực nội thành thành phố, các quận còn lại đổi thành huyện. Sau khi thống nhất đất nước Tháng 12/1975, Quốc hội Việt Nam khóa V đã ra nghị quyết theo đó cấp khu trong hệ thống hành chính bị bãi bỏ. Các khu tự trị bị giải thể. Việc phân chia các tỉnh, huyện, xã đổi mới liên tục đến mức bản đồ hành chính vừa lập xong đã bị lạc hậu vì thay đổi địa giới và tên gọi các đơn vị. Cuối năm 1975: 2 tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn hợp nhất thành tỉnh Cao Lạng; 2 tỉnh Nam Hà và Ninh Bình hợp nhất thành tỉnh Hà Nam Ninh; 2 tỉnh Hà Tây và Hòa Bình hợp nhất thành tỉnh Hà Sơn Bình; 2 tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang hợp nhất thành tỉnh Hà Tuyên; 3 tỉnh Lào Cai, Nghĩa Lộ (trừ 2 huyện Bắc Yên, Phù Yên nhập vào tỉnh Sơn La) và Yên Bái hợp nhất thành tỉnh Hoàng Liên Sơn 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh hợp nhất thành tỉnh Nghệ Tĩnh. Cả nước có 18 tỉnh thành. Đầu năm 1976: 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên và khu Vĩnh Linh hợp nhất thành tỉnh Bình Trị Thiên; 2 tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín hợp nhất thành tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng; 2 tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định hợp nhất thành tỉnh Nghĩa Bình; 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa hợp nhất thành tỉnh Phú Khánh; 3 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận và Bình Tuy hợp nhất thành tỉnh Thuận Hải; 3 tỉnh Kon Tum, Pleiku, Phú Bổn hợp nhất thành tỉnh Gia Lai – Kon Tum; 2 tỉnh Darlac và Quảng Đức hợp nhất thành tỉnh Đắk Lắk; 2 tỉnh Lâm Đồng và Tuyên Đức hợp nhất thành tỉnh Lâm Đồng mới; 3 tỉnh Biên Hòa, Long Khánh và Phước Tuy hợp nhất thành tỉnh Đồng Nai; Đô thành Sài Gòn (cộng 2 quận Củ Chi và Phú Hòa tách từ 2 tỉnh Hậu Nghĩa cũ và Bình Dương) và tỉnh Gia Định hợp nhất thành Thành phố Hồ Chí Minh (từ 2/7/1976); 3 tỉnh Bình Dương, Bình Long, Phước Long hợp nhất thành tỉnh Sông Bé; 3 tỉnh Hậu Nghĩa (trừ 2 huyện Củ Chi và Trảng Bàng), Kiến Tường, Long An cũ hợp nhất thành tỉnh Long An mới; 2 tỉnh Định Tường và Gò Công hợp nhất thành tỉnh Tiền Giang; 2 tỉnh Kiến Phong và Sa Đéc hợp nhất thành tỉnh Đồng Tháp; 2 tỉnh Vĩnh Long và Vĩnh Bình hợp nhất thành tỉnh Cửu Long Tỉnh Kiến Hòa đổi lại tên cũ là tỉnh Bến Tre, 3 tỉnh Ba Xuyên, Chương Thiện và Phong Dinh hợp nhất thành tỉnh Hậu Giang, 2 tỉnh Long Châu Hà (trừ 3 huyện Châu Thành A, Hà Tiên và Phú Quốc nhập vào tỉnh Kiên Giang (đổi tên từ tỉnh Rạch Giá)) và Long Châu Tiền hợp nhất thành tỉnh An Giang mới; Tỉnh Rạch Giá đổi lại tên cũ là tỉnh Kiên Giang; 2 tỉnh An Xuyên và Bạc Liêu hợp nhất thành tỉnh Minh Hải. Cả nước có 38 tỉnh thành. Năm 1980, Việt Nam có Hiến pháp mới. Tại đây quy định rằng: Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và đơn vị hành chính tương đương. Tỉnh chia thành huyện, thành phố và thị xã; thành phố trực thuộc Trung ương chia thành quận, huyện và thị xã. Huyện chia thành xã và thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường và xã; quận chia thành phường. Các đơn vị hành chính kể trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (chương IX, Điều 113). Ngày 3/1/1981, Hội đồng Chính phủ quyết định thống nhất tên gọi các đơn vị hành chính cơ sở ở nội thành, nội thị thuộc các thành phố, thị xã là phường (trước đây là tiểu khu), dưới cấp quận (trước đây là khu phố). Năm 1976, cả nước có 38 tỉnh thành: Bắc Bộ có 13 tỉnh và 2 thành phố: Bắc Thái, Cao Lạng, Hà Nam Ninh, Hà Bắc, Hà Sơn Bình, Hà Tuyên, Hải Hưng, Hoàng Liên Sơn, Lai Châu, Quảng Ninh, Sơn La, Thái Bình, Vĩnh Phú và 2 thành phố Hà Nội, Hải Phòng. Trung Bộ có 10 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên, Quảng Nam – Đà Nẵng, Nghĩa Bình, Phú Khánh, Thuận Hải, Gia Lai – Kon Tum, Đắk Lắk, Lâm Đồng. Nam Bộ có 12 tỉnh và 1 thành phố: Sông Bé, Tây Ninh, Đồng Nai, Long An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Hậu Giang, Kiên Giang, Bến Tre, Cửu Long, Minh Hải và Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1978, Quốc hội Việt Nam phê chuẩn mở rộng địa giới Hà Nội, sáp nhập thêm 5 huyện Ba Vì, Thạch Thất, Phúc Thọ, Đan Phượng, Hoài Đức và thị xã Sơn Tây của tỉnh Hà Sơn Bình, một phần huyện Mê Linh và Sóc Sơn của tỉnh Vĩnh Phú. Cùng năm, tách tỉnh Cao Lạng thành 2 tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn. Cả nước có 39 tỉnh thành. Năm 1979, thành lập Đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo, tương đương cấp tỉnh. Cả nước có 40 tỉnh thành. Năm 1982, sáp nhập huyện đảo Trường Sa của tỉnh Đồng Nai vào tỉnh Phú Khánh. Năm 1989, tỉnh Bình Trị Thiên tách ra thành 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế; tỉnh Nghĩa Bình tách ra thành 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định; tỉnh Phú Khánh tách ra thành 2 tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa. Cả nước có 44 tỉnh thành. Những năm 1991 - 1992: Địa giới thủ đô Hà Nội lại được thay đổi. Tỉnh Hà Sơn Bình tách ra thành 2 tỉnh là Hà Tây và Hòa Bình. Tỉnh Hà Nam Ninh tách ra thành 2 tỉnh Nam Hà và Ninh Bình. Tỉnh Hà Tuyên tách ra thành 2 tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang. Tỉnh Hoàng Liên Sơn tách ra thành 2 tỉnh Lào Cai và Yên Bái. Tỉnh Nghệ Tĩnh tách ra thành 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Tỉnh Gia Lai – Kon Tum tách ra thành 2 tỉnh Gia Lai và Kon Tum. Tỉnh Thuận Hải tách ra thành 2 tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Tỉnh Cửu Long tách ra thành 2 tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh. Tỉnh Hậu Giang tách ra thành 2 tỉnh Cần Thơ và Sóc Trăng. Thành lập tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trên cơ sở 3 huyện: Châu Thành, Long Đất, Xuyên Mộc tách từ tỉnh Đồng Nai và đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo, giải thể đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo. Cả nước có 53 tỉnh thành. Năm 1997: Tỉnh Bắc Thái tách ra thành 2 tỉnh Bắc Kạn và Thái Nguyên. Tỉnh Hà Bắc tách ra thành 2 tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh. Tỉnh Nam Hà tách ra thành 2 tỉnh Hà Nam và Nam Định. Tỉnh Hải Hưng tách ra thành 2 tỉnh Hải Dương và Hưng Yên. Tỉnh Vĩnh Phú tách ra thành 2 tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc. Tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng tách ra thành tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng. Tỉnh Sông Bé tách ra thành 2 tỉnh Bình Dương và Bình Phước. Tỉnh Minh Hải tách ra thành 2 tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau. Cả nước có 61 tỉnh thành. Năm 2004, tỉnh Lai Châu cũ tách ra thành 2 tỉnh Lai Châu mới và Điện Biên. Tỉnh Đắk Lắk tách ra thành 2 tỉnh Đắk Lắk mới và Đắk Nông. Tỉnh Cần Thơ tách ra thành thành phố Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang. Cả nước có 64 tỉnh thành. Ngày 29/5/2008, Quốc hội Việt Nam đã biểu quyết thông qua Nghị quyết về việc điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội và một số tỉnh có liên quan, theo đó hợp nhất toàn tỉnh Hà Tây, 4 xã Yên Trung, Yên Bình, Tiến Xuân và Đông Xuân thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình và huyện Mê Linh thuộc tỉnh Vĩnh Phúc về thành phố Hà Nội. Nghị quyết này có hiệu lực từ ngày 1/8/2008. Hiện nay, cả nước có 63 tỉnh thành. Phân cấp hiện tại Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 , căn cứ vào Hiến pháp Việt Nam 2013 được thông qua tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIII ngày 19/06/2015 quy định tại chương I: CHƯƠNG I: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG Điều 2. Đơn vị hành chính: Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có: 1. Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh) 2. Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện) 3. Xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) 4. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lậpTheo đó Việt Nam có 3 cấp hành chính: Cấp tỉnh Sau nhiều lần chia tách và nhập lại, tính đến nay, Việt Nam có 63 đơn vị hành chính cấp Tỉnh, bao gồm 5 thành phố trực thuộc trung ương và 58 tỉnh (tương ứng với chữ số được đánh dấu trên "bản đồ Hành chính Việt Nam"). 5 thành phố trực thuộc Trung ương: 1. Hà Nội (thủ đô)2. Thành phố Hồ Chí Minh3. Hải Phòng4. Đà Nẵng5. Cần Thơ 58 tỉnh: 6. Lai Châu7. Điện Biên8. Lào Cai9. Hà Giang10. Cao Bằng11. Lạng Sơn12. Yên Bái13. Tuyên Quang14. Bắc Kạn15. Thái Nguyên16. Sơn La17. Phú Thọ18. Vĩnh Phúc19. Bắc Ninh20. Bắc Giang21. Quảng Ninh22. Hòa Bình23. Hưng Yên24. Hải Dương25. Thái Bình26. Hà Nam27. Nam Định28. Ninh Bình29. Thanh Hóa30. Nghệ An31. Hà Tĩnh32. Quảng Bình33. Quảng Trị34. Thừa Thiên Huế35. Quảng Nam36. Quảng Ngãi37. Kon Tum38. Gia Lai39. Bình Định40. Phú Yên41. Đắk Lắk42. Đắk Nông43. Khánh Hòa44. Lâm Đồng45. Ninh Thuận46. Bình Thuận47. Bình Phước48. Tây Ninh49. Bình Dương50. Đồng Nai51. Bà Rịa – Vũng Tàu52. Long An53. Đồng Tháp54. Tiền Giang55. Bến Tre56. An Giang57. Vĩnh Long58. Kiên Giang59. Hậu Giang60. Trà Vinh61. Sóc Trăng62. Bạc Liêu63. Cà Mau Cấp huyện Đây là cấp hành chính cấp 2 của Việt Nam, thấp hơn (về thẩm quyền), và thông thường thì cấp này cũng có quy mô dân số, diện tích, kinh tế nhỏ hơn cấp tỉnh. Đây là cấp hành chính cao hơn cấp xã, phường, thị trấn. Cấp hành chính này có nhiều tên gọi khác nhau tùy theo cấp hành chính nó trực thuộc, gồm "Huyện", "Thị xã", "Quận", "Thành phố thuộc tỉnh", "Thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương", gọi tuần tự theo mức đô thị hóa. Trong đó, quận và thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương không có trong tỉnh, chỉ áp dụng cho các đơn vị nội thành của thành phố thuộc trung ương. Thành phố thuộc tỉnh không có trong thành phố trực thuộc trung ương. Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương được Quốc hội khóa XIII thông qua 19/6/2015, chính thức có hiệu lực từ 1/1/2016 đã bổ sung thêm đơn vị hành chính Thành phố thuộc Thành phố trực thuộc trung ương. Điều này nhằm tạo điều kiện cho mục tiêu thực hiện Đề án thành lập chính quyền đô thị của TP HCM. Đến ngày 9/12/2020, Quốc hội khóa 14 chính thức thông qua việc thành lập đơn vị Thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương đầu tiên của cả nước tại Thành phố Hồ Chí Minh là Thành phố Thủ Đức, bằng việc sáp nhập 3 quận Thủ Đức cũ, quận 2 và quận 9. Cấp xã Đây là đơn vị hành chính cấp cơ sở, thấp hơn cấp Huyện. Gọi xã, phường, thị trấn là tùy theo mức đô thị hóa. Trong đó, phường không có trong huyện, xã không có trong quận, thị trấn chỉ có trong huyện. Có 5 đơn vị hành chính cấp huyện không có đơn vị cấp xã (đều là các huyện đảo), bao gồm: Cồn Cỏ (Quảng Trị), Bạch Long Vĩ (Hải Phòng), Hoàng Sa (Đà Nẵng), Lý Sơn (Quảng Ngãi), Côn Đảo (Bà Rịa – Vũng Tàu). Phân cấp địa lý Việt Nam được chia thành 3 miền địa lý, mỗi miền lại được chia thành nhiều vùng địa lý. I. Bắc Bộ:A. Tây Bắc BộB. Đông Bắc BộC. Đồng bằng sông Hồng Đôi khi 2 vùng Tây Bắc và Đông Bắc được gộp chung lại thành vùng Trung du và miền núi phía Bắc II. Trung Bộ:A. Bắc Trung BộB. Duyên hải Nam Trung BộC. Tây Nguyên III. Nam Bộ:A. Đông Nam BộB. Đồng bằng sông Cửu Long Phân cấp bầu cử Trong thời điểm bầu cử Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp, mỗi tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương được chia thành nhiều đơn vị bầu cử. Mỗi đơn vị bầu cử lại được chia thành nhiều khu vực bỏ phiếu. Số lượng đơn vị bầu cử ở mỗi tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương tùy vào dân số ở khu vực đó. Trong cuộc bầu cử năm 2011, Việt Nam có 183 đơn vị bầu cử và 89.960 khu vực bỏ phiếu.
Bổ đề Shephard (còn gọi là Bổ đề McKenzie) là mệnh đề liên quan đến hành động tối thiểu hóa chi tiêu của người tiêu dùng (hay hộ gia đình). Đây là phương pháp để tìm lựa chọn tối ưu lượng hàng hóa cho phép tối thiểu hóa chi phí (mức chi tiêu) mà vẫn đạt được một mức thỏa dụng nhất định, khi giá cả cố định. Giả thiết Giá cả hàng hóa cố định Mức thỏa dụng đã xác định Đường bàng quan lồi Nội dung Có thể tìm được lượng cầu bằng cách vi phân hàm chi tiêu theo giá cả. Lượng cầu này gọi là cầu Hicks (đặt tên theo học giả kinh tế người Anh John Richard Hicks). Ký hiệu: là hàm chi tiêu p là giá cả u là mức thỏa dụng là cầu Hicks đối với hàng hóa Bổ đề Shephard khi đó có thể biểu diễn bằng công thức sau:
Warren Edward Buffett sinh ngày 30 tháng 8 năm 1930 tại Omaha, tiểu bang Nebraska, Hoa Kỳ, là một trùm doanh nhân, nhà đầu tư và nhà từ thiện người Mỹ. Ông là nhà đầu tư thành công nhất thế giới, cổ đông lớn nhất kiêm giám đốc hãng Berkshire Hathaway, và được tạp chí Forbes xếp ở vị trí người giàu thứ bảy thế giới với tài sản ước chừng 100,6 tỷ USD tính đến tháng 4/2021. Ông được gọi là "Huyền thoại đến từ Omaha" hay "Hiền tài xứ Omaha", rất nổi tiếng do sự kiên định trong triết lý đầu tư theo giá trị cũng như lối sống tiết kiệm dù sở hữu khối tài sản khổng lồ. Chẳng hạn tiền lương năm 2006 của ông chỉ là 100 nghìn USD, một con số rất nhỏ so với các nhà quản trị ở các hãng có cùng tầm cỡ Berkshire Hathaway; còn hai năm 2007 và 2008 ông chỉ nhận mỗi năm tổng cộng 170 nghìn USD trong đó lương cơ bản đã là 100 nghìn. Hiện ông sống tại ngôi nhà mua năm 1958 ở Omaha với giá 31.500 USD (bây giờ giá trị khoảng 700.000 USD) dù ông còn sở hữu một căn khác giá 4 triệu USD tại Laguna Beach, tiểu bang California. Năm 1989 ông dùng 9,7 triệu USD trong ngân sách của hãng Berkshire để mua một máy bay hạng cá nhân rồi đặt tên vui cho nó là "Khó cưỡng quá" (tiếng Anh: "The Indefensible") do trước kia ông hay chỉ trích giám đốc hãng nào làm như vậy. Warren Buffett còn nổi danh là nhà từ thiện đã tặng 99% giá trị tài sản của mình cho hoạt động của Hội Gates do Bill Gates sáng lập, đồng thời có trong hội đồng đại học Grinnell. Ông cũng tích cực đóng góp trong hoạt động chính trị, đã ủng hộ ứng cử viên Dân chủ Hillary Clinton trong cuộc Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2016; ông đã công khai chỉ trích các chính sách, hành động và tuyên bố của tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump. Năm 1999 ông có trong danh sách những nhà quản trị tài chính giỏi nhất thế kỉ 20 do hãng Carson thực hiện, xếp trên Peter Lynch và John Templeton.; năm 2007 được tạp chí Time đưa vào danh sách "100 người nhiều ảnh hưởng nhất thế giới". Tiểu sử Thời trẻ Ông Warren Buffett sinh năm 1930 ở Omaha, Nebraska. Khi cha ông được bầu vào quốc hội Hoa Kỳ thì ông chuyển đến học tại thủ đô Washington rồi tốt nghiệp trường trung học Woodrow Wilson năm 1947. Trong năm đầu học trường này, ông đã cùng một người bạn mua một máy bắn bóng giá 25 USD đặt trong tiệm hớt tóc để kiếm tiền và trong vòng một tháng họ đã có ba máy như vậy đặt ở vài nơi. Từ năm 1947 đến 1949 ông học ở trường kinh doanh Wharton thuộc đại học Pennsylvania, năm 1950 chuyển sang đại học Nebraska rồi tốt nghiệp bằng kinh tế tại trường này. Sau đó ông đăng ký học trường kinh doanh Columbia thuộc đại học Columbia sau khi biết hai nhà đầu tư nổi tiếng thời ấy là Benjamin Graham, (tác giả quyển "Nhà đầu tư thông minh") và David Dodd đang dạy tại đây. Năm 1951 ông nhận bằng thạc sĩ kinh tế của đại học Columbia. Ông hay thổ lộ là: Tôi mang trong mình 15% của Fisher và 85% của Benjamin Graham. Kiến thức cơ bản trong ngành đầu tư là xem cổ phiếu như những món hàng kinh doanh, dùng tính dao động của thị trường tạo lợi thế cho mình, và tìm kiếm biên độ an toàn (tiếng Anh: safety margin). Đó là điều ông Ben Graham đã dạy tôi. Một thế kỉ qua nó vẫn là kim chỉ nam trong ngành đầu tư. Sự nghiệp Warren Buffett làm nhân viên kinh doanh mảng đầu tư cho công ty Buffett-Falk & Co. ở Omaha từ 1951 đến 1954, rồi làm chuyên viên phân tích chứng khoán cho công ty Graham-Newman Corp. ở New York từ 1954 đến 1956. Ông làm chủ công ty Buffett Partnership, Ltd. từ 1956 đến 1969, và từ năm 1970 đến nay là chủ tịch kiêm giám đốc hãng Berkshire Hathaway. Năm 1951 ông được tin Ben Graham đang ở trong ban quản trị hãng bảo hiểm GEICO liền bắt xe lửa đi thủ đô Washington tới trụ sở hãng này gõ cửa mãi cho tới khi được cho vào. Ông đã gặp phó chủ tịch Lorimer Davidson của GEICO và hai người bàn luận về ngành bảo hiểm rất lâu, sau này ông Davidson thành bạn tri âm đồng thời có ảnh hưởng lâu dài với Buffett . Davidson còn kể lại ông chỉ gặp Buffett 15 phút là nhận ra đây là một "siêu nhân". Sau khi Warren tốt nghiệp trường Columbia ông ngỏ ý muốn làm tại trung tâm tài chính Wall Street nhưng cả cha ông lẫn Benjamin Graham đều khuyên ông đừng. Ông cũng đề nghị Graham cho mình làm không lương nhưng không được đồng ý. Rồi ông trở về Omaha vừa làm môi giới chứng khoán vừa dự một khóa thuyết trình ở trường Dale Carnegie. Những gì đã học giúp ông tự tin hơn bắt tay vào dạy lớp "Nguyên lý đầu tư" buối tối tại đại học Nebraska trong môi trường mà đa số học viên có tuổi đời gấp đôi vị giảng viên này. Thời gian này ông có mua một cây xăng Sinclair Texaco nhưng việc kinh doanh đó không mấy thành công. Năm 1952 ông kết hôn với bà Susan Thompson, năm sau họ có con đầu lòng đặt tên là Susan Alice Buffett. Năm 1954 ông vào làm việc tại công ty của Benjamin Graham với mức lương khởi điểm 12.000 USD một năm. Tại đây Buffett thường làm chung với Walter Schloss, còn Ben Graham tỏ ra cực kì khó tính trong công việc. Ông Ben sau khi cân nhắc sự dao động giữa giá gốc và giá thị trường của cổ phiếu đã quả quyết rằng chúng phải tạo ra "biên độ an toàn" lớn. Cuộc tranh luận này đã tác động sâu sắc tới Buffett nhưng ông vẫn thắc mắc là định chuẩn cho cổ phiếu như vậy có khắt khe quá hay không vì điều đó có thể làm công ty mình thất thu so với những tổ chức sở hữu nhiều loại cổ phiếu chất lượng hơn. Cũng năm 1954 ông có đứa con kế là Howard Graham Buffett. Năm 1956 Benjamin Graham giải thể công ty để nghỉ hưu nên Warren Buffett quay về Omaha khởi nghiệp với số vốn tích được là 140.000 USD. Năm 1957 ông điều hành ba công ty, mua căn nhà giá 31.500 USD mà ông vẫn ở hiện giờ. Năm 1958 đứa con thứ ba tên Peter Andrew Buffett ra đời, còn ông điều hành năm công ty. Năm 1959 số công ty ông quản lý tăng lên sáu và đến 1960 là bảy gồm có: Buffett Associates, Buffett Fund, Dacee, Emdee, Glenoff, Mo-Buff and Underwood. Ông đề nghị một bác sĩ là đối tác của mình mời thêm 10 bác sĩ khác có khả năng góp mỗi người 10.000 USD vào công ty của ông, kết quả tất cả đều đồng ý. Năm 1961 ông tiết lộ đã dành 35% tài sản trong công ty của mình để đầu tư vào hãng Sanborn Map, do năm 1958 giá cổ phiếu bán ra của Sandborn chỉ là 45 USD trong khi giá trị thực trên danh mục đầu tư lại là 65 USD một cổ phiếu, nghĩa là người mua đã định giá cố phiếu Sandborn "âm 20 USD". Ông đã mua 23% cổ phiếu đang lưu hành của công ty này với cương vị là một nhà đầu tư lớn, và có được một ghế trong ban quản trị, sau đó liên minh với một số cổ đông không hài lòng khác để nắm giữ tổng cộng 44% cổ phần. Để tránh một cuộc chiến nội bộ, ban quản trị sau đó đã mua lại cổ phần với mức giá hợp lý dựa theo giá trị thực của công ty. 77% lượng cổ phiếu đang lưu hành đã được ban quản trị mua lại. Chỉ sau 2 năm, Buffet đã lấy lại 50% số tiền đã đầu tư. Thành triệu phú Năm 1962, Buffett đã trở thành một triệu phú nhờ các công ty đầu tư do ông quản lý, với tổng giá trị 7.178.500 USD tính đến tháng 1 năm 1962, trong đó có hơn 1.025.000 USD thuộc về Buffett. Ông sáp nhập các công ty này thành một. Buffett đầu tư và giành quyền kiểm soát một công ty sản xuất dệt may Berkshire Hathaway. Ông bắt đầu mua cổ phiếu của Berkshire từ Seabury Stanton, chủ sở hữu của Berkshire, người mà sau này đã bị ông sa thải. Công ty đầu tư của Buffett đã bắt đầu mua cổ phiếu của Berkshire với giá $ 7,60 mỗi cổ phiếu. Năm 1965, khi công ty đầu tư của Buffett bắt đầu mua cổ phiếu Berkshire với số lượng lớn, họ trả 14,86 USD trên mỗi cổ phiếu, trong khi công ty có vốn hoạt động là 19 USD cho mỗi cổ phiếu, chưa kể đến giá trị của các tài sản cố định (nhà máy và thiết bị). Buffett nắm quyền kiểm soát của Berkshire Hathaway tại một cuộc họp hội đồng quản trị và đưa Ken Chace lên làm chủ tịch để điều hành công ty. Năm 1966, Buffett dừng hợp tác và rút vốn. Sau này ông cho biết kinh doanh dệt may là vụ đầu tư tồi tệ nhất của ông. Sau đó, ông chuyển công ty Berkshire sang kinh doanh các lĩnh vực bảo hiểm, và, vào năm 1985, nhà máy cuối cùng từng là hoạt động cốt lõi của Berkshire Hathaway đã được bán. Trong bức thư thứ hai gửi cổ đông, Buffett đã công bố khoản đầu tư đầu tiên của mình trong một doanh nghiệp tư nhân - Hochschild, Kohn & Co, công ty tư nhân sở hữu cửa hàng bách hóa Baltimore. Năm 1967, Berkshire chi trả cổ tức đầu tiên và duy nhất cho các cổ đông là 10 cent. Năm 1969, Buffett chấm dứt hoạt động của công ty này và chuyển giao tài sản cho các công ty khác của công trong đó có cả cổ phần của Berkshire Hathaway. Năm 1970, Buffett bắt đầu viết những bức thư thường niên nổi tiếng của ông cho các cổ đông. Ông vẫn sống hoàn toàn dựa vào tiền lương $50,000 mỗi năm và từ các thu nhập đầu tư bên ngoài. Năm 1973, Berkshire bắt đầu mua lại cổ phần trong Công ty Washington Post. Buffett đã trở thành bạn thân với Katharine Graham, người nắm giữ công ty này và các tờ báo hàng đầu của nó, và gia nhập hội đồng quản trị. Năm 1974, SEC đã mở một cuộc điều tra chính thức thương vụ mua lại WESCO Financial của Berkshire và Buffet, liên quan đến khả năng xung đột lợi ích. Không có vụ kiện nào được đưa ra sau đó. Năm 1977, Berkshire gián tiếp mua lại Buffalo Evening News với giá 32.5 triệu USD. Các vụ kiện chống độc quyền bắt đầu được khởi xướng bởi đối thủ là tờ Buffalo Courier-Express. Cả hai tờ báo đều bị mất tiền cho đến khi Courier-Express phá sản năm 1982. Năm 1979, Berkshire đã bắt đầu mua lại cổ phần của ABC. Capital Cities công bố mua lại ABC với giá 3,5 tỷ USD vào ngày 18 tháng 3 năm 1985 gây kinh ngạc cho giới truyền thông khi ABC là lớn hơn bốn lần so với Capital Cities. Buffett hỗ trợ tài chính cho thỏa thuận này để đổi lấy 25% cổ phần trong liên doanh. Công ty mới sáp nhập, được gọi là Capital Cities / ABC (hoặc CapCities / ABC), đã buộc phải bán một số kênh theo luật sở hữu của Ủy ban Truyền thông Liên Bang quy định. Hai công ty này cũng sở hữu một số đài phát thanh trong cùng một thị trường. Năm 1987, Berkshire Hathaway đã mua 12% cổ phần của Salomon Inc., trở thành cổ đông lớn nhất và Buffett trở thành giám đốc công ty. Năm 1990, một vụ bê bối liên quan đến John Gutfreund (cựu Giám đốc điều hành của Salomon Brothers) nổi lên. Một nhà đầu cơ giả mạo, Paul Mozer, đã nộp hồ sơ dự thầu vượt quá các quy tắc cho phép bởi Kho Bạc. Khi biết điều này, Gutfreund, đã không ngay lập tức đình chỉ Paul. Gutfreund rời công ty vào tháng 8 năm 1991. Buffett trở thành chủ tịch của Salomon cho đến khi cuộc khủng hoảng qua đi. Năm 1988, Buffett bắt đầu mua cổ phiếu Coca-Cola, cho đến khi sở hữu đến 7% với số tiền 1.02 tỷ $. Đây là một trong những khoản đầu tư sinh lợi nhất của Berkshire mà công ty vẫn còn giữ lại. Triết lý đầu tư Những bài viết của Warren Buffett bao gồm các báo cáo hàng năm và các bài báo khác nhau. Qua các lá thư gửi cổ đông hàng năm, các nhà truyền thông công nhận ông là một người kể chuyện tuyệt vời. Ông đã cảnh báo về tác động nguy hiểm của lạm phát: Trong bài viết "Những nhà đầu tư siêu cấp của Graham và Doddsville" , Buffett bác bỏ giả thuyết thị trường hiệu quả, rằng đánh bại S&P 500 là "cơ hội thuần túy", bằng cách nhấn mạnh các kết quả đạt được bởi một số sinh viên thuộc trường phái của Graham và Dodd theo điểu thuyết đầu tư giá trị. Ngoài bản thân, Buffett còn kể tên Walter J. Schloss, Tom Knapp, Ed Anderson (Tweedy, Browne LLC), William J. Ruane (Sequoia Fund, Inc.), Charles Munger (Đối tác kinh doanh riêng của Buffett tại Berkshire), Rick Guerin (Pacific Partners, Ltd.), và Stan Perlmeter (Perlmeter Investments). Trong bài viết tháng 11 năm 1999 trên tạp chí Fortune, ông đã cảnh báo về những kỳ vọng không thực tế của nhà đầu tư: Quỹ chỉ số và quản lý tích cực Buffet ủng hộ những ai không quan tâm hoặc không có thời gian để quản lý tài chính tham gia vào các quỹ chỉ số. Buffett hoài nghi rằng việc quản lý tích cực có thể làm tốt hơn thị trường trong thời gian dài và đã khuyên cả các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức chuyển tiền của họ vào các quỹ chỉ số theo dõi nhiều và đa dạng các chỉ số thị trường chứng khoán với mức chi phí thấp. Buffett đã nói trong một trong những bức thư gửi cổ đông rằng "khi hàng nghìn tỷ đô la được quản lý bởi những quý đầu cơ tính phí cao ở phố Wall, thì những quỹ quản lý này thu được lợi nhuận vượt trội, chứ không phải là khách hàng." Năm 2007, Buffett đã đặt cược với nhiều nhà quản lý rằng một quỹ chỉ số S&P 500 đơn giản sẽ hoạt động tốt hơn các quỹ đầu cơ tính phí cắt cổ. Đến năm 2017, quỹ chỉ số đã vượt trội hơn mọi quỹ đầu cơ đã đặt cược với Buffett. Đấu giá bữa ăn trưa làm từ thiện Năm 1999, Ý tưởng "bữa ăn quyền lực" xuất phát từ người vợ đầu tiên của ông và vẫn tiếp tục việc này sau khi vợ qua đời đã thu về khoảng 23,6 triệu USD. Kể từ đợt đấu giá đầu tiên, giá thực phẩm đã tăng chóng mặt nhưng vẫn không là gì so với mức tăng 1.282% cho chi phí ăn trưa với tỉ phú Buffett. Giá của bữa ăn độc đáo này đã tăng mạnh kể từ khi được cho đấu giá trên trang mạng eBay cho phép người đấu giá trên khắp thế giới tham gia. Người chiến thắng có thể mời tối đa bảy người bạn đến bữa ăn tại nhà hàng Smith & Wollensky và có quyền thảo luận với ông Buffett, một trong những nhà đầu tư được ngưỡng mộ nhất thế giới, về bất cứ chủ đề gì, ngoại trừ các kế hoạch đầu tư sắp tới của ông. Thời gian cho bữa ăn sẽ được ông Buffett hẹn riêng với người thắng cuộc. Số tiền đấu giá sẽ được trao cho Glide, tổ chức từ thiện ở San Francisco hỗ trợ thức ăn, chăm sóc y tế và các dịch vụ khác cho những người nghèo, vô gia cư... Glide đã cung cấp hơn 850.000 bữa ăn từ thiện trong năm ngoái, hỗ trợ nhà ở cho vô số người nghèo và tài trợ chương trình giáo dục cho hơn 450 trẻ em mỗi năm.
{{Thông tin khu dân cư |name = Tây An |official_name = 西安市 |native_name = 西安 |other_name = Trường An · 长安 |nickname = |settlement_type = Phó tỉnh thị |motto = |image_skyline = Xi'an montage.png |imagesize = |image_caption = Từ trên xuống, từ trái qua phải: Đội quân đất nung, tháp Đại Nhạn, lầu trống Tây An, lầu chuông Tây An, Tường thành Tây An - Địch lâu và vườn Phù Dung Đại Đường |image_map =Vị trí của Xi'an Prefecture within Shaanxi (China).png |mapsize = |map_caption =Tây An ở Thiểm Tây, Trung Quốc |image_map1 = |map_caption1 = |pushpin_map = China |pushpin_label_position = |pushpin_map_caption =Vị trí ở Trung Quốc |pushpin_mapsize = |subdivision_type = Tỉnh |subdivision_name = Thiểm Tây |leader_title = Bí thư thành uỷ Tây An |leader_name = Tôn Thanh Vân (孙清云) |leader_title1 = Thị trưởng |leader_name1 = Trần Bảo Căn (陈宝根) |area_magnitude = 1 E9 |area_total_km2 = 9983 |area_forest_km2 = 5390.82 |area_total_sq_mi 13.9 |area_land_sq_mi = |area_lAND_sq_kkm = |area_forest_sq_mi = |area_water_percent = |area_urban_km2 = 1166 |area_urban_sq_mi = |area_metro_km2 = |area_metro_sq_mi = |area_blank1_title = Yangling |area_blank1_km2 = 94 |area_blank1_sq_mi = |population_urban = 2670000 |population_density_urban_km2 = auto |population_as_of = 2000 |population_metro = |population_note = |population_total = 8252000 |population_density_km2 = auto |location = 34°16' N 108°54' E |elevation_m = 405 |timezone = CST |utc_offset = +8 |postal_code_type = Mã bưu chính |postal_code = 710000 - 710090|area_code = +86/29 |blank_name = GDP |blank_info = (2008) |blank1_name = - Tổng cộng |blank1_info = 219 tỷ ¥ |blank2_name = - đầu người |blank2_info = 26.259 NDT |blank3_name = Đầu biển số xe |blank3_info = 陕A |blank4_name = Hoa biểu tượng |blank4_info = hoa lựu |blank5_name = cây biểu tượng |blank5_info = hòe |website = http://www.xa.gov.cn/ |latd=34 |latm=16 |lats= |latNS=N |longd=108 |longm=54 |longs= |longEW=E |footnotes = }}Tây An (tiếng Hoa: 西安; pinyin: Xī'ān; Wade-Giles: Hsi-An) là thành phố tỉnh lỵ tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Đây là thành phố trực thuộc tỉnh. Tây An là một trong 4 kinh đô trong lịch sử Trung Hoa, là kinh đô của 13 triều đại, bao gồm: nhà Chu, nhà Tần, nhà Hán và nhà Đường. Tây An cũng là điểm kết thúc phía đông của Con đường tơ lụa huyền thoại. Thành phố có lịch sử hơn 3100 năm với tên gọi trong thời đấy Tràng An hay Trường An' (tiếng Hoa phồn thể: 長安; tiếng Hoa giản thể: 长安; pinyin: Cháng'ān; có nghĩa là "muôn đời bình yên"). Tây An là thành phố lớn nhất và phát triển nhất khu vực Tây Bắc và là một trong những thành phố lớn nhất Trung Quốc. Lịch sử Nhà Chu lập đô tại Phong (灃/沣 Feng) và Cảo (鎬/镐 Hao) giữa cuối thế kỷ 11 và năm 770 trước Công nguyên. Cả hai địa điểm này đều nằm phía tây của Tây An. Nhà Tần (221-206 trước Công nguyên) xây đô ở Hàm Dương, bờ bắc sông Hoài, sau đó bị Hạng Vũ cho thiêu rụi vào cuối đời nhà Tần. Năm 202 trước Công nguyên: Lưu Bang, Hán Cao Tổ, thành lập thành Trường An làm kinh đô. Cung Trường Lạc (tiếng Hoa phồn thể: 長樂宮; tiếng Hoa giản thể: 长乐宫) được xây dựng dọc hai bên sông trên khu phế tích của thành nhà Tần. Đây được xem là ngày thành lập của thành phố Tây An. 200 trước Công nguyên: Lưu Bang cho xây Cung Vị Ương (未央宫) ở Trường An. 194 trước Công nguyên: Khởi công xây dựng tường thành đầu tiên của Tràng An. Thành dài 25,7 km, dày 12–16 m tại đáy, diện tích: 36 km². Năm 190 sau Công nguyên: Nhà Đông Hán dời triều đình từ Tràng An đến Lạc Dương. Năm 582: Hoàng đế nhà Tùy ra lệnh xây đô mới ở Đông Nam kinh đô nhà Hán, gọi là Đại Hưng (大興 Daxing''). Thành gồm 3 phần: Cung điện, Tử Cấm Thành và khu vực dân cư. Diện tích trong thành: 84 km². Thành được đổi tên là Tràng An. Thế kỷ thứ 7: Đường Tăng Tam Tạng lập một khu dịch thuật kinh khổng lồ để dịch Kinh Phật từ tiếng Phạn sang chữ Hán sau khi thỉnh kinh từ Ấn Độ về. Năm 652: Xây dựng Tháp Đại Nhạn (大雁塔) cao 64 m dùng để chứa bản dịch Kinh phật của Đường Tăng Tam Tạng. Tháp chuông Tây An 707: Thuộc Tháp Tiểu Nhạn (小雁塔) cao 45 m, sau trận động đất năm 1556, chiều cao giảm còn 43,4 m. Năm 904: Kết thúc nhà Đường kéo theo sự phá hủy Trường An. Cư dân của thành bị lùa về Lạc Dương - kinh đô mới. Năm 1370: Nhà Minh xây một thành mới nhỏ hơn (khoảng 12 km²), chu vi: 11,9 km, cao: 12 m và dày 15–18 m tại chân thành. Tháng 10 năm 1911, trong thời kỳ cách mạng lật đổ nhà Thanh, những người Mãn Châu sống ở khu đông bắc trong thành đã bị thảm sát. Năm 1936, sự kiện Tây An đã diễn ra trong thành của thành phố trong nội chiến Trung Quốc. Sự kiện này đã khiến Quốc Dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc thoả thuận đình chiến để tập trung đánh quân Nhật Bản. Đây cũng là nơi có Phố Hồi giáo lớn. Nơi tham quan cho du khách nổi bật: Trường An Bát Cảnh (chữ Hán phồn thể: 長安八景; chữ Hán giản thể: 长安八景). Những công trình kiến trúc cổ, những tự viện và chùa chiền đã bị phá hủy nghiêm trọng trong sự tàn phá của cuộc Cách mạng Văn hóa từ năm 1966 đến năm 1976. Năm 1974, sau khi những người đào giếng tình cờ phát hiện ra đội quân đất nung thì Tây An một lần nữa lại nổi lên trên bản đồ quốc tế Phân chia hành chính Thành phố phó tỉnh Tây An chia thành 11 quận và 2 huyện: Địa lý Nhân khẩu Cuối năm 2005, Tây An có dân số 8,07 triệu người, so với số liệu điều tra năm 2000, dân số đã tăng thêm 656.700 người từ con số 7,41 triệu người. Cơ cấu dân số gồm 51,66% nam giới và 48,34% nữ giới. Quận đông dân nhất là Nhạn Tháp, với 1,08 triệu dân. Đa số dân Tây An là người Hán, chiếm 99,1% tổng dân số. Có khoảng 50.000 người thuộc các dân tộc thiểu số, gồm 80.000 người Hồi tập trung ở phố người Hồi, nơi có Nhà thờ Hồi giáo Tây An 1360 năm. Kinh tế GDP năm 2005 là 127 tỷ Nhân dân tệ, GDP đầu người: 16.180 NDT (2.025 Đô la Mỹ) xếp thứ 39 trong 659 thành phố của Trung Quốc. Tây An là một thành phố công nghiệp và phát triển lớn nhất Tây Bắc Trung Quốc. Tây An cũng là nơi thu hút vốn FDI lớn nhất trong số các thành phố miền Tây Trung Quốc. Giao thông Đường sắt Tây An có một nhà ga chính: Nhà ga Tây An. Các nhà ga khác là Nhà ga Tây Tây An, Nhà ga Đông Tây An, Nhà ga Sanmincun, Nhà ga Fangzhicheng, Nhà ga Bắc Tây An. Tây An là trung tâm mạng lưới đường sắt. Hàng không Sân bay quốc tế Hàm Dương Tây An, nằm ở phía Tây Bắc thành phố Tây An thuộc thành phố Hàm Dương, có cự ly 47 km từ trung tâm của Tây An, cách trung tâm thành phố Hàm Dương 13 km. Đây là sân bay chính của Tây An. Đây là sân bay lớn nhất vùng Tây Bắc Trung Quốc. Các hãng hàng không Chang'an Airlines, China Eastern Airline là hãng hàng không chính ở Tây An. Các tuyến bay quốc tế gồm: Bangkok, Fukuoka, Hong Kong, Osaka, Pusan, Sapporo và Singapore. Xe buýt công cộng Có hơn 200 tuyến xe buýt ở Tây An. Tàu điện ngầm Tuyến đầu tiên của dự án xây dựng tàu điện ngầm đã bắt đầu vào năm 2009. Hiện tại đang xây dựng dọc theo đường Trường An, là tuyến đường tàu điện ngầm đầu tiên ở thành phố này, có 6 tuyến, hoàn thành năm 2020.
Trường An () hay cũng gọi được là Tràng An là kinh đô của 13 triều đại trong lịch sử Trung Quốc, nay là thành phố Tây An. Trường An có nghĩa là "bình yên bền lâu" trong tiếng Hán. Trong thời gian tồn tại ngắn ngủi của nhà Tân, thành được đổi tên là "Thường An" (); sau khi triều đại này sụp đổ vào năm 23, tên cũ được khôi phục. Vào thời nhà Minh, tên của thành được đổi thành Tây An, và tên gọi này được duy trì cho đến nay. Loài người đã định cư tại khu vực Trường An từ thời đại đồ đá mới, khi văn hóa Ngưỡng Thiều được hình thành tại Bán Pha ở ngoại thành. Cũng tại vùng lân cận phía bắc của Tây An ngày nay, người ta đã phát hiện được lăng mộ của Tần Thủy Hoàng với đội quân đất nung nổi tiếng bảo vệ cho ông. Từ kinh đô Hàm Dương ở ngay phía tây Tây An ngày nay, nhà Tần đã cai trị một khu vực rộng lớn hơn bất kỳ lãnh thổ của triều đại Trung Quốc nào trước đó. Hoàng thành Trường An thời nhà Hán nằm ở tây bắc của Tây An hiện nay. Dưới thời nhà Đường, khu vực được gọi là Trường An nằm trong diện tích bên trong thành Tây An thời Minh, cộng với một số khu vực nằm ở phía đông và phía tây của nó, và một phần lớn khu vực ngoại ô phía nam. Suốt thời nhà Đường, Trường An có quy mô lớn hơn 8 lần so với thành Tây An thời Minh. Trong thời gian hoàng kim của mình, Trường An từng là thành phố lớn nhất và đông dân nhất thế giới. Khoảng năm 750, Trường An được gọi là "thành phố triệu dân" trong sử sách Trung Quốc, trong khi các ước tính hiện đại cho rằng trong thành nội có khoảng 800.000–1.000.000 dân. Theo điều tra dân số vào năm 742 được ghi trong Tân Đường thư, đếm được 362.921 hộ với 1.960.188 người tại Kinh Triệu phủ (京兆府), vùng đô thị bao gồm cả các thành nhỏ lân cận. Tầm quan trọng chiến lược và kinh tế của Trường An cổ đại Tầm quan trọng chiến lược và kinh tế của Trường An chủ yếu là do vị trí trung tâm của nó. Các con đường dẫn đến Cam Túc, Tứ Xuyên, Hà Nam, Hồ Bắc và Sơn Tây đều hội tụ ở đây. Vùng núi non xung quanh thung lũng Vị Hà khiến chỉ có hai tuyến đường khả dụng để đi về phía nam, và hai tuyến đi sang Cam Túc ở phía tây, tạo thành điểm khởi đầu của Con đường tơ lụa thời cổ: Từ Trường An đến Thành Đô (Tứ Xuyên), 2300 lý (1233 km) Từ Trường An đến Lan Châu (Cam Túc), 1470 lý (628 km) Từ Trường An đến Cáp Mật (Tân Cương), 4480 lý (2403 km) Từ Trường An đến Y Ninh (Tân Cương), 8020 lý (4302 km) Từ Trường An đến Toa Xa (Tân Cương), 9250 lý (4962 km) Từ Trường An đến Bắc Kinh, 1832 lý (875 km).
Thành Đô (tiếng Trung: 成都; bính âm: Chéngdu; Wade-Giles: Ch'eng-tu, phát âm: ), là một thành phố tại tây nam Trung Quốc, tỉnh lỵ tỉnh Tứ Xuyên, là thành phố thuộc tỉnh, đông dân thứ năm Trung Quốc (2005). Thành Đô là một trong những trung tâm giao thông vận tải và giao thương quan trọng của Trung Quốc. Hơn 4000 năm trước, nền văn hóa Kim Sa (金沙 Jinsha) thời kỳ đồ đồng được thiết lập tại khu vực này. Đồng bằng màu mỡ Thành Đô được gọi là "Thiên Phủ Chi Quốc", có nghĩa là "đất nước thiên đường". Nói về lai lịch của Thành Đô, căn cứ vào những gì được ghi lại trong "Thái Bình Hoàn Vũ Ký", khi đó nhà Tây Chu lập thủ đô, có câu nói "Một năm thành làng, hai năm thành ấp, ba năm thành đô", vì vậy mà gọi là Thành Đô. Đến thời điểm Ngũ Đại Thập Quốc, vị hoàng đế nhà thục là Mạnh Sưởng Thiên thích hoa Phù Dung, vì thế ra lệnh cho dân chúng trồng hoa Phù Dung trên tường thành, đến lúc hoa nở thì Thành Đô rực rỡ bốn mươi dặm, Thành Đô cũ lại được xưng là Phù Dung Thành, tên gọi khác của Thành Đô. Lịch sử Trong thời Tam Quốc, nhà Thục Hán (221-263) do Lưu Bị thành lập đã đặt đô ở Thành Đô. Thời kì Ngũ đại Thập quốc, hai chính quyền Tiền Thục và Hậu Thục cùng đặt đô tại đây. Phân chia hành chính Thành Đô được chia ra làm 20 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 12 quận, 5 thành phố cấp huyện và 3 huyện. Quận: Cẩm Giang (锦江区), Thanh Dương (青羊区), Kim Ngưu (金牛区), Vũ Hầu (武侯区), Thành Hoa (成华区), Long Tuyền Dịch (龙泉驿区), Thanh Bạch Giang (青白江区), Tân Đô (新都区), Ôn Giang (温江区), Song Lưu (双流区), Bì Đô (郫都区), Tân Tân (新津区) Thành phố cấp huyện: Đô Giang Yển (都江堰市), Bành Châu (彭州市), Cung Lai (邛崃市), Sùng Châu (崇州市), Giản Dương (简阳市) Huyện: Kim Đường (金堂县), Đại Ấp (大邑县), Bồ Giang (蒲江县) Dân số Năm 2005, dân số thành phố Thành Đô là: 10.700.000, xếp thứ năm sau Thượng Hải, Bắc Kinh, Thiên Tân và Trùng Khánh. Thành Đô là quê hương của nhà văn nổi tiếng Ba Kim. Kinh tế Thành Đô là nơi có nhiều ngành công nghiệp chủ chốt của Trung Quốc. Tứ Xuyên từ lâu là thủ đô thuốc Bắc của Trung Hoa. Thành Đô ngày nay là một trung tâm sản xuất và nghiên cứu dược phẩm của Trung Quốc. Khu công nghệ cao Thành Đô thu hút nhiều dự án công nghệ cao của Intel, Microsoft, và là đại bản doanh của Lenovo. Văn Hóa- Giải Trí Thành Đô là tên 1 bài hát của ca sĩ kiêm nhạc sĩ Triệu Lôi . Bài hát trong album Chẳng thể trưởng thành-Vô Pháp Trưởng Thành- 无法长大- 21 tháng 12 năm 2016. Giao thông Sân bay quốc tế Song Lưu Thành Đô lớn thứ 6 tại Trung Quốc Đại lục, sau sân bay tại Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu, Thâm Quyến. Năm 2005, lượng khách thông qua sân bay này là 13,89 triệu, xếp thứ 89 trong các sân bay toàn cầu. Thành Đô là thành phố thứ tư của Trung Quốc có các chuyến bay quốc tế. Khí hậu
Lviv ( L’viv, ; ; , L'vov; ; ; hay Lvov (tiếng Nga: Львов, Lvov), là một thành phố ở phía Tây của Ukraina, trung tâm hành chính của tỉnh Lviv. Thành phố này được xem là một trong những trung tâm văn hóa lớn của Ukraina. Dân số: 717.273 người (số liệu năm 2022), trong đó 88,1% là người Ukraina, 8,9% người Nga, 0,3% người Do Thái, 0,9% người Ba Lan, 0,4% người Belarus và 0,1% người Armenia. Hàng ngày Lviv có khoảng 200.000 người từ các vùng khác đến làm việc. Thành phố Lviv là nơi có nhiều ngành công nghiệp, nhiều viện nghiên cứu lớn (Đại học Lviv, Đại học Bách khoa Quốc gia Lviv). Ở đây có Nhà hát opera và ba-lê Lviv. Thành phố có lịch sử 750 năm, trung tâm thành phố được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Bộ sưu tập Khí hậu Lịch sử Hành chính Halych district (ukr. Галицький район – Halytskyi raion) Zaliznytsia district (ukr. Залізничний район – Zaliznychnyi raion) Lychakiv district (ukr. Личаківський район – Lychakivs'kyi raion) Sykhiv district (ukr. Сихівський район – Sykhivs'kyi raion) Franko district (ukr. Франківський район – Frankivs'kyi raion) Shevchenko district (ukr. Шевченківський район – Shevchenkivs'kyi raion) Notable suburbs include: Vynnyky (ukr. місто Винники) Briukhovychi (ukr. селище Брюховичі) Rudne (ukr. селище Рудне) Những công dân Lviv nổi tiếng Sholem Aleichem, nhà văn, nhà viết kịch người Yiddish Bohdan-Ihor Antonych, nhà thơ Ukraina Muhammad Asad, nhà văn Emanuel Ax, nhạc sĩ piano Stefan Banach, nhà toán học người Ba Lan Yuri Bashmet, nhạc sĩ viola Alexander Beliavsky, Ukrainian chess grandmaster Roman Bezpalkiv, Ukrainian painter Wojciech Bobowski, dragoman và nhạc sĩ của Đế quốc Ottoman, người đầu tiên dịch Kinh Thánh sang tiếng Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman Michał Piotr Boym, preacher, sinologist, nhà du hành, người làm bản đồ, người phiên dịch, đại sứ, triết gia, philologist, nhà sinh vật học, thực vật học, bác sĩ Tadeusz Bór-Komorowski, tướng lĩnh quân đội người Ba Lan Solomon Buber (1827–1906), nhà văn, triết gia, chủ ngân hàng Tadeusz Brzeziński, đại sứ Ba Lan, cha của Zbigniew Brzeziński, người tư vấn về an ninh quốc gia cho Tổng thống Jimmy Carter Martin Buber, triết gia người Áo-Israel Vyacheslav Chornovil, chính trị gia người Ukraina Albert Franz Doppler (1821–1883), Flute virtuoso and composer Krystyna Feldman, diễn viên người Ba Lan Ludwik Fleck, bác sĩ, nhà sinh vật học người Ba Lan Ivan Franko, triết gia, nhà văn người Ukraina Aleksander Fredro, Polish poet, playwright Leo Fuchs, actor Eugeniusz Geppert, Polish painter Maurice Goldhaber, physicist Kazimierz Górski, Polish football coach Zbigniew Herbert, Polish poet, writer Mykhailo Hrushevsky, Ukrainian academician, politician Lubomyr Husar, Archbishop of the Ukrainian Catholic Church Danylo Ishutin, Ukrainian professional gaming player Vassily Ivanchuk, Ukrainian chess grandmaster Volodymyr Ivasiuk, Ukrainian composer Michał Karaszewicz-Tokarzewski, Polish military leader Faina Kirschenbaum, Israeli politician Filaret Kolessa, Ukrainian ethnographer, composer Maria Konopnicka, Polish poet, writer Solomiya Krushelnytska, Ukrainian opera singer Les Kurbas, Ukrainian movie and theater director,actor Jacek Kuroń, Polish politic Ivan Krypiakevych, Ukrainian historian, academician, professor of Lviv University Oleh Krysa, Ukrainian violinist, professor Stanisław Lem, Polish writer Oleh Luzhny, Ukrainian former professional footballer, current assistant manager of FC Dynamo Kyiv Stanislav Liudkevych, Ukrainian composer Karol Mikuli (1819–1897), Polish pianist, Chopin's student Ludwig von Mises, Austrian-US American economist Gabriela Moyseowicz, Polish composer, pianist Franz Xavier Mozart, composer Paul Muni, actor Aleksander Myszuga, Polish opera singer Karl Radek (1885–1939), political activist Moriz Rosenthal (1862–1946), Polish pianist, composer. Joseph Roth, Austrian writer Tadeusz Rychter, Polish painter Ruslana (1973), Ukrainian pop singer Leopold von Sacher-Masoch, Austrian writer Pinchas Sadeh (born Pinchas Feldman, 1929–94), Polish-born Israeli novelist and poet Markiyan Shashkevych, Ukrainian writer Andrey Sheptytsky, Ukrainian philanthropist, benefactor, founder of Lviv National Museum,Metropolitan Archbishop Myroslav Skoryk, Ukrainian composer Leopold Staff, Polish modernist poet Vasyl Stefanyk, Ukrainian writer Adam Ulam, Polish historian Stanisław Ulam, Polish mathematician Ivan Vakarchuk, Ukrainian physicist, rector of the Lviv National University Svyatoslav Vakarchuk, Ukrainian rock musician Elena Sergeyevna Vesnina (1902–1942), writer, poet Iryna Vilde (1907-1982), Ukrainian writer Simon Wiesenthal, Holocaust survivor and Nazi hunter Adam Zagajewski, Polish poet Gabriela Zapolska, Polish playwright, actress Casimir Zeglen, Inventor of the Bulletproof vest Quan hệ quốc tế Các thành phố song sinh và kết nghĩa
Odessa (còn gọi là Odesa; ; ; ) là thành phố đông dân thứ ba Ukraina và là một trung tâm du lịch, thương mại và vận tải lớn nằm trên bờ tây bắc biển Đen. Đây là thủ phủ oblast Odessa. Odessa có khi được mệnh danh là "hòn ngọc biển Đen", "Nam Đô" (dưới thời Đế quốc Nga và Liên Xô), và "Nam Palmyra". Trước khi lọt vào tay Sa hoàng, từng có một khu người Hy Lạp nơi đây (người Hy Lạp cũng sống rải rác khắp bờ bắc biển Đen). Rồi đến người Tatar, theo chân Hacı I Giray - Hãn của Krym, đến định cư nơi này năm 1440, đặt cho nó cái tên "Hacıbey". Sau một thời nằm dưới Đại công quốc Lietuva, Hacibey rơi vào tay người Ottoman từ 1529 cho tới khi đế quốc Ottoman bị đánh bại trong chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ năm 1792. Năm 1794, thành phố Odessa được lập nên theo chỉ thị của Ekaterina Đại đế, nữ hoàng Nga. Từ năm 1819 đến 1858, Odessa là một hải cảng tự do. Vào thời Liên Xô, đây là một cảng thương mại kiêm căn cứ hải quân quan trọng. Hồi thế kỷ XIX, Odessa là thành phố lớn thứ 4 Đế quốc Nga, sau Moskva, Sankt-Peterburg và Warszawa. Kiến trúc lịch sử nơi đây mang đậm nét Địa Trung Hải hơn nét Nga, do chịu ảnh hưởng nặng phong cách Pháp, Ý. Một số tòa nhà là sự pha trộn đa phong cách, gồm Art Nouveau, Phục hưng và Cổ điển. Địa lý Khí hậu Odessa có khí hậu lục địa ẩm (phân loại khí hậu Köppen Dfa), giáp với khí hậu bán khô hạn và cận nhiệt đới ẩm. Chú thích Tài liệu Đọc thêm Complete book available online. Two reviews (hardcover), (1991 paperback reprint) (hardcover); (paperback) (hardcover), (paperback reprint) Biển Đen Thành phố Anh hùng (Liên Xô)
Hằng đẳng thức Roy (đặt theo tên nhà kinh tế học người Pháp René Roy) là công thức giúp tính được hàm cầu Marshall bằng cách lấy đạo hàm của hàm thỏa dụng gián tiếp theo giá cả chia cho đạo hàm của hàm thỏa dụng gián tiếp theo thu nhập có thể sử dụng được. Biểu diễn bằng công thức, hằng đẳng thức Roy có dạng sau: trong đó: e(u,p) là hàm chi tiêu p_i là mức giá của mặt hàng i m là thu nhập có thể sử dụng được x_i là lượng cầu về mặt hàng i
Yokohama (tiếng Nhật: 横浜市) là thành phố tỉnh lị của tỉnh Kanagawa, Nhật Bản. Đây là thành phố lớn thứ hai tính theo dân số và là khu tự quản lớn nhất tại Nhật Bản (Tokyo có vị thế tương đương tỉnh trong khi khu tự quản thuộc một tỉnh). Nơi đây cũng là cảng biển quy mô nhất Nhật Bản, vận hành là một trung tâm thương mại tầm vóc trong Vùng thủ đô Tokyo. Yokohama nằm bên vịnh Tokyo, phía nam Tokyo, trong khu vực Kanto của đảo chính Honshu. Yokohama phát triển nhanh chóng từ giữa thế kỷ 19 trở đi sau khi Mạc phủ chấp nhận thông thương với phương Tây. Ngày nay Yokohama là một trong những thương cảng chính. Sánh cùng Kobe, Osaka, Nagoya, Hakata, Tokyo, và Chiba. Lịch sử Yokohama là một làng chài nhỏ cho đến cuối thời kỳ Edo, lúc Nhật Bản còn theo đuổi chính sách bế quan tỏa cảng hạn chế giao dịch với phương Tây. Vào những năm 1853-1854 Phó đề đốc Matthew C. Perry thuộc Hải quân Hoa Kỳ điều chiến thuyền đến Nhật Bản neo ở cửa Vịnh Tokyo và đưa thư làm áp lực với triều đình Nhật, đòi phải mở cửa giao thương; Mạc phủ lúng túng, tuy muốn chống lại nhưng rồi đành nhượng bộ để tránh giao tranh và chấp nhận mở một số hải cảng cho người ngoại quốc đến buôn bán. Theo Hiệp ước ký kết thì Kanagawa-juku (bây giờ là phường Kanagawa) là một địa điểm thông thương nhưng vì Kanagawa nằm ngay trên quan lộ Tokaido, tức tuyến đường chiến lược nam bắc nối Edo với Kyoto và Osaka nên Mạc phủ Tokugawa chọn Yokohama lui xa hơn về phía Nam. Yokohama chính thức khai thương ngày 2 tháng 6 năm 1859. Sự kiện đó biến thị trấn này thành một cửa biển sầm uất. Trận chung kết World Cup 2002 được tổ chức tại Sân vận động quốc tế Yokohama. Tòa nhà cao nhất: Yokohama Landmark Tower cao 65 tầng. Yokohama có 18 khu hành chính (行政区 gyōseiku): Aoba-ku (青葉区) Asahi-ku (旭区) Hodogaya-ku (保土ヶ谷区) Isogo-ku (磯子区) Izumi-ku (泉区) Kanagawa-ku (神奈川区) Kanazawa-ku (金沢区) Kōhoku-ku (港北区) Kōnan-ku (港南区) Midori-ku (緑区) Minami-ku (南区) Naka-ku (中区) Nishi-ku (西区) Sakae-ku (栄区) Seya-ku (瀬谷区) Totsuka-ku (戸塚区) Tsurumi-ku (鶴見区) Tsuzuki-ku (都築区) Thư viện ảnh Ghi chú
Nước xốt cà chua (ketchup) là loại nước sốt để bàn. Mặc dù công thức ban đầu sử dụng lòng trắng trứng, nấm, hàu, nho, sò, hoặc quả óc chó, gồm một số các thành phần khác, công thức hiện đại không thay đổi đề cập đến tomato ketchup tại Mỹ. Thành phần Những thành phần cơ bản của ketchup là: cà chua, giấm, đường, muối, hạt tiêu, đinh hương, có thể cho thêm quế (với vị của Hoa Kỳ nhưng không phổ biến ở châu Âu); hành, cần tây (với vị của vùng Địa Trung Hải) và một số gia vị khác (chẳng hạn oregano, basil). Với những người sành ăn, ketchup phải được sản xuất từ một loại cà chua đặc biệt, loại Solanum pennellii (syn. Lycopersicon pennellii]]), đó là một loại cà chua ngọt. Nhưng về cơ bản, đa phần người ta dùng cà chua thường (Lycopersicum esculentum) thêm đường để sản xuất ketchup. Không phải luôn luôn ketchup được tạo ra từ cà chua. Ban đầu nó dùng để chỉ "nước sốt", điển hình làm từ nấm hay nước mắm cùng với thảo dược và nhiều gia vị khác. Một vài thành phần chính được bổ sung: cá trồng, dầu ăn, tôm hùm, đậu ngắn, dưa chuột, nam việt quất, chanh, nho... Phân loại Ở châu Âu và Mỹ có ba loại chính: Ketchup cà chua Ketchup căn bản, sản phẩm chính là cà chua, thêm vào đường, giấm, muối, hành, tỏi và gia vị. Nó chiếm 70% thị trường ketchup ở Đức. Ketchup gia vị Ketchup căn bản thêm với những rau quả như dưa leo, ớt tây, ớt ta và các gia vị khác để thành các loại ketchup như ketchup barbecue cho các món thịt nướng, ketchup steak cho beef steak, hay ketchup cay (Hot Chili Sauce). Ketchup cà ri Ketchup căn bản thêm gia vị cà ri, thường cay hơn ketchup căn bản. Nó chiếm 20% thị trường ketchup ở Đức. Ngành công nghiệp Hai công ty có công đầu trong việc thịnh hành và kinh doanh ketchup ở Mỹ là H. J. Heinz Company (với hiệu là Heinz) và ConAgra Foods (với hiệu là Hunt's). Ngoài ra cũng có rất nhiều nhãn hiệu khác, và tất nhiên ketchup thượng hạng vẫn là những sản phẩm thủ công, với những quả cà chua chín mọng vừa được thu hoạch, và người ta thêm nếm một ít đường, một it muối và những gia vị hợp lý (hành tây, tiêu, dấm), sau đó là xay nhuyễn và cô đặc cùng với lửa nhỏ.
Vũ Hán (; phát âm: ) là thủ phủ của tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Đây là thành phố lớn nhất ở Hồ Bắc và là thành phố đông dân nhất ở miền Trung Trung Quốc, với dân số hơn 11 triệu người, thành phố đông dân thứ 9 của Trung Quốc và là một trong chín thành phố trung tâm quốc gia của Trung Quốc. Cái tên "Vũ Hán" đến từ nguồn gốc lịch sử của thành phố từ sự kết hợp của Vũ Xương, Hán Khẩu và Hán Dương, được gọi chung là "Tam thị trấn Vũ Hán" 武汉三镇 Nó nằm ở phía đông đồng bằng Giang Hán, trên ngã ba sông Dương Tử và phụ lưu lớn nhất của nó, sông Hàn, và được gọi là "ngã rẽ chín tỉnh" của Trung Quốc (九省通衢). Các sự kiện lịch sử diễn ra ở Vũ Hán bao gồm Cuộc khởi nghĩa Vũ Xương, dẫn đến sự sụp đổ của triều đại nhà Thanh và thành lập Trung Hoa Dân Quốc. Vũ Hán là thủ đô của Trung Quốc trong một thời gian ngắn vào năm 1927 của cánh tả của chính phủ Quốc Dân Đảng (Quốc Dân Đảng) do Uông Tinh Vệ lãnh đạo. Thành phố này sau đó đóng vai trò là thủ đô thời chiến của Trung Quốc vào năm 1937 trong mười tháng trong Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai. Vũ Hán ngày nay được coi là trung tâm chính trị, kinh tế, tài chính, thương mại, văn hóa và giáo dục của miền Trung Trung Quốc. Đây là một trung tâm giao thông chính, với hàng chục tuyến đường sắt, đường bộ và đường cao tốc đi qua thành phố và kết nối với các thành phố lớn khác. Do vai trò chính của nó trong vận tải nội địa, Vũ Hán đôi khi được các nguồn nước ngoài gọi là " Chicago của Trung Quốc". "Con đường vàng" của sông Dương Tử và phụ lưu lớn nhất của nó, sông Hán, đi qua khu vực đô thị và chia Vũ Hán thành ba quận Vũ Xương, Hán Khẩu và Hán Dương. Cầu sông Dương Tử Vũ Hán đi qua sông Dương Tử trong thành phố. Đập Tam Hiệp, nhà máy điện lớn nhất thế giới về công suất lắp đặt, nằm gần đó. Trong khi Vũ Hán là một trung tâm sản xuất truyền thống trong nhiều thập kỷ, nó cũng là một trong những lĩnh vực thúc đẩy những thay đổi công nghiệp hiện đại ở Trung Quốc. Vũ Hán bao gồm ba khu vực phát triển quốc gia, bốn khu phát triển khoa học và công nghệ, hơn 350 viện nghiên cứu, 1.656 doanh nghiệp công nghệ cao, nhiều cơ sở ươm tạo doanh nghiệp và đầu tư từ 230 công ty Fortune Global 500. Nó đã tạo ra GDP là US $ 224 tỷ trong năm 2018. Dongfeng Motor Corporation, một nhà sản xuất ô tô, có trụ sở tại Vũ Hán. Vũ Hán là nơi có nhiều học viện giáo dục đại học đáng chú ý, bao gồm Đại học Vũ Hán, được xếp hạng thứ ba trên toàn quốc vào năm 2017, và Đại học Khoa học và Công nghệ Hoa Trung. Trong lịch sử, Vũ Hán đã phải chịu rủi ro lũ lụt, khiến chính phủ phải xoa dịu tình hình bằng cách đưa ra các cơ chế hấp thụ thân thiện với môi trường. Năm 2017, Vũ Hán được UNESCO chỉ định là Thành phố sáng tạo, trong lĩnh vực thiết kế. Vũ Hán được Mạng lưới nghiên cứu toàn cầu hóa và thành phố thế giới phân loại là thành phố thế giới Beta. Tháng 2 năm 2020, thành phố này bị phong tỏa vì sự bùng phát dữ dội của Đại dịch COVID-19. Ca nhiễm đầu tiên xuất hiện từ Chợ buôn bán hải sản Hoa Nam của thành phố ở quận Giang Hán. Ước tính năm triệu người đã rời khỏi thành phố trước khi có lệnh phong tỏa, gây ra sự tức giận và chỉ trích về việc phong tỏa kiểm dịch muộn màng của chính phủ. Lịch sử 10000 năm trước đã có dân cư sinh sống ở đây. Vào thời nhà Hán, Hàm Dương là một cảng tấp nập. Thế kỷ III, các thành được xây dựng để bảo vệ Hàm Dương (206) và Vũ Xương (223), năm 223 được xem là năm thành lập Vũ Hán. Năm 223, Hoàng Hạc lâu (黄鹤楼) được xây dựng trên khu Vũ Xương của sông Dương Tử. Thôi Hiệu (崔颢), một nhà thơ nổi tiếng thời nhà Đường, đã thăm ngôi làng và viết bài thơ "Hoàng Hạc Lâu" nổi tiếng vào thế kỷ VIII, nhờ bài thơ này địa danh này đã nổi tiếng khắp Trung Quốc. Thành phố từ lâu được xem là trung tâm nghệ thuật (thi họa) và học thuật. Dưới triều nhà Nguyên (Nguyên-Mông), 600 năm trước đây, Hán Khẩu là một trong 4 thương cảng sầm uất nhất Trung Quốc. Vào tháng 12 năm 2019, Vũ Hán trở thành tâm điểm và là nơi bùng phát đại dịch COVID-19, một bệnh tương tự như bệnh SARS, vốn còn gọi là virus Vũ Hán vì việc nhiễm virus được phát hiện lần đầu tiên tại thành phố này. Sang tháng 1 năm 2020, giới chức thẩm quyền tại Vũ Hán đặt thành phố trong tình trạng cách ly "nhằm ngăn chặn tình trạng lây lan" chủng Coronavirus mới (tức SARS-CoV-2). Việc cách ly sẽ hủy bỏ mọi phương tiên vận chuyển công cộng đi và đến thành phố, ảnh hưởng đến việc vận chuyển đường không và đường sắt. Địa lý Vùng đô thị bao gồm 3 khu: Vũ Xương, Hán Khẩu và Hán Dương. Tên gọi Vũ Hán lấy từ tên của ba khu này, trong đó Vũ lấy từ tên của khu đầu tiên, còn Hán lấy từ tên của hai khu sau. Khí hậu Phân chia hành chính Thành phố cấp phó tỉnh Vũ Hán tại thời điểm năm 2020 bao gồm 13 khu (quận). Theo điều tra dân số lần thứ sáu của Trung Quốc năm 2010 thì 13 khu này bao gồm 160 đơn vị cấp hương trong đó 156 nhai đạo biện sự xứ, 3 trấn, 1 hương. Kinh tế Vũ Hán là một thành phố cấp phó tỉnh. GDP của Vũ Hán là 396 tỷ nhân dân tệ với GDP bình quân đầu người khoảng 44.000 nhân dân tệ (tương đương 6.285 đô la Mỹ) trong năm 2008. Vũ Hán hiện đang thu hút khoảng 50 công ty Pháp, chiếm hơn một phần ba của Pháp đầu tư tại Trung Quốc, nhiều nhất trong số các thành phố Trung Quốc. Vũ Hán là một trung tâm quan trọng về kinh tế, thương mại, tài chính, vận tải, công nghệ thông tin, và giáo dục ở miền trung Trung Quốc. Các ngành công nghiệp chủ yếu của nó bao gồm quang-điện tử, sản xuất ô tô, sản xuất thép, ngành dược phẩm, sinh học kỹ thuật, công nghiệp vật liệu mới và bảo vệ môi trường. Wuhan Iron & Steel (Group) Co. và Dongfeng-Citroen Automobile Co., Ltd có trụ sở tại thành phố. Hiện có 35 cơ sở giáo dục bậc đại học ở đây, trong đó có Đại học Vũ Hán, Đại học Khoa học & Công nghệ Huazhong, thành phố có 3 khu phát triển cấp nhà nước, thành phố này xếp thứ 3 ở Trung Quốc về sức mạnh khoa học và công nghệ. Trường đại học Thành phố có 8 trường đại học và cao đẳng công lập, 13 trường cao đẳng và đại học khác. Quốc lập Công lập Đại dịch COVID-19 Dịch virus corona bắt đầu vào giữa tháng 12 năm 2019 tại thành phố Vũ Hán, khi một nhóm người bị viêm phổi cấp tính không rõ nguyên nhân, được liên kết chủ yếu với những người buôn bán làm việc tại chợ hải sản Hoa Nam, nơi bán động vật sống. Động vật được bán để làm thức ăn bị nghi ngờ là nơi chứa hoặc trung gian cho virus vì nhiều người nhiễm bệnh đầu tiên được xác định là công nhân tại Chợ hải sản Hoa Nam, họ tiếp xúc nhiều hơn với động vật.
Côn Minh (tiếng Trung: 昆明; bính âm: Kūnmíng; Wade-Giles: K'un-ming) là thủ phủ tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, dân số nội thị năm 2006 khoảng 1.055.000 người. Vị trí địa lý: nằm bờ phía nam của hồ Điền Trì (hồ Côn Minh). Thành phố thường được gọi là Xuân Thành (春城, tức "thành phố mùa xuân"). Thành phố ở độ cao trung bình khoảng 1.892 m so với mực nước biển. Thành phố có 2.400 năm lịch sử, là trung tâm văn hóa, kinh tế, giao thông của tỉnh Vân Nam. Kinh tế Nền kinh tế của Côn Minh xếp thứ 14 trong các thành phố Trung Quốc năm 1992. Nhiều tuyến đường sắt, và đường bộ đã được xây dựng để nối Côn Minh với Thái Lan, Việt Nam và Lào nhằm giúp Côn Minh có đường ra cảng biển. Côn Minh tham gia tích cực vào Tiểu vùng Mekong mở rộng (bao gồm: Campuchia, Lào, Myanma (Miến Điện), Thái Lan và Việt Nam. Lịch sử Thành phố có thể được xem có thời gian hình thành năm 279 trước Công nguyên. Năm 765, thành phố Thác Đông (拓东) được thành lập. Vào thế kỷ 13, Marco Polo đã đến đây và đã viết về vùng đất này trong nhật ký. Thành phố được hoàng đế nhà Nguyên đổi tên thành Côn Minh vào năm 1276. Vào thế kỷ 14, Côn Minh được nhà Minh chiếm lại và cho xây một bức tường bao quanh thành phố Côn Minh ngày nay. Đây cũng là nơi mà Vĩnh Lịch đế , vị vua cuối cùng của nhà Nam Minh cùng gia quyến đã tự vẫn . Vào thế kỷ 19, Côn Minh chịu sự kiểm soát của quân nổi loạn dưới sự lãnh đạo của Đỗ Văn Tú (杜文秀) vua của Đại Lý quốc từ 1858 đến 1868. Nhiều thập kỷ sau, Côn Minh bắt đầu chịu ảnh hưởng của phương Tây. Khí hậu Phân chia hành chính Quận: 7 Bàn Long Ngũ Hoa Quan Độ Tây Sơn Trình Cống Đông Xuyên Tấn Ninh Thành phố cấp huyện: 1 An Ninh Huyện: 6 (3 huyện tự trị) Phú Dân Nghi Lương Tung Minh Huyện tự trị dân tộc Di Thạch Lâm Huyện tự trị dân tộc Di-Miêu Lộc Khuyến Huyện tự trị dân tộc Hồi-Di Tầm Điện Các trường đại học Đại học Vân Nam (Yunnan University, 云南大学) (thành lập năm 1923) Đại học Khoa học Công nghệ Côn Minh (Kunming University of Science and Technology, 昆明理工大学) Học viện Lâm nghiệp Tây Nam (Southwest Forestry College, 西南林学院) Đại học Nông nghiệp Vân Nam (Yunnan Agricultural University, 云南农业大学) Đại học Sư phạm Vân Nam (Yunnan Normal University, 云南师范大学) Học viện Đông Y Vân Nam (Yunnan University of Traditional Chinese Medicine, 云南中医学院) Học viện Tài chính Kinh tế Vân Nam (Yunnan University of Finance and Economics, 云南财贸学院) Đại học Y khoa Côn Minh (Kunming Medical University, 昆明医科大学) Đại học Côn Minh (Kunming University, 昆明大学) Học viện Sư phạm Côn Minh (Kunming Teacher's College, 昆明学院) Giao thông Hàng không Sân bay quốc tế Vu Gia Bá (Kunming Wujiaba International Airport; 昆明巫家坝国际机场) nằm cách trung tâm thành phố 7,5 km về phía Nam, là một trong mười sân bay lớn nhất Trung Quốc. Sân bay Vu Gia Bá có các đường bay quốc tế đến nhiều thành phố thuộc châu Á, cũng như các đường bay nội địa và nội tỉnh. Sân bay quốc tế mới là Sân bay quốc tế Trường Thủy Côn Minh tại quận Quan Độ, cách trung tâm thành phố Côn Minh 24,5 km, được đưa vào sử dụng vào năm 2011 để thay thế cho Sân bay quốc tế Vu Gia Bá Côn Minh cũ. Khi đưa vào hoạt động nó là sân bay lớn thứ 4 ở Trung Quốc và lọt TOP 80 sân bay lớn nhất Thế giới Ghi chú Thành phố tỉnh Vân Nam Tỉnh lỵ Trung Quốc Khởi đầu năm 765 Khởi đầu thế kỷ 8 ở Trung Quốc Du lịch Vân Nam Khu dân cư thành lập thế kỷ 8
Phi đội gà bay (tựa gốc tiếng Anh: Chicken Run) là một bộ phim hoạt hình được sản xuất ở xưởng phim Aardman Animations năm 2000 (xưởng phim này đã sản xuất loạt phim hoạt hình ngắn đã được giải Oscar như phim Wallace and Gromit). Trong tiếng Anh, cụm từ Chicken Run còn có nghĩa là "trại gà". Chicken Run kể về một câu truyện hài hước về một đàn gà tìm cách trốn thoát khỏi trang trại chăn nuôi do ông Tweedy và bà vợ độc đoán của ông ta trông coi, trước khi họ biến những con gà này thành nhân bánh bao. Bộ phim là sự kính trọng đối với những bộ phim về nhà tù thời Chiến tranh thế giới thứ hai được sản xuất trong những năm của thập kỷ 1950 và 1960 (đặc biệt là các phim The Great Escape, Stalag 17 và Escape of the Birdmen), nhưng nó cũng bóng gió nhắc đến các phim khác như Trái tim dũng cảm (Braveheart), Indiana Jones và Star Trek. (Có thể là khá mỉa mai, Stalag 17 và 3 bộ phim hay phim dài tập kể sau đều được phát hành bởi hãng Paramount Pictures, hiện nay là một hãng cùng công ty mẹ (sister studio) với DreamWorks sau khi Viacom mua DreamWorks vào năm 2005). Những nhân vật chính của phim là Ginger (do Julia Sawalha lồng tiếng), một ả gà mái có niềm tin tuyệt đối rằng loài gà có thể bay ra khỏi lồng nếu được luyện tập chăm chỉ, và Rocky Rhodes (do Mel Gibson lồng tiếng), một anh gà trống mà Ginger tin rằng anh chàng biết bay, và anh chàng này đã giữ bí mật về chuyến bay không có thật của mình. Bà Tweedy (do Miranda Richardson lồng tiếng) là bà chủ trại tham lam, hung ác, sự bực tức của bà về lợi nhuận thấp thu được từ những quả trứng gà đã làm cho bà ta dự định biến trang trại nuôi gà của mình thành nhà máy sản xuất bánh bao nhân thịt gà (chicken pie). Bộ phim đã thành công đối với cả khán giả nhỏ tuổi và người lớn. Bộ phim cũng đã cho thấy Peter Lord và Nick Park có khả năng đương đầu với những thách thức về kịch bản và kỹ thuật của một bộ phim dài (feature film). Tóm tắt nội dung Một trang trại nuôi gà giống như một nhà tù ở Anh. Hằng ngày, người chủ trang trại đến lấy những quả trứng gà vừa đẻ, còn bà vợ đáng sợ thì kiểm tra trứng. Ginger là một con gà mái đã nhiều lần tìm cách trốn thoát nhưng đều bị thất bại. Một con gà có tên là Edwina không đẻ quả trứng nào trong một tuần liền và đã bị mang ra khỏi chuồng. Ginger đã lén theo dõi xem truyện gì xảy ra và thấy bà Tweedy cầm một cái rìu và cắt cổ con gà mái đó. Ginger lại chuẩn bị một kế hoạch mới cho việc trốn thoát. Bên trong ngôi nhà, những con người đang ăn thịt Edwina, và bà Tweedy rất bực tức khi đếm số lượng trứng và muốn tìm một cách mới để kiếm tiền. Bà ta đọc được mẩu quảng cáo về một cái máy lớn làm nhân bánh, với khẩu hiệu "I'M RICH!" (Tôi giàu rồi). Bên ngoài, có một tiếng gió thổi mạnh và một con gà trống bay ngang qua hàng rào, đâm sầm vào lán gà. Anh chàng gà trống này đã giới thiệu mình tên là Rocky Rhodes, một "người lang thang tự do và cô độc" đến từ Mỹ. Ginger đề nghị anh ta dạy cho mọi người cách bay... Ngày tiếp theo, cuộc luyện tập bắt đầu một cách kỳ dị vì Rocky có vẻ như không hiểu được những việc mình đang làm. Thậm chí, cho đến ngày kết thúc thì không có con gà nào có thể nhấc mình lên trên không được. Một xe tải lớn chuyên chở các sản phẩm từ thịt gà xuất hiện và để lại một số lượng lớn các thiết bị. Bà Tweedy giải thích cho ông chồng ý định của mình và trang trại bây giờ chính thức trở thành nhà máy sản xuất tự động. Ginger cho Rocky biết về tương lai xám xịt mới của đàn gà và yêu cầu việc học bay cần phải được gấp rút hoàn thành và đe dọa tiết lộ sự có mặt của anh ta cho những người chủ trại. Hôm sau, bà Tweedy đã kiểm tra những con gà và cho chúng ăn gấp đôi lượng thức ăn. Ginger ngăn chặn, không cho đàn gà ăn và nói với chúng rằng những người chủ trại đang làm cho chúng béo lên và sẽ giết tất cả chúng với một nhát dao. Để chống lại việc tăng cân, Rocky đã mang đến một cái đài và bật lên để lũ gà nhảy theo nhạc. Trong khi nhảy thì dải băng của Rocky rơi ra và Ginger hăng hái loan báo rằng anh ta cuối cùng sẽ có thể chỉ cho họ cách bay như thế nào vào ngày mai. Ở bên ngoài, cái máy làm nhân bánh đã được lắp đặt xong và ông Tweedy mang Ginger đến như là nạn nhân đầu tiên và Rocky đã xông tới cứu cô ra và phá cái máy làm bánh. Fowler đưa cho anh ta cái mề đay RAF và xin lỗi vì đã nghi ngờ anh.... Thông tin bên lề Nội dung phim Phi đội gà bay hơi giống truyện Animal Farm (Trang trại gia súc) của George Orwell và tập phim The Great Escape về Chiến tranh thế giới thứ hai. Những con chó bà Tweedy nuôi để trông coi đàn gà có thể được dựng theo những con chó của Miranda Richardson, người đã diễn xuất nhân vật này. Nhịp bước theo tiếng sáo kazoo đã trở nên thông dụng với các nhóm nhạc tại các trường trung học. Trò chơi điện tử "Phi đội gà bay" đã được phát hành cho các thiết bị chơi điện tử như Sega Dreamcast, Game Boy Color, máy tính cá nhân và Sony PlayStation. Cảnh Rocky và Ginger bị giữ lại bên trong máy làm nhân bánh của bà Tweedy và gặp rất nhiều nguy hiểm là bắt chước sự nguy hiểm bên cạnh các vực sâu và sau đó là sự trốn thoát trong loạt phim Indiana Jones. Khi Rocky được hỏi thăm về quê hương, anh bắt đầu bằng câu nói "Oh, a little place I like to call the Land of the Free, and the Home of the Brave..." (Ồ, là một nơi nhỏ bé mà tôi muốn gọi là mảnh đất của tự do và là ngôi nhà của sự dũng cảm...), và Mac đã trả lời "Scotland!", chính là câu nói liên quan đến bộ phim mà Mel Gibson đã đóng, phim Braveheart (Trái tim dũng cảm). Đã có ủng hộ lớn cho sự đề cử "Phi đội gà bay" giành giải Oscar cho phim hay nhất trong năm, theo kiểu Beauty and the Beast (1991) (Người đẹp và ác thú). Sự thất bại trong việc giành được đề cử đã dẫn đến sự thành lập một giải Oscar cho phim hoạt hình hay nhất trong nằm vào ngay năm sau, và Shrek (cũng do DreamWorks sản xuất) đã đoạt giải này trong năm đó. Tiêu đề trong áp phích quảng cáo cho phim, "C:R-1", là sự bắt chước của tiêu đề "M:I-2" của phim Mission: Impossible II (Nhiệm vụ bất khả thi 2). Phim "Phi đội gà bay" đã đứng thứ 59 trong số 100 phim hoạt hình hay nhất. Sản xuất Đón nhận
Tam Á (tiếng Hoa: 三亞; pinyin: Sanya) là thành phố cực nam của đảo Hải Nam, Trung Quốc. Đây là thành phố lớn thứ hai (sau thủ phủ Hải Khẩu) trên đảo. Bức tượng Quan Âm cao 108 m hoàn thành ở đây năm 2005 là một trong những bức tượng cao nhất thế giới. Vịnh Á Loan và một bãi biển dài 7,5 km nằm phía đông nam của thành phố. Theo điều tra dân số năm 2010, dân số của Tam Á là 685,408 người, sống trong một diện tích 1.919,58 km vuông (741,15 dặm vuông). Thành phố này nổi tiếng về khí hậu nhiệt đới và nổi lên như là một điểm đến du lịch nổi tiếng, cũng là địa điểm đào tạo của đội bóng chuyền bãi biển quốc gia Trung Quốc. Thành phố này có biệt danh là "Florida của Trung Quốc", thu hút một số lượng lớn người về hưu từ Đông Bắc Trung Quốc đến sinh sống và tham quan trong mùa đông. Tam Á là nơi tập trung một lượng nhỏ người Utsul. Thành phố Tam Á là nơi đăng cai các kỳ thi Hoa hậu Thế giới (Miss World) năm 2003, 2004 và 2005. Lịch sử Được biết đến trong thời cổ đại với cái tên Nhai Châu, La Mã hóa: Aichow (崖州), theo nghĩa đen là "vách đá hoặc quận", lịch sử của Tam Á có niên đại từ thời nhà Tần (221–206 TCN). Do sự xa xôi của nó từ các trung tâm chính trị trong thời kỳ Đế quốc Trung Quốc tại Trung Quốc, Tam Á đôi khi được gọi là Tianya Haijiao (天涯海角), có nghĩa là "tận cùng của bầu trời và đại dương" hoặc "tận cùng trái đất". Kết quả là, thành phố trở thành một nơi sinh sống lưu vong cho các quan lại bị triều đình thất sủng. Trong triều đại nhà Đường, nhà sư Phật giáo Giám Chân vô tình đặt chân đến đây ở đây, sử dụng Tam Á như một phần của tác phẩm kể về chuyến hành trình truyền giáo của mình đến Nhật Bản. Thế kỷ XX Năm 1912, Nhai Châu được đổi tên thành Yaxian (崖 县; La Mã: Aihsien). Nhật Bản sau đó chiếm đóng khu vực này trong Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai (1941–1945) và đổi tên thành Tam Á thành Samah. Thành phố sau đó trở thành một cảng hải quân cho Hạm đội thứ hai của Hải quân Đế quốc Nhật Bản và là điểm khởi hành chính cho cuộc xâm lược của Nhật Bản đến Mã Lai và Thái Lan. Vào tháng 4 năm 1950, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã tiếp quản Quận Yaxian và thành lập Chính phủ Nhân dân. Vào tháng 10 năm 1954, chính quyền của Ủy ban Yaxian được điều hành bởi Đảng Cộng sản Trung Quốc chuyển từ Yacheng sang Tam Á sau đó vào năm 1958, chính quyền Yaxian chuyển từ Yacheng đến Tam Á và Yaxian sáp nhập với Bảo Đình, Lăng Thủy, Niulou và Xinglong, Vạn Nnh để trở thành một quận lớn. Năm 1959 và 1961, các khu vực này được tách ra để thành lập các khu tự trị Bảo Đình và Lăng Thủy trong khi Quận Yaxian vẫn còn trong quận hiện tại của nó. Được chấp thuận bởi Hội đồng Nhà nước Trung Quốc, Yaxian đã được nâng cấp lên thành phố Tam Á vào ngày 26 tháng 9 năm 1987 vào ngày 30 tháng 12, thành phố Tam Á được chính thức thành lập. Vào năm 2007, Ủy ban tổ chức Thế vận hội 2008 ở Bắc Kinh thông báo rằng thành phố Tam Á sẽ trở thành nơi đầu tiên của cuộc rước đuốc Olympic mùa hè Bắc Kinh 2008 tại Trung Quốc. Trong thế kỷ 21, tầm quan trọng chiến lược của Tam Á đã phát triển cho quân đội Trung Quốc và là nơi có nhiều căn cứ hải quân giúp phát triển và bảo vệ các bãi biển và hải đảo tranh chấp quốc tế ở Biển Đông. Địa lý Tam Á nằm ở mũi phía nam của đảo Hải Nam tại vịnh Á Loan và từng được xem là điểm cực nam của Trung Quốc đại lục, và sau khi Tam Sa (cũng do tỉnh Hải Nam quản lý) thành lập, thì đây là thành phố cấp tỉnh cực nam thứ hai trên toàn quốc. Nằm ở vĩ độ 18 ° 15 'N, thành phố có vĩ độ tương đương với Đảo Hawaii. Mặc dù khu vực hành chính (thành phố Tam Á) có địa hình gồ ghề, thành phố nói chung là bằng phẳng, nằm trên một thửa đất giữa các ngọn núi thấp ở phía bắc và Biển Đông. Khí hậu Thành phố có khí hậu nhiệt đới xavan (Köppen Aw), có thời tiết rất ấm áp quanh năm. Ảnh hưởng của gió mùa rất mạnh, với mùa mưa tương đối dài và mùa khô rõ rệt. Tháng lạnh nhất là tháng 1, ở 21,6 °C (70,9 °F), trong khi tháng nóng nhất, không giống như phần lớn khu vực còn lại của Trung Quốc, là tháng Sáu, khoảng 28,8 °C (83,8 °F); trung bình hàng năm là 25,8 °C (78,4 °F). Nhiệt độ nước duy trì trên 20 °C (68 °F) quanh năm. </div> Hành chính Trước ngày 30 tháng 7 năm 2014, đã có thẩm quyền trực tiếp đối với bốn quận cấp huyện và hai quận phụ cấp thị trấn (乡级 管理 区; xiāngjí guǎnlǐqū), sáu thị trấn (镇; zhèn) và bốn trang trại nhà nước ở thành phố Tam Á. Bây giờ có bốn quận ở đây. Giao thông Thành phố có Sân bay quốc tế Phượng Hoàng, hay còn gọi là Sân bay Phượng Hoàng (Fenghuang Airport). Phương tiện giao thông có taxi, xe buýt. Xe buýt từ các khu vực khác của Hải Nam phục vụ bến xe buýt của Tam Á. Xe buýt số 8 kết nối sân bay với Bãi biển Dadonghai. Từ đó du khách có thể bắt xe buýt số 24 hoặc 25 đến Vịnh Á Loan hoặc xe buýt số 28 đến Vịnh Hải Đường. Ngoài ra còn có một xe buýt miễn phí từ Quảng trường Luhuitou đến Trung tâm mua sắm miễn thuế tại Vịnh Hải Đường, một trong những trung tâm mua sắm lớn nhất ở Trung Quốc. Đường sắt liên tỉnh vành đai Đông Hải Nam Tuyến đường sắt liên tỉnh vành đai Hải Nam nối liền Tam Á và Hải Khẩu và chạy dọc theo bờ biển phía đông của đảo Hải Nam. Có 15 trạm ở giữa, hoặc đang hoạt động hoặc vẫn đang được xây dựng. Xe lửa được thiết kế để đi với tốc độ 250 km/h (160 dặm một giờ). Thời gian đi từ Tam Á đến Hải Khẩu mất khoảng 1 giờ 22 phút. Tuyến đường sắt cao tốc phía Tây Hải Nam, chạy dọc theo bờ biển phía tây của tỉnh cũng kết nối Tam Á với Hải Khẩu. Du lịch Trong những năm gần đây Tam Á đã trở thành một điểm đến du lịch nổi tiếng. Nhiều chuỗi khách sạn quốc tế hiện đã được thiết lập trong khu vực. Trong năm 2009, nhóm khách sạn Mandarin Oriental sang trọng đã mở tại khu vực Dadong Hai của Tam Á, chi nhánh đầu tiên của khách sạn này ở Trung Quốc đại lục. Hiện tại có hơn 100 khách sạn, từ các thương hiệu quốc tế đến các khu nghỉ dưỡng được quản lý tại địa phương. Các biển chỉ dẫn viết bằng tiếng Nga và tiếng Anh có thể được nhìn thấy khắp thành phố. Các nhà hàng ở Tam Á cũng nổi tiếng với khách du lịch quá cước (dù là người nước ngoài hay người Trung Quốc). Tuy nhiên, do tiếp xúc gần đây của hiện tượng này được đăng trên trang blog vi sinh Sina Weibo, các quan chức chính phủ Hải Nam và các quan chức thành phố Tam Á đã thề sẽ giải thích về hiện tượng này. Văn phòng thương mại và công nghiệp Tam Á cũng đã bắt đầu triển khai hệ thống thông tin thời gian thực mở và minh bạch của các nhà hàng hải sản của thành phố trong kỳ nghỉ tháng 5 để giám sát công cộng nhằm ngăn chặn bất kỳ giá nào trong tương lai của các nhà hàng. Tam Á đang phải đối mặt với một vài thách thức vì nó tiếp tục mở rộng với tốc độ nhanh như vậy: thiếu cơ sở hạ tầng để hỗ trợ du lịch, gặp khó khăn trong việc tiếp cận địa điểm do các chuyến bay hạn chế và năng lực sân bay, ô nhiễm âm thanh, giao thông và an toàn giao thông, ô nhiễm bãi biển và quan trọng nhất là thiếu những khách sạn chất lượng. Khu bảo tồn thiên nhiên vịnh Á Loan Tropic Paradise (亚龙湾 热带 天堂 森林 公园) và Khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia Sanya Coral Reef (三亚 珊瑚礁 国家级 自然保护区) nằm gần vịnh Á Loan, và khu nghỉ mát du lịch quốc gia Vịnh Á Loan được thành lập. Trong những năm gần đây, các sinh vật sống ở vùng biển của Tam Á trở nên sinh sôi và khỏe mạnh hơn, một số loài cá heo, bao gồm cả cá heo lưng bướu Thái Bình Dương có nguy cơ tuyệt chủng, xuất hiện dọc theo bờ biển theo thời gian. Tuy nhiên, chúng chưa được coi là mục tiêu của ngành du lịch. Các địa danh Guan Yin của Biển Nam Tam Á, một bức tượng Phật cao 108 m (354 ft), được hoàn thành vào tháng 5 năm 2005 và là một trong những bức tượng cao nhất thế giới và Đền Nanshan liền kề. Vịnh Á Loan, một bãi biển du lịch lớn dài 7,5 km (4,7 mi) nằm ở phía đông thành phố Tam Á. Thiên Nhai Hải Giác Deer Turn Head Park (Luhuitou Park 鹿回头 公园) - Một công viên có chứa một bức tượng đá lớn trên bến cảng Tam Á từng có truyền thuyết về một thợ săn săn đuổi một con nai đến một mũi đất bị cô lập gần biển. Khi con nai không thể trốn thoát, nó quay sang nhìn người thợ săn và trở thành một người phụ nữ xinh đẹp. Người thợ săn không thể giết con nai và thay vào đó lại yêu cô ấy. Mọi người để lại một ổ khóa trên một chuỗi ở đỉnh núi với hy vọng rằng tình yêu của họ sẽ kéo dài miễn là khóa vẫn còn. Dadonghai, Tam Á, Hải Đường, Nhai Châu, và Xiangshuiwan là năm vịnh lớn ở Tam Á, vịnh Xiangshuiwan vẫn là đẹp nhất và tự nhiên gần núi Nuilin nổi tiếng. Thung lũng bướm (tiếng Trung: 蝴蝶谷; bính âm: Húdié Gǔ) và thủy cung. Các điểm tham quan khác bao gồm: Phoenix Island, một khu nghỉ dưỡng quần đảo nhân tạo ở vịnh Tam Á Đảo Wuzhizhou Đảo Tây (西 岛) Daxiao Dongtian (大小 洞天), còn được gọi là Tiên hang động Trung tâm bảo tồn hổ và cá sấu. Đền Nanshan Hang Luobi, hang đá vôi cổ 15 km (9,3 mi) về phía bắc của Tam Á Công viên giải trí Lingshui / Xiangshui Li'an Ocean Harbor được dự kiến ​​khánh thành năm 2013. Đây sẽ là công viên nước lớn nhất châu Á Hình ảnh
Hermann Wilhelm Göring (hay Goering; ; 12 tháng 1 năm 1893 – 15 tháng 10 năm 1946) là một chính trị gia người Đức, chỉ huy quân sự và thành viên hàng đầu của Đảng Quốc xã (NSDAP). Từng là một phi công lái máy bay chiến đấu xuất sắc trong thế chiến thứ nhất, ông đã được nhận huân chương cao quý Pour le Mérite, hay "Blauer Max" (tiếng Đức). Göring là sĩ quan chỉ huy cuối cùng của Jagdgeschwader 1, phi đội chiến đấu từng đặt dưới sự chỉ huy của Manfred von Richthofen, người được mệnh danh là "Red Baron" (Nam tước Đỏ). Göring là một thành viên của Đảng Quốc xã từ những ngày đầu tiên và từng bị thương vào năm 1923 trong một cuộc đảo chính thất bại được biết đến với tên gọi Đảo chính nhà hàng bia. Ông dần trở nên nghiện morphine sau khi chữa trị những vết thương bằng loại thuốc này. Sau khi giúp Adolf Hitler lên năm quyền vào năm 1933, ông trở thành nhân vật quyền lực số hai tại Đức. Cùng năm 1933, ông thành lập nên Gestapo (Cảnh sát Mật) và sau đó đã trao quyền chỉ huy tổ chức này cho Heinrich Himmler. Vào năm 1935, Göring được bổ nhiệm làm tổng tư lệnh của Không quân Đức, nắm giữ chức vụ này đến những ngày cuối cùng của thế chiến thứ II. Đến năm 1940, Göring ở trên đỉnh cao quyền lực và tầm ảnh hưởng; với tư cách bộ trưởng phụ trách Kế hoạch bốn năm, ông chịu trách nhiệm phần lớn về sự vận hành của nền kinh tế Đức trong giai đoạn hình thành nên thế chiến II. Hitler đã thăng ông lên đến Reichsmarschall (Thống chế Đế chế), một cấp bậc cao hơn mọi sĩ quan chỉ huy của Wehrmacht khác; và trong năm 1941 Hitler chỉ định ông làm người kế nhiệm đồng thời làm phụ tá trong mọi chức vụ của mình. Vị thế của Göring đối với Hitler đã giảm sút đáng kể từ năm 1942, do lực lượng không quân không thể hoàn thành những cam kết và nỗ lực chiến tranh của Đức Quốc xã bị chặn lại trên mọi mặt trận. Göring đã rút lui phần lớn khỏi hoạt động chính trị và quân sự, thay vào đó ông tập trung vào việc thu thập tài sản và tác phẩm nghệ thuật, đa phần là tịch thu từ những nạn nhân người Do Thái của vụ diệt chủng Holocaust. Vào ngày 22 tháng 4 năm 1945, sau khi được biết Hitler có ý định tự sát, Göring đã gửi một bức điện cho Hitler yêu cầu được phép nắm quyền kiểm soát Đế chế. Nhận định đó như là một hành động phản quốc, Hitler tước bỏ tất cả mọi chức vụ của Göring, trục xuất ông ra khỏi đảng và ra lệnh bắt giữ. Sau thế chiến thứ II, Göring bị kết án phạm phải tội ác chiến tranh và tội ác chống lại loài người tại tòa án Nürnberg. Ông bị tuyên án tử hình bằng hình thức treo cổ, nhưng đã tự sát bằng cách nuốt một viên xyanua trong đêm trước khi bản án được thi hành. Thời niên thiếu Göring sinh ngày 12 tháng 1 năm 1893 tại viện điều dưỡng Marienbad ở Rosenheim, Bavaria. Cha của ông là Heinrich Ernst Göring (31 tháng 10 năm 1839 - 7 tháng 12 năm 1913), một cựu sĩ quan kỵ binh và từng là Toàn quyền đầu tiên của thuộc địa Tây-Nam Phi của Đức (nay là Namibia). Heinrich có năm đứa con với người vợ trước. Göring là con thứ tư trong số năm người con của Heinrich với vợ thứ hai, Franziska Tiefenbrunn (1859 - 15 tháng 7 năm 1923), một nông dân Bavaria. Những anh chị em ruột của Göring là Karl, Olga, và Paula; và người em nhỏ tuổi hơn tên là Albert. Vào thời điểm Göring được sinh ra, cha ông đang là tổng lãnh sự ở Haiti, và mẹ ông đã trở về nhà trong một thời gian ngắn để sinh con. Tiefenbrunn, mẹ của Göring, đã để lại đứa bé sáu tuần tuổi cho một người bạn ở Bavaria và phải ba năm sau mới gặp lại con mình khi bà cùng chồng quay trở lại Đức. Cha đỡ đầu của Göring là Dr. Hermann Epenstein, một bác sĩ và doanh nhân giàu có người Do Thái mà cha ông từng gặp ở châu Phi. Gia đình Göring vốn sống dựa vào nguồn trợ cấp từ Heinrich, và Epenstein đã lo liệu cho họ một căn hộ trong tòa lâu đài nhỏ gọi là Veldenstein, gần Nuremberg. Vào khoảng thời gian đó, mẹ của Göring đã trở thành tình nhân của Epenstein; mối quan hệ này kéo dài khoảng 15 năm. Epenstein đã đạt được danh hiệu nhỏ Ritter (hiệp sĩ) von Epenstein nhờ những sự quyên góp và phục vụ của mình. Ước muốn được làm một người lính từ khi còn rất nhỏ, Göring thích chơi với những đồ chơi hình lính và mặc bộ đồ Boer mà cha tặng cho mình. Vào năm 11 tuổi ông được gửi vào trường nội trú, nơi có đồ ăn nghèo nàn và kỷ luật khắt khe. Ông đã bán cây đàn violin để mua vé tàu hỏa về nhà, sau đó trèo lên giường, giả vờ bị bệnh cho đến khi được biết là sẽ không phải quay trở lại. Göring tiếp tục thưởng thức các trò chơi chiến tranh, giả bố trí bao vây lâu đài Veldenstein và tìm hiểu các truyền thuyết và saga về người Teuton. Ông còn trở thành một nhà leo núi chinh phục những đỉnh núi ở Đức, ở dãy núi Mont Blanc, và dãy Anpơ Trung Đông. Năm 16 tuổi Göring được gửi vào một học viện quân sự tại Berlin Lichterfelde, tại đây ông đã tốt nghiệp loại xuất sắc (Trong tòa án Nuremberg về các tội ác chiến tranh năm 1946, nhà tâm lý học Gustave Gilbert đã đo được chỉ số thông minh (IQ) của Göring là 138.) Vào năm 1912, Göring gia nhập Trung đoàn Hoàng tử Wilhelm (Bộ binh 112) thuộc quân đội Phổ. Năm tiếp theo mẹ ông chấm dứt quan hệ với Epenstein. Gia đình Göring buộc phải rời Veldenstein và họ đã tới Munich; cha của ông qua đời không lâu sau đó. Khi chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ vào tháng 8 năm 1914, Göring cùng trung đoàn của ông đang đóng quân tại Mulhouse. Thế chiến thứ nhất Trong năm đầu tiên của chiến tranh thế giới thứ nhất, Göring phục vụ trong một trung đoàn bộ binh tại khu vực Mülhausen, một thành phố bố trí lực lượng đồn trú chỉ cách biên giới nước Pháp một dặm. Ông đã phải nhập viện vì bệnh phong thấp, nguyên nhân bắt nguồn từ sự ẩm ướt của chiến hào. Khi trở lại, người bạn của Göring là Bruno Loerzer đã thuyết phục ông chuyển sang một đơn vị mà sau này đến tháng 10 năm 1916 sẽ trở thành Luftstreitkräfte (lực lượng chiến đấu trên không) của quân đội Đức, nhưng lời đề nghị này bị ông từ chối. Cuối năm đó, Göring thực hiện những chuyến bay với vai trò quan sát viên của Loerzer trong đơn vị Feldflieger Abteilung 25 (FFA 25) - một sự chuyển đổi không chính thức. Ông bị phát hiện và bị tuyên án giam ba tuần, tuy nhiên bản án này đã không được thực hiện. Vào thời điểm đó bản án được cho là áp đặt, và sự kết hợp giữa Göring và Loerzer đã trở nên chính thức. Bọn họ được phân công là một đội của FFA 25 thuộc Tập đoàn quân số 5 của Thái tử William. Với những phi vụ trinh sát và ném bom, cả Göring và Loerzer đều đã được Thái tử trao tặng huân chương Thập tự Sắt hạng nhất. Sau khi hoàn thành khóa huấn luyện phi công, Göring được phân công đến đơn vị Jagdstaffel 5. Bởi một loạt những chấn thương ở hông do chiến đấu trên không, ông đã phải mất gần một năm để hồi phục. Tiếp đó ông chuyển sang Jagdstaffel 26, đơn vị đặt dưới sự chỉ huy của Loerzer, vào tháng 2 năm 1917. Göring dần đạt được những thắng lợi trên không cho đến tháng 5, thời điểm mà ông được giao chức chỉ huy Jagdstaffel 27. Phục vụ trong các đơn vị Jastas 5, 26 rồi 27, Göring liên tục giành được những chiến thắng. Bên cạnh huân chương Thập tự Sắt (hạng nhất và nhì), ông còn nhận được huân chương Sư tử Zähringer với thanh kiếm, huân chương Friedrich, huân chương Nhà Hohenzollern với thanh kiếm hạng ba, và cuối cùng là Pour le Mérite cao quý. Theo Hermann Dahlmann, những giải thưởng mà Göring đạt được có nhờ sự ảnh hưởng từ Loerzer. Ông kết thúc thế chiến thứ nhất với 22 chiến thắng. Một cuộc kiểm tra kỹ lưỡng sau chiến tranh những ghi chép tổn thất của Đồng Minh cho thấy duy chỉ có hai chiến thắng được tuyên bố của ông là bị nghi ngờ, ba là có thể và 17 là chắc chắn, hoặc nhiều khả năng là chính xác. Vào ngày 7 tháng 7 năm 1918, sau cái chết của Wilhelm Reinhard - người kế nhiệm Manfred von Richthofen, Göring đã được làm chỉ huy của đơn vị danh tiếng Jagdgeschwader 1, ("Flying Circus" - tạm dịch: Rạp xiếc bay). Tuy nhiên những phi công cùng phi đội thì không ưa gì Göring vì sự kiêu ngạo của ông ta. Trong những ngày cuối cùng của thế chiến thứ nhất, Göring đã nhiều lần nhận được lệnh phải cho phi đội của mình rút lui, lần đầu là rút về phi trường Tellancourt, tiếp theo là đến Darmstadt. Đã từng có lần được lệnh đầu hàng trước máy bay Đồng Minh, nhưng ông từ chối. Nhiều phi công của ông đã cố tình lao máy bay xuống đất tự sát để tránh rơi vào tay kẻ thù. Göring, cũng như nhiều chiến binh Đức kỳ cựu khác, là người đề xướng Dolchstoßlegende, hay là niềm tin rằng quân Đức không thực sự thua trong cuộc chiến, thay vào đó là bị phản bội bởi những lãnh đạo dân sự: những người Marxist, Do Thái, và đặc biệt là Cộng hòa, những kẻ đã lật đổ chế độ quân chủ Đức. Hậu Thế chiến thứ nhất Sau chiến tranh, Göring tiếp tục gắn bó với nghiệp hàng không. Ông đã nỗ lực thực hiện những màn biểu diễn trên không và làm việc tại Fokker trong một thời gian ngắn. Sau khi dành phần lớn quãng thời gian năm 1919 sống tại Đan Mạch, ông chuyển đến Thụy Điển và gia nhập Svensk Lufttrafik, một hãng hàng không của quốc gia này. Göring thường được thuê để thực hiện những chuyến bay tư nhân. Trong thời kỳ mùa đông 1920-1921, Count Eric von Rosen đã thuê Göring chở đến lâu đài của mình từ Stockholm. Được mời ở lại qua đêm, Göring thời điểm đó có thể đã lần đầu được thấy biểu tượng chữ Vạn (chữ thập ngoặc) trên bệ lò sưởi, Rosen đã tạo ra nó như là một biểu trưng của gia đình. Đó cũng là lần đầu tiên mà Göring gặp người vợ tương lai của mình, Baroness Carin von Kantzow (née Freiin von Fock, 1888–1931), người em dâu của bá tước được ông giới thiệu. Bà đã chịu sự ghẻ lạnh của người chồng trong 10 năm và có một người con trai khi đó 8 tuổi. Göring đã ngay lập tức mê đắm và mời bà gặp mặt ở Stockholm. Bọn họ đã thu xếp một chuyến thăm đến nhà cha mẹ Carin và dành nhiều thời gian bên nhau đến hết năm 1921, thời điểm mà Göring rời đến Munich để học chính trị tại trường đại học. Sau khi Göring đến Munich, Carin ly hôn chồng cũ và kết hôn với Göring vào ngày 3 tháng 2 năm 1922. Ban đầu họ sống trong một Jagdschloss tại Hochkreuth nằm ở dãy Bavarian Alps (Anpơ Bavaria), gần Bayrischzell, cách Munich khoảng . Sau khi Göring gặp Hitler và gia nhập Đảng Quốc xã (NSDAP) trong năm 1922, bọn họ chuyển tới Obermenzing, một vùng ngoại ô Munich. Những ngày đầu trong Đảng Quốc xã Göring gia nhập đảng Quốc xã vào năm 1923 sau khi nghe một bài diễn thuyết của Adolf Hitler. Trong cùng năm ông được giao cho chức chỉ huy của Sturmabteilung (SA) với tư cách Oberster SA-Führer. Một thời gian sau ông được bổ nhiệm làm SA-Gruppenführer (Trung tướng SA) và giữ chức vụ này cho đến năm 1945. Vào thời điểm đó, Carin — người thích Hitler — thường đóng vai bà chủ tiệc trong các cuộc họp mặt của những lãnh đạo Quốc xã, bao gồm có chồng của bà, Hitler, Rudolf Hess, Alfred Rosenberg, và Ernst Röhm. Hitler sau này đã hồi tưởng lại mối quan hệ thuở đầu của mình với Göring: Hitler và đảng Quốc xã thường tổ chức những kỳ đại hội và họp mặt lớn tại Munich và một vài nơi khác trong những năm đầu thập niên 1920 với nỗ lực tập hợp những người ủng hộ để nhằm giành quyền lực chính trị. Lấy cảm hứng từ Cuộc diễu hành ở Rome của Benito Mussolini, những người Quốc xã đã cố gắng thâu tóm quyền lực vào ngày 8-9 tháng 11 năm 1923 trong một cuộc đảo chính thất bại được biết đến với tên gọi Đảo chính nhà hàng bia. Göring bị bắn vào chân khi cùng với Hitler dẫn đầu cuộc diễu hành tiến đến Bộ Chiến tranh. Đã có mười bốn thành viên Quốc xã và bốn cảnh sát bị giết; Hitler cùng với nhiều lãnh đạo Quốc xã hàng đầu bị bắt. Nhờ sự trợ giúp của Carin, Göring đã lén trốn đến Innsbruck, tại đây ông tiến hành phẫu thuật và sử dụng morphine để ngăn ngừa cơn đau. Đây là căn nguyên chứng nghiện morphine của Göring và nó kéo dài tận cho đến ngày ông bị giam tại Nuremberg. Göring ở lại bệnh viện cho đến ngày 24 tháng 12. Trong khi đó, các nhà chức trách ở Munich tuyên bố Göring là đối tượng truy nã. Nhóm của Göring với tình trạng thiếu tiền và phải dựa vào thiện chí của những người Quốc xã đồng cảm ở nước ngoài đã từ Áo đến Venice, Ý. Trong tháng 5 năm 1924 bọn họ đến Rome, thông qua Florence và Siena. Göring đã gặp Mussolini tại Rome, người bày tỏ ý muốn được gặp Hitler vào một ngày khi ông ra tù. Sau đó, những vấn đề cá nhân liên tục nảy sinh. Vào năm 1925, mẹ Carin bị bệnh. Bọn họ đã phải khó khăn để kiếm thêm tiền trong mùa xuân năm 1925 cho một chuyến hành trình đến Thụy Điển thông qua Áo, Tiệp Khắc, Ba Lan, và Danzig (nay là Gdańsk). Göring trở thành một người nghiện morphine nặng; gia đình Carin sốc trước sự suy thoái của ông. Là người mắc chứng động kinh và yếu tim, Carin đã để Göring cho các bác sĩ phụ trách. Göring được chứng nhận là một con nghiện ma túy nguy hiểm và được đưa tới nhà thương điên Långbro vào ngày 1 tháng 9 năm 1925. Ông hung bạo tới mức phải kìm hãm bằng một chiếc áo straitjacket, nhưng bác sĩ tâm thần lại cảm nhận rằng bộ óc ông lành mạnh; nguyên nhân duy nhất gây ra tình trạng này là morphine. Khi đã cai được nghiện, ông rời cơ sở này trong một thời gian ngắn, nhưng về sau lại phải quay lại để điều trị thêm. Đến năm 1927 khi ân xá được tuyên bố, Göring trở về Đức và tiếp tục làm việc trong ngành công nghiệp hàng không. Trước đó Hitler đã được thả vào tháng 12 năm 1924 sau một thời gian ở trong tù và viết nên cuốn Mein Kampf. Carin Göring, người mắc chứng động kinh và lao phổi, qua đời vào ngày 17 tháng 10 năm 1931 vì suy tim. Cùng khoảng thời điểm đó, Đảng Quốc xã đang trong giai đoạn tái xây dựng và chờ đợi. Với việc kinh tế đã được phục hồi, cơ hội cho những người Quốc xã kích động một sự thay đổi là ít hơn. SA đã tái tổ chức, nhưng với lãnh đạo là Franz Pfeffer von Salomon chứ không phải Göring. Vào năm 1925 Schutzstaffel (SS) được thành lập và vai trò của nó ban đầu là làm cận vệ cho Hitler. Số lượng thành viên của đảng đã tăng từ 27.000 trong năm 1925 lên 178.000 năm 1929. Trong cuộc bầu cử tháng 5 năm 1928 đảng Quốc xã chỉ giành được 12 trong tổng số 491 ghế. Göring được bầu làm người đại diện đến từ Bavaria. Sự sụp đổ của thị trường chứng khoán phố Wall năm 1929 khiến cho nền kinh tế Đức tụt dốc thảm hại, và trong cuộc bầu cử lần tiếp theo, đảng Quốc xã đã chiến thắng với 6.409.600 phiếu và 107 ghế trong Reichstag (Nghị viện). Vào tháng 5 năm 1931, Hitler cử Göring đến Tòa Thánh, tại đây ông đã có cuộc gặp với Giáo hoàng Piô XII tương lai. Vụ hỏa hoạn ở tòa Nghị viện Vào đêm ngày 27 tháng 2 năm 1933, tòa nhà Nghị viện bốc cháy. Göring là một trong số những người đầu tiên đến hiện trường. Marinus van der Lubbe, một đảng viên cộng sản cấp tiến, bị bắt và bị cáo buộc là thủ phạm duy nhất gây ra vụ cháy. Göring ngay lập tức kêu gọi một chiến dịch đàn áp những người Cộng sản. Những người Quốc xã đã lợi dụng vụ việc để tiến tới những mục tiêu chính trị. Dưới sự hối thúc của Hitler, Nghị định Hỏa hoạn Reichstag được thông qua vào ngày hôm sau, trong đó đình chỉ những quyền cơ bản và cho phép giam giữ không qua xét xử. Các hoạt động của Đảng Cộng sản Đức bị đàn áp và đã có khoảng 4.000 đảng viên cộng sản bị bắt giữ. Göring yêu cầu phải hành quyết những tù nhân bằng súng, nhưng Rudolf Diels, người đứng đầu lực lượng cảnh sát chính trị Phổ, đã phớt lờ mệnh lệnh này. Một số nhà nghiên cứu, trong đó bao gồm William L. Shirer và Alan Bullock, tỏ quan điểm cho rằng Đảng Quốc xã chính là thủ phạm gây ra vụ hỏa hoạn. Tại tòa án Nuremberg, tướng Franz Halder chứng thực rằng Göring đã thừa nhận trách nhiệm gây ra vụ cháy. Ông kể rằng, tại một bữa ăn trưa tổ chức vào ngày sinh nhật của Hitler năm 1942, Göring nói: "Người duy nhất thực sự biết về Nghị viện là tôi, vì chính tôi đã đốt cháy nó!" Tuy nhiên trong bản khai của mình ở Nuremberg, Göring đã phủ nhận câu chuyện trên. Cuộc hôn nhân thứ hai Trong những năm đầu thập niên 1930, Göring thường xuyên gần gũi với Emmy Sonnemann (1893–1973), một diễn viên đến từ Hamburg. Bọn họ kết hôn vào ngày 10 tháng 4 năm 1935 tại Berlin với lễ cưới được tổ chức trên quy mô rất hoành tráng. Một bữa tiệc chiêu đãi lớn đã được thực hiện vào đêm hôm trước tại Nhà hát Opera Berlin. Trong đêm diễn ra bữa tiệc và trong ngày tổ chức nghi lễ có cả máy bay tiêm kích bay trên bầu trời. Họ sinh được một người con gái là Edda vào ngày 2 tháng 6 năm 1938. Nhân vật quyền lực Vào thời điểm Hitler trở thành Thủ tướng Đức vào tháng 1 năm 1933, Göring đã được bổ nhiệm làm Bộ trưởng không bộ, Bộ trưởng Nội vụ Phổ và Ủy viên Hàng không Đế chế. Wilhelm Frick được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Nội vụ Đế chế. Frick và lãnh đạo Schutzstaffel (SS) Heinrich Himmler mong muốn tạo ra một lực lượng cảnh sát thống nhất trên toàn nước Đức, nhưng vào ngày 30 tháng 11 năm 1933 Göring đã thành lập ra lực lượng cảnh sát Phổ với người đứng đầu là Rudolf Diels. Tên gọi của lực lượng này là Geheime Staatspolizei, hay Gestapo. Göring, với suy nghĩ rằng Diels không có đủ sự tàn nhẫn để sử dụng Gestapo một cách hiệu quả chống lại quyền lực của SA, đã bàn giao quyền kiểm soát lực lượng này cho Himmler vào ngày 20 tháng 4 năm 1934. Đến thời điểm đó, SA đã có hơn hai triệu thành viên. Lúc này, Hitler quan ngại sâu sắc rằng Ernst Röhm, thủ lĩnh của SA, đang lên kế hoạch cho một cuộc đảo chính. Himmler và Reinhard Heydrich cùng bày mưu với Göring dùng Gestapo và SS để đè bẹp SA. Những thành viên của SA đã phát hiện ra hoạt động được đề xuất này và hàng ngàn người trong số họ đã xuống đường biểu tình bạo động vào đêm ngày 29 tháng 6 năm 1934. Hitler rất giận dữ về điều này và ra lệnh bắt giữ thủ lĩnh SA. Röhm sau khi từ chối tự sát đã bị bắn chết trong buồng giam. Göring thì đích thân rà soát danh sách các tù nhân với số lượng lên đến hàng ngàn và xác định những người cần phải bị hành quyết. Đã có ít nhất 85 người bị giết trong các ngày từ 30 tháng 6 đến 2 tháng 7, một cuộc thanh trừng được biết đến với tên gọi Đêm của những con dao dài. Vào ngày 13 tháng 7, tại Nghị viện, Hitler thừa nhận cuộc tàn sát này là hoàn toàn phi pháp, nhưng cáo buộc đã có một âm mưu được tiến hành để lật đổ chế độ. Một luật hồi tố được thông qua khiến vụ việc trở nên hợp pháp, và bất kỳ sự chỉ trích nào sẽ phải đối mặt với việc bị bắt giữ. Một trong những điều khoản của Hòa ước Versailles được đặt ra kể từ khi thế chiến thứ nhất kết thúc tuyên bố rằng nước Đức không được phép duy trì một lực lượng không quân. Sau khi hiệp định Kellogg–Briand được ký kết vào năm 1928, máy bay của cảnh sát được cho phép. Vào năm 1933 Göring được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Giao thông Hàng không. Nước Đức bắt đầu tích lũy dần số lượng máy bay, vi phạm Hòa ước, và đến năm 1935 sự tồn tại của Luftwaffe đã chính thức được thừa nhận, với Göring giữ chức Bộ trưởng Hàng không Đế chế. Trong một cuộc họp nội các vào tháng 9 năm 1936, Göring và Hitler ra thông báo rằng chương trình tái vũ trang của Đức cần phải được tăng tốc. Để thực thi nhiệm vụ này, Hitler bổ nhiệm Göring làm Toàn quyền phụ trách Kế hoạch bốn năm vào ngày 18 tháng 10. Göring đã tạo ra một tổ chức mới để quản lý kế hoạch và lôi kéo các bộ lao động và nông nghiệp về dưới trướng của mình. Ông bỏ qua bộ kinh tế trong các quyết định tạo ra chính sách, điều này dẫn đến sự bất mãn của Hjalmar Schacht, bộ trưởng phụ trách các vấn đề kinh tế. Những nguồn kinh phí rất lớn đã được đầu tư cho hoạt động tái vũ trang bất chấp mức thâm hụt ngày càng tăng. Schacht từ chức vào ngày 8 tháng 12 năm 1937, lên thay cho vị trí của ông là người nắm quyền kiểm soát Reichsbank (ngân hàng trung ương), Walther Funk. Theo đó, cả hai tổ chức đều được đặt dưới sự kiểm soát của Göring và dưới sự bảo trợ của Kế hoạch bốn năm. Vào tháng 7 năm 1937, tập đoàn công nghiệp Reichswerke Hermann Göring được thành lập và nó thuộc sở hữu của nhà nước, mặc dù người đứng đầu là Göring, với mục tiêu thúc đẩy sản xuất thép vượt qua mức mà doanh nghiệp tư nhân có thể cung cấp về mặt kinh tế. Trong năm 1938, Göring tham gia vào cuộc khủng hoảng Blomberg–Fritsch, vụ việc dẫn đến sự từ chức của Bộ trưởng Chiến tranh, Thống chế Werner von Blomberg, và tư lệnh lục quân, tướng Werner von Fritsch. Göring đã đến dự với tư cách nhân chứng tại đám cưới của Blomberg với Margarethe Gruhn, một nhân viên đánh máy 26 tuổi, vào ngày 12 tháng 1 năm 1938. Theo như thông tin từ phía cảnh sát cho thấy cô dâu trẻ là một gái mại dâm. Göring cảm thấy bắt buộc phải nói với Hitler, nhưng cũng xem sự kiện này như một cơ hội để loại trừ vị thống chế. Blomberg buộc phải từ chức. Göring không muốn Fritsch được bổ nhiệm thay cho vị trí của Blomberg để trở thành cấp trên của mình. Vài ngày sau, Heydrich tiết lộ một hồ sơ về Fritsch trong đó chứa những cáo buộc về hoạt động tình dục đồng giới và tống tiền. Dù về sau những thông tin này đã được chứng minh là không chính xác, Fritsch đã mất đi sự tín nhiệm của Hitler và bị buộc phải từ chức. Hitler lợi dụng các vụ sa thải như một dịp để cải tổ bộ máy lãnh đạo của quân đội. Göring yêu cầu được giữ chức Bộ trưởng Chiến tranh, nhưng bị bác bỏ; thay vào đó ông được bổ nhiệm cấp bậc thống chế. Hitler lên làm tư lệnh tối cao của các lực lượng vũ trang và tạo ra các chức vụ dưới quyền để đứng đầu ba nhánh chính của quân chủng (lục quân, không quân và hải quân). Với tư cách bộ trưởng phụ trách Kế hoạch bốn năm, Göring trở nên quan ngại với tình trạng thiếu hụt những nguồn tài nguyên thiên nhiên ở Đức, và ông bắt đầu thúc đẩy việc hợp nhất Áo vào Đế chế Thứ ba. Tỉnh Styria có các mỏ quặng sắt dồi dào, và toàn bộ quốc gia này là ngôi nhà của nhiều lao động lành nghề, đó là những yếu tố hữu dụng. Hitler thì luôn ủng hộ một sự sáp nhập với Áo, quê hương của ông ta. Vào ngày 12 tháng 2 năm 1938 Hitler có cuộc gặp với Thủ tướng Áo Kurt Schuschnigg, trong đó đe dọa về một cuộc xâm lược nếu như nền hòa bình thống nhất không xuất hiện trong tương lai gần. Đảng Quốc xã được tạo dựng hợp pháp ở Áo để có một nền tảng quyền lực, và một cuộc trưng cầu dân ý về thống nhất đất nước được dự kiến tiến hành vào tháng ba. Khi mà Hitler không chấp nhận lời lẽ của cuộc bỏ phiếu, Göring đã gọi điện cho Schuschnigg và người đứng đầu nhà nước Áo Wilhelm Miklas để yêu cầu Schuschnigg từ chức, với đe dọa về sự xâm lăng của quân đội Đức và tình trạng bất ổn dân sự đến từ những thành viên của Đảng Quốc xã Áo. Schuschnigg từ chức vào ngày 11 tháng 3 và cuộc trưng cầu dân ý bị hủy bỏ. Đến 5:30 sáng hôm sau, số quân Đức tập trung đông ở biên giới đã hành quân tiến vào Áo mà không gặp phải sự kháng cự nào. Mặc dù Joachim von Ribbentrop là người được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Ngoại giao từ tháng 2 năm 1938, Göring vẫn tiếp tục can dự vào các vấn đề ngoại giao. Vào tháng 7 cùng năm, ông liên hệ với chính phủ Anh bày tỏ ý định thực hiện một chuyến thăm chính thức để bàn luận về những dự định của Đức đối với Tiệp Khắc. Thủ tướng Anh Neville Chamberlain ủng hộ một cuộc gặp và chủ đề chính của cuộc trò chuyện là một bản hiệp ước được ký kết giữa Anh và Đức. Vào tháng 2 năm 1938, Göring đến Warsaw để dập tắt những tin đồn về một cuộc xâm lăng Ba Lan sắp sửa diễn ra. Ông cũng đã có các cuộc hội đàm với chính phủ Hungary trong mùa hè năm đó, bàn về vai trò tiềm năng của họ trong cuộc xâm lược Tiệp Khắc. Tại Đại hội Nuremberg diễn ra vào tháng 9, Göring và những phát ngôn viên khác đã lên án người Séc như là một chủng tộc hạ đẳng cần phải bị chinh phục. Trong khi đó Chamberlain cùng Hitler đã có một loạt các cuộc hội đàm dẫn đến việc ký kết Hiệp định Munich vào ngày 29 tháng 9 năm 1938, qua đó bàn giao quyền kiểm soát Sudetenland cho Đức. Thế chiến thứ hai Göring và những quan chức cấp cao khác đã lo ngại rằng nước Đức chưa có được sự chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh, nhưng Hitler lại nhấn mạnh cần phải đẩy nhanh nó càng sớm càng tốt. Cuộc xâm lược Ba Lan, sự kiện mở màn cho thế chiến thứ hai, bắt đầu vào rạng sáng ngày 1 tháng 9 năm 1939. Trong cùng ngày hôm đó, phát biểu trước Nghị viện (Reichstag), Hitler đã chỉ định Göring là người kế nhiệm vị trí Lãnh tụ (Führer) của nước Đức, "Nếu có bất kỳ điều gì xảy đến với tôi." Thắng lợi trên mọi mặt trận Ban đầu, Đức Quốc xã liên tiếp giành được những chiến thắng quyết định một cách nhanh chóng. Với sự hỗ trợ của Luftwaffe (không quân Đức), không quân Ba Lan đã bị đánh bại chỉ trong vòng một tuần.. Lực lượng Fallschirmjäger (lính dù) đã chiếm được những sân bay quan trọng ở Na Uy và pháo đài Fort Eben-Emael tại Bỉ. Luftwaffe của Göring đóng vai trò quan trọng trong các trận Hà Lan, Bỉ và Pháp trong mùa xuân năm 1940. Sau thắng lợi ở Pháp, Hitler đã trao cho Göring huân chương Đại Thập tự (Großkreuz) vì sự lãnh đạo thành công của ông. Trong Nghi lễ phong Thống chế 1940, Hitler đã thăng Göring lên đến cấp bậc Reichsmarschall des Grossdeutschen Reiches (Anh ngữ: Reich Marshal of the Greater German Reich, tạm dịch: Thống chế [Đế chế] của Đế chế Đại đức), một cấp hàm đặc biệt giúp ông trở thành sĩ quan cao cấp nhất, cao hơn mọi thống chế trong quân đội khác. Göring nắm giữ vị thế hàng đầu này cho đến khi thế chiến thứ hai kết thúc. Trước đó, ông cũng đã được nhận huân chương Thập tự Hiệp sĩ (Ritterkreuz) vào ngày 30 tháng 9 năm 1939 với tư cách Tổng tư lệnh của Luftwaffe. Ngay lập tức sau khi Đức xâm chiếm Ba Lan, Anh đã tuyên chiến với Đức. Vào tháng 7 năm 1940, Hitler bắt đầu tiến hành những sự chuẩn bị cho một cuộc xâm lược nước Anh. Vô hiệu hóa Không quân Hoàng gia Anh (RAF) là một phần trong kế hoạch. Những đợt ném bom mở đầu nhằm vào các công trình hàng không Anh, các thành phố và trung tâm công nghiệp. Trước đó, Göring từng có lần tuyên bố trong một bài phát biểu trên sóng phát thanh: "Wenn auch nur ein feindliches Flugzeug unser Reichsgebiet überfliegt, will ich Meier heißen!" ("Nếu có chỉ một chiếc máy bay địch bay trên lãnh thổ Đức, tôi tên là Meier!"), một thứ gì đó (câu nói trên) sẽ quay trở lại ám ảnh ông khi RAF bắt đầu ném bom các thành phố Đức từ ngày 11 tháng 5 năm 1940. Mặc dù tin tưởng rằng Luftwaffe có thể đánh bại RAF trong vòng vài ngày, nhưng Göring, giống như Đô đốc Erich Raeder, tổng tư lệnh của Kriegsmarine (hải quân), tỏ ra bi quan về cơ hội thành công của kế hoạch xâm lược (mật danh Chiến dịch Sư tử Biển). Göring kỳ vọng một chiến thắng trên bầu trời sẽ là đủ để kết thúc cuộc chiến mà không cần đến một cuộc xâm lăng trực tiếp. Tuy nhiên Đức đã thất bại trong trận chiến trên không, và Chiến dịch Sư tử Biển bị hoãn lại vô thời hạn vào ngày 17 tháng 9 năm 1940. Sau thất bại trên bầu trời Anh Quốc, Luftwaffe đã cố gắng đánh bại Anh bằng ném bom chiến lược. Vào ngày 12 tháng 10 năm 1940, Hitler hủy bỏ Chiến dịch Sư tử Biển do mùa đông bắt đầu. Đến thời điểm cuối năm 1940, một điều chắc chắn là chí khí của người Anh đã không bị lay động bởi cuộc oanh kích của Đức (Blitz), dù cho những đợt ném bom vẫn còn tiếp diễn cho đến tháng 5 năm 1941. Suy tàn trên mọi mặt trận Bất chấp Hiệp ước Xô-Đức được ký kết vào năm 1939, Đức Quốc xã đã khởi động Chiến dịch Barbarossa—cuộc xâm lược Liên bang Xô Viết—vào ngày 22 tháng 6 năm 1941. Ban đầu Luftwaffe giành được ưu thế với việc phá hủy hàng ngàn máy bay Liên Xô trong tháng đầu tiên của cuộc chiến. Hitler và những tham mưu hàng đầu của ông ta đã đảm bảo chắc chắn về một thắng lợi vào Giáng Sinh và không có những dự phòng về quân lính hay trang thiết bị nào được thực hiện. Tuy nhiên, đến tháng 7, nước Đức chỉ còn 1.000 máy bay trong chiến dịch, và số binh lính thiệt mạng đã vượt quá 213.000 người. Phương án được lựa chọn giờ đây là tập trung tấn công vào một phần duy nhất của mặt trận rộng lớn, những nỗ lực trực tiếp hướng tới việc chiếm lấy Moscow. Sau trận Smolensk, một trận chiến kéo dài nhưng thành công, Hitler đã lệnh cho Cụm tập đoàn quân Trung tâm dừng cuộc tiến quân đến Moscow và tạm thời chuyển hướng các đơn vị tăng Panzer Bắc và Nam để hỗ trợ cho cuộc bao vây Leningrad và Kiev. Sự trì hoãn này đã cho Hồng quân Liên Xô cơ hội để huy động lực lượng dự bị mới; nhà sử học Russel Stolfi nhận định đó là một trong những nhân tố lớn làm nên thất bại của cuộc tấn công Moscow được tái tiến hành vào tháng 10 năm 1941. Một số nhân tố khác khiến Đức bại trận là điều kiện thời tiết khắc nghiệt, thiếu nhiên liệu, sự chậm trễ trong việc xây dựng các căn cứ không quân ở Đông Âu, và vấn đề nguồn cung tiếp tế. Hitler đã không cho phép rút lui dù chỉ một phần cho đến giữa tháng 1 năm 1942; đến khi đó thì thiệt hại đã có thể đem ra so sánh với những điều tương tự từng xảy ra trong Cuộc xâm lược Nga của Pháp năm 1812. Hitler quyết định rằng chiến dịch mùa hè năm 1942 sẽ phải tập trung ở phía Nam; những nỗ lực sẽ được thực hiện để chiếm lấy các mỏ dầu ở Kavkaz. Bước ngoặt của cuộc chiến, Trận Stalingrad, bắt đầu vào ngày 23 tháng 8 năm 1942 bằng một chiến dịch ném bom của Luftwaffe. Tập đoàn quân số 6 đã tiến vào thành phố Stalingrad nhưng bởi vị trí của nó nằm ở tiền tuyến, còn nguyên khả năng cho Hồng quân bao vây và bẫy quân Đức bên trong mà không được hỗ trợ với nguồn cung hay quân tiếp viện. Và khi Tập đoàn quân số 6 bị bao vây vào cuối tháng 11 trong Chiến dịch Sao Thiên Vương của Hồng quân, Göring đã cam kết Luftwaffe có thể cung cấp tối thiểu 300 tấn hàng tiếp tế mỗi ngày cho đội quân đang bị cô lập. Dựa vào những sự bảo đảm này, Hitler ra lệnh không được rút lui, bọn họ phải chiến đấu đến người cuối cùng. Mặc dù một số chuyến không vận có thể đã được thực hiện thành công, lượng hàng tiếp tế được giao không bao giờ vượt quá 120 tấn/ngày. Cuối cùng, những tàn dư còn lại của Tập đoàn quân số 6— khoảng 91.000 binh sĩ của một đội quân tổng cộng 285.000 người—đã đầu hàng vào đầu tháng 2 năm 1943 và chỉ có khoảng 5.000 người trong số đó sống sót trong các trại tù binh chiến tranh Liên Xô để một lần nữa thấy được tổ quốc của họ. Chiến tranh trên đất Đức Trong khi đó, sức mạnh của những phi đội ném bom của Anh và Mỹ đang ngày một tăng lên. Nước Đức bắt đầu thực hiện những chiến dịch phòng vệ các mục tiêu có nguy cơ bị quân Đồng Minh tấn công (Chiến dịch Reichsverteidigung, hay Phòng thủ Đế chế). Cuộc tấn công đầu tiên nhằm vào Cologne diễn ra vào ngày 30 tháng 5 năm 1942 với 1.000 máy bay ném bom. Tiếp theo các đợt tấn công từ nước Anh tiếp tục được tiến hành nhằm vào các mục tiêu xa hơn sau khi những thùng nhiên liệu bổ trợ được lắp đặt trên những chiếc máy bay tiêm kích của Mỹ. Göring đã không tin vào những báo cáo xác nhận việc bắn rơi các máy bay tiêm kích Mỹ ở xa về phía Đông đến tận Aachen trong mùa đông năm 1943. Danh tiếng của ông bắt đầu suy giảm. Vào đầu năm 1944, một số lượng lớn máy bay P-51 Mustang của Mỹ với tầm bay bắt đầu xuất hiện đi kèm theo những máy bay ném bom khác đến và rời khỏi các mục tiêu. Từ thời điểm đó trở đi, Luftwaffe bắt đầu hứng chịu những thương vong mà không thể thay thế một cách thích đáng. Đến cuối năm 1944, quân Đồng Minh với việc ném bom các nhà máy lọc dầu và các tuyến đường sắt đã làm tê liệt bộ máy chiến tranh của Đức Quốc xã. Người dân Đức đổ lỗi cho Göring về những thất bại của ông trong việc bảo vệ đất nước. Hitler bắt đầu khai trừ Göring ra khỏi các hội nghị, nhưng vẫn tiếp tục để ông giữ vị trí đứng đầu Luftwaffe và toàn quyền Kế hoạch bốn năm. Khi đã đánh mất sự tín nhiệm của Hitler, Göring bắt đầu dành nhiều thời gian hơn tại những nơi ở riêng của mình. Vào ngày D-Day (6 tháng 6 năm 1944), trong khi Đồng Minh có tổng cộng 11.000 máy bay các loại, Luftwaffe chỉ có khoảng 300 máy bay tiêm kích và một số lượng nhỏ máy bay ném bom tại khu vực đổ bộ. Hồi kết của cuộc chiến Khi Hồng quân Liên Xô đang ngày một tiến gần đến Berlin, những nỗ lực của Hitler nhằm tạo dựng sự phòng thủ cho thành phố trở nên phù phiếm và vô nghĩa hơn bao giờ hết. Lễ kỷ niệm sinh nhật lần cuối cùng của Hitler cử hành vào ngày 20 tháng 4 năm 1945 tại Führerbunker ở Berlin là một dịp để các nhân vật hàng đầu của Đức Quốc xã tụ họp và tiễn biệt, Göring có tham dự. Đến thời điểm đó, Carinhall (nơi cư trú của Göring) đã được di tản, tòa nhà bị phá hủy, và các kho tàng nghệ thuật được di dời đến Berchtesgaden và những nơi khác. Vào ngày 22 tháng 4, Göring đi tới khuôn viên của mình ở Obersalzberg. Cũng trong ngày hôm đó, Hitler có một bài chỉ trích kéo dài nhằm vào các tướng lĩnh, đó là lần đầu tiên ông thừa nhận công khai rằng nước Đức đã thua trong cuộc chiến và rằng ông sẽ ở lại Berlin cho đến cùng rồi sau đó tự sát. Ông cũng tuyên bố Göring ở vị thế tốt hơn để đàm phán một giải pháp hòa bình. Trước đó vào năm 1941, một tuần sau thời điểm cuộc xâm lược Liên Xô bắt đầu, Hitler cũng đã ban hành một nghị định trong đó chỉ định Göring là người kế nhiệm trong trường hợp ông qua đời. Trưởng Tham mưu Chiến dịch của Bộ Tư lệnh Tối cao các Lực lượng Vũ trang Alfred Jodl có mặt để nghe những lời rỗng tuếch của Hitler và ông đã thông báo cho tham mưu trưởng của Göring, tướng Karl Koller tại một cuộc gặp sau đó vài tiếng. Cảm nhận thấy những ngụ ý ẩn sau, Koller ngay lập tức bay tới Berchtesgaden để báo cho Göring, người lo sợ bị gán cho tội phản quốc nếu cố gắng giành lấy quyền lực. Mặt khác, nếu không có hành động gì, ông lại sợ bị cáo buộc lơ là nhiệm vụ. Sau một hồi do dự, Göring đã rà xét lại bản sao của nghị định năm 1941 trong đó chỉ định ông làm người kế nhiệm Hitler. Bản nghị định không chỉ nêu rằng Göring là ứng cử viên số một cho ngôi vị kế thừa, mà còn tuyên bố nếu Hitler mất năng lực tự do hành động, Göring có toàn quyền tự do thay mặt Hitler với tư cách phụ tá. Sau khi bàn bạc với Koller và Hans Lammers, người đứng đầu Phủ Thủ tướng Đế chế, Göring đi đến kết luận: với việc ở lại Berlin để đối mặt với cái chết chắc chắn, Hitler đã mất năng lực cai quản. Bởi vậy, tất cả đều đồng thuận rằng Göring có một nhiệm vụ rõ ràng là giành lấy quyền lực của Hitler. Một động cơ khác thúc đẩy Göring là nỗi lo về việc đối thủ của mình, Martin Bormann, sẽ chiếm quyền vào thời điểm Hitler chết và sẽ xử tử ông như một kẻ phản bội. Với những suy nghĩ đó trong đầu, Göring đã soạn một bức điện với lời lẽ thận trọng yêu cầu Hitler cho phép ông được tiếp quản ngôi vị lãnh đạo đất nước, trong đó nhấn mạnh ông sẽ hành động với tư cách trợ lý của Hitler. Göring thêm vào một ý: nếu Hitler không phản hồi lúc 22:00 giờ đêm hôm đó (23 tháng 4 năm 1945), ông sẽ coi như Hitler đã thực sự mất đi quyền tự do hành động và sẽ gánh vác trách nhiệm lãnh đạo Đế chế. Bormann đã chặn lại bức điện và thuyết phục cho Hitler tin rằng Göring là một kẻ phản bội và bức điện là yêu sách đòi vị lãnh tụ hoặc phải từ chức hoặc là sẽ bị lật đổ. Với sự trợ giúp của Bormann, Hitler hồi đáp lại Göring trong đó thông báo rằng ông sẽ bị tử hình vì tội phản quốc nghiêm trọng nếu không lập tức từ bỏ mọi chức vụ. Ngay sau đó, Hitler tước bỏ tất cả mọi chức vụ của Göring và ra lệnh quản thúc tại gia đối với ông, những thuộc hạ và Lammers tại Obersalzberg. Bormann loan báo trên đài phát thanh về việc Göring từ chức là vì lý do sức khỏe. Vào ngày 26 tháng 4, với việc khu phức hợp tại Obersalzberg bị quân Đồng Minh tấn công, Göring đã chuyến đến lâu đài của ông ở Mauterndorf. Trong bản di chúc cuối cùng của mình, Hitler đã trục xuất Göring ra khỏi đảng và chính thức bãi bỏ nghị định khi xưa trong đó chỉ định Göring làm người kế nhiệm. Tiếp theo Hitler bổ nhiệm Karl Dönitz, tư lệnh Hải quân, làm tổng thống Đế chế và tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang. Hitler cùng vợ là Eva Braun tự sát vào ngày 30 tháng 4 năm 1945, chỉ vài giờ sau khi một lễ cưới gấp gáp được cử hành. Göring được trả tự do vào ngày 5 tháng 5 nhờ một đơn vị Luftwaffe bay qua, và ông tiến đến chỗ quân Mỹ với mong muốn đầu hàng họ chứ không phải Liên Xô. Vào ngày mùng 6 ông bị tạm giam gần Radstadt bởi các đơn vị Sư đoàn Bộ binh số 36 của Lục quân Hoa Kỳ. Rất có thể nước đi này đã cứu mạng Göring, Bormann đã ra lệnh tử hình ông một khi Berlin sụp đổ. Xét xử và cái chết Göring được đưa đến Mondorf-les-Bains, Luxembourg, nơi có một trại tạm giam tù binh chiến tranh được đặt trong khách sạn Palace. Tại đây ông tiến hành cai dihydrocodeine (một dẫn xuất êm dịu của morphine) bằng việc giảm lượng morphine khoảng từ 3 đến 4 gren (260 đến 320 mg) một ngày và đặt trong một chế độ ăn kiêng khắt khe; ông sụt . Trong quãng thời gian tạm giam ông được kiểm tra IQ và chỉ số kết quả là 138. Vào tháng 9 hàng loạt những quan chức hàng đầu của Đức Quốc xã được chuyển đến Nuremberg, địa điểm tổ chức một loạt các phiên tòa quân sự khởi động vào tháng 11. Göring là nhân vật xếp hàng số hai của Đức Quốc xã được đem ra xét xử tại Nuremberg, đứng sau Tổng thống Đế chế (cựu Đô đốc) Karl Dönitz. Bên khởi tố chia bản cáo trạng ra làm bốn tội danh, bao gồm một tội về âm mưu tiến hành chiến tranh xâm lược; các tội ác chiến tranh; bao gồm cướp bóc, di dời các tác phẩm nghệ thuật và các tài sản khác đến Đức; và các tội ác chống lại loài người, bao gồm việc thủ tiêu những thường dân và đối thủ chính trị dưới sắc lệnh Nacht und Nebel (Đêm đen và Sương mù); việc tra tấn và ngược đãi những tù binh chiến tranh; việc giết hại và bắt dân thường làm nô lệ, bao gồm ước tính 5.700.000 nạn nhân người Do Thái tại thời điểm đó. Göring không được phép trình bày dài dòng, ông tự tuyên bố bản thân "không có tội về mặt ý nghĩa của bản cáo trạng". Phiên tòa diễn ra trong vòng 218 ngày; bên nguyên trình bày trường hợp của họ từ tháng 11 đến tháng 3, tiếp đến là lượt bào chữa của Göring được thực hiện đầu tiên kéo dài từ ngày 8 đến 22 tháng 3. Phán quyết của tòa được tuyên vào ngày 30 tháng 9 năm 1946. Göring với việc bị buộc phải giữ im lặng khi ngồi trên ghế dành cho bị cáo trong phiên tòa đã truyền đạt, bày tỏ ý kiến của mình bằng những cử chỉ, lắc đầu, hoặc là cười. Ông liên tục ghi chép, thì thầm với các bị cáo khác và cố gắng kiểm soát hành vi bất thường của Rudolf Hess, người ngồi bên cạnh. Trong các quãng thời gian tòa tạm nghỉ, Göring nỗ lực chi phối các bị cáo còn lại và cuối cùng ông bị biệt giam khi cố gắng tìm cách tác động lên lời khai của họ. Sĩ quan tình báo và nhà tâm lý học Gustave Gilbert, một người Mỹ nói tiếng Đức, đã phỏng vấn Göring và những bị cáo khác trong giai đoạn diễn ra phiên tòa. Gilbert giữ một cuốn nhật ký mà sau này ông đã xuất bản nó với tên gọi Nhật ký Nuremberg. Trong đó có đoạn miêu tả Göring vào buổi tối ngày 18 tháng 4 năm 1946, thời điểm phiên tòa đang tạm nghỉ Lễ Phục sinh ba ngày: Tại phiên tòa, đã có vài lần bên nguyên cho chiếu những thước phim về các khu trại tập trung và các hành động tàn bạo khác. Tất cả những người có mặt, bao gồm cả Göring, đều thấy những nội dung gây sốc; ông cho rằng chúng nhất định là giả tạo. Các nhân chứng trong đó có Paul Koerner và Erhard Milch cố gắng mô tả Göring là một người ôn hòa. Milch phát biểu rằng chống lại Hitler hay không tuân theo những mệnh lệnh của ông ta là điều không thể; làm như thế gần như sẽ chuốc lấy cái chết cho bản thân và cả gia đình. Đến lượt tự bào chữa, Göring nhấn mạnh về lòng trung thành của ông với Hitler, và tuyên bố không hề biết về những gì đã xảy ra trong các trại tập trung, những địa điểm đặt dưới sự kiểm soát của Himmler. Ông đưa ra câu trả lời lảng tránh, khó tiếp nhận cho các câu hỏi trực tiếp và có những lời bào chữa chính đáng cho tất cả mọi việc mà ông làm trong thời kỳ chiến tranh. Ông lợi dụng lượt làm chứng của mình như một cơ hội để diễn giải chi tiết và rất dài về vai trò của mình trong Đế chế, với nỗ lực trình bày bản thân như là một sứ giả hòa bình và nhà ngoại giao trước thời điểm cuộc chiến nổ ra. Trong buổi chất vấn, trưởng công tố viên Robert H. Jackson đã đọc biên bản của một cuộc họp được tổ chức không lâu sau cuộc tàn sát Kristallnacht diễn ra vào tháng 11 năm 1938. Tại cuộc họp đó, Göring đã có âm mưu lợi dụng cuộc tàn sát để tịch thu tài sản của người Do Thái. Sau đó, bá tước David Maxwell-Fyfe chứng minh Göring không thể không biết về Cuộc tàn sát Stalag Luft IIIvụ hành quyết bằng súng 50 phi công bị bắt lại sau một cuộc đào thoát khỏi nhà tù Stalag Luft III. Ông cũng trình bày bằng chứng rõ ràng chứng minh Göring biết đến hoạt động tàn sát người Do Thái Hungary. Göring bị xét phạm phải cả bốn tội và bị kết án tử hình bằng treo cổ. Phán quyết của tòa như sau: Göring đã thỉnh cầu được tử hình bằng súng như một người lính thay vì bị treo cổ như một tội phạm thông thường, nhưng tòa từ chối. Không chấp nhận việc phải tuân theo bản án do những kẻ bắt giữ mình áp đặt, ông đã tự sát bằng một viên con nhộng có chứa kali xyanua trong đêm trước thời điểm thi hành án. Một giả thuyết giải thích cho việc làm thế nào mà Göring có được viên thuốc độc để tự sát cho rằng Trung úy Lục quân Hoa Kỳ Jack G. Wheelis, người đứng canh tại tòa án Nuremberg, đã lấy được những viên thuốc giấu ở giữa đống vật dụng cá nhân của Göring mà trước đó bị quân Mỹ tịch thu và trao chúng đến tay ông; sau khi bị Göring mua chuộc bằng chiếc đồng hồ, cây bút, và hộp đựng thuốc lá điếu; tất cả đều bằng vàng. Vào năm 2005, cựu binh Herbert Lee Stivers của Lục quân Hoa Kỳ, người từng phục vụ trong Trung đoàn Bộ binh số 26 thuộc Sư đoàn Bộ binh số 1 và từng là lính bảo vệ danh dự tại tòa Nuremberg, tuyên bố ông đã đưa cho Göring thuốc "medicine" giấu trong một chiếc bút máy mà một phụ nữ Đức yêu cầu ông lén đưa vào nhà tù trước đó. Cũng như những tử tù khác, thi thể của Göring được trưng bày tại địa điểm hành quyết để minh chứng cho việc bản án đã được thi hành. Sau đó, những thi thể này được hỏa táng và tro được rải xuống sông Isar. Tài sản cá nhân Việc tịch thu tài sản của người Do Thái là thời cơ để Göring tích lũy của cải cho bản thân. Ông đã chiếm hữu một lượng tài sản hoặc mua lại với giá rất rẻ. Trong một vài trường hợp, ông còn thu nhận của hối lộ để cho phép những người khác đánh cắp tài sản của người Do Thái. Với tư cách người đứng đầu Kế hoạch bốn năm, ông đã nhận tiền lại quả của các nhà tư bản công nghiệp vì những quyết định tạo thuận lợi cho họ, và nhận tiền cho việc cung cấp vũ khí đến những người Cộng hòa Tây Ban Nha trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha thông qua công ty Pyrkal tại Hy Lạp (mặc dù Đức Quốc xã ủng hộ Franco và những người theo chủ nghĩa dân tộc). Vào năm 1933 Göring được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Săn bắn và năm 1934 là Bộ trưởng Lâm nghiệp. Ông bắt đầu cải cách các bộ luật về lâm nghiệp và thực thi những hành động để bảo vệ các loài có nguy cơ tuyệt chủng. Trong khoảng thời gian đó ông trở nên hứng thú với khu rừng Schorfheide, tại đây ông đã dành để thành lập một công viên quốc gia mà cho đến nay vẫn còn tồn tại. Cũng ở đây ông đã cho xây một Jagdschloss tỉ mỉ có tên Carinhall để tưởng nhớ người vợ đầu tiên, Carin. Vào năm 1934 thi thể của bà được chuyển đến và đặt trong một cái hầm trên khu đất. Địa điểm chính của tòa nhà có một gian phòng trưng bày các tác phẩm nghệ thuật đồ sộ mà Göring cướp bóc được từ những bộ sưu tập của cá nhân và các bảo tàng trên khắp châu Âu từ năm 1939 trở về sau. Göring đã hợp tác chặt chẽ với Einsatzstab Reichsleiter Rosenberg (Lực lượng đặc nhiệm Reichsleiter Rosenberg), một tổ chức có nhiệm vụ cướp bóc tác phẩm nghệ thuật và văn hóa từ những bộ sưu tập, thư viện, và các bảo tàng của người Do Thái trên khắp châu Âu. Thủ lĩnh của lực lượng này là Alfred Rosenberg và họ thiết lập một trung tâm và trụ sở ở Paris. Đã có khoảng 26.000 toa xe chứa đầy các kho tàng nghệ thuật, đồ đạc, và các món đồ cướp bóc khác được chuyển từ Pháp đến Đức. Göring nhiều lần đến trụ sở ở Paris để xem xét những hàng hóa mới bị lấy cắp và lựa chọn những món đồ để đưa lên một chuyến tàu đặc biệt chuyển đến Carinhall và những nơi cư trú khác của ông. Ước tính giá trị bộ sưu tập của Göring—đánh số khoảng 1.500 món—là 200 triệu USD. Göring được biến đến với những sở thích phung phí và quần áo lòe loẹt. Ông có những bộ quân phục đặc biệt, đa dạng tương ứng với rất nhiều chức vụ mà ông nắm giữ; trong đó có bộ quân phục Reichsmarschall (Thống chế Đế chế) đi kèm với một cây gậy nạm ngọc. Hans-Ulrich Rudel, một phi công Stuka hàng đầu trong chiến tranh, kể về hai cuộc gặp trong đó Göring ăn vận những bộ trang phục kỳ dị: lần đầu là một bộ quần áo đi săn thời trung cổ khi ông thực hành bắn cung với bác sĩ của mình; và lần hai là một cái áo toga màu đỏ buộc lại bằng một cái móc (clasp) vàng cùng việc hút thuộc bằng một cái tẩu to bất thường. Bộ trưởng Ngoại giao Ý Galeazzo Ciano chú ý đến lần Göring mặc một chiếc áo khoác lông thú trông giống như "một gái mại dâm cao cấp mặc đi xem nhạc kịch". Ông tổ chức những bữa tiệc mừng tân gia hoang phí cho mỗi lượt thi công hoàn tất ở Carinhall, và thay đổi trang phục vài lần trong suốt những buổi tối hôm đó. Göring được chú ý vì sự bảo trợ của ông cho âm nhạc, đặc biệt là opera. Ông thường xuyên mở tiệc chiêu đãi xa hoa và tổ chức các bữa tiệc sinh nhật công phu cho mình. Bộ trưởng Vũ trang Albert Speer nhớ lại rằng các vị khách thường luôn mang đến các món quà đắt giá như những thỏi vàng, xì gà Hà Lan, và tác phẩm nghệ thuật có giá trị. Vào dịp sinh nhật năm 1944, Speer đã tặng cho Göring một bức tượng bán thân làm bằng đá cẩm thạch ngoại cỡ của Hitler. Với tư cách thành viên của Hội đồng Bang Phổ, Speer cần phải quyên góp một phần đáng kể mức lương góp vào quà của Hội đồng gửi đến Göring mà không chờ đến khi có yêu cầu. Thống chế Erhard Milch nói với Speer rằng các khoản quà tặng tương tự cũng đòi hỏi được thực hiện trích từ ngân quỹ chung của Bộ Không quân. Vào sinh nhật năm 1940, Bộ trưởng Ngoại giao Ý Count Ciano đã trao cho Göring huân chương cao quý Collar of Annunziata. Món quà khiến ông phát khóc. Lá cờ Reichsmarschall thiết kế trên một nền xanh nhạt, với hình ảnh một con đại bàng bằng vàng quắp lấy một vòng hoa, che trước vòng hoa là hai cây gậy và một chữ Vạn. Mặt sau của lá cờ có huân chương Đại Thập tự (Großkreuz des Eisernen Kreuzes), bao quanh là một vòng hoa nằm giữa bốn con đại bàng Luftwaffe. Lá cờ này được một người cầm cờ mang theo đến mọi sự kiện công cộng. Mặc dù Göring thích được người khác gọi mình là "der Eiserne" (người sắt), chàng phi công bảnh bao và vạm vỡ ngày nào đã trở nên to béo. Ông là một trong số ít lãnh đạo của Đức Quốc xã không cảm thấy bị xúc phạm khi biết mình bị lấy ra làm trò đùa, "khiếm nhã thế nào cũng được", và coi chúng như biểu hiện của lòng yêu mến. Người Đức đùa cợt về cái tôi của Göring rằng ông sẽ mặc bộ quân phục của đô đốc để đi tắm, và về thân hình to béo của ông, rằng "ông ta ngồi trên cái bụng của mình". Một chuyện đùa khác kể là Göring đã gửi một bức điện cho Hitler sau chuyến thăm đến Vatican của mình: "Nhiệm vụ đã hoàn thành. Giáo hoàng đã cởi quần áo. Tiara và lễ phục của Giáo hoàng hoàn toàn vừa vặn." Ghi chú
Kuantan là một thành phố ở Malaysia, thủ phủ của bang Pahang (bang lớn nhất trên bán đảo Malaysia với diện tích 36.000 km²). Thành phố được thành lập vào những năm 1890. Dân cư: 62% người Malay, 28% người Hoa, 4% người Ấn Độ và 6% dân tộc khác. Thành phố nằm bên cửa sông Kuantan, khoảng giữa bờ biển phía đông từ Singapore đến Kota Bharu. Kuantan là thủ phủ của bang từ năm 1976. Dân số 501.966 người. Đây là thành phố du lịch biển của Malaysia. Thành phố có cảng biển, có sân bay nội địa. Khí hậu
Kuching (chữ Jawi: ; ), gọi chính thức là Thành phố Kuching, là thủ phủ và thành phố đông dân nhất của bang Sarawak tại Malaysia. Đây cũng là thủ phủ của tỉnh Kuching. Thành phố nằm bên sông Sarawak tại đầu tây nam của Sarawak trên đảo Borneo và có diện tích là , dân số là 165.642 tại khu vực hành chính Kuching Bắc và 159.490 tại khu vực hành chính Kuching Namtổng dân số là 325.132 (2010). Kuching là thủ phủ thứ ba của Sarawak vào năm 1827, trong thời kỳ cai trị của Vương quốc Brunei. Năm 1841, Kuching trở thành thủ đô của Sarawak sau khi Sarawak được Brunei nhượng cho James Brooke. Đô thị tiếp tục được quan tâm và phát triển trong thời gian cai trị của Charles Brooke. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Kuching bị quân Nhật chiếm đóng từ năm 1942 đến năm 1945. Sau chiến tranh, đô thị còn nguyên vẹn. Rajah cuối cùng của Sarawak là Charles Vyner Brooke quyết định nhượng Sarawak với vị thế là một thuộc địa vương thất Anh vào năm 1946. Kuching duy trì là thủ đô trong thời kỳ Thuộc địa vương thất. Sau khi Malaysia hình thành vào năm 1963, Kuching duy trì vị thế thủ phủ cấp bang và được trao tình trạng thành phố vào năm 1988. Từ đó, thành phố Kuching được chia thành hai khu vực hành chính, do hai chính quyền địa phương riêng biệt quản lý. Kuching là một địa điểm ẩm thực lớn đối với du khách và là cửa ngõ chính để du khách đến thăm Sarawak và Borneo. Vườn quốc gia đất ngập nước Kuching nằm cách khoảng từ thành phố, và có nhiều điểm thu hút du lịch khác trong và quanh Kuching như Vườn quốc gia Bako, Trung tâm động vật hoang dã Semenggoh, Nhạc hội thế giới Rừng mưa (RWMF), Tòa nhà nghị viện bang, Cung Astana, Pháo đài Margherita, Bảo tàng mèo Kuching, và Bảo tàng bang Sarawak. Thành phố trở thành một trong các trung tâm công nghiệp và thương nghiệp tại Đông Malaysia. Từ nguyên Tên "Kuching" được sử dụng để chỉ thành phố vào trước thời điểm Brooke đến năm 1839. Tồn tại nhiều thuyết về nguồn gốc của từ "Kuching". Nó có thể bắt nguồn từ "kucing" nghĩa là mèo trong tiếng Mã Lai hoặc từ Cochin- một thương cảng bên bờ biển Malabar tại Ấn Độ và là một thuật ngữ chung tại Trung Quốc và Ấn Độ đối với các thương cảng. Một số đồ tạo tác Ấn Độ giáo nay có thể thấy được trong Bảo tàng bang Sarawak. Tuy nhiên, nguồn khác thì cho rằng thành phố Kuching từng được gọi là "Sarawak" trước khi Brooke đến. Khu dân cư được đổi tên thành "Sarawak bản thổ" khi vương quốc khuếch trương. Chỉ đến năm 1872 thì Charles Brooke mới đổi tên khu dân cư sang "Kuching". Tồn tại một thuyết không chắc chắn dựa trên một câu chuyện về hiểu lầm. Theo đó, James Brooke đến Kuching trên thuyền buồm "Royalist". Sau đó ông hỏi những người dẫn đường địa phương về tên của đô thị. Người dẫn đường địa phương nghĩ rằng James Brooke chỉ vào một con mèo, và nói "Kuching". Tuy nhiên, người Mã Lai tại Sarawak thường gọi một con mèo là "pusak" thay vì "kucing". Một số nguồn cũng cho rằng tên gọi bắt nguồn từ một loại quả gọi là "mata kucing" (Euphoria malaiense), vốn mọc phổ biến tại Malaysia và Indonesia. Cũng tồn tại một đồi trong thành phố có tên được đặt theo loại quả này, đó là Bukit Mata Kuching. Trong văn bản mà một phụ nữ người Anh gửi cho con trai vào thế kỷ 19, có viết rằng tên gọi bắt nguồn từ một dòng chảy cùng tên, gọi là "Sungai Kuching" hoặc Cat River trong tiếng Anh. Sông nằm tại chân của Bukit Mata Kuching và trước miếu Đại Bá Công. Trong thập niên 1950, sông trở nên rất nông do lắng đọng phù sa. Sông sau đó bị lấp để làm xa lộ. Tồn tại thuyết khả tín hơn là Kuching thực tế có nghĩa là "Cổ" (古) - và "Tỉnh"(井) nghĩa là giếng cũ trong tiếng Hoa. Trong thời gian Brooke cai trị, không có nguồn cung nước ngọt và bệnh lây lan qua đường nước là phổ biến. Năm 1888, một đại dịch bùng nổ và sau đó được gọi là "đại dịch tả". Một giếng nằm tại phố Trung Hoa ngày nay tại khu Chợ chính giúp chống lại dịch bệnh do nó cung cấp nước sạch. Do nhu cầu cung cấp nước ngày càng tăng, vai trò của giếng sau đó bị thay thế bằng nhà máy xử lý nước tại đường Bau. Lịch sử Sarawak là bộ phận của Vương quốc Brunei từ thời quốc vương đầu tiên là Sultan Muhammad Shah. Kuching là thủ phủ thứ ba của Sarawak, do đại diện của Quốc vương Brunei là Pengiran Indera Mahkota thành lập vào năm 1827. Trước khi thành lập Kuching, hai thủ phủ trước đó của Sarawak là Santubong do Sultan Pengiran Tengah thành lập vào năm 1599, và Lidah Tanah do Datu Patinggi Ali thành lập vào đầu thập niên 1820. Pengiran Raja Muda Hashimit sau đó nhượng lãnh thổ cho một nhà phiêu lưu người Anh tên là James Brooke như một phần thưởng vì nhân vật này giúp ông chống lại một cuộc nổi loạn. Cuộc nổi loạn bị dập tắt vào tháng 11 năm 1840, và vào ngày 24 tháng 9 năm 1841 thì Brooke được bổ nhiệm làm Thống đốc Sarawak với tước hiệu Rajah. Điều này không được công bố cho đến ngày 18 tháng 8 năm 1842, sau khi Quốc vương Omar Ali Saifuddin II phê chuẩn, và yêu cầu Brooke trả $2.500 mỗi năm cho Quốc vương. Từ đó, Kuching trở thành nơi đặt trụ sở của chính phủ Brooke. Chính phủ tiếp tục dưới quyền cháu trai của James Brooke là Charles Brooke. Với vị thế là một thủ đô hành chính, Kuching trở thành trung tâm quan tâm và phát triển. Các tiến bộ bao gồm một hệ thống vệ sinh. Đến năm 1874, thành phố hoàn tất nhiều sự phát triển, bao gồm xây dựng một bệnh viện, nhà tù, Pháo đài Fort Margherita, và nhiều tòa nhà khác. Trong tự truyện My Life in Sarawak Phu nhân của Charles Brooke viết: Astana (cung điện) là dinh thự chính thức của Thống đốc Sarawak, nó được xây dựng bên cạnh dinh thự đầu tiên của Brooke. Ông cho xây dựng điện vào năm 1869 như một quà cưới cho phu nhân của mình. Kuching tiếp tục thịnh vượng dưới thời Charles Vyner Brooke, là Rajah thứ ba của Sarawak. Năm 1941, Kuching là nơi diễn ra Lễ kỷ niệm thế kỷ Chính phủ gia tộc Brooke. Một vài tháng sau, chính phủ Brooke kết thúc khi Nhật Bản chiếm đóng Sarawak. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, sáu trung đội bộ binh từ Trung đoàn Punjab 2/15 đóng quân tại Kuching trong tháng 4 năm 1941. Trung đoàn bảo vệ Kuching và sân bay Bukit Stabar khỏi sự phá hoại của người Nhật. Phòng thủ chủ yếu tập trung vào Kuching và Miri. Tuy nhiên, vào ngày 24 tháng 12 năm 1941, Kuching bị quân Nhật chinh phục. Sarawak được quản lý như bộ phận của Đế quốc Nhật Bản trong ba năm tám tháng, đến khi các quan chức Nhật Bản đầu hàng vào ngày 11 tháng 9 năm 1945. Đầu hàng chính thức được ký trên HMAS Kapunda tại Kuching. Từ tháng 3 năm 1942, người Nhật điều hành trại Batu Lintang để giam giữ các tù binh chiến tranh và thường dân, nằm cách ba dặm (5 km) bên ngoài Kuching. Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, đô thị tồn tại và hoàn toàn không bị hư hại. Rajah thứ ba và cuối cùng là Charles Vyner Brooke sau đó nhượng Sarawak cho Quân chủ Anh vào ngày 1 tháng 7 năm 1946. Trong thời kỳ Thuộc địa vương thất, chính phủ thực hiện phát triển và cải thiện hạ tầng tại Sarawak. Kuching được phục hồi khi là thủ đô của Sarawak dưới quyền chính phủ thực dân Anh. Khi Sarawak, cùng với Borneo, Singapore và Liên bang Malaya, hình thành Malaysia vào năm 1963, Kuching duy trì vị thế là thủ phủ cấp bang và được cấp tình trạng thành phố vào ngày 1 tháng 8 năm 1988. Quản trị Kuching là thủ phủ của Sarawak, giữ một vai trò quan trọng trong chính trị và kinh tế khi là nơi đặt trụ sở của chính phủ bang cùng hầu hết bộ và cơ quan của nó. Nghị viện bang Sarawak nằm tại Petra Jaya thuộc ngoại ô Kuching. Có năm đại biểu quốc hội đại diện cho năm khu vực bầu cử trong thành phố: Mas Gading (P.192), Santubong (P.193), Petra Jaya (P.194), Kuching City (P.195), Stampin (P.196). Thành phố cũng bầu 13 đại biểu vào nghị viện cấp bang từ các khu vực Opar, Tasik Biru, Tanjung Datu, Pantai Damai, Demak Laut, Tupong, Samariang, Satok, Padungan, Pending, Batu Lintang, Kota Sentosa, và Batu Kawah. Kuching là thành phố duy nhất tại Malaysia do hai thị trưởng quản lý, thành phố được chia thành Kuching Bắc và Kuching Nam. Một thị trưởng quản lý Kuching Nam và một Trưởng quan quản lý Kuching Bắc. Thành phố được cấp tình trạng thành phố vào ngày 1 tháng 8 năm 1988, và từ đó do Tòa thị chính Kuching Bắc (DBKU) và Hội đồng thành phố Kuching Nam (MBKS) quản lý. Thành phố được xác định trong ranh giới của huyện Kuching. Huyện Kuching có diện tích 1.868,83 km², là huyện đông dân nhất tại Sarawak. Huyện Kuching được phân thành ba đơn vị là Kuching bản thổ, Padawan và Siburan. Kuching bản thổ gồm thành phố và khu tự quản Padawan, trong khi Siburan và Padawan là phó huyện. Tổng diện tích của Tòa thị chính Kuching Bắc, Hội đồng thành phố Kuching Nam, Hội đồng khu tự quản và Hội đồng huyện Samarahan được gọi là Đại Kuching. Địa lý Kuching nằm bên bờ sông Sarawak tại phần tây bắc của đảo Borneo. Giới hạn của thành phố gồm toàn bộ lãnh thổ có diện tích xấp xỉ thuộc huyện Kuching đi từ Gunung Lasak (núi Lasak) tại Muara Tebas đến Batu Buaya (Đá Cá sấu) trên bán đảo Santubong theo một loạt dấu hiệu bản đồ có trong Phụ lục thứ nhất của Sắc lệnh Thành phố Kuching, 1988. Để giản hóa chế độ pháp lý, giới hạn của thành phố Kuching trải từ sân bay quốc tế Kuching tại phía nam đến bờ biển phía bắc của các bán đảo Santubong và Bako; từ vườn quốc gia đất ngập nước Kuching tại phía tây đến cửa sông Kuap tại phía đông. Sông Sarawak về đại thể phân chia thành phố thành Bắc và Nam. Điểm cao nhất trong thành phố là núi Santubong trên bán đảo Santubong, có cao độ trên mực nước biển, nằm cách 35 km về phía bắc của trung tâm thành phố. Quá trình đô thị hóa nhanh chóng diễn ra tại Đại Kuching, mở rộng đô thị lan đến Penrissen, Kota Sentosa, Kota Padawan, Batu Kawah, Siburan, Tarat, Bau, Lundu, Kota Samarahan, Asajaya cũng như Serian vốn cách Kuching 65 km. Khí hậu Kuching có một khí hậu rừng mưa nhiệt đới (phân loại khí hậu Köppen Af), tương đối nóng song rất ẩm trong nhiều thời kỳ và nhận được lượng mưa đáng kể. Lượng mưa trung bình năm là xấp xỉ . Kuching là khu vực dân cư mưa nhiều nhất (trung bình) tại Malaysia với 247 ngày mưa mỗi năm. Kuching chỉ nhận được trung bình 5 giờ nắng mỗi ngày, số liệu trong tháng 1 (mưa nhiều nhất) chỉ là 3,7 giờ. Thời gian mưa nhiều nhất trong năm là các tháng có gió mùa Đông Bắc từ tháng 11 đến tháng 2 và mùa khô bắt đầu từ tháng 6 đến tháng 8. Nhiệt độ tại Kuching dao động từ đến song nhiệt độ trung bình là khoảng trong những giờ đầu buổi sáng và tăng lên khoảng và giữa chiều song chỉ số nhiệt thường đạt trong mùa khô do độ ẩm thấp. Nhiệt độ hầu như không thay đổi trong suốt năm nếu không chịu tác đọng của mưa lớn và gió mạnh trong các giờ đầu của buổi sáng vốn có thể đưa nhiệt độ xuống , song điều này hiếm khi xảy ra. Nhân khẩu Điều tra nhân khẩu Malaysia 2010 báo cáo rằng Kuching có dân số là 325.132. Dân số thành phố (Bắc và Nam) gồm người Mã Lai (146.580), người Hoa (120.860), người Iban (28.691), Bidayuh (13.681), không phải công dân Malaysia (7.216), Bumiputra khác (3.250), người Melanau (2.078), người Ấn (1.626) và các cộng đồng khác (1.140). Trong cộng đồng người Hoa, người Mân Nam chủ yếu cư trú tại các khu vực đô thị và người Khách Gia chủ yếu cư trú tại ngoại ô. Các nhóm người Hoa khác gồm người Phúc Châu, người Triều Châu, người Hải Nam, người Quảng Đông, người Phủ Điền và các nhóm khác. Hầu hết người Mã Lai và người Melanau là tín đồ Hồi giáo, người Hoa thực hành Phật giáo, Đạo giáo hoặc Cơ Đốc giáo, trong khi người Iban và Bidayuh chủ yếu theo Cơ Đốc giáo với một số trong đó vẫn thực hành thuyết vật linh. Một số người Ấn Độ giáo, Sikh giáo và một lượng nhỏ người thế tục hiện diện quanh thành phố. Một lượng đáng kể những người không có quyền công dân Malaysia đến từ các khu vực thuộc Indonesia trên đảo Borneo do vị trí địa lý của Sarawak, hầu hết trong số đó là các công nhân nhập cư. Từ thời kỳ Anh thuộc, một lượng cư dân nhỏ từ Nam Á, đặc biệt là người Pakistan hiện diện quanh thành phố và điều hành công việc kinh doanh của họ, chủ yếu là bán quần áo và gia vị. Những người di cư khác cùng thời kỳ cũng bao gồm người Bugis đến từ Đông Ấn Hà Lan và các dân tộc khác từ phần đảo Borneo thuộc Hà Lan. Hôn nhân dị chủng giữa các cá nhân thuộc nền tảng dân tộc khác nhau là điều phổ biến tại Kuching, và bản thân thành phố là nơi cư trú của 30 dân tộc khác nhau. Bên cạnh việc là thủ phủ của Sarawak, Kuching trở thành một trung tâm kinh doanh và văn hóa đối với người Mã Lai tại Sarawak. Phương ngữ Mã Lai được nói tại Kuching được gọi là Bahasa Sarawak (tiếng Sarawak), là một tập hợp con của tiếng Mã Lai. Phương ngữ Mã Lai sử dụng tại Kuching có chút khác biệt so với phương ngữ sử dụng tại Miri. Do cộng đồng dân tộc lớn thứ nhì trong thành phố là người Hoa, tiếng Hoa cũng được sử dụng phổ biến, đặc biệt là tiếng Tuyền-Chương và Quan thoại. Almost all residents are able to speak English. Một số trường học tư nhân đặc biệt giảng dạy tiếng Anh cho trẻ ngoại quốc được lập khắp thành phố. Kinh tế Kuching là một trong các trung tâm công nghiệp và thương nghiệp chủ yếu của Sarawak. Nhiều ngân hàng thương nghiệp cấp bang, cấp quốc gia và quốc tế, cũng như một số công ty bảo hiểm lập trụ sở và chi nhánh của họ tại đây. Chiếm ưu thế trong kinh tế là lĩnh vực sơ khai và hiện chuyển sang lĩnh vực thứ ba do chính phủ bang muốn cải biến Sarawak thành một bang phát triển vào năm 2020. Khu kinh doanh trung tâm Kuching mới, Khu công nghiệp Pending, Khu công nghiệp Demak Laut, Khu công nghiệp tự do Sama Jaya và ngoại ô Petra Jaya có mục đích là nhằm xúc tiến hoạt động công thương của thành phố để biến nó thành một trung tâm tăng trưởng chủ yếu tại Đông Malaysia, cũng như cho BIMP-EAGA (Khu vực Phát triển Đông ASEAN). Thành phố cũng là nơi tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo và hội chơ thương mại, như Diễn đàn Kinh danh Toàn cầu Malaysia, Hội nghị thượng đỉnh các Lãnh đạo của Tương lai, Hội nghị thế giới của Hiệp hội Thủy điện Quốc tế (IHA), Diễn đàn Du lịch ASEAN, và các hội nghị khác. Các sự kiện này thường được tổ chức tại Trung tâm Hội nghị Borneo. Trên phương diện lịch sử, người Hoa đóng góp cho kinh tế thành phố từ khi họ nhập cư trong thời kỳ Vương quốc Brunei sau khi phát hiện quặng Antimon, cũng như trong thời kỳ chính phủ Charles Vyner Brooke- người khuyến khích Hoa kiều di cư để trồng hồ tiêu. Giao thông Đường bộ trong thành phố nằm dưới thẩm quyển và bảo quản của một trong hai hội đồng địa phương, hoặc của Bộ Công trình công cộng Sarawak. Hầu hết các đường nội bộ chủ yếu là đường hai chiều có dải phân cách và thành phố liên kết bằng các xa lộ đến các đô thị khác tại Sarawak. Các xa lộ này chủ yếu là quốc lộ do Bộ Công trình Công cộng Malaysia bảo quản. Thành phố cũng nổi tiếng với một số vòng xuyến bao gồm cả nơi cổ nhất và lớn nhất gọi là Datuk Abang Kipali Bin Abang Akip. Vòng xuyến thường có tính cảnh quan và hiệu quả trong việc xử lý tắc nghẽn giao thông. Tuy nhiên, đèn giao thông nay được sử dụng phổ biến hơn do giao thông thành phố tiếp tục phát triển. Do thành phố nằm gần xích đạo, các ổ gà có xu hướng phát triển trên đường bộ trong thời gian gió mùa, thường là vào cuối năm do trùng khớp với mùa đông tại Bắc bán cầu. Những tuyến đường dẫn từ ngoài thành phố vào nội thành có chất lượng hơi kém và hiện đang được nâng cấp. Tồn tại hai loại hình taxi hoạt động trong thành phố, loại chính có màu đỏ và vàng còn loại lớn hơn được sơn màu xanh, loại này tiện lợi hơn song đắt hơn và được gọi là "executive taxis". Năm 2014, một ứng dụng đặt taxi điện thoại thông minh mang tên "MyTeksi" xuất hiện và biến Kuching là khu vực thứ năm sau Thung lũng Klang, Cyberjaya, Putrajaya và Johor Bahru có ứng dụng này. Bến xe khách chính là Kuching Sentral, nó chỉ xuất hiện từ 2012. Nó nằm ở phía nam của thành phố, mất năm phút đi từ sân bay quốc tế Kuching và 20 phút từ trung tâm thành phố. Bến phục vụ hành trình đường dài đến Brunei, Sabah và Tây Kalimantan tại Indonesia. Các bến xe khác là bến xa Kuching cũ, nó vẫn hoạt động theo nguyện vọng của một số công ty xe khách. Có các dịch vụ xe buýt nhỏ và xe tải trong thành phố. Giống như hầu hết đô thị khác tại Sarawak, Kuching có liên đến đến các trung tâm đô thị và điểm dân cư khác bằng đường thủy. Giữa hai bờ sông Sarawak, gần trung tâm thành phố, nhiều 'tambang' (thuyền tam bản mái gỗ truyền thống) chở hành khách qua sông. Đối với nhiều người sống dọc bờ sông, đó là một tuyến đường ngắn để đến khu trung tâm. Các bến tàu nhanh phục vụ vận chuyển đến các khu vực xa hơn như Sibu và Bintulu, nằm tại phía đông của thành phố và tại cảng Sim Kheng Hong (trước gọi là cảng Tanah Puteh) tại Pending. Sân bay quốc tế Kuching (KIA) (ICAO Code: WBGG) là cử ngõ chính cho hành khách đường không. Lịch sử sân bay truy nguyên từ thập niên 1940 và hiện nay đã trải qua nhiều tái thiết lớn. Nhà ga sân bay được xếp là nhộn nhịp thứ tư tại Malaysia theo tổng số lượt hành khách vào năm 2013. Từ năm 2009, sân bay phát triển nhanh chóng với lượng hành khách và phi cơ ngày càng tăng. Đây là trung tâm thứ cấp của Malaysia Airlines and AirAsia và là trung tâm tam cấp của MASWings, phục vụ các chuyến bay đến các đô thị nhỏ và khu vực nông thôn tại Đông Malaysia. Tiện ích khác Tổ hợp tòa án hiện nay nằm tại Petra Jaya. Nó gồm Tòa Thượng thẩm, tòa hội nghị, và tòa tài phán. Các tòa án khác theo luật Syariah và bản địa cũng nằm tại thành phố. Trụ sở cảnh sát Sarawak nằm trên phố Badruddin. Trụ sở cảnh sát khu vực Kuching nằm trên đường Simpang Tiga. Tổ hợp nhà tù Kuching nằm trên phố Puncak Borneo. Y tế Tồn tại nhiều loại hình dịch vụ y tế trong thành phố, như bệnh viện công chiếm chủ đạo, trung tâm y tế công, các loại hình trung tâm y tế khác, trung tâm di động, bác sĩ hàng không, trung tâm y tế làng và trung tâm y tế 1Malaysia. Bệnh viện chính là Bệnh viện đa khoa Sarawak có từ năm 1923. Ngoài ra còn có Bệnh viện Kỷ niệm Rajah Charles Brooke. Bệnh viện Sentosa (Bệnh viện Tâm thần Sentosa), được xây dựng với một nửa kinh phí từ chính phủ Anh được khánh thành vào năm 1958, là bệnh viện lâu năm thứ nhì tại Sarawak. Trung tâm chuyên khoa y tế Normah tại Petra Jaya là bệnh viện tư nhân lớn nhất tại Sarawak. Ngoài ra, ba bệnh viện tư nhân lớn khác là Trung tâm y tế Borneo, Y tế KPJ, và Trung tâm Y tế Timberland. Giáo dục Trong thành phố, toàn bộ trường học nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, chịu sự quản lý của Sở Giáo dục hỗn hợp Kuching. Tồn tại nhiều trường học công lập hoặc bang lập trong và quanh thành phố. Giống như các trường học khác tại Malaysia, các trường học trong thành phố được chia thành bốn cấp là mầm non, tiểu học, trung học và sau trung học. Trong số các trường nội trú lâu năm và uy tín trong thành phố có Sekolah Menengah Sains Kuching nằm tại Batu Kawa. Cũng tồn tại một số trường học tư nhân độc lập trong thành phố, như trường trung học Trung Hoa số 1, trường trung học Trung Hoa số 3, và trường Sunny Hill. Hiện không có học khu đại học công lập tại Kuching, ngoài tòa nhà của Khoa Y-Dược Đại học Malaysia Sarawak (UNIMAS) nằm cạnh Bệnh viện Đa khoa Sarawak. Chính phủ bang Sarawak chuyển học khi đại học công lập cuối cùng (Đại học Kỹ thuật MARA) từ Kuching đến Kota Samarahan vào năm 1997 trong một sáng kiến dài hạn nhằm biến Kota Samarahan thành một trung tâm giáo dục. Kuching có hai học khu đại học tư thục chính thức: Học khu Sarawak của Đại học Kỹ thuật Swinburne, học khu duy nhất của trường này nằm bên ngoài Úc; và Học khu Sarawak của Đại học UCSI. Trường bách khoa Kuching Sarawak Cao đẳng cộng đồng Kuching nằm trong thành phố. Thư viện Thư viện bang Sarawak là trung tâm tài nguyên thông tin chủ yếu, và cung cấp thông tin phục vụ cho các lĩnh vực công cộng và tư nhân. Thư viện phục vụ Kuching và khu vực ngoại ô của thành phố vì đây là nguồn độc giả chính theo lưu ký. Ngoài ra, nó quản lý, giám sát và tạo điều kiện hoạt động cho 36 thư viện làng trong bang từ tài trợ của Thư viện Quốc gia Malaysia. Các thư viện khác tại Kuching gồm có Thư viện thành phố DBKU và các thư viện làng như tại Bandar Baru Samariang, Kampung Samariang Lama và Taman Sepakat Jaya. Văn hóa và giải trí Kuching duy trì một số bảo tàng trưng bày văn hóa và lịch sử của mình. Bảo tàng bang Sarawak là một trong các bảo tàng đẹp nhất tại châu Á và là tòa nhà cổ nhất và có tính lịch sử nhất của Kuching, nó trưng bày các bộ sưu tập về các sắc tộc bản địa tại Sarawak. Các bảo tàng khác tại Kuching gồm Bảo tàng lịch sử người Hoa, Bảo tàng mèo Kuching, Bảo tàng gỗ Sarawak và Bảo tàng dệt Sarawak. Kuching là nơi có cung thiên văn đầu tiên tại Malaysia, Cung thiên văn Sultan Iskandar tiếp giáp với Trung tâm Dân sự Kuching]. Các địa điểm lịch sử đáng chú ý của Kuching gồm có Astana (cung điện cũ của các Rajah da trắng và hiện là dinh thực chính thức của Thống đốc Sarawak), và Pháo đài Margherita. Phố cổ nhất tại Kuching là Main Bazaar, một dãy phố gồm các cửa hàng của người Hoa từ thế kỷ 19 nằm dọc theo Kuching Waterfront nhìn ra sông Sarawak. Đây là nơi tập trung tốt nhất các cử hàng đồ cổ và đổ thủ công trong thành phố. Main Bazaar là bộ phận của khu đô thị cũ của Kuching, vốn cũng bao gồm phố Carpenter và phố India. Tòa án cũ nằm giữa phố Carpenter và phố India, từng trải qua tu sửa lớn và hiện là tòa nhà của tổ hợp Ban Du lịch Sarawak. Một số khu vực đáng quan tâm khác quanh khu dinh doanh trung tâm gồm có phố Padungan, đây chính là phố người Hoa tại Kuching. Vườn quốc gia Talang-Satang được thành lập với mục đích chính là bảo tồn quần thể rùa biển của Sarawak. Nó có tổng diện tích là xấp xỉ , và gồm toàn bộ các vùng đất nằm dưới dấu triều cao trên các đảo tương ứng. Damai là một trong các khu vực nghỉ dưỡng bãi biển chính của Sarawak, nằm trên bán đảo Santubong, cách 35 phút lái xe từ Kuching. Khu vực có các bãi biển cát dưới chân một ngọn núi có rừng bao phủ. Damai có ba khách sạn nghỉ dưỡng đẳng cấp thế giới là Damai Beach Resort, Damai Puri Resort and Spa và One Hotel Santubong. Mỗi khu nghỉ dưỡng có các bãi biển riêng của chúng, cũng như bể bơi và cung cấp dịch vụ mô tô nước, lướt ván, xe đạp leo núi, thể dục. Tồn tại một sân golf 18 lỗ tiêu chuẩn quốc tế nằm gần đó. Other attractions include the Damai Central, Permai Rainforest Resort, Sarawak Cultural Village and the sleepy fishing villages of Santubong and Buntal with their excellent seafood restaurants. Có một hoạt động leo núi tại núi Santubong. Tổ chức quốc tế BirdLife đăng ký toàn bộ khu vực vịnh Bako-Buntal là một 'vùng chim quan trọng'. Từ tháng 10 đến tháng 3, sông Buntal trở thành một khu vực trú đông quan trọng của chim di cư. Các thắng cảnh thiên nhiên khác gồm các vườn quốc gia, đáng chú ý là vườn quốc gia Bako và vườn quốc gia đất ngập nước Kuching cũng như Trung tâm động vật hoang dã Semenggoh. Ngoài ra, gần Kuching còn có vườn quốc gia Gunung Gading và vườn quốc gia Kubah. Cách Kuching 40 phút lái xe là Santubong, một khu vực nghỉ dưỡng bãi biển với nhiều khu nghỉ dưỡng đẳng cấp thế giới. Các bãi biển khác có thể tiếp cận gần Kuching là bãi biển Lundu và bãi biển Sematan. Khu nghỉ dưỡng đất cao Borneo cũng nằm gần Kuching. Kuching Waterfront là một khu vực tản bộ dài 2 km dọc sông Sarawak, từ khu trung tâm khách sạn và thương nghiệp đến trung tâm Kuching. Đường tản bộ do các kiến trúc sư từ Sydney thiết kế, có các quầy thực phẩm, nhà hàng, từ đường có những góc nhìn tốt để ngắm Astana, Pháo đài Margherita và Tòa nhà Nghị viện mới. Các trung tâm mua sắm tại Kuching gồm Spring, Boulevard, Plaza Merdeka, CityONE Megamall, Kuching Sentral, Emart Lee Ling, Hills Shopping Mall, Sarawak Plaza, Tun Jugah, Riverside Shopping Complex, One Jaya, ST3, Genesis Parade 100% Mall, Green Heights Mall, Wisma Saberkas, Giant Tabuan Jaya Mall, Giant Kota Padawan Mall và các nơi khác. Chợ cuối tuần Satok nằm tại Medan Niaga Satok và hoạt động vào Thứ bảy và Chủ Nhật, có thể tìm thấy tại đó nhiều loại rau quả, cùng các đồ thủ công, lâm sản như mật ong hoang dã, cây lan; và đồ ăn. Từ năm 1997, Kuching tổ chức Nhạc hội thế giới Rừng mưa (RWMF), nó được tổ chức thường niên và thu hút những người biểu diễn và khán giả đến từ khắp thế giới. Nhạc hội được tổ chức tại Làng văn hóa Sarawak gần núi Santubong, hiện là một trong các sự kiện âm nhạc lớn nhất tại Malaysia. Quan hệ quốc tế Một số quốc gia đặt lãnh sự quán của họ tại Kuching, gồm có Úc, Brunei, Trung Quốc, Đan Mạch, Pháp, Indonesia, Ba Lan và Anh. Kuching hiện có bảy thành phố kết nghĩa:
Orpheus (tiếng Hy Lạp: Ορφεύς) là một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, con trai của vua Oeagrus xứ Thrace và nữ thần thi ca (muse) Calliope. Trong một số truyền thuyết khác thì Orpheus là con trai của Apollo và Calliope. Orpheus không được đề cập đến trong các tác phẩm của Homer và Hesiod, nhưng được biết đến vào thời của Ibycus (khoảng 530 TCN), một trong 9 thi sĩ danh tiếng của Hy Lạp cổ đại. Nhiều giả thuyết cho rằng Orpheus là một trong những đại thi hào, nhạc sĩ thuở sơ khai, là người sáng tạo ra hoặc cải tiến chiếc đàn lyre. Pindar, một nhà thơ khác trong 9 thi sĩ danh tiếng của Hy Lạp cổ đại đã gọi Orpheus là "cha đẻ của thi ca". Tương truyền rằng những bài hát của Orpheus có thể làm xiêu lòng vạn vật, và khiến cho đất trời, thần linh phải rơi lệ. Theo Pindar, Orpheus, với tay đàn và giọng ca của mình, đã góp một phần không nhỏ vào chuyến hành trình của Jason và thủy thủ đoàn Argonauts. Truyện kể rằng Eurydice, vợ của Orpheus, bị rắn cắn chết trong ngày cưới. Đau lòng trước cái chết của nàng, Orpheus cất lên tiếng ca đau thương, khiến cho thiên nhiên, thần tiên phải rơi lệ. Tìm đường xuống địa phủ, với cây đàn lia (lyre) và tài âm nhạc của mình, Orpheus đã thuyết phục Hades và Persephone, vị vua và hoàng hậu của âm phủ, động lòng thương, cho phép Eurydice về lại dương gian, với một điều kiện: cho đến khi cả hai lên đến được dương thế, Orpheus phải giữ im lặng và không được ngoái lại nhìn người vợ đi đằng sau. Thoạt đầu Orpheus cũng làm theo lời dặn. Nhưng, khi họ đã đi được một thời gian lâu mà Orpheus không nghe thấy tiếng bước chân và hơi thở của nàng Eurydice, chàng đánh liều quay đầu lại. Và rồi hình ảnh nàng Eurydice lùi thật nhanh về phía địa phủ rồi biến mất, nhanh đến nỗi Orpheus chỉ kịp gọi tên vợ lần cuối. Orpheus vội quay lại nhưng người lái đò địa phủ không cho phép chàng đến địa ngục lần nữa dù Orpheus đã quỳ ở đó đến 7 ngày 7 đêm. Khi chàng trở về dương gian thì Orpheus không còn quan tâm đến cô gái nào khác nữa, vì vậy mà chàng bị người ta xem là ngạo mạn. Và rồi trong một hôm lễ hội rượu nho của thần Dionysus, chàng đã bị một lũ đàn bà say rượu đánh đến chết và quẳng xác chàng xuống sông. Kỳ lạ thay, Orpheus chết mà đàn vẫn vang lên tiếng hát tha thiết, yêu thương.
Lân quang hay gọi dạ quang là một dạng phát quang, trong đó các phân tử của chất lân quang hấp thụ ánh sáng, chuyển hóa năng lượng của các photon thành năng lượng của các electron ở một số trạng thái lượng tử có mức năng lượng cao nhưng bền trong phân tử để sau đó electron chậm chạp rơi về trạng thái lượng tử ở mức năng lượng thấp hơn, và giải phóng một phần năng lượng trở lại ở dạng các photon. Lân quang khác với huỳnh quang ở chỗ việc electron trở về trạng thái cũ, kèm theo nhả ra photon, là rất chậm chạp. Trong huỳnh quang, sự rơi về trạng thái cũ của electron gần như tức thì; khiến photon được giải phóng ngay. Các chất lân quang, do đó, hoạt động như những bộ dự trữ ánh sáng: thu nhận ánh sáng và chậm chạp nhả ra ánh sáng sau đó. Sở dĩ có sự trở về trạng thái cũ chậm chạp của các electron là do một trong số các trạng thái kích thích khá bền: chuyển hóa từ trạng thái này về trạng thái cơ bản bị giới hạn bởi một số quy tắc lượng tử. Sự trở về trạng thái cơ bản chỉ có thể xảy ra khi dao động nhiệt đẩy electron sang trạng thái không bền gần đó, để từ đó nó rơi về trạng thái cơ bản. Điều này khiến hiện tượng lân quang phụ thuộc vào nhiệt độ, nhiệt độ càng lạnh thì trạng thái kích thích càng được bảo tồn lâu hơn. Đa số các chất lân quang có thời gian tồn tại của trạng thái kích thích chỉ vào cỡ miligiây. Tuy nhiên thời gian này ở một số chất có thể lên tới vài phút hoặc thậm chí vài giờ. Chi tiết Trong phân tử, các electron thường nằm ở trạng thái lượng tử cân bằng bền có mức năng lượng và spin xác định. Khi có photon bay vào phân tử, hay có các kích thích khác như các hạt (như electron, hạt alpha,...) có năng lượng thích hợp bay vào, electron trong phân tử sẽ có thể hấp thụ năng lượng của hạt bay vào và nhảy lên trạng thái có năng lượng cao hơn. Việc di chuyển lên trạng thái mới, gọi là trạng thái kích thích, có thể diễn ra dễ dàng khi không có sự thay đổi spin, chỉ có sự thay đổi về năng lượng. Lúc đó trạng thái mới tồn tại không lâu và electron dễ dàng rơi trở về trạng thái cơ bản; giải phóng ra photon (hiện tượng huỳnh quang) hay nhả năng lượng ra ở dạng dao động nhiệt (sinh ra các phonon; đây là hiện tượng diễn ra trên đa số các vật màu tối: chúng hấp thụ ánh sáng và nóng lên). Tuy nhiên, ở các chất lân quang, một phần nhỏ electron ở trạng thái kích thích có thể thay đổi spin chuyển sang trạng thái có spin khác nhưng năng lượng vẫn như vậy. Trạng thái này, có cả spin và năng lượng khác với spin và năng lượng của trạng thái cơ bản, không dễ dàng trở về được trạng thái cơ bản do bị cấm bởi quy tắc cơ học lượng tử. Để trở về trạng thái cơ bản, các va chạm nhiệt giữa các phân tử sẽ khiến electron giải phóng bớt hay hấp thụ thêm năng lượng ở dạng nhiệt (năng lượng của các phonon) và chuyển sang trạng thái dễ dàng rơi về mức cơ bản. Khi rơi về mức cơ bản; năng lượng của electron có thể được nhả ra ở dạng các phonon (nhiệt năng) hoặc các photon (quang năng). Ứng dụng Các chất lân quang được ứng dụng để tạo ra nguồn sáng cho các tình huống tạm thời thiếu ánh sáng nhưng không cần tiêu thụ năng lượng để nuôi. Năng lượng phát sáng đã được tích trữ từ lúc chất này được chiếu sáng tự nhiên. Ví dụ như chúng được gắn trên mặt đồng hồ đeo tay, giúp đọc thời giờ trong bóng tối; gắn trên kim chỉ la bàn, để xác định phương hướng trong bóng đêm; hoặc gắn trên công tắc đèn điện, cho biết vị trí công tắc đèn khi chưa bật đèn. Chúng cũng được dùng để làm đồ trang trí, chế tạo mực phát sáng (tuy rằng các loại mực phát sáng hay dùng chất huỳnh quang hơn). Việc chế tạo laser cũng có thể sử dụng các chất lân quang. Lý do là các electron có thể tồn tại trên trạng thái kích thích lâu, đủ để đợi các photon khác đi qua và gây ra phát xạ kích thích đồng pha. Các chất lân quang cũng đã được dùng trong màn hình tia âm cực. Sau khi dòng electron đập lên một điểm ảnh của màn hình, điểm này, chứa các chất lân quang, bị kích thích và tiếp tục phát sáng một thời gian ngắn sau đó. Tuy nhiên các vật liệu huỳnh quang cũng có thể được dùng, nhờ vào hiệu ứng lưu ảnh trên võng mạc. Tương tự như màn hình tia âm cực, màn hình ghi nhận các dòng hạt (electron, tia X, neutron,...) năng lượng cao cũng có thể chứa các chất lân quang; dù rằng các chất huỳnh quang cũng có thể được dùng. Từ nguyên Nguồn gốc của tên gọi "lân quang" là do ánh sáng phát ra trong bóng tối bởi hiện tượng lân quang giống như ánh sáng lân tinh, phát ra bởi các hợp chất của phosphor khi phản ứng hóa học oxy hóa trong không khí. Tên gọi này được dùng để miêu tả các chất phát sáng trong bóng tối mà không cần cháy, từ khi nhà giả kim thuật người Đức là Hennig Brand phát hiện ra phosphor năm 1669 thông qua việc điều chế nước tiểu. Ông nhận thấy chất mình mới điều chế được phát sáng trong bóng tối. Bản thân chữ phosphor có gốc từ tiếng Hy Lạp phosphoros, có nghĩa là "vật mang ánh sáng". Tuy nhiên bản chất vật lý của hai hiện tượng là khác nhau; trong đó ánh sáng của phosphor lấy năng lượng từ phản ứng hóa học. Sự phát sáng của phosphor mà Brand đã thấy thực ra là do phosphor cháy âm ỉ và chậm trong không khí. Vật liệu lân quang Các vật liệu lân quang thường là hợp chất hóa học của kim loại chuyển tiếp hoặc đất hiếm. Chúng thường được pha trộn thêm các hoạt chất từ một chất nền. Chất nền có thể là oxide, sulfide, selenide, silicat của kẽm, cadmi, mangan, nhôm, silic, hay các kim loại đất hiếm. Các hoạt chất, giúp gia tăng thời gian phát sáng có thể là các kim loại như đồng, bạc. Nếu pha thêm niken có thể làm giảm thời gian phát sáng. Sulfide kẽm (ZnS) với 5 ppm đồng thường được dùng làm đồ chơi lân quang. Hỗn hợp sulfide kẽm và sulfide cadmi (CdS) có thể tạo ra màu sắc tùy theo nồng độ trộn; và có thể phát sáng từ 1 đến 10 giờ. SrAlO3 pha với Eu là lân quang xanh sáng lâu. Hỗn hợp CaS SrS pha thêm Bi có thể sáng 12 tiếng đồng hồ . Các chất này có thể được trộn cùng vật liệu chế tạo đồ vật hay pha vào mực hoặc sơn in. loại chất phát quang do hai chất tạo thành: kẽm sulfide, hoặc CaS và chất phóng xạ. Để ánh sáng có thể phát ra liên tục người ra thêm vào đó một ít chất phóng xạ như C 14, S 35, Sr 90, Tl 204, Ra hoặc đồng vị Po Đa số các vật liệu lân quang cho ra màu xanh. Vật liệu màu đỏ thường có thời gian phát sáng ngắn hơn.
Trong giải tích số (một nhánh của toán học), vận tốc mà một dãy hội tụ tiến dần về giới hạn của nó được gọi là tốc độ hội tụ. Đúng ra, một giới hạn không cho ta thông tin gì về phần hữu hạn của dãy số, khái niệm này chỉ có ý nghĩa thực tiễn quan trọng nếu ta xét một dãy các ước lượng liên tiếp bằng phương pháp lặp, khi đó chỉ cần số vòng lặp vừa đủ nhỏ cũng có thể cho ta một ước lượng tốt, nếu tốc độ hội tụ là lớn. Điều này tạo ra sự khác biệt giữa việc dùng chỉ 10 vòng lặp hay một triệu vòng lặp. Nói tóm lại, việc xác định tốc độ hội tụ (phụ thuộc vào số vòng lặp) sẽ giúp ta hạn chế được số vòng lặp trong tính toán một ước lượng. Định nghĩa tốc độ hội tụ Giả sử rằng dãy số {xk} hội tụ về số ξ. Ta nói rằng dãy này hội tụ tuyến tính về ξ, nếu Số μ được gọi là tốc độ hội tụ. Nếu (1) đúng với μ = 0, thì dãy được gọi là hội tụ siêu tuyến tính. Ta nói dãy trên hội tụ tuyến tính dưới (converges sublinearly) nếu nó hội tụ, và (1) không đúng với bất kỳ μ < 1 nào. Định nghĩa sau đây dùng để phân biệt các tốc độ hội tụ siêu tuyến tính. Ta nói rằng dãy hội tụ bậc q với q > 1 về ξ nếu Trường hợp đặc biệt, hội tụ bậc 2 được gọi là hội tụ bình phương (quadratic convergence), và hội tụ với bậc là 3 được gọi là hội tụ lập phương (cubic convergence). Định nghĩa mở rộng của tốc độ hội tụ Một nhược điểm của các định nghĩa trên, (1) và (2), là nó không tính đến trường hợp có một số dãy hội tụ tương đối nhanh, nhưng tốc độ hội tụ thì luôn biến đổi, chẳng hạn như dãy {bk} dưới đây. Do đó, định nghĩa về tốc độ hội tụ có thể được mở rộng như sau: Dãy {xk} hội tụ bậc tối thiểu q nếu tồn tại một dãy {εk} sao cho và dãy {εk} hội tụ bậc q về 0 với khái niệm hội tụ được định nghĩa theo cách đơn giản trên kia. Ví dụ Ta xét các dãy sau: Dãy {ak} hội tụ tuyến tính về 0 với tốc độ 1/2. Một cách tổng quát, dãy Cμk hội tụ tuyến tính với tốc độ μ nếu |μ| < 1. Dãy {bk} cũng hội tụ tuyến tính về 0 với tốc độ 1/2 theo khái niệm mở rộng, nhưng không hội tụ theo khái niệm đơn giản ban đầu. Dãy {ck} hội tụ siêu tuyến tính. Nó là hội tụ bình phương. Cuối cùng, dãy {dk} hội tụ tuyến tính dưới.
Trong toán học, bất đẳng thức AM-GM là bất đẳng thức so sánh giữa trung bình cộng và trung bình nhân của n số thực không âm. Tên gọi đúng của bất đẳng thức này là bất đẳng thức AM-GM. Vì có nhiều cách để chứng minh bất đẳng thức này nhưng cách chứng minh quy nạp của Cauchy được đánh giá là hiệu quả nhất nên nhiều người nhầm lẫn rằng Cauchy phát hiện ra bất đẳng thức này. Ông chỉ là người đưa ra cách chứng minh rất hay của mình chứ không phải là người phát hiện ra đầu tiên. Theo cách gọi tên chung của quốc tế, bất đẳng thức Bunyakovsky có tên là bất đẳng thức Cauchy-Schwarz, còn bất đẳng thức Cauchy có tên là bất đẳng thức AM-GM (Arithmetic Means - Geometric Means). Tổng quát Bất đẳng thức AM-GM có thể được phát biểu như sau: Trung bình cộng của n số thực không âm luôn lớn hơn hoặc bằng trung bình nhân của chúng, và trung bình cộng chỉ bằng trung bình nhân khi và chỉ khi n số đó bằng nhau. Với 2 số thực không âm a và b: Dấu "=" xảy ra khi và chỉ khi Với 3 số thực không âm a, b và c: Dấu "=" xảy ra khi và chỉ khi a = b = c Với n số thực không âm: , với n là số tự nhiên lớn hơn 1 Dấu "=" xảy ra khi và chỉ khi Trung bình có hệ số : Cho n số x1, x2,..., xn ≥ 0 và các hệ số α1, α2,..., αn > 0 Đặt . Bất đẳng thức trung bình cộng và trung bình nhân cũng đúng nếu hai giá trị trung bình có hệ số, như sau: Dấu " = " xảy ra khi và chỉ khi Với các loại trung bình khác : Trung bình điều hòa ≤ trung bình nhân ≤ trung bình cộng Đẳng thức khi và chỉ khi Ví dụ ứng dụng Cho hàm số sau: Với x, y và z là các số thực dương. Giả sử rằng ta phải tìm giá trị nhỏ nhất của hàm số đã cho. Biến đổi và áp dụng bất đẳng thức Cauchy ta có: {| | || |- | || |- | || |- | || |- | || |- | || |- | || |} Vậy ta có giá trị nhỏ nhất của: Chứng minh bằng quy nạp Đặt: bất đẳng thức tương đương với x1,...,xn là các số thực không âm, ta có: dấu bằng xảy ra nếu μ = xi với mọi i = 1,...,n. Chứng minh dưới đây áp dụng phương pháp quy nạp toán học. Cơ sở: với n = 1 bất đẳng thức đúng. Giả thiết quy nạp: giả sử rằng bất đẳng thức đúng với n (n ≥ 1). Quy nạp: xét n + 1 một số thực không âm. Ta có: Nếu tất cả các số đều bằng μ, thì ta có đẳng thức và đã được chứng minh. Ngược lại, ta sẽ tìm được ít nhất một số nhỏ hơn μ và một số lớn hơn μ, không mất tính tổng quát, xem rằng: xn > μ và xn+1 < μ. Ta có: Xét n số sau: với cũng là số không âm. Từ đó: μ cũng là trung bình cộng của và theo giả thuyết quy nạp ta có: Mặt khác từ (*) ta có: hay là hiển nhiên μ > 0. Nếu có ít nhất một trong x1,...,xn−1 bằng không, ta dễ thấy bất đẳng thức đúng và dấu bằng không xảy ra. Ngược lại, từ (**) và (***) ta có: bất đẳng thức được chứng minh. Chứng minh cho trường hợp không hệ số Trường hợp n = 2 Với mọi thực , ta luôn có: Trường hợp n = 2k Giả sử Ta có: Áp dụng bất đẳng thức Côsi với trường hợp , ta lại có: Từ và , ta có được bất đẳng thức: (đpcm) Trường hợp n = 2k - 1 Giả sử Ta có: Áp dụng bất đẳng thức Cauchy với trường hợp , ta lại có: Từ và , ta có: Cuối cùng, ta được bất đẳng thức: (đpcm) Chứng minh của Pólya George Pólya đưa ra một chứng minh cho bất đẳng thức như sau: Gọi f(x) = ex−1 − x, có đạo hàm f(x) = ex−1 − 1. Ta thấy f(1) = 0 và từ đó f có giá trị nhỏ nhất tại f(1) = 0. Từ đó x ≤ ex−1 đối với mọi số thực x. Xét một dãy các số thực không âm với trung bình cộng μ. Áp dụng bất đẳng thức ở trên ta có: Nhưng số mũ có thể rút gọn thành: Trở lại (1), và tương đương với: Chứng minh của Cauchy Các trường hợp tất cả các giá trị bằng nhau Nếu tất cả các giá trị bằng nhau: tức tổng chúng là nx1, do đó giá trị trung bình cộng là x1; và tích các số dưới căn bậc hai là x1n, do dó giá trị trung bình nhân lúc này là x1; vì vậy, vế một và vế hai bằng nhau, điều phải chứng minh. Các trường hợp các giá trị không bằng nhau Nếu tất cả các giá trị bằng nhau không bằng nhau, thì giá trị trung bình cộng lớn hơn giá trị trung bình nhân. Rõ ràng, điều này chỉ có thể xảy ra khi n > 1. Trường hợp này khá phức tạp và được chia ra nhiều trường hợp để chứng minh. Trường hợp n = 2 Nếu n = 2, tức có hai giá trị x1 và x2, và từ giả thiết ở trên, ta có: Ta có điều phải chứng minh. Trường hợp n = 2k Xem xét các trường hợp n = 2 k, với k là một số nguyên dương. Chúng tôi tiến hành bằng quy nạp toán học. Trong trường hợp cơ bản, k = 1, tức n = 2, bất đẳng thức đã được chứng minh ở trên. Khi, có một giá trị k > 1 bất kỳ, giả sử rằng bất đẳng thức đúng với n = 2k−1, và cần chứng minh rằng nó vẫn đúng khi n = 2k. Để làm như vậy, các bước được thực hiện như sau: với bất đẳng thức đầu tiên, hai bên đều bằng nhau chỉ khi cả hai điều sau đây là đúng: (Trong trường hợp này, trung bình số học thứ nhất và trung bình nhân thứ 1 bằng x1, và tương tự với trung bình số học thứ hai và trung bình nhân thứ 2); và trong bất đẳng thức thứ hai, Hai bên chỉ bằng nhau nếu hai giá trị trung bình bằng nhau. Vì không phải tất cả hai k đều bằng nhau, không thể cho cả hai bất đẳng thức được đẳng, vì vậy chúng ta biết rằng: (điều phải chứng minh). Trường hợp n < 2k Nếu n không phải là một hàm mũ tự nhiên cơ số 2, thì nó chắc chắn là nhỏ hơn một số nào đó theo hàm mũ tự nhiên cơ số 2, vì chuỗi 2, 4, 8,..., 2k,... không bị chặn trên. Do đó, mà không mất tính tổng quát, với m giá trị tuân theo hàm mũ tự nhiên cơ số 2 lớn hơn n. Vì vậy, nếu ta có n số, thì ta có thể biểu diễn giá trị trung bình cộng α, và được mở rộng như sau: Sau đó ta có: như vậy: Ta suy ra điều phải chứng minh. Ứng dụng Các hệ quả của bất đẳng thức Cauchy Tổng của một số thực dương và nghịch đảo của nó luôn đạt giá trị tối thiểu là 2. Hai số thực dương có tổng không đổi thì tích 2 số đó đạt giá trị lớn nhất khi 2 số đó bằng nhau. Hai số thực dương có tích không đổi thì tổng 2 số đó đạt giá trị nhỏ nhất khi 2 số đó bằng nhau. Ý nghĩa hình học của các hệ quả nêu trên Trong các hình chữ nhật có cùng chu vi, hình vuông có diện tích lớn nhất Trong các hình chữ nhật có cùng diện tích, hình vuông có chu vi nhỏ nhất Trong các lĩnh vực khác Việc sử dụng bất đẳng thức giúp chúng ta rất nhiều trong việc giải các phương trình vô tỉ. Ứng dụng trong Vật lý học để khảo sát công suất cực đại.
() là nhân vật hư cấu trong bộ manga và anime Naruto của tác giả người Nhật Masashi Kishimoto. Anh là một ninja trẻ tuổi từ làng Lá — một ngôi làng giả tưởng và đóng vai trò là nhân vật chính trong bộ truyện cùng tên. Khi anh còn nhỏ, dân làng thường chế nhạo và khinh bỉ anh vì con Cửu Vĩ Hồ ly — một con quái vật độc ác từng tàn phá làng Lá — đã bị phong ấn trong cơ thể anh. Dù vậy, anh vẫn ước mơ trở thành Hokage (trưởng làng) để được họ công nhận. Tính cách vô tư, lạc quan, hay ồn ào, hoạt bát giúp anh trở thành bạn của những ninja cùng và khác làng. Naruto xuất hiện trong truyện, phim, và cả các phương tiện truyền thông khác, như video game, OVA và cả series hậu truyện Boruto – Naruto hậu sinh khả úy của Ukyo Kodachi mà con trai của anh Uzumaki Boruto là nhân vật chính. Khi sáng tạo ra nhân vật Naruto cho phần đầu của bộ truyện, tác giả Kishimoto muốn anh là một cậu bé có một tính cách vô tư và ngốc nghếch, nhưng cũng mang nhiều phẩm chất lý tưởng của một người anh hùng, và có mặt tối là chịu đựng nhiều bi kịch trong quá khứ. Ông đã sửa lại ngoại hình của anh nhiều lần bằng cách đổi trang phục để phù hợp hơn với khán giả phương Tây và cũng dễ vẽ hơn. Khi vẽ phần II (2,5 năm sau phần I, theo cốt truyện), thiết kế của nhân vật Naruto đã được thay đổi. Diễn viên lồng tiếng của Naruto là Junko Takeuchi (tiếng Nhật) và Maile Flanagan (tiếng Anh). Các sản phẩm thương mại ăn theo Naruto như mô hình, đồ chơi và móc khóa đã được tung ra thị trường. Quá trình phát triển nhân vật này được nhiều tờ báo về manga và anime bình phẩm tích cực, cũng như thu hút chú ý từ giới phê bình. Dù ban đầu, một số ý kiến cho rằng Naruto cũng chỉ là một nhân vật chính trong anime và manga không mang nhiều sự khác biệt so với phần lớn shounen manga, số khác lại đề cao cách tác giả Kishimoto phát triển tính cách của anh vì nó tách biệt khỏi khuôn mẫu thông thường. Nhiều nghiên cứu văn học cũng chọn Naruto làm chủ đề, giúp anh trở thành một trong những nhân vật hư cấu nổi bật nhất. Tạo dựng Khi Kishimoto sáng tạo nhân vật Naruto, anh kết hợp nhiều nét tiêu biểu mà anh cảm nhận sẽ cấu thành một anh hùng lí tưởng: một cách suy nghĩ thẳng thắn, một mặt lại tinh nghịch, và nhiều tính cách của Goku từ tác phẩm "7 Viên Ngọc Rồng". Anh cũng luôn đảm bảo cho Naruto "đơn giản và ngốc nghếch". Kishimoto không dựng hình Naruto theo một ai cụ thể, mà tưởng tượng cậu ta như một đứa trẻ với một mặt tối gây ra bởi quá khứ khắc nghiệt của cậu. Dù vậy, cậu ta luôn lạc quan, một nét mà Kishimoto nói là khiến cậu ta riêng biệt. Trang phục của Naruto dựa theo quần áo Kishimoto mặc khi anh còn nhỏ (theo lời Kishinoto nói), sử dụng một thiết kế có sẵn sẽ không khiến Naruto riêng biệt nhưng ngược lại một thứ là bản gốc có thể khiến cậu ta quá khác biệt. Màu cam của trang phục sẽ khiến Naruto trông "quậy", với màu xanh dương thường dùng để bổ sung màu cam. Bởi vì Naruto có gắn kết với xoắn ốc, các hoa văn hình xoắn được gắn kết vào trang phục. Hình minh họa ban đầu của Naruto thì cậu ta đi giày, nhưng Kishimoto thay thế bằng dép, vì anh thích vẽ ngón chân. Kính bảo hộ mà Naruto từng đeo cũng được thay thế bằng một băng bảo vệ trán, vì bản thân cái kính đã quá tốn thời gian vẽ. Kishimoto nói rằng anh rất vui khi nhân vật của mình có tóc vàng và mắt xanh. Biên tập cho tờ Shonen Jump ở Hoa Kỳ nói thêm rằng anh ta đã nói bóng gió những nét trên có thể lôi cuốn độc giả phương Tây. Kishimoto nói là anh đồng cảm với Naruto nhất trong tất cả nhân vật của Naruto. Khi được hỏi vì sao món ăn ưa thích của Naruto là mì Ramen (một loại mì Nhật bắt nguồn từ Trung Hoa) thay vì mì Udon "cáo" (một loại mì dày từ lúa phổ biến trong ẩm thực Nhật), Kishimoto nói là cá nhân anh thích ăn ramen. Khi thiết kế Naruto cho Phần 2, Kishimoto vẽ băng bảo vệ trán của Naruto rộng hơn để khiến lông mày cậu dễ vẽ hơn, một điều mà đã làm anh khó chịu trong bản trước. Anh cũng lưu ý là quần của Naruto khiến cho nhân vật trông trẻ con hơn. Để khắc phục, Kishimoto thiết kế cho một phần quần của Naruto xắn lên, giúp nhân vật trông trưởng thành hơn. Trong phiên bản tiếng Nhật ban đầu của Naruto, Naruto thường kết thúc câu nói của mình bằng từ thêm vào "-ttebayo" (có tác dụng tương tự như kết thúc câu nói bằng biết không?). Kishimoto muốn cho Naruto một từ cửa miệng như của trẻ con, và dattebayo đập vào ý nghĩ. Kishimoto tin rằng cụm từ bổ sung cho tính cách nhân vật Naruto, và đóng vai trò làm một cái tật về lời nói khiến cậu ta hơi giống một đứa bé hỗn xược.
Quỳnh Dao (sinh ngày 20 tháng 4 năm 1938) là nhà văn, nhà biên kịch, nhà sản xuất phim người Đài Loan. Bà chuyên về tiểu thuyết diễm tình dành cho độc giả nữ, tập truyện ngắn đầu tay mang tên "Ngoài khung cửa sổ" ra đời trong khoảng thời gian bà tốt nghiệp trung học và dự thi vào đại học nhưng không thành công. Các tác phẩm của bà được dịch và xuất bản rộng rãi ở Việt Nam từ cuối thập niên 1960. Tiểu sử Tuổi thơ Quỳnh Dao tên thật là Trần Triết sinh ra tại Thành Đô, Tứ Xuyên, Trung Quốc trong gia đình có em trai song sinh và hai người em 1 trai, 1 gái. Em gái là Trần Cẩm Xuân (陳錦春), tiến sĩ ngành vật lý hạt nhân của Đại học Wisconsin (Mỹ), từng cùng chồng là Trần Tráng Phi thành lập một công ty, khách hàng là Cục khí tượng của các nước trên khắp thế giới. Lúc nhỏ thành tích học tập của Quỳnh Dao không bằng em gái mình, điều này khiến bà rất tự ti, mãi đến khi tốt nghiệp trung học và trở thành nhà văn nổi tiếng, bà mới có lòng tin vào bản thân. Cha bà là Trần Trí Bình, giáo sư Sử học tại trường Đại học Quốc lập Sư phạm còn mẹ là môn đệ thư hương. Quỳnh Dao sinh ra trong cảnh chiến tranh, và những hình ảnh khói lửa đó đã lưu lại trong tâm hồn bà nhiều ấn tượng sâu đậm. Cụ ngoại Quỳnh Dao là một thầy thuốc nổi tiếng cuối đời Thanh và rất ghét tư tưởng phong kiến hủ bại với quan niệm lạc hậu "con gái không tài mới là đức". Vì vậy, cụ chủ trương phải cho con gái được học hành đến nơi đến chốn. Lớn lên, mẹ và các dì Quỳnh Dao đều có tài nghệ riêng và sự nghiệp vững vàng. Dì cả Viên Hiểu Viên là nhà ngoại giao đầu tiên của Trung Quốc, dì tư Viên Tịnh sinh thời là một nhà văn nổi tiếng, mẹ bà cũng là nhà văn tài hoa. Có thể nói năng khiếu sáng tác của Quỳnh Dao được thừa hưởng từ mẹ. Năm 1945 khi Quỳnh Dao lên 7, cuộc kháng chiến của Trung Quốc bước vào giai đoạn khốc liệt nhất, bà theo cha mẹ từ Hồ Nam đến Tứ Xuyên lánh nạn, nương tựa ở nhà một người dì. Thời điểm đó, hai vợ chồng người dì mở một trường trung học dân lập tên là Lô Nam và Quỳnh Dao đã theo học tại đó, còn mẹ bà thì làm giáo viên. Cũng trong thời gian này, mẹ bà phát hiện ra năng khiếu văn thơ của con gái và bà bắt đầu dạy Quỳnh Dao học thơ Đường. Đó là lần đầu tiên Quỳnh Dao tiếp xúc với văn học và cảm nhận được sức lôi cuốn của nó. Từ đó, bà bắt đầu đi sâu khám phá về lĩnh vực này. Thời niên thiếu Năm 1949 Quỳnh Dao theo cha mẹ di cư tới Đài Loan, đến năm 1958 mới có dịp trở lại Bắc Kinh gặp lại những người thân. Tại đây, Quỳnh Dao học tại trường tiểu học thuộc trường Sư phạm Đài Bắc và Trung học cao cấp nữ sinh số 1 Đài Bắc. Thời trung học, bà là một học trò luôn làm cho các giáo viên phải đau đầu, cha mẹ phải lo phiền. Vì bà chỉ dành tâm trí vào môn Trung văn và có vẻ lơ là đối với các môn khác. Ngoài ra, bà còn có những ý nghĩ, những lý luận kỳ quái. Thường thường, bà hay phản đối giáo sư về đủ các chuyện và bất mãn về chế độ giáo dục thời đó. Vốn đa sầu, đa cảm, bà hay trầm tư và mê đắm trong ảo tưởng. Nhiều khi các giáo sư phải lắc đầu, bó tay trước những câu hỏi oái oăm, móc mấy của bà. Cả cha mẹ cũng lấy làm khó chịu về thái độ khác thường của bà. Có lúc bà còn hoài nghi cả sinh mệnh lẫn các giá trị sống, tình cảm và nhiều thứ khác. Sau khi tốt nghiệp bậc cao trung, Quỳnh Dao có dự hai kỳ thi chuyên khoa trường đại học nhưng lần nào cũng trượt. Đây thực sự là một vết thương lòng của Quỳnh Dao. Chính vì sự thất bại đó nên đã khích lệ bà chuyên tâm vào việc sáng tác để tìm lại cái bản ngã tưởng chừng đã bị nền giáo dục lúc ấy kìm nén. Sự nghiệp Ngay từ nhỏ, Quỳnh Dao đã mơ ước trở thành nhà biên kịch, cứ mỗi lần xem xong một vở kịch, bà lại cầm bút viết. Kịch bản đầu tay của Quỳnh Dao chỉ có một cảnh và hai nhân vật, kể về những nhân vật chính là cha mẹ của bà, và lời thoại thì lấy từ những chi tiết nhỏ nhặt thường ngày trong gia đình. Năm 16 tuổi, bà viết bộ tiểu thuyết đầu tay "Vân ảnh". Năm 24 tuổi, viết gần 100 tập truyện ngắn, hai bộ tiểu thuyết "Tầm mộng viện" và "Hạnh vân thảo". Năm 1963, tác phẩm Song ngoại được phát hành rộng rãi, đánh dấu bước khởi nghiệp của bà. Đến nay bà đã sáng tác 56 bộ tiểu thuyết, trong đó 17 bộ dựng thành phim truyền hình và điện ảnh. Năm 1966, bà chọn tác phẩm "Kỷ độ tịch dương hồng" chuyển thể lên màn ảnh rộng. Bộ phim này đã lăng xê thành công tên tuổi của diễn viên Chân Trân. Năm 1975, cơn sốt bộ phim "Bên dòng nước" giúp Quỳnh Dao nổi tiếng và khẳng định được vị trí trên thị trường phim ảnh Đài Loan. Những năm của thập kỷ 80, ngoài các tiểu thuyết, bà còn xuất bản những tập danh ngôn về tình yêu. Năm 1964, bà bắt đầu viết và xuất bản những cuốn tiểu thuyết tình cảm lãng mạn đầu tiên như Song ngoại và Thố Ty Hoa. Năm 1968, bà thành lập công ty Hỏa Ô, sản xuất hai bộ phim đầu tiên là Nguyệt Mãn Tây Lâu và Mạch Sanh Nhân (dựa theo tác phẩm Hạnh Vân Thảo). Năm 1976, bà thành lập công ty Cự Tinh. Đến năm 1986, bà sản xuất loạt phim truyền hình dựa theo tiểu thuyết Kỷ Độ Tịch Dương Hồng. Năm 1988, bà trở về thăm quê hương Trung Quốc đại lục sau gần 40 năm. Việc này đã tạo cảm hứng cho bà sáng tác và xuất bản Tuyết Kha, cuốn tiểu thuyết cổ trang đầu tiên của bà. Đời tư Năm 1959, bà lập gia đình khi mới 21 tuổi và có một con trai. Cuộc hôn nhân của bà tan vỡ 5 năm sau đó. Năm 1979, bà kết hôn lần thứ hai với ông Bình Hâm Đào từng là tổng biên tập của tạp chí "Hoàng Quán". Tác phẩm Song Ngoại (1963) Hạnh Vân Thảo (1964) Lục Cá Mộng (1964) Thố Ty Hoa (1964) Dòng Sông Ly Biệt (Yên Vũ Mông Mông - 1964) Triều Thanh (1964) Kỷ Độ Tịch Dương Hồng (1964) Thuyền (1965) Nguyệt Mãn Tây Lâu (1966) Hàn Yên Thúy (1966) Tử Bối Xác (1966) Tiễn Tiễn Phong (1967) Thái Vân Phi (1968) Xóm Vắng hay Vườn rộng sân sâu (Đình Viện Thâm Thâm - 1969) Tinh Hà (1969) Thủy Linh (1971) Hồ ly trắng (Bạch Hồ - 1971) Hải Âu Phi Xứ (1972) Băng Nhi (1985) Tuyết Kha (1990) Hoàn Châu cách cách (1999) Đoạn Cuối Cuộc Tình (tháng 8/2006) Không phải hoa chẳng phải sương (2013) Tương tư Thảo Bên Bờ Quạnh Hiu Chuyển thể Xóm vắng 1971 (Dương Quần, Quy Á Lôi) (bản điện ảnh) Mùa thu lá bay 1973 (Đặng Quang Vinh, Chân Trân) (bản điện ảnh) Hải âu phi xứ 1974 (Đặng Quang Vinh, Chân Trân) (bản điện ảnh) Bên dòng nước 1975 (Lâm Thanh Hà, Tần Hán) (bản điện ảnh) Tình buồn 1985 (Lưu Tuyết Hoa, Tần Hán) Dòng sông ly biệt 1986 (Tần Hán, Lưu Tuyết Hoa) Xóm vắng - 1987, Đài Loan (Lưu Tuyết Hoa, Tần Hán) Bên dòng nước 1988 (Tần Hán, Lưu Tuyết Hoa) Hải âu phi xứ 1989 (Tần Hán, Lưu Tuyết Hoa) Nỗi lòng thấu trời xanh 1998 (Tưởng Cần Cần (Thủy Linh), Độ Tông Hoa, Chu Ân, Tiêu Ân Tuấn, Lưu Đức Khải Hoàn Châu cách cách 1997-2003, do bà kịch bản nội dung và kịch bản phim Tân dòng sông ly biệt 2001 (Triệu Vy, Cổ Cự Cơ, Lâm Tâm Như, Tô Hữu Bằng) Không phải hoa chẳng phải sương 2013 (Lý Thạnh, Trương Duệ, Lâm Tâm Như) Trâm hoa mai 1993 (Trần Đức Dung, Mã Cảnh Đào) Người chồng ma 1993 (Nhạc Linh, Lý Chí Hy) Thủy Vân Giang 1993 (Mã Cảnh Đào, Trần Đức Dung, Trần Hồng) Tân Nguyệt cách cách 1994 (Nhạc Linh vai Tân Nguyệt, Lưu Đức Khải vai Nộ Đại Hải) Yên tỏa trùng lâu 1994 (Lưu Tuyết Hoa, Chung Trấn Đào) Uyển Quân - 1990 (Du Tiểu Phàm, Trương Bội Hoa, Từ Nãi Lân, Thi Vũ) Người vợ câm 1990 (Lưu Tuyết Hoa, Lâm Thụy Dương, Triệu Vĩnh Hinh, Kim Siêu Quần) Ba đóa hoa 1990 (Lưu Tuyết Hoa, Du Tiểu Phàm, Kim Tố Mai, Trương Bội Hoa, Từ Nãi Lân) Tuyết Kha 1991 (Lưu Tuyết Hoa, Trương Bội Hoa, Mã Cảnh Đào) Ngọn cỏ ven sông 1992 (Mã Cảnh Đào, Quy Á Lôi, Nhạc Linh, Lý Thiên Trụ) Một thoáng mộng mơ 1996 (Tiêu Tường, Trần Đức Dung, Lâm Thụy Dương, Lưu Đức Khải - tái bản năm 2007 với Phương Trung Tín, Tần Lam, Trương Gia Nghê, Bảo Kiếm Phong) Tân Hoàn Châu cách cách 2011
Vân Nam () là một tỉnh ở phía tây nam của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, giáp biên giới với các tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai và Hà Giang của Việt Nam. Năm 2018, Vân Nam là tỉnh đông thứ mười hai về số dân, đứng thứ ba mươi về kinh tế Trung Quốc với 48 triệu dân, tương đương với Hàn Quốc và GDP danh nghĩa đạt 1.788 tỉ NDT (270,2 tỉ USD) tương ứng với Phần Lan. Vân Nam có chỉ số GDP đầu người xếp thứ ba mươi Trung Quốc, đạt 37.160 NDT (tương ứng với 5.612 USD). Vân Nam có diện tích 394.100 km². Thủ phủ của tỉnh này là thành phố Côn Minh. Vân Nam là nơi bắt nguồn của sông Hồng và sông Đà, sông Mê Kông cũng chảy qua Vân Nam. Biểu tượng Trà Điền Sơn (Camellia reticulata), một loài cây trà có nguồn gốc từ tỉnh Vân Nam, là biểu tượng của tỉnh này. Lịch sử "Người Nguyên Mưu" (元谋人), hóa thạch của người đứng thẳng (Homo erectus) được những người xây dựng đường sắt khai quật trong thập niên 1960, đã được xác định là hóa thạch người cổ nhất đã biết đến ở Trung Quốc. Vào thời kỳ đồ đá mới, ở đây đã có sự định cư của con người trong khu vực hồ Điền Trì (滇池). Những người nguyên thủy này sử dụng các công cụ bằng đá và đã xây dựng được các công trình đơn giản bằng gỗ. Vào khoảng thế kỷ III TCN, khu vực trung tâm của Vân Nam, xung quanh Côn Minh ngày nay đã được gọi là Điền. Năm 279 TCN một viên tướng nước Sở là Trang Giao hay Trang Kiệu (庄跤/庄峤) đã từ thượng nguồn sông Dương Tử tiến vào khu vực này, lập ra nước Điền và tự xưng là "vua nước Điền". Ông và những người kế nghiệp ông đã mang tới Vân Nam ảnh hưởng của người Hán, sự khởi đầu của một lịch sử lâu đời các cuộc di cư và sự mở rộng ảnh hưởng văn hóa. Năm 221 TCN, Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc và mở rộng quyền lực của mình xuống phía nam. Các châu và huyện đã được thiết lập tại đông bắc Vân Nam. Đường giao thông đang có tại Tứ Xuyên đã được mở rộng về phía nam tới gần Khúc Tĩnh (曲靖) ngày nay, ở miền đông Vân Nam - được gọi là "Ngũ xích đạo" (đường 5 thước). Tuy nhiên giống như Việt Nam thì Vân Nam chưa hoàn toàn thuộc về Trung Quốc trong thời đó. Năm 109 TCN, vua Hán Vũ Đế phái Vương Thiên Vũ đến đất Điền tuyên truyền sức mạnh của quân Hán nhưng Điền Vương ỷ có mấy vạn binh sĩ lại có những bộ tộc cùng họ ở phía đông bắc là Lao Thâm, Mạc My ủng hộ nên không chịu quy phục. Năm 109 TCN, Vũ Đế điều động quân Ba Thục tấn công tiêu diệt Lao Thâm, Mạc My xua quân tiến sát đất Điền. Điền Vương xin đầu hàng, Nhà Hán giao quyền cho tướng Quách Xương đặt quận Ích Châu với 24 huyện trực thuộc. Nơi đặt trụ sở của quận này là huyện Điền Trì (ngày nay là Tấn Ninh). Từ đó Vân Nam thuộc về Trung Quốc. Về sau lại hàng phục được Côn Minh sáp nhập vùng này vào quận Ích Châu. Một huyện khác được gọi là "Vân Nam", có lẽ là lần sử dụng đầu tiên của tên gọi này. Để mở rộng quan hệ thương mại mới hình thành với Miến Điện và Ấn Độ, Hán Vũ Đế còn giao cho Đường Mông (唐蒙) nhiệm vụ bảo trì và mở rộng Ngũ xích đạo, đổi tên nó thành "Tây Nam Di đạo" (西南夷道). Vào thời gian đó, kỹ thuật canh tác trong nông nghiệp ở Vân Nam đã được cải thiện rõ rệt. Người dân địa phương sử dụng các công cụ và cày bừa bằng đồng thau cũng như chăn thả nhiều loại gia súc, như trâu, bò, ngựa, cừu, dê, lợn và chó. Các nhà nhân loại học đã xác định là những người này có quan hệ họ hàng gần với những người mà ngày nay gọi là người Thái. Họ sinh sống theo bộ tộc, đôi khi được những người Hán bị lưu đày đứng đầu. Trong thời kỳ Tam Quốc, lãnh thổ của Vân Nam ngày nay, Kiềm Tây (黔西) và miền Nam Tứ Xuyên được gọi chung là "Nam Trung" (南中). Sự tan rã của quyền lực trung ương tại Trung Quốc đã làm gia tăng tính tự trị của Vân Nam cũng như tăng thêm quyền lực cho các bộ tộc địa phương. Năm 225, một chính trị gia nổi tiểng là Thừa tướng nhà Thục Gia Cát Lượng (诸葛亮) đã dẫn quân đến Vân Nam để dẹp yên các bộ tộc này. Vào thế kỷ IV, miền Bắc Trung Quốc chủ yếu bị những bộ tộc từ Trung Á tràn sang. Vào thập niên 320, thị tộc Thoán (爨) đã di cư tới Vân Nam. Thoán Sâm (爨琛) tự xưng làm vua và duy trì quyền lực tại Điền Trì (khi đó gọi là Côn Xuyên 昆川). Từ đó trở đi, thị tộc này đã cai quản Vân Nam trên 400 năm và khiến tỉnh này độc lập khỏi Trung Quốc trước khi quân người Mông Cổ tiêu diệt hết năm 1253. Quốc gia Nam chiếu và Đại Lý Năm 738, Bì La Các (皮罗阁), thủ lĩnh bộ lạc Mông Xá, đã thành lập Vương quốc Nam Chiếu (南诏) tại Vân Nam với kinh đô tại thành Thái Hòa (nay là Đại Lý) lập ra năm 739. Ông được Nhà Đường công nhận là "Vân Nam Vương". Từ Đại Lý, mười ba đời vua Nam Chiếu đã cai trị trên 2 thế kỷ và đóng một vai trò quan trọng trong mối quan hệ luôn biến đổi giữa Trung Quốc và Tây Tạng. Năm 902, quyền thần của Nam Chiếu là Trịnh Mãi chiếm đoạt quyền hành, đổi tên nước thành Đại Trường Hòa. Năm 929, Triệu Thiện Chính diệt Đại Trường Hòa, lập ra nước Đại Thiên Hưng. Năm 930, Tiết độ sứ Đông Xuyên là Dương Càn Hưng diệt Đại Thiên Hưng, đổi tên nước thành Đại Nghĩa Ninh. Năm 937, thủ lĩnh tộc Bạch là Đoàn Tư Bình (段思平) đã diệt Đại Nghĩa Ninh và thành lập Vương quốc Đại Lý, đóng đô tại Đại Lý. Vương quốc này khi đó bao gồm lãnh thổ ngày nay thuộc các tỉnh Vân Nam, Quý Châu, Tây Nam Tứ Xuyên, Bắc Miến Điện, Bắc Lào và một số khu vực tại Tây Bắc Việt Nam. Năm 1253, Vương quốc Đại Lý bị người Mông Cổ và quân đội của Đại hãn Mông Kha tấn công. Năm 1276, Hốt Tất Liệt cho thành lập tỉnh Vân Nam. Vân Nam đã thành tỉnh đầu tiên trong các tỉnh miền Nam Trung Hoa nằm dưới sự kỉểm soát của Mông Cổ, và nó cũng là tỉnh cuối cùng tại Trung Hoa mà người Mông Cổ nắm giữ, ngay cả sau khi họ đã mất Bắc Kinh và bị đuổi ra khỏi các tỉnh miền Bắc. Tổng cộng họ đã chiếm giữ Vân Nam trong 130 năm. Phải chờ mãi 15 năm sau khi kẻ sáng lập triều đại Nhà Minh được thừa nhận là nhà lãnh đạo toàn thể Đế quốc Trung Hoa, ông ta mới phái các đội quân của ông đến trục xuất người Mông Cổ ra khỏi bàn đạp sau cùng của họ, tức là Vân Nam. Năm 1381, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương phái các tướng là Phó Hữu Đức và Mộc Anh đem quân chiếm Vân Nam, diệt Lương Vương của triều Nguyên. Dấu ấn Nhà Minh trên Vân Nam đã lưu tồn và còn được nhận thấy. Các ngôi chùa và tượng đài thuộc niên đại Nhà Minh có rất nhiều; các chiếc câu treo bằng xích sát đặc sắc bắc ngang sông Cửu Long và sông Salween, cũng như nhiều con sông nhỏ hơn ở miền Tây Vân Nam chứng thực cho sinh khí của chế độ mới và sự quan tâm của nó vào việc cải tiến các sự giao thông. Nhiều thành phố của Vân Nam mắc nợ hình thức hiện đại của chúng nơi các nhà xây dựng thời Minh, và nhiều thành phố phản ảnh, nơi các bức tường thành thẳng đứng bao quanh và các đường phố cắt nhau, mẫu họa đồ thiết kế thành phố chung của miền Bắc Trung Hoa, các bản sao chép thu nhỏ của Bắc Kinh. Cuối thời Nhà Minh, Hoàng đế Nam Minh (Quế Vương) là Chu Do Lang (niên hiệu Vĩnh Lịch, 1646-1662) đã chạy tới Vân Nam. Năm 1659, Nhà Thanh sai Bình Tây Vương Ngô Tam Quế tấn công Vân Nam. Năm 1662, Ngô Tam Quế tấn công sang Miến Điện, bắt được Vĩnh Lịch bắt treo cổ chết. Người Mãn Châu tưởng thưởng họ Ngô bằng việc cử ông làm Tổng đốc cả về mặt dân sự lẫn quân sự hai tỉnh Vân Nam và Quý Châu với tước vương. Ảnh hưởng của ông rất mạnh tại các tỉnh lân cận vừa mới bình định xong là Hồ Nam và Tứ Xuyên, và còn vang xa đến tận vùng đông bắc như các tỉnh Thiểm Tây và Cam Túc. Tại tất cả các khu vực này, Ngô Tam Quế đã bổ nhiệm các quan chức, hay phải được tham khảo trước khi có sự bổ nhiệm bất kỳ người nào. Ông ta gần như một ông hoàng độc lập. Sau mười năm của quan hệ phiền hà này, song hành cùng với hai ông Phiên vương Trung Hoa được gọi là "phong kiến" khác (gồm Ngô Tam Quế là Bình Tây Vương, và hai kẻ khác là Bình Nam Vương và Tĩnh Nam Vương. Sau khi Ngô Tam Quế từ trần, hai phiên vương này đều bị nhà Mãn Thanh loại trừ), cũng là các tướng lĩnh Nhà Minh như họ Ngô, tại các phần đất khác ở miền Nam Trung Hoa, Triều đình Mãn Châu đã cảm thấy đủ mạnh để thách đố quyền lực của họ và đập tan nó nếu chứng tỏ là ngoan cố. Các danh vọng cao quý được ban cho các ông hoàng Trung Hoa này, nhưng tư thế độc lập của họ bị bãi bỏ. Các ông hoàng khác đã chấp nhận. Ngô Tam Quế bác bỏ lời hứa trung thành này, tuyên bố độc lập và trong năm 1673 tự tuyên xưng là Tổng tư lệnh Vĩ Đại của triều đại nhà Chu. Tuy nhiên Nhà Thanh đã đàn áp cuộc nổi loạn này. Người Hồi nổi dậy Giai đoạn từ 1856 tới 1873, người Hồi nổi dậy dưới sự chỉ huy của Đỗ Văn Tú có nguồn gốc từ Đại Lý, tuyên cáo một cách dứt khoát ý định của ông nhằm thiết lập một vương quốc Hồi giáo. Nước này ông ta gọi là Bình Nam Quốc (P’ing Nan Kuo) (Vương quốc Miền Nam An Bình), và chính ông đảm nhận vương tước Hồi giáo là Quốc vương (Sultan) với danh xưng bằng tiếng Ả Rập là Suleiman. Ông đã mau chóng chinh phục toàn thể miền tây Vân Nam, cho đến khi vương quốc của ông ta tiến sát vào Vương quốc Miến Điện, chẳng bao lâu sau bị ngã gục trước sự chinh phục của người Anh. Nhược điểm của Đỗ Văn Tú và các người ủng hộ ông là họ chỉ tượng trưng cho một quyền lợi cục bộ tại Vân Nam, một miền đất mãi mãi bị phân cắt bởi địa dư và cũng bởi cảm thức về chủng tộc và địa phương. Xem ra đã không có lực tập hợp được dân chúng bản địa cho lý cớ của Quốc vương Hồi giáo; tương tự cũng không có sự chống đối công khai với duyên cớ đó từ các phần tử này. Dân chúng Trung Hoa, nếu không tích cực phản đối, cũng giữ nguyên thái độ thụ động. Sự chống đối thực sự đến từ các đội quân của triều đại Mãn Châu, mặc dù các đội quân này trong thực tế là các lực lượng Trung Hoa nằm dưới sự chỉ huy của người Trung Hoa. Sầm Dục Anh là một con người khác thường, phát sinh từ một gia đình gốc Trung Hoa định cư từ lâu tại các khu vực thị tộc của tỉnh Quảng Tây, gia đình của ông đã là các lãnh chúa phong kiến địa phương được nhìn nhận của một thị tộc như thế trong nhiều thế kỷ, song họ đã giữ lại văn hóa, ngôn ngữ Trung Hoa và dành đạt được các chức vụ chính thức. Bản thân Sầm Dục Anh chính vì thế là một người dân vùng Tây Nam, chứ không phải kẻ xâm nhập từ miền Bắc như Ngô Tam Quế, và có lẽ sự việc cũng dễ dàng hơn cho ông để tự lập mình thành vị chúa tể của miền Tây Nam ly khai hơn là Đỗ Văn Tú theo Hồi giáo. Đó là một cuộc chiến tranh lâu dài và tác hại, được phóng ra phần lớn trên cao nguyên Vân Nam, giữa Đại Lý và Côn Minh. Ngay từ 1857, Sầm Dục Anh đã tiến quân vào Đại Lý, nhưng bị đẩy lui. Trong cùng năm, quân Hồi giáo bao vây Côn Minh, lập lại mưu toan này trong năm 1861, và sau cùng, dưới sự chỉ huy của Đỗ Văn Tú, đã chiếm đóng thành phố một cách ngắn ngủi trong năm 1863. Nhưng các sự bất đồng và ghen tỵ của phe Hồi giáo, sự đầu hàng của một số thủ lĩnh của họ, và các cuộc tranh chấp bùng nổ giữa các người khác, đã hủy hoại các cơ may để củng cố các thắng lợi của họ. Dần dần, Sầm Dục Anh đã phục hồi và ổn định miền Đông của tỉnh. Cho mãi đến năm 1868, Đỗ Văn Tú vẫn có khả năng bao vây Côn Minh trong một năm trường, nhưng khi cuộc vây hãm đã bị phải bị bãi bỏ trong năm 1869, đó là một khúc rẽ trong cuộc chiến tranh lâu dài. Các cuộc công hãm kéo dài và lập lại nhiều lần vào một thành phố có tường thành bao quanh hẳn phải là một trong số các thí dụ cuối cùng của hình thái chiến tranh cổ xưa trong lịch sử. * Sầm giờ đây được bổ làm Phiên vương Vân Nam và đã giao cho thuộc cấp của ông, Yang Yu-k’o, thực hiện trận đánh cuối cùng. Yang tiến đánh Đại Lý năm 1872 và cưỡng chiếm lối đi qua đèo Hạ Quan nằm ở mỏm phía nam của hồ nước. Sau đó ông đã mở cuộc bao vây chính thành phố và chiếm lấy thành phố sau một cuộc kháng cự dũng mãnh và kéo dài. Ngay sau khi Đỗ Văn Tú chết (kẻ đã cố tự vẫn nhưng đã bị giao nạp bởi các cận vệ của ông trước khi ông có thể làm như thế), người Hồi giáo vẫn kháng cự bên trong lẫn ngoài thành phố trong gần một năm. Hàng nghìn người đã bị giết, nhưng vẫn tiếp tục chiến đấu. Khi công cuộc bình định được hoàn tất, dân số của tỉnh được ước lượng đã giảm từ 8 triệu người xuống khoảng 3 triệu người, mặc dù được nghĩ rằng nhiều người trong số mất tích trong thực tế đã chạy trốn sang các miền hòa bình hơn. Sau khi thất bại, số lượng người Hồi đã giảm mạnh. Thế kỷ XX Trong thời kỳ này người Anh chiếm đóng Miến Điện còn người Pháp chiếm đóng Việt Nam nên cả hai đều có ảnh hưởng tới Vân Nam. Năm 1910, người Pháp cho xây dựng đường sắt Điền Việt nối Côn Minh với cảng Hải Phòng, Việt Nam, đoạn trong Vân Nam gọi là Côn Hà thiết lộ (đường sắt Côn Hà), đến năm 1936 hoàn thành việc nối Vân Nam đến Sài Gòn. Đây cũng là tuyến đường sắt vận tải kinh tế nhất khu vực châu Á, thúc đẩy kinh tế mậu dịch ngoại thương Vân Nam tăng trưởng với tốc độ cao. Là tuyến đường sắt quốc tế đầu tiên của Trung Quốc, đường sắt Điền Việt đã làm cho Vân Nam từ thân phận 1 tỉnh biên giới khép kín nhất của Trung Quốc bước một bước dài tiến chuyển liên hệ trực tiếp với thế giới bên ngoài. Năm 1894, George Ernest Morrison, một phóng viên Úc làm việc cho The Times, đã du hành từ Bắc Kinh tới Miến Điện, khi đó bị người Anh chiếm đóng, thông qua Vân Nam. Cuốn sách của ông An Australian in China (Người Úc tại Trung Quốc) đã miêu tả chi tiết những thử thách ông đã trải qua. Từ năm 1916 đến năm 1917, Roy Chapman Andrews và Yvette Borup Andrews đã dẫn đầu đoàn thám hiểm động vật châu Á thuộc Viện Bảo tàng Tự nhiên Hoa Kỳ đi suốt phần lớn khu vực miền tây và miền nam Vân Nam, cũng như các tỉnh khác của Trung Quốc. Cuốn sách Camps and Trails in China đã ghi chép lại những thử thách của họ. Mậu dịch đối ngoại của Vân Nam trước 1908 ngạch xuất khẩu bình quân hàng năm là khoảng 1200 vạn quan lượng. Đến năm 1912 đạt đến 2200 vạn quan lượng. Đến 1927, đạt đến mức độ 3000 vạn quan lượng. Đến niên đại 40 thế kỷ XX thì 2/3 vật tư xuất nhập khẩu Vân Nam đều được xuất nhập khẩu ở đây. Ngày 30 tháng 10 năm 1911, nhân dịp tết Trùng dương, Thái Ngạc và Đường Kế Nghiêu nổi dậy thoát ly khỏi Nhà Thanh. Ngày 25 tháng 12 năm 1915, hai ông này phát động phong trào phản đối Viên Thế Khải, Vân Nam trở thành tiền duyên cách mạng dân chủ cận đại. Trong thời kỳ Trung Hoa Dân Quốc, tại Vân Nam hình thành một cục diện cát cứ, từ 1928 tới 1945 do Đường Kế Nghiêu và Long Vân thống lĩnh. Năm 1925, sau khi Tôn Trung Sơn mất, Đường Kế Nghiêu tranh quyền lãnh đạo với Quyền Đại nguyên soái Hồ Hán Dân. Vân Nam vương Năm 1927, tướng Long Vân lên thay nắm quyền cai trị Vân Nam hơn 20 năm cho đến khi Chính phủ Trung ương Quốc dân đảng bổ nhiệm tướng Đỗ Duật Minh thay thế vào năm 1945. Tháng 7 năm 1937 nổ ra cuộc chiến chống Nhật, Long Vân hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng CS TQ cùng đứng về một chiến tuyến cùng đấu tranh chống Nhật. Năm 1940, quân Nhật chiếm Việt Nam, biên giới Việt Nam và Vân Nam khá căng thẳng. Vân Nam ở giáp Miến Điện, là nơi tiếp nhận hàng viện trợ của Mỹ qua đường Miến Điện để vào Trung Quốc. Năm 1942, trên 10 vạn quân Trung Quốc từ đây tấn công sang Miến Điện, phối hợp cùng quân Anh chống lại quân đội Nhật Bản. Giai đoạn từ 1938 tới 1946, các trường đại học như Đại học Bắc Kinh, Đại học Thanh Hoa, Đại học Nam Khai đã hợp nhất tại Côn Minh để lập ra Đại học Quốc gia Liên hợp Tây Nam. Năm 1945, tướng Đỗ Duật Minh thay thế Long Vân trong thời gian ngắn, sau đó em họ của Long Vân là Lư Hán lên nắm quyền. Sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, Quân đội Quốc dân đảng do Lư Hán Tư lệnh quân Vân Nam điều động 4 quân đoàn gồm 18 vạn quân từ Vân Nam và Quảng Tây kéo vào miền Bắc Việt Nam giải giáp Quân đội Nhật. Tháng 5 năm 1946 Lư Hán đưa quân quay về Vân Nam và đảm nhiệm các chức: Chủ tịch tỉnh Vân Nam, Tư lệnh An Ninh tỉnh kiêm Hiệu trưởng Học viện quân sự Xương Nghi. Tháng 7 năm 1948, Lư Hán hạ lệnh trấn áp học sinh Côn Minh tạo ra sự kiện thảm sát 15 tháng 7. Năm 1949, Lư Hán còn tạo ra vết nhơ trọng vụ thảm sát 21 người vô tội trên đường phố Nam Bình. Sau đó Lư Hán và Long Vân dưới sự chỉ đạo của TW ĐCS TQ và Ủy ban Công hội tỉnh Vân Nam và dưới sự chi viên của Quân giải phóng Nhân dân, cùng đấu tranh ở vùng biên giới giữa Vân Nam và Quý Châu. Và đến ngày 9.12.1949 đã nổ ra Khởi nghĩa Côn Minh, tỉnh Vân Nam tuyên bố giải phóng trong hòa bình. Ngày 10 tháng 3 năm 2011, một trận động đất 5,4 độ xảy ra tại Vân Nam, gây thiệt hại nghiêm trọng hơn 18.000 ngôi nhà và chung cư. Địa lý Vân Nam là tỉnh cực tây nam của Trung Quốc, với đường Bắc chí tuyến chạy ngang qua phần phía nam của tỉnh. Tỉnh này có diện tích khoảng 394.000 km², chiếm 4,1% tổng diện tích Trung Quốc. Tỉnh này có ranh giới với Khu tự trị người Choang Quảng Tây và tỉnh Quý Châu ở phía đông, tỉnh Tứ Xuyên ở phía bắc, Khu tự trị Tây Tạng ở phía tây bắc. Tỉnh này cũng có biên giới dài 4.060 km với Myanmar ở phía tây, Lào ở phía nam, Việt Nam ở phía đông nam.
Giáo sư Kim Định tên đầy đủ là Lương Kim Định (15 tháng 6 năm 1915 – 25 tháng 3 năm 1997) là giáo sư, nhà triết học, linh mục Việt Nam. Ông có nhiều tác phẩm nghiên cứu triết học Việt Nam (mà ông gọi là Việt Triết hay Việt Nho). Tiểu sử Kim Định sinh tại làng Công giáo Trung Thành, nay thuộc xã Hải Vân, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, thuộc giáo xứ Trung Thành, giáo hạt Quần Phương, giáo phận Bùi Chu. Ông tốt nghiệp môn Triết học tại Giáo hoàng Chủng viện Thánh Albertô Cả tại thành phố Nam Định. Thụ phong linh mục năm 1943. Năm 1943 đến 1946 ông dạy triết học tại Đại Chủng viện Quần Phương của Giáo phận Bùi Chu. Năm 1947, ông lại sang Pháp nghiên cứu về triết học 10 năm. Ông tốt nghiệp Triết học tại Học viện Công giáo Paris (Institut Catholique de Paris), và tốt nghiệp Nho học tại Học viện Trung Hoa Paris (Institut des Hautes Études Chinoises), Paris. Năm 1958 ông dạy triết học phương Đông tại Học viện Lê Bảo Tịnh, Trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, Viện Đại học Vạn Hạnh và Viện Đại học Đà Lạt. Cùng với Nguyễn Văn Thích và giáo sư Nguyễn Đăng Thục, ông là người khai mở khoa Triết học Đông phương tại Trường Đại học Văn khoa từ năm 1958 và sau này tại vài trường đại học khác. Từ những năm 1960, ông bắt đầu cho ra mắt một loạt những cuốn sách về minh triết Việt, mở đầu là cuốn Nguyên Nho / Cửa Khổng... Ông từ trần ngày 25 tháng 3 năm 1997 tại Carthage, Missouri, Hoa Kỳ, hưởng thọ 82 tuổi. Công lao đóng góp Ông có công lớn trong việc xây dựng nền tảng cho triết học Việt Nam (mà ông gọi là Việt Triết hay Việt Nho). Ngày nay, tổ chức An Vi (An Việt, nghiên cứu triết học Việt Nam) xem ông như tổ sư triết học. Ông để lại ít nhất 45 cuốn sách, trong số đó những sách sau đây đã được ấn hành: Nguyên Nho / Cửa Khổng, 278 trang, Nhà xuất bản Ra khơi ấn hành 1965 Chữ Thời, 700 trang, Nhà xuất bản Thanh Bình ấn hành 1967 Vũ Trụ Nhân Linh, 230 trang, Nhà xuất bản Khai Trí phát hành 1969 Định Hướng Văn Học, 237 trang, Ra Khơi 1969 Những Dị Biệt Triết Lý Đông Tây, 222 trang, Ra Khơi 1969 Tâm Tư, 348 trang, Khai Trí 1970 Việt Lý Tố Nguyên, 430 trang, Nhà xuất bản An Tiêm 1970 Dịch Kinh Linh Thể, 170 trang, Ra Khơi 1970 Hiến Chương Giáo dục, 155 trang, An Tiêm 1970 Triết Lý Cái Đình, 188 trang, Nguồn Sáng 1971 Lạc Thư Minh Triết, 149 trang, Nguồn Sáng 1971 Cơ cấu Việt Nho, 285 trang, Nguồn Sáng 1972 Tinh Hoa Ngũ Điển, 192 trang, Nguồn Sáng 1973 Loa Thành Đồ Thuyết, 187 trang, Thanh Bình 1973 Vấn đề Nguồn Gốc Văn Hóa Việt Nam, 139 trang, Nguồn Sáng 1973 Vấn Đề Quốc Học, 157 trang, Nguồn Sáng 1973 Triết Lý Giáo dục, 190 trang, Ca Dao 1975 Nhân Chủ (tái bản từ cuốn Nhân Bản), 306 trang, Thanh Niên QG USA Hồn Nước Với Lễ Gia Tiên (tái bản từ cuốn Căn Bản Triết Lý Trong Văn Hóa Việt Nam), 321 trang, Nam Cung USA 1979 Hùng Việt Sử Ca, 272 trang, Thằng Mõ San Jose 1984 Kinh Hùng Khải Triết, 241 trang, Thanh Niên QG USA Pho Tượng Đẹp Nhất Của Việt Tộc, 226 trang, HT Kelton USA Sứ Điệp Trống Đồng, 431 trang, Thanh Niên QG USA 1984 Văn Lang Vũ Bộ, 251 trang, H.T Kelton USA Hoa Kỳ & Thế Chiến Lược Toàn Cầu, 185 trang, An Việt Úc Châu 1986 Đạo Trường Chung Cho Đông Á, 111 trang, An Việt Houston 1987 Hưng Việt, 125 trang, An Việt Houston 1987 Cẩm Nang Triết Việt, 80 trang, An Việt Houston 1987 Việt Triết Nhập Môn, 174 trang, An Việt Houston 1988 Gốc Rễ Triết Việt, 182 trang, An Việt Houston 1988 Thái Bình Minh Triết, 225 trang, Thời Điểm 1997 Phong Thái An Vi, 230 trang, An Việt Houston 2000
Hjalmar Horace Greeley Schacht (1877–1970) là nhân vật kinh tế xuất chúng của Đức Quốc xã. Ông đỗ Tiến sĩ Kinh tế (1899), tuy không phải là đảng viên Quốc xã nhưng ủng hộ Adolf Hitler nhiệt tình và lập nhiều chương trình nhằm giải quyết nạn thất nghiệp và ổn định tiền tệ (1922–1923), Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đức (1923–1930, 1933–1939), Bộ trưởng Kinh tế Đức (1934–1937) kiêm Đặc mệnh Toàn quyền Cơ quan Kinh tế Chiến tranh (1935–1937), Quốc vụ khanh (1939–1943). Bước khởi đầu Khi Hitler còn ở trong tù sau vụ Bạo loạn Nhà hàng Bia, TS. Hjalmar Schacht được Thủ tướng Gustav Stresemann (1878-1929) được mời giúp ổn định đồng mark Đức, và ông đã thành công. Cơn lạm phát tai hại qua đi. Gánh nặng bồi thường chiến tranh được giảm nhẹ. Nguồn vốn từ Mỹ bắt đầu đổ vào. Nền kinh tế phục hồi nhanh chóng. Nhờ đó, Schacht được cử làm Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đức vào năm 1923. Ông từ chức năm 1930 vì chống đối lại chính sách của nội các đương thời, gặp Hermann Göring vào năm này và gặp Hitler năm sau. Trong hai năm kế, ông cống hiến tất cả công sức đáng kể để đưa Hitler đến gần bạn bè của ông trong giới ngân hàng và thương mại, và còn đến gần thêm chiếc ghế thủ tướng. Vì thế, ông góp công lớn cho sự hình thành của Đế chế Thứ Ba. Năm 1932, nhà phù thủy kinh tế này viết thư cho Hitler: Tôi tin chắc rằng tình hình hiện nay sẽ tạo thuận lợi cho ông trở thành thủ tướng... Phong trào của ông tiến bước dựa trên sự thật mạnh mẽ đến nỗi chiến thắng nằm trong tầm tay của ông... Dù cho công việc của tôi trong tương lai gần dẫn tôi đi đến đâu chăng nữa, ngay cả nếu một ngày tôi bị giam trong một pháo đài, lúc nào ông cũng có thể trông cậy nơi tôi như là người ủng hộ trung kiên. Một trong những "sự thật mạnh mẽ" của phong trào Quốc xã - mà Hitler không bao giờ giấu giếm - là khi nắm chính quyền, đảng sẽ dẹp bỏ tự do cá nhân, ngay cả tự do của TS. Schacht và bạn bè doanh nhân của ông. Phải mất một thời gian ông và bạn bè trong các ngành công nghiệp và tài chính mới thức tỉnh về điều này, tuy ông làm Thống đốc Ngân hàng Nhà nước lần nữa. Giống như mọi lịch sử, lịch sử này dẫy đầy những chuyện vô cùng trái khoáy. Vì thế, chẳng bao lâu người ta thấy TS. Schacht là nhà tiên tri đại tài vì đã đoán đúng cả hai việc: Hitler làm thủ tướng và ông bị Hitler tống giam. Ông chỉ sai lầm đôi chút: bị giam trong trại tập trung, còn tệ hơn pháo đài, không phải với tư cách là "người ủng hộ trung kiên" mà trong vị thế ngược lại. Trong cuộc vận động tổng tuyển cử mới được ấn định vào ngày 5 tháng 3 năm 1933, các doanh nhân lớn được yêu cầu móc hầu bao vì họ vui mà thấy chính phủ mới hứa sẽ đàn áp nghiệp đoàn và để cho giới chủ tự do kiếm lợi nhuận. Họ đồng ý như thế trong một buổi họp ở Dinh Chủ tịch Nghị viện của Göring, dưới sự chủ trì của TS. Schacht để kêu gọi tài trợ. Tại Tòa án Nürnberg, ông cho biết "Tôi thu được 3 triệu mark." Đó là số tiền rất lớn thời bấy giờ. Phù thủy kinh tế Sau khi lên nắm chính quyền, ngày 17 tháng 3 năm 1933, Hitler sa thải TS. Hans Luther, thống đốc có tính bảo thủ của Ngân hàng Nhà nước, cử Schacht thay thế. Không người nào tỏ ra hữu dụng hơn cho Hitler như Schacht trong việc xây dựng sức mạnh kinh tế cho Đế chế Thứ Ba và tái vũ trang cho Thế chiến II. Đúng là trước khi chiến tranh bùng nổ, ông chống đối Hitler, bị mất hết chức vụ. Nhưng lúc ấy đã quá muộn: thành quả của ông cho Quốc xã đã được phát huy. Trong năm đầu, những chính sách kinh tế của Quốc xã do Schacht đề ra chủ yếu nhằm tạo công ăn việc làm cho người thất nghiệp qua chương trình xây dựng công ích và khuyến khích doanh nghiệp tư nhân. Tín dụng chính phủ được cung cấp qua trái phiếu thất nghiệp đặc biệt, và miễn thuế rộng rãi hầu giúp trang trại tăng chi tiêu và sử dụng thêm nhân công. Ngày 2 tháng 8 năm 1934, Schacht nhận thêm nhiệm vụ Bộ trưởng Kinh tế. Ngày 12 tháng 5 năm 1935, Hitler bổ nhiệm Schacht kiêm thêm Bộ trưởng Đặc mệnh Toàn quyền về Kinh tế Chiến tranh, trao cho ông này quyền hạn để "chỉ đạo sự chuẩn bị kinh tế cho chiến tranh." Bốn tuần sau, Schacht nộp một báo cáo riêng cho Hitler bắt đầu bằng: việc hoàn tất tái vũ trang với tốc độ và khối lượng mong muốn là vấn đề của nền chính trị Đức; vì thế mọi hoạt động khác phải tùy thuộc vào việc này. Schacht giải thích với Hitler là vì cần ngụy trang hoàn toàn việc tái vũ trang cho đến ngày 16 tháng 3 năm 1935 (khi Hitler tuyên bố động viên cho một quân đội gồm 36 sư đoàn), cần phải dùng máy in tiền để chi trả cho giai đoạn đầu. Ông cũng vui mừng chỉ ra rằng số tiền tịch thu từ kẻ thù của Nhà nước (phần lớn là người Do Thái) và những người khác từ tài khoản nước ngoài bị phong tỏa đã giúp chi trả cho súng ống của Hitler. Ông pha trò: "Vì thế, việc tái vũ trang của chúng ta được chi trả một phần với tín dụng của kẻ thù chính trị của chúng ta". Dù trong Tòa án Nürnberg, Schacht phản bác kịch liệt cáo buộc cho rằng ông đã tham gia trong âm mưu của Quốc xã để gây chiến, sự thật là không một người nào khác có trách nhiệm như Schacht trong việc chuẩn bị sức mạnh kinh tế cho Đức để tiến đến chiến tranh. Quân đội Đức toàn tâm công nhận điều này. Vào dịp sinh nhật thứ 60 của Schacht, một ấn phẩm của Quân đội ca ngợi Schacht là người đã giúp cho sự tái tạo dựng Quân đội được khả thi về mặt kinh tế... Lực lượng Quốc phòng hàm ơn năng lực lớn lao của Schacht đã vượt qua mọi khó khăn để tạo ra sức mạnh hiện tại từ cơ số 100.000 người. Schacht mang ra thi thố tất cả ngón nghề phù thủy về tài chính để chuẩn bị cho Đế chế Thứ Ba sẵn sàng với chiến tranh. In thêm tiền chỉ là một trong những biện pháp của ông. Ông thao túng đồng tiền một cách khéo léo đến nỗi các nhà kinh tế nước ngoài có lúc ước lượng đồng mark có đến 237 giá trị khác nhau. Ông đã đàm phán được nhiều cuộc trao đổi hiện vật với hàng chục quốc gia có lợi cho Đức một cách đáng kinh ngạc, và chứng tỏ với các nhà kinh tế chính thống là càng mang nợ một quốc gia thì càng dễ làm ăn với quốc gia ấy. Việc ông tạo ra tín dụng trong một quốc gia thiếu vốn luân chuyển và hầu như không có dự trữ tài chính là do thiên tài hoặc – như vài người nói – là mánh lới bậc thầy. Ví dụ cụ thể là việc Ngân hàng Nhà nước phát hành tín phiếu "Mefo" được Nhà nước bảo lãnh và được dùng để chi trả cho các nhà sản xuất vũ khí. Vì tín phiếu này không xuất hiện trên báo cáo tài chính của Ngân hàng Quốc gia lẫn ngân sách Nhà nước, chương trình tái vũ trang vẫn giữ được bí mật. Trong giai đoạn 1935-1938, tín phiếu này được sử dụng riêng cho việc tái vũ trang và lên đến số tiền tổng cộng là 12 tỉ mark. Có một lần khi giải thích việc này với Hitler, Bộ trưởng Tài chính Bá tước Schwerin von Krosigk nói đấy chỉ là một hình thức "in tiền". Schacht đã cống hiến năng lực và thiên tài vào việc chi trả cho chương trình tái vũ trang nhanh chóng của Hitler. Ông đã nhào nặn ra nhiều mánh khóe để huy động tiền bạc cho Lục quân, Hải quân và Không quân và chi trả cho các hóa đơn sản xuất vũ khí. Nhưng có mức giới hạn, quá mức này quốc gia sẽ phá sản. Vào năm 1936, ông tin rằng Đức đang tiến gần đến mức giới hạn ấy. Ông cảnh báo tình hình này với Hitler, Göring và Tướng Bộ trưởng Quốc phòng Werner von Blomberg (1878-1946), nhưng không có kết quả. Tháng 9 năm 1936, Đức bắt đầu Kế hoạch Bốn năm và chuyển qua nền kinh tế toàn diện cho chiến tranh. Dù dốt nát về kinh tế ngang bằng với Hitler, Göring thay thế Schacht để nắm quyền độc tài về kinh tế. Mục đích của kế hoạch là làm cho Đức được tự túc trong vòng 4 năm, để không phải khốn đốn vì phong tỏa – mà Schacht xem là không khả thi. Nhưng Göring đã trở nên nhà độc tài trong lĩnh vực kinh tế. Đối với người kiêu ngạo, có tham vọng và còn khinh bỉ Göring dốt nát về kinh tế thì khó mà tiếp tục giữ chiếc ghế. Sau vài tháng xung khắc kịch liệt giữa hai người đều có cá tính mạnh, Schacht yêu cầu Hitler cho ông nghỉ chức vụ trong nội các. Thêm vào nỗi bất mãn là thái độ của nhiều nhà công nghiệp và doanh nhân "đổ xô đến văn phòng của Göring để nhận đơn đặt hàng trong khi tôi vẫn còn đang làm cho mọi người nghe tiếng nói của lý lẽ." Để làm cho họ nghe được tiếng nói của lý lẽ trong không khí sôi động của Đức Quốc xã năm 1937 là điều không ai làm được, như Schacht nhận thấy. Sau khi đã cãi vã thêm với Göring, ông nộp đơn cho Hitler chính thức xin từ chức Bộ trưởng Kinh tế. Ngày 8 tháng 12, đơn từ chức được chính thức chấp thuận. Con người yếu đuối Walter Funk được cử thay thế Schacht. Theo yêu cầu của Hitler, Schacht ở lại nội các làm Quốc vụ khanh (Bộ trưởng không giữ bộ nào) và vẫn còn giữ chức vụ Thống đốc Ngân hàng Quốc gia, vì thế vẫn duy trì vẻ bề ngoài, tránh cho nước Đức và thế giới một cú sốc. Tuy nhiên, ông không còn có thể kiềm chế chương trình tái vũ trang sôi động của Hitler, mà chỉ đưa tên tuổi ra làm bình phong cho mưu đồ của Hitler. Cũng như các tướng lĩnh và người bảo thủ đã giao nước Đức cho Hitler, ông không thức tỉnh nhanh chóng để nhận ra thực tế của cuộc đời. Âm mưu chống đối Hitler Năm 1937, bắt đầu nhen nhúm phong trào chống đối Hitler. Hai nhân vật có tiếng tăm sáng mắt là Johannes Popitz, Bộ trưởng Tài chính của Phổ và Schacht. Cả hai đã được thưởng huân chương cao quý nhất của Đảng Quốc xã vì công lao đóng góp vào nền kinh tế cho mục đích chiến tranh. Có lẽ vì quá khứ và tư cách của họ mà hai người không được thành phần cốt lõi của nhóm chống đối tin cậy. Schacht là con người của chủ nghĩa cơ hội, và Hassell nhận xét trong nhật ký của ông là Schacht "nói một đàng nhưng làm một nẻo" – ý kiến mà ông nghĩ các Tướng Beck và von Fritsch cũng đồng ý. Trong nhiều tuần mùa hè năm 1939, nhóm âm mưu hành động tất bật, tuy chính xác với mục đích gì thì khó mà hiểu được. Qua tài liệu họ để lại, người ta vẫn không biết rõ và người ta có cảm tưởng là chính họ cũng không biết họ muốn gì. Dù là có thiện chí, họ hoang mang trầm trọng và tê liệt vì kém hiệu quả. Hitler đã hoàn toàn khống chế cả nước Đức – quân đội, Cộng sản, chính quyền và dân chúng – đến nỗi họ không thể nghĩ ra cách nào tháo gỡ hoặc làm lũng đoạn sự khống chế như thế. Thế là, chấm dứt những cố gắng của nhóm âm mưu nhằm ngăn chặn Hitler khởi động Thế chiến II, ngoại trừ nỗ lực vào phút chót của TS. Schacht, mà ông dựa vào đấy để biện hộ cho mình trước Tòa án Nürnberg. Vào tháng 8 năm 1939 ông gửi thư cho Hitler, Göring và Ribbentrop – ở thời điểm gay cấn các nhà lãnh đạo phe chống đối chỉ biết viết thư và bản ghi nhớ – nhưng, ông "rất ngạc nhiên", như ông kể sau này, không nhận được trả lời. Kế đến, ông dự định đi gặp Thống chế Walther von Brauchitsch, Tư lệnh Lục quân Đức. Để nói gì? Trước Tòa án Nürnberg, Schacht giải thích ông định nói với Tư lệnh Lục quân rằng khởi động chiến tranh mà không thông qua Nghị viện là vi hiến! Vì thế nhiệm vụ của Tư lệnh Lục quân là tôn trọng lời tuyên thệ của ông ấy đối với hiến pháp! Nhưng cuối cùng Schacht đã không gặp Brauchitsch! Đô đốc Giám đốc Quân báo Wilhelm Franz Canaris (1887-1945) cảnh cáo nếu ông này đi gặp, vị Tư lệnh Lục quân "có lẽ sẽ ra lệnh bắt giữ chúng ta lập tức." Nhưng có người giải thích lý do thật sự khiến Schacht không đi nói ra chuyện kỳ quái ấy (việc yêu cầu Nghị viện bù nhìn phê chuẩn là trò trẻ con đối với Hitler đến nỗi ông này không màng đến thủ tục ấy). Có vẻ như Schacht bãi bỏ chuyến đi khi Hitler ra lệnh bãi bỏ tấn công Ba Lan. Sau vụ ám sát Hitler thất bại ngày 20 tháng 7 năm 1944, nhiều người bị xử tử một cách dã man. Vài người bị bắt, không bị xét xử nhưng bị đưa vào trại tập trung. Trong số này là Schacht, không can dự vào vụ ám sát tuy trước Tòa án Nürnberg ông khai mình đã "khơi mào." Vài ngày trước khi tự sát, Hitler thảo luận với các tướng lĩnh về số phận của một nhóm tù nhân người Anh, Pháp và Mỹ nổi danh trong đó có Schacht. Một nhân chứng về sau khai: Hitler một lần nữa nổi giận. Tay ông ta run rẩy, chân run rẩy và đầu run rẩy; ông chỉ lặp đi lặp lại: "Bắn hết chúng nó! Bắn hết chúng nó!" Ngày 1 tháng 5 năm 1945, một nhóm tù nhân gồm những nhân vật nổi tiếng kể cả Schacht được vội vã mang ra khỏi Dachau và đưa về miền nam để tránh quân đội Mỹ đến giải thoát. Họ đến khách sạn ở một ngôi làng nằm cao trên dãy núi ở miền nam Tyrol. Mật vụ cho vài người xem bản danh sách những người mà, theo lệnh của Heinrich Himmler (1900-1945), sẽ bị xử tử để không cho rơi vào tay Đồng Minh. Tuy nhiên, vào lúc 2 giờ chiều ngày 4 tháng 5, có tiếng còi báo động! Một toán binh sĩ Mỹ chiếm lấy khách sạn. Họ được tự do! Trước Tòa án Nürnberg Sau chiến tranh, Schacht bị đưa ra xét xử trước Tòa án Nürnberg. Ông đã trải qua những tháng cuối cùng của Đế chế thứ Ba khi nhân vật mà ông có thời tôn thờ Hitler đưa ông vào trại tập trung, e sợ một ngày sẽ bị xử tử, nhưng bây giờ tỏ ra căm phẫn vì thấy Đồng minh lại đem chính mình ra xét xử như là tội phạm chiến tranh. Schacht tự biện hộ rằng ông chỉ là một chuyên gia về ngân hàng và kinh tế. Hơn nữa, ông đã mất mọi chức vụ trước khi chiến tranh bùng nổ và còn bị chế độ Quốc xã đưa vào trại tập trung. Vì những yếu tố này, Schacht được Tòa án Nürnberg tha bổng vì xét ông không phạm tội ác chiến tranh. Walther Funk, kẻ bất tài với đôi mắt trông gian xảo, đã tiếp nhiệm Schacht làm Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đức, nhận án chung thân. Nhưng Schacht lại nhận án 8 năm khổ sai của Tòa án Bài trừ Quốc xã của Cộng hòa Liên bang Đức do ông có tư tưởng bài Do Thái, giúp gây quỹ cho Đảng Quốc xã, trấn áp nghiệp đoàn.... Ông được trả tự do năm 1948. Sau đấy, ông thành lập Ngân hàng Dusseldorf, làm cố vấn về kinh tế và tài chính cho một số nước đang phát triển.
Trong lý thuyết thông tin, Khoảng cách Hamming (tiếng Anh: Hamming distance) giữa hai xâu (strings) có chiều dài bằng nhau là số các ký hiệu ở vị trí tương đương có giá trị khác nhau. Nói một cách khác, khoảng cách Hamming đo số lượng thay thế cần phải có để đổi giá trị của một dãy ký tự sang một dãy ký tự khác, hay số lượng lỗi xảy ra biến đổi một dãy ký tự sang một dãy ký tự khác. Lấy ví dụ: Khoảng cách Hamming giữa 1011101 và 1001001 là 2. Khoảng cách Hamming giữa 2143896 và 2233796 là 3. Khoảng cách Hamming giữa "toned" và "roses" là 3. Trọng số Hamming (Hamming weight) của một dãy ký tự là khoảng cách Hamming từ một dãy ký tự toàn số không có cùng chiều dài. Có nghĩa là số phần tử trong dãy ký tự không có giá trị không (0): đối với một dãy ký tự nhị phân (binary string), nó chỉ là số các ký tự có giá trị một (1), lấy ví dụ trọng số Hamming của dãy ký tự 11101 là 4. Đặc tính Đối với một chiều dài cố định "n", khoảng cách Hamming là độ đo trên không gian vectơ của các từ có chiều dài đó, vì nó thỏa mãn yêu cầu về tính chất số không âm (non-negativity) (số tuyệt đối), hiện thân của tính bất khả phân định (indiscernibles) và tính đối xứng (symmetry), và nó có thể được chứng minh một cách dễ dàng bằng phép quy nạp toàn phần (complete induction) rằng nó còn thỏa mãn bất đẳng thức tam giác (triangle inequality). Khoảng cách Hamming giữa hai từ a và b còn được gọi là trọng số Hamming (Hamming weight) của phép toán a−b, dùng một toán tử thích hợp thay thế cho toán tử "−". Đối với hai dãy ký tự nhị phân (binary strings) a và b, phép toán này tương đương với phép toán a XOR b. Khoảng cách Hamming của các dãy ký tự nhị phân còn tương đương với khoảng cách Manhattan (Manhattan distance) giữa hai giao điểm của một hình siêu lập phương n-chiều (n-dimensional hypercube), trong đó n là chiều dài của các từ. Lịch sử và ứng dụng Khoảng cách Hamming là cái tên được đặt theo tên của Richard Hamming, người giới thiệu lý thuyết này trong tài liệu có tính cơ sở của ông về mã phát hiện lỗi và sửa lỗi (error-detecting and error-correcting codes). Nó được sử dụng trong kỹ thuật viễn thông để tính số lượng các bit trong một từ nhị phân (binary word) bị đổi ngược, như một hình thức để ước tính số lỗi xảy ra trong quá trình truyền thông, và vì thế, đôi khi, nó còn được gọi là khoảng cách tín hiệu (signal distance). Việc phân tích trọng số Hamming của các bit còn được sử dụng trong một số ngành, bao gồm lý thuyết tin học, lý thuyết mã hóa, và mật mã học. Tuy vậy, khi so sánh các dãy ký tự có chiều dài khác nhau, hay các dãy ký tự có xu hướng không chỉ bị thay thế không thôi, mà còn bị ảnh hưởng bởi dữ liệu bị lồng thêm vào, hoặc bị xóa đi, phương pháp đo lường phức tạp hơn, như khoảng cách Levenshtein (Levenshtein distance) là một phương pháp có tác dụng và thích hợp hơn.
Liên đoàn Bóng đá Quốc tế (, viết tắt: FIFA ) là cơ quan quản lý bóng đá, bóng đá bãi biển, bóng đá trong nhà và thể thao điện tử nội dung bóng đá ở cấp độ toàn cầu. FIFA chịu trách nhiệm tổ chức các giải thi đấu quốc tế lớn của môn bóng đá, tiêu biểu là World Cup được bắt đầu từ năm 1930 và World Cup nữ từ năm 1991. FIFA được thành lập vào năm 1904 với mục đích giám sát giải đấu quốc tế giữa các đội tuyển quốc gia của Bỉ, Đan Mạch, Đức, Hà Lan, Pháp, Tây Ban Nha, Thụy Điển và Thụy Sĩ. Có trụ sở tại Zürich, hiện có 211 quốc gia thành viên. Các quốc gia thành viên phải đồng thời là thành viên của một trong sáu liên đoàn châu lục sau: châu Á, châu Âu, Bắc & Trung Mỹ và Caribe, châu Đại Dương, Nam Mỹ và châu Phi. Mặc dù FIFA không có quyền kiểm soát luật bóng đá (đây là trách nhiệm của Ủy ban bóng đá quốc tế), nhưng họ chịu trách nhiệm trong cả việc tổ chức và quảng bá cho giải đấu, qua đó tạo ra doanh thu từ tài trợ. Ước tính, năm 2013, FIFA thu về hơn 1,3 tỉ đô la Mỹ, lợi nhuận đạt 72 triệu đô la Mỹ, và có lượng dự trữ tiền mặt lên tới hơn 1,4 tỉ đô la Mỹ. Các báo cáo điều tra của các phóng viên đã cho thấy mối liên kết của lãnh đạo FIFA với các hoạt động tham nhũng, hối lộ và cáo buộc gian lận bầu cử trong cuộc bầu cử Chủ tịch FIFA Sepp Blatter và quyết định trao quyền tổ chức World Cup 2018 và 2022 cho Nga và Qatar. Những cáo buộc này dẫn đến cáo trạng của chính quan chức cấp cao FIFA và năm nhà điều hành doanh nghiệp được đưa ra bởi Bộ Tư pháp Hoa Kỳ về tội gian lận, lừa đảo, và rửa tiền. Lịch sử Sự hình thành của FIFA Năm 1902, Anton Wilhelm Hirschman – Tổng Thư ký Liên đoàn bóng đá Hà Lan đã gặp Frederick Wall – Tổng Thư ký Liên đoàn bóng đá Anh đề nghị tổ chức một giải đấu quốc tế chính thức và thành lập một tổ chức bóng đá có quy mô quốc tế. Đề nghị này đã bị nhiều người trong liên đoàn bóng đá Anh khi đó từ chối Anton Wilhelm Hirschman và nhà báo Robert Guerin của tờ Matin, Thư ký bộ phận bóng đá của Hiệp hội các môn thể thao Pháp (USFSA) tiếp tục gửi thư đến các liên đoàn bóng đá khác ở châu Âu để đề nghị họ cùng đứng ra thành lập một tổ chức bóng đá quốc tế và đã nhận được sự đồng thuận. Năm 1904, trận giao hữu bóng đá giữa Pháp gặp Bỉ đã diễn ra và được công nhận là trận đấu quốc tế đầu tiên ngày 1 tháng 5 và đến ngày 21 tháng 5 thoả ước thành lập liên đoàn bóng đá chung chính thức được thông qua tại trụ sở của Hiệp hội các môn thể thao Pháp số nhà 229, đường Saint Honoré, Paris, gồm có 7 liên đoàn: Pháp, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha và Thụy Điển, bầu Robert Guerin làm chủ tịch đầu tiên. Các chủ tịch FIFA 1904 - 1906: Robert Guerin; 1906 - 1918: Daniel Burley Woolfall; 1918 - 1921: do bị tác động của chiến tranh thế giới thứ I nên FIFA đã không có chủ tịch; 1921 - 1954: Jules Rimet, ông là vị chủ tịch tại vị lâu nhất của FIFA và là cha đẻ của World Cup và cúp vàng thế giới đầu tiên đã mang tên ông: Cúp Jules Rimet; 1954 - 1955: Rodolphe William Seeldrayers, vị chủ tịch tại vị ngắn nhất của FIFA do ông qua đời sớm sau khi nhận chức được 1 năm và có 25 năm làm phó cho Jules Rimes; 1955 - 1961: Arthur Drewry; 1961 - 1974: Sir Stanley Ford Rous; 1974 - 1998: João Havelange. Là người có công lớn thương mại hoá bóng đá, gắn bóng đá với truyền hình và quảng cáo; 1998 - 2015: Joseph Sepp Blatter; 2016 - nay: Gianni Infantino. Cấu trúc Luật và bộ máy hoạt động FIFA đặt trụ sở tại Zürich, và là một hiệp hội được thiết lập dưới luật pháp của Thụy Sĩ. Sáu liên đoàn thành viên và 211 hiệp hội quốc gia Bên cạnh cơ quan toàn cầu còn có sáu liên đoàn châu lục được công nhận bởi FIFA nhằm giám sát các trận đấu trên các lục địa và khu vực trên thế giới. Các hiệp hội thành viên, và không phải là liên đoàn châu lục là thành viên của FIFA. Các liên đoàn châu lục được quy định trong điều lệ của FIFA, trở thành thành viên của liên đoàn châu lục là điều kiện tiên quyết để trở thành thành viên của FIFA. Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC; 46 thành viên) Australia là thành viên của AFC từ năm 2006 Liên đoàn bóng đá châu Phi (CAF; 54 thành viên) Liên đoàn bóng đá Bắc, Trung Mỹ và Caribe (CONCACAF; 41 thành viên) Guiana thuộc Pháp, Guyana và Suriname là thành viên của CONCACAF dù họ ở Nam Mỹ. Đội tuyển Guiana thuộc Pháp là thành viên của CONCACAF nhưng không phải của FIFA. Liên đoàn bóng đá Nam Mỹ (CONMEBOL; 10 thành viên) Liên đoàn bóng đá châu Đại Dương (OFC; 11 thành viên) Liên đoàn bóng đá châu Âu (UEFA; 53 thành viên) Các đội tuyển đại diện cho Armenia, Azerbaijan, Georgia, Israel, Kazakhstan, Nga và Thổ Nhĩ Kỳ là thành viên của UEFA, mặc dù phần lớn hoặc toàn bộ lãnh thổ của họ nằm bên ngoài châu Âu. Monaco và Vatican không là thành viên của UEFA hay FIFA. Tổng cộng, FIFA công nhận 211 hiệp hội quốc gia và đội tuyển nam quốc gia của họ cũng như 129 đội tuyển quốc gia nữ; xem danh sách các đội tuyển bóng đá nam quốc gia và mã FIFA của họ. FIFA có nhiều thành viên hơn Liên Hợp Quốc khi FIFA công nhận 23 thực thể phi chủ quyền là các quốc gia khác nhau, như bốn quốc gia cấu thành nằm trong Vương quốc Anh hay đang tranh chấp chính trị vùng lãnh thổ như Palestine và được Israel chấp nhận ngồi chung, FIFA là tổ chức quyền lực, là nơi mà Trung Quốc chấp nhận ngồi chung với Ma Cao, Hong Kong và Đài Loan cùng gia nhập. Hay các lãnh hải đang tranh chấp như Gibralta, Kosovo cũng là thành viên. Ủy ban công tác FIFA về các quốc gia nhỏ đã phân loại các thành viên tiềm năng của FIFA thành ba loại: Các nhà nước độc lập không thuộc FIFA (Kiribati, Quần đảo Marshall, Micronesia, Monaco, Niue, Palau, Tuvalu) Các vùng lãnh thổ phi độc lập (Guadeloupe, Greenland, Isle of Man, Jersey, Martinique, Quần đảo Bắc Mariana, Réunion, Sint Maarten, Zanzibar) Các khu vực chính trị nhạy cảm (Abkhazia, Crimea, Gibraltar, Kosovo, Bắc Síp, Nam Ossetia). Bảng xếp hạng bóng đá nam FIFA được cập nhật hàng tháng và kết quả của mỗi đội dựa trên thành tích tại các giải quốc tế, vòng loại và các trận giao hữu. Cũng có một bảng xếp hạng dành cho bóng đá nữ, cập nhật bốn lần một năm. Công nhận và các giải thưởng FIFA tổ chức một lễ trao giải hàng năm để ghi nhận những thành tích của cá nhân lẫn tập thể của bóng đá thế giới. Về giải cá nhân, cầu thủ nam xuất sắc nhất nhận giải Quả bóng vàng FIFA còn cầu thủ nữ xuất sắc nhất nhận Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA; sau đó giải thưởng dành cho cầu thủ nam đến trước năm 2010 được hợp nhất với Quả bóng vàng châu Âu của France Football. Tại tiệc lớn Ballon d'Or, Giải thưởng FIFA Puskás, FIFA/FIFPro Best XI, Giải thưởng FIFA Fair Play, và Giải thưởng cống hiến của FIFA cũng được trao. Năm 1994, FIFA công bố Đội hình mọi thời đại của FIFA World Cup. Năm 2000 FIFA công bố kết quả bình chọn trên Internet, tuyên bố Real Madrid là Câu lạc bộ xuất sắc nhất thế kỷ của FIFA. Năm 2002 FIFA công bố Đội hình trong mơ của FIFA, một đội hình toàn sao mọi thời đại được người hâm mộ bình chọn. Nằm trong một phần của lễ kỷ niệm một trăm năm vào năm 2004, FIFA tổ chức "Trận đấu của thế kỷ" giữa Pháp và Brazil. Các nhà tài trợ Adidas Coca-Cola Gazprom Hyundai/Kia Motors Visa Budweiser Các giải đấu của FIFA Đội tuyển quốc gia Nam Giải vô địch bóng đá thế giới FIFA World Championship Cúp bóng đá các quốc gia Ả Rập Bóng đá nam tại Thế vận hội Mùa hè (U-23) Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới Giải vô địch bóng đá trong nhà thế giới Bóng đá trong nhà nam tại Thế vận hội Trẻ Mùa hè (U-18) Giải vô địch bóng đá bãi biển thế giới Nữ Giải vô địch bóng đá nữ thế giới Bóng đá nữ tại Thế vận hội Mùa hè Giải vô địch bóng đá nữ U-20 thế giới Giải vô địch bóng đá nữ U-17 thế giới Bóng đá trong nhà nữ tại Thế vận hội Trẻ Mùa hè (U-18) Câu lạc bộ Nam Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ Giải vô địch bóng đá trẻ thế giới các câu lạc bộ Nữ Giải vô địch bóng đá nữ thế giới các câu lạc bộ (đề xuất) Thể thao điện tử Cá nhân FIFA eWorld Cup Đội tuyển FIFA eClub World Cup FIFA eNations Cup Giải đấu bị bỏ Cúp Liên đoàn các châu lục Bóng đá nam tại Thế vận hội Trẻ Mùa hè Bóng đá nữ tại Thế vận hội Trẻ Mùa hè Các đội vô địch Các giải đấu đã bỏ
Kyiv ( , , ), cũng được biết tới với tên từ tiếng Nga là Kiev (Ки́ев), là thủ đô và là thành phố lớn nhất nước Ukraina. Thành phố tọa lạc tại bắc trung bộ của quốc gia này, dọc theo đôi bờ sông Dnipro. Kyiv trải rộng trên diện tích 839 km² với dân số tính đến tháng 7 năm 2013 là 2.847.200 người; nếu tính cả số dân đăng ký không chính thức thì dân số của Kyiv là 3 triệu người. Kyiv là thành phố trực thuộc trung ương, nằm bên tỉnh Kyiv nhưng không thuộc tỉnh này. Đây là một trong các trung tâm công nghiệp, khoa học và văn hóa của Đông Âu. Nơi đây có nhiều viện nghiên cứu, trường đại học và nhiều di tích lịch sử nổi tiếng trên thế giới. Giao thông của thành phố phát triển cao, nhất là hệ thống giao thông công cộng như xe buýt và tàu điện ngầm. Thành phố Kyiv một trong những thành phố lâu đời nhất Đông Âu đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm và những biến cố lịch sử. Thành phố là một trung tâm thương mại vào đầu thế kỷ 5. Là một khu định cư của người Slav ở trên con đường thương mại giữa Scandinavia và Constantinopolis, Kyiv là nơi sinh sống của một nhánh thuộc bộ lạc Khazar, cho đến khi bị những người Varangia (Viking) chiếm giữ vào thế kỷ 9. Dưới thời cai trị của Varangia, thành phố đã trở thành thủ phủ của Rus', quốc gia Đông Slav đầu tiên. Đô thành Kyiv bị hủy hoại hoàn toàn trong thời kỳ Mông Cổ xâm lược vào năm 1240, khiến thành phố mất hết tầm ảnh hưởng của mình trong hàng thế kỷ sau đó. Thành phố từng bị kiểm soát bởi các cường quốc hùng mạnh, ban đầu là Đại công quốc Lietuva, sau đó là Lãnh địa quốc vương Ba Lan và Đế quốc Nga. Thành phố phồn thịnh trở lại trong thời kỳ cách mạng công nghiệp của Đế quốc Nga cuối thế kỷ 19. Năm 1917, sau khi Cộng hòa Dân tộc Ukraina tuyên bố độc lập khỏi Đế quốc Nga, Kyiv trở thành thủ đô. Từ năm 1921 trở về sau, Kyiv là một thành phố quan trọng của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết Ukraina và từ 1934 là thủ đô nước cộng hòa này. Trong thế chiến II, thành phố lại bị hư hại nhưng nhanh chóng hồi phục trong những năm sau chiến tranh, là thành phố lớn thứ ba của Liên Xô. Sau khi Liên Xô sụp đổ, Ukraina giành độc lập vào năm 1991 và chọn Kyiv là thủ đô, tiếp nhận đều đặn làn sóng người di cư từ các vùng khác của đất nước. Trong quá trình chuyển đổi đất nước sang nền kinh tế thị trường và dân chủ, Kyiv vẫn tiếp tục là lớn nhất và giàu có nhất thành phố của Ukraina. Sản lượng công nghiệp về trang bị vũ khí quân sự giảm mạnh khi Liên Xô sụp đổ, nhưng nó cũng là động lực để nền kinh tế chuyển đổi sang các lĩnh vực mới như dịch vụ tài chính và tiếp tục tạo tăng trưởng cho Kyiv. Là hành lang kết nối Đông và Tây châu Âu, Kyiv nhận được sự đầu tư lớn và liên tục vào nhà ở và cơ sở hạ tầng đô thị, là nơi chịu ảnh hưởng đan xen của lực lượng ủng hộ xích gần với phương Tây và lực lượng muốn giữ quan hệ thân Nga trong không gian thuộc Liên Xô cũ. Nguồn gốc tên gọi Kyiv là một thành phố nổi tiếng với bề dày lịch sử. Tên trong ngôn ngữ cổ Đông Slav là Kyjev (chữ Kirin: Києвъ, Къıєвъ, hoặc Кїєвъ), bắt nguồn từ tên của Kyi (Кий), là một trong 4 người sáng lập thành phố theo huyền thoại. "Kyiv" có nghĩa là "thuộc về Kyi". Lịch sử Kyiv là một trong những thành phố cổ nhất của Đông Âu, từng đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền văn minh Đông Slav thời trung cổ cũng như trong quốc gia Ukraina hiện đại. Người ta tin rằng Kyiv được thành lập vào cuối thế kỷ thứ 9. Nguồn gốc của thành phố bị che phủ bởi những huyền sử, một trong số đó nói về sự thành lập của 1 bộ tộc Slav lãnh đạo đạo bởi Kyi. Theo sách cổ Biên niên sử chính biên thì Kyi là người lớn tuổi nhất trong các anh em của mình, có hai người em trai là Shchek và Khoryv và 1 em gái là Lybid, là người sáng lập thành phố. Người ta tìm thấy trong tài liệu của Ptolemaeus có ghi tên của thành phố là Metropotity (thế kỷ 2). Một truyền thuyết khác nói rằng Thánh Anrê đi qua khu vực này và ông dựng lên ở nơi đây một cây thánh giá, xây dựng một nhà thờ. Từ thời Trung cổ hình ảnh của Tổng lãnh thiên thần Micae đại diện cho thành phố cũng như đất đai của các vị công tước. Người Slav định cư rải rác xung quanh khắp khu vực này từ thế kỷ thứ 6. Có rất ít bằng chứng lịch sử liên quan đến thời gian khi thành phố được thành lập và được phát triên sau đó. Vào thế kỷ thứ 8, có nhiều công sự được xây dựng trên khu vực người Slav sinh sống đã bị bỏ hoang cả vài thập kỷ. Địa lý Về mặt địa lý, Kyiv thuộc vùng sinh thái Polesia (một phần của rừng gỗ hỗn hợp châu Âu). Tuy nhiên, cảnh quan độc nhất của thành phố khác biệt với vùng xung quanh. Kyiv nằm ở bai bên sông Dnipro, sông này chảy về phía nam và đổ vào biển Đen. Phần bên hữu ngạn hay bờ tây cổ hơn, đặc trưng bởi những đồi cây, khe nứt và các sông nhỏ. Trong thế kỷ 20, Kyiv mở rộng về phía vùng đất thấp của tả ngạn (về phía đông). Những vùng quan trọng của thung lũng Dnipro thuộc bờ trái được tích tụ bởi cát nhân tạo và được bảo vệ bởi các đập. Sông Dnipro hình thành hệ thống phụ lưu, doi, và cảng bên trong ranh giới thành phố. Địa hình thành phố là cầu nối giữa sông Desna và hồ chứa Kyiv ở phía bắc, và hồ chứa Kaniv ở phía nam. Cả hai sông Dnipro và Desna đều có thể đi đến Kyiv, mặc dù bị hạn chế bởi quy định vật hành khóa thuyền của các hồ chứa và giới hạn bị đóng băng trong mùa đông. Tổng cộng có 448 vực nước mở trong ranh giới Kyiv, bao gồm sông Dnipro, các hồ chứa nước, và nhiều sông nhỏ, hàng chục hồ và các hồ nhân tạo. Chúng chiếm 7949 ha lãnh thổ. Thêm vào đó, điểm nổi bật của thành phố là 16 bãi biển nhân tạo (tổng 140 ha) và 35 khu vui chơi giải trí gần vực nước (chiếm hơn 1000 ha). Nhiều vực nước được sử dụng cho các trò chơi giải trí, mặc dù một số không thích hợp cho bơi lội. Theo đánh giá của UN năm 2011, không có những mối nguy hiểm về các thảm họa tự nhiên ở Kyiv và vùng đô thị Kyiv Khí hậu Kyiv có khí hậu lục địa ẩm (Köppen Dfb). Các tháng ấm nhất là tháng 6, 7, và 8 với nhiệt độ trung bình 13,8 đến 24,8 độ C. Các tháng lạnh nhất là tháng 12, 1, và tháng 2 với nhiệt độ trung bình -4,6 đến -1,1 độ C. Nhiệt độ cao nhất ghi nhận được là 39,4° vào 31 tháng 7 năm 1936. Nhiệt độ lạnh nhất ghi nhận được là -32,2 °C vào ngày 7 & 9 tháng 2 năm 1929. Tuyết thường phủ từ giữa tháng 11 đến cuối tháng 3, với thời gian đóng băng kéo dài trung bình 180 ngày, nhưng không quá 200 ngày trong những năm gần đây. Nhân chủng học Theo thống kê dân số chính thức, thành phố có 2.847.200 dân đến tháng 7 năm 2013 Lịch sử dân số Theo thống kê năm 2001, dân số Kyiv là 2.611.300. Những thay đổi về dân số thể hiện trong bảng kế bên. Theo thống kê, nam là 1.219.000 hay 46,7%, và 1.393.000 người hay 53,3%. So với số thống kê năm 1989, dân số thành phố đang trong tình trạng lão hóa, trong khi phổ biến trong cả nước thì một lượng đáng kể dân Kyiv được bù bởi dòng người di cư trong độ tuổi lao động từ những vùng khác. Có khoảng 1.069.700 dân có trình độ trên hoặc đã hoàn thành trung học, tăng 21,7% so với năm 1989. Một đáng giá về dân số không chính thức tháng 6 năm 2007 dựa trên lượng sản phẩm bánh ngọt bán ra trong thành phố (số liệu này bao gồm cả khách và người đi đường) với con số ít nhất 3,5 triệu. Thành phần dân tộc Theo số liệu thống kê năm 2001, có hơn 130 quốc tịch và các nhóm dân tộc sống bên trong lãnh thổ Kyiv. Người Ukraina là nhóm dân tộc lớn nhất ở Kyiv với khoảng 2.110.800 người, chiếm 82,2% dân số thành phố. Các sắc dân khác: người Nga 337.300 người (13,1%), người Do Thái 17.900 (0,7%), người Belarus 16.500 (0,6%), người Ba Lan 6.900 (0,3%), người Armenia 4.900 (0,2%), người Azerbaijan 2.600 (0,1%), người Tatar 2.500 (0,1%), Người Gruzia 2.400 (0,1%), người Moldova 1.900 (0,1%). Cả hai thứ tiếng Ukraina và Nga được sử dụng phổ biến trong thành phố; khoảng 75% dân số Kyiv nói họ sử dụng tiếng Ukraina làm tiếng mẹ đẻ theo số liệu năm 2001, gần 25% người coi tiếng Nga là tiếng mẹ đẻ. Theo một cuộc khải sát năm 2006, tiếng Ukraina được 23% người Kyiv sử dụng ở nhà, 52% tiếng Nga và 24% dùng cả hai. Trong cuộc khải sát xã hội học năm 2003, khi được hỏi 'ngôn ngữ nào bạn sử dụng trong cuộc sống hàng ngày?', 52% nói họ 'chủ yếu dùng tiếng Nga', 32% 'cả hai Nga và Ukraina sử dụng ngang nhau', 14% 'chủ yếu dùng tiếng Ukraina', và 4,3% 'chỉ sử dụng tiếng Ukraina'.
Donetsk (tiếng Ukraina: Донецьк Donets'k; tiếng Nga: Доне́цк; phát âm như "đo-niết-s-k") là một thành phố phía đông của Ukraina, nằm bên sông Kalmius. Về mặt hành chính, đây là thành phố trung tâm của tỉnh Donetsk nhưng về mặt lịch sử đây là thủ phủ không chính thức và là thành phố lớn nhất của vùng Donbas. Thành phố được thành lập năm 1869. Theo thống kê, dân số thành phố là 901.645 (số liệu năm 2022) và dân số vùng đô thị là 2 triệu người (số liệu năm 2011). Với diện tích: 358 km², Donetsk là thành phố lớn thứ năm của Ukraina về dân số. Lịch sử Donetsk được thành lập vào năm 1869 khi doanh nhân xứ Wales là John Huges xây dựng một nhà máy thép và một số mỏ than ở phần phía nam của Đế quốc Nga tại Aleksandrovka (tiếng Ukraina: Олександрівка). Thị trấn ban đầu đã được đặt tên Hughesovka (hay Yuzovka, tiếng Nga: Юзовка; tiếng Ukraina: Юзівка​​). Vào đầu thế kỷ 20, Yuzovka có khoảng 50.000 người và đã đạt đến tư cách một thành phố vào năm 1917. Nguồn gốc tên tiếng Anh của thành phố phản ánh trong quy hoạch và kiến trúc của nó. Trước năm 1922, Donetsk thuộc vùng Donbass của Nga. Sau cuộc nội chiến Nga 1917-1922, Nước Nga Xô Viết muốn thành lập Liên Bang Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Xô Viết, nhưng Ukraina còn lưỡng lự, để Ukraina gia nhập Liên bang CHXH chủ nghĩa Xô Viết, Nga đã nhượng bộ và cắt vùng Donbass (gồm cả đất và dân) thuộc Nga sát nhập vào Ukraina. Năm 1924, dưới thời Liên Xô, thành phố được đổi tên thành Stalin. Trong năm đó, dân số của thành phố đạt 63.708 người, đến năm sau thì lên 80.085 người. Khoảng 1929-1931, tên của thành phố được đổi thành Stalino. Thành phố không có hệ thống cung cấp nước uống cho đến năm 1931, khi một hệ thống dài 55,3 km đã được lắp đặt dưới lòng đất. Tháng 7 năm 1933, thành phố trở thành trung tâm hành chính của Donetsk Oblast của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết Ukraina. Trong năm 1933, 12 km hệ thống thoát nước đã được lắp đặt, và năm sau thì hoạt động khai thác khí đốt đầu tiên được khởi động trong phạm vi thành phố. Trong những ngày đầu của Chiến tranh thế giới thứ hai, dân số của Stalino là 507.000 người nhưng sau cuộc chiến thì chỉ còn 175.000 người. Cuộc xâm lược của Đức Quốc Xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai đã gần như phá hủy hoàn toàn thành phố, và được xây dựng lại trên quy mô lớn vào cuối cuộc chiến. Thành phố bị chiếm đóng từ ngày 16 tháng 10 năm 1941 đến 5 tháng 9 năm 1943. Lãnh thổ của Donetsk tại thời điểm bị Đức quốc xã chiếm đóng bao gồm chủ yếu là của một khu ổ chuột của người Do Thái nơi 3.000 người Do Thái thiệt mạng và một trại tập trung nơi 92.000 người thiệt mạng. Trong làn sóng phi Stalin hóa dưới thời Tổng bí thư Nikita Khrushchev, thành phố được đổi tên thành Donetsk vào tháng 11 năm 1961, theo tên của con sông Seversky Donets - một phụ lưu của sông Đông. Năm 1970, Donetsk được UNESCO công nhận là thành phố công nghiệp sạch nhất thế giới. Thành phố được trao Huân chương Lenin vào năm 1979. Năm 1990, sau khi Liên Xô tan rã, Donetsk vẫn thuộc quyền quản lý của Ukraina chứ không cắt trả lại Nga, thành phố trải qua một thời kì khó khăn suốt thập niên 1990. Thành phố khi ấy trở thành chiến trường của các băng đảng tranh giành quyền kiểm soát các doanh nghiệp công nghiệp. Sau thời kì ấy, Donetsk nhanh chóng hiện đại hóa, phần nhiều là nhờ ảnh hưởng của các công ty lớn. Năm 2014, sau làn sóng biểu tình ủng hộ Liên minh châu Âu năm 2013 cộng với ảnh hưởng từ việc Hội đồng Tối cao Krym tuyên bố tổ chức trưng cầu dân ý để quyết định tương lai của Krym, với kết quả là Krym tuyên bố độc lập, tách khỏi Ukraina và sát nhập vào Nga. Hội đồng tỉnh Donetsk cũng bỏ phiếu tổ chức trưng cầu dân ý về tương lai của tỉnh này và tuyên bố độc lập, tách khỏi Ukraina. Địa lý và khí hậu Donetsk nằm tại vùng thảo nguyên của Ukraina, được bao quanh bởi các vùng rừng, ngọn đồi, sông hồ rải rác. Vùng ngoại ô phía bắc thành phố chủ yếu là đất nông nghiệp. Biển Azov cách thành phố 95 km về phía nam. Bao quanh thành phố là một vành đai đất canh tác rộng lớn. Thành phố trải rộng 28 km từ bắc xuống nam và 55 km từ đông sang tây. Gần thành phố có hai hồ chứa nước: hồ Nyzhnekalmius (60 ha) và "biển Donetsk" (206 ha). Có năm con sông chảy qua thành phố, bao gồm sông Kalmius, sông Asmolivka (13 km), sông Cherepashkyna (23 km), sông Skomoroshka và sông Bakhmutka. Thành phố có 125 quả đồi. Donetsk có khí hậu lục địa ẩm (Köppen: Dfb). Nhiệt độ trung bình trong tháng 1 là -5 °C và trong tháng 6 là 18 °C. Mỗi năm bình quân có 162 ngày mưa; lượng mưa bình quân năm là 556 mm. Chính quyền và phân chia hành chính Thành phố Donetsk là tỉnh lị của tỉnh Donetsk, đồng thời cũng là thủ phủ của Lãnh thổ do hội đồng thành phố quản hạt Donetsk. Tuy nhiên Donetsk là thành phố cấp dưới tỉnh nên thuộc quyền quản lý trực tiếp của tỉnh Donetsk, thay vì dưới quyền của Lãnh thổ do hội đồng thành phố quản hạt Donetsk. Lãnh thổ của thành phố được phân chia thành chín huyện (raion). Mỗi huyện lại có một hội đồng huyện và là cấp dưới của hội đồng thành phố. Dân cư Theo thống kê 2010, Donetsk có dân số trên 982.000 người. Theo thống kê 2004, vùng đô thị có dân số trên 1.566.000 người. Thành phố đứng thứ năm Ukraina về dân số. Phần đông người dân Donetsk là người Ukraina nói tiếng Nga và người Nga. Theo điều tra dân số 2001, người Ukraina chiếm 56,9% dân số tỉnh Donetsk còn người Nga chiếm 38,2%. Sau đây là cấu trúc dân số Lãnh thổ do hội đồng thành phố quản hạt Donetsk: Người Nga: 493.392 người, 48,15% Người Ukraina: 478.041 người, 46,65% Người Belarus: 11.769 người, 1,15% Người Hy Lạp: 10.180 người, 0,99% Người Do Thái: 5.087 người, 0,50% Người Tatar: 4.987 người, 0,49% Người Armenia: 4.050 người, 0,40% Người Azerbaijan: 2.098 người, 0,20% Người Gruzia: 2.073 người, 0,20% Khác: 13.001 người, 1,27% Tổng cộng: 1.024.678 người, 100,00% Năm 1991, 1/3 dân số Donetsk tự xem mình là người Nga, 1/3 dân số tự xem mình là người Ukraina trong khi đa số những người còn lại thì xem mình là người Slav. Thành phố kết nghĩa Chú thích Thành phố ở tỉnh Donetsk Đặc khu kinh tế Khởi đầu năm 1869 Vùng mỏ Ukraina Khu dân cư thành lập ở Đế quốc Nga Đế quốc Nga năm 1869 Thành phố trực thuộc tỉnh của Ukraina Khu dân cư ở Cộng hòa Nhân dân Donetsk Phi Stalin hóa
Dnipro hay Dnepropetrovsk (tiếng Ukraina: Дніпро Dnipro; tiếng Nga: Днипро Dnipro, trước đây là Екатериносла́в Yekaterinoslav; phát âm như "đờ-nhi-pờ-rô-pê-tro-sơ-kơ") là thành phố lớn thứ tư của Ukraina với dân số 968.502 người vào năm 2022 , diện tích: 397 km². Thành phố tọa lạc tại phía Nam Trung bộ của Ukraina, phía nam của Kiev, bên sông Dnepr. Dnipropetrovsk là thủ phủ hành chính của tỉnh Dnipropetrovsk. Vùng đô thị Dnipropetrovsk có dân số 968.502 người (năm 2022). Thành phố là một trung tâm công nghiệp chính của Ukraina, trong thời kỳ Xô Viết, Dnipropetrovsk đã là một trong những trung tâm công nghiệp hạt nhân, vũ khí và không gian của Liên Xô. Đây là quê hương của Yuzhmash, một cơ sở thiết kế và chế tạo tên lửa và công nghiệp không gian lớn. Do đây là thành phố chế tạo, thành phố này là một thành phố cấm (không cho người nước ngoài vào) cho mãi đến thập niên 1990. Dnipropetrovsk có hệ thống giao thông hiện đại như tàu điện ngầm Dnipropetrovsk với một tuyến đường và sáu nhà ga. Đây là thành phố quê hương của Câu lạc bộ bóng đá nổi tiếng FC Dnipro Dnipropetrovsk. Lịch sử Thành phố với tên gọi là Dnipropetrovsk đã được thành lập như là một phần của việc mở rộng của đế chế Nga vào vùng đất phía Bắc của Biển Đen, được gọi là Novorossiysk gubernia. Thành phố ban đầu có tên Yekaterinoslav, nghĩa là "vinh quang của Yekaterina" (Catherine Đại đế). Nó đã trở thành trung tâm hành chính của Governorate Yekaterinoslav. Cossack và quân đội Nga đã chiến đấu chống lại Đế chế Ottoman kiểm soát của khu vực này trong chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1768-1774). Hiệp ước Küçük Kaynarca kết thúc cuộc chiến này trong tháng 7 năm 1774, và tháng 5 năm 1775 quân đội Nga phá hủy các Sich Zaporozhia khác, do đó loại trừ sự độc lập chính trị của Cossack. Năm 1774, hoàng tử Grigori Potemkin được bổ nhiệm làm thống đốc của Novorossiysk gubernia, và sau khi tiêu huỷ Zaporozhia Sich khác, ông bắt đầu thiết lập thành phố trong khu vực và khuyến khích người định cư nước ngoài. Thành phố Yekaterinoslav được thành lập vào năm 1776, không ở trong vị trí lúc đó, nhưng tại hợp lưu của sông Samara với sông Kil'chen tại Loshakivka, phía bắc của Dnepr. Đến năm 1782, dân số thành phố là 2.194 người. Tuy nhiên, địa điểm đã được lựa chọn tỏ ra tồi tệ bởi vì các nước mùa xuân đã biến thành phố thành đầm lầy. Khu định cư sau đó được đổi tên thành Novomoskovsk. Trong năm 1783, Yekaterinoslav được thành lập lại trên địa điểm hiện tại của nó, trên bờ phía nam của Dnepr, gần làng Zaporozhia Polovytsia. Dân số Yekaterinoslav-Kil'chen '(theo một số nguồn) chuyển giao cho địa điểm mới. Kế hoạch của Potemkin cho thành phố cực kỳ tham vọng. Nó có kích thước khoảng 30 km 25 km. Than đá của Donetsk cần thiết để luyện gang từ quặng sắt Kryvyi Rih, tạo ra nhu cầu phải có tuyến đường sắt kết nối Donetsk với Kryvyi Rih. Công xây dựng tuyến đường sắt đã được cho phép trong năm 1881, và nó khai trương năm 1884. Tuyến đường sắt đi qua Dnepr tại Yekaterinoslav. Thành phố phát triển nhanh chóng, vùng ngoại ô mới xuất hiện: Amur, Nyzhnodniprovsk và các khu vực nhà máy sản xuất phát triển. Năm 1897, Yekaterinoslav trở thành thành phố thứ ba trong Đế quốc Nga có xe điện. Trường Khai thác mỏ mở cửa vào năm 1899, và 1913, nó đã phát triển thành Viện Khai thác mỏ. Nga thất bại trong cuộc chiến tranh Nga-Nhật 1905 trong cuộc nổi dậy chống lại Sa hoàng ở nhiều nơi bao gồm cả Yekaterinoslav. Hàng chục người đã thiệt mạng và hàng trăm người bị thương. Có một làn sóng các cuộc tấn công chống người Do Thái. Từ 1902 đến 1933, nhà sử học nổi tiếng của Cossacks Zaporozhian, Dmytro Yavornytsky, là Giám đốc Bảo tàng Dnipropetrovsk, mà sau này được mang tên ông. Trước khi qua đời vào năm 1940, Yavornytsky đã viết lịch sử của thành phố Yekaterinoslav, nằm trong bản thảo trong nhiều năm. Nó chỉ được xuất bản năm 1989 như là một kết quả của những cải cách của Gorbachev. Từ 1902 đến 1933, các nhà sử học nổi tiếng của Cossacks Zaporozhian, Dmytro Yavornytsky, là Giám đốc Bảo tàng Dnipropetrovsk, mà sau này được mang tên ông. Trước khi qua đời vào năm 1940, Yavornytsky đã viết một lịch sử của thành phố Yekaterinoslav, nằm trong bản thảo trong nhiều năm. Nó chỉ được xuất bản năm 1989 như là một kết quả của những cải cách của Gorbachev.
Kharkiv hay Kharkov (tiếng Ukraina: Ха́рків; tiếng Nga: Ха́рьков) là thành phố và là đô thị lớn thứ hai của Ukraina. Nằm ở phía đông bắc của đất nước, đây là thành phố lớn nhất của khu vực lịch sử Sloboda Ukraina . Kharkiv là trung tâm hành chính của tỉnh Kharkiv và các vùng lân cận Kharkiv Raion. Nó có dân số 1.421.125 (ước tính năm 2022). Kharkiv được thành lập vào năm 1654 với tư cách là một pháo đài và đã phát triển thành một trung tâm công nghiệp, thương mại và văn hóa Ukraina lớn của Đế quốc Nga . Vào đầu thế kỷ 20, thành phố chủ yếu có dân số là người Nga , nhưng khi sự mở rộng công nghiệp đã thu hút thêm lao động từ các vùng nông thôn khốn khó, và khi Liên Xô giảm bớt những hạn chế trước đây đối với việc thể hiện văn hóa Ukraina, người Ukraina trở thành nhóm dân tộc lớn nhất trong thành phố vào đêm trước của Thế chiến II . Từ tháng 12 năm 1919 đến tháng 1 năm 1934, Kharkiv là thủ đô đầu tiên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina . Kharkiv là một trung tâm văn hóa, khoa học, giáo dục, giao thông và công nghiệp lớn của Ukraine, với nhiều bảo tàng, nhà hát và thư viện, bao gồm các nhà thờ Truyền tin và Ký túc xá , tòa nhà Derzhprom ở Quảng trường Tự do và Đại học Quốc gia Kharkiv . Công nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế Kharkiv, chủ yếu chuyên về máy móc và điện tử . Có hàng trăm cơ sở công nghiệp khắp thành phố, bao gồm Cục thiết kế Morozov , Nhà máy Malyshev , Khartron , Turboatom và Antonov. Vào tháng 3 và tháng 4 năm 2014, lực lượng an ninh và những người phản đối biểu tình đã đánh bại nỗ lực của phe ly khai do Nga hậu thuẫn nhằm giành quyền kiểm soát thành phố và chính quyền khu vực. Kharkiv là mục tiêu chính của các lực lượng Nga trong Chiến dịch đông bắc Ukraina trong cuộc xâm lược Ukraina vào năm 2022 của Nga trước khi họ bị đẩy lùi về biên giới Nga-Ukraina. Thành phố vẫn nằm dưới hỏa lực không liên tục của Nga. Lịch sử Kharkiv Kharkov được thành lập vào năm 1654 và sau biến thành một trung tâm văn hóa ở Ukraina. Đất nước Ukraina lúc bấy giờ là phiên thuộc của Đế quốc Nga nên địa danh này mang tên "Kharkov" vì Tiếng Nga là ngôn ngữ chính. Sang thế kỷ 20, với vị trí gần biên giới Nga, Kharkov cũng là cửa ngõ đầu tiên ở Ukraina thừa nhận chính quyền Liên Xô chỉ hai tháng sau khi Cách mạng Tháng Mười lật đổ Sa hoàng năm 1917. Kharkov được lập làm thủ đô nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina. Kharkov giữ địa vị này đến năm 1934 thì chính quyền cộng sản thiên đô về Kiev. Dù vậy, Kharkov giữ nguyên vị trí chính trị, kinh tế và văn hóa hàng đầu của vùng đông bắc Ukraina. Sang thập niên 1990, Liên Xô tan rã, Ukraina giành lấy độc lập; Kharkov nay đổi tên thành Kharkiv vẫn là trọng điểm văn hóa, khoa học, giáo dục, giao thông và công nghiệp của Ukraina. Nơi đây có 60 viện nghiên cứu khoa học, 30 cơ sở giáo dục đại học, 6 viện bảo tàng, 7 nhà hát và 80 thư viện lớn nhỏ. Công nghiệp chủ yếu là nghiên cứu cùng chế tạo vũ khí và cơ khí. Thành phố có nhiều công nghiệp quy mô như: Phòng Thiết kế Morozov và Nhà mấy Malyshev (hãng chế tạo xe tăng hàng đầu kể từ thập niên 1930), Hartron (điện tử hạt nhân và không gian) và Turboatom (tuốc bin). Kharkiv có một số công trình đáng kể như hệ thống tàu điện ngầm dài 35 km với 28 ga. Thắng tích chính là Quảng trường Tự do (Ploshcha Svobody) với diện tích bao la. Đây là quảng trường rộng nhất châu Âu, lớn thứ nhì trên thế giới sau Quảng trường Thiên An Môn ở Trung Quốc. Trong Cuộc xâm lược của Nga vào Ukraina năm 2022, thành phố trở thành 1 trong những trận đánh trong cuộc chiến từ ngày 24/2 đến ngày 14/5/2022 và chiến thắng thuộc về Ukraina và vẫn nằm trong kiểm soát của quân đội Ukraina. Khí hậu
Tam Quốc: Long Mệnh (tiếng Anh: Three Kingdoms: Fate of the Dragon) là trò chơi máy tính thuộc thể loại chiến lược thời gian thực lịch sử dựa trên câu truyện lịch sử Tam quốc diễn nghĩa được hãng Object phát triển và Eidos Interactive phát hành năm 2001. Lối chơi Lối chơi của game cùng dạng với Age of Empires của hãng Ensemble Studios. Câu chuyện đưa người chơi trở về năm 184, ở thời Trung Quốc cổ đại, nơi mà những trận hỗn chiến được tái lập. Trong vai một trong ba vị vua là Lưu Bị của nước Thục, Tào Tháo của nước Ngụy, và Tôn Quyền của nước Ngô, người chơi phải xây dựng bộ máy nhà nước, phát triển công nghệ chiến tranh và thành lập các đạo quân để chinh phục các sứ quân khác, kiểm soát hoàn toàn cục diện tam quốc và thống nhất Trung Hoa. Trong khi chơi, người điều khiển đóng vai trò là người lãnh đạo tối cao của một trong ba quốc gia và chỉ huy các bộ phận của vương quốc bằng cách chỉ đến các khu vực trên bản đồ để ra lệnh cho các nhân vật, quân lính, dân cư, v.v.. thực hiện nhiệm vụ. Phần tiếp theo Dragon Throne: Battle of Red Cliffs (viết tắt DT) (tạm dịch Tam Quốc Long Vị: Trận Xích Bích) là phiên bản độc lập tiếp theo do hãng Object phát triển và Strategy First phát hành vào ngày 26 tháng 3 năm 2002. Phần chơi chiến dịch mới trong phiên bản này chủ yếu tập trung về Trận Xích Bích khá nổi tiếng với lối chơi giống y như các trò dàn trận khác tức là cũng lấy nông dân thu thập tài nguyên, xây dựng nhà cửa, tạo lính, nâng cấp công nghệ rồi cuối cùng dẫn quân đánh bại và tiêu diệt đối phương. Nguồn tài nguyên khá quen thuộc bao gồm gỗ, thịt, ngũ cốc, sắt, rượu và gốm. Về mặt chiến lược thì game chia thành hai kiểu bản đồ nhỏ riêng rẽ năm dưới góc màn hình, một dành cho khu vực chơi hiện tại và một dành cho bản đồ toàn cục. Về mặt chiến thuật game không có sự đổi mới nào mà vẫn chỉ lấy kiểu ỷ đông hiếp yếu hay lấy thịt đè người làm chính, ai nhiều quân hơn thì người đó thắng. Về chủng loại quân thì có bổ sung thêm những đơn vị quân, công trình và công nghệ mới cùng những chiêu thức mới của tướng lĩnh góp phần làm đa dạng hóa quân đội của người chơi. Ngoài những yếu tố mới này ra thì hầu hết các phần còn lại vẫn y như phiên bản cũ.
Đảng Công nhân Quốc gia Xã hội chủ nghĩa Đức ( - NSDAP), thường được gọi là Đảng Quốc Xã trong tiếng Việt, là đảng cầm quyền Đức trong thời kỳ Đức Quốc Xã. Lãnh tụ của đảng này là Adolf Hitler, được Tổng thống Paul von Hindenburg bổ nhiệm chức Thủ tướng Đế chế Đức. Sau khi Hindenburg chết, Hitler nhanh chóng thiết lập một chế độ độc tài được gọi là Đệ Tam Đế chế, trong đó Đảng Quốc xã giành quyền lực gần như tuyệt đối. Tuân theo một hệ tư tưởng nhấn mạnh vào sự trong sạch chủng tộc của người Đức và xem người Do Thái và người cộng sản là những kẻ thù lớn nhất của nước Đức, chính quyền đã đi đến chỗ mở đầu một chiến dịch diệt chủng chống lại chủng tộc Do Thái và các nhóm chủng tộc khác, gây ra cái chết của khoảng 12 triệu người trong cuộc diệt chủng Holocaust. Khái niệm của Hitler về Lebensraum (không gian sống) và sự theo đuổi quan niệm này của ông đã dẫn đến các cuộc xâm lược của Đức đối với các nước khác tại Châu Âu, đưa đến Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đảng này đã bị giải tán và hiện vẫn bị cấm hoạt động tại Đức. Một số người hiểu sai cụm từ "Xã hội Chủ nghĩa" trong cái tên "Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa", cho rằng Quốc xã cũng thuộc cánh Tả, thậm chí đánh đồng "Quốc xã cũng là một dạng Cộng sản". Thực tế không đúng như vậy. Cụm từ "Nationalsozialistische" có nghĩa là "Chủ nghĩa Quốc gia Xã hội", khi viết ngược lại là "Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa" làm người đọc hiểu sai. Quốc xã thuộc phái cực Hữu, hoàn toàn đối nghịch với cánh Tả. Họ chống Cộng sản và ủng hộ Chủ nghĩa Dân tộc, không phải Xã hội Chủ nghĩa và không thuộc về cánh Tả. Bước khởi đầu của Đảng Quốc Xã Sau khi trở về từ Chiến tranh thế giới thứ nhất, Adolf Hitler không có triển vọng gì về sự nghiệp chính trị cho một người Áo 31 tuổi không bạn bè, không tiền bạc, không công ăn việc làm, không nghề chuyên môn, và không hề có kinh nghiệm gì về hoạt động chính trị. Hitler nhận thức được điều này, ông kể lại: Trong nhiều ngày, tôi tự hỏi phải làm gì, nhưng tôi đều tỉnh táo nhận ra rằng tôi, con người vô danh như thế này, không hề có cơ sở tối thiểu cho hoạt động hữu ích nào. Hitler trở lại München vào mùa xuân 1920, Hitler tham gia vào việc cung cấp thông tin cho cuộc điều tra những người đã can dự vào chế độ Xô-viết ngắn ngủi ở München. Rất có thể Hitler đã đóng góp vai trò hữu ích, vì thế ông được điều vào Ban Báo chí và Thông tin của Phòng Chiến tranh Chính trị đóng tại quân khu địa phương. Trái với truyền thống của họ, Quân đội Đức bây giờ nhúng sâu vào chính trị, đặc biệt là ở Bayern. Để quảng bá đường lối bảo thủ, họ tổ chức cho binh sĩ theo học các lớp chính trị, và Hitler là học viên chăm chỉ tham dự một trong các lớp học này. Theo lời ông kể lại, một ngày, ông chen vào tranh luận khi có người nói tốt cho dân Do Thái. Lời diễn thuyết bài Do Thái hẳn làm cho cấp trên vui lòng, kết quả là Hitler được điều đến một trung đoàn với tư cách giống như là chính trị viên, lĩnh nhiệm vụ đánh đổ những ý tưởng nguy hiểm – chủ nghĩa cầu hòa, chủ nghĩa xã hội, ý niệm dân chủ; đấy là quan điểm về vai trò của quân đội trong một nền cộng hòa dân chủ mà họ đã tuyên thệ phục vụ. Đây là một bước ngoặt quan trọng cho Hitler – sự công nhận đầu tiên trong lĩnh vực chính trị mà ông cố chen vào. Vai trò mới đã cho ông cơ hội để thử thách tài hùng biện của mình – yếu tố tiên quyết mà ông luôn nghĩ phải có đối với một chính trị gia thành đạt. Ông kể lại: Thình lình tôi có cơ hội để phát biểu trước đám đông; và điều mà tôi luôn nghĩ trong đầu nhưng không chắc sẽ làm tốt đã được minh chứng: tôi có thể "ăn nói." Một ngày tháng 9 năm 1919, Phòng Chiến tranh Chính trị ra lệnh cho Hitler dò xét một nhóm chính trị nhỏ tự gọi là Đảng Lao động Đức. Quân đội luôn tỏ ra nghi ngờ các đảng phái của công nhân vì họ thường theo cánh Xã hội hoặc Cộng sản, nhưng tin rằng nhóm này có thể khác. Hitler không hề biết gì về đảng này, nhưng quen biết với một người sẽ phát biểu trong buổi họp của đảng mà ông được lệnh tìm hiểu. Vài tuần trước, trong một buổi học tập chính trị do Quân đội tổ chức, Hitler được nghe bài phát biểu của Gottfried Feder, kỹ sư xây dựng và cũng là chuyên gia kinh tế lập dị. Ông này bị ám ảnh với ý nghĩ rằng tư bản "đầu cơ" thay vì tư bản "sáng tạo" hoặc tư bản "sản xuất" là cội rễ của mọi vấn nạn kinh tế của Đức. Là người không biết gì về kinh tế, Hitler có ấn tượng mạnh với bài phát biểu của Feder. Nhưng khởi đầu Hitler không nhận ra tầm quan trọng gì ở Đảng Lao động Đức. Ông đi đến buổi họp của đảng này chỉ vì được phái đến, và sau khi đã ngồi nghe suốt một buổi chán ngắt với khoảng 25 người tham dự, ông không có ấn tượng tốt. Ông kể: Đấy là một tổ chức mới giống như bao tổ chức khác. Đây là thời kỳ mà bất kỳ ai bất mãn với thời cuộc... đều cảm thấy cần thành lập một đảng mới. Đâu đâu cũng thấy đảng mới mọc lên rồi lặng lẽ biến mất. Tôi nghĩ Đảng Lao động Đức cũng không khác gì. Sau khi Feder đã phát biểu xong, Hitler chuẩn bị ra về, thì có một "giáo sư" đứng lên, cật vấn ý kiến của Feder rồi đề nghị Bayern nên tách ra khỏi nước Đức và lập một nước Nam Đức mới cùng với Áo. Đấy là ý tưởng phổ biến ở München thời bấy giờ, nhưng Hitler tỏ ra giận dữ và đứng lên để cho nhà trí thức kia đôi điều suy nghĩ. Dường như Hitler nói một cách mạnh mẽ đến nỗi vị giáo sư phải rời bỏ phòng họp, trong khi cả hội trường nhìn ông với vẻ mặt kinh ngạc. Một người – mà Hitler kể lúc ấy không nghe rõ tên – dúi một quyển sách nhỏ vào tay Hitler. Người này có tên là Anton Drexler, làm thợ rèn, có thể nói là người thật sự sáng lập Đảng Quốc Xã. Không viết giỏi và không có tài ăn nói, năm 1918 ông đã thành lập "Ủy ban Công nhân Độc lập" để chống lại chủ nghĩa Marx trong các nghiệp đoàn và để dấy động nền hòa bình "công tâm" cho Đức. Thật ra, tổ chức này là chi nhánh của một hiệp hội có tên rất dài (nước Đức lúc ấy đến năm 1933 có nhiều đoàn thể mang tên rất dài). Drexler không bao giờ kết nạp được hơn 40 thành viên, và vào năm 1919 ông sáp nhập tổ chức của mình với một nhóm tương tự của một nhà báo tên Karl Harrer. Tổ chức mới mang tên Đảng Lao động Đức, chỉ có không đến 100 đảng viên, do Harrer làm chủ tịch đảng. Hitler đánh giá Harrer là con người trung thực và "chắc chắn có nền giáo dục rộng" nhưng lấy làm tiếc là thiếu "thiên bẩm về hùng biện". Sáng hôm sau, nằm trong doanh trại quân đội, Hitler mở quyển sách mà Drexler trao cho. Ông mô tả chi tiết việc này trong quyển Mein Kampf. Ông ngạc nhiên nhận thấy quyển sách thể hiện nhiều ý tưởng hay mà chính ông đã tiếp thu trong nhiều năm. Mục đích chính của Drexler là gây dựng một đảng phái chính trị dựa trên giai cấp công nhân, nhưng không giống như Đảng Dân chủ Xã hội Đức, đảng này phải thiên mạnh về chủ nghĩa quốc gia. Drexler bất mãn với tinh thần của giai cấp trung lưu vốn dường như xa rời quần chúng. Như đã biết, ở Wien, Hitler đã có cảm nghĩ khinh bỉ giới tư sản với cùng lý do – không quan tâm đến giới công nhân và những vấn nạn xã hội. Vì thế, ý tưởng của Drexler rất hợp với Hitler. Chiều hôm ấy, Hitler kinh ngạc khi nhận được một bưu thiếp cho biết ông đã được chấp nhận gia nhập Đảng Lao động Đức. Ông kể lại: Tôi không biết phải giận dữ hoặc bật cười. Tôi không định gia nhập một đảng đã có sẵn, mà muốn thành lập một đảng mới cho riêng mình. Họ đã quá đường đột... Ông định viết thư trả lời như thế, nhưng rồi "tính hiếu kỳ trỗi dậy" và quyết định tham dự buổi họp trung ương đảng mà ông được mời hầu giải thích lý do tại sao không gia nhập "cái tổ chức nhỏ bé một cách phi lý này". Đấy là một nơi chốn tồi tàn... Tôi đi qua một phòng ăn tối tăm không có một bóng người, mở cánh cửa thông ra phòng phía sau, và rồi đối diện với Trung ương đảng. Trong ánh đèn khí đốt tù mù, bốn người trẻ tuổi ngồi, trong số đó là tác giả của quyển sách nhỏ, người này lập tức vui vẻ chào hỏi rồi mở lời tiếp đón tôi với tư cách một đảng viên mới của Đảng Lao động Đức. Tôi sửng sốt thực sự. Người ta đọc lên biên bản buổi họp trước, rồi thư ký ghi nhận biểu quyết chấp thuận. Kế đến là báo cáo tài chính – toàn đảng chỉ sở hữu số tiền 7 Mác Đức và 50 pfennig – theo đấy người tài vụ nhận biểu quyết chấp thuận. Rồi người ta cũng ghi việc này vào biên bản buổi họp. Rồi Chủ tịch Đảng đọc thư phúc đáp cho vài người, và mọi người đều tỏ ý thông qua. Kế đến là báo cáo về những thư mới nhận được... Kém cỏi, thật là kém cỏi! Đây là một câu lạc bộ theo cách thức tệ hại nhất. Liệu tôi sẽ gia nhập tổ chức này hay không? Tuy thế, có điều gì đấy ở những người ăn mặc lôi thôi trong gian phòng tù mù khiến cho Hitler cảm thấy bị cuốn hút: "tấm lòng tha thiết cho một phong trào mới vượt quá tầm mức một đảng phái theo ý nghĩa từ trước đến giờ trên thế giới." Tối hôm ấy, Hitler trở về doanh trại quân đội để "đối diện với câu hỏi khó khăn nhất trong đời tôi: có nên gia nhập hay không?" Lý lẽ cho biết ông nên từ chối. Và tuy thế, chính vì đảng này không có vị thế quan trọng sẽ tạo cho người trai trẻ có năng lực và ý tưởng một cơ hội hoạt động đúng theo sở nguyện cá nhân thật sự. Hitler ngẫm nghĩ về những gì ông có thể mang đến cho nhiệm vụ này. Tôi có thể chịu đựng được cảnh nghèo túng và không có phương tiện sinh nhai, nhưng điều khó khăn hơn là tôi đang ở trong số những người vô danh, tôi chỉ là một trong hàng triệu người phải nỗ lực tồn tại mà không có ai thân cận chiếu cố đến. Hơn nữa, còn có sự hạn chế vì tôi thiếu nền học vấn. Sau hai ngày suy nghĩ, cuối cùng ông xác định là cần tiến theo hướng này. Đây là kết luận có tính cách quyết định nhất trong đời, từ bây giờ, không có chuyện quay đầu lại. Thế là, Adolf Hitler trở thành Ủy viên Trung ương thứ bảy của Đảng Lao động Đức. Đại úy Ernst Röhm, phục vụ trong một đơn vị quân đội ở München, đã gia nhập đảng trước Hitler, có đầu óc nhậy cảm về chính trị và có tài tổ chức. Giống như Hitler, ông mang tư tưởng ghét bỏ sục sôi đối với nền Cộng hòa dân chủ và "tội đồ Tháng Mười một" mà ông cho là có trách nhiệm tạo ra nền Cộng hòa. Ông có chí hướng tái lập một nước Đức có tính quốc gia mạnh mẽ, và cùng với Hitler, ông tin rằng chỉ có thể làm được điều này qua một đảng dựa trên giai cấp thấp mà từ đấy ông đã ngoi lên, không giống như phần lớn sĩ quan chính quy. Có hành động cứng rắn, tàn bạo, sục sôi – dù là người đồng tính luyến ái giống như nhiều đảng viên Quốc Xã vào thời kỳ đầu – ông giúp tổ chức nên những đội quân sau này trở thành lực lượng áo nâu SA mà ông là tham mưu trưởng cho đến khi bị Hitler sát hại năm 1934. Röhm đã dẫn theo một số lượng lớn cựu chiến binh và quân tình nguyện để tạo nên xương sống cho đảng trong thời kỳ đầu. Trên cương vị một sĩ quan trong quân đội đang kiểm soát Bayern, Röhm cũng vận động Quân đội giúp bao che cho đảng và đôi lúc lôi kéo sự hậu thuẫn của chính quyền. Nếu không có những sự hỗ trợ này, Hitler không thể có bước khởi đầu thuận lợi để xách động quần chúng lật đổ nền Cộng hòa. Điều chắc chắn là Hitler có thể tự do thực hiện những biện pháp khủng bố và đe dọa vì nhờ chính quyền và cảnh sát Bayern làm ngơ. Dietrich Eckart, nhà báo nhưng là nhà thơ và kịch tác gia, lớn hơn Hitler 21 tuổi, thường được xem là nhà sáng lập tinh thần của Quốc Xã. Cũng như Hitler ở Wien, có một thời ông sống ở Berlin, lại nghiện rượu, sử dụng nha phiến, rồi được đưa vào bệnh viện tâm thần. Ông thường thuyết giảng về tính ưu việt của chủng người Aryan, kêu gọi diệt trừ người Do Thái và lật đổ chính quyền Berlin. Nhà thơ nghiện rượu Eckart (qua đời năm 1923 vì uống rượu quá nhiều) đã tuyên bố: Chúng ta cần có một người cầm đầu có thể chịu được tiếng súng liên thanh... Ta không thể sử dụng sĩ quan quân đội, vì dân chúng không còn kính trọng họ nữa. Người thích hợp nhất là một công nhân có tài ăn nói... Anh ấy không cần có đầu óc... Anh ấy phải còn độc thân, rồi chúng ta sẽ đi kiếm phụ nữ. Eckart trở thành cố vấn thân cận cho anh trai trẻ đang lên trong Đảng Lao động Đức, cho anh mượn sách báo, giúp anh cải thiện khả năng Đức ngữ – cả viết và nói – và giới thiệu anh với đám bạn bè đông đảo. Những người này không chỉ gồm có nhà giàu cung ứng ngân quỹ cho đảng và chi phí sinh hoạt cho Hitler, mà còn có những phụ tá trong tương lai như Rudolf Heß và Alfred Rosenberg. Có sự pha trộn của những nhân vật quái dị sáng lập nên Đảng Quốc Xã, những người vô hình trung đã bắt đầu đặt nền tảng cho một phong trào mà 13 năm kế tiếp sẽ lan rộng cả nước, phong trào mạnh mẽ nhất châu Âu, và đưa Đức lên vị thế Đế chế Thứ Ba. Anh thợ rèn Drexler với ý tưởng lộn xộn tạo nên hạt nhân, anh thi sĩ nghiện rượu tạo nên nền tảng "tâm linh," nhà kinh tế quái đản Feder thiết lập ý thức hệ, con người đồng tính luyến ái Röhm mang đến sự hậu thuẫn của Quân đội và cựu chiến binh. Nhưng bây giờ chính là cái anh Adolf Hitler lông bông, chưa tròn 31 tuổi và hoàn toàn vô danh, nắm lấy vai trò đi đầu trong việc gây dựng một tổ chức đang làm việc trong trụ sở nghèo nàn rồi sẽ tiến lên thành một đảng chính trị đáng sợ. Tất cả ý tưởng nhen nhúm từ những tháng ngày cô đơn đói kém ở Wien giờ đã có chỗ phát huy, và nguồn năng lượng nội tại trước đây âm ỉ giờ đã bùng cháy. Hitler thúc đẩy trung ương đảng còn đang rụt rè tiến lên tổ chức những đại hội lớn hơn. Ông tự đánh máy thư mời dự đại hội. Ông kể lại, có một lần sau khi đã gửi đi 80 thư mời, chúng tôi ngồi đợi đám đông mà chúng tôi nghĩ sẽ xuất hiện. Đã muộn một tiếng đồng hồ, và ‘chủ tịch’ phải tuyên bố khai mạc đại hội. Một lần nữa chỉ có bảy người – 7 người cũ. Nhưng Hitler không sờn lòng. Ông tăng số người tham dự bằng cách cho in thư mời bằng ronéo. Ông thu vài đồng Mác Đức để cậy đăng thông cáo đại hội trên một tờ báo. Ông kể: "Kết quả thật là diệu kỳ. Có 111 người đến dự." Hitler dự kiến sẽ có "bài phát biểu" đầu tiên, sau bài diễn văn chính của một "giáo sư München." Nhưng Herrer, chủ tịch đảng trên danh nghĩa, chống đối dự định này. Hitler kể: Ông ấy chắc chắn là con người chân thật, chỉ có điều cho rằng tôi có khả năng làm việc gì đấy nhưng không thể ăn nói. Tôi phát biểu trong 30 phút, và điều mà trước giờ tôi chỉ nghĩ trong đầu, mà không có cách nào minh chứng, giờ trở thành hiện thực: tôi có khả năng phát biểu! Hitler cho rằng đám đông "giật nẩy người" vì tài hùng biện của ông, và thể hiện sự phấn khích bằng cách đóng góp 300 đồng Mác giúp đảng vượt qua cơn khốn khó về tài chính trong một thời gian. Đầu năm 1920, Hitler nắm nhiệm vụ tuyên truyền cho đảng, một công tác mà ông đã suy nghĩ nhiều kể từ lúc quan sát tầm quan trọng của tuyên truyền nơi các đảng phái ở Wien. Ông bắt đầu ngay bằng cách tổ chức một đại hội lớn lao nhất mà đảng tí hon này chưa từng mơ đến. Đại hội được dự trù vào ngày 24/2/1920 trong một nhà hàng bia nổi tiếng ở München có sức chứa 2.000 người. Các ủy viên trung ương nghĩ Hitler đã hóa điên. Harrer từ chức để phản đối và được thay thế bởi Drexler, người cũng tỏ ra hoài nghi. Harrer cũng chống đối tư tưởng bài Do Thái quá khích của Hitler và tin rằng Hitler xa cách với giai cấp lao động. Đấy là những lý do chính khiến cho Harrer từ chức. Hitler nhấn mạnh rằng ông phải là người đích thân lo liệu các công tác chuẩn bị. Đúng là đại hội có tầm quan trọng đến mức Hitler kết thúc chương đầu của quyển Mein Kampf bằng đoạn mô tả đại hội này, bởi vì đấy là cơ hội mà đảng thoát ra ngoài lớp vỏ bọc của một tổ chức nhỏ và lần đầu tiên tạo ảnh hưởng quyết định lên yếu tố hùng mạnh nhất của thời đại chúng ta: chính kiến của quần chúng. Ngay cả Hitler vẫn không được xếp lịch là người phát biểu chính. Vai trò này được dành cho TS. Johannes Dingfelder nào đấy, một bác sĩ vật lý theo phương pháp vi lượng đồng cân, con người lập dị đã đóng góp nhiều bài viết về kinh tế trên các báo, và là người chẳng bao lâu đi vào lãng quên. Mọi người đều im lặng sau bài diễn văn của ông; rồi đến phiên Hitler phát biểu. Theo như Hitler mô tả, hội trường trở nên ồn ào với những tiếng la ó, và hỗn loạn vì đảng viên trung thành xô xát với người theo Cộng sản và Xã hội. Cương lĩnh Đảng Quốc Xã Trong bài phát biểu này, lần đầu tiên Hitler nêu lên 25 điểm trong cương lĩnh của Đảng Lao động Đức. Drexler, Feder và Hitler đã thảo ra bản cương lĩnh này một cách vội vã. Phần lớn tiếng la ó là nhắm vào bản cương lĩnh khi Hitler đọc lên, nhưng ông vẫn xem như tất cả các điểm đều được thông qua và trở thành chương trình hành động chính thức của đảng. Các điểm trong bản cương lĩnh đúng là một thứ hổ lốn, đánh đồng bao quát để mua chuộc công nhân, giai cấp dưới trung lưu và nông dân, và phần lớn đều bị quên lãng khi đảng lên nắm chính quyền. Nhiều cây bút có trình độ đã chế giễu các điểm này, và chính Hitler cũng cảm thấy bối rối khi có người nhắc đến một số điểm. Tuy thế, giống như trường hợp của những nguyên tắc được thảo ra trong quyển Mein Kampf, những điểm quan trọng nhất sẽ được Đế chế Thứ Ba mang ra thi hành, với hệ lụy tàn khốc cho hàng triệu người trong và ngoài nước Đức. Điểm thứ nhất trong bản cương lĩnh đòi hỏi hợp nhất mọi người Đức trong một nước Đức mở rộng. Đây đúng là việc mà Hitler thực hiện sau này khi sáp nhập Áo với 6 triệu người Đức và vùng Sudetenland với 6 triệu người Đức khác. Đấy cũng là đúng theo yêu sách đòi lại vùng Gdańsk và những vùng đất khác ở Ba Lan có nhiều người Đức sinh sống. Và một trong những điều bất hạnh cho thế giới là có quá nhiều người trong giai đoạn giữa hai cuộc Thế chiến đã bỏ qua hoặc chế giễu mục đích này của Quốc Xã mà Hitler đã cất công ghi trên giấy trắng mực đen. Chắc chắn là những quan điểm bài Do Thái đưa ra trong nhà hàng bia ở München ngày 24/2/1920 cũng là lời cảnh cáo kinh khủng. Nhiều điểm trong bản cương lĩnh chỉ có tính cách mị dân nhằm lấy lòng giai cấp thấp trong giai đoạn mà họ có cảm tình với những khẩu hiệu cực đoan. Ví dụ, Điểm 11: xóa bỏ thuế thu nhập do công ăn việc làm; Điểm 12: quốc hữu hóa các tập đoàn độc quyền; Điểm 13: Nhà nước ăn chia lợi nhuận của các công nghiệp lớn; Điểm 14: bãi bỏ thuế thuê đất và cấm đầu cơ đất đai;.... Đấy là những ý tưởng sau này khiến cho Hitler cảm thấy khó xử khi giới công nghiệp và địa chủ bắt đầu rót tiền vào két sắt của đảng, và dĩ nhiên là những ý tưởng này không được thực hiện gì cả. Cuối cùng, có hai điểm trong cương lĩnh mà Hitler sẽ thi hành ngay khi trở thành thủ tướng. Điểm 2 đòi hỏi xóa bỏ các Hòa ước Versailles và Saint-Germain. Điểm 25 trù định việc "thiết lập một quyền lực trung ương mạnh cho Nhà nước." Điểm này – cũng như Điểm 1 và Điểm 2 đòi hỏi hợp nhất mọi người Đức trong Đế chế và việc xóa bỏ các hòa ước – được chính Hitler kiên quyết đưa vào cương lĩnh. Việc này cho thấy ngay từ lúc ấy, khi mà bên ngoài München chưa có mấy ai biết đến đảng của Hitler, ông đã phóng tầm nhìn đến chân trời xa hơn dù cho có nguy cơ bị mất sự hậu thuẫn ngay trong lãnh địa của mình. Vào lúc ấy, tư tưởng ly khai nổi lên mạnh mẽ ở Bayern. Người Bayern thường xuyên xung khắc với chính quyền trung ương vì họ yêu sách phân quyền nhiều hơn hầu Bayern có thể được tự trị. Nhưng Hitler đang nhắm đến quyền lực không những ở Bayern mà còn bao trùm cả nước Đức, và nếu muốn duy trì quyền lực như thế cần có chính quyền trung ương mạnh, xóa bỏ những bang bán tự trị trong nền Cộng hòa hiện thời và trong Đế chế Đức ngày xưa. Một trong những động thái của Hitler khi lên nắm chính quyền năm 1933 là nhanh chóng thực hiện điểm cuối cùng trong cương lĩnh của đảng mà lúc đầu không có mấy ai để ý đến. Không ai có thể trách Hitler đã không cảnh báo đầy đủ trước – trên giấy trắng mực đen – ngay từ bước khởi đầu. Đảng Quốc Xã bắt đầu hình thành Tài hùng biện nóng bỏng và cương lĩnh cực đoan, dù là quan trọng đối với một đảng còn non nớt muốn thu hút sự chú ý và dành sự hậu thuẫn từ quần chúng, nhưng vẫn chưa đủ. Bây giờ Hitler chú tâm đến những việc khác – rất nhiều việc. Những dấu hiệu đầu tiên cho thấy thiên bẩm kỳ lạ của ông bắt đầu xuất hiện. Ông nghĩ cái mà quần chúng cần không phải chỉ là ý tưởng – vài ý tưởng giản đơn mà ông liên tục nhồi nhét vào đầu óc của họ – mà là những biểu tượng nhằm tranh thủ lòng trung thành của họ, những nét phô trương và màu sắc nhằm khích động họ, và những hành động khủng bố để áp đặt lòng kiên trì và tạo cho họ cảm nghĩ về quyền lực đối với kẻ yếu. Ở Viên, Hitler đã chú ý đến cách "khủng bố tâm linh và thể chất." Bây giờ ông áp dụng cùng phương cách vào đảng của mình. Khởi đầu, đám cựu chiến binh được điều động trong các buổi đại hội để trấn áp người la ó phản đối, và nếu cần, đẩy họ ra khỏi phòng họp. Vào mùa hè 1920, ngay sau khi Hitler thêm cụm từ "Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa" vào cái tên "Đảng Lao động Đức" để trở thành đảng có tên viết tắt là NSDAP, Hitler tổ chức cựu chiến binh thành một lực lượng máu lửa, ngụy trang dưới tên "Ban Thể dục Thể thao." Ngày 5/10/1921, lực lượng bán quân sự được chính thức đặt tên Sturmabteilung, gọi tắt là SA. Mang đồng phục màu nâu, lực lượng SA được đặt dưới sự chỉ huy của Đại úy Ehrhardt, người vừa mãn hạn tù do dính líu đến một vụ giết người. Không mãn nguyện với việc giữ gìn trật tự trong các buổi đại hội của Quốc Xã, lực lượng SA chẳng bao lâu can dự vào việc đàn áp những đảng phái khác. Một lần, vào năm 1921 đích thân Hitler dẫn lực lượng SA tấn công một đại hội của nhóm đối lập và đánh đập một người mang tên Ballerstedt sẽ đọc diễn văn trong đại hội. Vì việc này, Hitler bị án 3 tháng tù, nhưng được trả tự do sau khi ngồi tù 1 tháng. Ông trở nên gần như là một vị thánh tử vì đạo và giành thêm hậu thuẫn. Hitler khoe khoang với cảnh sát: "Không sao cả. Chúng tôi đã đạt được mục đích. Ballerstedt không phát biểu được." Đúng như Hitler đã tuyên bố vài tháng trước: Trong tương lai Phong trào Quốc Xã sẽ ngăn chặn một cách không khoan nhượng – bằng vũ lực nếu cần – mọi đại hội hoặc buổi diễn thuyết có thể khiến cho đồng bào của chúng ta phân tâm. Vào mùa hè 1920, nhà họa sĩ thất bại Hitler nhưng bây giờ trở thành bậc thầy về nghệ thuật tuyên truyền, phát sinh ý tưởng mà chỉ có thể được xem là một cú đột phá của thiên tài. Ông thấy cái mà đảng đang thiếu là một huy hiệu, một lá cờ, một biểu tượng nhằm thể hiện những gì mà đảng muốn phát huy và nhằm kích thích óc tưởng tượng của quần chúng – những người sẽ tiến bước và chiến đấu dưới ngọn cờ của đảng. Sau khi đã tập trung suy nghĩ và xem xét vô số mẫu thiết kế, Hitler tạo nên một lá cờ nền màu đỏ, ở giữa có một đĩa tròn màu trắng trong đó in hình chữ thập ngoặc màu đen. Hình chữ thập ngoặc này đã có từ ngàn xưa, sẽ trở nên một biểu tượng mạnh mẽ và đáng sợ của Đảng Quốc Xã và cuối cùng là của cả nước Đức. Chẳng bao lâu, lực lượng SA và đảng viên Quốc Xã mang băng tay có hình chữ thập ngoặc, và hai năm sau Hitler thiết kế lá cờ nghi thức để mang đi trong những cuộc diễu hành và để giăng lên sau khán đài của những buổi mít-tinh. Những tác phẩm này không hẳn là "mỹ thuật," nhưng là nghệ thuật tuyên truyền ở đẳng cấp đỉnh cao tính cho đến thời điểm bấy giờ. Đảng Quốc Xã bây giờ có một biểu tượng mà không đảng phái nào khác sánh bằng. Hình chữ thập ngoặc tự nó toát ra một sức mạnh huyền bí, để lôi kéo quần chúng hành động theo một đường hướng mới, và họ bắt đầu tụ hội dưới lá cờ của Quốc Xã. Bước tiến của "Lãnh tụ" Vào mùa hè 1921, con người xách động trẻ tuổi – vốn đã thể hiện một cách đáng kinh ngạc tài năng hùng biện, tổ chức và tuyên truyền – bây giờ nắm quyền lãnh đạo độc tôn của đảng. Khi hành động như thế, Hitler đã cho các đồng chí của mình lần đầu tiên nếm trải bản tính tàn độc và óc tinh ranh về chiến thuật mà nhờ đấy ông sẽ gặt hái thêm thắng lợi trong những cuộc khủng hoảng quan trọng hơn sau này. Đầu mùa hè này, Hitler đi đến Berlin nhằm tiếp xúc với vài phe nhóm theo chủ nghĩa quốc gia hầu có thể mở rộng phong trào Quốc Xã ra toàn nước Đức. Trong khi ông đi vắng, những ủy viên trung ương khác của Đảng Quốc Xã thấy có cơ hội để thách thức quyền lãnh đạo của ông. Hitler đã trở nên quá độc đoán với họ. Thế là họ trù định sáp nhập với những phe nhóm có chủ kiến tương tự, nghĩ rằng khi ấy ảnh hưởng của Hitler sẽ suy yếu. Nhận ra vị thế của mình bị đe dọa, Hitler vội vã trở về München để dập tắt những người mà ông gọi là "mất trí điên rồ." Ông xin rút ra khỏi đảng. Những ủy viên trung ương khác thấy ngay là đảng không thể mất ông. Hitler không chỉ là nhà hùng biện tài giỏi nhất, mà còn là nhà tổ chức và tuyên truyền hữu hiệu nhất. Hơn nữa, chính Hitler là người mang về phần lớn ngân khoản đóng góp cho đảng – từ những buổi đại hội có ông phát biểu và từ những nguồn khác kể cả Quân đội. Nếu ông ra đi, chắc chắn Đảng Quốc Xã sẽ tan rã. Trung ương đảng khước từ ý nguyện của Hitler. Sau khi đã nhận thức rõ vị thế của mình, bây giờ Hitler bắt buộc các nhà lãnh đạo khác của đảng phải nhượng bộ. Ông đòi hỏi quyền độc tài cho mình với tư cách là vị lãnh đạo duy nhất của đảng, xóa bỏ Trung ương Đảng và chấm dứt mưu đồ thỏa hiệp với các phe nhóm khác. Các ủy viên trung ương khác không thể chấp nhận. Dưới sự cầm đầu của Anton Drexler, người sáng lập đảng, họ soạn ra một bản kết án nhà độc tài và cho lưu hành dưới dạng tờ bướm. Đây là lời kết án hệ trọng nhất mà Hitler từng đối đầu trong nội bộ đảng của mình – đấy là, từ những người đã nhận ra bản chất của ông: Lòng khao khát quyền lực và tham vọng cá nhân đã khiến cho Ông Adolf Hitler trở về... Càng ngày càng thấy rõ rằng mục đích của ông chỉ là lợi dụng Đảng Quốc Xã để làm bàn đạp cho mưu đồ vô đạo đức của ông, và đoạt lấy quyền lãnh đạo nhằm thúc ép Đảng đi theo một chiều hướng khác... Hitler lập tức khởi kiện các tác giả của tờ bướm về tội vu khống, và trong một buổi đại hội, Drexler phải công khai rút lại bản kết án. Hitler đưa điều kiện để dàn hòa: xóa bỏ Trung ương Đảng và cho ông nắm chức chủ tịch đảng với quyền hành độc tôn. Drexler được đẩy lên làm chủ tịch danh dự, và chẳng bao lâu bị cho ra rìa. Drexler rời khỏi đảng năm 1923 nhưng giữ chức vụ Phó Chủ tịch Nghị viện Bayern trong giai đoạn 1924-1928. Năm 1930, ông dàn hòa với Hitler nhưng không bao giờ trở lại chính trường. Tháng 7/1921, "nguyên tắc lãnh đạo" được thiết lập, trở thành điều luật trước nhất cho Đảng Quốc Xã và sau đấy cho Đế chế Thứ Ba. "Lãnh tụ" đã xuất hiện trên chính trường nước Đức. Vị "lãnh tụ" bây giờ bắt đầu lo tái tổ chức đảng. Đảng dời về trụ sở mới rộng hơn, sáng sủa hơn. Có thêm máy đánh chữ, tủ hồ sơ, nội thất, điện thoại, và một thư ký lãnh lương toàn thời gian. Đảng tiếp tục nhận thêm đóng góp tài chính. Gần một năm về trước, tháng 10/1920, đảng đã mua lại tờ báo Voelkischer Beobachter có xu hướng bài Do Thái, xuất bản mỗi tuần 2 lần, nhưng đang mang nợ. Hitler không cho biết nguồn gốc số tiền 60.000 Mác Đức dùng để mua lại tờ báo, nhưng rất có thể đấy là từ quỹ mật của Quân đội. Từ đầu năm 1923, tờ báo được phát hành hàng ngày, qua đấy Hitler có một nhật báo làm tiếng nói cho Quốc Xã. Điều hành một tờ nhật báo cần thêm ngân khoản, và nhiều người giàu có bỏ tiền đóng góp. Ngày 1/4/1920, ngày mà Đảng Lao động Đức trở thành Đảng Lao động Đức Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa – từ đấy có tên tắt "Quốc Xã" – Hitler rời bỏ hẳn quân ngũ. Từ lúc này, ông dành tất cả thời giờ cho Đảng Quốc Xã, mà ông không bao giờ hưởng lương từ ngân quỹ của đảng. Quốc Xã đi vào chính quyền Sau vụ Đảo chính Nhà hàng Bia ngày 8/11/1923, Hitler phải vào tù. Nhờ cơ hội này mà ông viết quyển Mein Kampf trình bày tư tưởng và cương lĩnh hoạt động của ông. Trong cuộc tổng tuyển cử ngày 20/5/1928, Đảng Quốc Xã chỉ chiếm hơn chục ghế trong tổng số 491 ghế của Nghị viện. Vào năm này, 1928, số đảng viên Quốc Xã còn ít ỏi, 108.000 người, nhưng đang tăng dần dần. Hitler có tài tổ chức, ông hùng hục lao vào công việc tái lập Đảng Quốc Xã và biến nó thành một tổ chức mà Đức chưa hề thấy từ trước đến giờ. Ông có ý đồ tổ chức đảng như là một quân đội – một nhà nước trong một nhà nước. Công tác đầu tiên là thu hút đảng viên nộp phí gia nhập. Vào cuối năm 1925, chỉ có 27.000 đảng viên. Đảng phát triển một cách chậm chạp, nhưng mỗi năm đều có tiến bộ: 49.000 đảng viên năm 1926; 72.000 năm 1927; 108.000 năm 1928; 178.000 năm 1929. Quan trọng hơn là việc thành lập cơ sở đảng hoàn chỉnh tương ứng với tổ chức hành chính của Đức và cũng giống với xã hội Đức. Nước Đức được chia ra thành vùng (gaue), tương đương với 34 đơn vị trong các kỳ bầu cử Nghị viện, và Hitler đích thân bổ nhiệm đảng viên làm gauleiter (như xứ ủy) đứng đầu mỗi vùng. Còn có thêm 7 vùng ở Áo, Gdańsk, Saar và Sudetenland ở Tiệp Khắc. Mỗi vùng được chia ra thành những cấp nhỏ hơn. Riêng thành phố được chia nhỏ thêm thành cấp khu phố và tổ dân phố. Trên lý thuyết, bí thư đảng ủy chỉ là đại diện của Đảng Quốc Xã có chức năng điều phối hoạt động của đảng tại địa phương và "cố vấn" cho chính quyền địa phương. Trên thực tế, đảng ủy, nhất là xứ ủy, có quyền hành bao trùm mọi lĩnh vực điều hành tại địa phương. Tổ chức chính trị của Đảng Quốc Xã được chia ra làm hai nhóm: P.O. I có nhiệm vụ tấn công và khuynh đảo chính phủ; P.O. II có chức năng giống như nhà nước trong một nhà nước. Vì thế, nhóm thứ hai có các ban Nông nghiệp, Tư pháp, Kinh tế Quốc gia, Nội vụ, Lao động, Xây dựng và – với tầm nhìn hướng đến tương lai – Chủng tộc-Văn hóa. P.O. I có các ban Ngoại giao, Nghiệp đoàn và Văn phòng Báo chí. Ban Tuyên truyền đứng độc lập và được tổ chức một cách tinh vi. Dù một số kẻ vô lại và kẻ chuyên gây bạo động phản đối việc nhận phụ nữ và trẻ em vào đảng, Hitler vẫn thành lập những tổ chức cho họ. Đoàn Thanh niên Hitler nhận lứa tuổi 15-18 và có các ban Văn hóa, Giáo dục, Báo chí, Tuyên truyền, "Thể thao Tự vệ," v.v... Lứa tuổi 10-15 được nhận vào Đoàn Thiếu niên. Thanh nữ và phụ nữ có những tổ chức tương tự. Sinh viên, giáo chức, công chức, bác sĩ, luật sư, bồi thẩm đoàn đều có tổ chức riêng biệt, và cũng có tổ chức để thu hút giới trí thức và nghệ sĩ. Sau nhiều khó khăn, SA được tổ chức lại thành một lực lượng vũ trang gồm vài trăm nghìn người để bảo vệ buổi họp của Quốc Xã, giải tán buổi họp của đối thủ và nói chung khủng bố người chống lại Hitler. Vài người chỉ huy còn hy vọng SA sẽ thay thế quân đội chính quy một khi Hitler lên nắm chính quyền. Để chuẩn bị cho việc này, một cơ quan đặc biệt được thành lập dưới quyền của Tướng Franz Ritter von Epp, gồm có 5 phòng liên quan đến quốc phòng. Nhưng lực lượng SA vẫn là một nhóm ô hợp chuyên gây rối. Nhiều người chỉ huy hàng đầu của lực lượng này, bắt đầu từ Tham mưu trưởng Röhm, là người đồng tính luyến ái. Trung úy Edmund Heines, chỉ huy trưởng SA ở München, không chỉ là đồng tính luyến ái mà còn là kẻ giết người có tiền án. Hai người này và thêm hàng chục người khác luôn gây gổ và chia nhau kết bè kết đảng theo cách đàn ông có xu hướng giới tính lệch lạc ghen tuông với nhau. Để được sự hỗ trợ đáng tin cậy hơn, Hitler thành lập lực lượng SS – Schutzstaffel – mặc đồng phục màu đen tương tự như đội quân của Phát-xít Ý và buộc họ phải cất lời thề trung thành với chính cá nhân ông. Lúc đầu, lực lượng SS chỉ là những cận vệ cho Hitler. Mãi đến năm 1929, Hitler mới tìm ra được người lãnh đạo lý tưởng của SS: một người nuôi gà cư ngụ gần München có tên là Heinrich Himmler. Ông có tư thái dịu dàng mà người ta dễ nhầm lẫn là một thầy giáo làng quê (tác giả khi gặp ông lần đầu cũng có ấn tượng nhầm lẫn như thế). Khi Himmler nhận chức vụ chỉ huy trưởng, lực lượng SS có khoảng 200 người. Cuối cùng, lực lượng SS ngự trị nước Đức và là một cái tên gây kinh hoàng cho mọi vùng bị Đức chiếm đóng ở châu Âu. Trên tất cả là Adolf Hitler, với chức vụ chính thức là "Lãnh tụ Tối cao của Đảng và SA, Chủ tịch Tổ chức Lao động Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa Đức." Ngay dưới văn phòng của Hitler là Bộ Chỉ huy Đế chế (Reichsleitung, tương tự Bộ Chính trị) quy tụ những lãnh đạo cao nhất của đảng và có những chức vụ như "Trưởng Kho bạc Đế chế" và "Quản trị viên Kinh doanh Đế chế." Trong chiến dịch tranh cử cho cuộc tổng tuyển cử ngày 14/9/1930, cuồng loạn, Hitler hứa hẹn với hàng triệu người đang bất mãn rằng ông sẽ làm cho nước Đức hùng mạnh trở lại, từ chối việc trả bồi thường chiến tranh, chối bỏ Hòa ước Versailles, quét sạch tham nhũng, triệt hạ những trùm tài phiệt (đặc biệt nếu họ là người Do Thái), và đảm bảo mỗi người Đức đều có việc làm và bánh mỳ. Đối với những người đang đói kém mong cho cuộc sống bớt khổ và cũng đang tìm kiếm niềm tin mới, lời hứa như thế nghe thật hấp dẫn. Dù đã mang nhiều kỳ vọng, Hitler vẫn kinh ngạc khi biết kết quả tổng tuyển cử. Hai năm trước, Đảng Quốc Xã của ông chiếm 12 ghế. Lần này, ông mong số ghế sẽ tăng lên gấp 4 lần, có lẽ được 50 ghế. Thực tế còn hơn thế nữa: Đảng Quốc Xã chiếm 107 ghế, từ vị trí thứ chín và là đảng nhỏ nhất trong Nghị viện nhảy lên thành đảng lớn thứ nhì. Cuộc bầu cử Nghị viện ngày 31/7/1932 là cuộc tổng tuyển cử thứ ba ở Đức thời Cộng hòa Veimar trong vòng 5 tháng, nhưng thay vì mệt mỏi Quốc Xã lại lao vào chiến dịch vận động với tinh thần cuồng tín và hăng say hơn bao giờ. Xét qua số người tụ tập để nghe Hitler phát biểu, rõ ràng là Quốc Xã đang thắng thế. Chỉ trong một ngày, Hitler phát biểu trước 60.000 người ở Brandenburg, khoảng ngần ấy số người ở Potsdam, rồi đến tối với 120.000 người trong Sân Vận động Grunewald khổng lồ ở Berlin và bên ngoài có thêm 100.000 người nghe tiếng nói của ông qua loa phóng thanh. Cuộc tổng tuyển cử ngày 31 tháng 7 mang lại thắng lợi vang dội cho Đảng Quốc Xã. Họ chiếm 230 ghế trong Nghị viện, đứng hàng đầu tuy vẫn chưa được đa số tuyệt đối trong tổng số 608 ghế. Ngoại trừ người Công giáo, các tầng lớp trung lưu và thượng lưu đều bỏ phiếu cho Quốc Xã. Khi Nghị viện nhóm họp ngày 30/8/1932, Đảng Trung dung Đức cùng với Đảng Quốc Xã bầu Göring làm Chủ tịch Nghị viện. Lần đầu tiên, một đảng viên Quốc Xã ngồi vào ghế này khi Nghị viện họp lại ngày 12/9 để bắt đầu kỳ họp làm việc. Göring khai thác cơ hội này đến mức tối đa: ông cho biểu quyết giải tán Nghị viện! Cử tri đi bầu trong kỳ tổng tuyển cử kế tiếp ngày 6/11/1932. Quốc Xã mất 34 ghế ở Nghị viện, còn lại 196 ghế. Dù Quốc Xã vẫn còn là đảng lớn nhất, việc bị mất 2 triệu phiếu là bước thụt lùi nghiêm trọng. Lần đầu tiên, ngọn triều của Quốc Xã đang rút xuống, từ vị trí kém hơn đa số tuyệt đối xuống đến mức còn thấp hơn nữa. Ngày 2/12/1932, Tướng Kurt von Schleicher trở thành thủ tướng, nhưng ngày 23/1/1933, ông đến gặp Tổng thống Hindenburg, thú nhận rằng không thể tạo đa số trong Nghị viện, yêu cầu giải tán Nghị viện. Nhưng Hindenburg không chịu, mà giao cho Papen nhiệm vụ tìm khả năng lập chính phủ dưới quyền của Hitler "chiếu theo những điều khoản của Hiến pháp." Ngày 30/1/1933, Hitler trở thành thủ tướng Đức. Quốc Xã thuộc phe thiểu số trong chính phủ; họ chỉ có 3 trong số 11 chức vụ trong nội các, lại không phải ở vị trí chủ chốt ngoại trừ chức thủ tướng. Nhưng Hitler lừa dối tất cả mọi ni: ông báo cáo với nội các rằng Đảng Trung dung Đức đã đưa ra những yêu sách quá đáng và không có cơ hội thỏa hiệp. Vì thế, Hitler đề xuất yêu cầu Tổng thống giải tán Nghị viện và quy định kỳ tổng tuyển cử mới. Hugenberg và Papen bị sa vào bẫy, nhưng sau khi Hitler long trọng trấn an là nội các sẽ được giữ nguyên bất kể kết quả tổng tuyển cử sẽ như thế nào, cả hai đồng ý. Kỳ tổng tuyển cử mới được ấn định vào ngày 5/3/1933. Vào buổi tối 27/2/1933, xảy ra vụ hỏa hoạn ở Tòa nhà Nghị viện. Có đủ chứng cứ hợp lý cho thấy chính Quốc Xã đã lên kế hoạch và tạo ra đám cháy nhằm phục vụ mưu đồ chính trị của họ. Quốc Xã quy kết vụ việc cho Cộng sản. Nhân cơ hội này, Hitler yêu cầu Tổng thống ký nghị định "Cho việc Bảo vệ Nhân dân và Nhà nước" đình chỉ bảy đoạn trong Hiến pháp đảm bảo quyền tự do cá nhân. Với mọi nguồn lực của các chính phủ trung ương và Bang Phổ nắm trong tay và với túi tiền đầy ắp mà các doanh nghiệp đổ vào, Quốc Xã mở chiến dịch tuyên truyền vận động theo tầm mức nước Đức chưa từng thấy bao giờ. Lần đầu tiên, đài truyền thanh của Nhà nước phát đi giọng nói của Hitler, Göring và Göbbels đến mọi miền của đất nước. Đường phố giăng đầy cờ mang chữ thập ngược, vang vọng tiếng bước của binh sĩ SA. Những cuộc mít-tinh, diễu hành đốt đuốc buổi tối và âm thanh lan khắp các quảng trường. những tấm pa-nô đầy dẫy hình ảnh tuyên truyền rực rỡ của Quốc Xã, và trong đêm tối ánh lửa trại soi sáng những triền đồi. Cử tri bị phỉnh phờ với những lời hứa về thiên đường Đức, bị đội quân áo nâu trên đường phố dọa dẫm khủng bố và kinh hãi vì những "phát hiện" về cuộc "cách mạng" của Cộng sản. Dù cho bao khủng bố và đe dọa, đa số cử tri vẫn chống lại Hitler. Đảng Quốc Xã dẫn đầu, nhưng chỉ thu được 44% số phiếu. Hitler vẫn chưa đạt đa số. Làm thế nào đạt đa số là sự "vắng mặt" của 81 đại biểu Cộng sản trong Nghị viện. Göring đảm bảo là những vấn đề còn lại sẽ được giải quyết xong xuôi "bằng cách cấm cửa một ít đại biểu Dân chủ Xã hội." Nghị định của Tổng thống ngày 28/2 sau ngày tòa nhà Nghị viện bị cháy cho phép ông bắt giữ bao nhiêu đại biểu phe đối lập tùy thích để đảm bảo đạt hai phần ba số phiếu của đại biểu hiện diện. Quốc Xã nắm quyền lực tuyệt đối Ngày 23/3/1933, Hitler đòi hỏi Nghị viện phê chuẩn Luật Trao quyền – có tên chính thức là "Luật Phòng chống Tai họa của Nhân dân và Đế chế." Luật gồm có năm đoạn ngắn, tước đoạt quyền lập pháp của Nghị viện kể cả quyền kiểm soát ngân sách Đế chế, phê chuẩn hiệp ước với nước ngoài và tu chính hiến pháp, và trao các quyền này cho nội các trong thời hạn bốn năm. Thêm nữa, Luật Trao quyền quy định Thủ tướng sẽ soạn thảo và ban hành luật mới "có thể dị biệt với hiến pháp." Thế là, nền dân chủ nghị viện rốt cuộc đã bị chôn vùi. Từng định chế mạnh nhất của Đức tuần tự đầu hàng Hitler để rồi mất bóng một cách im lìm, không một thái độ phản đối. Các bang trong nền Cộng hòa, vốn đã ngoan cường duy trì quyền lực riêng rẽ suốt lịch sử của Đức, là những định chế sụp đổ đầu tiên. Ngày 9/3, Quốc Xã giải tán chính quyền Bang Bayern và thiết lập chế độ Quốc Xã. Trong vòng một tuần, chế độ Quốc Xã cũng được thiết lập ở bang khác, ngoại trừ Phổ, nơi Göring đã vững chắc nắm quyền kiểm soát. Ngày 31/3, Hitler và Frick lần đầu tiên áp dụng Luật Trao quyền. Một luật được ban hành giải tán tất cả nghị viện của bang ngoại trừ Phổ và ra lệnh cho họ tổ chức lại dựa trên tỷ lệ số phiếu trong kỳ tổng tuyển cử vừa qua. Đại biểu Cộng sản không được nhận trở lại. Nhưng giải pháp này chỉ kéo dài một tuần. Ngày 7/4, làm việc với tốc độ chóng mặt, Hitler ban hành luật mới, cử Thống đốc Quốc Xã ở mọi bang, giao quyền cho họ chỉ định và dẹp bỏ cơ cấu chính quyền bang, giải tán nghị viện, bổ nhiệm và cách chức công nhân viên và thẩm phán của bang. Các Thống đốc bang đều là đảng viên Quốc Xã và được "yêu cầu" thực hiện "chính sách tổng quát do Thủ tướng Đế chế đề ra." Vì thế, trong vòng nửa tháng từ khi nhận quyền hành từ Nghị viện, Hitler đã hoàn tất những việc mà Bismarck, Wilhelm II và nền Cộng hòa Đức không bao giờ dám thử làm: xóa bỏ mọi quyền hạn của bang vốn đã tồn tại lâu đời theo dòng lịch sử và đặt họ dưới sự kiểm soát của chính quyền trung ương, tức nằm trong tay Hitler. Ngày 30/1/1934, kỷ niệm tròn năm Hitler nhậm chức Thủ tướng, Hitler chính thức hoàn tất công việc qua Luật Tái lập Đế chế. Tất cả thể chế dân cử bị xóa bỏ, quyền điều hành bang được chuyển về trung ương, mọi cơ cấu chính quyền bang được đặt dưới chính phủ Đế chế, thống đốc bang được đặt dưới hệ thống hành chính của Bộ Nội vụ Đế chế thuộc quyền Frick. Phần mở đầu của Luật Tái lập Đế chế tuyên bố rằng luật "được ban hành với sự biểu quyết nhất trí của Nghị viện." Điều này là đúng, vì bây giờ mọi đảng phái chính trị của Đức – ngoại trừ Quốc Xã – đều đã bị giải tán. Ngày tàn Chiều ngày Thứ Hai, 30 tháng 4 năm 1945, Lãnh tụ Hitler của Đảng Quốc Xã tự sát, Trong Tuyên cáo Chính trị trước khi tự sát, Hitler cử Bormann là Bộ trưởng Đảng – là một chức vụ mới. Chức vụ "Lãnh tụ" được thay thế bằng "Tổng thống" do thủy sư Đô đốc Karl Dönitz nắm giữ trong vòng hai mươi ba ngày. Đế chế thứ Ba tồn tại thêm bảy ngày sau cái chết của Hitler: ngày 7/5/1945, Đức đầu hàng vô điều kiện. Ghi chú
Nam Kinh (tiếng Hoa: 南京; pinyin: Nánjīng; Wade-Giles: Nan-ching; nghĩa là "Kinh đô phía Nam") là một thành phố thuộc tỉnh Giang Tô của Trung Quốc. Nam Kinh là một thành phố lớn trong lịch sử và văn hóa Trung Hoa. Nam Kinh đã từng là thủ đô Trung Hoa trong nhiều triều đại, được xem như một trong bốn cố đô lớn của Trung Hoa. Nam Kinh là một trong 15 thành phố cấp phó, loại thành phố này được hưởng nhiều quyền tự chủ về kinh kế và hoạch định chính sách gần như là cấp tỉnh. Diện tích: 6.598 km², dân số: 6,4 triệu người. Năm 2004 GDP của Nam Kinh là 191 tỷ Nhân dân tệ (NDT) (thứ ba ở tỉnh Giang Tô), GDP đầu người là 33.050 NDT, tăng 15% so với năm 2003. Thu nhập bình quân đầu người dân nội đô là 11.601 NDT, ngoại ô: 5.333 NDT. Tỷ lệ thất nghiệp nội đô: 4,03%, thấp hơn mức chung của cả Trung Quốc là 4,2%. Thành phố này nằm tại hạ lưu sông Dương Tử (Trường Giang) và nằm trong Khu kinh tế Đồng bằng Sông Dương Tử. Nam Kinh luôn là một trong những thành phố quan trọng của Trung Quốc, đã từng là kinh đô của 6 triều đại phong kiến Trung Hoa và là thủ đô của Trung Hoa Dân Quốc, đây còn là trung tâm giáo dục, nghiên cứu, giao thông vận tải và du lịch trong suốt lịch sử Trung Hoa thời cận đại. Nam Kinh là thành phố trung tâm thương mại lớn thứ hai ở Đông Trung Quốc sau Thượng Hải. Thời Tam Quốc, Gia Cát Lượng đã viết về Nam Kinh như sau: "Chung Sơn long bàn, thạch đầu hổ cứ, chân nại đế vương chi trạch dã" (Hán văn: 钟山龙蟠,石头虎踞,真乃帝王之宅也) nghĩa là "Núi Chung thế rồng cuộn, đá hình hổ phục, thật là chốn đế vương vậy". Trong thời kỳ Nhật chiếm đóng Trung Quốc, thành phố Nam Kinh được nhiều người nhắc đến do có vụ Thảm sát Nam Kinh trong đó mấy trăm ngàn người dân Trung Quốc bị quân Nhật tàn sát. Lịch sử Khi Tần Thủy Hoàng mới thống nhất thiên hạ, đóng đô tại kinh thành Hàm Dương, một thầy phong thủy đã từng bày tỏ lo ngại về vương khí của một vùng đất nhỏ ở phía nam của Đế quốc Đại Tần. Vùng đất này chính là Nam Kinh ngày nay. Lo sợ vương khí trên sẽ hun đúc một vị hoàng đế khác để soán ngôi mình, Tần Thủy Hoàng đã theo lời tên thầy phong thủy nọ mà phá núi, chôn vàng và cúng tế hàng tháng trời để dập tắt luồng dương khí nọ. Chính vì chuyện chôn vàng phá núi này mà người ta đặt tên cho thành ở đây cái tên dân gian là "Kim Lăng" - Jinling hay mộ vàng. Kim Lăng còn có cái tên động trời khác là "Mạt Lăng" vì những hành động của Tần Thủy Hoàng đã tàn phá phong thủy vùng đất này một cách nghiêm trọng. Kim Lăng đã là một trong những chiến trường đẫm máu nhất trong chiến tranh Hán Sở, khi mà hai quân đều cố giành cho bằng được vị trí chiến lược quan trọng này. Đây là kinh đô của Đông Ngô vào năm 265-266 trong thời tam quốc và có tên là Kiến Nghiệp. Dưới thời Tây Tấn, Kim Lăng có cái tên chính thức là "Kiến Khang" - "Jiankang". Khi Tây Tấn sụp đổ vì loạn Ngũ Hồ, Lang Nha vương đã trung hưng cơ nghiệp tại đất Kiến Khang, định đô tại đây. Trong suốt thời kỳ Đông Tấn đối địch Ngũ Hồ và Nam Bắc triều, Kiến Khang hay Kim Lăng liên tục là kinh sư của các triều đình phía nam. Cho đến khi nhà Tùy cất quân đánh Trần, Kiến Khang vẫn còn là kinh đô. Xuyên suốt từ thời Tùy mạt Đường sơ cho đến khi nhà Đường cực thịnh, Kim Lăng đã dần dà trở thành trung tâm kinh tế của Giang Nam. Do sông Dương Tử nối liền ra biển, các thương nhân nước ngoài có thể dễ dàng tiếp cận nền kinh tế màu mỡ của nơi này. Dẫu cho cả nước có bị biến động như thế nào đi chăng nữa thì nền kinh tế của Kim Lăng vẫn ít khi bị ảnh hưởng - thậm chí là không bao giờ. Khi nhà Đường sụp đổ, Ngũ Đại Thập Quốc tranh giành thiên hạ, đây là kinh đô của nước Ngô và Nam Đường, một trong những "thập quốc" có thực lực lớn mạnh nhất. Kim Lăng đã là kinh sư của Nam Đường suốt thời Ngũ Đại Thập quốc cho đến khi nhà Bắc Tống thu phục Nam Đường. Tào Bân lúc bấy giờ khi vào thành đã ra lệnh cấm chém giết hay cướp của bừa bãi trong thành, tích cực thu phục lòng dân ở khu vực này. Kim Lăng lấy lại tên cũ "Kiến Khang" và tiếp tục là 1 trong những trung tâm kinh tế của nhà Tống trong vòng 300 năm nữa. Khi Sự kiện Tĩnh Khang năm 1127 khiến Bắc Tống diệt vong, Khang Vương Triệu Cấu đã chạy xuống phủ Quy Đức đăng cơ rồi nhanh chóng tiến xuống Kiến Khang định đô. Khi quân Kim tiến xuống phía nam, tướng Đỗ Sung, một thuộc hạ của cố nguyên soái Tông Trạch đã dâng thành cho Hoàn Nhan Tông Bật(tướng nhà Kim) làm quà xin hàng. Mất Kiến Khang đã khiến cho bộ tướng của Nhạc Phi bị chao đảo và khốn đốn, quân Tống cũng mất đi thành trì vững vàng nhất Giang Nam. Tuy nhiên, vào năm Kiến Viêm thứ 4 thời Tống Cao Tông, Nhạc gia quân cùng Hàn gia quân hai ngã thủy lục tiến đánh giành lại hết đất Giang Nam từ tay quân Kim. Nhưng do lo sợ khí thế của quân Kim mà kể từ đây, nhà Tống không dám định đô ở Kim Lăng mà lại đóng ở Lâm An. Khi quân Nguyên đánh Nam Tống, Tương Dương thành thất thủ thì Kiến Khang cũng theo tay quân Nguyên và mang tên mới là Tập Khánh. Nhà Nguyên cai trị không màng quan tâm tới phía Nam nên kinh tế dần kiệt quệ. Kim Lăng đã gần như hoang tàn mất đi phong độ đặc khu kinh tế của Giang Nam ngày nào. Cuối đời Nhà Nguyên, Kim Lăng trở thành căn cứ địa mới của Chu Nguyên Chương, thế lực quân phiệt lớn mạnh nhất thời kì đó, sau khi triều Minh được thành lập thì Kim Lăng được đổi tên mới là Nam Kinh và trở thành kinh đô của nhà Minh trong suốt thời gian trị vì của Thái Tổ Hồng Vũ đế Chu Nguyên Chương cũng như là cháu trai ông ta là Huệ đế Chu Doãn Văn. Sau sự kiện Tĩnh Nan chi biến thì Vĩnh Lạc đế quyết định dời đô về Bắc Bình (tức Bắc Kinh) nhưng Nam Kinh vẫn giữ được vị thế thủ phủ kinh tế, chính trị quan trọng của vùng Giang Nam trong suốt thời Nhà Minh. Vào Nhà Thanh, Nam Kinh trở thành căn cứ của cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên quốc do Hồng Tú Toàn lãnh đạo và mang tên gọi là Thiên Kinh. Mặc dù là “nơi ở của bậc đế vương”, nhưng thực tế lại rất kỳ lạ, hầu hết các vương triều chọn Nam Kinh làm kinh đô đều rơi vào kết cục “đoản mệnh”. Sau khi Tôn Quyền chọn Nam Kinh làm kinh đô của Đông Ngô thì triều đình chỉ tồn tại được 59 năm (từ năm 220 tới năm 280) thì bị nhà Tây Tấn tiêu diệt. Sau Đông Ngô, các triều đại tiếp theo lựa chọn Nam Kinh làm kinh đô cũng đều rơi vào cảnh “đoản mệnh” như vậy (Đông Tấn, Lưu Tống, Nam Tề, Lương...). 10 vương triều chọn Nam Kinh làm kinh đô thì có tới 9 vương triều “đoản mệnh”, nhiều nhất là Đông Tấn chỉ tồn tại 104 năm, có vương triều như Thái Bình Thiên quốc chỉ tồn tại vỏn vẹn 12 năm. Chỉ duy nhất có nhà Minh tồn tại được 277 năm, nhưng thực ra giai đoạn đóng đô ở Nam Kinh chỉ dài 34 năm rồi vua nhà Minh sau đó cho dời đô tới Bắc Kinh. Sau này, triều Nam Minh lại chọn Nam Kinh làm kinh đô, và chỉ được 17 năm là bị diệt vong. Đến thời chính quyền Trung Hoa Dân Quốc (1912–1949), Nam Kinh trở thành nơi đặt bộ máy chính quyền trung ương của nước Trung Hoa Dân Quốc. Khi Trung Hoa dân quốc khi quyết định chọn Nam Kinh làm thủ đô cũng đã gây ra nhiều tranh cãi trong bộ phận lãnh đạo, vì triều đại nào định đô ở Nam Kinh cũng "đoản mệnh". Ngày 14/12/1912, Tham nghị viện lâm thời của Trung Hoa dân quốc đã tổ chức một buổi họp để quyết định việc chọn lựa thủ đô. Kết quả bỏ phiếu khiến Tôn Trung Sơn, người đã nhắm đất Nam Kinh từ trước vô cùng bất ngờ: Có tới 20 phiếu bỏ cho Bắc Kinh, trong khi đó Nam Kinh chỉ được 5/28 phiếu bầu. Vì đã có ý định chọn Nam Kinh làm thủ đô nên kết quả này khiến Tôn Trung Sơn tức giận. Với tư cách là Tổng thống lâm thời của chính phủ Trung Hoa dân quốc, Tôn Trung Sơn quyết định ngày hôm sau sẽ tiến hành bỏ phiếu lại, nhất định muốn lựa chọn Nam Kinh. Hoàng Hưng phối hợp với Tôn Trung Sơn uy hiếp các thành viên của Tham nghị viện nói: “Nếu như ngày mai không thực hiện theo ý của tiên sinh (Tôn Trung Sơn), tôi lập tức phái quân bắt các nghị viên nhốt lại”. Dưới sự uy hiếp, 27 người tham gia cuộc họp ngày hôm sau đã thay đổi thái độ: Nam Kinh được 19/27 phiếu, Bắc Kinh chỉ còn 6 phiếu. Việc Nam Kinh được lựa chọn làm thủ đô của Trung Hoa dân quốc chính thức được thông qua. Rốt cục thì Trung Hoa Dân Quốc lại cũng "đoản mệnh", chỉ tồn tại được 37 năm. Năm 1949, Trung Hoa Dân Quốc sụp đổ (chỉ còn một số tàn dư chạy ra đảo Đài Loan). Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa do chủ tịch Mao Trạch Đông thành lập quyết định chọn Bắc kinh là thủ đô của Trung Quốc cho tới ngày nay. Hành chính Thành phố phó tỉnh Nam Kinh chia thành 11 quận. Khí hậu Thành phố kết nghĩa Nam Kinh có 15 thành phố kết nghĩa: Alsace, Pháp Barranquilla, Colombia Bloemfontein, Nam Phi Eindhoven, Hà Lan Firenze, Ý Hauts-de-Seine, Pháp Houston, Hoa Kỳ Leipzig, Đức Limassol, Síp London, Ontario, Canada Mexicali, México Nagoya, Nhật Perth, Úc St. Louis, Hoa Kỳ Daejeon, Hàn Quốc Cảnh quan đô thị Các di tích lịch sử
Diễn văn Gettysburg là diễn từ nổi tiếng nhất của Tổng thống Hoa Kỳ Abraham Lincoln, và là một trong những bài diễn văn được trích dẫn nhiều nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Được đọc tại Lễ Cung hiến Nghĩa trang Chiến sĩ Quốc gia ở Gettysburg, tiểu bang Pennsylvania ngày 19 tháng 11 năm 1863, trong thời Nội chiến Mỹ, bốn tháng rưỡi sau khi xảy ra mặt trận Gettysburg đẫm máu trong đó quân đội Liên bang giành chiến thắng vẻ vang. Bài diễn văn được viết lách công phu của Lincoln, lúc ấy chỉ được xem là phần phụ trong buổi lễ, nhưng cuối cùng đã được nhìn nhận là một trong những bài diễn văn vĩ đại nhất trong lịch sử Mỹ Quốc. Trong bài diễn văn chưa tới 300 từ và dài từ hai đến ba phút này, Lincoln đã viện dẫn những nguyên tắc về bình đẳng được tuyên cáo bởi bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ, và khẳng định rằng cuộc Nội chiến là một sự đấu tranh không chỉ cho Liên bang mà để "sản sinh một nền tự do mới", sẽ mang đến cho mọi công dân một sự bình đẳng thật. Bài diễn văn này trở nên một trong những văn kiện hay nhất bằng tiếng Anh trong suốt bề dày lịch sử nhân loại. Bắt đầu với câu nói nay đã trở thành khuôn mẫu "Four score and seven years ago," (Tám mươi bảy năm trước), Lincoln đề cập đến những diễn biến trong cuộc Cách mạng Mỹ, và miêu tả buổi lễ tại Gettysburg là một cơ hội không chỉ để cung hiến nghĩa trang, nhưng cũng để hiến dâng mạng sống cho cuộc đấu tranh nhằm bảo đảm rằng "chính quyền của dân, cho dân, vì dân sẽ không lụi tàn khỏi mặt đất." Nội dung Lincoln đã sử dụng từ "quốc gia" năm lần (bốn lần ông nói về nước Mỹ, một lần khác khi ông nói "bất cứ quốc gia nào cũng được thai nghén và cung hiến"), nhưng không lần nào nhắc đến từ "liên bang" - ngụ ý miền Bắc – như thế, mục tiêu phục hồi một quốc gia, không phải một liên bang gồm các tiểu bang tự trị, là quan trọng hơn hết. Bài diễn văn nhắc đến Chiến tranh Cách mạng Mỹ và câu nói nổi tiếng nhất của bản Tuyên ngôn Độc lập "mọi người sinh ra đều bình đẳng". Trong bài diễn văn, Lincoln không trích dẫn Hiến pháp năm 1789, trong đó chế độ nô lệ được mặc nhận trong "thỏa hiệp thứ ba mươi lăm", ông cũng không sử dụng từ "nô lệ". Bối cảnh Trận chiến bùng nổ ở Gettysburg (1 tháng 7 - 3 tháng 7 năm 1863) kết thúc với thắng lợi lớn của phe Liên bang miền Bắc Hoa Kỳ (Union), buộc Liên minh miền Nam Hoa Kỳ (Confederacy) phải rút quân về Virginia. Chiến thắng này mang lại lợi thế cho Liên bang trong cuộc chiến, song trận kịch chiến ấy cũng vĩnh viễn thay đổi bộ mặt thị trấn nhỏ bé này. Bãi chiến trường ngổn ngang thi thể của hơn 7.500 binh sĩ tử trận và vài ngàn xác ngựa của Binh đoàn Potomac thuộc Liên bang cũng như Binh đoàn Bắc Virginia của Liên minh. Tử khí bốc lên từ hàng ngàn thi thể đang thối rữa của binh sĩ, chiến đấu từ hai bên chiến tuyến nhưng cùng nằm xuống trên một trận địa, làm cư dân thị trấn mắc bệnh nghiêm trọng, và việc chôn cất tử tế những người lính trận vong trở nên ưu tiên hàng đầu đối với vài ngàn cư dân Gettysburg. Theo sự hướng dẫn của David Wills, một luật sư giàu có 32 tuổi, tiểu bang Pennsylvania mua một khu đất rộng 17 mẫu Anh (69.000 m2) để xây dựng một nghĩa trang nhằm tôn vinh những người lính thiệt mạng trong trận đánh mùa hè năm ấy. Lúc đầu, Wills dự định tổ chức lễ cung hiến nghĩa trang vào thứ Tư ngày 23 tháng 9, và mời Edward Everett, từng là Ngoại trưởng, Thượng nghị sĩ, Dân biểu Hoa Kỳ, Thống đốc tiểu bang Massachusetts, và Viện trưởng Đại học Harvard là diễn giả chính. Vào lúc ấy, Everett được xem là nhà hùng biện tài danh nhất. Trong lời phúc đáp, Everett cho biết ông không thể chuẩn bị cho bài diễn văn trong một thời gian ngắn như thế và đề nghị dời ngày lễ, ban tổ chức đồng ý và ấn định ngày lễ sẽ được tổ chức vào thứ Năm ngày 19 tháng 11. Về sau, Wills và ban tổ chức mới nghĩ đến việc mời Lincoln đến tham dự buổi lễ. Bức thư của Will viết, "Chúng tôi mong ước sau phần diễn thuyết, tổng thống, với tư cách là người đứng đầu nhánh hành pháp của quốc gia, chính thức biệt riêng khu đất này cho mục đích thiêng liêng bằng vài lời cung hiến". Vai trò của Lincoln trong buổi lễ là không quan trọng, tương tự như tập quán mời một nhân vật nổi tiếng đến cắt băng khánh thành. Ngày 18 tháng 11, Lincoln đến Gettysburg bằng xe lửa, qua đêm tại nhà của Will ở quảng trường thị trấn, tại đây ông hoàn tất bài diễn văn đã viết dang dở từ Washington. Trái với các giai thoại, Lincoln không hoàn tất bài diễn văn trên tàu lửa cũng không viết nó trên bì thư. Vào lúc 9:30 sáng ngày 19 tháng 11, Lincoln gia nhập cuộc diễu hành với các nhân vật quan trọng, người dân thị trấn, và các góa phụ đến khu đất sẽ được cung hiến. Ước tính có xấp xỉ 15.000 người đến tham dự buổi lễ, trong đó có các thống đốc đương nhiệm của 6 trong số 24 tiểu bang thuộc Liên bang: Andrew Gregg Curtin, tiểu bang Pennsylvania; Augustus Bradford, Maryland; Oliver P. Morton, Indiana; Horatio Seymour, New York; Joel Parker, New Jersey; và David Tod, Ohio. Chương trình buổi lễ Chương trình buổi lễ được hoạch định bởi Wills và ban tổ chức gồm có: Âm nhạc, Ban nhạc Birgfield Cầu nguyện, Mục sư T. H. Stockton, D. D. Âm nhạc, Dàn nhạc Thủy quân Lục chiến Diễn thuyết, Edward Everett Âm nhạc, Thánh ca sáng tác bởi B. B. French, Esq. Lời Cung hiến, Tổng thống Hoa Kỳ Bài ca Truy điệu, Ca đoàn Chúc phước, Mục sư H. L. Baugher, D. D. Trong buổi lễ, "Diễn văn Gettysburg" được mọi người trông đợi không phải là bài viết ngắn được trình bày bởi Tổng thống Lincoln, mà là bài diễn từ dài hai giờ đồng hồ với 13.607 từ của Everett. Diễn văn Gettysburg của Lincoln Lincoln đọc bài diễn văn với giọng Kentucky trong quãng thời gian từ hai đến ba phút. Ông tóm tắt cuộc chiến trong mười câu và 272 từ, tái cung hiến đất nước cho cuộc đấu tranh và cho lý tưởng biểu thị rằng không chiến binh nào tử trận ở Gettysburg đã chết vô ích. Qua đó, bài diễn văn lịch sử này cũng nêu lên tầm quan trọng của cuộc chiến Gettysburg vừa qua. Nhưng trong bài diễn văn, với những câu đơn giản nhưng rõ ràng, Lincoln không nhắc đến công lao của riêng chiến sĩ nào, bên này hay bên kia chiến hào, Nam hay Bắc, mà ông vinh danh chung tất cả lý tưởng của những người hy sinh dù ở phe nào, và được kết hợp với các hành động sau đó của ông đã giúp cho sự hàn gắn vết thương chiến tranh và đoàn kết toàn dân. Người ta nhắc lại tầm nhìn của Lincoln "một quốc gia mới, được thai nghén trong tự do", quên đi quá khứ đau thương, hàn gắn những vết thương chiến tranh và tạo dựng quốc gia mới "cho dân và vì dân", để xứng đáng với những hy sinh của người đã chết. Nhà sử học Garry Wills viết: "Lincoln đã làm cách mạng cuộc Cách mạng, đem lại cho nhân dân một quá khứ mới để sống trong đó, và quá khứ này sẽ thay đổi tương lai một cách vĩnh cửu". Các học giả đương đại bất đồng với nhau về ngôn từ chính xác của bài diễn văn, cũng như các bản sao chép được ấn hành bởi báo chí, ngay cả những bản viết tay của Lincoln cũng khác nhau về ngôn từ, phân đoạn và cấu trúc. Trong các phiên bản này, văn bản của Bliss được xem là bản chuẩn. Đó là bản duy nhất có chữ ký của Lincoln: Một bản dịch khác: Khi ấy, ít người để ý đến bài diễn văn. Tuy nhiên, chỉ trong vòng có vài tháng, nhân dân Hoa Kỳ đã nhận thức rõ rệt về tầm trọng đại của bài diễn văn hùng hồn này. Chú thích
StarCraft là trò chơi điện tử chiến lược thời gian thực loại khoa học quân sự viễn tưởng do Blizzard Entertainment phát triển. Trò chơi đầu tiên của thương hiệu Starcraft được phát hành cho Microsoft Windows vào ngày 31 tháng 3 năm 1998.. Với hơn 11 triệu bản bán ra trên toàn thế giới vào tháng 2 năm 2009, nó là một trong những trò chơi bán chạy nhất trên máy tính cá nhân . Một phiên bản cho Mac OS cũng được phát hành vào tháng 3 năm 1999 và một bản cho Nintendo 64 mà Blizzard cộng tác với Mass Media Interactive Entertainment được phát hành vào ngày 13 tháng 6 năm 2000 . Với cốt truyện ở thế kỷ 26, trò chơi xoay quanh ba chủng tộc đấu tranh cho sự thống trị trong một phần xa của dải Ngân hà được gọi là Koprulu Sector: Terran là con người lưu vong từ Trái Đất có khả năng thích ứng với mọi tình huống; Zerg là chủng tộc ngoài hành tinh có hình dáng côn trùng theo đuổi sự hoàn hảo về di truyền, bị ám ảnh với việc đồng hóa các chủng tộc khác; và Protoss một chủng tộc hình người với công nghệ tiên tiến và khả năng tâm linh, cố gắng bảo tồn nền văn minh và triết học chặt chẽ của họ khỏi Zerg. Trò chơi đã được ca ngợi cho việc tiên phong sử dụng các phe phái độc đáo của trò chơi chiến lược thời gian thực và cho một câu chuyện hấp dẫn . Starcraft được đánh giá là có sự cân bằng hoàn hảo giữa các chủng tộc hoàn toàn khác nhau và yêu cầu tốc độ điều khiển rất cao từ người chơi. Ngoài ra chiến thuật đánh nhanh thắng nhanh rất hiệu quả trong Starcraft cũng là một điểm nổi bật so với các trò chơi chiến lược thời gian thực khác.Sau đó, Blizzard đã có ý định tiếp tục câu truyện của StarCraft bằng việc phát triển game nhập vai StarCraft: Ghost song nó đã bị ngưng lại với nhiều lý do . Phần tiếp theo chính thức, StarCraft II, đã được công bố vào ngày 19 tháng 5 năm 2007. Cách chơi Việc Blizzard Entertainment sử dụng 3 chủng tộc khác biệt trong StarCraft được cho là đã cách mạng hóa thể loại Game chiến lược thời gian thực (ngoài ra còn có chủng tộc Xel'Naga chỉ được đề cập đến trong câu truyện của trò chơi như là một chủng tộc có nền văn minh rực rỡ từ rất xa xưa song hiện tại đã bị tuyệt chủng bởi Zerg (có ý kiến cho rằng chủng tộc này còn rải rác ngoài vũ trụ). Tất cả các đơn vị đều đặc trưng cho chủng tộc của mình, tuy có thể so sánh máy móc giữa các đơn vị quân trong cây công nghệ, nhưng mỗi đơn vị lại đòi hỏi phải các chiến thuật khác nhau để có thể chiến thắng. Protoss sở hữu những đơn vị uy lực, máy móc và công nghệ tiên tiến như lá chắn năng lượng và khả năng dịch chuyển nhờ sức mạnh tâm linh của họ. Tuy nhiên, lực lượng của Protoss rất tốn kém và phát triển mất nhiều thời gian nên chủng tộc này khuyến khích người chơi đi theo chiến lược về chất lượng hơn là số lượng . Zerg có các đơn vị và công trình hoàn toàn hữu cơ, có thể được sản xuất tại chỗ một cách nhanh chóng và rẻ hơn, nhưng lại yếu hơn, phải dựa vào số lượng tuyệt đối và tốc độ để áp đảo kẻ thù . Terran thì đứng giữa 2 chủng tộc kia, được cung cấp các đơn vị linh hoạt và mềm dẻo. Họ sở hữu những đơn vị hỏa lực, máy móc, chẳng hạn như xe tăng và vũ khí hạt nhân . Mặc dù mỗi chủng tộc có những nét độc đáo riêng, nhưng không chủng tộc nào là có lợi thế tuyệt đối so với những chủng tộc còn lại. Mỗi chủng tộc đều được tính toán kỹ lưỡng, khiến chúng tuy có các thế mạnh khác nhau nhưng xét trên tổng thể thì sức mạnh của các chủng tộc vẫn cân bằng. Sự cân bằng được dần hoàn thiện thông qua các bản vá lỗi thường xuyên (cập nhật trò chơi) được cung cấp bởi Blizzard . StarCraft có tính năng thông minh nhân tạo quy mô khá khó, mặc dù người chơi không thể thay đổi mức độ khó khăn trong chiến dịch chơi đơn. Mỗi chiến dịch bắt đầu với phe đối phương chạy chế độ AI dễ dàng, nhân rộng thông qua quá trình để đến chế độ AI khó nhất. Trong trình biên tập cung cấp cho trò chơi, một nhà thiết kế có quyền truy cập đến 4 mức độ AI khó khăn: "dễ dàng", "trung bình", "khó" và "mất trí", mỗi thiết lập khác nhau trong các đơn vị và công nghệ cho phép AI lên kế hoạch chiến lược và chiến thuật này . Phần chiến dịch chơi đơn bao gồm 30 nhiệm vụ, chia thành 10 cho mỗi chủng tộc. Đầu tiên, người chơi bắt đầu với chủng tộc Terran sau đó tới Zerg và cuối cùng là Protoss. Mở đầu và cuối mỗi phần chơi của một chủng tộc là những đoạn phim 3D để minh họa cho cốt truyện của trò chơi. Sau khi kết thúc cả ba phần, người chơi có thể tiếp tục bằng phần chơi tự chọn (Custom play), ở phần chơi này người chơi có thể chọn lựa chủng tộc cho mình, cho đối phương, chọn bản đồ, số lượng đối thủ v..v.. Đối thủ trong phần chơi này là AI của trò chơi với mức độ không quá khó để người chơi có thể trau dồi kỹ năng. Có hai cách chọn AI cho đối thủ là Melee và Free for All. Với Melee, người chơi phải đồi đầu với tất cả đối thủ AI, điều này có nghĩa là các đối thủ AI liên minh với nhau và người chơi là quân địch duy nhất. Còn với Free for All thì tất cả các đối thủ bao gồm cả người chơi lẫn AI đều là quân địch của nhau. Quản lý tài nguyên Các chủng tộc đều cần hai loại tài nguyên để duy trì nền kinh tế và xây dựng lực lượng: khoáng sản (Mineral) và khí đốt (Vespene Gas). Chúng được khai thác bởi các công nhân khai thác ("SCV" - Terran, "Drone" - Zerg và "Probe" - Protoss) và sẽ được đưa về căn cứ chính ("Command Center" - Terran, "Hatchery" - Zerg và "Nexus" - Protoss); người chơi có thể xây thêm căn cứ chính ở những vị trí khác cũng có mỏ khoáng sản trên bản đồ để tăng cường tài nguyên. Khoáng sản, có hình dáng như những khối pha lê màu xanh chồi lên từ lòng đất, cần thiết cho tất cả các đơn vị và công trình, thu được bằng cách sử dụng một công nhân khai thác trực tiếp. Khí đốt, nằm trong các chỏm núi và đòi hỏi phải có nhà máy chế biến ("Refinery" - Terran, "Extractor" - Zerg và "Assimilator" - Protoss) được xây ngay tại đó, cần thiết cho những đơn vị, công trình cấp cao hơn và những sự nâng cấp vũ khí. Xây dựng căn cứ Công trình của Protoss và Zerg được giới hạn đến các địa điểm cụ thể: công trình Protoss cần phải được liên kết với một mạng lưới năng lượng , trong khi hầu hết các công trình của Zerg phải được đặt trên một tấm thảm sinh khối, được gọi là "creep", đó là sản phẩm của các công trình nhất định . Công trình Terran có ít hạn chế, với một công trình chính nhất định sở hữu khả năng cất cánh và bay từ từ đến vị trí mới . Công trình Terran tuy nhiên lại yêu cầu đơn vị lao động tiếp tục xây dựng cho đến khi nó được hoàn tất. Ngoài ra, khi một công trình Terran nhận được một thiệt hại nhất định, nó sẽ bắt lửa và cuối cùng biến mất mà không có bất kì hành động nào của đối phương, mặc dù điều này có thể được ngăn ngừa bằng cách sửa chữa thực hiện bởi một đơn vị công nhân. Protoss, ngược lại, chỉ cần một đơn vị lao động để bắt đầu quá trình vận chuyển một tòa nhà đến vị trí hoạt động thông qua các sợi liên kết, và lá chắn công trình của họ (nhưng không phải chính công trình) có khả năng tự phục hồi. Đơn vị công nhân Zerg thì biến đổi thể chất thành công trình, có khả năng tự phục hồi. Mỗi công trình trong trò chơi lại có những công dụng riêng, trong khi quân đội được huấn luyện từ các nhà sản xuất quân thì một số công trình khác dùng để nâng cấp sức mạnh cho toàn quân đội hay nghiên cứu để có thể tạo ra được những đơn vị hay xây được các công trình cao cấp. Tạo ra mỗi đơn vị tốn một lượng tài nguyên cùng với một số lượng đòi hỏi về sự cung cấp quân nhu khác nhau. Số lượng quân tối đa người chơi có thể tạo phụ thuộc vào số lượng nhà cung cấp mà bạn có ("Supply Depot", "Overlord" và "Pylon") và số lượng cao nhất của sự cung cấp cho một chủng tộc là 200 - điều đó có nghĩa số lượng các đơn vị trong một chủng tộc cũng bị giới hạn. Khả năng xây dựng căn cứ mới, bảo vệ căn cứ, do thám đối phương, sử dụng tài nguyên hợp lý xây dựng quân đội và điều khiển quân chiến đấu là những yếu tố quyết định thắng lợi. Phần chơi mạng Như nhiều game chiến lược khác, StarCraft hỗ trợ chế độ thi đấu giữa các người chơi với nhau (multiplayer). Đây là điều đặc biệt có ý nghĩa với sự thành công của game trong khi trí tuệ nhân tạo (AI) của game khá kém khi phải đương đầu với những người chơi giàu kinh nghiệm. Một người chơi StarCraft đẳng cấp cao có thể một mình đánh bại máy trong trận chiến 1 đấu 7 chỉ trong 45 phút. StarCraft hỗ trợ chơi qua mạng nội bộ LAN, qua kết nối dial-up, qua internet thông qua kênh battle.net của Blizzard và qua kết nối máy tính của cổng COM. Tám người chơi có thể cùng chơi một lúc qua mạng LAN và battle.net, bốn người cho kết nối cáp trực tiếp và hai người cho kết nối qua modem . Battle.net là nơi cung cấp dịch vụ chơi trực tuyến miễn phí của Blizzard, ở đây, những người say mê StarCraft đã gặp nhau để chơi thành nhóm chống lại các đối thủ được máy tính điều khiển hay đấu với những nhóm chơi khác. Trong các trận đấu tập thể, nhiều người chơi có thể trong cùng một đội, cùng điều khiển một đơn vị hay chơi trong những đội riêng nhưng liên minh với nhau vì thế không lo sợ tấn công nhầm nhau.Các phe cánh dần phát triển để qui tụ những nhóm người chơi và để cạnh trạnh với các phe nhóm khác. Những phe này được tập trung lại với nhau do sự gặp gỡ ngẫu nhiên, do quan hệ ngoài xã hội hay do những mục đích chung như để chiến thắng những giải đấu lớn có tổ chức . Trong chế độ thi đấu nhiều người trực tuyến này, một số người chơi đã can thiệp, sửa đổi các client của StarCraft - phần mềm trò chơi được cài trên PC của người chơi để có thể tham gia chơi trực tuyến - để được hưởng những lợi thế không công bằng. Những lợi thế này bao gồm khả năng điều khiển được hơn 12 đơn vị cùng một lúc, không có sương mù (fog of war), có tài nguyên vô hạn hay mọi cách không công bằng để chiến thắng. Blizzard đã cố gắng phát hiện và cấm những người chơi sử dụng những client đã bị thay đổi này và cài đặt các phần mềm chống bẻ khóa để tạo sự công bằng trong battle.net. Trong năm 2003, hơn 400.000 tài khoản gian lận hay bị phát hiện hack đã bị khóa . Ngoài server battle.net của blizzard người chơi thường xây dựng cho mình nhiều server riêng. Nhưng con số người chơi StarCraft chơi trên battle.net cũng thật khổng lồ: trên 50.000 gamer bất kể thời điểm nào. Từ bản v1.08, StarCraft hỗ trợ lưu lại các trận đấu thành các bản replay để có thể xem lại diễn biến trận đấu trên mọi version của StarCraft. Các bản replay này cho phép người xem có thể học hỏi các chiến thuật trong trận đấu, vì vậy những bản replay của những trận đấu trình độ cao, chuyên nghiệp rất ít khi được công bố để giữ bí mật cho các đội và vì theo luật của các giải đấu chuyên nghiệp. Ngoài ra, người hâm mộ StarCraft thường ghi hình lại các trận đấu StarCraft chuyên nghiệp trên truyền hình rồi upload lên youtube để chia sẻ cho nhau, các file video đó thường được gọi là VOD (Video on demand). Phần tạo mới và sửa bản đồ Trò chơi được phát hành bao gồm có cả phần tạo mới và chỉnh sửa bản đồ (StarCraft Campaign Editor hay StarEdit) cho phép người chơi có thể tạo mới hay chỉnh sửa một phần hay toàn bộ bản đồ theo ý muốn của mình. Bên cạnh đó, cộng đồng Starcraft cũng đã phát triển những phần mềm chỉnh sửa bản đồ StarCarft riêng có thể giúp cho người sử dụng có thêm khả năng thể thay đổi trò chơi. Năm 1998, công ty Micro Star đã phát hành một đĩa CD phần mềm tạo bản đồ StarCraft - có tên Stellar Forces - với những chức năng cao cấp hơn so với StarEdit. Song sự phát hành đã bị buộc phải ngừng lại khi Blizzard đã thắng trong vụ kiện chống lại sự phát hành phần mềm này . Cốt truyện Thiết lập StarCraft diễn ra trong một vũ trụ khoa học viễn tưởng được tạo ra bởi Chris Metzen và James Phinney cho Blizzard Entertainment. Theo câu chuyện được trình bày trong mục hướng dẫn của trò chơi, việc quá tải dân số của Trái Đất trong thế kỷ 21 đã buộc các chính phủ quốc tế trục xuất các phần tử lưu vong của con người, chẳng hạn như tội phạm, và đột biến gien để họ xâm chiếm những nơi xa của thiên hà . Trong Koprulu Sector của thiên hà đã hình thành nhiều chính phủ lưu vong, nhưng nhanh chóng rơi vào cuộc xung đột với nhau. Một chính phủ thống nhất Terran, tên là Confederacy of Man cuối cùng đã nổi lên như là phe phái mạnh nhất, nhưng bản chất đàn áp và các phương pháp đàn áp tàn bạo các nhà đối lập của nó đã khuấy động sự chống đối và nổi loạn lớn trong hình thức của một nhóm khủng bố được gọi là Sons of Korhal - một tổ chức bán quân sự được dựng lên nhằm những mục đích tranh giành quyền lợi. Trong một thời gian ngắn trước khi bắt đầu của trò chơi, vào tháng 12 năm 2499, một chủng tộc ngoài hành tinh sở hữu công nghệ tiên tiến và năng lượng psionic, Protoss, tiến hành cuộc tiếp xúc đầu tiên với nhân loại bằng cách phá hủy một thuộc địa của Confederate mà không có bất kỳ cảnh báo trước. Ngay sau đó, Terran phát hiện ra rằng một chủng tộc ngoài hành tinh thứ 2, Zerg, đã lén lút lây nhiễm bề mặt một số thuộc địa Terran, và Protoss đang phá hủy các hành tinh đó để ngăn chặn sự lây lan của Zerg. Với Confederate bị đe dọa bởi 2 chủng tộc ngoài hành tinh và cuộc nổi loạn bên trong, nó bắt đầu sụp đổ . Nhân vật Người chơi giả định vai trò của 3 nhân vật vô danh trong quá trình của trò chơi. Trong chương đầu tiên, người chơi sẽ đóng vai trò như là một thẩm phán Confederate của một thuộc địa xa xôi hẻo lánh của Mar Sara, bị đe dọa bởi cả Zerg và Protoss, và buộc phải tham gia vào tổ chức nổi loạn Sons of Korhal sự lãnh đạo của Arcturus Mengsk. Chiến dịch của Mengsk được đi kèm với Jim Raynor, một sĩ quan thực thi pháp luật ở Mar Sara, và Sarah Kerrigan, một sát thủ tâm linh và chỉ huy thứ hai của Mengsk. Chương thứ hai của trò chơi thấy người chơi là một Cerebrate, một chỉ huy trong Zerg Swarm. Người chơi được cai trị bởi Overmind, biểu hiện của ý thức tập thể của Swarm và nhân vật đối kháng chính của trò chơi, và được đưa ra lời khuyên từ Cerebrates xếp hạng cao hơn. Trong phần cuối cùng của StarCraft, người chơi sẽ là một nhân viên mới được bổ nhiệm (gọi là Executor) trong quân đội Protoss, báo cáo cho Aldaris, một đại diện của chính phủ Protoss. Aldaris có mâu thuẫn với người nắm giữ vị trí cũ của người chơi, Tassadar, qua liên minh của ông với Zeratul, một thành viên của Dark Templar, một nhóm được coi là dị giáo bởi chính phủ Protoss . Cốt truyện Câu chuyện của StarCraft được trình bày thông qua mục hướng dẫn của nó, các cuộc giao ban với từng nhiệm vụ và các cuộc hội thoại trong chính nhiệm vụ, cùng với việc sử dụng các đoạn cắt cảnh điện ảnh tại các điểm quan trọng. Trò chơi được chia thành 3 tập, cho người chơi điều khiển 3 chủng tộc. Trong đoạn đầu tiên của trò chơi, người chơi cùng Jim Raynor cố gắng kiểm soát thuộc địa Mar Sara khi các cuộc tấn công của Zerg trên các thế giới khác của Terran bắt đầu. Sau khi bị Confederacy bắt giữ vì đã phá hủy tài sản của Confederacy, cho dù nó đã bị nhiễm khuẩn bởi Zerg, người chơi gia nhập tổ chức Sons of Korhal của Arcturus Mengsk . Raynor, người được giải phóng bởi quân đội của Mengsk, cũng tham gia và thường xuyên đi kèm với người chơi làm nhiệm vụ. Mengsk sau đó bắt đầu sử dụng công nghệ Confederacy chiếm được trên Mar Sara để thu hút Zerg tấn công trung tâm của Confederacy và phục vụ cho những mưu đồ của mình sau này . Sau khi ép buộc được Tướng Edmund Duke của Confederacy theo mình, Mengsk đã hy sinh viên chỉ huy phó của mình, Sarah Kerrigan cho Zerg để đảm bảo cho sự hủy diệt của Confederacy bằng cách thu hút Zerg đến thủ đô Tarsonis của Confederacy . Jim Raynor tỏ ra bất bình và bỏ đi cùng với người chơi và mang theo một đội quân nhỏ của lực lượng dân quân thuộc địa cũ của Mar Sara. Mengsk sau đó quản lý tất cả dân số Terran còn lại vào Terran Dominion, thâu tóm mọi quyền lực và tự phong cho mình là Hoàng đế . Chiến dịch thứ hai của trò chơi cho thấy rằng Kerrigan đã không bị giết bởi Zerg, mà là bị bắt và bị nhiễm khuẩn trong một nỗ lực để kết hợp đặc điểm psionic của cô và gen của Zerg. Cô do đó xuất hiện trở lại với rất nhiều sức mạnh psionic thể chất cùng với DNA của cô hoàn toàn thay đổi . Trong khi đó, chỉ huy Protoss là Tassadar phát hiện ra rằng, các Cerebrate của Zezg không thể bị giết bởi các phương tiện thông thường nhưng có thể bị tổn hại bởi những Dark Templar dị giáo. Tassadar do đó liên minh với thầy tế Zeratul của Dark Templar, người đã ám sát một trong những Zerg Cerebrates ở trong cụm tổ của chúng trên Char . Cái chết của Cerebrates khiến cho đám quân Zezg trở nên hỗn loạn, song cũng khiến cho ký ức của Overmind và Zeratul nhập lại trong khoảnh khắc, cho phép Overmind biết được địa điểm của Aiur, hành tinh quê hương bí hiểm của chủng tộc Protoss là nơi mà Overmind tìm kiếm trong suốt nhiều thiên niên kỷ. Zerg nhanh chóng xâm lược Aiur bất chấp lực lượng phòng vệ dày đặc của Protoss và Overmind có thể tự liên kết chính mình vào trong lớp vỏ của hành tinh , Tập cuối cùng của trò chơi cho thấy Aldaris và chính phủ Protoss kết tội Tassadar là một kẻ phản bội và theo dị giáo khi liên minh với những Dark Templar. Ban đầu, người chơi theo lệnh của Aldaris chiến đấu chống lại sự xâm lăng của quân Zerg ở Aiur, tuy nhiên, trong nhiệm vụ đi tìm bắt Tassadar, thay vì dẫn giải ông về, người chơi lại về phe của Tassadar . Một cuộc nội chiến do đó bùng nổ giữa Tassadar, Zeratul và các đồng minh của họ với Hội đồng Protoss. Các Dark Templar chứng minh giá trị của họ khi sử dụng năng lượng của mình để kết liễu hai Cerebrate của Zerg và Hội đồng mới giải hòa với phe của Tassadar . Với sự hỗ trợ của Jim Raynor và quân đội của anh là người đứng về phía Tassadar lúc ở Char, cuối cùng, sau khi đã phá hủy được tấm vỏ chắn của Overmind và gặp thương vong nặng nề trong quá trình, Tassadar đã chuyển năng lượng psionic của mình và các Dark Templar vào thân tàu chỉ huy của ông là Gantrithor và đâm thẳng vào Overmind, hy sinh bản thân để phá hủy nó . Phát triển Blizzard Entertainment đã bắt đầu quy hoạch phát triển StarCraft vào năm 1995, ngay sau khi bắt đầu sự phát triển của Diablo . Sử dụng egine của Warcraft II làm cơ sở, StarCraft ra mắt tại E3 1996. Phiên bản của trò chơi được hiển thị bởi lập trình viên lãnh đạo của nhóm là Bob Fitch đã nhận được một phản ứng không tốt từ hội nghị và bị chỉ trích bởi nhiều người là "Warcraft trong không gian" . Như một hệ quả toàn bộ dự án đã được đại tu, nâng tập trung vào việc tạo ra 3 loài riêng biệt. Bill Roper, một trong những nhà sản xuất của trò chơi, tuyên bố đây sẽ là một khác biệt lớn từ phương pháp tiếp cận của Warcraft và nói rằng StarCraft sẽ cho phép người chơi "phát triển nhiều chiến lược độc đáo trên cơ sở của loài [được chơi], và sẽ đòi hỏi [chơi] việc nghĩ về các chiến lược khác nhau để chống lại hai loài khác" . Vào đầu năm 1997, phiên bản mới của StarCraft được công bố và nhận được rất nhiều phản ứng tích cực hơn. Tuy nhiên, game vẫn gặp trở ngại bởi những khó khăn kỹ thuật, do đó, Bob Fitch hoàn toàn thiết kế lại egine Warcraft II trong vòng 2 tháng để đảm bảo nhiều tính năng mong muốn của nhà thiết kế, chẳng hạn như khả năng cho các đơn vị để đào hang và ẩn, có thể được thực hiện . Các cải tiến sau này cho trò chơi bao gồm các đoạn họa tiết và hình nền, xây dựng bằng 3D Studio Max. Các sometric trong trò chơi cũng được xem tại, trái ngược với tầm nhìn 3/4s của Warcraft II. Ngoài ra, trò chơi cũng sử dụng âm nhạc chất lượng cao, sáng tác bởi nhà soạn nhạc thường trú của Blizzard, và diễn viên lồng tiếng chuyên nghiệp đã được thuê . Mặc cho tiến độ phát triển, StarCraft vẫn còn chậm xuất hiện. Việc trì hoãn liên tục lấy cảm hứng cho một nhóm người hâm mộ StarCraft trên các diễn đàn chính thức mang tên "Operation: Can't Wait Any Longer" để viết một loạt các câu chuyện hư cấu, trong đó các thành viên của Operation CWAL cố gắng lấy được phiên bản beta của StarCraft từ trụ sở Blizzard tại Irvine, California . Để tỏ lòng kính trọng với sự hiện diện của họ trên các diễn đàn và sự nhiệt tình với trò chơi, Blizzard Entertainment sau đó kết hợp tên nhóm vào StarCraft là một cheat code để tăng tốc độ sản xuất của các đơn vị và đã cho nhóm một khoản tín dụng . Trò chơi được phát hành cho Windows vào 31 tháng 3 năm 1998 . với phiên bản Mac OS một năm sau đó vào tháng 3 năm 1999 . Sự phát triển của phiên bản StarCraft 64 trên Nintendo 64, bắt đầu vào năm 1999, được chuyển đổi từ PC bởi Mass Media Interactive Entertainment-công ty con của THQ , và xuất bản bởi Nintendo . StarCraft 64 đã được phát hành vào ngày 13 tháng 6 năm 2000 tại Mỹ và 16 tháng 6 cùng năm tại châu Âu . Audio Âm nhạc của StarCraft được soạn bởi nhà soạn nhạc giải trí trong nhà của Blizzard. Derek Duke và Glenn Stafford soạn các bài hát trong menu và âm nhạc trong trò chơi, trong khi Jason Hayes sáng tác âm nhạc được sử dụng trong phim cắt cảnh. Tracy W. Bush cung cấp hỗ trợ thêm trong việc sáng tác . Âm nhạc của trò chơi cũng đã được nhận xét tốt bởi một người nhận xét, người đã mô tả nó như "một cách thích hợp giai điệu và bóng tối" và "ấn tượng" , với một người xem chú ý là một số bài nhạc còn nợ rất nhiều cảm hứng từ âm nhạc mà Jerry Goldsmith soạn thảo cho bộ phim Alien . Nhạc trò chơi chính thức đầu tiên là StarCraft: Game Music Vol. 1, được phát hành vào năm 2000, bao gồm các bài nhạc từ cả StarCraft và Brood War, cũng như một phần khá lớn các bài nhạc remix và nhạc lấy cảm hứng từ StarCraft, được tạo ra bởi một số DJ Hàn Quốc. Âm nhạc đã được phân phối bởi Net Vision Entertainment . Vào tháng 9 năm 2008, Blizzard Entertainment thông báo rằng một nhạc trò chơi thứ hai, Starcraft Original Soundtrack, được phát hành trên iTunes. Nhạc này bao gồm toàn bộ các bản nhạc gốc từ StarCraft và Brood War, cả hai từ chủ đề trong trò chơi âm nhạc được sử dụng trong phim cắt cảnh . Các bản mở rộng và phần tiếp Bản mở rộng trên PC Ngay trước khi phát hành StarCraft, Blizzard Entertainment phát triển một phần mềm chia sẻ chiến dịch demo của trò chơi là Loomings. Bao gồm 3 nhiệm vụ và một hướng dẫn, chiến dịch này hành vi như là một phần trước cho các sự kiện của StarCraft, diễn ra trên một thuộc địa Confederacy of Man trong quá trình bị tràn ngập bởi Zerg . Trong năm 1999, Blizzard Entertainment đã làm cho phần trước này có sẵn cho trò chơi đầy đủ như là một bản đồ chiến dịch tùy chỉnh, bổ sung thêm 2 nhiệm vụ bổ sung và lưu trữ nó trên Battle.net . Ngoài ra, phiên bản đầy đủ của StarCraft bao gồm một chiến dịch phụ được gọi là Enslavers. Bao gồm 5 nhiệm vụ chơi như là Terran và Protoss, Enslavers được đặt trong chiến dịch thứ hai trong StarCraft và theo sau những câu chuyện của một tay buôn lậu Terran, người đã kiểm soát một Zerg Cerebrate và bị truy đuổi cả Protoss và Terran Dominion. Enslavers hoạt động như một chiến dịch chơi đơn mẫu mực cho trò chơi của cấp trình soạn thảo, nêu bật cách sử dụng các tính năng của chương trình Bản mở rộng đầu tiên, Insurrection được phát hành cho Windows ngày 31 tháng 7 năm 1998 . Nó được phát triển và phát hành bởi công ty Aztech New Media dưới sự đồng ý của Blizzard Entertainment . Câu truyện của nó tập trung vào vùng thuộc địa riêng biệt của Confederate được ám chỉ trong hướng dẫn sử dụng của StarCraft, theo sau một nhóm thực dân Terran và hạm đội Protoss trong cuộc chiến chống lại Zerg và một cuộc nổi dậy tại địa phương. Và cũng giống như ở StarCraft, người chơi cũng điều khiển lần lượt cả ba chủng tộc trong ba phần chơi riêng biệt. Ở phần đầu, đế chế Terran vừa phải phòng thủ quân Zerg đồng thời vừa phải chống lại quân nổi dậy ngày càng lớn mạnh. Trong khi đó, ở phần sau, người chơi sẽ điều khiển chủng tộc Protoss trong nhiệm vụ phá hủy tất cả những thành phố, hành tinh bị nhiễm khuẩn Zerg và phần cuối cùng, người chơi vào vai một Cerebrate để chỉ huy quân Zerg tiến hành quét sạch mọi đối thủ mà nó gặp. Bản add-on này chỉ đơn thuần bao gồm những phần chơi Single player mới cùng một số bản đồ dành cho Multiplayer, nó không có những đơn vị hay các mẫu địa hình mới.. Insurrection được đánh giá là không đạt được chất lượng cũng như sự đặc biệt như bản gốc và dù Blizzard Entertainment đã cho phép phát hành, công ty này cũng không đưa ra một lời bình luận nào về nó.. Retribution là bản add-on thứ hai trong số hai bản add-on được Blizzard Entertainment cho phép phát hành cho StarCraft trong vòng vài tháng sau Insurrection. Nó được công ty Stardock phát triển và được WizardWorks Software phát hành cho máy PC vào cuối năm 1998. Bối cảnh của phiên bản này được đặt vào thời điểm trong phần hai của bản StarCraft gốc, xoay quanh việc giành lấy một viên pha lê mang năng lượng khổng lồ - cầu nối với chủng tộc Xel'Naga xa xưa trêm một thuộc địa của Terran Dominion. Cũng được chia ra làm 3 phần chơi, Retribution đưa người chơi lần lượt vào vai của Người thừa hành dẫn đầu hạm đội Protoss, chỉ huy lực lượng đặc nhiệm của đế chế Terran và một Cerebrate của Zerg. Tất cả nhiệm vụ của cả ba phần chơi là bằng mọi giá phải chiếm được viên pha lê và mang nó ra khỏi hành tinh nhanh nhất có thể. Cũng giống như bản add-on ra trước nó, Retribution không hỗ trợ điểm gì mới ngoài những phần chơi một người và các bản đồ hỗ trợ chơi nhiều người. Phiên bản này thậm chí còn không nhận được những lời phê bình và thay vì ở mức trung bình, nó không được thừa nhận, sau đó, cùng chung số phận với Insurrection, Retribution cũng không được phổ biến rộng rãi . . StarCraft: Brood War là phiên bản mở rộng chính thức của StarCraft, được đồng phát triển bởi Saffire và Blizzard Entertainment, phát hành cho PC và Mac OS vào 30 tháng 11 năm 1998 tại Hoa Kỳ , sau đó tiếp tục được phát hành cho hệ máy Nitendo 64 dưới tên StaCraft 64 vào 13 tháng 6 năm 2000 . Bản mở rộng này được đánh giá là cải thiện đáng kể phiên bản gốc và đã nhận được rất nhiều lời khen ngợi từ các game thủ cũng như các đánh giá chuyên môn. Phiên bản Brood War tiếp tục cốt truyện đã được kết thúc ở phiên bản chính thức cho phần Single player: Tiếp tục theo bước của chủng tộc Protoss trên hành trình đấu tranh cho sự sống còn của mình, sự trỗi dậy của Zerg song hành với quyền lực ngày càng lớn của Sarah Kerrigan và sự can thiệp của một thế lực mới là Chính phủ Trái Đất. Phiên bản mở rộng này cũng bổ sung thêm 7 đơn vị mới cùng các khả năng khác nhau để làm đa dạng hóa các chiến thuật cũng như hoàn thiện tính cân bằng giữa các chủng tộc . Ngoài ra, nó cũng cải thiện thêm những công cụ tạo kịch bản mới cho Phần tạo mới và sửa bản đồ (StarCraft Campaign Editor) khiến người sử dụng có thể dễ dàng thêm kịch bản cho những phần chơi tự tạo. Trước Insurrection, một gói mở rộng trái phép, gọi là Stellar Forces, đã được xuất bản bởi Micro Star nhưng đã được thu hồi tuần sau khi Blizzard đã thắng kiện chống lại nó. Nó bao gồm 22 bản đồ chơi đơn và 32 bản đồ chơi mạng khá đơn giản . Phiên bản Nintendo 64 Năm 2000, StarCraft 64 đã được phát hành cho Nintendo 64, đồng phát triển bởi Blizzard Entertainment và Mass Media Inc.. Trò chơi đặc trưng tất cả các nhiệm vũ của cả Starcraft và bản mở rộng Brood War, cũng như một số nhiệm vụ độc quyền, chẳng hạn như 2 hướng dẫn khác nhau và một nhiệm vụ bí mật mới, Resurrection IV . Resurrection IV được thiết lập sau khi kết thúc Brood War, theo sau Jim Raynor bắt tay vào nhiệm vụ giải cứu nhân vật Brood War là Alexei Stukov, một phó đô đốc từ Trái Đất là người bị bắt bởi Zerg. Các nhiệm vụ của Brood War yêu cầu việc sử dụng một bộ nhớ Expansion Pak của Nintendo 64 để chạy . Ngoài ra, StarCraft 64 có tính năng chia màn hình, cho phép 2 người chơi điều khiển một lực lượng trong trò chơi . StarCraft 64 đã không được phổ biến như các phiên bản PC, và thiếu nhiều tính năng trực tuyến và phát biểu tại cuộc họp nhiệm vụ. Ngoài ra, các đoạn cảnh cắt đã được rút ngắn . Blizzard Entertainment trước đây có ý định để một phiên bản PlayStation của trò chơi, nhưng sau cùng đã quyết định rằng trò chơi sẽ được phát hành trên Nintendo 64 . Phần tiếp theo StarCraft: Ghost StarCraft: Ghost là một trò chơi thuộc thể loại nhập vai hành động ở góc nhìn thứ 3 cho dòng máy console được phát triển dưới sự giám sát của Blizzard Entertainment. Được công bố vào năm 2002, trò chơi liên tục nhiều lần phải dời lại thời điểm phát hành với nhiều lý do, mà đáng chú ý nhất là thay đổi nhóm phát triển trò chơi từ công ty Nihilistic Software sang công ty Swingin' Ape Studios vào tháng 7 năm 2004. Những thông báo về trò chơi trở nên thưa thớt dần, các công nghệ đồ họa và thiết kế trò chơi trở nên lỗi thời và đã có ý kiến nên hủy bỏ việc tiếp tục phát triển nó. Cuối cùng, vào ngày 24 tháng 3 năm 2006, Blizzard chính thức công bố hoãn vô thời hạn việc phát triển StarCraft: Ghost. StarCraft: Ghost có bối cảnh đặt vào thế giới của StarCraft, nội dung xoay quanh một nhân viên đặc nhiệm tình báo có khả năng ngoại cảm (đơn vị Ghost) biệt danh Nova (còn được biết dưới tên Agent 12-862) thuộc Trung đoàn Nova, Terran Dominion và những âm mưu liên quan đến những nhân vật trong bản StarCraft nguyên gốc. StarCraft II StarCraft II là một trò chơi chiến thuật thời gian thực và là bản tiếp theo chính thức của StarCraft được phát triển cho PC và Mac OS X bởi Blizzard Entertainment. Nó đã được công bố trong buổi lễ Worldwide Invitational ngày 19 tháng 5 năm 2007 với một đoạn phim giới thiệu được dựng bằng đồ họa 3D và một đoạn gameplay của chủng tộc Protoss . Tại hội nghị BlizzCon tháng 8 năm 2007, một bản gameplay nữa của chủng tộc Terran và một số điểm đặc biệt của phần chơi đơn cũng được giới thiệu . StarCraft II đã sử dụng phối hợp nhiều công nghệ đồ họa 3D mới (VD như công nghệ tương tác vật lý ảo Havok...) để thực hiện việc phát triển , nó cũng tương thích với chuẩn DirectX 10 . Nội dung câu chuyện của phiên bản này được tiếp tục 4 năm sau khi Brood War kết thúc . Ngày 27 tháng 7 năm 2010, Starcraft II được phát hành trên toàn thế giới và được chia thành 3 đợt: trò chơi cơ bản với tựa đề Wings of Liberty, và hai bản mở rộng sắp tới, Heart of the Swarm và Legacy of the Void . Ảnh hưởng văn hóa Thành công và đánh giá StarCraft được phát hành quốc tế vào ngày 31 tháng 3 năm 1998 và trở thành trò chơi trên PC bán chạy nhất năm đó với hơn 1.5 triệu bản được bán ra trên toàn thế giới . Trong thập kỷ tới, StarCraft đã tiêu thụ được hơn 9.500.000 bản trên toàn cầu với 4.500.000 bản được bán tại Hàn Quốc . Từ khi StarCraft ra mắt đầu tiên, Blizzard Entertainment thông báo rằng dịch vụ trực tuyến Battle.net của nó đã tăng 800 phần trăm . Starcraft do đó trở thành một trong những trò chơi trực tuyến phổ biến nhất trên toàn thế giới . Nói chung, StarCraft đã nhận được đánh giá tích cực của các nhà phê bình, với nhiều nhận xét ​​đương thời ghi nhận rằng trong khi trò chơi có thể không có chênh lệch đáng kể so với các trò chơi chiến lược thời gian thực hay nhất cùng thời, đó là một trong những tốt nhất để có áp dụng công thức . Ngoài ra, việc StarCraft tiên phong sử dụng 3 chủng tộc độc đáo và cân đối để tạo sự khác biệt so với hai phe cân bằng được ca ngợi bởi các nhà phê bình , với GameSpot bình luận rằng điều này đã giúp trò chơi "tránh được vấn đề đã cản các trò chơi khác cùng thể loại" . Nhiều nhà phê bình cũng ca ngợi sức mạnh của câu chuyện đi kèm với trò chơi, với một số nhận xét về ấn tượng tốt về việc câu chuyện đã được xếp vào lối chơi này . Các diễn viên lồng tiếng của trò chơi đã được khen ngợi; GameSpot sau đó ca ngợi công tác giọng nói trong game là một trong 10 cái tốt nhất trong ngành công nghiệp thời đó . Tương tự, nhiều khía cạnh của trò chơi đã nhận được tích cực. StarCraft đã nhận được nhiều giải thưởng, bao gồm cả việc được đặt tên là một trong những trò chơi tốt nhất của mọi thời đại bởi cả GameSpot và IGN . Theo Blizzard Entertainment, StarCraft đã giành được 37 giải thưởng, và đã nhận được một ngôi sao trên sàn của Metreon là một phần của Walk of Game ở San Francisco đầu năm 2006 . IGN xếp StarCraft vào vị trí thứ 7 trong bảng danh sách "100 trò chơi hay nhất mọi thời đại" trong cả hai năm 2003 và 2005, gọi nó là "một game chiến lược thời gian thực hay nhất từng có" . Vị trí thứ 2 trong bảng trò chơi dòng PC hay nhất cũng thuộc về StarCraft đứng sau Civilization II .. Cũng như IGN, GameSpot cũng đánh giá StarCraft là một trong những trò chơi hay nhất mọi thời đại . Mặc dù tại thời đồ họa và âm thanh của StarCraft đã được ca ngợi bởi các nhà phê bình , cá đánh giá sau đó đã lưu ý rằng các hình ảnh đã không ở độ tuổi tốt so với nhiều trò chơi hiện đại . Năng lực AI của các trò chơi để điều hướng đi của các đơn vị cũng phải đối mặt với một số lời chỉ trích nặng nề, với PC Zone nói rằng không có khả năng cho các nhà phát triển để làm cho một hệ thống tìm đường hiệu quả là "yếu tố đáng căm giận duy nhất của thể loại chiến lược thời gian thực" . Ngoài ra, một số nhận xét ​​bày tỏ lo ngại về một số sự giống nhau giữa các công trình và đơn vị của mỗi chủng tộc, cũng như sự mất cân bằng về tiềm năng của việc người chơi sử dụng chiến thuật "rush" vào bắt đầu của phần chơi mạng . Blizzard Entertainment do đó cố gắng để cân bằng chiến thuật "rush" trong các bản cập nhật sau đó. Phiên bản Nintendo 64 của trò chơi đã không nhận được đón nhận tích cực bởi nhận xét, và đã bị chỉ trích vì đồ họa nghèo nàn so với phiên bản PC. Tuy nhiên, các nhà phê bình vẫn ca ngợi trò chơi và Mass Media về việc sử dụng điều khiển hiệu quả trên gamepad và duy trì chất lượng âm thanh cao . Di sản Việc StarCraft''' sử dụng 3 chủng tộc khác nhau thường được ghi nhận là tạo ra cuộc cách mạng trong thể loại chiến lược thời gian thực. GameSpot miêu tả StarCraft là "trò chơi định nghĩa cho thể loại của nó. Đây là tiêu chuẩn mà tất cả các trò chơi chiến lược thời gian thực cần được đánh giá theo" trong khi IGN nói rằng StarCraft "nói thẳng ra là một trong những tốt nhất, nếu không phải là trò chơi chiến lược thời gian thực tốt nhất từng được tạo ra" . StarCraft là thường xuyên có mặt trong bảng xếp hạng ngành công nghiệp trò chơi hay nhất, với nó được xếp hạng 37 trong top 100 trò chơi của mọi thời đại bởi Edge . Starcraft thậm chí còn được đưa vào không gian, như là Daniel Barry lấy một bản sao của các trò chơi với mình trên sứ mệnh tàu con thoi STS-96 vào năm 1999 . Sự nổi tiếng của StarCraft được Sách Kỷ lục Guinness trao giải thưởng 4 kỷ lục thế giới về rò chơi, bao gồm cả "Trò chơi Chiến lược máy tính bán chạy nhất", "Thu nhập lớn nhất trong game chuyên nghiệp", và "Số lượng khán giả lớn nhất cho một cuộc thi Game" khi hơn 120 000 người hâm mộ đi xem trận cuối cùng của mùa SKY năm 2005 tại Busan, Hàn Quốc . Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng các đối tượng xem StarCraft rất đa dạng và Starcraft thường sử dụng thông tin đối xứng để làm cho trò chơi giải trí cho khán giả nhiều hơn . Ngoài ra, StarCraft đã là chủ đề của một khóa học; UC Berkeley đã đưa ra một khóa học giới thiệu học sinh về lý thuyết và chiến lược vào mùa xuân năm 2009 . Động từ "to Zerg" đã bước vào sử dụng chung như là một thuật ngữ trò chơi để nói về chiến thuật tấn công ào ạt một đối thủ với một lực lượng rất lớn của các đơn vị yếu Sau khi phát hành, StarCraft nhanh chóng trở nên phổ biến tại Hàn Quốc và được đặc biệt hâm mộ như một môn thể thao thực sự . Các đội game thủ chuyên nghiệp thành lập có huấn luyện viên, người quản lý, nhà tài trợ, thi đấu trong các giải đấu tầm cỡ quốc gia được truyền hình trực tiếp ở 3 kênh truyền hình với hàng ngàn người hâm mộ ngồi xem trực tiếp và hàng triệu khán giả theo dõi qua màn ảnh nhỏ được so sánh với các giải bóng đá chuyên nghiệp ở châu Âu. Có những đấu thủ chuyên nghiệp nổi tiếng cũng thành lập các câu lạc bộ dành cho những người hâm mộ lên tới nửa triệu người như Lim Yo-Hwan (với biệt danh trong game là SlayerS `BoxeR`) và các đấu thủ này cũng có thu nhập nhờ chơi game, như Lee Yun-Yeol, một đấu thủ điều khiển quân Terran với biệt danh [Red]NaDa đã kiếm được tới 200.000 USD trong năm 2005 (224,966 $ trong năm 2011) . Có hai kênh truyền hình chính thường tường thuật các trận đấu ở Hàn Quốc là Ongamenet và MBCGame. Mỗi kênh tổ chức thường xuyên một giải đấu StarCraft chuyên nghiệp. Ngoài ra Starcraft cũng luôn là game thi đấu thường trực trong giải thể thao điện tử lớn nhất hành tinh: World Cyber Games.StarCraft là một phần của khóa học hàng không cơ bản thuộc Không quân Hoa Kỳ, được sử dụng để dạy cho hoạt động quan mới về lập kế hoạch khủng hoảng căng thẳng và làm việc theo nhóm dịch vụ chung . Những nỗ lực khác để thực hiện thêm cuộc chiến phần mềm hiện nay 'thực tế' đã dẫn đến phiền nhiễu khi mô phỏng phần cứng không phù hợp với các phần cứng hoạt động thực sự quan thuế biết. Thiết lập khoa học viễn tưởng của trò chơi cho phép học sinh tập trung vào các chiến thuật chiến đấu. Những sản phẩm theo trò chơi Với một số lượng lớn những người hâm mộ chìm đắm trong thế giới của StarCraft, nhiều cuốn tiểu thuyết chính thức cũng như các eBook viết về các cuộc phiêu lưu trong thế giới này cũng ra đời. Đầu tiên có thể kể đến StarCraft: Uprising được viết bởi nhân viên Blizzard là Micky Neilson và xuất bản trong năm 2000, hoạt động như một phần trước cho các sự kiện của StarCraft . Các tiểu thuyết khác là StarCraft: Liberty's Crusade của Jeff Grubb và StarCraft: Queen of Blades của Aaron Rosenberg , kể lại câu chuyện của trò chơi từ các quan điểm khác nhau. Tại BlizzCon năm 2007, tác giả Starcraft là Chris Metzen đã nói rằng ông hy vọng sẽ tiểu thuyết hóa toàn bộ StarCraft và bản mở rộng Brood War vào một câu chuyện dựa trên văn bản dứt khoát. Các tiểu thuyết sao đó chẳng hạn như StarCraft: Shadow of the Xel'Naga của Gabriel Mesta và StarCraft: The Dark Templar Saga của Christie Golden tiếp tục mở rộng cốt truyện, tạo ra các thiết lập cho StarCraft II. Nhà xuất bản Simon & Schuster cũng công bố phát hành cuốn StarCraft: the Dark Templar Saga #1: Firstbornvào cuối tháng 5 năm 2007 và cuốn StarCraft: the Dark Templar Saga#2: Shadow Hunters vào tháng 11 năm 2007. Một số nhân vật hành động và tượng sưu tập dựa trên các nhân vật và các đơn vị trong StarCraft đã được sản xuất bởi ToyCom . Một số bộ dụng cụ mô hình, được thực hiện bởi Học viện Sở thích Model Kits, cũng được sản xuất, hiển thị quy mô 1/30 các phiên bản "Marine" và "Hydralisk" . Ngoài ra Blizzard Entertainment cũng đã chấp thuận cho sự phát hành hai truyện ngắn trong tạp chí Amazing Stories, có tựa StarCraft: Hybrid và StarCraft: Revelations , Ngoài ra Blizzard Entertainment hợp tác với Fantasy Flight Games để tạo một bộ trò chơi được gọi là StarCraft the Board Game vào tháng 10 năm 2007 với các tác phẩm điêu khắc chi tiết của các nhân vật game.. Blizzard cũng cấp phép cho công ty phát hành game Wizards of the Coast phát hành trò chơi StarCraft Adventures đặt trong thế giới StarCraft''. Những cuốn truyện tranh và các tượng đồ chơi cũng được tạo ra dựa theo thế giới hay các nhân vật trong StarCraft . Chú thích
Alexandros III của Macedonia (, ), thường được biết đến rộng rãi với cái tên Alexander Đại đế (tiếng Hy Lạp: Megas Alexandros, tiếng Latinh: Alexander Magnus), hay còn được một số tài liệu tiếng Việt gọi bằng tên Hán-Việt A Lịch Sơn đại đế (20/21 tháng 7 năm 356 TCN – 10/11 tháng 6 năm 323 TCN), là basileus (quốc vương) thứ 14 thuộc nhà Argead của Vương quốc Macedonia cổ đại. Trong suốt cuộc đời binh nghiệp của mình, Alexandros đã chinh phạt gần như toàn bộ thế giới mà người châu Âu thời đó biết đến trước khi qua đời và vì thế thường được xem là một trong những vị tướng thành công nhất, cũng như một trong những chiến lược gia quân sự vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại. Sau khi các thành bang Hy Lạp cổ đại được thống nhất dưới sự cai trị của vua cha Philipos II, Alexandros chinh phục Đế chế Ba Tư, bao gồm cả Tiểu Á, Syria, Phoenicia, Gaza, Ai Cập, Bactria và Lưỡng Hà và mở rộng biên cương đế chế của ông đến tận Punjab thuộc Ấn Độ ngày nay. Chiến thắng của ông trước quân Ba Tư trong trận Gaugamela – chiến thắng quyết định thứ ba của ông trước vua Ba Tư Darius III – được xem là một trong những chiến công hiển hách nhất trong thời kỳ cổ đại; không những thế ông còn đánh tan tác người Scythia – một dân tộc bách chiến bách thắng thời bấy giờ. Alexandros thực hiện một chính sách hòa hợp: ông đưa cả những người ngoại quốc (không phải người Hy Lạp hay người Macedonia) vào chính quyền và cả quân đội của mình, khuyến khích hôn nhân giữa các tướng sĩ của mình với người nước ngoài và chính ông cũng lấy vợ ngoại quốc. Sau mười hai năm liên tục thân hành cầm quân đánh đâu thắng đó, vua Alexandros Đại Đế qua đời, có lẽ là bởi sốt rét, thương hàn, hay viêm não do virút. Có người cho rằng ông mất do bị đầu độc bởi các quan chức Hy Lạp thời đó. Di sản của Alexandros bao gồm sự phổ biến văn hóa và sự nguyên hợp hình thành nên từ những tác động do các cuộc chinh phạt của ông đã gây ra, mà điển hình là Phật giáo Hy Lạp. Ông đã cho thành lập khoảng bảy mươi thành phố mang tên mình, nổi bật nhất trong số đó là Alexandria ở Ai Cập. Những thành phố mới được di dân Hy Lạp sinh sống, cùng với sự truyền bá rộng rãi của văn hóa Hy Lạp ở phía đông đã tạo nên một văn minh Hy Lạp mới, mà những khía cạnh vẫn còn thể hiện rõ trong những phong tục tập quán của Đế quốc Đông La Mã còn tồn tại đến gần 2000 năm sau. Bản thân ông cũng sống trong lịch sử và trong các truyền thuyết của các nền văn hóa Hy Lạp và không Hy Lạp. Ngay khi ông còn sống, và đặc biệt sau khi ông qua đời, những cuộc chinh phạt của ông đã là nguồn cảm hứng của một truyền thống văn học mà trong đó ông xuất hiện như là một anh hùng huyền thoại theo truyền thống của Achilles (Asin) năm xưa. Ông bất bại trên chiến trường và trở thành thước đo của các vị chỉ huy quân sự. Cho tới ngày nay, các học viện quân sự trên khắp thế giới vẫn giảng dạy chiến thuật của ông. Alexandros Đại Đế thường được xếp hạng là một trong số những người có ảnh hưởng nhất mọi thời đại. Thời thơ ấu Sinh ra Alexandros sinh ra tại Pella, kinh đô của vương quốc Macedonia, vào ngày 20 hoặc 21 tháng 7 năm 356 TCN. Ông là con trai của vua Macedonia Philippos II thuộc vương triều Argos và người vợ thứ tư là Olympias, công chúa xứ Ipiros thuộc vương triều Aiakides. Dù Philippos II có tới tận 7 hoặc 8 bà vợ, nhưng Olympias đã từng có khoảng thời gian làm chính thất, có lẽ là vì bà đã hạ sinh ra Alexandros. Sau khi Alexandros lên một tuổi, mẹ ông cũng đã hạ sinh cho ông một người em gái tên là Cleopatra vào năm 355. Ông là cháu gọi vua Alexandros Molossus của Ipiros bằng cậu. Thông qua cha mình, Alexandros được coi là hậu duệ của Temenos, một người mà bản thân ông được cho là hậu duệ của anh hùng Heracles, con trai thần Zeus. Thông qua mẹ của mình, Alexandros được coi là là hậu duệ của Neoptolemos, con trai Achilles – chiến binh vĩ đại nhất của quân Hy Lạp trong cuộc chiến thành Troia. Có nhiều truyền thuyết xung quanh sự sinh ra và thời thơ ấu của Alexandros. Sử gia Plutarchus ghi lại rằng, nhiều lần ngủ trên giường với vua, hoàng hậu Olympias thích nằm chung với rắn. Có người cho rằng đây là nguyên nhân lớn nhất khiến cho nhà vua ghẻ lạnh với bà và vì vậy, vua không nằm nhiều với bà. Plutarchus cũng kể đến một câu chuyện khác rằng trong đêm trước khi cặp đôi Olympias – Philippos kết hôn với nhau, Olympias nằm mộng thấy sấm sét đánh vào tử cung của bà, và một ngọn lửa sáng rực tự gieo rắc nó thành nhiều đống lửa khác nhau. Còn vua Philippos II thì chiêm bao thấy mình niêm phong tử cung của Olympias, và con dấu niêm phong của ông có in hình một con mãnh sư. Plutarchus cũng đưa ra nhiều giả thuyết khác nhau về những giấc mơ này: Olympias thực chất đã mang thai trước khi cưới Philippos hoặc thần Zeus mới chính là cha ruột của ông. Aristandros xứ Telmessus cho rằng Hoàng hậu Olympias đang có thai và thai nhi của bà chứa một hoàng nam có tính khí của loài mãnh sư. Các bình luận gia cổ đại đã không thống nhất về việc một Olympias đầy tham vọng đã truyền bá nguồn gốc thần thánh của Alexandros như thế nào, nhiều ý kiến cho rằng bà đã nói điều này với Alexandros nhưng cũng có ý kiến cho rằng bà đã bác bỏ điều này vì nó chẳng tiết hạnh cho lắm. Tuy nhiên, có nhiều tài liệu đã đề cập đến việc Alexandros sử dụng những truyền thuyết này cho mục đích chính trị và ông từng có lần tự nhận mình là con của thần ngay trước mặt phụ vương khi hai người cãi nhau. Một truyền thuyết khác có niên đại từ thế kỷ thứ 3, xuất phát từ Alexandria và được cho là bởi một người gọi là Callisthenes Giả nói rằng, Alexandros thực ra là con trai của vị pharaon cuối cùng của vương triều thứ 30 của Ai Cập Nectanebo II. Sau khi bị Artaxerxes III của Ba Tư đánh bại, Nectanebo II đã phải sống lưu vong tại triều đình của Philippos II ở Pella. Vào ngày Alexandros được sinh ra, Philippos đang cầm quân vây hãm thành phố Potidea trên bán đảo Chalkidiki. Cũng trong ngày hôm đó, Philippos nhận được tin rằng tướng Parmenion đã đại phá tan tác liên quân Illyria và Paionia, và con ngựa của ông thắng giải và đạt được vòng nguyệt quế trong kỳ thế vận hội tại Olympia lần này. Plutarchus nói rằng, cũng trong ngày hôm đó, ngôi đền thờ thần Artemis ở Ephesos, một trong Bảy kỳ quan thế giới cổ đại, bị cháy rụi. Hegesias xứ Magnesius có chứng kiến trận cháy kinh hoàng này và lời than vãn cùng tiếng kêu ca của nữ thần Artemis thật quá lạnh lẽo đến mức nó có thể làm dập tắt đám cháy. Điều đó dẫn đến lời đồn đại rằng ngôi đền đã bị cháy là do Artemis không trông coi tại đó do bà đang phải coi sóc vị vua tương lai Alexandros. Tuy nhiên, mọi giáo sĩ, nhà tiên tri và thầy pháp ở đều dự báo về sự đến gần của một hiểm họa cực kỳ nghiêm trọng: nét mặt họ hết sức hoảng sợ, họ phải chạy quanh, rồi chạy vào thành phố Ephesos vào kêu ca rằng, trận cháy là điềm báo trong ngày hôm ấy, một sức mạnh vô biên đã ra đời vào và sẽ tiêu diệt châu Á sau này. Những truyền thuyết này có lẽ xuất hiện khi Alexandros đã lên ngôi, và nhiều khả năng chính ông là người đã hạ lệnh tung những tin đồn này nhằm chứng tỏ rằng ông là thần nhân và đã được định sẵn là sẽ trở thành một vĩ nhân. Alexandros cũng đã đề nghị sẽ lo chi phí cho việc trùng tu đền thờ thần Artemis do ông nhận mình là "người có lỗi" trong việc này, nhưng người dân xứ Ephesos đã từ chối. Ảnh hưởng văn hóa của Alexandros Câu hỏi về nền văn hóa của người Macedonia nói chung và Alexandros nói riêng vẫn là một đề tài tranh luận của giới sử học. Trong con mắt của những người Hy Lạp thời cổ điển, bao gồm Aristoteles và Demosthenes, người Macedonia, vì các lý do chính trị, vẫn bị coi là một tộc man di. Platon coi họ là "bán man di" (mixobarbaroi). Dù thế nào đi chăng nữa, các sử gia thời hiện đại dựa vào những nghiên cứu khảo cổ gần đầy, đã tranh luận về một tầm nhìn "lấy thành Athens làm trung tâm" (athenocentric) của nền văn minh Hy Lạp và coi các tộc người sống ở phía bắc và tây Delphi là các dân tộc man di, mọi rợ. Ngày nay, người ta đã chứng thực rằng người Macedonia nói một phương ngữ của tiếng Hy Lạp, tiếng Macedonia cổ, có cách viết gần giống với phương ngữ Thessaloniki và Ipiros. Họ cũng tôn thờ các vị thần trên đỉnh Olympus. Alexandros có lẽ vì thể mà chịu ảnh hưởng sâu sắc từ nền văn hóa Hy Lạp. Kể từ thời vua Archelaos I (cuối thế kỷ 5 TCN), phương ngữ vùng Attica đã trở thành ngôn ngữ chính thức trong triều đình Macedonia. Philippos II, người đã từng làm con tin tại Thebes từ năm 368 đên 365, nói thuần thục phương ngữ Attica. Theo Plutarchus, Alexandros chỉ nói tiếng Macedonia cổ khi xúc động. Ông thuộc lòng những câu chữ trong sử thi Iliad của Homeros. Chính ông về sau cũng đã mang theo một bản chép tay của tác phẩm này bởi người thầy Aristoteles theo bên mình trong cuộc viễn chinh tới châu Á. Ông ngưỡng mộ và luôn học hỏi theo sự nghiệp vĩ đại của người anh hùng Achilles và xem tác phẩm này như là một "nguồn cung cấp nghệ thuật dụng binh tốt nhất". Từ nó, ông đã rút ra những cái gọi là "học thuyết chiến tranh của Homeros": người chỉ huy cần phải kích động được sĩ khí ba quân, phải bảo vệ được tính mạng của binh sĩ và phải biết cách tận dụng những điểm yếu của kẻ thù. Ông cũng đọc các tác phẩm như Historiai của Herodotos hay Anabasis và Cyropaedia của Xenophon, những tác giả mà ông sẽ có thể khai thác và áp dụng trong cuộc viễn chinh của mình. Những tác giả này đã dạy ông nguyên tắc chiến đấu quyết liệt chiếm ưu thế trước các "man tộc đông vô số" và rằng chiến thắng chỉ có thể giành được bằng lòng dũng cảm và sự phục tụng của ba quân đối với chủ tướng, chứ không phải bằng số lượng. Alexandros cũng rất quen thuộc với những bi kịch của Aeschylus, Sophocles và Euripides, và khi ông chinh phạt Tiểu Á, ông đã hạ lệnh kiếm những cuốn sách của những tác giả này về để đọc. Ngoài ra, ông cũng có những hiểu biết nhất định về y học, cả về lý thuyết lẫn thực hành. Cuối cùng, săn bắn dường như là một yếu tố tiên quyết trong giáo dục của ông, phù hợp với những lý tưởng của Xenophon và Isocrates. Ảnh hưởng từ Aristoteles Khi còn bé, Alexandros được nuôi nấng dưới bàn tay của nhũ mẫu Lanike, chị gái của Cleitos Đen, một viên tướng tương lai của Alexandros. Khi lên 7 tuổi, cậu nhận được sự dạy dỗ đặc biệt nghiêm khắc bởi một người họ hàng của Olympias là Leonidas, và bởi Lysimachos xứ Acarnania, người sẽ vẫn theo sát ông khi ông hành quân tới châu Á. Alexandros được nuôi dưỡng theo cách của những con em quý tộc người Macedonia, cậu được dạy học đọc, chơi đàn lia, cưỡi ngựa, chiến đấu và săn bắn. Tuy nhiên, Philippos II lại có những đòi hỏi khác đối với con trai mình và ông quyết định gửi gắm cậu cho nhà triết học và cũng là một nhà toán học Menaechmus. Đặc biệt là trong khoảng thời gian từ năm 342 đến 340 TCN, Alexandros đã theo học Aristoteles, con trai của Nicomachos, người từng là ngự y của vua Amyntas III, ông nội của Alexandros. Philippos đã ủy thác con trai mình cho vị triết gia này trong khuôn khổ thỏa thuận chính trị đã ký với Hermias, bạo chúa xứ Atarea. Aristotles vốn đã đến sống dưới trướng của Hermias sau khi ông bị lưu đày khỏi thành Athens. Philippos giao cho nhà triết học một nơi tôn nghiêm dành riêng cho các nữ thần ngoại ô Pella, có lẽ là Nympheion của Mieza, làm lớp học. Alexandros đã học ở đó bên cạnh những chiến hữu tương lai của mình bao gồm Hephaistion, Ptolemaios, Perdiccas, Eumenes, Seleukos, Philotas và Callisthenes. Chính Aristoteles đã huấn luyện Alexandros về mọi mặt như thuật hùng biện và văn học và gợi lên các sở thích của cậu ta trong khoa học, y khoa và triết học. Đồng thời, Alexandros cũng đã trải qua khóa huấn luyện quân sự và thể thao chuyên sâu. Sự gắn kết rất mạnh mẽ này giữa Alexandros và những người bạn của cậu (philoi) có nguồn gốc từ truyền thống của người Macedonia vốn muốn con trai của các vị vua và con em của các quý tộc tạo nên sự gắn kết, có thể thiết lập một phe cánh thực sự gọi là hetairoi (dịch nghĩa nôm na là "người đồng hành"). Thật khó để đánh giá đầy đủ vai trò của Aristoteles đối với Alexandros, một số nhà nghiên cứu hiện đại có xu hướng đánh giá cao vai trò này khi Alexandros tuyên bố rằng ông nợ cha mình sự sống, nhưng ông nợ người thầy cuộc sống tốt đẹp mà ông có. Về vấn đề này, nhà nghiên cứu Droysen khẳng định rằng Alexandros là một chính khách, còn Aristoteles là một nhà tư tưởng. Tuy nhiên, dường như vị triết gia không hài lòng với vai trò gia sư riêng. Ông đã trao cho cậu học trò của mình một bản sao chép của Iliad, một câu chuyện tiêu biểu về một cuộc chiến xa nhà, mà ông chú giải rõ ràng và được Alexandros đã mang theo bên mình khi hành quân tới Châu Á và từ đó đã rút ra những bài học quý báu cho bản thân. Aristoteles mong muốn một nền văn minh Hy Lạp vượt quá giới hạn hạn hẹp của các thành bang. Ông rèn cho người học trò của mình niềm tin rằng toàn cõi Hy Lạp có thể được thống nhất dưới sự lãnh đạo của một vị vua chuyên chế Macedonia. Ông nhấn mạnh rằng vị vua này, tuy chuyên chế, nhưng không sở hữu bất cứ điều gì của một tên bạo chúa. Để nền văn minh Hy Lạp chiến thắng trên toàn thế giới, cần phải có một cá nhân với nhân phẩm vượt trội xuất hiện để hiện thân nó. Đây là một vị vua mà Aristoteles đang tìm kiếm bên trong Alexandros. Ảnh hưởng quyết định của vị triết gia này được đo lường bằng cảm xúc, rằng Alexandros trong nhiều trường hợp, đã dành nhiều tâm huyết cho một sứ mệnh lịch sử để thống nhất phương Tây và phương Đông. Ngoài ra, Aristoteles thể hiện cảm xúc chống Ba Tư mạnh mẽ kể từ khi đến sống tại với Hermias xứ Atarea, người đã bị xử tử theo lệnh của Artaxerxes III vào năm 341. Sau đó, ông đã dặn Alexandros phải đối xử với những kẻ man di mọi rợ Ba Tư như cây cỏ và động vật, điều mà Alexandros đã không làm theo. Cuối cùng, Aristoteles đã dạy cho vị vua tương lai những đức tính của tình bạn (philia), thứ mà theo ông là "điều cần thiết nhất cho sự tồn tại"; nó đảm bảo sự gắn kết giữa mọi người trong tư tưởng chính trị cũng như trong cách dùng binh. Người kế thừa của Philippos II Làm nhiếp chính và sự trỗi dậy của Macedonia Vào năm 340, Alexandros lúc này mới 16 tuổi và đã hoàn thành xong quá trình học tập với Aristoteles, đã được vua cha triệu về Pella để hướng dẫn cách thức trị quốc. Và khi Philippos xuất quân tiến đánh Byzantion, Alexandros đã được ông tin tưởng chọn làm nhiếp chính, dù xung quanh ông còn có những vị cố vấn giàu kinh nghiệm như Antipatros. Vào năm 339, trong lúc Philippos đang ở xa, bộ lạc Maedi tộc Thracia nổi dậy làm phản. Alexandros đã phản ứng với sự kiện này một cách nhanh chóng. Chiến dịch đầu tiên do đích thân Alexandros chỉ huy đã thành công mỹ mãn khi ông đuổi được người Maedi ra khỏi quê hương của họ. Ông đã cho thành lập một thành phố trong vùng rừng núi Rila thuộc lãnh thổ Bulgaria ngày nay, đặt tên nó là Alexandropolis là đưa dân Hy Lạp đến sinh sống. Ông cũng nhân cơ hội này tiếp cận với một bộ lạc Agrianes cũng thuộc tộc Thracia và chiêu mộ những binh sĩ ném lao (peltastes) tinh nhuệ từ họ. Khi Philippos quay trở về, ông đã phái Alexandros dẫn một đội quân nhỏ đến miền nam Thracia để khuất phục các cuộc nổi loạn tại đây. Trong chiến dịch bình định thành Perinthos của Hy Lạp, Alexandros được cho là đã cứu mạng cha mình. Vào thời điểm này, thành phố Amphissa bắt đầu cho dân chúng trồng trọt trên những vùng đất thiêng liêng đối với Apollo ở gần Delphi. Đây là một sự xúc phạm thần thánh mà đã tạo cho Philippos cơ hội can thiệp sâu hơn vào Hy Lạp. Do lúc này vẫn còn phải đóng quân ở Thracia, ông đã hạ lệnh cho Alexandros tập hợp một đội quân để tiến đánh miền nam Hy Lạp. Lo ngại rằng các quốc gia Hy Lạp khác có thể can thiệp vào cuộc chiến này, Alexandros đã giả vờ là đang sửa soạn binh mã tiến đánh Illyria. Trong thời kỳ hỗn loạn này, người Illyria đã tấn công Macedonia nhưng bị Alexandros đẩy lui. Philippos hội quân cùng con trai vào năm 338 TCN và cả hai cha con cùng nhau tiến quân hướng Thermopylae. Dù quân Thebes cố thủ ở đây một cách quyết liệt, họ cũng phải nhận thất bại trước quân đội Macedonia. Sau chiến thắng này, quân Macedonia chiếm luôn thành Etalea, chỉ nằm cách Athens và Thebes một vài ngày đường. Demosthenes lúc này vận động Athens liên kết với Thebes để chống lại Macedonia. Cả Athens lẫn Philippos đều sai sứ giả đến để lôi kéo Thebes về phía mình, nhưng Thebes cuối cùng đã lựa chọn đứng bên Athens. Philippos hành quân đến Amphissa, bắt giữ đội lính đánh thuê được Demonthenes gửi đến đó và chấp nhận lợi đầu hàng của thành phố. Philippos quay về Elatea và gửi thư chiêu hàng lần cuối đến Athens và Thebes nhưng đều bị cả hai từ chối. Khi quân Philippos tiến về phía nam, quân Athens và Thebes đã chặn đánh ông tại Chaeronea, Boeotia. Trong trận Chaeronea tiếp đó, Philippos đã chỉ huy cánh phải trong khi Alexandros được tháp tùng bởi nhiều viên tướng dày dặn kinh nghiệm của nhà vua đã chỉ huy kỵ binh ở cánh trái. Philip đã cố tình ra lệnh cho quân mình rút lui, nhử cho quân Athens đuổi theo, qua đó làm vỡ đội hình quân địch. Nhận thấy đã phá vỡ được trận thế quân địch, Philippos hạ lệnh cho binh sĩ quay đầu, nhanh chóng đánh bại toàn bộ quân Athens. Với việc quân Athens thất bại, quân Thebes nay bắt buộc phải độc chiến. Bị bao vây tứ phía, quân Thebes thua trận, ngay cả đội thần binh Thebes – một lực lượng tinh nhuệ được xem là bất khả chiến bại vào thời bấy giờ – cũng bị quân Macedonia tiêu diệt. Sau trận đánh, Philipos tổ chức ăn mừng trọng thể, và đáng để ý là Alexandros không tham dự. Alexandros và Antipatros đã đảm nhận trách nhiệm đưa tro cốt của các tử sĩ về Athens. Chiến thắng này đã làm Philipos yêu quý con trai đến mức ông thích nghe các chiến binh gọi Philipos là vị tướng còn Alexandros mới là vị vua của họ. Sau thắng lợi tại Chaeronea, Philippos và Alexandros tiến quân vào bán đảo Peloponnesos mà không gặp bất cứ sự phản kháng nào. Các thành bang ngoại trừ Sparta đều chào đón quân đội Macedonia. Tuy Sparta từ chối nhưng đã không dẫn đến chuyện binh đao. Tại Korinthos, đã triệu tập các thành bang Hy Lạp thành lập Liên minh Hy Lạp (dựa trên mô hình Liên minh chống Ba Tư năm xưa), bao gồm toàn bộ thành bang Hy Lạp ngoại trừ Sparta. Philippos được tôn lên làm minh chủ (hegemon) của liên minh này (sử gọi là liên minh Korinthos). Liên minh này được thành lập với hai mục đích: thứ nhất, đảm bảo nền bá chủ của Macedonia tại Hy Lạp; thứ hai, để tổ chức một cuộc chiến chống lại đế quốc Ba Tư. Lưu vong và quay trở lại Khi Philippos quay trở về Pella, ông đã yêu say đắm Cleopatra Eurydice, cháu gái của tướng Attalos và đã đi đến kết hôn với cô gái tuổi còn ít hơn cả Alexandros này vào năm 338 TCN. Vì mẹ của Alexandros, Olympias, là người từ Ipiros, trong khi Cleopatra là một người Macedonia chính gốc, điều này đã dẫn việc những người con do Cleopatra sinh ra sẽ mang dòng máu Macedonia thuần khiết trong khi Alexandros chỉ có một nửa dòng máu này. Vì thế mà đám cưới này khiến địa vị người thừa kế của Alexandros trở nên lung lay. Trong tiệc cưới, Attalus lúc này đã uống quá chén được kể là đã đứng trước đám đông cầu khấn các vị thần rằng đám cưới này sẽ sản xuất một người thừa kế hợp pháp cho Macedonia: Năm 337 TCN, Alexandros cùng mẹ và em gái rời bỏ Macedonia về quê ngoại ở Ipiros vài đến trú ngụ nhờ tại nhà của người cậu là Alexandros I tại Dodona. Tuy nhiên Alexandros đã để mẹ ở lại đó còn mình thì đến Illyria. Tại đây, ông được một hoặc nhiều vị vua người Illyria, có lẽ là Glaukias của Taulanti, đối đãi như bực thượng khách, dù hai bên mấy năm trước có xảy ra chuyện binh đao và quân Illyria từng bị quân Macedonia đánh cho đại bại. Tuy nhiên, bản thân Philippos cũng không muốn từ bỏ người con trai đã được đào tạo bài bản cả về chính trị lẫn quân sự. Một lần, một người bạn cũ tên là Demaratos đến thăm, vua Philipos hỏi ông ta liệu những người Hy Lạp có thể chung sống hòa binh với nhau không. Vị khách trả lời: "Thật lạ lùng, tại sao ngài phải lo lắng về Hy Lạp đến thế trong khi gia đình ngài đang tan vỡ vì quá nhiều xung đột?" Philippos hiểu ra vấn đề nên đã cho người đi triệu con trai trở về. Cuối cùng, Philippos giảng hòa với con trai và Alexandros quay trở lại nhà, song Olympias và em gái của ông vẫn ở lại xứ Ipiros. Tổng cộng Alexandros đã bỏ nhà đi tổng cộng 6 tháng. Năm 336 TCN, tổng trấn Ba Tư của Caria là Pixodaros vì mong muốn kết giao với Macedonia đã ngỏ ý muốn gả con gái lớn của mình cho anh trai cùng cha khác mẹ của Alexandros là Philippos Arrhidaeus. Olympias và nhiều bằng hữu của Alexandros cho rằng điều này cho thấy Philippos có ý muốn lập Arrhidaeus làm người nối dõi. Alexandros đã phản ứng bằng cách gửi một diễn viên bi kịch tên là Thessalos xứ Korinthos đến nói với Pixodaros rằng ông ta không nên gả con gái mình cho một đứa con ngoài giá thú mà thay vào đó hãy gả cho Alexandros. Khi Philippos nghe tin này, ông đã hủy bỏ vụ mai mối và trách mắng Alexandros vì đã đòi cưới con gái của một người Caria và giải thích rằng ông muốn kiếm một người vợ tốt hơn cho cậu. Philippos đã trục xuất 4 người bạn của Alexandros là Harpalos, Nearchus, Ptolemaios và Erigyius và hạ lệnh người xứ Korinthos giao nộp Thessalos để mình xử lý. Triều đại của Alexandros Lên ngôi và củng cố quyền lực Vào mùa hè năm 336 TCN, Philippos II bị ám sát tại lễ cưới của con gái ông là Cleopatra của Macedonia với cậu của cô là Alexandros I của Ipiros, em trai của Olympias. Kẻ ám sát là một nhà quý tộc trẻ bất mãn Pausanias của Orestis, một người tình đồng tính trước đây của nhà vua và đã được chọn vào đội cận vệ (Somatophylakes). Người này trở nên thù oán vua Philippos II vì nhà vua đã bỏ mặc và không trừng phạt Attalos, người đã chuốc rượu làm cho mình say và đã bị người này hãm hiếp. Khi Pausanias cố gắng tẩu thoát, hắn ta vướng phải một cây nho và bị giết bởi những người rượt đuổi theo hắn, bao gồm hai người bằng hữu của Alexandros, Perdiccas và Leonnatus. Nhiều người cho rằng vụ ám sát Philippos đã được tính toán trước với thông tin và sự tham gia của Alexandros hay Olympias nhưng cũng có nhiều người khác ủng hộ lập trường rằng đây là một động cơ cá nhân. Rất ít nhà sử học đương đại cho rằng Alexandros có liên quan đến vụ giết cha mình khi Philippos rõ ràng cho thấy ông có ý định lập Alexandros làm người kế vị. Một kẻ có khả năng là chủ mưu là Darius III - tân Hoàng đế của Đế quốc Ba Tư khi đó. Nhà sử học Arrianos đề cập đến một lá thư giận dữ từ Alexandros gửi Darius sau trận Issus năm 333 TCN, trong đó ông đổ thừa cho Hoàng đế Darius III và quan Tể tướng Bagoas, cho cái chết của vua cha, nói rằng chính Darius là người đã khoác lác với các thành phố Hy Lạp là ông ta đã tổ chức ám sát Philippos như thế nào. Alexandros cũng sẽ hỏi nhà tiên tri ở đền thờ thần Amun ở Siwa rằng liệu ông có trừng phạt tất cả những kẻ đã sát hại cha mình. Sau cái chết của Philippos, quân đội và các quý tộc Macedonia đã suy tôn Alexandros, lúc này 20 tuổi, như là vua mới của Macedonia. Alexandros sau khi lên ngôi đã ngay lập tức trừ khử các đối thủ tiềm tàng. Để trừ hậu hoạn, ông đã hạ sát anh họ mình là Amyntas IV, người từng làm vua của Macedonia trong khoảng thời gian từ năm 360 đến 359 TCN trước khi bị Philippos phế truất và tiếm đoạt vương vị. Thái hậu Olympias, lợi dụng sự vắng mặt của con trai mình vì đã đi đến biên giới phía bắc, đã giết chết vợ út của Philippos là Cleopatra bằng cách buộc cô phải treo cổ tự sát sau khi phải nhìn thấy con gái mình, Europa, bị cắt đứt cổ. Alexandros đã rất tức giận khi biết được chuyện này. Alexandros buộc phải ra lệnh trừ khử Attalos, người đang chỉ huy binh mã ở Tiểu Á và cũng là chú của Cleopatra. Attalos tại thời điểm đó có trao đổi thư từ với Demosthenes, dẫn đến khả năng ông ta có thể đào thoát tẩu sang Athens. Attalos trước đây cũng đã nhiều sỉ nhục Alexandros, và sau khi Cleopatra chết, Alexandros cho rằng ông ta quá nguy hiểm để có thể cho ông ta sống. Theo lời khuyên từ mẹ, Alexandros cũng đã xử tử Caranos, con trai của Philippos và Phila, cũng như hai hoàng tử xứ Lynkestis. Alexandros đã tha chết cho em trai khác mẹ của mình là Arrhidaeus, người được nhiều nguồn cho là một người đần độn, có lẽ là do Olympias đã đầu độc. Và như thế, vị tân vương của Macedonia không còn có một đối thủ nào có thể tranh giành ngai vàng với ông. Chỉ trong vòng vài tuần sau khi vua cha qua đời, tân vương Alexandros đã nắm vững toàn bộ quyền thống trị Chính phủ và Quân đội Macedonia. Bình định phương bắc Alexandros không chỉ thừa hưởng từ cha mình ngai vị vua của người Macedonia mà còn những chức vị khác như quan chấp chính trọn đời của người Thessalía và Minh chủ (hegemon) của liên minh Hy Lạp. Các thành bang Hy Lạp như Athena và Thebes, bị bắt buộc phải quy phục Philippos, thấy vị tân vương như là một cơ hội để giành lại hoàn toàn quyền độc lập của họ. Các bạn hữu và quân sư của nhà vua khuyên ông không nên lập lại quyền thống trị của xứ Macedonia tại Hy Lạp và các bộ tộc man rợ lân cận, trước khi ông đảm bảo sự ổn định nội bộ đất nước và sự trung thành tuyệt đối của toàn dân Macedonia. Do đó, họ khuyên ông không nên suy nghĩ xâu xa gì về ý định chinh phạt Ba Tư của tiên vương Philippos II trong vòng vài năm tới. Tuy nhiên, nhà vua quyết định không bỏ qua bất kỳ một lãnh thổ nào mà tiên vương khổ công chiếm lấy, hoặc bất kỳ một dự định hay mục tiêu nào của tiên vương. Vì thế mà ngay sau khi lên ngôi, Alexandros đã ngay lập tức tiến hành các sứ mệnh ngoại giao đến Hy Lạp để ngăn chặn liên minh mà Philippos dày công xây dựng tan rã. Thebes, là thành phố chống lại ông tích cực nhất, đã đầu hàng khi ông xuất hiện ở cửa thành. Tại Eo Corinth, Athens và liên minh Hy Lạp, với ngoại lệ Sparta, đã tôn ông lên làm Minh chủ chống lại quân Ba Tư. Trước khi Alexandros có thế phát động cuộc chiến tranh chống lại người Ba Tư ở châu Á, ông trước tiên phải bảo đảm cho sự yên ổn của vương quốc bằng cách tiến hành hai cuộc chinh phạt chống lại các man tộc ở phương bắc, một đến sông Danube và một chống lại quân nổi loạn Illyria. Trên thực tế, các tộc người Thracia và Getae đã đe dọa Macedonia khi họ nghĩ rằng mình có thể lợi dụng cái chết của Philippos II. Mùa xuân năm 335, sau khi trao quyền chấp chính cho Antipatros, Alexandros tiến hành bắc phạt, đả bại người Getae và hành quân qua đất của người Odrysia. Ông tiêu diệt quân đội của vua Syrmos, giết chết gần 3000 binh sĩ bên bờ sông Lyginus (một phụ lưu của sông Danube), khiến vị vua này sợ hãi phải kêu gọi các bộ tộc khác cầu hòa. Alexandros đã bổ nhiệm Zopyrion làm thống đốc của Thracia. Sứ giả người Celt, có lẽ là tộc Scordisci, nhân cơ hội này yết kiến Alexandros tại bờ sông Danube. Biên giới phương bắc của vương quốc coi như đã được thiết lập dọc theo bờ sông Danube. Tin tức lan truyền đến Alexandros rằng vua Kleitos của người Illyria và vua Glaukias của Taulanti đã dấy binh tạo phản, đồng thời mang quân tấn công Macedonia. Tháng 7 năm 335 TCN, Alexandros đưa quân tiến đến lãnh địa của người Agrianes ở Peonia và nhận được sự trợ giúp từ vua Langaros của họ. Chiến thắng tại cuộc vây hãm Pelion vào tháng 12 năm 335 TCN, Alexandros đã khiến người Illyria phải tháo chạy. Kleitos dù sao đi chăng nữa vẫn giữ được vị trí của mình, nhưng buộc phải xưng thần với vua Macedonia. Các thành bang Hy Lạp nổi loạn Nhân khi Alexandros đang bận dẫn quân chống lại các man tộc phương bắc, các thành bang Hy Lạp quyết định nổi dậy chống lại người Macedonia. Đây là kết quả của chính sách ngoại giao của Darius III. Thông qua Memnon của Rhodes, người Ba Tư đã chiếm lại các vùng lãnh thổ mà Parmenion chiếm được vào cuối triều đại Philippos II và cố gắng kích động một cuộc nổi dậy ở Hy Lạp bằng cách rót tiền vào các thành bang Hy Lạp. Tin đồn về cái chết của Alexandros trên sông Danube đã khiến Thebes, nơi có một đội quân Macedonia đóng ở đó kể từ sau trận Cheronea năm 338 TCN, đứng lên tạo phản trong khi Athens và Sparta hứa sẽ giúp đỡ người Thebes trong cuộc chiến này. Trong khi các thành phố khác lại một lần nữa do dự, Thebes lần này quyết định chống trả cật lực nhất. Alexandros đã phản ứng rất gay gắt sau khi nghe được tin này. Theo nhiều sử gia, Demosthenes từng gọi Alexandros là "Margites" (Μαργίτης) Người Hy Lạp cổ đại dùng từ "Margites" để mô tả những kẻ ngu ngốc và vô dụng. Theo Plutarchus, Alexandros đã nói rằng: "Demosthenes đối xử với ta như một đứa trẻ khi ta ở Illyria và các bộ lạc [man di phương bắc], coi ta như một thiếu niên khi ta tiến vào Thessalia. Ta sẽ khiến ông ta phải thấy trước thành Athens rằng ta là một người đàn ông." Alexandros phản ứng lập tức và đem toàn bộ binh mã nam hạ tiến vào Hy Lạp, vượt qua eo đất Thermopylae bất ngờ tấn công quân Thebes lúc này đang mãi bao vây quân đồn trú Macedonia trong vệ thành Cadmee. Bị vây hãm ngặt nghèo và dù chống trả quyết liệt, thành phố không tránh khỏi việc bị thất thủ khi bị quân Macedonia vây hãm mà không được quân Athens và Sparta tới ứng cứu. Theo cương lĩnh của Liên minh Hy Lạp vốn có nhiều kẻ thù của Thebes, thành phố Thebes được lệnh phá hủy hoàn toàn. Chỉ có các ngôi đền và vệ thành Cadmee, nơi nhà thơ Pindaros được sinh ra, không bị động tới nhờ vào mối quan hệ giữa Pindaros và triều đại Argead. Trong khi đất đai được chia giữa những kẻ chiến thắng với nhau thì hơn 30.000 dân chúng của thành phố bị đem bán làm nô lệ, chỉ chừa lại các thầy tu, các lãnh tụ của các phe phái ủng hộ Macedonia và hậu duệ của Pindaros không bị đụng chạm đến. Alexandros đã cảm thấy hối hận sau khi hạ lệnh phá hủy Thebes và trong suốt triều đại của mình đã tìm cách bảo vệ khỏi cơn thịnh nộ của thần Dionysos, người có mẹ là Semele, con gái của Cadmos là người sáng lập thành phố Thebes, bằng cách hiến dưng rất nhiều lễ vật. Và kể từ đó, Alexandros luôn đối xử tử tế đối với bất cứ người Thebes nào sống sót mà ông gặp. Alexandros đã tha cho Athens, thành phố may mắn khi không bị bất kỳ tổn hại nào. Hành động khoan hồng này của Alexandros được cho là thể hiện mong muốn muốn bảo tồn trung tâm văn hóa và tri thức của Hy Lạp mà theo ông thì thành phố này được lập ra là để "giữ phép tắc cho toàn cõi Hy Lạp" khi ông đang viễn chinh ở châu Á hoặc cũng có thể là do ảnh hưởng từ người thầy Aristoteles khi ông này đã chuyển đến sống ở Athens và có mở một trường dạy học ở đây. Cũng có thể rằng tài năng du thuyết của Phocion và đặc biệt là của Demades đã thuyết phục nhà vua không phá hủy thành phố. Tuy nhiên, Athens phải chấp nhận yêu sách cho lưu đày tất cả các chính trị gia chống Macedonia, trong đó có các tên tuổi như Demosthenes, Lycurgus và Hyperides. Đại diện của các thành bang Hy Lạp sau đó đã hội họp tại Korinthos và tôn Alexandros lên làm Minh chủ trong cuộc chiến tranh chống lại quân Ba Tư, nhằm báo thù cuộc xâm lược vào Hy Lạp năm xưa. Khi Alexandros tới Korinthos, nhiều chính khách và nhà triết học đến chúc tụng ông. Nhà vua cũng chờ nhà triết học Diogenes của Sinope đến chúc mừng, nhưng Diogenes không đến dù ông đang ở Korinthos. Vì vậy, đích thân Alexandros đến thăm nhà Diogenes và gặp ông đang nằm tắm nắng. Diogenes hơi nhỏm người dậy khi nghe tiếng đám đông tới gần. Khi Alexandros hỏi triết gia rất nhã nhặn rằng liệu có một đặc ân gì nhà vua có thể làm cho ông không thì Diogenes chỉ đáp trả: "Đức Vua hãy làm ơn bỏ cái bóng của Ngài ra khỏi tôi." Trên đường trở về, những tùy tùng của Alexandros cười nhạo ông, nhưng Alexandros bảo họ rằng: "Các ngươi cứ cười nếu muốn, nhưng nếu ta không phải là Alexandros thì ta muốn được làm Diogenes." Cũng trong khoảng thời gian này, Alexandros cũng đã đến Delphi. Theo truyền thuyết, vì nữ tư tế (Pythia) không thể ban phát lời sấm do thần Apollo vắng mặt trong những tháng mùa đông, Alexandros đã nắm lấy tay bà – bất chấp sự kháng cự – và kéo đến cái vạc thờ ba chân. Ngay sau đó, bà đã nói lớn: "Ôi con trai, con thật quyến rũ!" và Alexandros đã coi câu cảm thán này như một lời sấm. Cuộc chinh phạt Mục tiêu của cuộc chinh phạt châu Á Alexandros tiếp quản dự án mang tính chất toàn Hy Lạp của tiên vương Philippos II đó là đoàn kết toàn dân Hy Lạp để chống lại đối thủ truyền kiếp Ba Tư như những gì Isocrates đã từng nói, chỉ có điều là dưới ngọn cờ của Macedonia chứ không phải Athens. Cuộc chiến với đế quốc Achaemenes là không thể tránh khỏi vì trước đó vào năm 340 TCN, hoàng đế Artaxerxes III đã từng đưa quân đến cứu Byzantion và Perinthos khi hai thành phố này bị Philippos bao vây với mục đích cản trở sự bành trướng của Macedonia, một điều sẽ khiến cái gọi là "Hoà ước của nhà vua" trở nên lung lay. Trên thực tế, Philippos không có ý định chinh phục toàn bộ đế quốc Ba Tư, mà chỉ muốn chia cắt các tỉnh ven biển Aegea có nhiều ảnh hưởng của Hy Lạp với các tỉnh nội địa Iran hóa ở vùng cao nguyên Anatolia. Ông cũng tìm cách liên minh người Hy Lạp chống lại người Ba Tư, trước khi hai thế lực này liên minh lại với nhau chống lại ông; hơn nữa, một số người Hy Lạp hy vọng rằng cuộc chiến này sẽ làm suy yếu Macedonia nên đã tìm cách bắt tay sau lưng với người Ba Tư. Mùa thu năm 335 TCN, Alexandros triệu tập liên minh Hy Lạp, ấn định các mục tiêu của cuộc viễn chinh tới châu Á. Trước đó vào năm 336 TCN, hơn 1 vạn quân Macedonia dưới sự chỉ huy của Parmenion và Attalos đã tuân theo lệnh của Philippos II thiết lập được chỗ đứng ở Tiểu Á tại khu vực nằm gần thành Troia. Alexandros thúc dục đẩy nhanh cuộc viễn chinh vì vị trí của quân Macedonia đã thiết lập trên đất địch đang lung lay. Ban đầu các thành bang Hy Lạp đồng loạt nổi dậy cho đến cái chết đột ngột của Philippos. Binh sĩ Macedonia nghe tin nhà vua mất nhanh chóng đánh mất sĩ khí và bị quân đội Achaemenes dưới sự chị huy của viên tướng đánh thuê người Hy Lạp là Memnon xứ Rhodos đánh bại tại gần Magnesia. Alexandros cũng dự ý sẽ nhân dịp này khỏi sự giám hộ của Antipatros, người được ông phong làm Nhiếp chính của Macedonia trong thời gian nhà vua đi vắng. Tự mình thống lĩnh ba quân, ông sẽ có thể hất cẳng Parmenion và gia đình quyền lực của ông ta. Cả hai vị tướng đều cho rằng Alexandros nên kết hôn trước khi xuất quân, đề phòng một cuộc khủng hoảng nội tộc xảy ra khi nhà vua mất mà không có con nối giõi. Vào thời điểm này, Alexandros tuy còn rất trẻ những đã tỏ ra rất quyến đoán và sở hữu đầu óc chính trị cũng như khả năng quân sự hơn người. Cuộc chiến với các bộ tộc man di phương bắc đã vượt xa những gì mà tiên vương Philippos đã đạt được trong khi quyết định phá hủy Thebes đã khiến toàn dân Hy Lạp phải phục tùng ông. Tuy nhiên, ông tiếp quản những chính sách mà cha mình đã khởi xướng và bộ máy quân sự mà cha mình đã rèn nên, đồng thời đặt niềm tin vào các tướng lĩnh trung thành với mình. Ông nhân cơ hội này mà phát động cuộc viễn chinh, đồng thời, ông cũng dùng cuộc chinh phạt này để chuyển tầm nhìn của những người Hy Lạp chống Macedonia sang hướng khác, và cũng làm hòa dịu cuộc khủng hoảng về kinh tế và chính trị ở các thành bang Hy Lạp. Quân đội Macedonia Tiếp nối Philippos II, người đã rèn dũa quân đội Macedonia trở thành một cỗ máy chiến tranh tinh nhuệ, Alexandros đã thừa hưởng nhiều khí tài quân sự thậm chí còn vượt trội hơn cả uy tín và dũng khí của bản thân ông. Vào thời điểm cuộc chiến bắt đầu, Alexandros sở hữu một đội quân dày dặn kinh nghiệm được vun trồng từ những cuộc chiến dưới thời tiên vương. Đội quân này được cấu tạo từ một đội hình phương trận (phalanx) mạnh mẽ nhưng di động; một đội trọng kỵ tựa một cỗ máy tấn công thực thụ; một đội khinh kỵ có thể di chuyển mau lẹ; những lính phóng lao, ném đá tiện lợi cho việc quấy rối quân địch; và cuối cùng là những cỗ máy công thành, hiệu quả khi dùng để công phá các thành trì kiên cố. Ông ngoài ra cũng phụ thuộc vào sự trung thành tuyệt đối từ các chiến hữu (Hetairoi) bộ binh cũng như trên lưng ngựa và có thể trông mong vào lực lượng epigones người Ba Tư mà ông chiêu mộ kể từ năm 330 TCN trở đi. Alexandros cũng có thể hiểu rõ địa hình địa thế những vùng đất lạ nhờ sử dụng hệ thống trinh sát địa thế trước các trận đánh lớn. Quân đội của Alexandros có ưu thế lớn về mặt chiến thuật lẫn kỹ thuật so với các đối thủ của mình. Tấm giáp ngực nặng 15 kg và tấm khiên đường kính dài 1 mét, những thứ đã từng là gánh nặng của các Hoplites truyền thống của Hy Lạp, đã bị loại bỏ dựa theo sáng kiến của Philippos II. Những lính phalangites (bộ binh chiến hữu) trang bị giáp nhẹ và chủ yếu được trang bị một ngọn giáo dài 5.5 mét gọi là sarissa. Khi ở thế thủ, đội hình Phalanx sẽ tạo nên một bức tường bằng khiên. Trong tư thế này, những người lính sẽ chĩa ra một rừng toàn giáo có thể chống trả mọi cuộc xung kích của đối phương. Khi ở thế công, số lượng đông đảo và động năng của đội hình Phalanx tích lũy lại sẽ tạo nên một lực tấn công mạnh mẽ có thể đập tan nhiều hàng ngũ quân địch. Việc giảm bớt trang bị bảo hộ của mỗi người cũng giúp trang bị cho nhiều người hơn. Lực lượng trọng kỵ kỵ binh chiến hữu bù đắp cho sự thiếu cơ động của đội hình Phalanx bằng cách bảo vệ hai bên sườn dễ bị tổn thương của họ và tấn công khi đội hình Phalanx đã ghim địch vào vị trí. Alexandros vì thế sử dụng chiến thuật "búa" (kỵ binh) và "đe" (bộ binh) để dành thắng lợi. Đội quân đã vượt eo biển Hellespont để chinh phục châu Á được cấu thành từ khoảng 40.000 bộ binh và 1.800 kỵ binh Macedonia, cũng như số lượng kỵ binh Thessalia tương đương cộng thêm khoảng 600 kỵ sĩ chiêu mộ từ các thành viên khác thuộc Liên minh Hy Lạp. Con số này tương đối nhỏ và có thể so sánh được với con số 50.000 lính đánh thuê Hy Lạp đang phục vụ trong hàng ngũ quân đội Ba Tư. Các man tộc phương bắc (bao gồm người Thracia, Peonia, Triballes, Agrianes), vì muốn thu lợi lộc, nên cũng đóng góp cho quân đội viễn chinh Macedonia một số lượng không nhỏ binh sĩ. 32.000 lính Phalanx được tuyển chọn từ tầng lớp địa chủ. Bổ sung vào đội hình này có lẽ còn có những người sống sót của lực lượng viễn chinh do Parmenion và Attalos chỉ huy được Philippos II gửi đến Tiểu Á năm 336 TCN, tức là vào tầm 10.000 người. Alexandros cũng không rời khỏi Macedonia mà không để lại ai phòng bị. Ông giao cho Antipatros, người được phong làm Giám quốc nắm quyền nhiếp chính Macedonia khi nhà vua rời đi, một nửa số kỵ binh, tức vào khoảng 1.500 người và 10.000 bộ binh. Trong suốt cuộc chiến, quân viễn chinh vẫn luôn nhận được tiếp viện từ châu Âu nhưng cũng tuyển mộ thêm binh lính từ dân chúng bản địa, ví dụ như 30.000 người Ba Tư đã được kết nạp vào đội hình Phalanx. Theo Plutarchus thì Alexandros đã hạ lệnh các tướng lĩnh của mình cạo nhẵn râu để quân địch không thể dùng nó mà lôi được. Các tài liệu cổ đại thường ghi chép không đầy đủ, thậm chí mâu thuẫn lẫn nhau khi đề cập đến những thông tin liên quan đến các trận đánh lớn. Quân số Ba Tư thường được phóng đại nên vì thế cần thận trọng khi dùng những nguồn này để tham khảo. Khởi hành tới châu Á Tháng 5 năm 334 TCN, Alexandros dẫn đầu Liên quân Macedonia – Hy Lạp của Liên minh Korinthos rời khỏi kinh đô Pella và đã đến thành Sestos trên bán đảo Chersones thuộc Thracia (Gallipoli ngày nay) sau 20 ngày và từ đó hành quân vượt qua eo biển Hellespont. Khi đến Tiểu Á, ông phóng cây giáo cắm xuống đất tỏ rõ ý định sẽ chinh phục toàn bộ lãnh thổ của Đế quốc Ba Tư bằng cánh biến chúng trở thành "đất bị chinh phục bởi ngọn giáo" (gè doriktétos). Trong khi Parmenion đảm nhận trọng trách di chuyển binh sĩ sang bờ phía bên kia của Hellespont thì Alexandros dẫn đầu đội quân gồm 37.000 người tới thành phố Elaeus trên bán đảo Chersones. Tại đây ông đã viếng Protesilaus, người anh hùng người Achaean đầu tiên đã ngã xuống trong cuộc chiến thành Troia. Hành động này chỉ là khởi đầu của một danh sách dài thể hiện mong muốn của nhà vua nhằm thỏa mãn trí tưởng tượng bằng cách đóng giả là Achilles mới. Không rõ liệu ông có thực sự tự hào về điều này, rằng ông nghĩ rằng mình thực sự là giòng giống anh hùng, hay chỉ là đang diễn để cho binh sĩ cũng như người dân Hy Lạp và Tiểu Á xem. Alexandros sau đó đã đổ bộ vào châu Á ở một nơi được cho là nằm gần thành Troia (hay Ilion). Tương truyền khi đó ông đích thân cầm lái chiếc kỳ hạm của mình, và giết một con bò để hiến tế thần Poseidon, và còn dùng một chén vàng đựng rượu mật để cúng thần biển. Khi chiến thuyền cập đến bờ biển bên kia, Alexandros mình mặc võ phục, bước lên đại lục châu Á đầu tiên. Ông đã cho dựng một bàn thờ trong đền thờ thần Athena rồi sau đó đã đến đặt vương miện trên lăng mộ Achilles và tuyên bố rằng Achilles là một người may mắn vì có một người bạn tri kỉ khi còn sống và một nhà thơ vĩ đại làm cho những ký ức về mình vẫn còn được lưu giữ mãi. Người bạn thân nhất của Alexandros là Hephaestion cũng đã làm điều tương tự với người anh hùng mình ái mộ là Patroclus. Cuộc "hành hương" đến thành Troia có vẻ lãng mạn nhưng cũng mang tính "quảng cáo". Alexandros sau đó quay về với quân đội của mình tại Arisba sau bốn ngày, vượt qua dãy núi Pityos từ phía bắc. Tư lệnh đánh thuê người Hy Lạp của Darius III là Memnon của Rhodos đề xuất nên sử dụng chiến thuật "tiêu thổ" để đối phó với quân Macedonia mà ông ta đánh giá cao. Ông ta đã đề xuất rằng nên dụ quân đội của Alexandros vào sâu trong nội địa nhưng tránh giao tranh với họ và trong khi đó, hạm đội Ba Tư sẽ mang chiến tranh tới Macedonia. Memnon có thể hy vọng một cách hợp tình hợp lý rằng các thành bang Hy Lạp sẽ nổi loạn dựa vào số vàng mà Darius III đã đút lót cho họ cũng như sự phẫn nộ của họ sau khi Alexandros san phẳng thành Thebes. Tuy nhiên các tổng trấn (satrap) Ba Tư lại không có lý do gì để tin tưởng một người lạ vì thế đã không thèm để ý đến kế sách do Memnon đưa ra. Tổng trấn của Phrygia là Arsites đã tuyên bố rằng ông ta sẽ không cho đốt bất kỳ một ngôi nhà nào trong lãnh địa của mình. Khi biết rõ là các thành phố ở Tiểu Á sẽ không chào đón mình như là người giải phóng, Alexandros đã quyết định hành quân hướng đến quân địch đang đóng dọc bờ sông Granicus. Trong khi đó quân Ba Tư đã cắm trại ở phía bên kia sông Granicus ngăn không cho Alexandros vượt qua. Quân Ba Tư gồm có 2 vạn Bộ binh và 2 vạn Kỵ binh với thế trận rất vững chắc. Dòng sông khá sâu còn bờ sông lại rất cao và dốc đứng. Dường như không thể tấn công được nhưng ngay lập tức Alexandros dẫn đầu 13 toán kỵ binh vượt sông dưới làn mưa tên. Với sức chịu đựng ghê gớm, họ đã đặt chân lên bờ sông đầy bùn để giáp chiến với kẻ thù. Mang trên mình Ngù lông trắng và bộ giáp sáng chói khiến Alexandros nổi bật trên bãi chiến trường, vì vậy những chiến binh Ba Tư dũng cảm nhất lăn xả vào nơi ông đứng. Đó là nơi trận chiến diễn ra khốc liệt nhất. Một viên quan Tổng đốc Ba Tư đập rìu chiến vào đầu Alexandros làm ông choáng váng, nhưng một chiến binh tên là Cleitus đã cứu mạng ông bằng cách đâm chết kẻ thù trước khi hắn kịp giết Alexandros. Trong khi đó, đội hình phương trận của quân Macedonia đã vượt sông và tập hợp lại bên bờ bên kia. Quân Ba Tư không thể chống đỡ sức tấn công của họ nên chả mấy chốc toàn bộ quân Ba Tư đã bỏ chạy thoát thân. Quân Ba Tư mất toàn bộ 2 vạn bộ binh và 2500 kị binh còn Alexandros mất 34 người. Đánh chiếm các thành phố ven biển Aegea Chiến thắng của Alexandros bên bờ sông Granicus đã mang lại kết quả quan trọng: Cho tới trận Issus thì trong các thành phố chỉ còn ít quân đồn trú chống lại sự tiến công của quân Macedonia. Sardis, thủ phủ của Phrygia, dâng thành đầu hàng mà không hề phản kháng trong khi Parmenion công chiếm Dascylion. Thành phố Ephesos là nơi mà Memnon đã trú nạn sau trận đánh đang vướng phải những lục đục nội bộ. Kết quả là phái dân chủ ủng hộ Alexandros đã giành chiến thắng và đã mở cửa thành đầu hàng ông. Ông cuối cùng đã có thể thu thập lòng dân trong thành bằng cách giao phó cho đền thờ thần Artemis khoản tiền mà thành phố phải cống nạp cho Darius III cho đến tận thời điểm đó và ông đã cho phép những người bị lưu đày được hồi hương. Những kẻ thù của Alexandros đã chạy đến trú nạn tại Milet. Trong số những người này có Memnon là người mới rời khỏi Ephesos, đã nhanh chóng chiếm quyền chỉ huy sau khi phát hiện Hegistrand, chủ tướng lính đánh thuê Hy Lạp dưới trướng Darius III, có dấu hiệu phản bội. Tuy nhiên, Milet đã bị công chiếm vào tháng 7 năm 334 TCN sau khi Alexandros chiếm được mũi Mycale, ngăn chặn hạm đội Ba Tư có thể đổ bộ cứu viện. Memnon một lần nữa lại chạy thoát, ông ta chạy đến Halikarnassos xin vua Pixodaros tiếp nhận, một người có anh trai là Mausolus là người đứng về phía Ba Tư. Thành phố ngay lập tức trở thành trung tâm kháng chiến của Ba Tư. Memnon nhận được sự hậu thuẫn từ tổng trấn Orontabes và một người Thebes tên là Ephialtes, người đã thề không đội trời chung với Alexandros và nhất định phải giết được nhà vua Macedonia trả thù cho những điều mà ông đã gây ra với thành phố Thebes. Nội bộ thành phố xảy ra lục đục khi trong thành có những thành phần ủng hộ Ada, chị gái của Pixodaros và đã bị chính Pixodaros cướp ngôi trước đó. Mùa thu năm 334, Alexandros lập Ada làm tổng trấn Caria đối lập với Pixodaros. Bà đã nhận Alexandros làm nghĩa tử và chỉ định ông làm người thừa kế của mình. Tuy vậy, Halikarnassos vẫn chưa thất thủ và Alexandros buộc phải tấn công một thành phố có tới tận hai vòng thành, trong đó có một vòng thành tọa lạc trên một hòn đảo. Cuối cùng Alexandros chỉ có thể phá được phần thành ngoài của Halikarnassos, vệ thành của nó vẫn được trấn giữ bởi những binh lính đánh thuê Hy Lạp còn lại. Tuy nhiên, ông đã quyết định tiếp tục lên đường khởi hành và giao cho Ptolemaios 3000 bộ binh và 200 kỵ binh để tiếp tục bao vây. Sau trận chiến tại Milet, Alexandros đã cho giải tán hạm đội của mình vốn chủ yếu chỉ bao gồm những lính đánh thuê Hy Lạp. Các sử gia từ lâu đã coi quyết định này là một chiến lược sai lầm, thậm chí đây là một dấu hiệu cho thấy Alexandros không tin tưởng những đồng minh Hy Lạp của mình, tuy nhiên nguyên nhân chính của quyết định này có lẽ là nằm ở vấn đề tài chính. Đây thực sự sẽ là một biện pháp tiết kiệm để tránh chi phí bảo trì của một đội tàu vốn vào thời điểm này là không cần thiết cho cuộc chinh phục. Cũng cần phải chờ đợi việc chiếm giữ ngân khố của Sardis, điều sẽ trở thành một trong những yếu tố thành công của ông trong tương lai. Chinh phục xứ Pamphylia và Pisidia Vào mùa đông năm 334 TCN, Alexandros tiếp tục cuộc tiến quân đến Lycia và chiếm được thành phố này mà không gặp phải nhiều kháng cự từ quân địch. Tiếp đó, vào cuối năm, ông tiến vào Pamphylia và Pisidia. Những khu vực này chỉ thuộc về đế chế Achaemenes trên danh nghĩa. Hầu hết các thành phố trong những khu vực này đều tự trị và đối địch lẫn nhau. Alexandros đã lợi dụng sự thù địch này và đã quy hàng được các thành Aspendos và Side. Quân đội Macedonia sau đó đã hướng về phía Phrygia và đến được bên ngoài thủ phủ của nó là Kelainai. Với mong muốn chiếm được Gordion càng sớm càng tốt, Alexandros đã không tốn thời gian để vây hãm tòa thành này mà giao nhiệm vụ này cho Antigonos I "Độc nhãn", chiến lược gia trưởng của đồng minh Hy Lạp. Kiểm soát Phrygia mang vai trò chiến lược vì vị trí trung tâm của nó, nó cũng là một trạm nghỉ lớn cho các đoàn lữ hành, là địa điểm cuối cùng trên tuyến đường đến từ phía đông và đồng thời điểm khởi đầu của con đường hướng ra biển Aegean. Tiếp đó, Alexandros tiến về xứ Pisidia. Tại Termessus, Alexandros khiêm tốn khi không ập vào thành phố. Alexandros đã đối xử thân thiện với đối thủ của ông là Selge. Ông tiếp đó đã tấn công thành Sagalassos và đã đến trước thành Gordion nằm trên "đường Hoàng gia" nối Ephesos và Ba Tư vào đầu năm 333 TCN. Tại đây ông đã nhận được thêm viện binh từ Hy Lạp và Macedonia cũng như từ Parmenion, người đã trú đông ở Sardis. Alexandros đã bổ nhiệm Nearchos làm tổng trấn của Pamphilia und Pisidia trong khi Antigonos tiếp quản Phrygia. Cuộc phản công của Ba Tư Cho dù Alexandros kể từ khi khởi binh đến này đã gặt hái được nhiều thắng lợi, nhưng tình thế giữa hai bên vẫn bất phân thắng bại. Đối với nhiều vị tướng lĩnh dưới trướng ông, mà dẫn đầu là Parmenion, thì mục tiêu của Philippos II, được lý thuyết hóa bởi Isocrates (cụ thể là chinh phục các vùng đất phía tây sông Halys), coi như đã đạt được. Từ khi xuất quân đến nay, quân đội Macedonia đã chiếm được một vùng lãnh thổ rộng lớn ở Tiểu Á nhưng Isocrates còn có một giải pháp khác, đó là Đế quốc Ba Tư phải diệt vong. Đây mới là mục tiêu mà Alexandros muốn đạt được và vì thế, ông chỉ trú lại tại Gordion trong một thời gian ngắn. Tại đây, Alexandros đã thử sức mở Nút thắt Gordian. Truyền thuyết nói rằng ai mở được nút thắt này sẽ trở thành "vua của châu Á". Alexandros nói rằng không cần biết làm thế nào để mở được nút thắt và ông đã dùng gươm chém nó đứt đôi. Tình hình hậu phương của quân đội Macedonia không phải không có rủi ro. Trên thực tế thì vào mùa đông năm 334 TCN, Darius III đã bổ nhiệm Memnon xứ Rhodos làm đại đô đốc hạm đội Ba Tư. Người này có ý định sẽ đem chiến tranh đến Macedonia bằng cách đổ bộ vào đảo Euboea và kích động người Hy Lạp nổi loạn. Phong trào chống Macedonia vẫn đang còn rất sống động ở nhiều thành phố. Ý tưởng về một cuộc chiến tranh báo thù người Ba Tư không làm cho họ chấp nhận bá quyền của người Macedonia vì ở cả hai phe trong cuộc chiến đều có người Hy Lạp tham gia. Memnon chiếm được Chios và giao quyền lãnh đạo của nó cho phe chính trị đầu sỏ. Ông ta phục vị cho tay bạo chúa Aristonicos ở Mithymna và bắt đầu cho quân vây thành Mytilene trên đảo Lesbos. Cuối mùa hè năm 333 TCN, Memnon đột ngột mắc bệnh rồi chết và được thay thế bởi Pharnabazus, cháu trai của Darius III. Darius rất tin tưởng vào tài năng quân sự của người cháu này nên đã trao cậu ta quyền đại tướng thống lĩnh binh mã ở tây Tiểu Á. Pharnabazus chiếm được các thành Milet và Halikarnassos nhưng phải tách ra khỏi đám binh lính đánh thuê Hy Lạp của mình vì những người này phải tham gia vào đội quân mà Darius đang tập hợp. Đến lúc này Alexandros mới nhận ra sai lầm khi đã giải tán hạm đội và ông cho rằng điều cần thiết lúc này là phải tái lập hạm đội để có thể kiểm soát eo biển Hellespont và Bosphorus và bảo vệ dân chúng trên quần đảo Cyclades khỏi người Ba Tư cũng như khỏi cướp biển. Ông lập tức hạ lệnh cho các thành viên của Liên minh ngay lập tức tập hợp tàu thuyền và giao quyền chỉ huy hải quân Hy Lạp cho hai đô đốc (návarchos) là Hegelokos và Amphoteros, em trai của tướng Crateros. Hegelokos nhận nhiệm vụ tiếp viện cho Lesbos, Chios and Cos trong khi Amphoteros tiếp quyền thống lĩnh hạm đội Hellespont. Xung đột suýt chút nữa đã xảy ra tại Athens khi hạm đội của thành phố này từ biển Đen quay trở về đã bị Hegelokos chặn lại. Lo sợ sẽ bị hạm đội của Athens can thiệp, Hegelokos đã thả cho họ về cảng. Sự việc này đã chứng tỏ rằng Alexandros rất cần một chiến thắng nữa ở châu Á để ngăn ngừa mọi nỗ lực tạo phản ở Hy Lạp. Vì thế nên khi nghe tin Darius đang trên đường tiến vào Cilicia vào đầu mùa hè năm 333 TCN, Alexandros đã ngay lập tức rời Gordion để chạm trán với Hoàng đế Ba Tư. Từ Issus tới Gaugamela Đại chiến tại Issus Sau khi rời khỏi Gordion, đích đến đầu tiên của Alexandros là Ancyra. Các xứ Paphlagonia, Cappadocia đều lần lượt xin hàng, một điều mang tính hình thức vì Alexandros thậm chí không có thời gian để chinh phục họ. Quân đội Macedonia sau đó đã hướng về phía nam và thâm nhập Cilicia qua một ngọn đèo có tên là cổng Cilicia, được canh giữ bởi tổng trấn Arsames. Sau khi rời khỏi thành Soles, ông đã phải trú lại ở Tarsus do bị ốm suốt mấy tuần liền – nhiều khả năng do cảm hàn sau khi tắm ở sông Cydnos. Trong khoảng thời gian Alexandros ốm nặng, phó tư lệnh quân đội Macedonia là Parmenion đã chiếm quyền kiểm soát các con đèo trọng yếu trên tuyến đường dẫn tới vùng đồng bằng Issus (đèo Karanluk-Kapu) và những cửa ải kiểm soát tuyến đường đến Syria (đèo Merkes và đèo Bailan). Sau khi bình phục, Alexandros đã bình định được các bộ lạc dân tộc thiểu số vùng cao ở Cilicia và chiếm được Soles. Ông đã phục hồi nền dân chủ tại thành phố này sau khi thiết lập một đơn vị đồn trú ở đây và đòi một khoản bồi thường 200 talăng từ thành phố này. Ông cũng nhận được tin rằng ở hậu phương, Ptolemaios đã khuất phục được xứ Caria sau khi phá được thành Halikarnassos và tiêu diệt được tổng trấn Orontobates cùng lúc với tin vui từ Myndos và chiến thắng tại Cos. Tuy nhiên chỉ ít lâu sau, tổng trấn Pharnabazus thống lĩnh hạm đội Ba Tư phá được đảo Tenedos và thành Sigeion tại khu vực eo biển Hellespont cũng như đạt được thỏa thuận với vua Sparta là Agis III. Pharnabazus muốn kích động lòng phẫn nộ của dân chúng Hy Lạp và hỗ trợ họ tiền tài và tàu thuyền. Tình hình do đó trở nên căng thẳng, đặc biệt khi mà sự xuất hiện của Darius III trở nên rõ ràng hơn. Lúc này vua Darius dẫn 60 vạn quân tinh nhuệ từ Susa tiến đến. Các chiến binh Ba Tư cắm trại trên một vùng đồng bằng rộng lớn nơi họ tận dụng được sức mạnh của Kị binh. Nhưng nhiều tuần trôi qua mà không thấy Alexandros, lúc đó đang hồi phục sức khỏe sau trận ốm, không động binh nhưng các mưu sĩ thân cận của Darius III cho rằng Alexandros sợ không dám đương đầu với một đội quân khổng lồ. Vì thế Darius nên dẫn quân đến Issus để cắt đường rút chạy của Alexandros. Darius dẫn quân đến Issus đúng lúc Alexandros tiến quân vào Syria để đương đầu với ông ta, vì thế cả hai đạo quân đều không gặp nhau. Khi biết rằng quân Ba Tư đã vòng phía sau mình, Alexandros quay lại và thúc quân nhanh chóng đến Issus. Vua Darius vội vã rút quân ra khỏi Issus khi nhận thấy địa hình gồ ghề khiến kị binh trở nên vô dụng và quân đội của ông ta bị chia tách, còn quân Hy Lạp giành được lợi thế. Nhưng trước khi Darius thoát được cái bẫy của chính mình thì Alexandros đã đến nơi. Alexandros tự mình chỉ huy cánh phải nghiền nát cánh trái của quân Ba Tư. Trong trận này quân Ba tư mất tới 11 vạn người. Còn Darius tháo chạy khỏi trận đánh, còn gia quyến thì rơi vào tay quân Macedonia. Chinh phục Phoenicia Cuộc tháo lui của quân đội Ba Tư thực sự hỗn loạn. Darius III chỉ còn lại vài nghìn binh mã hộ tống khi đến được Thapsacus bên bờ sông Euphrates thuộc địa phận Syria, trong khi đám tàn quân còn lại đều phân tán khắp nơi. Một số đã chạy đến Phoenicia và từ đây đã di chuyển đến Ai Cập và Síp. Darius khi tháo chạy trong hoảng loạn đã bỏ lại vợ là Stateira I, hai con gái, mẹ già khiến họ rơi vào tay Alexandros. Có lẽ để chuộc lại gia quyến, Darius đã cố gắng thương lượng với kẻ thắng cuộc rằng ông sẵn sàng cắt toàn bộ phần đất phía tây của sông Halys. Tuy nhiên, Alexandros đã từ chối khi ông cho rằng mình nay đã là "vua của cả châu Á" và chỉ có bản thân ông mới là người có quyền đưa ra quyết định phân chia lãnh thổ như thế nào. Một trong những tác động của chiến thắng tại Issus là các thành bang Hy Lạp, bao gồm Athens và Sparta, dưới sự dẫn dắt của Agis III, đã quyết định gửi sứ giả tiếp cận với Darius III. Tình cảnh lúc bấy giờ vẫn còn nguy hiểm đối với Alexandros. Một trong những viên tướng xuất sắc nhất của Ba Tư lúc này là Nabarzanes, đã dẫn một lượng kỵ binh rút lui về vùng Cappadocia, Paphlagonia để chiêu mộ binh mã (cuối năm 333 TCN – đầu năm 332 TCN). Tuyến vận tải quân nhu của Alexandros vì thế mà đang bị đe dọa. Ngoài ra thì vào lúc này, một viên tướng Macedonia là Memnon xứ Thracia (không nên nhầm lẫn với Memnon của Rhodos) khi được cử đi dẹp quân phản loạn thì đã tạo phản mà đứng về phía phe phiến quân. Thêm vào đó, Darius III vào lúc này dường như đang chiêu binh bãi mã tập hợp một đội quân mới. Nhưng điều thực sự nguy hiểm nhất đối với Alexandros vào lúc này là hạm đội Ba Tư đang tung hoành trên biển Aegea ở "ngay trước ngõ" của Macedonia. Vì vậy, Alexandros cần phải kiểm soát vùng duyên hải Phoenicia, nơi đóng vai trò là căn cứ hải quân Ba Tư, mới có thể triệt hạ được mối nguy ở sau lưng này. Chính vì điều này, Alexandros đã quyết định từ bỏ việc truy kích Darius III mà chuyển hướng đi dọc theo bờ biển Địa Trung Hải về phía nam, hướng Arados (miền bắc Phoenicia) trong khi Parmenion được lệnh dẫn một đội quân đến Damascus để chiếm đoạt ngân quỹ chiến tranh của Darius ở đây. Cùng lúc đó, Alexandros đã xuống chiếu thăng một trong những vị tướng nhiệt huyết nhất mà ông có – Antigonos "Độc nhãn" – lên làm tổng tư lệnh toàn bộ binh mã Macedonia đóng ở Tiểu Á. Khoảng thời gian nằm dưới sự cai trị của đế quốc Achaemenes là một thời kỳ thịnh vượng đối với xứ Phoenicia. Các hoàng đế Ba Tư đã cho phép các thành bang người Phoenicia giành lại quyền kiểm soát nhiều tuyến đường thương mại trước đối thủ truyền thống của họ: người Hy Lạp. Đại đa số thủy thủ trong hạm đội Ba Tư tham chiến trong trận Salamis trong cuộc xâm lược Hy Lạp năm 480 TCN dưới triều Xerxes I là người Phoenicia. Tuy nhiên, các thành bang Phoenicia đều không giữ lập trường giống nhau trước sự xuất hiện của Alexandros trên quê hương mình. Vua Gerostratos của Arastos giữ quan điểm rằng ông không có đủ thực lực để kháng cự quân Macedonia, chưa kể đến việc là thành phố thu được nhiều lợi nhuận từ thương mại đường bộ (đặc biệt là từ Ba Tư và Media) hơn là từ giao dịch hàng hải. Arastos vì thế đã quy hàng và theo chân họ là các thành phố khác như Marathos, Sigon và Byblos. Trong số các thành phố Phoenicia thì Sidon đầu hàng dễ dàng hơn cả vì dân chúng thành phố còn chưa quên sự trả thù tàn bạo của Artaxerxes II khi họ từng tham gia cuộc nổi loạn của các tổng trấn dưới thời trị vì của vị hoàng đế này. Vây hãm thành Tyros Vào cuối năm 333 TCN, Alexandros chiếm hữu các xứ Judea và Samaria thuộc Israel ngày nay. Khi ông ở Sidon bắt đầu cuộc đàm phán với Azemilcos, vua của Tyros, người bày tỏ là muốn giữ trung lập trong cuộc xung đột này. Nhưng Alexandros đưa ra điều kiện là ông chỉ đồng ý nếu như ông được thực hiện nghi lễ cúng tế tại đền thờ Heracles-Melqart, vị thần giám hộ của Tyros. Người Tyros phát hiện ra rằng đây là một cái bẫy và nếu họ đồng ý cho Alexandros người thắng trận vào đền thờ thì sẽ chẳng khác gì giao cho ông quyền kiểm soát thành phố tuyệt đối. Đối với Alexandros, thì việc ông giữ vùng duyên hải Phoenicia sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu như Tyros, với hai cái hải cảng của nó, nằm ngoài tầm kiểm soát của ông. Vì thế ông đã quyết định mở cuộc tấn công vào tháng 1 năm 332 TCN. Khu phố mới của thành phố Tyros được xây dựng trên đảo Ancharadus, nằm cách bờ biển khoảng 1 km. Do không có hải quân, Alexandros buộc phải đắp đất thành đường vượt biển để tiếp cận thành. Tuy nhiên, việc đắp đê càng trở nên khó khăn hơn khi ra đến vùng nước sâu hơn, đặc biệt là khi người Tyros sử dụng tàu bè, bao gồm tàu phun lửa và thợ lặn, để quấy nhiễu và đánh du kích. Tuy nhiên, Alexandros đã giành được một lợi thế khác. Sau khi hàng phục các thành bang Phoenicia khác, Alexandros đã có thể làm phân tán hạm đội Ba Tư (đầu năm 332 TCN) vì đại đa số thủy thủ đều là người Phoenicia và khi các thành phố quy hàng Alexandros, thì họ lần lượt ai về nhà nấy. Các vị vua của Sidon, Byblos, Arados và Soli trên đảo Síp sẵn sàng cung cấp số tàu này cho Alexandros và nhờ đó, ông đã có thể tập hợp một hạm đội đủ lớn để có thể bao vây thành Tyros từ phía biển. Theo Flavius Iosephus thì Alexandros cũng đồng thời cũng yêu cầu Đại tư tế Jerusalem là Jaddus cung cấp mình viện trợ quân sự cũng như khoản cống nạp mà họ phải nộp cho các vị vua nhà Achaemenes nhưng không có kết quả. Sau một cuộc đột kích kéo dài 10 ngày vào cư dân sống trên núi tại Liban ngày nay, Alexandros thấy rằng hạm đội của mình đã sẵn sàng và cùng lúc nhận được tin báo rằng Kleandros đã đến nơi, dẫn theo 4.000 lính đánh thuê mà phần lớn đều đến từ Peloponnesos. Bị cô lập giữa biển kể từ khi hạm đội thất bại, Tyros tiếp tục chống cự cho đến tháng 8. Cuộc chiến tại đây đã trở nên cực kỳ đẫm máu, khi dân chúng trong thành quyết liệt chống trả. Đặc biệt người Tyros đã sử dụng đinh ba có hình dáng giống một loại móc và sử dụng nó để đâm thủng khiên của quân Macedonia rồi đổ cát nóng lên người họ. Đối mặt với sự kháng cự quyết liệt và đã từng có lúc suy nghĩ từ bỏ, Alexandros đã hạ lệnh thực hiện một cuộc tổng tấn công từ cả biển lẫn đất liền. Khi tháp công thành và trục phá thành tiếp cận tường thành Tyros, đức vua Alexandros đích thân dẫn cuộc xung kích. Khoảng từ 6.000 – 8.000 quân thủ thành đã tử trận, hơn 2.000 trai tráng ngay lập tức bị cho đóng đinh ngay sau khi thành Tyros vỡ. Khoảng 30.000 người còn lại đều bị đem bán làm nô lệ trong khi một phần không nhỏ dân chúng gồm nhiều phụ nữ và trẻ em đã lên thuyền chạy nạn đến Carthago. Thắng lợi này đã giúp Alexandros bảo đảm sự kìm kẹp của mình đối với toàn bộ Phoenicia. Thống đốc Sanballates của Samaria sau đó đã xin quy thuận Macedonia. Theo lời kể của Flavius Iosephus thì Sanballates đã được phép xây dựng một ngôi đền trên núi Garizim để ủng hộ con rể của ông là Manasses, người cũng là em trai của Đại tư tế Jerusalem Jaddus. Đáp lại, 8.000 người Samaria gia nhập quân đội Macedonnia. Pharaon của Ai Cập Sau khi cuộc vây hãm Tyros kết thúc, Alexandros đã khởi hành tới Ai Cập, lúc này vẫn nằm dưới quyền cai trị của các quan lại trung thành với nhà Achaemenes. Trong khoảng thời gian này dù Parmenion đã cố gắng khuyên bảo, nhưng Alexandros vẫn từ chối lời cầu hòa của Darius III, dù ông này có đề nghị là sẽ cắt toàn bộ đất đai nằm giữa châu Âu và sông Halys ở Anatolia (chảy qua thủ đô Ankara, Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) và gả con gái mình là Stateira cho ông. Sau khi Alexandros vượt sông Euphrates vào mùa hè, Darius thậm chí còn đề nghị cắt toàn bộ lãnh thổ phía tây con sông này cho Alexandros. Tuy nhiên, cũng không loại trừ khả năng rằng những đề nghị hòa binh chỉ là sản phẩm tuyên truyền của Macedonia vì Darius, dù ông ta tìm cách cứu những người thân đã bị bắt, dường như quyết định chiến đấu đến cùng. Không thể phủ nhận rằng việc Alexandros tìm cách chiếm đóng Ai Cập là để chiếm lấy của Ba Tư đường bờ biển cuối cùng ở Địa Trung Hải và tiêu diệt khả năng tập hợp lính đánh thuê Hy Lạp của họ. Ông đã cố tình cho Darius có thời gian để huy động một đội quân mới ở các tỉnh phía đông để một trận có tiêu diệt hoàn toàn sức mạnh của Ba Tư. Khi trên đường đến Ai Cập, Alexandros đã gặp phải sự kháng cự mạnh từ Gaza dưới sự lãnh đạo của viên thái giám Batis trong suốt 2 tháng. Thành Gaza là một tòa thành kiên cố nằm trên tuyến đường nối Ai Cập và phần còn lại của Đế quốc Ba Tư. Nó được xây dựng trên ngọn đồi, và "...khi các kỹ sư của Alexandros đã chỉ rằng vì chiều cao của gò đất, điều đó là không thể...điều này chỉ khiến Alexandros càng muốn thử sức hơn thôi". Sau 3 đợt tấn công dồn dập, toà thành cuối cùng đã thất thủ nhưng bản thân Alexandros cũng bị thương tới hai lần. Cũng giống như ở Tyros, nam giới đến tuổi tòng quân đều bị xử tử còn phụ nữ và trẻ em đều bị đem bán làm nô lệ. Ông đã đem theo một lượng lớn chiến lợi phẩm mà chủ yếu là gia vị. 7 ngày sau khi rời khỏi Gaza, Alexandros cuối cùng cũng đã đến được Pelusium. Người Ai Cập trước đó đã nhiều lần nổi dậy chống lại ách đô hộ của người Ba Tư và đã bị đàn áp dã man nên khi Alexandros tiến vào Ai Cập, ông đã được toàn dân chào đón như là người giải phóng. Để tránh đổ máu, tổng trấn Mazaces người Ba Tư của Ai Cập đã trao quyền kiểm soát Ai Cập cũng như kho báu với 800 talăng cho nhà vua Macedonia. Alexandros được tấn phong làm Pharaon của Ai Cập vào năm 331 tại Memphis. Ông thực hiện nghi lễ cúng tế thần Apis, cam kết tôn trọng các phong tục, tập quán Ai Cập cũng như tôn vinh các vị thần bản địa khác. Tiếp đó, ông đã hướng tới bờ biển Địa Trung Hải ở vùng châu thổ sông Nin và lựa chọn địa điểm cho Alexandria tương lai, một thành phố mang tên ông chỉ được hoàn thành dưới thời vua Ptolemaios II và nổi tiếng vì ngọn hải đăng, Musaeum và thư viện của nó. Sau đó, Alexandros đi hành hương đến ốc đảo Siwa, được công nhận là hậu duệ trực hệ của thần Amun bởi những nhà tiên tri Ai Cập tại Đền thờ thần của vị thần này. Lời tuyên bố này, theo nghi thức của người Ai Cập, đã được Alexandros sử dụng làm công cụ tuyên truyền một cách rộng rãi. Plutarchus ghi lại rằng: {{quote|"Một số người cho rằng nhà tiên tri muốn chào đón ông một cách thân mật bằng tiếng Hy Lạp, đã gọi ông là "con trai ta" (παιδίον / païdion), nhưng bằng cách phát âm man di của mình, ông ta đã nói vấp chữ cuối, và thay chữ nu (ν) thành chữ Sigma (ς): "Con của Zeus" (παῖς Διός / païs dios); Nhiều người tin rằng Alexandros rất thích sự cố này và lan truyền rằng ông đã được gọi là "con của thần Zeus".}} Sau khi quay trở về Memphis, Alexandros đã chính thức được làm lễ đăng quang trong đền thờ thần Ptah. Nghi lễ này chỉ được Callisthenes Giả đề cập đến, nhưng dường như có khả năng là đã được tổ chức. Ông cơ cấu lại Ai Cập trước khi tiếp tục lên đường chinh phục miền Đông. Ông không muốn bổ nhiệm một tổng trấn mới cho Ai Cập do nghi ngại sự giàu có của Ai Cập có thể mang lại những tham vọng cá nhân. Viên tướng người Hy Lạp Cleomenes của Naucratis đã được giao phó trọng trách quản lý tài chính do ông là người hiểu rõ về đất nước này. Trong khoảng thời gian ở tại Ai Cập Alexandros đã nhận được tin báo rằng tàn dư của hạm đội Ba Tư cuối cùng cũng đã bị đánh bại và tổng trấn Ba Tư Pharnabazus – kẻ thù cuối cùng của Alexandros ở vùng biển Aegea – nay đã bị bắt. Tuy nhiên, Pharnabazus đã tìm cách trốn thoát được nhưng Đô đốc của Alexandros là Hegelochos đã bắt giữ được nhiều tù binh và đày họ đến thành phố Elephantine ở Ai Cập. Điều này để lại cho Antipatros, Giám quốc của Macedonia, toàn quyền quyết định để đối phó với vị vua khó lường trước của Sparta, Agis III. Tình hình ở châu Âu khiến Alexandros lo lắng suốt năm 331, ngay cả sau khi người Ba Tư bị nghiền nát tại Gaugamela. Ông cũng nhân rộng sự ưu ái cho các thành bang Hy Lạp để khuyến khích họ trung thành. Không loại trừ khả năng rằng, khi Alexandros cho phóng hỏa đốt trụi Persepolis, một trong những đế đô của đế quốc Achaemenes, là để chứng minh cho Hy Lạp rằng mục tiêu của Liên minh Korinthos đã hoàn thành cũng như loại bỏ tình trạng bất ổn ở châu Âu. Chiến thắng quyết định Alexandros rời khỏi Ai Cập vào mùa xuân năm 331 TCN để tiếp tục chiến dịch đông chinh của mình. An tâm vì thất bại của Pharnabazus và vào khả năng của Antipatros, người mà ông tin tưởng đủ sức đối phó với vua Agis III của Sparta. Khi đoàn quân một lần nữa đi qua Tyros, Alexandros được một phái đoàn của Athens yết kiến, hy vọng nhà vua sẽ thả những binh sĩ đánh thuê người Hy Lạp trong hàng ngũ quân Ba Tư đã bị bắt sau trận Granicus. Ông cũng tranh thủ thời gian tái tổ chức tài chính ở các vùng đất đã chinh phục dưới cái tên "quỹ chiến tranh" và giao phó trọng trách này cho Harpales. Cuối mùa xuân năm đó, quân đội Macedonia hành quân về phía đông hướng sông Euphrates vào vùng Assyria (bây giờ là bắc Iraq). Binh sĩ Macedonia đã vượt sông vào cuối tháng 7 tại Thapsacus trên một chiếc cầu thuyền. Tổng trấn Mazaeus khi được tin Alexandros đến đã tiến hành rút lui. Vào lúc này quân trinh sát (Prodromoi) Macedonia đã phát hiện ra đội quân của Darius III ở phía bắc. Ngoài ra, nhà vua Macedonia, thay vì hành quân tới Babylon theo kế hoạch ban đầu của mình, đã chuyển hướng về phía bắc, về phía Nisibis và vượt sông Tigris vào khoảng ngày 20 tháng 9 năm 331 (khu vực xung quan Djésireh, Iraq ngày nay) và đi vòng phía sau đối phương. Quân Macedonia sau đó men theo tả ngạn sông Tigris mà hướng về phía nam. Sau bốn ngày, Alexandros nhận được tin báo rằng quân đội Ba Tư với quân số áp đỏ như mọi lần, đang đợi chờ ông ở vùng đồng bằng Gaugamela rộng lớn, gần Arbela thuộc xứ Adiabene (Kurdistan, Iraq ngày nay). Darius III đã dự định tận dụng ưu thế quân số của kỵ binh Ba Tư để bọc sườn quân Hy Lạp từ hai phía. Để đối chọi với tình huống này, Alexandros cho quân di chuyển theo đội hình nghiêng, nghĩa là tập trung hết sức mạnh tấn công vào cánh phải. Quân Ba Tư đã tấn công cánh phải Hy Lap nhưng bị đẩy lùi. Thừa thắng, Alexandros đã xua đội cận vệ tinh nhuệ xông lên đánh thủng chiến tuyến của Ba Tư. Sau đó, ông lao về trung quân Ba Tư và tấn công dữ dội vào vua Ba Tư, Darius buộc phải bỏ chạy sau khi người lái chiến xa của ông ta bị giết, và Alexandros đuổi theo ông ta xa đến tận Arbela. Trong khi Darius chạy về vùng núi về phía Ecbatana xứ Media (nay là Hamadan), Alexandros tiến về thành Babylon. Thành phố này đầu hàng ngay lập tức. Truy đuổi Darius Tiến vào Babylon và Susa Chiến thắng của Alexandros tại Gaugamela đã mở rộng con đường tới Babylon. Thành phố đã ngay lập tức đầu hàng dưới tác động của Mazaeus, cựu tổng trấn của Cilicia và chỉ huy đội kỵ binh Ba Tư trong trận Gaugamela. Các tu sĩ thần Marduk ở Babylon vốn cũng không thân thiện gì với người Ba Tư lắm. Alexandros đã không ở lại lâu trong thành, tránh cho quân địch cơ hội để chỉnh đốn và tập hợp lại binh mã. Khoảng thời gian 3 tuần giữa trận Gaugamela cho đến khi Alexandros tiến vào Babylon (cuối tháng 10 năm 331 TCN) này đã được biết đến nhiều hơn nhờ vào việc phát hiện một tấm bảng khắc những ký tự hình nêm Babylon. Dù tấm bảng này đã xuống cấp, nhưng vẫn đề cập rõ trình tự thời gian và hậu quả của trận đánh tại Gaugamela. Trên thực tế, tấm bảng cũng có đề cập đến sự chạy trốn của Darius III "tới đất của người Guti" (người Media) và chỉ rõ ràng giới chức Babylon đã cố gắng thỏa thuận với những kẻ thắng cuộc nhằm bảo tồn những giá trị tôn giáo truyền thống. Alexandros đã hạ lệnh cho xây dựng lại đền thờ Marduk vốn lúc này đã đổ nát. Mazaeus được chỉ định làm tổng trấn của Babylonia. Qua đó, Alexandros đã thiết lập chính sách tập hợp tầng lớp quý tộc Ba Tư của mình. Tuy nhiên, ông vẫn duy trì một lực lượng đồn trú lớn ở Babylon, cho thấy rõ ông đã thận trọng hơn là so với những gì đã làm ở Ai Cập. Darius trên đường chạy trốn đã cố gắng tập hợp lại một đội quân mới từ các trấn miền đông. Alexandros cùng lúc đó hành quân đến Susa, một trong những kinh đô của Vương triều Achaemenes, vốn đã xin quy thuận người Macedonia. Trước đây, ông đã phái Philoxene, người từng nắm vai trò quản lý tài chính ở Tiểu Á, tới Susa để đảm bảo kiểm soát kho ngân khố khổng lồ với gần 5 vạn talăng tại đây. Alexandros vẫn giữ Aboulites tiếp tục làm tổng trấn Susiana để báo đáp việc cho sự thần phục. Vả lại với những rào cản ngôn ngữ ở nơi đây, sẽ tốt hơn nếu vùng đất này tiếp tục được một người bản xứ quản lý thay vì một người Hy Lạp. Alexandros đã gửi một phần của kho báu này với hơn 3.000 talăng về Macedonia cho Antipater để ông ta có thể sử dụng nó trong cuộc chiến chống lại Sparta. Những khó khăn của Antipatros tại quê nhà Năm 331 TCN có lẽ là năm khó khăn nhất dành cho Antipatros kể từ khi ông được Alexandros bổ nhiệm làm Giám quốc nắm quyền quản lý chính phủ Macedonia và Hy Lạp trong khoảng thời gian nhà vua vắng mặt. Kể từ khi hạm đội Ba Tư bị đánh tan sau khi quân Macedonia chiếm được Tyros, những người Hy Lạp có lẽ đã không còn dám nghĩ tới việc nổi loạn, ngoại trừ Agis III, vua của Sparta. Vị vua này đã chiêu mộ được cướp biển Crete và vận động được dân chúng Peloponnesos (người Elea, Arcadia và gần như toàn bộ Achaia ngoại trừ Pellenes) nổi dậy chống lại Macedonia. Chỉ có Megalopolis và Messene là hai thành phố từ chối tham gia liên minh chống Macedonia. Ban đầu, Agis III dành thắng lợi trước một đội quân Macedonia do Korragos chỉ huy và đem quân vây đánh Megalopolis. Tuy nhiên, phần còn lại của Hy Lạp đã không tham gia cùng Sparta và ngay cả Demosthenes ở Athens cũng đưa ra lời khuyên là đừng dấy vào chuyện này làm gì. Đúng là những cử chỉ khéo léo của Alexandros, chẳng hạn như giao trả cặp tượng Tyrannoctones vốn đã bị người Ba Tư cướp đi 150 năm trước về với Athens hoặc hành động phóng thích những tù nhân Athens đã bị bắt sau trận chiến bên bờ Granicus, đã phần nào xoa dịu mối quan hệ giữa ông và dân chúng thành phố xứ Attica này. Mối quan hệ giữa Antipatros và Olympias, mẹ của Alexandros, là đặc biệt căng thẳng. Điều này dẫn đến tới những trở ngại khi Olympias đã bày tỏ tham vọng đối với ngai vị của Ipiros sau cái chết của em trai kiêm con rể của bà là vua Alexandros I của Ipiros khi đang viễn chinh trên đất Ý. Bà cuối cùng cũng đã đảm nhận chức vụ phụ chính cho một trong những đứa cháu ngoại của mình, con trai của vị vua trước và con gái bà là Cleopatra, em gái của Alexandros. Antipatros vâng mệnh của vua, đã đối phó với Memnon của Rhodos để vô hiệu hóa ông ta. Sau đó, Antipatros đã đích thân dẫn một đội quân có từ 35.000 đến 40.000 người tới Peloponnesos. Agis trong khi đó chỉ có 20.000 bộ binh và 2.000 kỵ binh. Ông ta đã bị đánh bại và mất mạng trong trận Megalopolis mùa thu năm 331. Dưới sự lãnh đạo của Liên minh Korinthos, Sparta đã đàm phán hòa bình trực tiếp với Alexandros. Tin tức về chiến thắng trước quân Ba Tư tại Gaugamela, lan truyền tới châu Âu sau khi Antipatros dành chiến thắng trước Sparta, đã đảm bảo quyền tối cao của người Macedonia ở Hy Lạp. Được biết, khi tin chiến thắng được báo đến tai ông, Alexandros chẳng vui mừng gì vì ông nghĩ đây là một chiến thắng chẳng có gì nổi bật. Chiến dịch tại Ba Tư và đốt cháy Persepolis Alexandros tiếp tục tiến sâu vào nội địa Ba Tư. Ông sử dụng "con đường Hoàng gia" dẫn qua vùng đất của người Uxii, một bộ tộc bán du mục sinh sống trên vùng đất mà ngày nay là tỉnh Khuzestan của Iran. Alexandros đã hàng phục được những bộ lạc vùng sâu vùng xa sống trong khu vực này và ép buộc họ đóng thuế bằng cách nộp ngựa và các loại động vật có thể dùng để kéo và chở khác mà quân đội đang cần. Sau khi bị Tổng trấn Ariobarzanes của Persis (đất phát tích của các vị đế vương Ba Tư) cầm chân một thời gian tại Cổng Ba Tư, Alexandros cùng đội quân của ông cuối cùng đã đến được thành phố mang tính biểu tượng nhất tượng trưng cho quyền lực của các vị hoàng đế Ba Tư nhà Achaemenes – Persepolis. Khác với những thành phố khác, Persepolis bị quân đội Macedonia cướp phá, vơ vét của cải trong nhiều ngày. Alexandros trụ lại tại Persepolis trong vòng năm tháng. Trong khoảng thời gian này, một ngọn lửa lớn bùng cháy ở cung điện phía Đông của Hoàng đế Xerxes I và lan ra cả thành phố. Nhiều khả năng đây là một tai nạn do ai đó say rượu đã lỡ tay làm ra, nhưng cũng có những ý kiến cho rằng ngọn lửa thực ra là một động tác mang tính biểu tượng đã được suy tính kỹ càng của Alexandros Đại đế mà ông muốn gửi đến cả người Ba Tư và cả những người Hy Lạp trong liên minh Korinthos. Ngọn lửa này được hiểu là ngọn lửa báo thù việc hoàng đế Xerxes I đã hạ lệnh thiêu trụi vệ thành Athens trong cuộc chiến tranh Ba Tư lần thứ hai 150 năm trước đó (480 TCN), có thể đã được dùng như là một sản phẩm tuyên truyền mà ông muốn gửi đến người Hy Lạp, nhất là khi mà tình hình ở Hy Lạp đang còn rất căng thẳng và tin tức về chiến thắng của Antipatros trước người Sparta nhiều khả năng chưa đến tai của Alexandros. Plutarchus và Diodorus thì cho rằng Alexandros sau khi nghe theo lời xúi giục của một kỹ nữ (Hetaira) người Athens tên là Thaïs đã hạ lệnh phóng hỏa. Ngay khi nhìn thành phố bốc cháy, ông ngay lập tức bắt đầu hối hận về quyết định của mình. Plutarchus tuyên bố rằng Alexandros đã ra lệnh cho người của mình cố gắng dập lửa, nhưng không kịp vì ngọn lửa đã lan rông ra khắp nơi và nhấn chìm toàn bộ thành phố trong biển lửa. Trong khi đó, Curtius tuyên bố rằng chỉ tới sáng hôm sau, sau khi thức dậy, Alexandros mới bắt đầu ân hận vì quyết định của mình. Plutarchus thuật lại một giai thoại nói về việc Alexandros đã dừng lại và nói chuyện với một bức tượng Xerxes bị rơi xuống nằm trên đất như thể đó là một người sống: Cái chết của Darius Vào mùa hè năm 330 TCN, Darius III lúc này đang lánh nạn ở Media. Đối mặt với cuộc tiến công của Alexandros, ông đã quyết định sử dụng con đường tới tỉnh Hyrcania, nằm ở phía đông nam biển Caspi. Tại Ectabana, ông được hộ tống bởi Ariobarzanes và một người họ hàng tên là Bessus, tổng trấn Bactria, cùng một đội kỵ binh Bactria và một nhóm gồm 2.000 lính đánh thuê Hy Lạp. Darius sau đó hạ lệnh đưa hậu cung cùng số của cải còn lại của mình tới Cổng Caspi (phía đông của Teheran ngày nay), cửa ải huyết mạch của xứ Hyrcania, để tiện bề bảo vệ. Alexandros hành quân tới Paratecene (khu vực thuộc Isfahan ngày nay), hàng phục dân chúng trong vùng và tức tốc phi đến Ecbatana chỉ để nhận được tin rằng Darius đã tháo chạy từ 3 ngày trước cùng 9.000 quân bao gồm 3,000 kỵ sĩ. Tại Ecbatana, Alexandros sa thải đội kỵ binh Thessalia của mình, hạ lệnh cho Parmenion đưa quân đến Hyrcania còn Cleitos đưa quân đến Parthia (phía đông của Hyrcania). Ông cũng đích thân dẫn đầu một đội khinh kỵ lên đường truy kích nhà vua Ba Tư. Trong vòng 11 ngày, ông đã vượt qua quãng đường từ Ecbatana đến Rhagæ (phía nam Teheran), nơi ông buộc phải dừng lại để người và ngựa nghỉ lấy sức trong vòng 5 ngày. Ông cũng nhận được thông tin từ những binh sĩ Ba Tư đào ngũ rằng Darius hiện tại đang bị Bessos và Barsaentes giam cầm và đang trên đường tới Hecatompyles (gần Shahroud ngày nay). Khi nhận được tin này, ông giao binh lính cho Crateros, còn mình thì ngay lập tức dẫn một toán kỵ sĩ trang bị nhẹ nhất có thể đuổi theo không biết mỏi mệt suốt 1 ngày trời. Ngày hôm sau, sau khi đi liên tục thâu đêm, ông đến được trại của Darius, nhưng không còn ai ở đó nữa. Tối cùng ngày, Alexandros lại tiếp tục bắt người ngựa đi suốt đêm quyết theo kịp người Ba Tư nhưng cũng chỉ đến được một trại không còn bóng người. Sau tất cả, Alexandros, cùng một số binh sĩ đã đuổi kịp đoàn xe của Darius. Tuy nhiên Darius đã bị Bessos, Barsaentes và Satibarzane ám sát, những người vừa cùng vài trăm kỵ binh tẩu thoát. Bessos tự xưng đế, lấy hiệu là Artaxerxes V làm người kế thừa của ngai vàng Ba Tư, nhưng trên thực tế thì vào lúc này, Alexandros mới là người nắm trọn đế quốc Ba Tư trong lòng bàn tay. Tiếp tục cuộc đông chinh Hậu quả của cái chết của Darius Alexandros III trả lại danh dự hoàng gia cho Darius III và thể hiện mình như là người kế vị hợp pháp của nhà vua Ba Tư khi ông lan truyền tin đồn rằng Darius III trong lúc hấp hối đã yêu cầu Alexandros trả thù những kẻ đã ám hại mình, bao gồm cả tổng trấn Bessus. Kể từ giờ, Alexandros có thể đối xử hào phóng với gia quyến của Darius III và đã an táng ông bên cạnh các tiên đế trong khu lăng mộ hoàng gia tại Persepolis. Các tổng trấn trung thành với Darius đều lần lượt được Alexandros ban thưởng hậu hỉ, ví dụ như Artabazos, người từng chống đối Alexandros nhiệt tình nay đã được Alexandros cho tiếp quản Bactria. Sự hợp tác với giới quý tộc Ba Tư là rất cần thiết đối với Alexandros vào lúc này khi mà các đạo quân bắt đầu có dấu hiệu mệt mỏi sau nhiều năm xa nhà. Điều này buộc nhà vua phải giải tán một phần quân đội của mình cho phép họ quay trở về quê nhà, bao gồm người Thessalia, trong khi ông rất cần nhân lực nếu muốn tiếp tục cuộc viễn chinh tới châu Á. Để bảo vệ kho báu hoàng gia, Alexandros đã cắt 6.000 quân ở lại Ecbatana. Cái chết của Darius đem lại một sự tái tổ chức trên diện rộng của Đế quốc cũng như việc từ bỏ phong tục hoàng gia của người Macedonia: Alexandros, nay được gọi là "Vua Alexandros" và không còn xưng là "vua của người Macedonia" như trước nữa. Tuy nhiên, việc ông học theo cách của người Ba Tư đã khơi dậy sự phản kháng giữa những người ủng hộ truyền thống Macedonia. Ông tin tưởng bổ nhiệm một số cận thần nắm giữ những chức vụ quan trong: Hephaistion được phong làm Thiên tổng (Chiliarch), đứng dưới một người trên vạn người; Harpalos được phong làm quan tài vụ trông coi tài chính của đế quốc. Xứ Aria quy thuận Trước khi truy đuổi Bessos, kẻ sát nhân đã hãm hại Darius III và đồng bọn, Alexandros phải bình định các cuộc nổi loạn ở xứ Hyrcania và các bộ lạc thiểu số Tapouriens và Mardes sống trên vùng cao đông bắc Iran (vùng núi Khurāsān hiện tại trên biên giới giữa Iran và Turkmenistan). Quân số của quân đội Macedonia vào lúc này đã suy giảm do nhiều binh sĩ đồng minh Hy Lạp đã ra về, dù vậy, họ vẫn tiếp tục tiến sâu vào đất địch. Alexandros vì thế phải thu nạp nhiều binh lính đánh thuê từng tham chiến trong hàng ngũ quân đội Achaemenes và bắt đầu tuyển mộ người Ba Tư gia nhập quân đội Macedonia. Ông tập hợp quân đội tại Zadracarta và cử một đội binh mã quay trở về Ecbatana để bảo vệ ngân khố hoàng gia dưới sự chỉ huy của Parmenion, một người mà có vẻ như ông không tin cậy cho lắm, trong khi bản thân chuẩn bị truy đuổi các tổng trấn chưa chịu quy hàng. Cũng vào thời gian này, ông nhận được tin rằng các tổng trấn tham gia vào vụ mưu sát Darius III đã mỗi người một ngã và Bessos đã xưng đế, lấy hiệu là Artaxerxes V và đã chạy đến Bactria tiến hành du kích kháng chiến vua Macedonia. Trong khi đó Satibarzanes quay về Aria (phía tây Afghanistan ngày nay) và Barsaentes quay về Drangiana (phía nam Afghanistan) không chịu quy thuận. Với chỉ khoảng 20.000 binh sĩ, Alexandros đã gặp nhiều khó khăn để giành quyền kiểm soát xứ Aria, nhưng rồi Satibarzanes đã đột nhiên xin đầu hàng. Alexandros vẫn giữ nguyên chức vụ của Satibarzanes, lại còn bổ nhiệm thêm một mưu sĩ người Macedonia tên là Anaxippos ở lại với ông ta. Tuy nhiên ngay khi Alexandros đỉnh đi ngược thung lũng Atrek để tiến vào Bactria thì Satibarzanes đã dây binh nổi loạn vào mùa thu năm 330 TCN. Satibarzanes sát hại Anaxippos và thảm sát số binh lính Macedonia ở lại đây trước khi tháo chạy. Để duy trì trật tự ở tỉnh này, Alexandros đã thành lập một thành phố mới gọi là Alexandria xứ Aria (nay là Herat) và tiếp tục đến Drangiana, nơi kẻ phản loạn Barsaentes được giải đến nộp cho ông và bị giết ngay sau đó. Vào tháng 10 hoặc tháng 11 năm 330 TCN, Satibarzanes một lần nữa nổi loạn tại Aria nhưng bị đánh bại và bỏ mạng trong một cuộc chạm trán với quân Macedonia do Artabazos, Erigyios và Caranos chỉ huy. Loại bỏ cha con Parmenion Trong thời gian này, Đại Đế Alexandros III cho phổ biến một số loại áo quần và phong tục Ba Tư trong triều đình của ông, đáng chú ý là phong tục proskynesis, một cách hôn tay tượng trưng mà người Ba Tư thường làm để tỏ lòng kính trọng với những người có địa vị xã hội cao hơn, nhưng phong tục này không được người Hy Lạp chấp thuận. Những người Hy Lạp cho là cử chỉ này được dành riêng cho các thần linh và tin rằng Đại Đế Alexandros III tự thần thánh hóa chính ông bằng cách yêu cầu cử chỉ đó. Điều này đã làm giảm sút đáng kể sự yêu quý của những người Hy Lạp đối với vị vua trẻ tuổi. Vào mùa thu năm 300 TCN, khi quân đội Macedonia dừng chân lại tại Phrada-Prophtasia (phía nam của Herat), thủ phủ của tỉnh Dragiana thì Philotas, con trai của Parmenion và là viên thống lĩnh kỵ binh (hipparch) đã bị bắt vì tham gia vào một âm mưu, hay nói chính xác hơn là vì tội phản bội vì đã biết mà không báo âm mưu đó kịp thời. Ngay từ đầu năm 331 TCN, em trai của Parmenion là Asandros, đã bị bãi nhiệm khỏi chức vụ tổng trấn tỉnh Lydia, trong khi các ghi chép về trận đánh tại Gaugamela đã đánh giá thấp công lao của Parmenion trong trận này. Nhiều khả năng là Alexandros đã nghi ngại cha con Parmenion từ trước nên đã lợi dụng cơ hội này để loại bỏ vây cánh gia tộc Parmenion. Philotas trước đó đã nhiều lần ra mặt chỉ trích việc Alexandros đã tiếp nhận nhiều phong tục Ba Tư trong triều đình của ông trong khi Alexandros dường như khó có thể ngăn chặn mong muốn rút toàn bộ quân đóng ở Ecbatana về châu Âu của Parmenion. Philotas đã bị hội đồng Macedonia quy tội phản nghịch và đưa ra án tử hình dựa trên cáo trạng của Krateros. Philotas và Krateros vốn không ưa gì nhau, vì thế không thể loại trừ khả năng rằng Krateros đã nhân cơ hội này đưa ra một lời chứng bất lợi nhằm loại bỏ đối thủ. Philotas sau đó đã bị xử tử bằng cách ném đá sau khi nhận tội. Về phần Parmenion, Alexandros không rõ liệu ông có tham gia vào âm mưu này hay không, nhưng do sợ rằng Parmenion có thể trả thù cho con trai, ông đã phái thích khách cấp tốc đến Ecbatana ám sát vị lão tướng này. Parmenion bị giết trước khi ông nhận được tin báo về cái chết của con trai mình. Quân đội ở Media vì cái chết của Parmenion đã suýt nữa nổi loạn. Phân cảnh đầy kịch tính này là một dấu hiệu cho thấy rằng những người thân cận đi theo nhà vua từ Macedonia không còn ủng hộ nhà vua như trước. Đối với họ, họ cảm thấy rằng mình càng ngày càng sa lầy ở châu Á, ở một nơi xa lạ xa cách quê hương của mình để theo đuổi một mục tiêu, một giấc mơ trái ngược với ý họ. Sự vụng về của Philotas khi đã nói rằng Alexandros sẽ không làm nên trò trống gì nếu không có cha con mình giúp sức và chế giễu việc Alexandros tự nhận là con trai của thần Zeus-Amun đã giải thích tại sao Alexandros không cố gắng hành động gì để cứu mạng ông ta. Vương tộc Macedonia từ trước đến nay thường xuyên phải trải nghiệm những xung đột giữa vua và giới quý tộc. Việc xử tử Philotas được hưởng ứng bởi quân đội và là phương tiện để nhà vua loại bỏ một nhân vật được coi là có quyền hành quá lớn. Trong bối cảnh này, Alexandros đã tiến hành cải tổ lại bộ chỉ huy quân đội: Hephaistion và Cleitos được phong làm hipparch, Perdiccas, Krateros và Ptolemaios cũng lần lượt được thăng cấp khi thể hiện được sự trung thành của mình. Triệt hạ Bessus Khi đang trên đường truy đuổi Bessus, người tự xưng là người kế thừa của Darius III, Alexandros đã di chuyển từ Drangiana tới Arachosia (tây nam Afghanistan ngày nay) vào cuối năm 330 TCN. Alexandros đã thành lập một thành phố khác mang tên ông tại nơi mà ngày nay là Kandahar và bổ nhiệm Memnon làm tổng trấn ở lại đây (không phải Memnon của Rhodos đã chết vài năm trước). Sau đó, Alexandros tiếp tục hành quân tới Bactria để tìm kiếm Bessus. Đầu xuân năm 329 TCN, người Macedonia và Hy Lạp đã vượt qua dãy Hindu Kush ở Paropamisadae, dãy núi mà họ nhầm lẫn với dãy Kavkaz. Trong khi tháo chạy, Bessus hạ lệnh tàn phá khu vực thung lũng giữa Paropamisadae và sông Oxus (Amu Darya) với hy vọng làm suy giảm khả năng cung ứng của những kẻ theo đuổi mình xuống mức thấp nhất có thể. Alexandros tiếp đó đã tiến vào thành Bactra, thủ phủ của Bactria và tiến hành vượt sông Oxus bằng một cầu phao nổi làm bằng lều da chứa đầy các vật liệu khô khác nhau để đến Sogdiana. Hai quý tộc là Spitamenes và Oxyartes vì lo ngại Alexandros sẽ chiếm đóng vùng cốt lõi của tỉnh mình cuối cùng đã quyết định giao nộp Bessus cho Ptolemaios. Bessus bị Ptolemaios đưa về đại bản doanh của Alexandros và bị xẻo mũi xẻo tai theo phong tục của người Ba Tư rồi sau đó đã bị áp giải đến Ecbatana để hành quyết. Chinh phục các trấn miền đông Các trấn miền đông của Đế quốc Ba Tư (Aria, Sogdiana, Drangiana và Margiana) là nơi giao thoa giữa các dân tộc Scythia du mục và các dân tộc Iran sống định cư. Các vị vua nhà Achaemenes chỉ có thể áp đặt sự cai trị lên những vùng đất này một cách tương đối và Alexandros phải gặp nhiều khó khăn trong việc áp đặt uy quyền của mình tại đây. Alexandros đã phải mất gần 2 năm trời bằng cách không vẻ vang gì để bình định các trấn như Sogdiana và Bactria nổi loạn. Spitamenes, người trước đó đã giao nộp Bessus, nay đã dấy binh tạo phản và thảm sát nhiều đội quân đồn trú Macedonia ở Sogdiana. Ông ta đã khiến các tướng lĩnh của Alexandros phải hứng lấy một thất bại cay đắng bên bờ sông Polytimetos (Zeravchan thuộc Uzbekistan ngày nay). Lo ngại số binh lính khác sẽ đánh mất sĩ khí khi nhận được tin về thất bại này, Alexandros đã hạ lệnh những binh sĩ sống sót sau trận này phải giữ kín không được tiết lộ ra bất cứ điều gì, ai trái lệnh sẽ đối mặt với cái chết. Người Macedonia đã bình định xứ Sogdiana một cách tàn nhẫn: Cyropolis bị phá huỷ, dân chúng bị thảm sát hoặc bị bán làm nô lệ. Trên một địa điểm nằm gần sông Jaxartes, ở cực đông của Đế quốc Ba Tư, Alexandros đã thành lập một thành phố mang tên Alexandria Eschate (Khujand ngày nay) tức "Alexandria xa nhất". Thành phố mà ông ý định cho lính đánh thuê người Hy Lạp và dân Sogdiana bản địa cư trú, đánh dấu điểm xa nhất về phía bắc của cuộc hành trình của Alexandros Đại đế. Alexandros đã dự định phô diễn sức mạnh của mình khi quyết định vượt sông Jaxartes để tiến đánh người Saka, một dân tộc Scythia và đã khiến họ phải tháo chạy vào thảo nguyên. Hai bên cuối cùng đã trao đổi sứ giả và thỏa thuận một hiệp ước bất tương xâm. Alexandros, tháp túng bởi Cleitos, tiếp đó đã hành quân tiến đánh Spitamenes. Ông cho quân vây hãm Samarkand, những ngay sau đó đã hạ lệnh hủy bỏ cuộc bao vây. Alexandros đã cố gắng thu phục giới quý tộc Sogdiana bằng cách hứa hẹn sẽ trao trả danh dự cho họ. Ông vượt sông Oxus và đi theo con đường bộ hành tới thành phố ốc đảo Merv, nơi ông đã thành lập thành phố Alexandria xứ Margiana. Sau khi trú đông (329 – 328 TCN) tại Bactra, Alexandros, lúc này vừa nhận được 2 vạn quân tăng viện từ châu Âu, đã tiến đánh Spitamenes cùng với một đội quân được cấu tạo thành chủ yếu từ lính đánh thuê người Hy Lạp và Thracia. Đầu xuân năm 328 TCN, ông đạt được thỏa thuận với vua Pharasmanès của xứ Choresmia. Vị vua này đã xin quy thuận Alexandros và vị vua Macedonia có thể an tâm khi đã cướp khỏi tay Spitamenes một đồng minh tiềm năng. Alexandros cuối cùng đã đến được Sogdiana, tại đây ông đã thành lập thành phố Alexandria bên bờ sông Oxus. Khi đến nơi này, ông đã kết hôn với Roxana, con gái của Oxyartes. Cùng lúc đó, Alexandros nhận được tin rằng Krateros đã bình định được xứ Bactria. Spitamenes lúc nãy đã tháo chạy ra thảo nguyên nhưng không may bị người Massagetes phản bội, chặt thủ cấp dâng nộp cho Alexandros vào tháng 12 năm 328 TCN. Artabazos, người được Alexandros bổ nhiệm làm tổng trấn Bactria, lúc này đã tuổi cao sức yếu nên xin phép được cáo lão. Để thay thế, Alexandros đã bổ nhiệm người bạn thân của mình là Cleitos đảm nhận chức vụ này. Mùa xuân năm 327 TCN, Krateros bận bịu dập tắt những cuộc nổi dậy cuối cùng ở Badakhshan. Còn Alexandros thì đích thân bình định Paraitacene, một vùng đất nằm ở phía bắc tỉnh Susiana. Nhờ vào cha vợ là Oxyartes, Alexandros đã có thể thu phục một lãnh chúa trong vùng tên là Sisimithres, người đồng ý cho những binh sĩ trẻ tuổi của mình gia nhập quân đội hoàng gia. Alexandros sau đó đã quay về Bactra. Vào mùa hè năm 327 TCN, Alexandros cùng Krateros đã vượt dãy Hindu Kush và chuẩn bị trú đông trước khi phát động cuộc chinh phạt Ấn Độ. Tranh cãi leo thang Đầu năm 328 TCN, trong một bữa tiệc rượu tại Maracanda (Samarkand, Uzbekistan ngày nay), Cleitos Đen khi say rượu đã phạm sai lầm và đặc biệt đã chỉ trích nhà vua vì đã quên đi phong tục Macedonia truyền thống mà học theo thói sống phương đông mà bản thân Cleitos cho là sa đọa. Nhà vua Macedonia lúc này cũng không còn minh mẫn nên sau khi nghe những lời nói này đã không giữ được bình tĩnh và đã đích thân ra tay giết chết người bạn thời thơ ấu, người đồng thời là một bằng hữu trung thành của mình. Đến khi tỉnh rượu, Alexandros đã hối hận vì hành động của mình và đã khóc rất lâu. Sau đó, ông đã hạ lệnh an táng Cleitos Đen một cách long trọng. Tuy nhiên, hành động vô đạo này đã khiến dấy lên nhiều bức xúc trong hàng ngũ tướng lĩnh của nhà vua. Sau khi Cleitos chết, Amyntas được bổ nhiệm thay thế làm tổng trấn của Bactria. Việc ở lại các tỉnh miền đông của Đế quốc Achaemenes xưa kia đối với nhiều người thân cận của nhà vua quả thực là một gánh nặng. Không chỉ dừng lại ở đó, việc Alexandros cho phổ biến một số loại áo quần và phong tục Ba Tư trong triều đình của ông, đáng chú ý là phong tục proskynesis, một cách hôn tay tượng trưng mà người Ba Tư thường làm để tỏ lòng kính trọng với những người có địa vị xã hội cao hơn. Tuy nhiên điều này đã không được các tướng lĩnh và quan lại Hy Lạp chấp thuận, họ cho là cử chỉ này được dành riêng cho các thần linh và tin rằng Đại Đế Alexandros III tự thần thánh hóa chính ông bằng cách yêu cầu cử chỉ đó. Đặc biệt là Callisthenes xứ Olynthus, người gọi Aristoteles là bác và là sử gia chính thức của Alexandros, đã dẫn đầu việc chống lại việc giới thiệu phong tục này và có lẽ ông cũng đã được nhiều thân cận của nhà vua ủng hộ. Alexandros cuối cùng phải chiều lòng họ và chỉ áp dụng phong tục này đối với các thần tử châu Á của mình. Nhưng việc ông trọng dụng và bổ nhiệm những tướng lĩnh châu Á vào các vị trí trong quân đội cũng như triều đình đã tạo nên làn sóng bất mãn của những người Hy Lạp. Và đúng như vậy, Alexandros cũng tuyển mộ thêm 30.000 binh sĩ châu Á vào quân đội và vũ trang cho họ giống theo quy chế của Macedonia nhằm bổ sung thay thế cho quân đội vốn đang trong quá trình giải ngũ một lượng lớn binh sĩ Hy Lạp. Thêm vào đó, việc Alexandros kết hôn với Roxana đã chỉ rõ rằng ông không còn coi người Ba Tư là những kẻ bị đánh bại nữa và chính ông cũng đã bổ nhiệm nhiều người Ba Tư làm tướng, trong số đó có thể kể đến Atropates và Phrataphernes. Vào mùa hè năm 327 TCN, một tiểu đồng tên là Hermolaos đã lên kế hoạch ám sát Alexandros vì cảm thấy bị đối xử không công bằng sau khi bị xử phạt trong một chuyến đi săn do đã giết chết con vật vốn Alexandros muốn đích thân săn. Sau khi bị bắt, cậu đã khai là trong hàng ngũ quân đội Macedonia có nhiều người cho những đòi hỏi của nhà vua là khó mà có thể chấp nhận được và đã bắt đầu coi ông như một bạo chúa. Ngay sau đó, bảy tiểu đồng đã bị đem đi tra tấn và xử tử. Callisthenes là một người có tiếng nói trong đám tiểu đồng và đã từng chế nhạo nhà vua vì dám cả gan xếp mình vào hàng ngũ thần linh nên đã bị Alexandros tống vào ngục tại Bactra và đã qua đời vài tháng sau đó. Callisthenes nếu còn sống có lẽ sẽ nhận được một bức thư từ Aristoteles chỉ trích Alexandros vì đã trở nên chuyên quyền dưới sự ảnh hưởng của triết gia Anaxarchos nhưng việc Aristoteles có ý định này hay không vẫn còn chưa rõ ràng. Tầng lớp lãnh đạo và quân đội Macedonia trong sự kiện này đã thể hiện sự gắn bó với nhà vua. Alexandros sau đó đã đích thân viết thư gửi Giám quốc Antipatros tuyên bố rằng ông sẽ trừng phạt bất cứ kẻ nào ở Hy Lạp đã xúi giục Callisthenes. Ấn Độ và kết thúc của cuộc hành trình Mục tiêu của Alexandros ở Ấn Độ Đối với người Hy Lạp cổ đại, Ấn Độ là một đất nước bí ẩn, một đất nước mà họ chỉ được biết đến thông qua những tác phẩm của Hecataeus xứ Miletus, của Herodotos hay thông qua Ctesias – ngự y của Hoàng đế Ba Tư Artaxerxes II. Những người này chắc chắn đã miêu tả vùng đất bí ẩn này dựa trên những ghi chép của nhà thám hiểm người Hy Lạp thế kỷ 6 TCN Scylax xứ Caryanda, người đã du hành tới Ấn Độ theo lệnh của Darius Đại đế của Ba Tư. Vào thời điểm này, khu vực thung lũng sống Ấn trên lý thuyết vẫn nằm dưới sự kiểm soát của đế quốc Achaemenes, nhưng trên thực tế thì quyền lực trung ương của người Ba Tư chỉ giới hạn tới vùng Paropamisadae (dãy Hindu Kush ngày nay). Khu vực thung lũng sông Hằng và vùng cao nguyên Deccan vẫn là một bí ẩn đối với người Hy Lạp. Tuy nhiên vẫn tồn tại sự giao thiệp do trong hàng ngũ quân đội Ba Tư của Darius III ta vẫn tìm thấy một số voi chiến và đạo quân người Ấn. Có thể chắc chắn rằng mục tiêu chính của Alexandros chính là khôi phục lại cương vực năm xưa của đế quốc Ba Tư dưới thời Darius Đại đế nhằm thu những lợi ích thương mại vốn có từ nó. Theo người ghi chép sử biên niên Taxiles thì khi Alexandros đang thực hiện chiến dịch ở Sogdiana, một tiểu vương ở phía bắc thung lũng sông Ấn đã thuyết phục nhà vua Macedonia viễn chinh trừng phạt kẻ thù của mình là vua Poros một cách dễ dàng. Poros là vua của vương quốc Paurava nằm ở phía đông bên kia bờ sông Hydaspes và đang đe dọa xứ Punjab. Alexandros ngoài ra cũng được một vị vương tử Ấn Độ tên là Sisicottos, người đã theo phò tá Alexandros sau cái chết của Bessus. Tuy nhiên, có thể Alexandros đã có dự định xâm lược Ấn Độ sẵn từ trước, vì đầu năm 329 TCN, Alexandros đã thành lập thành phố Alexandria ở Caucasus (phía bắc Kabul ngày nay) và điều này có thể chứng minh rằng ông đã có chủ ý thành lập một căn cứ ở hậu phương chuẩn bị cho cuộc viễn chinh của mình. Một số sử gia đương thời đã cố gắng biện hộ cho quan niệm rằng Alexandros có lẽ sẽ tiếp cuộc viễn chinh vượt quá sông Ấn và rằng ông có mộng làm chủ cả "thế giới". Một số khác thì cho rằng cuộc viễn chinh của Alexandros tới sông Hằng nhằm chiếm hữu các cơ sở thương mại Ấn Độ trong khu vực, tương tự như ý định chuẩn bị viễn chinh tới các hải cảng Ả Rập bên bờ vịnh Ba Tư năm 323, chỉ bị gián đoạn bởi sự nổi loạn của binh sĩ bên bờ sông Hydaspes. Tuyến đường thương mại đã lên kế hoạch này sẽ đi dọc theo thung lũng sông Ấn ra biển và tiếp tục đi trên biển Ả Rập để đến vịnh Ba Tư. Trước đó, khi Alexandros từ chối những lời cầu hòa của Darius III vào các năm 332 và 331 TCN thì ông có lẽ đã lên những mục tiêu tổng thể cho mình. Những mục tiêu này bao gồm việc làm chủ toàn bộ đất đai từng thuộc về đế quốc Achaemenes cũng như kiểm soát các tuyến đường thương trọng yếu. Cuộc chinh phục xứ Punjab Vào mùa xuân năm 327 TCN, Alexandros rời khỏi thành Bactra, dẫn đầu một đội quân bao gồm 120.000 người, bao gồm cả binh sĩ lẫn những người không trực tiếp chiến đấu. Lực lượng Hy Lạp–Macedonia tạo thành chưa đến một nửa quân số. Một số lượng lớn người châu Á (gọi là epigoni) đã được tuyển dụng và được vũ trang dựa trên mô hình của người Macedonia. Quân đội cũng có một số lượng kỵ sĩ tương đối lớn từ các tỉnh miền thượng cũng như thủy thủ từ Ai Cập, Phoenicia và Síp để chuẩn bị cho chuyến vượt sông Ấn. Alexandros vì thế thống lĩnh quân đội vượt qua vùng núi non Paropamisadae để quay lại thành Alexandria ở Caucasus (ngày nay là Begrâm, ngoại ô Kabul). Tại đây, ông nhận được tăng viện từ Taxiles, vua của Taxila, người đã kêu gọi Alexandros hỗ trợ chống lại vị vua láng giềng hùng mạnh Poros đang có ý định chinh phục toàn bộ xứ Punjab.. Trong khi cuộc bình định bờ nam diễn ra khá suôn sẽ và cả hai vị tướng đều đến sông Ấn một cách khá nhanh chóng thì Alexandros lại gặp phải sự chống trả quyết liệt từ một đội quân khá lớn của người Assakenois, một tộc người có họ hàng người Saka và người Massagetae.. Kinh đô Massaga của người Assacenes chỉ bị hạ sau nhiều ngày đánh nhau đẫm máu và chính Alexandros bị thương ở cổ chân. Sau những cuộc thảm sát và đốt phá bởi Alexandros ở Massaga và Ora, rất nhiều người Assakenois chạy lên một đồn cao gọi là Aornos. Pháo đài Aornos – được cho là bất khả xâm phạm – cuối cùng đã bị quân đội Macedonia chinh phục vào tháng 4 năm 326 TCN. Alexandros đã bổ nhiệm Nicanor làm tổng trấn vùng đất mới này nhưng chẳng được bao lâu thì Nicanor bị giết hại trong một cuộc nổi loạn. Viết về chiến dịch của vua Alexandros chống lại người Assakenois, Victor Hanson nhận xét: Vào mùa xuân năm 326 TCN, Alexandros cùng quân đội đã vượt sông Ấn nhờ vào cây cầu do Hephaistion vào Perdiccas xây dựng. Quân Macedonia sau đó dừng chân tại Taxila, kinh đô của vua Taxiles, người đã cầu cứu Alexandros hỗ trợ ông trong cuộc chiến chống lại người láng giềng Poros đang đe dọa chiếm trọn vùng Punjab. Không lâu sau đó, Alexandros khởi hành để chiến đấu với Poros, người đang đóng quân bên bờ sông Hydaspes, một trong những phụ lưu của sông Ấn. Poros lúc này quân số vốn đã đông mà lại đang đợi thêm viện binh từ Kashmir nên Alexandros đã quyết định tấn công ngay lập tức. Ông hành động một cách khéo léo, để lại Krateros nắm giữ đại quân còn bản thân thì dẫn kỵ binh và lực lượng bộ binh Hypaspistis vượt sông Hydaspes (vốn lúc này đang phình to ra do băng tan trên núi chảy xuống) tại một khu vực rừng rậm cách đó khoảng 150 xtat, tức vào khoảng về phía thượng nguồn nhằm đánh tập hậu Poros. Sau trận giao tranh ác liệt, Alexandros một lần nữa giành chiến thắng nhưng với tổn thất không nhỏ lần này. Các kỵ binh châu Á của Alexandros đã hoạt động hiệu quả trong trận này qua đó củng cố chính sách dung nạp các dân tộc bị đánh bại của Alexandros. Con chiến mã Boukephalas hy sinh khi trúng tên từ con trai của Poros. Để tưởng niệm con ngựa đã gắn bó với mình bao nhiêu năm nay, Alexandros đã cho thành lập một thành phố mang tên Bucephala. Không lâu sau đó, con chó yêu thích của Alexandros là Peritas cũng chết đi, ông cũng đã đặt tên một thành phố theo tên nó để tưởng nhớ. Alexandros theo đuổi chính sách dung nạp các thủ lĩnh địa phương và tha mạng cũng như cho phép Poros giữ lại ngai vị sau khi vị vua này tuyên bố từ bỏ mọi yêu sách lãnh thổ bên phía bờ tây sông Hydaspes. Ông hòa giải hai ông vua thù địch nhau là Porus và Taxiles, đồng thời giao cho họ cai quản các vùng đất lân cận. Cả hai vị vua này đều trở nên hùng mạnh như nhau. Cách ông đối đãi với vua Porus và Taxiles chứng tỏ ông muốn có thêm những đồng minh hùng mạnh và đáng tin cậy. Ngay sau đó, một cuộc nổi dậy của người Assakenois ở phía sau buộc Alexandros phải gửi Philippos và Tyriaspes dẫn quân quay về để dẹp loạn. Như một cách bồi thường cho Poros, người vốn đang có ý định chinh phục vùng đồng bằng sông Hằng hiện đang nằm trong tay vương triều Nanda đóng đô ở Patna, Alexandros đã quyết định chinh phục các dân tộc sinh sống ở phía đông xứ Punjab. Tuy nhiên, chiến dịch này đòi hỏi việc ông phải giao chiến quyết liệt với những "nước cộng hòa" nhỏ trong vùng, điển hình là Arattas. Alexandros sau đó đã nghĩ tới việc vượt sông Hyphasis (sông Beas ngay nay), đơn giản là để thị uy và ông cũng hiểu rằng Nanda sẽ là đối thủ đáng gờm. Vào mùa thu năm 326 TCN, khi đang ở bên bờ sông Hyphasis, Alexandros đã phải hứng chịu sự phản đối kịch liệt từ binh sĩ người Hy Lạp và Macedonia,, và Coenus đã đứng ra làm người phát ngôn cho các binh sĩ. Sau khi bị giam giữ suốt 3 ngày trong lều của mình cũng như sau khi bàn bạc với Coenus, Alexandros buộc phải thuận theo yêu sách của binh lính và hạ lệnh định ngày quay trở về nhà. Ông đã cho dựng 12 bệ thờ khổng lồ thờ phụng Mười hai vị thần trên đỉnh Olympus. Ông cũng cho mở rộng doanh trại của mình tại đây lên gấp 3 lần so với kích thước ban đầu nhằm đe dọa những kẻ nào có ý định xâm lấn lãnh thổ của mình cũng như để đánh dấu điểm xa nhất về phía đông mà ông đã đạt đến. Cuộc nổi loạn lần này là một bằng chứng chứng minh cho sự rạn nứt giữa nhà vua với quân đội của mình. Một vài sĩ quan hồi tưởng lại về cái chết của Philotas và Cleitos Đen đã tỏ ý chống đối mô hình chính phủ ngày càng chuyên chế hóa dựa trên nguyên mẫu Ba Tư gốc. Các binh sĩ cũng đã mệt mỏi cả thể xác lẫn tinh thần sau 8 năm rời xa quê hương. Plutarchus đề cập đến chuyện này rằng: Chinh phục thung lũng sông Ấn Alexandros đã quyết định chinh phục toàn bộ thung lũng sông Ấn để đảm bảo con đường về Babylon. Ông cho đóng một hạm đội gồm 1000 tàu thuyền, bắt đầu từ tháng 11 năm 326 TCN. Sau đó ông cho một phần của quân đội lên thuyền theo đường thủy xuôi theo dòng Hydaspes rồi vào sông Acesine để tiến vào sông Ấn. Chi phí đóng nên đội thuyền này được lấy từ các đóng góp tài chính của các quý tộc trong triều và từ các thân cận của nhà vua. Nearchos đã được hạ lệnh chỉ huy hạm đội này, đa phần thủy thủ đoàn đều là người Phoenicia và Hy Lạp. Trước khi khởi hành, Alexandros triệu tập các thân vương, lãnh chúa địa phương công nhận Poros nắm quyền tối cao trong khu vực dưới sự giám hộ của Quốc vương Macedonia. Alexandros đích thân dẫn đội cung thủ, lực lượng Hypaspist cùng lực lượng kỵ binh vệ binh, còn Krateros dẫn một đội quân men theo hữu ngạn của sông còn Hephaistion thì cùng phần lớn binh mã lên thuyền từ tả ngạn. Dòng nước chảy xiết khiết hạm đội bị hư hỏng và buộc phải được sửa chữa ở nơi hợp giao giữa hai con sông Hydaspes và Acesine. Một số bộ tộc sinh sống hai bên bờ sông Ấn đã nhanh chóng đầu hàng khi đối mặt với quân đội Macedonia nhưng không phải ai cũng dễ dàng đầu hàng như vậy. Khoảng giữa tháng 11 năm 326 TCN, Alexandros đã thực hiện một nước cờ sai lầm khi ông quyết định tấn công thành phố nơi có các Brahma người Malava cư ngụ, dẫn đến khởi nghĩa lan rộng khắp nơi. Khi mà Alexandros dẫn quân công thành, ông đã suýt chết nhưng may mắn được hai Somatophylakes là Leonnatos und Peucestas cứu sống. Peucestas được cho là đã sử dụng cái khiên của Achilles lấy từ đền thờ thần Athena từ thành Troia đễ đỡ tên cứu Alexandros. Tuy nhiên, Alexandros đã bị thương nặng tới mức, trong quân đội đồn thổi rằng nhà vua đã chết và tin đồn lan truyền khắp đế chế và gây ra tình trạng bất ổn lẻ tẻ, đặc biệt là cuộc nổi loạn của lính đánh thuê Hy Lạp ở Bactria. Do cần phải nghỉ ngơi phục hồi sức khỏe, Alexandros buộc phải tạm dừng cuộc viễn chinh, có lẽ là phải tới mùa xuân năm 325 TCN. Peithon sau đó được lệnh đàn áp người Malava. Lúc này, dân chúng tại Patalene ở châu thổ sông Ấn sợ người Macedonia đến nỗi, cứ khi Alexandros đến nơi thì lẫn tránh. Peithon vì thế mà được bổ nhiệm làm Tổng trấn của Sindh – nơi cũng có một thành phố khác mang tên Alexandria được thành lập. Alexandros cùng quân đội của mình đã đến khu vực cửa sông Ấn vào đầu năm 325. Tại Patala, ông đã cho xây cảng biển, xưởng quân giới, bể chứa nước – việc này chứng tỏ rằng Alexandros muốn kết nối tuyến đường thương mại từ vùng đất xa xôi này với những phần còn lại của Đế quốc. Khi đang ở bên bờ biển Ấn Độ Dương, những người Hy Lạp–Macedonia đã rất ngạc nhiên trước hiện tượng thủy triều, vốn gần như không được biết đến ở Địa Trung Hải. Alexandros khởi hành rời khỏi Ấn Độ. Ông gửi phần lớn quân đội của mình đến Carmania (miền nam Iran ngày nay) cùng với tướng Crateros và lệnh cho đô đốc Nearchos chỉ huy một hạm đội khám phá bờ Vịnh Ba Tư. Bản thân ông dẫn những người còn lại trở về Ba Tư thông qua tuyến đường phía nam đầy khó khăn hơn dọc theo sa mạc Gedrosia và Makran. Alexandros về đến Susa vào năm 324 TCN, nhưng chuyến hành trình của ông đã chứng kiến rất nhiều người bỏ mạng trong sa mạc khắc nghiệt. Những năm cuối tại Ba Tư Phát hiện rằng rất nhiều tổng trấn và thủ lĩnh các đội quân của ông cư xử không đứng đắn khi ông vắng mặt, Alexandros cho hành hình rất nhiều người trong số họ làm gương trên đường đến Susa. Để biểu lộ thiện chí, ông ban thưởng cho binh lính và thông báo rằng ông sẽ gửi những người lính già và tàn tật về Macedonia dưới quyền của Craterus, nhưng quân đội hiểu nhầm ý định của ông và nổi dậy ở thị trấn Opis. Họ từ chối quay về quê và chỉ trích gay gắt việc ông áp dụng phong tục cũng như cách ăn mặc của người Ba Tư, đồng thời bổ nhiệm các sĩ quan và binh lính Ba Tư vào các đơn vị Macedonia. Sau hơn ba ngày, vì không thể thuyết phục được các tướng sĩ Macedonia, Alexandros đã bổ nhiệm người Ba Tư vào các chức vụ chỉ huy trong quân đội và phong tước hiệu quân sự Macedonia cho các đơn vị Ba Tư. Thấy sự việc tiến triển theo chiều hướng như vậy, những người Macedonia đã nhanh chóng cầu xin Alexandros tha thứ. Ông đồng ý tha lỗi cho họ và tổ chức một bữa tiệc lớn thiết đãi hàng nghìn người. Với dự định thiết lập mối giao hảo lâu dài giữa những người Macedonia và người Ba Tư, ông tổ chức hàng loạt hôn lễ giữa các sĩ quan của ông và người Ba Tư và cả những phụ nữ quý tộc Susa, nhưng rất hiếm cuộc hôn nhân nào kéo dài được hơn 1 năm. Cũng trong thời gian này, Alexandros trên đường quay trở về Ba Tư nhận được tin người bảo vệ lăng mộ của Cyrus Đại đế ở Pasargadae đã xúc phạm vị vua Ba Tư này. Ông đã nhanh chóng ra lệnh hành hình người bảo vệ này. Alexandros vốn dĩ đã ngưỡng mộ Cyrus Đại đế từ bé. Lúc còn nhỏ, ông Cyropaedia của Xenophon, mô tả Cyrus trong vai trò của một vị vua và nhà lập pháp, cũng như sự anh dũng của ông trên chiến trận. Trong chuyến thăm Pasargadae, Alexandros đã ra lệnh cho kiến ​​trúc sư Aristobulus của mình trang trí lại nội thất bên trong lăng mộ của Cyrus. Không có ghi chép chắc chắn về việc Alexandros chấp nhận cách gọi vua của người Ba Tư là Shahenshah (tức "Hoàng đế vĩ đại" hay "Vua của các vị vua"). Tuy nhiên, hầu hết các sử gia đều tin rằng ông đã chấp nhận việc đó. Sau khi xong chuyện ở Pasargadae, Alexandros rời đến Ecbatana để thu thập kho báu Ba Tư được cất giữ ở đó. Tại nơi này, người bạn thân nhất và cũng có thể là người tình đồng giới của ông, Hephaestion, đã qua đời vì bệnh tật hoặc trúng độc. Cái chết của Hephaestion là một đả kích rất lớn đối với Alexandros, khiến ông suy sụp trầm trọng. Ông ra lệnh chuẩn bị một giàn hỏa táng đắt tiền ở Babylon, cũng như hạ chiếu tuyên bố để tang lễ công khai. Quay trở về Babylon, Alexandros lên kế hoạch cho một loạt chiến dịch mới, khởi đầu bằng cuộc xâm lược bán đảo Ả Rập. Tuy nhiên, ông sẽ chẳng có cơ hội thực hiện, vì ông đã qua đời ngay sau cái chết của Hephaestion. Cái chết và người thừa kế Alexandros qua đời vào ngày 10 hoặc 11 tháng 6 năm 323 TCN tại cung điện của Nebuchadnezzar II tại Babylon ở tuổi 32. Có hai phiên bản khác nhau về cái chết của Alexandros, chứa sự khác biệt nhỏ về chi tiết của cái chết. Theo lời kể của Plutarchus thì vào khoảng 14 ngày trước khi qua đời, Alexandros có tiếp đãi đô đốc Nearchus, uống rượu cả đêm hôm đó và ngày hôm sau cùng Medius của Larissa. Sau đó, ông bị sốt. Bệnh tình ngày càng trở nặng cho đến khi ông không còn có thể nói được. Những binh sĩ bình thường, lo lắng cho sức khỏe đức vua, được phép đến gần nếu nhà vua vẫy tay gọi bọn họ. Trong phiên bản thứ hai, Diodorus kể lại rằng Alexandros bị đau sau khi uống một bát rượu không pha lớn dùng để dâng lên thần Heracles. Sức khỏe của ông suy giảm trong 11 ngày tiếp đó. Tuy nhiên, ông không phát sốt, nhưng đã qua đời sau khi bị những cơn đau hành hạ. Arrianos tán thành với phiên bản của Diodorus, trong khi Plutarchus bác bỏ nó một cách quyết liệt. Do nội bộ tầng lớp quý tộc Macedonia thường xảy ra các vụ ám sát, nhiều ghi chép về cái chết của Alexandros–mà trong đó có Diodorus, Plutarchus, Arrianos và Justinus–đã đề cập tới khả năng rằng ông có thể đã bị hạ độc. Justinus tuyên bố rằng Alexandros là nạn nhận của một âm mưu đầu độc. Dù bản thân Plutarchus bác bỏ điều này, cho rằng nó là một điều bịa đặt, thì cả Diodorus lẫn Arrianos đều ghi chú rõ ràng rằng họ đề cập tới vụ hạ độc này chỉ với mục đích đầy đủ hóa những ghi chép của họ. Tuy nhiên, các ghi chép đều khá nhất quán trong việc ám chỉ Antipater–người gần đây mới bị cách chức Phó vương của Macedonia và đồng thời có mâu thuẫn cao độ với Thái hậu Olympias–là người đứng sau âm mưu trên. Có lẽ do xem lệnh triệu tập đến Babylon như một bản án tử hình, với tấm gương của Parmenion và Philotas trước đó, Antipater đã sắp xếp để Alexandros bị con trai của ông là Iollas rót rượu có độc. Một số ý kiến khác thậm chí còn cho rằng Aristoteles có thể đã tham gia âm mưu ám sát. Lập luận mạnh nhất phản bác lại giả thuyết Alexandros bị hạ độc là thực tế rằng khoảng thời gian kể từ khi nhà vua bắt đầu bị bệnh đến khi chết là mười hai ngày. Những độc tố có thời gian phát tán lâu như vậy có lẽ không có sẵn. Tuy nhiên, trong một bộ phim tài liệu năm 2003 điều tra cái chết của Alexandros do đài BBC thực hiện, chuyên gia Leo Schep từ Trung tâm Chất độc Quốc gia New Zealand đã đề xuất rằng loài thực vật Veratrum album, vốn đã được biết đến trong thời cổ đại, có thể đã được sử dụng để đầu độc Alexandros. Trong bản thảo gửi cho tạp chí Clinical Toxicology vào năm 2014, Schep có đề xuất rằng rượu vang của Alexandros đã được pha với Veratrum album, dẫn đến các triệu chứng ngộ độc khớp với các diễn biến được mô tả trong Alexandros truyền kỳ. Độc tính của Veratrum album có thể có thời gian phát tán chậm, do vậy, trong trường hợp nếu Alexandros bị đầu độc, thì loài thực vật này là nguyên nhân hợp lý nhất. Năm 2010, một cách giải thích khác về vụ đầu độc Alexandros cho rằng hoàn cảnh cái chết của ông có liên quan đến nước sông Styx (Mavroneri ở Arcadia, Hy Lạp ngày nay), vốn chứa calicheamicin, một hợp chất nguy hiểm do vi khuẩn tạo ra. Ngoài những nguyên nhân trên, các học giả đã đề xuất một vài nguyên nhân tự nhiên (bệnh tật) như sốt rét và sốt thương hàn. Trong một bài báo xuất bản năm 1998 trên Tạp chí Y học New England, ngoài sốt thương hàn, Alexandros còn bị thủng ruột khiến sức khỏe yếu dần dẫn đến liệt. Một phân tích khác gần đây đưa ra giả thuyết về viêm cột sống sinh mủ (nhiễm trùng) hoặc viêm màng não. Một số căn bệnh khác phù hợp với các triệu chứng trong ghi chép có thể kể đến như viêm tụy cấp và virus Tây sông Nin. Nói chung, các giả thuyết về nguyên nhân tự nhiên thường có thiên hướng nhấn mạnh rằng sức khỏe của nhà vua đại để đã suy giảm sau nhiều năm uống rượu và chịu nhiều vết thương nặng trên chiến trận. Ngoài ra, nhớ thương Hephaestion cũng có thể là một nguyên nhân chính khiến sức khỏe của ông suy sụp. Sau cái chết Thi hài của Alexander được đặt trong một cái quách hình nhân bằng vàng được đổ đầy mật ong, chiếc quách này lại nằm trong một chiếc quan tài lớn bằng vàng. Theo Aelianus, một nhà tiên tri tên là Aristandros đã tiên đoán rằng vùng đất nơi Alexandros được an nghỉ "sẽ vĩnh viễn hạnh phúc và bất khả chiến bại". Có lẽ khả năng lớn hơn là những người kế vị đã coi việc sở hữu thi hài Alexandros là biểu tượng của tính hợp pháp, vì công việc chôn cất vị vua tiền nhiệm là một đặc quyền dành riêng cho hoàng gia. Trong khi thi hài Alexandros đang trên đường quay về Macedonia, Ptolemaios đã cướp đoàn rước và tạm thời đưa cỗ quan tài đến Memphis. Người kế thừa của ông, Ptolemaios II Philadelphos, đã chuyển cỗ quan tài đến Alexandria, nơi nó ít nhất vẫn tồn cho đến cuối thời Cổ đại. Ptolemaios IX Lathyros, một trong những vị vua Ai Cập cuối cùng thuộc triều đại Ptolemaios, đã cho nung chảy quan tài vàng của Alexandros để đúc tiền và thay thế bằng một chiếc quan tài mới làm bằng thủy tinh. Gần đây người ta đã phát hiện một ngôi mộ khổng lồ ở Amphipolis tại miền bắc Hy Lạp, có niên đại từ thời Alexandros Đại đế, làm nảy sinh suy đoán rằng nơi đây vốn ban đầu được lựa chọn làm nơi chôn cất ông. Điều này khá phù hợp với đích đến dự kiến của đám rước linh cữu Alexandros từ Babylon. Tuy nhiên, người ta đã xác minh rằng nơi đây không phải dành cho Alexandros, mà là dành riêng cho Hephaestion–người bạn thân yêu nhất của ông. Cả Pompey, Julius Caesar lẫn Augustus đều đã đến thăm lăng mộ Alexandros ở Alexandria. Hoàng đế La Mã Augustus được cho là đã vô tình làm gãy mũi bức tượng của nhà vua. Hoàng đế Caligula được cho là đã lấy tấm áo ngực của Alexandros lấy từ trong mộ về để dùng. Vào khoảng năm 200, Hoàng đế Septimius Severus đã đóng cửa lăng mộ của Alexandros không cho công chúng tham quan. Caracalla, con trai của Septimius Severus và một người cực kỳ ngưỡng mộ Alexandros, đã đến thăm lăng mộ nhà vua Macedonia sau khi lên ngôi. Sau sự kiện đó, các ghi chép về ngôi mộ ít dần, khiến thông tin chi tiết về số phận của nó trở nên mơ hồ. Cái gọi là "Alexander Sarcophagus", phát hiện gần Sidon và hiện nằm trong Bảo tàng Khảo cổ học Istanbul, được đặt tên như vậy không phải vì người ta cho rằng nó chứa hài cốt của Alexandros, mà bởi vì các bức phù điêu trên chiếc quách miêu tả cảnh Alexandros cùng các chiến hữu chiến đấu với quân Ba Tư và đi săn. Ban đầu nó được cho là quan tài của Abdalonymos (mất năm 311 TCN), vua của Sidon được Alexandros bổ nhiệm ngay sau trận Issus năm 331 TCN, nhưng gần đây người ta lại cho rằng nó có thể có niên đại từ trước khi Abdalonymos qua đời. Demades đã ví quân đội Macedonia sau cái chết của Alexandros giống như những con Cyclop bị mù vì những chuyển động ngẫu nhiên và thiếu trật tự. . Ngoài ra, Leosthenes cũng ví tình trạng vô chính phủ sau cái chết của Alexander giữa các tướng lĩnh giống như những con Cyclop mù "sau khi mất mắt đã dùng đôi tay sờ soạng, mò mẫm [những thứ] trước mặt mình mà không biết nên đặt xuống chỗ nào". Phân chia đế quốc Cái chết của Alexandros đột ngột đến nỗi, khi tin tức lan truyền về Hy Lạp, người ta đã không tin vào điều đó. Alexandros qua đời mà chưa lập trữ và cũng không có hậu duệ hợp pháp. Con trai Alexandros IV của Roxane ra đời sau khi nhà vua đã mất. Theo lời kể của Diodorus, các chiến hữu trong lúc Alexandros hấp hối đã hỏi rằng ông sẽ truyền vương quốc lại cho ai; Alexandros đã trả lời một cách ngắn gọi rằng: "Tôi kratistôi"–"cho người mạnh nhất". Một giả thuyết khác cho rằng những người kế vị đã cố tình hoặc vô tình nghe nhầm "tôi Kraterôi" thành "dành cho Craterus", vị tướng đã dẫn quân đội Macedonia hồi hường và mới được phong làm tân nhiếp chính của Macedonia. Arrian và Plutarch cho rằng Alexandros vào lúc này đã không còn nói được nữa và ngụ ý rằng câu chuyện trên là do người ta bịa ra. Diodorus, Curtius và Justinus đưa ra câu chuyện hợp lý hơn rằng Alexandros, trước sự chứng kiến của các nhân chứng, đã trao chiếc nhẫn hiệu của mình cho Perdiccas, một vệ sĩ và thủ lĩnh của lực lượng kỵ binh chiến hữu. Do đó, Perdiccas mới là người kế thừa mà Alexandros đã lựa chọn. Perdiccas ban đầu không muốn làm vua, và tuyên bố rằng đứa con của Roxana, nếu là con trai, sẽ là người kế thừa. Ông và Craterus, Leonnatus và Antipater sẽ đóng vai trò nhiếp chính đại thần và hộ quốc công của thiếu quân. Tuy nhiên, lực lượng bộ binh dưới trướng của Meleager đã phản đối quyết liệt sự sắp đặt này vì không được tham gia thảo luận. Họ tuyên bố ủng hộ anh trai cùng cha khác mẹ của Alexandros là Philippos Arrhidaeus. Sau cùng hai bên đã tìm được tiếng nói chung, và sau khi Alexandros IV sinh ra, cả hai người đã được tôn làm đồng quốc vương của Macedonia, dù chỉ trên danh nghĩa. Tuy nhiên, căng thẳng và cạnh tranh đã sớm ảnh hưởng đến người Macedonia. Các trấn do Perdiccas phân chia tại Babylon đã trở thành căn cứ hoạt động của các tướng lĩnh trong cuộc chiến tranh giành quyền lực. Sau vụ ám sát Perdiccas vào năm 321 TCN, Macedonia tan rã, tiếp nối bởi 40 năm chiến tranh không ngừng nghỉ giữa "Những người kế vị" (Diadochi). Sau nhiều năm chiến loạn, thế giới Hy Lạp hóa được chia thành bốn vương quốc đối nghịch nhau: nhà Ptolemaios ở Ai Cập, nhà Seleukos ở Lưỡng Hà và Trung Á, nhà Attalos ở Anatolia và nhà Antigonos ở Macedonia. Trong quá trình này, cả Alexandros IV và Philippos III đều bị sát hại. Nguyện vọng Diodorus nói rằng Alexandros đã từng đưa di chiếu cho Craterus một thời gian trước khi qua đời. Craterus bắt đầu thực hiện các mệnh lệnh của Alexandros, nhưng những người kế vị đã chọn không thực hiện chúng nữa, vì cho rằng chúng không thực tế và ngông cuồng. Dù sao đi chăng nữa, Perdiccas đã đọc di chúc của Alexandros trước toàn thể ba quân. Di chúc của Alexandros kêu gọi thực hiện các chiến dịch quân sự về phía nam và phía tây Địa Trung Hải, khởi công xây dựng các công trình hoành tráng và sự giao thoa giữa các nhóm dân cư phương Đông và phương Tây: Xây dựng một lăng mộ hoành tráng, "sánh ngang với kim tự tháp vĩ đại nhất của Ai Cập", cho phụ vương Philippos II Xây dựng những ngôi đền lớn ở Delos, Delphi, Dodona, Dium, Amphipolis, và một ngôi đền hoành tráng cho nữ thần Athena tại thành Troy Chinh phục bán đảo Ả Rập và toàn bộ lưu vực Địa Trung Hải Đi vòng quay của Châu Phi Phát triển, mở rộng quy mô các thành phố và sự "ghép giống dân châu Á với châu Âu và theo hướng ngược lại từ châu Âu với châu Á, nhằm đem đến sự thống nhất chung và tình hữu nghị trên lục địa lớn nhất bằng những cuộc hôn nhân và quan hệ gia đình khác chủng tộc" Tính cách Phong cách dùng binh Alexandros đã có được ngoại hiệu "Đại đế" là nhờ tới những chiến tích vô tiền khoáng hậu của mình trong vai trò là một nhà chỉ huy quân sự. Trong suốt cuộc đời binh nghiệp, Alexandros Đại đế chưa từng thua trận nào, dù ông thường bị quân địch áp đảo. Điều đều nhờ vào khả năng phán đoán tình thế, cách sử dụng địa hình, chiến thuật phalanx và kỵ binh, chiến lược táo bạo và đặc biệt là nhờ vào lòng trung thành mãnh liệt của người lính phục vụ ông. Đội hình Phalanx của người Macedonia, được trang bị loại giáo sarissa dài tới , đã được cha của ông là Philippos II phát triển và hoàn thiện thông qua qua trình huấn luyện nghiêm ngặt. Alexandros đã sử dụng tốc độ và khả năng cơ động của nó để có thể giành được ưu thế trước một đội quân Ba Tư đông đảo hơn Alexandros cũng nhận ra khả năng mất đoàn kết giữa quân đội đa dạng của mình, nơi mà nhiều ngôn ngữ và vũ khí khác nhau được sử dụng. Ông đã khắc phục điều này bằng cách đích thân tham gia vào trận chiến, theo cách của một vị vua người Macedonia. Trong trận chiến đầu tiên trên đất châu Á tại Granicus, Alexandros sử dụng khoảng 13.000 bộ binh cùng 5.000 kỵ binh để chống lại một đạo quân Ba Tư đông hơn có 40.000 người. Alexandros bố trí đội hình phalanx ở trung tâm và kỵ binh cùng cung thủ ở hai bên cánh, điều này là để cho thế trận của ông dài ngang bằng với thế trận của kỵ binh Ba Tư, nó dài khoảng . Ngược lại, bộ binh của người Ba Tư lại đóng quân phía sau kỵ binh của họ. Điều này giúp cho Alexandros không bị đánh tạt sườn trong khi đội hình phalanx của ông với những ngọn giáo dài có được một lợi thế đáng kể trước loan đao và những ngọn lao của người Ba Tư. Trong trận đánh này, người Macedonia chỉ chịu tổn thất không đáng kể so với của người Ba Tư. Ở cuộc chạm trán đầu tiên với Darius tại Issus vào năm 333 TCN, ông cũng đã bố trí giống như vậy và một lần nữa đội hình phalanx ở trung tâm đã kết thúc trận đánh. Đích thân Alexandros đã chỉ huy cuộc đột kích ở trung tâm và đánh tan đạo quân đối phương. Tại trận chiến quyết định cuối cùng với Darius ở Gaugamela, Darius đã trang bị cho những cỗ chiến xa của ông ta với những lưỡi hái gắn vào bánh xe để nhằm phá vỡ đội hình phalanx và trang bị giáo cho kỵ binh của mình. Alexandros đã bố trí một đội hình phalanx kép với khu trung quân tiến theo hình nghiêng, họ tách ra khi các chiến xa đi qua và sau đó tập hợp lại. Ý tưởng này đã thành công và phá vỡ trung quân của Darius, điều này khiến cho ông ta phải bỏ chạy một lần nữa. Khi phải đối mặt với những kẻ thù sử dụng các cách thức chiến đấu khác lạ chẳng hạn như là ở Trung Á và Ấn Độ, Alexandros đã điều chỉnh quân đội của mình để thích nghi với phong cách chiến đấu của kẻ thù. Theo đó, ở Bactria và Sogdiana, Alexandros đã sử dụng lính phóng lao và cung thủ của mình ngăn chặn thành công đối phương đánh tạt sườn trong khi đang tập trung kỵ binh ở trung tâm. Ở Ấn Độ, khi đối mặt với quân đoàn voi của Porus, người Macedonia đã khai thông hàng ngũ của họ rồi vây những con voi lại và sử dụng các ngọn giáo sarissa để tấn công ngược lên và đánh bật những người điều khiển voi. Ngoại hình Sử gia người Hy Lạp Plutarchus () miêu tả diện mạo của Alexandros như sau: Sử gia người Hy Lạp Arrianus (Lucius Flavius Arrianus 'Xenophon' ) đã miêu tả Alexandros như sau: Tác phẩm nửa thật nửa truyền thuyết Alexandros truyền kỳ cũng gợi ý rằng Alexandros bị chứng Loạn sắc tố mống mắt: một mắt có màu đen và mắt kia màu nhạt. Sử gia người Anh Peter Green đã miêu tả về diện mạo của Alexandros dựa trên quan sát của ông đối với các bức tượng và một số tác phẩm cổ đại: Nhà sử học và Ai Cập học Joann Fletcher nói rằng vị vua Macedonia Alexandros Đại đế có mái tóc vàng. Nhân cách Cha mẹ của Alexandros có tác động rất lớn đối với con người Alexandros, khi chính họ đã tạo nên một số đặc điểm tính cách mạnh mẽ nhất của ông. Olympias là một người phụ nữ đặc biệt tham vọng, bà luôn khuyến khích Alexandros tin rằng, vận mệnh của ông chính là chinh phục đế quốc Ba Tư. Ảnh hưởng của Olympias đã truyền cho con trai bà ý thức về vận mệnh, và Plutarchus đã cho biết tham vọng của Alexandros đã "giữ cho tâm hồn của ông nghiêm trang và cao thượng qua năm tháng như thế nào". Tuy nhiên, người truyền cảm hứng và có ảnh hưởng nhất đối với Alexandros chính là cha của ông. Alexandros đã từng dõi theo cha thân chinh ra trận hàng năm, giành hết chiến thắng này đến chiến thắng mà chẳng hề để tâm đến những vết thương thể xác. Mối quan hệ giữa ông và vua cha đã tôi luyện khía cạnh tranh đua trong tính cách con người ông. Alexandros luôn muốn vượt trội hơn cha mình, một điều được thể hiện thông qua cách hành xử liều lĩnh của ông trên trận tiền. Trong khi Alexandros lo lắng rằng phụ vương sẽ chẳng chừa cho mình "thành tựu to lớn và rực rỡ nào để thể hiện với thế giới", ông cũng thường hạ thấp những thành tựu mà Philippos II đã đạt được trước những bằng hữu của mình. Theo Plutarchus, một số đặc điểm của Alexandros có thể kể đến là tính khí bạo lực và bản tính hấp tấp, bốc đồng mà chắc chắn đã góp phần giúp Alexandros đưa ra một vài quyết định của mình. Dù Alexandros là con người bướng bỉnh và không chấp hành tốt những mệnh lệnh từ cha, nhưng ông vẫn cởi mở để tranh luận. Ông còn sở hữu một một khía cạnh điềm tĩnh hơn – nhạy bén, logic và thận trọng. Ông khát khao trau dồi kiến thức, yêu thích triết học và là một người ham đọc sách. Điều này rõ ràng xuất phát một phần từ sự dạy dỗ của Aristoteles; Alexandros là một con người thông minh và học hỏi nhanh. Khía cạnh thông minh và sáng suốt của ông đã được thể hiện qua khả năng và sự thành công với tư cách là một vị tướng. Ông đã rất kiềm chế những ham muốn bản thân, trái ngược với sự thiếu tự chủ với rượu. Alexandros là một con người uyên bác và bảo trợ cả nghệ thuật lẫn khoa học. Tuy nhiên, không giống cha mình, ông lại không mấy quan tâm đến các môn thể thao hay những trò chơi Olympic mà thay vào đó chỉ tìm kiếm những lý tưởng của Homeros về danh dự (timê) và sự vinh quang (kudos). Ông là một con người sở hữu sức hút mãnh liệt bên cạnh một nhân cách mạnh mẽ, những đặc điểm đã khiến ông trở thành một nhà lãnh đạo vĩ đại. Những khả năng độc nhất vô nhị của Alexandros đã được chứng minh thêm một lần nữa khi không có bất kỳ ai trong số các tướng lĩnh của ông có thể thống nhất Macedonia và duy trì được đế quốc sau cái chết của ông – chỉ Alexandros mới đủ khả năng làm được như thế. Trong những năm cuối đời, và đặc biệt là sau cái chết của Hephaestion, Alexandros bắt đầu có dấu hiệu mắc chứng rối loạn nhân cách và hoang tưởng. Những thành tựu phi thường mà ông đã đạt được, kết hợp với ý thức khôn tả về vận mệnh và sự nịnh nọt từ những người chiến hữu, có thể đã kết hợp lại với nhau để tạo nên những hệ quả này. Những ảo tưởng vĩ cuồng có thể dễ dàng nhận ra thông qua ý nguyện và khát vọng được chinh phục thế giới. Ông được nhiều nguồn khác nhau mô tả là có tham vọng vô biên, một tính ngữ mà ý nghĩa của nó đã trở thành một khuôn sáo lịch sử. Alexandros dường như đã tin rằng mình là một vị thần, hoặc ít nhất là đã tìm cách tự phong mình làm thần. Olympias luôn khẳng định với con trai rằng cậu chính là một người con của thần Zeus, một giả thuyết mà dường như Alexandros đã tự mình kiểm chứng thông qua lời tiên tri của thần Amun ở Siwa, và kể từ đó, ông bắt đầu tự nhận mình là con trai của Zeus-Ammon. Alexandros tiếp nhận các yếu tố trong trang phục và phong tục của người Ba Tư tại triều đình của mình, đặc biệt là proskynesis, một tập tục mà người Macedonia không chấp nhận và miễn cưỡng thực hiện. Hành vi này của ông đã khiến nhiều đồng hương của ông mất thiện cảm. Tuy nhiên, Alexandros cũng là một nhà cai trị thực dụng, người hiểu rõ những khó khăn khi cai trị các dân tộc khác biệt về văn hóa, nhiều người trong số họ sống trong các vương quốc mà quân chủ được coi là thần thánh. Do đó, thay vì mắc chứng vĩ cuồng, những hành động của Alexandros có thể đơn giản là một nỗ lực thiết thực nhằm củng cố quyền thống trị và duy trì đế quốc. Quan hệ cá nhân Alexandros kết hôn tổng cộng ba lần: với Roxana, con gái của nhà quý tộc người Sogdia Oxyartes xứ Bactria, vì tình yêu; và với các công chúa Ba Tư Stateira II và Parysatis II, trong đó Stateira là con gái của Darius III còn Parysatis là con gái của Artaxerxes III, vì lý do chính trị. Ông có lẽ có hai người con trai, Alexandros IV của Macedonia do Roxana sinh ra và người thứ hai có thể là Herakles của Macedonia với một tình nhân tên là Barsine. Ông cũng đã mất một đứa con khi Roxana bị sảy thai ở Babylon. Alexandros cũng có mối quan hệ thân thiết với người bằng hữu, người chỉ huy đội kị binh (chiliarchos) và là người bạn từ thời thơ ấu của ông, Hephaestion, con trai của một quý tộc Macedonia. Cái chết của Hephaestion đã làm Alexandros suy sụp. Sự kiện này có thể đã góp phần khiến cho sức khỏe của Alexandros ngày một suy yếu và khiến ông rơi vào tình trạng suy sụp tinh thần trong những ngày tháng cuối đời. Khuynh hướng tình dục của Alexandros luôn là chủ đề của những suy đoán và tranh cãi trong thời hiện đại. Nhà văn thời La Mã Athenaeus, dựa trên một người đương thời của Alexandros là học giả Dicaearchus, đã nói rằng nhà vua "khá hứng thú với con trai" và rằng Alexandros đã ôm hôn thái giám Bagoas của mình ở giữa chốn đông người. Tình tiết này cũng đã được Plutarchus đề cập tới, nhiều khả năng cũng được dựa trên thông tin từ Dicaearchus. Một số nhà sử học đã đặt nghi vấn về khẳng định về mối quan hệ đồng tính giữa hai con người này. Sử gia Robin Lane Fox viết rằng tuy "những lượm lặt gần đây nhất cho khẳng định rằng vua Alexandros Đại Đế có mối quan hệ yêu đương với Hephaiston", không có văn kiện lịch sử đương thời nào nói về vấn đề này. Tuy nhiên, Fox nói thêm, "sự thực là tình bạn của hai người đàn ông này sâu sắc và thân thiết một cách khác thường. Ngoài ra, cặp đôi này thường được so sánh với Achilles và Patroclus, cặp đôi được tô vẽ như một cặp vợ chồng trong văn hóa Hy Lạp cổ điển. Aelianus viết về chuyến thăm của Alexandros tới thành Troia, nơi "Alexandros đặt vòng hoa trên mộ Achilles, còn Hephaestion [đặt vòng hoa] lên [mộ] Patroclus, điều sau ám chỉ ông là eromenos ["người tình"] của Alexandros, như Patroclus đối với Achilles vậy." Fox không tin rằng mối quan hệ tình dục giữa Alexandros với Hephaestion chỉ dừng lại ở thời còn trẻ, mà mối quan hệ này còn được tiếp tục đến tuổi trưởng thành. Đây là một điều đi ngược lại các chuẩn mực xã hội, ít nhất là của một số thành phố Hy Lạp như Athena chẳng hạn. Tuy nhiên một số nhà nghiên cứu hiện đại cũng đã đề xuất một cách không dứt khoát rằng tại Macedonia (hay ít nhất là tại triều đình Macedonia), người ta có thể đã khoan dung hơn với đồng tính luyến ái giữa những người trưởng thành. Nhà nghiên cứu Green cho rằng, có rất ít bằng chứng trong các nguồn tư liệu cổ xưa cho thấy Alexandros có nhiều ham muốn xác thịt với phụ nữ; ông đã không sinh một người nối dõi cho tới gần cuối đời. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Ogden lại tính toán rằng Alexandros, người đã làm những bạn đời của mình có mang ba lần trong 8 năm, có thành tích giường chiếu cao hơn so với người cha khi hai người ở cùng độ tuổi với nhau. Hai trong số lần sinh nở này – của Stateira và Barsine – vẫn còn mập mờ về tính hợp pháp. Theo Diodorus Siculus, Alexandros đã xây dưng một hậu cung theo phong cách của các vị vua Ba Tư, nhưng ông sử dụng nó không thường xuyên, tỏ ra rất biết kiềm chế những "khoái lạc thể xác". Tuy nhiên, Plutarchus đã mô tả cách Alexandros yêu say đắm Roxana, tán dương việc ông đã lấy bà làm vợ mà không đối xử bạo lực với bà. Green cho rằng, trong bối cảnh giai đoạn này, Alexandros đã hình thành tình bạn khá bền chặt với phụ nữ, bao gồm với nghĩa mẫu Ada xứ Caria, và thậm chí với cả thái hậu Sisygambis, mẹ của Darius, người được cho là đã chết vì đau buồn sau khi nghe tin Alexandros qua đời. Di sản Di sản của Alexandros vượt quá phạm vi của những cuộc chinh phạt quân sự. Những chiến dịch của ông đã gia tăng đáng kể sự tiếp xúc và mậu dịch giữa phương Đông và phương Tây, những vùng đất rộng lớn ở phía đông cũng đã tiếp xúc với nền văn minh Hy Lạp và chịu ảnh hưởng từ nó. Một số những thành phố do ông thành lập đã trở thành những trung tâm văn hóa lớn, một vài trong số đó vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay. Những nhà chép biên niên của ông đã ghi lại những thông tin quy giá về những vùng đất mà quân đội Macedonia đi qua, đồng thời bản thân người Hy Lạp cũng có cảm giác thuộc về một thế giới không chỉ giới hạn trong khu vực xung quanh Địa Trung Hải. Các quốc gia Hy Lạp kế tục Di sản trực tiếp của Alexandros chính là việc đưa những vùng đất rộng lớn mới ở châu Á vào vòng kiểm soát của người Macedonia. Vào thời điểm nhà vua băng hà, đế quốc của ông bao trùm một lãnh thổ có diện tích lên tới khoảng , và là quốc gia rộng lớn nhất lúc bấy giờ. Nhiều vùng đất do Alexandros chinh phục vẫn nằm trong tay người Macedonia hoặc dưới sự ảnh hưởng của Hy Lạp cho tới tận 200–300 năm tiếp đó. Các quốc gia kế tục xuất hiện và trở thành những thế lực hùng mạnh (ít nhất là vào giai đoạn đầu). Khoảng thời gian 300 năm này thường được gọi là thời kỳ Hy Lạp hóa. Biên cương phía đông của đế chế Alexandros đã bắt đầu sụp đổ ngay từ khi ông còn sống. Tuy nhiên, khoảng trống quyền lực mà ông để lại ở khu vực tây bắc của tiểu lục địa Ấn Độ đã trực tiếp giúp một trong những triều đại Ấn Độ hùng mạnh nhất trong lịch sử, đế quốc Maurya, trỗi dậy. Lợi dụng khoảng trống quyền lực này Chandragupta Maurya (được đề cập trong các tư liệu tiếng Hy Lạp dưới tên "Sandrokottos"), dù có xuất thân tương đối khiêm tốn, đã có thể lên nắm quyền kiểm soát vùng Punjab, và sử dụng nơi đây làm căn cứ quyền lực để tiến hành chinh phục Đế quốc Nanda. Thành lập các thành phố Trong quá trình chinh phạt của mình, Alexandros đã thành lập khoảng trên dưới 20 thành phố mang tên mình, phần lớn đều nằm ở phía đông của sông Tigris. Thành phố đầu tiên và vĩ đại nhất chính là Alexandria ở Ai Cập, về sau đã trở thành một trong những đô thị hàng đầu tại khu vực Địa Trung Hải. Vị trí của những thành phố này thể hiện các tuyến đường thương mại cũng như các vị trí phòng thủ trọng yếu. Ban đầu, các thành phố này chắc chắn khó mà ở được, chúng có lẽ chỉ mang vai trò của một nơi để bố trí lực lượng đồn trú phòng thủ, không hơn không kém. Sau cái chết của Alexandros, nhiều thực dân Hy Lạp được đưa đến định cư ở các thành phố này đã cố gắng quay trở về Hy Lạp. Tuy nhiên, một thế kỷ sau cái chết của Alexandros, nhiều trong số các thành phố mang tên Alexandria đã phát triển rực rỡ, với nhiều công trình kiến trúc công cộng phức tạp bên cạnh dân số đáng kể bao gồm cả dân địa phương lẫn người Hy Lạp. Tài trợ các đền thờ Vào năm 334 TCN, Alexandros Đại đế đã quyên góp tiền bạc để hoàn thành công việc xây dựng ngôi đền thờ phụng thần Athena Polias mới ở Priene, phía tây Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay. "Marble wall block from the temple of Athena at Priene, inscribed on two sides. The inscription on the front records the gift of funds from Alexander the Great to complete the temple." Một bản khắc từ ngôi đền này, hiện được trưng bày trong Bảo tàng Anh, ghi rằng: "Đức vua Alexandros hiến dâng [ngôi đền này] lên [nữ thần] Athena Polias." Bản khắc này là một trong số ít những khám phá khảo cổ học độc lập xác thực một tình tiết trong cuộc đời của Alexandros. Ngôi đền được thiết kế bởi Pytheos, một trong những kiến trúc sư của Lăng mộ Mausolus ở Halicarnassus. "Marble wall block from the temple of Athena at Priene, inscribed. Part of the marble wall of the temple of Athena at Priene. Above: "King Alexander dedicated the temple to Athena Polias." Hy Lạp hóaHy Lạp hóa là một thuật ngữ được sử gia người Đức Johann Gustav Droysen đặt ra để thể hiện sự truyền bá ngôn ngữ, văn hóa và dân cư Hy Lạp vào các vùng đất thuộc đế quốc Ba Tư xưa kia sau khi bị Alexandros chinh phục. Sự xuất khẩu văn hóa này chắc chắn đã diễn ra, và có thể thấy ở các thành phố Hy Lạp cổ đại, chẳng hạn như Alexandria, Antiochia và Seleucia (phía nam thành Bagdad ngày nay). Alexandros tìm cách đưa những yếu tố Hy Lạp vào văn hóa Ba Tư và cố gắng lai tạo hai nền văn hóa này với nhau, với đỉnh điểm là tham vọng đồng hóa các dân tộc châu Á và châu Âu làm một. Tuy nhiên, những người kế nhiệm ông đã bác bỏ một cách dứt khoát những chính sách như thế này. Dù sao đi chăng nữa, tiến trình Hy Lạp hóa occurred trong toàn khu vực, đi song song với sự 'phương Đông hóa' khác biệt và trái ngược ở các quốc gia kế tục. Cốt lõi của nền văn hóa Hy Lạp được truyền bá thông qua những cuộc chinh phục về cơ bản là văn hóa vùng Athen. Sự liên kết chặt chẽ giữa những binh sĩ trong hàng ngũ quân đội của Alexandros đã trực tiếp dẫn đến sự xuất hiện của phương ngữ "koine", hay con gọi là tiếng Hy Lạp "phổ thông", được tiến hóa từ tiếng Attica. Tiếng Koine lan rộng khắp thế giới Hy Lạp hóa, trở thành lingua franca của các vùng đất Hy Lạp hóa và cuối cùng trở thành tổ tiên của tiếng Hy Lạp hiện đại. Hơn nữa, quy hoạch đô thị, giáo dục, chính quyền địa phương và nghệ thuật, phổ biến trong thời kỳ Hy Lạp hóa đều dựa trên các lý tưởng Hy Lạp Cổ điển. Chúng phát triển thành các hình thức mới riêng biệt và thường được nhóm lại thành văn hóa Hy Lạp hóa. Các khía cạnh của văn hóa Hy Lạp hóa vẫn còn hiện hữu trong những phong tục, tập quán của Đế quốc Đông La Mã vào giữa thế kỷ 15. Tiến trình Hy Lạp hóa tại Trung và Nam Á Một trong những của quá trình Hy Lạp hóa có thể được nhìn thấy thông qua sự phát triển của Vương quốc Hy Lạp-Bactria (250–125 TCN) ở Afghanistan, Pakistan và Tajikistan hiện đại và Vương quốc Ấn-Hy Lạp (180 TCN - 10 SCN) ở Afghanistan và Ấn Độ hiện đại. Trên các tuyến đường thương mại của Con đường Tơ lụa, văn hóa Hy Lạp đã giao thoa với văn hóa Iran và Phật giáo. Nghệ thuật và thần thoại của xứ Gandhara (một khu vực trải dài ở thượng lưu sông Ấn, Swat và Kabul ở Pakistan hiện đại) từ thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên đến thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên là minh chứng rõ ràng nhất về mối liên hệ trực tiếp giữa nền văn minh Hy Lạp và Nam Á. Bên cạnh đó, những Sắc lệnh của Ashoka có đề cập trực tiếp đến những thần dân Hy Lạp của Ashoka cải sang đạo Phật và việc các đế vương thế giới Hy Lạp tiếp nhận những sứ giả Phật giáo. Kết quả của sự giao thoa văn hóa này là sự nguyên hợp của cái gọi là Phật giáo Hy Lạp, đã có những ảnh hưởng đến sự phát triển của Phật giáo và trường phái nghệ thuật Phật giáo Hy Lạp. Các nhà quân chủ Phật giáo Hy Lạp đã gửi các cao tăng đến Trung Quốc, Sri Lanka, hay các quốc gia Hy Lạp khác ở châu Á lẫn châu Á để truyền bá Phật pháp. Một số tượng chân dung đầu tiên và có ảnh hưởng nhất về Đức Phật đã xuất hiện trong giai đoạn này, có lẽ được mô phỏng theo các bức tượng thần Apollo của Hy Lạp dưới phong cách Phật giáo Hy Lạp. Một số truyền thống Phật giáo có thể đã bị ảnh hưởng bởi tôn giáo Hy Lạp cổ đại: tỷ như khái niệm Bồ-đề-tát-đóa gợi nhớ đến các vị anh hùng trong thần thoại Hy Lạp, hay một số nghi lễ được thực hành trong Phật giáo Đại thừa (thắp hương, tặng hoa và thức ăn đặt trên bàn thờ) cũng tương tự như những nghi thức được thực hiện bởi người Hy Lạp cổ đại; tuy nhiên, những nghi thức tương tự cũng có thể được tìm thấy trong văn hóa Ấn Độ bản địa. Tên tuổi của một vị vua Hy Lạp tên là Menandros I, đã được làm cho sống mãi dưới cái tên "Di Lan Đà" trong kinh điển Phật giáo Di-lan-đà vấn đạo. Quá trình Hy Lạp hóa cũng thúc đẩy thương mại giữa phương đông và phương tây. Một số dụng cụ thiên văn Hy Lạp có niên đại vào thế kỷ thứ 3 TCN đã được tìm thấy ở thành phố Hy Lạp-Bactria Ai-Khanoum thuộc Afghanistan ngày nay, trong khi khái niệm về một trái đất hình cầu được xoay quanh bởi các thiên thể hình cầu khác của người Hy Lạp cuối cùng đã được thay thế bởi bằng niềm tin vào một trái đất hình dẹt, gồm bốn lục địa nằm xung quanh một ngọn núi ở trung tâm (Núi Tu-di) giống như hình cánh hoa. Các tác phẩm như Yavanajataka (nghĩa đen là "luận thuyết thiên văn học Hy Lạp") hay Paulisa Siddhanta mô tả sự ảnh hưởng của các khái niệm thiên văn Hy Lạp đối với nền thiên văn học Ấn Độ. Sau các cuộc chinh phạt của Alexandros Đại đế ở phương đông, nghệ thuật Hy Lạp hóa đã dần tạo ảnh hưởng lên nghệ thuật Ấn Độ. Trong lĩnh vực kiến trúc, có thể tìm thấy một vài ví dụ về thức cột Ionic tại ngôi đền Jandial gần Taxila ở Pakistan. Một vài ví dụ về ảnh hưởng của thức cột Ionic có thể tìm thấy ở những nơi xa xôi như Patna, đặc biệt là thức cột Pataliputra, có từ thế kỷ thứ 3 TCN. Ảnh hưởng của thức cột Corinth trong nghệ thuật xứ Gandhara có thể thấy một cách rõ ràng thông qua thức cột Ấn-Corinth. Ảnh hưởng tới La Mã Alexandros và những chiến công của ông được nhiều người La Mã, đặc biệt là các tướng lĩnh ngưỡng mộ. Họ thường muốn liên hệ mình với những thành tích của nhà vua Macedonia. Polybius mở đầu tác phẩm Historia của mình bằng cách nhắc nhở người La Mã về những thành tựu của Alexandros Đại đế. Về sau, ông thường được các nhà lãnh đạo La Mã coi như một hình mẫu. Pompey Vĩ đại sử dụng ngoại hiệu "Magnus" và thậm chí là cắt tóc giống Alexandros. Ông thậm chí đã lục tung những vùng đất mà mình chinh phục ở phía đông để tìm chiếc áo choàng 260 năm tuổi của Alexandros, để rồi khoác nó lên người như một dấu hiệu của sự vĩ đại. Julius Caesar đã từng thực hiện nghi lễ hiến dâng một bức tượng đồng cưỡi ngựa của Lysippos nhưng thay thế đầu của Alexandros bằng đầu của mình. Octavianus khi đến Alexandria có đến viếng lăng mộ của Alexandros và tạm thời sửa con dấu của mình từ hình nhân sư thành chân dung của vị vua quá cố. Hoàng đế Traianus cũng là một người hâm mộ Alexandros, tương tự Nero và Caracalla. Các thành viên của thị tộc Macriani, có Macrinus từng nắm giữ ngôi vị hoàng đế trong một thời gian ngắn, thường mang trên người những đồ trang sức hoặc quần áo được chạm hoặc thêu hình Alexandros. Mặt khác, một số nhà văn La Mã, đặc biệt là các nhân vật thời Cộng hòa, đã sử dụng Alexandros như một câu chuyện cảnh báo về việc khuynh hướng chuyên quyền có thể bị các giá trị cộng hòa kiểm soát như thế nào. Alexandros được các nhà văn này sử dụng như một ví dụ về những đức tính của một vị Quân vương như amicita (tình bạn) và clementia (lòng bao dung), nhưng cũng có iracundia (thịnh nộ) và cupiditas gloriae (ham muốn vinh quang quá mức). Hoàng đế Julianus trong tác phẩm châm biếm "Các đời Caesar" của mình đã mô tả một cuộc thi giữa các hoàng đế La Mã thời trước trước sự chứng kiến của các vị thần, mà Alexandros Đại đế cũng tham gia với tư cách là một thí sinh phụ. Kế hoạch đào kênh bất thành Pausanias viết rằng Alexandros muốn đào núi Mimas (nay là khu vực Karaburun) nhưng không thành công. Ông cũng nói thêm rằng đây là dự án duy nhất không thành công duy nhất của Alexander. Sử gia La Mã Gaius Plinius Secundus cũng có đề cập đến kế hoạch bất thành này, nhưng bổ sung thêm rằng con kênh sẽ có chiều dài , cắt qua eo đất, nối liền vịnh Caystria và vịnh Hermaea. Đặt tên đảo Sử gia Hy Lạp thời La Mã Arrian trích dẫn Aristobulos rằng đảo Icarus (đảo Failaka ngày nay) ở vịnh Ba Tư có tên này là bởi vì Alexandros đã đặt tên cho hòn đảo như vậy, theo tên hòn đảo Icarus ở Biển Aegea. Truyền thuyết Có nhiều truyết thuyết xoay quanh cuộc đời của Alexandros Đại đế, nhiều câu chuyện bắt nguồn từ cuộc đời của chính ông, và có lẽ chính Alexandros đã cố tình lan truyền chúng. Nhà sử học trong triều đình Macedonia thời bấy giờ, Callisthenes, miêu tả biển ở Cilicia như đang hành lễ với Alexandros theo phong tục proskynesis. Ít lâu sau khi ông qua đời, một nhà sử học khác tên là Onesikritos, đã bịa nên một cuộc hẹn hò giữa Alexandros và nữ vương Thalestris của người Amazon huyền thoại. Onesikritos lúc bấy giờ đang là môn khách dưới trướng của Lysimachos, một tướng quân của Alexandros và sau này trở thành vua Macedonia. Tương truyền, sau khi nghe Onesikritos kể về câu chuyện này, Lysimachos đã lên tiếng châm biếm và nói rằng "ta tự hỏi mình đang ở đâu vào thời điểm đó." Trong những thế kỷ đầu sau khi Alexandros, có thể là ở Alexandria, một lượng lớn tài liệu huyền ảo đã được tổng hợp lại thành một tác phẩm được gọi là Alexandros truyền kỳ. Ban đầu tác phẩm được cho là của Callisthenes, nhưng người đời sau nhận ra rằng ông không phải là tác giả. Văn bản này đã trải qua nhiều lần mở rộng và cải biên trong suốt thời Cổ đại và Trung cổ, chứa nhiều câu chuyện mang tính huyền ảo và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Xem thêm Quân đội Macedonia cổ đại Đại đế Bucephalus Ghi chú Chú thích
Claus Philipp Schenk Graf von Stauffenberg (; 15 tháng 11 năm 1907 – 21 tháng 7 năm 1944) là một nhà quý tộc của Đức dưới thời Đức Quốc xã, Đại tá, Tham mưu trưởng Lực lượng dự bị (1944), người lĩnh nhiệm vụ ám sát Adolf Hitler ngày 20 tháng 7 năm 1944. Sau khi vụ ám sát thất bại, ông bị xử bắn và trở thành biểu tượng cho phong trào chống đối Hitler. Lai lịch của Von Stauffenberg Stauffenberg là con thứ ba trong một gia tộc có tiếng tăm ở miền nam Đức. Hai người anh trước của ông là Berthold và Alexander là anh em song sinh. Bản thân ông cũng có một người em song sinh nhưng mất sớm ngay sau khi sinh. Cha ông là Alfred Schenk Graf von Stauffenberg, Đại công tước cuối cùng của Vương quốc Wurttemberg. Mẹ ông là Bá tước Caroline Schenk Gräfin von Üxküll-Gyllenband. Claus được sinh tại lâu đài Stauffenberg ở Jettingen, khi đó vẫn còn thuộc Vương quốc Bayern, một phần của Đế chế Đức. Gia tộc Stauffenberg là một trong nhưng gia tộc lâu đời, mộ đạo (Công giáo La Mã), và có văn hóa cao. Thời niên thiếu, ông và các anh đã tham gia Neupfadfinder, một tổ chức Hướng đạo của Đức, và một phần của phong trào thanh niên Đức. Tuy được giáo dục thiên về hướng văn học, nhưng không giống như các anh của mình, ông lại thiên về sự nghiệp quân sự. Năm 1926, theo truyền thống gia đình ông tham gia Reiter-und Kavallerieregiment 17 (Trung đoàn Kỵ binh số 17) tại Bamberg. Năm 1930, Stauffenberg được nhận vào học tại Kriegsakademie (Học viện Chiến tranh) tại Berlin-Moabit, với hàm Leutnant (Trung úy). Tại đây, ông học về vũ khí hiện đại, tuy vẫn chú ý nhiều vào việc sử dụng ngựa. Trung đoàn của ông về sau đã trở thành một phần của Sư đoàn Khinh binh số 1, dưới quyền tướng Erich Hoepner, người về sau tham gia vào âm mưu đảo chính bất thành tháng 9 năm 1938. Von Stauffenberg được đánh giá là người có biệt tài đáng kinh ngạc so với một sĩ quan quân đội chuyên nghiệp. Ông có thể chất tốt, rất đẹp trai, có đầu óc thông minh, thích học hỏi và quân bình. Mặc dù tán thành một số quan điểm Quốc xã về Dân tộc chủ nghĩa, tuy nhiên Stauffenberg nhận thấy nhiều khía cạnh tiêu cực của nó, và vì thế ông không bao giờ trở thành một đảng viên. Là một tín đồ Công giáo La Mã thuần thành, với ý thức mạnh mẽ về tôn giáo, đạo đức và công lý cá nhân, ông không tán thành các chính sách kỳ thị Do Thái. Là một quân nhân, ông cũng không hài lòng khi thấy chính sách can thiệp quá sâu của Hitler và đảng Quốc Xã vào hệ thống quân đội. Tham gia Thế chiến II Khi chiến tranh bùng nổ, ông tham gia một cách năng nổ, làm sĩ quan tham mưu của Tướng Erich Hoepner chỉ huy Sư đoàn 6 Thiết giáp trong các chiến dịch tại Ba Lan và Pháp. Chính trên chiến trường Nga mà Stauffenberg cảm thấy vỡ mộng. Sự tàn bạo của lực lượng SS ở Liên Xô cũng như lệnh của Hitler bắn bỏ chính ủy Bolshevik đã khiến cho Stauffenberg mở mắt mà nhận ra con người thật của Hitler. Do tình cờ, ông gặp hai người chủ chốt trong nhóm âm mưu chống Hitler: Tướng Henning von Tresckow, Tham mưu trưởng cụm Tập đoàn quân Trung tâm và sĩ quan dưới quyền ông này Fabian von Schlabrendorff, rồi hoạt động một cách cách tích cực trong nhóm. Nhưng Stauffenberg vẫn còn là một sĩ quan cấp thấp và thấy các thống chế quá hoang mang – hoặc quá hèn nhát – nên không thể làm gì để loại trừ Hitler hoặc chấm dứt việc tàn sát người Do Thái, người Nga và tù binh. Thảm họa xảy ra một cách không cần thiết ở Stalingrad, dẫn đến việc tập đoàn quân số 6 của Đức đầu hàng, cũng làm cho ông chán ngán. Tháng 2/1943, ông xin chuyển ra chiến trường và được cử làm sĩ quan hành quân cho sư đoàn thiết giáp số 10 ở Tunisia. Ngày 7 tháng 4, chiếc xe chở ông cán phải mìn – có nguồn nói xe của ông bị một máy bay Đồng Minh tấn công – và ông bị thương nặng. Ông mất con mắt trái, bàn tay phải, hai ngón tay bên kia, và thêm những vết thương ở tai trái và đầu gối. Trong nhiều tuần có vẻ như nếu ông sống sót thì cũng bị mù hẳn, nhưng ông được chữa trị và hồi phục. Người ta có thể nghĩ như ai khác hẳn đã muốn xin ra khỏi quân đội và từ bỏ nhóm âm mưu. Trong khi đang hồi phục, ông có thời gian để suy nghĩ và đi đến kết luận là, dù cho bị thương tật, ông phải thực hiện một nhiệm vụ thiêng liêng. Ông nói với vợ, Nữ Bá tước Nina, mẹ của bốn đứa con của ông: "Anh nghĩ bây giờ anh phải làm gì đó để cứu nước Đức. Sĩ quan tham mưu quân đội như anh phải nhận lãnh một phần trách nhiệm." Sắp đặt kế hoạch Cuối tháng 9, 1943, Stauffenberg trở lại Berlin với quân hàm trung tá và làm chánh văn phòng cho Tướng Friedrich Olbricht, Cục trưởng Tổng hợp – Thanh tra Lục quân. Chẳng bao lâu sau, ông thực tập kích hoạt bom bằng một cái kềm trên ba ngón tay. Tố chất năng động, đầu óc sáng tỏ, và tài ba của ông thổi một luồng sinh khí mới cho nhóm âm mưu. Ông cũng có ý tưởng khác lạ, vì bản thân không hài lòng với loại hình chế độ ù lì, bảo thủ, vô vị mà các nhà lãnh đạo phong trào chống đối trù định sau khi đã lật đổ Quốc xã. Có óc thực dụng hơn bạn bè, ông muốn chế độ dân chủ xã hội năng động. Ông cũng thành công đối với phần đông giới quân sự. Ngoài Olbricht, còn có cấp trên của ông: Tướng Stieff, Cục trưởng Cục nhân lực của Bộ Tư lệnh Lục quân; Tướng Eduard Wagner, Cục trưởng Hậu cần Lục quân; Tướng Erich Fellgiebel, Cục trưởng Thông tin thuộc Bộ tư lệnh Lục quân; Tướng Fritz Lindemann, Cục trưởng Quân cụ; Tướng Paul von Hase, Tư lệnh Quân khu Berlin (người sẽ điều động quân chiếm lấy Berlin); và Đại tá Freiherr von Roenne, Trưởng phòng Quân đội Nước ngoài. Có hai hoặc ba vị tướng chủ chốt, nhất là Tư lệnh quân dự bị Friedrich Fromm, có tính khí bất thường. Tại Berlin, Stauffenberg và bạn hữu của ông đã hoàn tất một phương án có tên "Walküre." Đấy là một cái tên thích hợp, vì trong huyền thoại Đức Walküre là chiến binh phụ nữ, trẻ đẹp nhưng gây kinh hoàng, bay lơ lửng trên vùng chiến địa mà chọn đối thủ để tiêu diệt. Trong trường hợp này, kẻ cần bị tiêu diệt là Adolf Hitler. Đô đốc Wilhelm Canaris đã đề xuất ý niệm Walküre cho Hitler, trong phương án giao cho lực lượng Dân quân nhiệm vụ giữ gìn an ninh tại Berlin và những thành phố lớn khác để ngăn chặn hàng triệu công nhân nô lệ nước ngoài nổi loạn. Việc nổi loạn như thế hầu như là bất khả thi, vì công nhân nước ngoài không có vũ khí trong tay và thiếu tổ chức. Nhưng trong đầu óc đa nghi của Hitler thì ở đâu cũng có hiểm họa. Trong khi người khỏe mạnh đang chinh chiến trên mặt trận hoặc đang chiếm đóng những vùng đất xa xôi, Hitler thuận theo ý tưởng là nên giao cho lực lượng dự bị nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc nội chống lại đám công nhân nô lệ đầy bất mãn. Thế là, Phương án Walküre trở thành một lớp vỏ bọc hoàn hảo cho nhóm âm mưu trong quân đội, cho phép họ công khai sắp đặt những phương án để quân dự bị chiếm lấy thủ đô và những thành phố lớn như Viên, München và Köln ngay sau khi đã ám sát được Hitler. Stauffenberg nhấn mạnh yếu tố thời gian để nắm quyền kiểm soát thủ đô. Hai tiếng đồng hồ đầu sẽ là gay cấn nhất. Trong khoảng thời gian ngắn này, Quân đội phải chiếm đóng trung tâm phát sóng toàn quốc và hai đài truyền thanh của thành phố, các trung tâm điện tín và điện thoại, Phủ Thủ tướng, các bộ và tổng hành dinh của SS-Mật vụ. Phải bắt giữ Bộ trưởng Tuyên truyền Joseph Göbbels, nhân vật Quốc xã hàng đầu ít khi rời khỏi Berlin, cùng với những sĩ quan SS. Cùng lúc, ngay sau khi hạ sát Hitler, phải cô lập tổng hành dinh Rastenburg hầu ngăn chặn bất kỳ ai chiếm lấy và huy động cảnh sát hoặc quân đội tiếp tục ủng hộ chế độ Quốc xã. Tướng Cục trưởng Thông tin Fellgiebel, đóng bản doanh gần tổng hành dinh của Hitler, được chỉ định thực hiện nhiệm vụ này. Chỉ khi ấy, sau khi những nhiệm vụ kể trên đã được hoàn tất trong vòng vài tiếng đồng hồ đầu tiên, mới truyền đi thông cáo qua sóng phát thanh, điện tín và điện thoại đến các chỉ huy lực lượng quân đội ở những thành phố khác, đến các tướng lĩnh chỉ huy mặt trận và vùng chiếm đóng, cho biết Hitler đã chết và một chính phủ mới chống Quốc xã đã được thành lập ở Berlin. Cuộc đảo chính sẽ xong xuôi trong vòng 24 giờ, và chính phủ mới sẽ được yên vị. Nếu không làm đúng kế hoạch như thế, những tướng lĩnh còn hoang mang có thể suy đi nghĩ lại. Hermann Göring (Tư lệnh Không quân) và Heinrich Himmler (Lãnh tụ Lực lượng SS, Chỉ huy trưởng Cảnh sát Đức) sẽ có thể huy động họ, và nội chiến có thể xảy ra. Khi ấy, các mặt trận sẽ lung lay, rồi không tránh khỏi hỗn loạn và sụp đổ. Mọi chuyện đều tùy thuộc vào khả năng của nhóm âm mưu trong việc điều động lực lượng quân dự bị trong và chung quanh Berlin với tốc độ và năng lực ở mức cao nhất. Có một vấn đề gút mắc trong việc này: chỉ có Tướng Tư lệnh lực lượng dự bị Friedrich Fromm là người có thẩm quyền ra chỉ thị để triển khai Phương án Walküre. Trong trường hợp ông lưỡng lự vào thời điểm quyết định, người thay thế ông sẽ là Tướng Erich Hoepner, vị chỉ huy thiết giáp tài ba đã bị Hitler cách chức sau trận đánh ở Moskva năm 1941 và bị cấm mặc quân phục. Stauffenberg và Tresckow soạn chỉ thị sẵn cho các tư lệnh quân khu nắm lấy quyền điều hành trên địa phương của họ, dập tắt đám SS, bắt giữ các nhân vật Quốc xã hàng đầu, chiếm lấy các trại tập trung. Còn có thêm những bản tuyên cáo với lời lẽ dứt khoát để vào thời điểm thích hợp gửi đến quân đội, dân Đức, báo đài. Vài bản tuyên cáo mang tên Beck với cương vị tân Tổng thống, một số bản khác mang tên Thống chế tân Tổng tham mưu trưởng Quân lực Job-Wilhelm von Witzleben và tân Thủ tướng Carl Goerdeler. Những bản chỉ thị và tuyên cáo này được giấu trong két sắt của Tướng Olbicht. Thế là, các kế hoạch đã sẵn sàng từ cuối năm 1943. Nhưng trong nhiều tháng, nhóm âm mưu không làm được gì nhiều. Đến tháng 6/1944, họ thấy thời gian càng lúc càng cấp bách. Có một lý do: Mật vụ đang càng ngày càng thu hẹp mành lưới. Những vụ bắt bớ người âm mưu đang tăng từng tuần, và đã có nhiều cuộc hành quyết. Những âm mưu khởi đầu Vào cuối tháng 6 1944, nhóm âm mưu có được cơ hội mới. Stauffenberg được thăng lên đại tá và nhận chức Tham mưu trưởng lực lượng tập đoàn quân quân dự bị dưới quyền Tướng Tư lệnh Fromm. Chức vụ này không những cho phép Stauffenberg ban hành chỉ thị cho lực lượng quân dự bị nhân danh Fromm, mà còn tạo cơ hội cho ông được tiếp cận Hitler. Thật vậy: Hitler thường triệu tập Tư lệnh quân dự bị hoặc người phụ tá đến tổng hành dinh mỗi tuần hai hoặc ba lần để báo cáo tình hình cung ứng quân thay thế cho những sư đoàn đang hứng chịu thiệt hại chiến trường. Stauffenberg dự tính đặt bom ở một trong những buổi họp như thế. Stauffenberg bây giờ trở thành nhân vật chủ chốt trong âm mưu. Vì có thể xâm nhập tổng hành dinh của Hitler được canh phòng cẩn mật, ông mang trọng trách ám sát Hitler. Trên cương vị Tham mưu trưởng quân dự bị động viên, ông có thể điều động binh sĩ chiếm lấy Berlin, vì lẽ nhóm âm mưu không tin tưởng nơi Fromm. Và Stauffenberg phải thực hiện hai nhiệm vụ cùng một ngày ở hai nơi cách nhau gần 600 kilômét – giữa tổng hành dinh của Hitler lúc ấy ở Obersalzberg hoặc Rastenburg và Berlin. Giữa hành động thứ nhất và thứ nhì là khoảng thời gian 2 đến 3 tiếng đồng hồ khi ông ngồi trên máy bay từ tổng hành dinh của Hitler về Berlin. Trong thời gian này ông không thể làm được gì, nhưng hy vọng đồng chí của ông triển khai kế hoạch đã đề ra. Cũng có những vấn đề khác. Một việc tưởng chừng phức tạp một cách không cần thiết lại nảy ra trong đầu nhóm âm mưu. Họ đi đến kết luận rằng giết một mình Hitler thì không đủ; cùng lúc phải giết cả Hermann Göring và Heinrich Himmler để đảm bảo những lực lượng dưới quyền hai người này không chống lại họ. Họ cũng nghĩ rằng khi hai phụ tá thân tín nhất của Hitler đã chết, các tướng lĩnh chỉ huy ở mặt trận đang lưỡng lự sẽ về phe với họ nhanh chóng hơn. Vì lẽ Göring và Himmler thường tham dự các buổi họp quân sự hàng ngày tại tổng hành dinh Lãnh tụ, họ nghĩ rằng sẽ không khó mà giết cả ba người với một quả bom. Quyết định này khiến cho Stauffenberg vuột mất hai cơ hội bằng vàng. Stauffenberg được triệu đến Obersalzberg ngày 11 tháng 7 để báo cáo với Hitler về tình hình tuyển quân thay thế. Ông mang theo một quả bom kiểu Anh do Quân báo cung cấp. Nhóm âm mưu đã quyết định đây là thời điểm để hạ sát cả Hitler, Göring và Himmler. Nhưng vào ngày này, Himmler không có mặt trong buổi họp. Stauffenberg lẻn ra ngoài buổi họp một lúc, gọi điện cho Tướng Olbricht để báo cáo tình hình, nói rõ rằng mình vẫn có thể hạ sát Hitler và Göring. Olbricht nói nên đợi dịp khác để có thể hạ sát cả ba người. Đêm ấy, khi trở về Berlin, Stauffenberg gặp Beck và Olbricht, nói một cách cương quyết rằng lần kế tiếp ông phải cố hạ sát Hitler cho dù Göring và Himmler có mặt hay không. Tất cả đều đồng ý. Lần kế tiếp đến nhanh. Stauffenberg nhận lệnh ngày kế đến báo cáo cho Lãnh tụ về tình hình tuyển quân ở tổng hành dinh "Hang Sói" ở Rastenburg. Ngày 15/7, Đại tá Stauffenberg bay đến tổng hành dinh Lãnh tụ với một quả bom trong chiếc cặp. Lần này, nhóm âm mưu tự tin sẽ thành công đến nỗi họ đồng ý rằng 2 tiếng đồng hồ trước buổi họp của Hitler – dự kiến lúc 1 giờ chiều – sẽ phát lệnh cho binh sĩ tiến vào Berlin và xe tăng của trường thiết giáp Krampnitz cũng chuyển bánh về thủ đô. Lúc 11 giờ sáng Thứ Bảy, 15/7, Tướng Olbricht phát lệnh triển khai Phương án Walküre. Trước giữa trưa, binh sĩ tiến về hướng trung tâm thủ đô với lệnh chiếm lấy khu hành chính. Lúc 1 giờ xế chiều, với chiếc cặp trên tay Stauffenberg đi đến phòng họp của Lãnh tụ, báo cáo về tình hình tuyển quân, rồi xin phép ra ngoài, gọi điện cho Olbricht ở Berlin qua mật mã rằng Hitler có mặt, rằng ông sẽ trở lại buổi họp và kích hoạt quả bom. Olbricht cho biết binh sĩ ở Berlin đã được điều động. Xem dường rốt cuộc họ sẽ thành công. Nhưng khi Stauffenberg trở lại phòng họp, Hitler đã rời đi và không trở lại. Stauffenberg vội vã gọi điện cho Olbricht để thông báo tình hình mới. Olbricht hối hả bãi bỏ lệnh động quân, binh sĩ nhận lệnh quay trở về doanh trại một cách cách nhanh chóng và êm thấm nhất có thể được. Nhóm âm mưu vẫn quyết tâm bằng bất cứ giá nào phải thi hành âm mưu ám sát Hitler và lật đổ chủ nghĩa Quốc xã. Stauffenberg đồng ý. Ông thề lần kế tiếp sẽ không thất bại nữa. Tướng Olbricht đã bị Keitel khiển trách về việc điều quân ở Berlin, thế nên cho biết ông không thể liều làm như thế nữa, kẻo cả âm mưu sẽ bị phát giác. Ông đã thoát được trong gang tấc bằng cách giải thích với Keitel và Fromm rằng đấy là cuộc tập trận. Nỗi e ngại động quân khi chưa nhận tin chắc chắn Hitler đã chết sẽ gây hậu quả thảm khốc vào ngày Thứ Năm tới. Vụ ám sát ngày 20 tháng 7 năm 1944 (chiến dịch Valkyrie) Khoảng 6 giờ sáng ngày 20/7/1944, Đại tá Stauffenberg cùng Trung úy tùy tùng Werner von Haeften đi qua những tòa nhà đổ nát vì bom đạn ở Berlin để đến sân bay Rangsdorf. Trong chiếc cặp dày cộm là hồ sơ về những sư đoàn dự bị mà ông sẽ trình bày cho Lãnh tụ tại "Hang Sói" ở Rastenburg, Đông Phổ. Giữa các hồ sơ là một quả bom được bọc trong một chiếc áo sơ-mi. Đấy là kiểu bom của Anh, được kích hoạt bằng cách đập vỡ một cái ve nhỏ, khiến a-xít trong đấy ăn mòn một sợi dây kim loại nhỏ, làm một lò xo bung ra và đánh vào kíp nổ. Tùy thuộc kích cỡ sợi dây kim loại mà bom nổ nhanh hoặc chậm. Họ dùng một sợi dây kim loại nhỏ nhất, sẽ bị ăn mòn trong vòng 10 phút. Tại sân bay, Stauffenberg gặp Tướng Stieff, người đã trao quả bom vào đêm trước. Chiếc máy bay chở họ là của Tướng Eduard Wagner, Cục trưởng Hậu cần Lục quân và là người cầm đầu âm mưu ám sát, được ông điều đến cho chuyến bay quan trọng này. Máy bay cất cánh lúc 7 giờ, đáp xuống Rastenburg vào khoảng 10 giờ. Haeften yêu cầu viên phi công sẵn sàng cất cánh trở về Berlin bất cứ lúc nào sau giữa trưa. Một chiếc ô-tô đưa hai người về Hang Sói, được xây giữa một khu rừng rậm âm u, ẩm ướt ở Đông Phổ. Kiến trúc được xây với 3 vòng, mỗi vòng được bảo vệ bằng bãi mìn, công sự bê-tông ngầm, hàng rào dây điện, và binh sĩ SS cuồng tín tuần tra ngày lẫn đêm. Đấy là nơi chốn không dễ gì xâm nhập, hoặc thoát ra. Để được phép vào khu vực bên trong được phòng vệ cẩn mật, nơi Hitler làm việc và ăn ngủ, dù là tướng lĩnh cao cấp nhất vẫn cần một giấy đặc biệt cho phép chỉ một lần, rồi phải qua sự khám xét của Thiếu tướng SS Rattenhuber, chỉ huy an ninh dưới quyền Himmler, hoặc người phụ tá của Rattenhuber. Tuy nhiên, vì Hitler đã ra lệnh triệu Stauffenberg đến, ông và Haeften chỉ được khám xét qua loa. Sau khi dùng bữa điểm tâm với Đại úy von Müllendorf, phụ tá cho chỉ huy trưởng doanh trại, Stauffenberg đi tìm Tướng Fritz Fellgiebel, Cục trưởng Thông tin thuộc Bộ tư lệnh Lục quân. Fellgiebel là một trong những người chủ chốt của kế hoạch ám sát Hitler. Stauffenberg phải đảm bảo Fellgiebel báo tin việc ám sát về Berlin để ở đây có thể động quân ngay. Rồi Fellgiebel phải cô lập tổng hành dinh Lãnh tụ bằng cách đóng mọi đường điện thoại, điện tín và thu phát sóng. Không ai có khả năng làm việc này bằng Cục trưởng Thông tin, và nhóm âm mưu cảm thấy may mắn có ông tham gia. Sau khi đến gặp Tướng Buhke, đại diện Lục quân tại Bộ Tổng tham mưu, Stauffenberg đi đến khu vực của Tướng Keitel, dỡ mũ và thắt lưng treo lên tường trong gian tiền phòng rồi bước vào văn phòng của Keitel, Ở đây, ông được biết mình phải vội tiến hành nhanh chóng hơn là dự trù. Bây giờ đã là quá giữa trưa, và Keitel cho biết vì Mussolini sẽ đến bằng xe lửa lúc 2:30 giờ chiều, buổi họp với Lãnh tụ sẽ bắt đầu lúc 12:30 giờ thay vì 1 giờ. Keitel bảo Stauffenberg nên báo cáo nhanh gọn. Hitler muốn kết thúc sớm buổi họp. Kết thúc trước khi bom nổ? Hẳn Stauffenberg đã nghĩ liệu một lần nữa định mệnh khiến ông phải thất bại hay không, và có lẽ thất bại ở cơ hội cuối cùng. Ông cũng mong lần này buổi họp với Hitler sẽ diễn ra trong boong-ke chìm dưới mặt đất, nơi quả bom sẽ có sức công phái vài lần mạnh hơn so với tầng trên. Nhưng Keitel cho biết buổi họp sẽ diễn ra trong phòng họp của doanh trại. Nhưng đấy không phải là doanh trại thông thường. Hitler đã ra lệnh xây thêm một bức tường bê-tông dày gần nửa mét để bảo vệ chống cháy và mảnh bom đạn. Bức tường này sẽ tăng sức công phá cho quả bom của Stauffenberg. Một số tác giả cho biết những buổi họp quân sự hàng ngày của Hitler ở Hang Sói thường diễn ra trong boong-ke nằm dưới mặt đất và vì boong-ke này đang được sửa chữa, buổi họp này được chuyển đến phòng họp trên mặt đất, do đấy đã cứu mạng sống của Hitler. Việc này có lẽ không đúng. Phòng họp của doanh trại, như tên gọi, là nơi diễn ra những buổi họp hàng ngày. Chỉ trong trường hợp e ngại máy bay đến không kích mới dời buổi họp xuống boong-ke nằm dưới mặt đất. Ít phút trước 12:30 giờ, Keitel bảo Stauffenberg phải đến phòng họp ngay kẻo muộn. Hai người vừa đi được ít bước thì Stauffenberg nói ông đã để quên mũ và thắt lưng trong gian tiền phòng, rồi lập tức đi trở lại. Keitel không có thời giờ để ra lệnh Trung úy tùy viên von John, lúc ấy đang đi kế bên, quay trở lại lấy mũ và thắt lưng cho khách. Trong gian tiền phòng, Stauffenberg nhanh chóng mở chiếc cặp, cầm cái kềm giữa ba ngón tay để bấm vỡ cái ve. Chỉ trong vòng 10 phút quả bom sẽ nổ, trừ khi có khuyết điểm gì khác. Vốn thích ăn hiếp kẻ dưới quyền tuy xu nịnh bề trên, Keitel tỏ ra nóng nảy vì sự chậm trễ, quay trở lại và lớn tiếng kêu Stauffenberg nên gấp rút. Ông nói họ đã bị muộn. Stauffenberg lên tiếng xin lỗi. Hẳn Keitel đã nhận ra rằng một người tàn tật như Stauffenberg mất nhiều thời gian hơn người thường để mang thắt lưng. Thái độ của Keitel hòa hoãn trở lại – hẳn ông không có ý nghi ngờ gì. Đúng như Keitel nói, hai người đã bị muộn. Khi họ vừa bước qua cửa phòng họp, Stauffenberg dừng lại để báo cho thượng sĩ trực tổng đài điện thoại là ông đang chờ một cuộc gọi từ văn phòng ông ở Berlin để có thông tin mới nhất mang ra báo cáo trong buổi họp, và cần được thông báo ngay khi có cuộc gọi này. Ông nói thế là để cho Keitel nghe được. Việc này là bất thường: ngay cả một thống chế chỉ đi ra khỏi phòng họp với Lãnh tụ khi được sai khiến hoặc khi buổi họp đã chấm dứt, và chỉ đi ra sau khi Hitler đã bước ra. Nhưng Keitel không tỏ vẻ ngờ vực gì. Hai người đi vào phòng họp. Khoảng 4 phút đã trôi qua kể từ khi Stauffenberg kích hoạt quả bom; còn 6 phút nữa. Phòng họp khá nhỏ, rộng chưa đến 5 mét và dài chưa đến 10 mét. Có nhiều cửa sổ mở, như thế sẽ làm giảm sức công phá của quả bom. Giữa phòng là một cái bàn hình chữ nhật khoảng 1,5 mét rộng và 5,5 mét dài. Đấy là cái bàn đóng theo kiểu đặc biệt, không có bốn chân nhưng tựa lên hai cái bệ ở hai đầu kéo dài gần hết chiều rộng. Kiểu bàn như thế sẽ tạo ảnh hưởng lên lịch sử sắp diễn ra. Khi Stauffenberg bước vào, Hitler ngồi ở giữa chiều dài cái bàn, quay lưng về cánh cửa. Phía tay phải ông là Tướng Heusinger, Trưởng phòng Hành quân kiêm Tham mưu phó Lục quân; Tướng Korten, Tham mưu trưởng Không quân; và Đại tá Heinz Brandt, chỉ huy ban tham mưu dưới quyền Heusinger. Keitel đến đứng bên tay phải của Hitler, kế bên ông là Jodl. Có 18 sĩ quan khác của ba binh chủng và SS đứng chung quanh cái bàn, nhưng Göring và Himmler không có mặt. Chỉ có Hitler và hai người ghi tốc ký là ngồi. (Đài BBC, trong ngày tưởng niệm tròn 60 năm vụ ám sát 20/7/2004, liệt kê 25 người hiện diện.) Heusinger đang báo cáo tình hình bi thảm trên mặt trận trung tâm ở Liên Xô và do đấy vị trí chông chênh của quân Đức kể cả ở hai mặt trận nam và bắc. Keitel chen vào để thông báo sự hiện diện của Đại tá von Stauffenberg và mục đích của ông này. Hitler ngước lên nhìn anh đại tá cụt một bàn tay, một bên mắt được che kín, chào hỏi một cách cụt lủn, rồi nói ông muốn nghe Heusinger báo cáo cho xong trước rồi mới nghe Stauffenberg báo cáo. Stauffenberg đến đứng giữa Korten và Brandt gần cái bàn, cách Hitler vài bước bên tay phải ông này. Ông đặt chiếc cặp trên mặt sàn, đẩy vào dưới bàn cho dựa vào mặt trong của cái bệ, chỉ cách chân của Hitler 2 mét. Bây giờ là 12:37 giờ. Còn 5 phút nữa. Heusinger tiếp tục báo cáo, liên tục chỉ xuống tấm bản đồ trải trên mặt bàn. Hitler và những người khác luôn nghiêng người xuống để xem tấm bản đồ. Dường như không ai để ý khi Stauffenberg lẻn ra ngoài. Có lẽ ngoại trừ Brandt. Ông này chăm chú nghe Heusinger báo cáo đến nỗi ông xê dịch đến gần để nhìn rõ hơn, bị vướng chiếc cặp dày cộm của Stauffenberg, cố dùng một chân đẩy nó qua một bên, rồi cúi xuống dùng tay nhấc chiếc cặp lên và đặt xuống mặt ngoài của cái bệ. Vì thế, cái bệ che chắn giữa quả bom và Hitler. Động thái đơn giản của Brandt có lẽ đã cứu sống Hitler, nhưng khiến cho Brandt phải chết. Ông không hề biết rằng đấy là quả bom mà ông vô tình đẩy ra bên ngoài cái kệ, tránh xa khỏi Hitler. Với nhiệm vụ báo hiệu cho Stauffenberg bắt đầu báo cáo, Keitel nhìn đến nơi Stauffenberg đã đứng ít phút trước. Heusinger báo cáo đã gần xong, và Keitel muốn ra hiệu cho Stauffenberg biết để bắt đầu báo cáo tiếp nối. Có lẽ Stauffenberg cần có người phụ giúp lấy tài liệu ra khỏi chiếc cặp. Nhưng Keitel vô cùng phiền hà khi không thấy Stauffenberg ở đâu. Nhớ lại là Stauffenberg đã báo cho thượng sĩ trực tổng đài điện thoại, Keitel lén ra khỏi phòng họp để đi tìm anh đại tá có hành động kỳ lạ này. Stauffenberg không có mặt nơi tổng đài điện thoại. Người thượng sĩ nói Stauffenberg đã vội vã đi ra ngoài. Keitel trở vào phòng họp với tâm trạng bối rối. Heusinger đang đi đến phần kết luận của bài báo cáo: Quân Nga đã tiến công với lực lượng mạnh phía tây Duna và tiến về hướng bắc. Mũi nhọn của họ đã đến đông-nam Dunaburg. Nếu tập đoàn quân của ta quanh Hồ Peipus không rút lui, một thảm họa Đúng vào lúc này, 12:42 giờ, quả bom phát nổ. Stauffenberg trông thấy những gì xảy ra kế tiếp. Ông đang đứng bên Tướng Fellgiebel trước văn phòng ông này ở Bong-ke 44 cách đấy gần 100 mét, lo lắng nhìn đồng hồ rồi nhìn về phía phòng họp. Ông thấy khói bốc lên rồi một ngọn lửa mà ông kể lại giống như một quả đạn pháo 155 li rơi xuống. Thân người bị ném ra khỏi khung cửa sổ; mảnh vụn bay tứ tung lên không trung. Stauffenberg phấn khích tin chắc rằng mọi người có mặt trong phòng họp đều đã chết hoặc đang hấp hối. Ông vội vàng từ giã Fellgiebel, trong khi ông này đang gọi điện cho báo nhóm âm mưu ở Berlin biết vụ ám sát đã thành công, rồi cắt hệ thống thông tin. Nhiều tác giả cho rằng vào lúc này, Fellgiebel đáng lẽ phải cho nổ trung tâm viễn thông, nhưng ông đã không làm việc này khiến gây hậu quả thảm khốc cho nhóm âm mưu. Vì lẽ nhiều trung tâm viễn thông khác nhau nằm trong những boong-ke rải rác dưới đất được binh sĩ SS phòng vệ cẩn mật, kế hoạch không thể nào đòi hỏi Fellgiebel phá hủy tất cả các trung tâm này. Fellgiebel chỉ đồng ý cắt đứt mạch viễn thông ra thế giới bên ngoài trong 2 hoặc 3 tiếng đồng hồ sau khi ông đã thông báo cho Berlin về vụ nổ bom. Ông đã làm được như thế tuy có vài thiếu sót. Hành động kế tiếp của Stauffenberg là phải nhanh chóng thoát ra khỏi tổng hành dinh Rastenburg. Binh sĩ bảo vệ ở các chốt ra vào đã nghe tiếng nổ phát ra từ phòng họp của Hitler và lập tức phong tỏa mọi lối ra. Tại chốt thứ nhất, cách boong-ke của Fellgiebel vài mét, chiếc xe của Stauffenberg bị chặn lại. Ông nhảy ra khỏi xe và yêu cầu được nói chuyện với sĩ quan trực nhà bảo vệ. Với sự hiện diện của sĩ quan này, Stauffenberg gọi điện cho ai đấy – không rõ là ai – trao đổi ngắn gọn, gác máy rồi quay qua người sĩ quan, nói: "Trung úy, tôi được phép đi qua." Đấy chỉ là trò tháu cáy, nhưng có hiệu quả. Sau khi người sĩ quan ghi vào sổ trực: "12:44 giờ, Đại tá Stauffenberg đi qua" rồi hiển nhiên gọi đến chốt gác thứ hai để cho xe của Stauffenberg đi qua. Tại chốt gác thứ ba thì khó khăn hơn. Ở đây, binh sĩ bảo vệ đã nhận lệnh báo động, hạ cổng xuống và tăng cường bảo vệ, không cho ai đi ra hoặc đi vào. Xe của Stauffenberg và Trung úy tùy tùng Haeften bị một thượng sĩ cứng đầu tên Kolbe chặn đường. Một lần nữa, Stauffenberg yêu cầu được sử dụng điện thoại và gọi cho Đại úy von Müllendorf, phụ tá cho chỉ huy trưởng của doanh trại. Ông phàn nàn rằng binh sĩ bảo vệ không cho ông đi qua "vì lý do vụ nổ. Tôi có việc gấp. Tướng Fromm đang đợi tôi ở sân bay." Đây cũng là trò tháu cáy: Stauffenberg biết rõ rằng Fromm đang ở Berlin. Sau khi gác máy, Stauffenberg quay qua người thượng sĩ: "Ông nghe đấy, tôi được phép đi qua." Nhưng người thượng sĩ không chịu thua. Anh gọi điện cho Müllendorf để xin xác nhận. Đại úy Müllendorf xác nhận. Sau đấy, chiếc xe chạy đến sân bay trong khi Trung úy Haeften vội vã tháo rời một quả bom khác đựng trong chiếc cặp của anh này, ném qua bên vệ đường, về sau được Mật vụ tìm thấy. (Có nguồn tin cho biết Stauffenberg đã định kích hoạt cả hai quả bom, nhưng vì bị Keitel thúc hối và sợ bị lộ, Stauffenberg chỉ có thời gian kích hoạt một quả bom.) Chỉ huy sân bay chưa nhận được lệnh báo động. Phi công đã nổ máy khi thấy hai người tiến đến. Trong vòng 1 hoặc 2 phút, chiếc máy bay cất cánh. Bây giờ là ít phút sau 1 giờ trưa. Stauffenberg hẳn thấy ba tiếng đồng hồ kế tiếp là thời gian dài nhất trong đời ông. Trong khi chiếc máy bay hướng về Berlin, Stauffenberg không thể làm gì được. Máy bay của ông không có máy thu thanh tầm xa để bắt sóng từ Berlin mà ông hy vọng những người âm mưu đang loan báo tin phấn khởi trước khi ông hạ cánh. Và ông cũng không thể thông báo cho thân hữu ở thủ đô để phòng trường hợp Fellgiebel không liên lạc được với họ. Tác hại của quả bom Trái ngược với sự tin tưởng của Stauffenberg, Hitler không chết. Hành động vô tình của Brandt khi dời chiếc cặp ra mặt ngoài của cái bệ đã cứu mạng sống của Hitler. Ông bị một phen hốt hoảng nhưng chỉ bị thương nhẹ. Tóc ông bị cháy xém, hai chân bị bỏng, cánh tay phải bị bầm và tạm thời tê liệt, hai màng nhĩ bị thủng và lưng trầy sướt vì bị vật cứng rơi trúng. Theo một nhân chứng kể lại, khi Hitler được đưa ra từ trong đống đổ nát ra, người ta hầu như không nhận ra ông: mặt đen nhẻm, tóc đang bốc khói và quần tơi tả. Như có phép lạ, Keitel không bị thương. Nhưng phần đông người đứng gần đầu cái bàn nơi quả bom nổ đều chết, hấp hối hoặc bị thương nặng. Người ghi tốc ký chết tại chỗ, còn Đại tá Brandt, Tướng Schmundt, tùy viên của Hitler, và Tướng Korten chết vì bị thương nặng. Tất cả những người khác, kể cả các tướng Jodl, Tham mưu trưởng Không quân Bodenschats và Heusinger, đều bị thương ít nhiều. Trong sự hoảng hốt lúc đầu, có vài sự suy đoán về nguồn gốc vụ nổ. Ban đầu, Hitler nghĩ đấy có thể do một máy bay địch lén đến tấn công. Jodl, bị một vết thương chảy máu trên đầu do nhiều mảnh vỡ kể cả một chùm đèn rơi trúng, cho rằng một số công nhân xây dựng đã gài một quả bom hẹn giờ trên sàn nhà. Lỗ hổng sâu trên sàn có vẻ như xác nhận điều này. Phải qua một thời gian, Stauffenberg mới bị nghi ngờ. Chạy đến hiện trường sau khi nghe tiếng nổ, Himmler hoàn toàn cảm thấy khó hiểu. Động thái đầu tiên của ông là gọi điện – một hoặc hai phút trước khi Fellgiebel cắt liên lạc viễn thông – cho Nebe, chỉ huy cảnh sát hình sự ở Berlin, phái đến một nhóm thám tử để điều tra. Trong sự hoang mang và hãi sợ, không ai nhớ ra rằng Stauffenberg đã lén rời khỏi phòng họp trước vụ nổ. Thoạt đầu, người ta tin rằng ông còn ở trong tòa nhà và bị thương nặng nên đã được đưa đi bệnh viện. Vẫn chưa nghi ngờ về Stauffenberg, Hitler chỉ thị kiểm tra ở bệnh viện. Khoảng 2 tiếng đồng hồ sau vụ nổ, manh mối bắt đầu được lặp ghép lại. Người thượng sĩ trực tổng đài điện thoại báo cáo rằng vị "đại tá chột mắt," người đã báo đang chờ một cuộc gọi từ Berlin, đã đi ra khỏi phòng họp và không chờ cuộc gọi mà hấp tấp đi ra khỏi tòa nhà. Vài thành viên buổi họp nhớ lại rằng Stauffenberg đã để lại chiếc cặp dưới cái bàn. Binh sĩ bảo vệ ở các chốt gác nhớ lại rằng Stauffenberg và tùy viên của ông đã đi qua ngay sau vụ nổ. Hitler bắt đầu dấy lên nỗi ngờ vực. Khi gọi đến sân bay Rastenburg, nơi đây cho biết Stauffenberg đã cất cánh ít lâu sau 1 giờ, cho biết điểm đến là sân bay Rangsdorf. Himmler lập tức ra lệnh bắt giữ Stauffenberg ở đây, nhưng chỉ thị của ông không thể đến Berlin do động thái can đảm của Fellgiebel khi cắt đường dây viễn thông. Cho đến lúc ấy, không ai ở tổng hành dinh nghĩ sẽ có biến cố xảy ra ở Berlin. Họ đều tin rằng Stauffenberg là thủ phạm duy nhất. Sẽ không khó để bắt giữ ông, trừ khi ông bay sang Liên Xô. Dù tình hình hỗn loạn, Hitler vẫn có vẻ điềm tĩnh, vì đầu óc đang bận rộn chuyện khác. Ông phải tiếp đón Mussolini, sẽ đi đến vào lúc 4 giờ chiều thay vì 2:30 giờ chiều, vì chuyến xe lửa chở ông khởi hành muộn. Hitler kể với Mussolini: Tôi đang đứng kế cái bàn ở đây; quả bom phát nổ ngay phía trước chân tôi... Hiển nhiên là tôi không có việc gì; chắc chắn đấy là định mệnh đã khiến cho tôi tiếp tục con đường của tôi và hoàn tất nghĩa vụ... Bây giờ đã thoát chết... tôi càng tin tưởng mạnh mẽ rằng sự nghiệp vĩ đại mà tôi phục vụ sẽ thoát qua những hiểm nguy hiện tại và mọi điều sẽ đi đến kết cục tốt đẹp. Rồi ai đấy nhắc đến một cuộc "nổi loạn" chống chế độ Quốc xã, "âm mưu" của Röhm ngày 30/6/1934. Khi nghe nhắc đến việc này, Hitler nổi cơn giận dữ. Những nhân chứng cho biết ông nhảy dựng lên, hai bên mép sùi bọt, la hét và cuồng loạn. Ông la lối rằng những gì ông đã làm đối với Röhm và đồng bọn phản trắc của anh ta sẽ không thấm gì so với những kẻ phản quốc ngày hôm nay. Ông sẽ tiêu diệt tất cả bọn họ. "Tôi sẽ đưa vợ con họ vào trại tập trung và không khoan dung gì cả!" Cũng như trong những trường hợp khác, Hitler sẽ làm đúng như lời nói. Khoảng 6 giờ chiều, khi nghe tin vẫn chưa dập tắt được cuộc nổi loạn, Hitler la thét mệnh lệnh cho lực lượng SS ở Berlin bắn bỏ bất kỳ người nào dù chỉ có it nghi ngờ. Ông hét lên: "Himmler ở đâu? Tại sao ông ta không có mặt ở đấy?" Ông quên rằng chỉ một tiếng đồng hồ trước, ông đã ra lệnh Himmler bay về Berlin và dập tắt một cách không thương xót đám nổi dậy, và Himmler vẫn còn ở trên máy bay. Diễn tiến ở Berlin Máy bay đáp xuống Rangdorf lúc 3:45 giờ. Trong tinh thần phấn khởi, Stauffenberg chạy đến nơi đặt điện thoại ở sân bay để gọi cho Tướng Olbricht hầu biết chắc chắn họ đã làm những gì trong thời gian 3 tiếng đồng hồ qua. Ông cực kỳ lo lắng khi được biết không ai làm gì cả. Lúc 1 giờ, Fellgiebel gọi đến báo tin về vụ nổ nhưng đường dây quá nhiễu nên nhóm âm mưu không rõ Hitler đã chết hay chưa. Vì thế, họ không làm gì cả. Các chỉ thị triển khai Phương án Walküre đã được lấy ra từ két sắt của Olbricht nhưng không được gửi đi. Mọi người đều chờ đợi Stauffenberg trở về. Hai người được chỉ định trong chế độ mới: Tướng Beck (tân Tổng thống) và Thống chế von Witzleben (tân Tổng Tham mưu trưởng Quân lực), đáng lẽ đã phải ban hành những thông cáo và chỉ thị đã được soạn sẵn, và đã lên tiếng trên sóng phát thanh. Nhưng lúc này, họ vẫn chưa xuất hiện. Stauffenberg chán nản thấy cuộc nổi loạn khởi động một cách chậm chạp tuy đã được trù định một cách cẩn thận từ lâu. Họ đã mất 3 tiếng đồng hồ quý giá trong khi tổng hành dinh của Lãnh tụ mất liên lạc với bên ngoài. Stauffenberg không thể hiểu được tại sao, và sử gia khi cố gắng chắp nối các sự kiện với nhau cũng không hiểu nổi. Dù những người chủ chốt trong nhóm âm mưu đã biết Stauffenberg "chất nặng người" đến dự cuộc họp với Lãnh tụ lúc 1 giờ trưa, chỉ có vài người, phần lớn là cấp thấp, bắt đầu nhẩn nha đi đến Tổng hành dinh Dân quân – cũng là tổng hành dinh của nhóm nổi dậy – trên Phố Bendlerstraße lúc giữa trưa. Lần trước, vào ngày 15/7, Tướng Olbricht đã ra lệnh cho binh sĩ tiến vào thủ đô hai tiếng đồng hồ trước khi bom nổ. Nhưng ngày hôm nay 20/7, có lẽ vì sợ rủi ro ông đã không ra lệnh như thế. Đêm trước, chỉ huy trưởng các đơn vị ở Berlin và ở các trại huấn luyện quanh vùng đã được nghe sẽ có lệnh triển khai Phương án Walküre vào ngày hôm sau, nhưng Olbricht muốn chờ cho đến khi Fellgiebel ở Rastenberg thông báo rồi mới động quân. Tướng Hoepner, với bộ quân phục mà Hitler cấm ông mặc, đi đến Phố Bendlerstraße lúc 12:30 giờ – đúng vào lúc Stauffenberg đang kích hoạt quả bom – rồi cùng Olbricht đi ăn trưa, cùng chia nhau nửa chai rượu vang để chúc mừng sự thành công. Họ vừa quay lại văn phòng của Olbricht thì Tướng Fritz Thiele, Tổng cục trưởng Thông tin thuộc Bộ Tông tham mưu, phấn khích thông báo là tuy đường điện thoại không tốt và Fellgiebel rất dè dặt, dường như bom đã nổ nhưng Hitler chưa chết. Trong trường hợp này, Thiele kết luận không nên ban bố lệnh triển khai Phương án Walküre. Olbricht và Hoepner đồng ý. Thế là, từ 1:15 giờ đến 3:45 giờ lúc Stauffenberg đáp xuống Rangsdorf, không ai làm gì cả. Binh sĩ không được tập trung, chỉ huy binh sĩ ở các thành phố không có không nhận được chỉ thị gì, và có lẽ điều lạ lùng nhất là không ai nghĩ đến việc chiếm đóng các trung tâm truyền thanh hoặc các tổng đài điện thoại và điện tín. Hai chỉ huy quân đội chủ chốt Beck và Witzleben vẫn chưa xuất hiện. Cuối cùng, khi Stauffenberg đi đến, nhóm âm mưu mới khởi sự hành động. Từ sân bay Rangsdorf, Stauffenberg gọi điện thúc giục Tướng Olbricht không nên chờ cho đến khi ông đến tổng hành dinh – phải mất 45 phút cho ông đi từ sân bay về – mà nên phát lệnh triển khai Phương án Walküre ngay. Cuối cùng, nhóm âm mưu đã có người ra mệnh lệnh. Đại tá tham mưu trưởng Mertz von Quirnheim dưới quyền Olbricht, bạn thân của Stauffenberg, bắt đầu phát lệnh qua đường viễn ký và điện thoại. Lệnh đầu tiên báo động với binh sĩ ở Berlin và các vùng phụ cận. Lệnh thứ hai được Stauffenberg tiếp ký – vì đã được soạn thảo nhiều tháng trước – thông báo Lãnh tụ đã chết và Witzleben đang "chuyển giao quyền hành pháp" cho tư lệnh các quân khu trong nước và chỉ huy trưởng các đơn vị trên chiến trường. Thống chế Witzleben vẫn chưa đến Phố Bendlerstraße. Ông mới đi đến Zossen, cách Berlin 40 kilômét về hướng đông-nam, tham khảo với Tướng Cục trưởng Hậu cần Lục quân Wagner. Hai vị tướng cấp cao trong nhóm âm mưu đang hành động theo cách nhàn nhã nhất trong ngày định mệnh này. Với mệnh lệnh đã được phát đi – một số lệnh mang tên Fromm mà ông này không biết – Olbricht đi đến văn phòng Tư lệnh Dân quân, nói với Fromm rằng Fellgiebel báo về cho biết Hitler đã bị ám sát và khuyên ông nên lĩnh nhiệm vụ chỉ huy triển khai Phương án Walküre. Nhưng cũng như Kluge, Fromm là người giỏi chân trong chân ngoài; ông chỉ tiến hành khi nào đã chắc ăn. Ông muốn có chứng cứ rõ ràng rằng Hitler đã chết. Đến lúc này, Olbricht phạm một trong những sai lầm hệ trọng của nhóm âm mưu ngày hôm nay. Ông chắc chắn rằng Hitler đã chết, theo lời của Stauffenberg khi gọi điện từ sân bay Langsdorf. Ông cũng biết rằng Fellgiebel đã đóng hệ thống điện thoại ở Rastenburg suốt buổi chiều. Thế nên ông có đủ can đảm mà nhấc điện thoại yêu cầu nối đường dây đến Keitel. Ông hoàn toàn kinh ngạc khi nhận ra đường dây đã nối được ngay với Keitel – vì như ta biết, mạng viễn thông đã được khôi phục nhưng ông không biết. Keitel báo cho Fromm biết Hitler vẫn còn sống. Từ bây giờ trở đi, Fromm tách xa khỏi nhóm âm mưu, tạo hậu quả thảm khốc cho nhóm này. Sau giây phút điếng người, Olbricht lặng lẽ bước ra khỏi văn phòng. Vừa lúc ấy, Tướng Beck đi đến, mặc bộ đồ dân sự sẫm màu – có lẽ nhằm tỏ rõ hành động đảo chính không có tính chất quân sự. Đáng lẽ ông phải nắm quyền điều động, nhưng người điều động thật sự là Đại tá Stauffenberg, vừa hào hễn đi đến lúc 4:30 giờ chiều. Ông này vắn tắt báo cáo vụ nổ mà ông nhấn mạnh là tận mắt mình nhìn thấy. Khi Olbricht cho biết Keitel đã báo tin Hitler còn sống, Stauffenberg trả lời rằng Keitel chỉ nói dối hầu kéo dài thời gian, và rằng dù sao đi nữa, họ phải nắm bắt thời cơ mà lật đổ chế độ Quốc xã. Bech đồng ý. Ông nói, đối với ông dù nhà độc tài còn sống hay đã chết thì cũng thế thôi. Họ phải tiến hành xóa sạch chế độ hà khắc của ông ta. Vấn đế ở chỗ: sau sự trì trệ và trong tình hình mù mờ, dù đã trù định bao lâu nay, họ vẫn không biết nên tiến hành như thế nào. Chỉ khi Tướng Thiele cho biết tin báo Hitler còn sống sẽ được truyền qua sóng truyền thanh quốc gia, họ mới nhớ ra rằng đã không hề nghĩ đến việc đầu tiên là phải chiếm giữ trung tâm truyền thanh, ngăn chặn tiếng nói của Quốc xã mà thay vào đấy phát đi các tuyên bố của họ. Nếu không có sẵn binh sĩ làm việc này thì cảnh sát Berlin đáng lẽ có thể làm được. Bá tước von Helldorf, chỉ huy trưởng cảnh sát và can dự sâu trong âm mưu, đã sốt ruột trông chờ từ giữa trưa để hành động với lực lượng đông đảo đang chực chờ. Những không có tin báo gì, thế nên lúc 4 giờ chiều ông đi đến Phố Bendlerstraße để xem tình hình. Olbricht cho ông biết có thể đặt cảnh sát dưới sự chỉ huy của Quân đội. Nhưng binh sĩ vẫn chưa có – chỉ có một số sĩ quan đang hoang mang đi tới lui ở tổng hành dinh mà không có ai để sai khiến. Thay vì giải quyết ngay vấn đề này, Stauffenberg khẩn trương gọi người anh họ, Trung tá Caesar von Hofacker ở tổng hành dinh của Tướng von Stülpnagel tại Paris, thúc dục những người âm mưu ở đây hành động. Đúng là việc này rất quan trọng, vì âm mưu được tổ chức chặt chẽ hơn ở Pháp và được hỗ trợ bởi các sĩ quan quân đội quan trọng hơn ở những nơi khác ngoại trừ Berlin. Stülpnagel đã cho thấy năng động hơn là các tướng lĩnh của ông trong nước. Trước khi trời tối, ông đã bắt giam tất cả 1.200 sĩ quan cùng binh sĩ SS và SD ở Paris, kể cả chỉ huy trưởng của họ, Trung tướng SS Karl Oberg. Nếu ở Berlin có những hoạt động năng nổ và quyết đoán như thế, lịch sử hẳn đã xoay chiều. Âm mưu bị dập tắt Sau khi thông báo với Paris, Stauffenberg quay sang vị tướng cứng đầu Fromm, thủ trưởng trực tiếp của ông, đang từ chối tham gia nhóm âm mưu sau khi được biết Hitler còn sống. Beck không muốn tranh luận, nên Stauffenberg cùng Olbricht đi gặp From. Olbricht nói với Fromm là Stauffenberg có thể xác nhận Hitler đã chết. Fromm cáu kỉnh nói: "Không thể được. Keitel đã nói với tôi điều ngược lại." Stauffenberg chen vào: "Keitel nói dối như thường lệ. Chính tôi thấy xác Hitler được mang ra ngoài." Câu xác minh từ tham mưu trưởng dưới quyền và cũng là nhân chứng làm cho Fromm suy nghĩ, và im lặng. Nhưng Olbricht cố nhân cơ hội Fromm đang chần chừ mà nói rằng, dù sao chăng nữa, lệnh triển khai Phương án Walküre đã được ban hành. Fromm nhảy dựng lên: "Đây là hành động bất phục tùng trắng trợn! Ai đã ra lệnh?" Khi được biết đấy là Đại tá Mertz von Quirnheim, Fromm cho triệu vị sĩ quan đến và nói muốn bắt giữ ông. Stauffenberg cố gắng lần cuối để thu phục thủ trưởng của ông: "Thưa Đại tướng, chính tôi đã cho nổ quả bom trong cuộc họp của Hitler. Vụ nổ ngang bằng một quả đạn pháo 155 li. Không ai trong phòng họp có thể sống sót được." Nhưng Fromm là người lựa gió theo chiều quá tài tình nên không thể tháu cáy ông được: "Bá tước Stauffenberg, âm mưu đã thất bại. Ông nên tự xử ngay đi." Stauffenberg lạnh lùng từ chối. Fromm tuyên bố bắt giữ cả ba người khách: Stauffenberg, Olbricht và Mertz. Olbricht trả lời: "Ông chỉ tự lừa dối. Chính chúng tôi sẽ bắt giữ ông." Một cuộc giằng co diễn ra mà theo một nguồn tin, Fromm đánh trúng phải mặt Stauffenberg. Fromm bị khống chế nhanh chóng rồi bị quản thúc trong văn phòng người tùy viên của ông dưới sự canh gác của Thiếu tá Ludwig von Leonrod. Nhóm âm mưu thận trọng cắt dây điện thoại trong phòng. Stauffenberg trở về văn phòng của ông và thấy Thiếu tướng SS Piffraeder đã đến để bắt giữ ông. Piffraeder và hai nhân viên SD bị quản thúc trong phòng kế bên. Rồi Tướng von Kortzfleisch, chỉ huy quân đội ở quân khu Berlin-Brandenburg đến và hỏi chuyện gì đang xảy ra. Khi ông này tỏ ra ương ngạnh, Beck ra lệnh quản thúc ông. Theo kế hoạch, Tướng von Thuengen được cử thay thế ông. Sự xuất hiện của Piffraeder nhắc cho Stauffenberg nhớ rằng nhóm âm mưu đã quên đặt người bảo vệ quanh tòa nhà. Vì thế, một phân đội của Tiểu đoàn Cảnh vệ Grossdeutschland được điều đến đóng chốt. Thế là, khoảng 5 giờ chiều, nhóm âm mưu ít nhất kiểm soát được tổng hành dinh của họ, nhưng ở Berlin họ chỉ kiểm soát có thế. Chuyện gì đã xảy ra cho các đơn vị Quân đội có nhiệm vụ chiếm đóng thủ đô? Khoảng 4 giờ chiều, khi nhóm âm mưu bắt đầu hành động, Tướng von Hase, chỉ huy trưởng Berlin, gọi điện cho tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Cảnh vệ thiện chiến Grossdeutschland, ra lệnh báo động cho Tiểu đoàn và đến trình diện cấp chỉ huy ở Unter den Linden. Tiểu đoàn trưởng, là Thiếu tá Otto Remer vừa được thăng cấp, người sẽ có vai trò chủ chốt trong ngày, tuy là vai trò mà nhóm âm mưu không hề muốn. Họ đã điều tra về anh vì tiểu đoàn của anh đã được phân nhiệm vụ quan trọng, và hài lòng thấy anh là một sĩ quan không thiên về chính trị, người sẵn sàng tuân lệnh cấp chỉ huy trực tiếp. Chắc chắn anh là người dũng cảm. Anh đã bị thương 8 lần và gần đây được chính Hitler gắn Huân chương Chữ thập Hiệp sĩ của Chữ thập Sắt với Lá sồi – là sự phong thưởng hiếm có. Remer phát lệnh báo động cho Tiểu đoàn dưới quyền như được chỉ thị, rồi vội đi vào thành phố để nhận lệnh cụ thể của Hase. Vị Tướng nói với anh về âm mưu ám sát Hitler và ra lệnh cho anh cô lập các văn phòng bộ ở khu Wilhelmstraße và văn phòng chính của SS. Đến 5:30 giờ, Remer làm xong nhiệm vụ và báo cáo về để chờ chỉ thị tiếp. Và bây giờ, có một nhân vật chen vào làm cho Remer trở thành kẻ thù của nhóm âm mưu. TS. Trung úy Hans Hagen đã nhận chức vụ sĩ quan chính trị Quốc xã trong tiểu đoàn của Remer. Ông cũng cộng tác với TS. Göbbels ở Bộ Tuyên truyền và được phái đến Berlin. Ông tin chắc mình trông thấy Thống chế von Brauchitsch đang mặc quân phục ngồi trên một chiếc xe của Quân đội, và lập tức nghĩ ra rằng các tướng lĩnh già có thể đang âm mưu gì đấy. Brauchitsch từ lâu đã bị Hitler cho ngưng chức và ngày hôm ấy không có mặt ở Berlin, nhưng Hagen cả quyết mình đã trông thấy ông. Hagen nói với Remer về nỗi nghi ngờ này, vừa khi Remer đang nhận lệnh chiếm lấy Wilhelmstraße. Hagen càng thêm nghi ngờ, thuyết phục Remer cấp cho anh một chiếc mô tô, rồi chạy đến Bộ Tuyên truyền để thông báo cho Göbbels. Hitler vừa gọi điện cho Göbbels, kể về vụ mưu sát và ra lệnh cho vị Bộ trưởng Tuyên truyền lên đài truyền thanh để báo tin là âm mưu đã thất bại. Dường như đấy là tin tức đầu tiên về biến cố tại Rastenberg mà ông này nhận được. Rồi Hagen báo cho ông biết chuyện gì đang xảy ra ở Berlin. Lúc đầu, Göbbels tỏ vẻ ngờ vực – ông xem Hagen như người đến gây phiền nhiễu – và, theo một nguồn tin, dự định đuổi anh trung úy ra ngoài, nhưng anh đề nghị ông nên ra cửa sổ mà tự quan sát. Göbbels bây giờ tin vào mắt mình hơn là tin lời nói cuồng loạn của Hagen. Quân đội đang chiếm giữ những vị trí quanh văn phòng bộ. Dù là người ngu dốt, Göbbels suy nghĩ rất nhanh, bảo Hagen đưa Remer đến gặp ông. Hagen làm theo, rồi biến mất khỏi lịch sử. Thế là, trong khi những người âm mưu trong tổng hành dinh Dân quân ở Phố Bendlerstraße đang liên lạc với những tướng lĩnh khắp châu Âu và không để ý gì đến một sĩ quan cấp dưới như Remer, Göbbels liên lạc được với một người tuy cấp thấp nhưng lại quan trọng nhất vào thời khắc đặc biệt này. Việc liên lạc là không tránh khỏi, vì Remer đã được lệnh bắt giữ Göbbels nhưng cùng lúc cũng nhận tin Göbbels mời đến gặp. Remer dẫn theo 20 binh sĩ đi đến Bộ Tuyên truyền, và anh dặn thuộc hạ đi tìm anh nếu trong vài phút anh không trở ra. Với khẩu súng lục trên tay, anh cùng một tùy viên đi vào để bắt giữ một trong những nhân vật Quốc xã quan trọng nhất ở Berlin. Trong số những biệt tài của Göbbels giúp cho ông leo đến tầm cao trong Đế chế thứ Ba là khả năng ăn nói trong tình thế khó khăn – và đây là tình thế khó khăn nhất trong đời ông. Ông nhắc nhở Remer về lời tuyên thệ với Lãnh tụ. Remer trả đũa một cách dứt khoát rằng Hitler đã chết. Göbbels nói Lãnh tụ vẫn còn sống khỏe mạnh – ông vừa nói chuyện với Lãnh tụ qua điện thoại. Ông có thể chứng minh điều này. Rồi ông nhấc máy xin nói chuyện khẩn với Hitler ở Rastenburg. Một lần nữa, việc nhóm âm mưu đã không chiếm lấy trung tâm viễn thông ở Berlin hoặc ít nhất cắt các đường dây tạo thêm thảm họa. Chỉ trong vòng 1, 2 phút, Hitler ở bên kia đầu dây. Göbbels nhanh chóng trao máy cho Remer. Hitler hỏi anh thiếu tá có nhận ra giọng nói của ông không. Vì giọng nói ấy đã được phát trên sóng truyền thanh cả trăm lần, ai ở Đức mà không nhận ra? Hơn nữa, chỉ vài tuần trước Remer đã nghe giọng nói ấy khi anh nhận huân chương từ Lãnh tụ. Thế là, anh thiếu tá đứng nghiêm lại. Hitler ra lệnh cho anh đập tan nhóm nổi dậy và chỉ nghe theo mệnh lệnh của Göbbels. Ông còn nói vừa cử Himmler làm Tư lện Dân quân (lúc này đang bay đến Berlin), và Tướng Reinecke chỉ huy toàn bộ binh sĩ ở thủ đô. Lãnh tụ còn đặc cách thăng anh thiếu tá lên đại tá. Đối với Remer, thế là đủ. Anh đã nhận lệnh từ cấp cao nhất và bây giờ tiến hành với cả lòng năng nổ mà tổng hành dinh nhóm nổi dậy không có. Anh rút Tiểu đoàn Cảnh vệ dưới quyền ra khỏi khu Wilhelmstraße, chiếm giữ doanh trại Unter den Linden, cử binh sĩ đi tuần tiễu để ngăn chặn đội quân nào tiến về thủ đô, còn tự anh đi tìm hang ổ của nhóm nổi dậy để bắt đám chủ mưu. Tại sao các tướng lĩnh và đại tá nổi dậy giao phó vai trò chủ chốt như thế cho Remer, tại sao vào phút chót họ không đặt anh dưới quyền một sĩ quan trung kiên với âm mưu, tại sao ít nhất họ không cử theo một sĩ quan đáng tin cậy đi theo Tiểu đoàn Cảnh vệ để đảm bảo họ tuân hành chỉ thị – đấy là những điều khó hiểu trong ngày 20/7. Và lúc ấy, tại sao không lập tức bắt giữ Göbbels – nhân vật quan trọng và nguy hiểm nhất ở Berlin? Một vài nhân viên cảnh sát dưới quyền Bá tước von Helldorf có thể làm việc này trong hai phút, bởi vì Bộ Tuyên truyền hoàn toàn không được phòng bị. Và tại sao nhóm âm mưu không chiếm lấy tổng hành dinh Mật vụ, trấn án binh sĩ ở đây và phóng thích những người trong cùng nhóm âm mưu đang bị giam cầm? Tổng hành dinh Mật vụ hầu như không được phòng bị gì cả. Văn phòng trung ương của RSHA, đầu não của SD và SS, cũng thế. Người ta nghĩ đáng lẽ trước tiên phải chiếm lấy những cơ quan ấy. Không có lời giải cho những câu hỏi này. Trong một thời gian, nhóm âm mưu không biết rằng Remer đã thay đổi thái độ. Hiển nhiên là ai nấy không nắm bắt những gì đang diễn ra, khi biết được thì đã quá muộn. Ngay cả bây giờ, người ta vẫn không thể hiểu được, vì những người trong cuộc khai báo mâu thuẫn với nhau. Các đơn vị xe tăng ở đâu? Binh sĩ trấn đóng các vùng chung quanh thủ đô ở đâu? Lúc 6:30 giờ chiều, một đài truyền thanh – với công suất mạnh đến mức toàn châu Âu có thể bắt sóng được – loan báo có âm mưu ám sát Hitler nhưng đã thất bại. Đấy là đòn nặng cho nhóm âm mưu, và cũng là sự cảnh báo cho thấy các đơn vị quân đội được giao nhiệm vụ trong âm mưu đã không làm tròn nhiệm vụ. Trong khi chờ đợi Remer đi đến, Göbbels đã có thể đọc qua điện thoại bản văn cho đài truyền thanh. Các tướng lĩnh chỉ huy ở Praha và Wien, vừa lúc chuẩn bị bắt giữ các lãnh đạo SS và Đảng Quốc xã, bắt đầu thối lui. Rồi lúc 8:20 giờ tối, Keitel gửi chỉ thị bằng máy viễn ký từ tổng hành dinh Lãnh tụ đến tất cả các cấp chỉ huy Quân đội, báo tin Himmler đã được cử làm Tư lệnh Dân quân và rằng "chỉ được tuân theo lệnh của ông ấy và của tôi." Keitel thêm: "Mọi chỉ thị do Fromm, Witzleben hoặc Hoepner đưa ra là không có hiệu lực." Loan báo của đài truyền thanh và chỉ thị của Keitel gây hiệu quả có tính quyết định đối với Thống chế von Kluge, lúc ông sắp sửa gia nhập nhóm âm mưu. Có nhiều thông tin mâu thuẫn về lý do tại sao nhóm âm mưu không chiếm lấy đài truyền thanh Berlin. Theo một nguồn tin, một đơn vị ở trường bộ binh Doeberitz được giao nhiệm vụ này, nhưng Tướng chỉ huy Hitzfeld tuy tham gia nhóm âm mưu nhưng không được thông báo về ngày 20/7, nên ông đi khỏi Berlin để dự một lễ tang. Người chỉ huy phó, Đại tá Müller, đang đi xa cho một nhiệm vụ khác. Khi Müller trở về lúc 8 giờ tối, ông thấy tiểu đoàn thiện chiến nhất dưới quyền đã đi tập trận. Đến lúc ông tập họp đủ binh sĩ vào lúc nửa đêm, thì đã là quá muộn. Một nguồn tin khác cho biết một Thiếu tá Jacob quy tụ được binh sĩ ở trường bộ binh nhưng Olbricht không cho biết cụ thể phải làm gì. Khi Göbbels gọi điện đến để đọc bản văn thông cáo, Jacob không ngăn trở việc truyền thanh. Sau này, Jacob cho biết nếu Olbricht ra chỉ thị rõ ràng thì đài truyền thanh đã không phát thông cáo của Göbbels, mà ngược lại, sẽ phục vụ nhóm âm mưu. Ngay cả các đơn vị thiết giáp mà nhóm âm mưu mong đợi đã không xuất hiện. Người ta có thể nghĩ rằng Tướng Hoepner, một người chỉ huy thiết giáp xuất chúng, hẳn đã phụ trách điều động thiết giáp, nhưng ông không có cơ hội. Nhóm âm mưu đã ra lệnh cho Đại tá Wolgang Glaesemer, Chỉ huy trưởng trường thiết giáp ở Krampnitz, điều xe tăng vào thủ đô và báo cáo với tổng hành dinh Dân quân ở Phố Bendlerstraße để nhận thêm chỉ thị. Nhưng Glaesemer lại không muốn tham gia nhóm âm mưu chống lại Quốc xã. Thuyết phục ông không được, Olbricht bèn quản thúc ông trong tổng hành dinh. Nhưng Glaesemer có cơ hội nói nhỏ với người tùy viên đã không bị bắt, ra lệnh anh này báo cáo cho Ban Thanh tra quân chủng thiết giáp vốn có thẩm quyền trên mọi đơn vị thiết giáp và chỉ nghe theo lệnh ở nơi đây. Vì thế, nhóm âm mưu không được thiết giáp hỗ trợ trừ vài chiếc tiến vào được trung tâm thành phố. Đại tá Glaesemer dùng một mẹo để trốn thoát. Ông nói với lính canh là đã quyết định chấp nhận tuân theo lệnh của Olbricht và sẽ đi chỉ huy các đơn vị tăng, rồi đi ra khỏi tổng hành dinh. Chẳng bao lâu, các đơn vị tăng nhận lệnh rút khỏi thành phố. Vị đại tá thiết giáp không phải là người duy nhất trốn thoát được khỏi cảnh giam cầm của nhóm âm mưu – là yếu tố khiến cho âm mưu kết liễu nhanh chóng. Lúc 8 giờ tối, Thống chế von Witzleben đi đến với bộ quân phục chỉnh tề đế đảm nhiệm chức vụ tân Tổng tham mưu trưởng Quân lực, rồi nhận ra ngay là âm mưu đã thất bại. Ông trách cứ Beck và Stauffenberg đã phá hỏng vụ nổi dậy. Nhưng bản thân ông đã không giúp gì được trong khi quyền hạn của ông trên cương vị của một thống chế có thể thu phục các chỉ huy quân sự ở Berlin và ngoài nước. Sau khi đến tổng hành dinh Bendlerstraße được 45 phút, ông bước ra – và cũng tách ra khỏi âm mưu bây giờ chắc chắn là thất bại – rồi đi về trang trại của ông miền nông thôn cách xa 50 kilômét. Ngày hôm sau, ông bị bắt. Hồi kết cuộc của âm mưu ám sát Bây giờ, bức màn kéo lên cho hồi kết cuộc. Khoảng 9 giờ tối, nhóm âm mưu tê tái nghe đài phát thanh loan báo Lãnh tụ sẽ phát biểu với nhân dân Đức đêm hôm ấy. Ít phút sau, có tin Tướng von Hase chỉ huy quân đội Berlin, người đã điều động Thiếu tá Remer – giờ là Đại tá – đi làm nhiệm vụ, đã bị bắt, còn Tướng Reinecke được SS hỗ trợ đã nắm quyền chỉ huy tất cả lực lượng ở Berlin và đang chuẩn bị tiến chiếm tổng hành dinh Dân quân ở Phố Bendlerstraße. Cuối cùng, lực lượng SS đã động quân, phần lớn là nhờ Otto Skorzeny, sĩ quan chỉ huy SS cương nghị lúc trước đã giải cứu Mussolini. Không được biết chuyện gì đang xảy ra ngày ấy, Skorzeny đã đáp chuyến tàu đêm tốc hành đi Wien, nhưng giữa đường con tàu bị chặn lại. Tướng SS Schellenberg, nhân vật số 2 của lực lượng SD kêu gọi ông xuống tàu. Skorzeny thấy tổng hành dinh SD trong tình trạng hoảng loạn, nhưng là người có máu lạnh và có tài tổ chức, ông nhanh chóng tụ họp được một số binh sĩ để hành động. Chính ông là người thuyết phục các đơn vị thiết giáp giữ lòng trung thành với Hitler. Hành động đáp trả năng nổ ở tổng hành dinh Rastenberg, đầu óc lanh lẹ của Göbbels trong việc thuyết phục Remer và sử dụng đài truyền thanh, sự hồi sinh của lực lượng SS ở Berlin, tình trạng hoang mang và bất động đến khó tin của nhóm âm mưu – tất cả đã khiến cho nhiều sĩ quan Quân đội khi sắp gia nhập hoặc đã gia nhập vụ nổi dậy phải thối lui. Trong số này có Tướng Otto Herfurth, tham mưu trưởng của Tướng Kortzfleisch đã bị bắt. Kortzfleisch ban đầu hợp tác trong âm mưu để tập họp binh sĩ, rồi khi thấy tình hình không ổn đã xoay chuyển tư tưởng, gọi điện cho tổng hành dinh của Hitler lúc 9:30 giờ tối để nói rằng mình đang trấn áp quân nổi dậy. Nhưng việc này cũng không giúp ông thoát khỏi án tử hình. Tướng Fromm, sau khi bị nhóm âm mưu bắt giữ vì từ chối cộng tác với họ, bây giờ tự lo cứu thân mình. Lúc 8 giờ tối, sau khi đã bị quản thúc được 4 tiếng đồng hồ, ông xin phép trở về phòng riêng của mình ở tầng dưới. Lấy danh dự của một quân nhân, ông hứa sẽ không tìm cách trốn thoát hoặc bắt liên lạc với bên ngoài. Tướng Hoepner đồng ý. Trước đấy, ba vị tướng dưới quyền Fromm đã đến, đã từ chối tham gia âm mưu, và yêu cầu cho gặp thủ trưởng. Điều khó hiểu là họ được phép đi gặp Fromm trong phòng riêng ông này, dù cả ba cũng đang bị quản thúc. Fromm nói cho ba người biết về một lối ra ít khi được sử dụng, qua đấy họ có thể trốn thoát. Vi phạm lời hứa danh dự của mình, ông ra lệnh cho 3 vị tướng tổ chức quân hỗ trợ, chiếm lấy tòa nhà, giải thoát ông và dập tắt nhóm nổi dậy. Ba người lẻn ra ngoài mà không ai hay biết. Rồi có một số sĩ quan cấp thấp dưới quyền Olbricht, lúc trước tham gia âm mưu hoặc còn đang lưỡng lự, bây giờ đã nhận ra tình hình: họ sẽ bị treo cổ nếu âm mưu thất bại mà họ không chống lại kịp thời. Một nhóm 6-8 người trong số này mang vũ khí đến tìm Olbricht và yêu cầu ông này giải thích tự sự. Stauffenberg đến xem việc gì đang xảy ra và bị nắm giữ. Khi cố tìm cách thoát thân, ông bị bắn vào cánh tay – do một tiếng súng duy nhất. Rồi nhóm chống nổi dậy nổ súng tứ tung nhưng không bắn trúng ai khác. Họ xục xạo rồi gom nhóm âm mưu lại. Beck, Hoepner, Olbricht, Stauffenberg, Haeften và Mertz bị đưa vào văn phòng của Fromm Rồi Fromm xuất hiện. Ông nhanh chóng quyết định diệt trừ nhóm người này không những để xóa mọi chứng cứ – vì tuy ông từ chối can dự tích cực vào âm mưu mà ông đã biết từ nhiều tháng trước, ông đã che chở và không cáo giác họ – mà còn để lấy lòng Hitler. Ông tuyên bố "nhân danh Lãnh tụ" ông đã triệu tập một phiên xử của "tòa án binh" (không có chứng cứ gì về chuyện này) và phiên tòa đã tuyên án tử hình đối với Đại tá Mertz của Bộ Tham mưu, Tướng Olbricht, Đại tá Stauffenberg, và Trung úy Haeften. Với cánh tay còn nguyên vẹn bây giờ đẫm máu vì vết thương, Stauffenberg cùng ba người kia bị dẫn ra ngoài. Trong khoảng sân, dưới ánh sáng lờ mờ của một chiếc xe quân đội với vải đen phủ ngoài hai đèn pha, bốn người bị xử bắn một cách chóng vánh. Có vài sự lộn xộn và tiếng hô to, phần lớn là từ đám lính canh muốn làm cho nhanh vì sợ không kích – máy bay Anh vần vũ trên bầu trời Berlin hầu như mỗi đêm vào mùa hè này. Stauffenberg hô lên trước khi bị bắn: "Nước Đức thiêng liêng muôn năm!" Vinh danh Stauffenberg Bendlerstraße có nghĩa "Phố Bendler," là khu chỉ huy của Quân đội Đức gồm Tổng hành dinh Dân quân và nhiều doanh trại, cũng là tổng hành dinh của nhóm âm mưu ám sát Hitler vào ngày 20 tháng 7 năm 1944, và là nơi Fromm ra lệnh hành quyết năm người chủ chốt kể cả Stauffenberg trong nhóm âm mưu. Sau chiến tranh, Bendlerstraße được đổi tên thành Stauffenbergstraße (Phố Stauffenberg), còn tòa nhà tổng hành dinh được biến cải thành nhà lưu niệm phong trào chống Hitler.