text
stringlengths
0
512k
Thuận Hải là một tỉnh cũ ở khu vực Nam Trung Bộ Việt Nam. Địa lý Tỉnh Thuận Hải có vị trí địa lý (năm 1989-1991): Phía bắc giáp tỉnh Khánh Hòa Phía nam và phía đông giáp biển Đông Phía tây giáp tỉnh Lâm Đồng và tỉnh Đồng Nai. Lịch sử Tỉnh Thuận Hải được thành lập vào tháng 2 năm 1976, hợp nhất từ ba tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, và Bình Tuy. Tỉnh lỵ của tỉnh Thuận Hải là thị xã Phan Thiết. Đến ngày 26 tháng 12 năm 1991, tỉnh Thuận Hải lại chia ra thành hai tỉnh riêng là Bình Thuận và Ninh Thuận. Trong đó, tỉnh Bình Thuận mới bao gồm cả tỉnh Bình Tuy cũ. Hai tỉnh mới đi vào hoạt động từ tháng 4 năm 1992. Đơn vị hành chính của tỉnh Thuận Hải ban đầu bao gồm 2 thị xã: Phan Rang, Phan Thiết (tỉnh lỵ) và 7 huyện: An Phước, Bắc Bình, Đức Linh, Hàm Tân, Hàm Thuận, Ninh Hải, Ninh Sơn. Năm 1977, hợp nhất thị xã Phan Rang và 2 huyện An Phước, Ninh Sơn thành huyện An Sơn; thành lập huyện Phú Quý trên cơ sở đảo Phú Quý. Năm 1981, chia huyện An Sơn thành thị xã Phan Rang – Tháp Chàm và hai huyện Ninh Phước, Ninh Sơn. Năm 1982, chia huyện Bắc Bình thành hai huyện: Bắc Bình và Tuy Phong; chia huyện Đức Linh thành hai huyện: Đức Linh và Tánh Linh; chia huyện Hàm Thuận thành hai huyện: Hàm Thuận Bắc và Hàm Thuận Nam. Từ đó, đơn vị hành chính của tỉnh Thuận Hải bao gồm 2 thị xã: Phan Rang – Tháp Chàm, Phan Thiết (tỉnh lị) và 11 huyện: Bắc Bình, Đức Linh, Hàm Tân, Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Ninh Hải, Ninh Phước, Ninh Sơn, Phú Quý, Tánh Linh, Tuy Phong. Ngày 26 tháng 12 năm 1991, kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa VIII ra nghị quyết chia tỉnh Thuận Hải để tái lập tỉnh Bình Thuận và tỉnh Ninh Thuận. Tỉnh Bình Thuận gồm thị xã Phan Thiết và 8 huyện: Bắc Bình, Đức Linh, Hàm Tân, Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Phú Quý, Tánh Linh, Tuy Phong. Tỉnh Ninh Thuận gồm thị xã Phan Rang – Tháp Chàm và 3 huyện: Ninh Hải, Ninh Phước, Ninh Sơn. Biển số 48 là Biển số tỉnh Thuận Hải (hiện nay đã tách ra thành tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận). Hiện nay biển số 48 là biển số tỉnh Đắk Nông (thành lập năm 2004).
Tú Xương tên thật là Trần Tế Xương (陳濟昌)5 tháng 9 năm 1870 - 29 tháng 1 năm 1907, tự Mặc Trai, hiệu Mộng Tích, Tử Thịnh là một nhà thơ người Việt Nam. Hoàn cảnh lịch sử Trần Tế Xương sinh ra vào ngày 5 tháng 9 năm 1870 (tức 10 tháng 8 Âm lịch) tại số nhà 247 phố Hàng Nâu thành phố Nam Định với tên húy là Trần Duy Uyên. Ông thuộc dòng dõi nho gia, vốn là họ Phạm, đổi thành họ Trần là bởi vào đời nhà Trần lập công lớn được phong quốc tính (vua cho đổi theo họ nhà vua). Ông nội Trần Tế Xương tên là Trần Duy Năng. Thân sinh của Trần Tế Xương là cụ Trần Duy Nhuận cũng là một nhà nho, thi nhiều khoa không đậu, sau làm Tự thừa ở dinh đốc học Nam Định, sinh được 9 người con, 6 trai, 3 gái, Tú Xương là con trưởng. Trong tất cả các tài liệu nói về Tú Xương đều không thấy có ảnh, nhưng dáng hình cụ Tú được người bạn học là hạc phong Lương Ngọc Tùng viết trong bài thơ "Nhớ rõ hình dung...": Ông đi học sớm và cũng sớm nổi tiếng thông minh. Hồi mới lên 10 tuổi, nhà có khách đến chơi, thấy trước nhà có một dãy chậu hoa, khách bèn ra cho bé Uyên một câu đối: "Đình tiền ngũ sắc hoa" (trước sân có hoa năm sắc), Uyên liền chỉ vào lồng chim khướu treo ở hiên và đối: "Lung trung bách thanh điểu" (trong lồng có chim trăm tiếng). Khách nghe đối tấm tắc khen nhưng lại thở dài "đời thằng bé lại lẩn quẩn như chim nhốt trong lồng". Ông học chữ Hán cụ kép làng Thành Thị, tên là Trần Chấn Thái, ngồi bảo học ở Thành Nam. Cuộc đời ngắn ngủi có 37 năm của ông đã nằm gọn trong một giai đoạn bi thương nhất của đất nước. Trước lúc ông ra đời 3 năm thì 6 tỉnh Nam Kỳ mất trọn cho Pháp. Tú Xương lên 3 thì Bắc Kỳ trong đó có Nam Định bị tấn công lần thứ nhất. Tú Xương 12 tuổi, Bắc Kỳ, Nam Định bị tấn công lần thứ 2 và mất nốt. Hiệp ước Harmand 1883 rồi hiệp ước Patenôtre 1884 thừa nhận quyền thống trị của Pháp trên đất Việt Nam. Các phong trào kháng chiến chống Pháp diễn ra sôi nổi nhưng lần lượt thất bại. Tú Xương sinh ra và lớn lên trong bối cảnh lịch sử đó. Tú Xương lấy vợ năm 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn. Ông đi thi từ lúc 17 tuổi, đó là khoa Bính Tuất (1886). Các tài liệu khác chép nhầm là khoa Ất Dậu (1885). Cuộc sống sự nghiệp Cuộc đời của Trần Tế Xương là cuộc đời của một nghệ sĩ, nhưng trước hết là một trí thức phong kiến. Ông thuộc loại nhà nho "dài lưng tốn vải" như trong bài Hỏi ông trời của ông: Mọi chi tiêu trong gia đình đều do một tay bà Tú lo liệu, điều đó đã đi vào thơ ca của ông: Tiền bạc phó cho con mụ kiếm hoặc là Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ hay là Nuôi đủ năm con với một chồng, rồi ông cũng tự cười mình trong bài Phỗng sành: Cuộc đời ông gắn liền với thi cử,tổng tất cả là tám lần, đó là các khoa: Bính Tuất (1886); Mậu Tý (1888); Tân Mão (1891); Giáp Ngọ (1894); Đinh Dậu (1897); Canh Tý (1900); Quý Mão (1903) và Bính Ngọ (1906). Sau 3 lần hỏng thi, mãi đến lần thứ tư của khoa Giáp Ngọ (1894) ông mới đậu tú tài, nhưng cũng chỉ là tú tài thiên thủ (lấy thêm), sau đó không sao lên nổi cử nhân, mặc dù đã khá kiên trì theo đuổi. Khoa Quý Mão (1903) Trần Tế Xương đổi tên thành Trần Cao Xương tưởng rằng bớt đen đủi, nhưng rồi hỏng vẫn hoàn hỏng, đến phát cáu lên: Xã hội bấy giờ, cái bằng tú tài thuộc loại dang dở dở dang (tú tài không được thi Hội, cử nhân mới được thi, tú tài không được bổ quan, cử nhân mới được bổ), cho nên đậu tú tài, muốn đậu cử nhân phải đợi 3 năm sau thi lại. Cuộc sống của ông về vật chất rất thiếu thốn. Đúng năm ông đậu tú tài (1894) thì ngôi nhà số 247 phố Hàng Nâu (nay là phố Minh Khai) bị cháy. Cụ Nhuận làm lại xây bằng gạch. Ông tu tác cửa cao nhà rộng, toan để cho dâu - câu thơ đó là Tú Xương nhắc đến sự kiện này - nhưng rồi ngôi nhà đó lại bị bà Hai An chiếm đoạt. Tú Xương đã phải than: Nhà cửa giao canh nợ phải bồi. Nghèo đói đã cứa xé Tú Xương. Sự đểu cáng đã vả vào Tú Xương. Hoàn cảnh đó được in đậm trong thơ phú của Tú Xương sự vất vả, cay cú, phát phẫn, buồn phiền. Gia đình Họ Phạm làng Lương Đường, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương có nhiều người đỗ đạt. Tú Xương nhắc Chẳng những Lương Đường có thủ khoa là nhắc đến làng quê của vợ ông. Gia đình bà Phạm Thị Mẫn đến đời bố mẹ thì dời sang sinh sống ở Nam Định. Bà Mẫn sinh trưởng tại đây. Cuộc kết hôn giữa ông Tú với bà là từ hoàn cảnh gần gũi đó. Bà sinh cho ông được 8 người con, trong đó có 6 trai và 2 gái. Bà Tú là một phụ nữ tiêu biểu cho phụ nữ Việt Nam xưa ở nhiều phương diện như tần tảo, thương chồng, thương con, nhẫn nại quên mình. Công việc kiếm sống cho gia đình của bà là buôn bán nhỏ (tiểu thương). Điều đặc biệt là chính bà đã đi vào thi phẩm của ông chồng như một nhân vật điển hình hấp dẫn(tác phẩm thương vợ). Khi mất ngôi nhà số 247 phố Hàng Nâu của ông nội và bố để lại, gia đình ông Tú chuyển đến nhà số 280 cùng phố (mà sau này địa phương đã xếp hạng là di tích lưu niệm Tú Xương) chính là do mẹ vợ nhà thơ (bà Hai Sửu) chia cho con gái. Về văn bản tác phẩm Tình hình văn bản tác phẩm của Tú Xương hết sức phức tạp, không có di cảo, không có những công trình đáng tin cậy tập hợp tác phẩm khi tác giả còn sống hoặc vừa nằm xuống. Sinh thời, nhà thơ sáng tác dường như chỉ để tiêu sầu hoặc mua vui, thơ làm đọc lên cho vợ con, bạn bè nghe, rồi tùy ý truyền khẩu. Thành Nam thuở ấy còn có nhiều người hay thơ và thơ hay, cùng nỗi niềm và khuynh hướng với Tú Xương như Trần Tích Phiên, Phạm Ứng Thuần, Trần Tử Chi, Vũ Công Tự,... Thơ họ cũng được phổ biến không ít. Lại 3 năm một lần thi hương, sĩ tử cả Bắc Kỳ tụ hội về đây, thơ hay được lan truyền càng rộng rãi, vì thế thơ Tú Xương càng dễ bị lẫn lộn. Lúc đầu chỉ là các bài sưu tầm đăng rải rác trên tạp chí Nam Phong (các năm 1918, 1919, 1920, 1926). Tiếp đến sách "Văn đàn bảo gián (quyển 3)" của Trần Trung Viên, Nam Ký thư quán Hà Nội 1926, giới thiệu 79 tác phẩm, trong đó phần lớn đã được đăng ở Nam Phong; từ đó lần lượt xuất hiện những sách chuyên đề về Tú Xương. Có hai văn bản chữ Nôm hiện còn lưu giữ ở thư viện Hán - Nôm đó là Vị thành giai cú tập biên (ký hiệu AB.194) ghi rõ "Nam Định Vị Xuyên tú tài Phượng Tường Trần Cao Xương Tử Thịnh trước tập" và Quốc văn tùy ký (ký hiệu AB.383). Có 10 lần xuất bản bằng chữ quốc ngữ với những văn bản sau: (1) Vị Xuyên thi văn tập của Sở Cuồng (tức Lê Dư), Nam Kỳ thư quán (1931 - sau có tái bản): Giới thiệu 174 tác phẩm gồm thơ, phú, câu đối; mà sau này các sách khác thừa hưởng kết quả, nhưng chép nhầm tên ông là Trần Kế Xương. (2) Trông dòng sông Vị (Văn chương và thân thế Trần Tế Xương) của Trần Thanh Mại, Trần Thanh Địch (1935 - lần thứ nhất) ở Huế, sau tái bản nhiều lần. (3) Tú Xương thi tập do nhà sách Phúc Chí - 95 Hàng Bồ, Hà Nội (1950): Giới thiệu 75 bài thơ phú. (4) Thân thế và thơ văn Tú Xương của Vũ Đăng Văn - nhà xuất bản Cây Thông, Hà Nội (1951): Đính chính tên nhà thơ là Trần Tế Xương (không phải Kế) và giới thiệu 181 tác phẩm. Những sách này là từ trước 1954, sưu tầm thơ Tú Xương còn hết sức tùy tiện và hầu như không có chú giải cần thiết. Việc khảo cứu về nhà thơ cũng chưa được đặt ra, nếu không kể đến cuốn Trông dòng sông Vị. (5) Văn thơ Trần Tế Xương - nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội (1957): Giới thiệu chính thức 125 bài và đưa 55 bài vào phần tồn nghi. (6) Đấu tranh chống hai quan niệm sai lầm về Tú Xương - nhà xuất bản Nghiên cứu cục xuất bản, Bộ Văn hóa, Hà Nội (1957) của Trần Thanh Mại nhân dịp lần thứ 50 ngày giỗ Tú Xương. (7) Tú Xương con người và nhà thơ của Trần Thanh Mại, Trần Tuấn Lộ - nhà xuất bản Văn hóa (1961): Giới thiệu 193 bài chính thức, 17 bài tồn nghi. (8) Thơ Trần Tế Xương - Ty văn hóa Nam Hà (1970): Bài tiểu luận của Xuân Diệu in lần đầu tiên ở đây, có nhiều phát hiện lý thú; còn tác phẩm chỉ tuyển chọn chẵn 100 bài - nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ. (9) Thơ văn Trần Tế Xương - nhà xuất bản Văn học (1970) - có sự tham gia của Nguyễn Công Hoan chọn 151 tác phẩm và 22 bài tồn nghi. (10) Thơ văn Trần Tế Xương - nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội (1984): Cuốn này sao gần như hoàn toàn cuốn (9). Chỉ có cuốn Tú Xương tác phẩm giai thoại của nhóm Nguyễn Văn Huyền (chủ biên), Đỗ Huy Vinh, Mai Anh Tuấn và người giới thiệu - giáo sư Nguyễn Đình Chú - Hội văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh (1986) là một công trình nghiên cứu kỹ lưỡng và công phu. Loại ra các tác phẩm không phải của tác giả, so sánh, đối chiếu các bản đã in ở những lần xuất bản trước, chọn ra 134 bài là của Tú Xương và loại ra 68 bài (có chú dẫn nguyên nhân loại ra cho từng bài một). Bài viết này lấy tư liệu chủ yếu ở cuốn sách đó. Sau này, nhất là thời mở cửa, việc xuất bản tràn lan không được kiểm định kỹ đã lấy tư liệu ở các nguồn khác nhau kể trên, điều đó cũng giải thích tại sao các blog lại đưa ra các tư liệu khác nhau về Tú Xương. Về đánh giá tác phẩm Nói đến tài làm thơ của Tú Xương, nhiều người đã đặc biệt chú ý đến sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình, trong đó trữ tình là gốc. Với Tú Xương, vẫn chưa thấy chắc chắn có bài thơ chữ Hán nào, chỉ thấy thơ Nôm viết bằng các thể loại cổ điển: thơ luật Đường - thất ngôn bát cú, tứ tuyệt; phú; văn tế; câu đối; hát nói; lục bát. Ở thể loại nào Tú Xương cũng tỏ ra là một nghệ sĩ bậc thầy. Nguyễn Công Hoan suy tôn Tú Xương là bậc thần thơ thánh chữ. Xuân Diệu xếp hạng Tú Xương thứ 5 sau Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương và Đoàn Thị Điểm. Tản Đà khi còn sống "trong những thi sĩ tiền bối, phục nhất Tú Xương" (Xuân Diệu kể vậy). Tản Đà tự nhận trong đời thơ của mình mới địch nổi Tú Xương một lần thôi bằng chữ "vèo" trong bài thơ Cảm thu, Tiễn thu của ông: Vèo trông lá rụng đầy sân. Nguyễn Công Hoan cũng kể vậy. Nguyễn Tuân biểu dương Tú Xương là: một người thơ, một nhà thơ vốn nhiều công đức trong cuộc trường kỳ xây dựng tiếng nói văn học của dân tộc Việt Nam. Tú Xương còn là hiện tượng hiếm trong lịch sử tác giả Việt Nam: Tú Xương có "môn phái", "môn đệ". Tên của ông là Trần Tế Xương, có lúc đổi thành Trần Cao Xương, nhưng đây là chữ xương với nghĩa "thịnh vượng" (còn có nghĩa là đẹp, thẳng). Sách xưa có chữ "Đức giả xương" (người có đức, thịnh vậy), không phải là xương theo nghĩa "xương thịt". Nhưng người đời sau, mấy vị chuyên làm thơ trào phúng đã cố tình đùa nghịch và "xuyên tạc", gắn cho cái nghĩa xương thịt, để rồi tự nguyện suy tôn Tú Xương (thịt) lên bậc tổ sư, còn mình là môn đệ. Và như thế là lịch sử văn học Việt Nam ở thế kỷ 20 bỗng nhiên có một "môn phái" gồm Tú Xương, rồi Tú Mỡ, Tú Sụn, Cử Nạc và thêm "chi phái": Tú Poanh, Đồ Phồn cũng là dòng tú, cử, đồ với nhau cả. Vinh dự thay cho vị tổ sư Tú Xương! Bức tranh hiện thực trong thơ Tú Xương là một bức tranh xám xịt. Cảm hứng trong thơ Tú Xương hầu như không hướng nhiều về phía phản ánh những cái tốt lành. Thi sĩ Tú Xương biết buồn đau trước vận nước vận dân. Với giọng văn châm biếm sâu cay, thơ văn của ông đã đả kích thực dân phong kiến, quan lại, những người bán rẻ lương tâm chạy theo tiền bạc, những kẻ rởm đời lố lăng trong buổi giao thời. Vịnh khoa thi Hương Giễu người thi đỗ Tính trào phúng được đẩy lên mức cao: Ông cò Đặc biệt bài thơ có một sức khái quát lớn đả kích Hoàng Cao Khải: Phường nhơ Đề tài người vợ trong thơ của Tú Xương cũng rất được quan tâm và đón nhận. Cuộc đời ông chỉ sống được có 37 năm, nhưng học hành thi cử đến 8 lần mới đỗ Tú Tài, mọi việc ở nhà đều là một tay của bà Tú gánh vác. Chính vì vậy, Tú Xương rất trân trọng vợ mình, ông viết về vợ như một sự tri ân. Thương vợ Sự trân trọng, tri ân ấy còn được ông nâng lên đến mức làm hẳn một bài "Văn tế sống vợ": Văn tế sống vợ Thơ Trần Tế Xương chữ nghĩa giản dị nhưng điêu luyện, thần tình, đôi khi tục nhưng không thô, phá cách nhưng đầy dụng ý, không chút non nớt tầm thường đúng như Xuân Diệu viết về ông: Chú thích
David Hilbert (23 tháng 1 năm 1862, Wehlau, Đông Phổ – 14 tháng 2 năm 1943, Göttingen, Đức) là một nhà toán học người Đức, được công nhận như là một trong những nhà toán học có ảnh hưởng rộng lớn nhất của thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20. Ông thiết lập tên tuổi như là một nhà toán học và nhà khoa học vĩ đại bằng cách phát minh hay phát triển một loạt các ý tưởng khác nhau, chẳng hạn như là lý thuyết bất biến, tiên đề hóa hình học, và khái niệm không gian Hilbert, một trong những nền tảng của giải tích hàm. Hilbert và các học sinh của ông đã xây dựng đủ hạ tầng cơ sở toán học cần thiết cho cơ học lượng tử và thuyết tương đối rộng. Ông là một trong những sáng lập viên của lý thuyết chứng minh, logic toán học và sự phân biệt giữa toán học và meta-toán học. Ông sử dụng và bảo vệ lý thuyết tập hợp của Cantor và các số siêu hạn (transfinite number). Một ví dụ nổi tiếng về vai trò lãnh đạo thế giới toán học là bài phát biểu năm 1900 về danh sách các bài toán quyết định hướng đi của nghiên cứu toán học trong thế kỉ thứ 20. Cuộc đời Hilbert được sinh ra ở Wehlau, gần Königsberg, Đông Prussia (ngày nay là Znamensk, gần Kaliningrad, Nga). Ông tốt nghiệp lyceum (phổ thông trung học) ở thành phố quê nhà và đăng ký vào Đại học Königsberg. Ông nhận bằng tiến sĩ năm 1885, với một luận văn, viết dưới sự hướng dẫn của Ferdinand von Lindemann, với tựa đề Über invariante Eigenschaften specieller binärer Formen, insbesondere der Kugelfunctionen ("Về các tính chất bất biến của các dạng nhị phân đặc biệt, đặc biệt là các hàm vòng"). Hermann Minkowski cũng là thí sinh tiến sĩ cùng một trường đại học vào thời gian đó, và ông và Hilbert trở thành bạn thân, và cả hai đã ảnh hưởng lẫn nhau ở nhiều thời điểm khác nhau trong sự nghiệp khoa học của họ. Hilbert ở lại Đại học Königsberg như là một giáo sư từ 1886 đến năm 1895, khi, là kết quả của sự can thiệp của Felix Klein ông đạt được vị trí Trưởng khoa Toán tại Đại học Göttingen, vào thời gian đó là trung tâm nghiên cứu toán học tốt nhất thế giới và ông ở lại đó cho đến cuối đời. Trong số 69 nghiên cứu sinh của ông ở Göttingen, nhiều người sau này trở thành các nhà toán học nổi tiếng (ngày hoàn thành luận án) như: Otto Blumenthal (1898), Felix Bernstein (1901), Hermann Weyl (1908), Richard Courant (1910), Erich Hecke (1910), Hugo Steinhaus (1911), và Wilhelm Ackermann (1925). Trong khoảng 1902 và 1939 Hilbert là biên tập tạp chí toán học hàng đầu lúc đó là Mathematische Annalen. Hilbert chứng kiến chủ nghĩa phát xít thanh trừng nhiều thành viên quan trọng trong khoa của ông tại Đại học Göttingen năm 1933. Những người bị cáo buộc bao gồm Hermann Weyl, Emmy Noether và Edmund Landau. Một trong những người đã phải rời khỏi nước Đức, Paul Bernays, đã hợp tác với Hilbert trong logic toán học, và là đồng tác giả với ông cuốn sách quan trọng Grundlagen der Mathematik (mà cuối cùng xuất hiện trong hai tập xuất bản năm 1934 và 1939). Đây là một phần tiếp theo của cuốn sách Nguyên tắc toán học logic Hilbert-Ackermann từ năm 1928. Định lý hữu hạn Công trình đầu tiên của Hilbert về các hàm bất biến đã dẫn đến những kết quả trong năm 1888 về định lý hữu hạn nổi tiếng của ông. Hai mươi năm trước đó, Paul Gordan đã chứng minh định lý về sự hữu hạn của các phần tử phát sinh cho các dạng nhị phân sử dụng một tiếp cận tính toán phức tạp. Những cố gắng tổng quát hóa phương pháp của ông cho hàm số có trên hai biến thất bại vì những khó khăn trong các tính toán liên quan. Hilbert nhận ra rằng cần phải đi theo một hướng hoàn toàn khác. Kết quả, ông chứng minh được định lý cơ sở Hilbert: cho thấy sự tồn tại của một tập hợp hữu hạn các phần tử phát sinh, cho những bất biến của những dạng quantic với số lượng biến bất kì, nhưng một dưới dạng trừu tượng. Nghĩa là, trong khi chứng minh sự tồn tại của một tập hợp như vậy, ông không sử dụng thuật toán mà chỉ đưa ra một định lý về sự tồn tại. Hilbert gửi kết quả của mình cho tạp chí Mathematische Annalen. Gordan, chuyên gia của lý thuyết về các bất biến của tạp chí Mathematische Annalen, đã không đánh giá cao bản chất có tính cách mạng của định lý của Hilbert và từ chối bài báo, phê phán về cách trình bày là không đủ chi tiết. Lời phê của ông là: Đây là Thần học, không phải Toán học! Klein, mặt khác, nhận ra sự quan trọng của kết quả này, và bảo đảm rằng bài báo sẽ được xuất bản mà không bị thay đổi gì cả. Được khuyến khích bởi Klein và những lời phê của Gordan, Hilbert trong bài báo thứ hai mở rộng phương pháp của ông, đưa ra những đánh giá về bậc cao nhất của tập nhỏ nhất của các phần tử phát sinh, và ông gửi một lần nữa cho tạp chí Annalen. Sau khi đọc xong bản thảo, Klein trả lời thư, rằng: Không nghi ngờ gì đây là một trong những công trình quan trọng nhất về đại số nói chung mà tạp chí Annalen đã từng xuất bản. Sau này, sau khi sự hữu dụng của phương pháp của Hilbert được công nhận rộng rãi, chính Gordan đã nói rằng: Tôi phải thừa nhận là ngay cả thần học cũng có giá trị của nó. Tiên đề hóa hình học (Axiomatization of geometry) Cuốn sách Grundlagen der Geometrie (tr.: Nền tảng của Hình học) xuất bản bởi Hilbert vào năm 1899 đưa ra một tập hợp chuẩn, bao gồm 21 tiên đề, thay cho các tiên đề Euclid truyền thống. Chúng tránh đi những điểm yếu đã được chỉ ra trong các tiên đề Euclid, mà các tác phẩm của ông lúc đó vẫn được xem như sách giáo khoa. Độc lập và cùng thời gian, một học sinh Mỹ 19 tuổi tên là Robert Lee Moore cũng xuất bản một tập các tiên đề tương tự. Một số các tiên đề trùng hợp nhau, trong khi một số tiên đề trong hệ thống của Moore là các định lý trong hệ thống tiên đề của Hilbert và ngược lại. Cách tiếp cận của Hilbert đánh dấu sự chuyển đổi sang hệ thống phương pháp tiên đề hiện đại. Các tiên đề không được xem như là các sự thật hiển nhiên. Hình học có thể xử lý các đối tượng, về những thứ mà chúng ta có trực giác mạnh, nhưng không cần phải gán cho một nghĩa rõ ràng về những khái niệm chưa được định nghĩa. Những phần tử, chẳng hạn như điểm, đường thẳng, mặt phẳng, và những thứ khác, có thể được thay thế, như Hilbert nói, bởi bàn, ghế, các ly bia và các đối tượng khác. Chính là những quan hệ được định nghĩa giữa chúng mà chúng ta bàn luận. Hilbert đầu tiên liệt kê các khái niệm chưa định nghĩa: điểm, đường thẳng, mặt phẳng, nằm trên (một quan hệ giữa các điểm và các mặt phẳng),sự nằm giữa, sự đồng dạng giữa các cặp điểm, và sự đồng dạng giữa các góc. Những tiên đề này thống nhất cả hình học phẳng và hình học không gian của Euclid trong một hệ thống duy nhất. 23 bài toán Ông đưa ra một danh sách có ảnh hưởng lớn nhất của 23 bài toán chưa giải được tại Đại hội Toán học thế giới ở Paris vào năm 1900. Danh sách này được nhìn nhận là một trong những tổng kết thành công và sâu sắc nhất của các bài toán chưa có lời giải tạo ra bởi chỉ cá nhân một nhà toán học. Sau khi tái thiết lập các nền tảng của hình học cổ điển, Hilbert có thể làm tương tự cho phần còn lại của toán học. Tuy nhiên cách tiếp cận của ông khác với nhà 'nền tảng học' Russell-Whitehead hay nhà 'từ điển học' Nicolas Bourbaki sau này, và khác với người đương thời Giuseppe Peano. Cộng đồng toán học nói chung có thể thêm vào danh sách các bài toán, mà ông cho là những khía cạnh quan trọng trong các ngành toán quan trọng. Những bài toán này được đưa ra tại hội thảo "Những bài toán trong Toán học" trình bày trong suốt Hội nghị toán học Quốc tế lần thứ 2 tổ chức tại Paris. Đây là phần giới thiệu của bài phát biểu mà Hilbert đã đọc: Ai trong chúng ta mà không cảm thấy vui sướng khi vén lên bức màn mà tương lai ẩn đằng sau đó; nhìn thẳng vào những phát triển sắp xảy đến của khoa học và những bí ẩn của sự phát triển trong những thế kỉ kế tiếp? Mục đích cuối cùng mà tinh thần của các nhà toán học tương lai hướng tới sẽ là gì? Những phương pháp mới nào, những sự kiện mới nào mà thế kỉ mới sẽ tiết lộ trong lĩnh vực bao la và phì nhiêu của các ý tưởng toán học? Ông trình bày ít hơn phân nửa tổng số bài toán tại Đại hội, được xuất bản trong các báo cáo của Đại hội. Trong các bài báo kế tiếp, ông mở rộng danh sách, và dừng lại ở hình thức bây giờ là dạng chính tắc của 23 Bài toán của Hilbert. Toàn văn danh sách là quan trọng, bởi vì sự diễn giải của các bài toán vẫn là một vấn đề không tránh khỏi sự tranh cãi, khi được hỏi là bao nhiêu bài toán đã được giải. Một số bài đã được giải trong một thời gian ngắn. Một số khác đã được thảo luận suốt trong thế kỉ 20, với một số bây giờ xem như là không thích hợp vì là bài toán mở. Một số tiếp tục vẫn là thách thức cho đến hôm nay cho các nhà toán học. Hình thức hóa Trở thành quy chuẩn vào giữa thế kỉ, danh sách các bài toán của Hilbert cũng là một dạng tuyên ngôn, mở ra con đường cho sự phát triển của trường phái hình thức hóa, một trong ba trường phái lớn của toán học trong thế kỉ 20. Theo những người thuộc trường phái hình thức hóa, toán học là một trò chơi với các ký hiệu bị làm mất đi ý nghĩa riêng theo những quy luật mang tính hình thức được đồng ý trước. Do vậy nó là một hoạt động độc lập của suy nghĩ. Tuy vậy vẫn có nhiều người nghi ngờ về quan điểm của chính Hilbert liệu là chỉ đơn giản như vậy theo những người theo chủ nghĩa hình thức. Chương trình của Hilbert Vào năm 1920 ông đề nghị một dự án nghiên cứu rõ ràng (về metamathematics, như là nó được gọi) mà sau đó được biết đến như là chương trình Hilbert. Ông muốn toán học phải được hệ thống hóa trên một nền tảng logic vững chắc và đầy đủ. Ông tin rằng về nguyên tắc điều này có thể làm được, bằng cách chứng minh rằng: tất cả toán học có thể suy ra từ một hệ thống hữu hạn các tiên đề được chọn ra một cách đúng đắn; và rằng một hệ thống tiên đề như vậy là có thể chứng minh được tính nhất quán của nó. Ông dường như là có cả những lý do kỹ thuật và triết học trong việc hình thức hóa đề nghị này. Nó khẳng định về sự không thích của ông đối với thứ được biết là ignorabimus, vẫn là một vấn đề tồn tại trong suy nghĩ của người Đức trong thời đó, và suy ngược về nguồn gốc từ Emil du Bois-Reymond. Chương trình này vẫn được công nhận là nổi tiếng nhất về triết học của toán học, nơi mà nó thường được gọi là hình thức hóa. Ví dụ, nhóm Bourbaki lựa cách đi theo kiểu trên-xuống đủ cho những yêu cầu cho dự án đôi của họ (a) một bộ bách khoa toàn thư có tính nền tảng và (b) giúp cho phương pháp tiên đề như là một công cụ nghiên cứu. Cách tiếp cận này đã thành công và có ảnh hưởng liên quan đến các công trình của Hilbert trong đại số và giải tích hàm, nhưng thất bại trong cách tiếp cận tương tự với vật lý và logic của ông. Công trình của Gödel Hilbert và các nhà toán học tài năng làm việc cùng nhóm với ông đã dành hết tâm huyết cho dự án này. Cố gắng của ông để ủng hộ nền toán học được xây trên các tiên đề và các nguyên lý xác định trước, làm loại bỏ những bất định trong lý thuyết, tuy nhiên đã thất bại. Gödel đã chứng minh rằng bất kì một hệ thống hình thức không chứa đựng mâu thuẫn nào, đủ phức tạp để chứa đụng ít nhất là số học, không thể chứng minh sự toàn vẹn của nó bằng các tiên đề của chính nó. Vào năm 1931 định lý bất toàn của Gödel đã cho thấy rằng chương trình vĩ đại của Hilbert là không thể như đã phát biểu. Điểm thứ hai không thể kết nối một cách hợp lý với điểm thứ nhất, miễn là hệ thống tiên đề thực sự là hữu hạn. Dù sao đi nữa, định lý bất toàn không nói lên gì cả về việc biểu diễn sự toàn vẹn của toán học bằng một hệ thống hình thức hóa khác. Những thành tựu sau đó của lý thuyết chứng minh ít nhất là làm rõ thêm sự nhất quán khi nó liên hệ đến các lý thuyết nằm trong tầm quan tâm chung của các nhà toán học. Công trình của Hilbert đã khởi đầu cho logic trên hướng đi làm rõ này; sự cần thiết hiểu rõ công trình của Gödel sau này dẫn đến sự phát triển của lý thuyết đệ quy và sau đó là logic toán học như là một ngành độc lập trong thập kỉ 1930-1940. Cơ sở cho lý thuyết khoa học máy tính sau này, trong các công trình của Alonzo Church và Alan Turing cũng phát triển trục tiếp từ 'tranh luận' này. Trường phái Göttingen Trong các học trò của Hilbert, có Hermann Weyl, kiện tướng cờ vua Emanuel Lasker và Ernst Zermelo. John von Neumann là trợ lý của ông. Tại Đại học Göttingen, ông được bao quanh bởi một nhóm các nhà toán học quan trọng của thế kỉ 20, chẳng hạn như Emmy Noether và Alonzo Church. Giải tích hàm Vào khoảng 1909, Hilbert dành thời gian nghiên cứu phương trình vi phân và phương trình tích phân; các công trình của ông có những ảnh hưởng trực tiếp đến giải tích hàm hiện đại. Để tiến hành các nghiên cứu này, Hilbert giới thiệu khái niệm không gian Euclid vô hạn chiều, sau này gọi là không gian Hilbert. Các công trình của ông trong phần này của giải tích đã cung cấp những đóng góp quan trọng cho toán dùng trong vật lý cho hai mươi năm sau đó, mặc dù theo một hướng không dụ đoán trước. Sau này, Stefan Banach mở rộng khái niệm này, định nghĩa không gian Banach. Không gian Hilbert là một ý tưởng quan trọng trong lĩnh vực giải tích hàm phát triển xung quanh đó trong suốt thế kỉ 20. Vật lý Cho đến 1912, Hilbert hầu như là một nhà toán học thuần túy. Khi chuẩn bị ghé thăm từ Bonn, nơi đang đắm chìm trong nghiên cứu vật lý, nhà toán học bạn ông là Hermann Minkowski đùa rằng ông phải khử trùng 10 ngày trước khi có khả năng ghé thăm Hilbert. Thực ra, Minkowski dường như có trách nhiệm trong hầu hết các nghiên cứu về vật lý của Hilbert trước năm 1912, kể cả buổi hội thảo hợp tác giữa hai ông trong năm 1905. Vào năm 1912, ba năm sau khi bạn qua đời, ông quay sang tập trung nghiên cứu môn này gần như là hầu hết thời gian. Ông bố trí để có một người đến giảng riêng về vật lý cho ông. Ông bắt đầu nghiên cứu Lý thuyết khí động và chuyến sang lý thuyết bức xạ và lý thuyết phân tử của vật chất. Ngay cả sau khi chiến tranh nổ ra vào năm 1914, ông tiếp tục các hội thảo và các lớp học nơi mà các công trình của Einstein và những người khác được theo dõi một cách cặn kẽ. Hilbert mời Einstein đến Đại học Göttingen để giảng trong một tuần trong tháng 6 và 7 năm 1915 về lý thuyết tương đối và lý thuyết về trọng lực mà ông đang phát triển. Sự trao đổi các ý tưởng đã dẫn đến dạng cuối cùng của những phương trình về trường của thuyết tương đối, đó là phương trình trường Einstein và tác động Einstein-Hilbert. Mặc cho sự kiện là Einstein và Hilbert không bao giờ tranh nhau giữa công chúng, có một vài bàn cãi về sự khám phá các phương trình trường. Thêm vào đó, các công trình của Hilbert dự đoán và giúp cho một số tiến triển trong toán học hóa cơ học lượng tử. Công trình của ông là một khía cạnh quan trọng của các công trình của Hermann Weyl và John von Neumann về sự tương đương toán học của cơ học ma trận của Werner Heisenberg và phương trình sóng của Erwin Schrödinger và khái niệm không gian Hilbert đóng một vai trò quan trọng trong lý thuyết lượng tử. Vào năm 1926 von Neuman chứng minh rằng nếu các trạng thái của nguyên tử được hiểu như là các vectơ trong không gian Hilbert, thì chúng sẽ tương ứng với cả lý thuyết phương trình sóng của Schrodinger và ma trận của Heisenberg. Suốt cả quá trình đắm chìm trong vật lý, ông đã đặt sự chặt chẽ vào toán học trong vật lý. Trong khi phụ thuộc nhiều vào toán cao cấp, các nhà vật lý thường là không chính xác khi sử dụng chúng. Đối với một nhà toán học thuần túy như Hilbert, điều này ảnh hưởng đến sự trình bày và làm cho lý thuyết khó hiểu. Khi ông bắt đầu hiểu ra vật lý và các nhà vật lý sử dụng toán như thế nào, ông phát triển một lý thuyết toán chặt chẽ cho những gì mà ông khám phá ra, quan trọng nhất là trong ngành phương trình tích phân. Khi đồng nghiệp của ông là Richard Courant viết cuốn sách kinh điển Các phương pháp Toán Vật lý gồm luôn một số ý tưởng của Hilbert, ông thêm tên Hilbert vào như là đồng tác giả mặc dù Hilbert không đóng góp trực tiếp vào quá trình viết sách. Hilbert nói "Vật lý là quá khó cho các nhà vật lý", ngụ ý rằng các toán học cần thiết là vượt quá khả năng của họ; cuốn sách của Courant-Hilbert làm nó dễ dàng hơn cho họ. Số học Hilbert thống nhất ngành số học đại số (algebraic number theory) với tác phẩm năm 1897 Zahlbericht (dịch sát là "báo cáo về các con số"). Ông bác bỏ bài toán Waring theo nghĩa rộng. Ông sau đó xuất bản thêm một số kết quả; nhưng sự vượt lên của dạng modular Hilbert (Hilbert modular form) trong luận văn của một học sinh làm tên ông liên quan xa hơn trong một lãnh vục lớn. Ông có một loạt các phỏng đoán về lý thuyết lớp và trường (class field theory). Những khái niệm này có nhiều ảnh hưởng lớn, và đóng góp của ông được thấy trong các tên Hilbert class field và ký hiệu Hilbert của lý thuyết class field địa phương. Các kết quả về chúng được chứng minh hầu hết cho đến hết năm 1930, sau khi các công trình xuyên phá của Teiji Takagi thiết lập tên tuổi ông như một trong những nhà toán học Nhật có tầm cỡ thế giới đầu tiên. Hilbert không làm việc với các ngành trung tâm của giải tích số học (analytic number theory), nhưng tên của ông được biết đến qua phỏng đoán Hilbert-Pólya, vì những lý do mà không ai biết rõ. Các đóng góp khác Nghịch lý về Grand Hotel của Hilbert, một suy nghĩa về những tính chất kỳ lạ của các khái niệm vô hạn, thường được nói đến trong dân gian về những số đếm (cardinal number) vô hạn. Những năm sau này Hilbert sống cho đến ngày nhìn thấy quân phát xít Đức loại trừ nhiều giáo sư nổi tiếng tại Đại học Göttingen, vào năm 1933. . Trong số những người bi buộc thôi việc có Hermann Weyl, người nắm chức vụ của Hilbert khi ông về hưu vào năm 1930, Emmy Noether và Edmund Landau. Một trong những người phải rời Đức là Paul Bernays, cộng sự của Hilbert trong logic toán học, và là đồng tác giả trong cuốn sách quan trọng Grundlagen der Mathematik (cuối cùng xuất hiện dưới hai tập, vào năm 1934 và 1939). Đây là phần kế tiếp theo của cuốn Những nguyên lý của lý thuyết logic bởi Hilbert-Ackermann từ năm 1928. Khoảng một năm sau, ông tham dự một bữa chiêu đãi, và được đặt ngồi cạnh Bộ trưởng Giáo dục mới, Bernhard Rust. Rust hỏi rằng, "Toán học ở Göttingen bây giờ ra sao sau khi đã được giải phóng khỏi sự ảnh hưởng của Do Thái?" Hilbert trả lời, "Toán học ở Göttingen? Thực ra chẳng còn gì ở đó nữa". Cho đến khi Hilbert mất vào năm 1943, phát xít Đức đã gần như tổ chức lại trường đại học, nhiều giáo sư trước đây hoặc là Do Thái hoặc lập gia đình với Do Thái. Đám tang của Hilbert được tham dự với dưới mười hai người, chỉ có hai người là giáo sư đại học. Trên bia mộ, tại Göttingen, người ta có thể đọc dòng chữ ông để lại: Wir müssen wissen, wir werden wissen - Chúng ta phải biết, chúng ta sẽ biết. Trớ trêu thay, ngay ngày trước khi Hilbert thốt lên câu đó, Kurt Gödel đã trình bày luận án của mình, chứa đựng định lý bất toàn nổi tiếng: có những thứ chúng ta biết là sự thật, nhưng chúng ta không thể chứng minh được.
Vải địa kỹ thuật là tấm vải có tính thấm, khi sử dụng lót trong đất nó có khả năng phân cách, lọc, bảo vệ, gia cường và thoát nước. Loại vải này thường được sản xuất từ polypropylene hoặc polyester và được sử dụng nhiều trong các ngành kĩ thuật như thủy lợi, giao thông, môi trường. Cấu tạo Vải địa kĩ thuật được chế tạo từ những sản phẩm phụ của dầu mỏ, từ một hoặc hai loại polymer (polyamide) như polyester và/hoặc polypropylen. Tùy theo hợp chất và cách cấu tạo, mỗi loại vải địa kĩ thuật có những đặc tính cơ lý hóa như sức chịu kéo, độ dãn, độ thấm nước, môi trường thích nghi v.v...khác nhau. Hầu hết các sản phẩm có mặt tại Việt Nam đều được chế tạo bằng polyester và polypropylen. Vải địa kĩ thuật được chia làm ba nhóm chính dựa theo cấu tạo sợi: dệt, không dệt và vải địa phức hợp. Nhóm dệt gồm những sợi được dệt ngang dọc giống như vải may, như vải địa kĩ thuật loại dệt polypropylen. Biến dạng của nhóm này thường được thí nghiệm theo 2 hướng chính: hướng dọc máy, viết tắt MD (machine direction) và hướng ngang máy, viết tắt CD (cross machine derection). Sức chịu kéo theo hướng dọc máy bao giờ cũng lớn hơn sức chịu kéo theo hướng ngang máy. Vải dệt thông thường được ứng dụng làm cốt gia cường cho các công tác xử lý nền đất khi có yêu cầu. Nhóm không dệt gồm những sợi ngắn và sợi dài liên tục, không theo một hướng nhất định nào, được liên kết với nhau bằng phương pháp hóa (dùng chất dính), hoặc nhiệt (dùng sức nóng) hoặc cơ (dùng kim dùi). Nhóm vải phức hợp là loại vải kết hợp giữa vải dệt và không dệt. Nhà sản xuất may những bó sợi chịu lực (dệt) lên trên nền vải không dệt để tạo ra một sản phẩm có đủ các chức năng của vải dệt và không dệt. Ứng dụng Trong giao thông vải địa kĩ thuật có thể làm tăng độ bền, tính ổn định cho các tuyến đường đi qua những khu vực có nền đất yếu như đất sét mềm, bùn, than bùn... Trong thủy lợi, dùng che chắn bề mặt vách bờ bằng các ống vải địa kĩ thuật độn cát nhằm giảm nhẹ tác động thủy lực của dòng chảy lên bờ sông. Còn trong xây dựng, dùng để gia cố nền đất yếu ở dạng bấc thấm ứng dụng trong nền móng... Trong các công trình bảo vệ bờ (đê, kè,...) vải địa kỹ thuật được sử dụng thay cho tầng lọc ngược ngược, có tác dụng hạ thấp mực nước ngầm vẫn đảm bảo giữ cốt liệu nền khỏi bị rửa trôi theo dòng thấm. Dựa vào mục công dụng chính, người ta chia vải địa kĩ thuật thành ba loại: phân cách, gia cường, và tiêu thoát và lọc ngược. Chức năng phân cách Các phương pháp thông thường để ổn định hoá lớp đất đắp trên nền đất yếu bão hoà nước là phải tăng thêm chiều dày đất đắp để bù vào lượng đất bị mất do lún chìm vào nền đất yếu trong quá trình thi công. Mức độ tổn thất có thể hơn 100% đối với đất nền có CBR nhỏ hơn 0,5. Việc sử dụng loại vải địa kĩ thuật thích hợp đặt giữa đất yếu và nền đường sẽ ngăn cản sự trộn lẫn của hai loại đất. Vải địa kĩ thuật phân cách ngăn ngừa tổn thất đất đắp và vì vậy tiết kiệm đáng kể chi phí xây dựng. Ngoài ra, vải địa kĩ thuật còn ngăn chặn không cho đất yếu thâm nhập vào cốt liệu nền đường nhằm bảo toàn các tính chất cơ lý của vật liệu đắp và do đó nền đường có thể hấp thụ và chịu đựng một cách hữu hiệu toàn bộ tải trọng xe. Chức năng gia cường Đối với đường có chiều cao bé (từ 0,5 đến 1,5m), có giả thiết cho rằng cần phải dùng vải cường độ cao như là một bộ phận chịu lực của kết cấu móng đường. Tuy nhiên, tải trọng xe tác dụng trên móng đường chủ yếu theo phương đứng, trong khi phương chịu kéo của vải địa lại là phương nằm ngang. Vì vậy, cường độ chịu kéo và độ cứng chịu uốn của vải có ảnh hưởng rất nhỏ trong sự gia tăng khả năng chịu tải của nền dưới tải trọng đứng của bánh xe. Trong thực tế, dưới tải trọng bánh xe khả năng chịu tải của nền đường có vải địa kĩ thuật chủ yếu là do chức năng phân cách (nhằm duy trì chiều dày thiết kế và tính chất cơ học ban đầu của các lớp cốt liệu nền móng đường) hơn là chức năng gia cường về khả năng chịu kéo của kết cấu. Trong trường hợp đường có tầng mặt cấp cao (đường bê tông hoăc đường nhựa) hiệu ích từ chức năng gia cường càng rất giới hạn. Đó là bởi vì, để phát triển lực kéo trong vải địa cần phải có chuyển vị đủ lớn trong kết cấu móng đường để sinh ra biến dạng ngang tương ứng, mà điều nầy thi không cho phép đối với đường có tầng mặt cấp cao. Trong trường hợp xây dựng đê, đập hay đường dẫn vào cầu có chiều cao đất đắp lớn, có thể dẫn đến khả năng trượt mái hoặc chuyển vị ngang của đất đắp, vải địa kĩ thuật có thể đóng vai trò cốt gia cường cung cấp lực chống trượt theo phương ngang nhằm gia tăng ổn định của mái dốc. Trong trường hợp này vải địa có chức năng gia cường. Chức năng tiêu thoát/ lọc ngược Đối với các nền đất yếu có độ ẩm tự nhiên lớn và độ nhạy cảm cao. Vải địa kĩ thuật có thể làm chức năng thoát nước nhăm duy trì và thậm chí gia tăng cường độ kháng cắt của đất nền và do đó làm gia tăng khả năng ổn định tổng thể của công trình theo thời gian. Vải địa kĩ thuật loại không dệt, xuyên kim có chiều dày và tính thấm nước cao là vật liệu có khả năng tiêu thoát tốt, cả theo phương đứng (thẳng góc với mặt vải) và phương ngang (trong mặt vải). Vì thế, loại vải địa này có thể làm tiêu tán nhanh chóng áp lực nước lỗ rỗng thặng dư trong quá trình thi công cũng như sau khi xây dựng và dẫn đến sức kháng cắt của nền đất yếu sẽ được gia tăng. Hai tiêu chuẩn để đánh giá về đặc trưng lọc ngược là khả năng giữ đất và hệ số thấm của vải. Vải địa kỹ thuật cần phải có kích thước lỗ hổng đủ nhỏ để ngăn chặn không cho các hạt đất cần bảo vệ đi qua đồng thời kích thước lỗ hổng cũng phải đủ lớn để có đủ khả năng thấm nước bảo đảm cho áp lực nước lỗ rỗng được tiêu tán nhanh. Lợi ích khi sử dụng vải địa kĩ thuật Cho phép tăng cường lớp đất đắp bằng việc tăng khả năng tiêu thoát nước. Giảm chiều sâu đào vào các lớp đất yếu. Giảm độ dốc mái lớp đất đắp yêu cầu và tăng tính ổn định của chúng. Giữ được tốc độ lún đều của các lớp đất, đặc biệt trong vùng chuyển tiếp. Cải thiện các lớp đất đắp và kéo dài tuổi thọ công trình. Các tiêu chuẩn thiết kế với vải địa kĩ thuật Với những ứng dụng mà vải địa có những chức năng chính là phân cách, tiểu biểu như các loại đường có và không có tầng mặt cấp cao. Với các đê đập cao khi mà các chức năng chính là gia cường và phân cách thì vải địa cần phải có cường độ chịu kéo đủ cao. Thêm nữa, vải phải chịu được ứng suất thi công đồng thời phải bảo đảm tính chất tiêu thoát và lọc ngược tốt. Các tiêu chuẩn chính cho việc lựa chọn vải là: Vải có khả năng chống hư hỏng trong thi công và lắp đặt Để có khả năng phân cách hiệu quả, vải địa kĩ thuật phải đảm bảo không bị chọc thủng trong quá trình thi công như bị thủng bởi các vật liệu sắc cạnh như sỏi, đá và vật cứng xuyên thủng, hoặc lớp đất đắp không đủ dày trong khi đổ đất. Với trường hợp sau, chiều dày thiết kế tối thiểu của lớp đắp cần phải được duy trì trong suốt quá trình thi công. Để ngăng ngừa vải bị chọc thủng trong thi công, người ta thường tính toán các thông số sau để xác định tính kháng chọc thủng sau: Chiều dày lớp đất đắp đầu tiên trên mặt vải, phụ thuộc vào giá trị CBR của đất nền bên dưới lớp vải địa. Sự hiện hữu của vật cứng, sỏi, đá trong đất đắp đặc biệt là đối với đất lẫn sạn sỏi. Loại thiết bị thi công, tải trọng và diện tích tiếp xúc của bánh xe và từ đó gây ra áp lực tác dụng tạo cao trình mặt lớp vải. Lực kháng xuyên thủng của vải địa có thể xác định dựa theo điều kiện cân bằng lực: Fvert=π.dh.hh.P Trong đó: dh = đường kính trung bình của lỗ thủng. hh = độ lún xuyên thủng lấy bằng dh. P = áp lực do tải trọng bánh xe tác dụng ở cao trình lớp vải. Hoặc có thể xác định lực kháng xuyên thủng theo phương pháp AASHTO: Từ các thông số về cường độ CBR của nền, áp lực tác dụng của bánh xe và chiều dày lớp đất đắp sau khi đầm nén sẽ xác định được yêu cầu về độ bền của vải thuộc loại cao (H) hay trung bình (M). Từ mức độ yêu cầu về độ bền (H hoặc M), người ta có thể chọn cường độ kháng chọc thủng yêu cầu. Vải có các đặc điểm thích hợp về lọc ngược và thoát nước Hai tiêu chuẩn để đánh giá về đặc trưng lọc ngược là khả năng giữ đất và hệ số thấm của vải. Vải địa cần phải có kích thước lỗ hổng đủ nhỏ để ngăn chặn không cho các loại hạt đất cần bảo vệ đi qua, đồng thời kính thước lỗ hổng cũng phải đủ lớn để có đủ khả năng thấm nước bảo đảm cho áp lực nước kẽ rỗng được tiêu tán nhanh. Độ bền cao khi tiếp xúc với ánh sáng Tất cả các loại vải địa kỹ thuật đều bị phá huỷ khi phơi dưới ánh sáng mặt trời. Do trong quá trình xây dựng vải địa kĩ thuật bị phơi trong một thời gian dài dưới ánh sáng nên cần sử dụng loại vải có độ bền cao khi tiếp xúc với ánh sáng. Phương pháp thi công Vải địa kĩ thuật thường được thi công theo các trình tự sau: - Chuẩn bị nền đường: phát quang những cây cối, bụi rậm, dãy cỏ trong phạm vi thi công. Gốc cây đào sâu 0.6m dưới mặt đất. Nền đường cần có độ dốc để thoát nước khi mưa. - Trải vải địa kĩ thuật trên nền đường, lớp vải nọ nối tiếp lớp vải kia theo một khoảng phủ bì tùy thuộc vào sức chịu lực của đất, Sức chịu lực của đất: - Sau cùng trải và cán đá dăm hoặc đá sỏi. Ghi chú: đối với vải không khâu, được khuyến cáo không nên trải quá 8m trước khi đổ đá để tránh khoảng phủ bì bị tách rời. Phương pháp thí nghiệm Khối lượng: ASTM D-3776 (đơn vị:g/m2) Chiều dày: ASTM D-5199 (đơn vị: mm) Cường độ chịu kéo giật: ASTM D-4632 (đơn vị: KN) Độ giãn dài kéo giật: ASTM D-4632(đơn vị: %) CBR đâm thủng: ASTM D-6241 hoặc Bs 6906-Part4 (đơn vị:N) Kích thước lỗ 095: ASTM D-4751 (đơn vị: mm) Hệ số thấm: ASTM D-4491 hoặc BS 6906/4 (đơn vị: x10-4 m/s)
Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến (chữ Hán: 阮勸), tên thật là Nguyễn Thắng (阮勝), hiệu là Quế Sơn, tự Miễu Chi, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1835, tại quê ngoại làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Quê nội của ông ở làng Vị Hạ (tục gọi là làng Và), xã Yên Đổ nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Mất ngày 5 tháng 2 năm 1909 tại Yên Đổ. Bạn thân tri kỉ của ông là Dương Khuê (1839-1902). Xuất thân Cha Nguyễn Khuyến là Nguyễn Tông Khởi (阮宗起, 1796–1853), thường gọi là Mền Khởi, đỗ ba khóa tú tài, dạy học. Mẹ là Trần Thị Thoan (陳式湍, 1799 – 1874), nguyên là con của Trần Công Trạc (陳公鐲), từng đỗ tú tài thời Lê Mạc. Thuở nhỏ, ông cùng Trần Bích San (người làng Vị Xuyên, đỗ Tam Nguyên năm 1864 – 1865) ở trường Hoàng giáp cùng bạn học Phạm Văn Nghị. Nguyễn Khuyến nổi tiếng là một người thông minh, hiếu học. Năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ đầu cử nhân (tức Giải nguyên) trường Hà Nội. Năm sau (1865), ông trượt thi Hội nên tu chí, ở lại kinh đô học trường Quốc Tử Giám và đổi tên từ Nguyễn Thắng thành Nguyễn Khuyến, với hàm ý phải nỗ lực hơn nữa (chữ Thắng có chữ lực nhỏ, chữ Khuyến có chữ lực lớn hơn). Đến năm 1871, ông mới đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên (Hoàng giáp). Từ đó, Nguyễn Khuyến thường được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ (三元安堵). Năm 1873, ông được bổ làm Đốc Học, rồi thăng Án Sát tại tỉnh Thanh Hóa. Năm 1877, ông thăng Bố Chính tỉnh Quảng Ngãi. Sang năm sau, ông bị giáng chức và điều về Huế, giữ một chức quan nhỏ với nhiệm vụ toản tu Quốc Sử Quán. Nguyễn Khuyến từ quan về Yên Đổ vào mùa thu năm 1884 và qua đời tại đây. Hoàn cảnh lịch sử Nguyễn Khuyến ra làm quan giữa lúc nước mất nhà tan, cơ đồ nhà Nguyễn như sụp đổ hoàn toàn nên giấc mơ trị quốc bình thiên hạ của ông không thực hiện được. Lúc này, Nam Kỳ rơi vào tay thực dân Pháp. Năm 1882, quân Pháp bắt đầu đánh ra Hà Nội. Năm 1885, chúng tấn công kinh thành Huế. Kinh thành thất thủ, Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, nhân dân hưởng ứng khắp nơi. Nhưng cuối cùng, phong trào Cần Vương tan rã. Có thể nói, sống giữa thời kỳ các phong trào đấu tranh yêu nước bị dập tắt, Nguyễn Khuyến bất lực vì không làm được gì để thay đổi thời cuộc nên ông xin từ quan về ở ẩn. Từ đó dẫn đến tâm trạng bất mãn, bế tắc của ông. Tác phẩm Các tác phẩm gồm có Quế Sơn thi tập, Yên Đổ thi tập, Bách Liêu thi văn tập, Bạn đến chơi nhà, Cẩm Ngữ, cùng nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế, câu đối truyền miệng. Quế sơn thi tập khoảng 200 bài thơ bằng chữ Hán và 100 bài thơ bằng chữ Nôm với nhiều thể loại khác nhau. Có bài Nguyễn Khuyến viết bằng chữ Hán rồi dịch ra tiếng Việt, ví dụ Bạn đến chơi nhà, hoặc ông viết bằng chữ Việt rồi dịch sang chữ Hán. Cả hai loại đều khó để xác định vì chúng rất điêu luyện. Trong Quế sơn thi tập, ông có làm một bài Vịnh Nhạc Vũ Mục để ca ngợi anh hùng Nhạc Phi của nhà Tống và chê trách gian thần Tần Cối (kẻ hại chết Nhạc Phi) của nhà Tống. Trong bộ phận thơ Nôm, Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình, nhuốm đậm tư tưởng Lão Trang và triết lý Đông Phương. Thơ chữ Hán của ông hầu hết là thơ trữ tình. Có thể nói cả trên hai lĩnh vực, Nguyễn Khuyến đều thành công. Vinh danh Năm 1987, Ủy Ban Nhân dân tỉnh Hà Nam Ninh đã quyết định thành lập Giải thưởng Văn học - Nghệ thuật Nguyễn Khuyến với chu ky tổ chức 5 năm 1 lần để vinh danh các tác giả, nghệ sĩ có nhiều thành tích xuất sắc trong hoạt động văn học, nghệ thuật trong và ngoài tỉnh. Từ năm 1997, khi tỉnh Hà Nam được tái lập, Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Nam tiếp nhận việc tổ chức giải thưởng này trong kỳ trao giải lần thứ III và đã tổ chức tới kỳ trao giải thứ VII năm 2017. Tên ông được đặt cho một con phố có nhiều di tích và danh thắng tại quận Đống Đa, bên cạnh Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hà Nội: Phố Nguyễn Khuyến có tên cũ phố Sinh Từ (trước năm 1945) và Bùi Huy Bích (trước năm 1964). Ngày nay, tên phố Bùi Huy Bích được đặt cho một con đường ở phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai, Hà Nội. Các thành phố Hải Phòng, Nam Định, Hải Dương, Phủ Lý đều có các con phố và con đường mang tên Nguyễn Khuyến. Nhiều trường học được đặt tên Nguyễn Khuyến. Riêng Hà Nội còn có thêm đường Nguyễn Khuyến thuộc phường Văn Quán, quận Hà Đông. Tên đường Nguyễn Khuyến được đặt khi Hà Đông còn là thành phố thủ phủ tỉnh Hà Tây trước khi sáp nhập vào Hà Nội. Chú thích Ghi chú
Chương trình trò chuyện, tức talk show (Mỹ) hay chat show (Anh), là một chương trình truyền hình hoặc phát thanh mà một nhóm người ngồi lại với nhau để thảo luận một số chủ đề mà người dẫn chương trình đưa ra. Thông thường, các chương trình trò chuyện có một ban (panel) khách mời hiểu biết rõ hoặc có nhiều kinh nghiệm liên quan đến vấn đề đang được thảo luận trong chương trình đó. Ngoài ra còn có call-in show để nhận điện thoại trực tiếp của người tham gia từ nhà, trong xe hơi, v.v. Chương trình trò chuyện xuất hiện từ những ngày đầu của truyền hình. Các chương trình trò chuyện ban đêm có lẽ là những chương trình đầu tiên mà "cao niên" nhất là The Late Late Show của RTÉ. Các chương trình ban đêm được ưa chuộng hiện nay như The Tonight Show with Jay Leno và The Late Show with David Letterman được phát sóng đã nhiều năm, thường xuyên mời những vị khách là các nhân vật nổi tiếng. Nhân vật tiên phong về tin tức truyền hình là Edward R. Murrow đã dẫn một chương trình trò chuyện có tên gọi Small World vào cuối thập niên 1950 và kể từ đó các chương trình trò chuyện chính trị chi phối làn sóng ở Mỹ vào các buổi sáng Chủ Nhật. Chương trình trò chuyện có nhiều "cấp", từ những chương trình do các nhân vật tiếng tăm dẫn và đoạt giải Emmy như The Oprah Winfrey Show hay The Ellen DeGeneres Show, cho đến những chương trình bị coi là "vớ vẩn" như The Jerry Springer Show. Chương trình trò chuyện gần đây bắt đầu xuất hiện nhiều trên Internet. Danh sách một số chương trình trò chuyện Tiếng Anh The Arsenio Hall Show The Charlie Rose Show The Colbert Report Crossfire The Daily Show The David Letterman Show Dennis Miller Live The Dick Cavett Show Dr. Phil The Early Show The Ellen DeGeneres Show The Gene Burns Program Geraldo Gettin' Later Good Morning America The Graham Norton Effect The Howard Stern Show Insight with Javed Malik Kilroy Jenny Jones The Jerry Springer Show Jimmy Kimmel Live Larry King Live Last Call with Carson Daly The Late Late Show The Late Late Show with James Corden Late Night with Conan O'Brien Late Night with David Letterman The Late Show with David Letterman Live with Regis and Kelly The Martin Short Show Maury Meet the Press The Mike Malloy Show Montel MTV Live Night Stand with Dick Dietrick The Oprah Winfrey Show Parkinson Person to Person Real Time with Bill Maher Ricki Lake The Rosie O'Donnell Show Rove Live Rush Limbaugh Sally Sex, Toys and Chocolate Sidewalks Entertainment The Sound of Young America Space Ghost: Coast to Coast The Today Show The Tom Green Show The Tonight Show The Tonight Show Starring Johnny Carson The Tony Danza Show Too Late with Adam Carolla Topic A with Tina Brown Tough Crowd with Colin Quinn Trisha The Tyra Banks Show Unscrewed with Martin Sargent The Vicki Gabereau Show The View The Wright Stuff Tiếng Đức Arabella Die Harald Schmidt Show Elton.tv Sarah Kuttner - Die Show TV total Tiếng Croatia Latinica Sanja Tiếng Phần Lan Arto Nyberg Ben Furman Krisse Mirja Pyykkö Ruben & Joonas Tuomas & Juuso Tiếng Ý Maurizio Costanzo Tiếng Na Uy Først & sist Tiếng Tây Ban Nha El Show de Cristina La Noche del 10 Tiếng Thụy Điển Bettina S. Sen Kväll med Luuk Tiếng Thái Muang Thai Rai Sapda Tiếng Việt Talk Vietnam (VTV1) Người đương thời (VTV1) Hỏi xoáy đáp xoay (VTV3) Khách của VTV3 (VTV3) Người hạnh phúc hạnh phúc (VTV2, VTV3) Bí mật của tạo hóa (VTV3) Lời tự sự (VTV3) Đối thoại trẻ (VTV6) Mẹ chồng - nàng dâu (HTV7) Trò chuyện cuối tuần (HTV7) Vợ chồng son (HTV7) Yêu là cưới? (HTV7) Giá trị thật (HTV7) Góc luật sư (HTV9)
nhỏ|Intel A80386DX-20 CPU die image Intel 80386 (ban đầu là 80386 và sau này còn gọi là i386) là bộ vi xử lý 32-bit được giới thiệu năm 1985. Nó có 275 000 transistor và được sử dụng trong nhiều máy tính cá nhân cao cấp và máy trạm vào thời đó. 80386 là một mở rộng 32 bit của kiến trúc 80286. Tập lệnh, mô hình lập trình và các mã của nó vẫn là yêu cầu đối với các vi xử lý x86 32-bit, và chúng được gọi là kiến trúc i386, hay còn gọi là IA-32. i386 có thể thực thi chính xác các chương trình cho các vi xử lý 16-bit trước đó là 8086 và 80286. Qua thời gian, các phiên bản cải tiến trên cùng một kiến trúc i386 nhanh gấp hàng trăm lần phiên bản gốc (và nhanh gấp hàng nghìn lần so với 8086). Một phiên bản 20 MHz có tốc độ thực thi lên tới 4-5 triệu dòng lệnh mỗi giây. Phiên bản nhanh nhất của Intel có xung 33 MHz và thực thi được khoảng 11,4 triệu dòng lệnh mỗi giây. Quá trình phát triển i386 bắt đầu vào năm 1982 với tên gọi nội bộ là P3. Bản vẽ cuối của nó được hoàn thiện vào tháng 7 năm 1985. 80386 được ra mắt dưới dạng các bản mẫu tiền sản xuất dành cho các nhà phát triển phần mềm vào tháng 10, 1985. Quá trình sản xuất ở quy mô lớn bắt đầu vào tháng 6, 1986. Các bo mạch chủ và hệ thống đầu tiên sử dụng 80386 không ổn định và có giá thành cao. Máy tính cá nhân đầu tiên sử dụng một vi xử lí 80386 là Compaq Deskpro 386. Nó cũng đi vào lịch sử như là máy tính cá nhân tương thích IBM đầu tiên thiết lập một tiêu chuẩn không phải do IBM. Vào tháng 5 2006, Intel thông bố rằng sẽ dừng việc sản xuất các chip i386 vào cuối tháng 9 năm 2007. Mặc dù từ lâu nó đã không còn xuất hiện trong các máy tính cá nhân, Intel và một số công ty vẫn sản xuất các chip 386 dành cho hệ thống nhúng. Các hệ thống như vậy xuất hiện nhiều trong các công nghệ hàng không và các thiết bị âm nhạc. Linux ngưng hỗ trợ các vi xử lý 386 vào ngày 11 tháng 12 năm 2012, trong phiên bản 3.8. Kiến trúc trái|nhỏ|300x300px|Sơ đồ khối của thiết kế i386 Bộ xử lý 80386 là một bước tiến đáng kể của dòng vi xử lý x86. Các vi xử lý trước đó chỉ có các thanh ghi 16-bit và sử dụng cơ chế bảo vệ và quản lý bộ nhớ thông qua đoạn (segment). 80386 được thiết kế với đường ống lệnh (pipeline) sáu giai đoạn, mở rộng kiến trúc 16 bit lên thành 32 bit và tích hợp một bộ quản lý bộ nhớ sử dụng trang (paging). Nhờ đó việc thiết kế các hệ điều hành với bộ nhớ ảo trở cho kiến trúc nên dễ dàng hơn nhiều. Ngoài ra 80386 còn hỗ trợ các thanh ghi gỡ lỗi. 80386 có ba chế độ vận hành: chế độ thực (real mode), chế độ bảo vệ (protected mode) và chế độ 8086 ảo (virtual 8086 mode). Chế độ bảo vệ xuất hiện trong 80286, nay được mở rộng để hỗ trợ lên tới 4 GB. Chế độ ảo 8086 là chế độ mới, cho phép chạy đồng thời nhiều chương trình viết cho chế độ thực trong một môi trường bảo vệ. Khả năng thiết lập một mô hình bộ nhớ phẳng trong chế độ bảo vệ của 386, mặc dù nó sử dụng mô hình phân đoạn trong mọi chế độ, được xem là thay đổi quan trọng nhất của dòng vi xử lý x86, cho đến khi AMD giới thiệu kiến trúc x86-64 vào năm 2003. Một số lệnh mới được thêm vào 386: BSF, BSR, BT, BTS, BTR, BTC, CDQ, CWDE, LFS, LGS, LSS, MOVSX, MOVZX, SETcc, SHLD, SHRD. Hai thanh ghi mới được thêm vào dành cho mục đính sự dụng thông thường (FS và GS). Các thanh ghi gỡ lỗi DR0-DR7 được thêm vào cho các điểm dừng (breakpoint) sử dụng phần cứng. Kiến trúc sư trưởng của dự án 80386 là John H.Crawford, người có trách nghiệm mở rộng kiến trúc và tập lệnh của 80286 lên 32-bit, và phát triển vi mã cho 80386. Các bộ xử lý i486 và Pentium P5 là các thiết kế kế thừa i386. Các kiểu dữ liệu Các các kiểu dữ liệu sau đây được hỗ trợ trực tiếp và xuất hiện trong ít nhất một phiên bản của mã i386. Chúng bao gồm: Bit (giá trị boolean), bit field (nhóm lên tới 32 bit) và bit string (có độ dài lên tới 4 GBit). 8-bit integer (byte), bao gồm dạng có dấu (khoảng −128..127) hay không dấu (khoảng 0..255). 16-bit integer, bao gồm dạng có dấu (khoảng −32,768..32,767) hay không dấu (khoảng 0..65,535). 32-bit integer, bao gồm dạng có dấu (khoảng −231..231−1) hay không dấu (khoảng 0..232−1). Offset, một độ lệch 16 bit hoặc 32-bit trỏ tới một ô nhớ (sử dụng bất kỳ chế độ bộ nhớ nào). Pointer, bao gồm phần gốc 16-bit và độ lệch 16 bit hoặc 32 bit. Character (mã ký tự 8 bit). String, một xâu các word 8 bit, 16 bit hoặc 32 bit (có độ dài lên tới 4 GBit). BCD, các chữ số thập phân (0..9) mô tả bởi các byte chưa đóng gói. Packed BCD, hai chữ số BCD trong một byte (khoảng 0..99) Chương trình ví dụ Đoạn mã dưới đây sử dụng các lệnh hợp ngữ i386 cho một chuơng trình con có tên là _strtolower. Chương trình này sao chép một xâu ký tự ASCIIZ được kết thúc bởi một ký tự null, sang một địa chỉ khác và biến cả các ký tự chữ hoa thành chữ thường. Quá trình sao chép diễn ra theo từng byte (mỗi ký tự). Ví dụ trên sử dụng con trỏ gốc, hay thanh ghi EBP, để tạo một khung lời gọi (call frame), một vùng trên stack chứa tất cả các tham số và biến cục bộ của hàm. Kiểu quy tắc lời gọi này hỗ trợ các mã đệ quy và reentrant, và được sử dụng trong các ngôn ngữ tương tự Algol kể từ thập niên 1950. Nó ngầm định một mô hình bộ nhớ phẳng, tức là các đoạn DS và ES cùng trỏ tới một vị trí trong bộ nhớ. Tầm quan trọng kinh doanh Máy tính cá nhân đầu tiên sử dụng i386 là Compaq Deskpro 386. Bằng cách mở rộng kiến trúc 16/24 bit của IBM PC/AT lên thành 32 bit, Compaq trở thành công ty đầu tiên thiết kế và sản xuất một bước cải tiến lớn trong nền tảng PC. IBM được liên hệ để trở thành khách hàng của 80386, tuy nhiên họ vẫn còn nắm giữ quyền sản xuất 80286. IBM chọn cách tiếp tục đầu tư cho 80286 thêm một vài năm nữa. Sự thành công của Compaq Deskpro 386 đóng vai trò quan trọng trong việc hợp pháp hóa nền công nghiệp PC và làm giảm tầm ảnh hưởng của IBM trong đó. Trước 386, các khó khăn trong việc sản xuất chip và do nguồn cung không được đảm bảo dẫn tới việc yêu cầu các bộ phận bán dẫn phải được sản xuất bởi nhiều hãng khác nhau (multi-sourced). Tuy nhiên, trong suốt một thời gian dài (4,7 năm) chỉ có duy nhất Intel sản xuất 80386, do CEO của Intel lúc đó là Andy Groove quyết định không cấp phép vi xử lý cho bất kỳ hãng sản xuất nào khác. Quyết định này mang tới thành công lớn cho Intel trên thị trường. Việc độc quyền sản xuất 386 cũng giúp cho Intel có nhiều sự kiểm soát lên quá trình phát triển cũng như lợi nhuận trong những năm sau này. AMD giới thiệu dòng vi xử lý tương thích của mình, Am386, vào tháng 3 năm 1991, sau khi vượt qua nhiều rào cản pháp lý. Nó chấm dứt giai đoạn độc quyền gần 5 năm của Intel đối với kiến trúc i386. Trong cùng năm IBM cũng được cấp phép để sản xuất các chip 386 dành riêng cho các máy tính và bo mạch chủ của hãng. Sự lỗi thời Windows 95 là phiên bản Windows 9x duy nhất chính thức hỗ trợ i386. Nó yêu cầu một chip 386DX, và khuyến nghị các vi xử lý i486 và tốt hơn. Windows 98 yêu cầu 486DX hoặc cao hơn. Trong các hệ điều hành Windows NT, phiên bản cuối cùng hỗ trợ i386 là 3.51. Debian gỡ bỏ hộ trợ 386 trong phiên bản 3.1 (Sarge) vào năm 2005. Các nhà phát triển Linux kernel dừng hỗ trợ 386 kể từ tháng 12 năm 2011, với lý do các cản trở liên quan tới SMP, trong phiên bản 3.8. Chú thích
Motorola 88000 (viết tắt m88k) là bộ kiến trúc tập lệnh RISC của Motorola. Thế hệ chạy tên 20 MHz bao gồm một CPU 88100 và ít nhất hai chip CMMU (từ chữ cache memory management unit nghĩa là "đơn vị quản lý bộ nhớ truy cập nhanh") một trong hai CMMU dùng cho bộ nhớ dữ liệu và một còn lại dùng cho bộ nhớ chỉ thị. CPU RISC 88100 bao gồm bộ xử lý số nguyên, bộ xử lý chấm động và các thanh ghi tổng quát 32-bit, 21 thanh ghi điều khiển, 32-bit đường dẫn dữ liệu và 32-bit địa chỉ. 88100 có khả năng địa chỉ hóa 4 Gb dữ liệu ngoài và 1 Gb của các chỉ thị 32-bit trong không gian nhớ. Có thể cài đặt tối đa đến 4 bộ chip để làm việc với nhau trên cùng một bộ nhớ trong một cấu hình đa xử lý (multiprocessing).
Giacôbê Ngô Đình Nhu (7 tháng 10 năm 1910 - 2 tháng 11 năm 1963) là một nhà lưu trữ và chính trị gia người Việt Nam. Ông nổi tiếng vì danh nghĩa là vị cố vấn chính trị quan trọng cho anh trai ông là Tổng thống Ngô Đình Diệm trong Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam, tuy nhiên thì hầu hết các tài liệu lịch sử đều nhận định ông mới thực sự là người đề ra mọi chủ trương, chính sách của nền Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam. Ông là Tổng bí thư Đảng Cần lao Nhân vị, cũng là người đề xướng Thuyết Nhân vị của Đảng này. Trước khi tham gia chính trường, ông được đánh giá là một nhà lưu trữ có chuyên môn tốt và từng làm việc ở Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương (từ năm 1938), ông giữ các vai trò là Chủ tọa Hội đồng Cứu nguy Châu bản và Cố vấn Kỹ thuật (1942-1944), Phó giám đốc Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương (1945), và từng là Giám đốc Nha Lưu trữ Công văn và Thư viện toàn quốc ở Hà Nội (từ tháng 8 năm 1945). Theo Cao Xuân Vỹ, một người rất thân cận với Ngô Đình Nhu, năm 1963, ông và Ngô Đình Diệm bắt đầu tìm cách đàm phán với bên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc về hòa bình và tái thống nhất. Tháng 11 năm 1963, sau một loạt các vụ biểu tình bất bạo động để phản đối của Phật giáo gây ra những bất ổn nghiêm trọng, Ngô Đình Nhu đã bị bắn chết cùng người anh Ngô Đình Diệm trong một cuộc đảo chính do tướng lĩnh quân đội tổ chức được Hoa Kỳ ủng hộ. Tiểu sử Giai đoạn trước năm 1945 Ông sinh ngày 7 tháng 10 năm 1910 tại làng Phước Quả, tổng Cư Chánh, huyện Hương Thủy, phủ Thừa Thiên (nay thuộc phường Phước Vĩnh, thành phố Huế); quê quán ở làng Đại Phong, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Cha ông là Ngô Đình Khả, Thượng thư Bộ Lễ dưới triều vua Thành Thái của nhà Nguyễn. Khác với hai người anh của mình là Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Diệm, vốn xuất thân Nho học và ra làm quan cho nhà Nguyễn, Ngô Đình Nhu lại theo Tây học. Năm 1938, ông tốt nghiệp ngành lưu trữ tài liệu cổ (archiviste paléographe) của Trường pháp điển quốc gia (École nationale des chartres) ở Paris, Pháp. Năm 1938, trở về Việt Nam với hai bằng Lưu trữ – Cổ tự và cử nhân khoa học, Ngô Đình Nhu được nhận vào làm việc tại Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương (Hà Nội) với chức danh Quản thủ viên phó hạng ba. Ngay trong năm đầu làm việc Ngô Đình Nhu đã được Giáo đốc Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương lúc bấy giời là Paul Boudet đánh giá là một "lưu trữ viên cổ tự trẻ đầy triển vọng" vì theo Paul Boudet, Ngô Đình Nhu đã "hội tụ được cùng một lúc văn hóa truyền thống không thể thiếu trong vai trò của một Quản thủ viên Lưu trữ Hoàng triều và một khả năng hoàn hảo về nghề nghiệp nhờ có học thức uyên bác và vững chắc cho tổ chức Lưu trữ và Thư viện An Nam và Lưu trữ của Hoàng triều". Ngô Đình Nhu đã cộng tác với Paul Boudet cho ra đời các tập 2,3 và 4 của bộ sách Đông Dương pháp chế toàn tập và chịu trách nhiệm chính trong việc đưa tài liệu lưu trữ ra trưng bày, triển lãm. Chính sự đam mê nghề nghiệp của Ngô Đình Nhu đã khiến Paul Boudet chấp nhận kế hoạch sắp xếp lại tài liệu các vương triều phong kiến Việt Nam. Năm 1942, Ngô Đình Nhu được đề bạt làm người thành lập cơ quan Lưu trữ và thư viện Trung Kỳ ở Huế nhằm tổ chức lại tài liệu của nhà Nguyễn. Ngô Đình Nhu đã đề ra kế hoạch tôn tạo, bảo quản những tài liệu có giá trị quan trọng đối với công tác lưu trữ ở Việt Nam. Tháng 2-1942, Ngô Đình Nhu đề xuất kế hoạch cứu nguy tài liệu Châu bản đang được cất giữ ở Nội các, kế hoạch được Trần Văn Lý – Tổng lý Ngự tiền Văn phòng triều đình Huế trình tấu lên vua Bảo Đại và được phê chuẩn. Sau đó, Ngô Đình Nhu được vua Bảo Đại phê chuẩn làm Chủ tịch Hội đồng cứu nguy Châu bản. Trong 3 năm (1942-1944), với vai trò Chủ tịch hội đồng và cố vấn kỹ thuật, Ngô Đình Nhu đã tham gia vào việc tập trung gìn giữ tài liệu của 5 nguồn Quốc sử quán, Tàng thư lâu, Nội các, Viện Cơ mật và Thư viện Bảo Đại vào cơ quan Lưu trữ và Thư viện của Nam triều. Riêng đối với số Châu bản ở Nội các, dưới sự chỉ đạo của Ngô Đình Nhu, đã được thống kê, lưu trữ trên kệ và sắp đặt có số thứ tự, đồng thời đã làm ra được ba bản thống kê bằng chữ Hán và chữ Quốc ngữ. Cho đến nay, số tài liệu trên vẫn được bảo quản trong kho lưu trữ. Cũng trong thời gian từ 1942-1944, với chức danh Quản thủ viên Lưu trữ và thư viện Trung Kỳ, Ngô Đình Nhu đã thực hiện tốt các nhiệm vụ: Thống kê tất cả tài liệu của các kho khác nhau; tổ chức và sắp xếp hợp lý; và tổ chức bảo quản trong một kho duy nhất trong điều kiện bảo quản tốt. Ông đã tổ chức việc lưu giữ Mộc bản triều Nguyễn. Số mộc bản này hiện đang bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV - Đà Lạt, Lâm Đồng (xưa và nay vẫn là Biệt điện Trần Lệ Xuân - Khu Di tích của TP. Đà Lạt). Có thể nói, trong thời gian làm công tác lưu trữ văn thư (1938-1944), Ngô Đình Nhu đã có những đóng góp đối với hoạt động lưu trữ ở Việt Nam, một hoạt động vẫn còn mới mẻ ở thời bấy giờ. Ngô Đình Nhu tỏ ra là một con người có khả năng và chăm chú vào việc chuyên môn một cách "thuần túy", không màng tới chính trị. Với năng lực và sự đam mê nghề nghiệp, cùng sự hậu thuẫn từ gia đình có quan hệ mật thiết với chế độ thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn, con đường công danh của Ngô Đình Nhu liên tục phát triển mạnh. Chỉ trong 6 năm, ông ta được thăng hạng từ Cố vấn quản thủ hạng Ba lên Cố vấn quản thủ hạng Nhất. Từ cố vấn quản thủ trở thành Quản thủ Sở Lưu trữ và Thư viện của Tòa Khâm sứ Trung kỳ ở Huế năm 1943, một tốc độ thăng tiến rất nhanh. Giai đoạn 1945-1954 Sau Cách mạng tháng Tám, Ngô Đình Nhu được Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cử làm Giám đốc Nha Lưu trữ công văn và Thư viện toàn quốc tại Hà Nội (Sắc lệnh số 21, ký ngày 8 tháng 9 năm 1945 của Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp ký). Nhưng sau đó quan hệ giữa Việt Minh và các đảng phái khác xấu đi, người anh của ông là Ngô Đình Khôi bị Việt Minh xử bắn vì bị nghi ngờ có ý định bắt liên lạc với đại diện của tướng De Gaulle nhằm tái lập chính quyền thuộc địa ở miền Trung Việt Nam (trước đó, du kích Việt Minh bắt được một toán biệt kích Pháp, thu được tài liệu mật là chỉ thị của tướng De Gaulle cho thấy nhóm biệt kích Pháp này định liên lạc với Ngô Đình Khôi nhằm chiếm lĩnh các công sở và tái lập chính quyền thuộc địa Pháp ở miền Trung Việt Nam). Người anh khác là Ngô Đình Diệm bị bắt giam, sau đó được thả và được Việt Minh mời tham gia chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng Ngô Đình Diệm từ chối. Năm 1946, Ngô Đình Nhu cùng với Hoàng Bá Vinh trong nhóm Công giáo mà Nhu đang tập hợp, chạy về Phát Diệm – khu an toàn của Công giáo thời đó. Ẩn náu ở Phát Diệm ít ngày, Ngô Đình Nhu chạy vào Thanh Hóa, nhờ linh mục xứ đạo ở đây che giấu, giới thiệu kết bạn với Trần Kim Tuyến. Tại đây, Ngô Đình Nhu tham gia vào các tổ chức chính trị Công giáo, được Pháp hậu thuẫn chống lại chính phủ kháng chiến của Việt Minh. Năm 1950, khi Ngô Đình Diệm sang Mỹ vận động chính trị, Ngô Đình Nhu cùng Bửu Dưỡng, Ngô Văn Thúy, Lý Văn Lập kết hợp thuyết Nhân Vị (Personalism) của Emmannuel Mouriers với triết lý của Thiên Chúa giáo hình thành chủ thuyết Duy linh Nhân vị, hay thuyết Nhân vị Á Đông nhằm hậu thuẫn cho anh trai. Trên nền tảng thuyết Nhân vị (Personnalism) của nhà trí thức Thiên Chúa giáo người Pháp, Emmanuel Mouniers, kết hợp với những bài thuyết giảng giáo lý của các giám mục Công giáo, Ngô Đình Nhu cùng các linh mục hòa trộn thêm một số tư tưởng từ giáo lý Thiên Chúa Giáo, thuyết nhân bản của Khổng Tử, vài nét của chủ nghĩa tự do cùng với chủ nghĩa Duy Linh để hình thành chủ thuyết vừa triết lý vừa chính trị gọi là chủ nghĩa Nhân Vị. Về căn bản chủ thuyết nhân vị đề cao cá nhân con người, lấy con người làm trung tâm. Nhân Vị là vị thế của con người, là trung tâm trong mối tương quan với đồng loại, thiên nhiên và Thượng đế. Cá nhân là trung tâm để phục vụ, có ý nghĩa hơn các thực thể khác như dân tộc, nhân loại, hay nhu cầu vật chất. Con người có phần xác và phần hồn, mà linh hồn là cốt lõi vì nó là "một loài linh thiêng, vô hình, bất tử và bất diệt". Về mặt triết học, học thuyết này triển khai có hệ thống những phạm trù tôn giáo của thuyết Duy Linh chịu ảnh hưởng lớn từ giáo lý Thiên Chúa giáo. Đến năm 1951, khi Nhu rời Đà Lạt xuống Sài Gòn khái niệm Cần Lao được thêm vào vế thứ hai của lý thuyết để có thể thu hút đông đảo quần chúng và công khai phổ biến trên tuần báo Xã hội. Tuy nhiên, chủ thuyết của Ngô Đình Nhu không có ảnh hưởng rộng rãi trong giới trí thức Việt Nam đương thời. Đây là một nỗ lực đáng kể nhằm xây dựng nền tảng tư tưởng cho hoạt động chính trị của ông và người anh trai Ngô Đình Diệm. Năm 1953, nhằm tạo lực lượng cho Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu cùng Trần Văn Đỗ, Trần Chánh Thành, Nguyễn Tăng Nguyên, Trần Trung Dung xin phép Bửu Lộc – đang làm Thủ tướng Chính phủ Quốc gia Việt Nam lúc đó, cho ra đời một lực lượng thợ thuyền lấy tên là "Tổng Liên Đoàn Lao Công" dựa theo mô hình của lực lượng thợ thuyền Thiên Chúa giáo Pháp. Vào tháng 9/1953, Ngô Đình Nhu tiếp tục tổ chức hội nghị "Đại đoàn kết", đòi hỏi hòa bình cho Việt Nam gồm các đoàn thể chính trị và các giáo phái. Song song đó, Nhu bí mật cho ra đời đảng "Cần Lao Nhân Vị Cách mạng". Năm 1954, Ngô Đình Nhu càng đẩy mạnh chủ thuyết Nhân vị trong xã hội miền Nam, đồng thời đưa nó thành nền tảng tư tưởng của các tổ chức do ông ta sáng lập, nhằm hậu thuẫn chính trị cho anh trai. Chủ thuyết này và các lực lượng chính trị do Ngô Đình Nhu lập ra sau đó trở thành nền tảng tư tưởng và cơ sở chính trị của chính quyền Ngô Đình Diệm. Giai đoạn 1954-1963 Tháng 6-1954, trước khi Hiệp định Genève về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết, Ngô Đình Diệm được Bảo Đại chỉ định về Sài Gòn làm Thủ tướng chính phủ Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại làm Quốc trưởng. Ngày 2 tháng 9 năm 1954, Đảng Cần lao Nhân vị chính thức thành lập với nòng cốt là các tổ chức, lực lượng chính trị Công giáo được thành lập từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945, như: Liên đoàn Công giáo, Thanh niên Công giáo, Xã hội Công giáo,… Thành phần của đảng này chủ yếu là chức sắc và tín đồ Công giáo trong số dân di cư và công chức cùng sĩ quan trung cao cấp trong quân đội, với số lượng đảng viên lên tới 70 ngàn người. Ban Chấp hành Trung ương có các ủy viên: Trần Trung Dung, Nguyễn Tăng Nguyên, Lý Trung Dung, Hà Đức Minh, Trần Quốc Bửu, Võ Như Nguyện, Lê Văn Đông do Ngô Đình Nhu làm Tổng bí thư. Cương lĩnh và tuyên ngôn của Đảng Cần lao cho thấy rõ vai trò của nó cũng như của Ngô Đình Nhu đối với chính quyền Việt Nam cộng hòa. Dưới sự giúp đỡ của người Mỹ, Đảng Cần lao Nhân vị phát triển nhanh chóng, thâm nhập vào hàng ngũ quân đội, công chức, trí thức và cả giới kinh doanh và trở thành chính đảng lớn nhất thời bấy giờ. Năm 1955, sau khi giải quyết xong những "rào cản" là các phe phái đối lập ở chính trường miền Nam, trợ thủ cho Ngô Đình Diệm thực hiện phế truất Bảo Đại, Ngô Đình Nhu chỉ đạo thành lập thêm tổ chức Phong trào Cách mạng Quốc gia do Trần Chánh Thành làm chủ tịch. Hai tổ chức này dưới sự chỉ đạo của Ngô Đình Nhu, đã điều khiển tất cả các cơ quan, đoàn thể từ trung ương đến địa phương của trong bộ máy của chính quyền Ngô Đình Diệm ký đơn theo mẫu viết sẵn bôi nhọ Bảo Đại, và suy tôn Ngô Đình Diệm, với nội dung: "Lên án Bảo Đại là tên bán nước; Đồng thanh đòi truất phế Bảo Đại; Suy tôn và thề trung thành với Ngô Thủ tướng", đồng thời trực tiếp tham gia cuộc bỏ phiếu gian lận truất phế Bảo Đại. Sau cuộc "đảo chính" Bảo Đại "thành công", Ngô Đình Nhu tiếp tục chỉ đạo hai tổ chức này tham gia cuộc bầu cử Quốc hội lập pháp khóa I. Kết quả sau cuộc bầu cử, hai tổ chức này chiếm hơn 90% số ghế đại biểu trong quốc hội. Vì vậy, ngày 20-10-1955, bản Hiến pháp – văn bản luật cao nhất, chính thức cho ra đời chế độ Việt Nam cộng hòa do Ngô Đình Diệm làm Tổng thống, được quốc hội thông qua mau chóng. Bên cạnh một bộ phận hoạt động công khai, Ngô Đình Nhu đưa phần lớn đảng viên Đảng Cần lao tham gia hoạt động ngầm trong các tổ chức như: "Thanh niên Cộng hòa" do Ngô Đình Nhu làm thủ lĩnh; "Phong trào Phụ nữ Liên đới", "Thanh nữ Cộng hòa" do Trần Lệ Xuân lãnh đạo; "Sở Nghiên cứu chính trị – xã hội" do Trần Kim Tuyến, Tổng Thư ký Đảng Cần lao, đứng đầu; Lực lượng đặc biệt do Lê Quang Tung đứng đầu. Các tổ chức này tùy theo vị trí, không chỉ trực tiếp tham gia vào guồng máy chính quyền Việt Nam cộng hòa, mà còn có nhiệm vụ theo dõi, giám sát hoạt động của các tổ chức chính trị và xã hội khác. Tạo dựng cơ sở pháp lý cho chế độ Việt Nam cộng hòa, Ngô Đình Nhu trực tiếp tham gia soạn thảo Hiến pháp – văn bản luật cao nhất của chế độ. Do đó, bản Hiến pháp này, chịu ảnh hưởng của tư tưởng Duy linh - Nhân vị, cùng với sự khẳng định quyền lực tối cao của Tổng thống. Ban soạn thảo đã đưa vào Hiến pháp những những quy định tập trung quyền hành vào Tổng thống. Với chức vị chính thức là Dân biểu Quốc hội nhưng Ngô Đình Nhu chưa bao giờ bước chân đến tòa nhà lập pháp để tham dự sinh hoạt "nghị trường", cũng như làm trách nhiệm dân cử mà chỉ ngồi tại Dinh Độc Lập với vai trò cố vấn chính trị bên cạnh tổng thống. Danh xưng cố vấn chính trị của Ngô Đình Nhu chưa bao giờ là một chức vụ chính thức trong chính quyền như chức cố vấn được công khai hóa và qui chế hóa của Mỹ, Anh. Ngô Đình Nhu được gọi là "cố vấn", vì vai trò là người thân cận bên cạnh Tổng thống Ngô Đình Diệm và thường xuyên được ông này tham vấn. Với vai trò là "cố vấn chính trị" bên cạnh Tổng thống, Ngô Đình Nhu trở thành bộ não của chế độ, nơi khai sinh và điều khiển tất cả mọi sách lược của quốc gia. Với cái bề ngoài khôn khéo, tế nhị và kín đáo, ông tỏ ra phục tùng người anh Tổng thống, nhưng quyền hành thực sự lại nằm trong tay cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu. Với cơ sở đó, Ngô Đình Nhu thao túng bộ máy chế độ Việt Nam cộng hòa. Các hồi ký của các tướng lĩnh, nhân vật của chế độ Sài Gòn đã cho thấy, ở miền Nam Việt Nam không có điều gì mà Nhu không dám làm: rình rập cộng sự viên, bắt bớ một cách độc đoán những người tình nghi là đối lập, vu khống, xuyên tạc và thẳng tay thủ tiêu đối lập, lũng đoạn kinh tế. Buôn bán ma túy và dung túng cho tội phạm Cờ bạc ở Nam Việt Nam nói chung và ở Sài Gòn nói riêng, dưới chế độ Sài Gòn trở thành một vấn nạn lan tràn khắp nơi. Đại thế giới – Trung tâm cờ bạc của Sài Gòn có thời sánh ngang với các sòng bạc lớn của thế giới như Lasvegas, Monaco… Nhưng nó lại là một nguồn thu lớn của chính quyền và là nơi kiếm ăn béo bở cho những người có chức quyền, có thế lực. Từ năm 1950 trở đi, việc cai quản các sòng bạc ở Đại thế giới do Bảy Viễn (thân tín của Bảo Đại) nắm quyền. Nhưng cùng với việc Bảo Đại bị hạ bệ, Bảy Viễn cũng mất quyền kiểm soát đối với Đại thế giới. Ban đầu, để tỏ ra xóa bỏ các tàn tích, tệ nạn, Ngô Đình Diệm cho thực hiện một chiến dịch triệt bỏ cờ bạc, thuốc phiện… Ông ta ra lệnh đốt hết các dụng cụ hút xách, đóng cửa các sòng bạc ở Sài Gòn. Tuy nhiên không bao lâu sau, Đại thế giới lại mở cửa trở lại. Không ai khác, người thay thế Bảy Viễn làm "bảo kê" cho các hoạt động ma túy, mại dâm, cờ bạc tại Sài Gòn chính là Ngô Đình Nhu. Động cơ của hành động này là Ngô Đình Nhu có một khoản tiền kha khá để duy trì hoạt động của các cơ quan tình báo và mật vụ dưới quyền. Ngoài ra từ năm 1958, Ngô Đình Nhu bắt đầu tổ chức vận chuyển thuốc phiện từ Lào về Sài Gòn để tiêu thụ một phần tại đây, phần còn lại được vận chuyển sang Marseille, Pháp. Bonaventure Francisci (người thuộc băng đảng Marseille – một tập đoàn tội phạm quốc tế) và Ngô Đình Nhu đã hình thành một cơ chế làm ăn rất chặt chẽ. Francisci vận chuyển thuốc phiện đến Sài Gòn cho các ổ hút của Nhu bằng các máy bay của mình. Các máy bay này nằm dưới cái lốt là Hãng Hàng không Thương mại Lào. Dựa vào quyền lực của mình trong chính phủ Sài Gòn, Ngô Đình Nhu đảm bảo cho các máy bay chở đầy thuốc phiện này không bị ai kiểm tra phiền toái trong cuộc hành trình. Trong năm 1961-1962, Ngô Đình Nhu còn huy động Đội vận tải số 1 của riêng mình đi vận chuyển thuốc phiện. Đội bay này của Ngô Đình Nhu vốn chuyên dùng cho việc hoạt động tình báo trên không. Ngoài việc tổ chức vận chuyển thuốc phiện về Sài Gòn cho các con nghiện hút, Nhu cũng khuyến khích việc biến Sài Gòn thành một điểm trung chuyển thuốc phiện từ Lào sang Marseille. Thuốc phiện từ Lào qua Sài Gòn sang Marseille sẽ được chế biến thành bạch phiến chất lượng cao để bán cho các trùm ma túy ở Mỹ. Theo cuốn sách "Vụ ám sát Ngô Đình Diệm và J.F. Kennedy" của Bradley S. O'Leary & Edward Lee viết: "Cho nên, về căn bản, tập đoàn Marseille, Mafia Mỹ, và chính quyền Ngô Đình Diệm đã biến thành những đối tác làm ăn của nhau trong mạng lưới ma tuý toàn cầu. Có nghĩa là tiền tỉ – tiền tấn – chảy vào túi người nào có dính dáng, dĩ nhiên là thế. Và nguồn suối mạnh mẽ không ngừng phát sinh ra tiền bạc và sức mạnh này chính là Ngô Đình Nhu". Thất thế và bị ám sát Tuy nhiên, do những hoạt động chính trị của mình, ông bị xem là có trách nhiệm cho sự sụp đổ của nền Đệ Nhất Cộng hòa, đặc biệt là việc trấn áp Phật giáo trong biến cố Phật giáo, 1963 khiến chính phủ Việt Nam Cộng hòa mất uy tín và bị phân hóa. Ngày 23/8/1963 tướng Lê Văn Kim cho Rufus Phillips, Giám đốc Ủy ban Hoa Kỳ về Phát triển Nông thôn, biết có 1426 tu sĩ Phật giáo bị bắt. Tất cả chất nổ và vũ khí tìm thấy trong các chùa là được gài vào. Dân chúng tin rằng Quân lực Việt Nam Cộng hòa đang giữ trách nhiệm đàn áp Phật tử và đang chuyển dư luận sang chống đối quân đội trong khi quân đội chỉ hành động như con rối trong tay Cố vấn Ngô Đình Nhu, người đã lừa gạt quân đội trong việc ban hành thiết quân luật. Các lãnh đạo quân đội như tướng Tôn Thất Đính và Trần Văn Đôn, không biết gì về các kế hoạch tấn công chùa Xá Lợi và các chùa khác. Chiến dịch đó thực hiện bởi Lực lượng Đặc biệt của Đại tá Lê Quang Tung và cảnh sát dã chiến theo lệnh bí mật của Ngô Đình Nhu. Ngô Đình Nhu hiện nắm quyền kiểm soát, và Tướng Đôn đang nhận lệnh trực tiếp từ ông ta. Nếu tình hình này không sửa chữa và nếu dân chúng không được biết sự thật, quân đội sẽ bị tê liệt một cách nghiêm trọng trong cuộc chiến chống Cộng. Anh em Ngô Đình Diệm-Ngô Đình Nhu bắt đầu bất đồng từ đầu năm 1963. Vì trận thua nặng của quân đội Việt Nam cộng hòa tại trận Ấp Bắc, khi đó tại Nam Việt Nam đã có 12.000 cố vấn quân sự Mỹ. Giới quân sự Mỹ kinh ngạc và liên tục chê bai khả năng quân sự của các tướng Việt Nam Cộng Hòa và đòi để các tướng Mỹ chỉ huy các cuộc hành quân hỗn hợp. Thượng nghị sĩ Mansfield, người vốn ủng hộ chính quyền Ngô Đình Diệm trong nhiều năm trước, đã làm bản phúc trình lên Tổng thống Mỹ với kết luận nghiêm khắc đối với chính phủ Diệm. Ngô Đình Nhu tỏ ra bất mãn về việc chính quyền Việt Nam cộng hòa hoàn toàn phải nghe theo những khuyến cáo quân sự của người Mỹ nên quyết định tìm hướng đi mới. Ông có ý định yêu cầu Mỹ rút bớt cố vấn quân sự về nước và tìm cách tiếp xúc với chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người ta đánh giá rằng việc này là quyết định riêng của Ngô Đình Nhu, còn Ngô Đình Diệm không có được sự uyển chuyển về chính trị như vậy. Ngô Đình Nhu nhận thấy sự đe doạ của người Mỹ đối với anh em ông nên muốn tìm lối thoát và tìm cách bí mật thương thuyết với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Hà Nội. Linh mục Cao Văn Luận và giáo sư Bửu Hội đã xác nhận là đã từng thấy Ngô Đình Nhu thổ lộ ý định này. Vào tháng 5/1963, tờ Washington Post tiết lộ thông tin từ đại sứ Pháp tại Sài Gòn xác nhận ý định của Ngô Đình Nhu muốn Mỹ rút đi một nửa cố vấn quân sự. Do những ý định mới của Ngô Đình Nhu, Mỹ bắt đầu tìm cách thay thế Ngô Đình Diệm, cắt một nửa viện trợ cho chính quyền Sài Gòn. Tháng 7/1963, đại sứ Mỹ Nolting, người bị xem là quá bao che cho chính quyền Ngô Đình Diệm, bị thay thế. Cùng lúc đó nổ ra biến cố Phật giáo, 1963 làm chính phủ Sài Gòn càng lung lay. Người Mỹ đã ủng hộ một số tướng lĩnh Việt Nam cộng hòa lật đổ tổng thống Ngô Đình Diệm. Đêm 21 tháng 8 năm 1963, Ngô Đình Nhu ra lệnh cho hàng trăm lính dùng súng, lựu đạn và lựu đạn cay tấn công chùa Xá Lợi, hơn 100 nhà sư đã bị bắt và đem giam ở một nơi khác. Trong cuộc phỏng vấn ngày hôm sau, ký giả Halberstam mô tả vợ ông Nhu là bà Trần Lệ Xuân "đang ở trong trạng thái hớn hở, nói liến thoắng như một nữ sinh sau buổi nhảy đầm". Bà tuyên bố rằng chính quyền đã nghiền nát nhóm "Phật tử Cộng sản" và cho biết đây là "ngày vui nhất trong đời tôi kể từ ngày chúng tôi đánh tan quân Bình Xuyên năm 1955." Về sự tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức, bà Xuân còn châm dầu vào lửa khi phát biểu: "Cứ để cho họ (các nhà sư) bốc cháy và chúng tôi sẽ vỗ tay", và "Tôi sẽ vỗ tay khi thấy một buổi trình diễn thịt nướng nhà sư khác". Những phát biểu thiếu cân nhắc và quá khích của bà như rót thêm dầu vào tình hình căng thẳng lúc đó. Cha vợ của ông Nhu là Trần Văn Chương, đại sứ của chính phủ Ngô Đình Diệm tại Washington lúc bấy giờ, đã từ chức để phản đối thái độ đàn áp Phật giáo của anh em Diệm - Nhu. Trong một cuộc phỏng vấn trên phương tiện truyền thông, Ngô Đình Nhu đã phản ứng bằng cách thề sẽ giết bố vợ, tuyên bố vợ mình cũng sẽ tham gia. Ngô Đình Nhu nói: "Tôi sẽ cắt đầu lão ta. Tôi sẽ treo lão ta ở giữa quảng trường và để lão ấy treo lủng lẳng ở đó. Vợ tôi (Trần Lệ Xuân) sẽ thắt nút treo cổ vì cô ấy tự hào là người Việt Nam và cô ấy là một người yêu nước" Mẹ vợ ông Nhu thì dự đoán rằng nếu anh em Diệm, Nhu và Trần Lệ Xuân không sớm chạy khỏi Việt Nam thì tất cả sẽ bị giết Tập đoàn Oram, công ty PR Madison Avenue được thuê để quảng bá hình ảnh của Ngô Đình Diệm ở Mỹ với giá 3.000 đôla mỗi tháng, nhưng họ đã phải chấm dứt hợp đồng ngay trong tháng 10/1963 với lý do: hình ảnh của chính phủ Ngô Đình Diệm ở Mỹ đã tồi tệ đến nỗi không gì có thể cứu vãn được. Ngày 1 tháng 11 năm 1963, các tướng lĩnh đã thực hiện cuộc đảo chính quân sự lật đổ tổng thống Ngô Đình Diệm. Ngô Đình Nhu và người anh phải chạy trốn vào nhà thờ Cha Tam. Ngày 2 tháng 11 năm 1963, Hai anh em Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị đại úy Nguyễn Văn Nhung giết bằng lưỡi lê và súng lục trong chiếc xe bọc thép M-113, theo lệnh của tướng Dương Văn Minh khi chiếc xe đang trên đường tới Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Theo chứng nhận của bác sĩ Huỳnh Văn Hưỡn, là người đã tiến hành vụ khám nghiệm thì anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu bị bắn từ sau gáy ra phía trước. Thi thể Ngô Đình Diệm có nhiều vết bầm, chứng tỏ đã bị hành hung trước khi bị bắn. Còn thi thể Ngô Đình Nhu thì bị đâm nhiều nhát, áo rách nát và đầy máu. Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu được chôn ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi (vị trí ở đường Điện Biên Phủ cắt với đường Hai Bà Trưng, ngày nay là Công viên Lê Văn Tám). Áo quan của Ngô Đình Diệm hình hộp, áo quan của Ngô Đình Nhu có nắp tròn. Một nhân chứng thời kỳ này giải thích vì người thân của hai ông đi mua vội quan tài nên chỉ mua được một chiếc hạng tốt dành cho ông Ngô Đình Diệm, còn chiếc hạng vừa dành cho ông Ngô Đình Nhu. Trong khoảng thập niên 1980, do nhu cầu phát triển đô thị trong nội đô Sài Gòn, nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi được di dời về nghĩa trang Lái Thiêu (Nghĩa trang Nhân dân số 6B) ngày nay. Hiện tại, mộ Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu chính thức đặt tại nghĩa trang Lái Thiêu. Mộ hai người nằm hai bên mộ mẹ - bà Phạm Thị Thân. Ngoài ra, mộ Ngô Đình Cẩn cũng được dời về gần đó. Gia đình riêng Ngô Đình Nhu kết hôn với Trần Lệ Xuân năm 1943 và có với nhau 4 người con, 2 trai 2 gái. Ngô Đình Lệ Thủy (1945): chết vào năm 1967 trong một tai nạn xe hơi. Ngô Đình Trác (1949) Ngô Đình Quỳnh (1952) Ngô Đình Lệ Quyên (1959): thiệt mạng trong một tai nạn giao thông tại Roma năm 2012. Hình ảnh trong văn học và điện ảnh Hình ảnh ông Ngô Đình Nhu được thể hiện qua một nhân vật trong tiểu thuyết Ông cố vấn: Hồ sơ một điệp viên của nhà văn Hữu Mai, và được phác họa qua một nhân vật trong bộ phim Ván bài lật ngửa, kịch bản của Nguyễn Trương Thiên Lý. Nhận xét Tướng Cao Văn Viên, trong một cuộc phỏng vấn cuối đời, đã có nhận định về Ngô Đình Nhu cũng như so sánh Ngô Đình Nhu với Ngô Đình Diệm như sau: Thực lực của đảng Cần Lao Nhân Vị - chính đảng do Ngô Đình Nhu lập ra, cũng được Cao Văn Viên nhận xét: Đỗ Mậu – một người từng ở bên cạnh nhà Ngô Đình, trong hồi ký đã viết : Tác phẩm Les moeurs et les coutumes des Annamites du Tonkin au xviie siècle (Những phong tục và tập quán của người An Nam ở Đàng Ngoài thế kỷ XVII), luận văn ở École nationale des chartes, 1938. Tùng Phong, Chính đề Việt Nam, Nhà xuất bản Đồng Nai, Sài Gòn, 1964. (Có người cho Tùng Phong là Ngô Đình Nhu, cũng có người cho Tùng Phong là Lê Văn Đồng. Hiện nay, ai là tác giả thật sự của Chính đề Việt Nam vẫn chưa được xác định thống nhất.) Trong khoảng thời gian từ tháng 2 năm 1938 đến giữa năm 1942, cộng tác với Paul Boudet và Rémi Bourgeois biên soạn và xuất bản các tập 2, 3 và 4 của bộ Đông Dương pháp chế toàn tập (Recueil général de la Legislation et de la Règlementation de l’ Indochine). Chú thích
Ali Baba và bốn mươi tên cướp là một trong những truyện đặc sắc nhất trong bộ truyện Nghìn lẻ một đêm của Ba Tư. Nhân vật Chính Ali Baba (thường được viết Alibaba): một chàng trai nghèo làm nghề đốn củi. Morgiana: người hầu của Ali Baba, người đã giúp Ali Baba thoát khỏi tướng cướp. Kasim: anh trai của Ali Baba, tham lam, giàu có. 40 tên cướp Phụ Ông thợ giày Vợ Kasim Tóm tắt nội dung Ali Baba và người anh trai, (tiếng A-rập: قاسم Qāsim) Cassim (hay Kasim), là hai người con của một nhà buôn nọ. Sau khi người cha qua đời, Cassim, một người tham lam, kết hôn với một phụ nữ giàu có và sống một cuộc sống sung túc, ngoài ra còn dành luôn cả công việc buôn bán của cha mình. Còn Ali Baba kết hôn với một phụ nữ nghèo và trở thành một tiều phu để sinh sống. Một ngày nọ, Ali Baba đang kiếm củi trong rừng, anh vô tình nghe lén được một băng cướp gồm 40 tên đang che giấu kho báu của chúng. Chúng giữ kho báu trong một cái hang, miệng hang được chặn bởi một tảng đá lớn. Câu thần chú để mở và đóng cửa hang là: "Vừng ơi! Mở ra!" và "Vừng ơi! Đóng lại". Đợi bọn cướp đi hết rồi, Ali Baba lén vào hang và trộm một túi vàng đem về nhà. Vợ chồng Ali Baba xin mượn cái cân của chị dâu để cân số của cải mới tìm được. Họ không biết rằng vợ của Cassim đã bôi một lớp sáp lên cái cân kia để tìm ra mục đích Ali Baba sử dụng chúng để làm gì, bởi vì cô ta tò mò đứa em rể bần hàn của mình có gì đáng giá để mà cân. Sau đó, cô ta đã bất ngờ khi tìm được một đồng vàng dính trên cái cân và báo ngay với chồng. Người anh tham lam ra sức ép buộc Ali Baba tiết lộ về cái hang kỳ lạ kia. Cassim tìm đến cái hang, dắt theo một con lừa để chở nhiều của cải nhất có thể. Gã mở được cửa hang do biết câu thần chú được Ali Baba chỉ. Tuy nhiên, do quá phấn khích khi tìm được kho báu, gã quên mất câu thần chú và mắc kẹt lại trong hang. Bọn cướp khi ấy trở về hang, tìm thấy và giết chết Casim. Khi thấy anh trai lâu quá không trở về, Ali Baba đi đến cái hang để tìm anh mình, đến nơi anh thấy thi thể của anh trai đã bị bọn cướp cắt ra thành từng mảnh và bày trước cửa hang, như một lời cảnh báo cho những ai dám bước vào hang của chúng. Ali Baba đem thi thể anh mình về nhà và giao phó cho Morgiana (tiếng A-rập: مرجانة Murjāna), một nữ nô lệ thông minh trong nhà của Cassim, tìm cách thu xếp cái chết của Cassim để mọi người không nghi ngờ. Đầu tiên, Morgiana đi mua một vài loại thuốc, nói với mọi người là Cassim bệnh rất nặng. Sau đó, cô tìm một thợ may già tên là Baba Mustafa để dẫn về nhà Cassim với điều kiện ông phải bịt kín mắt thì mới được trả công. Tại đây, lão thợ may nối lại cơ thể của Cassim suốt cả đêm. Ali Baba và gia đình có thể chôn cất Cassim tử tế mà không ai nghi ngờ điều gì. Khi đó, bọn cướp thấy thi thể Cassim biến mất, nhận ra rằng chắc chắn phải có kẻ khác biết được bí mật của chúng, và lập tức lên đường truy lùng tên đó. Một tên trong số bọn chúng tìm ra và xét hỏi Baba Mustafa, ông kể lại rằng ông đã từng khâu lại một thi thể. Tên cướp lập tức yêu cầu Baba Mustafa dẫn đường đến ngôi nhà đó. Mặc dù bị bịt mắt lần nữa, nhưng ông ta vẫn lần ra được ngôi nhà. Tên cướp liền đánh dấu lên cánh cửa ngôi nhà đó để truyền tin đến các đồng bọn, nửa đêm sẽ quay lại giết sạch người ở đây. May thay, Morgiana đã chứng kiến điều đó, và nghĩ ra kế hoạch phá bọn cướp bằng cách đánh dấu y chang lên toàn bộ ngôi nhà gần đó. Đến nửa đêm, khi 40 tên cướp đến, chúng không nhận ra ngôi nhà nào được đánh dấu, tên thủ lĩnh tức giận giết chết tên cướp kia. Hôm sau, một tên khác tìm đến Baba Mustafa và thử lại. Lần này, hắn làm nứt bậc đá trước cửa nhà Ali Baba để làm dấu. Morgiana lại dùng cách cũ để bọn cướp nhầm lẫn một lần nữa, và tên cướp đó cũng bị giết chết. Cuối cùng, tên thủ lĩnh tự mình đi tìm ngôi nhà. Lần này, hắn ghi nhớ tất cả chi tiết ngôi nhà của Ali Baba để không bị nhầm nữa. Tên thủ lĩnh tìm đến nhà Ali Baba giả dạng thành một gã buôn dầu, dẫn theo nhiều con la vác 38 hũ dầu nặng, chỉ có một hũ là chứa dầu, còn lại 37 hũ, mỗi hũ chứa 1 tên cướp bên trong. Chúng đợi Ali Baba ngủ sẽ xông ra giết anh. Một lần nữa, Morgiana phát hiện kịp thời, cô đổ dầu đã đun sôi vào 37 cái hũ làm bọn cướp chết hết. Khi tên thủ lĩnh định đánh thức đồng bọn, hắn phát hiện cả bọn đã chết hết rồi nên bỏ trốn. Sáng hôm sau, Morgiana nói lại với Ali Baba về lũ cướp. Họ chôn chúng, và Ali Baba trả tự do cho Morgiana để tỏ lòng biết ơn. Để trả thù, tên thủ lĩnh cải trang thành một nhà buôn, tìm cách làm thân với con trai của Ali Baba (hiện giờ đã tiếp nối công việc của Cassim), và được mời đến nhà ăn tối cùng Ali Baba. Morgiana nhận ra tên cướp, cô giả vờ múa kiếm để giải trí cho mọi người và phóng dao đâm vào tim hắn. Ali Baba lúc đầu giận dữ với Morgiana, nhưng khi hiểu ra mọi chuyện, cảm thấy rất khâm phục và cưới cô cho con trai của mình. Ali Baba bây giờ trở thành người duy nhất biết được bí mật kho báu của cái hang kỳ lạ. Bài học Ali Baba và Morgiana là những nhân vật tiêu biểu cho lòng trung hậu, trí thông minh, tinh thần dũng cảm của nhân dân lao động Ả Rập thời xưa. Họ đã chiến thắng các thế lực hung hãn một cách tài tình, xứng đáng được hưởng hạnh phúc trong cuộc đời. Thần chú Một số câu thần chú mà Kasim đã thử dùng để mở cửa hang: Lúa mạch ơi! Mở ra! Đại mạch ơi! Mở ra! Đậu ơi! Mở ra! Hắc mạch ơi! Mở ra! Kê ơi! Mở ra! Đậu ván ơi! Mở ra! Ngô ơi! Mở ra! Lúa mỳ ơi! Mở ra! Gạo ơi! Mở ra! Trong văn hoá Bài hát Senor Alibaba của nhóm nhạc Los Garcia (sáng tác 1985) đã được nhạc sĩ Lê Quốc Thắng (hoặc có nguồn cho là Lê Hựu Hà) phổ lời Việt. Bản của Lê Hựu Hà sáng tác dành cho ca sĩ Nhã Phương và người thể hiện thành công nhất là Nghệ sĩ ưu tú Hồng Kỳ, trong khi đó bản lời Việt của Lê Quốc Thắng được Xuân Mai thể hiện thành công trong chương trình Con Cò Bé Bé 13 và 16, và cũng được Quang Vinh thể hiện thành công trong liveshow "Hoàng tử Sơn Ca – Vào Đời" vào năm 2003. Tên Ali Baba trong chiến tranh Iraq Cái tên "Ali Baba" thường được sử dụng thành từ lóng trong quân đội Hoa Kỳ và quân đội Iraq để diễn tả những kẻ ăn trộm và cướp phá. Lính Anh cũng hay gọi người dân Iraq là "Ali Baba". Sau khi Hoa Kỳ thành công lật đổ chính phủ độc tài của Iraq vào năm 2003, cái tên "Ali Baba" đã trở thành tên gọi của những người khởi nghĩa chống lại quân đội Hoa Kỳ. Cái tên này có thể ví với tên Charlie để nói tới Việt Cộng trong chiến tranh Việt Nam. Cái tên "Ali Baba" còn được người Iraq sử dụng để gọi những người ngoại quốc cướp bóc. Các nhà báo trong giới tiếng Anh đã nhầm lẫn từ "Ali Baba" là từ lóng bản địa.
Cà cuống (có khi còn được gọi là đà cuống 佗誑 hay long sắt 龍蝨, tên khoa học: Lethocerus indicus Lep. et Serv.) là một loại côn trùng thuộc họ Chân bơi Belostomatidae sống dưới nước, thuộc bộ Cánh nửa (Hemiptera). Đặc điểm Cà cuống là một trong những nhóm côn trùng có kích thước lớn nhất hiện nay, có cơ thể dẹt, hình lá, màu vàng xỉn hoặc nâu đất, dài trung bình từ 7–8 cm, có con lên đến 10–12 cm. Khi còn non cà cuống giống như con gián, mình dài khoảng 7–8 cm, rộng 3 cm, màu nâu xám, có nhiều vạch đen, đầu nhỏ với hai mắt tròn và to, miệng là một ngòi nhọn hút thức ăn. Ngực dài bằng 1/3 thân, có 6 chân dài, khỏe. Bụng vàng nhạt có lông mịn, ở phía trên có một bộ cánh mỏng nửa mềm nửa cứng. Cà cuống có một bộ máy tiêu hóa dài khoảng 4–5 cm, gồm có một ống đầu trên nhỏ là cuống họng, đầu dưới phình to chứa một thứ nước có mùi hôi. Sát ngay bầu chứa nước nầy là hai ngòi nhọn mà con cà cuống có thể thò ra thụt vào được. Ở dưới ngực, ngay gần phía lưng, có hai ống nhỏ gọi là bọng cà cuống. Mỗi bọng dài khoảng 2–3 mm, rộng 2–3 mm, màu trắng, trong chứa một chất thơm, đó là tinh dầu cà cuống. Ở con đực tuyến này phát triển mạnh hơn con cái. Tinh dầu cà cuống nhẹ hơn nước, cho thoảng ra một mùi đặc biệt gần giống như mùi quế. Nguồn gốc tên gọi tại Việt Nam Trong cuốn Thương nhớ mười hai, nhà văn Vũ Bằng kể: Tục truyền rằng Triệu Đà là người đầu tiên ở nước ta ăn cơm với con cà cuống. Thấy thơm một cách lạ lùng, ông ta gửi dâng vua Hán một mớ và gọi là quế đố nghĩa là con sâu cây quế. Vua Hán nếm thử thì nhận rằng nó giống mùi quế thực, khen ngon và phân phát cho quần thần mỗi người một con. Bất ngờ, trong đám có một ông lắm chuyện lại tâu rằng: "Đó không phải là con sâu sống trong cây quế (quế đố), mà chỉ là một con sâu sống dưới nước" (thủy đố). Vua mới phán rằng: "Thử nãi Đà chi cuống dã" (此乃佗之誑也 - Đó là lời nói láo của Đà). Dần dần chữ Đà Cuống đọc chệch ra thành Cà Cuống. Nó còn có một tên nữa là long sắt nghĩa là "rận rồng". Trước Vũ Bằng, sự tích nói trên từng được cụ Nguyễn Công Tiễu, tốt nghiệp Trường Cao đẳng Công nghiệp và Lâm nghiệp Đông Dương, cán bộ Sở Công nghiệp, kể lại trong Tạp chí Kinh tế Đông Dương với lời phán của hoàng đế Trung Hoa có phần khác: "Nam Việt hà nhân quế đố, anh hùng vị tất bất khi nhân", tuy vẫn cùng hàm ý chế nhạo. Đặc tính sinh sống Cà cuống có thể sống trên bờ hoặc nơi hồ, ao, đầm hay các ruộng lúa nước. Chúng có thể bơi lội nhờ các đôi chân bè, kẹp chặt mồi nhờ các móng nhọn. Tuy bay không khỏe nhưng về đêm, cà cuống có thể bay từ dưới ruộng lúa lên bờ đến những nơi có ánh đèn điện vì chúng rất nhạy cảm với kích thích của ánh sáng điện. Cà cuống rất háu ăn, chúng tấn công và hút máu của nhiều động vật thủy sinh như: tôm, tép, trai, nòng nọc, nhái, cá con v.v. Hiện nay, do lạm dụng dụng thuốc bảo vệ thực vật, cà cuống đã rất hiếm gặp ở Việt Nam. Tại Campuchia, Thái Lan, cà cuống được bán với giá khá đắt. Ẩm thực với cà cuống Món cà cuống Cà cuống có thể được chế biến làm thức ăn cho người. Theo sử sách thì từ 200 năm trước Công nguyên, cà cuống đã được xếp vào loại sơn hào hải vị của người Việt để cống nạp cho Trung Hoa với tên gọi con sâu quếỞ Á châu, cà cuống thường được dùng toàn cơ thể làm thức ăn, từ Ấn Độ, Thái Lan, Myanmar qua Trung Hoa, Singapore, Indonesia. Người Trung Quốc ăn cà cuống theo kiểu luộc thêm một chút muối ở Quảng Châu, hoặc xào trong dầu mè ở Bắc Kinh. Ở Singapore, fwai fa shim im là một món cà cuống được ưa chuộng. Người Thái Lan gọi cà cuống là mangda. Họ trộn nhuyễn toàn cơ thể, có khi vứt bỏ mắt, cánh và những bộ phận xơ cứng, với hành, kiệu, ớt, đường, thêm vào nước chanh, nước mắm thành một thứ bột nhão gọi là nam prik mangda để ăn với cơm hay rau. Tại miền Bắc Việt Nam, cà cuống được loại chân, cánh, đuôi phụ rồi hấp cách thủy trong một cái chõ hay nướng trên lò than để ăn. Cũng có khi người chế biến để nguyên con đem thái nhỏ rồi xào mỡ để ăn ngay hay ướp muối để tích trữ. Cà cuống cái không có bọng tinh dầu thơm nên thường người ta chỉ ăn trứng; hoặc rang, chiên lẫn cà cuống cái với cà cuống đực thành món chiên cà cuống. Gia vị cho món ăn Bọng tinh dầu ở gáy cà cuống đực, thoang thoảng mùi hương quế rất khó tả, là gia vị quý giá được pha chế vào nước mắm, không thể thiếu trong các món ăn truyền thống như bún chả, bún thang, chả cá, bánh cuốn, nhân bánh chưng và chính nó làm cho các món ăn nói trên có hương vị nổi tiếng của nghệ thuật ẩm thực Hà Nội truyền thống. Nếu có ít cà cuống, thường người ta thường hấp hoặc nướng chín cà cuống để tinh dầu lan tỏa toàn thân. Sau đó băm nhỏ hoặc để nguyên con và cho vào lọ nước mắm ngon, khi sử dụng thì lấy ra vài giọt để pha vào một số món ăn; pha vào nước mắm dùng cho bún chả, bánh cuốn; chế vào nước dùng của bún thang; và pha vào mắm tôm khi ăn chả cá. Cũng không hiếm khi nước mắm cà cuống được gia thêm vào giò lụa, nhân bánh chưng. Tinh dầu cà cuống đã được làm nhân tạo tại Thái Lan, nhưng hương vị thua xa cà cuống thiên nhiên. Thành ngữ Việt Nam Cà cuống chết đến đít còn cay. Dùng để chỉ những kẻ ngoan cố, bảo thủ, cố chấp, cay cú trước sự thất bại hoặc cái sai rành rành của mình.Cà cuống đem cho người ngạt mũi.''
Pin nickel hydride kim loại, viết tắt NiMH, là một kiểu pin sạc tương tự như pin nickel cadmi (NiCd) nhưng sử dụng hỗn hợp hấp thu hydride cho anốt thay cho cadmi, vốn là một chất độc hại; vì thế, nó không gây ô nhiễm nhiều cho môi trường. Một pin NiMH có thể có điện dung lớn gấp hai đến ba lần so với pin NiCd cùng kích thước và hiệu ứng nhớ cũng nhỏ hơn. Tuy nhiên, khi so sánh với pin Li-ion, mật độ thể tích năng lượng của nó thấp hơn và độ tự xả (self-discharge) cao hơn. Các ứng dụng của pin nhiên liệu kiểu NiMH gồm xe hybrid (như mẫu Toyota Prius) và các thiết bị điện tử. Kỹ thuật NiMH cũng được sử dụng cho tàu điện sàn thấp (như các mẫu do hãng Alstom Citadis tại Nice, Pháp, chế tạo); cũng như cho người máy dạng người (ví dụ ASIMO của Honda). Các pin NiMH tiêu chuẩn phù hợp với các thiết bị tiêu hao nhiên liệu mức trung bình như máy ảnh số, đèn chớp, và các loại thiết bị điện tử khác, nhưng, bởi vì pin NiCd có mức trở kháng thấp, chúng vẫn được dùng cho các thiết bị dùng dòng cao như các công cụ không dây và ô tô điều khiển từ xa. Sạc Khi sạc nhanh, nên sạc các pin NiMH bằng một máy sạc pin thông minh để tránh sạc quá mức, có thể gây hư hỏng pin và tạo ra những điều kiện nguy hiểm. Các pin NiMH hiện đại có chứa các chất xúc tác để phản ứng ngay lập tức với các loại khí sinh ra trong quá trình sạc quá mức để pin không bị tổn hại (2 H2 + O2 ---xúc tác--> 2 H2O). Tuy nhiên, nó chỉ làm việc khi dòng điện lên tới C/10 h (điện dung danh nghĩa được chia cho 10 tiếng). Vì có phản ứng này, pin sẽ nóng lên rất nhiều, đánh dấu sự kết thúc quá trình sạc. Một số máy sạc nhanh có quạt để giữ pin mát. Một số nhà sản xuất thiết bị cho rằng pin NiMH có thể được sạc một cách an toàn và đơn giản với các sạc pin dòng điện (thấp) ổn định, có hay không có đồng hồ tính giờ và rằng việc thường xuyên sạc quá mức cũng có thể cho phép với các dòng lên tới cỡ C/10 h. Trên thực tế, hình thức này được áp dụng cho các điện thoại bàn không dây và các loại sạc pin rẻ tiền. Dù có thể là an toàn, thì điều đó cũng không tốt cho tuổi thọ pin. Theo cuốn hướng dẫn sạc pin NiMH của Panasonic , thiết bị nạp điện thường xuyên (sạc quá mức dòng nhỏ) có thể khiến pin bị hỏng và tỷ lệ nạp điện có thể được giới hạn tới mức giữa 0,033×C trên giờ và 0,05×C trên giờ cho tối đa 20 giờ để tránh làm hỏng pin. Việc sạc pin NiMH trong quy trình bảo quản dài hạn pin cần dùng các xung theo chu kỳ phục vụ với dòng điện cao thay cho dùng dòng điện thấp trong thời gian dài để bảo quản tuổi thọ cho pin. Pin mới hay pin không sử dụng trong một khoảng thời gian cần được sạc đầy trước khi sử dụng. Cũng vì lý do này các pin mới có thể phải cần trải qua vài quá trình sạc/xả trước khi đạt mức điện dung công bố. Xả Cần thận trọng khi tiến hành xả pin nhằm đảm bảo một hay nhiều viên pin trong một loạt pin nối kết với nhau, tương tự như hai hay bốn viên pin AA trong một máy ảnh số, không bị xả hết toàn bộ và rơi vào tình trạng đảo cực. Các viên pin không bao giờ hoàn toàn giống nhau, và vì thế không tránh được tình trạng một viên sẽ bị xả hết hoàn toàn trước các viên khác. Khi điều này xảy ra, viên pin "tốt" sẽ bắt đầu "biến" viên đã xả hết đảo chiều, điều này có thể khiến viên pin đó hỏng hoàn toàn. Một số máy ảnh, thiết bị định vị toàn cầu và PDA dò điện áp chấm dứt xả an toàn của toàn bộ một nhóm pin và chấm dứt quá trình xả, nhưng các thiết bị khác như đèn chớp và một số đồ chơi không có chức năng này. Khi nhận thấy đèn tối hoặc thiết bị hoạt động chậm lại, cần ngay lập tức tắt thiết bị để tránh tình trạng đảo cực. Đối với thiết bị chỉ sử dụng một viên pin, tình trạng đảo cực sẽ không xảy ra, bởi vì không có viên pin nào khác sạc ngược cho nó khi nó đã xả hết. Pin NiMH có tỷ lệ tự xả cao hơn pin NiCd. Tỷ lệ tự xả trong ngày đầu tiên thường ở mức 5-10% , và ổn định trong khoảng 0,5-1% mỗi ngày ở nhiệt độ phòng. Tỷ lệ này bị ảnh hưởng lớn bởi nhiệt độ bảo quản pin. Lịch sử và các thông tin khác Kỹ thuật pin NiMH được Ovonic Battery, một chi nhánh của ECD Ovonics có trụ sở tại Michigan phát triển (www.ovonic.com), một trong những người đồng sáng lập công ty này trong thập kỷ 1950 là nhà vật lý học Stanford R. Ovshinsky và vợ ông Iris Ovshinsky. Các pin NiMH bắt đầu được bán ra công chúng năm 1983. Những pin tiểu (AA) thông thường có điện dung danh nghĩa C từ 1100mAh tới 2700mAh ở mức điện áp hoạt động 1,2V, thường được xếp vào loại pin cỡ 0,2C. Điện dung xả hữu dụng là số nghịch đảo của tốc độ xả, nhưng với điện dung hữu dụng cỡ 1C trở lên, không có sự khác biệt rõ rệt. Các pin NiMH có chất điện phân kiềm, thường là kali hyđrôxít. Mật độ khối lượng năng lượng đặc trưng của nguyên liệu NiMH xấp xỉ 60 W·h/kg (220 kJ/kg), với mật độ thể tích năng lượng khoảng 100 W·h/L (360 MJ/m³). Hóa học NiMH là viết tắt của Nickel Metal Hydride (kền kim loại hy-đrua). Phản ứngAnode xảy ra trong một pin NiMH như sau: H2O + Mm + 2e- ↔ OH- + 0.5H2 (được tích trữ thành Mm-Hx) Pin được sạc theo vế phải của phương trình này và xả theo vế trái. Mm biểu thị mischmetal. Cần nhớ rằng hydro sinh ra trong quá trình sạc được trữ ở dạng Mm-Hx, hydride kim loại của pin. Nó không sinh ra ở dạng khí. Nickel(II) hydroxide tạo thành cathode. "Kim loại" trong một pin NiMH trên thực tế là hỗn hợp liên kim loại (intermetalic). Nhiều hợp chất khác nhau đã được nghiên cứu cho ứng dụng này, nhưng những hợp chất thường sử dụng hiện nay được chia thành hai loại. Hợp chất thường thấy nhất là AB5, với A là một hỗn hợp đất hiếm và/hay titan và B là nickel, côban, măngan, và/hay nhôm. Các điện cực điện dung cao "đa thành phần" dựa trên các hỗn hợp AB2, với A là titan hay vanadi và B là zirconi hay nickel, được bổ sung crôm, cobalt, sắt hay mangan . Tất cả các hỗn hợp đó đều có cùng vai trò, có thể tạo thành một hỗn hợp các hợp chất hydride kim loại. Khi các ion hydro bị tách khỏi dung dịch điện phân kali hydroxide do điện áp tạo ra trong quá trình sạc, quá trình này ngăn chặn chúng tạo ra khí, cho phép giữ khối lượng và áp suất thấp. Khi pin xả điện, các ion tương tự được giải phóng để tham gia vào quá trình nghịch đảo. Các pin NiMH ít bị ăn mòn, vì thế nếu để chúng trong đèn chớp trong thời gian hơn một năm, chúng ít bị ăn mòn hơn so với các loại pin kiềm.
Phạm Phú Thứ (chữ Hán: 范富庶; 1821 – 1882), trước khi đỗ ,tên là Phạm Hào (khi đỗ Tiến sĩ được vua Thiệu Trị đổi tên là Phú Thứ/富庶), tự Giáo Chi (教之), hiệu Trúc Đường (竹堂), biệt hiệu Giá Viên (蔗園), thụy hiệu Văn Ý công (文懿公) là một đại thần nhà Nguyễn và là một trong số người có quan điểm canh tân nước Việt Nam trong những năm nửa cuối thế kỷ 19. Thân thế Phạm Phú Thứ sinh năm Tân Tỵ (1821) tại làng Đông Bàn, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (nay thuộc xã Điện Trung, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Ông xuất thân trong một gia đình Nho phong, tổ năm đời của ông vốn họ Đoàn, gốc Bắc Thành. Cha ông là Phạm Phú Sung, mẹ ông là Phạm Thị Cẩm (người làng Trừng Giang, và là con gái một ông đồ). Nhà nghèo, mẹ mất sớm, nhưng nhờ thông minh, chăm chỉ, và từng được Tùng Thiện Vương (Miên Thẩm) dạy dỗ, nên ông Thứ sớm có tiếng là người học giỏi. Quan lộ Làm quan lần thứ nhất Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), Phạm Phú Thứ dự thi Hương, đỗ Giải nguyên khi mới 21 tuổi. Năm sau (Quý Mão, 1843) dự thi Hội, ông cũng đỗ đầu (Hội nguyên). Khi vào thi Đình, ông đỗ luôn Tiến sĩ cập đệ. Buổi đầu (1844), ông được bổ làm Biên tu. Năm sau (1845), thăng ông làm Tri phủ Lạng Giang (nay thuộc tỉnh Bắc Giang), rồi thăng làm Thị độc. Một thời gian sau, vì có tang cha, ông xin nghỉ chức. Năm Tự Đức thứ 2 (1849), ông được chuyển qua Viện Tập hiền làm chức Khởi cư chú (thư ký ghi lời nói và hành động của vua), rồi sang tòa Kinh diên (phòng giảng sách cho vua). Năm 1850, thấy nhà vua ham vui chơi, lơ là việc triều chính, ông mạnh dạn dâng sớ can gián, nên bị cách chức và giam ở nhà lao Thừa Phủ (Huế). Xét án, triều đình khép ông vào tội đồ (đày đi xa); song nhà vua cho rằng đó chỉ là "lời nói khí quá khích, không nỡ bỏ, nhưng răn về (tính) nóng bậy", nên ông chỉ bị đày làm "thừa nông dịch" (lính trạm chuyên chạy về việc canh nông) ở trạm Thừa Nông (Huế). Phục chức, làm quan lần thứ nhì Năm 1852, ông được khôi phục hàm Biên tu (hàm lúc sơ bổ). Năm 1854, cử ông làm Tri phủ Tư Nghĩa thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Tại đây, ông tổ chức và vận động dân chúng lập được hơn năm mươi kho nghĩa thương để phòng khi chẩn tế cho dân. Với việc làm đó, ông được cử giữ chức Viên ngoại lang ở bộ Lễ. Năm 1855, ông được điều sang công tác quân sự để giải quyết cuộc bạo động của người Thượng ở Đá Vách (thuộc tỉnh Quảng Ngãi). Sau khi dẹp yên, ông được thăng chức Án sát sứ ở hai tỉnh là Thanh Hóa và Hà Nội. Năm 1858, ông được chuyển về làm việc ở Nội các tại Huế. Năm 1859, ông xin về quê để dưỡng bệnh và cải táng mộ cha. Khi trở lại triều, ông dâng sớ xin đắp đê Cu Nhí, đào sông Ái Nghĩa, đồng thời xây dựng công sự bố phòng và luyện tập quân sự ở tỉnh nhà (Quảng Nam). Năm 1860, từ Nội các, ông được thăng chức Thị lang bộ Lại, rồi thăng làm Thự Tham tri của bộ này. Đi sứ sang châu Âu Đầu năm 1863, sau khi vua Tự Đức xét trong mấy điều khoản trong Hòa ước Nhâm Tuất còn có chỗ chưa thỏa, liền sung Phạm Phú Thứ làm Khâm sai vào ngay Gia Định, hội với Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp (hay Thiếp) để đàm phán với quan soái Pháp và quan đại thần nước Y Pha Nho (Tây Ban Nha). Không hoàn thành nhiệm vụ, ông phải bị giáng một cấp. Tháng 5 (âm lịch) năm này, ông được cử làm Phó sứ, cùng với Chánh sứ Phan Thanh Giản và Bồi sứ Ngụy Khắc Đản, sang Pháp và Tây Ban Nha với nhiệm vụ xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Tháng 2 (âm lịch) năm 1864, sứ bộ về đến Huế. Sau đó, ngoài bản tường trình cốt để thuyết phục vua Tự Đức mau "cải cách việc học tập và phát triển công nghiệp", Phạm Phú Thứ còn dâng lên vua hai tác phẩm do ông làm trong chuyến đi, đó là Tây hành nhật ký và Tây Phù thi thảo. Vua xem cảm động, có làm một bài thơ để ghi lại việc này. Được tin cậy, nhà vua thăng ông làm Tham tri bộ Lại. Năm 1865, thăng ông chức Thự Thượng thư bộ Hộ, sung Cơ mật viện đại thần. Ở chức vụ này, ông đã mật tâu xin đặt 4 Tuyên phủ sứ ở Quảng Trị, Bình Định, Nghệ An và Hưng Hóa; đồng thời xin đặt "trường giao dịch chợ búa, sửa thuế thương chính, lập thổ tù" ở các nơi ấy để làm "mạnh vững nơi biên phòng, nhưng việc rút cục không thành". Năm 1866, quan soái Pháp phái tàu đến cửa Thuận An (Huế) đưa thư đòi "quản luôn ba tỉnh là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên", vì ở đây "bọn trộm cướp thường qua lại". Nhà vua liền sai Phạm Phú Thứ và Phan Huy Vịnh đến "xin giữ giao ước cũ lâu dài". Năm 1867, Phan Thanh Giản mất, triều đình cử Phạm Phú Thứ làm người điều đình với Pháp. Song thực dân Pháp không hài lòng về cách xử sự cứng rắn của ông, còn triều đình Huế thì không hài lòng vì việc thương lượng cứ đỗ vỡ. Cuối cùng ông bị Ngự sử đàn hặc, và bị gọi về kinh "hậu cứu". Năm 1873, vì phạm lỗi, ông lại bị giáng làm Thị lang, rồi khai phục chức Tham tri. Năm 1874, triều đình cho mở nhà thương chính ở Bắc Kỳ. Nhà vua cho ông "là người am hiểu, và có tài cán lão luyện" nên tháng 10 (âm lịch) năm đó, đổi ông làm Thự Tổng đốc Hải Yên (còn gọi là Hải An, gồm Hải Dương và Quảng Yên), kiêm sung Tổng lý thương chánh Đại thần. Đến nơi, gặp lúc đê huyện Văn Giang (nay thuộc Hưng Yên) vỡ, nước lũ tràn cả hai phủ là Bình Giang và Ninh Giang thuộc Hải Dương. Thấy dân đói khổ, ông lập tức xin trích năm vạn phương gạo ở kho Hưng Yên để phát chẩn. Đồng thời, lại phái thuộc hạ đem những người dân còn khỏe mạnh đến Đông Triều, Nam Sách... khẩn hoang, cày cấy kiếm sống. Năm 1876, chuẩn cho Phạm Phú Thứ được thực thụ chức Tổng đốc Hải An. Để yên dân, ông xin đặt trường mua gạo ở chợ An Biên (thuộc huyện An Dương, Hải Phòng) và Đồ Sơn (thuộc huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh); đồng phái Thương biện là Lương Văn Tiến (anh em họ ngoại với Phú Thứ) đi hiểu dụ lưu dân, tạo công ăn việc làm cho họ để họ thôi "càn rỡ, ngang ngược". Ngoài ra, ông còn cho khai rộng sông ở phủ Bình Giang, mở Nha Thương chánh và trường học chữ Pháp ở Hải Dương vào năm 1878, v.v.... Năm 1878, thăng ông làm Thự Hiệp biện Đại học sĩ, song vẫn lĩnh chức vụ cũ. Cũng trong năm này, Khâm phái Ngự sử là Dương Hoàn tâu lên rằng: "Lương Văn Tiến (lúc này đang làm Giám đốc việc tuần phòng ngoài biển) cậy thế chở gạo ra ngoại quốc"... Vì vậy, Phạm Phú Thứ phải về Huế, để chữa bệnh và đợi án. Năm 1880, khi bản án dâng lên, ông bị giáng làm Quang lộc tự khanh, lĩnh chức Tham tri bộ Binh. Nhân có bệnh, ông xin về quê. Qua đời Tháng 12 (âm lịch) năm 1881, nước Tây Ban Nha dâng tặng khánh vàng hạng nhất, đồng thời gửi tặng khánh vàng cho các quan đại thần là Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường, Hoàng Diệu và ông. Năm Tự Đức thứ 35 (Nhâm Ngọ 1882), Phạm Phú Thứ mất tại quê nhà "giữa những ngày u ám nhất của vận mệnh chế độ phong kiến nhà Nguyễn". thọ 61 tuổi. Nghe tỉnh thần tâu lên, vua Tự Đức thương tiếc ban dụ, trong đó có đoạn: "Phú Thứ kinh lịch nhiều khó nhọc, đi Đông sang Tây, dẫu yếu đuối cũng vâng mệnh không dám từ chối. Về việc trông coi Thương chính ở Hải Dương, khi tới nơi công việc đều có manh mối, sau này nên lấy đó noi theo. Những lưu dân, gian phỉ chứa ác ở Quảng Yên, thứ tới kinh lý cũng được yên. Rồi mở đồn điền ở Nam Sách, thực là lo xa chu đáo, đó là công cán ngày thường rực rỡ đáng nêu. Gia ơn cho truy phục nguyên hàm Thự Hiệp biện Đại học sĩ và chuẩn cho thực thụ, cũng sắc cho địa phương tới tế một tuần". Theo GS. Trần Văn Giáp thì sau đó ông còn được ban tên thụy là Văn Ý công. Sinh thời, ông thường giao thiệp với các thi nhân có tiếng lúc bấy giờ như anh em Tùng Thiện Vương, Phan Thanh Giản, Trương Đăng Quế, Bùi Văn Dị, v.v... Tác phẩm Tác phẩm của Phạm Phú Thứ toàn bằng chữ Hán, gồm có: Tây phù thi thảo (Bản thảo tập thơ đi sứ phương Tây) Tây hành nhật ký (Nhật ký đi sứ phương Tây). Tập văn này và tập thơ trên, ghi lại khá tỉ mỉ những điều mắt thấy tai nghe về kinh tế, chính trị, phong tục, tập quán của người phương Tây trong chuyến đi sứ dài ngày vào năm 1863. Trúc Đường thi văn tập (Tập thơ văn của Trúc Đường) Giá Viên toàn tập (Toàn tập Giá Viên). Cả thảy có 26 quyển: 13 quyển thơ, 13 văn, gồm đủ các thể loại thơ, tấu, phú, văn tế, ký... Bản triều liệt thánh sự lược toản yếu Thuật tiên đức Lịch triều thống hệ niên phả toát yếu Ngoài ra, ông còn cho khắc in để phổ biến một số sách thực dụng do người Trung Quốc dịch từ sách tiếng Anh ra chữ Hán, như: Bác vật tân biên (sách nói về khoa học), Khai môi yếu pháp (sách nói về cách khai mỏ), Hàng hải kim châm (sách nói về cách đi biển), Vạn quốc công pháp (sách nói về cách thức giao thiệp quốc tế), góp phần vào tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch... Nhận thấy đây đều là những sách cần thiết, tháng 3 nhuận (âm lịch) năm 1879, vua Tự Đức đã "khiến quan tỉnh Hải Dương (chỉ Phạm Phú Thứ) in cho nhiều mà bán, để quan lại và học trò học tập. Đến tháng 7 nhuận (âm lịch) năm 1881, lại khiến tỉnh Hải Dương khắc in 4 bộ sách ấy để ban cấp cho các trường học trong ngoài". Địa danh phiên âm Qua sách đi sứ qua phương Tây, ông đã phiên âm nhiều địa danh, không rập khuôn theo cách gọi của người Tàu mà đặt riêng dùng cả chữ Nôm chứ không hạn chế chỉ dùng chữ Nho. Macao: Mã Cao Java: Xà Bà, Batavia (Jakarta): Giang Lưu Ba Eo biển Sunda: cửa Song Đề Aceh: A Chinh Vịnh Bengal: Vịnh Minh Ca Lê Ceylon (Sri Lanka): Sai Lăng Chagos: Sa Gỗ Aden: A Điên Ai Cập: Y Diệp sông Nin: Nhĩ Lô Cairo: Kê Thành Alexandria: A Lê Xang Rí, Xang Thành Thổ Nhĩ Kỳ: Tu Ru Ky, Tu Ru Cô Hy Lạp: Cừ Sách, Cừ Rách, Ca Lê Cô Núi Ólympos: Ô Liêm Được khen ngợi Là một viên quan tốt Sử nhà Nguyễn chép: "(Phú Thứ) dẫu làm quan xa, mà tình trạng chốn quê quán chưa từng không quan tâm. Như khi ở Hải Đông, hạt Quảng Nam luôn năm đói kém, mà việc tuần phòng ở ngoài biển thì gạo cấm khá nghiêm, bèn thương lượng tạm bỏ điều cấm (ấy), hoặc quyền nghi cho thuyền chốn người Thanh, người Kinh chở gạo Bắc về Quảng Nam phân tán phát mại. Ông còn bỏ liêm bổng ra mua 1.000 phương gạo gửi về chia ra phát chẩn cho dân đói ở huyện hạt, nhân đó cứu sống được nhiều người, đến nay người vẫn nhớ"... Thiếu tướng Đỗ Mậu trong hồi ký của mình cũng đã viết rằng: "Cụ Phạm Phú Thứ là một nhà nho tuy ra làm quan... nhưng cụ luôn hành xử một cách thanh liêm, cương trực, và từng tỏ thái độ bất khuất đối với người Pháp, nên được giới sĩ phu và nhân dân miền Trung hết lòng ngưỡng mộ". Là một nhà thơ có tài Nói về thơ của Phạm Phú Thứ, trong Từ điển bách khoa toàn thư có đoạn: "Một số bài thơ trong "Giá Viên thi tập" bộc lộ cảm xúc của người chưa quên mình "vốn là học trò nghèo ở thôn quê", chia sẻ nỗi vui buồn với ngư dân, nông dân trong cuộc sống hằng ngày của họ". Từ điển văn học (bộ mới) có nhận xét tương tự, đồng thời cũng nói thêm rằng "chính từ những tình cảm lành mạnh ấy, ngay lúc sinh thời, thơ văn ông đã được nhiều người tán thưởng". Ghi công Hiện nay, lăng mộ cụ Phạm Phú Thứ ở tại quê nhà làng Đông Bàn, thôn Nam Hà 1, xã Điện Trung, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam đã được chính quyền địa phương cùng con cháu dòng tộc Phạm Phú tôn tạo lại, và đã được xếp hạng di tích Lịch sử Văn hóa cấp tỉnh. Tên ông cũng đã được dùng để đặt tên cho bốn ngôi trường, đó là: Trường Tiểu học Phạm Phú Thứ tại xã Điện Phương, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam; Trường trung học phổ thông Phạm Phú Thứ tại Gò Nổi (Điện Bàn, Quảng Nam); Trường Trung học phổ thông Phạm Phú Thứ tại xã Hòa Sơn (Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng) và trường Trung học phổ thông Phạm Phú Thứ ở đường Gia Phú, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh. Ở phường Vĩnh Điện thị xã Điện Bàn và quận Tân Bình Thành phố Hồ Chí Minh, quận Hải Châu Thành phố Đà Nẵng, Thành phố Hải Phòng, Thành phố Bà Rịa tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và nhiều tỉnh thành khác cũng có con đường mang tên ông. Sinh thời ông đã hướng dẫn người làng Đông Bàn quê ông chế tác xe đạp nước, xe trâu là công cụ thủy lợi khá hữu ích, giúp bà con nông dân đỡ vất vả mà năng suất lúa tăng lên. Về sau nhiều nơi trong và ngoài tỉnh Quảng Nam áp dụng phổ biến.
Thuật ngữ MPI là viết tắt của Message Passing Interface, chỉ một dạng giao thức kết nối của máy tính. Nó nằm trong chuẩn de facto cho kết nối giữa các nút chạy một chương trình song song trên bộ nhớ chia sẻ được phân phối. Tập MPI thi hành bao gồm một thư viện các thủ tục sao cho có thể gọi được từ các chương trình Fortran, C, C++ hay Ada. Lợi thế của MPI so với các thư viện cũ là nó vừa thuận tiện (vì MPI thực thi cho hầu hết các kiến trúc bộ nhớ phân phối) vừa nhanh (vì mỗi thủ tục được tối ưu hóa cho phần cứng mà nó đang chạy). Thường được so sánh với PVM và có thể kết hợp nó để tạo thành PVMMPI. Chương trình mẫu Dưới đây là chương trình "Hello World" dùng MPI trong ngôn ngữ C. Chúng ta gửi thông điệp hello đến mỗi chip, chạy như bình thường, gửi kết quả trở lại chip chính, cuối cùng in ra. /* Test of MPI */ #include <mpi.h> #include <stdio.h> #include <string.h> int main(int argc, char *argv[]) { char idstr[32]; char buff[128]; int numprocs; int myid; int i; MPI_Status stat; MPI_Init(&argc,&argv); MPI_Comm_size(MPI_COMM_WORLD,&numprocs); MPI_Comm_rank(MPI_COMM_WORLD,&myid); if(myid == 0) { printf("We have %d processors\n", numprocs); for(i=1;i<numprocs;i++) { sprintf(buff, "Hello %d! ", i); MPI_Send(buff, 128, MPI_CHAR, i, 0, MPI_COMM_WORLD); } for(i=1;i<numprocs;i++) { MPI_Recv(buff, 128, MPI_CHAR, i, 0, MPI_COMM_WORLD, &stat); printf("%s\n", buff); } } else { MPI_Recv(buff, 128, MPI_CHAR, 0, 0, MPI_COMM_WORLD, &stat); sprintf(idstr, "Processor %d ", myid); strcat(buff, idstr); strcat(buff, "reporting for duty\n"); MPI_Send(buff, 128, MPI_CHAR, 0, 0, MPI_COMM_WORLD); } MPI_Finalize(); return 0; }
Trong toán học, không gian Hilbert (Hilbert Space) là một dạng tổng quát hóa của không gian Euclid mà không bị giới hạn về vấn đề hữu hạn chiều. Đó là một không gian có trang bị tích trong, nghĩa là trong đó có khái niệm về khoảng cách và góc (đặc biệt là khái niệm trực giao hay vuông góc). Hơn nữa, nó thỏa mãn một yêu cầu nữa là tính đầy đủ để chắc chắn rằng giới hạn là tồn tại khi cần, làm các định nghĩa khác nhau trong tính toán vi tích phân dễ dàng hơn. Các không gian Hilbert cho phép các trực giác hình học có thể được áp dụng vào một số không gian hàm vô hạn chiều. Chúng cung cấp một khung để hệ thống hóa và tổng quát hóa khái niệm chuỗi Fourier theo một hệ bất kì của các hàm số trực giao và của phép biến đổi Fourier, là những khái niệm trung tâm của giải tích hàm. Không gian Hilbert đóng vai trò quan trọng trong việc hình thức hóa toán học cơ học lượng tử. Giới thiệu Các không gian Hilbert được đặt tên theo David Hilbert, người nghiên cứu chúng trong ngữ nghĩa của phương trình tích phân. Nguyên thủy là John von Neumann đã gọi "der abstrakte Hilbertsche Raum" trong công trình nổi tiếng của ông về các toán tử Hermitian không bị chặn vào năm 1929. Von Neumann có lẽ là nhà toán học nhận ra một cách rõ ràng nhất tầm quan trọng của khái niệm này trong công trình khai phá của ông về nền tảng của cơ học lượng tử bắt đầu với Hilbert và Lothar (Wolfgang) Nordheim và tiếp tục với Eugene Wigner. Cái tên "không gian Hilbert" nhanh chóng được dùng theo bởi những người khác, ví dụ như Hermann Weyl trong cuốn sách của ông với tựa đề Lý thuyết nhóm và vật lý lượng tử xuất bản năm 1931 (tiếng Anh là ISBN 0486602699). Những phần tử của một không gian Hilbert trừu tượng đôi khi được gọi là "vectơ". Trong các ứng dụng, chúng thông thường là các chuỗi của các số phức hay của các hàm số. Trong vật lý lượng tử chẳng hạn, một hệ vật lý được miêu tả bởi một không gian Hilbert phức chứa các "hàm sóng" biểu diễn tất cả các trạng thái có thể của hệ thống. Xem sự hình thức hóa toán học của cơ học lượng tử để thêm chi tiết. Không gian Hilbert của các sóng phẳng và các trạng thái biên thường được sử dụng trong cơ học lượng tử được biết chính thức hơn dưới tên rigged Hilbert space. Định nghĩa Mỗi tích trong <·,·> trên một không gian vectơ định nghĩa trên số thực hay số phức H sẽ đưa đến một chuẩn ||·|| như sau: Trong bất kì không gian có chuẩn nào, các quả cầu mở sẽ là một cơ sở của topo tương ứng; bất kì một không gian có chuẩn nào cũng là một không gian vectơ có trang bị topo và do đó bất kì không gian có tích trong nào cũng như vậy. Tiêu chuẩn Cauchy có thể được định nghĩa cho các dãy (sequence) trong không gian này (cũng như trong bất kì một không gian thuần nhất nào): một dãy {xn}n là một dãy Cauchy nếu như cho bất kì số dương ε nào có một số tự nhiên N sao cho với tất cả m, n > N, ||xn – xm|| < ε. Ta gọi H là một không gian Hilbert nếu như nó đầy đủ tương ứng với chuẩn này, nghĩa là bất kì dãy Cauchy nào hội tụ về một phần tử trong không gian đó. Mỗi không gian Hilbert do đó cũng là một không gian Banach (một không gian định chuẩn đầy đủ), nhưng điều ngược lại là không đúng. Tất cả các không gian hữu hạn chiều (ví dụ như không gian Euclid với tích vô hướng thông thường là những không gian Hilbert. Tuy nhiên, các ví dụ vô hạn chiều đóng vai trò quan trọng hơn trong các ứng dụng. Những ứng dụng này bao gồm: Lý thuyết biểu diễn nhóm unitary Lý thuyết các quá trình ngẫu nhiên bình phương tích phân được. Lý thuyết không gian Hilbert của phương trình đạo hàm riêng, đặc biệt là công thức hóa bài toán Dirichlet Phân tích phổ của các hàm, bao gồm những lý thuyết sóng nhỏ (wavelet) Công thức hóa toán học của cơ học lượng tử Tích vô hướng cho phép người ta có một quan điểm "hình học" và sử dụng các diễn đạt hình học tương tự trong không gian hữu hạn chiều. Trong tất cả các không gian vectơ có trang bị topo, những không gian Hilbert là những không gian "cư xử tốt nhất" và gần nhất với các không gian hữu hạn chiều. Một mục tiêu của giải tích Fourier là viết được một hàm số như là một chuỗi (có thể vô hạn) của các hàm cơ sở cho trước (nhân với số vô hướng). Bài toán này có thể được nghiên cứu một cách trừu tượng trong không gian Hilbert: bất kì không gian Hilbert nào cũng có một cơ sở trực giao, và bất kì phần tử nào trong không gian Hilbert cũng có thể được viết ra duy nhất như là tổng các phần tử cơ sở này nhân với các hệ số. Ví dụ Trong nhũng ví dụ này, chúng ta giả sử rằng trường các số vô hướng là các số phức C, mặc dù các định nghĩa này cũng áp dụng cho trường hợp mà trường số vô hướng là các số thực R. Không gian Euclid Cn với định nghĩa tích vô hướng và thanh ngang trên số phức ký hiệu số phức liên hợp. Không gian các chuỗi Tuy vậy thường gặp hơn là các không gian Hilbert vô hạn chiều. Nếu B là một tập hợp bất kì, hữu hạn hay đếm được, chúng ta định nghĩa không gian chuỗi l2 trên B, ký hiệu bởi Không gian này trở thành không gian Hilbert với tích vô hướng sau đây với mọi x và y trong l2(B). B cần phải là một tập đếm được trong định nghĩa này, vì nếu B là không đếm được, ta không định nghĩa được tổng vô hạn không đếm được. Nếu B không đếm được, ta yêu cầu x(b) phải bằng 0 tất cả trừ một số hữu hạn hay đếm được phần tử b của B. Không gian Hilbert kết quả sẽ không khả ly. Theo một nghĩa được nói chính xác sau, bất kì không gian Hilbert nào cũng isomorphic với một dạng l2(B) cho một tập B được chọn một cách thích hợp. Nếu B=N, chúng ta viết một cách đơn giản là l2. Các không gian Lebesgue Đây là các không gian hàm liên hệ với các không gian đo (X, M, μ), trong đó M là một đại số σ- của các tập con của X và μ là một độ đo có thể cộng được (với một số đếm được các số hạng) trên M. Gọi L2μ(X) là không gian của các hàm có giá trị phức của các hàm đo được và bình phương là khả tích trên X, modulo bằng nhau hầu như khắp nơi. Bình phương khả tích nghĩa là tích phân của bình phương của giá trị tuyệt đối của hàm số đó là hữu hạn. Modulo bằng nhau hầu như khắp nơi nghĩa là các hàm số này có thể được xác định nếu và chỉ nếu chúng bằng nhau bên ngoài một tập có độ đo bằng 0. Tích vô hướng của các hàm số f và g ở đây được cho bởi Ta cần chúng minh: Rằng tích phân này là có nghĩa; Không gian kết quả là toàn vẹn. Đây là những tính chất kỹ thuật, và người đọc nếu thích chi tiết có thể xem cuốn sách viết bởi Halmos liệt kê bên dưới, Chương 42. Lưu ý rằng việc sử dụng tích phân Lebesgue bảo đảm rằng không gian này là toàn vẹn. Xem Không gian Lp cho các thảo luận thêm về ví dụ này. Các không gian Sobolev Không gian Sobolev, ký hiệu là hay , là các ví dụ khác của các không gian Hilbert, và thường được sử dụng trong lãnh vực các phương trình đạo hàm riêng. Các thao tác trên các không gian Hilbert Cho hai (hoặc nhiều hơn) các không gian Hilbert, chúng ta có thể gộp chúng lại thành một không gian Hilbert duy nhất bằng cách lấy tổng trực tiếp hay là tích tensor của chúng. Mỗi không gian Hilbert có thể được vẽ bằng nhiều cung Hilbert, chúng nối tiếp nhau thành không gian duy nhất. Hệ cơ sở Một khái niệm quan trọng là một hệ cơ sở trực giao của một không gian Hilbert H: đây là một hệ {ek}k ∈ B của H thỏa mãn: Các phần tử được chuẩn hóa: Mọi phân tử của hệ đều có chuẩn là 1: ||ek|| = 1 với mọi k trong B Các phần tử trục giao với nhau: Bất kì hai phần tử khác nhau nào của B cũng vuông góc với nhau: <ek, ej> = 0 với mọi k, j trong B với k ≠ j. Span trù mật: span tuyến tính của B là trù mật trong H. Chúng ta cũng dùng các từ ngữ dãy trực chuẩn (orthonormal sequence) và tập trực chuẩn (orthonormal set). Các ví dụ về hệ cơ sở trực giao bao gồm: tập hợp {(1,0,0),(0,1,0),(0,0,1)} tạo thành một cơ sở trực giao cho R3 dãy {fn: n ∈ Z} với fn(x) = exp(2πinx) tạo thành một hệ cơ sở trục giao cho không gian các hàm phức L2([0,1]) Hệ {eb: b ∈ B} với eb(c) = 1 nếu b=c và 0 cho trường hợp khác, tạo thành một hệ cơ sở trực giao của l2(B). Chú ý rằng trong trường hợp không gian vô hạn chiều, một cơ sở trực giao không phải là một cơ sở theo nghĩa của đại số tuyến tính; để phân biệt hai khái niệm này, cơ sở sau cũng được gọi là cơ sở Hamel. Rằng span (hay còn gọi là "bao tuyến tính") của các vectơ cơ sở là trù mật nghĩa là mỗi vectơ trong không gian có thể được viết ra như là giới hạn của một chuỗi vô hạn và tính chất trực giao suy ra rằng các phân tích này là duy nhất. Sử dụng bổ đề Zorn, người ta có thể chứng minh rằng mọi không gian Hilbert chứa một hệ cơ sở trực giao; hơn nữa, hai hệ cơ sở trực giao bất kì của cùng một không gian sẽ có cùng độ đếm|lực lượng|bảng số (cardinality). Một không gian Hilbert là khả ly nếu và chỉ nếu nó có một hệ cơ sở trực giao đếm được. Bởi vì tất cả các không gian Hilbert vô hạn chiều khả ly (tách được) được là isomorphic, và bởi vì hầu hết các không gian Hilbert sử dụng trong vật lý là khả ly, khi các nhà vật lý nói về không gian Hilbert họ muốn nói đến các không gian tách được. Nếu {ek}k ∈ B là một cơ sở trực giao của H, thì mọi phần tử x của H có thể được viết là Ngay cả nếu như B không đếm được, chỉ có đếm được các số hạng trong tổng đó là khác không, và do đó biểu thức này là được định nghĩa tốt. Tổng này cũng còn được gọi là khai triển Fourier của x. Nếu {ek}k ∈ B là một cơ sở trực giao của H, thì H là isomorphic với l2(B) theo nghĩa sau đây: tồn tại một song ánh(bijective) tuyến tính map Φ: H → l2(B) sao cho với mọi x và y trong H. Phần bù trực giao và các phép chiếu Nếu S là một tập con của không gian Hilbert H, ta định nghĩa tập các vectơ trực giao với we define the S là Sperp là một không gian con đóng của H và do đó chính nó tạo thành một không gian Hilbert. Nếu V là một không gian con đóng của H, thì Vperp được gọi là phần bù trực giao của V. Thực vậy, mỗi x trong H có thể được viết ra một cách duy nhất như là x = v + w, với v trong V và w trong Vperp. Do đó, H là một tổng trực tiếp của V và Vperp. Toán tử tuyến tính PV: H → H đưa x sang v được gọi là phép chiếu trực giao vào V. Định lý. Phép chiếu trực giao PV là một toán tử tuyến tính self-adjoint trên H với chuẩn ≤ 1 với tính chất PV2 = PV. Hơn nữa, bất kì toán tử tuyến tính self-adjoint E nào sao cho E2 = E đều có dạng PV, với V là range của E. Với mỗi x trong H, PV(x) là một phần tử duy nhất v của V làm tối thiểu khoảng cách ||x - v||. Điều này cung cấp một diễn đạt hình học của PV(x): nó là phần tử xấp xỉ tốt nhất cho x bởi các phần tử trong V. Tính phản xạ (Reflexivity) Một tính chất quan trọng của bất kì không gian Hilbert nào là tính phản xạ. Thật ra, có nhiều thứ hơn cũng đúng: người ta có một miêu tả hoàn toàn và tiện dụng của không gian đối ngẫu (không gian liên hiệp) của nó (không gian của tất cả các phiếm hàm tuyến tính liên tục từ không gian H vào trường số nền), mà bản thân nó cũng là một không gian Hilbert. Thật vậy, định lý biểu diễn Riesz phát biểu rằng mỗi phần tử φ của không gian dual H''' có một và chỉ một u trong H sao cho với mọi x trong H và sự liên hệ φ ↔ u cung cấp một phép đồng phôi (isomorphism) giữa H và H. Các toán tử bị chặn Cho một không gian Hilbert H, một toán tử tuyến tính liên tục A: H → H, một toán tử liên tục như vậy gọi là bị chặn theo nghĩa là nó đưa các tập bị chặn vào các tập bị chặn. Điều này cho phép định nghĩa chuẩn của nó như là Tổng hay là hợp (composition) của hai toán tử tuyến tính liên tục cũng liên tục và tuyến tính. Với y trong H, phép biến đổi đó gửi x sang <y, Ax> là tuyến tính và liên tục, và theo định lý biểu diễn Riesz do đó có thể được biểu diễn dưới dạng Điều này định nghĩa một toán tử tuyến tính liên tục khác A*: H → H, gọi là adjoint của A. Tập hợp L(H) của các toán tử tuyến tính và liên tục trên không gian H, cùng với phép cộng và phép hợp, chuẩn và phép adjoint, làm thành một đại số C*; thực ra, đây là khuôn mẫu nguồn gốc và là ví dụ quan trọng nhất của đại số C*. Một phần tử A của L(H) được gọi là self-adjoint hay là Hermitian nếu như A* = A. Những toán tử này có nhiều đặc tính của số thực và do đó đôi khi được xem là tổng quát hóa của chúng. Một phần tử U của L(H) được gọi là unitary nếu U là khả nghịch và nghịch đảo của nó được cho bởi U*. Điều này cũng có thể diễn tả bằng cách yêu cầu rằng <Ux, Uy> = <x, y> với mọi x và y trong H. Những toán tử unitary tạo thành một nhóm nhóm dưới phép hợp, mà có thể xem như là một nhóm automorphism của H. Toán tử không bị chặn Nếu một toán tử tuyến tính có đồ thị đóng và được định nghĩa trên toàn bộ không gian Hilbert, thì, bởi định lý đồ thị đóng(closed graph theorem) trong lý thuyết về không gian Banach, nó là bị chặn. Tuy nhiên, nếu như ta cho phép định nghĩa một ánh xạ tuyến tính trên một không gian con thật sự nhỏ hơn không gian Hilbert, thì chúng ta có thể có những toán tử không bị chặn. Trong vật lý lượng tử, một số toán tử không bị chặn thú vị được định nghĩa trên một không gian con trù mật của không gian Hilbert. Có thể định nghĩa được toán tử tự liên hợp không bị chặn, và những thứ này đóng vai trò có thể quan sát được trong sự công thức hóa toán học của cơ học lượng tử. Các ví dụ về các toán tử self-adjoint không bị chặn trên không gian Hilbert L2(R) là: Một mở rộng thích hợp của toán tử vi phân trong đó i là đơn vị ảo và f là một hàm số khả vi có giá compact. Toán tử nhân với x: Những toán tử này lần lượt tương ứng với động lượng và vị trí có thể quan sát được. Chú ý rằng cả A lẫn B đều không được định nghĩa trên toàn bộ H, bởi vì trong trường hợp của A vi phân không cần phải tồn tại, và trong trường hợp của B hàm tích không cần thỏa tích bình phương là hữu hạn. Trong cả hai trường hợp, tập hợp tất cả các tham số có thể tạo thành các không gian con trù mật của L2(R'). Tham khảo Jean Dieudonné, Foundations of Modern Analysis, Academic Press, 1960. Paul Halmos, Measure Theory, D. van Nostrand Co, 1950. David Hilbert, Lothar Nordheim, and John von Neumann, "Über die Grundlagen der Quantenmechanik," Mathematische Annalen, volume 98, pages 1–30, 1927. John von Neumann, "Allgemeine Eigenwerttheorie Hermitescher Funktionaloperatoren," Mathematische Annalen, volume 102, pages 49–131, 1929. Hermann Weyl, The Theory of Groups and Quantum Mechanics'', Dover Press, 1950. Sách này được xuất bản lần đầu năm 1931 bằng tiếng Đức. Giải tích hàm Không gian (toán học) Khái niệm vật lý Cơ học lượng tử Đại số tuyến tính Lý thuyết toán tử
Quan án xử kiện là một câu truyện cổ tích Việt Nam. Nội dung Chuyện kể về một ông quan án thông minh đối phó với những vụ án gay go nhất. Lối xử chủ yếu dựa vào tâm lý của con người để tìm ra sự thật. Đây cũng là ước mơ công lý của nhân dân lao động trong xã hội cũ. Các vụ án quan đã xử Có rất nhiều bản kể lại các vụ án khác nhau mà quan đã xử. Sau đây là một vài vụ án tiêu biểu. Tấm vải là của ai? Có hai người đàn bà lên công đường cùng với một tấm vải để thưa kiện. Ai cũng khăng khăng nhận đây là tấm vải của mình và tố cáo người kia giả mạo, vu khống. Thật khó phân xử vì không có người làm chứng sự việc, và mỗi người trong họ đều đưa ra những bằng chứng rất có lý để biện minh cho mình. Cuối cùng, quan cho cắt tấm vải ra làm hai, chia mỗi người một nửa. Một bà ôm mặt khóc nức nở. Quan liền cho bắt bà còn lại vì "chỉ có người chủ thực sự của tấm vải mới xót của mà khóc." Tra khảo bà còn lại thì bà phải nhận tội. Con gà và ổ trứng Một hôm, trong làng nọ, có một người đàn bà bị mất một con gà mái cùng ổ trứng. Vì xót của với lại không tìm ra thủ phạm nên bà chửi rủa huyên náo trong làng nhằm vào kẻ đã đánh cắp suốt hai ngày liền làm mọi người hết sức khó chịu. Bà ta vẫn cứ chửi mặc cho quan khuyên nên im đi. Quan ra lệnh cho tất cả mọi người trong làng, mỗi người phải tát vào má bà ta một cái thật đau để răn đe. Mọi người thương tình cảnh của bà ta nên ai cũng tát một cái nhẹ cho có lệ. Duy chỉ có một tên tát một cái rất mạnh. Quan thấy thế cho bắt lại. Tra khảo mãi thì hắn nhận là mình đã lấy cắp gà và trứng của bà ta, và vì căm ghét bà ta đã chửi rủa ba đời nhà mình nên mới làm thế. Hai sợi bấc Một người đàn ông bán giấy bị cướp hết giấy và đánh chết. Để tìm ra thủ phạm, quan cho người giả dạng đi thu mua giấy số lượng lớn với giá rất cao để về làm sổ sách. Vì hám lợi, hai tên cướp mới đem số giấy cướp được đến bán và liền bị bắt. Về việc cướp giấy, hai tên đều nhận tội, riêng việc giết người bán giấy, cả hai đều chối và đổ tội cho đứa còn lại. Để xử đúng người, đúng tội, quan giải cả hai đến một ngôi chùa được tiếng linh thiêng, cho mỗi đứa ngậm một sợi bấc bằng nhau và nói: "ai là hung thủ thì sợi bấc trong miệng sẽ tự dài ra sau 99 tiếng gõ mõ." Sau thời gian ấy, đem so hai sợi bấc thì thấy sợi dài, sợi ngắn. Quan ra lệnh bắt tên mà ngậm sợi bấc ngắn vì hắn sợ lộ tội lỗi nên mới cắn cho ngắn bớt sợi bấc.
MiniDVD là tên gọi của hai loại đĩa quang khác nhau: Đĩa DVD 80 mm, một phiên bản thu gọn của đĩa DVD 120 mm, có dung lượng 1,4 GB loại một mặt - một lớp (so với 4,7 GB dung lượng của đĩa DVD 120 mm một mặt - một lớp), được sử dụng chủ yếu trong các máy quay phim. Đĩa cDVD, là một dạng đặc biệt của CD (dung lượng 700 - 800 MB), nó cho phép lưu trữ những đoạn phim có chất lượng DVD (Mpeg-2). Đĩa cDVD Đĩa cDVD ra đời do yêu cầu của thị trường trong việc lưu trữ những bộ phim có chất lượng DVD trong những đĩa có giá thành rẻ. Do đặc điểm đó, nên đĩa cDVD hoàn toàn có thể xem được trên một máy vi tính có đầu đọc đĩa CD và một phần mềm xem DVD, hoặc xem trên một đầu DVD thông thường, nhưng không thể xem trên một đầu VCD. Tuy nhiên dạng đĩa này ít được sử dụng do ít được biết và bị hạn chế bởi dung lượng (đĩa CD chuẩn chỉ cho phép chứa từ 700-800 MB trên 1 đĩa trong khi mỗi 5 phút video ở chất lượng DVD sẽ chiếm từ 130 - 150 MB, như vậy đĩa cDVD chỉ chứa được khoảng từ 20-30 phút phim ở chất lượng DVD). Đĩa DVD 80 mm Đĩa DVD 80 mm (tên gọi thông thường là MiniDVD)) là một định dạng lưu trữ đĩa quang, sử dụng lớp phản quang giống đĩa DVD 120 mm. Chúng được dùng chủ yếu trong các máy quay kỹ thuật số. Một đĩa MiniDVD một mặt - một lớp (single-sided, single-layer) có thể lưu trữ 30 phút phim theo chất lượng DVD. Hãng game Nintendo cũng sử dụng đĩa MiniDVD này làm định dạng đĩa cơ sở cho hệ thống GameCube của họ. So sánh DVD 80 mm và 120 mm So sánh về dung lượng giữa đĩa DVD 80 mm và đĩa DVD 120 mm
Cầm Bá Thước (琹伯爍; 1858 - 1895), tên Thái: Lò Cắm Pán, là một trong những thủ lĩnh người dân tộc Thái hưởng ứng phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa (Việt Nam) vào cuối thế kỷ 19. Thân thế Cầm Bá Thước sinh tại bản Lùm Nưa, tổng Trịnh Vạn, châu Thường Xuân (nay là xã Vạn Xuân, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa) trong một gia đình lang đạo nhiều đời. Cha ông là Cầm Bá Tiêu từng được triều vua Tự Đức phong chức Quản cơ. Năm lên 8 tuổi, cha ông mời thầy về nhà dạy chữ Hán cho ông. Nhờ ông học giỏi và có quan hệ tốt với các quan lại người Việt đang trấn nhậm tại quê ông, nên khi trưởng thành ông được thay cha trở thành Thổ ty và được triều đình nhà Nguyễn phong chức Bang tá. Hưởng ứng dụ Cần Vương Được giao quyền chỉ huy quân sự Ngày 5 tháng 7 năm 1885, quân triều đình tập kích quân Pháp ở đồn Mang Cá thất bại. Quân Pháp phản công, kinh thành Huế bị thất thủ. Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi lên chiến khu Tân Sở (Quảng Trị) ra dụ Cần Vương kêu gọi toàn dân chống Pháp. Nhận thấy tương quan lực lượng khá chênh lệch, vào tháng 2 năm 1886, Tôn Thất Thuyết đã để cho hai con trai của mình là Tôn Thất Thiệp và Tôn Thất Đạm tiếp tục duy trì triều đình Hàm Nghi chống Pháp, còn mình cùng với Trần Xuân Soạn và Ngụy Khắc Kiều tìm đường sang Trung Quốc cầu viện nhà Thanh. Trên đường đi, ông có đến tổng Trịnh Vạn thuộc châu Thường Xuân để gặp Cầm Bá Thước. Trong kế hoạch kháng Pháp, Tôn Thất Thuyết rất chú ý tỉnh Thanh Hóa. Vì vậy, ông đã cử Tống Duy Tân làm Chánh sứ Sơn phòng Thanh Hóa, phong Cầm Bá Thước làm Bang biện quân vụ hai châu Thường Xuân và Lang Chánh và phong Hà Văn Mao làm Tán lý quân vụ, chuẩn bị lực lượng nghĩa quân Mường vùng châu Quan Hóa. Với danh nghĩa Bang biện quân vụ, Cầm Bá Thước nắm được lực lượng quân sự thổ binh, dân binh của hai châu Thường Xuân và Lang Chánh. Lực lượng này tuy đông nhưng sức chiến đấu không mạnh. Theo kế của cử nhân Tống Nhữ Mai, con trai Tống Duy Tân, ông làm tờ bẩm lên Tri châu Thường Xuân xin mộ quân và huy động lực lượng đóng đồn bảo vệ trị an từ Bái Thượng trở lên đến biên giới Lào. Được sự đồng ý của Tri châu Thường Xuân, Cầm Bá Thước đã cho điều động dân binh, bố trí lại việc canh gác và đóng các đồn suốt từ Bái Thượng lên Cửa Đặt, rồi lên đến Bất Mọt. Dọc theo sông Đặt, Cầm Bá Thước cho xây dựng rất nhiều đồn lũy, lập nhiều căn cứ như căn cứ Bản Lẹ, đồn Đồng Chong, đồn Bù Đồn...Ngoài ra, để tăng cường sức mạnh cho lực lượng, ông đã đề xuất và được phép đem quế đi bán để lấy tiền mua vũ khí cùng lương thực. Tham gia khởi nghĩa Hùng Lĩnh Đầu năm 1887, đông đảo quân Pháp kéo đến đàn áp dữ dội phong trào Cần Vương tại Thanh Hóa. Căn cứ Ba Đình và căn cứ Mã Cao nối tiếp nhau thất thủ. Sau đó, các thủ lĩnh lần lượt hy sinh (Đinh Công Tráng, Nguyễn Khế, Hoàng Bật Đạt), tự sát (Phạm Bành, Hà Văn Mao, Lê Toại) hoặc đi tìm phương kế khác (Trần Xuân Soạn), v.v... Biết mình yếu sức hơn, Tống Duy Tân đi ra Bắc rồi sang Trung Quốc để gặp gỡ các sĩ phu yêu nước, tìm nguồn hỗ trợ và liên kết với các lực lượng kháng Pháp khác. Theo sử gia Phạm Văn Sơn thì Tống Duy Tân đã gặp Tôn Thất Thuyết tại Quảng Đông, và ông đã nghe theo lời vị tướng này trở về Thanh Hóa để tiếp tục công cuộc kháng Pháp. Đầu năm 1889, Tống Duy Tân về đến quê nhà, và sau đó ông trở thành người chỉ huy chính của phong trào kháng Pháp tại Hùng Lĩnh. Bởi chung chí hướng, Cầm Bá Thước liền nhận lời mời cộng tác của Tống Duy Tân. Kể từ đó, Cầm Bá Thước cùng Tống Duy Tân, Cao Điển và nhiều cộng sự khác cho quân mở rộng địa bàn hoạt động lên tận vùng hữu ngạn và tả ngạn sông Mã; đến hợp đồng chiến đấu với Đề Kiều - Đốc Ngữ ở vùng hạ lưu sông Đà, với Phan Đình Phùng ở vùng rừng núi Nghệ An-Hà Tĩnh, với Hà Văn Nho (thủ lĩnh Mường) tại châu Quan Hóa, với Tôn Thất Hàn ở Nông Cống, v.v... Sau nhiều trận giao tranh (nổi tiếng nhất là trận Vân Đồn ở Nông Cống đầu năm 1889, trận Yên Lãng tại Thọ Xuân vào tháng 3 năm 1890), tuy thu được một số thắng lợi, nhưng vào cuối năm 1890 trở đi, nghĩa quân Hùng Lĩnh bước vào thời kỳ chiến đấu gay go và gian khổ hơn. Bởi nhân dân bị khủng bố quá dữ nên không dám theo và cung ứng đầy đủ các thứ nữa. Sau đó do bị chỉ điểm, Tống Duy Tân bị quân Pháp bắt được và cho xử tử ông tại Thanh Hóa ngày 5 tháng Mười (âm lịch) năm Nhâm Thìn (tức 23 tháng 11 năm 1892). Khởi nghĩa Hùng Lĩnh đến đây coi như đã thất bại. Tham gia khởi nghĩa Hương Khê Sau khi đánh dẹp được cuộc khởi nghĩa ở Ba Đình và ở Hùng Lĩnh, quân Pháp rảnh tay liền huy động lực lượng cô lập Trịnh Vạn, căn cứ chính của Cầm Bá Thước. Trước tình thế đó, tháng 3 năm 1893, Cầm Bá Thước phải tạm trá hàng với Công sứ Pháp ở Thanh Hóa là Boulloche, rồi âm thầm cho Bang Lự vào Hà Tĩnh bàn chuyện liên kết với Phan Đình Phùng, thủ lĩnh khởi nghĩa Hương Khê. Sau đó, Trịnh Vạn trở thành quân thứ Thanh Hóa (gọi tắt là "Thanh thứ") của lực lượng Hương Khê. Dò biết được chuyện này, đầu tháng 2 năm 1894, Bộ chỉ huy quân Pháp cử Giám binh Lemeray (La-mơ-ray) lên Trịnh Vạn thám sát tình hình. Lúc trở về, Lemeray khẳng định Cầm Bá Thước chỉ trá hàng, vì vẫn tiếp tục rèn luyện quân sĩ và tích trữ lương thực, chuẩn bị chiến đấu. Lập tức, Bộ chỉ huy quân Pháp đã điều một đội quân từ Thanh Hóa tiến lên Cửa Đặt (châu lỵ Thường Xuân) để chuẩn bị tấn công Trịnh Vạn. Quân Pháp chia làm ba toán. Một toán do Cuvelier (Cu-vơ-li-ê) chỉ huy tiến dọc theo sông Chu. Toán thứ hai do Marlier (Mắc-li-ê) chỉ huy đi hướng từ phía Nam theo sông Luộc. Toán thứ ba do Lecal (Lơ-Cát) chỉ huy men theo sông Đặt. Để giành thế chủ động, ngày 6 tháng 2 năm 1894, Cầm Bá Thước dẫn nghĩa quân tấn công đồn Thổ Sơn cách Bãi Thượng 10 km, ngay khi Giám binh Lemeray vừa tới Trịnh Vạn. Tiếp theo, ngày 11 tháng 2 năm 1894, ông lại sai quân lại tập kích đồn Quang Thôn. Đêm hôm đó, cánh quân của Lecal đang đóng ở Yên Lược (Thọ Xuân) lên tiếp viện cho đồn Thổ Sơn trong đêm để giải cứu Lemeray. Thấy có quân tiếp viện, quân Trịnh Vạn liền rút về căn cứ. Sáng hôm sau, Lecal cho quân tấn công lên Quang Thôn, giải vây cho đồn này. Tháng 3 năm 1894, quân Trịnh Vạn lại tấn công đồn Cửa Đặt, nhưng không thành công. Nhận thấy quân Pháp quá mạnh, Cầm Bá Thước cho hết dân sơ tán vào rừng, thanh niên ở lại chiến đấu. Quân Pháp tấn công đồn Bù Lẹ, Bù Đồn. Dựa vào công sự có sẵn, nghĩa quân chống cự quyết liệt, quân Pháp bị thương vong nhiều. Đang khi chiến đấu thì cánh quân của Marlier kéo tới. Thấy có viện binh, Cầm Bá Thước liền cho quân rút về Cọc Chẽ (nay ở xã Xuân Lệ) ở phía Đông Nam Trịnh Vạn. Chiếm được Trịnh Vạn, quân Pháp xây đồn mới ở Bù Đồn và Đồng Chong để trấn giữ, đồng thời ra sức khủng bố. Mặc dù vậy, nghĩa quân vẫn liên tục mở các cuộc tập kích quân Pháp. Để nhanh chóng bình định nơi này, quân Pháp tập trung thêm binh lực ở Trịnh Vạn. Đối phó lại, Cầm Bá Thước cho bố trí một trận địa lớn, giao cho lý trưởng làng Cúc là Hà Văn Vạn trá hàng để dẫn đường quân Pháp tấn công Cọc Chẽ, một căn cứ của nghĩa quân. Ngày 29 tháng 1 năm 1895, quân Pháp mở cuộc hành quân lên Cọc Chẽ. Dọc đường bị phục kích, bị thiệt hại nặng, nhưng cuối cùng quân Pháp cũng đánh chiếm được nơi đó. Căn cứ Cọc Chẽ bị phá hủy, Cầm Bá Thước cho quân xây dựng căn cứ mới ở Hòn Bòng, giáp giới Thanh-Nghệ ở thượng nguồn sông Đặt. Ngày 10 tháng 5 năm 1895, Marlier thay Lemeray làm giám binh, dẫn 200 lính đánh vào Hòn Bòng. Sau bốn ngày liên tục chiến đấu, nghĩa quân suy yếu rõ rệt. Mối liên hệ của "Thanh thứ" với Hương Khê bị cắt đứt, vì chính lúc này căn cứ Hương Khê cũng đang bị bao vây ngặt nghèo, còn các phong trào chống Pháp ở Thanh Hóa thì hầu như đã tan rã hết. Đến trưa ngày 13 tháng 5 năm 1895, quân Pháp bắt được Cầm Bá Thước cùng vợ, em trai và 12 nghĩa quân tại vùng núi Lang-ca-phó thuộc Thường Xuân, rồi đưa về giam ở Trịnh Vạn. Sau khi chiêu hàng không được, vào khoảng cuối tháng 5 năm Ất Mùi (1895), ông bị quân Pháp bí mật thủ tiêu. Năm đó, ông mới 37 tuổi. Ghi nhận công lao Công cuộc chống Pháp của Cầm Bá Thước duy trì được khá lâu, chỉ đứng sau cuộc khởi nghĩa Hương Khê. Lúc Cầm Bá Thước còn đang chống Pháp, Tôn Thất Thuyết, lúc này đang ở Trung Quốc cầu viện nhà Thanh, có làm bài thơ gửi ông: Sau khi ông mất, người dân đã lập đền thờ ông ở Cửa Đạt, thị trấn Thường Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Trong đền có câu đối khen ngợi ông như sau: Sau tổng khởi nghĩa năm 1945, chính quyền lúc bấy giờ đã đổi tên châu Tân Hóa thành huyện Bá Thước để tôn vinh ông. Hiện tại, tên của ông cũng được dùng để đặt tên cho nhiều đường phố và trường học tại Việt Nam.
Trong khoa học máy tính, hàm nội tuyến (tiếng Anh: inline function) là một cấu trúc trong ngôn ngữ lập trình được sử dụng để đề nghị với chương trình biên dịch rằng một hàm cụ thể nào đó là đối tượng của việc khai triển nội tuyến (inline expansion); có nghĩa là, nó đề nghị rằng chương trình biên dịch nên chèn toàn bộ thân hàm vào trong từng ngữ cảnh, nơi hàm đó được sử dụng. Động cơ Khai triển nội tuyến thường được dùng để loại bỏ thời gian quá dụng (overhead) xảy ra khi gọi một hàm; kỹ thuật này thường được dùng cho các hàm thực thi thường xuyên, vì khi đó thời gian quá dụng chiếm phần đáng kể. Hàm nội tuyến còn có tác dụng giảm không gian bộ nhớ mà các hàm nhỏ chiếm chỗ, đồng thời cho phép các kỹ thuật tối ưu hoá (optimization) khác biến đổi mã. Nếu không có hàm nội tuyến thì lập trình viên sẽ có rất ít hoặc không có quyền quyết định xem hàm nào được là hàm nội tuyến, hàm nào không; mà việc này sẽ hoàn toàn do trình biên dịch quyết định. Việc bổ sung khả năng điều khiển này cho phép lập trình viên khai thác các kiến thức đặc thù về chương trình ứng dụng, chẳng hạn những hàm thường xuyên được thực thi, để lựa chọn xem hàm nào cần là hàm nội tuyến. Tuy nhiên, nhiều trình biên dịch (chẳng hạn cho ngôn ngữ C++) giữ quyền quyết định cuối cùng về việc một hàm đã được lập trình đặt chế độ nội tuyến có thể thực sự được là một hàm nội tuyến hay không, quyết định này thường được dựa vào việc nội dung của hàm này có khả thi cho việc khai triển nội tuyến hay không. Thêm nữa, trong một số ngôn ngữ, các hàm nội tuyến tương tác gần gũi với mô hình biên dịch (compilation model); chẳng hạn trong C++, một hàm nội tuyến phải được định nghĩa trong tất cả các môđun sử dụng hàm đó, trong khi đó chỉ cần định nghĩa các hàm thông thường trong một môđun mà thôi. Điều này cho phép biên dịch các môđun một cách độc lập với tất cả các môđun khác. So sánh với macro Theo truyền thống, trong các ngôn ngữ như C, việc khai triển nội tuyến được thực hiện ở mức mã nguồn bằng cách sử dụng các macro có tham số (parameterized macro). Việc sử dụng hàm nội tuyến mang lại một số lợi điểm so với cách tiếp cận truyền thống này: Các lời gọi macro không thực hiện kiểm tra kiểu dữ liệu, và cũng không kiểm tra xem các tham đối (argument) có được định dạng đúng (well-formed) hay không, trong khi đó các lời gọi hàm thường thực hiện các kiểm tra này. Do các macro của C chỉ thực hiện thay thế văn bản (textual substitution), điều này có thể dẫn tới các hiệu ứng phụ và sự không hiệu quả nằm ngoài dự tính, do việc đánh giá lại các tham đối và trật tự tính toán. Lỗi biên dịch bên trong các macro thường rất khó hiểu, vì chúng là các lỗi trong phần mã đã được khai triển, chứ không phải phần mã do lập trình viên viết. (Lập trình viên có thể sẽ phải xem phần mã biên dịch sơ thảo của mã nguồn (pre-compile) để biết được lỗi xảy ra ở đâu.) Có nhiều cấu trúc mà việc biểu diễn chúng bằng các macro là rất rắc rối hoặc không thể làm được, hoặc phải dùng đến những cú pháp hết sức khác biệt. Các hàm nội tuyến sử dụng cú pháp như các hàm thông thường, và có thể được chuyển thành nội tuyến hoặc bỏ chế độ nội tuyến tùy theo ý muốn một cách dễ dàng. Thông tin tìm lỗi (debug) đối với mã nội tuyến thường hữu ích hơn thông tin dành cho mã macro đã được khai triển. Rất nhiều các bộ biên dịch còn khai triển nội tuyến một số các hàm đệ quy (recursive function) ; macro đệ quy thường là không hợp lệ. Bjarne Stroustrup, người thiết kế C++, nhấn mạnh rằng nên tránh sử dụng macro mỗi khi có thể tránh được, và khuyến khích sử dụng rộng rãi các hàm nội tuyến. Hỗ trợ của ngôn ngữ C++, C99, và GNU C đều hỗ trợ hàm nội tuyến, song ANSI C (1990), phương ngữ phổ biến nhất của C trong thực tiễn, lại không hỗ trợ hàm nội tuyến. Trong ngôn ngữ lập trình ADA, hàm nội tuyến được sử dụng dưới hình thức của pragma. Đa số các ngôn ngữ khác, trong đó có Java và các ngôn ngữ lập trình hàm (functional languages), không cung cấp hàm nội tuyến nhưng lại thực hiện khai triển nội tuyến rất mạnh. Các trình biên dịch khác nhau có thể khác nhau ở độ phức tạp của các hàm mà chúng có khả năng khai triển nội tuyến. Các bộ biên dịch C++ chính thống như Microsoft Visual C++ và GCC (GNU Compiler Collection) có hỗ trợ một tùy chọn cho phép bộ biên dịch tự động biến mọi hàm có thể thành hàm nội tuyến, ngay cả khi các hàm này không được đánh dấu là hàm nội tuyến. Một hàm nội tuyến có thể được viết trong C++ như sau: inline int max (int a, int b) { if (a > b) return a; else return b; } a = max (x, y); // hiện tương đương với "a = (x > y ? x: y);" Những vấn đề với các hàm nội tuyến Bên cạnh những vấn đề liên quan đến khai triển nội tuyến nói chung, với vai trò một tính năng của ngôn ngữ, hàm nội tuyến có thể không đáng giá như người ta có thể hình dung, vì một số lý do sau: Thông thường, để quyết định xem một hàm cụ thể nào đó có nên là hàm nội tuyến hay không, trình biên dịch có vị trí tốt hơn con người; cụ thể, trình biên dịch có thể không muốn hoặc không có khả năng nội tuyến hóa nhiều hàm mà con người muốn nó làm. Trong quá trình phát triển của các hàm, chúng có thể trở nên thích hợp làm hàm nội tuyến, hoặc trở nên không còn thích hợp như đã từng. Mặc dù đánh dấu một hàm là nội tuyến hay không còn nội tuyến là một việc dễ dàng hơn việc chuyển đổi các hàm sang macro và ngược lại, công việc này vẫn đòi hỏi thêm công sức bảo trì, mà trong phần lớn các trường hợp, việc làm này đem lại lợi ích tương đối nhỏ. Đối với các chương trình biên dịch đơn giản viết bằng C, việc sử dụng quá nhiều hàm nội tuyến có thể làm tăng thời gian biên dịch, do phần thân của các hàm đó phải được bổ sung dưới dạng văn bản vào bất cứ tập mã nguồn nào sử dụng chúng. (có thể thấy khi xem mã nguồn sau khi biên dịch sơ thảo (pre-compiled source) mà bộ biên dịch tạo ra). Về các vấn đề với chính bản thân quá trình tối ưu hóa, thay vì về tính năng của ngôn ngữ, xem các vấn đề trong khai triển nội tuyến. Trích dẫn "Việc khai báo một hàm [... ] dùng chỉ định inline thông báo rằng hàm này là một hàm nội tuyến. Chỉ định inline báo với việc thực hiện chương trình rằng việc thay thế nội tuyến của phần thân hàm tại thời điểm hàm được khởi động là một lựa chọn được cân nhắc hơn là cơ chế thi hành hàm bình thường. Việc thực hiện một cơ chế để thay thế hàm nội tuyến tại thời điểm hàm được khởi động là một việc không cần thiết; song, ngay cả khi bỏ qua việc thay thế nội tuyến, các nguyên tắc khác đối với các hàm nội tuyến được định nghĩa trong phần 7.1.2 cũng vẫn phải được tôn trọng." — ISO 14882:1998(E), the current C++ standard, section 7.1.2 "Một hàm được khai báo với chỉ định hàm inline là một hàm nội tuyến. [... ] Việc nội tuyến hóa một hàm gợi ý rằng các yêu cầu khởi động hàm phải được thi hành càng nhanh càng tốt. Phạm vi ảnh hưởng của những gợi ý như vậy có hiệu quả bao nhiêu còn tùy thuộc vào thực hiện (implementation-defined) (ghi chú: Lấy ví dụ, một thực hiện có thể sẽ không bao giờ thi hành thay thế nội tuyến, hoặc chỉ thi hành thay thế nội tuyến đối với các yêu cầu khởi động trong phạm vi (scope) của một khai báo nội tuyến mà thôi) "[... ] Một khai báo nội tuyến không cung cấp định nghĩa ngoại vi (external definition) cho một hàm, cũng không ngăn cấm một định nghĩa ngoại vi trong một đơn vị thông dịch (translation unit) khác. Định nghĩa nội tuyến cung cấp một hình thức thay thế cho định nghĩa ngoại vi, và một bộ thông dịch (translator) có thể sử dụng để thực hiện bất cứ một yêu cầu khởi động hàm nào trong cùng đơn vị thông dịch. Việc một yêu cầu thi hành một hàm nào đó sử dụng định nghĩa nội tuyến hoặc sử dụng định nghĩa ngoại tuyến là một việc không được xác định cụ thể." — ISO 9899:1999(E), the C99 standard, section 6.7.4
Ninh Giang là một huyện nằm ở phía nam tỉnh Hải Dương, Việt Nam. Địa lý Vị trí địa lý Huyện Ninh Giang nằm ở phía nam của tỉnh Hải Dương, nằm cách thành phố Hải Dương khoảng 29 km, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 87 km, có vị trí địa lý: Phía đông giáp huyện Tứ Kỳ và huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng Phía tây giáp huyện Thanh Miện Phía nam giáp huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình Phía bắc giáp huyện Gia Lộc. Khí hậu Về thời tiết, khí hậu cơ bản chia làm hai mùa. Mùa đông từ tháng 11 đến tháng 3 với thời tiết lạnh khô vào nửa đầu, và ẩm ướt vào nửa cuối. Mùa hè từ tháng 5 đến tháng 9 thời tiết nóng và mưa nhiều (lượng mưa cao nhất vào tháng 8). Nhiệt độ trung bình năm 23,5 °C. Số giờ nắng 1600 - 1700 giờ /năm. Độ ẩm trung bình năm vượt trên 80% (cao hơn các huyện, thị phía Tây Bắc). Lượng mưa trung bình hàng năm 1550 - 1700mm. Dân cư Thời Pháp thuộc dân số phủ lỵ Ninh Giang có khoảng 7.000 người, gốc gác từ nhiều vùng: Hải Phòng, Bắc Thái,Thái Bình,Hà Nội song gốc Hà Nam là chủ yếu. Người Hoa cũng đến lập nghiệp ở đây có khoảng 100 hộ Hoa Kiều. Người Hoa thường lập thành hang bang riêng của họ. Năm 1996 dân số thị trấn Ninh Giang là 8.071 người, dân số huyện Ninh Giang là 146.780 người, có diện tích 135,4 km². Hành chính Huyện Ninh Giang có 20 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Ninh Giang (huyện lỵ) và 19 xã: An Đức, Đồng Tâm, Đông Xuyên, Hiệp Lực, Hồng Dụ, Hồng Đức, Hồng Phong, Hồng Phúc, Hưng Long, Kiến Quốc, Nghĩa An, Ninh Hải, Tân Hương, Tân Phong, Tân Quang, Ứng Hòe, Văn Hội, Vạn Phúc, Vĩnh Hòa. Lịch sử Vùng đất Ninh Giang (寕江) xưa đã được nhắc đến trong một số bộ sử. Mỗi thời kỳ với những tên gọi khác nhau, được nhắc tới nhiều nhất là Hồng Châu, Hạ Hồng, Vĩnh Lại. Theo tục truyền vào năm 40, Hai Bà Trưng khởi nghĩa. Nhà Hán cử Mã Viện sang đàn áp. Tại vùng Hạ Hồng đã xảy ra cuộc giao tranh giữa 2 bên. Phá vây ở Hạ Hồng, Hai Bà Trưng chạy về Thạch Bàn. Đô Lượng, 1 tướng giỏi của Hai Bà Trưng có cứ quân đóng ở Hiệp Lực (Ngã ba sông Tranh).đó là Đô đài tướng quân Hồ Đại Liệu đời sau phong là Hộ quốc đại vương Thượng đẳng Thần. tượng ngài được thờ tại ( Đình La Khê thuộc xã Tân Hương) ngày nay, Đình La Khê được UBND tỉnh Hải Dương công nhận là di tích lịch sử văn hóa. HALUUST ngài được suy tôn là Thành Hoàng làng được các triều đại ban sắc phong.. Vào thế kỷ thứ X, ở làng Cúc Bồ (nay là xã Kiến Quốc), Khúc Thừa Dụ đã chiêu binh mã nổi dậy chống quân đô hộ phương Bắc. Vùng đất huyện Ninh Giang ngày nay từ triều Trần về trước thuộc huyện Đồng Lợi. Mùa xuân năm 1418, Lê Lợi dấy binh ở Thanh Hóa chống quân Minh. Sau đó, năm 1419, tại châu Hạ Hồng, Trịnh Công Chứng và Lê Hành dấy quân đánh Tống binh Lý Bân của nhà Minh ở vùng Bắc. Đời vua Lê Thái Tổ, đổi huyện Đồng Lợi thành Đồng Lại. Đời Quang Thuận (1460 - 1469), đặt phủ Hạ Hồng và quản 4 huyện: Trường Tân (tức Gia Lộc ngày nay), Tứ Kỳ, Thanh Miện, Vĩnh Lại (tức huyện Ninh Giang và lục tổng huyện Vĩnh Bảo theo triền Tả sông Hóa). Đầu thế kỳ thứ XVI, nhà Lê bước vào thời suy vong Mạc Đăng Dung soán ngôi nhà Lê, trong nước diễn ra nhiều cuộc chiến một bên là Chúa Trịnh (dưới danh nghĩa Phù Lê) và một bên là Mạc. Đây là thờ kỳ nội chiến kéo dài, chiến tranh xảy ra liên miên. Ninh Giang nằm trong vùng chiến trường ác liệt. Năm 1594, phủ Hạ Hồng có nhiều quân cát cứ chống Trịnh Tùng. Tháng 7 năm ấy Mạc Kính Chương chiếm huyện Thanh Hà và Tứ Kỳ, còn huyện Vĩnh Lại có Lai Quận Công. Những năm ấy xứ Hải Dương mất mùa to, chết đói rất nhiều. Năm 1595, Trịnh Tùng cử Trịnh Văn Chương về trấn giữ huyện Vĩnh Lại. Năm 1598, Nguyễn Hoàng lại được cử về xứ Hải Dương dẹp quân chống đối. Đến năm Cảnh Hưng thứ hai (1741), đổi phủ Hạ Hồng thành đạo Hạ Hồng. Dưới triều Nguyễn năm Gia Long thứ nhất (1802) gọi là phủ Hạ Hồng. Lỵ sở Hạ Hồng trước đóng ở Gia Lộc (có thuyết nói rằng ở xã Kinh Triều), năm Gia Long thứ 7 (1808) dời về xã Quý Cao (huyện Tứ Kỳ), đến năm Gia Long thứ 10 (1811) phủ lỵ dời về xã Phù Cựu (thuộc huyện Vĩnh Lại). Vào năm Minh Mạng thứ 3 (1822) vì kiêng tên húy của vua, nên phủ Hạ Hồng đổi thành phủ Ninh Giang (寕江府), có nghĩa là “vùng sông nước an toàn”. Lúc ấy, Ninh Giang quản 4 huyện: Gia Lộc, Tứ Kỳ, Thanh Miện, Vĩnh Lại. Phủ Ninh Giang ngày xưa có thành đất bao quanh. Thành dài 171 trượng (684m) cao 6 thước 2 tấc. 4 mặt thành có hào, 3 cửa ra xã Tranh Xuyên. Đến năm Minh Mạng thứ 11 (1830), lỵ sở Ninh Giang dời về tổng Bất Bế (tức Ninh Giang ngày nay). Năm Minh Mạng thứ 19 (1838), cắt 5 tổng của Huyện Tứ Kỳ, 3 tổng của huyện Vĩnh Lại để lập ra huyện Vĩnh Bảo. Tên Vĩnh Lại duy trì đến năm 1919. Năm Tự Đức thứ 4, phủ Ninh Giang quản 4 huyện: Vĩnh Lại, Vĩnh Bảo, Gia Lộc và Tứ Kỳ. Vào đời Tự Đức (1858), Pháp tấn công Đà Nẵng, mở đầu cuộc xâm lược của Pháp vào Việt Nam. Tại Hải Dương nhiều huyện như Vĩnh Lại, Tứ Kỳ, Gia Lộc, thành Hải Dương bị giặc chiếm đóng, triều đình phải huy động quân từ nhiều tỉnh, kể cả Thanh Hóa và Nghệ An, có lúc số quân huy động lên tới 15.000 quân cùng nhiều thuyền tàu và đại bác dẹp giặc. Năm Thành Thái thứ 9 (1897), Pháp đặt sở đại lý ở Ninh Giang. Năm 1919, Pháp bỏ cấp phủ - cấp hành chính trung gian - phủ chỉ là tên gọi cho những huyện lớn và quan trọng, không quản các huyện nữa. Vì vậy, sau thời Khải Định (1925) tên gọi huyện Ninh Giang thay cho tên gọi huyện Vĩnh Lại. Trong thời kỳ Pháp tạm chiếm, vào năm 1951, Ninh Giang là quận và thuộc tỉnh Vĩnh Ninh. Tỉnh Vĩnh Ninh gồm các quận: Ninh Giang, Hà An, Vĩnh Bảo, Tiên Lãng và Phụ Dực. Sau năm 1954, một phần huyện Ninh Giang được tách ra để thành lập thị xã Ninh Giang thuộc tỉnh Hải Dương. Ngày 3 tháng 8 năm 1959, Thủ tướng Chính phủ ban hành nghị quyết sáp nhập thị xã Ninh Giang trở lại huyện Ninh Giang. Sau khi sáp nhập, huyện Ninh Giang có thị xã Ninh Giang và 27 xã: An Đức, Đồng Tâm, Đông Xuyên, Hiệp Lực, Hoàng Hanh, Hồng Dụ, Hồng Đức, Hồng Phúc, Hồng Thái, Hưng Long, Hưng Thái, Kiến Quốc, Nghĩa An, Ninh Hải, Ninh Hòa, Ninh Thành, Ninh Thọ, Quang Hưng, Quyết Thắng, Tân Hương, Tân Phong, Tân Quang, Ứng Hòe, Văn Giang, Văn Hội, Vạn Phúc, Vĩnh Hòa. Ngày 20 tháng 1 năm 1965, Bộ Nội vụ ban hành Quyết định số 20-NV chuyển thị xã Ninh Giang thành thị trấn Ninh Giang thuộc huyện Ninh Giang. Năm 1968, tỉnh Hải Dương sáp nhập với tỉnh Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng, huyện Ninh giang thuộc tỉnh Hải Hưng. Ngày 11 tháng 3 năm 1974, sáp nhập xóm Đoàn Kết của xã Đồng Tâm vào thị trấn Ninh Giang. Ngày 1 tháng 4 năm 1979, huyện Ninh Giang sáp nhập với huyện Thanh Miện thành huyện Ninh Thanh. Đến ngày 27 tháng 1 năm 1996, huyện Ninh Thanh lại được tách ra thành 2 huyện như cũ. Ngày 1 tháng 1 năm 1997, huyện Ninh Giang thuộc tỉnh Hải Dương vừa được tái lập. Ngày 14 tháng 1 năm 2002, xã Ninh Thọ được đổi tên thành xã Hồng Phong. Ngày 16 tháng 10 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 788/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Hải Dương (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 12 năm 2019). Theo đó: Sáp nhập xã Hồng Thái vào xã Hồng Dụ Sáp nhập xã Ninh Thành vào xã Tân Hương Sáp nhập xã Hưng Thái vào xã Hưng Long Sáp nhập xã Văn Giang vào xã Văn Hội Sáp nhập các xã Ninh Hòa và Quyết Thắng vào xã Ứng Hòe Sáp nhập các xã Hoàng Hanh và Quang Hưng vào xã Tân Quang. Huyện Ninh Giang có 1 thị trấn và 19 xã như hiện nay. Danh nhân Khúc Thừa Dụ, người giành quyền tự chủ cho đất nước vào đầu thế kỉ X. Du lịch Không nổi tiếng về du lịch nhưng Ninh Giang cũng có một vài đền chùa mang đậm dấu ấn lịch sử như: Đền quan Tuần Tranh (hay còn gọi là đền Tranh) là một trong những ngôi đền lớn và nổi tiếng ở Ninh Giang, Chùa Chông, Đình Làng Xuyên Hử,... Đình Làng Xuyên Hử là nơi thờ Vị Thành Hoàng của Làng, trong kháng chiến chống Pháp người dân địa phương đã che giấu cán bộ cách mạng tại đây... người dân còn tháo dỡ Đình Làng lấy vật liệu làm cầu Đồng Bình phục vụ kháng chiến. Tháng 3 năm 2006 được sự đồng ý của Ủy ban Nhân dân tỉnh Hải Dương đình làng Xuyên Hử đã được tái tạo lại. Di tích đình Trịnh Xuyên ở xã Nghĩa An thờ Vũ Đức Phong vị tướng kiên trung đời Trần đã được xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Cùng với đó lễ hội đình Trình Xuyên (ngày 10 tháng hai âm lịch cũng được vinh danh là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Địa phận xã Tân Phong thuộc huyện Ninh Giang trước đây có rất nhiều các di tích đình, chùa, miếu mạo. Đặc biệt đình Chuông với những cây cột gỗ lim hai người ôm và những phiến đá xanh lát hè nặng hàng chục tấn, Chùa Chuông với rất nhiều tượng phật... Hiện nay đình chùa đã bị phá hết (trong cải cách văn hoá), thời gian gần đây, người dân đã phục dựng lại chùa Chuông ở một vị trí khác nhưng các tượng thì đã không còn (đã bị thiêu hủy trong cải cách văn hoá). Năm 2005 chính quyền địa phương đã tổ chức khai quật tại nơi chôn những pho tượng phật của chùa Chuông cũ và thu giữ được rất nhiều di vật cổ gồm vài chục ngôi tương gỗ không còn nguyên vẹn nhưng những đường nét điêu khắc trên tượng của người xưa được xem là rất tinh tế và đẹp thì vẫn còn gần như nguyên vẹn. Hiện số tượng phật này vẫn được cất giữ tại chùa Chuông mới. Đình La Khê thuộc Xã Ninh Thành ( nay là thôn La Tiến xã Tân Hương) Huyện Ninh Giang Tỉnh Hải Dương. khi xưa gọi là Làng Vào thuộc xã La Khê (社 欏 溪) Tổng Đông Bối (總 東 貝) phủ Ninh Giang (府 寧 江) tỉnh Hải Dương (省 海 陽) Tương truyền Đình La Khê được nhân dân xây dựng từ rất sớm ở khu đất cao ở giữa làng, thờ Tượng Vị Tướng Quân HỒ ĐẠI LIỆU.phò Hai Bà Trưng đánh giặc Đình đã được tu sửa nhiều lần. Đến niên hiệu lDuy Tân thứ 1(1908) ngôi Đình được trùng tu và mở rộng.Kiến trúc kiểu chữ đinh (丁) Gồm 5 gian Tiền tế và 3 gian Hậu cung. Đình còn giữ nguyên các hoa văn, phù điêu mang nét văn hoá thời Nguyễn và các hiện vật như: Ngai thờ, Mũ đồng, Khám chỉ, Bát biểu, Xà mâu v.v.và 3 pho tượng: Tượng Vị Tướng Quân Hồ Đại Liệu Phò Bà Trưng, Giữ chức: Điện Tiền đô chỉ huy Sứ Tướng Quân.Tượng Mẫu Hậu Huệ Nương (Mẹ của Tướng Quân Hồ Đại Liệu). thờ Tượng Ngài Hà Quý Công -tự Bút Hoa Đỗ Thám hoa đời Trần. Đình La Khê suy tôn Vị Tướng Quân Hồ Đại Liệu Là Thành hoàng làng Có nhiều sắc phong Qua¸các Triều Đại Hiện Được Lưu giũ tại Sở văn Hoá Tỉnh Hải Dương và Viện thông tin khoa học xã hội i: (TT – TS FQ 4018 I X,44 F2). Không những vậy Đình La Khê trong 9 năm kháng chiến chống Pháp cũng là nơi sơ tán của Trường Đại học Bắc Sơn được đón Tôn Đức Thắng về thăm và nói chuyện và cũng là trụ sở hội họp của Mặt trận cứu Quốc Huỵện Ninh Giang. Năm 1949 Đình La Khê là Bệnh viện dã chiến của Quân khu Tả Ngạn. (HALUUST) Năm 1952 Pháp càn quét đốt phá phần Hậu cung hỏng hoàn toàn. Tượng, đồ thờ đã được nhân dân cất giữ tại chùa làng.Năm gian tiền tế không được trùng tu đã mai một xuống cấp theo thời gian. Đến tháng 10 – 1997 đình đã được tu tạo lại khang trang.năm 2021 được UBND tỉnh Hải Dương xếp hạng Đình La Khê là di tích lịch sử văn hóa ĐỀN KHÚC THỪA DỤ Công trình có tổng diện tích hơn 57.000m2, gồm 5 hạng mục chính, được khởi công xây dựng năm 2005, với tổng vốn đầu tư 38.3 tỷ đồng. ba loại vật liệu quý để làm đền thờ là đá xanh, gỗ lim và đồng. Đền thờ Anh hùng Dân tộc Khúc Thừa Dụ nằm giáp đê sông Luộc, mặt đền quay theo hướng Nam. Từ ngoài vào trong đền qua chiếc cầu đá, đến sân hội, với hai bức phù điêu ghép bằng các tảng đá lớn. Các họa tiết được chạm khắc công phu, mô tả quang cảnh nhân dân tụ nghĩa theo Tiên Chúa Khúc Thừa Dụ giành quyền tự chủ và cuộc sống thái bình, an cư lạc nghiệp. Giao thông Theo đường bộ, huyện Ninh Giang cách thành phố Hải Dương 29 km, Hà Nội 87 km. Huyện có nhiều tuyến đường quan trọng chạy qua là: quốc lộ 37, tỉnh lộ 392, tỉnh lộ 396, tỉnh lộ 396B,... và giao thông bằng hệ thống đường sông cũng khá thuận lợi. Quốc lộ 37 đoạn qua huyện nằm giữa huyện Gia Lộc và huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng đi qua các xã Ứng Hòe, Nghĩa An, Tân Hương, Vĩnh Hòa, Đồng Tâm và thị trấn Ninh Giang. Trên tuyến có cầu Chanh bắc qua sông Luộc. Tỉnh lộ 392 nối từ quốc lộ 38 ở huyện Bình Giang với tỉnh lộ 391 qua 4 xã từ Hồng Đức đến Nghĩa An. Đoạn mới mở kéo dài đến tỉnh lộ 391 (Tứ Kỳ) Tỉnh lộ 396: nối quốc lộ 37 với quốc lộ 38B (huyện Thanh Miện). Tỉnh lộ 396B: bắt đầu từ xã Tân Quang kết nối sang huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình bằng cầu Hiệp. Đường sông: đi Hưng Yên, Thái Bình, Hải Phòng bằng tuyến sông Luộc. Ngoài ra còn có các sông như Cửu An, sông Đình Hào (hay sông Tràng Thưa), sông Nghĩa An,... cũng có giá trị về giao thông với các địa phương lân cận như Gia Lộc, Tứ Kỳ. Làng nghề Là một huyện nam đồng bằng sông Hồng phát triển làng nghề còn hạn chế: Làng nghề mộc Cúc Bồ (Kiến Quốc) Nghề trồng hoa Tranh Xuyên (Đồng Tâm) Nghề làm giò chả ở Tân Hương Nghề làm bánh gai thị trấn Ninh Giang Nghề nấu rượu ở Văn Giang (Văn Hội).
Tục bó chân là một tập tục áp dụng cho phụ nữ, nó tồn tại ở Trung Quốc trong khoảng thời gian dài hàng nghìn năm, trải qua nhiều triều đại phong kiến. Ngày nay, tục bó chân đã bị bãi bỏ. Lịch sử Tục bó chân xuất hiện vào thời nhà Tống do nền Nho giáo Trung Quốc bị nghiêm khắc và khô khan hóa nhưng phổ biến nhất vào thời nhà Thanh. Có nhiều giả thuyết về xuất xứ của tục bó chân. Một trong những giả thuyết được nhắc đến nhiều là câu chuyện về một cung phi của Hán Thành Đế tên là Triệu Phi Yến,. Nàng đã quấn những dải lụa quanh bàn chân và nhảy múa. Hán Thành Đế vì rất ấn tượng với dáng điệu của Triệu Phi Yến khi nhảy múa trên đôi chân bó gọn nên gọi nó là "Kim Liên Tam Thốn" (Gót Sen Ba Tấc) và ra lệnh cho những cung phi khác cũng bắt chước theo. Một câu chuyện tương tự cũng được nhắc đến trong các tài liệu không chính thức, nhân vật chính lại là nàng Giáng Phi sống ở thời Nam Bắc Triều. Tuy rất khác nhau về tên nhân vật nhưng các câu chuyện trên cho thấy một điểm chung, tục bó chân bắt nguồn trong giới thượng lưu. Việc bó chân sau đó đã trở nên thịnh hành trong giới nữ thuộc mọi tầng lớp của xã hội Trung Quốc và dần trở thành một tập tục. Tục bó chân vẫn tồn tại ở Trung Quốc cho đến tận thế kỉ 20. Những người cai trị thuộc tộc Mãn châu triều đại nhà Thanh (1644 đến 1912) không chấp nhận tập tục này vì nó quá hủ tục lạc hậu nhưng không mấy thành công trong việc ngăn chặn nó. Trong những năm cuối của thế kỉ 19, những học giả cải cách và các nhà truyền giáo Tây phương bắt đầu lên tiếng phản đối tập tục gây đau đớn thể xác này, tuy nhiên phải đợi đến những năm 1920 thì mới bắt đầu có sự thay đổi về phía nhận thức của dân chúng khi một số trí thức tân tiến tách tục này ra khỏi giá trị thẩm mỹ và đạo đức. Năm 1928, Quốc dân đảng người Hán tuyên bố kế hoạch xóa bỏ tập tục bó chân, yêu cầu tất cả thiếu nữ dưới 15 tuổi phải để bàn chân phát triển tự nhiên, song cũng không thu được hiệu quả đáng kể. Sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập năm 1949, tục bó chân bị nghiêm cấm, và đến cuối thập niên 1960 thì tục này về cơ bản đã chấm dứt. Ngày nay, người ta chỉ còn thấy những chứng tích ít ỏi của tập tục này trên bàn chân của một số bà cụ già. Nguyên nhân Về thẩm mỹ, đàn ông Trung Hoa thời kỳ đó cho rằng phụ nữ có đôi bàn chân càng nhỏ thì càng được coi là đẹp, ai có chân to thì bị coi là xấu và khó tìm chồng. Do đó, tục bó chân được thực hiện như một tiêu chuẩn bắt buộc để phụ nữ có thể kết hôn. Ngoài ra, việc bó chân được xem là một giải pháp để kiểm soát và củng cố đức hạnh của nữ giới. Người ta tin rằng những người đàn bà với đôi bàn chân nhỏ sẽ không thể rời khỏi nhà dễ dàng, từ đó không thể có cơ hội quan hệ tình dục với người nào khác ngoài chồng mình. Còn có những giả thiết cho rằng, tục bó chân giúp củng cố sự thẩm mỹ, dễ kết hôn chỉ là lý thuyết bề nổi. Mục đích thật sự của tục này là để kìm hãm người phụ nữ, khiến họ phụ thuộc và phục tùng hoàn toàn vào đàn ông. Ngoài ra, một trong những công dụng của bó chân còn được xem là khiến cho vùng kín của phụ nữ chặt hơn nhờ sự tác động lên cơ đùi, từ đó quan hệ tình dục cũng khiến người đàn ông kích thích hơn. Quá trình bó chân Người mẹ hoặc người bà trong gia đình sẽ bắt đầu bó chân con gái hoặc cháu gái họ khi đứa trẻ từ 2 đến 5 tuổi. Quá trình này được bắt đầu trước khi khung xương chân của đứa trẻ có cơ hội phát triển. Việc bó chân thường được thực hiện vào mùa đông bởi chân trẻ sẽ bị tê lạnh, và vì thế bớt đi cảm giác đau đớn. Đầu tiên, từng chân sẽ được ngâm trong nước lá dược thảo và máu động vật ấm. Nó có tác dụng nhằm ngăn ngừa sự hoại tử. Sau đó tất cả móng chân sẽ bị cắt càng sâu càng tốt để ngăn chặn sự phát triển của chân và sự nhiễm trùng sau đó. Để chuẩn bị tinh thần cho cô gái những gì sẽ xảy đến tiếp theo, bàn chân sẽ được xoa bóp nhẹ nhàng. Những dải băng bằng lụa hoặc cotton dài khoảng 3m và rộng 5 cm đã được chuẩn bị sẵn và cũng được ngâm vào hỗn hợp dược thảo và máu động vật tương tự. Từng bàn chân sau đó sẽ bị bẻ gãy và cuốn gọn vào trong những dải băng ướt này, nén thật chặt đến kiệt nước,kéo giật mạnh về phía gót chân. Đôi khi người ta còn tạo ra những vết cắt sâu ở lòng bàn chân để công việc này được dễ dàng. Trình tự này sẽ được lặp lại 2 ngày một lần, với một lần bó chân mới. Mỗi lần bó lại, dải băng lại được thắt chặt hơn nữa làm cho quá trình bó chân càng ngày càng đau đớn. Bệnh phổ biến nhất sau khi bó chân là nhiễm trùng. Móng chân sẽ mọc dài ra, đâm vào thịt làm rữa thịt, đôi khi làm rụng cả ngón chân. Căn bệnh này có thể dẫn đến tử vong. Và đôi khi xương bàn chân mọc theo hướng đâm thẳng về phía gót chân. Khi trưởng thành, người bó chân có thể gặp nguy hiểm với những vấn đề về sức khỏe. Những phụ nữ lớn tuổi thì có nguy cơ cao bị gãy xương chậu và các xương khác khi ngã, họ cũng khó mà đứng dậy được khi đang ngồi. Ghi chú
theo cách gọi của Nhật Bản, hay theo cách gọi quốc tế phổ biến, là một chuỗi các hòn đảo ở phía tây Thái Bình Dương sát mép phía đông của Biển Hoa Đông. Quần đảo Nansei trải dài theo hướng tây nam từ đảo Kyushu đến gần đảo Đài Loan. Theo địa giới hành chính, quân đảo Nansei được chia thành Quần đảo Satsunan về phía bắc, thuộc tỉnh Kagoshima và quần đảo Ryūkyū về phía nam, thuộc tỉnh Okinawa, Nhật Bản (Yoron là đảo cực nam của quần đảo Satsunan). Quần đảo Nansei có khí hậu cận nhiệt đới với mùa đông ấm áp và mùa hè nóng bức. Ở đây mưa theo mùa và lượng mưa rất cao, cũng thường bị ảnh hưởng bởi bão lớn. Các đảo chính Quần đảo Satsunan/Bắc Ryukyu Thuộc tỉnh Kagoshima, vùng Kyushu. Quần đảo Osumi: Tanegashima, Yakushima, Kuchinoerabushima, Mageshima Quần đảo Tokara: Kuchinoshima, Nakanoshima, Suwanosejima, Akusekijima, Tairajima, Kodakarajima, Takarajima Quần đảo Amami: Amami Ōshima, Kikaigashima, Kakeromajima, Yoroshima, Ukeshima, Tokunoshima, Okinoerabujima, Yoronjima Quần đảo Ryukyu/Nam Ryukyu Quần đảo Ryūkyū là bộ phận của quần đảo Nansei mà về mặt hành chính thuộc tỉnh Okinawa, vùng Ryukyu, một trong 9 vùng địa lý của Nhật Bản. Vùng Ryukyu chỉ có duy nhất một tỉnh Okinawa. Quần đảo Ryūkyū chia thành: Quần đảo Okinawa: Đảo Okinawa (đảo chính), Kumejima, Iheyajima, Izenajima, Agunijima, Iejima Quần đảo Kerama: Tokashikijima, Zamamijima, Akajima, Gerumajima Quần đảo Daitō: Kita daitō, Mimami daitō, Oki daitō Quần đảo Sakishima Quần đảo Miyako: Miyakojima, Ikema, Ogami, Irabu, Shimoji, Kurima, Minna, Tarama Quần đảo Yaeyama: Iriomote-jima, Ishigaki, Taketomi, Kohama, Kuroshima, Aragusuku, Hatoma, Yubujima, Hateruma, Yonaguni Quần đảo Senkaku: Uotsurijima Văn hóa Trên quần đảo Nansei từng tồn tại vương quốc Lưu Cầu. Quần đảo này là quê hương của ngữ hệ Ryūkyū (Lưu Cầu). Tuổi thọ Người dân Ryūkyū nổi tiếng sống lâu. Theo tổ chức Okinawa Centenarian Study, nguyên nhân của hiện tượng này là sự kết hợp của chế độ ăn, tập thể dục và lối sống. Sinh thái Rừng xanh cận nhiệt đới Quần đảo Nansei Quần đảo Nansei được công nhận bởi các nhà sinh thái là khu sinh thái rừng lá lớn cận nhiệt đới. Hệ thực vật và động vật của quần đảo có những tương đồng với Đài Loan, Philippines và Đông Nam Á, cũng là một phần của vùng sinh thái Indomalaya. Rặng San hô Dãi san hô ngầm của Lưu Cầu có tên trong danh sách 200 khu bảo tồn sinh thái của Quỹ Động vật Hoang dã Thế giới, đang bị đe doạ bởi tiến trình trầm tích dưỡng chất nông nghiệp, cũng như đang bị tàn phá do các hoạt động ngư nghiệp. Chú thích Đối với tên các đảo kể trên, các tiếp vĩ ngữ -jima, -shima và -gashima có thể hoán đổi, bỏ bớt hoặc thêm vào. Các đảo này được liệt kê theo hướng từ bắc xuống nam. Trong danh sách trên, "Shotō" có thể thay thế bằng "Quần đảo" ngoại trừ trường hợp Ryūkyū Shotō (琉球諸島). Trong tiếng Nhật, từ này dùng để chỉ tất cả đảo thuộc tỉnh Okinawa. Ryūkyū Rettō (琉球列島) chỉ vùng lãnh thổ trước đây là vương quốc gồm các quần đảo Amami, Okinawa, Miyako và Yaeyama.
Sonia Gandhi (tên khai sinh là Edvige Antonia Albina Maino; sinh ngày 9 tháng 12 năm 1946) là chính khách Ấn Độ sinh trưởng tại Ý, Chủ tịch Đảng Quốc Đại Ấn Độ (Đảng Quốc Đại) và là goá phụ cựu Thủ tướng Ấn Độ Rajiv Gandhi. Bà từng là Chủ tịch Liên minh Tiến bộ Thống nhất kiểm soát Hạ viện (Lok Sabha) cho đến khi từ chức vào ngày 23 tháng 3 năm 2006. Năm 2004, bà được tạp chí Forbes chọn vào vị trí thứ ba trong danh sách những phụ nữ nhiều quyền lực nhất trên thế giới. Tuy nhiên, năm 2005, bà không còn được Forbes chọn vào danh sách này. Tháng 9 năm 2006, tên của Sonia Gandhi xuất hiện trở lại trong danh sách 100 phụ nữ quyền thế nhất thế giới, lần này bà đứng ở vị trí thứ 13 . Bà trở lại Quốc hội Ấn Độ trong cuộc bầu cử gần đây với 400.000 phiếu cách biệt, đại diện cho Rae Bareilly. Thiếu thời Chào đời ở Lusiana, một ngôi làng nhỏ cách Vicenza 50 km, Edvige Antonia Albina Maino là con gái của Stefano và Paola Maino, lớn lên ở Orbassano, một thị trấn kế cận Torino, được nuôi dưỡng trong gia đình là giáo dân Công giáo Rôma và theo học tại một trường Công giáo. Cha của cô là một nhà thầu xây dựng, từng ủng hộ chế độ phát xít, qua đời năm 1983. Mẹ và hai người em gái vẫn sống trong vùng Orbassano. Năm 1964, cô theo học Anh văn tại một trường ngôn ngữ ở Cambridge. Tại đây cô gặp Rajiv Gandhi, lúc ấy theo học tại Trường Trinity thuộc Đại học Cambridge (Anh). Họ kết hôn năm 1968, sau đó cô đến sống chung nhà với mẹ chồng, Indira Gandhi, khi ấy là Thủ tướng Ấn Độ đương chức. Lúc đầu, cô không thích thức ăn và trang phục Ấn, và gây bất bình trong công luận khi cho chụp ảnh với bộ váy ngắn. Mãi đến năm 1983, Sonia Gandhi mới nhập quốc tịch Ấn. Rajiv và Sonia có hai người con, Rahul Gandhi (sinh năm 1970) và Priyanka Gandhi (1972). Mặc dù gia tộc Gandhi dính líu sâu đậm vào chính trường Ấn (Indira Gandhi là con gái của Jawaharlal Nehru, từng là thủ tướng Ấn Độ), Sonia và Rajiv khước từ mọi hoạt động chính trị - Rajiv là phi công cho một hãng hàng không, còn Sonia lo việc nội trợ. Khi Indira bị loại khỏi chức vụ năm 1977 và khi Rajiv tiến vào chính trường năm 1982, Sonia vẫn tiếp tục chăm sóc gia đình và tránh mọi cuộc tiếp xúc với công chúng. Trong nhiệm kỳ 5 năm của Rajiv Gandhi xảy ra vụ tai tiếng Bofors, trong đó một doanh nhân người Ý, Ottavio Quattrocchi, bị nghi ngờ liên can, là bạn của Sonia Gandhi và từng đến tư dinh của thủ tướng. Sonia và chính trường Ấn Độ Sau khi Rajiv Gandhi bị ám sát vào ngày 21 tháng 5 năm 1991, các thành viên của đảng Quốc Đại kêu gọi Sonia tham gia chính trường nhưng bà từ chối, P. V. Narasimha Rao được chọn làm lãnh tụ đảng, và sau đó trở nên thủ tướng. Sau cùng, bà quyết định bước vào chính trường ngay trước cuộc tổng tuyển cử năm 1998, chính thức đảm nhiệm chức vụ chủ tịch đảng Quốc Đại và đắc cử vào quốc hội năm 1999 và trở nên lãnh tụ phe đối lập ở Lok Sabha (Hạ viện) khoá 13. Trong chiến dịch tranh cử, các đối thủ (thuộc Đảng Bharatiya Janata - BJP) nhấn mạnh đến sinh quán ngoại quốc của bà cũng như việc bà không chịu vào quốc tịch Ấn suốt 15 năm sau khi kết hôn và bà không thông thạo tiếng Hindi, hoặc các ngôn ngữ khác của Ấn Độ, mặc dù bà tự nhận đã "là người Ấn tự trong đáy lòng vào ngày trở nên con dâu của Indira Gandhi". Tháng 5 năm 1999, Sonia đề nghị từ nhiệm khỏi cương vị lãnh đạo đảng Quốc Đại sau khi ba nhà lãnh đạo kỳ cựu của đảng (Sharad Pawar, Purno A. Sangma và Tariq Anwar) đặt vấn đề về quyền tranh cử thủ tướng của bà, vì bà không sinh ra ở Ấn Độ cũng không mang dòng máu Ấn. Trong cuộc tổng tuyển cử năm 2004, Sonia phát động chiến dịch vận động toàn quốc, du hành khắp nơi trong nước với khẩu hiệu Aam Aadmi (thường dân) đối nghịch với khẩu hiệu "Ấn Độ toả sáng" của Liên minh Dân chủ Dân tộc do BJP lãnh đạo. Sau chiến thắng của đảng Quốc Đại, Sonia được xem là nhân vật có triển vọng nắm giữ chức thủ tướng. Ngày 16 tháng 5, bà được chọn lãnh đạo chính phủ liên hiệp 15 chính đảng gọi là Liên minh Tiến bộ Thống nhất (UPA). Tuy vậy, quốc hội bị phân hoá trầm trọng, và mặc dù là thành phần lớn nhất trong quốc hội, UPA không thể bảo đảm thế đa số nên phải phụ thuộc vào sự ủng hộ của các đảng cánh tả để thành lập chính phủ. Sau những tranh cãi dữ dội về nguồn gốc nước ngoài của bà, Gandhi từ chối quyền lãnh đạo Đảng Quốc Đại tại Lok Sahba, vị trí cần có để trở thủ tướng Ấn Độ. Cùng lúc, một số thành viên trong Liên minh Dân chủ Dân tộc - nổi bật là Subramaniam Swamy và Sushma Swaraj - tuyên bố có luận cứ pháp lý để ngăn cản Sonia Gandhi nắm giữ chức vụ thủ tướng, ngay cả tranh cử vào quốc hội, trưng dẫn điều 5 của Luật Quyền Công dân năm 1955. Luận cứ này bị phản bác bởi những người khác, cuối cùng được đem ra trước Tối cao Pháp viện Ấn Độ. Toà Tối cao bác bỏ luận cứ, đồng thời không chấp nhận những cáo buộc cho rằng khi ra tranh cử Gandhi đã man khai về việc tốt nghiệp Đại học Cambridge. Ngày 18 tháng 5, một ngày trước lễ nhậm chức, trong một động thái chính trị ranh mãnh (theo những người đả kích) hoặc một hành động hợp lẽ (theo những người ủng hộ) nhằm tránh xảy ra một sự phân hoá về ý thức hệ, Sonia đề cử Tiến sĩ Manmohan Singh vào chức vụ thủ tướng. Singh từng là bộ trưởng tài chính trong chính phủ Quốc đại của Rao và được xem là kiến trúc sư trưởng cho những cải cách kinh tế của Ấn Độ tiến hành từ đầu thập niên 1990. Vốn có tiếng là không có tham vọng chính trị, Rao lại có mối quan hệ hữu hảo với Sonia Gandhi, những nhân tố đã giúp đặt ông vào ghế thủ tướng. Sonia vẫn duy trì vị trí lãnh đạo phe đa số và chủ tịch đảng Quốc Đại tại Quốc hội. Những dàn xếp này giúp bà duy trì quyền kiểm soát đảng và đối phó với những tranh chấp trong chính phủ liên hiệp trong khi trao việc điều hành đất nước vào tay Manmohan Singh. Juyoti Basu, cựu thủ hiến tiểu bang Tây Bengal, có mặt trong buổi họp quyết định nhân sự cho ghế thủ tướng, thuật lại rằng do lo sợ cho tính mạng của mình, Gandhi không muốn nhận chức thủ tướng. Ngày 23 tháng 3 năm 2006, Sonia Gandhi tuyên bố từ chức khỏi Lok Sabha và Chủ tịch Hội đồng Tư vấn Quốc gia. Tháng 5 năm 2006, bà tái đắc cử từ đơn vị bầu cử Rae Bareilly. Gia đình Con trai của Sonia Gandhi, Rahul Gandhi, đắc cử vào Quốc hội năm 2004, nhiều người xem ông đương nhiên là người thừa kế quyền lãnh đạo đảng Quốc dân Đại hội. Mặc dù không ra tranh cử, Priyanka Gandhi-Vadra vẫn thường được nhắc đến bởi các phương tiện truyền thông. Sonia và các con của bà không gần gũi với Maneka Gandhi, goá phụ của Sanjay Gandhi, em trai của Rajiv, và con trai của Sanjay, Varun Gandhi. Hai người này đang là thành viên của đảng Bharatiya Janata. Tác phẩm Sonia Gandhi đã viết hai cuốn sách: Rajiv và Thế giới của Rajiv. Bà cũng biên tập quyển Người Con gái của Tự do và Two Alone, Two Together (gồm những bức thư giữa Jawaharlal Nehruj và con gái ông, Indira Gandhi, từ năm 1922 đến 1964).
Hành tinh X là một hành tinh giả thuyết lớn vận động theo một quỹ đạo nằm ngoài quỹ đạo của Sao Hải Vương. Chữ X có nghĩa là "chưa được biết", không phải là số 10 trong chữ số La Mã; vào thời gian này mới chỉ có 8 hành tinh được phát hiện. Ban đầu hành tinh này được coi như sẽ là hành tinh thứ chín và đến sau năm 1930 thì nó là hành tinh thứ 10 và một lần nữa, sau cuộc họp của Hiệp hội Thiên văn Quốc tế tổ chức vào tháng 8 năm 2006, hành tinh X lại để chỉ đến hành tinh thứ 9, do Sao Diêm Vương đã bị hạ xuống cấp hành tinh lùn. Sự tồn tại của hành tinh được đề xuất dựa trên cơ sở của những quỹ đạo không nhất quán của những khối khí khổng lồ, đặc biệt trong số này là Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương. Sự không nhất quán đó đã được giải quyết phần lớn bởi những đo lường hiện đại, bỏ đi những cơ sở cho việc xác lập Hành tinh X. Mặc dù Sao Diêm Vương đã được phát hiện như một kết quả của việc tìm kiếm Hành tinh X, nhưng nó không phải là Hành tinh X. Vật thể 2003 UB313 ở vành đai Kuiper cũng không phải là Hành tinh X, theo như định nghĩa mới được đưa ra sau cuộc họp của Hiệp hội Thiên văn Quốc tế về định nghĩa hành tinh. Trong văn hoá đại chúng, "Hành tinh X" đã trở thành một thuật ngữ chung cho những hành tinh chưa được phát hiện trong Hệ Mặt Trời. Tuy nhiên, việc sử dụng khái niệm này bởi các nhà khoa học thì dành riêng cho việc nói về giả thuyết cụ thể được thảo luận ở phía dưới. Bản chất của vấn đề không nhất quán Vào cuối thế kỷ 19, nhiều nhà thiên văn học đã nghiên cứu về sự tồn tại của hành tinh bên ngoài Sao Hải Vương. Sự phát hiện ra Sao Hải Vương là kết quả của sự tính toán của nhà toán học Adams và Le Verrier để giải thích sự không thống nhất giữa việc tính toán và việc quan sát quỹ đạo của Sao Thiên Vương, Sao Thổ và Sao Mộc. Tuy nhiên, sau sự phát hiện ra Sao Hải Vương, vẫn còn vài điểm nhỏ trong sự nhất quán giữa các quỹ đạo các hành tinh đó và của bản thân quỹ đạo của Sao Hải Vương. Những điểm này đã dược dùng để chỉ ra sự tồn tại của một hành tinh nữa có quỹ đạo nằm ngoài Sao Hải Vương. Tuy vậy, chuyến du hành Voyager 2 bay ngang qua Sao Hải Vương đã giúp cho việc xác định được khối lượng chính xác của Hành tinh X. Khi một khối lượng mới đã được xác định và được sử dụng ở Jet Propulsion Laboratory Developmental Ephemeris (JPL DE), sự không thống nhất trong kết quả của việc nghiên cứu đã không còn nữa. Percival Lowell, người nổi tiếng về sự khẳng định đã quán sát thấy kênh đào trên Sao Hỏa, đã gọi hành tinh giả thuyết này là "Hành tinh X". Ông đã thực hiện hai cuộc tìm kiếm nó mà không thành công, cuộc tìm kiếm đầu tiên kết thúc vào năm 1909 và sau khi xem lại những dự đoán về vị trí nó có thể có, cuộc tìm kiếm thứ hai bắt đầu từ năm 1913 đến năm 1915, sau khi Lowell đã xuất bản những giả thuyết toán học của mình về các tham số cho Hành tinh X. Nhưng thật trớ trêu, ngay trong quá trình quan sát của ông trong cùng năm đó, hai bức ảnh mờ của Sao Diêm Vương đã được ghi lại, nhưng nó đã không được nhận ra là một hành tinh mới. Sự phát hiện ra Sao Diêm Vương Cái chết bất ngờ của Lowell vào năm 1916 tạm thời làm gián đoạn việc tìm kiếm hành tinh X. Thất bại trong việc tìm kiếm hành tinh này dường như đã giết chết anh ấy (theo một người bạn). Góa phụ của Lowell, Constance, tham gia vào một cuộc chiến pháp lý với đài quan sát về di sản của Lowell đã ngăn chặn việc tìm kiếm Planet X trong nhiều năm. Năm 1925, đài quan sát thu được đĩa thủy tinh cho kính thiên văn rộng 13 inch (33 cm) mới để tiếp tục tìm kiếm, với nguồn vốn từ Abbott Lawrence Lowell, anh trai của Percival. Năm 1929, giám đốc đài quan sát, Vesto Melvin Slipher, đã giao công việc định vị hành tinh cho Clyde Tombaugh, 22 tuổi đến từ nông trại vùng Kansas vừa mới đến Đài thiên văn Lowell sau khi Slipher ấn tượng với một mẫu bản vẽ thiên văn. Nhiệm vụ của Tombaugh là chụp lại một cách có hệ thống các phần của bầu trời đêm theo cặp hình ảnh. Mỗi hình ảnh trong một cặp được lấy cách nhau hai tuần. Sau đó, ông đặt cả hai hình ảnh của từng phần trong một máy, mà bằng cách trao đổi hình ảnh nhanh chóng tạo ra ảo giác về chuyển động (nguyên lí hoạt động là nhờ sự chuyển động của hình ảnh) của bất kỳ hành tinh nào. Để giảm thiểu cơ hội cho một hành tinh di chuyển nhanh hơn (và do đó gần hơn) bị nhầm lẫn với hành tinh mới, Tombaugh đã chụp ảnh từng khu vực gần điểm đối lập của nó, 180 độ từ Mặt trời, nơi chuyển động ngược lại rõ ràng cho các vật thể ngoài quỹ đạo của Trái Đất. mạnh nhất. Ông cũng lấy một hình ảnh thứ ba như một công cụ để loại bỏ bất kỳ kết quả sai gây ra bởi các khuyết điểm trong một riêng lẻ. Tombaugh quyết định chụp ảnh toàn bộ cung hoàng đạo, thay vì tập trung vào những vùng được Lowell đề xuất. Đến đầu năm 1930, công việc tìm kiếm của Tombaugh đã đạt tới chòm sao của Gemini. Vào ngày 18 tháng 2 năm 1930, sau khi tìm kiếm gần một năm và kiểm tra gần 2 triệu ngôi sao, Tombaugh đã phát hiện ra một vật thể di chuyển trên các tấm ảnh chụp vào ngày 23 tháng 1 và 29 tháng 1 năm đó. Một bức ảnh vào ngày 21 tháng 1 đã xác nhận sự chuyển động ấy. Sau khi xác nhận, Tombaugh bước vào văn phòng của Slipher và tuyên bố, "Bác sĩ Slipher, tôi đã tìm thấy hành tinh X." Vật thể nằm chỉ lệch sáu độ từ một trong hai địa điểm cho hành tinh X Lowell đã gợi ý; do đó dường như cuối cùng anh ta đã có được điều cần chứng minh. Sau khi đài quan sát thu được nhiều bức ảnh xác nhận hơn, tin tức về phát hiện này đã được điện báo đến Đài thiên văn Đại học Harvard vào ngày 13 tháng 3 năm 1930. Vật thể mới này sau đó được đưa ra trước trên các bức ảnh có niên đại từ ngày 19 tháng 3 năm 1915. Quyết định đặt tên cho đối tượng à là Pluto được dự định, một phần để tôn vinh Percival Lowell, dùng tên viết tắt của ông đã tạo nên hai chữ cái đầu tiên của từ (PL). Sau khi khám phá ra Sao Diêm Vương, Tombaugh tiếp tục lục tìm các vật thể khác ở xa. Ông đã tìm thấy hàng trăm ngôi sao và tiểu hành tinh biến đổi, cũng như hai sao chổi, nhưng không có các hành tinh nữa. Những tìm kiếm rộng hơn về Hành tinh X Sau sự phát hiện ra Sao Diêm Vương, Tombaugh tiếp tục tìm kiếm tại mặt phẳng Hoàng Đạo cho những hành tinh ở xa khác. Ông đã tìm ra các tiểu hành tinh, các sao biến đổi và thậm chí là sao chổi nhưng không tìm thấy thêm hành tinh nào cả. Vào những năm của thập kỷ 1980 và 1990, nhà thiên văn học Robert G. Harrington của Đài thiên văn Hải quân Mỹ, người đầu tiên đã tính toán ra rằng Sao Diêm Vương quá nhỏ để có thể làm xáo trộn quỹ đạo của Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương, đã dẫn đầu một cuộc tìm kiếm để xác định rõ lý do thực sự của những quỹ đạo bất thường nhìn bên ngoài của các hành tinh này. Ông đã tính ra rằng bất cứ hành tinh X nào cũng có thể có quỹ đạo khoảng gấp 3 lần quỹ đạo của Sao Hải Vương, có thể là hình elip và nằm xa phía dưới mặt phẳng hoàng đạo. Giả thuyết này đã được tiếp nhận với nhiều sự pha trộn. Brian Marsden của Trung tâm Minor Planet thuộc Đại học Harvard, một người hoài nghi về việc tồn tại của Hành tinh X, đã chỉ ra rằng những điểm không nhất quán này là nhỏ hơn hàng trăm lần so với những gì đã được Adams và Le Verrier chỉ ra và điều này dễ dàng nhận ra với lý do là sự sai lầm trong quan sát. Harringrton đã chết vào năm 1993 mà chưa tìm ra Hành tinh X. Sau khi Sao Diêm Vương và vệ tinh tự nhiên Charon (được phát hiện vào năm 1978), không có thiên thể ngoài Hải Vương tinh (vật thể Trans-Neptunian) nào được tìm thấy cho đến khi phát hiện ra vào năm 1992. Từ lúc đó, hàng trăm vật thể Trans-Neptunian đã được phát hiện. Các thiên thể phần lớn được nhận ra theo vành đai Kuiper: các mảnh vỡ có dạng băng chuyển động theo quỹ đạo của một hành tinh nằm trong mặt phẳng quỹ đạo bên ngoài Sao Hải Vương, về phía trái của sự hình thành Hệ Mặt Trời. Sao Diêm Vương ngày nay đã được coi như là một trong những vật thể lớn nhất của vành đai Kuiper và là hành tinh lùn lớn thứ hai. Kết quả phân tích dữ liệu mới do tàu du hành WISE của NASA thu thập được vẫn không hề thấy bóng dáng của hành tinh X, mà theo một số giả định là tồn tại ở rìa ngoài hệ mặt trời. Tuy nhiên, các nhà khoa học vẫn tiếp tục tìm kiếm mục tiêu bí ẩn này, dù nó là một hành tinh hay ngôi sao mờ nhạt ở cách xa mặt trời. Thậm chí chuyên gia Kevin Luhman của Đại học Pennsylvania (Mỹ) còn cho rằng các nhà thiên văn sẽ tiếp tục theo đuổi bạn đồng hành với mặt trời bằng một cuộc khảo sát mới và với mức độ sâu hơn trước đây. Luhman, chuyên gia nghiên cứu các ngôi sao khối lượng thấp và lùn nâu, cũng là người vừa công bố kết quả cuộc truy tìm hành tinh X bằng WISE. Trong một diễn biến có thể trở thành động lực mới của những người tin vào sự hiện diện của hành tinh X, các nhà nghiên cứu Mỹ công bố đã phát hiện một hành tinh lùn nằm ở vị trí xa nhất kể từ trước tới nay của hệ mặt trời. Theo đó, hành tinh 2012 VP 113 được tìm thấy trong vùng không gian hầu như chưa từng được thám hiểm, gọi là vòng trong của Mây Oort. Bên cạnh đó, quỹ đạo của 2012 VP 113 và một số láng giềng của nó cho thấy dường như có sự tồn tại của một siêu Trái Đất nằm ở khoảng cách xa hơn, có thể vượt ngoài tầm quan sát của các thiết bị tối tân hiện nay. Việc bác bỏ Hành tinh X Các con tàu thám hiểm không gian Pioneer 10, Pioneer 11, Voyager 1 và Voyager 2 đã bác bỏ sự tồn tại của Hành tinh X, như Lowell đã đặt ra giả thuyết, theo hai cách. Cách thứ nhất, khi chúng bay qua mỗi hành tinh bên ngoài, gia tốc được tăng lên bởi sức hút của lực hấp dẫn của hành tinh, và nó được sử dụng để xác định khối lượng của các hành tinh này. Nó chỉ ra khối lượng của các hành tinh ngoài, được tính toán dựa trên những đài thiên văn đặt ở Trái Đất, là rất thấp, chỉ bằng 1%. Khi khối lượng chính xác được dùng để xác định các quỹ đạo của các hành tinh bên ngoài, sự không nhất quán còn lại đã biến mất. Cách thứ hai, đường đi của những con tàu thám hiểm đã chỉ ra sự thống nhất có thể tính toán được bằng sức hút của lực hấp dẫn của một vật thể lớn chưa phát hiện ra trong Hệ Mặt Trời. Nhiều nhà thiên văn học đã cho rằng việc này là kết thúc của giả thuyết Hành tinh X. Điều này không ngăn trở sự tồn tại của các vật thể tiềm tàng có khối lượng bằng Trái Đất, những vật có thể tránh khỏi sự tìm kiếm kiểu này và cũng có thể không tạo sự nhất quán dễ nhận thấy trong quỹ đạo các hành tinh bên ngoài. Một vật thể như thế có thể coi là "Hành tinh X" chỉ trong cảm giác chung chung, không phải là giác quan khoa học. Sự khôi phục lại Hành tinh X Câu truyện của việc tìm kiếm cho Hành tinh X có thể vẫn chưa kết thúc. Vành đai Kuiper đã dẫn tới một kết thúc bất ngờ tại 55 AU và có sự suy đoán rằng việc này bị gây ra bởi sự tồn tại của một vật thể lớn hơn rất nhiều so với bất cứ vật thể nào khác ở vành đai Kuiper với một khối lượng nằm trong khoảng trung gian giữa Sao Thổ và Trái Đất và nằm ngoài 55 AU. (Nói đúng ra, điều này không giống như Hành tinh X, bởi vì nó đến từ một cơ sở giả thuyết khác.) Các vật thể như là 50000 Quaoar, 90377 Sedna và theo thứ tự được phát hiện vào năm 2002, 2004 và 2005, do các nhà khoa học của Viện Công nghệ California (California Institute of Technology) phát hiện ra, có kích thước quá nhỏ để phù hợp với giả thuyết hành tinh mới này. Sedna thì cũng xa nữa. Một giả thuyết khác cũng đã được Tiến sĩ John Murray của Đại học Mở và John Matese của Đại học Tây Nam Louisiana đưa ra. Cả hai nhà khoa học đã tuyên bố rằng đó chính là do quan sát được các sao chổi một thời gian dài, như Jan Oort đề xuất, các sao này đã xuất hiện một cách ngẫu nhiên từ mọi phía của bầu trời và xuất hiện thiên về một vùng nhất định, vùng mà họ tin có thể bị quấy nhiễu bởi một vật thể to lớn không nhìn thấy. Vật thể này có kích thước ít nhất bằng Sao Hải Vương và có thể hơi na ná với sao lùn nâu . Năm 2004, sự thật về hành tinh X đã khôi phục hoàn toàn. Tiến sĩ John Murray tuyên bố rằng ông đã phát hiện ra 3 hành tinh X ngoài Sao Diêm Vương là Haumea, Makemake và Eris. Đồng thời, ông còn phát hiện ra sao Proxima Centauri cách Eris 0,3 AU. Ngôi sao này chính là nguyên nhân gây ra sự đan chéo quỹ đạo của Sao Hải Vương và Sao Diêm Vương. Hành tinh X trong tác phẩm hư cấu Trong bộ phim Godzilla thứ 6, Monster Zero, một sinh vật được biết như X-seijin tại Nhật Bản và Xians hail tại Mỹ, đến từ Hành tinh X, nằm giữa Sao Hải Vương và Sao Thổ. Trong một vài tập phim hoạt hình Looney Tunes về không gian, như là Duck Dodgers trong thế kỷ 24 1/2, có một "Hành tinh X". Cái tên được nhận ra bởi một tờ giấy dán bên ngoài đề là "HÀNH TINH X", một chữ X khổng lồ trên bề mặt của hành tinh, hoặc có thể hành tinh này có dạng chữ X. Trong một vài trường hợp khác, Hành tinh X được đi cùng với các hành tinh khác cũng được đặt tên theo chữ như là Hành tinh Y hoặc hành tinh Z. Trò chơi máy tính RPG Ultima II có một hành tinh X mà người chơi cần phải đến và giành được các đồ vật ở đó. Bộ phim có một số người hâm mộ (cult classic) "The Adventures of Buckaroo Banzai Across the 8th Dimension" (1984), về một người phiêu lưu, bác sĩ phẫu thuật, ngôi sao nhạc rock Buckaroo Banzai (Peter Weller) và ban nhạc của anh, đã đi xâm chiếm một thế giới khác từ chiều thứ 8. Người lãnh đạo thế giới đó là Lord John Whorfin (John Lithgow) đã hỏi "Chúng ta sẽ đi đâu?!" Red Lectoids trả lời "Hành tinh X (10)!" Whorfin: "Khi nào?!" Lectoids: "Sớm thôi!" Phim hoạt hình dài tập Exosquad miêu tả Hành tinh X như một thế giới vô hình bao gồm vật chất tối. Nó được Pirate Clans phát hiện ra và đặt tên nó là Chaos và sau này đã coi nó như là một nơi an toàn cho trận Exofleet. Trong tác phẩm Cthulhu Mythos, Hành tinh X có thể là Ghroth hoặc Yuggoth, mặc dù gần đây thì nó được tin là Sao Diêm Vương. Trong phim Transformers: Cybertron, Hành tinh X là một hành tinh màu tím huyền bí, là nhà của Sideways và Soundwave. Hành tinh X cũng xuất hiện như là một cấp trong trò chơi Timesplitters. Hành tinh X là tên của một tiểu thuyết của Pocket Books, miêu tả một cuộc gặp gỡ giữa các nhân vật của Marvel Comics là X-Men và Star Trek, mà đã từng có trong tập phim Star Trek: The Next Generation.
Đĩa quang (tiếng Anh: optical disc) là thuật ngữ dùng để chỉ chung các loại đĩa mà dữ liệu được ghi/đọc bằng tia ánh sáng hội tụ. Tuỳ thuộc vào từng loại đĩa quang (CD, DVD...) mà chúng có các khả năng chứa dữ liệu với dung lượng khác nhau. Đĩa quang là dạng lưu trữ dữ liệu không mất dữ liệu khi ngừng cung cấp điện (non-volatile). Bài này có nội dung về các loại đĩa quang nói chung, chi tiết từng loại đĩa quang cụ thể xem từng bài riêng về chúng Tổng quan Về cơ bản lưu trữ dữ liệu dạng đĩa trên máy tính được chia thành hai loại: ghi nhớ dữ liệu theo nguyên lý sử dụng từ tính và quang học. Với nguyên lý từ tính, chúng gồm các loại đĩa cứng, đĩa mềm. Với nguyên lý quang học, đại diện cho chúng là các đĩa CD, DVD và với các chuẩn mới ngày nay. Lưu trữ dựa trên từ tính rất thông dụng và xuất hiện trên hầu hết các máy tính (xem thêm bài ổ đĩa cứng) với đặc điểm là dung lượng lớn, việc ghi dữ liệu thuận tiện. Với các đĩa quang học việc ghi dữ liệu khó khăn hơn, phải thực hiện trên các đĩa quang riêng và ổ đĩa quang có tính năng ghi dữ liệu. Lịch sử phát triển Được phát triển vào khoảng cuối thập niên 1960, đĩa quang đầu tiên được phát minh bởi James Russell. • Năm 1978 hai hãng Philips và Sony bắt tay cùng nghiên cứu phát triển loại đĩa CD-DA (digital audio) dùng cho việc ghi âm thanh. • Đến năm 1980 thì chuẩn đĩa CD-DA ra đời, chúng được chuẩn hoá với định dạng Sách đỏ (Red Book). • Năm 1983 Sony và Philips tiếp tục hợp tác để đưa ra các chuẩn đĩa chung. Chuẩn định dạng Sách vàng để phù hợp hơn với dữ liệu trên máy tính CD ROM • Từ đó về sau thì các định dạng đĩa CD được phát triển theo theo các chuẩn sách Xanh, Cam, Trắng... Nguyên lý lưu trữ dữ liệu Không giống như các đĩa cứng được ghi dữ liệu lên bề mặt bằng từ, đĩa quang (theo đúng như ý nghĩa của tên gọi) sử dụng các tính chất quang học để lưu trữ dữ liệu. Khái niệm track trên đĩa quang cũng giống như ổ đĩa cứng, mỗi track là một vòng tròn, tuy nhiên ở đĩa quang các track là các vòng tròn hở nối tiếp nhau. Trên đĩa quang có các rãnh theo hình xoắn trôn ốc từ trong ra ngoài (không giống như các track đồng tâm ở ổ đĩa cứng) chứa các"hố"thuật ngữ tiếng Anh gọi là"pit"và bề mặt gọi là"land", tia laser đọc các pit và land và chuyển sang tín hiệu nhị phân.Các pit này được chia làm chín loại,có ký hiệu từ t3 đến t11. t3 = 833 nm t4 =1111 nm t5 =1388 nm t6 =1666 nm t7 =1944 nm t8 =2221 nm t9 =2499 nm t10 =2777 nm t11 =3054 nm Cụ thể hơn,tia sáng khi chiếu vào bề mặt đĩa quang nếu gặp một pit(phần hố bị laser khắc) thì tia sáng sẽ không phản xạ ngược lại nguồn phát sáng vì phần sóng giao thoa ở viền pit đã triệt tiêu sự phản lại,còn khi chiếu qua phần land(bề mặt không bị khắc) thì tia sáng sẽ phản chiếu lại mắt đọc,đường này có dạng 2 tia trùng nhau. Tại ổ đĩa quang, trên đường chiếu của tia sáng có hệ lăng kính bán mạ để phản xạ tia sáng truyền ngược lại (khi chiếu vào vùng bề mặt) vào một bộ cảm biến để nhận tín hiệu (là các photodiode). Tín hiệu sau khi nhận được cần phải xử lý rất phức tạp.Các phần tử pit và land kể trên không phải đại diện cho các bit nhị phân.Các bit nhị phân trong hệ này được tạo nên bởi kênh nhị phân(channel bit) hay là một xung thời gian có độ dài(1/4.321.800 phần của giây).Các kênh nhị phân này quy định khoảng thời gian mà một bit có ý nghĩa.Các bit"0"và"1"được quy định như sau,nếu như tia laser quét vào vùng land,mỗi kênh nhị phân sẽ bằng một bit"0"và chia đều vùng land này,khi tia laser chiếu vào phần viền,giữa vùng land và một hố pit,kênh nhị phân ở giai đoạn chuyển giao này sẽ bằng bit"1".Sau đó các kênh nhị phân(thời gian) tiếp tục chia đều hố pit đó và khoảng thời gian giữa pit đó,tức là khi tia laser quét vẫn ở trong pit đó thì nó chiếm một khoảng thời gian"x"có đơn vị là 1 channel bit,mỗi đơn vị đó có giá trị"0"như khi quét qua land.Các dữ liệu nhị phân này không phải là dữ liệu đầu vào có thể đọc được. Tuy nhiên đó chỉ là trên mô hình,để hệ thống thu và phát hoạt động tốt,người ta khi ghi đĩa phải dùng thuật toán efm để giảm thiểu sai sót bằng cách thêm các bit nhị phân vào dữ liệu thô thu được trên mô hình chuẩn trước khi ghi các bit vào đĩa. Cấu tạo và thông số Đĩa quang có nhiều loại khác nhau (CD, DVD,...), ghi dữ liệu một mặt đĩa hoặc ghi cả ở hai mặt dĩa, do đó chúng có cấu tạo rất khác nhau. Ở các loại đĩa quang khác nhau, xem cụ thể cấu tạo của chúng tại từng bài cụ thể. Cấu tạo Một cách chung nhất, đĩa quang có cấu tạo gồm: Lớp nhãn đĩa (chỉ có ở loại đĩa quang một mặt) Lớp phủ chống xước (chỉ có ở loại đĩa quang một mặt). Lớp bảo vệ tia tử ngoại. Lớp chứa dữ liệu. Lớp polycarbonat trong suốt (phía bề mặt làm việc) Đối với loại đĩa quang ghi dữ liệu ở cả hai mặt, các lớp được bố trí đối xứng nhau để đảm bảo ghi dữ liệu ở cả hai mặt đĩa. Kích thước Tuỳ từng loại đĩa quang khác nhau mà chúng có các kích thước khác nhau (xem từng bài riêng biệt theo bảng). Chúng thường được chia thành các loại chính sau: Đĩa lade có kích thước lớn nhất: đường kính ngoài đến 300 mm. Đĩa CD/DVD có cùng kích thước: đường kính ngoài đên 120 mm. Một số loại đĩa quang có hình dáng thiết kế mỹ thuật: hình dáng bên ngoài có thể gần giống hình tròn (đảm bảo chống rung lệch khi đọc đĩa) như quả bóng, trái tim... như một sự độc đáo. Một số khái niệm Track là những đường chứa các pit trên bề mặt làm việc của đĩa quang.Các track được nối liền nhau theo đường xoắn ốc. Pit là một hố có dạng lõm trên bề mặt của đĩa quang,có chín loại kích thước khác nhau,từ 833 nm đến 3054 nm.Với kích thước rất nhỏ này,các hiệu ứng triệt tiêu sóng được thể hiện rõ rệt,và pit được ứng dụng như phần tối của dữ liệu. Land là vùng bề mặt đĩa bằng phẳng,có thể phản chiếu lại tia sáng đến,được ứng dụng như phần sáng của dữ liệu. burn hoạt động ghi dữ liệu lên đĩa. Phân loại Đĩa quang được chia thành nhiều loại khác nhau (xem bảng bên phải). Về dạng thức dữ liệu tồn tại: Đĩa quang thường được chia thành các loại sau: Đĩa đã ghi dữ liệu: Loại đĩa ca nhạc, phim, phần mềm...ngay từ khi bán ra thị trường. Loại này người sử dụng không thể ghi thêm dữ liệu vào được (trừ một số trường hợp đặc biệt như đĩa mua về được ghi chưa hết dung lượng theo cách ghi cho phép ghi tiếp hay đĩa mua về là dạng RW). Do là đĩa đã ghi dữ liệu nên giá cả của đĩa này sẽ cao hơn so với đĩa chưa ghi dữ liệu. Đĩa chưa ghi dữ liệu - Loại ghi một lần: Đĩa được sản xuất chưa được ghi dữ liệu nhưng chỉ cho phép người sử dụng ghi dữ liệu lần đầu tiên. Đây cũng chỉ là khái niệm tương đối, người sử dụng có thể có cách thức ghi dữ liệu sao cho một đĩa có thể ghi nhiều lần liên tiếp nhau cho đến khi đĩa được ghi hết chỗ trống. Loại đĩa này thường có ký hiệu"R", hầu hết các đĩa bán ngoài thị trường được ghi từ loại đĩa này mà ra, người ta còn gọi loại đĩa này là đĩa trắng và chữ R là viết tắt của Recordable. Đĩa chưa ghi dữ liệu - Loại ghi nhiều lần: Đĩa được sản xuất chưa ghi dữ liệu nhưng cho phép người sử dụng có thể ghi dữ liệu và sau đó có thể xoá đi để ghi lại dữ liệu khác (hoàn toàn khác nội dung trước đó). Loại này thường có ký hiệu"RW"-Read-Write. Để ghi và xóa được loại đĩa này, chúng ta cần dùng một phần mềm chuyên dụng như Nero. Do có khả năng lưu trữ như một USB- nghĩa là ghi-xóa-ghi nên giá của loại đĩa này rất mắc, cao khoảng 4 lần so với loại chỉ ghi một lần. Với dạng thức: Số mặt chứa dữ liệu, đĩa quang có hai dạng sau: Đĩa chỉ có một mặt chứa dữ liệu: Là loại đĩa thông dụng nhất: Dữ liệu chỉ chứa trên một mặt của đĩa, mặt còn lại thường là nhãn đĩa và các lớp bảo vệ. Đĩa có cả hai mặt chứa dữ liệu: (kiểu tương tự các đĩa nhựa của các máy hát cổ điển) Cả hai mặt đĩa đều được ghi dữ liệu do đó loại đĩa này thường không có lớp nhãn đĩa hoặc các lớp bảo vệ phần dữ liệu. Người sử dụng có thể lật mặt đĩa để đọc dữ liệu tại mặt còn lại. Dung lượng đĩa hai mặt lớn nhất (tất nhiên) gấp đôi đĩa một mặt. Ghi dữ liệu Tuỳ theo nguồn gốc ghi chứa dữ liệu mà đĩa quang có thể được ghi dữ liệu bằng các thiết bị công nghiệp (sản xuất hàng loạt) hoặc do người sử dụng tự ghi dữ liệu của họ. Sản xuất trong công nghiệp Ghi dữ liệu trong công nghiệp hoàn toàn khác với cách thức ghi dữ liệu ở người sử dụng: Ghi theo một quy trình sản xuất từng lớp đĩa riêng biệt theo dạng tạo khuôn mẫu, do đó các đĩa ghi công nghiệp thường bền hơn. Để phân biệt, sự dễ nhận thấy nhất là các đĩa quang ghi trong công nghiệp có bề mặt làm việc màu ánh kim (trắng). Các đĩa quang ghi công nghiệp thường thực hiện với số lượng lớn, khi đó chúng có giá thành/chiếc thấp hơn so với các đĩa được ghi do người sử dụng (so sánh cùng chất lượng đĩa). Ghi đĩa ở người sử dụng Ngoài các thiết bị ghi dữ liệu chuyên dụng, người sử dụng chỉ có thể ghi dữ liệu vào đĩa quang bởi các ổ đĩa quang có chức năng ghi được sản xuất dưới dạng phôi trắng (không chứa dữ liệu, có khả năng ghi). Khi ghi dữ liệu, ổ đĩa quang phát ra một tia lade (khác với tia để đọc dữ liệu) vào bề mặt đĩa. Tuỳ theo loại đĩa quang là ghi một lần hoặc nhiều lần mà cơ chế làm việc ở đây khác nhau: Với loại đĩa quang ghi một lần: Lớp chứa dữ liệu là lớp màu polymer hữu cơ: Tia lade sẽ đốt lớp màu này tại từng điểm khác nhau (theo yêu cầu ghi dữ liệu) để tạo thành các điểm tối, các điểm còn lại không được đốt là các điểm sáng. Với loại đĩa quang ghi lại nhiều lần: Lớp chứa dữ liệu là lớp kim loại có thể chuyển biến trạng thái: trạng thái tinh thể (phản xạ với ánh sáng) và trạng thái vô định hình (không phản xạ ánh sáng chiếu vào). Khi ghi dữ liệu vào loại đĩa này, ổ đĩa quang cần thực hiện hai công đoạn: dùng tia lade để xoá dữ liệu và ghi dữ liệu mới.
Xem các nghĩa có tên ổ đĩa tại bài định hướng Ổ đĩa Ổ đĩa quang là một loại thiết bị dùng để đọc đĩa quang, nó sử dụng một loại thiết bị phát ra một tia laser chiếu vào bề mặt đĩa quang và phản xạ lại trên đầu thu và được giải mã thành tín hiệu. Bài này viết về những ổ đĩa quang được sử dụng trong các máy vi tính bao gồm ổ đọc dữ liệu (Read-only) và ổ đọc-ghi kết hợp (Burn and Read) Kỹ thuật trong ổ đĩa quang Đối với ổ đĩa chỉ đọc.Sử dụng một laser diode phát ra một tia laser chiếu vào bề mặt đĩa quang và phản xạ lại trên đầu thu,được giải mã thành tín hiệu để đọc.Xem chi tiết Đĩa quang.Có ba loại đầu đĩa chỉ đọc thông dụng như CD Drive, DVD Drive,và Blu-Ray Drive. Đầu CD Drive sử dụng diode laser hồng ngoại có bước sóng 780 nm class 1 công suất < 3mw. Đầu DVD Drive sử dụng diode laser 650 nm có công suất thấp < 5mw (thường tích hợp module đọc CD). Đầu Blu-Ray Drive sử dụng diode laser 405 nm với công suất < 5mw (thường tích hợp module đọc DVD và CD). Cấu tạo Những bộ phận cơ bản trong ổ đĩa quang là: Module quang học, có chứa các diode laser, cảm biến photodiode, một hoặc nhiều gương bán mạ, hệ thống thấu kính zoom bằng từ trường có 3 khẩu độ là 0.45, 0.60, 0.85 lần lượt cho CD, DVD, Blu-Ray. Bo mạch flexible nhỏ có kết nối flexible cable. Tất cả được gắn trong một vỏ bằng nhựa hoặc kim loại có gắn răng cưa. Module cơ học, gồm động cơ quay đĩa, động cơ quay trục xoắn (vít vô tận), khi gắn trục xoắn với răng cưa của module quang học, chuyển động quay của trục xoắn tạo một mô men đẩy các răng cưa lên xuống-điều khiển vị trí của module quang học. Module quang học trượt trên hai trục kim loại song song với trục xoắn-có tác dụng giữ module ở đúng vị trí. Tất cả được bắt vít trên một khung kim loại. Module phần cứng điều khiển, gồm một bảng mạch in nằm dưới khung kim loại.có các dây cáp flexible nối với bộ phận cơ học và quang học, được tích hợp cổng giao tiếp ATA, SATA hoặc USB. Đối với các loại đầu đĩa quang khác nhau và do các hãng khác nhau, có cấu tạo module quang học rất khác nhau, được chia làm hai dạng chính là loại có một và loại hai thấu kính. Loại một thấu kính thông dụng hơn vì thiết kế đơn giản. Loại hai thấu kính thường thấy trong một số thế hệ đầu Blu-Ray của máy PS3 và 4, nó chia mắt đọc Blu-Ray và DVD sử dụng thấu kính riêng, tuy nhiên các module sử dụng 1 thấu kính cũng có thể tích hợp nhiều mắt đọc. Recorder drive Đối với những đầu ghi CD-RW, DVD-RW, Br-R..., tuy vậy, thường là loại đầu cả đọc và ghi có module chứa 3 diode laser cùng bước sóng, một cảm biến chung. Diode ghi có công suất từ 200mw trở lên, loại xoá dữ liệu thì với công suất nhỏ hơn, loại cuối có công suất nhỏ nhất để đọc, chỉ cần ở class 1 hoặc 2. Các thông số Tốc độ (Speed) để đọc, hoặc ghi dữ liệu trên máy của ổ đĩa được biểu hiện qua (2X,4X,...24X). X càng lớn tốc độ càng nhanh Phân loại Loại chỉ đọc (Read-only Disk Drive) chỉ dùng để truy cập dữ liệu trên các đĩa đã ghi dữ liệu từ trước. Loại chỉ ghi (Write-only Disk Drive) dùng để ghi dữ liệu trên đĩa trắng CD-R qua một phần mềm ghi đĩa (CD burner) như Nero Burning ROM, Roxio Easy Creator v.v. Loại đọc và ghi (Read, Write Disk Drive) có thể đọc, ghi, xóa dữ liệu trên đĩa, thường ký hiệu với 3 thông số trên ổ đĩa như Ví dụ 52x32x52 Tức là ổ đĩa có thể đọc dữ liệu tối đa 52x, ghi dữ liệu trên đĩa ghi xóa ở tốc độ 32x, ghi dữ liệu trên đĩa ghi một lần ở tốc độ tối đa 52x (1x tương đương với 150Kb/giây).
X-Men (Những người đột biến) là một nhóm các siêu anh hùng truyện tranh trong các truyện tranh Marvel (Marvel Comics). Được sáng tác bởi Stan Lee và Jack Kirby, X-Men xuất hiện lần đầu trong X-Men tập 1 vào tháng 9 năm 1963. X-Men cũng đã được phát triển cả ở điện ảnh lẫn truyền hình, đáng kể nhất là loạt phim hoạt hình X-Men: The Animated Series, một trong những chương trình truyền hình sáng thứ Bảy thành công nhất. Sau một thời gian chờ đợi khá dài, bộ phim Dị Nhân đã được công chiếu năm 2000, do Bryan Singer đạo diễn. 75 triệu USD được thu về ngay trong những ngày đầu phát hành và sau đó là 296 triệu USD trên toàn thế giới. Phần tiếp theo X-Men: United (Liên minh dị nhân) ra mắt năm 2003 và trở thành phim có doanh thu cao hàng thứ sáu trong năm. Tập 3 của phim, X-Men: The Last Stand (Phán quyết cuối cùng), phát hành ngày 26 tháng 5 năm 2006, là bộ phim có doanh thu cuối tuần cao nhất mọi thời đại vào lúc đó, mang về 120 triệu USD chỉ sau bốn ngày trình chiếu. Bộ phim được coi là prequel của bộ ba phim nói trên, mang tên X-Men: First Class, ra mắt tháng 6 năm 2011 và được đánh giá rất cao. Nền tảng X-Men là những người có gen đột biến một cách hư cấu do kết quả của quá trình tăng trưởng đột ngột, họ mang những khả năng siêu việt tiềm ẩn và thường chỉ bộc phát khi đến tuổi thiếu niên. Nhiều người thường (Homo sapiens) mang ý nghĩ ghê tởm hoặc ngờ vực các dị nhân (Homo superior), vì nhiều nhà khoa học đánh giá họ là một bước tiến hóa mới có thể đe doạ đến xã hội nhân loại. Mâu thuẫn giữa các dị nhân và người thường càng thêm trầm trọng bởi những cách thức mà các dị nhân (bao gồm cả những kẻ thù không đội trời chung với X-Men như Magneto và Apocalypse) sử dụng năng lực của họ để chấm dứt đụng độ một cách bạo lực hoặc phạm pháp. Từ đó, Liên minh dị nhân đã được hình thành bởi Giáo sư Charles Xavier, còn gọi là Professor X, người đã sáng lập nên một học viện dùng để huấn luyện cho các dị nhân trẻ cách bảo vệ mình và thế giới trước mối đe dọa từ những dị nhân như Magneto. Loạt truyện X-Men là một trong những đại biểu truyện tranh kế thừa và phát huy vai trò truyền bá đa văn hóa sớm nhất và có sức ảnh hưởng mạnh nhất. Suốt trong thập niên 1970, danh sách các thành viên đa dạng hóa không ngừng, với những nhân vật xuất thân từ Đức, Ireland, Canada, Liên Xô, Kenya và Nhật Bản. Các nhân vật đại diện cho các nền văn hóa và sắc tộc khác nhau liên tiếp được bổ sung. Mạch truyện của họ thường động chạm đến những chủ đề có liên quan đến tình trạng của các nhóm người thiểu số, bao gồm cả sự đồng hóa, sự chịu đựng và đức tin vào một "chủng tộc thượng đẳng." Cái tên X-Men xuất phát từ việc các dị nhân có siêu năng lực tương ứng với các gen "X-Factor" (Nhân tố X - một từ do Professor X nghĩ ra). Đồng tác giả Stan Lee nhắc lại trong quyển Son of Origins of Marvel Comics, rằng ông ta đã phát minh ra tên gọi của loạt truyện này sau khi chủ nhiệm nhà xuất bản Marvel là Martin Goodman bác bỏ cái tên đầu tiên, "The Mutants" (Những người đột biến). Theo bổ sung của cách giải thích "chính thức", X-Men có liên quan mật thiết (cả trong Thế giới Marvel cũng như bởi độc giả của loạt truyện) đến cái tên do Xavier đặt. Trong Uncanny X-Men tập 309, Xavier nói rằng tự cái tên X-Men đã nói lên sự tôn trọng các dị nhân. Lịch sử Thập niên 1960 - Nhóm X-Men đầu tiên Đầu thập niên 1960, tác giả kiêm biên tập Stan Lee của hãng truyện tranh Marvel, cùng họa sĩ Jack Kirby và nhiều người vẽ tranh minh họa khác đã sáng tác ra một loạt các siêu anh hùng, nhấn mạnh đến tính cách nhân vật và những cuộc đụng độ cá nhân đầy chất phiêu lưu hành động, bao gồm The Fantastic Four, The Incredible Hulk và Spider-Man. X-Men là một trong những cái tên cuối cùng trong giai đoạn phục hưng của truyện tranh (Silver Age - những năm sau giai đoạn cực thịnh), xuất hiện vào tháng 9 năm 1963. Trong loạt truyện tranh này, X-Men được sáng lập bởi một người bị liệt hai chân có năng lực ngoại cảm (telepathy), Giáo sư Charles Francis Xavier, còn gọi là Giáo sư X (Professor X). Nhờ siêu máy tính Cerebro, Xavier đã tìm kiếm tập họp các thiếu niên đột biến dưới vỏ bọc của Trường năng khiếu Thanh niên Xavier (Institute for Gifted Youngters), tọa lạc tại vùng ngoại ô rộng lớn ở số 1407 Graymalkin Lane Salem Center, một thị trấn nhỏ ở Westchester County, New York. Được quảng bá ngoài bìa là "những người hùng kỳ lạ nhất", nhóm X-Men đầu tiên gồm năm thiếu niên đang học cách chế ngự năng lực của mình: Cyclops (Scott "Slim" Summers), có đôi mắt kết nối với một chiều không gian khác và thông qua đó bắn ra những luồng năng lượng gây chấn động, nó chỉ có thể điều khiển bởi cặp mắt kính làm bằng Ruby. Anh ta trở thành một cô nhi sau khi cha mẹ mình mất trong một vụ tai nạn máy bay. Anh ta là học viên đầu tiên và là người đứng đầu nhóm X-Men. Iceman (Robert "Bobby" Drake), có thể làm giảm nhiệt độ, ngưng tụ hơi nước trong không khí và chuyển nó sang dạng băng, hiện tại anh đã có thể tái cấu trúc cơ thể đóng băng của mình một khi nó bị phá hủy. Thành viên nhỏ tuổi nhất của nhóm. Trong một lần tự vệ, anh ta bộc phát năng lực và bị tấn công bởi một đám đông giận dữ và bị bắt vào tù. Cyclops đến cứu anh ta và mời anh ta gia nhập đội. Beast (Hank McCoy), một thiên tài có hình dáng như người thường ngoại trừ việc tứ chi của anh dài quá khổ, nhanh nhẹn phi thường, về sau nhiều lần bị biến đổi hình dạng thành một sinh vật lông xanh hoặc xám trông như khỉ hoặc mèo. Angel (Warren Worthington III, sau này còn gọi là Archangel), giống như cái tên Thiên thần, anh có thể bay được nhờ vào đôi cánh có lông vũ mọc sau lưng lúc đến tuổi dậy thì. Cặp cánh này về sau bị cắt bỏ và thay bằng cánh kim loại, nhưng nó vẫn có lông vũ trắng như cũ. Vốn xuất thân từ một gia đình triệu phú. Từng có thời gian làm siêu anh hùng đơn lẻ trước khi gia nhập nhóm. Marvel Girl (Jean Grey, sau này còn gọi là Phoenix), một người có năng lực điều khiển vật thể (telekinetic), về sau cô còn có thêm khả năng ngoại cảm. Là thành viên nữ duy nhất và là người đã quen biết với Xavier lâu nhất. Tiền thân của ý tưởng về một ngôi trường dành cho những dị nhân đã từng xuất hiện vào năm 1953, trong tiểu thuyết khoa học giả tưởng Children of the Atom của Wilmar H. Shiras, mặc dù chưa từng có một xác nhận chính thức nào về việc nó là nguồn cảm hứng cho loạt truyện X-Men. Nhân vật trong tiểu thuyết cũng là các dị nhân, kết quả ngoài ý muốn của những thí nghiệm đột biến gen. Cụm từ "Children of the Atom" cũng được sử dụng suốt trong quá trình thương mại hóa X-Men, thường là một dòng phụ đề cho các ấn bản và trò chơi điện tử X-Men. Mặc dù tư tưởng triết học được coi là có xuất hiện trong X-Men, nhưng Lee thì nói rằng ông ta phát minh cụm từ "dị nhân" nhằm mục đích tạo ra các nhân vật có siêu năng lực mà không phải lưu tâm đến nguồn gốc của từng người riêng biệt. X-Men tập 1 cũng giới thiệu đại kình địch của nhóm là Magneto, người có thể điều khiển kim loại và luôn cho rằng phải cai trị hoặc tiêu diệt tất cả người thường. Nhân vật Magneto về sau càng được tô đậm thêm khi việc ông ta từng có quan hệ bạn bè với Professor X được tiết lộ, và tôn chỉ "dị nhân phải khuất phục hoặc bị khuất phục" bắt nguồn từ việc ông ta là người sống sót trong cuộc thảm sát người Do Thái của Đức quốc xã. X-Men tập 4 là sự ra mắt hội Brotherhood of Evil Mutants của Magneto, với các thành viên như Mastermind, Toad, Quicksilver và Scarlet Witch. Còn có một số nhân vật phản diện khác có quan hệ với Brotherhood trong thời kỳ này như Unus the Untouchable, Vanisher và Blob, riêng Blob là kẻ có quan hệ lâu dài nhất, luôn tham gia và trợ giúp hội mỗi lần xuất hiện. Ngoại trừ một số nhân vật phản diện khác xuất hiện trong thập niên 1960, như người anh kế có sức mạnh phi thường của Professor X là Juggernaut, và người máy Sentinel có nhiệm vụ săn lùng các dị nhân; nhóm X-Men thường chiến đấu với những dị nhân bất lương tầm thường, những người ngoài Trái Đất và những con quái vật đần độn. Do đó mà thời kỳ này được đánh dấu là hết sức nhạt nhẽo, và X-Men trở thành một trong những loạt truyện tranh Marvel thất bại vào thập niên đó. Suốt thời kỳ này, chỉ có thêm hai thành viên gia nhập X-Men trong thời gian ngắn: Mimic (Calvin Rankin), với khả năng bắt chước năng lực của bất cứ ai khác, kể cả các dị nhân. Anh ta được biết đến không chỉ vì việc đã đe dọa tống tiền cả nhóm, mà còn bởi việc là thành viên duy nhất bị giáo sư Xavier trục xuất khỏi trường. Việc anh ta có phải là một người đột biến hay không vẫn là một đề tài gây tranh cãi. Changeling (Kevin Sydney), một người biến hình đã giả dạng và chết thay cho Xavier để chuộc lỗi cho quá khứ tội phạm của mình. Lee và Kirby từ bỏ loạt truyện từ năm 1966, giao nó lại cho Roy Thomas và Werner Roth. Roth ngừng vẽ năm 1967, và Thomas thôi viết kịch bản năm 1968, suốt một năm sau đó không có thêm ấn bản nào nữa, ngoài trừ hai số do Jim Steranko vẽ, ông đã thêm vào nhân vật phản diện Mesmero. Năm 1969, Thomas quay lại với sự tham gia của họa sĩ được hâm mộ nhất lúc bấy giờ Neal Adams trong nỗ lực cứu loạt truyện khỏi một thảm bại doanh thu. Những ấn bản tiếp theo đã được người hâm mộ quan tâm hơn, khi giới thiệu sự trở lại của các nhân vật phản diện Sauron và Living Monolith, cũng như hai thành viên X-Men mới: Lorna Dane (sau này là Polaris), một dị nhân tóc xanh với năng lực tương tự như Magneto. Havok (Alex Summers), người em bất trị của Cyclops với khả năng hấp thu năng lượng vũ trụ và dùng nó để phá huỷ các vật thể hoặc gây ra những vụ nổ năng lượng (giống như Cyclops, anh ta rất khó khăn trong việc chế ngự năng lực hủy diệt của mình). Mặc dù doanh số bán đã tăng trở lại từ khi Adams tiếp quản loạt truyện, nhưng nó quá nhỏ và quá muộn, hãng Marvel ngưng phát hành X-Men vào năm 1969 (chính xác là tập 66 vào tháng 3 năm 1970). Loạt truyện chỉ còn được tái bản, và X-Men thì xuất hiện trong những truyện tranh khác của Marvel—với những màn trình diễn ấn tượng trong Marvel Team-Up, The Avengers, The Incredible Hulk và Captain America - để rồi chìm vào quên lãng. Cuối thập niên 1970/Đầu thập niên 1980 - Những Dị nhân mới Năm 1975, tác giả Len Wein và họa sĩ Dave Cockrum đã giới thiệu một nhóm Dị nhân mới. Không còn là các thiếu niên nữa, nhóm này gồm những người đã trưởng thành tập họp từ nhiều quốc gia và nền văn minh khác nhau. Việc trải rộng các nền văn hóa này xuất phát từ mục tiêu của hãng Marvel, muốn nhắm đến các thị trường ngoài nước Mỹ. Giant-Size X-Men tập 1 giới thiệu một nhóm mới, tập họp bởi Professor X nhằm giải thoát các thành viên trước đây đang bị Krakoa giam giữ tại "hòn đảo sống" nhiễm đầy phóng xạ. Nhóm Dị nhân hoàn toàn mới này dẫn đầu bởi Cyclops, gồm các thành viên: Sunfire (Shiro Yoshida), một Dị nhân người Nhật nhạy cảm với khả năng tạo ra những chùm plasma nóng bỏng và biết bay. Thunderbird (John Proudstar) thuộc bộ tộc người Apache, có năng lực phi thường về sức mạnh, tốc độ, sức chịu đựng, phản xạ cũng như kỹ năng và khả năng phán đoán dấu vết bằng trực giác. Banshee (Sean Cassidy), một Dị nhân người Ireland có thể thét ra sóng âm thanh, nhờ đó mà anh bay được và gây ra những luồng sóng âm. Colossus (Piotr Rasputin), một người Nga trầm tĩnh kín đáo với khả năng chuyển hóa toàn bộ cơ thể thành thép để làm tăng kích cỡ, sức mạnh, tốc độ và sức chịu đựng, khiến anh gần như bất khả xâm phạm. Nightcrawler (Kurt Wagner), một người Đức nhanh nhẹn phi thường với năng lực chuyển dịch tức thời. Hình dáng của anh ta trông như quỷ, với đôi mắt lấp lánh màu, bộ lông xanh mượt, mỗi bàn tay có ba ngón, mỗi bàn chân có hai ngón, có răng và tai nhọn, cuối cùng là một cái đuôi dài ngoẵng. Một khả năng khác ít được biết đến của anh là hòa lẫn vào bóng tối. Storm (Ororo Munroe), một phụ nữ châu Phi có ý chí kiên cường. Cô có mối liên kết huyền bí với mọi dạng thời tiết của địa cầu, do vậy cô có thể điều khiển và thao túng thời tiết. Storm về sau trở thành người dẫn đầu các Dị nhân những khi Cyclops vắng mặt. Wolverine (James "Logan" Howlett), một công chức Canada cộc tính, sở hữu những giác quan phát triển khác thường, một nhân tố hồi phục chấn thương giúp anh kéo dài tiến trình lão hóa, và những móng vuốt bằng chất adamantium có thể co duỗi tuỳ ý. Một cơ quan bí mật (Weapon X) đã kết dính một loại hợp kim chưa từng được biết vào khung xương của Wolverine. Với những bí mật được hé lộ từ từ, nguồn gốc của Wolverine là một trong những bí ẩn lớn nhất của loạt truyện. Sau Giant-Size X-Men tập 1, hãng Marvel bắt đầu phát hành những tập X-Men mới, tập trung vào nhóm Dị nhân này (trừ Sunfire đã rời nhóm và Thunderbird đã chết trong cuộc chiến ở X-Men tập 95). Loạt truyện được Cockrum vẽ và tình tiết soạn bởi Chris Claremont, người gắn bó dài hơi nhất với bộ truyện. Một trong những tình tiết quan trọng nhất của thời kỳ này là The Phoenix Saga (Truyền thuyết Phượng Hoàng - X-Men tập 101-108, năm 1977), trong đó Jean Grey (ít ra là bề ngoài) kết hợp với một thực thể ngoài vũ trụ là Phoenix và kéo theo cả nhóm vào một nhiệm vụ liên hành tinh. Truyền thuyết cũng giới thiệu chủng tộc ngoài Trái Đất Shi'ar cùng Nữ hoàng Lilandra, một mối tình mới của Professor X. Năm 1978, Cockrum đã lôi kéo John Byrne cùng cộng tác với Claremont viết tình tiết cho loạt truyện (được đổi tên thành The Uncanny X-Men không lâu sau đó—tên chính thức từ tập 142). Việc này đánh dấu sự bắt đầu một giai đoạn trỗi dậy đầy sáng tạo của X-Men, khiến nó trở thành ấn phẩm được ưa chuộng nhất trong ngành công nghiệp truyện tranh. Sau cuộc đối đầu với Magneto, Professor X và Jean Grey tin rằng các Dị nhân đã lạc lối, và cả nhóm phải tìm lối quay về suốt trong một năm. Trong thời gian đó, Byrne sáng tác một chuỗi phiêu lưu đậm chất Canada bằng việc trình làng nhóm Alpha Flight, một nhóm siêu anh hùng người Canada. Còn Wolverine nhận được phần thưởng dành cho nhân vật truyện tranh được hâm mộ nhất, đến nỗi từ 1980 đến 1984, năm nào cũng có ít nhất một tập truyện tập trung vào anh. Claremont và Byrne sau đó đẩy các Dị nhân vào đủ thứ tình huống hiểm nghèo như thể muốn trắc nghiệm phẩm cách của họ vậy, đáng kể nhất là Dark Phoenix Saga (Truyền thuyết Phượng Hoàng Tối - Uncanny X-Men tập 129-138, 1980). Trong loạt truyện này, hội quý tộc Hellfire Club lôi kéo Phoenix bằng một ảo giác liên hoàn tạo ra từ năng lực của Mastermind. Sự can thiệp vào tâm trí đã giải phóng mặt ác của Phoenix, khiến cô ta ra tay hủy diệt một hành tinh có năm tỉ cư dân. Cho dù các Dị nhân đã cố gắng và dường như đã thành công trong việc kềm chế cô, Lilandra vẫn quyết định bắt giữ Jean Grey với hy vọng có thể chấm dứt sự đe dọa của Phoenix. Giáo sư Xavier yêu cầu một cuộc đấu tay đôi vì danh dự để tránh phải giao nộp Phoenix. Được Kree và Skrull cam đoan sẽ đánh bại các siêu anh hùng, Lilandra chấp nhận thách đấu. Kết quả là một trận chiến trên Mặt Trăng diễn ra giữa các Vệ binh Shi'ar và các Dị nhân, còn Jean Grey phải đứng trung gian. Cuối cùng các Dị nhân bị áp đảo, nhưng đúng vào cao trào của cuộc chiến, khi Cyclops bị thương, tâm linh của Phoenix không kềm chế nổi phần nhân cách ác nữa và hiện nguyên hình. Lúc này, Lilandra định phá hủy cả Thái Dương hệ để tiêu diệt Phoenix. Professor Xavier bất đắc dĩ yêu cầu các Dị nhân giết người đồng đội của họ để tránh nguy cơ diệt vong. Nhờ vào sức mạnh ý chí và nhân tính của Jean Grey, Phoenix quyết định tự sát để khỏi gây thêm thương vong, tạo nên một bước ngoặt trong giới truyện tranh lúc đó; từ trước tới giờ các nhân vật chính hầu như không bao giờ chết, nên hành động hy sinh bản thân là hết sức bất ngờ. "Truyền thuyết Phượng Hoàng Tối" đã giới thiệu khá nhiều nhân vật, gồm có Kitty Pryde, White Queen của Hellfire Club (sau này cũng gia nhập X-Men), và Dazzler. Trong lần hợp tác sau cùng, Claremont và Byrne đã sáng tác Day of The Future Past (Ngày quá khứ của tương lai - Uncanny X-Men tập 141-142, 1981), mô tả về một giai đoạn tương lai, khi nước Mỹ trở thành một vùng hoang tàn bị cai trị bởi những người máy Sentinel. Ở thời điểm này, phần lớn các Dị nhân và các anh hùng khác đều đã chết, những người đột biến bị lùa vào trại tập trung. Trong tình tiết gốc, linh hồn của Kate Pryde trưởng thành đi ngược thời gian tìm về chính bản thân cô ta lúc còn trẻ (Kitty), thuyết phục các Dị nhân giúp mình ngăn chặn cuộc ám sát Thượng nghị sĩ sẽ được tiến hành bởi người lãnh đạo mới của hội Brotherhood of Evil Mutants, người biến hình Mystique, cùng các cộng sự mới của cô ta, bao gồm Avalanche, Pyro và Destiny, tất nhiên không thể thiếu phần Blob. Cái nhìn tăm tối về tương lai đã gây ra sự sợ hãi, thù hận, và hẹp hòi trong nhiều câu chuyện về sau. Năm 1982, với kịch bản của Claremont, Brent Anderson phát hành tập truyện dài X-Men: God Loves, Man Kills (Trời sinh, Người diệt), với việc Linh mục William Stryker bắt đầu một chiến dịch điên cuồng chống lại những người đột biến, hắn bắt giữ và tẩy não Professor X nhằm thao túng năng lực của ông để tấn công và tiêu diệt tâm linh của người đột biến. Các Dị nhân liên minh với Magneto để đánh bại Stryker, một trong những minh hoạ rõ ràng nhất trong loạt truyện về việc người đột biến có ý nghĩa ẩn dụ với quan hệ chủng tộc. Hơn 20 năm sau, câu chuyện là nguồn cảm hứng cho kịch bản của bộ phim điện ảnh X2 (Liên minh dị nhân), tập phim thứ hai trong loạt ba phim về Dị nhân. Tróng lúc đó, Uncanny X-Men tiếp tục phát triển bởi Claremont và các họa sĩ như Paul Smith rồi John Romita Jr.. Cốt truyện cuối thập niên 1980 giới thiệu các sinh vật vũ trụ Deathbird và Brood, băng đảng những người đột biến sống dưới lòng đất Morlocks, kẻ săn lùng người đột biến đến từ tương lai Nimrod; tiết lộ tình yêu của Wolverine với nữ quý tộc người Nhật Mariko Yashida; chứng kiến Storm mất đi năng lực (tạm thời) và hình thành mối quan hệ với người đứng đầu chương trình vũ khí đột biến của chính phủ Forge; đào sâu mối quan hệ giữa Cyclops và Madelyne Pryor, những dấu hiệu mập mờ về Jean Grey. Loạt truyện cuối cùng chấm dứt với việc Cyclops cưới Pryor và rúi lui khỏi nhóm Dị nhân. Các Dị nhân mới gia nhập thêm vào đầu và giữa thập niên 1980 gồm: Sprite, (Kitty Pryde), sau này còn có tên ngắn Ariel và bây giờ là Shadowcat, một thiếu nữ Mỹ gốc Do Thái có thể đi xuyên qua mọi vật thể rắn, đi trong không khí loãng, có thể dùng năng lực của mình để tiếp xúc với hệ thống điện, và mở rộng phạm vi xuyên thấu cho bất cứ thứ gì cô chạm vào. Cô có tên Shadowcat sau một cuộc phiêu lưu ở Nhật với Wolverine. Rogue, một người đẹp phương Nam có thể hấp thu năng lực và ký ức của bất kỳ ai tiếp xúc với cô, làm cho họ yếu đi hoặc bất tỉnh một lúc, thậm chí hôn mê vĩnh viễn. Lúc đầu Rogue là một thành viên trong hội Brotherhood of Evil Mutants của Mystique. Rachel Summers, Phoenix đệ nhị (sau này là Marvel Girl đệ nhị), con gái đã trưởng thành của Cyclops và Jean Grey sau sự kiện "Ngày quá khứ của tương lai". Rachel hành xử như là một bản sao của Thực thể Phượng Hoàng với năng lực ngoại cảm và điều khiển vật thể. Cô còn có khả năng du hành xuyên thời gian trong trạng thái xuất thần, năng lực này có thể được khuếch đại để chuyển dịch bản thân cô và người khác đi xuyên thời gian theo ý muốn một cách tự nhiên. Từ giữa đến cuối thập niên 1980 - Loạt truyện trở thành thương hiệu Từ thập niên 1980, sự phổ biến của Uncanny X-Men và sự ra đời của những cửa hàng chuyên kinh doanh truyện tranh đã dẫn đến việc tung ra hàng loạt ấn phẩm ăn theo gọi chung là "X-Books". Trước tiên là The New Mutants vào năm 1983, giới thiệu một nhóm Dị nhân thiếu niên mới tiếp quản trường học Xavier. Năm 1985, những Dị nhân cũ tập họp lại dưới cái tên X-Factor, với sự hồi sinh đầy tranh cãi của Jean Grey. Năm 1988 là một loạt truyện dành riêng cho Wolverine, tập trung vào sự đấu tranh của anh giữa danh dự cá nhân và quá khứ. Năm 1987, hãng Marvel bổ sung một nhóm đặc biệt Excalibur, với Rachel Summers, Nightcrawler, Shadowcat cùng các siêu anh hùng người Anh là Captain Britain và Meggan. Do có quá nhiều ấn phẩm ăn theo, thương hiệu X-Men trở thành một trong những tài sản đáng giá nhất của Marvel, có điều huyền thoại X-Men trở nên quá rắc rối và những tình tiết thì ngày càng mở rộng đến mức khó lòng theo kịp. Trong thập niên này, sự thành công của X-Books đã gây ảnh hưởng đến những thương hiệu phổ biến khác, như Spider-Man (Người Nhện), Superman (Siêu nhân), Batman (Người Dơi), và phát triển thành một mối liên kết "họ hàng" giữa những loạt truyện tranh nhiều tập. Một tình tiết gây tranh cãi khác là việc để Professor X di trú vào không gian trong năm 1986, sau khi ông ta bị những chấn thương nghiêm trọng và chỉ có thể sống sót nhờ công nghệ của chủng tộc Shi'ar, và không thể trở về Trái Đất do những quầng lửa phát ra từ Mặt Trời. Sự kiện gây tranh cãi nhất chính là việc đại kình địch Magneto tiếp quản ngôi trường thay giáo sư Xavier và mở rộng các thành viên (đây là nguyên nhân chính khiến cho nhóm Dị nhân ban đầu quyết định thành lập X-Factor và lui vào hoạt động bí mật - họ cho là nhóm Dị nhân mới đã "phản bội" giáo sư Xavier và bắt tay với Magneto). Sự thừa mứa các câu chuyện về những Dị nhân đã dẫn đến hệ quả là tình tiết giữa các X-Books đan xen vào nhau (còn gọi là "X-Overs"), có khi trong nhiều tháng liên tục. Đầu tiên là Mutant Massacre (Cuộc tàn Sát Dị nhân) năm 1986, tiến hành bởi tổ chức dị nhân khát máu Marauder, đã tiêu diệt băng Morlocks và làm bị thương nghiêm trọng nhiều Dị nhân liên quan (những chấn thương của Kitty Pryde và Nightcrawler tạo điều kiện cho các tác giả gởi họ đến nước Anh để gia nhập Excalibur). Phần này giới thiệu thủ lĩnh Mister Sinister của Marauders, một dị nhân ác tinh thông di truyền học và là trọng tâm trong nhiều cốt truyện phụ có liên quan. Các ấn phẩm còn mang Sabretooth, từng là địch thủ của người hùng võ thuật Iron Fist, vào thế giới các Dị nhân và làm kẻ thù của Wolverine, với lời gợi ý là hai người từng có quan hệ trong quá khứ. Suốt giai đoạn này, Claremont ra mắt một đội ngũ Dị nhân mới gồm Storm, Rogue, Wolverine, Colossus, Havok và nhiều nhân vật mới: Magneto, cựu địch thủ của nhóm, trở thành người lãnh đạo nhóm X-Men và The New Mutants thay cho giáo sư Xavier khi mọi người nghĩ ông đã chết. Magneto bỏ đi sau khi không thể cứu sống được một trong những thành viên của The New Mutants (Douglas Ramsey, còn gọi là Cypher), và lại tiếp tục là một nhân vật phản diện số một. Dazzler (Alison Blaire), một cựu ca sĩ phòng nhạc có thể hấp thu năng lượng âm thanh và chuyển hóa thành các hiệu ứng ánh sáng, như tia laser chẳng hạn. Dazzler được giới thiệu trong các tập truyện ở những năm đầu, sau đó cô xuất hiện riêng trong một loạt truyện tranh vào những năm giữa. Psylocke (Betsy Braddock), trong truyện tranh Captain Britain là một người Anh có khả năng ngoại cảm, cô thay đổi năng lực nhiều lần trong các năm sau này, và đến khi cô hoán đổi thể xác với một phụ nữ Nhật thành một nữ võ sĩ đầy quyến rũ khêu gợi, nó chuyển thành khả năng điều khiển vật thể. Cũng vào giai đoạn này, dưới dạng xen kẽ, các Dị nhân còn xuất hiện ở hai loạt truyện ngắn: The Fantastic Four vs. the X-Men (Bộ Tứ Siêu Phàm chống lại Dị Nhân) và X-Men vs. the Avengers (Dị Nhân chống lại Avengers). Cốt truyện của nó nối tiếp phần kết cục lơ lửng của "Cuộc Tàn Sát Dị Nhân", trong đó thủ lĩnh Mr. Fantastic của Bộ Tứ Siêu Phàm và kẻ thù Dr. Doom đóng vai trò then chốt để cứu sống Kitty Pryde. Sau loạt truyện xen kẽ Fall of the Mutants (Sự sụp đổ của Dị nhân) năm 1987, trong đó các Dị nhân chết đi và sống lại khi chiến đấu với con quỷ Adversary ở Dallas, cả nhóm đã chuyển đến một căn cứ bỏ hoang ở Australia trong thời gian ngắn. Giai đoạn này chứng kiến sự ra mắt của Reavers, một nhóm lính đánh thuê nửa người nửa máy, xen kẽ với loạt truyện Inferno (Địa ngục trần gian), trong đó tiết lộ rằng Madelyne Pryo là một bản sao của Jean Grey do Mister Sinister tạo ra. Các dị nhân của cả hai nhóm X-Men và X-Factor giao chiến với Pryor, lúc này đã điên cuồng và biến thành Goblin Queen, cùng với bầy quỷ cô ta tạo ra. Một trong các cao trào của câu chuyện là sự hợp nhất của hai nhóm X-Men và X-Factor—X-Factor không biết rằng nhóm X-Men còn sống, còn X-Men ngỡ rằng Jean Grey đã chết. Việc lưu trú tại Australia chấm dứt khi Storm và Rogue được cho là đã chết, những thành viên còn lại nản lòng và quyết định đến Siege Perilous, một khối pha lê cho biết số mệnh của từng người. Claremont nhân cơ hội đó để đưa hai cái tên Dazzler và Longshot vào dĩ vãng (hai người lấy nhau và có một đứa con). Không như các thành viên khác, tin tức của họ rất hiếm hoi. Năm 2005, Dazzler xuất hiện lại trong nhóm Excalibur mới, còn Longshot xuất hiện trong Exiles. Cuối năm 1989, hãng Marvel bắt đầu phát hành Uncanny X-Men hai lần một tháng, tạo điều kiện cho Claremont viết một cốt truyện chung cho các ấn bản X-Men. Năm 1990, loạt truyện xen kẽ The X-Tinction Agenda (Kế hoạch tiêu diệt) đã tái tổ chức các Dị nhân, gồm có Storm, Banshee, Wolverine, Psylocke và ba thành viên mới: Forge, một người Mỹ gốc Ấn Độ với năng lực sáng tạo ra những thứ không theo khuôn mẫu. Jubilee (Jubilation Lee), một thiếu nữ có khả năng tạo ra những vụ nổ năng lượng, cô ta gọi là pháo hoa. Jubilee đã đi lậu vé trong một cuộc dã ngoại của các nữ Dị nhân. Cô ở cùng chỗ đóng trại của họ trong nhiều tuần mà không bị phát hiện, cho đến khi cứu Wolverine thoát khỏi bàn tay độc ác của Lady Deathstrike. Gambit (Remy LeBeau), một tay trộm khéo léo có thể tích điện vào mọi vật thể (thường thích dùng các lá bài) và làm cho nó phát nổ khi ném ra. Ngoại hình đầy mê hoặc giúp cho anh ta gây ảnh hưởng lên nhận thức của người khác, thuyết phục họ tin và chấp nhận những gì anh ta đưa ra. Trận đánh cuối cùng trong giai đoạn này, The Muir Island Saga (Truyền thuyết đảo Muir), là cuộc chiến giữa X-Men, X-Factor cùng một số đồng minh với kẻ thù không đội trời chung của giáo sư Xavier trước đây, Shadow King. Từ năm 1987 đến 1990, Marc Silvestri là họa sĩ cho Uncanny X-Men. Ông ta sau đó được thay bởi Jim Lee, một trong những họa sĩ truyện tranh được hâm mộ nhất của loạt truyện X-Men. Thập niên 1990 - Bùng nổ doanh thu Sau khi các Dị nhân trở lại Westchester và Professor X trở về Trái Đất đầu năm 1991, hãng Marvel dọn dẹp lại các ấn phẩm X-Books. Họa sĩ Rob Liefeld chuyển nhóm The New Mutants thành một lực lượng quân đội, X-Force, lãnh đạo bởi một người sùng bái chiến tranh là Cable. Nhóm Dị nhân đầu tiên xóa sổ cái tên X-Factor và nhập chung vào đội X-Men, một số trong họ đã biến đổi so với lúc trước. Beast đã mọc thêm bộ lông xanh và đạt được học vị Tiến sĩ di truyền học. Angel, giờ đây là Archangel, đã bị biến đổi hoàn toàn bởi Siêu dị nhân 5000 tuổi Apocalypse và có làn da xanh cộng thêm đôi cánh thép. Trong lúc đó, Havok, Polaris và nhiều người đột biến khác hình thành nhóm X-Factor mới, trực thuộc chính phủ. Để có chỗ cho nhóm Dị nhân đông đúc này, hãng Marvel tạo thêm một loạt truyện mới, vẫn lấy tên X-Men. Với cốt truyện của Claremont và tranh vẽ của Lee, loạt truyện này ra mắt "Đội xanh", gồm Beast, Psylocke, Rogue, Gambit, Cyclops và Wolverine. Uncanny X-Men, được viết và vẽ bởi Lee và Whilce Portacio, ra mắt "Đội vàng", gồm Colossus, Iceman, Archangel, Jean Grey, Storm và Bishop, một Dị nhân dùng súng sống ngoài vòng pháp luật đến từ tương lai. Professor X, Jubilee, Banshee và Forge lập thành nhóm X-Men ngoài vòng chiến; Banshee và Forge sau đó không lâu đã ra đi vì những lý do khác nhau. Tranh vẽ của Lee và Liefeld rất được hâm mộ, cộng thêm việc tổ chức lại các nhóm như trên khiến cho X-Men trở nên được ưa chuộng mạnh mẽ. Ấn bản đầu tiên của X-Force và X-Men trở thành hai trong số các tập truyện tranh bán chạy nhất mọi thời đại, tạo nên một đợt bùng nổ doanh số cho những kẻ đầu cơ truyện tranh. Trong lúc thành công thì những va chạm nội bộ đã chia rẽ nhóm sáng tác truyện X-Men. Claremont ra đi chỉ sau ba tập X-Men do những tranh chấp với Lee và biên tập viên của Marvel, chấm dứt mười lăm năm viết cốt truyện cho X-Men. Vài tháng sau, Liefeld và Lee cũng rời Marvel cùng với nhiều họa sĩ khác (có cả Silvestri và Portacio) để thành lập hãng Hình Comics. Sức hấp dẫn của X-Men vẫn tiếp tục, với phim hoạt hình nhiều nhiều tập rất được hâm mộ của Fox Network: X-Men Animated Series ra mắt vào năm 1992. Trong lúc đó Uncanny X-Men được giao cho Scott Lobdell viết kịch bản cùng với họa sĩ Joe Madureira, người đã đưa truyện tranh Nhật Bản vào nước Mỹ. Còn X-Men thì tiếp tục với người viết kịch bản mới Fabian Nicieza và họa sĩ Andy Kubert. Sự đan xen giữa các tình tiết lại lan tràn, và nó là sự kiện thường niên suốt thập niên 1990. Doanh thu không ngừng tăng trưởng, nhưng người hâm mộ bắt đầu phàn nàn rằng đó chỉ là sự loay hoay che giấu tình trạng sáo mòn thấy rõ. Một số tình tiết nổi bật trong thời kỳ này là: The X-Tinction Agenda (Kế hoạch tiêu diệt - 1990), nói về chính phủ Genosha, một hòn đảo hư cấu ngoài khơi châu Phi là nơi giam giữ những người đột biến. The Muir Island Saga (Truyền thuyết đảo Muir - 1991), sự trở lại của X-Factor và giáo sư Xavier. X-Cutioner's Song (Trường ca X-Cutioner - 1992), câu chuyện về bản sao của Cable giả dạng làm thủ lĩnh X-Force để lấy mạng Professor X, và kẻ thù không đội trời chung của X-Men đến từ tương lai, Stryfe. Hắn còn bắt giữ và tra tấn Cyclops và Jean Grey, cha mẹ của Cable và Stryfe. Fatal Attractions (Lực hút tai hại - 1993), Magneto trở lại, rút chất adamantium ra khỏi cơ thể Wolverine, Giáo sư Xavier buộc phải tẩy não ông ta. Đây là phần tiếp theo của Bloodties (Ràng buộc huyết thống). Phalanx Covenant (Hiệp ước Phalanx - 1994), một tập họp các ý thức bị nhiễm Transmode Virus thâm nhập vào X-Mansion, bắt cóc nhiều người đột biến chưa từng biết đến (như Husk), và lên kế hoạch tiêu diệt họ. Phalanx bị ngăn cản bởi một số ít các Dị nhân chưa bị vô hiệu hóa, về sau còn xuất hiện trong loạt truyện xen kẽ ăn theo Generation X. Age of Apocalypse (Điệp vụ Legion/Thời đại Apocalypse - 1995), Professor X bị giết bởi chính con trai của ông, Legion (David Haller), khi nó du hành xuyên thời gian đến thời điểm trước khi ông thành lập X-Men. Một thì hiện tại thay thế đã xuất hiện, trong đó Apocalypse cai trị Nam Mỹ và Magneto lãnh đạo các Dị nhân chống trả lại hắn. Onslaught (1996), thống trị mọi loạt truyện của hãng Marvel suốt hai tháng. Trong diễn tiến này, Professor X mất khả năng kiểm soát năng lực của mình, và phần nhân cách xấu xa của ông đã biến thành Onslaught, một thực thể gần như tối thượng, nó chỉ bị đánh bại dưới sự liên kết giữa các Dị nhân, nhóm Avengers và The Fantastic Four (Bộ Tứ Siêu Phàm). Operation: Zero Tolerance (Chiến dịch Zero Tolerance - 1997), đội quân chống Dị nhân được chính phủ bật đèn xanh để tiến hành một chiến dịch săn lùng những người đột biến. Những tình tiết quan trọng khác bao gồm cuộc thảm sát (lại thảm sát) băng Morlocks; Iceman học được cách nâng cao năng lực của mình, giờ đây anh có thể đóng băng toàn thân; tên hung thủ sát hại gia đình Colossus và cuộc đào ngũ của hắn khỏi nhóm Acolytes của Magneto; Psylocke khám phá nguyên nhân việc cô ta biến đổi từ một người mẫu Anh thành một sát thủ châu Á; mối tình giữa Rogue và Gambit; Jean Grey thay biệt danh Marvel Girl thành Phoenix, để tôn trọng Rachel và thực thể ngoài vũ trụ. Rogue ra đi sau khi tình cờ tiếp cận ký ức của Gambit; Bishop đối phó với những ký ức rời rạc từ một thời điểm bất định nào đó; Psylocke và Archangel suýt nữa bị giết bởi Sabretooth, khiến họ rời khỏi nhóm; Wolverine biến thành một sinh vật đần độn kỳ quái sau khi bị Magneto lấy đi chất adamantium; Iceman rời nhóm để chăm sóc cha anh, khi ông bị tấn công bởi những kẻ bài xích người đột biến; và Gambit phơi bày một bí mật đen tối: anh ta là người đã tham gia Marauders dưới trướng Sinister. Thập niên 1990 chứng kiến một số lương lớn X-Books, với những loại truyện cả dài lẫn ngắn ra đời. Truyện dài có Generation X, với sự gia nhập của một nhóm dị nhân thiếu niên khác, và X-Man, có thêm một Dị nhân trẻ đầy quyền năng (Nate Grey - phiên bản kế thừa của Cable) đến từ Age of Apocalypse (Thời đại Apocalypse). Hãng Marvel còn ấn hành các loạt truyện đơn cho nhiều nhân vật như Cable, Gambit, Bishop và Deadpool, một tay sát thủ đối lập với X-Force. Năm 1998, hai tập truyện Excalibur và X-Factor chấm dứt, thay thế bằng loạt truyện Mutant X với sự gia nhập của Havok. Cuối thập niên 1990, đầu thập niên 2000 - Thời kỳ tái tổ chức Khi "Chiến dịch Zero Tolerance" chấm dứt năm 1997, nhiều nhân vật chính như Bishop, Gambit, Jean Grey và Cyclops ly khai X-Men. Các tác giả đã lắp ghép một nhóm mới gồm Wolverine, Rogue, Beast, Storm và nhiều tân binh khác: Cannonball (Sam Guthrie), cựu thành viên của The New Mutants và X-Force, có thể bay với vận tốc của động cơ phản lực. Joseph, hiện tại được cho là một bản sao về trí óc (và trẻ hóa) của Magneto. Marrow (Sarah), cựu thành viên Morlocks, có thể dùng những khớp xương nhô ra làm kiếm hoặc dùi cui. Maggott (Japheth), một người Nam Phi có hệ tiêu hóa giống hình dáng một con giòi khổng lồ, cho phép anh ta tiêu hóa mọi thứ vật chất. Cecilia Reyes, một bác sĩ người Puerto Rico có thể tạo ra một trường bảo vệ bao bọc cơ thể. (Còn có một vài sự kiện khác như Joe Kelly/Steve Seagle bỏ trốn, kết nạp lại các thành viên Excalibur/Professor X/Gambit - nhưng lúc đó các tác giả bị bắt buộc phải làm như vậy nên khó có thể coi là một diễn tiến thuộc về loạt truyện.) Khi tác giả kiêm họa sĩ Alan Davis bắt đầu viết cốt truyện cho X-Men, ông giảm bớt nhóm này, giữ lại Marrow, Rogue, Storm, Wolverine; và gởi Shadowcat, Nightcrawler, Colossus, Gambit và Professor X về nhà. Người hâm mộ đã chú ý tới Davids - khi ông vẽ tranh cho loạt X-Men còn Adam Kubert là họa sĩ của Uncanny X-Men và cho ra đời loạt truyện Magneto War (Cuộc chiến với Magneto) - một thành công tương đối, nhưng hãng Marvel đã kết thúc nó khi Claremont đồng ý quay lại đầu năm 2000 để viết cốt truyện cho cả hai dòng X-Men. Với sự kiện Revolution (Cuộc cách mạng), hãng Marvel tạm ngưng ấn hành các bản X-Books trong sáu tháng, để Claremont và các họa sĩ có thể hoàn tất việc duyệt lại chúng. (Một loạt truyện ngắn về sau, X-Men: Black Sun, đã lấp vào khoảng hổng này), Claremont lập ra một nhóm thành viên quen thuộc của "X-Men": Wolverine, Rogue, Colossus, Shadowcat, Psylocke và Thunderbird mới: người có thể sai khiển lửa có tên gọi Neal Shaara. Một nhóm phụ xuất hiện trong "Uncanny X-Men" gồm Gambit, Storm, Phoenix, Beast và Cable, thủ lĩnh nhóm X-Force trước kia. Claremont cũng giới thiệu thêm đồng minh "Tessa" của Hellfire Club trước đây, bây giờ có tên Sage. Nhân vật này sở hữu năng lực ngoại cảm và não bộ hoạt động như một máy tính, và là thành viên của câu lạc bộ quý tộc trong nhiều năm đến khi bị phát hiện làm điệp viên cho Professor X. Những kịch bản lan man và những nhân vật phản diện mới không chút ấn tượng đã ảnh hưởng đến sự trở về của Claremont, và Tổng biên tập mới của Marvel Joe Quesada đã cách chức ông ta sau hai ấn bản đầu năm 2001. Quesada chỉ định Claremont và họa sĩ Salvador Larroca vào một tên truyện mới, X-Treme X-Men, với Sage, Psylocke, Bishop, Gambit, Thunderbird, Rogue và Storm hoạt động ngoài nhóm X-Men, giống như đã từng làm với West Coast Avengers vào cuối thập niên 1980 - đầu thập niên 1990. Cùng lúc đó, Marvel chấm dứt các loạt truyện Gambit, Bishop, X-Man, Mutant X, Generation X, và X-Force. Mặc dù tình hình kinh doanh những loạt truyện này khá khả quan, Quesada lý giải rằng việc có quá nhiều truyện về các siêu anh hùng bị đột biến chỉ tổ rườm rà vô ích. Marvel phát hành một vài truyện mới, không theo mô típ "chiến đấu vì một thế giới ghét và sợ dị nhân" nữa, gồm có: Weapon X, một nhóm đánh thuê có Sabretooth, Marrow và nhiều nhân vật có vuốt-sắc khác. Exiles, một nhóm dị nhân trong thế giới song song. X-Force mới (về sau đổi tên thành X-Statix), loạt truyện về nhóm các siêu anh hùng đột biến hoạt động công khai dưới sự bảo trợ của các tập đoàn. Những thay đổi mạnh mẽ khác của thời kỳ này gồm cái chết của các nhân vật Colossus và Psylocke; bí ẩn của Wolverine dần sáng tỏ trong loạt truyện Wolverine: Origins (Nguồn gốc Wolverine) đầu năm 2001. Năm 2001 là sự xuất hiện của tác giả Grant Morrison và họa sĩ Frank Quitely, X-Men được đổi tên thành New X-Men, với sự ra mắt của Beast, Jean Grey, Professor X, Cyclops, Wolverine và Emma Frost, người trước đây là White Queen của Hellfire Club. Nhóm mới khoác bộ trang phục bằng da đen bóng (giống như trong bộ phim điện ảnh X-Men năm 2000), và thu nhận thêm các học viên thiếu niên vào Trường học Xavier. New X-Men nổi tiếng với những ý niệm khoa học giả tưởng đa phương diện, những bước ngoặt bất ngờ như sự kiện E Is For Extinction (Nợ nần sòng phẳng), nói về cuộc tàn sát 16 triệu người ở Genosha của nhân vật phản diện mới Cassandra Nova, hay những thay đổi gây tranh cãi về tính cách nhân vật. Một trong những tinh tiết gây tranh cãi của Morrison là để cho Cyclops ngoại tình với Emma Frost. Uncanny X-Men cũng được tân trang lại dưới bàn tay của Joe Casey và họa sĩ Ian Churchill (sau đó chuyền tay liên tiếp qua Chuck Austen và nhiều họa sĩ khác). Trong khi "New X-Men" tập trung vào lớp học của nhóm năm người Cyclops, "Uncanny" tập trung vào các thành viên bên ngoài và những chuyến phiêu lưu hành động theo truyền thống, với thủ lĩnh Archangel và các thành viên Iceman, Nightcrawler cùng một số nhân vật khác: Chamber (Jono Starsmore), cựu thành viên Generation X có bộ ngực chứa đầy năng lượng psionic Stacy X (Miranda Leevald), từng là gái điếm, có thể điều khiển chất hóa học pheromones Northstar, (Jean-Paul Beaubier), cựu thành viên đội Alpha Flight Husk, (Paige Guthrie), em của Cannonball và là cựu thành viên Generation X, có thể tự lột da để lộ phần cơ thể rắn chắc bên trong. Juggernaut (Cain Marko), anh kế của giáo sư Xavier, tội phạm và là kẻ thù của X-Men từ giữa thập niên 1960 (Austen đã cho Juggernaut chuộc lỗi trong một số tình tiết được người hâm mộ chấp nhận) Austen cũng đưa vào Polaris, Jubilee và Havok, người đã rơi vào quên lãng sau khi loạt truyện Mutant X bị chấm dứt. Tuy nhiên Casey và Austen đã bị phản ứng dữ dội. Nhiều nhà phê bình đánh giá Uncanny X-Men quá sáo mòn (so với những cuộc phiêu lưu của New X-Men), còn người hâm mộ thì phản đối những thay đổi của ấn bản này, bao gồm việc cho Nigthcrawler là một linh mục Công giáo, sự biến đổi tính cách của Polaris (làm cô trở thành kẻ khủng bố tâm thần), và chuyện tình lãng mạn gây tranh cãi giữa Archangel với Husk (Husk chỉ mới 18 tuổi, nhỏ hơn Archangel tới 10 tuổi). Trong lúc đó, loạt truyện "X-Treme X-Men" giới thiệu thêm hai nhân vật mới: Lifeguard (Heather Cameron), có cơ thể thích nghi với mọi đe dọa bên ngoài. Slipstream (Davis Cameron), anh của Lifeguard, có thể chuyển dịch từ xa bằng cách tạo ra "Sóng bẻ cong không gian" (Warp Wave). Một loạt truyện X-Men ưa thích khác là Ultimate X-Men của tác giả Mark Millar và họa sĩ Adam Kubert, họ đã viết lại phiên bản X-Men mới dành cho lứa tuổi thiếu niên và tạo thích thú cho các độc giả mới. Ultimate X-Men là một phần của Ultimate Marvel Universe, bên cạnh Ultimate Spider-Man và Ultimates. Những sự kiện nổi bật trong giai đoạn này có thể kể đến Dream's End (Vỡ mộng), Eve of Destruction (Eva của sự huỷ diệt), E Is For Extinction (Nợ nần sòng phẳng), Planet X (Hành tinh X), Gifted (Tài năng bẩm sinh), Phoenix: The Endsong (Phượng Hoàng: Bài ca cuối cùng). Thập niên 2000 Thời kỳ mới Năm 2004, Morrison ngưng loạt truyện New X-Men, hãng Marvel bắt tay chuẩn bị cho "Giai đoạn chuyển tiếp Morrison". Marvel chấm dứt X-Treme X-Men và kéo Claremont quay lại với Uncanny X-Men. Nhóm mới, gồm có Storm, Wolverine, Bishop, Sage, Marvel Girl, Nightcrawler và Cannonball, hoạt động dưới quyền hạn của Liên hiệp quốc trong vai trò Đội Siêu Phản Ứng X.S.E (X-Treme Sanctions Executive). Họ có toàn quyền hành động và được các chính phủ công nhận địa vị ngang với nhóm Avengers trong vai trò giám sát hành vi của các dị nhân trên toàn thế giới. Còn loạt truyện New X-Men một lần nữa đổi thành X-Men, với các thành viên Havok, Polaris, Iceman, Rogue, Gambit, Juggernaut. Hãng Marvel còn phát hành Astonishing X-Men do Joss Whedon viết cốt truyện (tác giả loạt phim truyền hình Buffy the Vampire Slayer) cùng họa sĩ John Cassaday (họa sĩ của truyện Planetary). Các nhân vật trong Astonishing X-Men gồm Cyclops, Frost, Beast, Shadowcat, Wolverine. Để chuẩn bị cho ba nhóm mới, Cyclops đã bỏ các trang bị bằng da và quay lại kiểu trang phục cũ, thẳng thắn loại bỏ Archangel, Husk, Jubilee và Northstar khỏi vai trò thường trực. Astonishing X-Men tạo nên một cú hích cho giới truyện tranh bởi những tình tiết và lời thoại của Whedon, và tranh vẽ theo phong cách như thật của John Cassaday. Một số phong cách tỏ ra thành công nhờ vào cách ra mắt đơn giản vừa phải, khác hẳn với nhiều ấn phẩm X-Men (đặc biệt trong thập niên 1990) có cốt truyện dài lê thê rối rắm và hình ảnh sặc sỡ khiến các nhân vật bị lu mờ. Loạt truyện mới còn hồi sinh Colossus, một nhân vật rất dược hâm mộ. Psylocke cũng hồi sinh trong Uncanny X-Men (Claremont đã nuôi ý định này từ sau cái chết của cô ta trong X-Treme X-Men, nhưng không được cho phép bởi quan điểm "chết là chết luôn" lúc đó). Hãng Marvel cũng phát hành thế hệ truyện ăn theo mới, gồm District X, nói về Bishop kiểm soát một dị nhân lân cận Thành phố New York; New X-Men: Academy X, thay thế cho New Mutants (vol. 2) đề cập đến các học viên của Xavier; và Excalibur mới, trong đó Magneto và Professor X tái thiết lại Genosha. Rogue, Nightcrawler, Gambit và Jubilee xuất hiện trong những loạt truyện dành riêng, mặc dù Jubilee bị chấm dứt sau sáu tập, và được phát hành với số lượng ít ỏi nhất so với những ấn phẩm ăn theo khác. Gambit và Rogue mỗi người chỉ xuất hiện trong mười hai tập. Marvel chấm dứt X-Statix khi tác giả Peter Milligan và Mike Allred ngưng sáng tác. Milligan thay thế Chuck Austen để viết cốt truyện cho X-Men (chữ "New" bị bỏ đi) vào tháng 1 năm 2005. Trong lúc đó, loạt truyện dài NYX giới thiệu nhân vật X-23, một thiếu nữ là bản sao của Wolverine xuất hiện lần đầu trong loạt phim hoạt hình X-Men: Evolution. X-23 nhập học trong New X-Men sau khi trợ giúp nhóm Uncanny X-Men. Đây là lần thứ ba hãng Marvel đưa một nhân vật từ phim truyền hình vào truyện tranh; lần đầu là Firestar từ phim hoạt hình Spider-Man and His Amazing Friends (Người Nhện và những người bạn kỳ quái), người từng có mặt trong Uncanny X-Men rồi tham gia vào nhóm New Warriors (Tân Chiến binh) và sau đó là Avengers. Lần thứ hai là Morph trong hoạt hình X-Men Animated Series, sau đó tái xuất hiện trong Age of Apocalypse (Thời đại Apocalypse). (DC Comics cũng từng làm tương tự vào năm 1990, khi đưa nhân vật Harley Quinn của phim hoạt hình Batman: The Animated Series vào loạt truyện DC Universe.) Đế chế M/Cuộc khủng hoảng/Giống nòi lâm nguy/Đấng cứu thế rắc rối Sự kiện chính trong năm 2005 là House of M (Đế chế M),bắt đầu bằng việc Scarlet Witch - con gái của Magneto, mất trí vì những mất mát gia đình nên đã thay đổi thế giới, đảo ngược vị thế giữa con người và người đột biến trên thế giới. Khi các siêu anh hùng quyết tâm lật đổ hiện thực giả tạo House of M, họ lại khiến Scarlet Witch gây ra một sự biến động mới: 98% người đột biến trên thế giới bị mất năng lực. Sự kiến đó dẫn tới một cuộc khủng hoảng chưa từng có(Decimation) trong cộng đồng dị nhân, làm hàng triệu người đột biến bị mất năng lực, có cả Magneto và Professor X. Sau đó là biến cố Deadly Genesis (Căn nguyên chết người), với sự khám phá 1 bí mật đen tối của Xavier đã được che giấu trong suốt 30 năm qua, khiến ông và Cyclops trở thành thù địch với nhau; một nhân vật hung ác khác xuất hiện là Vulcan, em của Cyclops. Wolverine cũng khôi phục hoàn toàn ký ức trong diễn tiến của loạt truyện Wolverine: Origins. Một số các sự kiện ngắn khác là Son of M (Hậu duệ M), Generation M (Thế hệ M) và The 198 (Hồ sơ 198) tập trung vào những dị nhân bị mất năng lực, tất cả đều xuất hiện trong New X-Men. Apocalypse hồi sinh khi Cable trở lại, biến đổi Polaris và Gambit sang phe ác của hắn, tuy nhiên cả hai đã được cứu thoát sau đó. Trong lúc đó, The Avengers và Magneto giao du với các dị nhân thất lạc trong The Collective. Sư kiện House of M cũng dẫn đến một biến cố trong năm 2006: Civil War (Nội chiến). Chris Claremont chuyển sang phụ trách New Excalibur. Giáo sư Xavier thành lập một nhóm mới gồm Havok, Polaris, Rachel Summers, Nightcrawler, Warpath, và tân binh mới Darwin sau biến cố Deadly Genesis, với nhiệm vụ chống lại âm mưu lật đổ Shi'ar của Vulcan. trong khi Ed Brubaker tiếp quản bộ Uncanny X-Men. Astonishing X-Men tiếp tục thành công, tuy nhiên vì tác giả Whedon ký hợp đồng mới phát hành thêm 12 tập (sau bản hợp đồng 12 tập ban đầu), nên trong năm 2006 truyện được phát hành 2 tháng/lần để có thể hoàn tất phần tình tiết mở rộng.Bên bộ X-Men, Rogue lãnh đạo một nhóm dị nhân mới, bao gồm những nhân vật vừa chuyển sang phe thiện như Mystique và Sabretooth. Loạt truyện New X-Men thì có sự trở lại của William Stryker. Stryker bí mật tái hợp nhóm người cuồng đạo Purifiers và đặt bom vào chuyến xe buýt chở các học viên bị mất năng lực của học viện Xavier, gây ra cái chết của 24 cựu học viên. Chưa dừng lại, Purifiers tấn công vào học viện giết chết thêm 3 học viên, cho đến khi chúng bị các New X-men (bao gồm các học viên: Surge, Hellion, Elixir, Prodigy, Mercury, Dust, Rockslide) đánh bại. Cuộc khủng hoảng chưa chấm dứt khi Beast nhận ra không 1 người đột biến nào sinh ra kể từ M-day, khiến cho giống loài của họ đứng bên bờ vực tuyệt diệt. Beast đã làm 1 cuộc hành trình liên lạc với các nhà khoa học của cả hai phe thiện và ác để mong tìm ra phương pháp thoát khỏi tình trạng này. Nhưng cuối cùng, Beast nhận ra "Khoa học không thể giải quyết những vấn đề thuộc về ma thuật". Trong khi đó ở "Uncanny X-men", nhóm X-men của Xavier thất bại trong việc ngăn cản Vulcan tiếp nhận ngôi vua của Shi'ar. Bất lực nhìn cha mình chết trong tay em trai, Havok quyết định cùng Polaris và Rachel ở lại ngoài không gian tiếp tục chống lại Vulcan. Trong nhóm còn lại quay về Trái Đất cùng một thành viên mới là Hepzibah. "Astonishing X-men" cũng có thêm một thành viên mới, vốn là 1 học viên trẻ người Nhật Armor. Còn ở "X-men", Cable mất tích trong khi Mystique phản bội và bắt giữ Rogue, hé lộ bà ta là gián điệp của Mr Sinister cài vào X-men. Sự kiện lớn nhất của năm 2008 là Mesiah Complex (Đấng cứu thế rắc rối) kể về sự ra đời của đứa bé đột biến đầu tiên kể từ M-day. Nắm giữ đứa bé là nắm giữ chìa khóa của cả giống loài đột biến nên một cuộc chạy đua truy lùng đứa bé diễn ra giữa các X-men và các nhóm đồng minh X-Factor, New X-men cùng các kẻ thù là các nhóm Marauders, Reavers, Purifiers. Trong sự kiện này, các vấn đề quan trọng gồm: việc Cyclops đã lập nên một nhóm mới là X- Force (bao gồm Wolverine, X-23, Warpath, Caliban, Hepzibah, Wolfsbane); sự xuất hiện trở lại của Cable; Layla Miller rơi vào tương lai 80 năm sau và mắc kẹt tại đó; con quái vật thủy ngân Predator X tấn công các New X-men; học viện lại bị phá hủy hoàn hoàn; sự phản bội của Bishop; Mystique giết Mr Sinister, lợi dụng đứa bé để hồi tỉnh Rogue. Cuối sự kiện, Cyclops trao đứa bé cho Cable, để anh ta mang nó về tương lai nuôi dạy. Bishop dùng súng bắn đứa bé nhưng lại giết chết giáo sư X. Cyclops tuyên bố các X-men giải tán. Chia rẽ Sự kiện tiếp theo là Divided We Stand (Chia rẽ) kể về các cuộc phiêu lưu cá nhân của các X-men. "X-men" đổi thành "X-men Legacy" hướng câu chuyện tiếp tục về giáo sư X. Khi Exodus lấy cắp xác giáo sư và nhờ đến sự giúp đỡ của Magneto, mong lợi dụng những gì còn sót lại trong ý thức giáo sư. Gambit tham gia cùng nhóm của Exodus để thám thính và tìm cách cứu giáo sư. Sự thật được tiết lộ rằng trước khi chết, Mr Sinister đã đưa một phần ý thức của hắn vào giáo sư, dẫn đến sự lo ngại Sinister có thể hồi sinh trong cơ thể giáo sư. "Uncanny X-men" kể về câu chuyện của Cyclops và Emma khi họ theo lời Angel đến San Fransico và phát hiện Goddess đã biến thành phố quay về thập niên 80. Mặt khác, còn kể đến cuộc phiêu lưu đến Nga của Wolverine, Colossus và Nightcrawler. Đội New X-men giải tán nhưng Cyclops thành lập một thế hệ X-men mới mang tên Young X-men (bao gồm Rockslide, Dust, Wolf Cub, Ink, Greymalkin và Blindfold). Nhiệm vụ đầu tiên của nhóm là điều tra về tổ chức tội phạm New Brotherhood, chính là các cựu New Mutants (Cannonball, Sunspot, Magma, Wolfsbane, Dani Moonstar. Cuối cùng, nhóm phát hiện các cựu New Mutants không phản bội mà chính Cyclops mới là người bị kẻ ác khống chế. X-Factor đối đầu với tai họa mà Arcade sắp giáng xuống NYX. Siryn cho biết mình đã có mang với Mutiple Man. Cùng với She-Hulk, nhóm truy tìm Longshot- kẻ đã được xác định là Skrull]]. X-Force tìm mọi cách tiêu diệt tổ chức Purifiers. Serie còn có sự xuất hiện của Archangel mang đôi cánh kim loại. Một serie nhỏ gồm 2 tập kể về một số câu chuyện khác của các nhân vật: - Cannonball về quê, nhưng tức giận và bỏ đi. - Storm đưa Nezho về Wakanda trước sự ghẻ lạnh của gia đình cậu ta. - Anole khước từ Northstar và cũng bỏ đi. - Nightcrawler đến giảng đạo cho Scalphunter. - Hellion tìm đến đầu quân cho Magneto nhưng bị từ chối. - Beast rời học viện trong nuối tiếc. - Forge lại bị Bishop tấn công. - Havok ở Shi'ar tuyệt vọng khi nghe báo tin ở Trái Đất. - Magik từ Limbo quay về choáng váng trước sự sụp đổ của học viện. - Surge tìm đến Dani Moonstar xin lời khuyên. Secret Invasion Khi con tàu vũ trụ chở các siêu anh hùng được xem là các tù binh của Skrull bị bắt từ lâu đáp xuống Trái Đất, có mặt của Jean Grey, Emma Frost, Beast và Wolverine. Tàu chiến của Krull tấn công bờ biển Tây nước Mỹ bị bất ngờ khi gặp đợt phản công của các X-men. Các X-men chiếm được một tàu chiến mẹ nhưng người Krull cũng sử dụng Wall Thought cắt đứt liên lạc tâm linh của các nhà ngoại cảm. Các siêu chiến binh Super Skrull tấn công khiến các X-men phải rút lui về căn cứ. Cyclops tập hợp mọi lực lượng và dùng khả năng teleport của Nightcrawler và Pixie phân tán các X-men ở nhiều địa điểm khác nhau trong thành phố. Các nhân vật tham chiến gồm: Iceman, Northstar, Aurora, Angel, Husk, Rockslide, Armor, Cannonball, Surge, Mercury, Dust. Emma Frost cùng Stepford Cuckoos dự định liều lĩnh thử phá Wall Thought của người Skrull khiến Emma bất tỉnh và mất tín hiệu ý thức. Pixie bất ngờ bị một tên Skrull tấn công nhưng lại được X-Force, bao gồm X-23, Warpath, Wolfsbane và Archangel. Họ chiến thắng tên Skrull và mang hắn về cho Beast nghiên cứu. Beast phát hiện ra Skrull và mutant khá tương đồng về di truyền nên đã tạo ra một biến thể của Legacy Virus, chỉ tấn công vào Skrull. Người Skrull bắt các công dân thành phố làm con tin buộc các X-men hàng phục. Cyclops ra lệnh cho tất cả các X-men tẩm Leagcy Virus vào quần áo và phân thành nhiều nhóm nhỏ, giả đầu hàng để tiếp cận với đội quân Skrull, phân tán virus. Người Skrull bị nhiễm bệnh và buộc phải kết thúc cuộc xâm lăng để đổi lấy thuốc giải. Từ San Francisco đến Utopia Trong tập Uncanny X-men 500, các X-men chuyển căn cứ đến một tòa cao ốc ở thành phố San Francisco dưới sự hậu thuẫn của nữ thị trường thành phố này, vốn là người theo trường phái ủng hộ mutant. Nhưng chẳng bao lâu sau, chính phủ lại ra dự thảo đạo luật X - khống chế sự sinh sản của cộng đồng mutant. Một lần nữa, mong ước tìm một nơi có thể sống hòa hợp với con người lại lung lay. Sau nhiều năm, Uncanny X-men không còn là serie chỉ nói về 1 đội mà nó khái quát về tất cả các nhân vật mutant sống cùng trong Worthington Industries, hạt Marin, San Francisco, CA. Nhiều nhân vật cũ đã quay về như Karma, Dazzler, Northstar, Magik, Psylocke. Ngay tập 500, các X-men chạm trán Magneto. Nhưng 1 nhóm kẻ thù mới đã xuất hiện: Sisterhood of evil Mutants dưới sự lãnh đạo của Red Queen, 1 phụ nữ bí ẩn được cho là người vợ cũ của Cyclops, Madelyne Pryor. Cô ta thâu nạp và hồi sinh nhiều nữ mutant là kẻ thù của X-men như Spiral, Lady Deathstryke, Chimera, 2 chị em Lady Mastermind và Martinique. Họ còn bắt giữ Psylocke và ép linh hồn cô ta quay về xác của Revanche. Psylocke mất trí và cùng băng nữ tội phạm này tấn công vào tòa nhà của các X-men. Tháng 5/2009, serie thứ 3 mang tên New Mutants ra mắt, tái hợp lại các thành viên cũ của Mew Mutants thế hệ đầu: Cannonball, Karma, Magik, Sunspot, Moonstar và Karma. Nhiệm vụ đầu tiên của họ liên quan đến Legion. Trong khi đó, ở serie Legacy X-men, lần đầu tiên sau nhiều thập niên, Rogue đã điều khiển được hoàn toàn khả năng của mình. Nhân dịp này, Cyclops chọn Rogue làm cố vấn cho một số học viên trẻ chưa tham gia X-men như Surge, Hellion, Bling!, Loa, Trance và Indra. Các sự kiện lớn của năm 2009: - Miền đất hứa/Utopia: Bắt đầu bằng sự kiện Simon Trask yêu cầu một đạo luật yêu cầu tất cả các mutant phải tham gia phương pháp hạn chế sinh sản bằng y học, một cuộc bạo động đã nổ ra ở thành phố San Francisco. Thừa cơ hội này, Norman Osborn cùng đội Dark Avengers đến San Francisco dẹp loạn và buộc tội Cyclops đã dung túng cho các mutant gây náo loạn thành phố. Trong khi Cyclops bị truy nã, Emma Frost đến gặp Osborn và chấp nhận làm lãnh đạo của đội Dark X-men. Đội bao gồm: Professor X (Mystique giả mạo), Wolverine (Daken- con trai của Logan, giả mạo), Cloak và Dagger, Weapon Omega, Dark Beast, Mimic, Namor. Âm mưu của Osborn không chỉ là hất cẳng các X-men và giành lấy vị trí nhóm siêu anh hùng bờ biển Tây của họ, lão còn cùng Dark Beast chế tạo cỗ máy Omega để rút năng lượng mutant và xây dựng nhà tù mutant ở Alcatraz. Cyclops bí mật cử Psylocke và đội X-club trục vớt Asteroid M từ đáy đại dương và biến nó thành 1 đảo quốc mới cho loài mutant, với cái tên Utopia. Khi anh ta cử đội X-Force đến Alcatraz giải cứu các tù binh, Emma Frost và Namor ngửa bài, cho thấy họ đã âm mưu trá hàng ngay từ đầu để thâm nhập vào kế hoạch của Osborn. Emma Frost kêu gọi Cloak và Dagger về phe mình và tất cả đến Utopia. Điều này làm Osborn thấy mất mặt. Ông ta cùng đội Dark Avengers và phần còn lại của Dark X-men tấn công Utopia. Trong trận chiến, vì giúp Sentry, Emma bị mắc kẹt với 1 mẩu của The Void và buộc phải giữ mình ở trạng thái kim cương. Trong khi đó, Dani Moonstar đã lấy lại năng lực của Valkyrie và dùng nó đánh bại Ares. Sau trận đại chiến, Osborn buộc phải rút quân khi thấy các X-men quá đông và ông ta không dám giết hết họ vì giới truyền thông đang ghi hình trực tiếp. Ông ta tuyên bố Utopia là "nhà tù" giam giữ các mutant khỏi sự an toàn của nước Mỹ. Trong khi đó, các X-men và mutant bắt đầu xây dựng một đất nước mới cho riêng mình. - Nation X: Magneto quay trở lại căn cứ cũ của mình, Asteroid M, nay đã trở thành đảo quốc mới của loài mutant, Utopia. Các X-men xông đến tấn công ông ta, nhưng trước sự kinh ngạc và phản đối của vài X-men, magneto đã xin Cyclops gia nhập X-men. Trong lúc họ còn đang giải quyết các vấn đề phát sinh trong cuộc sống mới tách biệt với nước Mỹ, một chiếc máy bay bí ẩn đã thả một bầy Predator X xuống Utopia. Các X-men hợp sức tiêu diệt phần lớn chúng, nhưng vẫn còn một con đã trốn vào thành phố và tấn công các mutant ở đây, Fantomex giúp đỡ các X-men truy tìm con quái này. Cùng lúc đó, Cyclops và nhóm ngoại cảm tìm cách giúp Emma khỏi bị The Void khống chế. Nhóm khoa học và Magneto thì lại đối diện với nguy cơ Utopia đang chìm dần. Về mặt tâm lý, có khá nhiều bất đồng và nghi ngờ diễn ra, không chỉ giữa các mutant dành cho các X-men, mà cả với các X-men với nhau. Nỗi sợ bị tách biệt với thế giới bên ngoài, dễ trở thành mục tiêu cho những kẻ căm ghét mutant, những lời đồn đại về nguy cơ Utoipa bị chìm, sự xa cách với các mối quan hệ gia đình bạn bè ở ngoài Utopia, tâm lý thù địch Magneto cũng như việc sinh sống trên căn cứ cũ của ông ta... khiến các mutant thường chống đối lẫn nhau. Trong khi đó, một số X-men lại cảm thấy mình đang đi ngược lại lý tưởng trước đây của chính họ. Việc họ tách mình khỏi cộng đồng khiến lý tưởng xây dựng một xã hội hòa hợp giữa con người và mutant trở nên chông chênh, trong khi hành động này lại có phần gần với lý tưởng của Magneto hơn. Mặc dù vậy, như Wolverine nói, thế giới đã thay đổi và các mutant nên tin vào sự lựa chọn của Cyclops, "Các X-men vẫn sẽ bảo vệ cho cái thế giới luôn căm ghét và sợ hãi họ. Nhưng bây giờ, chúng ta đã tự do." - X Necrosha: một tên ma cà rồng tên Eli Bard đánh cắp công nghệ virus T-O của Bastion, có khả năng hồi sinh những người chết thành những công cụ tay sai cho kẻ điều khiển, và mang nó về cho Selene. Bà ta sử dụng nó để hồi sinh hàng loạt mutant đã chết và trả thù những kẻ đã cản đường và phản bội bà ta trước đây. Bà ta hồi sinh New Mutants Cypher, dùng anh ta để dẫn đội quân chết chóc của mình tấn công vào bên trong Utopia. Sau đó bà ta cùng những kẻ thân cận của mình (Wither, Mortis, Senyaka, Blink, Eli Bard) đến Genosha với âm mưu hồi sinh tất cả những mutant đã chết trong sự kiện thảm sát Genosha. Dù bà ta đã hồi sinh 16 triệu cư dân ở đây, nhưng do họ bị ảnh hưởng bởi M-day nên chỉ còn lại 1 triệu người là mutant. Selene ra lệnh cho các nô lệ xây dựng lại Genosha và muốn dùng năng lượng của họ để hóa thành thần. Công cụ của bà ta, lưỡi dao tâm linh, đã bị Eli Bard làm lạc mất khi chiến đấu với X-Force. Selene sai đồng bọn đến Utopia tìm lại thanh dao và giết bất kì ai cản đường chúng. Cuối cùng Selene cũng đạt được mục đích và biến thành một nữ ác thần sau khi hút hết sức sống của các mutant bà ta vừa hồi sinh. Nhưng một trong những mutant bà ta hồi sinh là X-men Thuderbird, đã tiết lộ cho đội X-Force biết cách giết bà ta. Thập niên 2010 Sự trở về của Hope Summers Đầu thập niên là sự kiện Second Coming- sự kiện cuối trong chuỗi ba sự kiện kéo dài 5 năm xung quanh nhân vật Hope Summers- mutant đầu tiên và duy nhất ra đời sau M-day. Sau nhiều năm trốn chạy trong tương lai, Hope và Cable quay lại hiện tại và ngay lập tức bị truy sát bởi bè nhóm của tên Super Sentinel Bastion. Cùng hội với Bastion là những kẻ đứng đầu các phe nhóm chống đối với mutant như William Stryker, Cameron Hodge, Stephen Lang, Bolivar Trask, Graydon Greed. Sự tồn tại của đội X-Force bị tiết lộ, khiến một số X-men cảm thấy mất niềm tin vào Cyclops. Trong cuộc chạy đua đưa Hope trở về Utopia an toàn, nhiều X-men đã bị thương nặng, mất tích hoặc tử nạn. Trong đó, mất mát lớn nhất của các X-men là sự hi sinh của Nightcrawler khi anh ta liều thân mình đưa Hope về Utopia. Bastion cách li toàn thành phố San Francisco trong một mái vòm năng lượng không thể xuyên thủng, đồng thời mở một cánh cổng thời gian để thả đầy các siêu Sentinel Nimrod vào bên trong khối cầu. Trong khi phần lớn các mutant chật vật đánh nhau với bọn Nimrod, Cyclops cử đội X-Force hộ tống Cable và Cypher đến tương lai để vô hiệu hóa tất cả các Nimrod ngay từ cái nôi của chúng. Kế hoạch thành công nhưng Cable bị kẹt lại ở tương lai khi cánh cổng thời gian khép kín. Hope, trong cơn giận dữ và đau khổ, đã bộc phát năng lực và tiêu diệt Bastion, cũng như phá tung mái vòm năng lượng, giải phóng thành phố San Francisco. Nghĩ rằng cuộc chiến vì tương lai của loài mutant đã kết thúc, Cyclops giải tán X-Force nhưng Wolverine vẫn bí mật thành lập một đội mới (Wolverine, Archangel, Deapool, Psylocke, Fantomex). Cuối sự kiện, Cerebro phát hiện ra các tín hiệu của các mutant mới từ khắp nơi trên thế giới, đánh dấu sự kết thúc thời kì đen tối của loài mutant. Hope, người vẫn không ưa Cyclops, được Rogue giúp đỡ, đã đi khắp thế giới để tìm và giúp đỡ các mutant mới này. Bằng cách chạm vào họ, Hope đã giúp các mutant mới khống chế được năng lực mới bộc phát của mình, từ đó nảy sinh sự kính trọng của họ dành cho cô. Năm mutant đầu tiên bộc phát bao gồm: - Transonic (Laurie Tromette): một cô gái Canada có làn da màu bạc như cá có khả năng bay. - Velocidad (Gabriel Cohuelo): một anh chàng Mexico có khả năng dịch chuyển trong không gian mà mắt trần không nhìn thấy được. - Oya (Idie Okonkwo): một cô gái Nigeria có thể điều khiển nhiệt độ, đôi tay có thể phát ra băng và lửa. - Primal (Teon Macik): một người đàn ông Ukraine có hình dạng và tâm tính giống như thú vật mà Hope gặp ở Miami. - Zero (Kenji Uedo): một họa sĩ người Nhật có khả năng mọc ra các xúc tu và các bộ phận cơ khí từ cơ thể mình. Hope Summers đưa cả năm mutant này về Utopia và trực tiếp huấn luyện họ. Hope lập ra nhóm Five Lights và được Cyclops cho phép thực hiện các nhiệm vụ giúp đỡ các mutant mới bộc phát. Nhiệm vụ đầu tiên của nhóm là đến Berlin theo dấu một mutant mới bộc phát. Mutant này chỉ mới là một bào thai trong bụng mẹ. Do sợ hãi, nó đã dùng năng lực tâm linh điều khiển mọi người trong bệnh viện. Quay về hình tượng cũ Việc gen đột biến tiếp tục khởi hoạt trên toàn thế giới đã giải phóng tình trạng bế tắc cho số phận của loài mutant trong nhiều năm qua. Không còn mang nặng lo lắng phải bảo vệ phần còn lại của loài mutant bằng mọi giá, Cyclops đưa các X-men quay lại vai trò các anh hùng bảo vệ cho cộng đồng và xây dựng hình ảnh các anh hùng được công chúng yêu mến dựa trên sự ủng hộ và PR của thị trưởng và giới truyền thông SF. Nhìn chung ở các serie, các X-men đã quay lại với con đường cũ là xây dựng sự hòa hợp giữa loài người và mutant. Trong X-men, chú trọng nhiều đến các tình tiết tạo nên danh tiếng Anh hùng cho các X-men, các X-men bảo vệ thành phố khỏi sự tấn công của loài vampire trong sự kiện "Curse of the Mutants" (trong sự kiện này, Jubilee quay trở lại loạt truyện, lần này cô ta bị biến thành vampire và phải sống trong sự giám sát để bảo đảm an toàn), tìm kiếm các đứa trẻ bị mất tích trong cống ngầm thành phố và tìm ra tung tích của Dark Beast và Lizard, những kẻ đang biến đổi con người thành những sinh vật bò sát khổng lồ. Trong Uncanny X-men, vẫn tiếp tục mô tả cuộc sống chung của loài mutant trên Utopia. Trong sự kiện "Quarantine", Utopia bị virus HX-N1 tấn công khiến Cyclops phải cách li toàn bộ Utopia để bảo đảm sự an toàn cho SF. Trong khi đó, kẻ chủ mưu Lobe đã tạo ra một liều thuốc biến đổi con người thành những siêu nhân có các năng lực tương tự như X-men, và đem rao bán nó cho những kẻ giàu có muốn làm siêu nhân. Cyclops sau đó đưa binh đoàn X-men đang nhiễm bệnh vào tòa nhà của lão và làm toàn bộ những kẻ đang sử dụng liều thuốc cũng như chính Lobe bị nhiễm bệnh. Lobe buộc phải trao thuốc giải và tiêu hủy toàn bộ số thuốc này. Tuy nhiên, một trong những thí nghiệm của Lobe, Penny Newsom, dường như bị tác động bởi những lời nói của Cyclops về việc làm người anh hùng, đã quyết định đánh cắp vài mẫu thuốc và tẩu thoát. Trong sự kiện tiếp theo, Colossus và Kitty Pryde quay lại hành tinh Breakworld để giải quyết những vấn đề họ để lại trong lần viếng thăm trước. Trong Legacy X-men, một sự kiện quan trọng đã xảy ra là Age of X. Một trong những nhân cách của Legion đã cất giấu toàn bộ vũ trụ vào một chiếc hộp, thay đổi Utopia thành một pháo đài đang bị vây hãm tên Fortress X, tẩy não các mutant khiến họ tin mình đã sống cả đời trong một cuộc chiến bất tận với loài người. Sau 7 ngày sống trong những cuộc đời giả tạo, các X-men biết được sự thật. Legion dùng năng lực trả vũ trụ lại như cũ. Các X-men lấy lại ký ức thật, nhưng vẫn giữ luôn ký ức về cuộc đời ở Age of X. Điều này khiến vài người cảm thấy bất an và bối rối nên đã nhờ đến các nhà ngoại cảm xóa ký ức cho họ. Sau sự kiện, Cyclops nhận được lời cầu cứu của Rachel Summers, người bấy lâu đang ở Shi'ar chiến đấu với Vulcan. Cyclops cử một đội gồm các thành viên muốn xóa bỏ những lỗi lầm trong quá khứ của mình gồm: Rogue, Magneto, Professor X, Legion, Frenzy cùng Rachel đến Shi'ar cứu Havok và Polaris đang bị giam trong ngục. Trong New Mutants, sự trở về bí ẩn của Magik được giải đáp. Để trả thù những con quỷ tối cao Elder ở Limbo, cô ta đã lợi dụng các New Mutants và X-men, ép họ vào một cuộc chiến nguy hiểm liên quan đến vận mệnh của cả hai thế giới, Legion phải tham chiến và tiêu diệt các con quỷ Elder. Magik trả được thù và lấy lại được linh hồn của mình và Pixie. Các X-men mất tin tưởng vào Magik và đề nghị giam giữ cô. Cùng lúc này Cannonball và Karma đều có ý định tạm nghỉ. Cyclops đưa Moonstar lên làm lãnh đạo New Mutants và giải quyết những công việc còn sót lại trong các cuộc chiến trước. Công việc đầu tiên là X-man, người trở về trong thời kì của Dark X-men. Trong Uncanny X-Force, đội X-Force bí mật của Wolverine tiếp tục công việc chủ động bảo vệ loài mutant khỏi các kẻ thù của mình. Họ đã giết hiện thân mới nhất của Apocalypse- một đứa bé (nhưng Fantomex bí mật nuôi dưỡng đứa bé này) và đối mặt với bọn người máy của The World. Rạn nứt Sự kiện của năm 2011 là Schism (Rạn nứt). Trong khi Cyclops đang đọc diễn văn trong hội nghị kiểm soát vũ khí quốc tế, Omega Kid đã đột nhập vào và dùng sức mạnh tâm linh buộc các nhà lãnh đạo thế giới phun ra những bí mật đen tối nhất của họ. Sự kiện này khiến cho nhiều quốc gia trên thế giới đồng loạt khởi động các Sentinel của họ, nhưng phần lớn các Sentinel lại bị hỏng và gây náo loạn khắp thế giới. Kẻ đứng sau vụ lộn xộn này là Kade Kilgore- nhà triệu phú thiên tài 12 tuổi và là Black King mới của Hellfire Club. Kilgore sau đó dẫn một toán lính vũ trang tấn công lễ khánh thành Bảo tàng lịch sử mutant, nơi đang có sự hiện diện của vài X-men. Các X-men bị đánh bại và mutant duy nhất có thể cứu nguy là Oya. Mâu thuẫn giữa Cyclops và Wolverine xảy ra khi Cyclops động viên Oya tham chiến còn Wolverine thì không muốn một đứa trẻ như Oya phải rơi vào tình cảnh bạo lực. Cuối cùng, Oya giết các binh lính để cứu những người ở bảo tàng. Nhưng Kilgore lại sử dụng một con Sentinel tân tiến nhất từng có để tấn công Utopia. Trong khi hầu hết các X-men đều không thể tiếp cứu kịp thời, một lần nữa, Cyclops nhờ đến sự giúp đỡ của các học viên. Wolverine và Cyclops tranh cãi và chiến đấu với nhau cho đến khi họ cùng các học viên đánh bại con Sentinel. Sau đó, Wolverine quyết định rời khỏi Utopia để trở về Westchester, mở cửa lại học viện Xavier và đổi tên nó thành học viện Jean Grey. Việc này khiến cho các X-men còn lại phải quyết định việc ở lại Utopia cùng Cyclops hay đến Westchester cùng Wolverine. Thời kì tiếp theo được gọi là Regenesis (Tái cấu trúc). Các đầu truyện của X-men được chia theo hai tông màu xanh và vàng tương tự như những năm 90: -Phe xanh (đi theo Cyclops): gốm Uncanny X-men, X-men, New Mutants và Generation Hope. Cyclops lãnh đạo một nhóm X-men hùng mạnh nhất hành động trong các tình huống nguy cấp. Psylocke lãnh đạo một nhóm nhỏ làm nhiệm vụ bảo vệ Utopia và Dazzler lãnh đạo một nhóm khác bảo vệ thành phố San Francisco. Dani Moonstar lãnh đạo New Mutants làm nhiệm vụ dọn dẹp những hậu quả còn sót lại của những trận chiến trước. Hope lãnh đạo The Lights ứng cứu cho các mutant mới bộc phát. -Phe vàng (đi theo Wolverine): gồm Wolverine and the X-men, X-men Legacy, Uncanny X-Force, X-Factor. Wolverine và Kitty Pride đồng lãnh đạo học viện Jean Grey. X-Force tiếp tục theo đuổi các nhiệm vụ bí mật. Bước sang năm 2012, mâu thuẫn giữa Wolverine và Cyclops tăng cao vì sự trở về của thực thể Phoenix Force trong sự kiện Avengers vs X-men. Sự kiện này cũng tiết lộ về nguồn gốc và vai trò của Hope Summers. Nó tiết lộ rằng khi Scarlet Witch xóa bỏ loài mutant trên Trái Đất, Phoenix Force đã cảm thấy trật tự tự nhiên trên Trái Đất bị đảo lộn nên đã tạo ra Hope Summers, một biểu tượng sức mạnh cân bằng lại sức mạnh ma thuật của Scarlet Witch. Khi Phoenix Force đến Trái Đất tìm Hope để hoàn thành việc phục hồi gen X, các Avengers lo sợ bản tính hủy diệt của nó nên đã đến Utopia bắt Hope. Một cuộc chiến lớn đã nổ ra giữa hai phe Avengers và X-men. Kết quả bất ngờ là khi Phoenix tiếp cận Hope, Iron Man đã dùng một bộ giáp bắn nó và khiến Phoenix phân mảnh làm năm phần và nhập vào năm X-men có mặt lúc đó: Cyclops, Emma Frost, Namor, Colossus và Magik. Các X-men nắm giữ sức mạnh Phoenix, còn gọi là Phoenix Five, sử dụng sức mạnh của mình để thay đổi thế giới theo hướng tốt hơn. Vẫn lo sợ các vật chủ của Phoenix sẽ mất kiểm soát, các Avengers lại đến Utopia bắt Hope đi, với hi vọng dùng cô ấy làm chìa khóa để tấn công Phoenix. Tức giận vì bị cản trở, Phoenix Five đã tuyên bố các Avengers là tội phạm và truy bắt họ khắp nơi. Trong quá trình giao chiến với các Avengers, dần dần họ đều bị mất kiểm soát và bắt đầu các hành vi điên cuồng. Các Avengers nhờ Scarlet Witch và Hope Summers nên đã lần lượt đánh bại các Phoenix, mặc dù đồng thời với việc một Phoenix ngã xuống là việc các Phoenix còn lại hấp thụ thêm sức mạnh và lại càng mất kiểm soát hơn. Cuối cùng, cả hai phe Avengers và X-men phải bắt tay chống lại Phoenix Force, lúc này với vật chủ duy nhất còn lại là Cyclops. Trong trận chiến cuối cùng, cái chết của Professor X khiến Cyclops biến thành Dark Phoenix và bắt đầu tàn phá thế giới. Scarlet Witch và Hope Summers cùng nhau đánh bại được nó nhưng ngay sau đó bản thân Hope lại tiếp nhận sức mạnh của Phoenix. Hope sửa chữa lại thế giới và biến thành White Phoenix với mong ước trở thành đấng cứu thế của thế giới. Nhưng Scarlet Witch ngăn cản cô lại và họ dùng sức mạnh của nhau để vĩnh viễn xóa bỏ Phoenix với câu nói: "No More Phoenix". Phoenix Force phân tán sức mạnh của nó ra toàn thế giới và hồi phục lại loài mutant, chính thức chấm dứt thời kì loài mutant bị đe dọa bởi nguy cơ tuyệt chủng. Thời kì tái cấu trúc Sự trở lại của loài mutant đưa các X-men quay lại với mục đích ban đầu của mình. Wolverine, Beast, Kitty Pryde và Storm quay lại học viện Jean Grey và chào đón làn sóng các học sinh mới vừa được bộc phát. Nhận ra sự thiếu sót của mình, Captain America đã thành lập một nhóm siêu anh hùng mới bao gồm các Avengers và các X-men Wolverine, Havok, Rogue với cái tên Uncanny Avengers để giải quyết các vấn đề giữa loài người và loài mutant. Trong khi đó, Cyclops vượt ngục và cùng Magneto, Emma Frost, Magik thành lập một học viện Xavier mới ở một căn cứ cũ của Weapon X. Trong Cable and X-force tiết lộ việc Cable còn sống và đã quay trở lại hiện tại để ngăn chặn một thảm họa nào đó trong tương lai với đội hình gồm Domino, Colossus, Dr Nemesis và Forge, Trong khi đó một đội X-force khác do Psylocke thành lập cũng được giới thiệu trong Uncanny X-force gồm Storm, Spiral, Puck trước khi cả hai đầu truyện này hợp nhất thành một đầu truyện X-force duy nhất chỉ sau một thời gian ngắn. Đầu truyện X-men giới thiệu một đội hình gồm các nữ X-men và tái giới thiệu Jubilee cùng đứa con nuôi Shogo của cô. Còn trong Amazing X-men thì có sự hồi sinh của Nightcrawler và sự gia nhập của Firestar. Một đội X-factor mới cũng được giới thiệu trong All-new X-factor với Polaris, Gambit, Quicksilver, Cypher, Warlock và Danger. Sự kiện chấn động của giai đoạn này là việc Beast trở về quá khứ và đưa năm X-men cơ bản đến hiện tại. Tại đây, sau bao cú sốc vì tương lai, năm X-men cơ bản quyết định ở lại để tìm kiếm số phận riêng cho mình. Năm bản thể trẻ này xuất hiện trong đầu truyện All-new X-men. Sự kiện Battle of Atoms liên kết các đầu truyện X-men lại và xoay quanh việc các bản thể X-men đến từ tương lai trở lại hiện tại để ép buộc các X-men cơ bản trẻ quay về quá khứ của họ, nhưng vấp phải sự phản đối của một số X-men ở hiện tại. Các x-men cơ bản sau đó còn trải qua các cuộc phiêu lưu ngoài không gian và gặp gỡ nhóm Guardians of Galaxy trong các sự kiện Trial of Jean Grey và Black Vortex. X-23 gia nhập cùng họ và nảy sinh tình cảm với Angel. Kitty Pryde cũng là một nhân vật tham gia vào sự kiện Black Vortex và từ đó nảy sinh tình cảm với Peter Quill. Ngoài ra, nổi bật trong giai đoạn chính là cái chết đầy bi tráng của Wolverine nhằm ngăn chặn Tiến sỹ Abraham Cornelius, kẻ đã tạo ra chương trình Weapon X. Sau Secret Wars (2015) Là thời kỳ hỗn loạn mà X-men tiếp tục đối mặt với sự hàng loạt các vấn đề sống còn của chủng tộc mutant, khí Terrigen mà Black Bolt thả ra trong sự kiện Infinity khiến người đột biến nhiễm một loại bệnh M-pox, họ phải đối đầu với Inhumans để tồn tại. Mở đầu với sự kiện thủ lĩnh X-men Cyclops chết bởi khí Terrigen đang bao trùm Trái Đất, sau đó đỉnh điểm là cả hai chủng tộc đối mặt với nhau để sinh tồn trong sự kiện Inhumans vs X-men. Sự kiện Inhumans vs X-men kết thúc, khí Terrigen cũng biến mất khỏi Trái Đất đã mở ra cơ hội cho loài mutant được tồn tại. Marvel tiếp tục hồi sinh các nhân vật kinh điển X-men như Wolverine (sống lại nhờ khả năng của một mutant tên Persephone) Jean Grey, cô đã được hồi sinh và không còn là vật chủ của Phoenix Force nữa. Cùng với đó là sự trở lại của thủ lĩnh Cyclops nhờ nỗ lực trở về quá khứ của Cable con trai anh để can thiệp vào sự kiện Death of X (sự kiện dẫn đến cái chết của Cyclops). Tiếp đó là việc 5 X-men trẻ đã quay trở lại quá khứ. Thời đại X-man nối tiếp bằng một loạt mini series, một dị nhân đến từ thời đại Khải Huyền tên Nate Grey, (một phiên bản mạnh hơn của Cable) đã quay trở lại, và tống tất cả các dị nhân vào một thực tại về một cuộc sống hoàn hảo cho loài đột biến do hắn tạo ra và làm chủ.... Thập niên 2020 - Đổi mới và trở lại đỉnh cao. House of X/Power of X Vào nửa cuối năm 2019, tác giả Jonathan Hickman tiếp quản các đầu truyện X-Men và đã lên một kế hoạch táo bạo thay đổi hoàn toàn bộ mặt của các đầu truyện. Bắt đầu với hai limited serie song song House of X và Power of X, Hickman đã đưa ra vài sửa đổi trọng đại trong lịch sử X-Men và dẫn tới sự thay đổi bước ngoặt trong thời kỳ sau đó. Nhân vật Moira MacTaggert, vốn là một đồng minh con người lâu năm của X-Men được tiết lộ vốn là một mutant có khả năng đặc biệt: Mỗi khi Moira qua đời, bà ta sẽ lặp lại vòng đời cũ nhưng với ý thức và ký ức của bà ta sẽ được truyền lại từ các kiếp sống trước. Trong quá khứ, Moira cố gắng giải mã khả năng mutant của mình, cũng như tìm kiếm các đồng minh cùng bà ta xây dựng một tương lai tốt đẹp cho loài mutant. Sau chín lần thất bại, trong cuộc đời thứ mười, bà ta chia sẻ ký ức của mình cho Charles Xavier và cùng nhau họ quyết định tạo ra một kế hoạch chưa từng có tiền lệ. Trong nhiều năm sau đó, Xavier đã bí mật liên kết với nhiều mutant khác để làm tiền đề xây dựng một xã hội mới cho loài mutant. Ông ta chọn Krakoa, hòn đảo đột biến làm nơi xây dựng một quốc gia mới cho loài mutant. Hoa của Krakoa được điều chế thành các loại thần dược, và được Xavier sử dụng làm điều kiện để đổi lấy việc được khẳng định chủ quyền cũng như làm vũ khí kinh tế chính trị của đảo quốc mới. Cỗ máy Cerebro được tiết lộ là một bộ não lưu trữ lại tâm linh của mọi mutant mà Xavier từng tiếp xúc. Trong quá khứ, Xavier đã bí mật dẫn dắt Mister Sinister sưu tập vật liệu di truyền của mọi mutant trên Trái Đất. Kết hợp lại, loài mutant đã vượt qua được cái chết và đạt được sự bất tử. Mỗi khi một mutant chết, bộ Ngũ (gồm năm mutant là Hope Summers, Eva Bell, Elixir, Egg và Proteus) sẽ kết hợp sức mạnh của họ cùng dữ liệu di truyền của Mister Sinister để tạo ra một cơ thể mới cho mutant. Xavier sẽ dùng Cerebro đưa ký ức vào cái vỏ và hoàn thành quy trình hồi sinh. Một hội đồng gồm 12 mutant được chọn làm những nhà hành pháp lập pháp của Krakoa. Các mutant trên toàn thế giới đến Krakoa qua những cánh cổng không gian và cùng nhau tạo ra một xã hội văn minh đầu tiên của giống loài. Dawn of X Các đầu truyện của thời kỳ này tập trung kể về cách các mutant làm quen với cuộc sống mới, những công việc mới, nhưng vẫn không quên đi những mối đe dọa quen thuộc từ thế giới bên ngoài. Các X-Men tiếp tục là bộ mặt siêu anh hùng của giống loài. Emma Frost đứng sau Hellfire Trading để điều hành việc vận chuyển dược phẩm trên thế giới với sự giúp sức của Kate Pryde và nhóm Marauders. Nhóm X-Force được xem như phiên bản CIA của loài mutant. Còn nhóm X-Factor là cơ quan điều tra các án mạng và mất tích của công dân mutant. Các serie khác trong thời kỳ này bao gồm: New Mutants, Fallen Angels, Hellions... Với việc cộng đồng mutant đã hợp nhất lại, các đối thủ mới trong thời đại này chủ yếu là từ phe con người, những kẻ không chịu được việc cán cân sức mạnh đang nghiêng về phía các mutant. Các kẻ địch đáng chú ý bao gồm: - Tổ chức Orchis: cơ quan khoa học đang nghiên cứu công nghệ vũ khí chống lại mutant, nơi sản sinh ra Nimrod. - Tổ chức NEXO: một tổ chức bí mật đã đứng ra thực hiện nhiều hoạt động khủng bố, cướp bóc nhắm vào Krakoa. - Children of the Vault: một giống loài tiến hóa nhờ vào gia tốc thời gian, kẻ địch của loài mutant. - Verendi: tiền thân là Hellfire Club, nay đã chuyển căn cứ sang Madripoor. Ngoài ra, trong quá trình bành trướng Krakoa, các mutant đã gây sự xung đột với các thế lực khác như Vampire Nation của Dracula, Starlight Citadel của Nữ hoàng Đa vũ trụ Opal Luna Saturnyne, Hội phù thủy Akkaba ở Anh, chính phủ Nga,... Sự bành trướng của loài mutant còn thể hiện ở việc các đồng minh của họ lên nắm quyền ở các thế lực: Nữ hoàng Xandra, con gái của Xavier nắm quyền Đế chế Shi'ar; Jamie Braddock trở thành vua Avalon; Broo trở thành Brood King. X of Swords Sự kiện của năm 2020, X of Swords, được đặt theo tên của lá bài tarot. Mầm mống của sự kiện đã được giới thiệu từ House of X/ Power of X và Excalibur. Trong quá khứ, trước khi bị chia tách, Krakoa cùng Arakko là một vùng đất thống nhất của loài mutant. Do một khe nứt gây ra bởi thanh kiếm Twilight Sword, lũ quỷ từ Amenth đã tràn vào Trái Đất. Sau khi chạm trán kẻ kiểm soát Amenth là Annihilation, Genesis - người vợ lúc đó của Apocalypse đã cùng bốn người con của họ - Bộ tứ Kỵ sĩ đầu tiên dẫn đầu một đạo quân mutant cùng với chính Arakko tiến vào Amenth trước khi phong ấn khe nứt lại, vĩnh viễn chia cắt Arakko và Krakoa. Trong hàng ngàn năm sau, Apocalypse luôn nhớ tới vợ con mình và tuân theo kim chỉ nam lý tưởng của mình: trở thành kẻ hùng mạnh nhất để sẵn sàng đối mặt với Annihilation. Hiện tại, khi đến Krakoa, ông ta nghiên cứu phép thuật để tìm cách tạo ra cánh cổng giữa Krakoa đến Amenth hòng gặp lại vợ con. Giữa lúc này, cháu ngoại của ông ta là Summoner, lại tự du hành đến Krakoa và cầu cứu ông giúp đỡ. Apocalypse hoàn thành cánh cổng External và theo lời cháu mình đến Otherworld, không ngờ rằng đó lại là một cái bẫy. Theo tiết lộ, Genesis đã đánh bại Annihilation, nhưng chiến thắng lại đồng nghĩa việc bà ta phải sở hữu chiếc mão vàng Annihilation. Sau trăm năm sở hữu, Genesis không thể kiểm soát được nó nữa và bị chiếc mũ thao túng. Bà ta cùng các con dẫn đầu đội quân quỷ Amenth đến Starlight Citadel, nơi chứa những cánh cổng du hành đa vũ trụ, ham mmuốn đánh bại nó để đến được Krakoa. Opal Luna Saturnyne xuất hiện giữa hai phe và yêu cầu dàn xếp mâu thuẫn này bằng một cuộc thi đấu giữa các chiến binh được chọn của hai phe. Arakko cử mười chiến binh, Krakoa cử chín chiến binh cùng nhau thi đấu các hạng mục bị thao túng bởi Saturnyne. Kết quả chung cuộc, Krakoa dành chiến thắng nhưng Annihilation lại lật lọng và triệu hồi đội quân quỷ gây chiến tại Starlight Citadel. Saturnyne tiết lộ mình đã nhìn thấy trước mọi việc và lợi dụng nó để tạo ra vài sự kiện có lợi cho mình. Quan trọng nhất, đó là việc tái lập binh đoàn Captain Britain. Hội đồng Thầm lặng của Krakoa bị chia rẽ sâu sắc trong sự kiện này, dẫn đến việc rời đi của Jean Grey. Bất chấp sự phản đối của Hội đồng, Cyclops và Jean Grey mang đạo quân lớn X-men đến Starlight Citadel thông qua trạm không gian S.W.O.R.D. Được sự gợi ý của Saturnyne, Cable dùng thanh kiếm Light of Galador mở cổng không gian trên trạm S.W.O.R.D. và thả một đàn quái vật không gian Vescori xuống đầu bọn quỷ Amenth, dẫn đến cục diện xoay chiều. Apocalypse đoạt được chiếc mão Annihilation từ Genesis và đeo nó lên. Với ý chí không còn quan tâm đến thắng thua, ông ta ép Annihilation phải đầu hàng Saturnyne và kết thúc cuộc chiến. Kết cục, Saturnyne tuyên bố hai phe phải trao đổi con tin để thiết lập quan hệ. Apocalypse rời Krakoa để cùng vợ con đến cai trị Amenth. Trong khi Arakko, cùng với hàng triệu mutant bên trong nó, sẽ đến Krakoa. Hai cặp vợ chồng đã bị chia cắt hàng ngàn năm, nay đã tái ngộ và trở về bên nhau. Reign of X Hai hòn đảo mutant Arakko và Krakoa tái ngộ nhau trong sự xa lạ sau một thời gian xa cách quá dài. Arakko và các mutant của nó từ chối sự hợp nhất với đảo quốc Krakoa. Arakko lúc này được lãnh đạo bởi hội đồng Great Ring, bao gồm 12 mutant cấp Omega. Các mutant ở đây đã sống sót và tiến hóa hàng ngàn năm qua dưới môi trường khắc nghiệt của Amenth, trong nhất thời, hai thế giới mutant khó tìm được tiếng nói chung. Sau khi rời Hội đồng Thầm lặng, Cyclops và Jean Grey tổ chức cuộc bầu chọn các thành viên X-men theo thể thức dân chủ cho toàn bộ mutant Krakoa. Kết quả được công bố tại Hellfire Gala. Ngoài không gian, Krakoa đầu tư biến trạm S.W.O.R.D. cũ thành một tổ chức phi chính phủ hoàn toàn mới, do Abigail Brand đứng đầu, người thực tế là đang hợp tác với tổ chức Orchis để lật đổ Krakoa. Các đầu truyện ngắn mới ra mắt khác là X-Corps và Way of X. Với X-Corps khai thác về đề tài chiến tranh kinh tế còn Way of X khai thác về mặt văn hóa tinh thần của cộng đồng mutant. Trong suốt đêm Hellfire Gala đầu tiên, có các sự kiện quan trọng đã xảy ra như sau: - Công bố đội hình X-Men được bầu chọn đầu tiên của Krakoa: Cyclops, Jean Grey, Rogue, Sunfire, Synch, Polaris và Wolverine (Laura Kinney). Đội hình này sau đó chuyển đến căn cứ Treehouse ở Manhattan. Vì để tránh tiết lộ bí mật về quy trình hồi sinh của loài mutant, sau khi chết, Cyclops được hồi sinh và hoạt động dưới nhân dạng Captain Krakoa. - Loài mutant khai hóa Sao Hỏa trở thành nơi có thể sinh sống được, di trú toàn bộ nhánh mutant Arakko lên đó sống. - Abigail Brand dùng kim loại siêu đẳng mysterium để thương lượng yêu cầu các đế chế thiên hà khác công nhận hành tinh Arakko (trước đây là Sao Hỏa) là thủ phủ của Thái dương hệ. Storm giành vị trí trong the Great Ring và trở thành Nhiếp chính Arakko. - Scarlet Witch bị phát hiện là đã chết tại Hellfire Gala. Dẫn đến mini serie Trial of Magneto. Cuối sự việc, sự thật được tiết lộ rằng Scarlet Witch muốn chuộc lỗi với loài mutant nên đã cùng Magneto lập kế hoạch chết đi để được tiếp cận quy trình hồi sinh. Scarlet Witch sau đó đã cập nhật ý thức của mọi mutant từng tồn tại lên dữ liệu Cerebro, mang lại cơ hội hồi sinh cho các mutant chưa được tiếp cận trước đây. Mini serie tiếp theo là Inferno. Trong sự kiện này, do nhiều lần bị Magneto và Xavier lợi dụng và khước từ yêu cầu hồi sinh Destiny, Mystique đã lập mưu tự mình hồi sinh Destiny và lôi kéo các thành viên hội đồng Thầm lặng bỏ phiếu cho Destiny gia nhập hội đồng. Để đáp trả, Xavier mời Colossus làm thành viên hội đồng, không hề biết rằng anh ta đã bị Mikhail Rasputin khống chế tâm trí. Không dừng lại việc báo thù, Mystique và Destiny lừa Xavier và Magneto vào bẫy và bị Nimrod giết chết. Trong khi đó, dùng phát minh của Forge, họ khiến Moira mất năng lực và định giết cô ta. Moira tiết lộ kế hoạch biến mọi mutant thành con người, để tránh số phận thất bại của bọn họ. Cuối cùng, Cypher đứng ra đàm phán và đạt được thỏa thuận trục xuất Moira khỏi Krakoa. Hội đồng Thầm lặng biết mọi bí mật này và quyết định giữ kín nó. Hai mini serie song hành tiếp theo X Lives of Wolverine/ X Deaths of Wolverine kể về hai cuộc tấn công riêng biệt nhắm vào Krakoa với chìa khóa giải quyết là nhân vật Wolverine. Trong X Lives, Mikhail Rasputin và Omega Red dùng thanh kiếm Cerebro để đột kích gia đình Xavier từ nhiều thời điểm khác nhau trong quá khứ. Giáo sư Xavier và Jean Grey sau đó đưa ý thức của Wolverine vào các cơ thể trong quá khứ của anh ta để chống lại các cuộc tấn công đó. Trong X Deaths, Moira lập kế hoạch quay lại Krakoa nhằm đánh cắp khẩu súng của Forge, muốn đảo ngược tác dụng của nó. Cuối cùng, mặc dù không đạt mục đích, cô ta thành công trong việc lừa Krakoa rằng mình đã chết, trong khi thực tế, cô ta đã tự đưa kí ức mình vào một người máy và bắt đầu kiếp sống số 11 của mình. Destiny of X Giai đoạn thứ hai của Krakoa với sự tiếp tục của các serie: - X-Men: Doctor Stasis của tổ chức Orchis lộ mặt, tiết lộ lão là một phiên bản khác của Mister Sinister. Cyclops bị đẩy vào tình thế phải công khai quy trình hồi sinh của Krakoa cho công chúng trước thềm Hellfire Gala. Đội hình bình chọn của năm thứ hai gồm: Cyclops, Jean Grey, Synch, Magik, Havok, Forge, Iceman và Firestar. - X-Force: Sự biến chất của Beast ngày càng cao. Đỉnh điểm là khi anh ta tự tay giết Wolverine và dùng anh ta để làm một sát thủ không có suy nghĩ. Khi mọi chuyện vỡ lỡ, Beast trốn khỏi Krakoa để tự thành lập tổ chức Weapons X của riêng mình. Sage tiếp quản X-Force (Domino, Omega Red, Deadpool, Wolverine, Black Tom) với sự giám sát của Colossus. - New Mutants: Sau khi serie kết thúc với mạch truyện xoay quanh nhân vật mới Escapade, nó được tiếp nối bằng mini serie New Mutants: Lethal Weapon. - Wolverine. Các serie mới của giai đoạn này là: - Immortal X-Men: Xoay quanh Hội đồng Thầm lặng Krakoa. Magneto rời vị trí và được thay thế bởi Hope Summers. Mister Sinister tiết lộ rằng lão đang nắm giữ các bản sao nhân bản của Moira và sử dụng chúng làm các điểm lưu trong dòng thời gian. Nhờ vậy, lão có thể liên tục tiến hành và sửa chữa các kế hoạch của mình thông qua việc giết mỗi bản sao Moira để tái khởi động dòng thời gian theo ý mình. - X-Men Red: Xoay quanh bối cảnh ở hành tinh Arakko. Abigail Brand muốn xây dựng đội X-Men mới (Vulcan, Cable, Frenzy, Random, Mentallo) để chiếm ảnh hưởng trên hành tinh này, nhưng Storm lại muốn làm việc theo cách của người bản địa và thành lập nên đội Brotherhood mới (Magneto, Sunspot, Fisher King). - Knight of X: Otherworld nằm dưới sự kiểm soát của Merlyn, lão ta cấm các mutant đến sống ở Otherworld. Captain Britain tập hợp mười hiệp sỹ mutant (Rictor, Shatterstar, Bei, Gloriana, Gambit, Kylun, Mordred, Rachel Summers, Shogo) để đi làm nhiệm vụ tìm kiếm Siege Perilous. Cuối cùng, Betsy Braddock thoát ly khỏi tầm ảnh hưởng của Saturnyne và quyết định tự mình dẫn dắt Binh đoàn Captain Britain. Mạch truyện phát triển tiếp tục trong serie Betsy Braddock: Captain Britain với kẻ đối địch là phù thủy Morgan Le Fay. - Marauders: Kate Pryde tập hợp một đội mới (Bishop, Psylocke, Daken, Aurora, Tempo, Somnus và Cassandra Nova) để đi giải cứu các mutant đầu tiên đang bị giam giữ trong vũ trụ. Nhiệm vụ sau đó của nhóm là quay về quá khứ để cứu nền văn minh đầu tiên của loài mutant, Threshold. - Legion of X: Đội cảnh sát của Nightcrawler (Juggernaut, Forget Me Not, Pixie, Lost, Dust, Fabian Cortez, Doctor Nemesis) làm nhiệm vụ duy trì trật tự và luật pháp của Krakoa. Một người phụ nữ bí hiểm là Mother Righteous xuất hiện, ban phát sức mạnh và ma thuật cho các mutant nhưng đổi lại là sự phục tùng dành cho bà ta. Sự kiện năm 2022: A.X.E. Judgmend Day / Ngày Phán xét xoay quanh cuộc chiến vì mục đích chính trị của tân thủ lĩnh tộc Eternals là Druig nhắm vào Krakoa, kéo theo các ảnh hưởng đến nhóm Eternals ly khai, nhóm Avengers, hành tinh Arakko... Nỗ lực ngăn chặn Druig của họ đã khai sinh ra một Celestial mới là Progenitor, đẩy nhân loại Trái Đất vào tình cảnh bị phán xét. Sang đầu năm 2023, trong sự kiện Sins of Sinister, các âm mưu của Mister Sinister đi đến giai đoạn gặt hái thành quả. Lão thành công trong việc dần dần tiêm nhiễm vật chất di truyền của chính mình vào các thành viên Hội đồng Thầm lặng, sau đó là đến loài mutant và con người, qua đó thâu tóm quyền lực của Krakoa rồi Trái Đất. Khi các phiên bản Sinister hóa của lão bắt đầu có phản ứng chống đối lại gã, Sinister dự định tái khởi động lại dòng thời gian. Nhưng do ý định riêng của mình, Destiny đã thao túng Storm cùng nhóm Brotherhood đánh cắp các bản sao nhân bản của Moira, rồi lại phản bội họ để mang chúng về cho Orbis Stellaris cất giấu. Khi không thể tái khởi động lại, cả vũ trụ sau đó đã mắc kẹt suốt một ngàn năm giữa những mưu đồ và chiến tranh do các Sinister gây ra. Fall of X Sau khi thoát khỏi dòng thời gian Sins of Sinister, Mister Sinister đã bị Mother Righteous và Rasputin IV, một nhân vật đến từ dòng thời gian trên, vạch mặt và bị đày vào the Pit của Krakoa. Nhưng vấn đề trở nên tồi tệ hơn bao giờ hết với Krakoa. Colossus vẫn bị Mikhail Rasputin thao túng tâm lý và bình chọn cho việc chấp nhận cho Selene bước vào Hội đồng Thầm lặng, cũng như thông qua việc công khai về dòng thời gian Sins of Sinister trước nhân loại. Tổ chức Orchis thành công trong nhiều kế hoạch khác nhau: Một, nghiên cứu và làm biến chất dược phẩm Krakoa, cho chúng lợi thế nắm giữ sinh mạng của những người từng dùng thuốc. Hai, nhờ liên lạc với Hordeculture mà nắm được cách sử dụng công nghệ cổng của Krakoa. Ba, Fei Long truất quyền Tony Stark và bắt đầu sản xuất phiên bản Sentinel mới với công nghệ của Stark Industries. Bốn, Orchis và Coven Akkaba châm ngòi nội chiến trên hành tinh Arakko. Năm, chiết xuất được Blightspoke, một chất gây ức chế sức mạnh đột biến có nguồn gốc từ Otherworld. Kết hợp lại, vào đêm hội Gala lần thứ ba, Orchis đã tổng tấn công loài mutant và thành công trong việc giết cũng như trục xuất gần như toàn bộ các mutant ra khỏi Trái Đất. Sự kiện này dẫn đến thời kỳ tiếp theo là Fall of X, với sự tiếp nối của các serie Immortal X-Men, X-Men, X-Men Red, X-Force, Wolverine và một số mini serie mới: Uncanny Avengers, Dark X-Men, Realm of X, Alpha Flight, Children of the Vault, Uncanny Spider-Man, Jean Grey, Astonishing Iceman. Phản ánh những vấn đề xã hội Sự va chạm giữa dị nhân và người thường được so sánh với những va chạm của các thành phần thiểu số trong nước Mỹ, như người Do Thái, người Mỹ gốc Phi, đảng Cộng sản,... Ở mức độ đặc biệt, một số dị nhân còn mang những năng lực mang tính ẩn dụ về những người không hòa nhập vào cộng đồng. Các dị nhân bị ghét bỏ, sợ hãi và khinh miệt chỉ vì vì một lý do duy nhất: họ là dị nhân. Vì vậy loạt truyện X-Men, dù có chấp nhận hay không, là một truyện nói về sự phân biệt chủng tộc, sự mù quáng và thành kiến. Phân biệt chủng tộc: Professor X được so sánh với người dẫn đầu phong trào đòi quyền bình đẳng cho người Mỹ gốc Phi, Martin Luther King Jr. và Magneto được so sánh với những chiến sĩ Malcolm X. Mục tiêu của các dị nhân đôi khi được đề cập là nhằm hoàn thành "mơ ước của Xavier", có thể ám chỉ đến bài diễn thuyết nổi tiếng lịch sử của King "I Have a Dream" (Tôi có một giấc mơ). Magneto, trong bộ phim đầu tiên, đã dẫn giải một câu nói của Malcom X "Bằng bất cứ giá nào". Truyện tranh X-Men thường phác họa những người đột biến là nạn nhân của bạo lực quần chúng (mob violence), gợi lên hình ảnh những cuộc hành hình người Mỹ gốc Phi vào thời điểm trước cuộc vận động vì quyền công dân Mỹ (American Civil Rights Movement (1955-1968)). Những người máy Sentinel làm người ta liên tưởng đến những lực lượng đàn áp như hội kín KKK, một hình thức phủ nhận quyền bình đẳng và phục thiện. Trong thập niên 1980, loạt truyện đã giới thiệu một đảo quốc hư cấu ngoài khơi châu Phi, nơi các dị nhân bị cách ly và nô dịch bởi một chính phủ phân biệt chủng tộc. Diễn giải rộng ra thì đó là sự ám chỉ tình trạng của Nam Phi lúc bấy giờ. Đa dạng hóa: Những nhân vật xuất hiện trong X-Men đến từ nhiều quốc gia khác nhau. Họ đại diện cho tôn giáo, chủng tộc và một thiểu số về giới tính. Gốc Do Thái có Shadowcat và Sabra, Dust là một người tôn sùng đạo Hồi. Nightcrawler theo Công giáo và Thunderbird III là một tín đồ Hindu. Karma, thành viên cốt cán của nhóm New Mutants, được khắc họa là một người sùng đạo Công giáo và xưng tội đều đặn. Ngoài ra còn có Wolfsbane (thành viên giáo hội Scotland), Danielle Moonstar (thổ dân Cheyenne nước Mỹ), Cannonball (Baptist) và Magma (theo tôn giáo La Mã cổ đại). Đồng tính: Một sự ẩn dụ khác của X-Men là quyền của người đồng tính. Sự so sánh hai bên thể hiện ở việc các dị nhân phải che giấu năng lực của họ và lứa tuổi mà họ khám phá thấy điều đó. Có thể minh họa bằng một cảnh trong bộ phim X2: Liên minh dị nhân, được đạo diễn bởi Bryan Singer, một người chủ trương công khai tình trạng đồng tính, khi Bobby Drake hé lộ cho cha mẹ thấy mình là một dị nhân. Mẹ Bobby đã hỏi "Con có từng thử không làm một dị nhân chưa?" Ngoài ra, trong tập phim đầu tiên có đoạn Thượng nghị sĩ Robert Kelly được hỏi có nên cho phép các dị nhân dạy dỗ trẻ em trong trường hay không, phản ánh cuộc tranh luận ở khu vực 28 mà Sir Ian McKellen (người đóng vai Magneto trong phim) có dính líu. Những nhân vật đồng tính và lưỡng tính có thể kể đến như Northstar, Karma, Rictor, Shatterstar các học viên nhỏ tuổi là Alone,Graymalkin,Bling! và những kẻ đối lập với X-Men một thời gian dài như Destiny và Mystique. Trong Uncanny X-men, đạo luật X - quy định việc kiểm soát sinh sản của mutant, có thể lấy ý tưởng từ đạo luật 8 - ngăn cấm hôn nhân đồng giới ở tiểu bang CA, 1 sự kiện tranh cãi diễn ra vào nửa năm trước khi đạo luật X xuất hiện trong truyện. Cùng thời gian này, Rictor và Shatterstar hôn nhau trong X-Factor và trở thành cặp đồng tính đầu tiên biểu lộ rõ mối quan hệ thân mật trên truyện Marvel. Một nhân vật mutant khác là Wiccan của Young Avengers cũng là người đồng tính và cùng với bạn trai của mình, Hulking, là cặp đồng tính nam đầu tiên công khai quan hệ trong chiều không gian chính của Marvel. Trong chiều không gian Ultimate thì có cặp Colossus và Northstar, cũng công khai quan hệ. Trong bộ phim X-Men: First Class, khi bị cấp trên phát hiện mình là mutant, Beast trả lời: "Ông không hỏi, tôi không nói.", ám chỉ đến tranh cãi xung quanh chính sách Không hỏi, không nói của quân đội Hoa Kỳ. Trong cùng bộ phim này, Mystique cũng dõng dạc tuyên bố: "Mutant and Proud" sau quá trình cô ta tìm thấy sự chấp nhận chính bản thân mình, gần tương tự như thuật ngữ Gay Pride của cộng đồng LBGT. AIDS: Tập truyện đề cập đến căn bệnh AIDS suốt đầu thập niên 1990 với những tình tiết kéo dài về Legacy Virus, một căn bệnh hầu như vô phương cứu chữa nhắm vào các dị nhân. Tình tiết này cũng xuất hiện trong phim hoạt hình X-Men đầu những năm 1990. Nỗi sợ Đỏ: Thỉnh thoảng có thể thấy sự thể hiện ngầm của cái gọi là Nỗi sợ Đỏ. Đề xuất của Thượng nghị sĩ Robert Kelly về một "Đạo luật Đăng ký người đột biến" (Registration Acts) tương tự như nỗ lực của Quốc hội Mỹ để cấm hoàn toàn chủ nghĩa cộng sản. Trong bộ phim X-Men năm 2000, Kelly đã gào lên "chúng ta cần phải biết các dị nhân là ai và họ đang làm gì", thậm chí còn tung ra một "danh sách" những dị nhân đã được biết (ám chỉ bản danh sách các thành viên Đảng Cộng sản Hoa Kỳ của Thượng nghị sĩ Joseph McCarthy). Bài xích Do Thái: Một sự ám chỉ rõ ràng trong những thập niên gần đây, đó là sự so sánh việc chống dị nhân với chống Do Thái. Magneto, một người sống sót sau thảm họa diệt chủng của Đức quốc xã, đã nhận thấy tình trạng của người đột biến chẳng khác gì những người Do Thái trong các trại tập trung. Thậm chí có lúc ông ta còn phát biểu "never again" (không bao giờ lặp lại) trong phim hoạt hình X-Men vào năm 1992. Trong truyện tranh, Magneto thường tím cách xây dựng một "xứ sở cho những người đột biến", tương tự như sự thành lập Israel hiện tại. Những trại nô lệ dị nhân trên đảo Genosha, nơi đóng dấu hiệu lên trán của họ, giống y như những gì diễn ra ở trại tập trung của Đức quốc xã, những trại giam trong sự kiện Days of Future Past (Ngày quá khứ của tương lai) cũng vậy. Một dấu hiệu ám chỉ khác là trong tập phim X-Men thứ ba, khi được Spike hỏi: "Nếu ông là người đột biến, vậy dấu ấn của ông đâu?" Magneto đã trưng ra dấu khắc trong trại tập trung, và nói rằng bất cứ ai cũng đừng hòng chạm vào da của ông ta được nữa. Bài xích Thiên Chúa giáo: Trong các tập truyện X-Books (truyện ăn theo X-Men) có một mối liên hệ ẩn dụ giữa sự bài xích Thiên Chúa giáo và sự vu khống X-Men, làm cho họ bị xa lánh. Giống như Thiên Chúa giáo, bị hồ nghi và ghê sợ trong những năm đầu lịch sử nước Mỹ bởi lòng trung thành với Giáo hoàng nước ngoài, các dị nhân cũng bị nghi ngờ liệu họ có vừa chấp hành luật pháp như những công dân bình thường vừa trung thành với "động cơ của dị nhân" (mutant cause) hay không. Một số thành viên X-Men theo đạo Thiên Chúa có thể kể đến Nightcrawler, Havok, Gambit, Siryn, Banshee, Sunspot, Skin và Karma. Một nền văn hóa thu nhỏ: Trong một số trường hợp, đặc biệt trong những câu chuyện của tác giả Grant Morrison đầu thập niên 2000, các dị nhân được khắc họa như một nền văn hóa thu nhỏ đặc trưng, với những "băng nhóm người đột biến" và những nhà thiết kế thời trang tạo ra các trang bị phù hợp với năng lực của từng dị nhân. Trong loạt truyện Distinct X, trong lòng Thành phố New York tồn tại một nơi gọi là "thành phố người đột biến". Những sự thể hiện này giống như cách mà các thành phần thiểu số tự xây dựng nền văn hóa cho riêng mình, tách biệt họ với nền văn hóa chung bao la. Đạo diễn Bryan Singer đã bình luận rằng thương hiệu X-Men có tính ẩn dụ với việc chấp nhận mọi cá thể bất chấp những năng khiếu đặc biệt và độc nhất của họ. Tình trạng giấu mình của người đột biến cũng tương tự như cảm giác xa cách và e sợ của con người suốt trong quá trình phát triển thời niên thiếu. Cá tính: Trong một số nhân vật, những nội dung ẩn dụ được trình bày theo hướng cá nhân hơn là chính trị. Thí dụ Cyclops luôn luôn phải mang một loại mắt kính đặc biệt để kiểm soát năng lực của mình, dẫn đến một cảm giác bị ức chế tình cảm ngày càng tăng; Rogue, với những năng lực khiến cô phải tránh mọi tiếp xúc trực tiếp với người khác, luôn có cảm giác cô đơn khủng khiếp; và thiên tài khoa học Beast, người có bề ngoài lông lá như cầm thú, luôn phải đấu tranh với nhận thức rằng anh là một sinh vật quái dị. Theo đó, tác động xa lánh khỏi tinh thần và niềm hạnh phúc của người thường luôn được bộc lộ trong loạt truyện.
Lima là thủ đô, thành phố lớn nhất của Peru, đồng thời là thủ phủ của tỉnh Lima. Đây là trung tâm văn hoá, công nghiệp, tài chính và giao thông của Peru, nằm tại vùng thung lũng bao quanh cửa sông Chillón, sông Rímac và sông Lurín. Thành phố có diện tích 804,3 km² dân số chiếm 2/3 tổng số dân cả nước. Sự tập trung của cải và quyền lực ở Lima càng lớn hơn. Thành phố chiếm 2/3 GDP cũng như thu thuế, đầu tư tư nhân, tiền gửi ngân hàng, số lượng thầy thuốc và sinh viên của Peru. Dù có các nỗ lực phi tập trung hoá, Lima vẫn là nơi tập trung các cơ sở chính của các cơ quan chính phủ. Trung tâm lịch sử của Lima được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Địa lý Khí hậu của thành phố ôn hoà, dù vị trí của thành phố ở vùng nhiệt đới, nhờ dòng khí lạnh của Dòng hải lưu Peru, Thái Bình Dương chảy theo hướng Bắc, dọc theo bờ biển từ Bắc Cực. Mưa ở Lima hiếm hoi do dòng hải lưu duyên hải lạnh và hiệu ứng mưa chặn mưa của Dãy Andes chặn dòng khí ấm chứa hơi ẩm từ phía Đông. Bờ biển thường bị phủ lớp màn sương mù nặng được gọi là garúa, đặc biệt dày đặc vào những tháng mùa đông, mát hơn từ tháng 4 đến tháng 10. Đặc trưng khí hậu của thành phố từ tháng 11 đến tháng 3 là ban ngày ấm nắng và buổi tối mát. Thành phố nằm trong khu vực địa chấn, các trận động đất lớn đã xảy ra các năm 1687, 1746. Dân số Năm 2003, Lima có dân số 7,9 triệu, sinh sống tại 33 quận. Thành phố tăng thêm hơn 2,5 triệu người kể từ năm 1981 khi dân số của thành phố là 4,1 triệu. Hơn 90% dân số của Lima là người mestizo, người có dòng máu châu Âu pha trộn với người thổ dân châu Mỹ và cộng đồng thiểu số da trắng, da đen, châu Á, trong đó người gốc Nhật Bản là đông nhất. Từ thập niên 1940, Lima đã trải qua những đợt tăng trưởng nhanh về dân số, khoảng 7% mỗi năm kể từ thập niên 1960, 5% thập niên 1970 và 4% thập niên 1980. Sự tăng dân số nhanh do dòng dân di cư từ các vùng nông thôn và đô thị nhỏ của Andes đã khiến cho tình hình vùng đô thị này trở nên ngày càng nghiêm trọng, thành phố không thể cung cấp đủ nước, nhà ở và các dịch vụ công công cộng khác. Xung quanh thành phố đang hình thành những khu nhà lụp xụp, ổ chuột. Khí hậu Lịch sử Lima được thành lập tháng giêng năm 1535 và được đặt tên là Ciudad de los Reyes, có nghĩa là Thành phố của các vua. Thành phố có vai trò quan trọng ở "tân thế giới" từ năm 1542, khi Charles V là người cai quản Lima. Sau khi Pizarro xâm lược Đế quốc Inca, Lima trở thành thủ đô của Phó vương Peru, một vùng hành chính bao gồm phần lớn các khu vực lãnh thổ ở Nam Mỹ. Trong suốt ba thế kỷ thuộc địa, phần lớn việc buôn bán của Tây Ban Nha với Nam Mỹ được thực hiện thông qua Callao. Lima đã bùng phát và trở thành một trung tâm chính trị, văn hoá, thương mại của Nam Mỹ thuộc Tây Ban Nha, và giàu lên nhờ các nguồn dự trữ vàng và bạc của Andes. Tầm quan trọng của Lima có phần giảm sút sau khi giai đoạn thuộc địa kết thúc. Trong những cuộc chiến giành độc lập của châu Mỹ Latin, đây là thành trì của lực lượng hoàng gia phản đối việc chia tách khỏi Tây Ban Nha. Tướng José de San Martín, một trong những lãnh đạo của phong trào độc lập đã chiếm lĩnh thành phố vào năm 1821 và năm năm sau đó, thành phố trở thành thủ đô của nước Peru độc lập. Lima vẫn giữ được vai trò ưu thế vượt trội của Peru và là một thủ đô lớn của Nam Mỹ trong thế kỷ 19. Từ năm 1881 đến 1883, thành phố bị quân Chile chiếm đóng trong cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương, buộc chính phủ Peru phải tháo chạy lên Cao nguyên Andes. Dân số tăng nhanh từ thập niên 1950 đã khiến cho Lima lớn gấp 10 lần so với thành phố lớn thứ hai của Peru. Các khu ổ chuột mọc xung quanh thành phố là nơi sinh sống của gần 1/3 dân số Lima. Trung tâm lịch sử Trung tâm lịch sử của Lima là bằng chứng cho sự phát triển kiến trúc đô thị thuộc địa Tây Ban Nha, có tầm quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hóa ở Peru nói riêng và Mỹ Latinh nói chung. Với rất nhiều các quảng trường, các nhà thờ, tu viện, cung điện và các tòa nhà thế kỷ 17, 18. Các công trình mang đậm lối kiến trúc kết hợp giữa Hispano và Baroque. Tòa nhà nổi bật nhất ở Lima chính là San Francisco de Lima, một tu viện thời kỳ thuộc địa Tây Ban Nha. Cùng với Santa Catalina de Arequipa, đây là một trong hai công trình kiến trúc được bảo tồn tốt nhất cho đến ngày nay. Ngoài ra, trung tâm lịch sử Lima có rất nhiều các công trình lịch sử như: Quảng trường San Martín Tổ hợp nhà thờ San Francisco, La Soledad và El Milagro Plaza de Armas (bao gồm nhà thờ Sagrario, các nhà nguyện của Tổng giám mục) Plaza de la Vera Cruz Santo Domingo và San Augustin Cổng Callao Đại học San Marcos (xây dựng từ năm 1551) Torre Tagle Casa Courret (thế kỷ 19) Các sự kiện liên quan Trong thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, thành phố xảy ra các vụ đánh bom, ám sát và tấn công của nhóm khủng bố Sendero Luminoso (Con đường Ánh sáng). Tháng 12 năm 1996, một nhóm cách mạng khác mang tên Phong trào cách mạng Tupac Amarú (MRTA), đã chiếm giữ khu nhà ở của đại sứ Nhật Bản khi đang diễn ra một buổi tiệc trong kỳ nghỉ, có 500 người bị bắt làm con tin. Trong cuộc bao vây kéo dài bốn tháng, những kẻ phiến loạn đã đưa yêu sách phải thả những thành viên của họ đang bị giam và phải cải thiện điều kiện trong nhà tù, họ đã thả một số con tin và giữ lại 72 người. Vụ việc kết thúc vào tháng 4 năm 1997, khi những người lính Peru đã giải cứu con tin và giết tất cả các thành viên của MRTA, khi đó có một con tin thiệt mạng. Hình ảnh Chú thích
Phần mềm miễn phí (tiếng Anh: freeware) là phần mềm mà người sử dụng không phải trả bất kỳ chi phí nào, không hạn chế thời gian sử dụng, có thể tải tự do về dùng từ Internet, có thể sao chép và sử dụng phần mềm đó. Ngoài trừ việc chấp nhận cung cấp một số thông tin như địa chỉ thư điện tử (email) và một số thông tin cá nhân khác nếu có. Người sử dụng phải chịu hoàn toàn trách nhiệm với những thỏa thuận bản quyền cam kết giữa hai bên. Mô hình Có nhiều mô hình phần mềm miễn phí khác nhau. Phần mềm miễn phí là một thuật ngữ bao trùm trong đó bao gồm cả những cách hạ giá hơn giá trị thực (trong các dạng phần mềm dùng thử và phần mềm quảng cáo). Freeware (từ "free" và "software") là phần mềm máy tính có thể dùng miễn phí hoặc lệ phí tùy chọn. Những phần mềm mang tính thương mại thỉnh thoảng được đề cập như phần mềm trả tiền. Lịch sử Thuật ngữ freeware được đặt ra bởi Andrew Fluegelman khi ông ta muốn bán một chương trình truyền thông do chính Andrew tạo nên tên là PC-Talk nhưng ông ta không muốn sử dụng cách thức phân phối truyền thống vì vấn đề chi phí. Fluegelman đã bán PC-Talk thông qua một chương trình mà hiện nay được nhắc đến như phần mềm chia sẻ. Việc sử dụng thuật ngữ phần mềm miễn phí hiện nay không còn nhất thiết phải giống với định nghĩa gốc của Andrew Fluegelman. Quan điểm Phần mềm được phân loại là phần mềm miễn phí thường có những tính năng như không bị giới hạn thời gian lẫn chi phí, tiền bạc hoặc các vấn đề khác. Freeware có thể là phần mềm độc quyền với giá chỉ bằng 0. Tác giả thường hạn chế một hoặc nhiều quyền để sao chép, phân phối, và làm sản phẩm phát sinh của phần mềm. giấy phép phần mềm có thể áp đặt các hạn chế về loại hình sử dụng như cá nhân sử dụng, không ủy quyền, không kinh doanh, học tập, sử dụng thương mại hay bất cứ kết hợp nào của những điều này. Ví dụ, giấy phép có thể trở nên "miễn phí cho cá nhân nhưng không sử dụng vào thương mại". Theo đó, phần mềm miễn phí có thể hoặc cũng không làphần mềm tự do và nguồn mở, để phân biệt, Tổ chức phần mềm miễn phí đề nghị người dùng đưng gọi "freeware" phần mềm miễn phí. Sự khác biệt chủ yếu là phần mềm miễn phí có thể được sử dung, nghiên cứu, và thay đổi không hạn chế; phần mềm tự do thể hiện quan điểm chấp nhận sự tự do sử dụng, trong khi freeware thì tự do nạp vào. Freeware cũng khác với shareware; buộc người sử dụng phải trả tiền sau một thời gian dùng thử hoặc để có được chức năng bổ sung. Chú thích
Đường sắt Bắc Nam hay đường sắt Thống Nhất là tuyến đường sắt bắt đầu từ thủ đô Hà Nội và kết thúc tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đường sắt Bắc Nam chạy gần song song với Quốc lộ 1, có nhiều đoạn gặp nhau, nhất là tại các tỉnh. Tổng chiều dài toàn tuyến: 1.726 km, khổ rộng 1 m; đi qua các tỉnh và thành phố sau: Hà Nội, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh. Cùng với tuyến đường sắt Hà Nội - Đồng Đăng, tuyến đường sắt Bắc Nam là một phần của hệ thống tuyến đường sắt xuyên lục địa Á - Âu. Trước năm 2025, chính thức thông tuyến thêm 175 km từ Ga Sài Gòn thuộc Thành phố Hồ Chí Minh đến Ga Cần Thơ thuộc thành phố Cần Thơ. Trước năm 2030, chính thức thông tuyến thêm 188 km từ ga Cần Thơ thuộc Cần Thơ đến Ga Cà Mau thuộc tỉnh Cà Mau. Đồng thời, kết nối với đường sắt Hà Nội - Đồng Đăng sáp nhập vào đường sắt Bắc Nam. Như vậy, đường sắt Bắc Nam dự kiến tổng chiều dài toàn tuyến là 2.255 km. Lịch sử Từ năm 1881, Pháp đã bắt đầu xây dựng tuyến đường sắt tại Việt Nam. Việc xây dựng con đường sắt Trans-Indochinois (Xuyên Đông Dương) hoàn thành ngày 1 tháng 10 năm 1936 thời Pháp thuộc. Ngày hôm sau, 2 tháng 10 là ngày chính thức khánh thành tuyến đường sắt Bắc Nam (từ Hà Nội đến Sài Gòn với chiều dài dài 1.730 km (sau năm 1975 ga Sài Gòn dời về ga Hòa Hưng và ga này đổi tên ga thành ga Sài Gòn nên chiều dài chỉ còn 1.726 km). Những toa xe dùng lúc bấy giờ là voitures-couchettes, có toa voiture-restaurant chạy máy lạnh. Đầu máy thường là máy Mikado. Để làm đường sắt ở Đông Dương, thuộc địa Đông Dương đã phải vay của chính quốc Pháp 200 triệu Franc (theo thời giá khi đó) để làm đường sắt xuyên Việt (sách "Xứ Đông Dương" của toàn quyền Paul Doumer). Khoản nợ đó người Đông Dương phải trả thông qua các sắc thuế nộp cho Pháp. Như vậy, những gì người Pháp đã xây dựng ở Việt Nam thực chất không phải do họ bỏ tiền ra, mà là do chính người Việt phải chi trả. 1955-1975 Sau Chiến tranh thế giới thứ hai rồi Chiến tranh Việt - Pháp bùng nổ thì đoạn đường phía nam vĩ tuyến 17 vào thập niên 1950, khoảng 1/3 bị hư hại nặng, không sử dụng được. Còn lại là hai khúc từ Đông Hà vào Đà Nẵng và từ Sài Gòn ra Ninh Hòa. Việc tái thiết kéo dài bốn năm dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam cho đến năm 1959 thì xe lửa mới chạy được suốt từ Sài Gòn ra Đông Hà, lần đầu tiên sau 12 năm gián đoạn. Số liệu năm 1959 cho biết hệ thống đường sắt chuyên chở 2.658.000 lượt khách và 440.000 tấn hàng hóa. Số lượng sau đó giảm nhiều vì tình hình an ninh. Tính đến năm 1971-1972 thời Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam thì tổng cộng có 1.240 km đường sắt nhưng chỉ có 57% sử dụng được. Tổng lượng hành khách và hàng hóa chuyên chở bằng đường sắt giảm nhiều so với thập niên trước nhưng cũng tăng dần: Sở Hỏa xa Việt Nam (tiếng Pháp: Regie des Chemins de fer du Viêt Nam) thuộc Bộ giao thông và bưu điện chính quyền Việt Nam Cộng Hòa điều hành các tuyến tàu và tiếp tục dùng đầu máy Mikado của Nhật Bản (KB87), tăng thêm máy của General Electric chạy bằng diesel. Sau năm 1976 Ngày 31 tháng 12 năm 1976, hoàn thành sửa lại do bị chiến tranh tàn phá. Tồn tại: hiện tuyến đường sắt có tốc độ lưu thông thấp nhất thế giới do chạy qua nhiều đô thị đông dân cư, qua nhiều đèo có khúc cua gấp, giao cắt với đường bộ nhiều, đường đơn, đặc biệt là khổ đường hẹp (1 m). Ngày 7 tháng 1 năm 2002, Thủ tướng Chính phủ Việt nam Phan Văn Khải đã phê duyệt " Quy hoạch tổng thể phát triển ngành giao thông vận tải đường sắt Việt Nam đến năm 2020 ". Kế hoạch nâng cấp Nội dung và quy mô các yếu tố chính của Quy hoạch: Giao thông vận tải đường sắt cần chiếm tỷ trọng 25% - 30% về tấn và tấn - km, 20% - 25% về hành khách và hành khách - km trong tổng khối lượng vận tải của toàn ngành giao thông vận tải đến năm 2020 có tỷ trọng vận chuyển hành khách đô thị bằng đường sắt đạt ít nhất là 20% khối lượng hành khách tại các thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Duy trì khổ đường sắt hiện tại, gồm các khổ đường 1.000 mm, 1.435 mm và đường lồng (1.000 mm và 1,435 mm) để nâng cấp, cải tạo đạt cấp kỹ thuật. Khi xây dựng các đoạn, tuyến đường sắt mới phải phù hợp và kết nối thuận tiện với khổ đường sắt hiện có ở khu vực đó. Riêng đường sắt cao tốc Bắc - Nam xây dựng theo tiêu chuẩn khổ đường 1.435 mm. Phát triển phương tiện vận tải đường sắt theo hướng đa dạng với cơ cấu hợp lý, đổi mới sức kéo và sức chở theo hướng hiện đại, giảm chi phí, hạ giá thành, chú trọng phát triển các đoàn tàu tốc độ cao, tàu tự hành, tàu chở container... áp dụng công nghệ tiên tiến trong vận tải và đóng mới phương tiện nhằm tăng tốc độ chạy tàu để đến năm 2020, tốc độ tàu hàng đạt 80 km/h và tốc độ tàu khách đạt 120 km/h trở lên. Những tiêu chuẩn kỹ thuật chủ yếu do Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải quy định sau khi thống nhất với các cơ quan liên quan và phù hợp với quy định hiện hành. Đầu tư cơ sở hạ tầng đến năm 2020: - Giai đoạn đến 2010: + Nâng cấp các tuyến đường hiện có vào cấp kỹ thuật quy định và xây dựng mới một số đoạn, tuyến, các đường nhánh nối với cảng, khu công nghiệp, khu kinh tế trọng điểm trong cả nước và kết nối với các tuyến hiện tại ưu tiên nâng cao năng lực và hiện đại hóa trục Bắc - Nam, trục Đông - Tây tiến hành điện khí hóa tuyến Hà Nội - Hải Phòng để làm cơ sở phát triển sức kéo điện cho giai đoạn sau. + Đồng thời với việc xây dựng đường sắt đô thị ở thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh phải tiến hành xây dựng mới và đồng bộ các nhà ga, các cơ sở sửa chữa, vận dụng đầu máy-toa xe. + Làm mới hệ thống: thông tin cáp quang, tổng đài điện tử số, tín hiệu bán tự động tiến tới tự động, ghi điện khí tập trung, dừng tàu tự động, hệ thống cảnh báo đường ngang tự động... Tham gia thị trường viễn thông chung để tận dụng hết năng lực của ngành đường sắt. + Quy hoạch sắp xếp lại để phát triển các cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng, phụ tùng, phụ kiện cơ khí phục vụ sửa chữa, bảo trì và làm mới cơ sở hạ tầng đường sắt. + Nâng cấp, làm mới để từng bước hoàn chỉnh hệ thống nhà ga hành khách, ga hàng hóa ở các khu vực trọng điểm đặc biệt lưu ý các ga hành khách tại trung tâm Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh vừa là ga trung tâm của đường sắt vừa là đầu mối trung chuyển, kết nối các loại phương tiện vận tải, đồng thời là trung tâm dịch vụ đa năng. - Giai đoạn đến 2020: Hoàn thành việc nâng cấp các tuyến đường sắt để đạt cấp kỹ thuật quốc gia và khu vực, xây dựng thêm một đường để thành đường đôi và điện khí hóa các tuyến Hà Nôi - Vinh, Sài Gòn - Nha Trang, tiếp tục xây dựng các tuyến đường sắt mới để tạo thành mạng lưới đường sắt đồng bộ, hoàn chỉnh đạt tiêu chuẩn hiện đại. Trên trục Bắc - Nam, ngoài tuyến đường sắt Thống Nhất hiện có cần xây dựng thêm một tuyến đường đôi riêng biệt chạy tàu khách cao tốc Bắc - Nam khổ đường 1.435 mm để giảm thời gian chạy tàu từ Hà Nội đến thành phố Hồ Chí Minh xuống dưới 10 giờ và có khả năng kết nối với đường sắt liên vận quốc tế. Tiếp tục xây dựng đường sắt vành đai, nội đô ở các thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và một số thành phố lớn khác để tạo thành mạng lưới giao thông đô thị hoàn chỉnh và đồng bộ. Nhà ga An toàn Theo báo cáo của ngành đường sắt Việt Nam, 10 tháng đầu năm 2009 đã xảy ra 431 vụ tai nạn đường sắt, làm chết 166 người, bị thương 319 người. Hiện, có gần 6.000 đường ngang giao cắt giữa đường bộ và đường sắt, trong đó có hơn 4.500 điểm giao cắt dân sinh, nhiều điểm không có rào chắn, biển báo. Riêng 2 thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội có trên 4.100 điểm vi phạm với diện tích bị lấn chiếm gần 1,5 triệu m².
Vũ hay Võ (武) là một họ phổ biến tại Việt Nam và Trung Quốc. Số lượng người mang họ Vũ phổ biến đứng thứ 7 với 3,9% dân số tại Việt Nam. Tại Trung Quốc Tại Trung Quốc, có nhiều họ có thể phiên âm thành Vũ, như họ Vũ (武), Vũ (禹), Vũ (羽), Vũ (萭), hay Vũ (雨). Ngoài ra còn một họ kép là họ Vũ Văn (宇文) hay gây hiểu sai. Tại Hàn Quốc Tại Hàn Quốc: Phổ biến là họ Vũ 우 (禹) (Romaja Quốc ngữ: Woo). Ngoài ra có một bộ phận nhỏ người mang họ Vũ (武) (Romaja Quốc ngữ: Mu). Chỉ có 1600 người mang họ này. Tại Việt Nam Có ý kiến cho rằng họ Vũ ở Hải Dương có nguồn gốc đầu tiên tại làng Mộ Trạch, xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, miền Bắc Việt Nam. Tuy nhiên, không phải tất cả các gia tộc họ Vũ tại Hải Dương và Việt Nam đều có cùng gốc từ đây. Theo gia phả, tộc phả và thần phả ở làng Mộ Trạch, tỉnh Hải Dương, ông tổ họ Vũ là Vũ Hồn (804-853), là quan đô hộ của nhà Đường cắt cử xuống Việt Nam. Hiện có đền thờ tại Mộ Trạch, xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Bắt đầu từ phía nam sông Gianh cho tới hết các tỉnh miền Nam, do kiêng húy thụy hiệu của chúa Nguyễn Phúc Khoát (hiệu Vũ Vương), "Vũ" được đổi thành "Võ". Theo Lê Trung Hoa trong cuốn Họ và tên người Việt Nam, tại Việt Nam số lượng người mang họ Vũ xếp thứ bảy, với 3,9% dân số. Hiện tại, hai dòng họ Vũ và họ Võ tồn tại độc lập, có thờ cúng tổ tiên chung hoặc riêng nên việc nhận định họ này chung một họ còn nhiều tranh cãi. Do hoàn cảnh lịch sử một số con cháu dòng họ Thái Sư Nguyễn Xí một số con cháu đã ra làm quan làm tướng cho nhiều triều đại mới và một triều đại bị lật đổ để tránh bị trả thù nên một chi Họ Nguyễn Đình Họ Nguyễn Xí đã đổi sang Họ Vũ do kiêng húy chúa vũ Nguyễn Phúc Khoát nên đổi sang Họ võ, trong dòng họ nguyễn có câu ca dao sống làm Người Họ Vũ Chết Là Ma Họ Nguyễn Đa số Tiền Người Họ Vũ - Võ Hậu Người Họ Nguyễn, Một Số Chi Họ Vũ Võ Việt Nam Đều Cho rằng Nguyễn Xí Là Thủy Tổ Họ Vũ Võ Việt Nam . Những người Việt Nam nổi tiếng Triều Đại Phong kiến Chúa Vũ Chúa Bầu, một gia tộc họ Vũ là tập đoàn phong kiến cát cứ miền núi các xứ Tuyên Quang và Hưng Hóa thời kỳ 1527-1689, với các chúa bầu từ Vũ Văn Uyên, Vũ Văn Mật, Vũ Công Kỷ đến Vũ Công Tuấn cai trị vùng đất của mình tại việt nam . Quân sự Vũ Hồn Thủy Tổ Họ Vũ Võ . Vũ Thị Hạnh mẹ đẻ thái sư Nguyễn Xí một trong những công thần hậu lê . Bát Nàn hay Thục Nương, theo truyền thuyết mang họ Vũ, tướng thời Hai Bà Trưng. Vũ Trung, tướng nhà Đinh có công dẹp loạn 12 sứ quân, làm quan dưới triều Đinh và tham gia đánh giặc Chiêm Thành Theo thần tích, Vũ Hiền, Vũ Hán, Vũ Tố là các tướng nhà Đinh có công giúp Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp loạn 12 sứ quân. Bạt Hải Đại vương, tương truyền là tướng nhà Trần, tên là Vũ Hải. Đền thờ ở Du Lễ (Kiến Thụy, Hải Phòng). Vũ Uy, một trong 18 tướng lĩnh tham gia Hội thề Lũng Nhai cùng Lê Lợi chống giặc Minh. Đền thờ ở thị trấn Nông Cống, Thanh Hóa. Bà chúa Bầu họ Vũ, húy Ngọc Anh, con gái chúa Bầu Vũ Văn Mật. Vũ Hộ hay Mạc Bang Hộ, tướng lĩnh, khai quốc công thần nhà Mạc. Vũ Sư Thước, tướng nhà Lê Trung hưng. Vũ Trác Oánh, một thủ lĩnh trong khởi nghĩa Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ trong khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài. Vũ Đình Dung, lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Ngân Già trong khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài. Võ Di Nguy, tướng chúa Nguyễn. Vũ Văn Dũng hay Võ Văn Dũng, đại tướng nhà Tây Sơn, một trong Tây Sơn thất hổ tướng. Võ Đình Tú, đại tướng nhà Tây Sơn, một trong Tây Sơn thất hổ tướng. Vũ Văn Thành, tướng nhà Tây Sơn. Vũ Văn Nhậm, tướng nhà Tây Sơn. Võ Thị Thái, nữ tướng nhà Tây Sơn. Võ Thị Đức, nữ tướng nhà Tây Sơn. Võ Tánh, tướng chúa Nguyễn Ánh. Võ Thị Sáu, nữ du kích trong kháng chiến chống Pháp ở Việt Nam Võ Thị Thắng, nữ chiến sĩ trong thời kháng chiến chống Mỹ, người được đặt tên cho một ngôi trường ở La Habana Võ Duy Ninh, Tổng đốc, quan chức cấp cao đầu tiên của triều Nguyễn hy sinh trong cuộc chiến chống thực dân Pháp xâm lược năm 1858. Võ Duy Dương (Thiên Hộ Dương), lãnh tụ cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp (1862-1866) ở Đồng Tháp Mười, Việt Nam. Vũ Hữu Lợi, sỹ phu yêu nước trong phong trào Cần Vương. Vũ Nguyên Bác (tức Nguyễn Sơn), Lưỡng quốc tướng quân của Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng nhân dân Trung Hoa. Võ Nguyên Giáp, Đại tướng đầu tiên, Tổng tư lệnh tối cao của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Võ Bẩm, Thiếu tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam. Vũ Xuân Chiêm, Trung tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam. Vũ Chí Thực, Thiếu tướng Công an Nhân dân Việt Nam. Võ Văn Tuấn, Thượng tướng, phó tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam Trần Võ Dũng, Trung tướng, chính uỷ Quân khu 4. Vũ Cao, Trung tướng, Cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam. Chính trị phong kiến Vũ Mộng Nguyên, Tiến sĩ nhà Hồ, đại thần nhà Lê sơ. Vũ Kiệt, Trạng nguyên thời Lê Thánh Tông. Vũ Tuấn Chiêu, Trạng nguyên thời Lê Thánh Tông. Vũ Duệ, Trạng nguyên thời Lê Thánh Tông. Vũ Dương hay Vũ Tích, Trạng nguyên thời Lê Thánh Tông. Vũ Duy Chu, Thám hoa thời Lê Tương Dực. Chúa Bầu, một gia tộc họ Vũ là tập đoàn phong kiến cát cứ miền núi các xứ Tuyên Quang và Hưng Hóa thời kỳ 1527-1689, với các chúa bầu từ Vũ Văn Uyên, Vũ Văn Mật, Vũ Công Kỷ đến Vũ Công Tuấn. Vũ Hữu Chính, Thám hoa thời Mạc Mậu Hợp. Vũ Văn Khuê, Thám hoa thời Mạc Mậu Hợp. Vũ Giới, Trạng nguyên thời Mạc Mậu Hợp. Vũ Công Đạo, quan nhà Lê Trung hưng. Vũ Duy Chí, quan nhà Lê Trung hưng. Vũ Duy Đoán, Tiến sĩ thời Lê Huyền Tông. Vũ Thạnh, nhà thơ, Đình nguyên Thám hoa thời Lê Hy Tông. Vũ Công Tể, Đình nguyên Thám hoa thời Lê Dụ Tông. Vũ Huyên, Tiến sĩ thời Lê Dụ Tông, kỳ thủ nổi tiếng thời phong kiến Việt Nam, được dân gian gọi là Trạng Cờ, cùng với Trạng ăn Lê Nại, Trạng Toán Vũ Hữu, Trạng vật Vũ Phong và Trạng chạy Vũ Cương Trực được xếp chung làm Năm ông trạng làng Mộ Trạch. Vũ Diễm, Đình nguyên Hoàng giáp thời Lê Ý Tông. Vũ Miên, Hội nguyên Tiến sĩ, Tể tướng, Chỉ đạo biên soạn Quốc sử Vũ Huy Tấn, quan nhà Tây Sơn. Vũ Xuân Cẩn hay Võ Xuân Cẩn, đại thần nhà Nguyễn. Võ Trọng Bình, Cử nhân thời Minh Mạng, đại thần nhà Nguyễn. Vũ Tông Phan, Tiến sĩ đời Minh Mạng. Vũ Duy Thanh, Đình nguyên Bảng nhãn (trạng Bồng), nhà canh tân. Vũ Phạm Khải, quan triều Nguyễn (Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức). Vũ Huy Dực, Thám hoa thời Tự Đức, cùng khoa với Vũ Duy Thanh. Vũ Nhự, Hoàng giáp thời Tự Đức. Vũ Phạm Hàm, Tam nguyên, Thám hoa cuối cùng của triều Nguyễn. Vũ Hồng Lượng Tiến sĩ Đại thần nhà Lê Trung Hưng Hậu phi Vũ Thị Ngọc Toàn, vợ Mạc Thái Tổ. Vũ Thị Ngọc Lễ, chánh phi của chúa Trịnh Tạc, mẹ của chúa Trịnh Căn. Vũ Thị Viên, hay Võ Thị Viên, con gái của Phó Vệ uý Vũ Hữu Linh, thứ phi của vua Thiệu Trị. Vũ Thị Duyên, hay Võ Thị Duyên, con gái của đại thần Vũ Xuân Cẩn, cung phi của vua Tự Đức. Chính trị Vũ Anh (bí danh Trịnh Đông Hải), nhà cách mạng, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại biểu Quốc hội khóa 1. Võ Liêm Sơn, nhà nho yêu nước. Võ Sĩ (tức Lê Văn Sỹ), liệt sĩ cách mạng Việt Nam, Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn (1948). Võ Văn Tần, nhà cách mạng, Bí thư Tỉnh ủy Chợ Lớn (1931-1932), Bí thư Tỉnh ủy Gia Định (1932-1937). Võ Văn Ngân, nhà cách mạng, Bí thư Tỉnh ủy Gia Định (1931-1932), Bí thư Tỉnh ủy Chợ Lớn (1932-1935). Vũ Hồng Khanh, lãnh tụ Việt Nam Quốc dân đảng, phó chủ tịch Chính phủ Liên hiệp Quốc gia. Vũ Duy Nhai (tức Đào An Thái), nhà cách mạng, Bí thư Tỉnh ủy Hòa Bình (1947-1948). Võ Trần Chí, nhà cách mạng, Bí thư Tỉnh ủy Long An (1964-1967), Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (1986-1996) Vũ Mão, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội. Vũ Văn Mẫu, luật sư, chính trị gia, Bộ trưởng Ngoại giao, Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa. Võ Chí Công, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước CHXHCN Việt Nam. Vũ Thiện Tuấn (tức Trần Xuân Bách), Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI. Vũ Đình Hòe, luật sư, nhà báo, Bộ trưởng Bộ Quốc gia giáo dục trong Chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Vũ Quốc Hùng, Phó Chủ nhiệm thường trực Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Vũ Khoan, Phó Thủ tướng Việt Nam. Vũ Tuân, Tổng Biên tập Báo Nhân dân, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Thực phẩm. Vũ Ngọc Hải, Bộ trưởng Bộ Năng lượng Việt Nam, người xây dựng đường dây vận tải điện 500KV. Vũ Văn Cẩn, Thiếu tướng Quân y Quân đội Nhân dân Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Y tế Việt Nam. Vũ Đức Huề tức Trần Quang Huy, Bộ trưởng Chủ nhiệm Ủy ban Pháp chế, nay là Bộ Tư pháp Việt Nam. Vũ Oanh, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam, Chủ tịch Hội người cao tuổi Việt Nam. Vũ Huy Hoàng, Bộ trưởng Bộ Công thương Việt Nam. Vũ Văn Ninh, Phó Thủ tướng, nguyên Bộ trưởng Bộ Tài chính Việt Nam. Võ Hồng Phúc, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư. Võ Kim Cự, Bí thư Tỉnh uỷ Hà Tĩnh. Vũ Đức Đam, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh (2010-2011), Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ (2011-2013), Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam. Vũ Bằng (tức Phương Minh Nam) Bí thư tỉnh Hà Bắc, nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó chủ nhiệm văn phòng Hội đồng Bộ trưởng nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà 1970-198x). Võ Thị Ánh Xuân, Quyền Chủ tịch nước từ ngày 18 tháng 1 năm 2023 đến ngày 2 tháng 3 năm 2023, Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt nam, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XIII, nguyên Bí thư tỉnh uỷ An Giang (2016-2021) Võ Trọng Việt, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XII, Thượng tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Vũ Hồng Thanh, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XIII, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Chủ tịch Nhóm Nghị sĩ hữu nghị Việt Nam - Đức. Vũ Hải Sản, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XIII, Thượng tướng Quân đội Nhân Dân Việt Nam, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng. Võ Văn Phuông, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương. Võ Minh Lương, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XIII, Ủy viên Quân ủy Trung ương.Thượng tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Võ Văn Dũng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI, XII, XIII, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Nội chính Trung ương. Võ Văn Kiệt, nhà chính trị Việt Nam, làm Thủ tướng Chính phủ thứ tư (trước kia là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng) của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam từ ngày 8 tháng 8 năm 1991 đến ngày 25 tháng 9 năm 1997. Vũ Hải Hà, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII, Chủ nhiệm Uỷ ban Đối ngoại của Quốc hội. Vũ Hải Quân, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII, Giám đốc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Vũ Đại Thắng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình. Võ Chí Công, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII, Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy Sóc Trăng. Vũ Mạnh Hà, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hà Giang, Bí thư Huyện Ủy Hoàng Su Phì. Võ Trọng Hải, Phó Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Hà Tĩnh, Chủ tịch UBND Tỉnh Hà Tĩnh. Võ Văn Hưng, Phó Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Quảng Trị, Chủ tịch UBND Tỉnh Quảng Trị. Võ Ngọc Thành, Phó Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Gia Lai, Chủ tịch UBND Tỉnh Gia lai (Thôi chức vụ Chủ tịch Tỉnh Gia Lai từ năm 2022) Võ Văn Minh, Phó Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Bình Dương, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương. Vũ Hồng Văn, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng khóa XIII, Cục trưởng Cục An ninh chính trị nội bộ (Bộ Công an), đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XV nhiệm kì 2021-2026. Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam. Vũ Khắc Hùng, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng khóa XIII. Võ Thái Nguyên, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng khoá XIII Vũ Thanh Mai - Phó trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng khóa XIII- nguyên Chánh Văn phòng Ban Tuyên giáo Trung ương. Vũ Thị Lưu Mai - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội khóa XV (2021-2026),Trưởng Tiểu ban Tổng hợp dự toán và phối hợp chính sách của Ủy ban Tài chinh, Ngân sách của Quốc hội, Chủ tịch Nhóm nghị sĩ Việt Nam-Thụy Sỹ (11/2021), nguyên Đại biểu Quốc hội: Khóa XIV, XV Vũ Huy Khánh - Đại biểu Quốc hội khóa XV (2021-2026), Ủy viên Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội khóa XV (2021-2026); Phó Chủ tịch Nhóm nghị sĩ hữu nghị Việt Nam- Algeria. Sĩ quan cao cấp Công an Nhân dân. Quân hàm Đại tá Vũ Xuân Hùng - Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV, XV nhiệm kỳ (2021-2026) - Ủy viên thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội. Sỹ quan Cao cấp Quân đội Nhân dân Việt Nam, Quân hàm Thiếu tướng. Văn học Vũ Tuân Sán (1915 - 2017), Nhà Hán nôm học được trao giải ông đã được trao Giải thưởng Giải thưởng Bùi Xuân Phái – Vì tình yêu Hà Nội 2014, Tác giả Hà Nội xưa và nay Vũ Quỳnh, người tham gia tu sửa Đại Việt sử ký toàn thư. Vũ Cán, nhà thơ, tác giả Tùng Hiên thi tập và Tứ lục bị lãm. Vũ Cẩn, nhà thơ, tác giả Tinh thiều kỷ hành. Vũ Phương Đề tác giả Công dư tiệp ký. Vũ Quốc Trân, tương truyền là tác giả của truyện Nôm Bích Câu kỳ ngộ. Vũ Trinh, nhà chính trị, nhà thơ, luật gia, nhà soạn Chèo cổ. Vũ Trọng Phụng, nhà văn. Vũ Ngọc Phan, nhà văn, nhà nghiên cứu văn học. Tam Lang Vũ Đình Chí, nhà văn, nhà báo. Vũ Hoàng Chương, nhà thơ. Vũ Đình Long, chủ báo, nhà viết kịch, tác giả Chén thuốc độc, vở kịch đầu tiên của Việt Nam. Vũ Đình Liên nhà thơ, nhà giáo nhân dân. Vũ Bằng, nhà báo, điệp viên, tác giả Thương nhớ Mười Hai. Vũ Anh Khanh, tên khai sinh là Võ Văn Khanh, nhà thơ, nhà văn Việt Nam thời kháng Pháp. Vũ Cao, nhà thơ, tác giả bài Núi đôi. Võ Quảng, nhà văn thiếu nhi Việt Nam. Vũ Tú Nam, nhà văn Việt Nam, Giải thưởng Nhà nước về văn học & nghệ thuật năm 2001. Vũ Quốc Uy, nhà hoạt động cách mạng trong lĩnh vực văn hóa, lãnh đạo Thành phố Hải Phòng thời kháng chiến chống Pháp, tác giả sách Bình minh trên sông Cấm. Vũ Khắc Khoan, nhà văn, nhà viết kịch Việt Nam. Vũ Đức Sao Biển, nhạc sĩ, nhà văn và nhà báo Việt Nam. Vũ Đình Văn, nhà thơ Việt Nam. Võ Đắc Danh, nhà văn, nhà báo, nhà viết kịch, đạo diễn phim tài liệu Việt Nam. Vũ Ngọc Tiến (1946), nhà văn, nhà báo, nhà viết kịch bản phim tài liệu Việt Nam Vũ Đình Trung, nhà thơ lấy bút danh là Tùng Giang, tác phẩm văn học nổi bật: Đồi thông hai mộ. Nghệ thuật Vũ Như Tô, người phụ trách xây dựng "Cửu trùng đài". Vũ Năng An, nhiếp ảnh gia, nguyên Giám đốc Hãng Phim truyện Việt Nam. Vũ Văn Ký, tức Văn Ký, nhạc sĩ. Vũ Tuấn Đức, nhạc sư nhạc cụ dân tộc. Vũ Thị Định, tức Hoa Tâm, nghệ sĩ chèo. Vũ Thị Lệ Thi, diễn viên ca kịch dân tộc Việt Nam. Vũ Bá Oai, võ sư Việt Nam. Vũ Thanh Tú, diễn viên điện ảnh và sân khấu. Vũ Thúy Ngần (NSND Thúy Ngần), nghệ sĩ chèo Vũ Dậu, ca sĩ. Võ An Ninh, nhiếp ảnh gia. Vũ Cao Đàm, họa sĩ, nhà điêu khắc Việt Nam. Vũ Giáng Hương, nữ họa sĩ Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hội Mỹ thuật Việt Nam. Võ Hùng Kiệt, bút danh Vivi, họa sĩ và nhà điệu khắc Việt Nam Vũ Hà Ngọc Huyền (nghệ danh Ngọc Huyền), danh ca cải lương Việt Nam. Vũ Trọng Tấn, nghệ danh Trọng Tấn, ca sĩ Việt Nam Quang Hà tên thật Vũ Hoàng Hà, ca sĩ Việt Nam Bảo Thanh (diễn viên) tên thật Vũ Phương Thanh diễn viên Việt Nam. Vũ Phạm Diễm My, nghệ danh Diễm My 9x, diễn viên Việt Nam Ngọc Thúy , tên đầy đủ Vũ Ngọc Thúy , ca sĩ nhạc trẻ Việt Nam Vũ Cát Tường, ca sĩ, nhạc sĩ Việt Nam Vũ Diệu Thảo, giảng viên Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam (nổi tiếng với vai diễn trong phim "Phía trước là bầu trời"). Võ Đức Trí, cựu thành viên của nhóm nhạc DOMINIX, á quân Giọng hát Việt 2019, ca sĩ Việt Nam Khoa học và giáo dục Võ Tử Văn (tên cũ là Vũ Văn Thọ): Phó bảng thời Tự Đức, Tư nghiệp trường Quốc Tử giám, sau đó làm Toản tu sử quán... Vũ Hữu, Tiến sĩ Nho học, nhà toán học thời phong kiến, tác giả (Lập Thành Toán Pháp) Võ Trường Toản hay Vũ Trường Toản, nhà giáo, người mở mang việc giáo dục ở Đàng Trong thế kỉ XVIII. Vũ Tuyên Hoàng, nhà nông học. Vũ Đình Tụng, bác sĩ, Bộ trưởng Bộ Thương binh Việt Nam. Vũ Công Hòe, bác sĩ, Chủ tịch Hội Giải phẫu bệnh - Y pháp Việt Nam. Vũ Ngọc Khánh, Giáo sư, người có nhiều công trình nghiên cứu về Thăng Long, Hà Nội. Võ Thuần Nho, Thứ trưởng Bộ giáo dục Việt Nam, em trai Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Võ Hồng Anh, nhà Vật lý Việt Nam, con gái Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Võ Tòng Xuân, giáo sư, nhà giáo nhân dân, nhà nông học. Vũ Công Hậu (1917-1996) GS. TS, nhà nông học, tác giả "Trồng cây ăn quả ở Việt Nam" Võ Quý, Giáo sư, TSKH. Võ Đình Tuấn, ng­ười Mỹ gốc Việt, nhà khoa học, nổi tiếng vì các thành tựu quang sinh học. Vũ Ngọc Liễn, nhà nghiên cứu văn hóa, nghiên cứu hát bội và sân khấu Việt Nam. Vũ Văn Hiền, nhà báo, luật gia, giảng viên, Bộ trưởng Bộ Tài chính trong chính phủ Trần Trọng Kim. Vũ Quốc Bình, Thiếu tướng Quân y QĐNDVN. Vũ Công Lập, nhà vật lý, Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, công tác tại Viện Khoa học và Công nghệ Quân sự, nhà báo. Võ Văn Hoàng, nhà vật lý hoc Việt Nam. Vũ Đình Cự, nhà khoa học, nhà vật lý học Việt Nam nổi tiếng với nghiên cứu rà phá bom từ trường, ngư lôi, Phó chủ tịch Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam. Vũ Như Canh, nhà giáo Việt Nam. Vũ Văn Hiền, Tổng Thư ký Hội Nhà báo Việt Nam, Tổng giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương Việt Nam. Võ Đình Tuấn, nhà khoa học, nhà sáng chế người Mỹ gốc Việt. Vũ Hà Văn, nhà toán học Việt Nam. Vũ Ngọc Phan, nhà văn, nhà nghiên cứu văn học hiện đại và văn học dân gian Việt Nam. Vũ Ngọc Tước, giáo sư Vật lý lý thuyết, CBGD ĐH Bách Khoa Hà nội, Trưởng BM Vật lý lý thuyết. Tôn giáo Phêrô Võ Thành Trinh, linh mục Công giáo Việt Nam, Phó Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban đoàn kết Công giáo Việt Nam. Giuse Maria Vũ Duy Nhất, giám mục Công giáo Việt Nam, Giám mục chính tòa Giáo phận Bùi Chu. Giuse Vũ Văn Thiên, giám mục Công giáo Việt Nam, Giám mục chính tòa Giáo phận Hải Phòng Antôn Vũ Huy Chương, giám mục Công giáo Việt Nam, Giám mục chính tòa Giáo phận Đà Lạt Giuse Vũ Duy Thống (1952 - 2017) giám mục Công giáo Việt Nam, Giám mục chính tòa Giáo phận Phan Thiết. Giuse Võ Đức Minh, giám mục Công giáo Việt Nam, Giám mục chính tòa Giáo phận Nha Trang. Gioan Maria Vũ Tất, giám mục Công giáo Việt Nam, Giám mục chính tòa Giáo phận Hưng Hóa. Thích Thanh Nhiễu, tục danh Vũ Đức Chính, Hòa thượng, Phó chủ tịch thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, trụ trì chùa Bái Đính Lĩnh vực khác Võ Văn Bảy, vận động viên quần vợt Việt Nam, HCV SEAP games 1 (1959), HCB đôi nam Asiad V (1966). Vũ Thị Hương, vận động viên điền kinh Việt Nam. Vũ Trà My, HCV SEA games 24 môn Wushu. Vũ Thị Nguyệt Ánh, HCV SEA games 24 môn Karatedo hạng 48 kg. Vũ Bá Đông, HCV SEA games 24 và HCV Đại hội Thể thao Thế giới (2013) môn Sport Aerobic. Võ Minh Nhất, vô địch Cờ tướng quốc gia 2010, Hạng 4 cá nhân châu Á (2013). Võ Hoàng Bửu, huấn luyện viên bóng đá, cựu tuyển thủ quốc gia Việt Nam. Vũ Trường Giang, huấn luyện viên, cựu cầu thủ bóng đá. Vũ Văn Tư, cựu cầu thủ bóng đá, cựu Huấn luyện viên Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam. Vũ Quang Bảo, huấn luyện viên, cựu cầu thủ bóng đá. Võ Văn Hạnh, cựu cầu thủ bóng đá, cựu tuyển thủ quốc gia Việt Nam, thủ môn đầu tiên nhận Quả bóng vàng Việt Nam (2002). Vũ Như Thành, cầu thủ bóng đá, cựu tuyển thủ quốc gia Việt Nam. Vũ Minh Tuấn, cầu thủ bóng đá, tuyển thủ quốc gia Việt Nam. Võ Ngọc Cường, cầu thủ bóng đá, tuyển thủ quốc gia Việt Nam. Võ Hoàng Quảng, cầu thủ bóng đá, tuyển thủ quốc gia Việt Nam. Võ Huy Toàn, cầu thủ bóng đá, tuyển thủ quốc gia Việt Nam. Võ Ngọc Đức, cầu thủ bóng đá, tuyển thủ quốc gia Việt Nam. Vũ Thế Vương, cầu thủ bóng đá. Vũ Văn Thanh, cầu thủ bóng đá, tuyển thủ quốc gia Việt Nam. Vũ Viết Triều, cầu thủ bóng đá. Vũ Minh Thúy, Á hậu Việt Nam năm 1996. Vũ Thị Thu, Á hậu Việt Nam năm 1998. Vũ Thị Hoàng Điệp, Người đạt danh hiệu "Người đẹp quốc tế 2009" tại Trung Quốc. Vũ Hương Giang, Nữ hoàng trang sức Việt Nam 2005, đại diện Việt Nam tham dự Hoa hậu Thế giới 2005 Võ Hoàng Yến, Á hậu 1 Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2008, đại diện của Việt Nam tham dự Hoa hậu Hoàn vũ 2009. Vũ Thị Hoàng My, Á hậu 1 Hoa hậu Việt Nam 2010, đại diện của Việt Nam tham dự Hoa hậu Hoàn vũ 2011 và Hoa hậu Thế giới 2012. Vũ Nguyễn Hà Anh, siêu mẫu, ca sĩ, đại diện Việt Nam tham dự Hoa hậu Trái Đất 2006 Những người Trung Quốc nổi tiếng Trung đại Võ Tắc Thiên, nữ hoàng Trung Quốc, người sáng lập nhà Võ Chu. Bà là hoàng hậu của Đường Cao Tông Lý Trị, thân mẫu Đường Trung Tông Lý Hiển và Đường Duệ Tông Lý Đán, tổ mẫu Đường Huyền Tông Lý Long Cơ. Bắc Chu Hiếu Mẫn Đế Vũ Văn Giác là vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Bắc Chu. Bắc Chu Minh Đế tên húy là Vũ Văn Dục. Bắc Chu Vũ Đế Vũ Văn Ung hoàng đế bắc Chu,Bắc Chu Vũ Đế Bắc Chu Tuyên Đế tên húy là Vũ Văn Uân. Bắc Chu Tĩnh Đế nguyên danh Vũ Văn Diễn. Vũ Chu, quan viên Tào Ngụy thời Tam Quốc. Võ Sĩ Hoạch, khai quốc công thần nhà Đường. Võ Tam Tư, thân vương nhà Võ Chu. Vũ Du Kỵ, thân vương nhà Võ Chu, chồng Công chúa Thái Bình. Vũ Huệ phi, hoàng hậu của vua Đường Huyền Tông. Vũ lương viện, chính thất của vua Đường Huyền Tông thời còn làm thái tử. Vũ hiền dung, phi tần của vua Đường Huyền Tông. Vũ tài nhân, phi tần của vua Đường Huyền Tông. , tướng lĩnh thời Ngũ Đại Thập Quốc, khai quốc công thần nhà Tống. Thích Liễu Tính (1222-1321), nhà sư Trung Quốc thời Tống. Võ Tòng (phiên âm chính xác là Tùng), nhân vật thời Tống, nhân vật trong Thủy Hử. Vũ Tiên, danh tướng nhà Kim. , tướng lĩnh nhà Nam Minh. Vũ Ninh phi, phi tần của vua Ung Chính. Vũ Vân tần, phi tần của vua Hàm Phong. Vũ Huấn, ăn mày và nhà giáo dục thời Thanh. Cận đại Vũ Chi Mô (1866-1907), nhà cách mạng Trung Quốc. Vũ Triệu Phát (1904-1957), nhà khoa học ngành tế bào Trung Quốc. Vũ Kiếm Tây (1899-1973), bí danh Petraschewski, Đảng viên sáng lập Đảng Cộng sản Trung Quốc, đại biểu Quốc tế Cộng sản. Vũ Trường Hựu (1926-), Trung tướng Không quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Vũ Tân Vũ (1909-1989), nhà nghiên cứu luật học, nhà cách mạng Trung Quốc, Thứ trưởng Bộ Nội vụ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Hiện đại Vũ Trường Thuận (武长顺; 1954-), nguyên Cục trưởng Cục công an thành phố Thiên Tân, bị điều tra tham nhũng năm 2015. Vũ Nghệ (武艺; 1990-), Philip Wu, ca sĩ Trung Quốc. Vũ Dương (武杨; 1992-), vận động viên bóng bàn Trung Quốc. Côn Lăng (武誼蓁; 1993-), tức Hannah Quinlivan, tên thật Vũ Nghị Trăn, diễn viên điện ảnh Đài Loan, vợ của ca sĩ Chu Kiệt Luân. Vũ Đại Tịnh (武大靖; 1994-), vận động viên trượt băng tốc độ cự ly ngắn Trung Quốc, huy chương vàng Thế vận hội Mùa đông 2018. Vũ Á Nam (1996-), nữ vận động viên MMA Trung Quốc, tham gia Ultimate Fighting Championship. Hư cấu Võ Cát, Đệ Tử của Khương Tử Nha. Võ Đại Lang, nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết Thủy hử và Kim Bình Mai, anh trai của Võ Tòng. Chú thích
Vũ Hồn (chữ Hán: 武浑, chữ bên tả là bộ thủy, chữ bên hữu là bộ quân ghép lại là chữ Hồn 浑 với nghĩa là hồn hậu; nết tốt đẹp; 804 - 853) là quan nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông từng giữ chức An Nam Kinh lược sứ - người cai quản vùng An Nam đô hộ phủ thuộc thời Đường (bao gồm từ Hà Tĩnh trở ra Bắc và một phần Quảng Tây). Ông sinh ngày 8 tháng 1 năm 804 và mất ngày mùng 3 tháng 12 năm 853. Tiểu sử Vũ Hồn sinh năm 804 có cha là Vũ Huy (武輝, một quan chức nhà Đường, người làng Mã Kỳ, huyện Long Khê, phủ Thường Châu, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc) và mẹ là người ấp Mạn Nhuế, huyện Thanh Lâm, thuộc An Nam đô hộ phủ (nay là xã Mạn Nhuế, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Vũ Hồn tuổi trẻ đã học rộng tài cao, đỗ Tiến sĩ Nho học (進士) lúc mới 16 tuổi tại Trung Quốc (thuộc loại đỗ đại khoa trẻ nhất khoa bảng Trung Quốc), vua Đường coi ông là nhân tài bậc nhất. Sau khi thi đậu, ông trải giữ các chức quan của nhà Đường: Lễ bộ tả Thị lang, Đô đài Ngự sử, Giao Châu Thứ sử, rồi An Nam Kinh lược sứ. Đại Việt Sử ký Toàn thư viết: "Tân Dậu, 841, (Đường Vũ Tông Viêm, Hội Xương năm thứ 1). Vua Đường xuống chiếu lấy Vũ Hồn làm Kinh lược sứ thay Hàn Ước". Sách Tư trị thông giám (資治通鑑), soạn thời nhà Tống, quyển 247, mục chép về năm Hội Xương thứ ba (843) có đoạn viết: 安南经略使武浑役将士治城, 将士作乱, 烧城楼, 劫府库. 浑奔广州, 监军段士则抚安乱众. Dịch nghĩa: An Nam kinh lược sứ Vũ Hồn sai tướng sĩ sửa thành, tướng sĩ làm loạn, đốt thành lũy, cướp kho phủ. Hồn chạy sang Quảng Châu, giám quân Đoàn Sĩ Tắc dụ yên những người nổi loạn. Sau đó Vũ Hồn từ quan lúc mới 39 tuổi, lập ấp và dạy học tại vùng đất Lập Trạch, huyện Đường An (làng Mộ Trạch ngày nay). Năm 853, Vũ Hồn mất. Sau khi mất ông được vua Đường sắc phong là Thượng đẳng phúc thần, dân vùng Lập Trạch tôn ông làm Thành hoàng và được thờ đến ngày nay.
Châu Văn Liêm (29 tháng 6 năm 1902 - 4 tháng 5 năm 1930) là nhà cách mạng Việt Nam, và là một trong sáu người tham gia hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tiểu sử Ông sinh tại làng Thới Thạnh, tổng Thới Bảo, quận Ô Môn, tỉnh Cần Thơ (ngày nay thuộc xã Thới Thạnh, Thới Lai, thành phố Cần Thơ) trong một gia đình Nho học nghèo. Từ nhỏ ông đã được học chữ Nho và chữ Quốc ngữ tại quê nhà. Sau đó ông lên Cần Thơ học. Năm 1922, sau khi có bằng Thành chung từ trường College de My Tho, ông vào học tại trường Sư phạm Đông Dương tại Sài Gòn. Sau khi tốt nghiệp trường Sư phạm Đông Dương năm 1924, ông lần lượt dạy học tại tỉnh lỵ Long Xuyên và Chợ Thủ thuộc tỉnh Long Xuyên (ngày nay cùng thuộc tỉnh An Giang). Trong quá trình dạy học, ông đã thành lập các tổ chức như Việt Nam phục quốc Đảng (tại Cần Thơ), Hội giáo viên, học sinh yêu nước Long Xuyên (1926), mở học đường tại Sa Đéc, vừa là trường học, vừa là nơi gặp gỡ của các nhà cách mạng. Năm 1926, ông vận động đồng bào địa phương và học sinh làm lễ truy điệu Phan Chu Trinh tại sân banh Mỹ Luông, quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên (ngày nay là huyện Chợ Mới, An Giang). Năm 1927, ông được kết nạp vào Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Sau đó ông được cử vào ban thường vụ kì bộ Việt Nam Cách mạng Đồng chí Hội Nam Kỳ. Ông thôi dạy học và chuyên tâm làm cách mạng. Tháng 6 năm 1929, ông được cử làm đại biểu kì bộ Nam Kỳ đi dự đại hội ở Hương Cảng. Sau đó ông về nước với nhiệm vụ cải tổ Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội, để thành lập Đảng Cộng sản. Do đó, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập trong Nam. Ngày 6 tháng 1 năm 1930, ông cùng với Nguyễn Thiệu được An Nam Cộng sản Đảng cử đi dự hội nghị thống nhất hai tổ chức cộng sản trong nước, thành lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, dưới quyền chủ tọa của Nguyễn Ái Quốc tại Cửu Long, Hồng Kông, (Trung Quốc). Đến ngày 4 tháng 5 năm 1930, ông trực tiếp lãnh đạo cuộc biểu tình có hàng nghìn nhân dân tham dự, kéo từ Đức Hòa lên Chợ Lớn. Ông dẫn đầu đoàn người hô hào đòi giải phóng dân tộc, đưa yêu sách của nhân dân, đòi giảm sưu thuế... Ông bị cảnh sát Pháp bắn chết lúc mới 28 tuổi. Tên ông đã được đặt cho một phường thuộc quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ và một số trường học và một số con đường tại Trà Vinh, An Giang, Cần Thơ, Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội... Chú thích
Chu Đạt (; 91 - 160) là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa tại Cửu Chân chống ách thống trị nhà Đông Hán. Ông là người ở Cư Phong (nay là Thiệu Hóa, Thanh Hóa). Sau khi đàn áp được cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, nhà Hán tăng cường áp bức bóc lột người Việt. Năm 157, Chu Đạt đứng lên kêu gọi nhân dân nổi dậy giết viên huyện lệnh Cư Phong. Nghĩa quân ngày càng lớn mạnh, ông cho đánh huyện Cửu Chân và giết thái thú Nghê Thức, giải phóng huyện Cửu Chân. Triều đình nhà Hán cho quân từ Giao Chỉ vào đàn áp. Ông lui quân về Nhật Nam (nay là vùng Bình Trị Thiên). Tại đây nghĩa quân tiếp tục lớn mạnh do được sự ủng hộ của nhân dân. Nhà Hán cử thứ sử Hạ Phương sang đàn áp. Năm 160 nghĩa quân hoàn toàn thất bại, ông bị chết.
Người tình (tiếng Pháp: L'Amant) là một bộ phim dựa trên tiểu thuyết cùng tên của đạo diễn Jean-Jacques Annaud, với sự tham gia của các ngôi sao Jane March, Lương Gia Huy và Lisa Faulkner. Bộ phim khởi quay tại Việt Nam vào năm 1986, hoàn thành năm 1990 và được ra mắt chính thức vào năm 1992. Thời gian hai năm đầu làm phim chỉ gồm công việc tiền trạm và thiết kế. Phim do hãng Cinematic Hongkong và Liên hiệp điện ảnh băng từ TP HCM làm dịch vụ. Cuối năm 1991, Người tình đã được công chiếu ở TP HCM. Việt Nam là quốc gia đầu tiên có vinh dự xem bộ phim nổi tiếng này. Tuy nhiên, bản phim chiếu tại Việt Nam là bản tiếng Pháp đã bị cắt hầu hết cảnh nhạy cảm so với bản tiếng Hoa và tiếng Anh. Nội dung Hai nhân vật chính của phim không có tên, chỉ được gọi bằng "Cô gái trẻ" và "Người đàn ông Trung Hoa". Nhân vật cô gái là con gái của một gia đình nghèo người Pháp ở Việt Nam thời Pháp thuộc địa, cô thường mặc một chiếc váy linen cũ sờn vải linen và đội một chiếc mũ fedore của đàn ông, và thường lén mẹ tô son môi. Cô cùng gia đình gồm mẹ, một người anh trai lêu lổng cùng một người em trai yếu đuối sinh sống ở Sa Đéc, người mẹ là một giáo viên trường làng. Cô là một học sinh ưu tú ở trường và có ước mơ trở thành nhà văn khi lớn lên. Cô gặp người đàn ông Trung Hoa khi đang trên đường từ Sa Đéc quay lại Sài Gòn sau kì nghỉ lễ trên chuyến phà dọc sông Mê Kông. Người đàn ông Trung Hoa là con trai của một chủ đồn điền giàu có ở Vĩnh Long, anh vừa mới trở về Việt Nam sau chuyến du học ở Paris, Pháp. Sau cuộc nói chuyện đầy gượng gạo, anh mở lời chở cô về lại Sài Gòn trên chiếc limousine của mình. Trên chuyến xe đó cô gái và người đàn ông Trung Quốc trò chuyện với nhau, đa số là người đàn ông mở lời trước, hỏi cô gái và cô nói với anh là năm nay cô 17 tuổi trong khi cô chỉ mới 15 tuổi hơn, còn anh nói mình đã 32 tuổi. Vài ngày sau đó, anh đợi cô trên chiếc limousine ở phía ngoài trường học; sau đó hai người đến một căn phòng nhỏ nằm ở khu người Hoa tại Chợ Lớn, căn phòng mà anh thuê để dành cho nhân tình. Hai người biết rằng mình không thể nào đến được với nhau, nhất là khi cô sẽ trở về Paris sớm hay muộn, còn anh phải cưới một cô gái khác theo sự sắp xếp của cha mình. Nhận thấy thời gian ở bên nhau không còn bao lâu, họ quyết định ở bên nhau mà không màng tới tương lai cũng như trách nhiệm. Gia đình của cô gái phát hiện mối tình vụng trộm, nhưng thay vì yêu cầu cô từ bỏ, họ lại muốn cô tiếp tục bởi vì anh ta có thể trả nợ thay cho gia đình của cô. Anh thậm chí còn xin cha mình để cưới cô nhưng cha của anh không đồng ý, ông thà chết còn hơn phải thấy con trai của mình lấy một cô gái da trắng. Cả hai đều bất lực, không lâu sau đó, anh cưới người vợ đã được định sẵn của mình, còn cô lên tàu trở về Pháp. Nhiều chục năm sau đó, cô gái trẻ đã trở thành nhà văn nổi tiếng. Trong cảnh cuối cùng của phim, người đàn ông Trung Hoa, nay đã có gia đình, gọi điện cho bà khi ông đang ở Pháp. Trong khung cảnh lãnh đạm cùng nhiều kí ức ùa về, người đàn ông Trung Hoa nói rằng ông sẽ không ngừng yêu bà trong suốt quãng đời còn lại của mình. Phân vai Jane March vai cô gái trẻ người Pháp Lương Gia Huy vai chàng trai Hoa kiều Frédérique Meininger vai mẹ cô gái Arnaud Giovaninetti vai anh trai cô gái Melvil Poupaud vai cậu em trai Lisa Faulkner vai Helene Lagonelle Xiem Mang vai bố chàng trai Hoa kiều Philippe Le Dem vai thầy giáo người Pháp Ann Schaufuss vai Anne-Marie Stretter Ánh Hoa vai bà Đô Sản xuất Phim thực hiện trong 4 năm, từ cuối 1986 đến 1990, trong đó hơn 2 năm đầu chỉ làm công việc tiền trạm và thiết kế. Đạo diễn Jean-Jacques Annaud đã định chọn một nơi khác như Malaysia, Thái Lan, Philippines - những nơi có điều kiện cơ sở vật chất tốt hơn để quay phim. Nhưng cuối cùng, ông vẫn phải quay lại Việt Nam vì cảm thấy phải là Sài Gòn, phải là Việt Nam mới diễn tả được cái không khí thuộc địa mà Marguerite Duras miêu tả trong tác phẩm. Trong cuốn tiểu thuyết, hai nhân vật chính đều vượt qua ranh giới vô hình để rồi đánh thức bản năng của tình yêu và sự nổi loạn của mình. Thế nhưng, khi chuyển thể thành phim, đạo diễn đã dụng ý làm nổi bật sự khám phá bản năng tình dục ở hai con người này. Chính vì điều này, cùng với sự khác nhau trong quan điểm nghệ thuật đã khiến nhà văn Marguerite Duras bỏ cộng tác với đạo diễn Jean-Jacques Annaud. Ngày 2-1-1992, bà nói với tờ Libération: "Không có gì gắn bó tôi với bộ phim, đó là sự tưởng tượng của Jean-Jacques Annaud". Âm thanh Phát hành Khi phim phát hành, chủ đề gây "sốt" trong dư luận khi ấy là những "cảnh nóng" cực sốc ấy là thật hay giả? Jane March phủ nhận rằng cô và Lương Gia Huy làm tình thật nhưng đạo diễn và các nhà sản xuất khi quảng bá cho bộ phim lại ỡm ờ. Mãi về sau, đạo diễn Jean-Jacques Annaud mới khẳng định những "cảnh nóng" đều được thực hiện một cách bí mật tại trường quay ở Thủ đô Paris với sự biên đạo cẩn thận và các diễn viên đóng thế. Càng lùm xùm, bộ phim càng gây được tiếng vang và nhắc tới "Người tình" hiện nay là nhắc tới bộ phim luôn đứng "đầu bảng" trong danh sách bầu chọn những bộ phim tình dục táo bạo nhất trong lịch sử điện ảnh. Phản hồi Những màn làm tình nóng bỏng trong "L’Amant" đã khiến Jane March được Tạp chí "The Sun" đặt biệt danh "Tội đồ từ Pinner", gắn với địa danh là thị trấn quê hương cô. Đề cử và giải thưởng
Nghị quyết 1701 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc là một nghị quyết nhằm giải quyết cuộc xung đột Israel-Liban năm 2006. Nghị quyết này đã được Hội đồng Bảo an nhất trí thông qua ngày 10 tháng 12 năm 2006. Nội các Liban (trong đó có hai thành viên Hezbollah) đã chấp nhận Nghị quyết này ngày 12 tháng 8 năm 2006. Cùng ngày, Lãnh tụ Hezbollah Hassan Nasrallah nói rằng lực lượng của ông sẽ tôn trọng thỏa thuận ngừng bắn. Ông cũng nói rằng khi các cuộc tấn công của Israel dừng lại, các hoạt động đáp trả của Hezbollah cũng kết thúc. Ngày 12tháng 12 nội các Israel đã bỏ phiếu với tỉ lệ 24-0 cho Nghị quyết (1 người bỏ phiếu trắng). Thỏa thuận ngừng bắn của Liên Hợp Quốc bắt đầu có hiệu lực từ ngày thứ Hai 12tháng 10 năm 2008 lúc 9:00 sáng, giờ địa phương sau những cuộc tấn công dữ dội của cả hai bên. Tóm tắt của Nghị quyết: Đình chiến hoàn toàn (OP1) Israel rút hết quân ở Liban song song với việc lính Liban và UNIFIL triển khai ở miền Nam Liban (OP2) Thực hiện các điều khoản liên quan của Taif Accords và các nghị quyết 1559 và 1680 thúc giục Liban đẩy nhanh tiến độ giải giáp Hezbollah. (OP3) Dành quyền kiểm soát Liban cho chính phủ Liban (OP3) Không có các lực lượng bán quân sự, kể cả của Hezbollah, ở phía Nam sông Litani (OP8). Bối cảnh Nghị quyết này dựa trên bản dự thảo được Pháp và Hoa Kỳ khởi thảo. Nghị quyết ban đầu đề xuất sự "đình chiến hoàn toàn" giữa Israel và Hezbollah, nhưng đã bị Liban và Liên minh Ả Rập chỉ trích kịch liệt vì đã không yêu cầu Israel rút quân khỏi nam Liban ngay lập tức và cho phép Israel tiếp tục "các chiến dịch phòng thủ," do Israel giải thích rằng toàn bộ cuộc chiến tranh là một "chiến dịch phòng thủ." Liban và Liên minh Ả rập thúc ép để có được các phần của Kế hoạch Siniora, được chính phủ Liban đề xuất ngày 27 tháng 7, đã được bao gồm trong bản dự thảo. Nghị quyết nhấn mạnh sự cần thiết của việc giải thoát không điều kiện các binh lính Israel bị bắt cóc nhưng không đả động tới việc trả tự do ngay lập tức cho các tù bình Liban. Một phái đoàn từ Liên minh Arập đã bay tới thành phố New York ngày 8 tháng 8 và gặp gỡ nhiều đại diện của Liên Hợp Quốc và các kiến trúc sư của bản dự thảo, Pháp và Hoa Kỳ. Đây là kết quả của sự thay đổi vị trí của Pháp và cuối cùng đã làm thay đổi bản dự thảo. Sự khác nhau chính với bản dự thảo ban đầu là 15.000 lính được điều động từ Quân đội Liban có vai trò trung tâm, được lực lượng UNIFIL tăng cường (từ 2.000 lên đến 15.000 lính) hỗ trợ họ trong việc thực hiện các điều khoản liên quan của Taif Accords và các nghị quyết 1559 và 1680 (ngày 17 tháng 5 năm 2006); thúc giục Liban đẩy nhanh quá trình giải giáp Hezbollah; và thúc giục Syria phối hợp Liban thực hiện việc này cùng với ổn định đường biên giới chung giữa hai bên, (chẳng hạn Shebaa Farms). Nghị quyết cũng xác định rõ Liban quyết định khi nào và nếu họ yêu cầu sự trợ giúp của UNIFIL trong việc thực hiện những vấn đề này. Nghị quyết cũng nói rằng các lực lượng Israel sẽ rút quân song song với quá trình lực lượng phối hợp giữa Liban và UNIFIL di chuyển vào vùng xung đột, không có lực lượng bán quân sự nào, kể cả Hezbollah được có mặt ở phía Nam sông Litani (OP8). Không giống với 1559, 1701 không xác định việc giải giáp Hezbollah hoặc các lực lượng dân quân khác là điều kiện tiên quyết cho thỏa thuận ngừng bắn, nhưng Nghị quyết này nêu rõ rằng 1559 cần phải được thực thi đầy đủ. Các lực lượng gìn giữ hòa bình cho biết họ sẽ chỉ tiến vào Nam Liban nếu chỉ có họ và quân đội Liban là các lực lượng quân sự. Ngoại trưởng Israel Tzipi Livni cho rằng quân đội Israel vẫn sẽ ở lại Nam Liban cho đến khi quân đội Liban được triển khai cùng với sự hỗ trợ của lực lượng đa quốc gia của Liên Hợp Quốc, tránh tình trạng thiếu vắng lực lượng quân sự. Nghị quyết nhấn mạnh sự cần thiết của việc giải thoát vô điều kiện những người lính Israel bị Hezbollah bắt cóc. Các phản ứng ban đầu Các nhà lãnh đạo trên thế giới ca ngợi thỏa thuận này nhưng vẫn lưu ý rằng đây vẫn chưa phải là kết thúc cuộc xung đột. Nội các Liban nhất trí thông qua các điều khoản vào ngày 12 tháng 8, nhưng ngày hôm sau đã hoãn mọi cuộc họp thảo luận về việc thực thi. Một người phát ngôn cho Fouad Siniora cho biết cuộc họp đã bị hoãn vô thời hạn để "thảo luận rộng rãi hơn". Một bộ trưởng không rõ tên đã nói với AFP: "Đây là khoảnh khắc của sự thật và họ không muốn từ bỏ vũ khí". Trong bài phát biểu trên kênh truyền hình Al-Manar của Hezbollah ngày 12 tháng 8, Hassan Nasrallah nói: "Chúng tôi sẽ không là sự cản trở cho mọi quyết định của chính phủ Liban". Chính phủ Israel chấp nhận các điều khoản ngày 13 tháng 8, nhưng không ngừng các hoạt động tấn công cho đến 8:00 sáng (giờ địa phương) ngày 14 tháng 8, khi lệnh ngừng bắn có hiệu lực. Ngày 13 tháng 8, Israel bắt đầu mở rộng chiếm đóng ở Nam Liban để chiếm các vùng đất cao trước khi tuyên bố lệnh ngừng bắn, và đánh bom Liban ít nhất 15 phút trước hạn chót. Theo các bác sĩ cứu thương, ít nhất 9 công dân Liban đã thiệt mạng trong các vụ không kích. Cùng ngày, Hezbollah phóng 250 quả rocket về phía Israel, nhiều nhất từ khi cuộc chiến xảy ra, làm chết 1 người Israel; các lực lượng của họ tiến hành các trận đánh ác liệt nhất, làm 32 lính Israel thiệt mạng trong khi đó Hezbollah không đưa ra bất kỳ một con số thương vong nào. Giải giáp Hezbollah Nghị quyết kêu gọi "thực thi đầy đủ các điều khoản liên quan của Hiệp ước Taif, và thực thi các nghị quyết 1559 (2004) và 1680 (2006), yêu cầu giải giáp tất cả các nhóm vũ trang ở Liban, theo đúng quyết định của nội các Liban ngày 27 tháng 7 năm 2006, trong đó không có vũ khí và bất kỳ một quyền lực nào khác ngoài nhà nước Liban." Tuy nhiên, ngày 14 tháng 8, ngày 14 tháng 8, Tổng thư ký Hezbollah Hassan Nasrallah phát biểu trên kênh truyền hình Al-Manar rằng ông không có ý định giải giáp Hezbollah do quân đội Liban chưa đủ mạnh để bảo vệ Liban và Israel hiện thời vẫn đang chiếm giữ Liban. Và những người lính của ông sẽ không thể bị ép buộc giải giáp bởi "đe dọa và áp lực". Ngày 16 tháng 8 năm 2006, quan chức cao cấp của Hezbollah Hassan Fadlallah nhấn mạnh việc giải giáp tổ chức của ông không nằm trong lịch trình. Tương tự, sau sự chấp nhận nghị quyết, ngày 14 tháng 8 năm 2006 Bộ trưởng Quốc phòng Liban Elias Murr trả lời một cuộc phỏng vấn truyền hình rằng "lực lượng quân đội Liban được triển khai tới Nam Liban không phải để giải giáp Hezbollah." Về phía Liên Hợp Quốc, ông Kofi Annan khẳng định rằng "giải giáp Hezbollah không phải là nhiệm vụ trực tiếp của Liên Hợp Quốc," họ chỉ có nhiệm vụ giúp đỡ Liban trong việc này. Về phía mình, Israel khẳng định nếu Hezbollah không bị giải giáp như đã nêu trong Nghị quyết, họ sẽ tái thực hiện các chiến dịch ở Liban. Lính Liên Hợp Quốc Nhiều nước đã cho biết sẵn sàng gửi quân tới Liban, gồm có Pháp (4.000), Ý (2-3.000), Malaysia (1.000), Tây Ban Nha (7-800), Úc, Bỉ, Đức, Indonesia, Maroc, New Zealand, Bồ Đào Nha, và Thổ Nhĩ Kỳ. Sự vi phạm thỏa thuận ngừng bắn Thủ tướng Liban Fouad Siniora đã gọi cuộc đột kích Liban của lính biệt kích Israel ngày 19 tháng 8 năm 2006 là sự vi phạm trắng trợn thỏa thuận ngừng bắn của Hội đồng Bảo an. Người phát ngôn Tổng thư ký Liên Hợp Quốc cho rằng hành động này được mô tả là 'sự vi phạm của phía Israel trong thỏa thuận ngừng bắn được quy định trong Nghị quyết 1701 của Hội đồng Bảo an. Việc này liên quan đến cuộc đột kích của Israel ở phía đông Liban vào ngày thứ Bảy. Theo UNIFIL, các máy bay quân sự Israel cũng rất nhiều lần vi phạm về không phận.' Israel cho biết cuộc tấn công đột kích vào một căn cứ của Hezbollah ở phía đông Liban mang tính phòng thủ và được thực hiện để phá hủy nguồn cung cấp vũ khí cho Hezbollah từ phía Syria và Iran.
Sân bay Liên Khương (hay gọi là Sân bay Đà Lạt, Sân bay Liên Khương Đà Lạt) được xây dựng vào ngày 24 tháng 2 năm 1961 và từng là sân bay quốc tế lớn thứ hai ở miền Nam Việt Nam vào thời điểm đó. Hiện nay đây là sân bay lớn nhất vùng Tây Nguyên Việt Nam, nằm ngay cạnh Quốc lộ 20 và cách Đà Lạt - tỉnh lỵ tỉnh Lâm Đồng, đồng thời là trung tâm nghỉ mát nổi tiếng của vùng Tây Nguyên - chỉ có 28 km. Sân bay Liên Khương đang được đầu tư hơn 280 tỷ đồng để xây dựng một nhà ga mới đạt tiêu chuẩn quốc tế trong tương lai. Nhà ga mới của sân bay Liên Khương có hai tầng, với tổng diện tích sàn xây dựng là 12.400 m², được thiết kế theo hình ảnh hoa cúc quỳ, loài hoa đặc trưng của cao nguyên Lâm Đồng. Hiện nay sân bay có một đường cất hạ cánh dài 3.250 m, có thể đón các loại máy bay tầm ngắn như Fokker, ATR72, Airbus A320, Airbus A321. Hiện nay SAA đang xây dựng ở đây đài chỉ huy không lưu trang bị hiện đai đạt chuẩn của Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế (ICAO). Vị trí Cảng hàng không Liên Khương có tên giao dịch tiếng Anh là Lien Khuong Airport (tên viết tắt là DLI) nằm ở tọa độ 11° 45’15" vĩ bắc và 106°25’09" kinh đông, thuộc thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng, cách trung tâm thành phố Đà Lạt 28 km về phía Nam và trung tâm thị trấn Liên Nghĩa 2 km về phía Bắc. Cảng hàng không Liên Khương tiếp giáp phía Bắc với quốc lộ 27 đi Đắk Lắk, phía Đông bắc giáp quốc lộ 20 đi thành phố Đà Lạt, phía Tây và Nam giáp với đồi núi và thung lũng trống. Cao độ cảng hàng không Liên Khương là 962 m so với mặt nước biển. Hạ tầng Cảng hàng không Liên Khương có một đường hạ cất cánh dài 3,250 mét, rộng 45 mét; Một đường lăn song song dài 2,404 m, rông 37 m; Một đường lăn dài 94 mét, rộng 19 mét; Sân đậu máy bay có diện tích 23.100 m² với 5 vị trí đậu cho máy bay ATR 72 và Fokker 70; Sân đậu ôtô có diện tích 1.478 m². Nhà ga hành khách có diện tích 1.000 m². Trang thiết bị phục vụ mặt đất có xe nạp điện tàu bay, xe chở khách, xe chở hàng, xe cứu thương, xe cứu hỏa. Ngày 2/9/2003 khởi công dự án "Cải tạo mở rộng, nâng cấp đường HCC, đường lăn, sân đỗ máy bay - cảng hàng không Liên Khương" do Cụm cảng hàng không miền Nam làm chủ đầu tư, quy mô sau khi hoàn thành đảm bảo khai thác được các loại máy bay dân dụng tầm trung như A320, A321 và tương đương, cảng hàng không đạt tiêu chuẩn cấp 4C và sân bay quân sự cấp 2. Ngày 26/12/2009. Nâng cấp thành sân bay, có thể đón các loại máy bay dân dụng tầm trung như Boeing 767 hay Airbus A320, A321… từ nay Cảng hàng không Liên Khương đã có thể tiếp nhận các chuyến bay với khả năng phục vụ 1,5- 2 triệu lượt khách/năm. Hiện nay từ tháng 4/2019, cảng hàng không Liên Khương đã có thêm 2 ống lồng và được mở rộng thêm 5 vị trí đỗ máy bay mới. Định hướng Xác định rõ Cảng Hàng không Liên Khương có vị trí quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội, chính trị của Lâm Đồng cũng như của cả khu vực Phía Nam Tây Nguyên nên Cục hàng không Việt Nam, Cụm cảng hàng không miền Nam đã triển khai đầu tư Dự án xây dựng mới đường hạ cất cánh dài 3,250 m, rộng 45 m, cải tạo đường hạ cất cánh hiện hữu thành đường lăn, sân đậu máy bay có sức chứa 6-8 máy bay loại tầm trung để phục vụ các loại máy bay A320, A321. Cho đến nay (2015) sân bay Liên Khương là sân bay lớn nhất vùng Tây Nguyên Để đồng bộ cơ sở hạ tầng cảng hàng không Liên Khương, hiện nay Cụm cảng hàng không miền Nam cũng đang khẩn trương triển khai Dự án xây dựng nhà ga hành khách mới tại đây dự kiến được bố trí thành 2 công trình tách biệt, phục vụ cả hành khách quốc tế và quốc nội. Ga quốc tế và quốc nội sẽ nằm về 2 cánh của nhà ga, có tổng diện tích là 12.330 m² để đảm bảo đến năm 2025, Cảng hàng không Liên Khương đáp ứng phục vụ công suất 2.500.000 hành khách/năm. Liên Khương là 1 trong 5 sân bay làm ra lợi nhuận trên cả nước. Dự kiến sẽ mở thêm các đường bay quốc tế như Sin, Hàn (hoạt động mùa đánh gôn), Malaysia, Campuchia, Lào. Hoạt động Thống kê
Lưu Trọng Lư (19 tháng 6 năm 1911 – 10 tháng 8 năm 1991), là một nhà thơ, nhà văn, nhà soạn kịch Việt Nam. Tiểu sử Lưu Trọng Lư là người làng Cao Lao Hạ, xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Ông sinh trưởng trong một gia đình quan lại xuất thân nho học. Thuở nhỏ, ông học trường tỉnh, rồi học ở Huế (đến năm thứ 3 tại Quốc học Huế) và Hà Nội. Sau đó, ông bỏ học đi dạy tư, làm văn và làm báo để kiếm sống. Năm 1932, ông là một trong những nhà thơ khởi xướng và tích cực cổ vũ cho phong trào Thơ mới. Năm 1933-1934, ông chủ trương mở Ngân Sơn tùng thư ở Huế. Năm 1941, ông và thơ ông được Hoài Thanh và Hoài Chân giới thiệu trong quyển Thi nhân Việt Nam. Sau Cách mạng Tháng Tám (1945), ông tham gia Văn hóa cứu quốc ở Huế. Những năm kháng chiến chống Pháp, ông tham gia hoạt động tuyên truyền, văn nghệ ở Bình Trị Thiên và Liên khu IV. Sau 1954, ông công tác ở Bộ Văn hóa và làm Tổng Thư ký Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam. Năm 1957, ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Ngày 10 tháng 8 năm 1991, Lưu Trọng Lư mất tại Hà Nội, thọ 80 tuổi. Sau khi mất, ông được an táng tại Nghĩa trang Văn Điển. Năm 1996, hài cốt ông được đưa về an táng tại Tân Thuận Tây, quận 7, TP.HCM. Ông đã được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2000. Con trai thứ 9 của ông là đạo diễn Lưu Trọng Ninh. Tác phẩm Thơ Tiếng thu (1939), 52 bài Tỏa sáng đôi bờ (1959) Người con gái sông Gianh (1966) Từ đất này (1971) Chị em (1973) Bâng khuâng (1988) Bao la sầu (1989) Cung đàn mùa xuân (nhạc Cao Việt Bách) Nắng mới (in trong tập thơ "Tiếng thu" năm 1939) Sân khấu Nữ diễn viên miền Nam (cải lương) Cây thanh trà (cải lương) Xuân Vỹ Dạ (kịch nói) Anh Trỗi (kịch nói) Hồng Gấm, tuổi hai mươi tới rồi (kịch thơ,1973) Văn xuôi Người sơn nhân (tập truyện ngắn, 1933) Những nét đan thanh (truyện ngắn, 1934) Huyền Không động (truyện ngắn, 1935) Cô Nguyệt (truyện ngắn, 1937) Con đười ươi (truyện ngắn, 1938) Huế - một buổi chiều (truyện ngắn, 1938) Một người đau khổ (truyện ngắn, 1939) Chạy loạn (truyện ngắn, 1939) Cô gái tân thời (truyện ngắn, 1939) Một tháng với ma (truyện ngắn, 1940) Chiếc cáng xanh (truyện dài, 1941) Khói lam chiều (truyện dài, 194l) Cô Nhung (truyện ngắn, 1941) Mẹ con (truyện ngắn, 1942) Em là gái trong khung cửa (truyện ngắn, 1942) Dòng họ (truyện ngắn, 1943) Hổ với Mọi (truyện ngắn, 1944) Chiến khu Thừa Thiên (truyện vừa, 1952) Truyện cô Nhụy (truyện vừa, 1962) Mùa thu lớn (tuỳ bút, hồi ký, 1978) Nửa đêm sực tỉnh (hồi ký, 1989) Đánh giá Là một trong những người tiên phong của Phong trào Thơ mới, những bài thơ của ông mà "nhiều bài thực không phải là thơ, nghĩa là những công trình nghệ thuật, mà chính là tiếng lòng thổn thức cùng hòa theo tiếng thổn thức của lòng ta" đã góp phần khẳng định vị thế của Thơ mới. Hình ảnh: ...Con nai vàng ngơ ngácĐạp trên lá vàng khô... (Tiếng thu) hay người mẹ với: ...Nét cười đen nhánh sau tay áoTrong nắng trưa hè trước dậu thưa (Nắng mới) trong thơ Lưu Trọng Lư đã trở thành những biểu tượng vượt thời gian. Thơ Lưu Trọng Lư Bài thơ Tiếng thu đã được các nhạc sĩ Lê Thương, Phạm Duy, Hữu Xuân phổ nhạc thành bài hát cùng tên, còn bài Một mùa đông cũng được nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ thành bài Mắt buồn. Sách tham khảo Hoài Thanh - Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam. Nhà xuất bản Văn học in lại năm 1988. Nguyễn Văn Long, mục từ Lưu Trọng Lư trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004. Chú thích
Tượng Quan Thế Âm, hay còn gọi là tượng Quan Âm, là một sản phẩm điêu khắc, tạc lại hình tượng Quan Thế Âm. Các hình thức tượng rất đa dạng, phụ thuộc vào sự gia nhập của Phật giáo tại mỗi quốc gia và phụ thuộc cả vào các câu truyện dân gian, truyền thuyết của mỗi nước. Qua nhiều thăng trầm, biến cố lịch sử xã hội cũng như của Phật giáo cũng đã để lại dấu vết ở các bức tượng, văn hóa vật thể. Tựu trung lại, tượng Quan Âm có thể coi là biểu tượng Phật giáo và là một tác phẩm mang đầy tính nghệ thuật, thể hiện trình độ khéo léo của nghệ nhân cũng như là sự gởi gắm tình cảm, niềm tin vào Phật giáo của người xưa. Xu hướng làm tượng Quan Âm hiện nay rất phát triển, không chỉ để phục vụ tín ngưỡng mà còn để trang trí nội thất, làm tặng phẩm lưu niệm. Tuy nhiên, mặc dù các tượng này cũng khá đẹp và tinh xảo, nhưng do không được trải qua nghi thức "hô thần nhập tượng" nên chúng chỉ có giá trị như đồ thủ công mỹ nghệ. Trong số các loại hình tượng Quan Âm thì tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay là một hình thức tượng hóa thân đặc sắc nhất. Lịch sử thờ phụng Vào cuối thế kỷ IX, một vài biểu tượng của Quan Thế Âm được tìm thấy ở Ajanta, Ấn Độ, trên các bức bích họa và trong điêu khắc, trên một ngôi đền ở Bhuvaneshvar và nhiều nơi khác nữa. Ở Đông Nam Á, những bức tượng giả đồng tại Java, Sumatra và những tác phẩm điêu khắc ở Angkor, những bức phù điêu trên các stupa ở Borobudur, Java là những báo trước về tượng bốn mặt khổng lồ của Lokesvara (Quan Thế Âm, theo tiếng Khmer). Ở Campuchia, nhiều bức tượng Lokesvara cũng được tìm thấy với toàn thân được bao bọc bằng hàng trăm hình tượng nhỏ về các vị "tán quang Phật" (radiating Buddha). Ở Sri Lanka cũng có các hình tượng về Quan Thế Âm có niên đại từ thế kỷ VIII đến thế kỷ IX. Ở Việt Nam, người ta cũng tìm thấy các tượng này như: tượng chân dung Avalokitesvara ở Mỹ Đức, Quảng Nam (thế kỷ IX-X); đầu tượng Avalokitesvara (thế kỷ VII-VIII); tượng Avalokitesvara Padmapani bằng đồng (thế kỷ VII-VIII), cao 31 cm... Những cổ vật này của Việt Nam hiện nay đang được lưu giữ ở Viện bảo tàng DTH Linden, Stuttgart, Đức. Giới tính của Quan Thế Âm Tại Trung Quốc - đến thế kỷ X - Quan Âm còn được giữ dưới dạng nam giới, thậm chí trong hang động ở Đôn Hoàng, người ta thấy tượng Quan Âm để râu. Đến khoảng thế kỷ thứ X thì Quan Âm được vẽ mặc áo trắng, có dạng nữ nhân. Có lẽ điều này xuất phát từ sự trộn lẫn giữa đạo Phật và đạo Lão trong thời này. Một cách giải thích khác là ảnh hưởng của Mật tông (xem Tantra) trong thời kì này: đó là hai yếu tố Từ bi (sa. maitrī-karuṇā) và Trí huệ (sa. prajñā) được thể hiện thành hai dạng nam nữ, mỗi vị Phật hay Bồ Tát trong Mật tông đều có một "quyến thuộc" nữ nhân. Vị quyến thuộc của Quán Thế Âm được xem là vị nữ thần áo trắng Đa-la (sa. tārā), và Bạch Y Quan Âm là tên dịch nghĩa của danh từ đó. Kể từ đó quần chúng Phật tử Trung Quốc khoác cho Quan Âm áo trắng và xem như là vị Bồ Tát giúp phụ nữ hiếm muộn. Một trong các lý do đó là đối với Phật giáo, Phật không phân biệt nam hay nữ. Khác với các thần thoại sơ khai quan niệm các vị thần có giới tính và co sự sinh sản, Phật giáo và các tôn giáo lớn trên thế giới không cho rằng thần của họ có giới tính và sự sinh sản. Do đó việc quan niệm Quán Âm là nam hay nữ không phải là vấn đề quan trọng trong Phật giáo. Vả lại, theo phẩm Phổ môn, khi muốn cứu vớt hoặc giác ngộ cho chúng sinh, Quán Âm có thể hóa thành 32 sắc tướng như Phật, Bồ Tát, Càn-thát-bà, thiện nam, tín nữ v.v tùy theo đối tượng để cứu giúp chúng sanh.. Tín ngưỡng dân gian thờ Mẫu ở Việt Nam cũng có ảnh hưởng tới hình thức tượng Quan Âm tại đây. Các hình thức tượng Tượng Quan Âm Cam lồ: Quan Âm Cam lồ là vị Phật có nhiệm vụ rảy nước cam lồ để cầu sự mát mẻ cho nhân gian. Tượng có một tay cầm bình cam lồ và một tay cầm cành dương liễu, Quan Âm đang đứng trên một toà sen và có thể có thêm lọng che trên đầu. Tượng Quan Âm tọa thiền Tượng Quan Âm Tọa sơn: Quan Âm tọa lạc trong một hang động hoặc trên núi, có bế một đứa trẻ trên tay trái, bên vai phải có thể có thêm một con vẹt hoặc chim khổng tước ngậm chuỗi hạt. Hình ảnh này lấy từ sự tích Quan Âm Thị Kính. Vật cưỡi của Quan Thế Âm (nếu có) là một con hạc hay con công, có khi lại là phượng hoàng hoặc chim trĩ. Trong Mật tông, Quan Thế Âm có đôi mắt nửa khép nửa mở, đôi tai rất dài và đôi khi có hàng ria mép mỏng và những cánh tay dài. Các vị trí đặt tượng Tượng Quan Âm được đặt không những ở trong điện Phật của chùa mà còn được đặt bên ngoài khuôn viên chùa. Thông thường, khi được đặt bên ngoài, tượng có màu trắng, mặt chính hướng ra hồ, sông hay biển. Như ở chùa Bổ Đà hoặc được đặt giữa một cái ao nhỏ như trong một số chùa ở Hồ Tây, Hà Nội. Đôi khi tại một số đèo nguy hiểm cũng có đặt tượng Quan Âm Nghệ thuật tạc tượng Tượng gỗ Loại gỗ dân gian hay được dùng để tạo tượng là gỗ mít. Loại gỗ này dễ đục đẽo, bền và ít bị nứt và có ưu điểm là ưa sơn. Thông thường gỗ của một cây mít già thường được đưa ra ao ngâm vài tháng, giúp gỗ loại bỏ đi một số chất và côn trùng trong thân cây. Sau đó, thân gỗ sẽ được vớt lên và để ra ngoài trời phơi hàng tháng cho kiệt nước. Lúc này, gỗ đã có thể được sử dụng để bóc vỏ và pha cắt làm tượng. Nếu gỗ vừa cỡ tượng thì nghệ nhân chỉ việc đẽo bỏ đi phần thừa, nếu gỗ nhỏ mà tượng lớn thì phải ghép và làm mộng cho những chỗ này. Sau đó tượng gỗ sẽ được phủ ra ngoài một lớp đất phù sa tinh luyện trộn với sơn, hom toàn bộ pho tượng. Việc khắc và gắn những đôi tay là khó nhất sau cho tay được tự nhiên, mềm mại và không cứng nhắc. Sau khi hom sơn, tượng bắt đầu được sơn thếp. Lớp sơn then (sơn có màu đen) được phủ lên đầu tiên và được phủ nhiều lần để chúng ngấm cả vào lớp đất hom phủ trên bề mặt trước đó. Sau một vài lần phủ, người ta sẽ lấy giấy ráp đánh bóng cho bề mặt tượng thật bóng và mịn. Lớp sơn tiếp theo là lớp sơn cánh gián rất mỏng để dát vàng và bạc. Thông thường vàng và bạc được dát theo lối vẩy cá. Các tượng của Nhật Bản thường được làm bằng gỗ Hinoki, gỗ của một loại cây tuyết tùng trắng, không bị biến đổi hình dáng sau nhiều năm. Sau khi được tạc hoàn chỉnh, tượng được thoa một lớp thạch cao mỏng ở bên ngoài và được tô màu các chi tiết. Tượng đá Tượng đá là loại tượng có độ bền cao, nhưng để tạc một tượng Quan Âm, nhất là Quan Âm thiên thủ thiên nhãn thì rất khó. Thêm vào đó, người ta không thể ghép đá theo chiều ngang như vật liệu gỗ mà chỉ có thể ghép theo kiểu đặt chồng lên nhau. Để giải quyết vấn đề này, ở Campuchia, người ta đã đục ra từ một khối đá ban đầu và đục khắc tay sang hai bên, nhưng các cánh tay này lại sát với nhau đến tận khuỷu và cũng chỉ có tối đa đến 5 cánh tay. Tiếc rằng, những di vật khảo cổ học này không còn tìm thấy nguyên vẹn và người ta không biết chính xác những cánh tay này như thế nào. Các phần tìm lại của bức tượng chỉ còn từ phần khuỷu tay trở vào, cụt mất cánh tay. Các nghệ nhân xưa của Campuchia cũng đã cố gắng xoay xở và tạc lên chính thân thể Phật vô vàn những hóa thân là những tượng nhỏ, khắc chìm hoặc nổi lên khắp bề mặt tượng. Mối quan hệ giữa Phật giáo - Đạo giáo - Đạo mẫu của tượng Tại Việt Nam, trong mô hình đạo Phật dân gian, các truyền thuyết về Quan Âm Nam Hải, Quan Âm Thị Kính đã có ảnh hưởng tới hệ thống các tượng Quan Âm thế kỷ XVII. Đây cũng là thời gian có sự xuất hiện của Mẫu Liễu Hạnh cũng các truyền thuyết về bà. Sự gia nhập của Đạo Mẫu vào các ngôi chùa đã khiến Liễu Hạnh trở thành vị thần được sùng kính nhát trong dân gian và được gọi là Mẫu Thượng Thiên, ngang hàng với vị thế của Quan Âm thiên thủ thiên nhãn. Theo Thạc sĩ,nhà nghiên cứu Trang Thanh Hiền thì có thể đưa ra một mô hình như sau: Điều này cũng lý giải cho việc ở chùa Đại Áng, Thường Tín, Hà Tây, tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay được đặt thờ phía trước toà thánh Mẫu. Tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay Quan Thế Âm là vị bồ tát có nhiều phép thuật, hay cứu chúng sinh nên ngài có nghìn mắt, nghìn tay và được gọi là Quan Âm thiên thủ thiên nhãn (Quan Âm nghìn mắt nghìn tay). Hình tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay đã có mặt tương đối sớm. Các tùy vật của Quan Âm thương thấy có ở các cánh tay này: cây gậy hành hương, mũi tên, Mặt Trăng, hoa sen xanh, bình nước, ngũ sắc tường vân, kiếm, hoa sen trắng, sọ người, gương soi, chùm nho, cây kích, kinh văn, thủ ấn, đinh ba, tràng hạt, phật, thiên cung, phất trần, thiền trượng, cung tên, hoa sen đỏ, vòng tay... Ở Việt Nam, hình tượng này có từ thời Lý, Trần và đạt tới đỉnh cao nghệ thuật vào thế kỷ XVII với tượng Phật Quan Âm ở chùa Bút Tháp. Theo kinh điển của phái Mật tông, trong quá khứ xa xôi, Quan Âm được nghe Thiên quan Vướng Tĩnh Chú Như Lai giảng về Đại Bi Tâm Đà la Ni, sau đó đã xuất hiện trên người nghìn mắt để thấy khắp |thế gian]] và nghìn tay để cứu vớt chúng sinh. Còn ở Việt Nam, câu truyện cổ tích "Bà chúa Ba" hay "Sự tích Phật Bà nghìn mắt nghìn tay chùa Hương Tích" đã giải thích cho lý do xuất hiện hình tượng Quan Âm này. Tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay ở chùa Mễ Sở, Hưng Yên và ở chùa Bút Tháp, Bắc Ninh là hai tượng Quan Âm tiêu biểu về nghệ thuật và trí tưởng tượng phong phú của nghệ nhân. Tượng Quan Âm nghìn tay nghìn mắt ở chùa Bút Tháp, xã Đình Tổ, tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam. Phiên bản tại Viện bảo tàng lịch sử Việt Nam]] Một trong những tượng Bồ Tát Quan Thế Âm thiên thủ thiên nhãn bằng gỗ lớn nhất và được coi là đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc cổ Việt Nam là tượng Quan Âm Nam Hải tại chùa Bút Tháp. Trên bức tượng này có sự kết hợp hài hòa của tư tưởng Phật giáo và tư tưởng Nho giáo. Thời điểm xuất hiện tượng là vào thế kỷ XVII, khi mà Nho giáo đã có một vị trí khá vững chắc trong xã hội Việt Nam nên nhiều quy chuẩn, cách thức của tượng có ảnh hưởng từ Trung Quốc. Tượng cao 3,7 m, vành hào quang rộng 2,1 m và bệ tượng dày 1,15 m. Ngoài hai đôi tay chính được chắp trước ngực theo kiểu "liên hoa hợp chưởng" và được đặt trên đùi theo kiểu "thiền định" thì tượng còn có 38 cánh tay lớn nằm ở hai bên. Cánh tay xa nhất có chiều dài là 2 m. Đằng sau lưng Phật có 789 cánh tay nhỏ, được sắp xếp theo những vòng tròn đồng tâm và được đặt so le nhau ở từng lớp, tạo thành một vòng hào quang cho tượng. Những cánh tay này vừa là ánh sáng hào quang, vừa là những con mắt thấu suốt coi trông nhân loại. Đây là bức tượng được triều đình cung tiến cho chùa và là bức tượng duy nhất trong hệ thống tượng cổ Việt Nam có ghi niên đại năm tạc, tên người tạc. Trên tượng có ghi: "Tuế thứ Bính Thân niên, thu nguyệt, cốc nhật doanh tạo. Nam Đông Giao Thọ nam tiên sinh phụng khắc". Tượng phối hợp cả hai dạng xuất hiện của Quán Thế Âm, đó là Quán Thế Âm Thập nhất diện đại bi thế tự tại (zh. 十一面大悲世自在, sa. ekādaśamahākāruṇika-lokeśvara) với 8 tay và Thiên thủ thiên nhãn thế tự tại (zh. 千手千眼世自在, sa. sahasrabhuja-lokeśvara) với gần 1000 cánh tay, đồng thời, trong lòng mỗi bàn tay đều có chạm một con mắt, làm cho bức tượng mang ý nghĩa kép. Những cánh tay ở đây vừa là ánh hào quang độ lượng của Phật, vừa tượng trưng cho những bàn tay dang ra cứu vớt đời, vừa là những con mắt thấu suốt coi sóc đến chúng sinh. Tượng Bút Tháp cũng thể hiện một hình thức đặc trưng cho các tượng Quan Âm là dạng nữ tính của tượng. Các tượng nam tính thường dong dỏng cao, vai nở, bụng thon, còn ở đây hình ảnh người mẹ, người phụ nữ được thể hiện qua chi tiết khuôn bụng đầy đặn, vai không quá to, tỷ lệ vừa phải. Phật có khuôn mặt dôn hậu, điềm tĩnh siêu thoát. Hai bên đầu tượng còn được tạc thêm hai bộ mặt ở hai bên má và có thêm 8 bộ mặt ở 3 tầng trên mũ và trên đỉnh có một pho tượng A-đi-đà. Truyền thuyết kể lại rằng, khi nhìn nỗi khổ của chúng sinh trong địa ngục, ngài kinh hoảng đến mức đầu vỡ tung thành 10 mảnh. A-di-đà, vị Phật đỡ đầu của ngài, biến mỗi mảnh đầu vỡ đó thành một đầu (hoặc gương mặt) nguyên vẹn. Chín gương mặt có nét hiền hậu, gương mặt thứ 10 thì hung tợn vì người ta cho rằng, với một gương mặt hung tợn Bồ tát dễ xua đuổi các loại tà ma. Gương mặt thứ 11 (hoặc nguyên hình tượng) là Phật A-di-đà. Tượng Bút Tháp còn có một điều khá đặc biệt là 4 vòng sắt lớn được gắn vào thân mình tượng giống hệt vị trí như ở các tượng Tứ Pháp. Tác dụng của những vòng này của tượng Tứ Pháp là để dùng khi rước Tứ Pháp vào ngày 4 tháng 8 Âm lịch để cầu mưa, cầu mùa. Như vậy, chắc có điều gì đó liên quan và giao thoa trong tín ngưỡng giữa tượng Quan Âm nghìn tay nghìn mắt và Tứ Pháp. Tượng tại chùa Mễ Sở Trong số các tượng loại này ở Việt Nam thì tượng Quan Âm thiên thủ thiên nhãn chùa Mễ Sở, Hưng Yên có số lượng tay nhiều nhất, tới hơn một nghìn chiếc (1.113 tay). Ngoài việc các cánh tay được ghép thành hình vòng cung như ở tượng chùa Bút Tháp, nó còn được phát triển tiếp lên phía trên đầu vị Phật, tạo thành các đường vòng uốn khúc liên tục như những đám mây cuộn. Đặc biệt, các tay nhỏ của Quan Âm không chỉ tạc từ cánh tay trở ra như tượng chùa Bút Tháp mà nó còn có thêm phần gập của khuỷu tay. Đôi tay trên cùng được chụm lại ở phía trên đỉnh của mũ thiên quan (được gọi là tay Đảnh hóa Phật), hình thức này được làm theo khuôn mẫu của tượng Phật Trung Quốc. Điểm ấn tượng nhất của pho tượng này là có thêm một đôi tay ở sau lưng tượng (được gọi là tay Phổ Lễ), việc này làm cho bức tượng có thêm một không gian nữa, tạo thành không gian đa chiều cho việc thưởng thức nghệ thuật tượng. Thân hình tượng Mễ Sở nhỏ hơn tượng Bút Tháp. Kiểu tượng đặc sắc nhất ở Việt Nam Tại chùa Hòe Nhai (Hồng Phúc tự) ở 19 Hàng Than, Ba Đình, Hà Nội có một tượng khá độc đáo. Đó là pho tượng một vị Phật to lớn ngồi trên tòa sen và có đế tượng lại tạc hình một nhà vua mặc triều phục đang trong tư thế cúi lạy. Tương truyền tượng này do vua Lê Hy Tông sai tạc để sám hối sau sự kiện thiền sư Tông Diễn thuộc phái Tào Động đời thứ 37 vào kinh dâng ngọc khai thị...Xem thêm chi tiết tại #Liên kết ngoài. Các tài liệu dạy tạo tượng Những quy cách tạo tượng Phật đã được tổng kết thành sách, hiện có ở Viện nghiên cứu Hán Nôm như: Tân biên tam muội tạo tượng kinh Phật tượng lượng đạc kinh Tạo tượng đạc đồ dạng Diên quang tam muội tạo tượng Những cuốn sách này cho biết chi tiết và chuẩn mực quy định riêng như tỷ lệ đầu, tai, nhân trung. Ngoài phần chữ Hán được khắc in theo nguyên bản, người ta còn diễn Nôm bổ sung vào để phổ biến cho người đọc.
Minh Thái Tổ (chữ Hán: 明太祖, 21/10/1328 – 24/6/1398), tên thật là Chu Trùng Bát (朱重八 ), còn gọi là Hồng Vũ Đế (洪武帝), Hồng Vũ quân (洪武君), hay Chu Hồng Vũ (朱洪武), thuở nhỏ tên là Trùng Bát (重八), về sau Quách Tử Hưng đặt tên là Nguyên Chương (元璋), tên chữ là Quốc Thuỵ (國瑞). Ông là vị Hoàng đế khai quốc của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc, cai trị từ năm 1368 đến 1398. Các sử gia gọi thời kỳ cai trị của ông là Hồng Vũ chi trị (洪武之治). Ông được xem như là một trong những Hoàng đế vĩ đại nhất của Trung Quốc nhờ các công trạng to lớn của mình với đất nước, nhưng cũng bị chê trách vì sự hà khắc, cũng như sát hại hàng loạt công thần khai quốc trong thời gian nắm quyền. Vào giữa thế kỷ XIV, cùng với nạn đói, thiên tai, dịch bệnh và các cuộc khởi nghĩa nông dân diễn ra khắp nơi, Chu Nguyên Chương trở thành nhà lãnh đạo của một lực lượng đã chinh phục Trung Hoa và chấm dứt nhà Nguyên, buộc người Mông Cổ phải rút vào thảo nguyên Trung Á. Với việc chiếm được Đại Đô của nhà Nguyên, ông tuyên bố Thiên mệnh thuộc về mình và lập ra nhà Minh vào năm 1368. Chỉ tin vào gia đình, ông phân phong đất đai cho các con trai thành các phiên quốc trấn thủ các vùng đầm lầy phía bắc và thung lũng sông Dương Tử. Đích trưởng tử, Thái tử Chu Tiêu và Đích trưởng tôn Chu Hùng Anh của ông chết sớm, những việc này đã khiến ông chọn Đích tôn Chu Doãn Văn làm người kế vị cùng với việc ban bố Hoàng Minh Tổ Huấn. Nhưng những việc này đều thất bại, khi Chu Doãn Văn quyết định ra tay thanh trừng những người chú của mình. Điều này đã dẫn đến cuộc nổi loạn thành công của Yên vương Chu Đệ, con trai thứ tư của ông. Chu Nguyên Chương đặt niên hiệu là Hồng Vũ (洪武). Khi qua đời, ông được truy tôn miếu hiệu là Thái Tổ (太祖) và thụy hiệu là Cao Hoàng đế (高皇帝). Tiểu sử của ông được ghi tại Minh sử, quyển 1-3, Thái Tổ bản kỷ. Ông được an táng ở Hiếu lăng, Nam Kinh. Tiểu sử Nguyên quán của Chu Nguyên Chương ở Tứ Châu (nay là huyện Hu Dị, tỉnh Giang Tô), sau dời về huyện Chung Ly, Hào Châu tức Phụng Dương. Cha mẹ ông có 8 người con, nhưng 2 người chết yểu. Ông là con út, thuở nhỏ gọi là Trùng Bát, ngay cả tên họ chính thức cũng không có, mãi đến sau khi gia nhập nghĩa quân Quách Tử Hưng, mới lấy tên là Chu Nguyên Chương, tên chữ là Quốc Thụy. Ông xuất thân từ tầng lớp nghèo khổ, từng giữ dê chăn bò cho địa chủ. Năm Chí Chính thứ 4 (1344), vùng Hoài Bắc phát sinh hạn hán và châu chấu tàn hại cùng với dịch bệnh nên cha mẹ, các anh chị của ông đều nối tiếp nhau chết đói cả. Ông không biết lấy gì để sống, tới chùa Hoàng Giác làm thầy tu, từng khất thực 3 năm tới phía tây của tỉnh An Huy, phía đông tỉnh Hà Nam, trải qua gian khổ tôi luyện. Chu Nguyên Chương từ nhỏ chí khí đã chẳng tầm thường. Do sức ép của cuộc sống nên ông phải xuất gia đi tu, nhưng vào chùa mới được 50 ngày thì đã làm nhà sư chu du khắp chốn. Trong lúc bôn ba tứ phương, ông đã bí mật tiếp xúc với Bạch Liên giáo, hiểu được tình thế trong thiên hạ, lòng người muốn đổi thay, khí vận triều Nguyên sắp hết. Năm Chí Chính thứ 12 (1352), Chu Nguyên Chương tham gia Hồng Cân quân (quân khăn đỏ) của Quách Tử Hưng, được Tử Hưng tin cậy, nhậm chức Tả phó Nguyên soái nghĩa quân. Năm Chí Chính thứ 16 (1356), Chu Nguyên Chương đánh chiếm Tập Khánh (Nam Kinh ngày nay), được Tiểu Minh vương Hàn Lâm Nhi tiến phong làm Ngô Quốc công. Ông lấy Ứng Thiên (Nam Kinh) làm trung tâm, phát triển rất nhanh. Từ năm 1363 đến 1367, lần lượt tiêu diệt Trần Hữu Lượng ở trung lưu Trường Giang và Trương Sĩ Thành ở hạ lưu Trường Giang, bao gồm cả 2 bờ nam bắc. Cuối 1367, ông xuất quân Bắc phạt. Chu Nguyên Chương phong Từ Đạt làm Đại tướng quân, Thường Ngộ Xuân làm Phó tướng dẫn 25 vạn đại quân Bắc phạt, đã nhanh chóng chiếm được Sơn Đông. Tháng giêng năm 1368, Chu Nguyên Chương xưng Đế, đặt quốc hiệu là Minh, trở thành vua Minh Thái Tổ. Cùng năm đó, ông cho quân công phá Đại Đô (Bắc Kinh), lật đổ ách thống trị gần một thế kỷ của nhà Nguyên ở Trung Quốc, từng bước thực hiện quá trình thống nhất đất nước. Năm Hồng Vũ thứ 31 (1398), Minh Thái Tổ lâm bệnh qua đời, hưởng thọ 70 tuổi, ở ngôi 31 năm, được an táng tại Hiếu lăng ở phía nam chân núi Chung Sơn, thành phố Nam Kinh. Thống nhất Trung Quốc Gia nhập nghĩa quân Chùa Hoằng Giác nơi Chu Nguyên Chương trú thân chẳng mấy chốc bị phá hủy bởi chiến tranh. Năm 1351, cuộc khởi nghĩa Hồng Cân bùng nổ, Quách Tử Hưng và một số người ở Hào Châu cũng tới tấp nổi lên hưởng ứng. Chu Nguyên Chương được tin và đang chăm chú theo dõi sự phát triển của thời cuộc. Một hôm, Chu Nguyên Chương cho là thời cơ đã đến, liền rời khỏi chùa Hoàng Giác sang Hào Châu theo Quách Tử Hưng. Do mưu trí và dũng cảm, Chu Nguyên Chương dần dần được thăng chức và trở thành người tâm phúc của Quách Tử Hưng. Sau đó, Quách Tử Hưng còn gả người con gái nuôi là Mã Thị cho Chu Nguyên Chương, nên uy tín của Chu Nguyên Chương trong nghĩa quân ngày càng cao. Bấy giờ, cùng khởi binh với Quách Tử Hưng có bốn người khác, họ đều tự xưng là nguyên soái, nhưng giữa bốn người này lại không ai chịu phục ai, nên mâu thuẫn ngày càng gay gắt. Một hôm, 4 người đã liên hợp lại bắt giữ Quách Tử Hưng, còn Chu Nguyên Chương cũng suýt bị toi mạng, sự việc này về sau cũng được sắp xếp ổn thỏa. Nhưng Chu Nguyên Chương qua đó đã nhận rõ được sự thiển cận của những người này, biết họ cũng sẽ chẳng làm được việc gì lớn. Ít lâu sau, Chu Nguyên Chương thừa lệnh về quê chiêu mộ binh mã, các bạn bè như Từ Đạt, Chu Đức,.... cũng đến theo, chỉ trong mấy ngày đã tụ tập được hơn 700 người. Chu Nguyên Chương có lực lượng riêng của mình thì không muốn ở lại thành Hào Châu, nên sau khi được sự đồng ý của Quách Tử Hưng, đã dẫn dắt đội ngũ của mình đánh nam dẹp bắc, số người đi theo mỗi ngày một đông. Khi đoàn quân đi qua Định Viễn, có một văn nhân địa phương tên là Lý Thiện Trường đến xin gặp và được Chu Nguyên Chương phong là mưu sĩ. Một hôm, Chu Nguyên Chương hỏi Lý Thiện Trường rằng: "Nay thiên hạ đang đại loạn, các nơi đều đang chém giết lẫn nhau, thì đến bao giờ mới được thái bình?". Lý Thiện Trường đáp: "Cuối thời triều nhà Tần cũng từng xảy ra đại loạn như hiện nay, Hán Cao Tổ xuất thân bình dân, vì ông ta sáng suốt, lại biết dùng người và không giết hại kẻ vô tội, nên chỉ trong 5 năm đã thống nhất được thiên hạ. Nay triều đình Nhà Nguyên đang hỗn loạn, thiên hạ đang bị tan rã, sao ông không học Hán Cao Tổ?". Quách Tử Hưng sau đó cùng thủ lĩnh nghĩa quân Từ Thọ Huy giao tranh ác liệt với nhau ở miền nam. Triều đình nhà Nguyên nhân cơ hội đó tập trung đánh dẹp lực lượng Hồng Cân quân ở miền bắc. Năm 1355, Quách Tử Hưng bị bệnh qua đời, con trai là Quách Thiên Tự kế nhiệm chức nguyên soái, Chu Nguyên Chương được phong làm phó soái. Ít lâu sau, Quách Thiên Tự tử trận, Chu Nguyên Chương được thay làm nguyên soái, tiếp quản cựu bộ của Quách Thiên Tự, thực lực càng trở nên lớn mạnh. Đánh bại các đối thủ Năm 1356, Chu Nguyên Chương đánh hạ được Kim Lăng (Nam Kinh) rồi đổi g̣ọi Ứng Thiên Phủ, nơi đây trở thành căn cứ địa của ông và là kinh đô của nhà Minh trong suốt thời gian ông trị vì. Chính quyền của ông bắt đầu nổi tiếng và nạn dân khắp nơi bắt đầu đổ về đây, trong 10 năm tiếp theo dân số Nam Kinh tăng gấp 10 lần. Trong khoảng thời gian này, quân Hồng Cân bị chia năm xẻ bảy, Chu Nguyên Chương đứng đầu một nhánh nhỏ (gọi là Minh), còn Trần Hữu Lượng (sau khi giết chết Từ Thọ Huy để chiếm quyền năm 1360) đứng đầu nhánh lớn, kiểm soát vùng trung tâm thung lũng sông Dương Tử. Lúc bấy giờ Chu Nguyên Chương có hai kình địch, một là Trần Hữu Lượng đang chiếm cứ vùng Hồ Quảng, nắm giữ vùng đất thượng du sông Trường Giang. Một người khác là Trương Sĩ Thành, đang xưng bá tại vùng châu thổ Tô-Hàng, chiếm một vùng đất phì nhiêu giàu có. Vị trí chiếm đóng của hai người này trở thành thế gọng kìm, có thể đánh kẹp Chu Nguyên Chương vào giữa, tạo thế uy hiếp rất lớn. Bình định Trần Hữu Lượng Năm 1360, Trần Hữu Lượng đoạt được thành Thái Bình của Chu Nguyên Chương, giết chết người con nuôi của Chu Nguyên Chương là Chu Văn Tốn và viên tướng thủ thành là Hoa Vân, rồi cử hành nghi lễ xưng đế tại ngôi miếu Ngũ Thông tại Thái Thạch, đặt quốc hiệu là Hán, đổi niên hiệu là Đại Nghĩa, rồi đắc ý kéo quân chiến thắng trở về Giang Châu. Sau đó, Trần Hữu Lượng còn hẹn với Trương Sĩ Thành cùng đánh chiếm Ứng Thiên, nhưng Trương Sĩ Thành chưa chịu. Thế là Trần Hữu Lượng tự mình xua đoàn chiến thuyền, từ Giang Châu xuôi theo dòng Trường Giang tiến xuống phía Đông, nhắm mục tiêu là Ứng Thiên. Đoàn quân của Trần Hữu Lượng tiến xuống ồ ạt, khí thế hùng tráng. Khi tin tức này truyền đến Ứng Thiên, thì cả thành Ứng Thiên đều chấn động. Chu Nguyên Chương vội vàng triệu tập quần thần để thương thảo đối sách. Có người bảo Trần Hữu Lượng dũng cảm thiện chiến, nhuệ khí đang cao, lại chiếm giữ được vùng Giang, Sở, khống chế cả thượng du sông Trường Giang, địa thế hiểm trở, binh tướng mạnh mẽ, thế lực to lớn, vậy nếu tranh phong với ông ta, thì chỉ là đem trứng chọi đá, tự tìm lấy sự diệt vong. Vậy chi bằng hãy hiến thành Ứng Thiên cho ông ta, rồi quy phục dưới cờ cửa ông ta là tốt nhất. Có người lại cho rằng Trần Hữu Lượng mới vừa chiếm được thành Thái Bình, khí thế đang lên, vậy chi bằng trước tiên hãy lùi về Kiến Khang, Chung Sơn, là nơi có vương khí, có thể chiếm giữ ở đấy để chờ khi nhuệ khí của Trần Hữu Lượng xuống, thì ta mới xua quân quyết chiến với hắn. Có người bảo Trần Hữu Lượng chẳng qua là một gã đánh cá ở Miện Dương, chỉ là một tên tiểu lại, vậy nên cùng hắn quyết chiến một trận sống chết tại Kiến Khang. Vạn nhất nếu không thắng được, thì rút lui cũng chưa phải muộn. Chu Nguyên Chương cho rằng những chủ trương đó chưa phải là thượng sách, nhưng bản thân mình thì không thể giải thích tại sao. Ông ngó quanh mọi người có mặt trong phiên họp, thấy Lưu Bá Ôn đôi mắt sáng ngời, im lặng không nói. Chu Nguyên Chương đoán biết vị quân sư của mình đang có diệu kế trong lòng. Ông bèn mời Lưu Bá Ôn vào trong một phòng riêng, dò hỏi mưu kế. Sau đó, Chu Nguyên Chương sai Hồ Đại Hải kéo quân đánh Tính Châu để khống chế con đường rút lui của Trần Hữu Lượng. Chu Nguyên Chương lại sai các tướng Thường Ngộ Xuân, Phùng Quốc Thắng, Hoa Cao, Từ Đạt, dẫn quân đi đặt những ổ mai phục, chuẩn bị xuất kích khi thời cơ đến. Sau khi sự bố trí đâu vào đấy Chu Nguyên Chương bèn mời người bạn thân của Trần Hữu Lượng là Khang Mâu Tài, viết một bức thư mật, giả vờ hẹn với Trần Hữu Lượng để làm nội ứng, bảo ông ta phải nhanh chóng kéo quân tới tấn công thành Ứng Thiên. Do nôn nóng muốn thủ thắng, để chiếm lĩnh vùng đất Kiến Khang, là một vùng đất quý về mặt phong thủy, nên Trần Hữu Lượng đã xuống lệnh tức khắc khởi binh để tấn công. Riêng về Chu Nguyên Chương thì tích cực chuẩn bị: trước hết đặt một ổ mai phục bên cạnh Thạch Khôi Sơn với quân số đông ba vạn người, rồi lại xuống lệnh phá hủy chiếc cầu gỗ tại Giang Đông, đưa đá và sắt tới để tạo chướng ngại trên dòng sông, chờ chiến thuyền của Trần Hữu Lượng sa vào bẫy. Quả nhiên, khi đoàn chiến thuyền của Trần Hữu Lượng đi vào một con sông hẹp, và khi đến cầu Giang Đông thì không thấy chiếc cầu gỗ nữa, mà dưới dòng sông toàn là đá tảng to. Trần Hữu Lương cả kinh, vội vàng dùng mật khẩu để liên lạc, nhưng không có ai trả lời. Đến chừng đó, hắn mới biết mình đã bị trúng kế, nhưng muốn thối lui cũng không còn kịp nữa. Quân đội của Chu Nguyên Chương khi thấy chiến thuyền của Trần Hữu Lượng đã đến cầu Giang Đông liền phất cờ vàng, phục binh từ khắp bốn phía nhảy ra, đánh kẹp Trần Hữu Lượng từ trên bộ lẫn dưới sông. Không mấy chốc, toàn quân cửa Trần Hữu Lượng bị đánh tan tác. Bản thân của Trần Hữu Lượng phải nhảy xuống thuyền con bỏ trốn. Chu Nguyên Chương chỉ huy đại quân thừa thắng truy kích, lấy lại thành Thái Bình, rồi tiến quân bảo vệ được cả Kiến Khang. Năm 1362, đại tướng Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi của nhà Nguyên đánh dẹp gần hết Hồng Cân quân ở miền bắc thì bị bọn hàng tướng là Điền Phong, Vương Sĩ Thành ám hại ở Ích Đô. "Quốc triều điển cố" chép: Chu Nguyên Chương nghe tin Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi bị hại, chỉ nói: "Thiên hạ hết người rồi!". Con của Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi là Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi (có tên Hán là Vương Bảo Bảo) nổi giận đánh tan nát Ích Đô, giết chết Điền Phong và Vương Sĩ Thành để trả thù cho cha, quét sạch Hồng Cân quân ở miền bắc, bắt đầu dòm ngó miền nam, nơi Chu Nguyên Chương cùng Trần Hữu Lượng và Trương Sĩ Thành vẫn còn đang tranh đấu với nhau. Tuy nhiên, Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi sau đó lại rơi vào cuộc chiến với đồng liêu của cha mình là Bột La Thiếp Mộc Nhi do những bất đồng nội bộ, nên chiến dịch nam chinh của nhà Nguyên chưa thể thực hiện. Năm 1363, Chu Nguyên Chương quyết định thân chinh để giải cứu An Phong (nay nằm về phía Nam Thọ Huyện, tỉnh An Huy) để giải vây cho bộ tướng cửa mình là Lữ Trân cùng với Long Phượng hoàng đế Hàn Lâm Nhi và Lưu Phúc Thông đang bị Trương Sĩ Thành bao vây. Khi Chu Nguyên Chương cử binh đến cứu viện cho An Phong, thì Trần Hữu Lượng bèn thừa cơ xua quân tấn công. Hắn điều động mấy trăm chiến thuyền, năm sáu mươi vạn quân đội, dốc hết sức mạnh để bao vây Hồng Đô (nay là thành phố Nam Xương, tỉnh Giang Tây), và đã nhanh chóng chiếm Cát An, Lâm Giang, và Vô Vi Châu. Nam Xương bị vây hơn tám mươi ngày, kịch chiến liên tục đêm ngày mấy mươi hôm, tình trạng hết sức nguy cấp. Quân Chu Nguyên Chương chưa đến thì An Phong đã thất thủ. Hàn Lâm Nhi thoát nạn, còn Lưu Phúc Thông thì có thuyết đã tử trận ở thành, có thuyết còn sống cùng Hàn Lâm Nhi thêm một thời gian nữa. Chu Nguyên Chương nghe tin Trần Hữu Lượng ra quân đánh đất của mình thì bèn đích thân dẫn hai chục vạn đại binh đi cứu viện, ra lệnh cho Lưu Bá Ôn ở lại giữ Ứng Thiên. Trần Hữu Lượng nghe nói Chu Nguyên Chương dẫn binh tới cứu viện nên vội vàng tháo vòng vây và bố trí trận địa tại hồ Bà Dương, chuẩn bị nghênh chiến. Quân cứu viện của Chu Nguyên Chương tới nơi, liền bắt đầu kịch chiến với quân địch trên hồ Bà Dương. Giai đoạn đầu của trận đánh, Chu Nguyên Chương nhiều lần gặp cảnh thất lợi, suýt nữa lâm nguy. Bí quá, Chu Nguyên Chương bèn ra lệnh cho Từ Đạt về Ứng Thiên thay thế Lưu Bá Ôn. Lưu Bá Ôn đi bất kể ngày đêm. Sau khi đến nơi, bèn cùng Chu Nguyên Chương bàn bạc chiến thuật để phá địch. Hai người đều chủ trương dùng hỏa công. Nhưng Chu Nguyên Chương vẫn lo hướng gió không ổn định, thuyền nhiều khó đốt cháy hết, nếu không khéo lửa còn có thể cháy đến thuyền mình như chơi. Căn cứ theo sự quan sát hiện tượng thiên văn của Lưu Bá Ôn, ông đoán đến hoàng hôn thì sẽ có gió Đông bắc thổi. Họ liền chuẩn bị ngay bảy chiếc thuyền nhỏ, bên trên chất nhiều hình nộm bằng rơm để nghi binh, lại đổ nhiều dầu lên cỏ sậy khô, còn chứa trong thuyền rất nhiều thuốc súng và lưu huỳnh, nhanh chóng cho thuyền tiến ra giữa hồ. Khi tới gần chiến thuyền của địch, binh sĩ bèn quăng móc để móc dính thuyền địch và thuyền hỏa công, rồi nổi lửa đốt. Chỉ trong khoảnh khắc, lửa cháy ngất trời. Những thuyền to đều bị cháy. Cuộc chiến đấu giữa đôi bên diễn ra vô cùng ác liệt, một ngày phải tiếp lửa đến mấy chục lần. Tiếng hò reo sát phạt, tiếng sóng gió, tiếng lửa cháy hòa lẫn lại làm một, nghe thật rùng rợn. Trong khi kịch chiến, tướng sĩ hai bên thương vong rất nhiều. Trần Hữu Lượng không tiên liệu được điều đó nên sự tổn thất càng to hơn. Cuộc hỗn chiến tại hồ Bà Dương kéo dài ba hôm vẫn chưa phân thắng bại. Về sau, Lưu Bá Ôn kiến nghị với Chu Nguyên Chương nên đưa quân chủ lực ra cửa hồ, chận con đường lưu thông của địch quân, rồi dùng biện pháp "đóng cửa đánh chó", để cắt đứt đường vận chuyển lương thực của địch. Do lương thực thiếu thốn, binh sĩ mệt mỏi, nội bộ của Trần Hữu Lượng bắt đầu nghi kỵ lẫn nhau, nên quân của Trần Hữu Lượng đã nhanh chóng bị đánh bại. Một số lớn bị bắt và đầu hàng. Trần Hữu Lượng khi chường mặt để quan sát tình hình, bỗng một mũi tên lạc bắn trúng, chết ngay tại chỗ. Quân đội cửa Chu Nguyên Chương đã trả một giá rất cao về mặt thương vong, và trải qua mấy lần nguy hiểm, rốt cục đã đánh bại triệt để cánh quân của Trần Hữu Lượng. Trận đánh được xem như một trong hai trận thủy chiến lớn nhất lịch sử Trung Quốc, trận đánh còn lại là trận Xích Bích thời Tam Quốc, cả hai trận đánh đều có điểm tương đồng là lực lượng phía nam yếu thế hơn nhưng đã thắng lực lượng phía bắc mạnh hơn và cả hai trận đánh đều có tính chất quyết định cho cục diện lịch sử Trung Quốc lúc đó. Chu Nguyên Chương khải hoàn về Nam Kinh, từ đó không trực tiếp thân chinh nữa mà chỉ đạo các tướng lĩnh từ căn cứ của mình. Bình định Trương Sĩ Thành Lúc 2 tập đoàn Chu Nguyên Chương – Trần Hữu Lượng triển khai quyết chiến, Trương Sĩ Thành vẫn cho rằng có thể giữ được cục diện chia ba chân vạc, không đưa ra hành động nào. Khi cuộc chiến bình định quân Hán của Trần Hữu Lượng ở phía Tây đã dần dần kết thúc, thì Chu Nguyên Chương tập trung binh lực, quay mũi giáo chĩa về hướng Đông, tấn công vào Ngô Quốc do Trương Sĩ Thành dựng lên. Khi Trương Sĩ Thành chiếm cứ được vùng Triết Tây, phía Bắc liên kết được với Lưỡng Hoài, dựa vào sức mạnh vũ lực của mình, đã mấy phen xâm chiếm những vùng đất thuộc thế lực của Chu Nguyên Chương. Vào năm 1363, Trương Sĩ Thành bao vây thành Kiến Đức. Vị nguyên soái giữ thành là Lý Văn Trung nghe tin cả giận, muốn đánh một trận chết sống với hắn. Nhưng lúc đó có mặt Lưu Bá Ôn tại thành Kiến Đức. Ông bèn giải thích tường tận cho Lý Văn Trung nghe: "Chỉ ba hôm sau Trương Sĩ Thành nhất định sẽ gặp khó khăn trong việc tiếp tế lương thảo, và buộc phải triệt thoái. Khi hắn rút lui thì ta đuổi theo, chắc chắn chỉ cần đánh một trận là bắt sống được hắn". Lý Văn Trung bèn xuống lệnh truy kích. Tức thì, những con ngựa chiến đua nhau chạy như bay, mãi đến Đông Dương mới đuổi kịp bộ đội của Trương Sĩ Thành. Sau một trận kịch chiến, quân đội của Trương Sĩ Thành vốn đang đói lại đang mệt mỏi, nên không sao chống đỡ nổi. Chẳng mấy chốc, toàn bộ thảm bại và bị Lý Văn Trung bắt sống vô số. Năm 1364, Chu Nguyên Chương tự xưng là Ngô Vương. Tháng 2 năm 1365, Chu Nguyên Chương sau trừ xong chính quyền Trần Hán của Trần Hữu Lượng thì nhắm đến khu vực Giang Nam của Sĩ Thành. Tháng 10, Chu Nguyên Chương phái Từ Đạt lãnh binh chinh thảo, tiến hành sách lược "trước lấy các quận, huyện Thông, Thái, cắt vây cánh Sĩ Thành, sau đó đánh lấy Chiết Tây". Chưa đến nửa năm, toàn bộ vùng đất phía bắc Trường Giang của Trương Sĩ Thành đã thuộc về tay của Chu Nguyên Chương. Cùng lúc đó ở phía bắc, Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi đã dẹp xong Bột La Thiếp Mộc Nhi, cứu được Thái tử, được Nguyên Huệ Tông phong làm Tả thừa tướng. Khoách Khuếch lúc này muốn đem quân nam chinh nhưng không dám khinh suất Chu Nguyên Chương và Trương Sĩ Thành, bèn truyền bọn Lý Tư Tề ở Hoài Nam đến gặp để bàn kế sách. Bọn Tư Tề vốn ở vai cha chú với Khoách Khuếch nên không tuân lệnh, còn dấy binh chống lại ông. Hai bên đánh nhau mấy năm trời, buộc triều đình phải chủ trương giảng hòa. Khoách Khuếch vẫn chưa nguôi giận, ngầm phái thuộc hạ Mạch Cao xâm nhập vào sào huyệt của Tư Tề để ám sát ông ta. Nhưng bộ hạ của Mạch Cao phần lớn đều từng dưới trướng Bột La, liền xúi Mạch Cao phản lại Khoách Khuếch, công khai tập kích đất của Tư Tề rồi vào triều đổ tội cho ông. Huệ Tông muốn trừ khử Khoách Khuếch, bèn bãi chức Tả thừa tướng của y rồi ép phải về đóng quân ở Nhữ Nam. Sau khi khôi phục binh quyền cho Thái tử, Huệ Tông lệnh cho con mình cùng với Tư Tề, Mạch Cao và Quan Bảo ở Thái Nguyên liên minh với nhau để tấn công Khoách Khuếch. Khoách Khuếch nổi giận, đánh chiếm Thái Nguyên, giết sạch quan lại nhà Nguyên cắt đặt. Huệ Tông nổi giận, bãi nhiệm hết chức tước của Khoách Khuếch và sai các nơi thảo phạt y, gây ra cảnh tương tàn trong nội bộ nhà Nguyên ở phía bắc. Việc này khiến Chu Nguyên Chương ở phía nam yên tâm hơn trong việc đánh dẹp Trương Sĩ Thành. Tháng 5 năm 1366, Chu Nguyên Chương ban bố "Bình Chu hịch", liệt kê 8 tội trạng của Sĩ Thành. Tháng 8, Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân tiến quân, không đầy 3 tháng đánh chiếm Hồ Châu, Hàng Châu, Thiệu Hưng. Quân đội của Chu Nguyên Chương kéo đến dưới thành Bình Giang, tiến hành thế trận bao vây. Chu Nguyên Chương nghe theo ý kiến của Diệp Đoái, đắp lũy dài để vây khốn, dựng tháp quan sát động tĩnh trong thành, trên tháp lại có hảo pháo, đêm ngày bắn phá. Trương Sĩ Thành liều chết chống lại, nhiều lần đột vây thất bại, đến khi lương – đạn đều hết, cả yên ngựa cũng đem ra nấu, phải dỡ chùa miếu lấy gạch đá thay tên đạn, nhưng trăm họ đồng lòng cố thủ với Trương Sĩ Thành. Cũng trong năm 1366, Chu Nguyên Chương sai Liêu Vĩnh Trung đón Long Phượng hoàng đế Hàn Lâm Nhi, nhưng thuyền lật khiến Hàn Lâm Nhi chết. Liêu Vĩnh Trung bị đổ tội và bị Chu Nguyên Chương xử tử. Trải qua 10 tháng, trong thì kiệt quệ, ngoài thì không có viện quân, ngày Tân Tị (8) tháng 9 năm 1367 (1 tháng 10 năm 1367) thành vỡ, Trương Sĩ Thành tự sát không chết, bị bắt sống. Vợ Trương Sĩ Thành là Lưu thị ôm hai con trai, chất củi dưới lầu mà tự thiêu. Chu Nguyên Chương khuyên hàng không được, giải Trương Sĩ Thành về phủ Ứng Thiên, lại sai Lý Thiện Trường đến khuyên hàng. Trương Sĩ Thành tiếp tục cự tuyệt, trong đêm treo cổ tự sát. Chiến thắng trước Trương Sĩ Thành giúp chính quyền Chu Minh giành quyền kiểm soát toàn bộ các vùng đất bắc và nam sông Dương Tử, thanh thế rất mạnh. Việc này khiến các thủ lĩnh nghĩa quân nhỏ nhanh chóng theo hàng, trong đó có Phương Quốc Trân. Nhờ đó, Chu Nguyên Chương đã hoàn toàn thống nhất được miền nam, tạo thế đối địch với triều đình nhà Nguyên ở phía bắc. Thực tế lúc ấy ở Tứ Xuyên vẫn còn nước Đại Hạ của Khai Hy hoàng đế Minh Thăng (kinh đô ở Trùng Khánh), vốn li khai triều đình từ năm 1362, đã không đầu hàng Chu Nguyên Chương nhưng cũng không đủ mạnh để đe dọa thế lực của ông. Mãi đến năm 1371, Chu Nguyên Chương mới chia binh làm hai đường đánh vào nước Đại Hạ. Kinh đô Trùng Khánh nhanh chóng bị quân Minh chiếm đóng. Minh Thăng sau đó bị nhà Minh đày sang Cao Ly. Tháng 12 năm 1367, khúc ca khải hoàn nổ ra tại Tô Châu, Chu Nguyên Chương tuyên bố sẽ xưng đế sau khi thống nhất được Giang Nam. Ông được nhân dân hưởng ứng và ủng hộ hết mình, họ quyết tâm lật đổ bằng được triều đình ngoại tộc thối nát của Nguyên triều tại Trung Nguyên. Cuối năm 1367, Chu Nguyên Chương phong Từ Đạt làm đại tướng quân, Thường Ngộ Xuân làm phó tướng dẫn 25 vạn đại quân bắc phạt, đã nhanh chóng chiếm được Sơn Đông từ tay quân Mông Cổ. Tháng 1 năm 1368, Chu Nguyên Chương xưng đế, lập ra triều đại nhà Minh, lấy niên hiệu là Hồng Vũ, định đô ở Nam Kinh. Nhiệm vụ tiếp theo của ông là đánh đuổi người Mông Cổ khỏi Trung Quốc, khôi phục giang sơn của người Hán. Đánh đuổi người Mông Cổ Chiếm Hoa Bắc Năm 1368, Chu Nguyên Chương hạ lệnh cho Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân tiếp tục xuất quân bắc phạt đánh đuổi người Mông Cổ khỏi đất của người Hán. Lúc này thủ lĩnh Hà Chân ở Quảng Châu, Quảng Đông, Giang Tây, Phúc Kiến dẫn quân quy hàng Hồng Vũ hoàng đế nhà Minh. Từ Đạt kéo 25 vạn quân Bắc, thu lấy Đại Lương. Lương vương A Lỗ Ôn, cha của Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi, dâng Hà Nam đầu hàng. Thoát Nhân Thiếp Mộc Nhi (em của Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi) thua to phải bỏ chạy, còn các cánh quân khác đều tan rã, không ai chống cự. Quân Minh bức đến Đồng Quan, bọn Lý Tư Tề của nhà Nguyên hoảng sợ chạy về phía tây, còn bọn Mạch Cao, Quan Bảo của nhà Nguyên thì bị Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi bắt giết vì nghe lời Nguyên Huệ Tông đánh mình mấy năm qua. Nguyên Huệ Tông sợ hãi, hạ chiếu quy tội cho Thái tử, bãi bỏ binh quyền của con mình, khôi phục quan tước cho Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi, lệnh cho ông cùng bọn Lý Tư Tề thảo phạt quân Minh của Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân. 1 tháng sau, quân Minh do Từ Đạt chỉ huy tiến công đến kinh thành Đại Đô của nhà Nguyên. Nguyên Huệ Tông nghe tin, biết đại thế đã mất, liền cùng đám quần thần vội vã kéo gia quyến bỏ chạy khỏi Đại Đô. Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi cứu viện không kịp. Tháng 8 năm 1368, quân Minh của Từ Đạt chiếm được Đại Đô (còn được gọi là kinh thành Khanbaliq). Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi sai tướng đánh bại tướng nhà Minh là bọn Thang Hòa ở Hàn Điếm. Nguyên Huệ Tông ở Khai Bình lệnh cho Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi cố gắng thu phục Đại Đô. Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi từ phía bắc ra khỏi Nhạn Môn quan, muốn từ Bảo An đi qua Cư Dung mà tấn công vào Bắc Bình. Tướng nhà Minh là bọn Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân nhân đó tập kích quân Mông Cổ tại Thái Nguyên. Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi quay về cứu, không ngờ bộ tướng của mình là Khoát Tị Mã đã ngầm đầu hàng quân Minh. Quân Minh cướp trại trong đêm, Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi hoảng hốt đưa 18 kỵ binh rút chạy về phía bắc. Sau khi quân Minh vào Đồng Quan, bọn Lý Tư Tề của Mông Cổ kẻ đầu hàng người bỏ trốn, nhà Nguyên chỉ còn dựa vào Nạp Cát Xuất ở phía đông bắc và Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi ở phía tây bắc mà chống giữ. Nguyên Huệ Tông lúc này đã về đến Mông Cổ, lập ra nhà Bắc Nguyên và lên ngôi ở Thượng Đô. Chính quyền Đại Nguyên ở Trung Quốc tồn tại được 97 năm cuối cùng đã bị diệt vong kể từ đây. Người Mông Cổ buộc phải bỏ toàn bộ vùng Hoa Bắc và rút lui hẳn về thảo nguyên vào tháng 9 năm 1368. Mặc dù sự kiểm soát của Chu Nguyên Chương đối với toàn lãnh thổ Trung Quốc vẫn chưa được ổn định, nhưng Chu Nguyên Chương cho rằng nhà Nguyên đã mất thiên mệnh khi triều đại này bỏ kinh đô Khanbaliq. Nhà Minh sau này không xem Nguyên Huệ Tông sau năm 1368 và những người kế nhiệm ông này như những hoàng đế hợp pháp của Trung Hoa nữa. 12 lần Bắc phạt vào Mông Cổ Người Mông Cổ tuy đã bị đánh đuổi khỏi Trung Quốc đại lục, nhưng lãnh thổ của đế quốc Mông Cổ vẫn còn rất lớn, kéo dài sự cai trị từ Biển Nhật Bản đến dãy núi Altay. Vẫn còn những thế lực ủng hộ nhà Nguyên là lực lượng chống nhà Minh tại Vân Nam và Quý Châu. Hơn nữa, triều đình Bắc Nguyên vẫn đang lăm le tái chiếm Đại Đô nếu có cơ hội, khi vẫn còn duy trì lực lượng quân đội khá hùng hậu ở vùng biên giới phía bắc và phía tây. Do đó, Chu Nguyên Chương quyết định thực hiện nhiều chiến dịch Bắc tiến vào lãnh thổ Mông Cổ, nhằm triệt tiêu âm mưu đó của họ, cũng như để mở rộng lãnh thổ phía bắc của đất nước. Tháng 6 năm 1369, Từ Đạt lại kéo quân vào thảo nguyên Mông Cổ, mở đầu cho một chuỗi các đợt chinh phạt Mông Cổ trên diện rộng của nhà Minh. Nguyên Huệ Tông phải cầu viện đại tướng nước Cao Ly là Lý Thành Quế đem quân ngăn chặn Từ Đạt. Tuy nhiên, Lý Thành Quế do muốn quy thuận theo nhà Minh nên đã liên minh với quân của Từ Đạt. Thượng Đô cũng rơi vào sự chiếm đóng của Đại Minh, Nguyên Huệ Tông phải chạy xa về phía bắc đến Ứng Xương. Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi ở phía tây, chỉ có thể phần nào hạn chế quân Minh. Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi bao vây tướng Minh là Trương Ôn ở Lan Châu, sau đó tiêu diệt toàn bộ cánh quân cứu viện của quân Minh, kể cả chủ tướng nhà Minh là Vu Quang. Thời điểm này Khai quốc công thần nhà Minh là Thường Ngộ Xuân đã qua đời, chỉ còn Từ Đạt làm đại tướng quân. Khi xưa Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi ở Hà Nam, Chu Nguyên Chương thường sai sứ đến thông hảo, ông đều không gặp. Thư từ gởi đến, đều không đáp lại. Nay Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi chạy ra Tái Bắc, Minh Thái Tổ thường sai sứ chiêu dụ, cũng không đáp ứng. Cuối cùng Minh Thái Tổ sai Lý Tư Tề đến. Ban đầu, Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi tiếp đãi ông ta theo lễ. Sau đó lại sai kỵ sĩ đưa về. Đến địa giới nhà Minh, kỵ sĩ nói: "Chủ soái có lệnh, xin ngài lưu lại một vật để kỷ niệm". Lý Tư Tề đáp: "Ta đi xa không mang theo gì cả!". Kỵ sĩ bèn nói: "Xin ngài để lại 1 cánh tay!". Lý Tư Tề không làm sao được, đành phải chặt tay. Lý Tư Tề trở về không lâu thì chết. Ngày 3 tháng 1 năm 1370, quân Minh do Từ Đạt chỉ huy lần thứ 2 tiến hành bắc phạt vào đất Mông Cổ, đánh vào thủ đô Mông Cổ là Hoà Lâm (Karakorum), bắt sống hàng ngàn quý tộc Mông Cổ vào năm 1370. Quân của Từ Đạt đã tiến vào Transbaikalia (Ngoại Baikal) và thậm chí tiến xa hơn về phía bắc mà chưa có đội quân nào của Trung Quốc trước đó từng làm được. Ngày 8 tháng 4 năm 1370, quân của Từ Đạt trong trận Trầm Nhi Dục đã đánh bại Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi giữa đám mồ hoang ở Xuyên Bắc. Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi chỉ đưa vợ con vài người vượt Hoàng Hà, ra khỏi Ninh Hạ chạy đến Hòa Lâm (Karakorum). Em gái Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi là Vương thị ở lại Hà Nam, trở thành con dân nhà Minh (nhà văn Kim Dung hình tượng hoá nhân vật này thành Triệu Mẫn quận chúa, sau theo Trương Vô Kỵ sống hết đời hạnh phúc). Tiến sĩ triều Nguyên là Thái Tử Anh bị bắt trong trận Trầm Nhi Dục, dù bị tra tấn hay dụ dỗ đến đâu cũng không khuất phục. Một ngày kia bỗng rơi nước mắt, nói: "Không phải cho ta, là cho chủ nhân của ta (Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi)!". Minh Thái Tổ nghe vậy rất cảm động. Năm 1376, Thái Tử Anh được Minh Thái Tổ cho thả về Tái Bắc, nhưng khi đó chủ tướng của hắn là Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi đã mất rồi. Ngày 28 tháng 4 năm 1370, Nguyên Huệ Tông lâm bệnh rồi qua đời ở Ứng Xương. Thái tử Ái Du Thức Lý Đáp Lạp lên kế vị, tức vua Nguyên Chiêu Tông), uỷ thác quốc sự cho Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi. Tháng 9 năm 1371, em gái Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi là Vương thị đang ở Hà Nam của nhà Minh thì bị Từ Đạt của nhà Minh bắt, đem trình diện Minh Thái Tổ. Sau khi nhìn thấy Vương thị, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương vô cùng vui mừng, muốn ban nàng làm vợ cho con trai là Tần vương Chu Sảng, đồng thời làm con tin uy hiếp Khoách Khuếch. Là một cô gái có khí khách, không chịu khuất phục cường quyền, Vương thị không muốn mình phải làm vợ của Hoàng tử phía kẻ địch. Nàng lấy cớ ông vừa qua đời, phải giữ tròn đạo hiếu nên tỏ ý cự tuyệt hôn sự mà Chu Nguyên Chương định đoạt. Tuy nhiên, Thái Tổ nhà Minh không dễ bỏ cuộc như vậy. Ông hỏi nàng: "Trong thiên hạ, điều gì là quan trọng nhất?. Vương thị đáp: "Chính là chữ Hiếu". Chu Nguyên Chương bèn nói: "Sai, Trung Hiếu mới là quan trọng nhất. Mà trong Trung Hiếu, chữ Trung nằm phía trước. Trẫm là đương kim Hoàng Đế, Trung Hiếu của khanh, đều phải hướng về Trẫm". Dưới sự ép buộc rõ ràng của Chu Nguyên Chương, tháng 10 năm 1371, Chu Sảng Hoàng tử cưới Vương thị và phong nàng làm Vương Phi. Nhưng cuộc hôn nhân chính trị này vẫn không thể lay chuyển được Vương Bảo Bảo (Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi), vị mãnh tướng không hề đầu hàng nhà Minh vì sự an nguy của em gái. Điều đó cũng là nền móng cho cuộc đời đau khổ sau này của mỹ nhân bạc mệnh Vương thị. Cuộc hôn nhân do một tay Minh Thái Tổ tạo nên lại khiến cho đến hai người phải chịu khổ. Vương thị bị ép cưới Hoàng tử Chu Sảng, Chu Sảng cũng không hề yêu Vương thị, thậm chí còn hành hạ nàng. Mặc dù sinh cho Chu Sảng đến 3 người con trai, nhưng nàng vẫn không hề được Tần Mẫn vương sủng ái. Thậm chí, Chu Sảng còn giam cầm Vương thị ở hậu viện, cuộc sống như bị cầm tù, cả đời chỉ được quanh quẩn ở chốn sân vườn phía sau. Năm 1372, Lam Ngọc theo Từ Đạt dẫn quân Minh chia thành 3 đạo đánh Bắc Nguyên lần thứ 3 ở thảo nguyên Mông Cổ, vượt qua Nhạn Môn quan và đánh bại quân Nguyên ở núi Loan, gần sông Thổ Lạp. Minh Thái Tổ nhiều lần yêu cầu nhà Bắc Nguyên phải giải tán lực lượng quân sự ở vùng biên giới nhưng không thành. Năm 1373, quân Minh lần thứ 4 tiến hành Bắc phạt, chia 3 đường mà tiến. Đạo trung quân của Từ Đạt tiến đến sông Kuul chỉ trong 20 ngày, nhưng đã bị Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi đánh bại gần Hòa Lâm, Từ Đạt phải chạy thoát cùng đám tàn quân còn rất ít. Cánh quân phía đông tiến tới sông Kherlen, cũng bị đánh bại và phải rút về Orkhon và tại đây lại bị quân Nguyên tấn công. Đạo quân này lại bị đánh bại và sau đó thất bại trong trận chiến cuối cùng ở gần Hòa Lâm. Đạo quân phía tây của Lý Văn Trung tuy giành được một số chiến thắng không đáng kể, nhưng sau khi nhận tin chiến bại gửi về từ hai đạo quân khác, cánh quân này cũng đã phải rút lui. Năm sau (1374), Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi dẫn quân Mông Cổ tấn công Nhạn Môn, Minh Thái Tổ lệnh cho các tướng phòng bị nghiêm ngặt. Theo Minh sử, từ sau chiến dịch Hòa Lâm, quân Minh hiếm khi ra khỏi biên cương. Năm 1375, Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi đưa Nguyên Chiêu Tông dời đến Kim Sơn, mất ở Nha Đình thuộc bể Cáp Lạt Na. Vợ là Mao thị cũng treo cổ mà chết. Em trai Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi là Thoát Nhân Thiếp Mộc Nhi. Sau khi anh mất, Thoát Nhân Thiếp Mộc Nhi tiếp tục phò tá nhà Bắc Nguyên. Năm 1378, quân Minh bắc phạt Mông Cổ lần thứ 5, đánh chiếm Ứng Xương của Mông Cổ. Vua Nguyên Chiêu Tông băng hà không lâu sau đó. Em trai của ông là Thoát Cổ Tư Thiếp Mộc Nhi đăng cơ, tức Uskhal Khan. Trong khi nhà Bắc Nguyên đang tổ chức tang lễ cho Chiêu Tông, nhà Minh đã gửi sứ giả đến điếu tang và trao trả tù binh Maidarbal, người đã bị bắt làm tù binh trong trận đánh ở Ứng Xương năm 1378. Tuy nhiên, chiến sự giằng co giữa Bắc Nguyên và nhà Minh vẫn diễn ra nhiều năm sau đó. Uskhal Khan đã điều động quân đến đóng tại khu vực gần Ứng Xương và Hoà Lâm, cùng hợp tác với thủ lĩnh Nạp Cáp Xuất của bộ tộc Thát Đát và mở những chiến dịch quân sự đẩy lùi quân Minh về phía nam. Đáp lại, quân Minh đã thực hiện đợt tiến công lớn vào Bắc Nguyên năm 1380 (Bắc phạt lần thứ 6) và cướp phá kinh đô Hoà Lâm. Tháng 6 năm 1380, nhà Minh lại tiến hành Bắc phạt lần thứ 7, tiến quân đánh các đạo quân đồn trú của quân Nguyên ở miền Bắc Trung Quốc, nhưng thất bại phải rút về. Hai viên tướng Nguyên, Öljei-Buqa và Nair-Buqa thậm chí đã đánh bại và giết chết tướng Lưu Quang của nhà Minh. Trong năm 1380, Chu Đệ (con thứ tư của vua Minh Thái Tổ) và gia đình của ông chuyển từ thủ đô Nam Kinh đến Bắc Bình (xưa là Đại Đô), nó từng là kinh đô của triều đại người Mông Cổ ở Trung Hoa, có kích thước tương tự như Hoàng cung ở Nam Kinh, so với các Hoàng tử anh em của ông, ông được nhận vùng đất phong Yên vương có điều kiện tốt nhất cho phát triển. Chu Đệ đã tạo ra xung quanh mình một hệ thống quan lại tương đương với 1 triều đình độc lập. Hơn nữa, bên cạnh có tướng Từ Đạt, cha vợ của ông, thành Bắc Bình có vị trí quan trọng và được mở rộng để làm các căn cứ quân sự chính ở phía bắc. Từ đó, Yên vương Chu Đệ cùng anh mình Tấn Cung vương Chu Cương và những người anh em khác đã thực hiện nhiều chiến dịch thành công chống lại quân Mông Cổ dọc theo biên giới. Trong năm sau (năm 1381), nhà Minh lại huy động một đội quân lớn để tấn công nhà Bắc Nguyên, đó là đợt Bắc phạt lần thứ 8. Cũng trong năm 1381, quân Minh dưới sự chỉ huy của Mộc Anh đánh chiếm những vùng đất cuối cùng của Nhà Nguyên là Vân Nam, Quý Châu và Trung Hoa hoàn toàn được thống nhất dưới sự kiểm soát của nhà Minh. Tuy vậy, Minh Thái Tổ tuyên bố sẽ tiêu diệt lực lượng quân Mãn Châu đồng minh của Bắc Nguyên vào năm 1387 bằng một chiến dịch quân sự lớn và hai bên đều chịu những tổn thất nặng nề trong trận đánh tại Trường Xuân. Cùng năm, do phải hứng chịu một nạn đói khủng khiếp, thủ lĩnh Mãn Châu là Nạp Cáp Xuất đã quyết định đầu hàng quân Minh, đưa Bắc Nguyên vào tình thế bất lợi. Sau khi tiêu diệt Mãn Châu, quân Minh chuyển hướng sang tấn công triều đình của vua Uskhal Khan đang đóng tại Ứng Xương (đợt Bắc phạt lần thứ 9). Vua Uskhal Khan bại trận rút khỏi Ứng Xương, chạy đến hồ Bối Nhĩ (Buyur) đóng quân. Trong năm 1388, Minh Thái Tổ phong cho Lam Ngọc làm Đại tướng quân (大將軍), thống suất 15 vạn đại quân Minh tiến hành Bắc phạt lần thứ 10, giao chiến với quân của vua Uskhal Khan ở hồ Bối Nhĩ (Buyur). Lam Ngọc dẫn quân Minh vượt qua Vạn Lý Trường Thành, thám báo cáo lại rằng quân Nguyên đang đóng trại tại hồ Bối Nhĩ (Buyur). Quân Minh tiếp tục bắc tiến, vượt qua sa mạc tiến đến hồ Bối Nhĩ vào tháng 4 năm 1388. Quân Minh ban đầu đến gần hồ Bối Nhĩ 40 dặm mà vẫn không thấy quân Nguyên, việc này làm cho Lam Ngọc cảm thấy nản chí và muốn lui quân. Phó tướng là Vương Tích lại khuyên Lam Ngọc rằng đại quân đã đến đây mà tay trắng trở về, không làm nên trò trống gì thì thiên hạ cười cho, chưa kể còn bị nhà vua trách tội. Lam Ngọc nghe lời, hạ lệnh tăng cường dò thám tung tích quân địch, cuối cùng Lam Ngọc phát hiện quân Nguyên đang đóng tại phía đông bắc hồ Bối Nhĩ. Lam Ngọc nhân lúc trời tối lại có bão cát cho quân tiến sát tới doanh trại quân Nguyên. Ngày 18 tháng 5 năm 1388, Lam Ngọc hạ lệnh tấn công, quân Nguyên vì bất ngờ nên bị đánh tan tác. Tướng Mông Cổ là Thoát Nhân Thiếp Mộc Nhi (em trai của Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi) thua trận bị nhà Minh bắt. Trận đánh kết thúc với nhiều quý tộc Mông Cổ bị bắt sống, trong đó có gia quyến hơn 100 người của vua Uskhal Khan. Quân Minh còn bắt được hơn 7 vạn người, 15 vạn gia súc và chiếm được ngọc tỷ của vua Uskhal Khan. Uskhal Khan phải bỏ chạy về thảo nguyên Hoà Lâm (Karakorum). Trên đường trốn chạy về phía tây để tìm viện binh, Uskhal Khan lại bị Trác Lý Khắc Đồ (Yesüder), một hậu duệ của A Lý Bất Ca (Ariq Böke) và là một đồng minh của người Oirat tấn công và giết chết cùng con trai của mình. Ngôi khả hãn Mông Cổ đã được thừa kế bởi Trác Lý Khắc Đồ. Sự kiện này đã đánh dấu sự suy yếu của quyền lực dòng dõi nhà Nguyên và đánh dấu sự trỗi dậy của người Oirat trên thảo nguyên Mông Cổ. Đối với Chu Nguyên Chương, chiến thắng trong đợt Bắc phạt này đã giúp nhà Minh mở rộng đáng kể cương vực ở biên giới phía bắc. Thoát Nhân Thiếp Mộc Nhi (em trai của Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi) bị nhà Minh lưu đày đến Kế Châu. Sau đó Thoát Nhân Thiếp Mộc Nhi (em trai của Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi) tìm cách liên hệ với các hàng tướng nhà Nguyên tại Kế Châu thì bị nhà Minh phát giác. Tháng 7 năm 1388, Thoát Nhân Thiếp Mộc Nhi bị tướng nhà Minh là Lam Ngọc giết chết. Sau khi Trác Lý Khắc Đồ tức vị (gọi là Nguyên Cung Tông), đế chế của Mông Cổ nhanh chóng chia rẽ và rơi vào nội loạn. Gunashiri, một hậu vệ trực hệ của Oa Khoát Đài hãn, đã tách ra khỏi đế chế và tự thành lập một nước nhỏ tên gọi Qara Del. Trong lúc đó, một tướng cũ khác của Uskhal Khan là Necelai đã đầu hàng nhà Minh và được vua Minh Thái Tổ thu dụng. Triều đình nhà Minh đã sử dụng Necelai để thành lập một đội quân người Mông Cổ (còn được biết đến với tên gọi Tam quân) đóng tại vùng mà ngày nay là Nội Mông nhằm chống lại Nguyên Cung Tông. Tuy nhiên, một tướng cũ khác của vị đại hãn trước đây là Shirmen lại thần phục vua Nguyên Cung Tông và sau đó giết chết được Necelai. Ajashir - vị quận công Liêu Đông cũ và là một trong những thủ lĩnh của Tam quân, đã quay về đầu hàng vua Nguyên Cung Tông sau năm 1389. Ngày 2 tháng 3 năm 1390, Mã Hoà đi cùng Yên vương Chu Đệ khi ông này chỉ huy cuộc chinh phạt đầu tiên vào đất Mông Cổ (nhà Minh bắc phạt Mông Cổ lần thứ 11). Quân Minh đã có một chiến thắng dễ dàng khi tướng Mông Cổ là Nagachu đầu hàng nhà Minh ngay khi ông này nhận ra mình bị nhà Bắc Nguyên lừa dối. Đến năm 1390, Tấn Cung vương Chu Cương (con thứ ba của Minh Thái Tổ) và những người anh em khác (gồm cả Yên vương Chu Đệ) đã thực hiện nhiều chiến dịch thành công chống lại quân Mông Cổ dọc theo biên giới phía bắc và trấn giữ, dẹp loạn ở biên giới phía bắc. Từ năm 1390 đến năm 1391, quân Mông Cổ của vua Nguyên Cung Tông gây hấn ở biên giới phía bắc nhà Minh. Tề Cung vương Chu Phù (con thứ bảy của Minh Thái Tổ) và Yên vương Chu Đệ (con thứ tư của Minh Thái Tổ) được cử đi dẹp loạn vùng biên ải. Kể từ khi giành được nhiều thắng lợi, Tề Cung vương Chu Phù tỏ ra kiêu ngạo, thường bị phụ hoàng Minh Thái Tổ quở trách. Đến cuối năm 1391 sau những lần đánh bại quân Mông Cổ, phòng thủ thành công ở biên giới phía bắc, Yên vương Chu Đệ (con thứ tư của Minh Thái Tổ) ở Bắc Bình (nay là Bắc Kinh) được nhiều bộ lạc Mông Cổ đến đầu hàng và hết lòng trung thành với ông. Năm 1392, một hàng tướng Mông Cổ là Nguyệt Lỗ Thiết Mộc Nhi (月魯帖木兒) làm phản ở Kiến Xương (Tứ Xuyên), tướng Minh là Lam Ngọc được phái đi dẹp. Lam Ngọc nhanh chóng đánh tan phản quân, bắt được Nguyệt Lỗ Thiết Mộc Nhi và các con của ông này giải về Nam Kinh. Cũng trong năm 1392, nhà Minh lại tổ chức một cuộc tấn công nữa vào Mông Cổ (chiến dịch Bắc phạt lần thứ 12), cướp được rất nhiều người ngựa và gia súc. Vua Nguyên Cung Tông rất có thể đã chết trong trận chiến này. Em trai Nguyên Cung Tông là Ngạch Lắc Bá Khắc kế vị, tức Elbeg Nigülesügchi Khan. Dưới thời Elbeg Nigülesügchi Khan, những người Oirat bắt đầu thách thức công khai dòng họ Bột Nhĩ Chỉ Cân của nhà Bắc Nguyên và nhà Minh cơ bản đã đẩy lùi hẳn các cuộc xâm lược của Mông Cổ. Đây cũng là đợt Bắc phạt cuối cùng của Minh Thái Tổ, nhưng khi con ông là Chu Đệ (Minh Thành Tổ) nắm quyền sau này, nhà Minh lại tiếp tục đẩy mạnh các chiến dịch trấn áp, thu phục các bộ lạc Mông Cổ. Kế sách Đối với chính thể chuyên chế của phong kiến Trung Hoa, quân đội là trụ cột của triều đình. Cho nên hầu hết các vua khai quốc đều lập được nhiều chiến công hiển hách. Cũng có thể nói, chiến tranh đã tôi luyện nên trí dũng và tầm nhận thức của một vĩ nhân. Chu Nguyên Chương vạch ra chiến lược Bắc phạt, đã nói rõ ông là người thông minh tài trí hơn người. Đại tướng quân Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân kiến nghị dùng đại quân đánh thẳng vào kinh đô triều Nguyên ngay từ đầu, Chu Nguyên Chương đã nhận thấy không thích hợp. Ông đã chỉ ra: Đạo quân đơn độc đánh sâu vào lòng địch thực tế là một điều cấm kỵ của nhà quân sự. Xem xét kỹ tình thế, ông đã vạch ra chiến lược cẩn thận mà tất thắng: Việc phân tích và bố trí chiến lược kiệt xuất này, hoàn toàn căn cứ theo dự liệu mà phát triển, việc Bắc phạt vì vậy đã thành công. Nguyên nhân thắng lợi Bất cứ sự thành công nào của một vĩ nhân, không phải chỉ ngồi đợi ơn ban, mà là nắm lấy vận mệnh của mình. Chu Nguyên Chương đã không có quyền thế, lại không có trình độ văn hóa, ông ta mượn quân đội của Quách Tử Hưng để thâu tóm thiên hạ, sự thành công của ông khái quát lên trong ba điểm chủ yếu: Hoãn xưng đế Nghĩa quân các lộ phá thành chiếm đất, chưa lập được căn cứ ổn định đã vội xưng vương. Chu Nguyên Chương đã sử dụng lời khuyên của nho sĩ Lý Thiện Trường: Năm 1359, ông đã sớm trở thành một trang hào kiệt ngất ngưởng binh hùng tướng mạnh, nhưng ông vẫn không xưng vương mà nhận sự thụ phong của Tiểu Minh vương Hàn Lâm Nhi chính quyền Nhà Tống, làm Tả thừa tướng hành tỉnh Giang Tây, năm 1361 được tấn phong tước Ngô Quốc công. Năm 1363, ông rước Tiểu Minh vương về an trí ở Trừ Châu, mượn tay thiên tử ban lệnh cho chư hầu, nhưng vẫn không xưng vương. Năm 1364, Chu Nguyên Chương tiêu diệt tập đoàn quân sự lớn nhất ở lưu vực Trường Giang của Trần Hữu Lượng, lúc này mới xưng là Ngô vương, nhưng vẫn tôn trọng Tiểu Minh vương Nhà Tống. Biết người biết ta Trước kia, khi thực lực của Chu Nguyên Chương chưa lớn mạnh, ông luôn tránh chạm trán với quân chủ lực nhà Nguyên. Ông đã từng đánh bại quân Nguyên ở huyện Lục Hợp (tỉnh An Huy), nhưng đương thời lực lượng của ông rất yếu, không thể đánh nhau với quân chủ lực nhà Nguyên. Do đó, ông thường nộp lại cho triều đình các chiến lợi phẩm thu được, hướng dẫn quân Nguyên đi tấn công quân Trương Sĩ Thành, luôn giữ mối giao hảo với nhà Nguyên, uyển chuyển tránh né các cánh quân hùng mạnh, sách lược này được vận dụng rất thành công. Trên thực tế, Chu Nguyên Chương cũng không ít lần thất bại trong các chiến dịch chinh phạt Mông Cổ, nên ông vẫn dành một sự tôn trọng lớn đối với các tướng giỏi của nước này. Sau chiến dịch Hòa Lâm, một ngày kia Minh Thái Tổ bày tiệc thết đãi các tướng lĩnh, đột nhiên hỏi: "Kỳ nam tử trên đời có thể là ai?". Các tướng đáp là Thường Ngộ Xuân. Minh Thái Tổ cười nói: "Ngộ Xuân tuy là hào kiệt, nhưng đã là thần tử của ta. Bảo Bảo rốt cục vẫn không chịu hàng phục ta, thật là kỳ nhân, kỳ nam tử vậy!". Diêu Phúc, "Thanh khê hạ bút" chép rằng: sau khi Thái Tổ tán dương Vương Bảo Bảo (tên Hán của Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi), dân gian có câu ngạn ngữ để châm biếm những kẻ kiêu căng là: "thường tây biên nã đắc Vương Bảo Bảo lai da!" (tạm dịch: có giỏi thì ra biên giới phía tây mà bắt Vương Bảo Bảo (Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi) về đây!) Trần Kiến (1497 – 1567), "Hoàng Minh thông kỷ" chép rằng suốt đời Minh Thái Tổ có 3 việc không làm xong: 1 là Thiếu Truyền quốc tỷ. 2 là chưa bắt được Vương Bảo Bảo (Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi). 3 là không có tin tức của Nguyên Thái tử (tức Nguyên Chiêu Tông, bắt hụt trong lần Bắc phạt thứ 2). Có thể thấy, đối với Minh Thái Tổ, Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi còn xếp trên cả Nguyên Thái tử (Nguyên Chiêu Tông). Nắm chắc thời cơ để thôn tính dần Giang Nam Chu Nguyên Chương lợi dụng các cánh quân lớn phản Nguyên ở các lộ làm yểm trợ, không để mất thời cơ phát triển ở vùng trung lưu Trường Giang. Ông mượn vây cánh của Đại Tống, cam chịu phận dưới của Tiểu Minh vương, không xuất đầu lộ diện, mà âm thầm tích lũy phát triển lương thực, mở rộng địa bàn. Ông chọn Tập Khánh làm trung tâm, phía Bắc có Lưu Phúc Thông chống trả quân Nguyên, phía Đông lại có Từ Thọ Huy che chắn. Chu Nguyên Chương lợi dụng thời cơ này để phát triển vùng Giang Nam trước, đánh chiếm những vùng bỏ trống. Trong lúc quân Nguyên đang bận truy quét quân Lưu Phúc Thông và Từ Thọ Huy thì Chu Nguyên Chương cũng đã thống nhất được Giang Nam. Thiết lập sự cường thịnh của triều Minh Khi Nhà Minh mới thành lập, do hậu quả của chính sách cai trị của triều Nguyên và gần 20 năm chiến tranh, nền kinh tế Trung Quốc bị phá hoại nghiêm trọng, đời sống nhân dân rất khốn khổ. Trước tình hình ấy, mặc dầu từ lâu không còn là đại biểu của giai cấp nông dân nữa, nhưng Chu Nguyên Chương vẫn thông cảm được các nổi khổ của nhân dân đồng thời cũng hiểu rõ sức mạnh của quần chúng. Vì vậy ông nói: Quán triệt tư tưởng đó, Minh Thái Tổ đã thi hành những chính sách sau đây: Trả tự do cho những người bị biến thành nô tì trong thời gian loạn lạc, đồng thời cấm cưỡng bức hoặc mua bán dân tự do làm nô tì. Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp như kêu gọi nhân dân khai khẩn đất hoang, cho họ có quyền sở hữu vĩnh viễn và không đánh thuế; kêu gọi dân lưu tán trở về quê quán, cấp cho họ ruộng hoang đồng thời cấp bò cày, nông cụ, thóc giống, lương thực để gíup họ vượt qua những khó khăn ban đầu. Triều đình còn chú ý đến vấn đề thủy lợi, giảm nhẹ thuế khóa, cứu tế cho dân những nơi bị mất mùa. Bỏ những hình phạt tàn khốc thời Nguyên như thích chữ vào mặt, cắt mũi, chặt chân, thiến... đồng thời dùng nguyên tắc khoan hồng trong xét xử. Nghiêm trị những quan lại tham nhũng bằng các cực hình như chém bêu đầu, tùng xẻo, giết cả họ... Nhờ những chính sách nói trên, trong vòng 30 năm đầu đời Minh, kinh tế được khôi phục nhanh chóng và bước đầu phát triển, tình hình chính trị được ổn định, đời sống nhân dân bước đầu được cải thiện. Cải cách ruộng đất Vì xuất thân từ một gia đình nông dân, Minh Thái Tổ đã biết được sự khốn khó của nông dân nghèo khi luôn bị bóc lột bởi bọn quan lại và cường hào. Bọn thổ hào địa phương luôn dựa vào mối quan hệ với quan viên triều đình mà chiếm đoạt ruộng đất của nông dân và hối lộ quan chức để chuyển gánh nặng thuế má sang cho người nghèo. Để ngăn ngừa những việc này, Hồng Vũ hoàng đế đã cho ban hành hai hệ thống để vừa bảo đảm thu nhập của triều đình từ tô thuế ruộng đất và xác nhận rằng nông dân không bị mất đất. Tuy nhiên, các cải cách đã không diệt được mối đe dọa cho nông dân đến từ bọn tham quan, thay vào đó, sự mở rộng và sự gia tăng uy tín của quan liêu đã được chuyển thành tài sản và sự miễn thuế cho những ai phục vụ trong bộ máy chính quyền. Các quan chức đạt được nhiều đặc quyền hơn và một số trở thành những kẻ cho vay nặng lãi bất hợp pháp và quản lý các sòng bạc. Bằng cách sử dụng quyền lực của mình, quan lại mở rộng điền sản của mình với chi phí là ruộng đất của nông dân thông qua việc mua đứt các khoảnh đất đó hoặc tịch thu đất đai dựa trên thế chấp của nông dân cứ mỗi khi chúng cần thêm đất đai. Nông dân bây giờ phải đi ở thuê hoặc làm lao dịch, hoặc đi tìm việc làm ở nơi khác. Vào những ngày đầu hình thành chính quyền Nhà Minh vào năm 1357, Minh Thái Tổ đã đặt rất nhiều sự quan tâm của mình vào việc phân phát đất đai cho nông dân. Một cách để thực hiện việc đó là cưỡng ép di dân đến những vùng dân cư thưa thớt hơn, có người còn bị trói vào cây mà mang đi. Các công trình công cộng như hệ thống thủy lợi và đê điều đều được thực hiện để trợ giúp nông dân. Ngoài ra, Hồng Vũ hoàng đế còn cho giảm các loại lao dịch lên nông dân. Năm 1370, nhà vua hạ chiếu cho hai tỉnh An Huy và Hồ Nam phải giao đất cho nông dân trẻ đã đến tuổi trưởng thành để cày cấy. Chiếu lệnh này là để ngăn chặn địa chủ chiếm đất của nông dân, nó cũng bao gồm việc mảnh đất đó trên danh nghĩa là không thể thuyên chuyển. Vào giữa thời Hồng Vũ, nhà vua thông qua một đạo luật, cho phép những ai đi khai khẩn đất hoang để trồng trọt được giữ lại đất như tài sản mà không phải đóng thuế. Chính sách này được nhân dân hưởng ứng nhiệt liệt vào năm 1393, đất canh tác tăng đến 8,804,623 khoảnh và 68 mẫu, điều này chưa hề có trong các triều đại trước. Hồng Vũ hoàng đế còn phát động việc trồng 50 triệu cây cối khắp phụ cận Nam Kinh, sửa sang lại kênh rạch thủy lợi, và cho di dân từ nam lên bắc để bổ sung dân số. Nhà vua đã thành công trong việc gia tăng dân số từ 60 triệu lên đến 100 triệu. Quân sự Minh Thái Tổ nhận ra rằng người Mông Cổ vẫn là một mối đe dọa thường trực cho Trung Hoa, dù rằng chúng đã bỏ chạy sau sự sụp đổ của Nhà Nguyên. Nhà vua quyết định đánh giá lại quan điểm chính thống của Nho gia là giai cấp võ nhân luôn phải ở mức độ kém hơn giai cấp văn nhân bắt nguồn từ thời Tống. Minh Thái Tổ cho giữ vững một đội quân hùng mạnh mà vào năm 1384, nhà vua đã tổ chức lại theo hệ thống "vệ sở". Mỗi đơn vị quân sự bao gồm 5,600 người được chia vào 5 sở và 10 binh đoàn. Đến năm 1393, tổng quân số vệ sở đã đạt đến 1,200,000 người. Quân lính được phân phát đất đai để trồng trọt và chức vụ được thế tập. Loại hình vệ sở có thể được truy ngược lại chế độ phủ binh của thời Tùy Đường. Trong khi quân đội Nhà Minh thời kì đầu cực kì thiện chiến, đội quân này đã mất khả năng thực hiện các chiến dịch tấn công sau cái chết của Minh Thành Tổ, cuối cùng quân Minh đã bị quân Mông Cổ đánh bại trong sự biến Thổ Mộc Bảo vào năm 1449 thời Chính Thống của Minh Anh Tông. Việc huấn luyện quân sự được thực hiện ngay tại địa phương. Vào thời chiến, quân lính được điều động từ khắp nơi trên đế quốc theo lệnh của Binh bộ, còn các chỉ huy thì được chỉ định để dẫn dắt quân lính ra trận. Sau khi kết thúc chiến tranh, quân đội được chia thành nhiều nhóm nhỏ và được điều về địa bàn quận huyện của mình, còn tướng lĩnh thì phải giao lại binh quyền cho triều đình. Việc này nhằm ngăn chặn tướng lĩnh nắm quyền lực quá lớn, khó mà khống chế. Tuy nhiên, nó cũng có hệ quả là quân đội lại nằm dưới sự chỉ huy của một quan viên dân sự chứ không phải một tướng lĩnh quân sự. Luật pháp Bộ luật được viết nên dưới thời Hồng Vũ được xem là một trong những thành tựu vĩ đại nhất của cả thời đại. Bộ Minh sử nói rằng vào những năm 1364 thì chính quyền Minh của Chu Nguyên Chương đã bắt đầu phác thảo một bộ luật pháp. Đây chính là Đại Minh luật (大明律). Nhà vua dành rất nhiều thời gian cho công trình này và huấn thị các thượng thư của mình rằng bộ luật phải thật toàn diện và dễ hiểu, tránh cho quan lại khai thác các lỗ hổng bằng cách cố ý hiểu sai nghĩa. Đại Minh luật đặt trọng tâm vào các mối quan hệ trong gia đình. Bộ luật cũng là một sự cải thiện to lớn so với luật pháp thời Đường Sơ về các vấn đề nô lệ. Theo luật pháp Nhà Đường, nô tì bị đối xử như súc vật trong nhà, nếu lỡ có người dân nào giết đi thì người dân ấy không phải chịu sự trừng phạt của pháp luật. Còn Đại Minh luật bảo vệ cả người dân và nô tì. Kinh tế-xã hội Được các quan chức học giả ủng hộ, ông chấp nhận quan điểm của Khổng giáo rằng các thương nhân chỉ là ký sinh. Ông cảm thấy rằng nông nghiệp nên là nguồn của cải của đất nước và thương mại là bất minh. Do đó, hệ thống kinh tế nhà Minh nhấn mạnh nông nghiệp, không giống như hệ thống kinh tế của nhà Tống, luôn dựa vào thương nhân để kiếm tiền. Hồng Vũ đế cũng hỗ trợ việc tạo ra các cộng đồng nông nghiệp tự hỗ trợ. Tuy nhiên, định kiến ​​của ông đối với các thương nhân không làm giảm số lượng thương nhân. Ngược lại, thương mại tăng đáng kể trong thời Hồng Vũ vì sự phát triển của ngành công nghiệp trên toàn đế quốc. Sự tăng trưởng trong thương mại này một phần là do điều kiện đất đai kém và dân số ở một số khu vực nhất định, khiến nhiều người phải rời bỏ nhà cửa và tìm kiếm vận may trong thương mại. Một cuốn sách có tựa đề Tu Pien Hsin Shu, được viết dưới thời nhà Minh, đã mô tả chi tiết về các hoạt động của các thương nhân thời đó. Mặc dù thời Hồng Vũ Nhà Minh đã bắt đầu sử dụng tiền giấy, việc phát triển tiền giấy bị bóp nghẹt khi chưa bắt đầu. Do không hiểu về lạm phát, Minh Thái Tổ đã phát hành ra rất nhiều tiền giấy như những phần thưởng vào năm 1425, triều đình phải cho thu hồi tiền giấy và áp dụng lại tiền đồng vì tiền giấy đã bị tụt giá chỉ còn 1/70 giá trị ban đầu. Trong suốt thời Hồng Vũ, Nhà Minh sơ được đặc trưng bởi sự gia tăng dân số đều đặn và đáng kể, phần nhiều là do sự gia tăng lương thực nhờ vào những cải cách nông nghiệp của hoàng đế. Thời Minh mạt, dân số đã tăng tới 50%. Việc này được thúc đẩy bởi những cải tiến quan trọng trong kỹ thuật nông nghiệp, nhờ vào một nhà nước vốn chuyên về nông canh lên nắm quyền vào giữa lúc có một cuộc khởi nghĩa nông dân thân Nho giáo. Trong suốt thời cai trị của nhà vua, mức sống của người dân đã được cải thiện đáng kể. Chống nạn tham ô Sau khi Chu Nguyên Chương lập nên Nhà Minh, ông đã thực hiện chiến dịch "bàn tay sắt", triệt để chống nạn tham ô. Cách ông trừng phạt kẻ tham quan ô lại cũng vô cùng tàn nhẫn. Chu Nguyên Chương từng cảnh cáo các quan lại dưới triều của mình rằng: "Trước đây, khi còn sống trong dân gian, trẫm đã nhìn thấy phần lớn các quan lại ở Châu huyện không yêu dân, chỉ tham tài háo sắc, ngày ngày chìm đắm trong men say, không được tích sự gì, dân thường vì thế khổ sở lầm than. Nhìn thấy cảnh đó mà không thể làm gì được, trong lòng trẫm rất hận. Nay, trẫm phải ban lệnh thật nghiêm, phàm là quan lại tham ô, bóc lột bách tính, trẫm sẽ trừng trị không tha".Thứ nhất, ông đưa ra quy định, cứ tham ô 10 lượng bạc thì phải chịu thụ hình phạt. Tham ô từ 60 lượng bạc trở lên thì người đó đã mắc đại tội. Nhiều người thắc mắc liệu khoản tiền này có đủ để quy thành tội tham ô hay không? Nhưng hoàng đế triều Minh thì đã định nó vào đại tội.Thứ hai, Chu Nguyên Chương áp dụng những hình phạt rất tàn khốc. Kẻ tham nhũng nhẹ thì bị lưu đày, sung quân, nặng thì bị tử hình, nặng hơn nữa thì bị rút gân lột da, biến tên tội phạm thành bù nhìn đặt ở công trường. Bao nhiêu người phạm tội thì có bấy nhiêu người chịu hình phạt.Thứ ba, Chu Nguyên Chương còn cho phép dân chúng tố cáo quan tham. Luật pháp triều Minh quy định, người nào bị phát hiện tham nhũng sẽ lập tức bị đưa đến nha phủ hoặc áp giải trực tiếp lên kinh thành để chém đầu thị chúng. Hình phạt quả thực rất nghiêm. Trong suốt 276 năm của triều Nhà Minh, số tham quan bị giết do tham ô đã lên đến 150 ngàn người. Con số đó quả thực rất khủng khiếp, giống như thể các quan viên của Nhà Minh đều bị xử tử hết vậy. Chính sách tôn giáo Đối với Nho giáo Được sự hỗ trợ bởi các Nho sĩ, Minh Thái Tổ chấp nhận ý kiến của giới Nho sĩ rằng thương nhân chỉ giống như bọn ăn bám. Nhà vua tin rằng nông nghiệp mới là nguồn thu nhập chính của quốc gia, trong khi thương nghiệp chỉ dành cho bọn ti tiện. Như một hệ quả, nên kinh tế của Nhà Minh đặt trọng tâm vào nông nghiệp, trái ngược với hệ thống kinh tế của Nhà Tống, những người đi trước người Mông Cổ và chú trọng vào thương nhân và buôn bán để gia tăng thu nhập cho quốc gia. Minh Thái Tổ còn duy trì việc thành lập các cộng đồng nông nghiệp tự cung tự cấp. Tuy nhiên, định kiến của nhà vua đối với thương nghiệp không làm giảm số lượng thương nhân. Trái lại, số lượng thương nhân tăng vọt trong suốt thời Hồng Vũ cùng với sự phát triển về công nghiệp trên khắp đế quốc. Sự gia tăng trong buôn bán một phần là do điều kiện đất đai cằn cỗi và sự quá tải dân số ở một vài vùng đã buộc người dân phải tìm kiếm vận may trong buôn bán. Đối với Hồi giáo Minh Thái Tổ đã hạ chiếu cho xây dựng một số nhà thờ Hồi giáo ở Nam Kinh, Vân Nam, Quảng Đông và Phúc Kiến, và cho khắc những lời ca tụng nhà tiên tri Muhammed trong các nhà thờ. Nhà vua cho xây lại Tịnh Giác tự (净觉寺) ở Nam Kinh và một lượng lớn người Hồi chuyển vào thành phố trong thời Hồng Vũ. Phụ nữ và đàn ông Hồi giáo Mông Cổ và Trung Á được luật pháp nhà Minh cho phép kết hôn với người Hán sau khi Minh Thái Tổ thông qua luật này tại Điều 122. Một số tư liệu cho thấy Minh Thái Tổ giữ mối quan hệ thân cận với người Hồi giáo, và có khoảng 10 vị tướng dưới trướng nhà vua là người Hồi giáo, trong đó có Lam Ngọc, Mộc Anh, Hồ Đại Hải,....Hoàng đế còn cho viết một bài văn 100 chữ ca ngợi đạo Hồi, thánh Allah và nhà tiên tri Muhammed. Chính sách ngoại giao Minh Thái Tổ là người không thích xen vào việc nội bộ của quốc gia khác và phản đối dùng quân sự đối với các nước láng giềng. Ngay từ năm 1369, vua Trần Dụ Tông của nước Đại Việt (Minh thực lục ghi là Trần Nhật Khuê) đã sai sứ sang triều cống Minh Thái Tổ, trở thành vua lân bang đầu tiên cử sứ sang triều cống nhà Minh. Minh Thái Tổ từ chối can thiệp vào Chămpa khi Đại Việt liên tục phát động chiến tranh với người Chăm, chỉ thể hiện một sự trách cứ và không ủng hộ hành động đó với người Việt. Tuy nhiên, khi vua Trần Duệ Tông bị tử trận trong lúc thân chinh đi đánh Chămpa năm 1377, Minh Thái Tổ từng muốn nhân cơ hội ấy để xâm lăng Đại Việt, mặc dù sau khi nghe thái sư Lý Thiện Trường khuyên can, ông đã bỏ ý định ấy. Ông đặc biệt căn dặn các hoàng đế tương lai chỉ nên phòng thủ trước các bộ tộc phương bắc, không nên thực hiện việc tấn công nhằm mở rộng bờ cõi và tìm kiếm vinh quang. Trong Hoàng Minh Tổ Huấn viết vào năm 1395, Minh Thái Tổ viết rõ rằng các vua kế vị Nhà Minh không nên cậy giàu mạnh mà tham chiến công, dấy binh tấn công các quốc gia láng giềng. Minh Thái Tổ khuyên rằng không nên tấn công Nhung Địch ở phía bắc mà chỉ nên tập trung vào việc phòng thủ: " … Những nước Tứ Di đều núi ngăn biển cách, lánh tại một góc, lấy được đất họ không đủ để cung cấp, thu được dân họ không đủ để sai khiến. Nếu họ không tự biết suy xét mà đến gây nhiễu biên giới thượng quốc thì đấy là điều không may. Nhưng bên ấy không làm hại Trung Quốc mà ta lại dấy binh đi đánh họ thì cũng là điều không may vậy. Trẫm sợ con cháu đời sau cậy vào sự giàu mạnh mà tham chiến công một thời, vô cớ dấy binh dẫn đến tổn hại mạng người, hãy nhớ kĩ là không được làm như vậy! Nhưng người Hồ - Nhung kề biên giới phía tây bắc, liền tiếp lẫn nhau, nhiều đời tranh chiến, thì phải chọn tướng rèn binh, lúc nào cũng nên phòng giữ cẩn thận. Nay đề tên những nước Di không được đánh, xếp đặt ở sau đây: Phía đông bắc: Nước Triều Tiên. Phía chính đông lệch bắc: Nước Nhật Bản. Phía chính nam lệch đông: Nước Đại Lưu Cầu [Okinawa], Nước Tiểu Lưu Cầu [thuộc Okinawa]. Phía tây nam: Nước An Nam [Đại Việt], Nước Chân Lạp [Khmer], Nước Xiêm La [Sukhotai], Nước Chiêm Thành, Nước Tô Môn Đáp Lạt [Sumatra], Nước Tây Dương, Nước Trảo Oa [Java], Nước Bồn Hanh, Nước Bạch Hoa, Nước Tam Phật Tề [Srivijaya], Nước Bột Nê [Borneo]" Thế nhưng Minh Thái Tổ có những phản ứng rất gay gắt đối với những kẻ cố gắng đe dọa Trung Hoa. Bên cạnh việc thường xuyên Bắc tiến, nơi mà lực lượng quân đội của nhà Bắc Nguyên vẫn luôn thường trực, ông còn từng cho sứ thần đến Nhật Bản với lời cảnh cáo rằng quân đội của ông sẽ "bắt và diệt sạch bọn cướp các ngươi, tiến thẳng đến nước các ngươi và trói vua của các ngươi lại", do việc đánh phá liên tục của bọn cướp biển Oa Khấu Nhật Bản ở bờ biển Hoa Đông. Mạc phủ Ashikaga táo tợn trả lời "Đế quốc vĩ đại của ngài có thể xâm chiếm Nhật Bản, nhưng nhà nước nhỏ bé của chúng ta không thiếu chiến lược để tự bảo vệ mình.". Ngoại thương tư nhân đã bị trừng phạt bằng cái chết, với gia đình và hàng xóm bị lưu đày; tàu, bến cảng và nhà máy đóng tàu bị phá hủy, và các cảng bị phá hoại. Mục đích của kế hoạch dường như là tận dụng nhu cầu cao của người Nhật đối với hàng hóa Trung Quốc để buộc họ phải tuân theo. Kế hoạch này đã mâu thuẫn với truyền thống Trung Quốc và cực kỳ phản tác dụng khi nó gắn chặt các nguồn lực. Ví dụ, 74 đồn bốt ven biển phải được thành lập từ Quảng Châu đến Sơn Đông, mặc dù chúng thường được quản lý bởi các băng đảng địa phương. Các biện pháp của Thái Tổ đã giới hạn biên lai thuế, bần cùng hóa, dẫn đến kích động cả người Trung Quốc và Nhật Bản ven biển chống lại triều đình, và thực sự gia tăng nạn cướp biển. Nạn cướp biển chỉ giảm xuống mức không đáng kể vào thời điểm bãi bỏ vào năm 1568. Bất chấp sự ngờ vực sâu sắc, trong Hoàng Minh Tổ Huấn, ông đã liệt kê Nhật Bản cùng với 14 quốc gia khác là "các quốc gia ngang ngược mà các chiến dịch quân sự sẽ không được phát động", và khuyên con cháu của mình nên duy trì hòa bình với quốc gia này. Theo Minh sử, được biên soạn từ đầu triều đại nhà Thanh, mô tả cách Minh Thái Tổ gặp một thương nhân được cho là của Fulin (拂菻; Đế quốc Byzantine ở châu Âu) có tên là "Nieh-ku-lun" (捏古倫). Vào tháng 9 năm 1371, ông gửi người đàn ông này trở về quê hương của mình, đem theo một lá thư thông báo về việc thành lập triều đại nhà Minh cho vua của nước ông ta (tức là Ioannes V Palaiologos). Người ta suy đoán rằng thương gia ấy thực sự là một cựu giám mục của Khanbaliq (Bắc Kinh) có tên là Nicolaus de Bentra, được Giáo hoàng Gioan XXII gửi đến để thay thế Đức Tổng Giám mục John của Montecorvino vào năm 1333. Minh sử tiếp tục giải thích rằng các liên hệ giữa Trung Quốc và Fulin đã chấm dứt sau thời điểm này, và các nhà ngoại giao của vùng biển Địa Trung Hải đã không xuất hiện ở Trung Quốc nữa cho đến thế kỷ XVI, với sự xuất hiện của nhà truyền giáo Dòng Tên người Ý Matteo Ricci. Giáo dục Minh Thái Tổ đã cố gắng loại bỏ Mạnh Tử ra khỏi Văn Miếu vì một số phần trong tác phẩm của ông bị coi là có hại. Chúng bao gồm "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh" (Mengzi, Jin Xin II), cũng như là "Quân chi thị thần như thủ túc, tắc thần thị quân như quốc nhân, quân thị thần như thổ giới, tắc thần thị quân như khấu cừu", nghĩa là: vua coi bề tôi như chân tay thì bề tôi coi vua như quốc nhân, vua coi bề tôi như cỏ rác thì bề tôi coi vua như giặc cướp (Mạnh Tử - Li Lâu hạ). Nỗ lực thất bại do sự phản đối từ các quan lại quan trọng, đặc biệt là Đàm Đường (錢唐), Hình bộ Thượng thư. Cuối cùng, hoàng đế đã tổ chức việc biên soạn sách Mạnh Tử giản văn (孟子節文) trong đó 85 dòng đã bị xóa. Ngoài những điều được đề cập ở trên, các câu bị bỏ qua còn bao gồm những câu mô tả các quy tắc quản trị, thúc đẩy lòng nhân từ và những lời phê phán liên quan đến Trụ Vương. Tại Quốc tử giám, luật pháp, toán học, thư pháp, môn cưỡi ngựa và bắn cung đã được Thái Tổ nhấn mạnh bên cạnh kinh điển Nho giáo và cũng được yêu cầu trong các kỳ khoa cử của triều đình. Bắn cung và cưỡi ngựa đã được Thái Tổ bổ sung vào kỳ thi năm 1370, tương tự như cách bắn cung và cưỡi ngựa được yêu cầu đối với những người không phải quan võ tại Trường Chiến tranh (武舉) vào năm 1162 bởi Tống Hiếu Tông. Khu vực xung quanh Cổng Meridian của Nam Kinh được sử dụng để luyện bắn cung bởi các lính canh và tướng lĩnh dưới trướng Minh Thái Tổ. Một đội quân kỵ binh được mô phỏng theo quân đội nhà Nguyên được thực hiện bởi các vua Minh Thái Tổ và Minh Thành Tổ. Quân đội và quan lại của Thái Tổ hợp nhất với Mông Cổ. Cưỡi ngựa và bắn cung là những trò tiêu khiển yêu thích của He Suonan, người phục vụ trong quân đội nhà Nguyên và nhà Minh dưới thời Hồng Vũ. Tháp bắn cung được xây dựng bởi Minh Anh Tông tại Tử Cấm Thành và tháp bắn cung được xây dựng trên các bức tường thành phố của Xi'an đã được Hồng Vũ dựng lên. Minh Thái Tổ cũng đã viết các bài tiểu luận được đăng ở mọi ngôi làng trên khắp Trung Quốc để cảnh báo người dân nên lưu ý cách cư xử nếu không muốn phải đối mặt với những hậu quả khủng khiếp. Các tác phẩm của Thái Tổ trong thập niên 1380 bao gồm "Những cảnh báo lớn" hoặc "Những dự đoán lớn" và "Những chấn thương tổ tiên". Ông đã viết sáu phương châm (六諭, 聖諭六言) đã truyền cảm hứng cho Sắc lệnh thiêng liêng của hoàng đế Khang Hy sau này. Khoảng năm 1384, Minh Thái Tổ đã ra lệnh dịch và biên soạn các bảng thiên văn Hồi giáo của Trung Quốc, một nhiệm vụ được thực hiện bởi các học giả Mashayihei, một nhà thiên văn học Hồi giáo, và Wu Bozong, một quan chức học giả Trung Quốc. Những chiếc bàn này được biết đến với cái tên Huihui Lifa (Hệ thống thiên văn học lịch sử Hồi giáo), được xuất bản ở Trung Quốc một số lần cho đến đầu thế kỷ 18. Quan chế Để cho vương triều Minh của họ Chu kế tục lâu dài, Minh Thái Tổ trước mắt tăng cường chế độ trung ương tập quyền. Năm Hồng Vũ thứ 9 (1376) bãi bỏ Hành trung thư tỉnh, thiết lập Bố chính sứ ty, Đề hình Án át sứ ty, Đô chỉ huy sứ ty phân ra để quản lý hành chính tư pháp, quân sự. Năm Hồng Vũ thứ 13 (1380) hủy bỏ chức Trung thư tỉnh ở trung ương, bãi bỏ chế độ Tể tướng, phân quyền cho sáu bộ Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công. Thiết lập Đô sát viện giám sát trăm quan, lập Cẩm y vệ là những cơ cấu đặc vụ có nhiệm vụ khống chế thần dân. nhưng sau tể tướng Hồ Duy Dung làm phản, ông ban lệnh hành quyết, đồng thời bãi bỏ chức Tể tướng Trung Quốc, ông cho rằng tể tướng có quyền lực gần bằng hoàng đế, nên có thể tạo phản bất cứ lúc nào. Thái Tổ đã cố gắng và khá thành công trong việc tập trung quyền lực, kiểm soát hết mọi mặt của triều đình để không có đảng phái nào đủ mạnh để lật đổ ông. Ông còn cho củng cố sức mạnh phòng thủ chống lại người Mông Cổ và ngày càng tăng cường thu thập quyền lực vào trong tay. Nhà vua cho bỏ chức vụ tể tướng là vị trí đầu não trong triều đình đã có từ ngàn năm bằng cách vu cho tể tướng của mình mưu phản. Bằng cách bãi bỏ chức vụ tể tướng và thu hết quyền lực của triều đình vào trong tay một mình nguyên thủ, Hồng Vũ hoàng đế đã bỏ đi tấm lá chắn cuối cùng có thể chống lại những hoàng đế vô năng đời sau. Trong lịch sử, quân chủ Nhà Minh là kém nhất, không hôn (Minh Thế Tông, Minh Thần Tông) thì bạo (Minh Thành Tổ), giỏi lắm cũng được cho là bình thường (Minh Tuyên Tông, Minh Hiếu Tông), còn lại là bọn lười biếng ham chơi (Minh Hiến Tông, Minh Vũ Tông), đến lúc có người muốn làm việc thì khí số đã hết (Minh Tư Tông). Tuy nhiên, Thái Tổ không thể nào điều hành cả một đế quốc Đại Minh rộng lớn chỉ bằng sức lực bản thân, vì thế ông phải thành lập thêm chế độ Đại học sĩ. Chế độ gần giống với nội các này từng bước thay thế quyền lực của chức vụ tể tướng đã bị bãi bỏ và dần dần trở nên có quyền thế không khác gì chế độ tể tướng. Nhìn vẻ bề ngoài không có thực quyền, các vị Đại học sĩ có thể có một số ảnh hưởng tác động tích cực lên ngai vàng. Bởi vì uy tín và niềm tin mà cộng đồng dành cho họ, các Đại học sĩ có thể hành động như cầu nối trung gian giữa hoàng đế và quan viên các bộ, vì thế tạo nên một lực lượng hòa giải trong triều. Dưới thời Hồng Vũ, hệ thống quan liêu của người Mông Cổ thống trị Nhà Nguyên bị thay thế bằng các quan viên người Hán. Hồng Vũ hoàng đế đã cho cải tiến lại hệ thống khoa cử để tuyển dụng quan chức dựa trên các mô hình đạo đức Nho giáo và tài năng văn chương. Các ứng cử viên cho các chức vụ quản lý dân sự và chức vụ sĩ quan quản lý quân đội đều buộc phải thông qua kỳ thi sát hạch của triều đình, dựa trên các yêu cầu của Tứ thư Ngũ Kinh. Hệ thống quan liêu Nho giáo này, vốn bị gạt ra ngoài chính quyền vào thời Nguyên, nay đã được khôi phục lại vị thế của mình trong chính quyền. Minh Thái Tổ cũng rất chú ý đến vai trò của hoạn quan trong việc sụp đổ của các triều đại trước. Ông cho giảm mạnh số lượng hoạn quan, cấm tiệt việc hoạn quan xử lý tấu chương, nhấn mạnh rằng hoạn quan phải mù chữ và cho chém hết những hoạn quan dám có lời bàn về việc triều chính. Nhà vua có ác cảm rất mạnh với hoạn quan, tổng kết bằng câu nói ghi trên bảng sắt: "Hoạn quan không được can chính, kẻ phạm vào thì giết không tha". Tuy nhiên ác cảm này không được truyền lại cho những hoàng đế đời sau, khi việc hai vị hoàng đế Hồng Vũ và Kiến Văn đối xử tệ bạc với hoạn quan đã giúp cho Minh Thành Tổ thành công trong việc cướp ngôi nhờ các hoạn quan và Vĩnh Lạc đã sử dụng hoạn quan như là cơ sở quyền lực của mình. Minh Thái Tổ còn không chấp thuận việc cho họ hàng bên vợ của mình vào triều làm quan, chính sách này được giữ vững vào các triều đại tiếp theo. Sát hại công thần Minh Thái Tổ đã gây ra nhiều vụ án văn chương và gây ra nhiều án liên lụy đến nhiều người nhằm diệt trừ hậu họa cho con cháu. Ông nhận thấy Thái tử nhu nhược, khó mà điều khiển nổi những công thần bướng bỉnh không thuần, trước khi ông qua đời còn giúp cho con cháu diệt trừ tận gốc. Tống Liêm là thầy của Thái tử, từ những năm đầu đã theo làm tham mưu cho Thái Tổ vào sinh ra tử chốn quân trường, lập được nhiều công to, làm quan đến chức Học sĩ Thừa chỉ tri chế cáo. Thái Tổ cũng viện cớ để giết ông ta, Thái tử thấy thầy bị kết án chém, rơi lệ cầu xin cho thầy. Để dạy bảo Thái tử, ông cho mang một cây roi lớn có đầy gai nhọn quẳng xuống đất, bảo Thái tử nhặt lên. Thái tử có vẻ lúng túng, nhà vua liền dạy rằng: Thái tử thông minh hiểu được ý của cha, nhưng cũng không cho là đúng, liền khuyên giải vua cha một cách khéo léo rằng: Ngụ ý là làm vua không được tàn bạo. Thái Tổ rất giận dữ, liền tóm lấy ghế quẳng về hướng thái tử. Việc này cho thấy Hồng Vũ Đế sau khi đã ngồi trên ngai rồng đã xem công thần là những gai nhọn cần phải loại bỏ. Thống nhất thiên hạ rồi, không thể dùng võ tướng nữa, ông đã tính kỹ cho con cháu. Dùng quan văn để trị thiên hạ, Thái Tổ vẫn không an tâm, cho nên quyền lực từ trung ương đến địa phương hầu hết đều tập trung trong tay Hoàng đế, phát triển chế độ Trung ương tập quyền đến đỉnh cao, trở thành một trong những vị vua có quyền lực nhất trong lịch sử Trung Quốc. Minh Thái Tổ luôn cho rằng thần dân của ông nên tuân lệnh ông và cực kỳ khét tiếng với việc giết chóc trong các cuộc thanh trừng của mình. Các hình phạt ưa thích của ông là lăng trì và lột da. Một tướng lĩnh của ông là Thường Ngộ Xuân đã thực hiện các cuộc thảm sát ở Sơn Đông và Hồ Nam để trả thù cho việc quân đội của ông bị chống trả. Cùng với thời gian, Minh Thái Tổ trở nên ngày càng lo sợ sẽ bị mưu phản và lật đổ, thậm chí ông còn cho hành quyết các quan viên dám chỉ trích mình. Tương truyền chỉ vì nghe một người dân có lời bất kính với mình mà Hồng Vũ hoàng đế cho tàn sát hàng nghìn người ở Nam Kinh. Vào năm 1380, sau khi đã giết chóc rất nhiều, một tia sét đã đánh thẳng vào cung điện của nhà vua, Minh Thái Tổ cực kỳ sợ hãi và đã dừng các cuộc giết chóc lại một thời gian vì nhà vua sợ bị thiên khiển (trời phạt). Minh Thái Tổ tạo nên những vụ án lớn, văn thần võ tướng, tất cả đều bị càn quét triệt để. Năm Hồng Vũ thứ 13 (1380), Minh Thái Tổ dùng tội danh "tự quyền xây dựng phe phái" đã giết Thừa tướng Hồ Duy Dung. Sau khi giết Hồ Duy Dung rồi, Chu Nguyên Chương cũng bãi bỏ luôn cơ quan Trung thư tỉnh và đề cao vai trò của 6 bộ. Từ đó công việc chính trị trong nước do 6 bộ phân chia nhau thực hiện và trực tiếp nghe lệnh hoàng đế. Việc làm đó đã thâu tóm quyền lực vào tay một mình hoàng đế và xóa bỏ chế độ tể tướng vốn tồn tại 1500 năm ở Trung Quốc. Cháu của Tống Liêm là Tống Thận vì có dính líu đến vụ án của Hồ Duy Dung, Minh Thái Tổ triệu Tống Liêm (lúc đó đã từ quan) về Nam Kinh để xử tử ông và cả nhà của ông, sau được Mã Hoàng hậu và Thái tử Chu Tiêu ra sức can ngăn (vì Tống Liêm là thầy dạy học của Thái tử Chu Tiêu), Tống Liêm may mắn thoát chết, nhưng đổi lại toàn bộ thành viên trong gia tộc bị xử tội lưu, đày đến Mậu Châu (nay thuộc huyện Mậu tỉnh Tứ Xuyên). Bản thân Tống Liêm bị bắt đi xung quân. Trên đường tới vùng giữa Quỳ Châu (nay thuộc huyện Phụng Tiết thành phố Trùng Khánh) và Mậu Châu thì Tống Liêm mắc bệnh qua đời vào đầu năm 1381. Đại tướng Từ Đạt của nhà Minh bệnh nặng trong năm 1384. Minh Thái Tổ sợ Từ Đạt làm phản nên sau đó đã bắt ông giao lại binh quyền cho Chu Đệ và buộc ông phải trở về Nam Kinh. Từ Đạt giao lại cho con trai thứ là Từ Tăng Thọ quyền chỉ huy 30 vạn quân, kế tục lòng trung thành của Từ Đạt với Yên vương Chu Đệ. Sang năm 1385 đại tướng Từ Đạt của nhà Minh qua đời, nghi vấn là do chính Minh Thái Tổ (Chu Nguyên Chương) giết hại. Từ Đạt vốn không bị buộc tội mưu phản, trong khi các tướng lĩnh khai quốc của nhà Minh ngoại trừ Thường Ngộ Xuân chết sớm trước tuổi 40 ra thì hầu hết đều bị Minh Thái Tổ tru diệt chín họ với tội danh mưu phản. Tương truyền nói rằng Từ Đạt bị bệnh, thầy thuốc nói rằng phải kiêng món ngỗng. Minh Thái Tổ nghe vậy liền cho người đem một con ngỗng quay đến cho Từ Đạt, buộc ông ăn hết và chứng kiến ông chết. Cũng có thuyết nói rằng khi thấy vua tặng cho con ngỗng quay làm thức ăn, Từ Đạt đã hiểu ý vua và uống thuốc độc tự sát chết, giống như chuyện Tào Tháo giết Tuân Úc năm nào. Bấy giờ Từ Đạt mới 54 tuổi. Tuy nhiên đây chỉ là truyền thuyết, vẫn chưa chứng minh được. Tướng quân Phó Hữu Đức đến Bắc Bình để nắm giữ bộ chỉ huy quân sự bị bỏ trống sau cái chết của tướng quân Từ Đạt. Mặc dù vậy, Chu Nguyên Chương vẫn chưa yên tâm. Ông cảm thấy thái tử Chu Tiêu bản chất trung hậu nhu nhược không thể trấn áp được các công thần. Bởi thế, năm 1390, 10 năm sau cái chết của Thừa tướng Hồ Duy Dung, Lý Thiện Trường là khai quốc công thần nhà Minh và thông gia với nhà vua Minh Thái Tổ. Do bị cáo giác đồng lõa với Hồ Duy Dung ngày trước nên bị Minh Thái Tổ chém cả nhà, lúc đó Lý Thiện Trường đã 77 tuổi, muốn sống những ngày cuối đời mà nhà vua cũng không cho. Cùng với Lý Thiện Trường, cả gia đình hơn bảy mươi người cũng bị Minh Thái Tổ giết sạch. Minh Thái Tổ lại dựng tù ngục, dùng tội danh "thông đồng với Hồ Duy Dung, mưu đồ làm phản" để giết một lượng lớn các công thần, lão tướng như Lục Trọng Đình, Đường Thắng Tông... Theo sách "16 hoàng đế triều Minh" của Vương Thắng Hữu chủ biên thì "Những người liên lụy bị tù, bị giết đã tới trên 3 vạn người". Minh Thái Tổ còn biên soạn một tài liệu là "chiêu thị gian đảng lục" để công bố những kẻ bị kết tội mưu phản ra khắp thiên hạ. Vụ việc dây dưa kéo dài tới mấy năm vẫn chưa xong gây nhiều hoang mang. Hết đợt sóng này tiếp nối đợt sóng khác, sau việc trên hai năm (lúc này Thái tử Chu Tiêu đã qua đời vào năm 1392, con của Chu Tiêu là Chu Doãn Văn được lập làm Hoàng thái tôn) lại sinh ra vụ án Lương Quốc Công Lam Ngọc. Thường ngày, Lam Ngọc có nhược điểm là hay kể công kiêu ngạo, Minh Thái Tổ vốn đã có cái nhìn không mấy thiện cảm. Tháng 2 năm Hồng Vũ thứ 26 (1393) Cẩm y vệ Chỉ huy sứ là Giang Hoàn báo cáo: Lam Ngọc có ý làm phản. Được tin, Minh Thái Tổ hạ lệnh bắt  vị Quốc công này. Cẩm y vệ dùng hình phạt tàn bạo để thẩm vấn, buộc ông phải khai đồng đảng. Liên lụy tới vụ này gồm Cảnh Xuyên hầu Tào Chẩn, Nhạn Ứng hầu Trương Dực, Thượng thư bộ Lại Chiêm Huy, Thị lang bộ hộ Bạc Hữu Văn, … vì nhà vua cho rằng họ đã bàn bạc với nhau nhân khi Hoàng đế làm nghi thức "Tịch điền" sẽ phát động chính biến. Lam Ngọc bị xé xác, tam tộc bị tru di. Phàm là những người có liên quan tới vụ án hoặc người có qua lại với Lam Ngọc đều bị giết cả nhà. Lần giết hại này có nhất Công, nhị Bá, thập tam Hầu, ngoài ra còn hơn mười người là những tướng lĩnh có công chinh chiến và rất nhiều quan văn cao cấp. Số người bị giết có người nói  hơn một vạn năm nghìn, có người nói tới hai vạn. Sau hai vụ án Hồ Duy Dung và Lam Ngọc, triều đình nhà Minh vắng sạch bóng công thần. Sự chuyên chế và tàn bạo của Minh Thái Tổ trở nên nổi danh trong lịch sử. Tuy nhiên sau khi giết Lam Ngọc, Minh Thái Tổ lại quay sang vứt bỏ Cẩm Y vệ, bản thân Giang Hoàn (Chỉ huy sứ của Cẩm y vệ) sau đó cũng bị Minh Thái Tổ tìm cớ xử tử. Ngoài những người bị giết trong hai vụ án Hồ Duy Dung và Lam Ngọc, còn có mấy công thần có liên lụy tưởng thoát nạn nhưng cuối cùng cũng không gặp may mắn. Sau khi vụ án Lam Ngọc kết thúc một năm, năm 1394 Minh Thái Tổ giết Định Viễn hầu Vương Bật và Vĩnh Bình hầu Tạ Thành cũng vì bị coi là phạm tội lớn. Lúc đó, Vương Bật đã cáo lão về nghỉ, cũng bị triệu hồi kinh sư (Nam Kinh) để giết. Lúc này trọng thần của Minh Thái Tổ là Phó Hữu Đức đang nắm giữ 131000 quân ở Bắc Bình khiến Minh Thái Tổ e ngại ông này. Ngày 20 tháng 12 năm 1394 Minh Thái Tổ quyết định loại bỏ luôn trọng thần Phó Hữu Đức bằng cách xử tử ông này (có sách nói là Minh Thái Tổ buộc ông này tự sát). Qua hơn một năm Dĩnh Quốc công Bạc Văn Đức và Tống Quốc công Phùng Thắng không hiểu nguyên nhân vì sao cũng phải tự sát. Để thực hiện độc tài chuyên chế, bảo đảm thiên hạ tồn tại với con cháu vạn đời, Chu Nguyên Chương "lục thân bất nhận", giết cả cháu ruột là Chu Văn Chinh, đầu độc cháu ngoại là Lý Văn Trung chỉ với lý do họ "thân cận Nho sinh", "lễ hiền hạ sĩ", trong khi họ đều là những người vào sinh ra tử, lập rất nhiều chiến công. Trong cuộc khủng bố giết hại công thần của Chu Nguyên Chương, chỉ có một người may mắn tránh được là Khai quốc nguyên huân Tín Quốc công Thang Hòa. Ông là người cùng thôn với Chu Nguyên Chương, vốn xuất thân là người coi gia súc. Ông là người rất hiểu Chu Nguyên Chương, tường tận tâm lý của Hoàng thượng nên ông đã cẩn thận lo xa, sau khi sự nghiệp thành công vội giao binh quyền, cáo lão về quê nên mới bảo toàn được tính mạng. Chu Nguyên Chương còn để cho cơ quan đặc vụ Cẩm y vệ hoạt động công khai, từ sau bức rèm the lại nhảy lên tiền đài. Trong hơn 30 năm cai trị của Minh Thái Tổ, Cẩm Y vệ chịu trách nhiệm cho cái chết của hơn 10 vạn người. Những năm cuối đời, Minh Thái Tổ còn ban bố điều lệ Hoàng Minh tổ huấn, yêu cầu con cháu cùng các công thần phải tuân thủ "phép tắc của tổ tông", quy định đời sau kẻ nào sửa đổi điều tổ tông đặt ra thì giết không tha. Ông đã giữ chính sách bế quan tỏa cảng, trở thành "tổ huấn", dĩ nhiên là "tổ huấn" đó đã được giữ khư khư một cách tiêu cực, làm cho nền chính trị của vương triều Minh bị ảnh hưởng một cách lâu dài. Qua đời và vấn đề người kế vị Vào ngày 24 tháng 6 dương lịch năm Hồng Vũ thứ 31 (1398), Minh Thái Tổ băng hà ở Nam Kinh, hưởng thọ 71 tuổi, trị vì được 30 năm. Ông được táng ở Hiếu lăng, miếu hiệu là Thái Tổ, thụy là Cao Hoàng đế. Chu Nguyên Chương có tới 26 người con trai nhưng càng về cuối đời ông càng cảm thấy bất an vì chưa biết giang sơn sẽ giao lại cho ai là xứng đáng. Con trưởng Chu Tiêu là người được chọn làm Hoàng thái tử. Thậm chí Minh Thái Tổ còn mời danh sĩ nổi tiếng Chiết Giang đương thời là Tống Liêm về dạy cho Thái tử với hi vọng Chu Tiêu sẽ là người thừa kế đầy tài năng. Nhưng không may, tháng 1 năm 1392, sau khi đi thị sát Thiểm Tây trở về, trên người Chu Tiêu mọc bướu dữ đau đớn vô cùng, và cuối cùng mất sớm. Chu Tiêu mất sớm khiến Chu Nguyên Chương vô cùng đau lòng. Trong những Hoàng tử còn lại thì ít người có thể tin tưởng được: kẻ thì phạm tội giết người, kẻ thì đắm chìm trong tửu sắc, không thì cũng không có chút kinh nghiệm cũng như tài năng chính trị hay quân sự nào. Cuối cùng chỉ còn lại Tứ Hoàng tử - Yên vương Chu Đệ và Đích tôn Chu Doãn Văn - con trai thứ của Thái tử Chu Tiêu. Với Chu Doãn Văn, Minh Thái Tổ vừa yêu thích tính cách nhân từ mềm mỏng, đặc biệt là sự hiếu kính của đứa cháu. Với Chu Đệ, Thái Tổ cũng rất yêu quý đứa con này bởi sự dũng mãnh, bản lĩnh và mưu trí hơn người cả về chính trị lẫn quân sự. Ông cũng từng trưng cầu ý kiến với các đại thần về vấn đề này. Các quan văn ủng hộ Chu Doãn Văn, bởi họ muốn có một vị vua độ lượng, ôn hòa sau sự cai trị hà khắc của Minh Thái Tổ, và cũng là thuận theo chủ trương "Lập trưởng không lập thứ" của Thái Tổ. Trái lại, các võ tướng đồng lòng ủng hộ Chu Đệ, với lý do đất nước cần một vị vua có bản lĩnh, uy dũng và kinh nghiệm để gánh vác. Nhưng cuối cùng, Chu Nguyên Chương đã lập Chu Doãn Văn làm Hoàng thái tôn để lên kế vị, tức Minh Huệ Đế. Một trong những nguyên nhân khiến Minh Thái Tổ đưa ra quyết định này chính là xuất thân không rõ ràng của Chu Đệ. Theo các nhà sử học, xuất thân của Chu Đệ đến nay lịch sử vẫn còn rất nhiều giả thuyết khác nhau nhưng đa phần đều có một điểm chung rằng Chu Đệ không phải là con đẻ của Mã Hoàng hậu. Đây chính là lý do lớn nhất khiến Chu Đệ không được chọn làm người kế vị. Nhưng Chu Nguyên Chương không ngờ rằng quyết định của mình đã khiến Chu Đệ động sát tâm mà dấy binh tạo phản chỉ 1 năm sau khi ông qua đời, lật đổ Chu Doãn Văn rồi tự mình xưng đế, tức Minh Thành Tổ. Hậu thế Minh Thái Tổ đã vì giang sơn Đại Minh mà khổ tâm sắp đặt, loại trừ hậu họa cho con cháu, còn ban bố Tổ huấn để con cháu tránh mắc sai lầm như các triều đại trước, nhưng sự việc lại không như ý muốn. Sau khi ông qua đời, mộ phần chưa ráo, thì chú cháu tranh đoạt quyền lực lẫn nhau, "Tổ huấn" của ông bị Chu Đệ phá hoại, chiếm ngôi Hoàng đế, dời đô từ Nam Kinh về Yên Kinh, dù trước đó Thái Tổ từng dặn dò con cháu phải đề phòng các rợ tộc phương Bắc xâm chiếm, không được đóng đô ở gần phương Bắc mà phải ở phương Nam. Minh Thái Tổ giết hại công thần, không còn ai để giao việc, tự mình chọn Đích tôn Chu Doãn Văn làm người kế vị nhưng đã bị chết trong binh lửa. Ông còn dựng bảng sắt cấm chỉ hoạn quan can dự chính sự, mà đến đời Thành Tổ có đến 24 nha môn lọt vào tay hoạn quan, hoạn quan đã nắm giữ cơ quan đặc vụ, triều Minh đã trở thành triều đại mà hoạn quan gây họa kịch liệt. Minh Thái Tổ đặt một cánh quân hùng mạnh trấn giữ Liêu Đông, dặn dò con cháu phải trấn thủ thật chắc biên cương phía Bắc, nhưng sau này quân đội triều Minh dần suy thoái, cuối cùng lại bị một dân tộc thiểu số ngoài quan ải tiến vào lật đổ là người Nữ Chân. Hậu cung Cũng giống như bao bậc đế vương khác, sau khi lên ngôi, ổn định giang sơn xã tắc, xây dựng thiên hạ thái bình cường thịnh, Chu Nguyên Chương cũng lập hậu cung tuyển chọn mỹ nữ. Hậu cung của ông cũng vô cùng nhiều giai nhân. Trong "Minh Hội điển" có ghi: "Thái tổ có tổng cộng 40 phi tần" có tài liệu ghi là 46 phi tần. Bất luận là con số nào mới chính xác thì điều này chứng minh rằng phi tần của Minh Thái Tổ không dưới 40 người. Chu Nguyên Chương nổi tiếng quản lý hậu cung vô cùng nghiêm khắc, thậm chí có phần tàn khốc. Chỉ cần phát hiện phi tần không chung thủy, sẽ xử nghiêm không cần lý do. "Thiết quần hình" là một trong những nhục hình tàn khốc, vô nhân tính mà đàn ông thời cổ đại dùng để trừng phạt những người phụ nữ bất trung. "Thiết quần" chính là dùng miếng sắt mỏng tạo thành hình giống chiếc quần. Nữ phạm sẽ phải mặc lên người, sau đó đốt nóng "Thiết quần". Người chịu hình phạt này sẽ bị sắt nóng cháy xém da thịt, đau đớn mà chết. Tương truyền, mẹ đẻ của Minh Thành Tổ Chu Đệ – Ngạc Phi (khi mang thai Chu Đệ được 7 tháng Ngạc Phi đã sinh non) đã phải chịu nhục hình "Thiết quần" tàn khốc đến chết. Vì sinh non trước một tháng, nên Chu Nguyên Chương đã nghi ngờ Ngạc Phi tư thông với người khác. Cơn thịnh nộ nổi lên, không cần điều tra nguồn cơn, ông đã ban cho Ngạc Phi nhục hình "Thiết quần" đầy đau đớn. Có giả thuyết khác lại nói, do Ngạc Phi đắc sủng mà trở nên kiêu căng, ngạo mạn, muốn ép Chu Nguyên Chương lập con đẻ của mình là Chu Đệ làm thái tử nên đã bị trừng phạt đến chết. Lại có quan điểm cho rằng, Ngạc Phi sinh ra Chu Đệ, Mã Hoàng hậu vô cùng yêu thích nên đã tìm cách hãm hại Ngạc Phi và nhận Chu Đệ là con đẻ của mình. Sử cũ ghi lại rằng có một lần, người ta phát hiện trên con sông chạy ngang qua hậu cung Minh triều có một thi thể trẻ con. Sự việc này đã khiến Hoàng đế bốc hỏa, nhất quyết cho rằng một phi tần nào đó đã vụng trộm mới dẫn đến cục này. Nghĩ đi nghĩ lại vài ngày, Chu Nguyên Chương cho rằng Hồ Xung phi chính là "thủ phạm" nên đã sai người giết chết bà. Tuy nhiên, điều đáng buồn cười là khi đó, vị phi tần này tuổi đã ngoài 50, về cơ bản rất khó có con. Thậm chí, cũng có những giai thoại cho rằng, Chu Nguyên Chương đã giết hại đến 5.000 cung nữ song cho đến nay, vẫn chưa có chứng cứ rõ ràng về việc này. Với Mã Hoàng hậu Tuy Chu Nguyên Chương là người rất đông phi tần, hậu cung hùng hậu nhưng vì sao ông lại không bị liệt vào danh sách các Hoàng đế hoang dâm? Điều này có thể do chính cách ông đối xử với những người đẹp bên mình và đặc biệt là đối với người vợ tào khang, khiến hậu thế cảm thấy nể phục. Tương truyền Chu Nguyên Chương là người trời không sợ, đất không sợ chỉ sợ mỗi Hoàng hậu Mã Tú Anh không vui. Mã Tú Anh Hoàng hậu là người có nhân phẩm tốt. Đối với trên thì nhất mực kính trọng, với kẻ dưới vô cùng nhân từ. Chính vì thế, hậu cung của Chu Nguyên Chương tương đối bình yên. Các phi tần, cung nữ và thái giám không ai là không phục bà. Vì xuất thân nghèo khó, từng cùng Chu Nguyên Chương nếm mật nằm gai làm nên đại nghiệp, chính vì thế Mã Hoàng hậu luôn biết tiết kiệm tiền bạc và trân quý sinh mệnh con người. Bà luôn trợ giúp Chu Nguyên Chương trong việc an bang trị quốc. Bà cũng thường xuyên can gián những việc làm sai trái của chồng. Tuy vậy, bà lại không phải là người ích kỉ khắt khe. Bà luôn thoải mái, thậm chí còn khuyến khích Chu Nguyên Chương nạp thêm phi tần. Ông cũng rất hiểu đức hạnh và tài năng của Mã Hoàng hậu. Đối với Mã Hoàng hậu, ông luôn dành cho bà sự kính trọng và không ai có thể thay thế được vị trí của bà. Khi Mã Hoàng hậu lâm trọng bệnh, Chu Nguyên Chương đã cho tìm danh y giỏi đến chữa bệnh. Hàng ngày, chính ông đích thân mang cơm, bón thuốc cho Hoàng hậu. Đây quả là một vị Hoàng đế hiếm có trong lịch sử. Năm Hồng Vũ thứ 15, Mã Hoàng hậu qua đời thọ 51 tuổi. Chu Nguyên Chương đau lòng khôn xiết đã thề với trời đất không lập thêm ai làm Hoàng hậu. Ông còn phong cho Hoàng hậu thụy hiệu cao quý: "Hiếu Từ Chiêu Hiến Chí Nhân Văn Đức Thừa Thiên Thuận Thánh Cao Hoàng hậu" và cái tên Hiếu lăng cũng bắt nguồn từ thụy hiệu này. Vai trò lịch sử Chu Nguyên Chương tay không dựng nghiệp lớn, đánh đuổi được người Mông Cổ, giành lại quyền tự chủ của người Hán. Bản thân không có một tấc đất nương thân, nhưng qua tự lực phấn đấu mà khai sáng được giang sơn Đại Minh gần 300 năm, vì vậy trong dân gian lưu truyền nhiều giai thoại lạ lùng về ông, chính là thuật lại một cách tôn kính về sự nghiệp và mức độ thông minh tài trí của ông. Thái Tổ lập nghiệp ở phía Nam sông Trường Giang mà xuất quân Bắc phạt đánh đuổi người Mông Cổ, lấy được thiên hạ là lần duy nhất mà một lực lượng phía Nam có thể thống nhất được toàn bộ quốc gia. Các triều đại trước ông như Tần, Hán, Tấn, Tùy, Đường, Tống, Nguyên và sau ông như người con Chu Đệ từ Bắc Kinh đánh xuống phía Nam và Nhà Thanh đều xuất thân từ phía Bắc. Trước và sau ông không ai có thể làm được như thế. Trong chùa Long Hưng huyện Phụng Dương tỉnh An Huy có một cặp đối khái quát khá thần tình cả cuộc đời mà Thái Tổ nếm trải : Tuy vậy, sự lạc hậu của Trung Quốc so với các nước phương Tây bắt đầu từ đời Minh. Sự lạc hậu này thì có nhiều nguyên nhân, trong đó có biện pháp thống trị chuyên chế bảo thủ của Thái Tổ, đặc biệt là thể chế chính trị tập quyền cao độ, quyền lực về kinh tế nằm dưới cực quyền chính trị, mà các chế độ về cửa ải bến sông, chế độ cấm buôn bán trên biển, chế độ hộ làm nghề thủ công, chế độ lưu thông hàng hóa... là nguyên nhân chủ yếu kìm hãm sự phát triển của kinh tế. Những hạn chế này là do xuất thân của Thái Tổ. Ngoài ra, cách chọn nhân tài bằng lối văn bát cổ (một thể văn dùng trong các kỳ thi thời phong kiến, chỉ chuộng phô trương hình thức, ít chuộng giá trị đích thực của nội dung) và chủ trương văn hóa chuyên chế của triều Minh cũng là nguyên nhân chủ yếu để tạo nên sự đình trệ của xã hội Trung Quốc. Công và tội của Thái Tổ đối với lịch sử đều đáng được suy ngẫm. Miếu và thuỵ hiệu Năm Hồng Vũ thứ 31, tháng 6, năm Giáp Thìn: Khâm Minh Khải Vận Tuấn Đức Thành Công Thống Thiên Đại Hiếu Cao Hoàng đế, miếu hiệu Thái Tổ (欽明啟運俊德成功統天大孝高皇帝) Năm Vĩnh Lạc nguyên niên, ngày 11 tháng 6, năm Đinh Tị: Thánh Thần Văn Vũ Khâm Minh Khải Vận Tuấn Đức Thành Công Thống Thiên Đại Hiếu Cao Hoàng đế (聖神文武欽明啟運俊德成功統天大孝高皇帝) Năm Gia Tĩnh thứ 17, tháng 11: Khai Thiên Hành Đạo Triệu Kỉ Lập Cực Đại Thánh Chí Thần Nhân Văn Nghĩa Vũ Tuấn Đức Thành Công Cao Hoàng đế''' (開天行道肇紀立極大聖至神仁文義武俊德成功高皇帝) Các tể tướng Lý Thiện Trường Từ Đạt Lý Văn Trung Uông Quảng Dương Hồ Duy Dung Các danh tướng Chu Đệ Lưu Bá Ôn Từ Đạt Lý Thiện Trường Thường Ngộ xuân Thôi Tụ Trần Hiệp Lý Đằng Lý Lượng Đặng Dũ Thang Hòa Mộc Anh Hồ Đại Hải Du Thông Hải Phó Hữu Đức Lam Ngọc Cao Bân Trương Phụ Hạ Bình Lý Khánh Lương Minh Triệu Quân Dụng Vương Thông Mộc Thạnh Liễu Thăng Phùng Thắng Gia quyến Thân phụ: Chu Thế Trân [朱世珍, 1281 - 1344], thụy phong Nhân Tổ Thuần Hoàng đế (仁祖淳皇帝). Thân mẫu: Thuần Hoàng hậu Trần thị [淳皇后陳氏, 1286 - 1344]. Anh chị em Nam Xương vương Chu Hưng Long [朱興隆; 1344]. Con trai là Chu Văn Chính (朱文正). Hu Di vương Chu Hưng Thịnh [朱興盛]. Lâm Hoài vương Chu Hưng Tổ [朱興祖]. Thái Nguyên Công chúa [太原公主], trưởng tỉ, lấy Vương Thất Nhất (王七一). Tào Quốc Công chúa [曹國公主; 1317 - 1351], nhị tỉ, tên Chu Phật Nữ (朱佛女), lấy Lý Trinh (李贞), mẹ của Lý Văn Trung (李文忠). Hậu phi Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị (孝慈高皇后马氏, 1332 - 1382), người ở Túc Châu. Dã sử xưng Mã Tú Anh (马秀英), Mã Ngọc Hoàn (马玉环) hoặc Mã Đại Cước (马大脚). Sinh ra Ý Văn Thái tử Chu Tiêu, Tần Mẫn vương Chu Sảng (朱樉), Tấn Cung vương Chu Cương (朱棡), Minh Thành Tổ Vĩnh Lạc Đế, Chu Định vương Chu Túc (朱橚), Ninh Quốc Công chúa, và An Khánh Công chúa. Thành Mục Quý phi Tôn thị (成穆貴妃孫氏, 1343 - 1374), người Trần Châu (Hoài Dương ngày nay), cha là Tôn Hòa Khanh (孫和卿). Hồng Vũ nguyên niên, sách phong Quý phi, đứng đầu chúng phi giúp Hoàng hậu quản lý sự vụ. Tôn Quý phi tính tình hiền thuận, tư sắc diễm mỹ, được Thái Tổ và Mã Hoàng hậu coi trọng, gọi là Hiền phi (贤妃). Bà sinh ra Lâm An Công chúa, Hoài Khánh Công chúa và 2 Hoàng nữ chết yểu. Sau khi bà qua đời, Thái Tổ lấy Chu Định vương Chu Túc trở thành con của bà, phục tang 3 năm. Lý Thục phi (李淑妃), người Thọ Châu (Hoắc Khâu ngày nay), cha là Lý Kiệt (李傑). Năm Hồng Vũ thứ 17 (1384), sách phong Thục phi, chưởng quản hậu cung sự vụ, nhưng không lâu sau thì mất. Theo Dã sử là sinh mẫu Chu Tiêu, Chu Sảng, và Chu Cương. Quách Ninh phi (郭寧妃), người Hào Châu; cha là Doanh Quốc công Quách Sơn Phủ (郭山甫); xuất thân danh môn Quách thị; bà là em gái của Đại tướng quân Quách Anh (郭英). Cai quản lục cung sau khi Lý Thục phi qua đời. Không rõ năm mất, nhiều khả năng bị Minh Thái Tổ ban chết, sinh hạ Lỗ Hoang vương Chu Đàn, Nhữ Ninh Công chúa Triệu Quý phi (赵贵妃), sinh hạ Trầm Giản vương Chu Mô Giang Quý phi (江贵妃) Quách Huệ phi (郭惠妃), sinh hạ Thục Hiến vương Chu Xuân, Đại Giản vương Chu Quế, Dục vương Chu Huệ, Vĩnh Gia Trinh Ý Công chúa, Nhữ Dương Công chúa, Đại Danh Công chúa. Trang Tĩnh An Vinh Huệ phi Thôi thị (莊靖安荣惠妃崔氏) Chiêu Kính Sung phi Hồ thị (昭敬充妃胡氏), sinh hạ Sở Chiêu vương Chu Trinh. Trịnh An phi (郑安妃), sinh hạ Phúc Thanh Công chúa. Đạt Định phi (达定妃), sinh hạ Tề Cung vương Chu Phù, Đàm vương Chu Tử. Hồ Thuận phi (胡顺妃), sinh hạ Tương Hiến vương Chu Bách. Nhậm Thuận phi (任顺妃), Triều Tiên tiến cống. Lý Hiền phi (李贤妃), sinh hạ Đường Định vương Chu Kính. Lưu Huệ phi (刘惠妃), sinh hạ Dĩnh Tĩnh vương Chu Đống. Cát Lệ phi (葛丽妃), sinh hạ Y Lệ vương Chu Di. Ngạc phi (碽妃), Triều Tiên tiến cống. Có sử gia coi là mẹ đẻ của Minh Thành Tổ. Hàn phi (韩妃), Triều Tiên tiến cống, sinh hạ Liêu Giản vương Chu Thực. Dư phi (余妃), sinh hạ Khánh Tĩnh vương Chu Chiên Dương phi (杨妃), sinh hạ Ninh Hiến vương Chu Quyền. Chu phi (周妃), sinh hạ Dân Trang vương Chu Biền, Hàn Hiến vương Chu Tùng Lý Tiệp dư (李婕妤), Triều Tiên tiến cống. Thôi Mỹ nhân (崔美人), Triều Tiên tiến cống. Trương Mỹ nhân (张美人), sắc đẹp mỹ miều, đặc ân không bị tuẫn táng, sinh hạ Bảo Khánh Công chúa, được Từ Hoàng hậu nuôi dưỡng. Cáo thị (郜氏), không phong hiệu, sinh hạ Túc Trang vương Chu Anh. Lâm thị (林氏), không phong hiệu, sinh hạ Nam Khang Công chúa. Con cái Hoàng tử Hoàng nữ Hình tượng trong văn hoá Minh Thái Tổ được tiểu thuyết hoá trở thành một nhân vật trong truyện Ỷ Thiên Đồ Long Ký của Kim Dung. Trong truyện này ông là một giáo chúng của Minh giáo, có quen biết sâu sắc với giáo chủ Trương Vô Kỵ và tham gia khởi nghĩa chống quân Mông Cổ. Khi khởi nghĩa sắp thắng lợi ông lập mưu lừa Trương Vô Kỵ từ bỏ ngôi vị giáo chủ, ép giáo chủ tiếp theo là Dương Tiêu từ chức, giết thủ lĩnh, lừa bạn bè. Cuối cùng khi khởi nghĩa thành công, Minh Thái Tổ tự mình lên ngôi hoàng đế, phản bội Minh giáo. Tên gọi "triều Minh" là để gợi nhớ tới xuất thân Minh giáo của ông. Con dâu tương lai của ông, Tần vương phi Vương thị, được tiểu thuyết hoá thành nhân vật nữ chính Triệu Mẫn. Hai đối thủ Trần Hữu Lượng, Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi cũng như hai cận tướng Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân của ông cũng xuất hiện trong tiểu thuyết này. Xem thêm Nhà Nguyên Nhà Minh Danh sách Hoàng đế Nhà Minh Tham khảo Tiêu Lê (2000), Những ông vua nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, tập 3, Nhà xuất bản Đà Nẵng Nguyễn Hiến Lê (1997) Sử Trung Quốc, Chương VII: Nhà Minh (1368 - 1644)'' Chú thích Hoàng đế nhà Minh Vua thế kỷ 14 Nhân vật được tiểu thuyết hóa Người Giang Tô Khởi nghĩa cuối đời Nguyên Sinh năm 1328 Mất năm 1398 Lịch sử Nam Kinh Người từ Trừ Châu
Kinh tế học vi mô, kinh tế vi mô, kinh tế tầm nhỏ hay đôi khi được gọi tắt là vi mô (Tiếng Anh: microeconomics), là một phân ngành chủ yếu của kinh tế học, chuyên nghiên cứu về hành vi kinh tế của các chủ thể tham gia vào nền kinh tế (người tiêu dùng, nhà sản xuất) và cách các chủ thể này tương tác với nhau. Mục tiêu nghiên cứu Một trong những mục tiêu nghiên cứu của kinh tế vi mô là phân tích cơ chế thị trường thiết lập ra giá cả tương đối giữa các mặt hàng và dịch vụ và sự phân phối các nguồn tài nguyên giới hạn giữa nhiều cách sử dụng khác nhau. Kinh tế vi mô phân tích thất bại của thị trường, khi thị trường không vận hành hiệu quả, cũng như miêu tả những điều kiện cần có trong lý thuyết cho việc cạnh tranh hoàn hảo. Những ngành quan trọng trong kinh tế vi mô bao gồm thị trường dưới thông tin bất đối xứng, chọn lựa với sự không chắc chắn và các áp dụng trong kinh tế của lý thuyết trò chơi. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của kinh tế học vi mô bao gồm: Các lý luận cơ bản cho kinh tế học như cung, cầu, giá cả, thị trường Các lý thuyết về hành vi của người tiêu dùng Lý thuyết về hành vi của người sản xuất Cấu trúc thị trường Thị trường cạnh tranh hoàn hảo Thị trường cạnh tranh mang tính độc quyền Thị trường thiểu số độc quyền Thị trường độc quyền thuần túy Thị trường các yếu tố sản xuất: Lao động - vốn - Tài nguyên Vai trò của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường Các lý luận về trao đổi, phúc lợi kinh tế Các lý luận về thất bại thị trường Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu của kinh tế học vi mô bao gồm: Phương pháp mô hình hóa xây dựng mô hình. phát triển mô hình bằng cách phân tích dựa trên các dữ liệu thu thập được. kiểm chứng thực tế. Phương pháp so sánh tĩnh Theo phương pháp này, các giả thuyết kinh tế về mối quan hệ giữa các biến luôn phải đi kèm với giả định Ceteris Paribus trong mô hình. Phương pháp phân tích biên tế Đây là phương pháp đặc thù của Kinh tế học nói chung và Kinh tế học vi mô nói riêng. Nó cũng là phương pháp của sự lựa chọn kinh tế tối ưu bởi vì bất cứ sự lựa chọn nào cũng phải dựa trên sự so sánh giữa lơi ích mang lại và chi phí bỏ ra. Phương pháp phân tích biên tế được sử dụng để tìm ra điểm tối ưu (còn gọi là điểm cân bằng) của sự lựa chọn. Theo phương pháp này, chúng ta phải so sánh lợi ích và chi phí tại mỗi đơn vị hàng hóa, dịch vụ được sản xuất (hoặc tiêu dùng) tăng thêm. Lợi ích chi phí đó được gọi là lợi ích biên tế và chi phi biên tế. Phương pháp này còn được biết đến với tên gọi: phương pháp phân tích cận biên. Nền tảng cho các chuyên ngành của kinh tế học Kinh tế học vi mô là nền tảng cho nhiều chuyên ngành của kinh tế học. Chủ nghĩa kinh tế tự do mới phát triển các lý luận kinh tế học vĩ mô của mình trên cơ sở kinh tế học vi mô. Ngay cả chủ nghĩa Keynes gần đây (phái kinh tế học Keynes mới) cũng đi tìm các cơ sở kinh tế học vi mô cho lý luận kinh tế học vĩ mô của chủ nghĩa này. Trên cơ sở kinh tế học vĩ mô, nhiều chuyên ngành khác trong đó có tài chính quốc tế, kinh tế học phát triển được phát triển. Kinh tế học vi mô còn làm nền tảng trực tiếp cho các môn như kinh tế học công cộng, kinh tế học phúc lợi, thương mại quốc tế, lý thuyết tổ chức ngành, địa lý kinh tế, v.v... Cùng với kinh tế vĩ mô là hai trụ cột của khoa học kinh tế. Chú thích
Đông (Chữ Hán: 冬) là một trong bốn mùa trên Trái Đất và một số hành tinh. Nó là mùa có ngày ngắn nhất và nhiệt độ thấp nhất. Ở những vùng xa xích đạo, mùa đông thường được biết đến qua việc tuyết rơi, là mùa cuối cùng trong năm. Nhiệt độ thấp nhất vào mùa đông thường là vào tháng một ở Bắc Bán Cầu và tháng bảy ở Nam Bán Cầu. Mùa đông là mùa các môn thể thao cần tuyết được tổ chức. Ở một số nơi, mùa đông còn được gọi là mùa khô ở những vùng nhiệt đới gió mùa. Nó là giai đoạn nối tiếp từ mùa thu trước khi sang mùa xuân. Từ nguyên Thời gian Theo thiên văn học phương tây, mùa đông bắt đầu với đông chí - thời điểm mà Mặt Trời xuống tới điểm thấp nhất về phía nam trên bầu trời để sau đó bắt đầu quay trở lại phía bắc, và ngày trở nên ngắn nhất: ở Bắc bán cầu vào ngày 21 hoặc 22 tháng 12 và ở Nam bán cầu vào ngày 21 tháng Sáu. Sau đó, ngày càng dài và đêm ngắn hơn. Mùa đông kết thúc với xuân phân, là điểm phân mà khi đó ban ngày và ban đêm dài bằng nhau: 20 tháng 3 hoặc vào đêm 21 tháng 3 tại Bắc bán cầu và 22 hoặc 23 tháng 9 tại Nam bán cầu. Mùa đông do đó kéo dài 89 ngày ở Bắc bán cầu và 93 ngày ở Nam bán cầu. Theo Khí tượng học, Mùa đông bắt đầu từ ngày 01 tháng 12 và kéo dài đến hết tháng 2 tại Bắc bán cầu và tháng 6, 7, 8 tại Nam bán cầu. Các nhà khí tượng học thường xếp thời gian giao mùa vào đầy tháng. Còn theo Lịch Trung Quốc cổ đại, mùa đông bắt đầu với tiết lập đông và chấm dứt khi tiết Đại hàn chấm dứt, trước khi tiết Lập xuân bắt đầu, tương ứng với dương lịch là khoảng thời gian từ ngày 7 hoặc 8 tháng 11 dương lịch đến hết ngày 3 hoặc 4 tháng 2.
Valhalla (tiếng Bắc Âu cổ: Valhöll, nghĩa là "cung điện của những người tử trận") là một trong những lâu đài của Odin trong thần thoại Bắc Âu, nơi ở của những chiến sĩ hy sinh một cách anh dũng ngoài mặt trận (gọi là các Einherjar). Họ được Bragi chào đón và được các Valkyrie đưa về Valhalla. Cổng chính của Valhalla có tên là Valgrind được miêu tả trong phần Grímnismál của sử thi Edda như là "cánh cổng thiêng" và "không ai biết nó được khóa như thế nào". Ngoài ra cung điện này còn có năm trăm bốn mươi cửa và có phòng đủ rộng để tám trăm chiến binh dàn hàng ngang. Tường của Valhalla kết bằng giáo, mái lợp bằng khiên và chỗ ngồi làm bằng những tấm giáp che ngực. Người ta nói rằng có đủ chỗ cho tất cả các chiến binh được chọn. Hằng ngày, những vị anh hùng tử trận, những người sẽ chiến đấu cạnh các vị thần trong trận chiến cuối cùng Ragnarök, tập trận trên các cánh đồng của Asgard. Tối đến họ yến tiệc ở Valhalla với lợn rừng quay và mead (một loại rượu làm từ mật ong). Những người không đến Valhalla phải về Helheim, xứ sở của người chết thuộc âm cung Niflheim hoặc một số nơi khác. Ví dụ những người chết ở biển sẽ được đưa về lâu đài của Aesir dưới đáy biển. Từ Valhalla thật ra là sự chuyển sai của từ Valhöll trong tiếng Bắc Âu cổ sang tiếng Anh (Valhalla là từ số nhiều trong khi Valhöll là từ số ít). Dạng đúng là Valhall nhưng Valhalla vẫn được biết đến nhiều hơn.
Trong thần thoại Bắc Âu, Bifröst (có nghĩa là "Con đường rung lên trời" trong tiếng Na Uy cổ) là cây cầu nối Midgard, nơi ở của người trần với Asgard, nơi ở của các vị thần. Bifröst là một cầu vồng 3 màu với quầng đỏ là lửa để ngăn những người khổng lồ băng vượt qua. Thần Heimdall, sống trong điện Himinbjorg ở đầu Asgard của cầu Bifröst, là người canh gác con đường độc đạo dẫn đến nơi ở các vị thần này. Các vị thần sử dụng chiếc cầu này để tới Midgard và để họ gặp gỡ nhau bên giếng Urd. Các Aesir đã dựng nên Bifröst và số mệnh định rằng cây cầu này sẽ bị phá hủy trong trận chiến cuối cùng Ragnarok. Phần lớn những thông tin liên quan đến cầu Bifröst có được ngày nay bắt nguồn từ Edda bằng văn xuôi của Snorri Sturluson. Tuy nhiên, cây cầu này cũng được nhắc tới trong Edda bằng thơ.
Trong toán học, các hàm Legendre là các hàm số thỏa mãn phương trình vi phân Legendre: Phương trình vi phân này được đặt tên theo nhà toán học Pháp Adrien-Marie Legendre, và thường hay gặp trong vật lý học hay các ngành kỹ thuật. Đặc biệt, nó xuất hiện trong việc giải phương trình Laplace trong hệ tọa độ cầu. Nghiệm của phương trình tồn tại khi |x| < 1. Tại x = ± 1 giá trị của nghiệm sẽ hữu hạn nếu n là số nguyên không âm, n = 0, 1, 2,.... Trong trường hợp này, các nghiệm tạo thành dãy đa thức của các đa thức trực giao gọi là đa thức Legendre. Một đa thức Legendre thường được ký hiệu là Pn(x) và là một đa thức bậc n. Các đa thức này có thể được biểu diễn bằng công thức Rodrigues: Ví dụ Một vài đa thức Legendre bậc nhỏ: Đồ thị của các đa thức này (đến bậc n = 10) được vẽ bên dưới: Tính chất Tính trực giao Các đa thức Legendre là trực giao với tích trong L2 trong khoảng −1 ≤ x ≤ 1: với δmn là hàm delta Kronecker, bằng 1 nếu m = n và 0 nếu m ≠ n. Lý do của tính trực giao là phương trình vi phân Legendre có thể coi là một bài toán Sturm–Liouville với các trị riêng λ tương ứng với n(n+1). Tính đối xứng Các đa thức Legendre thỏa mãn Chuẩn hóa Khi chuẩn hóa, giá trị của đa thức Legendre tại 1 là: và, theo tính đối xứng ở trên, tại -1 là: Tại 0: nếu n là số nguyên lẻ. Giá trị đạo hàm tại 1 là: Đệ quy Đa thức Legendre thỏa mãn các liên hệ đệ quy: và và
Tấm Cám (chữ Nôm: 糝𥽇) là một câu chuyện cổ tích Việt Nam thuộc thể loại truyện cổ tích thần kì. Dù có nhiều dị bản, câu chuyện này phản ánh những mâu thuẫn trong gia đình, đặc biệt là mối quan hệ mẹ kế - con chồng; cuộc đấu tranh giữa và cái thiện thắng cái ác của người Việt. Tấm Cám có cốt truyện gần giống với Cô bé Lọ Lem của Châu Âu và chúng đều được nhận định là cũng thuộc mô típ câu chuyện cổ về Rhodopis, một kỹ nữ thời Hy Lạp đã được một vị Pharaon cưới làm vợ do vô tình để rớt chiếc giày của mình. Nhân vật chính Cô Tấm: cái tên Tấm (糝) có nghĩa là hạt gạo đã bị vỡ thành các mảnh nhỏ, gọi là hạt tấm. Tấm có thể được dùng để nấu ăn như gạo. Cô Cám: cái tên Cám (𥽇) có nghĩa là phần vỏ mỏng bao quanh hạt gạo (dưới lớp vỏ trấu), thường được xát ra khi xay xát gạo và bỏ đi hoặc cho lợn ăn. Từ cám cũng dùng để chỉ chung thức ăn cho lợn. Dì ghẻ: mẹ của Cám, kế của Tấm. Theo một số dị bản, cả hai chị em là sinh đôi nên không có nhân vật này. Thay vào đó nhân vật đày đọa Tấm/Cám lại là Người cha. Ông Bụt: đây là phiên âm của từ Buddha, nghĩa là Phật. Tuy nhiên, truyện tranh và phim ảnh đa phần lại miêu tả hình dáng bụt trong truyện Tấm Cám như một ông tiên chứ không phải Phật. Nhà vua: dị bản lại là Hoàng tử hoặc Vương tử. Bà lão: bà lão hàng nước, mẹ nuôi của Tấm. Bản Tấm Cám phổ thông Đoạn đầu Ngày xưa, có Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Hai chị em suýt soát tuổi nhau. Tấm là con vợ đầu, Cám là con vợ kế. Mẹ Tấm đã mất từ hồi Tấm còn bé, cha Tấm đi thêm bước nữa. Sau đó mấy năm thì cha Tấm cũng mất. Tấm ở với dì ghẻ là mẹ của Cám. Nhưng dì ghẻ của Tấm là người rất cay nghiệt. Hàng ngày, Tấm phải làm lụng luôn canh, hết chăn trâu, gánh nước, đến thái khoai, vớt bèo; đêm lại còn xay lúa giã gạo mà không hết việc. Trong khi đó thì Cám được mẹ nuông chiều, được ăn trắng mặc trơn, suốt ngày quanh quẩn ở nhà không phải làm việc nặng. Một hôm người dì ghẻ đưa cho hai chị em mỗi người một cái giỏ bảo ra đồng bắt con tôm cái tép. Mụ ta hứa hẹn: "Hễ đứa nào bắt được đầy giỏ thì thưởng cho một cái yếm đỏ!". Ra đồng, Tấm nhờ mò cua bắt ốc đã quen nên chỉ một buổi là được đầy giỏ vừa cá vừa tép. Còn Cám thì đủng đỉnh dạo hết ruộng nọ sang ruộng kia, mãi đến chiều vẫn không được gì. Thấy Tấm bắt được một giỏ đầy, Cám bảo chị: - Chị Tấm ơi, chị Tấm! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về mẹ mắng! Tin là thật, Tấm bèn xuống ao lội ra chỗ sâu tắm rửa. Cám thừa dịp trút hết tép của Tấm vào giỏ của mình rồi ba chân bốn cẳng về trước. Lúc Tấm bước lên chỉ còn giỏ không, bèn ngồi xuống bưng mặt khóc hu hu. Bấy giờ Bụt đang ngồi trên tòa sen, bỗng nghe tiếng khóc của Tấm liền hiện xuống hỏi: - Vì sao con khóc? Tấm kể sự tình cho Bụt nghe. Bụt bảo: - Thôi con hãy nín đi! Con thử nhìn vào giỏ xem còn có gì nữa không? Tấm nhìn vào giỏ rồi nói: - Chỉ còn một con cá bống - Con đem con cá bống ấy về nhà thả xuống giếng mà nuôi. Mỗi bữa, đáng ăn ba bát thì con ăn hai, còn một đem thả xuống cho bống. Mỗi lần cho ăn, con nhớ gọi như thế này: Bống bống, bang bang Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta, Chớ ăn cơm hẩm, cháo hoa nhà người. Bụt còn nói thêm:- Không gọi đúng như thế nó không lên, con nhớ lấy!Nói xong là Bụt biến mất. Tấm theo lời Bụt thả bống xuống giếng. Rồi từ hôm ấy trở đi, cứ sau bữa ăn, Tấm đều để dành cơm giấu đưa ra cho bống. Mỗi lần nghe lời Tấm gọi, bống lại ngoi lên mặt nước đớp những hạt cơm của Tấm ném xuống. Người và cá ngày một quen nhau, và bống ngày một lớn lên trông thấy. Thấy Tấm sau mỗi bữa ăn thường mang cơm ra giếng, mụ dì ghẻ sinh nghi, bèn bảo Cám đi rình. Cám nấp ở bụi cây bên bờ giếng nghe Tấm gọi bống, bèn nhẩm cho thuộc rồi về kể lại cho mẹ nghe. Tối hôm ấy mụ dì ghẻ bảo Tấm sáng mai dậy sớm chăn trâu, và dặn:- Con ơi con! Làng đã bắt đầu cấm đồng rồi đấy. Mai con đi chăn trâu, phải chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất trâuTấm vâng lời, sáng hôm sau đưa trâu đi ăn thật xa. Ở nhà mẹ con Cám mang bát cơm ra giếng, cũng gọi bống lên ăn y như Tấm gọi. Nghe lời gọi, bống ngoi lên mặt nước. Mẹ con Cám đã chực sẵn, bắt lấy bống đem về làm thịt. Đến chiều Tấm dắt trâu về, sau khi ăn uống xong Tấm lại mang bát cơm để dành ra giếng. Tấm gọi mãi nhưng chẳng thấy bống ngoi lên như mọi khi. Tấm gọi mãi, gọi mãi, cuối cùng chỉ thấy một cục máu nổi lên mặt nước. Biết có sự chẳng lành cho bống, Tấm òa lên khóc. Bụt lại hiện lên, hỏi:- Con làm sao lại khóc?Tấm kể sự tình cho Bụt nghe, Bụt bảo:- Con bống của con người ta đã ăn thịt mất rồi. Thôi con hãy nín đi. Rồi về nhặt lấy xương nó, kiếm bốn cái lọ bỏ vào, đem chôn xuống dưới bốn chân giường con nằm. Tấm trở về theo lời dặn của Bụt đi tìm xương bống, nhưng tìm mãi các xó vườn góc sân mà không thấy đâu cả. Một con gà thấy thế, bảo Tấm: - Cục ta cục tác! Cho ta nắm thóc, ta bới xương cho! Tấm bốc nắm thóc ném cho gà. Gà chạy vào bếp bới một lúc thì được xương ngay. Tấm bèn nhặt lấy bỏ vào lọ và đem chôn dưới chân giường như lời Bụt dặn. Đi lễ hội Ít lâu sau, nhà vua mở hội luôn mấy đêm ngày. Già trẻ trai gái các làng đều nô nức đi xem. Trên các nẻo đường, quần áo mớ ba mớ bảy dập dìu tuôn về kinh như nước chảy. Hai mẹ con Cám cũng sắm sửa quần áo đẹp để đi trẩy hội. Thấy Tấm cũng muốn đi, mụ dì ghẻ nguýt dài. Sau đó dì lấy một đấu gạo trộn lẫn với một đấu thóc, bảo Tấm: - Mày hãy nhặt cho xong chỗ gạo này rồi đi, đừng có bỏ dở, về không có gì để thổi cơm, chết với bà Nói đoạn, hai mẹ con quần áo xúng xính lên đường, Tấm ngồi nhặt một lúc mà chưa được một nữa, nghĩ rằng không biết bao giờ mới nhặt xong,Tấm buồn bã, bèn khóc một mình. Giữa lúc ấy Bụt hiện lên, hỏi: - Con làm sao lại khóc? Tấm chỉ vào cái thúng, thưa: - Dì con bắt phải nhặt thóc cho ra thóc, gạo ra gạo, rồi mới được đi xem hội. Lúc nhặt xong thì hội đã tan rồi, còn gì nữa mà xem Bụt bảo: - Con đừng khóc nữa. Con mang cái thúng đặt ra giữa sân, để ta sai một đàn chim sẻ xuống nhặt giúp.- Nhưng ngộ chim sẻ ăn mất thì khi về con vẫn cứ bị đòn. - Con cứ bảo chúng thế này: Rặt rặt (tức chim sẻ) xuống nhặt cho tao, Ăn mất hạt nào thì tao đánh chết. Tự nhiên ở trên không có một đàn chim sẻ đáp xuống sân nhặt thóc ra một đằng, gạo ra một nẻo. Chúng nó lăng xăng ríu rít chỉ trong một lát đã làm xong, không sót một hạt. Nhưng khi chim sẻ đã bay đi rồi, Tấm lại nức nở khóc. Bụt lại hỏi:- Con làm sao còn khóc nữa? - Quần áo con rách rưới quá, người ta không cho con vào xem hội- Con hãy đào những cái lọ xương bống đã chôn ngày trước lên thì sẽ có đủ mọi thứ cho con trẩy hội Tấm vâng lời, đi đào các lọ lên. Đào lọ thứ nhất lấy ra được một bộ áo mớ ba, một cái xống lụa, một cái yếm lụa điều và một cái khăn nhiễu. Đào lọ thứ hai lấy được một đôi giày thêu, đi vừa như in. Lọ thứ ba đào lên thì thấy một con ngựa bé tí, nhưng vừa đặt con ngựa xuống đất bỗng chốc nó hí vang lên và biến thành ngựa thật. Đào đến lọ cuối cùng thì lấy ra được một bộ yên cương xinh xắn. Tấm mừng quá vội tắm rửa rồi thắng bộ vào, đoạn cưỡi ngựa mà đi. Ngựa phóng một chốc đã đến kinh đô. Nhưng khi phóng qua một chỗ lội, Tấm đánh rơi một chiếc giày xuống nước không kịp nhặt. Khi ngựa dừng lại ở đám hội, Tấm lấy khăn gói chiếc giày còn lại rồi chen vào biển người. Giữa lúc ấy thì đoàn xa giá cũng vừa tiến đến chỗ lội. Hai con voi ngự dẫn đầu đoàn đến đây tự nhiên cắm ngà xuống đất kêu rống lên không chịu đi. Vua sai quân lính xuống nước thử tìm xem; họ nhặt ngay được chiếc giày thêu của Tấm đánh rơi lúc nãy. Vua ngắm nghía chiếc giày không chán mắt, bụng bảo dạ: - Chà, một chiếc giày thật xinh! Người đi giày này hẳn phải là trang tuyệt sắc Lập tức vua hạ lệnh cho rao mời tất cả đám đàn bà con gái đi xem hội đến ướm thử, hễ ai đi vừa chiếc giày thì vua sẽ lấy làm vợ. Đám hội lại càng náo nhiệt vì các bà, các cô chen nhau đến chỗ thử giày. Cô nào cô ấy lần lượt kéo vào ngôi lầu giữa bãi cỏ rộng để ướm thử một tý cầu may. Nhưng chả có một chân nào đi vừa cả. Mẹ con Cám cũng trong số đó. Khi Cám và dì ghẻ bước ra khỏi lầu thì gặp Tấm. Cám mách mẹ:- Mẹ ơi, ai như chị Tấm cũng đi thử giày đấy! Mụ dì ghẻ của Tấm bĩu môi: - Chuông khánh còn chẳng ăn ai, nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre! Nhưng khi Tấm đặt chân vào giày thì vừa như in. Nàng mở khăn lấy chiếc thứ hai đi vào. Hai chiếc giày giống nhau như đúc. Bọn lính hầu hò reo vui mừng. Lập tức vua sai đoàn thị nữ rước nàng vào cung. Tấm bước lên kiệu trước con mắt ngạc nhiên và hằn học của mẹ con Cám. Trở về nhà và bị giết Tuy sống trong hoàng cung, Tấm vẫn không quên ngày giỗ cha. Nàng xin phép vua trở về nhà để soạn cỗ cúng giúp dì. Mẹ con con Cám thấy Tấm sung sướng thì ghen ghét để bụng. Nay thấy Tấm về, lòng ghen ghét lại bừng bừng bốc lên. Nghĩ ra được một mưu, mụ dì ghẻ bảo Tấm:- Trước đây con quen trèo cau, con hãy trèo hái lấy một buồng để cúng bố Tấm vâng lời trèo lên cây cau. Lúc lên đến sát buồng thì ở dưới mụ dì ghẻ cầm dao đẵn gốc. Thấy cây rung chuyển, Tấm hỏi: - Dì làm gì dưới gốc thế?- Gốc cau lắm kiến, dì đuổi kiến cho nó khỏi lên đốt con Nhưng Tấm chưa kịp xé cau thì cây đã đổ, Tấm ngã lộn cổ xuống ao, chết. Mụ dì ghẻ vội vàng lột áo quần của Tấm cho con mình mặc vào rồi đưa vào cung nói dối với vua rằng Tấm không may bị rơi xuống ao chết đuối, nay đưa em vào để thế chị. Vua nghe nói trong bụng không vui nhưng vẫn không nói gì cả. Lại nói chuyện Tấm chết hóa thành chim vàng anh. Chim bay một mạch về kinh đến vườn ngự rồi bay thẳng vào cung đậu ở cửa sổ, hót lên rất vui tai. Vua đi đâu, chim bay đến đó. Vua đang nhớ Tấm không nguôi, thấy chim quyến luyến theo mình, vua bảo: - Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, chui vào tay áo Chim vàng anh bay lại đậu vào tay vua, rồi rúc vào tay áo. Vua yêu quý vàng anh quên cả ăn ngủ. Vua sai làm một cái lồng bằng vàng cho chim ở. Từ đó, ngày đêm vua chỉ mê mải với chim không tưởng đến Cám. Một hôm, thấy Cám đang ngồi giặt áo cho vua ở giếng, vàng anh dừng lại trên một cành cây, bảo:- Giặt áo chồng tao thì giặt cho sạch, giặt mà không sạch, tao rạch mặt cho Đoạn Cám định dọa giết chim vàng anh, chim lại kêu lên lúc Cám định phơi áo: - Phơi áo chồng tao phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao Cám vội về nhà mách mẹ. Mẹ nó bảo cứ bắt chim làm thịt ăn rồi kiếm điều nói dối vua. Trở lại cung vua, Cám nhân lúc vua đi vắng, bắt chim làm thịt ăn, rồi vứt lông chim ở ngoài vườn. Thấy mất vàng anh, vua hỏi, Cám đáp:- Thiếp có mang thèm ăn thịt chim nên trộm phép bệ hạ đã giết thịt ăn mất rồi. Xin bệ hạ minh xét Vua không nói gì cả. Lông chim vàng anh chôn ở vườn hóa ra hai cây xoan đào. Khi vua đi chơi vườn ngự, cành lá của chúng sà xuống che kín thành bóng tròn như hai cái lọng. Vua thấy cây đẹp rợp bóng, sai lính hầu mắc võng vào hai cây rồi nằm chơi hóng mát. Khi vua đi khỏi thì cành cây lại vươn thẳng trở lại. Từ đó, không ngày nào là vua không ra nằm hóng mát ở hai cây xoan đào. Cám biết chuyện lại về mách mẹ. Mẹ nó bảo cứ sai thợ chặt cây làm khung cửi rồi kiếm điều nói dối vua. Về đến cung, nhân một hôm gió bão, Cám sai thợ chặt hai cây xoan đào lấy gỗ đóng khung cửi. Thấy cây bị chặt, vua hỏi thì Cám đáp: - Cây bị đổ vì bão, thiếp sai thợ chặt làm khung cửi để dệt áo cho bệ hạ Nhưng khi khung cửi đóng xong, Cám ngồi vào dệt lúc nào cũng nghe thấy tiếng khung cửi rủa mình:Cót ca cót két, Lấy tranh chồng chị, Chị khoét mắt ra. Thấy vậy con Cám sợ hãi vội về mách mẹ. Mẹ nó bảo đốt quách khung cửi rồi đem tro đi đổ cho rõ xa để được yên tâm. Về đến cung, Cám làm như lời mẹ nói. Nó mang tro đã đốt đem đi đổ ở lề đường cách xa hoàng cung. Đoạn kết Đống tro bên đường lại mọc lên một cây thị cao lớn, cành lá sum suê. Đến mùa có quả, cây thị chỉ đậu được có một quả, nhưng mùi thơm tỏa ngát khắp nơi. Một bà lão hàng nước ở gần đó một hôm đi qua dưới gốc ngửi thấy mùi thơm, ngẩng đầu nhìn lên thấy quả thị trên cành cao, bèn giơ bị ra nói lẩm bẩm: - Thị ơi, thị rụng bị bà, bà để bà ngửi, chứ bà không ăn Bà lão vừa dứt lời thì quả thị rụng ngay xuống đúng vào bị. Bà lão nâng niu đem về nhà cất trong buồng, thỉnh thoảng lại vào ngắm nghía và ngửi mùi thơm. Ngày nào bà lão cũng đi chợ vắng. Từ trong quả thị chui ra một cô gái thân hình bé nhỏ như ngón tay nhưng chỉ trong chớp mắt đã biến thành Tấm. Tấm vừa bước ra đã cầm lấy chổi quét dọn nhà cửa sạch sẽ, rồi đi vo gạo thổi cơm, hái rau ở vườn nấu canh giúp bà hàng nước. Đoạn Tấm lại thu hình bé nhỏ như cũ rồi chui vào vỏ quả thị. Lần nào đi chợ về, bà lão cũng thấy nhà cửa ngăn nắp, cơm ngon canh ngọt sẵn sàng thì lấy làm lạ. Một hôm bà hàng nước giả vờ đi chợ, đến nửa đường lại lén trở về, rình ở bụi cây sau nhà. Trong khi đó, Tấm từ quả thị chui ra rồi cũng làm các việc như mọi lần. Bà lão rón rén lại nhìn vào các khe cửa. Khi thấy một cô gái xinh đẹp thì bà mừng quá, bất thình lình xô cửa vào ôm choàng lấy Tấm, đoạn xé vụn vỏ thị. Từ đó Tấm ở với bà hàng nước, hai người thương yêu nhau như hai mẹ con. Hàng ngày Tấm giúp bà lão các việc thổi cơm, nấu nước, gói bánh, têm trầu để cho bà ngồi bán hàng. Một hôm vua đi chơi ra khỏi hoàng cung. Thấy có quán nước bên đường sạch sẽ bèn ghé vào. Bà lão mang trầu nước dâng lên vua. Thấy trầu têm cánh phượng, vua sực nhớ tới trầu vợ mình têm ngày trước cũng y như vậy, liền phán hỏi:- Trầu này ai têm? - Trầu này con gái già têm, bà lão đáp. - Con gái của bà đâu, gọi ra đây cho ta xem mặt Bà lão gọi Tấm ra, Tấm vừa xuất hiện, vua nhận ra ngay vợ mình ngày trước, có phần trẻ đẹp hơn xưa. Vua mừng quá, bảo bà hàng nước kể lại sự tình, rồi truyền cho quân hầu đưa kiệu rước Tấm về cung. Cám thấy Tấm trở về được vua yêu như xưa thì nó không khỏi sợ hãi. Một hôm Cám hỏi chị:- Chị Tấm ơi chị Tấm, chị làm thế nào mà đẹp thế?Tấm không đáp, chỉ hỏi lại:- Có muốn đẹp không để chị giúp! Cám bằng lòng ngay. Tấm sai quân hầu đào một cái hố sâu và đun một nồi nước sôi. Tấm bảo Cám xuống hố rồi sai quân hầu dội nước sôi vào hố. Cám chết, Tấm sai đem xác làm mắm bỏ vào chĩnh gửi cho mụ dì ghẻ, nói là quà của con gái mụ gửi biếu. Mẹ Cám tưởng thật lấy mắm ra ăn, bữa nào cũng nức nở khen ngon. Một con quạ ở đâu bay đến đậu trên nóc nhà kêu rằng: - Ngon ngỏn ngòn ngon! Mẹ ăn thịt con, có còn xin miếng? Mẹ Cám giận lắm, chửi mắng ầm ĩ rồi vác sào ra đuổi quạ. Nhưng đến ngày mắm gần hết, khi dòm vào chĩnh, mụ thấy đầu lâu của con thì lăn đùng ra chết. oOo {{Cquote|Truyện trên do người miền Bắc kể, trong đó có vài chi tiết mỗi nơi một khác. Ví dụ câu nói của vàng anh với Cám khi Cám giặt áo cho vua, người Nghệ An có nơi kể là:- Giặt áo chồng tao, thì giặt cho sạch, nhược bằng không sạch, tao rạch mặt ra. - Phơi áo chồng tao, thì phơi bằng sào, đừng phơi bờ rào, tao cào mặt ra. Hay là câu của quạ:- Ngon ngỏn ngòn ngon, ăn cả thịt con, thực ngon lắm phỏng?|||Nhận xét của Nguyễn Đổng Chi trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, phần truyện Tấm Cám}} Để đề cao tinh thần nhân đạo, một số nhà xuất bản sách thường lược bỏ hoặc thay đổi chi tiết cuối của truyện. Ví dụ như chi tiết Tấm lập mưu giết chết Cám và cho mẹ ghẻ ăn thịt chính con mình đã được lược bỏ. Hoặc có bản khác kể rằng: Tấm tha tội cho hai mẹ con Cám nhưng trên đường về nhà, ông trời không dung tha cho tội ác của bọn họ nên sai thiên lôi cho sấm sét đánh chết. Trong lần biên tập năm 2011, Nhà xuất bản Giáo dục cũng đã lược bỏ chi tiết Tấm đun nước sôi giết chết Cám trong SGK Ngữ Văn 10. Các phiên bản cổ hơn Cô Tấm làng Mai Quê hương của 2 chị em Tấm Cám trong truyện cổ tích được nhắc đến là làng Mai. Ngày nay có rất nhiều lời bài hát hoặc thơ ca khen ngợi những người con gái hiền lành đảm đang được ví như "Cô Tấm Làng Mai". Làng Mai thuộc xã Thanh Mai, huyện Thanh Oai, Hà Nội ngày nay. Làng Mai hiện còn lưu truyền một dị bản về câu chuyện Tấm Cám như sau: chuyện kể rằng một lần Hoàng tử nhà Đinh về Hội làng Mai, tình cờ nhặt được một chiếc hài gấm rất đẹp. Hoàng tử đã tìm được người con gái đánh rơi hài, cho là duyên kỳ ngộ nên cưới làm Hoàng tử phi. Đó là cô Tấm làng Mai. Trong Hội làng Mai bây giờ, khi các bà người làng Mai vào dâng rượu, dâng hương lên Đinh Tiên Hoàng, đều đội khăn xếp màu vàng, mặc áo lụa vàng, chân đi hài gấm, mô phỏng cô Tấm ngày xưa. Phiên bản thần tích Ỷ Lan phu nhân Ở vùng Bắc Ninh thì truyện Tấm Cám được truyền tụng như là lịch sử Thái phi Ỷ Lan. Quyển Lý triều đệ tam hoàng hậu sự tích đã chép truyện bà Ỷ Lan gắn liền với nhân vật Cám (khác với truyện trên, ở đây gọi ngược lại Tấm là Cám và Cám là Tấm. Ỷ Lan thái phi là Cám) và tước bỏ đi nhiều chi tiết của truyện dân gian. Ở làng Thổ Lỗi (hay Siêu Loại), huyện Gia Lâm, có ông Lê Công Thiết và vợ là Vũ Thị Tinh chuyên trồng dâu nuôi tằm. Một đêm vợ nằm chiêm bao thấy mình nuốt mặt trăng, sau đó sinh một cô gái tên là Cám (hoặc Khiết Nương). Vợ chết, chồng lấy vợ kế là Chu thị, sinh một gái khác là Tấm. Thế rồi, câu chuyện cũng diễn ra với đủ các tình tiết bắt cá, nuôi bống và nhặt xương bống chôn chân giường đúng như truyện trên vừa kể, chỉ có khác ở chỗ Bụt lại là nhà sư Đại Liên, tu ở chùa Linh-nhân. Và điều khác thứ hai đáng lưu ý là xương bống chôn một trăm ngày đào lên được một đôi hài quý, nhưng khi Cám phơi đôi hài, thì một con quạ thần trông thấy, cắp lấy một chiếc bay đến kinh đô rồi thả xuống sân điện. Vua bấy giờ là Lý Thánh Tông chưa có con, cho đấy là điềm lành, bèn loan báo cho đàn bà con gái khắp nơi đi ướm hài. Từ đây truyện phát triển hoàn toàn khác với cổ tích nói trên. Vua đi cầu tự ở chùa, xa giá đến đâu mọi người đua nhau đi xem đến đấy. Chỉ có Cám vẫn chăm chỉ hái dâu. Một ông hàng dầu thấy một đám mây che trên đầu Cám, bèn mách cho quan quân biết. Vua cho gọi Cám đến hỏi tại sao không đi xem vua trẩy? Cám tâu là vì dì bắt đi hái dâu. Vua cho ướm chân vào hài thì vừa như in. Vua bèn lấy làm vợ, gọi là Ỷ Lan. Ỷ Lan làm vợ vua lâu ngày vẫn chưa có con. Đại Điên gặp Nguyễn Bông (là người vua sai đến chùa) hỏi: "Có muốn làm hoàng tử không?". Bông đáp: "Muốn". Đại Điên dặn Bông lẻn vào buồng tắm của hoàng hậu trong lúc Ỷ Lan đang tắm. Kết quả, việc làm của Bông bại lộ, Bông bị án chém. Tối hôm ấy, Thánh Tông mộng thấy một tiên ông đưa đến cho một đứa con trai. Quả nhiên Ỷ Lan có mang đẻ ra một hoàng tử. Nhưng hoàng hậu họ Dương lại bắt trộm mất hoàng tử, nói dối là con do mình đẻ ra, và thay vào một con mèo nói là con của Ỷ Lan. Lớn lên, hoàng tử nhận ra mẹ đẻ của mình và giết chết hoàng hậu họ Dương cùng bảy mươi mốt cung nữ. Ở Bắc Ninh còn có người kể xen vào những tình tiết khác. Ví dụ: "một trong bốn cái lọ đào được có một lọ nước thần. Nhờ lọ nước, Cám tắm vào, da dẻ trở nên trắng trẻo, người đẹp tuyệt trần". Hay là: "do Đại Điên bày vẽ, Bông lẻn vào trước buồng tắm của Ỷ Lan, bới cát nằm xuống tự vùi mình, khi Ỷ Lan dội nước, cát trôi, Bông lộ nguyên hình". Phiên bản của G. Jeanneau Sau đây là nội dung truyện kể ở miền Nam mà G. Jeanneau, người sưu tầm truyện cổ Việt Nam sớm nhất đã ghi được ở Mỹ Tho năm 1886. Có hai vợ chồng sinh hai cô gái Tấm và Cám, là con sinh đôi. Cám được bố mẹ chăm nom chiều chuộng rất mực, còn Tấm thì bị đối đãi như tôi đòi. Một hôm người cha cũng giao cho mỗi con một cái giỏ, bảo đi bắt cá, ai bắt được nhiều hơn thì được gọi bằng chị. Tấm được nhiều hơn, nhưng Cám bảo đưa giỏ cho mình giữ hộ để đi hái rau thơm về kho cá. Tấm trở về thì bao nhiêu cá đã bị Cám lấy mất chỉ còn một con bống mú. Do đó Cám được làm chị. Cũng như truyện kể ở miền Bắc, Tấm được thần hiện lên bày cho cách nuôi cá bống mú, nhưng nuôi được ít lâu cá cũng bị Cám tìm cách bắt ăn thịt. Thần hiện lên bày cách bỏ xương cá vào hũ chôn xuống đất, sau sẽ được nhiều vật quý. Một con gà cũng mách cho Tấm chỗ vùi xương bống. Sau ba tháng mười ngày, Tấm đào lên quả được áo quần đẹp và một đôi giày. Một hôm Tấm đem giày đi ra đồng bị ướt, phải đem phơi, bỗng một con quạ cắp mất một chiếc đem bỏ vào cung vua. Hoàng tử bắt được cho rao mời đàn bà con gái mọi nơi về thử, ai đi vừa sẽ lấy làm vợ. Cám được bố mẹ cho ăn mặc đẹp trẩy kinh, còn Tấm thì phải ngồi nhặt một mớ đậu và vừng trộn lẫn. Thần cho bồ câu đến giúp (có người kể con quạ lần trước tha giày đến bày cho Tấm cách sàng để nhặt được nhanh). Sau đó Tấm đến kinh thử giày, và trở thành vợ Hoàng tử. Một hôm, Tấm nghe tin bố đau nặng bèn về thăm. Thật ra Tấm bị lừa, dưới giường chỗ bố nằm có để nhiều tấm bánh đa nướng để khi trở mình nghe tiếng răng rắc. Tấm tưởng bố gãy xương thương lắm, khóc rưng rức. Rồi Tấm cởi áo trèo cau theo lời bố. Cây cau bị Cám chặt gãy, Tấm rơi vào hố nước sôi chết. Nhờ có mặt mũi giống Tấm, Cám mặc áo quần rồi vào cung mà không ai biết, kể cả hoàng tử, nhưng hoàng tử ngày một nguội lạnh với Cám. Tấm hóa thành chim quành quạch, và cũng như truyện kể ở miền Bắc, chim bay vào cung gặp Cám đang giặt áo. Chim cũng nói câu: "Phơi áo chồng tao..." và sau đó cũng được hoàng tử đem về nuôi ở lồng. Cám cũng bắt chim ăn thịt và nói rằng mình có mang thèm ăn thịt chim. Chỗ vứt lông chim mọc lên một măng tre, sau đó bị Cám chặt làm thức ăn. Vỏ măng hóa thành một cây thị chỉ có mỗi một quả, mỗi lần hoàng tử ở nhà thì cành lá xòa xuống thấp, nhưng khi đi vắng thì cây vươn lên cao vút, vì thế Cám muốn hái thị ăn mà không được. Sau đó thị rơi vào bị một bà lão ăn mày. Tiên nữ trong quả thị cũng nhiều lần hiện ra giúp bà lão, sau cùng bà lão cũng rình bắt được, bèn xé nát vỏ thị. Một hôm, Tấm hóa phép làm cỗ bàn rất linh đình để dọn cúng chồng bà lão, nhưng lại ép nài bà đi mời hoàng tử tới dự. Hoàng tử đòi phải có thảm trải từ cung đến nhà mới chịu đi. Quả có thảm trải thật, lại có cả miếng trầu têm rất đẹp làm hoàng tử chú ý, hỏi thì bà lão nói dối là mình têm. Hoàng tử bảo bà thử têm cho mình xem. Tấm hóa làm con ruồi vẽ cho bà cách têm, nhưng khi hoàng tử đuổi ruồi thì bà lão lại không têm được, đành phải thú thật là do con gái mình têm. Nhờ đó hoàng tử gặp lại vợ cũ. Đoạn kết, Cô Cám hỏi Tấm làm sao lại đẹp. Tấm thật thà nói nhờ việc ngã vào hố nước sôi. Cám nghe theo, nhảy vào nước sôi mà chết. Tấm liền làm mắm gửi cho dì ghẻ, dì ghẻ cũng khen ngon, rồi cũng có con quạ đến mách và bị đuổi. Khi ăn gần hết, thấy đầu lâu con gái mẹ Cám lăn ra chết. Phiên bản của Dumoutier Học giả Dumoutier có sưu tầm được một dị bản, cũng ở Bắc Ninh, có lẽ xuất phát từ nguồn gốc thần tích về Ỷ Lan. Vào cuối thời Hùng Vương, có một người tên là Đào Chí Phẩm ở làng Lãm-sơn, huyện Quế Dương (Bắc Ninh), vợ sinh được một con gái là Tấm rồi mất. Đào Chí Phẩm lấy vợ sau là Thị Cao sinh được Cám. Khi chồng chết, Thị Cao bạc đãi con ghẻ. Các tình tiết bắt cá, nuôi bống, ăn thịt bống, nhặt xương bống chôn dưới gầm giường, và đổ lẫn các giống hạt bắt nhặt (ở đây là các giống đỗ) v.v... đều đại khái giống với các truyện Tấm Cám đã kể. Khi Bụt mách cho Tấm đào những lọ dưới chân giường, Tấm đào được trong lọ một cô gái hầu, các lọ kia là áo giày và ngựa (nhưng về sau không thấy cô gái hầu xuất hiện trong các tình tiết kế tiếp). Do chiếc giày của Tấm đánh rơi khi đi xem hội, mà hoàng tử tìm được Tấm. Thấy nàng đẹp, hoàng tử muốn lấy làm vợ, Tấm bảo về hỏi người mẹ ghẻ. Hoàng tử phái quan đến hỏi, Thị Cao thuận gả nhưng đến ngày cưới lại bảo Tấm đi chơi xa, rồi lấy áo quần Tấm mặc cho Cám, đưa Cám vào cung. Tấm về thất vọng nhảy xuống giếng chết. Hồn Tấm hóa thành chim vàng anh bay vào cung. Thấy Cám giặt áo cho hoàng tử, chim cũng dặn không được phơi bờ rào "rách áo chồng tao". Nghe nói thế, hoàng tử biết mẹ con Thị Cao lừa gạt, bèn hỏi chim: - "Có phải vợ anh chui vào tay áo". Chim bay ngay vào tay áo. Truyện không nói đến những hành vi độc ác của Cám và mấy lần tái sinh của Tấm mà cho rằng Cám thấy chim, biết đó là chị nó thì sinh ra hối hận, bèn nhảy xuống giếng chết. Dumoutier còn cho biết, người ta thờ chung cả hai cô vào một đền ở Lãm Sơn. Những lúc có hạn hán, dân làng đến đây cầu đảo thường nghiệm. Nhận định về Tấm Cám Tấm Cám là một trong những mô-típ truyện cổ tích phổ biến nhất thế giới. Học giả nổi tiếng Yeleazar Meletinsky trong "Nhân vật trong truyện cổ tích thần kỳ" xuất bản ở Mat-xcơ-va năm 1958 cho biết, con số dị bản của truyện Tro bếp (tên nhân vật chính của loại truyện Tấm Cám ở châu Âu, tức Cinderella) trên thế giới đã lên đến năm trăm và còn có thể nhiều hơn nữa. Tuy nhiên, theo nhận định của các giáo sư soạn Kho tàng Cổ tích Việt Nam, truyện của ta cũng như truyện của Champa, v.v... cũng là loại dị bản đặc biệt. Nếu một truyện cổ tích có thể phân đoạn được thì truyện Tấm Cám của ta có thể chia làm ba đoạn, mỗi đoạn có một chủ đề với những hình tượng như sau: Mâu thuẫn giữa dì ghẻ và con chồng tập trung quanh hình tượng chủ yếu là con cá bống và đôi giày. Những cuộc tái sinh của Tấm xoay quanh hình tượng chủ yếu là con chim vàng anh và quả thị. Cuộc báo thù của Tấm với hình tượng lọ mắm làm bằng thịt Cám, trong đó có cái đầu lâu Cám. Những truyện của các dân tộc thường chỉ có một hoặc hai đoạn có thể kết hợp hay không với một vài hình tượng của truyện khác. Trước hết, cũng nên nói đến một loạt dị bản mà trong đó sự khác biệt với truyện của ta là ở chỗ, trong đoạn đầu còn có thêm nhân vật bà mẹ cô Tấm. Bà cũng bị giết và hóa thành một bà tiên hay một con vật gì đó thỉnh thoảng lại hiện lên giúp Tấm vượt qua những khó khăn mà mụ dì ghẻ gây ra cho nàng: Truyện của đồng bào người Tày là Tua Gia Tua Nhi, cũng có đủ ba đoạn như truyện của ta. Ở đây bà mẹ là nàng tiên. Ở truyện Con rùa của Myanmar thì người mẹ là một con rùa. Truyện Thái Lan tên Con cá vàng cũng gần gũi với truyện Miến-điện. Người mẹ ở đây chính là con cá vàng. Ở một số truyện của người Thái, Tày, Nùng, thì mẹ cô gái nạn nhân của mụ dì ghẻ, đáng lý là rùa hay cá, lại là hổ. Ví dụ truyện Ò Pẻn Ò Kín của đồng bào người Nùng. Hình tượng tái sinh nhiều lần của Tấm cũng là hình tượng quen thuộc trong nhiều truyện cổ tích của các dân tộc. Mô-típ dì ghẻ đánh tráo con mình thay con chồng làm vợ vua (hay hoàng tử) cũng được sử dụng phổ biến trong một loạt truyện cổ khác với dạng truyện Tấm Cám. Bình luận về đoạn kết và tranh cãi Bấy lâu nay, kết thúc Tấm trả thù hai mẹ con ở đoạn kết luôn gây ra rất nhiều tranh luận. Nhiều ý kiến cho rằng hành xử của Tấm là "quá tàn nhẫn" nếu so với tính cách nhu mì hòa thuận của cô được miêu tả ngay từ đầu. Một số các ấn bản như "Truyện cổ tích Việt Nam chọn lọc" của Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ biên soạn; cuốn "Truyện cổ tích Việt Nam" của Nhà xuất bản Văn học hay cuốn "Truyện Cổ tích Việt Nam đặc sắc" của Nhà xuất bản Văn học do Phúc Hải tuyển chọn, kết thúc của truyện là kịch tính. Cô Tấm hiền lành sau khi được trở lại cung thì trả thù mẹ con Cám. Đầu tiên, cô dội nước sôi cho Cám chết còng queo, sau đó mang Cám đi muối mắm và gửi hũ mắm đó cho mẹ ghẻ ăn. Bà mẹ ghẻ ăn đến hết hũ mắm thì thấy đầu lâu của con gái hiện ra mới uất ức quá mà lăn ra chết. Nhiều người lý giải rằng đây chính là sự trỗi dậy của cô Tấm - đại diện cho lòng căm thù của dân gian đối với cái ác và khẳng định cái ác sẽ bị trừng trị thích đáng. Tuy nhiên cũng rất nhiều ý kiến khác không ủng hộ đoạn kết này vì nó làm mất đi hình tượng cô Tấm hiền lành nết na của văn học dân gian Việt Nam. Nhiều ấn bản khác như cuốn "Truyện cổ tích Việt Nam - Mẹ kể con nghe" của Nhà xuất bản Mỹ thuật; bộ "Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam" cũng của Nhà xuất bản Mỹ thuật; bộ Truyện cổ tích Việt Nam dành cho thiếu nhi của Nhà xuất bản Văn Học…), truyện kết thúc khi mẹ con Cám xấu hổ bỏ đi và bị sét đánh chết - một sự trừng phạt của tự nhiên. Hoặc chỉ kết thúc đơn giản là Cô Tấm được hạnh phúc bên nhà Vua, còn mẹ con Cám đã bị trừng trị thích đáng. Cái kết này vẫn giữ được hình ảnh cô Tấm tốt bụng vị tha, đồng thời vẫn khẳng định được quan niệm của dân gian "ác giả ác báo", "lưới trời lồng lộng" làm việc ác khắc bị trừng phạt theo lẽ tự nhiên. Văn hóa Chèo Tấm Cám Kịch thiếu nhi Tấm Cám của NSƯT Thành Lộc Phim điện ảnh Tấm Cám: Chuyện chưa kể Quảng cáo Yahoo năm 2008 Music video Anh ơi ở lại của nữ diễn viên, người mẫu, ca sĩ Chi Pu Phim truyền hình Thế giới cổ tích (tập Tấm Cám) Bài hát Bống bống bang bang trong phim điện ảnh Tấm Cám: Chuyện chưa kể do nhóm 365 thể hiện
Số phức (tiếng Anh: Complex number) là số có thể viết dưới dạng , trong đó a và b là các số thực, là đơn vị ảo, với hay . Trong biểu thức này, số a gọi là phần thực, b gọi là phần ảo của số phức. Số phức có thể được biểu diễn trên mặt phẳng phức với trục hoành là trục số thực và trục tung là trục số ảo, do đó một số phức được xác định bằng một điểm có tọa độ (a,b). Một số phức nếu có phần thực bằng không thì gọi là số thuần ảo (số ảo), nếu có phần ảo bằng không thì trở thành số thực R. Việc mở rộng trường số phức để giải những bài toán mà không thể giải trong trường số thực. Số phức được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khoa học, như khoa học kỹ thuật, điện từ học, cơ học lượng tử, toán học ứng dụng chẳng hạn như trong lý thuyết hỗn loạn. Nhà toán học người Ý Gerolamo Cardano là người đầu tiên đưa ra số phức. Ông sử dụng số phức để giải các phương trình bậc ba trong thế kỉ 16. Lịch sử Nhà toán học người Ý R. Bombelli (1526-1573) đã đưa định nghĩa đầu tiên về số phức, lúc đó được gọi là số "không thể có" hoặc "số ảo" trong công trình Đại số (Bologne, 1572) công bố ít lâu trước khi ông mất. Ông đã định nghĩa các số đó (số phức) khi nghiên cứu các phương trình bậc ba và đã đưa ra căn bậc hai của . Nhà toán học người Pháp D’Alembert vào năm 1746 đã xác định được dạng tổng quát "" của chúng, đồng thời chấp nhận nguyên lý tồn tại n nghiệm của một phương trình bậc n. Nhà toán học Thụy Sĩ L. Euler (1707-1783) đã đưa ra ký hiệu "" để chỉ căn bậc hai của , năm 1801 Gauss đã dùng lại ký hiệu này. Tổng quan Số phức cho phép giải một phương trình nhất định mà không giải được trong trường số thực. Ví dụ, phương trình không có nghiệm thực, vì bình phương của một số thực không thể âm. Các số phức cho phép giải phương trình này. Ý tưởng là mở rộng trường số thực sang đơn vị ảo với , vì vậy phương trình trên được giải. Trong trường hợp này các nghiệm là và , có thể kiểm tra lại nghiệm khi thế vào phương trình và với : Thực tế không chỉ các phương trình bậc hai mà tất cả các phương trình đại số có hệ số thực hoặc số ảo với một biến số có thể giải bằng số phức. Định nghĩa Số phức được biểu diễn dưới dạng , với a và b là các số thực và là đơn vị ảo, thỏa mãn điều kiện . Ví dụ là một số phức. Số thực a được gọi là phần thực của ; số thực b được gọi là phần ảo của . Theo đó, phần ảo không có chứa đơn vị ảo: do đó b, không phải , là phần ảo. Phần thực của số phức được ký hiệu là hay ; phần ảo của phức được ký hiệu là hay . Ví dụ: Do đó, nếu xét theo phần thực và phần ảo, một số phức sẽ được viết là . Biểu thức này đôi khi được gọi là dạng Cartesi của . Một số thực a có thể được biểu diễn ở dạng phức là với phần ảo là 0. Số thuần ảo là một số phức được viết là với phần thực bằng 0. Ngoài ra, khi phần ảo âm, nó được viết là với thay vì , ví dụ thay vì . Tập hợp tất cả các số phức hay trường số phức được ký hiệu là , hay . Có nhiều phương pháp xây dựng trường số phức một cách chặt chẽ bằng phương pháp tiên đề. Gọi là trường số thực. Ký hiệu là tập hợp các cặp (a,b) với . Trong , định nghĩa hai phép cộng và phép nhân như sau: thì là một trường (xem cấu trúc đại số). Ta có thể lập một đơn ánh từ tập số thực vào bằng cách cho mỗi số thực a ứng với cặp . Khi đó ... Nhờ phép nhúng, ta đồng nhất tập các số thực với tập con các số phức dạng , khi đó tập các số thực là tập con của tập các số phức và được xem là một mở rộng của . Ký hiệu là cặp (0,1) . Ta có . Tất cả các số phức dạng được gọi là các số thuần ảo. Một số khái niệm quan trọng trong trường số phức Dạng đại số của số phức Trong trường số phức, tính chất của đơn vị ảo đặc trưng bởi biểu thức Mỗi số phức z đều được biểu diễn duy nhất dưới dạng: trong đó a, b là các số thực. Dạng biểu diễn này được gọi là dạng đại số của số phức z. Với cách biểu diễn dưới dạng đại số, phép cộng và nhân các số phức được thực hiện như phép cộng và nhân các nhị thức bậc nhất với lưu ý rằng . Như vậy, ta có: Mặt phẳng phức Trong hệ toạ độ Descartes, có thể dùng trục hoành chỉ tọa độ phần thực còn trục tung cho tọa độ phần ảo để biểu diễn một số phức Khi đó mặt phẳng tọa độ được gọi là mặt phẳng phức. Số thực và số thuần ảo Mỗi số thực được xem là một số phức có . Ta có: Nếu , số phức được gọi là thuần ảo. Số phức liên hợp Cho số phức dưới dạng đại số , số phức được gọi là số phức liên hợp của z. Một số tính chất của số phức liên hợp: là một số thực. là một số thực = = Module và Argument Cho . Khi đó . Căn bậc hai của được gọi là module của z, ký hiệu là . Như vậy . Xem thêm: giá trị tuyệt đối Có thể biểu diễn số phức trên mặt phẳng tọa độ bằng điểm , góc giữa chiều dương của trục Ox và vec tơ được gọi là của số phức , ký hiệu là . Một vài tính chất của module và argument Dạng lượng giác của số phức Định nghĩa Số phức có thể viết dưới dạng Khi đặt , ta có Cách biểu diễn này được gọi là dạng lượng giác của số phức . Phép toán trên các số phức viết dưới dạng lượng giác Phép nhân và phép chia các số phức dưới dạng lượng giác Cho hai số phức dưới dạng lượng giác Khi đó Lũy thừa tự nhiên của số phức dưới dạng lượng giác (công thức Moirve). Khai căn số phức dưới dạng lượng giác. Mọi số phức z khác 0 đều có đúng n căn bậc n, là các số dạng trong đó , Một số ứng dụng Ứng dụng của số phức trong hình học phẳng: phép quay 90 độ có bình phương bằng -1. Quay hai lần 90 độ thì bằng quay 180 độ, mà quay 180 độ có nghĩa là lấy điểm ngược lại, cũng có nghĩa là nhân với -1. Vậy ta có thể nói rằng số ảo đại diện cho sự quay, sự chuyển hướng 90 độ. Chính vì " chẳng qua là quay 90 độ" nên số phức rất hiệu nghiệm trong hình học phẳng và trong lượng giác. Nhiều vấn đề của hình học phẳng rất phức tạp, hay nhiều công thức lượng giác phức tạp, trở nên đơn giản hơn hẳn khi sử dụng số phức để giải quyết. Phân tích đa thức ra thừa số. Tính toán các tích phân. Tìm dạng chuẩn và phân loại các cấu trúc toán học. Trong vật lý ngày nay, số phức xuất hiện rất nhiều. Bởi vì vật lý liên quan đến hình học, có nhiều đại lượng không chỉ có độ lớn mà còn có hướng. Mà đã nói đến hướng là dễ đụng đến số phức, vì số ảo thể hiện sự quay 90 độ. Ví dụ như để mô tả dòng điện xoay chiều (là thứ điện ta dùng chủ yếu ngày nay) hay một số thứ trong mạng điện nói chung, người ta có thể dùng số phức. Các tập hợp số : Tập hợp số tự nhiên : Tập hợp số nguyên : Tập hợp số hữu tỉ : Tập hợp số vô tỉ : Tập hợp số thực : Tập hợp số phức
Cây tre trăm đốt là một truyện cổ tích dân gian Việt Nam và là một phần của văn học truyền khẩu truyền thống Việt Nam. Đây được xem là một trong số những câu chuyện cổ tích nổi bật nhất. Tóm tắt nội dung Ngày xưa có một chàng trai hiền lành, khỏe mạnh đi cày thuê cho vợ chồng ông phú hộ. Hai người này có hứa: "Con chịu khó làm lụng giúp ta, ba năm nữa ta sẽ gả con gái ta cho". Tin vào lời hứa, anh ra sức làm việc không ngại khó nhọc. Nhưng ba năm sau, khi mà nhà ông đã có mọi thứ của cải, ông bèn trở mặt, ông đưa ra một điều kiện là phải tìm được một cây tre trăm đốt để làm nhà cưới vợ thì ông mới gả con gái cho. Vì muốn có cơ hội để cưới con gái của chủ, anh bèn lên rừng quyết tâm tìm được một cây tre trăm đốt. Tìm mãi không thấy, anh thất vọng ngồi khóc. Bỗng Bụt hiện lên và bảo anh đi tìm, chặt cho đủ 100 đốt tre rời rồi giúp anh bằng hai câu thần chú: "khắc nhập, khắc nhập!" để gắn kết 100 đốt tre rời thành một cây tre trăm đốt và "khắc xuất, khắc xuất!" để tách các đốt tre ra. Nhờ là các khúc tre rời nên anh cũng dễ dàng gánh về làng được. Về nhà, anh cho cha vợ tương lai của mình xem cây tre trăm đốt. Không tin vào điều mắt mình nhìn thấy, ông nhà giàu sờ tay vào cây đếm từng khúc tre. Phép màu của Bụt đã hút ông dính luôn vào cây tre. Khi ông đồng ý giữ lời hứa, anh mới sực nhớ ra câu "khắc xuất" để giải thoát cho cha vợ của mình. Sợ hãi, ông phú hộ phải giữ lời hứa, gả con gái cho anh nông dân. Cuối cùng, anh và con gái ông phú hộ sống với nhau hạnh phúc mãi mãi. Truyện tranh Câu chuyện đã được in rất nhiều lần trong các sách tuyển tập truyện cổ tích Việt Nam. Câu chuyện cũng được minh họa qua sách truyện tranh, ít nhất đã có 2 tập truyện tranh được phát hành: Cây tre trăm đốt, do Linh Nâu kể lại, Mai Hoa vẽ và do Nhà xuất bản Nhã Nam ấn hành năm 2010, 32 trang. Cây tre trăm đốt, do Công ty Truyện tranh Art Sign kết hợp Nhà xuất bản Giáo dục cùng Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển giáo dục Phương Nam xuất bản năm 2012. Tuy nhiên, sách truyện tranh này bị phê bình là "có những nội dung rất không hợp lý", đối thoại không mang tính cách giáo dục và mang ngôn ngữ "kiểu xì tin" . Chú thích
Tượng Đức Mẹ trên núi Tà Pao (gọi tắt là tượng Đức Mẹ Tà Pao; tiếng Pháp: Notre Dame de Ta Pao) nằm ở xã Đồng Kho, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận. Tượng Đức Mẹ này đúc bằng xi măng trắng cao 3m, đặt trên một bệ vuông cao 2m. Quần thể công trình tượng đài, lễ đài Đức Mẹ Tà Pao hiện đang là một trong những trung tâm hành hương lớn của người Công giáo Việt Nam, có tên chính thức là Trung tâm Thánh Mẫu Tà Pao. Tên gọi Tà Pao có thể dễ phân tích theo tiếng K'Ho như sau: "Tà" nghĩa là bến sông, Pao là một tên riêng của một người chủ bến đó. Khu vực Tà Pao là một bến đỗ của thuyền bè giao thương trên Sông La Ngà, khu vực này trao đổi hàng hoá và buôn bán, sau đó nơi này được thành lập là Chợ Tà Pao thuộc xã Đồng Kho. Một quan điểm khác chưa được kiểm chứng: "Tà Pao" là tên đặt theo tiếng của dân tộc K’Ho có nghĩa là "Một giấc mơ đẹp" ("Tà": đẹp theo nghĩa linh thiêng, "Pao": giấc mơ). Nhưng nếu được viết hoặc phát âm là "Tàmpao" thì có nghĩa là "Suối mơ". Lịch sử Năm 1959, Lễ kính Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội được tổ chức rất long trọng tại các Giáo phận miền Nam Việt Nam nhằm kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức, được gọi là Đại hội Thánh Mẫu Toàn quốc. Dịp này, tổng thống Ngô Đình Diệm - một người theo đạo Công giáo - chỉ thị cho Phủ Tổng uy dinh điền xây dựng năm tượng đài Đức Mẹ ở Miền Trung, Miền Nam và Cao nguyên Trung phần trong các năm 1959, 1960 và 1961 bao gồm: Đức Mẹ Giang Sơn (Darlac), Đức Mẹ Thác Mơ (Phước Long), Đức Mẹ Phượng Hoàng (Công Tum), Đức Mẹ Trinh Phong (Ninh Thuận) và Đức Mẹ Tà Pao (Bình Tuy nay thuộc Bình Thuận). Ngày 8 tháng 12 năm 1959, lễ Cung hiến và khánh thành tượng Đức Mẹ Tà Pao do Giám mục Paul Raymond Marie Marcel Piquet Lợi (Giám mục giáo phận Nha Trang bấy giờ) cử hành, với sự chứng kiến của đông đảo linh mục, tu sĩ và hàng chục ngàn giáo dân phần lớn gốc di cư từ Huế, Nha Trang, Buôn Mê Thuột, Đồng bằng sông Cửu Long... Có thể nói Lễ Cung hiến và khánh thành tượng Đức Mẹ Tà Pao là một Đại lễ tôn giáo tầm cỡ quốc gia lúc bấy giờ ở miền Nam Việt Nam. Từ năm 1964 đến năm 1975, toàn bộ vùng Bắc Ruộng (bắc sông La Ngà) thuộc quyền kiểm soát của Chính Quyền cách mạng Lâm thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam. Hầu hết giáo dân đi sơ tán về vùng Nam Ruộng (nam sông La Ngà) và những nơi khác, nên tượng Đức Mẹ Tà Pao dường như bị lãng quên từ đó. Sau năm 1975, vào khoảng tháng 10 năm 1980, một số giáo dân thuộc vùng kinh tế mới xã Đức Tân và xã Huy Khiêm đã tiến hành tìm kiếm lại tượng Đức Mẹ Tà Pao. Vào mùa Phục Sinh năm 1989, một số giáo dân giáo xứ Nghị Đức và Huy Khiêm đến thăm viếng tượng Đức Mẹ Tà Pao và phát hiện phần đầu, tay, chân của tượng bị bể nát. Khoảng cuối tháng 6 năm 1991, nhân dịp lễ hai thánh Tông Đồ thánh Phêrô và thánh Phaolô, những người này được sự cho phép và cổ vũ của Giám mục Nicôla Huỳnh Văn Nghi (Giám mục giáo phận Phan Thiết bấy giờ) và sự khích lệ của linh mục Phanxicô Xaviê Đinh Tân Thời (quản xứ Duy Cần cũ, nay giáo xứ Gia An) đã đến nhờ nhà điêu khắc Lê Phát (hiện đang ở giáo xứ Ngũ Phúc, giáo phận Xuân Lộc) đắp vá và sửa sang lại tượng Đức Mẹ Tà Pao. Công việc hoàn tất ngày 30 tháng 7 năm 1991. Hiện tượng về bức tượng Đức Mẹ Tà Pao Ngày 29 tháng 9 năm 1999, lễ các Tổng lãnh thiên thần, một số giáo dân vùng Phương Lâm và phụ cận, sau đó là các vùng Dốc Mơ, Gia Kiệm, Hố Nai, rồi Sài Gòn... tuôn đổ về vùng giáp ranh giữa Phương Lâm và Tánh Linh với ước muốn được tận mắt chứng kiến hiện tượng lạ như lời kể của ba em học sinh ở Phương Lâm trước đó. Các em cho rằng đã thấy Đức Mẹ hiện ra và bay về phía bên kia núi. Kể từ đầu năm 2000, nhiều đoàn người đổ xô về núi Tà Pao để hành hương. Từ đó đến nay, nhiều người Công giáo đã tường thuật lại nhiều câu chuyện lạ và ơn lạ xung quanh bức tượng Đức Mẹ Tà Pao. Hiện nay, tượng Đức Mẹ Tà Pao và khu vực khuôn viên đã được chính quyền tỉnh Bình Thuận cho phép Tòa Giám mục Phan Thiết tiến hành trùng tu với hai hạng mục: xây dựng lễ đài và xây dựng bậc cấp để lên núi. Lễ đài được xây dựng trên nền cũ với diện tích 200m² còn bậc cấp được xây mới dài 250m, rộng 2m, trên 400 bậc, nhằm mục đích phục vụ khách hành hương thuận tiện khi lên núi viếng Đức Mẹ. Công trình được khánh thành vào ngày 13 tháng 5 năm 2007 (ngày 13 hàng tháng vẫn thường có thánh lễ do Giám mục giáo phận Phan Thiết cử hành trên núi hoặc dưới chân núi) và chính thức có tên gọi Trung tâm Hành hương Đức Mẹ Tà Pao. Năm 2009, Giáo phận Phan Thiết tổ chức "Năm Thánh Đức Mẹ Tà Pao" để kỉ niệm 50 năm khánh thành bức tượng. Sự kiện này thu hút rất đông khách hành hương đến khu vực này mỗi tháng.. Một nguồn tin địa phương cho hay: Vào năm 2000 có 1 trận lụt lớn ở khu vực Chợ Tà Pao, Tà Trang, La Ngâu. Khiến khu này khổ càng thêm khổ, sau lũ ít hôm thì có các đoàn cứu trợ đến giúp. Nhân duyên này họ đã thấy tượng của Đức mẹ trên núi (tượng đã có rất lâu về trước, và cũng ít người quan tâm, chủ yếu là thấy tượng đã tồn tại từ bao giờ không ai biết), từ lúc đó có những tin đồn là có Đức mẹ hiển linh. Một cách rất Tâm Linh, khu vực này được các tổ chức viếng thăm và hỗ trợ người dân ở đây có cuộc sống tốt hơn rất nhiều, giúp dân địa phương trở nên giàu có hơn sau lũ lụt. Hình ảnh Chú thích
Phần mềm thời gian thực (real-time software) là các chương trình giám sát/phân tích/điều khiển các sự kiện trong thế giới thực ngay khi nó xảy ra. Các phần tử của phần mềm thời gian thực bao gồm: thành phần thu thập dữ liệu mà thu nhận và chuẩn hoá thông tin từ môi trường ngoài, rồi phân tích, thành phần phân tích chuyển đổi thông tin mỗi khi chương trình yêu cầu, thành phần điều khiển đầu ra tác động trở lại môi trường ngoài, thành phần giám sát điều phối mọi hoạt động của các thành phần khác để có thể kiểm soát được đáp ứng thời gian thực. Một hệ thống thời gian thực phải đáp ứng trong một giới hạn chặt chẽ về thời gian. Điển hình của phần mềm thời gian thực là các phần mềm điều khiển các thiết bị tự động. Phần mềm thời gian thực bao gồm các thành tố: Thành phần thu thập dữ liệu để thu và định dạng thông tin từ môi trường ngoài Thành phần phân tích để biến đổi thông tin theo yêu cầu của ứng dụng Thành phần kiểm soát hoặc đưa ra đáp ứng môi trường ngoài Thành phần điều phối để điều hòa các thành phần khác sao cho có thể duy trì việc đáp ứng thời gian thực. Hệ thống thời gian thực phải đáp ứng những ràng buộc thời gian chặt chẽ.
Lăng Cô là một thị trấn thuộc huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam. Tên gọi Địa danh "Lăng Cô" có người cho rằng là do người Pháp đọc trại tên "An Cư", vốn là làng chài ở phía nam đầm. Cũng có người cho rằng lúc trước ở Lăng Cô có nhiều đàn cò, nên được gọi là Làng Cò, sau đó được dân địa phương đọc trại lại là Lăng Cô. Địa lý Thị trấn Lăng Cô nằm ở phía đông nam huyện Phú Lộc, có vị trí địa lý: Phía đông giáp Biển Đông Phía tây giáp xã Lộc Tiến Phía nam giáp thành phố Đà Nẵng với ranh giới là núi Bạch Mã Phía bắc giáp xã Lộc Vĩnh và Biển Đông. Thị trấn Lăng Cô cách thành phố Huế khoảng 60 km về phía nam, nằm dưới chân đèo Hải Vân. Bãi biển Lăng Cô có bãi cát đẹp, nơi có nhiều khu nghỉ mát, nằm gần cảng Chân Mây và khu kinh tế Chân Mây. Nơi có Quốc lộ 1 A và Đường sắt Bắc Nam chạy qua. Dân c­ư Theo thống kê, thị trấn có số nhân khẩu khoảng 11.200 ng­ười, sản xuất theo ba ngành nghề chính là nông nghiệp, đánh bắt, nuôi trồng thủy sản và dịch vụ th­ương mại (trong đó: dịch vụ thư­ơng mại là 40%, thủy sản là 35% và nông nghiệp là 25%). Dân c­ư có mức sống thấp so với mặt bằng bình quân trong tỉnh. Trong một vài năm gần đây, do đ­ược đầu tư­ một số công trình trọng điểm nh­ư công trình cảng n­ước sâu Chân Mây, nâng cấp Quốc lộ 1, xây dựng hầm đư­ờng bộ Hải Vân... Số người đến làm việc ở trong khu vực khá đông, dịch vụ đáp ứng mọi nhu cầu đư­ợc nâng lên, nên mức sống của người dân đã đ­ợc cải thiện đôi chút. Dân c­ư tập trung trong vùng Nam đồi cát hẹp Lăng Cô và một vài vùng ven đầm Lập An chủ yếu tập trung: ven đư­ờng Quốc lộ 1, gần ga đ­ường sắt và vùng ven đầm. Dân số một vài năm gần đây cũng có tăng lên (tăng cơ học) do một số cơ quan nh­ư công đoàn, du lịch và quân đội cũng tổ chức khách sạn, nhà nghỉ và doanh trại... Địa hình Khu đất quy hoạch gồm dải bãi cát sát bờ biển có cao độ 1,5 m đến 10,5 m trở lên; tiếp đến là một dải cồn cát hẹp có cao độ từ 5,00 m đến 23,00 m chạy dài 8–9 km. Độ dốc tự nhiên phần lớn là 0,005-0,05%. Riêng khu vực ven sư­ờn chân núi Phú Gia, chân núi phía Tây đầm Lập An và ven cồn cát có độ dốc là 20-30%. Ngoài ra về phía Tây và Tây Nam có đầm Lập An, các bầu trũng và các thung lũng nhỏ hẹp. Khí hậu Gió: Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, có 2 hư­ớng gió chính là gió mùa đông bắc về mùa đông và gió mùa tây nam về mùa hè. VTB là 29,6 m/s. Đồng thời cũng chịu tác động của gió biển và gió đất liền theo chu kỳ ngày đêm. Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình/năm: 25,2 °C. Tháng nóng nhất tháng 6, tháng 7 với 41,3 °C và tháng lạnh nhất là tháng 12 với nhiệt độ là 8,8C. L­ượng mư­a bình quân năm là 3.368 mm. Tháng mưa lớn nhất là tháng 10. Số ngày MTB năm 156 ngày. Thủy văn Khu vực Lăng Cô có đầm lớn là đầm Lập An thông với biển Đông rộng khoảng 1.655 ha. Xung quanh đầm có một số con suối tập trung nư­ớc theo các l­ưu vực núi Phú Gia và Hải Vân đổ ra đầm. Các con suối này l­ưu l­ượng nhỏ không đáng kể. Phía Bắc có một vài bầu trũng nhỏ giữa chân Phú Gia và cồn cát ven biển là rạch tụ thủy để thoát nư­ớc cho khu vực trong mùa m­ưa. Chế độ thủy triều tại vùng Lăng Cô là chế độ bán nhật triều. Mực n­ước triều bình quân là 0 cm, cực đại là 126 cm, cực tiểu là -72 cm. Thủy triều cao nhất ứng với tần suất 1% là 143 cm. Hành chính Thị trấn Lăng Cô được chia thành 9 tổ dân phố: An Cư Đông 1, An Cư Đông 2, An Cư Tân, An Cư Tây, Đồng Dương, Hải Vân, Hói Dừa, Lập An, Loan Lý. Lịch sử Thị trấn Lăng Cô được thành lập vào năm 2002 trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Lộc Hải. Du lịch Bãi biển Lăng Cô là một danh lam thắng cảnh thiên nhiên của tỉnh Thừa Thiên Huế, cùng với cụm Hải Vân-Non Nước được đưa vào danh sách các khu du lịch quốc gia Việt Nam. Bãi biển Lăng Cô từ lâu đã nổi tiếng là một bãi biển có các điều kiện tự nhiên và phong cảnh vào loại đẹp nhất ở Việt Nam – với bãi cát trắng dài tới hơn 10 km, làn n­ước biển trong xanh bao la tuyệt đẹp, bên cạnh đó là những cánh rừng nhiệt đới rộng lớn trên những dãy núi nhấp nhô, nằm giữa núi rừng và biển là đầm Lập An rộng lớn (800 ha) đầy huyền bí. Lăng Cô có vị trí địa lý nằm giữa 3 trung tâm Bảo tồn Di sản Văn hóa Thế giới là: Cố đô Huế, Khu phố cổ Hội An và Khu Thánh địa Mỹ Sơn với bán kính là 70 km. Lăng Cô có thể thu hút khách tham quan, nghiên cứu tại các trung tâm trên và giải tỏa áp lực những thời điểm đông khách. Lăng Cô nằm trên tuyến du lịch Bắc-Nam cách thành phố Đà Nẵng 30 km và thành phố Huế 70 km. Lăng Cô là nơi tập trung nhiều tài nguyên du lịch phong phú: bờ biển, bãi cát mịn, đầm hồ, sông suối, núi đồi, bên đèo Hải Vân, gần rừng nguyên sinh Bạch Mã và các di tích lịch sử.v.v. sẽ tạo ra các sản phẩm du lịch đa dạng nhất thỏa mãn các loại hình du lịch. Lăng Cô được công nhận là vịnh đẹp thế giới. Ngày 6 tháng 6 năm 2009, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức đón nhận danh hiệu "Lăng Cô - vịnh đẹp thế giới" do Câu lạc bộ các vịnh biển đẹp nhất thế giới (Worldbays) bình chọn. Kinh tế - xã hội Các công trình xây dựng (nhà ở, công trình công cộng...) trong khu dân c­ư từ trư­ớc đến nay là do dân tự làm. Phần lớn nhà ở là nhà một tầng lợp ngói hoặc lợp tôn (chiếm 79,3%), lác đác có nhà đúc mái bằng, và nhà cây tranh tre, lợp giấy dầu (chiếm 20,7%). Công trình công cộng gồm có 2 tr­ường học (một tr­ường tiểu học và một trư­ờng trung học cơ sở), chùa Phật giáo, nhà thờ Thiên Chúa giáo, trụ sở ủy ban nhân dân xã, trạm y tế, bến thuyền đánh cá, doanh trại quân đội... đư­ợc xây dựng một, hai tầng lợp ngói. Khu chế biến hải sản n­ước mắm, mắm chua và chế biến dầu Tràm, dầu khuynh diệp chủ yếu là tại các nhà dân. Ngoài ra còn có các nhà hàng dịch vụ tư­ nhân phục vụ ăn uống cho khách vãng lai, xe chạy đ­ường dài Bắc Nam trên Quốc lộ 1 và ga đư­ờng sắt. Giao thông Khu du lịch Lăng Cô – đầm Lập An có tuyến Quốc lộ 1 chạy qua dài khoảng 10 km, mới đ­ược nâng cấp nền đư­ờng rộng 12 m, mặt đ­ường cho xe cơ giới bằng bê tông nhựa có bề rộng 7,00 m và gia cố lề đ­ường bằng bê tông nhựa rộng mỗi bên 2,00 m. L­ưu lư­ợng xe tính bình quân khoảng 3.500 xe ngày/đêm. Đèo Phú Gia ở phía Bắc và đèo Hải Vân ở phía Nam cũng mới đ­ược nâng cấp mặt đường và các điều kiện an toàn giao thông. Cầu Lăng Cô bắc qua vụng Lăng Cô trư­ớc đây đã bị chiến tranh phá hoại, sau khôi phục tạm cho việc thông th­ương Bắc Nam. Năm 1998 đã được xây dựng lại bằng bê tông cốt thép với tiêu chuẩn cho 2 làn xe cơ giới. Năm 2000, Bộ Giao thông Vận tải cho khởi công xây dựng hầm đ­ường bộ xuyên núi Hải Vân ở phía Đông Nam ga Lăng Cô, đồng thời xây dựng cầu Lăng Cô mới nối thẳng từ Quốc lộ 1 hiện tại v­ượt vụng Lăng Cô, vư­ợt đ­ường sắt Nam ga Lăng Cô đi lên hầm mới. Như­ vậy trong khu vực hiện nay theo tuyến Quốc lộ 1 đi về phía Nam có 2 cây cầu bê tông cốt thép v­ượt qua vụng biển Lăng Cô. Đây là những công trình có thể tận dụng nâng cấp, khai thác cho khu du lịch sau này. Đ­ường đi lại trong khu dân c­ư chủ yếu là đư­ờng cát sỏi và đ­ường đất. Nhằm dần hoàn thiện quy hoạch khu du lịch, trong một hai năm vừa qua, tỉnh đã dùng ngân sách địa ph­ương đầu t­ư xây dựng một tuyến đ­ường trục dài khoảng 4~5 km chạy dọc biển đ­ợc trải nhựa, làm cơ sở cho việc phát triển các khu chức năng sau này. Tuyến đ­ường sắt quốc gia Bắc Nam (khổ đư­ờng 1.000 mm) sau khi xuyên hầm Phú Gia thì không bám theo Quốc lộ 1 mà rẽ về ven chân núi phía Tây đầm Lập An, qua các cầu Hói Mít, Hói Dừa và Hói Cạn vào ga Lăng Cô ở chân đèo Hải Vân. Đây là tuyến đ­ường sắt quốc gia trọng yếu Bắc Nam, tuy nhiên năng lực thông qua chư­a đư­ợc phát huy do hạn chế bởi đoạn đ­ường qua đèo Hải Vân có độ dốc khá lớn (imax = 20o/oo), và bán kính đư­ờng cong quá nhỏ (Rmin = 100 m). Từ giữa thập niên 1980 ngành đường sắt đã cho cải tạo khá nhiều những đoạn tiêu chuẩn thấp và đặc biệt là xây dựng hai ga Bắc Hải Vân và Nam Hải Vân trên đèo nên đã tăng năng lực thông qua đáng kể giữa Lăng Cô và Liên Chiểu (Đà Nẵng). Tư­ơng lai tuyến đ­ờng sắt hiện trạng từ Hói Mít, Hói Dừa đi Liên Chiểu sẽ đ­ược định h­ướng quy hoạch thành đường ô tô và tuyến đ­ường sắt t­ương lai theo quy hoạch sẽ qua núi Hải Vân theo một đ­ường hầm mới (thuộc dự án của Bộ giao thông vận tải). Hình ảnh
Luật Doanh nghiệp năm 2014 của Việt Nam quy định về việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp gồm công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân. Luật doanh nghiệp 2014 còn quy định về nhóm công ty. Hiện tại, Luật này đã được thay thế bởi Luật Doanh nghiệp 2020. Lịch sử hình thành và phát triển Tình hình chung của nền kinh tế trước khi có Luật Doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu thực hiện đổi mới từ nửa cuối thập niên 1980, với mong muốn xóa bỏ dần cơ cấu bao cấp quan liêu của nền kinh tế kế hoạch hóa, phát triển nền kinh tế năng động và hiện đại hơn. Một chủ trương lớn của chính phủ Việt Nam là hướng đến tự do hóa thương mại và thúc đẩy kinh tế tư nhân. Với nhiều biện pháp "xé rào", giải tỏa bớt các rào cản cho kinh tế tự do lưu thông, nền kinh tế Việt Nam nói chung, trong đó chủ yếu là kinh tế cá thể tư nhân bắt đầu phát triển mạnh. Nhưng những thành phần kinh tế tư nhân này còn rất mỏng manh.Việc thành lập công ty, doanh nghiệp phải trải qua "cả rừng" giấy tờ, con dấu các loại cùng vô số thủ tục "xin-cho" khác. Dù gặp rất nhiều khó khăn nhưng sức phát triển của khu vực kinh tế tư nhân vô cùng mạnh mẽ. Tính đến ngày 31-12-1996, Việt Nam có 1.439.683 đơn vị kinh doanh tư nhân, trong đó gồm 1.412.166 cá nhân và nhóm kinh doanh, 17.535 doanh nghiệp tư nhân, 6.883 công ty trách nhiệm hữu hạn, 153 công ty cổ phần và 2.946 hợp tác xã Luật dành cho doanh nghiệp tư nhân. Tìm cách đáp ứng những nhu cầu quản lý sự phát triển mạnh mẽ của khối kinh tế tư nhân. Luật Công ty năm 1990 và Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990 (cùng được Quốc hội Khóa VIII thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1990) là các văn bản pháp lý đầu tiên cho phép thành lập các tổ chức kinh tế thuộc tư hữu, bao gồm các loại hình là: công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần (thành lập theo Luật Công ty) và doanh nghiệp tư nhân (thành lập theo Luật Doanh nghiệp tư nhân). Tuy vậy, phải đến năm 1992, Quốc hội mới thông qua Hiến pháp mới, công nhận: "Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định pháp luật". Qua đó đưa Luật Doanh nghiệp tư nhân thực sự đi vào hoạt động. Đến năm 1998, chính phủ của thủ tướng Phan Văn Khải bắt tay vào soạn thảo Luật Doanh nghiệp. Mục tiêu của luật mới ban đầu không chỉ muốn điều chỉnh và quản lý toàn bộ khối doanh nghiệp tư nhân bằng các quy định khung rõ ràng, loại bỏ các loại giấy phép và các cơ chế xin-cho, Ban soạn thảo luật cũng như thủ tướng Phan Văn Khải còn muốn biến luật này thành luật chung sử dụng cho cả khu vực kinh tế tư nhân và nhà nước, xóa bỏ tình trạng sân chơi không công bằng cho các loại hình doanh nghiệp. Cả hai mục tiêu này đều chưa thực hiện được cho đến ngày hôm nay khi giấy phép vẫn tiếp tục sinh sôi nẩy nở và doanh nghiệp tư nhân vẫn tiếp tục bị phân biệt đối xử. "Công việc soạn thảo Luật Doanh nghiệp được giao cho Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, một cơ quan thuộc Bộ Kế hoạch Đầu tư thực hiện. Viện trưởng Viện này là tiến sĩ Lê Đăng Doanh, một người được đào tạo từ Cộng hòa Dân chủ Đức, từng giúp việc cho Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Cùng với ông Lê Đăng Doanh, là Viện phó Đặng Đức Đạm, ông Nguyễn Đình Cung, luật sư Trần Hữu Huỳnh, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam - Nguyên Trưởng ban Pháp chế VCCI, các luật gia Cao Bá Khoát, Dương Đăng Huệ, Bộ Tư pháp, Nguyễn Thái Sơn, Văn phòng Chính phủ và bà Phạm Chi Lan. Trực tiếp thiết kế Luật Doanh nghiệp là ông Nguyễn Đình Cung, vừa tốt nghiệp cao học ở Anh. Ông Cung nằm trong số 37 cán bộ đầu tiên của Việt Namđược gửi đi các nước phương Tây theo học bổng của UNDP hồi năm 1992. Nhóm biên soạn chính đã được gửi đi New York và Washington, D.C., nghiên cứu hai tuần dưới sự tài trợ của USAID. Một nhóm các nhà nghiên cứu người Mỹ và New Zealand, như Giáo sư Bernard Black, Giáo sư Krassman, Giáo sư Geordan, Luật sư David Goddard, được tài trợ bởi UNDP đã đến Việt Nam, trực tiếp tư vấn cho các bản dự thảo đầu tiên của Luật " Sau gần 9 năm thi hành Luật Công ty năm 1990 và Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990, Luật Doanh nghiệp năm 1999 được Quốc hội Khóa X thông qua ngày 12 tháng 6 năm 1999, thay thế Luật Công ty năm 1990 và Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990, quy định chi tiết hơn các loại hình tổ chức kinh tế tư hữu đã có trước đó (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và doanh nghiệp tư nhân) và bổ sung thêm một loại hình mới là công ty hợp danh. Luật Doanh nghiệp 1999 cũng lần đầu tiên quy định về hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, nhưng quy định chủ sở hữu của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên chỉ có thể là tổ chức. Ngoài ra, theo Luật Doanh nghiệp năm 1999 thì công ty hợp danh không có tư cách pháp nhân. Doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước Bên cạnh việc ban hành các quy định về quản lý doanh nghiệp thuộc tư hữu, ngày 20 tháng 4 năm 1995 Quốc hội Khóa IX đã thông qua Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995 để quy định cụ thể việc thành lập và quản lý phần vốn của nhà nước đầu tư trong các doanh nghiệp nhà nước, mà trước đó mới chỉ được điều chỉnh bởi các Nghị định và hướng dẫn của Chính phủ. Các doanh nghiệp nhà nước được tổ chức theo mô hình quản lý riêng, không giống như mô hình quản lý của các doanh nghiệp thuộc tư hữu. Tiếp tục việc hoàn thiện pháp luật, ngày 26 tháng 11 năm 2003 Quốc hội Khóa XI đã thông qua Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 để thay thế Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995. Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 đã quy định 3 mô hình quản lý của các doanh nghiệp nhà nước bao gồm: công ty nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước, và công ty cổ phần nhà nước; trong đó, 2 mô hình sau là gần tương đồng với mô hình quản lý của các doanh nghiệp thuộc tư hữu được quy định trong Luật Doanh nghiệp năm 1999. Thống nhất các quy định riêng rẽ Để đẩy nhanh quá trình cải cách kinh tế, ngày 29 tháng 11 năm 2005 Quốc hội Khóa XI đã thông qua Luật Doanh nghiệp năm 2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2006. Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã thống nhất các quy định về thành lập và quản lý các doanh nghiệp, gần như không còn sự phân biệt là doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước hay sở hữu tư nhân về phương diện tổ chức quản trị. Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã thay thế Luật Doanh nghiệp năm 1999; Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 166 của Luật này; các quy định về tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp tại Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có thể thuộc sở hữu của tổ chức hoặc của cá nhân; thêm vào đó, công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ khi được thành lập. Quá trình sửa đổi Ngày 26/11/2014, Quốc hội đã thông qua Luật Doanh nghiệp năm 2014 (Luật số: 68/2014/QH13), có hiệu lực kể từ 01/7/2015; Luật này quy định về việc thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động có liên quan của doanh nghiệp, bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân; quy định về nhóm công ty. So với Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật Doanh nghiệp năm 2014 có 10 chương, 213 điều, tăng 41 điều; Chương IV quy định về Doanh nghiệp nhà nước với 22 điều là chương mới hoàn toàn; Điều 10 quy định về tiêu chí, quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp xã hội cũng mới hoàn toàn. Ngày 17/6/2020, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Doanh nghiệp 2020, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021, trong đó có một số điểm mới nổi bật như: Thứ nhất, về thông báo mẫu dấu của doanh nghiệp: Theo quy định hiện hành thì trước khi sử dụng, doanh nghiệp có nghĩa vụ thông báo mẫu con dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Luật mới không quy định thủ tục thông báo mẫu dấu với Cơ quan đăng ký kinh doanh Thứ hai, về hộ kinh doanh: Sẽ bỏ quy định về chuyển hộ kinh doanh thành doanh nghiệp. Đồng thời, để bảo đảm tính liên tục cho đến khi ban hành một luật riêng về hộ kinh doanh, cần thiết giao Chính phủ hướng dẫn đăng ký và hoạt động đối với hộ kinh doanh (khoản 4 Điều 217 quy định về điều khoản thi hành). Thứ 3, sửa đổi, định nghĩa lại về doanh nghiệp nhà nước Tại luật mới, doanh nghiệp nhà nước theo nguyên tắc phân chia các loại doanh nghiệp có sở hữu nhà nước theo mức độ sở hữu khác nhau. Cụ thể như sau:Điều 88. Doanh nghiệp nhà nước 1. Doanh nghiệp nhà nước được tổ chức quản lý dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, bao gồm: a) Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ; b) Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết, trừ doanh nghiệp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này. 2. Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều này bao gồm: a) Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ là công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước, công ty mẹ của tổng công ty nhà nước, công ty mẹ trong nhóm công ty mẹ - công ty con; b) Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là công ty độc lập do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. 3. Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này bao gồm: a) Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết là công ty mẹ của tập đoàn kinh tế, công ty mẹ của tổng công ty nhà nước, công ty mẹ trong nhóm công ty mẹ - công ty con; b) Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần là công ty độc lập do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết.Thứ 4, tại điều 17 Luật DN 2020 bổ sung thêm đối tượng là tổ chức, cá nhân không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam gồm: - Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình; - Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức; - Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp, công nhân công an trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam, trừ người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp hoặc quản lý tại doanh nghiệp nhà nước; - Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 88 của Luật này, trừ người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác; - Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; người bị mất năng lực hành vi dân sự; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; tổ chức không có tư cách pháp nhân; - Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đang bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; các trường hợp khác theo quy định của Luật Phá sản, Luật Phòng, chống tham nhũng. Trường hợp Cơ quan đăng ký kinh doanh có yêu cầu, người đăng ký thành lập doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh; - Tổ chức là pháp nhân thương mại bị cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định theo quy định của Bộ luật Hình sự. (đối tượng này được bổ sung mới) Tác động của Luật Doanh nghiệp Tác động tích cực sau khi Luật Doanh nghiệp ra đời Luật Doanh nghiệp chính thức đi vào thực hành từ năm 2000 mang lại nhiều thuận lợi lớn cho các doanh nghiệp tư nhân. Tác động đầu tiên của nó chính là vô hiệu hóa hàng loại các loại giấy phép, con dấu các loại, giảm nhiêu khê và công sức của doanh nghiệp trong các hoạt động của mình. Khi Luật đi vào hoạt động, chính phủ của thủ tướng Phan Văn Khải tiếp tục tìm cách xóa bỏ bớt những loại giấy phép còn tồn đọng. Đến năm 2003, có khoảng 500 loại giấy phép "thừa" được thủ tướng Phan Văn Khải ký quyết định bãi bỏ. Hệ quả là môi trường kinh doanh được cải thiện rõ rệt. Sau 3 năm đi vào hoạt động, Việt Nam tăng được 2 bậc trong bảng xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế Thế giới. Tuy vẫn bị đánh giá rất thấp (hơn Thái Lan và Trung Quốc nhiều), nhưng đây là sự cải thiện rõ ràng. Khối kinh tế tư nhân cũng phát triển mạnh mẽ. Từ năm 2000 đến năm 2002 có 55.793 doanh nghiệp mới được thành lập, trong khi 9 năm trước đó 1991-1999 chỉ có 45.000 Luật Doanh nghiệp ra đời còn giảm thái độ cửa quyền, nhũng nhiễu của các cơ quan công quyền, hải quan, thuế quan, tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động dễ dàng hơn, và tốn ít chi phí bôi trơn hơn. Luật Doanh nghiệp tiếp tục được hoàn thiện và áp dụng cho cả doanh nghiệp tư nhân và nhà nước đã phần nào đưa các loại hình doanh nghiệp vào một sân chơi chung, hứa hẹn giảm tải sự tham gia của nhà nước vào kinh doanh, thúc đẩy tự do và phát triển kinh tế. Đến nay tuy vẫn còn nhiều thủ tục rườm rà, việc thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam đã rất nhanh và dễ dàng so với trước khi có luật. Ở những trung tâm kinh tế lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng v.v, đã xuất hiện nhiều dịch vụ tư nhân hỗ trợ thành lập doanh nghiệp với chi phí khá thấp. Riêng trong năm 2013, Việt Nam có 76.955 doanh nghiệp mới được thành lập Những biến chuyển trong việc thực thi Luật Doanh nghiệp từ thời thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Tuy đã rất cố gắng, thủ tướng Phan Văn Khải cùng Tổ công tác của ông cũng không trừ bỏ được vấn nạn giấy phép. Các loại giấy phép kinh doanh cứ liên tục "mọc lên" và vẫn là rào cản rất lớn cho sự phát triển lành mạnh của môi trường kinh doanh tại Việt Nam. "Sân chơi công bằng" vẫn tiếp tục là điều xa vời khi các công ty nhà nước vẫn được ưu tiên quá nhiều, nắm giữ những nguồn tài nguyên, vốn của đất nước cùng các loại đặc quyền đặc lợi thành văn và bất thành văn khác. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng với chủ trương lớn kinh tế tập đoàn của mình, nhìn chung đã đi ngược lại tinh thần của Luật Doanh nghiệp và chính phủ của thủ tướng Phan Văn Khải khi lạm dụng việc điều hành kinh tế bằng những chỉ thị, nghị quyết và công văn mà không sử dụng luật. Việc nhà nước tiếp tục tham dự sâu vào sân chơi kinh tế khiến cho các loại giấy phép lại sinh sôi nẩy nở, tình trạng lãng phí và tham nhũng lại diễn ra nặng nề hơn. Việt Nam đã hình thành nền kinh tế cánh hẩu cùng các nhóm lợi ích liên quan đến các quan chức nhà nước. Kết quả là giảm tính cạnh tranh, năng suất lao động và hiệu quả lao động của cả nền kinh tế. Rất nhiều nhà khoa học và chuyên gia kinh tế, trong cũng như ngoài nước đang lo sợ sự trì trệ và suy giảm kinh tế sẽ diễn ra trong tương lai gần nếu không có sự thay đổi. Chú thích
Aphrodite (Việt hóa: Aphrôđit/Aphrôđitê/Aphrôđitơ, , phát âm tiếng Hy Lạp Attica: , tiếng Hy Lạp Koine , ) là nữ thần Hy Lạp cổ đại gắn liền với tình yêu, tình dục, sắc đẹp, niềm vui, đam mê và phồn thực. Hình tượng của bà sau này được hỗn dung với nữ thần Venus của La Mã. Những biểu trưng chính của Aphrodite bao gồm hương đào, hoa hồng, chim bồ câu, chim sẻ và thiên nga. Tục thờ cúng Aphrodite bắt nguồn từ tục thờ cúng nữ thần Astarte của người Phoenicia và có cùng nguồn gốc với nữ thần Đông Semit tên là Ishtar, căn nguyên chính là tục thờ nữ thần Inanna của người Sumer cổ. Cythera, Cyprus, Corinth và Athens xưa kia là những trung tâm chính sùng bái Aphrodite. Cứ đến hạ chí hằng năm, người Hy Lạp lại tổ chức lễ hội Aphrodisia để tôn vinh Aphrodite. Tại vùng Laconia, bà được tôn thờ như một nữ thần chiến binh. Ngoài ra, bà còn là nữ thần bảo trợ của mại dâm và "mại dâm thiêng liêng", một khái niệm văn hóa Hy-La cổ đại hiện đã bị hầu hết giới nghiên cứu thần thoại bác bỏ. Theo tác phẩm Theogonía của Hēsíodos, Aphrodite sinh ra ngoài khơi Cythera từ bọt biển (ἀφρός, aphrós) tạo ra bởi bộ phận sinh dục của thần Uranus, bị chính con trai mình là Cronus cắt đứt rồi ném xuống biển. Tuy nhiên, sử thi Iliad của Hómēros lại kể rằng bà là con gái của Zeus và Dione. Trong tác phẩm Yến hội, Platon cho rằng hai câu chuyện này kể về hai vị thần khác nhau: Aphrodite Ourania thuộc về trời và Aphrodite Pandemos thuộc về toàn dân gian. Aphrodite còn có nhiều tính ngữ khác ở từng địa phương. Chẳng hạn như Cytherea và Cypris, bởi tương truyền bà sinh ra ở một trong hai nơi đó. Trong thần thoại Hy Lạp, Aphrodite kết hôn với Hephaestus, vị thần của thợ rèn và gia công. Tuy vậy, Aphrodite không chung thủy và có rất nhiều tình nhân. Trong sử thi Odýsseia, bà bị bắt gặp ngoại tình với vị thần chiến tranh Ares. Trong bài thánh ca Homeros đầu tiên cho Aphrodite, bà quyến rũ chàng chăn cừu trần thế Anchises. Aphrodite còn là mẹ nuôi và tình nhân của chàng chăn cừu phàm trần Adonis, sau này chàng ta bị một con lợn rừng húc chết. Trong thiên sử Iliad, cuộc thi sắc đẹp giữa 3 nữ thần Aphrodite, Athena và Hera đã khơi mào cuộc chiến thành Troia đẫm máu. Aphrodite được coi là biểu tượng của vẻ đẹp phụ nữ trong nghệ thuật phương Tây, một hình tượng rất nổi tiếng trong các tác phẩm văn học phương Tây. Aphrodite là vị thần chính trong nhiều tôn giáo Tân Pagan hiện đại bao gồm Giáo hội Aphrodite, Wicca và Hellenismos. Từ nguyên Nhà thơ Hēsíodos cho rằng danh xưng Aphrodite bắt nguồn từ aphrós (ἀφρός) "bọt biển", nên cả cụm từ có nghĩa là "trỗi dậy từ bọt", nhưng giới chuyên gia hiện đại hầu như đều bác bỏ cách giải thích dân gian này. Nhiều nhà nghiên cứu thần thoại cổ điển thời cận đại cho rằng Aphrodite là một từ gốc Hy Lạp hoặc gốc một ngôn ngữ Ấn-Âu nào đó, tuy vậy vẫn chưa được công nhận chính thức. Danh xưng Aphrodite có lẽ bắt nguồn từ một ngôn ngữ Semit nào đó chứ không phải Hy Lạp, nhưng nguồn cội chính xác của nó chưa thể được xác định. Nhiều học giả vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX chấp nhận cách giải nghĩa "bọt" của Hēsíodos và phân tích phần thứ hai của Aphrodite là *-odítē "kẻ lang thang" hoặc *-dítē "sáng". Nhà ngôn học người Đức Michael Janda ủng hộ luận điểm của Hēsíodos, cho rằng câu chuyện sinh ra từ bọt của Aphrodite là một thần thoại gốc Ấn-Âu. Nhà ngôn học người Ba Lan Krzysztof T. Witczak cho rằng cái tên Aphrodite là một từ ghép Ấn-Âu của *-abʰor"rất" và *-dʰei"tỏa sáng", có liên hệ với tên của thần Eos. Nhiều học giả khác cho rằng thuyết đó sai lầm vì các thuộc tính của Aphrodite hoàn toàn khác biệt so với Eos và vị thần Vệ Đà Ushas. Một số nhà nghiên cứu tiếp cận vấn đề này theo hướng từ nguyên phi-Hy Lạp. Chẳng hạn như giả thuyết Semit so sánh Aphrodite với barīrītu tiếng Assyria, tên gọi một con quỷ nữ xuất hiện trong một số văn bản Trung Babylon và Hậu Babylon. Hammarström so sánh Aphrodite với từ (e)prϑni "chúa tể" trong tiếng Etrusca, một kính ngữ được vay mượn sang tiếng Hy Lạp thành từ πρύτανιρύτ. Nếu điều này đúng thì cái tên Aphrodite căn nguyên là một kính ngữ mang nghĩa "người phụ nữ". Hầu hết chuyên gia bác bỏ thuyết này, bởi lẽ Aphrodite đã được vay mượn sẵn sang tiếng Etrusca thành Apru từ lâu rồi (bắt nguồn từ Aphrō của tiếng Hy Lạp). Cuốn Etymologicum Magnum thời Trung Cổ (khoảng năm 1150) cung cấp một thuyết từ nguyên nữa, cho rằng Aphrodite bắt nguồn từ habrodíaitos (ἁβροδίαιτος), nghĩa là "cô ấy sống tinh tế", một từ ghép của habrós và díaita. Sự biến đổi âm b thành ph được giải thích là một đặc điểm "quen thuộc" của tiếng Hy Lạp "hiển nhiên là từ tiếng Macedonia Cổ". Nguồn gốc Nữ thần tình yêu vùng Cận Đông Giáo phái Aphrodite ở Hy Lạp bắt nguồn hoặc chịu ảnh hưởng của giáo phái Astarte ở Phoenicia, chính nó cũng bị ảnh hưởng từ giáo phái thờ nữ thần "Ishtar" của các dân tộc Semit Đông và nữ thần "Inanna" của người Sumer. Nhà địa lý Hy Lạp Pausanias viết rằng những người đầu tiên thành lập giáo phái Aphrodite là dân Assyria, sau đó mới đến người Paphia của Đảo Síp, rồi tới người Phoenicia tại Ascalon. Sau đó, người Phoenicia tiếp tục truyền tụng tôn giáo này sang đảo Kythira. Aphrodite tiếp nhận mối liên hệ của Inanna-Ishtar với tình dục và sinh sản. Ngoài ra, bà còn được biết đến với danh hiệu Ourania (Οὐρανία), nghĩa là "thuộc về bầu trời", một danh hiệu tương ứng với vai trò nữ hoàng bầu trời của thần Inanna. Những chân dung nghệ thuật và văn học ban đầu của Aphrodite cực kỳ giống với Inanna-Ishtar. Tương tự như Inanna-Ishtar, Aphrodite là một nữ thần chiến binh Pausanias chép rằng người Sparta thờ phụng bà với cái tên Aphrodite Areia, nghĩa là "hiếu chiến". Ông còn kể rằng các bức tượng sùng bái cổ xưa nhất của Aphrodite ở Sparta và Kythira cầm vũ khí. Các học giả hiện đại nhận thấy rằng khía cạnh nữ thần chiến binh của Aphrodite xuất hiện trong cơ tầng thần thoại cổ nhất và đó rõ ràng là minh chứng cho giả thuyết bà có nguồn gốc Cận Đông. Giới học giả cổ điển thế kỷ XIX không mấy tán thành với ý kiến ​​cho rằng tôn giáo Hy Lạp cổ đại hoàn toàn chịu ảnh hưởng của các nền văn hóa Cận Đông, nhưng ngay cả nhà khảo cổ Friedrich Gottlieb Welcker, người từng cho rằng ảnh hưởng của văn hóa Cận Đông lên văn hóa Hy Lạp chỉ bị giới hạn ở mặt vật chất, vẫn phải thừa nhận rằng Aphrodite có gốc gác Phoenicia. Ảnh hưởng của văn hóa Cận Đông lên tôn giáo Hy Lạp sơ khai nói chung và giáo phái Aphrodite nói riêng được công nhận là bắt đầu từ giai đoạn phương Đông hóa thế kỷ thứ XIII TCN, khi Hy Lạp cổ đại nằm ở rìa của đế quốc Tân Assyria. Nữ thần bình minh Ấn-Âu Một số nhà so sánh thần thoại buổi đầu phản đối quan điểm nguồn gốc Cận Đông của nữ thần và cho rằng Aphrodite là một khía cạnh của nữ thần bình minh Hy Lạp Eos và do đó, bà bắt nguồn từ nữ thần bình minh Ấn-Âu nguyên thủy H2éwsōs (từ nguyên tổ tiên của các từ đồng nguyên sau đây: Eos trong tiếng Hy Lạp, Aurora trong tiếng La-tinh, Ushas trong tiếng Phạn). Hầu hết học giả thời nay bác bỏ quan niệm Aphrodite hoàn toàn chính gốc Ấn-Âu, nhưng vị thần Aphrodite ban đầu của người Semit có lẽ đã bị ảnh hưởng bởi nữ thần bình minh Ấn-Âu. Cả Aphrodite và Eos đều được mô tả với vẻ đẹp gợi tình và tính dục mạnh mẽ, đều có mối quan hệ với những người tình trần thế, và đều có liên kết với màu đỏ, trắng và vàng. Nhà nghiên cứu Michael Janda suy đoán rằng từ Aphrodite nguyên là một tính ngữ (epithet) của thần Eos, với ý nghĩa "cô ấy trỗi dậy từ bọt [của đại dương]", và sự ra đời của Aphrodite trong tác phẩm Theogonía của Hēsíodos là dị bản của một thần thoại Ấn-Âu xa xưa. Câu chuyện Aphrodite trồi lên khỏi đại dương sau khi Cronos đánh bại Ouranos có nét tương đồng với câu chuyện thần sấm Indra đánh bại con quỷ Vrtra và giải phóng Ushas (nữ thần rạng đông của Ấn Độ giáo) trong cuốn Rigveda. Một điểm tương đồng quan trọng khác giữa Aphrodite và nữ thần bình minh Ấn-Âu là mối quan hệ họ hàng gần gũi của họ với thần bầu trời, dễ thấy rằng cả hai vị thần được cho là cha của bà (Zeus và Ouranos) đều là những vị thần bầu trời. Biến thể và danh hiệu Tính ngữ văn hóa phổ biến nhất của Aphrodite là Ourania, nghĩa là "thuộc về bầu trời", nhưng cái tên này hầu như không xuất hiện trong các tác phẩm văn học, biểu hiện một ý nghĩa văn hóa thuần túy. Một tên gọi khác của Aphrodite là Pandemos ("dành cho tất cả dân gian"). Trong vai trò Aphrodite Pandemos, Aphrodite được liên kết với Peithō (Πείθω), nghĩa là "sự thuyết phục", và dân chúng có thể cầu phúc để quyến rũ hơn. Platon trong tác phẩm Yến hội cho hay Ourania và Pandemos là những nữ thần riêng biệt. Ông khẳng định rằng Aphrodite Ourania là Aphrodite thuộc về bầu trời, được sinh ra từ bọt biển sau khi Cronus thiến Uranus, và lớn tuổi nhất trong hai nữ thần. Cũng theo Yến hội, Aphrodite Ourania là nguồn cảm hứng của ham muốn tình dục đồng giới nam, cụ thể là eros (tình yêu) ephebos (lời thề ephebos) và thiếu niên ái. Aphrodite Pandemos trẻ nhất trong hai nữ thần: Bà được sinh ra từ Zeus và Dione, là nguồn cảm hứng của ham muốn dị tính luyến ái và tính lăng nhăng tình dục. Đối với những người theo chủ nghĩa Tân Platon và biến thể Cơ đốc của tư tưởng đó sau này, Ourania gắn liền với tình yêu thiêng liêng còn Pandemos gắn liền với tình yêu thể xác. Hình tượng Ourania tựa đôi chân bà trên mai rùa thể hiện sự tự do trong tình yêu vợ chồng. Tác phẩm điêu khắc chryselephantine của Phidias dành cho dân chúng của thành bang Elis cổ đại có mô tả hình tượng Aphrodite nêu trên. Tuy vậy, bức tượng của Phidias chỉ còn sót lại trong một nhận xét qua loa của Pausanias. Một trong những tên gọi văn học phổ biến nhất của Aphrodite là Philommeidḗs (), nghĩa là "tình yêu mỉm cười" nhưng đôi khi bị dịch sai thành "tình yêu tiếng cười". Tên gọi tính ngữ này xuất hiện xuyên suốt hai sử thi Homeros và Bài thánh ca Homeros đầu tiên cho Aphrodite. Hesiodos từng nhắc đến cái tên này một lần trong tác phẩm Theogonía khi mô tả lúc Aphrodite ra đời, ông giải nghĩa tên này là "tình yêu bộ phận sinh dục" hơn là "tình yêu nụ cười". Giáo sư văn học Cổ điển Monica Cyrino cho rằng sở dĩ có tên Philommeidḗs là vì trong các miêu tả nghệ thuật về Aphrodite, bà thường nở một nụ cười. Những tính ngữ văn học phổ biến khác của Aphrodite bao gồm Cypris và Cythereia, do mối liên hệ của bà với đảo Síp và Cythera. Ở Síp, Aphrodite đôi khi được gọi là Eleemon ("kẻ nhân hậu"). Tại Athens, bà được biết đến với cái tên Aphrodite en kopois ("Aphrodite của các khu vườn"). Tại Cape Colias, một thị trấn dọc bờ biển Attic, bà được tôn sùng với tên Genetyllis "Mẹ". Người Sparta gọi bà bằng những cái tên như Potnia "Bà chủ", Enoplios "Vũ trang", Morpho "Tư dung quyến rũ", Ambologera "Cô ấy là người trì hoãn tuổi già". Trên khắp thế giới Hy Lạp, bà được biết đến với những cái tên như Melainis "Kẻ đen", Skotia "Kẻ đen tối", Androphonos "Kẻ sát nhân", Anosia "Tội lỗi", và Tymborychos "Kẻ đào huyệt", cho thấy bản chất đen tối hơn, bạo lực hơn của nữ thần. Phiên bản đàn ông của Aphrodite, gọi là Aphroditus, được tôn thờ tại thành bang cổ Amathus trên đảo Síp. Tượng thờ Aphroditus có dáng vóc như một người phụ nữ và mặc trang phục giống như phụ nữ, nhưng ông có râu và vén váy lên để lộ cái phallus cương cứng. Theo tín ngưỡng Hy Lạp xưa, biểu tượng đó sẽ mang lại may mắn cho người ngắm. Tục thờ Aphroditus nam tính dần bị át đi bởi tục thờ Aphrodite nữ tình phổ biến hơn, tuy vậy, dấu vết sự sùng bái Aphroditus vẫn còn được lưu giữ trong các truyền thuyết về Hermaphroditus sau này. Thờ cúng Thời cổ điển Lễ hội Aphrodisia được tổ chức hằng năm trên khắp Hy Lạp để tôn vinh riêng nữ thần Aphrodite, quan trọng nhất là ở hai thành bang Athens và Corinth. Tại Athens, lễ Aphrodisia được tổ chức vào ngày thứ tư của tháng Hekatombaion để tưởng nhớ công lao thống nhất Attica của Aphrodite. Trong buổi lễ, các thầy tế sẽ dùng máu của một con bồ câu để thanh tẩy đền thờ Aphrodite Pandemos bên sườn phía tây nam của Acropolis. Sau đó, các bàn thờ sẽ được xức dầu và các bức tượng của Aphrodite Pandemos và Peitho sẽ được rước tới nơi tắm rửa nghi lễ của chúng. Ở Athens, họ còn tổ chức một dịp lễ nữa để tôn vinh nữ thần, gọi là lễ Arrhephoria. Trong tín ngưỡng của người Hy Lạp xưa, ngày thứ tư hàng tháng rất thiêng liêng đối với Aphrodite. Pausanias có chép rằng ở Sparta, Aphrodite được tôn thờ với cái tên Aphrodite Areia, nghĩa là "hiếu chiến". Điều này nhấn mạnh mối quan hệ của Aphrodite với tình nhân của bà là Ares. Pausanias kể thêm rằng, ở Sparta và trên đảo Cythera, một số bức tượng thờ Aphrodite cực kỳ cổ xưa cầm vũ khí, và một số khác còn bị trói buộc trong xiềng xích. Aphrodite là nữ thần bảo trợ của tất cả các loại mại dâm, từ pornai (gái mại dâm đường phố rẻ tiền, thường làm nô lệ cho giới ma cô giàu có) đến hetairai (gái giải khuây làm thuê đắt tiền, được giáo dục tốt, thường là lao động tự do). Corinth cổ đại rất khét tiếng với những Hetairai, họ có tiếng tăm lành nghề nhưng cũng rất đắt đỏ. Corinth xưa kia từng có một ngôi đền thờ Aphrodite rất lớn nằm trên Acrocorinth, và Corinth xưa kia cũng từng là một trong những trung tâm chính của giáo phái thờ Aphrodite. Tại Corinth cũng như trên các đảo Cyprus, Cythera và Sicily, vẫn còn sót lại rất nhiều văn liệu nhắc đến mối liên hệ của Aphrodite với mại dâm. Tiền thân của Aphrodite là nữ thần Lưỡng Hà Inanna-Ishtar, cũng có liên hệ rất mật thiết với mại dâm. Thời Hy Lạp hóa và La Mã Vào thời kỳ Hy Lạp hóa, người Hy Lạp đã hỗn dung Aphrodite với các nữ thần Ai Cập cổ đại là Hathor và Isis. Aphrodite trở thành nữ thần bảo trợ của các nữ hoàng triều Ptolemy. Nữ hoàng Arsinoe II còn tự coi mình là hiện thân trần thế của Aphrodite, và bà cũng chính là người lan truyền giáo phái Adonis tới thành Alexandria, nơi mà tôn giáo Aphrodite rất thịnh. Archimedes từng thiết kế cho vua Ptolemy IV Philopator một con thuyền du ngoạn hai thân khổng lồ gọi là Tessarakonteres, với một ngôi đền hình tròn trên sàn tàu kèm với một bức tượng Aphrodite bằng cẩm thạch. Vào thế kỷ thứ 2 TCN, vua Ptolemy VIII Physcon cùng hai vợ Cleopatra II và Cleopatra III cho xây một ngôi đền thờ Aphrodite Hathor tại Philae. Những bức tượng cỡ nhỏ của Aphrodite để thờ kính cá nhân trở nên phổ biến ở Ai Cập bắt đầu từ đầu thời Ptolemy và kéo dài cho đến rất lâu sau khi Ai Cập trở thành một tỉnh của La Mã. Người La Mã cổ đại coi Aphrodite tương đương với nữ thần Venus của họ, vốn là nữ thần của sự phì nhiêu nông nghiệp, thảm thực vật và mùa xuân. Theo nhà sử học La Mã Livy, Aphrodite và Venus chính thức được sáp nhập vào thế kỷ thứ 3 TCN, khi tín ngưỡng thờ Venus Erycina du nhập vào La Mã từ thánh địa Aphrodite của Hy Lạp trên núi Eryx ở Sicily. Sau thời điểm này, người La Mã hấp thụ biểu tượng và thần thoại của Aphrodite vào nữ thần Venus của họ. Vì Aphrodite là mẹ của anh hùng thành Troia Aeneas trong thần thoại Hy Lạp và Aeneas là người sáng lập thành Roma trong huyền tích La Mã, Venus được người La Mã tôn là Venus Genetrix hay mẹ của toàn bộ La Mã. Julius Caesar tự nhận mình là hậu duệ trực tiếp của Iulus, con trai của Aeneas, và ông rất ủng hộ sự sùng bái Venus. Hoàng đế Augustus và các đời hoàng đế La Mã sau cũng cứ tiếp nối truyền thống đó. Chủ nghĩa hỗn dung đã ảnh hưởng rất lớn tới tục tôn thờ Aphrodite của người Hy Lạp. Dưới sự cai trị của La Mã, các giáo phái Aphrodite ở nhiều thành phố Hy Lạp nhấn mạnh mối quan hệ của bà với thành Troia và Aeneas. Họ cũng bắt đầu thêm thắt các yếu tố La Mã vào, mô tả một Aphrodite khắc khổ hơn, quân phiệt hơn và quan tâm hơn đến bộ máy hành chính. Bà được nhiều quan chức La Mã tôn xưng là thần hộ mệnh. Sự xuất hiện của Aphrodite trong văn học Hy Lạp lại càng phổ biến, thể hiện một Aphrodite theo phong cách La Mã. Thần thoại Ra đời Aphrodite thường được cho là sinh ra ở Paphos, nằm trên đảo Síp. Đây là lý do tại sao đôi khi bà được gọi là "Cypris", đặc biệt là trong các tác phẩm của nữ thi sĩ Sappho. Tuy nhiên, cũng có dị bản kể rằng bà sinh ra ở gần đảo Cythera, do đó bà cũng đôi khi được gọi là "Cytherea". Cythera là một thương điếm và điểm giao thoa văn hóa giữa hai hòn đảo Crete và Peloponesus, chính vì vậy nên những câu chuyện này có lẽ vẫn lưu giữ dấu vết hướng lan truyền giáo phái Aphrodite từ Cận Đông sang đại lục Hy Lạp. Theo Theogonía của Hēsíodos, Cronus cắt đứt dương vật của Uranus rồi ném nó xuống biển. Bọt từ dương vật Uranus đã tạo ra Aphrodite (Hēsíodos cho hay tên của Aphrodite bắt nguồn từ đây), còn những Titan, Erinyes và Meliae nổi lên từ những giọt máu. Hēsíodos kể rằng dương vật của vị thần "trôi dạt trên biển một thời gian dài và bọt trắng nổi lên từ da thịt bất tử; từ đó có một cô gái dần lớn lên." Phiên bản của Hēsíodos về sự ra đời của Aphrodite sau khi Uranus bị thiến có lẽ bắt nguồn từ Khúc ca của Kumarbi, một bài thơ sử thi của người Hitti cổ đại kể về vị thần Kumarbi lật đổ cha mình là Anu và cắn đứt dương vật của ông ta, khiến ông mang thai và sinh ra những đứa con của Anu, bao gồm Ishtar và anh trai Teshub, thần bão Hitti. Trong Iliad, Aphrodite là con gái của thần Zeus và Dione. Tên của Dione dường như là dạng giống cái của danh từ Dios/Dion, tức là dạng gián tiếp của tên thần Zeus. Zeus và Dione cùng được thờ phụng ở Dodona phía tây bắc Hy Lạp. Trong Theogonía, Hēsíodos khẳng định Dione là một Oceanid. Hôn nhân Aphrodite luôn được miêu tả là một người phụ nữ trưởng thành gợi dục, vô cùng ham muốn và không có tuổi thơ. Bà thường được mô tả khỏa thân. Trong Iliad, Aphrodite là vợ chưa cưới của thần chiến tranh Ares và vợ của Hephaestus là một nữ thần Charites. Trong Theogonía, Aphrodite chưa lập gia đình và nữ thần Aglaea, trẻ nhất trong ba Charites, mới là vợ của Hephaestus. Tuy nhiên, trong Cuốn 8 của thiên sử Odyssey, ca sĩ mù Demodocus cho hay Aphrodite là vợ của Hephaestus và kể về việc bà ngoại tình với Ares trong cuộc chiến thành Troia. Thần mặt trời Helios nhìn thấy Aphrodite và Ares ân ái trên giường của Hephaestus bèn báo cho ông để tạo ra một cái lưới vàng. Lần tiếp theo khi Ares và Aphrodite ân ái, tấm lưới bắt được cả hai người họ. Hephaestus mời tất cả các vị thần vào phòng ngủ để cười nhạo những kẻ ngoại tình bị bắt tại trận, nhưng Apollo, Hermes và Poseidon thương cảm cho Ares quá nên Poseidon trả tiền chuộc cho Hephaestus để thả Ares. Nhục nhã, Aphrodite trở về đảo Síp, nơi bà được các Charites chào đón. Câu chuyện này có lẽ bắt nguồn từ một sự tích dân gian Hy Lạp, có nguồn gốc độc lập và không liên quan tới sử thi Odyssey. Nhiều câu chuyện cổ đã được sáng tác để giải thích cuộc hôn nhân giữa Aphrodite và Hephaestus. Trong câu chuyện nổi tiếng nhất, Zeus phải vội gả Aphrodite cho Hephaestus để ngăn các nam thần tranh giành bà. Trong một dị bản khác, Hephaestus dâng cho thân mẫu Hera một ngai vàng, nhưng khi Hera ngồi lên nó thì không thể đứng dậy được nữa. Hephaestus ra điều kiện rằng ông sẽ không giải phóng bà chừng nào bà còn không đồng ý gả Aphrodite cho ông. Hera đành phải chiều ý vị thần. Hephaestus mừng rỡ khi được kết hôn với nữ thần sắc đẹp, liền tạo ra những món đồ trang sức tuyệt mỹ cho Aphrodite, bao gồm một cái strophion (στρόφιον, yếm Hy Lạp) gọi là κεστὸν ἱμάντα, áo lót có hình dạng bắt chéo (thường được dịch là "dây nịt"), làm lộ ra bộ ngực và làm cho bà càng trở nên không thể cưỡng lại đối với cánh đàn ông. Cái strophion như vậy thường được mô tả trong các bức họa vẽ các nữ thần Cận Đông Ishtar và Atargatis. Anchises Bài thánh ca Homeros đầu tiên cho Aphrodite (Thánh ca 5), ​​có lẽ được sáng tác vào khoảng giữa thế kỷ thứ 7 TCN, kể về lần Zeus từng trở nên khó chịu với Aphrodite vì khiến các vị thần phải lòng người phàm trần, do vậy ông đã khiến bà phải lòng Anchises, một chàng chăn cừu đẹp mã sống dưới chân núi Ida gần thành Troia. Aphrodite xuất hiện trước Anchises trong hình hài một trinh nữ cao ráo, xinh đẹp. Anchises nhìn thấy cô gái mặc quần áo sáng màu và trang sức lấp lánh, với bộ ngực tỏa ánh hào quang thần thánh, bèn hỏi rằng liệu nàng ta có phải là Aphrodite hay không, và hứa sẽ xây cất một đền thờ cho nàng trên đỉnh núi nếu nàng ban phước cho gia đình anh. Aphrodite nói dối rằng nàng không phải là nữ thần, mà là con gái của một trong những gia đình quý tộc tại Phrygia. Nàng giải thích rằng mình có thể hiểu ngôn ngữ Troia vì nàng từng được một nhũ mẫu người Troia nuôi nấng khi còn nhỏ và nói thêm rằng nàng bị Hermes bắt cóc rồi mang tới đây trong lúc đang nhảy múa tại lễ tôn vinh Artemis, nữ thần của trinh tiết. Aphrodite nói với anh rằng nàng vẫn còn trinh tiết và cầu xin anh ta đưa ra mắt cha mẹ. Anchises ngay lập tức ngập tràn trong dục vọng điên cuồng và thề rằng sẽ ân ái với nàng. Anchises vác Aphrodite lên giường trải lông sư tử và gấu. Sau đó, anh lột trần và làm tình với nàng. Sau khi đã ân ái xong, Aphrodite tiết lộ hình dạng thần thánh thực sự. Anchises sợ hãi, nhưng Aphrodite an ủi anh và hứa rằng nàng sẽ sinh cho anh ta một đứa con trai. Nàng tiên tri rằng con trai của họ sẽ là á thần Aeneas, sau này sẽ được nuôi dưỡng bởi các thần nữ của vùng hoang dã 5 năm trước khi được gửi đến thành Troia để trở thành một nhà quý tộc như cha mình. Câu chuyện về sự thụ thai của Aeneas cũng được đề cập trong Theogonía và trong Quyển II của Iliad'. Adonis Truyền thuyết về Aphrodite và Adonis có lẽ bắt nguồn từ truyền thuyết về Inanna và Dumuzid của người Sumer cổ đại. Danh từ ἌδωἌδως (Adōni, phát âm tiếng Hy Lạp: [ádɔːni]) tiếng Hy Lạp bắt nguồn từ ʼadōn trong tiếng Canaan, nghĩa là "chúa tể". Adonis được nhắc đến lần đầu tiên trong một bài thơ sáng tác bởi nữ thi sĩ Sappho của Lesbos vào thế kỷ thứ 7 TCN, trong đó có đoạn điệp khúc của các cô gái trẻ hỏi Aphrodite họ có thể làm gì để thương tiếc cái chết của Adonis. Aphrodite trả lời rằng họ phải đập ngực và xé áo dài. Các văn liệu sau đó có nói thêm về câu chuyện với nhiều chi tiết hơn: Adonis là con trai của Myrrha, người bị Aphrodite nguyền rủa với lòng ham muốn vô độ đối với cha mình, Vua Cinyras của Síp, sau khi mẹ của Myrrha khoe khoang rằng con gái mình đẹp hơn cả nữ thần. Bị đuổi ra ngoài sau khi mang thai, Myrrha biến thành cây một dược (Myrrh), nhưng vẫn sinh ra Adonis. Aphrodite tìm thấy đứa bé và đưa nó xuống địa ngục để được Persephone nuôi dưỡng. Bà quay lại khi anh ta trưởng thành và phát hiện ra anh ta rất đẹp trai. Persephone muốn giữ Adonis, dẫn đến một cuộc chiến giành quyền nuôi con giữa hai nữ thần. Zeus giải quyết tranh chấp bằng cách đồng ý cho Adonis dành một phần ba năm của anh ở với Aphrodite, một phần ba với Persephone và một phần ba với bất kỳ ai anh chọn. Adonis đã chọn dành thời gian đó với Aphrodite. Sau đó, một ngày nọ, khi Adonis đang đi săn, anh ta bị thương bởi một con lợn rừng và chết trong vòng tay của Aphrodite. Có chuyện kể Ares là người gửi con lợn rừng bởi ông ghen tị rằng Aphrodite đã dành quá nhiều thời gian với Adonis, có chuyện lại kể Artemis là người gửi con lợn rừng bởi bà muốn trả thù Aphrodite vì đã giết người bầy tớ Hippolytus. Câu chuyện cũng cung cấp một nguyên nhân cho sự liên kết của Aphrodite với những bông hoa nhất định. Được biết rằng, khi bà thương tiếc cái chết của Adonis, Aphrodite đã tạo ra hoa phong quỳ ở bất cứ nơi nào máu của Adonis rơi xuống, và tuyên bố một lễ hội vào ngày mất của anh. Có một dị bản giải thích rằng bông hoa hồng có màu đỏ thực chất là do máu của Aphrodite vì bà đã dùng gai của loài hoa đó để tự làm mình thương. Theo tác phẩm De Dea Syria (Về Nữ thần Syria'') của Lucian, hằng năm cứ vào dịp lễ hội Adonis, sông Adonis ở Lebanon (nay là sông Abraham) lại tuôn máu đỏ. Phả hệ Trích dẫn
Trong thần thoại Hy Lạp, nữ thần Hera (tiếng Hy Lạp: Ἥρα), hay còn gọi là Here, là một trong mười hai vị thần trên đỉnh Olympus. Hera là chị và cũng là vợ chính của thần tối cao Zeus. Nữ thần Hera có biểu tượng là con công, con bò trắng và đôi khi là con chim cu. Loại quả tượng trưng là quả táo và quả lựu. Từ nguyên Có nhiều giả thuyết khác nhau về nguồn gốc cái tên Hera. Theo một giả thuyết, Hera có lẽ liên quan đến danh từ ὥρα hōra trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa là "mùa/năm/thời điểm", hoặc có nghĩa là "thời gian chín muồi để kết hôn", hoặc theo Platon giải nghĩa là ἐρατή eratē, "người thương" bởi lẽ tương truyền rằng Zeus cưới bà vì tình yêu. Theo Plutarch, Hera là một danh xưng phúng dụ và đảo ngữ của aēr (ἀήρ, "air"). Ở phần mở đầu của mục Hera trong cuốn sách Greek Religion của tác giả Walter Burkert, ông có ghi chú về lập luận của nhiều học giả khác như sau: "bởi ý nghĩa Bà chủ là dạng giống cái của Heros, Chủ nhân." Nhà nghiên cứu và chuyên gia giải mã hệ chữ Linear B John Chadwick nhận xét: "tên gọi của bà có lẽ liên quan đến từ hērōs, ἥρως, nghĩa là 'anh hùng', nhưng điều đó vô ích vì nó quá mù mờ về mặt từ nguyên." A. J. van Windekens, giải thích tên gọi này là "con bê, bò cái tơ", vì tính ngữ phổ biến nhất của nữ thần là βοῶπις (boōpis, nghĩa là "mắt bò"). Nhà ngôn học Hà Lan R. S. P. Beekes suy đoán danh xưng này có nguồn gốc Tiền-Hy Lạp. Tên của nữ thần được chứng thực trong các bản kim thạch Linear B ký âm tiếng Hy Lạp Mycenaea được tìm thấy tại Pylos và Thebes là e-ra, cũng như trong phương ngữ Cypriot ở dạng tặng cách là e-ra-i. Truyền thuyết về nữ thần Hera Hera là nữ thần của hôn nhân, thần bảo trợ cho cuộc sống gia đình, cho sự thánh thiện và bền vững của nó. Hera là vợ của thần Zeus và, cũng như chồng, có toàn quyền thống trị của một vị nữ hoàng trên đỉnh Olympus. Tương đương của thần này trong thần thoại La Mã là Juno. Thời thơ ấu Khi Hera được nhả ra từ miệng của Cronus, Rhea đã đem nàng đến chỗ của thần Oceanos ở nơi tận cùng Trái Đất giao cho nữ thần Tethys (Thetis) nuôi dưỡng. Hera sống yên bình một thời gian dài xa đỉnh Olympus, cho đến khi Zeus tình cờ nhìn thấy nàng trong một chuyến du hành. Vị thần sấm sét vĩ đại vừa nhìn thấy nàng đã đem lòng yêu quý và quyết định bắt cóc nàng về làm vợ (tương truyền rằng Zeus đã nhiều lần ngỏ lời nhưng Hera đều cự tuyệt. Zeus quyết định biến thành một con chim sẻ gãy cánh sau cơn mưa. Hera vì thương hại con chim nên đã ôm nó mà không hề hay biết. Nhân cơ hội này thần bèn hiện hình và cưỡng bức Hera buộc phải lấy mình). Các vị thần đã làm cho họ một đám cưới thật linh đình. Nữ thần cầu vồng Iris cùng các nữ thần Duyên dáng mặc cho Hera bộ váy áo đẹp nhất, làm cho nàng đẹp lộng lẫy và rạng rỡ hẳn lên giữa các thần trên núi Olympus, nữ thần Đất Gaia ban cho nàng vườn táo vàng quý giá làm món quà cưới. Nữ thần Hera và những người con Nữ thần Hera có bốn người con, 3 người con đầu với Zeus và người con sau do bà tự sinh ra. Ares: Thần chiến tranh phi nghĩa. Hebe: Nữ thần tuổi trẻ. Eileithyia: Nữ thần hộ sinh. Hephaistos: Thần thợ rèn. Nữ thần Hera và người khổng lồ Argos Thần Zeus đem lòng yêu nữ thần sông Nin Ios, khi bị Hera phát hiện, Zeus đã biến Ios thành 1 con bò trắng. Biết con bò đó là Ios nên Hera xin con bò về và sai người khổng lồ Argos với các con mắt dày đặc trên người canh giữ Ios ngày đêm. Sau này để giải cứu Ios, Zeus đã sai Hermes giết Argos. Để nhớ ơn, Hera đã lấy mắt trên người Argos trang điểm cho con công - cũng là biểu tượng của bà. Nữ thần Hera và người anh hùng Hercules Hera không ưa Hercules vì chàng là con trai của chồng mình với một người phụ nữ trần gian. Khi Hercules còn nhỏ, Hera đã cho rắn bò đến nôi tấn công. Sau này Hera còn khuấy đảo rừng Amazon để hãm hại chàng khi chàng đang đi săn. Nữ thần cũng đã sai con rắn chín đầu Hydra, là con của quái vật Typhon, đến nhằm giết Hercules. Nữ thần Hera và người anh hùng Jason Trong khi đó Hera lại hỗ trợ người anh hùng Jason, vốn không thể nào đoạt được con cừu vàng nếu không có sự hỗ trợ của nữ thần. Để thử lòng Jason, nữ thần đã biến thành một bà cụ. Thấy bà cụ muốn băng qua sông, Jason tốt bụng đã tình nguyện cõng cụ đi qua sông. Nữ thần hài lòng với sự tốt bụng của chàng trai. Khi về Olympus, Hera đã nhờ nữ thần Athena và Aphrodite hỗ trợ cho Jason. Sự thờ cúng nữ thần Hera Trong thần thoại Hy Lạp, Hera là vị nữ thần cai trị cung điện Olympus vì nàng chính là vợ của Zeus. Nhưng việc thờ cúng Hera lại xuất hiện trước việc thờ cúng Zeus khá lâu. Hera được thờ cúng khắp Hy Lạp, ở những đền thờ cổ xưa và quan trọng nhất được hiến dâng cho nàng. Việc nữ thần Hera chinh phục được thần Zeus và miêu tả nữ thần như là người đàn bà đanh đá ghen tuông chính là những phản ánh thần thoại về một trong những thay đổi sâu sắc nhất trong tư duy loài người. Một lễ hội của sự hòa hợp ngày xưa được tổ chức ở Plataea để tôn vinh nữ thần Hera cứ mỗi bảy năm một lần. Trong ngày lễ đó, một cỗ xe ngựa chở một bức tượng phụ nữ bằng gỗ có tên là Daidala sẽ đi từ Cithaeron đến Plataea, nơi bức tượng sau đó được đốt đi. Để hiểu rõ hơn, ta lùi lại cái thời mà những thế lực sáng tạo mà ta gọi là "thần" được quan niệm là người phụ nữ. Vị nữ thần mang nhiều hình dạng khác nhau, trong đó có loài chim. Căn cứ trên những tranh vẽ hang động và các di vật khảo cổ thì hàng chục ngàn năm trước đây loài người rất quan tâm đến cơ thể người phụ nữ, hoặc là lúc đang mang thai hoặc là lúc sinh nở. Việc sinh con chính là khả năng kỳ diệu nhất của loài người khiến cho thế gian được mang lại sự sống mới tươi trẻ. Ở trình độ tiến hóa cho phép tổ tiên chúng ta nghĩ đến việc thờ cúng khả năng sinh nở này, có thể kết luận rằng họ cho rằng việc này gắn với hình ảnh người phụ nữ. Hàng ngàn năm sau (tức khoảng từ 5 đến 9 ngàn năm trước đây), các hậu duệ châu Âu của những người kể trên sống trong những ngôi làng lớn, có kiến trúc đặc trưng và những đền thờ tôn giáo. Các di vật khảo cổ cho thấy họ thờ cúng một thế lực (hoặc một nhóm thế lực) mang nhiều hình dáng khác nhau-một con chim, một con rắn, cũng có thể là chính quả địa cầu. Và thế lực vĩ đại này chính là phụ nữ. Bởi vì chỉ có người phụ nữ mới có khả năng sinh sản-đem lại cuộc sống mới. Người ta nói rằng khi con người khám phá ra vai trò của đàn ông trong việc sinh sản thì họ mới bắt đầu thờ cúng các nam thần. Dù vậy cũng không có gì nghi ngờ rằng các vị nam thần đã được thờ cúng từ trước đó. Và cũng rõ ràng rằng sau khi hiểu rõ hơn về việc sinh sản thì những người châu Âu hiền hòa - quan niệm của Crete trong "Minoans" - tiếp tục thờ cúng Người Mẹ Vĩ Đại. Và có rất nhiều người châu Âu hiền hòa. Những ngôi làng lớn nhất trong kỷ nguyên ấy không cần lập hàng rào phòng chắn. Nền văn minh "Châu Âu cổ" không hề lo ngại những vụ ẩu đả với xóm giềng. Nhưng sau đó sự việc đã thay đổi và một khoảng thời gian dài bạo lực bùng phát. Quân xâm lược tràn vào châu Âu từ những vùng đất rộng lớn ở châu Á. Họ đem theo dòng ngôn ngữ Indo-Châu Âu mà ngày nay bao gồm tiếng Pháp, Ý, Tây Ban Nha và tiếng Anh. Họ cũng đem theo một vị thần linh, vị nam thần tối cao mà thần thoại Hy Lạp gọi là Zeus. Người ta biết rất ít về những người Indo-châu Âu này, nhưng những ngôi làng bình yên của châu Âu cổ không phải là điều họ mong muốn. Ở một vài nơi nền văn minh mới của họ dần chiếm thế tối thượng. Ở vài nơi khác nó thành thứ văn hóa kết hợp. Những người sống ở miền núi đã phản kháng lại, dù nhiều người đã bị đánh bật khỏi thành lũy của mình, họ tiếp tục di chuyển và đánh bật những người khác theo hiệu ứng domino. Cuộc xâm lăng Dorian của Hy Lạp cổ có thể được xem là kết quả của phản ứng dây chuyền này. Trật tự cũ có vẻ như tồn tại lâu nhất tại Crete nơi được bảo vệ bởi biển Aegean khỏi những cuộc xâm lăng trên bộ, nền văn minh Minoan đã tồn tại suốt gần ba ngàn năm. Nhưng đột ngột sau đó, từ triển vọng của sự tồn tại loài người, giới tính của những quyền năng tối cao chuyển từ nữ sang nam. Và rất nhiều câu chuyện hình thành nên cơ sở cho thần thoại Hy Lạp đã chỉ được kể sau sự thay đổi này. Các cuộc tình vụng trộm của Zeus có thể bắt nguồn từ những buổi lễ trong đó vị thần mới "kết hôn" với các hiện thân khác nhau của Nữ Thần Vĩ Đại. Việc có nhiều điểm nghi vấn về vị thần này và những người thờ cúng có thể thấy qua sự ra đời kỳ lạ của nữ thần Athena từ đầu của thần Zeus- dường như muốn nói rằng vị thần linh này có thể làm bất cứ điều gì mà Nữ thần vĩ đại có thể làm được. Nữ thần Hera tiếp tục được thờ cúng ở nhiều hình thức, tùy vào các thời điểm lịch sử. Việc thờ cúng vị nữ thần này đôi khi bị bãi bỏ phần lớn là vì những tập tục tôn giáo bị suy thoái dưới những ảnh hưởng mới. Nhưng chúng ta có thể thấy những bằng chứng trong thần thoại về trật tự cũ của vị thần này, trong đó Athena bản thân cũng là một nữ thần. Dưới ảnh hưởng của người Indo-Châu Âu, Athena trở thành thần Chiến tranh. Thần hay giả dạng thành loài cú - một loài chim biểu tượng cho thần linh.
Athena hoặc Athene, còn có hiệu là Pallas, là một nữ thần Hy Lạp cổ đại gắn liền với trí tuệ, nghề thủ công mỹ nghệ và chiến tranh, thời sau này bà được đồng hóa với nữ thần La Mã Minerva.{{sfn|Deacy|Villing|2001}} Athena là vị thần bảo trợ cho nhiều thành bang khác nhau trên khắp Hy Lạp, trong đó tiêu biểu nhất là thành Athens mà có thể là nơi bắt nguồn cho tên gọi của bà.. Các biểu tượng chính của bà bao gồm cú mèo, cây ô liu, rắn và biểu tượng đầu Gorgon. Trong nghệ thuật, bà thường được miêu tả với hình ảnh đầu đội mũ trụ và tay cầm giáo. Bắt nguồn từ một nữ thần thủ hộ Aegean, Athena có mối liên hệ chặt chẽ với thành bang Athens, bà còn được gọi là Polias và Poliouchos (biến thể từ polis, có nghĩa là "thành bang"). Các đền thờ của bà thường nằm trên đỉnh khu thành phòng thủ acropolis ở trung tâm các thành phố, trong đó nổi tiếng nhất là Đền Parthenon trên đồi Acropolis tại Athens. Với tư cách là thần bảo trợ cho nghề thủ công và dệt, Athena còn được gọi là Ergane. Bên cạnh đó, Athena là một nữ thần chiến binh, được cho là người dẫn dắt các binh sĩ trong trận chiến. Lễ hội quan trọng nhất ở Athens là Panathenaia để tôn vinh Athena, được tổ chức trong tháng Hekatombaion (tương ứng với tháng bảy/tháng tám lịch Gregorius) vào thời gian hạ chí. Theo thần thoại Hy Lạp, Athena được sinh ra từ trán của thần Zeus. Trong huyền thoại sáng lập Athens, Athena đã đánh bại Poseidon trong cuộc đua giành quyền bảo trợ thành bang này bằng cách tạo ra cây ô liu đầu tiên. Bà còn được gọi là Athena Parthenos, nghĩa là "Athena Đồng trinh". Trong một thần thoại Attica cổ, thần Hephaestus đã cố cưỡng hiếp bà nhưng bất thành, dẫn đến việc Gaia sinh ra Erichthonius, người được Athena nuôi dạy và trở thành một vị vua sáng lập Athens. Athena cũng là nữ thần bảo trợ cho các cuộc phiêu lưu anh hùng, bà đã trợ giúp các anh hùng như Perseus, Heracles, Bellerophon và Jason vượt qua nhiều thử thách. Cùng với Aphrodite và Hera, Athena là một trong ba nữ thần tham gia vụ tranh cãi khơi mào cuộc chiến thành Troia. Bà xuất hiện nhiều lần trong sử thi Iliad với vai trò người hỗ trợ phe Achaea và là người giúp đỡ Odysseus trong thiên sử thi cùng tên. Trong các tác phẩm sau này của nhà thơ La Mã Ovid, Athena đã thi dệt vải với nàng Arachne người trần, dẫn đến việc biến Arachne thành con nhện đầu tiên; Ovid cũng sáng tác câu chuyện Athena biến Medusa thành quỷ đầu rắn Gorgon sau khi bắt gặp nàng bị Poseidon cưỡng hiếp trong đền thờ của bà. Kể từ thời Phục hưng, Athena đã trở thành một biểu tượng toàn cầu của trí tuệ, nghệ thuật và cổ điển học. Các nghệ sĩ và nhà phúng dụ phương Tây thường coi Athena là biểu tượng của tự do và dân chủ. Từ nguyên Athena gắn liền với thành phố Athens. Tên của thành phố trong tiếng Hy Lạp cổ đại là Ἀθῆναι (Latinh hóa: Athȇnai), dạng số nhiều của Ἀθήνη (Athḗnē). Từ thời cổ đại, các học giả đã tranh cãi liệu Athena được đặt theo tên của Athens hay Athens được đặt theo tên của Athena; tuy nhiên, hiện nay các nhà nghiên cứu hầu như nhất trí rằng tên của nữ thần lấy từ tên thành phố, vì hậu tố -ene thường xuất hiện trong các địa danh chứ ít khi xuất hiện ở tên người. Người Hy Lạp xưa có tập quán đặt tên nữ thần phù hộ thành bang của họ theo tên của chính thành bang đó. Một vài ví dụ là nữ thần Mykene bảo hộ Mycenae, thần Thebe bảo hộ Thebai. Theo nhà ngôn học Hà Lan Robert S. P. Beekes (2009), danh xưng Athenai có lẽ là một từ mượn Tiền-Hy Lạp bởi từ này chứa hình vị *-ān-. Trong tác phẩm đối thoại Cratylus, triết gia Hy Lạp cổ đại Platon (428–347 TCN) đưa ra một số cách giải nghĩa tên gọi Athena dựa trên thiển ý của mình ông hoặc của dân gian đồn đại. Plato tin rằng tên của Athena có nguồn gốc từ Ἀθεονόα, Atheonóa tiếng Hy Lạp — mà người Hy Lạp sau này lý giải là kết hợp của từ 'tâm trí' (νοῦς, noũs) và 'thần' (θεός, theós). Nhà hùng biện thế kỷ thứ 2 CN Aelius Aristides giải nghĩa tên Athena là 'bầu trời', 'không khí', 'đất' và 'mặt trăng'. Nguồn gốc Athena ban đầu là một nữ thần cung điện của người Aegean, với vai trò cai quản các nghề thủ công gia dụng và bảo vệ nhà vua. Dòng chữ khắc tiếng Hy Lạp Mycenae /Athana potnia/ được tìm thấy tại Knossos, trên một phiến đá cổ tự Linear B thời Hậu Minoan II; di chỉ là kho lưu trữ Linear B cổ nhất từng tìm được. Mặc dù Athana potnia thường được dịch là "Bà Athena", nó cũng có thể có nghĩa là "Potnia của Athana", hoặc 'Quý nhân thành Athens'. Tuy nhiên, mối liên hệ giữa các dòng chữ khắc Knossos với với thành Athens chưa được khẳng định chắc chắn. Có một chuỗi ký tự a-ta-no-dju-wa-ja xuất hiện trong các phiến đá chữ Linear A chưa giải mã được viết bằng thứ ngôn ngữ Minoan chưa được phân loại. Dòng chữ này có thể liên quan tới các cụm từ Linear B tiếng Mycenae a-ta-na po-ti-ni-ja và di-u-ja hoặc di-wi-ja (Diwia, "thuộc về Zeus" hoặc một nữ thần trùng tên), nên có thể được dịch thành "Athena, con của Zeus" hoặc "Athena thần thánh". Điều này khớp với hình tượng Athena là con gái của thần Zeus (Διός θυγάτηρ; cfr. Dyeus) trong thần thoại và sử thi Hy Lạp. Tuy nhiên, dòng chữ khắc trên dường như rất giống với cụm "a-ta-nū-tī wa-ya", được Jan Best đánh số SY Za 1. Best dịch phần a-ta-nū-tī là "Ta đã ban cho" (tiếng Anh: "I have given"). Một bức bích họa Mycenea khắc họa hai người phụ nữ dang tay về phía một nhân vật trung tâm được bao phủ bởi một chiếc khiên khổng lồ hình số tám; hình ảnh này có thể mô tả nữ thần chiến binh và chiếc palladion (khiên) của bà, hoặc mô tả biểu tượng palladion đại diện cho bà. Trong "Bức bích họa Đám rước" tại Knossos, hai hàng nhân vật nâng bình dường như đang trình diện trước một nhân vật trung tâm, có lẽ là thực thể tiền thân Minoan của Athena. Học giả Martin Persson Nilsson hồi đầu thế kỷ XX cho rằng các bức tượng nữ thần rắn của người Minoan chính là dạng tiền thân của nữ thần Athena. Nilsson và nhiều người khác cũng cho rằng, ban đầu Athena hoặc là một con cú hoặc một nữ thần chim nói chung. Trong quyển III Odyssey, bà hóa thân thành đại bàng biển. Những người ủng hộ quan điểm này cho rằng hình ảnh Athena dần được lược bỏ dạng đầu cú rồi sau đó bỏ đi đôi cánh. Jane Ellen Harrison nhận xét: "Athena khi xuất hiện trong nghệ thuật đã hoàn toàn thoát khỏi hình dạng động vật, các hình dạng tiền thân của bà như rắn và chim chỉ còn là các biểu trưng, tuy trong nhiều bức tranh bình gốm hình nhân màu đen, bà vẫn được mô tả với đôi cánh." Phần lớn các học giả đồng tình rằng tục thờ phụng Athena đã giữ lại một số khía cạnh của các nữ thần Tiền Ấn-Âu. Tục thờ phụng Athena cũng có thể bị ảnh hưởng bởi những nữ thần chiến binh Cận Đông như Ishtar/ Innana ở Lưỡng Hà và Anat của người Ugarit, cả hai đều được mô tả với đặc điểm tay cầm vũ khí. Nhà cổ điển học Charles Penglase lưu ý rằng Athena tương đồng với Inanna trong hình tượng "nữ thần chiến binh dũng mãnh" và cả hai nữ thần đều gắn liền với sự sáng tạo. Sự ra đời của Athena từ trán thần Zeus có thể bắt nguồn từ câu chuyện thần thoại Sumer về việc Inanna đi xuống và trở về từ cõi âm. Plato ghi lại rằng người dân Sais ở Ai Cập thờ phụng một nữ thần tên là Neith mà ông cho là rất giống với Athena. Neith là nữ thần chiến tranh, săn bắn và nghề dệt của Ai Cập cổ đại. Tục thờ phụng bà bắt đầu từ thời kỳ Tiền triều đại của Ai Cập. Trong thần thoại Hy Lạp, Athena đã đến thăm nhiều địa điểm ở Bắc Phi, bao gồm sông Triton ở Libya và đồng bằng Phlegraean. Dựa trên những điểm tương đồng này, nhà Trung Hoa học Martin Bernal đã đề xuất giả thuyết "Athena da đen", cho rằng tục thờ Neith được truyền bá từ Ai Cập sang Hy Lạp, cùng với "một số lượng khổng lồ các đặc tính văn minh và văn hóa trong thiên niên kỷ thứ ba và thứ hai". Giả thuyết "Athena da đen" từng gây tranh cãi vào gần cuối thế kỷ 20, nhưng hiện đã bị phần lớn học giả ngày nay bác bỏ. Giáo phái và bảo trợ Giáo phái Toàn Hy Lạp và Athens Với danh hiệu Athena Polias, Athena được tôn là nữ thần và người bảo hộ thành Athens. Ở Athens, lễ hội Plynteria hay "Lễ tẩy trần", được tổ chức hàng năm vào cuối tháng Thargelion và kéo dài trong năm ngày. Trong thời gian này, các nữ tư tế của Athena, hay các plyntrídes, thực hiện một nghi lễ tẩy rửa bên trong Erechtheion, thánh địa dành cho Athena và Poseidon. Tại đây tượng thần Athena được cởi bỏ trang phục và gột rửa sạch sẽ. Athena cũng được thờ cúng tại các lễ hội như Chalceia với danh hiệu Athena Ergane, thần bảo trợ các nghề thủ công, đặc biệt là dệt vải. Bà cũng là người bảo trợ cho nghề kim hoàn nghề rèn giáp và vũ khí. Vào cuối thế kỷ thứ 5 TCN, Athena đã trở thành nữ thần của triết học. Là Athena Promachos, bà được tin là người dẫn dắt đoàn quân xông pha chiến trận. Athena đại diện cho khía cạnh kỷ luật và chiến lược của chiến tranh, trái ngược với người anh em Ares, vị thần bảo trợ cho bạo lực, đẫm máu và tàn sát— "khía cạnh dã man của chiến tranh". Athena được cho rằng chỉ ủng hộ những người chiến đấu vì chính nghĩa và xem chiến tranh chỉ là công cụ để giải quyết mâu thuẫn. Người Hy Lạp coi Athena cao quý hơn nhiều so với Ares. Vai trò này của Athena được tôn vinh trong các lễ Panathenaea và Pamboeotia, cả hai đều có những màn phô diễn sức mạnh thể thao và quân sự. Là người bảo trợ cho các chiến binh và anh hùng, Athena được cho là ưu ái những người biết sử dụng trí tuệ và mưu kế hơn là chỉ biết dùng bạo lực. Là một thánh nữ chiến binh, Athena còn có danh hiệu Parthenos (Παρθένος "đồng trinh"), bởi vì bà là một nữ thần đồng trinh trọn đời giống như Artemis và Hestia. Ngôi đền nổi tiếng nhất của Athena, đền Parthenon trên đồi Acropolis, lấy tên từ tính ngữ này. Theo Karl Kerényi, một học giả về thần thoại Hy Lạp, khía cạnh đồng trinh luôn là một đặc tính quan trọng và nhất quán của Athena qua các thời đại. Các giáo phái địa phương Athena không chỉ là nữ thần bảo trợ của riêng Athens mà còn của nhiều thành bang khác, bao gồm Argos, Sparta, Gortyn, Lindos và Larisa. Các giáo phái địa phương của Athena đều là các nhánh con của giáo phái toàn Hy Lạp và thường tổ chức nhiều nghi lễ trưởng thành của thanh niên Hy Lạp, chẳng hạn như lễ thành niên ở thiếu niên hoặc hoặc lễ cập kê ở thiếu nữ. Các giáo phái này đóng vai trò là nơi kết nối xã hội quan trọng, thậm chí còn vượt ra ngoài phần Hy Lạp đất liền. Athena thường được đồng nhất với Aphaea, một nữ thần bản địa của đảo Aegina có nguồn gốc Crete và gắn với nữ thần Artemis và nymph Britomartis. Tại Arcadia, bà được đồng hóa với nữ thần cổ đại Alea và được thờ phụng với danh hiệu Athena Alea. Các thánh địa của Athena Alea nằm ở các thị trấn Mantineia và Tegea của Lakonia. Đền thờ Athena Alea ở Tegea là một trung tâm tôn giáo quan trọng của Hy Lạp cổ đại. Nhà địa lý học Pausanias cho rằng giáo phái Athena Alea được sáng lập bởi vua Aleus của Arcadia. Athena có một ngôi đền lớn trên acropolis của Sparta, với danh hiệu Poliouchos và Khalkíoikos ("Thuộc về Nhà Đồng thau", Latinh hóa thành Chalcioecus). Tính ngữ này có thể xuất phát từ đặc điểm các bức tượng tại đây làm bằng đồng, hoặc là tường của ngôi đền làm bằng đồng, hoặc là do Athena là thần bảo trợ cho thợ kim hoàn. Giáo phái Athena ở Sparta dùng chuông làm từ đất nung và đồng trong các nghi lễ. Một ngôi đền thờ Athena Polias được xây tại Priene theo phong cách Ionic vào thế kỷ thứ 4 TCN, được thiết kế bởi Pytheos xứ Priene, người cũng thiết kế lăng mộ của Mausolus tại Halicarnassus. Ngôi đền được cung tiến bởi Alexander Đại đế, điều này được ghi lại trong một bản khắc hiện đang lưu trữ tại Bảo tàng Anh. Thần thoại Ra đời Trong các vị thần trên đỉnh Olympus, Athena là đứa con được yêu thích của thần Zeus, được sinh ra từ trán của ông trong hình dạng trưởng thành và đầy đủ khí giới.. Có nhiều dị bản về sự ra đời của bà. Câu chuyện này được đề cập sớm nhất trong Quyển V Iliad, khi Ares chỉ trích Zeus quá thiên vị Athena do "autos egeinao" (nghĩa đen là "ngài đã sinh ra cô ta"). Theo dị bản của Hesiod kể trong Theogony (Thần phả), Zeus kết hôn với Metis - nữ thần "thông thái nhất trong các vị thần và người phàm". Tuy nhiên, sau khi Metis mang thai, Zeus lo sợ đứa trẻ chưa chào đời sau này sẽ lật đổ ông bởi vì lời tiên tri của Gaia và Ouranos rằng Metis sẽ sinh ra những đứa con khôn ngoan vượt qua cha mình. Để ngăn chặn điều đó, Zeus lừa nuốt Metis vào bụng. Một dị bản trong Bibliotheca của ngụy-Apollodorus, được viết vào thế kỷ thứ 2 CN, cho rằng Metis bị ép buộc chứ không phải là vợ của Zeus. Theo đó, Metis đã biến đổi thành nhiều hình dạng khác nhau để thoát khỏi Zeus, nhưng cuối cùng vẫn bị ông ta bắt được, cưỡng hiếp và nuốt chửng. Sau khi nuốt chửng Metis, Zeus lần lượt lấy thêm sáu người khác cho đến người vợ thứ bảy hiện tại là Hera. Sau đó, Zeus trải qua một cơn đau đầu kinh khủng. Ông đau đớn đến mức ra lệnh cho một người (Prometheus, Hephaestus, Hermes, Ares hoặc Palaemon, tùy nguồn văn liệu) bổ đầu ông ra bằng cái labrys - rìu Minoan hai đầu. Athena nhảy ra khỏi đầu của Zeus trong hình hài trưởng thành và vũ trang đầy đủ. "Bài thánh ca Homer đầu tiên cho Athena" dòng 9–16 nói rằng Athena xuất thế khiến chư thần kinh diễm, đến nỗi thần mặt trời Helios khựng cỗ xe mặt trời lại giữa không trung. Pindar trong bài thơ "Khúc Olympus thứ bảy" kể rằng bà "đã thét vang một tiếng oai hùng" và rằng "cả Bầu trời và Đất mẹ đều rung chuyển trước nữ thần." Hesiod kể rằng Hera khó chịu với Zeus vì đã tự mình sinh ra một đứa con đến nỗi bà đã tự thụ thai và sinh ra Hephaestus, nhưng trong Imagines 2. 27 (bản dịch tiếng Anh của Fairbanks), nhà hùng biện người Hy Lạp Philostratus Già ở thế kỷ thứ 3 CN viết rằng Hera "hân hoan" trước sự ra đời của Athena "như thể Athena là con ruột của bà." Nhà biện hộ Cơ đốc giáo Justino Tử đạo ở thế kỷ thứ hai sau Công nguyên trong một phép so sánh đã nói rằng: "Họ bảo Athena là con gái của thần Zeus không thông qua giao hợp, mà là khi vị thần muốn tạo ra một thế giới thông qua một ý niệm (logos), ý nghĩ đầu tiên của ông ta là Athena. "Theo một dị bản từ một bản chú giải Iliad (không tìm thấy ở đâu khác), khi Zeus nuốt Metis, bà đã mang thai Athena với thần khổng lồ Brontes. Tác phẩm Etymologicum Magnum lại cho rằng Athena là con gái của Daktyl Itonos. Các mảnh ghép được Eusebius xứ Caesarea cho là của nhà sử học bán truyền thuyết người Phoenicia Sanchuniathon viết trước khi cuộc chiến thành Troia xảy ra, chép rằng Athena là con gái của Cronus, một vị vua xứ Byblos đã đến thăm "thế giới khả sinh" và ban vùng Attica cho Athena. Pallas Athena Tính ngữ Pallas có thể có nguồn gốc từ πάλλω, có nghĩa là "vung [vũ khí]", hoặc nhiều khả năng hơn là từ παλλακίς và các từ liên quan, có nghĩa là "thiếu niên, thiếu nữ". Về điều này, Walter Burkert cho rằng "bà là Pallas của Athens, Pallas Athenaie, giống như Hera của Argos là Here Argeie." Sau này, khi ý nghĩa ban đầu của cái tên bị lãng quên, người Hy Lạp đã sáng tác ra thần thoại để giải thích nguồn gốc của nó, chẳng hạn như những ghi chép của triết gia phái Hưởng lạc Philodemus và Bibliotheca của Ngụy-Apollodorus, cho rằng Pallas ban đầu là một thực thể riêng biệt mà Athena đã giết chết trong trận chiến. Trong một dị bản, Pallas là con gái của thần biển Triton; bà và Athena là hai người bạn thời thơ ấu, nhưng Athena đã vô tình ngộ sát Pallas trong một trận đấu giao hữu. Đau khổ về điều mình làm, Athena lấy tên Pallas để vinh danh người bạn đã khuất. Trong một dị bản khác, Pallas là một thần khổng lồ; Athena đã giết Pallas trong cuộc chiến giữa các vị thần Olympus và các thần khổng lồ, và lột da hắn ta làm áo choàng. Trong một dị bản khác, Pallas là cha của Athena, hắn ta định tấn công chính con gái mình nên Athena đã giết và lột da hắn làm chiến tích. Tương truyền, bức tượng thần Athena ngự tại thành Troia được gọi là Palladion, do chính tay Athena tạc theo hình mẫu người bạn đã khuất Pallas. Thần tượng này là bùa hộ mệnh của thành Troia; mọi người tin rằng miễn là tượng còn đứng trong thành, Troia sẽ không bao giờ thất thủ. Khi quân Hy Lạp chiếm được Troia, con gái của Priam là Cassandra đã ôm lấy palladion để được bảo vệ, nhưng Ajax Nhỏ đã gỡ nàng ra khỏi thần tượng và kéo lê nàng đi một cách thô bạo đến chỗ giam cầm. Sự xúc phạm này khiến Athena phẫn nộ. Mặc dù Agamemnon cố gắng xoa dịu cơn giận của bà bằng những vật tế lễ, Athena tạo ra một cơn bão tại Mũi Kaphereos, tiêu diệt gần như toàn bộ hạm đội Hy Lạp và đánh tan tác những con tàu còn sót lại ra khắp biển Aegean. Thần bảo trợ thành Athens trái|nhỏ|Tranh chấp giữa Minerva vàd Neptune, bởi René-Antoine Houasse () Trong truyền thuyết được kể lại bởi Ngụy-Apollodorus, Athena đã cạnh tranh với Poseidon để trở thành vị thần bảo trợ của thành Athens. Mỗi người sẽ tặng cho người Athen một món quà và Cecrops, vua của Athens, sẽ chọn ra món quà quý hơn. Poseidon gõ cây đinh baxuống đất và một dòng nước mặn phun lên, giúp Athens thông với biển và phát triển giao thương hàng hải. Athens ở thời kỳ đỉnh cao là một cường quốc biển đáng gớm, đã đánh bại hạm đội Ba Tư trong trận Salamis —nhưng nước mặn lại không thể uống được. Theo dị bản trong truyện Georgics của Vergil, Poseidon đã tặng cho người Athens con ngựa đầu tiên. Athena tặng cho người Athens cây ô liu thuần hóa đầu tiên. Ô liu mang lại gỗ, dầu và lương thực, trở thành biểu tượng của sự phồn thịnh giàu có. Cecrops nhận món quà này và tuyên bố Athena là nữ thần bảo trợ của Athens. Robert Graves cho rằng huyền thoại này mang tính chính trị, phản ánh mâu thuẫn giữa các tín ngưỡng mẫu hệ và phụ hệ. Ngụy-Apollodorus ghi lại một truyền thuyết cổ xưa, kể rằng Hephaestus từng cố cưỡng hiếp Athena nhưng bà đã chống cự được và đẩy ông ta ra. Hephaetus xuất tinh và tinh dịch bắn lên đùi bà. Athena kinh tởm lau sạch tinh dịch bằng một búi len rồi ném xuống đất, khiến đất mẹ Gaia mang thai và sinh ra Erichthonius. Athena đã nhận nuôi Erichthonius. Nhà thần thoại học La Mã Hyginus ghi lại một câu chuyện tương tự, trong đó Hephaestus xin phép Zeus cho cưới Athena vì ông ta đã bổ rìu vào trán Zeus để Athena ra đời. Zeus đồng ý và Hephaestus với Athena làm đám cưới, nhưng trong đêm tân hôn Athena biến mất, khiến Hephaetus xuất tinh trên sàn nhà, thụ tinh cho Gaia sinh ra Erichthonius. Nhà địa lý học Pausanias ghi lại rằng Athena đã đặt đứa trẻ sơ sinh Erichthonius vào một chiếc rương nhỏ (cista) và giao cho ba người con gái của Cecrops: Herse, Pandrosos và Aglauros chăm sóc. Bà cảnh báo ba chị em không được mở chiếc rương ra, nhưng không cho họ biết lý do hoặc cái gì trong rương. Một trong ba chị em đã mở rương ra. Các nguồn khác nhau ghi lại hoặc họ thấy đứa trẻ là một con rắn, hoặc đứa trẻ được bảo vệ bởi một hay hai con rắn, hoặc đứa trẻ có chân rắn. Trong câu chuyện của Pausanias, hai trong số các chị em đã phát điên khi nhìn thấy thứ bên trong chiếc rương và chết vì nhảy từ đỉnh Acropolis xuống, nhưng có một bức họa bình gốm Attica mô tả cảnh họ đang bị con rắn đuổi đến rìa của vách đá. Erichthonius là một trong những anh hùng sáng lập quan trọng nhất của Athens và truyền thuyết về những người con gái của Cecrops là một huyền thoại liên quan đến các nghi lễ của lễ hội Arrhephoria. Pausanias ghi lại rằng, trong lễ Arrhephoria, hai cô gái trẻ được gọi là Arrhephoroi, sống gần đền thờ Athena Polias, sẽ được đại tư tế của Athena trao cho những đồ vật bí mật. Họ phải mang theo chúng đi xuống đường ngầm dưới lòng đất, để chúng lại cuối lối đi và lấy một bộ đồ vật bí mật khác lên trở lại ngôi đền. Nghi lễ được thực hiện trong đêm khuya và không ai kể cả đại tư tế biết những đồ vật đó là gì. Con rắn trong câu chuyện có thể là con rắn nằm cuộn dưới chân Athena trong thần tượng Athena Parthenos nổi tiếng ở Parthenon. Nhiều bức tượng còn sót lại của Athena cũng có hình ảnh con rắn này. Herodotus ghi lại rằng có một con rắn sống trong một kẽ đá ở phía bắc của đỉnh Acropolis Athens và người Athen cúng lễ cho nó một chiếc bánh mật ong mỗi tháng. Vào đêm trước cuộc xâm lược Hy Lạp lần thứ hai của người Ba Tư vào năm 480 TCN, con rắn đã không ăn bánh nên người Athens diễn giải đó như dấu hiệu cho thấy chính Athena đã bỏ rơi họ. Một dị bản khác về thần thoại các thiếu nữ Athens cũng được kể trong Metamorphoses của nhà thơ La Mã Ovid (43 TCN17 CN); trong đó Hermes phải lòng Herse. Herse, Aglaulus, và Pandrosus đến đền thờ để cúng tế cho Athena. Hermes nhờ Aglaulus giúp trong việc chinh phục Herse, đổi lại, Aglaulus đòi tiền làm phần thưởng. Hermes đưa cho nàng số tiền mà các chị em đã dâng lên Athena. Để trừng phạt lòng tham của Aglaulus, Athena sai nữ thần Envy làm cho Aglaulus ghen tị với Herse. Khi Hermes đến tán tỉnh Herse, Aglaulus đã cản đường ông thay vì giúp đỡ như đã hứa, khiến thần tức giận biến nàng thành đá. Thần bảo trợ chiến binh và anh hùng Theo Bibliotheca của Ngụy-Apollodorus, Athena đã khuyên bảo và hỗ trợ vua Argus đóng con tàu Argo chở nhóm Jason và các tráng sĩ bắt đầu hành trình phiêu lưu. Ngụy-Apollodorus cũng ghi lại rằng Athena đã chỉ dẫn anh hùng Perseus thực hiện thử thách chặt đầu Medusa. Bà và thần đưa tin Hermes hiện lên trước Perseus khi chàng bắt đầu hành trình và tặng chàng những công cụ cần thiết để giết Gorgon. Athena đưa cho Perseus một chiếc khiên bằng đồng đánh bóng để xem được hình ảnh phản chiếu của Medusa thay vì nhìn trực tiếp vào mắt nàng, tránh bị hóa đá. Hermes đưa cho chàng một lưỡi hái adamant để cắt đầu Medusa. Khi Perseus vung lưỡi hái, Athena đã đánh lạc hướng Medusa quay đi chỗ khác, giúp Perseus thực hiện thành công nhiệm vụ. Theo Khúc ca Olympus thứ mười ba của Pindar, Athena đã giúp người anh hùng Bellerophon thuần hóa ngựa thần có cánh Pegasus bằng cách cho chàng một cái hàm. Trong nghệ thuật Hy Lạp cổ đại, Athena là vị thần thường xuyên trợ giúp người anh hùng Heracles. Bà xuất hiện trong hai tấm metop (tấm giữa trong cấu trúc cột Doric) tại Đền thờ Thần Zeus ở Olympia, mô tả Mười hai kỳ công của Heracles. Trong tấm đầu tiên, bà quan sát Heracles giết sư tử Nemea, và trong tấm thứ mười, bà giúp ông chống đỡ bầu trời. Bà được coi là người "đồng minh nghiêm khắc" của Heracles, nhưng đồng thời cũng "hiền từ công nhận những thành quả của ông." Những tác phẩm nghệ thuật về cái chết của Heracles thường có hình ảnh Athena đánh cỗ xe chở ông lên đỉnh Olympus để giúp ông hóa thần. Trong vở bi kịch Orestes của Aeschylus, Athena đã can thiệp để cứu Orestes, con trai của Agamemnon và Clytemnestra, khỏi cơn thịnh nộ của Erinyes và chủ tọa phiên tòa xét xử chàng vì tội giết mẹ. Khi một nửa bồi thẩm đoàn bỏ phiếu trắng án và nửa còn lại bỏ phiếu kết tội, Athena bỏ phiếu quyết định tha bổng cho Orestes và tuyên bố rằng kể từ đó, nếu bồi thẩm đoàn bỏ phiếu hòa thì bị cáo sẽ được trắng án. Trong Odyssey, sự khôn ngoan và mưu mẹo của Odysseus nhanh chóng chiếm được cảm tình của Athena. Tuy nhiên, trong phần đầu sử thi, bà chủ yếu chỉ gián tiếp hỗ trợ bằng cách gieo vào đầu chàng các ý tưởng trong chuyến hành trình từ thành Troy về nhà. Nhà thần thoại học Walter Friedrich Otto gọi bà là "nữ thần gần gũi", người luôn hướng dẫn và dìu dắt các anh hùng. Cho đến khi Odysseus tắm rửa trên bờ biển đảo Phaeacia, nơi Nausicaa đang giặt quần áo, Athena mới đích thân xuất hiện để giúp đỡ trực tiếp. Bà hiện lên trong giấc mơ của Nausicaa để báo cho công chúa giải cứu Odysseus; bà cũng trợ giúp chàng tẩu thoát về Ithaca. Khi Odysseus đến nơi, Athena cải trang thành người chăn gia súc và báo với chàng rằng vợ chàng, nàng Penelope, đã tái hôn vì cho rằng chàng đã chết, nhưng Odysseus đã tìm cách trả lời khôn khéo để thoát khỏi tình huống này. Bị ấn tượng bởi quyết tâm và sự khôn ngoan của chàng, bà tiết lộ thân phận của mình và hướng dẫn chàng những điều cần thiết để giành lại vương quốc của mình. Bà cải trang cho chàng thành một người ăn xin lớn tuổi để qua mặt hết tất cả mọi người, giúp chàng đánh bại những kẻ đến cầu hôn. Athena cũng hiện lên trước con trai của Odysseus là Telemachus, khiến Telemachus đi tìm gặp các đồng đội cũ của Odysseus để hỏi thăm về cha mình và nghe được những câu chuyện về chuyến phiêu lưu của Odysseus. Sự thúc đẩy của Athena giúp Telemachos trở nên trưởng thành và mạnh mẽ, nối gót cha mình. Bà cũng là người đứng ra giải hòa các mâu thuẫn giữa các dòng họ của những người đến cầu hôn trên đảo Ithaca. Bà đã chỉ dẫn Laertes phóng ngọn giáo giết chết Eupeithes, cha đẻ của Antinous. Các truyền thuyết trừng phạt Biểu tượng đầu rắn Gorgoneion có thể có bắt nguồn từ một biểu tượng trừ tà thời cổ đại. Trong một câu chuyện thần thoại sau này được sáng tạo để giải thích về nguồn gốc của biểu tượng, Medusa là một trong ba chị em Gorgon, nhưng khác với hai chị gái, nàng có hình dạng xinh đẹp và không bất tử. Medusa tu hành trong đền thờ Athena ở Athens. Vì ham muốn sắc đẹp của Medusa, Poseidon cưỡng hiếp nàng trong đền thờ, bất chấp lời thề trinh tiết của nữ tư tế. Khi phát hiện đền thờ của mình bị xúc phạm, Athena đã biến Medusa thành một con quái vật gớm ghiếc với mái tóc rắn bò lúc nhúc và có đôi mắt có thể làm người phàm hóa đá chỉ bằng một ánh nhìn. Trong Khúc ca Pythia thứ mười hai, Pindar kể lại câu chuyện Athena đã phát minh ra aulos, một loại sáo phát ra những lời than thở của hai chị em Gorgon sau khi Medusa bị Perseus chặt đầu. Theo Pindar, Athena đã tặng aulos cho người phàm như một món quà. Sau đó, tác giả hài kịch Melanippides xứ Melos ( 480-430 TCN) đã đưa câu chuyện này vào vở kịch Marsyas của mình, trong đó Athena đã nhìn vào gương khi đang thổi aulos và thấy đôi má phồng lên trông rất ngớ ngẩn, bà ném cái aulos đi và nguyền rủa ai nhặt được sẽ phải chết oan uổng. Nhân mã Marsyas đã nhặt được aulos, và sau này bị Apollo giết vì tội ngạo mạn. Từ đó, phiên bản này của câu chuyện trở thành chính thống và nhà điêu khắc người Athens Myron dựa vào đó đã sáng tác một loạt tượng đồng được đặt trước mặt phía tây của Parthenon vào khoảng năm 440 TCN. Một câu chuyện thần thoại được nhà thơ Hy Lạp cổ đại đầu thế kỷ 3 TCN là Callimachus kể lại trong bài Thánh ca thứ năm bắt đầu với cảnh Athena tắm suối trên núi Helicon vào buổi trưa cùng với người bạn đồng hành thân thiết, tiên nữ Chariclo. Tiresias, con trai của Chariclo, tình cờ đi săn tại ngọn núi đó và đến suối tìm nước uống. Chàng vô tình nhìn thấy Athena khỏa thân, vì vậy bà làm mù đôi mắt chàng vì đã trông thấy những gì người phàm không được phép thấy. Chariclo ra mặt cầu xin Athena thương xót cho con trai mình. Athena trả lời rằng bà không thể khôi phục đôi mắt của Tiresias, vì vậy, bà bù đắp bằng cách ban cho chàng khả năng nghe hiểu ngôn ngữ chim chóc và có thể từ đó đoán trước được tương lai. Truyện ngụ ngôn về Arachne nằm trong tập Metamorphoses của Ovid (8 CN) (vi.5–54 và 129–145), đây gần như là nguồn duy nhất nhắc đến truyền thuyết này. Câu chuyện này dường như không mấy phổ biến trước khi được Ovid cải biên và kể lại, nó chỉ được nhắc đến thoáng qua một lần trong Georgics của Virgil (29 TCN) (iv, 246) và không nhắc đến tên Arachne. Theo Ovid, Arachne (có nghĩa là con nhện trong tiếng Hy Lạp cổ đại) là con gái của một thợ nhuộm màu tía Tyrus nổi tiếng ở Hypaipa của Lydia, và là học trò của Athena. Nàng tự phụ về tay nghề dệt vải của mình tới mức nàng tuyên bố rằng tài năng của mình còn vượt trội hơn cả Athena. Athena cho Arachne một cơ hội để chuộc lỗi bằng cách giả dạng một bà già và cảnh báo Arachne không được xúc phạm các vị thần. Arachne chế giễu bà và muốn tổ chức một cuộc thi tài dệt vải để có thể chứng tỏ khả năng của mình. Athena dệt cảnh bà chiến thắng Poseidon trong cuộc thi giành quyền bảo trợ thành Athens. Tấm thảm của Athena cũng có cả 12 vị thần Olympus và cảnh họ đánh bại những kẻ thách thức quyền uy của thần. Tấm thảm của Arachne có 21 cảnh xoay quanh sự trụy lạc của các vị thần, bao gồm việc Zeus quyến rũ rồi bỏ mặc Leda, Europa và Danaë. Nó phản ánh những hành động bất công và bất tín của thần linh đối với người phàm. Tuy công nhận tác phẩm của Arachne đẹp hoàn hảo, nhưng Athena nổi trận lôi đình trước nội dung báng bổ thánh thần của nó. Trong cơn thịnh nộ, Athena cầm con thoi rạch nát tấm thảm và khung cửi của Arachne, rồi lấy cây trượng đập vào mặt Arachne bốn lần. Arachne uất ức treo cổ tự vẫn, cuối cùng Athena thương hại và cho nàng sống lại thành một con nhện để nàng được kéo sợi và dệt mãi mãi. Cuộc chiến thành Troia trái|nhỏ|Tranh khảm Hy Lạp cổ từ Antioch, thế kỷ 2 CN, AD, mô tả cảnh Phán xét của Paris Truyền thuyết Phán xét của Paris được nhắc đến vắn tắt trong Iliad, nhưng được kể lại kỹ hơn trong bản rút gọn của sử thi Cypria đã bị thất lạc. Câu chuyện kể rằng tất cả các nam thần và nữ thần cùng nhiều người phàm trần được mời đến tham dự hôn lễ của Peleus và Thetis (cha mẹ của Achilles). Chỉ có nữ thần của sự bất hòa Eris là không được mời. Để trả thù, bà ta đến đám cưới và ném vào giữa bàn tiệc một quả táo vàng có khắc chữ καλλίστῃ (kallistēi, "dành cho người đẹp nhất"). Aphrodite, Hera và Athena đều tự cho mình là người đẹp nhất và do đó là chủ nhân xứng đáng của quả táo. Các nữ thần đến nhờ Zeus phân xử. Vì không muốn làm mất lòng ai nên Zeus để Paris, một hoàng tử thành Troy quyết định. Các nữ thần tìm đến Paris, khi đó còn đang chăn cừu trên núi Ida. Trong các tác phẩm nghệ thuật cổ xưa còn sót lại về câu chuyện Sự phán xét của Paris, chỉ có Aphrodite đôi khi được mô tả khỏa thân, còn Athena và Hera luôn mặc quần áo đầy đủ. Tuy nhiên, kể từ thời Phục hưng, các bức tranh phương Tây thường miêu tả cả ba nữ thần hoàn toàn khỏa thân. Cả ba nữ thần đều hoàn mĩ khiến Paris không thể quyết định được ai là người đẹp nhất, vì vậy họ đã cố gắng mua chuộc chàng. Hera hứa cho chàng quyền lực bao trùm toàn bộ châu Á và châu Âu; Athena hứa cho chàng danh tiếng và vinh quang chiến trận, còn Aphrodite hứa sẽ để chàng cưới người phụ nữ đẹp nhất trần gian. Người này là Helen, vợ của Vua Menelaus xứ Sparta. Cuối cùng, Paris đã xiêu lòng và chọn Aphrodite, trao cho nữ thần quả táo vàng. Hai nữ thần còn lại nổi giận và đứng về phía người Hy Lạp trong cuộc Chiến tranh thành Troia. Trong Quyển V – VI của Iliad, Athena hỗ trợ Diomedes, một trong những chiến binh Hy Lạp xuất sắc nhất. Nhiều đoạn trong Iliad cũng đề cập đến Athena trước đây từng bảo trợ cho Tydeus, cha của Diomedes. Khi những người phụ nữ thành Troy đến đền thờ Athena trên Acropolis để cầu xin bà bảo vệ họ khỏi tay Diomedes, Athena đã phớt lờ họ. Trong Quyển XXII của Iliad, trong khi Achilles đang đuổi theo Hector quanh các bức tường thành Troy, Athena hiện lên trước Hector trong hình dạng người anh trai Deiphobus và hứa hẹn hỗ trợ Hector chiến đấu với Achilles. Sau đó, Hector phóng ngọn giáo về phía Achilles nhưng bị trượt, chàng chờ Deiphobus đưa cho mình một cây khác nhưng Athena biến mất, để lại Hector đối mặt với Achilles một mình mà không còn vũ khí trong tay. Trong vở bi kịch Ajax của Sophocles, bà trừng phạt đối thủ của Odysseus là Ajax Lớn, khiến chàng phát cuồng và tàn sát đàn gia súc của người Achaea vì tưởng rằng mình đang tàn sát chính người Achaea. Ngay cả Odysseus cũng cảm thấy thương hại thay cho Ajax. Athena nói, "Cười vào mặt kẻ thù của ngươi - còn có nụ cười nào say sưa hơn thế nữa?" (dòng 78–9). Ajax sau đó tự sát vì hổ thẹn. Trong nghệ thuật cổ điển Athena là nhân vật thường xuyên xuất hiện trong nghệ thuật Hy Lạp cổ điển, kể cả trên tiền xu và đồ gốm, đặc biệt là trong các tác phẩm nghệ thuật đến từ Athens. Thời cổ điển, Athena thường được khắc họa trong dáng đứng thẳng, vận áo chiton dài, mặc giáp, đội mũ trụ Corinth mỏ chim ưng, với biểu tượng đầu gorgon (gorgoneion) khảm trên khiên ngực hoặc áo choàng. Khi trong hình tượng Athena Promachos, bà được thể hiện vung ngọn giáo trong tay. Các cảnh tượng thường được khắc họa của Athena bao gồm cảnh bà ra đời từ trán thần Zeus, trận chiến với các thần khổng lồ, sự ra đời của Erichthonius và Phán xét của Paris. Mô tả nổi tiếng nhất về Athena thời cổ điển là bức thần tượng Athena Parthenos bằng vàng và ngà voi cao 11.5m, từng đặt tại Parthenon nhưng hiện nay không còn nữa, được điêu khắc bởi Phidias thành Athens. Các bản sao cho thấy bức tượng mô tả Athena cầm chiếc khiên bằng tay trái và nữ thần chiến thắng Nike có cánh đứng ở bên phải. Athena Than khóc hay Athena Suy tưởng là một bức phù điêu nổi tiếng có niên đại khoảng 470-460 trước Công nguyên đại diện cho hình tượng Athena Polias. Athena Polias cũng được thể hiện trong một bức phù điêu Tân-Attica hiện đang trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Virginia, mô tả bà đang giữ một con cú ển tay, đội mũ trụ Corinth và dựng khiên tựa vào bức tượng bên cạnh. Nữ thần La Mã Minerva giữ lại hầu hết các biểu tượng và đặc trưng Hy Lạp của Athena, nhưng đồng thời được xếp vào bộ ba vị thần La Mã tối cao Capitoline Triad (bao gồm Minerva, Jupiter và Juno). Văn hóa hậu cổ điển Nghệ thuật và tượng trưng Các tác giả Cơ đốc giáo thời đầu, chẳng hạn như Clement thành Alexandria và Firmicus, đã phỉ báng Athena là đại diện cho những gì ghê tởm nhất của ngoại giáo; bà bị lên án là "vô luân và vô đạo đức". Tuy nhiên, trong suốt thời Trung cổ, nhiều đặc trưng của Athena đã được gán cho Đức mẹ Đồng trinh Maria. Trong các bức chân dung thế kỷ thứ tư, Maria thường được miêu tả đeo biểu tượng Gorgoneion. Một số người thậm chí còn xem Maria là một thánh nữ chiến binh, như hình tượng Athena Parthenos; một giai thoại kể lại rằng Maria đã từng xuất hiện trên các bức tường của Constantinople trong cuộc bao vây của người Avars, với ngọn giáo trên tay và thúc giục mọi người chiến đấu. Suốt thời Trung cổ, Athena là một một biểu tượng được sử dụng rộng rãi trong Cơ đốc giáo, bà cũng xuất hiện trên gia huy của một số gia đình quý tộc. Đến thời kỳ Phục hưng, Athena trở thành đại diện cho nghệ thuật và sáng tạo bởi bàn tay khối óc con người; những tích thần thoại cổ về Athena là chủ đề ưa thích trong hội họa Ý thời kỳ Phục hưng. Trong bức tranh Pallas và Nhân mã của Sandro Botticelli, có thể được vẽ vào khoảng những năm 1480, Athena là hiện thân của tiết hạnh, đối lập với nhân mã đại diện cho dục vọng. Bức tranh Chiến thắng của Đức hạnh (1502) của Andrea Mantegna sử dụng Athena như hóa thân của nền học vấn Graeco-La Mã đang xua đuổi những hủ tục trung cổ ra khỏi khu vườn của học thuật hiện đại. Athena cũng là hình tượng nhân hóa của trí tuệ trong bức tranh Chiến thắng của trí tuệ hay Minerva chiến thắng sự ngu muội (1591) của Bartholomeus Spranger. Trong suốt thế kỷ XVI và XVII, Athena được sử dụng như một biểu tượng cho những nhà cầm quyền nữ giới. Trong cuốn sách Sự hiển lộ của Minerva chân chính (1582), Thomas Blennerhassett miêu tảElizabeth I của Anh như một "tân Minerva" và "vị nữ thần vĩ đại nhất trên đời". Một loạt bức tranh của Peter Paul Rubens thể hiện Athena là người bảo trợ và hướng đạo của Marie de 'Medici; thậm chí còn thể hiện Marie de 'Medici trong hình tượng của Athena như hóa thân phàm trần của chính nữ thần. Nhà điêu khắc người Đức Jean-Pierre-Antoine Tassaert sau này đã miêu tả Catherine II của Nga với hình tượng Athena trong một bức tượng bán thân cẩm thạch năm 1774. Trong cuộc Cách mạng Pháp, tượng của nhiều vị thần ngoại giáo đã bị phá bỏ trên khắp nước Pháp, ngoại trừ tượng của Athena. Không những thế, Athena còn được chuyển hóa thành hiện thân của tự do và nền cộng hòa, một bức tượng nữ thần được đặt ở trung tâm của Quảng trường Cách mạng tại Paris. Trong những năm sau Cách mạng, các tác phẩm nghệ thuật về Athena đã phát triển mạnh mẽ. Các mô tả nghệ thuật về Athena đã ảnh hưởng đến các biểu tượng tự do và dân chủ của phương Tây, bao gồm cả Tượng Nữ thần Tự do và Britannia. Một bức tượng Athena được đặt ngay trước mặt Tòa nhà Quốc hội Áo ở Vienna. Một bản sao nguyên cỡ của Parthenon đã được xây dựng tại Nashville, Tennessee từ năm 1897. Năm 1990, những người phụ trách đã dựng thêm một bản sao mạ vàng cao 12,5m của tượng Athena Parthenos làm từ bê tông và sợi thủy tinh. Huy hiệu chính thức của bang California, Hoa Kỳ có hình ảnh Athena ngồi bên cạnh một con gấu xám nâu. Athena thi thoảng cũng xuất hiện trên tiền xu hiện đại, ví dụ như đồng xu $50 kỷ niệm Panama-Thái Bình Dương năm 1915. Quan điểm thời hiện đại Một trong những món đồ Sigmund Freud quý trọng nhất là một bức tượng đồng nhỏ hình Athena đặt trên bàn làm việc. Freud từng mô tả Athena là "một người phụ nữ bất khả xâm phạm và đẩy lùi mọi ham muốn tình dục - vì bà đeo trên mình bộ phận sinh dục đáng sợ của Người mẹ" ("Bộ phận sinh dục đáng sợ của Người mẹ" để chỉ cái đầu Medusa mà Athena khảm trên khiên). Quan điểm nữ quyền về Athena bị chia rẽ mạnh mẽ; một số nhà nữ quyền coi bà là biểu tượng của sự trao quyền cho phụ nữ, trong khi nhiều người khác coi bà là "kẻ duy trì chế độ phụ quyền thực sự... người sử dụng quyền lực của mình để thúc đẩy và nâng đỡ nam giới hơn là những người cùng giới tính." Trong Đạo Phù thủy thời nay, Athena được tôn vinh như một hóa thân của Nữ thần và một số người tin rằng bà có thể ban tặng "Năng lực của loài cú" ("khả năng viết và giao tiếp rõ ràng") cho các tín đồ. Với tư cách là một trong mười hai vị thần trên đỉnh Olympus, Athena là một vị thần chính trong Hy Lạp giáo hiện đại, một tôn giáo Tân Pagan nhằm hồi sinh và phục dựng tôn giáo Hy Lạp cổ đại trong thế giới hiện đại. Athena được coi là vị thần bảo trợ chính đáng của các trường đại học: Tại Trường Bryn Mawr ở Pennsylvania, một bức tượng Athena (bản sao của bức tượng đồng nguyên bản trong thư viện nghệ thuật và khảo cổ học) được đặt tại Đại sảnh đường. Theo truyền thống, vào thời gian thi cử, nhiều học sinh đến dâng lễ vật cho nữ thần để cầu may mắn, hoặc để xám hối vì đã vô tình vi phạm bất kỳ truyền thống nào của trường. Pallas Athena là nữ thần bảo trợ của hội huynh đệ Phi Delta Theta quốc tế. Con cú của bà cũng là biểu tượng của tình huynh đệ. Phả hệ Ghi chú Dẫn nguồn
Trong thần thoại Hy Lạp, thần Ares (tiếng Hy Lạp: Άρης) là một trong mười hai vị thần trên đỉnh Olympus. Ares là con trai thứ hai của thần tối cao Zeus và nữ thần Hera. Thần Ares được coi như tương đương với thần Mars trong thần thoại La Mã. Ares là thần của chiến tranh, thần của các chiến binh và của các trận đánh khốc liệt. Ares được xem là vị thần có khả năng quyết định thắng bại của mọi cuộc chiến. Trong thần thoại, thần thường được miêu tả cầm một ngọn giáo dính máu đỏ tươi. Thần Ares có ngoại hình xinh đẹp, trẻ trung nhưng bản tính rất tàn bạo. Tương truyền chiếc ngai của thần trên Đỉnh Olympus được bọc kín bằng da người. Dù Ares là con dứt ruột đẻ ra nhưng Zeus và Hera chẳng thương mến gì Ares vì bản tính hiếu chiến và ngông cuồng. Thần tạo ra vô vàn các cuộc chiến cả ở hạ giới lẫn trên cõi thần linh chỉ vì Zeus và Hera không xem trọng mình. Là một vị thần bất tử nhưng Ares đã bị người anh hùng Heracles đánh bại trong một trận đánh và có lần còn suýt bị hai tên khổng lồ Otus và Ephialtes ném xuống địa ngục. Khi bị thương trong cuộc chiến thành Troia, thần đã không được Zeus đoái hoài gì đến. Giống như các thành bang khác của Hy Lạp cổ đại, nếu như thủ đô Athen thờ phụng thần Athena, thì ở thành Sparta, họ phụng sự tuyệt đối thần chiến tranh Ares. Từ nguyên Từ nguyên của cái tên Ares thường được kết nối với từ ἀρή (arē) tiếng Hy Lạp, dạng Ionic của từ ἀρά (ara) tiếng Doric, có nghĩa là "tai ương, điêu tàn, lời nguyền". Walter Burkert nhận xét rằng "Ares rõ ràng là một danh từ trừu tượng cổ đại có nghĩa là đám đông trong trận chiến, chiến tranh." Văn hào Homeros sử dụng từ ares với ý nghĩa "trận chiến" trong sử thi Iliad. Nhà ngôn học Hà Lan R. S. P. Beekes cho rằng danh xưng Ares có nguồn gốc Tiền-Hy Lạp. Truyền thuyết về thần Ares Tình yêu của Ares và Aphrodite Được gả cho Hephaistos, Aphrodite thấy chồng xấu xí lại thọt chân nên không chung thủy với chồng mà hay lăng nhăng với các thần khác kể cả người trần. Một truyền thuyết nổi tiếng khác về thần Ares là cuộc tình giữa Ares và Aphrodite (Odyssey, chương 8). Và rồi thần Mặt Trời Apollo đã trông thấy đôi tình nhân đang bí mật ân ái với nhau trong lâu đài của Hephaistos. Apollo liền mách cho chồng của Aphrodite. Tức giận, Hephaistos đã trả thù bằng cách chăng một tấm lưới vô hình quanh giường của Aphrodite để bắt quả tang. Vào đúng thời điểm thích hợp, tấm lưới này buông xuống tóm chặt Ares và Aphrodite đang ôm ấp nhau. Hephaistos còn mời tất cả những vị thần trên đỉnh Olympus đến xem. Một vài vị bình phẩm về nhan sắc của Aphrodite, số khác lại bình luận rằng họ rất muốn đổi chỗ cho Ares, nhưng tất cả đều chế giễu hai người. Hephaistos bắt Ares nộp tiền phạt, và trả lại Aphrodite cho cha mẹ nàng - thần Zeus và nữ thần Dione (dù theo đa phần các câu chuyện thần thoại khác thì mô tả Aphrodite sinh ra từ bộ phận sinh dục của Uranus rơi xuống biển). Khi đôi tình nhân được thả ra, Ares xấu hổ trốn thẳng về quê nhà ở Thrace, Aphrodite ôm mặt chạy về đảo Cyprus, còn các vị thần được một trận cười vỡ bụng. Một dị bản khác kể chi tiết rằng Ares đã cho một vị thần trẻ tuổi là Alectryon đứng ở cửa để báo hiệu khi nào Apollo đến, vì Apollo sẽ nói với Hephaistos sự không chung thủy của Aphrodite nếu hai người bị phát hiện, nhưng Alectryon đã ngủ quên. Apollo đã phát hiện ra cặp uyên ương và báo cho Hephaestus. Ares rất tức giận và biến Alectryon thành con gà trống, con vật đến nay không bao giờ quên báo hiệu lúc mặt trời mọc. Những người tình và con cái của thần Ares Ares không bao giờ kết hôn, cho dù thần có rất nhiều người tình và con cái. Ares được rất nhiều nữ thần yêu chuộng vì vẻ đẹp cá tính của mình. Ngoài Aphrodite, nữ thần tình yêu và sắc đẹp; còn có Eos, nữ thần ban mai với những ngón tay hồng là người đẹp nhất trong các nữ thần; rồi Nike (Victoria), nữ thần chiến thắng; và Eris, nữ thần gây hiềm khích; hay như Hebe - em gái của Ares, nữ thần tuổi trẻ có đôi má luôn đỏ hồng vì hay ngượng, người mang rượu và thức ăn cho các thần trên Đỉnh Olympus, nàng cũng là người tắm cho Ares; đều là những người tình chung thủy và lâu dài của Ares. Đôi tình nhân Ares và Aphrodite sinh rất nhiều con, đó là Eros, Anteros, Phobos, Deimos, Himeros, Harmonia và Adrestia. Sự thờ cúng thần Ares Thần Mars trong thần thoại La Mã và thần Ares được xem là như nhau. Mars được xem là cha của Romulus và Remus, hai huyền thoại đã sáng lập ra thành phố Roma, nơi phát tích ra Đế chế La Mã. Vì vậy đối với người dân La Mã, thần Mars có vị trí rất quan trọng và được sùng kính như là tổ tiên của họ. Ngoài ra Sparta cũng là một nơi mà người dân sùng kính vị thần này.
Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng là một vườn quốc gia của Việt Nam, nằm tại huyện Bố Trạch và Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, cách thành phố Đồng Hới khoảng 50 km về phía Tây Bắc, cách thủ đô Hà Nội khoảng 500 km về phía nam. Vườn quốc gia này giáp khu bảo tồn thiên nhiên Hin Namno ở tỉnh Khammouan, Lào về phía tây; cách Biển Đông 42 km về phía đông kể từ đường biên giới của vườn quốc gia này. Phong Nha-Kẻ Bàng nằm ở một khu vực núi đá vôi rộng khoảng 201.000 ha thuộc lãnh thổ Việt Nam, khu vực lãnh thổ Lào tiếp giáp vườn quốc gia này cũng có diện tích núi đá vôi khoảng 200.001 ha. Diện tích vùng lõi của vườn quốc gia là 85.754 ha và một vùng đệm rộng 195.400 ha. Tháng 8 năm 2013, Thủ tướng chính phủ đã có quyết định mở rộng vườn quốc gia này lên 1233,26 km². Vườn quốc gia này được thiết lập để bảo vệ một trong hai vùng các-xtơ lớn nhất thế giới với khoảng 300 hang động và bảo tồn hệ sinh thái bắc Trường Sơn ở khu vực Bắc Trung Bộ Việt Nam. Đặc trưng của vườn quốc gia này là các kiến tạo đá vôi, 300 hang động, các sông ngầm và hệ động thực vật quý hiếm nằm trong Sách đỏ Việt Nam và Sách đỏ thế giới. Các hang động ở đây có tổng chiều dài khoảng hơn 80 km nhưng các nhà thám hiểm hang động Anh và Việt Nam mới chỉ thám hiểm 20 km, trong đó 17 km ở khu vực Phong Nha và 3 km ở khu vực Kẻ Bàng. Tháng 4 năm 2009, một đoàn thám hiểm thuộc Hiệp hội Hang động Hoàng gia Anh đã phát hiện và công bố hang Sơn Đoòng là hang động có kích thước lớn nhất thế giới (dài trên 5 km, cao 200 m, và rộng 150 m), lớn hơn nhiều so với hang Deer ở Vườn quốc gia Gunung Mulu ở Sarawak, Malaysia, lớn gấp 4 đến 5 lần so với Phong Nha. Trong đợt khảo sát này, đoàn thám hiểm cũng tìm thấy nhiều hang động khác . Kiến tạo các-xtơ của Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng được hình thành từ 400 triệu năm trước, từ thời kỳ Đại Cổ Sinh do đó là các-xtơ cổ nhất ở châu Á. Trải qua nhiều thay đổi lớn về địa tầng và địa mạo, địa hình khu vực này hết sức phức tạp. Phong Nha-Kẻ Bàng phô diễn các bằng chứng ấn tượng về lịch sử Trái Đất, giúp nghiên cứu lịch sử hiểu được lịch sử địa chất và địa hình của khu vực. Khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng là một trong những mẫu hình riêng biệt và đẹp về sự kiến tạo các-xtơ phức tạp ở Đông Nam Á. Được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới theo tiêu chí địa chất, địa mạo năm 2003, và được UNESCO công nhận lần 2 là Di sản thiên nhiên thế giới với tiêu chí đa dạng sinh học, sinh thái vào ngày 3 tháng 7 năm 2015. Nguồn gốc tên gọi Tên gọi vườn quốc gia này ghép từ hai thành phần: tên động Phong Nha và tên khu vực rừng núi đá vôi Kẻ Bàng. Động Phong Nha trước đây thường được xem là động lớn và đẹp nhất trong quần thể hang động này. Có ý kiến giải thích cho rằng nguồn gốc tên gọi Phong Nha có nghĩa là gió (chữ Hán: 風 phong) răng (chữ Hán: 牙 nha) (gió thổi từ trong động, nhũ đá tua tủa như hàm răng); nhưng ý kiến khác lại cho rằng Phong Nha có nghĩa là tên ngôi làng gần đấy chứ không có nghĩa là gió và răng như vẫn thường được giải thích. Theo Lê Quý Đôn thì Phong Nha là tên một làng miền núi ngày xưa (nay là tổ dân phố Phong Nha, thị trấn Phong Nha, huyện Bố Trạch). Có ý kiến khác lại cho rằng tên gọi Phong Nha không phải xuất phát từ ý nghĩa răng và gió, mà từ hình ảnh những ngọn núi nằm thành từng dãy đều đặn như hình ảnh các quan đứng thành hàng trên sân chầu hay ở quan thự, người ta đã lấy chữ Phong Nha theo chữ Hán (chữ 峰 phong nghĩa là đỉnh núi, 衙 nha có nghĩa là quan lại) để đặt tên cho động Phong Nha. Động Phong Nha còn có tên khác như Động Thầy Tiên, Núi Thầy, Động Troóc, Hang Trùa (Hang Chùa). Vị trí, diện tích, dân số Trước khi trở thành một vườn quốc gia, khu vực này đã là một khu bảo tồn thiên nhiên. Khu bảo tồn Phong Nha-Kẻ Bàng có diện tích 5000 ha đã được Chính phủ Việt Nam chính thức công bố ngày 9 tháng 8 năm 1986 và đã được mở rộng thành 41.132 ha vào năm 1991. Ngày 12 tháng 12 năm 2001, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số 189/2001/QĐ-TTg chuyển Khu bảo tồn thiên nhiên Phong Nha-Kẻ Bàng thành vườn quốc gia với tên gọi như hiện nay. Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có tọa độ từ 17°21′ tới 17°39′ vĩ bắc và từ 105°57′ tới 106°24′ kinh đông, nằm trong địa bàn các xã Tân Trạch, Thượng Trạch, Phúc Trạch, Xuân Trạch và thị trấn Phong Nha thuộc huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Cửa động Phong Nha - Kẻ Bàng có tọa độ 17°34'54.15"B và 106°16'58.83"T. Phong Nha-Kẻ Bàng cách thành phố Đồng Hới khoảng 50 km về phía Tây Bắc, cách thủ đô Hà Nội khoảng 500 km về phía nam. Phía tây vườn quốc gia này giáp khu vực bảo tồn Hin Namno, một khu vực carxtơ nằm ở tỉnh Khăm Muộn, Lào. Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có tổng diện tích là 85.754 ha, bao gồm: Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: 64.894 ha Phân khu phục hồi sinh thái: 17.449 ha Phân khu dịch vụ hành chính: 3.411 ha. Trong khu vực vùng đệm của Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có dân của 12 xã với tổng diện tích thuộc vùng đệm là 1479,45 km² thuộc huyện Minh Hóa (các xã Dân Hóa, Hóa Sơn, Trung Hóa, Thượng Hóa); Bố Trạch (thị trấn Phong Nha và các xã Tân Trạch, Thượng Trạch, Xuân Trạch, Phúc Trạch, Phú Định, Hưng Trạch) và huyện Quảng Ninh (xã Trường Sơn). Các khu vực dân cư này chủ yếu sống ven các sông lớn như sông Chày, sông Son và các thung lũng có suối phía đông và đông bắc của vườn quốc gia này. Các khu vực này thuộc khu vực vùng sâu vùng xa của Quảng Bình, có điều kiện hạ tầng cơ sở như đường giao thông, điện, giáo dục, y tế kém phát triển. Dân cư ở đây chủ yếu sống bằng nghề nông, khai thác lâm sản. Khí hậu Cũng giống như vùng Bắc Trung Bộ nói chung, và tỉnh Quảng Bình nói riêng, khí hậu ở vườn quốc gia này mang đặc trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng và ẩm. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 23-25°C, với nhiệt độ cao nhất là 41 °C vào mùa hè và mức thấp nhất có thể xuống 6 °C vào mùa đông. Thời kỳ nóng nhất là vào tháng 6 đến tháng 8 với nhiệt độ trung bình 28 °C, còn từ tháng 12 đến tháng 2 có nhiệt độ trung bình 18 °C. Lượng mưa trung bình hàng năm đo được là 2.000–2.500 mm, với 88% lượng mưa trong khoảng thời gian từ tháng 7 đến tháng 12. Mỗi năm có hơn 160 ngày mưa. Độ ẩm tương đối là 84%. Địa chất, địa mạo Quá trình hình thành Hệ thống hang động tại khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng được hình thành do những kiến tạo địa chất xảy ra trong lòng dãy núi đá vôi Kẻ Bàng cách đây hơn 400 triệu năm vào thời kỳ Đại Cổ sinh. Trải qua các thời kỳ kiến tạo quan trọng và các pha chuyển động đứt gãy, phối tảng và uốn nếp đã liên tục tạo ra các dãy núi trùng điệp do chuyển động nâng cao và các bồn trầm tích do chuyển động sụt lún, đóng vai trò như nguyên nhân của mọi nguyên nhân để tạo ra tính đa dạng về địa chất, địa hình - địa mạo, mạng lưới thủy văn và tính đa dạng, kỳ thú về hang động du lịch đối với các thành hệ đá vôi Phong Nha-Kẻ Bàng phát triển từ Devon đến Kỷ Cacbon - Permi. Khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng hiện tại là kết quả tổng hợp của 5 giai đoạn phát triển lớn trong lịch sử phát triển vỏ Trái Đất trong khu vực: Giai đoạn Kỷ Ordovic muộn - giai đoạn Silur đầu (450 triệu năm) Giai đoạn Kỷ Devon giữa và muộn (khoảng 340 triệu năm) Giai đoạn Kỷ Than đá - Kỷ Permi (300 triệu năm) Giai đoạn Orogen Giai đoạn Đại Tân sinh (250-65 triệu năm) Nguyên nhân ban đầu phải tính đến là sự hoạt động trồi lên của các khối xâm nhập núi lửa trẻ hơn đá vôi. Các khối cùng với việc nâng các lớp đá vôi lên cao như ngày nay còn làm phát sinh động đất, đứt gãy và núi lửa. Tại giao điểm của các đứt gãy hoặc các đới đứt gãy lớn, núi lửa phun lên sẽ làm biến chất đá vôi, biến đá vôi thành vôi sống (CaO) dễ hoà tan trong nước, đồng thời mang vào các đứt gãy, khe nứt của đá vôi dăm, cuội, dung nham núi lửa và nước ngầm. Dung nham này trong môi trường nước sẽ bị biến thành bùn, sét - kaolin mềm nhão dễ bị nước cuốn trôi hoặc lắng chìm vào các khe nứt, lỗ hổng do mật độ nặng hơn đá vôi từ 0,3 - 0,4 g/cm³. Nước đã đóng vai trò dọn dẹp lòng hang, các thung lũng giữa núi đá vôi (cuốn trôi vôi sống, bùn, sét - kaolin) và tạo thành các thạch nhũ cho chúng ta thấy như ngày nay. Lịch sử nghiên cứu địa chất địa mạo Lần đầu tiên, Đoàn Địa chất 20, một cơ quan trực thuộc Tổng cục Địa chất Việt Nam đã hoàn thành công trình đo vẽ bản đồ địa chất tỉ lệ 1:500.000 miền Bắc Việt Nam vào năm 1965 với sự trợ giúp của các chuyên gia Liên Xô, trong đó khu vực tỉnh Quảng Bình được xếp vào đới tướng cấu trúc Trường Sơn. Đây là lần đầu tiên các đặc điểm địa chất như địa tầng, hoạt động macma và địa chất cấu tạo của khu vực này đã được các nhà khoa học Việt-Xô mô tả một cách hệ thống và chi tiết. Sau đợt khảo sát và đo vẽ đó, Tổng cục Địa chất Việt Nam (nay là Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam) đã tiếp tục tiến hành đo vẽ địa chất ở tỉ lệ trung bình và lớn để chính xác hoá cấu trúc địa chất và xác định tiềm năng khoáng sản ở vùng lãnh thổ này và đã hoàn tất vẽ bản đồ địa chất 1:200.000 tờ Mahaxay - Đồng Hới kèm theo thuyết minh "Địa chất và khoáng sản tờ Mahaxay - Đồng Hới", đây là công trình bổ sung nhiều kết quả nghiên cứu mới về địa tầng và khoáng sản ở trong vùng. Năm 2001, bản đồ địa chất 1:50.000 tờ Minh Hoá kèm theo Báo cáo thuyết minh "Địa chất và khoáng sản tờ Minh Hoá" được hoàn thành và đã đưa được nhiều kết quả nghiên cứu mới về cổ sinh địa tầng Mesozoi và các khoáng vật phosphat và vật liệu xây dựng của vùng. Ngoài ra, các nhà khoa học cũng đã thực hiện công bố nhiều công trình nghiên cứu quan trọng về ranh giới Frasni - Famen (Kỷ Devon thượng). Đặc điểm tự nhiên Phong Nha-Kẻ Bàng có một cấu trúc địa chất phức tạp, với lịch sử phát triển vỏ Trái Đất từ thời kỳ kỷ Ordovicia (464 Ma). Điều này đã tạo ra ba loại địa hình và địa mạo. Một trong số đó là các kiến tạo không phải carxtơ với các ngọn núi thấp tròn với các thềm đất tích tụ mài mòn dọc theo các thung lũng sông Son và sông Chay và tại các mép khối núi đá vôi trung tâm. Loại kiến tạo lớn khác là các kiến tạo carxtơ có đặc trưng là các carxtơ nhiệt đới cổ chủ yếu là từ Đại Trung sinh, nhưng 2/3 của khu vực này là carxtơ từ Đại Tân sinh. Đá vôi chiếm một diện tích khoảng 200.000 ha, với một khu vực tương tự ở tỉnh Khammuane của Lào. Quá trình kiến tạo carxtơ đã tạo ra nhiều đặc điểm như các sông ngầm, các động khô, các động bậc thang, động treo, động hình cây và động cắt chéo nhau. Các động có sông được chia thành 9 động của hệ thống Phong Nha đổ vào sông Son và 8 động của hệ thống động Vòm đổ vào sông Chay. So với các khu vực carxtơ khác trên thế giới đã được công nhận là di sản thế giới, khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng có đặc điểm tự nhiên có nhiều dị biệt do điều kiện khí hậu và cấu trúc địa chất khác nhau. Khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng nằm trong vành đai tạo núi Alpi, một đai núi trẻ phát triển mạnh mẽ vào thời kỳ Đại Tân sinh. Vì vậy, các khối đá vôi tại khu vực này bị biến dạng cơ học khá mạnh do đứt gãy. Khí hậu khu vực này là nhiệt đới gió mùa nên các hiện tượng carxtơ tại đây không giống với các khu vực ôn đới về cường độ quá trình carxtơ cũng như các dạng địa hình mà nó tạo ra trên bề mặt và khu vực ngầm. Hệ thống đứt gãy chằng chịt trên mặt đá vôi tại khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng đã tạo điều kiện cho nước dễ thấm vào các khối đá làm tăng khả năng hòa tan do trong nước có chứa các chất axít có phản ứng với đá vôi (cácbonat calci). Hệ thống hang động hùng vĩ của Phong Nha được tạo ra do quá trình các khe nứt kiến tạo, sau đó là quá trình phong hoá vật lý và hoá học đã gặm mòn, hoà tan, rửa trôi qua hàng triệu năm. Trong điều kiện nhiệt đới ẩm, quá trình carxtơ hoá rất mạnh mẽ về cường độ và tốc độ phá huỷ. Ngoài hệ thống núi đá vôi, vùng núi đất có nền đá mẹ chủ yếu là đá mácma axít, đá sét, đá biến chất và phù sa cổ. Về thổ nhưỡng, khu vực Phong Nha có nhiều hoại đất hình thành từ các nguồn đá mẹ khác nhau. Đất chủ yếu là đất feralit đỏ vàng trên núi đá vôi, đất Feralit vàng trên đá mácma axít, đất Feralit vàng nhạt và đất phù sa bồi tụ ven sông. Khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng có hang động có tuổi cổ nhất Đông Nam Á, với thời gian bắt đầu hình thành hang động là 35 triệu năm trước đồng thời với pha tách giãn hình thành Biển Đông. Các hướng chạy của hệ thống hang động tại khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng trùng với hướng các đứt gãy mang tính khu vực và địa phương. Lũ ở trong các khu vực thung lũng xảy ra từ tháng 9 đến tháng 11 nhưng trong mùa khô từ tháng 2 đến tháng 8 thì hầu như các con suối đều khô cạn. Hệ thống hang động Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng là một trong hai khu vực đá vôi lớn nhất thế giới. So với 41 di sản thế giới khác có carxtơ, Phong Nha-Kẻ Bàng có các điều kiện địa hình, địa mạo và sinh vật khác biệt. Carxtơ tại đây có niên đại từ thời kỳ Đại Cổ Sinh, 400 triệu năm trước, do đó Phong Nha-Kẻ Bàng là vùng carxtơ lớn cổ nhất châu Á. Nếu như khu vực Hin Namno, một khu vực bảo tồn tự nhiên của tỉnh Khăm Muộn, Lào, giáp Phong Nha-Kẻ Bàng về phía tây được kết hợp thành một khu bảo tồn liên tục, thì khu vực bảo tồn này sẽ là khu rừng các-xtơ còn tồn tại lớn nhất ở Đông Nam Á với diện tích 317.754 ha. Tại Phong Nha-Kẻ Bàng có một hệ thống gồm khoảng 300 hang động lớn nhỏ. Hệ thống động Phong Nha đã được Hội nghiên cứu hang động Hoàng gia Anh (BCRA) đánh giá là hang động có giá trị hàng đầu thế giới với 4 điểm nhất: có các sông ngầm dài nhất, có cửa hang cao và rộng nhất, những bờ cát rộng và đẹp nhất, những thạch nhũ đẹp nhất. So với 3 vườn quốc gia khác đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới khác ở Đông Nam Á (Vườn quốc gia Gunung Mulu ở Malaysia, Vườn quốc gia sông ngầm Puerto Princesa ở Palawan của Philippines và Vườn quốc gia Lorentz ở Tây Irian của Indonesia) và một số khu vực carxtơ khác ở Thái Lan, Trung Quốc, Papua New Guinea thì carxtơ ở Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có tuổi già hơn, cấu tạo địa chất phức tạp hơn và có hệ thống sông ngầm đa dạng và phức tạp hơn. Lịch sử khám phá hang động Các văn tự khắc trên vách đá bằng ngôn ngữ Chăm Pa cổ cho thấy động Phong Nha được người Chăm phát hiện từ thời xa xưa khi vùng đất này còn thuộc Vương quốc Chăm Pa. Năm 1550, Dương Văn An là người đầu tiên viết về động Phong Nha. Động Phong Nha đã được chạm lên một trong Cửu Đỉnh Đại Nội triều Nguyễn ở Huế. Năm 1824, động Phong Nha được vua Minh Mạng sắc phong là "Diệu ứng chi thần". Ngoài ra còn được các vua nhà Nguyễn phong "Thần Hiển Linh". Cuối thế kỷ XIX, ông Léopold Michel Cadière, một linh mục người Pháp, thám hiểm động, khám phá các chữ viết của người Chăm và ông đã suy tôn Phong Nha "Đông Dương đệ nhất động". Tháng 7 năm 1924, nhà thám hiểm người Anh Barton sau khi khảo sát Phong Nha đã đánh giá rằng động Phong Nha có thể sánh ngang với các hang động nổi tiếng trên thế giới như động Padirac (Pháp), động sông Drach (Tây Ban Nha) về vẻ đẹp kỳ vĩ của hang động. Năm 1935, một người dân địa phương đã tình cờ phát hiện ra một động khô có cửa động nằm cách cửa động Phong Nha 1000m, trên độ cao 200m. Động này nằm trong khối núi đá vôi Kẻ Bàng thuộc xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch. Đây là động có cảnh quan kỳ vĩ không kém động Phong Nha nhưng lại không có sông ngầm. Năm 1937, Phòng du lịch của Khâm sứ Pháp (ở Huế) đã ấn hành một cuốn tập gấp giới thiệu du lịch ở Quảng Bình, trong đó có giới thiệu về động Phong Nha. Địa điểm du lịch này đã được xếp hạng nhì ở Đông Dương thuộc Pháp. Trước năm 1990, đã có nhiều cuộc thám hiểm hang động của các nhà khoa học Việt Nam và nước ngoài nhưng chưa hé lộ nhiều về hệ thống hang động Phong Nha. Năm 1990, lần đầu tiên Đại học Tổng hợp Hà Nội đã cùng với Hiệp hội nghiên cứu hang động Hoàng gia Anh (British Cave Research Association) đã phối hợp khám phá và nghiên cứu hang động trong khu vực này một cách sâu rộng. Cuộc khám phá hang động lần đầu được tiến hành năm 1990 bởi một nhóm các chuyên gia về hang động của Hiệp hội nghiên cứu hang động Anh và Khoa Địa chất Địa hình của Đại học Tổng hợp Hà Nội, do Howard Limbert chỉ huy. Nhóm thám hiểm này đã hoàn tất nghiên cứu động Vòm. Năm 1992, một nhóm gồm 12 nhà khoa học Anh và 6 giáo sư của Đại học Tổng hợp Hà Nội tiến hành cuộc thám hiểm thứ hai và đã hoàn tất thám hiểm 7.729 m thuộc động Phong Nha và 13.690 m thuộc động Vòm và các hang động lân cận. Cuộc thám hiểm thứ 3 vào năm 1994 bao gồm 11 nhà khoa học Anh và 5 nhà khoa học Việt Nam thuộc Đại học Tổng hợp Hà Nội. Việc thám hiểm các hang động trong khu vực này là một công việc khó khăn và nguy hiểm. Các đoàn thám hiểm đã mất nhiều thời gian với những khó khăn như: hang động sắc nhọn dễ gây thương tích, lòng hang hẹp, các sông suối ngầm có thể dâng lên đột ngột làm bít cửa hang, lượng oxy trong nhiều khu hang động có thể không đủ. Các kết quả thám hiểm, nghiên cứu này đã mang đến một sự hiểu biết toàn diện về hệ thống hang động ở Phong Nha-Kẻ Bàng và đã được làm cơ sở cho bảo vệ, quy hoạch và phát triển du lịch cũng như hoàn thiện hồ sơ để trình lên UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Các nhà khoa học đã khám phá và nghiên cứu 20 hang động với tổng chiều dài 70 km hang động, trong số đó có 17 hang động tại khu vực Phong Nha và 3 hang động tại khu vực Kẻ Bàng. Năm 1999, các nhà khoa học của Trung tâm Nhiệt đới Việt-Nga cũng tiến hành các khảo sát về hệ động thực vật ở khu vực Kẻ Bàng. Động Phong Nha dài 7.729 m, có 14 hang, có dòng sông ngầm dài 13.969 m. Các thạch nhũ trong động trải qua hàng triệu năm kiến tạo từ nước có hòa tan đá vôi (CaHCO3) mà tích tụ thành những hình tượng lạ mắt như hình sư tử, hình ngai vàng, hình đức Phật v.v. Năm 2005, Hội hang động Anh phát hiện một hang động khô, đặt tên Động Thiên Đường, lớn nhất và đẹp nhất tại Phong Nha-Kẻ Bàng. Theo đánh giá, hang động Thiên Đường còn to lớn và đẹp hơn cả động Phong Nha. Ngày 1 tháng 6 năm 2006, Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam đã phát hành bộ tem chọn lọc Phong Nha-Kẻ Bàng. Giai đoạn từ năm 2007-2008, đoàn khảo sát hang động của Hội hang động hoàng gia Anh đã khảo sát khu vực thượng nguồn sông Chày, khu vực hang Vòm, hố st ở km12 trên đường 20 và một số hang động mới ở Thượng Hóa, Hóa Sơn, Dân Hóa, Trọng Hóa (thuộc huyện Minh Hóa), Trường Sơn (huyện Quảng Ninh). Họ cũng đã đo vẽ lại hệ thống hang động Phong Nha. Tháng 4 năm 2009, đoàn thám hiểm thuộc Hiệp hội hang động hoàng gia Anh đã tiến hành thám hiểm khu vực vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng và các khu vực phụ cận. Họ đã phát hiện thêm 20 hang động mới với tổng chiều dài 56 km. Trong đợt khảo sát này, hội hang động hoàng gia Anh và Trường đại học Khoa học tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội đã công bố phát hiện mới về hang Cha Lo (Minh Hóa) dài trên 5 km. Đoàn cũng công bố mới về độ dài của các hang động chính như Phong Nha trên 57 km (trước đây là 45 km), Vòm trên 35 km, đồng thời phát hiện hang Khe Ri là hang sông ngầm dài nhất thế giới. Đặc biệt, đoàn thám hiểm cũng đã phát hiện một hang mới và tạm đặt tên là Sơn Đoòng. Theo kết quả khảo sát, hàng này dài 6,5 km, rộng hơn 150m và vòm hang chỗ cao nhất hơn 200m, kích thước gấp 4-5 lần so với hang Phong Nha, lớn hơn nhiều so với hang Deer tại vườn quốc gia Gunung Mulu tại Sarawak, Malaysia vốn được xem là hang động lớn nhất thế giới. Con sông ngầm ở hang này cũng lớn hơn nhiều lần so với sông ngầm ở hang Phong Nha. Hang này có dòng sông ngầm. Nước và dòng chảy ngầm trong hang rất mạnh nên hiện đoàn thám hiểm chỉ khảo sát được một phần Đoàn thám hiểm cũng đã tiến hàng khảo sát hố sụt karst (đá vôi) ở khu vực hang Vòm có tên là vực Tang với kết quả cho thấy hố sụt có độ sâu đến 255 m. Tuy nhiên, đoàn thám hiểm vẫn chưa thể đo hết độ sâu của hố sụt này, nhưng qua đó đánh giá đó là hố sụt sâu nhất Việt Nam. Năm 2012, đoàn thám hiểm hang động của Hiệp hội Hang động Hoàng gia Anh đã tìm thấy 41 hang động mới tại vùng lõi di sản Phong Nha-Kẻ Bàng ở các tuyến Đại Cáo, Đại Ải, Hung Thùng, Hung Lau. Trong số 41 hang động mới phát hiện này, họ đã phát hiện hang động sâu nhất Việt Nam ở một hố sụt 320m, được gọi là hang Kỳ, dưới đáy hố sụt là một hang động cao khoảng 50m, có chiều dài 4 km. Tổng cộng chiều dài của 41 hang động mới phát hiện này khoảng 20 km. Hệ thống động Phong Nha Cho đến nay, các nhà khoa học đã khảo sát 44,5 km hang động nhưng du khách bình thường chỉ có thể vào được 1500 m. Hệ thống động Phong Nha có các hang động đáng chú ý sau: Hang Tối: nằm trên thượng lưu sông Son. Hang này có chiều dài 5.258 m và cao 83 m,dài 736 m. Hang Chà An: dài 667 m và cao 15 m. Hang Thung: có sông ngầm dài 3351 m. Hang Én: dài 1645 m và cao 78,6 m, có bãi cát bên trong, là nơi sinh sống của én. Hang Khe Tiên: tọa lạc phía nam Phong Nha, dài 520 m. Hang Khe Ry: tọa lạc ở phía nam Phong Nha. Hang Khe Thi. Hệ thống động Vòm Hang Vòm: dài 15,05 km và cao 145 m có nhiều thạch nhũ và măng đá đẹp. Hang Đai Cao: dài 1645 m và cao 28 m. Hang Duột: dài 3,927 m và cao 45 m, có bãi cát mịn. Hang Cá: dài 1.500 m cao 62 m. Hang Hổ: dài 1.616 m và cao 46 m Hang Over: dài 3.244 m và cao 103 vời chiều rộng trong khoảng 30–50 m. Hang Pygmy: dài 845 m. Hang Rục Caroòng: nơi sinh sống của người thiểu số Arem. Họ sống trong hang động và săn bắn hái lượm tự nhiên. Động Tiên Sơn Động Tiên Sơn hay động Khô là một động đẹp, nổi tiếng ở khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng. Cửa vào động Tiên Sơn nằm cách cửa động Phong Nha khoảng 1.000 m, ở độ cao so với mực nước biển khoảng 200 m. Động Tiên Sơn có chiều dài là 980 m. Từ cửa động đi vào khoảng 400 m có một vực sâu chừng 10 m, và sau đó là động đá ngầm tiếp tục dài gần 500 m, khá nguy hiểm nên du khách chưa được phép đến khu vực này mà chỉ tham quan tới khoảng cách 400 m từ tính từ cửa động. Động này được phát hiện năm 1935, ban đầu, cư dân địa phương gọi động này là động Tiên, do vẻ đẹp kỳ bí thần tiên của nó. Sau này động Tiên Sơn được gọi là động Khô, để phân biệt với động Phong Nha là động nước. Động Tiên Sơn là nơi có cảnh thạch nhũ và măng đá kỳ vĩ huyền ảo như trong động Phong Nha nhưng lại có nét riêng là các âm thanh phát ra từ các phiến đá và cột đá khi được gõ vào vang vọng như tiếng cồng chiêng và tiếng trống. Theo các nhà khoa học thuộc Hội hang động Hoàng gia Anh, động Tiên Sơn được hình thành cách đây hàng chục triệu năm, khi một dòng nước chảy qua quả núi đã đục rỗng, bào mòn núi đá vôi Kẻ Bàng. Sau đó, do kiến tạo địa chất khối núi này hoặc đã được nâng lên, hoặc đã bị hạ xuống khiến các khối đá đổ sụp ngăn chặn dòng chảy làm nên động Tiên Sơn ở phía trên. Còn phần có sông ngầm chảy qua tạo ra hang động Phong Nha. Dù động Phong Nha và động Tiên Sơn nằm liền kề nhau nhưng giữa hang động này lại không thông nhau. Cư dân địa phương đã nhặt được một số hiện vật có thể là di chỉ của người xưa ở trên bãi đất bằng phẳng trước cửa động. Động Thiên Đường Động Thiên Đường được phát hiện năm 2005, Hiệp hội hang động Hoàng gia Anh khám phá từ năm 2005 và xác định hang động này có tổng chiều dài là 31 km. Do vẻ đẹp của hang, họ đã đặt tên hang này là Thiên Đường. Động Thiên Đường được đánh giá là hang động lớn và dài hơn hang động Phong Nha. Đây là một động khô, không có sông ngầm chảy qua như động Phong Nha. Trong động Thiên Đường có nhiều khối thạch nhũ và măng đá kỳ ảo. Phần lớn nền động là đất dẻo, khá bằng phẳng nên thuận tiện cho việc tham quan và thám hiểm. Trong khi nhiệt độ mùa Hè ở bên ngoài là 36-37 °C thì nhiệt độ trong động Thiên Đường luôn ở 20-21 °C. Hang Thiên Đương đã được Tập đoàn Trường Thịnh đầu tư phương tiện và đường vào động, đường bên trong động với chiều dài 1,1 km và đã đón khách tham quan từ ngày 3 tháng 9 năm 2010. Hang Sơn Đoòng Sơn Động hay Sơn Đoòng là một trong những hang mới nhất được phát hiện tại khu vực Phong Nha-Kẻ Bang. Hang này do nhóm thám hiểm thuộc Hiệp hội Hang động Hoàng gia Anh tiến hành thám hiểm. Hang này được cho là hang động lớn nhất thế giới. Khoang lớn nhất ở Sơn Động có chiều dài hơn 5 km, cao 200 m và rộng 150 m. Với kích thước này, hang Sơn Động vượt hang Deer ở vườn quốc gia Gunung Mulu ở Sarawak Malaysia, lớn gấp 4-5 lần động Phong Nha, lớn hơn Động Thiên Đường. Do dòng nước của sông ngầm ở động này chảy xiết nên các nhà thám hiểm Anh không thể thám hiểm hết động này. Họ đã ước lượng chiều dài của hang bằng cách sử dụng đèn nháy. Đoàn thám hiểm đã báo cáo chính quyền tỉnh Quảng Bình về phát hiện này nhưng cho rằng chưa thể khai thác du lịch ngay. Họ sẽ quay lại khám phá hang này vào năm 2011. Trên thực tế, một người dân địa phương tên là Hồ Khanh đã phát hiện ra hang này năm 1991 nhưng ông không nhớ lối vào hang cho đến tháng 1 năm 2008. Từ cuối tháng 3 đến 11 tháng 4 năm 2009, ông đã giúp đoàn thám hiểm Anh vượt rừng, núi khoảng 10 km để đến cửa hang. Hệ thống sông ngòi và đỉnh núi Sông ngòi Ngoài hệ thống hang động, Phong Nha-Kẻ Bàng còn có các sông ngầm dài nhất. Đặc trưng núi đá vôi của khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng đã tạo ra một hệ thống sông ngòi trong vùng khá phức tạp, có rất ít sông suối có nước thường xuyên. Có ba con sông chính trong vườn quốc gia này là sông Chày, sông Son và sông Troóc. Nguồn nước cung cấp cho các con sông này là hệ thống các sông suối ngầm dưới lòng đất, các suối này đều nổi lên mặt đất tại các hang động như Én, Vòm, Tối và Phong Nha. Cả ba con sông chính trong vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng đều chảy vào sông Gianh, sau đó đổ ra biển Đông ở thị xã Ba Đồn. Nước sông Chày đoạn trước Hang Tối có màu xanh đặc trưng mà theo nhiều chuyên gia là do có chứa lượng Ca(HCO3)2 và các loại khoáng chất khác với nồng độ cao. Khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng còn có hàng chục con suối và thác nước đẹp như: Thác Gió, Thác Mệ Loan, Suối Mọc phun lên từ chân một dãy núi đá vôi, Suối Trạ Ang. Các đỉnh núi Phong Nha-Kẻ Bàng có một số ngọn núi cao hơn 1000 m, đáng chú ý là đỉnh Co Rilata với độ cao 1.128 m và đỉnh Co Preu cao 1.213 m. Các núi ở vùng carxtơ của vườn quốc gia này có chiều cao điển hình trên 800 m và tạo thành một dãy núi liên tục dọc theo đường biên giới hai nước Việt Nam và Lào, trong đó đáng chú ý là các đỉnh: Phu Tạo (1174 m), Co Unet (1150 m), Phu Canh (1095 m), Phu Mun (1078 m), Phu Tu En (1078 m), Phu On Chinh (1068 m), Phu Dung (1064 m), Phu Tu Ôc (1053 m), Phu Long (1015 m), Phu Ôc (1015 m), Phu Dong (1002 m). Nằm xen giữa các đỉnh này là các đỉnh có chiều cao từ 800–1000 m: Phu Sinh (965 m), Phu Co Tri (949 m), Phu On Boi (933 m), Phu Tu (956 m), Phu Toan (905 m), Phu Phong (902 m), núi Ma Ma (835 m). Vùng địa hình phi carxtơ chiếm một tỷ lệ nhỏ, chủ yếu nằm ở vòng ngoài về phía bắc, đông bắc và đông nam của Phong Nha-Kẻ Bàng với các đỉnh núi cao 500–1000 m với độ dốc 25-30 độ và sự chia cắt cao. Có một số thung lũng hẹp dọc theo các con suối và khe như: khe Am, khe Cha Lo, khe Chua Ngút và một thung lũng nằm dọc theo Rào Thương ở rìa cực nam. Theo hướng bắc-nam có các đỉnh núi đáng chú ý như: Phu Toc Vu (1000 m), Mã Tác (1068 m), Cổ Khu (886 m), U Bò (1009 m), Co Rilata (1128 m) (đỉnh cao nhất của vườn quốc gia này, nằm ở rìa cực nam của vườn quốc gia). Động thực vật Hệ thực vật Vườn quốc gia này là một bộ phận của vùng sinh thái Trường Sơn. Cho đến nay, chủng loại thực vật lớn nhất ở đây là rừng thường xanh ẩm, rừng rậm nhiệt đới trên đá vôi cao 800 m so với mực nước biển. 96,2% diện tích khu vườn quốc gia này được rừng bao phủ; 92,2% là rừng nguyên sinh; 74,7% (110.476 ha) khu vườn quốc gia này là rừng ẩm nhiệt đới thường xanh trên đá vôi có độ cao dưới 800 m; 8,5% (12.600 ha) là rừng ẩm nhiệt đới thường xanh trên đá vôi có độ cao trên 800 m; 8,3% (12.220 ha) là rừng ẩm nhiệt đới trên đất núi đất có cao độ dưới 800 m, 1,3% (1.925 ha) là bụi cây và cỏ và cây rải rác trên đá vôi; 2% (2.950 ha) là cỏ, bụi cây và cây rải rác trên núi đất; 180 ha là rừng tre nứa và mây song; thảm cây nông nghiệp 521 ha. Theo số liệu thống kê mới nhất, Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng là rừng nguyên sinh trên núi đá vôi điển hình với các loại thực vật đặc trưng như: nghiến (Burretiodendron hsienmu), chò đãi (Annamocarya spp.), chò nước (Plantanus kerii) và sao (Hopea spp.). Thực vật có mạch 152 họ, 511 kiểu gen, 876 loài thực vật có mạch, trong dó có 38 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam và 25 loài nằm trong Sách đỏ thế giới, 13 loài đặc hữu Việt Nam, trong đó có sao và cây họ Dầu (Dipterocarpaceae). Ở vườn quốc gia này có một khu vực rừng bách xanh được phân bổ trên đỉnh núi đá vôi có diện tích khoảng trên 5000 ha, có khoảng 2500 cây với mật độ 600 cây/ha. Các cây bách xanh ở vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có tuổi 500-600 năm. Bởi hiện trên thế giới chỉ có 3 loài bách xanh đã được nhận diện. Đây là quần thể bách xanh núi đá (Calocedrus rupestris) lớn nhất Việt Nam. Loài bách xanh này nằm trong nhóm 2A theo quy định tại công văn số 3399/VPCP-NN (ngày 21 tháng 6 năm 2002) đính chính cho nghị định 48 của Chính phủ, thuộc nhóm quý hiếm, hạn chế khai thác. Trường Đại học Khoa học tự nhiên thuộc Đại học quốc gia Hà Nội, phối hợp với Trung tâm nghiên cứu khoa học và Cứu hộ của Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng phát hiện thêm tại vườn quốc gia này 1.320 loài thực vật mới, trong đó có một số quần thể thực vật lớn được đánh giá là đặc biệt quý hiếm. Các nhà khoa học cũng phát hiện 3 loài lan hài quý hiếm, và rừng bách xanh núi đá duy nhất trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Lan hài ở đây có ở vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có 3 loài: lan hài xanh (Paphiopedilum malipoense), lan hài xoắn (Paphiopedilum dianthum), lan hài đốm (Paphiopedilum concolor). IUCN (Hiệp hội Bảo vệ Thiên nhiên Thế giới) trong năm 1996 đã xếp lan hài là loài đang đứng trước nguy cơ diệt vong rất cao (tuyệt chủng trong tương lai gần). Hệ động vật Phong Nha-Kẻ Bàng là nơi sinh sống của 140 loài thú thuộc 31 họ và 10 bộ, nổi bật nhất là hổ và bò tót, loài bò rừng lớn nhất thế giới, 302 loài chim, trong đó có ít nhất 43 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam và 19 loài nằm trong Sách đỏ thế giới; 81 loài bò sát lưỡng cư (18 loài trong Sách đỏ Việt Nam và 6 loài Sách đỏ thế giới); 259 loài Bộ Cánh vẩy; 72 loài cá, trong đó có 4 loài đặc hữu Việt Nam. Năm 1996, ở đây có loài cá mới phát hiện ở Việt Nam. Linh trưởng có 10 loài linh trưởng, chiếm 50% tổng số loài thuộc bộ linh trưởng ở Việt Nam, 7 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam, đặc biệt là voọc Hà Tĩnh, sao la, mang (thú). Phong Nha-Kẻ Bàng được đánh giá là có hệ tự nhiên đa dạng nhất trong tất cả các vườn quốc gia và khu dự trữ sinh quyển quốc gia trên thế giới. Phong Nha-Kẻ Bàng là nơi có cộng đồng linh trưởng phong phú bậc nhất Đông Nam Á. Năm 2002, nhà khoa học Đức Thomas Zegler đã phát hiện ra một loài thằn lằn tai mới có tên là Tripidophrus Nogei tại vùng núi karst thuộc khu vực Chà Nòi. Loài thằn lằn này đã được đăng trên số báo 114 (2) phát hành tháng 7 năm 2007 của tạp chí Revue Suise De Zoologie. Các nhà khoa học đã đặt tên loài này là Thằn lằn Phong Nha-Kẻ Bàng (danh pháp khoa học: Cyrtodactylus phongnhakebangensis). Các nhà khoa học Đức đã xây dựng một khu giới thiệu Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng tại Vườn thú Köln để giới thiệu sự đa dạng sinh học của vườn quốc gia này, ở đây cũng phát hiện ra loại rắn mai gầm mới. Qua một thời gian khảo sát, các nhà khoa học Đức, Nga và Việt Nam đã phát hiện thêm 10 loài mới trong vườn quốc gia này, trong đó bao gồm 5 loài rắn, 5 loài tắc kè, thằn lằn, nhiều loài trong số mới phát hiện này là động vật đặc hữu ở đây. Các nhà khoa học Việt Nam và các nhà khoa học Nga thuộc Viện Động vật hoang dã Sankt-Peterburg, các nhà khoa học Đức của Vườn thú Köln đã phát hiện thêm tại vườn quốc gia này hơn 100 loài mới trong khu hệ cá. Mười loại cá chưa từng thấy ở Việt Nam đã được phát hiện ở vườn quốc gia này. Trong 3 loài cá ở Phong Nha-Kẻ Bàng được ghi vào Sách Đỏ Việt Nam thì đã có 2 loài cá chình. Đó là cá chình hoa và cá chình mun. Tổ chức Bảo tồn Động vật hoang dã Thế giới (FFI) đã tiến hành khảo sát và đã có báo cáo cho rằng Vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có 4 loài được xếp vào diện nguy cấp trên phạm vi toàn cầu, đó là voọc Hà Tĩnh, voọc đen tuyền, voọc ngũ sắc và vượn đen má trắng. Ngày 27 tháng 2 năm 2005, một đàn bò tót với số lượng lớn xuất hiện tại Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng. Năm 2010, một loài bọ cạp mới có tên khoa học là Vietbocap canhi, tên tiếng Việt là bọ cạp Cảnh đã được phát hiện tại động Tiên Sơn. Năm 2012, một loài bọ cạp mới có tên khoa học là Vietbocap thienduongensis. Tên tiếng Việt là bọ cạp Thiên Đường đã được phát hiện tại hang Thiên Đường. Giá trị khảo cổ, lịch sử, văn hóa Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng cũng chứa đựng nhiều di vật khảo cổ. Các bằng chứng về sự sinh sống của con người ở khu vực này là các đầu rìu thuộc Thời kỳ Đồ đá mới và các hiện vật tương tự đã được các nhà khảo cổ Pháp và Việt Nam tìm thấy trong các hang động. Năm 1899, một giáo sĩ truyền đạo người Pháp tên là Léopold Cadière đã khảo sát và nghiên cứu về văn hoá và phong tục, tập quán của người dân vùng thung lũng sông Son. Trong thư viết cho Trường Viễn Đông bác cổ, ông khẳng định: "Những gì còn lại của nó đều rất quý giá đối với sử học. Giữ nó là giúp ích cho khoa học". Đầu thế kỷ XX, các nhà thám hiểm hang động và học giả Anh, Pháp đã đến Phong Nha và họ đã phát hiện ở đây một số di tích Chăm và Việt cổ như bàn thờ Chàm, chữ Chàm khắc trên vách đá, gạch, tượng đá, tượng phật, mảnh gốm và nhiều bài vị v.v. Năm 1995, Viện Khảo cổ học Việt Nam nhận định động Phong Nha có dấu hiệu là một di tích khảo cổ học vô cùng quan trọng. Viện này cho rằng có khả năng dấu tích ở hang Bi Ký trong động là một thánh đường Chăm Pa từ thế kỷ IX đến thế kỷ XI. Tại động Phong Nha, người ta đã phát hiện nhiều mảnh thân và miệng các bình gốm có tráng men của Chàm với các mảnh gốm thô sơ có lõi đen, có vòng miệng loe rộng so với thân, tạo một góc gần vuông. Ngoài ra, người ta còn phát hiện ra các mảnh gốm hoa văn miệng hình cánh sen, màu xanh ngọc, màu lông thỏ hồng nhạt. Động Phong Nha là nơi vua Hàm Nghi trú ngụ trong thời kỳ thực hiện Chiếu Cần Vương kháng chiến chống thực dân Pháp. Các di tích lịch sử cách mạng có: Bến phà Xuân Sơn, Đường mòn Hồ Chí Minh và đường 20 Quyết Thắng, Mụ Giạ, A.T.P, Trà Ang, Cà Tang, cua Chữ A, Khe Ve... hay các di tích Hang Tám Cô, hang Chín Tầng, bến phà Nguyễn Văn Trỗi, các kho hàng hoá trong hệ thống hang động ở Tuyên Hoá, Minh Hóa trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Di sản thiên nhiên thế giới Di sản thế giới lần 1: tiêu chí địa chất, địa lý của nó Hồ sơ đề nghị công nhận vườn quốc gia này là di sản thế giới đã được Chính phủ Việt Nam trình lên UNESCO năm 1998. Lý do đưa ra để đề nghị công nhận vườn quốc gia này là di sản thế giới bao gồm: sự đa dạng sinh học cao, sự độc đáo và vẻ đẹp của hệ thống hang động và phong cảnh núi đá vôi. Ban đầu, Chính phủ Việt Nam đề nghị UNESCO công nhận Khu bảo tồn Phong Nha năm 1998 và IUCN đã tiến hành kiểm tra tại hiện trường trong tháng 1 và 2 năm 1999. Tại cuộc họp bình thường vào tháng 7 năm 1999, Ủy ban đánh giá của UNESCO đã kết luận rằng Khu bảo tồn Phong Nha được đề cử sẽ đáp ứng được tiêu chí (i) và (iv) của UNESCO cho ứng cử viên di sản thế giới nếu như ranh giới được mở ra thành vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng rộng hơn. Ủy ban này cũng đề nghị hai nhà nước Việt và Lào thảo luận và kết nối hai khu bảo tồn Phong Nha-Kẻ Bàng (Việt Nam) và Hin Namno (Lào) thành một khu bảo tồn liên tục để phối hợp bảo tồn. Trong lần đề nghị thứ hai của Chính phủ Việt Nam gửi UNESCO vào năm 2000, phạm vi khu vực đề cử gồm cả khu vực rừng Kẻ Bàng như ý kiến năm 1999 của UNESCO. Tuy nhiên, vào thời điểm này, Chính phủ Việt Nam cũng tuyên bố xây dựng đường Hồ Chí Minh và đường nối quốc lộ 20 với đường Hồ Chí Minh cắt qua vùng lõi của vườn quốc gia này. Nhiều tổ chức quốc tế như IUCN và Tổ chức động thực vật quốc tế đã thuyết phục và khuyên Chính phủ Việt Nam thận trọng trong việc xây dựng các con đường này qua Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng. Trong một bức thư của Tổ chức động thực vật gửi UNESCO ngày 15 tháng 12 năm 2000 ước tính cần 4,5 tấn thuốc nổ cho mỗi km đường. Do đó việc xem xét đánh giá để công nhận là di sản thế giới đối với vườn quốc gia này không tiến triển gì hơn. Tháng 5 năm 2002, Chính phủ Việt Nam cung cấp thêm thông tin cho UNESCO về việc nâng cấp Khu bảo tồn Phong Nha-Kẻ Bàng thành Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng với diện tích rộng hơn hai lần đề cử trước (85.754 ha) kèm theo kế hoạch bảo tồn (quyết định của Chính phủ tháng 12 năm 2001). Chính phủ đã thay đổi tuyến đường Hồ Chí Minh và UNESCO đã đánh giá tuyến mới không ảnh hưởng đến vườn quốc gia này do tuyến đường được xây với mức độ trách nhiệm đối với môi trường cao, ngoài ra tuyến đường này cung cấp đường tiếp cận khu vực vườn nhưng vẫn cho rằng đường nối đường Hồ Chí Minh và đường 20 đi qua khu lõi vườn quốc gia này là không cần thiết và tác động xấu đến hệ động thực vật ở đây (chặt cây, xe cộ gây xáo trộn cuộc sống sinh vật, tạo điều kiện thuận lợi cho săn bắt động vật và chặt cây). Ủy ban đánh giá cho rằng tiêu vườn quốc gia này được đề nghị theo hai tiêu chí i (lịch sử Trái Đất và nổi bật địa chất) và iv (đa dạng sinh học và các loài bị đe dọa) chưa đạt được do chưa có bằng chứng chứng thực về địa chất địa mạo được cung cấp trong hồ sơ và khu vực vườn quốc gia này chưa đủ rộng để bảo tồn các loài quý hiếm. Chính phủ Việt Nam đã bổ sung thông tin về giá trị địa chất địa mạo khu vực vườn quốc gia này. Tại kỳ họp toàn thể lần thứ 27 từ 30 tháng 6 đến 5 tháng 7 năm 2003, đại diện 160 quốc gia thuộc Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) đã công nhận Vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng, cùng với 30 địa danh khác trên toàn thế giới, là di sản thiên nhiên thế giới. Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng được UNESCO công nhận là di sản thế giới vì đạt tiêu chuẩn viii "là ví dụ nổi bật đại diện cho các giai đoạn của lịch sử Trái Đất, bao gồm bằng chứng sự sống, các tiến triển địa chất đang diễn ra đáng kể đang diễn ra trong quá trình diễn biến của các kiến tạo địa chất hay các đặc điểm địa chất và địa văn". Di sản thế giới lần 2: tiêu chí hệ sinh thái (ix) và đa dạng sinh học (x) Năm 2007, Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia Việt Nam đã thống nhất đề nghị Thủ tướng cho phép Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ký trình hồ sơ gửi UNESCO công nhận vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng là Di sản thiên nhiên thế giới lần 2 về tiêu chí đa dạng sinh học. Bộ hồ sơ trình lần này đã được bổ sung các tư liệu quý về hệ động thực vật tại vườn quốc gia này. Hồ sơ trình UNESCO lần này cũng đã nêu rõ tính nổi bật toàn cầu về đa dạng sinh học, và tính toàn vẹn của vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng. Nhiều chuyên gia trong nước và quốc tế cho rằng nếu Việt Nam hoàn thiện hồ sơ thì có nhiều khả năng UNESCO sẽ công nhận Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng là di sản thiên nhiên thế giới lần 2 với hai tiêu chí địa chất địa mạo và đa dạng sinh học, so với một tiêu chí được công nhận năm 2003. Tính đa dạng sinh học của vườn quốc gia này sánh ngang với các khu vực đã được công nhận là di sản hay các khu đề xuất ở châu Á và châu Úc, đặc biệt so sánh với các khu di sản hoặc đang đề xuất có chứa núi đá vôi như khu vực núi Emi và núi Phật Lạc Sơn (Trung Quốc), vườn quốc gia sông ngầm Puerto Princesa ở Palwan của Philippines - một di sản thế giới tại Philippines. Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng được các nhà khoa học đánh giá là trung tâm của khu vực miền trung Việt nam. WWF thừa nhận khu vực vườn quốc gia này có tính đa dạng sinh học cao nhất hành tinh. Tuy nhiên, tại kỳ họp lần thứ 35 của Ủy ban Di sản Thế giới thuộc Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO) diễn ra từ 19 - 29/6/2011, Vườn quốc gia Phong Nha đã không được bầu chọn là di sản thiên nhiên thế giới theo tiêu chí này. Sau đó 4 năm, vào ngày 3 tháng 7 năm 2015 Vườn quốc gia Phong Nha đã được UNESCO công nhận lần 2 là Di sản thiên nhiên thế giới với hai tiêu chí: hệ sinh thái "là ví dụ nổi bật đại diện cho các tiến trình sinh thái trong sự tiến hóa và phát triển của các hệ sinh thái trên cạn", và đa dạng sinh học "sở hữu môi trường sống tự nhiên có ý nghĩa nhất đối với việc bảo tồn đa dạng sinh học", trở thành vườn quốc gia thứ ba châu Á và đầu tiên trong khu vực đạt 3 trong số 4 tiêu chí. Hoạt động du lịch Trung tâm dịch vụ phục vụ khách du lịch toạ lạc tại thị trấn Phong Nha thuộc huyện Bố Trạch. Cổng vào Trung tâm dịch vụ này nằm bên đường Hồ Chí Minh. Khách du lịch tham quan hang động mua vé tham quan bao gồm cả chi phí ca nô, vé vào cửa. Khách được ca nô chở ngược theo sông Son đến thăm động Tiên Sơn và động Phong Nha. Ngoài ra còn có tua du lịch sinh thái riêng. Sau khi vườn quốc gia này được công nhận là di sản thế giới, chính quyền tỉnh Quảng Bình đã bổ sung ngành du lịch là một trong 4 ngành kinh tế mũi nhọn của địa phương. Với những ưu thế về hệ thống hang động và đa dạng sinh học, Vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng đã được khai thác để phát triển du lịch với các loại hình du lịch: Du lịch khám phá hang động bằng xuồng. Du lịch sinh thái, khám phá hệ động thực vật. Leo núi mạo hiểm: ở đây có hàng chục đỉnh núi có độ cao tương đối trên 1.000 m, dốc đá vôi dựng đứng phù hợp cho các hoạt động leo núi thể thao mạo hiểm. Một trong những tuyến du lịch mới là đi bằng du thuyền theo dòng sông Chày để ngược vào rừng sâu. Càng đi ngược dòng sông Chày, dòng chảy sông này càng khúc khuỷu, đi qua nhiều thác ghềnh và đến khu vực rừng Trộ Mợng. Tuyến này đã được các đơn vị kinh doanh du lịch khảo sát và đề nghị mở tuyến du lịch sinh thái rừng Phong Nha-Kẻ Bàng để sớm đưa vào phục vụ khách du lịch ngoài tuyến tham quan các hang động Phong Nha và Tiên Sơn. Khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng có thác Chài cao khoảng 50 m, có bãi Ràn Bò... Tên gọi Ràn Bò do đây là nơi bò tót sinh sống và sinh đẻ ở đây. Trong 3 năm sau khi được UNESCO công nhận, lượng du khách đến tham quan Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng đã gia tăng đột biến. Sân bay Đồng Hới đã được xây dựng và đưa vào hoạt động từ ngày 18 tháng 5 năm 2008 để đáp ứng nhu cầu khách du lịch, với tuyến bay nối với Sân bay quốc tế Nội Bài ở Hà Nội từ ngày 1 tháng 9 năm 2008 và Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất ở Thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 1 tháng 7 năm 2009. Việc Phong Nha-Kẻ Bàng được công nhận là di sản thế giới như là một cách quảng cáo tự nhiên, là một cú hích cho phát triển du lịch, đặc biệt là thu hút du khách quốc tế. Tỉnh Quảng Bình cũng đã cấp phép cho một số dự án du lịch lớn như: khu biệt thự nghỉ dưỡng sông Son, khu nghỉ mát Đá Nhảy, khu nghỉ mát 4 sao Sun Spa... để tăng chất lượng phục vụ khách du lịch. Phong Nha Kẻ Bàng, cùng với các di sản thế giới khác tại miền Trung: Cố đô Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên, cũng là một tuyến điểm quan trọng trong chương trình quốc gia về du lịch mang tên Con đường di sản miền Trung do Tổng cục Du lịch khởi xướng và phát động. Năm 2015, Cục Di sản văn hóa đã công bố về số lượng khách tham quan các điểm du lịch Việt Nam, theo đó dẫn đầu là Quần thể danh thắng Tràng An đón hơn 5 triệu lượt khách, tiếp theo là vịnh Hạ Long đón trên 2,5 triệu lượt khách, cố đô Huế đứng thứ ba với hơn 2 triệu lượt khách, phố cổ Hội An đón khoảng 1,1 triệu lượt khách; Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng đón khoảng 740.000 lượt khách. Nhờ lượng du khách tham quan khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng, khoảng 1.000 dân khu vực Xuân Sơn đã sống bằng nghề du lịch (dịch vụ thuyền tham quan, hướng dẫn viên, nhiếp ảnh…). Nhiều người trước đây là lâm tặc nhưng hiện đã chuyển sang bảo vệ rừng trong vườn quốc gia này. Trung tâm Văn hóa Du lịch Phong Nha-Kẻ Bàng hiện có 248 thuyền, tạo việc làm cho 500 cư dân địa phương, với mỗi thuyền bao gồm 2 người được huấn luyện các kỹ năng an toàn và hướng dẫn du khách và có thu nhập khoảng 70.000 đồng mỗi ngày. Trong năm 2000, trung tâm này đã đào tạo cho những người sơn tràng địa phương để họ chuyển đổi nghề nghiệp từ phá rừng sang bảo vệ rừng và cung cấp dịch vụ du lịch. Tuy nhiên, do công tác quảng bá, cung ứng dịch vụ, tiện ích cho khách du lịch đến thăm vườn quốc gia này hầu như chưa có nên từ năm 2005 đến nay, khách đến tham quan Phong Nha-Kẻ bàng bắt đầu chững lại và giảm dần, chủ yếu là khách nội địa, trong đó lượng khách đến Phong Nha-Kẻ Bàng đến lần thứ hai chỉ chiếm 10%. Việc bố trí đèn chiếu sáng trong các hang động vẫn chưa được thực hiện một cách khoa học, không làm nổi bật nét đẹp huyền ảo tự nhiên của thạch nhũ. Bên trong hang động vẫn chưa bố trí hợp lý nhà vệ sinh dành cho du khách tham quan. Công tác bảo tồn và quản lý Công tác bảo tồn Ban quản lý dự án vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng hiện có đội ngũ nhân viên 115 người bao gồm các chuyên gia về động vật học, thực vật học, lâm sinh học, kinh tế-xã hội học nhưng lại không có thẩm quyền xử lý các vi phạm và thiếu các phương tiện quản lý hữu hiệu đối với các mối đe dọa đối với vườn quốc gia này. Hiện có một khu bán hoang dã dành cho linh trưởng với diện tích 18 ha tại vườn quốc gia này với hàng rào điện tử. Dự án này do Hội động vật Frankfurt (Zoologische Gesellschaft Frankfurt) (Đức) đầu tư dành riêng cho Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng để bảo tồn 10 loại linh trưởng, trong đó có voọc Hà Tĩnh, voọc chà vá chân nâu quý hiếm. Khu vực này có hệ sinh cảnh với đầy đủ thức ăn cho linh trưởng phát triển tốt. Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ bàng được đưa vào quy hoạch phát triển kinh tế của tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn 1997-2010. Vườn quốc gia này cũng được đưa vào kế hoạch bảo tồn đa dạng sinh học xuyên biên giới Phong Nha-Kẻ Bàng và Hin Namno giữa Lào và Việt Nam. Nhiều cuộc hội thảo đã được chính quyền hai tỉnh Quảng Bình và Khăm Muộn tổ chức để phối hợp bảo tồn khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng và Hin Namno của Lào. Các vấn đề về quản lý và bảo tồn Có hai làng người dân tộc thiểu số Arem và Ma Coong sinh sống ở trong vùng lõi của Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng. Bên trong vùng đệm của vườn quốc gia này, có 52.001 người đang sinh sống, chủ yếu là người Kinh và một số nhỏ người Chứt và Vân Kiều, nhiều người trong số họ mưu sinh bằng cách khai thác lâm sản. Núi đá tại khu vực Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng bị dân địa phương khai thác, đục đẽo để lấy đá bán khiến cho nhiều triền núi bị nham nhở còn chính quyền địa phương thì làm ngơ. Kể từ khi trở thành di sản thể giới, lượng khách du lịch đến đây tăng vọt, các hoạt động của lâm tặc, tình trạng săn bắn động vật hoang dã là mối nguy cho vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng, trong khi lực lượng kiểm lâm lại khá mỏng. Sự gia tăng du khách tham quan khu vườn quốc gia này cũng gây ra vấn đề cho môi trường ở đây như các rác thải, ô nhiễm nước do hoạt động du lịch, ảnh hưởng của con người lên hang động (nhiều người bẻ các măng đá mang về, khắc chạm linh tinh lên vách động…), nhưng đặc biệt ảnh hưởng nhất là đe dọa đến sự đa dạng sinh học. Nhiều cộng đồng dơi ở trong các hang động cũng bị tác động xấu do sự tham quan của du khách. Việc xây dựng một nhà máy nhiệt điện chạy bằng than đá tại thôn Vĩnh Sơn, xã Quảng Đông, huyện Quảng Trạch, cách Phong Nha-Kẻ Bàng 40 km về hướng đông bắc với công suất 3.600 MW được nhiều người đánh giá là có thể gây ô nhiễm không khí và nước ở khu vực vườn quốc gia này. Cháy rừng trong mùa khô cũng là một mối đe dọa thường trực đối với toàn khu vực. Hoạt động xây dựng đường nối đường Hồ Chí Minh và quốc lộ 20 chạy xuyên qua lõi vườn quốc gia này và cũng gây ra mối đe dọa về môi trường, làm ảnh hưởng đến khu vực sinh sống của nhiều loài động thực vật, hoạt động nổ mìn phá đá làm đường khiến nhiều loài động vật phải di dời khỏi nơi sinh sống, dù Chính phủ Việt Nam đã có quyết định xây dựng đường Hồ Chí Minh chạy theo tuyến đường 15 và 12A, cũ dọc theo ranh giới phía đông của khu vườn quốc gia này chứ không cắt ngang qua khu vườn này để giảm thiểu ảnh hưởng đến hệ động thực vật cũng như địa hình khu vực. Do công tác quản lý còn yếu kém, những khu vực rừng ở vùng đệm của vườn quốc gia này bị tàn phá nặng nề, nhiều vùng gần như bị chặt trắng, các loài gỗ quý bị khai thác đến cạn kiệt. Hoạt động khai thác và buôn bán gỗ quý từ khu vườn quốc gia này được tổ chức thành hệ thống hoàn chỉnh, ước tính mỗi ngày có khoảng 1 tấn gỗ bị khai thác cho mục đích thương mại, đặc biệt các loại gỗ quý có giá cao như gỗ mun Diospyros spp., Giáng Hương Pterocarpus macrocarpus. Tình trạng săn bắt ồ ạt thú rừng hoang dã trong vườn quốc gia này để bán cho các quán ăn, nhà hàng địa phương rất nghiêm trọng. Động vật hoang dã ở đây bị săn bắt, mua bán, giết thịt do ý thức của người dân kém, các cơ quan có thẩm quyền địa phương làm ngơ, thậm chí một số cán bộ lãnh đạo thôn xã lại là lái buôn động vật hoang dã, có cán bộ công an địa phương làm chủ một nhà hàng thịt rừng chuyên phục vụ các món ăn từ động vật hoang dã được săn bắt từ Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng. Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng hiện không còn có ý nghĩa đối với bảo tồn hổ Panthera tigris, voi Elephas maximus và các loài bò hoang dã. Các giống cá chình quý ở đây là cá chình hoa và cá chình mun cũng bị cư dân địa phương săn bắt ồ ạt phục vụ cho các nhà hàng, quán ăn do mọi người tin rằng ăn thịt các loại cá chình này có tác dụng tráng dương bổ thận. Tháng 5 năm 2012, 3 cây sưa (hay huê, trắc thối) bị lâm tặc chặt và phần lớn đã được đưa ra khỏi vườn quốc gia này, giá bán trên thị trường những cây gỗ sưa bị chặt trái phép này được cho là hàng trăm tỷ đồng. Ba kiểm lâm bị nghi vấn là tiếp tay cho lâm tặc trong vụ khai thác gỗ trái phép này. Công tác quy hoạch khu vực phụ cận Công tác quy hoạch khu vực phụ cận vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng hầu như không được thực hiện bài bản. Công tác quản lý quy hoạch xây dựng trong khu vực phụ cần này cũng bộc lộ nhiều vấn đề. Điều này dẫn đến việc cấp sổ đỏ tràn lan cho dân địa phương, hàng loạt ngôi nhà và hàng quán được dân xây dựng một cách tự phát, lộn xộn. Các chủ đầu tư đo thị mới và khu du lịch trong khu vực này cũng đăng ký dự án để chiếm đất và không triển khai dự án. Bản quy hoạch tổng thể và chi tiết với diện tích 200 ha do Trung tâm quy hoạch tỉnh Quảng Bình thực hiện và chưa được phê duyệt được nhiều người đánh giá là không có tầm nhìn tương lai. Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Bình đã tuyên bố sẽ thuê tư vấn nước ngoài quy hoạch xây dựng và phát triển du lịch khu vực phụ cận Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng. Hỗ trợ quốc tế Năm 2005, chính phủ Đức hỗ trợ hơn 12,6 triệu euro cho việc bảo vệ đa dạng sinh học của Phong Nha – Kẻ Bàng. Năm 2007, chính phủ Đức đã ủng hộ cho Việt Nam 1,8 triệu euro để giúp bảo vệ đa dạng sinh học, cải thiện thu nhập cho cư dân ở vùng đệm. Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng cũng nhận được tài trợ 132.000 USD cho công tác bảo tồn loài linh trưởng trong vườn quốc gia này cũng như khu vực vùng đệm từ Tổ chức bảo tồn động thực vật hoang dã quốc tế (FFI). Năm 1998, Tổ chức Bảo vệ Động Thực vật Quốc tế (FFI) đã thực hiện dự án đào tạo cho cán bộ quản lý vườn quốc gia này. Ban Phát triển Quốc tế của Anh cũng hỗ trợ vốn cho Quỹ Bảo vệ Thiên nhiên Thế giới (WWF) để thực hiện dự án bảo tồn song hành vườn quốc gia này và khu bảo tồn Hin Namno. Tổ chức FFI cũng nhận được sự tài trợ từ quỹ môi trường và quỹ các loài tiêu biểu thuộc phòng Môi trường, Bộ Nông thôn và Lương thực Anh quốc để thực hiện dự án nâng cao nhận thức bảo tồn cho học sinh địa phương cũng như du khách. Hình ảnh Chú thích Đọc thêm Dương Xuân Hảo, Rjonxnickaja M.A., Bunvanke E.Z., Kulikova V.F., Makximova Z.A., Tống Duy Thanh, 1968. Những hóa thạch đặc trưng cho địa tầng Devon ở miền Bắc Việt Nam. Tổng cục địa chất, Hà Nội. Dovjikov A.E. (chủ biển), 1965. Địa chất miền Bắc Việt Nam, nxb KHKT, Hà Nội. Trần Nghi (chủ biên), 2003, Di sản thiên nhiên thế giới: Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng. Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Hà Nội. Anon. (1993), Management plan of Phong Nha Nature Reserve Quang Binh province, Một bản bảo cáo không được xuất bản trình Bộ Lâm nghiệp, Hà Nội. Cao Văn Sung & Le Quy An (eds.), 1998, Environment and Bioresources of Vietnam, Nhà xuất bản thế giới, Hà Nội. Eames J. C., Lambert F. R. và Nguyen Cu, 1995, Rediscovery of the Sooty Babbler Stchyris herberti in central Vietnam, Bird Conservation International, 5: 129- 135. Le Xuan Canh, Truong Van La, Dang Thi Dap, Ho Thu Cuc, Ngo Anh Dao, Nguyen Ngoc Chinh, Vu Van Dung, Pham Nhat, Nguyen Thi Tu, Nguyen Quoc Thang và Tran Minh Hien. (1997), A report of field surveys on Biodiversity in Phong Nha Ke Bang forest (Quang Binh Province, central Vietnam), IEBR / FIPI / Forestry College / Đại học Vinh / WWF Indochina Programme. Unpublished. Nadler, T. (1996-1997), Black langur rediscovered, Asian Primates 6 (3 & 4): 10-12. Nguyen Binh. (1961), Brief Introduction of Mountainous Minority People of Quang Binh Province, Ethnology 23, Hà Nội. Nguyen Quang My và Howard Limbert, (1993), Tropical Karst in Vietnam, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Nguyen Quang My & Limbert, Howard, (2002), Kỳ quan hang động Việt Nam (The Wonders of Vietnamese Caves), Trung tâm bản đồ và tranh ảnh giáo dục, Hà Nội. Nguyen Quoc Loc, (1984), The Minority Ethnic Groups of Binh Tri Thien Province, Nhà xuất bản Thuận Hóa. Nguyen Xuan Dang, Pham Nhat, Pham Trong Anh, Hendrichsen, D. K. (1998), Kết quả điều tra nghiên cứu khu hệ thú ở Phong Nha - Kẻ Bàng (survey results of fauna in Phong Nha-Ke Bang), FFI Indochina Programme/IEBR, Hanoi. Tiếng Việt. Ovel, C. và Nguyen Thi Dao, (1998), LINC: linking Him Namno and Phong Nha through parallel conservation: phase 1 Phong Nha Ke-Bang Nature Reserve, Vietnam Draft project document, WWF Indochina Programme, Hà Nội. Pham Khang. (1985),. The development of karst landscapes in Vietnam, Acta Geologica Polonica. 35 (3-4). pp 305-319. Pham Nhat, Do Tuoc và Truong Van La. (1996-1997), Preliminary Survey for the Hatinh Langur in north-central Vietnam, Asian Primates 6(3 & 4): 13-17. Lippold, L. K. (1993), Distribution and status of the Douc Langurs in Vietnam, Asian Primates 5 (1 & 2): 4-6. Meijboom, M. và Hồ Thị Ngọc Lanh. (2002), Hệ động thực vật ở Phong Nha-Kẻ Bàng và Hin Namno, Phong Nha-Ke Bang National Park with WWF, Hà Nội. Pham Nhat, Do Tuoc, Truong Van La. (1995), A survey for Hatinh Langur (Trachypithecus francoisi hatinhensis) in North Central Vietnam, WWF/PCT. Timmins, R. J., Do Tuoc, Trinh Viet Cong và D. K. Hendrichson. (1999), Preliminary Assessment of the Conservation Importance and Conservation Priorities of the Phong Nha-Ke Bang Proposed National Park, Quang Binh Province, Vietnam, Fauna and Flora International - Indochina Programme, Hà Nội. Wikramanayake, E.D. et al. (2002), Terrestrial Ecoregions of the Indo-Pacific: A conservation Assessment'', Island Press, New York. ISBN 1-55963-923-7
Bàng quan trong kinh tế học vi mô chỉ thái độ của người tiêu dùng không có sự phân biệt giữa các lựa chọn kết hợp hàng hóa bởi lẽ mọi lựa chọn đều cho tổng mức thỏa dụng bằng nhau. Trong các giáo trình kinh tế học vi mô nhập môn hoặc cơ sở, bàng quan thường được thể hiện bằng đường bàng quan (còn gọi là đường đồng mức thỏa dụng) trên một đồ thị hai chiều. Đường bàng quan là một tập hợp các lựa chọn về lượng giữa hai hàng hóa khác nhau nhưng cùng cho một mức hiệu dụng bằng nhau. Độ dốc của đường bàng quan được gọi là tỷ lệ thay thế biên của hàng tiêu dùng. Đây là tỷ lệ mà theo đó, người tiêu dùng sẵn lòng giảm lượng hàng hóa này để có thể tăng một đơn vị lượng hàng hóa kia. Thông thường, đường bàng quan là một đường cong (do tỷ lệ thay thế biên không cố định) và lồi (vì tỷ lệ thay thế biên có xu hướng giảm dần). Tuy nhiên, nếu hai hàng hóa thay thế hoàn hảo cho nhau, thì đường bàng quan có dạng tuyến tính, và bản đồ bàng quan sẽ bao gồm các đường thẳng song song với nhau như trong Hình 2. Nếu hai hàng hóa bổ sung hoàn hảo cho nhau, thì đường bàng quan có dạng hình chữ L như trong Hình 3. Tập hợp các đường bàng quan của người tiêu dùng gọi là bản đồ bàng quan. Đường bàng quan càng xa điểm gốc nghĩa là mức thỏa dụng mà các lựa chọn đem lại càng lớn.
Genova (tên trong phương ngôn Genova: Zena) là một thành phố và cảng biển ở phía bắc của Ý, thủ phủ của tỉnh Genova và của miền Liguria. Thành phố có dân số khoảng 601.338, khu vực đô thị có dân số khoảng 871.733. Genua là một thành phố của người Liguria cổ đại. Tên của nó có lẽ bắt nguồn từ tiếng Liguria, nghĩa là "đầu gối" (từ *genu trong tiếng tiền Ấn-Âu - Proto-Indo-European), i.e. "góc", từ vị trí địa lý của nó, do đó cũng tương tự như cái tên Geneva. Theo cách diễn giải khác, cái tên được nói là xuất phát từ Janua ("cổng") trong tiếng Latin, vị thần hai đầu Janus, hay là một từ cổ có nghĩa là "người nước ngoài", bởi vì những người định cư sớm nhất ở đây được xem như là người nước ngoài bởi cộng đồng dân số xung quanh đó. Cờ Cờ của Genova là cờ của Thánh George, một chữ thập đỏ trên nền trắng, giống hệt như cờ của Anh. Cờ của Genova được bắt chước theo bởi Anh và thành phố London vào năm 1190 để các thuyền của họ khi đi vào Địa Trung Hải được hưởng sự bảo trợ từ hạm đội hùng mạnh của thành Genova. Cộng hòa Genova hàng hải đang lớn mạnh và trở thành, cùng với đối thủ là Venezia, một trong những thế lực quan trọng trên thế giới. Vua Anh phải cống nạp hàng năm cho Doge của Genova để hưởng đặc quyền đó. Giữa Anh và Genova, hai quốc gia thương mại và hàng hải, luôn luôn có một quan hệ lâu đời và đặc biệt. Genova được xem như là "thành phố Anh hóa nhất ở Ý". Lịch sử Lịch sử cổ đại Lịch sử của Genova đi từ thời cổ đại. Một nghĩa địa thành phố, có tuổi từ thế kỉ 6 đến thế kỉ 5 TCN, đã chứng tỏ sự chiếm đóng của nơi này bởi người Hy Lạp, nhưng cảng biển có thể được dùng từ rất lâu trước đó, có lẽ là bởi người Etrusc. Bị tàn phá bởi người Carthage vào năm 209 TCN, thành phố này được xây dựng lại bởi Roma, dưới thời đó thành phố có các quyền tự chủ và xuất khẩu da, gỗ, và mật. Tuy là vẫn trung thành với Roma trong khi những người Liguria và người Celt ở phía bắc nước Ý ngả theo người Carthage trong Chiến tranh Punic lần thứ hai, tầm quan trọng của nó như là một thành phố cảng La Mã đã bị làm giảm đi bởi sự đi lên của Vada Sabatia, gần Savona hiện đại. Sau sự suy tàn của Đế chế La mã, Genova bị chiếm đóng bởi người Ostrogoth, sau đó là người Lombard. Vài thế kỉ theo sau đó, Genova chỉ không hơn không kém một trung tâm đánh cá ít người biết đến, từ từ xây dựng đội tàu buôn và trở thành một hạm đội thương mại dẫn đầu của vùng Địa Trung Hải. Thành phố bị cướp và đốt cháy vào năm 934 bởi cướp biển Ả Rập nhưng điều này không làm gián đoạn sự phát triển của thành phố về mặt lâu dài. Trung cổ và thời phục hưng Trước năm 1100, Genova nổi lên như một thành phố-nước độc lập. Theo danh nghĩa, hoàng đế của Đế chế La Mã Thần thánh là nhà thống trị tối cao và giám mục của Genova là thị trưởng của thành phố; tuy nhiên, quyền lực thật sự nằm trong một số các "consuls" được bầu lên hàng năm bởi một hội đồng phổ thông. Genova là trong các "Cộng hòa hàng hải" (Repubbliche Marinare), cùng với Venezia, Pisa và Amalfi) và thương mại, đóng tàu và ngân hàng giúp hỗ trợ cho một trong những hạm đội hải quân lớn nhất và hùng mạnh nhất vùng Địa Trung Hải. Cộng hòa Genova trải khắp Liguria hiện đại và Piedmont, Sardegna, Corse và thục tế là điều khiển hoàn toàn vùng biển Tyrrhenia. Thông qua sự tham gia của quân Genova trong các Thập tự chinh, các thuộc địa được thiết lập trong vùng Trung Đông, trong vùng Aegea ở Sicilia và Bắc châu Phi. Những chiến sĩ Thập tự chinh người Genova đem về quê nhà một cốc thủy tinh màu xanh từ Levant, mà người Genova từ lâu đã xem như là Holy Grail. Sự sụp đổ của các nước Thập tự chinh được bù trừ bởi sự liên minh của Genova với Đế chế Byzantine, mở ra những cơ hội phát triển vào trong vùng Biển Đen và Krym. Những tranh chấp giữa các gia đình quyền lực, giữa các dòng họ Grimaldi, Doria, Spinola và các họ khác, gây ra nhiều ngắt quãng, nhưng nhìn chung nước cộng hòa được điều hành như một công việc thương mại. Đỉnh cao của chính trị Genova đến với chiến thắng của thành phố đánh bại Pisa vào năm 1284, và đối thủ lâu đời, Venezia, vào năm 1298. Tuy nhiên, sự phồn vinh này không tồn tại lâu. Cái chết Đen được nhập khẩu vào châu Âu vào năm 1349 từ địa điểm thương mại của Genova tại Caffa (Theodosia) ở Crimea, trên Biển Đen. Theo sau một sự sụp đổ về kinh tế và dân số, Genova noi theo mô hình nhà nước Venezia, và được lãnh đạo bởi một doge (xem Doge của Genova). Những cuộc chiến tranh với thành Venezia tiếp tục, và Trận chiến Chioggia (1378-1381), kết thúc với chiến thắng về tay Venezia. Sau một giai đoạn bị cai trị bởi người Pháp từ 1394-1409, Genova dưới quyền thống trị của dòng họ Visconti xứ Milano. Genova mất Sardegna về tay Aragon, Corse do nổi loạn và mất các thuộc địa Trung Đông về tay Đế chế Ottoman và những người Ả Rập. Christopher Columbus, một người của thành phố Genova, tặng một phần mười thu nhập của ông về sự khám phá ra châu Mỹ cho Tây Ban Nha cho Ngân hàng San Giorgio ở Genova để giảm thuế đánh trên thức ăn. Móc nối với Tây Ban Nha được hỗ trợ thêm bởi Andrea Doria, người thiết lập một hiến pháp mới vào năm 1528, làm Genova trở thành một vệ tinh của Đế chế Tây Ban Nha. Dưới sự hồi phục kinh tế được đảm bảo, nhiều gia đình Genova tích lũy được một lượng tài sản lớn. Vào thời huy hoàng của Genova trong thế kỉ 16, thành phố này thu hút nhiều nghệ sĩ, bao gồm cả Rubens, Caravaggio và Van Dyck. Kiến trúc sư nổi tiếng Galeazzo Alessi (1512-1572) đã thiết kế nhiều palazzi lộng lẫy của thành phố. Một số nghệ sĩ người Genova theo phong cách Baroque và Rococo định cư từ các nơi khác và một số nghệ sĩ địa phương trở nên nổi tiếng. Genova chịu đựng đạn pháo của quân Pháp vào năm 1684, và bị chiếm bởi Áo vào năm 1746 trong suốt Chiến tranh Austrian Succession. Vào năm 1768, Genova bị buộc nhượng vùng Corse cho Pháp. Lịch sử sau này Với sự chuyển dịch của kinh tế thế giới và các tuyến đường thương mại sang Thế giới Mới và xa khỏi vùng Địa Trung Hải, ảnh hưởng về kinh tế và chính trị của Genova đi vào sự suy giảm đều đặn. Vào năm 1797, dưới áp lực của Napoléon, Genova trở thành một thành phố bảo hộ bởi Pháp và được gọi là Cộng hòa Liguria, bị nhập vào Pháp vào năm 1805. Mặc dù người Genova nổi dậy chống lại người Pháp vào năm 1814 và tự giải phóng thành phố, các đoàn đại biểu tại Hội nghị Wien trừng phạt bằng cách sáp nhập nó vào Piedmont (Vương quốc Sardegna), do đó kết thúc cuộc đấu tranh ba thế kỉ bởi Nhà Savoy để chiếm đoạt thành phố. Thành phố nhanh chóng nổi tiếng như là một điểm nóng của nền cộng hòa chống lại nha Savoy, mặc dù sự hợp nhất với nhà Savoy rất có lợi về mặt kinh tế. Với sự lớn mạnh của phong trào Risorgimento, người Genova biến cuộc đấu tranh của họ từ viễn ảnh của Giuseppe Mazzini về một nước cộng hòa địa phương thành một nước Ý thống nhất dưới một triều đình Savoy khá thoáng. Vào năm 1860, Giuseppe Garibaldi bắt đầu từ Genova với hơn một ngàn tình nguyện viên để bắt đầu chiến dịch. Điều này gọi là sự khởi hành của hàng ngàn người và một tượng đại được dựng lên trên tảng đá mà nhóm người đó bắt đầu đi. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai các phi đội Anh bỏ bom thành phố Genova và một quả bom rơi vào nhà thờ San Lorenzo mà không phát nổ là bây giờ được trưng bày cho công chúng tại bảo tàng của nhà thờ. Các thắng cảnh chính Genova là thành phố cổ lớn thứ nhì ở Ý và đáng để đi xem, bao gồm cả Piazza de Ferrari nơi nhà hát opera và Palazzo Ducale, Genova ở đó. Cũng có một ngôi nhà nơi mà Christopher Columbus được tin là sinh ra ở đó. Một phần của thành phố cũ, khu Strada Nuova hay là Via Garibaldi, được cho vào Danh sách Di tích Thế giới trong năm 2006. Quận này được thiết kế vào giữa thế kỉ 16 để làm nơi tọa lạc cho các cung điện Mannerist của các gia đình nổi tiếng nhất của thành phố, bao gồm Palazzo Rosso, Palazzo Blanco, Palazzo Grimaldi và Palazzo Reale. Trường cao đẳng nghệ thuật nổi tiếng, Museì di Strada Nuova và Palazzo del Principe cũng tọa lạc trên đường này. Các thắng cảnh khác của thành phố bao gồm Nhà thờ Thánh Lorenzo (Cattedrale di San Lorenzo), Cảng cổ (Porto Antico), được biến đổi thành một khu thương xá bởi kiến trúc sư Renzo Piano, và nghĩa trang Staglieno nổi tiếng với các tượng đài và các pho tượng. Bảo tàng Nghệ thuật phương Đông (Museo d'Arte Orientale) có một trong những bộ sưu tập nghệ thuật Đông phương lớn nhất châu Âu. Ngoài các thắng cảnh của thành phố cổ, Genova cũng có aquarium lớn thứ hai trên thế giới tọa lạc cũng ở khu phố cảng cũ nhắc đến ở trên. Cảng Genova cũng là nơi có ngọn hải đăng từ thời cổ đại, kiểu "La Lanterna". Đó là ngọn hải đăng cổ xưa nhất mà vẫn còn làm việc trên thế giới, một trong 5 ngọn cao nhất, là ngọn cao nhất xây bằng gạch và là một thắng cảnh của Genova. Khí hậu Các nhân vật nổi tiếng Những nhân vật nổi tiếng từ thành Genova bao gồm nhà thám hiểm hàng hải Cristoforo Colombo và Andrea Doria, Nicolay de Caveri, nhà soạn nhạc Niccolò Paganini và Michele Novaro, danh họa Domenico Piola, nhà yêu nước người Ý Giuseppe Mazzini và Gerolamo Nino Bixio, nhà văn và dịch giả Fernanda Pivano, nhà thơ Edoardo Sanguineti, chính trị gia Palmiro Togliatti, kiến trúc sư Renzo Piano, người đạt giải Nobel về vật lý năm 2002 Riccardo Giacconi, Giải Nobel Văn chương năm 1975 Eugenio Montale, nghệ sĩ Vanessa Beecroft, diễn viên hài kịch Gilberto Govi và Paolo Villaggio, ca sĩ dân ca Fabrizio de André và Ivano Fossati, diễn viên Vittorio Gassman. Nhân khẩu Dân cư thành phố hầu như hoàn toàn người Ý. Người Ý từ miền nam va miền bắc đã theo nhau dọn tới đây vào cuối thập niên 1900. Ước lượng có 95,3% dân số là gốc Ý. Nhưng đã có sự gia tăng đáng kể của dân định cư đến từ Nam Mỹ, Đông Âu và một số nhỏ đến từ châu Á . Dân định cư (2004) Ecuador - 10.169 Albania - 2.781 Maroc - 2.189 Peru - 1.795 Người Hoa - 910 România - 746 Các thông tin khác Hải cảng Genova là hải cảng lớn nhất Ý. Trong vùng Địa Trung Hải nó lớn thứ hai, chỉ sau hải cảng Marseille của nước láng giềng Pháp. The Aquarium of Genova was the largest in châu Âu at the time it was built. The Đại học Genova, with 40.000 students (một trong những đại học lớn nhất ở Ý) was founded in 1471. Genoa Cricket & Football Club founded in 1893. Unione Calcio Sampdoria, football club founded in 1946 from the merger of two existing clubs, Andrea Doria (founded in 1895) and Sampierdarenese (founded in 1911). The 27th G8 summit took place in Genova in tháng 7 năm 2001, resulting in riots and the shooting and killing of a protestor and a violent crackdown by the police. For 2004, the European Union designated Genova as the European Capital of Culture, along with the French City of Lille. In 1922 the Genova Conference was the first economic conference that included a representative from the newly-communist Soviet Socialist Republics.
Trong toán học, một bất đẳng thức (tiếng Anh: Inequality) là một phát biểu về quan hệ thứ tự và độ lớn của giá trị giữa hai số hoặc các biểu thức toán học. Nó thể hiện mối quan hệ không bằng nhau, vì thế nên dược gọi là bất đẳng thức, ngược với đẳng thức. Nó thường được sử dụng để so sánh hai số trên trục số theo giá trị của chúng. Người ta sử dụng các kí hiệu khác nhau để biểu thị cho các bất đẳng thức khác nhau, ví dụ: có nghĩa là a nhỏ hơn b. có nghĩa là a lớn hơn b. Trong cả hai trường hợp trên, a không bằng b. Những bất đẳng thức nói trên được gọi là bất đẳng thức chặt chẽ, chỉ thể hiện rằng a hoàn toàn nhỏ hơn hoặc lớn hơn b. Ngoài ra, ta còn có những bất đẳng thức không chặt chẽ: có nghĩa là a nhỏ hơn hoặc bằng b. có nghĩa là a lớn hơn hoặc bằng b. có nghĩa là giá trị tuyệt đối của a lớn hơn hoặc bằng a. Mối quan hệ không lớn hơn (tức nhỏ hơn hoặc bằng) có thể được biểu diễn là a >/ b, ký hiệu > (lớn hơn) được chia đôi bởi dấu gạch chéo (nghĩa là không). Tương tự với cách biểu diễn cho mối quan hệ không nhỏ hơn (tức lớn hơn hoặc bằng) là a ≮ b. Một bất đẳng thức nữa là a ≠ b, có nghĩa là a không bằng b. Bất đẳng thức này đôi khi được coi là một dạng bất đẳng thức chặt chẽ. Nó không nói rằng a lớn hơn b hay ngược lại, cũng không nói rằng a bằng b. Nó chỉ thể hiện rằng giá trị của a khác so b. Trong khoa học kỹ thuật, người ta còn sử dụng một số kí tự ít phổ biến hơn để biểu thị một số bất đẳng thức, mà chúng chỉ ra rằng một giá trị "lớn hơn nhiều" hay "nhỏ hơn nhiều" so với giá trị khác: Ký hiệu a ≪ b có nghĩa là a nhỏ hơn nhiều so với b. Ký hiệu a ≫ b có nghĩa là a lớn hơn nhiều so với b. Các ký hiệu a, b ở hai vế của một bất đẳng thức có thể là các biểu thức của các biến. Sau đây ta chỉ xét các bất đẳng thức với các biến nhận giá trị trên tập số thực hoặc các tập con của nó. Nếu một bất đẳng thức đúng với mọi giá trị của tất cả các biến có mặt trong bất đẳng thức, thì bất đẳng thức này được gọi là bất đẳng thức tuyệt đối hay không điều kiện. Nếu một bất đẳng thức chỉ đúng với một số giá trị nào đó của các biến, với các giá trị khác thì nó bị đổi chiều hay không còn đúng nữa thì nó được goị là một bất đẳng thức có điều kiện. Một bất đẳng thức đúng vẫn còn đúng nếu cả hai vế của nó được thêm vào hoặc bớt đi cùng một giá trị, hay nếu cả hai vế của nó được nhân hay chia với cùng một số dương. Một bất đẳng thức sẽ bị đảo chiều nếu cả hai vế của nó được nhân hay chia bởi một số âm. Hai bài toán thường gặp trên các bất đẳng thức là Chứng minh bất đẳng thức đúng với trị giá trị của các biến thuộc một tập hợp cho trước, đó là bài toán chứng minh bất đẳng thức. Tìm tập các giá trị của các biến để bất đẳng thức đúng. Đó là bài toán giải bất phương trình. Tìm giá trị lớn nhất,nhỏ nhất của một biểu thức một hay nhiều biến. Đó gọi là tìm cực trị. Các tính chất Bất đẳng thức có các tính chất sau: Nghịch đảo Các quan hệ < và >, ≤ và ≥ là nghịch đảo của nhau , nghĩa là với mọi số thực a và b: và tương đương. và tương đương. Tính chất bắc cầu Tính chất bắc cầu của bất đẳng thức được phát biểu như sau: Với mọi số thực a, b,c: Nếu và thì Nếu và thì Tính chất liên hệ đến phép cộng và phép trừ Tính chất liên quan đến phép cộng và phép trừ được phát biểu như sau: Phép cộng và phép trừ với cùng một số thực bảo toàn quan hệ thứ tự trên tập số thực. Nghĩa là Với mọi số thực a, b và c: Nếu thì và Nếu thì và Tính chất liên hệ đến phép nhân và phép chia Tính chất liên quan đến phép nhân và phép chia được phát biểu như sau:Phép nhân (hoặc chia) với một số thực dương bảo toàn quan hệ thứ tự trên tập số thực, phép nhân (hoặc chia)với một số thực âm đảo ngược quan hệ thứ tự trên tập số thực. Cụ thể: Với mọi số thực a, b và c: Nếu c là một số dương và thì và Nếu c là một số dương và thì và Nếu c là một số âm và thì và Nếu c là một số âm và thì và Áp dụng một hàm đơn điệu vào hai vế của một bất đẳng thức Từ định nghĩa của các hàm đơn điệu (tăng hoặc giảm) ta có thể đưa hai vế của một bất đẳng thức trở thành biến của một hàm đơn điệu tăng nghiêm ngặt mà bất đẳng thức kết quả vẫn đúng. Ngược lại nếu ta áp vào hai vế của một bất đẳng thức dạng hàm đơn điệu giảm nghiêm ngặt thì lúc ấy ta phải đảo chiều bất đẳng thức ban đầu để được bất đẳng thức đúng. Điều đó có nghĩa là: Nếu có bất đẳng thức không nghiêm ngặt a ≤ b (hoặc a ≥b) và là hàm đơn điệu tăng thì ≤(hoặc ≥) (không đảo chiều) là hàm đơn điệu giảm thì ≥ (hoặc ≤(đảo chiều) Nếu có bất đẳng thức nghiêm ngặt a < b (hoặc a > b) và là hàm đơn điệu tăng nghiêm ngặt thì < (hoặc >) (không đảo chiều) là hàm đơn điệu giảm nghiêm ngặt thì > (hoặc <) (đảo chiều) Kiểu ký hiệu ghép nối(Bất đẳng thức kép) Ký hiệu a<b<c có nghĩa là a < b và b < c và do tính chất bắc cầu ta suy ra a < c. Dễ thấy rằng, cũng bằng các tính chất ở phần trên, chúng ta có thể cộng/trừ cùng một số vào ba số hạng này, hay nhân/chia cả ba số hạng này với cùng một số khác không và tùy vào dấu của số nhân/chia đó mà ta có đảo chiều bất đẳng thức hay không. Nhưng cần thận trọng vì bạn chỉ có thể làm điều đó với cùng một số, tức là a < b + e < c tương đương với a - e < b < c - e. Tổng quát hơn, kiểu ký hiệu ghép nối này có thể dùng với một số bất kỳ các số hạng: chẳng hạn a1 ≤a2 ≤...≤an có nghĩa là ai≤ai+1 với i = 1,2,...,n-1. Theo tính chất bắc cầu, điều này tương đương với ai≤aj với mọi 1≤i≤j≤n. Đôi khi, kiểu ký hiệu ghép nối được dùng với các bất đẳng thức có chiều ngược nhau, trong trường hợp này phải hiểu đây là việc viết ghép các bất đẳng thức riêng biệt cho hai số hạng kế cận nhau. Cho ví dụ, a < b > c ≤ d có nghĩa là a < b, b > c và c ≤d. Thường trong toán học, người ta ít xài kiểu ký hiệu này và trong ngôn ngữ lập trình, chỉ có một ít ngôn ngữ như Python cho phép dùng ký hiệu này. Các bất đẳng thức nổi tiếng Xem thêm: Bảng các bất đẳng thức Khi gặp các đại lượng mà không thể tìm được hoặc không dễ dàng tìm được công thức tính chính xác, các nhà toán học thường dùng bất đẳng thức để giới hạn khoảng tầm giá trị mà các đại lượng đó có thể có. Một vài bất đẳng thức thông dụng và có tên gọi riêng cho nó: Bất đẳng thức Azuma Bất đẳng thức Bernoulli Bất đẳng thức Boole Bất đẳng thức Cauchy-Schwarz Bất đẳng thức cộng Chebyshev Bất đẳng thức Chernoff Bất đẳng thức Cramer-Rao Bất đẳng thức Hoeffding Bất đẳng thức Holder Bất đẳng thức Jensen Bất đẳng thức Markov Bất đẳng thức Minkowski Bất đẳng thức Nesbitt Bất đẳng thức Pedoe Bất đẳng thức tam giác Bất đẳng thức trung bình cộng và trung bình nhân
Bảng sau mô tả thông tin cơ bản về GPU của ATi. Bộ xử lý đồ họa này là bộ não của các loại card đồ họa dựa trên nền tảng ATi Các phiên bản DirectX Các phiên bản DirectX xác định card đồ họa hỗ trợ bộ tăng tốc đồ họa cụ thể nào đó. DirectX 6.0 - Multitexturing DirectX 7.0 - Hardware Transformation, Clipping and Lighting (TCL/T&L) DirectX 8.0 - Shader Model 1.1 DirectX 8.1 - Pixel Shader 1.4 & Vertex Shader 1.1 DirectX 9.0 - Shader Model 2.0 DirectX 9.0b - Pixel Shader 2.0b & Vertex Shader 2.0 DirectX 9.0c - Shader Model 3.0 Các phiên bản OpenGL Các phiên bản OpenGL xác định card đồ họa hỗ trợ bộ tăng tóc đồ họa cụ thể nào đó. OpenGL 1.4 - ARB_vertex_program, ATI_fragment_shader OpenGL 1.5 - GLSL OpenGL 2.0 - GLSL Bảng so sánh tính năng Giao tiếp AGP/PCI Giao tiếp PCIe
Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 người ta đã tin rằng có những kênh đào trên Sao Hỏa. Đã có một mạng lưới bao gồm những đường thẳng dài, có trong các bản vẽ về Sao Hỏa trong các vùng gần xích đạo từ 60° Bắc đến 60° vĩ độ Nam, nhà thiên văn người Ý Giovanni Schiaparelli là người nhìn thấy đầu tiên ở vị trí xung đối của Sao Hỏa vào năm 1877 và sau này cũng đã được những người quan sát khác khẳng định lại. Schiaparelli gọi những cái này là canali, và được dịch sang tiếng Anh (có thể dịch nhầm) là "canals" (kênh đào). Nhà thiên văn học người Ireland Charles E. Burton đã vẽ một vài bản vẽ sớm nhất về những đường thẳng trên Sao Hỏa, mặc dù những bức vẽ của ông không phù hợp với bức vẽ của Schiaparelli. Cuộc tranh luận Một vài người đã đi xa tới mức cho rằng là có những con kênh tưới được xây dựng bởi nền văn minh trên Sao Hỏa. Percival Lowell là người đã đề xuất mạnh mẽ ý tưởng này, đẩy ý tưởng đi xa hơn cả Schiaparelli, người mà đã cho rằng nhiều chi tiết trên bản vẽ của Lowell là tưởng tượng. Một vài nhà quan sát đã vẽ các bản đồ có hàng tá nếu không phải là hàng trăm các con kênh đào với những danh pháp cụ thể cho từng con kênh. Một vài nhà quan sát đã nhìn thấy một hiện tượng mà họ gọi là "gemination" (sự sắp xếp thành đôi) — những con kênh song song. Những nhà quan sát khác cũng đã tranh luận về khái niệm các con kênh này. Nhà quan sát tài ba E. E. Barnard không nhìn thấy chúng. Vào năm 1903, J. E. Evans và Edward Maunder đã chỉ đạo một vài thử nghiệm thị giác sử dụng những cậu bé học sinh là tình nguyện viên để chứng minh cho việc những con kênh đào này có thể là sự gia tăng ảo giác. Nhà quan sát có nhiều ảnh hưởng Eugène Antoniadi đã sử dụng một kính viễn vọng 83-cm ở Đài thiên văn Meudon tại vị trí xung đối năm 1909 của Sao Hỏa và không nhìn thấy con kênh nào cả và ý niệm về những con kênh lại bắt đầu rơi vào quên lãng. Phi thuyền không gian Mariner 4 đã tới Sao Hỏa vào năm 1965 và đã chụp được những bức ảnh cho thấy những hố thiên thạch lớn và cảnh quan cằn cỗi trên hành tinh này và đó chính là những cái đinh cuối cùng của quan tài cho ý tưởng rằng trên Sao Hỏa có thể có dạng sống cao cấp. Lịch sử các kênh đào Canale trong tiếng Ý (số nhiều canali) có nghĩa là "canal" (kênh đào, kênh rạch nhân tạo) hoặc "channel" (kênh tự nhiên) canali. Sự nhập nhằng nhiều nghĩa của một từ này cũng có trong những từ cùng gốc của các nhóm ngôn ngữ Rôman như là canal trong các tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha và cả Kanal trong tiếng Đức. Người đầu tiên sử dụng từ canale có liên quan tới Sao Hỏa là Angelo Secchi, vào năm 1858, mặc dù ông không nhìn thấy bất cứ đường thẳng nào và sử dụng thuật ngữ cùng với thuật ngữ chỉ những đối tượng lớn - ví dụ, ông sử dụng cái tên "Atlantic Canale" cho thứ mà sau này được gọi là Syrtis Major. Người ta thường nói rằng Schiaparelli có xu hướng dùng theo nghĩa "channel" và từ "canal" là sự hiểu nhầm hoặc dịch nhầm sang tiếng Anh. Dẫu sao thì thuật ngữ tiếng Anh "canal" là một trong những từ được sử dụng sớm nhất để chỉ đến các "kênh" này trong tiếng Anh và, từ khi nó được sử dụng, Schiaparelli cũng đã không làm gì để sửa lại từ ngữ bị hiểu nhầm này nếu như ông biết được điều đó. Điều này có thể cũng không kỳ cục đến như vậy nếu như các ý tưởng về kênh đào trên Sao Hỏa đã dễ dàng được nhiều người chấp nhận. Vào thời gian này, cuối thế kỷ 19, những người quan sát bằng kính viễn vọng thấy khó có thể phân biệt được chính xác là họ đang nhìn thấy cái gì khi họ ngắm Sao Hỏa (thực ra, điều này đã có thể không bị hiểu nhầm như vậy vì lúc này chưa đến thời kỳ của tàu thám hiểm không gian, có thể cho một bức ảnh rõ ràng). Họ đã nhìn thấy một vài vùng có suất phản chiếu tối và sáng (ví dụ là Syrtis Major) và họ tin rằng mình đã nhìn thấy các đại dương và đại lục. Họ cũng tin rằng Sao Hỏa có một bầu khí quyển tương đối thực sự. Họ biết rằng chu kỳ tự quay quanh mình của Sao Hỏa (chiều dài một ngày của nó) hầu như giống của Trái Đất và họ biết rằng độ nghiêng trục của Sao Hỏa cũng hầu như giống Trái Đất, điều này có nghĩa là nó có các mùa như trong thiên văn học và khí tượng học. Họ cũng đã nhìn thấy đỉnh cực băng của Sao Hỏa đang thu nhỏ lại và lại lớn ra theo từng mùa. Họ đã phiên dịch những thay đổi của bề mặt Sao Hỏa theo mùa và sự lớn lên theo mùa của các loài thực vật mà họ đã đưa ra giả thuyết có cuộc sống trên Sao Hỏa (thực tế, những cơn bão bụi trên Sao Hỏa là lý do của vài điểm trong số đó). Tuy nhiên, vào cuối thập kỷ 1920, người ta đã biết rằng Sao Hỏa rất khô và có một áp suất khí quyển rất thấp. Thêm vào đó, cuối thế kỷ 19 là thời gian của những con kênh lớn được xây dựng ở Trái Đất. Kênh đào Suez được hoàn thành vào năm 1869 và những người Pháp dự định xây dựng kênh đào Panama vào năm 1880. Điều này cũng có thể là suy nghĩ tự nhiên rằng một vài dự án tương tự đang được xây dựng ở Sao Hỏa. Vào thời điểm xung đối trong năm 1892, W. H. Pickering đã quan sát được một số những điểm nhỏ hình tròn, màu đen tại mọi điểm giao nhau hoặc bắt đầu của những "con kênh đào". Những điều này cũng được Schiaparelli quan sát nhưng lại là những miếng vá lớn hơn và được gọi là biển hoặc hồ; nhưng quan sát của Pickering, tại Arequipa, Peru, thì ở độ cao khoảng 2400 m trên biển và với điều kiện áp suất tại đó, theo ý kiến của ông, thì có sự trùng lặp về độ mở ống kính như nhau cho hai người. Chúng sớm được các nhà quan sát khác kiểm tra lại, đặc biệt là bởi Lowell. Trong khoảng thời kỳ xung đối trong năm 1892 và 1894, người ta đã ghi lại sự thay đổi về màu sắc các mùa. Khi tuyết trên các cực bị tan ra, những khu vực biển xung quanh xuất hiện như khu vực nhiệt đới bị ngập nước, nước chảy thành các dòng và thường được chấp nhận rõ ràng có màu xanh lá cây. Ý tưởng rằng những canali của Schiaparelli thực sự là các kênh tưới là khá thông minh, đầu tiên nó đã được gợi ý như vậy và sau này được chấp nhận như là cách giải thích dễ hiểu nhất của Lowell và một vài người khác. Điều này ngay lập tức đã được phát triển trong trí tưởng tượng của công chúng và dược phổ biến rộng rãi bởi các báo chí khắp thế giới. Vào thời gian này (1894) nó bắt đầu bị nghi ngờ rằng chẳng có biển nào ở Sao Hỏa. Dưới điều kiện tốt nhất, những "biển" đề xuất này bắt đầu bị mất những dấu tích, chúng xuất hiện như là những vùng có nhiều núi, bị đứt gãy bởi những đường nứt và những hẻm núi, được nhìn từ những độ cao lớn. Những nghi ngờ này sớm trở nên được chắc chắn và đến ngày nay, khắp thế giới hầu như đã chấp nhận rằng Sao Hỏa không có những phần cố định chứa nước bề mặt. Văn hóa đại chúng Ý tưởng về một nền văn minh trên Sao Hỏa nóng bỏng đã xây dựng những con kênh tưới khổng lồ có thể đã tạo cảm hứng cho H. G. Wells để viết tiểu thuyết The War of the Worlds vào năm 1897, miêu tả về việc xâm chiếm của những người Sao Hỏa, những người luôn thèm muốn nguồn nước dồi dào của Trái Đất. Thậm chí, mặc dù sau khi các kênh đào này đã không còn được người ta tin là thật, nhưng những công dân Sao Hỏa đã là một đề tài cho thể loại khoa học viễn tưởng như là hành tinh Barsoom của Edgar Rice Burroughs (xem Sao Hỏa trong viễn tưởng). Danh sách các kênh đào Các kênh đào đã được Schiaparelli và những người khác đặt tên, theo tên của những con sông có thật hoặc trong truyền thuyết ở nhiều nơi trên Trái Đất hoặc trong truyện thần thoại về địa ngục.
Bảng sau mô tả thông tin cơ bản về GPU của NVIDIA. Bộ xử lý đồ họa này là bộ não của các loại card đồ họa dựa trên nền tảng NVIDIA. Các phiên bản DirectX Các phiên bản DirectX xác định cạc đồ họa hỗ trợ bộ tăng tóc đồ họa cụ thể nào đó. DirectX 6.0 - Đa chất liệu DirectX 7.0 - Hardware Transformation, Clipping and Lighting (TCL/T&L) DirectX 8.0 - Bộ đổ bóng Model 1.1 DirectX 8.1 - Bộ đổ bóng điểm 1.4 & Bộ đổ bóng đỉnh 1.1 DirectX 9.0 - Bộ đổ bóng Model 2.0 DirectX 9.0c - Bộ đổ bóng Model 3.0 DirectX 10 - Bộ đổ bóng Model 4.0 Các phiên bản OpenGL Các phiên bản OpenGL xác định card đồ họa hỗ trợ bộ tăng tóc đồ họa cụ thể nào đó. OpenGL 1.4 - ARB_vertex_program, nv_register_combiners2 OpenGL 1.5 - GLSL OpenGL 2.0 - GLSL Bảng so sánh tính năng Trước GeForce GeForce GeForce 2 GeForce 3 GeForce 4 GeForce FX GeForce 6 GeForce 7 * = NV31, NV34 and NV36 are 2x2 pipeline designs if running pixel shaders, otherwise they are 4x1. Thiếu nVidia 8xx,9xx,10xx,20xx
Borodino (; phiên âm: Bô-rô-đi-nô) là một làng nằm trong tỉnh Moskva, Nga, khoảng 12 km về phía tây tây nam Mozhaysk. Tại khu vực ngày nay người ta gọi là "bãi chiến trường Borodino" (Бородинское поле), trận Borodino đã diễn ra vào năm 1812. Quân Pháp do Hoàng đế Napoléon Bonaparte chỉ huy đánh thắng được quân Nga do Nguyên soái Mikhail I. Kutuzov cầm đầu, với tổn thất kinh hoàng cho cả hai bên tham chiến. Chiến thắng này mở đường cho Napoléon tiến chiếm Moskva. Bảo tàng bảo tồn lịch sử chiến tranh Borodino Quốc gia của Nga nằm tại bãi chiến trường Borodino. Khu bảo tồn chiếm diện tích 109,7 km² còn khu vực nằm dưới sự bảo vệ rộng 645 km².
Một bài toán đố là một vấn đề có thể được giải quyết bằng toán học, thường được sử dụng trong quá trình dạy toán để giúp học sinh hiểu sự liên quan giữa các vấn đề đời sống thường ngày với các khái niệm và ký hiệu toán học. Theo một số nhà giáo dục, để giải một bài toán đố, học sinh cần thực hiện ba bước sau: Hiểu bài toán đố đang cần giải cái gì Biến bài toán đố thành một con tính của toán học, rồi dùng phương pháp toán học để giải. Giải xong, lại phải hiểu đáp số như vậy có ý nghĩa gì. Do đó, trong một bài toán đố, ngoài việc biết cánh làm toán (bước thứ nhì), học sinh còn phải hiểu cả "đầu vào" (bài toán hỏi gì) lẫn "đầu ra" (đáp số có nghĩa là gì). Do đó, một bài toán đố thường khó hơn một bài toán thường, vì đòi hỏi sự liên hệ giữa giải quyết vấn đề thực tiễn với bài toán, thay vì chỉ biết làm toán như một máy tính. Thí dụ, một học sinh có thể nhuần nhuyễn các con tính cộng trừ và có thể tính 5 - 3. Nhưng để giải bài toán đố "Em có 5 trái táo, em cho bạn Tèo 3 trái, em còn mấy trái?" thì học sinh cần hiểu rằng khi cho đi tức là làm tính trừ (đầu vào) và sau khi trừ 5 - 3 = 2, thì cần hiểu rằng đáp số 2 là số trái táo còn có trong tay (đầu ra).
Xung đối là một thuật ngữ sử dụng trong quan trắc thiên văn và thuật đo sao để chỉ ra khi một thiên thể nằm ở phía đối diện trên bầu trời khi được quan sát từ một địa điểm đặc biệt (thường là Trái Đất). Đặc biệt, hai hành tinh ở vị trí xung đối nhau khi chúng nằm trên một đường thẳng đi qua tâm chung của quỹ đạo của chúng, thuộc mặt phẳng hoàng đạo. Ký hiệu của xung đối là ☍. Một hành tinh (hay tiểu hành tinh hoặc sao chổi) được gọi là "đang xung đối" khi nó đang ở vị trí xung đối với Mặt Trời khi được nhìn từ Trái Đất. Đây là thời gian tốt nhất để quan sát một hành tinh bởi vì: nó có thể được quan sát suốt đêm, bắt đầu được nhìn thấy từ lúc Mặt Trời lặn, qua đường kinh khoảng nửa đêm và biến mất khi bình minh; Quỹ đạo của nó có vị trí gần nhất với Trái Đất, làm cho nó lớn hơn và sáng hơn. Hiệu ứng xung đối làm gia tăng ánh sáng phản chiếu từ hành tinh tới, thể hiện sự gồ ghề của bề mặt mà không bị mờ. Xung đối chỉ xảy ra ở các hành tinh nằm xa mặt trời hơn Trái Đất. Trong năm 2019, ngày đến vị trí xung đối của sao Mộc là 10/06; của sao Thổ là 27/06; của sao Hải vương là 09/09; của sao Thiên vương là 27/10. Mặt Trăng chuyển động quanh Trái Đất, sẽ xung đối với Mặt Trời khi nó ở pha trăng tròn. Khi nó ở vị trí xung đối chính xác, hiện tượng nguyệt thực sẽ xảy ra. Giao hội trên và dưới phải|nhỏ|Các vị trí giao hội trên (superior conjunction) và giao hội dưới (inferior conjunction) của một hành tinh bên trong (inferior planet)|314x314px Khi được quan sát từ một hành tinh bên ngoài (gồm Trái Đất, hoặc một hành tinh nằm bên ngoài Trái Đất), nếu một hành tinh bên trong (tức hành tinh nằm gần Mặt Trời hơn so với hành tinh bên ngoài) nằm ở phía bên kia Mặt Trời, thì sẽ được gọi là giao hội trên (superior conjunction) với Mặt Trời. Một giao hội dưới (inferior conjunction) sẽ xảy ra khi hai hành tinh nằm trên một đường thẳng và cùng phía đối với Mặt Trời. Trong một "giao hội dưới" hành tinh bên ngoài sẽ "xung đối" với Mặt Trời khi được nhìn từ hành tinh bên trong.
Venezia (tên trong phương ngôn Venezia: Venexia,Venessia), thường gọi "thành phố của các kênh đào" và La Serenissima, là thủ phủ của vùng Veneto và của tỉnh Venezia ở Ý. Trong tiếng Việt, thành phố này được gọi là Vơ-ni-dơ (phiên âm từ Venise trong tiếng Pháp). Thành phố này có nhiều biệt danh như "La Dominante", "Serenissima", "Nữ hoàng của biển Adriatic", "Thành phố nước", "Thành phố của Mặt nạ", "Thành phố của những cây cầu", "Thành phố nổi", và "Thành phố kênh đào." Dân số là 260.897 (thống kê ước tính vào 1 tháng 1 năm 2018). Cùng với Padova, Venezia nằm trong khu đô thị Padova-Venezia với dân số 1.600.000. Thành phố trải ra trên nhiều đảo nhỏ trong khu vực Phá Venezia dọc theo biển Adriatic ở đông bắc nước Ý. Vùng phá nước mặn này trải dọc theo đường biển giữa các cửa sông Po (phía nam) và sông Piave (phía bắc). Dân số ước lượng là 272.000 người tính luôn cả dân số toàn bộ comune của Venezia; thành phố lịch sử của Venezia (Centro storico) có dân số khoảng 62.000, trong khi khoảng 176.000 sống ở Terraferma (nghĩa đen là "đất khô", nó là vùng phá mở rộng) và 31.000 sống trên các đảo khác của phá. Nước Cộng hòa Venezia từng là một đế quốc hàng hải và một khu vực chuẩn bị cho các cuộc Thập tự chinh, cũng như là một trung tâm thương mại quan trọng (đặc biệt là thương mại gia vị) và nghệ thuật trong thời Phục hưng. Thành phố-quốc gia Venise được coi là trung tâm tài chính quốc tế thực sự đầu tiên trên thế giới, nổi lên vào thế kỷ thứ 9 và đạt đến thời kì hoàng kim trong thế kỷ thứ 14 . Điều này làm cho Venise trở thành một thành phố giàu có trong suốt phần lớn lịch sử của nó . Sau Chiến tranh Napoléon và Hội nghị Vienne, Cộng hòa Venise đã bị Đế quốc Áo sáp nhập, cho đến khi nó trở thành một phần của Vương quốc Ý vào năm 1866, sau một cuộc trưng cầu dân ý diễn ra ngay khi Chiến tranh Độc lập lần thứ ba của Ý vừa kết thúc. Venise đã đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử âm nhạc giao hưởng và nhạc kịch, đây cũng là quê hương của nhà soạn nhạc vĩ đại người Ý Antonio Vivaldi . Mặc dù thành phố đang đối mặt với một số thách thức lớn (bao gồm khó khăn về tài chính, ô nhiễm, số lượng khách du lịch quá nhiều) , Venise vẫn là một điểm đến du lịch rất phổ biến, một thành phố mang tính biểu tượng của đất nước Ý và đã được xếp hạng là thành phố đẹp nhất thế giới . Lịch sử Nguồn gốc và lịch sử Theo như truyền thuyết thì Venezia được thành lập năm 421 bởi những người La Mã chạy trốn khỏi người Goth. Tuy vậy, không có những ghi chép lịch sử nào nói về nguồn gốc của Venezia. Thành phố có lẽ là đã hình thành từ sự gia nhập ồ ạt của những người tị nạn và vùng đầm lầy cửa sông Po theo sau sự xâm lược tàn phá phía đông bắc nước Ý bắt đầu bởi Quadi và Marcomanni trong năm 166-168, những người tàn phá khu trung tâm chính trong khu vực này, nay là Oderzo. Sự chống trả của người La Mã bị lật đổ vào đầu thế kỉ thứ 5 bởi những người Visigoth và, khoảng 50 sau đó, bởi người Hun dẫn đầu bởi Attila. Cuộc xâm lược cuối cùng và kéo dài nhất là của người Lombard vào năm 568: lần này đã để lại Đế chế La Mã miền Đông một dải đất nhỏ dọc theo bờ biển của vùng bây giờ là Veneto, và những thể chế hành chính và tôn giáo do đó đã được chuyển về giáo xứ còn lại này. Các cảng mới được xây dựng, bao gồm cả những cảng ở Malamocco và Torcello trong vùng Phá Venezia. Sự thống trị của người Byzantine ở vùng trung và bắc nước Ý bị quét sạch gần hết bởi sự chinh phạt của Exarchate của Ravenna (exarchate là một tỉnh thuộc Đế chế Byxantine, nằm xa thành Constantinopolis) vào năm 751 bởi Aistulf. Trong giai đoạn này thống đốc Byzantine địa phương ("công tước", sau này là "doge") đóng tại Malamocco: khu dân cư trên các hòn đảo trong phá có lẽ tăng lên theo tương ứng cùng với sự chinh phạt của Lombard trên các lãnh thổ Byzantine. Trong năm 775-776 vị trí cha xứ của Olivolo (Helibolis) được tạo ra. Trong suốt triều đại của công tước Agnello Particiaco (811-827) nơi công tước đồn trú được di chuyển từ Malamocco đến nơi được bảo vệ tốt nhất là đảo Rialto (Rivoalto, "Bờ cao"), địa điểm hiện nay của Venezia. Nơi này lần lượt tu viện St. Zachary được xây dựng, cung điện công tước đầu tiên và nhà thờ Thánh Máccô, cũng như một tường phòng thủ (civitatis murus) giữa Olivolo và Rialto. Vào năm 828 sự nổi tiếng của thành phố được tăng lên vì những thánh vật (cưỡng đoạt từ Alexandrie) được đặt vào nhà thờ mới xây Thánh Máccô. Quyền lực nhà thờ cũng được di chuyển về Rialto. Khi cộng đồng tiếp tục phát triển và quyền lực Byzantine giảm dần đi, một đặc tính chống phương Đông tăng dần, dẫn đến sự phát triển của tính tự lập và cuối cùng là độc lập. Mở rộng Từ thế kỉ thứ 9 đến thế kỉ 12 Venezia phát triển thành một thành quốc (một thalassocracy kiểu Ý hay là Repubblica Marinara, và ba thành phố tương tự là Genova, Pisa và Amalfi). Vị trí chiến lược tại điểm địa đầu của biển Adriatic đem lại thế mạnh về thủy quân và kinh tế của thành Venezia là điều không thể chối cãi được. Thành phố trở thành một trung tâm phồn thịnh về thương mại giữa vùng Tây Âu và phần còn lại của thế giới (đặc biệt là Đế chế Byzantine và thế giới Hồi giáo). Vào thế kỉ 12 những thứ quan trọng cho thế mạnh của Venezia được xây dựng: Kho đạn Venezia được bắt đầu xây vào 1104; Venezia thu tóm quyền điều khiển đèo Brenner từ Verona vào năm 1178, mở ra một đường huyết mạch cho bạc đến từ Đức; doge (tổng trấn) cuối cùng thuộc giai cấp quý tộc, Vitale Michiele, qua đời vào năm 1172. Cộng hòa Venezia chiếm các bờ phía đông của biển Adriatic trước năm 1200, chủ yếu vì các lý do thương mại, bởi vì cướp biển đóng ở khu vực đó là mối đe dọa cho thương mại. Vị Doge, lúc đó, đã là Công tước của Dalmatia và Công tước của Istria. Các vùng đất sở hữu sau này, trải rộng từ Hồ Garda đến xa về phía tây tận sông Adda, được biết đến như là "Terraferma", là được chiếm một phần như là một vùng đệm chống lại các nước nguy hiểm xung quanh, một phần bảo đảm con đường thương mại qua dãy Alpes, và một phần bảo đảm sự cung ứng của lúa mì từ lục địa, mà thành phố phải dựa vào. Trong việc xây dựng thành một đế chế hàng hải, nước cộng hòa này đã đoạt điều điều khiển hầu hết các đảo trong vùng Biển Égée, bao gồm cả Kypros và Crete, và trở thành một mối lái quyền lực chủ đạo trong vùng Cận Đông. Bằng những tiêu chuẩn của thời điểm đó, sự điều khiển của Venezia đối với các vùng đất lục địa của nó tương đối khá là sáng sủa công dân của các thành phố chẳng hạn như Bergamo, Brescia và Verona đã nổi dậy bảo vệ chủ quyền của Venezia khi bị đe dọa bởi quân xâm lược. Venezia trở thành một đế chế sau cuộc Thập tự chinh thứ 4, một cuộc chiến mà nhờ có sự tham gia của Venezia thành Constantinopolis đã đổ vào năm 1204 để thiết lập Đế chế Latin; Venezia tự tạo ra một vùng ảnh hưởng gọi là Duchy of the Archipelago. Không may, sự chiếm lĩnh Constantinopolis cuối cùng chứng minh giống như là sự kết thúc của Đế chế Byzantine cũng như sự thất thủ của phong cách Anatolian theo sau Manzikert. Mặc dù người Hy Lạp tái chiếm thành phố bị tàn phá và Đế chế nửa thế kỉ sau đó, Đế chế Byzantine trên thực tế là không còn quyền lực, và tồn tại như một bóng ma trên phần cũ của nó cho đến khi Tiểu vuơng Mehmet Người chinh phục chiếm thành phố vào năm 1453. Nhiều thứ bị cướp đi trong thời chiến được mang trở lại Venezia, bao gồm cả Sư tử có cánh của thánh Mác, một biểu trưng của Venezia. Chỉ có những tàu Venezia có thể chuyên chở hiệu quả người, đồ tiếp tế và đặc biệt là ngựa chiến. Venezia bắt đầu mất đi vị trí như là một trung tâm thương mại quốc tế sau sự chấm dứt của thời Phục hưng. Tuy vậy, đế chế Venezia là một nơi xuất khẩu chính các sản phẩm nông nghiệp và, cho đến giữa thế kỉ 18, là một trung tâm sản xuất. Venezia hiện đại Sau 1070 năm, nước Cộng hòa mất quyền tự chủ khi Napoléon Bonaparte vào ngày 12 tháng 5 năm 1797, chinh phục Venezia trong Chiến dịch liên minh lần thứ nhất. Nhà chinh phạt người Pháp đã chấm dứt thế kỉ hoành tráng nhất của thành phố trong lịch sử của nó: Chính là trong giai đoạn Settecento (1700s) mà có lẽ Venezia trở thành một thành phố tráng lệ nhất ở châu Âu, ảnh hưởng lớn đến nghệ thuật, kiến trúc, và văn học. Napoléon được xem như là một người giải phóng bởi dân Do Thái của thành phố, mặc dù không có nơi nào khác trên nước Ý mà họ đã sống qua nhiều thế kỉ có ít giới hạn hơn Venezia. Ông phá bỏ những cổng của Ghetto và chấm dứt các hạn chế về địa điểm và thời gian mà người Do Thái có thể sống và đi lại trong thành phố. Venezia trở thành một phần của Áo khi Napoléon ký Hòa ước Campo Formio vào 12 tháng 10 1797. Những người Áo chiếm thành phố vào 18 tháng 1 năm 1798. Nó được lấy khỏi Áo bởi Hòa ước Pressburg vào năm 1805 và trở thành một phần của Vương quốc Ý của Napoléon, nhưng được trả lại cho Áo sau thất bại của Napoléon vào năm 1814, khi nó trở thành một phần của Vương quốc Lombardy-Venetia điều khiển bởi Áo. Vào năm 1848-1849 một cuộc cách mạng tái thiết lập Cộng hòa Venezia trong một thời gian ngắn. Vào năm1866, theo sau cuộc chiến sáu tuần, Venezia, cùng với phần còn lại của Venetia, trở thành một phần của Ý. Từ sau 1797, thành phố xuống cấp trầm trọng, với nhiều dinh thự cổ và các tòa nhà khác bị bỏ hoang và rơi vào trạng thái không sửa chữa được, mặc dù Lido trở thành một bãi biển du lịch nổi tiếng vào thế kỉ thứ 19. Trong thế kỷ 20, việc khai thác nước từ các tầng chứa nước đã khiến cho Venise bị chìm dần. Quá trình chìm đã chậm lại rõ rệt kể từ khi các giếng khoan bị cấm trong những năm 1960. Tuy nhiên, thành phố vẫn còn bị đe dọa bởi các trận lụt thường xuyên ở mức độ thấp (gọi tắt là Acqua alta, "nước cao") khiến cho mực nước dâng lên một tầm cao hơn khoảng vài cm so với các cầu cảng của thành phố, thường xảy ra do thủy triều. Các nghiên cứu chỉ ra rằng thành phố tiếp tục chìm với tốc độ tương đối chậm là 1222 mm mỗi năm ; Khí hậu Giao thông Venezia nổi tiếng với những kênh đào của nó. Nó được xây dựng trên một quần đảo với 118 đảo tạo thành bởi khoảng 150 kênh đào và một cái phá cạn. Những hòn đảo trên đó thành phố được xây dựng được nối với nhau bằng khoảng 400 cái cầu. Trong trung tâm cũ, những kênh đào đóng vai trò như những con đường, và mọi dạng giao thông là trên nước hoặc đi bộ. Vào thế kỉ 19 một đường chính vào đất liền đem đến một trạm xe lửa đến Venezia, và một đường cho xe hơi cùng bãi đậu được thêm vào trong thế kỉ 20. Vượt qua khỏi những đường vào trên bộ ở cạnh phía bắc thành phố, giao thông bên trong thành phố vẫn là, như trong nhiều thế kỉ trước, hoàn toàn trên nước hoặc đi bộ. Venezia là khu đô thị rộng nhất châu Âu không có xe hơi, duy nhất ở châu Âu trong việc duy trì hoạt động như một thành phố bình thường trong thế kỉ 21 hoàn toàn không dựa vào xe ô tô hay xe tải. Thuyền Venezia cổ điển là chiếc gondola, dù cho ngày nay nó được dùng chủ yếu cho du khách, hay cho đám cưới, đám ma, hay các dịp lễ khác. Đa số người Venezia ngày nay đi lại bằng thuyền gắn máy ("vaporetti") đi lại trên các tuyến dọc theo các kênh đào chính và giữa các hòn đảo trong thành phố. Thành phố này cũng có nhiều thuyền tư nhân. Những gondola vẫn còn được sử dụng phổ biến bởi người Venezia là những traghetti, những phà chuyên chở khách bộ hành băng ngang Kênh đào Chính của Venezia tại một số điểm nhất định không có cầu. Venezia được phục vụ bởi một sân bay mới, Sân bay quốc tế Marco Polo, hay là Aeroporto di Venezia Marco Polo, đặt tên theo người công dân nổi tiếng sinh ra ở đây. Sân bay này là trên đất liền và được xây lại cách xa bờ biển để du khách phải đi xe bus đển cảng, rồi từ đó sử dụng taxi nước hay thuyền máy (waterbus) Alilaguna. Các thắng cảnh chính Sestieri Các sestieri là các phân chia truyền thống chủ yếu của Venezia. Thành phố được chia ra thành sáu quận Cannaregio, San Polo, Dorsoduro (gồm cả Giudecca), Santa Croce, San Marco và Castello (gồm cả San Pietro di Castello và Sant'Elena). Piazza và campi của Venezia Piazza và campi đều nghĩa là các quảng trường; trong đó piazza với nghĩa là quảng trường lớn, quảng trường chính và chỉ có ba quảng trường ở Venezia mang tên piazza, còn lại campi là các quảng trường nhỏ hơn. Piazza San Marco Campo San Polo Cung điện và palazzi Doge's Palace Palazzo Grassi Ca' d'Oro Ca' Rezzonico Bảo tàng sưu tập Peggy Guggenheim Palazzo Labia Nhà thờ Vương cung thánh đường Thánh Máccô (tiếng Ý:Basilica di San Marco) Các nhà thờ khác Các tòa nhà khác Accademia Pháo đài Venezia La Fenice (nhà hát opera) Fondaco dei Tedeschi Cầu và các kênh đào Cầu Rialto Cầu Than thở Accademia Bridge Scalzi Bridge Các khu xung quanh Phá Venezia Các đảo: Burano Lido Murano San Michele Sant'Erasmo San Lazzaro degli Armeni Torcello Vignole Giudecca Venezia trong văn hóa, nghệ thuật và tiểu thuyết Trong thế kỉ thứ 14, nhiều đàn ông Venezia bắt đầu bận những quần sặc sỡ bó chặt, những kiểu cho thấy là họ thuộc về Compagnie della Calza ("Câu lạc bộ quần dài"). Thượng viện thông qua luật chi tiêu, nhưng những thứ này chỉ đem lại kết quả trong các thay đổi về thời trang để lách qua luật đó. Các bộ quần áo ít màu được mặc bên trên các bộ quần áo sặc sỡ, mà được cắt sao cho làm lộ ra những màu sắc bị che đi — kết quả là sự phổ biển lan rộng của các thời trang đàn ông "slashed" trong thế kỉ 15. Trong thế kỉ 16, Venezia trở thành một trong những trung tâm âm nhạc quan trọng của châu Âu, được đánh dấu bằng một kiểu sáng tác đặc trưng (trường phái Venezia) và sự phát triển của dàn nhạc giao hưởng kiểu Venezia dưới các nhà soạn nhạc chẳng hạn như Adrian Willaert, người đã từng làm việc tại San Marco. Venezia là một trung tâm in ấn âm nhạc sớm nhất; Ottaviano Petrucci bắt đầu xuất bản âm nhạc ngay khi kỹ thuật này ra đời, và xí nghiệp in của ông giúp thu hút các nhà soạn nhạc trên khắp châu Âu, đặc biệt là từ Pháp và Vlander. Cho đến cuối thế kỉ, Venezia nổi tiếng về sự huy hoàng của âm nhạc sáng tác ở đó, được ví dụ trong "kiểu hoành tráng" của Andrea và Giovanni Gabrieli, và họ sử dụng nhiều nhóm nhạc cụ và ca sĩ khác nhau cùng một lúc. Canvas (bề mặt vẽ tranh sơn dầu phổ biến) bắt nguồn từ Venezia trong đầu thời phục hưng. Những bức nền vẽ đầu tiên nhìn chung là thô nhám. Cuộc sống vào những năm 1750 ở Venezia được minh họa bằng cuốn tự truyện A Venetian Affair, dựa trên những bức thư tình dạt dào của một quý tộc Venezia và người tình mang nửa dòng máu người Anh của ông. Một chân dung đáng kể đến, không xu nịnh, về chính trị Venezia xuất hiện trong tác phẩm The Bravo của tiểu thuyết gia người Mỹ James Fennimore Cooper, xuất bản năm 1831. Một bravo là một kẻ đi ám sát được thuê bởi nhà nước, thường thi hành nhiệm vụ của mình với một stiletto. Tiểu thuyết của Cooper mô tả Venezia như là một chế độ độc tài độc ác, điều hành thông qua âm mưu và ám sát, được che mặt nạ bởi sự ôn hòa của Repubblica Serenissima (Nền cộng hòa bình yên). Các tác phẩm lớn có liên quan đến Venezia bao gồm: Văn học Người lái buôn thành Venise (1594-97) và Othello của William Shakespeare (1603-04) Watteau in Venise (1994) của Philippe Sollers Volpone của Ben Jonson Der Geisterseher (The Ghost-Seer) của Friedrich Schiller The Aspern Papers (1888) của Henry James Death in Venise (Der Tod in Venedig), tiểu thuyết năm 1912 của Thomas Mann và phim năm 1971 của Luchino Visconti Tập truyện ngắn "Batsin Bu Dünya" (1983) và "Emrah Gülle Gel de Gülme" (1983) của Orhan Pamuk "Burbank with a Baedeker: Bleistein with a Cigar" (1920) của T. S. Eliot The Silent Gondoliers, truyện ngụ ngôn do nhân vật S. Morgenstern của William Goldman kể The Passion (1987) của Jeanette Winterson Tập sách House of Niccolo (8 quyển) của Dorothy Dunnett The City of Falling Angels (2005) của John Berendt Cry to Heaven của Anne Rice Truyện ngắn The Assignation của Edgar Allan Poe Cornelia Funke's The Thief Lord (2002) In the Company of the Courtesan (2006) của Sarah Dunant Across the River and Into the Trees của Ernest Hemingway The Floating Book, Carnevale và The Remedy của Michelle Lovric "The Comfort of Strangers" của Ian McEwan The Thief of Venise của Jane Langton History of My Life của Giacomo Casanova Stravaganza: City of Masks của Mary Hoffman "Thief Lord" của Cornelia Funke Phim From Russia with Love, tiểu thuyết (1957) và phim (1963) về James Bond The Tourist, phim (2010) với vai diễn của Angelina Joile và Johnny Depp Moonraker, tiểu thuyết và phim về James Bond Phim 1973 Don't Look Now của Nicolas Roeg, dựa theo truyện của Daphne du Maurier Solamente Nero (còn gọi là The Bloodstained Shadow), Antonio Bido đạo diễn(1978) Indiana Jones and the Last Crusade (1989) Nikita (còn gọi là La Femme Nikita) (1990) The Wings of the Dove (1997) Dangerous Beauty (1998), bộ phim dựa trên truyện The Honest Courtesan của Margaret Rosenthal về cuộc đời của Veronica Franco The Italian Job (bản dựng lại năm 2003) The League of Extraordinary Gentlemen (2003) Just Married (2003) The Merchant of Venise (2004) Casanova (phim 2005 phỏng theo cuộc đời của Giacomo Casanova) Tomb Raider(phim 2002), dựa theo trò chơi của Lara Croft Il Casanova di Federico Fellini (phim 1976 do Federico Fellini đạo diễn) Senso, với các ngôi sao Alida Valli và Farley Granger; Luchino Visconti đạo diễn (1954). Thể loại phim bi kịch. Venezia thời bị Áo chiếm đóng Everyone Says I Love You, với Woody Allen, Alan Alda, Goldie Hawn, Drew Barrymore, Julia Roberts; đạo diễn Woody Allen (1996). Hài kịch ca nhạc quay ở New York và Venezia. The Story of Us, của Rob Reiner, với Bruce Willis, Michelle Pfeiffer, Tim Matheson (Hoa Kỳ, 1999) Summertime với Katherine Hepburn; đạo diễn David Lean (1955). Quay nội cảnh tại Pensione Accademia Villa Maravegie Othello của Orson Welles, với Orson Welles và Suzanne Cloutier, Othello quay đi quay lại khoảng ba năm. (Maroc, Ý, Pháp, Hoa Kỳ, 1952) Children of the Century của D. Kurys (Juliette Binoche, Benoit Maginel, Stefano Dionisi) 1999 Don't Look Now với Donald Sutherland và Julie Christie. A psychic thriller.(1973) The Talented Mr. Ripley The Thief Lord (2006) Aaron Johnson, Rollo Weeks Thông tin khác Thánh bảo trợ cho thành phố là Marco tác giả Phúc âm. Venezia cũng nổi tiếng khắp thế giới với lễ hội hóa trang của nó (1 ). Các sự kiện về Venezia (2 ). Venezia và phá của nó được UNESCO công nhận là Di sản thế giới. Các nhân vật nổi tiếng có liên quan tới Venezia Đối với những người sinh ra tại Venezia, xem Người Venezia. Những nhân vật nổi tiếng có liên quan tới thành phố bao gồm: Titian (kh. 1488-90 – 27 tháng 8, 1576), là nhà tiên phong của phong trào Phục Hưng Ý trường phái Venezia thế kỷ 16 (ông sinh tại Pieve di Cadore). Pietro Bembo(20 tháng 5, 1470 - 18 tháng 1, 1547), hồng y và học giả. Marcantonio Bragadin (m. 1571) vị tướng bị người Turk lột da sống Lorenzo Lotto(c.1480 - Loreto, 1556) họa sĩ vẽ minh họa, được xếp vào trường phái Venezia. Veronica Franco (1546-1591), nhà thơ và gái hạng sang thời Phục Hưng Antonio Vivaldi (4 tháng 3 năm 1678, 28 tháng 7 (hoặc 27), 1741, Viên), nhà soạn nhạc và chơi vĩ cầm thời Baroque Giacomo Casanova (còn có tên Jacques Casanova; 2 tháng 4 năm 1725 - 4 tháng 7 năm 1798, tại Dux, Bohemia, ngày nay là Duchcov, Cộng hòa Séc) là một nhà thám hiểm, nhà văn người Venezia. Rosalba Carriera (7 tháng 10 năm 1675 – 15 tháng 4 năm 1757), nổi tiếng với các tác phẩm bằng màu phấn. Emilio Vedova (9 tháng 8 năm 1919), một trong những họa sĩ trường phái hiện đại của Ý Tintoretto (1518 - 31 tháng 5, 1594), có lẽ là họa sĩ xuất sắc nhất cuối thời Phục Hưng Ý. Giovanni Bellini (kh. 1430-1516), họa sĩ Phục Hưng, có lẽ là họa sĩ dòng Bellini nổi tiếng nhất. Elena Lucrezia Cornaro Piscopia (5 tháng 6 năm 1646 - 26 tháng 7 năm 1684), phụ nữ đầu tiên trên thế giới nhận học vị tiến sĩ. Bruno Maderna (21 tháng 4 năm 1920 - 13 tháng 11 năm 1973), chỉ huy dàn nhạc người Ý-Đức và nhà soạn nhạc thế kỉ 20. Tiepolo (5 táng 3, 1696 - 27 tháng 3 năm 1770), họa sĩ tranh tường "Grand Manner" từ Cộng hòa Venezia. Baldassare Longhena (1598 - 18 tháng 2 năm 1682), một trong những kiến trúc sư có tiếng nhất của trường phái Baroque. Goldoni (25 tháng 2 năm 1707 - 6 tháng 2 năm 1793), cùng với Pirandello, Goldoni có lẽ là những tên tuổi trong ngành sân khấu nghệ thuật Ý, tại Ý cũng như ở nước ngoài. Carlo Gozzi (13 tháng 12 năm 1720 – 4 tháng 4 năm 1806), một trong những nhà soạn kịch xuất sắc nhất thế kỉ 18. Luigi Nono (29 tháng 1 năm 1924 - 8 tháng 5 năm 1990), nhà soạn nhạc hàng đầu cho thể loại nhạc khí và nhạc điện tử. Carlo Scarpa (2 tháng 6 năm 1906 - 1978, Sendai, Nhật), kiến trúc sư với hiểu biết sâu sắc về vật liệu. Sebastian Cabot (kh. 1484 – 1557, hay sau đó), nhà thám hiểm. Marco Polo (15 tháng 9, 1254 - 8 tháng 1, 1324), thương gia và nhà thám hiểm, cùng với cha Niccolò và cậu Maffeo, là những người Phương Tây đầu tiên đi qua Con đường tơ lụa tới Trung Quốc (mà ông gọi là Cathay) và tiếp kiến Đại hãn của Đế quốc Mông Cổ, Hốt Tất Liệt (cháu nội của Thành Cát Tư Hãn). Các chuyến đi của ông được chép lại trong Il Milione (Marco Polo du ký). Tomaso Albinoni (8 tháng 6 năm 1671 - 17 tháng 1 năm 1751), nhà soạn nhạc baroque. Canaletto, (28 tháng 10 năm 1697 - 19 tháng 4 năm 1768), nghệ sĩ nổi tiếng với các bức vedute (tranh toàn cảnh) về Venezia. Sebastiano Venier, (kh. 1496 - 3 tháng 3, 1578), Doge của Venezia từ 11 tháng 6, 1577 đến 1578.. Các từ nước ngoài có nguồn gốc từ Venezia arsenal, ciao, ghetto, gondola, lazaret, lagoon, lido, Montenegro. "Venezuela" có nghĩa là "Venezia nhỏ".
Trong lập trình, tham số là biến được thu nhận bởi một chương trình con. Tại thời gian chạy, chương trình con sử dụng các giá trị được gán cho các tham số để thay đổi cách ứng xử của mình. Hầu hết các ngôn ngữ lập trình có thể định nghĩa các chương trình con không có tham số hoặc chấp nhận một vài tham số. Tham số hình thức và tham số thực sự: Tham số hình thức là biến được liệt kê trong danh sách tham số (thường nằm tại phần đầu của định nghĩa chương trình con). Còn tham số thực sự là giá trị cụ thể của biến đó tại thời gian chạy. Để phân biệt rõ hai khái niệm trên, xét ví dụ dưới đây (viết bằng C): int sum(int addend_1, int addend_2) { return (addend_1 + addend_2); } Hàm sum nhận hai tham số hình thức: addend_1 và addend_2. Nó lấy tổng của các giá trị được truyền vào các tham số này và trả về kết quả cho nơi gọi hàm (bằng cách sử dụng một kỹ thuật được cung cấp tự động bởi trình biên dịch C). Mã gọi hàm sum có thể trông như dưới đây: int sumValue; int value_1 = 40; int value_2 = 2; sumValue = sum(value1, value2);; Các biến value_1 và value_2 được khởi tạo với các giá trị 40 và 2. Các biến này không phải tham số hình thức hay tham số thực sự. Tại thời gian chạy, giá trị đã được gán cho các biến này được truyền vào cho hàm sum. Trong hàm sum, các tham số hình thức addend_1 và addend_2 được tính giá trị và lần lượt cho kết quả là hai tham số thực sự 40 và 2. Giá trị của các tham số thực sự được cộng lại, kết quả được trả về cho nơi gọi hàm - nơi nó được gán cho biến sumValue. Tham số hình thức thường được gọi tắt là tham số. Tham số thực sự còn được gọi là tham số thực, tham đối hoặc đối số. Truyền tham số Cơ chế chính xác cho việc gán đối số cho một tham số, được gọi là cơ chế truyền tham số, phụ thuộc vào chiến lược đánh giá được sử dụng cho tham số đó (thông thường là truyền giá trị (call-by-value)). Lập trình viên có thể dùng các từ khóa để đánh dấu chiến lược được lựa chọn cho từng tham số. Truyền bằng giá trị Trong cơ chế truyền tham số bằng giá trị (gọi tắt là truyền trị), khi chương trình con được chạy, một bản sao của tham số thực sự được gán cho tham số hình thức (sao chép giá trị). Nghĩa là mọi sửa đổi của chương trình con đối với tham số hình thức không gây ảnh hưởng tới biến được truyền vào chương trình con theo kiểu truyền tham trị. Các tham số được truyền bằng giá trị được gọi là tham trị. Do chỉ có giá trị được truyền vào chương trình con, tham số thực sự không nhất thiết phải là một biến thông thường mà có thể là hằng giá trị, hằng biến, biểu thức trả về giá trị,... Truyền bằng biến Trong cơ chế truyền tham số bằng biến (gọi tắt là truyền biến), khi chương trình con được chạy, tham số hình thức trở thành một tham chiếu tham số thực sự. Nghĩa là mọi sửa đổi của chương trình con đối với tham số hình thức sẽ có tác dụng với tham số thực sự. Đây được gọi là hiệu ứng phụ của chương trình con. Các tham số được truyền bằng biến được gọi là tham biến. Ngược lại với cơ chế truyền bằng giá trị, cơ chế truyền bằng biến đòi hỏi tham số thực sự phải là một biến. Các đối số mặc định Một số ngôn ngữ lập trình cho phép một đối số mặc định (default argument) được cho trước một cách tường mình hay ngầm định trong phần khai báo của một chương trình con. Điều này cho phép nơi gọi bỏ qua đối số này khi gọi chương trình con đó. Nếu đối số mặc định được cho một cách tường mình, thì giá trị đó được sử dụng mỗi khi nó không được cung cấp bởi nơi gọi. Nếu đối số mặc định là ngầm định (mà đôi khi được khai báo bởi từ khóa như là "Optional" (không bắt buộc)) thì ngôn ngữ sẽ cung ứng một giá trị "ban đầu" thông dụng (như là null, tập rỗng, giá trị 0, xâu ký tự rỗng,...) nếu giá trị (của tham số) không được nơi gọi cung cấp. Chiều dài biến đổi được của danh sách tham số Một số ngôn ngữ cho phép các chương trình con được định nghĩa với số các đối số thay đổi được. Đối với các ngôn ngữ như vậy, các chương trình con phải duyệt qua danh mục của các đối số Các tham số danh định Một số ngôn ngữ lập trình cho phép các chương trình con có các tham số danh định (named parameter). Điều này cho phép mã nơi gọi chương trình con có tính tự mô tả (self-documenting) cao hơn. Nó cũng cung cấp cho nơi gọi khả năng uyển chuyển cao hơn, thường cho phép thay đổi thứ tự của các đối số hay bỏ qua một số đối số nếu cần thiết.
Trong khoa học máy tính, chương trình con (subprogram) hay subroutine là một đoạn chương trình được đóng gói thành một đơn vị trình, nó thực hiện một số tác vụ cụ thể mà chương trình cần thực hiện nhiều lần từ nhiều nơi trong thời gian chạy của nó. Khi chương trình cần đến tác vụ cụ thể đó thì bố trí chỉ thị gọi (call) đến chương trình con này và nhận kết quả nếu có sau khi nó thực thi xong . Ngay từ lúc máy tính ra đời thì kỹ thuật lập trình kiểu cấu trúc modul hóa với các chương trình con đã được thiết lập, và được củng cố trong các phần mềm lập trình hợp ngữ. Ngày nay trong ngôn ngữ bậc cao chương trình con được diễn đạt tùy theo ngôn ngữ là các hàm (function), thủ tục (procedure) và phương thức (method),... Một số ngôn ngữ lập trình, chẳng hạn Pascal và FORTRAN, phân biệt giữa hàm (một chương trình con có trả về giá trị) và thủ tục (không trả về giá trị). Các ngôn ngữ khác, ví dụ C và LISP, coi hai thuật ngữ này như nhau. Cái tên phương thức thường được dùng trong lập trình hướng đối tượng để gọi các chương trình con là một phần của các đối tượng. Trong chương trình, một chương trình con được phép gọi chương trình con khác, hoặc có thể gọi chính nó. Tuy nhiên nếu bố trí gọi lẫn nhau, ví dụ subroutine A gọi subroutine B nhưng trong thân của subroutine B lại có gọi subroutine A, sẽ dẫn đến lỗi bất định khi thực hiện. Một số ngôn ngữ có hỗ trợ phát hiện lỗi này trong môi trường soạn thảo trình và khi dịch. Dẫu vậy để tránh lỗi thì khi lập trình phải tuân thủ bố trí gọi theo "mô hình cành và lá", trong đó "cành" là subroutine có gọi subroutine khác, còn "lá" là subroutine không có lệnh gọi. Khái niệm chính Kỹ thuật lập trình dẫn đến việc tổ chức chương trình kiểu cấu trúc modul hóa, tức là chia chương trình thành nhiều modul hay đơn vị mà kỹ thuật điện toán gọi là subroutine, và trong trình chính thì thực hiện gọi chúng . Nó đem lại cho người lập trình các lợi ích: Thay các đoạn trình giống nhau bằng một subroutine, làm cho mã chương trình ngắn hơn, sáng sủa và dễ bảo dưỡng. Đưa các subroutine đã kiểm tra vào thư viện (library) ở dạng văn bản trình hoặc dạng mã , để khi lập trình mới thì chỉ cần liên kết tới thư viện đó. Những chương trình lớn được thiết kế dạng cấu trúc tốt có thể trao cho các nhóm và người lập trình khác nhau lập trình, đôi khi có thể thuê người làm thêm viết các subroutine không quá phức tạp. Do tầm quan trọng của việc tổ chức trình kiểu cấu trúc mà ngay từ khi công nghiệp máy tính ra đời, còn phải lập trình ở dạng mã máy, giới chế tạo máy đã chăm chút nhiều đến lệnh call và tổ chức của chương trình con. Nếu giải mã ngược (unassemble) mã trình thì thấy dày đặc lệnh call. Bên cạnh các subroutine thực sự thì một số ngôn ngữ lập trình, kể cả lập trình hợp ngữ, hỗ trợ dạng chương trình con (trong văn bản trình) mà khi dịch thì thay thế bằng đoạn mã chương trình, không tạo ra subroutine dạng mã thật sự. Macro: Dịch nội dung có trong macro có tên chỉ định và đặt vào vị trí tương ứng. Inline: Chuyển nội dung mã được viết ở dạng hex trong procedure có tên chỉ định và đặt vào vị trí tương ứng. Nhược điểm Nhược điểm chính của vận dụng chương trình con liên quan đến bố trí các mã chỉ thị "dọn nhà" (housekeeping code) ở chương trình con, làm cho thời gian thi hành tác vụ kéo dài hơn so với khi đoạn mã đó được đặt thẳng trong chương trình chính. Khi chuyển điều khiển sang chương trình con, tại các điểm vào (entry) chương trình con phải bố trí sao lưu giá trị các con trỏ (pointer) của bộ xử lý. Khi kết thúc (exit) giá trị các con trỏ được khôi phục lại từ trị sao lưu rồi mới thoát. Những đoạn mã sao lưu và khôi phục này giống nhau ở các chương trình con, tức là nếu subroutine "không làm gì" thì khi dịch ra mã vẫn có đủ cặp đoạn mã này. Vì thế lập trình cho các vi điều khiển có tốc độ thấp và bộ nhớ hạn chế thì phải cân đối giữa việc lập hay không lập chương trình con. Các CPU điện toán hiện nay có tốc độ rất cao nên tổn thất thời gian này hiện ra không đáng kể, những người lập trình ứng dụng không cần quan tâm. Chỉ dẫn
Trong khoa học máy tính, một đối tượng () có thể là một biến, một cấu trúc dữ liệu, một hàm, hay một phương thức, và như vậy, là một vị trí trong bộ nhớ có giá trị và có thể được tham chiếu bởi một định danh. Trong mẫu hình lập trình hướng đối tượng dựa trên lớp, "đối tượng" dùng để chỉ một thực thể cụ thể của một lớp mà trong đó đối tượng có thể là sự kết hợp của biến, hàm và cấu trúc dữ liệu. Trong quản lý cơ sở dữ liệu quan hệ, một đối tượng có thể là một bảng hoặc cột, hay là sự liên kết giữa dữ liệu và một thực thể cơ sở dữ liệu (ví dụ như quan hệ giữa tuổi của người với một người cụ thể). Ngôn ngữ dựa trên đối tượng Một sự khác biệt quan trọng trong ngôn ngữ lập trình là sự khác biệt giữa một ngôn ngữ hướng đối tượng và một ngôn ngữ dựa trên đối tượng. Một ngôn ngữ thường được xem là dựa trên đối tượng nếu nó bao gồm các khả năng cơ bản của một đối tượng: định danh (identity), thuộc tính (property), và thuộc tính (attribute). Một ngôn ngữ được xem là hướng đối tượng nếu nó dựa trên đối tượng và còn có khả năng đa hình (polymorphism) và thừa kế (inheritance). Lập trình hướng đối tượng Lập trình hướng đối tượng là cách tiếp cận để thiết kế hệ thống phần mềm để có thể tái sử dụng mô đun. Các đối tượng chuyên biệt Một khái niệm quan trọng cho các đối tượng là mẫu thiết kế. Một mẫu thiết kế cung cấp một khuôn mẫu sử dụng lại được để giải quyết một vấn đề phổ biến. Mạng ngữ nghĩa Mạng ngữ nghĩa (Semantic Web) là cần thiết cho khung đối tượng phân tán.
Dưới đây là danh sách các vị thần trong Thần thoại Hy Lạp. Adephagia Adikia Aergia Aglaie Agon Aidos Aigle (Radiance) Aigle (Shining) Aiolos Aion Aether Akeso Akte Akhlys Alala Alastor Alekto Aletheia Alexiares Algea Alke Alkyone Amechania Amphilogiai Anaideia Ananke Anatole Androktasiai Anicetos Ankhiale Antheia Angelia Apate Apeliotes Apollo Aporia Aphrodite Arae Ares Arete Arethousa Arke Arktos Artemis Asteria Asterope Astraia Astraios Astrape Ate Atlas Athena Atropos Auge Aura Aurai Auxo Bia Boreas Bronte Deimos Demeter Demokrakia Dikaiosyne Dike Dione Dionysos Dodonides Dolos Dysis Dysnomia Dyssebeia Eiar Eileithyia Eirene Ekekheiria Elektre Eleos Elete Elpis Enyo Eos Eosphoros Epiales Epidotes Epimetheus Epione Epiphron Erato Erebos Eris Eros Eros (Cupid) Erytheia Eudaemonia Eudaimonia Eukleia Eunomia Euporia Eupraxia Eupheme Euphrosyne Euros Eurynome (I) Eurynome (II) Eusebeia Euterpe Euthenia Gaia Gelos Geras Gymnastike Hades Harmonia Hebe Hedone Hedylogos Hegemone Helios Hemera Hephaistos Hera Heracles Hermaphroditos Hermes Herse Hespera Hesperethousa Hesperiai Hesperis Hesperos Hestia Hesychia Himeros Homados Homonoia Horkos Hormes Hybris Hydros Hygeia Hymenaios Hyperion Hypnos Hysminai Iapetus Iaso Ioke Iris Kaikias Kairos Kakia Calliope Kalokagathia Karpo Kelaino Keres Kleio Kleta Klotho Klymene Koalemos Koios Koros Kratos Krios Kronos Ktesios Kydoimos Khaos Kheimon Khione Khronos Khrysothemis Lakhesis Lelantos Leto Lethe Limos Lipara Lips Litai Lyssa Machae Maia Maniae Megaira Melpomene Menai Menoitios Merope Mesembria Metis Mnemosyne Momos Moros Mousika Mousike Neikea Nemesis Nephele Nesoi Nike Nomos Nosoi Notos Nymphe Nyx Oizys Okeanos Oneiros Ophion Oreithyia Orthosia Ourania Ouranos Ourea Paidia Paieon Palioxis Pallas Panakeia Pandaisia Pandeia Pannykhis Paregoros Pasithea Peitharkhia Peitho Penia Penthos Persephone Perses Pistis Plutus Poena Polemos Polymnia Ponos Pontos Poros Poseidon Pothos Praxidike Proioxis Prometheus Prophasis Pseudologos Ptokheia Pyroeis Phaenna Phaethon Phainon Phanes Pheme Pherousa Philophrosyne Philotes Phobos Phoibe Phonoi Phrike Phthinophoron Phthisis Phthonos Phyge Physis Rheia Selene Skiron Sophia Sophrosyne Soter Soteria Sponde Sterope Stilbon Tartarus Taygeta Tekhne Terpsikhore Tethys Tilphousia Tisiphone Titan Thalassa Thaleia Thalia Thallo Thanatos Theia Themis Theros Thesis Thrasos Thriai Thuella Zelos Zephyros Zeus Các thần nguyên thủy - Primordial Các thần sinh ra đầu tiên - Protogenoi I Các thần thế hệ thứ 2 - Protogenoi II Các thần khổng lồ - Titan Các thần thế hệ I - Elder Titan Các thần thế hệ II - Younger Titan Các thần thế hệ III - New Titan Các thần khổng lồ - Giants Các Cyclopes (Kyklopes) Là 3 người khổng lồ bất tử, có một mắt tròn ở giữa trán, đã rèn ra những tia sét cho thần Zeus Ngoài ra còn có 4 Cyclopes trẻ khác, bao gồm: Các Hecatoncheires (Hekatonkheires) Là 3 người khổng lồ nguyên thủy, mỗi người có một trăm bàn tay để cầm những đám mây và năm mươi đầu để thổi những cơn gió, họ cũng được gọi với tên khác là Tritopatores (Tritopater/Tritopatreis) Các Gigantes Là một bộ tộc gồm một trăm người khổng lồ được sinh ra từ nữ thần trái đất Gaia. Theo một số người, cô đã được tẩm máu của vị thần bầu trời Ouranos (Uranus). Trước sự thúc giục của Gaia, Gigantes đã tiến hành chiến tranh với các vị thần và bị phá hủy trong trận chiến sau đó. Các Giants khác Các thần trên đỉnh Olympus Các thần chính thế hệ I Mười hai vị thần vĩ đại của người Hy Lạp được gọi là các vị thần trên đỉnh Olympus. Họ cùng nhau chủ trì mọi khía cạnh của cuộc sống, con người. Ban đầu là nữ thần Hestia là một trong số 12 vị thần chính sau đó được thay thế bằng thần Dionysos. Hades, Persephone cũng là những vị thần quan trọng đôi khi được kể vào nhóm mười hai vị thần chính trên đỉnh Olympus, tuy nhiên không có vị trí trong thần điện bởi họ dành hầu hết thời gian dưới âm phủ. Các thần chính thế hệ II Các thần phụ tá Một số vị thần khác cùng ngự trên đỉnh Olympus tuy nhiên không phải là thần chính mà chủ yếu là các phụ tá cho 12 vị thần chính: Các thần điều khiển quy luật tự nhiên - Meteoroi Các thần sao - Astra Là các vị thần của năm ngôi sao lang thang, được đặt tên là Phainon (hành tinh sao Thổ), Phaethon (hành tinh sao Mộc), Pyroeis (hành tinh sao hỏa), Eosphoros & Hesperos (hành tinh sao Kim) và Stilbon (hành tinh sao Thủy) Các thần gió - Anemoi Các thần hoàng hôn - Hesperides Là các nữ thần của buổi tối và ánh sáng vàng của hoàng hôn, chạng vạng, ngoài ra họ còn được giao nhiệm vụ giữ những báu vật của các vị thần đặc biệt là chăm sóc cây táo vàng đã được Gaia trao cho nữ thần Hera trong ngày cưới của cô Các thần núi - Pleiades Là các nữ thần của 7 ngọn núi ở Hy Lạp cổ đại, con gái của Titan Atlas Các thần trông giữ linh hồn - Daemones (Spirits) Các thần tình yêu & tình dục - Erotes Các Nymphs Các thần sông Các nữ thần vận mệnh - Moirae (Moirai) Là 3 nữ thần chủ trì vận mệnh con người, khi một con người chào đời họ tạo ra sợi chỉ của cuộc sống tương lai, giao cho mỗi người một số phận không ai có thể thay đổi, khi số phận của con người bị chấm dứt, nữ thần định mệnh trở thành nữ thần của cái chết. 3 Nữ thần hoạt động độc lập, không bị chi phối bởi các thần nào, nắm các quyền định hướng vận mệnh và theo dõi số phận được giao cho mọi sinh vật theo quy luật vĩnh cửu (luôn đi theo hướng không bị cản trở). Các nữ thần báo thù - Erinyes Là ba nữ thần báo thù và quả báo, họ thường trừng phạt những người đàn ông vì tội chống lại trật tự tự nhiên. Các nữ thần cũng là người hầu của Haides và Persephone trong địa ngục, nơi đây họ giám sát việc tra tấn những tên tội phạm bị giam giữ, những kẻ thủ ác Ngoài ra còn 1 Erinyes sinh ra từ sự phẫn nộ của nữ thần Demeter khi bị Poseidon cưỡng hiếp là nữ thần báo thù thứ 4 - Tilphousia Các nữ thần tiên tri - Themeides Là các nhữ thần tiên trị, bảo trợ các nhà tiên tri đồng thời cũng là người giữ kho báu của các vị thần Các nữ thần cuộc sống - Horae (Horai) Bài chi tiết: Horae Là những nữ thần cai quản thiên nhiên, các mùa trong năm, trật tự xã hội, và sự chuyển động của thời gian: Các thần chủ trì trật tự xã hội Các thần chủ trì trật tự thiên nhiên Các thần chủ trì đời sống, kinh tế Các thần chủ trì bốn mùa Các thần chủ trì thời gian Là các nữ thần của giờ trong ngày (và có lẽ cũng là mười hai tháng trong năm). Họ hướng dẫn con đường của thần mặt trời Helios khi thần đi qua bầu trời, chia ngày thành nhiều phần Các nữ thần nghệ thuật - Mousai (Muses) Là những nữ thần của âm nhạc, bài hát và điệu nhảy và là nguồn cảm hứng cho các nhà thơ. Họ cũng là những nữ thần tri thức, ký ức. Sau này các nữ thần được chỉ định các lĩnh vực nghệ thuật, cụ thể: Ngoài ra trong một số tác phẩm thần thoại, còn có các Mousai khác như: Polymatheia; Melete, Aoede, Mneme; Melete, Aode, Arkhe, Thelxinoe; Nete, Mese, Hypate; Kephiso, Apollonis, Borysthenis; Neilo, Tritone, Asopo, Heptapora, Akhelois, Tipoplo, Rhodia Các nữ thần vui chơi, lễ hội - Charites (Kharites) Là các nữ thần của ân sủng, sắc đẹp, trang điểm, niềm hân hoan, vui vẻ, lễ hội, khiêu vũ và bài hát: Các nữ thần sức khỏe và chữa bệnh - Asklepiades Là bốn hoặc năm nữ thần chủ trì sức khỏe con người, chữa bệnh, y học và là các con gái của thần Asklepios Danh sách các thần khác Các nhân vật (không bất tử) Các anh hùng Abderus (Ἄβδηρος Abderos), con của Hermes Achilles (Ἀχιλλεύς Akhilleus), con của nữ thần biển Thetis Actaeon (Άκταίων Aktaion), con của Aristaeus và Autonoe Aeneas (Αινείας Aineías), con trai của Aphrodite Agamemnon (Ἀγαμέμνων Agamémnon) Ajax Lớn (Αἴας Aias) Ajax Nhỏ (Αἴας Aias) Blleophon (Βελλεροφόντης Bellerophóntes) Diomedes (Διομήδης Diomêdês) Ganymede (Γανυμήδης Ganumêdês) Hector (Ἑκτωρ Ektor) Hercules Iolaus (Ίόλαος Iolaos) Jasson (Ιάσων Iason) Laius (Λάϊος Laios) Odysseus (Όδυσσεύς Odysseus) Orphée Perseus (Περσεύς Perseus) Philoctetes (Φιλοκτήτης Philoktetes) Theseus (Θησεύς Theseus) Các Amazon Aella Ainia Antianara Antibrote Antiope Asteria Cleite Hippolyta Melanippe Molpadia Otrera Penthesilea Tecmessa Xadagasicualadis Trích dẫn nguồn
Đối tượng Một đối tượng bao gồm 2 thông tin: thuộc tính và phương thức. Thuộc tính chính là những thông tin, đặc điểm của đối tượng. Ví dụ: con người có các đặc tính như mắt, mũi, tay, chân… Phương thức là những thao tác, hành động mà đối tượng đó có thể thực hiện. Ví dụ: một người sẽ có thể thực hiện hành động nói, đi, ăn, uống,... Kiểu dữ liệu
Cố đô Huế là thủ phủ Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn từ năm 1687 đến 1774, sau đó là thủ đô của triều đại Tây Sơn từ năm 1788 khi Hoàng đế Quang Trung tức Nguyễn Huệ lên ngôi. Khi Nguyễn Ánh lên ngôi vào năm 1802 lấy niên hiệu là Gia Long, ông cũng chọn thành Phú Xuân làm kinh đô cho nhà Nguyễn – triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Huế kết thúc sứ mệnh là thủ đô Việt Nam vào năm 1945 khi vị hoàng đế cuối cùng của nhà Nguyễn là Bảo Đại thoái vị Lịch sử cố đô huế Thời kỳ hình thành và phát triển Năm 1306, Công chúa Huyền Trân về làm vợ vua Chiêm là Chế Mân, đổi lấy hai châu Ô và Rí làm sính lễ. Năm 1307, vua Trần Anh Tông tiếp thu vùng đất mới và đổi tên là châu Thuận và châu Hóa. Việc gom hai châu này làm một dưới cái tên phủ Thuận Hóa (chữ Hán: 順化) được thực hiện dưới thời nội thuộc Nhà Minh. Đến đời Nhà Hậu Lê, Thuận Hóa là một đơn vị hành chính cấp tỉnh. Năm 1604, Nguyễn Hoàng đã cắt huyện Điện Bàn thuộc trấn Thuận Hóa, nâng lên thành phủ, sáp nhập vào trấn Quảng Nam. Thuận Hóa dưới thời các chúa Nguyễn, (thế kỷ 17- 18) là vùng đất trải dài từ phía nam đèo Ngang cho tới đèo Hải Vân. Năm 1626, để chuẩn bị cho việc chống lại quân Trịnh, Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên dời dinh đến làng Phước Yên (Phúc An) thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên và đổi Dinh làm Phủ. Năm 1636, Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan chọn làng Kim Long, thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, làm nơi đặt Phủ. Năm 1687, Chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Thái, dời Phủ chúa về làng Phú Xuân (富春), thuộc huyện Hương Trà và năm 1712, chúa Minh Nguyễn Phúc Chu dời phủ về làng Bác Vọng, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên làm nơi đặt Phủ mới. Đến khi Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát lên cầm quyền năm 1738 thì phủ chúa mới trở về lại vị trí Phú Xuân và yên vị từ đó cho đến ngày thất thủ về tay quân họ Trịnh vào năm 1774.. Trong thời kỳ nhà Tây Sơn, Phú Xuân là đất phong của Nguyễn Huệ khi ông còn là Bắc Bình Vương. Từ trước khi lên ngôi hoàng đế, Nguyễn Huệ đã định dời đô ra Lam Thành, Yên Trường nhưng mà ông cũng đều không thành. Ở năm 1788, Sau khi chính thức lên ngôi Hoàng đế, ông vẫn chọn Phú Xuân là kinh đô của nhà Tây Sơn. Song vì hoàn cảnh chiến tranh, Quang Trung phải lo đối phó cả hai phía bắc (nhà Thanh) và nam (Nguyễn Ánh), nên ông có ý định chọn tỉnh Nghệ An làm nơi đóng đô vì đây là trung tâm giữa hai đường ra vào, gọi là Phượng Hoàng trung đô. Tuy nhiên thành mơi đang xây dang dở thì vua Quang Trung qua đời, hành cung chưa kịp đổi tên thành cung điện, vua kế vị là Nguyễn Quang Toản vẫn tiếp tục ở lại thành Phú Xuân, không xây dựng Phượng Hoàng trung đô nữa. Sau khi Hoàng đế Quang Trung mất, thế lực của nhà Tây Sơn suy yếu dần, vua Cảnh Thịnh lên ngôi vẫn còn nhỏ tuổi, nhân cơ hội này, năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lật đổ nhà Tây Sơn, lên ngôi hoàng đế lập ra nhà Nguyễn và vẫn chọn Huế làm kinh đô cho triều đại mới vì nhiều lý do: về mặt lịch sử khi trước đó 9 đời chúa Nguyễn đã chọn đất Phú Xuân làm kinh đô, về địa thế Huế nằm ở trung tâm lãnh thổ Việt Nam thống nhất khi ấy, cũng như về chính trị khi ông lo ngại dân chúng phía Bắc còn thương tiếc triều Lê. Tuy nhiên, kinh đô này cũng bộc lộ ba điểm yếu quan trọng: Thứ nhất là khung cảnh tự nhiên chật hẹp và vị trí địa lý bị cô lập. Huế nằm ở trung tâm của một dải đồng bằng nhỏ hẹp và ít dân, rất khó để huy động một nguồn lực lớn để phản ứng với tình thế khẩn cấp ở nơi khác. Nơi này lệ thuộc về lương thực, thuế khóa của các vùng khác chuyển tới, minh chứng là khi Tây Sơn chiếm được Quy Nhơn và cắt đôi Đàng Trong, Huế đã rơi vào cuộc khủng hoảng lương thực. Thứ hai, Huế nằm ở xa cả 2 trung tâm kinh tế, quân sự của Việt Nam là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Riêng việc vận tải lúa gạo, lương thực, quân lính, tiền đúc… hàng năm giữa Gia Định - Huế - Hà Nội đã là một gánh nặng khổng lồ so với nhân lực thời bấy giờ. Thứ ba, Huế không phải là nơi có thể phòng thủ tốt. Nơi đây quá gần bờ biển, không thể phòng thủ nếu như cửa Thuận An bị hải quân địch cô lập (như Pháp sẽ làm vào năm 1883) Một số vua triều Nguyễn ý thức phần nào về bất lợi trong vị trí địa lý của Huế, tuy nhiên triều đình không có lựa chọn nào khác tối ưu hơn. Khi chọn Huế làm kinh đô, vua Gia Long đã cho xây dựng dạng kinh đô có tính phòng thủ: xây dựng một loạt tường thành, cung điện, công sở, đồn lũy ở bờ bắc sông Hương như Kinh Thành cùng với các phòng, bộ nha viện trong kinh thành, các công trình phòng thủ quân sự dọc bờ nước sông Hương, sông Hộ Thành và cửa biển Thuận An. Các công trình trên được xây dựng theo lối kiến trúc truyền thống của Huế, kết hợp với kiểu mẫu bố trí từ Trung Quốc và kỹ thuật quân sự, xây tường thành theo lối Vauban từ các nước phương Tây đồng thời tuân thủ theo nguyên tắc địa lý phong thủy phương Đông. Việc xây dựng này kéo dài suốt từ triều Gia Long tới triều vua Minh Mạng, từ 1802 tới tận 1917 với một loạt các công trình phục vụ cho công việc triều đình, sinh hoạt, tín ngưỡng giải trí của vua quan như: Lục Bộ Đường, Nội Các, Thái Y Viện, Đô Sát Viện, Khâm Thiên Giám, Thái Miếu, Hưng Miếu, điện Phụng Tiên... Ngoài kinh thành còn có các công trình phục vụ giáo dục như Văn Miếu, Võ Miếu, Quốc Tử Giám, Trường Thi...; ngoại giao như Thượng Bạc Viện và giải trí như Hổ Quyền. Cũng trong khoảng thời gian này, Huế đã tự hình thành cho mình một phong cách xây dựng lăng tẩm riêng theo phong cách triết học có sự chi phối của phong thủy địa lý, kết hợp phong cách nhà vườn Huế với phong cách cung đình Huế như ở các khu lăng tẩm tiêu biểu của vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Dục Đức và Đồng Khánh. Ngoài các công trình trên, giai đoạn này cũng là giai đoạn nhiều chùa quán, đền miếu được xây dựng trùng tu với bốn ngôi quốc tự Thiên Mụ, Giác Hoàng, Diệu Đế, Thánh Duyên và quốc quán Linh Hựu cùng với nhiều chùa chiến đền miếu nhỏ khác. Việc này đã hình thành thiền kinh của Phật giáo Việt Nam thế kỷ thứ 19 . Cũng với sự có mặt của hoàng gia, giai đoạn này hàng loạt các công trình phủ đệ được xây dựng mà lúc đỉnh cao có đến 85 phủ . Từ năm 1917, nhiều công trình dân sự mang phong cách kiến trúc châu Âu vào Huế. Tiền đề của việc này đã có từ năm 1884, khi triều đình ký hiệp ước Patenôtre mở đường cho người Pháp xây dựng các công trình mang kiến trúc châu Âu ở trấn Bình Đài và lân cận: tòa Khâm Sứ Trung Kỳ ở bờ nam sông Hương được xây dựng và một loạt các công trình: dinh Công Sứ, nhà Dây Thép, nhà Đoan, nhà Đèn.. cùng với sự xuất hiện của khu phố Tây (quartier Européen) đã khiến cho các trại binh nhà Nguyễn ở nam sông Hương bị xóa sổ và dạng kiến trúc dân sự châu Âu xuất hiện ở Huế. Đến năm 1916, khi vị vua chống Pháp là Duy Tân bị bắt và đày đi đảo La Réunion và lập Khải Định lên ngôi, phong cách kiến trúc châu Âu bắt đầu chính thức xâm nhập mạnh mẽ vào Huế kể cả các công trình đền đài cung điện. Vua Khải Định bắt đầu cho xây dựng, cải tạo hàng loạt công trình với phong cách kiến trúc mới, vật liệu mới phi truyền thống mà tiêu biểu là xây mộ vua Đồng Khánh năm 1917, cải tạo nâng cấp khu vực Hoàng Thành (1921-1923), xây An Định Cung và tiêu biểu nhất là Ứng Lăng với phong cách châu Âu kết hợp với lý số phong thủy phương Đông, trang trí theo Nho giáo. Người kế vị vua Khải Định là Bảo Đại cũng cải tạo một loạt các công trình trong Hoàng Thành theo phong cách Âu hóa tạo một diện mạo kiến trúc mới cho quần thể các di tích ở Kinh đô Huế. Thời kỳ hiện đại Cách mạng tháng Tám thành công kết thúc 143 năm trị vì của nhà Nguyễn, đồng thời cũng đánh dấu một giai đoạn khủng hoảng và suy thoái của quần thể di tích Huế. Việc người Pháp quay trở lại Đông Dương và sau đó là sự tham chiến của Mỹ đã biến Huế với địa thế của mình những năm đó thành một chiến trường giành giật ác liệt của tất cả các phe tham chiến đặc biệt trong các trận đánh vào tháng 2 năm 1947 và tết Mậu Thân năm 1968. Trong chiến tranh Đông Dương nhiều cung điện ở Huế bị Việt Minh phá hủy khi thực hiện chính sách tiêu thổ kháng chiến. Một loạt các công trình ở Huế trở thành phế tích. Điện Cần Chánh cùng hàng loạt công trình khác bị thiêu rụi, cầu Trường Tiền bị đánh sập 2 lần, Trấn Bình Đài bị quân đội Pháp rồi sau đó tới Quân lực Việt Nam Cộng hòa quân sự hóa mà tới giờ vẫn còn dấu tích. Trong sự kiện tết Mậu Thân 1968, quân đội các bên tham chiến giành giật nhau ác liệt Huế với cường độ bom đạn ác liệt đã tàn phá các di tích Huế dữ dội: đàn Nam Giao bị chặt trụi thông, các khu Quan Cư, Binh Xá, Thần Trù... vòng tường thành ngoài cùng bị máy bay ném bom phá hủy. Khu vực lăng tẩm bị rơi vào khu vực tranh chấp hoặc bị bom đạn tàn phá nặng nề. Ngoài ra năm 1953 và năm 1971, Huế còn trải qua hai trận lũ lớn càng làm cho các di tích Huế bị thương tổn nặng. 1975 kết thúc chiến tranh Việt Nam, nhưng trước đó toàn bộ quần thể di tích Huế bị tàn phá hư hỏng nặng nề với việc Tử Cấm thành gần như bị xóa sổ, các khu vực lăng tẩm đền miếu trong ngoài Kinh Thành bị hư hỏng nặng. Ngoài ra do không được chăm sóc, các công trình xây dựng còn bị tàn phá bởi thiên nhiên, cây cỏ xâm thực, ao hồ tù đọng không nạo vét. Mặc dù chính quyền mới thành lập đã đưa việc lập xếp hạng di tích, đưa quần thể kiến trúc di tích Huế vào bảo vệ ngay những buổi đầu sau chiến tranh, nhưng do các vấn đề chính trị - kinh tế khi ấy đã khiến việc bảo vệ di tu Huế vẫn bị lãng quên thậm chí xuất hiện việc sử dụng bừa bãi các công trình di tích không đúng mục đích, cho đến ngày thành lập Công ty Quản lý Lịch sử Văn hóa Huế vào năm 1982. Thời kỳ khôi phục Năm 1981, tại Hà Nội, ông Amadou Mahtar M'Bow tổng giám đốc UNESCO đã ra lời kêu gọi cứu vãn Huế và phát động một cuộc vận động quốc tế giúp đưa việc di tu tôn tạo Huế trở lại quỹ đạo ban đầu. Năm 1982, nhóm công tác Huế-UNESCO được thành lập để theo dõi chỉ đạo công cuộc trùng tu lại Huế. Nhóm này đã tổ chức được 9 kỳ họp để triển khai phân công công tác bảo tồn với sự hỗ trợ và hợp tác của chính quyền Việt Nam. Qua 19 năm tích cực thực hiện công cuộc khôi phục, di tích Huế đã từng bước được cứu vãn và hồi sinh. Nhiều di tích có mức độ hư hỏng từ 30%–60% đã được tu bổ. Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố Đô Huế đã sửa chữa nâng cấp tôn tạo nhiều công trình với tổng kinh phí trên 66 tỷ đồng từ ngân sách địa phương và viện trợ quốc tế trong đó có nhiều công trình giá trị cao như: Ngọ Môn, Thái Hòa, Hưng Tổ Miếu, Long An Điện, Kỳ Đài... Năm 1999 tiếp tục trùng tu một đợt lớn với kinh phí trên 20 tỷ đồng với ngân sách từ chính quyền trung ương Việt Nam là 11,5 tỷ. Cả UNESCO và chính phủ Việt Nam là hai nhân tố quan trọng cùng tác động và hỗ trợ quá trình phục hồi và hồi sinh quần thể di tích Huế. Năm 1998, UNESCO chính thức kiến nghị chấm dứt cuộc vận động quốc tế cứu vãn Huế để chuyển sang giai đoạn ủng hộ sự phát triển bền vững. Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt Dự án quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị khu di tích cố đô Huế từ năm 1995 đến năm 2010 nhằm định hướng cho công cuộc bảo tồn di tích Cố đô Huế. Năm 2019, Thừa Thiên Huế khởi động Đề án “Di dời dân cư, giải phóng mặt bằng khu vực I hệ thống di tích Kinh thành Huế thuộc Quần thể di tích Cố đô Huế”. Đề án thực hiện trong 6 năm, từ năm 2019 đến năm 2025 với kinh phí hơn 4.000 tỷ đồng. Theo đó, người dân sống ở khu vực I di tích Kinh thành Huế đồng ý chuyển đến các khu tái định cư, trả lại không gian để tôn tạo lại di sản. Di sản văn hóa vật thể Quá trình công nhận của UNESCO Năm 1951, Quốc gia Việt Nam dưới thời Quốc trưởng Bảo Đại gia nhập UNESCO. Các năm 1971 và 1973, UNESCO 2 lần cử chuyên gia Brown Morton để khảo sát về di tích triều Nguyễn và lượng định khả năng trùng tu. Năm 1974, ông Brown đệ trình lên UNESCO bản báo cáo kỹ thuật nhan đề "The Conservation of Historic Sites and Monuments of Hue". Năm 1976, nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chính thức gia nhập UNESCO và sau đó 2 năm, năm 1978, UNESCO lại cử một chuyên gia tên Pierre Pichard đến khảo sát Huế một lần nữa. Sau khi về Paris, ông Pierre đệ trình lên UNESCO một bản báo cáo nhan đề "La Conservation des Monuments de Huế" (Bảo tồn Di tích Huế). Năm 1980, UNESCO cùng với Chính phủ Việt Nam đề ra kế hoạch hành động "Bảo vệ, Tu sửa và Tôn tạo di tích Huế". 1981, tại Hà Nội, ông Amadou Mahtar M'Bow tổng giám đốc UNESCO đã ra lời kêu gọi cứu vãn Huế và phát động một cuộc vận động quốc tế giúp đưa việc di tu tôn tạo Huế trở lại quỹ đạo ban đầu rồi sau đó họ cử nhiều chuyên gia và đưa nhiều gói viện trợ nhằm hỗ trợ Việt Nam. Đến năm 1987, Việt Nam gia nhập "công ước Bảo vệ Di sản Văn Hóa và Thiên nhiên Thế giới" của UNESCO. Năm 1990, UNESCO đề nghị Chính phủ Việt Nam lập hồ sơ một số công trình kiến trúc, thiên nhiên trong đó có khu Di tích Huế. Với sự hướng dẫn giúp đỡ của các chuyên gia UNESCO, trong hai năm 1992 và 1993, Trung tâm bảo tồn Di tích Cố Đô Huế đã thực hiện bộ hồ sơ về Quần thể di tích Cố đô Huế nộp lên Hội đồng Di sản Thế giới thuộc UNESCO (ICCROM). Tháng 3 năm 1993, một chuyên gia của ICCROM và IUCN đến Việt Nam để thẩm định giá trị của các khu vực Việt Nam nộp hồ sơ, trong đó có khu di tích Huế và đến tháng 9 năm 1993, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô gửi hồ sơ bổ sung cho UNESCO. Ngày 11 tháng 12 năm 1993, trong một phiên họp tại Carthagène (Colombia), Hội đồng đã ghi danh Quần thể di tích Cố đô Huế vào Danh mục Di sản Thế giới. Ngày 2 tháng 8 năm 1994, đích thân Phó Tổng Giám đốc UNESCO, ông Daniel Janicot, đến Huế trao tấm bằng chứng nhận của UNESCO cho Huế có chữ ký của Tổng Giám đốc UNESCO, ông Fédérico Mayor Zaragoza với dòng chữ: "Ghi tên vào danh mục công nhận giá trị toàn cầu đặc biệt của một tài sản văn hóa hoặc thiên nhiên để được bảo vệ vì lợi ích nhân loại". Cụm di tích trong kinh thành Huế Kinh thành Huế Kinh thành Huế được vua Gia Long và đại thần Nguyễn Văn Yến tiến hành khảo sát thực địa vào hai năm 1803 và 1804. Đến mùa hè năm 1805, công trình xây dựng kinh thành bắt đầu được khởi công xây dựng với địa bàn nằm trên khu vực hai chi lưu của sông Hương là Kim Long và Bạch Yến; với mặt bằng nằm trên khu vực 8 làng cổ là: Phú Xuân, Vạn Xuân, Diễn Phát, An Vân, An Hòa, An Mỹ, An Bảo và Thế Lại. Quá trình xây dựng kéo dài không liên tục cho đến tận năm 1823 mới cơ bản hoàn thành dưới triều vua Minh Mạng với sức lao động của hàng vạn lính và dân từ khắp các tỉnh, thành trong cả nước mà chủ yếu đến từ miền Trung Việt Nam. Kinh thành Huế được xây dựng trên một mặt bằng gần như như hình vuông với mặt trước hơi khum hình cánh cung, tuân thủ chặt chẽ theo nguyên tắc kiến trúc của dân tộc Việt Nam xuất phát từ Dịch Lý và thuật Phong Thủy dựa vào các thực thể thiên nhiên để tạo các yếu tố hài hòa về Phong Thủy như núi Ngự là Tiền Án, sông Hương là Minh Đường, cồn Hến và cồn Dã Viên lần lượt là tả Thanh Long và hữu Bạch Hổ và quay mặt về hướng nam theo một quy định của sách Chu Dịch: "Vua quay mặt về phía nam để cai trị, hướng về lẽ sáng để làm việc nước". Vòng tường thành với chu vi 10571 m được xây bó bằng gạch được xây dựng kiến trúc Vauban hay "thành lũy hình ngôi sao" với 24 pháo đài và 10 cửa chính cùng 1 cửa phụ cùng; với một hệ thống hào nước phức tạp. Sau đó, hệ thống công trình kinh thành được liên tục bổ sung tu bổ xây dựng thêm công trình mới 1836, 1839, 1842, 1844, 1846, 1848... Chức năng chính của Kinh thành dùng để phòng vệ, phục vụ sinh hoạt của triều đình và nhà vua. Dù chịu sự tàn phá dữ dội của bom đạn, mà đặc biệt là năm Mậu thân (1968), nhưng cụm công trình này vẫn tồn tại với đầy đủ diện mạo của nó. Hiện nay, Kinh thành Huế có vị trí trong bản đồ Huế như sau: phía nam giáp đường Trần Hưng Đạo và, Lê Duẩn; phía tây giáp đường Lê Duẩn; phía bắc giáp đường Tăng Bạt Hổ; phía đông giáp đường Phan Đăng Lưu. Bên trong kinh thành, được giới hạn theo bản đồ thuộc các đường như sau: phía nam là đường Ông Ích Khiêm; phía tây là đường Tôn Thất Thiệp; phía bắc là đường Lương Ngọc Quyến và phía đông là đường Xuân 68. Khu vực Đại Nội Hoàng Thành và Tử Cấm Thành là hai không gian có liên hệ chặt chẽ với nhau với Tử Cấm Thành nằm trong lòng Hoàng Thành, nên thường được gọi chung là Hoàng thành hay Đại Nội. Việc xây dựng hệ thống Hoàng cung này đã được bắt đầu từ năm 1803, nhưng vì đòi hỏi về nơi sinh hoạt ăn ở của Hoàng gia, công trình đã được ưu tiên xây dựng từ năm 1804, trước khi Kinh thành được xây một năm. Việc xây dựng tường thành được đích thân vua Gia Long trực tiếp giao cho hai Đại thần Nguyễn Văn Trương và Lê Văn Chất đứng ra đốc thúc xây dựng. Còn các công trình đền miếu, cung điện quan trọng đều do các quan lớn như Nguyễn Đức Xuyên, Lê Văn Duyệt, Phan Văn Đức, Lê Công Nga chịu trách nhiệm trông coi. Dưới thời vua Gia Long, hầu hết các công trình cơ bản đã hoàn tất như về thờ cúng: Thế Miếu, Triệu Tổ Miếu, Hoàng Khảo Miếu, điện Hoàng Nhân, các công trình phục vụ việc triều chính, sinh hoạt, giáo dục của quan lại, hoàng gia: điện Cần Chánh, cung Trường Thọ, cung Khôn Thái, điện Thái Hòa, viện Thái Y, điện Quang Minh, Điện Trinh Minh, Điện Trung Hòa... Tới thời vua Minh Mạng, ông đã liên tục nâng cấp xây dựng hoàn chỉnh thêm nhiều công trình như cung Trường Ninh,Hiển Lâm Các, Thế Miếu, dời điện Thái Hòa ra phía trước, xây dựng Đại Cung môn, Ngọ Môn, đúc Cửu Đỉnh và nhiều công trình khác như lầu Minh Viễn, sở Thượng Thiện, Đông Các, nhà hát Duyệt Thị... hoàn chỉnh diện mạo kiến trúc của Hoàng thành và Tử Cấm thành. Đời vua sau đó như Thiệu Trị cũng xây dựng được thêm một số công trình như vườn Cơ Hạ, nhà hát Tịnh Quan, hoàn chỉnh nâng cấp Lục Viện và cung Trường Sanh. Tám đời vua kế nghiệp tiếp theo từ Tự Đức đến Duy Tân, do tình hình đất nước khó khăn, kinh tế tài chính suy tàn sa sút, họ chỉ cố gắng giữ những gì mà 3 vị vua đầu triều để lại. Tới thời vua Khải Định và Bảo Đại, họ thực hiện một loạt cải tạo (các cửa Hoàng Thành) hoặc làm mới các công trình kiến trúc (lầu Kiến Trung, Ngự tiền Văn phòng, lầu Tứ Phương Vô Sự, lầu Tịnh Minh...) theo phong cách chịu ảnh hưởng theo phong cách phương Tây. Tất cả chia ra làm 3 khu vực: đại lễ, thờ cúng, sinh hoạt, kho tàng, học tập, làm việc của quan lại và hoàng gia. Mặt bằng của cụm công trình này có hình chữ nhật với mặt trước mặt sau dài 622m và mặt trái mặt phải dài 604m. Xung quanh tường thành của Hoàng thành là các pháo đài xây nhô ra và hệ thống tường hào bao bọc với 4 cửa để ra vào là Ngọ Môn, Hòa Bình, Hiển Nhân, Chương Đức. Phần tường thành của Tử Cấm thành có hình chữ nhật mặt trước sau 324m và trái phải 290m không có hao bao bọc, chỉ có duy nhất một cửa ngay tường giữa là Đại Cung môn và ba cửa mặt sau là Tường Loan, Nghi Phụng, và Văn phòng môn mới xây sau đó. Mặt trái có ba cửa Đông An, Cấm Uyển và Duyệt Thị có lẽ được trổ thời vua Bảo Đại, mặt phải có hai cửa là Tây An và Gia Tường. Tất cả bố cục đều tuân theo dịch lý, bố trí theo kiểu chặt chẽ và đối xứng từng cặp qua đường trục Ngọ Môn. Đây là khu vực bị tàn phá rất nặng nề vì bom đạn chiến tranh. Các di tích ngoài kinh thành Lăng tẩm các vua Nguyễn Hầu hết các vua triều Nguyễn đều xây dựng lăng mộ cho mình ngay khi còn sống vì quan điểm sống gởi thác của nhà Nho và triết lý sắc không vô thường của nhà Phật. Các khu lăng mộ xây sẵn có hai chức năng: là nơi khi còn sống các vua thỉnh thoảng lui tới để vui chơi và là nơi chôn cất khi họ mất. Tất cả các lăng đều được xây dựng, quy hoạch theo đúng triết lý phong thủy phương Đông: bất cứ lăng nào cũng tuân thủ các nguyên tắc sơn triều thủy tụ, tiền án hậu chẩm, tả long hữu hổ... đã làm cho các lăng này có được những kiến trúc rất đẹp và thơ mộng. Tuy triều Nguyễn có 13 vua, nhưng vì nhiều lý do kinh tế, chính trị nên chỉ 7 vị vua được xây dựng lăng đó là: Lăng Gia Long, Lăng Minh Mạng, Lăng Thiệu Trị, Lăng Tự Đức, Lăng Đồng Khánh, Lăng Dục Đức, Lăng Khải Định. Mỗi lăng được xây dựng với một kiểu kiến trúc khác nhau, tùy vào hoàn cảnh đất nước thời kỳ các vị vua lúc còn tại vị. Trong đó, hoành tráng nhất có lẽ là lăng Gia Long được xây dựng trên một quần sơn gồm 42 quả đồi lớn nhỏ, trên tổng diện tích khoảng 28 km² với kiến trúc truyền thống Việt Nam. Độc đáo nhất là lăng vua Khải Định là sự kết hợp kiến trúc Đông Tây Kim Cổ với các bức tranh ghép sành sứ độc đáo và không tuân theo bất cứ trường phái kiến trúc nào. Do những điều kiện lịch sử, lăng Dục Đức là lăng tẩm duy nhất chôn cất và thờ tự 3 vua Dục Đức, Thành Thái và Duy Tân. Hiện nay, qua thời gian các khu di tích này đều đã xuống cấp khá nhiều, gần đây đã bắt đầu có những kế hoạch để trùng tu. Các di tích khác Trong Quần thể di tích Cố đô Huế còn có một loạt công trình khác phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau như: phục vụ giáo dục (Văn Miếu, Võ Miếu, Quốc Tử Giám, Trường Thi...); ngoại giao (Thượng Bạc Viện); quân sự (Trấn Hải Thành) và giải trí (Hổ Quyền). Ngoài các công trình trên, các cơ sở tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong chính sách của triều Nguyễn với rất nhiều chùa quán, đền miếu được xây dựng trùng tu như: bốn ngôi quốc tự Thiên Mụ, Giác Hoàng, Diệu Đế, Thánh Duyên và quốc quán Linh Hựu cùng với nhiều chùa chiến, đền miếu nhỏ khác. Việc này đã hình thành thiền kinh của Phật giáo Việt Nam vào thế kỷ 19. Di sản văn hóa phi vật thể Cùng với di sản văn hóa vật thể, di sản văn hóa phi vật thể của Cố đô Huế cũng vô cùng phong phú và có giá trị văn hóa cao. Vào năm 2003, Nhã nhạc cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại. Cùng tồn tại với dòng âm nhạc mang tính lễ nghi, cung đình, các loại hình âm nhạc mang tính giải trí tiêu khiển, dân gian của Cố đô Huế cũng được biết đến như một điển hình mang đậm bản sắc riêng của một vùng văn hóa, mộc mạc thuần khiết, đặc thù không pha trộn. Đó là những điệu múa Huế, những vở tuồng Huế, những bài ca Huế đã thu hút sự chú ý của du khách. Chú thích
Trương Minh Giảng (chữ Hán: 張明講; 1792-1841) là một danh thần nhà Nguyễn. Ông được đánh giá là một người "văn võ song toàn", là công thần bậc nhất của nhà Nguyễn, vừa là một võ tướng vừa là một sử gia, từng giữ chức Tổng tài Quốc sử quán triều Nguyễn. Tiểu sử Ông là người làng Lang Thống, huyện Bình Dương, trấn Gia Định. Thân phụ của ông là Lễ bộ Thượng thư Trương Minh Thành (Thành Tín hầu). Sự nghiệp Ông đỗ cử nhân năm Kỷ Mão 1819 tại trường thi Gia Đình, được bổ chức Tư vụ, dần thăng tới Lang trung bộ Binh, rồi đổi sang bộ Hình. Năm 1829 ông thăng chức Tham tri, được phái vào Nam công cán ở Gia Định, khi đổi về kinh ông làm Tả tham tri bộ Hộ, không lâu sau được thăng lên Thượng thư bộ Hộ, kiêm quản Khâm thiên giám. Năm 1821 được bổ Tư vụ ở ty Lại, rồi nhiều lần thăng đến Lang trung bộ Binh (1824), trải làm Thiêm sự bộ Binh (1825), thự Thị lang (1826), sung Đổng lý thanh tra phủ Nội vụ (1827) ; ít lâu đổi sang bộ Hình (5/1828). Năm 1829, ông thăng chức thự Tả Tham tri bộ Hình, được phái vào Nam công cán ở Gia Định, khi trở về kinh ông được bổ Tả tham tri bộ Hình (1830), thự Thượng thư kiêm quản Khâm Thiên giám (1831). Năm 1832 sung Phó chủ khảo khoa thi Hội, thăng Thượng thư bộ Hộ, quyền giữ ấn triện Viện Đô sát. Năm 1832, ông cùng với Thượng thư bộ Lễ Phan Huy Thực biên soạn bộ Liệt Thánh Thực Lục. Cũng thời gian này, ông giữ chức Tổng tài Quốc sử quán, chủ trì việc biên soạn bộ Đại Nam thực lục chính biên. Năm 1833, Trương Minh Giảng cùng thượng thư bộ Lễ là Phan Huy Thục sung làm Tổng tài soạn bộ Liệt thánh Thực lục và Đại Nam thực lục. Năm Quý Tị 1833, Lê Văn Khôi nổi loạn chiếm giữ thành Gia Định (bấy giờ được đổi tên là thành Phiên An, còn gọi là thành Bát Quái hay thành Quy). Trương Minh Giảng được sung chức Tham tán quân vụ, cùng Thảo nghịch tướng quân Phan Văn Thúy đem quân vào dẹp loạn Lê Văn Khôi. Tháng 8-1833, Trương Minh Giảng được cải bổ làm Thượng thư bộ Binh, lãnh chức Tổng đốc An Hà kiêm Bảo hộ Chân Lạp quốc thay Lê Đại Cương vừa bị cách chức do để mất thành An Giang. Tháng 1-1835, Trương Minh Giảng được thăng tước Bình Thành bá, thăng thự Đông các Đại học sĩ, gia hàm Thái tử thái bảo, vẫn lãnh Tổng đốc An Hà kiêm giữ ấn Bảo hộ Chân Lạp. Sau khi vua Minh Mạng chết (12-1840), Thiệu Trị lên ngôi. Thiệu Trị vốn là người không tham vọng, nhiều lần nghị bàn về tình hình khó khăn của quan quân vất vả trong việc phòng thủ Trấn Tây thành. Đến tháng 7- 1841, Tướng quân Trương Minh Giảng, Kinh lược Phạm Văn Điển, Đoàn Văn Sách, Nguyễn Công Nhàn, Cao Hữu Dực, Doãn Uẩn…có một tập trình xin rút quân về An Giang để bảo toàn lực lượng và giảm bớt chi phí… Sau khi nghị bàn, vua Thiệu Trị cho lệnh quan quân rút về nước. Tháng 9 -1841, quan quân rút về tới An Giang. Trương Minh Giảng do uất ức, phát bệnh mà chết tại thành An Giang vào ngày 27 tháng 9 năm 1841. Triều đình miễn nghị tội, giữ lại hàm Tướng quân, hàm Hiệp biện, cấp cho tiền tuất, nhưng tước cả lương bổng thất phẩm của con ông là Trương Minh Thị. Lãnh binh dẹp loạn Lê Văn Khôi Đến tháng 6/1833, Lê Văn Khôi nổi loạn, giết Bố chính Bạch Xuân Nguyên và Tổng đốc Nguyễn Văn Quế, chiếm lấy thành Gia Định rồi mở rộng chiếm nốt các tỉnh Nam Kỳ. Vua Minh Mạng cử Thượng thư Trương Minh Giảng sung chức Tham tán quân vụ đại thần, cùng với Thảo nghịch Tướng quân là Phan Văn Thúy đem binh vào đánh dẹp. Tháng 7- 1833, đại quân triều đình thắng trận ở trạm Biên Long và lấy lại tỉnh Biên Hòa, ông được khen thưởng. Khi về làm Tổng đốc An Hà, Trương Minh Giảng đã góp phần thu hồi 6 tỉnh Nam kỳ, Lê Văn Khôi yếu thế rút vào thành Gia Định cố thủ và cầu viện Xiêm, nhân cơ hội đó quân Xiêm huy động 5 đạo binh tấn công nước ta. Đem quân chống Xiêm La Trong lúc đó, do Lê Văn Khôi cho người cầu viện Xiêm, quân Xiêm do các tướng Chao Phraya Bodin và PhraKlang chỉ huy tiến vào xâm phạm lãnh thổ Đại Nam. Đối với vùng đất Nam kỳ, từ tháng 11- 1833, quân Xiêm chia làm hai đạo tấn công Chân Lạp và Nam kỳ: đạo thứ nhất do Phi Nhã Chất Tri chỉ huy, dẫn 4 vạn quân theo đường bộ vào Chân Lạp đánh chiếm Nam Vang, đi dọc sông Mékong xuống Châu Đốc, vua Nặc Chân bỏ thành Nam Vang chạy xuống An Giang rồi rồi sau đó xuống Vĩnh Long ẩn náo; đạo quân thứ hai do Phi Nhã Phật Lăng dẫn 1 vạn quân tiến công bằng đường biển đánh chiếm Hà Tiên. Với lực lượng vượt trội, quân Xiêm chiếm Hà Tiên rồi Châu Đốc rất nhanh chóng. Trương Minh Giảng cùng Nguyễn Xuân đẩy lui được quân Xiêm, được tấn phong tước "Bình Thành Nam". Nhân thắng lợi, ông cùng Trần Văn Năng đánh đuổi quân Xiêm, giúp Chân Lạp thu phục lại thành Nam Vang được gia phong tước "Bình Thành bá". Rất nhanh chóng sau đó, ông được phong hàm Hiệp biện đại học sĩ, lãnh chức Tổng đốc An Giang. Do công thắng trận, Trương Minh Giảng được vua Minh Mạng khen thưởng một tấm bài bằng ngọc và tiền phi long bằng vàng. Tháng 12- 1833, Tổng đốc An Hà Trương Minh Giảng cùng Tán lý Nguyễn Xuân đánh thắng quân Xiêm trận đầu ở Thuận Cảng (Vàm Nao), tiêu diệt một phần sinh lực địch. Tin thắng trận tâu lên, vua Minh Mạng cả mừng, ông được tấn phong tước Bình Thành nam. Tuy thua trận, quân Xiêm vẫn còn mạnh, chúng xua quân và hơn 100 chiến thuyền xuôi dòng hướng xuống Sa Đéc, Vĩnh Long. Được Thái Công Triều tham mưu, Tổng đốc Trương Minh Giảng và Tham tán Nguyễn Xuân bố trí chốt chặn ở đoạn vàm sông Cổ Hủ, chợ Thủ - đối diện Cù lao Giêng. Trận đánh diễn ác liệt, cuối cùng quân triều đình thắng lợi (tháng 1-1834). Bị thua nặng, quân Xiêm rút về Châu Đốc, ta truy kích dữ dội, chúng bỏ Châu Đốc rồi Hà Tiên. Thừa thắng, ông cùng tướng quân Trần Văn Năng tiến quân lấy lại thành Nam Vang, đuổi quân Xiêm về phía Tây Chân Lạp. Do chiến tích lớn lao đã chiếm lại thành An Giang, Hà Tiên, Nam Vang và tiêu diệt một lực lượng lớn sinh lực quân Xiêm, đập tan ý đồ xâm lược của chúng, Tổng đốc Trương Minh Giảng được vua Minh Mạng gia phong tước Bình Thành tử, bổ thụ Hiệp biện Đại học sĩ, vẫn lĩnh Tổng đốc An Hà (tháng 3-1834). Tháng 7 - 1834, Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương (Tuần phủ An Giang) đã có bản tấu trình kế hoạch phòng thủ vùng đất Chân Lạp như sau: 1- Chia đặt các tướng Chân Lạp phòng giữ những nơi quan trọng. 2- Xét hình thể nước Chân Lạp thành lập đồn bảo. 3- Lựa binh Chân Lạp. 4- Lựa lấy thổ binh người Chàm (dòng dõi người Thuận Hóa), người Chà (dòng dõi Chà Và cư trú đất Chân Lạp). 5- Chỉnh đốn sửa sang đồ quân dụng cho nước Chân Lạp. 6- Chiêu tập cơ binh An Biên. 7- Khám xét thuyền buôn ở Quảng Biên (cửa biển Cần Bột). 8- Kinh lý biên phòng tỉnh Hà Tiên. Nội dung trên được Minh Mạng đồng ý cho thực hiện. Đến tháng 12-1834, vua Chân Lạp là Nặc Chân qua đời, không có con trai, Trương Minh Giảng vâng lệnh vua phong vương cho công chúa Angmy, con gái vua Nặc Chân. Thu phục và cai quản Cao Miên Sau khi vua Chân Lạp mất do không có con trai nối ngôi, trong dòng tộc nhiều người muốn tranh giành ngôi vua, nhân cơ hội ấy vua Minh Mạng quyết định nhập Chân Lạp vào Việt Nam và đổi ra Trấn Tây thành. Trương Minh Giảng sung Trấn Tây tướng quân kiêm Tổng đốc An Hà, còn Tuần phủ An Giang Lê Đại Cương sung Trấn Tây tham tán đại thần. Không lâu sau, ông lại được phong hàm Đông các đại học sĩ, kiêm chức Bảo hộ Cao Miên. Năm 1835, vua Chân Lập Ang Chan mất mà không có con trai nối dõi, theo lời khuyên của Trương Minh Giảng, vua Minh Mạng cho đổi đất Chân Lạp thành Trấn Tây thành, sáp nhập vào Đại Nam. Đầu năm 1836, Trương Minh Giảng được bổ sung Kinh lược đại sứ thay Nguyễn Kim Bảng để cùng với Binh bộ Thương thư Trương Đăng Quế, Lễ bộ Thị lang Tôn Thất Bạch và Thông chánh sứ Nguyễn Đắc Trí đi kinh lý đo đạc địa bộ 6 tỉnh Nam kỳ. Đến tháng 7-1836, công việc hoàn thành ông lại về Trấn Tây thành, vua Minh Mạng khen thưởng rất hậu và thăng Đông các Đại học sĩ. Năm 1837, giặc Xiêm đánh phá nhiều nơi ở thành Trấn Tây, Trương Minh Giang cho an trí Nặc Ông Gium và các tay chân ở An Giang và Gia Định (đến năm 1847, Nặc Ông Gium được vua Thiệu Trị tấn phong Cao Miên Quốc vương). Vua Minh Mạng khen Trương Minh Giảng xử trí giỏi. Tháng 9-1837, Trương Minh Giảng về triều, vua Minh Mạng ân cần thăm hỏi và cho làm lễ bảo tất, ra lệnh cho bộ Lễ thết đãi tại công đường bộ rất quy mô, sai đình thần hội tiệc yến, để tỏ ra yêu quý ông khác người. Vào tháng 2-1838, do để bọn Đô Y ở Hải Đông và Mịch Sô ở Khai Biên làm phản, vua Minh Mạng cho là Trương Minh Giảng phòng thủ thất cách, nên bọn phản nghịch nổi lên khắp nơi chống đối, hơn nữa lại che đậy cái thế “khinh nhờn” của Tuần phủ Lê Đại Cương, không hặc tâu. Trương Minh Giảng bị giáng xuống làm Thượng thư bộ Binh, vẫn lĩnh chức Trấn Tây tướng quân, kiêm Tổng đốc An Hà. Lê Đại Cương bị cách chức. Tuần phủ Thuận Khánh là Dương Văn Phong được bổ chức Tuần phủ An Giang kiêm Trấn Tây tham tán đại thần thay Lê Đại Cương. Theo lệnh của Minh Mạng, từ tháng 4-1838, Trương Minh Giảng đã huy động một đội quân lớn đến dẹp loạn ở Hải Đông, kết quả khả quan ông bắt sống nhiều giặc, thổ dân theo về rất nhiều. Vua khen ngợi. Đến khi dựng bia võ công (11-1838), vua sai lấy Trương Minh Giảng đứng công đầu, khắc tên vào bia đá, đặt ở Võ miếu. Như vậy, Trương Minh Giảng là vị tướng quân có uy quyền cao nhất Đại Nam lúc đương thời. Mùa xuân năm 1839, vua Minh Mạng xem thấy thành Trấn Tây yên ổn, do có công lao trấn giữ Trấn Tây thành nên Trương Minh Giảng được khôi phục hàm Đông các Đại học sĩ. Năm 1840, Sa Mộc ở Hải Tây làm phản, phụ nữ Xà Năng và Bồn Tốt cùng thổ binh trốn đi, nhân dân Chân Lạp làm loạn nổi lên khắp nơi. Nhân đó, tướng Xiêm là Phi Nhã Chất Tri đã hậu thuẫn và tiếp viện cho quân nổi loạn. Trương Minh Giảng bất lực, dâng sớ nhận tội và xin quân đến hội đánh. Vua Minh Mạng giáng ông xuống làm Thị Lang bộ Binh, tước bỏ cung hàm, nhưng vẫn giữ chức Tướng quân Trấn Tây. tháng 8- 1840, Trương Minh Giảng bàn giao lại chức Tổng đốc An Hà cho Dương Văn Phong, ông chỉ tập trung công việc ở Trấn Tây mà thôi. Trong thời gian làm Trấn Tây tướng quân, kiêm Tổng đốc An - Hà, Trương Minh Giảng gặp phải sự nhiều phản kháng từ người Chân Lạp. Bên cạnh đó, Xiêm cho tướng quân là Chất Tri (Chao Phraya Bodin Decha) chiếm đóng các vùng phía Tây Chân Lạp để tranh giành ảnh hưởng. Các anh em của vua Ang Chan là Ang Em, Ang Duong được Xiêm hỗ trợ, liên tục tấn công quân Đại Nam đóng ở Trấn Tây. Suốt thời gian làm Đại tướng quân trấn thủ Trấn Tây, Trương Minh Giảng và Chất Tri liên tục tranh giành ảnh hưởng và đối đầu. Đây có thể xem là cuộc giằng co giữa hai vị đại tướng có quyền lực nhất ở hai nước Việt - Xiêm lúc bấy giờ trên đất Chân Lạp. Năm 1841, Minh Mạng qua đời, Thiệu Trị lên nối ngôi. Thiệu Trị không có nhiều tham vọng về lãnh thổ như vua cha. Lúc bấy giờ, tình hình Trấn Tây đang rối ren vì gặp phải sự chống đối mãnh liệt của người Chân Lạp (Cao Miên), vua Thiệu Trị sau khi bàn bạc với quan lại trong triều đã quyết định rút quân, bỏ Trấn Tây thành (tức Phnom Penh ngày nay) và toàn bộ Trấn Tây, phục hồi vương quốc Cao Miên. Trương Minh Giảng phải theo lệnh rút quân về trấn thủ An Giang. Sách Đại Nam thực lục ghi:Sai các đại thần bàn rõ về công việc nên làm ở Trấn Tây. Ngoài thành Trấn Tây đều bị bọn giặc ngăn chặn, quan quân chỉ ở trong thành và các đồn chung quanh đóng quân để chống giữ mà thôi. Triều đình thường thúc giục đem quân ra đánh, nhưng cứ cho là gian hiểm quan ngại, kiếm cớ từ chối. Nhiều lần ban chiếu thư xuống nghiêm trách, bọn Trương Minh Giảng chỉ dâng sớ tạ tội mà thôi. Đại thần viện Cơ mật vâng Chỉ vua, viết thư gửi cho các quan ở tỉnh hạt ấy, đại ý nói: “Nay cứ giữ thành hạt có thể giữ được vô sự, hay là đợi tên Yểm trở về, cho nó đi chiêu dụ các thổ dân, trong hai kế ấy, nên làm kế nào ? Hoặc là nay tạm hãy lui quân về giữ tỉnh An Giang, chuyên đi tiễu diệt hai ngả An Giang và Hà Tiên, còn bọn giặc chỗ khác để sau sẽ liệu”.Đến đây, bọn Phạm Văn Điển, Trương Minh Giảng, Nguyễn Công Trứ, Đoàn Văn Sách, Nguyễn Công Nhàn và Cao Hữu Dực dâng tập tâu mật nói: “Trước đây xin tha cho tên Yểm về, tưởng cũng là một cơ hội để cho nó đi chiêu phủ bọn thổ dân. Nhưng từ khi tên Yểm được tha về, không thể tự lập được, cũng chỉ dựa vào ta cả, nếu không dùng đến đại binh thì không bao giờ xong việc, mà biền binh thì khó nhọc đã lâu, số người bị ốm đau mỗi ngày thêm nhiều. Cứ giữ mãi thành không, chỉ tổn hại, chứ không ích gì. Xin rút hết quân về tỉnh An Giang, để cho binh lính được đỡ nhọc, mà dân ở Nam Kỳ cũng được nghỉ ngơi”.Tập tâu này được giao xuống cho văn võ đại thần họp bàn. Bọn Tạ Quang Cự, Nguyễn Văn Trọng, Nguyễn Tăng Minh, Vũ Xuân Cẩn, Trương Đăng Quế, Lê Đăng Doanh, Hà Duy Phiên, Nguyễn Trung Mậu, Phan Bá Đạt, Doãn Uẩn và Phan Thanh Giản đều nói: “Hiện nay, sang thu, nước lớn, đường đi không thông đồng, nếu dùng binh thì lương vận không tiếp tục được, mà đóng đấy để giữ thì chỉ khó nhọc hão mà không có công trạng gì. Bọn chúng tôi đã tính đi tính lại vài ba lần, cũng không có kế sách gì hơn nữa. Chi bằng hãy tạm rút quân về An Giang, để cho vững mạnh bờ cõi căn bản của ta. Rồi sau sẽ nhân thời thế mà làm, đợi cơ hội mà hành động là hơn cả. Duy có, trong khi rút quân về, bọn Kinh lược, Tướng quân phải trấn tĩnh, chia quan quân đóng giữ các nơi, chọn đất cho bọn tên Yểm, Ngọc Vân, Ngọc Thu, Ngọc Nguyên cùng là nhân dân người Kinh và người Thổ được ở yên. Còn như các thớt voi nếu không đưa về được thì cho đem mổ thịt để khao quân lính”.Vua cho rằng từ khi Trấn Tây có việc binh đao đến giờ, sáu tỉnh Nam Kỳ, binh và dân đều nhọc mệt, triều đình cũng khó nhọc tổn phí không biết đâu mà kể, ý đã chán việc binh đao, vả lại sang năm sau có việc tuần du ra Bắc, hãy tạm xếp việc Trấn Tây lại không nghĩ đến, cũng chẳng hại gì, mới dụ rằng: “Sự thế hiện nay buộc phải như thế, chuẩn cho theo lời bàn mà làm. Các viên từ Kinh lược, Tướng quân cho đến Tán lý và Hiệp lý không làm được công trạng gì, đều giao cho bộ Hình nghiêm ngặt nghị tội từng viên có khác nhau”.Tháng 9 năm Tân Sửu 1841, quan quân Đại Nam từ Trấn Tây rút về tới An Giang, Trương Minh Giảng vốn là người chỉ huy cao nhất của Đại Nam ở Trấn Tây, nay lại phải theo lệnh rút binh, khó tránh cảm thấy xấu hổ. Chưa hết, triều đình còn cho rằng ông không làm tròn bổn phận, không dẹp yên nổi loạn, hao tốn tiền bạc. Đã vậy, sợ tốn kém tiền bạc lúc rút quân về An Giang, triều đình còn chỉ dụ cho quân lính giết voi ngựa để ăn. Trương Minh Giảng thấy quá hổ thẹn, không chịu gặp mặt các quan lại khác. Sau đó ông uất ức quá mà qua đời. Vua Thiệu Trị nghe tin ấy, không những không thương xót mà lại thêm tức giận, bèn truy xét thêm tội trạng, tịch thu lại chức tước, bổng lộc. Sách Đại Nam thực lục ghi:Tháng 9, quan quân ở Trấn Tây rút về đóng giữ ở tỉnh An Giang. Ngày hôm ấy, Trương Minh Giảng chết. Trước đây, công việc sửa sang ở Trấn Tây, công của Minh Giảng nhiều hơn cả. Đến đây, rút quân về, trong lòng uất ức, vừa xấu hổ vừa tức bực, cáo ốm không tiếp các tướng hiệu, về đến An Giang thì chết. Bọn Phạm Văn Điển và Nguyễn Công Trứ đem việc Giảng ốm chết tâu lên.Vua nghe tin Giảng chết, phán rằng: “Giảng đảm đương sự ký thác nặng nề, chỉ vì việc trị dân và chống giặc không đúng phương pháp, cho nên thổ dân cùng nổi lên làm loạn, để triều đình phải bận đến việc phái quân đi tiễu bắt, đã lâu ngày mà chưa xong việc. Đã giao cho bộ nghiêm ngặt nghị tội. Không ngờ đại binh vừa mới về đến nơi, đã ốm chết rồi. Ta nghĩ: Giảng năm trước đây, làm Tham tán quân vụ, khiến giặc ở Biên Hoà và Vĩnh Long sợ mất vía, lại đánh được quân Xiêm ở Thuận Cảng. Công trạng rõ rệt, khắc vào bia đá cũng không thể mất được. Chuẩn cho truy đoạt lại chức Trấn Tây Tướng quân, để cho rõ tội, nhưng gia ơn cho chiếu theo phẩm hàm Đại học sĩ mà cấp cho tiền tuất; lại thưởng cho 5 cây gấm Trung Quốc, 5 cây sa các màu, 20 tấm lụa, 30 tấm vải và 1 000 quan tiền, tha cho không phải truy nghị tội nữa. Lại thu lại lương bổng hàm thất phẩm chi cho con trai là Trương Minh Thi khi trước.Không chỉ trách tội Trương Minh Giảng, vua Thiệu Trị sau này còn đổ hết tội lỗi cho ông:Vua thân dụ rằng: “Cõi xa ở phía tây nam, đời cổ gọi là Thủy Chân Lạp, Lục Chân Lạp, sau hợp làm một nước Cao Miên, truyền đến 12 đời, đều làm tôi thờ bản triều. [Bản triều] hậu gia vun trồng cho, không việc gì là không chu đáo. Huống chi, khi nước Xiêm La ăn hiếp, thì [quan quân] đuổi đi cho; khi nước Đồ Bà lại xâm lấn, và những khi các tù trưởng người Mên đến Nam Kỳ nương tựa, thì các tiên đế ta rộng ra ơn huệ, xây dựng lại cho và tỏ được cái đức vỗ yên các nước nhỏ. Rồi đến Nặc Ong Chăn một lòng kính thuận, nghìn dặm lặn suối trèo non, Hoàng tổ Thế tổ Cao hoàng đế ta phong cho làm Cao Miên quốc vương, đời giữ chức cống. Năm Gia Long Tân Mùi [1811], nước Xiêm La lại cậy mạnh hiếp yếu, Ong Chăn sợ chạy, đến nương náu ở tỉnh Gia Định, mang cái roi đến xin chịu tội, ngậm cỏ cầu ơn. Hoàng tổ ta sai Thượng tư bộ Binh Ngô Nhân Tĩnh đem vạn quân đến sát cõi, truyền hịch đẩy lùi được người Xiêm; Ong Chăn lại trở về nước cũ. Năm Minh Mệnh Quý Tỵ [1833], người Xiêm La 3 lần lại xua đuổi; Ong Chăn bôn ba đến tỉnh Vĩnh Long, chiếc thân nương tựa. Hoàng khảo Thánh tổ Nhân hoàng đế ta sai bọn Bình khấu tướng quân Lương Tài hầu Trần Văn Năng đánh tan người Xiêm La, đón phiên vương về nước. Chưa bao lâu, Ong Chăn chết, chỉ có con gái là Ngọc Vân lên nối ngôi nhưng không thể trông coi được việc nước. Liêu thuộc phiên xin mệnh lệnh ở triều đình, được đội ơn vua phong Ngọc Vân làm Cao Miên quận chúa để giữ lấy cơ nghiệp. Rồi [Hoàng khảo ta] sai Trương Minh Giảng lưu trấn đất ấy, để vỗ về dân Mên. Các con gái phiên vương cũng đều được phong làm huyện quân; các người Phiên mục cũng đều được bổ cho quan chức. Liêu thuộc Phiên lại xin đổi thổ quan mà bổ lưu quan đến. Nhân đó đặt tên là thành Trấn Tây. Khi ấy đã không có nước Cao Miên rồi, mới đổi phong Ngọc Vân là Mỹ Lâm quận chúa. Ân trạch của triều đình chu chuân biết là chừng nào ! Thế mà quan ngoài biên là Trương Minh Giảng và Dương Văn Phong lại chấp nhặt những việc nhỏ trong tờ thư để lại, gây ra mối hiềm khích. Không ngờ cái tính cầm thú khó dạy, cái thói rợ mọi hung tợn, cắn trả lại, đưa đến chỗ mở cửa rước giặc, cùng bọn giặc Xiêm dựa dẫm nhau ! Năm Canh Tý [1840], sinh sự ở chốn biên thuỳ, giở giáo can phạm mệnh lệnh, chợt lại xảy ra việc to ! Vừa lúc ta mới lên ngôi, đức hoá chưa ban, ân uy chưa khắp, ngoài thì người Chân Lạp chưa bị tội cứ nấp quân nơi bụi rậm, trong thì phủ Ba Xuyên, phủ Lạc Hoá, bắt chước mà để quân trong rừng ? Sợ hãi khôn xiết, ta tự xét mình để trù tính công việc, kíp lo toan công việc ngoài biên. Bọn Minh Giảng giữ không một chỗ đất hoang, không biết làm thế nào, dâng sớ tự kể tội mình, xin rút quân về. Việc giao xuống cho đình thần bàn. Họ đều nói: hãy tạm cho yên, xin triệt quân về để nghỉ ngơi. Ta nghĩ: làm việc khó, trước phải tính việc dễ, yên mình rồi mới lo đến người. Hai phủ Ba Xuyên, Lạc Hoá thứ đệ dẹp yên, nước Chân Lạp, thành Trấn Tây lại mở mang ra cũng chưa lấy gì làm muộn. Hãy tạm y lời xin, triệt quân ở An Giang về, rồi lại trù tính sẽ bàn. Vị tướng yêu quý của vua Minh Mạng Trong suốt giai đoạn làm quan tại triều từ năm 1819-1833, ông đã liên tiếp được sự tín nhiệm của vua liên tục đảm đương nhiều chức vụ quan trọng của lục bộ như lang trung, thiêm sự, thị lang, thượng thư,.... Năm 1833, Lê Văn Khôi khởi binh làm loạn chiếm lấy lục tỉnh Nam Kỳ làm triều đình chấn động. Ông được vua Minh Mạng sung chức Tham tán quân vụ, cùng Thảo nghịch tướng quân Phan Văn Thúy đem quân vào dẹp loạn Lê Văn Khôi. Trương Minh Giảng cùng Nguyễn Xuân đẩy lui được quân Xiêm, được tấn phong tước "Bình Thành Nam". Nhân thắng lợi, ông cùng Trần Văn Năng đánh đuổi quân Xiêm, giúp Chân Lạp thu phục lại thành Nam Vang được gia phong tước "Bình Thành bá". Rất nhanh chóng sau đó, ông được phong hàm Hiệp biện đại học sĩ, lãnh chức Tổng đốc An Giang. Do công thắng trận, Trương Minh Giảng được vua Minh Mạng khen thưởng một tấm bài bằng ngọc và tiền phi long bằng vàng. Mặc dù trong thời gian quản lý Cao Miên vì cấp dưới của ông làm chuyện quấy nhiễu dân chúng Cao Miên dẫn tới nhiều cuộc nổi dậy chống triều đình của người dân Cao Miên, ông bị triều đình trách phạt hạ chức tước nhưng cũng không làm lung lay sự tín nhiệm của vua dành cho ông. Nhiều lần ông lập công tiếp tục phục hồi chức tước. Theo lệnh của Minh Mạng, từ tháng 4-1838, Trương Minh Giảng đã huy động một đội quân lớn đến dẹp loạn ở Hải Đông, kết quả khả quan ông bắt sống nhiều giặc, thổ dân theo về rất nhiều. Vua khen ngợi. Đến khi dựng bia võ công (11-1838), vua sai lấy Trương Minh Giảng đứng công đầu, khắc tên vào bia đá, đặt ở Võ miếu. Như vậy, Trương Minh Giảng là vị tướng quân có uy quyền cao nhất Đại Nam lúc đương thời. Tưởng niệm Do bị vua Thiệu Trị trách phạt và tịch thu toàn bộ bổng lộc của con cháu nên sau khi mất, mộ phần Trương Minh Giảng không được chăm sóc tốt như các quan khác dù rằng tước vị của ông lúc mất là Bình Thành bá và là vị tướng uy quyền nhất Đại Nam. Mộ phần của ông và cha là Thành Tín hầu Trương Minh Thành hiện nay ở Thành phố Hồ Chí Minh đang trở nên hoang tàn và bị chiếm dụng. Đời Tự Đức thứ 11 (1857), Trương Minh Giảng được thờ ở đền Hiền Lương. Trước năm 1975, ở Sài Gòn có đường mang tên Trương Minh Giảng, sau đó, đổi tên thành Lê Văn Sỹ. Ở Đà Nẵng hiện nay cũng có đường mang tên Trương Minh Giảng. Trương Minh Giảng cũng được hậu thế tôn vinh tại di tích nhà thờ họ Trương Việt Nam thuộc thị trấn Thiên Tôn, huyện Hoa Lư, Ninh Bình. Đền Trương là nơi thờ những người họ Trương đã khuất tại ban thờ công đồng, trong hậu cung có tượng thờ Ngọc Hoàng Thượng đế (Trương Hữu Nhân) và 14 danh nhân họ Trương tiêu biểu nhất thời phong kiến ở 3 miền Việt Nam gồm: Ban văn thờ Thái phó Trương Hán Siêu, Trạng nguyên Trương Hanh, Trạng nguyên Trương Xán, Thượng thư Trương Công Giai, Thái sư Trương Đăng Quế, Đông các học sĩ Trương Quốc Dụng, Thượng thư Trương Công Hy. Ban võ thờ Tướng Trương Hống, Tướng Trương Hát, Tướng Trương Nữu, Tăng lục võ sư Trương Ma Ni, Tướng Trương Chiến, Đại tướng quân Trương Minh Giảng và Anh hùng Trương Công Định. Hậu duệ Theo Đại Nam thực lục thì Trương Minh Giảng chắc chắn có một người con trai tên Trương Minh Thi. Chưa rõ các hậu duệ khác của ông. Còn một người có chung tổ tiên với Trương Minh Giảng (đời thứ 3) là Trương Minh Ký (đời thứ 5). Ông Ký là một nhà giáo, báo, nhà văn hóa Việt Nam có tiếng vào cuối thế kỉ 19. Đánh giá 1- Trương Minh Giảng vị Tổng đốc đa tài, ngoài chỉ huy quân đội, ông đã thể hiện khả năng quản lý giỏi. Cụ thể, sau khi ổn định tình hình Trấn Tây, Trương Minh Giảng đã chỉ huy xây lại thành An Giang và Hà Tiên năm 1834, ổn định cuộc sống nhân dân. Tham gia đo đạc địa bạ 6 tỉnh Nam Kỳ, thúc đẩy phát triển nông nghiệp, thương mại biên giới… 2- Sự đóng góp của Tổng đốc Trương Minh Giảng đối với tỉnh An Giang và Nam Bộ từ năm 1833-1841 là rất lớn trên các lĩnh vực, góp phần ổn định chính trị nội địa và bảo vệ độc lập cho nước Chân Lạp, xóa tan sự xâm lược của Xiêm La. Công sức đóng góp của ông đã được Quốc sử quán nhà Nguyễn ghi chép khá nhiều, nhưng cuộc đời Tướng quân của ông lắm bi kịch, uẩn khúc trên bước đường hoạn lộ ở vùng đất biên thùy này: Tột đỉnh vinh quang cũng ở An Giang với chức Tổng đốc An Hà, Bảo hộ Cao Miên; rồi sau đó là Tướng quân Trấn Tây thành, hàm Đông các Đại học sĩ, tước Bình Thành Bá; và cũng vùng đất này ông bị tước đi nhiều thứ - quyền uy, công lao, buồn bực và chết tức tưởi tại thành An Giang!!! 3- An Giang nên có một đền thờ tại Châu Đốc để tưởng nhớ các danh nhân có công với An Giang qua các thời kỳ lịch sử, trong đó có Tổng đốc Trương Minh Giảng, để giáo dục truyền thống. 4- Tiếp tục biên soạn các ấn phẩm có liên quan đến Trương Minh Giảng phổ biến sâu rộng trên toàn tỉnh, nhật là trong hệ thống trường học. 5- Lấy tên Trương Minh Giảng đặt tên các công trình công cộng, trường học, đường phố trên địa bàn Long Xuyên và Châu Đốc, thể hiện tấm lòng uống nước nhớ nguồn của người dân An Giang. Trong văn hóa đại chúng Trong Phượng khấu, phim cung đấu Việt Nam, ở tập 6, phần 1 (phát hành năm 2020), Trương Minh Giản (dù không xuất hiện trong phim) cùng các quan lại Miền Nam được Nhân Tuyên Thái hoàng thái hậu nhắc đến như là những người đã không biết thu phục lòng dân, thường xuyên nhũng nhĩu dân chúng, đã bị tiên đế trách phạt nhiều lần nhưng vẫn không sửa đổi. Quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh những năm 2000 có đường mang tên Trương Minh Giảng chạy từ ngã năm Nguyễn Oanh-Phan Văn Trị kéo dài tới Dương Quảng Hàm. Con đường nay đã đổi tên, đoạn đầu đường từ Ngã năm Nguyễn Oanh-Phan Văn Trị đến Lê Đức Thọ đổi tên là đường Lê Thị Hồng, đoạn cuối con đường từ Lê Đức Thọ đến Dương Quảng Hàm đổi tên là hẻm 170 Lê Đức Thọ. Tham Khảo Hội Khoa học Lịch sử An Giang, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Tổng đốc Trương Minh Giảng với An Giang, tháng 11-2017. -Quốc triều chính biên toát yếu, NXB Thuận Hóa - 1998. -Đại Nam chính biên liệt truyện, NXB Văn Học - 2004. -Đại Nam thực lục chính biên, nhiều tập, NXB KHXH, Hà Nội 1964-1974. - Minh Mạng chính yếu, NXB Thuận Hóa - 2010. -Đại Nam nhất thống chí, NXB Thuận Hóa- 1992. Chú thích
Nguyễn Duy (阮惟) hay Nguyễn Văn Duy (阮文惟), tự: Nhữ Hiền (1809–1861), là một danh tướng triều Nguyễn, (Việt Nam) hy sinh trong Trận Đại đồn Chí Hòa. Ông cũng chính là em của danh tướng Nguyễn Tri Phương. Tiểu sử Nguyễn Duy sinh ngày 21 tháng 12 năm Kỷ Tỵ (1809), tại làng Đường Long tức Chí Long, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Thuở nhỏ ông thông minh, hiếu học, năm Đinh Dậu (1837) đỗ tú tài, năm Thiệu Trị nguyên niên đậu cử nhân khoa Tân Sửu 1841. Năm sau (Nhâm Dần 1842), thi Đình đậu Đệ tam giáp tiến sĩ xuất thân. Năm 1843, ông được bổ dụng làm Biên tu ở Nội các, năm sau thăng Tu soạn, năm 1845 được bổ Tri phủ Tân An ở Gia Định, năm 1847 chuyển về làm Tri phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Cùng trong năm này, thân phụ ông mất, ông phải về cư tang. Đến năm sau (1848), ông được bổ nhiệm làm Tri huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Năm 1851, ông được thăng Tập hiền viện Thị độc sung giảng sách ở Tòa Kinh diên. Năm 1852, ông làm Thị giảng học sĩ. Cùng năm này ông được sung vào phái bộ đi sứ sang nhà Thanh (Trung Quốc). Sau khi đi sứ về, ông được thăng hàm Hồng lô tự khanh, sung chức Biện lý bộ Lại kiêm Nội các, làm việc tại triều đình. Năm 1856, tàu chiến Pháp đến khiêu khích ở Đà Nẵng, ông được phái vào giúp Tổng đốc Quảng Nam là Đào Trí lo chống ngăn. Năm 1859 thực dân Pháp đánh chiếm Gia Định, ông sung chức Tán lý đạo Định Biên trông coi việc quân sự. Và mặc dù lực lượng của Pháp lúc này rất ít, chủ tướng Tôn Thất Cáp vẫn chủ trương cố thủ. Thấy quân lực của mình dường như bất động, vua Tự Đức phái Tham biện các vụ Huỳnh Văn Tuyên vào điều tra. Nghe ông Tuyên về báo cáo, là Tôn Thất Cáp có tinh thần khiếp nhược, trước sau chỉ muốn hòa, nhà vua liền giáng Tôn Thất Cáp xuống Thị lang, Tán lý Nguyễn Duy xuống Lang trung, nhưng vẫn phải ở Gia Định chiến đấu. Năm 1860, Nguyễn Tri Phương được sung chức Gia Định quân thứ, trông coi việc quân sự ở miền Nam, ông Duy tòng sự dưới quyền của anh. Ngày 24 tháng 2 năm 1861, Thủy sư đô đốc là Charner đánh phá Đại đồn Chí Hòa do Nguyễn Tri Phương trấn giữ. Dưới áp lực của quân Pháp, Nguyễn Duy chiến đấu và đã chết tại trận cùng với Tôn Thất Trĩ. Riêng Nguyễn Tri Phương và Phạm Thế Hiển thì bị thương (mấy ngày sau, do bị thương quá nặng, ông Hiển mất tại thôn Tân Tạo, phủ Tân Bình), nhưng cuối cùng Nguyễn Tri Phương cũng rút tàn quân về được Biên Hòa. Vinh danh Sau khi Nguyễn Duy mất, triều đình truy tặng hàm Binh bộ Tả tham tri và được thờ tại đền Trung Nghĩa, đền Trung Hiếu cùng anh là Nguyễn Tri Phương và cháu là Phò mã Nguyễn Lâm. Khu lăng mộ (Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Duy, Nguyễn Lâm) và Nhà thờ Nguyễn Tri Phương nay thuộc xã Phong Chương, huyện Phong Điền, Thừa Thiên Huế. Ngày 14 tháng 7 năm 1990, toàn thể khu đền mộ này được công nhận là di tích cấp quốc gia theo quyết định số 575-QĐ/VH của Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam. Ngày 21 tháng 3 năm 2010, tại xã Phong Chương đã diễn ra lễ khánh thành công trình phục hồi, tôn tạo khu di tích trên. Ngoài đền thờ họ Nguyễn Tri ở Phong Điền, Thừa Thiên Huế, tại phường Bửu Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai cũng có một đền thờ Tam công mà trong đó Nguyễn Tri Phương được xem là thành hoàng của địa phương. Bên tả và hữu chánh điện thờ hai vị Tán lý quân vụ Nguyễn Duy (em ruột Nguyễn Tri Phương) và phò mã Nguyễn Lâm (con Nguyễn Tri Phương). Hằng năm tổ chức lễ Kỳ yên long trọng vào ngày 16, 17 tháng 10 âm lịch. Lễ kéo dài trong hai ngày với những nghi thức tiến thần, diễn hành lễ bộ, tống phong... Đền thờ Tam công đã được xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1992 Thương tiếc Hay tin Nguyễn Duy hy sinh tại trận, danh sĩ cùng thời là Nguyễn Thông (1827-1884) đã làm thơ điếu ông như sau: Phiên âm Hán-Việt Vãn Nguyễn Duy, Định Biên Tán lý Tây phong phiêu đại thụ. Nhất tịch ế viên môn. Mãn địa mai hùng lược, Tâm quân khấp cựu ân. Đồ tích không y táng Na tri hạo khí tồn. Niên niên hư trủng thượng, Di lão loại phương tôn. Dịch nghĩa Điếu ông Nguyễn Duy làm chức Tán lý Định Biên Một đêm gió tây thổi mạnh,Cây đại thụ ngã che cửa đồn. Đất chôn vùi người anh hùng có mưu lược,Ba quân than khóc vì nhớ ơn đức của ông xưa. Luống tiếc chỉ nhận được dấu áo, thu hài cốt về mai táng,Hay đâu chí khí lớn lao hãy còn. Hàng năm trên chỗ mộ phần cũ,Các bạn già sống sót rưới rượu lên mấy ngọn cỏ thơm.Xem thêm Trận thành Gia Định, 1859 Trận Đại đồn Chí Hòa Chú thích
Phạm Thế Hiển (范世顯, 1803–1861) là một danh thần đời Minh Mạng, chết trong trận Pháp công phá đại đồn Chí Hòa năm 1861. Ông là anh ruột Phó bảng Phạm Thế Húc. Tiểu sử Ông quê ở làng Luyến Khuyết, huyện Đông Quan - tỉnh Nam Định thời nhà Nguyễn (nay là xã Thụy Phong, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình). Đỗ Cử nhân năm Mậu Tý 1828, năm sau Kỷ Sửu 1829 đỗ Tam giáp Đồng tiến sĩ. Vì thế dân gian thường gọi ông là "Ông Nghè Luyến Khuyết". Trong quá trình làm quan, ông nổi tiếng cương trực, được vua Tự Đức tin dùng và lần lượt giữ chức Tham tri bộ Binh, bộ Hình... Năm 1854, ông được cử làm Tham tán quân thứ Gia Định, ít lâu sau thăng Tuần phủ Gia Định, rồi Thự (quyền) Tổng đốc Gia Định - Biên Hòa, kiêm Tham biện Kinh lược sứ, cùng Thống đốc quân vụ đại thần Nguyễn Tri Phương lo liệu mọi việc ở sáu tỉnh Nam Kỳ. Khảo sát đất đai Nam Kỳ ông tâu về triều: “Nam Kỳ có nhiều đất bỏ hoang nếu chiêu mộ được nhiều người hết sức khai khẩn thì sau này có lợi nhiều về kinh tế cho dân và thu được thêm lợi”. Vua Tự Đức chuẩn tấu và dặn dò ông: “Xứ ấy là đất căn bản của nhà nước... ngươi cần hết lòng để vỗ yên dân, cốt để nơi biên thùy được tươi tốt”. Chấp hành lệnh vua, ngay năm ấy (1855) Phạm Thế Hiển đi xem xét chỗ nào có ruộng đất bỏ hoang đều đưa binh lính đến dựng nhà ở, khai phá ruộng hoang để cày cấy. Ông lại cùng Nguyễn Tri Phương và Tổng đốc An Hà (An Giang - Hà Tiên) Doãn Uẩn xin triều đình cho xây dựng đồn lũy kiên cố ở những chỗ hiểm yếu nơi biên thùy, cửa bể, cửa sông để ngăn chặn giặc cướp và chống ngoại xâm. Năm 1858, khi quân Pháp tấn công Đà Nẵng, Phạm Thế Hiển, khi đó đang là Tổng đốc Định Biên đã được cử sang giữ chức vụ Tham tán Đại thần Quân thứ Quảng Nam (trông coi việc biên phòng tỉnh Quảng Nam), được Tự Đức cử làm Phó tướng cho Nguyễn Tri Phương. Ra tới Đà Nẵng, rút kinh nghiệm của những người tiền nhiệm (đã thất bại) hai ông chủ trương “lấy thủ làm chiến” cho đắp đồn lũy thành phòng tuyến kiên cố và liên tiếp mở các trận phục kích tiêu hao sinh lực địch. Trận chiến ở Đà Nẵng từ tháng 10/1858 dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương, Phạm Thế Hiển quân ta vừa đánh vừa thủ, vừa tiến vừa giữ. Tháng 10/1858, quân Pháp tiến đánh Thạch Thán, Phạm Thế Hiển cùng Nguyễn Tri Phương chỉ huy các tướng đánh trả mãnh liệt, giặc Pháp thua phải tháo chạy. Sau chiến thắng Nguyễn Tri Phương và Phạm Thế Hiển được triệu về kinh ban thưởng. Vua Tự Đức hỏi kế sách đánh giặc, hai ông đều thống nhất “đánh là tiện hơn cả” và nói: “Các hạt Nam Kỳ nước ta thóc gạo, sản vật rất nhiều, tàu thuyền buôn bán có lợi... ý chúng (chỉ Pháp) muốn chiếm lấy đất ấy chứ không muốn hòa, cho nên nhiều lần hội bàn giảng hòa không thành...”. Năm 1860 ông về qu­ê thăm mẹ ốm nặng.Tại đây ông đã tìm gặp Phạm Huy Quang và đốc học Phạm Văn Nghị kêu gọi văn thân sĩ phu trong tỉnh dâng biểu xin đánh Tây củng cố lòng tin của vua Tự Đức. Sau khi quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định, triều đình lại điều Nguyễn Tri Phương vào Nam. Tháng 12/1860, Tham tán quân thứ Quảng Nam kiêm Tổng đốc Định Tường, Biên Hòa Phạm Thế Hiển được vua Tự Đức cử giữ chức Tham tán quân thứ Gia Định để cùng với Nguyễn Tri Phương mưu việc chống đánh giặc Pháp. Vừa vào tới nơi, Tham tán Phạm Thế Hiển được Nguyễn Tri Phương cử về các phủ huyện tổ chức dân binh, huấn luyện quân sự, trang bị vũ khí cho họ để họ hỗ trợ, tiếp ứng cho quân Triều đình khi quân Pháp tới đánh. Vào tới Gia Định, ông cùng Nguyễn Tri Phương lo bố phòng lại lực lượng, chiến lũy Chí Hòa được củng cố mở rộng. Hai ông cho áp dụng nhiều cách đánh địch: tập kích quấy rối, phục kích đánh địch khi chúng ra khỏi đồn. Ngày 23/2 năm Tân Dậu 1861, Kharne chỉ huy liên quân Pháp – Tây Ban Nha đưa toàn bộ lực lượng mạnh gồm 8.000 quân với 30 tàu chiến các loại tấn công đại đồn Chí Hòa. Suốt hai ngày hai đêm, quân ta chiến đấu dũng cảm, gây nhiều tổn thất cho giặc: quan 5 Tây Ban Nha Planca, 4 sĩ quan cao cấp, 30 sĩ quan, 121 hạ sĩ quan và 1805 liên quân xâm lược bị giết tại trận. Song bên ta cũng bị tổn thất nặng nề; Tán lý Nguyễn Duy, Tán tượng Tôn Thất Trĩ trúng đạn chết, Nguyễn Tri Phương bị thương, Phạm Thế Hiển phải lo đốc chiến. Ngày 24/2 năm Tân Dậu 1861, được sự đồng ý của Nguyễn Tri Phương, Phạm Thế Hiển lệnh cho Lê Tố, Lê Hóa ở tiền đồn mở đường rút quân về thôn Tân Tạo, huyện Tân Long, phủ Tân Bình là tỉnh lỵ lâm thời của tỉnh Gia Định. Quân Pháp đưa 400 lính, xe ngựa chở súng đến đánh phía trái đồn, Phạm Thế Hiển chỉ huy quân sĩ bắn trả ác liệt, quân Pháp phải rút lui về căn cứ. Ngày 25/2 năm Tân Dậu 1861, quân Pháp tập trung 300 quân đánh vào phía sau và bên trái đồn. Quân ta chiến đấu vô cùng dũng cảm nhưng hết đạn, hy sinh nhiều. Phạm Thế Hiển lo cứu chữa cho chủ tướng Nguyễn Tri Phương cùng quân lính bị thương chuyển về nơi an toàn. Sau đó Phạm Thế Hiển lệnh cho các quan quân thứ lui về Biên Hòa để củng cố lực lượng, tiếp tục đánh quân Pháp. Nguyễn Tri Phương phải lui quân về giữ Biên Hòa. Tin đại đồn Chí Hòa thất thủ, vua Tự Đức triệu Phạm Thế Hiển về kinh để hỏi rõ sự tình. Trên đường ra Huế, tới Phú Yên, Phạm Thế Hiển bị bệnh và qua đời, hưởng dương 58 tuổi. Trên đường đưa linh cữu về quê, tỉnh thần và quân thứ các tỉnh đều ra nghênh đón, tế lễ tỏ lòng tôn kính ông. Xem: Trận Đại đồn Kỳ Hòa
Dân tộc có thể chỉ một cộng đồng người chia sẻ một ngôn ngữ, văn hóa, sắc tộc, nguồn gốc, hoặc lịch sử. Tuy nhiên, nó cũng có thể chỉ những người có chung lãnh thổ và chính quyền (ví dụ những người trong một quốc gia có chủ quyền) không kể nhóm sắc tộc. Trong trường hợp gắn liền với một quốc gia dân tộc, dân tộc còn được gọi là quốc dân. "Dân tộc" mang nhiều nghĩa và phạm vi nghĩa của thuật ngữ thay đổi theo thời gian. Hầu hết mọi dân tộc sống trong một lãnh thổ cụ thể gọi là quốc gia. Một số dân tộc khác lại sống chủ yếu ngoài tổ quốc của mình. Một quốc gia được công nhận là tổ quốc của một dân tộc cụ thể gọi là "nhà nước - dân tộc". Hầu hết các quốc gia hiện thời thuộc loại này mặc dù vẫn có những tranh chấp một cách thô bạo về tính hợp pháp của chúng. Ở các nước có tranh chấp lãnh thổ giữa các dân tộc thì quyền lợi thuộc về dân tộc nào sống ở đó đầu tiên. Đặc biệt ở những vùng người châu Âu định cư có lịch sử lâu đời, thuật ngữ "dân tộc đầu tiên" dùng cho những nhóm người có chung văn hóa cổ truyền, cùng tìm kiếm sự công nhận chính thức hay quyền tự chủ. Không thống nhất trong cách dùng Thường thì những thuật ngữ như dân tộc, nước, đất nước hay nhà nước được dùng như những từ đồng nghĩa. Ví dụ như: vùng đất chỉ có một chính phủ nắm quyền, hay dân cư trong vùng đó hoặc ngay chính chính phủ. Chúng còn có nghĩa khác là nhà nước do luật định hay nhà nước thực quyền. Trong tiếng Anh các thuật ngữ trên không có nghĩa chính xác mà thường được dùng uyển chuyển trong cách nói viết hàng ngày và cũng có thể giải nghĩa chúng một cách rộng hơn. Khi xét chặt chẽ hơn thì các thuật ngữ "dân tộc", "sắc tộc" và "người dân" (chẳng hạn người dân Việt Nam) gọi là nhóm thuộc về con người. "Nước" là một vùng theo địa lý, còn "nhà nước" diễn đạt một thể chế cầm quyền và điều hành một cách hợp pháp. Điều rắc rối là hai tính từ "quốc gia" và "quốc tế" lại dùng cho thuật ngữ nhà nước, chẳng hạn từ "luật quốc tế" dùng trong quan hệ giữa các nhà nước hoặc giữa nhà nước và các cá nhân, các công dân. Cách dùng các thuật ngữ trên cũng rất đa dạng ở từng nước. Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland được công nhận ở tầm quốc tế là nhà nước độc lập, nghĩa là có một đất nước và dân cư mang quốc tịch Anh. Nhưng theo thông lệ nó được chia thành bốn nước gốc là Anh, Scotland, Wales và Bắc Ireland; ba nước trong số này không phải là nhà nước độc lập. Tình trạng này xét theo cách nào cũng gây ra tranh cãi, chẳng hạn nhiều phong trào ly khai của xứ Wales và Scotland bắt nguồn từ đấy đã ít nhiều công nhận Cornwall là một đất nước riêng biệt bên trong nước Anh. Cách dùng thuật ngữ "dân tộc" không chỉ gây nhập nhằng mà còn là chủ đề nhiều tranh cãi chính trị có thể gây ra bạo lực. Thuật ngữ "dân tộc" thường dùng một cách ẩn dụ để chỉ những nhóm người có chung đặc điểm hay mối quan tâm. Từ nguyên và cách dùng ban đầu Từ "dân tộc" trong tiếng Anh có nguồn gốc từ tiếng Latin (stem ), nghĩa là: Hành động sinh nở, sự sinh đẻ. Chủ nghĩa dân tộc Ở châu Âu nhất là từ cuối thế kỷ 18, ý niệm về dân tộc được đánh giá cao trong chính trị, từ đó dẫn đến sự phát triển của học thuyết và triết thuyết về chủ nghĩa dân tộc. Những nhà theo chủ nghĩa dân tộc coi "dân tộc" không đơn thuần chỉ một nhóm người mà gắn liền với khái niệm chủ quyền. Xác định một dân tộc Dân tộc được xác định dựa trên một số tính chất nhất định áp dụng cho từng cá nhân lẫn cả dân tộc đó. Yêu cầu đầu tiên là các tính chất phải "chia sẻ" được, vì một nhóm người chẳng có điểm gì chung không thể tạo thành dân tộc. Ghi chú
Sở Khanh (chữ Hán: 楚卿) là một nhân vật trong "Kim Vân Kiều truyện" (金雲翹傳) của Thanh Tâm Tài Nhân (青心才人) và "Truyện Kiều" của Nguyễn Du. Sở Khanh tên thật là "Hoàng Văn Giáp" là một gã ăn chơi dâm loạn, chuyên đi lừa gái lầu xanh. Kiều đã tin lòng Sở Khanh và bị Sở Khanh đánh lừa trong tình yêu Trong "Kim Vân Kiều truyện" nhân vật này xuất hiện lần đầu tại hồi thứ tám "Vương hiếu nữ cam tâm bạch nhận Mã Tú ma kế trám hồng nhan" (王孝女甘心白刃 馬秀媽計賺紅顏). Trong "Truyện Kiều" Sở Khanh được nhắc đến lần đầu ở câu thơ thứ 1062: Chữ Nôm: 𠳨𠚢買別浪撞楚卿 Dịch âm chữ quốc ngữ: Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh Sử dụng trong tiếng Việt hiện đại Vì Truyện Kiều có nhiều ảnh hưởng lớn trong văn hóa Việt Nam, chữ sở khanh nay đã được dùng trong tiếng Việt với nghĩa là một người hay lừa tình.
Trường Trung học phổ thông chuyên Hà Nội – Amsterdam () hay còn được gọi đơn giản là Trường Ams là một trường trung học phổ thông công lập của thành phố Hà Nội được thành lập vào năm 1985. Ngày nay, trường là một trong số các trường trung học phổ thông và trung học cơ sở nổi tiếng nhất thành phố Hà Nội và được nhiều nguồn tin đánh giá là một trong số các trường trung học có chất lượng giáo dục cao nhất Việt Nam. Trường Hà Nội – Amsterdam được thành lập bởi vốn hỗ trợ của nhân dân Amsterdam, Hà Lan với mục đích ban đầu là trở thành mô hình trường trung học phổ thông chuyên toàn diện đầu tiên của thành phố Hà Nội. Ngày nay, trường đã được chia làm hai khối: khối trung học cơ sở và khối trung học phổ thông. Địa điểm ban đầu của trường nằm tại phố Nam Cao, Giảng Võ, quận Ba Đình, Hà Nội (nay là trường THPT Nguyễn Trãi - Ba Đình). Vào tháng 8 năm 2010 đã chuyển sang địa điểm mới nằm ở phố Hoàng Minh Giám, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Trường đã được ghi nhận về những thành tích học tập xuất sắc và sự đổi mới thường xuyên trong cách giáo dục của trường. Nhiều học sinh trong trường đã giành được rất nhiều giải thưởng trong nước và ngoài nước như kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, kỳ thi Olympic Toán học Quốc tế, Olympic Vật lý Quốc tế, Olympic Vật lý châu Á, Olympic Hóa học quốc tế, Olympic Tin học quốc tế, Olympic Sinh học quốc tế. Hiện nay, trường Trung hoc phổ thông Chu Văn An, trường Trung học phổ thông chuyên Nguyễn Huệ, trường Trung hoc phổ thông Sơn Tây và trường Trung học phổ thông chuyên Hà Nội - Amsterdam là bốn trường trung học phổ thông có hệ thống lớp chuyên của Sở Giáo dục - Đào tạo Hà Nội. Trường đã được công nhận đạt chuẩn quốc gia. Lịch sử Vào năm 1972, khi cuộc Chiến tranh Việt Nam bước vào một trong những giai đoạn ác liệt nhất với việc Không quân Mỹ thực hiện Chiến dịch Linebacker II hủy diệt Hà Nội, nhân dân thủ đô Amsterdam (Hà Lan) đã thể hiện thái độ phản đối và mong muốn ủng hộ chính phủ và nhân dân miền Bắc Việt Nam. Thị trưởng của thành phố Amsterdam, Tiến sĩ Ivo Samkalden sau đó đã vận động nhân dân của mình quyên góp tiền để giúp Việt Nam tái thiết cơ sở sau chiến tranh. Vào những năm 1980, với sự có mặt của các trường chuyên theo từng môn học như trường Trung học phổ thông Chu Văn An, trường Trung học phổ thông chuyên Khoa học Tự nhiên, trường Trung học phổ thông chuyên Sư phạm, Trường Trung học phổ thông chuyên Ngoại ngữ, trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong (Thành phố Hồ Chí Minh), Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội đã quyết định xây dựng một mô hình trường phổ thông kiểu mới theo mô hình một trường chuyên toàn diện, nhằm tuyển sinh những học sinh có năng khiếu đặc biệt trong các môn học. Trường bắt đầu được khởi công vào đầu năm 1985 với nguồn vốn từ nguồn quyên góp của nhân dân thành phố Amsterdam. Ban đầu, tên trường là Trường THPT Hà Nội - Amsterdam. Để thể hiện mối quan hệ hợp tác giữa hai thủ đô Hà Nội và Amsterdam, trường đã được đặt tên là Trường Trung học phổ thông chuyên Hà Nội – Amsterdam. Năm học đầu tiên của trường được khai giảng vào ngày 5 tháng 9 năm 1985 với khoảng 400 học sinh và 50 giáo viên. Học sinh của trường trong khóa học đầu tiên được chuyển đến từ nhiều trường Trung học Phổ thông khác nhau bao gồm khối chuyên Toán của trường Trung học Phổ thông Chu Văn An; khối chuyên Ngữ văn, chuyên Vật lý của trường Trung học Phổ thông Việt Đức; khối chuyên tiếng Nga, tiếng Anh, Hóa học của trường Trung học Phổ thông Lý Thường Kiệt và khối chuyên Sinh của trường Trung học Phổ thông Ba Đình. Trong giai đoạn từ 1985 đến năm 2010, trường đã đào tạo 20 thế hệ học sinh 25 khóa trung học phổ thông và 18 khóa trung học cơ sở. Trong giai đoạn này, trường đã đi đến việc mở rộng và phát triển toàn diện mô hình trường chuyên. Năm 1989, trường mở thêm khối chuyên tiếng Pháp. Năm 1992, trường mở khối Trung học cơ sở và bắt đầu tuyển sinh vào lớp 6. Năm 1996, trường mở khối chuyên Tin học. Năm 2002, trường mở khối chuyên tiếng Trung và chuyên Địa lý. Từ năm 2010, trường có thêm khối chuyên Sử. Và vào năm 2018, trường đã bổ sung thêm hệ thống song bằng tú tài ở cả cấp THCS cũng như là THPT. Từ số giáo viên ban đầu, Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội đã điều thêm những thầy cô giáo ưu tú ở các trường khác đến. Từ đó, trường trở thành một hệ thống đào tạo hoàn chỉnh, trở thành một trong những trường Trung học phổ thông và Trung học cơ sở đạt thành tích cao của thành phố và nhà nước. Địa điểm mới Vào năm 2005, chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội là bác sĩ Nguyễn Quốc Triệu đã đến làm việc tại trường Hà Nội - Amsterdam và nhận thấy sự xuống cấp về cơ sở vật chất của trường Hà Nội - Amsterdam cũ và đã đồng ý dành quỹ đất 5 ha ở khu đô thị Trung Hòa Nhân Chính để xây cơ sở mới cho trường với kinh phí dự kiến hồi đó là 1,5 tỷ đồng. Lễ khởi công xây dựng đã diễn ra vào ngày 19 tháng 5 năm 2008. Công trình có tổng mức đầu tư 469 tỷ đồng (25 triệu USD) và đã được phê chuẩn là một trong những công trình chào mừng Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Trong quá trình xây dựng trường mới, có một số mâu thuẫn xảy ra giữa Sở Giáo dục - Đào tạo và Ban giám hiệu nhà trường như tin đồn đổi tên trường thành Trường Trung học Phổ Thông chuyên Hà Nội, tuy nhiên đã được gạt bỏ. Ngày 4 tháng 9 năm 2010, trường khai giảng khóa học đầu tiên tại địa điểm mới đồng thời cũng được gắn biển công trình chào mừng kỷ niệm 1000 năm Thăng Long. Trường mới có hệ thống cơ sở vật chất đạt tiêu chuẩn quốc gia, và được coi là trường Trung học Phổ thông hiện đại nhất Hà Nội. Mô hình đào tạo Cơ cấu tổ chức Trường được tổ chức với mô hình ban giám hiệu điều hành và quản lý chung với Hiệu trưởng là Trần Thùy Dương và các Phó Hiệu trưởng: Bùi Văn Phúc và Dương Tú Anh. Công tác giáo dục được chia thành hai khối Trung học phổ thông và Trung học cơ sở. Hệ thống giáo viên của trường được chia làm các tổ chuyên môn: tổ Toán - Tin, tổ Ngữ văn, tổ Ngoại ngữ, tổ Vật lý, tổ Hóa học, tổ Sinh - Thể, tổ Lịch sử - Thư viên, tổ Địa - GDCD - Nhạc - Họa. Ngoài ra, trường còn có đội ngũ giáo viên thỉnh giảng. Trường có Đảng ủy và Ban chấp hành công đoàn đứng đầu là Chủ tịch Công Đoàn Triệu Lê Quang. Ngoài ra, nhà trường còn có tổ Văn phòng bao gồm các nhóm: nhóm Kế toán; nhóm Văn phòng – Máy tính; nhóm Y tế; nhóm Bảo vệ - Lái xe và nhóm Lao công - Phục vụ. Xét tuyển Trung học cơ sở Việc lựa chọn đầu vào cho khối Trung học cơ sở của trường bắt đầu từ lớp 6 với chỉ tiêu số học sinh đầu vào dao động trong khoảng 180-200. Bắt đầu bằng việc xét học bạ lấy 5.000 hồ sơ trúng tuyển để vào vòng 2 thi văn hóa. Việc xét học bạ theo các tiêu chí: học lực 5 năm tiểu học đạt loại giỏi, điểm thi cũng như điểm trung bình lớp 4 và 5 và điểm ưu tiên. Việc xét học bạ bắt đầu từ năm 2008 nhằm loại bỏ bớt 1.000 hồ sơ để vào vòng trong. 1.000 học sinh còn lại vào vòng 2 bằng việc thi 2 môn Toán và Tiếng Việt để lựa chọn những học sinh có tổng điểm cao nhất vào trường. Ngoài ra, trường còn nhận một số trường hợp chuyển ngang được Sở Giáo dục - Đào tạo Hà Nội chấp thuận với lý do đặc biệt. Trong năm học 2014 - 2015, đã có 200 học sinh được tuyển sinh từ hơn 4.200 học sinh dự thi. Bắt đầu từ năm học 2015 - 2016, trường xét tuyển các học sinh thi vào khối 6 bằng cách xét học bạ và xét giải, cụ thể như sau: điểm tối đa học bạ là 140 (gồm 5 môn Toán, Tiếng Việt và Khoa - Sử - Địa, mỗi môn 10 điểm) và cộng thêm điểm từ các giải thưởng và điểm quy đổi ưu tiên. Năm học 2016-2017 và 2017-2018, điếm tối đa là 215 điểm. Bắt đầu năm học 2019 - 2020, trường quay trở lại với mô hình tuyển sinh như trước đây, bao gồm 2 vòng: xét học bạ lấy khoảng 1000 hồ sơ để vào vòng 2 làm bài kiểm tra năng lực ngôn ngữ (môn Tiếng Việt và Tiếng Anh) và tư duy (môn Toán). Trung học phổ thông Theo quy định của Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội thì trường Hà Nội - Amsterdam cùng trường Trung học phổ thông Chu Văn An, trường Trung học Phổ thông chuyên Nguyễn Huệ và trường Trung học phổ thông Sơn Tây là bốn trường trung học phổ thông có hệ thống lớp chuyên của Sở, vì vậy học sinh tốt nghiệp lớp 9 muốn vào học tại các trường này ngoài việc phải tham gia kì thi vào lớp 10 chung cho các trường trung học phổ thông chuyên và không chuyên trực thuộc Sở, còn phải tham gia kì thi chuyên chung của bốn trường. Tương tự như ba trường trường chuyên còn lại, trường Hà Nội - Amsterdam cho thi 3 môn bắt buộc là Toán, Văn (hai môn thi dành cho tất cả thí sinh muốn thi vào khối trung học phổ thông công lập toàn thành phố) và môn Ngoại ngữ điều kiện (dành cho thí sinh muốn thi vào khối trung học phổ thông chuyên). Các thi sinh muốn được vào lớp chuyên sẽ phải thi thêm môn chuyên tương ứng. Học sinh có thể đăng ký thi các môn chuyên khác nhau của hai trường khác nhau với điều kiện các môn chuyên thi không trùng nhau. Điểm xét tuyển sẽ là tổng điểm ba môn Toán, Văn, Anh (mỗi môn lấy hệ số 1) cộng với điểm môn chuyên nhân đôi (hệ số 2), thí sinh lấy từ cao xuống thấp đến hết chỉ tiêu của lớp chuyên. Các thí sinh chỉ đăng ký xét tuyển vào các lớp không chuyên sẽ thi hai môn Toán Văn và lấy điểm xét tuyển là tổng điểm hai môn này. Học sinh đăng ký nguyện vọng tại hai trường có cùng 1 môn chuyên, xếp thứ tự ưu tiên là nguyện vọng 1 và nguyện vọng 2. Trong năm học 2012 - 2013, đã có 595 học sinh trúng tuyển vào 32 lớp chuyên từ 900 học sinh thi tuyển. Học sinh học hết lớp 5 bắt đầu thi tuyển vào khoảng giữa tháng 6 hàng năm còn ngày thi tuyển vào lớp 10 thường bắt đầu diễn ra vào ngay sau kỳ thi tuyển vào lớp 6 một tuần. Kết quả được thông báo nửa tháng sau đó. Cấu trúc đào tạo Trường Trung học phổ thông chuyên Hà Nội – Amsterdam đào tạo theo hai hệ: hệ phổ thông cơ sở và hệ phổ thông trung học. Cả hai hệ này đều thuộc quyền quản lý của trường Hà Nội - Amsterdam và Sở Giáo dục - Đào tạo Hà Nội. Hệ phổ thông cơ sở kéo dài bốn năm từ lớp 6 đến lớp 9. Nhà trường tuyển chọn học sinh có năng lực vào học từ lớp 6. Trong chương trình học của hệ phổ thông cơ sở, nhà trường thực hiện đổi mới và nâng cao chương trình giáo dục cho học sinh các lớp: trang bị cho học sinh những kiến thức giáo dục phổ thông từ sách giáo khoa, đồng thời mở rộng kiến thức cho học sinh. Sau khi học hai năm đầu của hệ phổ thông cơ sở (học hết lớp bảy), toàn bộ học sinh sẽ phải thực hiện kỳ thi phân loại chất lượng để được phân vào các lớp 8. Kỳ thi sẽ chia đều các học sinh khối bảy vào năm lớp tám: lớp chuyên Toán (Toán 1 và Toán 2), lớp chuyên Văn và lớp chuyên Anh (Anh 1 và Anh 2). Trong năm học 2011 - 2012, khối Trung học cơ sở của trường bao gồm 20 lớp: năm lớp mỗi khối 6, 7, 8, và 9. Hệ phổ thông trung học kéo dài ba năm từ lớp 10 đến lớp 12. Học sinh vào lớp 10 phải trải qua kỳ thi tuyển trung học phổ thông do Sở Giáo dục - Đào tạo tổ chức. Trong các năm học từ năm học 1985 - 1988 cho đến năm học 2011 - 2012, khối phổ thông trung học được chia làm 2 hệ: Hệ chuyên và hệ không chuyên. Trong các hệ chuyên, ngoài việc học các môn học chính, học sinh sẽ được dạy tăng cường (số tiết, khối lượng kiến thức nhiều hơn so với các lớp còn lại) các môn chuyên trong các lớp chuyên thuộc khối Trung học phổ thông. Các học sinh chuyên giỏi sẽ được đưa vào đội tuyển học sinh chuyên và được đầu tư học môn chuyên để dự các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, quốc tế. Khác với hệ chuyên, hệ không chuyên không có việc dạy tăng cường các môn chuyên, tuy nhiên vẫn đề cao một số môn học trong chương trình trung học phổ thông. Cho đến năm học 2011 - 2012, trường Hà Nội - Amsterdam có 12 lớp chuyên: chuyên Toán, chuyên Nga, chuyên Lý, chuyên Anh, chuyên Văn, chuyên Hóa, chuyên Pháp, chuyên Trung, chuyên Sử, chuyên Địa, chuyên Sinh và chuyên Tin, 5 lớp không chuyên: Anh (Anh 2), Toán (Toán 2), Hóa (Hóa 2) và Lý (Lý 2) và 1 lớp tiếng Pháp tăng cường (Pháp 2). Bắt đầu từ năm học 2012 - 2013, khối trung học phổ thông trường Hà Nội - Amsterdam sẽ xóa bỏ hệ thống lớp không chuyên, thay vào đó là hệ thống hai lớp chuyên cân bằng về chương trình và cách thức dạy học. Cơ sở vật chất và trang thiết bị Thiết kế phòng học Phòng học được thiết kế để phù hợp và thoải mái nhất cho học sinh, giáo viên. Địa điểm cũ Địa điểm cũ của nhà trường được xây dựng vào năm 1985 và là cơ sở học tập của học sinh cho đến năm 2010. Khu vực chính của trường là tòa nhà A, bao gồm khu nhà học chính, phòng truyền thống, sảnh chính, khu ban giám hiệu. Cơ sở thực hành của trường gồm ba phòng thực hành vật lý, hai phòng thực hành hoá học, bốn phòng thực hành tin học, một phòng mô hình với máy chiếu và hai phòng nghe nhìn. Ngoài tòa nhà A, B khuôn viên trường có dãy nhà tôn dành cho học sinh 6,7 khối trung học cơ sở. Hệ thống thể chất của trường bao gồm hai sân bóng rổ, một sân tập trong nhà và một đường nhảy xa. Trong các năm 1990 và 2010, trường có chia sẻ khuôn viên với một số trường khác như trường Alexander Yersin và trường Trung học cơ sở Giảng Võ. Địa chỉ cũ của trường là số 50 đường Nam Cao. Hiện tại địa điểm này thuộc về trường Trung học phổ thông Nguyễn Trãi. Địa điểm mới Địa điểm mới của trường Hà Nội - Amsterdam có tổng diện tích diện tích lên tới 7 ha bắt đầu hoạt động từ năm học 2010 - 2011 và được chia làm 5 bộ phận chính: Kiến trúc chính của trường chính là khu nhà học được chia làm ba dãy nhà A, B, C và được nối với nhau bởi trục đa năng - hành lang dài giúp học sinh có thể dễ dàng di chuyển giữa các khối nhà học. Khu vực này gồm năm tầng (kể cả tầng hầm và bãi đỗ xe) sẽ được dùng để làm phòng học cho khối 6 đến khối 12 cũng như hệ thống các phòng thí nghiệm Hóa - Sinh - Vật lý và các phòng đội tuyển. Trường có tổng cộng 75 phòng học, 12 phòng cho các đội tuyển Văn, Toán, Trung, Lý, Hóa, Sinh, Nga, Anh, Pháp, Sử, Địa, Tin và 15 phòng học riêng biệt cho từng bộ môn. Kiến trúc cạnh dãy nhà học là khu vực thư viện, khu tin học, các phòng đa năng và nhà ăn cho học sinh. Phòng trực ban giám hiệu nhà trường ở khu vực cổng chính cạnh nhà học là nơi để ban giám hiệu làm việc, hội họp và đưa ra các quy định cùng với hệ thống giáo viên. Nơi đây cũng có một phòng họp hội đồng 700 chỗ dành cho học sinh và các đại biểu họp và tổ chức sự kiện. Tại cơ sở mới có hai khu vực hoạt động thể chất: khu vực thể chất trong nhà và ngoài trời. Khu thể chất trong nhà là một nhà tập thể thao (hoặc nhà thi đấu) đa năng có sân bóng rổ, sân cầu lông và bể bơi. Tại khu thể chất ngoài trời có một sân bóng đá, hai sân cầu lông, một sân bóng rổ, một đường nhảy xa, chạy đà và đường chạy 100 mét. Ngoài ra, nhà trường còn có một số khu vực khác: khu vực phòng y tế, bố trí các phòng làm việc, tra cứu cho từng chuyên ngành, phòng khảo thí với chức năng phục vụ việc ra đề, chấm bài cho các kỳ thi chuyên của nhà trường; khu thực nghiệm được dành riêng diện tích khoảng 1000 mét vuông để làm vườn thực nghiệm môn sinh học, địa lý; tháp truyền thống và khu vực căng tin. Địa chỉ mới của trường là số 1, đường Hoàng Minh Giám, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy. Học sinh Thể thao Trường Hà Nội - Amsterdam là một trong số các trường trung học phổ thông có cơ sở vật chất cho thể thao đạt loại tốt của Hà Nội. Hàng năm, trường tổ chức các giải đấu bóng đá như Ams Cup và giải bóng rổ giữa các khóa ABC (Amsterdam Basketball Championship) và có rất nhiều thành tích nổi trội. Hoạt động ngoại khóa Ngoài việc học tập và hoạt động thể chất, các học sinh trường Hà Nội - Amsterdam (thường được gọi là Amser) còn tổ chức rất nhiều hoạt động ngoại khóa khác nhau, gồm cả hoạt động thường niên và không thường niên. Các hoạt động ngoại khóa thường niên phần lớn đều là các hoạt động nghệ thuật - khoa học, bao gồm: "Ngày Hội Anh Tài", lễ ra trường "Made In 12" của học sinh khối 12, "Ams' Got Talent", "Nineternal" và "Ngày hội Tìm hiểu Toán học". Ngoài các hoạt động thường niên, trường còn tổ chức nhiều hoạt động không thường niên khác như: nhạc kịch giữa các khối chuyên, chuyển thể tác phẩm văn học, ngày hội văn hóa, làm sạch môi trường,... Cùng với đó là các câu lạc bộ ngoại khóa như CLB nghệ thuật (HAT), CLB nhiếp ảnh (APC), CLB âm nhạc (Glee Ams), CLB tranh biện (Puzzles Ams)... và tính đến năm 2022, có tới hơn 40 CLB khác nhau ở trường THPT chuyên Hà Nội - Amsterdam. Trường Hà Nội - Amsterdam cũng là một ngôi trường có nhiều hoạt động, tổ chức xã hội khác nhau. Các tổ chức này phần lớn do những học sinh khối trung học phổ thông của trường lập nên và quản lý. Một số tổ chức xã hội lớn bao gồm: tổ chức y tế nhân đạo SJ Việt Nam - "Bring a smile, soothe the pain", tổ chức môi trường GHA - Green Hanoi-Amsterdam. Cựu học sinh và H-A-O Với mong muốn có một nơi gặp gỡ, giao lưu giữa các lớp, các khoá, các thế hệ học sinh trường Ams, các trường đại học và các tổ chức xã hội trên thế giới, việc thành lập một tổ chức dành cho học sinh của trường đã được xúc tiến bởi các cựu học sinh trường. Vào ngày 20 tháng 11 năm 2000, hiệp hội học sinh trường Hà Nội – Amsterdam xuất hiện. Sau hơn một năm hoạt động, H-A-O nhận được nhiều đóng góp, và ủng hộ không chỉ từ học sinh và cựu học sinh của trường Ams mà còn của nhiều học sinh từ các trường khác trong cả nước. Với sự đóng góp không ngừng của các thành viên, H-A-O trở thành một hiệp hội hoạt động mạnh mẽ, dành cho học sinh, cựu học sinh của trường Ams cũng như nhiều trường khác. Ngày 23 tháng 11 năm 2004, "Hiệp hội học sinh Hà nội-Amsterdam" (Hanoi Amsterdam Organization, Inc.) chính thức được đăng ký tại Hoa Kỳ, bởi một số cá nhân, là một tổ chức phi lợi nhuận hải ngoại ở Hoa Kỳ, hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và các mảng liên quan. Tính tới ngày 20 tháng 6 năm 2010, hiệp hội đã có 28.206 thành viên với 2.729.546 bài viết trong diễn đàn thảo luận. Hợp tác quốc tế Từ khi thành lập, trường Hà Nội Amsterdam đã có nhiều hoạt động giao lưu và hợp tác quốc tế với các trường phổ thông, đại học và nhiều tổ chức trên thế giới. Suốt nhiều năm qua, nhà trường đã giữ được những mối quan hệ tốt đẹp với các trường đại học, cao đẳng và trung học tại các nước phát triển: Học viện INSA (Pháp), Đại học Connnecticut, Đại học Oregon, Đại học Carroll (Hoa Kỳ), Taylor's Culverhay (Anh), Đại học Bellereys (Úc), Đại học Nam Ninh (Trung Quốc), Trung học Nayang (Hàn Quốc), Trung học Jean de la Fontaine (Pháp), Trung học Anglo-Chinese (Singapore), Trường chuyên ngữ Anyang (Hàn Quốc). Hàng năm, các khối chuyên ngữ của trường Trung học phổ thông chuyên Hà Nội - Amsterdam thường tổ chức những buổi gặp gỡ giao lưu giữa các khoá trong khối với nhau hoặc với các tổ chức quốc tế. Các học sinh của các khối chuyên Pháp, chuyên Nga, chuyên Trung đã thực hiện nhiều hoạt động ngoại khóa với nhiều Đại sứ quán và đã đón tiếp nhiều học sinh từ các trường trung học phổ thông khác nhau trên thế giới. Trường Hà Nội - Amsterdam cũng là một trong những trường đầu tiên của Hà Nội chuẩn bị cho kế hoạch dạy Toán và các bộ môn khoa học bằng Tiếng Anh vào năm học 2011 - 2012. Ngoài ra, trường còn cho tổ chức nhiều chương trình giao lưu với nước ngoài bao gồm: đào tạo và bồi dưỡng giáo viên ở nước ngoài; học tập các phương pháp đào tạo ở các nước phát triển như Anh, Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan; thực hiện phương pháp trao đổi giáo viên, học sinh để giao lưu giữa các trường đại học của Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Úc và Singapore; cho bạn bè quốc tế giới thiệu du học với học sinh trong trường (như hội thảo du học Anh Quốc). Nhiều học sinh trường Hà Nội - Amsterdam đã được gửi đi tham dự nhiều hội nghị cấp quốc tế đại diện cho trường như Hội nghị về Quyền trẻ em ở Mỹ (tháng 5 năm 2002), Hội nghị Môi trường ở Nam Phi (tháng 7 năm 2002), Hội nghị Diễn đàn về Quyền trẻ em ở Hàn Quốc (tháng 9 năm 2003), Nghị viện Thanh niên Thế giới tại Sydney (2000, 2004), Hội thảo các nhà khoa học trẻ các quốc gia APEC (tháng 4 năm 2011). Nhiều cuộc thi mang tính quốc tế như cuộc thi tìm hiểu ASEAN, cuộc thi "Cải thiện việc sử dụng và bảo vệ nguồn nước" cũng đã được nhiều học sinh tham gia. Thành tích dạy và học Trường học Trường đã vinh dự được đón tiếp Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng, Tổng Bí thư Đỗ Mười, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Thủ tướng Phan Văn Khải, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Phu nhân Thủ tướng Hà Lan, Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội Nguyễn Thế Thảo... cùng nhiều vị khách quý về thăm. Trường đã có nhiều năm liên tiếp được công nhận là trường tiên tiến xuất sắc; đảng bộ trong sạch vững mạnh; tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên vững mạnh và đơn vị thi đua xuất sắc. Ngoài ra, trường còn được Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam trao tặng 3 huy chương: (1995) (2000) Đơn vị Anh hùng trong thời kỳ Đổi Mới (2000) Được công nhận là Trường chuẩn quốc gia (2004) (2005) (2010) (2015) Trường THPT Chuyên Hà Nội - Amsterdam đã có 1 giải 3 chung kết năm thứ 1, 1 giải nhất chung kết năm thứ 10, 1 giải 3 chung kết năm thứ 16, 1 giải nhì chung kết năm thứ 17, 1 giải nhì chung kết năm thứ 22 cuộc thi Đường lên đỉnh Olympia. Thành tích của học sinh nhà trường trong cuộc thi Đường lên đỉnh Olympia Thành tích trong nước Trong vòng 25 năm từ 1985, các học sinh của trường Hà Nội - Amsterdam đã đạt được 3.500 giải nhất, nhì, ba trong các cuộc thi học sinh giỏi cấp thành phố cũng như cấp khu vực và hơn 1.000 giải nhất, nhì, ba trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp quốc gia. Trong số 134 giáo viên chính thức của trường, có 4 tiến sĩ, 44 thạc sĩ. Nhiều thầy cô giáo của trường đã được nhận bằng khen của chính phủ, được công nhận là giáo viên dạy giỏi. Có bảy thầy cô giáo đã được nhà nước phong tặng danh hiệu nhà giáo ưu tú. và một tổ giáo viên được phong tặng Huân chương Lao động hạng Ba Thành tích thi tốt nghiệp và thi đại học Vào năm 2011, trường đạt 100% học sinh tốt nghiệp Trung học phổ thông và có 2 học sinh là thủ khoa và á khoa của thành phố Hà Nội. Đồng thời, học sinh trường Hà Nội - Amsterdam cũng đã xếp thứ 11 trong số 200 trường trung học phổ thông có điểm thi đại học cao nhất cả nước. 95% học sinh trường Hà Nội - Amsterdam được nhận vào các trường đại học lớn của Việt Nam và nước ngoài. Khoảng 30%-35% học sinh nhập học ở các trường đại học nước ngoài. Nhiều cựu học sinh trường Hà Nội - Amsterdam đã và đang theo học tại Harvard, Yale, Princeton, Columbia, MIT, Đại học Carnegie Mellon, Johns Hopkins, Hitotsubashi, Tokyo, CalTech, Stanford, Dartmouth, Amherst, Brown, Williams, Swarthmore, Cambridge, Oxford, Học viện Kinh tế - Chính trị London, RMIT, Technische Universität Dresden, École Polytechnique, École Normale Supérieure và các đại học uy tín khác của Hoa Kỳ, Anh, Singapore, Úc, Đức, Pháp, Hàn Quốc, Trung Quốc,... Thành tích thi quốc tế Chỉ riêng trong thời kỳ 25 năm tính từ năm 1985 đến 2010, đã có 81 em học sinh đi tham dự các kỳ thi Olympic khoa học quốc tế ở Trung Quốc, Canada, Mỹ,... và đạt tổng cổng 77 huy chương vàng, bạc, đồng trong các kỳ thi. Đặc biệt, tại Olympic Hóa học Quốc tế 2014, Phạm Mai Phương, học sinh lớp 12 chuyên Hóa của trường đã trở thành một trong 3 thí sinh có điểm số cao nhất của toàn kỳ thi. Chú thích: IMO = Olympic Toán học Quốc tế; IChO = Olympic Hóa học Quốc tế; IPhO = Olympic Vật lý Quốc tế; IOI = Olympic Tin học Quốc tế; IBO = Olympic Sinh học Quốc tế; IJSO = Olympic Khoa học trẻ Quốc tế; IOAA = Olympic Quốc tế về Thiên văn học và Vật lý thiên văn; RO = Olympic Tiếng Nga; APMO = Olympic Toán học châu Á – Thái Bình Dương; SEAMO = Olympic Toán học Đông Nam Á; APhO = Olympic Vật lý châu Á; APIO = Olympic Tin học châu Á - Thái Bình Dương HCV = Huy chương Vàng; HCB = Huy chương Bạc; HCĐ = Huy chương Đồng; {|class="wikitable collapsible collapsed" |- ! colspan="6" |Bảng vàng thành tích nhà trường |- ! ! ! ! ! ! |- ! ! ! ! ! ! |- !Năm!! Môn thi!!Địa điểm tổ chức(quốc gia/vùng lãnh thổ, thành phố)!!Họ tên thí sinh!! Giải thưởng |- |1987||IMO 28||Cuba, La Habana||Phan Phương Đạt|| |- |1987||RO||Nga, Moskva|| Phạm Thanh Xuân|| |- |1987||RO||Nga, Moskva|| Đặng Ngọc Hùng|| |- |1987||RO||Nga, Moskva|| Võ Việt Phong|| |- |1988||IMO 29||Úc, Canberra||Phan Phương Đạt|| |- |1988||IMO 29||Úc, Canberra||Hồ Thanh Tùng|| |- |1990||IMO 31||Trung Quốc, Bắc Kinh||Phan Thị Hà Dương|| |- |1994||IPhO 25||Trung Quốc, Bắc Kinh ||Đinh Sỹ Quảng|| |- |1994||IPhO 25||Trung Quốc, Bắc Kinh ||Phùng Minh Hoàng|| |- |1994||RO||Nga, Moskva|| Đào Bảo Ngọc|| |- |1994||RO||Nga, Moskva|| Nguyễn Khánh Vân|| |- |1994||RO||Nga, Moskva|| Chu Thanh Lãng|| |- |1995||IPhO 26||Úc, Canberra ||Đinh Sỹ Quảng|| |- |1995||IPhO 26||Úc, Canberra ||Ngô Anh Đức|| |- |1995||IPhO 26||Úc, Canberra ||Nguyễn Xuân Sơn|| |- |1996||IPhO 27||Na Uy, Oslo ||Nguyễn Xuân Sơn|| |- |1996||IPhO 27||Na Uy, Oslo ||Phạm Đức Sơn|| |- |1996||IChO 28||Nga, Moskva||Nghiêm Đức Long|| |- |1996||IChO 28||Nga, Moskva||Nghiêm Đức Long|| |- |1997||APMO||?||Trần Anh Minh|| |- |1997||IPhO 28||Canada, Ontario||Nguyễn Đức Phương|| |- |1997||IMO 38||Argentina, Mar del Plata||Trần Anh Minh|| |- |1997||IBO 8||Turkmenistan, Ashgabat||Nguyễn Biên Thùy|| |- |1997||IBO 8||Turkmenistan, Ashgabat||Trần Bích Ngọc|| |- |1997||RO||Nga, Moskva|| Đào Minh Nguyệt Anh|| |- |1997||RO||Nga, Moskva|| Nguyễn Thành|| |- |1997||RO||Nga, Moskva|| Lý Hoàng Quân|| |- |1997||RO||Nga, Moskva|| Vũ Hà Phương|| |- |1998||IPhO 29||Iceland, Reykjavík||Hoàng Kỳ Sơn|| |- |1998||IPhO 29||Iceland, Reykjavík||Nguyễn Quang Anh|| |- |1998||SEAMO 1||Malaysia, Penang|| Ngô Văn Sáng|| |- |1999||APMO||?|| Hà Hồng Hà|| |- |2000||APMO||?|| Đỗ Trường Giang|| |- |2000||IOI 13||Trung Quốc, Bắc Kinh||Trần Thanh Hoài|| |- |2001||IPhO 32||Thổ Nhĩ Kỳ, Antalya||Bùi Lê Na|| |- |2001||IOI 14||Phần Lan, Tampere||Trần Thanh Hoài|| |- |2001||APhO 2||Đài Loan, Đài Bắc|| Bùi Lê Na|| |- |2001||IOI 14||Phần Lan, Tampere||Hoàng Đức Việt Dũng|| |- |2001||RO||Nga, Moskva|| Phạm Minh Lê|| |- |2001||RO||Nga, Moskva|| Lý Thuỳ Trang|| |- |2001||RO||Nga, Moskva|| Trần Văn Linh|| |- |2002||APMO||?|| Trần Minh Sơn|| |- |2003||IBO 14||Belarus, Minsk||Nguyễn Bình Minh|| |- |2004||RO||Nga, Moskva|| Trần Thị Thanh Nga|| |- |2004||RO||Nga, Moskva|| Khuất Anh Việt|| |- |2004||RO||Nga, Moskva|| Nguyễn Việt Dũng|| |- |2004||RO||Nga, Moskva|| Nguyễn Thu Thủy|| |- |2004||RO||Nga, Moskva|| Cồ Mạnh Quân|| |- |2004||RO||Nga, Moskva|| Bùi Vân Anh|| |- |2005||IOI 18||Ba Lan, Nowy Sącz||Phạm Hải Minh|| |- |2005||SEAMO 3||Malaysia, Penang|| Trần Đức Anh|| |- |2005||SEAMO 3||Malaysia, Penang|| Huỳnh Trung Anh|| |- |2005||SEAMO 3||Malaysia, Penang|| Hà Phương|| |- |2005||SEAMO 3||Malaysia, Penang|| Phạm Hoàng Lê|| |- |2005||IBO 16||Trung Quốc, Bắc Kinh||Lưu Thanh Thủy|| |- |2005||IBO 16||Trung Quốc, Bắc Kinh||Nguyễn Thị Kim Ngân|| |- |2006 |APhO 7 |Kazakhstan, Almaty |Đặng Sơn Tùng | |- |2006 |IBO 17 |Argentina, Rio Cuarto |Lưu Thanh Thủy | |- |2006||IBO 17||Argentina, Rio Cuarto||Phạm Duy|| |- |2006||IOI 18||México, Mérida||Nguyễn Trần Nam Khánh|| |- |2007||IBO 17||Canada, Saskatoon||Lê Thị Hồng Phong|| |- |2007||IPhO 38||Iran, Isfahan||Mai Thanh Tùng|| |- |2008 |APhO 9 |Mông Cổ, Ulaanbaatar |Nguyễn Đức Minh | |- |2008||IChO 40||Hungary, Budapest||Bùi Tuấn Linh|| |- |2008||IBO 19||Ấn Độ, Mumbai||Hà Kim Long|| |- |2008||IPhO 39||Việt Nam, Hà Nội||Nguyễn Đức Minh|| |- |2009||IBO 20||Nhật Bản, Tsukuba||Lê Thùy Dương|| |- |2009||IOI 21||Bulgaria, Plovdiv||Nguyễn Thanh An|| |- |2010||IPhO 41||Croatia, Zagreb||Phan Văn Trung|| |- |2010||IBO 21|| Hàn Quốc, Changwon||Bùi Thùy Anh|| |- |2011||IMO 52|| Hà Lan, Amsterdam||Đỗ Kim Tuấn|| |- |2011||IChO 43|| Thổ Nhĩ Kỳ, Ankara||Phạm Minh Đức|| |- |2011 |IJSO 8 |Nam Phi, Durban |Trần Minh Tuấn|| |- |2011 |IJSO 8 |Nam Phi, Durban |Vũ Đăng Minh Quân|| |- |2011 |IJSO 8 |Nam Phi, Durban |Lê Minh Đức|| |- |2011 |IJSO 8 |Nam Phi, Durban |Nguyễn Văn Minh|| |- |2011 |IJSO 8 |Nam Phi, Durban |Lương Việt Hoàng|| |- |2011 |IJSO 8 |Nam Phi, Durban |Hoàng Trọng Nam Anh|| |- |2012||IMO 53||Argentina, Mar del Plata||Nguyễn Hùng Tâm|| |- |2012||IChO 44||Hoa Kỳ, Washington DC||Nguyễn Việt Hoàng|| |- |2013||APhO 14||Indonesia, Bogor||Bùi Quang Tú|| |- |2013||APhO 14||Indonesia, Bogor||Trần Minh Vũ|| |- |2013||IPhO 44||Đan Mạch, Copenhagen||Bùi Quang Tú|| |- |2013||IBO 24||Thụy Sĩ, Bern||Nguyễn Nhật Anh|| |- |2013 |IJSO 10 |Ấn Độ, Pune |Lê Mạnh Tuấn|| |- |2013 |IJSO 10 |Ấn Độ, Pune |Đào Vũ Quang|| |- |2013 |IJSO 10 |Ấn Độ, Pune |Trần Nhật Quang|| |- |2013 |IJSO 10 |Ấn Độ, Pune |Phạm Quang Hiếu|| |- |2014 |APhO 15 |Singapore |Vũ Thanh Trung Nam|| |- |2014 |IPhO 45 |Kazakhstan, Astana |Vũ Thanh Trung Nam|| |- |2014||IChO 46||Việt Nam, Hà Nội||Phạm Mai Phương|| |- |2014||IChO 46||Việt Nam, Hà Nội||Phạm Ngân Giang|| |- |2014||IJSO 11||Argentina, Mendoza||Mai Đặng Quân Anh|| |- |2014 |IJSO 11 |Argentina, Mendoza |Đinh Anh Dũng | |- |2014 |IJSO 11 |Argentina, Mendoza |Nguyễn Đức Quang | |- |2014 |IJSO 11 |Argentina, Mendoza |Nguyễn Bằng Thanh Lâm | |- |2014 |IJSO 11 |Argentina, Mendoza |Nguyễn Minh Chính | |- |2014||APIO 8||Kazakhstan, Almaty||Trần Trọng Đạt|| |- |2014||RO||Nga, Moskva||Nghiêm Bá Trí|| |- |2015||APhO 16||Trung Quốc, Hàng Châu||Vũ Thanh Trung Nam|| |- |2015||IPhO 46||Ấn Độ, Mumbai||Vũ Thanh Trung Nam|| |- |2015||IChO 47||Azerbaijan, Baku||Đinh Tuấn Hoàng|| |- |2015||IChO 47||Azerbaijan, Baku||Phạm Thái Hà|| |- |2015||IJSO 12||Hàn Quốc, Daegu||Đỗ Lê Duy|| |- |2015||IJSO 12||Hàn Quốc, Daegu||Đỗ Hoàng Duy|| |- |2015||IJSO 12||Hàn Quốc, Daegu||Đỗ Thành Trung|| |- |2015||IJSO 12||Hàn Quốc, Daegu||Nguyễn Quốc Cường|| |- |2015||IJSO 12||Hàn Quốc, Daegu||Nguyễn Kim Chung|| |- |2016 |APhO 17 |Hồng Kông |Phạm Quang Minh | |- |2016||IMO 57||Hồng Kông||Đào Vũ Quang|| |- |2016||IPhO 47||Thụy Sĩ/Liechtenstein, Zurich||Phạm Quang Minh|| |- |2016||IBO 27||Việt Nam, Hà Nội||Lê Thị Hồng Hoa|| |- |2016 |IOAA 10 |Ấn Độ, Bhubaneswar |Trần Đức Huy | |- |2016 |IJSO 13 |Indonesia, Bali |Nguyễn Ngọc Đức | |- |2016 |IJSO 13 |Indonesia, Bali |Phan Minh Đức | |- |2016 |IJSO 13 |Indonesia, Bali |Nguyễn Nga Nhi | |- |2016 |IJSO 13 |Indonesia, Bali |Phạm Quốc Khánh | |- |2016 |IJSO 13 |Indonesia, Bali |Phan Hà Linh | |- |2017 |APhO 18 |Nga, Yakutsk |Đinh Anh Dũng | |- |2017||IMO 58||Brazil, Rio de Janeiro||Ngô Thanh Tùng|| |- |2017||IPhO 48||Indonesia, Yogyakarta||Đinh Anh Dũng|| |- |2017||IChO 49||Thái Lan, Nakhom Pathom||Nguyễn Bằng Thanh Lâm|| |- |2017 |IOAA 11 |Thái Lan, Phuket |Trần Đức Huy | |- |2017 |IOAA 11 |Thái Lan, Phuket |Nguyễn Tiến Nhân | |- |2017 |IJSO 14 |Hà Lan, Arnhem-Nijmegen |Lương Hiền Nga | |- |2017 |IJSO 14 |Hà Lan, Arnhem-Nijmegen |Đỗ Cao Minh Châu | |- |2017 |IJSO 14 |Hà Lan, Arnhem-Nijmegen |Nguyễn Đức Hiếu | |- |2017 |IJSO 14 |Hà Lan, Arnhem-Nijmegen |Lê Hoàng Minh | |- |2017 |IJSO 14 |Hà Lan, Arnhem-Nijmegen |Trần Khánh Vy | |- |2018||APhO 19||Việt Nam, Hà Nội||Trần Đức Huy|| |- |2018||IMO 59||Romania, Cluj-Napoca||Phan Minh Đức|| |- |2018 |IPhO 49 |Bồ Đào Nha, Lisboa |Trần Đức Huy | |- |2018 |IOAA 12 |Trung Quốc, Bắc Kinh |Trần Xuân Tùng | |- |2018 |IOAA 12 |Trung Quốc, Bắc Kinh |Hồ Phi Dũng | |- |2018 |IOAA 12 |Trung Quốc, Bắc Kinh |Nguyễn Tô Vĩnh Huy | |- |2018 |IOAA 12 |Trung Quốc, Bắc Kinh |Lê Trần Đạo | |- |2018 |IJSO 15 |Botswana, Gaborone |Nguyễn Mạnh Quân | |- |2018 |IJSO 15 |Botswana, Gaborone |Vũ Quỳnh Chi | |- |2018 |IJSO 15 |Botswana, Gaborone |Nguyễn Trần Mai Phương | |- |2018 |IJSO 15 |Botswana, Gaborone |Nguyễn Lê Thảo Anh | |- |2018 |IJSO 15 |Botswana, Gaborone |Ngô Thanh Tùng | |- |2018 |IJSO 15 |Botswana, Gaborone |Lã Triều Dương | |- |2019 |APhO 20 |Úc, Adelaide |Trần Xuân Tùng | |- |2019 |IPhO 50 |Israel, Tel Aviv |Trần Xuân Tùng | |- |2019 |IMO 60 |Anh, Bath |Phan Minh Đức | |- |2019 |IChO 51 |Pháp, Paris |Trần Bá Tân | |- |2019 |IOAA 13 |Hungary, Keszthely |Nguyễn Mạnh Quân | |- |2019 |IOAA 13 |Hungary, Keszthely |Trần Quang Vinh | |- |2019 |IOAA 13 |Hungary, Keszthely |Trịnh Nhật Huy | |- |2019 |IOAA 13 |Hungary, Keszthely |Hồ Phi Dũng | |- |2019 |IOAA 13 |Hungary, Keszthely |Nguyễn Lê Đức Hoàng | |- |2019 |IOAA 13 |Hungary, Keszthely |Nguyễn Hoàng Nam | |- |2019 |IOAA 13 |Hungary, Keszthely |Trần Khánh Nguyên | |- |2021 |APhO 21 |Đài Loan, Đài Bắc |Nguyễn Mạnh Quân | |- |2021 |APhO 21 |Đài Loan, Đài Bắc |Trần Quang Vinh | |- |2021 |APhO 21 |Đài Loan, Đài Bắc |Nguyễn Hoàng Nam | |- |2021 |IMO 62 |Nga, St. Petersburg |Đỗ Bách Khoa | |- |2021 |IPhO 51 |Lithuania, Vilnius |Nguyễn Mạnh Quân | |- |2021 |IPhO 51 |Lithuania, Vilnius |Trần Quang Vinh | |- | colspan="6" style="text-align:left;"|<small> Danh sách này chỉ bao gồm các giải thưởng có huy chương, không đề cập đến giải khuyến khích. Các kỳ thi không rõ địa điểm được đánh dấu "?" |} Năm 2001, tại kỳ thi Olympic Vật lý châu Á diễn ra tại Đài Bắc, Đài Loan, học sinh Bùi Lê Na đã giành giải đặc biệt dành cho thí sinh có cách làm bài thực hành sáng tạo nhất. Năm 2012, tại Hội thi Khoa học và Kỹ thuật Quốc tế Intel ISEF diễn ra tại Pittsburgh, Pennsylvania, Hoa Kỳ, ba học sinh của trường Hà Nội - Amsterdam đại diện cho Việt Nam là Trần Bách Trung, Bùi Thị Quỳnh Trang và Vũ Anh Vinh đã giành giải Nhất trong lĩnh vực Vật liệu và Kỹ thuật sinh học với đề tài "Xử lý nước mặn thành nước ngọt bằng kỹ thuật chân không và năng lượng Mặt Trời phục vụ cho sinh hoạt". Ðây là chiến thắng vang dội của đoàn Việt Nam tại sự kiện khoa học quốc tế được đánh giá là lâu đời và uy tín nhất thế giới dành cho học sinh trung học hiện nay. Năm 2018, tại kỳ thi Olympic Khoa học trẻ Quốc tế diễn ra tại Gaborone, Botswana, sáu học sinh của trường Hà Nội - Amsterdam đại diện cho Việt Nam đã giành được vị trí thứ ba chung cuộc, nhận Huy chương Đồng giải quốc gia xuất sắc nhất. Học sinh Nguyễn Mạnh Quân là thí sinh làm bài thi lý thuyết tốt thứ hai trong số tất cả các thí sinh, nhận Huy chương Bạc giải cá nhân xuất sắc nhất trong bài thi Lý thuyết. Nhóm thi thực hành gồm 03 học sinh: Nguyễn Lê Thảo Anh, Vũ Quỳnh Chi, Lã Triều Dương là nhóm làm bài thi thực hành xuất sắc nhất trong số tất cả các nhóm thi, nhận Huy chương Vàng giải nhóm thi thực hành xuất sắc nhất. Năm 2019, tại kỳ thi Olympic Hóa học Quốc tế diễn ra tại Paris, Pháp, học sinh Trần Bá Tân đã giành giải đặc biệt dành cho thí sinh làm bài thực hành tốt nhất. Năm 2019, tại kỳ thi Olympic Quốc tế về Thiên văn học và Vật lý Thiên văn diễn ra tại Keszthely, Hungary, học sinh Nguyễn Mạnh Quân đã giành giải đặc biệt dành cho thí sinh có điểm cao nhất cuộc thi (giải Nhất tuyệt đối). Năm 2021, tại kỳ thi Olympic Vật lý châu Á diễn ra tại Đài Bắc, Đài Loan, học sinh Nguyễn Mạnh Quân đã giành giải đặc biệt dành cho thí sinh có điểm cao nhất cuộc thi (giải Nhất tuyệt đối) và giải đặc biệt dành cho thí sinh có số điểm thực hành cao nhất cuộc thi. Sự việc liên quan Năm 2018, một nữ sinh của trường tố cáo anh rể là 1 MC của Đài Truyền hình Việt Nam bạo hành. Đầu năm 2022, môt nam sinh lớp 10 của Trường Hà Nội - Amsterdam nhảy lầu tự tử. Nam sinh để lại lá thư tuyệt mệnh được lan truyền trên mạng, làm dấy lên tranh luận về vấn đề áp lực học tập. Năm 2022, báo Thanh Niên (báo) đăng tin nhiều nhà khoa học nghi ngờ về sự trung thực của dự án nghiên cứu khoa học của hai học sinh trường Hà Nội - Amsterdam tham gia kỳ thi ViSEF do sử dụng nhiều kiến thức tương đương với kiến thức tiến sỹ của các trường đại học top đầu. Trước đó dự án này được cho là tự tiến hành bởi hai nam sinh này.
Dân trí có thể là: Dân trí là một tên của một tờ báo điện tử Việt Nam Dân trí là bài viết về trình độ văn hóa, xã hội, khoa học, chính trị... của một khu vực, vùng, dân tộc hay một quốc gia.
Bà Rịa là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Việt Nam. Địa lý Vị trí địa lý Thành phố Bà Rịa có tọa độ địa lý từ 10°30' đến 10°50' vĩ độ Bắc, từ 107°10' đến 107°17' kinh độ Đông, cách Thành phố Hồ Chí Minh 75 km về phía Đông Nam, cách thành phố Vũng Tàu 20 km về phía Nam. Địa giới hành chính thành phố Bà Rịa: Phía Đông giáp huyện Đất Đỏ Phía Đông Nam giáp huyện Long Điền Phía Tây và Tây Bắc giáp thị xã Phú Mỹ Phía Nam giáp thành phố Vũng Tàu Phía Bắc giáp huyện Châu Đức. Thành phố Bà Rịa có diện tích 91,46 km² với dân số tính đến năm 2022 là 235.192 người. Điều kiện tự nhiên Địa hình thành phố khá bằng phẳng, hơi dốc ở phía bắc. Thổ nhưỡng gồm hai loại đất chính là đất xám và đất đỏ bazan. Do nằm trong khu vực Đông Nam Bộ nên chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa chung của toàn khu vực, gồm 2 mùa rõ rệt gồm mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 5 và kéo dài đến tháng 10, mùa khô thường bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình trong năm từ khoảng 25,4°C đến 27,2°C. Hành chính Thành phố Bà Rịa có 11 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 8 phường: Kim Dinh, Long Hương, Long Tâm, Long Toàn, Phước Hiệp, Phước Hưng, Phước Nguyên, Phước Trung và 3 xã: Hòa Long, Long Phước, Tân Hưng. Lịch sử Dưới thời nhà Nguyễn, Bà Rịa là phủ lỵ của phủ Phước Tuy, tỉnh Biên Hòa. Năm 1876, thực dân Pháp thành lập hạt tham biện Bà Rịa trên cơ sở huyện Phước An thuộc phủ Phước Tuy của tỉnh Biên Hòa. Năm 1900, các hạt tham biện lại đổi thành tỉnh; tỉnh lỵ tỉnh Bà Rịa đặt tại làng Bà Rịa, tổng An Phú Hạ. Thời Việt Nam Cộng hòa, tỉnh Phước Tuy được thành lập trên cơ sở tỉnh Bà Rịa cũ và thị xã Vũng Tàu. Lúc này, xã Phước Lễ vừa là quận lị quận Châu Thành Phước Tuy (sau đổi thành quận Long Lễ), vừa là tỉnh lỵ tỉnh Phước Tuy. Sau năm 1975, xã Bà Rịa thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Nai. Ngày 8 tháng 12 năm 1982, xã Bà Rịa chuyển thành thị trấn Bà Rịa - thị trấn huyện lỵ huyện Châu Thành. Địa giới hành chính thị trấn Bà Rịa khi đó phía đông giáp xã Long Điền, huyện Long Đất, phía tây giáp xã Long Hương, phía bắc giáp xã Hòa Long, phía nam giáp đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo. Ngày 2 tháng 6 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 45-CP thành lập thị xã Bà Rịa trên cơ sở tách ra từ huyện Châu Thành và hoạt động từ ngày 15 tháng 8 năm 1994, gồm 5 phường: Phước Hưng, Phước Hiệp, Phước Nguyên, Long Toàn, Phước Trung (thành lập trên cơ sở giải thể thị trấn Bà Rịa cũ) và 3 xã: Long Hương, Hòa Long, Long Phước. Ngày 22 tháng 10 năm 2002, chia xã Long Hương thành 2 phường: Long Hương và Kim Dinh. Ngày 27 tháng 6 năm 2005, chia phường Phước Hưng thành phường Phước Hưng và xã Tân Hưng; chia phường Long Toàn thành 2 phường: Long Toàn và Long Tâm. Ngày 16 tháng 4 năm 2007, thị xã Bà Rịa được công nhận là đô thị loại III. Ngày 2 tháng 5 năm 2012, trung tâm hành chính của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu được chuyển từ thành phố Vũng Tàu về thị xã Bà Rịa. Ngày 22 tháng 8 năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 43/NQ-CP chuyển thị xã Bà Rịa thành thành phố Bà Rịa. Thành phố Bà Rịa có 8 phường và 3 xã như hiện nay. Ngày 27 tháng 11 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 2130/QĐ-TTg công nhận thành phố Bà Rịa là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Kinh tế Cơ cấu kinh tế trên địa bàn thành phố: Công nghiệp – Xây dựng chiếm 62,59%; Dịch vụ - Thương mại chiếm 34,07%, Nông nghiệp – Thủy sản chiếm 3,33%. Nông nghiệp – Thủy sản: Tại thành phố, một số hoạt động nông nghiệp có thể kể đến như trồng cà phê, cao su, điều, cây ăn quả. Năm 2012, giá trị sản xuất nông nghiệp tính theo giá hiện hành 341,9 tỷ đồng. Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp: Năm 2012, toàn ngành có 822 cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, tạo việc làm cho 7.732 lao động. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp theo giá hiện hành 2.441,8 tỷ đồng. Sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn thành phố ổn định và phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hầu hết các doanh nghiệp Trung ương, tỉnh đã đầu tư công nghệ mới vào sản xuất kể cả khâu lao động kỹ thuật. Sản lượng các sản phẩm công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp như đá xây dựng, điện, nước, cửa sắt, … có sự tăng trưởng cả về chất lượng lẫn số lượng. Đội ngũ công nhân và người lao động được đa dạng hóa về ngành nghề để phù hợp với nền kinh tế nhiều thành phần. Thương mại - Dịch vụ: Năm 2012, trên địa bàn thành phố có 3.700 cơ sở kinh doanh thương mại - dịch vụ, giải quyết việc làm cho 7.171 lao động. Tổng doanh thu thương mại – dịch vụ 5.345 tỷ đồng; trong đó doanh thu thương mại 3.120 tỷ đồng, doanh thu dịch vụ 2.225 tỷ đồng. Giao thông - Vận tải: Là đầu mối giao thông đường bộ quan trọng của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, có vai trò kết nối các đô thị trong hệ thống đô thị hành lang QL51 của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam như thành phố Biên Hòa - Nhơn Trạch - Đô thị mới Phú Mỹ với thành phố Vũng Tàu, đồng thời do Bà Rịa có vị thế là tâm điểm của 03 tuyến Quốc lộ quan trọng là QL51, QL56, QL55 nên thành phố còn là trung tâm kết nối vùng trung du Đông Nam Bộ, có thể tiếp cận với hệ thống cảng biển đang phát triển của Vũng Tàu và Phú Mỹ. Đã thực hiện các thủ tục chuyển đổi chức năng Bến xe khách Bà Rịa và Trung tâm thương mại Bà Rịa thành khu chức năng siêu thị và là chợ đầu mối của tỉnh. Hiện nay trên địa bàn thành phố Bà Rịa đã và đang hình thành một số khu đô thị mới như khu đô thị Cinderella Residences, khu đô thị Barya City, khu đô thị Kim Dinh, khu đô thị Lan Anh Residential, Khu đô thị Golden Land Center City,... Địa điểm tham quan và du lịch Thành phố Bà Rịa có một vài địa điểm lịch sử hoặc cảnh đẹp như: Nhà thờ chính tòa Bà Rịa, Nhà Tròn Bà Rịa, Địa đạo Long Phước, Công viên Quảng trường Bà Rịa, các quán cà phê đẹp,... Đặc sản Bà Rịa Tại Bà Rịa các du khách có thể tìm đến các món ăn ngon, dân dã như: Bánh canh Long Hương, Mắm bằm, Măng Là A, Rượu nếp Hoà Long,... Giao thông Có quốc lộ 51, quốc lộ 55, quốc lộ 56 và đường cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu đi qua. Chú thích
Sân bay Vũng Tàu là một sân bay trực thăng và dân sự ở gần trung tâm thành phố Vũng Tàu. Điều kiện sân bãi Sân bay có 2 đường băng. Đường băng 36/18 dài 1800 m, có thể tiếp nhận các loại máy bay nhỏ như DC-3 và An-38. Đường băng 30/12 dài 1200m dùng cho trực thăng. Khai thác Hiện tại, sân bay này đang được Công ty Trực thăng Miền Nam (Bộ Quốc phòng) quản lý và khai thác cho các chuyến bay trực thăng phục vụ các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí. Trước đây, hãng VASCO có khai thác các chuyến bay chở khách đến đây, nhưng đã tạm ngừng chỉ sau một thời gian ngắn do sân bay không đáp ứng được về điều kiện sân bãi.
Thiên đàng (chữ Hán: 天堂) hay Thiên giới (天界), Thiên quốc (天國), Thượng giới (上界),... là những khái niệm được mô tả trong nhiều tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau trên thế giới, nhằm chỉ đến một thế giới vượt trên thế giới hiện thực của loài người, là nơi cư ngụ của đấng tối cao và các vị thần tiên quyền năng, nơi chỉ toàn sự hạnh phúc, sung sướng và tuổi thọ vĩnh cửu. Những khái niệm Trong khi hiện hữu vô số các khái niệm khác nhau về Thiên đàng thì quan niệm tiêu biểu của những người tin vào Thiên đàng thường phụ thuộc vào truyền thống tôn giáo riêng biệt của họ. Các tôn giáo khác nhau miêu tả Thiên đàng là nơi chốn dành cho Thiên thần, các nam và nữ thần, cũng như các vị anh hùng (nhất là trong Thần thoại Hi Lạp). Thiên đàng thường được hiểu là nơi chốn của phước hạnh, đôi khi được hiểu là chỗ ở phước hạnh vĩnh cửu. Những người tin vào thiên đàng cho rằng thiên đàng (hoặc Hoả ngục) là chỗ ở của nhiều người hoặc toàn thể nhân loại. Trong một số trường hợp, có những người, theo truyền thuyết hoặc theo lời chứng, có những trải nghiệm cá nhân giúp hiểu biết về Thiên đàng. Họ tin rằng những trải nghiệm họ có được là để thuật lại cho người khác biết về sự sống, Thiên đàng và Thiên Chúa. Trong phần lớn các giáo hội thuộc cộng đồng Kitô giáo, Thiên đàng là sự trở lại tình trạng trước khi sa ngã của loài người, sự tái lập Vườn Eden, ở đó con người được tái hợp với Thiên Chúa trong tình trạng toàn hảo và tự nhiên của sự sống đời đời. Kitô hữu tin rằng sự tái hợp này giữa con người và Thiên Chúa được hoàn tất qua sự hi sinh của Chúa Giê-su Kitô khi ngài chết trên thập tự giá vì tội lỗi của loài người. Quan niệm phổ biến của hầu hết các tôn giáo là khi vừa lìa đời, con người sẽ bước ngay vào thiên đàng. Tuy nhiên, không phải tất cả Kitô hữu chia sẻ niềm tin này. Nhiều người trong cộng đồng Kitô giáo tin rằng trước khi vào thiên đàng cần phải chờ đợi "cho đến khi thế gian này qua đi". Trong Thần học Kitô giáo, có hai khái niệm hỗ tương về thiên đàng thường được gọi là "sự sống lại của thân xác" và "sự bất diệt của linh hồn". Trong khái niệm đầu, linh hồn sẽ không lên Thiên đàng cho đến khi có sự phán xét sau cùng là lúc thân xác được hồi sinh và mọi người chịu xét xử. Trong khái niệm sau, linh hồn lên thẳng thiên đàng sau khi chết. Cả hai khái niệm này được kết hợp trong học thuyết hai lần phán xét, theo đó linh hồn chịu phán xét lần đầu sau khi chết để vào ở một nơi phước hạnh tạm thời (paradise) trong khi chờ đợi sự phán xét lần thứ hai trong ngày Tận thế. Điều kiện Các tôn giáo trình bày những quan điểm khác nhau về điều kiện cần có để vào Thiên đàng, nhưng hầu hết đều cho rằng cần có một cuộc sống "thiện hảo" (theo ý nghĩa của các hệ thống tâm linh). Một ngoại lệ quan trọng là niềm xác tín của cộng đồng Kháng Cách, dựa trên tín lý Duy Đức tin (sola fide), nhấn mạnh đến đức tin chấp nhận Chúa Giê-su Kitô là Đấng gánh thay tội lỗi cho con người là điều kiện tiên quyết, thay vì tập chú vào những việc lành đã làm hoặc những tội lỗi đã phạm trong cuộc sống (Xem Năm Tín lý Duy nhất). Nhiều tôn giáo tin rằng nếu không được lên Thiên đàng thì phải xuống hoả ngục, nơi chốn của sự trừng phạt. Có một thiểu số (những người chấp nhận thuyết phổ độ - universalism) tin rằng mọi người đều sẽ vào Thiên đàng, bất kể người ấy đã sống như thế nào trên đất. Thuyết Phổ độ nói rằng, chúng ta đều biết là trên chín tầng mây có Thiên đàng còn dưới lòng đất chẳng có gì cả vì lòng đất không có không khí, tối như mực, nhiệt độ lại quá cao không gì có thể ở được. Những người sinh thời sống tốt khi chết đi sẽ lên Thiên đàng, thành hồn ma tốt còn những người sinh thời sống không tốt khi chết đi vẫn lên thiên đàng, thành hồn ma xấu. Những người không tôn giáo có vẻ đều tin vào thuyết này và họ tin rằng, họ đang cần có phước hạnh vĩnh cửu. Theo niềm tin của họ, hỏa ngục (tức địa ngục) cùng ma quỷ chỉ là mê tín, vì dưới lòng đất chẳng có gì và nhiệt độ quá cao.1 ngày ở thiên đàng bằng 2700 năm ở dưới trần thế Cơ Đốc giáo Chính Thống giáo Giáo huấn của các cộng đồng Cơ Đốc giáo Đông phương về Vương quốc Thiên đàng, hoặc Vương quốc của Thiên Chúa, lập nền trên Kinh Thánh, do đó bao gồm nhiều yếu tố đồng thuận với quan điểm của các giáo phái Cơ Đốc khác. Một số miêu tả về Vương quốc này có thể liệt kê khái quát như sau: Sống an bình trong Đất Mới - Is. 2:2-4, 9:7, 11:6-9, 27:13, 32:17-18, 33:20-21, 60:17-18, Ez. 34:25-28, 37:26, Zech 9:10, Matt. 5:3-5, Rev. 21 Sự cai trị đời đời của Vua là Đấng Messiah - Ps. 72, Jer 31:33-34, Zech 2:10-11, 8:3, 14:9, Matt 16:27, Rev 21:3-4 Hậu duệ của Vua David, Is. 9:6-7, 11:1-5 Sự Toàn hảo của Thân xác - Không còn đói, khát, sự chết hoặc bệnh tật.... - Is. 1:25, 4:4, 33:24, 35:5-6, 49:10, 65:20-24, Jer. 31:12-13, Ez. 34:29, 36:29-30, Micah 4:6-7, Zeph. 3:9-19, Matt 13:43 Những thành đổ nát nay đông đảo cư dân và bầy chiên - Is. 32:14, 61:4-5, Ez. 36:10,33-38, Amos 9:14 Kháng Cách Theo dòng lịch sử, một trong những nguyên nhân chia cắt Cơ Đốc giáo là các quan điểm dị biệt về điều kiện được vào thiên đàng. Từ thế kỷ 16 đã hiện hữu ba quan điểm của ba trào lưu Cơ Đốc chính yếu: Công giáo Rôma, Chính Thống giáo và Kháng Cách. Tín hữu Công giáo tin rằng sau khi chết cần phải vào Ngục luyện tội (Purgatory) để được thanh tẩy tội lỗi rồi mới có thể vào thiên đàng, nhưng quy trình này chỉ hiệu quả với các loại "khinh tội" (tội nhẹ). Nhiều tín hữu Anh giáo chấp nhận xác tín này mặc dù nguồn gốc lịch sử của họ với đức tin Kháng Cách. Tuy nhiên, Giáo hội Chính Thống tin rằng chỉ có Thiên Chúa là Đấng có tiếng nói sau cùng quyết định ai là người sẽ vào thiên đàng. Theo đức tin Chính Thống giáo, thiên đàng nên được hiểu là sự hiệp nhất và tương giao mật thiết với Thiên Chúa Ba Ngôi. Như vậy, thiên đàng trong trải nghiệm của tín hữu Chính Thống giáo là một thực tế có thể được nhận biết và nếm trải ngay trong đời này bằng cách tham dự vào thân thể của Chúa Cơ Đốc, Hội thánh, và sau đó trong cõi vĩnh hằng. Theo đức tin Kháng Cách, điều kiện vào thiên đàng hoàn toàn phụ thuộc vào hành động chấp nhận ân điển của Thiên Chúa, qua đức tin trông cậy vào Chúa Giê-xu. Thần học Kháng Cách tập chú vào sự kiện Chúa Giê-xu chết trên thập tự giá, gánh chịu sự trừng phạt vì tội lỗi của thế gian. Trái với quan điểm Công giáo (được xác nhận và miêu tả tại Công đồng Trent vào thế kỷ 16), hầu hết tín hữu Kháng Cách tin rằng sự cứu rỗi có được chỉ bởi ân điển của Thiên Chúa, chỉ do đức tin tiếp nhận Chúa Cơ Đốc ("sola gratia, sola fide" - xem Năm Tín lý Duy nhất), mà không bởi việc lành cũng không bởi việc gia nhập một tổ chức giáo hội nào. Vì vậy, bất cứ ai, bởi đức tin, chân thành tiếp nhận Chúa Cơ Đốc và nài xin sự tha thứ của Thiên Chúa, sẽ được thanh tẩy mọi tội lỗi và được bảo chứng chắc chắn sự sống vĩnh cửu trong thiên đàng. Theo quan điểm Kháng Cách, nếp sống thiện hảo là kết quả tất yếu của cuộc sống đã được tái sinh trong ân điển, bởi sự vận hành của Chúa Thánh Linh. Có sự phân nhánh trong thần học Kháng Cách, chủ yếu là thuộc về hai trào lưu: hệ tư tưởng Calvin và hệ tư tưởng Arminus. Thần học Calvin tin rằng một người được cứu rỗi (vào thiên đàng) là do sự tiền định của Thiên Chúa – nghĩa là mọi tín hữu Cơ Đốc đều đã được chọn từ thuở ban đầu để nhận lãnh sự cứu rỗi. Đức tin tiếp nhận Chúa Cơ Đốc là điều căn cốt, nhưng có được đức tin là bởi người ấy đã được chọn bởi Thiên Chúa. Trong khi đó, Thần học Arminus chấp nhận một hình thức dung hoà hơn của học thuyết tiền định, theo đó, một người, bởi ý chí tự do, có thể quyết định tiếp nhận Chúa Cơ Đốc hay không mà không có sự can thiệp từ quyền lực thần thượng. Tuy nhiên, có những quan điểm trung dung được chấp nhận rộng rãi trong cộng đồng Kháng Cách, được quảng bá bởi những nhân vật có ảnh hưởng lớn như John Wesley (thuộc thần học Arminius) và Charles Finney (thần học Calvin). Những người chỉ trích thần học Kháng Cách cho rằng có sự mâu thuẫn giữa ý tưởng một người có thể được cứu rỗi do sự chọn lựa đặt niềm tin vào Chúa Cơ Đốc với ý niệm cho rằng Thiên Chúa đã chọn trước một số người để hưởng thiên đàng. Song, cả Sứ đồ Phao-lô và Polycarp đều không cho là có bất cứ mâu thuẫn nào giữa quyền tể trị của Thiên Chúa và khả năng của con người để lĩnh hội và chấp nhận ân điển. Nhiều tín hữu Kháng Cách cho rằng cả hai ý niệm này đều được luận giải rõ ràng trong Kinh Thánh: sự cứu rỗi đời đời để được ở cùng Thiên Chúa trong thiên đàng là ân điển thiên thượng được ban cho bởi Thiên Chúa, dành sẵn cho "bất cứ ai" muốn tiếp nhận Chúa Giê-xu để được cứu rỗi. Song hành với xác tín cho rằng sự sống đời đời ở thiên đàng là sự ban cho của Thiên Chúa bởi đức tin tiếp nhận Chúa Cơ Đốc, tín hữu Kháng Cách tin rằng một người tiếp tục nếp sống tội lỗi chắc chắn sẽ bị khước từ khỏi thiên đàng; họ tin rằng chỉ dùng lời nói để bày tỏ đức tin vào Chúa Cơ Đốc là không đủ, nhưng cần phải tuân giữ giáo huấn của ngài cũng như phải sống cuộc đời tốt lành và xứng hiệp với đức tin. Bởi vì Kinh Thánh dạy rằng ngay cả ma quỷ cũng "tin" Chúa Giê-xu, nhưng ma quỷ không thể vào thiên đàng. Có đức tin thật nghĩa là xưng nhận mọi tội lỗi và tin rằng chỉ có Chúa Cơ Đốc, đấng đã chết để chuộc tội cho con người, là Đấng cứu rỗi và ban cho sự sống đời đời ở thiên đàng. Đối với tín hữu Kháng Cách, bất tuân Thiên Chúa và theo đuổi nếp sống tội lỗi là một minh chứng hoặc của sự không chân thật khi xưng nhận đức tin, hoặc của sự "sa ngã" sau khi xưng nhận đức tin. Hebrew 6. 4-8 được dùng để hỗ trợ luận điểm cho rằng những người "đã được cứu" có thể bị sa ngã và vuột mất ân điển, trong khi Giăng (hoặc Gioan) 10. 27-30 ký thuật lời Chúa Giê-xu hứa rằng không ai có thể cướp giật khỏi tay Thiên Chúa những người đã tiếp nhận Chúa Giê-xu và trung tín bước đi trong sự dẫn dắt của ngài. Sự khác biệt giữa thần học Công giáo và thần học Kháng Cách là trong khi Giáo hội Công giáo dạy rằng một người được vào thiên đàng là bởi đức tin vào Chúa Giê-xu và bởi cuộc sống xứng hiệp và tốt lành, thần học Kháng Cách tin rằng sự cứu rỗi có được chỉ bởi ân điển qua đức tin trông cậy vào thân vị và công đức của Chúa Giê-xu, và một tín hữu thật là người thật tâm muốn thay đổi nếp sống và bước đi trong sự thánh khiết. Thiên đàng cũng là chủ đề thú vị trong hệ tư tưởng Cơ Đốc, ấy là sự phục sinh của thân xác hiện diện trong khái niệm về đời sau. Giai đoạn trung gian (giữa sự chết và sự phục sinh) vẫn không được luận giải rõ ràng. Tuy nhiên, tình trạng sau cùng của tín hữu là một thân xác mới, hồi sinh và không còn bị rữa nát, sống trong thành Jerusalem mới. Linh hồn và thân xác sẽ không bao giờ bị tách rời. Cái chết không còn là phần tất yếu của sự sống, bởi vì sự chết đã đến sau hành động bất tuân của Adam và Eva đối với Thiên Chúa (xem nguyên tội) đến nỗi nhân loại đánh mất sự sống vĩnh cửu và sống trong tình trạng tội lỗi, nghĩa là bị phân cách với Thiên Chúa. "hê basileia tou ouranou" trong Hi văn thường được dịch là "Vương quốc Thiên đàng", theo nghĩa đen là "quyền cai trị của các tầng trời", ở đây "các tầng trời" nghĩa là Thiên Chúa. Nhiều người tin rằng "sản nghiệp" của thiên đàng là phi vật chất; phước hạnh ở đây là vĩnh hằng, không hề hư nát, không bị hủy diệt cũng không thể bị tước đoạt. Sau khi chết, người được cứu sẽ được hưởng những phước hạnh như được ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa (Khải Huyền 22. 3-4), vắng bóng sự đau đớn và buồn khổ (Khải Huyền 21.4). Hơn nữa, ngay trong đời này họ cũng có thể hưởng những phước hạnh tương tự như sự bình an (Philippians 4.7), và lòng vui thỏa (Giăng 16. 22). Công giáo Theo giáo lý Công giáo, thiên đàng là nơi ngự trị của Thiên Chúa, Đức Mẹ, các thiên sứ, và các thánh. Theo giáo lý Đức Mẹ Hồn Xác lên Trời, Mẹ Đồng trinh "sau khi hoàn tất công việc của Mẹ trên đất, hồn và xác được đem vào thiên đàng vinh hiển", điều này ngụ ý thiên đàng là nơi ở cho cả phần hồn lẫn phần xác. Giáo huấn Công giáo về thiên đàng được trình bày trong Giáo lý của Giáo hội Công giáo: "Những ai chết trong ân điển và tình bằng hữu của Thiên Chúa được thanh tẩy hoàn toàn và sống đời đời... Sự sống trọn vẹn này với Thiên Chúa... được gọi là thiên đàng. Đó là mục tiêu tối hậu và là sự ứng nghiệm đầy trọn những khao khát sâu xa nhất của con người, đó là tình trạng phước hạnh tuyệt đối và vĩnh hằng." Sau khi chết, mỗi linh hồn phải đối diện với "sự phán xét đặc biệt" để hoặc sẽ vào thiên đàng sau khi ở Luyện ngục (Purgatory), hoặc vào thẳng thiên đàng, hoặc vào Hỏa ngục. Ý niệm này khác với quan điểm "sự phán xét chung" hoặc "sự phán xét sau cùng" khi Chúa Cơ Đốc trở lại để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Nhiều giáo dân Công giáo Rôma tin rằng Tổng lãnh Thiên thần Micae đem các linh hồn lên thiên đàng, cũng phổ biến xác tín cho rằng Thánh Phêrô chào đón các linh hồn ngay tại "Cửa thiên đường" dựa trên niềm tin Chúa Kitô giao cho Thánh Phêrô - là giáo hoàng đầu tiên theo niềm tin Công giáo - chìa khóa thiên đàng. Thiên đàng là nơi chốn dành cho những ai đã được thanh tẩy, người chết trong tội lỗi không được phép vào. "Những ai chết trong ân sủng và tình bằng hữu của Thiên Chúa và được thanh tẩy hoàn toàn sẽ sống đời đời với Chúa Kitô. Họ đời đời giống Thiên Chúa, vì họ "nhìn thấy Ngài" mặt đối mặt." (Giáo lý Giáo hội Công giáo 1023) "Những ai chết trong ân sủng và tình bằng hữu của Thiên Chúa và được thanh tẩy không trọn vẹn, dù không được chắc chắn sự cứu rỗi đời đời, phải trải qua sự thanh tẩy sau khi chết, cũng sẽ đạt được sự thánh khiết cần thiết để bước vào sự vui thoả của Thiên Chúa." (Giáo lý Giáo hội Công giáo 1054). Nếu một người chịu rửa tội đúng cách, khi chết người ấy sẽ lên thiên đàng (theo đức tin Công giáo Rôma, thánh lễ rửa tội (báp têm) xoá sự trừng phạt hiện thời hay vĩnh cửu của mọi tội). Nếu một người không bao giờ phạm trọng tội, trong khi đã được xoá các khinh tội trước khi chết, người ấy sẽ vào thiên đàng. Song, đa phần sẽ vào thiên đàng sau khi qua Luyện ngục (hoặc "nơi thanh tẩy"). Trong Luyện ngục, linh hồn phải chịu trừng phạt vì những tội đã phạm khi còn sống, nhưng không phải luôn luôn như vậy. Nếu một người dự thánh lễ, xưng tội đúng cách, cũng như đã được đại xá (plenary indulgence), sau khi chết sẽ vào thiên đàng. Có nhiều cách để được đại xá, chiếu theo các thánh chỉ của Giáo hoàng. Để được đại xá, cần phải dự thánh lễ xưng tội đúng cách, ăn năn, dự Bí tích Thánh thể đúng cách, đọc một số lần các kinh như Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh và làm số công đức. Hơn nữa, người ấy cần phải giữ mình khỏi mọi tội, trọng tội cũng như khinh tội, trong khi thực thi những điều này. Nhiều người tin rằng họ cần phải nhận lãnh sự toàn xá để khỏi phải ở lâu trong ngục luyện tội trong khi những giáo dân bất đồng khác cho rằng nếu có thể tránh xa mọi tội lỗi thì không cần phải được đại xá. Hồi giáo Xem thêm: Jannah Ấn giáo Trong Ấn giáo, cõi trời được gọi với cái tên devaloka (), là nơi các vị thần và thiên thần cư ngụ. Các devaloka thường được mô tả là những nơi có ánh sáng và sự tốt lành vĩnh cửu, tương tự như khái niệm về Thiên đường trong các tôn giáo khác. Tín ngưỡng Ấn giáo rất rộng lớn và đa dạng, do đó Ấn giáo thường được coi là một nhóm các tôn giáo hơn là một tôn giáo duy nhất. Tùy mỗi nhánh Ấn giáo, những cư ngụ của các vị thần có thể được gọi bằng những cái tên khác nhau, như Svarga, nhưng hầu hết đều dùng devaloka. Trong các truyền thống Ấn giáo, devaloka được hiểu là một bình diện tồn tại tạm thời do thiện nghiệp của một người, hoặc một bình diện tồn tại vĩnh viễn đạt được khi một người đạt được viên mãn. Ở khái niệm thứ nhất, hầu hết, devaloka được coi là điểm dừng chân dẫn đến đích đến cuối cùng là thiên đường vĩnh cửu. Những cõi cao hơn này bao gồm Vishnuloka (Vaikuntha), Brahmaloka (Satyaloka) và Sivaloka (Kailasa), những nơi hợp nhất với các vị thần tối cao Vishnu, Brahma và Shiva. Theo đó, nơi devaloka được hiểu là tạm thời, một người phải tái sinh trở lại trần gian để trở nên tốt hơn, tu tập nhiều hơn và do đó đạt được sự giải thoát (moksha). Khi đạt được moksha, bất kỳ cuộc sống nào khác trở nên không cần thiết và người sẽ không tái sinh nữa, từ đó đạt đến thiên đường vĩnh cửu. Phật giáo Trong Phật giáo, khái niệm cõi trời cũng lấy từ devaloka của Ấn giáo, được xem là nơi ở của chư thiên Phật giáo. Các thế giới của các chư thiên khác nhau rất nhiều tùy thuộc vào bản chất của cư dân của họ. Trong Phật giáo Đông Á, thường dùng khái niệm Thiên giới (天界), hoặc Đề-bà giới (提婆界; phiên âm từ devaloka), để chỉ một trong sáu cõi luân hồi. Theo đó, nếu như một người siêng năng hành thiện nghiệp, sau khi chết đi sẽ được lên thiên giới để được thụ hưởng sung sướng. Truyền thống Phật giáo Đông Á tin rằng có hai mươi tám tầng trời (二十八天; Nhị thập bát thiên), nhưng khái niệm "28 tầng trời" lại không được đề cập rõ ràng trong kinh điển. Những vị thần hộ pháp trong Phật giáo thường được ghi nhận sống ở tầng trời thứ 20 hoặc 24. Đạo giáo Xem thêm: Thiên đình Chú thích
Thiên đường có thể là: khái niệm về đời sau được tìm thấy trong nhiều tôn giáo và các tác phẩm triết học. Xem thiên đàng. nơi hạnh phúc hoặc vui thích đặc biệt, là nơi ở của những người tốt khi họ qua đời. Xem thiên đường (paradise) một bộ phim truyền hình Thái Lan đạt ratings cao nhất của đài CH3 năm 2008. Xem thiên đường tội lỗi quốc gia hoặc vùng lãnh thổ mà không đánh thuế hoặc lấy thuế rất thấp tính trên thu nhập hoặc tài sản. Xem thiên đường thuế một thiên sử thi bằng thơ không vần (blank verse) của John Milton. Xem thiên đường đã mất một bộ phim truyền hình Hàn Quốc dài 85 tập phát sóng trên VTV3 năm 2007. Xem Thiên đường tình yêu một họ trong bộ Sẻ, xem họ Thiên đường. Không nhầm lẫn với một họ trong phân thứ bộ Quạ, xem họ Chim thiên đường
Ngoại tình () là từ ngữ dùng để đề cập đến việc một người đã kết hôn có tình cảm như vợ chồng với người khác không phải là người vợ chồng chính thức của họ. Từ một góc độ khác, từ này cũng áp dụng cho một người độc thân có quan hệ tình dục với một người đã kết hôn. Việc ngoại tình thường được liên hệ với các cá nhân có ham muốn tình dục nhiều hơn người bạn đời của họ. Mặc dù các hoạt động tình dục cấu thành việc ngoại tình khác nhau, cũng như các hậu quả xã hội, tôn giáo và pháp lý song khái niệm này vẫn còn tồn tại trong nhiều nền văn hóa và tương tự trong các tôn giáo như Cơ đốc giáo, Do Thái giáo và Hồi giáo. Khi việc ngoại tình vi phạm chuẩn mực xã hội, nó có thể bị gọi là gian dâm, thông gian, không chung thủy, hay có bồ bịch. Các thuật từ này có thể hàm ý các hậu quả luân lý trong luật dân sự hoặc tôn giáo.Ngoại tình được nhiều cơ quan tài phán coi là xúc phạm đạo đức công cộng, phá hoại mối quan hệ hôn nhân. Tổng quát Trong lịch sử, nhiều nền văn hóa coi việc ngoại tình là một tội lỗi rất nghiêm trọng, một số người phải chịu hình phạt nghiêm khắc, thường là đối với phụ nữ và đôi khi đối với đàn ông với các hình phạt bao gồm tử hình, cắt xẻo hoặc tra tấn. Những hình phạt như vậy dần dần trở nên không thiện cảm, đặc biệt là ở các nước phương Tây từ thế kỷ 19. Ở những quốc gia mà ngoại tình vẫn là một tội hình sự, các hình phạt từ phạt tiền đến phạt tù và thậm chí tử hình. Kể từ thế kỷ 20, luật hình sự chống ngoại tình đã trở nên gây tranh cãi, với hầu hết các nước phương Tây đều coi thường tội ngoại tình. Ngoại tình hầu như luôn là cơ sở để ly hôn và có thể là một yếu tố trong việc giải quyết tài sản, quyền nuôi con, từ chối cấp dưỡng, v.v. ., Tên gọi Ngoại tình đôi khi chỉ nói về quan hệ tình yêu nói chung, từ cấp độ thấp nhất là có tình cảm với nhau. Trong một số trường hợp, khi hai người có quan hệ ngoài hôn nhân có quan hệ tình dục cũng được gọi là "ngoại tình" mà không dùng từ "thông gian" hay "thông dâm" để khái quát và giảm nhẹ mức độ mô tả. Hậu quả xã hội Ngoại tình có thể dẫn tới những hậu quả xã hội sau: Làm tan vỡ hạnh phúc gia đình do mối quan hệ bị tác động mạnh nhất là vợ-chồng (vợ đánh ghen chồng và ngược lại), tiếp đến là quan hệ giữa cha-con và mẹ-con (con căm ghét cha/mẹ hoặc bắt chước cha/mẹ trong tương lai). Hạnh phúc sẽ được hàn gắn trở lại nếu người ngoại tình thực sự muốn tiếp tục gắn bó với người kia, đồng thời người kia bỏ qua lỗi lầm cho người ngoại tình và bản thân người ngoại tình cũng đã cảm thấy hối hận, hứa sẽ không tái phạm để giữ vững hạnh phúc gia đình hiện có và sau này. Dẫn đến những vụ ly hôn. Sự không chung thủy của vợ/chồng hoặc cả hai vợ chồng chính là nguyên nhân dẫn đến việc cả hai tiến tới ly hôn. Có không ít trường hợp, những người sau khi đi ngoại tình rồi thì lại quyết định ly hôn với vợ/chồng hiện tại để tái hôn với người tình mới, lập gia đình mới. Đi ngoại tình còn có thể dẫn đến việc những đứa con ngoài giá thú được sinh ra. Những người con này về sau luôn bị mang tiếng xấu chỉ vì là "kết quả của mối tình vụng trộm giữa cha/mẹ và bồ mới của họ" Quan niệm Tại các nước, ngoại tình thường là hành vi bị lên án. Pháp luật các nước có mức xử phạt khác nhau với hành vi này, có những nước chỉ cảnh cáo hoặc phạt tiền, có những nước phạt hình sự (ngồi tù), thậm chí một số nước có án tử hình với tội này. Ở Việt Nam, nhìn chung, ngoại tình vẫn đang là vấn đề bị lên án ở xã hội hiện nay nhưng một số đàn ông Việt Nam cho đó là bình thường, bởi với họ chuyện ngoài luồng thường là để giải tỏa cảm xúc chứ ít khi là tình yêu. Theo một kết quả nghiên cứu về tình dục của nam giới Việt Nam do Viện Nghiên cứu phát triển xã hội (ISDS) được thực hiện với 5.300 người (trong đó 2.400 nam và 2.900 nữ) trong độ tuổi từ 18- 65 tại 11 tỉnh, thành phố trên toàn quốc cho thấy số bạn tình được một người đàn ông tiết lộ ở con số kỷ lục là trên 200 người.
Chris Columbus có thể chỉ đến: Chris Columbus, nhà làm phim người Mỹ gốc Ý. Cristoforo Colombo, nhà thám hiểm Ý.
Vòng tuần hoàn nước là sự tồn tại và vận động của nước trên mặt đất, trong lòng đất và trong bầu khí quyển của Trái Đất. Nước Trái Đất luôn vận động và chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác, từ thể lỏng sang thể hơi rồi thể rắn và ngược lại. Vòng tuần hoàn nước đã và đang diễn ra từ hàng tỉ năm và tất cả cuộc sống trên Trái Đất đều phụ thuộc vào nó, Trái Đất chắc hẳn sẽ là một nơi không thể sống được nếu không có nước. Chu trình nước liên quan đến việc trao đổi năng lượng, dẫn đến thay đổi nhiệt độ. Khi nước bay hơi, nó sẽ lấy năng lượng từ môi trường xung quanh và làm mát môi trường. Khi nó ngưng tụ, nó giải phóng năng lượng và làm nóng môi trường. Sự trao đổi nhiệt ảnh hưởng đến khí hậu. Giai đoạn bay hơi của chu trình làm sạch nước, sau đó bổ sung nước ngọt cho đất. Dòng chảy của nước lỏng và băng vận chuyển khoáng chất trên toàn cầu. Nó cũng tham gia vào việc định hình lại các đặc điểm địa chất của Trái Đất, thông qua các quá trình bao gồm xói mòn và bồi lắng. Vòng tuần hoàn nước cũng rất cần thiết để duy trì hầu hết sự sống và hệ sinh thái trên hành tinh. Sơ lược Vòng tuần hoàn nước không có điểm bắt đầu nhưng chúng ta có thể bắt đầu từ các đại dương. Mặt Trời điều khiển vòng tuần hoàn nước bằng việc làm nóng nước trên những đại dương, làm bốc hơi nước vào trong không khí. Những dòng khí bốc lên đem theo hơi nước vào trong khí quyển, gặp nơi có nhiệt độ thấp hơn hơi nước bị ngưng tụ thành những đám mây. Những dòng không khí di chuyển những đám mây khắp toàn cầu, những phân tử mây va chạm vào nhau, kết hợp với nhau, gia tăng kích cỡ và rơi xuống thành giáng thủy (mưa). Giáng thủy dưới dạng tuyết được tích lại thành những núi tuyết và băng hà có thể giữ nước đóng băng hàng nghìn năm. Trong những vùng khí hậu ấm áp hơn, khi mùa xuân đến, tuyết tan và chảy thành dòng trên mặt đất, đôi khi tạo thành lũ. Phần lớn lượng giáng thủy rơi trên các đại dương; hoặc rơi trên mặt đất và nhờ trọng lực trở thành dòng chảy mặt. Một phần dòng chảy mặt chảy vào trong sông theo những thung lũng sông trong khu vực, với dòng chảy chính trong sông chảy ra đại dương. Dòng chảy mặt, và nước thấm được tích luỹ và được trữ trong những hồ nước ngọt. Mặc dù vậy, không phải tất cả dòng chảy mặt đều chảy vào các sông. Một lượng lớn nước thấm xuống dưới đất. Một lượng nhỏ nước được giữ lại ở lớp đất sát mặt và được thấm ngược trở lại vào nước mặt (và đại đương) dưới dạng dòng chảy ngầm. Một phần nước ngầm chảy ra thành các dòng suối nước ngọt. Nước ngầm tầng nông được rễ cây hấp thụ rồi thoát hơi qua lá cây. Thành phần Trong những thời kỳ khí hậu lạnh hơn nhiều đỉnh núi băng và những dòng sông băng được hình thành, một lượng nước Trái Đất khá lớn được tích lại dưới dạng băng làm giảm bớt lượng nước trong những thành phần khác của vòng tuần hoàn nước. Điều này thì ngược lại trong thời kỳ ấm. Cuối thời kỳ băng hà những sông băng bao phủ 1/3 bề mặt Trái Đất, và mực nước các đại dương thì thấp hơn ngày nay khoảng 122 m (400 feet). Cách đây khoảng 3 triệu năm, khi Trái Đất ấm hơn, mực nước của các đại dương có thể đã cao hơn hiện nay khoảng 50 m (165 feet). Có những dòng chảy trong đại dương di chuyển một khối lượng lớn nước khắp thế giới. Những sự di chuyển này có ảnh hưởng lớn đến vòng tuần hoàn nước và khí hậu. Dòng Gulf Stream được biết đến nhiều như là một dòng biển nóng trong vùng Đại Tây Dương, vận chuyển nước từ vùng Vịnh Mexico ngang qua Đại Tây Dương hướng đến nước Anh. Với tốc độ 60 dặm (97 km) một ngày, dòng Gulf Stream đem theo một lượng nước nhiều bằng 100 lần tất cả các sông trên Trái Đất. Xuất phát từ những vùng khí hậu ấm, dòng Gulf mang theo nước ấm hơn đến Bắc Đại Tây Dương, làm ảnh hưởng đến khí hậu của một vài vùng, như phía tây nước Anh. Bốc hơi Bốc hơi nước là một quá trình nước chuyển từ thể lỏng sang thể hơi hoặc khí. Bốc hơi nước là đoạn đường đầu tiên trong vòng tuần hoàn mà nước chuyển từ thể lỏng thành hơi nước trong khí quyển. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng các đại dương, biển, hồ và sông cung cấp gần 90% độ ẩm của khí quyển qua bốc hơi, với 10% còn lại do thoát hơi của cây. Nhiệt (năng lượng) là nhân tố cần thiết cho bốc hơi xuất hiện. Năm tại điểm đóng băng. Khi độ ẩm tương đối không khí đạt 100%, tức là ở trạng thái bão hoà hơi nước, bốc hơi không thể tiếp tục diễn ra. Quá trình bốc hơi nước tiêu thụ nhiệt năng từ môi trường, đó là nguyên nhân tại sao nước bốc hơi từ da làm bạn mát. Bốc hơi nước từ các đại dương là cách chính để nước được luân chuyển vào trong khí quyển. Diện tích rất lớn của các đại dương (trên 70% diện tích bề mặt của Trái Đất được bao phủ bởi các đại dương) cung cấp những cơ hội lớn cho quá trình bốc hơi diễn ra. Trên phạm vi toàn cầu lượng nước bốc hơi cũng bằng với lượng giáng thủy. Mặc dù vậy, tỉ lệ giữa lượng nước bốc hơi và lượng giáng thủy biến đổi theo vùng địa lý. Thông thường trên các đại dương lượng bốc hơi nhiều hơn lượng giáng thủy, trong khi đó trên mặt đất, lượng giáng thủy vượt quá lượng bốc hơi. Phần lớn lượng nước bốc hơi từ các đại dương rơi ngay trên đại dương qua quá trình giáng thủy. Chỉ khoảng 10% của nước bốc hơi từ các đại dương được vận chuyển vào đất liền và rơi xuống thành giáng thủy. Khi bốc hơi, một phân tử nước tồn tại trong khí quyển khoảng 10 ngày. Nước khí quyển Mặc dù khí quyển không là kho chứa khổng lồ của nước, nhưng nó là một "siêu xa lộ" để luân chuyển nước khắp toàn cầu. Trong khí quyển luôn luôn có nước: những đám mây là một dạng nhìn thấy được của nước khí quyển, nhưng thậm chí trong không khí trong cũng chứa đựng nước - những phần tử nước này quá nhỏ để có thể nhìn thấy được. Thể tích nước trong khí quyển tại bất kỳ thời điểm nào vào khoảng 12.900 km³. Nếu tất cả lượng nước khí quyển rơi xuống cùng một lúc, nó có thể bao phủ khắp bề mặt Trái Đất với độ dày 2,5 cm. Sự ngưng tụ hơi nước là quá trình hơi nước trong không khí được chuyển sang thể nước lỏng. Ngưng tụ hơi nước rất quan trọng đối với chu trình tuần hoàn nước bởi vì nó hình thành nên các đám mây. Những đám mây này có thể tạo ra mưa, nó là cách chính để nước quay trở lại Trái Đất. Ngưng tụ hơi nước là quá trình ngược với bốc hơi nước. Sự ngưng tụ hơi nước cũng là nguyên nhân của hiện tượng sương, hoặc nước trên mắt kính khi ta đi từ một phòng lạnh đi ra ngoài trong một ngày nóng, ẩm ướt, còn trong một ngày lạnh nước có thể nhỏ giọt bên ngoài cốc uống nước hay có nước ở phía bên trong cửa sổ. Sự ngưng tụ hơi nước Thậm chí trên những bầu trời trong xanh không một gợn mây, thì nước vẫn tồn tại dưới hình thức hơi nước và những giọt nước li ti không thể nhìn thấy được. Những phân tử nước kết hợp với những phân tử nhỏ bé của bụi, muối, khói trong khí quyển để hình thành nên các hạt nhân mây (giọt mây nhỏ, đám mây nhỏ), nó gia tăng khối lượng và phát triển thành những đám mây. Khi những giọt nước kết hợp với nhau, gia tăng về kích thước, những đám mây có thể phát triển và mưa có thể xảy ra. Các đám mây hình thành trong khí quyển do không khí chứa hơi nước bốc lên cao và lạnh đi. Phần quan trọng của quá trình này là không khí sát mặt đất ấm lên do bức xạ mặt trời. Nguyên nhân lớp khí quyển phía bên trên mặt đất lạnh đi là do áp lực không khí. Không khí có trọng lượng và tại mực nước biển trọng lượng của một cột không khí nén xuống trên đầu bạn khoảng 32 kg trên mỗi inch vuông, áp lực này, được gọi là khí áp, nó là kết quả của mật độ không khí trong cột không khí phía trên. Càng lên cao càng ít không khí phía bên trên, và vì thế càng ít áp lực. Khí áp thấp hơn và mật độ không khí giảm theo độ cao. Điều này làm cho không khí trở nên lạnh hơn. Giáng thủy Giáng thủy là nước thoát ra khỏi những đám mây dưới các dạng mưa, mưa tuyết, mưa đá, tuyết. Nó là cách chính để nước khí quyển quay trở lại Trái Đất. Phần lớn lượng giáng thủy là mưa. Các hạt mưa hình thành như thế nào? Những đám mây trên bầu trời chứa hơi nước và những hạt nhân mây nhỏ, các hạt nhân mây này quá nhỏ để có thể rơi xuống thành mưa, nhưng nó cũng đủ lớn để hình thành nên các đám mây có thể nhìn thấy được. Nước vẫn tiếp tục bốc hơi và ngưng tụ hơi nước trong bầu trời. Nếu nhìn gần một đám mây, ta có thể nhìn thấy những phần đang biến mất (đang bốc hơi) trong khi những phần khác đang phát triển (ngưng tụ). Phần lớn lượng nước được ngưng tụ trong các đám mây không rơi xuống thành giáng thủy. Vì để giáng thủy xảy ra, trước tiên những giọt nước nhỏ phải được ngưng tụ. Những phân tử nước có thể kết hợp với nhau thành những giọt nước lớn hơn và đủ nặng để rơi thành mưa. Cần tới hàng triệu hạt mây để hình thành chỉ một hạt mưa nhỏ. Lượng giáng thủy phân bố không đều trên thế giới, trong một nước hoặc thậm chí trong một thành phố. Ví dụ, tại Atlanta, Georgia, Mỹ, một trận mưa giông mùa hè có thể sản sinh ra một lớp nước mưa dày 2,5 cm hoặc nhiều hơn trên một con đường, trong khi đó ở một vùng khác cách đó vài km thì vẫn khô ráo. Nhưng, tổng lượng mưa một tháng tại Georgia thường nhiều hơn tổng lượng mưa năm tại Las Vegas, Nevada. Kỷ lục thế giới về lượng mưa năm trung bình thuộc về Đỉnh Waialeale, Hawaii với lượng mưa trung bình là 1.140 cm. Đặc biệt, tại Arica là 1.630 cm trong mười hai tháng (nghĩa là gần 5 cm mỗi ngày). Tương phản với lượng nước mưa dồi dào tại Arica, ở Chile đã từng không có mưa trong 14 năm. Nước băng và tuyết Nước được giữ lâu dài trong băng, tuyết, và các sông băng là một thành phần của vòng tuần hoàn nước toàn cầu. Vùng Nam cực chiếm 90% tổng lượng băng của Trái Đất, các đỉnh núi băng ở Greenland chiếm 10% tổng lượng băng toàn cầu. Băng và sông băng đến và đi Trên phạm vi toàn cầu, khí hậu luôn luôn thay đổi một cách chậm chạp mà con người khó nhận biết. Đã từng có những thời kỳ ấm thuộc kỷ khủng long cách đây 100 triệu năm, và những thời kỳ lạnh, như kỷ băng hà cuối cùng cách đây 20.000 năm. Trong kỷ băng hà cuối cùng này nhiều nơi của bắc bán cầu bị bao phủ trong băng và những dòng sông băng. Gần hết Canada, nhiều vùng phía Bắc châu Á và châu Âu, một vài vùng ở nước Mỹ cũng bị những dòng sông băng bao phủ. Bản đồ thế giới trình bày những vùng sông băng tồn tại cách đây 20.000 năm Một vài sự thật về các dòng sông băng và những đỉnh núi băng Băng hà bao phủ 10 - 11% lục địa Trái Đất Nếu tất cả băng hà tan chảy ngày nay, mực nước biển sẽ tăng lên khoảng 70 m (nguồn: Trung tâm Tư liệu Băng và Tuyết Quốc gia) Trong kỷ băng hà cuối cùng, mực nước biển thấp hơn ngày nay khoảng 122 m, và những dòng sông băng bao phủ gần 1/3 lục địa Trái Đất. Trong thời kỳ ấm cuối cùng, cách đây 125.000 năm, mực nước biển cao hơn ngày nay khoảng 5,5 m. Khoảng 3 triệu năm trước đây nước biển có thể đã cao đến hơn 50,3 m. Dòng chảy tuyết tan Trên toàn bộ thế giới dòng chảy tuyết là phần chính của sự luân chuyển nước toàn cầu. Trong thời kỳ mùa xuân ở những vùng khí hậu lạnh hơn, nhiều dòng chảy mặt và dòng chảy sông ngòi xuất phát từ tuyết và băng. Bên cạnh việc gây ra lũ lụt, tuyết tan nhanh có thể gây ra sạt lở đất và dòng chảy bùn đá. Để hiểu được dòng tuyết tan ảnh hưởng như thế nào đến dòng chảy sông ngòi có thể dựa vào biểu đồ đường quá trình lưu lượng trung bình ngày trong 4 năm của sông North Fork American tại đập North Fork ở California. Các đỉnh cao trong biểu đồ phần lớn là do dòng tuyết tan. So sánh các giá trị nhận thấy dòng chảy ngày trung bình nhỏ nhất trong tháng 3/2000 là 1.200 feet khối trên giây, trong khi đó lưu lượng trong tháng 8 là 55 – 75 feet khối trên giây. Dòng chảy từ tuyết tan biến đổi theo mùa và theo năm. So sánh các đỉnh lũ giữa trận lũ lớn trong năm 2000 và trận lũ nhỏ hơn nhiều trong năm 2001, giống như có một trận hạn hán lớn ảnh hưởng đến California trong năm 2001. Nhưng sự thiếu hụt nước là do nước được trữ trong băng vào mùa đông ảnh hưởng đến tổng lượng nước các tháng còn lại của năm. Sự thiếu hụt nước cũng ảnh hưởng đến lượng nước trong các hồ tại hạ lưu, và sự thiếu hụt nước ở các hồ lại ảnh hưởng đến lượng nước tưới và nước cấp thành phố. Dòng chảy mặt Nhiều người chỉ nghĩ đơn giản rằng mưa rơi, chảy tràn trên mặt đất (dòng chảy mặt) và chảy vào sông, sau đó đổ ra các đại dương. Đó là sự đơn giản hoá, bởi vì các sông còn nhận và mất nước do thấm. Tuy nhiên, lượng lớn nước trong sông là do dòng chảy trực tiếp trên mặt đất cung cấp và được định nghĩa là dòng chảy mặt. Thông thường, một phần nước mưa rơi thấm ngay vào đất, nhưng khi đất đạt tới trạng thái bão hoà hay không thấm, thì bắt đầu chảy theo sườn dốc thành dòng chảy. Trong một trận mưa lớn, bạn có thể nhìn thấy các dòng nước nhỏ chảy xuôi sườn dốc. Nước sẽ chảy theo những kênh trên mặt đất trước khi chảy vào trong các sông lớn. Hình vẽ biểu diễn dòng chảy mặt (dòng chảy ra từ con đường) chảy vào một con lạch nhỏ như thế nào. Trong trường hợp này dòng chảy mặt chảy trên những vùng đất trống và lắng đọng bùn cát vào trong sông (không tốt cho chất lượng nước). Dòng chảy mặt chảy vào sông, lại bắt đầu hành trình quay trở về đại dương. Cũng giống như tất cả các thành phần khác trong vòng tuần hoàn nước, quan hệ giữa mưa và dòng chảy cũng biến đổi theo thời gian và không gian. Những trận mưa tương tự nhau xuất hiện trong vùng rừng rậm Amazon và trong vùng sa mạc tây bắc nước Mỹ sẽ sản sinh những dòng chảy mặt khác nhau. Dòng chảy mặt bị chi phối bởi các nhân tố khí tượng địa vật lý và địa hình. Chỉ khoảng 1/3 lượng nước mưa rơi trên bề mặt đất chảy vào sông suối và quay trở lại đại dương. 2/3 còn lại bị bốc thoát hơi hoặc thấm vào nước ngầm. Con người thường sử dụng nước cho các mục đích khác nhau từ dòng chảy nước mặt. Dòng chảy sông ngòi Cục Địa chất Mỹ định nghĩa "dòng chảy" là lượng nước chảy trong sông, suối, hoặc lạch nước. Sông ngòi rất quan trong không chỉ đối với con người mà đối với cuộc sống khắp mọi nơi. Sông ngòi không chỉ là một nơi rộng lớn cho con người và những con vật của họ hoạt động, con người còn sử dụng nước sông cho nhu cầu nước uống và nước tưới, sản xuất ra điện, làm sạch chất thải (xử lý nước thải), giao thông thủy, và kiếm thức ăn. Sông ngòi còn là môi trường sống chính cho tất cả các loài động và thực vật nước. Sông ngòi bổ sung cho tầng ngậm nước ngầm dưới mặt đất qua lòng sông, và tất nhiên cả đại dương. Một điều rất quan trọng khi nghiên cứu về sông ngòi là phải xem xét các lưu vực sông. Lưu vực sông là gì? Nếu bạn đang đứng trên mặt đất ngay bây giờ, hãy nhìn xuống. Bạn và tất cả mọi người đang đứng trên một lưu vực sông. Một lưu vực sông là vùng mà tại đó tất cả nước rơi và tiêu thoát chảy theo cùng một dòng. Lưu vực sông có thể chỉ nhỏ bằng một vết chân trên bùn hoặc đủ rộng để bao phủ toàn bộ vùng thoát nước vào trong sông Mississippi ở đó nước chảy vào Vịnh Mexico. Các lưu vực nhỏ hơn được chứa trong những lưu vực lớn hơn. Các lưu vực sông rất quan trọng vì dòng chảy và chất lượng nước của một con sông chịu tác động của nhiều thứ, có ảnh hưởng của con người hay không có ảnh hưởng của con người, xuất hiện trong những vùng phía trên mặt cắt cửa ra của lưu vực. Dòng chảy sông ngòi luôn luôn biến đổi Dòng chảy sông ngòi luôn thay đổi từng ngày thậm chí từng phút. Tất nhiên, mưa tác động chính tới dòng chảy trên các lưu vực. Mưa rơi làm tăng mực nước sông, và mực nước sông có thể tăng ngay cả khi mưa ở rất xa trên lưu vực sông. Ghi nhớ rằng nước mưa rơi trên lưu vực cuối cùng phải chảy ra ở mặt cắt cuối lưu vực. Độ lớn của sông phụ thuộc vào độ lớn của lưu vực. Sông lớn có lưu vực sông rộng, sông nhỏ có lưu vực sông nhỏ hơn. Tương tự như vậy, sông có kích thước khác nhau tác động khác nhau lượng mưa rơi. Trong các sông lớn mực nước lên xuống chậm hơn các sông nhỏ. Trong lưu vực nhỏ, mực nước sông có thể lên xuống tính theo phút và giờ. Những sông rộng có thể mất vài ngày để biến đổi mực nước lên xuống và thời gian lũ lên có thể kéo dài vài ngày. Lượng trữ nước ngọt Nước ngọt trên mặt đất, một thành phần của chu trình nước, yếu tố cần thiết cho mọi sự sống trên Trái Đất. Nước mặt bao gồm nước trong các dòng sông, ao, hồ, hồ nhân tạo, và các đầm lầy nước ngọt. Lượng nước trong các sông và hồ luôn luôn thay đổi phụ thuộc vào lưu lượng vào và ra. Dòng chảy vào từ mưa, dòng chảy tràn trên mặt đất, lượng nước ngầm dưới đất, và lượng nước gia nhập từ các sông nhánh. Dòng chảy ra khỏi các hồ và sông bao gồm lượng bốc hơi và dung tích nước bổ sung cho nước ngầm. Con người cũng sử dụng nước mặt cho các nhu cầu thiết yếu của mình. Lượng và vị trí của nước mặt thay đổi theo thời gian và không gian, một cách tự nhiên hay dưới sự tác động của con người. Nước mặt duy trì sự sống Trong vùng châu thổ sông Nile ở Ai Cập, cuộc sống có thể sinh sôi tại những vùng sa mạc nếu được cung cấp đủ lượng nước (mặt hoặc ngầm). Nước trên mặt đất thực sự giúp duy trì cuộc sống. Nước ngầm tồn tại thông qua sự di chuyển của nước mặt vào trong tầng nước ngầm dưới mặt đất. Nước ngọt trên bề mặt Trái Đất tương đối khan hiếm. Chỉ khoảng 3% của tổng lượng nước Trái Đất là nước ngọt, các hồ nước ngọt và các đầm (nước) ngọt chiếm 0,29% tổng lượng nước ngọt trên Trái Đất, hồ BaiKal ở châu Á chiếm 20% tổng lượng nước ngọt trên Trái Đất, Hồ Lớn (Huron, MichiGan, và Superior) cũng chiếm 20% tổng lượng nước ngọt trên Trái Đất. Các sông chỉ chiếm khoảng 0,006% tổng lượng nước ngọt trên Trái Đất. Ta có thể nhận thấy rằng nước ngọt, yếu tố cần thiết cho sự tồn tại cuộc sống trên Trái Đất, chỉ chiếm một phần cực nhỏ "một giọt nước trong biển cả mênh mông" của tổng lượng nước trên Trái Đất. Thấm Bất cứ nơi nào trên thế giới, một phần lượng nước mưa và tuyết đều thấm xuống lớp đất và đá dưới bề mặt. Lượng thấm bao nhiêu phụ thuộc vào một số các nhân tố. Trên đỉnh băng của Greenland lượng nước mưa thấm xuống là rất nhỏ, ngược lại, một dòng sông chảy vào trong hang động ở vùng Georgia, Mỹ, cho thấy sông cũng có thể chảy trực tiếp vào trong nước ngầm. Một phần lượng nước thấm xuống sẽ được giữ lại trong những tầng đất nông, ở đó nó có thể chảy vào sông nhờ thấm qua bờ sông. Một phần nước thấm xuống sâu hơn, bổ sung cho các tầng nước ngầm. Nếu tầng nước ngầm nông hoặc đủ độ rỗng để cho phép nước chảy tự do qua nó, con người có thể khoan các giếng trong tầng nước ngầm này và sử dụng nước cho những mục đích của mình. Nước ngầm có thể di chuyển được những khoảng cách dài hoặc được trữ lại trong tầng nước ngầm trong một thời gian dài trước khi quay trở lại bề mặt hoặc qua thấm vào các thủy vực khác, như thấm vào các sông và đại dương. Khi nước mưa thấm vào trong tầng đất sát mặt, nó hình thành vùng không bão hoà và vùng bão hoà. Trong vùng không bão hoà, nước tồn tại trong các lỗ rỗng của lớp đá bên dưới mặt đất, nhưng tầng đất chưa đạt tới trạng thái bão hoà. Phần phía trên của tầng không bão hoà là vùng đất. Vùng đất này có không gian phân bố được tạo ra từ rễ cây trồng, nước mưa có thể thấm vào tầng này. Cây trồng sử dụng nước trong tầng đất này. Bên dưới vùng không bão hoà là vùng bão hoà, ở đây nước chứa đầy trong các khe rỗng giữa các phần tử đất và đá. Có thể khoan giếng trong vùng này và bơm nước lên. Lưu lượng nước ngầm Lượng nước mà ta không thể nhìn thấy được - nước ngầm (nước tồn tại và di chuyển trong lòng đất) - chiếm một lượng rất lớn so với lượng nước ta có thể nhình thấy được. Nước ngầm đóng góp lớn cho dòng chảy sông ngòi của nhiều con sông. Con người đã sử dụng nước ngầm từ hàng ngàn năm nay và vẫn đang tiếp tục sử dụng nó hàng ngày, phần lớn cho nhu cầu nước uống và nước tưới. Cuộc sống trên Trái Đất phụ thuộc vào nước ngầm cũng giống như là nước bề mặt. Nước ngầm chảy bên dưới mặt đất. Một phần lượng mưa rơi trên mặt đất và thấm vào trong đất trở thành nước ngầm. Phần nước chảy sát mặt sẽ lộ ra rất nhanh khi chảy vào trong lòng sông, nhưng do trọng lực, một phần lượng nước tiếp tục thấm sâu vào trong đất. Trong sơ đồ này, hướng và tốc độ di chuyển nước ngầm được tính thông qua các đặc trưng của tầng nước ngầm và lớp cản nước (ở đây nước khó chảy qua). Sự chuyển động của nước bên dưới mặt đất phụ thuộc vào độ thấm (nước thấm khó khăn hay dễ dàng) và khe rỗng của đá bên dưới mặt đất (số các khe hở trong vật liệu). Nếu các lớp đá cho phép nước chảy qua nó tương đối tự do thì nước ngầm có thể di chuyển được những khoảng cách đáng kể trong thời gian vài ngày. Nhưng nước ngầm cũng có thể thấm sâu hơn vào các tầng nước ngầm sâu ở đó nó sẽ mất hàng ngàn năm để di chuyển trở lại vào môi trường. Suối Một tầng nước ngầm liên tục được bổ sung nước đến khi nước chảy tràn trên mặt đất, kết quả là hình thành các con suối. Các con suối có thể rất nhỏ, chỉ có nước chảy khi có một trận mưa đáng kể, đến các dòng suối lớn chảy với hàng trăm triệu gallon nước mỗi ngày. Các con suối có thể hình thành trong bất kỳ loại đá nào, nhưng phần lớn chúng hình thành trong các loại đá vôi và đolomit, dễ dàng rạn nứt và hoà tan do mưa axit. Khi đá bị phá huỷ và hoà tan, các khoảng trống hình thành cho phép nước chảy qua. Nếu dòng chảy theo phương ngang, nó có thể chảy tới mặt đất, hình thành các con suối. Nước suối không phải bao giờ cũng sạch. Nước từ các suối thường sạch. Tuy nhiên, nước trong một vài con suối có thể có màu trà. Ảnh trên biểu diễn một con suối tự nhiên trong vùng Tây Nam Colorado. Nước suối có màu đỏ của sắt do nước ngầm tiếp xúc với khoáng sản trong lòng đất. Tại bang Florida, Mỹ, nhiều nguồn nước mặt chứa các axit ta-nanh tự nhiên từ các chất hữu cơ ở trong đất đá làm cho nước suối có màu. Lưu lượng của nước màu trong các suối chỉ ra rằng nước đang chảy nhanh trong các kênh dẫn rộng trong tầng nước ngầm mà không được lọc qua các vùng đá vôi. Các suối nước nóng vẫn chỉ là suối thông thường nhưng nước tại đó ấm, một vài chỗ còn nóng như các con suối bùn đang sôi sùng sục ở Công Viên Quốc gia Yellowstone, Wyoming, Mỹ. Nhiều suối nước nóng xuất hiện ở những vùng gần núi lửa hoạt động, được bổ sung nước nóng do tiếp xúc với đá nóng sâu dưới bề mặt đất. Càng dưới sâu các tảng đá càng nóng hơn, và nếu nước dưới sâu bề mặt đất chảy tới một khe nứt rộng nó có thể tạo ra một dòng chảy lên lớp đất trên mặt, và tạo ra một suối nước nóng. Các suối nước ấm nổi tiếng vùng Georgia và suối nước nóng vùng Arkansas của Hoa Kỳ là các loại điển hình. Sự thoát hơi Thoát hơi là quá trình nước được vận chuyển từ các rễ cây đến các lỗ nhỏ bên dưới bề mặt lá, ở đây nước chuyển sang trạng thái hơi và thoát vào khí quyển. Do đó, thoát hơi thực chất là bốc hơi của nước từ lá cây. Lượng nước bốc thoát hơi từ cây trồng ước tính chiếm khoảng 10% của hàm lượng nước trong khí quyển. Thoát hơi thực vật là một quá trình không nhìn thấy được, khi nước đang bốc hơi trên bề mặt các lá cây, bạn không thể đi ra ngoài và nhìn thấy các lá cây đang bốc thoát hơi. Trong mùa phát triển của cây trồng, một lá cây sẽ bốc thoát hơi nước nhiều lần hơn trọng lượng của chính nó. Một mẫu Anh trồng ngô có thể bốc thoát hơi được khoảng 11.400 - 15.100 lít nước/ngày, và một cây sồi lớn có thể bốc hơi được 151.000 lít nước/năm. Lượng nước bốc thoát hơi từ cây cối biến đổi lớn theo thời gian và không gian. Một số nhân tố tác động đến tốc độ bốc thoát hơi nước: Nhiệt độ:Tốc độ bốc thoát hơi tăng lên khi nhiệt độ tăng, đặc biệt trong mùa phát triển của cây trồng khi nhiệt độ không khí ấm hơn. Độ ẩm tương đối: Khi độ ẩm tương đối của không khí xung quanh cây trồng tăng thì tốc độ bốc thoát hơi giảm. Nghĩa là nước bốc hơi khi không khí khô dễ dàng hơn là trong không khí bão hoà ẩm. Gió và sự di chuyển của không khí: Sự di chuyển của các lớp không khí xung quanh một cây tăng lên làm cho bốc thoát hơi cũng tăng cao. Loại cây: Loại cây khác nhau sẽ thoát hơi nước với tốc độ khác nhau. Các loại cây sống trong vùng khô cằn thì thoát hơi ít hơn các loại cây khác. Ví dụ cây xương rồng để giữ lại lượng nước quý báu bằng cách giảm bớt sự thoát hơi hơn các cây trông khác. Lượng trữ nước ngầm Một lượng lớn nước được trữ trong đất. Nước này vẫn tiếp tục chuyển động, có thể rất chậm, và nó vẫn là một phần của vòng tuần hoàn nước. Phần lớn nước ngầm là do mưa và lượng nước thấm từ lớp đất mặt. Tầng đất phía trên là vùng không bão hoà, trong tầng này lượng nước thay đổi theo thời gian, mà không làm bão hoà tầng đất. Bên dưới lớp đất này là vùng bão hoà, tất cả các khe nứt, các ống mao dẫn, và các khoảng trống giữa các phân tử đá được lấp đầy nước. Thuật ngữ "nước ngầm" được dùng để mô tả cho khu vực này. Một thuật ngữ khác của nước ngầm là "bể nước ngầm". Bể nước ngầm là kho chứa nước ngầm khổng lồ và con người khắp nơi trên thế giới phụ thuộc vào nước ngầm trong cuộc sống hàng ngày. Cách hay nhất để hiểu được khái niệm đất bão hoà nước tại một độ sâu nhất định nào đó là đào một cái hố tại một bãi biển, nếu sự thấm diễn ra vừa đủ để còn giữ lại nước. Mực nước trong hố là mực nước ngầm. Biển ở phía phải của hố, mực nước trong hố bằng với mực nước biển. Tất nhiên, mực nước trong hố đào cũng lên xuống từng phút theo sự lên xuống của thủy triều.
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (Southern Key Economic Zone) là tên gọi khu vực phát triển kinh tế động lực khu vực Nam Bộ Việt Nam, gồm 8 tỉnh, thành phố: Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Tiền Giang. Đây là trung tâm kinh tế năng động, phát triển bật nhất và là đầu tàu kinh tế quan trọng của cả nước Việt Nam. Lịch sử Sau khi Việt Nam cải cách mở cửa kể từ Đại hội lần thứ 6 (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam, với chủ trương tạo ra những tam giác kinh tế phát triển tạo động lực cho khu vực và cả nước, 3 tam giác kinh tế được thành lập: miền Bắc (Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh) với thủ đô Hà Nội là hạt nhân, miền Trung (Huế - Quảng Nam Đà Nẵng - Quảng Ngãi) với thành phố Đà Nẵng là hạt nhân và miền Nam (Thành phố Hồ Chí Minh - Biên Hòa - Bà Rịa-Vũng Tàu) với Thành phố Hồ Chí Minh là hạt nhân. Sau này, do yêu cầu về phát triển vùng và đặc biệt là do sự phát triển năng động của các tỉnh nằm kề bên các tam giác kinh tế (như tỉnh Hải Dương và Vĩnh Phúc ở miền Bắc, tỉnh Bình Định ở miền Trung và tỉnh Bình Dương, Long An, Tây Ninh, Tiền Giang và Bình Phước ở miền Nam), các tam giác phát triển đã được mở rộng không gian địa lý. Giao thông vận tải Đường hàng không: Sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất là cửa ngõ giao thương quan trọng của Vùng với năng lực khoảng 9 triệu khách năm hiện nay lên 15 triệu khách/năm cuối năm 2006. Đây là cảng hàng không lớn nhất Việt Nam, chiếm 2/3 lượng khách quốc tế đến Việt Nam bằng đường hàng không. Đến năm 2010, Sân bay Quốc tế Long Thành với công suất thiết kế 80-100 triệu khách/năm, 5 triệu tấn hàng hóa 1 năm sẽ là sân bay hàng đầu của Vùng kinh tế. Cảng: Cụm cảng Sài Gòn hiện tại có lượng hàng hóa thông quan cao nhất trong cả nước. Do nhu cầu phát triển đô thị, các cảng trong nội thị sẽ được di dời xuống hạ lưu Sông Đồng Nai và Sông Thị Vải. Trong tương lai, cảng Thị Vải tại Bà Rịa Vũng Tàu sẽ là cảng biển chính của Vùng cùng với cụm cảng container Cát Lái và Hiệp Phước là một trong những cảng biển nước sâu hàng đầu cả nước. Đường bộ: Mạng lưới đường bộ tuy không ngừng được nâng cấp nhưng không đáp ứng được yêu cầu phát triển, tình trạng tắc nghẽn giao thông cản trở sự phát triển của Vùng. Để giải quyết tình trạng này, một số dự án giao thông lớn đã và đang được triển khai: Đường cao tốc Tp HCM - Trung Lương (sau này nối đến Cần Thơ); Các đướng vành đai 1, 2, 3; Đại lộ Đông - Tây; Hầm Thủ Thiêm; Đường cao tốc Tp HCM - Long Thành - Dầu Dây; Đường Xuyên Á; Cầu Phú Mỹ; Đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu... Đường sắt: Hiện tại chỉ có Đường sắt Bắc Nam chạy qua khu vực này. Để đáp ứng nhu cầu giao thông vận tải, một số dự án đường sắt đang được lập dự án như: Đường sắt cao tốc Tp HCM - Vũng Tàu; Các tuyến tàu điện ngầm từ Bến Thành đi bến xe Miền Tây, Biên Hòa đang được các công ty lớn của Đức, Pháp, Nga, Nhật khảo sát. Khu công nghiệp Vùng kinh tế trọng điểm phía nam là nơi tập trung số lượng các khu công nghiệp lớn và thu hút nhiều dự án đầu tư nước ngoài lớn nhất của cả nước. Tại đây có Khu công nghệ cao, 2 khu chế xuất Tân Thuận và Linh Trung, Công viên phần mềm Quang Trung và hàng chục khu công nghiệp thu hút khác như: Biên Hòa, Nhơn Trạch, Loteco, Amata (Đồng Nai), Sóng Thần, Việt Nam - Singapore, Việt Hương, Nam Tân Uyên, Mỹ Phước, Đồng An (Bình Dương), Tân Tạo, Vĩnh Lộc, Tân Bình (TP.Hồ Chí Minh)... Các ngành công nghiệp quan trọng nhất của Vùng gồm: Dầu khí, dày da, dệt may, điện tử, cơ khí, hóa chất, phân bón, cán thép...Ngoài ra còn có một số khu công nghiệp tập trung ở Long An (Bến Lức, Cần Giuộc, Cần Đước, Thủ Thừa, Đức Hòa và Tân An), Tiền Giang Bao gồm: Khu Công nghiệp Mỹ Tho (79.14 ha), KCN Tân Hương (197 ha), KCN Long Giang (600 ha), KCN Dịch vụ Dầu Khí (1000 ha), Cụm Trung An (17 ha), Cụm Tân Mỹ Chánh (23,57 ha), Đang chuẩn bị xây thêm KCN nam Tân Phước dự kiến (1000 ha), Cụm Gia Thuận,... Trung tâm năng lượng Trung tâm điện lực Phú Mỹ (BRVT) và Nhà máy điện Bà Rịa, Hiệp Phước có tổng công suất điện năng trên 30% tổng công suất điện năng cả nước. Dự án khí Nam Côn Sơn và Bạch Hổ và dự án đường ống dẫn khí đông-tây (nối miền đông và miền tây nam bộ) cung cấp nguồn năng lượng cho vùng này Trong tương lai gần, cùng với Trung tâm điện lực Nhơn Trạch (2600 MW), Vùng này vẫn là trung tâm năng lượng quan trọng của cả nước. Dịch vụ và thương mại Hoạt động xuất nhập khẩu của Vùng nhộn nhịp nhất nước. Năm 2005, tổng kim ngạch xuất khẩu của Vùng chiếm khoảng 2/3 tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Đây cũng là nơi tập trung các siêu thị, trung tâm thương mại lớn của các tập đoàn bán lẻ lớn trên thế giới. Khu vực đô thị hóa Trong tương lai không xa, với tốc độ đô thị hóa nhanh chóng, đây sẽ là vùng đô thị lớn (metropolitan area) có quy mô lớn trong khu vực Đông Nam Á và cả thế giới. Hiện tại ở đây đang triển khai một số dự án khu đô thị lớn như: khu đô thị công nghiệp tổng hợp Bình Dương quy mô 4000 ha, khu đô thị Đông Bắc Củ Chi và Long An 4000 ha, khu đô thị Phú Mỹ Hưng 600 ha và đặc biệt là khu đô thị thương mại mới Thủ Thiêm 700 ha. Trong tương lai xây dựng thêm một số thành phố mới như: Nhơn Trạch, Bình Dương, Long Thành, Phú Mỹ, Hậu Nghĩa, Cần Giuộc, Gò Công, Bến Lức.
Thái Văn Dũng (sinh ngày 8 tháng 8 năm 1975), thường được biết đến với nghệ danh Quang Dũng, là một nam ca sĩ người Việt Nam. Anh được công chúng biết đến với dòng nhạc nhẹ, nhạc trữ tình, nhạc tiền chiến và nhạc Trịnh Công Sơn, và từng giành được 5 đề cử cho giải Cống hiến. Thân thế Quang Dũng được sinh ra trong một gia đình không mấy hạnh phúc, trên anh có tới 9 anh chị ruột. Mẹ của Dũng sau khi ly dị chồng đã phải một mình nuôi nấng tất cả 10 người con trong sự ghẻ lạnh từ gia đình bên chồng. Dù chưa bao giờ gặp bố nhưng thỉnh thoảng Dũng có về thăm ông bà nội chơi và được hai người họ yêu chiều. Quang Dũng cho biết bản thân anh từng suýt chết 2 lần vì căn bệnh uốn ván và bị đuối nước lúc còn nhỏ. Sự nghiệp Quang Dũng bắt đầu sự nghiệp ca hát vào năm 19 tuổi. Ngay từ thời điểm phát hiện đam mê và khả năng của mình, Quang Dũng đã nỗ lực và đạt được một số giải thưởng âm nhạc ở quê nhà. Năm 1997, anh tham dự cuộc thi Tiếng hát Truyền hình tỉnh Bình Định và xuất sắc giành giải Nhì. Dù tham gia những phòng trà ca nhạc nhưng anh chủ yếu ca hát để thỏa mãn niềm đam mê cá nhân chứ chưa đi theo con đường chuyên nghiệp. Năm 20 tuổi, anh vào Thành phố Hồ Chí Minh lập nghiệp với phòng trà Đồng Giao. Trước đó, anh cũng có thời gian học ở Trường Đại học Sư phạm Quy Nhơn. Thời gian đầu, anh cũng ra Hà Nội hát nhưng chưa được khán giả đón nhận. Đây cũng là lúc anh đứng trước những ngã rẽ định hình phong cách nghệ thuật của mình. Thời điểm đó, Quang Dũng gặp nhiều khó khăn. Nam ca sĩ đã được giúp đỡ về mặt phong cách, kĩ thuật biểu diễn cũng như truyền tải kinh nghiệm khi có dịp hát nhạc Trịnh tại quán Nhạc Sĩ của chính Trịnh Công Sơn. Sau đó, Quang Dũng quyết định gắn bó lâu dài với dòng nhạc trữ tình vì cho rằng đó là dòng nhạc giúp anh "thể hiện được thế mạnh" và có dấu ấn riêng để "giữ chân khán giả". Những năm đầu 2000, MV "Còn ta với nồng nàn" của Quang Dũng khi tham gia "VTV – Bài hát tôi yêu" đã nhận được sự yêu thích của khán giả nghe nhạc tại Việt Nam. Năm 2001, ca khúc "Biển nghìn thu ở lại" được Quang Dũng chọn làm ca khúc chủ đề cho album riêng đầu tay của mình do Bến Thành Audio phát hành và được nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ký tặng. Dù ban đầu bán dè chừng nhưng về sau cho số lượt bán đạt đến mức 5000 lượt. Năm 2003, anh giành giải Mai Vàng với ca khúc "Vì đó là em" của nhạc sĩ Diệu Hương. Lần đoạt giải này đã giúp cho anh có được sự thừa nhận ban đầu của khán giả. Album đầu tay của Quang Dũng mang tên ca khúc "Biển nghìn thu ở lại", cũng là ca khúc do nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết cho Quang Dũng. Tới năm 2007, Quang Dũng nhận được giải thưởng Làn Sóng Xanh với hạng mục top 10 ca sĩ được yêu thích nhất với nhiều ca khúc từ album này. Sau sự thành công của album “Tình ca Phạm Duy”, Quang Dũng cùng nhiều ca sĩ thuộc thế hệ của anh đã hợp tác thực hiện một tour diễn xuyên Việt tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng sẽ được bắt đầu từ tháng 4 năm 2013. Năm 2014, khi có được sự nghiệp ổn định và nhận về nhiều tiếng tăm, Quang Dũng quyết định sang Mỹ định cư. Năm 2017, sau thời gian dài lên dự định, Quang Dũng trở lại sự nghiệp âm nhạc bằng liveshow mang tên “Giấc mơ mang tên mình” với 3 đêm diễn tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội tại California trong khoảng tháng 3 và tháng 5. Đây cũng là liveshow đánh dấu sự nghiệp 20 năm ca hát ca nam ca sĩ. Các khách mời trong liveshow này phần lớn đều là những nữ ca sĩ đã gắn bó với âm nhạc của anh như Hồng Nhung, Mỹ Tâm, Hồng Ngọc, Lệ Quyên, Thanh Thảo, Phạm Thu Hà. Nhân dịp lễ Vu Lan năm 2019, Quang Dũng đã cho ra mắt album mang tên "Những bài hát dâng mẹ nhân mùa Vu Lan" gồm 10 ca khúc. Anh quyết định không làm album thương mại mà đã tặng toàn bộ 15.000 bản album này đến các chùa trong và ngoài Việt Nam. Năm 2020, Quang Dũng cũng cho biết đĩa than thứ 2 của anh gồm những bài hát của Trịnh Công Sơn sắp hoàn thiện và dự kiến phát hành trong cùng năm. Cũng trong năm, đĩa than mang tên Nỗi niềm được sản xuất hoàn toàn ở Mỹ, là thành quả sau 3 năm làm việc của nam ca sĩ. Đĩa than thứ 4 "Thương một người" của ca sĩ Quang Dũng tiếp tục được Audio Space cho ra mắt với những ca khúc của Trịnh Công Sơn. Trong thời điểm dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp tại Việt Nam, Quang Dũng cùng giới nghệ Việt gồm hơn 20 người đã cùng nhau thực hiện ca khúc "Sống như tia nắng mặt trời" (một sáng tác của Đình Bảo) nhằm lan tỏa và cổ vũ tinh thần chống dịch của mọi người. Nhận định Âm nhạc do ca sĩ Khánh Ly thể hiện và các nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Phạm Duy, Ngô Thụy Miên... sáng tác mà Quang Dũng nghe hồi bé đã có ảnh hưởng đáng kể đến sự nghiệp của anh sau này. Theo báo điện tử VTV, Quang Dũng gây dựng được tiếng vang với khán giả Việt Nam qua những ca khúc của Trịnh Công Sơn với "giọng hát trầm ấm, truyền cảm". Báo Tiền phong cho rằng anh là một trong những ca sĩ nhạc nhẹ thành công trong hơn 20 năm hoạt động. Nhắc đến khía cạnh hình thức quảng cáo cho tên tuổi nghệ sĩ, Quang Dũng tỏ ra "không quan tâm" đến việc xếp tên nghệ sĩ tham gia để quảng cáo chương trình. Một số tờ báo đã ví Quang Dũng có phần "bắt chước" phong cách của ca sĩ Tuấn Ngọc, tuy nhiên anh đã khẳng định bản thân không giống Tuấn Ngọc và cũng "không thích" bị đặt vào so sánh với Tuấn Ngọc. Quang Dũng sở hữu giọng nam trung thuần (baritone) bẩm sinh. Quang Dũng luôn hát nhạc của Trịnh Công Sơn ở những quãng thấp (dưới quãng 4 so với bài hát gốc). Đồng thời, Quang Dũng chọn cho mình lối hát "chậm rãi" trong từng câu chữ và phát âm rõ ràng, tách bạch như Trịnh Công Sơn đã dạy. Đời tư Thanh Thảo Một số tờ báo đăng tin cho biết Thanh Thảo là người tình đầu tiên mà Quang Dũng công khai quan hệ tình cảm. Thanh Thảo từng về ra mắt gia đình bố mẹ Quang Dũng nhưng sau đó hai người chỉ còn coi nhau là bạn. Hai người từng cùng nhau tham gia một chương trình tâm sự để thổ lộ về mối quan hệ tình cảm ngày xưa. Thanh Thảo cũng là người tham gia góp sức thực hiện album đầu tay "Biển nghìn thu ở lại" với Quang Dũng. Jennifer Phạm Quang Dũng kết hôn lần đầu với Jennifer Phạm vào năm 2007. Họ li hôn 2 năm sau đó và có một con trai chung tên Bảo Nam. Sau khi cha mẹ mình ly hôn, Bảo Nam ở chung với mẹ và bà ngoại tại California. Năm 2018, Jennifer Phạm đưa Bảo Nam về sống tại Việt Nam cùng cha dượng và các con riêng của cô. Dù đã ly hôn nhưng Jennifer Phạm vẫn coi Quang Dũng là "bạn" và hai người vẫn thường xuyên xuất hiện cùng nhau trong một số sự kiện âm nhạc. Sau cuộc hôn nhân với Jennifer Phạm, Quang Dũng tỏ ra kín tiếng với truyền thống. Tuy nhiên, từ đầu năm 2013, anh dần cởi mở với truyền thông hơn. Những mối quan hệ khác Vào cuối năm 2017, người dân mạng xã hội trở nên xôn xao khi có tin đồn Quang Dũng hẹn hò cùng Vũ Ngọc Châm, một cô gái được cho là hot girl. Tuy nhiên Quang Dũng đã lên tiếng khẳng định đây chỉ là mối quan hệ hợp tác trong âm nhạc. Năm 2019, anh khiến dư luận tỏ ra bất ngờ khi lần đầu tiên chia sẻ về tin đồn yêu đồng tính với nhạc sĩ Lê Quang. Tuy nhiên một lần nữa nam ca sĩ khẳng định đây chỉ là tin đồn và gián tiếp phủ nhận việc mình có quan hệ tình cảm với Lê Quang. Năm 2020, Quang Dũng xác nhận với VietNamNet rằng anh đã có mối quan hệ tình cảm mới nhưng từ chối kể chi tiết hơn. Nhà riêng Năm 2023, nhân dịp sinh nhật mẹ mình 80 tuổi, Quang Dũng đã đưa mẹ từ Quy Nhơn vào Thành phố Hồ Chí Minh để sống chung ở căn biệt thự 400m2. Trước đó vào năm 2013, Quang Dũng cũng từng mua một căn nhà riêng tại Mỹ. Nơi ở của anh thường được đưa tin về mặt thiết kế cũng như phong cách sống. Trong nhà anh có nhiều cổ vật nghệ thuật và có một phòng riêng để dựng một sân khấu thu nhỏ. Bên cạnh đó, Quang Dũng cũng là một nghệ sĩ thường xuyên tham gia hoạt động từ thiện. Sức khoẻ Quang Dũng cho biết anh từng lệ thuộc thuốc ngủ suốt 8 năm và còn bị rối loạn giấc ngủ. Điều này được cho là do anh thường bay lại giữa hai nước Mỹ và Việt Nam quá nhiều khiến nhịp sinh học của cơ thể bị gián đoạn. Đôi lúc do lịch diễn dày đặc và cảm xúc không ổn định, nam ca sĩ phải sử dụng thuốc trị cảm có thành phần an thần. Sự việc có liên quan Năm 2018, sau khi Đàm Vĩnh Hưng lên tiếng về việc không dính dáng đến hệ thống tiền ảo iFan bị tố lừa đảo, Quang Dũng cũng đã chính thức lên tiếng khẳng định bản thân từ chối sử dụng hình ảnh bản thân để quảng cáo cho hệ thống này. Sự việc hình ảnh anh xuất hiện để quảng bá cho hệ thống này là do iFan đã tự ý lấy hình ảnh quảng cáo mà không xin phép. Các album Biển nghìn thu ở lại (2001) Bên đời có em (2002) Anh sẽ đến … Giấc mơ buồn (ngày 17 tháng 7 năm 2002) Cỏ xót xa đưa (ngày 17 tháng 10 năm 2002) Ru mãi ngàn năm (ngày 22 tháng 4 năm 2003) Hoài niệm dấu yêu (với Thanh Thảo, ngày 20 tháng 6 năm 2003) Hoa có vàng nơi ấy (2003) Một người đi … Một người quên (ngày 4 tháng 4 năm 2003) Gợi giấc mơ xưa (ngày 24 tháng 12 năm 2003) The best of Quang Dũng (2003) Đêm thành phố đầy sao (2004) Nguyệt (2004) Chuyện…! Ta (2005) Chuyện của tôi (live DVD) Em (ngày 24 tháng 11 năm 2005) Tình khúc cho em (với Thái Hà) Yêu (ngày 25 tháng 5 năm 2006) Khi (ngày 29 tháng 3 năm 2007) Vì ta cần nhau (với Hồng Nhung, ngày 11 tháng 7 năm 2007) Xuân (ngày 31 tháng 10 năm 2007) Tác giả và tác phẩm (ngày 8 tháng 8 năm 2008) Có Đâu Bao Giờ (với Hồng Nhung, ngày 2 tháng 3 năm 2009) Con Đường Có Lá Me Bay (2011) Tình bỗng chốc là không (2011) Những Ánh Sao Đêm (2012) Chỉ yêu mình anh (2013) Tình ca Phạm Duy (2013) Những gì còn lại (2014) Tôi (2014) Bài Thơ Không Đoạn Kết (2015) Tình khúc Thứ Nhất Vũ Thành An (2016) Vì Đó Là Em (2017) Những bài hát dâng mẹ nhân mùa Vu Lan (2019) Biết Mãi Là Bao Lâu (2020) Các tiết mục trình diễn trên sân khấu Trung tâm Thúy Nga Sân khấu Paris by Night Chương trình Thúy Nga Music Box Trung tâm Tình Gala Nhạc Việt Giải thưởng Chú thích
Công bộc của dân hay đầy tớ của dân là một triết lý lãnh đạo trong đó trách nhiệm và nghĩa vụ của người lãnh đạo, hoặc mở rộng là của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, là phụng sự. Theo từ điển Hán Việt Thiều Chửu, công (公) có nghĩa của chung, bộc (僕) có nghĩa đầy tớ. Cụm từ "công bộc của dân" có thể được hiểu là "người đầy tớ chung của dân". Lịch sử Trên thế giới, khái niệm viên chức nhà nước là công bộc của dân (trong tiếng Anh là "servant of the people" có nguồn gốc từ tiếng Latinh "servus" có nghĩa là nô lệ) đã có từ rất lâu, trong quan niệm của người Mỹ, đạo Hồi. Khái niệm này có lẽ đã được bắt nguồn từ nền dân chủ đầu tiên - dân chủ Athena - tại Hy Lạp thời cổ đại. Kautilya (hoặc còn viết là Chanakya hoặc Chanaka), nhà hiền triết Ấn Độ viết trong cuốn sách Arthashastra ("Luận về bổn phận" mà một số tác giả nước ngoài thường dịch là "Khoa học chính trị") của ông vào thế kỷ thứ 4 trước công nguyên: "Vua chúa (người lãnh đạo) nên tìm hiểu cho tốt, không phải về những gì ông ta muốn, mà người dưới quyền ông ta muốn gì" Vua chúa (người lãnh đạo) là một đầy tớ được trả lương và chia sẻ tài nguyên quốc gia chung với mọi người" . Ở phương Đông, cách nay hơn hai ngàn năm, Khổng Tử đã viết trong Thiên "Thái Thệ" của "Kinh Thư":"Trời không có mắt có tai, dân nhìn tức là trời nhìn, dân nghe tức là trời nghe". Theo ý này, Mạnh Tử đã giảng giải "ý dân là ý trời" và từng đưa dân lên trước cả "xã tắc" và "vua": "dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh".. Liễu Tôn Nguyên thời nhà Đường mời rượu tiễn bạn là Tiết Tồn Nghĩa đi làm quan, khuyên rằng: "Phàm ra làm quan ở hạt nào, phải biết chức phận của mình là người làm việc cho dân, chứ không phải sai dân làm việc cho mình. Dân ở trong hạt đã chịu nộp thuế, để lấy tiền thuê quan giữ sự công bình cho dân, mà nay, ngán thay, thiên hạ ra làm quan, tiền thuế của dân thì biết lấy cả, còn công việc của dân thì trễ biếng, thường khi lại dụng tâm ăn cắp của dân nữa...". Ở phương Tây, khái niệm "người lãnh đạo là người đầy tớ phục vụ" (Servant leadership) này được phổ biến đầu tiên qua sự truyền bá của đạo Thiên Chúa giáo. Trong Tân Ước có viết: "Nhưng Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: "Anh em biết, người được coi là thủ lĩnh các dân thì lấy quyền mà thống trị dân, những người làm lớn thì dùng uy mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không phải như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em, và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Cũng như Con người đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Phúc âm Matthew Mt 20,25-28; xem Phúc âm Mark Mc 10,42-45). Nhà công nghiệp Mỹ Rockefeller cũng nói, và câu văn này được khắc tại Rockfeller Centre: "Tự do ngự trị trong các giá trị (quyền) tối cao của cá nhân, trong một chính phủ là đầy tớ của mọi người, không phải chủ nhân của họ, và trong một xã hội mà trong đó mọi người đều có cơ hội để sống, nhưng trong đó không ai nợ ai (đều bình đẳng)" Trong thời hiện đại, khái niệm này được Robert Greenleaf định nghĩa và mở rộng trong bài Essentials of Servant Leadership và cuốn sách Servant Leadership (1977). Tại Việt Nam Tại Việt Nam, trước Cách mạng tháng Tám, dưới sự quản lý qua các thời kỳ của các nhà nước phong kiến khái niệm "công chức nhà nước" được hiểu bao gồm quan lại và quân lính dưới quyền. Trong thời kỳ nào cũng có quan thanh liêm và quan tham. Sau Cách mạng tháng Tám, nhà nước Việt Nam được thành lập, khái niệm cán bộ, công chức, viên chức nhà nước được ra đời. Theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ, công chức nhà nước là người công bộc của dân Trong thư gửi "Ủy ban Nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng" được đăng trên báo Cứu quốc số ra ngày 17 tháng 10 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta." Từ năm 2005, Việt Nam đang dần dần tiến hành cải cách hành chính. Một trong các mục tiêu đề ra là xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, thực sự là công bộc của nhân dân. Chú thích
Rock and Roll (thường viết là rock & roll hoặc rock 'n' roll) là một thể loại nhạc đại chúng có nguồn gốc và phát triển ở Hoa Kỳ trong cuối thập niên 1940 và đầu thập niên 1950, xuất phát từ phong cách âm nhạc của người Mỹ gốc Phi như nhạc Phúc âm, jazz, boogie woogie, rhythm and blues và nhạc đồng quê. Trong khi chất liệu rock and roll có thể nghe thấy trong các bản nhạc blues từ thập niên 1920 và bản nhạc đồng quê thập niên 1930, thể loại này vẫn không có tên chính thức cho đến thập niên 1950. Theo Greg Kot, "rock and roll" có thể chỉ một phong cách âm nhạc đại chúng có nguồn gốc ở Hoa Kỳ thập niên 1950 trước khi phát triển vào giữa thập niên 1960, trở thành "một phong cách quốc tế đa dạng hoàn thiện hơn, được biết đến chính là nhạc rock". Nhằm mục đích phân biệt, bài viết này chỉ đề cập đến khái niệm đầu tiên.
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ của Việt Nam gồm 7 tỉnh và thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh (3 hạt nhân của vùng), Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh và Vĩnh Phúc. Đây là trung tâm kinh tế năng động và là đầu tàu kinh tế quan trọng của miền Bắc và của cả nước Việt Nam. Ưu thế lớn nhất của vùng kinh tế này là nhân lực có đào tạo tốt, trình độ cao, có điểm thi vào các trường đại học, cao đẳng và tỷ lệ sinh viên trên đầu người cao nhất nước. Giao thông Các đầu mối giao thông của vùng kinh tế: Hàng không có sân bay Nội Bài, sân bay Cát Bi, sân bay Vân Đồn (quốc tế dự bị cho Nội Bài) Đường bộ: Quốc lộ 1, quốc lộ 5, quốc lộ 18, Quốc lộ 38, đường cao tốc Pháp Vân - Ninh Bình, đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, đường cao tốc Hạ Long - Vân Đồn, đường cao tốc Láng - Hòa Lạc, đường cao tốc Thăng Long - Nội Bài, đường cao tốc Nội Bài – Bắc Ninh – Hạ Long. Đường sắt: đường sắt Bắc Nam, đường sắt Hà Nội - Hải Phòng. Cảng: Cảng Hải Phòng, Cảng Lạch Huyện, Hải Phòng và cảng Cái Lân, Quảng Ninh là một trong những cụm cảng nước sâu hàng đầu cả nước. Trong tương lai gần, một dự án với tổng vốn đầu tư khoảng 15 tỷ USD phát triển đô thị và cảng container tại Quảng Ninh do các tổng công ty và tập đoàn trong nước (ban đầu là Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Vinashin) với năng lực ước tính khoảng 100 triệu tấn/năm, có thể đón tàu có tải trọng trên 100.000 tấn cập cảng. Khu công nghiệp Tại khu vực này tập trung các khu công nghiệp lớn tầm cỡ, thu hút nhiều dự án FDI lớn, như: khu công nghiệp Thăng Long, khu công nghiệp Sài Đồng, khu công nghiệp Đại An, khu công nghiệp Quế Võ, khu công nghiệp Nomura, khu công nghiệp Đình Vũ, khu công nghiệp Phố Nối... Các ngành công nghiệp chủ chốt: sản xuất xi măng (Hải Dương, Hải Phòng), đóng tàu (Hải Phòng và Quảng Ninh), ô tô - xe máy (Vĩnh Phúc, Hải Dương), Điện tử, (Hưng Yên, Bắc Ninh, Hải Dương). Năng lượng Vùng kinh tế này là một trong những trung tâm năng lượng hàng đầu của cả nước, là nơi khai thác và xuất khẩu than đá (Quảng Ninh), nhiệt điện (Phả Lại, Kinh Môn - Hải Dương, Uông Bí - Quảng Ninh). Hạ tầng đô thị Hạ tầng đô thị không ngừng được đầu tư nâng cấp ở Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc và Quảng Ninh. Với hàng loạt thành phố, thị xã được nâng cấp và thành lập mới đã đưa vùng trở thành khu vực đô thị của cả nước. Dự kiến trong những năm tới các tỉnh Hưng Yên, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Hải Dương sẽ thành lập một số thành phố, thị xã mới trên cơ sở các huyện, thị xã đã có. Phát triển du lịch Khu vực này tập trung nhiều di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh của Việt Nam, với Hà Nội là trung tâm. Các dự án sân golf, khu nghỉ mát chuẩn quốc tế đã và đang được đầu tư xây dựng, đặc biệt là tại khu vực xung quanh di sản thế giới Vịnh Hạ Long.
Nhà thờ chính tòa Đức Bà Sài Gòn (hay Vương cung thánh đường chính tòa Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội, tiếng Anh: Immaculate Conception Cathedral Basilica, tiếng Pháp: Cathédrale Notre-Dame de Saïgon), thường được gọi tắt là Nhà thờ Đức Bà, là nhà thờ chính tòa của Tổng giáo phận Sài Gòn. Nhà thờ không chỉ là biểu tượng của Công giáo ở Việt Nam, mà còn là một trong những công trình kiến trúc độc đáo của Thành phố Hồ Chí Minh và điểm đến nổi tiếng với du khách. Tên gọi ban đầu của nhà thờ là Nhà thờ Sài Gòn (tiếng Pháp: l'eglise de Saïgon), tên gọi Nhà thờ Đức Bà bắt đầu được sử dụng từ năm 1959 bằng việc đặt Tượng Đức Bà Hòa Bình trước khuôn viên. Nhà thờ là nơi tấn phong nhiều giám mục, đón tiếp các đại diện Tòa thánh Rôma, nhậm chức của các Tổng giám mục và cũng là nơi thụ phong của hàng ngàn linh mục. Lịch sử Nhà thờ đầu tiên Ngay sau khi chiếm Sài Gòn, thực dân Pháp đã cho lập ngôi nhà thờ dùng chỗ cử hành Thánh lễ cho người theo đạo Công giáo. Ngôi nhà thờ đầu tiên được lập ở đường Số 5 (nay là đường Ngô Đức Kế). Giám mục Lefevre quyết định xây dựng một nhà thờ. Vì nhà thờ đầu tiên đó quá nhỏ nên vào năm 1863, Đô đốc Victor Auguste Duperré đã quyết định cho khởi công xây dựng ở nơi khác một nhà thờ khác bằng gỗ bên bờ "Kinh Lớn" (còn gọi là kinh Charner, thời Việt Nam Cộng hòa là vị trí trụ sở Tòa Tạp tụng, tương ứng với vị trí tòa nhà Sun Wah ngày nay). Cố đạo Lefebvre tổ chức lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng nhà thờ vào ngày 28 tháng 3 năm 1863. Nhà thờ được dựng bằng gỗ, hoàn thành vào năm 1865, ban đầu gọi là Nhà thờ Saigon. Về sau, do nhà thờ gỗ này bị hư hại nhiều vì các côn trùng gây hại như mối và mọt gỗ, các buổi lễ được tổ chức trong phòng khánh tiết của Dinh Thống Đốc cũ, về sau cải thành trường học Lasan Taberd, cho đến khi nhà thờ lớn xây xong. Nhà thờ thứ hai Tháng 8 năm 1876, Thống đốc Nam kỳ Duperré đã tổ chức một kỳ thi vẽ đồ án thiết kế nhà thờ mới. Vượt qua 17 đồ án thiết kế khác, đồ án của kiến trúc sư J. Bourard với phong cách kiến trúc Roman cải biên pha trộn nét phong cách kiến trúc Gothic đã được chọn. Ban đầu, địa điểm xây cất được đề nghị ở 3 nơi: Trên nền Trường Thi cũ (nay là góc đường Lê Duẩn và Hai Bà Trưng, tức vị trí tòa Lãnh sự Pháp). Ở khu Kinh Lớn (tại vị trí nhà thờ cũ, nay thuộc đường Nguyễn Huệ). Vị trí hiện nay. Sau cùng vị trí hiện nay đã được chọn. Sau khi đề án thiết kế được chọn, Đô đốc Duperré cho đấu thầu việc xây dựng nhà thờ và cũng chính kiến trúc sư này là người trúng thầu và trực tiếp giám sát công trình. Mọi vật liệu từ xi măng, sắt thép đến ốc vít đều mang từ Pháp sang. Đặc biệt, mặt ngoài của công trình xây bằng loại gạch đặt làm tại Toulouse (Pháp), để trần, không tô trát, không bám bụi rêu mà đến nay vẫn còn màu sắc hồng tươi. Ngày 7 tháng 10 năm 1877, Giám mục Isidore Colombert đặt viên đá đầu tiên trước mặt Phó soái Nam Kỳ và đông đủ nhân vật cấp cao thời ấy. Nhà thờ được xây dựng trong 3 năm. Lễ Phục sinh, ngày 11 tháng 4 năm 1880, nghi thức cung hiến và khánh thành do cố đạo Colombert tổ chức trọng thể với sự có mặt của Thống đốc Nam Kỳ Le Myre de Vilers. Hiện nay, trên bệ phía trên, bên trong cửa ra vào nhà thờ, có chiếc bảng cẩm thạch gắn trong hành lang (transept) ghi ngày khởi công, ngày khánh thành và tên vị công trình sư. Tất cả mọi chi phí xây dựng, trang trí nội thất đều do Soái phủ Nam Kỳ đài thọ, với số tiền 2.500.000 franc Pháp theo tỷ giá thời bấy giờ. Ban đầu, nhà thờ có tên gọi là "Nhà thờ Nhà nước" vì nó do nhà nước Pháp bỏ tiền xây dựng và quản lý. Năm 1895, nhà thờ xây thêm hai tháp chuông, mỗi tháp cao 57,6 m và có 6 chuông đồng lớn. Trên mỗi đỉnh tháp có đính một cây Thánh Giá cao 3,50 m, ngang 2 m, nặng 600 kg. Tổng thể chiều cao từ mặt đất lên đỉnh Thánh Giá là 60,50 m. Giữa vườn hoa trước nhà thờ, năm 1903, người Pháp cho dựng tượng đồng Pigneau de Béhaine (còn gọi là Giám mục Bá Đa Lộc hoặc Giám mục Adran vì vị này làm Giám mục hiệu tòa Adran) nắm tay dẫn Hoàng tử Cảnh (con vua Gia Long). Tượng đài này bao gồm một bệ bằng đá hoa cương đỏ hình trụ tròn và bên trên là bức tượng tạc hình Giám mục Adran với phẩm phục Giám mục, tay trái dẫn hoàng tử Cảnh. Tượng làm bằng đồng, được đúc tại Pháp, giới bình dân thời đó thường gọi là tượng "hai hình" để phân biệt với tượng "một hình", là bức tượng của Đô đốc Hải quân Pháp Genouilly ở phía công trường Mê Linh (nay là cuối đường Hai Bà Trưng, gần bờ sông Sài Gòn). Năm 1945, tượng này bị Chính phủ Đế quốc Việt Nam của Thủ tướng Trần Trọng Kim phá bỏ, nhưng cái bệ đài bằng đá hoa cương đỏ thì vẫn còn tồn tại ở đó mà không có bất cứ một bức tượng nào đặt lên trên. Nhà thờ mang danh hiệu Đức Bà Năm 1958, Linh mục Giuse Phạm Văn Thiên (sau làm Giám mục giáo phận Phú Cường, nay đã qua đời), cai quản Giáo xứ Sài Gòn thời ấy, đã đặt tạc một Tượng Đức Mẹ Hòa bình bằng loại đá cẩm thạch trắng Carrara của Ý. Tượng được tạc tại Pietrasanta cách Roma khoảng 500 km. Khi tượng hoàn tất thì được đưa xuống tàu Oyanox vào ngày 8 tháng 1 năm 1959 từ hải cảng Gênes chở tượng qua Việt Nam và tới Sài Gòn ngày 15 tháng 2 năm 1959. Sau đó, công ty Société d'Entreprises đã dựng tượng Đức Mẹ lên bệ đá vốn còn để trống kể từ năm 1945 trước nhà thờ. Tự tay linh mục viết câu kinh cầu nguyện "Xin Đức Mẹ cho Việt Nam được hòa bình" rồi đọc trước đông đảo quan khách có mặt hôm ấy. Ngày hôm sau, Hồng y Krikor Bedros XV Aghagianian từ Roma qua Sài Gòn để chủ tọa lễ bế mạc Đại hội Thánh Mẫu Toàn Quốc, đã làm phép bức tượng này vào buổi chiều ngày 17 tháng 2 năm 1959. Từ sự kiện này mà từ đó nhà thờ có tên gọi là Nhà thờ Đức Bà. Ngày 5 tháng 12 năm 1959, Tòa Thánh đã cho phép làm lễ "xức dầu", tôn phong Nhà thờ chính tòa Sài Gòn lên hàng tiểu Vương cung thánh đường (basilique). Từ đó, tên gọi chính thức của thánh đường là Vương cung thánh đường Đức Bà Sài Gòn. Năm 1960, Tòa Thánh thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam với ba tòa Tổng Giám mục tại Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Nhà thờ trở thành nhà thờ chính tòa của vị tổng giám mục Sài Gòn cho đến ngày nay. Nhà thờ là nơi tấn phong các giám mục: Jean Cassaigne (tên Việt: Gioan Sanh) ngày 24 tháng 6 năm 1941, Phao lô Nguyễn Văn Bình và Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền ngày 30 tháng 11 năm 1955, Philipphê Nguyễn Kim Điền, Micae Nguyễn Khắc Ngữ, Antôn Nguyễn Văn Thiện, Giuse Trần Văn Thiện ngày 22 tháng 1 năm 1961, Phaolô Huỳnh Đông Các, Đaminh Nguyễn Văn Lãng, Nicôla Huỳnh Văn Nghi ngày 11 tháng 8 năm 1974, Luy Phạm Văn Nẫm ngày 2 tháng 2 năm 1978, Giuse Vũ Duy Thống ngày 17 tháng 9 năm 2001. Những nét đặc sắc Vật liệu Trong quá trình xây dựng, toàn bộ vật liệu xây dựng từ xi măng, sắt thép đến ốc vít đều mang từ Pháp sang. Ngoài của công trình xây bằng loại gạch đặt làm tại Marseille để trần, không tô trát, không bám bụi rêu, đến nay vẫn còn màu sắc hồng tươi. Một số ngói vỡ trong nhà thờ có in hàng chữ Guichard Carvin, Marseille St André France (có lẽ là nơi sản xuất loại ngói này), mảnh ngói khác lại có hàng chữ Wang-Tai Saigon, có thể đây là mảnh ngói được sản xuất sau tại Sài Gòn dùng để thay thế những mảnh ngói vỡ trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai do những cuộc không kích của quân Đồng Minh. Toàn bộ thánh đường có 56 ô cửa kính màu do hãng Lorin của tỉnh Chartres (Pháp) sản xuất. Thiết kế Móng của thánh đường được thiết kế đặc biệt, chịu được tải trọng gấp 10 lần toàn bộ kiến trúc ngôi nhà thờ nằm bên trên. Và một điều rất đặc biệt là nhà thờ không có vòng rào hoặc bờ tường bao quanh như các nhà thờ quanh vùng Sài Gòn - Gia Định lúc ấy và bây giờ. Nội thất thánh đường được thiết kế thành một lòng chính, hai lòng phụ tiếp đến là hai dãy nhà nguyện. Toàn bộ chiều dài thánh đường là 93 m. Chiều ngang nơi rộng nhất là 35 m. Chiều cao của vòm mái thánh đường là 21 m. Sức chứa của thánh đường có thể đạt tới 1.200 người. Nội thất thánh đường có hai hàng cột chính hình chữ nhật, mỗi bên sáu chiếc tượng trưng cho 12 vị thánh tông đồ. Bàn thờ nơi Cung Thánh làm bằng đá cẩm thạch nguyên khối có hình sáu vị thiên thần khắc thẳng vào khối đá đỡ lấy mặt bàn thờ, bệ chia làm ba ô, mỗi ô là một tác phẩm điêu khắc diễn tả thánh tích. Ngay sau hàng cột chính là một hành lang và kế đó là nhiều nhà nguyện nhỏ với những bàn thờ về các thánh (hơn 20 bàn thờ) cùng các bệ thờ 14 chặng Đàng Thánh Giá làm bằng đá trắng khá tinh xảo, được bố trí như sau (nhìn từ cổng trước vào nhà thờ): Trên tường được trang trí nổi bật 56 cửa kính mô tả các nhân vật hoặc sự kiện trong Thánh Kinh, 31 hình bông hồng tròn, 25 cửa sổ mắt bò bằng kính nhiều màu ghép lại với những hình ảnh rất đẹp. Tất cả các đường nét, gờ chỉ, hoa văn đều tuân thủ theo hình thức Roman và Gôtich, tôn nghiêm và trang nhã. Tuy nhiên, trong số 56 cửa kính này hiện chỉ còn bốn cửa là nguyên vẹn như xưa, còn các cửa kính màu khác đều đã được làm lại vào khoảng những năm 1949 để thay thế các cửa kính màu nguyên thủy của nhà thờ đã bị bể gần hết trong thế chiến thứ 2. Còn trên trán tường của cửa vào bên phải có những hàng chữ bằng chữ Hán: Thiên Chúa Thánh Đường Đại Đức (Nhà thờ Thiên Chúa đầy ân đức), Thánh Mẫu Dịch Hạo Nguyên (Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội), và hàng chữ nói tới năm khánh thành nhà thờ 1880. Nội thất thánh đường ban đêm được chiếu sáng bằng điện (không dùng đèn cầy) ngay từ khi khánh thành. Vào ban ngày, với thiết kế phối sáng tuyệt hảo, hài hòa với nội thất tạo nên trong nội thất thánh đường một ánh sáng êm dịu, tạo ra một cảm giác an lành và thánh thiện. Ngay phía trên cao phía cửa chính là "gác đàn" với cây đàn organ ống, một trong hai cây đàn cổ nhất Việt Nam hiện nay. Đàn này được các chuyên gia nước ngoài làm bằng tay, thiết kế riêng, để khi đàn âm thanh đủ cho cả nhà thờ nghe, không nhỏ mà cũng không ồn. Phần thân đàn cao khoảng 3 m, ngang 4 m, dài khoảng 2 m, chứa những ống hơi bằng nhôm đường kính khoảng một inch. Phần điều khiển đàn nằm riêng nối với thân đàn bằng những trục, có những phím đàn như đàn organ bình thường và những phím to đặt dưới sàn nhà (dài chừng 3 m, ngang khoảng 1 m) để người điều khiển đàn đạp lên khi dùng nốt trầm. Đàn còn có những thanh gõ lớn để đập vào phần dưới các ống hơi phát ra âm thanh. Hiện nay, cây đàn này đã hoàn toàn hỏng do bị mối ăn phần gỗ bàn phím điều khiển bằng tay. Tháp chuông Ban đầu, hai tháp chuông cao 36,6 m, không có mái và chỉ có độc một chiếc cầu thang hẹp chừng 40 cm bề ngang. Nội thất gác chuông rất tối và sàn được lót sơ sài bằng những miếng gỗ nhỏ cách khoảng, nhìn xuống thấy sâu hút. Vào năm 1895, thánh đường xây thêm hai mái chóp để che gác chuông cao 21 m, theo thiết kế của kiến trúc sư Gardes, tổng cộng tháp chuông cao 57 m. Có tất cả sáu chuông gồm sáu âm, treo trên hai tháp chuông. Bộ chuông này được chế tạo tại Pháp và mang qua Sài Gòn năm 1879. Từ ngoài nhìn vào, trên tháp bên phải treo 4 quả chuông (sol, đô, rê, mi); tháp bên trái treo 2 chuông (la, si). Trên mặt mỗi quả chuông đều có các họa tiết rất tinh xảo. Tổng trọng lượng bộ chuông là 27.055 kg tức khoảng 27 tấn, nếu tính luôn hệ thống đối trọng (1.840 kg) được gắn trên mỗi quả chuông thì tổng trọng lượng của bộ chuông sẽ là 28.895 kg. Các chuông đều được điều khiển bằng điện từ bên dưới. Riêng ba chiếc chuông lớn trước khi đánh đều được khởi động bằng cách đạp (vì quá nặng) cho lắc trước khi bật công tắc điện. Vào ngày thường, thánh đường chỉ cho đổ một chuông mi vào lúc 5 giờ sáng và đổ chuông re vào lúc 16g15. Vào ngày lễ và chủ nhật, nhà thờ thường cho đổ ba chuông theo hợp âm Mi, Rê và Đô (đúng ra là hợp âm ba chuông Mi, Đô và Sol, nhưng vì chuông Sol quá nặng nên thay thế bằng chuông Rê). Vào đêm vọng Lễ Giáng Sinh thì mới đổ cả sáu chuông. Tiếng chuông ngân xa tới 10 km theo đường chim bay. Bộ máy đồng hồ trước vòm mái cách mặt đất chừng 15 m, giữa hai tháp chuông được chế tạo tại Thụy Sĩ năm 1887, hiệu R.A, cao khoảng 2,5 m, dài khoảng 3 m và ngang độ hơn 1 m, nặng hơn 1 tấn, đặt nằm trên bệ gạch. Dù thô sơ, cũ kỹ nhưng hoạt động khá chính xác. Để điều chỉnh đồng hồ, phía sau máy có một chiếc đồng hồ to cỡ đồng hồ dùng trong gia đình. Chỉ cần theo dõi chiếc đồng hồ con này, có thể biết đồng hồ lớn chạy chậm, nhanh, đúng hay sai giờ. Mỗi tuần phải lên giây đồng hồ một lần và chiếc cần để lên giây đồng hồ giống như tay quay máy xe. Đồng hồ còn có hệ thống báo giờ bằng búa đánh vô các chuông của nhà thờ, tuy nhiên đã không còn hoạt động do dây cót quá cũ. Công viên Mặt trước thánh đường là một công viên (Công trường Công xã Paris) với bốn con đường giao nhau tạo thành hình thánh giá, gần đó là Bưu điện Sài Gòn. Trung tâm của công viên là bức tượng Đức Mẹ Hòa bình (hay Nữ vương Hòa bình). Tượng do nhà điêu khắc G. Ciocchetti thực hiện năm 1959. Tên của tác giả được ghi ở trên tà áo dưới chân, phía bên trái của bức tượng. Bức tượng cao 4,6 m, nặng 8 tấn, bằng đá cẩm thạch trắng của Ý, được tạc với chủ đích để nhìn từ xa nên không đánh bóng, vì vậy mà toàn thân tượng, kể cả vùng mặt vẫn còn những vết điêu khắc thô. Tượng Đức Mẹ trong tư thế đứng thẳng, tay cầm trái địa cầu, trên trái địa cầu có đính cây thánh giá, mắt Đức Mẹ đăm chiêu nhìn lên trời như đang cầu nguyện cho Việt Nam và cho thế giới được hoà bình. Chân Đức Mẹ đạp đầu con rắn (mà hiện nay, đầu con rắn đã bị vỡ mất hàm trên). Trên bệ đá, phía trước bức tượng, người ta có gắn một tấm bảng đồng với hàng chữ Latinh: Phía dưới bệ đá, người ta đã khoét một cái hốc chỗ giáp với chân tượng Đức Mẹ, trong đó có một chiếc hộp bằng bạc, chứa những lời kinh cầu nguyện cho hoà bình của Việt Nam và thế giới. Những lời cầu nguyện đó được viết lên trên những lá mỏng bằng những chất liệu khác nhau như bằng vàng, bạc, thiếc, nhôm, giấy, da và đồng, được gởi tới từ nhiều miền của Việt Nam, kể cả từ một số vùng ngoài miền Bắc. Carillon Cuối năm 2022, một dàn carillon 25 chuông đã được nhập về và lắp đặt trong khuôn viên phía trước Nhà thờ. Các chuông được treo trong một kết cấu gỗ linh sam được chế tạo tại Đức, với những đặc tính phù hợp với điền kiện khí hậu và mục đích sử dụng tại Sài Gòn. Nghi thức làm phép dàn carillon do TGM Giuse Nguyễn Năng chủ sự đã diễn ra vào sáng ngày 23 tháng 12 năm 2022. Tên của bốn vị tổng giám mục của Tổng giáo phận kể từ 1960 được đúc nổi trên bốn chuông của carillon. Các cuộc tu bổ Từ khi xây dựng tới nay, nhà thờ này đã trải qua ba cuộc trùng tu. Lần trung tu đầu tiên là việc xây dựng thêm phần mái kẽm cho hai tháp chuông của nhà thờ vào năm 1895. Lần thứ hai vào năm 1903, mặt tiền nhà thờ được tôn tạo, xây thêm vườn hoa và tượng đài Bá Đa Lộc. Lần thứ ba là lần dựng tượng Đức Bà Hòa Bình vào năm 1959. Đến năm 2015, Tòa Tổng giám mục Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định thực hiện cuộc đại tu Nhà thờ chính tòa Đức Bà Sài Gòn, khởi công chính thức ngày 29 tháng 6 năm 2017 (dịp Lễ kính Thánh Phêrô và Phaolô Tông đồ), và sẽ kéo dài trong nhiều năm, dự kiến ban đầu là đến cuối năm 2019 hoặc giữa năm 2020 sẽ hoàn thành, nhưng dự kiến mới nhất là sẽ cho đến năm 2027, với kinh phí được ước tính 200 tỉ đồng (thời điểm tháng 4 năm 2018). Nhân dịp Giáng sinh 2018, linh mục Hồ Văn Xuân, Tổng đại diện Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Nguyễn Thành Phong. Ông Phong đồng tình và hướng dẫn Tòa tổng giám mục liên hệ Sở Xây dựng để giải trình và bổ sung thời gian trùng tu công trình theo quy định. Danh sách cha sở và cha phó Họ đạo Chánh Tòa Sài Gòn Cha sở: 1. Lm. Oscar d’Amplemann de Noioberne (Cố Thiện) - 1863-1871 2. Lm. Henri de Kerlan (Cố Lành) - 1871-1877 3. Lm. Henri Louis Le Mée (Cố Chính Lễ) - 1877-1898 4. Lm. Charles Boutier (Cố Thiết) - 1900-1906 5. Lm. Eugène Soullard (Cố Chính Sáng) - 1906-1948 6. Lm. Robert Séminel (Cố Chính Nên) - 1948-1955 7. Lm. Gioan Baotixita Hồ Văn Vui - 1955-1957 8. Lm. Giuse Phạm Văn Thiên - 1957-1960 9. Lm. Phaolô Nguyễn Huỳnh Điểu - 1960-1987 10. Lm. Gioan Baotixita Huỳnh Công Minh - 1987-2016 11. Lm. Inhaxiô Hồ Văn Xuân - 2016-nay Cha phó: 1. Lm. François Tam Assou (Đàm Á Tô) - 1882-1898 2. Lm. Maurice Bạch Văn Lễ - 1936-1940 3. Lm. Ernest Tricoire (Cố Khoa) - 1937-1945 4. Lm. Gioakim Nguyễn Bá Luật - 1938-1943 5. Lm. Phaolô Nguyễn Minh Tri - 1939-1945 6. Lm. Gioan Baotixita Hồ Văn Vui - 1945-1955 7. Lm. Paul Bardet - 1948-1955 8. Lm. Phanxicô Xaviê Phan Văn Thăm - 1949-1966 9. Lm. Phaolô Võ Văn Chánh - 1952-1954 10. Lm. Phanxicô Xaviê Nguyễn Hữu Tấn - 1955-1961 11. Lm. Đôminicô Võ Văn Tân - 1955-1957 12. Lm. Phêrô Nguyễn Văn Chốn - 1958-1991 13. Lm. Martinô Lê Ngọc Khánh - 1968-2003 14. Lm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm - 1987-1998 15. Lm. Phêrô Trần Văn Thanh - 2000-2003 16. Lm. Giuse Vương Sĩ Tuấn - 2003-2016 17. Lm. Phêrô Đỗ Duy Khánh - 2003-nay 18. Lm. Phêrô Kiều Công Tùng - 2009-2010 19. Lm. Giuse Đỗ Quốc Huy - 2016-2017 20. Lm. Giuse Lã Công Thường - 2017-nay Hình ảnh Chú thích
Trong lý thuyết xác suất, có nhiều khái niệm khác nhau về sự hội tụ của các biến ngẫu nhiên. Sự hội tụ (hiểu theo nghĩa được trình bày dưới đây) của các dãy biến ngẫu nhiên về một biến ngẫu nhiên giới hạn nào đó là một khái niệm quan trọng trong lý thuyết xác suất, và trong các ứng dụng của thống kê và của quá trình ngẫu nhiên. Ví dụ, nếu trung bình của n biến ngẫu nhiên Yi, i = 1,..., n độc lập và phân phối đồng đều, được cho bởi: Thì khi n tiến tới vô cùng, Xn sẽ hội tụ theo nghĩa xác suất (xem dưới đây) về một trung bình chung, μ của các biến ngẫu nhiên Yi. Kết quả này được biết như là luật số lớn (yếu). Có nhiều dạng hội tụ khác đóng vai trò quan trọng trong các định lý, trong đó có định lý giới hạn trung tâm. Tiếp sau đây, chúng ta giả sử rằng (Xn) là một dãy biến ngẫu nhiên, và X là một biến ngẫu nhiên, tất cả đều được định nghĩa trên cùng một không gian xác suất (Ω, F, P). Hội tụ theo phân phối (Convergence in distribution) Giả sử F1, F2,... là một dãy các hàm phân phối tích lũy ứng với các biến ngẫu nhiên X1, X2,..., và F là hàm phân phối ứng với biến ngẫu nhiên X. Ta nói rằng dãy Xn hội tụ về X theo phân phối, nếu với mọi số thực a mà tại đó F liên tục. Vì F(a) = Pr(X ≤ a), nên điều này có nghĩa là xác suất để giá trị của X nằm trong một giới hạn định sẵn gần như là bằng với xác suất để Xn cũng nằm trong giới hạn này, với n được cho đủ lớn. Sự hội tụ theo phân phối thường được ký hiệu bằng việc thêm ký tự phía trên mũi tên chỉ sự hội tụ: Hội tụ theo phân phối là dạng hội tụ yếu nhất, và thường được gọi là hội tụ yếu. Một cách tổng quát thì nó không suy ra các dạng hội tụ khác. Tuy nhiên, hội tụ theo phân phối được suy ra từ tất cả các dạng hội tụ khác được đề cập trong bài viết này, và do đó, nó là dạng hội tụ chung nhất và có ích nhất của các biến ngẫu nhiên. Đây cũng là khái niệm hội tụ được dùng trong định lý giới hạn trung tâm và trong luật số lớn (yếu). Một kết quả đáng lưu ý, được sử dụng kết hợp với luật số lớn và định lý giới hạn trung tâm, đó là nếu một hàm  g: R → R  là liên tục, và nếu  Xn  hội tụ theo phân phối về  X, thì  g(Xn)  cũng hội tụ theo phân phối về  g(X). (chứng minh bằng cách dùng định lý biểu diễn Skorokhod). Hội tụ theo xác suất (Convergence in probability) Dãy Xn hội tụ về X theo xác suất nếu với mọi ε > 0. Hội tụ theo xác suất thật ra là sự hội tụ của xác suất. Hội tụ theo xác suất được ký hiệu bằng cách thêm chữ 'P' vào phía trên mũi tên chỉ sự hội tụ over: Hội tụ theo xác suất cũng là khái niệm hội tụ đề cập trong luật số lớn (yếu). Hội tụ theo xác suất suy ra sự hội tụ theo phân phối. Để chứng minh điều này, ta cần chứng minh được bổ đề sau: Bổ đề Cho X, Y là các biến ngẫu nhiên, c là một số thực và ε > 0; khi đó Chứng minh bổ đề vì Chứng minh hội tụ theo xác suất suy ra hội tụ theo phân phối Với mọi ε > 0, từ bổ đề trên, ta có: Vì vậy ta có Lấy giới hạn khi , ta được: Vì là hàm phân phối tích lũy , theo giả thuyết là liên tục, nghĩa là do đó, lấy giới hạn khi , ta được Hội tụ hầu như chắc chắn (Almost sure convergence) Ta nói rằng dãy Xn hội tụ hầu như chắc chắn hay hầu khắp nơi hay với xác suất 1 hay mạnh về X nếu: Có nghĩa là bạn được đảm bảo rằng các giá trị của Xn xấp xỉ giá trị của X, theo nghĩa (xem hầu như chắc chắn) là xác suất để Xn không hội tụ về X là bằng 0. Bằng cách dùng không gian xác suất (Ω, F, P) và khái niệm biến ngẫu nhiên như là một hàm số từ Ω đến R, điều này tương đương với cách viết Hội tụ hầu như chắc chắn thì suy ra hội tụ theo xác suất, và do đó cũng suy ra hội tụ theo phân phối. Nó là khái niệm hội tụ được đề cập trong luật số lớn (mạnh). Hội tụ theo trung bình bậc r (Convergence in rth mean) Ta nói rằng dãy Xn hội tụ theo trung bình bậc r hay trong không gian định chuẩn Lr về X, nếu r ≥ 1, E|Xn|r < ∞ với mọi n, và trong đó E chỉ giá trị kỳ vọng. Hội tụ theo trung bình bậc r cho ta biết rằng kì vọng bậc r về sự khác nhau giữa Xn và X là hội tụ về 0. Các trường hợp đặc biệt quan trọng: Nếu r = 1, ta nói Xn hội tụ theo trung bình về X. Nếu r = 2, ta nói Xn hội tụ theo trung bình bình phương (bậc 2) về X. Hội tụ theo trung bình bậc r, với r > 0, suy ra hội tụ theo xác suất (dùng bất đẳng thức Chebyshev). Còn nếu r > s ≥ 1, thì hội tụ theo trung bình bậc r sẽ suy ra hội tụ theo trung bình bậc s. Do đó hội tụ theo trung bình bình phương dẫn đến hội tụ theo trung bình. Các chiều suy ngược lại (Converse implications) Trong một vài trường hợp đặc biệt ta có các chiều suy ra ngược lại như sau: Nếu Xn hội tụ theo phân phối về một hằng số c, thì Xn hội tụ theo xác suất về c. Nếu Xn hội tụ theo xác suất về X, và nếu Pr(|Xn| ≤ b) = 1 với mọi n và với 1 b nào đó, thì Xn hội tụ trung bình bậc r về X với mọi r ≥ 1. Nói cách khác, nếu Xn hội tụ theo xác suất về X và mọi biến ngẫu nhiên Xn là hầu như bị chạn trên và dưới, khi đó Xn hội tụ theo trung bình bậc bất kỳ r về X. Nếu với mọi ε > 0, thì Xn hội tụ hầu như chắc chắn về X. Nói cách khác, nếu Xn hội tụ theo xác suất về X đủ nhanh (nghĩa là tổng trên hội tụ với mọi ε > 0), thì Xn cũng hội tụ hầu như chắc chắn về X. Điều này được suy ra trực tiếp từ Bổ đề Borel-Cantelli. Nếu Sn là tổng của n biến ngẫu nhiên thực độc lập: thì Sn hội tụ hầu như chắc chắn nếu và chỉ nếu Sn hội tụ theo xác suất.
Trần Huy Liệu (5 tháng 11 năm 1901 – 28 tháng 7 năm 1969) là một nhà văn, nhà hoạt động cách mạng, nhà sử học, nhà báo Việt Nam. Ông từng giữ nhiều vị trí lãnh đạo cấp cao (như Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền) trong chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông là chủ tịch đầu tiên của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Đông Đức. Tiểu sử Ông quê ở làng Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Ông có bút danh chính là Nam Kiều và nhiều bút hiệu khác như Đẩu Nam, Hải Khách, Côi Vị, Ẩm Hân Kiếm Bút. Thuở nhỏ ông học thầy Bùi Trình Khiêm ở Nam Định, Hà Nội. Từ năm 1924, ông vào Nam công tác với các báo Nông cổ mín đàm, Rạng đông, làm chủ bút tờ Đông Pháp thời báo. Tháng 6 năm 1927 ông bị Pháp bắt, kết án tù vì có chân trong các tổ chức yêu nước. Trần Huy Liệu có một người vợ chính thức và bốn người con. Ngoài ra, ông có một người vợ không chính thức và một người con nữa với bà. Người vợ không chính thức dù có con, em tham gia bộ đội và ủng hộ rất nhiều cho kháng chiến, bà vẫn bị quy địa chủ tại Cuộc cải cách ruộng đất năm 1954, giam giữ đến gần chết vì lao phổi. Tham gia hoạt động chính trị Năm 1928 ông thành lập Cường học thư xã chuyên xuất bản sách cổ võ tinh thần yêu nước, nâng cao dân trí. Cũng trong năm này, ông gia nhập Việt Nam Quốc dân đảng và tổ chức đảng bộ trong Nam giữ cương vị Bí thư kỳ Nam bộ. Rồi bị Pháp bắt vào khoảng tháng 8 năm 1928, bị kết án 5 năm tù và đày ra Côn Đảo. Trong tù, vì tiếp xúc với người cộng sản ông tiếp thu chủ nghĩa cộng sản, tuyên bố li khai Quốc dân đảng, tự nguyện đứng vào hàng ngũ những người cộng sản. Năm 1935, ông ra tù, bị trục xuất về miền Bắc. Từ năm 1936, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, tích cực hoạt động cho đảng. Tháng 10 năm 1939 lại bị bắt đày đi Sơn La, Bá Vân, Nghĩa Lộ. Đến tháng 3 năm 1945, tham gia phá trại giam Nghĩa Lộ, vượt ngục trở về Hà Nội làm công tác cách mạng. Tham gia chính phủ cách mạng Trong thời gian Cách mạng Tháng Tám ông giữ những cương vị quan trọng mặc dù ông chưa bao giờ làm Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng. Tháng 8 năm 1945, ông dự Đại hội Quốc dân ở Tân Trào và được bầu làm Phó chủ tịch Ủy ban dân tộc giải phóng (có vai trò như Chính phủ cách mạng lâm thời lúc đó). Ông là người soạn Quân lệnh số 1 phát lệnh Tổng khởi nghĩa toàn quốc dẫn đến Cách mạng Tháng Tám thắng lợi rồi làm Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông trong Chính phủ lâm thời). Ngày 25 tháng 8 năm 1945 ông thay mặt Chính phủ cùng với Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận vào kinh đô Huế chấp nhận sự thoái vị và nhận ấn tín của vua Bảo Đại. Sau đó, ông lần lượt giữ các chức vụ: Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền và Cổ động (đổi tên từ Bộ Tuyên truyền), Chính trị Cục trưởng trong Quân sự Ủy viên hội, Bí thư Tổng bộ Việt Minh, Chủ tịch Hội Văn hóa cứu quốc, Ủy viên thường trực Quốc hội, Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Phó chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Trung. Trong thời gian kháng chiến chống Mỹ ông tham gia công tác Quốc hội, làm Chủ nhiệm Ủy ban Thống nhất của Quốc hội Câu chuyện anh hùng Lê Văn Tám Trong bài viết đăng trên tạp chí Xưa và Nay số ra tháng 10 (năm 2009), giáo sư sử học Phan Huy Lê nói rằng ông đã được ông Trần Huy Liệu, Viện trưởng Viện sử học và cũng là Bộ trưởng Tuyên truyền hồi thập niên 1940 kể cho nghe nhân vật Lê Văn Tám là do ông Liệu dựng lên để cổ vũ tinh thần chiến đấu của người Việt. Ông Phan Huy Lê cũng nói rằng ông Trần Huy Liệu đã nói với ông và hai người khác trong một cuộc gặp: Sau này khi đất nước yên ổn, các anh là nhà sử học, nên nói lại giùm tôi, lỡ khi đó tôi không còn nữa. . Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Lý Châu Hoàn, ngoài câu chuyện tự kể này thì ông Phan Huy Lê không đưa ra được bằng chứng xác thực cho sự phủ định nhân vật Lê Văn Tám mà ông nêu ra. Mặt khác, lời kể của Phan Huy Lê cũng bị chỉ ra là có mâu thuẫn lớn: ông Trần Huy Liệu làm bộ trưởng Bộ Tuyên truyền trong giai đoạn cuối 1945 - đầu 1946, khi đó ông Phan Huy Lê chỉ là một đứa trẻ chưa đầy 12 tuổi, không thể có chuyện ông Trần Huy Liệu lại tiếp đón ông Phan Huy Lê, gọi ông là "nhà sử học" và còn kể cho ông chuyện quan trọng như vậy. Ông Phan Huy Lê cũng đã nhầm lẫn giữa 2 trận đánh kho Thị Nghè (trận đánh kho của Lê Văn Tám diễn ra vào ngày 17/10/1945, còn trận đánh của công nhân nhà máy đèn Chợ Quán diễn ra ngày 1/1/1946, đây là hai trận đánh khác nhau). Ông Lý Châu Hoàn đã đăng bài phân tích, đưa ra các bằng chứng bác bỏ lời kể của ông Phan Huy Lê và chứng minh Lê Văn Tám là có thực, bao gồm các tài liệu thời kỳ đó cũng như lời kể của nhân chứng địa phương và đề nghị ông Phan Huy Lê đối chất Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Thịnh còn tìm ra nhân chứng là ông Hồ Thanh Điền, từng là đội viên Thanh niên Tiền phong đoàn Trần Cao Vân, sau thuộc Chi đội 13 (tiền thân của trung đoàn 300), khẳng định Lê Văn Tám có thật: "Lúc đó đơn vị tôi đóng quân ở Trung Chánh. Ngay sớm hôm sau khi cháy kho xăng Thị Nghè, Nguyễn Thanh Hùng là chiến sĩ của tiểu đội tôi, nhà ở Đa Kao, chạy về báo tin: Thằng Tám trong xóm nhà tui là người đốt kho xăng hồi hôm đó!". Ông Phạm Văn Đông là đồng đội, nhà ở 22/3 Hồ Văn Đại, TP. Biên Hòa thường xuyên nghe ông Điền kể chuyện này. Những năm sau đó, không thấy ông Phan Huy Lê nhắc lại chuyện này trên báo chí Hoạt động nghiên cứu khoa học lịch sử Từ năm 1953, ông chuyển sang công tác nghiên cứu khoa học, làm Trưởng ban Ban nghiên cứu Văn Sử Địa trực thuộc Trung ương Đảng cho đến năm 1959. Sau đó ông lần lượt đảm nhiệm các chức vụ Viện trưởng đầu tiên của Viện Sử học, Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam. Ông để lại 290 công trình nghiên cứu và các bản hồi ký là một di sản đồ sộ, ông đã có những cống hiến xuất sắc cho nền sử học đất nước, trong đó cuốn sách "Lịch sử 80 năm chống Pháp" đã đem lại vinh quang cho ông, tác phẩm được đưa vào làm sách giáo khoa trong các trường Đại học. Ông được bầu làm Chủ tịch đầu tiên của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam. Ngày 28 tháng 7 năm 1969, ông mất tại Hà Nội, thọ 68 tuổi, an táng tại khu A Nghĩa trang Văn Điển, Hà Nội. Năm 1986 hài cốt của ông được chuyển về Nghĩa trang Mai Dịch . Vinh danh Trần Huy Liệu được bầu làm Viện sĩ Thông tấn do Viện Hàn lâm khoa học Cộng hòa dân chủ Đức và được nhà nước Cộng hòa Dân chủ Đức tặng thưởng Huân chương khoa học Humboldt. Năm 1996, các công trình về Lịch sử của Trần Huy Liệu được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt đầu tiên. Tên của ông đặt cho một con đường ở khu vực phường Giảng Võ, quận Ba Đình, Hà Nội; một con đường tại phường Trường Thi, thành phố Nam Định; một con đường ở huyện Mường La, tỉnh Sơn La và một con đường tại quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh., một con đường tại Quận Kiến An, Hải Phòng. Sau này con trai ông là nhà văn Trần Trường Chiến đã viết về ông trong tác phẩm "Trần Huy Liệu - Cõi người". Các tác phẩm chính Một bầu tâm sự (1927) Ngòi bút sắc (1927) Hiến thân vì nước (1928) Ngục trung ký sự (1927) Anh hùng yêu nước (1928) Câu chuyện chung (1928) Thái Nguyên khởi nghĩa Ba người anh kiệt nước Ý Lịch sử Thủ đô Hà Nội (1960) Nguyễn Trãi (1969) Lê Văn Tám Hồi ký Trần Huy Liệu – Nhà xuất bản KHXH và Viện Sử học – 1991 Lịch sử 80 năm chống Pháp (3 tập: tập I 1956, tập II 1959 và tập III 1960) Sơ thảo lịch sử cách mạng cận đại Việt Nam (1950 – 1951) Tài liệu tham khảo lịch sử cận đại Việt Nam (1954 – 1958, 12 tập). Chú thích
Linkin Park là một ban nhạc rock người Mỹ đến từ Agoura Hills, California. Đội hình hiện tại của ban nhạc bao gồm hát chính/tay guitar đệm/tay keyboard Mike Shinoda, tay guitar chính Brad Delson, tay bass Dave Farrell, DJ/nghệ sĩ xoay bàn đĩa Joe Hahn và tay trống Rob Bourdon, tất cả họ đều là các thành viên sáng lập. Giọng ca Mark Wakefield và Chester Bennington là các cựu thành viên của ban nhạc. Dù được phân vào thể loại alternative rock, âm nhạc thời kì đầu của Linkin Park là sự pha trộn giữa heavy metal và hip hop, về sau họ chuyển qua dòng nhạc mang màu sắc electronica và pop hơn. Được thành lập vào năm 1996, Linkin Park trở nên nổi tiếng toàn cầu với album phòng thu đầu tay Hybrid Theory (2000); nhạc phẩm đã giành được chứng nhận Kim cương bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA). Album này ra mắt vào đúng thời kì dòng nhạc nu metal đang hưng thịnh nhất. Những đĩa đơn của album lên sóng liên tục trên MTV như "One Step Closer", "Crawling" và "In the End" đều xếp thứ hạng cao trên bảng xếp hạng Mainstream Rock; riêng "In the End" còn lấn sang bảng xếp hạng nhạc pop. Album thứ hai của nhóm có tựa Meteora (2003) đã tiếp nối thành công của ban nhạc. Nhóm đã khám phá ra dòng nhạc thử nghiệm trong album thứ ba Minutes to Midnight (2007). Đến cuối thập kỷ, Linkin Park đã nằm trong số những nghệ sĩ nhạc rock thành công và nổi tiếng nhất. Ban nhạc tiếp tục khám phá nhiều thể loại âm nhạc đa dạng hơn trong album thứ tư A Thousand Suns (2010) khi họ lồng thêm nhiều lớp nhạc electronic hơn. Album thứ năm của nhóm, Living Things (2012) đã kết hợp những nhạc tố từ tất cả các đĩa nhạc mà họ phát hành trước đó. Album thứ sáu của Linkin Park, The Hunting Party (2014) trở về âm hưởng rock nặng nề hơn còn album thứ bảy One More Light (2017) lại là đĩa nhạc mang màu sắc nhạc pop đầu tiên của nhóm. Linkin Park đã tạm dừng hoạt động sau khi giọng ca chính lâu năm Bennington qua đời do tự tử vào tháng 7 năm 2017. Vào tháng 4 năm 2022, Shinoda tiết lộ rằng ban nhạc không làm nhạc mới cũng như không có kế hoạch lưu diễn trong tương lai gần và chỉ phát hành phiên bản kỷ niệm 20 năm ra mắt hai album phòng thu đầu tiên sau khi Bennington qua đời. Linkin Park là một trong những ban nhạc có doanh số bán đĩa nhạc chạy nhất của thế kỷ 21 và là một trong những nghệ sĩ âm nhạc bán đĩa nhạc chạy nhất thế giới, với hơn 100 triệu đĩa nhạc tiêu thụ trên toàn thế giới. Nhóm đã giành hai giải Grammy, 6 giải thưởng Âm nhạc Mỹ, hai giải thưởng Âm nhạc Billboard, 4 giải Video Âm nhạc của MTV, 10 giải Âm nhạc châu Âu của MTV và ba giải thưởng Âm nhạc Thế giới. Vào năm 2003, MTV2 đã xướng tên Linkin Park là ban nhạc vĩ đại thứ 6 trong kỷ nguyên video âm nhạc và vĩ đại thứ 3 trong thiên niên kỷ mới. Billboard thì xếp Linkin Park đứng thứ 19 trong danh sách Best Artists of the Decade. Năm 2012, ban nhạc được bầu chọn là nghệ sĩ vĩ đại nhất của thập niên 2000 trong một cuộc bầu chọn Barcket Madness trên kênh VH1. Năm 2014, nhóm được tôn vinh là "The Biggest Rock Band in the World Right Now" bởi tờ Kerrang!. Lịch sử hoạt động 1996–2000: Những năm đầu Linkin Park được thành lập bởi ba người bạn thời trung học: Mike Shinoda, Rob Bourdon và Brad Delson. Họ theo học tại Trường trung học Agoura ở Agoura Hills, California, một vùng ngoại ô của Los Angeles. Sau khi tốt nghiệp trung học, họ bắt đầu xem trọng sở thích âm nhạc một cách nghiêm túc hơn, vì thế họ liền tuyển mộ Joe Hahn, Dave "Phoenix" Farrell và Mark Wakefield để thành lập một ban nhạc và đặt tên nhóm là Xero. Mặc dù bị giới hạn về cơ sở vật chất, ban nhạc vẫn bắt đầu thu âm và sản xuất các bài hát bên trong phòng thu âm tạm bợ (cũng là phòng ngủ) của Shinoda năm 1996; họ cho ra mắt một băng demo có bốn bài với tựa đề Xero. Tuy nhiên, ban nhạc bắt đầu cảm thấy căng thẳng và chán nản sau khi họ không thể ký được một hợp đồng thu âm. Do thất bại và bế tắc, giọng ca chính lúc đó của ban nhạc là Wakefield, đã rời ban để tìm kiếm những dự án khác. Farrell cũng rời đi để lưu diễn với Tasty Snax, một ban nhạc ska và punk Kito giáo. Sau khi dành khoảng thời gian đáng kể để tìm sự thay thế cho Wakefield, Xero đã tuyển mộ ca sĩ gốc Arizona, Chester Bennington sau khi Chester được tiến cử bởi Jeff Blue - phó giám đốc của Zomba Music vào tháng 3 năm 1999. Bennington là cựu thành viên ban nhạc post-grunge Grey Daze và nổi lên giữa những ứng viên nhờ vào phong cách hát đa dạng của ông. Sau đó nhóm đã thống nhất đổi tên của họ từ Xero sang Hybrid Theory; sự hòa hợp giọng hát giữa Shinoda và Bennington đã giúp hồi sinh ban nhạc, giúp họ có động lực tạo ra những sản phẩm mới. Năm 1999 ban nhạc đã phát hành một đĩa EP cùng tên nhóm và nó đã lan truyền trên các phòng chat trên mạng cũng như các diễn đàn nhờ sự trợ giúp của một 'street team' trên mạng. Xero vẫn gặp khó khăn trong việc ký kết hợp đồng thu âm. Họ tiếp cận Jeff Blue để được trợ giúp thêm sau khi bị một vài hãng thu âm lớn từ chối nhiều lần. Sau khi không thể ký kết với Warner Bros. Records trong 3 lần trước đây; ông Blue - phó giám đốc của Warner Bros. Records lúc bấy giờ - đã giúp ban nhạc ký hợp đồng với công ty dưới dạng một nghệ sĩ đang phát triển vào năm 1999. Tuy nhiên, hãng đã khuyên ban nhạc đổi tên để tránh gây nhầm lẫn với ban nhạc từ Anh, Hybrid. Ban nhạc đã đổi tên thành Linkin Park, gợi nhớ đến Lincoln Park ở Santa Monica, giờ có tên là Christine Emerson Reed Park. Lúc đầu họ muốn dùng tên "Lincoln Park", tuy nhiên họ đã đổi tên thành "Linkin" để giành lấy tên miền internet "linkinpark.com". Bennington và Shinoda đều phát biểu về việc Warner Bros. Records từng hoài nghi về những bản thu âm ban đầu của Linkin Park. Bộ phận A&R của hãng đĩa không hài lòng với phong cách hip-hop kết hợp rock của ban nhạc. Một đại diện A&R còn đề nghị Bennington nên giảm vai trò hoặc sa thải Shinoda và tập trung hoàn toàn để sáng tác nhạc rock. Nhưng Bennington đã đứng về phía Shinoda và không chấp nhận làm thành viên chủ lực của Linkin Park cho album. Farrell đã trở lại ban vào năm 2000 và nhóm phát hành album Hybrid Theory gây đột phá vào cùng năm đó. 2000–2002: Hybrid Theory và Reanimation Linkin Park đã phát hành Hybrid Theory vào ngày 24 tháng 10 năm 2000. Album là minh chứng cho một nửa thập kỷ làm việc của ban nhạc, và được biên tập bởi Don Gilmore. Hybrid Theory gặt hái thành công lớn về mặt thương mại, bán ra hơn 4,8 triệu bản trong năm đầu ra mắt, rồi đoạt được danh hiệu album bán chạy nhất năm 2001, trong khi những đĩa đơn như "Crawling" và "One Step Closer" được xem là những bài tiêu chuẩn trong các danh sách phát nhạc alternative rock trên radio của năm đó. Bên cạnh đó, những đĩa đơn khác trong album còn có mặt trong những bộ phim điện ảnh như Dracula 2000, Little Nicky và Valentine. Hybrid Theory đã giành chiến thắng một Giải Grammy cho Trình diễn hard rock xuất sắc nhất nhờ bài hát "Crawling" và đem về cho ban hai đề cử Giải Grammy khác: Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất và Album rock xuất sắc nhất. MTV thì trao cho ban nhạc giải thưởng Video nhạc rock xuất sắc và Chỉ đạo xuất sắc nhất nhờ bài hát "In the End". Nhờ thành tích thắng giải Grammy cho Trình diễn hard rock xuất sắc nhất, thành công của Hybrid Theory đã làm bệ phóng để đưa ban nhạc tiến đến thành công đại chúng. Vào lúc này, Linkin Park đã nhận được nhiều lời mời để trình diễn trong nhiều chuyến lưu diễn và buổi hòa nhạc nổi tiếng như Ozzfest, Family Values Tour, và KROQ Almost Acoustic Christmas. Nhóm làm việc với Jessica Sklar để thành lập hội hâm mộ chính thức cũng như 'đội đường phố' "Linkin Park Underground", vào tháng 11 năm 2001. Linkin Park cũng khởi chuyến lưu diễn riêng Projekt Revolution, với sự góp mặt nhiều nghệ sĩ đáng chú ý như Cypress Hill, Adema, và Snoop Dogg. Trong một năm, Linkin Park đã trình diễn tại hơn 320 buổi nhạc. Những trải nghiệm và các buổi trình diễn của ban nhạc được ghi làm phim tài liệu trong DVD đầu tay của nhóm mang tên Frat Party at the Pankake Festival, phát hành vào tháng 11 năm 2001. Kế đó ban tái hợp với tay bass Phoenix và bắt đầu thực hiện một album phối lại lấy tựa là Reanimation; trong album chứa những bản nhạc trích từ album Hybrid Theory cũng như những ca khúc không nằm trong album. Reanimation ra mắt vào ngày 30 tháng 7 năm 2002, với sự góp mặt của những cái tên như Black Thought, Jonathan Davis, Aaron Lewis và nhiều nghệ sĩ khác. Reanimation chiếm vị trí á quân trên bàng xếp hạng Billboard 200 và đã tiêu thụ gần 270.000 bản trong tuần ra mắt. Hybrid Theory cũng nằm trong danh sách Top 100 Album của RIAA. 2002–2004: Meteora Sau thành công của Hybrid Theory và Reanimation, Linkin Park đã dành nhiều thời gian đi lưu diễn quanh Hoa Kỳ. Các thành viên của nhóm bắt đầu thực hiện các dự án mới giữa lịch diễn dày đặc, nên họ chỉ bỏ ra một chút thời gian để xả hơi trong phòng thu trên xe buýt lưu diễn. Ban nhạc chính thức thông báo sản xuất album phòng thu mới vào tháng 12 năm 2002, tiết lộ rằng sản phẩm mới của họ được lấy cảm hứng từ vùng núi đá Meteora ở Hy Lạp, và trên đỉnh núi đá đó có nhiều tu viện được xây dựng. Meteora là sự kết hợp giữa phong cách nu metal và rap metal của ban với những hiệu ứng âm thanh sáng tạo hơn, như tiếng shakuhachi (một loại sáo Nhật Bản làm từ tre) cũng như nhiều nhạc cụ khác. Album thứ hai của Linkin Park đã ra mắt vào ngày 25 tháng 3 năm 2003 và ngay lập tức nhận được nhiều lời tán dương trên toàn thế giới, qua đó leo lên ngôi quán quân ở Mỹ và Anh, cũng như vị trí á quân ở Úc. Meteora đã tiêu thụ hơn 800.000 bản trong tuần đầu tiên và lọt vào bảng xếp hạng album bán chạy nhất của Billboard lúc bấy giờ. Những đĩa đơn trích từ album như "Somewhere I Belong", "Breaking the Habit", "Faint" và "Numb" đều thu hút sự chú ý đáng kể từ các đài phát thanh. Đến tháng 10 năm 2003, Meteora bán được gần 3 triệu bản. Thành công của album giúp Linkin Park thành lập ra một dự án Projekt Revolution khác, với sự góp mặt của các ban nhạc và ca sĩ như Mudvayne, Blindside và Xzibit. Ngoài ra, Metallica đã mời Linkin Park đến biểu diễn tại chuyến lưu diễn Summer Sanitarium Tour 2003, nơi quy tụ nhiều tên tuổi nổi tiếng như Limp Bizkit, Mudvayne và Deftones. Ban nhạc còn phát hành một album và DVD có nhan đề Live in Texas; đĩa nãy chứa những bài hát cũng như video lấy từ những buổi trình diễn của nhóm tại Texas trong chuyến lưu diễn. Vào đầu năm 2004, Linkin Park khởi động một chuyến lưu diễn thế giới có tên Meteora World Tour. Hỗ trợ cho ban nhạc trong chuyến lưu diễn gồm có Hoobastank, P.O.D., Story of the Year và Pia. Meteora đã giúp Linkin Park giành được nhiều giải thưởng. Họ đã thắng giải MTV hạng mục Video nhạc rock xuất sắc nhất nhờ "Somewhere I Belong" và Giải Lựa chọn của Khán giả nhờ "Breaking the Habit". Linkin Park cũng gặt hái thành tích tại Radio Music Awards năm 2004, với các danh hiệu Nghệ sĩ của năm và Ca khúc của năm (nhờ bài "Numb"). Mặc dù Meteora không thành công lớn như Hybrid Theory, nhưng đây là album bán chạy thứ 3 ở Hoa Kỳ năm 2003. Nhóm đã dành vài tháng đầu năm 2004 để đi lưu diễn khắp thế giới, đầu tiên là chuyến lưu diễn Projekt Revolution thứ ba, và sau đó là vài buổi hòa nhạc ở Châu Âu. Cùng lúc đó, mối quan hệ của ban nhạc với hãng Warner Bros. Records đang ngày càng xấu đi do nhiều vấn đề lòng tin và tài chính. Sau nhiều tháng tranh chấp, nhóm cuối cùng đã thương thảo được một hợp đồng vào tháng 12 năm 2005. 2004–2006: Những dự án phụ Sau thành công của Meteora, Linkin Park đã thực hiện nhiều dự án phụ. Bennington góp mặt trong "State of the Art" của DJ Lethal và những sản phẩm khác cùng Dead by Sunrise, trong khi Shinoda thì hợp tác cùng Depeche Mode. Năm 2004, ban nhạc bắt đầu hợp tác với Jay-Z để sản xuất một album phối lại mới, có tên Collision Course. Album có những lời hát và đoạn nhạc nền được lồng ghép với nhau, chúng đều được lấy từ những album cũ của cả hai bên. Album đã ra mắt vào tháng 11 năm 2004. Shinoda cũng thành lập dự án phụ của riêng anh mang tên Fort Minor. Với sự trợ giúp của Jay-Z, Fort Minor đã phát hành album đầu tay The Rising Tied, và được giới phê bình đánh giá cao. Linkin Park còn tham gia nhiều sự kiện từ thiện, đáng chú ý nhất là quyên góp tiền để ủng hộ các nạn nhân của Bão Charley năm 2004 và sau đó là Bão Katrina năm 2005. Ban nhạc đã ủng hộ 75.000 USD cho tổ chức Special Operations Warrior Foundation vào tháng 3 năm 2004. Họ còn giúp cứu trợ các nạn nhân của vụ sóng thần Ấn Độ Dương năm 2004 bằng cách tổ chức nhiều buổi hoà nhạc từ thiện và thành lập một quỹ có tên Music for Relief. Đáng chú ý hơn cả, nhóm đã tham gia Live 8, một chuỗi buổi hoà nhạc từ thiện được tổ chức để tăng nhận thức của toàn thế giới. Ban nhạc cùng với Jay-Z đã biểu diễn trên sân khấu của Live 8 tại Philadelphia, Pennsylvania trước khán giả toàn cầu. Sau đó nhóm tái hợp với Jay-Z tại Lễ trao giải Grammy 2006 để trình diễn ca khúc "Numb/Encore"; phiên bản này về sau đoạt luôn giải Grammy cho Trình diễn rap/hát xuất sắc nhất. Paul McCartney cũng tham gia cùng họ trên sân khấu với tiết mục hát thêm vài phiên khúc từ bài "Yesterday". Sau đó Linkin Park tiếp tục trình diễn tại nhạc hội Summer Sonic 2006 do Metallica tổ chức tại Nhật Bản. 2006–2008: Minutes to Midnight Linkin Park đã quay trở lại phòng thu âm vào năm 2006 để thực hiện dự án mới. Để sản xuất album, ban nhạc đã chọn nhà sản xuất Rick Rubin. Mặc dù ban đầu album được công bố là sẽ ra mắt vào khoảng năm 2006, lịch phát hành album lại bị hoãn đến năm 2007. Nhóm thu âm được khoảng 30 đến 50 bài hát vào tháng 8 năm 2006, lúc đó Shinoda thông báo album đã hoàn thành một nửa. Bennington sau đó bổ sung rằng album mới sẽ không còn theo thể loại nu metal như trước. Warner Bros. Records chính thức công bố album phòng thu thứ ba của Linkin Park có tên Minutes to Midnight và album sẽ được phát hành vào ngày 15 tháng 5 năm 2007 ở Hoa Kỳ. Sau khi dành ra 14 tháng thực hiện album, các thành viên trong nhóm đã quyết định trau chuốt nhạc phẩm hơn nữa bằng việc loại bỏ 5 trong số 17 bản nhạc gốc. Tựa đề của album lấy cảm hứng từ Đồng hồ ngày tận thế và như dự báo trước chủ đề ca từ của họ. Minutes to Midnight bán được hơn 625.000 bản trong tuần đầu tiên, qua đó trở thành một trong những album có tuần ra mắt thành công nhất trong những năm gần đây. Album còn chiếm ngôi quán quân trên bảng xếp hạng của Billboard. Đĩa đơn đầu tiên của album, "What I've Done" đã được phát hành vào ngày 2 tháng 4, đồng thời trình chiếu trên MTV và Fuse trong cùng tuần đó. Đĩa đơn được giới mộ điệu đón nhận tích cực, qua đó giành được thứ hạng cao trên bảng xếp hạng Modern Rock Tracks và Mainstream Rock Tracks của Billboard. Bài hát cũng được sử dụng cho nhạc nền của bộ phim hành động Transformers (2007). Mike Shinoda còn góp mặt trong bài hát "Second to None" của Styles of Beyond (bài này cũng xuất hiện trong phim đó). Cùng năm đó, nhóm đoạt giải "Nghệ sĩ nhạc alternative yêu thích" tại lễ trao American Music Awards. Ban nhạc tiếp tục gặt hái thành công với những đĩa đơn còn lại của album là "Bleed It Out", "Shadow of the Day", "Given Up" và "Leave Out All the Rest"; chúng ra mắt trong năm 2007 và đầu năm 2008. Ban nhạc đã hợp tác với Busta Rhymes trong đĩa đơn "We Made It" của ông, phát hành vào ngày 29 tháng 4. Linkin Park đã khởi động một chuyến lưu diễn thế giới lớn có tên "Minutes to Midnight World Tour". Ban nhạc quảng bá cho album bằng cách lập chuyến lưu diễn Projekt Revolution thứ 4 ở Hoa Kỳ với sự góp mặt của My Chemical Romance, Taking Back Sunday, HIM, Placebo và nhiều nghệ sĩ khác. Nhóm còn chơi nhạc tại nhiều buổi diễn ở Châu Âu, Châu Á, và Úc, trong đó có một buổi trình diễn tại Live Earth Japan vào ngày 7 tháng 7 năm 2007. Linkin Park là nghệ sĩ trình diễn chính tại nhạc hội Download Festival ở Donington Park, Anh Quốc và Edgefest ở Downsview Park, Toronto, Ontario, Canada. Ban nhạc đã hoàn thành chuyến lưu diễn Projekt Revolution thứ 4 trước khi tham gia một chuyến lưu diễn Arena quanh Vương quốc Anh, với các địa điểm ghé thăm là Nottingham, Sheffield và Manchester, để rồi kết thúc bằng 2 đêm diễn tại sân vận động O2 ở Luân Đôn. Bennington tuyên bố rằng Linkin Park dự định sẽ phát hành một album nối tiếp Minutes to Midnight. Tuy nhiên, ông nói rằng trước đó ban nhạc sẽ khởi hành chuyến lưu diễn ở Hoa Kỳ để thu nhặt ý tưởng làm album nói trên. Linkin Park đã khởi hành một chuyến lưu diễn Projekt Revolution khác vào năm 2008. Đây là lần đầu tiên một chuyến lưu diễn Projekt Revolution được tổ chức tại Châu Âu với ba buổi diễn tại Đức và một tại Vương quốc Anh. Một chuyến lưu diễn Projekt Revolution khác cũng có mặt ở Hoa Kỳ, tại đó quy tụ Chris Cornell, The Bravery, Ashes Divide, Street Drum Corps và nhiều nghệ sĩ khác. Linkin Park hoàn thành chuyến lưu diễn bằng một buổi diễn tại Texas. Mike Shinoda đã ra thông báo về một đĩa CD/DVD thu âm trực tiếp có tên Road to Revolution: Live at Milton Keynes; sản phẩm này là video thu trực tiếp từ phần trình diễn của Projekt Revolution tại Milton Keynes Bowl vào ngày 29 tháng 6 năm 2008, phát hành chính thức vào ngày 24 tháng 11 năm 2008. 2008–2011: A Thousand Suns Vào tháng 5 năm 2009, Linkin Park đã thông báo họ đang sáng tác ra album phòng thu thứ 4, nó được dự định sẽ phát hành vào năm 2010. Shinoda đã phát biểu trên IGN rằng album mới sẽ 'kết hợp thể loại' và được phát triển từ những yếu tố trong Minutes to Midnight. Ông cũng đã đề cập rằng album sẽ mang tính thử nghiệm nhiều hơn và "hy vọng là sẽ đột phá hơn". Bennington cũng đã xác nhận với truyền thông rằng Rick Rubin sẽ tiếp tục trở lại làm nhà sản xuất cho album mới. Ban nhạc sau đó đã tiết lộ rằng album sẽ có tên A Thousand Suns. Trong lúc tạo ra album mới, Linkin Park đã làm việc với nhà soạn nhạc phim thành đạt Hans Zimmer để tạo ra nhạc nền phim cho Transformers: Bại binh phục hận. Ban nhạc đã phát hành một đĩa đơn cho bộ phim, có tên "New Divide". Joe Hahn đã tạo ra video nhạc cho bài hát, trong đó có những đoạn clip lấy từ phim. Vào ngày 22 tháng 6, Linkin Park đã trình diễn một buổi nhạc ngắn tại Westwood Village sau buổi công chiếu bộ phim. Sau khi hoàn thành công việc cho Transformers: Bại binh phục hận, ban nhạc trở lại phòng thu để hoàn thành album của họ. Vào ngày 26 tháng 4, ban nhạc đã phát hành một trò chơi có tên 8-Bit Rebellion! trên iPhone, iPod Touch, và iPad. Trong trò chơi, các thành viên ban nhạc là những nhân vật có thể chơi. Ngoài ra trong trò chơi còn có một bài hát mới tên là "Blackbirds". Bài hát có thể được mở khóa bằng cách phá đảo trò chơi. Bài hát sau đó cũng được phát hành dưới dạng bài bổ sung trên iTunes trong album A Thousand Suns. A Thousand Suns đã được phát hành vào ngày 14 tháng 9. Đĩa đơn đầu tiên của album, "The Catalyst", đã được phát hành vào ngày 2 tháng 8. Ban nhạc đã quảng bá album mới của họ bằng việc khởi động chuyến lưu diễn của họ tại Los Angeles vào ngày 7 tháng 9. Linkin Park cũng nhờ vào MySpace để quảng bá album của họ cũng như phát hành thêm 2 bài hát: "Waiting for the End" và "Blackout" vào ngày 8 tháng 9. Ngoài ra, một phim tài liệu về quá trình sản xuất album, có tên Meeting of A Thousand Suns, đã được đăng tải lên cho xem trên trang MySpace của ban nhạc. Vào ngày 31 tháng 8 năm 2010, ban nhạc đã thông báo họ sẽ trình diễn đĩa đơn lần đầu tiên tại Giải Video âm nhạc của MTV năm 2010 vào ngày 12 tháng 9 năm 2010. Sân khấu để trình diễn là Griffith Observatory, một vị trí mang tính biểu tượng được sử dụng trong những phim Hollywood. "Waiting for the End" đã được phát hành làm đĩa đơn thứ 2 của A Thousand Suns. Năm 2010, Linkin Park đã leo lên hạng 8 trên Billboard Social 50, một bảng xếp hạng những nghệ sĩ tích cực nhất trên các mạng xã hội hàng đầu của thế giới. Với những bảng xếp hạng Billboard Year-End khác của năm 2010: ban nhạc đã đứng hạng 92 trên Top Artists, A Thousand Suns đứng hạng 53 trên Billboard Top 200 albums và hạng 7 trên Rock Albums, The Catalyst đứng hạng 40 trên Rock Songs. Ban nhạc đã được đề cử cho 6 Giải thưởng Billboard năm 2011 cho các hạng mục: Top Duo or Group, Best Rock Album với A Thousand Suns, Top Rock Artist, Top Alternative Artist, Top Alternative Song với Waiting for the End, và Top Alternative Album với A Thousand Suns, nhưng đã không đoạt giải nào. Ban nhạc đã được xếp hạng trong nhiều bảng xếp hạng Billboard Year-End năm 2011. Ban nhạc đã đứng hạng 39 trên Top Artists, hạng 84 trên Billboard 200 Artists, hạng 11 trên Social 50, hạng 6 trên Top Rock Artists, hạng 9 trên Rock Songs Artists, hạng 16 trên Rock Albums, hạng 4 trên Hard Rock Albums, và hạng 7 trên Alternative Songs. 2011–2013: Living Things và Recharged Vào tháng 7 năm 2011, Bennington đã nói trên tờ Rolling Stone rằng Linkin Park nhắm tới tiến độ sản xuất một album mới sau mỗi 18 tháng, và ông tin chắc một album mới sẽ ra lò vào năm 2012. Ông sau đó đã tiết lộ trong một bài phỏng vấn khác vào tháng 9 năm 2011 rằng ban nhạc vẫn đang ở giai đoạn ban đầu của album tiếp theo, nói rằng "Chúng tôi chỉ vừa mới khởi động. Chúng tôi muốn giữ niềm cảm hứng sáng tạo luôn tuôn trào,... chúng tôi thích hướng đi hiện tại của mình". Sau đó, vào ngày 28 tháng 3 năm 2012, Shinoda đã xác nhận rằng ban nhạc đang ghi hình một video nhạc cho bài "Burn It Down". Joe Hahn là đạo diễn của video. Shinoda đã nói với Co.Create về nghệ thuật của album, nói rằng nó sẽ "thổi bay họ [các fan] đi... người bình thường sẽ không thể chấp nhận nó ngay từ cái nhìn đầu tiên, tôi hiểu rằng nó hoàn toàn mới lạ, không chỉ về hình ảnh mà ngay cả phương cách tạo ra hình ảnh nữa.". Ngày 15 tháng 4 năm 2012, Shinoda đã thông báo rằng Living Things sẽ là tựa đề cho album thứ năm của Linkin Park. Shinoda đã khẳng định rằng họ chọn tựa đề Living Things bởi vì album này liên quan đến con người, sự tương tác giữa các cá nhân, và nó mang tính cá nhân hơn các album trước đây. Ban nhạc đã quảng bá album trong Honda Civic Tour phiên bản năm 2012, họ với Incubus là đồng nghệ sĩ chính của tour. Ban nhạc đã trình diễn "Burn It Down" tại Giải thưởng Âm nhạc Billboard 2012. Ngày 24 tháng 5, ban nhạc đã phát hành video nhạc cho bài "Burn It Down" và công bố "Lies Greed Misery", một bài hát khác từ Living Things, trên đài BBC Radio 1. "Powerless", bài hát thứ 12 và cũng là bài kết thúc album, đã xuất hiện trong đoạn danh đề cuối phim Abraham Lincoln: Thợ săn ma cà rồng. Living Things đã bán được hơn 223.000 bản trong tuần công bố, xếp hạng 1 trên US Albums Charts . Đĩa đơn của album, "Castle of Glass", đã được đề cử cho giải 'Best Song in a Game' tại Giải thưởng Trò chơi điện tử Spike năm 2012. Ban nhạc cũng đã trình diễn tại lễ trao giải vào ngày 7 tháng 12, nhưng đã mất giải thưởng vào tay bài "Cities" của Beck. Linkin Park cũng đã trình diễn tại lễ hội âm nhạc Soundwave ở Úc, ở đó họ diễn chung sân khấu với Metallica, Paramore, Slayer và Sum 41. Ngày 10 tháng 8 năm 2013, ban nhạc đã hợp tác với nghệ sĩ người Mỹ Steve Aoki để ghi âm ca khúc "A Light That Never Comes" cho trò chơi giải đố-hành động trực tuyến của Linkin Park là LP Recharge, nó đã được công bố trên Facebook và trang web chính thức của LP Recharge vào ngày 12 tháng 9 năm 2013. Vào ngày phát hành trò chơi, Linkin Park đã đăng một bài trên Facebook của họ để giải thích rằng bài hát được dùng để quảng bá trò chơi sẽ nằm trong một album phối lại mới, có tên Recharged. Nó đã được phát hành ngày 29 tháng 10 năm 2013 dưới dạng đĩa CD, đĩa than, và tải về dạng số. Tương tự như Reanimation, album chứa những bản phối lại của 10 ca khúc từ Living Things, với sự đóng góp của những nghệ sĩ khác, như Ryu của Styles of Beyond, Pusha T, Datsik, KillSonik, Bun B, Money Mark, và Rick Rubin. Ban nhạc cũng đã góp phần tạo ra nhạc nền cho phim Mall, bộ phim được đạo diễn bởi Joe Hahn. 2013–2015: The Hunting Party Trong một cuộc phỏng vấn với Fuse, Shinoda đã xác nhận rằng Linkin Park đã bắt đầu thu âm album phòng thu thứ sáu của họ vào tháng 5 năm 2013. Ban nhạc đã phát hành đĩa đơn đầu tiên của album tiếp theo, có tên "Guilty All the Same" vào ngày 6 tháng 3 năm 2014 thông qua Shazam. Đĩa đơn sau đó được phát hành bởi Warner Bros. Records vào ngày hôm sau và ra mắt ở hạng 28 trên bảng xếp hạng US Billboard Rock Airplay trước khi leo lên hạng 1 trên bảng xếp hạng Mainstream Rock vào những tuần tiếp theo. Không lâu sau khi phát hành đĩa đơn, ban nhạc đã tiết lộ album thứ 6 của họ sẽ có tên The Hunting Party. Album được sản xuất bởi Shinoda và Delson, họ muốn khám phá thêm những yếu tố âm nhạc từ Hybrid Theory và những sản phẩm trước đó của họ. Shinoda đã bình luận rằng album là một "đĩa nhạc rock mang phong cách của những năm 90". Ông đã giải thích: "Nó là một đĩa nhạc rock. Nó ồn ào và nó là rock, nhưng không phải theo kiểu nhạc bạn đã từng nghe trước đây, cái kiểu nhạc hardcore-punk-thrash của những năm 90." Album có sự đóng góp âm nhạc từ rapper Rakim, Page Hamilton của Helmet, Tom Morello của Rage Against the Machine, và Daron Malakian của System of a Down. The Hunting Party đã được phát hành vào ngày 13 tháng 6 năm 2014 ở hầu hết các nước, và sau đó phát hành ở Hoa Kỳ vào ngày 17 tháng 6. Linkin Park đã trình diễn tại Download Festival vào ngày 14 tháng 6 2014, tại đó họ đã trình diễn toàn bộ album đầu tay của họ, Hybrid Theory. Linkin Park là nghệ sĩ chính tại Rock am Ring and Rock im Park năm 2014, cùng với Metallica, Kings of Leon, và Iron Maiden. Ban nhạc cũng đã cùng Iron Maiden làm nghệ sĩ chính lần nữa tại Greenfield Festival vào tháng 7. Ngày 22 tháng 6, Linkin Park đã làm bất ngờ làm nghệ sĩ chính mà không lên kế hoạch trước tại Vans Warped Tour, tại đó họ trình diễn cùng những thành viên của Issues, The Devil Wears Prada, A Day To Remember, Yellowcard, Breathe Carolina, Finch, và Machine Gun Kelly. Tháng 1 năm 2015, ban nhạc đã khời hành chuyến lưu diễn để quảng bá The Hunting Party, bao gồm 17 buổi hòa nhạc tại khắp Hoa Kỳ và Canada. Chuyến lưu diễn đã bị hủy sau chỉ 3 buổi nhạc khi Bennington bị chấn thương mắt cá. Ngày 9 tháng 5, Linkin Park đã trình diễn tại phiên bản đầu tiên của Rock in Rio USA, để ủng hộ trực tiếp cho Metallica. Ngày 9 tháng 11 năm 2014, MTV Europe đã trao cho Linkin Park giải Best Rock act của năm 2014 tại lễ trao giải âm nhạc thường niên của họ. Ban nhạc đã thắng giải Best Rock Band và Best Live Act của năm 2014 tại Giải thưởng Âm nhạc của Loudwire. Revolver đã xếp hạng The Hunting Party làm album xuất sắc thứ 4 của năm 2014. Trong một buổi phỏng vấn với AltWire vào ngày 4 tháng 5, Shinoda đã nhìn lại The Hunting Party và bình luận về tương lai của Linkin Park, ông phát biểu: "Tôi rất hạnh phúc với sự đón nhận của The Hunting Party, và tôi nghĩ chúng tôi đã sẵn sàng để tiến đến một nơi khác mới mẻ hơn trong album kế tiếp, nó sẽ đến [vào năm 2016]". Linkin Park đã hợp tác cùng Steve Aoki với ca khúc "Darker Than Blood" cho album của Aoki là Neon Future II, nó đã được phát hành vào tháng 5 năm 2015. Bản nghe trước của ca khúc đã xuất hiện trong phần trình diễn của Aoki vào ngày 28 tháng 2 năm 2015 tại Aragon Ballroom, Chicago, Illinois. Ca khúc đã được ra mắt trên nền tảng Twitch vào ngày 13 tháng 4 và được phát hành vào ngày 14 tháng 4. Linkin Park đã trình diễn tại lễ bế mạc của BlizzCon 2015, hội chợ trò chơi điện tử của Blizzard. 2015–2017: One More Light và cái chết của Bennington Linkin Park đã bắt đầu tạo ra nhạc phẩm mới cho một album phòng thu thứ bảy vào tháng 11 năm 2015. Chester Bennington đã bình luận về hướng đi của album: "Chúng tôi đang có rất nhiều nhạc phẩm, tôi hy vọng chúng sẽ thử thách cũng như truyền cảm hứng cho cộng đồng người hâm mộ giống như chúng tôi." Vào tháng 2 năm 2017, Linkin Park đã đăng tải video quảng bá trên những tài khoản mạng xã hội của họ, trong đó Shinoda và Bennington đang chuẩn bị nhạc phẩm mới cho album. Mike Shinoda nói rằng ban nhạc đã đi theo một quy trình mới khi sản xuất album. Brad Delson giải thích thêm: "Chúng tôi đã tạo ra quá nhiều đĩa nhạc, nên chúng tôi rất chắc chắn về cách tạo ra đĩa nhạc, và rõ ràng lần này chúng tôi không muốn đi theo hướng dễ dàng." Đĩa đơn đầu tiên từ album đã được tiết lộ sẽ có tên "Heavy" và có sự góp mặt của ca sĩ nhạc pop Kiiara, đánh dấu lần đầu tiên ban nhạc có sự góp mặt của một nữ ca sĩ trong một bài hát tự sáng tác cho một album phòng thu. Lời bài hát cùng được chắp bút bởi Linkin Park, Julia Michaels và Justin Tranter. Đĩa đơn đã được cho tải xuống vào ngày 16 tháng 2. Như ban nhạc đã từng làm trong quá khứ, họ đã đăng những thông điệp mã hóa lên mạng có liên quan đến album. Bìa album đã được tiết lộ thông qua những câu đố số hóa trên các mạng xã hội; ảnh bìa có hình sáu đứa trẻ đang chơi đùa trên bãi biển. Album thứ bảy của ban nhạc, One More Light, đã được phát hành vào ngày 19 tháng 5 năm 2017. Bennington mất vào ngày 20 tháng 7 năm 2017; cái chết của ông được xác định là do tự tử bằng cách treo cổ. Shinoda đã xác nhận cái chết của Bennington trên Twitter, viết rằng: "Sốc và đau buồn, nhưng đó là sự thực. Chúng tôi sẽ có một thông báo chính thức sớm nhất có thể". Ban nhạc đã phát hành một video âm nhạc cho đĩa đơn của họ "Talking to Myself" trước đó cùng ngày. Một ngày sau cái chết của Bennington, ban nhạc đã hủy lượt diễn ở Bắc Mỹ của One More Light World Tour. Vào sáng ngày 24 tháng 7, Linkin Park đã đăng một thông báo chính thức trên trang web của họ để tri ân Bennington. Ngày 28 tháng 7, Shinoda đã thông báo rằng phần đóng góp cho quỹ từ thiện Music for Relief của ban nhạc sẽ được chuyển sang quỹ One More Light, quỹ này được lập ra để tưởng nhớ Bennington. Ngày 4 tháng 8, ban nhạc có kế hoạch ban đầu là sẽ trình diễn trên Good Morning America, nhưng thay vào đó con gái 12 tuổi của Chris Cornell là Toni (cũng là con gái nuôi của Bennington) đã xuất hiện cùng OneRepublic để trình diễn bài "Hallelujah" nhằm tri ân Bennington và người cha quá cố. Bennington trước đó đã từng trình diễn ca khúc này tại lễ tang của Cornell, ông cũng đã mất do tự tử bằng cách treo cổ vào 2 tháng trước. Ngày 22 tháng 8, Linkin Park đã thông báo kế hoạch tổ chức một buổi nhạc tri ân tại Los Angeles để tưởng nhớ Bennington. Ban nhạc đã cảm ơn các người hâm mộ vì sự ủng hộ của họ, khẳng định rằng: "Năm người chúng tôi rất biết ơn vì sự ủng hộ của tất cả các bạn trong lúc chúng tôi đang hồi phục và xây dựng tương lai cho Linkin Park". Ban nhạc sau đó đã xác nhận rằng buổi hòa nhạc đó, có tên là Linkin Park and Friends: Celebrate Life in Honor of Chester Bennington, sẽ diễn ra ngày 27 tháng 10 tại Hollywood Bowl. Sự kiện là buổi trình diễn đầu tiên của Linkin Park sau cái chết của Bennington. Sự kiện có sự góp mặt của nhiều khách mời trình diễn các ca khúc của Linkin Park cùng với ban nhạc. Sự kiện đã kéo dài 3 tiếng và được truyền trực tiếp bằng YouTube. Tháng 11 năm 2017, ban nhạc đã thông báo một album nhạc sống được tổng hợp từ chuyến lưu diễn cuối cùng của họ với Bennington, có tên One More Light Live, sẽ được phát hành ngày 15 tháng 12. Ngày 19 tháng 11, Linkin Park đã được nhận Giải thưởng Âm nhạc Mỹ cho Nghệ sĩ Alternative được yêu thích nhất và họ đã dành tặng giải thưởng cho Bennington. 2017–nay: Tạm dừng hoạt động và các bản tái phát hành kỷ niệm 20 năm Linkin Park đã tạm nghỉ trong khoảng thời gian giữa cái chết của Bennington và năm 2020. Trong một buổi chat trực tiếp trên Instagram ngày 17 tháng 12 năm 2017, Shinoda đã được hỏi liệu Linkin Park sẽ trình diễn với một phiên bản ảnh toàn ký của Bennington trong tương lai hay không, ông đã trả lời, "Chúng ta không dùng ảnh toàn ký của Chester nhé? Tôi không thể hình dung nổi ý tưởng dùng ảnh toàn ký của Chester. Tôi thật ra đã có nghe vài người ngoài ban nhạc đề nghị việc đó, và chuyện đó chắc chắn là không thể. Tôi không thể đùa giỡn như vậy." Ngày 28 tháng 1 năm 2018, Shinoda đã trả lời một đoạn tweet từ một fan đang hỏi thăm về tương lai của ông với Linkin Park, rằng: "Tôi chắc chắn có dự định sẽ tiếp tục với LP, và cả các anh em cũng cảm thấy như vậy. Chúng tôi phải xây dựng lại nhiều, và trả lời nhiều câu hỏi, nên sẽ mất thời gian." Tuy nhiên vào ngày 29 tháng 3, Shinoda đã nói rằng ông không chắc chắn về tương lai của Linkin Park khi được phỏng vấn bởi Vulture. Ngày 17 tháng 4, Linkin Park đã được đề cử 3 giải thưởng tại Giải thưởng âm nhạc Billboard 2018, nhưng không thắng giải nào. Ban nhạc được trao tặng Giải thưởng George và Ira Gershwin hạng mục Lifetime Musical Achievement tại UCLA ngày 18 tháng 5. Ngày 18 tháng 2 năm 2019, Shinoda đã nói trong một buổi phỏng vấn rằng ban nhạc để ngỏ khả năng tiếp tục, tuy nhiên vẫn chưa quyết định theo hình thức nào. Shinoda đã nói "Tôi biết các anh em khác, họ muốn được lên sân khấu, họ muốn được ở trong phòng thu, nếu không được như vậy, thì kiểu như, gần như là tổn hại tới sức khỏe vậy." Khi được hỏi về tương lai của ban nhạc mà không có Bennington, Shinoda đã nói, "Tôi không muốn đi tìm một ca sĩ mới. Nếu điều đó có xảy ra, nó phải xảy ra một cách tự nhiên. Nếu chúng tôi tìm thấy một người tuyệt vời và phù hợp phong cách, tôi hình dung là sẽ làm việc với một ai đó khác. Tôi không bao giờ muốn cảm thấy như chúng tôi đang thay thế Chester." Ngày 28 tháng 4 năm 2020, tay bass Dave Farrell đã tiết lộ rằng ban nhạc đang tạo ra âm nhạc mới. Ngày 13 tháng 8, ban nhạc đã phát hành "She Couldn't", một bài hát được thu âm từ năm 1999, và tiết lộ rằng nó sẽ nằm trong phiên bản kỷ niệm 20 năm album đầu tay của họ Hybrid Theory, và sẽ được phát hành ngày 9 tháng 10. Ngày 8 tháng 1 năm 2021, ban nhạc đã ra mắt bản phối lại bài "One Step Closer" do bộ đôi nhạc electronic người Mỹ 100 gecs thực hiện. Ban nhạc tiết lộ rằng đây là một trong số nhiều bản phối lại mới được lấy cảm hứng từ Reanimation sắp ra mắt. Vào ngày 29 tháng 10, khi được hỏi về việc liệu ban nhạc có trở lại biểu diễn trực tiếp hay không, Shinoda nói rằng "Bây giờ không phải là thời điểm phù [cho sự trở lại của ban nhạc]. Chúng tôi chưa tập trung vào điều đó. Chúng tôi chưa tính toán được. Và khi nói đến điều đó, tôi không chỉ nghĩ đến việc tính toán tài chính, mà còn nghĩ đến việc tính toán cảm xúc và sức sáng tạo." Vào tháng 4 năm 2022, Shinoda nhấn mạnh rằng ban nhạc đang không thực hiện một album mới, bản nhạc mới hoặc chuyến lưu diễn nào. Vào tháng 2 năm 2023, ban nhạc bắt đầu một trò chơi tương tác trên trang web của họ nhằm gợi nhắc về kỷ niệm 20 năm phát hành Meteora. Vào ngày 6 tháng 2, họ đã tiết lộ một bản demo chưa từng được phát hành trước đây mang tên "Lost", được phát hành chính thức vào ngày 10 tháng 2, như là đĩa đơn chủ đạo từ bản tái phát hành của album này, phát hành vào ngày 7 tháng 4. Công tác từ thiện Ngày 19 tháng 1 năm 2010, Linkin Park đã phát hành một bài hát mới có tên "Not Alone", nằm trong một đĩa tổng hợp thuộc Music for Relief có tên Download to Donate for Haiti để hỗ trợ vụ thảm họa Động đất Haiti. Ngày 10 tháng 2 năm 2010, Linkin Park đã phát hành video âm nhạc chính thức cho bài hát trên trang chủ của họ. Bản thân đĩa đơn đã được phát hành ngày 21 tháng 10 năm 2011. Ngày 11 tháng 1 năm 2011, một phiên bản cập nhật của Download to Donate for Haiti đã được phát hành, nó có tên Download to Donate for Haiti V2.0, với nhiều bài hát hơn để tải xuống. Với phiên bản cập nhật, ban nhạc đã phát hành bản phối lại của Keaton Hashimoto cho bài "The Catalyst" trong cuộc thi "Linkin Park featuring YOU". Shinoda đã thiết kế 2 mẫu áo thun, số lợi nhuận được dành cho Music for Relief để hỗ trợ các nạn nhân của thảm họa Động đất và sóng thần Tōhoku 2011. Music for Relief đã phát hành Download to Donate: Tsunami Relief Japan, một đĩa tổng hợp các ca khúc mới, số lợi nhuận được dành cho Save the Children. Ban nhạc đã phát hành bài hát có tên "Issho Ni", nghĩa là "chúng ta ở bên nhau", vào ngày 22 tháng 3 năm 2011 thông qua đĩa Download to Donate: Tsunami Relief Japan. Sau khi xảy ra Bão Haiyan năm 2013, Linkin Park đã trình diễn tại Club Nokia trong chuyến lưu diễn "Music for Relief: Concert for the Philippines" tại Los Angeles, và đã gây quỹ cho các nạn nhân. Buổi trình diễn đã được phát sóng trên kênh AXS TV ngày 15 tháng 2. Các nghệ sĩ khác trong buổi trình diễn gồm có The Offspring, Bad Religion, Heart, và The Filharmonic. Phong cách nghệ thuật và ảnh hưởng Linkin Park kết hợp các yếu tố của nhạc rock, hip hop và electronica. Họ đã từng được xếp vào các thể loại alternative rock, nu metal, alternative metal, rap rock, electronic rock, hard rock, hip hop, rap metal, pop, industrial rock, và pop rock. Mặc dù ban nhạc từng được coi là thuộc thể loại nu metal, họ lại chưa bao giờ tự coi mình như vậy. Cả hai album Hybrid Theory và Meteora kết hợp các âm nhạc thể loại alternative metal, nu metal, rap rock, rap metal, và alternative rock, với những yếu tố từ hip hop và electronica, cũng như tận dụng lập trình âm nhạc và synthesizer. William Ruhlmann thuộc AllMusic đã gọi đó là "một 'hướng đi mới lạ của một thể loại nhạc đã quá quen thuộc," trong khi Rolling Stone đã mô tả bài hát "Breaking the Habit" của họ là "nghệ thuật liều lĩnh, đẹp đẽ". Trong album Minutes to Midnight ban nhạc đã thử nghiệm với phong cách âm nhạc đã định hình của họ bằng cách lấy những ảnh hưởng từ nhiều thể loại và phong cách đa dạng hơn, một quá trình mà Los Angeles Times so sánh với một giai đoạn hoạt động của U2. Chỉ có 2 bài hát trong album có đoạn hát rap và hầu hết album được coi là thể loại alternative rock.Metacritic, Minutes To Midnight . Truy cập January 27, 2008. Sự hòa quyện ca từ giữa Chester Bennington và Mike Shinoda đóng vai trò chủ đạo trong âm nhạc của Linkin Park, trong đó Bennington làm giọng ca chính còn Shinoda làm giọng ca rap. Trong album thứ 3 của Linkin Park, Minutes to Midnight, Shinoda hát chính trong các bài "In Between", "Hands Held High", và "No Roads Left" trong đĩa mặt-B. Trong nhiều bài của album thứ 4, A Thousand Suns, ví dụ như các đĩa đơn "The Catalyst", "Burning in the Skies", "Iridescent", cả Shinoda và Bennington đều hát. Album này được coi là một bước ngoặt trong sự nghiệp âm nhạc của họ, khi họ đặt trọng tâm vào electronica nhiều hơn. James Montgomery, thuộc MTV, đã so sánh đĩa nhạc với album Kid A của Radiohead, trong khi Jordy Kasko thuộc Review, Rinse, Repeat đã gán ghép album với cả Kid A và album The Dark Side of the Moon của Pink Floyd. Shinoda đã phát biểu rằng ông và cả ban nhạc đều đã chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi Chuck D và Public Enemy. Ông đã giải thích: "Public Enemy rất có chiều sâu và tỏ ra đa diện với các đĩa nhạc của họ, bởi vì dù chúng có vẻ mang tính chính trị, còn có rất nhiều ẩn ý khác bên trong chúng. Nó đã khiến tôi suy nghĩ về việc tôi cũng muốn đĩa nhạc của chúng tôi có chiều sâu mà tất nhiên không phải sao chép của họ, và cho thấy chúng tôi có thể sáng tạo tới mức nào". Một trong những yếu tố chính trị của đĩa nhạc là các đoạn âm mẫu của các bài phát biểu đáng chú ý bởi những chính khách Mỹ. A Thousand Suns đã được mô tả thuộc thể loại trip hop, electronic rock, ambient, alternative rock, industrial rock, experimental rock, rap rock, và progressive rock. Album thứ 5 của họ, Living Things, cũng là một album mang đậm phong cách electronic, nhưng lại kết hợp những ảnh hưởng khác, cho ra một sản phẩm với âm nhạc nặng hơn electronic thường. Ban nhạc đã quay trở về với âm nhạc nặng nề hơn so với 3 album trước đó với album The Hunting Party, nó đã được mô tả là thuộc thể loại alternative metal, nu metal, hard rock, rap rock, và rap metal. Album thứ 7 của họ, One More Light, đã được mô tả là thuộc thể loại pop, pop rock và electropop. Linkin Park đã chịu những ảnh hưởng từ Soundgarden, Alice in Chains, Pearl Jam, Stone Temple Pilots, Jane's Addiction, Nine Inch Nails, Ministry, Skinny Puppy, Machines of Loving Grace, Metallica, Refused, Minor Threat, Fugazi, Descendents, Misfits, Beastie Boys, Run-DMC, A Tribe Called Quest, Rob Base and DJ E-Z Rock, N.W.A, Public Enemy, KRS-One, Boogie Down Productions, Led Zeppelin, Rage Against the Machine, và The Beatles. Di sản và ảnh hưởng Linkin Park đã bán được hơn 100 triệu đĩa nhạc trên toàn thế giới.Linkin Park's Brad Delson talks One More Light: 'There really is a ton of guitar on this album' MusicRadar April 3, 2017. Truy cập May 9, 2017. Album phòng thu đầu tay của nhóm nhạc là Hybrid Theory nằm trong danh sách album bán chạy nhất tại Mỹ (11 triệu bản được tiêu thụ) và thế giới (30 triệu bản được tiêu thụ). Billboard ước tính Linkin Park đã kiếm được 5 triệu đô-la Mỹ từ tháng 5 năm 2011 đến tháng 5 năm 2012, biến họ trở thành nghệ sĩ âm nhạc có thu nhập đứng hạng 40. 11 đĩa đơn của ban nhạc đã từng leo lên vị trí số 1 trên bảng xếp hạng Alternative Songs của Billboard, số lượng nhiều thứ 2 với mọi nghệ sĩ. Năm 2003, MTV2 đã gọi Linkin Park là ban nhạc vĩ đại đứng thứ 6 trong kỷ nguyên video âm nhạc và đứng thứ 3 của thiên niên kỷ mới. Billboard đã xếp Linkin Park hạng 19 trên bảng xếp hạng Best Artists of the Decade. Ban nhạc được bầu chọn là nghệ sĩ vĩ đại nhất của thập niên năm 2000 trong một cuộc bình chọn Bracket Madness trên kênh VH1. Năm 2014, ban nhạc được gọi là Biggest Rock Band in the World Right Now bởi Kerrang!.Linkin Park Are the 'Biggest Rock Band in the World Right Now' Ultimate Guitar August 28, 2014. Truy cập October 20, 2014. Năm 2015, Kerrang! trao cho 2 bài hát "In the End" và "Final Masquerade" 2 vị trí cao nhất trên danh sách Rock 100 của Kerrang!. Linkin Park trở thành nhóm nhạc rock đầu tiên đạt được hơn 1 tỉ lượt xem trên YouTube. Linkin Park cũng từng là trang được thích nhiều đứng thứ 15 trên Facebook, nghệ sĩ được thích nhiều đứng thứ 10, và nhóm nhạc được thích nhiều nhất khi vượt qua The Black Eyed Peas. Bài "Numb" của Linkin Park đứng thứ 3 và bài "In the End" đứng thứ 6 trong danh sách "những ca khúc bất hủ" trên Spotify. Hai bài hát này giúp Linkin Park trở thành nghệ sĩ duy nhất có 2 bài hát bất hủ trong top 10. Hybrid Theory được liệt kê trong 1001 Albums You Must Hear Before You Die. Nó được xếp hạng 11 trên Hot 200 Albums of the Decade của Billboard. Ngoài ra album đã được nằm trong Best of 2001 của Record Collector, The top 150 Albums of the Generation của Rock Sound và 50 Best Rock Albums of the 2000s của Kerrang!. Album Meteora đã nằm trong Top 200 Albums of the Decade của Billboard ở hạng 36. Album đã bán được hơn 20 triệu bản toàn thế giới. Đĩa EP Collision Course hợp tác cùng Jay-Z trở thành đĩa EP thứ 2 từng đứng đầu trên Billboard 200, và sau đó bán được hơn 300.000 bản trong tuần đầu tiên, đĩa EP đầu tiên làm được điều tương tự là Jar of Flies của Alice in Chains năm 1994. Với album Minutes to Midnight, tại Mỹ nó đã thiết lập nên doanh số tuần đầu tiên kỷ lục trong năm 2007 lúc bấy giờ, với 625.000 album được bán. Tại Canada, album đã bán được hơn 50.000 bản trong tuần đầu tiên và ra mắt ở hạng nhất trên Canadian Albums Chart. Trên toàn thế giới, album đã tiêu thụ hơn 3,3 triệu bản trong 4 tuần đầu tiên phát hành. Jon Caramanica thuộc The New York Times đã bình luận rằng Linkin Park "đã đem sự pha trộn giữa hard rock và hip-hop lên đỉnh cao thương mại và nghệ thuật mới" vào đầu thập niên 2000. Vài nghệ sĩ nhạc rock cũng như không thuộc nhạc rock đã trích dẫn Linkin Park là tầm ảnh hưởng của họ, đó là: Proyecto Eskhata, Of Mice & Men, One Ok Rock, Bishop Nehru, Misono, From Ashes to New, Bring Me the Horizon, Coldrain, Red, Girl on Fire, Manafest, Silentó, 3OH!3, The Prom Kings, AJ Tracey, Kiiara, The Chainsmokers, Kevin Rudolf, Blackbear, Amber Liu, Tokio Hotel, Stormzy và Imagine Dragons. Thành viên Thành viên hiện tại Mike Shinoda - ca sĩ, guitar đệm, đàn organ, synthesizer, sampling, lập trình (1996-nay) Brad Delson - guitar chính, hát bè (1996-nay) Dave Farrell - bass, hát bè (1996-1998, 2000-nay) Joseph Hahn - bàn xoay đĩa, đàn organ, synthesizer, sampling, lập trình, hát bè (1996-nay) Rob Bourdon - trống, bộ gõ, hát bè (1996-nay)Cựu thành viên Mark Wakefield - ca sĩ chính (1996-1998) Chester Bennington - ca sĩ chính, đôi lúc guitar đệm (1999-2017; mất năm 2017)Thành viên tạm thời/lưu diễn Kyle Christner – bass Scott Koziol – bass Ian Hornbeck – bass Niên biểu Danh sách đĩa nhạc Hybrid Theory (2000) Meteora (2003) Minutes to Midnight (2007) A Thousand Suns (2010) Living Things (2012) The Hunting Party (2014) One More Light (2017) Giải thưởng và đề cử Lưu diễn Chủ trì Hybrid Theory World Tour (2001) Projekt Revolution (2002–2008, 2011) LP Underground Tour (2003) Meteora World Tour (2004) Minutes to Midnight World Tour (2007–08) International Tour (2009) A Thousand Suns World Tour (2010–11) Living Things World Tour (2012–13) The Hunting Party Tour (2014–15) One More Light Tour (2017) Linkin Park and Friends: Celebrate Life in Honor of Chester Bennington (2017) Đồng chủ trì 11th Annual Honda Civic Tour (2012) Carnivores Tour (2014) Xem thêm Danh sách nghệ sĩ âm nhạc bán đĩa nhạc chạy nhất Danh sách album bán chạy nhất thế giới Danh sách album phối lại bán chạy nhất thế giới Danh sách đĩa đơn bán chạy nhất thế giới Danh sách album bán chạy nhất tại Mỹ Danh sách bài hát thu âm bởi Linkin Park Danh sách nghệ sĩ từng xếp hạng nhất trên bảng xếp hạng alternative rock Mỹ Chú thích Tham khảo Ấn phẩm được trích dẫn''' Saulmon, Greg. Linkin Park. Contemporary Musicians and Their Music. New York: Rosen Pub. Group, 2007. . Baltin, Steve. From The Inside: Linkin Park's Meteora. California: Bradson Press, 2004. . Blue, Jeff. One Step Closer: From Xero to #1: Becoming Linkin Park''. Tennessee: Permuted Press, 2020. .
Mahabharata (chữ Devanagari: महाभारत - Mahābhārata) là một trong hai tác phẩm sử thi bằng tiếng Phạn vĩ đại nhất của Ấn Độ cổ đại, tác phẩm còn lại là Ramayana. Nội dung của tác phẩm nói về cuộc chiến giữa hai nhóm anh em họ trong cuộc chiến tranh Câu Lư (22 tháng 11, 3067 TCN—10 tháng 12, 3067 TCN? (kết thúc 18 ngày)) và số phận của các hoàng tử Kaurava và Pāṇḍava cùng những hậu nhân của họ. Tác phẩm này cũng chứa những tài liệu về triết học và sự tôn sùng, chẳng hạn như cuộc thảo luận về bốn "mục đích của cuộc sống", hay còn gọi là puruṣārtha (12.161). Trong số các tác phẩm và những câu chuyện chính trong Mahābhārata là Bhagavad Gita, câu chuyện về nàng Damayanti, câu chuyện về Savitri và Satyavan, một phiên bản rút gọn của Rāmāyaṇa. Theo truyền thống, tác giả của Mahābhārata thường được cho là Vyāsa. Đã có nhiều nỗ lực để làm sáng tỏ sự lịch sử phát triển và các lớp cấu thành của nó. Phần lớn nội dung của Mahābhārata có lẽ được biên soạn giữa thế kỷ thứ 3 TCN và thế kỷ thứ 3 CN, với những phân đoạn cổ nhất vẫn còn được bảo tồn không sớm hơn năm 400 TCN. Các sự kiện diễn ra trong sử thi có lẽ rơi vào giữa thế kỷ 9 và 8 TCN. Cuốn sử thi này có lẽ đã đạt đến hình thức cuối cùng của nó vào đầu thời kỳ Gupta (khoảng thế kỷ thứ 4). Mahābhārata là bài thiên trường ca nhất được biết đến và đã được mô tả là "bài thơ dài nhất từng được viết". Phiên bản dài nhất của nó bao gồm hơn 100.000 loka hoặc hơn 200.000 câu thơ riêng lẻ (mỗi shloka là 2 câu) và các đoạn văn xuôi dài. Với tổng số khoảng 1.8 triệu chữ, Mahābhārata có độ dài gấp khoảng mười lần Iliad và Odyssey cộng lại, hoặc khoảng bốn lần chiều dài của Rāmāyaṇa. Học giả W. J. Johnson đã so sánh tầm quan trọng của Mahābhārata trong bối cảnh văn minh thế giới với Kinh thánh, các tác phẩm của William Shakespeare, các tác phẩm của Homeros, kịch Hy Lạp hay Kinh Qur'an. Trong truyền thống Ấn Độ, đôi khi Mahābhārata được gọi là kinh Vệ-đà thứ năm. Lịch sử và cấu trúc tác phẩm Sử thi này theo truyền thống được kể về nhà hiền triết Vyāsa, người cũng là một nhân vật chính trong sử thi. Vyāsa mô tả nó là itihāsa (tiếng Phạn: इतिहास, nghĩa là "lịch sử"). Ông cũng mô tả Guru-shishya parampara, dấu vết của tất cả những người thầy vĩ đại và học trò của họ trong thời Vệ Đà. Phần đầu tiên của Mahābhārata nói rằng chính Ganesha là người đã viết lại tác phẩm này theo lời kể của Vyasa. Sử thi này sử dụng cấu trúc câu chuyện trong một câu chuyện, hay còn được gọi là truyện phân khung, phổ biến trong nhiều tác phẩm tôn giáo và phi tôn giáo của Ấn Độ. Lần đầu tiên nó được tụng tại Takshashila bởi nhà hiền triết Vaiśampāyana, đệ tử của Vyāsa, với Vua Janamejaya, chắt của hoàng tử Arjuna của Pāṇḍava. Câu chuyện sau đó được kể lại một lần nữa bởi một người kể chuyện chuyên nghiệp tên là Ugraśrava Sauti, nhiều năm sau, với một tập hợp các nhà hiền triết thực hiện sự hy sinh 12 năm cho vua Saunaka Kulapati trong Rừng Naimiśa. Tác phẩm được một số nhà Ấn Độ học đầu thế kỷ 20 mô tả là không có cấu trúc và hỗn loạn. Hermann Oldenberg cho rằng bài thơ gốc chắc hẳn đã từng mang một "sức mạnh bi thương" to lớn nhưng lại bác bỏ toàn văn như một "sự hỗn loạn khủng khiếp." Moritz Winternitz (Geschichte der negchen Literatur 1909) cho rằng "chỉ những nhà thần học thiếu tôn nghiêm và những người ghi chép vụng về" mới có thể gộp các phần có nguồn gốc khác nhau thành một tổng thể không có trật tự. Bổ sung và phản ứng lại Nghiên cứu về Mahābhārata đã đặt một nỗ lực to lớn vào việc nhận biết và xác định niên đại các lớp trong văn bản. Một số yếu tố của Mahābhārata hiện tại có thể được bắt nguồn từ thời Vệ Đà. Bối cảnh của Mahābhārata cho thấy nguồn gốc của sử thi xảy ra "sau thời kỳ Vệ Đà rất sớm" và trước khi "đế chế" đầu tiên của Ấn Độ trỗi dậy vào thế kỷ thứ ba trước Công nguyên "Đó là" một niên đại không quá xa so với Thế kỷ thứ 8 hoặc thứ 9 trước Công nguyên " là có thể. Mahabharata bắt đầu như là một câu chuyện bằng miệng-truyền của người đánh xe ngựa bards. Người ta thường đồng ý rằng "Không giống như kinh Veda, phải được bảo quản hoàn hảo bằng chữ viết, sử thi là một tác phẩm phổ biến mà người đọc chắc chắn sẽ phù hợp với những thay đổi trong ngôn ngữ và phong cách," vì vậy những thành phần 'còn sót lại' sớm nhất của tác phẩm này được cho là không lâu đời hơn các tham chiếu 'bên ngoài' sớm nhất mà chúng ta có về sử thi, có thể bao gồm sự ám chỉ trong ngữ pháp Aṣṭādhyāyī 4: 2: 56 của Panini vào thế kỷ thứ 4 TCN. Người ta ước tính rằng văn bản tiếng Phạn có lẽ đã đạt đến "dạng cuối cùng" vào đầu thời kỳ Gupta (khoảng thế kỷ thứ 4 sau CN). Vishnu Sukthankar, biên tập viên của ấn bản phê bình lớn đầu tiên của Mahābhārata, nhận xét: "Thật vô ích khi nghĩ đến việc tái tạo một văn bản linh hoạt theo đúng hình dạng nguyên bản, trên cơ sở một nguyên mẫu và một biểu tượng gốc. Sau đó điều gì là có thể? Mục tiêu của chúng tôi chỉ có thể là tái tạo lại hình thức cổ nhất của văn bản mà chúng tôi có thể đạt được trên cơ sở tài liệu bản thảo có sẵn. " Bằng chứng về bản thảo đó hơi muộn, dựa trên thành phần vật chất của nó và khí hậu của Ấn Độ, nhưng nó rất rộng lớn. Bản thân Mahābhārata (1.1.61) đã phân biệt một phần cốt lõi của 24.000 câu: Bhārata chính, trái ngược với tài liệu thứ cấp bổ sung, trong khi Aśvalāyana Gṛhyasūtra (3.4.4) cũng phân biệt tương tự. Ít nhất ba phiên bản của văn bản được công nhận phổ biến: Jaya (Chiến thắng) với 8.800 câu thơ được cho là của Vyāsa, Bhārata với 24.000 câu thơ được đọc bởi Vaiśampāyana, và cuối cùng là Mahābhārata do Ugraśrava Sauti đọc với hơn 100.000 câu. Tuy nhiên, một số học giả, chẳng hạn như John Brockington, cho rằng Jaya và Bharata đề cập đến cùng một văn bản, và gán lý thuyết về Jaya với 8.800 câu thơ cho việc đọc sai một câu trong Ā diparvan (1.1.81). Các soạn thảo của cơ thể lớn này của văn bản được thực hiện sau khi nguyên tắc chính thức, nhấn mạnh con số 18 và 12. Việc bổ sung các phần mới nhất có thể được xác định niên đại do không có Anuśāsana-parva và Virāta parva trong " bản thảo Spitzer ". Văn bản tiếng Phạn cổ nhất còn sót lại có niên đại vào Thời kỳ Kushan (200 sau CN). Theo những gì một nhân vật nói ở Mbh. 1.1.50, có ba phiên bản của sử thi, bắt đầu với Manu (1.1.27), Astika (1.3, sub-parva 5) hoặc Vasu (1.57), tương ứng. Các phiên bản này sẽ tương ứng với việc bổ sung một và sau đó là một cài đặt 'khung' khác của các cuộc hội thoại. Phiên bản Vasu sẽ bỏ qua cài đặt khung và bắt đầu bằng tài khoản về sự ra đời của Vyasa. Phiên bản astika sẽ thêm sarpasattra và aśvamedha liệu từ văn học Bà La Môn, giới thiệu tên Mahabharata, và xác định Vyasa là tác giả của tác phẩm. Người biên soạn lại những bổ sung này có lẽ là các học giả Pāñcarātrin, những người theo Oberlies (1998) có khả năng giữ quyền kiểm soát đối với văn bản cho đến khi tái bản cuối cùng. Tuy nhiên, đề cập đến Huna trong Bhīṣma-parva dường như ngụ ý rằng parva này có thể đã được chỉnh sửa vào khoảng thế kỷ thứ 4. Ādi-parva bao gồm lễ hiến tế rắn (sarpasattra) của Janamejaya, giải thích động cơ của nó, giải thích chi tiết lý do tại sao tất cả rắn tồn tại đều có ý định bị tiêu diệt, và tại sao bất chấp điều này, vẫn có rắn tồn tại. Tư liệu sarpasattra này thường được coi là một câu chuyện độc lập được thêm vào một phiên bản của Mahābhārata bởi "sự hấp dẫn theo chủ đề" (Minkowski 1991), và được coi là có mối liên hệ đặc biệt chặt chẽ với văn học Vệ Đà (Brahmana). Các Pañcavimśa Brahmana (tại 25.15.3) liệt kê các linh mục người giáo của một sarpasattra trong đó có những cái tên Trì Quốc Thiên Vương và Janamejaya, hai nhân vật chính của sarpasattra các 's Mahabharata, cũng như Takṣaka, tên của một con rắn trong Mahabharata, xảy ra. Suparṇākhyāna, một bài thơ cuối thời Vệ đà được coi là một trong những "dấu vết sớm nhất của thơ sử thi ở Ấn Độ," là một tiền thân cũ hơn, ngắn hơn của truyền thuyết mở rộng về Garuda được đưa vào Āstīka Parva, trong Ādi Parva của Mahābhārata.
(Devanagari: ) là một sử thi cổ đại viết dưới dạng trường ca tiếng Sanskrit và là một phần quan trọng của bộ kinh Ấn Độ giáo (smṛti). Đây là bộ sử thi bằng tiếng Phạn nổi tiếng thứ hai của Ấn Độ cổ đại. Người ta cho rằng tác giả của Ramayana là nhà thơ Valmiki. Tên gọi là một từ ghép tatpurusha của và "đi đến, tiến đến", được dịch ra là "những cuộc du hành của Rāma". bao gồm 24.000 câu thơ đôi trong bảy tập () và kể về câu chuyện của một hoàng tử, Rama của xứ Ayodhya, vợ là Sita bị bắt đi bởi vua quỷ (Rākshasa) vua xứ Lanka, Rāvana. Trong dạng hiện tại của nó, Valmiki Ramayana có niên đại có thể từ 500 TCN đến 100 TCN, hay là khoảng cùng thời với những bản đầu tiên của sử thi Mahabharata. Nguồn gốc Ramayana được cho là sáng tác bởi Valmiki và được viết bằng văn vần vào khoảng thế kỷ thứ 3-4 TCN, sau bộ Mahabharata nhưng lại kể về chuyện xảy ra trước thời đại của Mahabharata. Nội dung Sử thi này gồm 24.000 câu thơ đôi, tức 48.000 dòng thơ, chưa bằng 1/4 khối lượng dòng thơ của bộ Mahabharata nhưng bố cục chặt chẽ hơn. Chủ đề của tác phẩm là câu chuyện tình duyên giữa hoàng tử Rama và người vợ chung thủy Sita. Xưa kia ở vương quốc Kosala có ông vua già yếu tên là Dasaratha, có bốn người con trai do bà vợ sinh ra. Con cả Rama hơn hẳn các em về tài đức. Vua có ý định nhường ngôi cho chàng, nhưng vì bị trói buộc bởi lời hứa với bà vợ thứ hai Kaikeyî xinh đẹp cho nên đã đày Rama vào rừng 14 năm và trao ngôi lại cho Bharata, con của Kaikeyî. Vợ Rama, nàng Sita, cùng em trai Laksmana tình nguyện theo Rama vào rừng sống ẩn, luyện tập võ nghệ. Quỷ vương Rãvana ở đảo Lanka lập mưu cướp nàng Sita đem về làm vợ. Hắn dụ dỗ và ép buộc nàng nhưng nàng đã kịch liệt chống cự. Mất Sita, Rama đau buồn khôn xiết. Chàng quyết tâm cứu bằng được vợ trở về. Trên đường đi, Rama gặp và giúp đỡ vua khỉ Xugriva, sau đó chàng được tướng khỉ Hanuman cùng đoàn quân khỉ giúp. Cuối cùng Rama cũng c­ứu được Sita. Nhưng sau chiến thắng vẻ vang đó, để bảo vệ danh dự, đạo đức của mình, cũng như của chính người vợ thân yêu, chàng từ chối Sita, bởi chàng nghi ngờ tiết hạnh của nàng trong thời gian bị giam cầm với Quỷ vương Ravana. Để Rama tin ở lòng chung thủy của mình, Sita đã bước vào lửa. Thần lửa Agni biết được nàng trong sạch, đã cứu nàng. Thấy vậy Rama vô cùng sung sướng, giang tay đón nàng. Hai người đưa nhau trở về kinh đô trong cảnh chào đón nồng nhiệt của dân chúng. Giá trị tác phẩm Ramayana ngợi ca chiến công và đề cao đạo đức của hoàng tử Rama, ca ngợi mối tình chung thủy của nàng Sita, đồng thời phản ánh sự phát triển của xã hội người Arian. Tuy là một tác phẩm ca ngợi đẳng cấp quý tộc vũ sĩ nhưng đã khắc họa được những gương mặt có tâm hồn trong sáng. Rama là nhân vật lý tưởng kiểu mẫu của đạo Hindu (nhưng lại là hình mẫu của tư tưởng trọng nam khinh nữ, quan trọng trinh tiết, ép vợ nhảy vào lửa để chứng minh trong sạch và cũng là biểu tượng của việc coi trọng danh dự hơn tính mạng người thân của đạo Hindu), của đẳng cấp vương công quý tộc đồng thời là khát vọng của nhân dân về một vị minh quân, một anh hùng tài ba, đức độ, đem lại hạnh phúc cho xã hội. Sita thánh thiện, là mẫu người phụ nữ Ấn Độ cổ đại, một người vợ tiết hạnh, một người con gái nhân hậu, quả quyết, hi sinh quên mình. Tướng khỉ Hanuman có trái tim nóng bỏng nhiệt tình, là hoá thân của lực lượng quần chúng nhân dân làm hậu thuẫn cho những anh hùng chiến đấu cho tự do và công lý, giải phóng bảo vệ đất nước.. Tác phẩm cũng đã nêu bật được khát vọng chiến thắng cái ác, đem lại nguồn an ủi cho quần chúng nhân dân bị áp bức, do đó được nhân dân rất ưa chuộng. Vì thế, những câu chuyện và những nhân vật trong Ramayana đã được nhiều văn nghệ sĩ khắc họa trong thơ ca và trong các công trình mỹ thuật - điêu khắc ở Ấn Độ và các nước Đông Nam Á. Đặc điểm nổi bật khiến Ramayana sống mãi trong lòng người đọc là sức gợi cảm của nó, với sự kết hợp của yếu tố tưởng tượng kì ảo và việc phản ánh hiện thực khách quan, nét hoang đường kì ảo và việc miêu tả tính cách con người trần tục, những cảnh oai hùng và những cảnh bi tráng. Ramayana đã song hành cùng lịch sử dân tộc Ấn Độ dẫu qua nhiều sự gọt giũa của các thi sĩ vô danh, qua nhiều lời kể của các nghệ nhân dân gian, song vẫn là tiếng ca bất hủ về lòng hướng thiện, tư tưởng yêu hòa bình, đề cao sự công bình bác ái; với những triết lý mang tầm nhân loại có giá trị cho muôn đời: lẽ hài hòa, bổn phận, khát vọng, đúng như Valmiki đã nói: "chừng nào sông chưa cạn, đá chưa mòn thì anh hùng ca Ramayana còn làm say mê lòng người và giải thoát họ ra khỏi vòng tội lỗi". Chú thích
Lăng mộ của Tần Thủy Hoàng () nằm ở phía bắc núi Ly Sơn (骊山) thuộc huyện Lâm Đồng, thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Đây là lăng mộ được xây dựng trong hơn 38 năm, từ 246-208 TCN và nằm dưới một gò mộ cao 76 mét có hình dạng gần giống một kim tự tháp. Bố cục của nó mô phỏng theo kinh đô nhà Tần là Hàm Dương được chia thành các khu nội thành và ngoại thành. Chu vi của khu vực nội thành là 2,5 km (1,55 dặm) và ngoại là 6,3 km (3,9 dặm). Mộ chính nằm ở phía Tây Nam của nội thành và hướng về phía đông. Buồng lăng mộ chính chứa quan tài và các hiện vật chôn cất là tâm điểm của quần thể kiến ​​trúc lăng mộ. Ngôi mộ chưa được khai quật hoàn toàn. Các cuộc thám hiểm khảo cổ hiện đang tập trung vào các địa điểm khác của nghĩa địa rộng lớn bao quanh lăng mộ, bao gồm cả Đội quân đất nung ở phía đông của gò mộ. Đội quân đất nung tượng trưng như là những người bảo vệ cho lăng mộ và vẫn chưa được khai quật hoàn toàn. Đặc điểm Bên trên mộ bao bọc bởi một lớp đất đắp nổi cao 76 m, từ Nam đến Bắc dài 350 m, từ Tây sang Đông rộng 354 m. Trên mặt đất xung quanh lăng còn có hai lớp tường thành, diện tích thành bên ngoài là 2 km² có cửa. Giữa hai lớp thành có các giác lâu, cung tẩm, chùa chiền, nhà ở,... Bên dưới mặt đất là địa cung hình chữ nhật, dài 460 m từ Nam sang Bắc, rộng 392 m từ Tây sang Đông, bốn phía có tường bao bọc. Tường bao cao 27 m, dày 4 m, bốn phía đều có cửa. Tổng diện tích địa cung là 18 vạn m². Từ trên xuống dưới có ba tầng: trên cùng là ngoại cung, tiếp theo là nội cung và sau cùng là tẩm cung. Diện tích tẩm cung khoảng 2 vạn m². Trong tẩm cung phát hiện nồng độ thủy ngân cao hơn mức bình thường 280 lần. Ngoài địa cung, gần khu vực có lớp đất bao bọc bên trên phát hiện thấy 300 đường hầm bồi táng (chôn kèm theo xác) với trên 5 vạn cổ vật quan trọng. Bộ Sử ký của sử gia thời Tây Hán - Tư Mã Thiên,thuật lại việc xây lăng mộ Tần Thủy Hoàng như sau: "Khi Thủy Hoàng mới lên ngôi đã sai đào núi Ly Sơn. Đến khi thôn tính được thiên hạ thì dời 70 vạn người trong thiên hạ đến xây lăng mộ, đào ba con suối, ở dưới đổ đồng nung và đưa quách vào. Đem những đồ quý báu của các cung điện, của trăm quan xuống cất đầy ở dưới. Lại sai thợ làm máy bắn tên hễ có ai đào đến gần thì bắn ra. Sai lấy thủy ngân làm một trăm con sông, như Trường Giang, Hoàng Hà và biển lớn. Các máy móc làm cho nước sông và biển chảy vào nhau. Ở trên có đủ thiên văn, ở dưới có đủ địa lý, lấy dầu cá nhân ngư để thắp đuốc, trù tính thế nào để cháy mãi mãi." Sau khi chôn cất xong, có người nói: "Những người thợ làm máy và cất giấu đều biết chỗ cất giấu, thế nào họ cũng tiết lộ việc lớn". Cho nên sau khi cất giấu xong, Tần Nhị Thế (con trai Tần Thủy Hoàng) sai đóng đường hầm đi đến huyệt và cửa ngoài hầm. Những người thợ và người cất giấu không làm sao thoát ra được. Rồi sai trồng cây, trồng cỏ lên trên ngụy trang thành cái núi. Năm 1987, lăng mộ Tần Thủy Hoàng, bao gồm cả các chiến binh đất nung, được liệt kê như là Di sản thế giới. Ý kiến về việc khai quật Bắt đầu từ năm 1976, nhiều học giả đã đề xuất việc khám phá những cung điện ngầm, bắt nguồn từ những lý do chính sau đây: Các Lăng mộ Tần Thủy Hoàng là trong một khu vực địa chấn, vì vậy di tích văn hóa dưới lòng đất này cần phải được khai quật để bảo vệ. Phát triển làm nơi để du lịch Để ngăn chặn vụ cướp mộ nghiêm trọng.  Tuy nhiên, cản trở các cuộc khai quật này là họ rằng công nghệ hiện nay của Trung Quốc là không thể đủ để đối phó với quy mô lớn của cung điện ngầm này. Ví dụ, trong trường hợp của việc khai quật các chiến binh đất nung, các nhà khảo cổ học đã bước đầu không thể bảo quản áo sơn trên bề mặt chiến binh đất nung, dẫn đến sự sụp đổ nhanh chóng của màu sắc sơn của chúng khi tiếp xúc với không khí. Các Cơ quan quản lý nhà nước về di sản văn hóa (SACH) chỉ ra rằng nghiên cứu và đánh giá nên được tiến hành đầu tiên để phát triển một kế hoạch bảo vệ cho cung điện ngầm, và bác bỏ đề xuất của các nhà khảo cổ khai quật ngôi mộ khác gần đó được cho là thuộc về cháu trai của Tần Thủy hoàng do lo ngại về thiệt hại có thể xảy ra. Công việc khai quật Năm 1974, một phần hầm mộ được khai quật. Đầu tiên là đường hầm Binh mã dũng số 1. Các nhà khảo cổ ước lượng có đến 8000 tượng lính 150 tượng ngựa kỵ binh và 130 tượng chiến xa tứ mã tất cả đều làm bằng đất sét gồm có quan văn, quan võ, binh lính và ngựa những người thân cận và trung thành với Tần Thủy Hoàng.Năm 1994 tiếp tục khai quật đường hầm số 2. Đây được coi là "tinh hoa trong tinh hoa" của Binh mã dũng, chứa đựng trận thế kị binh và các cung thủ với các tư thế bắn tạo hình phong phú, tính nghệ thuật cao. Tuy nhiên việc khai quật lăng mộ gặp rất nhiều khó khăn: vượt qua lớp thủy ngân bao bọc (nồng độ gấp 280 lần so với mức bình thường), phải di chuyển một khối lượng đất khổng lồ, mực nước ngầm dưới lòng đất khá cao. Quan trọng nhất là việc bảo quản các văn vật được đào lên. Các tượng binh mã khi vừa đào lên thì có màu sắc riêng biệt, sau thời gian đều bị phai nhạt hết. Vì vậy bảo quản bằng phương pháp "đông khô" để tránh nứt, vỡ, phai màu. Hiện vật đào lên được đưa ngay vào hầm lạnh -40 độ C để tạo lớp băng mỏng bao bọc, sau đó bảo quản lâu dài trong kho chứa. Trước khi khai quật không quên dựng một nhà bảo quản khổng lồ bao toàn bộ khu lăng mộ. Vì vậy muốn khai quật toàn bộ khu lăng mộ thì phải tốn hàng trăm triệu đôla Mỹ. Cuộc khai quật được tiến hành trong nhiều năm. Những hiện vật phát hiện được là những tư liệu quý về lịch sử Trung Quốc thời Tần Thủy Hoàng.
Gaius Julius Caesar viết theo người La Mã là Gaivs Ivlivs Caesar (; 12 tháng 7 năm 100 TCN – 15 tháng 3 năm 44 TCN) là một vị tướng và chính khách người La Mã. Là thành viên của Chế độ tam hùng lần thứ nhất, Caesar đã lãnh đạo quân đội La Mã trong cuộc Chiến tranh xứ Gallia trước khi đánh bại Pompey trong một cuộc nội chiến và cai trị Cộng hòa La Mã với tư cách là nhà độc tài từ năm 49 TCN cho đến khi bị ám sát vào năm 44 TCN. Ông đóng vai trò quan trọng trong các sự kiện dẫn đến sự sụp đổ của Cộng hòa La Mã và sự trỗi dậy của Đế chế La Mã. Vào năm 60 TCN, Caesar, Crassus và Pompey đã cùng nhau thành lập Chế độ tam hùng lần thứ nhất, một liên minh chi phối nền chính trị La Mã trong vài năm. Những nỗ lực nhằm tích lũy quyền lực của họ với tư cách là người thuộc phe Đại chúng () đã bị những người theo phe Quý tộc () phản đối trong Viện nguyên lão La Mã, trong đó có cả Cato Trẻ với sự hỗ trợ thường xuyên của Cicero. Caesar đã vươn lên trở thành một trong những chính trị gia quyền lực nhất tại Cộng hòa La Mã thông qua một chuỗi các chiến thắng quân sự tại cuộc Chiến tranh xứ Gallia, hoàn thành vào năm 51 TCN, mở rộng đáng kể lãnh thổ La Mã. Trong khoảng thời gian này, ông vừa xâm lược nước Anh vừa xây dựng một cây cầu bắc qua sông Rhine. Những thành công này và với sự hỗ trợ từ đội quân thiện chiến của mình đã đe dọa làm lu mờ vị thế của Pompey, người đã hậu thuẫn với Viện Nguyên lão sau cái chết của Crassus vào năm 53 TCN. Sau khi Chiến tranh xứ Gallia kết thúc, Viện Nguyên lão ra lệnh cho Caesar từ chức chỉ huy quân sự và trở về Rome. Vào năm 49 TCN, Caesar công khai thách thức Viện Nguyên lão bằng việc vượt sông Rubicon và tiến về Rome với tư cách người dẫn đầu một đội quân. Điều này dẫn đến cuộc nội chiến Caesar, mà ông đã giành chiến thắng, mang lại cho ông một vị trí có quyền lực và ảnh hưởng gần như tuyệt đối vào năm 45 TCN. Sau khi nắm quyền kiểm soát chính phủ, Caesar bắt đầu thực hiện một chương trình cải cách xã hội và chính phủ, bao gồm cả việc tạo ra lịch Julius. Ông đã trao quyền công dân cho nhiều cư dân sống ở các vùng xa xôi của Cộng hòa La Mã. Ông khởi xướng cải cách ruộng đất và hỗ trợ các cựu binh. Ông tập trung hóa bộ máy quan chức của nền Cộng hòa và được xưng tụng là "nhà độc tài trọn đời" (). Những cải cách theo chủ nghĩa dân túy và độc tài của ông đã khiến giới tinh hoa tức giận, những người bắt đầu âm mưu chống lại ông. Vào ngày 15 tháng 3 năm 44 TCN, Caesar bị ám sát bởi một nhóm thượng nghị sĩ nổi loạn do Brutus và Cassius cầm đầu, những người này đã đâm chết ông. Một loạt các cuộc nội chiến mới nổ ra và chính phủ hợp hiến của nước Cộng hòa không bao giờ được khôi phục hoàn toàn. Cháu trai và là người thừa kế của Caesar Octavian, sau này được gọi là Augustus, đã lên nắm quyền sau khi đánh bại các đối thủ của mình trong cuộc nội chiến cuối cùng của Cộng hòa La Mã. Octavian củng cố quyền lực của bản thân, và kỷ nguyên của Đế chế La Mã bắt đầu. Caesar là một nhà văn và nhà sử học cũng như là một chính khách tài ba; phần lớn cuộc đời ông được biết đến từ những lời kể của chính ông về các chiến dịch quân sự của mình. Những nguồn khác bao gồm các bức thư và bài phát biểu của Cicero, các tác phẩm lịch sử của Sallust. Các tác phẩm tiểu sử sau này về Caesar của Suetonius và Plutarch cũng đều là những nguồn quan trọng. Caesar được nhiều sử gia coi là một trong những nhà chỉ huy quân sự vĩ đại nhất trong lịch sử. Tên của ông sau đó được xem như đồng nghĩa với từ "Hoàng đế"; tước hiệu "Caesar" đã được sử dụng trong suốt thời kỳ Đế chế La Mã, gián tiếp hình thành nên nhiều biệt hiệu hiện đại như Kaiser và Sa hoàng. Ông thường xuyên xuất hiện trong những tác phẩm văn học và nghệ thuật, đồng thời quan điểm chính trị của ông, được gọi là Chủ nghĩa Caesar, đã truyền cảm hứng cho các chính trị gia hiện đại. Cuộc đời Thời trẻ Caesar sinh trong một gia đình quý tộc thuộc thị tộc Julia, tự xưng là hậu duệ của Iulus, con của hoàng tử Aeneas thành Troia và thần tình yêu Venus. Về cái tên Ceasar, sử gia Pliny Già giải thích tên Ceasar có lẽ bắt đầu từ một tổ tiên nào đó của Ceasar đã được sinh mổ (mổ César, từ nguyên caesus hay caedere có nghĩa là cắt hay mổ trong tiếng La Tinh), nhưng trong suốt một thời gian dài tới tận thế kỷ 12 người ta vẫn hay hiểu lầm rằng Caesar được sinh mổ; nhưng không đúng Ceasar không phải người đầu tiên mang tên này và là vì vào lúc bấy giờ, người ta chỉ thực hiện các ca sinh mổ trên cơ thể phụ nữ đã chết, trong khi mẹ của Caesar sống rất lâu sau khi ông ra đời. Còn bộ sử Historia Augusta thì chép ba cách giải thích: có thể Ceasar có một vầng trán cao với nhiều tóc (tiếng La Tinh: caesaries), hoặc có thể ông có mắt xám sáng (oculis caesiis), hoặc là ông giết được voi (caesai trong tiếng Moor) trên chiến trận. Dù cho có một nguồn gốc và địa vị hoàn hảo, dòng tộc Julii-Caesares không giàu có lắm so với mức bình thường của các gia đình quý tộc La Mã khác. Không thành viên nào trong gia đình Caesar làm được điều gì nổi bật vào thời gian này, mặc dù thế hệ cha của Caesar đã phục hồi phần nào sự thịnh vượng của gia tộc. Cha của Caesar, cũng được gọi là Gaius Julius Caesar, đã làm tới chức thống đốc Asia thuộc La Mã, có lẽ bởi vì sự ảnh hưởng của Gaius Marius, anh hùng chiến tranh và một nhà chính trị nổi bật lúc bấy giờ, người đã cưới chị của cha Caesar, Julia. Mẹ của Caesar, Aurelia Cotta, là con gái của một gia đình có uy thế đã có rất nhiều người làm tới chức quan Chấp chính tối cao. Cả gia đình ông sống trong một căn nhà khiêm tốn tại vùng Subura, một khu vực nghèo lân cận La Mã, nơi mà Marcus Antonius Gnipho, một nhà hùng biện đồng thời là một nhà văn phạm đến từ xứ Gaule, được mướn làm thầy dạy học cho Caesar. Ngoài Caesar, gia đình ông còn có hai con gái đều được gọi là Julia. Vài điều ít ỏi này được ghi nhận là tuổi thơ của Caesar. Bản tiểu sử về Caesar của Suetonius và Plutarch bắt đầu vào tuổi thiếu niên của Caesar. Những điều trước đó đã không tìm thấy một sự ghi chép nào. Caesar trưởng thành trong thời kỳ hỗn loạn của La Mã. Cuộc chiến tranh Đồng Minh giữa La Mã và các đồng minh của họ (91 – 88 TCN) nổi lên vì sự tranh cãi về quyền của công dân La Mã. Khi mà vua Mithridates VI xứ Pontos đe dọa các tỉnh phương đông của La Mã; thì ở trong nội bộ, La Mã bị chia rẽ thành hai phe: Phe Quý tộc (Optimate), phe mà muốn giữ quyền hành thống trị cho các quý tộc, và phe Đại chúng (Populare), phe muốn ngay lập tức sự chia sẻ quyền lực rộng rãi hơn thông qua quyền bầu cử trực tiếp. Chú Marius của Caesar là một người thuộc phe Đại chúng; còn đối thủ của ông Lucius Cornelius Sulla là một người thuộc phe Quý tộc. Cả hai nổi lên trong Chiến tranh Đồng Minh, và cả hai đều muốn chỉ huy cuộc chiến tranh chống lại vua Mithridates VI, điều mà ban đầu được giao cho Sulla; nhưng khi Sulla rời La Mã để chỉ huy lực lượng của mình, một Hộ Dân quan La Mã (Tribunus plebis) thông qua một bộ luật trao lại quyền lực cho Marius, nó như thông điệp cho Sulla rằng ông ta sẽ không thể rời khỏi doanh trại của mình mà còn sống. Sulla bèn tiến quân về Rôma và buộc Marius phải lưu vong. Tuy nhiên khi Sulla quay trở lại cuộc chiến của mình, một đồng minh của ông, Lucius Cornelius Cinna, chiếm lấy Rôma và công khai tuyên bố Sulla là "một kẻ thù của xã hội". Lực lượng của Marius trả thù những người theo Sulla rất tàn bạo. Marius chết ở năm 84 TCN nhưng phe cánh của ông ta vẫn còn rất mạnh. Năm 84 TCN cha của Caesar chết bất ngờ khi đang mang giày vào một buổi sáng, và ở tuổi 16 Caesar trở thành người chủ gia đình. Những năm tiếp theo, Caesar được đề bạt cho chức Flamen Dialis (Thầy trưởng tế của Jupiter), chức vụ mà Lucius Cornelius Merula, người tiền nhiệm, đã bị sát hại trong cuộc thanh trừng của Marius. Và sau khi được giữ chức này Caesar không những trở thành một quý tộc "đích thực" mà còn cưới con gái của một quý tộc. Ông bội hôn ước của mình với Cossutia, con gái của một gia đình giàu có mà ông được hứa hôn từ thời niên thiếu, và cưới con gái của Cinna là Cornelia. Sau khi buộc vua Mithridates VI phải ký kết hòa ước, Sulla quay trở lại để kết thúc cuộc nội chiến với quân của Marius. Sau một chiến dịch khắp Italia, Sulla cuối cùng cũng tiêu diệt hoàn toàn quân Marius ở Trận Cổng Colline vào năm 82 TCN. Bởi vì cả hai quan chấp chính đều đã chết, Sulla bóng gió gợi ý Viện Nguyên lão đưa ông ta lên nắm chức Người đứng đầu lâm thời, chức vụ này sẽ có quyền lực tuyệt đối như là một nhà độc tài (dictator). Viện Nguyên lão dễ dàng chấp nhận điều này thông qua một cuộc bỏ phiếu mở rộng và Sulla được cử làm một Nhà độc tài để xây dựng luật pháp và ổn định hiến pháp (dictator legibus faciendis et reipublicae constituendae causa). Sau khi lên nắm quyền, Sulla bắt đầu một chuỗi những cuộc thanh trừng đẫm máu những kẻ thù chính trị của mình. Tượng của Marius bị gỡ bỏ. Cinna thì bị binh lính của mình giết trong một cuộc nổi loạn. Caesar vì là cháu trai của Marius và con rể của Cinna, bị tước bỏ quyền thừa kế, của hồi môn của vợ mình và chức giáo sĩ của mình, nhưng ông từ chối ly dị Cornelia và buộc phải bỏ trốn. Mối đe dọa đối với ông chỉ bị bãi bỏ khi gia đình của mẹ ông, dòng họ Cottae (người giúp đỡ Sulla) và những Trinh nữ Vestal, can thiệp. Sulla miễn cưỡng chấp nhận, và mọi người nói rằng Sulla nói ông ta thấy "quá nhiều Marius trong Caesar".<ref name="ReferenceA">J.F.C. Fuller, Julius Caesar, Man, Soldier, Tyrant", Chapter 13.</ref> Tham gia quân đội và thành tựu ban đầu Việc Caesar mất chức thầy tế đã giúp ông có thể đeo đuổi sự nghiệp quân sự: chức Flamen Dialis không được cho phép để cưỡi hoặc chạm vào một con ngựa, ngủ ba đêm ngoài không trên giường hoặc một đêm ngoài La Mã, hoặc đứng đầu một lực lượng quân đội. Caesar không quay trở lại Rome, ông gia nhập quân đội phục vụ dưới quyền của Marcus Minucius Thermus ở Tiểu Á. Trong một nhiệm vụ đi sứ ở Bithynia để đảm bảo sự giúp đỡ từ hạm đội của vua Nicomedes, Caesar ở lại lâu đến nỗi làm xuất hiện tin đồn về "tình yêu" của ông với nhà vua, điều mà Caesar kiên quyết bác bỏ nhưng cứ đeo đẳng ông suốt cuộc đời. Mặt khác, ông vẫn có được thành tựu trong sự nghiệp phục vụ quân đội của mình; Caesar giành được Corona Civica – một vòng nguyệt quế vinh dự và là giải thưởng xếp hàng thứ hai của Quân đội La Mã - vì trong cuộc bao vây Mytilene, ông đã cứu mạng một người lính khác. Cùng với sự hiện diện của Viện Nguyên lão, nếu Caesar đeo vòng nguyệt quế khi ở ngoài công cộng tất cả mọi người sẽ phải đứng lại và tung hô ông. Caesar còn phục vụ trong quân đội của Servilius Isauricus ở xứ Cilicia trong một thời gian ngắn. Về Sulla, sau hai năm quyền hành tuyệt đối, đã hành động không giống bất cứ một độc tài nào trước đó: ông giải tán quân đội của mình, thiết lập lại chính quyền trực thuộc Viện Nguyên lão và bãi bỏ chế độ độc tài. Và để hợp pháp hóa quyền lực của mình, Sulla đã chịu một cuộc bầu cử và ông đã được bầu làm Chấp chính tối cao vào năm 80 TCN. Ngoài ra, Sulla còn không đem theo vệ sĩ và đi lại không cần bảo vệ. Sulla còn đề nghị công khai mọi hành động của mình với mọi công dân La Mã. Caesar sau này đã chế nhạo: "Sulla không biết gì về chính trị". Sau nhiệm kỳ thứ hai, Sulla về hưu và trở về với ngôi nhà ở duyên hải của mình để viết hồi ký cũng như tự cho phép mình tận hưởng một cuộc sống riêng tư. Ông qua đời hai năm sau đó, đám tang của ông rất to lớn và không đám tang của ai có thể so sánh được cho đến đám tang của Augustus năm 14 CN. Năm 78 TCN, khi nghe tin Sulla chết, Caesar cảm thấy đây là thời điểm an toàn để trở về La Mã. Ông trở về cùng lúc với một cuộc bạo loạn chống Sulla của Marcus Aemilius Lepidus, nhưng Caesar do thiếu sự tin tưởng với sự lãnh đạo của Lepidus, đã không cùng tham gia. Tại Rôma, ông biện hộ và chứng minh sự vô tội của một người tên là Cornelius Dolabella. Ông được biết đến với tài hùng biện xuất sắc, hình thành bởi một giọng nói đầy sức thuyết phục và tài diễn tả gây say mê, tố cáo những kẻ cầm quyền tồi tệ và thối nát lúc bấy giờ. Một nhà hùng biện lớn khác Cicero đã từng bình luận: "Ai có tài nói hay hơn Caesar?". Để hoàn chỉnh kỹ năng của mình, Caesar đã đến đảo Rhodes năm 75 TCN để học tập với sự chỉ bảo của nhà giáo nổi tiếng Apollonius Molon, người thầy dạy của Cicero. Khi đi qua biển Aegea, Caesar bị hải tặc vùng Cilicia bắt cóc. Trong khi bị hải tặc giam cầm, Caesar vẫn giữ một thái độ đẳng cấp trên. Theo như lời kể của Plutarch, khi bọn hải tặc nói với Caesar rằng chúng sẽ đòi tiền chuộc ông là 20 talent bạc, Caesar cười to và bảo ông đáng giá ít nhất 50 talent (12.000 miếng bạc).Freeman, 39. Sự kiện này được đem làm một dẫn chứng cho sự tự tin của Caesar ngay cả khi sống trong nguy hiểm, làm giảm đi khả năng bị giết hại của ông. Ngoài ra Caesar còn tham gia và làm việc như một thủy thủ hải tặc, và nhanh chóng tỏ ra mình không mấy lo lắng khi chửi rủa một chút, khi bọn hải tặc tỏ ý không hài lòng và muốn từ chối ông. Sau khi được chuộc, Caesar tập hợp một hạm đội, tiến công và bắt giữ bọn hải tặc. Khi chính quyền Tiểu Á xét xử bọn hải tặc nhưng Caesar không hài lòng, nhà sử học Plutarch có viết trong tác phẩm của mình: "Caesar tự đề ra hình phạt, ông đến Pergamum, bắt bọn hải tặc ra khỏi tù, và đóng đinh toàn bộ, như là lời cảnh báo của ông khi ông còn ở trên đảo, điều mà bọn hải tặc cứ cho là ông đùa". Chức vị Pontifex Maximus và công cuộc cầm quyền ở Hispania Khi trở về thành La Mã, ông được bầu làm Hộ Quân quan (Tribunus militum), là bước đầu trong sự nghiệp chính trị của ông. Vào năm 69 trước Công nguyên, ông được cử làm Quan coi quốc khố (Quaestor), và trong năm đó ông đọc bài văn tế dì ông là Julia. Người vợ ông là Cornelia cũng qua đời vào năm đó. Sau khi mai táng cho vợ, vào mùa xuân hoặc là đầu mùa hạ năm 69 TCN, Julius Caesar đến Hispania để thực hiện nhiệm kỳ quan coi quốc khố của mình. Theo các nhà sử học Suetonius và Cassius Dio, trong thời gian này ông có chiêm bao thấy mình quan hệ tình dục với mẹ ruột của mình, cũng giống như vua Oedipus trong thần thoại Hy Lạp. Đây là một chuyện kỳ lạ vì xảy ra đúng lúc vợ ông mất, làm cho ông vô cùng ngỡ ngàng. Theo Suetonius, khi Caesar rất ngạc nhiên và vời một nhà giải mộng đến hỏi, ông này cho rằng thực chất người mẹ trong giấc mộng này là Mẹ Trái Đất - người mẹ chung của tất cả mọi người, và cho thấy ông sẽ làm bá chủ thế giới, cũng như Alexandros Đại đế khi xưa. Tuy nhiên, theo Plutarch thì giấc mơ "bất hợp pháp" này lại diễn ra ít lâu trước sự kiện Caesar vượt sông Rubicon vào năm 49 TCN, dù Plutarch không có kể về một lời giải mộng nào cả.Philip Freeman, Julius Caesar, trang 54. Vào năm 63 TCN, Quintus Caecilius Metelleus Pius, người được Sulla chỉ định làm Đại Giáo chủ (Pontifex Maximus) chết. Ngay lập tức Caesar ra tranh cử. Ông chạy đua với hai đối thủ rất mạnh, Quintus Lutatius Catulus và Publius Servilius Vatia Isauricus. Mặc dù có nhiều lời tố cáo gian lận từ mọi phía, Caesar vẫn chiến thắng. Cuộc bầu chọn Đại Giáo chủ là một bước rất quan trọng trong sự nghiệp của Caesar. Chức vụ Giáo chủ chịu trách nhiệm về quốc giáo của La Mã, nó vừa có cả quyền lực về chính trị lẫn tôn giáo và việc trúng cử chức này đã đặt một nền móng vững chắc cho Caesar trong xã hội và sự nghiệp sau này của ông. Năm 62 TCN, Caesar được bầu chọn làm Trưởng quan (Praetor). Người ta kể rằng ông đã đến trước tượng đài vua Alexandros Đại đế trong miếu thờ thần Hercules tại Cadiz. Ông rơi nước mắt và nói: "Có ai biết rằng tôi đau buồn vì ở độ tuổi của tôi, Alexandros đã làm vua của biết bao dân tộc trong khi tôi chưa lập công danh gì để đời?" Chính từ sự kiện này, các nhà sử học thường so sánh sự nghiệp của Alexandros Đại đế và Caesar. Sau nhiệm kỳ Trưởng quan, Caesar được giao quyền (Đại Trưởng quan (Propraetor) cai trị vùng Ngoại Iberia (Hispania Ulterior, vùng đông nam Tây Ban Nha ngày nay), một vài nguồn khác chép rằng ông giữ quyền ngang với một quan Thống đốc (Proconsul). Vì lúc này Caesar đang nợ nần rất nhiều, ông phải tìm cách đối phó với các chủ nợ trước khi có thể được họ cho phép rời đi. Ông tìm tới Marcus Licinius Crassus, người đàn ông giàu nhất Rôma, và được Crassus giúp đỡ bằng cách trả một ít nợ cũng như bảo lãnh cho những khoản khác. Đổi lại Caesar ủng hộ Crassus trong xung đột giữa ông này với Pompey. Và để tránh bị truy tố vì nợ nần, Caesar nhanh chóng đi tới tỉnh mình quản lý trước khi nhiệm kỳ Trưởng quan kết thúc và ông trở thành thường dân, đồng thời mất luôn quyền miễn tố dành cho một Trưởng quan. Tại Tây Ban Nha, ông chinh phục thành công hai bộ lạc, và được binh lính của mình tôn vinh là Impedator (Tướng quân vĩ đại), một danh hiệu dành cho các lãnh tụ quân sự xuất sắc của La Mã thời Cộng hòa. Sau đó, Caesar cải cách lại đạo luật liên quan tới việc nợ nần và kết thúc nhiệm kỳ Đại Trưởng quan trong sự giàu có và thành công lớn. Về danh hiệu Impedator, đây là một điều kiện cần để một người có thể yêu cầu Viện Nguyên lão tổ chức một cuộc diễu dành chiến thắng Triump dành cho mình, tuy nhiên khi này Caesar lại muốn ứng cử cho chức Chấp chính tối cao (Consul), chức vụ có quyền lực lớn nhất trong nền Cộng hòa. Tuy nhiên, để ứng cử thì Caesar phải giải ngũ và trở lại làm thường dân trong khi đó việc diễu binh chỉ dành riêng cho người trong quân đội. Điều này có nghĩa Caesar không thể vừa ứng cử và vừa diễu hành chiến thắng vào Rôma. Ban đầu, Caesar đòi được ứng cử vắng mặt (in absentia) nhưng Cato Trẻ bác bỏ đề nghị này. Phải lựa chọn giữa cuộc diễu hành và việc ứng cử chức consul, Caesar chọn việc ứng cử chức quan. Nhiệm kỳ chấp chính và Tam Đầu chế thứ nhất Năm 60 TCN, Caesar bắt đầu ứng cử chức Chấp chính tối cao (Consul) năm 59 TCN cùng với hai ứng cử viên khác. Cuộc bầu cử này được đánh giá là đầy gian trá, ngay cả người nổi tiếng liêm khiết là Cato Trẻ cũng dựa vào việc hối lộ để giúp đỡ một đối thủ của Caesar. Kết quả là Caesar được bầu chọn làm quan Chấp chính tối cao của Cộng hòa La Mã bởi Hội nghị Centuriate (Centuriate Assembly). Chấp chính thứ hai được bầu đồng thời là kẻ thù chính trị của Caesar, Marcus Calpurnius Bibulus, một người thuộc phe Quý tộc và là con rể của Cato Trẻ.Plutarch, Caesar 13–14; Suetonius 19 Caesar bắt đầu tìm đồng minh chính trị cho mình, và ông đã tìm ra. Vị tướng giỏi nhất lúc bấy giờ, Gnaeus Pompeius Magnus (hay Pompey) vừa thất bại trong việc đấu tranh với Viện Nguyên lão giành đất trồng trọt cho những cựu binh lính của ông ta. Một cựu Chấp chính Marcus Licinius Crassus, người giàu nhất La Mã lúc đó, đang gặp rắc rối với khách hàng, và viên quan thu thuế đang muốn gia tăng nguồn thu và ngoài ra Caesar cũng đang mắc nợ về mặt chính trị với ông này. Pompey và Crassus cần có quyền lực của Caesar, còn Caesar cần uy tín của Pompey và tiền của Crassus. Và cả ba người bắt tay thành lập một nhóm Tam đầu chế (Triumvirātus). Vì Crassus và Pompey đã có xung đột với nhau từ trước, Caesar tìm cách hàn gắn hai người này lại. Và để bảo đảm cho mối quan hệ đồng minh này, Pompey cưới con gái duy nhất của Caesar, Julia. Đồng thời Caesar cũng tái hôn, lần này là với Calpurnia, con gái một Nguyên lão quyền lực. Tam Đầu chế được công chúng biết đến khi Caesar đề ra dự luật phân phối lại đất công cho người nghèo, một dự luật sẽ có ảnh hưởng lớn, và được Crassus và Pompey công khai ủng hộ. Để bộ luật được thông qua, phe của Caesar sẵn sàng dùng đến bạo lực: Pompey tụ tập binh lính của mình đầy đường phố Rôma, một hành động nằm trấn áp các đối thủ chính trị của Tam đầu chế. Quan chấp chính đồng cấp Bibulus âm mưu gây khó dễ cho Caesar khi Bibulus tuyên bố ông thấy những điềm xấu và tìm cách vô hiệu hóa dự luật của Caesar. Tuy nhiên, những người ủng hộ có vũ trang của phe Tam đầu chế đã đuổi Bibulus khỏi khu vực của chính quyền Forum Romanum: ông này bị ném phân vào người, hai vệ sĩ lictor thì bị bẻ gãy búa hiệu, còn hai quan magistrate hộ tống thì bị thương. Quá sợ cho tính mạng của mình, Bibulus trốn về nhà và sau đó chỉ lâu lâu tuyên bố mình thấy điềm xấu. Những hành động này thì chẳng có tác dụng gì mấy trong hoạt động lập pháp của Caesar, đến nỗi những người La Mã châm biếm sau đó đã gọi năm này là "năm của Julius và Caesar", mà lẽ ra là "năm của Caesar và Bibulus" như cách người La Mã hay đặt tên cho năm theo tên của hai quan chấp chính được bầu chọn năm đó. Cuộc chinh phạt xứ Gaule và Tam đầu chế thứ nhất sụp đổ Vốn là ngay sau khi được bầu làm Chấp chính, nhóm Quý tộc kẻ thù của Caesar tìm cách hạn chế ảnh hưởng của ông bằng cách chỉ định cho ông quản lý những tỉnh nghèo và kém ảnh hưởng nhất của La Mã, những tỉnh "chỉ có rừng rú với đồng cỏ" để Caesar không được chỉ huy một đội quân lớn nào cả. Với sự trợ giúp của các thành viên nhóm Tam Đầu chế và nhiều đồng minh chính trị khác, Ceasar lật ngược tình thế này và ông được cử làm thống đốc Cisalpine Gaul (bắc Ý), Illyria (bờ biển của Dalmatia), và sau đó là thêm Transalpine Gaul (miền nam nước Pháp ngày nay) với nhiệm kỳ và quyền miễn tố được ấn định đến 5 năm, dài hơn so với nhiệm kỳ thông thường trước đó. Khi nhiệm kỳ chấp chính của ông kết thúc, Ceasar xém nữa là bị truy tố bởi các hành động mờ ám trong thời gian tại vị, và ông vội vã đi đến nhậm chức tại các tỉnh mình đã được giao. Khi này thì Caesar vẫn còn mắc nợ rất nhiều, với chức Thống đốc thì tiền chỉ có thể kiếm bằng hai cách là tiến hành các hoạt động phi pháp hoặc tiến hành chiến tranh. Caesar có được tổng cộng bốn binh đoàn Legio dưới quyền và lãnh địa mà ông cai trị tiếp giáp với nhiều vùng chưa được chinh phạt và các khu vực đầy bất ổn của xứ Gaule. Cũng trong thời gian này các bộ lạc Gaule đồng minh của La Mã bị các bộ lạc Gaule và German kẻ thù đánh bại trong trận Magetobriga, và người La Mã lo sợ nhóm các bộ lạc hiếu chiến này sẽ lại di cư về phía nam nên Caesar lập thêm hai binh đoàn nữa và chủ động tấn công đánh bại các bộ lạc này. Các bộ lạc khác của xứ Gaule thấy vậy bèn bắt đầu tự vũ trang cho chính mình, Caesar cho rằng đây là những hành động gây hấn nên ông bắt đầu tiến hành cuộc chiến tranh mà sau này được gọi là cuộc chinh phạt xứ Gaule (gồm nước Pháp ngày nay, phần lớn của Thụy Sĩ và Bỉ, một phần nước Đức, nối liền vùng đất cực tây Châu Âu từ Đại Tây Dương tới sông Rhein). Sau một vài trận đánh không phân thắng bại trước liên minh các bộ tộc xứ Gaule, ông lần lượt đánh bại từng bộ lạc riêng rẽ. Cùng thời gian này, một binh đoàn Legio của Caesar bắt đầu tiến hành chinh phạt miền Bắc xứ Gaule, khu vực xung quanh eo biển Manche, đối diện trực tiếp với xứ Britain (nước Anh ngày nay). Ghen ghét trước những thành công và lợi ích mà Caesar đem về cho La Mã, những người cùng chức vị trở nên không ưa Caesar, đặc biệt là những phe bảo thủ, những người cho rằng Caesar đang muốn làm một ông vua và điều này khiến La Mã rơi vào rối loạn. Năm 56 TCN, các thành viên Tam đầu chế gặp nhau tại hội nghị Lucca và đạt được thỏa thuật kéo dài liên minh này. Thỏa thuận này được hiện thực hóa khi vào năm 55 TCN, Pompey và Crassus được bầu làm Chấp chính tối cao và họ giữ lời với Caesar bằng cách giao chức Tổng đốc cho Caesar trong 5 năm tiếp theo nữa, đó là hành động lớn cuối cùng của Tam đầu chế. Cuộc chinh phạt khu vực miền Bắc xứ Gaule trong thời gian này cũng cơ bản là hoàn tất, tuy rằng vẫn còn một vài khu vực tiếp tục kháng cự. Việc này và hành động cuối cùng của Tam đầu chế thứ nhất và cũng là cơ sở để Caesar dòm ngó xứ Britain. Năm 55 TCN, Caesar đánh bại một cuộc tiến công của hai bộ lạc German vào xứ Gaule rồi nhân đó ông cho bắt cầu vượt sông Rhine tiến vào xứ German nhằm ra uy trước khi rút về và phá hủy cây cầu này. Ngày 26 tháng 8 năm 55 TCN, Ceasar viện cớ xứ Britain trợ giúp kẻ thù của ông là bộ lạc Veneti ở vùng Bretagne, ông vượt biển tiến đánh xứ Britian. Vì những hạn chế về thông tin tình báo, nên sau vài thành công ở gần bờ biển ông lại rút về xứ Gaule để tránh đông... Năm 54 TCN Caesar chuẩn bị kỹ hơn và với một lực lượng lớn hơn đã tấn công xứ Britain lần 2; khi này ông tiến sâu được vào đất liền, lập được vài liên minh trước khi phải rút về Gaule do biến loạn xuất phát từ việc mất mùa năm đó. Từ sau lần rút lui này, Caesar không quay trở lại xứ Britain lần nào nữa. Cùng năm 54 TCN, con gái của Caesar, Julia, chết khi sinh con. Crassus thì bị giết khi đang tiến hành các cuộc chinh phạt của mình ở xứ Parthia. Không có cả Crassus lẫn Julia, Pompey ngả hẳn về phe Quý tộc. Vẫn ở Gaule, Caesar tìm cách cứu vãn mối quan hệ với Pompey bằng cách đề nghị Pompey lấy một trong những cháu gái của mình, nhưng Pompey từ chối. Thay vào đó Pompey cưới Cornelia Metella, con của Metellus Scipio, một trong những kẻ thù lớn nhất của Caesar. Tam đầu chế thứ nhất chính thức cáo chung. Dù thực sự sức mạnh quân sự của người La Mã rất lớn, nhưng chia rẽ nội bộ trong các bộ lạc xứ Gaule cũng có vai trò quan trọng không kém trong các chiến thắng dễ dàng của Caesar. Vì điều này, một vị vua xứ Gaule tên là Vercingetorix đã tìm cách thống nhất các bộ lạc khi ông tiến hành nổi dậy chống La Mã năm 52 TCN, nhưng đã quá trễ dù ông có đánh bại Caesar được vài trận. Cùng năm, Caesar sử dụng chiến thuật bao vây rồi tiêu diệt liên minh của người Gaule ở trận đánh Alesia, buộc Vercingetorix phải đầu hàng. Dù sau đó sự kháng cự vẫn lẻ tẻ nổ ra, nhưng xứ Gaule về cơ bản là đã bị bình định. Caesar ghi lại toàn bộ các chiến dịch của mình trong Commentarii de Bello Gallico (Bản báo cáo về cuộc chinh phạt xứ Gaule). Sát cánh cùng ông trong cuộc chiến này bao gồm người anh em họ Lucius Julius Caesar và Marcus Antonius, Titus Labienus, và Quintus Tullius Cicero. Theo Plutarch và các bản ghi chép lại của các học giả Brendan Woods thì kết quả của cuộc chiến này là: tổng cộng 800 thành thị bị chinh phục; 300 bộ lạc bị xóa sổ; Caesar chiến đấu chống lại 3 triệu người xứ Gaule, trong đó 1 triệu người bị bán làm nô lệ và 1 triệu người chết trận. Các sử gia cổ đại có lẽ hơi thái quá, nhưng cuộc chinh phạt xứ Gaule của Caesar chắc chắn là cuộc xâm lăng quân sự lớn nhất và thành công nhất kể từ thời Alexandros Đại đế. Chiến thắng của Caesar thì bền vững hơn là của Alexandros: xứ Gaule không bao giờ khôi phục lại nhận dạng văn hóa Celt của nó, không bao giờ có cuộc bạo loạn dân tộc chủ nghĩa nào, và trung thành với chính quyền La Mã cho tới khi Đế quốc La Mã sụp đổ vào năm 476. Đồng thời, thắng lợi vang dội này gia tăng uy thế của Caesar. Cuộc nội chiến La Mã Năm 50 TCN, Viện Nguyên lão, đứng đầu là Pompey, ra lệnh cho Caesar giải tán quân đội và trở về La Mã với lý do nhiệm kỳ của ông tại Gaule đã kết thúc. Không những vậy, họ còn cấm Caesar ra ứng cử chức Chấp chính. Trước tình hình này, Caesar nghĩ ông sẽ bị vu oan và cách ly ra khỏi đời sống chính trị nếu ông quay trở lại La Mã mà không có sự bảo trợ bởi một quan chấp chính hoặc sức mạnh của đội quân trung thành với ông. Thêm vào đó, Pompey còn buộc tội Caesar là "không phục tùng" và "âm mưu tạo phản". Vào ngày 10 tháng 1 năm 49 TCN, Caesar vượt qua sông Rubicon (khoảng biên giới Ý) với duy nhất một binh đoàn lính Lê dương La Mã (Legio XIII) của mình và phát động nội chiến. Người ta tin rằng, trong khi vượt qua Rubicon, Caesar có nói "Alea iacta est" (The die is cast - Con súc sắc đã được ném). Tháng 1 thường là thời điểm khó khăn để đưa một đội quân ra ngoài sa trường, do đó các kẻ thù của Caesar khiếp vía khi hay tin này. Phe Quý tộc, bao gồm Mettelus Scipio và Cato Trẻ, chạy về miền Nam, không biết rằng Caesar chỉ có Binh đoàn Legio XIII theo ông. Thực chất, quân chủ lực của ông hãy còn trấn thủ ở miền Bắc dãy Anpơ. Caesar truy kích Pompey tới Brindisium, với hy vọng khôi phục lại mối quan hệ đồng minh với Pompey. Nhưng Pompey lẩn tránh Caesar. Thay vì tiếp tục truy kích Pompey, Caesar đến ở Hispania và nói: "Ta đến đây trước là để đánh với một quân đội không người lãnh đạo, sau là đánh một lãnh đạo không có quân đội". Để Marcus Aemilius Lepidus giữ La Mã, Mark Antony quản lý Ý, Caesar tiến hành một cuộc hành quân 27 ngày nổi tiếng tại Hispania, nơi ông tiêu diệt đội quân chủ lực của Pompey. Sau đó, Caesar đông tiến, tấn công Pompey ở Hy Lạp, nơi mà vào ngày 10 tháng 7 năm 48 TCN, Caesar đã khôn khéo tránh được thất bại và giành phần thắng về mình. Tuy lực lượng của Pompey mạnh hơn lực lượng của ông về mọi mặt (gần gấp ba lần số bộ binh và nhiều hơn đáng kể số kỵ binh), Caesar vẫn giành được chiến thắng quyết định qua một trận đánh rất ngắn ở Pharsalus năm 48 TCN. Lợi thế nghiêng về ông do rất ít Nghị sĩ phe Pompey còn sống sót sau trận chiến quyết định này. Ở La Mã, Caesar nắm quyền lực tuyệt đối và được cử làm Dictator (có quyền lực như một nhà Độc tài), Mark Antony làm chỉ huy quân lính cho ông. Như một động thái chính trị, Caesar chấp nhận bỏ quyền hành độc tài của mình sau bảy ngày và trúng cử nhiệm kỳ Chấp chính thứ hai cùng với Publius Servilius Vatia Isauricus. Ông tiếp tục truy kích Pompey đến Alexandria, nơi Pompey bị ám sát bởi một viên quan của Pharaoh Ptolemaios XIII Theos Philopator đang trị vì. Caesar sau đó dính vào cuộc nội chiến giành quyền lực của nội bộ Alexandria giữa Ptolemaios và Nữ hoàng Ai Cập Cleopatra VII - em gái, vợ và nữ hoàng cùng cai trị với vua Ptolemaios XIII. Có lẽ vì vai trò của Ptolemaios trong vụ mưu sát Pompey, Caesar đứng về phía Cleopatra, người ta kể lại rằng Caesar đã rơi nước mắt khi viên quan thị thần của Ptolemaios dâng đầu của Pompey lên cho Caesar như là một món quà. Sau đó, Caesar tiêu diệt lực lượng của Ptolemaios và đưa Cleopatra lên nắm quyền. Cleopatra sau đó đã sinh cho Caesar một đứa con (không được thừa nhận nhưng các sử gia đều chắc chắn đó là con trai duy nhất của Caesar) Ptolemaios XV Caesar hay Caesarion ("Caesar nhỏ" hay "con của Caesar"). Sau đó Cleopatra có một lần cùng Caesar diễu hành vào La Mã. Caesar và Cleopatra không bao giờ cưới nhau. Họ không thể làm như vậy vì luật của La Mã ràng buộc rằng chỉ có hai công dân La Mã mới được cưới nhau; trong khi Cleopatra là Nữ hoàng Ai Cập. Người ta tin rằng Caesar đã tiếp tục mối quan hệ với Cleopatra trong suốt cuộc hôn nhân cuối cùng của ông, cuộc hôn nhân này kéo dài 14 năm nhưng không có người con nào cả. Sau khi trải qua những tháng đầu năm 47 TCN ở Ai Cập, Caesar đến Trung Đông, nơi ông tiêu diệt quân đội của vua Pharnaces II xứ Pontos trong trận Zela, buộc Pharnaces II phải bỏ chạy; thắng lợi của ông nhanh chóng và trọn vẹn đến nỗi ông đã ghi lại nó trong chỉ ba chữ: "Veni, Vidi, Vici" (Đã đến, đã thấy, đã chinh phục). Ghi nhận này trở nên bất hủ trong nền lịch sử quân sự. Sau đó Caesar đến Bắc Phi để giải quyết tàn quân của những người theo Pompey, ông nhanh chóng giành được thắng lợi ở Thapus trước lực lượng của Metellus Scipio (chết trận) và Cato Trẻ (tự sát). Nhưng con trai của Pompey, Gnaeus Pompeius và Sextus Pompeius; cùng với pháp quan, tướng cũ của Caesar Titus Labienus trốn đến Hispania. Caesar tiếp tục truy kích tàn quân chống đối còn lại và tiêu diệt họ ở Munda tháng 3 năm 45 TCN. Cùng thời gian này, Caesar được bầu làm Quan Chấp chính nhiệm kỳ ba (năm 46 TCN với Marcus Aemilius Lepidus) và nhiệm kỳ bốn (năm 45 TCN, không có người đồng nhiệm). Chế độ Độc tài La Mã Caesar trở về Ý tháng 9 năm 45 TCN. Việc đầu tiên là Caesar viết di chúc, trong đó cháu trai của ông Gaius Octavianus là người thừa kế thứ nhất, sẽ kế thừa toàn bộ sự nghiệp (kể cả danh hiệu chức vị của Caesar) sau khi ông qua đời; nếu Octavianus chết trước Caesar, Marcus Junius Brutus sẽ là người thừa kế tiếp theo. Viện Nguyên lão bắt đầu tôn vinh Caesar. Mặc dù Caesar không thanh trừng các kẻ thù của ông mà lại tha thứ cho hầu như tất cả bọn họ, sự chống đối Caesar có vẻ như rất ít ỏi. Những hoạt động thể thao và lễ hội lớn diễn ra vào ngày 21 tháng 4 hàng năm để vinh danh những thắng lợi của Caesar. Cùng với hoạt động đang diễn ra, Caesar được quyền mặc "Trang phục chiến thắng", gồm một chiếc áo choàng tím và một vòng nguyệt quế vinh quang trong mọi hoạt động của ông. Một dinh thự lớn đã được dựng lên bằng chi phí của thành La Mã, được dành cho Caesar dùng riêng. Danh hiệu "Nhà độc tài" của ông được công nhận và được ông sử dụng cho tới lúc chết. Một bức tượng ngà voi của Caesar được khiêng đi trong mọi lễ lạc tôn giáo. Các hình ảnh của Caesar cho thấy vào lúc này ông chải mái tóc phủ ra trước để che đậy tình trạng hói. Một bức tượng khác của Caesar được đặt ở đền thờ Quirinus với dòng đề tặng "Dâng lên vị thần không thể bị đánh bại". Từ khi đền thờ Quirinus được xem như biểu tượng của người tìm ra và vị vua đầu tiên của thành La Mã, Romulus, sự kiện này chứng tỏ Caesar không chỉ có địa vị giống như một vị thần mà còn được so sánh công lao giống như vị vua đã xây dựng La Mã. Bức tượng thứ ba được đặt tại thủ dinh của La Mã cùng một hàng với bảy bức tượng vua La Mã và cùng với Lucius Junius Brutus, người đã đánh đuổi chế độ quân chủ ra khỏi La Mã. Và trong một hành động gây xôn xao nữa của Caesar, Caesar cho đúc tiền in hình ông. Đây là lần đầu tiên La Mã có đồng tiền kiểu này. Khi Caesar quay trở lại La Mã vào tháng 10 năm 45 TCN, ông từ chức Chấp chính (nhiệm kỳ mà ông làm Chấp chính một mình) đưa Quintus Fabius Maximus và Gaius Trebonius lên thay ông. Hành động này làm Viện Nguyên lão tức giận vì nó hoàn toàn không đếm xỉa đến quyền bầu cử của chế độ Cộng hòa, nó được thực hiện chỉ bằng ý của riêng Caesar. Sau đó, Caesar tổ chức lễ diễu hành chiến thắng lần thứ 14, Viện Nguyên lão vẫn tiếp tục cổ vũ. Một đền thờ tên là Libertas được xây dựng cho Caesar, và ông nhận được tước vị "Người Giải phóng". Họ bầu chọn Caesar làm Chấp chính suốt đời, và cho phép ông giữ tất cả tước vị ông muốn, kể cả tước vị dành riêng cho người bình dân. Từ đây Caesar nắm quyền lực tuyệt đối cả về chính trị lẫn quân sự. Ngoài ra, Caesar còn được quyền chỉ định quan tòa địa phương, mà trước đây thường là phải bầu cử. Mặc khác, ông còn quy định trách nhiệm các vị quan chức, chỉ định các chức vị ở các ngành ở các địa phương; điều mà trước đây phải được bốc thăm dưới sự phê duyệt của Viện Nguyên lão. Tháng sinh của Caesar, Quintilis, được đổi tên thành Julius; ngày sinh của ông 12 tháng 7 trở thành quốc lễ của La Mã. Một đền thờ và một nhóm thầy tế tên là Flamen Maior được thành lập để vinh danh gia tộc của Caesar. Tuy nhiên, Caesar đã tiến hành một tiến trình cải cách để dẹp trừ tệ nạn xã hội. Ông thông qua một bộ luật cấm công dân La Mã từ 20 đến 40 tuổi rời Ý quá ba năm, trừ khi đang ở trong quân đội. Về lý thuyết, điều luật này của ông có thể giúp phát triển nông nghiệp và thương mại và ngăn chặn sự tha hóa ở bên ngoài. Nến một người thuộc giai cấp trên làm hại hoặc giết một người thuộc giai cấp thấp hơn, anh ta sẽ bị tịch thu toàn bộ tài sản. Caesar đã chứng tỏ rằng từ trong tâm ông vẫn quan tâm đến lợi ích cao nhất của quốc gia, ngay cả khi ông tin rằng mình là người duy nhất có khả năng điều hành nhà nước. Việc xóa 1/4 các khoản nợ chưa thanh toán, đã làm cho ông càng được dân chúng quý mến. Caesar điều tiết chặt chẽ việc mua lương thực có trợ giá của chính phủ. Ông nghiêm cấm các trường hợp đủ khả năng nhưng lại muốn tiếp cận nguồn lương thực được trợ giá này. Ông đã lập kế hoạch phân chia đất đai cho các cựu binh của mình, và kế hoạch thiết lập các thuộc địa trên khắp thế giới La Mã. Một trong những cải cách có ảnh hưởng lâu dài và sâu rộng nhất của Caesar là cải cách về Lịch Julius: ông quy định một năm có 365 ngày và cứ 4 năm lại có một năm nhuận 366 ngày (bộ lịch này chỉ được sửa đôi chút bởi Giáo hoàng Gregory XIII rồi trở thành bộ lịch được dùng tới bây giờ). Để thực hiện cải cách này, có một năm (rất có thể tương ứng với năm 46 TCN) đã được kéo dài 445 ngày. Ngoài ra, các công trình công cộng lớn đã được tiến hành. Caesar cho tu sửa lại La Mã – vốn đang là một đô thị ngổn ngang với các kiến trúc bằng gạch không mấy ấn tượng, thành phố đang rất cần được đổi mới. Bục diễn đàn bằng đá hoa cương đã được xây mới cùng với các tòa án và các khu chợ. Một thư viện công cộng dưới sự quản lý của Học giả vĩ đại Marcus Terentius Varro cũng đang được thi công. Tòa nhà của Viện Nguyên lão, Curia Hostilia, tuy vừa mới được sửa chữa, được bỏ để xây một tòa nhà mới tên là Curia Julia. Quảng trường Caesar cùng với đền thờ Venus được xây dựng. Thành phố Pomerium được mở rộng để cho phép sự phát triển dân số. Tất cả những sự phô trương, hoàn cảnh, và tiền thuế bị tiêu xài quá mức đã làm một số thành viên của Viện Nguyên lão tức giận. Một trong những người này là người bạn thân thiết của Caesar, Marcus Junius Brutus. Âm mưu ám sát Caesar Ông đã được Viện Nguyên lão La Mã tôn vinh là Imperus Maximus Dalte Sum Romana (vị thống soái cao nhất của La Mã). Danh hiệu này khẳng định rằng ông là Praetori et Romanus, nghĩa là "Người bảo trợ cao nhất của La Mã" (sau này danh hiệu này được truyền cho Augustus). Sử gia Plutarch ghi nhận rằng có một thời điểm, Caesar đã nói với Viện Nguyên lão rằng các vinh dự của ông cần được giảm bớt thay vì tăng lên, nhưng rồi đã rút lại quan điểm này để không trở nên có vẻ vô ơn. Ông được phong tặng tước vị Pater Patriae (người cha của đất nước). Ông được cử làm Thống lãnh Tối cao lần thứ ba; và được đề cử chức vị này trong liên tiếp chín nhiệm kỳ một năm, tổng cộng ông giữ chức này trong mười năm. Ông còn được giao quyền kiểm duyệt với vai trò người có đạo đức hoàn hảo (praefectus morum) trong ba năm. Vào đầu năm 44 TCN, khi mà danh tiếng của Caesar không ngừng tăng và hố ngăn cách giữa ông và giới quý tộc ngày càng sâu, ông được nhận tước vị Dictator Perpetuus, đảm bảo vị trí độc tài thống lãnh tối cao cho tới khi chết. Danh hiệu này bắt đầu xuất hiện trên các đồng tiền, đặt Caesar lên trên tất cả. Vài người bắt đầu gọi Caesar là Rex (vua) nhưng Caesar từ chối tiếp nhận danh hiệu "Rem Publicam sum!" (Ta là nền cộng hòa!). Ở đền thờ mới của Venus, khi một phái đoàn Nguyên lão đến, Caesar từ chối đứng lên chào mừng họ. Mặc dù người ta tin rằng khi đó Caesar đang bị tiêu chảy (một triệu chứng của bệnh động kinh của ông), các Nguyên lão cảm thấy bị sỉ nhục ghê gớm. Thấy sai lầm của mình, Caesar tìm cách xoa dịu các Nguyên lão bằng cách chìa cổ cho những người bạn của ông và đề nghị nếu ai cần thì cứ chặt nó đi. Nhưng mọi chuyện xem rằng đã quá muộn, các âm mưu ám sát ông bắt đầu. Brutus bắt đầu mưu tính chống đối Caesar cùng với những người bạn của ông ta, anh rể của ông là Gaius Cassius Longinus và vài người khác nữa, họ tự gọi mình là những "người giải phóng" (Liberatores). Hai ngày trước vụ mưu sát, Cassius Longinus cùng với những người đồng mưu cùng nói nếu ai để lộ âm mưu người đó sẽ tự sát. Vào ngày 15 tháng 3 (Idus Martiae) năm 44 TCN, một nhóm các Nguyên lão gọi Caesar đến để đọc đơn thỉnh cầu ông giao trả quyền lực cho Viện Nguyên lão. Lá đơn này là giả mạo; Mark Antony cảm thấy nghi ngờ một kẻ trong nhóm Liberatores tên là Servilius Casca, và cảm thấy lo lắng tột độ khi nghe tin Caesar đi lại không có vệ sĩ như mọi khi, đến gặp một nhóm các nguyên lão; ông vội vàng đi chặn Caesar lại. Nhưng đã quá muộn, khi đi qua Nhà hát Pompey, Caesar bị một nhóm các Nguyên lão chặn lại và dẫn ông vào một căn phòng ở cửa Đông. Khi Caesar đang đọc lá đơn giả mạo, Servilius Casca tiến lại giật áo choàng của Caesar và sượt tay qua cổ ông. Caesar quay lại và nắm lấy cằm của Casca la to bằng tiếng Latin: "Tên khốn Casca, ngươi đang làm gì đó?" Casca hoảng sợ, kêu những Nguyên lão đồng mưu bằng tiếng Hy Lạp: "Anh em làm ơn giúp đỡ!" (αδελφοι βοήθει!, adelphoi boethei!). Ngay lập tức, toàn bộ nhóm nguyên lão, kể cả Brutus, xông lên tấn công Caesar. Caesar tìm cách thoát thân, nhưng mờ mắt vì máu và vì cái áo choàng quá dài, Caesar vấp ngã. Rốt cục những kẻ ám sát chỉ giết được ông khi ông ngã xuống và không thể chống cự trên bậc thềm của cánh cổng. Theo Eutropous, có hơn 60 người tham gia vào âm mưu giết ông và Caesar đã bị đâm tổng cộng 23 nhát. Điều cuối cùng Caesar nói là gì? Điều này còn đang được tranh cãi. Trong tác phẩm Julius Caesar, William Shakespeare viết rằng câu cuối cùng Caesar nói là: Et tu, Brute? ("Kể cả anh sao, Brutus?"). Nhưng đó là sáng tạo của Shakespeare. Nhà sử học La Mã Suetonius ghi lại rằng những lời cuối của Caesar bằng tiếng Hy Lạp là "καί σύ τέκνον" - "Kài sú, Teknon?" ("Cả con nữa à?"). Nhưng hầu hết người La Mã tin rằng ông đã nói câu cuối cùng bằng tiếng Latin: "Tu qouque, Brute, fili mihi?" - "Cả ngươi nữa sao, Brutus, con trai của ta?"Suetonius, Life of the Caesars, Julius trans. J C Rolfe [1]. Plutarch cho rằng ông không nói gì cả, chỉ kéo áo dài lên đầu khi nhìn thấy Brutus trong đám người ám sát. Sau cuộc ám sát, các Nguyên lão ra khỏi tòa nhà và nói chuyện với nhau một cách đầy kích động. Brutus còn la to: "Nhân dân La Mã, một lần nữa chúng ta lại tự do!" Nhưng mọi việc chưa dừng lại ở đó, cái chết của Caesar khởi đầu cho cuộc nội chiến mà trong đó Mark Antony, Octavian (sau là Caesar Augustus) và những người khác đánh nhau vì cả mục đích báo thù lẫn quyền lực. La Mã sau khi Caesar bị ám sát Cái chết của Caesar, mỉa mai thay, đã đánh dấu sự sụp đổ của Cộng hòa La Mã - cái mà vì muốn bảo vệ nên những người kia đã giết ông. Caesar đã luôn luôn được dân chúng La Mã thuộc các tầng lớp trung lưu và hạ lưu ngưỡng mộ. Họ đã nổi giận vì một nhóm nhỏ các quý tộc đã giết hại vị chủ soái vô địch của mình. Mark Antony đã kêu gọi đám đông báo thù. Antony đã dùng sự thương tiếc của đám đông để đe dọa tấn công trực tiếp vào phe quý tộc, và có lẽ còn muốn đoạt lấy La Mã về mình nữa. Nhưng Caesar đã chọn người thừa kế duy nhất là Octavianus, không chỉ đưa ông ta trở thành một trong những công dân giàu có nhất của La Mã, mà còn để lại cho ông ta cái tên Caesar đầy quyền lực. Không chỉ vậy, Octavianus - người con của Caesar vĩ đại - còn được thừa hưởng lòng trung thành của phần lớn nhân dân La Mã. Khi Caesar chết, Octavianus mới 19 tuổi nhưng đã tỏ ra là người khá nguy hiểm. Trong khi Antony đấu với Decimus Brutus trong vòng đầu tiên của các cuộc nội chiến mới, thì Octavianus củng cố vị trí của mình. Để đấu với Brutus và Cassius đang tập trung quân ở Hy Lạp, Antony cần cả tiền từ các két sắt chiến tranh của Caesar lẫn tính hợp pháp mà cái tên của Caesar có thể mang lại trong các chiến dịch chống lại hai người kia; thế là Chế độ tam hùng mới được thành lập - chế độ thứ hai và cuối cùng - với các thành viên Antony, Octavianus và vị tướng kỵ binh trung thành của Caesar là Lepidus. Chế độ tam hùng thứ hai đặt Caesar lên vị trí thần thánh: Divus Iulius – và do thấy rằng lòng khoan dung của Caesar đã dẫn đến cái chết của ông, họ đã sử dụng lại hình thức Đặt ra ngoài vòng pháp luật (đã bị bãi bõ từ thời Sulla) để trừng phạt các kẻ thù trên diện rộng, nhằm mục đích tích lũy được nguồn tài chính dành cho cuộc nội chiến thứ hai chống lại Brutus và Cassius. Kết quả là phe Tam hùng đã đánh bại Brutus và Cassius tại Philipi. Sau khi thắng lợi Chế độ tam hùng thứ hai tan rã, một cuộc nội chiến khác bùng lên giữa phe Octavianus và phe Antony-Cleopatra với thắng lợi thuộc về Octavianus. Sau thắng lợi, Octavianus trở thành hoàng đế đầu tiên của La Mã dưới cái tên Caesar Augustus. Năm 42 TCN, Caesar được thánh hóa với tên Divus Iulius (Thần thiêng Julius), còn Augustus thì trở thành Divi filius (Con của một vị thần). Sự nghiệp văn chương Caesar rất thường viết các tác phẩm văn học quân sự. Ông xem nó như là một cách để tăng sự ủng hộ của dân chúng thành La Mã dành cho ông. Và dường như cách nghĩ này của ông đã đúng. Danh tiếng lẫy lừng, nhờ đó Caesar thường không viết rõ những sai lầm mà ông gây ra trong cuộc chinh phạt man rợ Gaule. Dù là một thiên tài quân sự, như Caesar, cũng như nhiều danh tướng xuất sắc khác, luôn phải do dự trước vết nhơ của chiến tranh. Các tác phẩm quân sự sau là các tác phẩm còn lưu lại được của ông. Hồi ký Commentarii de Bello Gallico (Hồi ký về cuộc chinh phạt xứ Gaule và Britannia) Commentarii de Bello Civili (Hồi ký về cuộc nội chiến - kết thúc ở cái chết của Pompey) Các tác phẩm sau đây được tin là của ông: De Bello Alexandrino (Chiến dịch Alexandria) De Bello Africo (Chiến dịch Bắc Phi) De Bello Hispaniensis (Chiến dịch ở bán đảo Iberia) Di sản Với sự nghiệp quân sự rất thành công, Julius Caesar trở thành một trong những vị Đại Danh tướng (Great Captains) lịch sử, cùng với Alexandros Đại đế, Hannibal, Gustav II Adolf, Karl XII, Friedrich II Đại Đế và Napoléon.Theodor Schieder, Sabina Berkeley, Hamish M. Scott, Frederick the Great, trang 218. Mặc dù ông không bách chiến bách thắng, ông cũng đã từng thất bại lớn trong nhiều trận đánh, như trận Gergovia (trong cuộc chinh phạt xứ Gaule), Trận Dyrrhachium (trong cuộc Nội chiến), thế nhưng khả năng, mưu lược tài tình của ông vẫn ngời sáng qua sự xây đắp thành lũy bao vây ở Alesia trong cuộc chiến xứ Gaule, chiến thắng đội quân đông đảo hơn rất nhiều của Pompey ở Pharsalus, và sự tận diệt đội quân của vua Pharnaces xứ Pontos trong trận đánh tại Zela. Vua Friedrich II Đại đế đam mê đọc những Hồi ký của Caesar, Hoàng đế Napoléon cũng đọc đi đọc lại những tác phẩm của vị kiệt tướng La Mã này. Bộ trưởng Tài chính Hoa Kỳ Alexander Hamilton ca ngợi ông là "nhân vật kiệt xuất nhất xưa nay". Còn nhà lý luận quân sự Đức vĩ đại Carl von Clausewitz có viết: Một phần do ông đến với các vấn đề quân sự quá trễ trong đường đời, một phần do bản chất ông, ông không giỏi chiến lược và chiến thuật bằng hai danh tướng cổ đại Alexandros Đại đế và Hannibal, nhưng ông cũng có đủ những tài năng khác của hai danh nhân này để trở thành một lãnh đạo quân sự vĩ đại. Không những thế, ông thậm chí còn hơn cả hai người này và có lẽ bất kỳ một vị tướng soái nào trong lịch sử trong việc truyền cảm ba quân xung phong một khi tình thế không có lợi. Và ông cũng là vị Đại Danh tướng duy nhất tự dạy binh cách cho mình. Ông có thể gặt hái chiến thắng dưới bất kỳ địa hình, thời tiết nào, có thể phần lớn là nhờ vào tính kỷ luật cao của binh lính ông, khả năng điều khiển tuyệt vời, và sự trung thành của các chiến binh dành cho ông. Kỵ binh và bộ binh của ông là tinh nhuệ nhất (của Cộng hòa La Mã thời đó), và ông sử dụng rất nhiều các thiết bị chiến tranh của La Mã như máy bắn đá, máy bắn tên và nhiều mặt khác nữa, điều mà khiến cho lực lượng của ông trở nên cực kỳ thiện chiến, kỷ luật và di chuyển rất nhanh (một vài tài liệu chép rằng lực lượng của Caesar có thể di chuyển tới hơn 40 dặm trong vòng một ngày). Lực lượng của ông ước có khoảng hơn 4 vạn Bộ binh và rất nhiều Kỵ binh, cùng với một số đơn vị chuyên dụng khác như là các máy móc chiến tranh, phu phục vụ. Sự linh động của Caesar là một yếu tố quan trọng khiến cho tên tuổi của ông trở thành bất hủ, cũng giống như Alexandros Đại đế và Friedrich II Đại đế. Caesar kể trong bản hồi ký của ông rằng một số làng của người Gaule được xây dựng trên dốc thẳng đứng và rất vững chắc, sẽ thiệt hại rất lớn nếu muốn tấn công những khu làng kiểu này, nhưng các máy móc và kỹ sư của ông có thể đào qua các lớp đá cứng và tìm ra nguồn cung cấp nước cho các làng đó, và ông ngắt nó đi. Ngôi làng thiếu nước cung cấp, đầu hàng hầu như sau đó ngay lập tức. Gia đình Cha mẹ Cha: Gaius Julius Caesar già Mẹ: Aurelia Cotta Chị em Julia Caesaris "Maior" (chị gái lớn) Julia Caesaris "Minor" (chị gái thứ hai) - bà ngoại của Augustus Vợ Caesar không cưới nhiều vợ một lúc, ông chỉ có một vợ vào một thời điểm, thứ tự này biểu thị thứ tự trước sau không phải thứ tự chánh lẽ: Đầu tiên là Cornelia Cinna nhỏ Thứ hai là Pompeia Sulla Thứ ba là Calpurnia Pisonis Con Julia (với Cornelia Cinnilla) Có thể là Caesarion (với Cleopatra) Marcus Junius Brutus (có thể là con riêng của Caesar với Servilla Caepionis) Con nuôi và người thừa kế Gaius Julius Caesar Octavianus (quan hệ chú cháu) Cháu Cháu ngoại, con của Julia và Gnaeus Pompeius Magnus, chết sau khi sinh ít lâu, không có tên. Julius Sabinus một người Gaule vùng Lingones, tuyên bố mình là cháu của Caesar do bà của anh ta là người tình của Caesar trong thời kỳ Chiến tranh Gallic Tình nhân Khác giới Cleopatra VII của Ai Cập Servilla Caepionis, mẹ của Brutus Eunoë, nữ hoàng của xứ Mauretania và vợ của Bogudes Đồng giới (theo tin đồn) Nicomedes IV xứ Bithynia Octavian (theo lời buộc tội của Mark Antony; nhưng có lẽ đây là một lời vu khống) Xã hội La Mã không chú ý lắm đền vấn đề này. Thật vậy, họ không đếm xỉa tới vấn đề giới trong các quan hệ kiểu trên. Bên cạnh đó, từng có lời kể rằng một số người lính đã từng chế giễu Caesar bằng cách hát các câu có nội dung giống như sau: Caesar đã chinh phục xứ Gaule; nhưng Nicomedes đã chinh phục Caesar mất rồi. Hoặc là:Bây giờ Caesar làm lễ diễu binh chiến thắng, vì Ngài chinh phạt xứ Gaul. Nicomedes không thắng trận, dù Ngài chinh phạt Caesar. Có tin đồn rằng Caesar và Nicomedes từng có mối quan hệ đồng giới khi ông mới bắt đầu sự nghiệp của mình. Theo Cicero, Bibulus, Gaius Memmius, từng có một số chính khách tìm cách hạ nhục Caesar bằng cách lôi chuyện này ra. Đây có thể chỉ là những đòn tung hỏa mù sau khi ông bị ám sát. Caesar, theo Cassius Dio, đã phủ nhận nó bằng cách tuyên thệ. Ông vốn nhạy cảm với những chuyện như thế, và thực chất ông là người mê gái. Danh hiệu Divus – Thần linh (sau khi chết) Pater Patriae – Quốc phụ (Người cha của Tổ quốc) Pontifex Maximus – Đại Giáo chủ Corona Civica — Civic CrownNgay tên của Caesar cũng là một danh hiệu mà nhiều vị Hoàng đế sau này thường dùng để làm niên hiệu (tiếng Đức: Kaisar; các tiếng gốc Slav: Tsar/Czar''). Mãi đến sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất mới hết các Vương triều sử dụng tên ông làm Đế hiệu. Tên của ông khi ông còn sống, cũng chỉ thông thường như mọi tên khác, nhưng nó đã trở thành một Đế hiệu khi ông chết đi.