text
stringlengths
0
512k
Viện Đại học Princeton (tiếng Anh: Princeton University), còn gọi là Đại học Princeton, là một viện đại học tư thục tọa lạc ở Princeton, New Jersey, Hoa Kỳ. Princeton là viện đại học xếp thứ tư trong các trường và viện đại học cổ xưa nhất ở Hoa Kỳ và một trong tám trường và viện đại học của Ivy League. Được thành lập tại Elizabeth, New Jersey vào năm 1746 và mang tên Trường Đại học New Jersey (College of New Jersey), trường được dời về Newark năm 1747, sau đó về Princeton năm 1756 và đổi tên thành Viện Đại học Princeton (Princeton University) vào năm 1896. Trường hiện nay mang tên Trường Đại học New Jersey ở gần Ewing, New Jersey không có liên hệ gì với Viện Đại học Princeton. Princeton là một trong tám trường Ivy League, và một trong chín trường đại học thời thuộc địa được thành lập trước cuộc cách mạng Mỹ. Princeton cung cấp nhiều chương trình nghiên cứu sau đại học (đáng kể nhất là chương trình Tiến sĩ), và xếp hạng tốt nhất trong nhiều ngành, bao gồm toán, vật lý, thiên văn và vật lý plasma, kinh tế, lịch sử và triết học. Tuy vậy, trường không có một loạt các khoa đào tạo sau đại học như nhiều đại học khác — ví dụ, Princeton không có trường y khoa, trường luật khoa, hay trường quản trị kinh doanh. Trường chuyên nghiệp nổi tiếng nhất là Trường Quan hệ Quốc tế và Công vụ Princeton (thường được học sinh gọi là "Woody Woo") thành lập năm 1930. Trường cũng có các chương trình sau đại học trong các ngành kỹ thuật, kiến trúc và tài chính. Thư viện trường có hơn 11 triệu đầu sách. Thư viện chính của trường, thư viện Firestone, chứa khoảng 4 triệu cuốn sách, là một trong những thư viện đại học lớn nhất trên thế giới (và trong các thư viện lớn nhất có "các kệ sách mở" đã từng tồn tại). Trong bộ sưu tập của nó có cả những bản sách vô giá như tập bài thuyết pháp Blickling. Bên cạnh Firestone, trường còn có nhiều thư viện chuyên ngành, bao gồm kiến trúc, lịch sử nghệ thuật, nghiên cứu Đông Á, kỹ thuật, địa lý, ngoại giao và chính sách công và nghiên cứu Cận Đông. Princeton xếp hạng 10 với số điểm 96.10 trong bảng xếp hạng các trường đại học trên thế giới năm 2013 Nhân vật nổi tiếng Trong số những người Việt nổi tiếng có Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng đến nghiên cứu về tôn giáo so sánh (comparative religion) ở viện đại học này trong thập niên 1960.
là thành phố lớn thứ tư (vùng đô thị lớn thứ ba) và là thành phố phồn vinh thứ ba ở Nhật Bản. Nằm ở miền duyên hải Thái Bình Dương, thuộc vùng Chubu trung tâm đảo Honshu, đây là trung tâm hành chính của tỉnh Aichi và là một trong 15 đô thị quốc gia của Nhật Bản. Tên gọi Tên của thành phố đã được lịch sử viết như hoặc (đọc như Nagoya). Một từ nguyên thể cho tên của thành phố là tính từ có nghĩa là "hòa bình". Tên cũng được sử dụng (Chu (giữa) + kyō (kinh đô)), vì nó là thành phố chính của vùng Chubu trung tâm. Những điều khác nhau được đặt tên sau khi Chukyo, ví dụ như khu vực Chukyo công nghiệp, Chukyo Metropolitan Area, Chukyo truyền hình phát thanh truyền hình, Đại học Chukyo và Trường đua ngựa Chukyo Lịch sử Thời kì đầu Oda Nobunaga và bảo trợ của Toyotomi Hideyoshi và Tokugawa Ieyasu là lãnh chúa đầy sức mạnh ở khu vực Nagoya người dần dần thành công trong việc thống nhất Nhật Bản. Năm 1610, Tokugawa Ieyasu dời đô của tỉnh Owari từ Kiyosu khoảng bảy cây số đến một vị trí chiến lược tại Nagoya ngày nay. Thời Tokugawa Lâu đài Nagoya, một lâu đài lớn mới, được xây dựng một phần từ nguyên liệu lấy từ Kiyosu Lâu đài Trong quá trình xây dựng, toàn bộ thị trấn của khoảng 60.000 người, trong đó có đền, miếu, di chuyển từ Kiyosu đến mới, thị xã có kế hoạch xung quanh Nagoya Lâu đài. [4] vào khoảng thời gian không xa, đền Atsuta cổ đại được thiết kế như một trạm cách gọi Miya (đền) trên Tōkaidō quan trọng, một con đường liên kết hai thủ đô của Kyoto và Edo (nay là Tokyo). Một thị trấn do đó phát triển xung quanh đền thờ để hỗ trợ du khách. Sự kết hợp của những lâu đài và đền thờ hai thị trấn hình thành những gì chúng ta gọi Nagoya. Thời kì công nghiệp hóa Thông qua những năm tiếp theo Nagoya đã trở thành một trung tâm công nghiệp của khu vực xung quanh. Lĩnh vực kinh tế của nó bao gồm các đồ gốm nổi tiếng của thành phố Tokoname, Tajimi và Seto, cũng như Okazaki, một trong những nơi duy nhất mà thuốc súng đã được sản xuất theo Mạc phủ. Các ngành công nghiệp khác trong khu vực bao gồm bông và búp bê cơ khí phức tạp được gọi là karakuri ningyo. Một phần của những nỗ lực hiện đại hóa của Minh Trị Duy Tân đã nhìn thấy một cơ cấu lại các tỉnh của Nhật Bản vào tỉnh và chính phủ thay đổi từ chế độ gia đình với các quan chức chính phủ. Nagoya đã được công bố một thành phố trên 01 Tháng 10 năm 1889, và được một thành phố ngày 01 tháng 9 năm 1956 bởi sắc lệnh của chính phủ. Thế chiến II và kỷ nguyên hiện đại Nagoya là mục tiêu của các cuộc tấn công không quân Mỹ trong Chiến tranh thế giới thứ hai, bắt đầu từ ngày 18 tháng 4 năm 1942, với một cuộc tấn công trên một máy bay Mitsubishi Công trình, kho dầu Matsuhigecho, Lâu đài doanh trại quân đội Nagoya, và cuộc chiến tranh ngành công nghiệp nhà máy Nagoya. Vụ đánh bom của Nagoya trong chiến tranh Thế giới II tiếp tục qua mùa xuân năm 1945, và bao gồm nhiều vụ đấnh bom xăng quy mô lớn. Lâu đài Nagoya, mà đã được sử dụng như một chỉ huy quân sự, bị trúng và phá hủy phần lớn vào ngày 14 tháng 5 năm 1945. Việc tái thiết tòa nhà chính được hoàn thành vào năm 1959. Trong năm 1959, thành phố bị ngập lụt và thiệt hại nặng sau Cơn bão Ise-wan. Cảnh quan Một trong những cảnh quan nổi tiếng ở Nagoya là Thành Nagoya (名古屋城 Nagoya-jō) và Đền Atsuta (熱田神宮 Atsuta Jingū). Thành Nagoya Thành Nagoya được xây dựng vào năm 1612. Toà thành được phục hồi vào năm 1959, do đã bị phá huỷ phần lớn trong Chiến tranh thế giới thứ hai, và nhiều tiện nghi hiện đại được bổ sung trong lúc phục hồi, ví dụ như thang máy. Thành Nagoya rất nổi tiếng với hai con cá kình bằng vàng (金の鯱 Kin no Shachihoko) trên mái nhà. Chúng thường được dùng làm biểu tượng cho Nagoya. Đền Atsuta Đền Atsuta là điện thờ nghiêm trang, tôn kính thứ nhì ở Nhật. Nó lưu giữ thanh kiếm Kusanagi (草薙神剣 Kusanagi no mitsurugi), một trong 3 biểu trưng cho hoàng gia Nhật. Điện thờ tổ chức gần 70 lễ hội mỗi năm, và có rất nhiều người đến thăm viếng đền. Trong điện thờ cũng có hơn 4.400 bảo vật quốc giạ tượng trưng cho 2.000 năm lịch sử của ngôi điện thờ này. Những điểm tham quan hiện đại có thể kể đến Tháp truyền hình Nagoya và toà tháp trung tâm của Công ty Đường sắt Nhật Bản ở nhà ga Nagoya. Dân số Năm 2010, dân số thành phố là 2.258.804 người, mật độ dân số 6.920 người/km² (tổng diện tích 326,45 km²). Diện tích tổng thành quy mô đến tận tỉnh Mie và Gifu, với tổng dân số 9 triệu người, chỉ thua Osaka và Tokyo. Giao thông Nagoya có sân bay quốc tế Chubu ở thành phố Tokoname và sân bay Nagoya nằm ở Komaki và Kasugai. Vào ngày 17 tháng 2 năm 2005, tất cả những chuyến bay thương mại đến sân bay Nagoya (trừ các chuyến bay của hãng J-Air) đã chuyển về sân bay trung tâm Chubu. Nhà ga Nagoya là nhà ga xe lửa trên mặt đất lớn nhất thế giới. Hãng Đường sắt Nagoya và Đường sắt Điện lực Kinki Nhật Bản luôn cung cấp các chuyến tàu tới các điểm vùng Tokai và vùng Kansai. Thành phố này cũng có ga tàu điện ngầm Nagoya. Kinh tế Ngành công nghiệp chính của Nagoya là công nghiệp ôtô. Rất nhiều công ty sản xuất ôtô của Nhật đều đặt ở Nagoya, giống như ở Mỹ các nhà sản xuất ôtô đều đặt ở Detroit. Tổng hành dinh công ty Toyota đặt ở thành phố lân cận. Tổng công ty bánh kẹo Nhật Bản Marukawa cũng đặt ở Nagoya, rồi công ty đồ gốm Noritake. Tỷ trọng các hoạt động kinh tế trong Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 2005 như sau: Dịch vụ 26% Bán buôn và bán lẻ 20,2% Chế tạo 12,3% Hàng hải và Viễn thông 10,4% Bất động sản 9,8% Xây dựng 5,8% Tài chính và bảo hiểm 5,4% Khác 3,7% World Expo 2005, hay Aichi Expo được tổ chức trên những khu đồi phía đông Nagoya, thuộc thành phố lân cận Nagakute và Seto. Sự kiện này diễn ra từ 25 tháng 3 đến 25 tháng 9 năm 2005.
Thành phố Aomori (tiếng Nhật: 青森市 Thanh Sâm thị) là trung tâm hành chính của tỉnh Aomori, ở vùng Tohoku trên đảo Honshū. Thành phố đối diện với Vịnh Mutsu, nằm trên đường nối Eo biển Tsugara và dãy Hakkoda ở phía Nam tỉnh Aomori. Ở đây có cảng biển lớn nhất tỉnh. Trước khi đường hầm Seikan đi vào hoạt động, lối chính vào đảo Honshu của người dân từ Hokkaido là phải đi bằng phà từ Hokkaido tới thành phố Hakodate. Thành phố được thành lập chính thức vào ngày 1 tháng 8 năm 1898. Nhưng thành phố và cảng đã được định cư từ năm 1626, vào giai đoạn đầu của thời kì Edo. Càng ngày thành phố càng mở rộng, đã nhập thêm vào thị trấn Namioka vào ngày 1 tháng 4 năm 2005. Lịch sử Trước thời kì Edo, Aomori chỉ là một làng cá nhỏ được gọi là Thiện Tri Điểu thôn (善知鳥村). Làng này được coi như một cảng biển vào năm 1612 bởi Moriyama Yashichirō, quan phụ trách việc phát triển cảng biển. Cái tên Aomori đã được đặt cho thành phố vào thời gian này. Trong suốt thời kì Edo, nơi quan trọng nhất của vùng Tsugaru là Hirosaki, và Aomori đóng vai trò như một cảng biển và trung tâm thương mại đối với vùng đất này. Trong cuộc cải cách Minh Trị, vào tháng 7 năm 1871, Aomori trở thành một phần của tỉnh Hirosaki. Vào tháng 9 năm đó, tỉnh Hirosaki (bao gồm cả phần đất ngày nay của tỉnh Aomori) được thành lập. Tuy nhiên, tỉnh lỵ đã chuyển từ thành phố Hirosaki về Aomori và tên tỉnh đổi thành Aomori. Vào mùa đông năm 1902, hơn 200 quân lính đã thiệt mạng trong lúc đang cố sức vượt qua dãy núi Hokkoda trong một buổi tập quân sự. Đây là một phần của việc chuẩn bị cho Chiến tranh Nga-Nhật và cần có kinh nghiệm trong môi trường lạnh mùa đông. Hôm đó đã có sai lầm nặng nề, với sự chuẩn bị và sự chỉ huy quá tồi, đã khiến hơn 200 người thiệt mạng để lại ký ức đau buồn. Sự phát triển nên một thành phố Aomori hiện đại là do sự điều hành tỉnh lỵ và phà Seikan của Bộ trưởng Hoả xa, làm đường tàu quốc gia Nhật Bản nối giữa cảng Aomori với cảng Hakodate ở Hokkaido. Từ Tokyo đến Aomori có 2 đường tàu được xây dựng: đường Ou nối giữa thành phố Akita với thành phố thanhYamagata và đường Tohoku nối giữa thành phố Morioka, thành phố Sendai với thành phố Fukushima. Aomori là thành phố tỉnh lỵ duy nhất ở Nhật Bản không có một trường đại học quốc lập nào. Vào năm 1945 thành phố cũng từng bị Không lực Mỹ đánh bom. Khí hậu Khí hậu ở Aomori gần như luôn ở mùa đông với tuyết và lạnh lẽo. Thành phố và phụ cận luôn có tuyết rơi rất dày, có thể nói là tuyết nặng hạt nhất trong các thành phố Nhật Bản. Ví dụ như, kỉ lục về độ dày của tuyết ở thành phố này là 196 cm năm 1981. Kỷ lục hiện nay thuộc về Sapporo với 164 cm, ghi vào năm 1939. Vào mùa hè, cơn gió Yamase thổi vào từ phía đông, làm cho khí hậu mát mẻ. Bên cạnh đó, lớp sương mù dày đặc cũng thường xuất hiện ở vùng núi. Chính vì lớp sương mù này, các chuyến bay tới sân bay Aomori thường bị huỷ bỏ. Giao thông Sân bay quốc tế Aomori (thành lập năm 1964, trở thành sân bay quốc tế 1995), mất khoảng 30 phút đi từ thành phố, và luôn có xe buýt sân bay phục. Ở đây có các chuyến bay tới Tokyo, Itami (gần Osaka), Sân bay quốc tế Chubu (gần Nagoya), thành phố Sapporo, thành phố Fukuoka và Seoul, Hàn Quốc (Korean Air). Vào mùa hè, cũng có các chuyến bay tới nước Nga (Dalavia Far East Airways). Ga xe lửa Aomori ở nằm ở khu ngoại ô, gần cảng Aomori. Ga tàu này thuộc Công ty Đường sắt Đông Nhật Bản, là ga cuối cùng của đường tàu Tohoku và Ōu. Công ty đường sắt Hokkaido cũng khai thác tuyến tàu đến Hachinohe trên đoạn đường Tohoku này, ngoài ra công ty còn sở hữu đoạn đường Tsugaru Kaikyo để đi về phía bắc bằng cách đi qua đường hầm Seikan đến Hokkaido. Phà đến Hakodate thuộc Phà Seikan luôn sẵn có, và mất khoảng 4 giờ để đi từ Aomori đến Hakodate bằng phà. Cảnh quan Aomori Nebuta là một lễ hội nổi tiếng từ 2 tháng 8 đến 7 tháng 8 hàng năm. Bên cạnh đó, những di tích, bảo tàng và những dãy núi cũng là những sự thu hút du khách đến đây. Dãy Hakkoda là một địa chỉ hay để tham quan với nhiều suối khoáng nóng. Aomori cũng có nhiều suối nước nóng khác, như là Asamushi và Sukayu. Asupamu Bảo tàng nghệ thuật Munakata Shiko Bảo tàng Lâm nghiệp Aomori Bảo tàng dân tộc Aomori Bảo tàng lịch sử và nghệ thuật dân gian Aomori Bảo tàng Nebuta-no-sato Thể thao Aomori đã 2 lần là chủ nhà cuộc thi môn đánh bi đá trên băng (curling) quốc tế trong năm 2003, và đội tuyển nữ Aomori được chọn đại diện cho nước Nhật tại Thế vận hội mùa đông 2006 ở Torino, (Ý). Từ 17 tháng 3 đến 25 tháng 3 năm 2007, Giải vô địch curling nữ quốc tế sẽ được tổ chức ở đây.
Viện Đại học California, Los Angeles hay Đại học California, Los Angeles (tiếng Anh: University of California, Los Angeles hay UCLA) là một viện đại học công lập nằm trong khu vực dân cư của Westwood trong nội vi thành phố Los Angeles. Thiết lập như là một viện đại học vào năm 1919, đây là viện đại học cổ xưa thứ nhì trong hệ thống Viện Đại học California (University of California) và là viện đại học có nhiều sinh viên ghi danh nhất ở nước Mỹ. Chương trình học của UCLA được xếp thứ hạng rất cao; đa số các chương trình Ph.D. nằm trong 20 trường có chất lượng cao nhất của Mỹ theo thống kê của National Research Council. Vào năm 2019, U.S. News & World Report xếp chương trình đại học #1 trong hệ thống các trường đại học công lập trên toàn nước Mỹ, do vậy thường được xem là "Public Ivy." Viện đại học này cũng đứng đầu trong các viện đại học nghiên cứu công lập tính theo số lượng tiền nghiên cứu bởi National Science Foundation, và xếp thứ nhất trong tất cả các viện đại học Mỹ cả công và tư.
Austin là thủ phủ của tiểu bang Texas và là quận lỵ của Quận Travis. Tọa lạc ở miền Trung Texas, nó là thành phố lớn thứ tư của Texas và thành phố lớn thứ 16 của Mỹ. Vào thống kê dân số [2019], Austin có dân số là 978.908 người. Thành phố là trung tâm văn hóa và kinh tế của khu vực đô thị Austin–Round Rock với dân số 2,2 triệu người. Theo Điều tra Dân số Hoa Kỳ năm 2000, số người Mỹ gốc Việt ở Austin là 5.942 người, chiếm 0,9% dân số toàn thành phố. Lịch sử Vài trăm năm trước khi những người di cư từ châu Âu đến, khu vực xung quanh thành phố Austin hiện nay được cư ngụ bởi một tập hợp những người Mỹ bản địa Tonkawa, Comanche và Lipan Apache, đánh cá và săn bắn dọc theo các con suối nhỏ, bao gồm cả suối Barton ngày nay. Những định cư đầu tiên được ghi lại ở khu vực Austin ngày nay xảy ra vào năm 1835. Người di cư Mỹ gốc Anh bắt đầu đến khu vực này, khi Texas vẫn còn là một phần của México. Họ thành lập làng Waterloo vào năm 1837, dọc theo hai bờ sông Colorado. Theo dân gian, Stephen F. Austin, "cha đẻ của Texas", đã thương lượng một hiệp ước hòa bình với những người bản địa tại địa điểm mà ngày hôm nay là Treaty Oak sau khi một số người di cư bị giết trong một trận càn quét. Theo dân gian, Austin cũng thương lượng một hiệp ước về biên giới với người bản địa để thiết lập biên giới của thành phố. Waterloo được chọn để trở thành thủ phủ của Cộng hòa Texas vừa thành lập vào năm 1839 và được mua bởi nước cộng hòa cho mục đích đó. Mirabeau B. Lamar đặt lại tên thành phố để vinh danh Stephen F. Austin. Tên gốc của thành phố được nhớ đến bởi những thương gia địa phương như là Quán kem Waterloo và Waterloo Records. Địa lý Austin nằm trên sông Colorado, với ba hồ nhân tạo hoàn toàn nằm trong nội vi thành phố: hồ thành phố, hồ Austin và hồ Walter E. Long. Thêm vào đó, chân của hồ Travis, bao gồm cả đập Mansfield, tọa lạc ở trong phạm vi thành phố. Hồ thành phố, hồ Austin và hồ Travis đều nằm trên sông Colorado. Thành phố này cũng nằm trên vết nứt địa chất Balcones, mà, trong hầu hết Austin, chạy gần như là cùng tuyến đường với Đường cao tốc MoPac. Phần phía đông của thành phố bằng phẳng, trong khi phần phía tây và các khu vực ngoại thành phía tây bao gồm các ngọn đồi thoai thoải với quang cảnh khá đẹp trên vùng bìa của Texas Hill Country. Bởi vì những ngọn đồi về phía tây chủ yếu là đá vôi với một lớp đất mỏng bao phủ, thành phố thường xuyên bị lụt đột ngột do nước mưa xối xả sau những trận bão. Để điều khiển lượng nước này và tạo ra thủy điện, Lower Colorado River Authority đã điều hành một loạt các đập làm thành Texas Highland Lakes. Những hồ này cũng cung cấp nơi để chèo thuyền, bơi lội và các dạng giải trí khác bên trong một số công viên tọa lạc trên các bờ hồ. Một điểm nổi bật khác ở Austin là núi Bonnell. Là điểm cao nhất ở Austin với độ cao 780 feet bên trên mặt biển, đó là một núi đá vôi tự nhiên nhìn xuống hồ Austin trên sông Colorado, vào khoảng 200 feet phía dưới đỉnh núi. Chính quyền Kinh tế Hàng ngàn sinh viên tốt nghiệp hàng năm từ các chương trình kỹ thuật và khoa học máy tính tại Đại học Texas tại Austin cung cấp một nguồn nhân công trẻ tài giỏi năng động giúp cho sự phát triển về mặt kỹ thuật của Austin. Khu đô thị Austin cũng có giá nhà cửa rẻ hơn so với Thung lũng Silicon. Kết quả của một sự tập trung khá cao của các công ty kỹ thuật công nghệ cao trong vùng đã làm Austin bị ảnh hưởng mạnh bởi cuộc bùng nổ kinh tế bởi các công ty dot-com trong cuối thập niên 1990 và sự đổ vỡ sau đó, mặc dù sự hồi phục đang xảy ra nhanh chóng. Những nơi cung cấp việc làm lớn nhất ở Austin bao gồm Nhà nước Tiểu bang Texas, Đại học Texas tại Austin, mạng lưới bảo hiểm y tế SETON, Dell, IBM và Freescale Semiconductor (tách ra từ Motorola vào năm 2004). Các công ty công nghệ cao khác ở Austin bao gồm Apple Computer, Vignette, AMD, Applied Materials, Intel, Motive Inc, Cirrus Logic, Samsung, National Instruments, United Devices, Signet Design Solutions (thiết kế vi mạch) và Sun Microsystems. Sự cạnh tranh của các công ty kỹ thuật đã dẫn đến tên thường gọi của vùng này, "những đồi Silicon," (Austin nguyên là "Silicon Gulch", nhưng San Jose, California đã có đặc điểm đó) và đã thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng làm thành phố phát triển lên phía bắc và phía nam. Các công ty đáng chú ý khác, như là Hoover's, Inc., một công ty nghiên cứu và xuất bản vốn là chi nhánh của Dun & Bradstreet, cũng có trụ sở chính tại thành phố này. Văn hóa
Trưởng lão có thể đề cập tới: Trưởng lão (danh hiệu), chức vị có thẩm quyền trong một cộng đồng hoặc tổ chức Trưởng lão (Phật giáo), thường gọi là Thượng tọa Trưởng lão (Kitô giáo), chức sắc hoặc người được kính trọng trong một số hệ phái
Tutankhamun (); phát âm theo tiếng Ai Cập cổ là Tutankhamen là một pharaon Ai Cập thuộc Vương triều thứ 18, trị vì vào khoảng những năm 1332-1323 TCN (theo bảng niên đại quy ước), trong giai đoạn Tân Vương quốc của Lịch sử Ai Cập. Ông là thường hay được gọi theo cách thông dụng là Vua Tut. Tên gọi ban đầu của ông, Tutankhaten, có nghĩa là "Hiện thân sống của Aten", trong khi Tutankhamun có nghĩa là "Hiện thân sống của Amun". Theo cách viết bằng chữ tượng hình, tên của Tutankhamun đã thường được viết là Amen-tut-ankh, vì nó tuân theo một quy ước đó là tên của vị thần được đặt ở đầu của một cụm từ để thể hiện sự tôn kính. Ông có thể cũng là Nibhurrereya trong các bức thư Amarna, và nhiều khả năng chính là vị vua Rathotis của vương triều thứ 18, vốn được Manetho, một nhà sử học cổ đại, ghi chép lại là đã trị vì trong chín năm- một con số tương tự cũng được quy chiếu với phiên bản tóm tắt của Flavius ​​Josephus. Sự kiện Howard Carter cùng George Herbert, huân tước thứ năm của Carnarvon phát hiện ra lăng mộ gần như còn nguyên vẹn của Tutankhamun vào năm 1922 đã tạo nên một cơn chấn động trên toàn thế giới. Nó đã khơi dậy lại sự quan tâm của công chúng đối với Ai Cập cổ đại, và mặt nạ xác ướp của Tutankhamun, ngày nay nằm tại bảo tàng Cairo, đã trở thành một biểu tượng nổi tiếng. Triển lãm các hiện vật từ ngôi mộ của ông đã diễn ra khắp nơi trên thế giới. Vào tháng 2 năm 2010, kết quả xét nghiệm DNA khẳng định rằng ông là con trai của Akhenaten (xác ướp KV55) với một người chị em và cũng là vợ của Akhenaten (xác ướp KV35YL), hiện vẫn chưa xác định được danh tính và được biết với tên gọi "Quý Bà trẻ", xác ướp của bà được tìm thấy trong ngôi mộ KV35. Cuộc đời Tutankhamun là con trai của Akhenaten (trước đây là Amenhotep IV) với một trong những chị em của Akhenaten, hoặc có lẽ một trong những người chị em họ của ông ta. Khi là một hoàng tử, ông đã được biết đến với tên gọi Tutankhaten. Ông lên ngôi vào năm 1333 TCN, khi mới lên chín hoặc mười tuổi, với vương hiệu là Nebkheperure. Ông có một bảo mẫu tên là Maia, và bà được biết đến từ ngôi mộ của mình tại Saqqara. Một thầy giáo nhiều khả năng có tên là Sennedjem. Khi lên ngôi vua, ông đã kết hôn với người chị cùng cha khác mẹ với mình là Ankhesenpaaten, bà sau đó đổi tên thành Ankhesenamun. Họ có hai người con gái với nhau nhưng đều bị chết yểu. Nghiên cứu chụp cắt lớp vi tính được thực hiện vào năm 2011 cho thấy một người con gái đã mất khi đang ở tháng thứ 5-6 của thai kì và người còn lại đang ở tháng thứ 9 của thai kỳ. Không có bằng chứng nào trong cả hai xác ướp cho thấy dấu vết của các dị tật bẩm sinh hoặc một nguyên nhân dẫn đến cái chết. Vương triều Do ông lên ngôi khi còn rất trẻ, nhà vua có thể đã có những cận thần đầy quyền lực bên cạnh, được cho là bao gồm tướng Horemheb và tể tướng Ay. Horemheb đã ghi lại rằng nhà vua đã phong cho ông ta làm "chúa tể của toàn bộ các vùng đất" vốn là một tước vị cha truyền con nối để duy trì luật pháp. Ngoài ra ông ta có khả năng trấn an vị vua trẻ khi ông nổi giận. Vào năm trị vì thứ ba của mình, Tutankhamun đã cho hủy bỏ những thay đổi được thực hiện trong suốt vương triều của vua cha. Ông kết thúc sự thờ thần cúng thần Aten và khôi phục lại địa vị tối cao cho thần Amun. Lệnh cấm sự thờ cúng thần Amun đã được dỡ bỏ và các đặc quyền truyền thống dành cho tầng lớp tư tế đã được khôi phục. Kinh đô đã được dời về lại Thebes và thành phố Akhetaten bị từ bỏ. Ông còn thay đổi tên của mình thành Tutankhamun, "Hiện thân sống của Amun". Nhà vua còn bắt đầu các dự án xây dựng như là một phần trong quá trình khôi phục của ông, đặc biệt là tại đền Karnak ở Thebes, tại đây ông đã dành riêng một ngôi đền cho thần Amun. Nhiều tượng đài đã được dựng lên, và một dòng chữ trên cửa ngôi mộ của ông đã tuyên bố rằng nhà vua đã "sống cuộc đời của mình theo hình tượng của các vị thần". Các lễ hội truyền thống đã được tổ chức trở lại, bao gồm cả những lễ hội có liên quan đến thần bò Apis, Horemakhet, và lễ hội Opet. Tấm bia đá được khôi phục của ông có nói: Vương quốc Ai Cập đã rơi vào tình trạng suy yếu về kinh tế và hỗn loạn dưới vương triều của Akhenaten. Quan hệ ngoại giao với các vương quốc khác đã bị bỏ bê và Tutankhamun đã tìm cách khôi phục lại chúng, đặc biệt là với người Mitanni. Bằng chứng về sự thành công của ông đã được đề xuất từ những món quà từ các quốc gia khác nhau được tìm thấy trong lăng mộ của ông. Bất chấp những nỗ lực nhằm cải thiện các mối quan hệ của ông, những trận chiến với người Nubia và các dân tộc châu Á khác đã được ghi lại trong ngôi đền an táng của ông tại Thebes. Ngôi mộ của ông còn chôn theo cả áo giáp và những chiếc ghế gập thích hợp cho những chiến dịch quân sự. Tuy nhiên, do bản thân ông còn trẻ tuổi cùng với những khuyết tật trên cơ thể, ông đã phải sử dụng một cây gậy để đi lại (ông qua đời khoảng 19 tuổi), các nhà sử học suy đoán rằng ông đã không đích thân tham gia vào những trận chiến này. Sức khỏe và diện mạo Tutankhamun có dáng vẻ mảnh khảnh và có chiều cao khoảng 180 cm (5 ft 11 in). Ông có những chiếc răng cửa lớn và đây là đặc trưng của dòng dõi hoàng tộc Thutmoses. Từ tháng 9 năm 2007 đến tháng 10 năm 2009, nhiều xác ướp khác nhau trở thành đối tượng trong các nghiên cứu nhân chủng học, X quang, và di truyền vốn là một phần của Dự án gia đình vua Tutankhamun. Các nghiên cứu cũng cho thấy rằng Tutankhamun đã "hơi hở hàm ếch" và có thể mắc cả chứng vẹo cột sống nhẹ. Khám nghiệm cơ thể của vua Tut cũng đã tiết lộ sự biến dạng trước đó chưa được biết ở trong chân trái của nhà vua, do hoại tử mô xương. Sự đau đớn do điều này gây ra đã buộc vua Tut phải sử dụng một cây gậy đi bộ, và nó đã được tìm thấy rất nhiều trong ngôi mộ của ông, tuy nhiên căn bệnh này lại không nguy hiểm đến tính mạng. Trong quá trình phân tích DNA xác ướp của vua Tut, các nhà khoa học đã phát hiện ra DNA của ký sinh trùng gây nên bệnh sốt rét nhiệt đới trong cơ thể của pharaon, nó được coi là bằng chứng về mặt di truyền học lâu đời nhất của căn bệnh này. Điều thú vị là, có nhiều chủng mầm bệnh sốt rét đã được tìm thấy và nó chỉ ra rằng vua Tut đã bị bội nhiễm sốt rét trong suốt cuộc đời của ông. "Bệnh sốt rét đã làm suy yếu hệ thống miễn dịch của vua Tut và gây trở ngại cho quá trình chữa trị bàn chân của ông. Những yếu tố này, kết hợp với việc xương đùi trái của ông bị gãy theo như phát hiện của các nhà khoa học vào năm 2005, có thể cuối cùng đã giết chết vị vua trẻ tuổi". Phả hệ Vào năm 2008, một nhóm nghiên cứu bắt đầu tiến hành nghiên cứu DNA của Tutankhamun và các xác ướp những thành viên khác trong gia đình ông. Kết quả từ các mẫu DNA cuối cùng đã giúp trả lời một số câu hỏi về huyết thống của Tutankhamun, nó đã chứng minh rằng cha của ông là Akhenaten, nhưng người mẹ của ông thì lại không thuộc vào một trong số những người vợ đã được biết đến của Akhenaten. Mẹ của ông là một trong số năm người chị em của cha ông, mặc dù vậy lại không rõ là ai. Nhóm nghiên cứu đã có thể chứng minh với xác suất tới 99,99 phần trăm rằng Amenhotep III là cha nhân vật được chôn cất trong ngôi mộ KV55, người được xác định là cha của Tutankhamun. Mẹ của vị vua trẻ tuổi đã được tìm thấy thông qua các xét nghiệm DNA và là một xác ướp được biết đến với tên gọi "Quý bà trẻ" (KV35YL), được tìm thấy bên cạnh xác ướp nữ hoàng Tiye trong hốc tường của ngôi mộ KV35. DNA của bà đã chứng minh rằng, bà là một người con của Amenhotep III với Tiye; do đó, cha mẹ của Tutankhamun là anh em ruột. Nữ hoàng Tiye đã có nhiều ảnh hưởng về mặt chính trị trong triều đình và đóng vai trò như một cố vấn cho con trai của bà sau khi người chồng của bà qua đời. Tuy nhiên, một số nhà di truyền học đã tranh cãi về những phát hiện này và "phàn nàn rằng nhóm nghiên cứu đã sử dụng kỹ thuật phân tích không phù hợp." Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng một trong số hai xác ướp bào thai được tìm thấy tại lăng mộ của Tutankhamun là con gái của chính Tutankhamun, và một thai nhi khác có lẽ cũng là con của ông. Và cho đến nay, chỉ mới thu được một phần dữ liệu từ hai xác ướp nữ trong ngôi mộ KV21. Một trong số họ, KV21A, có thể là mẹ của những trẻ sơ sinh này và do đó là vợ của Tutankhamun, Ankhesenamun. Theo lịch sử ghi lại thì bà là con gái của Akhenaten với Nefertiti, và do đó nhiều khả năng bà là chị em cùng cha khác mẹ với ông. Ngoài ra, bằng chứng đến từ quá trình khám nghiệm và nghiên cứu di truyền học vào năm 2014 tiếp tục tái khẳng định những phát hiện vào năm 2010 rằng Tutankhamun là kết quả của một mối quan hệ cận huyết. Qua đời Không có bất cứ ghi chép nào còn hiện còn tồn tại đến ngày nay về ngày qua đời của Tutankhamun. Điều gì gây ra cái chết của Tutankhamun đã là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận. Nhiều nghiên cứu khoa học đã được tiến hành để nhằm tìm ra nguyên nhân gây ra cái chết của ông. Có một số bằng chứng đã được nhà vi sinh vật học Harvard Ralph Mitchell nêu ra rằng ông có thể được chôn cất một cách vội vã. Mitchell đã phát biểu rằng những đốm màu nâu sẫm trên những bức tường được trang trí trong phòng chôn cất của Tutankhamun cho thấy ông đã được chôn cất ngay trước khi màu sơn có thể khô. Thông qua việc tiến hành chụp cắt lớp vi tính vào năm 2005 đã cho thấy ông đã bị gãy chân trái, không lâu trước khi ông qua đời, và nó đã bị nhiễm trùng. Phân tích DNA được tiến hành năm 2010 cho thấy sự xuất hiện của bệnh sốt rét trong cơ thể của ông, dẫn đến giả thuyết cho rằng bệnh sốt rét và bệnh Köhler đã dẫn đến cái chết của ông. Vào ngày 14 tháng 9 năm 2012, hãng tin ABC đã đưa tin về một giả thuyết khác nữa cho cái chết của Tutankhamun, nó được phát triển bởi bác sĩ phẫu thuật Hutan Ashrafian ở Đại học Hoàng gia London, ông tin rằng bệnh động kinh thùy thái đã gây ra một cú ngã chết người và khiến cho chân trái của Tutankhamun bị gãy. Nghiên cứu được các nhà khảo cổ, X-quang, và di truyền học, tiến hành vào năm 2005 thông qua việc chụp CT những xác ướp được tìm thấy chỉ ra rằng ông không qua đời bởi một cú đánh vào đầu, như những suy nghĩ trước đây. Những hình ảnh CT mới đã chỉ ra các dị tật bẩm sinh vốn phổ biến hơn ở những đứa trẻ sinh ra từ hôn nhân cận huyết, như việc ông có dấu hiệu mắc chứng hở hàm ếch cùng với những khuyết tật bẩm sinh khác (cha và mẹ của Tutankhamun là 2 anh chị em ruột) Hệ quả Với việc Tutankhamun qua đời và hai người con chết non được chôn cất cùng với ông, dòng họ Thutmoses đã chấm dứt. Các bức thư Amarna sau đó cho biết rằng người vợ góa của Tutankhamun, đã viết thư gửi cho vua Suppiluliuma I của người Hittites, thỉnh cầu với ông ta rằng liệu bà có thể kết hôn với một người con trai của ông ta được hay không. Bức thư không nhắc tới việc Tutankhamun đã qua đời như thế nào. Ankhesenamun đã nói rằng bà đã rất lo sợ nhưng sẽ không lấy bất cứ cận thần nào của mình. Tuy nhiên, vị hoàng tử này đã bị sát hại trước khi có thể đến nơi. Ngay sau đó, Ay đã cưới vợ góa của Tutankhamun và trở thành vị pharaon tiếp theo. Đồng thời đã có một cuộc chiến tranh nổ ra giữa hai nước và Ai Cập đã bị thua trận. Số phận của Ankhesenamun sau đó không được biết đến, bà đã biến mất khỏi các ghi chép lịch sử và người vợ thứ hai của Ay là Tey đã trở thành Chính cung hoàng hậu. Sau khi Ay qua đời, Horemheb đã cướp ngôi vua và tiến hành một chiến dịch nhằm xóa bỏ mọi thứ liên quan đến ông, cha của Tutankhamun, Akhenaten, người mẹ kế Nefertiti, người vợ Ankhesenamun của ông, và cả những người chị em cùng cha khác mẹ cũng như các thành viên khác trong gia đình. Toàn bộ hình ảnh và đồ hình của ông đều đã bị xóa bỏ. Bất chấp điều này, Horemheb có thể đã cưới một người em gái của Nefertiti, Mutnedjmet, nhưng họ không có con với nhau và sau này ông ta đã truyền ngôi lại cho Paramessu, vị vua sáng lập nên vương triều Ramesses. Lăng mộ Nhà khảo cổ Howard Carter đã phát hiện ra lăng mộ gần như còn nguyên vẹn của Tutankhamun vào năm 1922, đó là ngôi mộ KV62 tại Thung lũng các vị Vua. Nó đã tạo nên một sự kiện chấn động trên toàn thế giới. Lăng mộ đã cung cấp những hiểu biết giá trị về văn minh Ai Cập cổ đại. Có tổng số 5.398 vật phẩm đã được tìm thấy trong ngôi mộ, bao gồm quan tài rắn bằng vàng, mặt nạ, ngai, cung tên, kèn trumpet, chén hoa sen, thực phẩm, rượu vang, dép, đồ lanh tươi... Trong lăng mộ có sáu cỗ xe ngựa (trong đó 2 cỗ xe được dát vàng), 50 cái cung, 2 thanh gươm, tám cái khiên, 2 lưỡi dao găm, đồ dùng đủ loại. Howard Carter phải mất 10 năm để phân loại các vật phẩm này. Có cả một con dao găm lấy từ ngôi mộ có lưỡi sắt được làm bằng thiên thạch. Huân tước Carnarvon - người tài trợ cho cuộc khai quật lăng mộ đã qua đời chỉ 6 tuần sau khi lăng mộ được mở ra. Từ đó đã dấy lên những đồn đại nổi tiếng về lời nguyền của xác ướp Ai Cập. Chú thích Ċ== Tham khảo == Andritsos, John. Social Studies of Ancient Egypt: Tutankhamun. Australia 2006 Booth, Charlotte. The Boy Behind the Mask, Oneworld, ISBN 978-1-85168-544-8 Brier, Bob. The Murder of Tutankhamun: A True Story. Putnam Adult, ngày 13 tháng 4 năm 1998, ISBN 0-425-16689-9 (paperback)/ISBN 0-399-14383-1 (hardcover)/ISBN 0-613-28967-6 (School & Library Binding) Carter, Howard and Arthur C. Mace, Te Discovery of the Tomb of Tutankhamun. Courier Dover Publications, ngày 1 tháng 6 năm 1977, ISBN 0-486-23500-9 The semi-popular account of the discovery and opening of the tomb written by the archaeologist responsible. Desroches-Noblecourt, Christiane. Sarwat Okasha (Preface), Tutankhamun: Life and Death of a pharaon . New York: New York Graphic Society, 1963, ISBN 0-8212-0151-4 (1976 reprint, hardcover) /ISBN 0-14-011665-6 (1990 reprint, paperback) Edwards, I.E.S., Treasures of Tutankhamun. New York: Metropolitan Museum of Art, 1976, ISBN 0-345-27349-4 (paperback)/ISBN 0-670-72723-7 (hardcover) Egyptian Supreme Council of Antiquities, The Mummy of Tutankhamun: The CT Scan Report, as printed in Ancient Egypt, June/July 2005. Haag, Michael. The Rough Guide to Tutankhamun: The King: The Treasure: The Dynasty. London 2005. ISBN 1-84353-554-8. Hoving, Thomas. The Search for Tutankhamun: The Untold Story of Adventure and Intrigue Surrounding the Greatest Modern archeological find. New York: Simon & Schuster, ngày 15 tháng 10 năm 1978, ISBN 0-671-24305-5 (hardcover)/ISBN 0-8154-1186-3 (paperback) This book details a number of anecdotes about the discovery and excavation of the tomb. James, T. G. H. Tutankhamun. New York: Friedman/Fairfax, ngày 1 tháng 9 năm 2000, ISBN 1-58663-032-6 (hardcover) A large-format volume by the former Keeper of Egyptian Antiquities at the British Museum, filled with colour illustrations of the funerary furnishings of Tutankhamun, and related objects. Neubert, Otto. Tutankhamun and the Valley of the Kings. London: Granada Publishing Limited, 1972, ISBN 0-583-12141-1 (paperback) First hand account of the discovery of the Tomb. Reeves, C. Nicholas. The Complete Tutankhamun: The King, the Tomb, the Royal Treasure. London: Thames & Hudson, ngày 1 tháng 11 năm 1990, ISBN 0-500-05058-9 (hardcover)/ISBN 0-500-27810-5 (paperback) Fully covers the complete contents of his tomb. Rossi, Renzo. Tutankhamun. Cincinnati (Ohio) 2007 ISBN 978-0-7153-2763-0, a work all illustrated and coloured.
Cát Bà có thể là: Quần đảo Cát Bà: một quần đảo nằm trong vịnh Bắc Bộ Đảo Cát Bà: hòn đảo lớn nhất trong quần đảo Cát Bà Thị trấn Cát Bà: thị trấn nằm trên đảo Cát Bà và là huyện lỵ huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng Vườn quốc gia Cát Bà: vườn quốc gia nằm trên đảo Cát Bà Huyện cũ Cát Bà thuộc thành phố Hải Phòng, có địa giới hành chính bao gồm toàn bộ quần đảo Cát Bà; nay là một phần huyện Cát Hải.
Đội du kích Cứu quốc quân Ba Tơ, gọi tắt là Đội du kích Ba Tơ, ra đời sau cuộc khởi nghĩa Ba Tơ (ngày 11 tháng 3 năm 1945) do Tỉnh uỷ lâm thời Quảng Ngãi, gồm các những người cộng sản tại Căng an trí Ba Tơ, lãnh đạo. Đội du kích Ba Tơ là lực lượng vũ trang đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam ở Nam Trung Bộ. Ngày đầu thành lập, quân số chính thức của du kích Ba Tơ chỉ 17 người. Ngay ngày đầu ra quân, đội du kích đã thực hiện được chiến công chiếm Nha kiểm lý, triệt hạ đồn Ba Tơ, đưa cuộc khởi nghĩa đến thắng lợi, thành lập chính quyền cách mạng ở châu Ba Tơ. Dưới sự lãnh đạo của tướng Nguyễn Chánh và các cộng sự của ông, đội du kích Ba Tơ đã phát triển nhanh chóng về số lượng, trở thành lực lượng nòng cốt cho phong trào kháng Nhật cứu nước tại tỉnh Quảng Ngãi trong Cách mạng tháng Tám và sau này trở thành tiền thân của lựu lượng vũ trang Liên khu 5 - một trong các lực lượng chiến đấu tinh nhuệ nhất của Quân đội nhân dân Việt Nam trong cuộc Chiến tranh Đông Dương. Cách mạng tháng Tám và Kháng chiến chống Pháp Trong cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945, đội du kích Ba Tơ cùng với nhân dân Quảng Ngãi giành được những thắng lợi quân sự tại Gi Lăng, Xuân Phổ, Sa Huỳnh, Châu Ổ, Cổ Lũy, Mỏ Cày và Tú Sơn, qua giúp cho lực lượng Việt Minh nhanh chóng giành được chính quyền trên toàn tỉnh Quảng Ngãi. Sau khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập (2 tháng 9 năm 1945), các lực lượng vũ trang cách mạng được chuyển thành các đơn vị của Quân đội nhân dân Việt Nam thống nhất, Đội du kích Ba Tơ được đổi tên thành Giải phóng quân Lê Trung Đình (Quảng Ngãi) nhưng cái tên "du kích Ba Tơ" vẫn được sử dụng phổ biến để chỉ những chiến sĩ thuộc lực lượng này. Trong cuộc Chiến tranh Đông Dương với Pháp (1945-1954), các đơn vị tác chiến của Đội du kích Ba Tơ đã được điều động xuống các mặt trân miền nam để phối hợp cùng quân dân các địa phương trực tiếp đối mặt với quân đội Pháp. Đơn vị này đã chiến đấu tại các mặt trận quan trọng như ở cầu Thị Nghè, Bình Lợi (Bắc Sài Gòn); Phú Riềng, Đồng Xoài (miền Đông Nam Bộ); Đồng Tháp, Long An (đồng bằng sông Cửu Long); các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Đặc biệt một số đơn vị tinh nhuệ còn được điều động qua các mặt trận Pha Lang, Đồng Hến, Shêpôn ở Trung và Hạ Lào để hỗ trợ lực lượng du kích Pathet Lào chiến đấu chống lại quân đội Pháp. Đội du kích Ba Tơ với tư cách là một đơn vị thống nhất như tên gọi của nó chỉ được duy trì trong thời gian chưa đầy 6 tháng, nhưng đội du kích có vai trò quan trọng trong truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam. Tặng thưởng Năm 2010, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong thời kỳ chống Pháp cho Đội du kích Ba Tơ. Chú thích Đêm hạnh phúc nhất trong đời, Phan Quan Thái, Báo QĐND online Trích Hồi ký Một thời sôi động - Đại tướng Chu Huy Mân, Báo Nhân dân ; cũng xem Đêm hạnh phúc nhất trong đời Phan Quan Thái, Báo QĐND online Xem Vài nét về Đội du kích Ba tơ anh hùng
Heme hay haem (từ Hy Lạp αἷμα haima có nghĩa là máu) là một đồng nguyên bao gồm một Fe2 + (màu) ion chứa ở trung tâm của một hợp chất hữu cơ vòng hợp kim macrocycle gọi là porphyrin, được tạo thành từ bốn nhóm pyrrolic kết nối với nhau bằng các cây cầu methine. Không phải tất cả các porfyrin đều chứa sắt, nhưng một phần lớn các hợp chất chứa porfyrin có heme như là nhóm giả của chúng; Chúng được gọi là các hemoprotein. Các chế phẩm được biết đến nhiều nhất là các thành phần của hemoglobin, chất màu đỏ trong máu, nhưng cũng được tìm thấy trong một số các hemoprotein quan trọng khác về mặt sinh học như myoglobin, cytochrome, catalase, heme peroxidase, và endothelial nitric oxide synthase. Chức năng Hemoprotein có các chức năng sinh học khác nhau bao gồm vận chuyển khí lưỡng nguyên tử, xúc tác hóa học, phát hiện khí lưỡng nguyên tử, và chuyển electron. Chất sắt heme đóng vai trò là nguồn hoặc chỗ thoát các electron trong quá trình chuyển electron hay phương trình oxi hoá khử. Trong phản ứng peroxidase, phân tử porphyrin cũng đóng vai trò như một nguồn điện tử. Trong quá trình vận chuyển hoặc phát hiện khí lưỡng nguyên tử, khí sẽ liên kết với sắt heme. Trong quá trình phát hiện khí lưỡng nguyên tử, sự kết hợp của chất phối tử khí với sắt heme tạo ra sự thay đổi cấu trúc trong protein xung quanh. Nói chung, khí diatomic chỉ liên kết với heme giảm, như sắt Fe (II), trong khi hầu hết các chu trình peroxidases giữa Fe (III) và Fe (IV) và các hợp chất hemeprotein liên quan đến redox ty thể, oxy hóa giảm, chu kỳ giữa Fe (II) và Fe (III). Người ta đã suy đoán rằng chức năng tiến hóa ban đầu của các hemoprotein đã được chuyển đổi bằng electron trong các quá trình quang hợp dựa trên lưu huỳnh nguyên thủy trong các sinh vật giống cyanobacteria của tổ tiên trước khi xuất hiện oxy phân tử. Hemoprotein đạt được sự đa dạng chức năng vượt trội của chúng bằng cách sửa đổi môi trường của macroce heme trong ma trận protein. Ví dụ, khả năng của hemoglobin có hiệu quả cung cấp oxy cho các mô là do dư lượng amino acid cụ thể nằm gần phân tử heme. Hemoglobin có thể đảo ngược oxy trong oxy khi pH cao, và nồng độ cácbon dioxide thấp. Khi tình hình đảo ngược (độ pH thấp và nồng độ carbon dioxide cao), hemoglobin sẽ giải phóng oxy vào các mô. Hiện tượng này cho thấy mối liên hệ oxy của hemoglobin với tỷ lệ nghịch với cả axit và nồng độ của carbon dioxide, được gọi là hiệu ứng Bohr. Cơ chế phân tử đằng sau hiệu ứng này là tổ chức steric của chuỗi globin; Một lượng histidine, nằm cạnh nhóm heme, trở nên tích điện tích trong các điều kiện axit (do CO2 bị giải phóng trong các cơ đang hoạt động, v.v..) giải phóng oxy từ nhóm heme.
Kỹ nghệ đảo ngược (hay công nghệ đảo ngược, kỹ thuật đảo ngược) (tiếng Anh: reverse engineering) là quá trình tìm ra các nguyên lý kỹ thuật của một phần mềm ứng dụng hay thiết bị cơ khí qua việc phân tích cấu trúc, chức năng và hoạt động của nó. Trong quá trình này, người ta thường phải tháo dỡ đối tượng (ví dụ một thiết bị cơ khí, một thành phần điện tử, một phần mềm) thành từng phần và phân tích chi tiết hoạt động của nó, thường là với mục đích xây dựng một thiết bị hoặc phần mềm mới hoạt động giống hệt nhưng không sao chép bất cứ thứ gì từ đối tượng nguyên bản. Kỹ nghệ đảo ngược được áp dụng trong các mảng Kỹ thuật máy tính, Kỹ thuật cơ khí, Kỹ thuật điện tử, Công nghệ phần mềm, Kỹ thuật hóa học và Sinh học hệ thống. Tổng quát Có rất nhiều mục đích để thực hiện kỹ nghệ đảo ngược trong nhiều lĩnh vực. Nó được biết đến trong việc phân tích phần cứng phục vụ cho mục đích thưong mại và quân sự. Tuy vậy, công việc kỹ nghệ đảo ngược không ảnh hưởng tới việc sao chép hoặc thay đổi hiện vật theo một cách nào đó mà chỉ là công cụ phân tích để suy ra các tính năng có sẵn của sản phẩm thông qua rất ít hoặc không có kiến thức về quá trình sản xuất ban đầu của chúng. Trong phạm trù phần mềm, quy trình đảo ngược giúp tăng sự thông hiểu về mã nguồn của phần mềm đó trong việc bảo trì và cải tiến. Thông tin liên quan có thể được trích xuất nhằm đưa ra góc nhìn và quan điểm khác về mã nguồn. Điều đó có thể giúp ta phát hiện được lỗi phần mềm hoặc lỗ hổng phần mềm. Đối với những người phát triển phần mềm ác ý, họ sử dụng kỹ nghệ đảo ngược để tìm lỗ hổng của hệ điều hành để tạo ra virus máy tính. Ngoài ra, ngành phân tích mật mã cũng cần kỹ nghệ đảo ngược để tìm lỗ hổng trong thay thế cipher, thuật toán key đối xứng, hoặc mã hóa public-key.
Nguyễn Chánh, còn gọi là Chí Thuần (1914 - 24 tháng 9 năm 1957) là một vị tướng của Quân đội nhân dân Việt Nam, đã có đóng góp lớn với cách mạng Việt Nam và kháng chiến chống Pháp. Ông được Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhắc đến như một vị tướng tài năng. Tên ông được một ngôi trường (lúc trước mang tên Trường Trung học cơ sở Tịnh Hà) vinh dự đặt làm tên cho trường - Trường Trung học cơ sở Nguyễn Chánh (Tịnh Hà, Sơn Tịnh, Quảng Ngãi). Đôi khi người ta cũng nhầm lẫn ông với một vị tướng khác của Quân đội nhân dân Việt Nam là Trung tướng Nguyễn Chánh. Nguyễn Chánh sinh trưởng trong một gia đình trung nông tại đội 6, Thọ Lộc Tây, xã Tịnh Hà, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Sự nghiệp Ông bắt đầu các hoạt động cách mạng khi còn rất trẻ. Từ năm 1929 ông đã tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Năm 1931 ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ năm 1935-1939, ông là tỉnh ủy viên Quảng Ngãi, rồi sau đó là Bí thư Bí thư liên tỉnh Nghĩa-Bình-Phú. Ông bị chính quyền thực dân Pháp bắt giam và đưa đi đày nhiều lần. Đầu năm 1945, sau khi được trả tự do ông đã được bầu vào Tỉnh ủy Quảng Ngãi. Tháng 3 năm 1945, ông được Tỉnh ủy Quảng Ngãi phân công lãnh đạo đội du kích Ba Tơ non trẻ, mới được thành lập sau cuộc khởi nghĩa Ba Tơ trước đó không lâu. Tại thời điểm đó, ông đã có một chủ trương rất táo bạo là không để "đội du kích luẩn quẩn trên vùng rừng núi, mà đưa quân về đồng bằng, dựa vào phong trào quần chúng cách mạng để xây dựng và chiến đấu, đồng thời phát triển dân quân tự vệ và tham gia phát động phong trào cách mạng của quần chúng". Chính nhờ vào đường lối này mà lực lượng của Đội du kích Ba Tơ đã lớn mạnh một cách nhanh chóng trở thành lực lượng vũ trang nòng cốt của mặt trận Việt Minh tại tỉnh Quảng Ngãi. Ngày 14 tháng 8 năm 1945, ông đã lãnh đạo đội du kích Ba Tơ, lúc đó bao gồm hàng vạn dân quân tự vệ và quần chúng cách mạng, tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật. Qua đó, Quảng Ngãi đã trở thành một trong những địa phương giành được chính quyền sớm nhất trong Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong kháng chiến chống Pháp (1946-1954), ông đã giữ các cương vị chủ chốt của Đảng Cộng sản Việt Nam và lực lượng vũ trang cách mạng tại Khu 5 như Ủy viên trưởng quốc phòng Miền Nam Trung Bộ (1945-1950); Phó Bí thư Khu ủy V - kiêm Chính ủy khu V (1945-1948); Chính trị Ủy viên Khu V (25/7/1947- ); Phó Bí thư Liên khu ủy V, kiêm Chính ủy Liên khu V (1948-1951); Chính ủy Liên khu 5 (từ 11 tháng 3 năm 1950, thay Trần Lương); Bí thư Liên khu uỷ, Chính uỷ kiêm Tư lệnh Liên khu V (1951-1954). Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (1951), ông được bầu làm ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Năm 1954, ông đã chỉ huy chiến dịch Tây Nguyên giải phóng Kon Tum, đánh thắng trận An Khê, phá tan cuộc hành binh Atlante của tướng Henri Navarre. Chiến thắng này cùng với thắng lợi trong trận Điện Biên Phủ chính là những nguyên tố quyết định buộc Pháp phải đầu hàng trong Chiến tranh Đông Dương và rút khỏi Việt Nam. Sau năm 1954, Nguyễn Chánh được bổ nhiệm làm Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Chủ nhiệm Tổng cục Cán bộ thuộc Bộ Quốc phòng cho tới ngày mất (24 tháng 9 năm 1957). Đời tư Vợ ông là bà Phạm Thị Trinh, em gái Trung tướng Phạm Kiệt. Ông có sáu người con. Đánh giá Lẽ ra Nguyễn Chánh được phong quân hàm cấp tướng trong đợt đầu tiên vào năm 1958, nhưng đáng tiếc, ông đã đột ngột mất vào cuối năm 1957; ông được tôn xưng là “vị tướng không quân hàm”. Cuộc đời binh nghiệp của tướng Nguyễn Chánh gắn liền với mặt trận Liên khu 5, tức vùng Nam Trung Bộ, một chiến trường khó khăn về kinh tế, bị quân đội Pháp bao vây tứ bề, cách xa Trung ương, nhưng lại có vị trí chiến lược rất quan trọng. Dưới sự lãnh đạo quân sự của ông, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đã chiến thắng quân đội Lê dương thiện chiến của Pháp năm 1954, khống chế cả khu vực Tây Nguyên và toàn bộ các hành lang huyết mạch với miền Nam. Trong hồi ký của mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhắc đến tướng Nguyễn Chánh như sau: "Anh qua đời, quân đội mất đi một vị tướng tài năng, tôi mất đi một người bạn chí thiết" . Danh hiệu và huân chương Ông đã được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng: Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng nhất, Huân chương Quân công hạng nhì và nhiều huân, huy chương khác. Chú thích
Deinonychus (tiếng Latin có nghĩa là: 'khủng khiếp' và, sở hữu 'móng vuốt') là một chi khủng long theropoda. Chỉ có một loài được mô tả Deinonychus antirrhopus. Loài này có thể phát triển đến chiều dài , sống vào đầu kỷ Creta khoảng 115–108 triệu năm trước (thời kỳ giữa Aptia tới đầu Albia). Hóa thạch được phát hiện ở các bang Montana, Wyoming, và Oklahoma, tại lớp đá thuộc thành hệ Cloverly và thành hệ Antlers. Nhà cổ sinh vật học John Ostrom nghiên cứu Deinonychus vào cuối thập kỷ 1960 đã tạo nên một cuộc cách mạng về cách các nhà khoa học nghĩ về khủng long, dẫn đầu "thời kỷ phục hưng của khủng long" và châm ngòi cho các tranh cãi rằng khủng long máu nóng hay máu lạnh. Trước đó, quan niệm đại chúng về khủng long là các bò sát khổng lồ, cục mịch. Ostrom chú ý đến kích thước nhỏ, tư thế cơ thể nằm ngang, gai sống giống đà điểu, và đặc biệt là móng vuốt rất dài, làm nó trở thành một kẻ ăn thịt nhanh nhẹn, hoạt bát. Chú thích
Đồng hồ là một dụng cụ thường dùng để đo khoảng thời gian dưới một ngày; khác với lịch, là một dụng cụ đo thời gian một ngày trở lên. Có những loại đồng hồ tân tiến và cấu trúc phức tạp đạt kỹ thuật đo thời gian rất chính xác. Ngoài những loại đồng hồ lớn đặt ở vị trí cố định, người ta cũng đã tạo ra loại đồng hồ nhỏ dễ dàng mang theo bên mình (gọi là đồng hồ đeo tay), ngoài chức năng cho biết giờ giấc còn là món hàng mỹ thuật có tính thời trang. Đồng hồ (từ thế kỉ 14 trở đi) thường hiển thị ba đơn vị thời gian: giờ, phút, giây. Nguồn gốc lịch sử Con người ghi nhận và đặt tên cho các khoảng thời gian là buổi, ngày, tháng, năm... nhưng những khoảng thời gian dưới một ngày thì trước khi có đồng hồ, việc đo đạc thiếu chính xác. Dễ nhất là ước tính vị trí của mặt trời trên bầu trời mà cho là sáng, trưa, chiều, tối. Ngắn hơn một buổi thì thuở trước người ta đốt nhang hay đèn cầy, mà tính lâu hay mau. Một loại bình đựng dùng cát hay nước cho chảy ra cũng là cách đo thời gian từ thời cổ đại văn minh Ai Cập và Trung Hoa. Loại đồng hồ như chúng ta biết đến ngày nay hình thành vào khoảng thế kỷ 17, xuất phát từ châu Âu. Đến thế kỷ 18 thì đồng hồ treo tường đã phổ biến là món hàng gia dụng của mọi giai cấp ở Âu châu. Kế tiếp là đồng hồ đeo tay được nhiều người dùng làm món trang sức cá nhân. Đồng hồ mặt trời, đồng hồ cát, nhang và đèn cầy Đồng hồ là một trong những phát minh cổ nhất của con người, khi con người có yêu cầu xác định một tiến trình xảy ra trong một khoảng thời gian mau hay nhanh. Trong khi Mặt Trăng và các ngôi sao có thể được sử dụng để đo những khoảng thời gian dài thì những khoảng thời gian ngắn lại là một vấn đề khác. Một trong những giải pháp đầu tiên mà con người biết đến là đồng hồ mặt trời, nhưng chỉ có thể để đo những khoảng thời gian nhỏ vào ban ngày bằng cách sử dụng bóng của Mặt Trời chiếu lên qua những cột mốc. Về sau, đèn cầy và các loại nhang được sử dụng để đo thời gian. Khoảng thời gian để chúng cháy hết xấp xỉ bằng nhau và thường được dùng để ước tính thời gian. Ngoài ra còn có những loại đồng hồ cát. Ở đó, cát mịn được cho chảy qua một cái lỗ nhỏ ở một tốc độ nhất định,từ đó xác định một khoảng thời gian. Đồng hồ nước Sử gia Vitruvius ghi chép lại rằng ở Ai Cập cổ đại, người ta sử dụng những loại đồng hồ nước có tên là clepsydra. Herodotus cũng đã đề cập đến một dụng cụ đo thời gian khác của người Ai Cập hoạt động nhờ thủy ngân. Những tài liệu về đồng hồ nước cũng được tìm thấy ở nhiều nơi trên bán đảo Ả Rập, Trung Quốc và Hàn Quốc. Tiếng Việt dùng chữ "đồng hồ" cũng có nguồn gốc từ phép dùng bình nước chảy, vốn gọi là lậu hồ (漏壺) hay khắc lậu hồ (刻漏壺), có mặt ở Việt Nam từ thời nhà Đường. Hồ trong dụng cụ đó là cái chậu đựng nước có châm thủng một lỗ nhỏ để nước rỏ ra. Người ta xếp hai ba chậu từ cao xuống thấp. Chậu trên cao nhỏ nước xuống chậu giữa rồi lại nhỏ xuống chậu dưới. Người ta đặt sẵn một cái thẻ khắc nhiều nấc ở cái chậu cuối cùng. Nước ở chậu dưới dâng tới nấc nào thì là giờ đó. Chậu làm bằng đồng nên gọi người sau quen gọi dụng cụ lậu hồ là đồng hồ, tức là cái chậu bằng đồng. Những loại đồng hồ cơ học đầu tiên Tuy không còn bất kì chiếc đồng hồ nào sót lại từ thời Trung cổ nhưng những văn bản ghi chép của nhà thờ cũng một phần nào nói lên bí mật về lịch sử của đồng hồ. Tín ngưỡng vào thời Trung cổ bắt buộc phải sử dụng đồng hồ để đo đạc thời gian vì trong nhiều thế kỉ, buổi cầu nguyện hàng ngày và công việc đều được quy định chặt chẽ. Do đó người ta có thể đã sử dụng những công cụ như đồng hồ nước, đồng hồ mặt trời và nến kết hợp với những dụng cụ khác để báo hiệu như chuông nhờ những cơ cấu cơ học đơn giản trong đó sử dụng quả nặng. Do đó, những loại đồng hồ đầu tiên không sử dụng kim nhưng sử dụng âm thanh làm tín hiệu. Vì vậy, trong nhiều ngôn ngữ hiện đại, từ "đồng hồ" có nguồn gốc từ tiếng Latin cloca có nghĩa là "chuông". Cấu trúc cơ học mới cho đồng hồ Ở khoảng giữa những năm 1280 và 1320, những tư liệu của nhà thờ về những loại dụng cụ để đo thời gian tăng lên. Điều này có thể thể hiện một cấu trúc đồng hồ mới được thiết kế ở thời kì này: bao gồm một hệ thống những quả nặng kết hợp với những con quay. Năng lượng trong đồng hồ được điều khiển bởi những cấu trúc gọi là "hồi". Những dụng cụ cơ khí được áp dụng vào đồng hồ vì hai lý do chính: để đánh dấu, báo hiệu thời gian và về sau là đánh dấu sự chuyển động của các thiên thể. Nhu cầu đầu tiên là vì sự tiện lợi trong quản lý, còn nhu cầu sau dành cho những môn khoa học, thiên văn học, và mối quan hệ giữa chúng với tôn giáo. Những đồng hồ đầu tiên thường được đặt ở những tòa tháp chính, không cần thiết có kim nhưng chỉ cần có khả năng báo hiệu giờ. Những chiếc đồng hồ phức tạp khác cũng xuất hiện và có kim để chỉ giờ và cả một cơ cấu tự động. Vào năm 1283, một chiếc đồng hồ được lắp đặt ở Dunstable Priory, điều đáng chú ý ở đây là nó là chiếc đồng hồ được người ta cho là đồng hồ cơ khí không sử dụng sức nước đầu tiên. Vào năm 1292, một chiếc đồng hồ tương tự được cho là đã được lắp đạt ở nhà thờ Canterbury. Năm 1322, một cái khác được lắp đặt ở Norwich. Công trình như trên đòi hỏi công sức của hai người thợ lành nghề trong vòng 2 năm. Những bộ phận của đồng hồ cơ Hầu hết những loại đồng hồ từ thế kỉ 14 đến nay đều có những bộ phận chính như sau: Nguồn năng lượng, lúc trước là một con lắc(nguồn năng lượng không bao giờ cạn kiệt là con lắc, năng lượng của nó rất nhỏ), về sau là dây cót và bây giờ là pin. Hồi, một cơ cấu được thiết kế sao cho năng lượng thoát ra từ từ chứ không thoát ra tất cả cùng lúc, cơ cấu của hồi ban đầu là con lắc đơn (trong các đồng hồ quả lắc), sau đó là con lắc xoay nằm ở tâm một lò xo mảnh và nhẹ (trong các đồng hồ quả quýt và đồng hồ đeo tay), rồi là tinh thể thạch anh, và các cơ cấu tinh vi hơn... Hệ thống bánh răng, có nhiệm vụ điều khiển và truyền chuyển động từ nguồn đến bộ phận hiển thị. Hệ thống hiển thị, bao gồm kim, chuông,... Những cải tiến Những người thợ làm đồng hồ đã cải tiến phát minh của mình dưới nhiều hình thức khác nhau. Thiết kế những loại đồng hồ càng lúc càng nhỏ dần dần trở thành một thách thức lớn, bởi vì họ còn phải bảo đảm tính chính xác và bền bỉ của đồng hồ. Đồng hồ có thể là một tác phẩm nghệ thuật của một nghệ sĩ tài năng nhưng cũng có thể được sản xuất hàng loạt để sử dụng trong nhà. Đầu tiên, hệ thống dây cót được phát triển vào thế kỉ 15, và đó đã trở thành một thách thức mới cho những người thợ làm dồng hồ. Kim phút xuất hiện đầu tiên ở đồng hồ vào năm 1475, được nhắc đến trong Almanus Manuscript của nhà tu Paul. Trong suốt thế kỉ 15 và 16, nghệ thuật làm đồng hồ phát triển ở những thị trấn như Nürnberg, Augsburg, Blois. Một số đồng hồ chỉ có một kim và bề mặt đồng hồ được chia làm 4 khoảng để người đọc dễ dàng theo dõi đồng hồ. Một hệ thống hồi hoàn chỉnh được thiết kế bởi Jobst Burgi vào năm 1585. Những chiếc đồng hồ chính xác của ông đã giúp Johannes Kepler và Tycho Brahe quan sát thiên văn với độ chính xác cao hơn. Kim giây xuất hiện vào khoảng năm 1560 trong bộ sưu tập của Fremersdorf. Tuy nhiên nó hoạt động không được chính xác lắm, và kim giây chỉ giúp cho chúng ta nhận ra rằng đồng hồ vẫn còn hoạt động. Vào năm 1653, Galileo Galilei phát minh ra con lắc dẫn đến sự ra đời của đồng hồ quả lắc do Christiaan Huygens chế tạo. Ông đã xác định nếu con lắc có độ dài là 99,38 cm thì một chu kì của nó sẽ là đúng 1 giây. Vào năm 1670, William Clement phát minh ra hệ thống hồi dạng mỏ neo giúp nâng độ chính xác. Từ đó, kim phút và kim giây xuất hiện ở hầu hết những loại đồng hồ. Vào năm 1761, một người thợ làm đồng hồ tên John Harrison đã đạt được một giải thưởng lớn khi đã chế tạo thành công một đồng hồ chỉ chạy sai 5 giây trong vòng 10 ngày. William Clement vào năm 1670 thiết kế đưa đồng hồ quả lắc vào trong một hộp dài, từ đó nó trở thành một vật dụng trang trí trong rất nhiều gia đình thời đó. Vào 17 tháng 11 năm 1797, Eli Terry đăng ký bản quyền về đồng hồ đầu tiên. Ông là một trong số những người thiết lập công nghiệp đồng hồ ở Hoa Kỳ. Alenander Bain, một người thợ người Scotland, đã phát minh ra đồng hồ điện vào năm 1840, sử dụng một môtơ điện và một hệ thống nam châm điện. Năm 1841, ông được cấp bằng phát minh về con lắc điện từ. Ngày nay, thời gian trong đồng hồ được đo bằng nhiều cách khác nhau, từ những tinh thể thạch anh cho đến chu kì bán rã của một chất phóng xạ. Ngay cả những đồng hồ cơ học trước kia, chúng ta chỉ cần sử dụng pin chứ không cần phải lên dây cót như trước. Đồng hồ Âu châu du nhập Việt Nam Thời điểm người Việt biết đến đồng hồ Âu châu là khoảng đầu thế kỷ 17. Giáo sĩ Đắc Lộ ghi là ngày 2 Tháng 7 năm 1627, ông cùng giáo sĩ Pero Marquez vào bái yết chúa Thanh Đô Vương Trịnh Tráng và dâng nhà chúa một cỗ đồng hồ Âu châu, một loại đồng hồ treo có đánh chuông. Chúa Trịnh trầm trồ lấy làm lạ và xuống lệnh cho phép hai giáo sĩ lưu lại truyền đạo ở Đàng Ngoài như là đặc ân. Đây là thời điểm chính xác nhưng có lẽ đồng hồ Âu châu đã đến Đàng Trong từ trước đó nữa vì Dòng Tên đã mở cơ sở truyền đạo ở Quảng Nam từ năm 1615. Thương nhân và giáo sĩ Tây phương lúc bấy giờ hay dâng các quân vương Viễn Đông những tặng vật lạ mắt để gây cảm tình. Các loại đồng hồ Đồng hồ có thể được phân loại bằng cách nó hiển thị thời gian cũng như phương pháp nó sử dụng để đếm thời gian. Cách hiển thị thời gian Đồng hồ cơ Đồng hồ cơ thể hiện thời gian sử dụng các góc. Mặt đồng hồ có những con số từ 1 đến 12 và sử dụng kim để chỉ giờ và cả phút. Từ một số đến một con số kế cận là 5 phút (đối với kim phút), 1 giờ (đối với kim giờ) hay 5 giây (đối với kim giây). Một loại đồng hồ cơ khác được sử dụng là đồng hồ mặt trời. Nó hoạt động nhờ theo dọi thường xuyên ánh sáng Mặt Trời, và người ta theo dõi bằng cách nhìn bóng của chúng. Đồng hồ điện tử Đồng hồ điện tử sử dụng hệ thống số để thể hiện thời gian. Thông thường có 2 cách thể hiện: 24 giờ để đếm giờ từ 00-23 12 giờ với ký hiệu AM / PM (chủ yếu ở Mĩ) Đồng hồ âm thanh Để tiện lợi hơn, có một số đồng hồ sử dụng âm thanh để báo hiệu giờ. Âm thanh có thể được sử dụng như ngôn ngữ tự nhiên ("Bây giờ là mười sáu giờ ba mươi phút") hay một mã (số tiếng chuông báo hiệu số giờ). Đồng hồ chữ Loại đồng hồ này hiện thời gian ở dạng chữ. Nếu như ở đồng hồ điện tử chúng ta đọc được những con số 12:35 thì ở đồng hồ chữ, chúng ta có thể đọc được "Mười hai giờ ba mươi lăm phút". Một số loại đồng hồ khác sử dụng cơ chế gần đúng khiến người sử dụng cảm thấy dễ chịu hơn khi sử dụng đồng hồ (ví dụ "Khoảng mười hai giờ rưỡi"). Cách đếm thời gian Hầu hết đồng hồ đều có một cơ chế dao động điều hòa bên trong, cho phép đưa ra một tần số không đổi. Số lần dao động đó đều được đo lại và thể hiện lên mặt đồng hồ. Đồng hồ cơ học sử dụng con lắc như cơ chế dao động điều hòa, cùng với bánh răng để điều khiển mặt đồng hồ Đồng hồ điện sử dụng điện để chạy Đồng hồ tinh thể sử dụng những tinh thể thạch anh và một hệ thống chia tần số để đếm thời gian. Với những đồng hồ hiện đại thì tần số đó là 215 Hz = 32.768 kHz Đồng hồ phân tử là loại đồng hồ chính xác nhất mà con người chế tạo,sử dụng sóng siêu âm để kích thích các phân tử như caesi, rubidium, hydrogen. Đồng hồ phân tử sử dụng caesium được sử dụng để định nghĩa thời gian hiện nay Đồng hồ xung đếm tần số của dòng điện đưa vào (50 Hz hay 60 Hz) Đồng hồ radio nhận một mã từ một trạm phát sóng gần đó và điều chỉnh thời gian theo nó. Những loại đồng hồ này thường được dùng bởi thợ lặn Đồng hồ mặt trời theo dõi vị trí giữa mặt trời và Trái Đất Chỗ để Đồng hồ có thể được phân chia ra loại đồng hồ treo tường, loại đồng hồ đeo tay, loại nhét túi quần hay còn gọi là đồng hồ quả quýt. Ngoài ra, nó còn được gắn với các thiết bị khác nữa như máy tính, điện thoại cố định và di động... Các tính năng của đồng hồ Chronograph Chronograph có lẽ không được sử dụng thường xuyên và hữu dụng như chỉ báo lịch, nhưng những chiếc đồng hồ này lại có một vẻ mạnh mẽ cực kỳ cuốn hút. Để hiểu một cách đơn giản, Chronograph là đồng hồ có chức năng bấm giờ, giúp đo chính xác một khoảng thời gian ngắn. Hiển thị hai múi giờ Chức năng này nhằm phục vụ những doanh nhân thường xuyên phải di chuyển giữa các quốc gia, hoặc những người có người thân đang sinh sống ở một quốc gia khác múi giờ. Về cơ bản, chức năng này có thể chia thành một số kiểu như sau: Hai bộ máy (dual-movement): về lý thuyết, đây không phải là một tính năng đồng hồ. Chiếc đồng hồ đặc biệt này thay vì sở hữu một bộ máy thì sẽ sở hữu tới hai bộ máy, mỗi bộ máy sẽ hoạt động độc lập và hiển thị thời gian độc lập. Một bộ máy hiển thị hai múi giờ: Tính năng này có thể thể hiện trên một mặt số phụ, hoặc một kim trung tâm kết hợp với vành bezel 24 giờ. Giờ thế giới (World Time): Một chiếc đồng hồ với tính năng giờ thế giới sẽ có vành bezel xoay, trên đó có tên của nhiều thành phố nổi tiếng tương ứng với các múi giờ. Người dùng sẽ xoay vành bezel để có thể biết được thời gian ở những múi giờ khác. Lịch tuần trăng (Moonphase) Đây là một tính năng có từ lâu đời và mang một vẻ đẹp quyến rũ. Lịch tuần trăng sẽ hiển thị hình dáng của mặt trăng trên bầu trời (khuyết hay tròn), thường được sử dụng bởi thủy thủ để tính độ cao của thủy triều. Điểm chuông Bên cạnh khả năng hiển thị thời gian, những chiếc đồng hồ đặc biệt này còn có thể báo thời gian bằng những tiếng chuông. Bên cạnh đó, có những chiếc đồng hồ cơ học có chức năng hẹn giờ. Hiển thị mức năng lượng (Power reserve indicator) Chức năng này còn có một số cái tên khác như hiển thị thời lượng cót hay kim xăng. Đây là một tính năng khá hữu dụng của đồng hồ cơ, giúp bạn biết được độ căng của dây cót, tương ứng với đó là khoảng thời gian chiếc đồng hồ này có thể tiếp tục hoạt động. Mục đích Đồng hồ treo tường được dùng trong nhà và văn phòng, đồng hồ đeo tay được mang trên tay, những loại đồng hồ lớn được đặt ở những nơi công cộng (nhà thờ hay bến xe). Hầu hết những máy tính và điện thoại di động đều có góc dưới màn hình hiển thị giờ. Tuy nhiên, đồng hồ không phải lúc nào cũng được sử dụng để hiển thị thời gian. Nó còn có thể sử dụng để điều khiển một vật theo thời gian. Ví dụ như đồng hồ chuông có thể được dùng làm bom hẹn giờ. Tuy nhiên nó có thể được gọi chính xác hơn là một hệ thống đếm giờ. Máy tính sử dụng những tín hiệu đồng hồ để đồng bộ quá trình xử lý (mặc dầu có một số nghiên cứu về bộ xử lý không đồng bộ). Máy tính lưu trữ thời gian để báo hiệu hay chỉ là để hiển thị thời gian. Bên trong máy tính có một đồng hồ được nuôi bằng pin. Máy tính vẫn có thể hoạt động ngay cả khi đồng hồ trong máy bị chết nhưng khi khởi động máy lại, đồng hồ của máy tính sẽ được khởi động lại. Thời gian là một khái niệm cơ bản trong môn vật lý. Do đó, chế tạo dụng cụ đo thời gian chính xác có ý nghĩa quan trọng trong các thí nghiệm. Trong ngành thám hiểm Trong ngành thám hiểm, nhất là bằng thuyền, người ta cần phải có những công cụ chính xác để đo đạc kinh độ và vĩ độ. Vỹ độ có thể được đo bằng phương pháp thiên văn trong khi kinh độ cần phải có một đồng hồ thật chính xác. John Harrison là người đầu tiên chế tạo những loại đồng hồ đầu tiên có độ chính xác rất cao vào giữa thế kỉ 18. Ở Cape Town, người ta vẫn còn bắn súng hiệu để các tàu có thể điều chỉnh thời gian chính xác cho đồng hồ của mình. Đồng hồ hiện đại Phần lõi thạch anh của đồng hồ được phát minh vào thập kỉ 1920. Đây là một phát minh mang tính cách mạng, nó giảm giá thành đồng hồ và tăng mạnh tính chính xác của việc giữ giờ. Đồng hồ điện tử được phát minh năm 1956. Những loại đồng hồ Đồng hồ báo thức Đồng hồ cơ hiển thị điện tử Đồng hồ điện tử Đồng hồ thiên văn Đồng hồ nhị phân Đồng hồ điện Đồng hồ cát Đồng hồ con lắc Đồng hồ thạch anh Đồng hồ nguyên tử Đồng hồ thông minh Chú thích
Trong ngành mạng máy tính, xuyên dụng mạng (tiếng Anh: network transparency) là một tính chất của giao thức. Với tính chất này giao thức đó có khả năng gửi dữ liệu qua mạng theo một cách mà các ứng dụng sử dụng giao thức đó không nhận biết và không cần quan tâm. Thuật ngữ này thường được dùng trong ngữ cảnh của hệ thống X Window - hệ thống có khả năng truyền dữ liệu đồ họa qua mạng và tích hợp nó một cách liền mạch với các ứng dụng đang chạy và hiển thị tại chỗ. Cơ sở dữ liệu phân tán Trong một hệ cơ sở dữ liệu tập trung (centralized database system), nguồn tài nguyên duy nhất cần được che khỏi người dùng là dữ liệu (nghĩa là hệ thống lưu trữ - storage system). Trong một hệ quản trị cơ sở dữ liệu phân tán, mạng máy tính là tài nguyên thứ hai cần được quản lý theo cách đó. Người dùng không nên biết và không cần phải quan tâm đến chi tiết hoạt động của mạng. Khi đó, sẽ không có sự khác biệt giữa các ứng dụng chạy trên CSDL tập trung và các ứng dụng chạy trên CSDL phân tán. Kiểu xuyên dụng này được gọi là xuyên dụng mạng hay xuyên dụng phân tán. Từ góc nhìn của một hệ quản trị cơ sở dữ liệu, tính xuyên dụng mạng đòi hỏi rằng người dùng không phải chỉ rõ dữ liệu được đặt tại đâu. Một số người đã phân tách xuyên dụng phân tán thành xuyên dụng địa điểm (location transparency) và xuyên dụng tên (naming transparency) Tính xuyên dụng địa điểm được sử dụng để thực hiện các tác vụ không phụ thuộc cả địa điểm của dữ liệu lẫn hệ thống mà thao tác được thực hiện trên đó. Tính xuyên dụng tên có nghĩa rằng mỗi đối tượng trong CSDL được cung cấp một cái tên duy nhất.
Một chương trình nghe trộm gói tin (tiếng Anh: packet sniffer) (còn gọi là chương trình phân tích mạng, chương trình phân tích giao thức hay chương trình nghe trộm Ethernet) là một phần mềm máy tính có khả năng chặn và ghi lại giao thông dữ liệu qua một hoặc một phần của một mạng viễn thông số. Khi các dòng dữ liệu di chuyển qua lại một mạng, chương trình nghe trộm bắt lấy từng gói tin rồi giải mã và phân tích nội dung của nó theo RFC hoặc các đặc tả thích hợp khác. Tùy theo cấu trúc mạng (hub hay chuyển mạch), người ta có thể nghe trộm tất cả hoặc chỉ một phần của giao thông dữ liệu từ một máy trong mạng. Đối với các mục đích giám sát mạng (network monitoring), người ta có thể muốn theo dõi tất cả các gói tin trong một mạng LAN bằng cách sử dụng một thiết bị chuyển mạch với một cái gọi là cổng theo dõi (nó lặp lại tất cả các gói tin đi qua tất cả các cổng của thiết bị chuyển mạch). Các chương trình nghe trộm gói tin có thể được dùng để: Phân tích các vấn đề của mạng. Phát hiện các cố gắng xâm nhập mạng. Thu thập thông tin để tăng hiệu quả một cuộc xâm nhập mạng. Theo dõi sử dụng mạng. Thu thập và lập báo cáo thống kê mạng. Lọc các nội dung đáng ngờ ra khỏi giao thông mạng. Do thám những người sử dụng mạng khác và thu thập thông tin nhạy cảm chẳng hạn như mật khẩu (tùy theo các phương pháp mã hóa nội dụng có thể được sử dụng) Kỹ nghệ ngược các giao thức truyền thông được sử dụng trên mạng. Tìm lỗi các giao tiếp khách/chủ. Các ví dụ sử dụng Một phần mềm nghe trộm gói tin cho một mạng token ring có thể phát hiện rằng token đã bị mất hoặc hiện có quá nhiều token (kiểm định giao thức). Một phần mềm nghe trộm gói tin có thể phát hiện các thông điệp đang được gửi tới một card mạng, nếu card mạng đó không thông báo nhận được các thông điệp đó thì tình huống này sẽ địa phương hóa hỏng hóc cho card mạng đó. Một phần mềm nghe trộm gói tin có thể phát hiện một cổng đang gửi quá nhiều thông điệp, từ đó phát hiện một lỗi trong cài đặt. Một phần mềm nghe trộm gói tin có thể thu thập thống kê về lượng giao thông (số thông điệp) từ một tiến trình và phát hiện nhu cầu về nhiều băng thông hơn hay một phương pháp tốt hơn. Một phần mềm nghe trộm gói tin có thể được dùng để tách các thông điệp và tái hợp chúng thành một dạng hoàn chỉnh của giao thông dữ liệu từ một tiến trình, cho phép thực hiện kỹ nghệ đảo ngược đối với tiến trình đó.
Trong ngành viễn thông, thuật ngữ thời gian trễ trọn vòng hay thời gian trọn vòng (tiếng Anh: round-trip delay time hay round-trip time, viết tắt RTT) có các nghĩa sau đây: Thời gian trôi qua để truyền một tín hiệu qua một mạch đóng (closed circuit), hay thời gian trôi qua để truyền một thông điệp tới một nơi ở xa và quay trở lại. Trong các hệ thống radar sơ cấp hoặc thứ cấp, thời gian cần thiết để một tín hiệu (pulse) được truyền tới đích và tín hiệu phản hồi (echo) hoặc tín hiệu trả lời (transponder reply) quay lại tới thiết bị nhận. Thời gian trễ trọn vòng có ý nghĩa quan trọng trong các hệ thống đòi hỏi giao tiếp tương tác hai chiều, chẳng hạn điện thoại tiếng nói, hay các hệ thống dữ liệu sử dụng tin báo nhận (ACK/NAK data system) - nơi thời gian trọn vòng trực tiếp ảnh hưởng đến tốc độ truyền dữ liệu (throughput rate), chẳng hạn giao thức TCP. Thời gian trễ trọn vòng có thể trải từ vài micro giây đối với một hệ thống radio tầm ngắn (short line-of-sight), tới nhiều giây đồng hồ đối với một mạch đa liên kết với một hoặc nhiều liên kết vệ tinh. Nó bao gồm thời gian trễ tại nút mạng cũng như trên môi trường truyền dẫn. Đối với truyền thông TCP, thời gian trễ trọn vòng được tính từ quy trình bắt tay 3 bước bằng cách đo thời gian từ khi truyền đoạn (segment transmission) tới khi nhận được tin báo nhận (ACK).
Thành phố Fukuoka (tiếng Nhật: 福岡市 Fukuoka-shi; Hán-Việt: Phúc Cương Thị) là trung tâm hành chính của tỉnh Fukuoka, ở Kyushu, phía nam Nhật Bản. Fukuoka cùng với Kitakyushu (cũng thuộc tỉnh Fukuoka) còn là đô thị quốc gia của Nhật Bản ở Kyushu. Fukuoka nằm ở tọa độ 33°35' Bắc 130°24′ Đông. Để đi đến Fukuoka, có nhiều phương tiện như sân bay Fukuoka, đường sắt tốc độ cao tại nhà ga Hakata và bằng phà. Công ty Đường sắt Nhật Bản (JR) chi nhánh Kyushu còn điều hành loại tàu thủy có thiết bị nâng thân trên tuyến đường nối từ ga Hakata đến Busan (Hàn Quốc). Ngoài ra còn có đường tàu điện ngầm Nanakuma, mới được khánh thành tháng 2 năm 2005. Fukuoka là nơi sản sinh ra nhiều nghệ sĩ âm nhạc tài năng hơn bất kì thành phố nào khác của Nhật Bản. Những tên tuổi lớn là Ayumi Hamasaki, "nữ hoàng" của J-POP, Chage & Aska, Shiina Ringo, Spitz, MISIA, YUI... Từ thập niên 1970, giới nghệ sĩ ở đây rất tự hào vì họ là nguồn gốc của loại nhạc Rock địa phương, "Mentai Rock". Những năm gần đây, những buổi biểu diễn âm nhạc ngày càng được trẻ hóa do sự tình nguyện biểu diễn chung của những nhạc công địa phương cùng các nghệ sĩ nước ngoài đến đây. Những ban nhạc kết hợp kiểu này có thể kể Fever, Cut Flowers, Dr. Funkinstein, F8 & The Routes... Lịch sử Thời cổ đại và trung đại Theo những khai quật khảo cổ trong thành phố thì từ thời kì đồ đá cũ con người đã sinh sống ở vùng đất này. Vì nằm khá gần Bán đảo Triều Tiên nên có nhiều giao lưu với Triều Tiên và Trung Hoa. Sự xâm lược của quân Mông Cổ Cảng biển ở Vịnh Hakata là cửa ngõ giao thương quan trọng giữa Nhật Bản với Triều Tiên và Trung Quốc. Sau khi chinh phục Cao Ly, Đại Hãn Hốt Tất Liệt đã chuyển sự chú ý qua Nhật Bản. Hốt Tất Liệt đã nhiều lần cho sứ giả sang yêu cầu Triều đình Kamakura qui phục nhà Nguyên nhưng đã bị từ chối. Sau nhiều lần không có kết quả, năm 1274, Hốt Tất Liệt đưa quân xâm lược đảo Tsushima và tiến vào vịnh Hakata với một hạm đội gồm 900 tàu chiến, 30.000 lính chiến, bao gồm cả lính Hán, Cao ly. Do thiếu vũ khí và sự chống trả của những võ sĩ Gokenin nên quân Nguyên đã rút lui. Sau cuộc xâm lược năm 1274, những võ sĩ Nhật Bản đã xây dựng một hàng rào đá dài 20 km, cao khoảng 2–3 m ở biên giới bờ biển vịnh Hakata, bây giờ là thành phố Fukuoka. Năm 1281, Hốt Tất Liệt tấn công lần thứ hai vào quận Fukuoka, tăng cường quân lực lên 140.000 quân lính, 4.000 tàu chiến. Nhưng gặp một cơn bão mạnh và cuộc xâm lược lại thất bại. Cơn bão đó sau này được gọi là Kamikaze (Thần Phong- gió thần). Trận đánh năm 1274 gọi là Bunei no eki và năm 1281 gọi là Koan no eki được xem là hai trận đánh chống ngoại xâm nổi tiếng trong lịch sử Nhật Bản Fukuoka thế kỷ 20 1903: Cao đẳng Y tế Fukuoka, một trường cao đẳng trực thuộc Đại học Hoàng gia Kyoto, được thành lập 1910: Hệ thống xe điện đi vào hoạt động 1929: Xuất hiện những chuyến bay thương mại trên trục Fukuoka-Osaka-Tokyo 1945: Hoa Kỳ không kích tập trung vào các thành phố ở Nhật trên đảo Honshu, nhưng Fukuoka cũng là một mục tiêu. 1951: Sân bay Fukuoka thành lập 1953: Sở thú Fukuoka 1981: Tàu điện ngầm đi vào hoạt động 1988: Đội bóng chày chuyên nghiệp Osaka-Chim ưng Nankai, chuyển tới Fukuoka và đổi tên thành "Những chú chim ưng" Fukuoka Daiei 1995: ACROS (Asian Crossroads Over the Sea - Giao lộ châu Á trên biển), một trung tâm đa năng, đã được thành lập để nối chặt quan hệ giữa Nhật với các quốc gia châu Á khác. Ở đây có khu buôn bán Tenjin, và một công viên lớn, những khu vườn bậc thang, một thư viện và nhiều tiện nghi khác để khuyến khích mối quan hệ hòa bình với những quốc gia cùng châu lục Địa lý Ba phía Fukuoka là ba mặt núi, và mặt phía bắc là biển Genkai. Cách Tokyo 1.100 km, các Seoul 540 km, cách Thượng Hải 870 km, Fukuoka khá gần gũi với Hàn Quốc và Trung Quốc, có sự giao thoa về văn hóa và kinh tế lâu đời. Động đất Fukuoka là nơi từng chịu nhiều động đất. Một trận động đất gần đây vào lúc 10:53 sáng ngày 20 tháng 3 năm 2005 đã làm 1 người thiệt mạng và làm 400 người khác bị thương. Nguồn phát sinh ở biển Genkai. Dân cư Tháng 3 năm 2005, dân số thành phố là 1.391.146 người, mật độ dân số 4.084,40 người/km² (tổng diện tích 340,60 km²). Fukuoka là thành phố trẻ thứ hai ở Nhật, có tốc độ tăng dân số là 4,4% cũng làm Fukuoka là thành phố có tốc độ tăng dân số nhanh thứ hai ở Nhật (số liệu năm 2000). Thành phố Fukuoka được chia làm 7 khu: Higashi-ku Hakata-ku Chuo-ku Minami-ku Jonan-ku Sawara-ku Nishi-ku Lễ hội Yamakasa Yamakasa (山笠), kéo dài 2 tuần tháng 7 hàng năm, là lễ hội lâu đời nhất ở Fukuoka, đã có 700 năm lịch sử. Từng đoàn nam (không có phụ nữ, riêng bé gái thì có thể chấp nhận), đến từ nhiều quận khác nhau, cùng học mang trên vai những cái phao nặng vài ngàn pound. Tất cả những người tham gia đều mặc khố (ở đây gọi là shimekomi, còn ở những nơi khác của Nhật gọi là fundoshi). Hakata Dontaku Hakata Dontaku (博多どんたく), tổ chức vào ngày 3 và 4 tháng 5 ở thành phố Fukuoka. Đây là lễ hội trình diễn truyền thống, với những đoàn diễu hành rất lớn. Tên đầy đủ của lễ hội là Hakata Dontaku Minato Matsuri (博多どんたく港まつり). Lễ hội này đã bị gián đoạn 7 năm vào thời Minh trị, và vào năm thứ 12 Minh Trị, nó lại được tổ chức lại với cái tên Hakata Dontaku. Thể thao Là cứ điểm của đội bóng chày Fukuoka SoftBank Hawks. Sân nhà của đội là Fukuoka PayPay Dome. Fukuoka đã không thành công trong vòng tranh quyền tổ chức Thế vận hội mùa hè năm 2016. Một vài sự kiện thể thao hàng năm: Vô địch Judo toàn Nhật Bản. Giải Marathon Fukuoka mở rộng. Giáo dục Fukuoka là trung tâm giáo dục của vùng Kyushu với nhiều trường đại học lớn. Các trường đại học: Đại học Kyushu Viện Mỹ thuật Kyushu Đại học Fukuoka Đại học Seinan Gakuin Đại học Towa
Aleksandr Sergeyevich Pushkin (tiếng Nga: , tên phiên âm là A-lếch-xăng-đrơ Xéc-ghê-ê-vích Pu-skin, 1799 - 1837) là một thi sĩ, văn sĩ, kịch tác gia Nga. Được tôn vinh như Đại thi hào hoặc Mặt trời thi ca Nga, ông hầu như là biểu tượng của trào lưu lãng mạn Nga thế kỷ XIX bởi nhiều cống hiến trong sự đa dạng hóa ngôn ngữ văn chương. Lịch sử Ấu thơ Pushkin sinh ngày 6 tháng 6 năm 1799 (26 tháng 5 theo lịch cũ) tại thành phố Moscow trong một dòng dõi quý tộc Nga có nguồn gốc từ thế kỷ XII. Cha của Pushkin, ông Sergey Levov, là hậu duệ của dòng dõi gia đình Boyar cũ - tước hiệu cao cấp nhất trong tầng lớp quý tộc của Nga và Romania thời xưa. Ông vốn là một chủ đất giàu có, sở hữu nhiều đất đai và nô lệ. Tuy nhiên, ông Sergey Levov lại luôn cảm thấy xấu hổ vì điều này. Dường như người cha của Pushkin không phù hợp với công việc của một người quản lý. Ông rất ít quan tâm đến những khái niệm như gia đình, thu nhập và giá cả nông sản. Cả cuộc đời của Sergey Levova sống trong sự nhàn nhã với tài hoạt ngôn ở chốn đông người, ưa tìm hiểu ngôn ngữ Pháp và Nga, quan tâm tới văn học và có một thư viện gồm những cuốn sách Pháp ngữ có giá trị cao. Với con cái, ông Sergey Levov cũng rất ít thể hiện sự quan tâm đặc biệt nhưng tựu trung là một người cha tốt. Phu nhân Sergey Levov đồng thời là mẹ Pushkin, bà Nadezhda Osipovna, thuộc dòng dõi Abram Petrovich Gannibal, một người nô lệ da đen, nhờ thông minh xuất chúng và có những đóng góp lớn về quân sự, hàng hải cho nước Nga đã được Pyotr đại đế nhận làm dưỡng tử. Vì thế, Pushkin có vài đặc điểm giống đằng ngoại như tóc rất xoăn, làn da ngăm và đôi môi dày. Trái với bản tính vô ưu của chồng, bà Sergey Levova là một phụ nữ diễm kiều nhưng độc đoán. Ba người con, con gái lớn Olga, rồi đến Pushkin và cuối cùng là em út Leo thì chỉ có Leo là được nuông chiều hơn cả. Chị em Pushkin thường bị mẹ dạy bằng roi vọt và bà mẹ đặc biệt lạnh lùng với cậu con thứ. Có thời điểm quá tức giận, thậm chí bà còn không nói chuyện với Pushkin tới hàng tuần, thậm chí cả tháng. Trong thời gian cai sữa cho Aleksandr, bà mẹ đã bỏ mặc cậu bé đói khát mút tay và không âu yếm như các bà mẹ khác. Vì thuở nhỏ Pushkin rất mập mạp vụng về, mẹ đã bắt cậu phải vận động, chạy nhảy, chơi đùa với bạn bè cùng trang lứa. Trái lại, bà ngoại Maria Alekseyevna Gannibal lại là một phụ nữ rất nhân hậu. Thời thơ ấu, trong những tháng hè, Pushkin thường được về chơi với bà tại thôn Zakharov, gần Zvenigorod thuộc ngoại ô Moskva. Những tháng ngày êm đềm ở đây về sau này được phản ảnh trong những bài thơ đầu tiên của Puskin ("Thầy tu", 1813; "Bova", 1814; "Lời nhắn cho Yudin",1815; "Giấc mơ", 1816). Thiếu niên Sáu tuổi, Pushkin được tuyển vào trường Lyceum Hoàng gia, tại Tsarskoe Selo (Hoàng Thôn, nay là thị trấn Pushkin) gần kinh đô Sankt-Peterburg. Thời gian theo học tại đây ông đã chứng kiến cuộc chiến tranh giữa quân lực Nga hoàng với quân Pháp của Napoléon Bonaparte năm 1812. Ông có bài thơ nổi tiếng về chủ đề này - "Hồi ức ở Hoàng Thôn" (Воспоминание о Царском Селе, 1815). Bài thơ này đã được nhà phê bình văn học Nga nổi tiếng thời bấy giờ là Gavrila Romanovich Derzhavin (Гаври́л Рома́нович Держа́вин) coi là một tác phẩm kiệt xuất và đã tôn vinh Pushkin, khi đó mới 16 tuổi, như một nhà thơ lớn của nước Nga. Sau khi tốt nghiệp Lyceum, Pushkin tích cực tham gia vào các hoạt động văn học nghệ thuật của giới quý tộc trí thức trẻ tại Sankt-Peterburg, lúc bấy giờ đang nỗ lực đấu tranh cho một cuộc cách mạng xoá bỏ chế độ nông nô tại Nga. Thời gian này ông cho ra đời những bài thơ mang tính chính trị như "Gửi Chaadayev" (К Чаадаеву, 1818), "Gửi N. Ya. Plyuskova" (Н. Я. Плюсковой, 1818), "Làng quê" (Деревня, 1819)... Năm 1820 Pushkin cho in bản trường ca đầu tiên của mình - "Ruslan và Lyudmila" (Руслан и Людмила) và ngay lập tức tạo được tiếng vang lớn về phong cách cũng như chủ đề, mặc dù cũng phải chịu sự công kích dữ dội từ phía chính quyền. Trung niên Mùa xuân 1820, do những bài thơ bị quy phiến loạn, tổng đốc Sankt-Peterburg là bá tước Miloradovich yêu cầu đày Pushkin tới Siberia. Tuy nhiên nhờ sự giúp đỡ và ảnh hưởng của những người bạn (Nikolai Mikhailovich Karamzin, Pyotr Yakovlevich Chaadayev, Fyodor Nikolayevich Glinka), cuối cùng ông chỉ phải chịu mức án nhẹ hơn là bị trục xuất khỏi thành phố Sankt-Peterburg vô thời hạn. Sau khi rời Sankt-Peterburg, Pushkin đã đi xuống miền nam nước Nga, tới Kavkaz và Krym, Moldova, Kiev. Trong thời gian này ông vẫn tiếp tục cho ra đời những tác phẩm mới có ảnh hưởng rất sâu sắc tới văn chương Nga thế kỷ XXI, như "Người tù Kavkaz" (Кавказский пленник, 1822), "Gavriiliada" (Гавриилиада, 1821), "Anh em lũ cướp" (Братья разбойники, 1822), "Đài phun nước Bakhchisaraysky" (Бахчисарайский фонтан, 1824). Năm 1823, ở Kishinov, Pushkin bắt tay vào viết sử thi "Yevgeny Onegin" c(Евгений Онегин). Tháng 7 năm 1824, với đơn xin ân xá, Pushkin được chính quyền cho phép về ở trang viên Pskov tại vùng Mikhailovskoe dưới sự kiểm soát của gia đình. Tại Mikhailovskoe ông đã sáng tác những tác phẩm lịch sử như vở kịch "Boris Godunov" (Борис Годунов, 1825), "Với biển cả" (К морю, 1826), trường ca "Những người Tsygan" (Цыганы, 1827). Năm 1825, trong lần viếng trang viên láng giềng, Pushkin đã gặp cô Anna Kern, người tạo cho ông cảm hứng để sáng tác bài thơ nổi tiếng "Gửi K". Cuối năm 1825 đầu năm 1826 kết thúc chương năm và sáu của "Yevgeny Onegin", mà lúc đó Puskin coi là đoạn kết cho phần một của tác phẩm. Cuối năm 1825, thông qua một số viên chức có thiện chí, Pushkin đã được tiếp cận Nga hoàng Nikolai I để đệ đơn xin ân xá và được Nga hoàng chấp thuận. Tuy nhiên sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Tháng Chạp năm 1825 tại Sankt-Peterburg, chính quyền đã xem xét lại tất cả các ấn phẩm chống đối chính quyền của Pushkin trước đó và quyết định buộc ông bị quản thúc tại gia và có chính sách kiểm duyệt nghiêm khắc các tác phẩm của nhà thơ. Pushkin đã chuyển về Moskva sống trong thời gian này. Năm 1831 được đánh dấu bởi một sự kiện rất quan trọng trong sự nghiệp của Pushkin, ông đã có buổi gặp gỡ với Nikolai Vasilyevich Gogol, một nhà văn Nga nổi tiếng khác. Cả hai nhanh chóng trở thành bạn thân và luôn hỗ trợ nhau trong hoạt động nghệ thuật. Puskin đã có ảnh hưởng lớn tới những nhân vật trong các tác phẩm châm biếm phê phán hiện thực của Gogol. Cùng năm đó, Pushkin kết hôn với cô Natalia Goncharova, người đã đem lại cho ông cảm hứng sáng tác lớn lao. Ông hoàn tất chương "Bức thư của Onegin" trong tác phẩm "Evegeny Onegin" và cũng là chương kết của công trình vĩ đại mà nhà thơ đã mất 8 năm để thực hiện. Tháng 11 năm 1833, Pushkin trở lại Sankt-Peterburg, và cảm thấy cần phải có những thay đổi lớn trong cuộc sống, ông không muốn bị kìm kẹp trong bốn bức tường do chế độ quản thúc. Nhờ sự sủng ái của Nga hoàng Nikolai I, đầu năm 1834 chế độ quản thúc đối với Pushkin được nới lỏng, tuy nhiên các tác phẩm thơ ca của ông vẫn phải có sự đồng ý của Sa hoàng mới được phát hành. Do vậy hoàn cảnh kinh tế của nhà thơ không được thuận lợi, Pushkin phải đăng ký vào một chức vụ thư lại trong viện biên sử của Sa hoàng. Thời kỳ này, Puskin chuyển hướng sang viết văn xuôi. Ông sáng tác truyện vừa như "Con đầm pích" (Пиковая дама), tiểu thuyết như "Dubrovski" (Дубровский, 1832-33), "Con gà trống vàng", "Người da đen của Pyotr Đại đế" (không hoàn thành)... Cùng với những người bạn, Pushkin đã thành lập tờ tạp chí Người đương thời (Современник). Nhiều tác giả nổi tiếng của Nga thời bấy giờ như Aleksandr Ivanovich Turgenev, N.V. Gogol, V.A. Zhukovski, P.A. Vyazemski đã ủng hộ bằng cách gửi những tác phẩm mới nhất của mình tới cho tạp chí này. Tuy nhiên, độc giả Nga khi đó chưa quen với những bài viết mang tính phê phán hiện thực sâu sắc đã không hưởng ứng tạp chí Người đương thời. Số lượng độc giả quá ít khiến ban biên tập lâm vào tình thế rất khó khăn, họ không có đủ tiền để trang trải cho việc in ấn và thù lao cho cộng tác viên. Hai số cuối của tạp chí có đến quá nửa là sáng tác của Pushkin, phần lớn là để vô danh. Tiểu thuyết Người con gái viên đại úy (Капитанская дочка) chính là được in trên tạp chí này. Cuối đời Phu nhân của Pushkin - Natalia Goncharova là một phụ nữ đẹp và sang trọng vì vậy luôn có nhiều người ái mộ, trong số đó có cả Sa hoàng Nikolai I. Trong khi Pushkin, do nguồn gốc châu Phi, lại có một bề ngoài không mấy bắt mắt. Điều này làm cho Puskin rất khó chịu và không ít lần cảm thấy bực bội. Năm 1837, do những tin đồn thất thiệt về quan hệ ngoại tình của vợ mình với Georges d'Anthès, một sĩ quan kị binh trong quân đội Sa hoàng, Puskin đã thách đấu súng với viên sĩ quan trẻ tuổi này. Cuộc đọ súng đã kết thúc hết sức bi kịch khi cả hai đối thủ đều bị thương, nhưng Puskin đã bị trọng thương và qua đời hai ngày sau đó – ngày 10 tháng 2 năm 1837 (29 tháng một trong lịch Julian). Bộ phim Pushkin. Ngày quyết đấu công chiếu năm 2006 của đạo diễn Natalya Bondarchuk đã tập trung mô tả vụ đấu súng này. Di sản Giới phê bình coi nhiều tác phẩm của ông là kiệt tác, chẳng hạn như bài thơ Kỵ sĩ đồng và vở kịch Vị khách bằng đá - câu chuyện về sự sa ngã của Don Juan. Vở kịch ngắn bằng thơ Mozart và Salieri là nguồn truyền cảm hứng cho tác phẩm của Peter Shaffer cũng như cung cấp lời nhạc kịch (gần như nguyên văn) cho vở opera Mozart và Salieri của Rimsky-Korsakov. Pushkin cũng nổi tiếng với thể loại truyện ngắn. Cụ thể, Tập truyện về Ivan Petrovich Belkin quá cố, trong đó có truyện "Phát súng", được đón nhận nồng nhiệt. Bản thân Pushkin yêu thích tiểu thuyết thơ Eugene Onegin hơn. Tác phẩm ông dành cả đời để sáng tác này khởi xướng một truyền thống cho các tiểu thuyết vĩ đại Nga: đi theo một vài nhân vật trọng tâm nhưng đa dạng về tông và trọng điểm. Onegin là một tác phẩm phức tạp, đến mức tuy chỉ dày khoảng 100 trang mà dịch giả Vladimir Nabokov cần đến hai tập sách lớn để có thể truyền tải đầy đủ ý nghĩa sang tiếng Anh. Bởi khó dịch đến vậy, nên thơ của Pushkin vẫn ít quen thuộc với độc giả Anh ngữ. Ngay cả vậy, Pushkin vẫn có sức ảnh hưởng sâu đậm đến các nhà văn phương Tây như Henry James. Truyện Con đầm pích của Pushkin được đưa vào Black Water (Nước đen) - một tuyển tập đồ sộ các truyện ngắn của nhiều tác giả lớn, do Alberto Manguel biên soạn. Trứ tác Pushkin cung cấp một mảnh đất màu mỡ cho các nhà soạn nhạc Nga. Ruslan và Lyudmila của Glinka là một trong những vở opera quan trọng đầu tiên chịu nhận cảm hứng từ Pushkin, đó là một cột một trong truyền thống âm nhạc Nga. Các vở opera Eugene Onegin (1879) và Con đầm pích (La Dame de Pique, 1890) của Tchaikovsky nổi tiếng ở nước ngoài hơn cả chính tác phẩm nguyên tác của Pushkin. Vở Boris Godunov đồ sộ của Mussorgsky (hai phiên bản, 1868-9 và 1871-2) nằm trong số những vở opera nguyên bản nhất và đặc sắc nhất của Nga. Một số vở opera Nga khác dựng dựa trên các tác phẩm của Pushkin bao gồm Rusalka và Vị khách bằng đá của Dargomyzhsky; Mozart và Salieri, Câu chuyện về vua Saltan và Con gà trống vàng của Rimsky-Korsakov; Tù nhân Caucasus, Yến tiệc trong thời bệnh dịch và Con gái viên đại úy của César Cui; Mazeppa của Tchaikovsky; các vở opera một hồi Aleko (dựa trên tác phẩm Người Gypsy) và Hiệp sĩ hà tiện của Rachmaninoff; Mavra của Stravinsky; Dubrovsky của Nápravník. Không chỉ vậy, nhiều vở ba lê, cantata cũng như vô số bài hát, ra đời dựa theo thơ của Pushkin (bao gồm cả các bài thơ tiếng Pháp của Pushkin, thể hiện trong tập bài hát "Caprice étrange" của Isabelle Aboulker). Suppé, Leoncavallo và Malipiero cũng sáng tác opera dựa trên trước tác của Pushkin. The Desire of Glory, which has been dedicated to Elizaveta Vorontsova, was set to music by David Tukhmanov (Vitold Petrovsky – The Desire of Glory on YouTube), as well as Keep Me, Mine Talisman – by Alexander Barykin (Alexander Barykin – Keep Me, Mine Talisman on YouTube) and later by Tukhmanov. Pushkin được coi là đại diện chính chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Nga. Các nhà phê bình Nga từ lâu cho rằng tác phẩm của ông đại diện cho một con đường từ trường phái Tân cổ điển, đi qua trường phái Lãng mạn để tới trường phái Hiện thực. Một đánh giá khác cho rằng "ông có khả năng tán thành những điều trái ngược mà về nguồn gốc có vẻ như thuộc về phái Lãng mạn, nhưng cuối cùng lại phá vỡ tất cả những quan điểm cố định, tất cả những cách nhìn riêng, bao gồm cả Trường phái Lãng mạn" và rằng "ông vừa là người theo phái Lãng mạn, lại vừa không phải". Theo Vladimir Nabokov, thi pháp Pushkin tổng hòa tất cả yếu tố tiếng Nga thời bấy giờ, kết hợp với những điều ông học từ Derzhavin, Zhukovsky, Batyushkov, Karamzin và Krylov. Giọng thơ và siêu hình vẫn còn tồn tại ở dạng ngôn ngữ Slav Nhà thờ và thành ngữ. Từ mượn từ tiếng Pháp rất phong phú và tự nhiên Thành ngữ thông tục sử dụng trong cuộc sống thường ngay theo phong cách riêng của ông Cách nói bình dân được cách điệu hóa, bằng cách tạo nên một hỗn hợp của ba phong cách nổi tiếng (thấp, trung bình và cao) thân thuộc với từ cổ kinh điển giả hiệu và bổ sung thêm một nhúm thơ nhại cho trường phái lãng mạn Nga. Pushkin có công rất lớn trong sự phát triển của văn học Nga. Ông đã xây dựng mức độ sắc thái ngôn ngữ cao độ mà về sau trở thành đặc trưng của văn học Nga sau thời Pushkin. Ông cũng là người nâng tầm kho từ vựng tiếng Nga lên đáng kể. Bất cứ khi nào Pushkin nhận thấy lỗ hổng trong từ vựng tiếng Nga, ông liền áp dụng cách dịch sao phỏng. Kho từ vựng dồi dào cùng phong cách vô cùng nhạy cảm của Pushkin đã trở thành nền tảng của văn học Nga hiện đại. Thành tự của ông đặt một cột mốc mới cho sự phát triển của ngôn ngữ và văn hóa Nga. Ông chính là cha đẻ của văn học Nga thế kỷ 19, ghi dấu đỉnh cao sự nghiệp vào thế kỷ 18 và khởi xướng sự tiến triển của văn học thế kỷ 19. Ông giúp nước Nga làm quen với các thể loại văn học phương Tây cũng như với những nhà văn Tây Âu. Ông dùng cách biểu đạt tự nhiên và ảnh hưởng ngoại quốc để tạo nên nền thơ ca Nga hiện đại. Dù cuộc đời ngắn ngủi, ông vẫn kịp để lại tác phẩm mẫu cho gần như mọi thể loại tồn tại lúc bây giờ: thơ trữ tình, thơ tự sự, tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, nghị luận phê bình và còn cả thư cá nhân. Với tư cách là nhà phê bình và nhà báo, tác phẩm của ông đánh dấu sự ra đời của nền báo chí Nga, trong đó phải nhắc tới công sức sáng lập và dày công đóng góp cho một trong số những tạp chí văn học có sức ảnh hưởng mạnh mẽ nhất thế kỷ 19, tờ Sovremennik (Современник, Người đương thời). Pushkin truyền nguồn cảm hứng cho truyện dân gian và thể loại của nhiều tác giả khác như Leskov, Yesenin và Gorky. Cách ông sử dụng tiếng Nga hình thành nên phong cách nền tảng của nhiều tiểu thuyết gia lớn như Ivan Turgenev, Ivan Goncharov và Lev Tolstoy, cũng như của các thi sĩ trữ tình đời sau như Mikhail Lermontov. Tác phẩm của Pushkin được học trò và người kế tục sự nghiệp của ông, Nikolai Gogol, cùng nhà phê bình vĩ đại người Nga Vissarion Belinsky, chú tâm phân tích. Belinsky cũng hoàn thành nhiều công trình nghiên cứu sâu sắc nhất, toàn diện nhất, nhưng vẫn vô cùng xác đáng về các trước tác của Pushkin. Vào những năm 1830, Puskin soạn cuốn tiểu thuyết về ngoại tổ phụ Abram Petrovich Gannibal, có nhan đề là Người nô lệ da đen của Pyotr đại đế. Tuy nhiên, cuốn tiểu thuyết này đã không được hoàn thành vì ông bất ngờ tạ thế sau vụ đọ súng với Georges d'Anthes. Lyceum hoàng gia là trường dành cho các ấm sinh quý tộc Nga từ cấp tiểu học cho tới trung học; học sinh theo học Lyceum thường có độ tuổi từ 8 tới 17. Yevgeny Onegin là trứ tác dài nhất và nổi tiếng nhất của Puskin. Ông đã dày công viết trong gần tám năm (1823-1830). Sau Pyotr Tchaikovsky đã chuyển thể vở opera cùng tên. Thi phẩm Hình ảnh Ảnh hưởng Trong bài ai điếu Pushkin, Vladimir Odoyevsky đã gọi nhà thơ quá cố là "Mặt trời trong nền thơ ca của chúng ta", từ đó về sau, người ta thường ca ngợi Pushkin như là "Mặt trời của thi ca Nga". Trong bài viết "Vài lời về Pushkin" (thập niên 1830), nhà văn Nikolai Gogol viết rằng: "Pushkin là một hiện tượng phi thường, và có lẽ, là hiện thân duy nhất của tinh thần Nga: đó là con người Nga trong quá trình phát triển, có lẽ hai trăm năm mới xuất hiện một lần." Nhà triết học, nhà phê bình văn học danh tiếng Belinsky khẳng định Pushkin là "thi sĩ đầu tiên, nghệ sĩ đầu tiên của nước Nga". Tiểu thuyết gia vĩ đại Dostoevsky viết rằng: " Với Onegin, với những thi phẩm bất tử và xuất chúng, Pushkin đích thực là tác gia vĩ đại của đất nước, chưa từng xuất hiện trong lịch sử dân tộc." Lời ca ngợi ngắn gọn nhưng toàn diện nhất về Pushkin có lẽ đến từ nhà thơ Nga Apollon Grigoriev: "Với chúng ta, Pushkin là tất cả". Năm 1929, nhà văn Soviet, Leonid Grossman xuất bản tiểu thuyết Kí sự d'Archiac kể về cái chết của Pushkin từ góc nhìn của một nhà ngoại giao người Pháp, người chứng kiến cuộc đọ súng sinh tử của Pushkin. Cuốn sách miêu tả Pushkin như một người theo chủ nghĩa tự do và là nạn nhân của chế độ Nga hoàng. Ở Ba Lan, cuốn sách này được xuất bản dưới cái tên Cái chết của một nhà thơ. Năm 1937, thành phố Tsarskoye Selo (Hoàng Thôn) được đổi tên thành thành phố Pushkin để tôn vinh nhà thơ vĩ đại. Một số bảo tàng ở Nga trưng bày về Pushkin, bao gồm hai bảo tàng ở Pushkin, một ở Sankt-Peterburg và một tổ hợp bảo tàng lớn ở Mikhaylovskoye. Cái chết của Pushkin được kể lại trong bộ phim dã sử Pushkin. Ngày quyết đấu, do Natalya Bondarchuk đạo diễn và Sergey Bezrukov thủ vai Pushkin.'' Pushkin Trust được thành lập năm 1987 bởi nữ công tước Abercorn nhằm tưởng nhớ di sản sáng tạo và tinh thần của tổ tiên, cũng như kích thích sức sáng tạo và trí tưởng tượng của trẻ con Ireland thông qua việc cho chúng có cơ hội biểu đạt suy nghĩ, tình cảm và trải nghiệm. Một tiểu hành tinh được nhà thiên văn học Xô viết Nikolai Chernykh phát hiện năm 1977, được vinh dự mang tên ông - 2208 Pushkin. Một miệng hố trên Sao Thủy cũng được đặt theo tên Pushkin. MS Aleksandr Pushkin là con tàu Nga thứ hai thuộc lớp Ivan Franko (cũng thường được gọi là tàu lớp "thi sĩ" hoặc "văn sĩ"). Một nhà ga tàu điện ngầm ở Tashkent được đặt theo tên ông. Đồi Pushkin và hồ Pushkin nằm ở quận Ben Nevis, địa hạt Cochrane, Ontario, Canada. Từ năm 2010, Ngày Nga ngữ Liên hợp quốc, được Liên hợp quốc tổ chức hàng năm nhằm 06 tháng 6, đúng sinh nhật Pushkin. Một bức tượng Pushkin được dựng bên trong Vườn Mehan ở Manila, Philippines để kỷ niệm quan hệ Philippines-Nga vào năm 2010. Kim cương Alexander Pushkin, viên kim cương lớn thứ hai tìm thấy trên lãnh thổ Nga và Liên Xô trước đây, được đặt theo tên ông. Vào ngày 28 tháng 11 năm 2009, Đài tưởng niệm Pushkin được dựng ở Asmara, thủ đô Eritrea. Năm 2019, sân bay quốc tế Sheremetyevo của Moskva được đặt tên Pushkin, thuận theo kết quả của cuộc thi Những tên tuổi Nga vĩ đại.
Chiba (tiếng Nhật: 千葉市) là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Chiba, Nhật Bản. Nó nằm ở phía Đông Nam của Tokyo, bên vịnh Tokyo, có tọa độ 35°37′7" Bắc, 140°7′51″ Đông. Thành phố Chiba là một trong những cảng biển đầu tiên của vùng Kanto. Phần lớn thành phố đều là nhà dân, mặc dù cũng có nhiều nhà máy và kho hàng nằm dọc bờ biển. Khái quát Thành phố Chiba rộng 272,08 km², có dân số là 934.997 người (ước tính vào ngày 1/1/2007). Toàn thành phố chia làm sáu khu: Chuo Hanamigawa Inage Wakaba Mihama Midori Lịch sử Thành phố được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1921 trên cơ sở thị trấn Chiba được thành lập từ năm 1889. Thành phố được công nhận là thành phố quốc gia vào năm 1994. Những ghi chép đầu tiên về thành phố Chiba là vào thời kỳ Heian. Đó là ghi chép về cuộc di dân của Taira Tsuneshige (平常重 Bình Thường Trọng) đến Chiba. Ông xưng là "Chiba no Suke" (千葉介 Thiên Diệp Giới) và thành lập chính quyền quanh khu vực thành phố Chiba ngày nay. Con cháu của ông sau này đều lấy họ là Chiba và tiếp tục thống trị vùng này cho tới thời kì Muromachi. Thời kỳ Kamakura, Chiba Tsunetane (千葉常胤 Thiên Diệp Thường Dận) đã giúp đỡ Minamoto Yoritomo (源頼朝 Nguyên Lại Triều) thành lập Mạc phủ Kamakura. Điều này đã làm cho dòng họ Chiba có ảnh hưởng rất lớn trong Mạc phủ Kamakura. Ông đã cho xây dựng lâu đài Inohara trên đỉnh núi Inohara và chuyển tất cả gia đình, thân tín từ lâu đài Oohji, lên Inohara. Sức mạnh và ảnh hưởng của dòng tộc Chiba suy tàn do chiến tranh quanh vùng Kanto trong thời kì Muromachi. Vào thế kỷ 16, dòng tộc Hara, vốn là dòng dõi hầu cận của dòng tộc Chiba, đã thay thế Chiba nắm giữ quyền kiểm soát khu vực. Vào thời kì Sengoku, dòng tộc Hara bị lật đổ bởi Ashikaga Yoshiaki (足利義明 Túc Lợi Nghĩa Minh hoặc 足利義昭 Túc Lợi Nghĩa Chiêu). Sau đó, Ashikaga Yoshiaki cũng bị dòng họ Sakai (酒井 Tửu Tỉnh), hầu cận của dòng Satomi (里見 Lý Kiến), lật đổ. Cuối cùng, cả dòng Chiba và Sakai đều bị Toyotomi Hideyoshi tiêu diệt. Thời kì Edo, cả dòng họ Oyumi (生実 Sinh Thực), Morikawa (森川 Sâm Xuyên) và Sakura cùng quản lý khu vực này. Một phần của vùng được Mạc phủ Tokugawa quản lý trực tiếp. Dòng họ Oyumi điều hành lãnh thổ của họ rất vững chắc. Phía bên kia, dòng họ Sakura liên tiếp thay đổi người đứng đầu, như là Takeda Nobuyoshi (武田信吉 Vũ Điền Tín Cát), Matsudaira Tadateru (松平忠輝 Tùng Bình Trung Huy). Ogasawara Yoshitsugu (小笠原吉次 Tiểu Lạp Nguyên Cát Thứ), Doi Toshikatsu (土井利勝 Độ Tỉnh Lợi Thăng)... Cuối cùng, dòng tộc Hotta (堀田 Quật Điền') cũng lên quản lý lãnh địa của mình rất vững mạnh. Giao thông Hàng không Sân bay Narita và Sân bay Haneda là hai sân bay quốc tế gần nhất. Đường sắt Công ty Đường sắt Đơn Đô thị Chiba điều khiển tàu chạy trong nội thành. Các ga chính là ga Chiba, ga Keisei và ga Soga. Đường bộ Xa lộ Higashikanto đến Tokyo, Narita và Kashima. Xa lộ Tateyama đến Kisarazu. Các điểm tham quan Khu trung tâm thành phố Khu vực trung tâm thành phố nằm quanh các ga Chiba, Chiba Chuo, Honchiba, và khu vực Kaihin Makuhari. Từ ga Chiba tới ga Chiba Chuo có tuyến đường sắt trên cao, nhiều tòa văn phòng, ngân hàng, bách hóa. Trung tâm thành phố có công viên trung tâm là nơi thu hút nhiều người đến thư gian và cũng là nơi tổ chức nhiều sự kiện của thành phố. Ở khu Mihama bên cạnh vịnh Tokyo có nhiều công trình kiến trúc dành cho việc tổ chức các sự kiện, hội nghị quốc tế. Các điểm tham quan khác Phế tích thành Inohana Chùa Sen'oji (còn gọi Chiba-dera) Đền Chiba (Chiba-jinja) Tháp Cảng Chiba (Chiba Potto Tawa)
{{Infobox City Japan |Name= Sapporo |JapaneseName= 札幌市 |official_name = Thành phố Sapporo |settlement_type = Đô thị quốc gia |ImageSkyline= Sapporo montage.jpg |ImageSize= |ImageCaption= Trái sang phải, trên xuống dưới: Núi Moiwa về đêm, Tháp đồng hồ Sapporo, Bảo tàng bia Sapporo, Ga Sapporo, Đại học Hokkaido, Sapporo Dome, và Tháp truyền hình Sapporo nhìn từ công viên Odori |image_map = |image_map1 = Location of Sapporo city Hokkaido Japan.svg |image_map2 = Indicator map for Ishikari and Sorachi Subprefecture in Hokkaido Japan.svg |pushpin_map = #Japan#Asia#Earth |Region= Hokkaidō |Prefecture= Hokkaidō |District= |elevation= 29 m |Area_km2= 1121.12 |PopDate= 30 tháng 9 năm 2018 |Population= 1.955.115 |Density_km2= auto |Coords= |LatitudeDegrees= 43 |LatitudeMinutes= 4 |LatitudeSeconds= |LongtitudeDegrees= 141 |LongtitudeMinutes= 21 |LongtitudeSeconds= |Tree= Syringa vulgaris'x |Flower= Linh lan |Bird= Cu cu |image_flag = Flag of Sapporo, Hokkaido.svg |image_symbol = Emblem of Sapporo, Hokkaido.svg |SymbolDescription= Flag |Mayor = Akimoto Katsuhiro |CityHallPostalCode= 060-8611 |CityHallAddress= 2-1-1 Kita-ichijō-nishi, Chūō-ku, Sapporo-shi, Hokkaidō |CityHallPhone= 011-211-2111 |CityHallLink= }} là thành phố lớn ở miền bắc Nhật Bản. Sapporo có dân số đứng hạng thứ năm và diện tích đứng thứ ba ở Nhật Bản. Về mặt hành chính, đây là một thành phố quốc gia và là thủ phủ của tỉnh Hokkaidō ở miền Bắc Nhật Bản. Nhiều người biết đến Sapporo là nơi đăng cai Thế vận hội mùa đông 1972. Đây cũng là nơi tổ chức Lễ hội Tuyết yuki matsuri mỗi mùa đông, thường thu hút 2 triệu khách du lịch từ khắp nơi trên thế giới. Lịch sử Từ xưa, vùng đất Sapporo là nhà của cộng đồng dân tộc Ainu. Năm 1866, cuối thời kì Edo, bắt đầu xây dựng một con kênh đào từ Aomori qua vùng đất này, và những người đi khai hoang bắt đầu lập nên khu làng Sapporo. Cái tên này được lấy từ tiếng Ainu sat poro pet (), nghĩa là "con sông lớn chảy qua đồng bằng", ám chỉ sông Toyohira. Năm 1868 (năm được coi là ra đời Sapporo), chính phủ Minh Trị thiết lập quyền hành ở Hokkaido, thời điểm mà các cảng biển ở Hakodate nằm trong khu vực bất lợi cho phát triển và quân sự. Cuối cùng, một thủ phủ mới, nằm trên đồng bằng Ishikari, được thiết lập. Bản thân nó đã cung cấp một vùng đất bằng phẳng rộng lớn, khác thường, tương đối hiếm thấy với địa lý của Hokkaido. Từ 1870 đến 1871, Kiyotaka Kuroda, phó chủ tịch Hội đồng phát triển Hokkaido, đã mở rộng quan hệ với chính phủ Hoa Kỳ. Thành phố được xây dựng theo phong cách Mỹ, từ đường phố đến những khu nhà ở. Kết quả là, Horace Capron, Bộ trưởng Nông nghiệp dưới thời Tổng thống Ulysses S. Grant, trở thành oyatoi gaikokujin và được bổ nhiệm làm cố vấn đặc biệt của hội đồng. Việc xây dựng bắt đầu xung quanh công viên Odori. Thành phố xây dựng đường phố theo nguyên tắc bàn cờ và chia các khu nhà thành dãy theo kiểu phương Tây. Sự tiếp tục mở rộng của người Nhật vào Hokkaido tiếp tục, chủ yếu là do di cư từ đảo chính Honshu và nó phát triển tột độ. Edwin Dun đã đến Sapporo để thành lập trại chăn nuôi cừu và gia súc vào năm 1876. Ông cũng nuôi chăn nuôi lợn và làm bơ, phô mai, giăm bông và xúc xích. Ông đã kết hôn hai lần với phụ nữ Nhật Bản. Ông đã từng quay trở lại Mỹ vào năm 1883 nhưng trở về Nhật Bản với tư cách là một thư ký của chính phủ. William S. Clark, từng là chủ tịch của Đại học Nông nghiệp Massachusetts (nay là Đại học Massachusetts Amherst), đã trở thành phó chủ tịch kiêm người sáng lập Cao đẳng Nông nghiệp Sapporo (hiện tại là Đại học Hokkaido) chỉ trong tám tháng từ 1876 đến 1877. Ông dạy các môn học về khoa học và giảng về Kinh Thánh như một khóa học "đạo đức", giới thiệu các nguyên tắc Kitô giáo cho khóa đầu Đại học. Năm 1880, toàn bộ khu vực của Sapporo được đổi tên thành "Sapporo-ku" (Phường Sapporo), và một tuyến đường sắt giữa Sapporo và Temiya, Otaru đã được xây. Năm đó, Hōheikan, một khách sạn và nơi tiếp tân cho các cuộc viếng thăm các quan chức và chức sắc, đã được xây dựng liền kề với công viên Odori. Sau đó, nó đã được chuyển đến công viên Nakajima mà nó vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Hai năm sau, với việc bãi bỏ Kaitaku-shi, Hokkaidō được chia thành ba quận: Hakodate, Sapporo và Nemuro. Tên của khu đô thị ở Sapporo vẫn là Sapporo-ku, trong khi phần còn lại của khu vực ở Sapporo-ku được đổi thành Sapporo-gun. Tòa nhà văn phòng của Sapporo-ku cũng nằm trong khu đô thị. Các quận của Sapporo, Hakodate và Nemuro đã bị bãi bỏ vào năm 1886 và Tòa nhà văn phòng chính phủ Hokkaidō, một cấu trúc kiểu tân baroque của Mỹ với gạch đỏ, xây năm 1888. Đội hình cuối của Tondenhei, những người lính tiên phong ở Hokkaido, định cư tại Tonden ở Kita-ku, Sapporo. Sapporo-ku quản lý xung quanh Sapporo-gun cho đến năm 1899, khi hệ thống quận mới được công bố. Sau năm đó, Sapporo-ku đã không kiểm soát Sapporo-gun. "ku" (quận) được thi hành từ năm 1899 là một quyền tự trị lớn hơn một chút so với các thị trấn và nhỏ hơn các thành phố. Tại Hokkaido vào thời điểm đó, Hakodate-ku và Otaru-ku cũng tồn tại. Thế kỷ XX Năm 1907, Đại học Hoàng gia Tohoku được thành lập tại Sendai, quận Miyagi và Cao đẳng Nông nghiệp Sapporo được kiểm soát bởi Đại học. Một phần của các làng lân cận bao gồm làng Sapporo, làng Naebo, làng Kami Shiroishi và các quận nơi Tonden-hei đã định cư, đã được hợp nhất vào Sapporo-ku vào năm 1910. Xe điện Sapporo được khai trương vào năm 1918 và Đại học Hoàng gia Hokkaido được thành lập tại Sapporo-ku, là Đại học Hoàng gia thứ năm tại Nhật Bản. Một tuyến đường sắt khác hoạt động ở Sapporo, đường sắt Jōzankei, cuối cùng đã bị phá bỏ vào năm 1969. Năm 1922, hệ thống thành phố mới được chính quyền Tokyo công bố và Sapporo-ku chính thức được đổi thành Thành phố Sapporo. Hệ thống xe buýt thành phố Sapporo bắt đầu vận hành vào năm 1930. Năm 1937, Sapporo được chọn làm nơi diễn ra Thế vận hội Mùa đông 1940, nhưng do Chiến tranh Trung-Nhật, sự kiện này đã bị hủy bỏ vào năm sau. Thị trấn Maruyama được hợp nhất là một phần của Chūō-ku vào năm 1940 và Sân bay Okadama được xây dựng vào năm 1942. Lễ hội tuyết Sapporo đầu tiên được tổ chức vào năm 1950. Cùng năm đó, làng Shiroishi liền kề được sáp nhập vào thành phố Sapporo. Năm 1955, thị trấn Kotoni, toàn bộ làng Sapporo và làng Shinoro đã được sáp nhập vào thành phố Sapporo, trở thành một phần của Chūō-ku, Kita-ku, Higashi-ku, Nishi-ku và Teine-ku. Việc mở rộng của Sapporo tiếp tục với việc sáp nhập thị trấn Toyohira vào năm 1961 và thị trấn Teine vào năm 1967, mỗi nơi trở thành một phần của Toyohira-ku, Kiyota-ku và Teine-ku. Buổi lễ kỷ niệm 100 năm thành lập thành phố Sapporo và Hokkaido được tổ chức vào năm 1968. Hệ thống tàu điện ngầm thành phố Sapporo đã được khánh thành vào năm 1971, khiến cho nó là thành phố thứ tư ở Nhật Bản có hệ thống tàu điện ngầm. Từ ngày 3 đến ngày 13 tháng 2 năm 1972, Thế vận hội Mùa đông 1972 khai mạc - thế vận hội mùa đông đầu tiên được tổ chức ở châu Á. Vào ngày 1 tháng 4 cùng năm, Sapporo được chỉ định là một trong những thành phố cấp quốc gia bởi sắc lệnh của chính phủ, và bảy phường được thành lập. Buổi biểu diễn công khai cuối cùng của ca sĩ opera Maria Callas là ở Sapporo tại Hokkaido Koseinenkin Kaikan vào ngày 11 tháng 11 năm 1974. Tàu điện ngầm thành phố Sapporo được mở rộng khi tuyến Tōzai bắt đầu hoạt động vào năm 1976 và tuyến Tōhō được mở vào năm 1988. Năm 1989, Atsubetsu-ku và Teine-ku được tách ra khỏi Shiroishi-ku và Nishi-ku. Các sự kiện thường niên ở Sapporo bắt đầu, chẳng hạn như Liên hoan âm nhạc Thái Bình Dương năm 1990 và Lễ hội Yosakoi Sōran năm 1992. Một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp, Consadole Sapporo, được thành lập vào năm 1996. Năm 1997, Kiyota-ku đã được tách ra từ Toyohira-ku. Cùng năm đó, Ngân hàng Hokkaidō Takushoku, một ngân hàng có trụ sở tại Hokkaido có trụ sở tại Odori, đã phá sản. Thế kỷ XXI Năm 2001, việc xây dựng Sapporo Dome đã hoàn thành và năm 2002, sân đã tổ chức ba trận đấu cho FIFA World Cup; Đức đấu với Ả Rập Xê Út, Argentina và Anh và Ý với Ecuador, tất cả đều ở vòng đầu tiên. Fumio Ueda, được bầu làm thị trưởng thành phố Sapporo đầu tiên vào năm 2003. Sapporo trở thành nhà của một số đội như Đội bóng rổ chuyên nghiệp Nippon, Hokkaido Nippon-Ham Fighters, năm 2004 đã giành chiến thắng Series Nhật Bản 2006, và cuộc diễu hành chiến thắng đã được tổ chức tại Ekimae-Dōri (một con đường phía trước Ga Sapporo) vào tháng 2 năm 2007. Hội nghị thượng đỉnh G8 lần thứ 34 diễn ra tại Tōyako vào năm 2008, và một số người bao gồm các nhà hoạt động chống toàn cầu hóa đã diễu hành ở trung tâm thành phố để phản đối. Các sĩ quan cảnh sát đã được lệnh tập trung tại Sapporo từ khắp Nhật Bản và tin tức cho biết bốn người đã bị bắt trong các cuộc biểu tình. Tuyến Hokkaidō Shinkansen, hiện đang kết nối Honshu với Hakodate thông qua đường hầm Seikan, được lên kế hoạch liên kết với Sapporo vào năm 2030. Địa lý Sapporo là một thành phố nằm ở phía tây nam của đồng bằng Ishikari và quạt phù sa của sông Toyohira, một nhánh của sông Ishikari. Phần phía tây và phía nam của Sapporo có một số ngọn núi bao gồm núi Teine, núi Maruyama và núi Moiwa, cũng như nhiều con sông bao gồm sông Ishikari, sông Toyohira và sông Sōsei. Sapporo có nhiều công viên, bao gồm công viên Odori, nằm ở trung tâm thành phố và tổ chức một số sự kiện và lễ hội hàng năm. Công viên Moerenuma cũng là một trong những công viên lớn nhất ở Sapporo và được xây dựng theo kế hoạch của Isamu Noguchi, một nghệ sĩ và kiến ​​trúc sư cảnh quan người Mỹ gốc Nhật. Các thành phố lân cận là Ishikari, Ebetsu, Kitahiroshima, Eniwa, Chitose, Otaru, Date và các thị trấn liền kề là Tōbetsu, Kimobetsu, Kyōgoku. Khí hậu Sapporo có khí hậu lục địa ẩm (Köppen: Dfa''), với một phạm vi nhiệt độ rộng giữa mùa hè và mùa đông. Mùa hè thường ấm áp nhưng không quá ẩm ướt và mùa đông thì lạnh và rất nhiều tuyết, với lượng tuyết rơi trung bình là 5,96 mét một năm. Sapporo là một trong số ít các đô thị trên thế giới có tuyết rơi dày như vậy, cho phép nó tổ chức các sự kiện và lễ hội với tuyết lớn. Tuyết rơi dày là do vùng áp cao Siberia phát triển trên khối đất Á-Âu và vùng áp thấp Aleutia phát triển trên bắc Thái Bình Dương, dẫn đến một luồng không khí lạnh về phía đông nam qua Tsushima và phía tây Hokkaido. Lượng mưa trung bình hàng năm của thành phố là khoảng 1100 mm và nhiệt độ trung bình hàng năm là 8,5 °C. Khu hành chính Thành phố có 10 khu hành chính: Kinh tế Đại học thống trị ngành công nghiệp của Sapporo. Các ngành công nghiệp chính bao gồm công nghệ thông tin, bán lẻ và du lịch, vì Sapporo là điểm đến cho các sự kiện mùa đông và các hoạt động mùa hè do khí hậu tương đối mát mẻ. Thành phố cũng là trung tâm sản xuất của Hokkaido, sản xuất nhiều loại hàng hóa như thực phẩm và các sản phẩm liên quan, các sản phẩm kim loại, thép, máy móc, đồ uống, bột giấy và giấy. Hãng hàng không quốc tế Hokkaido (Air Do) có trụ sở tại Chūō-ku. Vào tháng 4 năm 2004, Air Nippon Network đặt trụ sở tại Higashi-ku. Đại Sapporo - Khu vực việc làm đô thị Sapporo (2,3 triệu người), có tổng GDP là 84,7 tỷ USD vào năm 2010. GDP bình quân đầu người (PPP) năm 2014 của Sapporo là 32.446 USD. Văn hóa và giải trí Âm nhạc 1934 - Liên hoan âm nhạc đương đại quốc tế được tổ chức bởi Akira Ifukube, Fumio Hayasaka, Atsushi Miura và Isamu Ifukube (30 tháng 9) 1936 - Nhà soạn nhạc người Nga Alexander Tcherepnin đến thăm Sapporo 1960 - Thành lập Dàn nhạc giao hưởng Sapporo 1962 - John Cage và David Tudor đến thăm Sapporo 1966 - Berlin Philharmoniker với Herbert von Karajan biểu diễn bài Bản giao hưởng số 2 của Johannes Brahms tại Sapporo Shimin Kaikan (Tháng 4) 1974 - Maria Callas biểu diễn công khai cuối cùng tại Hokkaido Koseinenkin Kaikan (11 tháng 11) 1986 - Công viên nghệ thuật Sapporo bao gồm Sân khấu ngoài trời và Hội trường nghệ thuật (27 tháng 7) 1990 - Liên hoan âm nhạc Thái Bình Dương (PMF) bắt đầu 1997 - Hội trường hòa nhạc Sapporo Kitara khai trương 2018 – Sapporo Community Plaza khai trương vào tháng Mười Nghệ thuật Bảo tàng nghệ thuật hiện đại Hokkaido đại diện cho các nghệ sĩ Hokkaido như Eien Iwahashi, Kinjiro Kida, Nissho Kanda, Tamako Kataoka Công viên nghệ thuật Sapporo chứa bảo tàng nghệ thuật với các tác phẩm sắp đặt ngoài trời & một khu vườn điêu khắc và ngôi nhà cổ của Takeo Arishima. Công viên Moerenuma bao gồm Kim tự tháp thủy tinh, được thiết kế bởi Isamu Noguchi Bảo tàng nghệ thuật Migishi Kotaro Bảo tàng điêu khắc tưởng niệm Hongo Shin Bảo tàng nghệ thuật Miyanomori Phòng trưng bày đường đi bộ ngầm Odori dài 500 m Thành viên Mạng lưới thành phố sáng tạo của UNESCO với tư cách là một Thành phố sáng tạo nghệ thuật truyền thông từ 2013 Liên hoan nghệ thuật quốc tế Sapporo (2014/2017) Văn học Bảo tàng văn học Hokkaido Junichi Watanabe Bảo tàng Văn học Điện ảnh The Idiot (phim năm 1951) bởi Akira Kurosawa Bảo tàng văn hóa thị giác phía Bắc Nhà hát Kino Liên hoan phim ngắn quốc tế Sapporo Địa điểm tham quan Tài sản văn hóa hữu hình tại Sapporo Văn phòng chính phủ cũ của Hokkaidō Tháp đồng hồ Sapporo Hokkaidō Shrine Bảo tàng lưu trữ thành phố Sapporo (Tòa án phúc thẩm cũ của Sapporo) Hội trường tưởng niệm Edwin Dun Đại học Hokkaido Bảo tàng bia Sapporo & Công ty Sapporo Tháp truyền hình Sapporo Trung tâm hội nghị Sapporo Bảo tàng Cá hồi Sapporo ở công viên Makomanai Thủy cung Sunpiazza Tháp Sapporo JR liền kề ga Sapporo. Sapporo Ramen Yokocho và Norubesa (một tòa nhà có vòng đu quay) nằm ở quận Susukino. Quận cũng có Khu mua sắm Tanuki Kōji, trung tâm mua sắm lâu đời nhất trong thành phố. Quận Jōzankei ở Minami-ku là có nhiều khách sạn và có phòng tắm hơi và suối nước nóng. Chùa Hòa bình, một trong nhiều di tích như vậy trên khắp thế giới được xây dựng theo nguyên mẫu Phật giáo Nipponzan Myohoji để thúc đẩy và truyền cảm hứng hòa bình cho thế giới. Phù đồ được xây dựng vào năm 1959, ở lưng chừng núi Moiwa để kỷ niệm hòa bình sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Nó chứa một số tro cốt của Đức Phật đã được Thủ tướng Nehru tặng cho Hoàng đế Nhật Bản vào năm 1954. Công viên/vườn Công viên Odori Công viên Nakajima Công viên Maruyama nằm gần Hokkaidō Shrine và Sở thú Maruyama. Công viên Moerenuma Công viên Nishioka là một địa điểm có thiên nhiên phong phú tập trung quanh một hồ nước và bao gồm vùng đầm lầy và rừng của sông Tsukisamu. Công viên này cũng là một trong những môi trường sống chính ở Hokkaidō cho nhiều loài chim hoang dã. Công viên tưởng niệm Asahiyama Vườn bách thảo Đại học Hokkaido và vườn hồng Chizaki Đồi quan sát Hitsujigaoka có một trang trại với cừu và thu hút du khách với một bức tượng của William S. Clark. Sự kiện/lễ hội Tháng 2: Lễ hội tuyết Sapporo - địa điểm chính là tại công viên Odori và các địa điểm khác bao gồm Susukino (được gọi là Lễ hội băng Susukino) và Sapporo Satoland. Nhiều bức tượng bằng tuyết được xây dựng bởi các thành viên của Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Nhật Bản. Tháng 5: Lễ hội Lilac ở Sapporo. Lilac đã được đưa đến Sapporo vào năm 1889 bởi một nhà giáo dục người Mỹ, Sarah Clara Smith. Tại lễ hội, mọi người thưởng thức hoa, rượu và nhạc sống. Tháng 6: Lễ hội Yosakoi Soran. Các địa điểm của lễ hội tập trung ở công viên Odori và con đường dẫn đến Susukino và có những địa điểm lễ hội khác. Trong lễ hội, nhiều đội nhảy nhảy theo nhạc được sáng tác dựa trên một bài hát truyền thống của Nhật Bản, "Sōran Bushi". Thành viên của các đội nhảy mặc trang phục đặc biệt và thi đấu trên những con đường hoặc sân khấu được xây dựng ở các địa điểm lễ hội. Trong năm 2006, 350 đội tham gia với khoảng 45.000 vũ công và hơn 1.860.000 người đã đến dự lễ hội. Tháng 9: Lễ hội mùa thu Sapporo Tháng 12: Chợ Giáng sinh trong công viên Odori, tương tự như chợ Giáng sinh của Đức. Từ tháng 11 đến tháng 1, nhiều công dân chiêm ngưỡng Sapporo White Illumination. Ẩm thực Thành phố được biết đến nhờ nhà máy bia Sapporo và bánh quy sô cô la trắng 'shiroi koibito' (白い恋人), cũng là nơi tạo ra mỳ miso ramen. Kouraku Ramen Meitengai ở quận Susukino, một con hẻm có nhiều nhà hàng miso ramen từ năm 1951. Sau khi bị phá hủy do kế hoạch cho Thế vận hội Mùa đông 1972, Ganso Sapporo Ramen Yokocho đã được thành lập ở tại nơi này. Nó thu hút nhiều khách du lịch trong suốt cả năm. Từ năm 1966, một công ty thực phẩm có tên Sanyo Foods đã bắt đầu bán ramen ăn liền dưới tên thương hiệu "Sapporo Ichiban". Haskap, một loại cây địa phương ăn được thuộc Chi Kim ngân, tương tự như việt quất xanh, là một đặc sản ở Sapporo. Các món ăn đặc sản khác của Sapporo là súp cà ri, một món súp cà ri được làm từ rau và thịt gà hoặc các loại thịt khác và jingisukan, một món thịt cừu nướng, tên do Thành Cát Tư Hãn đặt. Sapporo Sweets là một loại bánh kẹo sử dụng nhiều nguyên liệu từ Hokkaido và cuộc thi kẹo ngọt được tổ chức hàng năm. Sapporo cũng nổi tiếng với hải sản tươi sống bao gồm cá hồi, nhím biển và cua. Thể thao Sapporo Dome được xây dựng vào năm 2001 và hiện là sân nhà của đội bóng đá địa phương, Hokkaido Consadole Sapporo, đội bóng chày Hokkaido Nippon-Ham Fighters và đội bóng rổ Levanga Hokkaido. Sapporo được chọn là nơi tổ chức Thế vận hội mùa đông lần thứ 5 dự kiến ​​vào ngày 3 đến 12 tháng 2 năm 1940, nhưng Nhật Bản phải từ chức đăng cai thế vận hội và nhờ IOC kiếm nước khác đăng cai, sau khi chiến tranh Trung-Nhật nổ ra vào năm 1937. Thế vận hội sẽ trở lại thành phố vào năm 2020 khi nó tổ chức một phần Bóng đá tại Thế vận hội Mùa hè 2020 khi Tokyo đăng cai tổ chức kể từ lần đầu tiên đăng cai 1964. Năm 1972, Sapporo đã tổ chức Thế vận hội Mùa đông. Một số cấu trúc được xây dựng cho các sự kiện Olympic này vẫn được sử dụng cho đến ngày hôm nay, bao gồm các khu trượt tuyết tại Miyanomori và Okurayama. Đại diện chính quyền Sapporo cho biết thành phố đang xem xét đấu thầu Thế vận hội Mùa đông 2026 hoặc 2030. Thành phố dự đoán có thể tốn 456,5 tỷ Yên (4,3 tỷ USD) để tổ chức, theo báo cáo được công bố ngày 12 tháng 5 năm 2016. Alpen sẽ ở Niseko, khu nghỉ mát trong nhà có tuyết thứ hai thế giới. Các kế hoạch đã được trình bày cho Ủy ban Olympic Nhật Bản vào ngày 8 tháng 11 năm 2016. Vào năm 2002, Sapporo đã tổ chức ba trận đấu của FIFA World Cup tại Sapporo Dome. Vào năm 2006, Sapporo đã tổ chức một số trận của Giải vô địch bóng rổ thế giới 2006 và cũng cho Giải bóng chuyền nữ Vô địch thế giới FIVB 2006. Vào năm 2007, Sapporo đã tổ chức Giải vô địch trượt tuyết thế giới Nordic FIS tại Sapporo Dome. Nó đã là thành phố chủ nhà của hai lần sự kiện Đại hội Thể thao Mùa đông châu Á và đồng tổ chức Đại hội Thể thao Mùa đông châu Á 2017 với Obihiro. Trượt tuyết vẫn là một môn thể thao chính ở Sapporo với hầu hết tất cả trẻ em như là một phần của chương trình giảng dạy ở trường. Trường tiểu học Okurayama là trường có đồi trượt tuyết trên sân trường. Trong thành phố là những ngọn đồi trượt tuyết cho thương mại bao gồm Moiwayama, Bankeiyama, KobaWorld, Sapporo Teine và Fu's. Nhiều sân vận động được đặt tại Sapporo và một số trong số chúng đã được chỉ định là địa điểm của các cuộc thi đấu thể thao. Sapporo Community Dome, còn được biết đến với biệt danh "Tsu-Dome", đã tổ chức Chợ Vàng, một sự kiện chợ trời lớn thường được tổ chức hai lần một năm, cùng với một số sự kiện thể thao. Makomanai Ice Arena, trong công viên Makomanai, là một trong những địa điểm của Thế vận hội Mùa đông năm 1972. Nó được đổi tên thành Đấu trường băng Makomanai Sekisuiheim năm 2007, khi Sekisui Chemical Co., Ltd. quyền đặt tên và đổi tên đấu trường sau thương vụ bất động sản của họ. Các địa điểm thể thao lớn khác bao gồm Sân vận động Makomanai Open, Tsukisamu Dome, Sân vận động bóng chày Maruyama và Trung tâm thể thao Hokkaido. Toyota Big Air là một sự kiện trượt tuyết quốc tế lớn được tổ chức hàng năm tại Sapporo Dome, thu hút nhiều người trượt tuyết giỏi nhất thế giới. Đội thể thao chuyên nghiệp J. League – Hokkaido Consadole Sapporo (J1 năm 1998, 2001–2002, 2008, 2012, 2017–nay; J2 năm 1999–2000, 2003–2007, 2009–2011, 2013–2016). NPB – Hokkaido Nippon Ham Fighters thuộc giải Pacific League Dân số Năm 2005 thành phố có 1.947.097 người, mật độ dân số là 1668 người/km² (tổng diện tích 1.121,12 km²). Giao thông Sapporo có một tuyến xe điện, ba tuyến JR Hokkaido, ba tuyến tàu điện ngầm và xe buýt JR, Xe buýt Chuo và các tuyến xe buýt khác. Tàu điện ngầm Sapporo có bánh xe cao su. Vận chuyển nhanh Tàu điện ngầm thành phố Sapporo Xe điện Sapporo Cáp treo núi Moiwa Cáp treo Teineyama Đường sắt Các ga JR Hokkaido ở Sapporo Tuyến Hakodate: (Zenibako) – Hoshimi – Hoshioki – Inaho – Teine – Inazumi Kōen – Hassamu – Hassamu Chūō – Kotoni – Sōen – Sapporo – Naebo – Shiroishi – Atsubetsu – Shinrinkōen – (Ōasa) Tuyến Chitose: Heiwa – Shin Sapporo – Kami Nopporo – (Kita-Hiroshima) Tuyến Sasshō (Tuyến Gakuentoshi): Sōen – Hachiken – Shinkawa – Shinkotoni – Taihei – Yurigahara – Shinoro – Takuhoku – Ainosato Kyōikudai – Ainosato Kōen – (Ishikari Futomi) Hàng không Khu vực Sapporo được phục vụ bởi hai sân bay: Sân bay Okadama, nơi cung cấp các chuyến bay trong khu vực ở Hokkaido và Sân bay Chitose mới, một sân bay quốc tế lớn hơn nằm ở thành phố Chitose cách 48 km được kết nối bằng các chuyến tàu cao tốc thông thường mất khoảng 40 phút. Xe đưa đón sân bay, tour du lịch và dịch vụ xe buýt Một xe buýt đưa đón sân bay phục vụ đến tất cả các khách sạn ở Sapporo hoạt động hàng ngày trong năm. SkyExpress được thành lập vào năm 2005 và cũng cung cấp vận chuyển đến và đi từ các khu trượt tuyết khác nhau trên khắp Hokkaido, bao gồm cả Niseko. Đại học Đại học Quốc gia Đại học Hokkaido(北海道大学 - Hokkaidō daigaku, Hokkaido University) 北海道教育大学札幌校, Hokkaido University of Education, Sapporo Campus Đại học công lập 札幌医科大学, Sapporo Medical University 札幌市立大学, Sapporo City University Đại học tư Đại học Sapporo Đại học Hokusei Gakuen Trường Thương mại Hokkai Đại học Hokkai Gakuen Đại học Nữ Fuji Đại học quốc tế Sapporo Cao đẳng Tenshi Đại học Khoa học Y tế Hokkaido Đại học Sapporo Ōtani Đại học Hokkaido Tokai Cao đẳng Nữ Hokkaido Musashi Đại học Hokkaido Bunkyo Đại học Khoa học Hokkaido Cao đẳng Nữ Koen Gakuen Học viện Công nghệ Hokkaido Cao đẳng Dược Hokkaido Đại học Khoa học Y tế Sapporo Cao đẳng chăm sóc sức khỏe Nhật Bản Trường tiểu học và trung học Trường trung học Sapporo Odori cung cấp các lớp học tiếng Nhật cho sinh viên nước ngoài và trở về Nhật Bản và trường có chỉ tiêu tuyển sinh đặc biệt cho các nhóm này. Thành phố có hai trường quốc tế tư: Trường quốc tế Hokkaido Trường Tiểu học, Trung học Cơ sở và Trung học Phổ thông Hokkaido (Trường Bắc Triều Tiên) Thành phố kết nghĩa Sapporo có kết nghĩa với một số thành phố trên toàn thế giới. Portland, Oregon, Hoa Kỳ, từ 1959 Munich, Bayern, Đức, từ 1972 Thẩm Dương, Liêu Ninh, Trung Quốc, từ 1980 Novosibirsk, Nga, từ 1990 Daejeon, Hàn Quốc, từ 2010
Chính sách lưu thông tiền tệ hay chính sách tiền tệ (monetary policy) là quá trình quản lý cung tiền (money supply) của cơ quan quản lý tiền tệ (có thể là ngân hàng trung ương), thường là hướng tới một lãi suất mong muốn (targeting interest rate) để đạt được những mục đích ổn định và tăng trưởng kinh tế - như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế. Chính sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các nghiệp vụ thị trường mở; quy định mức dự trữ bắt buộc; hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối. nhiều vân đề khác Chính sách tiền tệ có thể chia làm: chính sách mở rộng và chính sách thu hẹp. Chính sách mở rộng là tăng cung tiền lên hơn mức bình thường. Các dạng chính sách tiền tệ Chính sách hướng tới mục tiêu lạm phát hiện đang sử dụng tại Australia, Brazil, Canada, Chile, Colombia, the Czech Republic, Hungary, New Zealand, Norway, Iceland, Philippines, Poland, Sweden, South Africa, Turkey, và Anh Quốc. Loại chính sách tổng cung tiền (monetary aggregates) được các nước tiên tiến sử dụng trong thập niên 1980s (gồm cả Hoa Kỳ). Hoa Kỳ hiện tại đang sử dụng chính sách tổng hợp (mixed policy). Hoa Kỳ bắt đầu sử dụng từ những năm 1980s và nó còn có tên là "Taylor rule," theo đó đảm bảo rằng lãi suất của FED thay đổi thích ứng với các shock lạm phát và sản lượng đầu ra. Các công cụ của chính sách tiền tệ Gồm có 6 công cụ sau: Công cụ tái cấp vốn: là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối với các Ngân hàng thương mại. Khi cấp 1 khoản tín dụng cho Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho Ngân hàng thương mại tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán của họ. Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc: là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện cần vô hiệu hóa trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán (cho vay) của các Ngân hàng thương mại. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các Ngân hàng thương mại, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các Ngân hàng thương mại dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ. Công cụ lãi suất tín dụng: đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách tiền tệ bởi vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản xuất. Nó là 1 công cụ rất lợi hại. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương chính sách và giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định. Công cụ hạn mức tín dụng: là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của Ngân hàng Trung ương để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương buộc các Ngân hàng thương mại phải chấp hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Tỷ giá hối đoái:Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiên quan hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiền tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ. Cơ quan hữu trách về tiền tệ sử dụng chính sách tiền tệ nhằm hai mục đích: ổn định kinh tế và can thiệp tỷ giá hối đoái. Về ổn định kinh tế vĩ mô, nguyên lý hoạt động chung của chính sách tiền tệ là cơ quan hữu trách về tiền tệ (ngân hàng trung ương hay cục tiền tệ) sẽ thay đổi lượng cung tiền tệ. Các công cụ để đạt được mục tiêu này gồm: thay đổi lãi suất chiết khẩu, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, và các nghiệp vụ thị trường mở. Thay đổi lãi suất chiết khấu Xem bài chính về lãi suất chiết khấu Cơ quan hữu trách về tiền tệ có thể thay đổi lãi suất mà mình cho các ngân hàng vay, thông qua đó điều chỉnh lượng tiền cơ sở. Khi lượng tiền cơ sở thay đổi, thì lượng cung tiền cũng thay đổi theo. vì MS= số nhân tiền* MB mà MB=C+R với C là lượng tiền mặt và R là lượng tiền dự trữ trong các ngân hàng, khi lãi suất chiết khấu tăng sẽ làm cho lượng tiền mà các ngân hàng thu được từ việc NHTW chiết khấu các chứng từ có giá giảm xuống, khả năng cho vay của các ngân hàng giảm sút làm tổng cung tiền giảm Thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc Xem bài chính về dự trữ bắt buộc Các cơ quan hữu trách về tiền tệ thường quy định các ngân hàng phải gửi một phần tài sản tại chỗ mình. Khi cần triển khai chính sách tiền tệ, cơ quan hữu trách về tiền tệ có thể thay đổi quy định về mức gửi tài sản đó. Nếu mức gửi tăng lên như khi thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, thì lượng tiền mà các ngân hàng còn nắm giữ sẽ giảm đi. Do đó, tiền cơ sở giảm đi,và lượng cung tiền trên thị trường cũng giảm đi. Công cụ mang tính chất hành chính này ngày nay ít được sử dụng ở các nền kinh tế thị trường phát triển. Tiến hành các nghiệp vụ thị trường mở Xem bài chính về nghiệp vụ thị trường mở Cơ quan hữu trách tiền tệ khi mua vào các loại công trái và giấy tờ có giá khác của nhà nước đã làm tăng lượng tiền cơ sở. Hoặc khi bán ra các giấy tờ có giá đó sẽ làm giảm lượng tiền cơ sở. Qua đó, cơ quan hữu trách tiền tệ có thể điều chỉnh được lượng cung tiền. Mục tiêu của chính sách tiền tệ Chính sách tiền tệ nhắm vào hai mục tiêu là lãi suất và lượng cung tiền. Thông thường, không thể thực hiện đồng thời hai mục tiêu này. Chỉ để điều tiết chu kỳ kinh tế ở tình trạng bình thường, thì mục tiêu lãi suất được lựa chọn. Còn khi kinh tế quá nóng hay kinh tế quá lạnh, chính sách tiền tệ sẽ nhằm vào mục tiêu trực tiếp hơn, đó là lượng cung tiền. Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động mua và bán trái phiếu chính phủ của FED. Khi FED mua trái phiếu của công chúng, số đô-la mà nó trả cho trái phiếu làm tăng tiền cơ sở và qua đó làm tăng cung tiền. Khi FED bán trái phiếu cho công chúng, số đô-la mà nó nhận làm giảm tiền cơ sở và bởi vậy làm giảm cung tiền. Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chính sách được Fed sử dụng thường xuyên nhất. Trên thực tế, FED thực hiện nghiệp vụ này trên thị trường chứng khoán New York hàng ngày Những tranh luận về hiệu quả của chính sách tiền tệ Bẫy thanh khoản Xem bài chính về Bẫy thanh khoản Khi ở tình trạng bẫy thanh khoản, chính sách tiền tệ sẽ không phát huy hiệu lực. Chế độ tỷ giá hối đoái cố định Ở một nền kinh tế áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định, chính sách tiền tệ sẽ bị hạn chế sử dụng, bởi bất cứ sự thay đổi nào của cung tiền cũng làm thay đổi tỷ giá hối đoái. Khi đầu tư không thay đổi theo lãi suất Chính sách tiền tệ làm thay đổi lãi suất, qua đó thay đổi đầu tư của xí nghiệp và điều chỉnh được tổng cầu. Đấy là giả thiết rằng đầu tư của xí nghiệp có phản ứng trước các thay đổi của lãi suất. Tuy nhiên, nếu đầu tư không phản ứng trước thay đổi của lãi suất, thì chính sách tiền tệ bị vô hiệu hóa. Sử dụng phép phân tích IS-LM cũng có thể thấy điều này. Khi đầu tư không phản ứng với lãi suất, đường IS trở nên thẳng đứng. Dù chính sách tiền tệ có làm dịch chuyển đường LM thế nào đi nữa, tổng cầu vẫn không thay đổi. Ngoài ba loại hạn chế nói trên, nếu cơ quan hữu trách tiền tệ không được hoạt động độc lập, thì chính phủ có thể can thiệp vào việc phát hành tiền tệ (chẳng hạn khi cần bù đắp thâm hụt ngân sách), khiến cho hiệu quả của chính sách tiền tệ trở nên hạn chế.
Tyrannosaurus (, có nghĩa là thằn lằn bạo chúa, được lấy từ tiếng Hy Lạp "tyrannos" (τύραννος) nghĩa là "bạo chúa", và "sauros" (σαῦρος) nghĩa là "thằn lằn"), còn được gọi là Khủng long bạo chúa trong văn hóa đại chúng, là một chi khủng long chân thú sống vào cuối kỷ Phấn Trắng. Chi này chỉ gồm một loài duy nhất là Tyrannosaurus rex (thường rút gọn là T. rex). Chúng sinh sống ở nơi ngày nay là phía Tây của Bắc Mĩ, khi đó là một lục địa đảo, tên là Laramidia. Hóa thạch của Tyrannosaurus được tìm thấy trong các thành hệ địa chất có niên đại tầng Maastricht, khoảng 67-65,5 triệu năm về trước, và là một trong những loài khủng long cuối cùng tồn tại trước sự kiện tuyệt chủng Phấn Trắng-Cổ Cận. Như các loài bạo long chuẩn (Tyrannosauridae) khác, Tyrannosaurus rex là loài ăn thịt đi bằng hai chân, với một hộp sọ lớn và giữ thăng bằng bởi cái đuôi dài, nặng. So với hai chi sau to khỏe, chi trước của Tyrannosaurus thì ngắn nhưng đặc biệt mạnh so với kích thước của nó và có hai ngón có móng vuốt. Mặc dù bị nhiều loài khác vượt qua về kích thước, Tyrannosaurus rex vẫn là bạo long chuẩn lớn nhất và một trong số những động vật ăn thịt lớn nhất mọi thời đại. Mẫu vật hoàn chỉnh nhất dài , cao tới hông (13 feet) và nặng . Là động vật ăn thịt lớn nhất trong khu vực của nó, Tyrannosaurus rex là một động vật ăn thịt đầu bảng, săn khủng long mỏ vịt, khủng long mặt sừng, giáp long và có thể cả khủng long chân thằn lằn, mặc dù vài nhà khoa học xem loài này ăn xác thối. Việc Tyrannosaurus ăn thịt hay xác thối là một trong những chủ đề gây tranh cãi nhiều nhất trong giới cổ sinh vật học; tuy nhiên, hiện nay hầu hết đều đồng ý rằng Tyrannosaurus rex là loài săn mồi cơ hội, thực hiện cả ăn thịt và xác thối. Nó một trong số động vật trên cạn có lực cắn lớn nhất. Hơn 50 mẫu vật Tyrannosaurus rex đã được phát hiện, một vài có bộ xương gần như hoàn chỉnh. Mô mềm và protein đã xuất hiện trong ít nhất một mẫu vật. Thói quen săn mồi, sinh lý học và tốc độ Tyrannosaurus rex là một vài chủ đề tranh cãi. Việc phân loại cũng bị tranh luận, vài nhà khoa học xemTarbosaurus bataar từ châu Á là một loài Tyrannosaurus và số khác vẫn cho rằng Tarbosaurus là một chi riêng. Nhiều chi Tyrannosauridae Bắc Mỹ cũng đồng nghĩa với Tyrannosaurus. Vì là loài khủng long ăn thịt cỡ rất lớn được phát hiện từ sớm, Tyrannosaurus là một trong những loài khủng long nổi tiếng nhất kể từ thế kỷ 20, và đã được giới thiệu trong nhiều bộ phim, quảng cáo và tem bưu chính, cũng như nhiều loại phương tiện truyền thông khác. Mô tả hóa thạch Kích thước Tyrannosaurus rex là một trong số các động vật ăn thịt trên cạn lớn nhất mọi thời đại. Mẫu vật hoàn chỉnh lớn nhất, trưng bày ở bảo tàng lịch sử tự nhiên Field với số hiệu FMNH PR2081 và có biệt danh "Sue", dài , và cao ngang hông. Ước tính khối lượng có rất nhiều biến đổi, từ nặng hơn , tới nhẹ hơ, ước tính gần đây nhất với khối lượng từ tới . Một nghiên cứu 2011 cho thấy cân nặng tối đa của Sue, Tyrannosaurus lớn nhất, là từ , mặc dù các tác giả lưu ý rằng các ước tính nặng hơn hay nhẹ hơn dựa trên các mô hình có sai số lớn và họ "cho rằng [chúng] quá ốm, quá mập, hay quá bất cân đối". Packard và đồng nghiệp (2009) cho rằng các ước tính bị thổi phồng; và cân nặng thực của Tyrannosaurus nhỏ hơn so với các ý kiến trước đây. Các ước tính khác kết luận rằng mẫu vật Tyrannosaurus lớn nhất nặng gần hay vượt qua 9 tấn. Do số lượng mẫu vật thu hồi tương đối ít và số lượng cá thể rất lớn có mặt tại bất kỳ thời điểm nào khi Tyrannosaurus còn sống, có thể dễ dàng tìm được mẫu vật lớn hơn những mẫu hiện đang được biết đến bao gồm "Sue", tuy vậy việc khám phá ra những cá thể lớn hơn này có thể sẽ là không thể do bản chất hóa thạch chưa hoàn chỉnh. Holtz cũng đã gợi ý rằng "rất hợp lý để nghi ngờ rằng có những cá thể to hơn 10, 15, hoặc thậm chí 20 phần trăm Sue trong bất kỳ quần thể T. rex nào." Bộ xương Cổ của Tyrannosaurus rex tạo thành một đường cong hình chữ S tự nhiên giống như của các loài khủng long chân thú khác, nhưng nó ngắn và rất cơ bắp để hỗ trợ cái đầu lớn. Chi trước chỉ có hai ngón vuốt, cùng với một xương đốt bàn tay nhỏ cho thấy sự thoái hóa của một ngón thứ ba. Trái lại, chi sau của loài này là một trong những phần dài nhất theo tỷ lệ kích thước với cơ thể của bất kỳ loài chân thú nào. Đuôi của chúng nặng và dài, đôi khi chứa hơn bốn mươi đốt sống, để cân bằng phần đầu và thân lớn. Để bù lại trọng lượng lớn của chúng, nhiều khúc xương được tiến hóa để trở thành rỗng ở bên trong, giảm trọng lượng của chúng mà không làm giảm đáng kể sức mạnh. Hộp sọ Tyrannosaurus rex lớn nhất được biết đến dài tới 1,52 mét. Một cửa sổ lớn trong hộp sọ giảm trọng lượng và cung cấp thêm diện tích để cơ bắp có thể bám vào, như trong tất cả các loài khủng long chân thú ăn thịt. Nhưng ở khía cạnh khác, hộp sọ của chúng lại khác biệt đáng kể so với các loài ăn thịt không thuộc liên họ Khủng long bạo chúa. Hộp sọ rất rộng ở phía sau nhưng có cái mõm hẹp, cho phép tầm nhìn hai mắt tốt một cách bất thường. Xương sọ lớn và mũi và một số xương khác được hợp nhất lại, ngăn cản sự di chuyển giữa chúng; một số lớn xương cũng có các lỗ không khí nhỏ (chứa các "tổ ong" gồm các lỗ hở không khí) mà có thể đã làm cho xương của chúng linh hoạt hơn cũng như giảm nhẹ trọng lượng. Những đặc điểm tăng cường này của hộp sọ là một phần xu hướng của các loài bạo long chuẩn hướng tới một cú đớp mạnh mẽ, mà dễ dàng vượt qua của tất cả các loài không thuộc tyrannosaurids. Đầu ngoài của hàm trên có hình chữ U (hầu hết các loài ăn thịt không thuộc tyrannosauroid có hàm trên hình chữ V), làm tăng số lượng mô và xương một con tyrannosaur có thể xé ra với một vết cắn, mặc dù nó cũng làm tăng độ căng ở mặt trước răng. Răng của Tyrannosaurus rex thể hiện sự khác biệt rõ rệt về hình dạng. Các răng của mảnh trước hàm của hàm trên được đóng gói chặt chẽ, hình chữ D theo mặt cắt ngang, có các chỗ lồi gia cố trên bề mặt phía sau, là răng cửa (lưỡi của chúng giống như lưỡi của cái đục) và cong ngược lại. Mặt cắt hình chữ D, chỗ chóp tăng cường và đường cong ngược làm giảm nguy cơ răng sẽ bị gãy khi Tyrannosaurus cắn hoặc kéo. Những chiếc răng còn lại rất chắc chắn, giống như "những quả chuối chết người" hơn là dao găm, có khoảng cách rộng hơn và cũng có các chóp củng cố. Những răng ở hàm trên lớn hơn tất cả nhưng cái ở phía sau hàm dưới. Lớn nhất được tìm thấy cho đến nay được ước tính dài 30,5 cm bao gồm cả gốc răng khi nó còn sống, làm cho nó trở thành chiếc răng lớn nhất của bất kỳ loài khủng long ăn thịt nào đã được tìm thấy. Tranh luận về da và lông vũ Trong khi không có bằng chứng trực tiếp về loài Tyrannosaurus rex có lông vũ, nhiều nhà khoa học hiện nay cho rằng T. rex có lông trên ít nhất một phần cơ thể, do sự hiện diện của chúng trong các loài có họ hầng gần. Mark Norell của Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Mỹ tóm tắt sự cân bằng của các nghiên cứu bằng cách nói rằng: "chúng tôi có nhiều bằng chứng cho thấy T. rex có lông, ít nhất là ở một giai đoạn nào đó trong cuộc đời, như loài Australopithecine giống như Lucy có tóc." Bằng chứng đầu tiên cho lông vũ trong các loài tyrannosauroids xuất phát từ các loài nhỏ như Dilong paradoxus, được khám phá tại Thành hệ Yixian của Trung Quốc, và được báo cáo vào năm 2004. Như với nhiều loài khủng long chân thú khủng long đuôi rỗng khác được phát hiện ở Yixian, bộ xương hóa thạch được bảo quản bằng một lớp cấu trúc sợi thường được công nhận là tiền thân của lông vũ. Bởi vì tất cả các hiện tượng da từ tyrannosauroids được biết đến vào thời điểm đó cho thấy bằng chứng về vảy, các nhà nghiên cứu tìm hiểu về Dilong cho rằng đặc điểm về lông có thể tỉ lệ nghịch so với kích thước cơ thể - con vị thành niên sẽ có lông vũ, sau đó rụng lông và chỉ có vảy khi nó lớn lên và không còn cần bộ lông để giữ ấm. Những khám phá tiếp theo cho thấy rằng ngay cả một số tyrannosauroids lớn cũng có lông vũ bao phủ phần lớn cơ thể của chúng, tạo nên ngờ vực về giả thuyết rằng chúng là một đặc điểm liên quan đến kích thước. Trong khi những vết hằn của da từ một mẫu Tyrannosaurus rex có biệt danh là "Wyrex" (BHI 6230) được phát hiện ở Montana vào năm 2002,, cũng như một số mẫu tyrannosauroid khổng lồ khác, cho thấy ít nhất một vài những vảy khảm nhỏ, Yutyrannus huali (dài tới 9 mét và nặng khoảng 1.400 kg, bao phủ bởi lông vũ trên nhiều phần khác nhau của cơ thể, cho thấy toàn bộ cơ thể của nó được bao phủ bằng lông vũ. Có thể là mức độ và tính chất của lông bao phủ trong các loài tyrannosauroid đã thay đổi theo thời gian để đáp ứng với kích thước cơ thể, khí hậu ấm hơn, hoặc các yếu tố khác. Trong năm 2017, dựa trên các vết hằn da được tìm thấy ở đuôi, háng và cổ của mẫu "Wyrex" (BHI 6230) và các tyrannosaurids họ hàng chặt chẽ khác, người ta cho rằng tyrannosaurid thân lớn có vảy và nếu có lông một phần, thì chúng sẽ bị hạn chế đến lưng. Một nghiên cứu trong năm 2016 đề xuất rằng khủng long chân thú lớn như Tyrannosaurus có răng bao phủ trong môi như thằn lằn còn sống thay vì răng trần như cá sấu. Điều này dựa trên sự hiện diện của men răng, mà theo nghiên cứu cần phải được giữ nước, một vấn đề không phải đối mặt với động vật thủy sinh như cá sấu hay động vật không răng như chim. Dựa trên so sánh kết cấu xương của Daspletosaurus với cá sấu còn tồn tại, một nghiên cứu chi tiết trong năm 2017 của Thomas D. Carr và các cộng sự cho thấy rằng tyrannosaur có vảy lớn, bằng phẳng trên mõm của chúng. Ở trung tâm của những vảy này là những mảng nhỏ làm từ keratin. Ở cá sấu, các mảng này bao gồm bó của các tế bào thần kinh cảm giác có thể phát hiện các kích thích cơ học, nhiệt và hóa học. Họ đã đề xuất rằng tyrannosaurs có lẽ cũng có các bó nơ-ron giác quan dưới vảy khuôn mặt của chúng và có thể sử dụng giác quan này để xác định các đối tượng, đo nhiệt độ tổ của chúng và nhẹ nhàng lấy trứng và con non. Mặc dù nghiên cứu đã không thảo luận rõ ràng bằng chứng cho hay chống lại môi mồm, nhiều hãng tin tức lớn coi đó là bằng chứng chống lại các loài tyrannosaur có đôi môi. So sánh với mô da mặt cá sấu và lời giải thích cá nhân của Thomas D. Carr về những phát hiện được trích dẫn là các bằng chứng hỗ trợ cho kết luận rằng tyrannosaur không có môi. Lịch sử khai quật Henry Fairfield Osborn, chủ tịch của Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ, đặt tên Tyrannosaurus rex vào năm 1905. Tên gọi của chi có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp τύραννος (tyrannos, có nghĩa là "bạo chúa") và σαῦρος (sauros, có nghĩa là "thằn lằn"). Osborn đã sử dụng từ tiếng La tinh rex, có nghĩa là "vua", cho tên cụ thể. Do đó, toàn bộ danh pháp hai phần dịch thành "vua thằn lằn bạo chúa" hoặc "khủng long bạo chúa", nhấn mạnh kích thước to lớn của con vật và nhận thức được sự thống trị của nó so với các loài khác trong thời gian đó. Những phát hiện sớm nhất Răng từ những gì bây giờ được cho là của Tyrannosaurus rex đã được tìm thấy vào năm 1874 bởi Arthur Lakes gần Golden, Colorado. Vào đầu những năm 1890, John Bell Hatcher đã thu thập các phần tử postcranial ở miền đông Wyoming. Các hóa thạch được cho là của một loài Ornithomimus lớn (O. grandis) nhưng bây giờ được coi là của Tyrannosaurus rex. Các mảnh xương sống được tìm thấy bởi Edward Drinker Cope ở miền tây Nam Dakota vào năm 1892 và được gán cho loài Manospondylus gigas nhưng giờ cũng đã được công nhận là thuộc về loài Tyrannosaurus rex. Barnum Brown, trợ lý giám sát của Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ, đã tìm thấy bộ xương đầu tiên của Tyrannosaurus rex ở miền đông Wyoming vào năm 1900. HF Osborn ban đầu đặt tên bộ xương này là Dynamosaurus imperiosus trong một bài báo năm 1905. Brown tìm thấy một bộ xương khác trong thành hệ Hell Creek ở Montana vào năm 1902. Osborn đã sử dụng nguyên mẫu này để mô tả Tyrannosaurus rex trong cùng một bài báo mà D. imperiosus được mô tả. Năm 1906, Osborn nhận ra hai danh pháp này đồng nghĩa, và đóng vai trò là người thay đổi ý kiến đầu tiên bằng cách chọn Tyrannosaurus là tên hợp lệ.[50] Mẫu gốc của Dynamosaurus nằm trong các bộ sưu tập của Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Luân Đôn. Manospondylus Mẫu vật hóa thạch đầu tiên được đặt tên có nhiều đặc điểm giống với Tyrannosaurus rex bao gồm hai đốt sống một phần (một trong số đó đã bị mất) do Edward Drinker tìm thấy vào năm 1892. Cope tin rằng chúng thuộc về một loài khủng long "agathaumid" (Ceratopsidae), và được đặt tên là Manospondylus gigas, có nghĩa là "đốt sống xốp khổng lồ" do nhiều lỗ hở cho các mạch máu ông tìm thấy trong xương. M. gigas sau đó được xác định là phần của một loài khủng long chân thú chứ không phải là một ceratopsid, và HF Osborn công nhận sự giống nhau giữa M. gigas và Tyrannosaurus rex vào đầu năm 1917. Do tính vỡ vụn của xương sống Manospondylus, Osborn đã không coi hai loài này giống nhau. Vào tháng 6 năm 2000, Viện Black Hills đã xác định vị trí địa phương của M. gigas ở Nam Dakota và khai quật nhiều xương tyrannosaur ở đó. Chúng được đánh giá là đại diện cho phần còn lại của cùng một cá thể, và giống hệt với những cá thể của Tyrannosaurus rex. Theo các quy tắc của Luật quốc tế về danh mục động vật (ICZN), hệ thống chi phối việc đặt tên khoa học của các loài động vật, Manospondylus gigas do đó nên được ưu tiên hơn Tyrannosaurus rex, vì nó được đặt tên trước tiên. Ấn bản thứ tư của ICZN, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2000, tuyên bố rằng "việc sử dụng phổ biến phải được duy trì" khi "danh pháp đồng âm hoặc danh pháp đồng nghĩa cao cấp chưa được sử dụng dưới dạng tên hợp lệ sau năm 1899" và "danh pháp đồng nghĩa cơ sở hoặc đồng âm đã được sử dụng cho một đơn vị phân loại cụ thể, như tên hợp lệ được giả định của nó, trong ít nhất 25 tác phẩm, được xuất bản bởi ít nhất là 10 tác giả trong 50 năm trước đó..." Tyrannosaurus rex có thể đủ điều kiện để làm tên hợp lệ dựa theo các điều kiện trên và rất có thể sẽ được coi là một tên được bảo vệ dưới ICZN nếu nó đã từng được công bố chính thức, mà nó chưa được. Manospondylus gigas sau đó có thể được coi là một tên bị lãng quên. Mẫu vật nổi bật Sue Hendrickson, nhà cổ sinh vật học nghiệp dư, đã khám phá ra bộ xương hóa thạch Tyrannosaurus hoàn chỉnh nhất (khoảng 85%) và bộ xương hóa thạch Tyrannosaurus lớn nhất được biết đến tại thành hệ Hell Creek, Nam Dakota, vào ngày 12 tháng 8 năm 1990. Con Tyrannosaurus, có biệt danh Sue lấy theo tên của cô, là đối tượng của một cuộc chiến pháp lý về quyền sở hữu. Vào năm 1997, vụ này đã được giải quyết với kết quả nghiêng về phía Maurice Williams, chủ khu đất ban đầu. Bộ sưu tập hóa thạch đã được bảo tàng Field mua lại với giá 7,6 triệu USD, khiến nó trở thành bộ xương khủng long đắt nhất cho tới nay. Từ năm 1998 đến năm 1999, các nhà chuẩn bị tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Field đã dành hơn 25.000 giờ lao động để lấy từng mảnh đá ra khỏi mỗi xương. Các xương sau đó được vận chuyển đến New Jersey, nơi quy trình gắn kết được thực hiện. Khung lắp ráp hoàn thành sau đó được tháo rời, và cùng với xương, vận chuyển trở lại Chicago cho công đoạn cuối cùng. Bộ xương được trưng bày cho công chúng vào ngày 17 tháng 5 năm 2000 tại đại sảnh (Hội trường Stanley) tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Field. Một nghiên cứu về xương hóa thạch của mẫu vật này cho thấy Sue đạt kích thước đầy đủ ở tuổi 19 và chết ở tuổi 28, lâu nhất trong bất kỳ các loài tyrannosaur được biết là từng sống. Các suy đoán ban đầu cho rằng Sue có thể đã chết vì một vết cắn ở phía sau đầu không được xác nhận. Mặc dù nghiên cứu tiếp theo về bệnh lý trong bộ xương, không tìm thấy vết cắn nào. Thiệt hại ở mặt sau của hộp sọ có thể là do va đập sau khi khai quật. Suy đoán gần đây cho thấy rằng Sue có thể đã chết vì đói sau khi bị nhiễm ký sinh trùng do ăn thịt có bệnh; kết quả là sẽ gây ra viêm trong cổ họng, cuối cùng khiến Sue bị chết đói vì nó không còn có thể nuốt thức ăn nữa. Giả thuyết này được chứng minh bằng các lỗ trơn trong hộp sọ của nó tương tự như trong các loài chim hiện đại nhiễm cùng một ký sinh trùng. Một Tyrannosaurus khác, biệt danh Stan, để vinh danh nhà cổ sinh vật học nghiệp dư Stan Sacrison, đã được tìm thấy ở Hell gần Buffalo, Nam Dakota, vào mùa xuân năm 1987. Nó không được thu thập cho đến năm 1992, vì được cho là một bộ xương Triceratops. Stan đầy đủ 63% và được trưng bày tại Viện Nghiên cứu Địa chất Black Hills ở Thành phố Hill, Nam Dakota, sau một chuyến trưng bày vòng quanh thế giới trong năm 1995 và 1996. Con Tyrannosaur này cũng có nhiều bệnh lý về xương, bao gồm xương sườn bị gãy và vết lành, một cái cổ bị gãy (đã tự chữa lành) và một cái lỗ ngoạn mục ở phía sau đầu, cùng kích thước với răng của Tyrannosaurus. Vào mùa hè năm 2000, Jack Horner đã phát hiện năm bộ xương Tyrannosaurus gần Pháo đài Peck Reservoir ở Montana. Một trong những mẫu vật được cho là bộ xương Tyrannosaurus lớn nhất từng được tìm thấy. Năm 2001, một bộ xương hoàn chỉnh 50% của một con Tyrannosaurus non được phát hiện trong thành hệ Hell Creek ở Montana, bởi một nhóm khảo sát từ Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Burpee của Rockford, Illinois. Được gọi là Jane, phát hiện ban đầu được coi là bộ xương đầu tiên được biết đến của một loài tygannosaurid Nanotyrannus nhưng nghiên cứu mới đây đã tiết lộ rằng nó có nhiều khả năng là một con Tyrannosaurus vị thành niên. Đây là ví dụ về một con khủng long vị thành niên được bảo tồn tốt nhất và hoàn thành nhất hiện nay. Jane đã được kiểm tra bởi một số nhà cổ sinh vật học nổi tiếng như Jack Horner, Pete Larson, Robert Bakker, Greg Erickson vì sự độc đáo của tuổi đời trong mẫu này. Jane hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Burpee ở Rockford, Illinois. Biểu đồ phân nhánh Khủng long bạo chúa được xếp vào phân họ Tyrannosaurinea, họ Tyrannosauridea và liên họ Tyrannosauroidea. Các thành viên khác của phân họ Tyrannosaurinae bao gồm Daspletosaurus Bắc Mỹ và Tarbosaurus châu Á, cả hai đôi khi được xem là đồng nghĩa với Tyrannosaurus. Tyrannosauridae từng được cho là con cháu của các nhóm theropoda cổ như megalosauria và carnosauria, nhưng hiện chúng được tái phân loại với nhóm coelurosauria nhỏ hơn. Năm 1955, nhà cổ sinh vật học Evgeny Maleev người Xô Viết đặt tên một loài mới, Tyrannosaurus bataar, từ Mông Cổ. Năm 1965, loài này được tái danh Tarbosaurus bataar. Mặc dù bị tái danh, nhiều cây phát sinh loài vẫn cho thấy Tarbosaurus bataar là đơn vị phân loại chị em của Tyrannosaurus rex, và đôi khi được cho là Tyrannosaurus châu Á. Việc tái mô tả hộp sọ Tarbosaurus bataar cho thấy nó hẹp hơn Tyrannosaurus rex và khi cắn, sự phân bố áp lực trên sọ rất khác biệt, gần giống Alioramus, một Tyrannosauria châu Á khác. Phân tích nhánh phát sinh loài cho thấy Alioramus, không phải Tyrannosaurus, mới là chi chị em với Tarbosaurus, điều này, nếu là sự thật, sẽ cho thấy Tarbosaurus và Tyrannosaurus nên được tách riêng.\ Các hóa thạch Tyrannosauridae khác được tìm thấy cùng thành hệ với Tyrannosaurus rex ban đầu được phân loại trong các đơn vị khác nhau, bao gồm Aublysodon và Albertosaurus megagracilis, sau đó được tái danh Dinotyrannus megagracilis năm 1995. Tuy nhiên, hiên nay các hóa thạch này được xem là Tyrannosaurus rex chưa trưởng thành. Một hộp sọ nhỏ nhưng hầu như nguyên vẹn từ Montana, dài , có thể là ngoại lệ. Hộp sọ này ban đầu được phân loại là Gorgosaurus (G. lancensis) bởi Charles W. Gilmore năm 1946, sau đó được chuyển sang chi mới, Nanotyrannus. Nhiều nhà khoa học coi hộp sọ này là của Tyrannosaurus rex chưa trưởng thành. Có sự khác biệt nhỏ giữa hai loài, bao gồm số răng của N. lancensis nhiều hơn, giúp vài nhà khoa học tách riêng hai chi cho tới khi có nhiều phát hiện hơn. Dưới đây là cây phát sinh loài Tyrannosauridae dựa trên phân tích phân tử của Loewen năm 2013. Đặc điểm cổ sinh Vòng đời Việc tìm thấy một số mẫu Tyrannosaurus rex chưa trưởng thành đã cho phép các nhà khoa học ghi lại những thay đổi về mặt sinh học của loài, ước tính tuổi thọ và xác định tốc độ phát triển của chúng. Cá thể nhỏ nhất được biết đến (LACM 28471, "chân thú Jordan") được ước tính chỉ nặng , trong khi lớn nhất, chẳng hạn như FMNH PR2081 (Sue) có thể nặng khoảng . Phân tích mô học xương của Tyrannosaurus rex cho thấy LACM 28471 chỉ mới 2 năm tuổi khi nó chết, trong khi Sue đã 28 tuổi, độ tuổi mà có thể gần với mức tối đa của loài. Các phương pháp mô học cũng cho phép xác định tuổi của các mẫu vật. Biết khối lượng ước tính, ta có thể vẽ đường cong tăng trưởng giả định theo thời gian. Đường cong của Tyrannosaurus rex là hình chữ S, với các con non nặng dưới cho đến khoảng 14 tuổi; khi đó khối lượng của chúng bắt đầu tăng mạnh. Trong giai đoạn tăng trưởng nhanh này, một con Tyrannosaurus rex non sẽ nặng thêm trung bình mỗi năm trong vòng bốn năm kế tiếp. Ở tuổi 18, đường cong lại bắt đầu ngang một lần nữa, chỉ ra rằng sự tăng trưởng chậm lại đáng kể. Ví dụ, Sue 28 tuổi chỉ nặng hơn cá thể 22 tuổi ở Canada RTMP 81.12.1) có . Một nghiên cứu mô học năm 2004 bởi nhiều nhà khoa học khác cũng đưa ra kết luận trên, phát hiện rằng sự tăng trưởng nhanh bắt đầu chậm lại vào khoảng năm 16 tuổi. Năm 2011, Hutchinson và cộng sự cũng khẳng định kết quả này, nhưng ước tính tốc độ tăng trưởng tối đa nhanh hơn nhiều; "vào khoảng 1790 kg/năm lúc cao trào". Dù con số này cao hơn nhiều so với các ước tính trước đó, tác giả lưu ý rằng nó đã làm giảm đáng kể sự khác biệt lớn giữa tốc độ tăng trưởng thực tế và kết quả mong đợi từ một con vật có kích thước lớn như vậy. Sự thay đổi đột ngột về tốc độ tăng trưởng vào cuối giai đoạn bộc phát có thể cho thấy sự trưởng thành về thể chất, một giả thuyết được hỗ trợ bởi sự khám phá ra mô tủy trong xương đùi mẫu MOR 1125 (B-rex) 16-20 tuổi từ Montana. Mô tủy chỉ được tìm thấy ở chim cái trong thời kì rụng trứng, cho thấy B-rex đang ở độ tuổi sinh sản. Nghiên cứu sâu hơn cho thấy mẫu vật này 18 tuổi. Năm 2016, Mary Higby Schweitzer và Lindsay Zanno cùng cộng sự xác nhận rằng mô mềm trong xương đùi của MOR 1125 đúng thực là mô tủy. Điều này cũng xác nhận giới tính của mẫu vật là con cái. Đây có thể là một mốc quan trọng trong việc xác định giới tính của các loài khủng long khác, vì dấu vết hóa học của mô tủy là không thể nhầm lẫn. Đường cong tăng trưởng của các bạo long chuẩn khác cũng có những đặc điểm tương tự, tuy với tốc độ tăng trưởng thấp hơn ứng với kích thước nhỏ hơn của con trưởng thành. Hơn một nửa số mẫu vật được biết đến của Tyrannosaurus rex dường như đã chết trong vòng 6 năm sau khi đạt đến sự trưởng thành về tình dục, một đặc điểm cũng được thấy ở các loài Tyrannosaur khác, một số loài chim và động vật có vú sống lâu ngày nay. Những loài này có tỷ lệ tử vong cao sau khi đến tuổi trưởng thành, trái lại tỷ lệ tử vong tương đối thấp ở những con vị thành niên. Tỷ lệ tử vong tăng trở lại sau khi trưởng thành về tình dục, một phần do sự căng thẳng của sinh sản. Một nghiên cứu cho thấy rằng sự hiếm có của hóa thạch Tyrannosaurus rex vị thành niên là do một phần tỷ lệ chết trẻ vị thành niên thấp; loài này không chết với số lượng lớn ở lứa tuổi này, và do đó thường không có hóa thạch của chúng. Sự hiếm có này cũng có thể là do sự không đầy đủ của hồ sơ hóa thạch hoặc sự thiên vị của các nhà sưu tầm hóa thạch đối với các mẫu vật lớn hơn, ngoạn mục hơn. Trong một bài giảng năm 2013, Thomas Holtz Jr. cho rằng loài khủng long "sống nhanh và chết sớm" vì chúng sinh sản nhanh chóng trong khi động vật có vú kéo dài cuộc sống vì chúng mất nhiều thời gian hơn để sinh sản và nuôi dưỡng con nhỏ. Gregory S. Paul cũng viết rằng Tyrannosaurus sinh sản nhanh chóng và chết trẻ, nhưng kết nối vòng đời ngắn ngủi của chúng với cuộc sống nguy hiểm mà loài này sống. Dị hình giới tính Khi số lượng mẫu vật đã biết tăng lên, các nhà khoa học bắt đầu phân tích sự biến đổi giữa các cá thể và phát hiện ra hai loại cơ thể khác nhau, hoặc hình thái, tương tự như một số loài chân thú khác. Một trong những hình dạng này có cơ thể săn chắc hơn, nó được gọi là hình thái 'mạnh mẽ' trong khi dạng còn lại được gọi là 'mảnh mai'. Một số khác biệt về hình thái đã được sử dụng để phân tích tính lưỡng hình giới tính ở loài Tyrannosaurus rex, với hình thái "mạnh mẽ" thường được cho là giống cái. Ví dụ, xương chậu của một số mẫu vật 'mạnh mẽ' dường như rộng hơn, có lẽ để cho phép trứng đi qua. Người ta cũng nghĩ rằng hình thái 'mạnh mẽ' tương quan với sự thiếu hụt đốt sống đuôi đầu tiên, cũng có thể cho phép trứng đi ra khỏi cơ quan sinh sản, như đã được báo cáo sai cho cá sấu. Trong những năm gần đây, bằng chứng về sự lưỡng hình giới tính đã bị suy yếu. Một nghiên cứu năm 2005 đã báo cáo rằng những tuyên bố trước đây về sự lưỡng hình giới tính trong giải phẫu đốt sống đuôi cá sấu là sai lầm, tạo nên nghi ngờ về sự tồn tại của lưỡng hình giữa các cá thể Tyrannosaurus rex khác giới. Một xương chevron cỡ lớn được phát hiện trên đốt sống đuôi đầu tiên của Sue, một cá thể 'mạnh mẽ', chỉ ra rằng đặc điểm này không thể được sử dụng để phân biệt hai hình thái. Vì các mẫu vật Tyrannosaurus rex đã được tìm thấy từ Saskatchewan đến New Mexico, sự khác biệt giữa các cá thể có thể là dấu hiệu của sự biến đổi do địa lý hơn là sự lưỡng hình tình dục. Sự khác biệt cũng có thể liên quan đến tuổi tác, với những cá thể 'mạnh mẽ' là con trưởng thành. Chỉ có một mẫu Tyrannosaurus rex duy nhất đã được chứng minh là thuộc về một giới cụ thể. Kiểm tra hóa thạch B-rex đã chứng minh việc bảo tồn mô mềm trong một số xương. Một số mô này đã được xác định là mô tủy, một mô đặc biệt chỉ phát triển ở các loài chim hiện đại như một nguồn calci để sản xuất vỏ trứng trong suốt thời kì rụng trứng. Vì chỉ có chim cái đẻ trứng, mô tủy chỉ được tìm thấy một cách tự nhiên ở giống cái, mặc dù con đực cũng có khả năng sinh ra nó khi được tiêm thêm nội tiết tố sinh sản estrogen. Điều này cho thấy rằng B-rex là giống cái, và nó đã chết trong thời kì rụng trứng.[88] Nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng mô tủy không bao giờ được tìm thấy ở cá sấu, được cho là họ hàng sống gần nhất của loài khủng long, ngoài chim. Sự hiện diện chung của mô tủy ở chim và các loài khủng long chân thú là bằng chứng thêm về mối quan hệ tiến hóa chặt chẽ giữa hai nhóm động vật. Dáng đi Giống như nhiều loài khủng long đi bằng hai chân, Tyrannosaurus rex được mô tả trong quá khứ như là một 'cỗ máy ba chân sống', với thân hình tạo thành góc 45 độ hoặc ít hơn theo chiều dọc và đuôi kéo lê trên mặt đất, tương tự như một con chuột túi. Khái niệm này bắt nguồn từ tư thế phục dựng của chi Hadrosaurus của Joseph Leidy năm 1865, người đầu tiên mô tả một con khủng long trong tư thế hai chân. Năm 1915, nhằm thuyết phục rằng sinh vật này đứng thẳng, Henry Fairfield Osborn, cựu chủ tịch của Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ, tiếp tục củng cố quan niệm trong việc công bố bộ xương Tyrannosaurus rex hoàn chỉnh đầu tiên được sắp xếp theo cách này. Bộ xương đứng trong một tư thế thẳng đứng trong 77 năm, cho đến khi bị tháo dỡ vào năm 1992. Đến năm 1970, các nhà khoa học nhận ra tư thế này là không chính xác và không thể được duy trì bởi một động vật có kích cỡ lớn như vậy, vì nó có thể dẫn đến sự trật khớp hoặc suy yếu của một số khớp, bao gồm hông và khớp nối giữa đầu và cột sống. Dáng đứng phục dựng không chính xác bởi Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên đã truyền cảm hứng cho những mô tả tương tự trong nhiều bộ phim và tranh ảnh (như bức họa nổi tiếng của Rudolph Zallinger mang tên The Age of Reptiles trong Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Peabody của Đại học Yale) cho đến những năm 1990, khi các bộ phim như Công viên khủng long giới thiệu một tư thế đứng chính xác hơn cho công chúng. Các bảo tàng, tranh và phim ảnh ngày nay thường miêu tả Tyrannosaurus rex với tư thế chính xác hơn: thân của nó gần như song song với mặt đất và đuôi chĩa thẳng về phía sau cơ thể để cân bằng với cái đầu to lớn. Tay Khi Tyrannosaurus rex lần đầu tiên được phát hiện, phần xương cánh tay là yếu tố duy nhất của chi trước được biết đến. Đối với bộ xương phục dựng ban đầu được trưng bày vào năm 1915, Osborn đã gắn thêm cánh tay dài hơn, gồm ba ngón tay giống như của Allosaurus. Một năm trước đó, Lawrence Lambe đã mô tả khoa học chi trước của Gorgosaurus ngắn, với hai ngón tay. Điều này gợi ý rằng Tyrannosaurus rex có bộ chi trước tương tự, nhưng giả thuyết này đã không được xác nhận cho đến khi bộ chi trước của Tyrannosaurus rex hoàn chỉnh đã được xác định vào năm 1989, thuộc một phần mẫu vât MOR 555 ("Wankel rex"). Phần còn lại của Sue cũng bao gồm cả những chi trước hoàn chỉnh. Cánh tay của Tyrannosaurus rex rất nhỏ so với kích thước cơ thể tổng thể, chỉ dài vỏn vẹn có 1 mét, và một số học giả đã dán nhãn chúng là di tích. Xương chi trước có tiết diện rất rộng để cơ có thể bám lên, cho thấy sức mạnh cơ bắp đáng kể. Điều này đã được Osborn công nhận vào đầu năm 1906, người đã suy đoán rằng tiền thân chúng có thể đã được sử dụng để bám lấy một người bạn tình trong quá trình giao hợp. Một số cũng chỉ ra rằng các chi trước có thể đã được dùng để giúp loài này đứng dậy khỏi tư thế nằm nghỉ. Một khả năng khác là các chi này giữ con mồi sau khi nó bị giết bởi bộ hàm lớn của tyrannosaur. Giả thuyết này có thể được hỗ trợ bởi phân tích cơ sinh học. Xương của chi trước trong loàiTyrannosaurus rex có vỏ cực kỳ dày, đã được hiểu là bằng chứng cho thấy chúng phát triển để chịu trọng tải lớn. Cơ tay của một con Tyrannosaurus rex có khả năng nâng 199 kg; các cơ bắp khác như cơ cánh tay quay sẽ phối hợp cùng với các bắp tay để làm cho khuỷu tay uốn cong khiến chúng thậm chí còn mạnh mẽ hơn. Cơ bắp tay của T. rex có sức mạnh gấp 3.5 lần sức tương đương của con người. Cánh tay Tyrannosaurus rex có một phạm vi giới hạn chuyển động, với vai và khớp khuỷu tay cho phép nó quay 40 và 45 độ, tương ứng. Ngược lại, hai khớp tương tự của loài Deinonychus cho phép chúng di chuyển 88 và 130 độ, tương ứng, trong khi cánh tay người có thể xoay 360 độ ở vai và di chuyển qua 165 độ ở khuỷu tay. Sự tạo hình nặng nề của xương cánh tay, sức mạnh của cơ bắp, và phạm vi giới hạn của chuyển động có thể chỉ ra một hệ thống cơ sinh học được sinh ra để giữ con mồi đang cố trốn thoát. Trong mô tả khoa học chi tiết đầu tiên về chi trước của Tyrannosaurus, hai nhà cổ sinh vật học Kenneth Carpenter và Matt Smith đã bác bỏ quan niệm rằng các chi trước là vô dụng hoặc Tyrannosaurus rex là loài chỉ ăn xác. Theo nhà cổ sinh vật học Steven Stanley từ Đại học Hawaii, cánh tay dài khoảng 1 mét của một con Tyrannosaurus rex đã được sử dụng để chém con mồi. Đặc biệt là được sử dụng bởi những con khủng long vị thành niên khi cánh tay của chúng phát triển chậm hơn so với tỷ lệ cơ thể và một con Tyrannosaurus rex nhỏ sẽ có cánh tay dài hơn nhiều so với con trưởng thành. Mô mềm Trong số ra tháng 3 năm 2005 của tạp chí Science, Mary Higby Schweitzer thuộc Đại học bang North Carolina và các đồng nghiệp đã công bố sự thu hồi của mô mềm từ khoang tủy xương chân hóa thạch từ Tyrannosaurus rex. Xương đã được cố ý, mặc dù miễn cưỡng, đập vỡ để vận chuyển và sau đó không được bảo quản theo cách thông thường, đặc biệt là vì Schweitzer đã hy vọng thử nghiệm nó để tìm mô mềm. Được chỉ định tại Bảo tàng Rockies Mẫu 1125, hoặc MOR 1125, mẫu vật này đã được khai quật từ Thành hệ Hell Creek. Các mạch máu linh hoạt, phân nhánh và mô tế bào xương dạng sợi nhưng đàn hồi đã được nhận ra ngay. Ngoài ra, vi cấu trúc giống như các tế bào máu đã được tìm thấy bên trong ma trận và các mạch máu. Các cấu trúc này tương tự như các tế bào máu và mạch máu trong loài đà điểu. Cho dù một quá trình không rõ, khác biệt với hóa thạch bình thường, bảo quản vật liệu, hoặc vật liệu ban đầu, các nhà nghiên cứu không biết, và họ cẩn thận không đưa ra bất kỳ tuyên bố nào về tình trạng bảo tồn. Nếu đây là nguyên liệu ban đầu, bất kỳ protein sống sót nào cũng có thể được sử dụng như một phương tiện gián tiếp để tiên đoán một chuỗi DNA của con khủng long liên quan, bởi vì mỗi protein thường được tạo ra bởi một gen cụ thể. Sự vắng mặt của những phát hiện trước đó có thể là kết quả của những giả định rằng tế bào mô được bảo quản là không thể, do vậy họ không cố gắng tìm kiếm. Kể từ lần đầu tiên này, hai con tyrannosaurs và một con hardosaur cũng đã được tìm thấy có chứa cấu trúc giống như mô. Nghiên cứu về các mô liên quan đã gợi ý rằng chim là họ hàng gần gũi nhất với tyrannosaurs so với tất cả các loài động vật hiện đại khác. Trong các nghiên cứu được báo cáo trên tạp chí Science vào tháng 4 năm 2007, Asara và các đồng nghiệp đã kết luận rằng 7 vết tích của protein collagen được phát hiện trong xương Tyrannosaurus rex tinh khiết gần giống với gà được báo cáo, tiếp theo là ếch và kì giông. Việc phát hiện ra protein từ một sinh vật đã hàng chục triệu năm tuổi, cùng với những dấu vết tương tự mà nhóm nghiên cứu tìm thấy trong xương của loài voi răng mấu ít nhất đã 160.000 năm tuổi, điều này thay đổi tầm nhìn thông thường của các nhà khoa học về hóa thạch và có thể sẽ chuyển sự tập trung của các nhà cổ sinh vật học từ săn xương sang ngành sinh hóa. Cho đến những phát hiện này, hầu hết các nhà khoa học cho rằng hóa thạch đã thay thế tất cả các mô sống bằng khoáng chất trơ. Nhà cổ sinh vật học Hans Larsson thuộc Đại học McGill ở Montreal, người không thuộc dự án nghiên cứu, gọi sự khám phá này là "sự kiện quan trọng", và cho rằng loài khủng long có thể "nhập vào lĩnh vực sinh học phân tử và thực sự đưa cổ sinh vật học vào trong thế giới hiện đại." Các nghiên cứu tiếp theo trong tháng 4 năm 2008 đã xác nhận sự kết nối chặt chẽ của Tyrannosaurus rex với các loài chim hiện đại. Nhà nghiên cứu sinh học hậu tiến sĩ Chris Organ tại Đại học Harvard đã công bố, "Với nhiều dữ liệu hơn, họ có thể đặt T. rex trên cây tiến hóa giữa cá sấu và gà và đà điểu." Đồng tác giả John M. Asara nói thêm, "Chúng tôi cũng cho thấy rằng nó cho vào nhóm chim thì phù hợp hơn loài bò sát hiện đại, chẳng hạn như cá sấu và thằn lằn Dactyloidae xanh." Điều hòa thân nhiệt Tính đến năm 2014, không rõ liệu loài Tyrannosaurus có phải là loài hồi nhiệt (máu nóng) hay không. Tyrannosaurus, giống như hầu hết các loài khủng long, từ lâu đã được cho là loài ngoại nhiệt (máu lạnh) với kiểu trao đổi chất của thằn lằn. Ý tưởng khủng long máu lạnh đã được thử thách bởi các nhà khoa học như Robert T. Bakker và John Ostrom trong những năm đầu của phong trào "Phục hưng Khủng long", bắt đầu vào cuối những năm 1960. Bản thân Tyrannosaurus rex đã được tuyên bố là loài máu nóng, ngụ ý một lối sống rất hoạt động. Kể từ đó, một số nhà cổ sinh vật học đã tìm cách xác định khả năng điều chỉnh nhiệt độ cơ thể của Tyrannosaurus. Bằng chứng mô học về tốc độ tăng trưởng cao ở những con Tyrannosaurus rex non, có thể so sánh với các loài động vật có vú và chim, và có thể hỗ trợ giả thuyết về sự trao đổi chất cao. Đường cong tăng trưởng cho thấy rằng, như ở động vật có vú và chim, Tyrannosaurus rex tăng trưởng bị giới hạn chủ yếu trên những con chưa trưởng thành, thay vì sự tăng trưởng vô định được thấy ở hầu hết các động vật có xương sống khác. Tỷ lệ đồng vị của oxy trong xương hóa thạch đôi khi được sử dụng để xác định nhiệt độ mà tại đó xương bị lắng đọng, vì tỷ số giữa các đồng vị nhất định tương quan với nhiệt độ. Trong một mẫu, các tỷ số đồng vị trong xương từ nhiều bộ phận khác nhau trong cơ thể chỉ ra sự chênh lệch nhiệt độ không quá 4 đến 5 °C (7 đến 9 °F) giữa đốt sống của thân và xương chày của chân dưới. Chênh lệch nhiệt độ nhỏ giữa lõi cơ thể và chi vận động được xác nhận bởi nhà cổ sinh vật học Reese Barrick và nhà hóa học William Showers để chỉ ra rằng Tyrannosaurus rex duy trì nhiệt độ cơ thể nội bộ liên tục (máu nóng) và rằng sự trao đổi chất của loài này ở đâu đó giữa loài bò sát ngoại nhiệt và động vật có vú hồi nhiệt. Các nhà khoa học khác đã chỉ ra rằng tỷ lệ đồng vị oxy trong các hóa thạch ngày nay không nhất thiết đại diện cho cùng một tỷ lệ trong quá khứ xa xôi, và có thể đã bị thay đổi trong hoặc sau khi hóa thạch (sự thành đá trầm tích). Barrick và Showers đã bảo vệ kết luận của họ trong các bài báo tiếp theo, tìm kiếm kết quả tương tự trong một con khủng long chân thú khác tới từ các lục địa khác nhau và cách nhau hàng chục triệu năm trước đó trong thời gian (Giganotosaurus). Những con khủng long hông chim cũng cho thấy bằng chứng về máu nóng, trong khi những con thằn lằn họ Kỳ đà từ cùng một thành hệ thì không. Ngay cả khi Tyrannosaurus rex thể hiện bằng chứng về máu nóng, không nhất thiết có nghĩa nó là động vật hồi nhiệt. Việc điều hòa nhiệt độ như vậy cũng có thể được giải thích bằng cách biến nhiệt theo tỉ lệ diện tích cơ thể (gigantothermy), như trong một số loài rùa biển sống. Dấu chân Hai dấu chân hóa thạch bị cô lập đã được tạm thời gán cho Tyrannosaurus rex. Lần đầu tiên được phát hiện tại trang trại Philmont Scout, New Mexico, vào năm 1983 bởi nhà địa chất người Mỹ Charles Pillmore. Ban đầu được cho là thuộc về một loài hardosaur, kiểm tra dấu chân cho thấy một 'gót chân' lớn không rõ trong các loài khủng long chân chim, và dấu vết của những gì có thể là một ngón chân cái, ngón thứ tư giống như ngón huyền của chân một con tyrannosaur. Dấu chân đã được đặt tên ichnogenus Tyrannosauripus pillmorei vào năm 1994, bởi Martin Lockley và Adrian Hunt. Lockley và Hunt cho rằng rất có khả năng vết chân đã tạo ra bởi một con Tyrannosaurus rex, làm cho nó trở thành dấu chân đầu tiên được biết đến từ loài này. Vết chân được tạo ra từ những gì đã từng là một bãi đầm ngập nước bằng phẳng. Kích thước của dấu chân dài 83 cm và rộng 71 cm. Một dấu chân thứ hai có thể đã được tạo ra bởi một con Tyrannosaurus lần đầu tiên được báo cáo năm 2007 bởi nhà cổ sinh vật học người Anh Phil Manning, tại Thành hệ Hell Creek thuộc Montana. Dấu chân thứ hai này dài 72 cm, ngắn hơn kích thước của dấu chân được mô tả bởi Lockley và Hunt. Có thật là một con Tyrannosaurus tạo ra dấu chân hay không là chưa rõ ràng, mặc dù Tyrannosaurus và Nanotyrannus là các loài khủng long chân thú cỡ lớn duy nhất được biết đến đã tồn tại trong thành hệ Hell Creek. Một tập hợp các dấu chân ở Glenrock, Wyoming được đo về giai đoạn Maastrichtian ở cuối kỷ Phấn trắng và nguồn gốc từ Thành hệ Lance được mô tả bởi Scott Persons, Phil Currie và một số người khác vào tháng 1 năm 2016, và được cho là thuộc về Tyrannosaurus rex hoặc loài tyrannosaurid đang bị tranh cãi tyredannannus lancensis. Từ các phép đo và dựa trên vị trí của các dấu chân, con vật được cho là đi với tốc độ đi bộ khoảng 2,8-5 dặm/giờ và được ước tính để có một chiều cao hông là 1,56 m đến 2,06 m. Một bài báo tiếp theo xuất hiện vào năm 2017, tăng các ước tính tốc độ lên 50-80%. Vận động Có hai vấn đề chính liên quan đến khả năng di chuyển của Tyrannosaurus: chúng có thể quay người tốt cỡ nào; và tốc độ chạy đường thẳng của chúng là bao nhiêu. Cả hai vấn đề đều dẫn đến tranh luận về loài này là loài săn mồi hay loài ăn xác. Tyrannosaurus quay người rất chậm chạp, chúng có thể mất từ ​​một đến hai giây để quay một góc 45° - điều mà con người, được định hướng theo chiều dọc và không có đuôi, có thể quay dưới một giây. Nguyên nhân gây ra sự khó khăn này là mômen quán tính, vì phần lớn khối lượng của Tyrannosaurus phân bố xa ra khỏi trọng tâm của chúng, giống như một người đang mang theo tấm gỗ nặng theo chiều ngang - mặc dù vậy chúng đã có thể giảm khoảng cách trung bình đó bằng cách còng lưng và đuôi, rụt đầu và chân trước của chúng về gần cơ thể hơn, giống như một người trượt băng co tay lại, để quay nhanh hơn. Các nhà khoa học đã có một loạt các ước tính về tốc độ tối đa, chủ yếu là vào khoảng 11 m/s (40 km/h; 25 dặm/giờ), nhưng một vài ước tính nhỏ tới 5–11 m/s (18–40 km/h; 11–25 dặm/giờ), và một vài cao tới 20 m/s (72 km/h; 45 dặm/giờ). Các nhà nghiên cứu phải dựa vào các kỹ thuật ước tính khác nhau bởi vì, trong khi có rất nhiều vết dấu chân của các loài chân thú lớn đi bộ, cho đến nay chưa có các vết chân mà chúng chạy - và sự vắng mặt này có thể chỉ ra rằng chúng không chạy. Các nhà khoa học có thể chỉ ra rằng Tyrannosaurus có xương rỗng và các đặc điểm khác làm nhẹ trọng lượng cơ thể và giữ trọng lượng trong khoảng chỉ 4,5 tấn hoặc giống các động vật khác như đà điểu và ngựa với đôi chân dài, linh hoạt có thể đạt được tốc độ cao thông qua các bước sải chậm nhưng dài hơn. Một số người cũng cho rằng Tyrannosaurus có cơ bắp chân tương đối khỏe hơn so với bất kỳ loài động vật nào ngày nay, có thể cho phép chúng chạy nhanh với tốc độ 40–70 km/h (25–43 dặm/giờ). Jack Horner và Don Lessem lập luận vào năm 1993 rằng Tyrannosaurus rất chậm và có lẽ không thể chạy (không có giai đoạn trong không trung giữa các sải chân), bởi vì tỷ lệ xương đùi đến xương chày dài hơn 1, như trong hầu hết các loài khủng long chân thú lớn và giống như loài voi hiện đại. Holtz (1998) lưu ý rằng tyrannosaurids và một số nhóm liên quan chặt chẽ với chúng có thành phần chi sau xa hơn (cẳng chân cộng với ngón chân) so với chiều dài xương đùi không giống với hầu hết các loài chân thú khác, và tyrannosaurids và họ hàng gần gũi của chúng có xương bàn chân lồng vào nhau giúp truyền lực sải từ chân đến bàn chân thấp hiệu quả hơn so với các loài khủng long chân thú trước đó. Do đó, ông kết luận rằng tyrannosaurids và họ hàng gần gũi của chúng là những con khủng long chân thú lớn nhanh nhất. Thomas Holtz Jr. đã lặp lại những dẫn chứng này trong một bài giảng năm 2013 của ông, nói rằng allosaurs khổng lồ có đôi chân ngắn hơn nếu cùng kích thước cơ thể so với Tyrannosaurus, trong khi chân của Tyrannosaurus thì dài hơn, mảnh hơn và xương bàn chân đan xen hơn với cùng kích thước cơ thể; thuộc tính của loài động vật chuyển động nhanh hơn. Một nghiên cứu của Eric Snively và Anthony P. Russel xuất bản năm 2003 cũng phát hiện ra rằng arctometatarsals của tyrannosaurid và dây chằng đàn hồi phối hợp cùng nhau trong cái mà ông gọi là 'mô hình khóa kéo' để tăng cường sức mạnh cho chân của Tyrannosaurus, tăng tính ổn định và tăng sức chống lại sự phân ly hơn so với các họ chân thú khác; trong khi vẫn cho phép khả năng phục hồi mà đã giảm trong bộ đà điểu, ngựa, hươu cao cổ và một số động vật khác với xương chân. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng dây chằng đàn hồi trong các động vật có xương sống lớn hơn có thể dự trữ và tạo ra năng lượng đàn hồi lớn hơn, có thể cải thiện hiệu quả vận động và giảm năng lượng biến dạng được truyền tới xương. Nghiên cứu cho thấy rằng cơ chế này có thể đã hoạt động rất hiệu quả trong tyrannosaurids. Do đó, nghiên cứu sẽ phải liên quan đến việc xác định loại dây chằng gắn với xương bàn chân, sau đó tìm hiểu làm thế nào để chúng có thể phối hợp cùng nhau và so sánh nó với các loại khác của khủng long chân thú và các động vật tương tự hiện đại ngày nay. Các nhà khoa học nhận thấy rằng arctometatarsals có thể đã cho phép tyrannosaurid hấp thụ các lực như giảm tốc tuyến tính, gia tốc pháp tuyến và xoắn hiệu quả hơn so với các loài chân thú khác. Nghiên cứu nêu ra rằng điều này có thể ngụ ý, mặc dù không chứng minh, rằng tyrannosaurids như Tyrannosaurus có sự nhanh nhẹn hơn so với các loài chân thú lớn khác không có xương arctometatarsus. Christiansen (1998) ước tính rằng xương chân của Tyrannosaurus không mạnh hơn đáng kể so với loài voi, tương đối hạn chế ở tốc độ tối đa và không bao giờ chạy (không có thời gian trong không khí), và do đó đề xuất rằng tốc độ tối đa của loài này sẽ vào khoảng 11 m/s (40 km/h; 25 dặm/giờ), tức là tốc độ của một người chạy nước rút. Nhưng ông cũng lưu ý rằng những ước tính như vậy phụ thuộc vào nhiều giả định không rõ ràng. Farlow và cộng sự (1995) đã lập luận rằng một con Tyrannosaurus nặng 5,4 tấn đến 7,3 tấn sẽ bị thương nặng hoặc thậm chí tử vong nếu nó ngã trong khi di chuyển nhanh, vì thân nó sẽ va đập vào mặt đất với tốc độ giảm 6 g (gấp sáu lần gia tốc trọng trường, hoặc khoảng 60 m/s²) và cánh tay nhỏ bé của nó không thể làm gì để giảm tác động. Hươu cao cổ được biết là có thể phi nước đại ở tốc độ 50 km/h (31 dặm/giờ), bất chấp nguy cơ chúng có thể bị gãy chân hoặc tệ hơn, có thể gây tử vong ngay cả trong môi trường an toàn như vườn thú. Do đó, Tyrannosaurus cũng có thể di chuyển nhanh khi cần thiết và phải chấp nhận những rủi ro như vậy. Trong một nghiên cứu khác, Gregory S. Paul đã chỉ ra rằng đầu gối linh hoạt và cách di chuyển bằng đầu ngón của Tyrannosaurus có khả năng thích nghi tốt hơn để chạy so với voi hoặc người, chỉ ra rằng Tyrannosaurus có một xương chậu lớn và xương cnemial có thể hỗ trợ các cơ lớn cần thiết để chạy. Ông cũng đề cập rằng công thức của Alexander (1989) để tính toán tốc độ bằng sức mạnh của xương chỉ một phần đáng tin cậy. Ông cho rằng công thức đó quá phụ thuộc vào chiều dài xương; làm cho xương dài yếu một cách nhân tạo. Ông cũng chỉ ra rằng nguy cơ bị thương trong chiến đấu có giá trị rủi ro cao hơn so với lúc ngã khi đang chạy, khiến Tyrannosaurus có thể chọn việc chạy trước khi định chiến đấu. Nghiên cứu gần đây nhất về sự vận động của Tyrannosaurus chỉ ra rằng chúng không thể hỗ trợ tốc độ nhanh hơn 40 km/h (25 dặm/giờ), tức tốc độ vừa phải khi thực hiện động tác chạy. Ví dụ, một bài báo năm 2002 trên tạp chí Nature đã sử dụng một mô hình toán học (dược xác nhận bằng cách áp dụng nó cho ba động vật sống, cá sấu, gà và con người; sau đó tới tám loài khác bao gồm đà điểu Emu và đà điểu thường) để xác định số lượng cơ cần thiết để một con vật có thể chạy (trên 40 km/h hoặc 25 dặm/giờ). Họ phát hiện ra rằng tốc độ tối đa được đề xuất vượt quá 40 km/h (25 dặm/giờ) là không khả thi, bởi vì nó sẽ đòi hỏi cơ bắp chân rất lớn (chiếm hơn khoảng 40-86% tổng khối lượng cơ thể). Ngay cả tốc độ nhanh vừa phải sẽ yêu cầu cơ bắp chân to khỏe. Cuộc thảo luận này rất khó để giải quyết, vì ta không thể biết được cơ bắpchaan của Tyrannosaurus lớn cỡ nào. Nếu nó nhỏ hơn, chúng chỉ có thể đi bộ hoặc chạy bộ vào khoảng 18 km/h (11 dặm/giờ). Một nghiên cứu trong năm 2007 đã sử dụng các mô hình máy tính để ước tính tốc độ chạy, dựa trên dữ liệu được lấy trực tiếp từ các mẫu hóa thạch, và tuyên bố rằng Tyrannosaurus rex có tốc độ chạy tối đa là 8 m/s (29 km/h; 18 dặm/giờ). Một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp trung bình sẽ chậm hơn một chút, trong khi một người chạy nước rút có thể đạt tới tốc độ 12 m/s (43 km/h; 27 dặm/giờ). Các mô hình máy tính này dự đoán tốc độ tối đa 17,8 m/s (64 km/h; 40 dặm/giờ) đối với một con Composognathus nặng 3 kilôgam (6,6 lb). (có thể là một cá thể chưa trưởng thành). Trong năm 2010, Scott Persons, một sinh viên tốt nghiệp từ Đại học Alberta, đã đề xuất rằng tốc độ của Tyrannosaurus có thể đã được tăng cường bởi các cơ đuôi mạnh. Anh phát hiện ra rằng các loài khủng long chân thú như T. rex đã có cơ bắp sắp xếp một cách khác so với loài chim và động vật có vú ngày nay nhưng với một số điểm tương đồng với loài bò sát hiện đại. Ông kết luận rằng các cơ xương chậu (caudofemoralis) liên kết xương đuôi và xương chân trên có thể đã hỗ trợ Tyrannosaurus trong hoạt động thu hồi chân và tăng cường khả năng chạy, sự nhanh nhẹn và thăng bằng của nó. Cơ caudofemoralis sẽ là một cơ then chốt trong sự co rút của xương đùi; kéo chân lên xương đùi. Nghiên cứu cũng phát hiện rằng bộ xương theropod như của Tyrannosaurus đã có sự thích ứng (chẳng hạn như các quá trình ngang cao ở đốt sống đuôi) để kích thích sự phát triển của các cơ đuôi lớn hơn và khối cơ đuôi của Tyrannosaurus có thể đã bị đánh giá thấp hơn 25% và có lẽ là thấp hơn nhiều đến 45%. Cơ caudofemoralis được tìm thấy chiếm 58% khối lượng cơ ở đuôi Tyrannosaurus. Tyrannosaurus cũng có khối lượng cơ caudofemoralis lớn nhất tuyệt đối và tương đối trong số ba sinh vật đã tuyệt chủng trong nghiên cứu. Điều này là bởi vì Tyrannosaurus cũng có thêm sự thích nghi để kích hoạt các cơ đuôi lớn; sự kéo dài của vòm cong của đuôi. Theo Persons, sự gia tăng khối lượng cơ đuôi đã di chuyển khối tâm gần hơn về phần sau và hông mà sẽ làm giảm lực căng trên các cơ chân để hỗ trợ trọng lượng của nó; cải thiện sự cân bằng tổng thể và sự nhanh nhẹn của nó. Điều này cũng sẽ làm cho chúng ít nặng hơn, do đó làm giảm mômen quán tính. Anh cũng lưu ý rằng đuôi của chúng rất giàu gân và vách ngăn có thể dùng để chứa thế năng đàn hồi, và do đó cải thiện hiệu quả của sự vận động. Persons cho biết thêm rằng điều này có nghĩa là khủng long chân thú không giống chim thực sự có đuôi rộng hơn so với các mô tả trước đây, như rộng hoặc rộng hơn bên trên phần lưng bụng gần điểm dưới. Heinrich Mallison từ Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Berlin cũng trình bày một lý thuyết vào năm 2011, cho rằng Tyrannosaurus và nhiều loài khủng long khác có thể đạt được tốc độ tương đối cao thông qua các bước tiến ngắn nhưng nhanh thay vì những bước tiến dài được sử dụng bởi các loài chim và động vật có vú hiện đại khi chạy. Điều này, theo Mallison, sẽ có thể đạt được bất kể sức mạnh của khớp và làm giảm nhu cầu cho khối lượng cơ bắp bổ sung ở chân, đặc biệt là ở mắt cá chân. Để hỗ trợ cho lý thuyết của mình, Mallison đã đánh giá các chi của nhiều loài khủng long khác nhau và thấy rằng chúng khác với những loài động vật có vú và chim hiện đại; có chiều dài sải chân bị giới hạn bởi bộ xương của chúng, nhưng cũng có cơ bắp tương đối lớn ở chân sau. Ông đã tìm thấy một vài điểm tương đồng giữa các cơ trong khủng long và người đi bộ; có khối lượng cơ ít hơn ở mắt cá chân nhưng nhiều hơn ở chân sau. John Hutchinson rất thận trọng về lý thuyết này, cho thấy rằng trước tiên họ phải nhìn vào cơ bắp khủng long để xem tần suất chúng co giật. Một nghiên cứu vào tháng 7 năm 2017 bởi một nhóm các nhà nghiên cứu dẫn đầu bởi William Sellers từ Đại học Manchester phát hiện ra rằng một con Tyrannosaurus trưởng thành không có khả năng chạy do trọng lượng lớn. Nghiên cứu đã sử dụng công nghệ máy tính mới nhất để kiểm tra những phát hiện. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng hai hệ thống cơ khí cấu trúc khác nhau để tạo ra mô hình máy tính. Trọng lượng dùng để giải quyết cho tính toán của họ là một ước tính bảo thủ 7 tấn. Mô hình cho thấy tốc độ đạt được trên 11 dặm/giờ (18 km/h) có lẽ sẽ làm gãy vỡ xương chân của Tyrannosaurus. Phát hiện này có nghĩa là hoạt động chạy là không thể cho những loài khủng long chân thú khổng lồ khác như Giganotosaurus, Mapusaurus và Acrocanthosaurus. Một nghiên cứu khác vào tháng 7 năm 2017 bởi các nhà nghiên cứu từ Trung tâm Nghiên cứu Đa dạng Sinh học Tích hợp Đức (iDiv) đã phát hiện ra rằng tốc độ tối đa của Tyrannosaurus là vào khoảng 17 dặm/giờ (27 km/h). Các loài khủng long khác bao gồm Triceratops, Velociraptor và Brachiosaurus cũng được phân tích trong nghiên cứu này, cũng như nhiều loài động vật sống như voi, báo đốm và thỏ. Tốc độ của Tyrannosaurus được tính bằng cách phân tích thừa số trọng lượng kết hợp với môi trường mà chúng đi (trong trường hợp của khủng long chân thú, đất) và bởi các giả định rằng: thứ nhất; động vật đạt được tốc độ tối đa của chúng trong thời gian chạy nước rút tương đối ngắn, và thứ hai; định luật chuyển động của Newton cho rằng khối lượng phải vượt qua quán tính. Nghiên cứu phát hiện rằng động vật lớn như Tyrannosaurus xả ra năng lượng dự trữ rất lâu trước khi chúng đạt tới tốc độ tối đa lý thuyết của chúng, dẫn đến mối quan hệ giống một đường parabol giữa kích thước và tốc độ. Phương trình có thể tính toán tốc độ tối đa của một con vật với độ chính xác vào khoảng 90% và có thể áp dụng cho cả động vật sống và đã tuyệt chủng. Những người cho rằng Tyrannosaurus không có khả năng chạy, ước tính tốc độ tối đa của Tyrannosaurus là vào khoảng 17 km/h (11 dặm/giờ). Tốc độ này vẫn còn nhanh hơn so với các loài mà chúng săn mồi, như hadrosaurids và ceratopsians. Ngoài ra, một số người ủng hộ ý tưởng rằng Tyrannosaurus là một động vật ăn thịt cho rằng tốc độ chạy của tyrannosaur là không quan trọng, vì nó có thể chậm nhưng vẫn nhanh hơn con mồi tiềm năng của nó. Thomas Holtz cũng lưu ý rằng Tyrannosaurus có chiều dài tương đối lớn hơn so với những con vật mà nó săn bắt: khủng long mỏ vịt và khủng long sừng. Paul và Christiansen (2000) đã lập luận rằng ít nhất những con ceratopsian sau này đã có chân trước thẳng đứng và những loài lớn hơn có thể nhanh như tê giác. Hồi phục vết thương trên hóa thạch của ceratopsian có một vết cắn chứng tỏ rằng chúng chính là con mồi của tyrannosaurus. Nếu các loài ceratopsian sống bên cạnh Tyrannosaurus nhanh nhẹn, điều đó khiến các nhà khoa học phải nghi ngờ về lập luận rằng Tyrannosaurus không cần phải nhanh để bắt con mồi. Não và các giác quan Một nghiên cứu được tiến hành bởi Lawrence Witmer và Ryan Ridgely từ Đại học Ohio phát hiện ra rằng Tyrannosaurus cũng có các giác quan nhạy của các loài khủng long đuôi rỗng khác, nổi bật là chuyển động mắt và đầu tương đối nhanh và phối hợp nhuần nhuyễn, cũng như khả năng cảm nhận âm thanh tần số thấp giúp chúng săn mồi từ khoảng cách xa và khứu giác tăng cường. Một nghiên cứu được công bố bởi Kent Stevens của Đại học Oregon kết luận rằng Tyrannosaurus có tầm nhìn rất sắc sảo. Bằng cách áp dụng phương pháp kiểm tra thị lực để tái tạo lại khuôn mặt của một số loài khủng long bao gồm Tyrannosaurus, nghiên cứu cho thấy rằng Tyrannosaurus có phạm vi tầm nhìn hai mắt là 55 độ, vượt qua các loài diều hâu hiện đại, và sở hữu thị lực tốt gấp 13 lần thị lực của một người thường, do đó vượt trội hơn thị lực của cả một con đại bàng, loài mà chỉ có thị lực gấp 3,6 lần con người. Điều này sẽ cho phép Tyrannosaurus phân biệt đối tượng cách xa chúng 6 km (3,7 dặm), xa hơn 1,6 km (1 dặm) mà con người có thể nhìn. Thomas Holtz Jr. lưu ý rằng các giác quan sắc bén của Tyrannosaurus phát triển là do các con mồi mà chúng phải săn lùng; lưu ý rằng chúng phải săn lùng những con khủng long sừng như Triceratops, giáp long như Ankylosaurus và những con khủng long mỏ vịt có thể có những hành vi xã hội phức tạp. Ông đề nghị rằng điều này làm cho độ chính xác quan trọng hơn đối với Tyrannosaurus cho phép nó, "đi vào, đớp một cú và hạ gục chúng." Ngược lại, loài Acrocanthosaurus có giác quan hạn chế bởi vì chúng săn lùng những con khủng long chân thằn lằn lớn, tương đối hiếm trong khoảng thời gian của Tyrannosaurus. Tyrannosaurus có hành khứu giác rất lớn so với kích thước não bộ của chúng, các cơ quan chịu trách nhiệm quản lí khứu giác cực nhạy. Điều này cho thấy rằng khứu giác của chúng đã được phát triển rất cao, và ngụ ý rằng tyrannosaurs có thể phát hiện thịt sống bằng mùi hương của một cái xác trong khoảng cách lớn. Khứu giác của tyrannosaurs có thể được so sánh với kền kền hiện đại, sử dụng mùi để đánh hơi chỗ ăn xác. Nghiên cứu về hành khứu giác chỉ ra rằng Tyrannosaurus rex có khứu giác nhạy nhất trong 21 loài khủng long không giống chim. Hơi bất thường trong số các loài khủng long chân thú, T. rex đã có một ốc tai rất dài. Chiều dài của ốc tai thường liên quan đến khả năng nghe ngóng, hoặc ít nhất là tầm quan trọng của thính giác trong hành vi của loài, ngụ ý rằng thính giác rất quan trọng đối với loài tyrannosaurs. Cụ thể, dữ liệu cho thấy Tyrannosaurus rex nghe tốt nhất trong dải tần số thấp và âm thanh tần số thấp là một phần quan trọng trong hành vi tyrannosaur. Một nghiên cứu của Grant R. Hurlburt, Ryan C. Ridgely và Lawrence Witmer đã đạt được các ước tính cho các số liệu kích thước não tương đối (EQs), dựa trên các loài bò sát và chim, cũng như các ước tính cho tỷ lệ giữa não và khối não. Nghiên cứu kết luận rằng Tyrannosaurus có bộ não tương đối lớn trong các loài khủng long đã trưởng thành trừ một số loài maniraptoriforms nhỏ (Bambiraptor, Troodon và Ornithomimus). Nghiên cứu cho thấy kích thước não tương đối của Tyrannosaurus vẫn nằm trong phạm vi của các loài bò sát hiện đại, có tối đa 2 độ lệch chuẩn trên mức trung bình của các EQ bò sát không giống chim. Các ước tính cho tỷ lệ khối lượng não trên với khối lượng não sẽ dao động từ 47,5 đến 49,53%. Theo nghiên cứu, con số này cao hơn ước tính thấp nhất cho các loài chim còn sống (44,6%), nhưng vẫn gần với tỷ lệ điển hình của cá sấu trưởng thành tình dục nhỏ nhất, dao động từ 45,9–47,9%. Hành vi ăn uống Một nghiên cứu vào năm 2012 bởi Karl Bates và Peter Falkingham đã chứng minh rằng Tyrannosaurus có lực cắn mạnh nhất của bất kỳ loài động vật trên cạn nào từng sống. Họ phát hiện ra rằng một con Tyrannosaurus trưởng thành có thể sinh ra lực cắn từ 35.000 đến 57.000 N (7,868 đến 12,814 lbf) với các răng sau. Thậm chí có thể lớn hơn theo ước tính đã được thực hiện bởi giáo sư Mason B. Meers tại Đại học Tampa vào năm 2003. Trong nghiên cứu của mình, Meers ước tính một lực cắn có thể là từ 183.000 đến 235.000 N (41.140 đến 52.830 lbf). Một nghiên cứu vào năm 2017 bởi Greg Erikson và Paul Gignac được công bố trên tạp chí Scientific Reports cho thấy Tyrannosaurus có thể tạo ra lực cắn từ 8,526 N đến 34,522 N (1,917 đến 7,761 lbf) và áp lực răng từ 718 đến 2,974 MPa (104,137 đến 431,342 psi). Điều này cho phép nó nghiền nát xương trong quá trình cắn lặp đi lặp lại và khai thác hiệu quả thịt từ xác của động vật, cho phép nó hấp thụ muối khoáng và tủy xương mà những loài ăn thịt nhỏ không thể tiếp cận được. Nghiên cứu được thực hiện bởi Stephan Lautenschlager và nhiều người khác từ Đại học Bristol, cho thấy Tyrannosaurus cũng có khả năng mở hàm tối đa một góc 80 độ, sự thích ứng cần thiết cho một loạt các góc hàm để cung cấp năng lượng cho vết cắn mạnh. Cuộc tranh luận về việc liệu Tyrannosaurus là một động vật ăn thịt hay ăn xác thuần túy cũng đã nhiều tuổi như cuộc tranh luận về sự vận động của nó. Lambe (1917) mô tả một bộ xương Gorgosaurus họ hàng thân cận với loài Tyrannosaurus và kết luận rằng nó và do đó loài Tyrannosaurus cùng là loài ăn xác thuần túy, bởi vì răng của con Gorgosaurus hầu như không bị mòn đi. Lập luận này không còn được coi trọng nữa, do khủng long chân thú thay thế răng của chúng khá nhanh chóng. Kể từ lần khám phá đầu tiên của Tyrannosaurus, hầu hết các nhà khoa học đã suy đoán rằng chúng là động vật ăn thịt; giống như những kẻ săn mồi lớn hiện đại, chúng sẽ dễ dàng tìm xác hoặc ăn cắp con mồi từ những kẻ săn mồi khác nếu có cơ hội. Nhà cổ sinh vật học Jack Horner là một người ủng hộ ý tưởng rằng Tyrannosaurus chỉ là kẻ ăn xác và không tự mình săn mồi, mặc dù bản thân Horner đã tuyên bố rằng ông không bao giờ xuất bản ý tưởng này trên các tài liệu khoa học được xem xét và sử dụng nó chủ yếu như một công cụ để tuyên truyền cho công chúng, đặc biệt là trẻ em, sự nguy hiểm khi đưa ra các giả định về khoa học (như giả định T. rex là kẻ săn mồi) mà không có bằng chứng rõ ràng. Tuy nhiên, Horner đã trình bày một số lý lẽ trong các tài liệu phổ biến để hỗ trợ giả thuyết ăn xác thuần túy: Tyrannosaur có đôi tay quá ngắn khi so sánh với những kẻ săn mồi được biết đến khác. Horner lập luận rằng cánh tay quá ngắn để tạo ra lực bám cần thiết để giữ con mồi. Tyrannosaurs có hành khứu giác và thần kinh khứu giác lớn (so với kích thước não của chúng). Những điều này gợi ý một khứu giác cực kì phát triển có thể đánh hơi xác thịt trên một khoảng cách lớn, giống những con kền kền hiện đại. Nghiên cứu về hành khứu giác của loài khủng long đã chỉ ra rằng Tyrannosaurus có khứu giác phát triển cao nhất trong số 21 loài khủng long được lấy mẫu. Những người phản đối giả thuyết ăn xác thuần túy đã sử dụng ví dụ về kền kền theo cách ngược lại, cho rằng giả thuyết ăn xác là không hợp lý bởi vì những kẻ ăn xác thuần túy hiện đại là những loài chim bay lượn lớn, sử dụng các giác quan quan trọng của chúng và cahs bay lượn dùng năng lượng một cách hiệu quả. Các nhà nghiên cứu ở Glasgow đã kết luận rằng một hệ sinh thái có năng suất như Serengeti hiện tại sẽ cung cấp đủ xác thối cho một con khủng long chân thú ăn xác lớn, mặc dù chúng phải là loài máu lạnh để có thể lấy calo từ xác thối hiệu quả hơn là khi đi hái lượm. Họ cũng gợi ý rằng các hệ sinh thái hiện đại như Serengeti không có loài ăn xác lớn trên mặt đất phần lớn bởi vì chim lượn hiện nay thực hiện công việc ăn xác hiệu quả hơn nhiều, trong khi các loài chân thú lớn không phải đối mặt với các sự cạnh tranh từ chim. Răng của Tyrannosaur có thể dập nát xương, và do đó có thể trích xuất càng nhiều chất dinh dưỡng (tủy xương) càng tốt từ thịt thối, thường là những phần ít dinh dưỡng nhất. Karen Chin và các đồng nghiệp đã tìm thấy các mảnh xương trong coprolit (phân hóa thạch) thuộc về tyrannosaurs, nhưng chỉ ra rằng răng của tyrannosaur không thích nghi tốt với việc nhai xương hiệu quả như linh cẩu làm để chiết xuất tủy. Vì ít nhất một số con mồi tiềm năng của Tyrannosaurus có thể di chuyển nhanh, bằng chứng rằng chúng chỉ có thể đi thay vì chạy chứng tỏ nó phải là một kẻ ăn xác. Mặt khác, các phân tích gần đây cho thấy rằng Tyrannosaurus, trong khi chậm hơn so với những kẻ săn mồi trên mặt đất hiện đại lớn, cũng có thể đủ nhanh để săn khủng long sừng và mỏ vịt lớn. Bằng chứng khác cho thấy hành vi săn mồi ở Tyrannosaurus. Các ổ mắt của tyrannosaurs được định vị sao cho mắt sẽ hướng về phía trước, cho chúng tầm nhìn hai mắt tốt hơn một chút so với diều hâu hiện đại. Horner cũng chỉ ra rằng dòng dõi loài tyrannosaur có lịch sử cải thiện thị lực hai mắt. Nếu tyrannosaur là loài chuyên ăn xác, theo thuyết chọn lọc tự nhiên sẽ không thể giải thích tại sao chúng vẫn còn giữ nhận thức chiều sâu mà thị lực lập thế mang lại, đặc điểm sẽ không cần thiết nếu nó là loài chỉ ăn xác. Trong động vật hiện đại, tầm nhìn hai mắt được tìm thấy chủ yếu ở những kẻ săn mồi. Bộ xương của một con hadrosaurid Edmontosaurus annrosens đã được mô tả từ Montana với tổn thương do tyrannosaur gây ra trên đốt sống đuôi của nó. Thực tế là vết cắn dường như đã lành lại cho thấy rằng con Edmontosaurus sống sót sau một cuộc tấn công của tyrannosaur vào một mục tiêu sống, tức là con tyrannosaur đã là động vật ăn thịt săn mồi. Ngoài ra còn có bằng chứng cho cuộc đối đầu giữa một con Triceratops và một con Tyrannosaurus trong đó có một vết răng của con Tyrannosaurus trên một sừng của con triceratops và squamosal (một xương của nếp gấp cổ); sừng bị cắn cũng bị gãy, với sự phát triển của xương mới sau khi gãy. Tuy nhiên, người ta không biết bản chất chính xác của tương tác là gì: bởi bất kì con nào cũng có thể là kẻ tấn công trước. Do vết thương của Triceratops lành lại, có nhiều khả năng là con Triceratops sống sót sau cuộc chạm trán và cố gắng chạy trốn khỏi Tyrannosaurus. Nhà cổ sinh vật học Peter Dodson ước tính rằng trong một trận chiến chống lại một con Triceratops, Triceratops chiếm ưu thế và tự vệ thành công bằng cách gây thương tích cho Tyrannosaurus với bộ sừng nhọn của nó. Khi kiểm tra mẫu vật Sue, nhà cổ sinh vật học Pete Larson tìm thấy một xương mác và đuôi đốt sống bị gãy và đã lành, xương mặt bị sẹo và một chiếc răng từ một con Tyrannosaurus khác bị chìm vào trong đốt sống cổ. Nếu đúng, đây có thể là bằng chứng mạnh mẽ cho hành vi hung hăng giữa các tyrannosaurs nhưng liệu đây có phải là sự cạnh tranh cho thức ăn và bạn tình hay ăn thịt đồng loại chủ động là không rõ ràng. Điều tra gần đây hơn về những vết thương có mục đích này cho thấy hầu hết là do nhiễm trùng chứ không phải là thương tích (hoặc đơn giản là tổn thương hóa thạch sau khi chết) và một số vết thương quá chung chung để chỉ ra sự xung đột của các cá thể cùng loài. Một số nhà nghiên cứu cho rằng nếu Tyrannosaurus là một loài ăn xác thối, một loài khủng long khác phải là loài săn mồi hàng đầu trong kỷ Phấn trắng tại Châu Mỹ. Các con mồi hàng đầu là các loài Khủng long đầu diềm và Khủng long chân chim lớn hơn. Các loài tyrannosaurids khác chia sẻ rất nhiều đặc điểm cùng với T. rex nên chỉ các loài ăn thịt nhỏ như dromaeosaurs và troodontids là loài ăn thịt bậc nhất khả thi. Trong giả thuyết này, các nhà ủng hộ thuyết ăn xác cho rằng kích thước và sức mạnh của tyrannosaurs cho phép chúng ăn cắp con mồi từ những kẻ săn mồi nhỏ hơn, mặc dù chúng có thể gặp khó khăn trong việc tìm kiếm đủ thịt để sống sót, do những loài chân thú nhỏ hơn đông hơn nhiều. Hầu hết các nhà cổ sinh vật học đều chấp nhận rằng Tyrannosaurus vừa là một kẻ săn mồi hoạt động và là một kẻ ăn xác như hầu hết các loài ăn thịt lớn. Tyrannosaurus có thể đã có nước bọt nhiễm trùng được sử dụng để tiêu diệt con mồi của nó. Lý thuyết này lần đầu tiên được William Abler đề xuất. Abler kiểm tra răng của tyrannosaurids giữa mỗi răng cưa; các răng cưa có thể đã giữ những mẩu thịt với vi khuẩn, khiến Tyrannosaurus có một vết cắn chết người, truyền nhiễm giống như rồng Komodo được cho là có vết cắn nhiễm khuẩn. Jack Horner cho rằng răng cưa của Tyrannosaurus giống như hình khối khác với răng của loài Komodo, với hình hơi tròn. Tất cả các dạng nước bọt đều chứa vi khuẩn nguy hiểm, do đó, viễn cảnh của nó được sử dụng như một phương pháp ăn thịt có thể bị tranh chấp. Tyrannosaurus, và hầu hết các khủng long chân thú khác, có lẽ chủ yếu là xử lý thân thịt với cú lắc ngang của đầu, giống như cá sấu. Cái đầu của chúng không linh hoạt như hộp sọ của allosauroids, do các khớp rất phẳng của đốt sống cổ. Ăn thịt đồng loại Một nghiên cứu từ Currie, Horner, Erickson và Longrich trong năm 2010 đã được đưa ra như là bằng chứng về hành động ăn thịt đồng loại trong chi Tyrannosaurus. Họ đã nghiên cứu một số mẫu vật Tyrannosaurus có dấu răng trong xương, do cùng một chi gây ra. Các vết răng đã được xác định trong xương cánh cụt, chân và xương bàn chân, và điều này được coi là bằng chứng cho loài ăn xác cơ hội, hơn là vết thương do chiến đấu cùng loài. Trong một cuộc chiến, họ nói rằng sẽ rất khó để chúng tiếp cận và cắn ở dưới chân của một đối thủ, nhiều khả năng là vết cắn được thực hiện bởi loài ăn xác. Khi vết cắn được tạo ra trên các bộ phận cơ thể với lượng thịt tương đối ít ỏi, người ta cho rằng Tyrannosaurus đang ăn một cái xác, do các bộ phận nhiều thịt hơn đã được ăn hết bởi loài khác. Nó cũng mở cửa cho khả năng rằng các tyrannosaurids khác đã thực hiện hành vi ăn thịt đồng loại. Các bằng chứng khác cho giả thuyết ăn thịt đồng loại đã được khai quật. Hành vi bầy đàn Philip J. Currie thuộc Đại học Alberta đã gợi ý rằng Tyrannosaurus có thể đã sống theo bầy. Currie so sánh Tyrannosaurus rex với các loài có liên quan như Tarbosaurus bataar và Albertosaurus sarcophagus, bằng chứng hóa thạch mà từ đó Currie từng sử dụng để gợi ý rằng chúng sống trong các bầy. Currie chỉ ra rằng một phát hiện ở Nam Dakota tìm thấy ba bộ xương bảo tồn của Tyrannosaurus rex ở gần nhau. Sau khi sử dụng chức năng quét CT, Currie nói rằng Tyrannosaurus đã co thể có khả năng hành vi phức tạp như vậy, bởi vì kích thước bộ não của chúng lớn hơn gấp 3 lần so với con vật có kích thước của nó. Currie nói rằng Tyrannosaurus có tỷ lệ kích thước não so với cơ thể lớn hơn so với cá sấu và gấp ba lần so với loài khủng long ăn thực vật như Triceratops có cùng kích thước. Philip Currie tin rằng Tyrannosaurus thông minh hơn sáu lần so với hầu hết các loài khủng long và các loài bò sát khác. Bởi vì các con mồi có sẵn, như Triceratops và Ankylosaurus, được bọc giáp tốt, và những con mồi khác thì di chuyển nhanh, nên Tyrannosaurus cần phải săn mồi theo nhóm. Currie suy đoán rằng những con chưa trưởng thành và con trưởng thành sẽ cùng nhau săn mồi, với những con non nhanh hơn đuổi theo con mồi và những con trưởng thành mạnh mẽ hơn sẽ hạ con mồi, tương tự như các loài săn bầy đàn ngày nay, nơi mà mỗi thành viên đóng góp một phần công sức để bắt mồi. Giả thuyết săn bầy đàn của Currie đã bị các nhà khoa học khác chỉ trích gay gắt. Brian Switek, viết cho tờ The Guardian vào năm 2011, lưu ý rằng giả thuyết của Currie chưa được trình bày như một nghiên cứu trong tạp chí khoa học được đánh giá ngang hàng, nhưng chủ yếu liên quan đến một cuốn sách và phim truyền hình Dino Gangs. Switek cũng lưu ý rằng lập luận của Currie về cách săn bầy của Tyrannosaurus rex chủ yếu dựa trên sự tương đồng với một loài khác, Tarbosaurus bataar, và rằng bằng chứng cho săn mồi theo bầy trong loài T. bataar vẫn chưa được công nhận và phải chịu sự giám sát khoa học. Theo Switek và các nhà khoa học khác, những người tham gia thảo luận về chương trình truyền hình Dino Gangs, bằng chứng cho săn bắt bầy đàn ở Tarbosaurus và Albertosaurus là yếu, chủ yếu dựa trên sự tập trung của một số bộ xương tại một nơi nhất định, mà nhiều giải thích thay thế đã được đề xuất (ví dụ hạn hán hoặc lũ lụt buộc nhiều mẫu vật cùng nhau chết ở một nơi). Trong thực tế, Switek lưu ý rằng nơi khai quật bộ xương của Albertosaurus, mà Currie đã dựa hầu hết các giải thích về bầy đàn, bảo tồn bằng chứng địa chất về một trận lũ như vậy. Switek nói, "riêng phần xương là không đủ để tái tạo lại hành vi khủng long. Các bối cảnh địa chất trong đó những xương được tìm thấy - các chi tiết phức tạp của môi trường cổ đại và tốc độ thời tiền sử - rất cần thiết để điều tra cuộc sống và cái chết của khủng long." và lưu ý rằng Currie trước tiên phải mô tả bằng chứng địa chất từ các nơi khác mà tìm ra xương tyrannosaur trước khi nhảy đến kết luận về hành vi xã hội. Switek đã mô tả những tuyên bố giật gân được đưa ra trên báo chí và các tin tức xung quanh chương trình Dino Gangs là "nauseating hype" và lưu ý rằng công ty sản xuất chịu trách nhiệm cho chương trình này, Atlantic Productions, có tiền thân là liên quan đến tuyên bố phóng đại về những khám phá hóa thạch mới, ví dụ như tuyên bố gây tranh cãi liên quan đến tổ tiên con người đầu tiên được cho là loài Darwinius, mà sau này được công nhận là người họ hàng gần hơn của loài vượn cáo. Bệnh lý học Năm 2001, Bruce Rothschild và cộng sự xuất bản một nghiên cứu kiểm tra bằng chứng cho gãy xương và co giật gân trong khủng long chân thú và ý nghĩa ảnh hưởng tới hành vi của chúng. Do chấn thương căng xương được tạo ra bởi các tác động liên tục chứ không phải các loại tổn thương khác. Trong số 81 xương chân Tyrannosaurus được nghiên cứu, một trong số đó được phát hiện là một xương gãy, trong khi không có xương nào trong số 10 xương được tìm thấy bị gãy. Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy trường hợp đứt dây chằng chỉ có ở Tyrannosaurus và Allosaurus. Một chấn thương bong gân đã để lại một vết thương trên xương tay của mẫu vật "Sue", nằm ở gốc của các cơ delta và cơ tròn to. Sự hiện diện của chấn thương bong gân giới hạn ở vai và chi trước trong cả Tyrannosaurus và Allosaurus cho thấy rằng khủng long chân thú có thể đã có một hệ cơ - xương phức tạp hơn và chức năng khác với loài chim. Các nhà nghiên cứu kết luận rằng triệu chứng đứt dây chằng của Sue là do sự vùng vẫy của con mồi. Sự hiện diện của gãy xương căng và đứt dây chằng nói chung cung cấp bằng chứng cho loài này là loài săn mồi linh động chứ không phải là một kẻ ăn xác. Một nghiên cứu năm 2009 cho thấy các lỗ hổng trong hộp sọ của một số mẫu vật trước đây được giải thích bằng các cuộc đối đầu giữa đồng loại có thể đã bị gây ra bởi ký sinh trùng giống như Trichomonas thường lây nhiễm cho các con chim hiện đại. Bằng chứng thêm về giao chiến cùng loài đã được tìm thấy bởi Joseph Peterson và các đồng nghiệp của ông trong mẫu vật Tyrannosaurus vị thành niên có biệt danh là Jane. Peterson và nhóm của ông phát hiện ra rằng hộp sọ của Jane cho thấy vết thương đâm thủng đã lành ở hàm trên và mõm mà họ tin rằng được gây ra từ một con Tyrannosaurus vị thành niên khác. Những lần quét vi tính tiếp theo của hộp sọ Jane đã tiếp tục xác nhận giả thuyết của nhóm nghiên cứu, cho thấy rằng các vết thương đâm thủng đến từ một chấn thương ngoại lai và có sự chữa lành sau đó. Nhóm nghiên cứu cũng tuyên bố rằng các vết thương của Jane có cấu trúc khác với các tổn thương do ký sinh trùng gây ra ở Sue và các vết thương của Jane nằm trên khuôn mặt của nó trong khi ký sinh trùng gây nhiễm trùng ở Sue gây ra tổn thương cho hàm dưới. Đặc điểm cổ sinh thái Tyrannosaurus sống trong khoảng thời gian được gọi là Lancian (tầng Maastricht) vào giai đoạn cuối của Phấn Trắng muộn, phân bố từ Canada ở phía Bắc cho tới nơi xa nhất là New Mexico ở phía nam Laramidia. Vào thời điểm này, Triceratops là động vật ăn cỏ chính ở phía bắc, trong khi ở phía nam khủng long chân thằn lằn titan Alamosaurus "thống trị". Hóa thạch Tyrannosaurus được tìm thấy tại nhiều hệ sinh thái khác nhau, bao gồm nội địa, cận nhiệt ven biển và đồng bằng bán khô cằn. Tại thành hệ Hell Creek, người ta đào được một vài mẫu Tyrannosaurus nổi bật. Vào tầng Maastricht, khu vực này có khí hậu cận nhiệt ấm và ẩm ướt. Thực vật đa số có hoa, nhưng cũng có các loài như thủy sam (Metasequoia) hay Araucaria. Trong hệ sinh thái này, Tyrannosaurus sống cùng với Triceratops; khủng long mặt sừng Nedoceratops, Tatankaceratops, Torosaurus; khủng long mỏ vịt Edmontosaurus annectens cùng có lẽ một chi trong Parasaurolophus; giáp long Denversaurus, Edmontonia, Ankylosaurus; khủng long đầu dày Pachycephalosaurus, Stygimoloch, Sphaerotholus, Dracorex; hypsilophodont Thescelosaurus và khủng long chân thú Ornithomimus, Struthiomimus, Orcomimus, Acheroraptor, Dakotaraptor, Richardoestesia, Paronychodon, Pectinodon,, Troodon. Một thành hệ khác với hóa thạch tyrannosaur là Lance ở Wyoming. Thành hệ này được cho là một môi trường bayou tương tự như vùng duyên hải vịnh ngày nay. Hệ động vật ở đây rất giống với Hell Creek, nhưng chi Struthiomimus thay thế chi chị em Ornithomimus. Chi khủng long mặt sừng Leptoceratops nhỏ cũng sống trong khu vực này. Ở phía nam Tyrannosaurus sống cùng với loài Titanosauria Alamosaurus; khủng long mặt sừng Torosaurus, Bravoceratops, Ojoceratops; khủng long mỏ vịt gồm một loài trong chi Edmontosaurus, Kritosaurus và có thể Gryposaurus; giáp long xương kết Glyptodontopelta; điểu long trộm trứng Ojoraptosaurus; một số loài chân thú khả thi như Troodon và Richardoestesia cùng thằn lằn bay Quetzalcoatlus. Địa hình đồng bằng nội địa bán khô cằn được cho là đặc trưng của vùng này khi đường biển Western Interior rút dần do mực nước biển toàn cầu thoái lui. Tyrannosaurus cũng có thể đã sống ở thành hệ Lomas Coloradas tại Sonora, Mexico. Mặc dù thiếu bằng chứng cốt học, sáu chiếc răng rụng và bị gãy từ tầng hóa thạch này đã được so sánh kỹ với các chi khủng long chân thú khác và dường như giống hệt với Tyrannosaurus. Nếu đúng, bằng chứng cho thấy phạm vi sinh sống của Tyrannosaurus có thể rộng hơn nhiều so với những suy nghĩ trước đây. Có khả năng tyrannosaur bắt nguồn từ châu Á, sau này chúng di cư sang Bắc Mỹ vào cuối kỷ Phấn Trắng. Trong văn hóa đại chúng Kể từ khi được mô tả lần đầu vào năm 1905, Tyrannosaurus rex đã trở thành loài khủng long được biết đến rộng rãi nhất trong văn hóa đại chúng. Nó là loài khủng long duy nhất thường được biết đến bằng tên khoa học đầy đủ Tyrannosaurus rex, và chữ viết tắt của nó "T. rex" cũng được sử dụng rộng rãi. Robert T. Bakker lý giải việc này trong quyển The Dinosaur Heresies "Nghe đến tên ‘Tyrannosaurus rex’, miệng lưỡi không thể nào cưỡng lại được phát ra." Phim Barney trong Barney & Friends (1992 - 2009) (Mỹ) Taury trong Harry And His Bucket Full Of Dinosaurs) (2005 - 2008) (Canada & Anh) Egbert trong Ice Age: Dawn Of The Dinosuars (2009) (Mỹ) Shelly trong Ice Age: Dawn Of The Dinosuars (2009) (Mỹ) Yoko trong Ice Age: Dawn Of The Dinosuars (2009) (Mỹ) Butch trong The Good Dinosaur (2015) (Mỹ) Sharptooth trong The Land Before Time (1988 - 2016) (Mỹ) Bassasaurus Rex trong Little Einsteins: Quincy And The Instrument Dinosaurs (2008) (Mỹ) Tyrannosaurus Rex (T-Rex) trong Jurassic World (2015) (Mỹ) Tyrannosaurus Rex (T-Rex) trong King Kong (1933) (Mỹ) Tyrannosaurus Rex (T-Rex) trong King Kong (2005) (Mỹ) Tyrannosaurus Rex (T-Rex) trong Jurasic Park (1993) (Mỹ) Tyrannosaurus Rex (T-Rex) trong Walking With Dinosaurs (1999) (Anh) Tyrannosaurus Rex (T-Rex) trong Journey To The Center Of The Earth (2008) (Mỹ) Tyrannosaurus Rex (T-Rex) trong Doraemon: Nobita's Dinosaur (1980) (Nhật Bản) Tyrannosaurus Rex (T-Rex) trong Stanley: Tyrannosaurus Wrecks (2001) (Mỹ) Chú thích Tyrannosauridae Khủng long kỷ Phấn Trắng Khủng long đặc sắc Khủng long Bắc Mỹ Khủng long Địa chất Montana Khủng long Creta muộn Bắc Mỹ
Gauß (hay thường được viết là Gauss) có thể là: Một đơn vị vật lý, đọc Gauß (đơn vị) Một tàu nghiên cứu, đọc Gauß (tàu thủy) Một chương trình máy tính, đọc GAUSS (chương trình) Tất cả các tên trên đều được đặt tên theo nhà toán học Carl Friedrich Gauß. Những người mang họ Gauß nổi tiếng khác là: Carl Friedrich Gauß, nhà toán học và nhà khoa học người Đức có nhiều đóng góp lớn cho các lĩnh vực khoa học, như lý thuyết số, giải tích, hình học vi phân, khoa trắc địa, từ học, thiên văn học và quang học. Ernst Gauß, bút danh của Germar Rudolf Heinrich von Gauß, thị trưởng của thành phố Stuttgart Jürgen Gauß, nhà hóa học lý thuyết người Đức Họ người Đức
là một thành phố cấp quốc gia của Nhật Bản ở vùng Kansai nằm trên đảo Honshu. Kobe là trung tâm hành chính của tỉnh Hyogo và là một trong những cảng biển chính ở Nhật, cùng với Yokohama, Osaka, Nagoya, Fukuoka và Tokyo. Kobe là một thành phố cảng sầm uất với dân số hơn 1.500.000 người. Đây là một trong những thành phố đầu tiên mở rộng thông thương với phương Tây từ năm 1868. Thành phố cảng biển quốc tế này có 45.500 cư dân nước ngoài đến từ 100 quốc gia. Kobe cũng là quê hương của món thịt bò Kobe nổi tiếng thế giới. Người dân ở đây nuôi và làm thịt gia súc theo một cách riêng để lấy được thịt ngon. Năm 1995, một cơn địa chấn ở phía nam đảo Awaji có cường độ 6,8 Mô men đã làm cho 6.434 người bị thiệt mạng (ước tính vào ngày 22 tháng 12 năm 2005); trong đó khoảng 4.600 ở Kobe. Kobe là thành phố bị phá huỷ nặng nề nhất do nó nằm gần tâm chấn nhất. Để tưởng niệm nạn nhân của trận động đất, thành phố luôn làm lễ mặc niệm vào tháng 12 hàng năm, Luminarie, lúc đó cả Tòa thị chính được trang trí với những mái vòm chiếu sáng. Lịch sử Các công cụ được tìm thấy ở phía Tây Kobe đã chứng minh đã có người sinh sống tại đây vào thời kỳ Jomon. Các địa lý tự nhiên của khu vực, đặc biệt là Hyōgo-ku, đã khiến cho nó trở thành trung tâm lịch sử của thành phố. Có một thời gian ngắn Kobe đã từng là thủ đô của Nhật Bản, từ tháng 6 năm 1180 đến tháng 11 năm 1180 vào thời kỳ Heian. Thành phố được thành lập vào ngày 1 tháng 4 năm 1889, và chính thức công nhận là thành phố quốc gia vào ngày 1 tháng 9 năm 1956. Trong thời kì Chiến tranh thế giới thứ hai, Kobe đã bị ném bom. Những trái bom từ máy bay B-29, vào ngày 17 tháng 3 năm 1945, giết chết 9000 người dân và đốt cháy cả thành phố. Từ những áp lực liên tiếp từ phía công dân, ngày 18 tháng 3 năm 1975, Hội đồng thành phố Kobe đã phải ra nghị quyết cấm mang vũ khí hạt nhân vào cảng Kobe. Hiệu quả của nghị quyết đó là ngăn ngừa tàu chiến Hoa Kỳ chứa vũ khí hạt nhân vào cảng. Ngày 17 tháng 1 năm 1995, một trận động đất 7,2 độ Richter, xảy ra vào 5:46 giờ sáng gần thành phố đã làm chết 6.433 người, làm 300.000 người thành vô gia cư, phá hủy phần lớn kho cảng và nhiều phần của thành phố. Đó là một thảm họa thiên nhiên tồi tệ nhất trong lịch sử hiện đại của thành phố. Cơn địa chấn đã phá hủy xa lộ Hanshin, nên còn được gọi là Cơn địa chấn dữ dội Hanshin. Kobe đã là cảng biển bận rộn nhất Nhật Bản, nằm trong 10 cảng biển châu Á cho tới khi cơn địa chấn Hanshin xảy ra. Từ sau đó, cảng Nagoya đã trở thành cảng biển lớn nhất nước Nhật. Thứ hạng quốc tế của Kobe đã tụt xuống 29 (năm 2002). Nhưng cảng Kobe sau đó đã lại leo lên vị trí thứ 3 Nhật Bản. Địa lý Nằm giữa bờ biển và dãy núi Rokko, thành phố Kobe rất dài và hẹp. Ranh giới của phần đất cảng là ngọn tháp cảng thép đỏ. Về phía đông là thành phố Ashiya, trong khi thành phố Akashi nằm ở phía tây của nó. Các thành phố lân cận khác bao gồm Takarazuka và Nishinomiyavề phía đông và Sanda và Miki về phía bắc. Hai hòn đảo nhân tạo, Đảo Cảng và đảo Rokko, được xây dựng để mở rộng phần thành phố vốn hẹp này. Cách xa bờ biển, trung tâm thành phố Kobe là phường Motomachi và Kokashita, cả khu phố Tàu Nankimachi. Núi Rokko nhìn ra Kobe ở độ cao 931 mét. Đây là nơi cao nhất ở Kobe. Các khu hành chính Nishi-ku (西区): Nông nghiệp ở quận Nishi rất trù phú bởi có hệ thống sông Akashigawa, là nơi thiên nhiên phong phú có quang cảnh thôn quê an bình. Đây là quận có lịch sử và truyền thống với nhiều đền chùa. Kita-ku (北区): Ngọn núi Rokko trải dài ở phía bắc của quận Kita cho thấy sự trù phú của thiên nhiên mà những đại đô thị không thể có. Trong quận, ngoài suối nước nóng Arima còn có tài sản giá trị văn hóa hoặc nghệ nhân dân tộc. Tarumi-ku (垂水区): Quận Tarumi là quận có khí hậu ôn hòa và môi trường thiên nhiên phong phú. Là nơi được biết đến qua tuyệt cảnh của eo biển Akashi và đảo Awaji. Suma-ku (須磨区): Quận Suma là quận nằm ở giữa vùng núi trù phú và vùng biển lặng sóng. Phía nam có di tích cỗ và phía bắc có khu dân cư được thành lập 40 năm trước, đã khiến cho quận Suma trở thành quận có đầy sự quyến rủ của lịch sử và thiên nhiên. Nagata-ku (長田区): Quận Nagata là quận có diện tích hẹp nhất trong 9 quận của TP Kobe nhưng lại là quận có mật độ dân số cao nhất. Quận có nhiều di tích lịch sử và có nếp sống văn hóa của khu phố đầy tình người. Hyōgo-ku (兵庫区): Quận Hyogo, nơi đã từng là thủ đô của Nhật Bản vào năm 1180. Tại đây cũng còn sót lại nhiều di tích lịch sử và truyền thống và là trung tâm lịch sử của thành phố. Chūō-ku (中央区): Vị trí của quận Chuo nằm giữa trung tâm của thành phố Kobe tạo nên sự phát triển cho Kobe. Quận có nhiều di sản mang tính lịch sử và là nơi dừng chân của rất nhiều khách du lịch. Ngoài ra, phía đông có xây dựng đô thị mới là HAT Kobe và đảo nhân tạo Port. Nada-ku (灘区): Quận Nada là khu vực bao bọc bởi biển và núi, hướng bắc giáp núi Rokko và núi Maya, phía nam giáp cảng Osaka; có nhiều cơ sở đa văn hóa, thể thao, giáo dục. Higashi nada-ku (東灘区): Quận Higashi Nada là khu phố giàu thiên nhiên có dòng sông Sumiyoshi chảy ở giữa quận. Quận còn có sự quyến rũ đa diện vì là nơi có truyền thống văn hóa cũ như Danjiri.v.v… nhưng lại có cả cái mới như đã kiến tạo đô thị trên mặt biển như đảo nhân tạo Rokko Giao thông vận tải Đường sắt Ở Kobe có đường xe lửa xuyên từ Đông đến Tây. Ga tàu chính là ga Sannomiya, vốn là nhà ga Kobe, nằm phía Tây, và nhà ga Shinkansen Shin-Kobe nằm ở phía Bắc. Ga Sannomiya là trung tâm đi lại chính ở Kobe, phục vụ như là điểm chuyển giao cho ba đường sắt đường liên tỉnh lớn. Tuyến đường sắt khác ở Kobe bao gồm tuyến tàu điện Kobe chạy về phía bắc tới Sanda và Arima Onsen; tuyến Hokushin Kyuko kết nối từ ga Shin-Kobe đến ga Tanigami. Đường bộ và đường hàng không Kobe là trung tâm ở một số đường cao tốc, bao gồm đường cao tốc Meishin (Nagoya - Kobe) và đường cao tốc Hanshin (Osaka - Kobe).[35] đường cao tốc khác bao gồm đường cao tốc Sanyo (Kobe - Yamaguchi) và đường cao tốc Chugoku (Osaka - Yamaguchi). Sân bay quốc tế Osaka ở gần Itami và Sân bay Kobe, được xây dựng trên một hòn đảo phía Nam Port Island, cung cấp chủ yếu là các chuyến bay nội địa, trong khi Sân bay quốc tế Kansai ở Osaka là trung tâm quốc tế chính trong khu vực. Nhân khẩu Kobe có dân số là 1.530.295 chiếm 658.876 hộ theo cuộc khảo sát dân số vào tháng 9 năm 2007. Mật độ dân số của thành phố là 2.768 người/km2. Kobe là thành phố có tỉ lệ dân số già thấp và độ tuổi lao động chiếm 66% dân số Kobe. Khoảng 44.000 công dân nước ngoài đăng ký sống ở Kobe. Bốn quốc gia phổ biến nhất là người Hàn Quốc (22.237), Trung Quốc (12.516), Việt (1.301), và người Mỹ (1.280). Kinh tế Cảng Kobe là một cảng quan trọng và là trung tâm sản xuất của Nhật Bản. Hiện Kobe nằm trong 3 tam giác kinh tế du lịch văn hoá của vùng Kansai: Osaka - Kobe - Kyoto. Năm 2004, tổng số GDP của thành phố là ¥ 6300000000000 với hơn 1/3 dân số làm ngành dịch vụ. Vật giá ở Kobe rất đắt đỏ. Du khách mới lên taxi thì đồng hồ đã chỉ 660 yên cho cây số đầu tiên. Bữa ăn trung bình cũng mất khoảng 2.000 yen. Rẻ nhất là nước trà đóng chai ướp lạnh không hơn ly trà đá của Việt Nam cũng gần 20.000 đồng Việt Nam. Năm 1995, mặc dù thành phố bị ảnh hưởng bởi động đất nhưng với ý chí và tinh thần vượt khó mãnh liệt của người dân Nhật Bản, chỉ trong vòng 6 ngày sau trận động đất, mạng lưới điện được phục hồi, hệ thống khí đốt và nước cũng trở lại bình thường trong vòng 3 tháng. Hệ thống đường bộ, đường sắt được khôi phục trong vòng 1 năm. Cảng Kobe được phục hồi hoàn toàn vào tháng 3-1997. Vì thế nền kinh tế Nhật Bản nói chung và Kobe nói riêng được phục hồi nhanh chóng. Văn hoá Thành phố Kobe chịu nhiều ảnh hưởng của phương Tây, vốn nhiều công viên và kiến trúc đẹp. Sức lôi cuốn của thành phố này ở chỗ bốn mùa quanh năm phong cảnh thiên nhiên rực rỡ. Kobe nổi tiếng với: món thịt bò Kobe, suối nước nóng Arima, ngắm nhìn thành phố đêm từ bờ biển hoặc từ núi, thành phố cảng với một không khí đẹp kì lạ đã được truyền qua lịch sử. Kobe còn được gắn liền với thời trang với câu nói: "Nếu bạn không thể đi đến Paris, thì đến Kobe." Ngoài ra còn có lễ hội nhạc Jazz "Kobe Jazz Street" đã được tổ chức mỗi tháng mười tại câu lạc bộ nhạc jazz và các khách sạn từ năm 1981. Kobe là nơi có sân golf đầu tiên ở Nhật Bản, Kobe Golf Club, được thành lập bởi Arthur Hasketh Groom vào năm 1903, và nhà thờ Hồi Giáo đầu tiên của Nhật Bản, Kobe Mosque, được xây từ năm 1935. Du lịch Cảnh quan tự nhiên Vùng núi Rokko: Núi Rokko cao 931m. Núi Maya cao 698m. Suối Nunobiki. Suối nước nóng Arima. Ashiya Rock Garden. Các địa điểm nổi tiếng Cảng Kobe Khu phố Tàu Đảo nhân tạo Port Đảo nhân tạo Rokko Khu mua sắm Motomachi Phố cổ Tor Khu đô thị mới HAT Kobe Bảo tàng nghệ thuật tỉnh Hyogo Động đất Kobe năm 1995 Ngày 17 tháng 1 năm 1995, một trận động đất 7,2 độ Richter, xảy ra vào 5:46 giờ sáng gần thành phố đã làm chết 6.433 người, làm 300.000 người thành vô gia cư, phá hủy phần lớn kho cảng và nhiều phần của thành phố. Đó là một thảm họa thiên nhiên tồi tệ nhất trong lịch sử hiện đại của thành phố. Cơn địa chấn đã phá hủy xa lộ Hanshin, nên còn được gọi là Cơn địa chấn dữ dội Hanshin. Chấn động chính chỉ kéo dài 10 giây và mạnh nhất ở 3 giây đầu tiên nhưng sức tàn phá của nó thật khủng khiếp. Nhà cửa rung lên bần bật rồi đổ nhào, xe chạy trên những chiếc cầu bị hất xuống dưới do cầu gãy. Sau đó là những đám cháy bắt đầu bốc lên. Hầu hết hệ thống đường bộ, đường sắt cảng cũng như hệ thống điện, nước và khí đốt bị hư hại nặng. Thành phố kết nghĩa Hình ảnh Chú thích
Save Me là bài hát của ban nhạc Queen đến từ Anh. Bản rock ballad do tay ghi-ta Brian May sáng tác, anh cũng chơi cả phần piano trong bài hát. Bài hát được thu âm vào năm 1979 và phát hành tại Anh vào ngày 25 tháng 1 năm 1980, gần sáu tháng trước khi phát hành album The Game. Bài hát đã đứng 6 tuần trong bảng xếp hạng của Anh, tại vị trí thứ 7.
"The Great Pretender" (tạm dịch tiếng Việt: Kẻ giả vờ vĩ đại) là một bài hát phổ biến của ban nhạc The Platters, do Buck Ram sáng tác nhạc và viết lời, anh cũng là người quản lý của The Platters. "The Great Pretender" đã đứng vị trí số một trong bảng xếp hạng Billboard Top 100 (Hot 100 sau này) năm 1956. Nó cũng là một trong ba bản thu âm của Platters có trong phần nhạc của bộ phim "American Graffiti". Bài hát được Dolly Parton hát lại vào năm 1984, và tên bài hát được lấy cho album phát hành vào những năm thuộc thập kỷ 1950 và 1960, The Great Pretender. Bài hát trở nên phổ biến hơn vào năm 1987 sau khi Freddie Mercury của ban nhạc Queen trình diễn. Roy Orbison cũng đã từng hát lại bài này. Bài hát được viết theo thể loại Rock 'n roll, giai điệu nhẹ nhàng và tình cảm. The Great Pretender cũng là tên một album nhạc của Queen. Nội dung bài hát Bài hát viết về một người đang sống một cuộc sống không thật như mình muốn, mọi thứ và mọi hành động của anh đều là giả vờ để che mắt mọi người những gì anh thực sự suy nghĩ. Mặc dù trong lòng rất cô đơn (sau cuộc chia tay) nhưng vẫn vui cười, đùa cợt như một gã hề, cố giấu để không ai nhận ra nỗi buồn đó, anh tự nhủ rằng: "Pretending that you're still around" (Vờ như em vẫn đang ở quanh đây). Anh tự nhận mình là một Great Pretender (người giả vờ giỏi).
Huyền thoại mùa thu (Legends of the Fall) là phim được sản xuất năm 1994—dựa trên tiểu thuyết cùng tên của Jim Harrison—đạo diễn Edward Zwick với các diễn viên chính Brad Pitt, Anthony Hopkins, Aidan Quinn, Julia Ormond, Henry Thomas và con gấu Bart the Bear. Mặc dù được khán giả lẫn các nhà phê bình đánh giá cao, bộ phim đã không thành công như mong đợi, chỉ đạt được một giải Oscar cho quay phim tốt nhất. Bối cảnh của phim trải dài từ trước Thế chiến thứ nhất qua Thời kỳ cấm đoán (Prohibition Era) tới thập niên 1920 và kết thúc năm 1963. Bộ phim xoay quanh chuyện gia đình Ludlow ở Montana gồm: Đại tá Ludlow (Hopkins thủ vai) - một cựu chiến binh trong Chiến tranh chống người da đỏ, ba người con trai của ông là Alfred (Quinn), Tristan (Pitt) và Samuel (Thomas), và người phụ nữ chiếm được tình cảm của cả ba anh em nhà Ludlow - Susannah (Ormond). Nội dung phim Chán ghét tội lỗi của những kẻ phản bội thuộc chính phủ Hoa Kỳ gây ra đối với những người Mỹ bản xứ, đại tá William Ludlow đã về hưu cùng người bạn tin cậy nhất của mình, 1 người Mỹ bản xứ từng phục vụ cho đoàn kỵ binh, tên One Stab. Ông cùng gia đình dời đến sống ở một vùng xa xôi của Montana, dựng nên một ngôi nhà lớn và bắt đầu chăn nuôi súc vật. Vợ ông, sinh ra và lớn lên ở thành phố, không thích ứng được với những mùa đông khắc nghiệt của vùng thôn quê giá rét này và đã rời bỏ đến vùng bờ biển miền Tây. Bà đã không quay trở lại trong nhiều năm nhưng bà và gia đình đại tá William Ludlow vẫn duy trì cuộc hôn nhân, là những người bạn thân và liên lạc qua thư từ. Ông nuôi lớn những đứa con trai của mình với sự giúp đỡ của One Stab - người đã dạy cho những đứa nhỏ mọi ngôn ngữ của người dân Da Đỏ. Chính giọng của One Stab đã kể lại bộ phim, trong dòng hồi tưởng và khi đã là một ông già. Sống cùng với gia đình Ludlow là người làm thuê Decker cùng với người vợ da đỏ tên Pet và cô con gái nhỏ Isabel, thường gọi là Isabel II để phân biệt với phu nhân đại tá. Đại tá Ludlow có ba người con trai, cả ba đều khác nhau như ban ngày với ban đêm. Người con cả, Alfred, đã trưởng thành từ rất sớm, luôn có trách nhiệm và tính cẩn trọng. Người con út, Samuel, tuy chất phác nhưng có kiến thức và luôn được hai anh của mình trông nom. Tristan, người con giữa, là một người hoang dã, điển trai, ngoan cố, dũng cảm, tự tin và là người đã học hết những phong tục cổ của người Da Đỏ do One Stab truyền dạy. Sau khi giới thiệu nhân vật, bộ phim mở ra với cảnh Tristan, khi 12 tuổi, đã rời nhà để săn một con gấu rừng. Cậu và con gấu khổng lồ đối mặt với nhau, con gấu tấn công cậu và trận đánh đó đã khiến Tristan bị thương. Cậu cắt một móng vuốt từ chân con gấu và con gấu đã chạy lẩn đi. Và rõ ràng dù với tính cách hoang dã đó, Tristan vẫn là đứa con mà người cha yêu nhất. Anh là người mạnh mẽ nhất trong 3 anh em. Ngay trước khi Thế chiến thứ nhất bắt đầu, Samuel, đã đi xa để học trường Harvard, đã quay về nhà và dẫn theo anh người vợ chưa cưới, Susannah. Susannah là một cô gái trẻ đẹp, thông minh và con nhà tử tế. Mọi người đàn ông trong căn nhà trở nên "mê mẩn bởi sự có mặt của cô". Cô bị quyến rũ bởi tính cách hoang dã và từng trải của Tristan, và cô trở nên khó xử trông thấy giữa Tristan và tình yêu cô dành cho Samuel. Cả ba anh em đều sống vui vẻ với nhau và đây là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của gia đình Ludlow. Samuel và Susannah dự định sẽ cưới nhau, nhưng trước khi hôn lễ có thể tiến hành, chiến tranh ở châu Âu bắt đầu. Samuel cảm thấy tha thiết muốn chống lại quân Đức và chống đối ra mặt như thể anh hiểu được tường tận những điều anh đang nói ra. Đại tá Ludlow không đồng ý với con, nói rằng anh đang nói về chiến tranh dù chưa bao giờ anh từng thấy chiến tranh ra sao. Samuel nói với cha đã có hai người anh họ người châu Âu của gia đình Ludlow bị giết chết, và ở điểm này, Colonel Ludlow chỉ ra rằng đó là hai người mà các con ông chưa bao giờ gặp mặt. Vào tháng 10 năm 1914, sau khi đọc một bài báo đầy lo ngại về cuộc chiến, Samuel đột ngột thông báo với cả nhà rằng anh đang chuẩn bị đi đến Canada để gia nhập quân đội ở đó, và sẽ chiến đầu cho đế chế Anh, bởi vì nước Mỹ vẫn chưa vào cuộc. Đại tá Ludlow có ấn tượng rất sâu sắc về chiến tranh và đã rất coi khinh chính phủ Mỹ sau khi tận mắt chứng kiến sự hung bạo mà người Da Đỏ phải gánh chịu trong suốt cuộc mở rộng thuộc địa về phía Tây. Tuy vẫn luôn tôn trọng ý kiến của những đứa con mình, ông lại phản đối quyết liệt việc tham gia vào một cuộc chiến mà ông cho rằng không phải việc của người Mỹ. Dù vậy, Samuel vẫn kiên quyết theo đuổi việc gia nhập quân đội, và cuối cùng cả Alfred và Tristan đều đi cùng anh. Tristan không hề quan tâm đến cuộc chiến, mà chỉ muốn bảo vệ em trai Samuel, cũng như làm theo điều mà người cha yêu cầu khi họ ra đi. Vào đêm trước khi lên đường, Susannah đã đến gặp Tristan để nói chuyện về Samuel. Cô trở nên tức giận về quyết định tham gia chiến tranh của anh ta và trong nước mắt, cô ôm lấy Tristan, van xin anh hãy bảo vệ Samuel trở về yên bình. Tristan dỗ dành cô và cái ôm đó còn kéo dài đến vài khoảnh khắc sau, bởi vì họ đã phải lòng lẫn nhau. Vào giây phút đó, Alfred bước vào phòng và họ lẹ làng tách ra. Alfred khôngnói gì, nhưng sau đó Samuel nói rằng dường như có một khoảng cách không thể lý giải được đang gia tăng giữa họ với nhau. Đại tá Ludlow gửi Stab đi đến Canada cùng con mình, để mang về ba con ngựa tốt nhất, ông nói với Stab ông không thể để con mình chinh chiến đến cuộc chiến trên lưng những con ngựa già. Ba anh em cùng thuộc một đơn vị bộ binh. Alfred, trở thành một sĩ quan, dẫn đầu một cuộc tấn công trong một trận đánh lớn (có thể là trong trận chiến Ypres thứ hai). Tristan rời đơn vị mình để ở bên cạnh Samuel. Cuộc tấn công bị đánh trả với số lượng tử vong lớn, và Alfred bị thương ở chân. Khi Samuel bị trúng một viên đạn vào má, lập tức Tristan kéo Samuel vào một lỗ đào, và giữ cậu ở yên đó cho đến khi trận đánh kết thúc, và rồi họ tìm đường trở về đơn vị mình. Những ngày sau đó, Tristan đến thăm Alfred ở bệnh xác và khi biết Samuel đã xung phong tham gia một nhiệm vụ do thám nguy hiểm, anh đã trộm ngựa để đi tìm em mình. Cảnh phim chuyển sang cảnh Samuel và một sĩ quan bị vướng phải trận đạn của quan địch. Khi người sĩ quan bị giết chết, Samuel tiếp tục nhiệm vụ của mình cho đến khi một bình ga nổ ngay bên cạnh làm anh bị mù. Tristan cưỡi ngựa vào thẳng cuộc chiến đang nảy lửa và đối mặt với rất nhiều lính Đức. Anh đã giết tất cả bọn họ, mang một mặt nạ hơi ga của một tên lính chết vào rồi tiếp tục tìm Samuel. Khi anh tìm thấy em mình, Samuel đang lò dò đi giữa một khu rừng và gọi tên Tristan. Trước khi họ thật sự đến gần nhau, Samuel bị vướng vào một hàng rào gai. Tristan chưa đến kịp với em mình thì hai tên lính Đức đã dùng súng máy nã đạn xối xả vào Samuel. Tristan giết chết cả hai tên lính và đến gần Samuel. Anh ôm Samuel trong vòng tay cho đến khi em mình ra đi, và lấy tim Samuel ra (đây có thể là một phong tục của người Da Đỏ mà Tristan học từ One Stab) để gửi về cho cha mình. Biến cố đã rung động Tristan tới tận sâu trong lòng và anh nguyền rủa Chúa trời đã để anh mất đi người em trai. Không lâu sau đó, không cần được ra lệnh, Tristan lén xâm phạm vòng vây giặc. Anh giết hai tên lính Đức chỉ bằng một con dao. Anh đã không quay trở về cho đến tận sáng hôm sau, với những bộ da đầu của vô số lính Đức đeo xung quanh cổ mình. Những người lính khác nhìn trừng trừng vào anh trong im lặng khi anh cưỡi ngựa vào khu trại. Ngay sau đó, anh rời bỏ quân đội, nhưng không trở về nhà liền mà chỉ gửi trái tim của Samuel về cùng Alfred. Sau khi về nhà để chôn cất Samuel vào tháng 10 năm 1915, Susannah định sẽ ra đi vào ngày hôm sau. Nhưng những cơn bão tuyết dữ dội đã ngăn cản ý định ra đi của cô, đại tá Ludlow nài cô ở lại cho đến mùa xuân. Vào mùa xuân đó, Alfred dẫn Susannah tới trước mộ của Samuel và thổ lộ tình yêu của anh, rồi cầu hôn với cô. Susannah từ chối. Tristan cuối cùng cũng trở về nhà và Susannah thấy anh đã khóc trước mộ của Samuel, cô đã an ủi anh. Alfred, nổi cơn ghen khi thấy họ yêu nhau và nhìn cảnh họ cùng cưỡi ngựa trở về, đã đưa ra một lời bình luận lạnh lùng với Tristan vào bữa ăn tối và làm anh giận dữ chạy ra màn đêm. Susannah đi theo Tristan. Anh quay lại và hôn cô. Cả hai trở thành người yêu của nhau. Sáng hôm sau, Alfred tức giận và ganh ghét đối diện với Tristan, khăng khăng cho rằng Tristan không thể làm cô hạnh phúc được. Khi Tristan trả lời rằng anh sẽ cố gắng, Alfred nói: "Em sẽ thất bại thôi". Alfred rời nhà vào ngày hôm đó để đến Helena xây dựng sự nghiệp. Susannah yêu Tristan rất nhiều và luôn mơ về cuộc sống hạnh phúc bên nhau, nhưng Tristan vẫn còn bị ám ảnh bởi những ký ức về cuộc chiến, nỗi đau và cảm giác tội lỗi khi không bảo vệ được Samuel ngày ngày gặm nhắm anh. Dù ban đầu anh thấy khuây khỏa trong vòng tay của Susannah, nhưng rồi anh lại cảm thấy theo cách nào đó, việc anh ở cùng người phụ nữ từng là người yêu của em trai mình là sai trái, và anh cũng thấy phải chịu trách nhiệm về việc đẩy Alfred ra đi. Anh quyết định phải đi xa một thời gian, một vài tháng, để có thể bình tĩnh trở lại. Susannah van nài anh ở lại cùng cô nhưng anh không chịu. Cô hỏi anh rằng nếu họ có con cùng nhau, phải chăng anh vẫn sẽ ra đi. Tristan trả lời đơn giản: "Đúng vậy". Sau cùng, cô nói rằng cô sẽ đợi anh cho dù nó mất bao nhiêu thời gian đi nữa, cô sẽ chờ anh mãi mãi. Tristan không trở về trong nhiều năm sau đó. Con quỷ dữ trong người anh đã theo đuổi anh khắp nơi. Anh trở thành một thợ săn ở vùng Nam Thái Bình Dương và Châu Phi. Ở trại chăn nuôi, Susannah vẫn đợi anh trong yên lặng, trái tim cô ngày càng mệt mỏi bởi nỗi đau đớn khi mỗi năm trôi qua. Cuối cùng, cô nhận được một lá thư từ anh. Nó chỉ viết rằng: "Mọi thứ chúng ta từng có đã chết, cũng như anh đã chết rồi. Em hãy cưới người khác đi." Trái tim cô tan vỡ và cô đã không bao giờ có thể hồi phục. Alfred tìm thấy cô đang khóc nức nở và cố gắng an ủi cô nhưng đại tá Ludlow ngăn cản và trừng phạt anh. Alfred rất tức giận và bảo với cha rằng Tristan đã bỏ rơi cô, cũng như chính ông. Anh nói rằng Tristan đã phản bội Samuel cùng cô ta ngay trước khi họ lên đường và rằng Tristan phải chịu trách nhiệm về cái chết của Samuel. Đại tá Ludlow, trước đó đã rất buồn về việc Alfred chạy đua vào quốc hội, đã nổ giận, nói với Alred rằng "Samuel đã chọn trở thành một người lính! Và những người lính ra đi, bởi sự tàn sát của những kẻ ăn bám như mày". Đại tá bị đột quỵ vào đêm đó và không thể nói gì sau đó, phải viết ra những gì ông muốn trên một cái bảng đen. Và rồi trại chăn nuôi dần bị lơ là. Cuối cùng, Susannah đã cưới Alfred, bấy giờ đã là một người trong quốc hội, sau khi anh đã rời nhà vì sự rạn nứt với cha mình. Họ di chuyển đến sống ở Helena, Montana, nơi mà hoạt động chính trị của Alfred khiến anh vướng vào hai anh em vô vị nhà O’Bannion, những kẻ bán rượu lậu người Mỹ gốc Ireland, những nhà kinh doanh và những tên xã hội đen. Đại tá Ludlow không liên lạc gì với Alfred trong suốt thời gian đó và vẫn hướng lòng mình về người con ông yêu quý nhất, Tristan. Tristan rốt cuộc cũng trở về nhà, mang theo một bầy ngựa và nhanh chóng thổi cuộc sống trở lại với trại chăn nuôi và người cha của mình. Tristan chấp nhận cuộc hôn nhân của Alfred, nói rằng đó là điều nên làm. Ít lâu sau anh yêu và cưới Isabel II. Họ có một đứa con trai, tên Samuel Decker và một đứa con gái, tên Isabel III. Thời gian hạnh phúc nhất của Tristan bắt đầu. Anh định cư để chăm lo cho trại chăn nuôi, nuôi nấng con cái và hoàn toàn thanh thản, cũng như con quỷ trong anh cuối cùng đã bị lắng xuống. Vậy mà, vì điều lệ cấm bán rượu mạnh, anh và cha mình bị dính vào tội bán rượu lậu và xung độ với anh em nhà O’Bannion, những đối thủ trong việc buôn bán. Vợ của Tristan vô tình bị giết chết bởi một viên cảnh sát được anh em nhà O’Bannion đút lót. Tristan ngay lập tức đã xông đến đánh gục tên cảnh sát và do đó bị giam giữ trong 30 ngày. Susannah đến nhà tù thăm Tristan, cô nói với anh rằng cô cảm thấy rất có lỗi vì đã từng mong cho Isabelle II chết, cũng như cái chết của Samuel và rằng nhiều khi cô vẫn mơ mình là mẹ của con anh. Tristan nói với cô những cái chết đó không phải lỗi ở cô, nhưng cô vẫn sống trong mặc cảm tội lỗi. Vào giây phút cho thấy nhân cách cao quý của Tristan, anh đã từ chối sự giúp đỡ của Susannah và bảo cô trở về nhà với Alfred, người chồng hợp pháp của cô. Viên cảnh sát đã giết Isabel II chỉ bị khiển trách mà không bị trừng phạt. Sau khi được thả ra, Tristan và người cha vợ đã giết chết những ai gây ra cái chết cho Isabel II, viên cảnh sát và một trong hai anh em nhà O’Bannion. Cùng khoảng thời gian đó, Susannah, tuyệt vọng vì chưa bao giờ vượt qua được tình yêu dành cho Tristan, không thể chịu đựng được lời từ chối của anh, đã tự sát bằng súng. Gia đình Ludlow chôn Susannah ở nghĩa trang gia đình, và Alfred nói rằng cả cuộc đời mình, anh đã làm mọi điều đúng, đều tuân theo mọi điều luật, trong khi Tristan phá bỏ tất cả, nhưng mọi người trong nhà vẫn luôn yêu quý Tristan hơn, ngay cả chính vợ của anh cũng vậy. Khi người còn lại của nhà O’Bannion đến tìm Tristan, cùng một viên cảnh sát trưởng ăn hối lộ và một viên cảnh sát khác, họ nói Tristan rằng anh phải biết họ không đến để bắt anh, tức là họ sẽ giết anh. Tuy vậy, trong cuộc xoay vần của số phận, một cuộc đấu súng đã diễn ra, Alfred và đại tá Ludlow đã giết chết bọn chúng, và Tristan không hề bị bắn. Alfred cuối cùng đã được tha thứ vì đã quay trở về với cha mình. Họ chôn cả ba xác người đi và đẩy chiếc xe xuống một hồ sâu, Tristan, biết rằng anh sẽ bị buộc tội vì sự vắng mặt của chúng, đã rời bỏ miền núi ra đi. Anh nhờ Alfred nuôi dạy con mình cho đến khi anh có thể trở về. Sau đó bộ phim lướt qua nhiều thập kỷ sau đó, với lời kể của Stab. Phim chiếu cảnh mộ của tất cả những người trong cuộc đời của Tristan đã chết trước anh, và kể rằng những đứa con của Tristan đều trưởng thành và có gia đình riêng. Stab tiếp tục bình luận rằng tất cả những ai đã yêu quý Tristan nhất đều ra đi trước anh và rằng "anh ta là một tảng đá mà họ tự tông vào để rồi vỡ vụn ra". Bộ phim kết thúc với khung cảnh mơ hồ, trong đó Tristan đã là một ông già vào năm 1963, ở vùng đồi núi, truy tìm theo dấu vết con gấu năm xưa và bất ngờ bị gấu tấn công. Stab kết thúc câu chuyện của mình bằng câu: "Đó là một cái chết đẹp." Lượm lặt Bộ phim được quay chủ yếu ở sườn dãy Rocky phía Tây của Calgary, Alberta, các cảnh đường phố Helena, Montana được thực hiện ở Vancouver. Các cảnh trong Thế chiến thứ nhất được thực hiện ở Morley phía Tây của Calgary và thuê một lượng lớn người địa phương làm diễn viên phụ. Quân đội Canada đã hỗ trợ một lực lượng gồm cả quân chính quy và dự bị, đóng vai trò chủ yếu trong các cảnh phụ, dưới sự chỉ đạo của sử gia người địa phương Simon Sherwood. Cảnh chiến tranh được thực hiện trong hơn 2 tuần với một số lượng lớn các đường hào và bệnh viện dã chiến được tái hiện chân thực. Đơn vị được mô tả trong phim là tiểu đoàn 10 của Lực lượng viễn chinh Canada, như dấu hiệu "C-over-10" mà Henry Thomas đeo. Những người lính mặc váy ở trong phim là hình ảnh đại diện cho một đại đội của tiểu đoàn 16 của Lực lượng viễn chinh Canada (ngày nay vẫn được trung đoàn Canada Scottish ghi nhớ công trạng), (một đại đội của tiểu đoàn 16 được huy động từ Cameron Highlanders số 79 từ Winnipeg). Tiểu đoàn 10 được tái dựng bởi Calgary Highlanders, đây cũng là nơi cung cấp nhiều diễn viên phục vụ cho các cảnh huấn luyện và các băng C-over-10 được sử dụng trên nhiều bộ quân phục. Ban đầu Johnny Depp được mời đóng vai Tristan Ludlow, nhưng anh từ chối. Phát hành DVD & Bluray Huyền thoại mùa thu lần đầu được phát hành DVD vào năm 1997, sau đó được tái phát hành vào năm 2000. DVD bộ phim cũng được phát hành hợp pháp và có bản quyền tại Việt Nam. Năm 2011, bộ phim được phát hành dưới dạng Blu-ray vào năm 2011 với nhiều nội dung bổ sung như cảnh quay bị cắt chẳng hạn. Chú thích
"Somebody to Love" là một bài hát của ban nhạc Queen, do Freddie Mercury sáng tác và được phát hành vào năm 1976 trong album A Day at the Races. Cũng giống như bài "Bohemian Rhapsody", một bài hát kinh điển trong album trước của ban nhạc, bài hát này có các lớp âm thanh và giọng khác nhau, điều này dựa trên việc sắp xếp hợp xướng của nhạc gospel. Đây là bản rock ballad mà các thành viên như Freddie Mercury, Brian May và Roger Taylor đã cùng hoà âm của mình để tạo nên ấn tượng một dàn hợp hướng có 100 giọng ca. Lời của bài hát được viết khá phù hợp với loại nhạc gospel, đã tạo nên một bài hát nói về niềm tin với Chúa, sự tuyệt vọng và tìm kiếm tâm hồn; các câu hỏi của người hát nói về sự thiếu vắng tình yêu trong cuộc sống của anh ta và những quy luật và sự tồn tại của Chúa. Vẫn theo phong cách ghi-ta của Queen, bài hát còn được hòa âm khá phức tạp và có đoạn sô lô của tay ghi ta Brian May, bài hát đã đứng thứ 2 trong bảng xếp hạng của Anh và đứng thứ 11 ở Mỹ. Brian May đã nói rằng bài hát đã có ảnh hưởng từ âm nhạc của Aretha Franklin. Vào Buổi công diễn kỷ niệm Freddie Mercury năm 1992, bài hát đã được George Michael hát và sau đó đã được tái phát hành vào năm 1993 trong đĩa EP có tên là Five Live và đã được xếp thứ nhất ở Anh. "Somebody to Love" cũng đã được Queen biểu diễn cùng với Elton John là giọng ca chủ đạo trong một buổi diễn ở Paris vào tháng 1 năm 1997. Phiên bản này cũng có trong album Greatest Hits III phát hành năm 1999. Phiên bản hát lại Vào năm 2004, "Somebody to Love" có trong phim Ella Enchanted, do Anne Hathaway trình bày.
Spread Your Wings là một bài hát của ban nhạc Queen, trong album News Of The World phát hành năm 1977. Bài hát được phát hành ở A side của đĩa đơn Spread Your Wings/Sheer Heart Attack năm 1978. Đây là một bản rock ballad do John Deacon sáng tác. Trong bài hát, Deacon chơi ghi ta bass và acoustic ghi-ta, Freddie Mercury chơi piano và hát, Brian May chơi ghi-ta còn Roger Taylor chơi trống. Đây là đĩa đơn của Queen không có việc hoà âm các thành viên trong ban nhạc. Bài hát này khá quen thuộc với những người hâm mộ Queen và họ thường hát theo bài hát, có thể thấy được điều này trong album tổng hợp Live Killers. Bài hát có nhịp 4/4 bắt đầu với môtíp dạo piano ở giọng Rê trưởng. Bài hát được viết chủ yếu ở cung này và có một vài cung Si thứ ở đoạn điệp khúc. Lời bài hát viết về một chàng trai có tên là Sammy, làm người quét dọn ở Emerald Bar. Người kể chuyện (ca sĩ) đang cố gắng cổ vũ, khuyến khích anh ta, nói với anh ấy rằng "spread your wings and fly away" (hãy dang rộng đôi cánh của mình và bay đi). Ngoài phiên bản trong album News Of The World, Queen đã thu âm một phiên bản khác cho đài BBC mà có nhiều phần piano nổi trội hơn và phần kết thúc nhanh hơn. Bài hát này cũng được ban nhạc power metal Đức Blind Guardian hát lại trong album Somewhere Far Beyond phát hành năm 1992.
Thước là công cụ đo lường chính xác đến từng mm, dùng để vẽ, đo chiều dài, chiều cao, góc... Sử dụng nhiều trong đời sống hằng ngày. Phân loại Thước đo chiều dài Thước thẳng Thước thẳng được chế tạo từ nhựa dẻo hay bằng kim loại. Sử dụng nhiều trong học tập, cơ khí, vẽ các bảng kĩ thuật, xây dựng, vẽ tranh..., dùng để đo dộ dài và kích thước của một vật. Trên thước có vạch, các vạch cách nhau 1 mm để đo độ dài chi tiết hơn. Có vài loại thước còn gắn thêm đo chiều dài bằng inch Các loại thước thẳng Thước cuộn Thước cuộn (thước lá) được chế tạo bằng thép, hợp kim, ít co giãn, không gỉ. Có khả năng kéo ra và cuộn lại nhờ có lò xo bên trong. Ngày nay, thước cuộn có khả năng bật ra và bật lại mà không cần tay để mà kéo ra. Trên thước có vạch, các vạch cách nhau 1 mm, thường được dùng trong lĩnh vực xây dựng. Các loại thước cuộn Thước kẹp Thước cặp là loại thước chuyên dụng trong các ngành kỹ thuật như cơ khí, ô tô..., thước được chế tạo bằng thép hợp kim không gỉ (Inox) có độ chính xác cao (0,1 đến 0,05 nm). Dùng để đo đường kính trong lẫn đường kính ngoài, chiều sâu lỗ... Thước đo góc Thước có hình bán nguyệt dùng để đo góc trong nhiều lĩnh vực. Phạm vi đo từ 0° đến 180°(đối với thước đo góc thông thường) hoặc >180°(đối với thước đo góc vạn năng). Thước kẻ vuông Thước kẻ vuông hoặc thước êke vuông làm bằng hợp kim, dùng để đo góc vuông. Sử dụng để vẽ bảng kĩ thuật, vạch dấu trong ngành cơ khí... Thước eke Thước eke làm bằng nhựa dẻo hoặc kim loại dùng nhiều trong học tập của học sinh và thầy cô. Có vài loại thước còn gắn thêm đo chiều dài bằng inch. Ghi số góc ở 2 góc còn lại là 30o và 60o hoặc 2 góc bằng 45o. Thước đo góc vạn năng Thước đo góc vạn năng sử dụng một thước đo góc và một cây thước thẳng được gắn với nhau sao cho thước đo góc di chuyển được trong thước thẳng. Thước đo góc vạn năng có độ chính xác cao nhất. Muốn xác định trị số thực của góc ta dùng loại thước này. Thước vẽ hình học Có các loại thước vẽ hình học: Thước parabol Thước elip Thước vẽ hình tròn Thước cong
Innuendo là một bài hát của ban nhạc Rock Queen. Đây là bài hát mở đầu của album cùng tên. Bài hát do Freddie Mercury sáng tác cùng với và Roger Taylor viết lời. Đây là bài hát dài hơn 6 phút rưỡi. Bài hát đã đứng thứ nhất trong bảng xếp hạng của Anh. Bài hát có ảnh hưởng lớn từ ca khúc "Kashmir" của Led Zeppelin. Mặc dù trong bài hát có phần ghi ta sô lô kiểu flamenco của tay chơi ghi ta Steve Howe từ ban nhạc Yes. Bài hát và các phần trong bài "Kashmir" đã được Robert Plant thể hiện cùng với ba thành viên còn lại của Queen tại buổi công diễn kỷ niệm Freddie Mercury. Tuy nhiên, bài hát đã không có trong đĩa Freddie Mercury Tribute DVD, do Robert Plant không nhớ lời bài hát và do vậy, đã hát không được chính xác.
Trong toán học, không gian vectơ (hay còn gọi là không gian tuyến tính) là một tập hợp của các đại lượng gọi là vectơ, một đại lượng có thể cộng và nhân bởi một số, được gọi là vô hướng. Vô hướng thường được lấy là số thực, nhưng cũng có các không gian vectơ với nhân vô hướng là số phức hoặc số ảo, hoặc tổng quát hơn là một trường bất kì. Toán tử cộng và nhân vô hướng phải thỏa mãn các điều kiện nhất định gọi là tiên đề, được liệt kê bên dưới. Để phân loại vô hướng là thực hay phức, ta thường dùng thuật ngữ không gian vectơ thực hoặc không gian vectơ phức. Không gian Euclid là một ví dụ của không gian vectơ. Chúng đại diện cho các đại lượng vô hướng như là lực: Mọi lực (cùng loại) có thể cộng với nhau để thu được lực thứ 3, và phép nhân vectơ lực với một số thực có thể thu được một vectơ lực. Cùng với đó, nhưng theo một cách hình học hơn, vectơ đại diện cho sự thay thế của mặt phẳng trong mặt phẳng hoặc trong không gian 3 chiều cũng từ không gian vectơ. vectơ trong không gian vectơ không cần thiết phải có một đại lượng dạng mũi tên như trong ví dụ của nó: vectơ được coi như là một đại lượng toán học với các tính chất cụ thể, đôi khi có thể mô tả một cách trực quan bằng một mũi tên. Không gian vectơ là một phần trong đại số tuyến tính được quy định bởi số chiều của nó, nói một cách đại khái là số lượng các hướng độc lập trong không gian. Không gian vectơ vô hạn chiều xuất hiện tự nhiên trong toán phân tich, như là một không gian hàm, trong đó vectơ chính là các hàm. Những vectơ này được tổng quát với cấu trúc cộng thêm, được gọi là topology, cho phép xem xét các lỗi của tính địa phương và tính liên tục. topology được định nghĩa bởi norm hoặc tích vô hướng, được hiểu là có kí hiệu khoảng cách giữa các vectơ. Đây là trường hợp cụ thể của không gian Banach và không gian Hilbert, chúng là những khái niệm cơ bản trong toán học phân tích. Các không gian vectơ quen thuộc là không gian Euclid hai chiều và ba chiều. Các vectơ trong các không gian này là các cặp số thực hay các bộ 3 số thực, có trật tự, và thường được biểu diễn như là một vectơ hình học với độ lớn và phương hướng. Định nghĩa Một vectơ được định nghĩa qua trường F là một tập V cùng với 2 toán tử thỏa mãn 8 tiên đề dưới đây. Theo đó, V × V kí hiệu cho phép nhân Cartesian của V với chính nó, và → kí hiệu cho một ánh xạ từ một nhóm đến một nhóm khác Toán tử đầu tiên, được gọi là phép cộng vectơ hoặc đơn giản là phép cộng +: V × V → V, lấy 2 vectơ bất kì v và w và đánh dấu một vectơ thứ 3 được viết là v + w, được gọi là tổng của các vectơ. Toán tử thứ 2 được gọi là phép nhân vô hướng: F × V → V, lấy một vô hướng a bất kì và một vectơ v, cho ta một vectơ khác av Phép cộng vectơ có tính kết hợp: Với mọi u, v, w V, ta có u + (v + w) = (u + v) + w. Phép cộng vectơ có tính giao hoán: Với mọi v, w V, ta có v + w = w + v. Phép cộng vectơ có phần tử trung hòa: Có một phần tử 0 V, gọi là vectơ không, sao cho v + 0 = v với mọi v V. Phép cộng vectơ có phần tử đối: Với mọi v ∈ V, có một phần tử w V, gọi là phần ngược của v, sao cho v + w = 0. Phép nhân vô hướng phân phối với phép cộng vectơ: Với mọi a F và v, w V, ta có a (v + w) = a v + a w. Phép nhân vô hướng phân phối với phép cộng vô hướng: Với mọi a, b F và v V, ta có (a + b) v = a v + b v. Phép nhân vô hướng tương thích với phép nhân trong trường các số vô hướng: Với mọi a, b F và v V, ta có a (b v) = (ab) v. Phần tử đơn vị của trường F có tính chất của phần tử đơn vị với phép nhân vô hướng: Với mọi v V, ta có 1 v = v, 1 ký hiệu đơn vị của phép nhân trong F. Với mọi x; y V, ta có x + y V Với mọi x V và a V, ta có a.x V Một cách chính xác, những tiên đề trên là cho một module, do vậy không gian vectơ có thể được mô tả ngắn gọn là một "module trên một trường". Một không gian vectơ chỉ là một trường hợp đặc biệt của một module. Để ý rằng trong định đề thứ 7, nói rằng a (b v) = (ab) v, là không phải khẳng định về tính kết hợp của một toán tử, bởi vì có hai toán tử đang nói đến, nhân vô hướng: b v; và nhân trên trường số: ab. Có người cho thêm hai tính chất đóng trong định nghĩa của không gian vectơ: V đóng dưới phép cộng vectơ: Nếu u, v V, thì u + v V. V đóng dưới phép nhân vô hướng: Nếu a F, v V, thì a v V. Tuy nhiên, nếu hiểu phép toán là ánh xạ trên miền V thì không cần thêm các tiên đề tính chất đóng trong định nghĩa không gian vectơ. Ví dụ Không gian tọa độ ví dụ đơn giản nhất của một không gian vectơ thông qua trường F chính là chính nó, kết hợp với tính chất cộng và nhân của nó. Một cách tổng quát hơn, tất cả chuỗi dài n: (a1, a2,..., an) của tất cả các phần tử của F cấu tạo nên một không gian vectơ thường được kí hiệu bởi Fn được gọi là không gian tọa độ. Số phức và các trường mở rộng Tập hợp các số phức C, chính là, một số có thể viết dưới dạng x+iy cho mọi số thực x và y trong đó i là đơn vị ảo, cấu thành nên một không gian vectơ thông qua số thực với phép cộng và nhân thông thường (x + iy) + (a + ib) = (x + a) + i(y + b) và c ⋅ (x + iy) = (c ⋅ x) + i(c ⋅ y) cho mọi số x,y,a,b và c
phải|nhỏ|Các vectơ độc lập tuyến tính trong phải|nhỏ|Các vectơ phụ thuộc tuyến tính trên một mặt phẳng trong Trong đại số tuyến tính, độc lập tuyến tính là một tính chất thể hiện mối liên hệ giữa các vectơ. Độc lập tuyến tính và phụ thuộc tuyến tính Một hệ các vectơ {v1,...,vn} trong không gian vectơ V được gọi là phụ thuộc tuyến tính, nếu tồn tại các số: k1,..., kn không đồng thời bằng 0 sao cho: k1 v1 +... + kn vn = 0. hệ các vectơ là độc lập tuyến tính khi và chỉ khi phương trình vectơ: k1 v1 +... + kn vn = 0 chỉ có nghiệm duy nhất: k1 = k2 =... = kn = 0 Tính chất Cho V là không gian vectơ trên trường K: Ý nghĩa hình học Trong không gian các vectơ trên mặt phẳng, hệ gồm hai vectơ là độc lập tuyến tính khi và chỉ khi chúng không cùng phương. Trong không gian các vectơ hình học 3 chiều, hệ ba vectơ là độc lập tuyến tính khi và chỉ khi chúng không đồng phẳng. Ví dụ Hai vectơ (1,2,3,4) và (-3,-6,-9,5) là độc lập tuyến tính. (1,2) và (-2,-4) không độc lập tuyến tính vì tồn tại λ1 = 1 và λ2 = 2 thỏa mãn λ1(-2,-4) + λ2(1,2) = 0. Độc lập tuyến tính trong không gian n (hoặc n) Trong không gian Rn một hệ gồm nhiều hơn n vectơ {v1,...,vm} luôn là phụ thuộc tuyến tính. Nếu hệ các vectơ {v1,...,vm} là độc lập tuyến tính trong không gian Rn, thì tập hợp tất cả các vectơ có dạng: k1 v1 +... + km vm là một không gian con đẳng cấu với Rm. Một hệ n vectơ {v1,...,vn} là độc lập tuyến tính trong không gian Rn, khi và chỉ khi ma trận lập thành từ các tọa độ của chúng có định thức khác không (det A ≠ 0). Một hệ n vectơ {v1,...,vn} là phụ thuộc tuyến tính trong không gian Rn, khi và chỉ khi ma trận lập thành từ các tọa độ của chúng có định thức bằng không (det A = 0).
Buổi hoà nhạc tưởng nhớ Freddie Mercury là một buổi hòa nhạc ngoài trời được tổ chức vào ngày lễ Phục Sinh, thứ Hai, 20 tháng 4 năm 1992 tại Sân vận động Wembley ở London, được truyền hình trực tiếp cho hơn 1 tỷ người trên khắp thế giới. Buổi hòa nhạc để kỷ niệm cho cuộc đời và sự nghiệp của thủ lĩnh ban nhạc Queen là Freddie Mercury và đề cao những kết quả trong việc nghiên cứu căn bệnh thế kỷ AIDS. Đây cũng là buổi diễn cuối cùng của tay chơi bass John Deacon với Queen (người cũng đã cùng biểu diễn với May, Taylor và Elton John trong buổi diễn vào năm 1997). Tiền thu được từ buổi hòa nhạc được sử dụng để thành lập tổ chức từ thiện The Mercury Phoenix Trust. Lịch sử Theo sau cái chết của ca sĩ huyền thoại Freddie Mercury vào tháng 11 năm 1991, các thành viên còn lại của ban nhạc Queen đã tụ họp với nhau để tổ chức buổi biểu diễn ngoài trời để kỷ niệm cuộc đời và di sản của Mercury, cũng như để quyên góp tiền ủng hộ việc nghiên cứu AIDS và tuyên truyền cho sự nguy hại của thảm họa này. Vào tháng 2 năm 1992 tại lễ kỷ niệm hàng năm của giải Brit, Brian May và Roger Taylor đã thông báo về buổi diễn này. Những chiếc vé đã được bán vào ngày hôm sau và 72.000 đã được bán trong vòng 2 giờ, thậm chí không có người tham gia biểu diễn nào được thông báo tin tức trước từ các thành viên của ban nhạc Queen. Buổi hòa nhạc Buổi hòa nhạc được bắt đầu với một ít âm nhạc từ các ban nhạc có ảnh hưởng từ Queen, bao gồm các ban nhạc như Metallica, Extreme, Def Leppard và Guns N' Roses. Xen giữa các ban nhạc là một vài video clip tôn vinh Freddie được trình chiếu trong khi sân khấu được thay đổi cho việc trình diễn tiết mục tiếp theo. Nửa buổi diễn tiếp theo là phần trình diễn của ba thành viên còn lại của ban nhạc bao gồm Roger Taylor, John Deacon và Brian May, cùng với các ca sĩ và các tay chơi ghi-ta được mời, bao gồm Roger Daltrey, Tony Iommi, James Hetfield, Elton John, George Michael, Seal, David Bowie, Robert Plant, Axl Rose, Liza Minnelli và những người khác. Khi buổi diễn được phát trên MTV, góp phần thêm cho "A Concert For Life" (Đêm diễn cuộc đời), ban nhạc U2 cũng đã biểu diễn bài "Until the End of the World" tại California và được thu trực tiếp từ vệ tinh để tưởng nhớ Freddie. Phiên bản Buổi diễn ban đầu được phát hành ở dạng VHS, nhưng do việc giới hạn của thời lượng, hai bài hát cuối cùng của Extreme, hai bài hát đầu tiên của Def Leppard và Spinal Tap (cùng với bài 'Innuendo') đã bị bỏ ra khỏi phiên bản ban đầu. Vào tháng 4 năm 2002 buổi hòa nhạc đã được phát hành lại bằng định dạng DVD và đứng thứ nhất trong bảng xếp hạng tại Anh. Phiên bản DVD đã nhận được những lời chỉ trích mạnh mẽ, do cả nửa phần biểu diễn lúc đầu không có trong phiên bản này. "Innuendo" cũng không có trong đĩa DVD, theo yêu cầu của Robert Plant vì ông giải thích rằng giọng của ông không được tốt lắm khi đó. Trình diễn Metallica - Enter Sandman, Sad But True, Nothing Else Matters Extreme - Queen Medley, Love Of My Life, More Than Words Def Leppard - Animal, Let's Get Rocked, Now I'm Here (w/Brian May) Bob Geldof - Too Late God Spinal Tap - The Majesty of Rock Guns N' Roses - Paradise City, Only Women Bleed (giới thiệu), Knockin' On Heaven's Door Elizabeth Taylor - Diễn văn Với Queen Queen và Joe Elliott/Slash - Tie Your Mother Down Queen và Roger Daltrey/Tony Iommi - Heaven and Hell (giới thiệu), Pinball Wizard (giới thiệu), I Want It All Queen và Zucchero - Las Palabras de Amor Queen và Gary Cherone (với Tony Iommi) - Hammer To Fall Queen và James Hetfield (với Tony Iommi) - Stone Cold Crazy Queen và Robert Plant - Innuendo (với phần trích đoạn từ from Kashmir), Thank You (giới thiệu), Crazy Little Thing Called Love Queen (Brian May với Spike Edney) - Too Much Love Will Kill You Queen và Paul Young - Radio Ga Ga Queen và Seal - Who Wants To Live Forever Queen và Lisa Stansfield - I Want to Break Free Queen và David Bowie/Annie Lennox - Under Pressure Queen và Ian Hunter/David Bowie/Mick Ronson/Joe Elliot/Phil Collen - All The Young Dudes Queen và David Bowie/Mick Ronson - Heroes/The Lord's Prayer Queen và George Michael - '39 Queen và George Michael/Lisa Stansfield - These Are The Days Of Our Lives Queen và George Michael - Somebody to Love Queen và Elton John/Axl Rose - Bohemian Rhapsody Queen và Elton John (with Tony Iommi) - The Show Must Go On Queen và Axl Rose - We Will Rock You Queen và Liza Minnelli/Cast - We Are the Champions
The Show Must Go On là tên một bài hát của ban nhạc Queen đến từ Anh. Đây là bài hát thứ 12 và là bài cuối cùng trong album Innuendo. Bài hát được phát hành ở Anh vào ngày 14 tháng 10 năm 1991. Bài hát có vị trí thứ 16 trong bảng xếp hạng ở Anh và đứng thứ 2 trong bảng xếp hạng của tạp chí Billboard (Mỹ) cùng với Bohemian Rhapsody. Bài hát do tay chơi ghi-ta Brian May sáng tác, viết về nguyện vọng của linh hồn ban nhạc là Freddie Mercury muốn được tiếp tục sự nghiệp âm nhạc ngay cả khi sức khỏe của anh đang bị sa sút. Đây được coi như là một trong những bài hát xúc động nhất của Queen. Đĩa đơn đã được phát hành 6 tuần ngay trước khi Freddie Mercury mất. Sau cái chết của Mercury vào tháng 11, bài hát lại được có mặt trong bảng xếp hạng của Anh và đứng trong danh sách 75 bài hay nhất và giữ vững trong một thời gian khá lâu, lâu hơn cả phiên bản cũ trước nó. Một phiên bản khác của bài là phiên bản được thu trực tiếp khi Queen biểu diễn với Elton John, có trong album Greatest Hits III. Phiên bản cover Bài hát được sử dụng nhiều lần trong bộ phim Moulin Rouge! sản xuất năm 2001, do Jim Broadbent và Nicole Kidman thể hiện. Bài hát cũng được sử dụng trong một buổi diễn American Idol trong "Queen Night" (11 tháng 4 năm2006) bởi Paris Bennett, một trong những thí sinh dự thi trẻ tuổi nhất của American Idol.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (tiếng Anh: International Monetary Fund, viết tắt IMF) là một tổ chức quốc tế giám sát hệ thống tài chính toàn cầu bằng cách theo dõi tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán, cũng như hỗ trợ kỹ thuật và giúp đỡ tài chính khi có yêu cầu. Trụ sở chính của IMF đặt ở Washington, D.C., thủ đô của Hoa Kỳ. Tổ chức và mục đích IMF được mô tả như "Một tổ chức của 190 quốc gia", làm việc nuôi dưỡng tập đoàn tiền tệ toàn cầu, thiết lập tài chính an toàn, tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại quốc tế, đẩy mạnh việc làm và tăng trưởng kinh tế cao, và giảm bớt đói nghèo. Với ngoại lệ của Bắc Triều Tiên, Cuba, Liechtenstein, Andorra, Monaco, Tuvalu và Nauru, tất cả các nước thành viên của Liên Hợp Quốc tham gia trực tiếp vào IMF hoặc được đại diện cho bởi những nước thành viên khác... Vào năm 1930, khi hoạt động kinh tế ở những nước công nghiệp chính thu hẹp, nhiều nước bắt đầu áp dụng tư tưởng trọng thương, cố gắng bảo vệ nền kinh tế của họ bằng việc hạn chế nhập khẩu. Để khỏi giảm dự trữ vàng, ngoại hối, một vài nước cắt giảm nhập khẩu, một số nước phá giá đồng tiền của họ, và một số nước áp đặt các hạn chế đối với tài khoản ngoại tệ của công dân. Những biện pháp này có hại đối với chính bản thân các nước đó vì như lý thuyết lợi thế so sánh tương đối của Ricardo đã chỉ rõ mọi nước đều trở nên có lợi nhờ thương mại không bị hạn chế. Lưu ý là, theo lý thuyết tự do mậu dịch đó, nếu tính cả phân phối, sẽ có những ngành bị thiệt hại trong khi các ngành khác được lợi. Thương mại thế giới đã sa sút nghiêm trọng, khi việc làm và mức sống ở nhiều nước suy giảm. IMF đã đi vào hoạt động ngày 27 tháng 12 năm 1945, khi đó có 29 nước đầu tiên ký kết nó là những điều khoản của hiệp ước. Mục đích của luật IMF ngày nay là giống với luật chính thức năm 1944. Ngày 1 tháng 3 năm 1947 IMF bắt đầu hoạt động và tiến hành cho vay khoản đầu tiên ngày 8 tháng 5 năm 1947. Từ cuối đại chiến thế giới thứ 2 cho đến cuối năm 1972, thế giới tư bản đã đạt được sự tăng trưởng thu nhập thực tế nhanh chưa từng thấy. (Sau đó sự hội nhập của Trung Quốc vào hệ thống tư bản chủ nghĩa đã thúc đẩy đáng kể sự tăng trưởng của cả hệ thống.) Trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, lợi ích thu được từ tăng trưởng đã không được chia đều cho tất cả, song hầu hết các nước tư bản đều trở nên thịnh vượng hơn, trái ngược hoàn toàn với những điều kiện trong khoảng thời gian trước của những nước tư bản trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới. Trong những thập kỷ sau chiến tranh thế giới hai, kinh tế thế giới và hệ thống tiền tệ có thay đổi lớn làm tăng nhanh tầm quan trọng và thích hợp trong việc đáp ứng mục tiêu của IMF, nhưng điều đó cũng có nghĩa là yêu cầu IMF thích ứng và hoàn thiện cải tổ. Những tiến bộ nhanh chóng trong kỹ thuật công nghệ và thông tin liên lạc đã góp phần làm tăng hội nhập quốc tế của các thị trường, làm cho các nền kinh tế quốc dân gắn kết với nhau chặt chẽ hơn. Xu hướng bây giờ mở rộng nhanh chóng hơn số quốc gia trong IMF. Ảnh hưởng của IMF trong kinh tế toàn cầu được gia tăng nhờ sự tham gia đông hơn của các quốc gia thành viên. Hiện IMF có 190 thành viên, nhiều hơn bốn lần so với con số 44 thành viên khi nó được thành lập. Nguồn vốn của IMF là do các nước đóng góp, các nước thành viên có cổ phần lớn trong IMF là Mỹ (17,46%), Đức (6,11%), Nhật Bản (6,26%), Anh (5,05%) và Pháp (5,05%). Tổng vốn của IMF là 30 tỷ Dollar Mỹ (1999). Việt Nam Việt Nam Cộng hòa gia nhập Quỹ Tiền tệ Quốc tế năm 1956. Năm 1975 ghế hội viên chuyển cho Cộng hoà Miền Nam Việt Nam kế thừa. Năm 1976 thì CHXHCN Việt Nam chính thức tham gia chiếu theo hội viên của hai quốc gia trước. Hiện nay cổ phần của Việt Nam tại IMF bằng 460,7 triệu SDR, chiếm 0,193% tổng khối lượng cổ phần và có tỷ lệ phiếu bầu là 0,212% tổng số quyền bỏ phiếu. Việt Nam thuộc nhóm Đông Nam Á với 13 nước thành viên. Giám đốc điều hành Quyền bỏ phiếu Bên dưới là danh sách 20 nước thành viên IMF có quyền bỏ phiếu nhiều nhất:
Trong đại số tuyến tính, một tổ hợp tuyến tính là một tổng của các vectơ nhân với các hệ số vô hướng. Định nghĩa Giả sử S={v1,...,vn} là một tập hữu hạn các vectơ, một tổ hợp tuyến tính của S là một tổng các vectơ nhân bởi các hệ số theo dạng: a1v1+...+an vn với các số a1,...,an nằm trong trường F của không gian vectơ chứa v1,...,vn. Ví dụ Vector (3,-4) là tổ hợp tuyến tính của các vectơ trong tập hợp {(1,1),(2,3),(1,-1)} bởi vì: (3,-4) = 2(1,1) + (-1)(2,3) + 3(1,-1) Bao tuyến tính Tập hợp của các tổ hợp tuyến tính xây dựng từ các vectơ trong S được gọi là bao tuyến tính của S (hay không gian con sinh bởi S) và ký hiệu là span(S) hay . Nói một cách chính xác: span(S) = {v thuộc S: v= a1v1-...+an vn với các số a1,...,an nằm trong trường F}. S được gọi là một hệ sinh của không gian con .
Đương lượng hay Equivalent (Eq hay eq) là đơn vị đo lường thường dùng trong hoá học và sinh học. Nó đo lường khả năng một chất kết hợp với các chất khác. Nó thường được dùng khi nói về nồng độ chuẩn. Đương lượng của 1 nguyên tố là số phần khối lượng của nguyên tố đó kết hợp với 1,008 phần khối lượng của Hydro hoặc 8 phần khối lượng của Oxi hoặc thay thế những lượng đó trong hợp chất. Ví dụ: đương lượng của H là 1,008, của O là 8,0, của C là 3,0, của N là 4,6, của Al là 9,0, của Na là 23,0... Trong phản ứng hóa học "các nguyên tố kết hợp với nhau hoặc thay thế nhau theo các khối lượng tỉ lệ với đương lượng của chúng". Đó là định luật đương lượng do nhà vật lý và hóa học người Anh John Dalton (1766-1844) đề ra năm 1792. Định luật này cho phép tính một cách đơn giản đương lượng của 1 nguyên tố khi biết đương lượng của nguyên tố khác tác dụng với nó. Đương lượng được định nghĩa chính thức là khối lượng tính bằng gam của một chất sẽ phản ứng với 6,022 x 1023 electron. (Đây là số Avogadro, nghĩa là số hạt trong một mol chất). Thực nghiệm cho thấy rằng khối lượng nguyên tử của nguyên tố luôn luôn là một số nguyên lần của đương lượng của nguyên tố đó. Số nguyên đó cũng chính là hóa trị của nguyên tố. Vì vậy khối lượng đương lượng của một chất cho trước về thực tế bằng với lượng chất tính theo mol chia cho hoá trị của chất đó. Trong thực tế, khối lượng đương lượng thường có độ lớn rất nhỏ, vì vậy nó thường được diễn tả bằng mili đương lượng, tức miliequivalent (mEq hay meq) – tiền tố mili biểu thị số đo được chia cho 1000. Phép đo này cũng rất thường gặp ở dạng miliequivalent chất tan trong một lit dung môi (mEq/l). Điều này rất thường gặp trong đo lường dịch sinh học; thí dụ nồng độ kali trong máu người bình thường là từ 3,5 đến 5,0 mEq/l. Đương lượng có ưu điểm so với các phép đo nồng độ khác (như mol) trong phân tích định lượng phản ứng. Đặc điểm nổi trội của việc dùng đương lượng là không cần nghiên cứu nhiều về bản chất của phản ứng, nghĩa là không cần phân tích và cân bằng phương trình hoá học. Đương lượng các chất tham gia phản ứng là bằng nhau để sinh ra cùng một đương lượng sản phẩm. Thí dụ trong máu có 142 mEq/l Na+ và 103 mEq/l Cl- thì trong 1 lit máu, 103 mEq Na+ sẽ kết hợp với 103 mEq Cl-, còn lại 39 mEq Na+ sẽ kết hợp với các anion khác như HCO3-. Đương lượng của 1 hợp chất là số phần khối lượng của hợp chất đó phản ứng không thừa không thiếu với 1 đương lượng của hợp chất khác. Dưới đây là quy tắc tính đương lượng của một số loại hợp chất trong các phản ứng trao đổi: Đương lượng của 1 oxit kim loại bằng khối lượng phân tử của oxit đó chia cho tổng hóa trị của kim loại trong oxit đó. Ví dụ: Đương lượng của Al2O3 là 102:(3×2)=17 Đương lượng của 1 axit bằng khối lượng phân tử của axit đó chia cho số nguyên tử H được thay thế trong phân tử axit. Ví dụ: Đương lượng của H2SO4 khi 2 nguyên tử H được thay thế là 98:2=49 và khi 1 nguyên tử H được thay thế là 98. Đương lượng của 1 base bằng khối lượng phân tử của base chia cho hóa trị của nguyên tử kim loại trong phân tử. Ví dụ: Đương lượng của NaOH là 40. Đương lượng của 1 muối bằng khối lượng phân tử của muối chia cho tích hóa trị của các nguyên tử kim loại trong phân tử. Ví dụ: Đương lượng của Al2(SO4)3 là 342:(3×2)=57 Trong tính toán hóa học người ta rất hay dùng đại lượng đương lượng gam giống như đại lượng nguyên tử gam và phân tử gam mà ngày nay được thay bằng mol. Đương lượng gam của 1 đơn chất hay hợp chất là lượng chất đó được tính bằng gam và có giá trị bằng đương lượng của nó. Chuyển đổi Đối với ion hoá trị một, 1 Eq = 1 mol Đối với ion hoá trị hai, 1 Eq = 0,5 mol Đối với ion hoá trị ba, 1 Eq = 0,333 mol Hay bằng số Eq chia cho hóa trị của nguyên tố đó
Hạ kali máu (Hypokalemia hoặc hypokalaemia) là tình trạng cơ thể không giữ được lượng kali đủ để duy trì hoạt động bình thường, và có thể dẫn đến tử vong. Triệu chứng Hạ kali có thể không có triệu chứng, nhưng hạ kali nặng có thể gây: Yếu cơ và đau cơ, vọp bẻ, liệt, dị cảm, táo bón, buồn nôn, nôn Tăng nguy cơ hạ natri máu, dẫn đến lẫn lộn và co giật Rối loạn nhịp tim (từ nhẹ đến nặng) Biểu hiện trên điện tâm đồ: Sóng T dẹt (có khía) Xuất hiện sóng U đi theo sau sóng T. Hạ kali máu nặng sóng U khổng lồ có thể nhầm lẫn với sóng T, từ đó có thể biểu hiện như QT dài vì thực ra là QU. Sóng U có nền rộng, phân biệt với sóng T trong tăng kali máu có nền hẹp, đỉnh cao và nhọn, khoảng QT bình thường hoặc ngắn. ST chênh xuống Rối loạn nhịp thất (như ngoại tâm thu thất, torsade de pointes, rung thất) Rối loạn nhịp nhĩ (như ngoại tâm thu nhĩ, rung nhĩ) Hạ kali máu có thể tạo nguy cơ nhiễm độc digitalis ở bệnh nhân đang dùng digoxin. Nguyên nhân Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hạ kali máu. Có lẽ rõ ràng nhất là hạ kali máu do ăn vào không đủ kali (chế độ ăn ít kali). Tuy nhiên thường gặp nhất là hạ kali do mất nước quá nhiều, mất nước nặng làm mất kali ra khỏi cơ thể. Trong trường hợp điển hình, đây là hậu quả của nôn và tiêu chảy, nhưng cũng có thể xảy ra ở vận động viên bị đổ mồ hôi quá mức. Mất còn có thể do thụt tháo hoặc quai hồi tràng. Một số thuốc cũng có thể thúc đẩy thải trừ kali ra khỏi cơ thể, bao gồm thuốc lợi tiểu thiazide, như hydrochlorothiazide; thuốc lợi tiểu quai, như furosemide; cũng như các loại thuốc nhuận trường. Cùng với tiêu chảy, điều trị lợi tiểu và lạm dụng thuốc nhuận trường là các nguyên nhân thường gặp nhất gây hạ kali máu ở người lớn tuổi. Các thuốc khác có liên hệ với hạ kali máu như thuốc chống nấm amphotericin B, thuốc đồng vận beta-adrenergic, thuốc steroid, theophylline, aminoglycoside. Một trường hợp đặc biệt gây mất kali là khi nhiễm ketoacid đái tháo đường. Ngoài việc mất theo nước tiểu do đa niệu và giảm thể tích, kali còn bị mất cưỡng bức ở ống thận như là thành phần mang điện tích dương gắn với ketone, β-hydroxybutyrate, mang điện tích âm. Các khiếm khuyết di truyền hiếm gặp ở các chất vận chuyển muối, như hội chứng Bartter hay hội chứng Gitelman cũng có thể gây hạ kali máu, theo cách tương tự như thuốc lợi tiểu. Hạ magie máu cũng có thể gây hạ kali máu, vì magnesi cần cho xử lý kali. Nguyên nhân này có thể được phát hiện khi hạ kali tiếp diễn dù đã bổ sung kali. Các bất thường điện giải khác cũng có thể hiện diện. Các tình trạng bệnh lý dẫn đến aldosterone cao bất thường gây tăng huyết áp và mất kali qua nước tiểu, bao gồm hẹp động mạch thận, hội chứng Cushing, hay các u (thường không ác tính) của tuyến thượng thận. Tăng huyết áp và hạ kali máu cũng có thể gặp khi thiếu men 11β-hydroxylase (xúc tác phản ứng chuyển deoxycorticosterone thành corticosterone ở con đường mineralocorticoid và chuyển 11-deoxycortisol thành cortisol ở con đường glucocorticoid) dẫn đến ứ đọng deoxycorticosterone và 11-deoxycortisol. Sự thiếu hụt này có thể bẩm sinh hoặc do ăn vào acid glycyrrhizic có trong chiết xuất của cam thảo, đôi khi được tìm thấy trong các phụ gia thảo mộc và kẹo. Nhập vào lượng caffein quá cao (nồng độ >40 mg/l trong máu). Sinh lý bệnh Kali cần thiết cho nhiều chức năng của cơ thể, bao gồm hoạt động thần kinh và cơ. Kali là cation nội bào chính, với nồng độ khoảng 145 mEq/l, trong khi nồng độ ở dịch ngoại bào, trong đó có máu, là 4 mEq/l. Hơn 98% lượng kali trong cơ thể nằm trong tế bào; việc đo lường kali từ mẫu máu tương đối không nhạy: dao động nhỏ trong máu tương ứng với thay đổi rất lớn trong tổng dự trữ kali của cơ thể. Chênh lệch thẩm thấu giữa khoảng nội bào và ngoại bào của kali cần thiết cho chức năng thần kinh; cụ thể là kali cần cho tái phân cực màng tế bào đến trạng thái nghỉ sau khi trải qua một điện thế hoạt động. Giảm lượng kali ngoại bào dẫn đến tăng phân cực điện thế màng ở trạng thái nghỉ, từ đó kích thích cần phải lớn hơn bình thường để có thể gây khử cực màng nhằm khởi đầu một điện thế hoạt động. Kali cũng thiết yếu cho chức năng bình thường của cơ, cả cơ chủ ý (ví dụ cánh tay, bàn tay...) và cơ không chủ ý (ví dụ tim, ruột...). Bất thường nghiêm trọng về nồng độ kali có thể huỷ hoại chức năng tim một cách trầm trọng, thậm chí dẫn đến ngưng tim và tử vong. Nồng độ kali trong máu người bình thường là từ 3,5 đến 5,0 mEq/l. Điều trị Bước quan trọng trong điều trị hạ kali nặng là loại bỏ nguyên nhân, như điều trị tiêu chảy hoặc ngưng dùng thuốc gây hạ kali. Hạ kali nhẹ (>3,0 mmol/l) có thể được điều trị bằng cách bổ sung kali chloride theo đường uống (Sando-K®, Slow-K®). Vì đây thường là một phần của chế độ dinh dưỡng kém, các thực phẩm chứa kali có thể được khuyến cáo, như cà chua, cam (trái cây) hay chuối. Bổ sung kali bằng chế độ ăn và thuốc được dùng ở bệnh nhân điều trị với thuốc lợi tiểu. Hạ kali nặng (<3,0 mmol/l) có thể cần bổ sung kali đường tĩnh mạch. Thông thường 20-40 mmol KCl/l saline được dùng. Truyền tĩnh mạch kali ở tốc độ cao có thể dẫn đến nhịp nhanh thất và cần theo dõi chặt chẽ và liên tục. Đo nồng độ kali mỗi 1-3 giờ. Trường hợp hạ kali khó hoặc kháng trị có thể cải thiện với amiloride, một thuốc lợi tiểu giữ kali, hoặc spironolactone. Cần kiểm tra các bất thường chuyển hoá cùng tồn tại (như hạ magnesi máu). Ở bệnh nhân hạ kali máu và nhiễm ketoacid đái tháo đường, một phần kali huyết thanh nên được bù bằng với kali phosphat. Nếu kali được thay thế quá nhanh, nồng độ kali huyết thanh tăng cao có thể gây triệu chứng tăng kali máu; tuy nhiên tổng lượng kali cơ thể vẫn có thể dưới mức bình thường. Hạ kali ở thú nuôi Hạ kali có thể gặp ở mèo tuổi cao, nhưng mèo con Miến Điện có khuynh hướng về di truyền bị hạ kali máu nếu cả bố mẹ có gen khiếm khuyết. Các triệu chứng gồm lảo đảo, không giữ được đầu thẳng đứng mà bị gục xuống một cách đáng lo sợ, và mèo vẫn ăn ngon miệng nhưng không tăng cân. Điều trị bằng cách thêm viên kali nghiền vào thức ăn.
Viện Đại học Cornell hay Đại học Cornell (tiếng Anh: Cornell University) là một viện đại học nghiên cứu tư thục và là một thành viên của Ivy League ở Ithaca, New York, Hoa Kỳ. Được thành lập vào năm 1865 bởi Ezra Cornell và Andrew Dickson White, trường đại học dự định sẽ đóng góp và giảng dạy trong tất cả lĩnh vực của trí thức - từ kinh điển cho tới khoa học và từ lý thuyết đến áp dụng. Những lý tưởng này, không đổi theo thời gian, là nguyên tắc sáng lập của Cornell, dựa trên một câu nói năm 1865 của Ezra Cornell: "Tôi sẽ thành lập một học viện nơi mà bất kì ai cũng có thể tìm thấy sự hướng dẫn cho mọi ngành học.". Cornell được phân chia thành bảy trường đại học và bảy khoa cao học tại cơ sở chính của Ithaca, với mỗi trường đại học và phân ngành đặt ra tiêu chuẩn nhập học và chương trình học thuật của riêng mình. Trường đại học cũng quản lý hai cơ sở y tế vệ tinh, một ở Thành phố New York và một ở Qatar, và Cornell Tech (một chương trình sau đại học kết hợp công nghệ, kinh doanh và tư duy sáng tạo). Chương trình đã chuyển từ Tòa nhà Chelsea của Google ở ​​Thành phố New York đến khuôn viên trường cố định trên Đảo Roosevelt vào tháng 9 năm 2017. Tính đến tháng 10 năm 2019, 59 cựu sinh viên, giảng viên và nghiên cứu sinh của trường đã đạt giải Nobel, bốn người đoạt giải thưởng Turing và một người đạt Huy chương Fields. Cornell có hơn 245.000 cựu sinh viên còn sống, và các giảng viên và cựu sinh viên trước đây và hiện tại bao gồm 34 học giả Marshall, 31 học giả Rhodes, 29 học giả Truman, 7 học giả Gates, 55 huy chương thế vận hội Olympic và 14 tỷ phú sống. Kể từ khi thành lập, Cornell đã trở thành một tổ chức đồng giáo dục, phi giáo phái, nơi việc nhập học không bị hạn chế bởi tôn giáo hoặc chủng tộc. Hội sinh viên bao gồm hơn 15.000 sinh viên đại học và 8.000 sinh viên cao học từ tất cả 50 tiểu bang của Mỹ và 116 quốc gia. Hiện tại, Cornell xếp thứ 18 thế giới trong bảng xếp hạng của QS World University Rankings và thứ 19 thế giới trong bảng xếp hạng của Times Higher Education World University Rankings. Trong số các trường tại Mỹ, Cornell được US News & World Reports xếp thứ 18, thấp nhất trong số các trường thuộc nhóm Ivy League.
Thuật ngữ "Lịch La Mã" dùng để chỉ tất cả các loại lịch do người La Mã sáng tạo và sử dụng cho tới trước thời kỳ Julius Caesar (năm 45 trước Công Nguyên). Lịch Romulus Lịch La Mã được Romulus (người sáng lập thành Roma, khoảng 753 TCN) tạo ra dựa trên hệ thống âm lịch do người Hy Lạp sử dụng. Lịch này bao gồm 10 tháng, bắt đầu từ ngày chứa điểm xuân phân (vernal equinox - khoảng ngày 21 tháng 3 dương lịch hiện nay), tức thời điểm mà độ dài ngày và đêm bằng nhau bắt đầu mùa xuân (phân biệt với điểm thu phân, autumnal equinox, cũng có ngày và đêm dài bằng nhau nhưng bắt đầu cho mùa thu). Tổng cộng 10 tháng này bao gồm 304 (hay 305) ngày, số ngày còn lại được bổ sung vào các tháng cuối của năm. Theo đó: Tháng đầu tiên tên Martius, tôn vinh vị thần Chiến tranh Mars của người La Mã. Tháng này có 31 ngày. Aprilis, tôn vinh nữ thần Hy Lạp Aphrodite (tức thần Vệ nữ, hay Venus trong thần thoại La Mã), tượng trưng cho sự sinh sôi, tình yêu, niềm hoan lạc và sắc đẹp. Tháng này có 30 ngày. Maius, có 2 giả thiết: 1. tôn vinh các vị nguyên lão La Mã (maiores); hoặc 2. tôn vinh nữ thần Maia trong thần thoại Hy Lạp, nữ thần lớn nhất, đẹp nhất, cũng là nữ thần Đất đai, lấy thần Zeus và sinh ra Hermes, rồi nuôi Arcas, con trai riêng của Zeus, để che mắt bà vợ Hera hay ghen tuông của ông ta. Tháng này có 31 ngày. Iunius, tôn vinh nữ thần La Mã Juno (tức Hera trong thần thoại Hy Lạp, nữ chúa của các vị thần, vợ của chúa tể các thần - Zeus trong thần thoại Hy Lạp). Tháng này có 30 ngày. Quintilis, trong tiếng Latinh có nghĩa là "thứ năm". Có 31 ngày. Sextilis, "thứ sáu" trong tiếng Latinh, có 30 ngày. September, từ gốc Latinh là septem có nghĩa là "thứ bảy". Có 30 ngày. October: từ gốc Latinh là octo có nghĩa là "thứ tám". Có 31 ngày. November: từ gốc Latinh là novem có nghĩa là "thứ chín". Có 30 ngày. December: từ gốc Latinh là decem có nghĩa là "thứ mười". Có 30 ngày. Còn lại khoảng 51 ngày, được thêm vào không theo quy luật đều đặn, bằng cách đếm ngược số ngày còn lại trước khi đến ngày bắt đầu năm mới tiếp theo. Để tôn vinh thần chiến tranh Mars, người La Mã dùng 10 ngày (sau giảm xuống còn 8 ngày) liền trước ngày đầu năm mới để làm lễ tết. Lịch Numa Vị vua thứ hai của La Mã là Numa Pompillus (715-673 TCN) đã cải tiến lịch Romulus, bằng cách cộng 51 ngày dư của Romulus vào, giảm 6 tháng có 30 ngày xuống còn 29 ngày (50 + 6 = 56), từ đó thêm vào lịch 2 tháng có 28 ngày, đặt tên là: Februarius: trong tiếng Latin februltus có nghĩa là "sửa lại những gì đã sai" và trong thời gian này người La Mã bắt đầu sự tinh lọc hàng năm, đặt kề sau tháng December. Tháng này là tháng khắc nghiệt nhất trong năm (tương ứng với tháng 1 dương lịch bây giờ). Ianuarius: đặt sau tháng Februarius và trước khi quay vòng lại tháng Martius. Tháng này được đặt theo vị thần Janus trong thần thoại La Mã, có hai khuôn mặt ngược nhau, tượng trưng cho sự thay đổi, chuyển tiếp, khởi đầu và kết thúc. Ngoài ra, Numa cộng thêm 1 ngày vào tháng Februarius, cứ 4 năm 1 lần, và vào năm này ông cho thêm 1 tháng gọi là mens intercalaris (tháng chênh lệch) có 29 ngày vào sau tháng Februarius. Như vậy, lịch Numa bao gồm: Martius: 31 ngày Aprilis: 29 ngày Maius: 31 ngày Iunius: 29 ngày Quintilis: 31 ngày Sextilis: 29 ngày September: 29 ngày October: 31 ngày November: 29 ngày December: 29 ngày Februarius: 28 ngày (hay 29 ngày mỗi 4 năm) Mens intercalaris: 29 ngày (chỉ 4 năm 1 lần) Ianuarius: 28 ngày Như vậy, một năm theo lịch Numa có 354 ngày (hay 384 ngày vào năm có mens intercalis). Tuy nhiên, người La Mã vốn kiêng con số chẵn, nên đã cho tháng Ianuarius thêm 1 ngày thành 29 ngày, và từ đó 1 năm bình thường có 355 ngày và vào năm có mens intercalaris thì có 385 ngày. Tính bình quân trong 4 năm, mỗi năm có 362,5 ngày. Những ngày chênh lệch còn lại so với năm thiên văn (365,2564 ngày mặt trời trung bình) được bù đắp bằng cách thêm vào không theo một quy luật đều đặn nào. Lịch Cộng hoà La Mã Vào thời kỳ Cộng hoà La Mã (khoảng 450 TCN), hai tháng Februarius và Ianuarius được đảo ngược, có lẽ để "làm vui lòng" vị thần Janus, còn tháng chênh lệch mens intercalaris được chuyển xuống cuối năm và đổi tên thành Mercedonius, rút xuống còn 27 ngày nhưng đồng thời cũng rút ngắn khoảng cách xuống 2 năm thay vì 4 năm như trước. Chữ mercedonius có nguồn gốc từ merces, tức là "tiền công" mà công nhân được lãnh vào thời điểm này trong năm. Do đó, theo lịch Cộng hoà La Mã, cứ 2 năm lại có 1 tháng Mercedonius 27 ngày, và tháng Februarius liền trước đó rút ngắn xuống còn 23 hoặc 24 ngày (xen kẽ). Và số ngày trong năm tiến gần tới số ngày của năm thiên văn hơn: 2 năm có tháng Mercedonius gồm 377 và 378 ngày, 2 năm còn lại có 355 ngày. Tính bình quân trong 4 năm, mỗi năm theo lịch Cộng hoà La Mã có 366,25 ngày. Trong thời kỳ này, một tuần lễ được tính có 8 ngày. Martius: 31 ngày Aprilis: 29 ngày Maius: 31 ngày Iunius: 29 ngày Quintilis: 31 ngày Sextilis: 29 ngày September: 29 ngày October: 31 ngày November: 29 ngày December: 29 ngày Ianuarius: 29 ngày Februarius: 28 ngày (hay 23 hoặc 24 ngày trong năm có tháng Mercedonius) Mercedonius: 27 ngày (chỉ 2 năm một lần) Tuy đã bớt sai sót hơn so với các lịch trước, nhưng lịch Cộng hoà La Mã vẫn còn rất phức tạp, ít được tôn trọng, nhiều khi tháng chênh lệch Mercedonius bị bỏ quên vì các lý do chính trị (ít nhất 2 lần trong thế kỷ 2 và 1 TCN). Và đến thời đại Julius Caesar thì hệ thống lịch này đã được cải tiến một cách căn bản, đặt nền móng cho Dương lịch ngày nay.
Quần vợt (Tiếng Anh: Tennis) là môn thể thao chơi giữa hai người (đánh đơn) hay hai đội trong đó mỗi đội hai người (đánh đôi). Người chơi sử dụng vợt lưới để đánh một quả bóng làm bằng cao su bọc nỉ rỗng gọi là bóng quần vợt về phía sân đối phương. Quần vợt hiện nay là một môn thể thao rất phổ biến ở nhiều nước và được thi đấu tại các kỳ Thế vận hội. Trên thế giới có hàng triệu người chơi quần vợt và hàng triệu người hâm mộ. Hàng năm có rất nhiều giải quần vợt chuyên nghiệp được tổ chức khắp nơi trên thế giới, trong đó có 4 giải đấu lớn và danh giá nhất (gọi là các giải Grand Slam) bao gồm giải Úc Mở rộng, Pháp Mở rộng, Wimbledon và Mỹ Mở rộng. Sân chơi và dụng cụ Kích thước Sân Quần vợt chơi trên sân hình chữ nhật, bề mặt phẳng. Chiều dài sân là 23,77 m, và chiều rộng là 8,23 m với trận đánh đơn và 10,97 m cho trận đánh đôi. Lưới được căng ngang theo chiều rộng sân, song song với đường biên, chia đều thành 2 bên. Chiều cao lưới là 914 mm ở giữa và 1,07 m ở 2 cột lưới. Các loại sân Có bốn loại sân chính. Tùy vào nguyên liệu làm bề mặt sân, mỗi bề mặt sẽ cho tốc độ và độ nảy khác nhau của bóng, từ đó ảnh hưởng đến người chơi: Sân đất nện: sân đất nện được làm bằng đá hay gạch nghiền nát. Thường có màu đất đỏ. Loại sân này làm cho bóng nảy chậm và lên cao. Sân này thích hợp cho các tay vợt thích đứng cuối sân thay vì lên lưới và phải có nhiều kiên nhẫn vì một điểm đánh chậm và lâu. Đa số các sân đất nện là ở Châu Âu và Nam Mỹ. Sân cỏ: sân cỏ ngày nay rất hiếm có vì loại sân này rất tốn kém để gìn giữ. Đa số sân cỏ ngày nay chỉ thấy ở Anh vì người Anh vẫn thích giữ truyền thống quần vợt. Loại sân này làm cho bóng đi nhanh, nảy thấp và không đều. Vì thế nó thích hợp với những tay vợt thích phát bóng và lên lưới (serve and volley). Sân cứng: sân cứng thật sự có nhiều loại khác nhau. Có thể nó chỉ giản dị là sân xi măng hoặc nó được làm bởi nhiều lớp cao su mỏng trộn với cát rồi đổ lên mặt xi măng. Loại sân này thường làm cho bóng đi nhanh, nảy cao và đều. Nó thường thích hợp với những tay vợt thích phát bóng và lên lưới (serve and volley) nhưng người ta cũng có thể làm cho mặt sân này "chậm" hơn lại bằng cách làm cho mặt sân nhám hơn hay mềm hơn. Sân thảm: sân bằng thảm thường được dùng khi người ta mượn sân bóng rổ hay các sân thể thao khác trong nhà để tranh giải quần vợt. Ban tổ chức trải một loại thảm đặc biệt chế tạo cho quần vợt lên trên sân và dựng cột và lưới. Sân thảm thường có độ nảy trung bình nên thích hợp cho mọi loại đấu thủ. Hiện nay các giải Grand Slam đang dùng các bề mặt sân khác nhau: giải Pháp Mở rộng dùng sân đất nện, Wimbledon dùng sân cỏ, giải Úc Mở rộng dùng sân cứng nhám hay mềm và giải Mỹ Mở rộng thì dùng sân cứng mặt xi măng. Vợt và bóng Bóng quần vợt tròn làm bằng cao su bao nỉ bên ngoài, bên trong thì rỗng. Thường bóng màu vàng, bóng có đường kính giữa 6,35 và 6,6 cm, nặng giữa 56 và 59,4 g. Vợt có nhiều hình dáng và kích thước khác nhau. Nói chung có 3 cỡ: tiêu chuẩn, cỡ trung, và cỡ lớn. Cỡ vợt được tính theo kích thước của mặt lưới. Ngày xưa vợt được làm bằng gỗ. Ngày nay vợt được làm bằng nhiều chất liệu khác nhau như nhôm, graffit, hoặc sợi carbon. Những chất liệu này làm cho vợt cứng hơn mà nhẹ hơn gỗ. Mặt vợt được căng bằng dây ni lông hoặc dây ruột bò. Ngày nay có nhiều loại dây mới gọi là dây ni lông tổng hợp. Ngoài ra, nếu người chơi thấy mặt vợt quá rung làm ê tay thì có thể dùng cục chống rung. Cách thức chơi Cách chơi bóng và tính điểm Một trận quần vợt gồm có điểm, game và set để tính chung cho cả trận. Trong những giải nam lớn như Grand Slam, ai thắng trước 3 set thì thắng trận. Trong mỗi set, ai thắng trước 6 game thì thắng set, nhưng phải hơn đối thủ 2 game. Nếu đến tỉ số 5–5 thì sẽ chơi tiếp đến khi 1 đối thủ thắng nhiều hơn đối thủ kia 2 game để quyết định người thắng set đó. Lưu ý: Nếu tỉ số hiệp là 7–6 thì set cũng kết thúc (nhưng không phải là set cuối cùng khi trước đó cả hai đã hòa 1–1 hay 2–2 tùy theo set của trận đấu) Trong mỗi game tính điểm như sau: không (0), 15, 30, 40 và thắng game. Nếu tỉ số đạt 40–40, có nghĩa là lợi đều (deuce) thì thi đấu tiếp đến khi 1 đối thủ ghi nhiều hơn đối phương 2 điểm. Mỗi điểm được bắt đầu bằng cách phát bóng. Bên phát bóng đứng sau đường biên, giữa điểm trung tâm và đường biên dọc. Bên nhận có thể đứng ở đâu cũng được bên phía mình. Phát bóng hợp lệ thì bóng phải đi qua lưới (không chạm) vào ô phát bóng chéo ở phía bên kia. Nếu bóng chạm lưới và chạm đất ở phần phát bóng, không tính trái này và phải phát bóng lại. Nếu phát bóng bị lỗi lần một: đi quá dài hay không qua lưới, người phát bóng được phát lại lần 2, nhận lỗi 1. Nếu lần phát 2 cũng lỗi, nhận lỗi 2 và bên kia được điểm. Nếu lần 2 phát hợp lệ thì không sao. Trong tennis nam, người ta phân chia các giải sau (tính theo trường hợp vô địch): World Tour 250: 250 điểm cho nhà vô địch World Tour 500: 500 điểm cho nhà vô địch Master 1000: 1000 điểm cho nhà vô địch Grand Slam: 2000 điểm cho nhà vô địch World Tour Finals: 1500 điểm cho nhà vô địch Davis Cup Các cú bóng Phát bóng (serve/service) Thuận tay (forehand) Trái tay (reverse/backhand) Cắt (slice) Trả xoáy (topspin) Vụt trên cao (smash) Bổng (lob) Bỏ nhỏ (dropshot) Các cách đánh bóng Xoáy Thẳng Xoáy dưới cũng được gọi là cua Các cách phát bóng Phát bóng thẳng Phát bóng xoáy Lịch sử Không ai chắc chắn nguồn gốc của môn quần vợt, nhưng nhiều chuyên gia tin rằng năm 1873, một thiếu tá quân đội Anh tên là Walter Clopton Wingfield đã phát minh ra bộ môn này. Lúc đó người Anh gọi trò chơi này là "quần vợt trên sân cỏ". Ông Wingfield gọi trò chơi này là Sphairistiké và nói rằng ông đã dựa trên một trò chơi cổ xưa của người Hy Lạp. Người Anh mang trò chơi sang đảo Bermuda năm 1873, và từ Bermuda nó được đem sang Mỹ năm 1874 và chơi ở Đảo Staten, New York. Như nhiều môn thể thao khác của người Anh, họ đã đem truyền bá chúng đi khắp các thuộc địa của họ trên thế giới làm cho bộ môn này phổ biến nhanh chóng. Trò thể thao Jeu de paume của Pháp cũng được coi là tiền thân của quần vợt ngày nay. Các giải quần vợt nổi tiếng Mỗi năm, bốn giải quần vợt lớn nhất là (theo thứ tự trong năm): Úc mở rộng, Pháp mở rộng, Wimbledon và Mỹ mở rộng. Những giải này được tổ chức bởi những hội quần vợt quốc gia của họ. Bốn giải này được gọi chung là Grand Slam và thắng được cả bốn giải trong cùng 1 năm là thành tích tột đỉnh của 1 tay vợt. Cho tới nay trong lịch sử chỉ có 2 tay vợt nam (Don Budge-1938 và Rod Laver-1962, 1969) và 3 tay vợt nữ (Maureen Connolly-1953, Margaret Court-1970, và Steffi Graf-1988) đã đạt được thành tích này. Ngoài 4 giải Grand Slam, các giải quần vợt nam trên thế giới được tổ chức bởi Hiệp hội quần vợt nhà nghề (ATP), trong khi các giải quần vợt nữ được tổ chức bởi Hiệp hội quần vợt nữ (WTA). Ngoài những giải này, mỗi quốc gia còn tham dự giải Cúp Davis và Fed Cup tổ chức hàng năm. Cúp Davis là cho đấu thủ nam, Fed Cup là cho đấu thủ nữ. Mỗi bốn năm, quần vợt cũng được tranh tài tại Thế vận hội Mùa hè. Các tay vợt nổi tiếng Các tay vợt nam sau đây được xem là hay nhất trong lịch sử: Bill Tilden, Rod Laver, Roger Federer, Rafael Nadal, Novak Djokovic,Pete Sampras, Andre Agassi, Lleyton Hewitt, Andy Murray. Các tay vợt nữ nổi tiếng có: Maureen Connolly, Margaret Court, Chris Evert, Martina Navratilova, Steffi Graf, Monica Seles, Serena Williams, Martina Hingis, Venus Williams, Justine Henin, Maria Sharapova, Victoria Azarenka.
Trong đại số tuyến tính, không gian con, không gian vectơ con hay không gian tuyến tính con là một tập hợp con của một không gian vectơ mà bản thân tập hợp con đó cũng là một không gian vectơ. Định nghĩa Một tập hợp con S của một không gian vectơ V được gọi là một không gian con nếu như bản thân S cũng là một không gian vectơ với phép cộng vectơ và phép nhân vô hướng được định nghĩa trên V. Định lý Một tập hợp con S của một không gian vectơ V là một không gian con nếu và chỉ nếu S đóng dưới phép cộng vectơ và phép nhân với số vô hướng. Ví dụ Một mặt phẳng đi qua điểm gốc tọa độ là một không gian con trong không gian vectơ Các đa thức p(x) với bậc không lớn hơn 3 và p'(x)=0 là một không gian con trong không gian các đa thức.
Shamil Salmanovich Basayev (tiếng Nga: Шами́ль Салма́нович Баса́ев; 1965–2006) là nhà lãnh đạo của phong trào ly khai Chechnya và được Nga cho là trùm khủng bố, kẻ thù số một của nước Nga. Cơ quan An ninh Nga từng treo giải thưởng trị giá 10 triệu USD cho ai cung cấp thông tin hoặc giết được Shamil Basayev. Thuở nhỏ Basayev biệt danh là Amir Abdallah Shamil Abu-Idris sinh ngày 14 tháng 1 năm 1965 tại ngôi làng Dyshne-Vedeno, gần Vedenophía đông nam Chechnya. Gia đình ông được cho là đã có một lịch sử lâu dài tham gia kháng chiến tại chống lại sự cai trị của Nga. Trong Thế chiến thứ II, theo lệnh của Lavrenti Beria, gia đình Basayevs cùng với hầu hết dân Chechnya đã bị trục xuất đến Kazakhstan và chỉ được hồi hương vào năm 1957, khi Nikita Khrushchev lên giữ chức tổng bí thư đảng Cộng sản Liên Xô. Năm 1982 Basayev tốt nghiệp trung học phổ thông và phục vụ 2 năm trong quân đội. Năm 1987, Basayev vào học tại Viện Kỹ sư nông nghiệp. Sau đó ông đã làm việc như một nhân viên bán máy tính tại Moscow. Tham chiến Tháng 8 năm 1991, Basayev tham gia bảo vệ tòa nhà Chính phủ Nga trong cuộc đảo chính nhằm lật đổ Tổng thống Nga Boris Yeltsin. Tháng Mười Một 1991, nhà lãnh đạo quốc gia Chechnya Dzhokhar Dudayev đơn phương tuyên bố độc lập tách khỏi Liên bang Nga. Đáp lại, Yeltsin tuyên bố tình trạng khẩn cấp và cử quân tới biên giới của Chechnya. Ngày 9 tháng 11 năm 1991 để thu hút sự chú ý của quốc tế đến cuộc khủng hoảng, Basayev tổ chức cướp chiếc máy bay Tu-154, trên đường từ Mineralnye Vody ở Nga đến Ankara, và đe dọa cho nổ tung máy bay, trừ khi tình trạng khẩn cấp đã được giải quyết. Vụ không tặc đã được giải quyết một cách hòa bình ở Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1992, Basayev tới Abkhazia, một vùng ly khai của Georgia, để hỗ trợ các phong trào ly khai địa phương chống lại chính phủ Georgia. Basayev trở thành người chỉ huy trưởng của các lực lượng của Liên đoàn những người vùng núi Kavkaz. Cũng trong năm 1992, Basayev được đề cử vào chức vụ tổng tư lệnh lực lượng của CPC. Từ tháng 8 năm 1992, Basayev trở thành tư lệnh mặt trận Gagra và Thứ trưởng Quốc phòng Abkhazia (Cộng hòa tự xưng ở Gruzia). Năm 1994 khi nội chiến xảy ra tại Chechnya, Basayev ủng hộ Dzhokhar Dudayev (tổng thống tự xưng của Chechnya). Ngày 11 Tháng 12 năm 1994, quân Nga xâm chiếm Chechnya để lật đổ chính phủ Dzhokhar Dudayev. Dudayev giao Basayev làm chỉ huy một trong những mặt trận. Basayev đã đóng một vai trò tích cực trong kháng chiến, chỉ huy thành công Tiểu đoàn Abkhaz của ông gây thiệt hại lớn cho lực lượng Nga trong trận Grozny. Vào thời gian này, Basayev cũng phải chịu một bi kịch cá nhân. Vào ngày 03 tháng 6 năm 1995, trong một cuộc không kích của Nga vào Dyshne-Vedeno, quê hương ông, vợ, con, chị và chú của Basayev đã thiệt mạng, mười hai thành viên khác trong gia đình của Basayev đã bị thương. Nhằm ngăn chặn bước tiến của quân Nga, ngày 14 tháng 7 năm 1995, Basayev chỉ huy một nhóm phiến quân Chechnya chiếm giữ Bệnh viện Budennovsk tại miền nam Nga bắt giữ 1600 con tin gồm cả bác sĩ, y tá lẫn bệnh nhân. Cuộc giải cứu con tin bằng vũ lực của lực lượng đặc biệt của Nga làm 129 dân thường chết và 415 bị thương. Năm 1996, Basayev được thăng cấp bậc và giữ chức Tổng tư lệnh của Lực lượng vũ trang Chechnya Trong tháng 8 năm 1996, ông chỉ huy thành công việc chiếm lại các thủ đô Grozny Chechnya, đánh bại quân Nga đồn trú tại thành phố. Qua trung gian Một thỏa thuận hòa bình đã được ký kết giữa Chechnya và Nga. Đầu năm 1997 ông được Maskhadov bổ nhiệm làm Phó Thủ tướng Chechnya. Năm 1999 Basayev bị mất một chân khi trúng mìn ở ngoại ô Grozny (Chechnya). Tháng 10 năm 2002 Basayev tổ chức cho 50 phiến quân chiếm đóng và bắt cóc 800 con tin tại nhà hát Dubrovka ở Moskva. Cuộc giải cứu của lực lượng Nga đã làm thiệt mạng 129 con tin. Tháng 8 năm 2004 Basayev tổ chức đánh bom cảm tử ở tàu ngoại ô Moskva làm thiệt mạng 10 người và đánh bom cảm tử trên hai chuyến bay rời Moskva làm thiệt mạng 89 người. Tháng 9 năm 2004 Basayev tổ chức chiếm giữ và bắt con tin ở trường học tại Beslan, Cộng hòa Bắc Ossetia, làm thiệt mạng 331 người trong đó có 186 trẻ em. Tháng 10 năm 2005 Basayev tổ chức tấn công vào Nalchik, miền nam Nga, làm thiệt mạng hàng chục người. Cái chết Ngày 10 tháng 7 năm 2006 Basayev cùng 10 phiến quân Chechnya (trong đó có 5 chỉ huy cao cấp) bị nổ tan xác trong một chiếc xe tải hiệu Kamaz tại làng Ekazhevo ở nước Cộng hòa Ingushetia (thuộc Nga). Phiến quân Chechnya nói đó là một tai nạn. Còn chính quyền Nga thì cho là đây là kết quả thắng lợi trong một chiến dịch bí mật, đặc biệt và kỹ lưỡng của đặc nhiệm Nga. Gia đình Basayev có bốn người vợ, một phụ nữ người Chechnya đã thiệt mạng 1990 trong cuộc không kích của Nga, một phụ nữ Abkhaz ông gặp trong khi lãnh đạo lính đánh thuê chống lại chính quyền Georgia và một phụ nữ Cossack được kết hôn vào ngày Valentine, 2005. Người vợ thứ tư là Elina Ersenoyeva, ông lấy một cách bí mật. Sau cuộc hôn nhân, Elina đã bị bắt cóc và bị giết bởi Kadyrovtsy (một lực lượng Chechnya thân Kremlin)
Radio Ga Ga là một bài hát do ban nhạc Queen thực hiện, sáng tác bởi tay trống của ban nhạc là Roger Taylor. Bài hát là một lời bình luận về sự phát minh ra ti vi đã lấn át sự phổ biến của radio, và việc một người có thể lắng nghe các vở hài kịch ưa thích của họ, các chương trình khoa học viễn tưởng như thế nào v.v...cũng như là viết về sự phát minh ra video âm nhạc và MTV. Taylor ban đầu đã nghĩ rằng nó nên có tên là "Radio Ca-Ca" (có vẻ là hình như xuất phát từ giọng của cậu con trai đang tập đi của anh ta), một lời đả kích chống lại radio vì việc giảm sút sự đa dạng của chương trình và các loại nhạc được phát trên đài. Bài hát cuối cùng đã được đổi thành "Radio Ga Ga", nghe hay hơn, rõ ràng hơn và dễ uốn lưỡi phát âm hơn. Có một vài tin đồn rằng các nhà xuất bản đã phản đối cái tên bài hát này (caca theo tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là shit tiếng Anh) với nghĩa rộng). Taylor bắt tay vào viết bài hát tại Los Angeles, anh tự khóa mình trong một căn phòng với synthesizer và drum machine. Anh đã nghĩ rằng bài hát sẽ phù hợp với album sô lô của anh, nhưng khi cả ban nhạc nghe bài hát, John Deacon đã viết thêm nhạc cho phần bass và Freddie Mercury sửa lại cấu trúc bài hát và họ nghĩ rằng đây sẽ có thể là bài hát hay. Taylor sau đó đã đi nghỉ trượt tuyết và để cho Mercury sửa lại phần lời, hoà âm và tổ chức lại bài hát. Việc thu âm được tiến hành tại phòng thu Record Plant và có thêm sự tham gia của tay chơi đàn phím Fred Mandel, người mà sau này đã cộng tác với Supertramp và Elton John. Mandel đã đảm nhận sắp xếp phần bass điện tử. Phần thu âm này nghe thấy rõ âm thanh của Roland VP330 và vocoder. Bài hát đã được phát hành như một đĩa đơn, và nó cũng có trong album The Works. Đĩa đơn này là một thành công của ban nhạc, vang dội khắp thế giới, đứng đầu trong bảng xếp hạng ở 20 quốc gia và đứng trong số 20 bài hát hay nhất ở 36 quốc gia. Bài hát đã có vị trí thứ 2 ở Anh và 16 ở Mỹ. Queen đã chơi một đoạn ngắn, có tiết tấu nhanh hơn của bài "Radio Ga Ga" tại đêm diễn từ thiện Live Aid vào năm 1985. Nó là lời cảm ơn rộng khắp cho các khán giả đã tham gia vỗ tay liên tiếp theo theo nhịp điệp khúc bài hát (bắt chước theo như trong hình ảnh video). Video Phần video âm nhạc của bài hát có cảnh trong bộ phim Metropolis — phần hát sô lô của Freddie Mercury trong bài "Love Kills" đã được sử dụng trong phiên bản lưu trữ của Giorgio Moroder. Tuy nhiên, Queen đã phải mua phần quyền tác giả cho phần biểu diễn trong phim từ chính phủ cộng sản Đông Đức, là tổ chức nắm giữ quyền tác giả lúc đó. Trong cảnh "vỗ tay" của phim, nhịp đập khá hoàn hảo; các thành viên trong ban nhạc đã phải luyện tập chút ít trước khi thực hiện được đúng cách! Những cảnh vỗ tay thêm đó được góp sức từ những người trong câu lạc bộ hâm mộ của ban nhạc. Tên bài hát đã là cảm hứng cho Lady Gaga lấy tên nghệ danh của mình. Các phiên bản cover Paul Young đã hát bài này cùng Queen tại buổi hòa nhạc tưởng nhớ Freddie Mercury vào năm 1992. Bài hát đã có trong chương trình album Return Of The Champions thu âm từ buổi diễn Queen + Paul Rodgers vào năm 2005, do Roger Taylor và Paul Rodgers hát. Một phiên bản đã được sửa khá nhiều là được sử dụng như phần giới thiệu của We Will Rock You, một tác phẩm âm nhạc của Queen. Bài hát đã được Electric Six hát lại vào năm 2004. Video quay cận cảnh Dick Valentine, linh hồn của Electric Six và linh hồn của Freddie Mercury đang nhảy trên ngôi mộ của anh. Roger Taylor đã nói quan điểm của anh về phiên bản này của bài hát rằng video nhạt nhẽo và rằng anh sẽ "trông đợi royalties". Có thông tin cho rằng Brian May thì lại thích phiên bản này.
"Fat Bottomed Girls" là một bài hát của ban nhạc Queen đến từ Anh. Bài hát được phát hành trong album Jazz năm 1978, do tay chơi ghi-ta Brian May sáng tác và là một trong vài bài hát của Queen được thể hiện ghi ta theo phong cách alternative, mà thông thường được gọi là "drop D". Lời bài hát viết về một quan điểm là người phụ nữ đẹp không hẳn lúc nào cũng đẹp như được nhìn bề ngoài. Phần lời hát hơi khác so với thu âm trong nhà và ngoài trời. Khi công diễn, giọng lĩnh xướng trong phần điệp khúc do Freddie Mercury hát và phần hòa âm cao hơn là Roger Taylor và thấp hơn là Brian May. Trong phiên bản thu ở studio, không có âm vực cao hơn mà thay vào đó, giọng lĩnh xướng là cao nhất và là do May thể hiện, còn Mercury thì hòa âm. Do vậy, phiên bản ở album và đĩa đơn thật sự là một bộ đôi của Mercury và May. Phiên bản thu ở studio có phần thu âm có phần sai lỗi nổi tiếng của Brian May, khi anh đã chơi Sol/Fa không thuận giữa lúc nghỉ (trước khi sang phần 3 của bài). Phiên bản ở đĩa đơn (có thể nghe lại trong album Greatest Hits) đã bỏ sót phần ghi ta chơi dạo thêm ở giữa các đoạn trong bài hát. Bài hát đã được phát hành như là Double-A side với bài hát "Bicycle Race" và cũng có câu "Get on your bikes and ride" trong bài. Phiên bản cover Ban nhạc Antigone Rising đã hát lại bài này trong album Killer Queen: A Tribute to Queen năm 2005. Xếp hạng
"Something in the Way" là một bài hát của ban nhạc rock Nirvana đến từ Mỹ. Đây là bài thứ 12 và là bài cuối cùng trong album Nevermind thực hiện năm 1991 (không tính đến bài hát ẩn của album, bài "Endless, Nameless"). Ý nghĩa Từ lâu người ta đã tin rằng "Something in the Way" được viết về thời gian mà tác giả của nó, Kurt Cobain, vẫn còn trẻ, đang vô gia cư và ngủ ở dưới gầm cầu Young Street ở thành phố Aberdeen, Washington vào buổi tối. Câu truyện này được Cobain phổ biến rộng rãi và đã bị phủ nhận vào năm 2001 với sự xuất bản của cuốn tiểu sử Heavier Than Heaven về Cobain do Charles R. Cross viết, nó đã chỉ ra rằng Cobain đã từng có thể bị thủy triều của sông Wishkah lên cuốn đi nếu anh cố gắng ngủ tại đó. Sự thật là Cobain đang ngủ ở đi văng nhà người bạn vì hành lang các căn hộ cũng như phòng đợi ở bệnh viện không cho phép anh ngủ tại đó. Thu âm Theo nhà sản xuất Butch Vig của album Nevermind, Cobain ban đầu muốn thu âm "Something in the Way" với toàn bộ ban nhạc, nhưng lúc đầu mới thử cách này, Cobain tự ngồi xuống và chơi bài hát cho Vig xem, chỉ ra cho Vig rằng anh đã nghĩ âm thanh của bài hát phải như thế nào. Vig đã rất ấn tượng với cách Cobain chơi sô lô và hiệu chỉnh âm thanh bài hát và sau khi đã tắt điều hòa và điện thoại ở studio, ông đã cho bật microphone và thu âm bài hát theo đúng cách đó: Cobain hát và chơi ghi-ta. Điều này đã ghi điểm cho bài hát; tay trống Dave Grohl và tay chơi bass Krist Novoselic đã thêm phần của họ vào sau đó, mặc dù cả hai đã có một vài khó khăn với thời gian chạm chạp của bài hát. Novoselic cũng đã có rắc rối khi chỉnh bass của anh với ghi-ta của Cobain. Vào ngày cuối cùng của việc thu album Nevermind, Kirk Canning, một người bạn của ban nhạc, đã đến và hoàn thiện nốt bài hát với một ít phần nhạc chơi cello, mặc dù điều này cũng gặp khó khăn khi kết hợp với âm thanh ghi ta của Cobain. Phiên bản khác Một phiên bản chơi ghi ta điện của bài hát "Something in the Way" được thu trực tiếp đã có trong album video gia đình, Live! Tonight! Sold Out!! phát hành năm 1994 của Nirvana. Bài hát đã được thu âm ở Osaka, Nhật Bản vào ngày 14 tháng 2 năm 1992. Một phiên bản thu trực tiếp khác của ban nhạc cũng có trong album acoustic MTV Unplugged in New York phát hành năm 1994. Phiên bản này cũng được phát hành ở B-side trong đĩa đơn năm 1994 của bài hát "About a Girl" và ở phiên bản tiếng Nhật của album tổng hợp các bài hay nhất của ban nhạc phát hành năm 2002. Phiên bản này có sự tham gia của Pat Smear chơi ghi ta thứ hai và Lori Goldston chơi cello. Trong phim Một phiên bản của "Something in the Way" đã được Jerry O'Connell hát (đóng vai ngôi sao bóng đá Frank Cushman) trong bộ phim của Cameron Crowe là Jerry Maguire sản xuất năm 1996. Phần thu âm thực sự của bài hát trong album Nevermind cũng được sử dụng trong bộ phim Jarhead của Sam Mendes sản xuất năm 2005. Các bản cover "Something in the Way" đã được các nghệ sĩ sau thể hiện: Ban nhạc alternative rock Stereophonics đến từ Wales Nhạc sĩ hip hop Tricky của Anh Nhóm nhạc Trip Hop Olympia WA Still Coffin Ban nhạc hard rock/heavy metal Burning Brides của Mỹ Ban nhạc funk-rock Funky Chicken của Iceland Ban nhạc action rock Monty của Mỹ Thông tin thêm Xếp thứ 14 ở "Danh sách 20 bài hay nhất của Nirvana" của NME (2004)
Trung Hoa Dân Quốc () là một chính thể tiếp nối sau triều đình nhà Thanh năm 1912, chấm dứt hơn 2.000 năm phong kiến Trung Quốc. Đây là chính thể cộng hòa hiện đại đầu tiên của Trung Quốc và từng lãnh đạo toàn bộ đất nước Trung Quốc trên danh nghĩa từ 1912-1949 và lãnh đạo vùng lãnh thổ Đài Loan từ 1949 đến nay. "Dân quốc" là cách dịch tên gọi thể chế cộng hòa sang Trung văn từ các tiếng châu Âu lúc bấy giờ. Sau sự thành công lật đổ chính thể nhà Thanh, nhà nước cộng hòa non trẻ lập tức rơi vào nguy cơ bị chia rẽ bởi các quân phiệt địa phương cũ (quân phiệt Bắc Dương). Về mặt đối ngoại, chính thể Dân quốc đã dần thu hồi lại được chủ quyền một số vùng lãnh thổ và thoát dần khỏi sức ép của các cường quốc bên ngoài. Vào năm 1928, nhà nước cộng hòa trên danh nghĩa được thống nhất dưới quyền lãnh đạo của Trung Quốc Quốc Dân Đảng, và đang ở những giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hóa đầu tiên, tuy nhiên, nó lại rơi vào những cuộc xung đột giữa chính phủ Quốc Dân Đảng, Trung Quốc Cộng sản Đảng và những quân phiệt mới (về danh nghĩa là thần phục Quốc dân Đảng) cùng với Nhật Bản. Đa số các nỗ lực xây dựng quốc gia đều bị ngừng trệ trong cuộc kháng chiến chống lại Nhật Bản từ năm 1937 đến năm 1945, và sau này là sự bất hòa giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc khiến việc thành lập chính phủ liên hiệp không bao giờ có thể diễn ra, gây nên cuộc nội chiến Trung Quốc. Một loạt những hành động sai lầm về chính trị, kinh tế và quân sự khiến Quốc dân Đảng phải thua trận và chạy sang Đài Loan năm 1949, lập ra một nhà nước độc đảng và tự tuyên bố mình là đại diện hợp pháp duy nhất của toàn bộ Trung Quốc. Tuy nhiên, từ khi công cuộc tự do hóa chính trị bắt đầu vào cuối thập kỷ 1970 tại vùng lãnh thổ Đài Loan, Trung Hoa Dân Quốc đã tự chuyển đổi thành một nhà nước riêng biệt, đa đảng và dân chủ đại nghị. Giai đoạn đầu (1912-1916) Thành lập nhà nước Những năm cuối của triều đình nhà Thanh ghi dấu bởi sự bất ổn trong nước và những cuộc xâm lược của nước ngoài. Nhiều cuộc khởi nghĩa trong nước làm thiệt hại mạng hàng triệu người và những cuộc xung đột với các cường quốc bên ngoài luôn kết thúc bởi những hiệp ước bất bình đẳng gây phương hại cho Trung Quốc và buộc nước này phải chi trả những khoản tiền bồi thường to lớn cũng như cắt bớt đất đai. Hơn nữa, một quan điểm nảy sinh trong dân chúng cho rằng quyền lực chính trị cần phải được nhóm thiểu số Mãn Châu trả về cho nhóm đa số Hán. Đối mặt với những bất ổn dân sự và sự bất mãn của dân chúng, triều đình nhà Thanh đã gắng sức cải cách chính phủ theo nhiều cách, như quyết định đưa ra một hiến pháp năm 1906, thành lập các cơ quan lập pháp cấp tỉnh năm 1909, và chuẩn bị cho việc ra đời một nghị viện quốc gia năm 1910. Tuy nhiên, nhiều biện pháp đó bị các thế lực bảo thủ trong triều cản trở, và nhiều nhà cải cách bị tống giam hay thậm chí bị xử tử. Những thất bại của triều đình trong việc ban hành cách biện pháp cải cách dẫn tới tự do hóa chính trị và hiện đại hóa khiến cho những nhà cải cách quyết định chuyển hướng sang con đường cách mạng. Có nhiều nhóm cách mạng, nhưng nhóm được tổ chức tốt nhất do Tôn Dật Tiên, một nhà cách mạng theo đường lối cộng hoà và nhà hoạt động chống triều đình Thanh ngày càng phát triển và được biết tới nhiều nhất trong số Hoa kiều và các sinh viên du học, đặc biệt là tại Nhật Bản. Năm 1905 Tôn Dật Tiên cùng Hoàng Hưng, một nhà lãnh đạo nổi tiếng của phong trào cách mạng Trung Quốc tại Nhật Bản, thành lập Đồng Minh hội ở Tokyo, Hoàng Hưng giữ chức phó tổng lý. Phong trào này hoạt động nhờ vào tiền đóng góp của những người Trung Quốc ở nước ngoài, và cũng được sự trợ giúp chính trị từ phía nhiều thủ lĩnh quân sự địa phương cũng như những nhà cải cách đã phải bỏ chạy khỏi Trung Quốc sau sự kiện Bách nhật duy tân (còn gọi là Mậu Tuất biến pháp). Học thuyết chính trị của Tôn Dật Tiên hình thành từ năm 1897, và lần đầu được công bố tại Tokyo năm 1905, và được sửa đổi thêm nhiều cho tới tận đầu thập kỷ 1920. Học thuyết này tập trung vào Chủ nghĩa Tam Dân: "Dân tộc độc lập; Dân quyền tự do; Dân sinh hạnh phúc". Về cơ bản, nguyên tắc chủ nghĩa Dân tộc kêu gọi lật đổ triều đình Mãn Châu và chấm dứt quyền bá chủ của nước ngoài tại Trung Quốc. Nguyên tắc thứ hai, Dân chủ, được sử dụng để miêu tả mục đích của Tôn Đật Tiên về một cuộc bầu cử nhân dân nhằm dẫn tới một hình thức chính phủ cộng hoà. Nguyên tắc cuối cùng, Dân sinh, thường được coi như chủ nghĩa xã hội, có mục tiêu giúp những người dân bình thường thông qua việc quản lý quyền sở hữu và các phương tiện sản xuất cũng như đất đai. Thời kỳ cộng hòa của Trung Quốc bắt đầu với sự bùng phát của cách mạng vào ngày 10 tháng 10 năm 1911, tại Vũ Xương, thủ phủ tỉnh Hồ Bắc, với thành phần là những đơn vị quân đội đã được hiện đại hóa vốn bất mãn với triều đình nhà Thanh. Đây được gọi là cuộc Khởi nghĩa Vũ Xương và được kỷ niệm tại Đài Loan vào Ngày Song Thập. Trước cuộc khởi nghĩa này đã có nhiều cuộc khởi nghĩa và các phong trào phản kháng có tổ chức nhưng thất bại khác bên trong Trung Quốc. Cuộc khởi nghĩa nhanh chóng lan ra các thành phố xung quanh, và các thành viên của Đồng Minh hội (một tổ chức tiền thân của Trung Hoa Quốc dân đảng) trên khắp nước ngay lập tức nổi dậy ủng hộ các lực lượng Khởi nghĩa Vũ Xương. Ngày 12 tháng 10, những người khởi nghĩa chiếm được Hán Khẩu và Hán Dương. Tuy nhiên, thành công của cuộc cách mạng không kéo dài. Ngày 27 tháng 10, Viên Thế Khải được triều đình nhà Thanh chỉ định làm người chỉ huy đạo Tân quân của ông, gồm cả Lộ quân thứ nhất do Phùng Quốc Chương chỉ huy và Lộ quân thứ hai do Đoàn Kỳ Thụy chỉ huy, nhằm chiếm lại thành phố Vũ Hán, từng bị quân cách mạng chiếm ngày 11 tháng 10. Quân đội cách mạng có khoảng 6.000 người đối đầu với gần 15.000 quân của Viên Thế Khải. Ngày 11 tháng 11, quân cách mạng rút lui khỏi Hán Khẩu tới Hán Dương. Tới ngày 27 tháng 11, Hán Dương cũng mất và quân khởi nghĩa quay về điểm xuất phát, chỉ còn lại Vũ Xương. Tuy nhiên, trong khoảng 15 ngày chiến đấu với quân triều đình, 15 trong số 24 tỉnh đã tuyên bố độc lập khỏi Đại Thanh quốc. Một tháng sau, Tôn Dật Tiên từ Hoa Kỳ quay trở lại Trung Quốc, đem theo số tiền đã quyên góp được từ Hoa Kiều và những người Mỹ có cảm tình với cách mạng. Ngày 1 tháng 1 1912, nhiều đoàn đại biểu từ các tỉnh độc lập bầu Tôn Dật Tiên làm Tổng thống lâm thời đầu tiên của Trung Hoa Dân Quốc. Vì thời cuộc chuyển biến quá nhanh và sự tuyên bố độc lập của các tỉnh khỏi triều đình nhà Thanh, Viên Thế Khải cảm thấy cần thiết phải đàm phán với những người Cách mạng. Viên Thế Khải đồng ý chấp nhận Trung Hoa Dân Quốc, và vì vậy Tân quân cũng quay sang chống lại nhà Thanh. Chuỗi sự kiện này buộc hoàng đế cuối cùng của Trung Quốc, Phổ Nghi, phải thoái vị ngày 12 tháng 2 theo sức ép của Viên Thế Khải với Hiếu Định hoàng hậu, người đã ký giấy thoái vị chính thức. Tuy nhiên, Phổ Nghi được phép tiếp tục sống trong Tử Cấm Thành. Trung Hoa Dân Quốc chính thức trở thành chính thể tiếp nối triều đình nhà Thanh. Giai đoạn đầu của nhà nước Cộng hoà Ngày 1 tháng 1 năm 1912, Tôn Dật Tiên chính thức tuyên bố thành lập Trung Hoa Dân Quốc và lên làm Tổng thống lâm thời tại Nam Kinh. Nhưng quyền lực ở Bắc Kinh đã rơi vào tay Viên Thế Khải, người đã kiểm soát được toàn bộ Bắc Dương quân, lực lượng quân sự mạnh nhất ở Trung Quốc thời đó. Để ngăn chặn nội chiến và những can thiệp có thể xảy ra từ phía bên ngoài gây phương hại cho nhà nước Cộng hòa non trẻ, Tôn Dật Tiên đồng ý với đề xuất của Viên Thế Khải về việc thống nhất đất nước dưới quyền kiểm soát của một chính phủ do Viên Thế Khải cầm đầu. Ngày 10 tháng 3 tại Bắc Kinh, Viên Thế Khải tuyên thệ nhậm chức trở thành Tổng thống lâm thời thứ hai của Trung Hoa Dân Quốc. Nền cộng hòa mà Tôn Dật Tiên và các đồng chí của mình theo đuổi dần hình thành. Dù có nhiều đảng phái chính trị và mọi đảng đều đua tranh nhằm nắm quyền quản lý quốc gia, các nhà cách mạng thiếu một quân đội, và quyền lực của Viên Thế Khải vượt trội so với Quốc hội. Viên Thế Khải sửa đổi hiến pháp với tham vọng trở thành lãnh đạo độc tài. Tháng 8 năm 1912 Quốc Dân Đảng được Tống Giáo Nhân, một trong những đồng chí của Tôn Dật Tiên thành lập. Đây là tập hợp của nhiều đảng nhỏ gồm cả Đồng Minh hội của Tôn Dật Tiên. Trong những cuộc bầu cử toàn quốc được tổ chức vào tháng 2 năm 1913 để bầu ra một quốc hội lưỡng viện mới, các chiến dịch của Tống chống lại bộ máy của Viên Thế Khải với chính đảng ủng hộ ông ta là Đảng Dân chủ, do Lương Khải Siêu lãnh đạo. Tống là một nhà chính trị tài ba và Quốc Dân Đảng nắm đa số ghế tại quốc hội. Cuộc cách mạng thứ hai Viên Thế Khải cho ám sát Tống vào tháng 3; ông đã dàn xếp vụ ám sát nhiều vị tướng lĩnh ủng hộ cách mạng. Tình cảm thù địch với Viên Thế Khải ngày càng tăng. Vào tháng 4, Viên Thế Khải vay 25 triệu bảng Anh từ Anh Quốc, Pháp, Nga, Đức và Nhật Bản và không tham khảo ý kiến trước của nghị viện. Khoản tiền này được dùng chi phí cho Bắc Dương Quân của ông ta. Ngày 20 tháng 5, Viên Thế Khải ký một hiệp ước với Nga công nhận quyền ưu tiên đặc biệt của Nga tại Ngoại Mông và hạn chế quyền của Trung Quốc đối với quân đội đồn trú ở đó. Các thành viên Quốc Dân Đảng trong nghị viện buộc tội Viên Thế Khải lạm dụng quyền lực và kêu gọi lật đổ ông ta. Trái lại, Tiến bộ đảng (chữ Hán: 進步黨; bính âm: Jìnbùdǎng), liên minh của đảng Dân Chủ bảo hoàng, gồm những người ủng hộ chế độ quân chủ và Viên Thế Khải buộc tội Quốc Dân đảng đang kích động một cuộc nổi dậy. Sau đó Viên Thế Khải quyết định sử dụng hành động quân sự để chống lại Quốc Dân đảng. Trong tháng 7 năm 1913 bảy tỉnh phía nam nổi lên chống lại Viên Thế Khải, dẫn tới Cuộc cách mạng thứ hai (chữ Hán: 二次革命; bính âm: Èrcì Gémìng, Hán-Việt:Nhị thứ cách mệnh). Có nhiều lý do phía dưới dẫn tới Cuộc cách mạng thứ hai bên cạnh sự lạm quyền của Viên Thế Khải. Đầu tiên, nhiều đội quân cách mạng từ các tỉnh khác nhau đã giải giáp sau khi Trung Hoa Dân Quốc được thành lập, và nhiều sĩ quan cũng như binh sĩ cảm thấy rằng họ không được tưởng thưởng xứng đáng cho công lao trong việc lật đổ nhà Thanh. Vì thế nảy sinh nhiều tình cảm bất mãn đối với chính phủ mới bên trong quân đội. Thứ hai, nhiều nhà cách mạng thấy rằng Viên Thế Khải và Lê Nguyên Hồng không xứng đáng giữ chức Tổng thống và Phó tổng thống bởi vì họ đoạt được nó thông qua các cuộc vận động chính trị chứ không phải vì công lao tham gia vào phong trào cách mạng. Và cuối cùng, việc Viên Thế Khải sử dụng bạo lực (như việc ám sát Tống),thủ tiêu hy vọng của Quốc Dân Đảng về những cải cách và các mục tiêu chính trị thông qua các biện pháp bầu cử. Tuy nhiên, Cuộc cách mạng thứ hai không mang lại lợi ích cho Quốc Dân Đảng. Lãnh đạo lực lượng quân sự của Quốc Dân Đảng ở Giang Tây bị quân của Viên Thế Khải đánh bại ngày 1 tháng 8 và Nam Xương bị chiếm đóng. Ngày 1 tháng 9, Nam Kinh thất thủ. Khi cuộc nổi dậy bị đàn áp, Tôn và những người lãnh đạo khác của cuộc cách mạng phải bỏ chạy sang Nhật Bản. Tháng 10 năm 1913 một nghị viện bù nhìn bầu Viên Thế Khải làm Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc, và trao nhiều quyền lực to lớn cho chính phủ của ông ta. Đoàn Kỳ Thụy và các vị tướng lĩnh được tin cậy khác trong Bắc Dương Quân được trao các chức vụ chủ chốt trong nội các. Để có được sự thừa nhận từ bên ngoài, Viên Thế Khải phải chấp nhận cho Ngoại Mông và Tây Tạng được tự trị. Trung Quốc vẫn là một nước bị bảo hộ, nhưng họ phải cho phép Nga tự do hoạt động ở vùng Ngoại Mông và Tanna Tuva và Anh Quốc tiếp tục giữ ảnh hưởng tại Tây Tạng. Viên Thế Khải và cuộc chiến tranh giữ nước Tháng 11, Viên Thế Khải, vị tổng thống hợp pháp ra lệnh cho Quốc Dân Đảng tự giải tán và buộc mọi thành viên của đảng này rời khỏi nghị viện. Vì đa số thành viên nghị viện là đảng viên Quốc Dân Đảng, nghị viện không có đủ số đại biểu cần thiết và vì thế không thể được triệu tập. Tháng 1 năm 1914 Viên Thế Khải chính thức đình chỉ nghị viện. Tháng 2 ông kêu gọi triệu tập một cuộc hội nghị nhằm sửa đổi Hiến pháp lâm thời của Trung Hoa Dân Quốc. Hiến pháp sửa đổi trao nhiều quyền lực to lớn cho Viên Thế Khải, cho phép ông tuyên chiến, ký kết các hiệp ước, và chỉ định các chức vụ mà không cần sự đồng thuận từ phía lập pháp. Tháng 12 năm 1914, ông tiếp tục sửa đổi luật pháp, kéo dài nhiệm kỳ tổng thống thành mười năm với số lượng nhiệm kỳ không hạn chế. Đặc biệt, Viên Thế Khải còn chuẩn bị để lên ngôi hoàng đế. Mặt khác, từ sau thất bại của Cuộc cách mạng thứ hai, Tôn Dật Tiên và các đồng minh của mình tìm cách xây dựng lại phong trào cách mạng. Vào tháng 7 năm 1914, Tôn Dật Tiên Thành lập Trung Hoa Cách mạng Đảng (chữ Hán: 中華革命黨; bính âm: Zhōnghúa Gémìngdǎng). Tôn Dật Tiên cho rằng những thất bại của ông trong việc xây dựng một phong trào cách mạng kiên định có nguyên nhân từ sự thiếu vắng tính đoàn kết giữa các thành viên. Vì vậy, ở đảng mới của mình, Tôn Dật Tiên yêu cầu các thành viên phải tuyệt đối trung thành với ông cũng như tuân thủ một loạt các quy định ngặt nghèo khác. Một số cộng sự của Tôn Dật Tiên trước kia, gồm cả Hoàng Hưng, không đồng tình với ý tưởng về một tổ chức độc tài như vậy và từ chối gia nhập. Tuy nhiên, họ đồng ý rằng không thể để nhà nước cộng hòa quay lại thời cai trị phong kiến. Bên cạnh các nhóm cách mạng liên kết với Tôn Dật Tiên, còn có nhiều nhóm khác với mục đích lật đổ Viên Thế Khải. Một trong số đó là Đảng Tiến bộ, đảng ủng hộ chế độ quân chủ lập hiến đã chống đối Quốc Dân Đảng trong thời kỳ Cuộc cách mạng thứ hai. Đảng Tiến bộ có được vị trí chính trị phần lớn nhờ hành động phá hoại nghị viện quốc gia của Viên Thế Khải. Ngoài ra, nhiều quan chức cầm đầu các địa phương, từng tuyên bố độc lập khỏi nhà Thanh năm 1912, cho rằng việc ủng hộ thành lập một triều đình phong kiến khác là hành vi hoàn toàn lố bịch. Viên Thế Khải cũng khiến cho các tướng lĩnh Bắc Dương Quân xa lánh ông bằng cách tập trung hóa việc thu thuế từ phía các cơ quan địa phương. Hơn nữa, dư luận chung của người dân đều là chống đối lại Viên Thế Khải. Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng phát năm 1914, Nhật Bản đứng về phía Đồng Minh và chiếm các cơ sở của Đức tại tỉnh Sơn Đông. Năm 1915, người Nhật đưa ra trước chính phủ Bắc Kinh cái gọi là Hai mươi mốt yêu cầu. Các yêu cầu đó có chủ ý thiết lập quyền kiểm soát kinh tế của Nhật Bản trên các hoạt động giao thông đường sắt và khai thác mỏ ở Sơn Đông, Mãn Châu, Phúc Kiến, và buộc Viên Thế Khải phải chỉ định các cố vấn người Nhật vào các vị trí quan trọng trong chính phủ Trung Quốc. Hai mốt yêu cầu này, nếu được chấp nhận, sẽ biến Trung Quốc trở thành một nước bảo hộ của Nhật Bản. Chính phủ Bắc Kinh từ chối một số yêu cầu đó nhưng lùi bước trước sức ép của người Nhật cho phép Nhật giữ lãnh thổ Sơn Đông làm sở hữu của họ. Bắc Kinh cũng công nhận cho Tokyo quyền đối với toàn bộ vùng Mãn Châu và phía đông Nội Mông. Việc Viên Thế Khải chấp nhận những yêu cầu đó khiến dân chúng rất bất mãn, nhưng ông vẫn tiếp tục thực hiện kế hoạch xây dựng một chế độ quân chủ cho riêng mình. Ngày 12 tháng 12 năm 1915, Viên Thế Khải, được con trai là Viên Khắc Định ủng hộ, tuyên bố thành lập một Đế quốc Trung Hoa mới. Hành động này gây chấn động trên toàn quốc, khởi nghĩa xảy ra ở nhiều tỉnh. Ngày 25 tháng 12, cựu Tổng đốc Vân Nam Sái Ngạc, cựu Tổng đốc Giang Tây Lý Liệt Quân (chữ Hán: 李烈鈞; bính âm: Lǐ Lièjūn), và đô đốc Vân Nam Đường Kế Nghiêu thành lập Hộ quốc quân (chữ Hán: 護國軍; bính âm: Hùgúojūn) và tuyên bố Vân Nam độc lập. Hành động này đã mở đầu cho cuộc Hộ quốc Chiến tranh (chữ Hán: 護國戰爭; bính âm: Hùgúo Zhànzhēng). Sự độc lập của Vân Nam cũng khuyến khích các tỉnh khác phía nam tuyên bố độc lập. Các tướng lĩnh bên trong Bắc Dương Quân của Viên Thế Khải, vốn đã cảnh giác với việc lên ngôi hoàng đế của ông, không thực thi các chiến dịch chống lại Hộ quốc quân. Ngày 22 tháng 3 1916, Viên thoái vị và trở thành vị hoàng đế đầu tiên cũng như cuối cùng của triều đại do chính ông lập lên. Viên chết ngày 6 tháng 6 năm ấy. Phó Tổng thống Lê Nguyên Hồng nắm quyền và chỉ định viên tướng trong Bắc Dương Quân là Đoàn Kỳ Thụy làm Thủ tướng. Những tham vọng về một đế chế cuối cùng đã kết thúc và đất nước lại quay trở lại với chế độ cộng hòa. Thời kỳ của các quân phiệt (1916-1928) Sau cái chết của Viên Thế Khải, các nhóm quân phiệt từng vùng nổi lên đánh lẫn nhau giành quyền kiểm soát chính phủ Bắc Kinh. Dù thực tế có nhiều quân phiệt đã nắm được chính phủ Bắc Kinh trong thời kỳ này, thì đó cũng không phải là một thời kỳ kiểm soát mới hay là một sự thống trị, bởi vì các quân phiệt khác không thừa nhận những giai đoạn cầm quyền ngắn ngủi của nó và tự mình cai trị lãnh địa riêng. Một số nhà sử học cho rằng thời kỳ quân phiệt kết thúc vào năm 1927. Chiến tranh thế giới thứ nhất và sự phục hồi vương triều Mãn Châu Sau khi Viên Thế Khải chết, Lê Nguyên Hồng trở thành Tổng thống và Đoàn Kỳ Thụy lên làm Thủ tướng. Hiến pháp lâm thời được phục hồi và nghị viện lại được triệu tập. Tuy nhiên, Lê Nguyên Hồng và Đoàn Kỳ Thụy có nhiều bất đồng, gay gắt nhất là việc Trung Quốc nên hay không tham gia vào Chiến tranh thế giới thứ nhất. Từ khi cuộc chiến nổ ra, Trung Quốc vẫn giữ thái độ trung lập cho tới khi Hoa Kỳ thúc giục tất cả các quốc gia trung lập tham gia với Đồng Minh, coi đó là sự trừng phạt cho việc Đức sử dụng chiến tranh tàu ngầm không hạn chế. Thủ tướng Đoàn Kỳ Thụy ủng hộ mạnh mẽ việc gia nhập Đồng Minh, bởi vì ông sẽ lợi dụng cơ hội đó để có được những khoản vay từ Nhật Bản nhằm xây dựng đạo quân An Huy của mình. Hai bè phái trong nghị viện tranh cãi nảy lửa về vấn đề này và vào tháng 5 năm 1917 Lê Nguyên Hồng cách chức Đoàn Kỳ Thụy trong chính phủ. Việc Đoàn bị cách chức khiến các quân phiệt địa phương trung thành với ông tuyên bố độc lập và kêu gọi Lê Nguyên Hồng từ chức Tổng thống. Lê Nguyên Hồng nhờ Trương Huân (chữ Hán: 張勳; bính âm: Zhāng Xūn) làm trung gian dàn xếp. Trương Huân là một viên tướng trong triều đình nhà Thanh trước kia và khi ấy đang làm đốc quân tỉnh An Huy. Ông có ý định tái lập Phổ Nghi lên ngôi hoàng đế. Ngày 1 tháng 7 năm 1917, Trương chính thức tuyên bố rằng nhà Thanh đã được tái lập và yêu cầu Lê Nguyên Hồng từ chức Tổng thống, nhưng lập tức bị Lê bác bỏ. Trong vụ phục tích (tái lập vương triều) này, Đoàn Kỳ Thụy chỉ huy quân đội đánh tan các lực lượng của Trương Huân tại Bắc Kinh. Một trong những máy bay của Đoàn đã ném bom vào Tử Cấm Thành, đây có lẽ là vụ ném bom đầu tiên xảy ra ở Đông Á. Ngày 12 tháng 7, các lực lượng của Trương tan rã và Đoàn trở về Bắc Kinh. Thời đại phục tích ngắn ngủi của nhà Mãn Châu kết thúc. Trong thời kỳ hỗn loạn này, Phùng Quốc Chương, cũng là một vị tướng trong Bắc Dương Quân, nắm quyền Tổng thống tạm quyền của nền cộng hòa và tuyên bố nhậm chức tại Nam Kinh. Đoàn Kỳ Thụy lấy lại chức vụ Thủ tướng. Quân phiệt Trực Lệ của Phùng Quốc Chương và Quân phiệt An Huy của Đoàn Kỳ Thụy sáp nhập trở thành đội quân mạnh nhất sau sự kiện phục tích. Chiến tranh hiến pháp Đoàn Kỳ Thụy thắng lợi trở về Bắc Kinh và trở thành nhà lãnh đạo nhiều quyền lực nhất Trung Quốc. Đoàn giải tán nghị viện ngay khi trở lại và tuyên chiến với Đức và Áo-Hung ngày 13 tháng 8 năm 1917. Tháng 9, sự coi thường hiến pháp của Đoàn khiến Tôn Dật Tiên và các thành viên bị phế truất của nghị viện thành lập một chính phủ mới ở Quảng Châu và Hộ pháp quân (chữ Hán: 護法軍; bính âm: Hùfǎjū) để chống lại sự lạm dụng quyền lực của Đoàn. Trớ trêu thay, chính phủ mới của Tôn Dật Tiên lại không dựa trên Hiến pháp lâm thời. Thay vào đó, chính phủ mới hoạt động theo hình thức chính phủ quân sự và Tôn Dật Tiên nắm quyền Đại Nguyên soái (chữ Hán: 大元帥; bính âm: Dàyúanshuài). Sáu tỉnh miền nam tham gia chính phủ Quảng Châu của Tôn Dật Tiên và đẩy lùi đội quân của Đoàn trong nỗ lực tiêu diệt Hộ pháp quân. Chiến tranh bảo vệ hiến pháp kéo dài sang tận năm 1918. Nhiều người trong chính phủ Quảng Châu của Tôn Dật Tiên cảm thấy việc ông nắm chức Tổng tư lệnh là quá mức và muốn lập ra một hệ thống chính phủ mới để hạn chế quyền lực quá mức của Tôn. Vì thế, chính phủ Quảng Châu được tái tổ chức để bầu ra một hệ thống nội các bảy thành viên, được gọi là Ủy ban cai quản. Tôn Dật Tiên một lần nữa bị các đối thủ chính trị và các thế lực quân đội gạt ra ngoài. Ông bỏ đi tới Thượng Hải sau sự kiện này. Chính phủ Bắc Kinh của Đoàn Kỳ Thụy không ở tình trạng tốt hơn chính phủ của Tôn Dật Tiên. Một số tướng lĩnh trong đạo quân An Huy của Đoàn và những người khác trong đạo quân Trực Lệ không muốn sử dụng vũ lực để thống nhất các tỉnh phía nam. Họ cho rằng đàm phán là giải pháp tốt để thống nhất và buộc Đoàn phải từ chức vào tháng 10. Ngoài ra, nhiều người chán ngán với những khoản nợ to lớn của Đoàn với Nhật Bản để chi cho quân đội của ông ta với những cuộc nội chiến. Tổng thống Phùng Quốc Chương, đã sắp hết nhiệm kỳ, được thay thế bởi Từ Thế Xương, một trong những người thầy của Phổ Nghi. Ông này lại muốn đàm phán với các tỉnh phương nam. Tháng 2 năm 1919, các đoàn đại biểu từ các tỉnh phía bắc và phía nam họp tại Thượng Hải để đàm phán về những giải pháp hậu chiến. Tuy nhiên, cuộc gặp gỡ đã không thống nhất được về những khoản vay của Đoàn với Nhật Bản và những nỗ lực đàm phán tiếp sau bị cản trở bởi Phong trào Ngũ Tứ. Chiến tranh bảo vệ hiến pháp đã hoàn toàn chia rẽ Trung Quốc thành hai nửa bắc-nam. Phong trào Ngũ Tứ Năm 1917, Trung Quốc tuyên chiến với Đức, hy vọng rằng sẽ lấy lại được những lãnh thổ đã mất, khi ấy đang ở trong tay Nhật Bản. Nhưng năm 1918, chính phủ Bắc Kinh lại ký kết một mật ước với Nhật Bản, chấp nhận chủ quyền của nước này với Sơn Đông. Khi Hiệp ước Versailles xác nhận chủ quyền của Nhật với Sơn Đông và sự bán rẻ lãnh thổ quốc gia của chính phủ Bắc Kinh đến tai quần chúng, những phản kháng trong nước nổ ra. Ngày 4 tháng 5 năm 1919, hàng loạt các cuộc biểu tình đông đảo của sinh viên chống chính phủ Bắc Kinh và Nhật Bản nổ ra. Những người nhiệt tình chính trị, phong trào hành động sinh viên và những trí thức phản đối thần tượng cũ, kêu gọi cải cách cùng với các sinh viên yêu nước phát triển trở thành một phong trào phản kháng toàn quốc được gọi là Phong trào Ngũ Tứ (còn gọi là Ngũ Tứ vận động, hay phong trào ngày 4 tháng 5). Tình hình trí thức, cơ sở để phát triển của Phong trào Ngũ Tứ, được gọi là Phong trào Văn hóa Mới (新文化運動), diễn ra trong giai đoạn từ 1917 đến 1923. Những cuộc biểu tình của sinh viên ngày 4 tháng 5 năm 1919 là đỉnh cao của Phong trào Văn hóa Mới và những thuật ngữ khác cũng thường được sử dụng tương tự. Đại diện Trung Quốc từ chối ký Hiệp ước Versailles, vì áp lực mạnh từ phía những sinh viên và người dân trong nước. Chiến đấu chống chủ nghĩa quân phiệt Phong trào Ngũ Tứ giúp nhen nhóm lại lý tưởng khi ấy đã phai nhạt của cách mạng cộng hòa. Năm 1917, Tôn Dật Tiên đã trở thành Tổng tư lệnh của chính phủ quân sự đối lập ở Quảng Châu hợp tác cùng các quân phiệt phía nam. Tháng 10 năm 1919 Tôn Dật Tiên tái lập Quốc Dân Đảng, đối lập với chính phủ Bắc Kinh. Chính phủ Bắc Kinh, chính thể tiếp sau thời các quân phiệt, bề ngoài vẫn đang là chính phủ hợp hiến và điều hành các quan hệ với phương Tây. Tới năm 1921, Tôn Dật Tiên trở thành tổng thống chính phủ phía Nam. Những năm cuối đời, ông tìm cách củng cố chính quyền của mình và thực hiện tham vọng thống nhất với phương Bắc. Những nỗ lực của ông nhằm có được sự giúp đỡ từ các cường quốc phương Tây đều thất bại, vào năm 1920 ông quay sang Liên Xô, khi ấy cũng vừa thực hiện thành công cuộc cách mạng của riêng mình. Liên Xô muốn trở thành đồng minh với những người cộng sản Trung Quốc bằng cách tấn công chủ nghĩa tư bản phương Tây. Nhưng vì mục tiêu chính trị, lãnh đạo Liên Xô ủng hộ cả Tôn Dật Tiên và Đảng Cộng sản Trung Quốc mới được thành lập. Người Nga hy vọng củng cố được quan hệ của mình nhưng vẫn chuẩn bị hợp tác với bất kỳ bên nào giành thắng lợi. Và cuộc đấu tranh giành quyền lực tại Trung Quốc giữa Quốc Dân Đảng và Đảng Cộng sản bắt đầu nổ ra. Năm 1922, liên minh quân phiệt miền Nam với Quốc Dân Đảng ở Quảng Châu tan vỡ, Tôn Dật Tiên chạy về Thượng Hải. Tới khi ấy Tôn Dật Tiên đã thấy được sự cần thiết phải có hỗ trợ của Liên Xô để hoàn thành lý tưởng của mình. Năm 1923 một tuyên bố chung giữa Tôn Dật Tiên và đại diện Liên Xô tại Thượng Hải cam kết sự hỗ trợ của Liên Xô cho quá trình thống nhất Trung Quốc. Các cố vấn Xô viết — người nổi tiếng nhất là một thành viên của Quốc tế Cộng sản III, Mikhail Borodin — bắt đầu tới Trung Quốc năm 1923 để giúp đỡ tái tổ chức và củng cố Quốc Dân Đảng theo hình thức Đảng Cộng sản Liên Xô. Trung Quốc Cộng sản Đảng, theo chỉ dẫn của Quốc tế III hợp tác với Quốc Dân Đảng và các thành viên của họ được khuyến khích gia nhập trong khi vẫn giữ đảng tịch. Khi ấy Đảng Cộng sản Trung Quốc còn nhỏ, mới chỉ có khoảng 300 thành viên năm 1921 và tới năm 1925 là khoảng 1.500 người. Năm 1922, Quốc Dân Đảng đã có khoảng 150.000 thành viên. Các cố vấn Liên Xô giúp Quốc Dân Đảng thành lập một học viện chính trị để huấn luyện những tuyên truyền viên các cách thức vận động nhân dân và vào năm 1923 cử Tưởng Giới Thạch, một trong những trợ thủ của Tôn Dật Tiên từ ngày Đồng Minh hội, tới học quân sự trong nhiều tháng ở Moskva. Sau khi Tưởng Giới Thạch trở về vào cuối năm 1923, ông tham gia vào việc thành lập Trường Võ bị Hoàng Phố bên ngoài Quảng Châu, là khu vực chính phủ thuộc liên minh của Quốc Dân Đảng và Cộng sản Đảng. Năm 1924, Tưởng Giới Thạch trở thành giám đốc của Trường võ bị và bắt đầu xây dựng ảnh hưởng để trở thành người kế tục của Tôn Dật Tiên trong vai trò lãnh đạo Quốc Dân Đảng và thống nhất toàn bộ Trung Quốc dưới chính phủ của những người cánh hữu theo Chủ nghĩa Tam Dân. Tưởng Giới Thạch củng cố quyền lực Tôn Dật Tiên chết tháng 3 năm 1925 tại Bắc Kinh vì bệnh ung thư, nhưng Phong trào quốc gia do ông thành lập đang phát triển vững mạnh. Trong mùa hè năm 1925, Tưởng Giới Thạch, trong vai trò Tổng tư lệnh Quân đội Cách mạng Quốc dân, lập ra một kế hoạch Bắc phạt chống lại các quân phiệt Bắc Dương. Trong vòng chín tháng, một nửa Trung Quốc đã được chinh phục. Tuy nhiên, tới năm 1926, Quốc Dân Đảng chia rẽ thành hai phe cánh tả và cánh hữu và các thành phần Cộng sản bên trong nó bắt đầu phát triển. Tháng 3 năm 1926, sau khi phá vỡ một âm mưu bắt cóc mình , Tưởng Giới Thạch đột ngột miễn nhiệm các cố vấn Xô Viết, đưa ra các luật lệ hạn chế các thành viên Đảng Cộng sản Trung Quốc tham gia vào ban lãnh đạo cấp cao, và xuất hiện với tư cách nhà lãnh đạo tối cao của Quốc Dân Đảng. Liên bang Xô Viết, vẫn hy vọng ngăn chặn một sự chia rẽ giữa Tưởng Giới Thạch và Đảng Cộng sản Trung Quốc, ra lệnh tiến hành các hoạt động Cộng sản bí mật nhằm tạo điều kiện cho cuộc Bắc phạt, mà cuối cùng được Tưởng Giới Thạch ra lệnh thực hiện từ Quảng Châu vào tháng 7 năm 1926. Đầu năm 1927 sự đối đầu Quốc Dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc dẫn tới sự chia rẽ bên trong hàng ngũ cách mạng. Đảng Cộng sản Trung Quốc và phe cánh tả của Quốc Dân Đảng quyết định dời chính phủ Quốc gia từ Quảng Châu tới Vũ Hán. Nhưng Tưởng Giới Thạch, người đang đạt được thành công với cuộc Bắc phạt, đưa các lực lượng của mình tới tiêu diệt các cơ sở của Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Thượng Hải và lập ra một chính phủ chống Cộng ở Nam Kinh vào tháng 4 năm 1927. Khi ấy Trung Quốc có ba thủ đô: thủ đô được quốc tế công nhận của chính quyền quân phiệt tại Bắc Kinh; thủ đô của phe Cộng sản và cánh tả Quốc Dân Đảng ở Vũ Hán; và thủ đô của chính quyền cánh hữu dân-quân sự tại Nam Kinh, nơi đây tiếp tục là thủ đô của chính quyền Quốc Dân Đảng trong thập kỷ tiếp sau. Lý tưởng của Quốc tế Cộng sản III tan vỡ. Một chính sách mới tiến hành kêu gọi Đảng Cộng sản Trung Quốc thúc đẩy những cuộc khởi nghĩa cả ở thành thị và nông thôn, chuẩn bị cho sự phát triển của làn sóng cách mạng mới. Những nỗ lực không thành công của người Cộng sản nhằm chiếm các thành phố Nam Xương, Trường Sa, Sán Đầu, và Quảng Châu, và một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở vùng nông thôn, được gọi là Khởi nghĩa mùa thu, được các nông dân tỉnh Hồ Nam tiến hành. Cuộc khởi nghĩa này do Mao Trạch Đông lãnh đạo, người mà sau này trở thành chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc và lãnh đạo nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Nhưng vào giữa năm 1927, Đảng Cộng sản Trung Quốc rơi vào thời kỳ thoái trào. Những người Cộng sản bị đẩy lùi khỏi Vũ Hán bởi những đồng minh cánh tả của mình trong Quốc Dân Đảng, và họ cũng bị một chính quyền quân sự khác lật đổ. Tới năm 1928, về danh nghĩa, toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc đều thuộc quyền kiểm soát của Tưởng Giới Thạch và chính phủ Nam Kinh ngay lập tức được quốc tế công nhận là chính quyền hợp pháp duy nhất của Trung Quốc. Chính phủ Quốc Dân Đảng thông báo rằng chiếu theo công thức cách mạng ba giai đoạn của Tôn Dật Tiên — Quân chính (quân nhân cầm quyền, dẹp phiến loạn, thống nhất bằng quân sự), Huấn chính (giáo dục chính trị, chuẩn bị hiến pháp) và Hiến chính (dân chủ lập hiến) — Trung Quốc đã đạt tới điểm cuối của giai đoạn đầu tiên và sẽ bắt đầu bước vào giai đoạn hai, dưới sự lãnh đạo của Quốc Dân Đảng. Thập kỷ Nam Kinh (1928-1937) "Thập kỷ Nam Kinh" 1928-1937 là một trong những giai đoạn củng cố và phát triển đất nước của Quốc Dân Đảng. Một số quyền lợi và những đòi hỏi quá đáng của người nước ngoài tại các nhượng địa ở Trung Quốc được giảm bớt thông qua con đường ngoại giao. Chính phủ rất nỗ lực hiện đại hóa hệ thống luật hình sự và dân sự, ổn định giá cả, chi trả dần các khoản nợ, cải cách ngân hàng và hệ thống tiền tệ, xây dựng đường sắt và đường cao tốc, cải thiện các cơ sở y tế công cộng, trừng phạt hành vi buôn bán ma tuý, và tăng trưởng sản xuất sản phẩm nông công nghiệp. Những tiến bộ to lớn trong giáo dục và trong nỗ lực thống nhất đất nước, chương trình phổ cập tiếng Phổ thông Trung Hoa nhằm hạn chế bớt các biến thể ngôn ngữ nói tiếng Trung khác. Mạng lưới cơ sở thông tin được thành lập nhiều nơi càng làm tăng tình cảm thống nhất bên trong dân chúng. Mặt khác, tự do chính trị bị hạn chế rất nhiều so với những thời kỳ trước đó bởi Quốc Dân Đảng cai trị theo hình thức độc đảng với triết lý "giám hộ chính trị" và thường dùng các biện pháp bạo lực để dẹp yên các hành vi chống đối chính phủ. Dù trên danh nghĩa Quốc Dân Đảng kiểm soát toàn bộ đất nước trong giai đoạn này, nhiều vùng rộng lớn của Trung Quốc vẫn ở tình trạng bán tự trị với người cầm đầu là các quân phiệt địa phương. Sự kiểm soát của Quốc Dân Đảng mạnh nhất tại các vùng phía đông Trung Quốc, xung quanh thủ đô Nam Kinh, nhưng các quân phiệt địa phương như Phùng Ngọc Tường và Diêm Tích Sơn vẫn giữ nhiều quyền lực to lớn bên trong lãnh địa của mình. Chiến tranh Trung Nguyên năm 1930 và sự xâm lược của Nhật Bản năm 1931 dường như đã giải quyết được tình thế này khi các chính quyền địa phương không thể tập hợp với nhau thành một mặt trận chung cùng với chính phủ trung ương. Quân đội Hoa Kỳ trước và ở thời Trung Hoa Dân Quốc Từ năm 1901 đến 1937, Quân đội Hoa Kỳ duy trì một sự hiện diện mạnh mẽ ở Trung Quốc nhằm đảm bảo các quyền lợi thương mại tại Viễn Đông và đảm bảo một liên minh với Trung Hoa Dân Quốc, sau nhiều rắc rối ngoại giao với Đế chế Trung Quốc. Quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc tăng rồi lại giảm, giai đoạn nồng ấm kế tiếp ngay bằng những cuộc biểu tình bạo lực chống Mỹ. Trong thập kỷ 1920 và 1930, Hạm đội châu Á của Hải quân Hoa Kỳ có căn cứ tại Trung Quốc, và hình ảnh cổ điển về người "Thủy thủ Trung Hoa" đã phát triển, khi một số lượng lớn thành viên Hải quân Hoa Kỳ đóng quân tại Trung Quốc trong 10-12 năm và sau khi về hưu vẫn tiếp tục sống tại đó. Bộ phim kinh điển The Sand Pebbles đã kịch hóa cuộc sống của những thủy thủ Trung Hoa. Quân đội Hoa Kỳ cũng đưa ra nhiều giải thưởng và huân huy chương ghi nhận công lao của những người lính đã thực hiện nghĩa vụ tại Trung Quốc. China Service Medal, China Campaign Medal, Yangtze Service Medal, và China Relief Expedition Medal đều là những huy chương quân sự thường thấy trên ngực áo của những người lính đã phục vụ tại đây. Khi Chiến tranh thế giới thứ hai cận kề, quân đội Hoa Kỳ dần rút đi để bảo vệ các quyền lợi khác của họ tại Thái Bình Dương. Với sự trỗi dậy của Cộng sản Trung Quốc, quân đội Hoa Kỳ không còn hiện diện ở lục địa nữa, tình trạng này kéo dài tới tận ngày nay. Chiến tranh Trung-Nhật lần hai (1937-1945) Rất ít người Trung Quốc có ảo tưởng về những kế hoạch của Nhật Bản tại đất nước mình. Thiếu nguyên liệu thô và sức ép từ sự gia tăng dân số, Nhật Bản ban đầu chiếm Mãn Châu vào tháng 9, 1931 và đưa vị vua cũ của nhà Thanh, Phổ Nghi, lên làm lãnh đạo một chính phủ bù nhìn có tên là Mãn Châu Quốc vào năm 1932. Việc mất Mãn Châu và những tiềm năng to lớn của nó cho phát triển công nghiệp cũng như các công nghiệp quốc phòng là một cú đánh đối với nền kinh tế Quốc Dân Đảng. Hội Quốc Liên, tiền thân của tổ chức Liên Hợp Quốc, được thành lập từ cuối Chiến tranh thế giới thứ nhất không thể có hành động gì ngăn cản mưu đồ của Nhật. Nhật Bản bắt đầu tiến từ phía Nam Vạn Lý Trường Thành lên phía Bắc Trung Quốc. Tất nhiên, người Trung Quốc rất tức giận Nhật Bản nhưng họ cũng bất mãn với chính phủ Trung Hoa Dân quốc, khi ấy chỉ lo chống Cộng sản mà bỏ quên kẻ xâm lược Nhật Bản. Việc đặt nặng tầm quan trọng của "sự thống nhất bên trong quan trọng hơn mối nguy hiểm từ bên ngoài" thể hiện rõ nhất vào tháng 12 năm 1936, khi Tưởng Giới Thạch, trong một sự kiện được gọi là sự biến Tây An đã bị thuộc tướng của mình là Trương Học Lương bắt cóc và buộc phải đồng ý liên minh với những người Cộng sản chống lại Nhật Bản, coi đó là điều kiện trả tự do. Cuộc kháng chiến của Trung Quốc được củng cố thêm sau ngày 7 tháng 7 năm 1937, khi một cuộc đụng độ xảy ra giữa quân đội Trung Quốc và quân đội Nhật Bản bên ngoài Bắc Kinh (khi ấy được đổi tên thành Bắc Bình) gần Cầu Marco Polo tức cầu Lư Câu (người Hoa gọi là "vụ Lư Câu Kiều"). Vụ rắc rối này không chỉ đánh dấu sự khởi đầu, dù không tuyên bố, của cuộc chiến giữa Hoa và Nhật mà còn khiến việc thông báo chính thức thành lập Mặt trận thống nhất thứ hai Quốc Dân Đảng-Cộng sản Đảng chống lại Nhật Bản diễn ra sớm hơn. Thượng Hải mất sau một trận chiến ba tháng kết thúc với những tổn thất nghiêm trọng của hải quân và quân đội Nhật Bản. Thủ đô Nam Kinh thất thủ tháng 12 năm 1937. Tiếp theo là hàng loạt các cuộc thảm sát và hãm hiếp thường dân trong cuộc Thảm sát Nam Kinh. Sự hợp tác giữa Quốc Dân Đảng và Đảng Cộng sản diễn ra tạo điều kiện thuận lợi cho những nhóm Cộng sản đang bị bao vây bởi cả hai thế lực Quốc Dân Đảng - Đế quốc Nhật khi đó. Tuy nhiên, sự thiếu tin tưởng giữa hai bên hầu như chưa thay đổi. Liên minh này bắt đầu tan vỡ từ cuối năm 1938, dù Nhật Bản đã giành được và củng cố vững chắc nhiều vùng lãnh thổ ở phía Bắc Trung Quốc và vùng Đồng bằng sông Dương Tử màu mỡ ở Trung Nguyên. Sau năm 1940, những cuộc xung đột giữa Quốc Dân Đảng và Cộng sản Đảng ngày càng trở nên thường xuyên và gay gắt tại những vùng không thuộc quyền kiểm soát của Nhật. Đảng Cộng sản mở rộng ảnh hưởng của mình ở bất cứ cơ hội nào có thể và thể hiện mình là những tổ chức to lớn với cách quản lý hành chính hiện đại, cùng với những cải cách ruộng đất và thuế má khiến nông dân ùn ùn theo họ; trong khi Quốc Dân Đảng tìm cách kiểm soát và ngăn cản sự mở rộng ảnh hưởng của Đảng Cộng sản. Năm 1945, Trung Hoa Dân quốc xuất hiện sau cuộc thế chiến thứ hai (1939-1945) với vị thế và hình tượng trong mắt quốc tế là một cường quốc lớn mạnh giành chiến thắng cũng như là một đồng minh vĩ đại của phe Đồng minh nhưng trên thực tế là một đất nước với nền kinh tế suy yếu và đang bên bờ một cuộc nội chiến. Kinh tế bị phá hủy, kiệt quệ để thỏa mãn các nhu cầu chiến tranh với bên ngoài cũng như các cuộc tranh giành từ bên trong, lạm phát gia tăng với những kẻ đầu cơ, tích trữ, và cất giấu. Nạn đói đến cùng với chiến tranh, hàng triệu người mất nhà cửa vì lũ lụt và tình trạng bất ổn khắp nơi trên đất nước. Tình hình càng rắc rối thêm khi Đồng minh, theo Hội nghị Yalta vào tháng 2 năm 1945 cho phép quân đội Liên Xô tiến vào Mãn Châu nhằm thúc đẩy quá trình tiêu diệt quân đội Nhật Bản. Dù người Trung Quốc không hề có mặt tại Yalta, họ chỉ được tham vấn; và họ đã đồng ý cho người Nga tiến vào với hy vọng Liên Xô sẽ chỉ đàm phán với chính phủ Quốc Dân Đảng. Sau cuộc chiến, Liên bang Xô Viết, như một phần của thỏa thuận Yalta, cho phép họ tăng cường ảnh hưởng tại Mãn Châu, phá hủy và dỡ bỏ quá nửa số thiết bị quân sự của Nhật tại đó. Sự hiện diện của Liên Xô tại vùng Tây Bắc Trung Quốc cho phép Đảng Cộng sản Trung Hoa đủ thời gian để tự trang bị cho mình với các vũ khí của quân đội Nhật. Các vấn đề phục hồi các vùng đất chiếm đóng cũ của Nhật và tái thiết đất nước sau những sự tàn phá của chiến tranh bắt đầu được đặt ra. Nội chiến (1945-1949) Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Hoa Kỳ nổi lên với vai trò một nhân tố quan trọng trong các vấn đề của Trung Quốc. Với tư cách một nước đồng minh, Hoa Kỳ tiến hành một chương trình viện trợ quân sự và tài chính ồ ạt cho Trung Quốc vào cuối năm 1941. Tháng 1 năm 1943 Hoa Kỳ và Anh Quốc muốn sửa đổi các hiệp ước cũ của họ với Trung Quốc, chấm dứt một thế kỷ của các quan hệ bất bình đẳng. Chỉ trong vài tháng, một hiệp ước mới được ký kết giữa Hoa Kỳ và Cộng hòa Trung Hoa về việc quân đội Hoa Kỳ đồn trú tại Trung Quốc cho mục tiêu chung chống Nhật Bản. Tháng 12 năm 1943 các Đạo luật Loại trừ Trung Quốc ở thập kỷ 1880 và các điều luật do Quốc hội Hoa Kỳ lập ra nhằm hạn chế người Trung Quốc nhập cư vào Hoa Kỳ bị bãi bỏ. Ban đầu, chính sách thời chiến của Hoa Kỳ có mục tiêu giúp đỡ Trung Quốc trở thành một đồng minh mạnh và là một lực lượng ổn định thời hậu chiến ở Đông Á. Tuy nhiên, khi các cuộc xung đột giữa Quốc Dân Đảng và Đảng cộng sản ngày càng ác liệt, những nỗ lực hòa giải của Hoa Kỳ nhằm đưa hai bên vào trong một lực lượng chống Nhật hiệu quả không mang lại thành công. Tới cuối cuộc chiến, Hải quân Hoa Kỳ đã được triển khai để giữ Bắc Bình và Thiên Tân để ngăn cản một cuộc tấn công bất ngờ có thể xảy ra từ phía Liên Xô, và hỗ trợ hậu cần cho các lực lượng Quốc Dân Đảng ở phía bắc và đông bắc Trung Quốc. Thông qua ảnh hưởng của mình, Hoa Kỳ đã dàn xếp một thỏa thuận ngừng bắn giữa hai bên vào tháng 1 năm 1946, nhưng các trận đánh giữa Quốc Dân Đảng và Đảng cộng sản lại nhanh chóng tái phát. Tư tưởng bất mãn của dân chúng về sự quản lý hành chính yếu kém của chính phủ Trung Hoa Dân Quốc ngày càng tăng cộng thêm sự xúi bẩy của những người Cộng sản gây ra vụ phản kháng sinh viên toàn quốc chống lại việc xử lý sai một vụ cáo buộc hãm hiếp đầu năm 1947 và những cuộc biểu tình toàn quốc khác chống lại những cải cách tiền tệ cuối năm ấy. Nhận thấy những nỗ lực can thiệp vũ trang trên diện rộng nhưng ở thời gian ngắn của mình không thể giúp chấm dứt cuộc chiến, Hoa Kỳ rút các phái bộ do Tướng George C. Marshall chỉ huy về nước năm 1947. Cuộc nội chiến Trung Quốc, trong đó Hoa Kỳ ủng hộ Quốc Dân Đảng với những khoản viện trợ kinh tế và vũ khí lớn tuy nhiên không trực tiếp tham chiến, ngày càng lan rộng. Các trận đánh không còn chỉ với mục tiêu giành đất đai mà còn để lôi kéo dân chúng. Mãi sau này chính phủ Trung Hoa Dân Quốc mới nhận thấy sự cần thiết phải lấy lòng dân thông qua các cuộc cải cách từ bên trong. Tuy nhiên nỗ lực của họ không thành công vì tình trạng tham nhũng tràn lan trong chính phủ và những hỗn loạn về chính trị cũng như kinh tế. Tới cuối năm 1948 tình hình của Quốc Dân Đảng đã nguy ngập. Những đội quân vô kỷ luật và mất tinh thần của họ không thể là đối thủ của Quân đội Giải phóng Nhân dân, trước đó thường được gọi là Hồng quân, của Đảng Cộng sản. Những người cộng sản đã chắc chân ở phía bắc và đông bắc. Dù Quốc Dân Đảng có ưu thế về quân số và vũ khí, kiểm soát diện tích lãnh thổ rộng với dân số đông hơn đối thủ cũng như được hỗ trợ nhiều từ quốc tế, họ đã kiệt lực vì mất đi sự ủng hộ của đa số người dân cũng như các cuộc chiến tranh giành quyền lực bên trong. Họ cũng đánh mất chính nghĩa cuộc chiến vào tay Đảng Cộng sản, nhân dân chán ngán với tình trạng tham nhũng của Quốc Dân Đảng còn binh sĩ Quốc dân đảng chỉ mong muốn buông súng đầu hàng. Tháng 1 năm 1949 Bắc Bình bị Đảng Cộng sản chiếm mà không mất một viên đạn, những người Cộng sản lại đổi tên thành phố thành Bắc Kinh. Từ tháng 4 đến tháng 11, các thành phố chính lần lượt rơi từ tay Quốc Dân Đảng vào tay Đảng Cộng sản với những chống cự nhỏ nhoi nhất. Trong đa số trường hợp, vùng nông thôn và các thị trấn nhỏ quanh đó đã rơi vào tầm ảnh hưởng Đảng Cộng sản từ rất lâu trước đó. Sau khi Tưởng Giới Thạch và vài trăm nghìn quân Trung Hoa Dân Quốc cùng 2 triệu người, đa số là quan chức chính phủ và giới thương gia, chạy từ lục địa tới hòn đảo Đài Loan (đã rơi vào tay Quốc Dân Đảng từ năm 1945), chỉ còn một số cuộc kháng cự lẻ tẻ. Tháng 12 năm 1949 Tưởng Giới Thạch tuyên bố Đài Bắc, Đài Loan, trở thành thủ đô tạm thời của Trung Hoa Dân Quốc. Trung Hoa Dân Quốc ở Đài Loan, 1945/1949-đến nay Căng thẳng giữa dân địa phương và người lục địa Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Hoa Kỳ chấp nhận sự đầu hàng của Nhật Bản và cho phép chính phủ Trung Hoa Dân Quốc chiếm giữ đảo Đài Loan. Chính phủ Trung Hoa đã cử tướng Trần Nghi (陳儀) làm Tổng đốc (hành chính trưởng quan) kiêm Tư lệnh (Cảnh bị Tổng Tư lệnh) Đài Loan, tới nhận văn bản đầu hàng của Toàn quyền Nhật Bản cuối cùng, ông Ando Rikichi ngày 24 tháng 10 về việc Nhật Bản đầu hàng vào ngày hôm sau. Từ thời điểm đó Đài Loan thuộc quyền kiểm soát hành chính quân sự của Trung Hoa Dân Quốc. Trong giai đoạn hậu chiến, chính quyền Quốc Dân Đảng tại Đài Loan bị một số người coi là không thích hợp và tham nhũng. Bạo lực chống người lục địa nổ ra ngày 28 tháng 2 năm 1947 tiếp sau một vụ cướp cò súng. Vụ bạo loạn ngày 28 tháng 2 nổi tiếng này cũng được gọi là Vụ bạo loạn 228, trở thành một sự kiện chủ chốt hình thành nên bản sắc nhà nước Đài Loan hiện đại ngày nay. Trong nhiều tuần sau vụ đó, nhiều người Đài Loan nổi dậy, tham gia vào những vụ phản kháng khắp đất nước và kiểm soát được nhiều phần rộng lớn trên hòn đảo. Tổng đốc Trần Nghi trong khi tìm cách đàm phán tạo dựng sự tin cậy lẫn nhau với những nhà lãnh đạo phong trào phản kháng, kêu gọi đưa lính từ lục địa tới. Quốc Dân Đảng, tuyên bố "sợ sự xâm nhập của Cộng sản", đã thành lập lên một lực lượng quân sự lớn để đàn áp cuộc nổi dậy ở Đài Loan, giết hại nhiều người và bỏ tù nhiều người khác. Nhiều người Đài Loan từng thuộc các nhóm cầm quyền thời Nhật Bản trở thành nạn nhân Vụ 228, cũng như các công dân lục địa phải chịu đựng nhiều vụ trả thù. Tiếp sau đó là phong trào "khủng bố trắng" với hàng ngàn người bị bỏ tù và hành quyết vì bất đồng chính kiến với Quốc Dân Đảng, đa phần nạn nhân thuộc tầng lớp cao trong xã hội Đài Loan - các lãnh đạo chính trị, các gia đình giàu có, trí thức v.v. Ngày nay vẫn còn tồn tại một số phân biệt giữa những người tới Đài Loan trước và sau năm 1945. Phát triển kinh tế Với sự hỗ trợ từ Đạo luật Trợ giúp Trung Hoa năm 1948 và Ủy ban Hỗn hợp Trung-Mỹ về Tái thiết Nông thôn, Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã áp dụng nhiều chương trình cải cách ruộng đất sâu rộng và rất có hiệu quả ở Đài Loan trong thập kỷ 1950. Họ tái phân phối đất đai cho các nông dân và bồi thường cho những chủ đất lớn bằng các chứng chỉ và cổ phần trong những nhà máy công nghiệp của nhà nước. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, đất đai bị tịch thu để làm giàu cho nhà nước, cho Quốc Dân Đảng, hay cho túi tiền cá nhân các quan chức. Trên tổng thể, dù cải cách khiến một số chủ đất lớn bị nghèo đi, những người khác chuyển các khoản bồi thường của mình thành tiền vốn và bắt đầu thành lập các công ty sản xuất công nghiệp hoặc kinh doanh thương mại. Những ông chủ mới đó trở thành những nhà tư bản công nghiệp đầu tiên của Đài Loan. Cùng với những nhà buôn di cư tới trước đó từ lục địa, họ điều hành sự chuyển tiếp của Đài Loan sang một nền kinh tế công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Sự phát triển kinh tế của Đài Loan đã trở thành một hiện tượng biến họ trở thành một trong bốn con Hổ Đông Á, cùng với Hồng Kông, Singapore, và Hàn Quốc, dù vẫn còn nhiều vấn đề phải giải quyết trong quá trình tư nhân hóa các ngành công nghiệp nhà nước và cải cách lĩnh vực hành chính. Thoái trào trong quan hệ đối ngoại Thập kỷ 1970 là khoảng thời gian diễn ra sự thay đổi trong quan hệ quốc tế, chuyển từ công nhận Trung Hoa Dân Quốc sang Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Trung Hoa Dân Quốc từng là một trong thành viên sáng lập Liên hiệp quốc và giữ ghế của Trung Quốc tại Hội đồng bảo an cho đến tận năm 1971, khi họ bị Nghị quyết 2758 của Đại hội đồng trục xuất và thay thế ở mọi tổ chức của Liên Hợp quốc bởi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cộng sản. (Nhiều nỗ lực của Trung Hoa Dân Quốc nhằm tái gia nhập Liên hiệp quốc chưa từng mang lại thành công. Xem Trung Quốc và Liên hiệp quốc.) Từ thập kỷ 1980, số lượng các nước chính thức công nhận Trung Hoa Dân Quốc đã giảm xuống chỉ còn 25. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ chối giữ quan hệ ngoại giao với bất kỳ nước nào chính thức công nhận Trung Hoa Dân Quốc, dẫn tới một sự rắc rối trong vị thế chính trị Đài Loan (xem thêm quan hệ nước ngoài của Đài Loan). Quân đội Hoa Kỳ từng đồn trú tại Đài Loan sau chiến thắng của những người Cộng sản nhằm giúp bảo vệ hòn đảo chống lại sự xâm lược từ lục địa. Quân đội Hoa Kỳ tiếp tục đóng tại đây tới khi các quan hệ ngoại giao của họ với Trung Hoa Dân Quốc chấm dứt năm 1979 nhưng tới tận thời điểm hiện tại, họ vẫn giữ một sự hiện diện tình báo quan trọng ở đây. Cải cách dân chủ Tưởng Kinh Quốc, con trai và là người kế tục Tưởng Giới Thạch đã tự do hóa hệ thống chính trị đất nước. Các sự kiện như vụ Bạo loạn Cao Hùng năm 1979 càng minh chứng cho sự cần thiết phải thay đổi và các tổ chức như Ân xá quốc tế kêu gọi một chiến dịch phản đối chính phủ và Tổng thống Tưởng Kinh Quốc. Năm 1986, Dân chủ Tiến bộ Đảng (DPP) ra đời với tư cách đảng đối lập đầu tiên tại Trung Hoa Dân Quốc trước Quốc Dân Đảng. Một năm sau Tưởng Kinh Quốc bãi bỏ thiết quân luật. Tưởng Kinh Quốc lựa chọn Lý Đăng Huy, một nhà kỹ trị người Đài Loan làm Phó tổng thống. Hành động này cùng nhiều cải cách khác khiến những người gốc Đài Loan có nhiều quyền lực hơn và tư tưởng chống Quốc Dân Đảng đã có phần dịu bớt. Sau cái chết của Tưởng Kinh Quốc năm 1988, Tổng thống tiếp theo, Lý Đăng Huy tiếp tục giao thêm quyền quản lý chính phủ cho những người gốc Đài Loan và dân chủ hóa chính phủ. Dưới thời Lý Đăng Huy, Đài Loan trải qua một quá trình địa phương hoá trong đó văn hóa và lịch sử địa phương được thúc đẩy phát triển hơn trên quan điểm một nước Trung Hoa toàn diện. Những cuộc cải cách của Lý Đăng Huy gồm cả việc phát hành tiền giấy từ Ngân hàng Trung ương chứ không phải Ngân hàng Tỉnh Đài Loan và làm tê liệt Chính phủ cấp tỉnh Đài Loan (ví dụ, tước đa số quyền lực của chính phủ cấp tỉnh và trao những quyền đó cho chính phủ trung ương hay chính phủ địa phương). Thời gian này, những thành viên cũ của Viện Lập pháp và Quốc hội, được bầu năm 1947 để đại diện cho những hiến pháp ở lục địa, bị buộc phải giải tán năm 1991. Những hạn chế việc sử dụng tiếng Đài Loan trên các phương tiện truyền thông và trong trường học cũng được bãi bỏ. Tuy nhiên, Lý Đăng Huy không thành công trong việc xóa bỏ tham nhũng vốn đã phát triển mạnh từ thời cầm quyền độc tài của Quốc Dân Đảng. Nhiều người trung thành với Quốc Dân Đảng cảm thấy Lý Đăng Huy đang phản bội lại Trung Hoa Dân Quốc bằng cách đưa những cuộc cải cách đi quá xa, trong khi những người gốc Đài Loan cho rằng chúng vẫn còn chưa đủ. Lý Đăng Huy là người vị Tổng thống Đài Loan đầu tiên nắm quyền thông qua bầu cử trực tiếp trước đối thủ của Đảng Tiến bộ Dân chủ và là người thuộc phe đối lập cũ Bành Minh Mẫn. Trước khi cuộc bầu cử diễn ra Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tiến hành một loạt các vụ thử tên lửa ở Eo biển Đài Loan với hàm ý đe dọa. Chiến thuật gây hấn khiến Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton viện dẫn Đạo luật Quan hệ Đài Loan và gửi tàu sân bay vào trong vùng biển phía nam Đài Loan nhằm giám sát tình hình. Một trong những hành động cuối cùng của Lý Đăng Huy trên cương vị tổng thống là tuyên bố trên đài phát thanh Đức rằng Cộng hòa Trung Hoa và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ở Trung Quốc có một "mối quan hệ đặc biệt giữa quốc gia với quốc gia". Tuyên bố của Lý Đăng Huy trùng thời điểm với cuộc diễn tập quân sự của Quân đội Giải phóng Nhân dân Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Phúc Kiến khiến thế giới lo ngại về nguy cơ bùng phát chiến tranh. Trung Hoa Dân Quốc thế kỷ XXI Cuộc bầu cử tổng thống năm 2000 đã đánh dấu sự kết thúc vai trò đảng cầm quyền của Quốc Dân Đảng. Ứng cử viên Đảng Dân chủ Tiến bộ đối lập Trần Thủy Biển chiến thắng trong cuộc đua tay ba, đây cũng là lần đầu tiên Liên minh Xanh của Quốc Dân Đảng bị chia rẽ với ứng cử viên tự do Tống Sở Du (cựu thành viên Quốc Dân Đảng) và ứng cử viên Quốc Dân Đảng Liên Chiến. Trần Thủy Biển giành 39% số phiếu. Sau cuộc bầu cử, Tống Sở Du thành lập Thân Dân Đảng (親民黨, People First Party). Trần Thủy Biển tái cử chỉ với chênh lệch nhỏ 0.2% số phiếu trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2004 trước đối thủ, chủ tịch Quốc Dân Đảng Liên Chiến liên minh cùng Chủ tịch Đảng Nhân dân Đệ Nhất Tống Sở Du. Hôm trước cuộc bầu cử, cả Trần Thủy Biển và Phó tổng thống Lữ Tú Liên (nữ) đều bị bắn khi đang cổ động tranh cử tại Thành phố Đài Nam. Thương tích của họ không nghiêm trọng, nhưng vụ việc này được cho là đã giúp làm tăng thiện cảm của dân chúng, ảnh hưởng tới kết quả cuộc bầu cử. Vụ này cũng là cái cớ để tổng thống Trần Thủy Biển tuyên bố tình trạng khẩn cấp quân sự, để ngăn cảnh sát và quân đội, vốn ủng hộ liên minh Quốc Dân Đảng, tham gia bầu cử. Liên Chiến không chấp nhận kết quả bầu cử, kêu gọi tái kiểm phiếu. Quốc Dân Đảng và những người ủng hộ Đảng Thân Dân tổ chức những cuộc tuần hành phản đối lớn trong nhiều tuần lễ sau đó. Cuối cùng, Quốc Dân Đảng và Thân Dân Đảng đưa vụ việc ra trước tòa án. Tòa án tối cao ra lệnh tái kiểm phiếu trên toàn quốc và không tìm thấy bằng chứng cho các cáo buộc của Quốc Dân Đảng và Thân Dân Đảng. Tòa án phán quyết rằng kết quả bầu cử là hợp pháp và có giá trị. Trong cuộc bầu cử lập pháp tổ chức ngày 8 tháng 12 năm 2004, Liên minh Toàn Lam Quốc Dân Đảng - Thân Dân Đảng thắng cử với đa số mong manh nhưng cũng đủ khiến Tổng thống Trần Thủy Biển phải từ chức Chủ tịch Đảng Dân Tiến. Chính phủ của Thủ tướng Du Tích Khôn từ chức, và Tạ Trường Đình lên nắm quyền ngày 25 tháng 1 năm 2005. Trong một động thái mà một số người coi là phản ứng trước việc Trần Thủy Biển được tái cử, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đưa ra một dự luật luật chống ly khai cho phép sử dụng vũ lực với Đài Loan và chính phủ Trung Hoa Dân Quốc nếu họ chính thức tuyên bố độc lập. Tuy nhiên, luật này gặp phải sự phản đối rộng rãi từ hầu như mọi đảng phái chính trị và những nhân vật nổi tiếng tại Trung Hoa Dân Quốc cũng như từ các nước Phương Tây. Những cuộc đàm phán diễn ra trong tháng 1 tại Ma Cao giữa các quan chức hàng không hai bên dẫn tới thỏa thuận cho phép các chuyến bay thẳng qua eo biển giữa Trung Hoa đại lục và Đài Loan trong dịp Tết Nguyên Đán. Trong một loạt những sự kiện có tính đột phá, Tổng thống Trần Thủy Biển và Chủ tịch Đảng Thân Dân Tống Sở Du đã có cuộc gặp gỡ với nhau và vị tổng thống ngả theo chiều hướng độc lập đã nói rằng việc thống nhất với Đại lục cũng có thể là một ý kiến xem xét. Phản đối lại dự luật chống ly khai của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Tổng thống Trần Thủy Biển đã tham gia một cuộc hội thảo qua truyền hình với Nghị viện châu Âu ở Brussels thúc giục Liên minh châu Âu không dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Chính trị trong nước ở thời cầm quyền của Tổng thống Trần Thủy Biển hoàn toàn bế tắc khi Quốc Dân Đảng cùng Thân Dân Đảng nắm Liên Minh Toàn Lục đa số trong quốc hội. Những vấn đề không thể hoàn thành ở thời kỳ này vì sự bế tắc chính trị là dự định mua các loại vũ khí hiện đại để tăng cường sức mạnh quân sự của Trung Hoa Dân Quốc như, máy bay chống tàu ngầm P-3 Orion từ chính phủ Mỹ, vấn đề cải cách luật pháp ngân hàng giúp củng cố nhiều ngân hàng trong nước bởi không một ngân hàng chiếm tới 10% thị phần trong nước. Cũng cần lưu ý rằng tổng thống Trung Hoa Dân Quốc, không giống như tổng thống Hoa Kỳ, không có quyền phủ quyết, khiến ông ta không có được một con bài cần thiết khi đàm phán với nhánh lập pháp đối lập, không cần biết nghị viện đó chiếm đa số mong manh tới mức nào. Hiến pháp đã được sửa đổi thêm nữa trong năm 2005, tạo ra một hệ thống bầu cử kép, với các ghế đại diện theo đa số và các ghế đại diện theo tỷ lệ, cùng lúc ấy bãi bỏ Quốc hội, chuyển đa số quyền lực cũ của nó vào tay Lập Pháp Viện, và quy định những sửa đổi hơn nữa cần phải được thông qua bởi một cuộc trưng cầu dân ý. Hiến pháp tiếp tục được sửa đổi, và có lẽ sẽ tiến tới việc tạo lập một sự cân bằng quyền lực giữa tổng thống và Nghị viện. Vấn đề chính thức tuyên bố độc lập của Đài Loan cũng luôn là một câu hỏi hiến pháp.
nhỏ|229x229px|Cùng một vectơ có thể được biểu diễn bởi hai hệ cơ sở khác nhau (các mũi tên tím và mũi tên đỏ). Cơ sở của không gian vectơ là một hệ vectơ độc lập tuyến tính và sinh ra không gian vectơ đó. Đây là một khái niệm quan trọng trong đại số tuyến tính. Ta có thể nhận ra ý nghĩa của cơ sở trong không gian vectơ . Không gian này thường được biểu diễn bằng các vectơ hình học trên mặt phẳng. Một cơ sở của nó là hệ gồm hai vectơ đơn vị của hai trục toạ độ: i=(1,0) và j=(0,1). Mọi vectơ của đều có thể phân tích một cách duy nhất thành tổ hợp tuyến tính của hai vectơ này. Trong không chỉ có một cơ sở, có rất nhiều hệ hai vectơ như thế. Tổng quát cho một không gian vectơ bất kỳ ta có: Định nghĩa Một tập hợp B của các vectơ b1,...,bn trong không gian vectơ V được gọi là cơ sở nếu như B là một tập hợp độc lập tuyến tính B là tập hợp sinh của V, nghĩa là span(B) = V Khi đó (với n hữu hạn) số n được gọi là số chiều của không gian vectơ V. Khái niệm cơ sở có thể mở rộng cho một tập vô hạn các vectơ , với tập chỉ số I là tập vô hạn. Khi đó V được gọi là không gian vô hạn chiều. Trong không gian , số vectơ trong cơ sở bằng số chiều của không gian bằng n. Tính chất Hai cơ sở bất kỳ của cùng một không gian V hữu hạn chiều có số phần tử như nhau. Mọi vectơ v của B biểu diễn duy nhất thành tổ hợp tuyến tính của các vectơ thuộc cơ sở B. Hai không gian hữu hạn chiều là đẳng cấu khi và chỉ khi chúng có cùng số chiều và mọi đẳng cấu tuyến tính biến một cơ sở thành cơ sở. Toạ độ trong một cơ sở và công thức đổi cơ sở Các hệ số trong biểu diễn này được gọi là toạ độ của vectơ v trong cơ sở B. Chẳng hạn nếu v = thì là toạ độ của v trong cơ sở B. Cho hai cơ sở B={b1,b2,...,bn} và B' ={b' 1,b' 2,...,b' n}. Giả sử vectơ v có toạ độ trong cơ sở B và B' tương ứng là và . Ngoài ra các vectơ của B biểu diễn qua các vectơ của B' như sau . Khi đó v= = = . Như vậy được gọi là công thức đổi cơ sở. Cơ sở chính tắc Trong không gian , hệ gồm n vectơ đơn vị: lập thành một cơ sở gọi là cơ sở chính tắc của . Ví dụ: {(1,0,0), (0,1,0),(0,0,1)} là cơ sở chính tắc của không gian vectơ .
Trong mật mã học, các thuật toán khóa đối xứng (tiếng Anh: symmetric-key algorithms) là một lớp các thuật toán mật mã hóa trong đó các khóa dùng cho việc mật mã hóa và giải mã có quan hệ rõ ràng với nhau (có thể dễ dàng tìm được một khóa nếu biết khóa kia). Mã khóa loại này không công khai. Khóa dùng để mã hóa có liên hệ một cách rõ ràng với khóa dùng để giải mã có nghĩa chúng có thể hoàn toàn giống nhau, hoặc chỉ khác nhau nhờ một biến đổi đơn giản giữa hai khóa. Trên thực tế, các khóa này đại diện cho một bí mật được phân hưởng bởi hai bên hoặc nhiều hơn và được sử dụng để giữ gìn sự bí mật trong kênh truyền thông tin. Nhiều thuật ngữ khác dành cho việc mã hóa dùng chìa khóa đối xứng bao gồm các phương pháp mã hóa đơn khóa (single-key), phương pháp mã hóa một khóa (one-key) và phương pháp mã hóa khóa cá nhân (private-key). Cách sử dụng thuật ngữ sau cùng đôi khi gây xung đột với thuật ngữ khóa cá nhân (private-key) dùng trong mật mã hóa khóa công khai (public key cryptography). Các loại thuật toán khóa đối xứng Thuật toán đối xứng có thể được chia ra làm hai thể loại, mật mã luồng (stream ciphers) và mật mã khối (block ciphers). Mật mã luồng mã hóa từng bit của thông điệp trong khi mật mã khối gộp một số bit lại và mật mã hóa chúng như một đơn vị. Cỡ khối được dùng thường là các khối 64 bit. Thuật toán tiêu chuẩn mã hóa tân tiến (Advanced Encryption Standard), được NIST công nhận tháng 12 năm 2001, sử dụng các khối gồm 128 bit. Các thuật toán đối xứng thường không được sử dụng độc lập. Trong thiết kế của các hệ thống mật mã hiện đại, cả hai thuật toán bất đối xứng (asymmetric) (dùng chìa khóa công khai) và thuật toán đối xứng được sử dụng phối hợp để tận dụng các ưu điểm của cả hai. Những hệ thống sử dụng cả hai thuật toán bao gồm những cái như SSL (Secure Sockets Layer), PGP (Pretty Good Privacy) và GPG (GNU Privacy Guard) v.v. Các thuật toán chìa khóa bất đối xứng được sử dụng để phân phối chìa khóa mật cho thuật toán đối xứng có tốc độ cao hơn. Một số ví dụ các thuật toán đối xứng nổi tiếng và khá được tôn trọng bao gồm Twofish, Serpent, AES (còn được gọi là Rijndael), Blowfish, CAST5, RC4, Tam phần DES (Triple DES), và IDEA (International Data Encryption Algorithm - Thuật toán mật mã hóa dữ liệu quốc tế). Tốc độ Các thuật toán đối xứng nói chung đòi hỏi công suất tính toán ít hơn các thuật toán khóa bất đối xứng (asymmetric key algorithms). Trên thực tế, một thuật toán khóa bất đối xứng có khối lượng tính toán nhiều hơn gấp hằng trăm, hằng ngàn lần một thuật toán khóa đối xứng (symmetric key algorithm) có chất lượng tương đương. Những hạn chế Hạn chế của các thuật toán khóa đối xứng bắt nguồn từ yêu cầu về sự phân hưởng chìa khóa bí mật, mỗi bên phải có một bản sao của chìa. Do khả năng các chìa khóa có thể bị phát hiện bởi đối thủ mật mã, chúng thường phải được bảo an trong khi phân phối và trong khi dùng. Hậu quả của yêu cầu về việc lựa chọn, phân phối và lưu trữ các chìa khóa một cách không có lỗi, không bị mất mát là một việc làm khó khăn, khó có thể đạt được một cách đáng tin cậy. Để đảm bảo giao thông liên lạc an toàn cho tất cả mọi người trong một nhóm gồm n người, tổng số lượng chìa khóa cần phải có là . Hiện nay người ta phổ biến dùng các thuật toán bất đối xứng có tốc độ chậm hơn để phân phối chìa khóa đối xứng khi một phiên giao dịch bắt đầu, sau đó các thuật toán khóa đối xứng tiếp quản phần còn lại (xem Bảo an tầng giao vận (Transport Layer Security)). Vấn đề về bảo quản sự phân phối chìa khóa một cách đáng tin cậy cũng tồn tại ở tầng đối xứng, song ở một điểm nào đấy, người ta có thể kiểm soát chúng dễ dàng hơn. Tuy thế, các khóa đối xứng hầu như đều được sinh tạo tại chỗ. Các thuật toán khóa đối xứng không thể dùng cho mục đích xác thực (authentication) hay mục đích chống thoái thác (non-repudiation) được. Tính thuận nghịch Theo định nghĩa, các hàm số dùng trong mật mã học phải có khả năng đảo ngược (reversible), vì chúng ta cần phải có khả năng vừa mật mã hóa các thông điệp song cũng đồng thời giải mã chúng (với điều kiện chúng ta có chìa khóa đúng của nó). Trong quá khứ, nhiều phương pháp đã được sử dụng để giải quyết việc này. Trước đây, người ta đã từng dùng sách mật mã - trong đó chìa khóa phân hưởng liên quan đến nội dụng của quyển sách, mật mã khóa tự động - trong đó chìa khóa có thể được suy ra từ một phần của văn bản thuần túy (plaintext), mã đục lỗ (grill) (Có giả thuyết rằng phương pháp này đầu tiên được nhà toán học người Ý Gerolamo Cardano sáng chế), vân vân. Trong thời đại hiện nay, khi máy tính trở nên sẵn có, đa số các phương pháp mật mã đối xứng đều dựa trên cơ sở 'vòng' tuần hoàn (các lượt tính toán được nhắc đi nhắc lại). Thường thì một lượt được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, theo một sự bố trí khá đơn giản, như trong ví dụ chung dưới đây. Phương pháp chung này thường được gán cho ông Horst Feistel. Để biết được nội dung có chiều sâu hơn nữa về phương pháp này (với biểu đồ minh họa), xin xem bài về Feistel cipher. Những bit dùng để mã hóa được phân ra là hai phần, P1 và P2. P1 được giữ nguyên, không thay đổi, P2 được cộng (hay được XOR) với một hàm băm một chiều (one-way hashed function) f (được biến thiên bởi một chìa khóa hay một nhân tố (salt)) của P1. Hai kết quả này sau đó được đổi chỗ cho nhau. Mỗi quá trình này được gọi là 'một lượt' (hay một vòng). Chẳng hạn với p1, p2, chìa khóa là các vectơ bit; Dấu phẩy (',') là toán tử phép ghép chuỗi và f là ánh xạ từ hầu cho: (key = chìa khóa) Vì kết quả của lượt tính này vẫn còn cho phép truy cập giá trị của P1, và tính cộng là một phép toán có thể đảo ngược được, cho nên phép toán có thể được hoàn giải, đối với bất cứ một hàm số f nào đấy. Tuy đã kinh qua một vòng toán, song kết quả của nó vẫn chưa được an toàn cho lắm, vì p1 vẫn còn giữ nguyên giá trị và chưa bị thay đổi, nhưng nếu chúng ta lặp lại phép toán một hoặc nhiều lần, thường là bởi nhiều hàm số khác và với 'các chìa khóa của vòng toán' ('round keys'), thì kết quả sẽ tăng cường tính đảm bảo của nó rất nhiều (greatly improves the strength). Để giải mã bội số lượt, mỗi lượt phải được giải theo trật tự ngược lại và vì thế, trong khi giải mã, các chìa khóa cũng phải được áp dụng theo trật tự ngược lại. Sau nhiều lần (đa số là từ 8 đến 64 lần) thi hành, kết quả trở nên bị xáo trộn đến mức, như trong trường hợp khi các mã được thiết kế khá tốt, không có phương pháp giải mã nào nhanh hơn là phương pháp tìm khóa dùng bạo lực (brute force key search) và chỉ có phương pháp này mới có thể giải được. Tấn công đối với các mật mã đối xứng Trong quá khứ, các mã đối xứng thường rất dễ bị ảnh hưởng bởi các loại tấn công gọi là tấn công với văn bản thuần túy biết trước (known-plaintext attacks), tấn công với văn bản thuần túy chọn trước (chosen plaintext attacks), thám mã vi phân (differential cryptanalysis) và thám mã tuyến tính (linear cryptanalysis). Nếu mỗi hàm số sử dụng trong các vòng toán được thiết kế một cách cẩn thận, thì nó sẽ giảm khả năng chìa khóa của mã bị tấn công một cách thành công rất nhiều. Khi được sử dụng với mật mã đối xứng để truyền tin chìa khóa mật mã, các trình sinh tạo chìa khóa giả ngẫu nhiên (pseudorandom key generators) thường được sử dụng để sinh tạo các chìa khóa dùng trong phiên giao dịch sử dụng mật mã đối xứng. Song trong quá khứ, sự thiếu hụt trong tính ngẫu nhiên của các trình sinh tạo ngẫu số hay trong các vectơ khởi tạo (initialization vectors) của chúng thường gây ra những thảm họa và thường dẫn đến các vụ mật mã bị bẻ gãy. Việc thực hiện và triển khai thận trọng, với khởi tạo (initialization) dựa trên những nguồn entrôpi có chất lượng cao là một yếu tố cần thiết để thuyên giảm sự mất mát trong an ninh. Ghi chú
Trong toán học, hàm tích phân mũ Ei(x) được định nghĩa bằng: Vì 1/t phân kỳ tại t = 0, tích phân trên được hiểu theo nghĩa của Giá trị chủ yếu Cauchy. Phân tích chuỗi Hàm này có thể phân tích thành chuỗi: với γ là hằng số gamma Euler. Liên hệ với hàm khác Hàm tích phân lôgarit Hàm tích phân mũ có liên hệ với hàm tích phân lôgarit li(x), li(x) = Ei (ln (x))    với mọi số thực dương x ≠ 1. Phần mềm hỗ trợ Hàm tích phân mũ được hỗ trợ trong nhiều phần mềm tính toán cho toán học như: Các hàm gsl_sf_exp_* trong thư viện phần mềm khoa học GNU Mục ei trong kho thuật toán Fortran Netlib Hàm ExpIntegralEI trong Mathematica
Băng Cốc (tiếng Anh: Bangkok, tiếng Thái: กรุงเทพมหานคร Krung Thep Maha Nakhon, phiên âm: Cơ-lung Thép Ma-Ha Na-Khon, tên đầy đủ là "Krung Thep Mahanakhon Amon Rattanakosin Mahinthara Ayuthaya Mahadilok Phop Noppharat Ratchathani Burirom Udomratchaniwet Mahasathan Amon Piman Awatan Sathit Sakkathattiya Witsanukam Prasit") là thủ đô và đồng thời là thành phố đông dân nhất của Thái Lan. Bangkok có diện tích 1568,7 km² và nằm trong châu thổ sông Chao Phraya ở miền Trung Thái Lan với dân số khoảng 8 triệu người. Nếu tính cả vùng đô thị Bangkok thì dân số của thành phố lên đến hơn 14 triệu, chiếm hơn 1/5 dân số cả nước và vượt trội hơn tất cả những vùng đô thị khác ở Thái Lan. Bangkok cũng là một trong những thành phố lớn nhất trong khu vực Đông Nam Á và châu Á. Từ một thị trấn nhỏ trong vương quốc Ayutthaya vào thế kỉ 15, Bangkok nhanh chóng mở rộng nhờ thương mại và trở thành nơi tọa lạc của 2 thủ đô là Thonburi vào năm 1768 và Rattanakosin năm 1782. Với vai trò thủ đô vương quốc Xiêm, Bangkok chứng kiến sự hiện đại hóa nhanh chóng của đất nước cùng những biến động chính trị lớn của Thái Lan từ thế kỉ 19 cho đến nay. Thành phố phát triển mạnh mẽ từ những năm 1960 đến 1980 và ngày nay đóng vai trò quan trọng hàng đầu về chính trị, kinh tế, giáo dục và truyền thông của nước Thái Lan hiện đại. Sự bùng nổ kinh tế của khu vực Đông Nam Á những năm 1980 và 1990 đã thúc đẩy nhiều công ty đa quốc gia đặt trụ sở khu vực tại Bangkok. Bangkok hiện là một trung tâm kinh tế và tài chính trong khu vực. Thành phố đóng vai trò một điểm trung chuyển trong giao thông quốc tế và nổi lên như một đầu tàu trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, nghệ thuật, thời trang và giải trí. Về du lịch, Bangkok nổi tiếng với nhịp sống về đêm sôi động và nhiều di tích lịch sử văn hóa. Sự phát triển nhanh chóng của Bangkok trong quá trình phát triển và quy hoạch đô thị đã dẫn đến một cảnh quan đô thị không đồng nhất và các hệ thống cơ sở hạ tầng không đầy đủ. Các tuyến đường hạn chế, mặc dù có mạng lưới đường cao tốc rộng rãi, cùng với việc sử dụng xe hơi cá nhân cao, đã dẫn đến tắc nghẽn giao thông thường xuyên, gây ô nhiễm không khí trầm trọng vào những năm 1990. Kể từ đó Bangkok chuyển sang phương tiện giao thông công cộng nhằm nỗ lực giải quyết vấn đề lớn này. Năm tuyến đường vận chuyển nhanh hiện đang hoạt động, với nhiều hệ thống giao thông đang được chính phủ quốc gia và Cục Quản lý đô thị Bangkok xây dựng hoặc lên kế hoạch. Tên gọi Lúc đầu, nơi này chỉ là một nơi buôn bán và cộng đồng dân cư cảng nhỏ, gọi là Bang Makok, để từ đó phục vụ cho Ayutthaya. Bởi vì vị trí chiến lược gần cửa sông, thị trấn này dần dần gia tăng tầm quan trọng. Bangkok ban đầu đóng vai trò như là một cảng tiền đồn với pháo đài ở cả hai bên bờ sông, và trở thành nơi bị bao vây vào năm 1688, với việc người Pháp bị đánh bật khỏi Xiêm. Tới khi Ayuttaya bị Miến Điện xâm chiếm năm 1767, vị vua mới Taksin đã xây dựng một thủ đô mới ở Thonburi (hiện nay là một phần của Bangkok) trên bờ tây sông Chao Phraya. Vua Rama I đã xây dựng cung điện trên bờ sông phía đông năm 1782 và đổi tên thành phố thành Krung Thep, nghĩa là "thành phố của các vị thần". Cái tên Bangkok thường chỉ được dùng để chỉ quận Thonburi, nhưng lại được đa số người nước ngoài dùng để chỉ cả thành phố. Krung Thep, hay Krung Thep Maha Nakhon (กรุงเทพมหานคร), là viết tắt của tên chính rất dài, được liệt kê trong Kỷ lục thế giới Guinness là tên địa điểm dài nhất thế giới, với tổng cộng 168 chữ cái: Dịch nghĩa là: Ngày 15 tháng 2 năm 2022, Hội Hoàng gia Thái Lan tuyên bố sẽ đổi tên gọi chính thức của thủ đô trong các văn bản tiếng nước ngoài từ Bangkok (hay Băng Cốc) thành Krung Thep Maha Nakhon giống như tên gọi trong tiếng Thái. Tên gọi phổ biến ngoài Thái Lan hiện nay là Bangkok vẫn tiếp tục được công nhận, song không chính thức và được viết trong dấu ngoặc đơn sau tên chính thức "Krung Thep Maha Nakhon (Bangkok)". Thành phố hiện được biết đến chính thức bằng tiếng Thái dưới dạng rút gọn của tên nghi lễ đầy đủ, , được rút ngắn một cách thông tục thành (thành phố của các vị thần). , là một từ tiếng Thái có nguồn gốc Môn–Khmer, có nghĩa là 'kinh đô, vua', trong khi , là từ tiếng Pali/tiếng Phạn, có nghĩa là 'vị thần' hoặc 'thần thánh' và tương ứng deva. Lịch sử Nền kinh tế của Bangkok dần dần mở rộng thông qua thương mại quốc tế, đầu tiên là với Trung Quốc, sau đó với các thương gia phương Tây quay trở lại vào đầu thế kỷ 19. Là thủ đô, Bangkok là trung tâm của sự hiện đại hóa của Xiêm khi nó phải đối mặt với áp lực từ các cường quốc phương Tây vào cuối thế kỷ 19. Triều đại của vua Mongkut (Rama IV, 1851-1868) và Chulalongkorn (Rama V, 1868-1910) đã chứng kiến sự ra đời của động cơ hơi nước, in ấn, giao thông đường sắt và cơ sở hạ tầng tiện ích ở Bangkok, cũng như giáo dục và chăm sóc sức khoẻ. Bangkok đã trở thành sân khấu trung tâm cho cuộc đấu tranh quyền lực giữa quân đội và chính trị ưu tú khi đất nước xóa bỏ chế độ quân chủ tuyệt đối vào năm 1932. Thành phố chịu sự chiếm đóng của đế quốc Nhật Bản và đồng minh ném bom trong chiến tranh thế giới thứ hai, nhưng nhanh chóng tăng trưởng trong thời kỳ hậu chiến tranh nhờ sự trợ giúp phát triển của Hoa Kỳ và đầu tư do chính phủ tài trợ. Vai trò của Bangkok đối với R & R là một điểm đến quân sự R & R của Mỹ thúc đẩy ngành du lịch của nó cũng như thiết lập vững chắc thành phố như một điểm đến du lịch tình dục. Phát triển đô thị không cân xứng dẫn đến sự bất bình đẳng về thu nhập và di cư chưa từng có từ khu vực nông thôn vào Bangkok; dân số tăng từ 1,8 triệu lên 3 triệu người trong thập niên 1960. Sau khi Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam năm 1973, các doanh nghiệp Nhật Bản đã tiếp quản các nhà lãnh đạo trong đầu tư, và việc mở rộng sản xuất theo định hướng xuất khẩu đã dẫn đến sự tăng trưởng của thị trường tài chính ở Bangkok. Sự phát triển nhanh chóng của thành phố tiếp tục trong những năm 1980 và đầu những năm 1990, cho đến khi nó bị đình trệ bởi cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997. Đến lúc đó, nhiều vấn đề xã hội và công cộng đã xuất hiện, trong đó có sự căng thẳng về cơ sở hạ tầng được phản ánh trong ùn tắc giao thông khét tiếng của thành phố. Vai trò của Bangkok là giai đoạn chính trị của quốc gia tiếp tục được thấy trong các cuộc biểu tình nổi tiếng, từ những cuộc nổi dậy của sinh viên vào năm 1973 và 1976, các cuộc biểu tình chống quân sự vào năm 1992 và các cuộc biểu tình chống chính phủ liên tiếp của các nhóm đối lập từ năm 2008 trở đi. Hành chính của thành phố lần đầu tiên được vua Chulalongkorn chính thức hóa vào năm 1906, với việc thành lập Monthon Krung Thep Phra Maha Nakhon (มณฑล กรุงเทพ พระ มหานคร) như một phân khu quốc gia. Vào năm 1915, monthon được chia thành nhiều tỉnh, ranh giới hành chính đã bị thay đổi. Thành phố dưới hình thức hiện tại của nó được thành lập năm 1972 với sự hình thành của Thủ đô Bangkok (BMA), sau khi sáp nhập tỉnh Phra Nakhon trên bờ phía đông của Chao Phraya và Thonburi về phía tây trong năm trước. Địa lý Bangkok nằm ở miền Trung Thái Lan. Tổng diện tích của thủ đô Bangkok là 1568,737 km², đứng hạng 69 trong số 76 tỉnh của Thái Lan. Trong đó, khoảng 700 km² là những vùng đô thị đã được xây dựng. Thành phố đứng thứ 73 trong các thành phố đô thị có diện tích lớn nhất thế giới. Sự phát triển nhanh chóng của dân số thủ đô khiến hệ thống đô thị của Bangkok được mở rộng sang các tỉnh lân cận như Nonthaburi, Pathum Thani, Chachoengsao, Samut Prakan và Nakhon Pathom. Ngoại trừ tỉnh Chachoengsao, các tỉnh còn lại cùng với Bangkok được gọi là vùng đô thị Bangkok vì tốc độ đô thị hóa chóng mặt của nó. Khí hậu Giống như hầu hết các khu vực khác ở Thái Lan, Bangkok có khí hậu xavan dưới sự phân loại khí hậu Köppen và chịu ảnh hưởng của hệ thống gió mùa khu vực Đông Nam Á. Thành phố trải qua 3 mùa khô, mưa và mát mẻ, mặc dù nhiệt độ quanh năm phần lớn khá nóng, từ mức trung bình thấp 22 °C vào tháng 12 tới mức trung bình cao 35.4 °C vào tháng Tư. Mùa mưa bắt đầu với sự xuất hiện của gió mùa Tây Nam vào khoảng giữa tháng 5. Tháng 9 là tháng ẩm ướt nhất, với lượng mưa trung bình là 334,3mm. Mùa mưa kéo dài đến tháng 10, khi gió mùa đông khô và lạnh kéo dài đến tháng hai. Mùa khô nói chung là nóng và ít mưa, nhưng đôi khi cũng xuất hiện những cơn bão mùa hè. {{Weather box |location = Bangkok (1981–2010) |metric first = y |single line = y |Jan record high C = 37.6 |Feb record high C = 38.8 |Mar record high C = 40.1 |Apr record high C = 40.2 |May record high C = 39.7 |Jun record high C = 38.3 |Jul record high C = 37.9 |Aug record high C = 38.5 |Sep record high C = 37.2 |Oct record high C = 37.9 |Nov record high C = 38.8 |Dec record high C = 37.1 |year record high C = 40.2 |Jan high C = 32.5 |Feb high C = 33.3 |Mar high C = 34.3 |Apr high C = 35.4 |May high C = 34.4 |Jun high C = 33.6 |Jul high C = 33.2 |Aug high C = 32.9 |Sep high C = 32.8 |Oct high C = 32.6 |Nov high C = 32.4 |Dec high C = 31.7 |year high C = 33.3 |Jan mean C = 27.0 |Feb mean C = 28.3 |Mar mean C = 29.5 |Apr mean C = 30.5 |May mean C = 29.9 |Jun mean C = 29.5 |Jul mean C = 29.0 |Aug mean C = 28.8 |Sep mean C = 28.3 |Oct mean C = 28.1 |Nov mean C = 27.8 |Dec mean C = 26.5 |year mean C = 28.6 |Jan low C = 22.6 |Feb low C = 24.4 |Mar low C = 25.9 |Apr low C = 26.9 |May low C = 26.3 |Jun low C = 26.1 |Jul low C = 25.7 |Aug low C = 25.5 |Sep low C = 25.0 |Oct low C = 24.8 |Nov low C = 23.9 |Dec low C = 22.0 |year low C = 24.9 |Jan record low C = 9.9 |Feb record low C = 14.0 |Mar record low C = 15.7 |Apr record low C = 20.0 |May record low C = 21.1 |Jun record low C = 21.1 |Jul record low C = 21.8 |Aug record low C = 21.8 |Sep record low C = 21.1 |Oct record low C = 18.3 |Nov record low C = 15.0 |Dec record low C = 10.5 |year record low C = 10.0 |rain colour = green |Jan rain mm = 13.3 |Feb rain mm = 20.0 |Mar rain mm = 42.1 |Apr rain mm = 91.4 |May rain mm = 247.7 |Jun rain mm = 157.1 |Jul rain mm = 175.1 |Aug rain mm = 219.3 |Sep rain mm = 334.3 |Oct rain mm = 292.1 |Nov rain mm = 49.5 |Dec rain mm = 6.3 |year rain mm = 1648.2 |Jan rain days = 1.8 |Feb rain days = 2.4 |Mar rain days = 3.6 |Apr rain days = 6.6 |May rain days = 16.4 |Jun rain days = 16.3 |Jul rain days = 17.4 |Aug rain days = 19.6 |Sep rain days = 21.2 |Oct rain days = 17.7 |Nov rain days = 5.8 |Dec rain days = 1.1 |year rain days = 129.9 |Jan humidity = 68 |Feb humidity = 72 |Mar humidity = 72 |Apr humidity = 72 |May humidity = 75 |Jun humidity = 74 |Jul humidity = 75 |Aug humidity = 76 |Sep humidity = 79 |Oct humidity = 78 |Nov humidity = 70 |Dec humidity = 66 |year humidity = 73 |Jan sun = 272.8 |Feb sun = 251.4 |Mar sun = 269.7 |Apr sun = 258.0 |May sun = 217.0 |Jun sun = 177.0 |Jul sun = 170.5 |Aug sun = 161.2 |Sep sun = 156.0 |Oct sun = 198.4 |Nov sun = 234.0 |Dec sun = 263.5 |year sun = 2623.8 |source 1 = Thai Meteorological Department, độ ẩm (1981 – 2010): RID; mưa (1981 – 2010): RID |source 2 = Pogodaiklimat.ru (Cao kỉ lục/Thấp kỉ lục) NOAA (nắng, 1961–1990)<ref name= NOAA > Phân chia hành chính Bangkok được chia thành các quận (เขต khet). Các quận lại được chia thành 154 phường (แขวง khwaeng). Kinh tế Bangkok là trung tâm kinh tế của Thái Lan và là trung tâm đầu tư và phát triển của đất nước. Trong năm 2010, thành phố này có sản lượng kinh tế là 3,142 nghìn tỷ baht (98,34 tỷ đô la Mỹ), đóng góp 29,1% tổng sản phẩm quốc nội (GDP). GDP bình quân đầu người là 456.911 baht (14.351 USD), gần gấp ba lần mức trung bình toàn quốc là 160.556 baht (5.025 USD). Khu vực đô thị Bangkok có tổng sản lượng 4,773 tỷ baht (149,39 tỷ đô la), chiếm 44,2% GDP. Kinh tế của Bangkok đứng thứ sáu trong số các thành phố châu Á về GDP bình quân đầu người, sau Singapore, Hồng Kông, Tokyo, Osaka-Kobe và Seoul. Thương mại bán buôn và bán lẻ là ngành lớn nhất trong nền kinh tế của thành phố, đóng góp 24% của tổng sản phẩm của Bangkok. Tiếp đó là sản xuất (14,3%); kinh doanh bất động sản, cho thuê và kinh doanh (12,4%); giao thông vận tải (11,6%); và trung gian tài chính (11,1%). Chỉ riêng Bangkok là 48,4% trong khu vực dịch vụ của Thái Lan, chiếm 49,0% GDP. Khi tính cả vùng đô thị Bangkok, sản xuất là nhà đóng góp quan trọng nhất ở 28,2% tổng sản phẩm khu vực, phản ánh mật độ của ngành công nghiệp ở các tỉnh lân cận của Bangkok. Ngành công nghiệp ô tô của Thái Lan ở vùng đô thị Bangkok là trung tâm sản xuất lớn nhất khu vực Đông Nam Á. Du lịch cũng đóng góp đáng kể cho nền kinh tế của Bangkok, tạo ra doanh thu ฿ 427.5 tỷ ($ 13.38 tỷ) trong năm 2010. Sàn giao dịch chứng khoán Thái Lan (SET) nằm trên đường Ratchadaphisek ở nội thành Bangkok. SET, cùng với thị trường đầu tư thay thế (MAI) có 648 công ty niêm yết tính đến cuối năm 2011, với tổng vốn hóa thị trường là 8.485 tỷ baht (267,64 tỷ đô la). Do số lượng lớn đại diện nước ngoài, Thái Lan đã nhiều năm là trụ cột của nền kinh tế Đông Nam Á và là một trung tâm kinh doanh châu Á. Mạng lưới nghiên cứu toàn cầu hóa và thành phố thế giới xếp Bangkok là một thành phố toàn cầu "Alpha", và được xếp hạng 59 trong Chỉ số Trung tâm Tài chính Toàn cầu của Z / Yen 11. Bangkok là nơi đặt trụ sở chính của tất cả các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính lớn của Thái Lan, cũng như các công ty lớn nhất của đất nước. Một số lượng lớn các tập đoàn đa quốc gia đặt trụ sở chính khu vực của họ tại Bangkok do chi phí thấp hơn của lực lượng lao động và các hoạt động công ty liên quan đến các trung tâm kinh doanh lớn khác của châu Á. 17 công ty Thái Lan được liệt kê trên Forbes Global 2000, tất cả đều có trụ sở tại thủ đô, bao gồm PTT, công ty Fortune Global 500 duy nhất ở Thái Lan. Bất bình đẳng thu nhập là một vấn đề lớn ở Bangkok, đặc biệt là giữa những người nhập cư có thu nhập thấp tương đối không có kỹ năng từ các tỉnh nông thôn và các nước láng giềng, và các chuyên gia trung cấp và giới kinh doanh. Mặc dù tỷ lệ đói nghèo tuyệt đối thấp - chỉ có 0,64% cư dân đăng ký của Bangkok sống dưới mức nghèo khổ trong năm 2010, so với mức trung bình toàn quốc 7,75 - chênh lệch kinh tế vẫn còn đáng kể. Thành phố có hệ số Gini là 0,48, cho thấy mức độ bất bình đẳng cao. Năm 2005, thành phố tạo ra Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) theo sức mua thực tế (PPP) là 220 tỷ USD vào GDP, chiếm 43% tổng GDP của Thái Lan. GDP danh nghĩa là 72,5 tỷ USD. Nhân khẩu Thành phố Bangkok có dân số 8.280.925 người theo điều tra dân số năm 2010, chiếm 12,6% dân số cả nước. Năm 2018, dân số ước tính khoảng 10 triệu người. Khoảng một nửa là người nhập cư Thái Lan nội bộ từ các tỉnh khác. Chỉ có 5.692.284 cư dân, thuộc 2.672.443 hộ gia đình, đã đăng ký Bangkok làm nơi cư trú hợp pháp của họ. Một số lượng lớn dân số ban ngày của Bangkok đi lại từ các tỉnh lân cận trong khu vực vùng đô thị Bangkok, có tổng dân số là 14.565.547 người. Bangkok là một thành phố quốc tế; cuộc điều tra cho thấy có 81.570 người Nhật và 55.893 người Trung Quốc, cũng như 117.071 người nước ngoài đến từ các nước châu Á khác, 48.341 người từ châu Âu, 23.418 người từ châu Mỹ, 5.289 người từ Úc và 3.022 người từ châu Phi. Người nhập cư từ các nước láng giềng bao gồm 303.595 người Miến Điện, 63.438 người Campuchia và 18.126 người Lào. Vào năm 2018, con số cho thấy có 370.000 người di cư quốc tế đã đăng ký với Bộ Việc làm, hơn một nửa trong số họ di cư từ Campuchia, Lào và Myanmar. Mặc dù đây là trung tâm dân số lớn nhất Thái Lan kể từ khi thành lập thành phố thủ đô vào năm 1782, Bangkok chỉ tăng nhẹ trong suốt thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Nhà ngoại giao Anh John Crawfurd, đến thăm năm 1822, ước tính dân số của thành phố không quá 50.000. Như một kết quả của y học phương Tây được đưa ra bởi những người truyền giáo cũng như gia tăng nhập cư từ cả hai bên trong Siam và ở nước ngoài, dân số của Bangkok dần dần tăng lên khi thành phố hiện đại hóa vào cuối thế kỷ 19. Sự tăng trưởng này thậm chí còn rõ rệt hơn trong những năm 1930, sau khi phát hiện ra kháng sinh. Mặc dù kế hoạch hoá gia đình và kiểm soát sinh đẻ đã được giới thiệu vào những năm 1960, tỷ lệ sinh thấp hơn đã được bù đắp bằng sự gia tăng di cư từ các tỉnh khi việc mở rộng kinh tế tăng nhanh. Chỉ trong những năm 1990 có tỷ lệ tăng dân số của Bangkok giảm, theo tỷ lệ quốc gia. Dân số Thái Lan từ lâu đã trở nên tập trung cao quanh thủ đô. Năm 1980, dân số của Bangkok gấp 50 lần so với Hat Yai và Songkhla, trung tâm đô thị lớn thứ hai, khiến nó trở thành thành phố "linh thiêng" nhất thế giới Phần lớn dân số của Bangkok là dân tộc Thái, mặc dù chi tiết về thành phần dân tộc của thành phố không có sẵn, vì điều tra dân số quốc gia không ghi nhận chủng tộc. Đa nguyên văn hóa của Bangkok có từ những ngày đầu của nền tảng; một số cộng đồng dân tộc được hình thành bởi những người nhập cư và những người định cư cưỡng bức bao gồm người Khmer, Bắc Thái Lan, Lào, Việt Nam, Tavoyan, Mon và Malay. Nổi bật nhất là người Trung Quốc, người đóng vai trò quan trọng trong thương mại của thành phố và trở thành phần lớn dân số của Bangkok - ước tính lên tới ba phần tư vào năm 1828 và gần một nửa vào những năm 1950. Tuy nhiên, làn sóng nhập cư của người Trung Quốc bị hạn chế từ những năm 1930 và chấm dứt hiệu quả sau cuộc cách mạng Trung Quốc năm 1949. Sự nổi bật của họ sau đó đã bị từ chối vì hầu hết các thế hệ trẻ người Thái khác đã tích hợp và chấp nhận một bản sắc Thái Lan. Bangkok vẫn là quê hương của một cộng đồng người Hoa lớn, với sự tập trung lớn nhất ở Yaowarat, phố người Hoa của Bangkok. Đa số (93,95%) dân số của thành phố là Phật tử. Các tôn giáo khác bao gồm đạo Hồi (4,18%), Kitô giáo (1,68%), Ấn Độ giáo (0,19%) và các tôn giáo khác (0,01%). Ngoài Yaowarat, Bangkok cũng có một số khu dân tộc khác biệt. Cộng đồng người Ấn Độ ở Phahurat, nơi Gurdwara Siri Guru Singh Sabha, được thành lập năm 1933, tọa lạc. Ban Khrua trên kênh Saen Saep là quê hương của hậu duệ của người Chăm đã định cư vào cuối thế kỷ 18. Mặc dù người Bồ Đào Nha định cư trong thời kỳ Thonburi đã không còn tồn tại như một cộng đồng riêng biệt, quá khứ của họ được phản ánh trong Giáo hội Santa Cruz, trên bờ phía tây của dòng sông. Tương tự như vậy, Nhà thờ Assumption trên đường Charoen Krung là một trong nhiều tòa nhà theo phong cách châu Âu trong Khu phố cổ Farang, nơi các nhà ngoại giao và thương nhân châu Âu sống trong những năm cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Gần đó, nhà thờ Hồi giáo Haroon là trung tâm của một cộng đồng Hồi giáo. Cộng đồng người nước ngoài mới tồn tại dọc theo đường Sukhumvit, bao gồm cả cộng đồng người Nhật gần Soi Phrom Phong và Soi Thong Lo, và khu phố Ả Rập và Bắc Phi dọc theo Soi Nana. Sukhumvit Plaza - một trung tâm mua sắm trên Soi Sukhumvit 12 - được biết đến rộng rãi là một khu phố người Hàn Quốc. Văn hóa Văn hóa của Bangkok phản ánh vị trí của nó như là trung tâm của sự thịnh vượng và hiện đại hóa của Thái Lan. Thành phố từ lâu đã là cổng thông tin nhập cảnh của các khái niệm và vật liệu phương Tây, đã được người dân chấp nhận và pha trộn với các giá trị của Thái Lan đến các mức độ khác nhau. Điều này là hiển nhiên nhất trong lối sống của tầng lớp trung lưu mở rộng. Mức tiêu thụ tiềm ẩn là một màn hình hiển thị tình trạng kinh tế và xã hội, và các trung tâm mua sắm là các hangout phổ biến cuối tuần. Quyền sở hữu điện tử và các sản phẩm tiêu dùng như điện thoại di động có mặt khắp mọi nơi. Điều này đã được đi kèm với một mức độ của chủ nghĩa thế tục, vì vai trò của tôn giáo trong cuộc sống hàng ngày đã giảm bớt. Mặc dù xu hướng như vậy đã lan rộng đến các trung tâm đô thị khác, và, ở một mức độ nào đó, vùng nông thôn, Bangkok vẫn đi đầu trong sự thay đổi xã hội. Một đặc điểm riêng biệt của Bangkok là sự phổ biến của các nhà cung cấp đường phố bán hàng hóa từ các mặt hàng thực phẩm đến quần áo và phụ kiện. Người ta ước tính rằng thành phố có thể có hơn 100.000 người bán hàng rong. Mặc dù BMA đã cho phép tự do buôn bán hàng rong ở 287 địa điểm, phần lớn hoạt động ở 407 địa điểm khác diễn ra bất hợp pháp. Mặc dù họ chiếm không gian vỉa hè và ngăn chặn giao thông cho người đi bộ, nhiều cư dân của thành phố phụ thuộc vào các gánh hàng rong cho bữa ăn của họ, và những nỗ lực của BMA để hạn chế số lượng của số người buôn hàng rong phần lớn là không thành công. Tuy nhiên, vào năm 2015, BMA, với sự hỗ trợ của Hội đồng Quốc gia về Hòa bình và trật tự (quân đội cai trị của Thái Lan), bắt đầu xua đuổi những người bán rong đường phố để thu hồi không gian công cộng. Nhiều khu chợ nổi tiếng bị ảnh hưởng, bao gồm Khlong Thom, Saphan Lek, và chợ hoa ở Pak Khlong Talat. Gần 15.000 người bán đã bị đuổi khỏi 39 khu vực công cộng trong năm 2016. Trong khi một số hoan nghênh những nỗ lực tập trung vào quyền đi bộ, những người khác đã bày tỏ lo ngại rằng phương pháp này sẽ dẫn đến sự mất đi của một biểu tượng của thành phố và những thay đổi bất lợi cho cách sống của người dân. Lễ hội và sự kiện Các cư dân của Bangkok kỷ niệm nhiều lễ hội hàng năm của Thái Lan. Trong thời gian Songkran vào ngày 13–15 tháng 4, các nghi thức truyền thống cũng như tát nước diễn ra khắp thành phố. Loi Krathong, thường vào tháng 11, được đi kèm với Hội chợ Núi Vàng. Lễ kỷ niệm năm mới diễn ra tại nhiều địa điểm, nổi bật nhất là quảng trường ở phía trước của CentralWorld. Các quan sát liên quan đến gia đình hoàng gia được tổ chức chủ yếu ở Bangkok. Vòng hoa được đặt tại bức tượng cưỡi ngựa của Vua Chulalongkorn tại Royal Plaza vào ngày 23 tháng 10, là Ngày Tưởng niệm Vua Chulalongkorn. Ngày sinh của nhà vua và nữ hoàng hiện tại, tương ứng vào ngày 5 tháng 12 và 12 tháng 8, được đánh dấu là Ngày Quốc khánh của quốc gia Thái Lan và Ngày Quốc khánh của quốc gia. Những ngày lễ quốc gia này được tổ chức bởi các khán giả hoàng gia vào đêm trước, trong đó nhà vua hoặc hoàng hậu phát biểu và họp mặt công khai vào ngày chấp hành. Sinh nhật của nhà vua cũng được đánh dấu bởi cuộc diễu hành Hoàng gia. Sanam Luang là nơi diễn ra Lễ hội Âm nhạc, Thể thao và Âm nhạc Thái Lan, thường được tổ chức vào tháng 3 và Lễ cày Hoàng gia diễn ra vào tháng 5. Hội chợ Hội Chữ thập đỏ vào đầu tháng Tư được tổ chức tại Suan Amporn và Royal Plaza, và có nhiều gian hàng cung cấp hàng hóa, trò chơi và triển lãm. Tết Nguyên Đán (tháng 1 - tháng 2) và Lễ hội ăn chay (tháng 9 - tháng 10) được cộng đồng Trung Quốc tổ chức rộng rãi, đặc biệt là ở Yaowarat Truyền thông Bangkok là trung tâm của ngành công nghiệp truyền thông Thái Lan. Tất cả các tờ báo quốc gia, truyền thông phát sóng và các nhà xuất bản lớn đều có trụ sở tại thủ đô. 21 tờ báo quốc gia có tổng lưu thông hàng ngày khoảng hai triệu vào năm 2002. Chúng bao gồm Thai Rath, Khao Sod và Daily News, lần đầu tiên xuất bản một triệu bản mỗi ngày, cũng như Matichon và Krungthep Thurakij ít nhạy cảm hơn. Bangkok Post và The Nation là hai tờ báo tiếng Anh quốc gia. Các ấn phẩm nước ngoài bao gồm Tạp chí Phố Wall Châu Á, Thời báo tài chính, The Straits Times và Yomiuri Shimbun cũng có các hoạt động tại Bangkok. Phần lớn trong số hơn 200 tạp chí của Thái Lan được xuất bản ở thủ đô và bao gồm các tạp chí tin tức cũng như các ấn phẩm về lối sống, giải trí, tin đồn và thời trang. Bangkok cũng là trung tâm của truyền hình phát sóng của Thái Lan. Tất cả sáu kênh mặt đất quốc gia, Kênh 3, 5 và 7, Modernine, NBT và PBS Thái Lan, có trụ sở chính và các studio chính ở thủ đô. Ngoại trừ các phân đoạn tin tức địa phương được phát sóng bởi NBT, tất cả các chương trình được thực hiện tại Bangkok và lặp đi lặp lại trên toàn tỉnh. Tuy nhiên, mô hình tập trung này đang suy yếu với sự gia tăng của truyền hình cáp, trong đó có nhiều nhà cung cấp địa phương. Có rất nhiều kênh truyền hình cáp và vệ tinh có trụ sở tại Bangkok. TrueVisions là nhà cung cấp truyền hình thuê bao lớn ở Bangkok và Thái Lan, và nó cũng mang chương trình quốc tế. Bangkok là nơi có 40 đài phát thanh FM FM của Thái Lan và 38 trong số 212 đài phát thanh của đài vào năm 2002. [97] Cải cách truyền thông phát sóng theo quy định của Hiến pháp năm 1997 đã được tiến triển chậm, mặc dù nhiều đài phát thanh cộng đồng đã nổi lên trong thành phố. Tương tự như vậy, Bangkok đã thống trị ngành công nghiệp điện ảnh Thái Lan kể từ khi thành lập. Mặc dù các thiết lập phim thường có các địa điểm trên khắp cả nước, thành phố này là nơi có tất cả các hãng phim lớn. Bangkok có hàng chục rạp chiếu phim và các rạp chiếu phim, và thành phố tổ chức hai liên hoan phim lớn hàng năm, Liên hoan phim quốc tế Bangkok và Liên hoan phim thế giới của Bangkok. Nghệ thuật Nghệ thuật truyền thống của Thái Lan, được phát triển lâu dài trong bối cảnh tôn giáo và hoàng gia, tiếp tục được tài trợ bởi nhiều cơ quan chính phủ ở Bangkok, bao gồm Văn phòng Nghệ thuật Truyền thống của Bộ Mỹ thuật. Quỹ SUPPORT tại Cung điện Chitralada tài trợ cho nghề thủ công truyền thống và dân gian. Nhiều cộng đồng khác nhau trong thành phố vẫn thực hành hàng thủ công truyền thống của họ, bao gồm sản xuất mặt nạ khon, bát bố thí và nhạc cụ cổ điển. Phòng trưng bày Quốc gia tổ chức bộ sưu tập nghệ thuật truyền thống và hiện đại vĩnh viễn, với các cuộc triển lãm đương đại đương đại. Cảnh nghệ thuật đương đại của Bangkok đã dần dần phát triển từ sự tối tăm tương đối vào lĩnh vực công cộng trong hai thập kỷ qua. Phòng trưng bày cá nhân dần dần nổi lên để cung cấp tiếp xúc cho các nghệ sĩ mới, bao gồm cả Nhà hát Patravadi và H Gallery. Trung tâm Văn hóa và Nghệ thuật Bangkok nằm ở trung tâm, được khai trương vào năm 2008 sau một chiến dịch vận động hành lang kéo dài 15 năm, hiện là không gian triển lãm công cộng lớn nhất trong thành phố. Ngoài ra còn có nhiều phòng trưng bày nghệ thuật và bảo tàng khác, bao gồm Bảo tàng Nghệ thuật Đương đại tư nhân. Khung cảnh nghệ thuật biểu diễn của thành phố có sân khấu và khiêu vũ truyền thống cũng như các vở kịch kiểu phương Tây. Khon và các điệu múa truyền thống khác thường xuyên được biểu diễn tại Nhà hát Quốc gia và Nhà hát Hoàng gia Salachalermkrung, trong khi Trung tâm Văn hóa Thái Lan là một địa điểm đa mục đích mới, nơi cũng tổ chức các vở nhạc kịch, dàn nhạc và các sự kiện khác. Nhiều địa điểm thường xuyên có nhiều màn trình diễn khắp thành phố. Công viên và khu vực cây xanh Bangkok có một số công viên, mặc dù tổng diện tích khu vực công viên bình quân chỉ có 1,82 mét vuông (19,6 sq ft) trong thành phố. Tổng không gian xanh cho toàn thành phố là vừa phải, ở mức 11,8 mét vuông (127 dặm vuông) / người; tuy nhiên, trong các khu vực mà các khu thương mại được xây dựng dày đặc hơn của thành phố, những con số này chỉ có 1,73 và 0,72 mét vuông (18,6 và 7,8 dặm vuông) cho mỗi người. Số liệu gần đây cho rằng chỉ có 3,3 m2 không gian xanh / người, so với mức trung bình 39 m2 ở các thành phố khác trên khắp châu Á. Ở châu Âu, London có 33,4 m2 không gian xanh trên đầu. Do đó, người Bangkok có không gian xanh ít hơn 10 lần so với tiêu chuẩn trong khu vực đô thị của khu vực. Các khu vực vành đai xanh bao gồm khoảng 700 kilômét vuông (270 sq mi) ruộng lúa và vườn cây ăn trái ở phía đông và phía tây của thành phố, mặc dù mục đích chính của chúng là phục vụ các lưu vực phòng chống lũ thay vì hạn chế mở rộng đô thị. Bang Kachao, một khu bảo tồn rộng 20 dặm vuông (7,7 dặm vuông) trong một khu chăn bò của Chao Phraya, nằm ngay phía bên kia các khu bờ sông phía nam, tỉnh Samut Prakan. Một kế hoạch phát triển tổng thể đã được đề xuất để tăng tổng diện tích công viên lên 4 mét vuông (43 sq ft) cho mỗi người. Các công viên lớn nhất của Bangkok bao gồm công viên Lumphini nằm ở trung tâm gần khu thương mại Si Lom - Sathon với diện tích 57,6 ha (142 mẫu Anh), Suanluang Rama IX rộng 80 ha ở phía đông thành phố, và khu phức hợp công viên Chatuchak - Queen Sirikit – Wachirabenchathat ở phía bắc Bangkok, có diện tích 92 ha (230 mẫu Anh). Du lịch Bangkok là một trong những thành phố du lịch hàng đầu thế giới. MasterCard xếp hạng Bangkok là thành phố điểm đến hàng đầu của khách du lịch quốc tế trong Chỉ số Thành phố Điểm đến Toàn cầu năm 2016, trước Luân Đôn với hơn 21 triệu lượt khách qua đêm. Euromonitor International xếp hạng Bangkok thứ tư trong Bảng xếp hạng các điểm đến hàng đầu của thành phố năm 2016. Bangkok cũng được tạp chí Travel + Leisure bình chọn là "Thành phố tốt nhất thế giới" trong bốn năm liên tiếp, từ năm 2010 đến năm 2013. Là cửa ngõ chính mà qua đó du khách đến Thái Lan, Bangkok được phần lớn du khách quốc tế đến thăm. Du lịch trong nước cũng nổi bật. Bộ Du lịch đã ghi nhận 26.861.095 người Thái Lan và 11.361.808 khách nước ngoài đến Bangkok vào năm 2010. Nơi nghỉ này được thực hiện bởi 15.031.244 khách, chiếm 49,9% trong số 86.687 phòng khách sạn của thành phố. Bangkok cũng đứng đầu danh sách là điểm đến du lịch nổi tiếng nhất thế giới trong bảng xếp hạng năm 2017. Các điểm tham quan đa dạng của Bangkok, các điểm tham quan và cuộc sống thành phố hấp dẫn đối với các nhóm du khách đa dạng. Cung điện hoàng gia và đền thờ cũng như một số viện bảo tàng tạo thành các điểm du lịch lịch sử và văn hóa lớn của nó. Kinh nghiệm mua sắm và ăn uống cung cấp một loạt các lựa chọn và giá cả. Thành phố này cũng nổi tiếng với cuộc sống về đêm sôi động của nó. Mặc dù cảnh du lịch tình dục của Bangkok nổi tiếng với người nước ngoài, nó thường không được người dân địa phương hoặc chính phủ công nhận. Trong số các điểm tham quan nổi tiếng của Bangkok là Cung điện hoàng gia Thái Lan và các ngôi chùa Phật giáo lớn, bao gồm Wat Phra Kaew, Wat Pho và Wat Arun. Sao Ching Cha và San Phra Phrom chứng minh ảnh hưởng sâu sắc của Ấn Độ giáo trong văn hóa Thái Lan. Cung điện Vimanmek ở Dusit Palace nổi tiếng là tòa nhà gỗ tếch lớn nhất thế giới, trong khi Jim Thompson House cung cấp một ví dụ về kiến ​​trúc truyền thống của Thái Lan. Các bảo tàng lớn khác bao gồm Bảo tàng Quốc gia Bangkok và Bảo tàng Quốc gia Royal Barge. Các chuyến đi thuyền và du ngoạn bằng thuyền trên các con kênh của Chao Phraya và Thonburi cho quang cảnh một số kiến ​​trúc truyền thống của thành phố và cuộc sống trên bờ sông. Địa điểm mua sắm, nhiều địa điểm nổi tiếng với cả khách du lịch và người dân địa phương, từ các trung tâm mua sắm và cửa hàng bách hóa tập trung ở Siam và Ratchaprasong đến chợ Chatuchak sắc màu rực rỡ. Chợ nổi Taling Chan là một trong số ít các thị trường như vậy ở Bangkok. Yaowarat được biết đến với các cửa hàng cũng như các quán ăn và nhà hàng trên đường phố, cũng được tìm thấy trong toàn thành phố. Đường Khaosan từ lâu đã nổi tiếng là điểm đến của du khách ba lô, với chỗ ở bình dân, các cửa hàng và quán bar thu hút du khách từ khắp nơi trên thế giới. Bangkok có danh tiếng ở nước ngoài như một điểm đến quan trọng trong ngành công nghiệp tình dục. Mặc dù mại dâm là bất hợp pháp và hiếm khi được thảo luận công khai ở Thái Lan, nó thường diễn ra giữa các phòng mát-xa, phòng xông hơi khô và khách sạn hàng giờ, phục vụ du khách nước ngoài cũng như người dân địa phương. Bangkok đã giành được biệt danh "Sin City of Asia" cho mức độ du lịch tình dục. Các vấn đề thường gặp phải của khách du lịch nước ngoài bao gồm lừa đảo, định giá quá mức và định giá kép. Trong một cuộc khảo sát 616 khách du lịch đến thăm Thái Lan, 7,79 phần trăm được báo cáo gặp phải một vụ lừa đảo, phổ biến nhất trong số đó là lừa đảo đá quý, trong đó khách du lịch bị lừa mua đồ trang sức với giá đắt đỏ. Các điểm tham quan chính Hoàng Cung Thái Lan Cung điện Chitralada Sân vận động Thể thao Quân đội Thái Lan Tháp Baiyoke II Trung tâm Hội chợ Triển lãm Quốc tế Bangkok Tượng đài Dân chủ Bangkok Tượng đài Chiến thắng Bangkok Wat Ratchanada Wat Pho Chùa Phật ngọc Bangkok Wat Dhammongkol Wat Benchamabophit Wat Rakang Wat Bowonniwet Wat Saket Prasad Phra Thep Bidom Wat Traimit Wat Kalayanamitr Wat Pathum Wanaram Wat Paknam Bhasicharoen Wat Yan Nawa Công viên Chatuchak Vườn Chuvit Công viên Lumphini Công viên Princess Mother Memorial Công viên Hoàng hậu Sirikit Sanam Luang Cung điện Vimanmek Bangkrak, Silom vaø Patpong Soi Cowboy Cung điện hoàng gia Bangkok Cung điện Huy Hoàng Suan Pakkad Erawan Shrine Đại lộ Bamrung Muang Wat Suthat Công viên Du sit Wat Arun Viện bảo tàng Quốc gia và sà lan Hoàng Tộc Vườn thú SafariWorld Chakri Maha Prasad Phật đài Dhammakaya Wat Anongkaram Wat Bopitpimukh Wat Boromniwat Wat Chaiyaprukmala Wat Chakkrawadrajawas Wat Chanasongkhram Wat Chinorasaram Wat Dusidaram Wat Hongratanaram Wat Intharavihara Wat Kanlayanimitr Wat Mahathat Wat Mongkhutkasat Wat Paknam Bhasicharoen Wat Phichayayatikaram Wat Phra Srimahathat Wat Pichaiyat Wat Pra Kraisri (Wat Noi) Wat Prathoomkongkha Wat Prayoonwongsawat Wat Rakhangkhositaram Wat Ratchabopit Wat Ratchaburana Wat Ratchaorotsaram Wat Ratchapradit Wat Ratchasitaram Wat Ratchathiwat Wat Sommanat Wat Sri Boonreung  Wat Suwannaram Wat Thepsirin Wat Thep Leela Wat Thepthidaram Giáo dục và y tế Giáo dục Bangkok từ lâu đã là trung tâm giáo dục hiện đại ở Thái Lan. Các trường đầu tiên trong nước được thành lập ở đây vào thế kỷ 19, và hiện nay có 1.351 trường học trong thành phố. Thành phố này là nơi có năm trường đại học lâu đời nhất của đất nước, bao gồm đại học Chulalongkorn, đại học Thammasat, đại học Kasetsart, đại học Mahidol và đại học Silpakorn, được thành lập từ năm 1917 đến năm 1943. Thành phố này đã tiếp tục chiếm ưu thế, đặc biệt là trong giáo dục đại học; phần lớn các trường đại học của cả nước, cả công lập lẫn tư nhân, đều nằm ở Bangkok hoặc Vùng đô thị. Chulalongkorn và Mahidol là các trường đại học duy nhất của Thái Lan xuất hiện trong top 500 của Bảng xếp hạng đại học thế giới Quacquarelli Symonds. Đại học Công nghệ Thonburi của King Mongkut, cũng nằm ở Bangkok, là trường đại học duy nhất của Thái Lan nằm trong top 400 của bảng xếp hạng đại học thế giới Times Higher Education. Trong vài thập kỷ qua xu hướng chung của việc theo đuổi một bằng đại học đã thúc đẩy việc thành lập các trường đại học mới để đáp ứng nhu cầu của sinh viên Thái Lan. Bangkok không chỉ trở thành một nơi mà những người nhập cư và người Thái địa phương đi làm việc, mà còn là cơ hội để nhận được bằng đại học. Đại học Ramkhamhaeng nổi lên năm 1971 là trường đại học mở đầu tiên của Thái Lan; nó bây giờ có số lượng ghi danh cao nhất trong cả nước. Nhu cầu về giáo dục đại học đã dẫn đến việc thành lập nhiều trường đại học và cao đẳng khác, cả công lập lẫn tư nhân. Trong khi nhiều trường đại học đã được thành lập ở các tỉnh lớn, khu vực vùng đô thị Bangkok vẫn là nơi sinh sống của đa số các tổ chức, và cảnh giáo dục đại học của thành phố vẫn đông dân cư với người không phải người Bangkok. Tình hình cũng không giới hạn ở giáo dục đại học. Vào những năm 1960, 60 đến 70 phần trăm những người từ 10 đến 19 tuổi đã đến Bangkok để học trung học. Điều này là do thiếu trường trung học ở các tỉnh và nhận thức được các tiêu chuẩn giáo dục cao hơn ở thủ đô. Mặc dù sự khác biệt này đã giảm đi rất nhiều, hàng chục nghìn sinh viên vẫn cạnh tranh cho những nơi ở các trường hàng đầu của Bangkok. Giáo dục từ lâu đã là một nhân tố chính trong việc tập trung của Bangkok và sẽ đóng một vai trò quan trọng trong những nỗ lực của chính phủ để phân cấp đất nước. Y tế Phần lớn tài nguyên y tế của Thái Lan tập trung không cân đối ở thủ đô. Năm 2000, Bangkok có 39,6% bác sĩ của cả nước và tỷ lệ bác sĩ trên dân số là 1: 794, so với trung bình 1: 5,667 ở tất cả các tỉnh. Thành phố có 42 bệnh viện công, 5 trong số đó là bệnh viện đại học, 98 bệnh viện tư và 4.063 trạm y tế đã đăng ký. BMA điều hành chín bệnh viện công thông qua Sở Y tế và Sở Y tế cung cấp dịch vụ chăm sóc chính thông qua sáu mươi tám trung tâm y tế cộng đồng. Hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn cầu của Thái Lan được thực hiện thông qua các bệnh viện công và các trung tâm y tế cũng như các nhà cung cấp tư nhân tham gia. Các chi nhánh của trường y khoa theo định hướng nghiên cứu như Siriraj, King Chulalongkorn Memorial và Ramathibodi Hospitals là một trong những trường lớn nhất trong cả nước, và là trung tâm chăm sóc đại học, được giới thiệu từ các vùng xa xôi của đất nước. Gần đây, đặc biệt là trong khu vực tư nhân, đã có nhiều sự tăng trưởng trong ngành du lịch y tế, với các bệnh viện như Bumrungrad và Bệnh viện Bangkok, trong số những người khác, cung cấp dịch vụ đặc biệt phục vụ cho người nước ngoài. Ước tính có khoảng 200.000 du khách y tế đến thăm Thái Lan vào năm 2011, khiến Bangkok trở thành điểm đến phổ biến nhất trên toàn cầu về du lịch y tế. Tội phạm và sự an toàn Bangkok có tỷ lệ tội phạm tương đối vừa phải khi so sánh với các đô thị khác trên toàn thế giới. Tai nạn giao thông là một mối nguy hiểm lớn, trong khi thiên tai rất hiếm. Các đợt gián đoạn chính trị bất ổn và các cuộc tấn công khủng bố không thường xuyên đã dẫn đến thiệt hại về cuộc sống. Mặc dù các mối đe dọa tội phạm ở Bangkok là tương đối thấp, các tội phạm phi đối đầu của cơ hội như móc túi, lấy cắp ví, và gian lận thẻ tín dụng xảy ra với tần suất khá thường xuyên. Tăng trưởng của Bangkok từ những năm 1960 đã được theo sau bởi tỷ lệ tội phạm gia tăng một phần do đô thị hóa, di cư, thất nghiệp và nghèo đói. Vào cuối những năm 1980, tỷ lệ tội phạm của Bangkok là khoảng bốn lần so với phần còn lại của đất nước. Cảnh sát từ lâu đã bận tâm với các tội phạm trên đường phố, từ tấn công đến tấn công và giết người. Những năm 1990 chứng kiến ​​sự xuất hiện của hành vi trộm cắp xe và tội phạm có tổ chức, đặc biệt là bởi các băng nhóm nước ngoài. Buôn bán ma túy, đặc biệt là thuốc viên ya ba methamphetamine, cũng mãn tính. Theo thống kê của cảnh sát, vụ khiếu nại phổ biến nhất mà Cục Cảnh sát vùng đô thị nhận được trong năm 2010 là phá hoại nhà cửa, với 12.347 trường hợp. Tiếp theo là 5.504 vụ trộm xe máy, 3.694 vụ tấn công và 2.836 vụ tham ô. Các tội phạm nghiêm trọng bao gồm 183 vụ giết người, 81 vụ cướp băng đảng, 265 vụ cướp, 1 vụ bắt cóc và 9 vụ án hỏa hoạn. Các tội phạm chống lại nhà nước là phổ biến hơn nhiều, và bao gồm 54.068 trường hợp liên quan đến ma túy, 17.239 trường hợp liên quan đến mại dâm và 8,634 liên quan đến cờ bạc. Khảo sát nạn nhân tội phạm Thái Lan do Văn phòng Tư pháp của Bộ Tư pháp thực hiện cho thấy 2,7% số hộ được khảo sát là nạn nhân của tội phạm năm 2007. Trong số này, 96,1% là tội ác gây hại tài sản, 2,6% là tội ác đe dọa sự sống và cơ thể, và 1,4% là tội phạm liên quan đến thông tin. Các cuộc biểu tình và phản đối chính trị rất phổ biến ở Bangkok. Trong khi hầu hết các sự kiện từ năm 1992 đã được hòa bình, hàng loạt các cuộc biểu tình từ năm 2006 thường trở nên bạo lực. Các cuộc biểu tình trong tháng 3 và tháng 5 năm 2010 kết thúc bằng một cuộc đàn áp trong đó 92 người tham gia đã bị giết, bao gồm những người biểu tình vũ trang và không vũ trang, lực lượng an ninh, dân thường và nhà báo. Sự cố khủng bố cũng đã xảy ra ở Bangkok, đáng chú ý nhất là vụ đánh bom Bangkok 2015 tại đền Erawan, và cũng là một loạt các vụ đánh bom vào đêm giao thừa 2006–07. Tai nạn giao thông là một mối nguy hiểm lớn ở Bangkok. Có 37.985 vụ tai nạn xảy ra trong thành phố năm 2010, dẫn đến 16.602 người bị thương và 456 người chết cũng như 426,42 triệu baht thiệt hại. Tuy nhiên, tỷ lệ tai nạn chết người thấp hơn nhiều so với phần còn lại của Thái Lan. Trong khi tai nạn ở Bangkok lên đến 50,9 phần trăm của cả nước, chỉ có 6,2 phần trăm tử vong xảy ra trong thành phố. Một nguy cơ sức khỏe cộng đồng nghiêm trọng khác đến từ những con chó đi lạc của Bangkok. Lên đến 300.000 con chó ước tính đi lang thang trên đường phố của thành phố, và nạn chó cắn là một trong những thương tích phổ biến nhất được điều trị trong các phòng cấp cứu của bệnh viện thành phố. Bệnh dại là phổ biến trong số chó đi lạc, khiến việc điều trị vết chó cắn gây ra một gánh nặng cho cộng đồng. Giao thông Một hệ thống kênh rạch (khlong) chằng chịt đã làm cho thành phố được gọi là "Venice phương Đông" vào lúc mà để đi lại người ta toàn phải dùng xuồng. Ngày nay phần lớn các con kênh đều được lấp để biến thành các con đường giao thông lớn. Bangkok là một thành phố nổi tiếng về kẹt xe. Tuy có hệ thống giao thông dày đặc và hoàn thiện, thế nhưng thủ đô Bangkok vẫn nhức nhối với nạn tắc đường. Ngoài ra, sự chênh lệch giàu nghèo khá rõ nét, ô nhiễm môi trường và hệ thống cây xanh yếu kém trong nội ô. Đường bộ Giao thông trên đường bộ là phương thức đi lại chính ở Bangkok. Do sự phát triển hữu cơ của thành phố, các đường phố của nó không theo một cấu trúc lưới có tổ chức. Bốn mươi tám con đường chính kết nối các khu vực khác nhau của thành phố, phân nhánh thành các đường phố nhỏ hơn và làn đường (soi) phục vụ các khu phố địa phương. Mười một cây cầu bắc qua sông Chao Phraya hai bên của thành phố, trong khi một số tuyến đường cao tốc đưa lưu lượng vào và ra khỏi trung tâm thành phố và liên kết với các tỉnh lân cận. Sự tăng trưởng nhanh chóng của Bangkok trong những năm 1980 đã dẫn đến sự gia tăng mạnh về quyền sở hữu xe và nhu cầu giao thông, kể từ đó tiếp tục - năm 2006 có 3.943.211 xe đang sử dụng tại Bangkok, trong đó 37,6% là xe hơi tư nhân và 32,9% là xe máy. Sự gia tăng này, khi đối mặt với khả năng vận chuyển hạn chế, gây ra tình trạng ách tắc giao thông nghiêm trọng vào đầu những năm 1990. Mức độ của vấn đề trầm trọng đến mức từng có vụ việc Cảnh sát giao thông Thái Lan có một đơn vị cán bộ được đào tạo ở nữ hộ sinh cơ bản để hỗ trợ việc giao hàng mà không thể đến bệnh viện kịp thời. Trong khi diện tích bề mặt đường hạn chế của Bangkok (8%, so với 20-30% ở hầu hết các thành phố phương Tây) thường được coi là nguyên nhân chính gây ách tắc giao thông, các yếu tố khác, bao gồm tỷ lệ sở hữu xe cao so với mức thu nhập, hệ thống giao thông công cộng không đầy đủ và thiếu quản lý nhu cầu vận tải, cũng đóng một vai trò. Những nỗ lực để giảm bớt vấn đề đã bao gồm việc xây dựng các nút giao cắt và một hệ thống đường cao tốc mở rộng, cũng như tạo ra một số hệ thống vận chuyển nhanh mới. Tuy nhiên, điều kiện giao thông tổng thể của thành phố vẫn còn kém. Giao thông là nguồn ô nhiễm không khí chính ở Bangkok, đã đạt đến mức độ nghiêm trọng trong những năm 1990. Nhưng những nỗ lực để cải thiện chất lượng không khí bằng cách cải thiện chất lượng nhiên liệu và thực thi các tiêu chuẩn khí thải đã cải thiện rõ rệt vấn đề vào những năm 2000. Nồng độ hạt vật chất khí quyển giảm từ 81 microgram trên mét khối năm 1997 xuống còn 43 vào năm 2007. Tuy nhiên, việc tăng số lượng xe và thiếu các nỗ lực kiểm soát ô nhiễm liên tục đe dọa sự đảo ngược thành công trong quá khứ. Vào tháng 1 - tháng 2 năm 2018, điều kiện thời tiết đã gây ra các cơn khói mù che phủ thành phố, với các hạt vật chất dưới 2,5 micromet (PM2.5) tăng lên đến mức không lành mạnh trong vài ngày kết thúc. Mặc dù BMA đã tạo ra ba mươi tuyến đường xe đạp được ký kết dọc theo một số con đường có tổng cộng 230 km (140 dặm), hình thức đi xe đạp vẫn còn phần lớn không thực tế, đặc biệt là ở trung tâm thành phố. Hầu hết các làn đường dành cho xe đạp này đều dùng chung vỉa hè với người đi bộ. Bảo trì bề mặt kém, lấn chiếm bởi người bán hàng rong và các nhà cung cấp đường phố, và một môi trường thù địch cho người đi xe đạp và người đi bộ. Nhìn chung đi xe đạp và đi bộ những phương pháp không được ưa chuộng ở Bangkok. Đường sắt Bangkok có ga Hua Lamphong là đầu cuối chính của mạng lưới đường sắt quốc gia do Đường sắt của Thái Lan (SRT) điều hành. Ngoài các dịch vụ đường dài, SRT còn vận hành một số chuyến tàu điện hàng ngày chạy từ và đến ngoại ô thành phố trong giờ cao điểm. Bangkok hiện đang được phục vụ bởi ba hệ thống vận chuyển nhanh: BTS Skytrain, tàu điện ngầm và tuyến đường sắt cao tốc sân bay. Mặc dù các đề xuất cho sự phát triển vận chuyển nhanh ở Bangkok đã được thực hiện từ năm 1975, chỉ đến năm 1999 BTS mới bắt đầu hoạt động. BTS bao gồm hai tuyến, Sukhumvit và Silom, với 30 trạm dọc theo 30,95 km (19,23 dặm). Tàu điện ngầm mở cho sử dụng vào tháng 7 năm 2004, và hiện nay bao gồm hai tuyến, Blue Line và Purple Line. Liên kết Đường sắt sân bay mở cửa vào tháng 8 năm 2010 kết nối trung tâm thành phố với Sân bay Suvarnabhumi về phía Đông. Tuyến đường này có 8 trạm dừng chân trong khoảng cách 28 km (17 dặm). Mặc dù số lượng hành khách ban đầu thấp và khu vực dịch vụ của họ vẫn còn hạn chế đối với thành phố nội thành, nhưng những hệ thống này đã trở nên không thể thiếu đối với nhiều người đi làm. BTS đã báo cáo trung bình 600.000 chuyến đi hàng ngày vào năm 2012, trong khi tàu điện ngầm MRT có 240.000 hành khách mỗi ngày. Đến năm 2016, công việc xây dựng đang được tiến hành để mở rộng BTS và MRT, cũng như một số tuyến đường chuyển tiếp khác, bao gồm đường ray xe điện commuter có đèn pha màu. Toàn bộ Kế hoạch tổng thể Mass Rapid Transit ở vùng đô thị Bangkok bao gồm tám tuyến chính và bốn tuyến đường cấp nước tổng cộng 508 km (316 dặm) sẽ được hoàn thành vào năm 2029. Ngoài các tuyến đường sắt nhanh và đường sắt lớn, đã có đề xuất cho một số tuyến đơn hệ thống. Xe buýt và taxi Bangkok có một mạng lưới xe buýt rộng rãi cung cấp các dịch vụ vận tải địa phương trong toàn vùng đô thị. Cơ quan quản lý vận tải quốc tế Bangkok (BMTA) hoạt động độc quyền về các dịch vụ xe buýt, với những sự nhượng bộ đáng kể cho các nhà khai thác tư nhân. Xe buýt, xe buýt nhỏ gọn hoạt động trên tổng số 470 tuyến đường trong khu vực. Hệ thống chuyển tuyến xe buýt riêng biệt của BMA đã hoạt động từ năm 2010. Được biết đến đơn giản là BRT, hệ thống hiện nay bao gồm một tuyến duy nhất chạy từ khu kinh doanh tại Sathon đến Ratchaphruek ở phía tây của thành phố. Công ty TNHH Vận tải là một đối tác đường dài của BMTA, với các dịch vụ đến tất cả các tỉnh ngoài Bangkok. Taxi được phổ biến ở Băng Cốc, và là một hình thức vận chuyển phổ biến. Tính đến tháng 8 năm 2012, có 106.050 xe ô tô, 58.276 xe máy và 8.996 xe ba bánh gắn máy tuk-tuk đã được đăng ký tích luỹ để sử dụng làm taxi. Hãng xe Meter đã được quy hoạch trở thành một hãng xe taxi kể từ năm 1992, trong khi giá vé tuk-tuk thường được thương lượng. Taxi xe máy hoạt động từ các cấp quản lý, với giá vé cố định hoặc thương lượng, và thường được sử dụng cho các chuyến đi tương đối ngắn. Mặc dù phổ biến, taxi đã có tiếng tồi trong việc thường xuyên từ chối hành khách nếu tuyến đường khách yêu cầu không thuận tiện cho việc lái xe. Taxi xe máy trước đây không được kiểm soát và bị tống tiền bởi những băng đảng tội phạm có tổ chức. Kể từ năm 2003, chính phủ yêu cầu các xe taxi cần phải được đăng ký và cấp phép, và người lái xe bây giờ mặc áo ghi số đặc biệt chỉ định khu vực đăng ký của họ và nơi họ được phép chấp nhận hành khách. Đường thủy Mặc dù đã giảm sút nhiều so với sự nổi bật trong quá khứ, vận tải đường thủy vẫn đóng vai trò quan trọng ở Bangkok cũng như các tỉnh thượng nguồn và hạ lưu. Một số xe buýt sông phục vụ hành khách mỗi ngày. Chiếc tàu cao tốc Chao Phraya phục vụ 34 tuyến dừng dọc theo sông, mỗi chuyến vận chuyển trung bình 35.586 hành khách / ngày trong năm 2010, trong khi dịch vụ tàu thuyền Khlong Saen Saep nhỏ hơn phục vụ 27 bến trên kênh Saen Saep với 57.557 hành khách hàng ngày. Các thuyền buồm dài hoạt động trên mười lăm tuyến đường thường xuyên trên sông Chao Phraya, và phà chở khách ở ba mươi hai đoạn sông đã phục vụ trung bình 136.927 hành khách hàng ngày trong năm 2010. Hàng không Sân bay quốc tế Bangkok, thường gọi là "Don Mueang", đây từng là sân bay bận rộn nhất ở Đông Nam Á, nằm ở phía bắc thành phố. Sân bay này ngày nay chỉ phục vụ các chuyến bay từ Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh tới Bangkok của hai hãng giá rẻ Nok Air và AirAsia và phục vụ các chuyến bay nội địa của Thái Lan, xây từ năm 1919. Hiện nay, sân bay quốc tế Suvarnabhumi mới xây năm 2006 đã thay thế Don Mueang để trở thành sân bay lớn nhất Thái Lan, và tham vọng vượt qua cả Sân bay Quốc tế Changi Singapore của Singapore. Thể thao Bangkok hiện đại đã phát triển một nền văn hóa thể thao mạnh mẽ. Trong khi các trận đấu boxing và Muay Thái tại sân vận động Rajadamnern và Lumpini được thường xuyên phát sóng trên truyền hình, môn thể thao chủ yếu của thành phố là bóng đá. Một số giải đấu trong nước và giải đấu nước ngoài, đặc biệt là Giải bóng đá Ngoại hạng Anh, có số lượng lớn người theo dõi ở Bangkok cũng như các trung tâm đô thị khác của Thái Lan. Trong những năm gần đây, giải bóng đá vô địch quốc gia Thái Lan (còn được gọi là Thai League) đã được phổ biến. Police Tero F.C. có trụ sở tại Bangkok và Muangthong United có trụ sở tại Nonthaburi thuộc khu vực vùng đô thị Bangkok là những câu lạc bộ bóng đá hàng đầu, ngoài ra còn có một số câu lạc bộ chuyên nghiệp khác như Bangkok Glass hay Bangkok United cũng đang thi đấu ở Thai League. Trong khi cầu mây có thể được chơi trong không gian mở trên toàn thành phố, đặc biệt là bởi các lớp học làm việc, bóng đá và các môn thể thao hiện đại khác bây giờ là nhiều hơn các chỉ tiêu. Các môn thể thao phương Tây đã được giới thiệu trong thời gian trị vì của Vua Chulalongkorn, và ban đầu chỉ dành cho những đặc quyền. Tình trạng như vậy vẫn liên quan đến một số môn thể thao. Golf phổ biến trong giới thượng lưu, và trong khi các câu lạc bộ nổi tiếng hơn của Thái Lan là ở nông thôn, có một số khóa học ở Bangkok chính nó. Cưỡi ngựa diễn ra trong một vài câu lạc bộ độc quyền trong thành phố. Đua ngựa là rất phổ biến ở Bangkok và cá cược đua ngựa là hợp pháp. Có hai trường đua ngựa ở Bangkok: "Royal Bangkok Sports Club" và "Royal Turf Club of Thailand". Có rất nhiều cơ sở thể thao công cộng nằm trên khắp Bangkok. Hai trung tâm chính là khu phức hợp sân vận động Quốc gia, có từ năm 1938, và Sân vận động Quốc gia Rajamangala mới được xây dựng cho ASIAD 1998. Bangkok cũng đã tổ chức các sự kiện ASIAD vào năm 1966, 1970 và 1978. Thành phố này là nơi tổ chức các Đại hội Thể thao Bán đảo Đông Nam Á 1959, Universiade mùa hè 2007 và Giải vô địch bóng đá trong nhà thế giới 2012.
Fukuhara Ai (tiếng Nhật: 福原愛 – Phúc Nguyên Ái) là một tay vợt bóng bàn nổi tiếng người Nhật. Fukuhara Ai sinh ngày 1 tháng 11 năm 1988, ở thành phố Sendai, tỉnh Miyagi – phía đông bắc Nhật Bản. Tài năng thiên phú Thừa hưởng tài năng từ người mẹ, vốn là một vận động viên bóng bàn, Ai bắt đầu tập chơi bóng từ năm 3 tuổi và bắt đầu đi vào con đường chuyên nghiệp năm lên 10. Năm sau đó, cô trở thành tay vợt trẻ nhất từng được gọi vào đội tuyển quốc gia Nhật Bản. Năm 13 tuổi (2002), Ai lọt vào tứ kết Giải vô địch bóng bàn Nhật Bản. Năm tiếp theo (2003), Ai vào đến tận vòng thứ 5 ở Giải vô địch bóng bàn thế giới lần 47 (tại Paris, Pháp). Năm 2004, Ai còn giành được quyền tham dự Thế vận hội tại Athena sau khi vượt qua vòng loại khu vực châu Á. Biểu tượng Tên của cô là Ai, trong tiếng Việt là "Ái", có nghĩa là "yêu thương". Khi còn nhỏ, mỗi lần thua cuộc cô đều oà khóc bên bàn bóng, trông rất hồn nhiên nên đối với mọi người; Ai luôn là một cô bé và thường được gọi thân mật là "Ai-chan" (愛ちゃん). Cô là một biểu tượng cho thanh niên Nhật về sự cố gắng vượt qua khó khăn trong cuộc sống. Ai từng được rước ngọn đuốc Olympic 2004 khi ngọn đuốc này tới Tokyo năm 2004. Fukuhara Ai cũng xuất hiện trong nhiều trò chơi game ở Nhật, ví dụ như trò Fukuhara Have No Takkyû Icchokusen, chơi trên máy Playstation 2, xuất xưởng tháng 6 năm 2004. Ai đang chơi cho câu lạc bộ Miki House Sport Club, một dạng nhà thiếu nhi sinh hoạt từ nhỏ. Cùng với đàn chị Konishi An và đàn anh Sakamoto Ryusuke, Ai đã đoạt chức vô địch đôi nữ và đôi nam nữ nhiều năm ở Nhật. Ai cũng giành được nhiều thứ hạng cao ở Giải vô địch bóng bàn thiếu niên thế giới, cùng với đồng đội Kishikawa Seiya. Tháng 05 năm 2011, tại giải vô địch bóng bàn thế giới tổ chức ở Rotterdam, Hà Lan, Fukuhara Ai và Kishikawa Seiya đã giành được tấm huy chương đồng quý giá ở nội dung đôi nam nữ sau 34 năm vắng bóng Nhật Bản trên đấu trường thế giới vì sự trỗi dậy mạnh mẽ của bóng bàn Trung Quốc. Theo bảng xếp hạng của ITTF ngày 5 tháng 12 năm 2007, Ai đứng hạng 10 thế giới và là vận động viên Nhật Bản xếp hạng cao nhất. Đời sống cá nhân Tháng 9 năm 2016, Fukuhara kết hôn với Chiang Hung-Chieh (tiếng Hoa: 江宏傑, tiếng Việt: Giang Hoằng Kiệt), một tuyển thủ bóng bàn người Đài Loan. Tháng 10 năm 2017, hạ sinh con gái đầu lòng. Tháng 10 năm 2018, Fukuhara tuyên bố giã từ sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp. Tháng 4 năm 2019, hạ sinh con trai thứ hai. Ngày 8 tháng 07 năm 2021, Fukuhara và Giang Hoằng Kiệt tuyên bố ly hôn. Ngày 4 tháng 11 năm 2021, được bổ nhiệm làm phó giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Aomori.
Mưa Ngâu là tên gọi cho những cơn mưa xuất hiện vào đầu tháng 7 Âm lịch ở Việt Nam hàng năm. Trong dân gian Việt Nam có câu tục ngữ: "vào mùng 3, ra mùng 7", nghĩa là mưa sẽ có vào các ngày mùng 3 đến mùng 7, 13 đến 17 và 23 đến 27 âm lịch. Các cơn mưa thường không liên tục, rả rích, do vậy mới có cụm từ "trời mưa sụt sùi" để chỉ mưa ngâu. Từ nguyên Ngày xưa có nàng Chức Nữ là con gái yêu của Trời suốt ngày chăm chỉ dệt vải. Trời se duyên với một chàng trai được người được nết tên là Ngưu Lang. Chàng lo chăm sóc đàn trâu của nhà Trời. Hai người sống rất hạnh phúc. Tuy nhiên chỉ suốt ngày bên nhau cho nên đã chênh mảng công việc Trời giao. Khung cửi bỏ không, đàn du chích cả hai xuống bờ sông Ngân, nhưng bắt mỗi người ở một bên bờ. Mỗi năm Trời chỉ cho hai người gặp nhau một lần vào ngày 7 tháng 7 Âm lịch. Vào ngày ấy, bao giờ cũng mưa dầm dề, đó là nước mắt của cả Ngưu Lang lẫn Chức Nữ. Nhân dân gọi đó là mưa ngâu (đọc chệch chữ Ngưu). Theo truyền thuyết Ngưu Lang Chức Nữ thì mỗi khi Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau, họ đã khóc và nước mắt của họ rơi xuống trần gian hoá thành cơn mưa, đó chính là mưa Ngâu. Do vậy, người ta còn gọi họ là ông Ngâu bà Ngâu. Truyện kể rằng, cứ sau khi hàn huyên tâm sự, họ lại khóc cho nên các cơn mưa mới không liên tục, lúc mưa, lúc tạnh. Thi sĩ Vương Bột đời Đường đã viết "Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc" (nghĩa là Nước mùa thu cùng bầu trời bao la hòa làm một màu) để viết về khung cảnh thiên nhiên của thời tiết này vào mùa thu. Phong tục Cũng vì lý do này nên ở Việt Nam, người ta không tổ chức đám cưới vào tháng 7 âm lịch (tháng mưa Ngâu) vì có mưa dầm suốt tháng đồng thời lại có thể có gió bão và kiêng kị cho cuộc sống vợ chồng trẻ sau này có thể bị chia ly, chỉ gặp nhau một năm một lần giống vợ chồng Ngâu. Trong nghệ thuật Văn học dân gian Mưa Ngâu có nhiều trong ca dao Việt Nam như: Tục truyền tháng bảy mưa ngâu,Con trời lấy chú chăn trâu cũng phiền...Tháng sáu lo chửa kịp tiềnBước sang tháng bảy lại liền mưa NgâuTháng bảy là tháng mưa NgâuBước sang tháng tám lại đầu trăng thu...Tháng năm tháng sáu mưa dàiBước sang tháng bảy tiết trời mưa NgâuNhớ ai như vợ chồng NgâuMột năm mới gặp mặt nhau một lần.Văn học viết Mưa Ngâu là một chủ đề được nhiều nhà văn, nhà thơ Việt Nam khai thác. Trong thời kỳ văn học trung đại, Trần Tế Xương có bài "Mưa tháng bảy" được làm theo thể thất ngôn bát cú:Sang tuần tháng bảy tiết mưa ngâuNắng mãi thì mưa cũng phải lâu.Vạc nọ cầm canh thay trống mõ,Rồng kia phun nước tưới hoa màu.Ỳ ào tiếng học nghe không rõMát mẻ nhà ai ngủ hẳn lâu.Ông lão nhà quê tang tảng dậyBảo con mang đó chớ mang gầu. Sang thời kỳ văn học hiện đại, mưa Ngâu cũng được nhắc tới trong một số bài thơ như: bài Ngựa qua từng chuyến của Yến Lan, Mưa Ngâu của Ngô Văn Phú, Mưa Ngâu của Tế Hanh, Huyền thoại Ngưu Lang - Chức Nữ của Lưu Vĩnh Hạ, Chuyện lâu rồi của Hoàng Cầm, Đời còn chi của Vũ Hoàng Chương, Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa của Lưu Quang Vũ v.v... Vào năm 1943, nhằm vừa đề cập đến mưa Ngâu, vừa giúp người đọc nhớ đến các chữ số của số Pi, Nguyễn Bá Thái có đưa ra thơ:Cầu Ô tuân ý Cao-xaNgân-giang lẻ phương đậm-đà bắc ngangTưng-bừng nghênh-đón cô-ngươngChàng Ngưu vui tỏ nỗi thương-ai trànThường là chuyện khóc khó canHóa thành mưa lũ miên-man tháng-ngày(Những chữ được nối với nhau thì được coi là 1 từ. Tất cả bài thơ này diễn tả 31 chữ số của số Pi) Trong tân nhạc Đặng Thế Phong cũng nhắc tời mưa Ngâu trong nhạc phẩm nổi tiếng Giọt mưa thu:Đến bao năm nữa trờiVợ chồng Ngâu thôi khóc vì thuMưa Ngâu cũng đã được lấy làm tên cho một bài hát của nhạc sĩ Thanh Tùng, bài Mưa Ngâu. ...giọt mưa Ngâu hay là nước mắt ai nhớ nhau..''
Những cột mốc trong lịch sử chinh phục vũ trụ của loài người Ngày 24/12/1979: phi thuyền Arian đầu tiên của châu Âu được phóng lên. châu Âu trở thành đối thủ đáng gờm trong công cuộc chinh phục vũ trụ. Ngày 12/04/1981: chuyến bay đầu tiên của phi thuyền Columbia. Ngày 24/06/1982: Jean-Loup Chrétien trở thành người Pháp đầu tiên bay vào vũ trụ. Ngày 28/01/1986: 7 phi hành gia người Mỹ đã thiệt mạng trên tàu con thoi Challenger. Các chuyến bay bị hoãn lại 2 năm sau đó. Ngày 19/02/1986: phóng trạm không gian MIR thế hệ thứ ba của Nga. Trạm vũ trụ này ngừng hoạt động vào tháng 3 năm 2001. Ngày 25/04/1990: kính thiên văn vũ trụ Hubble được đưa lên quỹ đạo. Ngày 02/11/2000: hai phi hành gia của Nga và một của Mỹ trở thành cư dân đầu tiên của trạm ISS. Ngày 17/01/2003: một quan chức của Trung Quốc tuyên bố về chuyến phóng Thần Châu V. Ngày 01/02/2003: phi thuyền Columbia của Mỹ bị nổ, cướp đi sinh mạng của 7 phi hành gia. Ngày 08/09/2003: truyền hình Trung Quốc chính thức xác nhận chuyến bay của phi thuyền Thần Châu V vào ngày 15/10. Niên biểu 1942-1975 1Chương trình Vanguard được chuyển giao từ Phòng Nghiên cứu Hải quân Hoa Kỳ (NRL) cho NASA ngay trước cuộc phóng. Sau 1975
Hoàng Diệu (chữ Hán: 黃耀; 1829 - 1882) là một quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, người đã quyết tử bảo vệ thành Hà Nội khi Pháp tấn công năm 1882. Xuất thân Hoàng Diệu tên thật là Hoàng Kim Tích, sau mới đổi là Hoàng Diệu, tự là Quang Viễn, hiệu Tĩnh Trai. Ông sinh ngày 10 tháng 2 năm Kỷ Sửu 14 tháng 3 năm (1829), trong một gia đình có truyền thống nho giáo tại làng Xuân Đài, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam (nay là thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Gia đình ông có 7 anh em và họ đều nổi tiếng là những người thông minh trong vùng. Sử chép rằng gia đình Hoàng Diệu có một người đỗ phó bảng, ba người đỗ cử nhân, hai người tú tài trong các kỳ thi dưới thời vua Tự Đức. Một trong những hậu duệ của ông là nhà toán học Hoàng Tụy. Sự nghiệp Hoàng Diệu là người nổi bật nhất trong số các anh em trong gia đình. Năm 20 tuổi ông đã đồng đỗ Cử nhân với anh trai Hoàng Kim Giám (khi ấy 23 tuổi) khoa Mậu Thân (1848) trong khoa thi Hương tại Thừa Thiên, năm 25 tuổi đỗ Phó bảng khoa Quý Sửu (1853), thời vua Tự Đức. Năm 1854, ông được vua Tự Đức bổ nhiệm làm Tri huyện Tuy Phước rồi Tri phủ Tuy Viễn (Bình Định). Năm 1864, xảy ra vụ nổi dậy của Nguyễn Phúc Hồng Tập, con hoàng thân Miên Áo, em chú bác của Hồng Nhậm (tức vua Tự Đức), cùng với một số người khác. Bại lộ, Hồng Tập và Nguyễn Văn Viện bị án chém. Hoàng Diệu đến nhậm chức Tri huyện Hương Trà thay Tôn Thất Thanh bị đổi đi nơi khác, bấy giờ có mặt trong lúc hành quyết đã nghe Hồng Tập nói: "Vì tức giận về hòa nghị mới bị tội, xin chớ ghép vào tội phản nghịch". Sau đó các quan Phan Huy Kiệm, Trần Gia Huệ và Biện Vĩnh tâu lên Tự Đức, đề nghị nhà vua nên theo gương Hán Minh Đế, thẩm tra lại vụ án. Tự Đức phán là vụ án đã được đình thần thẩm xét kỹ, nay nghe Phan Huy Kiệm nói Hoàng Diệu đã kể lại lời trăng trối của Hồng Tập, bèn quyết định giáng chức Phan Huy Kiệm, Trần Gia Huệ, Biện Vĩnh và Hoàng Diệu. Được phục chức sau vụ "tẩy oan" Hồng Tập, Hoàng Diệu lần đầu ra Bắc năm 1868, làm Tri phủ Đa Phúc, rồi Tri phủ Lạng Giang (Bắc Giang), Án sát Nam Định, Bố chính Bắc Ninh. Trong chín năm ấy, ông lập nhiều quân công, dẹp trộm cướp và an dân, ở đâu ông cũng được sĩ dân quý mến. Năm 1873 ông được triệu về kinh đô Huế giữ chức Tham tri Bộ Hình rồi Tham tri Bộ Lại, kiêm quản Đô Sát Viện, dự bàn những việc ở Cơ Mật Viện. Năm 1878, đổi làm Tuần phủ Quảng Nam, thăng Tổng đốc An Tịnh (Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay), nhưng vì nguyên Tổng đốc Nguyễn Chính vẫn lưu nhiệm nên ông ở lại Huế, làm Tham tri Bộ Lại (Thực lục của Cao Xuân Dục). Chẳng bao lâu sau, ông được sung chức Phó Toàn quyền Đại Thần đàm phán với Sứ thần Tây Ban Nha một hiệp ước giao thương. Đầu năm 1880, ông làm Tổng đốc Hà Ninh, lãnh chức hàm Thượng thư bộ Binh, kiêm quản cả việc thương chính. Biết rõ dã tâm xâm lược của thực dân Pháp lúc bấy giờ, Hoàng Diệu bắt tay ngay vào việc chuẩn bị chiến đấu, kinh lý, biên phòng. Như Đại Nam chính biên liệt truyện đã nêu, tổng đốc Hà Ninh đã "cùng với tổng đốc tỉnh Sơn Tây Nguyễn Hữu Độ dâng sớ nói về việc bố phòng, lại cùng với Nguyễn Đình Nhuận mật tâu về chước phòng vị sẵn". Vua Tự Đức khen. "Nhưng sau đó - như trong di biểu nêu - vua lại trách cứ lưu binh... vì sợ giặc"... "chế ngự không đúng cách" (?) Một mặt khác, Hoàng Diệu quan tâm ổn định chăm lo đời sống của dân chúng trong công bằng và trật tự. Ngày nay, ở Ô Quan Chưởng, đầu phố Hàng Chiếu, còn áp ở mặt tường cổng ra vào một phần tấm bia Lệnh cấm trừ tệ (Thân cấm khu tệ), niêm yết năm 1881, của Tổng đốc Hà Ninh Hoàng Diệu và Tuần phủ Hà Nội Hoàng Hữu Xứng, nhằm ngăn chặn các tệ nhũng nhiễu đối với nhân dân trong các dịp ma chay, cưới xin cũng như nạn vòi tiền, cướp bóc trên sông và ở các chợ, kèm theo các quy định cụ thể cần thi hành đến nơi đến chốn. Một di tích quý hiếm nói lên tấm lòng ưu ái của người công bộc mãi mãi còn giá trị của nó. Từ 1879 đến 1882, Ông làm Tổng đốc Hà Ninh quản lý vùng trọng yếu nhất của Bắc Bộ là Hà Nội và phụ cận. Ông đã chỉ đạo quân dân Hà Nội tử thủ chống lại quân đội Pháp, bất chấp triều đình Huế đã chấp nhận đầu hàng. Ngày 25 tháng 4 năm 1882 (tức ngày 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ), thành Hà Nội thất thủ, Hoàng Diệu đã tự vẫn tại Võ Miếu để không rơi vào tay đối phương. Người Hà Nội vô cùng đau đớn trước cái chết của ông, ngay hôm sau, nhiều người họp lại, sắm sửa mền nệm tử tế, rước quan tài của Hoàng Diệu từ trong thành ra, tổ chức khâm liệm và mai táng tại khu vườn Dinh Đốc học (nay là địa điểm khách sạn Royal Star ở đường Trần Quý Cáp cạnh chợ Ngô Sĩ Liên, sau ga Hà Nội). Hơn một tháng sau hai người con trai ông ra Hà Nội lo liệu đưa thi hài thân sinh về an táng ở quê quán vào mùa thu năm ấy. Khu lăng mộ Hoàng Diệu, theo quyết định ngày 25 tháng 1 năm 1994 của Bộ Văn hóa Thông tin, được công nhận là một di tích lịch sử - văn hóa của Việt Nam. Quyết tử với Hà thành Năm 1873, sau khi chiếm được Nam Bộ, Pháp chuẩn bị tiến ra Bắc Bộ. Vua Tự Đức giao phó cho Hoàng Diệu làm Tổng đốc Hà Ninh. Ngay khi tới Hà Nội Hoàng Diệu đã chú tâm tới việc xây dựng thành lũy chuẩn bị lực lượng để chống Pháp. Từ năm 1880 đến 1882, ông đã hai ba lần dâng sớ xin triều đình chi viện để củng cố phòng tuyến chống giặc tại Hà Nội, nhưng không nhận được hồi âm từ Huế. Đầu năm 1882, lấy cớ Việt Nam không tôn trọng hiệp ước năm 1874 mà lại đi giao thiệp với Trung Hoa, dung túng quân Cờ Đen (một nhánh quân của Thái Bình Thiên Quốc) ngăn trở việc giao thông trên sông Hồng của người Pháp, Đại tá Henri Rivière của Hải quân Pháp cho tàu chiến cùng hơn 400 quân đóng trại tại Đồn Thủy (trên bờ bắc sông Hồng, cách thành Hà Nội 5 km) nhằm uy hiếp Hà Nội. Hoàng Diệu đã hạ lệnh giới nghiêm tại Hà Nội và bố cáo các tỉnh xung quanh sẵn sàng tác chiến, đồng thời yêu cầu viện binh từ triều đình Huế. Tuy nhiên phái chủ bại của triều đình Huế đã thuyết phục vua Tự Đức chấp nhận mất miền Bắc để giữ an toàn cho ngai vàng. Vua Tự Đức đã hạ chiếu quở trách Hoàng Diệu đã đem binh dọa giặc và chế ngự sai đường. Nhưng Hoàng Diệu đã quyết tâm sống chết với thành Hà Nội. Các quan xung quanh ông Hoàng Diệu lúc bấy giờ có Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng, Đề đốc Lê Văn Trinh, Bố chính Phan Văn Tuyển, Án sát Tôn Thất Bá và Lãnh binh Lê Trực đã cùng nhau uống rượu hòa máu tỏ quyết tâm sống chết với Hà thành. Rạng ngày 25 tháng 4 năm 1882, tức ngày mồng 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ, Henri Rivière cho tàu chiến áp sát thành Hà Nội, đưa tối hậu thư, yêu sách ba điều: Phá các tao tác phòng thủ trong thành. Giải giới binh lính. Đúng 8 giờ các vị quan văn võ trong thành Hà Nội phải thân đến trình diện với Henri Rivière. Sau đó, quân Pháp sẽ vào thành kiểm kê. Xong sẽ giao trả thành lại. Hoàng Diệu tiếp tối hậu thư, liền sai Tôn Thất Bá đi điều đình. Nhưng không đợi trả lời, lúc 8 giờ 15, Rivière với 4 tàu chiến là La Fanfare, La Massue, La Hache, La Surprise (tàu này không kịp tới, vì mắc cạn dọc đường Hải Phòng đi Hà Nội) bắn vào thành yểm trợ cho số quân 450 người và một ít thân binh đổ bộ hòng chiếm thành Hà Nội. Ngay trong những phút đầu tiên, hoàng thân Tôn Thất Bá chạy trốn vào làng Mọc (Nhân Mục) ở phía Đông Nam Hà Nội theo Pháp và thông báo tình hình trong thành Hà Nội cho họ. Đồng thời, Bá cũng dâng sớ lên vua Tự Đức đổ tội cho Hoàng Diệu và xin với Pháp cho Bá thay làm Tổng đốc Hà Ninh. Tuy vậy, quân Pháp vẫn vấp phải sự kháng cự quyết liệt của quân dân Hà thành dưới sự chỉ huy của Hoàng Diệu. Quân Pháp bị thiệt hại nặng và phải rút ra ngoài tầm súng để củng cố lực lượng. Nhưng trong lúc chiến sự diễn ra khốc liệt thì kho thuốc súng của Hà Nội nổ tung, do Việt gian mua chuộc bởi bọn Pháp làm. Một số nhà sử học còn đoán rằng nó liên quan tới phản thần Tôn Thất Bá. dẫn tới đám cháy lớn trong thành làm cho lòng quân hoang mang. Quân Pháp thừa cơ phá được cổng Tây thành Hà Nội và ùa vào thành. Bố chính Nguyễn Văn Tuyển, Đề đốc Lê Văn Trinh và các lãnh binh bỏ thành chạy, còn Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng trốn trong hành cung. Trong tình thế tuyệt vọng, Hoàng Diệu vẫn tiếp tục bình tĩnh dẫn đầu quân sĩ chiến đấu chống lại quân Pháp dù lực lượng ngày càng yếu đi, không thể giữ được thành nữa. Cuối cùng, Hoàng Diệu đã ra lệnh cho tướng sỹ giải tán để tránh thương vong. Một mình Hoàng Diệu vào hành cung, thảo tờ di biểu, rồi ra trước Võ miếu dùng khăn bịt đầu thắt cổ tự tử, hưởng dương 54 tuổi. Tờ di biểu, ông cắn ngón tay lấy máu viết di biểu tạ tội cho vua Tự Đức: Thành mất không sao cứu được, thật hổ với nhân sĩ Bắc thành lúc sinh tiền. Thân chết có quản gì, nguyện xin theo Nguyễn Tri Phương xuống đất. Quân vương muôn dặm, huyết lệ đôi hàng.... Ông mất ngày 25 tháng 4 năm 1882, thọ 53 tuổi. Tưởng niệm Hoàng Diệu được đông đảo sĩ phu, nhân dân Hà Nội và Bắc Hà khâm phục thương tiếc. Ông được thờ trong đền Trung Liệt (cùng với Nguyễn Tri Phương) trên gò Đống Đa với câu đối: Thử thành quách, thử giang sơn, bách chiến phong trần dư xích địaVi nhật tinh, vi hà nhạc, thiên niên tâm sự cộng thanh thiênDịch:Kia thành quách, kia non sông, trăm trận phong trần còn thước đấtLà trời sao, là sông núi, mười năm tâm sự với trời xanhVua Tự Đức mặc dầu không ủng hộ Hoàng Diệu trong việc chống đối với quân Pháp tại thành Hà Nội, vẫn phải hạ chiếu khen ông đã tận trung tử tiết, sai quân tỉnh Quảng Nam làm lễ quốc tang. Tôn Thất Thuyết, một đại biểu nổi tiếng của sĩ phu kiên quyết chống Pháp đã ca ngợi ông trong hai câu đối:Nhất tử thành danh, tự cổ anh hùng phi sở nguyệnBình sanh trung nghĩa, đương niên đại cuộc khởi vô tâmDịch:Một chết đã thành danh, đâu phải anh hùng từng nguyện trướcBình sanh trung nghĩa, đương trường đại cuộc tất lưu tâmCụ Phó bảng Nguyễn Trọng Tỉnh có bài thơ điếu Hoàng Diệu, ghi lại trong Lịch sử vua quan nhà Nguyễn của Phạm Khắc Hòe như sau:Tay đã cầm bút lại cầm binhMuôn dặm giang sơn nặng một minhThờ chúa, chúa lo, lo với chúaGiữ thành, thành mất, mất theo thànhSuối vàng ắt hẳn mài gươm bạcLòng đỏ thôi đành gửi sử xanhDi biểu nay còn sôi chính khíKhiến người thêm trọng bút khoa danh.Trích hai đoạn bút ký: Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường:Tôi có đi thăm mộ cụ Hoàng Diệu ở giữa cánh đồng Xuân Đài. Mộ không bề thế như tôi tưởng, còn quá nhỏ so với lăng mộ của những viên quan lớn vô tích sự trên triều đình Huế mà tôi vẫn thường thấy. Mộ là một nắm vôi khô nằm vùi giữa đồng cỏ voi, xa khu dân cư......Hồi nhỏ nhà nghèo, mẹ chăn tằm dệt lụa nuôi con ăn học. Hoàng Diệu lớn lên bằng tuổi trẻ gian khổ ở làng quê, buổi sáng sớm đi học chỉ súc miệng và nhịn đói, trưa về ăn một chén bắp nấu đậu, đến tối cả nhà chia mỗi người một bát cơm. Ngày nghe tin chồng tuẫn tiết, bà Hoàng Diệu đang cuốc cỏ lá de, ngất xỉu ngay trên bờ ruộng...Làm quan Tổng đốc mà nhà còn nghèo đến thế, huống là nhà dân... Nhà văn Sơn Nam:Đi thăm mộ Hoàng Diệu, (nghe) lúc làm quan, có lần ông gửi về cho mẹ một vóc lụa. Bà mẹ không nhận, gửi trả lại cho con, kèm theo một nhánh dâu, tượng trưng cho ngọn roi, để cảnh cáo đứa con đừng nhận quà cáp gì của dân.Mượn ý bài "Chính khí ca" của Văn Thiên Tường, một Thừa tướng thời Tống mạt giúp vua không thành công và nguyện chết theo nhà Tống chứ không chịu đầu hàng nhà Nguyên - Ba Giai (Nguyễn Văn Giai) đã làm thành bài "Hà thành chính khí ca", ca ngợi lòng yêu nước và chí khí trung nghĩa lẫm liệt, thà chết chứ không chịu khuất phục của Tổng đốc Hoàng Diệu. Dưới đây là bài Hà thành chính khí ca (bản đã được in trong sách Văn cấp 3 cũ):Một vừng chính khí lưu hình,Khoảng trong trời đất nhật, tinh, sơn, hà,Hạo nhiên ở tại người ta,Tấc gang son sắt hiện ra khi cùng.Hơn thua trong vận truân phong,Nghìn thu để tiếng Anh hùng sử xanh.Có quan tổng đốc Hà NinhHiệu là Quang Viễn, trung trinh ai bằng?Lâm nguy, lý hiểm đã từng,Vâng ra trọng trấn mới chừng ba nămThôn Hồ dạ vốn nhăm nhăm,Ngoài tuy giao tiếp, trong chăm những là...Vừa năm Nhâm Ngọ, tháng ba,Sáng mai mồng tám, bước qua giờ thìn,Biết cơ trước đã giữ gìn,Hơn trăm vũ sĩ, vài nghìn tinh binh.Tiên nghiêm lên đóng trên thành,Thệ sư rót chén rượu quỳnh đầy vơi.Văn quan vũ tướng nghe lời,Hầm hầm xin quyết một bài tận trung.Ra oai xuống lệnh vừa xong,Bỗng nghe ngoài đã đùng đùng pháo ran.Tiêm cừu nổi giận xung quan,Quyết rằng chẳng để chi đàn chó dê.Lửa phun súng phát bốn bề,Khiến loài bạch quỷ hồn lìa phách xiêuBắn ra nghe chết cũng nhiềuPhố phường nghe thấy, tiếng reo ầm ầm.Quan quân đắc chí bình tâm,Cửa Đông, cửa Bắc vẫn cầm vững binh.Chém cha cái lũ hôi tanhPhen này quét sạch sành sanh mới là!Nào ngờ thất ý tại ta,Rõ ràng thắng trạng, hóa mà thua cơ!Nội công rắp những bao giờ,Thấy kho thuốc cháy, ngọn cờ ngả theoQuan quân sợ chết thảy đều,Cửa Tây, Bạch quỷ đánh liều trèo lên.Nào ai cơm áo dốc đền?Nào ai gìn giữ vững bền ba quân?Nào ai còn chí kinh luân?Nào ai nghĩ đến thánh quân trên đầu?Một cơn gió thảm mưa sầu,Nấu nung gan sắt, dãi dầu lòng son,Chữ trung còn chút con con,Quyết đem gửi cái tàn hồn gốc cây.Trời cao biển rộng đất dày,Núi Nùng sông Nhị chốn này làm ghi!Thương thay gặp buổi truân nguy,Lòng riêng ai chẳng thương vì người trung!Rủ nhau tiền góp của chung,Rước người ra táng ở trong học đường.Đau đớn nhẽ, ngẩn ngơ dường!Tả tơi thành quách, tồi tàn cỏ hoa!Kể từ năm Dậu bao xa,Đến nay tính đốt phỏng đà mười niên.Long thành thất thủ hai phen,Kho tàng hết sạch, quân quyền dời tan.Đổi thay trải mấy ông quan,Quyên sinh tựu nghĩa, có gan mấy người?Trước quan Võ hiển khâm sai,Sau quan Tổng đốc một vài mà thôi.Ngoài ra võ giáp văn khôi,Quan, bào, trâm, hốt nhác coi, ngỡ là...Khi bình làm hại dân ta,Túi tham mở rộng chẳng tha miếng gì.Đến khi hoạn nạn lâm nguy,Mặt trông ngơ ngác, chân đi gập ghềnh.Võ như đề đốc Lê Trinh,Cùng là chánh phó lãnh binh một đoàn,Đang khi giao chiến ngang tàng,Thấy cơ hầu đổ vội vàng nhót ngay.Nghĩ xem thật cũng ghê thay,Bảo thân chước ấy ai bày sẵn cho?Lại còn nghe những mơ hồRằng quan đề đốc dưới hồ cửa tây;Kẻ rằng: treo ở cành câyKẻ rằng: hẳn dưới giếng này chẳng chơi.Thăm tìm ngày một ngày hai,Định rằng hợp táng ở nơi học đường.Hỏi ra sau mới tỏ tường,Cũng loài úy tử, cũng phường tham sinh.Phép công nên bắt gia hình,Rồi ra nặng chữ nhân tình lại thôi.Văn như Tuần phủ nực cười,Bình Chi là hiệu, năm mươi tuổi già.Biết bao cơm áo nước nhà?Kể trong sĩ tịch cũng là đại viên.Chén son chưa cạn lời nguyền,Thế mà bỗng chốc quên liền ngay đi?Lại còn quanh quẩn làm chi?Hay là thương tiếc vật gì ở đây?Hay là có chước bình Tây,Trước kia hoảng hốt sau này nghiên tinh?Hay là tiếc cái xuân xanh?Tìm nơi kiếm chốn gieo mình trú chân?Hay là còn chút từ thân,Đã toan tịch cốc mấy lần lại thôi!Sao không biết xấu với đời?Sao không biết thẹn với người tử trung?Kìa Tôn Thất Bá niết công,Kim chi ngọc diệp, vốn dòng tôn nhân,Đã quốc tộc, lại vương thần,Cũng nên hết sức kinh luân mới là...Nước non vẫn nước non nhà,Nỡ nào bán rẻ một tòa Thăng Long?Thề xưa liệu đã chẳng xong,Mặt nào còn đứng trong vòng lưỡng gian.Tư giao rắp những mưu gian,Thừa cơ xin dự hội thương ra ngoài.Ấy mới khôn, ấy mới tài,Lẩn đi tránh tiếng, giục người nói quanh.Dâng công quyền lĩnh tỉnh thành,Mà toan đổ tội một mình quan trên.Tội danh thật đã quả nhiên,Xin đem giao xuống cửu nguyên chế đài.Lân la kể đến phiên đài,Xỉ ban cũng đã tuổi ngoài sáu mươi.Thác trong thôi cũng nên đời.Sống thừa chỉ để kẻ cười, người chê!Nhị hà, Tản lĩnh đi về,Giang sơn tuyết chở, sương che cũng liều!Còn như ty thuộc hạ liêu,Kẻ công người quá còn nhiều:chan chan,Biết đâu cho khắp mà bàn,Sau này đã có sử quan thẩm bình,Trước rèm gió mát trăng thanhThừa lương nhân chốn nhàn đình thong dong.Xa trông tút vút Bình phong,Chúc mừng vạn thọ thánh cung lâu dài!Rồi ra cá nước duyên hài,Ra tay khang tế, giở tài kinh luân.Đã thánh quân lại hiền thần,Có đâu mà chẳng quần dân thái hòa!Bấy giờ ta lại với ta,Tỉnh say dật hứng, ngâm nga tiêu sầu.Hà thành văn vũ công hầu,Càng nghe thấy chuyện càng rầu bên tai!Diễn ca Chính khí một bài,Để cho thiên hạ người người khuyên răn.'' Nhiều đường phố mang tên này như tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh... Tên ông cũng là tên của một xã ở huyện Chương Mỹ. Nhiều trường học ở Việt Nam cũng mang tên Hoàng Diệu.
Đảng Cộng hòa (tiếng Anh: Republican Party, còn được gọi là , ) là một trong hai đảng chính trị lớn trong hệ thống đa đảng của chính trị Hoa Kỳ, cùng với Đảng Dân chủ. Đảng Cộng hòa được thành lập vào năm 1854 bởi những nhà hoạt động bãi nô, những nhà duy tân, những cựu thành viên của Đảng Whig và Đảng Free Soil. Đảng Cộng hòa thời đầu chiếm ưu thế tại các miền Đông Bắc và Trung Tây, nhưng trong những thập kỉ gần đây đã chuyển về miền Tây trong lục địa, và đặc biệt là miền Nam. Trong giai đoạn lịch sử hiện tại, trong hai đảng chính thì Đảng Cộng hòa đã được cho là bảo thủ hơn về mặt xã hội và tự do hơn về mặt kinh tế. Đảng Cộng hòa là đảng đứng thứ nhì tính vào năm 2004 với 55 triệu cử tri đăng ký, bao gồm khoảng một phần ba số cử tri. Các cuộc thăm dò ý kiến gần đây cho thấy khoảng 20% đến 33% người Mỹ tự nhận là thành viên Đảng Cộng hòa và con số đang có xu hướng gia tăng mạnh. Trong 45 người được bầu làm tổng thống Hoa Kỳ, 19 người là đảng viên Cộng hòa và 16 là đảng viên Dân chủ. Mặc dù đảng tăng cường đa số ở Thượng viện sau cuộc bầu cử năm 2018, đa số Hạ viện lại rơi vào tay của Đảng Dân chủ. Năm 2021, Joe Biden đắc cử tổng thống và Thượng viện cũng do Đảng Dân chủ kiểm soát. Khái yếu Là thế lực chính đảng đại diện các giá trị tôn giáo tín ngưỡng và tâm linh truyền thống và chủ nghĩa bảo thủ và Kitô giáo,chủ nghĩa dân tộc (300 vạn nhân theo "Liên hiệp Ki Tô giáo" và đặc biệt ủng hộ phái phúc âm). Trên mặt trận ngoại giao, Đảng muốn bảo vệ an ninh quốc gia và các liên minh mạnh mẽ. Các chính sách cơ bản là ưu tiên lợi ích quốc gia và không tin tưởng Liên hợp quốc (LHQ). Đối với việc nội chính, Đảng này thường có một số chính sách như phản đối phá thaiBu-rô Rai, tồn tại hệ thống tử hình]], nhấn mạnh vào chế độ gia tộc truyền thống(phản đối hôn nhân đồng giới, phản đối Quyền LGBT, phản đối di dân bất hợp pháp, phản đối kiểm soát súng đạn,...v.v. Đây là chính đảng có tư tưởng bảo thủ truyền thống đặc trưng. Dấu hiệu biểu tượng là một con voi。 Lịch sử Được thành lập tại Ripon, Wisconsin trong năm 1854 bởi các nhà hoạt động chống chế độ nô lệ và những người muốn hiện đại hóa, Đảng Cộng hòa đã nhanh chóng vượt qua Đảng Whig làm đảng chính đối lập Đảng Dân chủ. Đảng này nắm quyền đầu tiên năm 1860 khi Abraham Lincoln, một cựu đảng viên của Đảng Whig, được bầu làm tổng thống và cầm quyền trong giai đoạn Nội chiến và Thời kỳ tái thiết. Đảng đã bắt đầu thành lập vào cuối thập niên 1840, nhưng mãi đến việc chống đối Đạo luật Kansas-Nebraska thì đảng mới thống nhất. Đại hội đảng chính thức đầu tiên diễn ra vào ngày 6 tháng 7 năm 1854 tại Jackson, Michigan. Địa điểm hoạt động ban đầu của đảng là tại vùng Đông Bắc và Trung Tây, và nó dần dần củng cố vị trí là đảng thứ hai khi đảng đề cử John C. Fremont trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1856. Tư tưởng ban đầu của Đảng Cộng hòa được thể hiện qua khẩu hiệu free labor, free land, free men ("lao động tự do, đất đai miễn phí, con người tự do"). "Free labor" ("lao động tự do") chỉ đến niềm tin vào tầng lớp trung lưu đã rời tầng lớp lao động để tạo ra các doanh nghiệp nhỏ. "Free land" ("đất đai miễn phí") chỉ đến các nỗ lực làm thuận tiện các doanh nghiệp này bằng cách phân phát đất đai nhà nước cho người dân. Đảng Cộng hòa mong muốn rằng sự phát triển này sẽ ngăn chận lại, và cuối cùng bãi bỏ chế độ nô lệ. Abraham Lincoln nhận được đề cử của Đảng Cộng hòa trong năm 1860 và sau đó thắng cử tổng thống. Đảng vẫn tham gia trong Liên bang miền Bắc trong thời kỳ Nội chiến và đã quản lý Thời kỳ Tái thiết. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1864, phần đông các đảng viên Cộng hòa đã thống nhất với các đảng viên Dân chủ ủng hộ cuộc chiến để đề cử Lincoln dưới phiếu của Đảng Liên hiệp Quốc gia. Một phần của các đảng viên Cộng hòa Cấp tiến đã rời khỏi đảng để thành lập Đảng Dân chủ Cấp tiến. Nhóm này chọn John C. Frémont làm ứng cử viên tổng thống trước khi đồng ý rút lui ra khỏi cuộc bầu cử vào tháng 9 năm 1864. Sự thành công của Đảng Cộng hòa đã tạo ra nhiều bè phái trong đảng trong thập niên 1870. Những người lo ngại với Ulysses S. Grant đã đề cử Horace Greeley làm tổng thống chống đối ông. Phe Stalwarts ủng hộ hệ thống bổng lộc; nhóm Half-Breeds kêu gọi cải tổ ngành dân chính. Nói chung Đảng Cộng hòa ủng hộ tầng lớp thương gia, bảng vị vàng, thuế quan cao, lương hưu cao cho các cựu quân nhân miền Bắc, và việc sáp nhập Hawaii. Các đảng viên Cộng hòa cũng ủng hộ những nhà hoạt động Tin Lành đòi cấm bán rượu. Với nền kinh tế miền Bắc sau chiến tranh phát triển mạnh với ngành công nghiệp nặng và nhẹ, xe lửa, mỏ, thành phố tăng trưởng nhanh và nền nông nghiệp giàu có, Đảng Cộng hòa hưởng công trạng và đảy mạnh các chính sách giữ vững tăng trưởng nhanh. Nhưng đến năm 1890, Đảng Cộng hòa đã đồng ý thông qua Đạo luật Chống độc quyền Sherman và Ủy ban Thương mại Liên bang sau khi bị các doanh nhân và nông dân phàn nàn. Thuế quan McKinley trong năm 1890 đã làm tổn hại đảng và đảng Dân chủ đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử giữa kỳ. Sau hai nhiệm kỳ của tổng thống Dân chủ Grover Cleveland, sự kiện William McKinley thắng cử cuộc bầu cử năm 1896, được xem là sự nổi dậy lại của Đảng Cộng hòa. McKinley hứa hẹn thuế quan cao để chấm dứt sự gian khổ do Khủng hoảng năm 1893 gây ra, và rằng Đảng Cộng hòa sẽ bảo đảm một hệ thống mà tất cả mọi nhóm sẽ có lợi. Đảng Cộng hòa củng cố địa vị đảng của doanh nghiệp, tuy được dịu bớt sau khi Theodore Roosevelt đưa ra các chính sách chống độc quyền. Sau này Roosevelt tranh cử dưới đảng Cấp tiến và vận động chống lại William Howard Taft, người kế nhiệm ông. Đảng Cộng hòa giữ chức tổng thống trong thập niên 1920, dưới cương lĩnh chống lại Hội Quốc Liên, thuế quan cao, và ủng hộ các quyền lợi của doanh nghiệp. Warren G. Harding, Calvin Coolidge và Herbert Hoover lần lượt được bầu cử làm tổng thống trong năm 1920, 1924, vav 1928. Vụ bê bối Teapot Dome đe dọa làm tổn hại đảng nhưng Harding qua đời và Coolidge đổ lỗi vào Harding, và các chống đối bị chia phối vào năm 1924. Các chính sách ủng hộ của doanh nghiệp trong thập niên dường như đã tạo ra một sự giàu có chưa từng thấy cho tới khi Phố Wall bị sụp đổ vào năm 1929, bắt đầu cuộc Đại Khủng hoảng. Liên minh New Deal của tổng thống Dân chủ Franklin D. Roosevelt thống trị chính trị Mỹ trong ba thập niên kế tiếp, trừ hai nhiệm kỳ của tổng thống Cộng hòa Dwight D. Eisenhower. Người Mỹ gốc Phi bắt đầu ủng hộ Đảng Dân chủ trong thời Roosevelt. Sau khi Roosevelt nhậm chức vào năm 1933, các đạo luật New Deal được nhanh chóng thông qua. Trong cuộc bầu cử giữa kỳ năm 1934, 10 thượng nghị sĩ cộng hòa bị thất cử, đưa đến một Thượng viện với 25 nghị sĩ Cộng hòa và 71 nghị sĩ Dân chủ. Hạ viện cũng bị chia tương tự. "New Deal thứ nhì" bị các dân biểu và nghị sĩ Cộng hòa chỉ trích nặng, họ ví nó với chiến tranh giai cấp và chủ nghĩa xã hội. Các đảng viên Dân chủ bảo thủ, chủ yếu là từ miền Nam, liên minh với các đảng viên Cộng hòa dưới sự lãnh đạo của Robert Taft để tạo một liên hiệp bảo thủ, và thống trị các vấn đề quốc nội cho đến năm 1964. Trong hậu phần thế kỷ 20, các tổng thống Cộng hòa Dwight D. Eisenhower, Richard Nixon, Gerald Ford, Ronald Reagan, George H. W. Bush, George W. Bush, và Donald Trump thắng cử. Đảng Cộng hòa, dưới sự lãnh đạo của dân biểu phụ trách phe thiểu số Newt Gingrich, vận động dưới cương lĩnh Contract with America, giành được đa số ghế trong cả hai viện trong Quốc hội trong cuộc Cách mạng Cộng hòa năm 1994. Đảng Cộng hòa giành vị trí đa số cho đến khi Đảng Dân chủ giành lại vị trí đa số vào cuộc bầu cử giữa kỳ năm 2006. Trong thế kỷ 21, Đảng Cộng hòa có cương lĩnh bảo thủ xã hội, chính sách ngoại giao chiến tranh ngăn chận để đánh bại chủ nghĩa khủng bố và xúc tiến dân chủ toàn cầu, một ngành hành pháp mạnh hơn, giảm thuế, quyền sở hữu súng và bớt quy định trong công nghiệp. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2008, các ứng cử viên của đảng là thượng nghị sĩ John McCain từ Arizona, cho chức vụ tổng thống và Thống đốc Alaska Sarah Palin cho chức vụ phó tổng thống. Họ bị thượng nghị sĩ Barack Obama và thượng nghị sĩ Joe Biden đánh bại. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2012, các ứng cử viên của đảng là cựu Thống đốc bang Massachusetts Mitt Romney cho chức vụ tổng thống và dân biểu Hạ viện Hoa Kỳ Paul Ryan từ Wisconsin cho chức vụ phó tổng thống. Họ bị đương kim Tổng thống Barack Obama và đương kim Phó tổng thống Joe Biden đánh bại. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2016, các ứng cử viên của đảng là tỷ phú bất động sản Donald Trump từ New York cho chức vụ tổng thống và Thống đốc của bang Indiana Mike Pence cho chức vụ phó tổng thống. Họ đã đánh bại cựu ngoại trưởng Hillary Clinton và thượng nghị sĩ Tim Kaine từ Virginia để dành chiến thắng sít sao một cách bất ngờ, gây rúng động toàn thế giới. Tổng thống Đảng Cộng hoà Danh sách liên danh ứng cử viên tổng thống Đoàn thể chi viện Hiện tại Khu vực có nhiều người theo Ki Tô giáo(Bible Belt) Người theo Chủ nghĩa nguyên lý Thiên Chúa giáo Phái giáo hữu Ki Tô Phái phúc âm Ti-pa-ti Hiệp hội súng trường quốc gia Tổ hợp quân sự - công nghiệp Quân nhu công nghiệp Người theo chủ nghĩa tân tự do Người theo chủ nghĩa tự do cá nhân Hiệp hội Cựu chiến binh Công nghiệp dầu mỏ Công nghiệp ô tô Một phần tập đoàn E-ri-tô (tinh hoa) Những người bảo thủ Nam Bộ Một số người da trắng ở Nam Bộ và Trung Tây Bộ Một phần đáng kể fan của nhạc đồng quê Tầng lớp lao động Thế hệ bùng nổ dân số Quá khứ Giai cấp tư sản Đông Bắc Bộ Nhà quản lý công nghiệp và nhà máyBắc Bộ Người theo chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch Phái đạo đức đa số (Mo-ra May-cho-ri-ti) Phái phản đối nô lệ chế Nông dân Tây Bộ Đảng viên Cộng hoà và khuynh hướng tuyển cử Như đã đề cập trước đó, đảng viên Cộng hoà chủ yếu là người da trắng đến từ Nam Bộ, Trung Tây Bộ, nhưng cũng gồm một bộ phận nhan chủng khác (như Condoleezza Rice, Michael Stephen Steele, Bobby Jindal). Mặt khác, những đảng viên đảng dân chủ như Jimmy Carter và Bill Clinton, lần lượt là các thống đốc của các bang Nam Bộ: Georgia và Arkansas - nơi mà đảng Cộng hoà chiếm ưu thế Phần lớn diễn viên Hollywood và người Do Thái, ước tính khoảng 60% giám đốc điều hành tại các công ty điện ảnh lớn của Hollywood và những người Do Thái thành đạt ủng hộ Đảng Dân chủ, biến ngành công nghiệp điện ảnh thành một thành trì của đảng Dân chủ, "Tứ nhân bang Cộng hoà ở Hollywood là Clint Eastwood, Charlton Heston, Michael J. Fox, Arnold Schwarzenegger." Ngoài ra còn một số nhân vật nổi tiếng khác trong làng giải trí Hoa Kỳ cũng là thành viên Đảng Cộng Hòa như Vince McMahon, Dwayne Johnson. Chú thích Đảng bảo thủ Đảng phái chính trị Hoa Kỳ Đảng Cộng hòa Khởi đầu năm 1854 ở Hoa Kỳ Thời kỳ tái thiết
Ứng Hòa là một huyện ngoại thành nằm ở phía nam thành phố Hà Nội, Việt Nam. Địa lý Huyện Ứng Hoà nằm ở phía nam thủ đô Hà Nội, có địa giới hành chính: Phía bắc giáp huyện Chương Mỹ và huyện Thanh Oai Phía nam giáp huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam Phía tây giáp huyện Mỹ Đức với ranh giới là Sông Đáy Phía đông giáp huyện Phú Xuyên và thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Dân số năm 2017 là 204.800 người. 2,2% dân số theo đạo Thiên Chúa. Lịch sử và tên gọi Huyện Ứng Hòa nguyên là phủ Ứng Thiên đời nhà Lê thuộc trấn Sơn Nam. Năm Gia Long thứ 13 (năm 1814) phủ Ứng Thiên đổi tên là phủ Ứng Hòa. Năm Minh Mạng thứ 12 (năm 1831), khi tỉnh Hà Nội được thành lập, Ứng Hòa là một trong bốn phủ của tỉnh Hà Nội. Phủ Ứng Hòa gồm các huyện Sơn Minh sau đổi thành Sơn Lãng, Chương Đức (sau đổi thành Chương Mỹ), Thanh Oai và Hoài An. Năm 1888, khi tỉnh Hà Đông được thành lập, phủ Ứng Hòa thuộc tỉnh Hà Đông. Năm 1891, thành lập phủ Mỹ Đức thuộc tỉnh Hà Đông, bao gồm huyện Yên Đức, Chương Mỹ và Sơn Lãng. Sau Cách mạng tháng Tám thành công, huyện Sơn Lãng đổi tên là huyện Ứng Hòa, huyện Yên Đức đổi tên là huyện Mỹ Đức. Ngày 21 tháng 4 năm 1965, tỉnh Hà Tây được thành lập theo Nghị quyết của ủy ban Thường vụ Quốc hội, trên cơ sở hợp nhất hai tỉnh Sơn Tây và Hà Đông. Theo đó, huyện Ứng Hòa thuộc tỉnh Hà Tây gồm thị trấn Vân Đình và 29 xã là Cao Thành, Đại Cường, Đại Hùng, Đội Bình, Đông Lỗ, Đồng Tiến, Đồng Tân, Hòa Lâm, Hòa Nam, Hòa Phú, Hoa Sơn, Hòa Xá, Hồng Quang, Kim Đường, Liên Bạt, Lưu Hoàng, Minh Đức, Phù Lưu, Phương Tú, Quảng Phú Cầu, Sơn Công, Tân Phương, Tảo Dương Văn, Trầm Lộng, Trung Tú, Trường Thịnh, Vạn Thái, Viên An, Viên Nội. Ngày 27 tháng 12 năm 1975, kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa 5 thông qua Nghị quyết hợp nhất hai tỉnh Hà Tây và Hòa Bình thành tỉnh Hà Sơn Bình. Theo đó, huyện Ứng Hòa thuộc tỉnh Hà Sơn Bình. Ngày 12 tháng 8 năm 1991, kỳ họp thứ chín Quốc hội khóa 8 thông qua Nghị quyết chia tỉnh Hà Sơn Bình thành hai tỉnh Hòa Bình và Hà Tây. Theo đó, huyện Ứng Hòa thuộc tỉnh Hà Tây. Ngày 23 tháng 9 năm 2003, Chính phủ ra Nghị định số 107/2003/NĐ-CP điều chỉnh địa giới hành chính mở rộng thị trấn Vân Đình thuộc huyện Ứng Hòa. Theo đó, sáp nhập toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của xã Tân Phương và một phần diện tích và dân số các xã Liên Bạt, Phương Tú, Vạn Thái vào thị trấn Vân Đình. Sau khi điều chỉnh, huyện Ứng Hòa gồm 29 đơn vị hành chính gồm thị trấn Vân Đình và 28 xã: Cao Thành, Đại Cường, Đại Hùng, Đội Bình, Đông Lỗ, Đồng Tiến, Đồng Tân, Hoa Sơn, Hòa Lâm, Hòa Nam, Hòa Phú, Hòa Xá, Hồng Quang, Kim Đường, Liên Bạt, Lưu Hoàng, Minh Đức, Phù Lưu, Phương Tú, Quảng Phú Cầu, Sơn Công, Tảo Dương Văn, Trầm Lộng, Trung Tú, Trường Thịnh, Vạn Thái, Viên An, Viên Nội. Từ ngày 1 tháng 8 năm 2008, giải thể tỉnh Hà Tây theo Nghị quyết của kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa 12 ngày 29 tháng 5 năm 2008. Theo đó, huyện Ứng Hòa thuộc thành phố Hà Nội. Hành chính Huyện Ứng Hòa có 29 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Vân Đình (huyện lỵ) và 28 xã: Cao Thành, Đại Cường, Đại Hùng, Đội Bình, Đông Lỗ, Đồng Tiến, Đồng Tân, Hoa Sơn, Hòa Lâm, Hòa Nam, Hòa Phú, Hòa Xá, Hồng Quang, Kim Đường, Liên Bạt, Lưu Hoàng, Minh Đức, Phù Lưu, Phương Tú, Quảng Phú Cầu, Sơn Công, Tảo Dương Văn, Trầm Lộng, Trung Tú, Trường Thịnh, Vạn Thái, Viên An, Viên Nội. Đặc điểm địa hình Nhìn chung, địa hình của Ứng Hòa tương đối bằng phẳng Sông Đáy là phân giới tự nhiên phía tây của huyện, đồng thời cũng là giao tuyến phân chia địa hình núi đá vôi với đồng bằng chiêm trũng. Hồng Quang thì có một thôn nằm trong vùng địa hình núi đá vôi. Ứng Hòa có hệ thống thủy lợi tương đối hoàn chỉnh tưới tiêu cho hầu hết diện tích sản xuất nông nghiệp của huyện. Nguồn nước được lấy từ hai con sông chảy qua huyện là sông Đáy và sông Nhuệ. Tuy nhiên, mấy năm gần đây 2 sông này đã bị ô nhiễm nguồn nước do các công trình công nghiệp thải trực tiếp ra sông, đặc biệt là sông Nhuệ. Giao thông,Du lịch và Tượng Đài lịch sử là tới cầu rục KTXH Bắc Nam từ Phúc Thọ nghề khảm trai Cao Xá Khu Cháy anh hùng vẫn còn lưu giữ những hiện vật của giai đoạn gian khổ đó. Thời tiết - Khí hậu Khí hậu: Có đủ 4 mùa là Xuân, Hạ (Hè), Thu, Đông. Lượng mưa trung bình hàng năm: 1.900 mm. Nhiệt độ trung bình: 23,3 °C, chênh lệch khá cao giữa các mùa (nhiệt độ trung bình tháng cao nhất là tháng 7 và thấp nhất là tháng 1 với biên độ dao động tới 13°C). Mùa hè lên tới 36-37 °C, mùa đông xuống tới 9-10 °C. Số giờ nắng trung bình năm: 1.600 giờ. Độ ẩm tương đối trung bình: 75-90%. Trường trung học phổ thông Ứng Hòa có 6 trường Trung học phổ thông là: Trường Trung học phổ thông Ứng Hòa A Trường Trung học phổ thông Ứng Hòa B Trường Trung học phổ thông Trần Đăng Ninh Trường Trung học phổ thông Lưu Hoàng Trường Trung học phổ thông Đại Cường Trường Trung học phổ thông dân lập Nguyễn Thượng Hiền. Trung tâm GDNN-GDTX huyện Ứng Hòa Danh nhân Nguyễn Thượng Hiền Nguyễn Thị Sen, Tứ phi Hoàng hậu nhà Đinh, được hậu thế suy tôn là bà tổ nghề may. Nguyễn Danh Thế - Đỗ Tiến sĩ năm 1595, từng giữ chức Tham Tụng (tương đương Thủ tướng Chính phủ ngày nay), Đã hai lân đi sứ sang Trung Quốc. Dương Khuê Dương Lâm Bùi Bằng Đoàn Trần Đăng Ninh Thượng tướng Hoàng Cầm, (1920-2013) Đỗ Quang Trung Dương Thiệu Tước Ngô Huy Cẩn Nguyễn Văn Lộc  sinh năm 1914 tại Ứng Hòa, Hà Tây cũ - mất năm 1979 tại Hà Nội là nhà cách mạng Việt Nam, Ủy viên Dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp, Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra của Chính phủ. Bùi Huy Bổng, sinh 1927, Thiếu tướng, nguyên Phó Trưởng đoàn Quân tình nguyện VN tại Lào. Ngô Bảo Châu Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều Tình hình kinh tế-xã hội Về kinh tế: Là huyện thuần nông, điểm xuất phát thấp, thời gian gần đây, huyện Ứng Hòa đã tập trung chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp kết hợp với khôi phục ngành nghề truyền thống và phát triển nghề mới, nên năm 2009 tổng giá trị sản xuất của huyện đạt 905,6 tỷ đồng, vượt 2,7% so với kế hoạch. Tốc độ tăng trưởng đạt 11,2%. Số hộ đói nghèo đã giảm được 1.152 hộ (giảm 2,63% so với năm 2008). Về nông nghiệp: Ứng Hòa đã tập trung chỉ đạo nhân rộng các mô hình nông nghiệp giá trị kinh tế cao nhằm phát huy tối đa hiệu quả giá trị sử dụng đất ở địa phương. Đẩy mạnh chương trình chuyển đổi cơ cấu vật nuôi, cây trồng, theo các mô hình chuyên canh, đa canh, nuôi thủy sản (lúa + cá + vịt). Hiện tại, tổng đàn gia súc, gia cầm của huyện duy trì khoảng gần 900.000 con. Đặc biệt, để thực hiện có hiệu quả chương trình phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa, huyện đã quy hoạch 12 điểm với 635ha diện tích trồng rau an toàn tập trung tại các xã ven sông Đáy. Cùng với chăn nuôi gia súc, gia cầm, một mũi nhọn khác của Ứng Hòa là nuôi trồng thủy sản. Năng suất thủy sản trung bình đạt từ 6,2-6,5 tấn cá/ha/năm; cho thu nhập từ 75-85 triệu đồng/ha/năm; cao gấp 2,5 đến 3 lần so với cấy lúa. Nhiều hộ đầu tư vốn lớn cho thu nhập lên tới 100-120 triệu đồng/ha/năm. Về công nghiệp: Năm 2009, giá trị sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp tăng 12,9% so với cùng kỳ năm 2008. Về thương mại-dịch vụ: Năm 2009, giá trị thương mại dịch vụ tăng 17,4% so với cùng kỳ năm 2008. Huyện đã huy động mọi nguồn vốn đầu tư để xây dựng và nâng cấp một số chợ xã. Phấn đấu năm 2010, đưa chợ đầu mối nông sản thuộc trung tâm thương mại thị trấn Vân Đình vào khai thác hoạt động kinh doanh đồng thời đa dạng hóa các loại hình dịch vụ. Về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng: Huyện đã triển khai 87 dự án đầu tư xây dựng cơ bản với tổng vốn trên 550 tỷ đồng. Đến nay đã có năm dự án hoàn thành. Hiện nay, 100% số thôn trong huyện đã có điện phục vụ sản xuất và sinh hoạt. 837,8 km đường giao thông khu vực huyện lỵ đã được trải nhựa, tạo điều kiện cho nhân dân giao lưu kinh tế, phát triển sản xuất và phục vụ đời sống. Dự án đường trục phía nam Hà Nội đi xuyên qua huyện tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế. Về làng nghề: Ứng Hòa có một số các làng nghề truyền thống như làng may Trạch Xá thuộc xã Hòa Lâm, làng bún Bặt thuộc xã Liên Bạt, làng đàn Đào Xá thuộc xã Đông Lỗ, làng nghề khảm trai Cao Xá thuộc xã Trung Tú. Về giáo dục: Toàn huyện có 15/29 trường đạt chuẩn quốc gia. Về y tế: Toàn huyện có 13/29 trạm y tế xã đạt chuẩn và có bác sĩ phục vụ, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Di tích và danh lam thắng cảnh Huyện Ứng Hòa có nhiều danh thắng nổi tiếng như Đền Bách Linh, Đình chùa Tử Dương, Đình Hoàng Xá, Đình Đông Lỗ, Đền Thái Bình, Đền Đức Thánh Cả, khu Cháy với Bảo tàng và Tượng đài lịch sử lưu giữ nhiều hiện vật của thời kháng chiến chống Pháp. Di tích lịch sử Điều đặc biệt ở Ứng Hòa là có nhiều di tích lịch sử văn hóa lâu đời và nổi bật hơn cả là hệ thống các di tích về thời Đinh, thờ Đinh Bộ Lĩnh và các vị tướng có công đánh dẹp loạn 12 sứ quân. Tiêu biểu như: Đình Trạch Xá và Đền Tổ nghề may ở xã Hòa Lâm thờ Tứ phi Hoàng hậu Nguyễn Thị Sen, là người có công phát triển truyền dạy nghề may trong cung đình Hoa Lư nên được hậu thế tôn vinh là Bà tổ nghề may. Đền Bách Linh ở xã Hòa Nam thờ Đinh Tiên Hoàng Đế cùng bài vị 99 vị thần của 2 huyện Mỹ Đức và Ứng Hòa. Đền Bách Linh có vai trò như một đền Hàng Tổng, có từ thời Đinh. Đền Phù Lưu ở xã Phù Lưu thờ Không Bảng đaị vương triều Đinh, có công giúp Vua Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp loạn 12 sứ quân. Đền Không Thần ở xã Lưu Hoàng thờ Cao Quang Vương, vị tướng nhà Đinh có công giúp Vua dẹp loạn 12 sứ quân, lập ra nhà nước Đại Cồ Việt. Thời 12 sứ quân, Một đồn binh của Đinh Bộ Lĩnh đã đóng tại Kẻ Hóp (Ngoại Hoàng). Sau khi tướng lĩnh hy sinh người dân làng Ngoại Hoàng đã thờ ông là Thành Hoàng làng. Đình Quảng Nguyên ở xã Quảng Phú Cầu thờ Đống Củ Đại vương, là tướng tài danh của Đinh Tiên Hoàng Đế. Đình Quảng Nguyên là di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng về giá trị lịch sử và kiến trúc nghệ thuật. Đình Thanh Dương ở xã Đồng Tiến, Ứng Hòa, Hà Nội thờ Vua Lê Đại Hành và các hoàng tử con vua có từ Thời Lý Đình Động Phí ở xã Phương Tú thờ Bạch Tượng, vị tướng tham gia dẹp loạn 12 sứ quân. Thần tích, thần phả ở đình làng Động Phí cho biết Đinh Điền, Nguyễn Bặc có về đây thu nạp lực lượng Bạch Tượng gồm 500 quân lính. Đình Ngọc Động ở xã Phương Tú Thờ Bạch Địa, tướng nhà Đinh tham gia dẹp loạn 12 sứ quân Đình Nguyễn Xá ở xã Phương Tú Thờ Đô Đài, tướng nhà Đinh tham gia dẹp loạn 12 sứ quân Đình Hòa Xá ở xã Hòa Xá thờ Nguyễn Đức Chính là vị tướng có công dẹp loạn 12 sứ quân, đã được Đinh Tiên Hoàng phong làm tả đạo Tướng quân. Đền Vân Đình ở thị trấn Vân Đình, Ứng Hòa Đình Thượng ở xã Vân Đình thờ người anh cả trong ba anh em trai người trang Vân Đình đã mộ binh theo Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. Làng Vân Đình hình thành từ thời Đinh, với tên gọi ban đầu là Kẻ Đinh, sau tránh họ Vua đổi san Kẻ Đình. Đình Nhì ở Vân Đình thờ người thứ hai trong ba anh em trai trang Vân Đình đã mộ binh theo Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. Đình Ba ở Vân Đình thờ người em út trong ba anh em trai trang Vân Đình, có tên hiệu Mộc Hoàn Cư Sĩ đã mộ binh theo Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. Đình Thanh Ấm ở Vân Đình thờ Minh Phúc Đại Vương đã đi theo Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. Quán Lục Sĩ ở Vân Đình thờ Minh Phúc Đại Vương và võ sư Trương Ma Ni theo Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp 12 sứ quân. Trương Ma Ni có con trai Trương Quán Sơn là phò mã nhà Đinh. Đền Thánh Cả ở xã Hồng Quang cho biết khi Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân đã đến làng Hữu Vĩnh hạ trại làm lễ cầu nguyện được Thần báo mộng âm phù giúp ông dẹp giặc. Sáng hôm sau, Vua chọn 12 thanh niên trai tráng của làng Hữu Vĩnh xung vào đội quân. Từ đó đánh đến đâu thắng đến đấy. Nhà vua sắc phong "Thượng đẳng thần" cùng mỹ tự. Ngày 11 tháng giêng hàng năm, nhà vua xa giá về đây hành lễ. Từ đó, ngày 10, 11, 12 tháng giêng trở thành ngày hội lớn của nhân dân địa phương. Kỳ lễ tế vua Đinh, tưởng niệm vua Đinh hiện nay được đân làng tổ chức tế lễ 1 ngày (đầu tháng 2). Đình Phí Trạch ở xã Phương Tú thờ sứ quân Ngô Xương Xí. Làng nghề Ứng Hòa cùng với nhiều huyện giáp ranh Hà Nội của Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hưng Yên,... là cái nôi của làng nghề. Các làng nghề truyền thống thủ công xưa và làng nghề mới trên mảnh đất trăm nghề này như: Làm đàn thôn Đào Xá (Đông Lỗ) Mây tre đan Đống Vũ (Trường Thịnh) Làm giày da thôn Thần (Minh Đức) Vịt quay, vịt cỏ đặc sản Vân Đình May áo dài Trạch Xá (Hòa Lâm) Giết mổ buôn bán thịt lợn Miêng Thượng (Hoa Sơn) Khảm trai Cao Xá (Trung Tú) Bông vải sợi Trung Thượng (Đại Hùng) Mây tre đan Trần Đăng (Hoa Sơn) Chẻ tăm hương, làm hương ở 2 thôn Phú Lương Hà và Phú Lương Thượng (Quảng Phú Cầu) Phế liệu, hương Xà Cầu (Quảng Phú Cầu) Mây tre đan cỏ guột Phí Trạch (Phương Tú) Nghề rèn thôn Vũ Ngoại (Liên Bạt) Nghề may màn ở Hòa Xá Nghề làm bún ở làng Bặt (Liên Bạt). Hạ tầng Các tuyến xe buýt đi qua và đi từ địa bàn huyện Ứng Hòa: 101A (Bến xe Giáp Bát - Vân Đình), 101B (Bến xe Giáp Bát - Đại Cường (Ứng Hòa)), 102 (Bến xe Yên Nghĩa - Vân Đình), 103A (Bến xe Mỹ Đình - Hương Sơn), 103B (Bến xe Mỹ Đình - Hồng Quang - Hương Sơn), 115 (Vân Đình - Xuân Mai), 125 (Bến xe Thường Tín - Tế Tiêu). Chú thích
Hạt nhân nguyên tử là cấu trúc vật chất đậm đặc chiếm khối lượng chủ yếu (gần như là toàn bộ) của nguyên tử. Về cơ bản, theo các hiểu biết hiện nay thì hạt nhân nguyên tử có kích thước nằm trong vùng giới hạn bởi bán kính cỡ 10−15 m, được cấu tạo từ hai thành phần sau: Proton: là loại hạt mang điện tích +1, có khối lượng bằng 1.67262158 × 10−27 kg (938.278 MeV/c²) và spin +1/2. Trong tiếng Hy Lạp, proton có nghĩa là "thứ nhất". Proton tự do có thời gian sống rất lớn, gần như là bền vĩnh viễn. Tuy nhiên quan điểm này vẫn còn một số hoài nghi trong vật lý hiện đại. Neutron: là loại hạt không mang điện tích, có khối lượng bằng 1.67492716 × 10−27 kg (939.571 MeV/c²) và spin +1/2, tức là lớn hơn khối lượng của proton chút ít. Neutron tự do có thời gian tồn tại cỡ 10 đến 15 phút và sau đó nhanh chóng phân rã thành một proton, một hạtđiện tử (electron) và một phản nơtrino. Lịch sử Được phát hiện vào năm 1911 bởi nhà khoa học đạt giải Nobel Hóa Học Ernest Rutherford bằng phương pháp thí nghiệm lá vàng Geiger–Marsden để thử nghiệm áp dụng plum pudding model của nhà khoa học J.J Thomson lên nguyên tử. Sử dụng góc chiếu xoay chiều của chùm tia hạt alpha (helium nuclei) rồi áp dụng trực tiếp lên một miếng kim loại dát mỏng. Sau khi tìm ra được neutron vào năm 1932, các mẫu hình của một hạt nhân nguyên tử (nucleus) được hình thành từ các proton và neutron được phát triển trong các công trình nghiên cứu của nhà khoa học Dmitri Ivanenko và nhà khoa học Werner Heisenberg. Trong phương trình, một nguyên tử là tổng hợp của các nucleus mang điện tích dương, với những đám mây electron mang điện tích âm che phủ xung quanh nó, chúng sẽ tương tác với nhau bằng lực tĩnh điện. Gần như khối lượng của nguyên tử đều ở trong nucleus, thêm một phần cộng hưởng nhỏ đến từ đám mây điện tích. Đường kính của một hạt nhân nguyên tử (nucleus) sẽ từ khoảng 1.70 fm (1.70×10−15 m) cho nguyên tố hydrogen (đường kính của một proton) cho đến 11.7 fm với nguyên tố uranium. Những kiểu mẫu hình học này sẽ nhỏ hơn đường kính thật của nguyên tử (tổng nucleus + mây electron) bởi hệ số là 26,634. Ví dụ: bán kính hạt nhân nguyên tử uranium là khoảng 156 pm (156×10−12 m) lên đến tầm 60,250 (bán kính Bohr của Hydrogen là khoảng 52,92 pm). Nghiên cứu về hạt nhân nguyên tử là một nhánh trong vật lý hạt nhân để lưu trữ và tìm hiểu thêm về cấu trúc và các lực kết nối tạo thành chúng. Tính từ nguyên Thuật ngữ nucleus - hạt nhân nguyên tử, có khởi nguồn từ tiếng Latin, là một cụm từ ghép nux (''nut'' = hạt) bên trong một dạng quả mọng (ví dụ như quả hồng). Vào năm 1844, Michael Faraday sử dụng thuật ngữ này để áp dụng cho ''điểm trung tâm của nguyên tử''. Mẫu hình nguyên tử hiện đại được khởi xướng bởi Ernest Rutherford vào năm 1912. Sự cộng hưởng của thuật ngữ ''nucleus'' trong thuyết nguyên tử vào thời điểm đấy vẫn chưa hoàn toàn phổ biến. Vào năm 1916, Gilbert N. Lewis đã soạn một quyển sách mang tên The Atom and the Molecule (Nguyên tử và Phân Tử), rằng ''Nguyên tử là tổng hợp của nhân điều hành (kernel) và phần bên ngoài của nguyên tử hoặc vỏ''. Thuật ngữ kern cũng được dùng để chỉ nucleus trong tiếng Hà Lan và tiếng Đức. Sự hình thành hạt nhân Hạt nhân nguyên tử (nucleus) của một nguyên tử được tích hợp từ neutron và proton. Mà ở đó, các neutron và proton được chuyển hóa từ các hạt siêu bé gọi là quark. Các hạt quark được kết nối loại với nhau bằng lực tương tác mạnh trong một tổng liên kết của Hadron, gọi là các Baryon. Lực hạt nhân mạnh lan tỏa trong không gian giữa các baryon để kết nối các neutron và các proton lại với nhau, tạo ra lực đối kháng giữa lực tĩnh điện âm với các proton mang điện tích dương. Lực hạt nhân mạnh thường có khoảng cách hoạt động ngắn và có chỉ số sẽ về 0 khi ở ngoài rìa của hạt nhân nguyên tử. Tính chất thu thập (khả năng lưu trữ) của các hạt nhân nguyên tử điện tích dương là giữ các hạt electron điện tích âm trong các quỹ đạo của hạt nhân. Tổng các hạt electron mang điện tích âm được lưu trữ đang xoay quanh hạt nhân nguyên tử sẽ tạo thành ái lực. Ái lực có mẫu hình nhất định và theo số lượng eletron xoáy xung quanh hạt nhân nguyên tử. Nguyên tố hóa học của một nguyên tử được hình thành từ việc xác định tổng số proton của hạt nhân nguyên tử; Nguyên tử trung tính (neutral atom) sẽ có số electron cân bằng xoay quanh hạt nhân nguyên tử. Các nguyên tố hóa học riêng biệt có thể tạo thành các mẫu hình electron bền hơn bằng cách cộng hưởng và chuyển giao các electron. Sự chuyển giao của các electron để tạo nên các quỹ đạo điện từ có tính bền xung quanh hạt nhân sẽ được hình thành lớn dần và chính là hình dạng các chất hóa học trong thế giới vĩ mô của chúng ta. Các Proton khẳng định điện tính của một hạt nhân nguyên tử, bao gồm cả tính chất hóa học của nó. Neutron là hạt không mang điện tích, nhưng đóng vai trò mang đến tổng thể khối cho hạt nhân nguyên tử gần bằng với các electron (và thay đổi theo sự tăng lên của chúng). Các neutron có thể được giải thích là sự dị biến của đồng vị (cùng chỉ số hạt nhân nhưng khác khối lượng của hạt nhân). Vai trò chính của các neutron là làm giảm lực đối kháng tĩnh điện (electrostatic repulsion) bên trong một nguyên tử hạt nhân. Tổng thể và hình dạng Proton và Neutron là các Fermion, với số lượng tử có giá trị Isopin mạnh khác nhau. Chỉ khi là các thể lượng tử không xác định, hai proton và hai neutron có thể chia sẻ cùng chuyển động sóng trong không gian. Nhưng, đôi khi, chúng được định dạng là hai thể lượng tử khác nhau trong cùng một hạt, gọi là nucleon. Hai Fermion, ví dụ như: hai proton; hoặc hai electron; hoặc 1 proton + 1 electron (gọi là deuteron), có thể hiển thị theo biểu hình hạt boson khi chúng tương tác với nhau theo cặp; xoay theo số nguyên. Trong trường hợp hiếm có, ví dụ như siêu hạt nhân nguyên tử (hypernucleus) có kết nối baryon thứ ba được gọi là hyperon, sở hữu một hoặc nhiều các hạt quark lạ (strange quark) hoặc/và các hạt quark biến dị khác, cũng có thể chia sẻ hoạt động bước sóng. Tuy nhiên, mẫu hạt nhân nguyên tử này vô cùng bất ổn và không thể tìm thấy trên Trái Đất mà chỉ có thể tìm thấy trong các thí nghiệm năng lượng vật lý cao cấp. Neutron có lõi cực dương với bán kính ≈ 0.3 fm được bao quanh bởi một hệ thống cân bằng (bù đắp) của cực âm có bán kính khoảng từ 0.3 fm và 2 fm. Proton mang điện tích dương có khả năng làm chia thể trong một khoảng nhất định theo cấp số nhân với bán kính bình phương trung bình là khoảng 0,8 fm. Nguyên tử có thể giống dạng cầu, dạng bóng bầu dục (chuyển dạng hình dài); dạng đĩa bay (chuyển dạng dẹt); dạng tinh chế triaxial (là sự kết hợp của dạng đĩa bay và dạng hình dài) hoặc dạng quả lê. Các lực Nguyên tử được gắn kết bằng những dư lực mạnh (lực hạt nhân), Những dư lực mạnh này chân không nhỏ của lực tương tác mạnh giúp làm cho các hạt quark liên kết với nhau tạo thành các proton và các neutron. Lực này có tính yếu hơn khi ở giữa các neutron và các proton bởi vì chúng gần như vô hiệu hóa khi trong vùng liên kết hạt nhân; Điều này có cùng tính chất tương tác giữa lực điện từ và các nguyên tử trung tính (giống như lực Van der Waals của hai nguyên tử khí trơ) sẽ có tính yếu hơn các lực điện từ dùng để liên kết toàn phần các nguyên tử (ví dụ: các lực giữ các electron trong một nguyên tử khí trơ sẽ gắn kết với hạt nhân của chúng). Lực hạt nhân có tính hấp dẫn cao trong các khoảng tách nucleon điển hình, và lực này tạo sức áp đảo lên lực đẩy của các proton do lực điện từ, do đó, hạt nhân được hình thành. Tuy nhiên, dư lực mạnh có một giới hạn về khoảng cách bởi vì tính phân rã nhanh trong chiều không gian (đọc thêm về định luật Yukawa). Do đó chỉ có những hạt nhân nhỏ hơn một dạng kích thước nhất định mới có thể hoàn toàn mang tính ổn định. Hạt nhân có tính chất hoàn toàn ổn định lớn nhất được biết đến (nghĩa là bền hơn so với phân rã alpha, beta và gamma) là chì-208 chứa tổng số 208 nucleon (126 neutron và 82 proton). Các hạt nhân lớn hơn mức tối đa này không ổn định và có xu hướng tồn tại trong thời gian nhất định với số lượng nucleon lớn hơn. Tuy nhiên, bismuth-209 cũng được tính là bền so với phân rã beta và có chu kỳ bán rã thành phân rã alpha dài nhất so với bất kỳ đồng vị nào đã biết, ước tính dài hơn một tỷ lần so với tuổi của vũ trụ. Dư lực mạnh có tác dụng trong một phạm vi rất ngắn (thường chỉ một vài femtometre (fm); khoảng một hoặc hai đường kính nucleon) và gây ra lực hấp dẫn giữa bất kỳ cặp nucleon nào. Ví dụ, giữa proton và neutron để tạo thành deuteron [NP], và cũng như giữa các proton và proton, và neutron và neutron. Hạt nhân phát xạ và giới hạn phạm vi lực hạt nhân Giới hạn hiệu dụng tuyệt đối trong phạm vi của lực hạt nhân (còn được gọi là dư lực mạnh) được biểu thị bằng các mẫu hình hạt nhân phát xạ (hào quang của hạt nhân). Ví dụ như: lithium-11 hoặc boron-14. Mà trong đó có các dineutron, hoặc các tập hợp neutron khác, quay quanh quỹ đạo ở khoảng cách khoảng 10 fm (gần giống với bán kính 8 fm của hạt nhân uranium-238). Các hạt nhân này không có mật độ cực đại. Các hạt nhân phát xạ hình thành ở các cạnh cực theo biểu đồ các nuclide — đường giải phóng hạt neutron và đường giải phóng hạt proton — và tất cả đều có tính không ổn định với chu kỳ bán rã ngắn, tính bằng mili giây; ví dụ, lithium-11 có chu kỳ bán rã 8,8 ms. Trên thực tế, các dạng phát xạ đại diện cho một trạng thái tăng xung động lên các nucleon bên trong một lớp vỏ lượng tử có mức năng lượng thấp (cả về bán kính và năng lượng). Phát xạ có thể được tạo bởi neutron [NN, NNN] hoặc proton [PP, PPP]. Các hạt nhân có một neutron phát xạ bao gồm 11Be và 19C. Một phát xạ của hai nơtron được biểu hiện bởi 6He, 11Li, 17B, 19B và 22C. Các hạt nhân phát xạ của hai neutron chia thể thành ba mảnh, không bao giờ là hai mảnh, và được gọi là hạt nhân Borromean bởi tính chất này (giải thích đến một hệ thống ba vòng lồng vào nhau, trong đó việc phá vỡ bất kỳ vòng nào sẽ giải phóng cả hai vòng còn lại). 8He và 14Be đều biểu hiện một phát xạ bốn neutron. Các hạt nhân có phát xạ proton bao gồm 8B và 26P. Một phát xạ của hai proton được thể hiện bởi 17Ne và 27S. Các quầng sáng proton được cho là hiếm và không ổn định hơn các ví dụ về neutron, vì lực điện từ đẩy của (các) proton dư. Mô hình hạt nhân Mặc dù mô hình chuẩn của vật lý được cho là miêu tả gần như hoàn hảo về thành phần và trạng thái của hạt nhân. Tuy nhiên, việc tạo ra các dự đoán từ lý thuyết khó hơn nhiều so với các lĩnh vực vật lý hạt khác. Điều này là do hai lý do: Về nguyên tắc, tính vật lý bên trong hạt nhân nguyên tử có thể bắt nguồn hoàn toàn từ sắc động lực học lượng tử (QCD). Tuy nhiên, trên thực tế, các phương pháp tính toán và toán học hiện tại để giải QCD trong các hệ thống năng lượng thấp như hạt nhân còn rất hạn chế. Điều này là do sự chuyển pha diễn ra giữa vật chất quark có năng lượng cao và vật chất hadronic có năng lượng thấp, khiến các kỹ thuật nhiễu loạn không thể sử dụng được và gây khó khăn cho việc xây dựng mô hình chính xác dựa trên QCD về lực giữa các nucleon. Các phương pháp tiếp cận hiện tại chỉ giới hạn ở các mô hình hiện tượng học như điện thế Argonne v18 hoặc thuyết nhiễu cấu trúc. Ngay cả khi lực hạt nhân bị hạn chế, cần phải có một lượng đáng kể các phép tính để tính toán chính xác các đặc tính khởi đầu của hạt nhân. Những phát triển trong lý thuyết đa vật thể có thể áp dụng thực hiện được đối với nhiều hạt nhân có khối lượng thấp và tương đối ổn định, nhưng cần có những cải tiến hơn nữa về các phép tính toán và phương pháp tiếp cận toán học trước khi có thể giải quyết được các hạt nhân nặng hoặc hạt nhân không ổn định cao. Trong lịch sử, các thí nghiệm được so sánh với các mô hình tương đối phổ thông thường có tính không hoàn hảo. Không có mô hình riêng lẻ nào trong số này có thể giải thích hoàn toàn dữ liệu thực nghiệm về cấu trúc hạt nhân. Bán kính hạt nhân (R) được coi là một trong những đại lượng cơ bản mà bất kỳ mô hình nào cũng phải dự đoán. Đối với các hạt nhân ổn định (không phải hạt nhân phát xạ hoặc các hạt nhân không ổn định khác), bán kính hạt nhân tỷ lệ thuận với gốc chiếu lập phương của số khối (A) của hạt nhân, và đặc biệt đối với các hạt nhân chứa nhiều nucleon, khi chúng thường có sắp xếp theo dạng hình cầu: Hạt nhân bền có khối lượng riêng xấp xỉ không đổi và do đó bán kính hạt nhân R có thể được tính gần đúng theo công thức bên phải: Khi A = tổng số khối của nguyên tử (số lượng của các proton Z, cộng thêm số lượng của các neutron N) và r0 = 1.25 fm = 1.25 × 10−15 m. Trong công thức cân bằng này, "hằng số'' r0 thay đổi 0,2 fm, tùy thuộc vào hạt nhân được đề cập, nhưng mức thay đổi này ít hơn 20% đến từ một hằng số. Nói cách khác, việc tổng hợp các proton và neutron trong hạt nhân cho kết quả tổng kích thước xấp xỉ bằng cách tổng hợp các hạt hình cầu có tính chất bền và sở hữu kích thước không đổi (có thể hình dung như viên bi) vào một dạng thể túi hình cầu chặt chẽ hoặc gần như hình cầu (một số hạt nhân ổn định không hoàn toàn hình cầu, nhưng đã biết là phỏng cầu) Mô hình cấu trúc hạt nhân bao gồm: Mô hình giọt nước. Các mô hình ban đầu về hạt nhân xem hạt nhân như một giọt chất lỏng có tính chất xoay chiều. Trong mô hình này, sự chuyển giao của lực điện từ tầm xa và lực hạt nhân tầm ngắn có tính tương đồng, sẽ cùng nhau tạo ra hiện tượng giống như lực căng bề mặt trong các giọt chất lỏng có kích thước khác nhau. Công thức này thành công trong việc giải thích nhiều hiện tượng quan trọng của hạt nhân, chẳng hạn như lượng năng lượng liên kết thay đổi của chúng khi kích thước và thành phần của chúng thay đổi (xem công thức khối lượng bán thực nghiệm), nhưng nó không giải thích được tính ổn định đặc biệt xảy ra khi hạt nhân có đặc điểm " số phép thuật ”của proton hoặc neutron. Công thức này thành công trong việc giải thích nhiều hiện tượng quan trọng của hạt nhân, chẳng hạn như lượng năng lượng liên kết thay đổi của chúng khi kích thước và thành phần của chúng thay đổi (xem công thức khối lượng bán thực nghiệm). Nhưng nó không giải thích được tính ổn định đặc biệt có thể xảy ra khi hạt nhân có các "số phép thuật" đặc biệt của proton hoặc neutron. Các thuật ngữ trong công thức khối lượng bán thực nghiệm, có thể được sử dụng để tính gần đúng năng lượng liên kết của nhiều hạt nhân, được coi là tổng của năm loại năng lượng (xem hình ảnh bên dưới). Dựa theo mẫu hình lý thuyết này, hình ảnh của một hạt nhân được diễn tả như một giọt chất lỏng không thu nhỏ được, gần như giải thích cho sự biến thiên của các thể trong nghiên cứu quan sát liên kết của năng lượng trong hạt nhân: Ứng dụng Năng lượng thể tích (volume energy) : Khi một tập hợp các nucleon có cùng kích thước được nén lại với nhau thành thể tích nhỏ nhất, thì bên trong mẫu hình này, một nucleon sẽ có các số nucleon khác tiếp xúc với nó. Vì vậy, năng lượng hạt nhân này tỷ lệ với khối lượng. Năng lượng bề mặt (surface energy) : Một nucleon ở bề mặt hạt nhân sẽ có tương tác với số lượng nucleon khác ít hơn so với một nucleon có vị trí ở bên trong hạt nhân. Do đó, liên kết năng lượng của nó nhỏ hơn. Thuật ngữ năng lượng bề mặt này được giải ThÍCH là mẫu âm và tỷ lệ với diện tích bề mặt. Năng lượng Coulomb (Coulomb Energy). Lực tĩnh điện giữa mỗi cặp proton trong hạt nhân góp phần làm giảm năng lượng liên kết của nó. Năng lượng không tương đồng (còn gọi là Năng lượng Pauli). Một năng lượng được định dạng hình ngôi sao theo nguyên lý loại trừ Pauli. Nếu không phải dạng năng lượng có thể áp dụng công thức Coulomb - khi dạng vật chất hạt nhân ổn định nhất sẽ có cùng số neutron với proton. Thì khi đó, số lượng neutron và proton không bằng nhau, có nghĩa là sẽ có dạng năng lượng kết nối ở kiểu hình lấp đầy các mức năng lượng cao hơn cho một loại hạt, trong khi đó, lại có mức năng lượng thấp hơn cho các loại hạt còn lại. Năng lượng ghép nối. Năng lượng là một thuật ngữ hiệu chỉnh phát sinh từ thiên hướng xuất hiện của các cặp proton và cặp neutron. Số hạt chẵn bền hơn số hạt lẻ. Mô hình shell và các mô hình lượng tử khác. đọc thêm : Mô hình vỏ nguyên tử. Một số mô hình cho hạt nhân cũng đã được đề xuất thêm vào, trong đó, có mô hình các nucleon sẽ vào các vị trí obitan (quỹ đạo xoay của một thể), giống như các quỹ đạo nguyên tử trong lý thuyết vật lý nguyên tử. Các mô hình sóng này giả lập hình ảnh của nucleon là các hạt siêu nhỏ có định dạng điểm trong các không gian xoáy thế năng, hoặc các sóng xác suất khác nhau (ví dụ như trong "mô hình quang học"), quay xung quanh khi có không ma sát ở tốc độ cao trong các không gian xoáy thế năng. Trong các mô hình trên, các nucleon có thể vào vị trí các obitan theo cặp, được gọi là các fermion, điều này cho phép giải thích các hiệu ứng Z và N chẵn / lẻ trong các thí nghiệm đã biết trước đây.
Lính Mỹ là người có quốc tịch Mỹ và thuộc biên chế của một trong 6 lực lượng Lục quân Hoa Kỳ, Không quân Hoa Kỳ, Hải quân Hoa Kỳ, Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ Tuần duyên Hoa Kỳ. và Lực lượng Không gian Hoa Kỳ Tên gọi khác của lính Mỹ là Yankee (phiên âm tiếng Việt: Y-ăng-ky) vốn bắt nguồn từ Chiến tranh cách mạng Mỹ Các cuộc chiến đã tham gia Chiến tranh Da Đỏ Cách mạng Mỹ Chiến tranh Hoa Kỳ-México Nội chiến Hoa Kỳ Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ Chiến tranh thế giới thứ nhất Chiến tranh thế giới thứ hai Chiến tranh Triều Tiên Chiến tranh Việt Nam Chiến tranh vùng Vịnh Chiến tranh Nam Tư Chiến tranh Iraq Chiến tranh Afghanistan (2001–nay) Chiến tranh chống khủng bố Đặc điểm lính Mỹ Lính Mỹ là những người tình nguyện gia nhập các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ, có nhiều người gốc Châu Phi và gốc Châu Á, được huấn luyện kỹ càng, kể cả những bài huấn luyện về trang bị kỹ năng sinh tồn và trang bị tốt. Họ thường có trình độ học vấn cao, sức khỏe tốt, có kỷ luật. Trong cuộc chiến không cân sức thể hiện sức chiến đấu vượt trội. Tuy nhiên, trong các cuộc chiến cân sức hoặc môi trường tác chiến gian khổ, họ vẫn có tinh thần chiến đấu tốt. Trận đánh tại Guadalcanal, Khe Sanh là minh chứng rõ ràng nhất; trong trận đánh tại Guadalcanal, khi lực lượng hải quân tiếp viện bị Hải quân Nhật chặn đánh ngoài khơi, các binh sĩ thuộc Sư đoàn thủy quân lục chiến số 1 đã rút vào rừng chiến đấu như du kích cầm chân lực lượng Nhật để chờ tiếp viện. Đặc biệt, thương vong của lính Mỹ thường xuyên bị các phương tiện truyền thông đại chúng Hoa Kỳ nghiêm trọng hóa, ví dụ trong Trận đánh Mogadishu, tổn thất 19 lính biệt kích và phi công đã bị truyền thông công kích dữ dội dẫn đến việc Tổng thống Bill Clinton rút toàn bộ lực lượng Mỹ khỏi Somalia Lính Mỹ còn được gọi là "lính Vua" vì được trang bị rất đầy đủ: vũ khí tối tân, áo giáp chống đạn, thiết bị nhìn đêm, mặt nạ phòng độc. Trước khi vào trận thì có máy bay ném bom và pháo binh dọn đường, ăn uống tốt, chỗ ở tốt, giải trí có rất nhiều hình thức, lương cao. Khi lính Mỹ chết trận thì người thân được chính phủ trợ cấp. Thi thể lính Mỹ không tìm thấy trong chiến tranh thì sau chiến tranh chính phủ Mỹ vẫn tiếp tục tìm kiếm đến cùng (Việt Nam là một ví dụ), điều này thể hiện tinh thần "No one gets left behind". Ở Việt Nam cũng đã có hiện tượng một số đối tượng vì lợi nhuận và đã xem việc tìm kiếm hài cốt lính Mỹ như một nghề làm ăn, họ rao bán hài cốt lính Mỹ như hàng hóa, có giá cả, mặc cả.
Con lắc Foucault, đặt tên theo nhà vật lý người Pháp Léon Foucault, là một thí nghiệm chứng tỏ rằng Trái Đất đang tự quay quanh trục của nó; và là một hệ quả của hiệu ứng Coriolis cho chuyển động trong hệ quy chiếu quay. Con lắc này được giới thiệu vào năm 1851 và là thí nghiệm đầu tiên đưa ra bằng chứng trực tiếp, đơn giản về sự quay của Trái Đất. Con lắc Foucault ngày nay là một mô hình phổ biến trong các bảo tàng khoa học và trường đại học. Lịch sử Vào năm 1851, nhà khoa học người Pháp Léon Foucault đã sử dụng một dây thép dài 68 m để treo một quả cầu sắt nặng 31 kg từ mái vòm của nhà thờ Panthéon và tác dụng một lực ban đầu, cho nó lắc đi lắc lại. Để đánh dấu quá trình chuyển động của quả cầu, ông đã cho gắn một kim nhọn vào quả cầu và cho vẽ một vòng tròn trên cát ẩm ở mặt đất phía dưới chuyển động của quả cầu. Quả cầu đã để lại những vệt của đường đi khác nhau sau mỗi chu kỳ chuyển động chậm chạp và quỹ đạo này đã chỉ ra rằng Trái Đất quay tròn xung quanh trục của nó. Tại đường vĩ độ đi qua thành phố Paris, đường chuyển động của con lắc đã thực hiện một vòng quay thuận chiều kim đồng hồ cứ sau 30 giờ. Tại Nam Bán Cầu, đường đi đó ngược chiều kim đồng hồ, và tại xích đạo, nó không quay tròn chút nào. Con lắc Foucault trên thế giới Có rất nhiều con lắc Foucault tại các trường đại học, bảo tàng khoa học và các nơi tương tự trên khắp thế giới. Trụ sở Liên Hợp Quốc tại thành phố New York có một; lớn nhất là tại Trung tâm Hội nghị Oregon: chiều dài của nó là khoảng . Tuy nhiên, đã từng có những con lắc dài hơn nhiều, chẳng hạn như con lắc trong Nhà thờ chính tòa Thánh Isaac, Sankt-Peterburg, Nga. Tại Nam Cực Thí nghiệm cũng đã được thực hiện tại Nam Cực, nơi người ta cho rằng sự tự quay của Trái Đất sẽ có hiệu quả tối đa tại Trạm Nam Cực Amundsen–Scott, trong một cầu thang sáu tầng của một nhà ga mới đang được xây dựng. Con lắc có chiều dài và quả lắc nặng . Vị trí rất lý tưởng: không có không khí chuyển động có thể làm xáo trộn con lắc và độ nhớt thấp của không khí lạnh làm giảm sức cản của không khí. Các nhà nghiên cứu xác nhận khoảng 24 giờ là chu kỳ đường đi của con lắc.
Thí nghiệm giọt dầu Millikan, thực hiện bởi nhà vật lý người Mỹ Robert Millikan khoảng năm 1909, được cho là một trong những thí nghiệm đầu tiên đo được điện tích của electron. Thí nghiệm này cùng với các cống hiến của Millikan trong nghiên cứu hiệu ứng quang điện đã mang lại một giải thưởng Nobel vật lý cho ông vào năm 1923. Lịch sử Năm 1897, nhà vật lý người Anh J. J. Thomson đã phát hiện ra một loại hạt tích điện, gọi là điện tử. Vào lúc đó nhiều tính chất của điện tử chưa được biết đến, bao gồm điện tích của nó. Năm 1909, Robert Millikan thực hiện thí nghiệm để đo điện tích điện tử. Millikan đã phun các giọt dầu vào một hộp trong suốt. Đáy và đỉnh hộp làm bằng kim loại được nối với nguồn điện một chiều với một đầu là âm (-) và một đầu là dương (+). Millikan quan sát từng giọt rơi một và cho áp dụng hiệu điện thế lớn giữa hai tấm kim loại rồi ghi chú lại tất cả những hiệu ứng. Ban đầu, giọt dầu không tích điện, nên nó rơi dưới tác dụng của trọng lực và dừng ở một vận tốc nhất định. Tuy nhiên sau đó, Millikan đã dùng một chùm tia Röntgen để ion hóa giọt dầu này, cấp cho nó một điện tích. Vì thế, giọt dầu này đã rơi nhanh hơn, vì ngoài trọng lực, nó còn chịu tác dụng của điện trường. Dựa vào khoảng thời gian chênh lệch khi hai giọt dầu rơi hết cùng một đoạn đường, Millikan đã tính ra điện tích của các hạt tích điện. Xem xét kết quả đo được, ông nhận thấy điện tích của các hạt luôn là số nguyên lần một điện tích nhỏ nhất, được cho là tương ứng với 1 electron, e = 1,63 × 10−19 coulomb. Năm 1917, Millikan lặp lại thí nghiệm trên với thay đổi nhỏ trong phương pháp, và đã tìm ra giá trị điện tích chính xác hơn là e = 1,59 × 10−19 coulomb. Những đo đạc hiện nay dựa trên nguyên lý của Millikan cho kết quả là e = 1,602 × 10−19 coulomb.
Thí nghiệm khe Young, được thực hiện lần đầu bởi Thomas Young vào khoảng năm 1805, là một thí nghiệm quang học chiếu ánh sáng qua hai khe hẹp và quan sát vân giao thoa trên màn ảnh nằm sau. Các vân giao thoa cho thấy ánh sáng lan truyền như các sóng, do đó thí nghiệm này đã chứng tỏ tính chất sóng của ánh sáng, củng cố lý thuyết sóng ánh sáng Huygens. Thí nghiệm khe Young cũng có thể được thực hiện với các chùm electron hay nguyên tử để cho thấy lưỡng tính sóng hạt của chúng, hay đơn giản là có thể quan sát với sóng nước. Lịch sử Trước khi thí nghiệm khe Young được thực hiện, tính chất sóng của ánh sáng mới chỉ được đưa ra như một giả thuyết, dù khá thành công trong việc giải thích hiện tượng khúc xạ, và là tâm điểm của cuộc tranh luận giữa hai trường phái: một bên dẫn đầu bởi Isaac Newton với lý thuyết hạt ánh sáng của mình và bên kia là Christiaan Huygens với lý thuyết sóng ánh sáng. Khoảng năm 1805, thầy thuốc và nhà vật lý người Anh Thomas Young đã thực hiện thí nghiệm của mình. Anh cắt một lỗ nhỏ trên một cửa sổ và bao phủ nó bởi một tấm bìa dày có một lỗ nhỏ ở đó và sử dụng một cái gương để làm lệch hướng chùm tia ánh sáng mảnh xuyên qua đó. Sau đó, anh dùng một thẻ nhỏ dày khoảng 1/13 inch, trên có hai khe nhỏ và đặt nó ở giữa chùm tia để chia chùm tia sáng thành hai luồng ánh sáng. Kết quả thu được trên tường là những vân giao thoa (các dải sáng và dải tối). Hiện tượng quan sát được chỉ có thể được giải thích nếu hai chùm tia sáng đó lan truyền như các sóng. Các dải sáng trên tường là nơi hai đỉnh sóng giao nhau, các dải tối là nơi một đỉnh sóng giao thoa với một bụng sóng. Thí nghiệm của Young đã khẳng định sự lan truyền của ánh sáng như những sóng. Vào năm 1924, nhà vật lý người Pháp Louis de Broglie đề xướng rằng electron và những hạt vật chất khác cũng có những thuộc tính sóng; ví dụ chúng có bước sóng liên hệ trực tiếp với động lượng qua công thức de Broglie. Các thí nghiệm kiểm tra tính chất sóng của electron đã được thực hiện bởi Clinton Joseph Davisson và Lester Halbert Germer ở Phòng thí nghiệm Bells. Họ đã lặp lại thí nghiệm khe Young, thay chùm ánh sáng bằng chùm tia electron, và cũng quan sát được các vân giao thoa của electron. Thời điểm diễn ra thí nghiệm này hiện chưa rõ. Theo ông Peter Rodger, biên tập viên khoa học của tạp chí Physics Today, thì lần đầu tiên ông đọc được một bài viết về thí nghiệm này là năm 1961, và tác giả là nhà vật lý Claus Joensson ở Đại học Tueblingen (Tây Đức). Tuy nhiên, có lẽ thí nghiệm trên đã được thực hiện trước đó.
Thí nghiệm Cavendish là thí nghiệm đầu tiên đo đạc chính xác hằng số hấp dẫn, dựa trên nguyên lý đo lực hấp dẫn giữa hai vật mang khối lượng. Lịch sử Định luật vạn vật hấp dẫn đã được Isaac Newton tìm ra năm 1687. Vào thời điểm đó, hằng số hấp dẫn trong công thức tính lực hấp dẫn vẫn chưa được đo đạc chính xác. Thí nghiệm xác định hằng số hấp dẫn dựa trên đo lực hấp dẫn giữa các vật thể trong phòng thí nghiệm ban đầu được đề xuất bởi John Michell, người đã chế tạo lò xo xoắn để đo mômen lực nhỏ một cách chính xác nhưng đã mất năm 1793 trước khi kịp thực hiện thí nghiệm của mình. Lò xo xoắn sau đó được chuyển giao cho Francis John Hyde Wollaston, rồi đến tay Henry Cavendish. Khoảng năm 1797 đến 1798, Cavendish thực hiện lại dự định thí nghiệm của Michell, và ghi chép lại kết quả trong quyển Philosophical Transactions năm 1798. Ông xây dựng lại lò xo xoắn, sử dụng thiết bị thuê của người dân nông thôn. Ông gắn hai viên bi kim loại vào hai đầu của một thanh gỗ dài 1,8 mét, rồi dùng một sợi dây mảnh treo cả hệ thống lên, giữ cho thanh gỗ nằm ngang. Sau đó, Cavendish đã dùng hai quả cầu bằng chì, mỗi quả nặng 159 kg, tịnh tiến lại gần hai viên bi ở hai đầu thanh gỗ. Để tránh bị gió thổi gây ra rung động, Cavendish đặt hệ thống trong buồng kín gió, và quan sát hệ thống thông qua kính viễn vọng. Lực hấp dẫn do hai quả cầu chì tác dụng vào hai viên bi làm cho cây gậy quay một góc nhỏ. Cavendish đo góc này bằng kính viễn vọng và tính ra được mômen lực tác động lên lò xo xoắn, và suy tiếp ra hằng số hấp dẫn nhờ vào các khối lượng đã biết. Biết được hằng số hấp dẫn và gia tốc trọng trường trên bề mặt Trái Đất, Cavendish đã tính ra được khối lượng của Trái Đất là 6 × 1024 kg. Kết quả này đã mang lại tên gọi khác cho thí nghiệm là thí nghiệm cân Trái Đất. Việc đo được khối lượng Trái Đất cũng cho phép suy ra khối lượng Mặt Trăng và các thiên thể khác trong Hệ Mặt Trời, thông qua các định luật cơ học và định luật vạn vật hấp dẫn. Liên hệ giữa G và khối lượng Trái Đất Xem hình vẽ và bảng bên dưới về chú thích cho mỗi ký hiệu. Phương pháp sau đây không phải là phương pháp mà Cavendish đã sử dụng, nhưng nó chỉ ra cách nhà vật lý hiện đại tính các đại lượng từ kết quả của ông. Từ định luật Hooke đối với lò xo xoắn, mô men lực của lò xo xoắn tỷ lệ với góc lệch θ của cái cân. Mô men lực bằng κθ với κ là hệ số xoắn của sợi dây. Tuy nhiên, mô men lực cũng bằng tích của lực hút giữa hai quả cầu và khoảng cách đến sợi dây treo. Mỗi quả cầu chịu một lực F ở khoảng cách tính từ trục cân xoắn, mô men lực bằng LF. Lấy hai vế bằng nhau cho công thức tính mô men xoắn thu được: Với F là lực hấp dẫn của Newton giữa hai quả cầu: Thay thế F vào phương trình thứ nhất ở trên Để tìm hệ số xoắn (κ) của sợi dây, Cavendish đo chu kỳ dao động cộng hưởng T của cân xoắn: Giả sử khối lượng của thanh nối giữa hai quả cầu là nhỏ và bỏ qua được, mômen quán tính của cái cân chính là của hai quả cầu gộp lại: , và vì vậy: Tìm được κ thay vào (1), và sắp xếp lại cho G, kết quả là: Khi đã tìm được G, lực hút của một vật tại bề mặt Trái Đất có thể áp dụng để tính ra khối lượng của Trái Đất và khối lượng riêng của nó:
Thí nghiệm Rutherford, hay thí nghiệm Geiger-Marsden, là một thí nghiệm thực hiện bởi Hans Geiger và Ernest Marsden năm 1909 dưới sự chỉ đạo của nhà vật lý người New Zealand Ernest Rutherford, và được giải thích bởi Rutherford vào năm 1911, khi họ bắn phá các hạt tích điện dương nằm trong nhân các nguyên tử (ngày nay gọi là hạt nhân nguyên tử) của lá vàng mỏng bằng cách sử dụng tia alpha. Thí nghiệm đã cho thấy các hạt nhân nguyên tử nằm tập trung trong một không gian rất nhỏ bé (cỡ femtomét), so với kích thước của nguyên tử (cỡ Ångström), lật đổ giả thuyết trước đó về nguyên tử của J. J. Thomson (mô hình mứt mận cho nguyên tử). Thí nghiệm cũng cho thấy hiện tượng tán xạ Rutherford, sự tán xạ của các hạt alpha trên các hạt nhân nguyên tử. Hiện tượng này còn được gọi là tán xạ Coulomb do lực tương tác là lực Coulomb. Tán xạ này ngày nay được ứng dụng trong kỹ thuật nghiên cứu vật liệu gọi là tán xạ ngược Rutherford. Kiểu tán xạ này cũng được thực hiện vào những năm 1960 để khám phá bên trong hạt nhân. Lịch sử Trước năm 1911, nguyên tử được cho là có cấu trúc gồm các hạt tích điện dương đan xen với các electron, tạo thành một hỗn hợp tương tự như thành phần của "mứt mận". Năm 1909, Hans Geiger và Ernest Marsden tiến hành thí nghiệm theo sự chỉ đạo của Rutherford tại Đại học Manchester. Họ chiếu dòng hạt alpha vào các lá vàng mỏng và đo số hạt alpha bị phản xạ, truyền qua và tán xạ. Họ khám phá ra một phần nhỏ các hạt alpha đã phản hồi lại. Nếu cấu trúc nguyên tử có dạng như mô hình "mứt mận" thì sự phản hồi xảy ra rất yếu, do nguyên tử là môi trường trộn lẫn giữa điện tích âm (của điện tử) và điện tích dương (của proton), trung hòa điện tích và gần như không có lực tĩnh điện giữa nguyên tử và các hạt alpha. Nói một cách hình tượng do không có lực tương tác đáng kể, mô hình "mứt mận" như tấm nệm mềm đối với các hạt alpha. Năm 1911, Rutherford giải thích kết quả thí nghiệm với giả thiết rằng nguyên tử chứa một hạt nhân mang điện tích dương nhỏ bé trong lõi, với những điện tử mang điện tích âm khác chuyển động xung quanh nó trên những quỹ đạo khác nhau, ở giữa là những khoảng không. Khi đó, hạt alpha khi nằm bên ngoài nguyên tử không chịu lực Coulomb, nhưng khi đến gần hạt nhân mang điện dương trong lõi thì bị đẩy do hạt nhân và hạt alpha đều tích điện dương. Do lực Coulomb tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng cách nên hạt nhân cần có kích thước nhỏ để đạt lực đẩy lớn tại các khoảng cách nhỏ giữa hạt alpha và hạt nhân. Nói một cách hình tượng, mô hình hạt nhân lõi nhỏ là lá chắn cứng đối với các hạt alpha. Rutherford đã mô tả lại kết quả này một cách đầy hình tượng: Điều này giống như khi bắn súng vào một tờ giấy và thấy vài viên đạn bay ngược trở lại. Về sau sự tán xạ tương tự như của các hạt alpha trên các hạt nhân được gọi là tán xạ Rutherford. Từ kết quả này, Rutherford đã đề xuất mẫu hành tinh nguyên tử để mô tả các nguyên tử. Mô hình này sau đó bị thay thế bởi mô hình nguyên tử Bohr vào năm 1913. Phương pháp thí nghiệm Geiger và Marsden dùng một ống chứa khí radi brom (RaBr2) phóng xạ ra các hạt alpha và chiếu dòng hạt alpha vào các lá kim loại khác nhau. Họ quan sát các hạt alpha truyền qua, phản xạ và tán xạ bằng cách đặt hệ thống trong buồng tối, bao bọc bởi các màn huỳnh quang làm từ hợp chất kẽm và lưu huỳnh (ZnS) và dùng kính hiển vi đếm số lần các chớp sáng sinh ra do các hạt alpha va vào màn tại các vị trí tương ứng với các góc tán xạ khác nhau. Việc đếm các hạt alpha diễn ra trong nhiều giờ để có thể tích lũy được con số thống kê có ý nghĩa. Họ đã dùng các lá kim loại khác nhau, từ nhôm, sắt, vàng đến chì, với độ dày thay đổi bằng cách xếp nhiều lá mỏng lên nhau thành lá dày hơn. Kết quả đáng chú ý nhất xảy ra với lá vàng dày 60 nanomét (tức là bề dày khoảng 200 nguyên tử vàng), khi đó chừng một trong 8000 hạt bị tán xạ ngược lại với góc tán xạ lớn hơn 90 độ. Quan sát này không thể giải thích được bằng mô hình mứt mận cho nguyên tử; mà chỉ có thể giải thích được với giả thuyết một hạt nhân mang điện tích dương nhỏ nằm trong nguyên tử. Chi tiết tính toán Xét va chạm thẳng hàng giữa hạt alpha và hạt nhân, theo định luật bảo toàn năng lượng, toàn bộ động năng () của hạt alpha khi nó cách xa hạt nhân sẽ chuyển hóa hết thành thế năng trong trường lực Coulomb khi hạt alpha đi tới điểm gần hạt nhân nhất (lúc đó vận tốc bằng không do đổi chiều chuyển động 180 độ). Khoảng cách giữa hạt alpha và hạt nhân lúc đó là b, có thể coi là giới hạn trên của bán kính hạt nhân (bán kính hạt nhân không thể lớn hơn). Như vậy: Suy ra: Với: m (khối lượng hạt alpha) = 6,7×10−27 kg q1 (điện tích hạt alpha) = 2×(1,6×10−19) C q2 (điện tích hạt nhân vàng) = 79×(1,6×10−19) C v (tốc độ ban đầu của hạt alpha) = 2×107 m/s Dẫn đến giá trị b = 2,7×10−14 m (giá trị chính xác của bán kính hạt nhân cỡ 7,3×10−15 m hay 7,3 femtômét), nhỏ hơn nhiều so với kích thước nguyên tử (cỡ Ångström).
Chống thoái thác (tiếng Anh: non-repudiation) là khái niệm nhằm đảm bảo một hợp đồng, đặc biệt là cái đã được thỏa thuận và đồng ý trên Internet, sau này không thể bị các bên tham gia từ chối được. Trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay, khi việc thỏa thuận mặt đối mặt là những việc thường không thể thực hiện được, việc chống thoái thác trở thành hết sức quan trọng đối với thương mại. Đối với an ninh điện tử, việc chống thoái thác còn có nghĩa là nó sẽ giúp việc xác minh rằng người gửi và người nhận, trên thực tế, là những bên đã từng công bố là họ đã gửi hoặc đã nhận thông điệp. Nói một cách khác, việc chống thoái thác nguồn gốc chứng minh rằng dữ liệu đã được gửi từ nguồn gốc đó, và việc chống thoái thác của sự phân phát chứng minh rằng thông điệp đã được nhận bởi bên nhận. Những phương pháp cổ trưyền như việc dùng triện hoặc dùng chữ ký đều là những phương pháp dễ bị giả mạo. Những giao dịch điện tử còn có khả năng bị gian lận, chẳng hạn như khi các hệ thống máy tính bị người ta đột nhập và tiêm nhiễm các Trojan horse hay các virus. Những người tham gia trong giao dịch có thể dựa vào những việc gian lận ở trên mà thoái thác một giao dịch.
Sơn trung vấn đáp (Hỏi đáp trong núi) của Lý Bạch viết theo thể tuyệt cú lối cổ, vượt ra khỏi niêm luật, mang khẩu khí của một trích tiên đạt đạo. Bài thơ này của Thi Tiên thường được so sánh, liên tưởng với Tống biệt của Thi Ma Cật Vương Duy. Bình Tự cổ chí kim, một cõi trời đất khác trong chốn nhân gian luôn luôn là niềm ao ước của con người- đặc biệt trong thơ Đường, khi mà nhà thơ thường mộng giấc mộng đăng cao cùng lữ thứ. Lánh chốn thị phi, vào ẩn trong núi biếc thường được xem như một chi tiết trở về, thung dung, thanh nhàn. Sơn trung vấn đáp tuy có hỏi, có trả lời nhưng xem ra đấy chỉ là một cái cớ để thi nhân bày tỏ. Tiếu nhi bất đáp vì khác với Vương Duy bởi quân ngôn bất đắc ý mà về nằm núi Chung Nam, trích tiên chỉ cười mà không đáp để thêm một vô ngôn trong Đường thi. Vì biết còn nói thế nào cho hết chỗ khoáng đạt ở trong lòng! Cũng như trời đất bạt ngàn kia, hoa đào cứ theo nước mà trôi, theo mùa mà nở, theo gió lại tàn; thân (ta) tuy là sống nơi chốn thâm sơn cùng cốc nhưng có chỗ nào không là chốn đất trời, không là chỗ tâm tự do mà bước tới. Sống được một chốn phi nhân gian mà vẫn trong trời đất này thì cười mà chẳng đáp cũng đã thành trường khiếu nhất thanh hàn thái hư rồi, cần gì dụng tâm mà phân biệt đâu là Phật, đâu là Tiên nữa!
Thanh Chương là một huyện trung du, miền núi nằm ở phía tây nam tỉnh Nghệ An, Việt Nam. Địa lý Huyện Thanh Chương nằm ở phía tây nam của tỉnh Nghệ An, có vị trí địa lý: Phía đông giáp huyện Đô Lương và huyện Nam Đàn Phía tây giáp nước bạn Lào với đường biên giới dài khoảng 53 km Phía nam giáp huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh Phía bắc giáp huyện Anh Sơn. Thanh Chương được UNESCO công nhận là một trong các huyện thuộc Khu dự trữ sinh quyển Thế giới vào tháng 9/2017 (Khu dự trữ sinh quyển miền Tây Nghệ An). Sông Lam chảy xuyên huyện Thanh Chương, dãy Trường Sơn ở phía Tây Nam làm biên giới tự nhiên với Lào, Cửa khẩu Thanh Thủy cách thành phố Viêng Chăn 435 km. Trung tâm của huyện là Thị trấn Dùng (hay còn gọi là thị trấn Thanh Chương). Huyện lỵ cách thành phố Vinh 45 km. Khí hậu, thổ nhưỡng Thanh Chương chịu ảnh hưởng trực tiếp của gió mùa Đông Bắc vào mùa đông, gió phơn Tây Nam (gió Lào) vào mùa hè. Mùa đông mưa rét mỗi khi có không khí lạnh tràn về, nhiệt độ trung bình dao động từ 13 - 18 độ C. Mùa hè nóng nhất từ tháng 4 đến tháng 7 có khi lên đến 40 - 41 độ C. Vào mùa thu, nơi đây cũng chịu ảnh hưởng của nhiều cơn bão nhiệt đới gây thiệt hại lớn cho người dân. Thanh Chương có 7 nhóm đất (xếp theo thứ tự từ nhiều đến ít): Nhiều nhất là loại đất pheralít đỏ vàng đồi núi thấp rồi đến đất pheralít đỏ vàng vùng đồi, đất phù sa, đất pheralít xói mòn trơ sỏi đá, đất pheralít mùn vàng trên núi, đất lúa vùng đồi núi và đất nâu vàng phát triển trên phù sa cổ và lũ tích. Nhìn chung đất đai cằn cỗi, nhiều sỏi đá. Chỉ một vài vùng đất có thẻ trồng cây công nghiệp (chè, tiêu) ở các xã Hạnh Lâm, Thanh Hà, Thanh Thủy... Núi Giăng Màn cao 1.026m trên biên giới Việt - Lào là đỉnh núi cao nhất huyện. Dân số Số dân Thanh Chương năm 1930 có 64.074 người. Năm 2000 có 228.603 người, đến năm 2019 là 240.808 người. Tốc độ tăng trưởng dân số đã bị chậm lại kể từ dầu thế kỷ XXI bởi làn sóng di cư kinh tế đến Bình Dương, Đồng Nai, Hà Nội, Sài Gòn. Đa số là người Kinh, một số rất ít người dân tộc như Thái, Mông, Đan Lai. Kinh tế Thanh Chương là huyện nghèo, thuần túy về nông lâm nghiệp với các sản phẩm chủ lực là gạo, ngô, khoai, sắn, cam và chè. Công nghiệp không thực sự phát triển với một số nhà máy như Nhà máy Sắn Thanh Ngọc, Nhà máy Gạch Ngói Rào Gang. Gần đây huyện phát triển du lịch với trọng điểm là khu đảo chè Thanh Chương. Lịch sử Thanh Chương thời nguyên thủy thuộc nước Việt Thường. Năm 111 TCN (thời thuộc Hán) vùng đất này nằm trong huyện Hàm Hoan, quận Cửu Chân. Từ năm 602 (thời thuộc Tuỳ), nằm trong huyện Cửu Đức, quận Nhật Nam. Khởi nghĩa Mai Thúc Loan (713-722) thì nơi đây là địa bàn hoạt động chủ yếu của nghĩa quân. Thời Nhà Ngô (939-965), Thanh Chương là thủ phủ Châu Hoan, nơi đặt dinh trấn thủ của quan thứ sử Đinh Công Trứ. Thời thuộc nhà Minh đô hộ (1406-1428), Thanh Chương là đất huyện Thổ Du phủ Nghệ An. Thời nhà Lê (1428-1786) huyện được gọi là Thanh Giang, sau đổi thành Thanh Chương (Năm 1729, do húy tên chúa Trịnh Giang). Trong danh sách phủ huyện thời Hồng Đức (1479-1497) được chép trong Thiên Nam dư hạ tập vẫn còn chép là Thanh Giang. Năm 1490 (năm Hồng Đức thứ 21), Thanh Chương là một huyện thuộc phủ Đức Quang (cùng với Hương Sơn, La Sơn, Thiên Lộc, Nghi Xuân, Chân Phúc), xứ Nghệ An. Năm 1826 (năm Minh Mạng thứ 7), huyện Thanh Chương tách khỏi phủ Đức Quang nhập vào phủ Anh Sơn. Năm 1831 (năm Minh Mạng thứ 12), trấn Nghệ An tách thành 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Huyện Thanh Chương thuộc phủ Anh Sơn, tỉnh Nghệ An. Năm 1919, nhà Nguyễn và Pháp bỏ cấp phủ, huyện Thanh Chương trực thuộc tỉnh Nghệ An. Các tổng cũ được phân chia thành 12 xã. Đầu năm 1954, theo chủ trương phân chia lại cấp xã của Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên Khu IV thì huyện Thanh Chương trên cơ sở 12 xã cũ đã chia thành 41 xã mới. Năm 1969, theo quyết định số 159 - NV của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, huyện Thanh Chương đã hình thành nên một số xã mới. Năm 1984, thành lập thị trấn Thanh Chương, thị trấn huyện lỵ huyện Thanh Chương. Ngày 1 tháng 1 năm 2020, sáp nhập 3 xã Thanh Tường, Thanh Văn và Thanh Hưng thành xã Đại Đồng. Hiện nay huyện Thanh Chương có 1 thị trấn và 37 xã. Văn hiến Thanh Chương ngày nay nặng về văn hóa họ tộc, với nhiều dòng họ nổi tiếng như Nguyễn Sỹ, Nguyễn Tài, Nguyễn Cảnh... Ảnh hưởng của nho giáo vẫn mạnh với vùng đất này. Huyện này là một trong những vùng đất truyền thống của Đảng Cộng sản Việt Nam, trung tâm hoạt động của chính quyền xô viết giai đoạn 1930-1931. Hầu hết chùa chiền miếu mạo đã bị phá hủy trong sự kiện Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930-1931) và Cải cách ruộng đất (1953-1956). Hiện còn một số nhà thờ Kitô giáo thuộc Giáo phận Vinh (có 3 xứ, 17 họ chiếm khoảng 3,7% dân số toàn huyện) ở Thanh Đồng, Thanh Phong,... Trong quyển Nghệ An ký Đốc học Bùi Dương Lịch có ghi rằng: "Thanh Chương phong tục địa phương khoáng đạt, cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp; kẻ sĩ chăm chỉ đèn sách, trau dồi lễ nghĩa; dân làm nghề nông thì đàn ông chăm lo mùa vụ, đàn bà thì giữ gìn chính chuyên, hiền thục. Mọi người đều rất coi trọng lễ làng, phép nước, chuộng sự cần kiệm và đều coi trọng việc báo đáp công ơn đối với nhà vua cũng như cha mẹ là niềm vui". Thời phong kiến có: Các danh thần: Nguyễn Cảnh Chân, Đinh Bô Cương, Nguyễn Cảnh Huy, Nguyễn Cảnh Kiên, Nguyễn Cảnh Hà, Nguyễn Cảnh Quế, Chu Tất Thắng, Nguyễn Tiến Tài, Phạm Kinh Vĩ, Trần Hưng Nhượng, Nguyễn Lâm Thái... Các danh tướng: Nguyễn Cảnh Dị, Chu Phụng Trực, Chu Phụng Huệ, Nguyễn Cảnh Hoan, Phan Đà, Trần Hưng Học,... Các danh sĩ: Chu Dy Hiến, Nguyễn Đình Cổn, Đinh Nhật Thận, Phan Sĩ Thục, Hồ Sĩ Tạo... Các chí sĩ: Đặng Nguyên Cẩn, Đặng Thúc Hứa, Nguyễn Hữu Điển; Trần Tấn,... Thời hiện đại có: Các nhà hoạt động cách mạng: Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Sĩ Sách, Tôn Thị Quế. Các vị lãnh đạo chính quyền: Phó thủ tướng Nguyễn Côn; Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Võ Thúc Đồng; Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Trần Văn Hằng; Ủy viên Bộ chính trị ĐCSVN Nguyễn Xuân Thắng; Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội Phan Trung Lý; Tổng Kiểm toán Nhà nước Trần Sĩ Thanh. Các nhà trí thức nổi bật: GS Đặng Thai Mai; GS VS Nguyễn Duy Quý; GS Trần Đình Hượu; GS BS Hoàng Đình Cầu; GS NGND Nguyễn Tài Cẩn; GS TS Nguyễn Nghĩa Thìn; TS Nguyễn Sĩ Dũng. PCT UBND tỉnh Nghệ An Lê Ngọc Hoa. Các nghệ sĩ: Nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ; NSƯT Đinh Thìn; NSND Hồng Lựu. Các nhà Kho học: Kỹ sư Võ Quý Huân. Các tướng lĩnh: Trung tướng Nguyễn Đệ (Ba Trung) nguyên Tư lệnh QK9; Trung tướng Đặng Xuân Loan; Thiếu tướng Lê Nam Thắng - nguyên tư lệnh QK4; Thiếu tướng GS, TS Nguyễn Phùng Hồng; Thiếu tướng Nguyễn Cảnh Hiền Phó tư lệnh Bộ đội biên phòng; Thiếu tướng Nguyễn Trọng Nhưỡng; Thiếu tướng Lê Đình Đệ; Thiếu tướng Nguyễn Đình Minh; Thiếu tướng Nguyễn Thủ Thanh; Thiếu tướng Nguyễn Thế Công; Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Độ; Thiếu tướng Đậu Đình Toàn; Thiếu tướng Nguyễn Hùng Lĩnh; Thiếu tướng Trần Minh Đạo; Thiếu tướng Nguyễn Sĩ Hội; Trung tướng Trần Võ Dũng; Thiếu tướng Lê Văn Minh Tư lệnh vùng 4 Cảnh sát Biển... Các vị đỗ đại khoa thời phong kiến 1488: Chu Tất Thắng 1530: Chu Quang Trứ 1546: Nguyễn Ngọc Dật 1546: Phan Nhân Tường - Thanh Hà 1546: Trần Đăng Dũng - Đồng Văn 1555: Chu Dy Hiến 1664: Nguyễn Sĩ Giáo - Thanh Mai 1664: Nguyễn Tiến Tài - Thanh Tùng 1676: Nguyễn Đình Cổn - Thanh Giang 1715: Nguyễn Phùng Thời - Xuân Tường 1724: Phạm Kinh Vĩ - Thanh Tùng 1733: Nguyễn Bá Quýnh - Ngọc Sơn 1739: Nguyễn Lâm Thái - Thanh Tùng 1775: Nguyễn Thế Bình - Cát Văn 1838: Đinh Nhật Thận - Thanh Tiên 1844: Nguyễn Sỹ Ấn - Thanh Lương 1848: Lê Đình Thức - Thanh Lĩnh 1848: Bùi Sỹ Tuyển - Thanh Hà 1849: Phan Sĩ Thục - Võ Liệt 1851: Phan Đình Thực - Võ Liệt 1853: Nguyễn Hữu Điển - Thanh Văn 1877: Nguyễn Tài Tuyển - Thanh Văn 1895: Đặng Nguyên Cẩn - Thanh Xuân 1913: Phan Sỹ Bàng - Võ Liệt Các vị đỗ đạt, làm quan thời phong kiến: 1780 -.1851: Quan Hàn lâm viện Tu soạn Lê Ngọc Nhuận, Đồng Văn. Lễ hội truyền thống Lễ hội chính: Đền Bạch Mã, xã Võ Liệt, tổ chức từ ngày 09 đến 10 tháng 2 âm lịch hàng năm. Di tích lịch sử Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia Đền Bạch Mã - xã Võ Liệt Đền Hữu, thờ Thái phó, Tấn quốc công Nguyễn Cảnh Hoan Đình Võ Liệt Nhà thờ và mộ Tiến sĩ Nguyễn Tiến Tài Nền tế cờ và nhà thờ họ Trần Tấn - xã Thanh Chi Nhà thờ họ Nguyễn Sỹ, Nhà thờ Nguyễn Sỹ Sách Nhà thờ họ Nguyễn Duy Nhà thờ và mộ Quận công Trần Hưng Học, Trần Hưng Nhượng Nhà thờ và lăng mộ Phúc Khánh Quận công Nguyễn Cảnh Huy Di tích lịch sử, văn hóa cấp tỉnh gồm Nhà thờ họ Trần Võ ở xã Thanh Đồng Khu mộ tổ họ Nguyễn Cảnh ở xã Ngọc Sơn Đền thờ và mộ Phan Nhân Tường Nhà thờ họ Đặng và nhà lưu niệm Đặng Thai Mai Nhà thờ họ Nguyễn Duy Nhà thờ Đại tôn họ Nguyễn Trọng tại Thanh Phong Nhà thờ Nguyễn Hữu Điển Nhà thờ và lăng mộ Nguyễn Thế Bình ở xã Cát Văn Nhà thờ Phạm Kinh Vỹ Nhà thờ họ Lê Kim ở xã Ngọc Sơn Đình Làng Thượng Nhà thờ họ Tôn - xã Võ Liệt Đền Hai Hầu và nhà thờ họ Nguyễn Phùng Nhà thờ họ Nguyễn Lâm Thái - xã Thanh Tùng Đền Bà Chúa Nhà thờ Phan Sỹ Thục Nhà thờ họ Nguyễn (chi trung tôn) Khu mộ tổ và nhà thờ họ Chu Đền thờ quận công Đậu Bá Toàn - xã Thanh Khê Nhà thờ Đại tôn họ Nguyễn Như - tại Thôn Đại Định, Xã Thanh Văn Đình làng Văn Thánh - tại Thôn Đại Định, xã Thanh Văn. Phủ thờ Đàng Cao xã Thanh Văn thờ Cường Quận công Nguyễn Cảnh Vạn Nhà thờ họ Trần đại tôn tại xã Thanh Phong. Đền Gia Ban xã Thanh Hòa Đền Đậu Xã Thanh Hà Nhà thờ Họ Đậu Trung tôn, xã Thanh Mai Nhà thờ họ Nguyễn Văn, xã Phong Thịnh Phủ Hòa Quân, xã Thanh Hương Danh lam thắng cảnh: Đảo Chè - xã Thanh An và Thanh Thịnh. Thác Mưa - xã Ngọc Lâm Thác Cối - xã Thanh Hà Thanh Chương với âm nhạc Các ca khúc nổi tiếng về Thanh Chương: "Thanh Chương mời bạn về thăm" Sáng tác: Phan Thanh Chương; "Nhớ lắm quê mình ơi" Sáng tác: Hồ Hữu Thới; "Trở lại Thanh Chương" Sáng tác: Trần Hoàn; "Thanh Chương mến thương" Sáng tác: An Thuyên; "Lời ru tháng Chín" Sáng tác: Tân Huyền; "Tình Quê" Nhạc và Lời: Thái Hà; "Khúc hát sông quê" Thơ: Lê Huy Mậu, nhạc: Nguyễn Trọng Tạo; "Mơ quê" Sáng tác: Nguyễn Tài Tuệ; "Ngọt ngào Thanh Chương" Sáng tác: Nguyễn Như Khôi; "Đêm xuân Thanh Mai" Thơ: Trần Duy Ngoãn, nhạc: Ngô Quốc Tính; "Về Thanh Chương" Sáng tác: Lê Văn Hoan; "Nghĩa tình Thanh Chương" - Nhạc: Lê Xuân Hòa - Thơ: Nguyễn Đình Trường "Về đi anh" - Nhạc Lê Xuân Hòa - Thơ Mai Hoa Hành chính Năm 1919, chính quyền thực dân phong kiến bỏ cấp phủ, huyện Thanh Chương trực thuộc tỉnh Nghệ An. Các tổng cũ được phân chia thành 12 xã cụ thể như sau: Tổng Cát Ngạn chia làm 3 xã: Cát Văn, Minh Sơn, Tam Đồng. Tổng Võ Liệt: Đồng Thanh, Vịnh Thọ, Kim Bảng. Tổng Bích Triều: Tân Dân, Xuân Triều. Tổng Đại Đồng: Đại Đồng, Đồng Văn. Tổng Xuân Lâm: Minh Tiến, Mai Lâm. Đầu năm 1954, theo chủ trương phân chia lại cấp xã của UBKCHC Liên Khu IV thì huyện Thanh Chương trên cơ sở 12 xã cũ đã chia thành 41 xã mới như sau: Xã Cát Văn chia thành 3 xã: Thanh Cát, Thanh Bài và Thanh Bình. Xã Minh Sơn chia thành 4 xã là: Thanh Đức, Thanh Mỹ, Thanh Nho và Thanh Hòa. Xã Tam Đồng chia thành 3 xã là: Thanh Tiên, Thanh Liên và ThaThanhnh Chung. Xã Đồng Thanh chia thành 2 xã: Thanh Hương và Thanh Lĩnh. Xã Vĩnh Thọ chia thành 4 xã: Thanh Thịnh, Thanh An, Thanh Chi, Thanh Khê. Xã Kim Bảng chia thành 4 xã: Thanh Minh, Thanh Tân, Thanh Long, Thanh Hà. Xã Thanh Dân chia thành 4 xã: Thanh Giang, Thanh Mai, Thanh Tùng và Thanh Bích. Xã Xuân Triều chia thành 2 xã: Thanh Xuân và Thanh Lâm. Xã Đại Đồng chia thành 5 xã: Thanh Hưng, Thanh Văn, Thanh Tường, Thanh Đồng và Thanh Phong Xã Đồng Văn chia làm 3 xã: Thanh Ngọc, Thanh Luân, Thanh Tài. Xã Mai Lâm chia làm 3 xã: Thanh Lam (Lam Sơn – Lam Hồng – Lam Thắng), Thanh Nam, Thanh Trường. Xã Minh Tiến chia làm 4 xã là: Thanh Dương, Thanh Lương, Thanh Yên và Thanh Khai. Ngày 15 tháng 4 năm 1967, theo quyết định số 140/NV của Bộ trưởng bộ Nội vụ: Giải thể Thanh Bích sáp nhập vào hai xã Thanh Giang (thôn Bích Lam và xóm Thanh Lam) và xã Thanh Lâm (thôn Bích Sơn và HTX Bích Hào). Chia xã Thanh Đức thành hai xã mới là Thanh Đức và Hạnh Lâm. Lập thêm 2 xã mới là xã Thanh Thủy và Thanh Lạc (hai xã mới này do phong trào khai hoang mà có). Ngày 24 tháng 3 năm 1969, theo quyết định số 159 - NV của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, huyện Thanh Chương đã hình thành nên một số xã mới do hợp nhất từ xã cũ như sau: Xã Bình Dương (Thanh Hưng và Thanh Văn hợp thành). Xã Ngọc Sơn (Thanh Lam nhập với Thanh Nam). Xã Đồng Văn (Thanh Luân nhập với Thanh Tài). Xã Xuân Tường (Thanh Trường nhập với Thanh Dương). Xã Phong Thịnh (Thanh Bình nhập với Thanh Chung). Xã Thanh Mỹ (Thanh Mỹ nhập với Thanh Lạc). Xã Thọ Lâm (Thanh Thịnh nhập với Thanh An). Xã Quảng Xã (Thanh Long nhập với Thanh Hà). Xã La Mạc (Thanh Nho nhập với Thanh Hòa). Xã Thanh Quả (Thanh Chi nhập với Thanh Khê). Xã Võ Liệt (Thanh Minh nhập với Thanh Tân). Xã Hạnh Lâm (Thanh Đức nhập với Hạnh Lâm). Ngày 21 tháng 4 năm 1969, Bộ Nội vụ ra quyết định số 201/NV của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, huyện Thanh Chương tiếp tục hình thành nên một số xã mới do hợp nhất từ xã cũ như sau: Hợp nhất hai xã Thanh Mai và Thanh Giang lấy tên là xã Thanh Giang. Hợp nhất 2 xã Thanh Tường và Thanh Đồng lấy tên là xã Tường Đồng. Hợp nhất 2 xã Thanh Cát và Thanh Bài lấy tên là xã Cát Văn. Đến đầu năm 1971, các xã Bình Dương, Tường Đồng, Thọ Lâm... được tách ra thành các xã như cũ. Từ năm 1976 đến năm 1991, huyện Thanh Chương thuộc tỉnh Nghệ Tĩnh, gồm 36 xã: Cát Văn, Đồng Văn, Hạnh Lâm, Ngọc Sơn, Phong Thịnh, Thanh An, Thanh Chi, Thanh Đồng, Thanh Dương, Thanh Giang, Thanh Hà, Thanh Hòa, Thanh Hưng, Thanh Hương, Thanh Khai, Thanh Khê, Thanh Lâm, Thanh Liên, Thanh Lĩnh, Thanh Long, Thanh Lương, Thanh Mai, Thanh Mỹ, Thanh Ngọc, Thanh Nho, Thanh Phong, Thanh Thịnh, Thanh Thủy, Thanh Tiên, Thanh Tùng, Thanh Tường, Thanh Văn, Thanh Xuân, Thanh Yên, Võ Liệt, Xuân Tường. Ngày 27 tháng 10 năm 1984, thành lập thị trấn Thanh Chương, thị trấn huyện lỵ huyện Thanh Chương trên cơ sở 64 ha đất của xã Đồng Văn; 92 ha đất của xã Thanh Ngọc và 124 ha đất của xã Thanh Đồng. Từ 1991 đến nay, huyện Thanh Chương thuộc tỉnh Nghệ An. Ngày 10 tháng 4 năm 2002, thành lập xã Thanh Đức trên cơ sở 17.000,76 ha diện tích tự nhiên và 4.870 nhân khẩu của xã Hạnh Lâm. Ngày 9 tháng 2 năm 2009, điều chỉnh một phần dân số của huyện Tương Dương về các khu tái định cư thuộc huyện Thanh Chương (dân cư của các xã giải thể để xây dựng hồ thủy điện Bản Vẽ), đồng thời: Thành lập xã Thanh Sơn trên cơ sở điều chỉnh 6.739,46 ha diện tích tự nhiên của xã Hạnh Lâm và 647,63 ha diện tích tự nhiên của xã Thanh Mỹ thuộc huyện Thanh Chương; 3.650 người của xã Kim Đa và 1.598 người của xã Hữu Dương (các xã vừa giải thể) thuộc huyện Tương Dương chuyển sang Thành lập xã Ngọc Lâm trên cơ sở điều chỉnh 5.269,79 ha diện tích tự nhiên của xã Thanh Hương, 3.652,85 ha diện tích tự nhiên của xã Thanh Thịnh thuộc huyện Thanh Chương; 2.725 người của xã Kim Tiến, 1.585 nhân khẩu của xã Luân Mai, 1.073 người của xã Hữu Dương (các xã vừa giải thể) và 1.435 người của xã Hữu Khuông thuộc huyện Tương Dương chuyển sang. Ngày 1 tháng 1 năm 2020, sáp nhập 3 xã Thanh Tường, Thanh Văn và Thanh Hưng thành xã Đại Đồng. Huyện Thanh Chương có 1 thị trấn và 37 xã như hiện nay: Thị trấn Thanh Chương (huyện lỵ), Cát Văn, Đại Đồng, Đồng Văn, Hạnh Lâm, Ngọc Lâm, Ngọc Sơn, Phong Thịnh, Thanh An, Thanh Chi, Thanh Đồng, Thanh Đức, Thanh Dương, Thanh Giang, Thanh Hà, Thanh Hòa, Thanh Hương, Thanh Khai, Thanh Khê, Thanh Lâm, Thanh Liên, Thanh Lĩnh, Thanh Long, Thanh Lương, Thanh Mai, Thanh Mỹ, Thanh Ngọc, Thanh Nho, Thanh Phong, Thanh Sơn, Thanh Thịnh, Thanh Thủy, Thanh Tiên, Thanh Tùng, Thanh Xuân, Thanh Yên, Võ Liệt, Xuân Tường. Đặc sản Thanh Chương có nhiều đặc sản nổi tiếng, đặc sản nơi đây gắn liền với những người nông dân với việc trồng rừng, làm ruộng, chăn nuôi,... Nhắc đến Thanh Chương nhắc đến câu thành ngữ "Nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn". Nhút Thanh Chương nổi tiếng nức lòng người Thanh Chương và ấm lòng người Xứ Nghệ có hai loại: Nhút là gì? nói chính xác là nhút mít Thanh Chương, Nhút Thanh Chương làm từ quả mít; loại ngon nhất là nhút làm từ xơ của quả mít chín, trong đó ngon nhất là quả mít bở (mít ướt) hoặc mít dai (mít mật), loại này hiếm, nhà nào trồng nhiều mít mới được thưởng thức thường xuyên, loại này không thấy bán trên thị trường, loại này xào ngon, nấu canh ngon, vắt chấm ngon, nộm ngon và nấu canh chua thì hảo hạng; loại ngon thứ nhì là nhút làm từ quả mít xanh (quả mít còn non), loại này trên thị trường có bán rất nhiều, khoảng 70.000 đồng/hũ/5 lít, loại này chủ yếu là xào, nộm (gỏi), và nấu canh chua. Ngoài ra còn có các đặc sản khác đã đi vào các câu ca dao, câu hát ở vùng đất này: "Thanh Chương ngon cá sông Giăng. Ngon khoai La Mạc, ngon măng chợ Chùa" "Ai hay nước chát măng chua. Đi qua chợ Chùa thì tới Minh Sơn" "Ai hay mít ngọt, mui bùi. Có về Cát Ngạn với tôi cùng về" "Ai hay tương ngọt nhút chua. Mời về Ó, Nại mà mua ít nhiều" "Quê ta ngọt mía Nam Đàn Ngon khoai chợ Rộ, thơm cam Xã Đoài" (Chợ Rộ ở xã Võ Liệt)... Đặc sản nổi tiếng khắp cả tỉnh và đã trở thành thương hiệu số 1 của Nghệ An đó chính là "Gà đồi Thanh Chương", thị gà có nhiều cách chế biến như gà luộc, gà nướng, gà rang sả ớt, và đặc biệt là gà nấu xáo, sự khác biệt ở gà nấu xáo Thanh Chương đó là xương gà được băm nhỏ để làm viên nên ăn rất thơm ngon và giòn.Gà ở Thanh Chương được nuôi thả trên những vườn đồi thoai thoải nên thịt gà săn chắc. Gà Thanh Chương đã trở thành món ngon của người Xứ Nghệ và là đặc sản để tiếp đón người thân, bạn bè và du khách thập phương khi đến với Xứ Nghệ, trong các bữa ăn hàng ngày.
Lôgic BAN (tiếng Anh: BAN logic, viết tắt của Burrows-Abadi-Needham logic) là một tập hợp các quy tắc để định nghĩa và phân tích các giao thức truyền thông. Cụ thể hơn, lôgic BAN được dùng để kiểm tra các giao thức có đảm bảo an toàn trước những kẻ tấn công hay không. Trong lôgic BAN, người ta giả định các giao dịch được thực hiện trên một môi trường không an toàn và kẻ tấn công luôn có khả năng đọc được các gói tin trên đường truyền. Điều này được phát triển thành một nguyên tắc trong an ninh hệ thống: "Không được tin vào mạng truyền dẫn". Tên của lôgic BAN được đặt theo tên của 3 nhà khoa học đã tạo ra nó: Michael Burrows, Martín Abadi, và Roger Needham. Một quy trình sử dụng lôgic BAN tiêu biểu bao gồm 3 bước: Kiểm tra nguồn gốc các gói tin Kiểm tra tính chất mới của các gói tin (chống lại việc phát lại gói tin cũ) Kiểm tra độ tin cậy của nguồn gốc Để phân tích các giao thức, lôgic BAN sử dụng các định đề và định nghĩa. Trước khi đưa vào phân tích, các giao thức cần được biểu diễn theo hệ thống ký hiệu giao thức mật mã (cách biểu diễn này thường có trong các bài nghiên cứu). Kiểu ngôn ngữ và các lựa chọn khác Lôgic BAN và các lôgic cùng lớp là các ngôn ngữ xác định. Điều này có nghĩa tồn tại thuật toán với đầu vào là các giả thuyết BAN và các yêu cầu của giao thức được xét và đầu ra là các kết luận liệu giao thức đó có đạt được các yêu cầu đã nêu hay không. Các thuật toán được sử dụng là các biến thể của thuật toán magic set nêu tại (Monniaux, 1999). Lôgic BAN là tiền đề cho rất nhiều dạng lôgic tương tự, chẳng hạn như lôgic GNY. Một số trong những phát triển này nhằm khắc phục những điểm yếu tồn tại trong lôgic BAN như sự thiếu sót các giải thích rõ ràng về ngữ nghĩa trong những điều kiện cụ thể. Các quy tắc cơ bản Sau đây là định nghĩa và ý nghĩa của các quy tắc cơ bản (trong đó, P và Q là 2 thực thể cần liên lạc với nhau, X là một văn bản/gói tin còn K là khóa) P believes X: P coi X là đúng và có thể xác nhận X trong các gói tin khác. P has jurisdiction over X: Sự tin tưởng của P đối với X là có cơ sở. P said X: Tại một thời điểm trong quá khứ, P đã gửi (và tin) X, mặc dầu hiện tại P có thể không còn tin vào X. P sees X: P đã nhận được X, có thể đọc và gửi lại X. {X}K: X được mật mã hóa với khóa K. fresh(X): X vừa mới được tạo ra và gửi đi. key(K, P<->Q): P và Q có chung khóa K để trao đổi thông tin mật. Ý nghĩa của các định nghĩa trên có thể được diễn giải thông qua một số định đề sau: Nếu P believes key(K, P<->Q), và P sees {X}K, thì P believes (Q said X) Nếu P believes (Q said X) và P believes fresh(X), thì P believes (Q believes X). Ở đây, P phải tin tưởng rằng gói tin X là mới được tạo ra (fresh). Ngược lại, X có thể là một gói tin cũ được một kẻ tấn công nào đó thu và phát lại. Nếu P believes (Q has jurisdiction over X) và P believes (Q believes X), thì P believes X Có một số phương pháp để xử lý việc kết hợp (ghép) các gói tin. Chẳng hạn, nếu P believes that Q said <X, Y>, bản tin ghép X và Y, thì P cũng cho rằng Q said X và Q said Y. Với phương pháp biểu diễn nêu trên, các giả định đằng sau các giao thức xác thực có thể được chuẩn hóa. Sử dụng các định đề, ta có thể chứng minh một thực thể nào đó tin tưởng rằng họ có thể thực hiện giao dịch an toàn với một vài khóa nhất định. Nếu chứng minh cho kết quả ngược lại (không đảm bảo an toàn), thì kết quả thường chỉ ra cách thức mà kẻ tấn công có thể thực hiện. Phân tích giao thức Wide Mouth Frog với lôgic BAN Sau đây là ứng dụng lôgic BAN vào phân tích giao thức giao thức Wide Mouth Frog, một giao thức đơn giản cho phép 2 thực thể, A và B, thiết lập một kênh truyền thông an toàn với sự tham gia của một máy chủ xác thực và các đồng hồ được đồng bộ hóa. A và B đều có chung khóa (đối xứng) với máy chủ S: Kas và Kbs. Vì thế, ta có thể giả định: A believes key(Kas, A<->S) S believes key(Kas, A<->S) B believes key(Kbs, B<->S) S believes key(Kbs, B<->S) A muốn thiết lập một giao dịch với B. A tạo ra một khóa phiên Kab dùng để mật mã hóa các gói tin trao đổi với B. A tin rằng khóa này là an toàn vì khóa do chính mình tạo nên: A believes key(Kab, A<->B) B sẽ chấp nhận khóa nếu như anh ta tin rằng khóa thực sự là do A gửi đến: B believes (A has jurisdiction over key(K, A<->B)) Ngoài ra, B cũng tin S sẽ chuyển những thông tin từ A một cách chính xác; B believes (S has jurisdiction over (A believes key(K, A<->B))) Do đó, nếu B cho rằng S tin rằng A muốn dùng một khóa nhất định để trao đổi thông tin với B thì B sẽ tin S và khóa được gửi đến. Mục tiêu của giao thức là: B believes key(Kab, A<->B) Quá trình thực hiện giao thức như sau: Đầu tiên, A xác định thời gian hiện tại t, và gửi gói tin: 1. A->S: {t, key(Kab, A<->B)}Kas Gói tin bao gồm thời gian hiện tại cùng với khóa phiên do A chọn, tất cả được mật mã hóa với khóa chung giữa A và S - Kas. Do S believes that key(Kas, A<->S) và S sees {t, key(Kab, A<->B)}Kas nên S kết luận rằng A thực tế đã gửi {t, key(Kab, A<->B)}. Có nghĩa là S tin rằng gói tin này không phải do một kẻ tấn công nào đó tạo ra. Vì tất cả đồng hồ được đồng bộ hóa, ta có thể giả định: S believes fresh(t) Do S believes fresh(t) và S believes A said {t, key(Kab, A<->B)}, nên S tin rằng A thực sự tin (believes) vào key(Kab, A<->B). (Cụ thể hơn, S tin rằng gói tin đã không bị một kẻ tấn công nào đó gửi lại.) Sau đó S chuyển khóa phiên tới B: 2. S->B: {t, A, A believes key(Kab, A<->B)}Kbs Do gói tin 2 được mật mã hóa với Kbs và B believes key(Kbs, B<->S) nên B tin rằng S said {t, A, A believes key(Kab, A<->B)}. Do các đồng hồ được đồng bộ hóa nên B believes fresh(t) và fresh(A believes key(Kab, A<->B)). Do B tin rằng gói tin của S gửi đến là mới nên B cũng tin rằng S believes (A believes key(Kab, A<->B)). Vì B tin vào S nên B believes (A believes key(Kab, A<->B)). Vì thế, B believes key(Kab, A<->B). Lúc này B có thể liên lạc trực tiếp với A sử dụng khóa phiên Kab. Bây giờ ta giả sử các đồng hồ không được đồng bộ. Trong trường hợp này S nhận gói tin thứ nhất từ A: {t, key(Kab, A<->B)} nhưng không thể kết luận gói tin này có mới hay không. S chỉ biết được rằng A đã từng tạo ra gói tin trên trong quá khứ (vì gói tin được mật mã hóa bằng khóa bí mật của A) nhưng không thể xác định được hiện tại A có còn muốn sử dụng khóa phiên Kab nữa hay không. Vì vậy, một kẻ tấn công có thể lợi dụng điểm yếu này: kẻ tấn công có thể lấy được một khóa phiên cũ (việc này tốn nhiều thời gian) và gửi lại gói tin {t, key(Kab, A<->B)}. Khi đó, S có thể không phát hiện được đây là gói tin gửi lại (do đồng hồ không đồng bộ) và chuyển tới B một khóa phiên cũ đã bị lộ. Bài nghiên cứu gốc Logic of Authentication (xem liên kết ở phần sau) có bao gồm ví dụ trên cùng một số những dẫn chứng khác như phân tích giao thức Kerberos và 2 phiên bản của giao thức bắt tay Andrew RPC (trong đó có 1 giao thức có lỗi).
{{Infobox political party |name = Hezbollah | native_name = حزب الله| native_name_lang = ar |flag = Flag of Hezbollah |secretary_general = Hassan Nasrallah |foundation = (official) |ideology = |headquarters= Beirut, Lebanon |website = www.moqawama.org |colours = |colorcode = |religion = Shia Islam |national = March 8 Alliance |international= Axis of Resistance |position = |seats1_title = Parliament of Lebanon |seats1 = |seats2_title = Cabinet of Lebanon |seats2 = |country = Lebanon }} Hezbollah phát âm tiếng Việt: Héc-bô-lacứ của lực lượng Héc-bô-la ở Li-băng bị tiến công (tiếng Ả Rập: حزب الله; ḥizbu-llāh có nghĩa là "Đảng của Thượng đế") là một tổ chức chính trị-vũ trang của người Liban theo đạo Hồi dòng Shi'a được thành lập vào năm 1982 nhằm phản ứng trước sự kiện Israel xâm lược Liban để đẩy Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) của cố Tổng thống Yasser Arafat ra khỏi Liban. Hezbollah được thành lập từ sự hợp nhất ba tổ chức dân quân của người Hồi giáo dòng Shiite tại Liban là Phong trào Hồi giáo Amal, tổ chức Daw'ah và tổ chức Ulema. Hezbollah được sự hỗ trợ tài chính của Iran và Syria. Hezbollah được xem như kẻ thù không đội trời chung của Israel. Tổ chức Đứng đầu tổ chức dân sự của Hezbollah là Hội đồng Jihad. Jihad sáng lập và quản lý các hội từ thiện: Hội El-Jarih giúp đỡ các thương binh trong cuộc chiến tranh chống Israel tái hội nhập xã hội sau khi được chữa bệnh và dạy nghề. Hội El-Shahid lo việc trợ cấp gia đình liệt sĩ và tù binh chiến tranh. Hội Jihad và Binaa chuyên tái xây dựng, tái định cư cho những gia đình bị Israel ném bom tan nát nhà cửa. Lãnh đạo tinh thần của Hezbollah hiện nay là Ayatollah Muhammad Hussein Fadlalah và Tổng thư ký là Sheik Hassan Nasrallah. Hezbollah có 12 ghế trong Nghị viện Liban, 2 vị trí bộ trưởng trong nội các hiện thời và sở hữu một hệ thống truyền thông khá mạnh bao gồm đài phát thanh Al-Nour và nguyệt san Qubth Ut Alla''. Chủ lực về truyền thông của họ là đài truyền hình Al Manar và kênh truyền hình cáp phát 24/24h trong suốt khu vực Trung Đông, được đánh giá là thu hút khán giả thứ ba trong khu vực này. Hoạt động Chính phủ Mỹ cáo buộc cho Hezbollah thực hiện các vụ: Tấn công bằng xe bom ở Beirut, thủ đô Liban, giết chết 248 Thủy Quân Lục Chiến Mỹ và 58 lính Pháp ngày 23 tháng 10 năm 1983. Đánh bom tòa Đại sứ Mỹ ở Beirut vào tháng 4 năm 1983 làm 63 người thiệt mạng. Đánh bom tòa Đại sứ Mỹ lần thứ 2 vào tháng 9 năm 1984 làm 22 người chết. Bắt cóc, tra tấn và thủ tiêu William Buckley, một trạm trưởng của Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) ở Trung Đông và đại tá bộ binh Mỹ William Giggins. Bắt bớ, tra tấn và thủ tiêu Đại tá TQLC William Higgins khi ông này hợp tác với Liên Hợp Quốc ở Beirut năm 1988. Xác Đại tá bị ném ra thùng rác gần một bệnh viện nội thành Beirut. Tuy bị các nước phương Tây và Israel cho là tổ chức khủng bố quốc tế nhưng đối với đông đảo người dân Liban thì Hezbollah có công đánh đuổi Israel ra khỏi miền nam Liban vào năm 2000. Theo đánh giá của dư luận, Hezbollah là đảng chính trị lớn nhất, có lực lượng vũ trang hữu hiệu nhất ở Liban. Mặc dù chống Israel và Mỹ, Hezbollah lên án vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001 vào nước Mỹ và những vụ chặt đầu con tin tại Iraq. Hezbollah cũng tuyên bố không có quan hệ với Osama bin Laden và Al-Qaeda như Mỹ và Israel cáo buộc. Năm 2004 Liên Hợp Quốc thông qua Nghị quyết 1559 kêu gọi rút hết quân nước ngoài khỏi Liban và giải giáp Hezbollah nhưng họ bất chấp. Tuy vậy, một điều rõ ràng là nghị quyết này không bao hàm các chế tài một khi các bên liên can không tôn trọng hoặc vi phạm các điều đã ký kết.
Kriegsmarine (, Hải quân chiến tranh) là lực lượng Hải quân của Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai tồn tại từ 1935-1945. Đây là một trong những lực lượng quân đội chủ lực của Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Lực lượng này còn được gọi là Reichsmarine (Hải quân Đế chế) trực thuộc Wehrmacht- quân đội Đức Quốc xã. Giai đoạn phục hồi sau Chiến tranh thế giới thứ nhất Lực lượng Hải quân hùng mạnh Hải quân Đức lúc này còn có rất nhiều tàu chiến trang bị hiện đại bậc nhất và được xem là mạnh nhất châu Âu. Nếu không có sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các nước Đồng Minh, việc tiêu diệt hải quân này không đơn giản. Theo đánh giá của các tướng lĩnh Hồng quân Liên Xô trong Hội nghị Warszawa 1945, với lực lượng hải quân như trên, Đức có thể ném nửa triệu quân kèm thiết giáp đến bất kỳ nơi nào trên thế giới trong vòng một tuần lễ mà không có bất kỳ một thế lực nào cản nổi. Chiến lược tàu ngầm Trong Hải quân Đức, lực lượng tàu ngầm U-boat được xem là có chủng loại tàu ngầm hiện đại nhất và cũng là mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ. Bằng chiến thuật dùng tàu ngầm phong tỏa, chi phối toàn bộ bắc Đại Tây Dương và Địa Trung Hải, Đức Quốc xã gây rất nhiều thiệt hại cho phe Đồng Minh cũng như kéo dài thời gian cuộc chiến. Suy tàn cùng Đế chế Tuy vậy, trong những năm 1942-1945, Mỹ đã khắc chế được Hải quân Đức với việc chế tạo ra hệ thống thủy lôi chống tàu ngầm mạnh, cùng với chiếc tàu sân bay đầu tiên được hạ thủy, Mỹ đã dùng máy bay tiêu diệt tàu chiến Đức ngay tại cảng. Bằng các hoạt động do thám và phá hoại ngầm, Đồng Minh tiêu diệt được khá nhiều tàu chiến Đức Quốc xã đậu rải rác tại các nước theo phe Trục trong thế chiến, điều này khiến thực lực Hải quân Đức suy yếu nhiều, kết quả là không thể ngăn lính thủy đánh bộ Mỹ và quân đội Hoàng gia Anh tràn vào Pháp, Bắc Phi và bờ Địa Trung Hải những năm 1944-1945. Thất bại của Hải quân Đức cũng góp phần to lớn vào thất bại chung toàn nước Đức phát xít ngày 30 tháng 4 năm 1945.
"Snow White" (hay còn gọi là Bạch Tuyết hoặc Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn), là một câu chuyện cổ tích của Đức thế kỷ 18 mà ngày nay đã được biết đến rộng rãi trên khắp thế giới phương Tây. Anh em nhà Grimm đã xuất bản truyện vào năm 1812 trong ấn bản đầu tiên của bộ sưu tập Truyện cổ Grimm của họ và được đánh số là Truyện thứ 53. Tựa gốc tiếng Đức là Sneewittchen, một dạng tiếng Hạ Đức, nhưng phiên bản đầu tiên có bản dịch tiếng Cao Đức là Schneeweißchen, và câu chuyện đã được biết đến bằng tiếng Đức dưới dạng hỗn hợp Schneewittchen. Nhà Grimm hoàn thành bản sửa đổi cuối cùng của câu chuyện vào năm 1854. Truyện cổ tích có các yếu tố như chiếc gương thần, quả táo bị nhiễm độc, quan tài thủy tinh, và các nhân vật của Nữ hoàng độc ác và Bảy chú lùn. Bảy chú lùn lần đầu tiên được đặt tên riêng trong vở kịch Nàng bạch tuyết và bảy chú lùn trên sân khấu Broadway năm 1912 và sau đó được đặt những tên khác nhau trong bộ phim Nàng bạch tuyết và bảy chú lùn năm 1937 của Walt Disney. Câu chuyện Grimm, thường được gọi là "Snow White", không nên nhầm lẫn với câu chuyện "Snow-White and Rose-Red" (tiếng Đức "Schneeweißchen und Rosenrot", tiếng Việt "Bạch Tuyết và Hồng Hoa"), một câu chuyện cổ tích khác do Anh em nhà Grimm sưu tầm . Trong phân loại văn học dân gian Aarne – Thompson, những câu chuyện thuộc loại này được nhóm lại thành loại 709, Snow White. Những chuyện khác thuộc loại này bao gồm "Bella Venezia", "Myrsina", "Nourie Hadig", "Gold-Tree and Silver-Tree", "The Young Slave", và "La petite Toute-Belle". Lịch sử Vào năm 1812, trong hợp tuyển Truyện cho thiếu nhi và gia đình (Kinder- und Hausmärchen) mà anh em Grimm san hành tại Đức, đoản thiên Công chúa Bạch Tuyết (Schneeweißchen / Schneewittchen) được đánh số hiệu ATU 709. Nhan đề này khiến độc giả bị sót lầm trong thời gian rất dài bởi sự gần giống truyện Bạch Tuyết và Hồng Hoa cũng của anh em Grimm. Bởi vậy, hậu thế thường đặt cho tác phẩm tục danh Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn (Schneewittchen und die sieben Zwerge), mặc dù theo kết cấu truyện thì bảy chú tí hon có vai trò rất phụ. Năm 1845, tác gia Ludwig Bechstein đã đưa truyện này vào trứ tác Dân thoại Đức của ông và đánh số hiệu 1845 Nr. 60. Nội dung trái|nhỏ|Nhân vật phản diện trong truyện ngụ ngôn Nữ hoàng xấu xa với nhân vật chính là Bạch Tuyết như được mô tả trong The Sleeping Snow White của Hans Makart (1872) Mùa đông, hoàng hậu ngồi thêu bên cửa sổ, bất giác kim đâm vào ngón tay, bà liền ước sinh được mụn con gái "da trắng như tuyết, môi hồng như máu, tóc đen như gỗ khung cửa". Ít lâu sau, điều ước thành hiện thực. Bà sinh được một cô con gái, đặt là Bạch Tuyết, nhưng bà mất ngay khi vượt cạn. Qua năm sau, đức vua tái giá với một phu nhân trẻ và phong bà làm hoàng hậu. Bà ta có một cái gương thần và thường hỏi nó xem ai là người đẹp nhất trên đời. Gương thần nói rằng bà là người đẹp nhất. Năm công chúa Bạch Tuyết lên bảy, gương thần nói rằng công chúa Bạch Tuyết đẹp hơn hoàng hậu. Bà ta liền sai một thợ săn dụ công chúa vào rừng giết đi. Người thợ săn động lòng trước hoàn cảnh của công chúa. Ông ta bảo nàng trốn vào trong rừng, sau đó lại giết một con lợn rừng lấy tim gan về dâng lên hoàng hậu. Công chúa Bạch Tuyết chạy mãi, cuối cùng tới nhà bảy chú lùn bên kia rừng. Cô được họ cho ở nhờ và giữ nhà cho họ lên núi khai mỏ. Hoàng hậu tin rằng công chúa đã chết. Bà ta bèn hỏi gương thần, nhưng được đáp rằng nàng vẫn sống với bảy chú lùn. Bà ta liền đóng giả lái buôn, đem tặng Bạch Tuyết cái đai lưng. Cái đai thít chặt quá khiến nàng tắt thở mà lịm đi, may sao các chú lùn về cứu kịp. Lần sau bà ta lại tặng một chiếc lược. Lược vừa chải mái tóc thì Bạch Tuyết lịm đi, lần này các chú lùn lại về giải thoát được. Lần chót, bà ta đóng giả làm một mụ nhà quê. Mụ tặng cho Bạch Tuyết một quả táo đỏ au, nàng vừa cắn miếng đã lịm đi. Các chú lùn về thì không kịp nữa. Bảy chú lùn bèn táng công chúa trong một cỗ quan tài pha lê. Họ rước lên núi hành lễ khâm liệm, trông nàng vẫn tươi thắm như còn sống. Tình cờ có chàng hoàng tử đi qua, siêu lòng trước nhan sắc Bạch Tuyết, chàng bèn xin các chú lùn cho đoàn tùy tùng của mình rước quan tài về. Đoàn tùy tùng của hoàng tử rước quan tài trong rừng bị vấp khiến thi hài công chúa giật nảy, miếng táo trong miệng hắt ra, nàng choàng tỉnh. Hoàng tử mừng rỡ, chàng liền đưa nàng về hoàng cung cử hành hôn lễ. Hoàng hậu cũng tới dự, nhìn thấy nhan sắc Bạch Tuyết còn kiêu sa hơn xưa bội phần, bà ta tức tối chửi đổng mấy câu. Đức vua vỡ lẽ ra mọi chuyện, ngài bèn bắt bà ta phải xỏ đôi hài sắt nung đỏ nhảy cho tới chết. Thi pháp Trong khoảng hai thế kỷ kể từ thời điểm công bố, Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn dường như là tác phẩm có kết cấu phức hợp và cũng trứ danh nhất của anh em Grimm. Không chỉ vậy, kiểu mẫu nàng Bạch Tuyết đã trở thành một hiện tượng đa văn hóa và liên văn bản. Đó là sự phối hợp tri thức và nhận thức, sự kết tinh tâm lý học, xã hội học, lịch sử học, thần học, vũ trụ quan và tượng trưng chủ nghĩa. Vả chăng, trong sự tập trung các hình thức tiếp cận văn hóa, hình tượng Bạch Tuyết là cảm hứng cho sự cách tân và phát triển mĩ thuật, văn chương, âm nhạc, sân khấu, điện ảnh và văn hóa đại chúng. Khởi nguyên Ở hình thái sơ khai, truyện Công chúa Bạch Tuyết của anh em Grimm chỉ là sự tổng hợp các giai thoại hoặc ý tượng dân gian lâu đời tại Âu châu. Qua rất nhiều lần hiệu đính kể từ năm 1812, mãi tới năm 1857 mới có ấn bản được coi là chính thức và phổ thông nhất trong văn hóa đại chúng thế giới. Theo khảo dị, đoản thiên Cây bách xù (Von dem Machandelboom) cũng do anh em Grimm sưu tầm tại Bắc Đức và đưa vào Truyện cho thiếu nhi và gia đình có thi pháp gần gũi truyện Công chúa Bạch Tuyết nhất. Diễn biến truyện tương tự truyền thuyết Tấm Cám tại Việt Nam, nhưng có tình tiết bà mẹ ngồi gọt táo dưới gốc bách xù, không ngờ cắt đứt tay, bà bèn ước sinh được bé trai "da trắng như tuyết và má hồng như máu" (ein Kind so rot wie das Blut und so weiß wie der Schnee), mà khi điều ước thành sự thực thì bà chết trên giường sinh. Tuy nhiên, tình tiết này vốn dĩ khá phổ biến trong huyền thoại dân gian Âu châu trung đại. Trong sử thi Táin Bó Cúailnge xuất hiện thế kỷ I SCN có chép truyện giai nhân Derdriu thấy con quạ rỉa miếng mồi tươi trên nền tuyết bèn bảo dưỡng phụ rằng, nàng chỉ phải lòng ai "mái tóc màu lông quạ, làn da màu tuyết và gò má màu máu" (gruaig chomh dubh le fiach, craiceann chuing ban le sneachta, agus leicne chomh dearg le fuil). Và đó là chàng thợ săn Noisiu. Ý tượng Theo học giới, các biểu tượng trọng yếu trong truyện Công chúa Bạch Tuyết lần lượt là quả táo độc, số 7, các chú lùn, chiếc gương, đai lưng, cái lược, các màu tương phản đen-đỏ-trắng, giọt máu và mùa đông. Ngoài ra, còn phải kể đến hình tượng bà mẹ kế cũng như giấc ngủ say như chết có mẫu gốc ở Mĩ nhân say ngủ. Phương tiện truyền thông Phim chiếu rạp chiếu - Người đóng Bạch Tuyết (1902), một bộ phim câm đã thất lạc được thực hiện vào năm 1902. Đây là lần đầu tiên câu chuyện cổ tích kinh điển năm 1812 của Anh em nhà Grimm được dựng thành phim. Bạch Tuyết (1916), một bộ phim câm của Famous Players-Lasky do Adolph Zukor và Daniel Frohman sản xuất , do J. Searle Dawley, và có sự tham gia của Marguerite Clark, Creighton Hale và Dorothy Cumming. I sette nani alla riscossa (Bảy chú lùn được giải cứu) (1951), một bộ phim Ý dựa trên câu chuyện cổ tích. Lumikki ja 7 jätkää (The Bạch Tuyết and the 7 Dudes) (1953), một bộ phim hài ca nhạc Phần Lan của đạo diễn Ville Salminen, dựa trên câu chuyện cổ tích. Schneewittchen und die sieben Zwerge (1955), một live-action chuyển thể từ truyện cổ tích của Đức. Snow White and the Seven Fellows (1955), một bộ phim Hồng Kông với sự tham gia của Chow Sze-luk, Lo Yu-kei Dirs. Snow White and the Three Stooges (1961), với sự tham gia của the Three Stooges với Carol Heiss trong vai Bạch Tuyết và Patricia Medina trong vai Hoàng hậu. Bạch Tuyết (1962), một bộ phim cổ tích Đông Đức của đạo diễn Gottfried Kolditz. The New Adventures of Snow White (1969), một bộ phim hài tình dục Tây Đức do Rolf Thiele đạo diễn và có sự tham gia của Marie Liljedahl, Eva Reuber-Staier và Ingrid van Bergen. Bộ phim xoay quanh ba câu chuyện cổ tích kinh điển Bạch Tuyết, Lọ Lem và Người đẹp ngủ trong rừng. Pamuk Prenses ve 7 Cüceler (1970), một bản live-action của Thổ Nhĩ Kỳ làm lại từ bộ phim Disney năm 1937. Bạch Tuyết (1987), với sự tham gia của Diana Rigg trong vai Nữ hoàng độc ác và Nicola Stapleton và Sarah Patterson đều trong vai Bạch Tuyết. Schneewittchen und das Geheimnis der Zwerge (1992), chuyển thể từ truyện cổ tích của Đức. Snow White: A Tale of Terror (1997), với sự tham gia của Sam Neill trong vai cha của Bạch Tuyết, Sigourney Weaver trong vai Nữ hoàng xấu xa và Monica Keena trong vai Bạch Tuyết. 7 Dwarves - Men Alone in the Wood (7 Zwerge - Männer allein im Wald) (2004), một bộ phim hài của Đức Anh em nhà Grimm (2005), một bộ phim viễn tưởng phiêu lưu của đạo diễn Terry Gilliam và có sự tham gia của Matt Damon, Heath Ledger và Lena Headey 7 Dwarves: The Forest Is Not Enough (7 Zwerge - Der Wald ist nicht genug) (2006), phần tiếp theo của bộ phim Đức năm 2004 7 Dwarves – Men Alone in the Wood Sydney White (2007), hiện đại hóa, với sự tham gia của Amanda Bynes Blancanieves (2012), một bộ phim câm của Tây Ban Nha dựa trên câu chuyện cổ tích. Mirror Mirror (2012), với sự tham gia của Julia Roberts trong vai Nữ hoàng xấu xa Clementianna, Lily Collins trong vai Bạch Tuyết, Armie Hammer trong vai Hoàng tử Andrew Alcott, và Nathan Lane trong vai Brighton, quân sư của Nữ hoàng. Loạt phim The Huntsman : Snow White and the Huntsman (2012), với sự tham gia của Kristen Stewart, Charlize Theron, Chris Hemsworth và Sam Claflin. The Huntsman: Winter's War (2016), trong đó Bạch Tuyết là một nhân vật phụ. Snow White and the Seven Dwarfs , phiên bản làm lại sắp tới của phiên bản hoạt hình 1937, với sự tham gia của Rachel Zegler, Gal Gadot, và Andrew Burnap. Rạp hát - Hoạt hình Snow White (1933), còn được gọi là Betty Boop in Snow-White , một bộ phim trong loạt Betty Boop của Max Fleischer của Fleischer Studios. Bạch tuyết và bảy chú lùn (1937), một bộ phim hoạt hình dựa trên câu chuyện cổ tích, Adriana Caselotti lồng tiếng cho Bạch Tuyết. Nó được nhiều người biết đến là bộ phim chuyển thể hay nhất của câu chuyện, một phần nhờ nó trở thành một trong những bộ phim hoạt ảnh đầu tiên và cũng là bộ phim hoạt hình đầu tiên của Disney. Coal Black and de Sebben Dwarfs (1943) là một phim hoạt hình Merrie Melodies của đạo diễn Bob Clampett. Đoạn ngắn phát hành ngày 16 tháng 1 năm 1943. Tất cả chỉ là nhại lại câu chuyện cổ tích. Happily Ever After (1989) là một bộ phim hoạt hình âm nhạc giả tưởng của Mỹ năm 1989 do Robby London và Martha Moran viết kịch bản, John Howley đạo diễn, Filmation sản xuất. Snow White: The Sequel (2007) là một bộ phim hài hoạt hình dành cho người lớn của Bỉ/Pháp/Anh do Picha làm đạo diễn. Nó dựa trên câu chuyện cổ tích về nàng Bạch Tuyết và được dự định là phần tiếp theo của bộ phim hoạt hình chuyển thể kinh điển của Disney. Tuy nhiên, giống như tất cả các phim hoạt hình của Picha, bộ phim thực sự là một bộ phim hài tình dục với rất nhiều trò đùa và cảnh quan hệ tình dục ngớ ngẩn. The Seventh Dwarf (2014) (tiếng Đức: Der 7bte Zwerg), là một bộ phim hoạt hình máy tính 3D của Đức, được tạo ra vào năm 2014. Phim dựa trên câu chuyện cổ tích Người đẹp ngủ trong rừng và các nhân vật trong Bạch Tuyết và bảy chú lùn. Trực tiếp đến video - Hoạt ảnh Amada Anime Series: Super Mario Bros. (1989), một bộ ba phần OVA gồm nhân vật Mario trong các câu chuyện cổ tích khác nhau. Snow White and the Magic Mirror (1994), do Fred Wolf Films Dublin sản xuất. Happily N'Ever After 2: Snow White — Another Bite @ the Apple (2009), một bộ phim hoạt hình trực tiếp bằng máy tính của Mỹ-Đức và phần tiếp theo của Happily N'Ever After Charming (2018), một bộ phim hoạt hình có Bạch Tuyết là một trong những nàng công chúa, với Avril Lavigne lồng tiếng. Red Shoes and the Seven Dwarfs (2019), một bộ phim hoạt hình Mỹ-Hàn dựa trên câu chuyện cổ tích, với Chloë Grace Moretz lồng tiếng. Hoạt hình - Truyền hình A Snow White Christmas là một chương trình truyền hình hoạt hình Giáng sinh đặc biệt do Filmation và đài truyền hình sản xuất ngày 19 tháng 12 năm 1980, trên kênh CBS. Một tập phim năm 1984 của Alvin & the Chipmunks có tên Snow Wrong dựa trên câu chuyện cổ tích, với Brittany của The Chipettes trong vai Bạch Tuyết. Phần 7 của Garfield và Những người bạn có một câu chuyện gồm hai phần nhại lại câu chuyện cổ tích có tên "Snow Wade và 77 chú lùn". Rugrats cũng đóng một vai trong câu chuyện cổ tích với Angelica Pickles trong vai Nữ hoàng. Susie Carmichael trong vai Bạch Tuyết và Tommy Pickles, Dil Pickles, Kimi Finister, Chuckie Finister, Phil, Lil DeVille và Spike the Dog trong vai Bảy chú lùn. RWBY (2013) là một loạt web có các nhân vật được gọi là "Weiss Schnee" và "Klein Sieben", tiếng Đức có nghĩa là "Bạch Tuyết" và "Bảy nhỏ" (tuy nhiên, không chính xác về mặt ngữ pháp, vì nó sẽ là "Weisser Schnee" và "Kleine Sieben"). Muppet Babies (phim truyền hình năm 1984) nhại lại câu chuyện trong "Snow White and the Seven Muppets", với các em bé Muppet diễn xuất câu chuyện. Trong tập The Simpsons Four Great Women and a Manicure, Lisa kể về biến thể câu chuyện của chính cô ấy, với cô ấy là Bạch Tuyết. Trực tiếp - Truyền hình Faerie Tale Theater (1984) có một tập dựa trên câu chuyện cổ tích với sự tham gia của Vanessa Redgrave trong vai Nữ hoàng, Elizabeth McGovern trong vai Bạch Tuyết và Vincent Price trong vai Gương thần. The 10th Kingdom (2000) là một loạt phim truyền hình ngắn có nhân vật chính là Bạch Tuyết. Snow White: The Fairest of Them All (2001), với sự tham gia của Kristin Kreuk trong vai Bạch Tuyết và Miranda Richardson trong vai Nữ hoàng Elspeth. Schneewittchen (2009), một bộ phim truyền hình do Đức sản xuất với sự tham gia của Laura Berlin trong vai Bạch Tuyết. Blanche Neige (2009) - Phim truyền hình Pháp Ngày xửa ngày xưa (2011) là bộ phim truyền hình có Bạch Tuyết, Hoàng tử, con gái của họ là Emma Swan, và Nữ hoàng độc ác với tư cách là các nhân vật chính. Live-action - Trực tiếp đến video Neberte nám Princeznú (1981) (tiếng Anh: Hãy để công chúa ở lại với chúng ta) là phiên bản hiện đại của truyện cổ tích Snowhite và bảy chú lùn, với sự tham gia của Marika Gombitová. Vở nhạc kịch do Martin Hoffmeister đạo diễn và phát hành năm 1981. Sonne (2001) là một video âm nhạc cho bài hát của ban nhạc Neue Deutsche Härte Rammstein, nơi ban nhạc là những chú lùn khai thác vàng cho Bạch Tuyết. Grimm's Bạch Tuyết (2012), với sự tham gia của Eliza Bennett trong vai Bạch Tuyết và Jane March trong vai Nữ hoàng xấu xa Gwendolyn. Snow White: A Deadly Summer (2012) là một bộ phim kinh dị của Mỹ do David DeCoteau đạo diễn và có sự tham gia của Shanley Caswell, Maureen McCormick và Eric Roberts. Phim được phát hành DVD và tải xuống kỹ thuật số vào ngày 20 tháng 3 năm 2012 Âm nhạc và âm thanh Charmed (2008), một album của Sarah Pinsker, có một bài hát tên là "Twice the Prince", trong đó Bạch Tuyết nhận ra rằng cô thích một người lùn hơn Hoàng tử. The Boys (2011), album phòng thu thứ ba của Girls' Generation, có một bức ảnh concept của Taeyeon lấy cảm hứng từ Bạch Tuyết. Hitoshizuku và Yamasankakkei là hai nhà sản xuất Vocaloid Nhật Bản đã tạo ra một bài hát có tên Genealogy of Red, White and Black (2015) dựa trên câu chuyện về nàng Bạch Tuyết với một số điểm khác biệt, bài hát có các Vocaloid Kagamine Rin/Len vàLily. John Finnemore's Souvenir Programme S5E1 (2016) có một bản phác thảo hài nhại cảnh chiếc gương ma thuật. Trong văn học Tác giả người Đức Ludwig Aurbacher đã sử dụng câu chuyện về nàng Bạch Tuyết trong câu chuyện văn học của mình Die zwei Brüder ("The Two Brothers") (1834). Bạch Tuyết (1967), một tiểu thuyết hậu hiện đại của Donald Barthelme mô tả cuộc sống của Bạch Tuyết và các chú lùn. Snow White and the Seven Dwarfs (1971), một bài thơ của Anne Sexton trong tuyển tập Transformations của cô, trong đó cô hình dung lại mười sáu câu chuyện từ Truyện cổ Grimm. Snow White in New York (1986), một cuốn sách ảnh của Fiona French lấy bối cảnh ở New York những năm 1920. "Bạch Tuyết" (1994), một truyện ngắn của James Finn Garner, từ Politically Correct Bedtime Stories: Modern Tales For Our Life & Times. "Snow, Glass, Apples", một câu chuyện ngắn năm 1994 do Neil Gaiman viết, tất cả trừ câu chuyện viết lại một cách rõ ràng để biến Bạch Tuyết trở thành một thực thể giống ma cà rồng đối nghịch với Nữ hoàng, trong khi hoàng tử được ám chỉ một cách mạnh mẽ là bị chứng ái tử thi. Six-Gun Snow White (2013), một cuốn tiểu thuyết của Catherynne M. Valente kể lại câu chuyện của Bạch Tuyết trong bối cảnh Miền Tây hoang dã. Tímakistan (2013), tiểu thuyết của Andri Snær Magnason, chuyển thể từ Bạch Tuyết . Boy, Snow, Bird (2014), một cuốn tiểu thuyết của Helen Oyeyemi phỏng theo câu chuyện Nàng Bạch Tuyết như một câu chuyện ngụ ngôn về chủng tộc và những ý tưởng văn hóa về vẻ đẹp. Winter (2015), một tiểu thuyết của Marissa Meyer dựa trên câu chuyện của Bạch Tuyết. Girls Made of Snow and Glass (2017), một cuốn tiểu thuyết của Melissa Bashardoust, một người theo chủ nghĩa nữ quyền, lật đổ dựa trên câu chuyện cổ tích gốc. Sadie: An Amish Retelling of Snow White (2018) của Sarah Price Shattered Snow (2019), một cuốn tiểu thuyết du hành thời gian của Rachel Huffmire, gắn kết cuộc đời của Margaretha von Waldeck và sự thể hiện của Bạch Tuyết trong Anh em nhà Grimm. The Princess and the Evil Queen (2019), một cuốn tiểu thuyết của Lola Andrews, kể lại câu chuyện như một câu chuyện tình đầy nhục cảm giữa Bạch Tuyết và Nữ hoàng xấu xa. Trong rạp hát [[Bạch Tuyết và bảy chú lùn (kịch 1912)|Snow White and the Seven Dwarfs]] (1912), một vở kịch của Jessie Braham Snövit (1950), của Astrid Lindgren Câu chuyện về nàng Bạch Tuyết là một chủ đề phổ biến đối với kịch câm của Anh Trong truyện tranh The Haunt of Fear (1953) là một truyện tranh kinh dị có hình ảnh tái hiện ghê rợn của Bạch Tuyết. Prétear ( Prétear - Truyền thuyết mới về nàng Bạch Tuyết ) là một bộ truyện tranh (2000) và anime (2001) lấy cảm hứng từ câu chuyện về nàng Bạch Tuyết, kể về cô gái mồ côi mười sáu tuổi gặp bảy hiệp sĩ phép thuật đã thề sẽ bảo vệ cô. Truyện ngụ ngôn (2002), truyện tranh do Bill Willingham sáng tác, có Bạch Tuyết là nhân vật chính trong bộ truyện. MÄR (Märchen Awakens Romance) là một bộ truyện tranh Nhật Bản (2003) và anime (2005), một học sinh bình thường (trong thế giới thực) được đưa đến một thực tại khác với các nhân vật hơi giống các nhân vật trong truyện cổ tích, như Bạch Tuyết, Jack (trong Jack và cây đậu thần) và Dorothy trong The Wizard of Oz. Snow White with the Red Hair là một bộ truyện tranh (2006) và anime (2015) mở đầu bằng sự chuyển thể lỏng lẻo của câu chuyện cổ tích, với một hoàng tử độc ác theo đuổi một cô gái có mái tóc đỏ nổi bật. Trò chơi điện tử Dark Parables (2010 – nay), một loạt trò chơi điện tử trên máy tính kể về những câu chuyện cổ tích. Bạch Tuyết xuất hiện như một nhân vật định kỳ trong một vài phần. Khác Buổi trình diễn thời trang Pucca Xuân/Hè 2011 được lấy cảm hứng từ nàng Bạch Tuyết và người mẹ kế độc ác của nàng, Nữ hoàng. Người mẫu mở màn, Stella Maxwell, mặc đồ Lolita-esque Bạch Tuyết thời hiện đại trong bộ áo hoody, váy ngắn và giày cao gót. Do đi đôi giày cao chót vót, cô đã bị ngã trên sàn catwalk và làm rơi quả táo đỏ đang mang theo. Joanne Eccles, một vận động viên môn cưỡi ngựa nhào lộn, đã giành được danh hiệu Nhà vô địch Thế giới Thể dục nhịp điệu (Nhảy cầu Quốc tế của Bordeaux) vào năm 2012. Cô diễn giải Bạch Tuyết trong phần đầu tiên của sự kiện . Trong loạt phim búp bê Ever After High, Bạch Tuyết có một cô con gái tên là Apple White, và Nữ hoàng có một cô con gái tên là Nữ hoàng Quạ. The Wolf Among Us (2013), trò chơi điện tử Telltale Games dựa trên bộ truyện tranh Fables . Twisted Wonderland là một trò chơi của Disney, trong trò chơi "Pomefiore Dorm" được dựa trên Bạch Tuyết and the Seven Dwarfs. Trong công viên giải trí Efteling, Bạch Tuyết và những chú lùn sống trong Khu rừng cổ tích liền kề với lâu đài của mẹ chồng cô.
Mười một tên cướp thế kỷ (tiếng Anh: Ocean's Eleven) là một bộ phim năm 2001 của đạo diễn Steven Soderbergh với các diễn viên George Clooney, Julia Roberts, Brad Pitt, Matt Damon, Andy Garcia... Phim được phát hành bởi hãng Warner Bros. Pictures International cùng các nhà sản xuất John Hardy, Susan Ekins, Bruce Berman. Tóm tắt nội dung Ngay sau khi được phóng thích trước thời hạn, tên trộm siêu hạng Danny Ocean đã bắt tay vào triển khai một kế hoạch đầy tham vọng. Mục tiêu là kho bạc chứa tiền của ba sòng bài lớn nhất tại Las Vegas của tay cự phú Terry Benedict (Andy Garcia). Ocean lên danh sách chiêu mộ và lần lượt có trong tay mình 11 quái kiệt trong đó có thần bài Rusty Ryan, anh em Virgil và Turk, một chuyên gia chất nổ và một chuyên gia nhào lộn. Phần thưởng cho tất cả là 150 triệu USD tiền mặt nhưng thách thức họ là hệ thống bảo vệ nghiêm ngặt hiện đại của sòng bài. Liệu Ocean có chiếm được số tài sản kếch sù và quan trọng nhất là đoạt lại trái tim của Tess (vợ cũ của Ocean) đang nằm trong vòng tay của Terry? Dàn diễn viên trong phim Dàn diễn viên chính George Clooney trong vai Danny Ocean Bernie Mac trong vai Frank Catton Brad Pitt trong vai Robert "Rusty" Ryan Elliott Gould trong vai Reuben Tishkoff Casey Affleck trong vai Virgil Malloy Scott Caan trong vai Turk Malloy Eddie Jemison trong vai Livingston Dell Don Cheadle trong vai Basher Tarr Shaobo Qin trong vai "The Amazing" Yen Carl Reiner trong vai Saul Bloom Matt Damon trong vai Linus Caldwell Các diễn viên khác Andy Garcia trong vai Terry Benedict Julia Roberts trong vai Tess Ocean Cameos Năm diễn viên truyền hình tự đóng vai khách mời, được Rusty dạy cách chơi poker: Holly Marie Combs Topher Grace Joshua Jackson Barry Watson Shane West Steven Soderbergh trong vai một trong những tên cướp ngân hàng cùng Basher Siegfried và Roy là chính họ Wayne Newton với tư cách là chính mình Henry Silva và Angie Dickinson với tư cách là chính họ (cả hai đều xuất hiện trong bản gốc) Wladimir Klitschko với tư cách là chính mình Lennox Lewis với tư cách là chính mình Jerry Weintraub trong vai Denny Shields, một tay cờ bạc cao tay Sản xuất Vào tháng 1 năm 2000, Warner Bros đã hợp tác với Steven Soderbergh để phát triển bản làm lại Ocean's Eleven (Mười một tên cướp biển ), với sự tham gia của George Clooney, Brad Pitt và Julia Roberts. Johnny Depp đang được xem xét cho vai Linus Caldwell, trong khi Luke và Owen Wilson đang thảo luận để đóng vai cặp song sinh Malloy. Tuy nhiên, anh em nhà Wilson đã phải rời đi vì cam kết của họ với The Royal Tenenbaums. Mike Myers, Bruce Willis, Ewan McGregor, Alan Arkin và Ralph Fiennes đã được cân nhắc cho các vai diễn nhưng cuối cùng lại bỏ ngang. Các nhà làm phim Joel và Ethan Coen được coi là sự thay thế cho anh em nhà Wilson, nhưng thay vào đó, Soderbergh đã chọn Scott Caan và Casey Affleck. Mark Wahlberg ban đầu được chọn vào vai Linus Caldwell, nhưng lại được ưu tiên đóng vai chính trong một phiên bản làm lại khác, Planet of the Apes, và sau đó được thay thế bằng Matt Damon. Cam kết của Clooney với Ocean's Eleven buộc anh phải từ chối vai chính trong Unfaithful. Cú "nổ" được sử dụng trong phim để làm mất điện ở Las Vegas dựa trên Sandia Z-pinch ngoài đời thực. Tuy nhiên, hiệu ứng được hiển thị là không thực tế, vì không có thiết bị nào có đủ năng lượng để có thể làm được điều đó.
Chiến tranh thành Troia (còn được nhắc đến bằng các tên gọi như cuộc chiến thành Tơ-roa, chiến tranh Tơroa trong một số tài liệu) là một cuộc chiến quan trọng trong thần thoại Hy Lạp và được nhắc đến trong hai trường thi của Homer: Iliad và Odyssey. Cuộc chiến xảy ra khoảng 1184 TCN tại thành Troia. Nguyên nhân Chuyện bắt đầu bằng tiệc cưới của vua Hy Lạp Peleus và nữ thần biển Thetis. Tất cả các thần được mời tới dự tiệc, trừ ra Eris (Nữ thần Bất hòa, Xung đột, Lừa dối, Già nua, Buồn phiền), một nữ thần có tính nóng nảy, thường gây ra những tranh cãi giữa các thần. Tức giận, Eris bèn thả một quả táo vàng giữa bàn tiệc, có khắc chữ: "Cho người đẹp nhất!". Ba nữ thần Athena, Aphrodite và Hera tranh nhau quả táo. Zeus không thể phân xử được quả táo dành cho ai nên Thần đã trao lại trọng trách này cho Paris, chàng trai đẹp nhất châu Á và là hoàng tử thứ hai của thành Troia. Cả ba nữ thần đều hứa hẹn ban cho Paris những đặc ân nhưng cuối cùng Paris đã chọn Aphrodite, vì Aphrodite hứa sẽ ban cho chàng người phụ nữ đẹp nhất thế gian. Một thời gian sau đó, Paris tới viếng thành Sparta, được vua Sparta là Menelaus trọng đãi, và đã gặp Helen, vợ của Menelaus, một người quả có sắc đẹp tuyệt vời. Được nữ thần Aphrodite giúp đỡ, Paris đã chiếm được trái tim của Helen, và khi Paris rời Sparta, Helen đã bỏ Menelaus trốn theo Paris. Menelaus vô cùng tức giận, bèn tìm cách trả thù Paris, gây ra cuộc chiến thành Troia. Chuẩn bị Để chuẩn bị cho cuộc chiến, Menelaus tới cầu cứu anh là Agamemnon, vua của Mycenae, nhờ anh giúp trong công cuộc đoạt lại vợ. Đánh chiếm thành Troia không phải dễ vì phải chuyển quân qua biển, và thành Troia nổi tiếng kiên cố được xây dựng bởi bàn tay của hai vị thần là Apollo và Poseidon, cùng với một đoàn quân thiện chiến dẫn đầu bởi vị tướng tài ba Hector, hoàng tử anh trai của Paris. Agamemnon nhờ Odysseus, vị vua tài giỏi xứ Ithaca, tới thuyết phục Achilles, một chiến sĩ nổi tiếng bách chiến bách thắng. Odysseus còn tin rằng không có Achilles thì không bao giờ có thể chiếm được thành Troia. Achilles là con của nữ thần Thetis và Peleus, tuy mẹ thì bất tử nhưng bố là người trần, vì thế Achilles cũng sẽ như bố, không sống mãi mãi được. Để giúp sự trường tồn của con, Thetis đã dốc ngược người cậu bé, hai tay giữ bằng gót chân, rồi nhúng cả người cậu vào nước sông Styx, vậy cả người Achilles là mình đồng da sắt, chỉ có gân nơi gót chân là yếu vì khoảng đó không được nhúng nước. Tiên đoán con mình sẽ chết một ngày nào đó tại thành Troia, Thetis bèn giấu con trong cung điện của vua Lycomedes, giả làm gái. Trong công cuộc thuyết phục Achilles, Odysseus giả làm lái buôn tới bán nữ trang, và lúc trưng bày nữ trang cho các công chúa xem, đã vờ bỏ vài món vũ khí đẹp vào. Chỉ có Achilles là cầm cung tên lên ngắm nghĩa, nên đã bị lộ thân thế. Lấy danh vọng ra chiêu dụ, Odysseus đã rủ được Achilles đi theo vua Hy Lạp đánh trận, dù Achilles không phục tùng Agamemnon. Diễn biến Cuộc chiến này không chỉ xuất phát từ giới thần linh mà còn lôi kéo chính thần linh can dự vào và phân hóa họ thành hai phe. Phe ủng hộ thành Troia gồm nữ thần tình yêu và sắc đẹp Aphrodite và chồng là Chiến thần Ares, cùng thần ánh sáng Apollo. Phe kia thì là hai nữ thần thua cuộc là nữ thần trí tuệ Athena, người ủng hộ nhiệt thành cho Odysseus và nữ thần Hera. Trận chiến kéo dài mười năm, không phân thắng bại, vì thành Troia được xây bằng đá kiên cố, và được các nước lân cận giúp đỡ. Có một thời gian Achilles lại không chịu ra trận vì giận Agamemmon đã chiếm Briseis, một nàng nô lệ xinh đẹp. Khi người tình, Patroclus lấy áo mão của Achilles ra trận và bị Hector giết chết, thì lúc đó Achilles mới chịu trở lại trận chiến để trả thù cho Patroclus. Achilles và Hector đã đánh với nhau một trận kịch liệt, cuối cùng Achilles đã giết được Hector, nhưng quân Hy Lạp vẫn không làm sao vào được thành Troia, vì thành được giữ rất vững vàng. Một ngày kia Odysseus, đã ra lệnh xây một con ngựa khổng lồ bằng gỗ, bên trong có các khoảng trống, quân Hy Lạp núp vào trong đó. Cả toán quân còn lại vờ nhổ trại, lên tàu rút lui ra khơi, để lại con ngựa khổng lồ. Người dân Troia tò mò đã lôi ngựa vào thành, dù rằng nữ tiên tri Cassandra và tu sĩ Laocoon đã có lời ngăn chặn. Cả thành liên hoan ăn mừng chiến thắng, và tối đó khi mọi người đã say ngủ vì uống rượu và nhảy nhót suốt ngày, thì các binh lính của Hy Lạp đã phá ngựa, chui ra và mở cửa thành cho quân đội Hy Lạp vào. Thế là quân Hy Lạp đã đánh giết tan tành quân đội thành Troia và đốt cháy thành. Trong trận chiến Achilles bị Paris, do đã được thần Apollo tiết lộ điểm yếu của Achilles, bắn vào gót chân và Achilles tử trận. Từ đó thành ngữ gót chân Achilles là để nói tới điểm yếu của một người hoặc một lực lượng. Helen bị Melenaus bắt lại, nhưng Melenaus vẫn còn bị thu hút bởi sắc đẹp của Helen nên đã không giết nàng. Thành Troia bị đốt cháy, con của Hector bị tế thần để chấm dứt cuộc chiến 10 năm. Hậu chiến Tuy nhiên dư âm cuộc chiến thì vẫn còn. Trong lúc tàn phá thành Troia, quân Hy Lạp đã giết một nữ tiên tri lúc đang cầu khẩn nữ thần Athena. Thêm vào đó thần biển Poseidon có công khi giết chết vị tu sĩ già trong khi ông ngăn người thành Troia mang con ngựa gỗ vào thành, tuy nhiên vị thần này lại chẳng được nhớ tới khi cuộc chiến kết thúc. Việc làm này khiến cho gần như toàn bộ quân Hy Lạp bị chết trên biển khi trở về quê hương. Odysseus có lẽ là vị tướng may mắn nhất khi thoát được về Ithaca sau nhiều năm lênh đênh trên đại dương nhờ sự giúp đỡ từ Athena. Agamemnon thì bị giết khi trở về nhà bởi chính người vợ của mình, tương truyền là do bà đã ngoại tình với Aegisthus khi vị vua này ra trận, nên mới ra tay giết chồng. Aeneas (con trai của Anchises và nữ thần tình yêu Aphrodite) bỏ chạy khỏi thành Troia và mang theo một nhóm người đến Ý. Theo thần thoại La Mã, Aeneas và nhóm người đó chính là thủy tổ của người La Mã. Những hậu duệ La Mã của họ sau này đã dần xây dựng thành Rome, sau đó chinh phục toàn bộ Ý, rồi tiếp đó chinh phục toàn bộ vùng quanh Địa Trung Hải, bao gồm cả Hy Lạp, kiến lập nên Đế quốc La Mã thống trị châu Âu suốt 500 năm. Văn học Thành ngữ Quả táo vàng Gót chân Achilles Con ngựa thành Troia
Trong toán học, một độ đo là một hàm số cho tương ứng một "chiều dài", một "thể tích" hoặc một "xác suất" với một phần nào đó của một tập hợp cho sẵn. Nó là một khái niệm quan trọng trong giải tích và trong lý thuyết xác suất. Một cách hình thức, độ đo là một hàm số cho tương ứng mỗi phần tử S của một tập -đại số X với một giá trị là một số thực không âm hoặc vô hạn. Các tính chất sau đây phải được thỏa mãn: Tập hợp rỗng có độ đo bằng không: , Độ đo là -cộng tính: nếu E1, E2,... là các tập hợp chứa trong σ-đại số X, đếm được và không giao nhau từng đôi một, và nếu E là hợp của chúng, thì độ đo bằng tổng . Nghĩa là Nếu μ là một độ đo trên σ-đại số X, thì mọi phần tử của σ-đại số X được gọi là μ-mesurable (μ-đo được), hay đơn giản hơn là đo được. Một bộ gồm tập hợp Ω, một σ-đại số X trên Ω và một độ đo μ trên X được gọi là một không gian đo được, ký hiệu là (Ω, X, μ). Tính chất Các tính chất sau đây có được từ các tiên đề trên: Tính đơn điệu: Nếu E1,E2,... là các tập đo được và E1 là tập con của E2, thì μ(E1) ≤ μ(E2). Tính hợp đếm được: Nếu E1,E2,E3,... là các tập đo được và En chứa trong En+1 với mọi n, vậy thì hợp E của các tập En là đo được và μ(E) = lim μ(En). Tính giao đếm được: Nếu E1,E2,E3,... là các tập đo được và En+1 chứa trong En với mọi n, vậy thì giao E của các tập En là đo được; hơn nữa, nếu tồn tại một tập En có độ đo hữu hạn, thì μ(E) = lim μ(En). Một tập S được gọi là hầu như rỗng hay có thể bỏ được nếu μ(S) = 0. Độ đo μ được gọi là đủ nếu mọi tập con của một tập hầu như rỗng là đo được (một tập con như vậy thì bản thân nó cũng là một tập hầu như rỗng). Ví dụ Sau đây là một vài ví dụ tiêu biểu về độ đo: Độ đo đếm được định nghĩa bởi = số phần tử của S. Độ đo Lebesgue là độ đo đủ duy nhất bất biến qua phép dịch chuyển trên σ-đại số chứa các đoạn trên sao cho với Độ đo Haar cho một nhóm khả tô pô compact địa phương là trường hợp đặc biệt quan trọng của độ đo (chính xác hơn là độ đo Radon). Nó bất biên đối với phép dịch chuyển trong nhóm. Độ đo không được định nghĩa bởi với mọi S. Mọi không gian khả xác suất đều cho phép định nghĩa một độ đo nhận giá trị bằng 1 cho tập hợp toàn thể (và cũng nhận tất cả các giá trị trong đoạn [0, 1]). Một độ đo như vậy được gọi là một độ đo xác suất. Xem các tiên đề xác suất. Các khái niệm metric như độ dài, diện tích, thể tích đều là độ đo. Tổng quát Trong một vài trường hợp, sẽ rất có ích nếu ta có một "độ đo" cho các giá trị không bị giới hạn chỉ ở các số thực dương và ở vô hạn. Ví dụ, một hàm σ-cộng tính được định nghĩa trên các tập hợp và cho các giá trị dương được gọi là "độ đo đảm bảo" (độ đo signée), trong khi một hàm cũng như vậy, nhưng cho giá trị là các giá trị phức, được gọi là "độ đo phức". Một độ đo cho các giá trị trong một không gian Banach được gọi là "độ đo ảo" (độ đo spectrale). Các độ đo này được dùng chủ yếu trong giải tích hàm cho định lý ảo (định lý spectral). Về khái niệm độ đo "cộng tính" hay "trung bình", định nghĩa tương tự như định nghĩa của độ đo nhưng tính σ-cộng tính được thay bởi tính cộng tính hữu hạn. Thật ra trước đây định nghĩa này được đưa vào trước, nhưng lại có ít ứng dụng trong thực tế. Một kết quả đáng lưu ý trong hình tích phân, được biết dưới cái tên định lý Hadwiger, phát biểu rằng: không gian các bất biến hàm qua một phép biến đổi, cộng tính, là hàm số của các tập hợp không nhất thiết dương và được định nghĩa trên hợp của các tập compact lồi trong , được cấu thành từ các độ đo đồng nhất bậc k với mọi k = 0,1,2,...,n và tổ hợp tuyến tính của các "độ đo" này. Tính "đồng nhất bậc k" nghĩa là "mở rộng" bất kỳ một tập hợp nào đó bởi bất kỳ một hệ số c>0 nào đó cho nhân "độ đo" của tập hợp với ck. Độ đo duy nhất có tính đồng nhất bậc n là thể tích thông thường với số chiều là n. Độ đo duy nhất có tính đồng nhất bậc n-1 là "thể tích bề mặt" và được gọi là độ đo bề mặt. Độ đo có tính đồng nhất bậc 1 được gọi là "chiều rộng trung bình" (largeur moyenne). Độ đo có tính đồng nhất bậc 0 là đặc trưng Euler.
Mô hình khung lưới (tiếng Anh: wireframe model) là biểu hiện có thể nhìn thấy của một hình thức đại diện điện tử về một đối tượng hoặc một vật thể trong không gian ba chiều được sử dụng trong đồ họa máy tính ba chiều (3D computer graphics). Mô hình được kiến tạo bằng cách xác định các cạnh của vật thể, nơi hai mặt phẳng toán học gặp nhau, hoặc bằng cách nối các điểm đỉnh hợp thành (constituent vertices) của một đối tượng dùng các đường thẳng hoặc các đường cong. Đối tượng được chiếu lên trên màn hình máy tính bằng cách vẽ những đường thẳng tại vị trí các cạnh của đối tượng. Việc sử dụng mô hình khưng lưới cho phép người ta hình dung được kết cấu bên trong của một mô hình ba chiều (3D). Biểu hiện hai chiều truyền thống hoặc bức tranh hai chiều của nó có thể được kiến tạo bằng cách xoay chuyển đối tượng và chọn lựa xóa các đường ẩn (hidden line removal) - những đường mà thường khi người ta không thể trông thấy - thông qua các mặt phẳng cắt ngang. Do việc tính toán để diễn hình các khung lưới tương đối đơn giản và nhanh chóng, diễn hình thường được sử dụng trong những trường hợp đòi hỏi tỷ lệ số hình ảnh vẽ trên màn hình cao (chẳng hạn, khi làm việc với một mô hình 3D phức tạp nào đấy, hoặc trong các hệ thống thời gian thực (real-time systems ) mô hình các hiện tượng ngoài trời (exterior phenomena). Khi các chi tiết đồ họa đòi hỏi cao hơn, thì các chất liệu bề mặt được tự động cho thêm, sau khi đã hoàn thành việc diễn hình đầu tiên khung lưới của vật thể. Việc làm trên cho phép nhà thiết kế nhanh chóng xem qua các thay đổi, hoặc xoay chuyển đối tượng đến một góc nhìn mong muốn, mà không bị sự trì trệ của quá trình kết xuất ảnh hưởng. Hình thức khung lưới khá thích hợp và được sử dụng rộng rãi trong các tuyến công cụ lập trình (programming tool path) đối với các công cụ máy móc điều khiển số trực tiếp (Direct Numerical Control, DNC). Ghi chú
Thế giới Tự do là một thuật ngữ xuất hiện vào thời kỳ chiến tranh Lạnh, được sử dụng bởi các quốc gia tư bản không cộng sản (thường là Mỹ và Tây Âu) để mô tả về chính các quốc gia này. "Thế giới Tự do" được các nước tư bản dùng để gọi những quốc gia mà họ coi là có bầu cử công bằng và nhân dân có đầy đủ quyền con người, thuật ngữ này thường được phương Tây dùng để chỉ chính họ trong sự tương phản với các nước khác, ví dụ như các nước thuộc khối Xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, thực tế nhiều nước có chính phủ độc tài cũng được phương Tây coi là thuộc "Thế giới tự do", miễn là chính phủ các nước này ủng hộ chủ nghĩa tư bản, là đồng minh của phương Tây và chủ nghĩa chống Cộng. Ví dụ đáng chú ý bao gồm Tây Ban Nha thời phát xít Francisco Franco, Hàn Quốc dưới chính quyền độc tài Phác Chính Hy, Đài Loan dưới chính quyền độc tài Tưởng Giới Thạch, Nam Phi (dưới chế độ Apartheid được Anh quốc ủng hộ) và Hy Lạp (dưới chế độ độc tài quân sự những năm 1960 - 1970). Trong chiến tranh Việt Nam, các nước gửi quân trợ giúp Hoa Kỳ cũng được Hoa Kỳ coi là thuộc "thế giới tự do" và liên minh đó được gọi là "Quân lực thế giới tự do", dù thực tế thì Hàn Quốc và Philippines là những nước có chính phủ độc tài ở thời kỳ đó. Vì vậy, thuật ngữ "Thế giới tự do" bị nhiều người coi là một chiêu bài tuyên truyền lừa dối, mang tính đạo đức giả của phương Tây hơn là dựa theo thực tế. Từ này thường được các nước tư bản phương Tây sử dụng để mô tả sự đối lập giữa họ với các nước theo chủ nghĩa cộng sản thời Chiến tranh lạnh. Đối lại, các nước có chính phủ ủng hộ chủ nghĩa cộng sản gọi mình là "Khối Xã hội chủ nghĩa" và gọi các nước phương Tây là "Khối tư bản", hoặc "Khối thực dân đế quốc". Vì vai trò lớn của Hoa Kỳ trong chiến tranh Lạnh, Tổng thống Hoa Kỳ nhiều lúc được báo chí phương Tây gọi là "nhà lãnh đạo của Thế giới Tự do", đặc biệt là ở báo chí tại Hoa Kỳ. Sau năm 1991, cách gọi này được loại bỏ, một phần vì nó kích động Chủ nghĩa bài Mỹ ở các nước khác. Ngày nay, khi chiến tranh Lạnh kết thúc, theo Samuel P. Huntington, thuật ngữ này đã được thay thế bằng khái niệm "cộng đồng thế giới" mà ông lập luận rằng "đã trở thành danh từ hoa mỹ mới (thay thế "thế giới tự do") nhằm hợp pháp hành động tranh đoạt lợi ích của Hoa Kỳ và các cường quốc phương Tây khác trên toàn thế giới". Theo báo Nhân dân tại Việt Nam, Mỹ luôn tự ca ngợi mình là "thế giới tự do" và tự cho mình quyền mang các giá trị "tự do, dân chủ" áp đặt khắp năm châu, trong khi chính nước Mỹ có tỷ lệ tội phạm cao gấp 10 lần các nước phát triển khác, và chính phủ Mỹ còn lập cả hệ thống nhà tù bí mật ở nước ngoài, được điều hành bởi Cục Tình báo Trung ương (CIA), tại đó phạm nhân bị đối xử bất công, vô nhân đạo, vi phạm Công ước Liên Hiệp quốc.
Kỹ thuật xóa đường ẩn (tiếng Anh: Hidden line removal) là một chi nhánh mở rộng của kỹ thuật diễn họa khung lưới, trong đó các đường thẳng (hay các đoạn của đường thẳng) bị các bề mặt che đi không được vẽ ra. Kỹ thuật này không tương tự như kỹ thuật xóa bề mặt ẩn, vì kỹ thuật này liên quan đến chiều sâu, sự che khuất (occlusion ), trong khi cái kia liên quan đến các pháp tuyến (normals) - đường thẳng 90 độ với bề mặt mặt phẳng. Một thuật toán thường được sử dụng để thi hành là thuật toán của Arthur Appel (do IBM phát triển cuối những năm 1960). Thuật toán này hoạt động bằng cách tăng tiến mức độ có thể trông thấy được của một phần trong tầm nhìn đến một phàn mà mức độ có thể trông thấy của nó chưa được xác định. Do một số trường hợp vô lý tồn tại cho nên chúng gây khó khăn trong việc thực hiện thuật toán này. Những trường hợp đó là: Các điểm đỉnh nằm trên đường mép Các đường mép nằm trên các đỉnh điểm Các đường mép nằm trên các đường mép Thuật toán này là một thuật toán không bền, dễ thay đổi, bởi vì một sai số trong tầm nhìn sẽ tăng tiến và ảnh hưởng tới những nút tiếp theo (tuy nhiên hiện có nhiều phương pháp bù trừ để giải quyết vấn đề này). Ông James Blinn là người đã cho phát hành một bài viết đối với vấn đề trên.
Trong đồ họa máy tính, kết xuất đồ họa (tiếng Anh: rendering), gọi tắt là kết xuất, là một quá trình kiến tạo một hình ảnh từ một mô hình (hoặc một tập hợp các mô hình) thành một cảnh phim hoặc hình ảnh nào đó bằng cách sử dụng phần mềm máy tính. Mô hình là mô tả của các đối tượng ba chiều bằng một ngôn ngữ được định nghĩa chặt chẽ hoặc bằng một cấu trúc dữ liệu. Mô tả này bao gồm các thông tin về hình học, điểm nhìn, chất liệu và bố trí ánh sáng của đối tượng. Hình ảnh này có thể là một hình ảnh số (digital image) hoặc một hình ảnh đồ họa điểm (raster graphics image). Thuật ngữ này có thể tương đồng với "quá trình một họa sĩ vẽ" một phong cảnh nào đấy. Thuật ngữ "kết xuất" còn được dùng để chỉ quá trình tính toán các hiệu ứng trong một tập tin biên tập phim để tạo kết quả video cuối cùng. Kết xuất đồ họa là một trong các chủ đề con chính của đồ họa máy tính ba chiều (3D computer graphics). Trong thực tiễn, nó luôn luôn có quan hệ chặt chẽ với các chủ đề khác. Trong 'quy trình xử lý đồ họa' (graphics pipeline), kết xuất là bước quan trọng cuối cùng để tạo ra diện mạo kết cục của các mô hình và hoạt hình. Với tính phức tạp của đồ họa máy tính ngày càng tăng, từ năm 1970 đến nay, kết xuất đồ họa đã trở thành một chủ đề riêng biệt. Kết xuất đồ họa được sử dụng trong: trò chơi video và điện tử (computer and video games), trong các chương trình mô phỏng (simulators), trong điện ảnh (movies) hay trong hiệu ứng đặc biệt (special effects) trên TV, và trong hình tượng hóa thiết kế (design visualisation), mỗi cái áp dụng một cân bằng giữa các đặc trưng và kỹ thuật khác nhau. Hiện nay còn có nhiều sản phẩm phần mềm đa dạng dùng cho việc kết xuất đồ họa. Một số được kết hợp trong những bộ phần mềm tạo mô hình và làm phim hoạt họa, một số khác là những phần mềm đứng riêng (stand-alone) và một số là những dự án nguồn mở tự do (free open-source projects). Bên trong chúng, chương trình kết xuất đồ họa là một chương trình ứng dụng được thiết kế và xây dựng một cách cẩn trọng, dựa trên một số kiến thức của các ngành: vật lý quang học, nhận thức thị giác (visual perception), toán học và phát triển phần mềm. Trong trường hợp đồ họa 3D, việc kết xuất là một quá trình chậm chạp, chẳng hạn như trong tiến trình kết xuất trước (pre-rendering), hoặc trong việc kết xuất trong thời gian thực (real time rendering). Kết xuất trước là một tiến trình đòi hỏi một khối lượng tính toán lớn, đặc biệt được dùng trong việc tạo phim điện ảnh, trong khi đó, kết xuất trong thời gian thực thường được sử dụng trong các trò chơi điện tử 3D (3D video games), và phụ thuộc vào các bộ điều hợp đồ họa (graphics cards) với bộ tăng tốc phần cứng 3D (3D hardware accelerators). Sử dụng Sau khi hình ảnh sơ đẳng (thường là một bản vẽ phác thảo khung lưới) được hoàn chỉnh, quá trình kết xuất mới bắt đầu để cho thêm những chất liệu bề mặt dạng bitmap (bitmap textures) hoặc những chất liệu bề mặt mô tả các quy luật toán học (procedural textures), bố trí ánh sáng, tạo hiệu ứng bề mặt sần (bump mapping), và vị trí tương đối với các vật thể khác. Kết quả là một bức ảnh mà khách hàng, hoặc người xem mà nó có nhã ý dành cho, nhìn thấy. Đối với hoạt họa trong phim điện ảnh, vài hình ảnh (các khung hình) (frames) phải được kết xuất cùng một lúc, và những hình ảnh này được nối vào với nhau bằng một chương trình ứng dụng có khả năng tạo phim hoạt họa. Phần lớn các chương trình ứng dụng biên tập hình ảnh 3D đều có khả năng làm việc này. Đặc trưng Người ta có thể hiểu một hình ảnh đã được kết xuất thông qua một số đặc điểm có thể nhìn thấy được của nó. Động cơ thúc đẩy việc nghiên cứu và phát triển kết xuất đồ họa là nhằm vào việc tìm kiếm các phương pháp để mô phỏng các đặc điểm này một cách hiệu quả. Một số trong những phương pháp đó liên quan trực tiếp đến các thuật toán và các kỹ thuật cụ thể, trong khi những phương pháp khác được sản sinh đồng thời trong quá trình tìm kiếm: kỹ thuật tô bóng (shading) — dưới sự bố trí ánh sáng nhất định, màu sắc và cường độ ánh sáng trên bề mặt thay đổi như thế nào kỹ thuật tạo chất liệu (texture-mapping ) — một phương pháp cho thêm chi tiết vào các bề mặt của vật thể kỹ thuật tạo bề mặt sần (bump-mapping) — một phương pháp tái tạo hiệu ứng nhấp nhô, lổn nhổn của các bề mặt trên phạm vi thu nhỏ kỹ thuật tạo hiệu ứng xa mờ/ảnh hưởng trên các vật chất (fogging/participating medium ) — ánh sáng bị tối đi như thế nào khi chúng xuyên qua khí quyển không trong sạch hoặc xuyên qua không khí kỹ thuật tạo hiệu ứng bóng tối (shadows ) — ảnh hưởng của ánh sáng khi chúng bị che lấp bởi vật thể (ngả bóng chẳng hạn) kỹ thuật tạo hiệu ứng bóng tối mềm (soft shadows) — sự biến thiên của bóng tối gây ra do nguồn ánh sáng chỉ bị che khuất một phần kỹ thuật tạo hiệu ứng phản quang (reflection) — hiệu ứng phản quang như gương hoặc bởi những bề mặt bóng loáng kỹ thuật tạo hiệu ứng trong suốt (transparency) — hiệu ứng truyền ánh sáng xuyên qua các vật thể đặc kỹ thuật tạo hiệu ứng trong mờ (translucency) — sự phân tán cao độ của ánh sáng khi được truyền xuyên qua các vật thể đặc kỹ thuật tạo hiệu ứng khúc xạ (refraction) — sự đổi hướng của ánh sáng khi truyền qua những vật thể trong suốt kỹ thuật tạo hiệu ứng chiếu sáng gián tiếp (indirect illumination) — các bề mặt hừng sáng khi ánh sáng phản quang từ các bề mặt khác mà không phải do nguồn sáng trực tiếp chiếu vào tính tụ quang (một hình thức của tính phản quang) — sự phản quang của ánh sáng từ một vật thể bóng loáng, hay sự hội tụ của ánh sáng khi xuyên qua một vật trong suốt, tạo nên các điểm chói sáng trên các vật thể khác kỹ thuật tạo hiệu ứng chiều sâu của tầm nhìn (depth of field) — các vật thể mờ đi hoặc không rõ khi chúng nằm quá xa, hoặc nằm sau một vật đang ở trong tầm mắt kỹ thuật tạo hiệu ứng nhòe hình của vật chuyển động (motion blur) — vật thể bị nhòe đi trong khi đang chuyển động với tốc độ cao, hoặc do chuyển động của máy quay phim kỹ thuật tạo hình thái như thật của ảnh chụp (photorealistic morphing) — tạo hiệu ứng như ảnh chụp của kết xuất 3D làm cho hình ảnh giống như thật kỹ thuật kết xuất không giống ảnh chụp (non-photorealistic rendering) — kết xuất các phong cảnh theo phong cách họa sĩ, với dụng ý làm cho nó giống cách bức tranh (sơn dầu) hay những hình vẽ Kỹ thuật Nhiều thuật toán kết xuất đồ họa đã được nghiên cứu và phần mềm dùng trong quá trình kết xuất có thể áp dụng một số những kỹ thuật kết xuất để đạt được hình ảnh cuối cùng. Mô phỏng lại từng tia sáng một trong một khung cảnh là một việc không thực tiễn và đòi hỏi một lượng thời gian khổng lồ. Ngay cả khi chỉ xác định một phần đủ lớn để sinh tạo một hình ảnh cũng đã đòi hỏi một lượng thời gian lớn quá mức nếu quá trình lấy mẫu không được hạn chế một cách khéo léo và thông minh. Chính vì những nguyên nhân nói trên, bốn phương pháp kết xuất ảnh đã và đang được phát triển nhằm đáp ứng những loại yêu cầu khác nhau kỹ thuật tạo ảnh điểm (rasterisation), bao gồm việc kết xuất đường quét màn hình (scanline rendering), cân nhắc các đối tượng trong phong cảnh và diễn đạt chúng để tạo nên một hình ảnh, trong khi không có phương tiện để kiến tạo hiệu ứng luật xa gần (perspective) của một góc nhìn; kỹ thuật chiếu tia sáng (ray casting) tái hiện khung cảnh như được quan sát từ một góc nhìn cụ thể, tính toán hình ảnh quan sát được dựa trên tính hình học và các quy luật quang học căn bản về cường độ phản quang của ánh sáng, hoặc sử dụng các kỹ thuật Monte Carlo để làm giảm độ nhiễu (noise) (làm cho ảnh rõ hơn); và kỹ thuật dò tia sáng tia (ray tracing), một phiên bản tổng quát hơn của phương pháp ray casting, thường sử dụng các kỹ thuật Monte Carlo để đạt được kết quả trông giống thật hơn, với một tốc độ nhanh hơn gấp nhiều lần so với tốc độ rất chậm thường thấy của quá trình này. Đa số những phần mềm tân tiến kết hợp từ hai kỹ thuật trở lên để đạt được kết quả khả quan với phí tổn ở mức độ có thể chấp nhận được. Kết xuất đường quét và tạo điểm ảnh Hình thức đại diện cao cấp của một bức ảnh là một hình thức cần phải chứa đựng những yếu tố ở một thể dạng khác với các điểm ảnh (pixels). Những yếu tố này được gọi là những nguyên thủy (primitives). Lấy ví dụ, trong một bức giản đồ, các đoạn đường thẳng và đường cong là những nguyên thủy. Trong giao diện đồ họa người dùng, các cửa sổ, các nút bấm còn có thể được gọi là những nguyên thủy. Đối với kết xuất hình ba chiều, các tam giác và đa giác trong không gian cũng có thể là các nguyên thủy. Nếu kết xuất từng điểm ảnh (pixel-by-pixel rendering) là một phương pháp không thực tiễn, hoặc quá chậm đối với một nhiệm vụ nào đấy, thì phương pháp kết xuất từng nguyên thủy một có thể là một phương pháp có tác dụng hơn. Ở đây, thuật toán được lặp đi lặp lại (loops) qua từng nguyên thủy một, xác định điểm ảnh nào trong bức ảnh nó tác động đến, và biến đổi những điểm ảnh này. Quá trình này được gọi là quá trình tạo điểm ảnh (rasterization), và nó là phương pháp kết xuất trong tất cả các bộ điều hợp đồ họa (graphics cards) hiện thời. Phương pháp tạo điểm ảnh thường nhanh hơn phương pháp kết xuất từng điểm ảnh một (pixel-by-pixel rendering). Thứ nhất, phần lớn địa phận trong bức ảnh không có các nguyên thủy, phương pháp tạo điểm ảnh sẽ bỏ qua những địa phận này, song phương pháp kết xuất từng chấm ảnh một phải kinh qua chúng. Thứ hai, phương pháp tạo điểm ảnh còn có thể cải tiến sự gắn kết của cache (cache coherency) và giảm ước những công việc thừa, không cần phải làm, bằng cách áp dụng lợi thế của thực tiễn là các chấm ảnh trong một nguyên thủy thường có xu hướng kế cận liên tiếp (contiguous). Chính vì những nguyên nhân này, khi cần phải kết xuất tương tác, phương pháp tạo điểm ảnh thường là một tiếp cận người ta lựa chọn; tuy nhiên, phương pháp kết xuất từng chấm ảnh một lại thường tạo ảnh có chất lượng cao hơn và năng động hơn vì nó không phụ thuộc vào các giả định về bức ảnh nhiều như phương pháp tạo điểm ảnh. Có hai hình thức tạo điểm ảnh chính tồn tại, không chỉ khi toàn bộ một bề mặt (nguyên thủy) được kết xuất, song ngay cả khi các giao điểm của một bề mặt đã được kết xuất và sau đó các chấm ảnh trên bề mặt nằm giữa các giao điểm được kết xuất bằng cách dung hòa màu của các giao điểm với nhau, từ cái này đến cái kia, phương pháp tạo điểm ảnh này đã vượt trội và thay thế phương pháp cũ vì nó cho phép các mảng đồ họa được kết nối với nhau mà không cần dùng chất liệu phức tạp (một hình ảnh được kết xuất điểm ảnh (rasterized image) khi được chắp nối kề bên nhau thường gây hiệu ứng từng khối riêng nếu chúng không được bao phủ bằng những chất liệu phức tạp; các bề mặt không được nhẵn nhụi, vì không có sự chuyển màu từ từ giữa chấm ảnh này đến chấm ảnh khác), sử dụng các hàm tạo bóng (shading functions) đắt đỏ hơn của bộ điều hợp đồ họa, song vẫn đạt được công suất cao hơn vì những chất liệu đơn giản hơn được lưu trữ trong bộ nhớ sử dụng khoảng trống ít hơn. Đôi khi, các nhà thiết kế sử dụng một phương pháp tạo điểm ảnh trên một số bề mặt này, và sử dụng các phương pháp khác trên các bề mặt khác, dựa trên cơ sở góc độ nơi bề diện ấy giao tiếp và các bề mặt khác hội nhập, và do vậy tăng tốc độ của quá trình, đồng thời không làm tổn hại đến hiệu ứng chung. Chiếu quang tia Chiếu quang tia (Ray casting) được sử dụng chủ yếu trong các mô phỏng thời gian thực (tức khắc), như trong các trò chơi điện tử 3D hoặc trong hoạt hình các hình ảnh vẽ (phim hoạt họa), nơi chi tiết là một điều không quan trọng, hoặc nơi tự mình tạo giả các chi tiết hòng đạt được công suất cao hơn trong quá trình tính toán là một việc có tác dụng hơn. Việc này thường thấy trong trường hợp phải hoạt hình một số lượng khung ảnh lớn. Các bề diện tạo nên có đặc tính là chúng có bề mặt 'phẳng lì', khi người ta không sử dụng các thủ thuật bên ngoài, giống như các vật thể trong phong cảnh được quét một làn sơn xỉn kết thúc vậy. Tính hình học được mô hình hóa ở đây được phân tích bằng từng chấm từng chấm một, bằng từng đường thẳng một, từ điểm nhìn chiếu ra, tương tự như các quang tia được chiếu ra từ điểm nhìn. Tại giao điểm nơi hai đối tượng cắt ngang nhau, giá trị màu tại điểm này có thể được xác định bằng một số phương pháp. Cách đơn giản nhất, giá trị màu của đối tượng tại giao điểm chính là giá trị của chấm ảnh. Màu của nó còn có thể được lấy từ hình chất liệu (texture map) nữa. Một phương pháp phức tạp hơn là phương pháp thay đổi giá trị màu bằng độ hừng sáng, song không tính toán mối quan hệ với một nguồn sáng mô phỏng. Để thuyên giảm nhiễu, những quang tia có góc độ hơi khác nhau một chút có thể được tính bằng giá trị trung bình của chúng. Nhiều sự mô phỏng tương đối các đặc tính quang học còn có thể được áp dụng thêm vào, chẳng hạn làm thêm một phép tính đơn giản trên quang tia, từ đối tượng đến điểm nhìn. Một phép toán nữa là phép toán tính góc của các quang tia chiếu tới từ một hay nhiều nguồn sáng (angle of incidence of light rays), và từ đó, cộng với cường độ ánh sáng của nguồn, giá trị của chấm ảnh được xác định. Một mô phỏng khác nữa là phương pháp dùng giá trị hừng sáng lấy được từ thuật toán tính sự va đập của ánh sáng, hoặc là sự phối hợp của cả hai cái này gộp lại. Tính va đập của ánh sáng Thuật toán tính sự va đập của ánh sáng (Radiosity) là một phương pháp nhằm mô phỏng sự phản xạ của ánh sáng, không những chỉ phản xạ sang một mặt phẳng khác mà thôi, song cả việc nó làm hừng sáng địa phận chung quanh nữa. Phương pháp này tạo nên các bóng tối thật hơn và hình như nắm bắt được không khí môi trường (ambiance) của quang cảnh bên trong nội thất. Một ví dụ kinh điển nhất đã được sử dụng là ví dụ về bóng tối bao trùm các góc phòng. Nền tảng quang học trong mô phỏng này dựa trên nguyên lý một số ánh sáng khuếch tán từ một điểm trên một bề mặt cho trước, được phản xạ lại với vô số các góc độ và làm hừng sáng địa phận bao quanh nó. Kỹ thuật mô phỏng có thể khác nhau về mức độ phức tạp. Nhiều quá trình kết xuất chỉ ước lượng tương đối tính va đập của ánh sáng, và chỉ đơn giản làm hừng sáng toàn bộ không gian của bức ảnh lên một chút với một cường độ được gọi là không khí môi trường (ambiance). Tuy thế, song khi thuật toán ước tính sự va đập ánh sáng tân tiến được đi đôi với một thuật toán dõi quang tia chất lượng cao (high quality ray tracing algorithm), các hình ảnh có thể biểu hiện tính sát thực của chúng ở một mức độ thuyết phục, đặc biệt là những phong cảnh nội thất. Trong kỹ thuật mô phỏng tính va đập của ánh sáng tân tiến, các thuật toán phần tử hữu hạn (finite-element algorithm) đệ quy làm 'nẩy tung' ánh sáng, bắn đi và bật trở lại giữa các bề mặt trong mô hình, cho đến khi một giới hạn đệ quy nào đấy kết thúc. Trong phương pháp này, việc bố trí màu sắc của một mặt phẳng ảnh hưởng tới việc bố trí màu sắc của bề mặt bên cạnh nó và ngược lại. Các giá trị về độ hừng sáng đạt được trong toàn bộ mô hình (đôi khi bao gồm cả những khoảng không gian trống rỗng) được lưu trữ và được sử dụng như những nhập liệu bổ sung khi thi hành các phép tính trong mô hình chiếu quang tia (ray-casting) hoặc mô hình dõi quang tia (ray-tracing). Do bản chất tương tác/quy đệ của kỹ thuật này, mô phỏng các vật thể phức tạp đặc biệt tốn nhiều thời gian và chậm trễ. Các phép toán tính sự va đập của ánh sáng tân tiến có thể chỉ dành cho việc tính toán không khí trong phòng, từ sự phản quang của ánh sáng từ các bức tường, sàn và trần nhà, mà không kiểm tra ảnh hưởng bổ sung mà các vật thể phức tạp tạo ra đối với sự va đập của ánh sáng—hoặc trong khi tính toán sự va đập của ánh sáng, chúng ta có thể thay thế các vật thể phức tạp bằng những vật thể đơn giản hơn, song có cùng độ lớn và cùng một chất liệu. Nếu sự bố trí lại các vật va đập ánh sáng trong một phong cảnh không thay đổi mấy thì dữ liệu về sự va đập ánh sáng này có thể được dùng lại trong một số khung ảnh, biến tính va đập của ánh sáng trở nên một phương pháp làm giảm tính bẹt, phẳng lì của phương pháp chiếu quang tia, mà không gây ảnh hưởng lớn đến thời gian kết xuất từng khung ảnh tổng thể. Bởi tính năng của nó, phép tính sự va đập ánh sáng trở nên phương pháp hàng đầu dùng để kết xuất trong thời gian thực, và nó được sử dụng từ đầu chí cuối trong việc xây dựng một số lượng lớn các phim hoạt họa 3D dài nổi tiếng gần đây. Dò tia sáng Phương pháp dò tia sáng (ray tracing) là phiên bản mở rộng (và tổng quát hơn) của phương pháp chiếu tia sáng (ray casting). Giống như các phương pháp trên, dò tia sáng giải quyết các vật thể khá thành công, và các vật thể còn có thể được diễn giải bằng toán học nữa. Khác với đường quét hình và chiếu quang tia, dõi quang tia hầu như luôn luôn là kỹ thuật Monte Carlo, có nghĩa là kỹ thuật dựa trên cơ sở tính trung bình một số mẫu lấy ngẫu nhiên (không theo một công thức nào) từ một mô hình. Trong kỹ thuật này, mẫu lấy là các quang tia tưởng tượng của ánh sáng cắt ngang điểm nhìn từ các vật thể trong phong cảnh. Kỹ thuật này có lợi chủ yếu trong trường hợp kết xuất bóng tối (ngả bóng), kết xuất sự khúc xạ hay kết xuất sự khản quang một cách phức tạp và chính xác là những vấn đề nan giải. Trong kết quả cuối cùng của một công trình kết xuất dõi quang tia có chất lượng (như công trình dàn dựng phim chẳng hạn), bội số các quang tia thường được chiếu vào mỗi một chấm ảnh và dõi theo, không chỉ tới vật thể đầu tiên khi bị cắt ngang, song cả tới những va đập tiếp theo nữa, bằng cách sử dụng những quy luật quang học đã biết như quy luật góc chiếu bằng góc phản xạ, và những quy luật giải quyết vấn đề khúc xạ và sự gồ ghề của bề mặt. Một khi quang tia gặp một nguồn sáng, hoặc trong trường hợp khả dĩ hơn, khi một nhóm số lượng giới hạn các va đập của quang tia đã được tính toán xong, thì độ hừng sáng của bề mặt tại điểm cuối cùng cũng tính được dùng các kỹ thuật đã diễn tả ở trên, và các thay đổi trên con đường thông qua các va đập được tính toán để ước lượng giá trị mà người ta quan sát được từ điểm nhìn. Phép toán này được nhắc lại cho mỗi mẫu hình lấy được, đối với mỗi chấm ảnh. Trong một số trường hợp, tại mỗi giao điểm, các tia sáng mới sẽ được sản sinh ra. Do tính chất "thô lực" của phương pháp này (tính từng tia sáng một), dò tia sáng không phù hợp với mục đích kết xuất theo thời gian thực (real-time rendering) và ngay cả đến gần đây, phương pháp này vẫn được coi là quá chậm chạp, ngay cả khi để dùng vào các phim ngắn có chất lượng, tuy nó cũng đã được sử dụng trong một số đoạn tạo hiệu ứng đặc biệt và trong quảng cáo, trong đó một đoạn phim ngắn đòi hỏi chất lượng cao (có thể như ảnh chụp nữa) là một yêu cầu. Tuy vậy, song nhiều cố gắng trong việc tối ưu hóa để thuyên giảm số lượng tính toán đòi hỏi trong các phần công việc, nơi không nhiều chi tiết hay không phụ thuộc vào các đặc trưng của dõi quang tia, đã dẫn đến khả năng thực tiễn sử dụng rộng rãi của kỹ thuật dõi quang tia. Hiện nay cũng đã có một số thiết bị phần cứng tăng tốc dõi quang tia, hoặc ít nhất cũng đã xuất hiện ở giai đoạn nghiên cứu nguyên mẫu (bản mẫu trước khi cho sản xuất hàng loạt), và một số trò chơi điện tử giới thiệu quảng cáo cũng đã trình diễn việc sử dụng dõi quang tia thời gian thực trong phần mềm và phần cứng. Tối ưu hóa Các phương pháp tối ưu hóa họa sĩ sử dụng trong khi xây dựng một phong cảnh Do số lượng tính toán lớn, một công trình đang còn trong quá trình phát triển chỉ kết xuất chi tiết phần đang được quan tâm tại thời điểm làm việc mà thôi, vì thế, trong những giai đoạn đầu của quá trình mô hình hóa, có thể người ta chỉ dùng mô hình khung lưới và kỹ thuật chiếu quang tia mà thôi, ngay cả khi kết quả xuất liệu phải là kết quả của dõi quang tia kết hợp với tính va đập ánh sáng. Người ta cũng thường chỉ kết xuất chi tiết một số phần của phong cảnh, và xóa bỏ các đối tượng không quan trọng đối với phần công việc hiện đang xây dựng. Những phương pháp tối ưu hóa phổ biến dùng trong quá trình kết xuất thời gian thực Đối với thời gian thực, đơn giản hóa một hoặc nhiều sự ước lượng tương đối chung là một điều cần thiết, và điều chỉnh cho đúng với các tham số của phong cảnh hiện đang quan tâm, tức là điều chỉnh cho đúng với những tham số đã thỏa thuận, là một việc làm gây hiệu quả nhiều nhất (get the most 'bang for the buck). Ngoài ra còn có một số tiếp cận tới kết xuất đồ họa, chẳng hạn như các phương pháp dùng hàm điều hòa cầu (spherical harmonics). Những kỹ thuật này không được nhiều người biết đến vì tốc độ chậm của chúng, vì tính thiếu tính thực dụng hoặc chỉ đơn giản là chúng vẫn còn quá non nớt; có thể một số trong chúng sẽ cho chúng ta một giải pháp mới. Lấy mẫu và thanh lọc Một vấn đề mà bất cứ một hệ thống kết xuất đồ họa nào cũng phải giải quyết, bất kể hệ thống ấy dùng tiếp cận nào, là vấn đề lấy mẫu (sampling problem). Nhìn chung, quá trình kết xuất là quá trình cố gắng miêu tả một hàm số liên tục (continuous function) đi từ một vị trí pixel đến một giá trị màu sắc. Theo Lý thuyết Nyquist, tần số lấy mẫu ít nhất phải gấp hai lần tỉ lệ điểm ảnh (the scanning frequency must be twice the dot rate), nghĩa là nó có tỷ lệ thuận với độ phân giải của hình ảnh. Nói một cách đơn giản hơn, điều này biểu lộ quan điểm rằng một hình ảnh không thể biểu hiện chi tiết nhỏ hơn một chấm ảnh. Nếu chúng ta sử dụng một thuật toán kết xuất đơn giản, các tần số cao trong hàm của hình ảnh sẽ gây ảo giác ngoại hình (aliasing) rất xấu trong hình ảnh kết thúc. Ảo giác ngoại hình thường biểu lộ dưới hình thức các hiệu ứng lởm chởm, các cạnh lởm chởm trên vật thể (như răng cưa), nơi hệ thống đường kẻ ổ của các chấm ảnh có thể nhìn thấy được. Để xóa bỏ ảo giác ngoại hình, tất cả các thuật toán kết xuất (nếu muốn sản sinh những hình ảnh đẹp) đều cần phải thanh lọc hàm của hình ảnh để lọc bỏ các tần số cao. Quá trình này được gọi là quá trình chống ảo giác ngoại hình (antialiasing). Xem thêm Thuật toán họa sĩ (the painter's algorithm) Các thuật toán đường quét hình như phương pháp kết xuất Reyes Thuật toán Z-buffer (Z-buffer algorithms) Chiếu sáng toàn cầu (Global illumination) Sự va đập của ánh sáng (Radiosity) Dõi quang tia (Ray tracing) Kết xuất thể tích (Volume rendering) Việc kết xuất các phim điện ảnh thường diễn ra trên một mạng lưới các máy tính được kết nối chặt chẽ với nhau, còn gọi là trang trại kết xuất (render farm). Đỉnh cao của kỹ thuật diễn đạt hình ảnh 3D hiện tại dành cho việc sản xuất phim điện ảnh là ngôn ngữ diễn tả phong cảnh RenderMan, được thiết kế tại Pixar. (so sánh với các dạng thức tập tin 3D đơn giản hơn như VRML hoặc API như OpenGL và DirectX được tạo để thích ứng với nhu cầu của các phần cứng tăng tốc 3D). Phần mềm dùng để kết xuất phim điện ảnh bao gồm: Các bộ kết xuất tương thích với RenderMan (RenderMan compliant renderers) Mental Ray Brazil Blender (còn có thể dùng trong mô hình hóa) LightWave (bao gồm cả môđun để mô hình hóa) Nền tảng hàn lâm Sự thực hiện của một chương trình kết xuất như thật luôn luôn bao gồm một số phần tử căn bản của mô phỏng vật lý hoặc bắt trước thực tế — một số phép tính hoặc là mô phỏng hoặc là trừu tượng của một quá trình thật sự xảy ra trong thực tế. Thuật ngữ dựa trên quan điểm của vật lý (physically-based) biểu hiện việc sử dụng các mô hình vật lý và các sự ước lượng hoặc là phổ biến hoặc là được chấp nhận rộng rãi bên ngoài phạm vi kết xuất. Một số kỹ thuật liên quan được nhóm lại và dần dần trở thành có uy tín trong cộng đồng kết xuất đồ họa. Các khái niệm cơ bản tuy tương đối dễ hiểu, song khá khó tính toán; và người ta thường né tránh những thuật toán hoặc tiếp cận đơn chiếc đầy tính tao nhã (single elegant algorithm), và chú trọng vào các chương trình kết xuất với nhiều tính năng phổ cập (general purpose renderers) hơn. Nghiên cứu kết xuất đồ họa quan tâm đến cả hai vấn đề, việc áp dụng các mô hình khoa học và ứng dụng có hiệu quả cao của chúng (efficient application). Phương trình kết xuất đồ họa Phương trình kết xuất, hay còn gọi là phương trình vận chuyển ánh sáng (light transport equation) là chìa khóa khái niệm lý thuyết / hàn lâm trong lĩnh vực kết xuất đồ họa. Phương trình có tác dụng như một biểu thức chính quy trừu tượng về mặt toán học của quá trình kết xuất đề hoạ. Tất cả các thuật toán kết xuất dựa trên nền tảng vật lý đều có thể được xem như những giải đáp cho phương trình này, hoặc các dạng khác của nó. Giải thích một cách trực quan: Lượng ánh sáng phát ra tại một điểm nào đó theo một hướng nào đó (Lo) là tổng của lượng ánh sáng mà điểm đó tự phát ra theo hướng đó(Le) và lượng ánh sáng từ môi trường xung quanh bị điểm đó phản xạ lại. Hàm phân bố năng xuất phản xạ hai chiều The Hàm phân bố năng xuất phản xạ hai chiều (Bidirectional Reflectance Distribution Function - BRDF) biểu đạt một mô hình đơn giản về sự tương tác của ánh sáng với một bề mặt như sau: Sự tương tác của ánh sáng thường được ước chừng bằng các mô hình đơn giản hơn: sự phản xạ khuếch tán và sự phản chiếu, tuy nhiên cả hai đều có thể là các BRDF. Các tính chất quang hình học Trên thực tế, kết xuất đồ họa chú trọng đến phương diện phần tử trong vật lý của ánh sáng — được gọi là các tính chất quang hình học (geometric optics). Đối xử ánh sáng, ở hình thức cơ bản, như các phần tử nhảy nhót lung tung, tuy là một giản ước song tương đối thích hợp: phương diện sóng của ánh sáng có thể bỏ qua trong hầu hết các phong cảnh, và đồng thời, nó cũng rất khó mô phỏng nữa. Đặc biệt lưu ý hiện tượng sóng còn bao gồm sự nhiễu xạ (diffraction) — như vẫn thấy trong các màu trên bề mặt các đĩa CD và DVD — hoặc như sự phân cực (polarisation) như vẫn thấy trong các hiển thị tinh thể lỏng (Liquid crystal display - LCD). Cả hai loại hiệu ứng, nếu cần, đều có thể được tạo nên bằng cách điều chỉnh mô hình phản quang theo định hướng diện mạo (appearance-oriented adjustment of the reflection model). Thị giác Tuy ít được sự chú ý, song sự hiểu biết về thị giác của con người rất có giá trị đối với quá trình kết xuất. Nguyên do là việc hiển thị hình ảnh và sự nhận thức của con người có tầm giới hạn. Một bộ kết xuất đồ họa có thể mô phỏng hầu như không giới hạn các khoảng giá trị cường độ của ánh sáng và các khoảng giá trị của màu sắc, song các thiết bị dùng để hiển thị — màn ảnh chiếu phim, màn hình máy tính, vân vân — không thể giải quyết hết được, và một số tư liệu phải bị lọc bỏ hay được nén lại. Sự nhận thức của con người cũng chỉ có giới hạn, cho nên chúng ta cũng không cần phải cho họ những hình ảnh chứa đựng nhiều tầm giá trị để tạo cảm quan như thật. Việc này còn giúp giải quyết vấn đề sắp xếp hình ảnh cho hợp với cỡ của các bộ hiển thị, và, hơn nữa, nó gợi ý việc sử dụng các đường tắt (short-cuts) trong mô phỏng kết xuất, vì một số những chi tiết tinh vi thường bị bỏ qua và ít khi được để ý đến. Chủ đề liên quan đến vấn đề này là chủ đề bố trí sắc thái (tone mapping) Các phép toán được sử dụng trong kết xuất bao gồm: đại số tuyến tính (linear algebra), tính vi tích (calculus), giải tích số (numerical analysis), xử lý tín hiệu (signal processing), Monte Carlo. Bảng niên đại những sáng kiến đã được công bố theo tầm quan trọng của nó 1970 Thuật toán tính đường quét màn hình (Scan-line algorithm) (Bouknight, W. J. (1970). Một thủ tục tạo biểu thị đồ họa máy tính ba chiều nửa tông (half-tone) (hiệu ứng in ảnh trắng đen trên báo chí). (Communications of the ACM) 1971 Phương pháp tô bóng của Gouraud (Gouraud shading) (Gouraud, H. (1971). Máy tính hiển thị các bề mặt cong. IEEE Transactions on Computers 20 (6), 623–629.) 1974 Liên kết chất liệu (Texture mapping) (Catmull, E. (1974). Một chi nhánh thuật toán dành cho việc máy tính hiển thị các bề mặt cong. Luận văn tốt nghiệp Tiến sĩ triết học, Trường đại học Utah, Mỹ) 1974 Z-buffer (Catmull, E. (1974). Một chi nhánh thuật toán dành cho việc máy tính hiển thị chiều sâu của ảnh và các vật thể xa gần) 1975 Tô bóng của Phong (Phong shading) (Phong, B-T. (1975). Sự chiếu sáng các hình ảnh do máy tính tạo ra. Communications of the ACM 18 (6), 311–316.) 1976 Liên kết hiệu ứng của môi trường chung quanh (Environment mapping) (Blinn, J.F., Newell, M.E. (1976). Chất liệu và sự phản quang trong các hình ảnh do máy tính tạo ra. Communications of the ACM 19, 542–546.) 1977 Thể tích bóng tối (Shadow volumes) (Crow, F.C. (1977). Các thuật toán tính bóng tối cho các đồ họa máy tính. Computer Graphics (Proceedings of SIGGRAPH 1977) 11 (2), 242–248.) 1978 Dữ liệu về bóng tối trong bộ nhớ trung gian (Shadow buffer) (Williams, L. (1978). Ngả bóng trên các bề mặt cong. Computer Graphics (Proceedings of SIGGRAPH 1978) 12 (3), 270–274.) 1978 Liên kết hiệu ứng bề mặt sần (Bump mapping) (Blinn, J.F. (1978). Mô phỏng các bề mặt nhăn nheo. Computer Graphics (Proceedings of SIGGRAPH 1978) 12 (3), 286–292.) 1980 Cấu trúc phả hệ phân chia không gian (Binary Space Partitioning Tree) (Fuchs, H. Kedem, Z.M. Naylor, B.F. (1980). Liên quan việc thực hiện các cấu trúc dữ liệu phả hệ để bố trí các bề mặt, cái nào đứng trước, cái nào đứng sau, phần nào nhìn thấy được, phần nào bị che kín. Computer Graphics (Proceedings of SIGGRAPH 1980) 14 (3), 124–133.) 1980 Dõi quang tia (Ray tracing) (Whitted, T. (1980). Nâng cấp của mô hình chiếu sáng đối với việc hiển thị tô bóng. Communications of the ACM 23 (6), 343–349.) 1981 Phần mềm tô bóng của Cook (Cook shader) (Cook, R.L. Torrance, K.E. (1981). Một mô hình năng xuất phản xạ đối với các đồ họa máy tính. Computer Graphics (Proceedings of SIGGRAPH 1981) 15 (3), 307–316.) 1983 Chồng nhóm các loại cỡ của mảng hình chất liệu (Mipmaps) (Williams, L. (1983). Các thông số được sắp xếp theo hình chóp nón của kim tự tháp. Computer Graphics (Proceedings of SIGGRAPH 1983) 17 (3), 1–11.) 1984 Dõi quang tia với phả hệ tám nhánh (Octree ray tracing) (Glassner, A.S. (1984). Sự phân chia khoảng không thành những phần nhỏ hơn để tăng tốc độ dõi quang tia. IEEE Computer Graphics & Applications 4 (10), 15–22.) 1984 Hợp tử kênh Alpha (Alpha compositing) (Porter, T. Duff, T. (1984). Tổ hợp các hình ảnh số. Computer Graphics (Proceedings of SIGGRAPH 1984) 18 (3), 253–259.) 1984 Dõi quang tia phân bố (Distributed ray tracing) (Cook, R.L. Porter, T. Carpenter, L. (1984). Dõi quang tia phân bố. Computer Graphics (Proceedings of SIGGRAPH 1984) 18 (3), 137–145.) 1984 Tính va đập của ánh sáng (Radiosity) (Goral, C. Torrance, K.E. Greenberg, D.P. Battaile, B. (1984). Mô hình hóa mối tương tác của ánh sáng giữa các bề mặt khuếch tán. Computer Graphics (Proceedings of SIGGRAPH 1984) 18 (3), 213–222.) 1985 Tính sự va đập của ánh sáng dùng bán lập phương (Hemi-cube radiosity) (Cohen, M.F. Greenberg, D.P. (1985). Bán lập phương: một phương pháp giải quyết sự va đập của ánh sáng trong các môi trường phức tạp. Computer Graphics (Proceedings of SIGGRAPH 1985) 19 (3), 31–40.) 1986 Dõi nguồn ánh sáng (Light source tracing) (Arvo, J. (1986). Phép tính ngược của chiếu quang tia. SIGGRAPH 1986 Developments in Ray Tracing course notes) 1986 Phương trình kết xuất đồ họa (Rendering equation) (Kajiya, J.T. (1986). Phương trình kết xuất đồ họa. Computer Graphics (Proceedings of SIGGRAPH 1986) 20 (4), 143–150.) 1987 Thuật toán Reyes (Cook, R.L. Carpenter, L. Catmull, E. (1987). Kiến trúc kết xuất hình ảnh theo phương pháp REYES (Renders Everything You Ever Saw - Kết xuất bất cứ vật thể gì mình nhìn thấy). Computer Graphics (Proceedings of SIGGRAPH 1987) 21 (4), 95–102.) 1991 Cấu trúc tầng cấp của phép tính sự va đập ánh sáng (Hierarchical radiosity) (Hanrahan, P. Salzman, D. Aupperle, L. (1991). Một thuật toán tính sự va đập ánh sáng dùng cấu trúc tầng cấp nhanh chóng. Computer Graphics (Proceedings of SIGGRAPH 1991) 25 (4), 197–206.) 1993 Bố trí sắc thái (Tone mapping) (Tumblin, J. Rushmeier, H.E. (1993). Tái tạo sắc thái cho các hình ảnh do máy tính tạo ra trông thật hơn. IEEE Computer Graphics & Applications 13 (6), 42–48.) 1993 Sự phân tán của ánh sáng của bề mặt bên dưới (Subsurface scattering) (Hanrahan, P. Krueger, W. (1993). Sự phản quang từ các bề mặt được chồng lớp lên nhau do sự phân tán của ánh sáng từ bề mặt bên dưới. Computer Graphics (Proceedings of SIGGRAPH 1993) 27 (), 165–174.) 1995 Liên kết quang tử (Photon mapping) (Jensen, H.J. Christensen, N.J. (1995). Liên kết quang tử trong kỹ thuật dõi quang tia monte carlo hai chiều đối với các vật thể phức tạp. Computers & Graphics 19''' (2), 215–224.) Xem thêm Tiến trình kết xuất trước (Pre-rendered) Các bước xử lý trong đồ họa (Graphics pipeline) Mô hình ảo (Virtual model) Sách đọc và những bản tóm tắt Foley; Van Dam; Feiner; Hughes (1990). Computer Graphics: Principles And Practice. Addison Wesley. ISBN 0201121107. Glassner (1995). Principles Of Digital Image Synthesis. Morgan Kaufmann. ISBN 1558602763. Pharr; Humphreys (2004). Physically Based Rendering. Morgan Kaufmann. ISBN 012553180X. Dutre; Bala; Bekaert (2002). Advanced Global Illumination. AK Peters. ISBN 1568811772. Jensen (2001). Realistic Image Synthesis Using Photon Mapping. AK Peters. ISBN 1568811470. Shirley; Morley (2003). Realistic Ray Tracing (2nd ed.). AK Peters. ISBN 1568811985. Glassner (1989). An Introduction To Ray Tracing. Academic Press. ISBN 0122861604. Cohen; Wallace (1993). Radiosity and Realistic Image Synthesis. AP Professional. ISBN 0121782700. Akenine-Moller; Haines (2002). Real-time Rendering (2nd ed.). AK Peters. ISBN 1568811829. Gooch; Gooch (2001). Non-Photorealistic Rendering. AKPeters. ISBN 1568811330. Strothotte; Schlechtweg (2002). Non-Photorealistic Computer Graphics. Morgan Kaufmann. ISBN 1558607870. Blinn (1996). Jim Blinns Corner - A Trip Down The Graphics Pipeline. Morgan Kaufmann. ISBN 1558603875. Description of the 'Radiance' system
Viện Đại học Columbia (tiếng Anh: Columbia University in the City of New York), còn gọi là Đại học Columbia, là một viện đại học nghiên cứu tư thục ở quận Manhattan, thành phố New York, Hoa Kỳ. Một thành viên của Ivy League, Columbia là cơ sở giáo dục đại học lâu đời nhất tại tiểu bang New York, lâu đời thứ năm tại Hoa Kỳ, và là một trong chín đại học thuộc địa được thành lập trước Cách mạng Hoa Kỳ. Trường được thành lập vào năm 1754 với tên King's College dưới hiến chương hoàng gia của vua George đệ Nhị của Vương quốc Anh, và là một trong ba trường đại học duy nhất tại Hoa Kỳ được thành lập dưới đặc quyền này. Columbia là trường đại học tốt thứ 22 thế giới, theo QS. Trường từng được US News & World Report xếp hạng thứ 2 tại Mỹ vào năm 2021 nhưng đã bị loại khỏi bảng xếp hạng năm 2022 do bê bối gian lận và làm giả số liệu của trường. Sau khi xác thực lại thông tin của trường, US News & World Report đã đẩy Columbia từ hạng 2 xuống hạng thứ 18. Columbia cũng là một trong những thành viên sáng lập của Hiệp hội Viện Đại học Mỹ. Columbia có số lượng sinh viên và giảng viên đạt giải Nobel nhiều hơn bất kỳ học viện nào khác trên thế giới. Columbia hàng năm điều hành giải thưởng văn học Mỹ Pulitzer. Quỹ tài trợ và tài chính dành cho nghiên cứu hàng năm của Columbia thuộc vào loại lớn nhất trong các viện đại học tại Hoa Kỳ. Viện Đại học Columbia hiện tại có bốn trung tâm toàn cầu tại Amman (Jordan), Bắc Kinh (Trung Quốc), Paris (Pháp) và Mumbai (Ấn Độ). Cựu học sinh và các thành viên nổi bật có liên kết với Columbia bao gồm: năm nhà Khai Quốc Hoa Kỳ (Founding Fathers of the United States); bốn Tổng thống Hoa Kỳ; chín Thẩm phán của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ; 15 Nguyên thủ Quốc gia (ngoài Mỹ); 97 chủ nhân giải Nobel, nhiều hơn bất cứ viện đại học nào khác; 101 chủ nhân giải Pulitzer, nhiều hơn bất cứ viện đại học nào khác; 25 chủ nhân giải Oscar, với tổng số giải Oscar giành được là 30 giải, nhiều hơn bất cứ viện đại học nào khác; và hàng loạt chủ nhân của các giải thưởng danh giá trong nhiều lĩnh vực. Columbia hiện là nơi công tác và giảng dạy của chín chủ nhân giải Nobel, 30 chủ nhân giải MacArthur Genius, bốn chủ nhân của Huy chương Khoa học Quốc gia Mỹ, 143 thành viên của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Khoa học Mỹ, 38 thành viên của Viện Y tế thuộc nhóm các Viện Hàn lâm Quốc gia Mỹ, 20 thành viên của Viện Hàn lâm Kỹ thuật Hoa Kỳ, và 43 thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Hoa Kỳ. Lịch sử Columbia là học viện cấp cao lâu đời nhất tại tiểu bang New York. Được thành lập và ban đặc quyền dưới tên King's College vào năm 1754, Columbia là trường lâu đời thứ sáu tại Hoa Kỳ căn cứ theo năm thành lập, và thứ năm căn cứ theo năm được trao hiến chương. Viện Đại học hiện tại hoạt động dưới hiến chương trao năm 1787, nghĩa là dưới sự quản lý của một hội đồng tín nhiệm tư. Trong vòng hơn 250 năm, trải qua nhiều biến cố và phải thay đổi địa điểm giảng dạy, Columbia đã phát triển từ một đại học nhỏ, trở thành một viện đại học bao gồm 20 đại học và học viện liên kết khác nhau. King’s College Thảo luận xung quanh việc thành lập một đại học cấp cao tại tỉnh New York (bấy giờ còn là thuộc địa của Anh) bắt đầu từ năm 1704. Tuy nhiên, những dự kiến đưa ra chỉ nhận được sự cân nhắc nghiêm túc sau khi một số cựu học sinh Đại học Yale sinh sống tại thành phố New York tỏ ra lo ngại trước việc Đại học New Jersey (nay là Viện Đại học Princeton) được thành lập vào năm 1746. Lo ngại này xuất phát từ khác biệt về tôn giáo giữa New York trực thuộc Giáo hội Anh và New Jersey vốn chịu nhiều ảnh hưởng của Giáo hội Trưởng Lão; bên cạnh đó, cư dân địa phương sợ rằng New York sẽ trở nên kém cạnh về văn hóa và tri thức so với bờ bên kia sông Hudson. Do vậy, họ thành lập học viện riêng của New York như là một trường cạnh tranh với Đại học New Jersey. Các lớp học bắt đầu vào ngày 17 tháng 7 năm 1754 tại sân của nhà thờ Trinity với Samuel Johnson là hiệu trưởng và cũng là người giảng dạy duy nhất. Ngày 31 tháng 10 năm 1754, trường chính thức nhận hiến chương thành lập từ vua George đệ Nhị với tên King’s College (nghĩa đen: Đại học của Nhà Vua). Năm 1760, King’s College chuyển về Park Place, khu vực gần Tòa thị chính thành phố hiện nay. Từ đó, trường phát triển nhanh chóng, trở thành trường Y đầu tiên tại thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ vào năm 1767. Tuy vậy, ngay từ ban đầu đã có nhiều tranh cãi về việc thành lập một học viện cấp cao tại thuộc địa mà trực thuộc Giáo hội Anh, chưa kể bộ máy quản lý chịu nhiều ảnh hưởng của Hoàng gia Anh. Sự vượt trội về tài chính của King’s College so với các đại học thuộc địa khác càng tạo cơ sở cho mối e ngại này. Cách mạng Hoa Kỳ và cuộc chiến kéo theo ngay sau đó giữa các thuộc địa và quân đội Anh khiến cho King’s College suy sụp trong một thời gian dài, từ 1776 khi Lục quân Lục địa tấn công New York đến 1783 khi binh lính Anh rút lui. Trong tám năm này, trường đã phải ngừng hoạt động, trong khi thư viện chính bị cải tạo thành bệnh viện phục vụ chiến tranh. Dù bị coi là một hiện thân của Hoàng gia Anh, song King’s College lại là nơi sản sinh ra không ít nhân vật đóng vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng giành độc lập của các thuộc địa. Tiêu biểu trong số những học sinh đầu tiên của trường bao gồm: John Jay, người đàm phán Hiệp định Paris (1783) kết thúc chiến tranh với Anh và cũng là người sau này trở thành Chánh án Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đầu tiên; Alexander Hamilton, quân sư của George Washington, tác giả của phần lớn các bài luận Người Liên Bang (ủng hộ một Chính phủ liên bang mạnh), Bộ trưởng Ngân Khố Hoa Kỳ đầu tiên; Gouverneur Morris, tác giả của bản Hiến pháp Hoa Kỳ hoàn thiện; Robert R. Livingston, một trong năm người soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập Mỹ; và Egbert Benson, đại biểu Quốc hội Lục địa và một trong những người ký thông qua Hiến pháp Hoa Kỳ. Đại học Columbia: thời kỳ đầu (1784–1857) Khuôn viên Theo Tạp chí New York, Đại học Columbia là chủ sở hữu đất lớn thứ hai ở Thành phố New York, chỉ sau Nhà thờ Công giáo. Khuôn viên chính Phần lớn các phân khoa của Columbia tọa lạc tại Morningside Heights. Khuôn viên trường được thiết kế theo nguyên tắc quy hoạch Beaux-Arts và trải khắp sáu khu phố rộng ở quận Manhattan, New York. Trường cũng sở hữu hơn 7.800 căn hộ và hai chục ký túc xá ở Morningside Heights làm nơi ở cho giảng viên, sinh viên và nhân viên. Đại học Columbia cũng có một hệ thống đường hầm tuổi đời hơn một thế kỷ. Thư viện Nicholas Murray Butler là thư viện đơn lẻ lớn nhất trong Hệ thống Thư viện Đại học Columbia, và là một trong những tòa nhà lớn nhất trong khuôn viên trường. Thư viện được thiết kế theo kiến trúc Tân cổ điển. Mặt tiền của thư viên có một hàng cột trụ theo phong cách thức cột Ionic và phía trên mỗi cột có ghi tên các nhà văn, triết gia và nhà tư tưởng vĩ đại. , Columbia sở hữu hơn 11,9 triệu đầu sách và là hệ thống thư viện lớn thứ tám ở Hoa Kỳ. Nhiều tòa nhà tại Columbia cũng được liệt kê trong Sổ bộ Địa danh Lịch sử Quốc gia Hoa Kỳ. Thư viện Low Memorial, một Danh lam Lịch sử Quốc gia, là trung tâm của khuôn viên trường. Hội trường Triết học được liệt kê là nơi phát minh ra đài FM. Sảnh Pupin, một Địa danh Lịch sử Quốc gia khác, là nơi có các khoa vật lý và thiên văn học của Trường Kỹ thuật. Tại đây, các thí nghiệm đầu tiên về sự phân hạch của uranium đã được thực hiện bởi Enrico Fermi. Các tòa nhà nổi tiếng khác bao gồm Sảnh Casa Italiana, Hội trường St. Anthony và Sảnh Earl. Một bức tượng của nhà điêu khắc người Pháp Daniel Chester được gọi là Alma Mater (mẫu hiệu) được đặt chính giữa các bậc thang phía trước của Thư viện Tưởng niệm Low. Khoác lên mình bộ váy hàn lâm, nhân vật nữ của bức tượng Alma Mater đội vương miện và ngồi trên ngai vàng. Một cuốn sách biểu thị kiến thức được đặt cân bằng trên đùi của bức tượng, Một con cú tượng trưng cho sự khôn ngoan được giấu trong các nếp gấp của áo choàng nhân vật. Tay phải của nhân vật cầm một vương trượng bao gồm bốn bông lúa mì và vương miện của Đại học Columbia như một sự nhắc nhở về nguồn gốc của trường là một tổ chức được thành lập bởi hiến chương hoàng gia vào năm 1754. Trong cuộc biểu tình chống Chiến tranh Việt Nam ở Đại học Columbia vào năm 1968, một quả bom đã làm hỏng tác phẩm điêu khắc, nhưng sau đó nó đã được sửa chữa. The Steps (Những Bậc thang), còn được gọi là "Low Steps" hoặc "Urban Beach", là một khu vực họp mặt phổ biến của sinh viên Columbia. Thuật ngữ này đề cập đến một loạt các bậc thang dài làm bằng đá hoa cương dẫn từ phần dưới của khuôn viên (South Field) đến sân thượng của nó. Với thiết kế lấy cảm hứng từ phong trào City Beautiful, các bậc thang của Thư viện Low cung cấp cho sinh viên, giảng viên và nhân viên của Đại học Columbia và Cao đẳng Barnard (một trường cao đẳng khai phóng độc lập dành cho nữ giới nhưng có liên hệ mật thiết với Columbia) một khoảng sân ngoài trời thoáng đãng cho các buổi họp mặt, sự kiện và buổi lễ thân mật. Các khuôn viên khác Bệnh viện New York-Presbyterian tại thành phố New York có liên kết với cả Đại học Columbia và Đại học Cornell. Theo US News & World Report, nó được xếp hạng thứ năm tổng thể và thứ ba trong số các bệnh viện trường đại học. Trường Y khoa Columbia có quan hệ đối tác chiến lược với Viện Tâm thần Bang New York và liên kết với 19 bệnh viện khác ở Mỹ và 4 bệnh viện ở nước ngoài. Columbia cũng sở hữu Trung tâm Y tế Đại học Columbia với khuôn viên rộng nằm trong khu phố Washington Heights ở quận Manhattan. Các bệnh viện giảng dạy khác liên kết với Columbia thông qua mạng lưới New York-Presbyterian bao gồm Phòng khám Payne Whitney ở Manhattan, và Payne Whitney Westchester, một viện tâm thần nằm ở White Plains, New York. Trên mũi phía bắc của bán đảo Manhattan, Columbia sở hữu Sân Baker rộng , bao gồm Sân vận động Lawrence A. Wien cũng như các cơ sở khác cho các môn thể thao ngoài trời, điền kinh và quần vợt. Trường cũng sở hữu một khuôn ở bờ tây của sông Hudson rộng và là nơi đặt Đài quan sát Trái đất Lamont-Doherty và Viện Trái đất ở Palisades, New York. Columbia cũng có một khu đất rộng , nơi tọa lạc của Phòng thí nghiệm Nevis ở Irvington, New York chuyên nghiên cứu vật lý và chuyển động hạt. Columbia cũng sở hữu một khuôn viên vệ tinh ở trung tâm thành phố Paris, Pháp tổ chức các lớp học tại Hội trường Reid Hall. Trường hiện tại có bốn trung tâm toàn cầu tại Amman (Jordan), Bắc Kinh (Trung Quốc), Paris (Pháp) và Mumbai (Ấn Độ). Học thuật Xét tuyển Đại học Columbia đã nhận được 60.551 hồ sơ đăng ký vào kỳ nhập học năm 2021, trong đó trường chỉ có 2.218 ứng viên trúng tuyển. Với tỷ lệ trúng tuyển chỉ ở mức 3,7%, Columbia là trường đại học khó vào thứ hai trong nhóm Ivy League, sau Harvard. Columbia là một trường đa dạng về chủng tộc, với khoảng 52% tổng số học sinh là người da màu hoặc là sinh viên quốc tế. Trường Phổ quát học (School of General Studies) Ngoài các chương trình khoa học và nghệ thuật truyền thống như trên, Columbia cũng cho phép các sinh viên phi truyền thống, bao gồm cựu chiến binh và sinh viên từ các trường cao đẳng cộng đồng, tiếp tục theo đuổi và hoàn thành chương trình cử nhân tại Trường Phổ quát học Columbia (Columbia University School of General Studies). Ngoài ra, một số sinh viên từ bậc cấp 3 cũng có thể nộp đơn vào các chương trình bằng kép của Trường Phổ quát học với nhiều cơ sở giáo dục bên ngoài như Viện Nghiên cứu Chính trị Paris (Sciences Po), Đại học Thành phố Hồng Kông (CityU), Đại học Trinity Dublin (TCD), Chủng viện Thần học Union (UTS). Tương tự như sinh viên của Cao đẳng Barnard, các sinh viên của Trường Phổ quát học sẽ được cấp bắng do Chủ tịch Đại học Columbia ký tên nhưng sẽ được viết bằng tiếng Anh chứ không phải tiếng Latin như chương trình chính quy của Đại học Columbia. Tỉ lệ xét tuyển vào Trường Phổ quát học là 35% trong khi các chương trình truyền thống có tỉ lệ đậu chỉ 3.7%. Trường Phổ quát học Columbia có nhiều điểm tương đồng với Trường Mở rộng Harvard, vốn có điều kiện trúng tuyển thấp hơn nhiều so với trường chính quy Harvard. Trường liên kết (Affiliated schools) Trường Sư phạm (Teachers College hay TC) và Cao đẳng Barnard (BC) là hai trường độc lập với Viện Đại học Columbia về tuyển sinh, tài chính và học thuật nhưng vẫn có mối liên hệ chặt chẽ và được xem là trường chị em của Columbia. Hiệu trưởng cả hai trường này đều mang hàm trưởng khoa của Columbia. TC và BC cũng được đại diện trong hội đồng học sinh và giảng viên của Columbia. Ngoài ra, sinh viên tốt nghiệp hai trường này được cấp bằng có chữ ký của Chủ tịch Đại học Columbia. Xếp hạng Đại học Columbia từng được US News & World Report xếp hạng thứ 2 trong số các trường tại Hoa Kỳ vào năm 2021. Tuy nhiên, Columbia đã bị loại khỏi bảng xếp hạng năm 2022 do cáo buộc gian lận và không trung thực về số liệu. Sau khi xác thực lại thông tin của trường, US News & World Report đã đẩy Columbia từ hạng 2 xuống hạng thứ 18. Bảng xếp hạng 2022 của QS đã liệt kê Columbia đứng thứ 22 trên thế giới. Trường cũng được xếp hạng thứ 6 trên thế giới theo Bảng xếp hạng chất lượng đại học ARWU của Đại học Giao thông Thượng Hải và thứ 17 toàn cầu theo Times Higher Education (THE) vào năm 2021. Trường mỏ địa chất Paris cũng đã xếp hạng Columbia là trường đại học tốt nhất thứ 12 về đào tạo CEO vào năm 2011. Các phân khoa của Columbia cũng được U.S. News & World Report xếp hạng cao trên các bảng xếp hạng chuyên ngành. Trường Luật Columbia được xếp hạng thứ 4, Trường Y tế Công cộng Mailman hạng 4, Trường Công tác Xã hội hạng 3, Trường Kinh doanh Columbia hạng 8, Trường Phẫu thuật hạng 6 về nghiên cứu, Trường Điều dưỡng đạt hạng 1 về đào tạo bác sĩ, và Trường Kỹ thuật và Khoa học Ứng dụng Fu Foundation được xếp hạng thứ 14 về khoa học kỹ thuật. Nhân vật nổi tiếng Columbia có nhiều cựu sinh viên đáng chú ý, trong đó có 5 nhà Khai Quốc Hoa Kỳ và tác giả của Hiến pháp Hoa Kỳ, 4 tổng thống Hoa Kỳ, 125 người đoạt giải Pulitzer, 39 người đoạt giải Oscar, 101 thành viên Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ. Trường cũng đã đào tạo 26 nguyên thủ quốc gia (ngoài Mỹ). Columbia xếp thứ hai trên thế giới, sau Harvard, về số lượng cựu sinh viên là tỷ phú. Các cựu sinh viên của Columbia đã nắm các vị trí hàng đầu ở Phố Wall và giới doanh nghiệp toàn cầu với những nhân vật đáng chú ý như nhà đầu tư Warren Buffett, Gia đình Astor, CEO PBS và NBC Larry Grossman, Chủ tịch Walmart S. Robson Walton, Giám đốc Bain Capital Jonathan Lavine. Lãnh đạo của công ty hàng đầu trong danh sách Fortune 500 từng theo học tại Columbia bao gồm James P. Gorman của Morgan Stanley, Robert J. Stevens của Lockheed Martin, Philippe Dauman của Viacom, Ursula Burns của Xerox, và Vikram Pandit của Citigroup. Về khoa học và công nghệ, các cựu sinh viên Columbia bao gồm người sáng lập IBM Herman Hollerith, người phát minh đài FM Edwin Armstrong, nhà phát triển tàu ngầm hạt nhân Hyman Rickover Francis Mechner, người sáng lập Google Kai-Fu Lee, nhà khoa học Stephen Jay Gould, Robert Millikan, người phát minh laser Heli-neon Ali Javan và Mihajlo Pupin, kỹ sư trưởng của tàu điện ngầm Thành phố New York William Barclay Parsons, nhà triết học Irwin Edman và Robert Nozick, nhà kinh tế học Milton Friedman, nhà tâm lý học Harriet Babcock, và nhà xã hội học Lewis A. Coser và Rose Laub Coser. Trong số những người Việt nổi tiếng có Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng học thạc sĩ tôn giáo tại Chủng viện Thần học Union (thuộc Đại học Columbia) và sau đó giảng dạy tại đây trong thập niên 1960.
Cộng hòa (chữ Hán: 共和, ) là một hình thức chính phủ trong đó quốc gia được coi là "vấn đề công cộng" thông qua các Luật pháp và Hiến pháp cũng như các quy định chung và chế độ dân chủ, không phải là mối quan tâm riêng tư hay thuộc sở hữu của những người cai trị. Các vị trí quyền lực chính trong một nước cộng hòa được quyết định thông qua Dân chủ, tập quyền hoặc một sự kết hợp của chúng, thay vì bị chiếm giữ không đổi. Nó là hình thức đối lập với chế độ Quân chủ và do đó không có quốc vương (như là nguyên thủ quốc gia). , 159 trong số 206 quốc gia có chủ quyền sử dụng từ "Cộng hòa" như là một phần của tên chính thức của họ - không phải tất cả trong số này là các nước cộng hòa theo nghĩa là có các Chính Phủ được bầu cử ra, cũng không phải là từ "Cộng hòa" được sử dụng trong tên của tất cả các Quốc gia có Chính Phủ được Nhân dân bầu. Khái niệm này xuất phát từ thuật ngữ Latinh res publica, có nghĩa đen là "chuyện chung", "việc chung" hay "vấn đề công cộng" và được sử dụng để nói về toàn bộ nhà nước. Thuật ngữ này đã phát triển ý nghĩa hiện đại của nó liên quan đến hiến pháp của Cộng hòa La Mã cổ đại, kéo dài từ khi lật đổ các vị vua vào năm 509 trước Công nguyên đến khi thành lập Đế chế vào năm 27 trước Công nguyên. Hiến pháp này được đặc trưng bởi một Thượng viện gồm các quý tộc giàu có và có ảnh hưởng đáng kể; một số hội đồng phổ biến của tất cả các công dân tự do, có quyền bầu các quan tòa và thông qua luật pháp; và một loạt các quan tòa với các loại thẩm quyền dân sự và chính trị khác nhau. Thông thường, một nước Cộng hòa là một quốc gia có chủ quyền duy nhất, nhưng cũng có những thực thể nhà nước có chủ quyền phụ được gọi là các nước cộng hòa, hoặc có các chính phủ được mô tả là "Cộng hòa" về bản chất. Ví dụ, Điều IV của Hiến pháp Hoa Kỳ "bảo đảm cho mọi quốc gia trong Liên minh này một hình thức Chính phủ Cộng hòa". Trong bối cảnh hẹp hơn, định nghĩa về chế độ Cộng hòa đề cập cụ thể đến một hình thức chính phủ trong đó các cá nhân được bầu đại diện cho cơ quan công dân và thực thi quyền lực theo quy định của pháp luật theo hiến pháp, bao gồm phân lập quyền lực với một nguyên thủ quốc gia, được gọi là một Nước Cộng hòa lập hiến hoặc Dân chủ đại diện. Các đặc điểm của các thể chế cộng hòa Người đứng đầu nhà nước Trong hầu hết nền cộng hòa hiện đại ở các nước tư bản chủ nghĩa, người đứng đầu nhà nước được gọi là tổng thống còn các nước theo đuổi ý tưởng xây dựng xã hội chủ nghĩa là chủ tịch. Những danh xưng khác được sử dụng là consul, doge, archon và nhiều danh xưng khác. Trong các nền cộng hòa và cũng là dân chủ người đứng đầu nhà nước được xác định theo kết quả của một cuộc bầu cử. Cuộc bầu cử này có thể là gián tiếp, chẳng hạn như nếu một hội đồng theo một dạng nào đó được bầu lên bởi người dân, và hội đồng này sau đó sẽ bầu ra người đứng đầu nhà nước hoặc là trực tiếp. Trong các nền cộng hòa này nhiệm kì thông thường của tổng thống kéo dài trong khoảng bốn đến sáu năm. Trong một số nước, hiến pháp giới hạn số nhiệm kì một người có thể được bầu lên vị trí tổng thống. Nếu như người đứng đầu nhà nước của một cộng hòa đồng thời là người đứng đầu chính phủ, thể chế này được gọi là tổng thống chế (ví dụ: Hoa Kỳ). Trong bán tổng thống chế, người đứng đầu nhà nước không phải là cùng một người với người đứng đầu chính phủ, người sau thường được gọi là thủ tướng. Tuỳ theo nghĩa vụ cụ thể của tổng thống (ví dụ, vai trò cố vấn trong việc thành lập chính phủ sau một cuộc bầu cử), và các quy ước khác nhau, vai trò của tổng thống có thể dao động từ chỉ mang tính lễ nghi và phi chính trị cho đến ảnh hưởng lớn và đầy tính chính trị. Thủ tướng có trách nhiệm trong việc điều hành các chính sách và nhà nước trung ương. Có những quy định cho việc chỉ định tổng thống và người đứng đầu chính phủ, một số nền cộng hòa cho phép sự chỉ định một tổng thống và một thủ tướng thuộc 2 đảng đối lập: ở Pháp, khi những thành viên của Chính phủ đương nhiệm và tổng thống thuộc các đảng phái đối lập nhau, tình huống này gọi là sống chung chính trị. Tuy nhiên trong một số nước như Đức và Ấn Độ, tổng thống bắt buộc phải là không theo đảng phái nào. Trong một số nước, như Thụy Sĩ và San Marino, đứng đầu nhà nước không phải là một người mà là một ủy ban (hội đồng) của một vài người đang nắm văn phòng đó. Vai trò của tôn giáo Trước khi một số phong trào Cải cách đem lại ảnh hưởng ở châu Âu, những thay đổi trong địa hạt tôn giáo hiếm khi có liên hệ đến dạng nhà nước đang được sử dụng ở nước đó. Ví dụ sự chuyển đổi từ đa thần giáo sang Thiên Chúa giáo trong La Mã cổ đại có thể tạo ra tầng lớp thống trị mới, nhưng không gây ra thay đổi trong ý nghĩ rằng Chế độ quân chủ là một cách thức hiển nhiên để quản lý đất nước. Một cách tương tự, các chế độ cộng hòa thời trung cổ sau này, như Venezia, nổi lên mà không chất vấn những tiêu chuẩn về tôn giáo đưa ra bởi Giáo hội Công giáo Rôma. Điều này đã thay đổi, chẳng hạn như, bởi cuius regio, eius religio từ Hiệp ước Augsburg (1555): hiệp ước này, áp dụng trong Đế chế La Mã và ảnh hưởng đến nhiều bang khác của Đức, buộc công dân phải đi theo tôn giáo của người thống trị, bất kì nhánh nào của Thiên chúa giáo được nhà thống trị chọn - ngoại trừ tông phái Calvin (bị cấm bởi cùng một hiệp ước). Ở Pháp nhà vua bãi bỏ những thỏa hiệp tương đối đối với các tôn giáo không phải là Công giáo kết quả từ Sắc lệnh Nantes (1598), Sắc lệnh Fontainebleau (1685). Ở Anh và ở Tây Ban Nha những triều đình tương ứng đã thiết lập nhánh Thiên chúa giáo được ưa thích nhất của họ, do vậy vào thời điểm của thời đại Khai sáng ở châu Âu (bao gồm luôn cả các thuộc địa) không có một chế độ quân chủ tuyệt đối nào chấp nhận một tôn giáo khác với tôn giáo chính thức của nước đó. Các nền cộng hòa giảm đi ảnh hưởng của tôn giáo vào nhà nước Một lý do quan trọng tại sao người dân chọn xã hội của họ được tổ chức như là một "cộng hòa" là khả năng được tự do khỏi tôn giáo của nhà nước: trong cách tiếp cận này sống dưới một chế độ quân chủ được xem là dễ tạo ra một tôn giáo thuần nhất. Tất cả các chế độ quân chủ lớn đều có tôn giáo của nhà nước, kể cả trường hợp của các pharaoh và một số hoàng đế điều này có thể dẫn đến một tôn giáo mà quốc vương (hoặc hoàng gia) được phong cho một địa vị giống như thượng đế (xem ví dụ như Sùng bái Hoàng gia). Trên một mức độ khác, các nền quân chủ có thể vướng vào một dạng đặc biệt nào đó của tôn giáo: Công giáo ở Bỉ, Anh giáo ở Anh, Chính Thống giáo Đông phương ở Nga dưới chế độ Nga hoàng, Thần đạo ở Nhật Bản,... Trong sự vắng mặt của chế độ quân chủ, sẽ không có một vị vua nào thúc đẩy về một tôn giáo duy nhất. Bởi vì điều này là cảm nhận chung vào thời gian của thời đại Khai sáng, không là điều đáng ngạc nhiên khi các cộng hòa được nhận thấy bởi các nhà tư tưởng thời Khai sáng như là một dạng tổ chức nhà nước thích hợp nhất, nếu như người ta muốn tránh những điều xuống cấp bởi việc sống dưới một tôn giáo nhà nước có ảnh hưởng quá lớn. Jean-Jacques Rousseau, một ngoại lệ, tiên liệu một nền cộng hòa với một "tôn giáo dân sự" với nhiều đòi hỏi: Ví dụ ở Hoa Kỳ: những vị Nhóm lập quốc Hoa Kỳ, nhận thấy rằng sẽ không có một tôn giáo duy nhất nào sẽ được theo bởi tất cả người Mỹ, đã theo một nguyên tắc là nhà nước liên bang sẽ không ủng hộ một tôn giáo truyền thống nào, như Massachusetts và Connecticut đã theo. Những khái niệm của dân chủ Các cộng hòa thường liên hệ với dân chủ, có vẻ là lẽ tự nhiên nếu như người ta thừa nhận ý nghĩa của cụm từ bắt nguồn của từ "cộng hòa" (xem: res publica). Tuy nhiên sự liên kết giữa "cộng hòa" và "dân chủ" này là rất xa đối với hiểu biết chung, ngay cả nếu như đã thừa nhận là có một vài dạng khác nhau của dân chủ. Phần này cố gắng đưa ra những tóm tắt về các khái niệm dân chủ nào liên hệ với kiểu cộng hòa nào. Chú ý rằng khái niệm "một phiếu bầu bằng nhau cho mỗi người trưởng thành" đã không được chấp nhận rộng rãi trong các nền dân chủ cho đến khoảng giữa thế kỉ 20: trước đó trong tất cả các nền dân chủ quyền được bầu cử của một người phụ thuộc vào điều kiện tài chính, giới tính, Chủng tộc, hay là một tổ hợp những thứ đó và những yếu tố khác. Nhiều dạng nhà nhà nước trong các thời đại trước được mệnh danh là "dân chủ", bao gồm ví dụ như Dân chủ Athena, khi đem vào đầu thế kỉ 21 sẽ được liệt kê là plutocracy hay là một dạng quả đầu chế (quyền lực nắm bởi thiểu số) mở rộng, bởi vì những luật lệ về những phiều bầu được đếm như thế nào. Trong cách tiếp cận phương Tây, được khuyến cáo về những nguy hiểm có thể xảy ra và sự không thực tế của dân chủ trực tiếp mô tả từ thời cổ đại, có một sự hội tụ về phía dân chủ đại diện, cho các thể chế cộng hòa cũng như các thể chế quân chủ, từ thời Khai sáng trở đi. Một phương tiện dân chủ như là Trưng cầu dân ý vẫn về cơ bản là không đáng tin cậy trong nhiều nước theo kiểu dân chủ đại diện. Tuy vậy, một số nước cộng hòa như Thụy Sĩ có một phần lớn dân chủ trực tiếp trong cách tổ chức nhà nước của họ, với thông thường một vài vấn đề được đưa ra trước nhân dân bằng trưng cầu dân ý hàng năm. Ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng hòa Cũng giống như chủ nghĩa chống quân chủ và khác biệt tôn giáo, chủ nghĩa cộng hòa không đóng vai trò bằng nhau trong sự nổi lên của nhiều nền cộng hòa thực sự. Cho đến các cộng hòa bắt nguồn từ cuối thời trung cổ, ngay cả nếu như, từ những gì chúng ta biết về họ, họ cũng có thể đạt tiêu chuẩn "cộng hòa" trong cách hiểu hiện đại của từ này, thiết lập loại và lượng của "chủ nghĩa cộng hòa" dẫn đến sự nổi lên của họ thường giới hạn vào các phỏng đoán mang tính giáo dục, dựa trên những nguồn nhìn chung là được công nhận như có một phần chỉ là xây dựng hư cấu. Qua thời gian có một pha trộn các loại chủ nghĩa cộng hòa khác nhau theo cùng với các lý thuyết dân chủ của các quyền cá nhân, mà chúng (chẳng hạn trong Thời Khai sáng) sẽ tìm thấy biểu diễn trong sự hình thành của các đảng tự do và đảng xã hội. Thứ mà Chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa xã hội cùng chia sẻ là niềm tin vào sự tự quyết của con người, và niềm tin vào danh dự cá nhân từng người. Nhưng họ không đồng ý và tiếp tục không đồng ý liệu là thứ này có cần thiết cho một nền cộng hòa hay không, thế nào sử dụng "chính xác" của từ "cộng hòa", và đời sống kinh tế nên được tổ chức như thế nào. Mâu thuẫn này thường được diễn tả theo ngôn ngữ của chủ nghĩa xã hội (như là một hệ thống kinh tế) đối chọi với Chủ nghĩa tư bản (hệ thống kinh tế được khuếch trương bởi người theo chủ nghĩa tự do). Sự hòa hoãn giữa dân chủ và có một người đứng đầu nhà nước cha truyền con nối được gọi là Quân chủ lập hiến. Tuy nhiên, chẳng hạn không ai nghi ngờ là chủ nghĩa cộng hòa là lý tưởng thành lập Hoa Kỳ và vẫn còn là cốt lõi của những giá trị chính trị Mỹ. Xem Chủ nghĩa cộng hòa ở Mỹ. Trong thời cổ đại Hình thái"Cộng hòa"đã manh nha ở tại nước Trung Hoa thời nhà Chu với chế độ Chu Thiệu cộng hòa từ năm 841 tới năm 828 TCN. Trong Ấn Độ cổ đại, một số Maha Janapadas được thiết lập như là những Cộng hòa vào Thế kỉ thứ 6 trước Công nguyên. Vaishali, cổ xưa nhất trong các cộng hòa đó, được xem như là nền cộng hòa đầu tiên ở trên thế giới. Trong vùng Cận Đông cổ đại, một số thành phố của Levant đã được một cách điều hành tập thể. Arwad đã được dẫn ra như là một ví dụ khác về nước cộng hòa xưa nhất được biết, trong đó người dân, chứ không phải vua, được miêu tả là có quyền tự chủ. Những bản sách quan trọng về triết học chính trị thời cổ đại sống sót cho đến thời trung cổ hiếm khi có một ảnh hưởng nào lên sự nổi lên hay làm mạnh thêm những nền cộng hòa vào thời điểm mà chúng được viết ra. Khi Plato viết những đối thoại mà sau này, trong các nước nói tiếng Anh, trở nên được biết đến như là The Republic (một bản dịch không chính xác theo một số người), nền dân chủ xứ Athena đã được thiết lập, và không bị ảnh hưởng bởi luận thuyết đó (nếu nó đã bị ảnh hưởng, nó sẽ trở nên "ít" bản chất cộng hòa hơn theo hiểu biết hiện đại). Những thí nghiệm của Plato với những nguyên tắc chính trị của ông ở vùng Syracuse là một thất bại. De re publica của Cicero, rất xa trong khả năng định nghĩa lại nhà nước Cộng Hòa La Mã cổ đại trong việc củng cố dạng nhà nước cộng hòa của họ, mà đúng hơn nên được xem là tiền thân của Đế chế La Mã thật sự đã thành hình sau khi Cicero qua đời. Trong thời Phục hưng Sự nổi lên của thời Phục hưng, mặt khác, được đánh dấu bằng sự chấp thuận của nhiều tác phẩm từ thời Cổ đại này, không nhiều thì ít dẫn đến một quan điểm chặt chẽ, quay lại với "Chủ nghĩa cộng hòa cổ điển". Tuy nhiên những khác biệt vẫn tồn tại về việc loại "hỗn hợp" nào trong một kiểu nhà nước hỗn hợp của một nước lý tưởng sẽ được gọi là "cộng hòa". Đối với những thể chế cộng hòa nổi lên sau sự xuất bản của các triết lý Phục hưng về cộng hòa, như là Liên hiệp các tỉnh Hà Lan, luôn luôn không rõ ràng là vai trò chính xác của chủ nghĩa cộng hòa - trong một loạt các lý do khác - dẫn đến chọn lựa "cộng hòa" như là một dạng nhà nước ("các lý do khác" đã được nói đến đâu đó trong bài này, không tìm được người kế vị xứng đáng cho ngôi vua, chống lại Catholicism; Một tầng lớp trung lưu cố gắng có ảnh hưởng chính trị). Chủ nghĩa cộng hòa khai sáng nhỏ|Biểu tượng nền Cộng hòa ở Paris Thời đại Khai sáng đã đem lại một thế hệ các nhà tư tưởng chính trị mới, cho thấy rằng, giữa nhiều thứ khác, "triết học" chính trị đang ở trong quá trình tập trung trở lại vào "khoa học" chính trị. Lần này thì ảnh hưởng của những nhà tư tưởng chính trị, như John Locke, vào sự nổi lên của những nền cộng hòa ở Mỹ và Pháp sớm xảy ra sau đó là không thể sai được: sự phân tách của quyền lực, sự phân tách của nhà thờ và nhà nước, v.v. được giới thiệu với một mức thành công nào đó trong các nước cộng hòa mới, cùng với những tư tưởng khác của nhà chính trị lớn khác của thời đại đó. Thật ra, thời Khai sáng đã đặt ra tiêu chuẩn cho những nền cộng hòa, cũng như là nhiều trường hợp khác cho các chế độ quân chủ, trong thế kỉ tiếp theo. Những nguyên tắc quan trọng nhất được thiết lập lúc kết thúc thời Khai sáng là Luật pháp, là điều kiện rằng các nhà nước phản ánh Lợi ích cá nhân phải theo pháp luật, rằng các nhà nước hành xử theo lợi ích quốc gia, trong những cách thức hiểu được bởi đại chúng, rằng phải có một số phương tiện cho quyền tự quyết định. Chủ nghĩa cộng hòa vô sản Phân nhánh chính tiếp theo trong tư tưởng chính trị được Karl Marx thúc đẩy đó là ông cho rằng các giai cấp (vô sản, tư sản,...), chứ không phải là toàn bộ quốc gia là có những ưu thế về quyền và lợi ích trong mỗi nước. Marx tranh luận rằng các chính phủ nên là đại diện cho quyền lợi của giai cấp thống trị, và vì vậy cuối cùng thì các quốc gia trong thời đại của ông trong tương lai sẽ bị thống trị bởi giai cấp vô sản . Một lần nữa hình thành nên nền cộng hòa theo đường lối triết lý chính trị mới nhanh chóng theo sau sự nổi lên của thuyết duy vật, thuyết vô thần, tư tưởng Marx-Lenin... Từ đầu Thế kỷ 20, gần 100 nước có nền cộng hòa dạng "cộng sản" được thiết lập tuy nhiên đến hiện nay chỉ có 5 nước như vậy còn tồn tại. Các yếu tố kinh tế nhỏ|Giovan Battista Tiepolo, Neptune ban tặng sự giàu có của biển cả đến Venezia, 1748–50. Tác phẩm này là một biểu tượng quyền lực của Cộng hòa Venezia. Khái niệm cổ xưa của Res publica, khi áp dụng vào chính trị, luôn luôn suy diễn rằng công dân trên một mức độ nào đó "tham gia" vào việc điều hành đất nước: ít nhất là công dân không thờ ơ với những quyết định được quyết bởi những người đứng đầu điều hành đất nước, và có thể tham gia tranh luận vào các vấn đề của chính trị - xã hội. Một ý thường được theo đuổi bởi các sử gia là các công dân, dưới những hoàn cảnh thông thường, chỉ trở nên hoạt động về chính trị nếu như họ có thời gian rãnh rỗi trên và vượt khỏi những cố gắng thường ngày chỉ để duy trì sự tồn tại. Nói một cách khác, một lớp trung lưu đủ đông (mà không bị ảnh hưởng về mặt chính trị bởi một vị vua như tầng lớp quý tộc đã bị) thường được xem là những điều kiện cần trước khi thành lập một dạng nhà nước cộng hòa. Trong cách suy luận này, trong những thành phố của Hanseatic League, lẫn Catalonia của thế kỉ 19, cũng như Hà Lan trong thời hoàng kim của họ, sự hình thành của một nền cộng hòa không là điều đáng ngạc nhiên, bởi tất cả họ đều ở mức đỉnh của tài sản tích lũy được qua thương mại và những xã hội với một tầng lớp trung lưu giàu có và nhiều ảnh hưởng. Sự sáp nhập của các nhà nước Khi một nước hay nhiều bang được tổ chức trên nhiều tầng khác nhau (nghĩa là: một vài nước "liên kết" với nhau trong một "cấu trúc lớn hơn", hay một nước được chia ra thành nhiều tiểu bang với một dạng độc lập tương đối) một vài khuôn mẫu tồn tại: Cả cấu trúc phía trên và các tiểu bang phía dưới đều có dạng cộng hòa (ví dụ: Hoa Kỳ) Cấu trúc phía trên là một cộng hòa, trong khi các nước thành viên không nhất thiết là cộng hòa (Ví dụ: Liên minh châu Âu); Cấu trúc phía trên không phải là một cộng hòa, trong khi các nước thành viên có thể là cộng hòa (Ví dụ: Đế chế La mã Thần thánh (Holy Roman Empire), sau sự nổi lên của các nền cộng hòa, như là của Liên minh Hanse, bên trong đế chế). Các nền cộng hòa phải|nhỏ|400x400px|Các nền cộng hòa trên thế giới năm 2006. Đỏ – Cộng hòa tổng thống. Xanh lá cây – tổng thống hành pháp liên quan đến Thể chế Đại nghị. Ôliu – cộng hòa bán tổng thống. Da cam – cộng hòa đại nghị. Nâu – cộng hòa trong đó Hiến pháp quy định chỉ một đảng theo hệ phái xã hội chủ nghĩa được phép cầm quyền. Xám – quân chủ Trong đầu thế kỷ 21, hầu hết các nước không quân chủ đều tự gọi là cộng hòa hoặc là trong tên chính thức hoặc là trong Hiến pháp. Có một vài ngoại lệ: nước Libya Ả Rập Jamahiriya, Nhà nước Israel, Nhà nước Palestine, Myanmar và Liên bang Nga. Israel, Nga, ngay cả Myanmar và Libya, tuy vậy vẫn thỏa mãn nhiều Định nghĩa của từ "cộng hòa". Bởi vì từ "cộng hòa" bản thân là mơ hồ, rất nhiều nước cảm thấy cần thêm vào những từ hạn định (qualifiers) để làm rõ loại cộng hòa nào mà họ đang có để xưng hiệu quốc gia. Đây là danh sách của các từ hạn định đó và các dạng khác nhau của từ "cộng hòa": Không cần thêm vào từ hạn định nào ngoài "Cộng hòa" - ví dụ Cộng hòa Pháp... Cộng hòa liên bang - một liên bang của tiểu bang nhỏ với một dạng nhà nước cộng hòa – Hoa Kỳ, Úc, Brasil, Đức, Ấn Độ là những nước cộng hòa được điều hành bởi một nền dân chủ đại diện, trong đó các tiểu bang đóng một vai trò quan trọng. Cộng hòa Hiến pháp – một dạng của dân chủ tự do nơi mà công dân bầu lên người đứng đầu nhà nước cũng như các đại diện điều hành nhà nước (lựa chọn theo quyết định của người đứng đầu nhà nước) theo luật định trong hiến pháp hiện hành có bảo vệ quyền lợi cá nhân của người cầm quyền. Hoa Kỳ là một ví dụ. (So sánh với Quân chủ lập hiến và dạng dân chủ tự do gọi là dân chủ trong chế độ quân chủ). Confederation (Một hội đồng) quyền lực được trao cho các đơn vị thành viên trong hội đồng VD: Serbia và Montenegro (không còn tồn tại) và Thụy Sĩ. Liên bang – nhiều quyền lực hơn được trao cho nhà nước liên bang, ví dụ Nga. Cộng hòa Hồi giáo – những nước như Afghanistan, Pakistan, Iran là những cộng hòa được điều hành theo những luật Hồi giáo. (Ghi chú: Thổ Nhĩ Kỳ là một ngoại lệ khác và không được đưa vào danh sách này; trong khi dân số chủ yếu là Hồi giáo, nhà nước là cộng hòa không tôn giáo). Cộng hòa Ả Rập – ví dụ, Syria phản ánh trong tên nước là một nhà nước theo lý thuyết pan-Arab Ba'athist. Cộng hòa nhân dân – Những nước như Trung Quốc, CHDCND Triều Tiên,... Ý nghĩa là chính quyền do dân và vì dân. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa – Chỉ có 2 nước theo hệ thống này là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Dân chủ Sri Lanka. Dân chủ cộng hòa – thường được sử dụng bởi các nước với các mong muốn nhấn mạnh tuyên bố của họ là các nước dân chủ; Những nước này thường là các nước cộng sản hoặc trước là thuộc địa. Các ví dụ bao gồm Cộng hòa dân chủ Đức (không còn tồn tại), Cộng hòa Dân chủ Congo, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa . Thịnh vượng chung (Commonwealth, Rzeczpospolita) – sử dụng ở Ba Lan cho nước Cộng hòa Ba Lan hiện tại, và Rzeczpospolita của các quý tộc trong lịch sử. Nước tự do – đôi khi được sử dụng như một nhãn để chỉ sự thi hành, hoặc là chuyển tiếp từ một nước quân chủ sang một dạng nhà nước cộng hòa. Sử dụng cho Nước tự do Ireland dưới nhà nước cộng hòa Ireland, trong khi vẫn là một phần của Đế quốc Anh. Các từ hạn lượng khác có gốc trong truyền thống và lịch sử thường là không có ý nghĩa thực sự về chính trị. San Marino, ví dụ, là "Cộng hòa bình yên nhất" trong khi Uruguay là "Cộng hòa phía Đông". Cộng hòa trong lý thuyết chính trị Trong lý thuyết chính trị và khoa học chính trị, từ "cộng hòa" nhìn chung được áp dụng cho một nước nơi mà sức mạnh chính trị của nhà nước chỉ phụ thuộc vào sự đồng ý, bất kì trên danh nghĩa nào, của người dân bị cai trị. Việc sử dụng này dẫn đến hai tập hợp phân loại đều có vấn đề. Thứ nhất là các nước được cầm quyền bởi một nhóm thiểu số, nhưng không phải là cha truyền con nối, giống như nhiều nước độc tài, thứ hai là các nước mà tất cả, hay là gần như tất cả, quyền lực chính trị thực sự được nắm bởi các thể chế dân chủ, nhưng vẫn có một vua/nữ hoàng như người đứng đầu nhà nước trên danh nghĩa, được biết chung như là Quân chủ lập hiến. Trường hợp thứ nhất làm cho nhiều người bên ngoài từ chối xem nước đó như là một nước cộng hòa thực sự. Trong nhiều nước loại thứ hai có một số phong trào "cộng hòa" vẫn hoạt động để khuếch trương việc kết thúc một chế độ quân chủ chỉ tồn tại trên danh nghĩa, và vấn đế ngữ nghĩa thường được giải quyết bằng cách gọi đó là một nước dân chủ. Nhìn chung, các nhà khoa học chính trị cố gắng phân tích hiện thực ẩn bên trong hệ thống, chứ không phải bằng danh nghĩa mà nước đó tự xưng: mặc cho một lãnh tụ chính trị tự xưng là "hoàng đế" hay "tổng thống", và nhà nước ông ta đang lãnh đạo được gọi là một nhà nước "quân chủ" hay "cộng hòa" không phải là đặc điểm quan trọng, liệu là ông ta sử dụng quyền lực như người chuyên quyền hay là không mới là quan trọng. Trong nghĩa này những phân tích gia về chính trị có thể nói rằng Chiến tranh thế giới thứ nhất, trong nhiều khía cạnh, là điểm cáo chung cho chế độ quân chủ, và sự thiết lập của chủ nghĩa cộng hòa, hoặc là trên thực tế hay là de jure, như là những thiết yếu cho một nhà nước hiện đại. Đế chế Áo-Hung và Đế chế Đức cả hai đều bị xóa bỏ bởi những điều khoản trong hiệp định hòa bình ký kết sau đó, Đế quốc Nga bị lật đổ bởi Cách mạng Nga năm 1917. Ngay cả trong các nước thắng trận, các hoàng gia đã dần dần bị tước bỏ quyền lực và đặc quyền, và càng nhiều hơn nhà nước là ở trong tay của các cơ quan được bầu lên và các đảng chiếm đa số nắm quyền hành pháp. Ý nghĩa khác Triết học chính trị Thuật ngữ cộng hòa có nguồn gốc từ những tác giả của thời Phục hưng như một thuật ngữ mô tả về về một quốc gia không có chế độ quân chủ. Những tác giả này, như Machiavelli, cũng đã viết những tác phẩm quan trọng mô tả làm thế nào để các chính phủ như vậy thực hiện chức năng của mình. Những ý tưởng về việc một chính phủ và xã hội nên được xây dựng như thế nào là cơ sở cho một hệ tư tưởng được gọi là Chủ nghĩa cộng hòa cổ điển. Tư tưởng này dựa trên Cộng hòa La Mã và các thành bang của Hy Lạp cổ đại và tập trung vào những ý tưởng như đạo đức công dân, quy định của luật pháp và chính phủ hỗn hợp.
Quân đội Liban (tiếng Ả Rập:الجيش اللبناني; tiếng Pháp: Forces armées libanaises) là quân lực chính quy của Liban, bao gồm ba nhánh: lục quân, không quân và hải quân. Tổng quan Nhiệm vụ chính của quân đội Liban là gìn giữ an ninh và ổn định quốc gia, canh giữ biên phòng, cứu tế, cứu hỏa và phòng chống buôn lậu ma túy. Cả ba nhánh quân sự đều nằm dưới sự chỉ huy của bộ tư lệnh Liban, đóng tại Yarzeh, nằm phía đông của thủ đô Beirut. Toàn quốc có sáu trường dự bị quân sự, một số học viên được du học quân sự. Quân đội Liban có 85% thiết bị quân sự sản xuất tại Hoa Kỳ, còn lại có từ Anh, Pháp và Liên Xô/Nga. Lục quân Liban Lục quân Liban gồm có: 5 Bộ tư lệnh vùng; 11 Sư đoàn cơ giới; 1 Sư đoàn phòng vệ; 1 Trung đoàn lính đặc công; 5 Trung đoàn biệt động; 1 Trung đoàn không quân; 1 Trung đoàn đặc công hải quân; 2 Trung đoàn pháo binh; Sư đoàn phòng vệ công cộng có nhiệm vụ bảo vệ tổng thống trong các chuyến công du. Trang thiết bị của quân đội Liban: Khoảng 700 xe bọc thép các loại do Hoa Kỳ chế tạo như Ford Motor M-113; 100 xe tăng hạng trung của Hoa Kỳ chế tạo như M-48 A1/A5; 200 xe tăng hạng trung của Liên Xô như T-54/T-55; 40 xe tăng hạng nhẹ AMX-13 của Pháp; Ngoài ra còn có các loại vũ khí cá nhân khác. Không quân còn có thêm: 30 máy bay trực thăng Bell UH-1H; 4 máy bay trực thăng Robinson R44 Raven II. Các máy bay này trú tại căn cứ không quân Rayak ở miền Đông nước này. Hải quân Liban Hải quân Liban đáp ứng cho nhiệm vụ bảo vệ bờ biển, bảo vệ các cảng biển và chiến đấu chống lái sự buôn lậu hàng hóa bất hợp pháp. Trang bị hải quân gồm: 5 tàu tuần tra lớp ATTACKER - lượng giãn nước 38 tấn; 2 tàu tuần tra lớp TRACKER - lượng giãn nước 31 tấn; 2 tàu lớp EDIC do Pháp sản xuất - lượng giãn nước 670 tấn; 25 tàu tuần tra ven bờ lượng giãn nước 6 tấn . Nghĩa vụ quân dịch Đàn ông Liban thực hiện chế độ quân dịch với thời gian một năm. Ngày 4 tháng 5 năm 2005, một chế độ quân dịch mới đã được áp dụng, thời gian thực hiện nghĩa vụ là 6 tháng và phải cam kết kết thúc nghĩa vụ quân dịch trong 2 năm. Chú thích
Đào Duy Từ (chữ Hán: 陶維慈, 1572–7/12/1634) là nhà quân sự, nhà thơ và nhà văn hóa, danh thần thời Chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Chỉ vỏn vẹn 8 năm phò Chúa Sãi từ 1627 đến 1634 nhưng Đào Duy Từ đã khắc hoạ hình ảnh đặc dị một người thầy của Chúa Sãi, một kiệt tướng, một chính trị gia, một chiến lược gia, một kiến trúc gia, một kỹ thuật gia, một nghệ sư tài hoa, một học giả, cũng như là người góp phần quan trọng định hình được nhà nước, địa lý và bản sắc Đàng Trong. Nhà Nguyễn công nhận ông là đệ nhất khai quốc công thần và thờ ông ở Thái miếu. Thời trẻ Đào Duy Từ, hiệu là Lộc Khê, quê ở xã Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa, Đại Việt (nay là tổ dân phố nổ giáp 2, phường Nguyên Bình, thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa). Cha ông tên là Đào Tá Hán, một xướng hát chuyên nghiệp (có bản dịch là Đào Duy Hán). Cha Duy Từ mất khi ông lên 5 tuổi, ông được mẹ là Vũ Kim Chi nuôi ăn học. Duy Từ tỏ ra là người thông minh sáng dạ, năm 14 tuổi ông vào học trường của Hương cống Nguyễn Đức Khoa. Nhưng Duy Từ không được thi Hương vì luật lệ của nhà Lê bấy giờ cấm con kép hát đi thi vì tục bấy giờ cho rằng xướng ca vô loài, mẹ Duy Từ phải nhờ một viên xã trưởng là Lưu Minh Phương khai đổi họ cho ông từ Đào Duy Từ thành Vũ Duy Từ theo họ mẹ. Viên xã trưởng nhân thế, ép mẹ Duy Từ phải cưới mình thì mới chịu giúp, mẹ Duy Từ bàn lẩn đi bằng cách bảo khi nào Duy Từ thi đậu mới tiến hành cưới xin. Khoa thi Hương năm Quý Tị (1593), Duy Từ thi đậu Á Nguyên; viên xã trưởng Lưu Minh Phương bèn đòi cưới bà Kim Chi nhưng bà viện lý do Duy Từ mới thi đậu mà mẹ đã tái giá thì xấu hổ mà từ chối, rồi bảo rằng Minh Phương hãy cho con gái lớn về lấy Duy Từ thay thế. Giận dữ, Lưu Minh Phương nộp đơn kiện bà Kim Chi làm lộ việc đổi họ của Duy Từ, viên quan huyện thụ đơn sau đi báo lại cho quan Hiến Sát. Lúc bấy giờ, Duy Từ đang ở Hội văn trên Thăng Long dự thi và có bài văn được cho là hay nhất trường thi ở Thanh Hóa. Khi quan thái phó Nguyễn Hữu Liêu đang phân vân chấm Duy Từ vì một số bài bàn về cải cách chính trị có hơi trái ý chúa Trịnh Tùng thì bộ Lễ truyền lệnh xóa tên Vũ Duy Từ, đánh tuột Á Nguyên, lột mũ áo và đuổi về. Nghe tin này, bà Kim Chi cắt cổ tự vẫn. Duy Từ vừa hỏng thi vừa mất mẹ nên đau buồn lâm bệnh nặng, nằm lại tại nhà trọ. Vào Nam Sau khi bị lột hết áo mũ và bị đuổi về quê, Duy Từ sống bằng nghề dạy học. Một hôm ông nói với bạn rằng: Tôi nghe chúa Nguyễn hùng cứ đất Thuận Quảng, làm nhiều việc nhân đức, lại có lòng yêu kẻ sĩ, trọng người hiền... Nếu ta theo vào giúp thì chẳng khác gì Trương Lương về Hán, Ngũ Viên sang Ngô, có thể làm tỏ rạng thanh danh, ta không đến nỗi phải nát cùng cây cỏ, uổng phí một đời.... Rồi mùa đông năm Ất Dậu (1625), Đào Duy Từ trốn được vào xứ Đàng Trong. Đầu tiên, ông ở huyện Vũ Xương hơn một tháng để nghe ngóng tình hình. Ông đi tìm chúa Nguyễn nhưng đến nơi thì không gặp do chúa đã đi xa để kinh lý. Hết tiền tiêu, Duy Từ phải tìm đường khác. Ông dò được là Khám lý Trần Đức Hòa vốn là một thân tín của chúa Nguyễn nên đi đến Quy Nhơn để kiếm cơ lập thân. Sau biết khám lý Hoài Nhân là Trần Đức Hòa là người có mưu trí được chúa Nguyễn Phúc Nguyên tin dùng, ông vào Hoài Nhân, đến thôn Tùng Châu (thôn Tùng Châu đến đời Gia Long được chia làm 9 khu phố là Cự Tài, Phụng Du, Tấn Thạnh, Tân Bình, Phú Mỹ, Hội Phú, Phú Thọ, Cự Nghi và Cự Lễ, nay thuộc phường Hoài Hảo và Hoài Phú, thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định) để ở chăn trâu cho nhà phú hộ Chúc Trịnh Long cách nhà Trần Đức Hòa một con sông nhỏ. Tâm ý của Duy Từ là ẩn mình, chờ đợi thờ cơ đồng thời dò xét chính sự Đàng Trong. Con trai của vị phú hộ, tên là Chúc Hữu Minh, mở Tùng Châu thi xã, lấy Duy Từ làm thư đồng để phục vụ các bằng hữu văn chương. Một hôm, khi nhà phú nông đang vui vẻ đàm luận kinh sử, Đào Duy Từ dắt trâu về chuồng. Biết đó là đám quan Nho, ông đặt chân lên bậc thềm và nhìn chằm chằm không chào hỏi gì. Giai thoại kể rằng khi bị gia chủ mắng là “kẻ chăn trâu không biết gì”, Đào Duy Từ cười vang rồi nói: “Trong làng Nho cũng có quân tử, cũng có tiểu nhân. Trong bọn chăn trâu cũng có kẻ chăn trâu anh hùng và kẻ chăn trâu tôi tớ”. Khách nghe Đào Duy Từ đáp như thế rất lấy làm ngạc nhiên, bèn hỏi: “Ngươi bảo ai là Nho quân tử, ai là Nho tiểu nhân?”. Đào Duy Từ cười đáp: “Nho quân tử thì phải thông hiểu tam tài. Ở nhà lo giữ đạo cha con, anh em và vợ chồng. Khi ra giúp việc cho nước nhà phải biết tìm mưu lược để giữ yên lòng dân và cứu chỗ hiểm, phò chỗ nguy, bày binh bố trận, phải lập công danh sự nghiệp, để tiếng thơm lại cho mai sau, đời đời còn rạng rỡ, ngàn năm không phai mờ. Còn như Nho tiểu nhân, tài học nhiều lắm cũng ở mức tầm chương trích cú, chỉ muốn thong dong nơi bút mực văn chương để cầu danh lợi, mượn Nho để cười gió giỡn trăng, coi thường những kẻ hào kiệt ở đời". Khách nhà Nho nghe nói thì kinh ngạc, bèn hỏi tiếp: “Thế nào là kẻ chăn trâu anh hùng, thế nào là kẻ chăn trâu chỉ đáng phận tôi tớ, ngươi thử nói tiếp cho rõ ràng xem?”. Đào Duy Từ lại mỉm cười rồi nói: “Kẻ chăn trâu anh hùng thì như Ninh Thích phục hưng được nước Tề, Điền Đan dùng kế hỏa công mà thu phục những thành trì bị người nước Yên chiếm cứ, Hứa Do dắt trâu ra khe uống nước mà cũng biết được lẽ hưng vong và thịnh loạn, Bách Lý Hề đi chăn dê vùng miền trung nước Tần mà cũng nắm vững sự thịnh suy, bĩ thái... Còn như kẻ chăn trâu chỉ đáng phận tôi tớ thì chỉ biết đói thì ăn, no thì bỏ, ngày bỏ mặc trâu để đi ăn trộm quả, đêm ngủ say mà quên cả việc bỏ rơm cho trâu bò ăn thêm. Bọn ấy chỉ biết thân mình, dầm mưa dãi gió, ra không biết kính sợ quỷ thần, vào không biết làm gì cho mẹ cha nhờ cậy, lêu lổng chơi bời vô độ, khi vui thì mặc sức reo hò múa hát, khi giận thì chẳng kể ruột thịt thân sơ, làm xấu cả cha anh, gieo oán hờn cho làng xóm. Bọn ấy chẳng cần hỏi tới làm gì”. Khách nghe Đào Duy Từ ứng đối lưu loát, đã bác cổ lại thông kim, nên ai nấy đều ngồi nhìn và lòng thì lấy làm kinh hãi. Không ai bảo ai, tất cả đứng dậy khoanh tay thưa rằng: “Ông quả là bậc thầy cao minh”. Nói rồi, xuống mời Đào Duy Từ lên ngồi chiếu trên. Từ đó, gia chủ may sắm quần áo mới cho Đào Duy Từ, mời ngồi giảng sách, không bắt đi chăn trâu nữa. Phú hộ Chúc Trịnh Long bèn kể chuyện này cho Trần Đức Hòa; ông Trần Đức Hòa bèn tìm tới hỏi chuyện Duy Từ. Thấy Duy Từ có tài học rộng, ông mời về dạy học rồi gả con gái Trần Kim Nương cho. Thời gian này, Duy Từ thường ngâm bài "Ngọa Long cương vãn" bằng quốc âm để tự sánh mình với Gia Cát Lượng khi xưa. Khi Trần Đức Hòa xem bài Ngọa Long cương của Đào Duy Từ liền nói rằng: Đào Duy Từ là Ngọa Long đời này chăng. Làm quan chúa Nguyễn Một hôm, Trần Đức Hòa đem bài Ngọa Long cương cho Nguyễn Phúc Nguyên xem, và nói: Bài này là do thầy đồ của nhà tôi là Đào Duy Từ làm. Đọc bài Ngọa Long cương, chúa Nguyễn biết Đào Duy Từ là người có chí lớn liền cho gọi Duy Từ đến. Mấy hôm sau, Đào Duy Từ và Trần Đức Hòa cùng vào ra mắt Chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Thấy Chúa Nguyễn Phúc Nguyên chỉ mặc áo trắng sơ sài và đứng cửa nách đợi; Duy Từ dừng lại không vào. Thấy vậy, Chúa liền vào thay đổi triều phục, áo mũ chỉnh tề rồi mở cửa lớn ra đón Duy Từ vào nói chuyện. Đào Duy Từ cao đàm hùng luận, tỏ ra rất am hiểu việc đời. Nguyễn Phúc Nguyên mừng lắm, liền sau đó chúa họp bàn đình thần phong cho Đào Duy Từ làm Nha úy Nội Tán, tước Lộc Khuê Hầu, trông coi việc quân cơ ở trong và ở ngoài, tham lý quốc chính. Từ đấy Duy Từ nói gì chúa Nguyễn cũng nghe. Chúa Nguyễn thường nói với mọi người: Đào Duy Từ thật là Tử Phòng và Khổng Minh ngày nay. Năm 1629, Chúa Trịnh Tráng muốn lấn vào Nam bèn sai Nguyễn Khắc Minh đi mang tiếng là phong tước cho Chúa Nguyễn nhưng đồng thời cũng để dò xét. Đào Duy Từ, khi này là Tham tán, bèn khuyên Chúa Nguyễn che giấu lực lượng và tạm nhận phong để hòa hoãn với Chúa Trịnh. Chúa Trịnh cũng đồng thời đòi Chúa Nguyễn cho con ra Bắc chầu, nộp 30 voi đực và 30 chiến thuyền để đi cống nhà Minh bên Trung Quốc, Đào Duy Từ khuyên là không thực hiện rồi bày kế cho chúa Nguyễn đắp lũy Trường Dục để phòng thủ. Chúa Nguyễn nghe theo và thực hiện ngay. Dư bất thụ sắc Về sắc phong, vào năm 1630, Đào Duy Từ cho người làm một mâm đồng khắc chữ, hai đáy bên trong đựng sắc của chúa Trịnh, trên phủ lụa vàng rồi sai Trần Văn Khuông đi sứ. Trần Văn Khuông theo lời Đào Duy Từ dặn dò, đối đáp, dâng mâm cho chúa Trịnh, rồi kiếm cớ trốn về. Chúa Trịnh, thấy sứ đoàn đi vội, sinh nghi, bèn cho lục mâm đồng thì thấy mâm khắc kèm bài thơ: Mâu nhi vô dịch Mịch phi kiến tích Ái lạc tâm trường Lực lai tương địch! Cả triều không ai hiểu. Giai thoại kể rằng chúa Trịnh cho mời Phùng Khắc Khoan (1528 - 1613, trong khi sự kiện này xảy ra năm 1630 nên không chính xác) đến hỏi thì mới vỡ lẽ, trong chữ Hán, chữ mâu (矛) viết không có dấu phết thì thành chữ dư (予). Chữ mịch (覔) mà bỏ chữ kiến (見) là chữ bất (不). Chữ ái (愛) nếu viết thiếu chữ tâm (心) thì ra chữ thụ (受). Chữ lực (力) để cạnh chữ lai (來) sẽ thành chữ sắc (勑). Thế thì bốn câu trên là: dư bất thụ sắc (ta không nhận sắc). Chúa Trịnh cho bổ đôi mâm ra thì thấy bên trong có để tờ sắc phong đã ban cho chúa Nguyễn trước kia, nổi giận cho người đuổi theo sứ đoàn chúa Nguyễn thì cả sứ đoàn đã đi hết. Chúa Trịnh muốn ra quân đánh chúa Nguyễn nhưng gặp lúc Cao Bằng và Hải Dương đều có giặc giã nổi lên, đành phải hoãn lại. Tháng 3 năm Canh Ngọ (1630), Đào Duy Từ khuyên Chúa Nguyễn đắp lũy Trường Dục từ núi Trường Dục đến phá Hạc Hải nhằm ngăn chặn quân Trịnh ngược dòng sông Nhật Lệ vào đánh xứ Đàng Trong. để tăng cường phòng thủ, Đào Duy Từ bèn bày cho Chúa Nguyễn đánh chiếm phía nam sông Gianh rồi đắp để phòng thủ. Tháng 9 năm Canh Ngọ (1630), theo đề nghị của Đào Duy Từ, chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho mở cuộc tấn công vào châu Nam Bố Chính và chiếm được châu này. Năm Tân Mùi (1631), theo lời Đào Duy Từ, Chúa Nguyễn lại cho đắp một cái lũy nữa kiên cố hơn để phòng thủ, gọi là Lũy Thầy. Lũy Thầy dài 18 km bắt đầu từ núi Đâu Mâu qua cửa biển Nhật Lệ tiến lên phía đông bắc đến làng Đông Hải. Lũy Thầy và Lũy Trường Dục là hai chiến lũy quan trọng, giúp Chúa Nguyễn Phúc Nguyên và các chúa Nguyễn về sau có thể phòng thủ hiệu quả trước các cuộc tiến công của các chúa Trịnh trong một thời gian dài. Ngoài giúp Chúa Nguyễn đối phó Chúa Trịnh, Đào Duy Từ còn nhiều lần khuyên khéo được chúa Nguyễn việc chính sự, ngoài ra còn tiến cử con rể của mình là Nguyễn Hữu Tiến cho Chúa Nguyễn. Nguyễn Hữu Tiến về sau cũng trở thành một công thần của các chúa Nguyễn như cha vợ mình. Qua đời Tháng Mười năm Giáp Tuất (1634), Đào Duy Từ lâm bệnh nặng rồi mất, thọ 63 tuổi. Ông mất ngày 17/10 năm Giáp Tuất (thứ Năm, ngày 7/12/1634). Chúa Nguyễn Phúc Nguyên đích thân đến thăm viếng Đào Duy Từ, khóc rồi thưa: "Thần gặp được thánh minh, chưa báo đáp được mảy may, nay bệnh đến thế này còn biết nói chi nữa" rồi Đào Duy Từ qua đời, thọ 63 tuổi, phụ chính cho chúa Nguyễn được 8 năm. Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc, cho táng tại Tùng Châu và phong làm "Hiệp mưu Đồng đức Công thần, Đặc tiến Kim tử Vinh Lộc đại phu". Đến năm thứ 5 đời Vua Gia Long thì tùng tự ở Thái Miếu, đến thời Vua Minh Mạng truy phong là Hoằng Quốc Công. Năm 1836, cho sửa sang mộ phần. Theo Tôn Thất Thọ "Nhân dân nhiều thế hệ đã không có ý gì chê trách ông không trung thành với vua Lê chúa Trịnh; cũng không một ai nghĩ rằng ông đã giúp chúa Nguyễn vì ý đồ cát cứ chia cắt giang sơn, tất cả đều quý trọng ông ở một điểm: Ông là một tài năng kiệt xuất và là một vị quan có nhân cách hiếm có của lịch sử nước nhà." Từ đó đến nay, tại Việt Nam có hàng trăm đường phố và trường học ở khắp các địa phương được đặt theo tên ông để ca ngợi. Tác phẩm "Ngọa Long cương vãn", bài thơ Duy Từ hay ngâm lúc chưa làm quan để ví mình như Gia Cát Lượng. "Hổ trướng khu cơ", là tác phẩm do Đào Duy Từ soạn ra để dạy các tướng sĩ của xứ Đàng Trong. Đó là cuốn binh pháp viết về nghệ thuật quân sự “độc nhất vô nhị” của Việt Nam còn nguyên vẹn và được lưu truyền cho đến ngày nay. Khác hẳn với nhiều cuốn binh pháp, hổ trướng khu cơ được biên soạn thiên về mặt thực hành hơn là mặt lý luận quân sự và được viết theo quan điểm cổ truyền của thuyết Tam tài “Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa” gồm Tập thiên, Tập địa, Tập nhân. Chủ yếu trình bày về phương pháp, kỹ chiến thuật đánh trận và kỹ thuật chế tạo binh khí, phản ánh nhiều vấn đề cơ bản của truyền thống quân sự Việt Nam. "Tư Dung Vãn" (ca ngợi cửa biển Tư Hiền ở Thừa Thiên), viết bằng chữ Nôm theo thể văn vần được các nhà nghiên cứu đánh giá cao xếp hàng đầu trong những tác phẩm văn học viết của nền văn học Đàng Trong. Gia đình Sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn ghi vợ sau của ông là Trần Thị Chính, con gái của Khám lý Cống Quận Công Trần Đức Hòa. Bà họ Trần không có con. Theo quy định “tam tòng tứ đức” ngày xưa, phụ nữ không có con bị quy vào tội “bất hiếu”, có thể vì lẽ này bà họ Trần không được chép vào gia phả. Vợ đầu là Cao Thị Nguyên, sau khi ông mất thì đi tu năm 1637 mà chùa nay là chùa Bà, Hoài Thanh Tây, Hoài Nhơn, Bình Định. Con cháu Đào Duy Từ hiện nay là hậu duệ của bà vợ Cao Thị Nguyên này. Đào Thị Hưng, người con gái của Đào Duy Từ thì gả cho Nguyễn Hữu Tiến, danh tướng của 3 đời chúa Nguyễn. Hậu duệ Đào Duy Từ có: Đào Duy Mưu (tức Đô đốc Mưu), cháu đời thứ 7, tướng Nhà Tây Sơn, từng dẫn quân đánh trận Đống Đa năm 1789. Thiệu Quang Hầu Đào Duy Mẫn, Hạc Toán Hầu Đào Duy Niệm, Xuân Quang Hầu Đào Duy Tàng (cháu đời thứ 7) theo phò tá Chúa Nguyễn Ánh. Đào Tấn, cháu đời thứ 9, quan nhất phẩm Thượng thư Bộ Binh, Thượng thư Bộ Hình, người có công phát triển nghệ thuật tuồng đời Nhà Nguyễn. Chú thích Thư mục . .
Nguyễn Tri Phương (1800-1873) là một đại danh thần Việt Nam thời nhà Nguyễn. Ông là vị Tổng chỉ huy quân đội triều đình Nguyễn chống lại quân Pháp xâm lược lần lượt ở các mặt trận Đà Nẵng (1858), Gia Định (1861) và Hà Nội (1873). Thành Hà Nội thất thủ, ông bị thương nặng và bị quân Pháp bắt giữ, lính Pháp đã đề nghị cứu chữa cho ông nhưng ông đã từ chối và cự tuyệt hợp tác với chúng cho đến khi qua đời. Xuất thân và sự nghiệp Nguyễn Tri Phương (chữ Hán: 阮知方) tên cũ là Nguyễn Văn Chương, tự Hàm Trinh, hiệu là Đường Xuyên, sinh ngày 21 tháng 7 năm Canh Thân (9 tháng 9 năm 1800), quê làng Đường Long (Chí Long), Điền Lộc, Phong Điền, Thừa Thiên Huế. Ông xuất thân trong một gia đình làm ruộng và nghề thợ mộc. Nhà nghèo lại không xuất thân từ khoa bảng nhưng nhờ ý chí tự lập ông đã làm nên cơ nghiệp lớn. Năm Quý Mùi (1823), vua Minh Mạng đề bạt ông hàm Điển bộ (Bí thư ở Nội điện), năm sau thăng Tu soạn, rồi Thừa chỉ ở Nội các, hai năm sau thăng Thị độc, Thị giảng học sĩ, năm 1831 thăng Hồng Lô tự khanh. Năm 1832, ông được sung vào phái bộ sang Trung Quốc về việc thương mại. Năm 1835 ông nhận lệnh vua Minh Mạng vào Gia Định cùng Trương Minh Giảng bình định các vùng mới khai hoang. Việc thành công ông được thăng hàm Thị lang. Năm 1837, ông bị triều thần dèm pha, nên bị giáng xuống làm thơ lại ở bộ Lại. Cuối năm, ông được khôi phục hàm Chủ sự, sung chức Lang trung. Năm sau ông thăng Thị lang bộ Lễ, năm 1839 thăng hàm Tham tri, làm việc ở Nội các. Năm Canh Tý (1840), ông được bổ làm Tuần phủ Nam Ngãi (Quảng Nam và Quảng Ngãi), trông coi bố phòng cửa biển Đà Nẵng. Công việc hoàn thành tốt đẹp, ông được triệu về kinh thăng Tham tri bộ Công, được vua Thiệu Trị cử làm Tổng đốc Long Tường (Vĩnh Long và Định Tường). Tại đây, ông dẹp tan được các toán giặc cướp nước ngoài vào quấy phá. Tháng 5 âm năm 1844, ông được cải bổ Tổng đốc An Hà (An Giang, Hà Tiên). Năm 1845, ông cùng với Doãn Uẩn đánh bại quân Xiêm La của tướng Bodin, bình định Cao Miên, ổn định hoàn toàn vùng biên giới Tây Nam thuộc miền Tây Nam bộ. Ông được vua Thiệu Trị khen là người gan dạ: Gần đây có viên trung sứ từ quân thứ về nói: Nguyễn Tri Phương đối trận đánh nhau với giặc, đạn rơi xuống như mưa; tỳ tướng bẩm xin bỏ lọng đi để cho địch khỏi biết. Tri Phương quát lên, sai giương thêm 2 lọng nữa. Từ đấy, khí thế quân sĩ hăng hái gấp trăm lần, sẽ thu được thành công. Ví phỏng người nhút nhát đương vào việc ấy, liệu có khỏi mất tinh thần không ?". Sau đó, ông được thăng chức Khâm sai quân thứ đại thần Trấn Tây hàm Tòng Hiệp Biện Đại học sĩ (tháng 9 âm/1845), rồi được thưởng danh hiệu "An Tây trí dũng tướng" (tháng 2 âm/1847). Tháng 5 năm 1847, ông được triệu về kinh, thăng hàm Chánh Hiệp biện đại học sĩ, lãnh Thượng thư bộ Công đại thần Cơ mật viện, tước Tráng Liệt tử và được ban một Ngọc bài có khắc bốn chữ "Quân kỳ thạc phụ", được chép công trạng vào bia đá ở Võ miếu (Huế). Sau khi vua Thiệu Trị mất, ông được đình thần tôn làm Phụ chính Đại thần (theo di chiếu). Năm Mậu Thân (1848), vua Tự Đức phong tước cho ông là Tráng Liệt bá. Cùng năm đó, cha ông qua đời. Ông xin về cư tang, nhưng vì đang làm Phụ chính nên chỉ được nghỉ một thời gian ngắn phải ra làm việc tại triều đình. Năm Canh Tuất (1850), vua Tự Đức chuẩn phê cải tên ông là Nguyễn Tri Phương. Từ đó tên Nguyễn Tri Phương trở thành tên chính của ông. Sau đó ông được sung chức Khâm sai Tổng thống Quân vụ Đại thần các tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, Hà Tiên. Năm 1853, ông được thăng Điện hàm Đông các Đại học sĩ, rồi lãnh chức Kinh lược sứ Nam Kỳ. Trong thời gian này, ông có công lập được nhiều đồn điền, khai khẩn đất hoang, dân cư ở địa phương được an cư lập nghiệp. Thống lĩnh quân sự chống Pháp Năm Mậu Ngọ (1858), tàu chiến Pháp đến uy hiếp Đà Nẵng, vua Tự Đức cử ông làm Quân thứ Tổng thống đại thần trực tiếp chỉ huy quân đội chống lại. Với vũ khí tối tân, Pháp đã uy hiếp và phá hủy một số lớn đồn lũy của Việt Nam, ông bị triều đình giáng cấp nhưng vẫn lưu tại chức. Tuy nhiên, do công cuộc kế hoạch phòng thủ của Nguyễn Tri Phương chu đáo nên quân Pháp không thể tiến lên được. Năm 1859, Pháp chuyển hướng đánh thành Gia Định, quân nhà Nguyễn không rõ thương vong nhưng tan rã gần hết. Thành bị hạ, Hộ đốc thành Gia Định là Võ Duy Ninh tự vẫn. Sau đó, Pháp đã cho phá hủy thành Gia Định. Năm 1860, Nguyễn Tri Phương được sung chức Gia Định quân thứ, Thống đốc quân vụ cùng Tham tán đại thần Phạm Thế Hiển trông coi việc quân sự ở miền Nam. Nguyễn Tri Phương chủ trương huy động từ 15.000 đến 20.000 quân; nhưng không tập trung quân ở một nơi, mà chia thành ba đạo: một đạo chính đóng tại đồn Phú Thọ, chỗ quân thứ Gia Định hiện đóng; một đạo đóng ở phủ hạt Tân An; một đạo đóng ở tỉnh hạt Biên Hòa. Ông hạ lệnh phòng thủ các đường sông, ngòi lớn nhỏ, vừa đánh và giữ, dần dần đắp thêm đồn lũy tiến sát đến chỗ địch đóng quân. Trang bị cho quân đội cần từ 20 đến 30 cổ súng loại lớn, đường kính nòng từ 2 tấc 9 phân trở lên. Do không nắm vững tình hình quân sự và chính trị của Pháp, Nguyễn Tri Phương đã chủ trương xây dựng đại đồn Chí Hòa (về sau người Pháp gọi là Kỳ Hòa) để bao vây, bức rút quân Pháp. Tuy nhiên, sau vào ngày 25 tháng 2 năm 1861, quân Pháp đã tiến hành công phá đại đồn. Ông chỉ huy quân lính chống cự quyết liệt nhưng rồi bị thương, đại đồn thất thủ, Gia Định lại bị chiếm. Em ruột ông là Nguyễn Duy tử trận, ông bị cách chức xuống làm Tham tri, mãi đến năm sau lại được hàm Binh bộ Thượng thư, sung Đổng nhung quân vụ Biên Hòa, tập hợp lực lượng để chống sự bành trướng của quân đội Pháp. Năm 1862, sau khi triều đình Huế ký Hòa ước Nhâm Tuất, mất 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ vào tay Pháp, ông được cử ra Bắc làm Tổng thống Hải An quân vụ, thăng chức Võ Hiển Đại học sĩ, tước Tráng Liệt Bá. Năm Nhâm Thân (1872), lại được điều về giữ chức Tuyên sát đổng sức đại thần, thay mặt triều đình xem xét việc quân sự ở Bắc Kỳ. Đánh dẹp giặc cướp trên đất Bắc Từ năm 1863, ông được cử ra Bắc Kỳ đánh dẹp quân Lê Duy Phụng. Năm Tự Đức thứ 25 (1870), quân Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc vẫn đánh phá cướp bóc các tỉnh Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Trong 3 năm trường chúng vẫn uy hiếp các tỉnh này và quan quân liên tục thất bại. Sau khi quan Tổng đốc Phạm Chi Hương bại trận và bị bắt, triều đình đã phái Võ Trọng Bình ra làm Tổng đốc Hà Ninh kiêm Khâm sai Quân thứ đại thần các tỉnh Tuyên-Thái-Lạng. Quan Khâm sai hội với quan Đề đốc Quảng Tây để cùng đánh quân Ngô Côn vì họ cứ quấy phá cả hai bên biên thùy. Vào giữa năm 1869, Ngô Côn đem quân đánh Bắc Ninh, quan Tiểu phủ Ông Ích Khiêm đánh thắng một trận lớn, phá tan quân giặc và Ngô Côn bị bắn chết. Ngô Côn chết rồi thì đồng đảng chia làm 3 phe tiếp tục cướp phá các tỉnh mạn ngược ở miền Bắc: phe Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc, phe Cờ Vàng của tướng Hoàng Sùng Anh, phe Cờ Trắng của Bàn Văn Nhị và Lương Văn Lợi. Quan Trung quân Đoàn Thọ được gửi từ Kinh ra làm Tổng thống quân vụ Bắc Kỳ. Ông liền kéo quân lên Lạng Sơn. Bọn giặc Khách là Tô Tứ thình lình nổi lên nửa đêm vào chiếm thành giết chết Đoàn Thọ. Võ Trọng Bình may mắn chạy thoát được. Triều đình Huế lại sai Hoàng Kế Viêm ra làm Thống đốc quân vụ Lạng-Bình-Ninh-Thái cùng với Tán tương Tôn Thất Thuyết tìm cách dẹp giặc cho yên. Tiếp theo vua lại sai ông Lê Tuấn là Thượng thơ Hình bộ ra làm Khâm sai thị sự để giúp Hoàng Kế Viêm. Rồi Hoàng Kế Viêm giữ mạn Sơn Tây, Lê Tuấn trấn đóng ở Hải Dương. Tuy vậy tình hình vẫn lằng nhằng không giải quyết thanh thỏa được. Vua Tự Đức quá lo lắng, lại phải vời Nguyễn Tri Phương cho làm chức Tam tuyên quân thứ Khâm mạng Đại thần, được phép tùy nghi lo việc đánh dẹp cho yên. Vua ban cho ông kỳ bài, ấn kiếm, cờ mao tiết, nhung y, v.v. Đến miền Bắc, ông và Hoàng Kế Viêm chủ trương chia để trị, thu phục quân Cờ Đen vì lực lượng này mạnh nhất và dùng nó để chế ngự các nhóm khác. Vua Tự Đức bằng lòng và ban cho Lưu Vĩnh Phúc chức Đề đốc với nhiệm vụ tuần phòng ở biên cảnh. Chính sách này tỏ ra có hiệu quả, quân Cờ Đen giúp sức đánh quân Cờ Vàng, Cờ Trắng và sau này tham gia đánh Pháp. Năm Tự Đức thứ 24 (1871) vua xuống dụ chuẩn cho ông khôi phục nguyên hàm Thái tử Thái bảo Võ hiển điện Đại học sĩ Trí dõng tướng Tráng liệt bá, nhưng vẫn sung Tam tuyên quân thứ Khâm mạng Đại thần. Chống giữ thành Hà Nội Năm 1873, Soái phủ Nam Kỳ phái Francis Garnier đem quân ra Hà Nội, lấy cớ giúp thương nghị sự tranh cãi giữa tay lái buôn Jean Dupuis và chính quyền nhà Nguyễn ở Bắc Kỳ. Thoạt tiên Đô đốc Dupré định đưa ra hai ngàn quân, tuy nhiên việc phái một lực lượng quân sự lớn như vậy gây nghi ngờ từ phía triều đình Huế. Kết cục là đại úy Garnier thuyết phục đô đốc Dupré là chỉ cần vài chục binh sĩ tinh nhuệ là đủ. Trên giấy tờ, Garnier có lệnh điều tra tình hình tranh cãi giữa Dupuis và nhà đương cục, trục xuất Dupuis khỏi Bắc kỳ sau khi đã thu xếp bồi thường thiệt hại cho ông ta. Tiếp đó Garnier phải buộc nhà đương cục chấp thuận mở cửa thông thương tuyến đường thủy sông Hồng, đặt trạm thuế quan và dùng tiền thuế thu được để hoàn trả phí tổn cuộc viễn hành. Tuy nhiên thực tế là Garnier đã rất hoan hỉ viết thư cho anh trai "Tôi có toàn quyền hành động! Nước Pháp tiến lên!" Garnier chuyển quân ra bắc thành hai đợt, đợt đầu 83 lính, đợt hai thêm 88 lính và hai pháo thuyền (kể cả số thủy thủ và thủy binh). Tới ngày 5 tháng 11 ông ta đã đến Hà Nội trên tàu hơi nước của Dupuis, do Dupuis đi đón dọc đường. Cộng với thuộc hạ của Dupuis, gồm có 10 người Âu, 30 người Á, 150 lính đánh thuê Vân Nam và một số lính Cờ vàng, Garnier chuẩn bị đánh chiếm thành Hà Nội sau khi nhận thấy các yêu sách của mình không đe dọa được Nguyễn Tri Phương. Đêm ngày 19, rạng sáng ngày 20 tháng 11 năm 1873, Garnier đánh úp thành Hà Nội. Quân Pháp bất ngờ đánh chiếm vòng phòng thủ bên ngoài của hai cửa phía nam, và vượt qua cầu trước khi quân trú phòng kịp bắn xuống. Đồng thời, pháo từ các pháo thuyền cũng bắn lên, khiến cho binh lính phòng thủ, do không quen với đạn pháo, bỏ chạy tán loạn khỏi thành theo cửa tây. Cùng lúc đó, hỏa lực quân Pháp cũng bắn vỡ cửa nam, và chỉ trong một giờ, quân Pháp đã treo cờ tam tài lên vọng lâu thành Hà Nội. Hơn hai nghìn quân triều đình bị bắt làm tù binh, về phía quân Pháp, chỉ có một người lính đánh thuê Vân Nam của Dupuis bị giết do một viên sĩ quan Pháp bắn nhầm. Con trai Nguyễn Tri Phương là Phò mã Nguyễn Lâm bị trúng đạn chết tại trận, Nguyễn Tri Phương cũng bị trọng thương. Ông được lính Pháp cứu chữa, nhưng ông khẳng khái từ chối và nói rằng: "Bây giờ nếu ta chỉ gắng lây lất mà sống, sao bằng thung dung chết về việc nghĩa" Sau đó, ông tuyệt thực gần một tháng và mất vào ngày 20 tháng 12 năm 1873 (1 tháng 11 Âm lịch), thọ 73 tuổi. Thi hài ông và Nguyễn Lâm được đưa về an táng tại quê nhà. Đích thân vua Tự Đức tự soạn bài văn tế cho ba vị công thần (Nguyễn Duy, Nguyễn Lâm, Nguyễn Tri Phương) và cho lập đền thờ Nguyễn Tri Phương tại quê nhà. Nhận xét Tấm gương quên mình vì nước của ông được nhân dân khâm phục, kính trọng, ông được thờ trong đền Trung Liệt (cùng với Hoàng Diệu) trên gò Đống Đa với câu đối: Thử thành quách, thử giang sơn, bách chiến phong trần dư xích địaVi nhật tinh, vi hà nhạc, thập niên tâm sự vọng thanh thiênDịch:Kia thành quách, kia non sông, trăm trận phong trần còn thước đấtLà trời sao, là sông núi, mười năm tâm sự với trời xanhSách Việt Nam sử lược nhận xét về ông: "Ông Nguyễn tri Phương là người ở Thừa-thiên, do lại-điển xuất thân, làm quan từ đời vua Thánh-tổ, trải qua ba triều, mà nhà vẫn thanh-bạch, chỉ đem trí-lực mà lo việc nước, chứ không thiết của-cải. Nhưng chẳng may phải khi quốc bộ gian nan, ông phải đem thân hiến cho nước, thành ra cả nhà cha con, anh em đều mất vì việc nước. Thật là một nhà trung-liệt xưa nay ít có vậy."Khen thưởng Năm Canh Tý (1840), Khâm sai quân thứ đại thần, hàm Tòng Hiệp Biện Đại học sĩ rồi được thưởng danh hiệu "An Tây trí dũng tướng". Tháng 5 năm 1847, thăng hàm Chánh Hiệp biện đại học sĩ, tước Tráng Liệt tử và được ban một Ngọc bài có khắc bốn chữ "Quân kỳ thạc phụ", được chép công trạng vào bia đá ở Tòa Võ miếu Huế, trên bia Võ công An tây dựng khoảng năm 1847-1851, (tấm bia Võ công này ngày nay đã bị thất lạc). Năm Canh Tuất (1850), vua Tự Đức ban tên Nguyễn Tri Phương, chức Khâm sai Tổng thống Quân vụ Đại thần kiêm Tổng đốc các tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, Hà Tiên. Năm 1853, thăng Điện hàm Đông các Đại học sĩ. Năm 1862, thăng chức Võ Hiển Đại học sĩ, tước Tráng Liệt Bá. Hàm Thái tử Thái bảo Võ hiển điện Đại học sĩ Trí dõng tướng Tráng liệt bá (1871). Vinh danh Khu lăng mộ (Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Duy, Nguyễn Lâm) và Nhà thờ Nguyễn Tri Phương nay thuộc xã Phong Chương, huyện Phong Điền, Thừa Thiên Huế. Ngày 14 tháng 7 năm 1990, toàn thể khu đền mộ này được công nhận là di tích cấp quốc gia theo quyết định số 575-QĐ/VH của Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam. Ngày 21 tháng 3 năm 2010, tại xã Phong Chương đã diễn ra lễ khánh thành công trình phục hồi, tôn tạo khu di tích trên. Ngoài đền thờ họ Nguyễn Tri ở Phong Điền, Thừa Thiên Huế, tại phường Bửu Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai cũng có một đền thờ Tam công mà trong đó Nguyễn Tri Phương được xem là thành hoàng của địa phương. Bên tả và hữu chánh điện thờ hai vị Tán lý quân vụ Nguyễn Duy (em ruột Nguyễn Tri Phương) và phò mã Nguyễn Lâm (con Nguyễn Tri Phương). Hằng năm tổ chức lễ Kỳ yên long trọng vào ngày 16, 17 tháng 10 âm lịch. Lễ kéo dài trong hai ngày với những nghi thức tiến thần, diễn hành lễ bộ, tống phong... Đền thờ Tam công đã được xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1992. Ở Việt Nam cũng đang có nhiều con đường và trường học mang tên ông. Thơ ca Sinh thời, Nguyễn Tri Phương rất ít làm thơ, nhưng năm 1866, ông được vua Tự Đức cho vào Nam nhậm chức, ông có bài thơ tặng Kinh lược sứ Phan Thanh Giản:Ven ngàn góc bể dặm chơi vơi,Vui tỏ phân nhau một bước đời.Cá lại Long giang hai ngã nước,Nhạn về du hợp một phương trời.Nửa hồ cố cựu trông lai lảng,Cạn chén tư hương gió lộng khơi.Hãy kịp Tràng An mau trở lại,Thăm người viếng cảnh hỡi người ơi! Hậu duệ Con trai, Phò mã Nguyễn Lâm hy sinh trong trận Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ nhất, cùng ông. Theo cụ Nguyễn Tri Tài, nguyên giáo sư Ban Việt - Hán, Đại học Văn khoa Sài Gòn, giảng viên  môn Hán cổ khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, cháu 5 đời của Nguyễn Tri Phương (đứng hàng chánh bái), thì dòng họ Nguyễn Tri còn một nhánh ở Tiền Giang. Trưởng nhánh là Nguyễn Tri Túc, con thứ Nguyễn Tri Phương. Nguyễn Tri Túc nổi tiếng về tài thổi sáo và đánh đàn. Nguyễn Tri Túc có hai con là Nguyễn Tri Lạc giỏi về hát bội, đàn cò và Nguyễn Tri Khương là tác giả vở cải lương Giọt lệ chung tình. Con Nguyễn Tri Lạc là nhạc sĩ Nguyễn Mỹ Ca. Em gái ông là mẹ của Giáo sư tiến sĩ âm nhạc Trần Văn Khê và nghệ sĩ quái kiệt Trần Văn Trạch (chắt ngoại). Chú ruột của ông Nguyễn Tri Tài là Nguyễn Tri Kiệt, cháu nội Phò mã Nguyễn Lâm, con của Lễ bộ thượng thư Nguyễn Tri Kiểm cũng là nghệ sĩ đa tài, giỏi các loại đàn cò, tranh, nguyệt, làm đạo diễn và đóng vai kép hát bội, ca Huế, cải lương vào những năm 1940 tại xứ Huế. Chú giải Chú thích
Đầu thai (tái hóa thân, tái hiện thân, chuyển kiếp hay chuyển sinh) là một niềm tin được tìm thấy trong các triết lý tôn giáo lớn của Ấn Độ, bao gồm Yoga, Phật giáo, đạo Jain và một số tôn giáo khác. Trong khái niệm đầu thai, một tính cách mới được phát triển trong mỗi kiếp sống mới trong thế giới loài người, dựa vào các kinh nghiệm tích lũy từ các kiếp sống trước và những kinh nghiệm mới đạt được trong kiếp sống hiện tại, nhưng cá tính của người đó sẽ luôn thay đổi trong suốt các kiếp sống kế tiếp nhau trong luân hồi. Người ta tin rằng có sự tương tác của một số kinh nghiệm sống nào đó, hay là nghiệp, và những hành động tự chọn bởi chính bản thân người đó trong khi họ đang sống kiếp đó. Khái niệm chung Niềm tin vào sự đầu thai là một hiện tượng có từ thời cổ đại; trong nhiều hình thức khác nhau, từ thời Ai Cập cổ đại, hay có lẽ là trước đó, con người đã tin vào một cuộc sống tương lai sau khi chết. Các ngôi mộ cổ chứa đựng cả người và của cải có thể là bằng chứng cho niềm tin rằng người đó có thể lại cần đến những thứ của cải đó mặc dù đã chết một cách vật lý. Nói vắn tắt, có một số quan niệm phổ biến về một dạng sống trong tương lai. Trong mỗi quan niệm đó, hoặc là người đó hoặc là một thành phần cốt yếu định rõ người đó (linh hồn hay tinh thần) vẫn tiếp tục tồn tại: Đầu thai dưới dạng con người. Nhiều kiếp sống kế tiếp nhau trên mặt đất, thông thường bao gồm cả một niềm tin về việc đi vào thế giới tâm linh hoặc là các tầng tồn tại giữa sự chết và tái sinh. Đây là dạng thông thường của đầu thai (cũng được gọi là "tái sinh"). Trong nhiều phiên bản, cuối cùng có một tiềm năng thoát khỏi vòng luân hồi, chẳng hạn như đạt đến trạng thái Niết Bàn (trạng thái không còn Tham Ái, Sân Hận và Si Mê, chứ không phải ở một nơi nào đó) hoặc bằng cách hợp nhất vào với Chúa trời, hoặc là đạt được sự khai sáng, một dạng của việc tự nhận thức, một sự tái sinh tâm linh, đi vào cõi tâm linh v.v.. Sự luân hồi của linh hồn Người ta chết đi, và trở lại dạng tồn tại này dạng tồn tại khác một cách liên tục, dạng của họ khi trở lại có thể ở loại 'cao hơn' hay 'thấp hơn' phụ thuộc vào hạnh kiểm (đạo đức) của họ trong kiếp sống hiện tại. Niềm tin này có giả thiết sự chuyển đổi giữa linh hồn người và động vật, ở tầng thấp nhất có thể bao gồm cây cỏ và đất đá. Ngày cuối cùng Người ta chỉ sống một đời. Sau khi chết, họ có thể quay lại trần gian hoặc là được làm sống dậy trong Ngày phán xét cuối cùng nào đó, hoặc là tại một trận chiến cuối cùng nào đó (ví dụ trận Ragnarök trong thần thoại Bắc Âu). Sau đó, họ có thể lên thiên đàng hoặc địa ngục, hoặc tái sinh trở lại trên mặt đất. Niềm tin này là một viễn cảnh khải huyền của tương lai. Các niềm tin vào Cuộc sống sau khi chết (Afterlife) cũng liên quan đến các niềm tin trên, nhưng không bao gồm việc quay trở lại với một dạng thể xác. Người ta sống trên mặt đất này, và sau đó sống trong một dạng cuộc sống sau khi chết nào đó trong suốt phần còn lại của vĩnh cửu tại một nơi được gọi bằng nhiều cách khác nhau là thiên đàng (hoặc địa ngục), âm phủ hoặc trời, hay những thứ tương tự. Họ không quay trở lại trần gian. Những niềm tin về sự đầu thai hay luân hồi được phổ biến rộng rãi trong các tôn giáo và đức tin. Một số người xem đó là một phần của tôn giáo, và những người khác thấy đó chỉ là một câu trả lời cho các câu hỏi thường gặp về đạo đức và sinh tồn, như là "ý nghĩa của cuộc sống", "tại sao chúng ta lại ở đây", hay là "tại sao những điều xấu đôi khi dường như là xảy đến với người tốt". Quan niệm về sự đầu thai cho rằng một người đã ở hay là sẽ trở lại thế gian này trong một thể xác khác. Điều này gợi đến một sự kết nối giữa những cuộc đời có vẻ không liên quan đến nhau, và (trong đa số các trường hợp) có thể có bằng chứng ẩn giấu về sự nối tiếp giữa cuộc đời của những người khác nhau, nếu được tìm kiếm. Những người ủng hộ thuyết này cho rằng thực tế là như vậy, trong khi những người chỉ trích có xu hướng bác bỏ điều này do những ẩn ý về mặt siêu hình của nó hay do việc nó chưa được khoa học chấp nhận với lý do là các cách giải thích khác của hiện tượng chưa được loại trừ một cách hoàn toàn. Các bằng chứng cho việc đầu thai thiên về ba loại: Truyền thống chung tin rằng một số người (như là Đạt-lại Lạt-ma hay Ban-thiền Lạt-ma của Đại Thừa) có thể được xác định bằng cách đi tìm một đứa bé ra đời vào thời điểm những nhân vật đó qua đời, và bằng một số dấu hiệu và kiến thức đặc biệt mà đứa trẻ đó có được về người tiền nhiệm. Trong văn hóa phương Tây, hồi tưởng tiền kiếp (past life regression) hoặc kinh nghiệm cận tử (near-death experience) đã có lần cung cấp những thứ được cho là ký ức của những kiếp sống trước, một số trong đó về lý thuyết là có thể kiểm chứng được, và một số khác có thể kiểm nghiệm rằng chỉ là bịa đặt. Một số khía cạnh của những trải nghiệm này có xu hướng thống nhất theo một cách nào đó (những thực thể ánh sáng beings of light, những thông điệp bình an và đầy tình yêu, v.v.), với một số người thì một yếu tố đã đem lại sự tin tưởng, còn với một số người khác thì đây là yếu tố hỗ trợ cho tư tưởng rằng có "một thứ gì đó" xảy ra nhưng không chắc chắn được đó là điều gì. Cuối cùng, đối với nhiều người, bằng chứng là nội tại và mang tính thực nghiệm, niềm tin hay kinh nghiệm cá nhân. Điều này có không thể không phải là một chứng minh, nhưng đối với họ, như vậy là đủ để tin vào điều đó. Mặc dù một số người cho là một số sự kiện nhớ lại kiếp sống trước đã được ghi chép lại và thử nghiệm một cách khoa học, khoa học chưa chính thức chấp nhận đầu thai như là một hiện tượng chứng minh được. Khái niệm đầu thai trong tôn giáo phương Đông Ấn Độ giáo Ở Ấn Độ ý tưởng về sự đầu thai được giới thiệu lần đầu tiên trong Áo nghĩa thư (Upanishad) (c. 800 TCN -), là những bản kinh về triết lý và tôn giáo được viết bằng tiếng Phạn. Học thuyết về sự đầu thai là không có trong bộ kinh Vệ Đà, nhìn chung được xem là bộ kinh cổ xưa nhất của Ấn Độ. Ấn Độ giáo quan niệm rằng linh hồn (của bất kì thể sống nào - bao gồm muôn thú, con người và cây cỏ) đầu thai có liên hệ một cách phức tạp với nghiệp (karma), một khái niệm khác lần đầu được giới thiệu trong bộ Áo Nghĩa thư. Nghiệp (nghĩa đen là hành động) là tổng của các hành động của một người, và là lực sẽ quyết định sự đầu thai kế tiếp của người đó. Vòng xoay của việc chết và tái sinh, được điều khiển bởi nghiệp, được gọi là luân hồi (samsara). Những ý tưởng về đầu thai, nghiệp, và luân hồi đều được tìm thấy trong Ấn Độ giáo, Phật giáo, đạo Jain và đạo Sikh. Trong tất cả các truyền thống tôn giáo này, sự cứu rỗi cuối cùng là sự giải thoát (moksha hay là mukti) khỏi vòng luân hồi của việc chết đi và tái sinh. Trong Phật giáo, sự giải thoát này thường được nhắc đến như là niết bàn (nirvana). Các truyền thống Bhakti (sùng kính) khác xem việc giải thoát khỏi luân hồi như là sự bắt đầu của một đời sống tâm linh thật sự, tiếp tục vượt lên trên cả niết bàn và tự do khỏi cõi trần tục. Khái niệm niết bàn được phổ biến rộng hơn (xem Advaita Vedanta) theo sau sự hiện diện của nhà hiền triết Ấn Độ giáo vĩ đại Adi Shankaracharya. Đối với một số trường phái Ấn Độ giáo, quan niệm rằng việc làm lắng đọng các nghiệp của một người và trở nên hài hòa cuối cùng sẽ giải thoát người đó khỏi sự đầu thai là một giáo lý trung tâm. Theo quan điểm của Ấn Độ giáo, đầu thai không thể giống như sự xuất hiện trở lại của linh hồn hay một người ở trong một cơ thể vật chất, mà đúng hơn là cảm nhận về thế giới chỉ tồn tại như một biểu thị xung quanh nhận thức, và điều này chỉ được duy trì như là một hành động của tâm thức. Theo Adi Shankaracharya, thế giới như chúng ta thường nhận biết nó chỉ là một giấc mơ: phù du và viển vông. Bị kẹt lại trong Luân hồi là kết quả của sự thiếu hiểu biết về bản chất thực sự của sự sinh tồn. Phật giáo Phật giáo chấp nhận thuyết luân hồi (samsara), quá trình của việc tái sinh; tuy nhiên, trong Phật Giáo Nguyên Thủy, Tạng Vi Diệu Pháp của Tam Tạng Pali, Tâm Thức là đối tượng được tái sinh. Thêm vào khái niệm vô ngã, Phật giáo Tây Tạng tin rằng một đứa trẻ mới ra đời có thể là tái sinh của một vị Lạt-ma quan trọng nào đó vừa mới qua đời. Trong Phật giáo Tây Tạng, những chất liệu làm nên bản ngã nhất thời (ngũ uẩn - skandha) của một Lạt-ma quan trọng (như vị Đạt-lại Lạt-ma) được cho là tái sinh vào một trẻ sơ sinh sinh ra chín tháng sau khi vị Lạt-ma đó qua đời. Quá trình này được cho là xảy ra sau nhiều năm kết tinh ngũ uẩn qua tu tập. Và người ta nói rằng, sau khi thể xác chết, một phần của ngũ uẩn đã kết tinh (cái mà thông thường sẽ tan rã khi chết) sẽ tự gắn vào với ý thức. Nhờ đó, khi tái sinh vào một trong 6 cõi, con người mới sẽ có một phần tính cách cũ. Tuy nhiên, niềm tin này rất mâu thuẫn với những lời dạy của Phật về quy luật Nghiệp và Quả của Nghiệp. Trong bài kinh Mahākammavibhaṅgasutta, Đức Phật dạy về bốn tính chất về nghiệp như sau: "Này Ānanda, như vậy tóm lại: Ác nghiệp nặng ngăn cản ác nghiệp nhẹ. Ác nghiệp có cơ hội ngăn cản thiện nghiệp. Thiện nghiệp có cơ hội ngăn cản ác nghiệp. Thiện nghiệp có nhiều năng lực ngăn cản thiện nghiệp có ít năng lực." Như vậy, cõi giới tái sanh của người ấy phụ thuộc vào thiện nghiệp hoặc ác nghiệp nặng nhẹ có cơ hội cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau. Khái niệm đầu thai trong tôn giáo phương Tây
Cấm vận hay Biện pháp trừng phạt kinh tế là các hình phạt thương mại và tài chính được áp dụng có mục tiêu bởi một hoặc nhiều quốc gia quyền lực đối với một quốc gia, nhóm hoặc cá nhân tự quản yếu thế hơn. Các biện pháp trừng phạt kinh tế không nhất thiết phải áp đặt vì hoàn cảnh kinh tế, chúng cũng có thể bị áp đặt cho nhiều vấn đề chính trị, quân sự và xã hội. Các biện pháp trừng phạt kinh tế có thể được sử dụng để đạt được các mục đích trong nước và quốc tế. Các biện pháp trừng phạt kinh tế thường nhằm tạo ra các mối quan hệ tốt giữa quốc gia thực thi các biện pháp trừng phạt và người tiếp nhận các biện pháp trừng phạt. Tuy nhiên, hiệu quả của các biện pháp trừng phạt này còn gây tranh cãi và trừng phạt kinh tế có thể gây ra hậu quả không lường trước được. Các biện pháp trừng phạt kinh tế có thể bao gồm nhiều hình thức khác nhau về rào cản, thuế quan và hạn chế thương mại đối với các giao dịch tài chính. Cấm vận cũng có nghĩa tương tự nhưng thường bao hàm các chế tài nghiêm khắc hơn như cấm bay trực tiếp hoặc phong tỏa hải quân. Một lệnh cấm vận có nghĩa là cấm giao dịch một phần hoặc hoàn toàn thương mại với một quốc gia/nhà nước hoặc một nhóm các quốc gia cụ thể. Các lệnh cấm vận được coi là biện pháp ngoại giao mạnh mẽ được áp đặt trong một nỗ lực, bởi quốc gia áp đặt, nhằm khơi gợi một kết quả lợi ích quốc gia nhất định từ quốc gia mà nó được áp đặt. Các lệnh cấm vận thường được coi là rào cản pháp lý đối với thương mại, không bị nhầm lẫn với phong tỏa, thường được coi là hành động chiến tranh. Cấm vận có thể có nghĩa là hạn chế hoặc cấm xuất khẩu hoặc nhập khẩu, tạo ra hạn ngạch về số lượng, áp dụng phí cầu đường đặc biệt, thuế, cấm vận chuyển hàng hóa hoặc phương tiện vận tải, đóng băng hoặc thu giữ hàng hóa, tài sản, tài khoản ngân hàng, hạn chế vận chuyển các công nghệ hoặc sản phẩm cụ thể ví dụ như CoCom trong chiến tranh lạnh. Để đối phó với các lệnh cấm vận, một nền kinh tế khép kín hoặc tự trị thường phát triển trong một khu vực bị cấm vận nặng nề. Do đó, hiệu quả của các lệnh cấm vận tỷ lệ thuận với mức độ và mức độ tham gia quốc tế. Embargo có thể là một cơ hội để một số quốc gia phát triển nhanh hơn khả năng tự túc. Tuy nhiên, cấm vận có thể là cần thiết trong các tình huống kinh tế khác nhau của nhà nước buộc phải áp đặt nó, do đó không nhất thiết là trong trường hợp chiến tranh. Liên Hợp Quốc, Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu là những tổ chức / quốc gia có khả năng cấm vận gây ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của các quốc gia khác.
Đức Mẹ là tên gọi cách tôn kính thường chỉ về bà Maria, người đã sinh ra Giêsu. Ngoài ra, tùy vào cách tôn kính địa phương mà danh hiệu Đức Mẹ còn đi kèm với các địa danh khác, thông thường là qua sự kiện Đức Mẹ hiện ra hoặc các nơi có đền tôn kính bà. Đức Mẹ Aparecida: thánh quan thầy của Brasil, với một tượng hình và một vương cung thánh đường Aparecida ở Aparecida, tiểu bang São Paulo. Đức Mẹ Fátima: danh hiệu rất nổi tiếng trong Giáo hội Công giáo thông qua sự kiện Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ nhỏ trong nhiều tháng tại Fátima, Bồ Đào Nha năm 1917. Đức Mẹ Guadalupe: một biểu tượng về Maria phổ biến ở México nói riêng và Mỹ Latinh nói chung. Đức Mẹ Knock: đề cập đến cuộc hiện ra của Maria ở Knock-Aghamore, Éire, 1879. Đức Mẹ La Salette: đề cập đến cuộc hiện ra của Maria năm 1846 với hai trẻ chăn cừu ở La Salette Đức Mẹ La Vang: được tin là hiện ra cứu giúp giáo dân Việt Nam tránh khỏi cuộc bách hại của Nhà Trịnh và Nhà Nguyễn Đức Mẹ Ljeviš: một nhà thờ Chính Thống giáo ở Prizren, Kosovo Đức Mẹ Lộ Đức: đề cập đến cuộc hiện ra của Maria ở Lourdes (Lộ Đức), Pháp, 1858 Đức Mẹ núi Camêlô: đề cập đến cuộc hiện ra của Maria với Thánh Simon Stock, 1251 Đức Mẹ Nazaré: một bức tượng Maria bằng gỗ được cho là do Thánh Giuse thực hiện Đức Mẹ Peñafrancia Đức Mẹ Penrhys Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp: một hình tượng phong cách Byzantine có từ thế kỷ 15. Đức Mẹ Providence Đức Mẹ Siluva: ở Siluva, Litva, 1608-1646 Đức Mẹ Sinj: thánh quan thầy của Sinj, Croatia; người ta tin rằng bà đã cứu giúp Sinj khỏi sự xâm chiếm của Ottoman Đức Mẹ Trsat: đề cập đến cuộc hiện ra của Maria ở Lâu đài Trsat, Rijeka, Croatia Đức Mẹ Vaillankanni Đức Mẹ Walsingham Đức Mẹ Westminster Đức Mẹ Sao Biển Đức Mẹ Mễ Du: cuộc hiện ra của Maria từ năm 1980 tại Medjugorje, Bosnia và Herzegovina, hiện đang gây ra sự tranh cãi.
Sân bay Đồng Hới hay Cảng hàng không Đồng Hới, mã sân bay IATA là VDH, là một sân bay tại xã Lộc Ninh, thành phố Đồng Hới, Quảng Bình, Bắc Trung Bộ, Việt Nam. Sân bay này được thực dân Pháp xây dựng vào thập niên 1930, được nâng cấp và sử dụng trong chiến tranh Việt Nam, ít được sử dụng sau năm 1975. Cụm cảng hàng không miền Bắc đã khởi công xây dựng lại vào ngày 30 tháng 8 năm 2006 và đã hoàn thành và đưa vào sử dụng vào ngày 18 tháng 5 năm 2008 tại Lộc Ninh, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, Việt Nam. Sân bay nằm về phía bắc, cách trung tâm Đồng Hới 6 km, gần giáp bờ Biển Đông và có đường băng 300 m về phía đông Quốc lộ 1. Năm 2011, số lượt chuyến phục vụ là 956 lượt chuyến với 68.427 lượt khách, so với 984 lượt chuyến và 49.803 lượt khách năm 2010 và ước tính 1104 lượt chuyến hạ cất cánh với 90.000 lượt khách vào năm 2012. Năm 2015, sân bay này phục vụ 261.372 lượt khách, tăng 122,1% so với năm 2014.. Sản lượng khách năm 2016 là 365.820 (tăng 39,96% so với năm 2015), tổng cộng có 2.650 lượt chuyến bay đi và đến, và 225,390 tấn hàng hóa thông qua. Sản lượng khách năm 2017 dự kiến đạt 500.000 lượt khách, bằng công suất thiết kế sân bay này. Dự án đầu tư nâng cấp sân bay này sẽ được tiến hành từ quý 4/2018 và hoàn thành công tác nâng cấp vào năm 2020, lúc đó đường băng sân bay này sẽ đạt cấp 4E với chiều dài 3.600m và chiều rộng 45 m, có thể phục vụ các loại tàu bay dân dụng lớn nhất như A350, Boeing 787 Dreamliner, với hai nhà ga (quốc tế và nội địa), tổng công suất thiết kế 10 triệu lượt khách/năm. Lịch sử Trong thời kỳ Việt Nam bị thực dân Pháp đô hộ, người Pháp đã xây dựng một sân bay có đường băng bằng đất. Trong thời kỳ 1930 - 1954,, không quân thực dân Pháp sử dụng sân bay này để tấn công quân Việt Minh ở khu vực Bắc Trung Bộ và bắn phá Nam Lào. Sân bay thời kỳ này có đường cất hạ cánh bằng đất 1800 m x 30 m. Trong thời kỳ 1960 - 1975, quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sử dụng sân bay này (đường băng gác ghi) để trung chuyển vũ khí, đạn dược, quân nhân vào chiến trường miền Nam. Sân bay này cũng là nơi máy bay chở chủ tịch Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh hạ cánh để thực hiện chuyến thăm điểm cực nam trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Hồ Chí Minh đã đến sân bay này vào lúc 8h30 sáng ngày 16 tháng 6 năm 1957, máy bay chở ông đã cất cánh vào lúc 5h chiều ngày 17 tháng 6 năm 1957. Tuy nhiên, máy bay Mig của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tấn công vào tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 4 năm 1972 (phía Mỹ gọi là trận Đồng Hới, tiếng Anh: Battle of Dong Hoi) lại cất cánh từ Sân bay Khe Gát. Năm 1972, thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc đó là Phạm Văn Đồng và chủ tịch Cuba lúc đó là Fidel Castro đã bay từ Hà Nội vào sân bay này để đi bằng đường bộ vào thăm Quảng Trị vừa được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chiếm được từ Việt Nam Cộng hòa. Sau 1975, sân bay này được sử dụng cho trực thăng quân đội và cứu hộ thiên tai nhưng không thường xuyên và gần như bỏ hoang. Năm 2003, Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng được UNESCO cộng nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Sau khi Vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) công nhận là di sản thiên nhiên thế giới, số lượng khách du lịch tham quan đến tăng đột biến. Động Phong Nha được Hiệp hội Hang động Anh công nhận là hang động dài nhất, đẹp nhất, sông ngầm dài nhất thế giới.. Ngoài ra, Quảng Bình còn nổi tiếng với nhiều bãi tắm hoang sơ, sạch đẹp như bãi biển Nhật Lệ, thắng cảnh Đá Nhảy, Lý Hoà và suối nước khoáng Bang (Lệ Thủy). Do đó, để phục vụ nhu cầu du lịch nghỉ dưỡng, khám phá thiên nhiên tại Quảng Bình, Sân bay Đồng Hới được xây dựng để phục vụ cho phát triển du lịch. Theo dự thảo quy hoạch năm 2017 của Bộ Giao thông Vận tải trình Chính phủ, đến năm 2020, vẫn giữ nguyên đường lăn hiện hữu, đảm bảo khai thác tàu bay A320/A321 và tương đương. Giai đoạn đến năm 2030, xây dựng đường lăn song song và đường lăn nối bãi đỗ. Tuy nhiên, theo đề nghị của chính quyền tỉnh Quảng Bình và Tập đoàn FLC tháng 4/2018, Bộ Giao thông Vận tải đã đồng ý triển khai dự đầu tư nâng cấp trong năm 2018 và mở các đường bay quốc tế. Dự kiến quý 4/2018 sẽ khởi công thi công kéo dài đường băng, xây nhà ga hành khách mới; quý 2/2019 thi công xây dựng các hạng mục phụ trợ và quý 2/2020 hoàn thành và đưa vào vận hành. Sau khi hoàn tất nâng cấp vào năm 2020, sân bay này sẽ có đường băng đạt cấp 4E, dài 3.600m và rộng 45 m, có thể phục vụ các loại tàu bay dân dụng lớn nhất hiện nay như A350, Boeing 787 Dreamliner, với hai nhà ga (quốc tế và nội địa), công suất thiết kế 10 triệu lượt khách/năm. Từ ngày 10/5/2021 đến ngày 13/5/2021, sân bay phối hợp với Bệnh viện Đa khoa Đồng Hới và các đơn vị liên quan tổ chức tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho toàn thể cán bộ, nhân viên và các đơn vị đang hoạt động tại Cảng. Mốc thời gian khai thác sân bay Đồng Hới Tháng 6 năm 2009, mở đường bay nối Sân bay quốc tế Nội Bài . Từ ngày 1 tháng 7 năm 2009, mở đường bay nối với Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất (Thành phố Hồ Chí Minh) của Vietnam Airlines.. Ngày 1/2/2015, Jetstar Pacific Airlines khai trương đường bay giữa Đồng Hới – Thành phố Hồ Chí Minh bằng tàu bay A321. Ngày 10/5/2015, VietJet mở đường bay từ TP Hồ Chí Minh đến TP Đồng Hới. Ngày 26/3/2017, Vasco khai thác đường bay Hà Nội - Đồng Hới với tần suất 7 chuyến/tuần bằng tàu bay ATR72 Ngày ngày 29 tháng 4 năm 2017, Jetstar Pacific khai trương đường bay Hải Phòng đi Quảng Bình và ngược lại bằng máy bay Airbus A320. Ngày 1/6/2017, Vietjet mở đường bay Hà Nội – Đồng Hới Ngày ngày 11 tháng 8 năm 2017, Jetstar Pacific khai trương đường bay quốc tế đầu tiên Đồng Hới (Quảng Bình) - Chiang Mai (Thái lan) (hiện tại đang dừng bay). Kể từ tháng 10, Jetstar Pacific thông báo tạm dừng đường bay Đồng Hới - Cát Bi do thời kỳ thấp điểm về du lịch. Kể từ 16/1/2019, Bamboo Airways mở đường bay tới Hà Nội. Ngày 15/11/2019, Bamboo Airways mở đường bay tới Tp.Hồ Chí Minh Thông số Sân bay có 1 đường băng dài 2,4 km, rộng 45 m, theo tiêu chuẩn 4D của Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế (tiếng Anh: International Civil Aviation Organization). Sân bay này có thể tiếp nhận các máy bay tầm trung của Airbus 320 và Airbus A321 hoặc tương đương và các máy bay khác trở xuống. Đây là một trong những sân bay chính của khu vực Bắc Trung bộ, hiện có hai sân bay chính là Sân bay quốc tế Phú Bài và Sân bay Vinh. Sân bay này sẽ giúp tỉnh Quảng Bình tham gia có hiệu quả vào Chương trình du lịch Con đường di sản miền Trung kết nối các di sản thế giới ở miền Trung: Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Cố đô Huế, Thánh địa Mỹ Sơn, phố cổ Hội An và Không gian Văn hoá Cồng chiêng Tây Nguyên. Con đường di sản này kết hợp giữa du lịch tìm hiểu văn hóa và khám phá thiên nhiên. Một số thông tin cơ bản về dự án: Chủ đầu tư: Cụm cảng hàng không Miền Bắc Tổng mức đầu tư: 212 tỷ đồng Khởi công: Ngày 30 tháng 8 năm 2004 Ngày hoàn thành theo Báo cáo nghiên cứu khả thi: Quý IV năm 2006. Ngày hoàn thành thực tế: Ngày 18 tháng 5 năm 2008 Công suất: 300 khách/giờ cao điểm Năng lực phục vụ: 500.000 khách mỗi năm. Theo tiến độ ban đầu, dự án này sẽ hoàn thành vào quý IV năm 2006, cũng là thời điểm đưa sân bay này vào vận hành thương mại. Tuy nhiên, tiến độ bị chậm trễ, thực tế phải đến tháng 5 năm 2008 mới hoàn thành. Ngày 15 tháng 5 năm 2008, Phó thủ tướng Chính phủ Việt Nam Hoàng Trung Hải đã có quyết định phê duyệt mở cảng hàng không Đồng Hới. Chuyến bay đầu tiên từ Sân bay quốc tế Nội Bài (Hà Nội) đến Sân bay Đồng Hới 10h30 sáng ngày 18 tháng 5 năm 2008, ngày khánh thành sân bay này. Thủ tướng Chính phủ Việt Nam cũng đã phê duyệt quy hoạch mở rộng sân bay này để có thể đón các loại máy bay cỡ lớn hơn. Hệ thống đèn đêm và thiết bị hướng dẫn hạ cánh chính xác (ILS) đã hoàn thành vào và đưa vào sử dụng ngày 16/10/2014. Sân đỗ máy bay đã được mở rộng thêm hai vị trí từ ngày 18 tháng 1 năm 2017 và hoàn thành ngày 26 tháng 4 năm 2017, sân bay này tổng cộng có 4 sân đỗ cho 4 máy bay tầm trung từ Airbus A321 và tương đương trở xuống. Tháng 4 năm 2018, Tập đoàn FLC đã có đề xuất trình các cơ quan chức năng cho phép được đầu tư nâng cấp sân bay Đồng Hới trở thành sân bay quốc tế trong tương lai. Tuyến bay Thống kê
Giải Ig Nobel ( ) là một giải thưởng châm biếm được trao thường niên kể từ năm 1991 để tôn vinh 10 thành tựu bất thường hoặc tầm thường trong nghiên cứu khoa học. Mục đích của giải là "tôn vinh những thành tựu khiến mọi người cười trước, rồi khiến họ phải suy nghĩ." Tên của giải thưởng là một cách chơi chữ của giải thưởng Nobel (mà nó giễu nhại) và từ ignoble ("thấp kém", "không danh giá"). Do tạp chí khoa học hài hước Annals of Improbable Research (AIR) tổ chức, Giải Ig Nobel được những chủ nhân giải Nobel trao tặng trong một buổi lễ tại Nhà hát Sanders, Đại học Harvard, kế tiếp là bài diễn thuyết của những người đoạt giải tại Viện Công nghệ Massachusetts. Lịch sử Giải Ig Nobel được Marc Abrahams (biên tập kiêm đồng sáng lập tạp chí Annals of Improbable Research, cựu tổng biên tập của Journal of Irreproducible Results) tạo ra, ông là chủ nhiệm tại tất cả các lễ trao giải. Lúc bấy giờ, giải thưởng đã được trao cho những khám phá "không thể hoặc không nên sao chép". 10 giải thưởng được trao thường niên ở nhiều hạng mục, bao gồm các hạng mục giải Nobel về vật lý, hóa học, sinh lý học/y học, văn học và hòa bình, cũng như các hạng mục khác như y tế công cộng, kỹ thuật, sinh học và nghiên cứu liên ngành. Giải Ig Nobel công nhận những thành tựu có thật, ngoại trừ ba giải được trao trong năm đầu tiên dành cho các nhà khoa học hư cấu Josiah S. Carberry, Paul DeFanti và Thomas Kyle. Đôi khi giải thưởng mang tính phê phán thông qua châm biếm, như trong hai giải được trao cho nghiên cứu vi lượng đồng căn, giải về "giáo dục khoa học" cho Khoa giáo dục bang Kansas và Ủy ban Giáo dục bang Colorado vì quan điểm của họ về giảng dạy thuyết tiến hóa, giải còn được trao cho ấn phẩm Social Text sau vụ Sokal. Tuy nhiên, thông thường họ dành sự chú ý tới các bài viết khoa học chứa một số khía cạnh hài hước hoặc bất ngờ. Ví dụ như từ việc phát hiện ra rằng sự hiện diện của con người có xu hướng kích thích tình dục ở đà điểu, cho đến tuyên bố rằng lỗ đen đáp ứng tất cả các yêu cầu kỹ thuật để trở thành nơi Địa ngục tọa lạc, rồi nghiên cứu về "quy luật năm giây", một niềm tin nghiêm túc mà có phần hài hước rằng thức ăn rớt xuống đất sẽ không bị ô uế nếu nó được nhặt lên trong vòng năm giây. Sir Andre Geim (chủ nhân giải Ig Nobel năm 2000 vì nhấc bổng một con ếch bằng từ tính) đã được trao giải Nobel vật lý năm 2010 cho công trình nghiên cứu của ông về các tính chất điện từ của graphen. Tính đến năm 2021, ông là cá nhân duy nhất đã giành cả giải Nobel và Ig Nobel. Lễ trao giải Giải thưởng chủ yếu do những chủ nhân giải Nobel trao tặng, tiền thân là tại một buổi lễ ở giảng đường tại MIT, nhưng kể từ năm 1994 đến nay được tổ chức tại Nhà hát Sanders ở Đại học Harvard. Do đại dịch COVID-19, sự kiện năm 2020 và 2021 được tổ chức hoàn toàn trực tuyến. Sự kiện có một số trò đùa, chẳng hạn như Miss Sweetie Poo, một cô bé liên tục kêu lên: "Làm ơn ngừng đi: Cháu chán rồi", bằng một giọng the thé nếu người nói tiếp tục quá lâu. Theo truyền thống, lễ trao giải được kết thúc với dòng chữ: "Nếu bạn không giành giải — và đặc biệt nếu bạn đã làm vậy — chúc bạn may mắn vào năm sau!" Buổi lễ trao giải được hợp tác tài trợ bởi Hiệp hội Máy tính Harvard, Hiệp hội khoa học viễn tưởng Harvard–Radcliffe và Hiệp hội sinh viên vật lý Harvard–Radcliffe. Ném máy bay giấy lên sân khấu là một truyền thống lâu đời. Trong nhiều năm, Giáo sư Roy J. Glauber là người quét sạch sân khấu khỏi máy bay với tư cách là "Người giữ chổi" chính thức. Glauber không thể tham dự lễ trao giải năm 2005 vì ông bận tới Stockholm để nhận giải Nobel Vật lý thật. Tiếp cận công chúng Buổi lễ được ghi hình và phát trên National Public Radio ở Hoa Kỳ và được chiếu trực tiếp qua Internet. Phần ghi âm được phát sóng thường niên, vào Thứ Sáu sau Lễ tạ ơn của Mỹ, trên chương trình phát thanh công cộng Science Friday. Hai cuốn sách đã được xuất bản với bài viết về một số người đoạt giải: The Ig Nobel Prize, và The Ig Nobel Prize 2, về sau đổi nhan đề thành The Man Who Tried to Clone Himself. Đón nhận Một bài viết tháng 9 năm 2009 trên The National có nhan đề "A noble side to Ig Nobels" (Một khía cạnh ưu tú với Ig Nobel) cho rằng, mặc dù giải Ig Nobel là sự phê phán gián tiếp đối với nghiên cứu vớ vẩn, nhưng lịch sử cho thấy rằng đôi khi nghiên cứu bị xem là vớ vẩn dẫn đến những bước đột phá quan trọng. Ví dụ, vào năm 2006, một nghiên cứu cho thấy một trong những loài muỗi sốt rét (Anopheles gambiae) đều bị hấp dẫn bởi mùi pho mát Limburger và mùi bàn chân người đã giành được giải Ig Nobel trong lĩnh vực sinh học. Nhờ kết quả trực tiếp của những phát hiện này, những chiếc bẫy có mồi bằng pho mát này đã được đặt ở những vị trí chiến lược ở một số vùng của Châu Phi để chống lại dịch bệnh sốt rét. Và Andre Geim, trước khi đồng nhận giải Nobel Vật lý năm 2010 cho nghiên cứu của ông về graphen, đã đồng nhận Ig Nobel Vật lý năm 2000 với Michael Berry vì nhấc bổng một con ếch bằng từ tính, mà đến năm 2022 được cho là một phần nguồn cảm hứng cho nghiên cứu lực hấp dẫn của mặt trăng của cơ sở Trung Quốc.
Đại học Huế () là một trong ba hệ thống đại học vùng của Việt Nam, nằm trong nhóm đại học trọng điểm quốc gia, có trụ sở tại Huế, được đánh giá là một trong 10 trường/nhóm trường đại học tốt nhất tại Việt Nam, là một trụ cột trong hệ thống giáo dục bậc cao của Việt Nam. Tiền thân của Đại học Huế là Viện Đại học Huế được thành lập năm 1957, là đại học đầu tiên và lâu đời nhất khu vực Miền Trung - Tây Nguyên. Có quy mô đào tạo và nghiên cứu khoa học lớn nhất Miền Trung và Tây Nguyên Việt Nam. Đang hoàn thành đề án Đại học Quốc gia Huế theo Nghị quyết số 54-NQ/TW ngày 10/12/2019 của Bộ chính trị. Lịch sử Tháng 3 năm 1957 dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa Tổng thống Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh thành lập Viện Đại học Huế gồm 5 Trường đại học: Sư phạm, Văn khoa, Luật khoa, Hán học, và Khoa học. Trong niên khóa đầu có 358 sinh viên. đến năm 1960 thì sĩ số tăng lên 1431 sinh viên. Năm 1959 mở thêm chương trình dự bị y khoa. Tháng 10 năm 1976 trên cơ sở các Trường đại học cũ, 3 trường đại học đã được thành lập ở Huế: Trường Đại học Sư phạm Huế, Trường Đại học Tổng hợp Huế (Hiện nay là Trường Đại học Khoa học Huế) và Trường Đại học Y khoa Huế. Năm 1983, ở Huế, Trường Đại học Nông Lâm Huế, nguyên là Trường Đại học Nông nghiệp II từ Hà Bắc chuyển vào. Tháng 4 năm 1994, theo nghị định 30/CP của chính phủ, Đại học Huế ra đời trên cơ sở sáp nhập trường Đại học Sư phạm Huế - trường Đại học Tổng hợp Huế - trường Đại học Y khoa Huế - trường Đại học Nông Lâm Huế - trường Đại học Nghệ thuật Huế, đánh dấu giai đoạn mới của sự phát triển giáo dục đại học ở Huế. Từ đó đến nay, số lượng sinh viên và ngành nghề đào tạo liên tục phát triển. Đại học Huế đã được nhà nước Việt Nam tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba (1998), Huân chương Độc lập hạng Nhì (2002), Huân Chương Độc lập hạng Nhất (2012) và nhiều danh hiệu khác. Hiện nay Đại học Huế đang tái cấu trúc và hoàn chỉnh đề án chuyển thành Đại học Quốc gia Huế theo hướng tự chủ. Nhiệm vụ Sớm chuyển Đại học Huế thành Đại học Quốc gia Huế vào năm 2020 theo Nghị quyết 54 ngày 10/12/2019 của Bộ chính trị. Đại học Huế phải tổ chức lại mô hình đào tạo cũng như quản lý của mình để sinh viên thuộc hệ thống đại học Đại học Huế ra trường không phải đi tìm và xin việc mà phải tự tạo công việc hay khởi nghiệp. Vì thế, Đại học Huế phải kết nối với các nhà tuyển dụng trong đào tạo. Đầu năm 2018, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu hệ thống Đại học Huế phải phấn đấu thành trường quốc gia và ngang tầm quốc tế. Chính phủ sẽ tiếp tục đầu tư vốn ODA thêm khoảng 100 triệu USD xây dựng đô thị đại học ở khu Trường Bia. Chất lượng đào tạo Quy mô đào tạo Hệ thống Đại học Huế là một trong năm trung tâm đại học lớn nhất và đứng thứ hai cả nước về quy mô đào tạo, sau hệ thống đại học quốc gia. Đại học Huế được thành lập cách đây 63 năm với 8 trường Đại học thành viên, gần 4000 giảng viên, nhân viên và đào đạo gần 90 nghìn sinh viên. Tính đa ngành, đa lĩnh vực trong đào tạo của Đại học Huế được đánh giá rõ nét nhất: 147 ngành đào tạo đại học, 102 chuyên ngành đào tạo thạc sĩ, 55 chuyên ngành đào tạo tiến sĩ, nhiều ngành đào tạo song ngữ Việt - Anh, 75 chuyên ngành đào tạo chuyên khoa cấp I, cấp II và bác sĩ nội trú với đầy đủ các lĩnh vực và nhóm ngành: sư phạm, y dược, nghệ thuật, nông-lâm-ngư, ngoại ngữ, kinh tế, luật, du lịch, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, luật, kỹ thuật công nghệ… Hàng năm có trên 70.000 người dự thi vào Đại học Huế. Tuy nhiên, những năm gần đây một số ngành đào tạo truyền thống tuyển sinh không đủ chỉ tiêu như các ngành nông lâm, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, nghệ thuật...... Để khắc phục tình trạng tuyển sinh, trong năm 2020, Đại học Huế mở nhiều ngành học mới theo xu thế phát triển của xã hội về kỹ thuật, công nghệ cao, y sinh, kinh tế, ngoại giao, Logistics và Quản lý chuỗi cung ứng, Kinh tế quốc tế, Quan hệ quốc tế Khoa học dữ liệu và trí tuệ nhân tạo, Quản trị và phân tích dữ liệu, Hộ sinh, Quản trị du lịch và Công nghệ giải trí. Tái cấu trúc ngành nghề đáp ứng nhu cầu xã hội. Hiện nay, có gần 40.000 sinh viên hệ chính quy, khoảng 20.000 sinh viên hệ không chính quy và hàng chục ngàn sinh viên học theo hình thức đào tạo từ xa. Hàng năm có hơn 10.000 sinh viên hệ chính quy tốt nghiệp. Bảng xếp hạng đại học Đại học Huế lần đầu tiên có tên trong bảng xếp hạng đại học thế giới của Times Higher Education năm 2023 với thứ hạng 1501+ Theo bảng xếp hạng khu vực của Quacquarelli Symonds (QS) năm 2023 thì Đại học Huế nằm trong nhóm 351 - 400 đại học tốt nhất châu Á và thứ 6 của Việt Nam. Ở bảng xếp hạng Scimago Institutions Rankings năm 2022, Đại học Huế xếp thứ 727 thế giới và 17 Việt Nam Còn theo bảng xếp hạng Webometrics tháng 7 năm 2022, Đại học Huế đứng thứ 13 tại Việt Nam. Nghiên cứu khoa học & Bài báo quốc tế Liên tục trong các năm từ 2018 đến 2021, số lượng công bố quốc tế trên các tạp chí khoa học thuộc danh mục WoS Core Collection của Đại học Huế luôn xếp thứ 2 trong các cơ sở giáo dục đại học trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo. Nhân sự Hiện nay, Đại học Huế có hơn 4000 giảng viên và nhân viên. Trong đó 3800 có biên chế và gần 1000 người có hợp đồng lao động; 3000 cán bộ giảng dạy, 328 giáo sư và phó giáo sư, 35 giáo sư danh dự nước ngoài, 900 tiến sĩ, 1.482 thạc sĩ, 1861 giảng viên cao cấp và giảng viên chính, và hơn 75 nhà giáo ưu tú và thầy thuốc ưu tú, 27 chuyên khoa 1,2. Đại học Huế có số lượng giáo sư, phó giáo sư và tiến sĩ hàng đầu khu vực Miền Trung - Tây Nguyên Việt Nam Lãnh đạo Hội đồng Đại học Chủ tịch Hội đồng Đại học PGS.TS. Huỳnh Văn Chương Ban Giám đốc Giám đốc: PGS.TS. Lê Anh Phương Phó Giám đốc: TS. Đỗ Thị Xuân Dung TS. Bùi Văn Lợi Đảng ủy Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Đại học Huế: PGS.TS. Huỳnh Văn Chương Phó Bí thư Đảng ủy Đại học Huế: PGS.TS. Lê Anh Phương Phó Bí thư Đảng ủy Đai học Huế: TS. Bùi Văn Lợi Các đơn vị thành viên Trường đại học thành viên Trường Đại học Sư phạm: tiền thân là Trường Đại học Sư phạm (1957) thuộc Viện Đại học Huế. Được Bộ giáo dục chọn là 1 trong 3 trường Đại học sư phạm trọng điểm Quốc gia. Trường Đại học Khoa học: tiền thân là Trường Đại học Khoa học và Trường Đại học Văn khoa (1957) thuộc Viện Đại học Huế. Trường chuyên nghiên cứu khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn. Trường Đại học Y Dược: tiền thân là Trường Đại học Y khoa (1961) thuộc Viện Đại học Huế. Là trường Y Dược lớn nhất khu vực Miền trung Tây nguyên. Trường Đại học Nông Lâm: được thành lập và sáp nhập nhiều lần. Đến năm 1983 được đổi tên thành Đại học Nông Lâm Huế thuộc Viện Đại học Huế. Trường Đại học Nghệ thuật: Tiền thân là trường Cao đẳng Mỹ thuật (1957) thuộc Viện Đại học Huế Trường Đại học Kinh tế: tiền thân là Khoa Kinh tế nông nghiệp, Đại học Nông nghiệp II Hà Bắc (1969) Trường Đại học Ngoại ngữ: Tiền thân là Ban ngoại ngữ thuộc Viện Đại học Huế (1957), ban đầu chỉ gồm 5 giảng viên tiếng Anh và 5 giảng viên tiếng Pháp Trường Đại học Luật: Tiền thân là Luật Khoa (1957) thuộc Viện Đại học Huế và Khoa Luật trực thuộc Đại học Huế. Là một trong ba trường Đại học luật lớn nhất của Việt Nam. Trường Du lịch: Tiền thân là khoa du lịch thuộc Đại học Huế, chuyên đào tạo về du lịch, lữ hành, văn hóa, kinh tế du lịch. Trong thời gian tới trường sẽ nâng cấp và trở thành Trường Đại học Du lịch. Khoa trực thuộc Đại học Huế Hiện tại, Đại học Huế có 3 khoa trực thuộc là: Khoa Kỹ thuật và Công nghệ - Đại học Huế: Khoa Kỹ thuật và Công nghệ - Đại học Huế (School of Engineering and Technology – Hue University), viết tắt là HUET, là một đơn vị thuộc Đại học Huế, được thành lập vào năm 2019. Trụ sở của Khoa Kỹ thuật và Công nghệ đặt tại địa chỉ số 01 Đường Điện Biên Phủ, Phường Vĩnh Ninh, Thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Khoa Quốc tế Khoa Giáo dục thể chất Phân hiệu Đại học Huế tại Quảng Trị Hình thành: Ngày 03/5/2006, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ký quyết định số 2155/QĐ-BGD&ĐT thành lập Phân hiệu Đại học Huế tại Quảng Trị trên cơ sở Văn phòng đại diện Đại học Huế tại Quảng Trị được thành lập từ năm 2005 do Giám đốc Đại học Huế ký quyết định. Địa chỉ: đường Điện Biên Phủ - phường Đông Lương – Thành phố Đông Hà – Tỉnh Quảng Trị. Cổng thông tin: Phân hiệu Đại học Huế tại Quảng Trị Viện đào tạo, nghiên cứu trực thuộc Viện Đào tạo mở và Công nghệ thông tin Viện Chuyển đổi số và Học liệu Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Viện Khảo thí và Bảo đảm chất lượng giáo dục. Viện nghiên cứu thành viên và đào tạo sau Đại học Viện Công nghệ sinh học Trung tâm Trung tâm Giáo dục quốc phòng và An ninh Trung tâm Phục vụ sinh viên Trung tâm khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo Các đơn vị phục vụ đào tạo và nghiên cứu Tạp chí khoa học Nhà xuất bản Đại học Huế Bệnh viện trường Đại học y dược Kế hoạch và mục tiêu Mục tiêu của Đại học Huế là sớm trở thành Đại học Quốc gia thứ ba của Việt Nam. Bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã thống nhất đưa Đại học Huế trở thành Đại học Quốc gia Huế trong thời gian tới, trong Nghị quyết 54 (54-NQ/TƯ) về xây dựng Thừa Thiên Huế, Bộ chính trị đã nêu rõ Trong Nghị quyết 54 Bộ chính trị đã chỉ đạo Ban Kinh tế Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan thường xuyên theo dõi, giám sát, kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện Nghị quyết; định kỳ sơ kết, tổng kết, báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Toàn thể hơn 4000 giảng viên, nhân viên Đại học Huế đang tích cực nghiên cứu, bồi dưỡng, giảng dạy... cùng đoàn kết sớm đưa Đại học Huế thành Đại học Quốc gia Huế
Chủ nghĩa hoài nghi triết học (tiếng Anh: philosophical skepticism) là trường phái tư tưởng triết học xem xét một cách hệ thống và với thái độ phê phán về quan niệm rằng tri thức tuyệt đối và sự xác tín là có thể, nghĩa là câu hỏi liệu các tri thức và nhận thức có đúng hay không và liệu người ta có thể có tri thức thực sự hay không. Chủ nghĩa hoài nghi triết học đối lập với chủ nghĩa giáo điều triết học - trường phái cho rằng có một tập hợp nhất định gồm các khẳng định có căn cứ đích xác, hoàn toàn xác tín và chân thực. Lịch sử Phương Tây cổ Truyền thống phương Tây về chủ nghĩa hoài nghi một cách có hệ thống có nguồn gốc ít nhất từ thời Pyrrho xứ Elis. Ông bận tâm đến những bất đồng ý kiến trong tất cả các trường phái triết học thời ông, trong đó có cả triết học khắc kỷ (Stoicism) của chính ông. Người ta kể rằng, ông đã trở nên rất bối rối vì mình không thể quyết định được một cách hợp lý trường phái triết học nào là đúng đắn. Khi tự thừa nhận điều này, cuối cùng ông đã có được sự bình yên nội tâm mà ông đang tìm kiếm. Từ một quan điểm khắc kỷ, Pyrrho đã tìm thấy bình an bằng cách thừa nhận sự thiếu hiểu biết của mình và có vẻ như từ bỏ tiêu chí mà tri thức được thu thập theo đó, đó là lý tính lôgic. Sự thiếu hiểu biết của Pyrrho không phải sự thiếu hiểu biết của trẻ em hay gia súc: nó là một "sự hiểu biết tri thức", người ta đạt đến nó qua sự giải thích và phơi bày sự thiếu hụt của lý luận lôgic. Trường phái tư tưởng này ban đầu được phát triển để đối lập với cái được xem là chủ nghĩa giáo điều, hay các khẳng định thiếu cơ sở, của những người theo chủ nghĩa khắc kỷ. Những người theo thuyết của Pyrrho phân biệt rõ ràng giữa "là" và "có bề ngoài là" và giữa sự nhận thức về một hiện tượng và chính hiện tượng đó. Thực ra, Pyrrho và trường phái của ông không hoài nghi. Mục đích của họ là αταραξια (sự bình yên trong tâm thức), và so sánh giữa các triết lý giáo điều để làm suy giảm niềm tin vào toàn bộ hệ thống triết học. Ý tưởng là để tạo ra trong sinh viên một trạng thái thù nghịch với cái mà những người theo thuyết Pyrrho cho là những điều lảm nhảm độc đoán và không hợp lý. Do không ai có thể quan sát hay trải nghiệm luật nhân quả, thế giới bên ngoài, mục đích tối cao của vũ trụ hay sự sống, công lý, sự thần thánh, linh hồn, v.v.. họ tuyên bố rằng không nhất thiết phải tin vào những thứ đó. Những người theo thuyết Pyrrho chỉ ra rằng, mặc dù khẳng định về những khái niệm đó là cần thiết, nhưng những người không biết về chúng vẫn sống ổn thỏa trước khi được học về chúng. Họ còn ghi nhận rằng vì mục đích thực nghiệm, khoa học không đòi hỏi niềm tin, và đức tin vào các thực tại có thể nhận thức được bằng trí óc không phải các quy ước giáo điều. Đối với mỗi khái niệm trực quan, (ví dụ sự tồn tại của một thế giới bên ngoài), những người Pyrrho trích dẫn một quan niệm đối lập để phủ định nó. Họ bổ sung rằng sự đồng thuận không hàm ý chân lý hay thậm chí cả xác suất. Ví dụ, nếu Trái Đất hình tròn thì nó sẽ mãi là hình tròn kể cả khi tất cả mọi người tin rằng nó phẳng. Mục tiêu của phê phán này, cái mà những người theo Pyrrho nhận ra rằng sau này nó sẽ phá vỡ thậm chí cả phương pháp của chính họ, là để ươm mầm cho một sự bất tín đối với mọi tư tưởng lớn. Họ trông đợi rằng triết học sẽ sụp đổ vào trong chính nó. Việc những người theo thuyết của Pyrrho đã tiến bao xa theo hướng này còn là một vấn đề đang được tranh cãi. Những người Pyrrhonist thừa nhận một niềm tin vào những thứ bề ngoài, ví dụ như nóng và lạnh, buồn và vui. Họ nói rằng, không thể phủ nhận rằng một người "có vẻ" đang bị đau hoặc "có vẻ" đang chạm vào một mẩu gỗ. Do đó, thế giới của họ hoàn toàn là thế giới hiện tượng luận (phenomenological). Về lý tưởng, một người Pyrrhonist có thể sống dễ chịu không kém một người giáo điều chủ nghĩa, ngoài ra còn thêm một điểm tốt là họ không lo nghĩ gì về chân lý và sự lừa dối, về đúng và sai, về ý Chúa, v.v.. Các nhà tư tưởng sau này đã lấy cách tiếp cận của Pyrrho và mở rộng nó thành chủ nghĩa hoài nghi hiện đại. Phương Đông cổ Phật giáo đem lại một nguồn dồi dào cho chủ nghĩa hoài nghi mà nó ít được biết đến tại phương Tây. Tuy nhiên, nó có khác biệt lớn đối với chủ nghĩa hoài nghi triết học phương Tây tại một số điểm: Người ta nói rằng, khi giác ngộ, Phật đã chạm xuống mặt đất để nó có thể chứng kiến sự giác ngộ của Phật. Theo cách đó, Phật giáo không cho rằng tri thức là không thể đạt được. So với chủ nghĩa hoài nghi triết học phương Tây, Phật giáo ít nhấn mạnh vào chân lý và tri thức hơn. Thay vào đó, nó nhấn mạnh mục đích của Bồ đề, cái tuy thường được dịch là "giác ngộ" nhưng không hàm ý chân lý hay tri thức. Ít nhất trong các tác phẩm của Long Thụ - những gì đã tạo nên cốt lõi của Trung quán tụng, khía cạnh phản-bản chất luận (anti-essentialist) của Phật giáo đã làm cho nó trở nên phản-triết học. Trong thái độ đó, chân lý chỉ tồn tại bên trong các ngữ cảnh khẳng định nó. Do đó, ví dụ, tuy các trò chơi hợp tác như các đóng góp của khoa học cho công nghệ có thể có thu được lợi ích, nhưng về mức độ "đúng đắn một cách bản chất", chúng không hơn không kém các quan niệm và tư tưởng của những người Azande, một dân tộc sống ở phía bắc Trung Phi, những người luôn tư duy theo kiểu thần bí. Các trường phái Chủ nghĩa hoài nghi triết học có thể hoặc là khẳng định rằng ta "không" có tri thức, hoặc rằng ta "không thể" có tri thức. Nói rằng ta "có thể" có tri thức nhưng đáng tiếc lại không có, là một chuyện. Người ta có thể lập luận rằng Socrates có quan niệm này. Ông có vẻ đã cho rằng nếu ta tiếp tục đặt câu hỏi thì có thể cuối cùng ta cũng tới được chỗ có tri thức; nhưng ta chưa có nó. Một số nhà hoài nghi triết học đã đi xa hơn và tuyên bố rằng ta không thể có tri thức chân chính. Một số ví dụ là trường phái Hàn lâm viện tại Hy Lạp cổ đại. Nhận thức luận và chủ nghĩa hoài nghi Chủ nghĩa hoài nghi có quan hệ với lĩnh vực nhận thức luận, hay câu hỏi về chuyện tri thức có thể đạt được hay không. Những người hoài nghi chủ nghĩa tranh luận rằng niềm tin vào cái gì đó không chứng minh được một khẳng định của tri thức về cái đó. Ở đây, chủ nghĩa hoài nghi đối lập với duy bản luận (foundationalism) - luận thuyết cho rằng phải có các niềm tin căn bản nào đó đã được chứng minh mà không cần viện dẫn đến các niềm tin khác.Các nhà hoài nghi chủ nghĩa khẳng định rằng các cảm giác mà một cá nhân bất kỳ trải nghiệm không nhất thiết giống với các cảm giác mà những người khác trải nghiệm. Giả sử ta đang nhớ lại thời trung học và ta nhớ rất rõ về một ông thầy thể dục đáng ghét, người rất thô lỗ và nói oang oang. Do đó ta tin rằng ra đã có một người thầy thể dục đáng ghét; và niềm tin này đã được chứng minh. Bằng cách nào? Bởi thực tế là ta nhớ chuyện đó. Chỉ vậy thôi. Một lần nữa, nói một cách kỹ thuật hơn, sự kiện ta nhớ về ông thầy thể dục đáng ghét của ta chứng minh niềm tin của ta rằng ta đã có người thầy giáo đó. Nếu ta giả thiết rằng duy bản luận là đúng, thì ta có các niềm tin căn bản; và để là căn bản, các niềm tin căn bản của ta phải được chứng minh bằng cái gì đó không phải là một niềm tin; vậy cái gì chứng minh chúng? Hoạt động của các quá trình nhận thức thông thường như nhìn thấy, nhớ lại, cảm thấy, suy tưởng...? Khi ta nhớ lại một điều gì đó, việc đó cho ta một lý do tuyệt vời để tin vào cái mình đang nhớ lại. Không phải trong mọi trường hợp, nhưng thường thì ta không thể nghĩ ra lý do gì để tin rằng ký ức cụ thể đó là sai, nhất là khi ký ức đó sinh động. Nhưng dù sao, nếu ta dùng ký ức để chứng minh cho các niềm tin thì ký ức của ta phải đáng tin cậy. Tương tự với tri giác, nếu sự kiện rằng ta đang có vẻ nhìn thấy một cái gì đó làm cho việc ta tin rằng thực sự có cái đó được chứng minh, thì ta phải giả thiết rằng tri giác đó đáng tin cậy. Nếu nó không đáng tin cậy - nghĩa là nếu nó thường cho ta thông tin sai - thì ta không thể nói rằng ta được chứng thực chỉ dựa trên việc sử dụng tri giác. Chủ nghĩa hoài nghi địa phương (local skepticism) là chủ nghĩa hoài nghi "về các lĩnh vực cụ thể". Chủ nghĩa hoài nghi thế giới bên ngoài (External world skepticism) là quan niệm rằng không thể biết gì về thế giới bên ngoài hay sự tồn tại của nó, dựa trên giả thuyết rằng năng lực tri giác là không đáng tin cậy. Các động cơ cho chủ nghĩa hoài nghi về thế giới bên ngoài David Hume đưa ra một luận cứ về lý do tại sao người ta muốn đặt câu hỏi về sự đáng tin cậy của tri giác. Về căn bản, luận cứ của Hume nói rằng ta không thể biết gì về thế giới bên ngoài, vì để biết điều đó, ta sẽ phải biết rằng có một mối liên hệ giữa dữ liệu cảm giác của ta và thế giới bên ngoài mà chúng được cho là đại diện cho nó. Nhưng điều duy nhất mà ta có liên hệ với là dữ liệu cảm giác của ta; ta không bao giờ có thể biết gì trong thế giới bên ngoài trừ khi biết dữ liệu cảm giác của ta. Nhưng khi đó ta không có cách nào chứng minh mối liên quan giữa dữ liệu cảm giác của ta và thế giới bên ngoài. Do đó, ta không có cách nào để chứng minh rằng dữ liệu cảm giác của ta đại diện cho thế giới bên ngoài — và "điều đó" có nghĩa rằng ta không có cách nào để chứng minh tri giác là đáng tin cậy. Bên cạnh luận cứ của Hume về chủ nghĩa hoài nghi thế giới bên ngoài, còn có một luận cứ khác nổi tiếng hơn. Đó là sự nghi ngờ mơ nổi tiếng của Descartes với nội dung như sau: một buổi tối, Descartes đang ngồi viết trong phòng mình, và ông thầm nghĩ: Nếu như ta đang nằm ngủ trên giường và chỉ đang mơ rằng ta đang thức và đang viết thì sao? Ít nhất thì điều đó có thể xảy ra hay không? Rồi ông nói, chắc chắn ta có thể phân biệt giữa khi đang thức và đang ngủ. Ta có thể phân biệt giữa trạng thái tỉnh táo và một giấc mơ. Trong các giấc mơ xảy ra đủ loại thứ kỳ lạ; khi mơ ta chuyển từ cảnh này sang cảnh khác một cách không giải thích được, khi mơ ta không nhớ những gì đã xảy ra trong ngày, vân vân. Rồi Descartes nói: chẳng phải ta đã có chính những suy nghĩ này trong một giấc mơ nào đó hay sao? Đôi khi, trong khi đang mơ, ta tin rằng ta đang thức! Thậm chí trong mơ ta còn cố thử xem đang mơ hay tỉnh, và kết quả kiểm tra đó làm ta tin rằng mình đang thức! Nhưng ta đã sai; khi đó ta đang mơ. Chẳng phải cũng có thể chính điều đó đang xảy ra với ta "ngay lúc này" sao? Chẳng phải cũng có thể ta đang mơ rằng ta có thể kiểm tra xem mình đang thức hay ngủ - và tất nhiên, trong giấc mơ ta đã thấy kết quả kiểm tra là đang thức. Do đó, có vẻ rất rõ ràng rằng hiện ta đang thức - nhưng trong thực tế, ta đang "ngủ" chăng? Descartes tự nhủ: ta đoán là "không có" một dấu hiệu hay kiểm tra nào chắc chắn mà ta có thể dùng để phân biệt giữa hai trạng thái thức và ngủ. Dù gì thì ta cũng có thể nằm mơ chính những kiểm tra đó. Ta đã có kinh nghiệm về việc cho rằng ta đã thử thành công rằng mình đang thức trong khi thực ra ta lại đang mơ. Do đó, không có một cách nào để chứng minh rằng hiện giờ ta đang thức. Tất cả những gì ta "thực sự" biết đó là hiện giờ ta có thể đang thức, cũng có thể đang ngủ. Đó là nghi ngờ mơ của Descartes. Giờ ta xem xét luận cứ trên một cách chi tiết. Trước hết, tại sao Descartes cho rằng ông không biết rằng mình đang thức và đang viết? Ông ta có thể đang ngủ. Đâu là sự khác biệt? Sự khác biệt đó là nếu ông ta đang ngủ thì "năng lực tri giác cảm giác sẽ không đáng tin cậy". Nói cách khác, nếu ông đang ngủ, ông sẽ có vẻ đang nhìn thấy, cảm thấy và nghe thấy nhiều thứ; nhưng trên thực tế là không có những hoạt động đó. Trong trường hợp đó, tất nhiên, năng lực tri giác của ông "sẽ" không đáng tin cậy. Nhưng Descartes đã đi xa hơn thế: ông có vẻ như đang nói rằng do ông "có thể" đang mơ, do ông không thể loại bỏ giả thuyết rằng ông hiện đang mơ, điều đó cũng có nghĩa rằng năng lực tri giác của ông không đáng tin cậy. Đối với nhiều người, quan niệm của Descartes có vẻ ngớ ngẩn. Đa số đơn giản là cảm thấy rằng tất nhiên là họ có thể biết chắc rằng họ hiện không nằm mơ. Tuy nhiên, ở đây Descartes có thể trả lời rằng có thể ta có thể, nhưng cũng có thể là ta chỉ đang "mơ" là ta có thể phân biệt được mà thôi. Nếu ta nói rằng ta "có thể phân biệt giữa thức và ngủ, thì ta đang giả thiết rằng ta đang thức, trong trường hợp đó, ta đang lập luận lòng vòng (begging the question) để đối lại thái độ hoài nghi. Một kiểu phản đối theo nhận thức thông thường (common sense) trước luận cứ của Descartes là lập luận rằng người ta có thể biết rằng khả năng tri giác-cảm giác của mình là đáng tin cậy theo cách sau: Khi ta nhìn thấy cái gì đó, chẳng hạn một con bò đang nhai cỏ, ta có thể đến gần con bò, chạm vào nó, nghe tiếng động của nó, dựa vào nó, v.v.. Điều đó khẳng định rằng người ta đang thực sự nhìn thấy con bò. Cũng theo cách đó, khi người ta nghe thấy cái gì đó, chẳng hạn một đoàn diễu hành ngoài phố, ta có thể bước ra ngoài và quan sát đoàn diễu hành, nói chuyện với những người diễu hành, v.v.. Điều đó khẳng định rằng ta nghe thấy đoàn diễu hành ở bên ngoài. Trong suốt đời người, con người đã có nhiều trải nghiệm kiểu này đến mức, về thực tiễn mà nói, họ dám chắc rằng năng lực tri giác của họ có làm việc, và nói chung là nó đáng tin cậy. Thái độ hoài nghi của Descartes sẽ trả lời luận cứ trên theo cách tương tự với phản đối trước: Ta có thể chỉ đang "mơ" rằng ta đang sờ thấy, nghe thấy, và dựa vào con bò. Đoàn diễu hành có thể chỉ là một phần của một giấc mơ. Cũng như vậy, ta có thể chỉ đang mơ rằng năng lực tri giác của ta nói chung là đáng tin cậy. Nếu ta tranh cãi rằng không phải ta đang mơ vì năng lực tri giác của ta là đáng tin cậy, thì lại một lần nữa, ta đang lập luận lòng vòng. Để tránh lập luận lòng vòng, trước hết, ta phải thiết lập được rằng ta hiện đang thức, và điều đó là bất khả. Do đó, ta không thể biết được năng lực tri giác của mình có đáng tin cậy hay không. Ngoài ra, một người hoài nghi sắc sảo hơn có thể có một nhận xét khác về chuyện nhìn thấy con bò và nghe thấy đoàn diễu hành. Bởi vì dù sao thì chẳng phải ta "đang dùng" tri giác cảm giác để cố gắng tranh cãi rằng năng lực tri giác của ta nói chung là đáng tin cậy hay sao? Nghĩa là, ta sử dụng thị giác và các giác quan khác để chứng minh rằng thị giác của ta hoạt động tốt; ta sử dụng thính giác và các giác quan khác để chứng minh rằng thính giác của ta tốt. Và ta không thể tránh việc đó được. Sẽ rất kỳ quặc khi cố tranh luận rằng các giác quan của ta đáng tin cậy mà không dùng đến chính các giác quan đó (dù một số triết gia đã thử làm việc đó). Nhưng nếu ta dùng đến các giác quan của mình, ta lại đang lập luận lòng vòng. Ta phải thừa nhận, hoặc đưa ra giả thiết, rằng các giác quan của mình nói chung là tốt, trước khi ta bắt đầu sử dụng chúng để chứng minh "bất cứ điều gì", trong đó có cả chuyện các giác quan của ta có phải nói chung là tốt hay không. Làm thế nào để ta có thể chứng minh rằng tri giác là đáng tin cậy mà "không dùng đến các giác quan của ta". Điều đó có vẻ không thể được. Nhưng làm sao ta có thể sử dụng các giác quan mà không thừa nhận tri giác là đáng tin cậy? Nếu ta làm điều đó, thì ta đang lập luận lòng vòng. Vậy kết luận là gì? Rằng ta "không thể" chứng minh rằng tri giác là đáng tin cậy? Nếu ta cố làm việc đó thì ta sẽ lập luận lòng vòng - và lập luận lòng vòng là một ngụy biện lôgíc. Lưu ý rằng đây thực ra là luận cứ hoài nghi "thứ ba", nó khác với luận cứ của Hume và Descartes, tuy nó có liên quan đến cả hai. Hume nói rằng ta không thể chứng minh rằng dữ liệu cảm giác của ta biểu diễn thế giới bên ngoài'; Descartes nói rằng ta thậm chí không thể chứng minh được rằng ta đang thức; còn luận cứ thứ ba này nói rằng ta không thể chứng minh rằng tri giác là đáng tin cậy mà không thừa nhận rằng các giác quan của bạn đáng tin cậy và do đó đã lập luận lòng vòng Các phê phán chủ nghĩa hoài nghi Sự xác tín tuyệt đối Trước hết, trong cả ba luận cứ trên — luận cứ của Hume, của Descartes, và luận cứ vòng tròn—kết luận được rút ra là ta không thể chứng minh cái gì. Ta không thể chứng minh rằng dữ liệu cảm giác đại diện cho thực tại bên ngoài. Ta không thể chứng minh rằng không phải ta đang mơ. Ta không thể chứng minh rằng tri giác hay ký ức là đáng tin cậy. Nhưng giờ hãy tự hỏi mình: việc ta không thể chứng minh cái gì đó có nghĩa rằng ta không biết hay không? hay rằng tin vào cái đó là không hợp lý và đúng đắn? Hãy lấy mối nghi ngờ mơ của Descartes làm ví dụ. Giả sử ta tin rằng ta không thể chứng minh rằng không phải ta đang mơ; và thậm chí ta còn có thể thừa nhận rằng có một khả năng nhỏ xíu rằng ta hiện đang mơ. Tuy nhiên, một người không theo chủ nghĩa hoài nghi có thể trả lời: Thế thì đã sao? Nếu tôi không chứng minh được rằng tôi đang không mơ thì đã sao? Ai quan tâm nếu có một khả năng nhỏ li ti rằng tôi đang nằm mơ thật? Điều đó có thực sự quan trọng đối với các khẳng định tri thức của tôi không? Cá nhân Descartes cho rằng điều đó nhất định là quan trọng. Ông muốn có tri thức chắc chắn—tri thức không vướng một chút nghi ngờ. Và do vậy ông cho rằng nếu ta có thể có một chút nghi ngờ dù là nhỏ nhất về cái gì đó, thì ta không thực sự biết nó. Ví dụ, mối nghi ngờ mơ gợi ra một khả năng rất nhỏ rằng thực ra không phải độc giả đang đọc bài viết này mà độc giả có thể đang nằm mơ; và Descartes chắc sẽ nói (tại thời điểm đó—về sau ông cho rằng ông đã chứng minh thuyết hoài nghi này là sai) rằng bạn không biết rằng có phải bạn đang đọc bài này ngay lúc này hay không. Do đó, ta phải tự hỏi: ta có bắt buộc phải có sự xác tính tuyệt đối, không có một chút nghi ngờ nào, để có được tri thức hay không? Đó sẽ chắc chắn là mức độ biện minh cao nhất, và khi đó ta có lẽ sẽ nói rằng tri thức đó không chỉ là niềm tin mà tính đúng đắn đã được biện minh đủ, mà nó còn là niềm tin chắc chắn đúng. Nhiều nhà triết học không cho rằng một cấp độ biện minh mạnh đến vậy là cần thiết đối với tri thức. Họ nói rằng, dù sao thì ta vẫn có thể biết thời tiết sẽ như thế nào bằng cách xem bản tin dự báo thời tiết. Đôi khi ta sai, nhưng nếu ta đúng thì ta có tri thức. Do vậy, họ không đặc biệt bận tâm nếu họ không thể chứng minh rằng không phải họ đang nằm mơ. Họ cho rằng khả năng họ đang mơ là cực kỳ nhỏ, và rằng họ hoàn toàn được biện minh khi nghĩ rằng họ đang thức. Và họ không cần phải biết với độ xác tín tuyệt đối rằng họ đang thức, để được biện minh cho việc tin rằng họ đang thức. Cũng lưu ý rằng chính Descartes cuối cùng cũng đã loại bỏ các nghi ngờ hoài nghi của mình. Điều thứ hai mà ta có thể nhận xét về chủ nghĩa hoài nghi: nếu người hoài nghi đòi hỏi độ xác tín tuyệt đối là một yêu cầu cho tri thức, thì ta có thể trả lời rằng chính điều đó cũng nên được áp dụng cho chính chủ nghĩa hoài nghi. Chính chủ nghĩa hoài nghi có hoàn toàn nằm ngoài các nghi ngờ hay không? Chẳng phải ta có thể đưa ra nhiều kiểu phê phán đối với chủ nghĩa hoài nghi? Do vậy, có vẻ như là không ai có thể biết rằng chủ nghĩa hoài nghi là đúng. Do đó, những người hoài nghi chủ nghĩa không thể biết rằng chủ nghĩa hoài nghi là đúng. Nhưng thực ra đây là một luận điểm yếu, vì nó không thực sự bác bỏ chủ nghĩa hoài nghi. Dù sao thì những người hoài nghi chủ nghĩa cũng có thể hoàn toàn vui vẻ thừa nhận rằng không ai biết chủ nghĩa hoài nghi có đúng hay không. Họ có thể hài lòng với việc nói rằng chủ nghĩa hoài nghi rất có thể đúng. Đó không phải loại tuyên bố mà đa số những người khác sẽ hài lòng. Thuyết về độ tin cậy quy trình (Process Reliabilism) Phê phán thứ ba, đặc biệt áp dụng cho luận cứ vòng tròn, là của triết gia người Scotland Thomas Reid. Reid lý luận như sau. Giả sử rằng những người hoài nghi chủ nghĩa nói đúng, và tri giác là không đáng tin cậy. Nhưng tri giác chỉ là một trong các quá trình nhận thức của tôi; và nếu nó không đáng tin cậy thì các quá trình khác cũng phải không đáng tin cậy. Tất cả các năng lực của tôi đều chui ra từ cùng một cửa hàng; do đó, nếu một cái có lỗi thì những cái khác chắc cũng vậy. Nhưng điều đó có nghĩa rằng cả năng lực lập luận, cái mà những người hoài nghi chủ nghĩa sử dụng, cũng phải không đáng tin cậy nốt. Nói cách khác, khi ta lập luận, chắc chắn ta sẽ có sai sót, và do vậy ta không bao giờ có thể tin những luận cứ mà ta dành cho bất cứ khẳng định nào. Nhưng rồi điều đó cũng áp dụng cho luận cứ của những người hoài nghi chủ nghĩa dành cho chủ nghĩa hoài nghi! Vậy là nếu những người hoài nghi chủ nghĩa nói đúng, thì ta không nên quan tâm đến chủ nghĩa hoài nghi, vì những người hoài nghi chủ nghĩa đã đi đến kết luận hoài nghi bằng các lập luận. Và nếu những người hoài nghi chủ nghĩa đã sai, thì tất nhiên ta cũng không cần quan tâm đến chủ nghĩa hoài nghi. Trong trường hợp nào thì ta cũng không cần nghi ngờ một cách thật sự về sự đáng tin cậy của các năng lực nhận thức của mình. Hình thức của luận cứ của Reid là một song đề, như sau: nếu P đúng, thì Q đúng; nếu P sai, thì Q đúng; hoặc P đúng hoặc P sai; do đó, Q luôn đúng. Những người hoài nghi chủ nghĩa hoặc đúng hoặc sai. Nếu họ đúng, nghĩa là ta không thể tin khả năng lập luận của ta và do đó không thể tin tưởng kết luận của những người hoài nghi chủ nghĩa. Nếu họ sai, thì một lần nữa, ta không thể tin tưởng kết luận của họ. Đằng nào thì ta cũng không phải bận tâm về chủ nghĩa hoài nghi! Nhưng luận cứ của Reid đòi hỏi giả thuyết rằng lập luận là một năng lực và rằng những người hoài nghi chủ nghĩa nhất thiết phải sử dụng nó. Khi đó, lý do cho các giả thuyết đó là ở đâu? Chúng có thể bị bác bỏ hay không? Luận cứ này chứa các tiền đề giáo điều và chúng có thể sai.
Sénégal (tiếng Pháp: Sénégal, tiếng Wolof: Senegaal; tiếng Ả Rập: السنغال Alsinighal; phiên âm: Xê-nê-gan), tên chính thức Cộng hòa Sénégal ( , tiếng Wolof: Réewum Senegaal, tiếng Ả Rập: جمهورية السنغال Jumhuriat Alsinighal), là một quốc gia tại Tây Phi. Sénégal giáp Mauritanie về phía bắc, Mali về phía đông, Guinée về phía đông nam, và Guiné-Bissau về phía tây nam. Sénégal vây quanh ba phía Gambia, một quốc gia có lãnh thổ là những dải đất hai bờ sông Gambia, chia tách Casamance khỏi phần còn lại của Sénégal. Sénégal cũng có biên giới trên biển với Cabo Verde. Trung tâm kinh tế và chính trị của Sénégal là Dakar. Sénégal nằm ở cực tây của Lục địa Phi-Á Âu, và lấy tên từ sông Sénégal. Sénégal có diện tích chừng và dân số khoảng 16 triệu người. Đất nước được tách ra từ Tây Phi thuộc Pháp sau khi Pháp trao trả độc lập, ngôn ngữ chính thức là tiếng Pháp. Giống như các quốc gia châu Phi thời hậu thuộc địa khác, đất nước này bao gồm nhiều cộng đồng dân tộc và ngôn ngữ, với cộng đồng lớn nhất là người Wolof, người Fula, và người Serer. Senegal được xếp vào nhóm quốc gia nghèo mắc nợ nhiều, với Chỉ số Phát triển Con người tương đối thấp. Phần lớn dân số sống trên bờ biển và làm nông nghiệp hoặc các ngành công nghiệp thực phẩm khác. Các ngành công nghiệp chính khác bao gồm khai thác mỏ, du lịch và dịch vụ. Khí hậu điển hình của vùng Sahel, nhưng có mùa mưa. Senegal là một quốc gia thành viên của Liên minh châu Phi, Liên hợp quốc, Cộng đồng kinh tế của các quốc gia Tây Phi (ECOWAS) và Cộng đồng các quốc gia Sahel-Sahara. Tên gọi "Senegal" có lẽ bắt nguồn từ phiên âm tiếng Bồ Đào Nha của tên thần Zenaga, còn được gọi là Sanhaja. Ngoài ra, cái tên này có thể bắt nguồn từ cụm từ Wolof Sunuu Gaal, có nghĩa là "con thuyền của chúng ta." Lịch sử Những khám phá khảo cổ học trên cả vùng này cho thấy Sénégal từng là nơi có người sinh sống từ thời tiền sử. Hồi giáo, tôn giáo chính tại Sénégal, lần đầu tiên tới đây vào thế kỷ XI dưới sự ảnh hưởng của nhà Almoravid. Ngày nay, 95% dân số Sénégal là người Hồi giáo. Trong thế kỷ thứ XIII và XIV, vùng này nằm dưới ảnh hưởng của các đế chế Mandingo ở phía đông; Đế chế Jolof của Sénégal cũng được lập ra vào thời gian này. Nhiều cường quốc Châu Âu đã tới đây từ thế kỷ thứ XV trở về sau, và chỉ chấm dứt khi Pháp kiểm soát hoàn toàn địa điểm khi ấy đã trở thành một đầu mối buôn bán nô lệ quan trọng. Nước này giành lại độc lập từ Pháp ngày 4 tháng 4 năm 1960. Tháng 1 năm 1959, Sénégal và Soudan thuộc Pháp hợp nhất thành lập ra Liên bang Mali, và đã trở thành hoàn toàn độc lập ngày 20 tháng 6 năm 1960, nhờ thỏa thuận chuyển giao quyền lực được ký với Pháp ngày 4 tháng 4 năm 1960. Vì những khó khăn chính trị trong nước, Liên bang tan rã ngày 20 tháng 8. Sénégal và Soudan (được đổi tên thành Cộng hoà Mali) tuyên bố độc lập. Léopold Senghor được bầu làm tổng thống đầu tiên của Sénégal vào tháng 8 năm 1960. Sau khi Liên bang Mali tan vỡ, Tổng thống Senghor và Thủ tướng Mamadou Dia cùng cầm quyền theo một hệ thống nghị viện. Tháng 12 năm 1962, sự đối đầu chính trị của họ dẫn tới một cuộc đảo chính của Thủ tướng Dia. Cuộc đảo chính đẫm máu bị dẹp yên, Dia bị bắt và bị cầm tù, Sénégal chấp nhận một hiến pháp mới trao nhiều quyền cho Tổng thống. Năm 1980, Tổng thống Senghor quyết định giã từ chính trường, trao lại quyền lực cho người kế nhiệm đã được lựa chọn từ trước là Abdou Diouf năm 1981. Sénégal cùng Gambia cùng tham gia vào liên đoàn chỉ mang tính danh nghĩa Senegambia ngày 1 tháng 2 năm 1982. Tuy nhiên, liên đoàn này đã giải tán năm 1989. Dù có những cuộc đàm phán hòa bình, một nhóm ly khai phía nam tại vùng Casamance đã tiến hành các cuộc xung đột rời rạc với các lực lượng chính phủ từ năm 1982. Sénégal có lịch sử tham gia vào các đội quân gìn giữ hòa bình quốc tế khá lâu dài. Abdou Diouf làm tổng thống giai đoạn 1981 và 2000. Ông thúc đẩy sự tham gia rộng lớn hơn vào chính trị, giảm bớt sự tham gia của chính phủ vào kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại của Sénégal, đặc biệt với các nước phát triển. Tình hình chính trị trong nước thỉnh thoảng lại bùng phát với những cuộc bạo động đường phố, căng thẳng biên giới và bạo lực từ phong trào ly khai ở vùng Casamance phía nam. Tuy nhiên, những cam kết dân chủ và nhân quyền của Sénégal cũng được tăng cường. Diouf làm tổng thống bốn nhiệm kỳ liên tục. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2000, lãnh đạo đối lập Abdoulaye Wade đã đánh bại Diouf trong một cuộc bầu cử được các quan sát viên quốc tế cho là tự do và công bằng. Sénégal trải qua cuộc chuyển giao quyền lực trong hòa bình lần thứ hai, và là lần thứ nhất từ đảng này sang đảng khác. Ngày 30 tháng 12 năm 2004 Tổng thống Abdoulaye Wade thông báo ông sẽ ký một hiệp ước hòa bình với nhóm ly khai tại vùng Casamance. Tuy nhiên, điều này vẫn chưa được thực hiện. Vào tháng 3 năm 2012, tổng thống đương nhiệm Abdoulaye Wade đã thua trong cuộc bầu cử tổng thống và Macky Sall được bầu làm Tổng thống mới của Senegal. Tổng thống Macky Sall tái đắc cử trong cuộc bầu cử năm 2019. Nhiệm kỳ tổng thống được giảm từ bảy năm xuống còn năm năm. Chính trị Sénégal là một nước cộng hòa trong đó tổng thống được trao nhiều quyền lực; tổng thống được bầu với nhiệm kỳ bảy năm, năm 2001 đã được sửa đổi thành nhiệm kỳ năm năm, theo phổ thông đầu phiếu. Tổng thống hiện tại là Macky Sall. Sénégal có 65 đảng chính trị đóng góp vào sự phát triển của đất nước thông qua việc cùng hợp tác tiến tới một sự chuyển tiếp tới một nền dân chủ của đất nước, và thập chí trong số các nước phát triển tại lục địa châu Phi. Nghị viện một viện là Quốc hội có 120 thành viên được bầu cử riêng biệt với cuộc bầu cử tổng thống. Sénégal có một nhánh lập pháp, một nhánh hành pháp khá độc lập và công bằng. Tòa án cấp cao nhất của nước này là hội đồng hiến pháp, và tòa án công lý, các thành viên của hai tòa án này do tổng thống chỉ định. Các hoạt động chính phủ Sénégal khá minh bạch. Mức độ tham nhũng kinh tế gây cản trở tới sự phát triển kinh tế đất nước khá thấp. Ngày nay Sénégal có một nền văn hóa chính trị dân chủ, là một trong những hình mẫu chuyển tiếp dân chủ thành công nhất tại Châu Phi. Các quan chức hành chính địa phương đều được tổng thống chỉ định và chịu trách nhiệm trước tổng thống. Thể chế Cộng hoà Tổng thống. Tổng thống là Nguyên thủ quốc gia kiêm tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang và được bầu thông qua tuyển cử trực tiếp, nhiệm kỳ 7 năm. Quốc hội gồm 120 ghế được bầu cử trực tiếp, nhiệm kỳ 5 năm. Đảng phái chính trị Sénégal thực hiện chế độ đa đảng: Đảng cầm quyền hiện nay là Đảng Dân chủ Sénégal (Parti Démocratique). Đảng đối lập chính là đảng Xã hội (Parti Socialiste). Từ đầu những năm 1980, Sénégal phải đối phó với phong trào ly khai ở vùng Casamance do Đảng Phong trào các lực lượng dân chủ Casamance (MFDC) khởi xướng. Từ giữa những năm 1990, phong trào ly khai đã phát triển thành xung đột vũ trang. Chính phủ vẫn làm chủ được tình hình. Từ tháng 1 năm 1999, tiến trình hoà bình đã được đưa ra. Tháng 3 năm 2001, thoả thuận ngừng bắn đã được ký kết giữa Chính phủ và MFDC. Vào ngày 19 tháng 9 năm 2012, các nhà lập pháp đã bỏ phiếu để loại bỏ Thượng viện để tiết kiệm ước tính 15 triệu đô la. Tháng 8 năm 2017, đảng cầm quyền đã giành chiến thắng vang dội trong cuộc bầu cử quốc hội. Liên minh cầm quyền của Tổng thống Macky Sall chiếm 125 ghế trong Quốc hội 165 ghế.  Năm 2019, tổng thống Macky Sall dễ dàng tái đắc cử ở vòng đầu tiên. Chính sách ngoại giao Sénégal là thành viên Liên Hợp Quốc, UA (trước là OUA), Phong trào không liên kết, ICO, Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp và hàng chục tổ chức quốc tế và khu vực khác. Hiện nay, Sénégal theo đuổi đường lối đối ngoại đa dạng hoá, mở cửa nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật. Sénégal quan hệ mật thiết với phương Tây, nhất là Pháp. Pháp là nước viện trợ nhiều nhất cho Sénégal, và hiện vẫn cung cấp chuyên gia kỹ thuật, quân sự cho Sénégal. Hiện nay, Pháp với Hiệp định phòng thủ ký với Sénégal từ khi quốc gia này giành độc lập vẫn luôn có 1.200 quân tại đây. Từ cuối những năm 1980, Mỹ bắt đầu tăng cường quan hệ với Sénégal trong các lĩnh vực kinh tế, đào tạo. Hiện nay, trong khuôn khổ của chương trình " Sáng kiến đối phó với khủng hoảng ở châu Phi của Mỹ"(ACRI-2001), Mỹ đã gửi các chuyên gia quân sự tới giúp Sénégal đào tạo các binh lính gìn giữ hoà bình. Sénégal chủ trương duy trì quan hệ láng giềng tốt với Mauritanie, Gambia và Guinée - Bissau. Tuy vậy, do xung đột ở vùng Casamance, vấn đề người tỵ nạn Sénégal và các tranh chấp lãnh thổ chưa được giải quyết, quan hệ giữa Sénégal và các nước này có lúc căng thẳng. Vào ngày 22 tháng 2 năm 2011, Senegal cắt đứt quan hệ ngoại giao với Iran, nói rằng họ cung cấp vũ khí cho phiến quân đã giết chết quân đội Senegal trong cuộc xung đột Casamance. Các vùng hành chính Sénégal được chia thành 14 vùng, mỗi vùng được quản lý bởi Conseil Régional (Hội đồng khu vực). 14 vùng lại được chia thành 45 Départements, 113 Arrondissements và Collectivités Locales. Các vùng gồm: Dakar Diourbel Fatick Kaffrine Kaolack Kédougou Kolda Louga Matam Saint-Louis Sédhiou Tambacounda Thiès Ziguinchor Địa lý Sénégal nằm ở phía tây lục địa châu Phi. Nó nằm giữa vĩ tuyến 12° và 17° Bắc, kinh độ 11° và 18° Tây. Sénégal giáp với Đại Tây Dương về phía tây, Mauritanie về phía bắc, Mali đề phía đông, Guinée về phía đông nam, Guiné-Bissau về phía tây nam, và gần như vây quanh Gambia (trừ một đường biển ngắn của nước này). Khung cảnh tai Sénégal chủ yếu gồm những đồng bằng cát tây Sahel nâng cao lên thành những dãy đồi ở phía đông nam. Tại đây có điểm cao nhất Sénégal, cách Nepen Diakha 2,8 km, cao . Biên giới phía bắc được tạo nên từ sông Sénégal; những con sống khác gồm sông Gambia và sông Casamance. Thủ đô Dakar nằm trên bán đảo Cap-Vert, điểm cực tây của châu Phi. Kinh tế Tháng 1 năm 1994, Sénégal đã tiến hành một cuộc cải cách kinh tế sâu rộng và đầy tham vọng với sự hỗ trợ của cộng đồng các nước cho vay quốc tế. Cuộc cải cách bắt đầu với việc phá giá 50% đồng tiền tệ Sénégal, đồng franc CFA, vốn có tỷ giá cố định so với đồng franc cũ của Pháp và hiện nay là đồng euro. Sự kiểm soát và hỗ trợ giá cả của chính phủ dần được bãi bỏ. Sau khi kinh tế giảm sút 2.1% năm 1993, Sénégal đã có một bước chuyển quan trọng, nhờ chương trình cải cách đó, với tăng trưởng GDP thực tế hàng năm ở mức 5% trong giai đoạn 1995-2001. Lạm phát hàng năm từng chưa tới 1%, nhưng đã tăng tới ước tính 3.3% năm 2001. Đầu tư tăng trưởng vững chắc từ mức 13.8% GDP năm 1993 tới 16.5% năm 1997. Với tư cách một thành viên của Liên minh Kinh tế và Tiền tệ Tây Phi (WAEMU), Sénégal hiện đang nỗ lực hội nhập sâu hơn nữa vào khu vực với một mức thuế quan thống nhất. Sénégal cũng đã thực hiện kết nối Internet toàn bộ năm 1996, tạo ra một cuộc bùng nổ các dịch vụ dựa trên công nghệ thông tin nhỏ. Hoạt động tư nhân hiện chiếm 82% GDP. Những hậu quả tiêu cực là việc Sénégal phải đối mặt với những vấn đề kinh niên của đô thị như thất nghiệp, bất bình đẳng kinh tế xã hội, thanh thiếu niên phạm tội, và nghiện ma tuý—tương tự như vấn đề sinh ra từ các tầng lớp xã hội khác nhau tại vùng đô thị các nước phát triển/công nghiệp. Nhân khẩu Sénégal có dân số hơn 13,5 triệu, trong đó 42% sống tại khu vực nông thôn. Mật độ dân cư dao động từ ở miền trung-tây tới ở khu vực miền đông khô cằn. Dân tộc Sénégal có sự đa dạng về dân tộc, và như đa số các quốc gia Tây Phi, nhiều ngôn ngữ được sử dụng hàng ngày. Người Wolof là dân tộc đông nhất Sénégal (43% dân số); người Fula và người Toucouleur (cũng gọi là Halpulaar'en, nghĩa là "người nói tiếng Pulaar") (24%) là nhóm đông thứ nhì, theo sau bởi người Serer (14,7%), rồi người Jola (4%), người Mandinka (3%), người Moor (Naarkajors), người Soninke, người Bassari và nhiều nhóm nhỏ khác (9%). Khoảng 50.000 người châu Âu (chủ yếu người Pháp) và người Liban cư ngụ ở Sénégal, chủ yếu ở các thành phố. Đa số người Liban làm công việc thương mại. Ngoài ra tại các đô thị, có những cộng đồng người Việt Nam và người Trung Quốc nhỏ, mỗi nhóm khoảng vài trăm người. Cũng có hàng chục nghìn người di cư từ Mauritanie, chủ yếu ở miền bắc. Ngôn ngữ Tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức. Đa số người dân cũng nói ngôn ngữ dân tộc mình và, đặc biệt tại Dakar, tiếng Wolof là lingua franca. Tiếng Pulaar (Fula) là ngôn ngữ của người Fula và Toucouleur. Tiếng Serer được nói rộng rãi bởi cả người Serer và phia Serer. Nhóm ngôn ngữ Jola phổ biến rộng rãi tại Casamance. Nhiều ngôn ngữ được hưởng tình trạng "ngôn ngữ quốc gia": tiếng Balanta-Ganja, tiếng Ả Rập Hassaniya, tiếng Jola-Fonyi, tiếng Mandinka, tiếng Mandjak, tiếng Mankanya, tiếng Noon (Serer-Noon), tiếng Pulaar, tiếng Serer, tiếng Soninke, và tiếng Wolof. Thành phố lớn nhất Thủ đô Dakar là thành phố lớn nhất Sénégal, với hơn hai triệu dân. Tôn giáo Hồi giáo là tôn giáo chính ở nước này với khoảng 94% dân số là tín đồ; cộng đồng Thiên chúa giáo chiếm 4% dân số gồm Công giáo La Mã, và các phái Tin lành. Dakar Diourbel Fatick Kaffrine Kaolack Kédougou Kolda Louga Matam Saint-Louis Sédhiou Tambacounda Thiès Ziguinchor Văn hóa Ẩm thực Sénégal Danh sách các nhà văn Sénégal Danh sách nhân vật Sénégal Âm nhạc Sénégal Ousmane Sembène Nhà văn và đạo diễn phim người Sénégal này được coi là 'người cha' của Điện ảnh châu Phi.
Cách mạng là một phương pháp của nhân dân hoặc một tổ chức mà trong đó các hoạt động đấu tranh diễn ra liên tục nhằm cải tiến một chính quyền, tư tưởng, công nghệ kỹ thuật,... Một cuộc cách mạng có thể dẫn đến trịnh thương trong các thể chế chính trị – xã hội, hoặc thay đổi lớn trong 1 nền kinh tế hay văn hóa. Cách mạng đã từng xảy ra trong nhiều lĩnh vực như xã hội, chính trị, văn hóa, kinh tế, công nghiệp,... Cách mạng thường được thực hiện dưới sự lãnh đạo nhân dân, tạo ra 1 sự thay đổi về chất trên các mặt chính trị, kinh tế, hay văn hóa, xã hội. Đối lập với cách mạng thường được gọi là phản cách mạng, tức quay lại với cái cũ, trung thành với cái cũ hoặc cái đang tồn tại, hay 1 sự thay đổi tiệm tiến có kế thừa cái cũ. Trong chính trị, cách mạng và đảo chính có những điểm giống và khác với nhau: Cách mạng và đảo chính đều được tiến hành nhằm lật đổ chế độ chính trị cũ, nhưng khác nhau ở mục tiêu sau đó: cách mạng là thay chế độ cũ bằng 1 chế độ mới tiến bộ hơn về cơ cấu và tính chất, còn đảo chính là thuật ngữ chung mà chỉ thay thế 1 chính quyền này bằng 1 chính quyền khác có hình thái và bản chất giống như cũ. Ngoài ra, đảo chính thường chỉ được thực hiện bởi 1 nhóm lãnh đạo nhắm vào 1 nhóm các lãnh đạo khác, trong khi cách mạng thường được tổ chức bởi phần lớn quần chúng xã hội và lật đổ cả thể chế chính trị cũ. Ví dụ: Cách mạng Tháng Mười được thực hiện bởi đông đảo quần chúng nhằm thay thế chế độ Nga hoàng bằng nền Cộng hòa Xô viết nên được coi là cách mạng, trong khi đảo chính Thái Lan 2006 được thực hiện bởi một số tướng lĩnh nhằm lật đổ cá nhân Thủ tướng, và Chính phủ mới vẫn áp dụng cơ cấu chính trị trước đó nên được coi là đảo chính. Thông thường, các học thuyết bảo vệ cho cách mạng là chủ nghĩa cách mạng, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa tiến bộ, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa vô chính phủ và chủ nghĩa công đoàn (nhưng không phải tất cả những gì các trường phái này mang lại đều nhất thiết là cách mạng). Đôi khi chủ nghĩa phát xít cũng được xem là cách mạng hoặc có khi xem là phản cách mạng (hay cách mạng cánh hữu). Từ nguyên Trong nhiều ngôn ngữ của châu Âu, các từ mang nghĩa "cách mạng" được bắt nguồn từ revolutio (sự quay) trong tiếng La Tinh thông dụng (Vulgar Latin), từ này có nguồn gốc từ revolvere (quay, xoay) trong tiếng Latinh. Năm 1390, từ này được du nhập vào tiếng Anh qua từ révolution trong tiếng Pháp cổ, khi đó có nghĩa thuộc lĩnh vực thiên văn học. Các từ cùng gốc Latinh này trong tiếng Anh và tiếng Pháp bắt đầu mang sắc thái chính trị kể từ thế kỷ XVII, đặc biệt là sau cuộc lật đổ vua James II của Anh năm 1688. Trong tiếng Hán, Cách (革) là biến cách, thay đổi còn Mạng (命) hay mệnh là thiên mệnh, mệnh trời do các vương triều cổ đại thường dùng cách nói "thụ mệnh vu thiên" (vâng mệnh của trời) để chỉ vua, người đứng đầu, vì vậy khi thay triều đổi đại được gọi là "cách mạng" hay "cách mệnh". Ví dụ như Thành Thang lật đổ nhà Hạ lập nhà Thương, nhà Chu lật đổ nhà Thương được gọi chung là Cách mạng Thang Võ. Kinh Dịch viết: Thiên địa cách nhi tứ thời thành, Thang Vũ cách mạng, thuận hồ thiên nhi ứng hồ nhân tức là: (Trời đất đổi thay mà thành bốn mùa, cách mạng Thang Vũ thuận theo trời mà ứng theo người). Trong tiếng Việt, từ cách mạng là từ Hán Việt gốc Nhật (革命, かくめい, kakumei) tiếp thu từ những năm 1920. Vì chữ mạng còn được đọc là mệnh, từ cách mạng đôi khi còn được đọc là cách mệnh, như tác phẩm Đường kách mệnh của Hồ Chí Minh. Cách mạng chính trị và cách mạng xã hội Cách mạng chính trị là sự thay đổi nhà cầm quyền hoặc hình thức tổ chức nhà nước hiện tại bằng nhà cầm quyền hoặc hình thức tổ chức nhà nước khác được xem là tiến bộ hơn bằng phương pháp bạo động hoặc bất bạo động mà không tuân theo những thủ tục được pháp luật quy định. Cách mạng chính trị thường được thực hiện bởi bạo lực, và những thay đổi lớn trong bộ máy quyền lực thường có kết quả nhanh chóng hơn bằng việc sử dụng bạo lực, như ở Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) và Cách mạng Pháp. Một cuộc cách mạng chính trị có thể sử dụng vũ lực để lật đổ nhà cầm quyền, tiêu diệt những cá nhân bị xem là phản cách mạng (như đã xảy ra ở Anh, Pháp và Nga); trong khi đó một cuộc cách mạng xã hội thường là sự thay đổi 1 xã hội thông qua các học thuyết và tư tưởng mới như trong thời kỳ Phục Hưng. Tuy nhiên, những cuộc cách mạng xã hội thường không có mốc thời gian rõ ràng, và hầu hết các cuộc cách mạng chính trị đều trở thành cách mạng xã hội, vì chúng được thực hiện dựa trên 1 cơ sở triết học nào đó hướng tới việc tạo dựng ra các định chế kinh tế - chính trị mới nhằm thay đổi bản chất của xã hội. Những cuộc cách mạng trong thế giới hiện đại có thể trở thành những cuộc cách mạng tự do và cách mạng cộng sản. Trái lại, 1 cuộc đảo chính thường tìm kiếm sự thay đổi nhà cầm quyền hoặc đường lối chính trị hiện thời hơn là đặt mục tiêu cải cách xã hội dựa trên quan niệm, ý tưởng về một xã hội tốt đẹp hơn. Các cuộc cách mạng chính trị có thể đem đến sự thay đổi chính trị nhanh chóng làm cơ sở để thực hiện những cải cách xã hội khi quần chúng bị kích động đứng lên làm cách mạng nhưng nó sẽ đi kèm những tổn thất rất to lớn cho xã hội trong một thời gian dài, và khi cần kìm hãm người dân để đưa họ về trạng thái tâm lý ôn hòa thì đó lại là một việc rất khó và mất thời gian, đôi khi còn tổn thất rất lớn khác; thậm chí các nhà cách mạng sau khi lật đổ chế độ cũ sẽ thanh trừng lẫn nhau vì bất đồng quan điểm hay vì cạnh tranh quyền lực. Các cuộc cách mạng chính trị đều cho thấy phá hủy các định chế kinh tế - chính trị, các mối quan hệ sản xuất - quan hệ xã hội cũ thì dễ dàng hơn là xây dựng những nhân tố mới tốt đẹp và có hiệu quả hơn. Các định chế kinh tế – chính trị cũ có khuynh hướng tái sinh dưới hình thức mới với cùng bản chất nhưng do một nhóm người mới nắm giữ quyền lực là điều mà Karl Marx gọi là lịch sử lặp lại chính nó – lần đầu như 1 tấn thảm kịch, lần thứ 2 như 1 định mệnh trớ trêu. Các cuộc cách mạng không thể nào thay thế cho tiến hóa xã hội mà chỉ tạo điều kiện cho tiến hóa có thể diễn ra nhanh hơn trong một số trường hợp và kéo lùi xã hội trong một số trường hợp khác. Điều này cho thấy phá hủy lúc nào cũng dễ dàng hơn là xây dựng và xây dựng lúc nào cũng cần nhiều thời gian hơn phá hủy. Các cuộc cách mạng xã hội hướng đến sự thay đổi bản chất của xã hội trong đó các lực lượng xã hội cần phải tự điều chỉnh hoặc bị điều chỉnh để giải quyết các mâu thuẫn đối kháng. Trong nhiều trường hợp, những cuộc cách mạng xã hội sẽ tiếp nối các cuộc cách mạng chính trị nhằm mang lại những thay đổi sâu sắc và bền vững hơn kết quả do các cuộc cách mạng chính trị mang lại. Các cuộc cách mạng xã hội cũng có thể đi kèm với những hậu quả tiêu cực như từng diễn ra tại các cuộc cải cách văn hóa, cải cách tôn giáo, cải cách ruộng đất, cải cách công thương nghiệp trên thế giới. Một vài nhà triết học chính trị coi các cuộc cách mạng giống như cái đích của mình. Hầu hết những người vô chính phủ ủng hộ cách mạng xã hội như chứng kiến sự đổ vỡ của bộ máy nhà nước và thay thế vào đó 1 tình trạng xã hội không có thứ bậc. Chẳng hạn trong số những người theo Chủ nghĩa cộng sản và Chủ nghĩa Marx, có 1 sự tách biệt giữa người ủng hộ nhà nước Xô Viết (phái chính thống chủ nghĩa Mác) xem nhà nước này là công cụ của giai cấp vô sản và phái theo Chủ nghĩa Trotsky chỉ trích nhà nước Xô Viết xem đây là 1 hệ thống quan liêu nhân danh giai cấp vô sản. Cách mạng chính trị và xã hội thường "thể chế hóa" những ý tưởng hay khẩu hiệu hay nhân vật của cuộc cách mạng để tiếp tục nắm vai trò quan trọng trong đời sống chính trị của một đất nước, ngay cả khi cuộc cách mạng đó đã kết thúc nhiều năm. Các hệ thống chính trị mới thường thể chế hóa những cuộc cách mạng này để hợp pháp hóa những đường lối của chính quyền. Ví dụ như việc Pháp, Mỹ, Nga,... tiếp tục kỷ niệm quá khứ cách mạng qua những ngày nghỉ lễ, những bài hát hay bằng hình thức khác. Một số cuộc cách mạng chính trị – xã hội khác: Cách mạng Hà Lan, Cách mạng Anh, Cách mạng Mỹ, Cách mạng Pháp, Cách mạng Tháng Mười, Cách mạng Tháng Tám, Cách mạng 1989,... Những cuộc cách mạng văn hóa, tư tưởng hay triết học Phục hưng Cải cách Tin Lành Cách mạng Khoa học Cách mạng ý thức Cách mạng Văn hóa Những cuộc cách mạng công nghệ Những cuộc cách mạng công nghệ là nền tảng cho sự phát triển công nghiệp vượt bậc được gọi là cách mạng công nghiệp hoặc sự phát triển trong nông nghiệp được gọi là cách mạng nông nghiệp. Những thay đổi kinh tế dẫn đến những thay đổi trong cấu trúc xã hội, trong văn hóa và chính trị. Cách mạng Nông nghiệp Cách mạng Kỹ thuật số Cách mạng Đồ đá mới Cách mạng vật giá Cách mạng Công nghiệp Cách mạng Công nghiệp lần thứ hai
Nhà thơ hay Thi nhân (Chữ hán: 詩人) là người sáng tác thơ — một thể loại khác với văn xuôi hay kịch. Nhà thơ thường bị chi phối bởi nền văn hóa và tri thức truyền thống và viết ra ngôn ngữ đặc biệt (gọi là thơ). Những nhà thơ giỏi thường được gọi là Thi sĩ (詩士), hoặc Thi hào (詩豪) đối với những nhà thơ kiệt xuất. Khả năng Khả năng cảm xúc, tư duy và ngôn ngữ phong phú được diễn tả bằng thơ do khả năng bẩm sinh và do sự rèn luyện mà có. Khả năng gắn kết cuộc sống, xã hội, thiên nhiên... cái hay, cái đẹp và cả những điều xấu, cả những vật vô tri vô giác cũng được nhà thơ làm sống động và có hồn. Nhà thơ là một danh hiệu cao quý cho người làm thơ, khi mà thơ ca của người đó phục vụ cho chân, thiện, mỹ, cho ánh sáng xua tan bóng tối, cho lương tâm, trí tuệ và tiến bộ cũng như hạnh phúc của con người. Tác phẩm và tên tuổi của họ được nhiều người đọc đánh giá tốt phản hồi qua truyền miệng, bút tích, thư từ hoặc báo chí. Ngoài ra còn được lưu trữ trong thư viện, hoặc được trích dẫn lại trong sách giáo khoa, trong nhạc, trong thơ và tác phẩm của người khác về mặt tích cực như trên. Đó là một tiêu chuẩn danh xưng nhà thơ cho một người làm thơ. Các nhà thơ tiêu biểu Tiếng Việt Nguyễn Thái Bình Anh Thơ Bằng Việt Bùi Giáng Chế Lan Viên Du Tử Lê Dương Quân Đặng Thân Đinh Hùng Hàn Mặc Tử Hồ Chí Minh Thanh Tịnh Huy Cận Inrasara Nguyên Sa Nguyễn Bính Nguyễn Du Nguyễn Đình Thi Nguyễn Khoa Điềm Nguyễn Nhược Pháp Nguyễn Tất Nhiên Nguyễn Trãi Tản Đà Nam Trân Tế Hanh Tố Hữu Thế Lữ Thích Nhật Từ Xuân Diệu Vũ Đình Liên Vũ Hoàng Chương Hữu Loan Vũ Quần Phương Lâm Quang Mỹ Trần Đăng Khoa Hồng Nguyên Xuân Quỳnh ... Thơ Đường luật Việt Nam Thứ tự theo từng thời kỳ từ thể thơ Nôm thất ngôn bát cú đến Đường luật Việt Nam có: Hồ Xuân Hương Bà Huyện Thanh Quan Tuy Lý Vương Tùng Thiện Vương Nguyễn Khuyến Dương Khuê Trần Tế Xương Phan Văn Trị Tôn Thọ Tường Quách Tấn Bùi Khánh Đản Thái Thanh Nguyên Đinh Vũ Ngọc Hà Trung Yên Hương Thu ... Thơ lục bát Nguyễn Du Nguyễn Đình Chiểu ... Thơ Đường Lý Bạch Đỗ Phủ Bạch Cư Dị Vương Duy Mạnh Hạo Nhiên Thôi Hộ Trương Kế Liễu Tông Nguyên Vương Hàn Thôi Hiệu Tiếng Anh William Shakespeare John Milton Sylvia Plath W. H. Auden Tiếng Pháp Baudelaire Musset Rimbaud Valéry Verlaine Victor Hugo Tiếng Nga Puskin Lermontov Yesenin Mayakovsky Tiếng Nhật Issa Buson Các tiếng khác Tagore - Ấn Độ Omar Khayam - Ba Tư Dante Alighieri - Ý Chú thích Con người Xã hội Nghề nghiệp nghệ thuật
Thiên hà Tiên Nữ, hay tinh vân Tiên Nữ, thiên hà Andromeda và các tên như Messier 31, M31 hay NGC 224, là thiên hà xoắn ốc có vị trí biểu kiến thuộc chòm sao Tiên Nữ nằm ở bầu trời phía bắc gần chòm sao Phi Mã. Đây là thiên hà xoắn ốc gần dải Ngân Hà của chúng ta nhất, khoảng 2,5 triệu năm ánh sáng. Thiên hà Tiên Nữ từng được xem là thiên hà lớn nhất trong nhóm các thiên hà Địa Phương (Local Group), bao gồm thiên hà Tiên Nữ, dải Ngân Hà, thiên hà Triangulum (trong chòm sao Tam Giác) và khoảng 30 thiên hà nhỏ khác. Do những khám phá gần đây dựa trên các phương pháp đo lường tiên tiến và những dữ liệu mới, mà hiện tại các nhà khoa học tin rằng dải Ngân Hà chứa nhiều vật chất tối hơn thiên hà Tiên Nữ và có thể là thiên hà có khối lượng lớn nhất trong nhóm Địa Phương. Tuy nhiên, những quan sát gần đây của kính viễn vọng không gian Spitzer lại cho thấy rằng M31 chứa khoảng một ngàn tỉ (1012) sao, vượt xa con số các vì sao trong dải Ngân Hà. Các ước tính vào năm 2006 cho thấy khối lượng của dải Ngân Hà vào khoảng ~80% khối lượng của thiên hà Tiên Nữ, tức là khoảng 7,1 lần khối lượng Mặt Trời. Chúng ta có thể nhìn thấy thiên hà Tiên Nữ một cách dễ dàng bằng mắt thường trên bầu trời của những khu vực thưa dân cư vốn ít bị ô nhiễm bởi khói bụi và ánh sáng như ở các thành phố. M31 trông sẽ khá nhỏ dưới mắt thường bởi vì chỉ có phần lõi thiên hà là đủ sáng để có thể nhìn thấy, nhưng thực tế thì đường kính góc của cả thiên hà gấp 7 lần Mặt Trăng tròn. M31 được xem là thiên thể xa nhất có thể nhìn thấy được bằng mắt thường sau thiên hà Triangulum. Trong Nhóm Địa Phương, thiên hà Tiên Nữ là thiên hà lớn nhất, ngoài ra có Ngân Hà lớn thứ hai còn thiên hà Triangulum lớn thứ ba. Lịch sử quan sát Quan sát sớm nhất từng được ghi nhận về thiên hà Tiên Nữ là vào năm 905 của nhà thiên văn học người Ba Tư Abd Al-Rahman Al Sufi, người đã mô tả M31 như là một "đám mây nhỏ", và các bản đồ sao thời kỳ đó đều gọi M31 như thế. Simon Marius vào năm 1612 đã cung cấp những thông tin đầu tiên về thiên hà Tiên Nữ dựa vào các quan sát thông qua kính viễn vọng của mình. Năm 1764, Charles Messier đã đưa Andromeda vào danh lục của ông với tên gọi M31 và xem Simon Marius như là người khám phá ra Tiên Nữ thay vì Al Sufi. Năm 1785, nhà thiên văn học William Herschel phát hiện một đốm mờ màu đỏ ở tâm của M31. Ông đã cho rằng đó chính là tinh vân gần nhất trong số các "Đại tinh vân", và dựa vào màu sắc và độ lớn của "tinh vân", ông đã tính sai vị trí của M31 và cho rằng Trái Đất chỉ cách nó một khoảng cách gấp 2000 lần khoảng cách tới sao Thiên Lang (Sirius). William Huggins vào năm 1864 đã quan sát quang phổ của Tiên Nữ và phát hiện ra rằng nó khác với quang phổ của một tinh vân bình thường vốn chứa đầy khí. Quang phổ của Tiên Nữ là một dải liên tục các tần số, kết thúc với các dải màu đen. Điều này rất giống với quang phổ của một ngôi sao, do đó Huggins đã suy luận ra rằng thiên hà Tiên Nữ có bản chất của một vì sao. Năm 1885, người ta phát hiện một siêu tân tinh (hiện nay được đặt tên là "S Andromedae") trong thiên hà Tiên Nữ, đây là siêu tân tinh đầu tiên và duy nhất từng được phát hiện trong thiên hà này. Vào lúc đó, S Andromedae bị cho là một tân tinh, một hiện tượng hoàn toàn không liên quan đến một siêu tân tinh và mờ hơn nhiều, và do đó nó được đặt tên là Nova 1885. Những hình ảnh đầu tiên về thiên hà Tiên Nữ được Isaac Roberts tại đài thiên văn riêng của ông ở Sussex (Anh) chụp vào năm 1887. Và cấu trúc xoắn ốc của M31 lần đầu tiên được phát hiện. Tuy nhiên, vào thời điểm đó thiên thể này vẫn còn được xem là một tinh vân trong thiên hà của chúng ta, và Roberts đã cho rằng M31 và những tinh vân xoắn ốc khác là những đĩa tiền hành tinh đang hình thành. Thiên hà này đang tiến về dải Ngân Hà của chúng ta với vận tốc khoảng 300 km/giây (186 dặm/giây). Vận tốc này được Vesto Slipher đo vào năm 1912 tại đài thiên văn Lowell bằng quang phổ học. Đó là vận tốc lớn nhất từng được biết đến thời bấy giờ. Ốc đảo vũ trụ Năm 1917, Heber Curtis đã quan sát một tân tinh trong M31. Sau khi tìm kiếm những hình ảnh lưu trữ về Andromeda, Curtis đã khám phá ra thêm 11 tân tinh khác. Ông thấy rằng cấp sao biểu kiến của những tân tinh này thấp hơn 10 lần so với những tân tinh trong dải Ngân Hà. Do đó ông đã cho rằng Andromeda cách chúng ta khoảng 500.000 năm ánh sáng. Ông cũng trở thành người đề xuất thuyết gọi là "ốc đảo vũ trụ" cho rằng các tinh vân xoắn ốc thực chất chính là những thiên hà độc lập. Và thực tế đã chứng minh điều đó là đúng. Vào năm 1920 cuộc Tranh Cãi Lớn diễn ra giữa Harlow Shapley và Heber Curtis liên quan tới bản chất của dải Ngân Hà, các tinh vân xoắn ốc, và các chiều của vũ trụ. Để minh chứng cho lý thuyết của mình rằng M31 thực chất là một thiên hà, Curtis đã dẫn chứng về các dải tối trong quang phổ của M31 rất giống với quang phổ của các đám mây khí trong thiên hà của chúng ta, cùng với dịch chuyển Doppler đáng kể. Edwin Hubble kết thúc cuộc tranh cãi vào năm 1925 khi ông lần đầu tiên xác định được các sao biến quang Cepheid trong M31, và đồng thời cũng giúp xác định được khoảng cách tới thiên hà này. Những hình ảnh của các sao biến quang này được chụp nhờ vào một kính viễn vọng phản xạ đường kính 2,5 m. Các đo đạc của ông cho phép kết luận rằng M31 không phải là một cụm sao và khí trong dải Ngân Hà mà là một thiên hà độc lập cách chúng ta rất xa. Andromeda đóng một vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu thiên hà (xem thêm thiên văn học thiên hà), vì đây là thiên hà xoắn ốc lớn gần chúng ta nhất (mặc dù không phải là thiên hà gần nhất). Vào năm 1943, Walter Baade là người đầu tiên phân loại các ngôi sao tại phần trung tâm của thiên hà Andromeda. Dựa vào những quan sát của mình, ông đã phân thành hai nhóm sao khác biệt, với những ngôi sao trẻ có vận tốc lớn ở phần đĩa ngoài là sao Nhóm I và các sao già màu đỏ ở khối phồng trung tâm là Nhóm II. Cách đặt tên này sau đó được áp dụng để phân loại các ngôi sao trong dải Ngân Hà cũng như những thiên hà khác trong vũ trụ (Trước đó, Jan Oort cũng đã nhắc đến sự tồn tại của hai nhóm sao này.). Tiến sĩ Baade cũng khám phá ra các sao biến quang Cepheid cũng có hai nhóm, dẫn đến việc nhân đôi khoảng cách đã ước tính đến M31 cũng như phần còn lại của vũ trụ. Những bản đồ vô tuyến đầu tiên của thiên hà Andromeda do John Baldwin và các cộng sự trong nhóm thiên văn vô tuyến Cambridge tạo ra vào thập niên 1950. Nhân thiên hà Andromeda được đặt tên là 2C 56 trong cuốn mục lục Cambridge thứ hai về các nguồn sóng vô tuyến (2C). Vùng tâm của thiên hà M31 hiện được cho là có tập trung nhiều lỗ đen xung quanh lỗ đen siêu khổng lồ ở tâm. Thông tin sơ lược Thiên hà Tiên Nữ đang tiến đến Mặt Trời với vận tốc khoảng 300 km/s (186 dặm/s), do đó đây là một trong số ít các thiên hà có dịch chuyển xanh. Khi tính đến chuyển động của hệ Mặt Trời trong dải Ngân Hà, người ta thấy rằng thiên hà Tiên Nữ và dải Ngân Hà đang tiến về nhau với vận tốc khoảng 100 đến 140 km/s (62-87 dặm/s). Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là M31 chắc chắn sẽ va chạm với dải Ngân Hà, vì các nhà khoa học vẫn chưa đo được vận tốc tiếp tuyến của thiên hà này. Nếu cả hai thiên hà đang trên đường va chạm với nhau, thì sự kiện này được dự đoán là sẽ diễn ra sau khoảng 3 tỉ năm nữa. Trong trường hợp đó thì 2 thiên hà rất có thể sẽ hợp thành một thiên hà elip khổng lồ, được một số nhà khoa học đặt tên là Milkomeda. Những sự kiện như thế này rất thường xảy ra trong các nhóm thiên hà. Khoảng cách đến M31 được nhân đôi sau khi Walter Baade khám phá ra một loại sao biến quang Cepheid khác, mờ hơn bình thường vào năm 1953. Vào thập niên 1990, các dữ liệu của vệ tinh Hipparcos được dùng để xác định khoảng cách của các Cepheid. Các giá trị được chỉnh sửa cho thấy Andromeda cách chúng ta 2,9 triệu năm ánh sáng. Không may là tất cả các Cepheid đều nằm xa hơn khoảng cách mà Hipparcos có thể đo một cách chính xác, do đó dữ liệu về các Cepheid của Hipparcos chưa có đủ độ tin cậy cần thiết. Khoảng cách ước tính gần đây Đã có ít nhất 4 phương pháp khác nhau được dùng để xác định khoảng cách đến M31. Năm 2003, thông qua các dữ liệu về dao động ánh sáng hồng ngoại bề mặt (infrared surface brightness fluctuations (I-SBF)) và điều chỉnh cho phù hợp với các dữ liệu mới năm 2001 về mối quan hệ chu kì-độ sáng các sao biến quang của Freedman và một số nhà khoa học khác, cùng với việc hiệu chỉnh -0,2 độ kim loại (O/H), cho ra một khoảng cách 2,57 ± 0,06 triệu năm ánh sáng (787 ± 18 kpc). Sau đó, vào năm 2004, bằng phương pháp đo các sao biến quang Cepheid, người ta đo được một khoảng cách bằng 2,51 ± 0,13 triệu năm ánh sáng (770 ± 40 kpc). Năm 2005, một nhóm các nhà khoa học gồm có Ignasi Ribas (CSIC, IEEC) và các cộng sự tuyên bố phát hiện một sao đôi che nhau trong thiên hà Andromeda. Sao đôi này được đặt tên là M31VJ00443799+4129236, bao gồm 2 ngôi sao sáng màu xanh thuộc loại O và B. Bằng cách nghiên cứu sự giao nhau của 2 ngôi sao, xảy ra mỗi 3,54969 ngày, các nhà thiên văn đã có thể đo được kích thước của chúng. Khi đã biết được kích thước và nhiệt độ của 2 ngôi sao, thì cấp sao tuyệt đối của chúng cũng được xác định. Và khi biết được cấp sao tuyệt đối và cấp sao biểu kiến, thì việc xác định khoảng cách chỉ còn là vấn đề thời gian. Khoảng cách từ hai ngôi sao này đến dải Ngân Hà là khoảng 2,52 ± 0,14 triệu năm ánh sáng (770 ± 40 kpc) và toàn bộ thiên hà Andromeda cách khoảng 2,5 triệu năm ánh sáng. Con số này rất gần với khoảng cách đo được bằng phương pháp đo các sao biến quang Cepheid trước đó. Do thiên hà Andromeda cách chúng ta khá gần, nên các nhà khoa học cũng có thể sử dụng phương pháp "Tip of the Red Giant Branch" (TRGB) để dự đoán khoảng cách. Khoảng cách của M31 đo được bằng phương pháp này năm 2005 là 2,56 ± 0,08 triệu năm ánh sáng (785 ± 25 kpc). Khi tính trung bình tất cả các khoảng cách đó, ta có được con số 2,54 ± 0,06 triệu năm ánh sáng (778 ± 17 kpc). Dựa vào khoảng cách trên, đường kính của M31 tại điểm rộng nhất là khoảng 141 ± 3 ngàn năm ánh sáng. Hình ảnh Ghi chú average(787 ± 18, 770 ± 40, 772 ± 44, 783 ± 25) = ((787 + 770 + 772 + 783) / 4) ± ((182 + 402 + 442 + 252)0.5 / 4) = 778 ± 17 Apparent Magnitude of 4.36 - distance modulus of 24.4 = −20.0 J00443799+4129236 is at celestial coordinates R.A. , Dec. . distance × tan(diameter_angle = 190′) = 141 ± 3 kly diameter
Kỳ công của Hercules hoặc Chiến công của Heracles (, ) là một loạt các tình tiết liên quan đến một sự đền tội của Heracles, người anh hùng vĩ đại nhất của Hy Lạp, sau này có tên La tinh hóa thành Hercules. Chúng được hoàn thành dưới theo yêu cầu Vua Eurystheus. Các tình tiết sau đó được kết nối bằng một câu chuyện kể liên tục. Việc thiết lập một chu kỳ cố định gồm mười hai kỳ công được người Hy Lạp quy cho một bài thơ sử thi, hiện đã thất lạc, do Peisander viết vào khoảng năm 600 trước Công nguyên. Nữ thần Hera đã cố gắng giết Heracles kể từ ngày anh được sinh ra, bà đã ám một cơn điên khiến anh tự tay giết vợ con của mình. Sau đó, Heracles đến Nhà tiên tri của Delphi để chuộc tội, tại đây anh cầu nguyện với thần Apollo để được hướng dẫn. Heracles được yêu cầu phụng sự Eurystheus, vua của Mycenae, trong mười năm. Trong thời gian này, anh ta được cử đi thực hiện một loạt kỳ công khó khăn, được gọi là kỳ công. Lịch sử nhỏ|Heracles Papyrus, một đoạn của bản viết tay bằng tiếng Hy Lạp thế kỷ thứ 3 về một bài thơ về Kỳ công của Heracles (Oxyrhynchus Papyrus 2331) Bị Hera (nữ hoàng của các vị thần) phù phép cho phát điên, Heracles tự tay giết các con trai và vợ của mình là Megara. Mặc dù, theo Euripides trong Herakles, mãi sau khi Heracles hoàn thành công việc và khi trở về từ Cõi âm, anh mới sát hại Megara và các con của anh ta. Sau khi tỉnh táo trở lại, Heracles vô cùng hối hận về hành động của mình; anh đã được Vua Thespius thanh tẩy, sau đó du hành đến Delphi để hỏi làm thế nào để có thể chuộc lỗi. Pythia, Nhà tiên tri của Delphi, khuyên anh nên đến Tiryns và phụng sự cho anh họ là Vua Eurystheus, trong mười năm, thực hiện bất kỳ công việc gì mà Eurystheus có thể giao cho anh; đổi lại, anh sẽ được thưởng bằng sự bất tử. Heracles tuyệt vọng vì điều này, ghê tởm phải phục vụ một người đàn ông mà anh biết là kém xa so với mình, nhưng lại sợ phải chống lại cha của anh là Zeus. Cuối cùng, anh hạ mình dưới quyền của Eurystheus. Eurystheus ban đầu ra lệnh cho Heracles thực hiện mười công việc. Heracles đã hoàn thành những nhiệm vụ này, nhưng Eurystheus từ chối công nhận hai nhiệm vụ: tiêu diệt Lernaean Hydra, vì cháu trai và người đánh xe của Heracles là Iolaus đã giúp anh; và việc dọn dẹp Chuồng ngựa August, bởi vì Heracles đã chấp nhận trả công lao động hoặc trong một số phiên bản của câu chuyện này, Chim Stymphalian được tính thay cho Chuồng ngựa August để Athena giúp đỡ bằng cách đưa cho anh lục lạc bằng đồng. Eurystheus ra thêm hai nhiệm vụ (lấy Quả táo vàng của Hesperides và bắt Cerberus), mà Heracles cũng đã thực hiện, nâng tổng số nhiệm vụ lên mười hai. Những kỳ công Một trật tự theo truyền thống của các tác phẩm được tìm thấy trong Bibliotheca của Pseudo-Apollodorus là: Giết Sư tử Nemea. Giết Lernaean Hydra chín đầu. Bắt Hươu Ceryneian. Bắt Lợn rừng Erymanthian. Dọn dẹp chuồng Augean trong một ngày. Giết chim Stymphalian. Bắt Bò Cretan. Đánh cắp bầy Ngựa cái của Diomedes. Có được chiếc thắt lưng của Hippolyta, nữ hoàng của Amazon. Lấy gia súc của người khổng lồ ba thân Geryon. Ăn cắp ba quả táo vàng của Hesperides. Bắt và mang Cerberus về. Đầu tiên: Sư tử Nemean Heracles lang thang cho đến khi đặt chân đến thị trấn Cleonae. Ở đó, anh gặp một cậu bé nói rằng nếu Heracles giết sư tử Nemean và sống sót trở về trong vòng 30 ngày, thị trấn sẽ hiến tế một con sư tử cho Zeus, nhưng nếu anh không trở lại trong vòng 30 ngày hoặc nếu anh chết, cậu bé cũng sẽ được tế sống cho Zeus. Một phiên bản khác cho rằng anh đã gặp Molorchos, một người chăn cừu bị con sư tử ăn thịt đứa con trai của ông, nói rằng nếu anh quay lại trong vòng 30 ngày, một con cừu đực sẽ bị hiến tế cho thần Zeus. Nếu anh không trở lại trong vòng 30 ngày, nó sẽ được hiến tế cho Heracles như một lễ vật để tang. Trong khi tìm kiếm con sư tử, Heracles đã chế tạo một số mũi tên để bắn nó mà không biết rằng bộ lông vàng của nó là bất khả xâm phạm. Khi tìm thấy và dùng cung bắn vào con sư tử, Heracles phát hiện ra đặc tính của bộ lông khiến những mũi tên bật ra khỏi thân mình nó. Sau một thời gian, Heracles lùa con sư tử trở lại hang động. Hang động có hai lối vào, một trong số đó bị Heracles chặn lại; sau đó anh bước vào cái kia. Trong những khu vực tối tăm và chật hẹp, Heracles dùng gậy đánh ngất con quái vật và dùng sức mạnh bóp cổ nó đến chết. Trong lúc chiến đấu, sư tử đã cắn đứt một ngón tay của anh. Nhiều người đồn rằng anh đã bắn tên vào cái miệng của nó. Sau khi giết con sư tử, anh cố gắng lột da nó bằng con dao trên thắt lưng nhưng không thành công. Sau đó, anh đã thử mài dao bằng một hòn đá và thậm chí thử với chính hòn đá đó. Cuối cùng, Athena nhận thấy hoàn cảnh khó khăn của người anh hùng, đã bảo Heracles sử dụng một trong những móng vuốt của chính con sư tử để lột da. Một số người cho rằng trên thực tế, áo giáp của Heracles là bộ da của Sư tử xứ Cithaeron. Khi trở lại vào ngày thứ 30 với xác sư tử trên vai, vua Eurystheus vô cùng kinh ngạc và khiếp sợ. Eurystheus cấm anh vào thành phố một lần nữa; từ đó trở đi, anh phải trưng bày thành quả lao động bên ngoài cổng thành. Eurystheus sau đó sẽ giao nhiệm vụ cho Heracles thông qua một sứ giả. Eurystheus thậm chí còn làm một chiếc lọ lớn bằng đồng để có thể trốn Heracles. Eurystheus sau đó cảnh báo rằng các nhiệm vụ sẽ ngày càng khó hơn. Thứ hai: Mãng xà Hydra Công việc thứ hai của Heracles là tiêu diệt Hydra, mãng xà mà Hera đã nuôi dưỡng chỉ với mục đích duy nhất là giết Heracles. Khi đến đầm lầy gần Hồ Lerna, nơi Hydra trú ngụ, Heracles đã dùng một miếng vải che miệng và mũi để bảo vệ khỏi khói độc. Anh bắn những mũi tên rực lửa vào hang ổ của Hydra, con suối của Amymone, một hang sâu mà con quái vật chỉ chui ra để khủng bố các làng lân cận. Tức giận bởi những mũi tên rực lửa, Hydra chui ra khỏi hang ổ của nó. Anh sử dụng một lưỡi hái (theo một số bức tranh vẽ trên bình ban đầu), một thanh kiếm hoặc chiếc chùy nổi tiếng của anh, Heracles giao chiến với Hydra. Ruck and Staples (1994: 170) lưu ý rằng bản chất của sinh vật chthonic này lại giống như thực vật: sau khi chặt từng đầu của nó, Heracles quan sát thấy con quái vật nhanh chóng mọc lại từng cái đầu đã bị chặt đầu. Ngoài ra, một trong những cái đầu của Hydra - cái ở giữa - là bất tử. Các chi tiết được trình bày rõ ràng trong Bibliotheca (2.5.2): nhận ra rằng không thể đánh bại Hydra theo cách này, Heracles đã kêu gọi cháu trai của anh là Iolaus giúp đỡ. Iolaus sau đó nảy ra ý tưởng (có thể là lấy cảm hứng từ Athena) về việc sử dụng lửa để đốt cháy phần cổ sau mỗi lần chặt đầu. Làm việc song song với nhau, Heracles chặt từng cái đầu và Iolaus đốt những cái cổ hở. Nhận ra Heracles đang dần chiến thắng, Hera tức giận, gửi một con cua khổng lồ để đánh lạc hướng anh; tuy nhiên, điều này hóa ra là vô ích vì anh nhanh chóng nghiền nát nó dưới bàn chân hùng mạnh của mình. Cuối cùng, khi đã làm con quái vật yếu đi đáng kể, Heracles đã chặt cái đầu bất tử của Hydra bằng thanh kiếm vàng do Athena tặng. Người ta nói rằng Heracles đã đặt cái đầu bất tử dưới một tảng đá lớn trên con đường linh thiêng giữa Lerna và Elaius để ngăn con quái vật gây hại thêm (Kerenyi 1959: 144), và sau khi điều này được thực hiện, anh nhúng mũi tên của anh vào máu độc của Hydra. Một phiên bản khác của câu chuyện thần thoại này kể rằng sau khi chặt đứt một trong những chiếc đầu của Hydra, Heracles nhúng thanh kiếm vào vết thương hở và sử dụng nọc độc của nó để đốt cháy từng gốc cổ tiếp theo để nó không thể mọc lại. Hera buồn bã vì Heracles đã giết con thú cưng mà bà nuôi để giết anh nên đã đặt nó lên vòm trời màu xanh đậm với cái tên chòm sao Hydra. Sau đó, bà biến con cua thành chòm sao Cancer. Sau đó, Heracles đã dùng một mũi tên nhúng vào máu độc của Hydra để giết nhân mã Nessus; và máu nhiễm độc của Nessus đã được bôi lên Áo dài của Nessus, nhờ đó nhân mã đã trả thù sau khi chết. Cả Strabo và Pausanias đều nói rằng mùi hôi thối của sông Anigrus ở Elis, khiến tất cả cá của sông đều không ăn được, được cho là do nọc độc của Hydra, từ những mũi tên mà Heracles đã giết nhân mã. Thứ ba: Bắt hươu Ceryneian Tức giận trước thành công của Heracles trước Sư tử Nemean và Lernaean Hydra, Eurystheus (được Hera tư vấn) đã nghĩ ra một nhiệm vụ hoàn toàn khác, ra lệnh cho Heracles bắt giữ Con hươu Ceryneian, một con thú nhanh đến mức các mũi tên không thể bắn kịp nó. Sau một thời gian dài tìm kiếm, Heracles thức dậy vào một đêm và đi tìm con hươu, thứ chỉ có thể nhìn thấy được nhờ ánh sáng lấp lánh phản chiếu ánh trăng trên gạc của nó. Sau đó, anh chạy đuổi theo con hươu trong suốt một năm qua Hy Lạp, Thrace, Istria, và cả vùng đất của Hyperboreans. Cách Heracles bắt được con hươu khác nhau tùy thuộc vào lời kể; trong hầu hết các phiên bản, anh bắt được nó khi nó đang ngủ, hoặc giăng bẫy khiến nó què chân. Eurystheus ra lệnh cho Heracles bắt con hươu với hy vọng rằng nó sẽ khiến Artemis tức giận và trừng phạt người anh hùng vì tội mạo phạm con vật linh thiêng. Khi trên đường quay trở lại cùng với con hươu để trao nó cho Eurystheus, Heracles chạm trán Artemis và anh trai của cô là thần Apollo. Anh cầu xin nữ thần tha thứ, giải thích rằng anh bẫy con hươu là để đền một phần tội lỗi của chính mình, nhưng hứa sẽ trả nó về tự nhiên ngay sau đó. Bị thuyết phục bởi sự nghiêm túc của Heracles, Artemis đã tha thứ cho anh, phá vỡ kế hoạch của Eurystheus. Sau khi mang con hươu về cho Eurystheus, Heracles được thông báo rằng nó sẽ trở thành một phần trong vườn xiếc thú của Nhà vua. Biết rằng phải trả lại con hươu về tự nhiên như đã hứa với Artemis, Heracles chỉ đồng ý giao nó với điều kiện Eurystheus phải đích thân ra ngoài và lấy nó từ tay anh ta. Vị vua xuất hiện, nhưng ngay khi Heracles thả con hươu ra, nó đã lao về phía chủ nhân với tốc độ vô song. Trước khi rời đi, Heracles nhận xét một cách mỉa mai rằng Eurystheus đã không đủ nhanh, khiến Nhà vua nổi giận. Thứ tư: Lợn rừng Erymanthian Eurystheus thất vọng vì Heracles đã vượt qua thử thách và bị bẽ mặt trước sự trốn thoát của con hươu, vì vậy ông giao cho Heracles một nhiệm vụ nguy hiểm khác. Theo một số lời kể, kỳ công thứ tư là mang Lợn rừng Erymanthian đáng sợ, còn sống và trở về Eurystheus (không có tài liệu nào kể rõ ràng về kỳ công này). Trên đường đến Núi Erymanthos nơi con lợn rừng sinh sống, Heracles đã đến thăm Pholus ("người thượng cổ"), một nhân mã tốt bụng và hiếu khách, đồng thời cũng là bạn cũ. Heracles dùng bữa với Pholus trong hang (mặc dù nhân mã chỉ thích ngấu nghiến thịt sống) và yêu cầu rượu. Pholus chỉ có một hũ rượu, một món quà từ Dionysus cho tất cả nhân mã trên núi Erymanthos. Heracles thuyết phục anh mở nó ra, và mùi hương thu hút các nhân mã khác. Họ không hiểu rằng rượu cần phải được pha với nước, nên cả bọn say xỉn và tấn công Heracles. Heracles bắn họ bằng những mũi tên độc, giết chết nhiều nhân mã và cả bọn rút lui về hang động của Chiron. Pholus tò mò tại sao những mũi tên lại gây ra sát thương kinh khủng đến vậy. Anh nhặt một mũi tên lên nhưng lại làm rơi nó, và mũi tên đâm vào móng guốc, khiến anh bị nhiễm độc. Một phiên bản khác nói rằng một mũi tên đi lạc đã vô tình bắn trúng Chiron. Mặc dù là sinh vật bất tử, nhưng anh vẫn cảm thấy đau đớn. Nỗi đau của Chiron lớn đến mức ông tình nguyện từ bỏ sự bất tử của mình và thế chỗ của Prometheus, người đã bị xích trên đỉnh núi để bị đại bàng ăn gan hàng ngày. Kẻ tra tấn Prometheus là con đại bàng, tiếp tục tra tấn Chiron, vì vậy Heracles đã bắn chết nó bằng một mũi tên. Người ta thường chấp nhận rằng câu chuyện nhằm thể hiện chình Heracles là người đã khiến Chiron từ bỏ sự bất tử. Tuy nhiên, câu chuyện này mâu thuẫn với truyền thống mà sau này Chiron đã dạy cho Achilles. Câu chuyện về nhân mã đôi khi xuất hiện trong các phần khác của mười hai kỳ công, cũng như việc giải phóng Prometheus. Heracles đã đến thăm Chiron để xin lời khuyên về cách bắt con lợn lòi, và Chiron đã bảo anh hãy lùa nó vào vùng tuyết dày, nên công việc này diễn ra vào giữa mùa đông. Heracles bắt con lợn lòi, trói nó lại và mang về cho Eurystheus, ông vừa nhìn đã sợ hãi vô cùng, chui cả nửa thân xuống trốn trong bình pithos dưới nhà kho, cầu xin Heracles hãy đem con quái thú đi. Thứ năm: Chuồng ngựa Augean Công việc thứ năm là dọn dẹp chuồng ngựa của Vua Augeas. Nhiệm vụ này vừa nhục nhã vừa bất khả thi, vì những vật nuôi thần thánh này là bất tử và bọn chúng đã tạo ra một lượng phân khổng lồ. Chuồng Augean () đã không được dọn dẹp trong hơn 30 năm và có hơn 1.000 gia súc sống ở đó. Tuy nhiên, Heracles đã thành công bằng cách chuyển hướng các con sông Alpheus và Peneus để rửa sạch. Trước khi bắt đầu nhiệm vụ, Heracles đã yêu cầu Augeas một phần mười số gia súc nếu anh hoàn thành nhiệm vụ trong một ngày, và Augeas đồng ý, nhưng sau đó Augeas từ chối thực hiện thỏa thuận với lý do là Heracles đã nhận lệnh thực hiện nhiệm vụ của Eurystheus. Heracles đã tuyên bố nhận phần thưởng trước tòa và được con trai của Augeas là Phyleus hỗ trợ. Augeas trục xuất cả hai trước khi tòa án ra phán quyết. Heracles trở lại, giết Augeas và trao vương quốc cho Phyleus. Thành công của kỳ công này cuối cùng đã bị lược bỏ vì dòng nước chảy xiết đã hoàn thành công việc dọn dẹp chuồng ngựa, và cũng bởi vì Heracles được trả tiền để làm công việc đó; Eurystheus xác định Heracles vẫn còn bảy công việc nữa phải thực hiện. Thứ sáu: Chim Stymphalian Công việc thứ sáu là đánh bại bầy Chim Stymphalian, loài chim ăn thịt người có mỏ bằng đồng và những chiếc lông kim loại sắc nhọn, có thể phóng vào nạn nhân. Chúng rất linh thiêng đối với thần chiến tranh Ares. Hơn nữa, phân của chúng rất độc. Chúng di cư đến Hồ Stymphalia ở Arcadia, nơi đây, chúng nhanh chóng sinh sản và chiếm lấy vùng nông thôn, phá hủy mùa màng, cây ăn quả và giết hại người dân thị trấn. Heracles không thể đi quá sâu vào đầm lầy vì nó không chịu được trọng lượng của anh. Athena nhận thấy hoàn cảnh khó khăn của người anh hùng, đã đưa cho Heracles một chiếc lục lạc mà Hephaestus đã làm đặc biệt cho dịp này. Heracles lắc cái lục lạc và làm lũ chim sợ hãi bay lên không trung. Heracles sau đó đã bắn bọn chúng bằng những mũi tên có độc. Những con còn lại đã bay xa, không bao giờ trở lại. Trong một số phiên bản của câu chuyện này, thay vì lược bớt kỳ công chuồng ngựa Augean, thì là kỳ công này, do anh đã nhận được sự giúp đỡ của Athena. Argonauts sau đó sẽ chạm trán với chúng. Thứ bảy: Bò mộng Cretan Kỳ công thứ bảy cũng được phân loại là kỳ công đầu tiên không thuộc Peloponneisan là bắt sống Bò mộng Cretan, cha đẻ của quái vật Minotaur. Heracles đi thuyền đến Crete, nơi Vua Minos cho phép Heracles mang con bò đi và thậm chí còn đề nghị giúp đỡ anh (nhưng Heracles đã từ chối, với lý do chính đáng là vì anh không muốn bị lược bớt như trước). Con bò đã tàn phá đảo Crete bằng cách nhổ bật các gốc cây trồng và san bằng các bức tường cây ăn quả. Heracles lẻn đến phía sau con bò và sau đó dùng tay bóp cổ nó (nhưng không giết nó), rồi tròi nó chuyển về Tiryns. Eurystheus lần này lại trốn trong pithos ngay từ lần đầu tiên nhìn thấy sinh vật này, ông muốn hiến tế nó cho Hera. Bà từ chối của hiến tế vì nó phản ánh vinh quang cho Heracles. Con bò được thả ra và lang thang trong Marathon và sau này có tên là Bò mộng Marathonian. Theseus sau đó hiến tế con bò cho Athena và/hoặc Apollo. Thứ tám: Những con ngựa của Diomedes trái|nhỏ|Jean Baptiste Marie Pierre – Vua Diomedes của Thrace bị Heracles giết và bị chính Ngựa của ông nuốt chửng, 1752 Heracles được Vua Eurystheus cử đi để đánh cắp những con ngựa từ Diomedes. Sự điên rồ của bầy ngựa được cho là do chúng ăn thịt của những vị khách đáng ngờ hoặc người lạ đặt chân lên đảo. Một số phiên bản thần thoại nói những con ngựa còn có thể thở ra lửa. Những con ngựa từng là nỗi kinh hoàng của Thrace, bị trói bằng xích sắt vào một máng cỏ bằng đồng ở thành phố Tirida đã mất, và được đặt tên là Podargos (nhanh nhẹn), Lampon (chói sáng), Xanthos (màu vàng) và Deinos (hoặc Deinus, khủng khiếp). Mặc dù rất giống nhau, nhưng có những khác biệt nhỏ về chi tiết liên quan đến việc bắt giữ đàn ngựa. Trong một phiên bản nọ, Heracles đã mang theo một số tình nguyện viên để giúp anh ta bắt những con ngựa khổng lồ. Sau khi chế ngự được quân của Diomedes, Heracles đã phá bỏ dây xích trói ngựa và lùa đàn ngựa xuống biển. Nhưng Heracles không biết những con ngựa này vốn không thể kiểm soát và thích ăn thịt người nên anh đã để chúng cho người bạn đồng hành ưa thích là Abderus phụ trách trông giữ, trong khi anh ta rời đi để chiến đấu với Diomedes. Khi trở về, Heracles phát hiện ra cậu đã bị bầy ngựa ăn thịt. Để trả thù, Heracles đã cho bầy ngựa ăn thịt Diomedes và sau đó thành lập làng Abdera bên cạnh ngôi mộ của cậu. Trong một phiên bản khác, khi Heracles đi đến hòn đảo, Diomedes dự định sẽ cắt cổ anh lúc ngủ nhưng không may là anh vẫn thức và anh cắt dây xích trói ngựa khi mọi người đã ngủ. Sau khi khiến những con ngựa sợ hãi, chúng bỏ chạy lên vùng đất cao của một gò đất, Heracles nhanh chóng đào một con mương xuyên qua đảo, đổ đầy nước vào đó và làm ngập vùng đồng bằng trũng. Khi Diomedes và người của hắn ta quay đầu bỏ chạy, Heracles đã giết họ bằng rìu (hoặc chùy), và cho ngựa ăn xác của Diomedes để trấn an họ. Trong một phiên bản khác, đầu tiên Heracles bắt Diomedes và cho ngựa đàn ngựa ăn thịt "trước khi" thả chúng ra. Chỉ sau khi nhận ra rằng Vua của họ đã chết, dân Bistonians mới tấn công Heracles. Khi nhìn thấy những con ngựa do Abderus dẫn đầu trên một cỗ xe, đang lao vào họ, những người Bistonians quay đầu bỏ chạy. Trong tất cả các phiên bản, những con ngựa được trấn an bằng cách ăn thịt người, tạo cơ hội cho Heracles bịt miệng chúng và dễ dàng mang chúng về cho Vua Eurystheus, người đã dâng hiến những con ngựa cho Hera. Trong một số phiên bản, chúng được phép đi lang thang tự do xung quanh Argos và không còn phát điên nữa, nhưng trong những phiên bản khác, Eurystheus ra lệnh hiến tế những con ngựa được đưa lên Olympus cho Zeus, nhưng Zeus đã từ chối và gửi những con sói, sư tử và gấu để giết chúng. Roger Lancelyn Green nhấn mạnh trong Tales of the Greek Heroes rằng hậu duệ của những con ngựa đã được sử dụng trong cuộc chiến thành Troia, và tồn tại cho đến tận thời của Alexander Đại đế. Sau sự cố, Eurystheus cử Heracles mang về Thắt lưng của Hippolyta. Thứ chín: Thắt lưng của Hippolyta Eurystheus, con gái Admete, muốn có thắt lưng của Hippolyta, nữ hoàng của người Amazons, một món quà từ cha cô là Ares. Để làm hài lòng con gái mình, Eurystheus đã ra lệnh cho Heracles lấy lại chiếc thắt lưng làm kỳ công thứ chín. Cùng với một nhóm bạn, Heracles ra khơi rồi dừng lại ở hòn đảo Paros, nơi sinh sống của một số con trai của Minos. Những người con trai đã giết hai người bạn đồng hành của Heracles, một hành động khiến Heracles nổi cơn thịnh nộ. Anh trả thù bằng cách giết hai người con trai của Minos và đe dọa những cư dân khác cho đến khi anh được đề nghị lấy hai người đàn ông khác thay thế những người bạn đồng hành đã ngã xuống. Heracles đồng ý và lấy hai cháu trai của Minos là Alcaeus và Sthenelus. Họ tiếp tục hành trình và cập bến triều đình của Lycus, người mà Heracles đã bảo vệ trong trận chiến chống lại Vua Mygdon của Bebryces. Sau khi giết vua Mygdon, Heracles đã trao phần lớn đất đai cho người bạn Lycus. Lycus gọi vùng đất đó là Heraclea. Sau đó, cả đoàn lên đường đến Themiscyra, nơi Hippolyta sống. Tất cả sẽ tốt đẹp cho Heracles nếu không có Hera. Hippolyta, ấn tượng với Heracles và những chiến công của anh, đã đồng ý trao tặng thắt lưng. Nhưng Hera đã cải trang, trà trộn vào những người dân Amazon và gieo mầm mống ngờ vực. Bà tuyên bố những người lạ đang âm mưu bắt nữ hoàng của Amazons. Được báo động, những người phụ nữ lên ngựa để đối đầu với Heracles. Khi Heracles nhìn thấy họ, anh nghĩ rằng Hippolyta đã âm mưu phản bội như vậy từ lâu và không bao giờ có ý định tặng chiếc thắt lưng, vì vậy anh đã giết cô và lấy chiếc thắt lưng đưa cho Eurystheus. Thứ mười: Đàn bò của Geryon Công việc thứ mười là lấy đán gia súc của người khổng lồ ba thân Geryon. Phiên bản đầy đủ nhất trong Bibliotheca của Pseudo-Apollodorus, Heracles phải đến hòn đảo Erytheia ở phía tây xa xôi (đôi khi được coi là Hesperides, hoặc hòn đảo tạo nên thành phố Cádiz) để lấy gia súc. Trên đường đến đó, anh băng qua sa mạc Libya và cảm thấy mệt mỏi vì quá nóng nên anh bắn một mũi tên vào Mặt trời. Thần mặt trời Helios "ngưỡng mộ lòng dũng cảm của anh" đã trao cho Heracles chiếc cốc vàng mà Helios dùng để chèo thuyền vượt biển từ tây sang đông mỗi đêm. Heracles cưỡi chiếc cốc đến Erytheia; Heracles trong cốc là một mô-típ yêu thích trên gốm hình đen. Một phương tiện truyền tải kỳ diệu như vậy cắt xén bất kỳ địa lý theo nghĩa đen nào đối với Erytheia, "hòn đảo đỏ" của hoàng hôn. Khi Heracles hạ cánh xuống Erytheia, anh phải đối mặt với chó hai đầu Orthrus. Với một cú đánh từ cây ô liu, Heracles đã giết chết Orthrus. Eurytion là người chăn gia súc, chạy đến hỗ trợ Orthrus, nhưng Heracles cũng đối xử với anh theo cách tương tự. Khi nghe thấy tiếng ồn ào, Geryon lao vào hành động, mang theo ba chiếc khiên và ba ngọn giáo, đồng thời đội ba chiếc mũ. Anh tấn công Heracles tại Sông Anthemus, nhưng bị giết bởi một trong những mũi tên tẩm độc của Heracles. Heracles bắn mạnh đến nỗi mũi tên xuyên qua trán Geryon, "và Geryon ngoẹo cổ sang một bên, giống như cây anh túc bịhỏng hình dạng mỏng manh của nó, rụng hết cánh cùng một lúc." Heracles sau đó phải chăn gia súc trở lại Eurystheus. Trong các phiên bản La Mã của câu chuyện, Heracles lùa gia súc qua Đồi Aventine trên địa điểm sau này sẽ là Rome. Người khổng lồ Cacus sống ở đó đã đánh cắp một số gia súc khi Heracles đang ngủ, bắt gia súc đi lùi để không để lại dấu vết, lặp lại mánh khóe của Hermes. Theo một số phiên bản, Heracles lùa đàn gia súc còn lại qua hang động, nơi Cacus đã giấu những con vật bị đánh cắp, và chúng bắt đầu gọi nhau. Trong các phiên bản khác, em gái của Cacus là Caca đã nói cho Heracles biết anh của mình đang ở đâu. Heracles sau đó giết Cacus, và lập một bàn thờ tại chỗ, sau này là địa điểm của Forum Boarium (chợ gia súc) của Rome. Để phá Heracles, Hera gửi bọn ruồi trâu đến cắn gia súc, chọc tức và phân tán chúng. Trong vòng một năm, Heracles đã lấy lại được tất cả. Hera sau đó gửi một trận lụt làm mực nước sông dâng cao đến mức Heracles không thể vượt qua cùng đàn gia súc. Anh chất những viên đá xuống sông để làm cho nước nông hơn. Cuối cùng khi anh đến Eurystheus, gia súc đã bị hiến tế cho Hera. Thứ mười một: Táo vàng của các Hesperides Sau khi Heracles hoàn thành mười công việc đầu tiên, Eurystheus giao cho anh ta hai công việc nữa, tuyên bố rằng việc giết Hydra không được tính (vì Iolaus đã giúp Heracles), cũng như việc dọn dẹp Chuồng ngựa Augean (vì anh được trả tiền cho công việc hoặc vì những dòng sông đã làm công việc đó). Công việc bổ sung đầu tiên là đánh cắp ba quả táo vàng từ khu vườn của Hesperides. Heracles lần đầu tiên bắt được Old Man of the Sea, vị thần biển có khả năng biến hình, để tìm hiểu vị trí của Khu vườn Hesperides. Trong một số biến thể, khi bắt đầu hoặc khi kết thúc nhiệm vụ này, Heraclesgặp Antaeus, người bất khả chiến bại, miễn là anh ta chạm vào mẹ mình, Gaia, Trái đất. Heracles đã giết Antaeus bằng cách giữ anh trên cao và ôm chặt anh ta. Herodotus tuyên bố Heracles đã dừng lại ở Ai Cập, nơi Vua Busiris quyết định biến anh thành vật hiến tế hàng năm, nhưng Heracles đã thoát ra khỏi xiềng xích dễ dàng. Heracles cuối cùng cũng tìm được đường đến khu vườn của Hesperides, nơi anh bắt gặp Atlas đang gánh bầu trời trên vai. Heracles đã thuyết phục Atlas lấy ba Quả táo vàng bằng cách đề nghị gánh dùm bầu trời trong một thời gian ngắn. Atlas có thể lấy được những quả táo bởi vì trong phiên bản này, ông là cha đẻ hoặc có quan hệ họ hàng với Hesperides. Khi Atlas quay trở lại, ông quyết định không gánh nữa và thay vào đó đề nghị sẽ tự mình giao những quả táo, nhưng Heracles đã lừa ông bằng cách đồng ý ở lại vị trí của Atlas với điều kiện Atlas phải tạm thời giải vây trong khi Heracles điều chỉnh lại áo choàng. Atlas đồng ý, nhưng Heracles đã bỏ đi với những quả táo. Theo một phiên bản khác, thay vào đó, Heracles đã giết Ladon, con rồng canh giữ những quả táo. Eurystheus rất tức giận vì Heracles đã hoàn thành một việc mà Eurystheus nghĩ rằng không thể làm được. Thứ mười hai: Chó Cerberus nhỏ|Theseus nhỏ|Pirithous Kỳ công thứ mười hai và cũng là công việc cuối cùng là bắt giữ con chó ba đầu Cerberus, bảo vệ các cổng của Thế giới ngầm (Underworld). Để chuẩn bị cho việc đi xuống Địa ngục, Heracles đã đến Eleusis (hoặc Athens) mở màn cho Những bí ẩn của Eleusinian. Anh bước vào Địa ngục với Hermes và Athena dẫn đường. Khi ở Địa ngục, Heracles gặp Theseus và Pirithous. Hai người bạn đồng hành bị Hades giam cầm do cố gắng bắt cóc Persephone. Một truyền thuyết kể rằng những con rắn cuộn quanh chân họ, sau đó biến họ thành đá; hoặc là câu chuyện về Hades giả vờ hiếu khách và chuẩn bị một bữa tiệc mời họ ngồi. Họ vô tình ngồi vào chiếc ghế của sự lãng quên và mắc bẫy vĩnh viễn. Khi Heracles kéo Theseus ra khỏi ghế, một phần đùi của anh bị dính vào đó (điều này giải thích cho cặp đùi gầy của người Athen), nhưng Trái đất rung chuyển trước nỗ lực giải thoát Pirithous, vốn có khao khát rất xúc phạm là chiếm hữu riêng nữ thần nên anh đã cam chịu ở lại. trái|nhỏ|Cerberus Heracles tìm thấy Hades và xin phép đưa Cerberus lên mặt đất, Hades đồng ý nếu Heracles có thể khuất phục con quái vật mà không cần sử dụng vũ khí. Heracles chế ngự Cerberus bằng tay không và vác nó lên vai. Anh mang Cerberus ra khỏi Địa ngục qua một lối vào hang động ở Peloponnese và mang nó đến cho Eurystheus, ông sợ hãi và lại chui đầu trốn vào pithos. Eurystheus cầu xin Heracles đưa Cerberus trở lại Địa ngục, đổi lại, ông đề nghị giải thoát anh khỏi bất kỳ công việc nào nữa. Cerberus biến mất và quay trở lại với chủ nhân của nó. Hậu bản Sau khi hoàn thành mười hai kỳ công, một truyền thuyết nói rằng Heracles đã tham gia cùng Jason (thần thoại) và Argonauts trong hành trình tìm kiếm Bộ lông cừu vàng. Tuy nhiên, Herodorus (khoảng năm 400 trước Công nguyên) đã phản đối điều này và phủ nhận việc Heracles từng đi thuyền với Argonauts. Một phiên bản riêng biệt (ví dụ: Argonautica) có Heracles đi cùng với các Argonauts, nhưng anh đã không đi cùng họ đến tận Colchis. Theo vở kịch Herakles của Euripides, đó là thời điểm sau khi hoàn thành các kỳ công, anh trở về nhà để gặp vợ và gia đình, nhưng đột nhiên nổi điên và giết chết họ, sau đó anh bị đày khỏi Thebes và phải đến Athens. Ghi chú
Tinh vân Lạp Hộ hay Tinh vân Orion (Messier 42, M42 hay NGC 1976) là tinh vân phát xạ có vị trí biểu kiến nằm trong chòm sao Lạp Hộ, được nhà thiên văn học người Pháp Nicolas-Claude Fabri de Peiresc phát hiện năm 1610. Đây là một trong những tinh vân sáng nhất có thể nhìn thấy bằng mắt thường nhờ cấp sao biểu kiến 4, nằm ở khoảng cách 1.344 ± 20 năm ánh sáng với bề rộng 24 năm ánh sáng, và là vùng hình thành sao gần Trái Đất nhất. Nó có khối lượng khoảng 2.000 lần Mặt Trời. Tinh vân Lạp Hộ là một trong những vật thể được quan sát và chụp ảnh nhiều nhất trên bầu trời, và cũng là một trong những thiên thể được nghiên cứu nhiều nhất. Nó cho ta biết nhiều về các các ngôi sao và hệ hành tinh được hình thành như thế nào từ sự sụp đổ của các đám mây khí và bụi. Các nhà thiên văn học đã quan sát trực tiếp được các đĩa tiền hành tinh và các sao lùn nâu bên trong tinh vân, các dòng chảy hỗn loạn và mạnh của khí, và ảnh hưởng quang ion-hóa từ các ngôi sao rất nặng gần đó. Các đặc tính vật lý Tinh văn Lạp Hộ có thể thấy được bằng mắt thường ngay ở cả một số khu vực bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm ánh sáng. Nó xuất hiện như một ngôi sao ở chính giữa "thanh kiếm" của chòm sao Lạp Hộ. Đối với những người quan sát tốt có thể nhận ra sự mờ của nó, và đặc tính tinh vân hiện ra rõ ràng khi quan sát bằng ống nhòm hay kính thiên văn nhỏ. Độ sáng bề mặt cực đại của vùng trung tâm M42 là 17 độ/arcsec2 và của vầng sáng xanh phía ngoài là 21.3 độ/arcsec2. Tinh vân Lạp Hộ chứa một cụm sao mở rất trẻ, gọi là cụm sao Trapezium, bao gồm bốn sao chính trong một bán kính khoảng 1,5 triệu năm ánh sáng. Hai trong số đó thực chất là các hệ sao đôi, do đó có cả thảy sáu sao. Cụm Trapezium là một phần của của một tổ chức sao lớn hơn nhiều trong tinh vân, bao gồm khoảng 2.800 sao trong phạm vi có bán kính 20 năm sáng. Tinh vân lại thuộc vào một tổ chức lớn hơn rất nhiều, gọi là Đám mây phân tử Orion, trải dài hàng trăm năm ánh sáng trên chòm sao Lạp Hộ. Hai triệu năm trước tinh vân Lạp Hộ có thể là nơi xuất phát của các sao như AE Aurigae, 53 Arietis và Mu Columbae, hiện tại đang dịch chuyển ra khỏi tinh vân với tốc độ hơn 100 km/s. Màu sắc Những người quan sát từ lâu đã để ý đến màu xanh lục đặc trưng của tinh vân, bên cạnh các vùng đỏ và xanh duơng. Màu đỏ là kết quả của bức xạ tái kết hợp Hα ở bước sóng 656,3 nm. Màu xanh-tím là do phản chiếu lại các ngôi sao rất nặng lớp O ở lõi của tinh vân. Còn màu xanh thực sự là một bí ẩn cho đến tận đầu thế kỷ 20 vì nó không trùng với quang phổ của bất kỳ nguyên tố nào đã biết vào thời điểm đó. Có một số giả thuyết cho rằng nó là do một nguyên tố hoàn toàn mới, gọi là nebulium. Với hiểu biết tốt hơn về vật lý nguyên tử, sau này người ta tìm ra nguyên nhân của màu xanh lục là do chuyển tiếp electron với xác suất thấp trong oxi bị ion hóa hai lần. Bức xạ này không thể tái hiện trong phòng thí nghiệm vào thời điểm đó vì nó cần một môi trường chân không tĩnh và hầu như không có va chạm của không gian. Lịch sử trái|nhỏ|Hình vẽ của Messier trong hồi ký năm 1771 của mình, Mémoires de l'Académie Royale Có phỏng đoán rằng những người Maya ở Trung Mỹ có thể đã mô tả tinh vân trong truyền thuyết "Ba hòn đá sưởi" của họ; Nếu quả là như vậy thì chúng là ba sao Rigel, Saiph, và Alnitak, tạo thành một tam giác gần đều với "thanh kiếm" (bao gồm tinh vân) ở giữa. Cả hai tác phẩm Almagest của Ptolemy và "Sách về các sao cố định" của al Sufi đều không nhắc đến tinh vân, mặc dù chúng liệt kê những mảng mờ khác trên bầu trời, hay ngay cả Galileo cũng chưa từng đề cập đến nó, mặc dù ông đã thực hiện một số quan sát xung quanh tinh vân bằng kính viễn vọng vào các năm 1610 và 1617. Điều này dẫn tới giả thuyết rằng sự bùng phát của các ngôi sao chiếu sáng có thể đã làm tăng độ sáng của tinh vân. Người đầu tiên phát hiện ra nó là một tinh vân khuếch tán thường được cho là nhà thiên văn người Pháp Nicolas-Claude Fabri de Peiresc vào ngày 26 tháng 11 năm 1610. Người đầu tiên xuất bản các quan sát về tinh vân là một nhà thiên văn học và toán học Johann Baptist Cysat ở Lucerne trong chuyên khảo của ông về các sao chổi vào năm 1619 (các quan sát về tinh vân có thể đã được ghi lại từ năm 1611). Ông so sánh nó với một sao chổi sáng được quan sát vào năm 1618 và có những nhận xét như sau:Mô tả của ông về các sao trung tâm tạo thành một hình chữ nhật, khác với các đầu sao chổi, có thể đã là một trong những quan sát đầu tiên về cụm sao Trapezium. (Người phát hiện ra các sao này là Galileo Galilei vào ngày 2 tháng 4 năm 1617, mặc dù ông không phát hiện ra tinh vân, có thể do hạn chế về ống kính thiên văn thời đó). Tinh vân Lạp Hộ sau đó được các nhà thiên văn học nổi tiếng khác phát hiện độc lập, bao gồm Giovanni Battista Hodierna (người đã phác họa lại tinh vân này trong tác phẩm De systemate orbis cometici, deque admirandis coeli characteribus). Vào năm 1659, nhà khoa học người Hà Lan Christiaan Huygens công bố các phác họa chi tiết về vùng trung tâm tinh vân trong Systema Saturnium. Charles Messier quan sát tinh vân vào ngày 4 tháng 3 năm 1769, và ông cũng để ý ba ngôi sao trong cụm Trapezium. Messier công bố ấn bản đầu tiên của mình, danh mục các vật thể trên bầu trời vào năm 1774 (hoàn thiện vào năm 1771). Do tinh vân Lạp Hộ nằm thứ 42 trong danh sách, nó có ký hiệu M42. nhỏ|200x200px|Một trong số các bức ảnh của Andrew Ainslie Common vào năm 1883, lần đầu cho thấy sự phơi sáng lâu có thể làm hiện ra các sao và tinh vân không nhận thấy khi quan sát thông thường. Vào năm 1865 nhà thiên văn học nghiệp dư người Anh William Huggins sử dụng phương pháp phân tích quang phổ của ông với tinh vân và nhận thấy rằng, giống như mọi tinh vân khác mà ông đã phân tích, nó được làm từ "khí phát sáng". Vào ngày 30 tháng 9 năm 1880, Henry Draper sử dụng một loại phim mới vào thời bấy giờ với một kính viễn vọng khúc xạ đường kính 28 cm để ghi lại hình ảnh phơi sáng của tinh vân trong 51 phút, bức ảnh đầu tiên về tinh vân. Một loạt ảnh khác, được thực hiện vào năm 1883 bởi Andrew Ainslie Common khi ông sử dụng một kính viễn vọng phản xạ tự chế với đường kính 91 cm tại Ealing, tây London. Các bức ảnh này lần đầu tiên cho thấy các sao và chi tiết mờ tới mức không thể quan sát thông trực tiếp. Năm 1902, Vogel và Eberhard phát hiện ra các chuyển động với vận tốc khác nhau bên trong tinh vân và năm 1914 các nhà khoa học ở Marseilles sử dụng giao thoa kế đo được các chuyển động dị thường. Campbell và Moore xác nhận các kết quả này thông qua quang phổ kế, cho thấy các dòng chảy rối bên trong tinh vân. Vào năm 1931, Robert J. Trumpler để ý thấy các sao mờ hơn gần Trapezium tạo thành một cụm, và ông gọi nó bằng cái tên ngày nay, Dựa trên độ sáng và phân loại quang phổ, ông tính ra được khoảng cách đến cụm sao này là 1.800 năm ánh sáng. Con số này gấp ba lần khoảng cách thường được chấp nhận vào thời điểm đó, nhưng lại gần với các giá trị hiện tại hơn. Vào năm 1993, kính viễn vọng không gian Hubble lần đầu tiên quan sát tinh vân. Kể từ đó, tinh vân Lạp Hộ thường xuyên là mục tiêu nghiên cứu của Hubble. Các hình ảnh đã được sử dụng để tạo ra một mô hình chi tiết về tinh vân trong không gian ba chiều. Các đĩa tinh vân tiền hành tinh đã được phát hiện xung quanh hầu hết các sao trẻ trong tinh vân, và sự phá hủy các đĩa này do bức xạ cực tím rất mạnh từ ngôi sao đã được nghiên cứu. Vào năm 2005, thiết bị Advanced Camera for Surveys của Hubble đã ghi lại được bức ảnh chi tiết nhất trong lịch sử về tinh vân. Bức ảnh được tạo nên từ 104 lần di chuyển trong quỹ đạo của Hubble, ghi lại hơn 3.000 sao có cấp sáng từ 23 trở lên, trong đó có các sao lùn nâu non trẻ và các sao đôi có thể trở thành sao lùn nâu. Một năm sau đóm các nhà khoa học làm việc với Hubble công bố cặp sao lùn nâu che lấp đầu tiên, 2MASS J05352184–0546085. Cặp sao đôi này có khối lượng xấp xỉ lần lượt là và , với chu kỳ quỹ đạo 9,8 ngày. Điều đáng ngạc nhiên là ngôi sao nặng hơn trong hai lại sáng hơn sao còn lại. Cấu trúc nhỏ|350x350px|Một bản đồ sao trong tinh vân Orion. nhỏ|Các hình ảnh quang học cho thấy các đám mây khí và bụi trong tinh vân Orion; hình ảnh hồng ngoại (bên phải) cho thấy các sao trẻ phát sáng ở bên trong. Toàn bộ tinh vân Lạp Hộ trải dài khoảng 1 độ trên bầu trời, và chứa các đám mây bụi và khí trung hòa, các tổ chức sao, các vùng khí bị ion hóa và tinh vân phản xạ. Tinh vân Lạp Hộ là một phần của của một tinh vân lớn hơn rất nhiều là đám mây phân tử Orion. Đám mây phân tử này kéo dài khắp chòm sao và bao gồm vòng Barnard, tinh vân Đầu Ngựa, Messier 43, Messier 78 và tinh vân Ngọn Lửa. Các sao hình thành trong khắp đám mây này, nhưng hầu hết các sao trẻ tập trong thành các cụm dày đặc như trong tinh vân Lạp Hộ. trái|nhỏ|Đám mây phân tử Orion A từ VISTA cho thấy các sao nặng trẻ và các đối tượng khác. Mô hình thiên văn học hiện tại về tinh vân bao gồm một vùng H II, có tâm rơi vào ngôi sao Theta1 Orionis C, nằm bên cạnh một đám mây phân tử kéo dài, trong một vùng trống tạo bởi các sao trẻ có khối lượng lớn. (Theta1 Orionis C phát ra ánh sáng gây ion hóa gấp 3-4 lần ngôi sao sáng nhất sau nó, Theta2 Orionis A). Vùng H II có nhiệt độ lên tới 10.000 K, nhưng nhiệt độ này giảm đi rất nhiều ở phần rìa của tinh vân. Sự phát sáng của tinh vân chủ yếu đến từ khí bị ion hóa ở phía sau vùng trống. Vùng H II này được bao quanh bởi một "vịnh" lõm, không đều của một đám mây đặc hơn, trung tính hơn, với các đám khí trung hòa nằm bên ngoài vùng vịnh. Khí bên trong đám mây phân tử có chuyển động và chảy rối với vận tốc rất khác nhau, nhất là ở khu vực trung tâm. Các chuyển động tương đối có thể lên tới trên 10 km/s. Sự hình thành sao trái|nhỏ|Một số đĩa tiền hành tinh trong tinh vân chụp bởi Kính viễn vọng Hubble trái|nhỏ|Hình thành sao trong Orion Tinh vân Lạp Hộ là một ví dụ về "nhà trẻ sao", nơi mà các sao mới đang được tạo ra. Các quan sát về tinh vân đã cho thấy có xấp xỉ 700 sao trong các giai đoạn khác nhau của sự hình thành bên trong tinh vân. Vào năm 1979, các quan sát với camera điện tử Lallemand tại đài thiên văn Pic-du-Midi cho thấy sáu nguồn ion hóa mạnh chưa được xác định gần cụm sao Trapezium. Các nguồn này được diễn giải là các hạt khí bị ion hóa một phần (partly ionized globules - PIGs). Ý tưởng là các đối tượng này đang bị ion hóa từ bên ngoài bởi M42. Các quan sát sau này với Very Large Array cho thấy các vùng cô đặc với kích thước của Hệ Mặt trời liên quan đến các đối tượng này. Lần này ý tưởng là các vật thể nói trên có thể là các sao có khối lượng nhỏ bao quanh bởi một đĩa bồi tụ tiền sao đang bị bốc hơi. Các quan sát vào năm 1993 bởi Hubble đã phần lớn xác nhận sự tồn tại của các đĩa tiền hành tinh bên trong tinh vân. Hubble còn phát hiện ra hơn 150 vật thể tương tự trong tinh vân và chúng được coi là các hệ sao trong giai đoạn sớm nhất của sự hình thành hệ mặt trời. Số lượng lớn các vật thể này được dùng làm bằng chứng cho sự phổ biến của các hệ hành tinh trong vũ trụ. Các sao hình thành khi các đám khí hydro và các khí khác trong một vùng H II bị sụp đổ dưới trọng lực của chính nó. Khi khí co sụp lại, vùng trung tâm nhanh chóng dày lên và khí đốt nóng đến nhiệt độ cực cao do sự chuyển đổi từ thế năng hấp dẫn thành nhiệt năng. Nếu nhiệt độ đủ lớn, phản ứng tổng hợp hạt nhân sẽ xảy ra và hình thành một tiền sao. Tiền sao trở thành sao khi nó phát ra đủ năng lượng bức xạ để cân bằng với trọng lực của nó và chặn lại quá trình sụp đổ hấp dẫn. Thông thường, một đám mây vật chất nằm ở một khoảng cách tuơng đối lớn tới ngôi sao trước khi phản ứng tổng hợp xảy ra. Đám mây tàn dư này chính là đĩa tiền hành tinh, nơi mà các hành tinh có thể hình thành. Các quan sát hồng ngoại cho thấy các hạt bụi trong các đĩa này đang lớn lên, chúng đang trong quá trình chuẩn bị hình thành vi thể hành tinh. Một khi tiền sao bước vào giai đoạn dãy chính, nó được coi là một ngôi sao. Ngay cả khi các các đĩa tiền hành tinh có thể tạo ra các hành tinh, các quan sát cho thấy bức xạ cực mạnh từ các sao trong Trapezium đã phải phá hủy bất kỳ đĩa nào gần nó, nếu như cụm có tuổi bằng các sao khối lượng thấp trong cụm. Vì các đĩa tiền hành tinh được tìm thấy ở rất gần Trapezium, có thể lập luận rằng các sao này còn rất trẻ so với phần còn lại của cụm. Gió sao và ảnh hưởng của chúng Sau khi hình thành, các ngôi sao trong tinh vân sẽ bức xạ một luồng hạt bị tích điện gọi là gió sao. Các sao nặng lớp OB và các sao trẻ loại T Tauri có gió sao mạnh hơn rất nhiều so với gió Mặt trời. Gió sao hình thành nên các sóng xung chấn hay sự mất ổn định thủy động lực học khi nó tiếp cận khí bên trong tinh vân, tạo nên hình thù của đám mây khí. Sóng xung chấn từ gió sao còn đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành sao bằng cách nén các đám mây khí lại, tạo nên sự mất đồng tính dẫn tới sụp đổ hấp dẫn. nhỏ|Các gợn sóng tạo nên từ bất ổn định Kelvin–Helmholtz do tác động từ gió sao Có ba loại xung chấn khác nhau trong tinh vân. Nhiều trong số đó được tìm thấy ở các đối tượng Herbig–Haro: Xung chấn hình vòng cung là các xung chấn tĩnh và hình thành khi hai luồng hạt va chạm vào nhau. Chúng xuất hiện gần các sao nóng nhất bên trong tinh vân nơi mà tốc độ gió sao được ước tính lên đến hàng nghìn km/s và khoảng vài chục km/s bên ngoài tinh vân. Xung chấn hình vòng cung còn được tạo ra ở phần đầu của các tia bắn ra từ các sao khi tia này va chạm với vật chất liên sao. Xung chấn do các tia vật chất bắn ra từ các sao mới hình thành loại T Tauri. Các luồng vật chất hẹp này di chuyển với vận tốc hằng trăm km/s, và trở thành xung chấn khi nó gặp phải khí hầu như đứng yên. Các xung chấn bị bẻ cong, có hình vòng cung đối với người quan sát. Chúng được tạo ra khi xung chấn do các tia vật chất gặp phải khí di chuyển cắt ngang. Sự tiếp xúc giữa gió sao với đám mây xung quanh cũng tạo nên các "đợt sóng", được cho là các bất ổn định Kelvin–Helmholtz. Các chuyển động khí bên trong M42 là phức tạp, nhưng đều hướng về phía ngoài thông qua chỗ mở của vịnh và về phía Trái đất. Khu vực rộng lớn trung hòa phía sau vùng bị ion hóa đang bị ép lại bởi lực hấp dẫn của chính nó. Còn có các "viên đạn" khí siêu thanh đang đâm xuyên qua các đám mây hydro của tinh vân. Mỗi trong số chúng có đường kính gấp mười lần quỹ đạo của Diêm Vương Tinh và có phần đầu chứa các nguyên tử sắt phát sáng trong hồng ngoại. Chúng có thể được hình thành cách đây hàng nghìn năm từ một sự kiện dữ dội chưa được xác định. Tiến hóa Các đám mây liên sao như tinh vân Lạp Hộ được tìm thấy xuyên suốt các thiên hà như dải Ngân Hà. Chúng bắt đầu từ các đám hydro lạnh, trung tính cùng với một số nguyên tố khác dưới sự ảnh hưởng của trọng lực. Đám mây có thể chứa hàng trăm nghìn khối lượng Mặt trời và trải dài hàng trăm năm ánh sáng. Chỉ cần một lực hấp dẫn rất nhỏ cũng đủ để khiến đám mây co sụp lại, điều đó được ngăn cản bởi áp suất rất yếu của khí bên trong đám mây. Bất kể do va chạm với các dải xoắn ốc của thiên hà, hay do sóng xung chấn từ các vụ nổ siêu tân tinh, các nguyên tử kết hợp thành các phân tử và kết quả là một đám mây phân tử. Điều này báo trước sự hình thành sao bên trong đám mây, thường được cho là diễn ra trong vòng 10-30 triệu năm, khi các vùng vượt qua khối lượng Jeans và các khối bị mất cân bằng co sụp thành các đĩa. Đĩa này tập trung lại ở tâm, hình thành nên một ngôi sao, và có thể bao quanh bởi một đĩa tiền hành tinh. Đây là giai đoạn hiện tại của tinh vân Lạp Hộ, và còn nhiều sao vẫn đang được hình thành từ đám mây đang co lại. Các sao trẻ nhất và sáng nhất chúng quan sát được trong tinh vân có tuổi khoảng 300.000 năm, và sao sáng nhất chỉ mới 10.000 năm tuổi. Một số các sao đang co sụp này có khối lượng rất lớn, do đó phát ra một lượng lớn các tia cực tím có tính ion hóa mạnh. Có thể thấy một trong số chúng nằm trong cụm Trapezium. Qua thời gian, bức xạ cực tím của các rất nặng ở trung tâm của tinh vân sẽ đẩy khí và bụi xung quanh nó vào không gian. Quá trình này là nguyên nhân của vùng trống bên trong tinh vân, để lộ ra các ngôi sao ở giữa. Các sao lớn nhất có tuổi đời ngắn và sẽ tiến hóa thành các siêu tân tinh. Trong khoảng 100.000 năm, hầu hết bụi và khí sẽ bị tản ra. Phần còn lại sẽ trở thành một cụm sao mở trẻ, một cụm sao sáng bao quanh bởi các sợi mỏng còn sót lại từ đám mây ban đầu. Hình ảnh của Kính viễn vọng không gian Hubble Ghi chú Vùng H II Chòm sao Lạp Hộ Thiên thể Messier Thiên thể NGC Nhánh Lạp Hộ Thiên thể phát hiện năm 1610
Bạch Long Vĩ là một đảo, đồng thời là một huyện thuộc thành phố Hải Phòng, Việt Nam. Đây là đảo xa bờ nhất trong vịnh Bắc Bộ, nằm ở khoảng giữa vịnh, cách Hòn Dấu (Hải Phòng) 110 km, cách đảo Hạ Mai (Vân Đồn, Quảng Ninh) 70 km và cách mũi Đại Giác trên đảo Hải Nam (Trung Quốc) 130 km. Đảo nằm trên một trong tám ngư­ trường lớn của vịnh, có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, an ninh - quốc phòng biển của Việt Nam ở vịnh Bắc Bộ cũng như trong phân định vịnh Bắc Bộ. Trong Bản đồ Stielers Handatlas 1891 ghi tên đảo là Nachtigal (tiếng Đức: Chim họa mi), và trên các bản đồ của Anh và một số của Pháp thì ghi tên đảo là Nightingale (Chim họa mi). Địa lý Đảo Bạch Long Vĩ có dạng hình tam giác, dài 3 km (hướng đông bắc - tây nam), rộng 1,5 km (tây bắc - đông nam) với chu vi khoảng 6,5 km. Đảo có diện tích khoảng 1,78 km² ở mức triều cao nhất và khoảng 3,05 km² ở mức triều thấp nhất. Địa hình trên đảo là một dải đồi cao nhưng khá thoải với 62,5% diện tích đất có góc dốc dưới 5°. Quanh đảo là vùng bãi triều và bãi biển với diện tích khoảng 1,3 km², chủ yếu hình thành từ thềm đá gốc bị mài mòn bởi sóng. Có nhiều mỏm đá ngầm và rãnh ngầm sát bờ đảo. Khí hậu của đảo có hai mùa chính: mùa mưa diễn ra từ tháng 5 đến tháng 8 còn mùa khô kéo dài từ tháng 10 đến tháng 3. Nhiệt độ không khí trung bình khoảng 23,3 °C; lượng mưa trung bình năm là 1.031 mm. Trung bình thì khoảng một đến hai cơn bão tràn qua đảo mỗi năm. Địa chất Trên bình đồ kiến trúc kiến tạo, khu vực Bạch Long Vĩ nằm trên một khối nâng hướng Đông Bắc - Tây Nam, tại cánh Tây Bắc của bể trầm tích Kainozoi Sông Hồng, ở vị trí tiếp giáp về phía Đông với bể nội lục Bắc Vịnh Bắc Bộ. Đảo được cấu tạo từ  trầm tích Hệ tầng Phù Thủy Châu tuổi Oligocen dày khoảng 200m và Hệ tầng Hoạ Mi, tuổi Miocen giữa - Pliocen dày 55 - 60m, phủ bất chỉnh hợp lên hệ tầng Phủ Thủy Châu. Các trầm tích lục nguyên hai hệ tầng này phân lớp, xen nhịp cát kết, bột kết và sét kết, nghiêng oằn về phía Bắc – Tây Bắc. Trầm tích bãi biển chủ yếu cuội, sạn, cát cacbonat, phân bố tập trung ở phía Nam, có thành phần cơ học rất thay đổi theo mặt cắt ngang bãi, dọc cung bờ và biến đổi theo mùa gió, phản ảnh sự thay đổi tương quan bồi - xói do động lực sóng theo mùa. Trầm tích hiện đại vùng biển ven bờ gồm có nhóm vụn thô và nhóm nguồn gốc sinh vật (san hô, thân mềm v.v.). Trầm tích vụn thô cacbonat thành phần cuội, sỏi, sạn, cát  phân bố từ đới triều cho đến độ sâu 10 - 15m, phủ thành lớp mỏng không liên tục trên bề mặt nền đá gốc và tập trung ở phía TN và TB đảo. Từ độ sâu 25 - 30m trở ra, cát lục nguyên chiếm ưu thế . Từ nguyên Tên đảo Bạch Long Vĩ (白龍尾) có nghĩa là "đuôi rồng trắng". Một số truyền thuyết cho rằng khi người Việt mới lập nước đã bị giặc ngoại bang, Ngọc Hoàng sai Rồng Mẹ mang theo một đàn Rồng Con xuống hạ giới giúp người Việt đánh giặc. Thuyền giặc từ ngoài biển ào ạt tiến vào bờ vừa lúc đàn Rồng tới hạ giới. Đàn Rồng lập tức phun ra lửa thiêu cháy thuyền giặc, một phần nhả Châu Ngọc dựng thành một bức tường đá sừng sững làm cho thuyền giặc đâm phải mà vỡ tan, chặn đứng bước tiến của ngoại bang. Sau khi giặc tan, thấy cảnh mặt đất thanh bình, cây cối tươi tốt, con người nơi đây lại cần cù, chịu khó, đoàn kết giúp đỡ nhau, Rồng Mẹ và Rồng Con không trở về trời mà ở lại hạ giới, nơi vừa diễn ra trận chiến để muôn đời bảo vệ con dân Đại Việt. Vị trí Rồng Mẹ đáp xuống là Hạ Long; nơi Rồng Con đáp xuống là Bái Tử Long và nơi đuôi đàn rồng quẫy nước trắng xoá là Bạch Long Vĩ. Tuy nhiên, truyền thuyết này dường như ứng với bán đảo Bạch Long Vĩ (có địa thế tựa như đuôi rồng) ở phía Nam tỉnh Quảng Tây Trung Quốc vốn có lịch sử lâu đời hơn nhiều. Sau khi bán đảo này bị cắt cho Trung Quốc theo Hiệp ước Pháp Thanh 1887 thì tên Bạch Long Vĩ được đặt lại cho đảo Bạch Long Vĩ bây giờ. Lịch sử Cho đến tận đầu thế kỉ 20 thì vẫn chưa có dân cư sống trên đảo mà chỉ có ngư dân ghé vào trú bão. Vì không tìm được nguồn nước nên con người không định cư và đảo còn có tên Vô Thủy ("không có nước"). Ngoài ra đảo còn có tên là Hải Bào (do biển có nhiều bào ngư) hoặc Phù Thủy Châu ("viên ngọc nổi trên mặt nước"). Năm 1887, thực dân Pháp và nhà Thanh ký Công ước Pháp-Thanh 1887 phân chia lại đường biên giới giữa Bắc Kỳ và Trung Hoa. Đảo Bạch Long Vĩ nằm về phía tây kinh tuyến 105°43'Đ (kinh tuyến Paris làm gốc) nên thuộc về xứ Bắc Kỳ. Cũng theo hiệp ước này thì toàn bộ bán đảo Bạch Long Vĩ vốn lâu đời hơn rất nhiều đã bị cắt cho Trung Quốc nên tên Bạch Long Vĩ được đặt lại cho đảo này. Năm 1920, dân từ Quảng Yên (Bắc Kỳ) và Hải Nam (Trung Quốc) bắt đầu kéo tới đây sau khi người ta phát hiện nguồn nước ngọt ở phía nam đảo. Năm 1937, vua Bảo Đại phái 12 người đến đảo để lập đồn canh phòng và xây dựng chế độ lý trưởng. Thời Pháp thuộc, lộ trình tuần tra định kì của Pháp khởi đầu tại vịnh Hạ Long đến Cô Tô, Bạch Long Vĩ, vòng quanh quần đảo Hoàng Sa, quay lại dọc bờ biển Trung Kỳ rồi kết thúc ở Cát Bà. Đến thời Thế chiến 2, Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương và tước khí giới của quân lính Bảo Đại đóng trên đảo. Năm 1946, Pháp quay trở lại Đông Dương và khôi phục lại chế độ cai trị trên đảo. Năm 1949, Quốc dân đảng Trung Quốc thua trận chạy ra đảo Đài Loan và chiếm đảo Bạch Long Vĩ. Tháng 7 năm 1955, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc tấn công quân Quốc dân đảng và kiểm soát đảo này. Ngày 16 tháng 1 năm 1957, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tiếp thu đảo từ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Cũng trong ngày này, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ký Nghị định số 49/TTg quy định đảo Bạch Long Vĩ là xã trực thuộc Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng. Cuối năm 1965, Không quân Hoa Kỳ tăng cường ném bom miền Bắc Việt Nam khiến toàn bộ dân cư của đảo phải sơ tán về đất liền. Suốt từ đó đến tận năm 1992 thì đảo này chỉ có quân đồn trú là Tiểu đoàn 152 (sau này là Trung đoàn 952 Vùng I hải quân). Ngày 9 tháng 12 năm 1992, Chính phủ Việt Nam ra Nghị định số 15/NĐ/CP thành lập huyện Bạch Long Vĩ thuộc thành phố Hải Phòng. Ngày 26 tháng 2 năm 1993, Hải Phòng tổ chức đưa 62 thanh niên xung phong và một số hộ ngư dân đầu tiên ra đảo. Ngày 27 tháng 7 năm 1994, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ký quyết định số 379/TTg phê duyệt Luận chứng kinh tế kỹ thuật tổng thể xây dựng huyện đảo Bạch Long Vĩ thành một đơn vị hành chính cấp huyện phát triển kinh tế - quốc phòng - xã hội toàn diện, một trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá của ngư trường vịnh Bắc Bộ. Nghị quyết số 32/NQ-TW của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá IX) giao Bộ Thủy sản và Tổng cục Du lịch (Việt Nam) nghiên cứu xây dựng đảo Bạch Long Vĩ sớm trở thành trung tâm chế biến và dịch vụ hậu cần nghề cá cho các tỉnh ven biển Bắc Bộ. Kinh tế Năm 2005, giá trị sản xuất theo giá thực tế của huyện Bạch Long Vĩ là 48,67 tỷ đồng Việt Nam, trong đó cao nhất là thương mại (21,1 tỷ đồng, riêng hàng tiêu dùng hộ cá thể chiếm 13 tỉ) và công nghiệp chế biến (8 tỷ đồng). Hệ thống âu thuyền, cầu cảng, trạm,...có thể đáp ứng gần hai mươi nghìn lượt tàu đánh bắt thủy hải sản trên vịnh Bắc Bộ vào neo đậu tránh bão, mua bán hải sản, tiếp dầu, lương thực, nước ngọt. Trên đảo có trường mầm non, trường tiểu học, bệnh viện, chùa,...Hiện người ta còn triển khai xây dựng hồ chứa nước ngọt, hệ thống thủy lợi, xây dựng trại sản xuất giống bào ngư,... Khu bảo tồn biển Khu bảo tồn biển Bạch Long Vĩ được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ký Quyết định số 2630/QĐ-TTg thành lập vào ngày 31 tháng 12 năm 2013 để bảo vệ các đối tượng gồm: hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái rong biển - cỏ biển, bãi giống, bãi đẻ và các loài thủy sinh vật sinh sống tại khu vực khu bảo tồn. Cá voi và cá heo có thể sống quanh đảo. Khu bảo tồn có phạm vi là vùng đất liền trên đảo và ven bờ biển có ranh giới bên ngoài xác định theo đường nối các điểm lồi của đường đẳng sâu 30 m, có vĩ độ trải từ 20º07'35" đến 20º08'36" vĩ Bắc và kinh độ trải từ 107º42'20" đến 107º44'15" kinh Đông. Tổng diện tích khu bảo tồn biển Bạch Long Vĩ là 27.008,93 ha, trong đó 2.570,15 ha thuộc phạm vi bảo vệ nghiêm ngặt. Đa dạng sinh học Vùng biển đảo Bạch Long Vĩ  đã ghi nhận được tổng số 1.502 loài sinh vật, trong đó có 1.090 loài sinh vật biển, 367 loài thực vật trên cạn và 45 loài chim, lưỡng cư và bò sát. Rạn san hô quanh đảo Bạch Long Vĩ có 94 loài, thuộc loại tốt nhất ở miền Bắc, độ phủ trước đây nhiều chỗ đạt tới 90% vào năm 1993, đến năm 1998 - 1999 chỉ còn 30 - 50% và hiện nay ở mức thấp hơn. Khu hệ cá biển có tới 451 loài đã được được phát hiện. Nhiều loài động, thực vật có giá trị kinh tế cao. Có 28 loài thuộc loại loài quý hiếm được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam đang có nguy cơ bị tuyệt chủng hoặc có giá trị về khoa học và sinh thái. Điển hình là: Phong ba (Argusia argentea), Cốc đỏ (Lumnitzera littorea), Rắn ráo thường (Ptyas korros), San hô lỗ đỉnh Đài Loan (Acropora formosa), Bào ngư (Haliotis diversicolor), Ốc đụn đực (Tectus pyramis), Trai vệ nữ (Pteria penguin), cá Heo bướu lưng Ấn Độ dương (Sousa chinensis chinensis), đồi mồi (Eretmrochelys  imbricata), rùa da (Dremochelys  coriacea)... Hành chính Huyện Bạch Long Vĩ không phân chia thành các đơn vị hành chính cấp xã, thay vào đó chính quyền cấp huyện trực tiếp quản lý về mọi mặt. Sản vật Bào ngư Bạch Long Vĩ Ghi chú
Trại giam Vịnh Guantánamo nằm trong Căn cứ Hải quân tại vịnh Guantánamo ở phía đông của Cuba, là một trại giam của Hoa Kỳ nhằm chứa các tù binh và những người tình nghi khủng bố. Trại này có ba phần: Trại Delta (bao gồm Trại Echo), Trại Iguana, và Trại X-Ray (đã bị đóng). Những phần này được đặt tên theo bảng chữ cái ngữ âm NATO (tiếng Anh: NATO phonetic alphabet). Trại thường được gọi là Guantanamo hay Gitmo (từ cách viết tắt "GTMO"). Chính phủ Hoa Kỳ gọi những người bị bắt giữ là chiến sĩ địch (enemy combatant). Trại này là một trong số các địa điểm của Hoa Kỳ, nơi các tù nhân cáo buộc họ bị tra tấn bởi các quân nhân và sĩ quan Mỹ liên quan đến thẩm vấn. Từ lúc Chiến tranh Afghanistan bắt đầu, 775 người bị giữ tại Guantánamo, nhiều người trong số này chưa từng qua xét xử. Đến năm 2007, khoảng 420 người đã được thả. Vào ngày 9 tháng 8 năm 2007, khoảng 355 người vẫn còn bị giữ. Hơn 20% của những người bị giữ đã được quyền ra khỏi trại giam này nhưng vẫn phải chờ đợi một thời gian tới vài năm vì chính phủ Hoa Kỳ càng gặp khó khăn về tìm kiếm những nước nhận họ, theo các viên chức và luật sư của chính quyền Bush (con). Trong khoảng 355 người còn lại, chính phủ có mục đích mai mốt mang từ 60 đến 80 người ra tòa và phóng thích những người kia. Chú thích Chiến tranh khủng bố Lịch sử Cuba Vi phạm nhân quyền Trại giam Hoa Kỳ Vịnh Guantánamo Nhân quyền tại Hoa Kỳ Trại giam