text
stringlengths
0
512k
194 (một trăm chín mươi bốn) là một số tự nhiên ngay sau 193 và ngay trước 195.
195 (một trăm chín mươi lăm) là một số tự nhiên ngay sau 194 và ngay trước 196.
196 (một trăm chín mươi sáu) là một số tự nhiên ngay sau 195 và ngay trước 197.
197 (một trăm chín mươi bảy) là một số tự nhiên ngay sau 196 và ngay trước 198. Nó đơn giản được cấu tạo bởi số 1, 9 và 7
198 (một trăm chín mươi tám) là một số tự nhiên ngay sau 197 và ngay trước 199.
199 (một trăm chín mươi chín) là một số tự nhiên ngay sau 198 và ngay trước 200.
Wolfram (IPA: ), còn gọi là Tungsten hoặc Vonfram, là một nguyên tố hóa học có ký hiệu là W (tiếng Đức: Wolfram) và số nguyên tử 74. Là một kim loại chuyển tiếp có màu từ xám thép đến trắng, rất cứng và nặng, wolfram được tìm thấy ở nhiều quặng bao gồm wolframit và scheelit và đáng chú ý vì những đặc điểm lý tính mạnh mẽ, đặc biệt nó là kim loại không phải là hợp kim có điểm nóng chảy cao nhất và là nguyên tố có điểm nóng chảy cao thứ 2 sau cacbon. Dạng wolfram tinh khiết được sử dụng chủ yếu trong ngành điện nhưng nhiều hợp chất và hợp kim của nó được ứng dụng nhiều (đáng kể nhất là làm dây tóc bóng đèn điện dây đốt), trong các ống X quang (dây tóc và tấm bia bắn phá của điện tử) và trong các siêu hợp kim. Wolfram là kim loại duy nhất trong loạt chuyển tiếp thứ 3 có mặt trong các phân tử sinh học. Lịch sử Năm 1781, Carl Wilhelm Scheele phát hiện một acid mới là acid wolframic, có thể được chiết từ scheelite (lúc đó có tên là tungstenit). Scheele và Torbern Bergman cho rằng nó có thể tạo ra một kim loại mới bằng cách oxy hóa acid này. Năm 1783, José và Fausto Elhuyar tìm thấy một acid được chế từ wolframit, được xác định là acid wolframic. Sau năm đó, ở Tây Ban Nha, họ đã thành công khi cô lập wolfram bằng cách oxy hóa acid này với than củi, và họ được ghi công đã phát hiện ra nguyên tố này. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, wolfram đóng vai trò quan trọng trong các giao dịch chính trị (background). Bồ Đào Nha, khi đó là nguồn cung cấp chủ yếu nguyên tố này ở châu Âu, phải chịu áp lực từ cả hai phía do họ sở hữu các mỏ quặng wolframit. Wolfram chịu được các điều kiện nhiệt độ cao và độ bền của nó trong các hợp kim làm cho nó trở thành một nguyên liệu thô quan trọng trong công nghiệp vũ khí. Từ nguyên Trong thế kỷ XVI, nhà khoáng vật học Georgius Agricola đã miêu tả Freiberger, khoáng vật có mặt trong quặng thiếc ở Saxon, gây khó khăn trong việc tuyển nổi thiếc khỏi quặng thiếc. Một phần của tên gọi "Wolf" có nguồn gốc từ đây. Ông gọi khoáng vật này là lupi spuma năm 1546, nghĩa Latin là "nước bọt sói". RAM trong tiếng Đức cổ (tương ứng khoảng năm 1050 đến 1350) nghĩa là "muội than, dơ", khi ở dạng khoáng vật màu đen xám có thể dễ nghiền và thường được gọi là cacbon đen. Tên gọi "wolfram" được dùng đa số ở châu Âu (đặc biệt là tiếng Đức và Slav), có nguồn gốc từ khoáng vật wolframit, và tên gọi này cũng được dùng làm ký hiệu nguyên tố hóa học này W. Tên gọi "wolframit" xuất phát từ tiếng Đức "wolf rahm" ("mồ hóng của chó sói" hay "kem của chó sói"), tên gọi này được Johan Gottschalk Wallerius đổi thành tungsten năm 1747. Tên gọi này, tới lượt mình, có nguồn gốc từ "Lupi spuma", một tên gọi được Georg Agricola sử dụng từ năm 1546 để chỉ nguyên tố này, có nghĩa là "váng bọt của chó sói" hay "kem của chó sói" (từ nguyên không chắc chắn hoàn toàn), và nó ám chỉ tới một lượng lớn thiếc được sử dụng để tách kim loại này ra khỏi khoáng vật chứa nó. Từ "tungsten" được sử dụng trong tiếng Anh, Pháp và một số ngôn ngữ khác để chỉ tên của nguyên tố. Tungsten là tên Thụy Điển cũ được dùng để chỉ khoáng vật scheelit. IUPAC đặt tên nguyên tố 74 là tungsten với ký hiệu W. Tên thay thế wolfram bị loại bỏ trong phiên bản mới nhất của sách Đỏ (Nomenclature of Inorganic Chemistry. IUPAC Recommendations 2005) mặc dù việc loại bỏ này đã được thảo luận chủ yếu bởi các thành viên IUPAC Tây Ban Nha. Tên Wolfram đã được IUPAC chính thức thay thế bằng tungsten tại hội nghị lần thứ 15 của tổ chức này tại Amsterdam năm 1949. Tính chất Tính chất vật lý Ở dạng thô, wolfram là kim loại có màu xám thép, thường giòn và cứng khi gia công, nhưng nếu tinh khiết nó rất dễ gia công. Nó được gia công bằng các phương pháp rèn, kéo, ép tạo hình. Trong tất cả kim loại nguyên chất, wolfram có điểm nóng chảy cao nhất (3.422 °C, 6.192 °F), áp suất hơi thấp nhất, (ở nhiệt độ trên 1.650 °C, 3.000 °F) độ bền kéo lớn nhất. và hệ số giãn nở nhiệt thấp nhất. Độ giãn nở nhiệt thấp, điểm nóng chảy và độ bền cao của wolfram là do các liên kết cộng hóa trị mạnh hình thành giữa các nguyên tử wolfram bởi các electron lớp 5d. Hợp kim pha một lượng nhỏ wolfram của thép làm tăng mạnh tính dẻo của nó. Wolfram tồn tại ở hai dạng tinh thể chính: α và β. Dạng α có cấu trúc tinh thể lập phương tâm khối và là một dạng bền. cấu trúc của tinh thể dạng β được gọi là lập phương A15; là một dạng kích thích, nhưng có thể đồng tồn tại với pha α ở các điều kiện phòng do sự tổng hợp không cân bằng hoặc sự ổn định hóa bởi các tạp chất. Trái ngược với dạng α có các tinh thể là các hạt có kích thước bằng nhau theo mọi hướng còn dạng β có tập hợp dạng trụ. Dạng α có điện trở thấp hơn dạng β 3 lần và thấp hơn nhiều nếu nó ở nhiệt độ chuyển tiếp siêu dẫn TC so với dạng β: khoảng 0,015 K vs. 1-4 K; hỗn hợp của 2 dạng này cho phép tạo ra các giá trị TC trung gian. Giá trị TC cũng có thể được gia tăng bằng cách tạo hợp kim wolfram với các kim loại khác (như 7,9 K đối với W-Tc). Các hợp kim wolfram này đôi khi được sử dụng trong các mạch siêu dẫn nhiệt độ thấp. Đồng vị Wolfram tự nhiên gồm 5 đồng vị với chu kỳ bán rã đủ lâu nên chúng được xem là các đồng vị bền. Về mặt lý thuyết, tất cả năm đồng vị có thể phân rã thành các đồng vị của nguyên tố 72 (hafni) bằng phân rã anpha, nhưng chỉ có 180W là được quan sát là có chu kỳ bán rã (1,8 ± 0,2)×1018 yr; trung bình, nó có hai phân rã anpha của 180W trong một gram wolfram tự nhiên/năm. Các đồng vị tự nhiên khác chưa được quan sát phân rã, nhưng chu kỳ bán rã của các đồng vị được hạn chế ở mức như sau 182W, T1/2 > 8.3×1018 năm 183W, T1/2 > 29×1018 năm 184W, T1/2 > 13×1018 năm 186W, T1/2 > 27×1018 năm 30 đồng vị phóng xạ nhân tạo khác của wolfram đã được miêu tả, đồng vị bền nhất là 181W có chu kỳ bán rã 121,2 ngày, 185W là 75,1 ngày, 188W là 69,4 ngày, 178W là 21,6 ngày, và 187W là 23,72 giờ. Tất cả các đồng vị phóng xạ còn lại có chu kỳ bán rã nhỏ hơn 3 giờ, và đá số trong đó có chu kỳ bán rã nhỏ hơn 8 phút. Wolfram có 4 meta state, ổn định nhất là 179mW (T½ 6,4 phút). Tính chất hóa học Wolfram nguyên tố có khả năng chống oxy hóa, acid, và kiềm. Trạng thái oxy hóa phổ biến nhất của wolfram là +6, nhưng có thể thay đổi từ −2 đến +6. Wolfram đặc biệt kết hợp với oxy tạo thành wolfram trioxide, WO3 màu vàng, hòa tan trong dung dịch kiềm tạo thành ion wolfram . Wolfram cacbic (W2C và WC) được sản xuất bằng cách nung bột wolfram với cacbon và là những cacbic cứng nhất, WC có điểm nóng chảy 2.770 °C và 2.780 °C đối với W2C. WC là chất dẫn điện hiệu quả, nhưng W2C thì ít hơn. Wolfram cacbic có ứng xử tương tự wolfam không ở dạng hợp kim và có khả năng chống lại ăn mòn hóa học, mặc dù nó phản ứng mạnh với clo tạo thành wolfram hexaclorua (WCl6). Dung dịch wolfram trong nước được ghi nhận là để tạo thành acid heteropoly và các anion polyoxometalat trong các môi trường trung hòa và acid. Khi wolfamat được xử lý từ từ bằng acid, đầu tiên nó hòa tan, anion "parawolfarmat A" metastable, , dần dần nó chuyển sang dạng anion ít hòa tan hơn "parawolframat B", . Quá trình acid hóa sau đó tạo ra các anion netawolframat hòa tan rất cao, , sau đó đạt đến trạng thái cân bằng. Ion metawolframat tồn tại ở dạng cụm hình học của hình bát diện 12 wolfram-oxy được gọi là anion Keggin. Các anion polyoxometalat khác tồn tại ở các nhóm metastable. Khi trong cấu trúc bao gồm một nguyên tử khác như phosphor ở vị trí của hai hydro trung tâm của metawolframat tạo ra sự đa dạng của các acid heteropoly, như acid phosphowolframic H3PW12O40. Vai trò sinh học Wolfram số nguyên tử 74, là nguyên tố nặng nhất có mặt trong các cơ thể sống, nguyên tố nặng thứ 2 là iod (Z = 53). Wolfram chưa được tìm thấy là chất cần thiết hoặc được sử dụng trong các sinh vật nhân điển hình, nhưng nó là chất dinh dưỡng thiết yếu đối với một số vi khuẩn. Ví dụ, các enzym oxidoreductase dùng wolfram tương tự như molypden bằng cách sử dụng nó trong phức chất wolfram-pterin với molybdopterin. Molybdopterin, mặc cho tên gọi của nó, không chứa molypden, nhưng có thể tạo phức chất với hoặc là molypden hoặc là wolfram để được sử dụng bởi các sinh vật. Các enzym mang wolfram thường khử các acid cacboxylic thành các aldehyt — một quá trình tổng hợp khó trong hóa và hóa sinh. Tuy nhiên, các oxidoreductase wolfram cũng có thể xúc tác quá trình oxy hóa. Enzym cần wolfram đầu tiên được phát hiện cũng cần selen, và trong trường hợp này cặp đôi wolfram-selen có thể có chứa năng tương tự cặp đôi molypden-lưu huỳnh của các enzym cần phụ nhân tử molybden. Một trong những enzym trong họ oxidoreductase, thỉnh thoảng sử dụng dùng wolfram (các enzym formate dehydrogenase H của vi khuẩn) cũng được biết là sử dụng cặp selen-molypden của molybdopterin. Mặc dù xanthin dehydrogenase chứa wolfram từ vi khuẩn đã được tìm thấy là chứa molydopterin-wolfram và cũng như selen liên kết phi protein, nhưng phức chất molybdopterin wolfram-selen chưa được miêu tả rõ ràng. Các hiệu ứng khác về sinh hóa Trong đất, kim loại wolfram bị oxy hóa thành anion wolframat. Nó có thể được nhập vào có chọn lọc hay không chọn lọc bởi một số sinh vật nhân sơ và có thể thay thế cho molybdat trong một số enzym nhất định. Tác động của nó tới phản ứng của các enzym này trong một trường hợp là kiềm chế còn trong một số trường hợp khác lại là tích cực.. Người ta cho rằng các enzym chứa tungstat trong sinh vật nhân chuẩn có thể là trơ. Tính chất hóa học của đất có thể xác định cách mà wolfram được polyme hóa như thế nào; các đất kiềm tạo ra các wolframat đơn phân (monome); các đất acid tạo ra các wolframat polyme. Natri wolframat và chì đã được nghiên cứu về ảnh hưởng của nó đến các loài giun đất. Chì được tìm thấy là gây tử vong chúng ở các liều lượng thấp còn natri wolframat thì ít độc hơn, nhưng wolframat ức chế hoàn toàn khả năng sinh sản của chúng. Wolfram đã được nghiên cứu là chất kìm hãm trao đổi chất đồng sinh học, với chức năng tương tự hoạt động của molypden. Người ta phát hiện rằng tetrathiowolframat có thể được dùng làm hóa chất tạo phức chất đồng sinh học, tương tự như tetrathiomolybdat. Sản lượng Wolfram được tìm thấy trong các khoáng vật wolframit (wolframat sắt-mangan FeWO4/MnWO4), scheelit (calci wolframat, (CaWO4), ferberit (FeWO4) và hübnerit (MnWO4). Chúng được khai thác và dùng để sản xuất khoảng 37.400 tấn wolfram/năm trong năm 2000. Trung Quốc sản xuất hơn 75% tổng sản lượng thế giới, các nước còn lại gồm Úc, Bolivia, Bồ Đào Nha, Nga, và Colombia. Wolfram được tách từ các quặng của nó qua nhiều công đoạn. Quặng được chuyển đổi từ từ thành wolfram(VI) oxide (WO3), sau đó được nung với hydro hoặc cacbon tạo ra wolfram bột. Nó có thể được dùng ở dạng bột hoặc ép thành các thỏi rắn. Wolfram cũng có thể được tách ra bằng cách khử hydro của WF6: WF6 + 3 H2 → W + 6 HF hoặc nhiệt phân: WF6 → W + 3 F2 (ΔHr = +) Wolfram không được mua bán theo kiểu hợp đồng tương lai và không được niêm yết trên các thị trường giao dịch như London Metal Exchange. Giá của wolfram (WO3) vào khoảng 18.975 USD/tấn vào tháng 8 năm 2010. Ứng dụng Do có chịu được nhiệt độ cao và có điểm nóng chảy cao nên wolfram được dùng trong các ứng dụng nhiệt độ cao, như dây tóc bóng đèn, ống đèn tia âm cực, và sợi ống chân không, thiết bị sưởi, và các vòi phun động cơ tên lửa. Do tính dẫn điện và tính trơ hóa hóa học tương đối của nó, wolfram cũng được dùng trong làm điện cực, và nguồn phát xạ trong các thiết bị chùm tia điện tử dùng súng phát xạ trường, như kính hiển vi điện tử. Trong điện tử, wolfram được dùng làm vật liệu kết nối trong các vi mạch, giữa vật liệu điện môi silic đoxide và transistor. Nó được dùng làm các màng kim (hoặc molypden) loại phủ trên miếng silicon thay thế dây dẫn được dùng trong điện tử thông thường. Chỉ định Do Wolfram hiếm gặp trong tự nhiên và các hợp chất của nó nhìn chung là trơ nên những ảnh hưởng của nó tới môi trường là hạn chế. Một liều gây chết trung bình LD50 tùy thuộc phần lớn vào động vật và phương pháp điều khiển và nó thay đổi từ 59 mg/kg (tĩnh mạch, thỏ rừng) đến 5000 mg/kg (bột kim loại wolfram, trong phúc mạc, chuột cống).
Chi Phượng vĩ (danh pháp khoa học: Delonix) tạo thành một phần của phân họ Caesalpinioideae trong họ Fabaceae. Các thành viên của chi này là các loài thực vật có hoa, với nguồn gốc từ Madagascar và miền đông châu Phi. Loài được nhiều người biết đến nhất là phượng vĩ (Delonix regia). Một trong số các tên gọi trong tiếng Anh của nó là "Poinciana", có nguồn gốc từ tên gọi của chi Poinciana đã lỗi thời, mà trước đây trong đó các thành viên của chi Delonix đã được xếp cùng với các loài thuộc chi Caesalpinia. Các loài Delonix baccal (Chiov.) Baker f., 1930: Ethiopia, Kenya, Somalia. Delonix boiviniana (Baill.) Capuron, 1968: Madagascar. Delonix brachycarpa (R.Vig.) Capuron, 1968: Madagascar. Delonix decaryi (R.Vig.) Capuron, 1968: Madagascar. Delonix edule (H.Perrier) Babineau & Bruneau, 2017: Madagascar. Chuyển từ chi đơn loài Lemuropisum. Delonix elata (L.) Gamble, 1919: Bản địa Djibouti, Ai Cập, Cộng hòa Dân chủ Congo, Eritrea, Ethiopia, Kenya, Oman, Saudi Arabia, Somalia, Sudan, Tanzania, Uganda, Yemen, Zambia. Du nhập vào Ấn Độ (quần đảo Andaman, Assam), quần đảo Leeward, Maldives, Myanmar, Namibia, Pakistan, Sri Lanka, Tây Himalaya. Delonix floribunda (Baill.) Capuron, 1968: Tây và tây nam Madagascar. Delonix leucantha (R.Vig.) Du Puy, Phillipson & R.Rabev., 1995: Namoroka (tây Madagascar). Delonix pumila Du Puy, Phillipson & R.Rabev., 1995: Đông bắc Toliara ở tây nam Madagascar. Delonix regia (Bojer ex Hook.) Raf., 1837 - Phượng vĩ. Loài bản địa Madagascar, nhưng đã du nhập vào nhiều nơi trong khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới toàn thế giới. Delonix tomentosa (R.Vig.) Capuron, 1968: Cao nguyên Ankara ở miền tây Madagascar. Delonix velutina (R.Vig.) Capuron, 1968: Miền bắc Madagascar. Hình ảnh
Phượng hay phượng vĩ, phượng vỹ, xoan tây, điệp tây (danh pháp hai phần: Delonix regia) (họ Fabaceae) (tiếng Trung: 鳳凰木: cây Phượng Hoàng; tiếng Anh: Flamboyant, Royal poinciana và Mohur tree) là một loài thực vật có hoa sinh sống ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Nguồn gốc, đặc điểm Phượng vĩ có nguồn gốc từ Madagascar, tại đó người ta tìm thấy nó trong các cánh rừng ở miền tây Malagasy. Trong điều kiện hoang dã, nó là loài đang nguy cấp, nhưng nó được con người trồng ở rất nhiều nơi. Ngoài giá trị là cây cảnh, nó còn có tác dụng như một loài cây tạo bóng râm trong điều kiện nhiệt đới, do thông thường nó có thể cao tới một độ cao vừa phải (khoảng 10 m-15m, mặc dù đôi khi có thể cao tới 20 m) nhưng có tán lá tỏa rộng và các tán lá dày đặc của nó tạo ra những bóng mát. Trong những khu vực với mùa khô rõ nét thì nó rụng lá trong thời kỳ khô. Cánh hoa của phượng vĩ lớn, với 4 cánh hoa tỏa rộng màu đỏ tươi hay đỏ hơi cam, dài tới 8 cm, còn cánh hoa thứ năm mọc thẳng, cánh hoa này lớn hơn một chút so với 4 cánh kia và lốm đốm màu trắng/vàng hoặc cam/vàng (cũng có khi trắng/đỏ). Nguồn gốc tự nhiên có hoa màu vàng (kim phượng). Quả là loại quả đậu có màu nâu sẫm khi chín, dài tới 60 cm và rộng khoảng 5 cm; tuy nhiên, các hạt riêng rẽ lại nhỏ và cân nặng trung bình chỉ khoảng 0,4 g, hạt to cỡ đầu đũa, hạt ăn rất bùi và ngon. Các lá phức có bề ngoài giống như lông chim và có màu lục sáng, nhạt đặc trưng. Nó là loại lá phức lông chim kép: Mỗi lá dài khoảng 30–50 cm và có từ 20 đến 40 cặp lá chét sơ cấp hay lá chét lông chim lớn, và mỗi lá chét lông chim lớn lại được chia tiếp thành 10-20 cặp lá chét thứ cấp hay lá chét con. Phượng vĩ cần khí hậu nhiệt đới hay cận nhiệt đới để phát triển tốt, nhưng nó có thể chịu được các điều kiện khô hạn và đất mặn.không những vậy cây phượng ở Việt Nam, còn được Gọi là hoa học trò. Vì khi mùa hè đến là mua sinh trưởng của phượng và cũng là mua chia tay, mùa tựu trường.lúc đó phượng nở hoa đỏ tựng trưng cho một kỉ niệm đẹp để lại đây để lên những lớp hoc sau . Phượng là cây luôn chôn giấu những kỉ niệm đẹp tuổi học trò nên .cây hoa phượng được gọi là hoa học trò Nguồn gốc và sinh trưởng của cây Phượng vĩ: +Cây tái sinh hạt và chồi đều mạnh, có thể phát triển tốt trên mọi loại địa hình như ven biển, đồi núi, trung du và đồng bằng. Cây thuộc loại ưa sáng, mọc khoẻ, phát triển nhanh, không kén đất. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của cây phượng là tuổi thọ không cao;cây trồng trên đường phố chỉ 30 tuổi là đã già cỗi, thân có dấu hiệu mục rỗng, sâu bệnh, nấm bắt đầu tấn công. Còn cây trồng trong công viên, trường học thì có thể có tuổi thọ cao hơn nhưng cũng chỉ đạt 40-50 năm tuổi. Khu vực trồng Phượng vĩ được trồng khá phổ biến tại khu vực Caribe. Tại Hoa Kỳ, nó được trồng ở khu vực Florida , thung lũng Rio Grande ở miền nam Texas, các sa mạc ở Arizona (đến tận Tucson, Arizona) và California, Hawaii, Puerto Rico, quần đảo Virgin và Guam. Nó là loài cây biểu tượng chính thức của quần đảo Bắc Mariana (CNMI). Phượng vĩ được coi là đã thích nghi với thủy thổ ở nhiều khu vực mà người ta trồng nó, và bị coi là loài xâm hại tại Úc, một phần là do các bóng râm cũng như bộ rễ của nó đã ngăn cản sự phát triển của nhiều loài thực vật bản địa mọc dưới tán lá của nó. Nó cũng được tìm thấy tại Ấn Độ, tại đây người ta gọi nó là gulmohar. Tại Việt Nam, phượng vĩ được người Pháp du nhập vào trồng khoảng những năm cuối thế kỷ 19 từ Madagascar. Hiện nay phượng vĩ là loài cây được trồng rộng rãi từ miền Bắc vào miền Nam trên vỉa hè, công viên, trường học. Thành phố Hải Phòng còn được gọi là thành phố Hoa phượng đỏ; nơi đây hoa phượng được trồng khắp nơi, có cả một công viên hoa phượng ngay trung tâm thành phố, có lễ hội hoa phượng diễn ra vào tháng 5 rất độc đáo. Quả phượng vĩ được sử dụng tại khu vực Caribe trong vai trò của bộ gõ âm nhạc với tên gọi: shak-shak hay maraca. Gỗ thuộc loại trung bình, dùng trong xây dựng, đồ gỗ dân dụng, đóng hòm, xẻ ván. Cây cho vỏ và rễ làm thuốc hạ nhiệt, chống sốt. Vỏ cây có thể sắc nước uống trị sốt rét, đầy bụng, tê thấp, giảm huyết áp. Lá trị tê thấp và đầy hơi. Mùa nở hoa Tùy theo khu vực địa lý mà cây nở hoa vào những tháng khác nhau trong năm. : tháng 11–tháng 2 : tháng 4–tháng 5 : tháng 5-tháng 8 : tháng 11–tháng 2 : tháng 5-tháng 9 Vùng Caribe: tháng 5–tháng 9 : tháng 11-tháng 12 : tháng 7-tháng 9 : tháng 5–tháng 6 Nam Florida: tháng 5–tháng 6 Hawaii: tháng 5–tháng 6 : tháng 5–tháng 6 Tiểu lục địa Ấn Độ: tháng 4–tháng 7 : tháng 5–tháng 6 : tháng 6-tháng 8 , và : tháng 10–tháng 12 : tháng 11-tháng 12 : tháng 3–tháng 6 : tháng 11–tháng 12 : tháng 4–tháng 5 : tháng 4–tháng 6 (ven biển): tháng 1–tháng 3 : tháng 11–tháng 1 : tháng 3–tháng 5 : tháng 4–tháng 5 : tháng 5–tháng 7 : tháng 5–tháng 7 Ý nghĩa tên Tên "phượng vĩ" là chữ ghép Hán Việt -- "phượng vĩ" có nghĩa là đuôi của con chim phượng. Đây có thể là một hình thức đặt tên gọi theo cảm xúc vì các lá phượng vĩ nhất là các lá non trông giống như hình vẽ đuôi của loài chim phượng. Biểu tượng Tại Việt Nam, phượng vĩ là biểu tượng gắn liền với tuổi học trò, do mùa nở hoa của nó trùng với thời điểm kết thúc năm học, mùa chia tay của nhiều thế hệ học trò. Do vậy, nó gắn liền với nhiều kỷ niệm buồn vui của tuổi học trò, và vì thế người ta gắn cho nó tên gọi "hoa học trò". Thành phố Hải Phòng là khu vực trồng rất nhiều phượng vĩ, vì thế thành phố này còn được gọi một cách văn chương là "thành phố Hoa Phượng Đỏ" hay "thành phố hoa học trò". Nhà thơ Thanh Tùng có bài thơ Thời hoa đỏ đã được nhạc sĩ Nguyễn Đình Bảng phổ nhạc thành bài hát cùng tên, viết về những kỷ niệm của tuổi trẻ với mùa hoa phượng vĩ. Một vài hình ảnh
Trung tâm Vũ trụ John F. Kennedy là nơi phóng các tàu vũ trụ của NASA gần Mũi Canaveral trên đảo Merritt, Florida, Hoa Kỳ. Nơi này nằm giữa Miami và Jacksonville, Florida. Nó dài khoảng 34 dặm và rộng khoảng 6 dặm, bao phủ 219 dặm vuông. Khoảng 17.000 người làm việc tại nơi này. Có một trung tâm cho khách ghé thăm và những tuyến tham quan dành cho dân chúng và trung tâm là một địa điểm du lịch cho du khách ghé thăm Florida. Bởi vì đa số khu vực của trung tâm nằm ngoài các dự án phát triển, nơi này cũng được sử dụng như là một khu bảo tồn đời sống hoang dã quan trọng, với chỉ khoảng 9% đất đã được phát triển. Các chuyến bay hiện tại được điều khiển từ khu vực phóng 39, địa điểm của tòa nhà Lắp ráp Tàu vũ trụ. Bốn dặm về phía đông của tòa nhà lắp ráp là hai bệ phóng; năm dặm về phía nam là Khu Công nghiệp KSC, nơi rất nhiều phương tiện hỗ trợ của trung tâm tọa lạc và là khu nhà quản lý trung tâm. Các cuộc phóng tại Trung tâm vũ trụ Kennedy diễn ra tại Khu phóng 39. Tất cả các cuộc phóng khác tiến hành ở Trạm không quân Mũi Canaveral (CCAFS) được điều hành bởi Không quân Hoa Kỳ. Lịch sử Khu vực này đã được sử dụng bởi nhà nước từ 1949 khi Tổng thống Harry Truman thiết lập Bãi thử liên hợp tầm xa (Joint Long Range Proving Grounds) tại Mũi Canaveral để thử tên lửa. Địa điểm này là lý tưởng cho mục đích đó vì nó cho phép phóng về phía Đại Tây Dương, và nó gần đường xích đạo hơn hầu hết các phần khác của Hoa Kỳ cho phép tên lửa nhận thêm một sức đẩy từ chuyển động xoay của Trái Đất. Vào 1951 Không quân Hoa Kỳ thiết lập Trung tâm thử tên lửa của Không quân cạnh căn cứ không - hải quân trên sông Banana. Theo sau việc phóng vệ tinh Sputnik của Liên Xô, vệ tinh quỹ đạo đầu tiên, tên lửa Vanguard của Hải quân Hoa Kỳ phát nổ vào ngày 6 tháng 12 năm 1957. NASA được thành lập vào 1958 và nơi này được biến đổi thành một nơi phóng tên lửa chính. Redstone, Jupiter IRBM, Jupiter-C, Pershing, Polaris, Thor, Atlas, Titan và Minuteman tất cả đều được thử nghiệm ở địa điểm này, tên lửa Thor trở thành cơ sở cho thiết bị phóng có thể bỏ đi (expendable launch vehicle - ELV) tên lửa Delta, đã phóng lên vệ tinh Telstar 1 vào tháng 7 1962. Sự thông báo của chương trình lên Mặt Trăng dẫn đến một sự mở rộng các hoạt động từ Mũi Canaveral đến đảo Merritt gần đó. NASA bắt đầu việc mua đất trong năm 1962, sở hữu 131 mi² bằng mua ngay là thương lượng với bang Florida để có thêm 87 mi². Vào tháng 7 năm 1962 toàn bộ nơi này được đặt tên là Trung tâm Phóng. Nó được đặt tên lại là Trung tâm Vũ trụ John F. Kennedy vào tháng 11 năm 1963, tôn vinh Tổng thống John F. Kennedy vừa bị ám sát. Mũi đất xung quanh Mũi Canaveral cũng được đặt tên lại là Mũi Kennedy, nhưng tên này không được thông dụng đối với dân địa phương và do vậy tên cũ đã được phục hồi vào năm 1973. Chương trình lên Mặt Trăng có 3 giai đoạn —Mercury, Gemini và Apollo. Mục đích của Mercury đưa lên quỹ đạo một phi thuyền có người điều khiển. Chương trình bắt đầu tháng 10 năm 1957 sử dụng tên lửa liên lục địa Atlas như là cơ sở để mang lên những thứ của Mercury. Nhưng các thử nghiệm đầu tiên sử dụng tên lửa Redstone cho một loạt các chuyến bay lên quỹ đạo bao gồm chuyến bay 15 phút của Alan Shepard vào 5 tháng 5 và Virgil Grissom vào 21 tháng 7 năm 1961. Người đầu tiên được đưa lên bởi tên lửa Atlas là John Glenn vào 20 tháng 2 năm 1962. Từ những kiến thức thu được từ Mercury một phi thuyền 2 chỗ ngồi phức tạp hơn cho Chương trình Gemini được chuẩn bị cũng như một tên lửa phóng mới dựa trên tên lửa liên lục địa Titan II. Chuyến bay có người đầu tiên diễn ra vào 23 tháng 3 năm 1965 với John Young và Virgil Grissom. Gemini 4 có các hoạt động bên ngoài phi thuyền, bởi Edward H. White. Có tổng cộng 12 lần phóng thuộc Gemini từ Trung tâm Kenedy. Chương trình Apollo có một tên lửa phóng mới— tên lửa 3 tầng Saturn V (cao 111 m và với đường kính 10 m), đóng bởi Boeing (tầng thứ nhất), North American Aviation (động cơ và tầng thứ hai) và Douglas Aircraft (tầng thứ ba). North American Aviation cũng đóng đơn vị điều khiển và dịch vụ trong khi Grumman Aircraft Engineering xây dựng bộ phận hạ xuống Mặt Trăng. IBM, MIT và GE cung cấp các máy móc. Tại Trung tâm Kenedy một trung tâm phóng lớn mới trị giá $800 triệu được xây dựng cho tên lửa phóng mới này—Khu vực phóng 39. Nó bao gồm một hangar có khả năng chứa đựng bốn tên lửa Saturn V, Khu nhà lắp ráp Vehicle Assembly Building (VAB, 130 million ft³); một hệ thống chuyên chở từ hangar đến bệ phóng, có khả năng chuyên chở 5440 tấn; một cấu trúc dịch vụ cao 446 foot có khả năng di chuyển và một trung tâm điều khiển. Việc xây dựng bắt đầu vào tháng 11 năm 1962, các bệ phóng được hoàn thành vào tháng 10 năm 1965, và VAB được hoàn thành tháng 6 năm 1965, và các hạ tầng cơ sở hoàn thành cuối năm 1966. Từ 1967 cho đến 1973, có 13 lần phóng tên lửa Saturn V từ Khu phóng 39. Trước các vụ phóng tên lửa Saturn V có một loạt phóng các tên lửa nhỏ hơn Saturn I và IB để thử con người và thiết bị từ Khu 34 trên Mũi Canaveral site. Cái chết của 3 phi hành gia do lửa trên Apollo-Saturn 204 (sau này được đặt tên là Apollo 1), xảy ra ngày 27 tháng 1 năm 1967, đã xảy ra tại Khu 34. Lần phóng thử Saturn V đầu tiên, Apollo 4 (Apollo-Saturn 501) bắt đầu đếm lui 104 giờ vào 30 tháng 10 năm 1967 và, sau các lần hoãn, được phóng lên vào 9 tháng 11. Apollo 7 là chuyến bay thử có người đầu tiên vào 11 tháng 10 năm 1968. Apollo 8 bay 10 vòng quanh Mặt Trăng vào 24-25 tháng 12 năm 1968. Apollo 9 và Apollo 10 thử nghiệm bộ phận đáp xuống Mặt Trăng. Apollo 11 được phóng vào ngày 16 tháng 7 năm 1969 và con người bước lên Mặt Trăng vào lúc 10.56 giờ đêm ngày 20 tháng 7. Chương trình Apollo tiếp tục tại Trung tâm Kenedy cho đến Apollo 14 (1971), chuyến bay có người lái thứ 24 của Mỹ (thứ 40 của thế giới), cho đến Apollo 17 vào tháng 12 năm 1972. Phát triển tên lửa ELV cũng tiếp tục tại trung tâm này—trước Apollo, một tên lửa Atlas-Centaur phóng từ Khu phóng 36 đã đặt trạm thăm dò Surveyor đầu tiên của Mỹ hạ xuống nhẹ nhàng trên Mặt Trăng vào ngày 30 tháng 5 năm 1966. Sau đó năm trong bảy trạm thăm dò Surveyor được đưa lên Mặt Trăng thành công. Từ 1974 đến 1977 tên lửa Titan-Centaur trở thành thiết bị phóng có khả năng mang các thiết bị nặng cho NASA, phóng lên một loạt các tàu vũ trụ thuộc Chương trình Viking và Voyager từ Khu phóng 41, một nơi phóng NASA mượn của Không quân Hoa Kỳ. Khu phóng 41 sau này trở thành nơi phóng cho hầu hết các tên lửa cực mạnh không mang người, tên lửa Titan IV, phát triển cho Không quân. Tên lửa Saturn V cũng được sử dụng để đưa các trạm không gian Skylab vào quỹ đạo vào năm 1973. Bệ phóng 39B được sửa chữa một ít cho việc sử dụng tên lửa Saturn IB, và phóng ba phi vụ có người lái lên Skylab vào năm 1973, cũng như các thành phần Apollo của Chương trình thí nghiệm Apollo-Soyuz vào năm 1975. Trung tâm Kenedy cũng là nơi phóng các tàu con thoi, sử dụng lại Khu 39 dành cho các thiết bị của Apollo. Một nơi đáp cho tàu con thoi, dài 4,6 km. Lần phóng đầu tiên là tàu con thoi Columbia vào ngày 12 tháng 4 năm 1981. Tuy nhiên, lần đáp tàu con thoi đầu tiên sau khi hoàn thành nhiệm vụ là ngày 11 tháng 2 năm 1984, khi tàu con thoi Challenger hoàn thành phi vụ STS-41-B; nơi hạ cánh chính trước thời điểm đó là Căn cứ Không quân Edwards ở California. Hai mươi lăm chuyến bay đã hoàn thành tính đến tháng 9 năm 1988, với một giai đoạn ngưng trệ dài (từ 28 tháng 1 năm 1986 đến 29 tháng 9 năm 1988) theo sau thảm họa tàu con thoi Challenger (cũng là tàu con thoi đầu tiên phóng lên từ bệ phóng 39B). Khu dành cho khách ghé thăm Khu du khách của Trạm Vũ trụ Kennedy, điều hành bởi công ty Delaware North không phụ thuộc vào tiền người dân đóng thuế, là nơi của một số bảo tàng, hai rạp chiếu phim IMAX, và các tuyến du lịch bằng xe bus khác nhau cho phép du khách có một cái nhìn gần hơn đến nhưng những khu vực cấm khác nhau mà người ngoài không thể vào. Bao gồm trong việc cho vào căn cứ là một chuyến xe bus đến khu vực giới hạn với một đài quan sát vào trong sân của Khu phóng 39, và vào Trung tâm Apollo-Saturn V. Đài quan sát cho phép một tầm nhìn không bị che khuất vào cả hai bệ phóng và toàn bộ khuôn viên của Trung tâm Vũ trụ Kennedy. Trung tâm Apollo-Saturn V là một bảo tàng lớn xây dựng xung quanh đối tượng triển lãm chính của nó, một tên lửa phóng Saturn V được phục hồi, và có các triển lãm khác liên quan đến không gian, bao gồm một phi thuyền Apollo. Hai rạp chiếu phim cho phép du khách sống lại những khoảnh khắc của Chương trình Apollo. Một mô phỏng lại môi trường ở trong một phòng điều khiển thời Apollo trong quá trình phóng một tàu Apollo, và rạp thứ hai mô phỏng việc đổ bộ của tàu Apollo 11. Khu dành cho du khách cũng bao gồm những cấu trúc điều hành bởi Hội Tưởng niệm Phi hành gia. Cấu trúc dễ thấy nhất là Đài tưởng niệm Phi hành gia, cũng được biết đến như là Gương Không gian, một tấm gương khổng lồ bằng đá granite đen khắc tên các tên các phi hành gia đã tử nạn trong khi thi hành nhiệm vụ. Các nơi khác trong khu du khách là Trung tâm Giáo dục Không gian, với nhiều tài liệu cho giáo viên, giữa các kiến trúc khác.
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam IX đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm 150 ủy viên chính thức. Ban Chấp hành Trung ương đã bầu ra Bộ Chính trị gồm 15 ủy viên chính thức. Đại hội lần này đã hủy bỏ chức danh Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương. Ủy viên Bộ Chính trị Nông Đức Mạnh (Tổng Bí thư) Trần Đức Lương Phan Văn Khải Nguyễn Minh Triết Nguyễn Tấn Dũng Lê Minh Hương (mất năm 2004) Nguyễn Phú Trọng Phan Diễn Lê Hồng Anh Trương Tấn Sang Phạm Văn Trà Nguyễn Văn An Trương Quang Được Trần Đình Hoan Nguyễn Khoa Điềm. Ban Bí thư Ban Bí thư khóa IX có 9 ủy viên, trong đó 4 ủy viên do Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương bầu ra, 5 ủy viên do Bộ Chính trị chỉ định sau. Lê Văn Dũng Tòng Thị Phóng Trương Vĩnh Trọng Vũ Khoan Nông Đức Mạnh (Tổng Bí thư) Lê Hồng Anh (đến 1/2003) Nguyễn Văn An (đến năm 2001) Trần Đình Hoan (Thường trực Ban Bí thư đến 7/2001) Nguyễn Khoa Điềm Phan Diễn (bổ sung từ 1/2002, làm Thường trực Ban Bí thư) Nguyễn Văn Chi (bổ sung từ 21 tháng 1 năm 2003) Ủy ban Kiểm tra Trung ương Lê Hồng Anh (Chủ nhiệm) Nguyễn Thị Doan Mai Văn Năm Phạm Thị Hải Chuyền Hoàng Kim Sơn Đặng Ngọc Thanh Vũ Quốc Hùng Phạm Chí Hòa Nguyễn Văn Thám Các Hội nghị Trung ương Các ban Đảng Trung ương Đảng bộ trực thuộc Trung ương Các Đảng bộ được tình từ đại hội đảng bộ Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương
Nguyễn Nhật Ánh (sinh ngày 7 tháng 5 năm 1955) là một nam nhà văn người Việt Nam. Được xem là một trong những nhà văn hiện đại xuất sắc nhất Việt Nam hiện nay, ông được biết đến qua nhiều tác phẩm văn học về đề tài tuổi trẻ. Nhiều tác phẩm của ông được độc giả và giới chuyên môn đánh giá cao, đa số đều đã được chuyển thể thành phim. Ông lần lượt viết về sân khấu, phụ trách mục tiểu phẩm, phụ trách trang thiếu nhi và hiện nay là bình luận viên thể thao trên báo Sài Gòn Giải phóng Chủ nhật với bút danh Chu Đình Ngạn. Ngoài ra, ông còn có những bút danh khác như Anh Bồ Câu, Lê Duy Cật, Đông Phương Sóc, Sóc Phương Đông. Cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Nhật Ánh sinh ngày 7 tháng 5 năm 1955 tại làng Đo Đo, xã Bình Quế, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Thuở nhỏ ông theo học tại các trường THPT Tiểu La, THPT chuyên ban Trần Cao Vân và THCS Phan Châu Trinh. Từ năm 1973, ông chuyển vào sống tại Sài Gòn, theo học ngành sư phạm. Ông đã từng tham gia Thanh niên xung phong, dạy học môn Văn tại trường THCS Bình Tây (Quận 6) từ năm 1983-1985. Năm 13 tuổi, ông đăng báo bài thơ đầu tiên. Tác phẩm đầu tiên được in thành sách là một tập thơ tên Thành phố tháng tư (Nhà xuất bản Tác phẩm mới, 1984, in chung với Lê Thị Kim). Truyện dài đầu tiên của ông là tác phẩm Trước vòng chung kết (Nhà xuất bản Măng Non, 1984). Hơn hai mươi năm trở lại đây, ông tập trung viết văn xuôi, chuyên sáng tác về đề tài thanh thiếu niên. Năm 1990, truyện dài Chú bé rắc rối của ông được Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trao giải thưởng Văn học Trẻ hạng A. Năm 1995, ông được bình chọn là nhà văn được yêu thích nhất trong 20 năm (1975-1995) qua cuộc trưng cầu ý kiến bạn đọc về các gương mặt trẻ tiêu biểu trên mọi lĩnh vực của Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh và báo Tuổi Trẻ, đồng thời được Hội Nhà Văn Thành phố Hồ Chí Minh bình chọn là một trong 20 nhà văn trẻ tiêu biểu trong 20 năm (1975-1995). Năm 1998, ông được Nhà xuất bản Kim Đồng trao giải Nhà văn có sách bán chạy nhất. Năm 2003, bộ truyện nhiều tập Kính vạn hoa được Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trao huy chương Vì thế hệ trẻ và được Hội Nhà Văn Việt Nam trao giải thưởng. Đến nay ông đã xuất bản gần 100 tác phẩm và từ lâu đã trở thành nhà văn thân thiết của các bạn đọc nhỏ tuổi ở Việt Nam. Năm 2004, Nguyễn Nhật Ánh ký hợp đồng với Nhà xuất bản Kim Đồng, sau là Nhà xuất bản Trẻ tiếp tục cho xuất bản bộ truyện dài gồm 4 phần mang tên Chuyện xứ Lang Biang nói về hai cậu bé lạc vào thế giới phù thủy. Đây là lần đầu tiên ông viết một bộ truyện hoàn toàn dựa trên trí tưởng tượng. Vì vậy, để chuẩn bị cho tác phẩm này, ông đã phải mất 6 tháng nghiên cứu tài liệu và đọc sách báo liên quan như Phù thủy và Pháp sư, Các huyền thoại phương Đông, Ma thuật và thuật phù thủy... Sau Chuyện xứ Lang Biang, tác phẩm tiếp theo của ông là bút ký của một chú cún có tên Tôi là Bêtô (xuất bản lần đầu năm 2007). Năm 2008, ông cho ra đời tác phẩm Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, được báo Người lao động bình chọn là tác phẩm hay nhất năm 2008. Tác phẩm này được tặng Giải thưởng Văn học ASEAN 2010. Năm 2012, Nguyễn Nhật Ánh cho ra mắt truyện dài Có hai con mèo ngồi bên cửa sổ. Các tác phẩm ra đời gần đây nhất là Ngồi khóc trên cây (tháng 6 năm 2013), Chúc một ngày tốt lành (tháng 3 năm 2014), Bảy bước tới mùa hè (tháng 3 năm 2015), Con chó nhỏ mang giỏ hoa hồng (28 tháng 2 năm 2016), Cây chuối non đi giày xanh (7 tháng 1 năm 2018) và Làm bạn với bầu trời (tháng 9 năm 2019), Con chim xanh biếc bay về (2020). Tháng 1 năm 2022, ông tiếp tục cho xuất bản tác phẩm Ra bờ suối ngắm hoa kèn hồng, được viết trong thời gian Sài Gòn giãn cách dịch COVID-19, chủ đề nhẹ nhàng gần gũi về các loài động vật, với lời văn đầy màu sắc. Đây được xem là "tác phẩm chữa lành mùa dịch". Ông hiện đã kết hôn và đang sống cùng vợ là bà Trần Thị Tiếng Thu. Ông có con gái tên Nguyễn Nhật Quỳnh Anh và còn có một người em ruột. Theo ông, vợ con và em ruột chính là hậu phương vững chắc và luôn hỗ trợ ông mỗi khi sáng tác các tác phẩm. Thành công lớn nhất của ông là sau khi đất nước thống nhất, sách của ông được độc giả cả 3 miền Bắc - Trung - Nam đón nhận nhiệt tình, trong đó đón nhận nhiệt tình nhất là ở Hà Nội (thủ đô của đất nước), Thành phố Hồ Chí Minh (thành phố lớn nhất, nơi ông sinh sống) và Quảng Nam (quê hương ông). Các tác phẩm Thành phố tháng tư (thơ, in chung với Lê Thị Kim, 1984) Trước vòng chung kết (truyện dài, 1984) Cú phạt đền (truyện ngắn, 1985) Đầu xuân ra sông giặt áo (thơ, 1986) Trò chơi lãng mạn của tình yêu (tập truyện, 1987) Chuyện cổ tích dành cho người lớn (tập truyện, 1987) Bàn có năm chỗ ngồi (truyện dài, 1987) Còn chút gì để nhớ (truyện dài, 1988) Bí mật của một võ sĩ (tập truyện, 1989) Cô gái đến từ hôm qua (truyện dài, 1989) Chú bé rắc rối (truyện dài, 1989) Nữ sinh (truyện dài, 1989) Thiên thần nhỏ của tôi (truyện dài, 1990) Phòng trọ ba người (truyện dài, 1990) Mắt biếc (truyện dài, 1990) Thằng quỷ nhỏ (truyện dài, 1990) Hoa hồng xứ khác (truyện dài, 1991) Hạ đỏ (truyện dài, 1991) Bong bóng lên trời (truyện dài, 1991) Bồ câu không đưa thư (truyện dài, 1993) Những chàng trai xấu tính (truyện dài, 1993) Tứ tuyệt cho nàng (thơ, 1994) Lễ hội của đêm đen (thơ, 1994) Trại hoa vàng (truyện dài, 1994) Út Quyên và tôi (tập truyện ngắn, 1995) Đi qua hoa cúc (truyện dài, 1995) Buổi chiều Windows (truyện dài, 1995) Quán Gò đi lên (truyện dài, 4.12.1999) Những cô em gái (truyện dài, 7.5.2000) Ngôi trường mọi khi (truyện dài, 2001) Kính vạn hoa (bộ truyện 54 tập, 1995-2002: 45 tập, 9 tập viết thêm sau) Chuyện xứ Lang Biang (bộ truyện 4 phần, 2004-2006) Tôi là Bêtô (truyện, 4.4.2007) Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ (truyện, 1.2008) Đảo mộng mơ (truyện, 21.10.2009) Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (truyện dài, 24.10.2010) Lá nằm trong lá (truyện dài, 24.9.2011) Có hai con mèo ngồi bên cửa sổ (truyện dài, 6.2012) Sương khói quê nhà (tạp văn, 2012) Người Quảng đi ăn mì Quảng (tạp văn, 2012) Ngồi khóc trên cây (truyện dài, 27.6.2013) Thương nhớ Trà Long (tạp văn 2014) Chúc một ngày tốt lành (truyện dài, 6.3.2014) Bảy bước tới mùa hè (truyện dài, 1.3.2015) Con chó nhỏ mang giỏ hoa hồng (truyện, 28.2.2016) Ngày xưa có một chuyện tình (truyện dài, 18.09.2016) Cây chuối non đi giày xanh (truyện dài, 7.1.2018) Cảm ơn người lớn (truyện dài, 17.11.2018) Làm bạn với bầu trời (truyện dài, ) Con chim xanh biếc bay về (truyện dài, ) Viên ngọc (truyện ngắn, không xác định thời gian) Ra bờ suối ngắm hoa kèn hồng (truyện dài, ) Những người hàng xóm (truyện dài, 24 tháng 12 năm 2022) Mùa hè không tên (truyện dài, 22 tháng 9 năm 2023) Sách được chuyển thể thành phim Áo trắng sân trường: phim 1990, dựa trên truyện dài Nữ Sinh năm 1989, do Lê Công Tuấn Anh thủ vai. Thằng quỷ nhỏ: phim 1997 dựa trên truyện dài cùng tên. Chú bé rắc rối: phim 1998 dựa trên truyện dài cùng tên. Bong bóng lên trời: phim 1997 dựa trên truyện dài cùng tên, do Hãng phim truyện Việt Nam (VFS) sản xuất. Nữ Sinh: phim 2008 dài 10 tập, dựa trên các truyện dài Nữ Sinh, Bồ câu không đưa thư và Buổi chiều Windows của Hãng phim Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (TFS). Kính vạn hoa: phim truyền hình 2004 của Hãng phim Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (TFS), dựa trên truyện dài cùng tên. Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh: phim 2015 dựa trên truyện dài cùng tên, Victor Vũ làm đạo diễn, với sự tham gia của các diễn viên nhí: Thịnh Vinh - Trọng Khang - Lâm Thanh Mỹ. Cô gái đến từ hôm qua: phim 2017 dựa trên truyện dài cùng tên, với sự tham gia diễn xuất của Ngô Kiến Huy và Miu Lê. Mắt biếc: phim 2019 dựa trên truyện dài cùng tên, Victor Vũ làm đạo diễn, Trần Nghĩa trong vai Ngạn và Trúc Anh vào vai Hà Lan. Ngày xưa có một chuyện tình: dự kiến khởi chiếu năm 2024. Ngoài ra, tác phẩm của ông cũng được chuyển thể thành kịch: Thiên thần nhỏ của tôi Trại hoa vàng (nhạc kịch) - do Nhà hát Tuổi trẻ thực hiện
Công trình văn hóa, hiểu theo nghĩa đen, là các thiết chế xây dựng được kiến tạo để phục vụ cho các hoạt động văn hoá, thông tin, tuyên truyền. Các công trình này được hiểu như những rạp hát, rạp chiếu phim (cinéma), thư viện, bảo tàng... các loại. Bên cạnh đó, những công trình phục vụ giải trí công cộng lớn như công viên, các di tích lịch sử cũng có thể được coi như những công trình văn hoá.
Saturn V (thường được biết đến như là "Tên lửa Mặt Trăng") là một loại tên lửa vũ trụ nhiều tầng có khả năng kéo dài sử dụng nhiên liệu lỏng được sử dụng trong Chương trình Apollo và Skylab của NASA. Là kiểu lớn nhất trong gia đình các loại tên lửa Saturn, tên lửa Saturn V được thiết kế dưới sự chỉ đạo của Wernher von Braun tại Trung tâm bay Vũ trụ Marshall ở Huntsville, Alabama, với Boeing, North American Aviation, Douglas Aircraft Company và IBM, các công ty đấu thầu chủ đạo. Saturn V vẫn là tên lửa cao nhất, nặng nhất và mạnh nhất (tổng lực cao nhất) từng được đưa vào trạng thái hoạt động và giữ kỷ lục về trọng tải nặng nhất được phóng và khả năng tải trọng lớn nhất lên quỹ đạo Trái đất thấp (LEO) 140.000 kg (310.000 lb), hơn nửa so với tên lửa Starship. Tổng cộng, NASA đã phóng lên 13 tên lửa Saturn V từ năm 1967 đến 1973, với không một tổn thất nào. Tên lửa theo thiết kế có nhiệm vụ mang lên phi thuyền Apollo sử dụng bởi NASA cho việc đổ bộ lên Mặt Trăng, và sau đó Saturn V tiếp tục được sử dụng để phóng trạm không gian Skylab. Ba tầng của tên lửa Saturn V được phát triển bởi các công ty khác nhau hợp đồng với NASA, nhưng sau một chuỗi các sáp nhập và bị mua tất cả bây giời thuộc quyền sở hữu của Boeing. Mỗi tầng thứ nhất và thứ hai được thử tại Trung tâm Vũ trụ Stennis Space tọa lạc gần Vịnh St. Louis, Mississippi. Trung tâm sau này được sử dụng cho việc thử nghiệm và kiểm định các động cơ chính của tàu con thoi. Hoàn cảnh Trong năm 1957, Liên Xô phóng Sputnik 1, vệ tinh nhân tạo đầu tiên. Lyndon B.Johnson - lúc đó là Thượng Nghị Sĩ của Lãnh tụ Đảng đa số, sau này là Tổng thống-gợi nhớ lại cảm giác "cú sốc sâu sắc về nhận thức rằng một quốc gia có thể đạt được công nghệ cao hơn đất nước tuyệt vời này của chúng ta." Hậu quả của cơn khủng hoảng Sputnik vẫn tiếp diễn, và năm 1961, khi phi công vũ trụ Liên Xô Yuri Gagarin đi vào quỹ đạo Trái Đất trên tàu vũ trụ Vostok 1, nhiều người Mỹ cảm thấy rằng Liên Xô đã dẫn đầu Cuộc Chạy Đua vào Không Gian. Lúc đó, kinh nghiệm duy nhất về việc đưa người vào không gian của Mỹ là chuyến bay của Alan Shepard trên con tàu Freedom 7. Vào thời đó, không có tên lửa nào có thể đưa người lên Mặt Trăng mà không dùng tên lủa đẩy. Saturn I đang trong giai đoạn phát triển nhưng không phóng trong 6 tháng. Mặc dù nó lớn hơn những tên lủa đẩy đương thời nhưng nó cần nhiều lần phóng để đưa tất cả bộ phận của tàu vũ trụ Mặt Trăng vào quỹ đạo. Tên lủa Saturn V lúc đó vẫn chưa được thiết kế mặc dù động cơ công suất lớn F-1 của nó đã được phát triển và bắn thử.
Phó Đô đốc Francis Drake, (1540  - 28 tháng 1 1596) là một nhà thám hiểm hàng hải, thuyền trưởng người Anh, người buôn nô lệ, chính trị gia vào thời nữ hoàng Elizabeth I. Ông là người thứ hai đi chu du vòng quanh thế giới bằng đường biển, từ năm 1577 đến 1580. Ông là phó chỉ huy hạm đội Anh chống lại hạm đội Tây Ban Nha năm 1588. Ông chết vì bệnh kiết lỵ sau khi thất bại trong cuộc tấn công San Juan, Puerto Rico năm 1596. Những thành công của ông đã làm nên huyền thoại, đưa ông trở thành một người anh hùng, một cướp biển Tây Ban Nha đã gọi ông là El Draque (Rồng). Vua Philip II đã treo giá 20,000 ducat cho ai lấy được mạng sống của ông.
Trong lĩnh vực an ninh, cụ thể là trong an ninh trên hiện trường (physical security), thuật ngữ điểu khiển truy cập (access control) ám chỉ đến các thi hành nhằm hạn chế sự thâm nhập vào một cơ sở, một tòa nhà, hoặc một phòng làm việc, chỉ cho phép những người đã được ủy quyền tiếp cận mà thôi. An ninh trên hiện trường có thể thực hiện được bằng sức người - chẳng hạn dùng người canh gác, người gác cổng thuê (bouncer), hoặc một người tiếp tân - hoặc bằng sức máy - khóa và chìa khóa - hay bằng việc áp dụng khoa học kỹ thuật như việc sử dụng một hệ thống truy cập dùng thẻ. An ninh máy tính Nhiệm vụ điều khiển truy cập trong an ninh máy tính (computer security access control) bao gồm các nhiệm vụ xác thực (authentication), ủy quyền (authorization) và kiểm toán. Nhiệm vụ này còn bao gổm cả việc sử dụng những phương pháp bổ sung như phương pháp sử dụng các thiết bị phần cứng - chẳng hạn như các máy quét lướt sinh trắc học (biometric scans) và bằng cách dùng các khóa bằng kim loại (metal locks) - hoặc các phương pháp xử lý phần mềm như việc sử dụng "đường dẫn ẩn" (hidden path), chữ ký điện tử (digital signatures), mật mã hóa (encryption), các rào cản (ngăn ngừa) trong quan hệ xã hội (social barriers), và theo dõi hoạt động của hệ thống bằng sức người hoặc bằng các hệ thống tự động. Sự ủy quyền có thể được thực thi dùng phương pháp Điều khiển truy cập trên cơ sở vai trò (role based access control), bằng cách dùng các danh sách truy cập (access control list) hoặc bằng cách dùng một ngôn ngữ thi hành chính sách (policy language) chẳng hạn như XACML. Điều khiển truy cập tạo nên khả năng cho chúng ta có thể ban phép hoặc từ chối một chủ thể - một thực thể chủ động, chẳng hạn như một người hay một quy trình nào đó - sử dụng một đối tượng - một thực thể thụ động, chẳng hạn như một hệ thống, một tập tin - nào đấy trong hệ thống. Các hệ thống điều khiển truy cập cung cấp những dịch vụ thiết yếu như dịch vụ nhận dạng và xác minh (identification and authentication - I&A), dịch vụ ủy quyền (authorization) và dịch vụ quy trách nhiệm (accountability) đối với người dùng hoặc đối với quy trình. Trong khi dịch vụ nhận dạng và xác minh nhằm xác định ai là người được đăng nhập vào một hệ thống, thì dịch vụ ủy quyền xác định những gì mà một người dùng đã được xác thực có thể thi hành, và dịch vụ quy trách nhiệm nhận dạng và chứng thực những hành vi hay hoạt động mà người dùng đã thi hành trong khi họ sử dụng hệ thống. Nhận dạng và xác thực Nhận dạng và xác thực (Identification and authentication - I&A) là một quy trình gồm hai bước hòng xác minh người truy nhập vào hệ thống. Nhận dạng là phương pháp người dùng báo cho hệ thống biết họ là ai (chẳng hạn như bằng cách dùng tên người dùng). Bộ phận nhận dạng người dùng của một hệ thống điều khiển truy cập thường là một cơ chế tương đối đơn giản, hoạt động chủ yếu dựa trên một hệ thống tên người dùng (username) hoặc chỉ danh của người dùng (userID). Trong trường hợp đối với một hệ thống hoặc một quy trình (process), việc nhận dạng thường dựa vào: Tên máy tính (computer name) Địa chỉ truy cập thiết bị (Media Access Control - MAC - address) Địa chỉ giao thức mạng (Internet Protocol - IP - address) Chỉ danh của quy trình (Process ID - PID) Những yêu cầu nhận dạng đòi hỏi các chỉ danh dùng để nhận dạng: Phải là một định danh duy nhất dùng để chỉ định hay nhận dạng một người dùng (không được có hai người dùng hay hai thiết bị sử dụng cùng một tên, hay cùng một chỉ danh). Không thể dùng để xác định địa vị hay tầm quan trọng của người dùng trong một tổ chức - chẳng hạn không được có những nhãn hiệu chỉ cho biết người này là chủ tịch / giám đốc (president) hoặc là giám đốc điều hành (CEO). Tránh việc sử dụng các trương mục chung hoặc các trương mục dùng chung bởi nhiều người dùng, như trương mục gốc (root), trương mục của người quản lý (admin), hoặc trương mục của người quản lý hệ thống (sysadmin). Không nên dùng các trương mục không hỗ trợ việc quy trách nhiệm và chúng có thể trở thành những đối tượng béo bở cho bọn thâm nhập hệ thống bất hợp pháp. Xác thực là một quy trình xác minh danh hiệu của một người dùng - chẳng hạn bằng cách so sánh mật khẩu mà người dùng đăng nhập với mật khẩu được lưu trữ trong hệ thống đối với một tên người dùng cho trước nào đó. Quy trình xác thực phải dựa vào một trong ba yếu tố sau đây: Dựa vào những chi tiết mà ta biết trước, chẳng hạn như một mật khẩu, hoặc một số nhận dạng cá nhân (personal identification number - PIN) - đấy là chúng ta cho rằng người sở hữu trương mục biết mật khẩu hoặc số nhận dạng cá nhân (PIN) cần thiết để truy cập trương mục. Dựa vào những gì mà chúng ta đã có, chẳng hạn như một cái thẻ thông minh (smart card) hoặc một dấu hiệu nào đó - đấy là chúng ta cho rằng người sở hữu trương mục sở hữu một cái thẻ thông minh, hoặc một dấu hiệu cần thiết để mở khóa trương mục. Dựa vào những gì mình sở hữu bẩm sinh, chẳng hạn như vết lăn tay, giọng nói, võng mạc mắt, hoặc những đặc tính của tròng đen trong mắt. Sự ủy quyền Sự ủy quyền (authorization) (hay còn gọi là sự chính thức hóa (establishment)) định nghĩa quyền (rights) và phép (permission) của người dùng trong một hệ thống. Sau khi người dùng (hoặc một quy trình) đã được chứng thực, việc ủy quyền chỉ định những cái gì mà người dùng đó có thể thi hành trên hệ thống. Đa số các hệ điều hành hiện đại đều định nghĩa một loạt các quyền, phép, và chúng, hoặc là các loại quyền tương tự, hoặc là các mở rộng của ba loại quyền truy cập chính sau đây: Quyền đọc (Read (R)): Người dùng có thể Đọc nội dung của tập tin Liệt kê danh sách thư mục Quyền viết (Write (W)): Người dùng có thể thay đổi nội dung của một tập tin hoặc nội dung của thư mục bằng việc thi hành những thao tác sau đây: Cộng thêm Sinh tạo cái mới Xóa bỏ Đổi tên Quyền thi hành (Execute (X)): Nếu tập tin là một chương trình ứng dụng, người dùng có thể thi hành (chạy) chương trình ứng dụng. Người dùng còn có thể truy nhập một thư mục nào đó nếu thư mục này được cài đặt để cho phép người dùng truy cập. Việc ban "quyền" và "phép" này được thực hiện một cách không đồng bộ trên nhiều hệ thống, dựa vào nguyên lý điều khiển truy cập tùy quyền (discretionary access control - DAC) và nguyên lý điều khiển truy cập bắt buộc (mandatory access control - MAC). Quy trách nhiệm Kỹ thuật điều khiển truy cập Điều khiển truy cập nói chung được chia ra làm hai loại, hoặc là tùy quyền (discretionary), hoặc là bắt buộc (mandatory). Thông hiểu sự khác nhau giữa điều khiển truy cập tùy quyền (DAC) và điều khiển truy cập bắt buộc (MAC), cũng như những phương pháp điều khiển truy cập cụ thể thuộc mỗi hạng loại trên, là một yêu cầu then chốt để chúng ta có thể đạt được kết quả tốt trong các cuộc kiểm thảo về chất lượng an ninh. Điều khiển truy cập tùy quyền Điều khiển truy cập tùy quyền (discretionary access control - DAC) là một chính sách truy cập mà chủ nhân của tập tin hay người chủ của một tài nguyên nào đấy tự định đoạt. Chủ nhân của nó quyết định ai là người được phép truy cập tập tin và những đặc quyền (privilege) nào là những đặc quyền người đó được phép thi hành. Hai quan niệm quan trọng trong truy cập tùy quyền là: Quyền sở hữu tập tin và dữ liệu (File and data ownership): Bất cứ một đối tượng nào trong một hệ thống cũng phải có một chủ nhân là người sở hữu nó. Chính sách truy cập các đối tượng là do chủ nhân tài nguyên quyết định - những tài nguyên bao gồm: các tập tin, các thư mục, dữ liệu, các tài nguyên của hệ thống, và các thiết bị (devices). Theo lý thuyết, đối tượng nào không có chủ sở hữu thì đối tượng đó bị bỏ lơ, không được bảo vệ. Thông thường thì chủ nhân của tài nguyên chính là người đã kiến tạo nên tài nguyên (như tập tin hoặc thư mục). Các quyền và phép truy cập: Đây là những quyền khống chế những thực thể tài nguyên mà chủ nhân của tài nguyên chỉ định cho mỗi một người hoặc mỗi một nhóm người dùng. Điều khiển truy cập tùy quyền có thể được áp dụng thông qua nhiều kỹ thuật khác nhau: Danh sách điều khiển truy cập (Access control list - ACL) định danh các quyền và phép được chỉ định cho một chủ thể hoặc một đối tượng. Danh sách điều khiển truy cập cho ta một phương pháp linh hoạt để áp dụng quy chế điều khiển truy cập tùy quyền. Kiểm tra truy cập trên cơ sở vai trò (role-based access control) chỉ định tư cách nhóm hội viên dựa trên vai trò của tổ chức hoặc chức năng của các vai trò. Chiến lược này giúp tối giảm việc điều hành quản lý quyền và phép truy cập. Những quyền và phép để truy cập các đối tượng được chỉ định cho từng nhóm, hay hơn nữa, tới từng cá nhân một. Các cá nhân có thể trực thuộc một hoặc nhiều nhóm khác nhau. Mỗi cá nhân có thể được bố trí để họ tự đạt được nhiều hình thức phép truy cập hay phép sửa đổi dưới dạng tích lũy (do mỗi nhóm mà họ là hội viên ban cho và cộng lại), song cũng có thể bị loại khỏi những phép truy cập, là những phép mà tất cả các nhóm họ là hội viên không thể cùng có được. Điều khiển truy cập bắt buộc Điều khiển truy cập bắt buộc (mandatory access control - MAC) là một chính sách truy cập không do cá nhân sở hữu tài nguyên quyết định, song do hệ thống quyết định. MAC được dùng trong các hệ thống đa tầng cấp, là những hệ thống xử lý các loại dữ liệu nhạy cảm, như các thông tin được phân hạng về mức độ bảo mật trong chính phủ và trong quân đội. Một hệ thống đa tầng cấp là một hệ thống máy tính duy nhất chịu trách nhiệm xử lý bội số các phân loại dưới nhiều tầng cấp giữa các chủ thể và các đối tượng. Nhãn hiệu nhạy cảm (sensitivity label): Trong hệ thống dùng điểu khiển truy cập bắt buộc, hệ thống chỉ định một nhãn hiệu cho mỗi chủ thể và mỗi đối tượng trong hệ thống. Nhãn hiệu nhạy cảm của một chủ thể xác định mức tin cẩn cần thiết để truy cập. Để truy cập một đối tượng nào đấy, chủ thể phải có một mức độ nhạy cảm (tin cẩn) tương đồng hoặc cao hơn mức độ của đối tượng yêu cầu. Xuất ngoại và nhập nội dữ liệu (Data import and export): Điều khiển việc nhập nội thông tin từ một hệ thống khác và xuất ngoại thông tin sang các hệ thống khác (bao gồm cả các máy in) là một chức năng trọng yếu trong các hệ thống sử dụng điều khiển truy cập bắt buộc. Nhiệm vụ của việc xuất nhập thông tin là phải đảm bảo các nhãn hiệu nhạy cảm được giữ gìn một cách đúng đắn và nhiệm vụ này phải được thực hiện sao cho các thông tin nhạy cảm phải được bảo vệ trong bất kỳ tình huống nào. Có hai phương pháp được dùng phổ biến để áp dụng nguyên tắc điều khiển truy cập bắt buộc: Điều khiển truy cập dùng chính sách (rule-based access control): Việc điều khiển thuộc loại này định nghĩa thêm những điều kiện cụ thể đối với việc truy cập một đối tượng mà chúng ta yêu cầu. Tất cả các hệ thống dùng điều khiển truy cập bắt buộc đều thực hiện một hình thức đã được đơn giản hóa của thể loại điều khiển truy cập dùng chính sách, nhằm quyết định cho phép hay từ chối yêu cầu truy cập, bằng cách đối chiếu: Nhãn hiệu nhạy cảm của đối tượng Nhãn hiệu nhạy cảm của chủ thể Điều khiển truy cập dùng bố trí mắt lưới (lattice-based access control): Đây là phương pháp người ta sử dụng đối với những quyết định phức tạp trong điều khiển truy cập với sự liên quan bội số các đối tượng và/hay các chủ thể. Mô hình mắt lưới là một cấu trúc toán học, nó định nghĩa các giá trị cận dưới lớn nhất (greatest lower-bound) và cận trên nhỏ nhất (least upper-bound) cho những cặp nguyên tố, chẳng hạn như cặp nguyên tố bao gồm một chủ thể và một đối tượng. Điều khiển truy cập trên cơ sở vai trò Trong vấn đề an ninh đối với các hệ thống máy tính, Điều khiển truy cập trên cơ sở vai trò (role-based access control - RBAC) là một tiếp cận (phương pháp) để hạn chế người dùng hợp pháp truy cập hệ thống. Nó là một phương pháp tiếp cận mới, có thể dùng để thay thế phương pháp điều khiển truy cập tùy quyền (DAC) và điều khiển truy cập bắt buộc (MAC). Viễn thông Trong viễn thông, thuật ngữ điều khiển truy cập có những nghĩa sau đây: Là một đặc thù của dịch vụ (service feature) hoặc một kỹ thuật được dùng để cho phép hay từ chối việc sử dụng các phần tử thiết bị trong một hệ thống giao thông liên lạc. Là một kỹ thuật được dùng để định nghĩa hoặc hạn chế quyền của các cá nhân, hoặc quyền của các chương trình ứng dụng, được lấy dữ liệu từ các thiết bị lưu trữ (storage device), hoặc mang dữ liệu vào lưu trữ trong các thiết bị này. Là định nghĩa hoặc sự hạn chế quyền của các cá nhân hoặc của chương trình ứng dụng được lấy dữ liệu từ các thiết bị lưu trữ (storage device), hoặc mang dữ liệu vào lưu trữ trong các thiết bị này. Đối với điều khiển truy cập, chúng ta có vài thể loại: Điều khiển truy cập trên cơ sở vai trò (RBAC), Điều khiển truy cập tùy quyền (DAC) và Điều khiển truy cập bắt buộc (MAC). Là quy trình nhằm giới hạn những người dùng hợp pháp (authorized users), các chương trình ứng dụng, các quy trình, và các hệ thống khác truy cập các tài nguyên của một hệ thống thông tin tự động (Automated Information Systems - viết tắt là AIS). Là chức năng mà bộ điều chỉnh tài nguyên thi hành nhằm phân phối tài nguyên của hệ thống với mục đích thỏa mãn các yêu cầu của người dùng. Điều khiển truy cập trong chính sách công cộng Trong chính sách công cộng (public policy), điều khiển truy cập nhằm hạn chế truy cập vào các hệ thống ("cấp phép") hoặc theo dõi hay giám sát hoạt động bên trong các hệ thống ("quy trách nhiệm"), là một đặc trưng thực thi đối với việc sử dụng các hệ thống tin cẩn (trusted systems) cho an ninh (security) hoặc cho việc quản lý xã hội (social control). Ghi chú Tham chiếu U.S. Federal Standard 1037C U.S. MIL-STD-188 U.S. National Information Systems Security Glossary Harris, Shon, All-in-one CISSP Exam Guide, Third Edition, McGraw Hill Osborne, Emeryvill, California, 2005. Latest access control and computer security news on SecurityPark.net online magazine An ninh Truy cập mạng truyền thông Bảo mật máy tính Quản lý truy cập
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam II đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương khóa II (1951 - 1960) gồm 19 ủy viên chính thức và 10 ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành đã cử ra Bộ Chính trị gồm 7 ủy viên chính thức và 1 ủy viên dự khuyết. Ủy viên Bộ Chính trị Bộ Chính trị được bầu tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng với 7 Ủy viên chính thức và 1 Ủy viên dự khuyết. Bộ Chính trị chấp hành các nghị quyết của Hội nghị toàn thể Trung ương, giải quyết những vấn đề thuộc chính sách, phương châm công tác lớn của Đảng giữa hai kỳ hội nghị toàn thể Trung ương. Nếu chưa đến kỳ hội nghị toàn thể Trung ương mà Bộ Chính trị nhận thấy có những vấn đề quan trọng phải họp Trung ương để giải quyết thì Bộ Chính trị triệu tập hội nghị toàn thể Trung ương bất thường. Gặp trường hợp không thể triệu tập hội nghị toàn thể Trung ương, Bộ Chính trị có thể quyết định. Danh sách Ủy viên Bộ Chính trị Ủy viên chính thức Hồ Chí Minh (Chủ tịch Đảng, từ tháng 10 năm 1956 kiêm Tổng Bí thư) Trường Chinh (Tổng Bí thư đến tháng 10 năm 1956) Lê Duẩn (bầu vắng mặt) Hoàng Quốc Việt (đến tháng 10 năm 1956) Võ Nguyên Giáp Phạm Văn Đồng Nguyễn Chí Thanh Lê Đức Thọ (bổ sung từ 8/1955) Hoàng Văn Hoan (bổ sung từ 1956) Nguyễn Duy Trinh (bổ sung từ 1956) Phạm Hùng (bổ sung từ 1956) Lê Thanh Nghị (bổ sung từ 1956) Ủy viên dự khuyết Lê Văn Lương (chính thức từ 8/1955, đến năm 1956 ra khỏi Bộ Chính trị) Ban Bí thư Ban Bí thư chấp hành các nghị quyết của Bộ Chính trị; dựa theo các nghị quyết của Bộ Chính trị mà định chủ trương cụ thể và giải quyết những vấn đề về kế hoạch thi hành. Danh sách Ban Bí thư Trường Chinh (đến 11/1958, Tổng Bí thư đến 10/1956) Phạm Văn Đồng (đến 11/1958) Lê Văn Lương (đến 10/1956) Nguyễn Duy Trinh (bổ sung từ 8/1955) Hồ Chí Minh (bổ sung từ 10/1956 đến 11/1958, làm Tổng Bí thư từ 10/1956) Võ Nguyên Giáp (bổ sung từ 10/1956 đến 11/1958) Lê Duẩn (bổ sung từ năm 1957) Phạm Hùng (bổ sung từ 11/1958) Hoàng Anh (bổ sung từ 11/1958) Tố Hữu (bổ sung từ 11/1958) Hội nghị Trung ương lần thứ 10 (mở rộng) từ ngày 25-8 đến ngày 5-10-1956 đồng ý để Trường Chinh thôi giữ chức Tổng Bí thư, vẫn là Ủy viên Bộ Chính trị và Ủy viên Ban Bí thư Trung ương Đảng. Hồ Chí Minh là Chủ tịch Đảng kiêm Tổng Bí thư của Đảng. Về Bộ Chính trị, Hội nghị Trung ương lần thứ 10 (mở rộng) đã bổ sung thêm bốn ủy viên: Hoàng Văn Hoan, Phạm Hùng, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị; Ban Bí thư được cử lại gồm Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Duy Trinh. Hội nghị đã quyết định kỷ luật: đưa Hồ Viết Thắng ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương, đồng ý để Lê Văn Lương rút ra khỏi Bộ Chính trị, Ban Bí thư và đưa xuống làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương. Hội nghị Trung ương lần thứ 14 ngày 27/11/1958 quyết định cử lại Ban Bí thư gồm nǎm người: Lê Duẩn, Nguyễn Duy Trinh, Phạm Hùng, Hoàng Anh, Tố Hữu. Hội nghị quyết định Hồ Chí Minh, Chủ tịch kiêm Tổng Bí thư của Đảng, không tham gia Ban Bí thư để có thời giờ làm việc của Bộ Chính trị. Lê Duẩn được ủy nhiệm chủ trì công việc của Ban Bí thư. Ban Bí thư sẽ phân công một số thường trực để giải quyết công việc hàng ngày. Các hội nghị Trung ương Đảng Ủy viên chính thức Trung ương Từ năm 1955, có thêm 6 ủy viên chính thức: Tố Hữu Trần Hữu Dực Bùi Quang Tạo Xuân Thủy Trần Nam Trung (Trần Lương) Nguyễn Thị Thập Danh sách Ủy viên chính thức Trung ương Đảng khóa II (theo thứ tự ABC) Ủy viên dự khuyết Trung ương Nguyễn Khang Nguyễn Văn Trân Hà Huy Giáp Hồ Viết Thắng (Hồ Sĩ Khảng) (đến tháng 9 năm 1956) Văn Tiến Dũng Tố Hữu (ủy viên chính thức từ năm 1955) Hồ Tùng Mậu (hy sinh 23/7/1951) Nguyễn Văn Kỉnh Nguyễn Chánh (mất 1957) Hoàng Anh Đỗ Mười (từ tháng 3 năm 1955) Lê Văn Lương (từ tháng 9 năm 1956) Trần Hữu Dực (ủy viên chính thức từ tháng 3 năm 1955) Bùi Quang Tạo (ủy viên chính thức từ tháng 3 năm 1955) Xuân Thủy (ủy viên chính thức từ tháng 3 năm 1955) Trần Nam Trung (Trần Lương) (ủy viên chính thức từ tháng 3 năm 1955) Nguyễn Thị Thập (ủy viên chính thức từ tháng 3 năm 1955)
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam III đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương khóa III (1960-1976) gồm 47 ủy viên chính thức và 31 ủy viên dự khuyết. Ủy viên Bộ Chính trị - Ủy viên chính thức: 11 Hồ Chí Minh (Chủ tịch Đảng đến khi mất năm 1969) Lê Duẩn (Bí thư thứ nhất) Trường Chinh (Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội) Phạm Văn Đồng (Thủ tướng Chính phủ) Phạm Hùng (Bí thư Trung ương Cục Miền Nam) Lê Đức Thọ (Trưởng ban Tổ chức Trung ương) Võ Nguyên Giáp (Đại tướng, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng) Nguyễn Chí Thanh (Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Chính ủy Quân Giải phóng miền Nam, Bí thư Trung ương Cục Miền Nam, mất năm 1967) Nguyễn Duy Trinh (Bộ trưởng Bộ Ngoại giao) Lê Thanh Nghị (Phó Thủ tướng Chính phủ) Hoàng Văn Hoan Văn Tiến Dũng (bổ sung từ tháng 3-1972) Trần Quốc Hoàn (bổ sung từ tháng 6-1972) - Ủy viên dự khuyết: 2 Trần Quốc Hoàn (đến tháng 6-1972) Văn Tiến Dũng (đến tháng 3-1972) Ban Bí thư Lê Duẩn Phạm Hùng Lê Đức Thọ Nguyễn Chí Thanh Hoàng Anh Tố Hữu Lê Văn Lương Nguyễn Văn Trân (bổ sung từ tháng 1 năm 1961) Nguyễn Côn (bổ sung từ tháng 1 năm 1968) Các Hội nghị Ủy viên chính thức Ủy viên dự khuyết
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam IV đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương khóa IV (1976-1982) gồm 101 ủy viên chính thức và 32 ủy viên dự khuyết. Các Hội nghị Ủy viên chính thức Ủy viên dự khuyết Ủy viên Bộ Chính trị Ủy viên chính thức: Lê Duẩn (Tổng Bí thư) Trường Chinh Phạm Văn Đồng Phạm Hùng Lê Đức Thọ Võ Nguyên Giáp Nguyễn Duy Trinh Lê Thanh Nghị Trần Quốc Hoàn Văn Tiến Dũng Lê Văn Lương Nguyễn Văn Linh Võ Chí Công Chu Huy Mân Tố Hữu (bổ sung từ tháng 3/1980). Ủy viên dự khuyết: Tố Hữu (đến tháng 3/1980) Võ Văn Kiệt Đỗ Mười Bộ Chính trị ngày 3-1-1977 phân công công tác các ủy viên Bộ Chính trị, ngoài Lê Duẩn, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, là người đứng đầu Bộ Chính trị và Ban Bí thư: Phụ trách công tác Đảng và dân vận: Trường Chinh - chủ trì công tác của Bộ Chính trị khi Lê Duẩn đi vắng, phụ trách công tác lý luận của Trung ương Đảng, Bí thư Đảng đoàn kiêm Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội Lê Đức Thọ - phụ trách công tác tổ chức Nguyễn Duy Trinh - Thường trực Ban Bí thư Nguyễn Văn Linh - phụ trách dân vận và mặt trận Tố Hữu - phụ trách tuyên huấn và văn giáo. Phụ trách công tác chính quyền: Phạm Văn Đồng - Thủ tướng Chính phủ Phạm Hùng - Phó Thủ tướng thường trực Võ Nguyên Giáp - Phó Thủ tướng phụ trách quốc phòng và khoa học - kỹ thuật Lê Thanh Nghị - Phó Thủ tướng, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước, phụ trách công tác quan hệ kinh tế với nước ngoài Trần Quốc Hoàn - Bộ trưởng Bộ nội vụ và Trưởng ban Nội chính của Trung ương Đảng Võ Chí Công - Phó Thủ tướng phụ trách khối nông nghiệp, lâm nghiệp, hải sản Đỗ Mười - Phó Thủ tướng phụ trách xây dựng cơ bản, Bộ trưởng Bộ Xây dựng. Phụ trách công tác quân sự: Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam Chu Huy Mân - Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Phụ trách địa phương: Lê Văn Lương - Bí thư Thành ủy Hà Nội Võ Văn Kiệt - Bí thư Thành ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Ban Bí thư Lê Duẩn (Tổng Bí thư) Lê Đức Thọ Nguyễn Duy Trinh Nguyễn Văn Linh Tố Hữu Xuân Thủy Nguyễn Lam Song Hào Lê Quang Đạo Trần Quốc Hoàn (bổ sung từ năm 1980) Lê Thanh Nghị (bổ sung từ năm 1980)
Eintracht Frankfurt là một câu lạc bộ thể thao Đức có trụ sở tại thành phố Frankfurt am Main, Cộng hòa Liên bang Đức. Tại Đức, Eintracht Frankfurt không phải là CLB mạnh nhất. Nhưng họ thuộc số những CLB giàu truyền thống nhất. Với hơn 100 năm tuổi đời, Eintracht Frankfurt là một phần của lịch sử bóng đá Đức. Ra đời năm 1899, Eintracht Frankfurt là một CLB thể thao lớn nhưng trong đó, bóng đá được nhắc đến nhiều nhất. Năm 1963, họ cùng 15 đội bóng khác sáng lập ra Bundesliga. Trong 33 năm liên tiếp, Eintracht Frankfurt đã trụ vững ở giải đấu này, với thành tích tốt nhất là 5 lần về đích ở hạng 3. Trong lịch sử, Eintracht Frankfurt mới một lần vô địch Đức. Đó là năm 1959, 4 năm trước khi Bundesliga ra đời. Tuy nhiên, thành tích của CLB này ở Cúp Quốc gia thì ấn tượng hơn nhiều, với 5 lần đăng quang (1974, 1975, 1981, 1988, 2018), và hai lần Á quân (1964, 2006). Trên bình diện châu Âu, chiến quả lớn nhất của Eintracht Frankfurt là vị trí Á quân Cúp C1 năm 1960 khi họ để thua Real Madrid huyền thoại với tỷ số 3-7. Ngoài ra, họ cũng một lần vô địch Intertoto Cup (1967) nhưng thành tích này không được coi trọng lắm. Những danh thủ nổi tiếng từng khoác áo CLB này có thể kể đến Andreas Möller - nhà vô địch World Cup 1990 và EURO 1996, thủ môn Uli Stein - Á quân World Cup 1986 hay huyền thoại bóng đá Ghana - Tony Yeboah. Với một quá khứ lâu đời như thế nên không khó hiểu khi Eintract Frankfurt có tới hơn 10 triệu CĐV trên toàn nước Đức. Mùa giải 2009, họ lọt vào Top 20 CLB châu Âu thu hút nhiều CĐV đến sân nhất, trên cả Liverpool, Atletico Madrid… Hiện tại của Eintracht Frankfurt nhìn chung đủ khiến các CĐV ruột của họ hài lòng. Thành tích Quốc nội Vô địch Đức Vô địch: 1959 Á quân: 1932 Cúp bóng đá Đức Vô địch: 1973–74, 1974–75, 1980–81, 1987–88, 2017–18 Á quân: 1963–64, 2005–06, 2016–17, 2022–23 2. Bundesliga Vô địch: 1997–98 Á quân: 2011–12 Siêu cúp Đức Á quân: 1988, 2018 Châu Âu UEFA Champions League Á quân: 1959–60 UEFA Cup / UEFA Europa League Vô địch: 1979–80, 2021–22 Cúp Intertoto Vô địch: 1967 Sân vận động Frankfurt đang chơi trên sân Waldstadion (57.706 chỗ ngồi/20.000 chỗ đứng). Sân cũng là một trong những sân sẽ đăng cai các trận đấu của World Cup 2006. Đội hình Đội hình chính Tính đến ngày 31 tháng 8 năm 2023. Cho mượn Những cầu thủ ghi bàn xuất sắc nhất Các thời huấn luyện viên
Tàu con thoi của NASA, chính thức được gọi là Space Transportation System (STS), nghĩa là "Hệ thống Chuyên chở vào Không gian", từng là phương tiện phóng tàu vũ trụ có người điều khiển từ 1981 đến 2011 của chính phủ Hoa Kỳ. Trạm quỹ đạo (tàu con thoi) có cánh được phóng lên thẳng đứng, thường mang theo năm đến bảy phi hành gia (mặc dù tám người đã được mang thử) và đến 22.700 kg (50.000 lb) hàng hóa vào quỹ đạo thấp của Trái Đất. Khi chuyến bay đã hoàn thành, nó khai hỏa các động cơ đẩy đổi hướng để rơi ra khỏi quỹ đạo và tái nhập vào khí quyển của Trái Đất. Trong suốt quá trình giảm độ cao và hạ cánh, tàu con thoi như là một phương tiện trượt và hạ cánh hoàn toàn không dùng một động cơ đẩy nào. Chương trình này bắt đầu vào cuối thập niên 1960 và là điểm trọng tâm của NASA từ giữa thập niên 1970 cho đến khi chương trình bị giải tán năm 2011. Phát triển Ngay trước khi Apollo đổ bộ lên Mặt Trăng vào năm 1969, vào tháng 10 năm 1968 NASA bắt đầu những nghiên cứu sơ khởi về thiết kế của tàu con thoi. Những nghiên cứu sơ khởi này được ký hiệu là "Giai đoạn A", và vào tháng 6 năm 1970, "Giai đoạn B", chi tiết và cụ thể hơn. Vào năm 1969 Tổng thống Richard Nixon thành lập Nhóm đặc nhiệm về Không gian, chủ tịch là phó tổng thống Spiro T. Agnew. Họ kiểm nghiệm các nghiên cứu về tàu con thoi cho đến giai đoạn đó, và đưa ra một chiến lược quốc gia về chương trình không gian trong đó bao gồm cả việc đóng tàu con thoi. Trong suốt quá trình phát triển ban đầu có nhiều thảo luận về thiết kế của tàu con thoi để cân bằng tốt nhất khả năng, chi phí phát triển và chi phí điều hành. Cuối cùng thì thiết kế hiện nay đã được chọn, sử dụng một trạm quỹ đạo có cánh có thể tái sử dụng, hai tên lửa đẩy dùng nhiên liệu rắn, và bình nhiên liệu ngoài sử dụng một lần. Chương trình tàu con thoi được bắt đầu chính thức vào 5 tháng 1 năm 1972, khi Tổng thống Nixon tuyên bố rằng NASA sẽ tiến hành việc phát triển một hệ thống tàu con thoi có khả năng tái sử dụng. Thiết kế cuối cùng tốn kém ít hơn trong việc đóng và về mặt kỹ thuật là ít tham vọng hơn những thiết kế ban đầu sử dụng lại toàn bộ hệ thống. Công ty hợp đồng chính cho chương trình là North American Aviation (sau này là Rockwell International), cùng một công ty đã có trách nhiệm cho Đơn vị Điều khiển/Dịch vụ Apollo Command/Service Module. Công ty hợp đồng cho tên lửa đẩy nhiên liệu rắn cho tàu con thoi là Morton Thiokol (bây giờ là một phần của Alliant Techsystems), và cho bình nhiên liệu bên ngoài là Martin Marietta (bây giờ là Lockheed Martin), và cho động cơ chính của tàu con thoi là Rocketdyne. Trạm quỹ đạo hoàn thành đầu tiên ban đầu được đặt tên là Tàu con thoi Constitution, nhưng một chiến dịch đại chúng từ các khán giả của chương trình TV Star Trek đã thuyết phục Nhà Trắng thay đổi cái tên đó thành Enterprise. Trong sự cổ vũ lớn đó, tàu Enterprise được lăn ra vào ngày 17 tháng 9 năm 1976, và sau đó đã tiến hành một loạt các thí nghiệm thành công của việc trượt trong khí quyển và những lần đáp thử là những kiểm chứng đầu tiên của thiết kế. Trạm quỹ đạo với các chức năng hoàn chỉnh là Columbia, được đóng ở Palmdale, California. Nó được đưa về Trung tâm Vũ trụ Kennedy vào ngày 25 tháng 3 năm 1979, và được phóng lên lần đầu tiên vào ngày 12 tháng 4 năm 1981—nhân dịp kỉ niệm lần thứ 20 chuyến bay vũ trụ của Yuri Gagarin— với một phi hành đoàn 2 người. Challenger được chuyển về KSC vào tháng 7 năm 1982, Discovery vào tháng 11 năm 1983, và Atlantis vào tháng 4 năm 1985. Challenger bị phá hủy hoàn toàn trong quá trình phóng lên do 0-Ring bên phải SRB không hoạt động vào ngày 28 tháng 1 năm 1986, với sự tử nạn của bảy phi hành gia trên tàu. Endeavour được đóng để thay thế Challenger (sử dụng các bộ phận dự phòng ban đầu dự tính là cho các trạm quỹ đạo khác) và được xuất xưởng vào tháng 5 năm 1991; nó được phóng lên một năm sau đó. Mười bảy năm sau Challenger, Columbia bị cháy tan, với tất cả phi hành đoàn 7 người, trong quá trình tái nhập vào ngày 1 tháng 2 năm 2003, và chưa được thay thế. Trong cả năm tàu con thoi hoạt động đủ chức năng chỉ còn 3 tàu để sử dụng. Điều hành, áp dụng, tai nạn Ngừng hoạt động Chương trình tàu con thoi ngừng hoạt động vào tháng 7 năm 2011 sau phi vụ STS-135 trên Atlantis. Sau đó các tàu con thoi sẽ được lưu giữ và trưng bày trong các viện bảo tàng. Mỹ cũng dự kiến một chương trình tái thám hiểm Mặt Trăng và thám hiểm Sao Hỏa sẽ thay thế Chương trình tàu con thoi.
Trương Mỹ Hoa (tên thường gọi Bảy Thư, sinh ngày 18 tháng 8 năm 1945) là một nữ chính trị gia người Việt Nam. Bà từng là Bí thư Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kì 2002-2007, Phó Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X nhiệm kì 2002-2007 thuộc đoàn đại biểu tỉnh Tiền Giang. Hiện bà đang là Chủ tịch Hội đồng quản lý Quỹ học bổng Vừ A Dính. Xuất thân Trương Mỹ Hoa (tên thường gọi Bảy Thư) sinh tại xã Bình Ân thuộc tỉnh Gò Công (ngày nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang), người dân tộc Kinh, không theo tôn giáo nào. Sau khi từ nhiệm và rời khỏi cương vị của mình, bà sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Giáo dục Trình độ chính trị: Cao cấp lí luận chính trị Trình độ chuyên môn: Cử nhân Văn, Cử nhân Luật, Đại học Kinh tế Sự nghiệp Bà gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 21 tháng 5 năm 1963. Từ 11/1960-4/1964: Cán bộ vận động phong trào thanh niên, sinh viên, học sinh khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, Ủy viên BCH khối trường Tân Định - Gia Định. Từ 5/1964-3/1975: Bị bắt, tù đày qua các nhà tù của chính quyền Việt Nam Cộng hòa; tham gia hoạt động đấu tranh trong nhà tù: Bí thư Chi bộ, Trưởng ban cán sự Đảng, Trưởng ban lãnh đạo đấu tranh các nhà lao. Từ 3/1975-4/1975: Được quân địch trả tự do, tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, Đội phó Đội 3 mũi tiến công chiếm lĩnh các mục tiêu ở Gia Định. Từ 5/1975-6/1977: Tham gia tiếp quản Thành phố, Quận ủy viên, Trưởng ban Kiểm tra Đảng Quận 10; Bí thư Đảng ủy phường Điện Biên Phủ, Quận 10, Thành phố Hồ CHí Minh. Từ 7/1977-6/1978: Phó Bí thư Thường trực kiêm Trưởng ban Dân vận - Mặt trận; Đại biểu HĐND Quận 10 - Thành phố Hồ Chí Minh. Từ 7/1978-7/1980: Học trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc tại Hà Nội. Từ 8/1980-10/1986: Thành ủy viên, Thường vụ Quận ủy, Trưởng ban Tổ chức Quận ủy, Phó Bí thư thường trực rồi Bí thư Quận ủy Tân Bình; Đại biểu Hội đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Từ 11/1986-11/1991: Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (Ủy viên chính thức năm 1989); Ủy viên Đảng đoàn, Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Từ 12/1991-9/1997: Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Trung ương Đảng (4/1993); Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Chủ tịch Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ; Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam; Đại biểu Quốc hội khóa IX. Từ 10/1997-2/1997: Ủy viên Trung ương Đảng; Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Phó Chủ tịch Quốc hội; Chủ tịch Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ. Từ 04/1998-7/2002: Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội. Phó Chủ tịch nước (2002-2007) Từ 8/2002-5/2006: Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước; Đại biểu Quốc hội; Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương; đồng Chủ tịch Hội nghị phụ nữ thượng đỉnh toàn cầu lần thứ 14, 16. Từ 6/2006-7/2007: Phó Chủ tịch nước, Đại biểu Quốc hội; Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương; đồng Chủ tịch Hội nghị phụ nữ thượng đỉnh toàn cầu lần thứ 17. Từ 8/2007-12/2007: Cố vấn đặc biệt Hội nghị phụ nữ thượng đỉnh toàn cầu lần thứ 18 tại Nghỉ hưu Tháng 12/2007: Nghỉ hưu. Hiện bà đang là Chủ tịch Quỹ Học bổng Vừ A Dính, Chủ nhiệm Câu lạc bộ  “Vì Hoàng Sa - Trường Sa thân yêu”, Thành viên Câu lạc bộ Truyền thống Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh. Phong tặng Ngày 27 tháng 12 năm 2007 Đảng, Nhà nước Việt Nam đã trao tặng Bà Huân chương Hồ Chí Minh (một lượt với nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương nhận Huân chương Sao Vàng) để ghi nhận những đóng góp của Bà cho sự nghiệp Cách mạng của Đảng và Dân tộc. Ngày 19 tháng 5 năm 2021, bà được trao tặng huy hiệu 60 năm tuổi Đảng Gia đình Cha bà là ông Trương Văn Đẩu (còn có tên Trương Quang Đẩu, mất năm 1978), Tổng cục phó Tổng cục Điện lực (8/1975 - 8/1976), Giám đốc Công ty Điện lực miền Nam (8/1976 - 3/1977), Phó Trưởng ban Tổ chức Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh; mẹ là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Thị Tư (Sáu Hòa, Má Sáu, sinh năm 1918) - từng là Ủy viên Ban Quân sự Thành Đoàn Sài Gòn - Gia Định. Chồng bà là ông Hà Văn Hiển - Nguyên Phó Trưởng Ban Tài chính - Quản trị Trung ương (nay là Ban Kinh tế Trung ương), cũng là cựu tù chính trị Côn Đảo. Bà có 1 chị, 1 em gái và 3 em trai. Chị bà là bà Trương Mỹ Lệ (Tư Liêm) là Nguyên Phó Trưởng ban Tổ chức Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyên Quyền Bí thư Thành Đoàn, Nguyên Bí thư Quận ủy Quận 11, hiện là Phó Chủ nhiệm Thường trực Câu lạc bộ Truyền thống Thành Đoàn TP. Hồ Chí Minh Các em của bà: TS. Trương Minh Nhựt (Ba Vũ) - Nhà thơ, nhà báo, Nguyên Vụ trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, Nguyên Bí thư Quận ủy Quận 4, Trương Công Minh - Nguyên Trưởng phòng của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội TP HCM, Trương Nhật Quang - Tổng Giám đốc Công ty Hồng Quang, PGS.TS. Trương Thị Hiền - Nhà giáo ưu tú, Ủy viên Ban Chấp hành Hiệp hội Khoa học Hành chính Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam, nguyên Giám đốc Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh, vợ của Lê Thanh Hải, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Nguyên Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.
Trương Quý Hải (sinh 1963) là một nhạc sĩ, ca sĩ Việt Nam. Ông trở nên nổi tiếng với hai ca khúc Hà Nội mùa vắng những cơn mưa (phổ nhạc, lời của Bùi Thanh Tuấn) và Khoảnh khắc (sáng tác). Tiểu sử Tốt nghiệp đại học tại Trường Đại học Mỏ - Địa chất, Hệ bằng 2 trường Đại học Kinh tế Quốc dân Phó bí thư đoàn trường Đại học Kinh tế Quốc dân UVTV Thành đoàn Hà Nội Chánh văn phòng Đoàn thể FPT Tâm sự "Trong đời, có lúc anh sẽ oải. Đi tiếp, lại con đường cam go. Đẩy thuyền đi nước đục, dừng tại chỗ nước trong suốt... Biết thế nhưng vẫn phải đi lên. Vì thế khát vọng tìm chốn bình yên của mỗi người bây giờ là cực lớn." Album-Bài hát Giản dị FPT FPT-Dòng sông lời thề Trường ca Người Việt Nam Hà Nội mùa vắng những cơn mưa (phổ nhạc) Khoảnh khắc Tự khúc ngày sinh Mùa thi nhớ mãi Tiền lá Hà Nội mùa hoa sấu Đồng dao Hành trình lời ru của mẹ Tình cao nguyên Tuyệt tình ca Về đây đồng đội ơi Hát cho người còn sống Đối diện - Nhạc phim Đằng sau tội ác Ngoài ra, ông còn là người viết lời Việt cho ca khúc trong phim Tình xa năm 2004 và được ca sĩ Khánh Linh thể hiện.
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam V họp từ ngày 27 đến ngày 31 tháng 3 năm 1982 đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương khóa V (1982-1986) gồm 116 ủy viên chính thức và 36 ủy viên dự khuyết. Các Hội nghị Ủy viên chính thức Sau bổ sung thêm 5 ủy viên chính thức: Nguyễn Tấn Trịnh, Đoàn Duy Thành (từ năm 1983), Phan Thanh Liêm (Bộ trưởng), Phan Văn Khải, Nguyễn Thị Ngọc Liên (từ năm 1984). Xếp theo thứ tự ABC Ủy viên dự khuyết Xếp theo thứ tự ABC Ủy viên Bộ Chính trị ủy viên chính thức: Lê Duẩn (Tổng Bí thư đến khi mất năm 1986) Trường Chinh (Tổng Bí thư sau khi Lê Duẩn mất) Phạm Văn Đồng Phạm Hùng Lê Đức Thọ Văn Tiến Dũng Võ Chí Công Chu Huy Mân Tố Hữu Võ Văn Kiệt Đỗ Mười Lê Đức Anh Nguyễn Đức Tâm Nguyễn Văn Linh (bổ sung từ tháng 6 năm 1985). ủy viên dự khuyết: Nguyễn Cơ Thạch Đồng Sĩ Nguyên Ban Bí thư Lê Duẩn (Tổng Bí thư đến khi mất năm 1986) Lê Đức Thọ Võ Chí Công Nguyễn Đức Tâm Nguyễn Lam Lê Quang Đạo Hoàng Tùng Nguyễn Thanh Bình Trần Kiên Trần Xuân Bách Nguyễn Văn Linh (bổ sung từ tháng 6 năm 1986)
Cao Văn Viên (1921-2008) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Đại tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Địa phương do Chính quyền Thuộc địa Pháp mở ra ở miền Đông Nam Bộ, nhằm đào tạo sĩ quan người bản xứ để phục vụ cho Quân đội Liên hiệp. Hầu hết thời gian tại ngũ, ông được đảm trách những chức vụ chuyên về lĩnh vực Tham mưu. Là một trong 5 quân nhân được thăng cấp Đại tướng của Việt Nam Cộng hòa. Ông cũng là người giữ chức vụ Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong thời gian lâu nhất (1965-1975). Tiểu sử và Binh nghiệp Ông sinh ngày 11 tháng 1 năm 1921 tại Viêng Chăn, Lào trong một gia đình thương nhân, có đời sống kinh tế tương đối. Thời niên thiếu ông được học cấp Tiểu học và Trung học theo giáo trình Pháp tại Vientiane. Năm 1942 ông tốt nghiệp Trung học phổ thông với văn bằng Tú tài toàn phần (Part II). Sau đó ông được bổ dụng làm công chức tại Pakxe, Nam Lào. Đầu năm 1949 ông theo cha mẹ trở về Việt Nam. Quân đội Liên hiệp Pháp Đầu năm 1949, sau khi hồi hương, ông nhập ngũ vào Quân đội Liên hiệp Pháp, được cử theo học khóa đào tạo sĩ quan người Việt tại trường Võ bị Địa phương ở Vũng Tàu (Cap Saint Jacques). Cuối năm mãn khóa tốt nghiệp Thủ khoa với cấp bậc Thiếu úy. Ra trường, ông được phục vụ trong một đơn vị Bộ binh. Quân đội Quốc gia Việt Nam Năm 1951, chuyển biên chế sang Quân đội Quốc gia, ông được thăng cấp Trung úy và được cử theo học lớp Chỉ huy chiến thuật tại Trung tâm Huấn luyện Chiến thuật Hà Nội. Đầu năm 1952 ông được cử làm Trưởng phòng 2 (Tình báo) trong Bộ Chỉ huy Khu chiến Hưng Yên do Đại úy Dương Quý Phan làm Chỉ huy trưởng. Giữa năm, ông được thăng cấp Đại úy và được cử làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 10 Việt Nam. Đầu năm 1954 đổi sang làm Trưởng phòng 3 (Hành quân) Khu chiến Hưng Yên. Tháng 7 năm 1954, di chuyển vào Nam đến tháng 3 năm 1955 ông được thăng cấp Thiếu tá và được cử làm Trưởng phòng 4 (Tiếp vận) tại Bộ Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia. Quân đội Việt Nam Cộng hòa Cuối tháng 10 năm 1955, sau khi Chính thể Việt Nam Cộng hòa hình thành, ông được cử làm Tùy viên Quân sự Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại thủ đô Washington, D.C., Hoa Kỳ. Đầu năm 1956 ông được triệu hồi về nước tiếp tục phục vụ tại Bộ Tổng Tham mưu. Tháng 6 cùng năm ông được cử tu nghiệp khóa Tham mưu cao cấp tại Học viện Chỉ huy và Tham mưu Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ. Đầu tháng 5 năm 1957 tốt nghiệp về nước, ông được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Biệt bộ Tham mưu tại Phủ Tổng thống. Năm 1958 ông được thăng cấp Trung tá nhiệm chức. Đứng ngoài các cuộc đảo chính Trong cuộc đảo chính 1960, ông bị lực lượng đảo chính của Đại tá Nguyễn Chánh Thi bắt giữ và được thả ra sau khi cuộc đảo chính hoàn toàn thất bại. Ngay sau đó, ông được Tổng thống Ngô Đình Diệm bổ nhiệm làm Tư lệnh Lữ đoàn Nhảy dù thay thế Đại tá Nguyễn Chánh Thi đã đào thoát sang Campuchia. Cuối năm ông được thăng cấp Đại tá nhiệm chức. Đến khi cuộc đảo chính 1963 nổ ra, ông là một trong những số ít sĩ quan cao cấp trung thành với Tổng thống Ngô Đình Diệm, kiên quyết không đứng về phe đảo chính do các tướng lĩnh Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Mai Hữu Xuân, Lê Văn Kim tiến hành. Vì vậy ông bị các tướng lĩnh tước quyền chỉ huy Lữ đoàn Nhảy dù, phải bàn giao cho Trung tướng Lê Văn Nghiêm. Tuy nhiên do sự can thiệp của tướng Tôn Thất Đính nên ông chỉ bị cách ly mà không rơi vào số phận bi thảm như các Đại tá Hồ Tấn Quyền, Lê Quang Tung. Sau 1 tuần lễ ông được phục hồi chức vụ Tư lệnh Lữ đoàn Dù. Sau khi tướng Nguyễn Khánh thực hiện cuộc Chỉnh lý để giành quyền lãnh đạo, để tranh thủ sự ủng hộ của các sĩ quan trẻ, ngày 3 tháng 3 năm 1964, tướng Khánh đã thăng đặc cách cho ông tại mặt trận lên cấp Thiếu tướng nhiệm chức (ông bị thương trong cuộc hành quân Quyết Thắng tại Hồng Ngự, Kiến Phong). Ông là vị Đại tá cuối cùng được thăng cấp Thiếu tướng trước khi Việt Nam Cộng hòa đặt ra quy chế phong Đại tá lên Chuẩn tướng.<ref>Lâm Vĩnh Thế, Nhóm tướng trẻ trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa vào giai đoạn 1964-1965.</ref> Tháng 9 năm 1964 ông được tướng Khánh cử vào chức vụ Tham mưu trưởng Liên quân tại Bộ Tổng tham mưu, sau khi bàn giao chức vụ Tư lệnh Lữ đoàn nhảy dù lại cho cấp phó là Đại tá Dư Quốc Đống. Ngày 12 tháng 10 ông bàn giao chức vụ Tham mưu trưởng lại cho Trung tướng Trần Văn Minh (Minh nhỏ) để đi giữ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III và Vùng 3 Chiến thuật thay thế Trung tướng Trần Ngọc Tám. Đến tháng 2 năm 1965 tướng Khánh bị nhóm các tướng trẻ gạt bỏ khỏi chính quyền và ngày 11 tháng 10 cùng năm, ông được lệnh bàn giao Quân đoàn III lại cho Thiếu tướng Nguyễn Bảo Trị. Ngay sau đó ông được thăng cấp Trung tướng và được bổ nhiệm vào chức vụ Tổng Tham mưu trưởng (trước đó, chức vụ này do Tổng trưởng Quốc phòng là Trung tướng Nguyễn Hữu Có kiêm nhiệm). Ngày 14 tháng 9 năm 1966, ông kiêm nhiệm Tư lệnh Hải quân thay thế Hải quân Đại tá Trần Văn Phấn. Hơn một tháng sau, ngày 31 tháng 10, ông bàn giao chức vụ Tư lệnh Hải quân lại cho Hải quân Đại tá Trần Văn Chơn. Ngày 28 tháng 1 năm 1967 ông kiêm nhiệm chức vụ Tổng trưởng Quốc phòng thay Trung tướng Nguyễn Hữu Có, cũng chính là người tiền nhiệm của ông trong vị trí Tổng Tham mưu trưởng, bị bãi chức trong khi đang đi công du tại Đài Loan. Cũng vào thời điểm này, ngày 2 tháng 4 ông được thăng cấp Đại tướng. Ngày 7 tháng 11 cùng năm, bàn giao chức vụ Tổng trưởng Quốc phòng lại cho Trung tướng Nguyễn Văn Vỹ. Năm 1972 Hội đồng Nội các quyết định chức vụ Tổng Tham mưu trưởng được xếp ngang hàng với Tổng trưởng và được dự họp trong Hội đồng Nội các.Bộ Tổng tham Quân lực VNCH vào thời điểm cuối tháng 4 năm 1975, nhân sự trong Bộ được phân bổ trách nhiệm như sau:-Tổng tham mưu trưởng: Đại tướng Cao Văn Viên-Tổng tham mưu phó: Trung tướng Nguyễn Văn Mạnh kiêm Tư lệnh Địa phương quân và Nghĩa quân-Tham mưu trưởng: Trung tướng Đồng Văn Khuyên kiêm Tổng cục trưởng Tiếp vận-Phụ tá Tổng tham mưu trưởng: Trung tướng Lê Nguyên Khang Đặc trách Hành quân-Tổng cục trưởng Quân huấn: Trung tướng Nguyễn Bảo Trị-Tổng cục trưởng Chiến tranh Chính trị: Trung tướng Trần Văn Trung-Phụ tá Tham mưu trưởng: Thiếu tướng Đoàn Văn Quảng-Tham mưu phó Nhân viên: Thiếu tướng Nguyễn Xuân Trang-Trưởng phòng 3: Chuẩn tướng Trần Đình Thọ-Trưởng phòng 7: Chuẩn tuóng Phạm Hữu Nhơn-Chánh văn phòng: Đại tá Nguyễn Kỳ Nguyện-Trưởng phòng 1: Đại tá Lại Đức Chuẩn-Trưởng phòng 2: Đại tá Hoàng Ngọc Lung-Trưởng phòng 5: Đại tá Lê Ngọc Định-Trưởng phòng 6: Đại tá Lê Hữu Tiền-Trưởng phòng Tổng quản trị: Đại tá Trần Văn Thân-Chỉ huy trưởng Tổng Hành dinh: Đại tá Trần Văn Thăng Năm 1975 Trước sức ép mãnh liệt của dư luận và áp lực quân sự của quân Giải phóng, ngày 21 tháng 4 Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức. Không lâu sau đó, nhận thấy tình hình là vô vọng, Tướng Cao Văn Viên cũng từ nhiệm vào ngày 27 tháng 4 và xin giải ngũ (đã có quyết định chính thức của tân Tổng thống Trần Văn Hương). Ông giao lại cho Trung tướng Đồng Văn Khuyên xử lý thường vụ Tổng Tham mưu trưởng và ngày 28 tháng 4 đem theo gia đình cùng với gia đình cựu Tổng thống Thiệu lên máy bay di tản đến Đài Loan. Sau đó được sang Hoa Kỳ định cư. Sau khi phu nhân qua đời và không lâu sau đó người con trai duy nhất cũng chết yểu, ông sống bình lặng tại Quận Arlington, Virginia. Thời gian cuối đời ông sống ở viện dưỡng lão. Ngày 22 tháng 1 năm 2008, ông từ trần tại nơi định cư, hưởng thọ 86 tuổi. Huy chươngHuy chương Việt Nam Cộng hòa:-Bảo quốc Huân chương đệ Nhị đẳng (ân thưởng)-Nhiều Huy chương quân sự và dân sự khácHuy chương ngoại quốc:-Silver Star USA (Huy chương sao bạc của Hoa Kỳ)-Legion of Merit USA (Huy chương quân đoàn của Hoa Kỳ)-In Hun (Huy chương cao quý của Đại Hàn) Tác phẩm -Reflections of the Vietnam War, New York, Hoa Kỳ Army Center of Military History, 1980 (đồng tác giả với cựu Trung tướng Đồng Văn Khuyên).- The Final Collapse, Washington, D.C., Hoa Kỳ Army Center of Military History, 1982.- Những ngày cuối của Việt Nam Cộng hòa. Nhận xét Trong suốt thời gian giữ chức vụ Tổng Tham mưu trưởng, ông được đánh giá là một tướng lĩnh có tài và không liên quan đến các hoạt động chính trị. Tuy nhiên, ông cũng bị đánh giá là một người an phận và không muốn tạo trách nhiệm. Hồi ký "Việt Nam Nhân Chứng" của tướng Trần Văn Đôn viết:"Có lần ông Thiệu than phiền ông Cao Văn Viên không làm việc nhiều. Ông Thiệu nhờ tôi nói với Đại tướng Viên, Tổng Tham mưu trưởng, về việc ông này cứ ở mãi Tổng Tham mưu làm việc, không chịu đi ra ngoài, ông Viên trả lời: Tôi đã xin từ chức mấy lần mà ông Thiệu không chấp nhận nên tôi cứ ở văn phòng làm việc mà thôi!" Trong hồi ký "Đôi dòng ghi nhớ" của cựu Đại tá Phạm Bá Hoa nguyên Chánh Văn phòng Tổng Tham mưu trưởng, cũng nhận xét là trong gần 9 năm rưỡi giữ chức Tổng Tham mưu trưởng, ông không thực sự làm hết trách nhiệm, đến văn phòng cho có lệ, ít ra chiến trường, đặc biệt là vào những năm 1973-1975, ông chỉ còn chú trọng nhiều đến việc tập luyện Yoga và thậm chí, ghi danh vào Đại học để lấy bằng Cử nhân Văn chương Pháp tại Đại học Văn khoa Sài Gòn ngoài giờ làm việc. Lý giải sự việc này, theo cuộc phỏng vấn của Lý Thanh Tâm tháng 12 năm 2004, ông cho rằng do Tổng thống Thiệu, với tư cách Tổng Tư lệnh Quân đội, đã tập trung hết quyền binh trong tay, đã cho đặt một hệ thống máy truyền tin tại dinh Độc Lập để liên lạc thẳng với các Quân khu, điều động các đơn vị, bổ nhiệm Tư lệnh vùng và ra lệnh trực tiếp hành quân. Bộ Tổng Tham mưu chỉ còn giữ vai trò tuân hành và thị chứng. Do đó, ông đã nhiều lần xin từ chức nhưng không được chấp thuận. Vì vậy ông chỉ có thể phản ứng bằng cách tiêu cực như trên. Gia đình Thân phụ: Cụ Cao Văn Tý (sinh năm 1900 tại Miền Bắc Việt Nam, nguyên là một thương nhân buôn bán tại Lào). Thân mẫu: Cụ Nguyễn Thị Võ Nhạc phụ: Cụ Trần Phong Ngàn (tự Hội đồng Ngàn) Nhạc mẫu: Cụ Từ Thị Thu Phu nhân: Bà Trần Thị Tạo (sinh năm 1925 tại Sóc Trăng, từ trần tại Mỹ) Ông bà có 2 người con (1 trai, 1 gái):Cao Anh Tuấn, Cao Thị Phương Lan (hiện nay bà là Giáo sư luật tại Hoa Kỳ và cũng là nhà văn với bút hiệu Lan Cao)Chú thích
Junction City (thường phiên âm thành Gian-xơn Xi-ty) là một chiến dịch kéo dài 82 ngày của Quân đội Mỹ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa nhắm vào các căn cứ của lực lượng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ở Chiến khu C, tức vùng Lò Gò - Xa Mát ngày nay (phía Việt Nam Cộng hòa gọi là Vùng 3 chiến thuật) vào đầu năm 1967. Đây là cuộc hành quân lớn nhất của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam - huy động 35.000 quân Mỹ và Việt Nam Cộng hoà và kéo dài từ 22 tháng 2 đến 15 tháng 4 năm 1967, nhưng kết quả đã thất bại. Chiến dịch bắt đầu bằng một trong những cuộc đột kích bằng máy bay trực thăng quy mô nhất, 240 chiếc trên bầu trời tỉnh Tây Ninh. Quân đội Mỹ huy động 30.000 lính cho chiến dịch phối hợp với 5.000 lính Việt Nam Cộng hòa. Cũng trong thời gian này, họ cũng khai triển cuộc hành quân Ala Moana ở phía tây Hậu Nghĩa gần địa giới Tây Ninh để tìm diệt lực lượng Quân Giải phóng đang tập trung tại vùng này. Với ưu thế áp đảo về mọi mặt, quân Mỹ dự định sẽ phá hủy các căn cứ và các cơ quan đầu não lãnh đạo quân Giải phóng ở vùng Chiến khu C phía bắc Sài Gòn. Sau 53 ngày chiến dịch, quân Mỹ thu được một số kho vũ khí, đạn dược, lương thực... nhưng đã không kiếm được một trận đánh lớn nào với lực lượng quân Giải phóng. Ngược lại, quân Giải phóng thực hiện chiến lược phân tán lực lượng, đánh tập kích các đơn vị Mỹ rồi rút lui nhanh chóng, các cơ quan đầu não lãnh đạo của quân Giải phóng thì vẫn an toàn thoát khỏi vòng vây của quân Mỹ. Chiến dịch được coi là một thất bại của Mỹ bởi họ không đạt được bất kỳ mục tiêu nào đã đề ra. Diễn biến Tương quan lực lượng Về phía Mỹ và Việt Nam Cộng hòa: Tổng số quân và thiết bị quân sự tham chiến là 35.000 quân trong 9 lữ đoàn; 300 trực thăng; 3 phi đoàn máy bay vận tải, hàng trăm xe tăng - xe thiết giáp... do tướng 3 sao Jonathan Seaman, Tư lệnh Dã chiến II trực tiếp chỉ huy. Về phía Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam: Tổng lực lượng bao gồm chủ lực, địa phương quân, du kích các cơ quan là 15.000 bộ đội, được phân chia theo từng tổ chiến đấu, ấp chiến đấu, xã chiến đấu... tinh thần là bám trụ bảo vệ từng cơ quan và địa bàn, sẵn sàng đánh trả khi có điều kiện. Lực lượng chủ lực được chia làm hai bộ phận, một bộ phận phân tán mỏng cùng với du kích các cơ quan lo bảo vệ các căn cứ, kho tàng; một bộ phận được ẩn giấu chờ đối phương sơ hở sẽ tổ chức phản công. Chỉ huy lực lượng chống càn do Lê Đức Anh, Tham mưu trưởng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đảm trách. Do tương quan quá chênh lệch, Bộ chỉ huy quân Giải phóng đề ra phương châm: Phải chuẩn bị sẵn sàng, bám trụ vững chắc, phản công kiên quyết, tiến công mạnh mẽ liên tục, kết hợp ba thứ quân đánh nhỏ, đánh vừa và tạo điều kiện đánh lớn, bảo đảm đánh dài ngày, mạnh bạo nhưng chắc thắng; cố gắng tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, bảo vệ cơ quan và kho tàng trong căn cứ. Phương án tác chiến được đưa ra: Du kích cơ quan, bộ đội địa phương và bộ đội bảo vệ căn cứ, bám đánh địch tại chỗ, giữ các "ấp, xã chiến đấu" để đánh du kích, nơi địch không đến thì bung ra tìm địch mà đánh, vừa chiến đấu vừa phục vụ chiến đấu, bảo vệ an toàn cơ quan, căn cứ. Giai đoạn I Giai đoạn này (từ ngày 22 tháng 2 đến ngày 15 tháng 3 năm 1967) hướng tiến công chủ yếu của chiến dịch là phía bắc tỉnh Tây Ninh, mũi tập trung chính yếu nhắm vào khu vực nằm về phía đông quốc lộ số 22, phía Tây tỉnh lộ số 4 (Tây Ninh đi Cà Tum), áp sát lên biên giới Campuchia. Vùng Tà Đạt là hợp điểm của cuộc hành quân. Trước đó, từ ngày 2 tháng 2 đến ngày 21 tháng 2 năm 1967, Lữ đoàn 1 Sư đoàn bộ binh 25 Mỹ đánh vào mạn phía tây đường số 22, áp lên biên giới Campuchia, mục đích của cuộc hành quân này là quét dọn vùng sông Vàm Cỏ Đông, lùa đối phương về hướng trung tâm (phía đông đường 22), hình thành bức tường phía tây bởi các chốt chặn Cần Đăng, Tà Xia, Lò Gò, chuẩn bị thế tiến công và bao vây sẵn cho cuộc hành quân Junction City. Theo kế hoạch, các đơn vị dàn quân theo hình móng ngựa để bao vây ba mặt chiến khu này, sau đó một số đơn vị có chiến xa, cơ giới công binh yểm trợ tiến vào giữa để tảo thanh, truy kích. Dàn trận trước tiên là các tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn Không vận 173 Hoa Kỳ, đây là lữ đoàn xung kích trong suốt cuộc hành quân. Ngày 22 tháng 2 năm 1967, mở màn cho chiến dịch là những trận pháo kích vô cùng ác liệt, ngay sau đó máy bay C-130 chở Lữ đoàn Không vận 173, nhảy dù xuống Cà Tum nằm trên tỉnh lộ số 4, nơi có ngả rẽ qua Bổ Túc, gần biên giới Campuchia (đây cũng là trận nhảy dù quy mô nhất trong Chiến tranh Việt Nam). Tiếp theo là 250 lần chiếc trực thăng chở Lữ đoàn 1 và Lữ đoàn 2 Sư đoàn bộ binh 1 "Anh cả đỏ" đổ bộ xuống Sóc Mới - Rùm Đuôn - An Khắc, nhằm khóa chặt biên giới phía bắc Tây Ninh. Trong lúc đó Lữ đoàn 2 Sư đoàn 25 cùng với Trung đoàn Thiết giáp số 11 của Mỹ từ Tây Ninh, theo đường số 4 tiến lên Đồng Pan, hợp với Lữ đoàn 173 tại Cà Tum, bức tường phía đông đã hình thành. Từ ngày 23 tháng 2 đến 9 tháng 3 năm 1967, các đơn vị Quân Giải phóng tìm cách vượt thoát khỏi vòng vây của quân Mỹ - Việt Nam Cộng hòa. Về phía Mỹ, sau hơn 10 ngày hành quân của chiến dịch, các tướng lĩnh chỉ huy cũng đã phải thốt lên: Không tìm thấy chủ lực của đối phương ở đâu, không bắt được một lãnh đạo nào của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam... cuộc hành quân chỉ gặp phải toàn cạm bẫy như chông, mìn, lựu đạn gài. Du kích thì lúc ẩn lúc hiện không sao tiêu diệt được, những căn cứ mà binh sĩ Mỹ vào được thì trống rỗng, chỉ tịch thu được những thứ mà đối phương không kịp mang đi. Những khi dừng chân thì bị bắn tỉa, bị ném lựu đạn, bị phóng rocket... bệnh tật cũng bắt đầu hoành hành. Thương vong do cạm bẫy, quấy nhiễu của du kích và bệnh tật của rừng nhiệt đới làm cho lính Mỹ thiệt hại ngày càng tăng, trở nên lo sợ, không còn hăng hái lùng sục nữa. Các kế hoạch tác chiến ban đầu không thực hiện được tốt, việc hợp quân trên vùng trung tâm căn cứ quân Giải phóng không thành công. Hiểu rõ tình thế những mặt mạnh yếu trong chiến dịch Junction City, lực lượng chủ lực Quân Giải phóng miền Nam (Sư đoàn 9) sau khi phân tán thoát vòng vây đã tập trung lại, luồn sâu vào vùng hậu cứ của cuộc hành quân để tổ chức phản công. Đêm 6 tháng 3, pháo binh Quân Giải phóng bắn phá dữ dội vào cụm đóng quân Tà Xia và Truông Bình Linh. Đêm 10 tháng 3, Quân Giải phóng tập kích vào hai cụm đóng quân Đồng Pan và Bào Cỏ, chọc thủng tuyến đóng quân của một tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn Không vận 173 Hoa Kỳ, gần trung tâm của Chiến khu C, cách thị xã Tây Ninh 30 km về hướng đông. Ngoài ra còn có nhiều trận phản công nhỏ lẻ và đặt mìn, phục kích trên các trục tiếp tế quan trọng, làm cho chiến dịch từ chủ động tìm-diệt sang bị động đối phó. Tính đến cuối ngày 11 tháng 3, sau 3 tuần liên tục truy kích, liên quân Mỹ - Việt Nam Cộng hòa tuyên bố đã loại ngoài vòng chiến 744 Quân Giải phóng, tuy nhiên các mục tiêu cơ bản đặt ra vẫn chưa đạt được. Giai đoạn I của chiến dịch kết thúc vào ngày 15 tháng 3 năm 1967, với một thành tích hoàn toàn không đáng kể và Tướng Jonathan Seaman bị mất quyền chỉ huy, thay bằng Tướng Bruce Palmer, Jr. Giai đoạn II và III Giai đoạn II (từ 18 tháng 3 đến ngày 15 tháng 4 năm 1967), hướng tấn công chủ yếu của Chiến dịch Junction City là mạn đông tỉnh lộ số 4, được giới hạn bởi sông Sài Gòn, trọng tâm của chiến dịch nhằm về tuyến biên giới phía Đông Bắc Cà Tum và tuyến thượng nguồn sông Sài Gòn, được B-52 rải thảm không hạn chế. Tỉnh lộ 4 Tây Ninh đi Cà Tum, bây giờ là bức tường phía tây của chiến dịch, các căn cứ Quản Lợi (Bình Long), Minh Thạnh (Núi Cát), Dầu Tiếng, Suối Đá (Tây Ninh); con đường số 13 huyết mạch kết hợp với các con đường 19, 22, 26 mới được sửa chữa, tạo thế tiến công từ phía đông sang tây. Lực lượng thiện chiến của các Sư đoàn 1, Sư đoàn 25, Sư 4, Sư 9... thì do máy bay trực thăng đổ bộ, hình thành các cụm căn cứ lớn khống chế biên giới Campuchia như Sóc Con Trăng, Đồng Rùm, Ba Vũng... Khu vực này, trên thực tế là địa bàn xung yếu nằm trong hệ thống huyết mạch chính của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, nơi đây vừa là đầu cầu tiếp nhận viện trợ từ miền Bắc, vừa là nơi cất dấu hậu cần, khí tài, quân bị. Nơi đây còn là bàn đạp, để từ đó Quân Giải phóng tiếp cận các chiến trường Nam Tây Nguyên và Đông Nam bộ. Bước vào giai đoạn này, sức mạnh quân sự của Quân đội Mỹ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa không hề suy giảm, thậm chí có phần gia tăng hơn, nhưng ý chí chiến đấu không còn như đợt ra quân ban đầu nữa. Trong khi đó về phía Quân Giải phóng miền Nam, việc kết thúc giai đoạn I của chiến dịch diễn ra gần đúng với dự kiến ban đầu: bảo đảm tuyệt đối an toàn cho Trung ương Cục miền Nam, Bộ Tư lệnh Miền, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và các ban ngành, đoàn thể..., đặc biệt điều quan trọng bậc nhất là bảo toàn được lực lượng chủ lực của mình, do biết cất giấu kỹ. Do vượt qua được cột mốc thử thách trước sức mạnh Mỹ cộng với kinh nghiệm va chạm thực tiễn trong giai đoạn I, Quân Giải phóng miền Nam bước vào giai đoạn II với khí thế tự tin hơn và bản lĩnh hơn. Ngày 19 tháng 3, Lữ đoàn 173 mở cuộc tấn công vào vị trí của Quân Giải phóng nằm về phía tây của Chiến khu C. Trong đêm đó, tại Bàu Bàng khi Lữ đoàn 1 Sư đoàn 9 Mỹ vừa tập kết chuẩn bị tham gia chiến dịch giai đoạn II, đã bị tấn công tại căn cứ. Ngày 20 tháng 3 năm 1967, giao tranh tiếp diễn tại nhiều hướng, theo Mỹ tuyên bố đến ngày này có 1.117 binh sĩ Quân Giải phóng tử thương; phía Hoa Kỳ có 143 tử trận, 659 người bị thương. Đêm 21 rạng sáng ngày 22 tháng 3 năm 1967, Quân Giải phóng tập kích Đồng Rùm sau 2 ngày vị trí này bị phía Mỹ đổ quân chiếm đóng, giao tranh ác liệt nổ ra kéo dài trong 6 giờ liền. Đêm 31 tháng 3, Quân Giải phóng tập kích căn cứ Ba Vũng. Ngoài ra, cụm căn cứ Sóc Con Trăng bị bao vây uy hiếp, làm hạn chế sức đánh phá của căn cứ này. Các vùng hậu cứ của Chiến dịch Junction City cũng bị pháo binh bắn phá như: Quản Lợi, Đồng Dù, Suối Đá. Chỉ huy sở của cuộc hành quân trú đóng tại Dầu Tiếng cũng bị pháo kích. Trên toàn mặt trận, sự kháng cự của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tỏ ra ngày càng mãnh liệt. Từ 1 tháng 4, quân Mỹ bắt đầu triệt thoái từng bước, đến 15 tháng 4 năm 1967, quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng hòa kết thúc giai đoạn II của chiến dịch. Đến ngày 15 tháng 4, chiến dịch bước sang giai đoạn III, nhưng đã phải nhanh chóng chấm dứt vào ngày 14 tháng 5 sau khi không thu được thêm nhiều kết quả. Chiến dịch Junction City đến đây chính thức kết thúc. Hoa Kỳ tuyên bố đã có 2.728 quân Giải phóng tử trận, tuy nhiên con số này bị xem là phóng đại, bởi trong suốt cả chiến dịch quân Mỹ chỉ thu được 491 vũ khí cá nhân và 100 vũ khí cộng đồng của quân Giải phóng (chỉ bằng 1/5 con số bộ đội tử trận mà Mỹ tuyên bố) Còn theo thống kê của Việt Nam, toàn chiến dịch quân Giải phóng thương vong khoảng 1.530 người (10,2% quân số), trong đó có 255 chết (1,7% quân số) Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố là trong trận này họ đã loại khỏi vòng chiến 11.000 quân của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa, đã phá hủy hoặc gây hư hại 900 xe quân sự, phá hủy 119 súng đại bác hoặc súng cối của liên quân Mỹ - Việt Nam Cộng hòa. Tuy nhiên theo Đại tướng William Westmoreland thì con số thiệt hại của Mỹ là 282 lính chết và khoảng 1.560 bị thương (chưa kể vài trăm thương vong của quân VNCH); 107 thiết vận xa, 57 xe tăng, 28 xe vận tải và 11 khẩu đại bác bị phá hủy hoặc hư hại. Chú thích
Mỹ thuật công nghiệp hay Design là một ngành thiết kế tạo mẫu, tạo dáng cho các sản phẩm công nghiệp như bao bì, trang trí nội thất, thời trang,... Định nghĩa Theo cuốn Lịch sử design của họa sĩ Lê Huy Văn và Trần Văn Bình,"mỹ thuật công nghiệp", còn được gọi là design (phát âm như "đi-zai"), là ngành thiết kế tạo mẫu, tạo dáng cho sản phẩm công nghiệp, tạo mỹ thuật sản phẩm, thiết kế môi trường sống hay thế giới đồ vật. Danh từ design có xuất xứ từ chữ của tiếng Latin Italia, có từ thời Phục Hưng, có nghĩa là phác thảo, thuật vẽ, thiết kế, mô tả, sắp đặt và là cơ sở của mọi nghệ thuật thị giác, công việc của sự sáng tạo. Thời đó thuật ngữ này thường ám chỉ công việc sáng tạo của các họa sĩ vẽ tranh, tạc tượng v.v. và hơn nữa đó vẫn chưa phải là một nghề chuyên nghiệp hoàn toàn (full-time professional) mà gắn kết như một thuộc tính của họa sĩ, nhà điêu khắc hay các nghệ nhân. Theo sách Design Đại cương (Artmedia Books) của Trần Văn Bình, thuật ngữ design (tiếng Anh) lần đầu xuất hiện trong từ điển đại học Oxford năm 1588 tiền thân từ tiếng Ý disegno được Giorgio Vasari viết trong bộ sách sử nghệ thuật đầu tiên khá đồ sộ gần một nghìn trang về nghệ thuật và kiến trúc có tên Cuộc đời của những Họa sĩ, Điêu khắc gia và Kiến trúc sư xuất chúng (Le Vite de' più eccellenti pittori, scultori e architettori) năm 1550 (tái bản năm 1568) có sức phổ biến rộng nhờ phát minh máy in của Gutenberg thời Phục hưng. Từ điển tiếng Ý dịch disegno là thiết kế. Trang Từ điển https://www.dictionary.com/browse/disegno  định nghĩa disegno bao hàm hai nghĩa là diễn họa/thiết kế (drawing/design), là bản vẽ diễn họa hoặc thiết kế: một thuật ngữ được sử dụng trong thế kỷ 16 và 17 để chỉ định bộ môn nghệ thuật cần thiết để biểu diễn hình thức tối ưu của một đối tượng trong nghệ thuật thị giác, đặc biệt là thể hiện trong cấu trúc tuyến tính của tác phẩm nghệ thuật. Nói một cách đơn giản, (theo http://www.visual-arts-cork.com/drawing/disegno.htm) disegno nhấn mạnh ý tưởng của nghệ sĩ như một người sáng tạo. Sử dụng thiên tài sáng tạo của mình, các nghệ sĩ quan niệm sử dụng kỹ năng diễn họa của mình, nghệ sĩ thể hiện hình ảnh tưởng tượng của mình. Còn colorito chỉ đơn thuần là một kỹ năng tô màu (colouring), mà một họa sĩ sử dụng để tái tạo lại những gì anh ta thấy. Ngay cả khi sáng tác trong một studio, các nghệ sĩ sử dụng màu sắc theo nhu cầu thị giác để hoàn thiện tác phẩm, nhiều khi có thể hoàn toàn khác với những gì dự định ban đầu. Vì vậy, trong khi disegno đòi hỏi sự trung thực với một khái niệm và ý tưởng ban đầu, colorito chỉ có nghĩa là thực hiện một hình ảnh đẹp. Trong mắt thẩm mỹ của các nghệ sĩ Phục hưng (Renaissance), có một khoảng cách lớn giữa hai cách tiếp cận: disegno được xem là nghệ thuật đích thực, trong khi colorito được coi là một nghề thủ công. Lịch sử Tại Anh, vào thế kỉ 16, khái niệm này đã mở rộng hơn như là "lập trình một cái gì đó để thực hiện", "thực hiện phác thảo một bản vẽ đầu tiên cho một tác phẩm nghệ thuật" hoặc "phác thảo của một sản phẩm mỹ nghệ". Design là phác thảo, thiết kế, chế mẫu và lập kế hoạch cho sản phẩm công nghiệp. Với quá trình công nghiệp hóa cũng là quá trình hình thành lịch sử design và bắt đầu vào khoảng giữa thế kỉ 19. Trong thời gian này thuật ngữ Design được hiểu ở là “Nghệ thuật công nghiệp” hay “nghệ thuật ứng dụng”. Cụm từ design ở Việt Nam có nghĩa là "mỹ thuật công nghiệp", "thiết kế tạo dáng công nghiệp" hay "mỹ thuật ứng dụng". Thuật ngữ này mới nhập vào Việt Nam trong thập niên 1960, bắt nguồn từ Industrielle Formgestaltung trong tiếng Đức khi các giáo sư trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Halle (Die Hochschule für Industrielle Formgestaltung – Halle) sang trường Trung cấp Mỹ nghệ Hà Nội trao đổi học thuật và đã được dịch thành "Mỹ thuật công nghiệp" (MTCN). Từ đó MTCN trở thành thuật ngữ của ngành và trở nên thông dụng, quen thuộc. Các lĩnh vực thiết kế chính Thiết kế đồ họa (Graphics design) Thiết kế thời trang (Fashion design) Tạo dáng công nghiệp (Industrial design) Thiết kế nội thất (Interior design) Thiết kế kiến trúc (Architectural Design) Thiết kế tương tác (Interative Design)
Dưới đây là danh sách các quốc gia và vùng lãnh thổ Trung Đông bao gồm: Bahrain, Ai Cập, Iran, Iraq, Israel, Jordan, Kuwait, Liban, các vùng lãnh thổ Palestine, Oman, Qatar, Ả Rập Xê Út, Syria, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Thổ Nhĩ Kỳ, đảo Síp, Yemen và quốc gia chỉ được Thổ Nhĩ Kỳ công nhận - Cộng hòa Bắc Síp. Chỉ có duy nhất Ai Cập thuộc về châu Phi. Thổ Nhĩ Kỳ là quốc gia liên lục địa, có lãnh thổ nằm trên cả châu Âu và châu Á. Trên đảo Síp còn có hai khu vực căn cứ có chủ quyền Akrotiri và Dhekelia thuộc Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Danh sách Xếp hạng theo thu nhập bình quân đầu người GDP Xếp hạng các quốc gia trên bán đảo Ả rập, dựa theo số liệu năm 2005 của Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Trong bảng dưới đây không có số liệu của Palestine. Chú thích
Họ thực vật có danh pháp khoa học Bignoniaceae trong tiếng Việt có nhiều tên gọi như họ Chùm ớt, họ Đinh, họ Núc nác, họ Quao. Một trong những lý do để không có một tên gọi thống nhất cho họ này là trong danh pháp khoa học của các loài cây chùm ớt, đinh, núc nác, quao đều có từ đồng nghĩa thuộc chi Bignonia và các loài hiện tại được công nhận thuộc chi Bignonia đều không có ở Việt Nam. Họ này là một nhóm đơn vị phân loại trong thực vật có hoa bao gồm chủ yếu là cây thân gỗ, cây bụi, dây leo và một ít là cây thân thảo. Các thành viên trong họ này phân bổ khá rộng, ở cả Cựu Thế giới lẫn Tân Thế giới, chủ yếu trong khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới, nhưng có một số loài sinh sống trong khu vực ôn đới. Họ này có khoảng 650 loài trong 110-113 chi. Một số loài đáng chú ý Đinh tán (chi Catalpa) Lăng tiêu (chi Campsis) Đào tiên (chi Crescentia) Cây xúc xích (chi Kigelia) Thiết đinh (chi Markhamia) Núc nác (chi Oroxylon) Chùm ớt (chi Pyrostegia) Các chi Adenocalymna Amphilophium Amphitecna Anemopaegma Argylia Arrabidaea Astianthus Barnettia Bignonia Callichlamys Campsidium Campsis - Đăng tiêu Catalpa - Đinh tán, tử Catophractes Ceratophytum Chilopsis Clytostoma Colea Crescentia - Đào tiên Cuspidaria Cybistax Delostoma Deplanchea Digomphia Dinklageodoxa Distictella Distictis Dolichandra Dolichandrone Eccremocarpus Ekmanianthe Fernandoa Fridericia Gardnerodoxa Glaziova Godmania Haplolophium Haplophragma Heterophragma Hieris Incarvillea Jacaranda - Phượng tím, bằng lăng nước Kigelia Lamiodendron Leucocalantha Lundia Macfadyena Macranthisiphon Manaosella Mansoa Markhamia - Thiết đinh, đinh Martinella Melloa Memora Millingtonia Mussatia Neojobertia Neosepicaea Newbouldia Nyctcalos Ophiocolea Oroxylum - Núc nác Pajanelia Pandorea Parabiognonia Paragonia Paratecoma Parmentiera Pauldopia Perianthomega Periarrabidaea Perichlaena Phryganocydia Phyllarthron Phylloctenium Piriadacus Pithecoctenium Pleionotoma Podranea Potamoganos Pseudocatalpa Pyrostegia - Chùm ớt Radermachera - Rà đẹt Rhigozum Rhodocolea Roentgenia Romeroa Saritaea Sparattosperma Spathicalyx Spathodea - Sò đo cam Sphingiphila Spirotecoma Stereospermum - Quao Stizophyllum Tabebuia - Chuông vàng Tanaecium Tecoma - Hùng liên Tecomanthe Tecomella Tourrettia Tynanthus Urbanolophium Xylophragma Zeyheria Phân loại Trong các phân tích phát sinh chủng loài phân tử, Bignoniaceae có độ hỗ trợ tự khởi động yếu đáng ngạc nhiên, dựa theo sự cố kết hình thái của nó. Tông Jacarandeae (Digomphia và Jacaranda) là nhóm chị-em với phần còn lại của họ, được biết đến như là Bignoniaceae phần lõi. Bignoniaceae phần lõi được hỗ trợ mạnh trong mọi phân tích phát sinh chủng loài phân tử, nhưng không có đặc trưng cùng có hình thái nào đã biết. Trong phân loại học gần đây người ta không chia họ Bignoniaceae thành các phân họ, nhưng năm 2004 thì Fischer et al. đã chia họ này ra thành 7 tông: Tourrettieae, Eccremocarpeae, Tecomeae (sensu lato), Bignonieae, Oroxyleae, Crescentieae và Coleeae. Kể từ đó Tourrettieae và Eccremocarpeae đã được hợp nhất dưới tên gọi Tourrettieae. Tecomeae sensu lato được chứng minh là đa ngành, bao gồm các nhóm sau: Astianthus, Jacarandeae, Argylia, Delostoma, Perianthomega, Catalpeae, Tecomeae sensu stricto, và toàn bộ Crescentiina – ngoại trừ những chi nào được xếp trong Crescentieae hay Coleeae. Tất cả các nhóm này là đơn ngành – ngoại trừ Crescentiina pro parte. Crescentiina tổng thể là đơn ngành và nó là một tên gọi không có bậc phân loại xác định. Crescentiina bao gồm hai nhánh được hỗ trợ mạnh, với tên gọi không chính thức là liên minh Tabebuia (Tabebuia alliance) và nhánh Cổ nhiệt đới (Paleotropical clade). Tông Crescentieae được nhập vào trong liên minh Tabebuia và có thể được mở rộng để bao gồm cả Spirotecoma. Coleeae sensu Fischer et al. (2004) là đa ngành do việc gộp vào của Kigelia, và nó là lồng ghép trong phạm vi nhánh Cổ nhiệt đới.Perianthomega đã được chuyển từ Tecomeae sensu stricto sang Bignonieae, trong đó nó là chị-em với phần còn lại của tông này. Vì thế, Bignoniaceae có thể được chia ra thành 10 nhóm đơn ngành (xem Các chi trên đây). Phát sinh chủng loài Cây phát sinh chủng loài chỉ ra dưới đây dựa theo các kết quả của 4 nghiên cứu phát sinh chủng loàiLúcia G. Lohmann. 2006. "Untangling the phylogeny of neotropical lianas (Bignonieae, Bignoniaceae)". American Journal of Botany 93(2):304-318. . Đối với tất cả các nhánh thì xác suất hậu nghiệm ít nhất là 0,95 và độ hỗ trợ tự khởi động ít nhất là 70%, ngoại trừ những nơi nào có chỉ ra con số.
Họ Đinh có thể là tên gọi của: Họ thực vật Bignoniaceae Họ người Á Đông: họ Đinh
Chiến dịch Linebacker II, hay còn được biết đến là Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không, là chiến dịch quân sự cuối cùng của Hoa Kỳ chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong Chiến tranh Việt Nam, từ 18 tháng 12 đến 30 tháng 12 năm 1972 sau khi Hội nghị Paris bế tắc và đổ vỡ do hai phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ bất đồng về các điều khoản trong hiệp định. Chiến dịch này là sự nối tiếp của chiến dịch ném bom Linebacker diễn ra từ tháng 5 đến tháng 10 năm 1972, ngoại trừ điểm khác biệt lớn là lần này Hoa Kỳ sẽ tấn công dồn dập bằng máy bay ném bom chiến lược B-52 thay vì các máy bay ném bom chiến thuật, mục đích là dùng sức mạnh và biện pháp không hạn chế đánh thẳng vào các trung tâm đầu não của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tại chiến dịch này, Hoa Kỳ đã huy động loại máy bay ném bom chiến lược mạnh nhất của họ là pháo đài bay B-52 làm nòng cốt để ném bom rải thảm huỷ diệt xuống Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Lạng Sơn và các mục tiêu khác liên tục trong 12 ngày đêm. Đây là những cuộc ném bom dữ dội nhất trong Chiến tranh Việt Nam và là một trong những cuộc tập kích có cường độ cao nhất trong lịch sử các cuộc chiến tranh. Trong 12 ngày, Mỹ đã thả hơn 36.000 tấn bom, vượt quá khối lượng bom đã ném xuống miền Bắc Việt Nam trong toàn bộ thời kì từ 1969 đến 1971. Cuộc ném bom tuy có gây những tổn thất nặng về cơ sở vật chất cho phía Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nhưng đã không làm thay đổi được lập trường của lãnh đạo nước này về nội dung cơ bản của hiệp định hoà bình, đồng thời nó gây một làn sóng bất bình lớn của người Mỹ, dư luận và chính giới của các nước trên thế giới trong đó có cả các đồng minh lâu dài của Hoa Kỳ, uy tín của Chính phủ Hoa Kỳ bị xuống thấp nghiêm trọng. Bị phản đối trong nước, bị cô lập trên trường quốc tế, gặp phải sự chống trả hiệu quả gây thiệt hại lớn cho lực lượng không quân chiến lược, lại không thể buộc đối phương thay đổi lập trường, Tổng thống Richard Nixon đã phải ra lệnh chấm dứt chiến dịch vào ngày 30 tháng 12, đề nghị nối lại đàm phán tại Paris. Tại đây, Hoa Kỳ chấp nhận ký kết Hiệp định Paris trên cơ sở dự thảo mà trước đó họ đã từ chối ký kết (vì đây là dự thảo có những điều khoản có lợi cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà). Sau chiến dịch ném bom khí thế, lòng tự hào trong Quân đội nhân dân Việt Nam và người dân tại miền Bắc Việt Nam lên rất cao: họ không chỉ đánh thắng được "thần tượng B-52" mà còn buộc Hoa Kỳ phải ký Hiệp định Paris với những nội dung có lợi cho họ, đó là những cơ sở để phía Việt Nam Dân chủ Cộng hoà coi chiến dịch này là một thắng lợi chiến lược to lớn. Chiến dịch này còn có một ý nghĩa tâm lý nặng nề cho giới quân sự Hoa Kỳ: đây là chiến dịch mà phía Mỹ đã chủ động lựa chọn mục tiêu, thời điểm, phương thức chiến đấu và đặc biệt là sử dụng sở trường của mình để chống lại sở đoản của đối phương (trình độ khoa học công nghệ), một cuộc đấu mà đối phương sẽ không thể sử dụng yếu tố "du kích" – một cách hình tượng: phía Mỹ thách đấu và được quyền lựa chọn vũ khí và đã thất bại. Chiến dịch này cũng cho thấy điểm yếu của vũ khí máy bay ném bom chiến lược của Hoa Kỳ: B-52 vũ khí chiến lược dùng để chống chọi đối thủ tiềm tàng xứng tầm là Liên Xô cho một cuộc chiến tranh công nghệ cao đã thể hiện điểm yếu ngay khi đối phương có trình độ kinh tế, quân sự, khoa học – công nghệ kém hơn nhiều, và vũ khí chống trả cũng không phải là loại cao cấp của đối phương (vào thời điểm 1972, tên lửa SAM-2 mà Việt Nam sử dụng đã bị Liên Xô thay thế bằng SAM-4 và SAM-5 mạnh hơn nhiều). Ngay sau Chiến tranh Việt Nam, vì lý do này Hoa Kỳ đã phải nỗ lực rất cao trong chạy đua vũ trang trong lĩnh vực máy bay ném bom và đã cho ra kết quả là các máy bay ném bom B-1 Lancer và B-2 Spirit tàng hình. Ở Việt Nam, sự kiện này thường được gọi là "12 ngày đêm" và báo chí, truyền thông hay dùng hình tượng "Điện Biên Phủ trên không" để nhấn mạnh ý nghĩa thắng lợi chiến lược to lớn của sự kiện. Tên gọi này xuất phát từ lời tuyên dương của đại tướng Võ Nguyên Giáp dành cho các đơn vị lập công vào ngày 26/12/1972. Mục tiêu của các bên Hoa Kỳ Sau thất bại của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa trong chiến dịch Lam Sơn 719, quân đội Nhân dân Việt Nam tại miền Nam liên tục mở các cuộc tấn công vào các căn cứ và vị trí chiến lược của Việt Nam Cộng Hòa qua chiến dịch Xuân Hè 1972, làm thất bại kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ. Nhằm giữ thể diện của một siêu cường quân sự và để rút quân trong danh dự, Hoa Kỳ đã tiến hành chiến dịch đánh bom lần cuối này với ý định "đưa miền Bắc về thời kỳ đồ đá", giảm bớt sự hỗ trợ quân sự của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho chiến trường miền Nam. Tại Paris cuối tháng 11 năm 1972, cuộc đàm phán Việt Nam - Hoa Kỳ một lần nữa lâm vào bế tắc. Việt Nam Cộng hòa (vốn không được Mỹ cho phép tham gia họp kín để đàm phán về điều khoản hiệp định) ra sức phản đối bản dự thảo hiệp định, theo đó Quân đội Nhân dân Việt Nam được giữ những vị trí của họ tại miền Nam. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho rằng Hoa Kỳ làm vậy là để rũ bỏ trách nhiệm với họ. Nixon không muốn mang tiếng là đã bỏ mặc Việt Nam Cộng hòa, nên phía Hoa Kỳ đòi thay đổi lại nội dung cốt lõi nhất của dự thảo hiệp định, đó là về quy chế của Quân đội Nhân dân Việt Nam tại chiến trường miền Nam Việt Nam. Ngày 20/11/1972, cố vấn Henry Kissinger đề nghị sửa đổi 69 điểm trong bản dự thảo Hiệp định, theo đó, Hoa Kỳ muốn "có đi có lại", khi quân Mỹ rút khỏi Việt Nam thì Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng phải rút khỏi miền Nam Việt Nam. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không chấp nhận, vì đề nghị như vậy đặt họ ngang hàng với kẻ xâm lược là Mỹ, đồng thời sẽ khiến quân Giải phóng gặp rất nhiều khó khăn sau này. Ngày 23/11/1972, khi gặp Lê Đức Thọ, Henry Kissinger đã đọc bức điện của Nixon ngầm đe dọa ngừng đàm phán, ném bom trở lại. Tuy nhiên ông Lê Đức Thọ đã khẳng khái đáp lại: "Chúng tôi đã đánh nhau với các ông mười mấy năm và cũng đã đàm phán 5 năm rồi. Nay các ông có sẵn sàng mới đi đến giải quyết; không thể dùng đe dọa với chúng tôi được đâu". Cuối tháng 11-1972, Quân uỷ Trung ương Việt Nam nhấn mạnh “Đế quốc Mỹ có thể liều lĩnh dùng B-52 ném bom Hà Nội, Hải Phòng”. Ngày 24/11/1972, Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng cùng các Tham mưu phó: Trần Quý Hai, Vương Thừa Vũ, Cao Văn Khánh, Phùng Thế Tài đã thông qua và phê chuẩn kế hoạch đánh B-52. Nhiệm vụ công tác chuẩn bị phải xong trước ngày 03/12/1972. Đầu tháng 12-1972, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã xuống Sở chỉ huy Quân chủng phòng không - không quân, trực tiếp nghe Tư lệnh Lê Văn Tri trình bày về kế hoạch đánh B-52, ông đã nhấn mạnh: “Để gây sức ép với ta, trước sau Mỹ cũng sẽ đưa B-52 ném bom Hà Nội; quân dân ta, mà nòng cốt là Quân chủng phòng không - không quân phải kiên quyết làm thất bại âm mưu này của chúng”. Ngày 4 đến 13 tháng 12, đàm phán tiếp tục tại Paris suôn sẻ cho đến khi phía Mỹ một lần nữa lật lại vấn đề cốt lõi: quy chế của lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và nêu vấn đề khu phi quân sự. Phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phản ứng bùng nổ bằng cách thu hồi các nhượng bộ từ các buổi họp trước đó và đưa ra đòi hỏi mới, trong đó có việc lật lại vấn đề cơ bản về trao trả tù binh Mỹ. Tháng 10, phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đồng ý trao trả tù binh Mỹ vô điều kiện trong vòng 60 ngày. Nay họ muốn gắn việc trao trả tù binh với việc thả hàng ngàn tù chính trị tại Nam Việt Nam - một vấn đề mà họ đã từng đồng ý dành nó cho các thương thảo cụ thể sau này giữa các bên Việt Nam. Nixon triệu hồi Kissinger về Mỹ và ngừng đàm phán. Ngày 5 tháng 12, Nixon điện cho Kissinger: "Hãy để một chỗ hở ở cửa cho cuộc họp tiếp. Tôi có thể sẵn sàng cho phép ném bom ồ ạt miền Bắc Việt Nam trong thời gian nghỉ ngơi đó" (ám chỉ kỳ nghỉ lễ Giáng Sinh). Đêm 12 tháng 12, Chánh văn phòng Nhà trắng Heizman thừa uỷ quyền của Richard Nixon gửi một bức điện cho Kissinger có đoạn viết: "Chúng ta cần tránh làm bất cứ điều gì có vẻ như là chúng ta phá vỡ thương lượng một cách đột ngột. Nếu xảy ra tan vỡ thì phải làm như là do họ chứ không phải do chúng ta. Trong bất cứ trường hợp nào, Hoa Kỳ không được chủ động cắt đứt cuộc nói chuyện. Chúng ta cần yêu cầu hoãn cuộc họp để tham khảo thêm". Tuy cố tình trì hoãn ở hậu trường, nhưng khi tuyên bố chính thức, Hoa Kỳ đổ lỗi cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã không chịu "đàm phán nghiêm chỉnh". Do vậy, nhiều tài liệu phương Tây vẫn cho rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã bỏ họp trước, và chiến dịch ném bom của Mỹ là để khiến Việt Nam "biết điều" mà chấp nhận họp lại. Ngày 14 tháng 12, Tổng thống Nixon họp với cố vấn an ninh Kissinger, tướng Alexander Haig và chủ tịch Hội đồng tham mưu truởng liên quân - đô đốc Thomas Moorer thông qua lần cuối cùng kề hoạch Chiến dịch Linerbacker II. Nixon nói với đô đốc Thomas H. Moorer, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Hoa Kỳ: "Điều may mắn của ông là được sử dụng một các cách hiệu quả sức mạnh quân sự của chúng ta để thắng cuộc chiến tranh này. Nếu ông không làm được việc đó, tôi sẽ coi ông là người chịu trách nhiệm". Mục tiêu mà Hoa Kỳ đặt ra trong chiến dịch Linebacker II là duy trì nỗ lực tối đa để phá hủy tất cả các tổ hợp mục tiêu chính ở khu vực Hà Nội và Hải Phòng, trong đó phá hủy đến mức tối đa những mục tiêu quân sự chọn lọc tại vùng lân cận của Hà Nội/Hải Phòng. Linebacker II cũng loại bỏ các rất nhiều các hạn chế trong các chiến dịch trước đó ở Bắc Việt Nam, ngoại trừ cố gắng để "giảm thiểu nguy hiểm cho dân thường tới mức có thể cho phép mà không ảnh hưởng hiệu quả" và "tránh các khu giam giữ tù binh, bệnh viện và khu vực tôn giáo". Mục tiêu của Linebacker II cũng vẫn là mục tiêu của Linebacker nhưng với cường độ, sức công phá và mật độ lớn đến mức khủng khiếp để buộc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải chấp nhận điều khoản của Mỹ, đồng thời tỏ rõ cho Nguyễn Văn Thiệu thấy rằng Hoa Kỳ đã cố làm hết trách nhiệm bảo vệ Việt Nam Cộng Hòa, thay vì rút lui mà không chiến đấu. Cũng trong ngày 14 tháng 12, Nixon gửi một tối hậu thư cho Hà Nội: trong 72 giờ đồng hồ để quay lại ký theo phương án Hoa Kỳ đề nghị, nếu không sẽ ném bom lại Bắc Việt Nam. Về lý do quân sự, chính trị thì cuộc ném bom này không cần thiết vì khi đó Hoa Kỳ đã quyết tâm rút quân khỏi cuộc chiến. Hoa Kỳ biết rõ rằng không thể nào bắt Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhượng bộ một vấn đề cốt lõi mà họ đã chiến đấu gần 20 năm, với chỉ bằng một cuộc ném bom dù ác liệt đến đâu. Nó chỉ làm dư luận Mỹ và thế giới bất bình với chính phủ Hoa Kỳ. Đây thực chất chỉ là cách để thể hiện trách nhiệm nghĩa vụ cuối cùng đối với đồng minh Việt Nam Cộng hoà: khi dự thảo hiệp định đã được ký tắt với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chính phủ Việt Nam Cộng hoà đã phản đối kịch liệt và không chấp nhận, Hoa Kỳ quyết định dùng nấc thang quân sự mạnh tay nhất này để chứng tỏ họ đã cố gắng hết mức cho quyền lợi của đồng minh. Ngày 15 tháng 12, Lê Đức Thọ và Kissinger chia tay nhau tại sân bay Le Bourger (Paris). Ngày 16 tháng 12, Kissinger họp báo tại Washington DC đổ lỗi cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kéo dài đàm phán. Tối 18 tháng 12, khi Lê Đức Thọ vừa về đến nhà (sau khi ghé qua Moskva và Bắc Kinh) thì những trái bom đầu tiên từ B-52 trong Chiến dịch Linebacker II rơi xuống Hà Nội. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Với kinh nghiệm chính trị dày dặn, ngay từ ngày 29/12/1967, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói với tướng Phùng Thế Tài, lúc này là Phó Tổng tham mưu trưởng lời dự báo: Từ tháng 5/1972, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các cán bộ tham mưu tác chiến của Quân chủng Phòng không đặt vấn đề: "Tỷ lệ B-52 bị bắn rơi mức độ nào thì Nhà Trắng rung chuyển, mức độ nào thì Mỹ không chịu nổi, phải thua?". Sau mấy tuần, câu trả lời đã được đưa ra: N1 - tỷ lệ Mỹ chịu đựng được là 1-2% (trên tổng số B-52 tham chiến của Mỹ); N2 - tỷ lệ làm Nhà Trắng rung chuyển là 6 - 7%; N3 - tỷ lệ buộc Mỹ phải thua cuộc là trên 10%. Nếu tỷ lệ thiệt hại của B-52 bằng hoặc vượt quá 10%, Mỹ sẽ không thể chịu đựng được và sẽ phải dừng chiến dịch, bởi B-52 là vũ khí chiến lược mạnh nhất của không quân Mỹ, được vận hành bởi các phi công được tuyển chọn và đào tạo kỹ lưỡng, nếu bị thiệt hại quá 10% thì Mỹ khó mà thay thế được (ngoài ra, nhiều phi công Mỹ được trao vinh dự lái B-52 do là con cháu của các gia tộc có thế lực, nếu tỷ lệ chết trận của các "phi công quý tộc" này tăng cao thì chính phủ Mỹ sẽ gặp rắc rối lớn). Hơn nữa, cần nhớ rằng B-52 là vũ khí chiến lược để đối phó với siêu cường là Liên Xô, một nước có quy mô hệ thống phòng không lớn gấp vài chục lần so với Việt Nam, trang bị cũng hiện đại hơn nhiều. Nếu B-52 bị thiệt hại trên 10% trước một đất nước có hệ thống phòng không ít ỏi như Việt Nam thì hiển nhiên đó là một thất bại của Mỹ, nếu tiếp tục chiến dịch thì Mỹ sẽ không còn đủ lực lượng B-52 để đối phó với Liên Xô. Quân chủng Phòng không-Không quân loại trừ N1, quyết tâm đạt N2 và vươn tới N3. Kết quả trong 12 ngày đêm chiến đấu mùa đông năm 1972, Quân chủng Phòng không Không quân đã thực hiện vượt mức chỉ tiêu N3: tỷ lệ B-52 bị bắn hạ là 17,6% (34/197 chiếc, riêng các đơn vị phòng không Hà Nội bắn hạ 23 chiếc). Ngay cả với số liệu mà Mỹ thừa nhận (16 B-52 bị rơi, 4 bị hỏng nặng và 5 bị hỏng trung bình) thì cũng đã vượt qua mức N3. Lực lượng Không lực Hoa Kỳ Theo Karl J. Eschmann, Mỹ đã huy động: Gần 50% B-52 của toàn nước Mỹ (197 trên tổng số 400 chiếc). Thực tế xuất kích 741 lần, 12 phi vụ bị hủy nên còn 729 lần ném bom Gần 1/3 số máy bay chiến thuật của toàn nước Mỹ (1.077 trên tổng số 3.041 chiếc). Thực tế xuất kích 3.920 lần. 1/3 số tàu sân bay (6 trên tổng số 17 chiếc), cùng nhiều tàu chỉ huy - dẫn đường, tàu khu trục, tàu tuần dương, tàu radar, tàu bảo vệ, tàu cấp cứu,... Tập đoàn không quân 7 và 8 (Seventh air force và Eighth air force): trong đó có các liên đội không quân chiến lược B-52 (Strategic Wing) số 43 và 72 đóng tại căn cứ không quân Andersen trên đảo Guam gồm 143 chiếc B-52G, B-52D và liên đội không quân chiến lược số 307 gồm 54 máy bay B-52D đóng tại căn cứ Utapao (Thái Lan); 6 liên đội không quân chiến thuật (Tactical Fighter Wing) gồm 455 máy bay đóng căn cứ tại các căn cứ không quân Ubon Korat và Takhli trên đất Thái Lan, 2 liên đội 124 máy bay đóng tại miền Nam Việt Nam (Đà Nẵng). Không đoàn đặc nhiệm 77 (Task force 77) là các máy bay trên các tàu sân bay của hải quân gồm 6 liên đội với 420 máy bay trên các tàu sân bay: USS America (CV-66): liên đội số 8 (Carrier Air Wing 8) gồm các máy bay F-4, A-6, A-7. USS Enterprise (CVN-65): liên đội 14 (F-4, A-6, A-7) USS Midway (CV-41): liên đội 5 (F-4, A-7) USS Oriskany (CV-34): liên đội 19 (F-8, A-7) USS Ranger (CV-61): liên đội 2 (F-4, A-6, A-7) USS Saratoga CV-60: liên đội 3 (F-4, -6, A-7) Quân đội nhân dân Việt Nam Việt Nam đã tập trung phần lớn lực lượng phòng không chủ lực cho chiến dịch, bao gồm 3 Sư đoàn Phòng không: 361, 363, 375 với 23 tiểu đoàn tên lửa SA-2 (60% toàn lực lượng); 13 trung đoàn pháo cao xạ (50% toàn lực lượng); 4 trung đoàn không quân (100% toàn lực lượng); 4 trung đoàn rađa (80% toàn lực lượng); 3 trung đoàn, 2 tiểu đoàn phòng không của các quân khu Việt Bắc, Hữu Ngạn, Tả Ngạn sông Hồng. Ngoài ra, còn có 346 đội phòng không của dân quân, tự vệ với 1.428 khẩu pháo hoặc súng máy phòng không. Tổng cộng đã có 54.000 chiến sỹ và dân quân tham gia các hoạt động chiến đấu hoặc vận tải. Phòng không Sư đoàn 361 bảo vệ Hà Nội do đại tá Trần Quang Hùng làm tư lệnh, đại tá Trần Văn Giang làm chính ủy. Các đơn vị trực thuộc gồm 3 trung đoàn tên lửa SA-2 (có 1 trung đoàn thiếu) và 5 trung đoàn cao xạ: Trung đoàn tên lửa "Thành Loa" do trung tá Trần Hữu Tạo chỉ huy, gồm 4 tiểu đoàn hỏa lực và 1 tiểu đoàn kỹ thuật, mỗi tiểu đoàn hỏa lực có 6 bệ phóng và cơ số đạn sẵn sàng chiến đấu 12 quả: Tiểu đoàn hỏa lực 57 do thượng úy Nguyễn Văn Phiệt chỉ huy. Tiểu đoàn hỏa lực 59 do đại úy Nguyễn Thăng chỉ huy. Tiểu đoàn hỏa lực 93 do đại úy Nguyễn Mạnh Hùng chỉ huy. Tiểu đoàn hỏa lực 94 do thượng úy Trần Minh Thắng chỉ huy. Tiểu đoàn kỹ thuật 95 do đại úy Đỗ Bỉnh Khiêm chỉ huy. Trung đoàn tên lửa "Cờ Đỏ" do trung tá Nguyễn Ngọc Điển chỉ huy, biên chế hỏa lực và kỹ thuật như Trung đoàn 261: Tiểu đoàn hỏa lực 76 do đại úy Lê Văn Hệ chỉ huy. Tiểu đoàn hỏa lực 77 do thượng úy Đinh Thế Văn chỉ huy. Tiểu đoàn hỏa lực 78 do thượng úy Nguyễn Chấn chỉ huy. Tiểu đoàn hỏa lực 79 do thượng úy Nguyễn Văn Chiến chỉ huy. Tiểu đoàn kỹ thuật 80 do thượng úy Vương Toàn Tước chỉ huy. Trung đoàn tên lửa "Hùng Vương" vừa hành quân từ Vĩnh Linh ra, lúc bắt đầu chiến dịch chỉ còn một tiểu đoàn có khí tài sẵn sàng chiến đấu. Tiểu đoàn hỏa lực 86 do đại úy Phạm Đình Phùng chỉ huy: sẵn sàng chiến đấu từ đầu chiến dịch. Tiểu đoàn hỏa lực 87 do đại úy Đỗ Ngọc Mỹ chỉ huy: không có khí tài Tiểu đoàn hỏa lực 88 do thượng úy Lê Ký chỉ huy: sẵn sàng chiến đấu từ 26 tháng 12. Tiểu đoàn hỏa lực 89 do đại úy Nguyễn Thế Thức chỉ huy: sẵn sàng chiến đấu từ 26 tháng 12. Tiểu đoàn kỹ thuật 90 do đại úy Nguyễn Trắc chỉ huy. Các trung đoàn cao xạ "Sông Đuống", "Tam Đảo", "Đống Đa", "Tháng Tám".Trung đoàn cao xạ "Sông Thương", "Ba Vì": tăng cường cho Sư đoàn 361 từ 25 tháng 12Dân quân tự vệ Hà Nội (phối thuộc 361): gồm 226 trung đội, được trang bị 741 súng pháo các loại, trong đó có 18 pháo cao xạ 100 mm.Sư đoàn 363 bảo vệ Hải Phòng do đại tá Bùi Đăng Tự làm tư lệnh, thượng tá Vũ Trọng Cảng làm chính ủy, biên chế gồm 2 trung đoàn Tên lửa SA-2, mỗi trung đoàn có 3 tiểu đoàn hỏa lực, 1 tiểu đoàn kỹ thuật trong tư thế sẵn sàng chiến đấu; 1 trung đoàn cao xạ và 1 cụm tiểu cao.Trung đoàn tên lửa "Hạ Long" do trung tá Đào Công Thận chỉ huy, 3/4 tiểu đoàn hỏa lực trong tình trạng đủ khí tài và cơ số đạn tiêu chuẩn. Tiểu đoàn hỏa lực 81: do thượng úy Kiều Thanh Tịnh chỉ huy, sẵn sàng chiến đấu từ đầu chiến dịch. Tiểu đoàn hỏa lực 82: sẵn sàng chiến đấu từ đầu chiến dịch. Tiểu đoàn hỏa lực 83: sẵn sàng chiến đấu từ đầu chiến dịch. Tiểu đoàn hỏa lực 84: không đủ khí tài. Tiểu đoàn kỹ thuật 85: sẵn sàng chiến đấu từ đầu chiến dịch.Trung đoàn tên lửa "Nam Triệu" do trung tá Nguyễn Đình Lâm chỉ huy, 3/4 tiểu đoàn hỏa lực trong tình trạng đủ khí tài và cơ số đạn tiêu chuẩn. Tiểu đoàn hỏa lực 71: sẵn sàng chiến đấu từ đầu chiến dịch, từ 21-12 được điều động phối thuộc Sư đoàn 361 Tiểu đoàn hỏa lực 72: do thượng úy Phạm Văn Chắt chỉ huy, sẵn sàng chiến đấu từ đầu chiến dịch, từ 21-12 được điều động phối thuộc Sư đoàn 361 Tiểu đoàn hỏa lực 73: do thượng úy Đặng Minh Chức chỉ huy, sẵn sàng chiến đấu từ đầu chiến dịch Tiểu đoàn hỏa lực 74: không đủ khí tài. Tiểu đoàn kỹ thuật 75: sẵn sàng chiến đấu từ đầu chiến dịch.Trung đoàn cao xạ "Sông Cấm" gồm 3 đại đội pháo 37 mm, 1 đại đội pháo 57 mm, 2 đại đội pháo 100 mm và 1 cụm súng máy phòng không 14,5 mm và 12 mm.Dân quân tự vệ Hải Phòng (phối thuộc Sư đoàn 363) gồm 92 trung đội, được trang bị hơn 200 súng bộ binh (RPD, AK-47 và K-44).Sư đoàn phòng không 365 do Thượng tá Nguyễn Văn Giáo làm tư lệnh, Đại tá Cao Văn Chấn làm chính ủy, có nhiệm vụ bảo vệ khu vực từ Nam đồng bằng Bắc bộ đến Quảng Bình, biên chế gồm 3 trung đoàn tên lửa và 3 trung đoàn cao xạ. Trong đó, chỉ có 6/12 tiểu đoàn hỏa lực tên lửa trong tình trạng đủ khí tài sẵn sàng chiến đấu.Trung đoàn tên lửa "Quang Trung" có các tiểu đoàn hỏa lực 41 và 42 trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu.Trung đoàn tên lửa "Điện Biên" có các tiểu đoàn hỏa lực 52 và 53 trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu.Trung đoàn tên lửa "Sóc Sơn" có các tiểu đoàn hoa lực 66 và 67 trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu.Các trung đoàn cao xạ "Sông Lam", "Hoa Lư", "Sông Gianh".Sư đoàn phòng không 375 do Đại tá Nguyễn Văn Hội làm tư lệnh, Thượng tá Trần Văn Địch làm chính ủy, có nhiệm vụ bảo vệ đường 1 Bắc từ Bắc Giang đến Đồng Mỏ, khu công nghiệp Thái Nguyên và tuyến đường sắt Vĩnh Yên - Lào Cai, biên chế gồm 1 trung đoàn tên lửa và 5 trung đoàn cao xạ:Trung đoàn tên lửa "Hồng Kỳ" trang bị tên lửa Hunqi 1 (Trung Quốc) đã bị hỏng khí tài, không khôi phục được.Các trung đoàn cao xạ "Sông Cầu", "Chi Lăng", "Vạn Kiếp"Trung đoàn cao xạ 256 thuộc Quân khu Việt Bắc (phối thuộc Sư đoàn 375) bảo vệ Thái Nguyên.Trung đoàn cao xạ 254 thuộc Quân khu Tây Bắc (phối thuộc Sư đoàn 375) bảo vệ Yên Bái. Không quân Các trung đoàn "Sao Đỏ", "Yên Thế", "Lam Sơn", được trang bị các máy bay MiG-21, MiG-19 và MiG-17, với 31 chiếc MiG-21 và 16 chiếc MiG-17 trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Radar cảnh giới quốc gia Các trung đoàn "Phù Đổng", "Sông Mã", "Ba Bể", "Tô Hiệu" và Tiểu đoàn 8 Dân quân tự vệ phòng không Gồm 364 đội với 1428 khẩu súng hoặc pháo các loại. Trong đó có 769 khẩu trung-đại liên (RPD, RPK, PK...); 284 khẩu trọng liên 12,7mm; 263 khẩu trọng liên 14,5mm; 61 khẩu pháo cao xạ 37mm; 19 khẩu pháo cao xạ 57mm, 32 khẩu pháo cao xạ KS-19 100mm. Chiến thuật của các bên Không quân Mỹ Trước khi diễn ra chiến dịch, B-52 đã nhiều lần bay vào oanh tạc không phận miền Bắc Việt Nam. Lần đầu tiên máy bay B-52 tham chiến chính là tại Việt Nam, và tại đây nó đã thể hiện sức tàn phá rất ghê gớm. B-52 là vũ khí chủ bài của Không quân chiến lược Mỹ, được thiết kế để đối phó với siêu cường đối thủ là Liên Xô. Máy bay B-52 có kích thước khổng lồ, tầm bay rất xa và lượng bom mang theo rất lớn (hơn 30 tấn bom mỗi chiếc, gấp 15 lần số bom mà máy bay ném bom hạng nặng chủ lực của Mỹ thời thế chiến 2 là B-17 có thể mang theo). Do đó, B-52 còn được mệnh danh là "Pháo đài chiến lược (Stratofortress)", hoặc đơn giản hơn là "Pháo đài bay". Trong một phi vụ oanh tạc, máy bay B-52 thường đi thành nhóm ba chiếc theo đội hình mũi tên, trên độ cao 9–10 km và ném khoảng gần 100 tấn bom (mỗi chiếc ném hơn 30 tấn) với mật độ dày đặc xuống một khu vực khoảng 2,5 km². Nếu một quả bom tiêu chuẩn là 500 lb (gần 250 kg) thì mật độ bom rơi là khoảng 130 quả trên 1 km², tức là khoảng cách trung bình giữa hai hố bom cạnh nhau là khoảng 80 mét. Với mật độ ném bom cao như vậy, xác suất hủy diệt sinh mạng và phá hủy công trình trong dải bom của B-52 sẽ là cực cao. Không quân Mỹ có một thuận lợi đến từ đồng minh của mình. Trong Chiến tranh Sáu ngày năm 1967, Israel đã tịch thu được hơn 20 hệ thống SAM-2 nguyên vẹn bị quân Ả Rập bỏ lại khi rút chạy, nhờ vậy Mỹ đã nắm được tường tận chi tiết của hệ thống này. Năm 1969, đến lượt 1 hệ thống radar cảnh giới P-12 của Ai Cập bị Israel bắt giữ nguyên vẹn, toàn bộ kết quả phân tích được chuyển giao cho Mỹ. Như vậy đến năm 1970, các loại radar phòng không chủ yếu của Quân đội nhân dân Việt Nam đều đã bị Mỹ nắm bắt, và Mỹ đã chế tạo ra các thiết bị gây nhiễu rất hiệu quả. Như phiên bản B-52D, lúc đầu mang 8 máy gây nhiễu, thì tới tháng 12/1972 đã có tới 15 máy gây nhiễu, 2 máy phóng nhiễu giấy bạc. Một tốp 3 chiếc B-52 có 45 máy, như vậy tất cả nhiễu đó tạo thành giải nhiễu chồng chéo, dày đặc, đan xen, công suất rất lớn và rộng. Phiên bản B-52G có khoang lắp đặt thiết bị điện tử được mở rộng để lắp hệ thống gây nhiễu mới. B-52G được trang bị 16 máy gây nhiễu điện tử tích cực, 2 máy gây nhiễu tiêu cực và 2 máy thu tần số radar để tạo màn nhiễu dày đặc che toàn bộ máy bay trước hệ thống radar, tên lửa phòng không của đối phương. Các thiết bị này sẽ tự động thu, phân tích tần số sóng radar của đối phương và cung cấp cho sĩ quan điều khiển để lựa chọn phát tần số sóng để chế áp. Theo một số phi công Mỹ, chỉ riêng hệ thống gây nhiễu trên B-52G đã có giá tương đương một chiến đấu cơ F-4D. Ngoài ra, B-52G còn được lắp 4 đạn tên lửa "chim mồi" ADM-20 Quail (chim cút). Khi được phóng, ADM-20 sẽ giả lập tín hiệu giống máy bay B-52 để tạo mục tiêu giả thay cho B-52 nhằm đánh lừa tên lửa của đối phương. Với vai trò là máy bay ném bom chiến lược, các phi đội B-52 không hoạt động độc lập mà được hộ tống bởi các máy bay trinh sát điện tử EA-6A, EB-66, EC-121 và các chiến đấu cơ F-4, F-105, A-6, A-7 với các thiết bị gây nhiễu chủ động và thụ động đi kèm. Rất nhiều phi đội F-4 đã giả lập tín hiệu nhiễu của B-52 hòng lừa lưới lửa phòng không đối phương. Các máy bay F-4 còn thả các "bom" gây nhiễu gồm hàng triệu sợi kim loại màu bạc, rất mỏng nhẹ (mỗi quả bom chứa 450 bó nhiễu), các sợi kim loại gây nhiễu này có thể làm radar không thể nhận diện được các mục tiêu, nặng thì làm trắng xóa màn hình radar (mất hoàn toàn khả năng theo dõi và bám mục tiêu). Các biện pháp gây nhiễu tổng hợp của Mỹ khiến rada của hệ thống phòng không gặp nhiễu, không thể phát hiện và khóa bắn được B-52. Các đài radar nhìn vòng P-12 của các tiểu đoàn tên lửa SAM-2 chỉ thu được các giải nhiễu đậm đặc, có lúc làm trắng xóa cả màn hình. Để kiểm chứng khả năng của hệ thống gây nhiễu, rạng sáng ngày 16/4/1972, bắt đầu từ 2 giờ 15 phút, Mỹ huy động 20 máy bay B-52 và 170 lần/chiếc máy bay cường kích, ném bom ba trận lớn vào Hải Phòng. 103 nơi trong thành phố bị bom Mỹ tàn phá như các khu phố Thượng Lý, Hạ Lý, Cầu Tre, bến cảng và thôn Phúc Lộc (Kiến Thụy)… Bom Mỹ đã giết và làm bị thương 757 người dân Hải Phòng mà phần lớn là phụ nữ, trẻ em và cụ già. Hai trung đoàn tên lửa số 238 và 285 đã phóng lên đến 93 quả tên lửa SAM-2 nhưng không diệt được chiếc B-52 nào vì bị gây nhiễu quá nặng. Ngoài ra, vũ khí lợi hại là tên lửa chống radar (như loại AGM-45 Shrike, AGM-78 Standard ARM). Tên lửa Shrike sau khi phóng sẽ tìm và "bắt" mục tiêu theo sóng radar, rồi lao thẳng vào gây nổ, là vũ khí chuyên dụng để phá hủy các hệ thống phòng không đối phương. Khi cách rađa vài chục mét thì tên lửa phát nổ lần thứ nhất, văng ra hàng vạn viên bi vuông để phả hủy rađa, tiếp đó phần còn lại lao xuống đất nổ lần thứ 2 để phá hủy nốt. Tại Trung Đông, hàng chục hệ thống tên lửa phòng không của Khối Ả Rập từng bị loại tên lửa này phá hủy, khiến lực lượng này mất khả năng chiến đấu Với một loạt các biện pháp kỹ thuật và chiến thuật, không quân Mỹ tự tin rằng hệ thống phòng không của Quân đội nhân dân Việt Nam sẽ không thể chống trả được. Mỹ tin rằng B-52 chỉ có thể bị rơi do thời tiết, hoặc do trục trặc kỹ thuật chứ quyết không thể bị bắn rơi vì hỏa lực của phòng không – không quân Việt Nam, cuộc tập kích của B-52 vào miền Bắc Việt Nam sẽ chỉ như “một cuộc dạo chơi” với tổn thất ở mức tối thiểu. Quân đội nhân dân Việt Nam Đánh bằng vũ khí phòng không Ở thời điểm năm 1972, SAM-2 là loại tên lửa phòng không duy nhất có trong trang bị của Quân đội nhân dân Việt Nam. Được sản xuất vào giữa thập niên 1950, đến thời điểm năm 1972, SAM-2 đã tỏ ra khá lạc hậu, và còn bị lộ bí mật công nghệ cho đối phương (do Israel thu được một số hệ thống SAM-2 của Ai Cập và chuyển cho Mỹ phân tích). Khi đó, Liên Xô đã thay thế loại tên lửa này bằng những hệ thống SAM-4, SAM-5, SAM-6 có tính năng cao hơn nhiều. Tuy nhiên, do chính sách hòa giải với Mỹ nên Liên Xô đã không viện trợ những loại tên lửa mới này cho Việt Nam. Không quân Mỹ sẽ không phải lo phía Việt Nam được trang bị những hệ thống tên lửa phòng không kiểu mới mà Mỹ chưa biết cách khắc chế. Không có tên lửa phòng không kiểu mới, Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng khá thiếu về số lượng hệ thống tên lửa SAM-2. Toàn bộ lực lượng phòng không Việt Nam vào cuối năm 1972 có khoảng 50 hệ thống SAM-2 (nguồn khác nói rằng có 36 hệ thống sẵn sàng chiến đấu, trong đó chỉ có 23 hệ thống bố trí tại các khu vực mà máy bay Mỹ sẽ đánh phá trong chiến dịch. Con số này chỉ bằng 1/7 số lượng hệ thống phòng không mà quân Ả Rập sử dụng trong Chiến tranh Yom Kippur năm 1973, và càng không đáng kể nếu so với số lượng máy bay Mỹ huy động cho chiến dịch (1.077 máy bay phản lực và 207 chiếc B-52). Nhìn chung, Quân đội Nhân dân Việt Nam không thể trông chờ vào ưu thế vũ khí để chống lại Mỹ, bởi phía Việt Nam yếu thế hơn hẳn cả về công nghệ lẫn số lượng. Để tìm cách chống trả bằng những gì hiện có trong tay, Quân đội Nhân dân Việt Nam phải tìm ra những chiến thuật mới để khắc chế ưu thế về vũ khí của Mỹ. Quân ủy Trung ương chỉ thị cho Quân chủng Phòng không - Không quân nghiên cứu các biện pháp chống nhiễu, nghiên cứu cách đánh, kiên quyết bắn rơi máy bay chiến lược B-52. Sau 19 ngày Mỹ đem thả bom ở đèo Mụ Giạ, Quảng Bình, ngày 19 tháng 7 năm 1965, Hồ Chí Minh nói: "Dù Mỹ có B-57, B-52 hay B gì đi nữa, ta cũng đánh mà đánh là nhất định thắng. Các chú muốn bắt cọp phải vào hang."Từ cuối năm 1968, Bộ tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân đã cử nhiều đoàn cán bộ kỹ thuật, trong đó có một bộ phận của tiểu đoàn trinh sát đi cùng các tiểu đoàn tên lửa vào nam Quân khu 4 và tuyến vận tải chiến lược đường Trường Sơn theo dõi, nghiên cứu nhận dạng và tìm cách đánh máy bay B-52. Qua theo dõi trong hai mùa khô năm 1968-1969 và 1969-1970, nhóm cán bộ phát hiện có một loại radar máy bay B-52 không gây nhiễu được. Trên cơ sở đó, cuối năm 1971, một tổ cán bộ nghiên cứu đề xuất một công trình nghiên cứu cải tiến kỹ thuật: Dùng loại radar không bị máy bay B-52 gây nhiễu ghép nối với đài điều khiển phục vụ tên lửa đánh B-52. Tháng 1 năm 1972, tổ nghiên cứu hoàn thành bản vẽ thiết kế, sau đó chuyển đến Tiểu đoàn 76, Trung đoàn tên lửa 257 lắp ráp thành bộ khí tài mới. Tháng 6 năm 1972, Cục Kỹ thuật cung cấp bản vẽ và một số mẫu cho nhà máy Z119 thuộc Cục Quân giới để lắp ráp 6 bộ khí tài mới. Các bộ khí tài mới mang ký hiệu KX. Cùng với bộ khí tài KX, các tổ rada cũng nghiên cứu khả năng "vạch nhiễu" ở các loại rada khác, nhằm phát hiện được mục tiêu B-52 vốn rất mờ nhạt trong dải nhiễu. Các dạng nhiễu có đủ kiểu, đủ loại với những tên gọi khác nhau được đặt theo hình dáng như: nhiễu quét, nhiễu giọt mưa, nhiễu xoắn thừng, nhiễu râu… Theo quyển Lịch sử ngành quân khí Quân đội nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-1975), Cục Quân khí - Quân chủng phòng không - không quân đã thành công trong việc cải tiến rađa K860 trong đó công lớn đầu thuộc về kỹ sư Nguyễn Ngọc Lạc. Cuối năm 1972, Cục Quân khí - Quân chủng phòng không - không quân tiếp nhận một số rađa K860 của Trung Quốc về để sửa chữa. Đây là loại radar có băng sóng 10 cm và băng sóng 3 cm vốn được trang bị đồng bộ cho pháo cao xạ tầm trung 57mm. Các băng sóng 10 cm thì đối phương dò được, phá nhiễu và tấn công lại, riêng băng sóng 3 cm thì hoàn toàn mới, quân Mỹ chưa biết, nhưng hầu hết các rađa K860 khi hoạt động thì băng sóng 3 cm toàn bị hỏng. Kỹ sư Nguyễn Ngọc Lạc đã phát hiện nguyên nhân băng sóng 3 cm không hoạt động là do mạch điện bị đấu sai. Chính nhờ có sáng kiến, cải tiến của kỹ sư Nguyễn Ngọc Lạc mà radar K860 hoạt động tốt với 2 băng sóng, bắt mục tiêu B52 một cách chính xác, nhờ đó dẫn đường cho tên lửa bắn hạ được B-52. Khi đó, Bộ tư lệnh phòng không không quân đã nhanh chóng triển khai ứng dụng cải tiến toàn bộ radar K860 cho các đơn vị tên lửa để đối phó với máy bay B-52. Tháng 10 năm 1972, tập tài liệu mang tên "Cách đánh B-52 của bộ đội tên lửa" được in, gọi tắt là cuốn "Cẩm nang bìa đỏ", dày 30 trang đánh máy và được bọc ngoài một tờ bìa màu đỏ. Trong cuốn sách là kinh nghiệm phân biệt mục tiêu thật-giả trước màn hiện sóng để bộ đội tên lửa có thể ngắm trúng mục tiêu. Cuốn "Cẩm nang bìa đỏ" cho biết: Tuy không quân Mỹ gây nhiễu dày đặc nhưng trong mớ hỗn loạn các loại tín hiệu nhiễu trên màn hiện sóng, B-52 không phải là hoàn toàn vô hình, nếu tinh mắt vẫn có thể phát hiện được mục tiêu B-52 một cách gián tiếp: đó là các đám nhiễu tín hiệu mịn trôi dần theo tốc độ di chuyển của B-52. Tuy mục tiêu không hiển thị rõ rệt để có thể xác định mục tiêu và điều khiển tên lửa chính xác nhưng cẩm nang đã đề ra biện pháp bắn theo xác suất: bắn một loạt đạn tên lửa vào đám nhiễu theo cự ly giãn cách nhất định sẽ có xác suất tiêu diệt mục tiêu khá cao, phương án bắn xác suất này được "cẩm nang" gọi là "phương án P". Khi mục tiêu B-52 đi thẳng vào đài phát cường độ nhiễu sẽ tăng lên, nhưng tín hiệu mục tiêu cũng sẽ tăng mạnh hơn, mục tiêu sẽ hiển thị rõ nét hơn, đây là thời cơ có thể bắn điều khiển tên lửa chính xác theo "phương án T", khi đó chỉ cần bắn 1 đến 2 quả tên lửa là B-52 sẽ phải rơi tại chỗ. Trong "cẩm nang" đồng thời cũng đề ra các hướng dẫn cụ thể cho các cấp chỉ huy các tiểu đoàn tên lửa về công tác chỉ huy, cách chọn giải nhiễu, chọn thời cơ phát sóng, cự ly phóng đạn, phương pháp bắn, phương pháp bám sát mục tiêu trong nhiễu... Một chiến thuật khác là "phương pháp bắn 3 điểm" dựa trên bộ khí tài hiện có. Khi B-52 bay vào Hà Nội, cường độ gây nhiễu cũng đã bị phân tán. Hướng này bị nhiễu nặng, song ở hướng khác, hai bên sườn, phía trước, phía sau… thì cường độ nhiễu thấp hơn, các đơn vị tên lửa ở các hướng đó có thể phát hiện được B-52 trên nền nhiễu. Quân đội Nhân dân Việt Nam đã bố trí đội hình tên lửa đánh bọc lót cho nhau (3 hệ thống bố trí ở 3 nơi thành một khu vực phòng thủ hình tam giác), sao cho mỗi tốp máy bay Mỹ có thể bị công kích từ nhiều hệ thống tên lửa ở nhiều hướng, sử dụng phương pháp bắn 3 điểm và linh hoạt sử dụng phương pháp bắn đón nửa góc khi thấy mục tiêu. Ngoài ra còn có kỹ thuật điều khiển bắn bằng quang học thay cho radar. Các kíp chiến đấu nhận thấy việc bám sát chia đôi dải nhiễu như trước đây không còn phù hợp và sẽ khó tiêu diệt được máy bay, trắc thủ hai góc phải bám sát dải nhiễu như thế nào để đưa máy bay địch vào đúng tâm cánh sóng thì mới có thể bám bắt và khai hỏa. Phương án sử dụng trắc thủ quang học để chỉ chuẩn cho các trắc thủ tay quay xe điều khiển bám sát. Từ năm 1968, các chuyên gia Liên Xô đã tiến hành lắp thêm kính quang học PA-00 trên nóc anten phương vị của xe thu phát. Thiết bị này được thiết kế để khi hai trắc thủ quang học bám sát chính xác vào một máy bay thì hai trắc thủ góc tà và phương vị của xe điều khiển cũng bám sát đúng vào chiếc máy bay đó, mặc dù trên màn hiện sóng là dải nhiễu tạp. Ngoài ra, đài radar P-12 của tiểu đoàn xác định chính xác cự li mục tiêu để chọn cự ly phóng đạn phù hợp. Đại tá Nguyễn Văn, chỉ huy 1 trung đoàn tên lửa phòng không, sau chiến tranh đã trả lời một quân nhân Mỹ: "Việc phát triển chiến thuật để đối phó với đối phương vượt trội về công nghệ là nhiệm vụ thường trực. Rốt cuộc, chính Liên Xô cũng phải học tập những chiến thuật của chúng tôi. Về mặt kỹ thuật, người Liên Xô là thầy của chúng tôi, nhưng về mặt thủ thuật, chúng tôi là thầy của họ". Đối với tên lửa chống radar của Mỹ, Quân đội Việt Nam đã nghiên cứu, vô hiệu hóa bằng cách phát sóng tức thì, tắt máy đột ngột và quay đài antenna đi hướng khác, tên lửa Shrike cứ thế lao theo quán tính và rơi chệch trận địa. Cùng với trận địa chính, bộ đội Việt Nam làm nhiều trận địa giả, sau mỗi lần phóng tên lửa lại nhanh chóng kéo bệ sang trận địa khác. Những quả tên lửa giả được làm bằng cót, phủ sơn trông như thật. Khi tên lửa thật phóng đạn, thì các bệ tên lửa giả cũng đốt rơm, tạo khói mù mịt đánh lừa máy bay Mỹ, khiến chúng không nhận ra đâu là trận địa thật Nhờ vậy trong suốt 12 ngày đêm của chiến dịch, chỉ có một số ít trận địa phòng không bị đánh trúng, lực lượng phòng không Việt Nam vẫn bảo toàn được lực lượng để tiếp tục chiến đấu. Một điểm đáng lưu ý, một số nguồn tin cho rằng tên lửa SA-2 đã được cải tiến nối tầng nâng tầm bắn. Nhưng thực tế là không phải, bởi tên lửa SA-2 có thể hạ mục tiêu ở độ cao trên 24.000m trong khi trần bay tối đa của B-52 chỉ là 17.000m (khi bay ném bom thì độ cao bay 10.000m), nên việc nâng tầm bắn là không cần thiết. Trên thực tế, yếu tố giúp bắn hạ B-52 nằm ở việc cải tiến các thiết bị radar để "vạch nhiễu tìm thù". Một vấn đề khác liên quan là việc 2 hệ thống SAM-3 của Việt Nam không kịp tham chiến. Được Liên Xô viện trợ cho khối Ả Rập từ năm 1969 nhưng mãi tới năm 1972, Liên Xô mới đồng ý viện trợ SAM-3 cho Việt Nam (chính sách của Liên Xô là ưu tiên khối Ả Rập hơn và không viện trợ vũ khí mới cho Việt Nam để tránh gây căng thẳng với Mỹ, cũng như tránh bị Trung Quốc sao chép công nghệ). Theo kế hoạch, 2 trung đoàn SAM-3 cùng 200 quả tên lửa sẽ được đưa sang Việt Nam vào cuối tháng 12/1972. Theo Trung tướng Nguyễn Văn Phiệt, thì SAM-3 có tốc độ bắn nhanh hơn (có 2 tên lửa trên 1 bệ phóng thay vì 1 tên lửa như SA-2), khả năng chống nhiễu cao hơn do dùng tần số quét khác SAM-2, do đó có xác suất trúng mục tiêu cao hơn SAM-2. Tới đêm 18/12, Trung đoàn 276 – trung đoàn SAM-3 thứ hai về đến ga Kép (Bắc Giang). Trung đoàn 276 tập trung mọi khả năng cho tiểu đoàn hỏa lực 169 hoàn chỉnh đồng bộ bước vào chiến dịch trước. Ngày 30/12/1972, Tiểu đoàn 169 đã chiếm lĩnh và triển khai trận địa ở Bắc Hồng (Đông Anh, Hà Nội), nhân viên kỹ thuật triển khai nhanh dây chuyền lắp ráp được 4 quả đạn SAM-3. Tuy nhiên, khi công tác chuẩn bị chiến đấu hoàn tất thì chiến dịch phòng không đã kết thúc vào đêm hôm trước. Đánh bằng không quân Đối với không quân, trước chiến dịch, Không quân Nhân dân Việt Nam chỉ có 71 máy bay các loại sắn sàng hoạt động, trong đó chỉ có 47 tiêm kích (31 chiếc MiG-21 và 16 chiếc MiG-17). Phần lớn phi công không quen bay vào ban đêm, chỉ có 13 phi công MiG-21 và 5 phi công MiG-17 có khả năng bay đêm. Trong số 194 phi công, 75 người (khoảng 40%) tuổi đời vẫn còn rất trẻ. Do thua kém quá xa không quân Mỹ về số lượng máy bay, Không quân Việt Nam nhấn mạnh việc sử dụng chiến thuật bất ngờ. Tiếp cận bí mật, tấn công bất ngờ và rút lui thật nhanh sau khi phóng tên lửa là chiến thuật thường được sử dụng bởi các phi công Việt Nam. Ngay từ giữa 1972, 12 phi công đã được chọn để lái tiêm kích bay đêm (vốn đòi hỏi kỹ thuật cao hơn so với tiêm kích ban ngày) để sẵn sàng đón đánh B-52. Phi công Phạm Tuân cho biết: "Với không quân thì khó khăn hơn, máy bay B-52 được yểm trợ rất mạnh, lại bay ban đêm, gây nhiễu rađa, gây nhiễu mục tiêu… ngoài ra, bản thân B-52 được trang bị tên lửa mồi, nếu MiG-21 bắn tên lửa thì B-52 thả tên lửa mồi, chưa kể B-52 cũng được trang bị súng phía đuôi có khả năng tiêu diệt máy bay tiêm kích. B-52 còn được bảo vệ bằng các máy bay chiến đấu, tiêm kích đánh chặn, đánh ngay vào mục tiêu như sân bay, trận địa tên lửa. Không quân phải có sân bay, tránh được máy bay F-4 bảo vệ B-52, để có thể nhanh chóng tiếp cận. Vì vậy, không quân phải tập bay ở những sân bay ngắn, mới làm ở các nông, lâm trường, tập bay thấp, bay cao để có thể tiếp cận nhanh được B-52. Những thời điểm như vậy thể hiện trí tuệ, sáng tạo của dân tộc, của Không quân Nhân dân Việt Nam. Chúng ta phải cất cánh trong những điều kiện khó khăn, phải cất cánh lên được để đánh. Điều này đòi hỏi ý chí, nhưng ý chí không đủ, phải sáng tạo. Ví dụ ta làm rất nhiều sân bay dự bị, hoặc cất cánh trên đường băng phụ. Thậm chí, có khi chúng tôi đeo thêm 2 quả tên lửa bổ trợ, khi đó máy bay có thể cất cánh trên đường băng chỉ 200-300m so với đường băng 1,5 km thông thường... Nga sản xuất máy bay và dạy chúng ta cách bay, nhưng đối diện với thực tế bị nhiễu, rất khó biết B52 nằm ở chỗ nào, rất khó biết được chính xác. Thế cho nên, phi công phải chủ động. Ở đây là bản lĩnh của phi công, phải phán đoán được tình huống như thế nào." Đánh tại sân bay Với chủ trương: địch xuất phát từ đâu, ta sẽ đánh trả ngay tại nơi sào huyệt của chúng, và trên cơ sở phân tích tin tình báo chiến lược, phán đoán ý đồ của Mỹ. Bộ Tư lệnh Binh chủng Đặc công đã giao nhiệm vụ cho Thượng tá Nguyễn Đức Trúng, Tham mưu trưởng Binh chủng, nghiên cứu và chuẩn bị phương án đánh thẳng vào những căn cứ máy bay B-52 của Mỹ tại Thái Lan. Đánh Sân bay Hải quân Hoàng gia Thái Lan Utapao Tháng 5 năm 1971, Lê Toàn - Chính trị viên Tiểu đoàn Đặc công biệt động 1A đã cùng một tổ công tác vượt biên giới sang Campuchia rồi từ đó lên sát biên giới Thái Lan, trực tiếp bắt liên lạc và thành lập một tổ đặc công gồm Trần Thế Lại, Bùi Văn Phương, Vũ Công Đài đang hoạt động ở Thái Lan. Nhận nhiệm vụ tổ chức trận đánh, Trần Thế Lại đã liên lạc và giao nhiệm vụ cho Bùi Văn Phương chuẩn bị vị trí cất giấu vũ khí, giả trang là dân thường đến khu vực sân bay Utapao để điều tra, nghiên cứu mục tiêu, nắm tình hình sơ bộ và kiểm tra nơi cất giấu vũ khí. Từ ngày 5 đến 09 tháng 11 năm 1971, Vũ Công Đài và Bùi Văn Phương (là hai người sẽ trực tiếp thực hiện trận đánh) đã gặp nhau bàn bạc thống nhất kế hoạch, nội dung và phương pháp. Các anh đã dự kiến một phương án tấn công sân bay là phá hủy bí mật bằng thủ pháo nổ chậm, nếu bị lộ thì chuyển sang đánh nổ ngay. Vũ khí sẽ sử dụng là 10 quả thủ pháo loại 0,4 kg bằng chất nổ mạnh C4 và 2 quả lựu đạn. Ngày 09 tháng 1 năm 1972, hai anh đi xe đến gần khu vực sân bay. Quá trình xâm nhập vào mục tiêu, các chiến sĩ đặc công đã ba lần gặp địch. Hai lần khéo léo ngụy trang thoát khỏi sự quan sát của lính gác, đến lần thứ ba thì tổ chiến đấu buộc phải nổ súng tiêu diệt nhóm tuần tra gồm hai lính Mỹ và một chó béc giê. Khi vào cách nơi máy bay B-52 đỗ khoảng 300m, bất ngờ gặp 3 xe ôtô và 2 lính Mỹ, hai người phải vòng tránh theo hướng khác. Khi khoảng cách còn 50m, một tổ tuần tra khác của địch phát hiện nổ súng bắn chặn, Bùi Văn Phương tung lựu đạn về phía địch. Hai anh dùng thủ pháo đánh vào từng chiếc máy bay B-52 trong nhà xưởng. Số thủ pháo vừa hết, Bùi Văn Phương ra lệnh rút lui. Khi rút lui, Vũ Công Đài bị lính gác bắn trúng và hy sinh. Trong trận đánh này, 3 chiếc máy bay B-52 bị phá hỏng. Đánh sân bay Udon Tháng 7 năm 1972, Đoàn A54 cử 23 cán bộ, chiến sĩ thành một tổ soi đường và một tổ bảo đảm hậu cần, vượt Trường Sơn hành quân đến khu rừng nguyên sinh Đôn Ka Thom nằm ở ngã ba biên giới 3 nước Thái Lan - Lào - Campuchia, lập một trạm chỉ huy nghiên cứu tình hình, mở hành lang vào khu vực sân bay Udon. Tháng 8 năm 1972, tổ soi đường đã liên lạc được với một cơ sở lực lượng cách mạng trên đất Thái Lan. Hàng ngày, các anh thường đóng giả người dân Thái Lan nhằm thực hiện nhiệm vụ trinh sát khu vực sân bay. Cuối tháng 8 năm 1972, một đội hình chiến đấu gồm 10 người được thành lập do Đào Đức Hạnh - Đoàn trưởng Đoàn A54 chỉ huy tới cơ sở cách mạng của ta ở Thái Lan (Căn cứ 07). Phương án đánh B52 lần này là dùng mìn nổ chậm, nếu bị lộ thì chuyển sang đánh nổ ngay. Tám đồng chí trong đội hình chiến đấu chia làm ba tổ, trong đó hai người có nhiệm vụ mở cửa và bảo vệ cửa mở; bốn người đánh phá máy bay, hai người đánh phá kho xăng. tháng 9 năm 1972, đội thực hiện nhiệm vụ trinh sát tạo hành lang từ Căn cứ 07 đến sân bay Udon, nhằm xác định vị trí tập kết, xác định đường đột nhập vào sân bay. Ngày 01 tháng 10 năm 1972, đội hình chiến đấu bắt đầu cơ động vào sát khu vực sân bay Udon đến gần sáng ngày 02 tháng 10, đội mới tới được gần sân bay. Tối ngày 02 tháng 10 năm 1972, hai tổ chiến đấu tiềm nhập vào sân bay, tổ mở cửa triển khai bảo vệ đầu cầu. Theo hiệp đồng chiến đấu, sau khi cài đặt lượng nổ, mìn hẹn giờ vào mục tiêu, cả hai tổ phải rút ngay để kịp rời sân bay trước khi trời sáng. Cho tới 10 giờ sáng ngày 03 tháng 10, tổ đánh kho xăng và tổ mở cửa mới gặp được nhau, bốn người còn lại của tổ đánh B-52 vẫn chưa thể thoát ra được. Trong trận đánh này, một số máy bay, 1 trạm điện, 1 kho xăng đã bị phá hủy, 1 lính canh sân bay chết và 6 lính đối phương bị thương. Tuy nhiên, ba người lính đặc công là Phan Xuân Kính, Phạm Văn Lãm, Vũ Công Xướng đã hy sinh ngay tại sân bay, Nguyễn Khắc Nga bị thương nặng và bị địch bắt. Đánh Sân bay Ubon Ratchathani Trước năm 1972, Sân bay Ubon Ratchathani đã 6 lần bị đặc công Việt Nam gài mìn phá hủy nên quân đội Thái Lan tăng cường bảo vệ an ninh. Lê Toàn, Chính trị viên Tiểu đoàn Đặc công biệt động 1A đã cùng Nguyễn Bá Do bí mật sang Campuchia gặp Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam đề nghị chi viện vũ khí. Đồng Văn Cống đã quyết định cấp ngay vũ khí theo đề nghị của Tiểu đoàn gồm 2 súng cối 82mm, 2 cơ số đạn, 200 thủ pháo tay cùng một số vật chất chiến đấu. Ngày 02 tháng 10 năm 1972, một đội hình chiến đấu gồm 27 người của Tiểu đoàn Đặc công biệt động 1A được thành lập. Đội được tổ chức thành hai bộ phận, trong đó bộ phận trực tiếp chiến đấu gồm 13 người trang bị 1 súng cối 82mm, 40 quả đạn, do Nguyễn Công Mùi chỉ huy. Khi đến vị trí, bí mật triển khai trận địa, đội hình chiến đấu nổ súng theo đúng kế hoạch đã định. 40 quả đạn mang theo, 5 quả không nổ do ảnh hưởng thời tiết mưa gió ẩm ướt, 35 quả đạn còn lại đã nổ trúng mục tiêu phá hủy đài chỉ huy sân bay, xưởng sửa chữa và một số thiết bị sân bay và rút lui an toàn. Nhưng khi về tới gần biên giới, đội đã bị lọt vào ổ phục kích của đối phương, làm chết 6 lính đặc công. Diễn biến Trong chiến dịch có tổng cộng 741 lượt B-52 vào ném bom Bắc Việt Nam trong đó có 12 lượt bị hủy, trong thời gian đó vẫn có 212 lượt B-52 đi ném bom ở miền Nam Việt Nam. Hỗ trợ cho các máy bay ném bom là 3.920 lượt máy bay ném bom chiến thuật của không quân và hải quân. Tổng cộng đã có hơn 36.000 tấn bom đã được thả xuống những nơi được Mỹ coi là 18 mục tiêu công nghiệp và 14 mục tiêu quân sự (trong đó có 8 địa điểm có tên lửa SAM). Cuộc tập kích của không quân Mỹ diễn ra liên tục trong ngày với trọng tâm là các cuộc ném bom của B-52 vào ban đêm. Một lực lượng lớn máy bay B-52, mỗi chiếc mang tối đa 66 quả bom 750-pound (340 kg) hoặc 108 quả bom 500-pound (227 kg) thực hiện các cuộc tấn công hủy diệt hàng đêm tại Hà Nội và Hải Phòng. Còn ban ngày các bay chiến thuật thay nhau liên tục đánh phá ác liệt các sân bay của không quân tiêm kích Bắc Việt Nam, các trận địa tên lửa và các trạm radar phòng không. Trong 12 ngày đêm cuối năm 1972, hơn nửa triệu dân nội đô (xấp xỉ 50% dân số Hà Nội lúc đó) đã được tổ chức sơ tán về các huyện ngoại thành và các tỉnh lân cận để tránh thương vong. Thiếu tướng Nguyễn Văn Ninh, nguyên phó cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu, kể rằng việc ông quan tâm và dành thời gian tìm hiểu là cuộc sơ tán thần tốc của người dân Hà Nội trong những ngày chiến tranh ác liệt nhất. Nhờ làm tốt chủ trương này mà Hà Nội đã giảm thiểu được thương vong về người trước sức công phá ác liệt của các loại vũ khí hiện đại. Để tránh né hệ thống phòng không miền Bắc, Hoa Kỳ đã dùng máy bay B-52 bay ở độ cao lớn rải thảm bom vào các mục tiêu như sân bay Kép, Phúc Yên, Hòa Lạc, hệ thống đường sắt, nhà kho, nhà máy điện Thái Nguyên, trạm trung chuyển đường sắt Bắc Giang, kho xăng dầu tại Hà Nội... Thiệt hại về cơ sở hạ tầng tại miền Bắc Việt Nam là rất nặng nề. Hà Nội, Hải Phòng bị tàn phá, các nhà máy, xí nghiệp, các khu dân cư xung quanh mục tiêu quân sự và dân sự trở thành đống gạch vụn. Ở Hà Nội, ngày 26/12, riêng tại phố Khâm Thiên, bom trải thảm đã phá sập cả dãy phố, sát hại 287 dân thường, làm bị thương 290 người, 178 đứa trẻ trở thành mồ côi, trong đó có 66 trẻ em mồ côi cả cha lẫn mẹ. Bệnh viện Bạch Mai, cơ sở y tế lớn nhất miền Bắc Việt Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn khiến 30 bác sĩ, y tá và 1 bệnh nhân bên trong thiệt mạng. Số dân thường bị thiệt mạng trong chiến dịch là 2.200 người, trong đó con số tại Hà Nội được thống kê là 1.318 người. Chiến dịch này đã phá hoại nặng nề nhiều cơ sở vật chất, kinh tế, giao thông, công nghiệp và quân sự ở miền Bắc Việt Nam nhưng mục tiêu cốt lõi là làm thay đổi được lập trường của lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì đã không đạt được. Trước khi chiến dịch diễn ra ít ngày, ngày 22/11/1972, bộ đội tên lửa Quân đội Nhân dân Việt Nam đã thành công trong việc bắn trúng 1 chiếc B-52 tại Thanh Hóa. Chiếc máy bay B-52 bị hư hại nặng, nhưng tổ lái đã cố gắng xoay xở để lái chiếc máy bay "rách nát" về tới sân bay ở Thái Lan rồi hạ cánh, thoát ra ngoài trước khi chiếc B-52 bị bốc cháy hoàn toàn trên đường băng. Ngày 18/12/1972 Ngày 18/12/1972, những tốp B-52 đầu tiên xuất kích. Trên bảng tiêu đồ tại Sở chỉ huy, một trong số ba nữ tiêu đồ viên có tên Nguyễn Thị Vân lo lắng khi thấy tín hiệu báo những chiếc B-52 bay tới. Cô nhớ lại: "Thoạt tiên là một tốp, rồi tiếp tới 2 tốp, sau đó là hàng loạt tốp xuất hiện như một bầy ruồi. Nhưng tinh thần hoàn thành nhiệm vụ của một người lính đã giúp tôi lấy lại bình tĩnh và tiếp tục đánh dấu đường bay". Sở chỉ huy Sư đoàn 361 theo dõi hướng tấn công của các tốp mục tiêu trước khi phân công số tốp và nhiệm vụ tiêu diệt mục tiêu cho các phân đội hỏa lực. Tiểu đoàn 57 Trung đoàn tên lửa 261 có trận địa ngay bờ bắc sông Hồng là phân đội tên lửa đầu tiên chặn đánh đội hình tập kích. Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 57 Nguyễn Văn Phiệt là một chỉ huy dày dạn, từng lăn lộn chiến đấu chống các trận không kích của Mĩ trong suốt 5 năm nhưng cũng chưa bao giờ gặp trường hợp nhiễu nặng như vậy. Ông nhớ lại: "Tất cả các tín hiệu mục tiêu đều biến mất trong đám nhiễu trắng lóa khắp màn hiện sóng. Màn hiện sóng trước mặt sĩ quan điều khiển và các trắc thủ hiện lên các vạch xanh đậm đan chéo chằng chịt với nhau và biến đổi không ngừng, các dải nhiễu nhằng nhịt nối tiếp nhau xuất hiện, tụ vào rồi lại tan ra trước khi xuất hiện hàng trăm, hàng nghìn đốm sáng trùm lên màn hiện sóng giống cả đám tín hiệu mục tiêu đang di chuyển hỗn loạn. Với cả mớ tín hiệu hỗn loạn đi kèm với màn hiện sóng radar chập chờn trôi xuống liên tục giống như trận mưa trút nước...". Trên các xe điều khiển, các kíp trắc thủ điều khiển tên lửa cố gắng bám theo dải nhiễu B-52 nhờ đài radar cảnh giới P-12 thay vì bật radar điều khiển Fan Song để tránh làm lộ vị trí đài phát trước đám máy bay tiêm kích chế áp phòng không Wild Weasel mang tên lửa chống radar. Nhưng việc bám mục tiêu thụ động cũng không mấy hiệu quả do bị nhiễu quá nặng. Về mặt quân sự, Hoa Kỳ đã đánh giá thấp lực lượng phòng không của đối phương. Không lực Hoa Kỳ quá tin tưởng vào các biện pháp kỹ thuật gây nhiễu điện tử để bịt mắt radar và tên lửa phòng không của đối phương. Để đáp lại, các lực lượng tên lửa phòng không Quân đội nhân dân đã giải quyết vấn đề bằng những biện pháp chiến thuật sáng tạo và hợp lý. Dù Hoa Kỳ sử dụng các thiết bị gây nhiễu rada mạnh, phòng không Việt Nam đã tìm ra cách dò dấu vết B-52 trong dải nhiễu, bắn các máy bay B-52 theo xác suất và đã thành công vượt xa mức trông đợi. Trong ngày chiến đấu đầu tiên, khi đội hình máy bay tập kích tiến tới, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 78 Nguyễn Chấn nhìn thấy "tầng tầng lớp lớp các loại nhiễu nhìn giống những chiếc nan quạt lớn chồng chéo lên nhau cùng xổ xuống, xóa nhòa tất cả các dải tần, làm lóa mắt kíp trắc thủ. Tín hiệu mục tiêu xoắn quện, vón cục rối bời với nhau trông như một cuộn len." Khi đội hình B-52 tới gần mà radar cảnh giới của đơn vị vẫn không phát hiện được mục tiêu, Chấn đã quyết định mở máy phát sóng sục sạo mục tiêu. Ngay sau đó sĩ quan điều khiển Nguyễn Văn Luyến đã bám được vào dải nhiễu của một chiếc B-52 và nhấn nút chuyển tín hiệu bám mục tiêu sang màn hiện sóng của 3 trắc thủ. Trắc thủ cự li Đinh Trọng Đức hô to "B-52" rồi cùng các trắc thủ khác thao tác tinh chỉnh cự li, phương vị và góc tà bám sát dải nhiễu. Cách Hà Nội vài cây số về hướng bắc, Tiểu đoàn tên lửa 59 phóng cả bốn đạn đều trượt, mà lại còn bị đối phương quăng bom trùm lên trận địa. Lúc này, trong khi đang quan sát đội hình ném bom của đối phương bay vào trên màn hiện sóng radar P-12 và bảng tiêu đồ kế bên, tiểu đoàn trưởng Nguyễn Thăng nhận được lệnh từ sở chỉ huy Trung đoàn 261 giao nhiệm vụ diệt tốp mục tiêu 671 có độ cao 10.000 mét. Tiểu đoàn trưởng Thăng lệnh ngay cho sĩ quan điều khiển Dương Văn Thuận: "Mục tiêu, phương vị 350, cự li 30 km, độ cao 10.000 mét, phát sóng". Thuận đánh tay quay chỉnh an-ten về góc phương vị 350 rồi bật công tắc phát sóng bắt mục tiêu. Sau 4 giây lên sóng, khi thấy trên màn hiện sóng hiện lên các dải nhiễu cho thấy đội hình một biên đội 3 chiếc B-52, Thuận báo cáo tiểu đoàn trưởng Thăng: "Phát hiện mục tiêu, phương vị 352, không rõ cự li, độ cao 10.000 mét, theo tốp, bay vào". Thăng chuyển qua ngó màn hiện sóng trước mặt sĩ quan điều khiển rồi quay lại vị trí để kiểm tra tín hiệu tốp mục tiêu trên màn hiện sóng chỉ huy và đường bay trên bảng tiêu đồ, sau đó ra lệnh cho Thuận chuẩn bị phóng 2 đạn. Ngay cả trong điều kiện chiến đấu bình thường thì điều khiển tên lửa bằng tay bám theo tín hiệu mục tiêu hiện rõ trên màn hiện sóng đã là một việc khó, huống hồ là lái tên lửa vào dải nhiễu của B-52. Chỉ cần vê tay quay điều khiển giật cục hay lỡ trớn thì tên lửa đã bay trệch mục tiêu tới hàng cây số hay phát nổ ngay trên không. Khi chiếc B-52 tiến vào, Thuận đã nhấn nút phóng liền 2 đạn rồi cùng các trắc thủ tập trung vào màn hiện sóng và tay quay, vừa bám sát mục tiêu vừa lái đạn. 24 giây sau khi các quả đạn được phóng đi, đèn báo hiệu ngòi nổ cận đích của quả đạn đầu tiên rồi quả thứ hai nháy sáng trên bảng điều khiển báo hiệu đạn nổ tốt. Trắc thủ phương vị Nguyễn Văn Độ và trắc thủ góc tà Lê Xuân Linh lần lượt báo cáo tín hiệu dải nhiễu của mục tiêu biến mất trên màn hiện sóng phương vị và nhanh chóng tụt độ cao trên màn hiện sóng góc tà. Chiếc B-52 có mật danh liên lạc Charcoal 1 của Bob Certain bị bắn hạ khi đã tới sát mục tiêu rải bom, 3 trong số 6 phi công tử trận. Đó là chiếc B-52 đầu tiên bị hạ trong chiến dịch. Tại Vinh, Nghệ An, Tư lệnh Sư đoàn phòng không 365 Nguyễn Văn Giáo phụ trách không phận Khu 4 đã chỉ huy các trung đoàn tên lửa 263, 267 và 275 đón đánh B-52 trên đường bay ra sau khi ném bom Hà Nội. Lúc 20 giờ 16 phút tối 18-12-1972, các trắc thủ của các tiểu đoàn tên lửa 52 và 53 của Trung đoàn 267 (Đoàn Điện Biên) đóng tại trận địa Đất Thịt báo cáo phát hiện dải nhiễu B-52 trôi đề từ hướng Tây Bắc xuống. Bộ đội Radar xác nhận đó là tốp B-52 số hiệu 675 đang trên đường bay ra. Tiểu đoàn 52 và Tiểu đoàn 53 được lệnh phóng 4 đạn vào tâm dải nhiễu mục tiêu. Chiến B-52 bay đầu tốp trúng đạn, bị thương nặng và phải hạ cánh xuống sân bay Đà Nẵng. Sau đó, nó bị tháo dỡ, chất lên tàu biển đưa về Mỹ vì sân bay Đà Nẵng không đủ nđiều kiện vật chất và kỹ thuật để sửa chữa lớn máy bay B-52. Ngày 21/12/1972 Đêm 20 rạng ngày 21 tháng 12 chứng kiến nỗ lực phòng thủ mãnh liệt nhất của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chống lại các máy bay B-52, đó là ngày B-52 phải chịu tổn thất cao nhất trong toàn chiến dịch. Đôi khi Quân đội Nhân dân Việt Nam không tấn công biên đội đầu tiên trên vùng trời mục tiêu mà dùng nó để xác định đường bay và các điểm lượn vòng, tiếp đó các biên đội sau phải chịu hỏa lực mạnh ở gần các điểm thả bom, nơi mà họ phải bay ổn định, và trên đường rút khỏi mục tiêu. Trong đêm đó, lực lượng phòng không Việt Nam đã phóng 36 tên lửa SAM trong suốt 3 đợt tấn công. Các loạt phóng tên lửa được tổ chức và điều khiển rất khôn ngoan, đạt xác suất trúng đích rất cao: bắn rơi tại chỗ 6 chiếc B-52 và bắn trúng 1 chiếc B-52 khác (không rơi tại chỗ). Trong một tình huống có tới cả ba tiểu đoàn tên lửa cùng phóng đạn vào một chiếc B-52 vừa mở khoang bom khiến nó nổ tung. Chớp lửa từ vụ nổ của 30 tấn bom mạnh đến nỗi một máy bay trinh sát của Mĩ hoạt động trên Vịnh Bắc bộ cách đó tới 80 dặm vẫn còn nhìn thấy. Chỉ 2 trong số 6 thành viên kíp lái trên chiếc máy bay này sống sót. Tại hầm Sở chỉ huy Sư đoàn 361 nữ phát thanh viên liên tục thông báo tình hình chiến sự cho biết hết chiếc này tới chiếc khác B-52 bị bắn rơi. Tư lệnh Quân chủng phòng không Lê Văn Tri điện xuống Sư đoàn 361 thông báo: "Đội hình tấn công của đối phương đã rối loạn. Chúng đang réo gọi nhau một cách hoảng loạn và kêu gào lực lượng tìm cứu phi công…". Vào nửa đêm hôm đó, Bộ tư lệnh Không quân chiến lược Hoa Kỳ đã hủy lệnh cho B-52 ném bom đợt 2 xuống các mục tiêu ở Hà Nội mà chuyển sang mục tiêu khác ở tít trên phía bắc. Các kíp tên lửa phòng không Việt Nam đã làm được cái điều mà người Nhật, Đức, Bắc Triều Tiên, Trung Quốc chịu không làm được trong các cuộc chiến trước, đó là lần đầu tiên và duy nhất trong lịch sử các chiến dịch tập kích đường không của Mĩ, đội hình máy bay ném bom đang trên đường tới tấn công mục tiêu đã phải thúc thủ quay về vì vấp phải hệ thống phòng không của đối phương. Dù đã cho hủy lệnh tấn công đợt hai nhưng SAC vẫn cố tung đợt tấn công thứ 3 tới đánh phá Hà Nội vào 4 giờ sáng ngày hôm sau, lúc mà lực lượng tên lửa phòng không Việt Nam đã được tiếp đạn đầy đủ, thêm 3 chiếc B-52 bị hạ. Tổng cộng trong đêm đó, 4 máy bay B-52G và 2 máy bay B-52B bị bắn rơi, một máy bay B-52D bị bắn hỏng. Ngày 25/12/1972 Trong ngày này, Mỹ ngừng ném bom để nghỉ lễ Giáng sinh. Sáng 25/12/1972, Tổng thống Mỹ Richard Nixon tổ chức họp báo ở Nhà Trắng, tuyên bố rằng việc ném bom diễn ra chính xác và nhân đạo, chỉ nhằm vào các mục tiêu quân sự. Nhưng trên kênh truyền hình CNN của Mỹ lại để xuất hiện trên phông nền phía sau Nixon cảnh tượng các khu dân cư ở Hà Nội và Hải Phòng bị tàn phá. Tối 25-12-1972, sau khi xem lại kênh CNN, Richard Nixon đã quát mắng John Ehrlichman, trợ lý các vấn đề đối nội kiêm thư ký báo chí Nhà Trắng. Nixon lập tức ra lệnh phong tỏa thông tin về chiến dịch, đặc biệt là các thông tin về thiệt hại của B-52. Những người phát ngôn của Nhà Trắng và Lầu Năm Góc chỉ được phép thông tin về số lượng các phi vụ và các mục tiêu đánh phá không sớm hơn 24 giờ sau khi các phi vụ đã hoàn tất. Một số phi công B-52 đã chống lại lệnh bay nếu bộ chỉ huy Mỹ không thay đổi chiến thuật mà họ cho là rất ngu ngốc. Đại úy Michael Heig ở căn cứ Anderson đã trả lại bản kế hoạch ngay tại cuộc giao ban và từ chối thực thi nhiệm vụ. Một số phi công đã đòi gặp các thượng nghị sĩ và hạ nghị sĩ để khiếu nại. Những người này lập tức bị bắt và đưa về Mỹ, vài người bị đưa ra xét xử tại tòa án quân sự của Bộ Chỉ huy Không quân chiến lược Mỹ (SAC). Phía Việt Nam cũng tận dụng ngày này để tái bố trí lực lượng, sửa chữa khí tài và bổ sung đạn dược. Lực lượng tên lửa bảo vệ Hà Nội đã tăng lên 13 tiểu đoàn so với 9 tiểu đoàn trong giai đoạn đầu. Hướng Đông Bắc Hà Nội đã có thêm các tiểu đoàn hỏa lực tên lửa 71 và 72 của Đoàn Nam Triệu lên tăng cường. Hướng Đông Nam Hà Nội đã có hai tiểu đoàn 87 và 88 (Đoàn Hùng Vương) vừa sửa chữa xong khí tài, có nhiệm vụ đánh B-52 sau khi chúng ném bom và thoát ly ra hướng Đông và Đông Nam. Pháo cao xạ bảo vệ Hà Nội được tăng cường lên tới 7 trung đoàn, gồm 42 đại đội pháo các cỡ và 2 đại đội pháo 100mm của tự vệ Thủ đô. Gần 200 trung đội dân quân, tự vệ sử dụng các cỡ súng bộ binh cá nhân đến súng máy 14,5 mm bắn máy bay địch bay thấp đã được triển khai, 49 vọng quan sát phòng không đã được bố trí quanh Hà Nội. Bộ Tư lệnh Quân chủng đề nghị trong trường hợp Mỹ đánh lâu dài hơn, Bộ Tổng tham mưu cho phép rút 2 tiếu đoàn hỏa lực 62 và 64 của Trung đoàn 236 (Đoàn Sông Đà) ở Vĩnh Linh (Quảng Trị) ra tăng cường cho Hà Nội. Cục Kỹ thuật quân chủng tập trung khôi phục các khí tài bị hỏng, bảo dưỡng các khí tài hiện có, điều hàng trăm đạn tên lửa dự trữ từ Thanh Hóa và Quân khu 4 ra tăng cường cho Hà Nội. Đến chiều tối 26/12/1972, các tiểu đoàn tên lửa bảo vệ Hà Nội đã có 125 quả đạn SA-2 sẵn sàng chiến đấu. Ngày 26/12/1972 Từ 22 giờ 15 phút đến 23 giờ 42 phút, Mỹ huy động 120 lần chiếc B-52 và 113 lần chiếc máy bay cường kích dồn dập tấn công liên tục, ném bom, phóng tên lửa với mật độ dày đặc chưa từng có vào Hà Nội, Hải Phòng và Thái Nguyên cùng một lúc, không chia thành các đợt như những hôm trước. Đây là cuộc tấn công dữ dội nhất của Mỹ trong chiến dịch. Không quân Mỹ đánh phá hủy diệt vào các khu dân cư Khâm Thiên, An Dương, Khu tập thể Nhà máy dệt 8-3, Khu tập thể Mai Hương… các sân bay Bạch Mai, Gia Lâm, các ga và điểm tập kết hàng tại Ngã Tư Vọng, Yên Viên, Gia Lâm, Văn Điển, Giáp Bát, Cổ Loa, Đông Anh, Bắc Hồng. Lúc 22 giờ 47 phút, khu phố Khâm Thiên bị trúng 3 vệt bom B-52 kéo dài từ Ô Chợ Dừa đến sát Công viên Thống Nhất, các loạt bom trùm lên cả hai bên dãy phố dài tới 1,2 km. 278 người chết, trong đó có 91 phụ nữ, 40 cụ già, 55 trẻ em, làm cho 178 cháu nhỏ bị mồ côi, trong đó có 66 cháu bị mồ côi cả cha lẫn mẹ, hơn 290 người bị thương. Hơn 2.000 căn nhà bị sập, trong đó có 534 ngôi nhà bị phá hủy hoàn toàn. Lúc 22 giờ 25 phút đến 22 giờ 28 phút, bốn tiểu đoàn tên lửa (57, 79, 86, 87) đánh 7 trận, bắn 13 đạn vào các tốp 600 và 602, chỉ được công nhận đánh trúng 1 B-52 nhưng không rơi tại chỗ. Hồi 22 giờ 29 phút, 1 tốp B-52 số hiệu 602 đang rải bom xuống ga Giáp Bát đã bị Tiểu đoàn tên lửa 78 (Đoàn Cờ Đỏ) ở trận địa Thanh Mai đánh trúng; rơi tại Định Công (Thanh Trì, Hà Nội). Đến 22 giờ 30 phút, Tiểu đoàn 76 (Đoàn Cờ Đỏ) đóng ở Dương Tế tiếp tục đánh trúng tốp 602. Chiếc B-52 thứ hai của tốp này rơi tại Tương Mai (Hai Bà Trưng, Hà Nội). Hồi 22 giờ 33 phút, Tiểu đoàn 93 (Đoàn Thành Loa) tại Phú Thụy đánh trúng chiếc B-52 thuộc tốp 603 trên không phận sân bay Nội Bài. Máy bay rơi tại Đèo Khế (Sơn Dương, Tuyên Quang). Lúc 22 giờ 42 phút, Tiểu đoàn 79 (Đoàn Cờ Đỏ) tại Yên Nghĩa đánh trúng một chiếc B-52 thuộc tốp 406, máy bay rơi tại Pa Háng (Sơn La). Trận đánh lớn kết thúc hồi 22 giờ 52 phút khi Tiểu đoàn 59 phóng quả đạn cuối cùng vào tốp B-52 mang số hiệu 401. Tại Hải Phòng, lúc 22 giờ 24 phút, các Đại đội 172 và 174 cao xạ 100 mm thuộc Trung đoàn 252 đánh rơi một B-52 thuộc tốp 402 tại toạ độ 760 trên Vịnh Bắc Bộ. Đến 22 giờ 36 phút, Tiểu đoàn tên lửa 81 (Đoàn Hạ Long) tại An Hồng đánh trúng một B-52 thuộc tốp 404, rơi tại toạ độ 770 (Vịnh Bắc Bộ). Hồi 22 giờ 48 phút, Đoàn 256 cao xạ 100 mm của Quân khu Việt Bắc tại Thái Nguyên cũng đánh trúng B-52 trong tốp 415 nhưng không rơi tại chỗ. Đây là trận đánh then chốt có tính quyết định và cũng là trận mà số liệu thống kê máy bay rơi của hai bên mâu thuẫn nhiều nhất. Các tiểu đoàn tên lửa phòng không bảo vệ Hà Nội và Hải Phòng đã đánh 27 trận, tiêu thụ 49 tên lửa, được ghi nhận đã bắn rơi 8 chiếc B-52, trong đó có 4 chiếc rơi tại chỗ. Phía Hoa Kỳ chỉ thừa nhận có 1 chiếc rơi tại chỗ (B-52D số đuôi 56-0674, mật danh "Ebony 02", xuất phát từ U-Tapao) và 1 chiếc rơi tại Thái Lan (B-52D số đuôi 55-0584, mật danh "Ash 01", xuất phát từ U-Tapao). Ngoài ra, theo thống kê của bộ phận bảo trì hãng Boeing còn có ba chiếc B-52D bị bắn hỏng (chiếc 55-0062, mật danh "Cream 01" và chiếc 55-0090, mật danh "Cream 02" đều xuất phát từ Andersen và chiếc 56-0629, mật danh "Black 03" xuất phát từ U-Tapao). Một điều thú vị và cũng rất quan trọng là trong buồng lái (cockpit) của chiếc máy bay B-52 rơi xuống Tương Mai, Bộ Tư lệnh Thủ đô đã thu được một chiếc cặp trong đó có chứa các tài liệu kế hoạch bay, lịch bay, đội hình bay, mục tiêu đánh phá của B-52 và bản đồ các mục tiêu, lộ trình bay kèm theo. Các tài liệu được gửi khẩn cấp lên Bộ Tổng tham mưu và được giao cho Cục Tình báo tổ chức nghiên cứu, phân tích ngay. Bộ Tổng tham mưu đã giữ bí mật tuyệt đối về chiếc cặp chứa nhiều tài liệu quan trọng thu được trên chiếc máy bay bị bắn rơi. Mãi đến gần đây, các tài liệu đó mới được tiết lộ. Ngày 27/12/1972 Đến ngày 27/12, tình trạng thiếu đạn trên bệ phóng đã được khắc phục. Lực lượng tên lửa phòng không đánh B-52 được bổ sung một khối lượng đạn khá lớn từ Thanh Hóa và Quân khu IV chuyển ra. Số lượng tên lửa dự trữ của các trung đoàn tên lửa phòng không quanh Hà Nội và Hải Phòng đã lên đến hàng trăm quả, các tiểu đoàn tên lửa đã được cung cấp tới 3 cơ số đạn. Tại mỗi tiểu đoàn kỹ thuật cũng đã có dự trữ hơn 60 quả tên lửa chưa lắp ráp. Sau trận đánh lớn đêm 26/12, những đêm tiếp theo, số phi vụ hoạt động của B-52 sụt hẳn, mỗi đêm Mỹ chỉ cho khoảng 60 chiếc B-52 cất cánh. Đêm 27 tháng 12, Không lực Hoa Kỳ huy động 60 chiếc B-52, đồng thời tiếp tục sử dụng 26 chiếc A-7 và 29 chiếc F-4 đánh phá ban ngày để dọn đường cho B-52 tập kích ban đêm. Phán đoán sự “xuống sức” của Mỹ, Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân hạ quyết tâm đánh một trận tiêu diệt lớn. Các đơn vị tên lửa được lệnh bắn không hạn chế, không cần tiết kiệm để có thể đánh rơi nhiều B-52 hết mức có thể, gây thêm sức ép để buộc Mỹ phải chấm dứt chiến dịch. Hồi 23 giờ 00 phút, Tiểu đoàn tên lửa 94 (Đoàn Thành Loa) ở Tam Sơn bắn rơi một B-52 tại Quế Võ (Bắc Ninh). Lúc 23 giờ 03 phút, Tiểu đoàn tên lửa 72 (Đoàn Nam Triệu) từ trận địa Đại Chu bắn rơi tại chỗ một B-52 trên đường Hoàng Hoa Thám và hồ Hữu Tiệp (Ba Đình, Hà Nội); cách Hội trường Ba Đình khoảng 800 m. Đến 23 giờ 04 phút, Tiểu đoàn 77 (Đoàn Cờ Đỏ) từ trận địa Chèm đánh trúng một B-52 nhưng không rơi tại chỗ. Tiểu đoàn 59 (Đoàn Cờ Đỏ) ở trận địa Xuân Đồng cũng bắn trúng một B-52 nhưng không rơi tại chỗ. Phía Hoa Kỳ thừa nhận chiếc B-52 số đuôi 56-0605, mật danh "Cobalt 02" cất cánh từ Andersen bị bắn rơi tại chỗ lúc 23 giờ 03 phút; chiếc B-52 số đuôi 56-0599, mật danh "Ash 02" bị trúng SA-2 lúc 23 giờ và rơi tại Lào. Ngoài ra hãng Boeing còn ghi nhận thêm một chiếc B-52 bị hư hại do MiG bắn (số hiệu 56-0083). Cũng trong đêm 27 tháng 12, không quân chiến thuật Hoa Kỳ xác nhận chiếc trực thăng HH-53 mật danh "Jolly Green" bị súng phòng không tầm thấp bắn hạ khi đang làm nhiệm vụ tìm cứu phi công ở Hòa Bình. Cũng trong đêm ngày 27 tháng 12, lần đầu pháo đài bay B-52 bị hạ bởi một máy bay tiêm kích MiG-21, do Phạm Tuân điều khiển. B-52 tuy chỉ có khả năng không chiến yếu, nhưng nó luôn có đội hình gồm hàng chục chiếc tiêm kích F-4 bay theo để bảo vệ, nên việc công kích là rất khó. Phạm Tuân kể lại: Do B-52 trang bị nhiều mồi nhiệt làm nhiễu đầu dò tên lửa nên ông đã cố gắng áp sát B-52 ở cự ly 2–3 km rồi mới phóng tên lửa (dù tầm bắn của tên lửa là 8 km), ở cự ly này tên lửa chỉ mất 2-3 giây để tới mục tiêu nên chiếc B-52 sẽ không kịp thả mồi nhiễu. Rút kinh nghiệm từ vụ của Vũ Đình Rạng (chỉ phóng 1 quả tên lửa thì không đủ để hạ tại chỗ B-52) nên ông đã phóng liền cả hai tên lửa vào mục tiêu, không giữ lại tên lửa dự phòng. Sau khi bắn, Phạm Tuân giảm tốc, kéo máy bay lên cao và lật ngửa để thoát ly thì nhìn thấy chiếc B-52 nổ, sau đó máy bay lao vượt qua phía trên điểm nổ. Tuy nhiên do động tác cơ động thoát ly cấp tốc này nên máy ảnh phía mũi chiếc MiG-21 đã không thể chụp lại khoảnh khắc đó làm tư liệu. Phạm Tuân kể tiếp: "Khi lên trời rồi, phi công phải nhanh chóng đi vào điều kiện thuận lợi, vậy chúng ta phải phán đoán F-4 thường chặn chúng ta ở đâu, tầm cao nào để chúng ta tránh. Nếu F-4 bay ở độ cao 3 km thì chúng ta phải bay cao hơn, tốc độ hơn. Tất cả những kinh nghiệm đó để xây dựng thành phương án bay để tránh F-4. Lên thấy F-4 nhiều lắm, bên phải có, bên trái có. Bên dưới chỉ huy là vượt qua mà đi. Vậy vượt qua bằng cách nào? Ở đây là bản lĩnh của phi công, phải phán đoán được tình huống như thế nào. Trận đánh B-52 của tôi rất nhanh, tiếp cận B-52 chưa đầy một phút. Khi tiếp cận đằng sau B-52 với tốc độ rất cao, 1.500 km/h so với tốc độ của B52 là 900 km/h nên đã vượt qua tất cả. Vượt qua phải bao gồm tất cả nỗ lực, từ tổ chức chỉ huy, sân bay cất cánh, dẫn đường, để có được điều kiện tốt nhất. Hiệp đồng với binh chủng tên lửa phải chặt, khi tên lửa bắn lên F-4 phải dạt ra tránh, chúng tôi tranh thủ để vượt qua. Rồi lựa chọn hướng vào tiếp cận B-52 như thế nào. Tất cả tạo nên điều kiện thuận lợi nhất đánh B-52. Tôi bắn B-52 xong rồi mà F-4 vẫn ở đằng sau nhưng không làm gì được."Một số nguồn tài liệu Hoa Kỳ cho rằng tên lửa của ông đã bắn trượt, chiếc B-52 đã trúng tên lửa SA-2 rồi nổ trên không trung, khiến Phạm Tuân nghĩ rằng tên lửa của ông đã phá hủy mục tiêu. Nhưng nếu phân tích, điều này là rất khó xảy ra. Thời gian từ khi phóng tên lửa tới khi thoát ly của Phạm Tuân chỉ kéo dài 4-5 giây. Trong số các phi công Mỹ bị bắt, trung úy Paul Louis Granger, phi công phụ lái B-52 khai máy bay của anh ta bị MiG bắn trước, sau đó lại bị tên lửa SA-2 bồi thêm. Tuy nhiên đó là trường hợp của chiếc B-52D số hiệu 56-0622, mật danh "Orange 03" bị bắn rơi tại Yên Viên lúc 20 giờ 32 phút (tức 13 giờ 32 phút giờ GMT) ngày 20 tháng 12 năm 1972. Ngày 28/12/1972 Trong ngày 28/12, phi công Hoàng Tam Hùng với chiếc MiG-21 đã bắn hạ 1 chiếc RA-5C, khi quay về thì quần nhau với 12 chiếc F-4 của địch. Hoàng Tam Hùng dùng quả tên lửa thứ hai hạ thêm 1 chiếc F-4J rồi máy bay của anh bị trúng một quả tên lửa AIM-78 của máy bay Mỹ tấn công từ phía sau. Hoàng Tam Hùng hy sinh cùng máy bay khi 24 tuổi. Đêm 28 tháng 12, Không quân Mỹ sử dụng 36 chiếc B-52 vào ném bom Đông Anh, Đa Phúc, Yên Viên, Gia Lâm; 24 chiếc B-52 ném bom Đồng Mỏ (Lạng Sơn). Phi công Vũ Xuân Thiều được ghi nhận đã hạ được B-52 trên bầu trời Sơn La, nhưng máy bay bị rơi cùng với máy bay địch và Vũ Xuân Thiều tử trận. Ngày 29/12/1972 Trong ngày 29-12-1972, không quân Mỹ tiếp tục sử dụng 50 máy bay chiến thuật đánh vào các trận địa phòng không và các đầu mối giao thông quanh Hà Nội. Tuy nhiên, đêm 29/12/1972, Không quân Mỹ không vào đánh Hà Nội mà sử dụng 24 chiếc B-52 đánh thành phố Thái Nguyên, 9 chiếc B-52 đánh sân bay Hòa Lạc, 21 chiếc B-52 đánh cụm kho – ga Đồng Mỏ (Lạng Sơn). Do B-52 không bay vào Hà Nội nên ở ngoài tầm bắn của phần lớn các hệ thống SA-2 xung quanh Hà Nội, chỉ có 3 tiểu đoàn SA-2 đóng ở ngoại ô phía bắc Hà Nội là có thể tham chiến (đánh tốp B-52 bay vào sân bay Hòa Lạc và thành phố Thái Nguyên). Lúc 23 giờ 24 phút đêm 29/12/1972, Tiểu đoàn hỏa lực 79 đóng tại trận địa Yên Nghĩa báo cáo đã bắn cháy 1 chiếc B-52 nhưng không rơi tại chỗ. Đến sáng 30-12-1972, bằng những nỗ lực khôi phục giao thông đường sắt, hệ thống tên lửa S-125 Pechora (Mỹ gọi là SAM-3) đầu tiên đã về đến Hà Nội. Tiểu đoàn hỏa lực 169 lập tức triển khai trận địa và bố trí trực chiến, đã lắp ráp được 4 quả đạn để chuẩn bị chiến đấu vào đêm hôm đó. Trong những ngày tiếp theo, sẽ có tổng cộng 2 trung đoàn tên lửa S-125 Pechora (mỗi trung đoàn gồm 6 tiểu đoàn hỏa lực và 1 tiểu đoàn kỹ thuật) cùng hơn 200 tên lửa được triển khai chiến đấu. So với SAM-2 thì SAM-3 có tầm bắn ngắn hơn (28 km so với 34 km) nhưng vẫn đủ để với tới B-52, trong khi lại gọn nhẹ và tốc độ bắn nhanh hơn (có 2 tên lửa/1 bệ phóng thay vì 1 tên lửa như SA-2), radar của SAM-3 dùng tần số quét khác với SAM-2 nên sẽ tạo yếu tố bất ngờ (Mỹ chưa đề ra các biện pháp gây nhiễu tần số này). Nếu tham chiến thì SAM-3 có thể đạt xác suất trúng mục tiêu cao hơn SAM-2. Nhưng hôm đó, Tổng thống Mỹ Nixon ra lệnh chấm dứt ném bom phía Bắc vĩ tuyến 20. Các đơn vị SAM-3 đã không có cơ hội đối đầu với B-52 của Không quân chiến lược Mỹ. Kết quả Số lượng máy bay Mỹ bị bắn hạ Thiệt hại của Không quân Mỹ theo phía Mỹ công bố là 11 chiếc B-52 đã bị bắn rơi trên lãnh thổ Bắc Việt Nam, 5 chiếc khác rơi tại Lào hoặc Thái Lan. 26 phi công B-52 được cứu thoát, 33 người khác bị chết hoặc mất tích, 33 bị bắt làm tù binh chiến tranh. Đồng thời không quân chiến thuật Mỹ mất 12 máy bay (2 F-111, 3 F-4, 2 A-7, 2 A-6, 1 EB-66, 1 trực thăng cứu hộ HH-53 và 1 máy bay RA-5C), 10 phi công chiến thuật bị chết, 8 bị bắt, và 11 được cứu thoát. Trong số 28 máy bay cả B-52 và chiến thuật bị bắn rơi, 17 trường hợp do trúng tên lửa SA-2, 3 trường hợp do bị máy bay MiG tấn công vào ban ngày, 3 do pháo phòng không, và 3 trường hợp không rõ nguyên nhân. Tuy nhiên, số liệu của không quân Mỹ bị nghi ngờ do cách tính thiệt hại của họ có phần mập mờ. Nếu một chiếc máy bay bị hư hỏng nặng, nhưng vẫn quay về được sân bay, thì Mỹ sẽ không tính chiếc máy bay đó bị tiêu diệt, ngay cả khi nó bị hỏng nặng tới mức không thể bay trở lại. Trong chiến dịch, Không quân Mỹ nói với báo chí rằng 17 chiếc B-52 đã bị mất. Sau đó, Không quân Mỹ lại báo cáo với Quốc hội rằng chỉ có 13 chiếc B-52 bị mất. Chín chiếc B-52 trở về sân bay U-Tapao bị hư hỏng quá nặng để có thể bay trở lại. Số lượng B-52 hư hại quay về được sân bay đảo Guam thì vẫn chưa được biết. Như vậy, số B-52 bị mất (rơi tại chỗ hoặc hỏng nặng không thể bay trở lại) có lẽ là từ 22 đến 27 chiếc Theo số liệu của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tổng cộng trong 12 ngày đêm có 81 máy bay các loại bị bắn rơi, trong đó có 34 chiếc B-52 (có 16 chiếc rơi tại chỗ), 5 chiếc F-111 (có 2 chiếc rơi tại chỗ), ngoài ra còn có 21 chiếc F-4 Phantom, 4 chiếc A-6, 12 chiếc A-7, 1 chiếc F-105D, 2 chiếc RA-5C, 1 chiếc trực thăng HH-53, 1 chiếc máy bay trinh sát không người lái 147SC. Trong số 34 B-52 bị bắn rơi, 23 chiếc là do lực lượng phòng không bảo vệ Hà Nội bắn rơi, 11 chiếc khác do lực lượng phòng không các tỉnh/thành phố khác bắn rơi. Lực lượng Không quân Việt Nam đã xuất kích 31 phi vụ, trong đó có 27 phi vụ MiG-21 và bốn phi vụ MiG-17, tiến hành tám trận không chiến, tuyên bố bắn rơi 2 chiếc B-52, bốn chiếc F-4 Phantom và một RA-5C. Tổn thất của Việt Nam là ba chiếc MiG-21 bị bắn rơi. Ngoài số máy bay bị rơi tại chỗ, có 4 chiếc B-52 khác bị trúng đạn hư hại nặng nhưng vẫn bay về được sân bay và 5 chiếc khác bị hỏng mức trung bình. Trong số B-52 bị bắn hỏng nặng, một số chiếc có thể bị hỏng nặng đến mức không bay được nữa, nhưng Mỹ lại không tính là "bị bắn rơi", vì vậy số B-52 bị diệt trong thực tế có lẽ phải cao hơn con số 16 chiếc mà Mỹ công nhận (khi giám sát việc tiêu hủy B-52 theo hiệp ước cắt giảm vũ khí hạt nhân chiến lược giai đoạn 2 (SALT-II), các chuyên gia Liên Xô phát hiện nhiều máy bay B-52 tại sa mạc Nevada thực chất là các B-52 đã bị bắn hỏng nặng tại Việt Nam, chúng không còn bay được nữa và được tập kết về đây để tiêu hủy). Một số thống kê khác của Việt Nam: Trong 34 B-52 bị bắn rơi, 29 chiếc là do tên lửa phòng không, 3 chiếc là do pháo cao xạ 100mm, 2 chiếc là do tiêm kích MiG-21. Tên lửa phòng không bắn rơi 36 máy bay các loại, không quân tiêm kích bắn rơi 12 máy bay, còn lại là pháo hoặc súng máy cao xạ bắn rơi. Đơn vị phát hiện B-52 đầu tiên: Đại đội radar 16 trung đoàn 291 - 19h10 ngày 18 tháng 12. Đơn vị đầu tiên đánh B-52: Tiểu đoàn 78 trung đoàn 257 - 19h44 ngày 18 tháng 12. Đơn vị bắn rơi B-52 đầu tiên: Tiểu đoàn 59 trung đoàn 261 - 20h13 ngày 18 tháng 12. Trung đoàn 261 bắn rơi nhiều B-52 nhất: 12 chiếc. Trung đoàn 257 bắn rơi tại chỗ nhiều B-52 nhất: 8 chiếc. Tiểu đoàn 57 (trung đoàn 261) bắn rơi nhiều B-52 nhất: 4 chiếc. Tiểu đoàn bắn rơi tại chỗ nhiều B-52 nhất: Tiểu đoàn 77 (trung đoàn 257) và Tiểu đoàn 93 (trung đoàn 261): mỗi tiểu đoàn bắn rơi 3 chiếc B-52. Tiểu đoàn 79 (trung đoàn 257) bắn rơi chiếc B-52 cuối cùng: 23h16 ngày 29 tháng 12 Tiểu đoàn 72 (trung đoàn 285) bắn quả tên lửa cuối cùng trong chiến dịch: 23h29 ngày 29 tháng 12 Về dự trữ đạn dược của Việt Nam Theo ước tính của Hoa Kỳ, Việt Nam đã phóng khoảng 1.000 - 1.200 tên lửa sau 12 ngày đêm. Nghĩa là theo Mỹ ước tính thì lượng đạn tên lửa của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã sắp cạn kiệt, vì vậy có những ý kiến cho rằng nếu Hoa Kỳ kiên trì đánh phá thêm vài ngày thì có thể đã giành được chiến thắng. Tuy nhiên theo thống kê của Quân đội Nhân dân Việt Nam, thực ra trong toàn chiến dịch họ chỉ phóng 334 đạn tên lửa SA-2 (bao gồm 241 tên lửa phóng ở xung quanh Hà Nội), bằng 60% dự trữ tên lửa tốt của Hà Nội, Hải Phòng. Việc Hoa Kỳ ước tính sai số tên lửa đã phóng (cao gấp 3 lần so với thực tế) là do chiến thuật "bắn tên lửa giả" của Việt Nam (tên lửa vẫn nằm trên bệ phóng nhưng lại phát sóng điều khiển tên lửa ra ngoài để làm đội hình tiêm kích bảo vệ B-52 của Mỹ tưởng là tên lửa đang lao tới, phải tìm cách né tránh làm rối loạn đội hình). Mặt khác, trong 12 ngày đêm, quân đội Việt Nam cũng phục hồi được hơn 300 tên lửa cũ để tái sử dụng, như vậy thực ra kho tên lửa dự trữ của Việt Nam chỉ sụt đi khoảng 6% (khoảng 30 quả). Tuy dự trữ tên lửa trong kho còn nhiều, nhưng SA-2 là tên lửa phòng không thế hệ đầu, muốn sử dụng thì phải lắp ráp lại và bơm nhiên liệu. Đến ngày 24/12, một số đơn vị bị thiếu đạn trên bệ phóng do cục kỹ thuật không lắp ráp kịp. Tận dụng ngày nghỉ Noel (25/12), Việt Nam đã lắp ráp được hàng trăm quả tên lửa, nên từ ngày 26/12, tình trạng thiếu đạn trên bệ phóng đã được khắc phục. Số lượng đạn tên lửa mà các trung đoàn tên lửa phòng không quanh Hà Nội và Hải Phòng đang có đã lên đến hàng trăm quả. Tại mỗi tiểu đoàn kỹ thuật đã có dự trữ hơn 60 quả đạn chưa lắp ráp. Đến đêm 29 tháng 12, các đơn vị tên lửa phòng không Hà Nội được lệnh bắn không hạn chế số lượng đạn tên lửa, không có chuyện bị thiếu tên lửa vào cuối chiến dịch. Cùng với đạn tên lửa, Việt Nam đã sử dụng 2.036 viên đạn pháo 100mm, 15.669 viên đạn 57mm, 19.454 viên đạn 37mm, 1.147 viên đạn 14.5mm đã được bắn, chiếm 66% lượng dự trữ của Hà Nội và Hải Phòng. Như vậy, nếu tiếp tục duy trì cường độ chiến đấu, Quân đội Nhân dân Việt Nam vẫn có đủ đạn dược để chiến đấu thêm 20 ngày nữa. Ngoài ra, trong trường hợp kho đạn tại Hà Nội-Hải Phòng cạn kiệt thì có thể huy động hàng trăm đạn tên lửa từ các kho ở Khu IV (Thanh Hóa, Nghệ An) để tiếp tục chiến đấu thêm khoảng 10 ngày. Chưa kể 2 trung đoàn tên lửa SA-3 mới có năng lực cao hơn SA-2 kèm thêm 200 tên lửa SA-3 được dự kiến sẽ đưa vào chiến đấu vào ngày 31 tháng 12 năm 1972. Như vậy, tổng cộng lượng tên lửa dự trữ của Việt Nam có thể kéo dài chiến đấu thêm tới 40 ngày. Trên thực tế, khi các cuộc không kích của Hoa Kỳ tiếp diễn tại Khu IV trong tháng 1 năm 1973, các đơn vị tên lửa SA-2 của Việt Nam đóng ở Thanh Hóa vẫn đủ sức tiếp tục chiến đấu, bắn rơi và bắn hỏng thêm 4 chiếc B-52. Ngoài ra, còn phải tính tới trường hợp Liên Xô sẽ đồng ý viện trợ cấp tốc tên lửa cho Việt Nam bằng máy bay vận tải tầm xa. Ví dụ như máy bay Antonov An-12 có thể chở theo 8 quả tên lửa SAM-2 tháo rời, chỉ cần 1 phi đội 10 chiếc là có thể chở sang Việt Nam khoảng 80 quả tên lửa mỗi ngày, nhiều hơn số tên lửa được sử dụng (30-40 tên lửa/ngày). Trong trường hợp này thì Việt Nam sẽ có đủ tên lửa để kéo dài chiến đấu tới hàng năm, và nếu tốc độ B-52 bị bắn rơi được duy trì ở mức 3 chiếc/ngày thì không quân Mỹ sẽ mất hết sạch B-52 trong vòng 4 tháng, trước khi có thể làm cạn kho tên lửa của Việt Nam. Kết quả sau chiến dịch Các tác giả Dana Drenkowsky và Lester Grau cho rằng, Bộ chỉ huy Không quân chiến lược Mỹ (SAC) “mắc những sai lầm nghiêm trọng, chịu những tổn thất nặng nề trong một chiến dịch được xem là thất bại”:Đòn phủ đầu với ba B-52 bị SAM bắn rơi tại chỗ, hai chiếc nữa bị bắn hỏng nặng ngay đêm đầu (số liệu của Mỹ) đã làm các nguyên soái Không quân Mỹ bị choáng váng. Tin này có vẻ đã bị giấu nhẹm, vì đến ngày 20-12 (6 chiếc B-52 bị bắn rụng, một chiếc khác bị hỏng nặng, vẫn theo số liệu của Lầu Năm Góc mà nhiều học giả Mỹ cho là không đáng tin) mới xuất hiện các ghi chép của Chánh văn phòng Nhà Trắng về sự “đau lòng nhức óc” của Tổng thống Richard Nixon trong một Nhà Trắng như tối sầm dưới sức đè những tổn thất quá lớn về B-52. Đâm lao phải theo lao, Nixon ra lệnh tiếp tục ném bom, nhưng ở quy mô nhỏ hơn và chuyển hướng không kích ra ngoài Hà Nội để tránh SAM-2. Đến đây đã có thể xem Linebacker II đã thất bại về chiến lược, tan ảo mộng chiến thắng, giúp làm nguội cái đầu nóng của ông chủ Nhà Trắng. Tác giả Drenkowsky viết: “Đêm 22 rạng ngày 23-12, trên đà thắng của bộ đội phòng không Hà Nội, không một cuộc không kích nào nhằm vào mục tiêu chính là Thủ đô của Việt Nam. Thay vào đó, 30 chiếc B-52 tiến công Cảng Hải Phòng, nơi được bảo vệ về phòng không kém hơn”.Không quân Mỹ sau ngày Noel tỏ ra biết thay đổi chiến thuật và kế hoạch không kích, thực ra là rút ngắn thời gian không kích và đánh phá các địa bàn ở xa Hà Nội, nhưng máy bay Mỹ vẫn tiếp tục bị bắn rụng như sung. Thậm chí, B-52 rơi không phải do một salvos (loạt đạn tên lửa) mà chỉ do một quả SAM-2 “đồ cổ” trên bầu trời Sơn La.Sách báo thời chiến của Mỹ ghi nhận một sự suy sụp về tinh thần chưa từng có trong các đơn vị Không quân Mỹ. Một đỉnh điểm của nó là có tới 9 chuyến bay B-52 bị đình chỉ đêm 26 rạng ngày 27-12, do trục trặc “cơ khí”. Đây là những “vết thương” từ các cuộc “dạo chơi” những đêm trước trên bầu trời Hà Nội, hay còn cả những cảm nhận “mở nắp buồng lái như mở cửa nhà mồ” của các tay lái “Pháo đài bay”?Ngày 30 tháng 12 năm 1972, Tổng thống Nixon ra lệnh chấm dứt ném bom (với lý do duy nhất được phát ngôn viên của ông đưa ra là "có dấu hiệu rõ ràng rằng đàm phán nghiêm túc có thể được nối lại") và hội đàm lại để ký kết hiệp định. Có hai xu hướng bình luận về sự kiện này. Một xu hướng cho rằng đó là do áp lực của dư luận thế giới và nhân dân Mỹ, và thất bại trong việc buộc Hà Nội nhượng bộ. Xu hướng khác lại cho rằng đó là do chiến dịch đã đạt được mục tiêu là chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tỏ ý muốn quay lại đàm phán. Nhưng đại tướng Võ Nguyên Giáp thì khẳng định phía Mỹ bỏ họp trước và chính phía Mỹ đề nghị nhóm họp lại bằng một công điện gửi vào ngày 22/12 (1 ngày sau khi 7 chiếc B-52 bị bắn hạ chỉ trong 1 đêm) Trong bản ghi âm được giải mật sau này về cuộc trao đổi giữa Tổng thống Mỹ Richard Nixon và ngoại trưởng Henry Kissinger, Nixon nói rõ việc ông đã quyết định sẽ bỏ mặc "đứa con" Việt Nam Cộng hòa để có thể thoát khỏi cuộc chiến ở Việt Nam.Henry Kissinger: Tôi nghĩ Thiệu nói đúng đấy. Hiệp định đó (Hiệp định Paris) sẽ đẩy Việt Nam Cộng hòa vào thế nguy hiểmRichard Nixon: Nó (Việt Nam Cộng hòa) phải tự chống đỡ thôi... Nếu nó chết thì cứ để cho nó chết. Nó lớn rồi, chúng ta không thể cứ cho nó bú mớm mãi đượcTheo hồi ký Henry Kissinger, ngày 6/1/1973, Nixon đã chỉ thị cho Kissinger trở lại Paris, phải đạt cho được một giải pháp dù đối phương đưa ra những điều kiện nào, với "bộ dạng hoàn toàn khác ngày thường" (ý nói không còn tỏ ra ở thế thượng phong được nữa). Tổng thống Mỹ nhấn mạnh sẵn sàng chấp nhận trở lại văn bản đã thỏa thuận vào tháng 10/1972. Vậy là Hiệp định Paris đã được ký với nội dung về cơ bản không khác mấy so với phương án đã được ký tắt trước khi đàm phán bị đình trệ do Hoa Kỳ từ chối ký kết. Hoa Kỳ đã mất hàng chục máy bay để rồi vẫn phải ký vào văn bản mà họ không muốn ký, điều này có nghĩa rằng mục tiêu chủ chốt của Mỹ khi tiến hành Chiến dịch Linebacker II đã thất bại. Sự phản đối của quốc tế Chiến dịch ném bom bị phản đối rất mạnh mẽ trên khắp thế giới, công dân ở các nước Xã hội Chủ nghĩa gây áp lực để yêu cầu chính phủ của mình chính thức lên án các cuộc ném bom. Trung Quốc và Liên Xô đều đặn thể hiện sự bất bình trước việc tái ném bom, nhưng họ đã không có một động thái nào khác. Thực tế, các chỉ trích mạnh mẽ hơn lại là ở các nước phương Tây. Tại Paris, báo Le Monde so sánh với cuộc ném bom hủy diệt Guernica do Phát-xít Đức thực hiện trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha. Tờ báo lớn nhất của Anh, the Daily Mirror, bình luận: "Việc Mỹ quay lại ném bom Bắc Việt Nam đã làm cho cả thế giới lùi lại vì ghê sợ". Các chính phủ Anh, Ý và Thụy Điển đã lên tiếng. Một trong những phản ứng dữ dội nhất là của Thủ tướng Thụy Điển, ông đã lên án cuộc ném bom là một tội ác chống lại loài người trên quy mô đạo đức của sự tàn bạo của phát xít tại trại tập trung Treblinka. Palme còn đích thân đến một cửa hàng tổng hợp để thu thập chữ ký cho một kiến nghị toàn quốc đòi chấm dứt ném bom - để gửi tới Nixon. Tại Mỹ, Nixon bị chỉ trích là điên rồ (madman). Nhiều người trong số những người đã từng ủng hộ cuộc ném bom hồi tháng 5 nay chất vấn cả sự cần thiết và tính tàn bạo bất thường của Linebacker II. Quyển Võ Nguyên Giáp - Tổng tập hồi ký dẫn bài báo của hãng AP có đăng lời của Nguyễn Văn Thiệu vào tháng 8/1972 kêu gọi Mỹ "hãy ném bom tan nát miền Bắc Việt Nam". Quyển hồi ký của Võ Nguyên Giáp cũng dẫn bài trên báo Nhân đạo (L'humanité) của Pháp bình luận rằng: "Ngay cả trong Chiến tranh thế giới thứ hai, những viên tướng Pháp phản bội cũng không dám đề nghị đồng minh của chúng (Đức Quốc xã) tàn phá Paris (để ngăn quân Anh-Mỹ). Thế mà nay Thiệu lại muốn Mỹ ném bom tàn phá đất nước mình. Thiệu thật đáng xấu hổ hơn cả sự xấu hổ"Đánh giá Sách báo Việt Nam gọi chiến dịch Linebacker II này là trận Điện Biên Phủ trên không, như một cách nêu bật thắng lợi của lực lượng phòng không Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong chiến dịch. Charles Barrows, đại úy hoa tiêu B-52 bị bắt làm tù binh đặt vấn đề ngay khi còn ngồi ở Hỏa Lò: "Hệ thống điện tử trên máy bay B-52 rất tinh vi và đắt tiền nhưng vẫn không gây nhiễu nổi rađa Bắc Việt Nam. Siêu pháo đài bay B-52 đã cải tiến nhiều lần, máy móc rất tốt... Các phi công B-52 được huấn luyện công phu, thành thạo các chiến thuật hiện đại và B-52 được bảo vệ dày đặc, nhưng vẫn bị bắn rơi vì đạn phòng không... Không quân chiến lược của Mỹ không thể chịu đựng nổi tỷ lệ tổn thất về B.52 trên bầu trời Hà Nội". Trên tạp chí Không quân Mỹ, John L. Frisbee viết: "Trong thời kỳ Thế chiến thứ 2, tổn thất máy bay ném bom bị phòng không hay máy bay chiến đấu đối phương bắn hạ tại hai chiến trường chính yếu được ước tính trung bình: cứ 64 phi xuất thì có 1 chiếc bị bắn hạ. Trái lại, trên không phận Hà Nội và Hải Phòng thì cứ 49 phi xuất lại có một B-52 bị bắn rơi". Cựu Phó Tham mưu trưởng không quân Mỹ khi trả lời tạp chí AirForce vào tháng 6/1973 cũng thừa nhận: "Bắc Việt Nam rõ ràng là có nhiều kinh nghiệm bắn tên lửa SAM cũng như các loại súng phòng không khác. Họ cũng có nhiều kinh nghiệm trong việc phát hiện máy bay từ các đài điều khiển mặt đất... Không quân Mỹ đã tiến hành chiến tranh điện tử trên quy mô lớn, nhưng các máy bay vẫn dễ bị tổn thương. Chúng tôi cho rằng Bắc Việt Nam đã phát triển được các lực lượng phòng không dày dạn kinh nghiệm nhất thế giới. Rõ ràng họ có kinh nghiệm hơn bất cứ nước nào trong việc phóng tên lửa để hạ máy bay". Ngay khi mặt trời mọc vào sáng hôm 19-12, 2 chiếc B-52 đã bị hạ ngay trong đêm đầu tiên. Điện mừng từ khắp nơi tới tấp gửi về Bộ tư lệnh phòng không Thủ đô. Tướng Nhẫn nhớ lại: "Một bầu không khí đặc biệt tràn ngập sở chỉ huy các cấp từ các tiểu đoàn tới Bộ tổng tham mưu, từ hậu phương miền Bắc tới tiền tuyến miền Nam. Việc lực lượng phòng không Thủ đô đã đương đầu và giáng trả được loại vũ khí mạnh nhất của Mĩ, điều đó đã làm nức lòng quân dân cả nước". Đại tá Markov Lev Nicolayevich, từ tháng 10-1971 đến tháng 8-1972 từng giảng dạy tại Trường Sĩ quan Phòng không và huấn luyện các kíp trắc thủ tên lửa cho Việt Nam. Ông cho rằng: "Tôi đã nghiên cứu kỹ chiến lược chiến tranh của nhiều nước và thấy rằng, trên thế giới ít có cuộc chiến nào mà bên phòng vệ thắng bên tấn công, nhất là khi có sự chênh lệch quá lớn về tiềm lực quân sự, vũ khí trang bị như giữa quân đội Việt Nam và quân đội Mỹ, đặc biệt là "siêu pháo đài bay B-52", mà người Mỹ khoe là không thể bị bắn hạ! Vậy mà Việt Nam đã đánh thắng rất giòn giã. Đó thực sự là cuộc chiến tranh của trí tuệ với trí tuệ, thông minh "chọi" thông minh, chứ không phải là cuộc chiến tranh thông thường!". Tác giả Marshall Michael viết: "Sau này hai phía mới chỉ dừng ở việc cùng công nhận rằng Linebacker II là trận đấu quan trọng quyết định cục diện chiến tranh. Đối với người Mỹ, Hiệp định hòa bình Paris đã giúp tổng thống Nixon hoàn thành mục tiêu đưa tù binh về nước và chấm dứt sự can dự của Mỹ vào cuộc chiến Việt Nam mà vẫn thực hiện cam kết làm chỗ dựa cho chính quyền Nam Việt Nam. Người Việt Nam lại cho rằng chiến dịch ném bom của Mỹ là nhằm mục đích buộc họ khuất phục và rút quân khỏi Miền Nam. Vậy nên khi bản Hiệp định cho phép họ vẫn được giữ quân ở Miền Nam, người Việt Nam cho rằng chiến dịch Linebacker II đã thất bại và niềm tin này càng được củng cố khi quân đội của họ trú quân ở phía nam tiến hành chiến dịch tổng tiến công thống nhất đất nước vào năm 1975. Nhưng để hiểu một cách tường tận sự khác biệt quan điểm này, tôi đã phải ghi nhận cách hiểu của người Việt rằng Linebacker II đơn giản chỉ là một thắng lợi trong chuỗi thắng lợi trong suốt 30 năm kháng chiến giành độc lập. Bằng chứng cho thắng lợi đó là việc họ đã hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước."Thông tin liên quan Trong thời gian diễn ra chiến dịch, Mỹ và quân đội Sài Gòn cũng tận dụng để tung ra các thông tin tâm lý chiến nhằm làm lung lay tinh thần đối phương. Ví dụ như ngày 24/12/1972, trên trang nhất tờ The Sunday Times (Mỹ) đăng tin: "Tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Quốc phòng Bắc Việt Nam, đã thiệt mạng trong một vụ nổ ngày hôm qua khi thị sát những tổn thất sau các đợt ném bom tại Hải Phòng, theo nguồn tin tình báo Nam Việt Nam. Nguồn tin này cho biết một quả "mìn nổ chậm" đã phát nổ khi Tướng Giáp thị sát kho quân sự Trần Hưng Đạo tại thành phố cảng. Không có thêm chi tiết về vụ việc..." Thông tin này sau đó vài ngày được chứng minh là bịa đặt. Tưởng nhớ Trong 12 ngày đêm, Không quân Mỹ đã ném bom phá huỷ nhiều khu phố, làng mạc, phá sập 5.480 ngôi nhà, trong đó có gần 100 nhà máy, xí nghiệp, trường học, bệnh viện, nhà ga; giết chết 2.368 dân thường, làm bị thương 1.355 người khác. Riêng ở Hà Nội, tính đến ngày 20/12/1972, đã có 215 người bị chết, 325 người bị thương. Còn ở Hải Phòng riêng ngày 18/12 đã có 45 người chết, 131 người bị thương và hàng ngàn nhà dân bị phá hủy. Trận bom rải thảm phố Khâm Thiên, Hà Nội đêm 26 tháng 12 năm 1972 đã làm chết 278 người, trong đó có 91 phụ nữ, 40 cụ già, 55 trẻ em; làm cho 178 cháu mồ côi trong đó có 66 cháu mồ côi cả cha lẫn mẹ; 290 người bị thương, 2.000 ngôi nhà, trường học, đền chùa, rạp hát, trạm xá bị sập, trong đó có 534 ngôi nhà bị phá hủy hoàn toàn. Ngôi nhà số 51 phố Khâm Thiên chỉ còn là một hố bom, bảy người sống trong ngôi nhà này không còn ai sống sót. Mảnh đất này trở thành một đài tưởng niệm với một tấm bia mang dòng chữ "Khâm Thiên khắc sâu căm thù giặc Mỹ" và một bức tượng bằng đồng tạc hình một phụ nữ bế trên tay một đứa trẻ đã chết vì bom Mỹ, tượng được lấy nguyên mẫu từ chính chủ nhân của ngôi nhà bị hủy diệt này. Kể từ sau trận bom ấy, hàng năm, đến những ngày kỉ niệm trận bom, người dân trên phố, và nhiều nơi khác tới đây thắp hương tưởng niệm những người đã chết vì bom Mỹ. Trong sân bệnh viện Bạch Mai có tấm bia mang chữ "Căm thù" để ghi nhớ về vụ B-52 ném bom trúng bệnh viện này vào ngày 22 tháng 12. khiến 1 bệnh nhân và 30 y tá, bác sĩ thiệt mạng, có 1 y tá đang mang thai 3 tháng. (khi đó hầu hết bác sĩ, bệnh nhân đã được sơ tán. Mỗi khoa chỉ giữ lại vài ba người để trực cấp cứu. Có khoảng 300 bệnh nhân ở dưới hầm). Nữ dân quân tự vệ Phạm Thị Viễn thuộc Đội tự vệ của Nhà máy Cơ khí Mai Động, đã tham gia bắn hạ một chiếc cường kích hạng nặng hiện đại F-111 bằng 19 phát đạn súng máy phòng không 14,5mm vào ngày 22/12/1972. Năm 1967, mẹ cô bị bom Mỹ giết hại, đến ngày 26/12/1972 thì cha cô cũng bị bom Mỹ giết. Cô đã chít khăn tang rồi trở lại trận địa, trực chiến cùng đồng đội. Trong bài thơ “Việt Nam – Máu và Hoa”, nhà thơ Tố Hữu đã viết dành tặng cho cô: Xem thêm Mặt trận đất đối không miền Bắc Việt Nam 1972 B-52 trong Chiến tranh Việt Nam Em bé Hà Nội (phim năm 1974)Hà Nội 12 ngày đêm (phim năm 2002)'' Chú thích
Trong thần thoại Bắc Âu, Asgard là nơi các vị thần Aesir sinh sống. Asgard được đặt ở tán cây trên cùng của cây thế giới Yggdrasil, tách biệt khỏi thế giới người trần Midgard. Con đường duy nhất để lên Asgard là cổng cầu vồng Bifröst. Miêu tả về Asgard Trung tâm Asgard là cánh đồng Idavoll, nơi các Aesir họp bàn những việc quan trọng. Các nam thần họp ở điện Gladsheim và các nữ thần ở điện Vingólf. Họ cũng gặp nhau hàng ngày ở suối vận mệnh Urd bên dưới Yggdrasil. Xung quanh Asgard là một bức tường vững chắc do một người khổng lồ tên là Hrimthurs xây dựng. Cách duy nhất để lên Asgard là đi qua cổng cầu vồng Bifröst. Quầng đỏ của cầu vồng thật ra là lửa để ngăn những người khổng lồ băng vượt qua. Trách nhiệm gác lối vào Asgard được giao cho thần gác cổng Heimdall. Mười hai cung điện Ngoài hai điện chung là Gladsheim và Vingolf, mỗi vị thần có nơi ở riêng của mình. Mười hai toà cung điện được xây lên cho mỗi vị thần xuất chúng. Thần Heimdall sống trong một cung điện tên là Himinbiorg ở gần cây cầu Bifröst. Lãnh địa của thần Thor tên là Thrudvangar và tòa chính điện gọi là Bilskirnir. Thần Balder và vợ, nữ thần rừng Nanna xinh đẹp sống ở cung điện Breidablik trong khi thần Forseti có cung điện Glitnir, nơi thần làm nhiệm vụ phán xử những tranh chấp của cả thần linh và con người. Nữ thần Freyja sở hữu một cung điện lộng lẫy tên là Folkvang. Cha nữ thần là thần gió Njord, sống trong điện Noatun bên bờ biển và ngôi nhà của thần Freyr, anh của nữ thần Freyja, tên là Alfheim. Nữ thần Frigg, vợ thần Odin, có cung điện riêng tên là Fensalir. Riêng thần tối cao Odin sống trong điện Valaskjaff có mái bằng bạc. Tuy nhiên, nơi nổi tiếng nhất của Asgard là cung điện Valhalla thuộc sở hữu của Odin. Các vị anh hùng tử vong trong chiến trận được triệu tập về nơi này. Các cách viết khác nhau của Asgard tiếng Anh: Ásgard, Ásegard, Ásgardr, Asgardr, Ásgarthr, Ásgarth, Asgarth, Ásgardhr Tiếng Thụy Điển và tiếng Đan Mạch: Asgård Tiếng Na Uy: Åsgard (hoặc Åsgård, Asgaard) Tiếng Iceland: Ásgarður
Khủng hoảng tài chính châu Á là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ tháng 7 năm 1997 ở Thái Lan rồi ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, trung tâm tiền tệ lớn, và giá cả của những tài sản khác ở vài nước châu Á, nhiều quốc gia trong đó được coi như là "những con Hổ Đông Á". Cuộc khủng hoảng này còn thường được gọi là Khủng hoảng tiền tệ châu Á. Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những nước bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi cuộc khủng hoảng này. Hồng Kông, Malaysia, Lào, Philippines cũng bị ảnh hưởng trầm trọng bởi sự sụt giá bất thình lình. Còn Đại lục Trung Hoa, Đài Loan, Singapore và Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nhưng không quá lớn. Nhật Bản cũng không bị ảnh hưởng nhiều bởi sự khủng hoảng, song nền kinh tế Nhật phải vượt qua những khó khăn kinh tế dài hạn của chính bản thân mình. Mặc dù được gọi là cơn khủng hoảng "Đông Á" bởi vì nó bắt nguồn từ Đông Á, nhưng ảnh hưởng của nó lại lan truyền toàn cầu và gây nên sự khủng hoảng tài chính trên toàn cầu, với những tác động lớn lan rộng đến cả các nước như Nga, Brasil và Hoa Kỳ. Nguyên nhân Nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém Thái Lan và một số nước Đông Nam Á đã cố gắng thực hiện cái mà các nhà kinh tế gọi là Bộ ba chính sách không thể đồng thời. Họ vừa cố định giá trị đồng tiền của mình vào Dollar Mỹ, vừa cho phép tự do lưu chuyển vốn (tự do hóa tài khoản vốn). Kinh tế Đông Nam Á tăng trưởng nhanh trong thập niên 1980 và nửa đầu thập niên 1990 đã tạo ra sức ép tăng giá nội tệ. Để bảo vệ tỷ giá cố định, các ngân hàng trung ương Đông Nam Á đã thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng. Kết quả là cung tiền tăng gây ra sức ép lạm phát. Chính sách vô hiệu hóa (sterilization policy) đã được áp dụng để chống lạm phát vô hình trung đẩy mạnh các dòng vốn chảy vào nền kinh tế. Vào giữa thập niên 1990, Hàn Quốc có nền tảng kinh tế vĩ mô tương đối tốt ngoại trừ việc đồng Won Hàn Quốc không ngừng lên giá với Dollar Mỹ trong thời kỳ từ sau năm 1987. Điều này làm cho tài khoản vãng lai của Hàn Quốc suy yếu vì giá hàng xuất khẩu của Hàn Quốc trên thị trường hàng hóa quốc tế tăng. Trong hoàn cảnh đó, Hàn Quốc lại theo đuổi một chế độ tỷ giá hối đoái neo lỏng lẻo và chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Vì thế, thâm hụt tài khoản vãng lai được bù đắp lại bằng việc các ngân hàng của nước này đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro. Năm 1994, nhà kinh tế Paul Krugman của trường đại học Princeton, (lúc đó còn ở MIT), cho đăng bài báo tấn công ý tưởng về "thần kỳ kinh tế Đông Á". Ông ta cho rằng: Sự tăng trưởng kinh tế của Đông Á, trong quá khứ, là do kết quả của đầu tư theo hình thức tư bản, dẫn tới sự tăng năng suất lao động. Trong khi đó, năng suất tổng nhân tố lại chỉ được nâng lên ở một mức độ rất nhỏ, hoặc hầu như giữ nguyên. Krugman cho rằng việc chỉ tăng trưởng năng suất tổng nhân tố không thôi, mà không cần đầu tư vốn, đã có thể mang lại sự thịnh vượng dài hạn. Krugman có thể được nhiều người coi như một nhà tiên tri sau khi khủng hoảng tài chính lan rộng, tuy nhiên chính ông ta cũng đã từng phát biểu rằng ông ta không dự đoán cơn khủng hoảng hoặc nhìn trước được chiều sâu của nó. Các dòng vốn nước ngoài kéo vào Chính sách tiền tệ nới lỏng và việc tự do hóa tài chính ở Mỹ, châu Âu và Nhật Bản cuối thập niên 1980 đã khiến cho tính thanh khoản toàn cầu trở nền cao quá mức. Các nhà đầu tư ở các trung tâm tiền tệ nói trên của thế giới tìm cách thay đổi danh mục tài sản của mình bằng cách chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài. Trong khi đó, các nước châu Á lại thực hiện chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Lãi suất ở các nước châu Á cao hơn ở các nước phát triển. Chính vì thế, các dòng vốn quốc tế đã ồ ạt chảy vào các nước châu Á. Ngoài ra, những xúc tiến đầu tư của chính phủ và những bảo hộ ngầm của chính phủ cho các thể chế tài chính cũng góp phần làm các công ty ở châu Á bất chấp mạo hiểm để đi vay ngân hàng trong khi các ngân hàng bắt chấp mạo hiểm để đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro. (Hiện tượng thông tin phi đối xứng dẫn tới lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức.) Tấn công đầu cơ và rút vốn đồng loạt Nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 là những cuộc tấn công đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt khỏi các nước châu Á. Những nguyên nhân sâu xa nói trên rồi cũng bộc lộ. Thị trường bất động sản của Thái Lan đã vỡ. Một số thể chế tài chính bị phá sản. Người ta không còn tin rằng chính phủ đủ khả năng giữ nổi tỷ giá hối đoái cố định. Khi phát hiện thấy những điểm yếu chết người trong nền kinh tế của các nước châu Á, một số thể chế đầu cơ vĩ mô đã tiến hành tấn công tiền tệ châu Á. Các nhà đầu tư nước ngoài đồng loạt rút vốn ra. Một nguyên nhân trực tiếp nữa của khủng hoảng là năng lục xử lý khủng hoảng yếu kém. Nhiều nhà kinh tế cho rằng khi mới bị tấn công tiền tệ, đáng lẽ các nước châu Á phải lập tức thả nổi đồng tiền của mình chứ không nên cố sức bảo vệ tỷ giá để đến nối cạn kiệt cả dự trữ ngoại hối nhà nước mà lại càng làm cho tấn công đầu cơ thêm kéo dài. Ngoại trưởng 9 nước ASEAN (khi đó chưa có Campuchia) lúc đó tin rằng, việc liên kết các hệ thống tiền tệ chặt chẽ là một nỗ lực thận trọng nhằm củng cố vững chắc các nền kinh tế ASEAN. Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 30 diễn ra tại Subang Jaya, Malaysia đã thông quan một Tuyên bố chung vào ngày 25 tháng 7 năm 1997 nêu rõ mối quan ngại sâu sắc và kêu goi các nước ASEAN cần hợp tác chặt chẽ hơn nhằm bảo vệ và tăng cường lợi ích của ASEAN trong giai đoạn này. Ngẫu nhiên là trong cùng ngày này, các Ngân hàng Trung ương của hầu hết các nước chịu tác động của khủng hoảng đã gặp nhau tại Thượng Hải trong Hội nghị cấp cao Đông Á Thái Bình Dương EMEAP, và thất bại trong việc đưa ra một biện pháp Dàn xếp cho vay mới. Trước đó một năm, Bộ trưởng Tài chính của các nước này cũng đã tham dự Hội nghị Bộ trưởng Tài chính APEC lần thứ 3 tại Kyoto, Nhật Bản vào ngày 17 tháng 3 năm 1996, và theo như Tuyên bố chung, các bên đã không thể nhân đôi được Quỹ tài chính phục vụ cho Hiệp định chung về cho vay và Cơ chế Tài chính trong tình trạng khẩn cấp. Vì vậy, cuộc khủng hoảng có thể xem như một thất bại trong việc xây dựng năng lực phù hợp kịp thời, thất bại trong việc ngăn chặn sự lôi kéo tiền tệ. Một số nhà kinh tế lại chỉ trích chính sách tài chính thắt chặt của IMF được áp dụng ở các nước xảy ra khủng hoảng càng làm cho khủng hoảng thêm trầm trọng. .. Diễn biến Thái Lan Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng năm là 9%. Cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF đã cảnh báo nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và bong bóng kinh tế có thể không giữ được lâu. Cuối năm 1996, thị trường chứng khoán Thái Lan bắt đầu có sự điều chỉnh. Cả mức vốn hóa thị trường vốn lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm đi. Ngày 14 tháng 5 và ngày 15 tháng 5 năm 1997, đồng baht Thái bị tấn công đầu cơ quy mô lớn. Ngày 30 tháng 6, thủ tướng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh tuyên bố sẽ không phá giá baht, song rốt cục lại thả nổi baht vào ngày 2 tháng 7. Baht ngay lập tức mất giá gần 50%. Vào tháng 1 năm 1998, nó đã xuống đến mức 56 baht mới đổi được 1 dollar Mỹ. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Finance One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá sản. Ngày 11 tháng 8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar Mỹ cho Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ dollar. Philippines Sau khi khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, ngày 3 tháng 7 ngân hàng trung ương Philippines đã cố gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ đồng peso bằng cách nâng lãi suất ngắn hạn (lãi suất cho vay qua đêm) từ 15% lên 24%. Đồng peso vẫn mất giá nghiêm trọng, từ 26 peso ăn một dollar xuống còn 38 vào năm 2000 và còn 40 vào cuối khủng hoảng. Khủng hoảng tài chính nghiêm trọng thêm do khủng hoảng chính trị liên quan tới các vụ bê bối của tổng thống Joseph Estrada. Do khủng hoảng chính trị, vào năm 2001, Chỉ số Tổng hợp PSE của thị trường chứng khoán Philippines giảm xuống còn khoảng 1000 điểm từ mức cao khoảng 3000 điểm hồi năm 1997. Nó kéo theo việc đồng peso thêm mất giá. Giá trị của đồng peso chỉ được phục hồi từ khi Gloria Macapagal-Arroyo lên làm tổng thống. Hồng Kông Tháng 10 năm 1997, Dollar Hồng Kông bị tấn công đầu cơ. Đồng tiền này vốn được neo vào Dollar Mỹ với tỷ giá 7,8 HKD/USD. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát ở Hồng Kông lại cao hơn ở Mỹ. Đây là cơ sở để cho giới đầu cơ tấn công. Nhờ có dự trữ ngoại tệ hùng hậu lên tới 80 tỷ USD vào thời điểm đó tương đương 700% lượng cung tiền M1 hay 45% lượng cung tiền M3, nên Cơ quan Tiền tệ Hồng Kông đã dám chi hơn 1 tỷ USD để bảo vệ đồng tiền của mình. Các thị trường chứng khoán ngày càng trở nên dễ đổ vỡ. Từ ngày 20 tháng 10 đến 23 tháng 10, Chỉ số Hang Seng đã giảm 23%. Ngày 15 tháng 8 năm 1998, Hồng Kông nâng lãi suất cho vay qua đêm từ 8% lên thành 23% và ngay lập tức nâng vọt lên 500%. Đồng thời, Cơ quan Tiền tệ Hồng Kông bắt đầu mua vào các loại cổ phiếu thành phần của Chỉ số Hang Seng để giảm áp lực giảm giá cổ phiếu. Cơ quan này và ông Donald Tsang, lúc đó là Bộ trưởng Tài chính và sau này làm Trưởng Đặc khu hành chính Hồng Kông, đã công khai tuyên chiến với giới đầu cơ. Chính quyền đã mua vào khoảng 120 tỷ Dollar Hồng Kông (tương đương 15 tỷ Dollar Mỹ) các loại chứng khoán. Sau này, vào năm 2001, chính quyền đã bán ra số chứng khoán này và thu lời khoảng 30 tỷ Dollar Hồng Kông (khoảng 4 tỷ Dollar Mỹ). Các hoạt động đầu cơ nhằm vào Dollar Hồng Kông và thị trường chứng khoán của đặc khu này đã ngừng lại vào tháng 9 năm 1998 chủ yếu do các nhà đầu cơ bị thiệt hại bởi chính sách điều tiết dòng vốn nước ngoài của chính phủ Malaysia và bởi sự sụp đổ của thị trường trái phiếu và tiền tệ ở Nga. Tỷ giá neo giữa Dollar Hồng Kông và Dollar Mỹ vẫn được bảo toàn ở mức 7,8: 1. Hàn Quốc Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc có một gánh nặng nợ nước ngoài khổng lồ. Các công ty nợ ngân hàng trong nước, còn ngân hàng trong nước lại nợ ngân hàng nước ngoài. Một vài vụ vỡ nợ đã xảy ra. Khi thị trường châu Á bị khủng hoảng, tháng 11 các nhà đầu tư bắt đầu bán ra chứng khoán của Hàn Quốc ở quy mô lớn. Ngày 28 tháng 11 năm 1997, tổ chức đánh giá tín dụng Moody đã hạ thứ hạng của Hàn Quốc từ A1 xuống A3, sau đó vào ngày 11 tháng 12 lại hạ tiếp xuống B2. Điều này góp phần làm cho giá chứng khoán của Hàn Quốc thêm giảm giá. Riêng trong ngày 7 tháng 11, thị trường chứng khoán Seoul tụt 4%. Ngày 24 tháng 11 lại tụt 7,2% do tâm lý lo sợ IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải áp dụng các chính sách khắc khổ. Trong khi đó, đồng Won giảm giá xuống còn khoảng 1700 từ mức 1000 KRW/USD KRW/USD. Malaysia Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht (ngày 2 tháng 7 năm 1997), đồng Ringgit của Malaysia và thị trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép giảm giá mạnh. Ringgit đã giảm từ mức 3,75 Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar. Phần lớn sức ép giảm giá đối với Ringgit là từ việc buôn bán đồng tiền này trên thị trường tiền ở nước ngoài. Những người tham gia thị trường tiền duy trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở trạng thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính về sử giảm giá của đồng Ringgit trong tương lai. Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm xuống khuyến khích dòng vốn chảy ra nước ngoài. Lượng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và quý ba năm 1997. Indonesia Tháng 7, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của Indonesia đã nới rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar Mỹ từ 8% lên 12%. Tháng 8, đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn công và đến ngày 14 thì chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý được thay thế bằng chế độ thả nổi hoàn toàn. Đồng Rupiah liên tục mất giá. IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ Dollar, nhưng Rupiah tiếp tục mất giá do đồng Rupiah bị bán ra ồ ạt và lượng cầu Dollar Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Tháng 9, cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm xuống mức thấp lịch sử. Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty Indonesia, đặc biệt là làm cho món nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty tăng lên. Trước tình hình đó, nhiều công ty đẩy mạnh mua Dollar vào (có nghĩa là bán Rupiah ra) khiến cho nội tệ thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát tăng vọt. Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài chính khắc khổ theo yêu cầu của IMF khiến chính phủ phải bỏ trợ giá lương thực và xăng đã khiến giá hai mặt hàng này tăng lên. Tình trạng bạo động để tranh giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở Jakarta đã có tới 500 người bị chết do bạo động. Khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng xã hội đã dẫn tới khủng hoảng chính trị. Giữa năm 1998, Suharto buộc phải từ chức tổng thống. Trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar vào khoảng 2000: 1. Nhưng trong thời kỳ khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức 18.000: 1. Do thay đổi tỷ giá hối đoái và do nhiều nhân tố khác, GDP theo Dollar Mỹ của Indonesia đã giảm đi. Hậu quả Khủng hoảng đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, bao gồm mất giá tiền tệ, sụp đổ thị trường chứng khoán, giảm giá tài sản ở một số nước châu Á. Nhiều doanh nghiệp bị phá sản, dẫn đến hàng triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng nghèo trong các năm 1997-1998. Những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất là Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan. Khủng hoảng kinh tế còn dẫn tới mất ổn định chính trị với sự ra đi của Suharto ở Indonesia và Chavalit Yongchaiyudh ở Thái Lan. Tâm lý chống phương Tây gia tăng cùng với sự phê phán gay gắt nhằm vào George Soros và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Các phong trào Hồi giáo và ly khai phát triển mạnh ở Indonesia khi chính quyền trung ương của nước này suy yếu. Một ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng, đó là GDP và GNP bình quân đầu người tính bằng Dollar Mỹ theo sức mua tương đương giảm đi. Nội tệ mất giá là nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng này. Cuốn CIA World Fact Book cho biết thu nhập bình quân đầu người của Thái Lan đã giảm từ mức 8.800 USD năm 1997 xuống còn 8.300 USD vào năm 2005, của Indonesia giảm từ 4.600 USD xuống 3.700 USD, của Malaysia giảm từ 11.100 USD xuống 10.400 USD. Cuộc khủng hoảng không chỉ lây lan ở khu vực Đông Á mà nó góp phần dẫn tới khủng hoảng tài chính Nga và khủng hoảng tài chính Brasil. Một số nước không bị khủng hoảng, nhưng kinh tế cũng chịu ảnh hưởng xấu do xuất khẩu giảm và do FDI vào giảm. Ý nghĩa Khủng hoảng tài chính Đông Á làm người ta nhận thức rõ hơn sự cần thiết phải có một hệ thống tài chính - ngân hàng vững mạnh, minh bạch. Điều này thôi thúc Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thanh toán Quốc tế đổi mới các quy chế về ngân hàng và các tổ chức tín dụng nói chung. Chính phủ nhiều nước đang phát triển cho rằng các dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài và vốn vay ngân hàng nước ngoài có thể đem lại những tác động bất lợi với nền kinh tế của họ. Do đó, nhiều chính phủ đã ban hành những quy chế nhằm điều tiết các dòng vốn này. Bên cạnh đó, những thỏa thuận ở cấp khu vực nhằm phát triển một hệ thống phòng ngừa khủng hoảng tái diễn đã được thúc đẩy ở châu Á, ví dụ như Sáng kiến Chiang Mai, Tiến trình Đánh giá và Đối thoại Kinh tế ASEAN+3, Sáng kiến Thị trường Trái phiếu châu Á,... Về mặt học thuật, các nhà nghiên cứu kinh tế đã nhận thấy sự hạn chế của các mô hình lý luận về khủng hoảng tiền tệ trước đây trong việc giải thích nguồn gốc và sự lây lan của khủng hoảng tài chính Đông Á. Đã có nhiều nỗ lực nhằm đưa ra một mô hình mới về khủng hoảng tiền tệ, chẳng hạn như mô hình phương pháp tiếp cận bảng cân đối tài sản, lý thuyết bong bóng, lý thuyết về nguồn gốc khủng hoảng từ chính sách tài chính và chính sách tiền tệ ,... Các biện pháp khôi phục kinh tế sau khủng hoảng Để khôi phục nền kinh tế và ngăn ngừa khủng hoảng tái diễn, các nền kinh tế Đông Á bị ảnh hưởng nặng đều tiến hành các cải cách cơ cấu mạnh mẽ, gồm: cải tổ cách thức quản lý trong khu vực doanh nghiệp, cải cách tài chính, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, đổi mới phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô, và đổi mới cả phương thức tăng trưởng kinh tế. Đổi mới phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô Hàn Quốc, Thái Lan và Indonesia đã và đang thực thi một chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt và cơ chế ổn định giá cả. Cụ thể, các nước từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái neo và hướng tới chế độ mục tiêu lạm phát. Đồng thời, các nước nỗ lực gia tăng lượng dữ trự ngoại hối nhà nước của mình. Từ 1997 đến 2005, năm nước bị ảnh hưởng nặng nhất của khủng hoảng đã tăng lượng dự trữ ngoại hối của mình lên bốn lần, đạt 378 tỷ USD. Cải cách khu vực tài chính Các nước Đông Á đã thực thi các biện pháp, chính sách sau để cải cách khu vực tài chính: (1) Xóa và giảm nợ xấu, tái vốn hóa các thể chế tài chính; (2) Đóng cửa các thể chế tài chính đổ vỡ, (3) Tăng cường giám sát và áp dụng các tiêu chuẩn quản trị, kế toán mới đối với các tổ chức tín dụng và tài chính khác; (4) Đẩy mạnh chuyên môn hóa các thể chế tài chính; (5) Tăng cường giám sát và điều tiết các tổ chức tín dụng đồng thời với nâng cao kỷ luật thị trường. Yellen (2007) cho thấy các ngân hàng của Hàn Quốc đã áp dụng phương thức quản trị hiện đại của phương Tây và đã giảm được tỷ lệ sở hữu gia đình tại các ngân hàng, tăng cường lợi ích cho các giám đốc bằng cách cho họ quyền chọn mua cổ phiếu, v.v... Còn các ngân hàng Malaysia đã thay đổi tập quán cho vay của mình. Giờ đây, họ cho các xí nghiệp nhỏ và vừa vay nhiều hơn. Cải tổ cách thức quản lý của khu vực xí nghiệp Các nước Hàn Quốc, Thái Lan và Indonesia đã hoàn thiện các thủ tục về phá sản, nỗ lực tái cơ cấu nợ của các xí nghiệp, củng cố các quy định và tiêu chuẩn về cáo bạch, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông nhỏ cũng như nâng cao quyền lực và trách nhiệm của ban giám đốc, áp dụng các tiêu chuẩn kế toán và kiểm toán theo thông lệ quốc tế, tăng cường mức vốn tự có của doanh nghiệp và tạo thuận lợi cho các hoạt động mua lại và sáp nhập kể cả với doanh nghiệp trong nước cũng như với doanh nghiệp nước ngoài. Cải cách các thị trường Các nước Đông Á đã và đang phát triển thị trường trái phiếu định danh bằng nội tệ của mình. Đồng thời, cải cách thị trường lao động đã cho phép các xí nghiệp tuyển dụng và sa thải lao động dễ dàng hơn, giúp xí nghiệp của các nước Đông Á trở nên linh hoạt hơn. Chú thích
Phản xạ có thể là: Hiện tượng phản xạ trong vật lý học xảy ra khi dòng vật chất va chạm đàn hồi trên một bề mặt. Dòng vật chất có thể là dòng ánh sáng hay một quả bóng bàn và bề mặt có thể là ranh giới giữa hai môi trường. Phép phản xạ là một phép biến đổi trong hình học, trong đó một điểm được ánh xạ tới ảnh của nó qua một trục hoặc mặt phẳng đối xứng. Phản xạ trong sinh học là phản ứng của cơ thể sinh vật trước môi trường bên ngoài; nó bao gồm phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện.
KVM switch (KVM là từ viết tắt của Keyboard, Video, Mouse) là thiết bị chuyển mạch tín hiệu của bàn phím, chuột và màn hình của nhiều máy chủ khác nhau vào một bàn phím, chuột và màn hình, giúp người quản trị hệ thống có thể truy cập và điều khiển nhiều máy tính hoặc máy chủ một cách dễ dàng và thuận lợi. KVM switch có thể là những thiết bị được thiết kế hỗ trợ quản lý từ hai đến bốn cổng (quản lý 2-4 CPU, server), với những tính năng cơ bản, có thể có cable đi kèm hoặc cũng có thể là những thiết bị chuyên dụng cho phép quản trị hiệu quả những hệ thống lên đến 8000 server, với thiết kế rackmount, mật độ kết nối cao 16-32 cổng /1U, phân cấp và cho phép nhiều người cùng quản trị, với nhiều cấp mật khẩu (password) để đảm bảo an ninh hệ thống, cho phép quản trị tại chỗ, kéo dài, không dây hay qua Internet. KVM switch hỗ trợ nhiều giao diện PS/2, USB, RJ-45, tương thích với nhiều hệ điều hành như Window, Linux, MAC, Sun Solaris, Java hay Fee BSD, có thể hỗ trợ giả lập và cắm nóng thiết bị mà không làm treo hệ thống hoặc có thể hỗ trợ chia sẻ các thiết bị ngoại vi khác như loa, micro, máy in, camera... KVM switch cung cấp cho người quản trị hệ thống khả năng quản lý tập trung hàng trăm máy tính phân tán, giúp làm giảm đáng kể chi phí cho thiết bị, không gian, và thời gian quản lý hệ thống. Khả năng mở rộng Khi số lượng máy chủ tăng lên, người quản trị hệ thống chỉ cần lắp đặt thêm một hoặc nhiều KVM switch mới vào hệ thống KVM switch có sẵn để quản lý các server mới. Việc lắp đặt này không làm ảnh hưởng và ngưng trệ hoạt động của hệ thống máy chủ trước đây, đảm bảo thời gian hoạt động của hệ thống thông tin. Có 2 phương pháp mở rộng hệ thống KVM switch: kết nối phân tầng (cascading) và kết nối ngang hàng (daisy chain). Kết nối phân tầng Đây là một phương pháp cài đặt dùng 1 cổng CPU của KVM switch cấp 1 nối đến cổng console của KVM switch cấp 2, và cứ như vậy nối tiếp nếu có thêm các KVM switch cấp 3 trong hệ thống. Như vậy mỗi KVM switch thêm vào tại từng cấp sẽ mất 1 cổng CPU. Người quản trị hệ thống chỉ cần qua KVM cấp 1 để quản lý tất cả các máy chủ kết nối vào các KVM cấp 2, 3... Kết nối hàng ngang Đây là một phương pháp kết nối mở rộng hàng ngang với KVM switch có cổng chuyên dụng cho kết nối hàng ngang. Trong một cấu hình đấu nối ngang hàng đơn giản, các KVM switch được nối lại theo một chuỗi đầu KVM switch này được nối vào đuôi của KVM switch kia. KVM switch đầu tiên trong chuỗi được gọi là "Master" và KVM switch tiếp theo sau được gọi là "Slave". Đấu nối theo phương pháp này sử dụng các cổng Chain In và Chain Out riêng biệt nên vẫn giữ được đầy đủ các số cổng CPU cho các máy chủ. Người quản trị hệ thống chỉ cần qua KVM Master để truy cập & quản lý tất cả các máy chủ kết nối vào các KVM Slave 1, 2, 3... KVM Digital KVM Digital khả năng điều khiển giữa 2 máy, nhưng điểm khác biệt với KVM là không phụ thuộc vào hệ điều hành cài trên Server, và điều khiển bằng phần cứng, điều khiển BIOS từ xa. Server hay máy tính được điều khiển bởi KVM không cần đòi hỏi trình điều khiển (driver) hay bất cứ phần mềm nào được cài đặt trên hệ điều hành. Những lợi thế khi ứng dụng KVM Digital Tiết kiệm Chi phí, Không gian và Thời gian quản lý hệ thống IT. Tương thích với tất cả các Hệ điều hành: Microsoft, SUN, Linux, MAC, Java, Free BSD... Quản lý hệ thống IT từ xa qua LAN hoặc INTERNET. Khả năng mở rộng/nâng cấp phần cứng. Chip ASIC thiết kế riêng biệt để loại bỏ lỗi chuyển mạch. Đối với những doanh nghiệp lớn hiện nay, nhiều công ty con, nhiều chi nhánh, văn phòng, nhà máy đặt rải rắc khắp nơi trên thế giới. Do đó nhu cầu đặt ra là làm sao có thể quản lý những server, hệ thống từ những vị trí địa lý khác nhau một cách tập trung. Cũng đồng nghĩa rằng những mô hình mạng cấp cao với sự hỗ trợ quản lý của KVM Digital đã trở nên phổ biến. Công nghệ này cho phép quản trị và điều khiển hệ thống có số lượng server lớn trở nên hiệu quả hơn giữa những văn phòng có vị trí địa lý khác nhau trên toàn thế giới. Serial Over The Net Với sự phát triển nhanh chóng của cơ sở hạ tầng IT ngày ngay. Người quản trị mạng gặp thách thức với việc quản lý nhiều hệ thống phức tạp khác nhau trong cùng một hệ thống như server, router, switch, hay những thiết bị khác. Serial Over The Net cung cấp cho người quản trị có thể điều khiển cùng lúc các thiết bị serial với số lương thiết bị tối đa là 8 hay 16 (hub, routers, thiết bị quản lý nguồn …) thông qua giao thức TCP/IP. Người quản trị có thể truy nhập từ local hay bất cứ nơi đâu thông qua internet. Một số tính năng cơ bản của 1 hệ thống Serial Over The Net Quản lý hệ thống các thiết bị serial từ xa thông qua giao thức TCP/IP. Truy cập từ xa qua LAN, WAN hay internet để điều khiển các server. Truy cập từ xa thông qua trình duyệt web, telnet hay Console terminal. Tự động dò tìm vị trí máy khi lắp đặt - có đèn LED trên bàn phím hiển thị vị trí máy được chọn. Dễ dàng cài đặt và tùy chỉnh thông qua giao diện đồ họa. Lập thời gian biểu, tắt, mở, restar server. Hỗ trợ tích hợp với RADIUS server. Thiết kế với giao diện 1U, đèn LED ở mặt ngoài giúp dễ dàng kiểm soát server. Tương thích với các thiết bị có giao tiếp cổng serial như SUN hay router Cisco. Mã hóa và phân quyền truy cập trên từng port. Power Over The Net Power Over The Net là một hệ thống điều khiển từ xa (thông qua giao thức TCP/IP) nguồn của các phần cứng như server, hub, router. Người quản trị hệ thống có thể sử dụng bất cứ máy tính nào kết nối thông qua internet để điều khiển và thực hiện các thao tác trên server shutdown, restar, tắt hay mở server. IT Administrator không chỉ tự do điều khiển shutdown hệ thống mà có thể kích nguồn (bật nguồn) từ xa một cách nhanh chóng bất kỳ máy tính hay server nào trong chế độ cài đặt và duy trì hiệu lực cũng như bảo đảm 100% thời gian hoạt động. Sản phẩm Power on the NET là một phần thiết kế để bổ sung cho bất kỳ server room nào đã và sẽ được trang bị KVM Over The Net. Một số tính năng cơ bản của 1 hệ thống Power Over The Net Quản lý nguồn từ xa thông qua giao thức TCP/IP hay RS-232. Khả năng mở rộng khi kết nối điều khiển nguồn tới 128 Outlet. Có thể truy cập từ xa qua LAN, WAN hay internet để điều khiển các server. Truy cập từ xa thông qua trình duyệt web, telnet hay Console terminal. Tự động dò tìm vị trí máy khi lắp đặt - có đèn LED trên bàn phím hiển thị vị trí máy được chọn. Cài đặt thời gian tắt mở server trên từng cổng. Hỗ trợ Safe shutdown hay reboot cho server Window. Dễ dàng cài đặt và tùy chỉnh thông qua giao diện đồ họa. Lập thời gian biểu, tắt, mở, restar server. Hỗ trợ tích hợp với RADIUS server. Thiết kế với giao diện 1U, đèn LED ở mặt ngoài giúp dễ dàng kiểm soát server. Hai tầng bảo mật. Hỗ trợ nhiều hệ điều hành khác nhau: Win, Linux, Mac, Sun và FreeBSD.
Cẩm Vân tên thật là Hoàng Cẩm Vân, sinh ngày 31 tháng 5 năm 1959 tại Quận 1, Sài Gòn, là một nữ ca sĩ có chất giọng khỏe với sở trường là những ca khúc trữ tình, truyền thống và những sáng tác của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Cẩm Vân được xem là cánh chim đầu đàn của thế hệ ca sĩ trẻ sau năm 1975. Chị kết hôn cùng Khắc Triệu, một tay trống và cũng là một ca sĩ. Hiện nay chị vẫn đang sống tại Thành phố Hồ Chí Minh cùng gia đình và vẫn tiếp tục hoạt động nghệ thuật. Nhắc đến tên tuổi Cẩm Vân, người nghe nhạc sẽ nhớ ngay đến những ca khúc gắn liền với chị như "Bài ca không quên", "Hà Nội mùa vắng cơn mưa", "Sóng về đâu",... Tiểu sử Cẩm Vân xuất thân trong gia đình không có thành viên nào đi theo con đường nghệ thuật duy chỉ có mẹ chị đã từng là Trưởng ban văn nghệ của Trường nữ sinh Gia Long (tức trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai). Và có lẽ niềm đam mê và giọng hát của người mẹ đã có ảnh hưởng đến cô bé Cẩm Vân nên ngay khi còn hoạt động văn nghệ trong phong trào học sinh - sinh viên, chị đã lọt vào mắt xanh của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý. Với câu nói "Cẩm Vân là một viên ngọc, viên kim cương chưa được mài dũa, đánh bóng. Tôi tin rằng cháu sẽ nổi tiếng", nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý đã thuyết phục được gia đình cho phép cô bé Cẩm Vân tham gia vào một tiết mục mừng xuân trên sóng truyền hình lúc bấy giờ. Không chỉ được biết đến như một ca sĩ có chất giọng trầm ấm, khỏe khoắn cùng phong cách thể hiện sâu lắng và trữ tình, ca sĩ Cẩm Vân còn được xem như biểu tượng thời trang của một thời với mái tóc và bộ áo dài được công chúng gọi ghép chung vào tên của chị. Thời gian gần đây, tuy không còn xuất hiện trước công chúng với chiếc áo dài quen thuộc nữa, nhưng vẫn với mái tóc cũ, ca sĩ Cẩm Vân vẫn tiếp tục giữ được niềm yêu mến của khán giả mặc cho tuổi nghề của ca sĩ ngày càng trở nên thấp hơn và ngắn hơn. Chị tâm sự: "Niềm hạnh phúc lớn lao nhất của Cẩm Vân bây giờ là vẫn giữ được niềm yêu thương của khán giả. Đối với họ, nhan sắc và tuổi tác của Cẩm Vân không phải là điều quan trọng nữa. Chính nhờ những tình cảm đó mà mỗi khi bước ra sân khấu biểu diễn, Cẩm Vân đều cảm thấy rất tự tin và hăng say mang đến khán giả những gì tốt nhất mình có thể làm được. Vì vậy mà Cẩm Vân luôn muốn nói lời tri ân đến với tất cả những khán giả đã ủng hộ Cẩm Vân trong suốt bao nhiêu năm qua." Cẩm Vân là ca sĩ nổi tiếng trong dòng nhạc cách mạng và nhạc tiền chiến Người bạn đời Cẩm Vân có lẽ đã phải lòng Khắc Triệu vì tài đánh trống của anh. Ngay ở thời điểm này, mỗi khi lưu diễn nước ngoài, thậm chí đôi lúc những tiết mục biểu diễn solo trống của Khắc Triệu còn được cổ vũ nhiều hơn Cẩm Vân. Riêng đối với Cẩm Vân, mỗi khi hát và được chính người bạn đời của mình hỗ trợ, chị cảm nhận được một nguồn trợ lực rất lớn. Không chỉ vì là "người nhà" của nhau mà ở anh Khắc Triệu có một sự đồng cảm với chị. Khi chị biểu diễn trên sân khấu, có những đoạn cao trào anh Triệu đều cảm nhận rất tinh tế và luôn hỗ trợ đúng lúc, góp phần không nhỏ vào sự thành công của ca khúc. Chị chia sẻ: "Tôi hạnh phúc vì sau lưng tôi, anh đúng là một nửa của tôi. Tôi có đầy niềm tin và sức mạnh mỗi khi đứng trước khán giả. Tôi luôn có cảm giác yên tâm để có thể trình diễn tốt nhất tiết mục của mình. Trong thời điểm này, tôi còn trụ được trên sân khấu, còn giữ được niềm yêu thương của khán giả, tôi biết rằng anh đã góp phần không nhỏ trong sự nghiệp của tôi". Những mốc thời gian quan trọng Những quốc gia Cẩm Vân đã từng lưu diễn: Campuchia, Lào, Triều Tiên, Nga, Tiệp Khắc, Bulgari, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Pháp, Đức, Úc và Hoa Kỳ. 1980, lần đầu tiên Cẩm Vân xuất hiện trên sân khấu đài truyền hình với ca khúc Lên ngàn của nhạc sĩ Hoàng Việt. Sự thành công của lần xuất hiện này được đánh dấu bằng những lời mời lưu diễn ở nước ngoài của Thành Đoàn Thành phố ngay sau đó. Cẩm Vân đã trở thành ca sĩ đầu tiên của Thành phố Hồ Chí Minh được biểu diễn tại Đức, Bulgari, Liên Xô, các nước Đông Âu,... 1982, lần đầu tiên chị hát ca khúc gắn liền với tên tuổi của mình là Bài ca không quên của nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn. Mặc dù cảm xúc chính của ca khúc là của nhân vật nam chính trong phim nhưng đạo diễn Nguyễn Văn Thông lại chọn tiếng hát của Cẩm Vân mặc dù đã có nhiều nam ca sĩ đương thời thử giọng. Tiếp nối sau sự thành công này là loạt những ca khúc gây tiếng vang khác như Đêm thành phố đầy sao, Triệu đóa hồng, Mùa xuân, Khát vọng,... 1980 - 1985 Cẩm Vân về làm việc ở Công ty Du lịch. Tại đây chị đã tham gia vào đội văn nghệ chuyên biểu diễn phục vụ những đoàn khách du lịch nước ngoài. Và cũng trong thời gian này, Cẩm Vân có cơ hội để tiếp xúc và học về nhạc lý, ký xướng âm với nhạc sĩ Lê Đô và Hoàng Trọng. 1985 Cẩm Vân chính thức trở thành ca sĩ chuyên nghiệp khi về Đoàn ca nhạc nhẹ Tháng Tám. Tại đây Cẩm Vân được trau dồi nghề nghiệp, rèn luyện chuyên môn từ luyện thanh đến kỹ năng biểu diễn. Nhưng chính chị cũng đã tâm sự: "Tuy được dạy nhiều về chuyên môn nhưng Cẩm Vân chỉ học những kỹ thuật lấy hơi, ký xướng âm chứ không học hát. Vì ngay từ những bước đầu tiên Cẩm Vân không muốn rằng mình được đào tạo ra giống một ai đó để người nghe có thể lầm mình với một giọng hát khác". 1986 Âm nhạc đã kết nối tình cảm cho Khắc Triệu và Cẩm Vân trong chuyến lưu diễn tại Liên Xô. 1991 Cẩm Vân rời khỏi Đoàn ca nhạc nhẹ Tháng Tám trở thành ca sĩ hoạt động độc lập, bắt đầu phát hành album của riêng mình. Cũng trong năm này, chị đã lập gia đình cùng tay trống – ca sĩ Khắc Triệu và trở thành đôi nghệ sĩ được nhiều người trong và ngoài giới ngưỡng mộ. 1995 và 1998 là khoảng thời gian chị phải ngưng biểu diễn sân khấu lâu nhất trong 4 – 5 tháng vì phải thực hiện thiên chức làm mẹ, nhưng trong thời gian này chị vẫn tiếp tục công việc của mình trong phòng thu. 2000 chị trở thành ca sĩ đầu tiên của Việt Nam biểu diễn tại Hoa Kỳ. 2006 – 2007 – 2008 ca sĩ Cẩm Vân được mời đích danh sang biểu diễn tại Hoa Kỳ trong những đêm nhạc kỉ niệm ngày mất của nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn. Trong những đêm diễn này, chị đều biểu diễn với sự hỗ trợ của ban nhạc The Friends. Giải thưởng Một điểm đặc biệt trong sự nghiệp của nữ ca sĩ Cẩm Vân là chị tham dự rất nhiều những liên hoan, những cuộc thi âm nhạc từ nghiệp dư đến chuyên nghiệp và đoạt được rất nhiều huy chương vàng mà không có huy chương nào là bạc hay đồng cả. 1983 Huy chương vàng đơn ca Liên hoan ca nhạc chuyên nghiệp thành phố với ca khúc Bài ca không quên của Phạm Minh Tuấn 1985 Huy chương vàng đơn ca Liên hoan ca nhạc chuyên nghiệp thành phố với ca khúc Huyền thoại mẹ của Trịnh Công Sơn 1986 Tham dự cuộc thi đơn ca quốc tế tại Dresden, Đức và Đoạt giải đặc biệt với ca khúc Vi sao em chết? của nhạc sĩ Thanh Trúc 1987 Đồng Giải Nhất Cuộc thi đơn ca chuyên nghiệp Toàn quốc- khu vực 2- Dòng nhạc nhẹ cùng với cố ca sĩ Ngọc Anh (TP HCM) 1988 Huy chương vàng Cuộc thi đơn ca chuyên nghiệp toàn quốc Chung kết tại Hà Nội- Dòng Nhạc Nhẹ với ba ca khúc: Ngôi sao cô đơn của Thanh Tùng; Khi yêu ai nỡ hững hờ (ca khúc nhạc Nga), Người sống mãi trong lòng Miền Nam của Nguyễn Đồng Nai. Cuộc thi diễn ra vào ngày 19/5 sinh nhật Bác nên mỗi ca sĩ ngoài 2 ca khúc tự chọn phải hát một ca khúc về Bác Hồ. Trong cuộc thi này chi còn đoạt giải: Người hát hay nhất ca khúc về Bác Hồ. Sau Cẩm Vân các ca sĩ: Quang Lý -Đoàn Ca nhạc nhẹ Tháng 8; Ngọc Thúy- Đoàn ca nhạc Hải Đăng Khánh Hòa; Mạnh Hưng- Đoàn ca múa Quân đội; Hoàng Huệ Quân- Công ty biểu diễn TPHCM- đoạt giải giải Nhì, Các ca sĩ: Thế Hiển- công ty biểu diễn TPHCM; Doãn Tần- Đoàn Ca múa Quân đội- Thanh Xuân- Đoàn Ca múa Bộ đội Biên phòng- Đoạt giải 3. Đây là cuộc thi ca nhạc được đánh giá có chất lượng cao nhất, sau đó mới đến cuộc thi đơn ca Nhạc nhẹ 1991 mà Thanh Lam đoạt ngôi Nữ hoàng. Nhiều ca khúc từ cuộc thi được thính giả yêu thích như: Ngôi sao cô đơn, Chuyện tình của biển- Thanh Tùng, Đợi chờ trong cơn mưa- Thế Hiển, Thuyền và Biến- Phan Huỳnh Điểu, Đất nước- Phạm Minh Tuấn, Ngẫu hứng ngựa ô- Trần Tiến,... 1989 Huy chương vàng Liên hoan nhạc nhẹ tại Bình Nhưỡng- CHDCND Triều Tiên với ca khúc Ngôi sao cô đơn của nhạc sĩ Thanh Tùng 1995 Gương mặt trẻ thành phố 20 năm 1994, 1996 và 1997 Đoạt giải Mai Vàng do báo Người Lao động tổ chức 1997-2007 Một loạt ca khúc: Hà Nội mùa vắng những cơn mưa, Cơn mưa lao xao, Thiên đường mong manh, Biển cạn, Còn đó chút hồng phai do chị thể hiện đã lọt vào topten Làn Sóng Xanh – một bảng xếp hạng các ca khúc được yêu thích có uy tín trên cả nước. Chị cũng nhận được giải thưởng Làn Sóng Xanh vào các năm 1998 và 2000. 2002 chị được bình chọn là ca sĩ hát nhạc truyền thống hay nhất trong cuộc bình chọn do Đài tiếng nói nhân dân Tp HCM tổ chức. 2004 Cẩm Vân là ca sĩ duy nhất được giới trẻ bầu chọn vào danh sách 30 gương mặt trẻ tiêu biểu của Thành phố Hồ Chí Minh trong cuộc bình chọn do Thành đoàn Thành phố tổ chức. Nhận xét của những người trong ngành Album Lạc mất em (1991) Xa em kỷ niệm (1995) Thiên đường mong manh (1998) Cơn mưa lao xao (1999) That’s why (1999) Huế - Sài Gòn – Hà Nội (2000) Cõi tình (2000) Xin cho tôi (2004) Hát mãi cho nhau (2004) Cẩm Vân (2007) Bài ca không quên (2007) Xin mặt trời ngủ yên (2008) Viết lời Con yêu (Child, nhạc Philippines, viết lời) Khi cô đơn anh gọi tên em (còn gọi là: Khi cô đơn em gọi tên anh, Kokoro no Tomo; Nhạc Nhật, viết lời) Khi yêu xin chớ biệt ly (nhạc Nga, viết lời) Nuối tiếc (viết lời)
Duy Mạnh (tên đầy đủ là Nguyễn Duy Mạnh; sinh ngày 22 tháng 5 năm 1975) là một ca sĩ, nhạc sĩ người Việt Nam. Anh bắt đầu nổi tiếng từ năm 2005 với album đầu tay "Tình em là đại dương" gồm một loạt ca khúc trở thành hiện tượng của nhạc Việt lúc đó. Cuộc đời Duy Mạnh sinh ngày 22 tháng 5 năm 1975 tại Hải Phòng, trong một gia đình có ba người anh trai đều là nghệ sỹ saxophone. Anh theo học tại Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh khoa Piano. Ngoài ra, anh còn học nhạc với nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 và nhạc sỹ Nguyễn Quang (con trai của Nguyễn Ánh 9) trong khoảng thời gian từ năm 1992 đến năm 1998. Từ năm 1998, Duy Mạnh bắt đầu biểu diễn trong các phòng trà, bar, pub và sân khấu nhỏ ở Thành phố Hồ Chí Minh với nhiệm vụ chính là đệm piano cho các ca sĩ khác hát và hát lót nếu ca sĩ chính bận đột xuất. Năm 2002, Duy Mạnh tự sản xuất đĩa nhạc đầu tiên với những sáng tác của các nhạc sỹ có tên tuổi như Thuận Yến, Việt Anh, Hà Dũng… Tuy nhiên, đĩa nhạc này không được phát hành rộng rãi. Duy Mạnh bắt đầu nổi tiếng từ năm 2005 với album đầu tay "Tình em là đại dương" với một loạt ca khúc trong album trở thành hiện tượng của nhạc Việt lúc đó như Hãy về đây bên anh, Kiếp đỏ đen, Tình em là đại dương, Ta đâu có say. Sáng tác đầu tiên của Duy Mạnh là bài Tình yêu còn đâu. Chuyên gia hòa âm phối khí Bảo Lư – một người bạn thân của anh nghe qua và thích thú nên đã khuyến khích Duy Mạnh vào đường sáng tác. Gia đình Vợ Duy Mạnh tên là Ngô Thu Huyền (Huyền Cầm), sinh ra và lớn lên tại Hải Phòng, cùng quê với Duy Mạnh. Cô lấy Duy Mạnh ngay sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học. Hiện nay vợ chồng Duy Mạnh đã có hai người con. Tên của hai người con là Nguyễn Thu Cầm (con gái lớn, sinh năm 2000, sau này cũng theo nghiệp hát của Duy Mạnh với nghệ danh Cầm) và Nguyễn Mạnh Cầm (con trai út, sinh năm 2012).Trước khi nổi tiếng, Duy Mạnh sống một mình ở Thành phố Hồ Chí Minh trong khi vợ và con ở tận Hải Phòng. Hiện tại, cả gia đình anh đã chuyển vào Thành phố Hồ Chí Minh. Album Album thành công nhất là Tình Em Là Đại Dương số lượng tiêu thụ 20,000 bản với 3 lần tái bản. Sáng tác Dù sáng tác về nhiều đề tài như tình yêu đôi lứa, tình người lính, tuổi học trò, tình cha và quê hương... nhưng Duy Mạnh ghi dấu ấn với những sáng tác về đề tài tệ nạn xã hội : Kiếp Đỏ Đen, Kiếp Bán Độ, Lời Xin Lỗi Của Một Dân Chơi, Phê... Trong vai trò ca sĩ, tên tuổi Duy Mạnh được khán giả biết đến rộng rãi qua các bài hát do chính anh sáng tác như: Hãy Về Đây Bên Anh, Kiếp Đỏ Đen, Ta Đâu Có Say, Tình Em Là Đại Dương, Biết Tìm Đâu, Dĩ vãng Cuộc Tình, Lời Xin Lỗi Của Một Dân Chơi, Phê. (*) Những bài hát về tệ nạn xã hội (**) Những bài hát về về quê hương, đất nước (***) Bài hát về tình phụ tử (****) Bài hát về tuổi học trò Giải thưởng Giải Làn Sóng Xanh cho nhạc sĩ và ca sĩ của năm 2005 Giải Làn Sóng Xanh cho nhạc sĩ của năm 2006 Chú thích
Bộ Mao lương (danh pháp khoa học: Ranunculales) là một bộ thực vật có hoa. Để có bộ này ít nhất nó phải chứa họ Ranunculaceae, họ của các loài mao lương. Bộ Mao lương chiếm khoảng 1,6% sự đa dạng của thực vật hai lá mầm thật sự. Theo APG, bộ này chứa 7 họ với khoảng 200 chi và 4.400-4.500 loài. Magallön và ctv. (1999) cho rằng bộ này có niên đại khoảng 70 triệu năm trước (Ma), dựa trên các hóa thạch sớm nhất được coi là của bộ này. Tuy nhiên, nó là của thành viên trong họ Menispermaceae không cơ bản để quyết định. Anderson và ctv. (2005) xác định niên đại của nhánh phần thân cho bộ này là khoảng 122-120 Ma, sự rẽ nhánh trong nó bắt đầu vào khoảng 121-114 Ma. Tất cả các họ đã rẽ ra trước 105 Ma, ngoại trừ Ranunculaceae/Berberidaceae (khoảng 104-90 Ma). Một số báo cáo cho thấy sự hình thành quả bị làm chậm lại (tới 2 tháng sau khi thụ phấn), bao gồm Circeasteraceae, Eupteleaceae, Lardizabalaceae và Ranunculaceae (Sogo & Tobe 2006). Các mối quan hệ trong bộ này được nghiên cứu và hiểu khá rõ. Hoot và Crane (1995), Kadereit và ctv. (1995), Oxelman và Lideacuten (1995), hay Hoot và ctv. (1999), Soltis và ctv. (2003), Kim và ctv. 2004), Worberg và ctv. 2006, 2007), tất cả đều cho rằng Eupteleaceae có thể là nhóm chị em với toàn bộ các họ còn lại trong bộ, mặc dù sự hỗ trợ cho vị trí đó trong một số nghiên cứu chỉ ở mức độ trung bình. Lưu ý rằng một số nghiên cứu trước đây cho rằng Ranunculaceae là nhóm chị em với các họ khác (Soltis và ctv. 2000). APG II cũng cho phép một tùy chọn về khả năng tách ra hay nhập vào của các họ Papaveraceae (nghĩa hẹp), Fumariaceae và Pteridophyllaceae trong họ Papaveraceae (nghĩa rộng). Bộ Anh túc (Papaverales) trước đây nói chung được coi là một bộ tách rời cận kề với bộ Mao lương (Cronquist 1981; Dahlgren 1989), nhưng rõ ràng là không có vị trí để thừa nhận điều này (xem hình), đặc biệt là khi sự hỗ trợ cho giả thuyết về vị trí của Eupteleaceae như là nhóm chị em với toàn thể nhánh này càng được củng cố thêm. Cả hệ thống APG (1998) và hệ thống APG II (2003) đều công nhận bộ này và đặt nó trong nhóm các thực vật hai lá mầm thực thụ cơ bản (basal eudicots) và không quy tiếp thành các nhóm lớn hơn nữa. Các hệ thống này sử dụng định nghĩa sau: Bộ Ranunculales Họ Berberidaceae: Họ Hoàng mộc Họ Circaeasteraceae: Họ Tinh diệp thảo [+ Họ Kingdoniaceae ]: Độc diệp thảo Họ Eupteleaceae: Họ Lĩnh xuân Họ Lardizabalaceae: Họ Mộc thông Họ Menispermaceae: Họ Biển bức cát, tiết dê Họ Papaveraceae: Họ Anh túc [+ Họ Fumariaceae = Fumarioideae]: (Phân) họ Tử cận [+ Họ Pteridophyllaceae = Pteridophylloideae] Họ Ranunculaceae: Họ Mao lương Ghi chú: "[+...]" = Các họ tách ra tùy chọn, có thể tách hoặc không tách từ họ trước đó. Theo định nghĩa này, các thành viên được biết nhiều của bộ Ranunculales bao gồm các loài mao lương, ông lão, lâu đẩu, phi yến và anh túc. Hệ thống Cronquist (1981) cũng công nhận bộ này, nhưng đặt nó trong phân lớp Magnoliidae, thuộc lớp Magnoliopsida [= thực vật hai lá mầm]. Nó sử dụng định nghĩa sau: Bộ Ranunculales Họ Berberidaceae Họ Circaeasteraceae Họ Coriariaceae Họ Lardizabalaceae Họ Menispermaceae Họ Ranunculaceae Họ Sabiaceae Họ Sargentodoxaceae Trong hệ thống Cronquist thì các họ Papaveraceae và Fumariaceae (bao gồm cả các loài thực vật trong họ tùy chọn Pteridophyllaceae) được coi như là một bộ riêng gọi là Papaverales, được đặt trong cùng phân lớp Magnoliidae.
"Tôi Có một Ước mơ" (tên gốc tiếng Anh: "I Have a Dream") là tên phổ biến của bài diễn văn nổi tiếng nhất của Martin Luther King, Jr., khi ông nói, với sức mạnh thuyết phục của tài hùng biện, về ước mơ của ông cho tương lai của nước Mỹ, khi người da trắng và người da đen có thể sống chung hoà thuận như những con người bình đẳng. Ngày 28 tháng 8 năm 1963, King đọc bài diễn văn này từ những bậc thềm của Đài Tưởng niệm Lincoln trong cuộc Tuần hành đến Washington vì Việc làm và Tự do. Đó là thời điểm quyết định cho Phong trào Dân quyền Mỹ. Khởi đầu với gợi ý đến bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ, văn kiện năm 1863 công bố sự tự do cho hàng triệu nô lệ, King đưa ra nhận xét, "nhưng một trăm năm sau, người da đen vẫn chưa được tự do." Khi sắp kết thúc bài diễn văn, King rời bỏ bản thảo soạn sẵn để trình bày một điệp ngữ đầy tính ngẫu hứng, khi ông nhắc đi nhắc lại câu, "Tôi có một ước mơ", có lẽ theo yêu cầu của Mahalia Jackson, "Nói cho họ biết về ước mơ đó đi, Martin!" Đây là thời khắc đẩy cảm xúc người nghe lên đỉnh điểm, và khiến nó trở thành phần nổi tiếng nhất của bài diễn văn: King kể cho họ nghe về ước mơ của ông, phác họa những hình ảnh về sự tự do và bình đẳng đang trỗi dậy từ vùng đất nô lệ và đầy hận thù. "Tôi có một ước mơ" đứng đầu danh sách 100 bài diễn văn chính trị xuất sắc nhất nước Mỹ trong thế kỷ 20, theo sự bình chọn năm 1999 của giới học giả về diễn thuyết trước công chúng. Bối cảnh Cuộc Tuần hành vì Việc làm và Tự do tổ chức tại Washington một phần nhằm biểu dương sự hậu thuẫn dành cho cuộc vận động của Tổng thống Kennedy trong tháng 6 thông qua các đạo luật dân quyền. King cùng những nhà lãnh đạo Phong trào Dân quyền đồng ý duy trì lập trường ôn hòa, và tránh kêu gọi những hành động bất tuân dân sự là dấu ấn nổi bật của Phong trào Dân quyền. King dự định sử dụng diễn từ này như một cơ hội để tôn vinh Diễn văn Gettysburg của Abraham Lincoln, nhân dịp kỷ niệm một trăm năm Bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ. Tựa đề và sự hình thành Từ thập niên 1960, King đã khởi sự nói về "ước mơ" khi ông diễn thuyết tại Hiệp hội vì sự Thăng tiến của người Da màu (NAACP) mà ông gọi là "Người da đen và ước mơ Mỹ", trình bày về khoảng cách giữa Giấc mơ Mỹ và cuộc sống thực tế của người Mỹ; ông cho rằng những người ủng hộ thuyết da trắng ưu việt làm tan nát ước mơ, và thêm rằng "Chính phủ liên bang của chúng ta khoét sâu thêm qua thái độ vô cảm và đạo đức giả, và bởi sự phản bội của họ đối với chính nghĩa của công lý". King nhận định, "Có thể lắm người da đen chính là phương tiện Chúa dùng để cứu rỗi linh hồn nước Mỹ." Tháng 6, 1963 ở Detroit, King cũng nói về một "ước mơ" khi ông tuần hành trên Đại lộ Woodward với Walther Reuther và Mục sư C. L. Franklin. Diễn từ King trình bày tại cuộc tuần hành Washington, "Tôi có một ước mơ", có vài phiên bản được viết vào những thời điểm khác nhau. Không có một phiên bản độc nhất nhưng là một sự tổng hợp từ vài bản thảo, lúc đầu được gọi là "Normalcy, Never Again". Một ít từ bản thảo này cùng một ít từ một bản thảo khác, "Normalcy Speech", được đem vào bản thảo sau cùng. Một bản thảo "Normalcy, Never Again" được lưu giữ tại Thư viện Robert W. Woodruff của Trung tâm Đại học Atlanta và Đại học Morehouse. Khi sắp kết thúc bài diễn văn, Tiến sĩ King nghe tiếng kêu to của ca sĩ nổi tiếng thuộc dòng nhạc Phúc âm, Mahalia Jackson, từ dưới đám đông, "Nói cho họ biết về ước mơ đó đi, Martin!". King ngưng đọc bài diễn văn soạn sẵn, và khởi sự "thuyết giảng", nhấn mạnh đến câu nói cao trào, "Tôi có một ước mơ". Bài diễn văn được phác thảo với sự trợ giúp từ Stanley Levinson và Clarence Benjamin Jones ở Riverdale, Thành phố New York. Jones thuật lại, "việc chuẩn bị hậu cần cho cuộc tuần hành quá nặng nề đến nỗi bài diễn văn không được xem là ưu tiên", ông thêm, "vào chiều tối thứ Ba, ngày 27 tháng 8 [12 giờ trước khi cuộc tuần hành bắt đầu] Martin vẫn chưa biết phải nói gì". Trước đó, King đã ứng dụng thủ pháp điệp ngữ cho câu "Tôi có một ước mơ" khi diễn thuyết trước cử tọa 25 000 người tại Cobo Hall ở Detroit ngay sau cuộc Diễu hành cho Tự do với sự tham dự của 125 000 người tại Detroit vào ngày 23 tháng 6 năm 1963. Sau cuộc tuần hành tại Washington, một bản thu âm diễn từ của King tại Cobo Hall được phát hành với tiêu đề "The Great March to Freedom". Phong cách Được ca tụng như là một kiệt tác của thuật hùng biện, bài diễn văn của King được định hình theo phong cách thuyết giáo của các mục sư da đen thuộc hệ phái Baptist, thường viện dẫn từ những nguồn có giá trị thiêng liêng và được mọi người tôn trọng như Kinh Thánh, Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ, Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ và Hiến pháp Hoa Kỳ. Thông qua thủ thuật hùng biện để kiến tạo những liên tưởng (định nghĩa bởi Campell và Huxman (2003) như là "những trích dẫn gián tiếp từ kiến thức văn hoá chung của người Mỹ như Kinh Thánh, thần thoại Hi Lạp và La Mã, hoặc lịch sử nước Mỹ"), King sử dụng ngôn từ và các trích đoạn từ những áng văn thâm thuý và được yêu thích của văn hóa Hoa Kỳ để biến chúng thành sức mạnh thuyết phục cho bài diễn văn của ông. Ngay từ phần đầu của bài diễn văn, King đã mượn lời từ Diễn văn Gettysburg của Abraham Lincoln khi ông nói "Five score years ago..." (Một trăm năm trước...). Những gợi ý đến từ Kinh Thánh chiếm vị trí vượt trội. King trích dẫn từ Thi thiên (Thánh vịnh) 30:5 trong đoạn thứ nhì của bài diễn văn, khi nhắc đến điều khoản bãi bỏ nô lệ được ghi trong bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ, ông nói "Nó đã đến như bình minh rộn rã để kết thúc đêm dài tăm tối của kiếp nô lệ". Một gợi ý khác đến từ Kinh Thánh được tìm thấy trong đoạn thứ mười của bài diễn văn: "Không, không, chúng ta không hài lòng, và chúng ta sẽ không hài lòng cho đến khi sự công chính đổ xuống như nước chảy và sự chính trực như một dòng sông", đến từ Amos 5:24. King cũng trích dẫn từ Isaiah 40:4 khi ông nói "Tôi có một ước mơ, rồi có một ngày mọi thung lũng sẽ được nâng cao, mọi đồi núi sẽ bị hạ thấp, chỗ lồi lõm sẽ được san bằng, chỗ quanh co sẽ thành ngay thẳng, và sự vinh hiển của Thiên Chúa sẽ hiển lộ để mọi loài xác thịt cùng nhau chiêm ngưỡng..." Sử dụng những chữ đầu một câu hoặc một phân đoạn để nhấn mạnh, sắp xếp và đẩy một ý tưởng lên đỉnh điểm (Campbell & Huxman, 2002, p. 177) là phép hùng biện được King sử dụng suốt bài diễn văn. Một ví dụ được tìm thấy ngay từ đầu khi King dẫn đưa đám đông đến cao trào: "Nay là lúc..." được lặp lại bốn lần trong đoạn thứ sáu của bài diễn văn. Nổi tiếng nhất là câu nói "Tôi có một ước mơ..." được lặp lại tám lần khi King phác họa bức tranh hòa hợp chủng tộc của một nước Mỹ hiệp nhất. Theo sắp đặt của chương trình, King là người thứ mười sáu trong số mười tám diễn giả phát biểu trong ngày tổ chức cuộc tuần hành. Dân biểu Hoa Kỳ John Lewis, ông cũng là một diễn giả tại sự kiện này với tư cách chủ tịch Ủy ban Phối hợp Sinh viên Bất bạo động, nhận xét, "Tiến sĩ King có sức mạnh, năng lực, và khả năng chuyển hóa những bậc thềm của Đài Tưởng niệm Lincoln thành một địa điểm được tưởng nhớ lâu dài. Bằng cung cách diễn thuyết của ông, King đã giáo dục, soi dẫn, và loan báo không chỉ cho những người có mặt ở đó, nhưng cho mọi người trên khắp nước Mỹ, và cho những thế hệ chưa sinh ra." Những ý tưởng được thể hiện trong bài diễn văn phản ánh những ngược đãi King đã nếm trải như một người da đen, và kêu gọi sự quan tâm đến lý tưởng của nước Mỹ như là một quốc gia được thành lập để cung ứng quyền tự do và công lý cho mọi người, rồi ông củng cố và làm thăng hoa những lý tưởng ấy bằng cách đặt chúng vào một bối cảnh thiêng liêng với lập luận rằng sự công bằng xã hội là phù hợp với ý chỉ của Chúa. Như thế, bài diễn văn đã cống hiến cho nước Mỹ cơ hội được cứu rỗi khỏi tội kỳ thị chủng tộc. King miêu tả những gì nước Mỹ đã hứa hẹn là một "tín phiếu" mà nước Mỹ không chịu thanh khoản. Ông nói, "nước Mỹ đã trao cho người da đen một tấm ngân phiếu xấu", nay "chúng ta đến để đổi tấm ngân phiếu ấy thành tiền" bằng cách tuần hành ở Washington, D. C. Tranh cãi về bản quyền Vì King thường phát những bản sao bài phát biểu của ông cho công chúng tại nơi diễn thuyết, đã có thời gian người ta tranh cãi về tình trạng bản quyền các bài phát biểu của ông. Việc này đã dẫn đến một vụ kiện, Công ty tài sản của Martin Luther King, Jr. kiện Công ty CBS, được tuyên là bên tài sản của King giữ bản quyền bài phát biểu và có quyền kiện. Việc sử dụng toàn văn hoặc một phần bài phát biểu mà chưa được cho phép vẫn có thể sử dụng trong một vài tình huống, đặc biệt là với lý do sử dụng hợp lý hoặc trích dẫn hợp lý. Theo luật hiện hành thì bài phát biểu vẫn được Hoa Kỳ bảo hộ bản quyền cho đến năm 2038, tức là 70 năm sau khi King mất. Phản hồi Một ngày sau, bài diễn văn nhận được sự tán tụng, và được những nhà quan sát xem là đỉnh cao của cuộc tuần hành. James Reston, một cây bút của tờ New York Times, nhận xét, "Tiến sĩ King đã chạm đến tất cả chủ đề của ngày ấy, chỉ để làm tốt hơn những người khác. Ông là một biểu tượng đầy trọn cho Lincoln và Gandhi, và thấm đẫm tinh thần của Kinh Thánh. Ông vừa quyết liệt vừa trầm lắng, và khiến đám đông ra về với cảm giác rằng một cuộc hành trình dài là xứng đáng". Reston cũng nhận thấy "sự kiện đã được truyền hình và báo chí tường thuật tốt hơn bất cứ sự kiện nào khác kể từ lễ nhậm chức của Tổng thống Kennedy," và tin rằng "sẽ còn lâu lắm [Washington] mới quên được giọng du dương u buồn của Mục sư Martin Luther King Jr. nói với đám đông về ước mơ của ông." Một bài viết của Mary McGrory đăng trên tờ Boston Globe thuật lại rằng diễn từ của King đã "hút hồn" và "cảm động đám đông" trong ngày ấy theo cách không một diễn giả nào khác có thể làm được. Marquis Childs của tờ Washington Post viết rằng diễn văn của King "vượt quá thuật hùng biện đơn thuần". Một bài báo trên tờ Los Angeles Times bình luận rằng "tài hùng biện vô song" được thể hiện bởi King, "nhà hùng biện siêu đẳng" với phong cách cách quá hiếm hoi đến nỗi hầu như bị lãng quên trong thời đại chúng ta, "đã khiến những kẻ chủ trương phân biệt phải hổ thẹn" bằng cách soi sáng "lương tâm của nước Mỹ" với công lý của chính nghĩa quyền công dân. William C. Sullivan, người đứng đầu đơn vị phản gián của FBI, CONIELPRO, hai ngày sau khi King đọc diễn từ "Tôi có một ước mơ", viết một bản ghi nhớ về ảnh hưởng đang gia tăng của King: "Xét đến ảnh hưởng trên người da đen, với bài diễn văn mị dân đầy thu hút của King hôm qua, ông ấy đứng vượt trội hơn hẳn tất cả lãnh tụ da đen cộng lại. Chúng ta phải đánh dấu ông ta ngay bây giờ, nếu trước đây chưa làm như thế, như là người da đen nguy hiểm nhất trong tương lai tại quốc gia này". Di sản Cuộc Tuần hành tại Washington gây áp lực trên chính quyền Kennedy thúc đẩy việc thông qua đạo luật dân quyền tại Quốc hội. Theo nhật ký của Arthur M. Schlesinger, Jr. (phụ tá đặc biệt cho Tổng thống Kennedy từ năm 1961-63) phát hành năm 2007 sau khi ông mất, nói rằng Tổng thống Kennedy tỏ ra lo lắng nếu cuộc tuần hành không thu hút được nhiều người sẽ ảnh hưởng đến nỗ lực thúc đẩy dân quyền của ông. Sau cuộc tuần hành, tạp chí TIME chọn King là Nhân vật của Năm năm 1963, năm sau ông được trao tặng Giải Nobel Hòa bình, King là người trẻ tuổi nhất được nhận vinh dự này. Năm 2002, Thư viện Quốc hội vinh danh "Tôi có một ước mơ" khi chọn bài diễn văn vào Danh sách Ghi âm Quốc gia (tuyển chọn những bản ghi âm có tầm quan trọng về văn hóa, lịch sử, và thẩm mỹ, hoặc phản ảnh cuộc sống tại Hoa Kỳ). Năm 2003, Cục Công viên Quốc gia khánh thành một bệ đá hoa cương đánh dấu địa điểm King đọc bài diễn văn tại Đài Tưởng niệm Lincoln. Trích dẫn Chú thích
Sinh lý học thần kinh là một phân ngành khoa học của sinh lý học, có vai trò nghiên cứu các chức năng của hệ thần kinh trung ương. Nó liên quan chặt chẽ với sinh học thần kinh, tâm lý học, thần kinh học, sinh lý học thần kinh lâm sàng, điện sinh lý học, hoạt động thần kinh cấp cao, giải phẫu học thần kinh, khoa học nhận thức và các chuyên ngành khoa học về não khác. Trong tâm lý học, sinh lý học thần kinh là cơ sở tự nhiên của các hiện tượng tâm lý người. Cấu tạo và chức năng của các phân tích quan là một phần tương đối quan trọng trong việc tìm hiểu cơ sở vật chất của các hiện tượng tâm lý, cụ thể là quá trình nhận thức cảm tính bao gồm 2 quá trình: cảm giác và tri giác.
Con rồng Việt Nam là trang trí kiến trúc, điêu khắc và hội họa hình rồng mang bản sắc riêng là hình tượng nguyên thủy phát triển độc lập là hình ảnh tiền thân của con rồng trong văn hóa Á Đông, theo trí tưởng tượng của người Việt vào từng giai đoạn lịch sử văn hóa khác nhau. Nó có nét giống và nhiều khác biệt riêng với rồng trong trang trí kiến trúc và hội họa các quốc gia trong Vùng văn hóa Đông Á khác mà chỉ có Việt Nam có như nét vui vẻ, hiền hơn, cái mũi to, nhiều lông, bờm thay vì nhiều nhánh sừng, miệng ngậm ngọc thay vì tay cầm viên minh châu. Lịch sử Từ xa xưa con Rồng đã có trong tâm thức, là vật tổ sùng bái của người Việt, nhiều huyền thoại về rồng, với biểu hiện linh thiêng. Rồng là điểm hội tụ với ý nghĩa vũ trụ và nhân sinh. Người Việt có nguồn cội Lạc Hồng (Lạc Long Quân và Âu Cơ). Rồng là biểu tượng vật linh trong tín ngưỡng văn hoá dân gian. Rồng được sáng tạo thành hình tượng nghệ thuật và có mặt trong các thời kỳ nghệ thuật truyền thống của các vương triều tự chủ. Người Việt sống tại vùng sông nước nên ngoài các loài chim, từ xưa họ đã tôn sùng cá sấu như một con vật linh thiêng, vì chúng đại diện cho sự trù phú và sức mạnh, thời kỳ này vùng đất người Việt sống còn rất nhiều cá sấu. Họ đã thần thánh hóa loài cá sấu lên thành con Giao Long mà người Trung Hoa gọi sau này, một cách thức tô điểm cho hình hài con cá sấu nhiều chi tiết tưởng tượng và cũng nhiều ý nghĩa hơn. Con rồng này tồn tại cùng tâm thức của người Việt trong suốt thời Văn Lang - Âu Lạc. Rất có thể từ con Giao Long này mà người Trung Hoa đã vay mượn tạo ra con rồng Trung Hoa của họ. Nhưng rồng của người Việt luôn có đặc điểm mang nhiều lông hơn hẳn và cách thể hiện lông, bờm khác biệt so với các nước châu Á khác tôn sùng sừng và uy nghiêm xa cách hơn. Trong cả thiên niên kỉ bị đô hộ bởi chính quyền từ Trung Hoa, trong hoàn cảnh chung với các miền đất phương Bắc khác của chính sách Hán hóa, hình ảnh con rồng Việt Nam giao hòa với con rồng của người Hán, trong khi vẫn giữ bản sắc riêng khi con rồng của Việt mang giá trị phổ cập chứ không dành riêng cho giai cấp thống trị, quyền lực, người dân vẫn có thể dùng một phần của con rồng để trang trí. Đến khi giành được độc lập, hình tượng con Rồng sáng tạo không chỉ mang tính ứng dụng trang trí trong Hoàng cung, các ngôi chùa, cung điện mà còn có giá trị cái đẹp tạo hình. Hình tượng Rồng phát triển ở các vương triều, mỗi thời đều có đặc điểm phong cách đặc trưng. Cơ sở nhận diện hình tượng trên các phần thể hiện: Đầu Rồng (mắt, mũi, mồm, râu, bờm, sừng); hình dáng thân Rồng (các khúc uốn lượn); các chi tiết (vây, móng, đuôi) và đối chiếu với niên đại di tích để xác định Rồng các thời. Đặc điểm Hình tượng Rồng được sáng tạo, thể hiện phong phú, chiếm vị trí quan trọng trong các hợp thể kiến trúc (hoàng cung hay chùa, miếu, đền, đình). Các vương triều đều lấy hình tượng Rồng hoàn hỉnh là biểu tượng quyền uy của vương triều. Rồng không hoàn chỉnh vẫn được trang trí, cầu cúng nằm ngoài phạm vi vương triều. Từ thời Lý, thời Trần, phong cách Rồng nhất quán hoặc tập trung rõ đặc trưng (ở đầu và khúc uốn). Từ thời Nhà Lê sơ, Mạc đến thời Nguyễn hình tượng Rồng phát triển rực rỡ với nhiều tư thế đa dạng là biểu tượng dân tộc. Nét tiêu biểu tập trung ở các di tích trung tâm. Những văn bia phát triển, biết được xuất xứ nội dung, niên đại là những giá trị để ta xác định thời đại các chạm khắc hình Rồng. Các hình tượng Rồng thời sau một mặt kế thừa thời trước, mặt khác muốn tìm ra những cái riêng về phong cách của vương triều mình. Những nét đặc trưng tiêu biểu của hình tượng Rồng ở các thời được nhận diện với sự so sánh, đối chiếu để xác định phong cách nghệ thuật. Hình Rồng mỗi vương triều đều có đặc điểm và phong cách trong sự phát triển của nghệ thuật tạo hình truyền thống. Nó không chỉ ở sử dụng mà còn là dấu ấn quan niệm thẩm mỹ, sắc thái dân gian mang đặc thù dân tộc. Nhìn chung, Rồng Việt Nam luôn có những mô-típ rõ ràng đặc trưng: Rồng là con vật có sự kết hợp của nhiều loài vật khác nhau, cách giải thích phổ biến là 9 loài: đầu hổ, sừng hươu, mắt thỏ, tai bò, cổ rắn, bụng ếch, vây cá chép, móng chim ưng, bàn chân của hổ. Thân rồng uốn hình rắn, hay gần như hình sin 12 khúc, đại diện 12 tháng trong năm, biểu trưng cho sự thay đổi thời tiết năm tháng, sự trù phú và phồn vinh của nền văn hóa nông nghiệp lúa nước. Thân mềm mại uốn lượn thể hiện sự biến hóa và khả năng thay đổi, dịch chuyển thiên nhiên của con rồng cai quản thời tiết, mùa màng. Trên lưng có vây nhỏ liền mạch và đều đặn. Miệng rồng luôn ngậm viên châu, trong khi ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc rồng hay cầm ngọc bằng chân trước. Viên châu tượng trưng cho tính nhân văn, tri thức và lòng cao thượng. Đầu rồng luôn hướng lên đớp lấy viên ngọc thể hiện tinh thần tôn trọng các giá trị nhân văn cao quý, theo đuổi sự uyên bác và tinh thần cao thượng. Đầu vuông, mõm rồng ngắn, mũi to nét mặt thông thái vui vẻ, đạo mạo không hề mang tính dọa nạt kiên cưỡng như rồng Trung Hoa hay rồng Nhật Bản mõm dài, mũi nhỏ nhe nanh đầy dọa nạt. Những điều ấy được đặt lên trên tất cả các giá trị khác kể cả sức mạnh và sự thống trị thường thấy của một con rồng phương Đông. Toàn thân rồng toát lên uyển chuyển và một sức căng rất lớn từ cái vươn chân dài, đầu ngẩng cao, dáng đầu rực lửa thể hiện cho khí thế hừng hực muốn tiến chinh phục các giá trị văn minh nhất của phương Đông cổ đại. Qua các triều đại Rồng thời Lý Thăng Long - nơi rồng vàng xuất hiện, cũng là nơi vương triều Lý (1010-1125) xây dựng nhiều công trình kiến trúc hoàng thành, chùa, tháp mở đầu cho độc lập tự chủ của Đại Việt. Duy trì gìn giữ những biểu tượng Rồng truyền thống vốn có lâu đời của dân tộc, các nghệ nhân thời Lý đã sáng tạo thêm vào hình tượng Rồng dựa trên giao lưu văn hóa thời nhà Hán, nhà Đường. Hình tượng Rồng hoàn chỉnh trở thành biểu tượng cao quý, quyền uy của Vương quyền và linh thiêng của Thần quyền (đạo Phật là Quốc giáo). Nó thể hiện trong các hợp thể nghệ thuật đường nét uốn khúc, nhẹ nhàng, bố cục hoàn chỉnh, phong cách đơn giản. Hình tượng Rồng có kiểu dáng nhất quán, đơn giản trong tạo hình. Vì được motif đơn giản, bất kỳ hình rồng ở di tích nào dù ở cách xa nhau, dù làm vào những năm khác nhau, dù là kiến trúc vương quyền hay kiến trúc thần quyền, thì hình tượng con Rồng thời Lý đều có kiểu dáng và cấu trúc chung. Đặc điểm hình tượng: Đầu Rồng với cổ ngước cao, mắt Rồng to tròn và hơi lồi, trên lông mày kết xoắn, và trán kết xoắn, hàm trên kéo dài không cân đối với đầu, uốn, xung quanh có đao lửa. Hàm dưới kéo dài, uốn hình sin Tai nhỏ. Bờm dài bay ngược như cờ đuôi nheo. Không có sừng trông như rắn, đây là điều khác biệt so với các con rồng khác của các triều đại sau và khá tương đồng với hình tượng thuồng luồng trong văn hóa dân gian. Chòm râu dưới cằm kết xoắn uốn lượn. Mũi Rồng cũng được kéo dài thành hình vòi. Mào của Rồng hơi uốn khúc có thể được vay mượn từ hình ảnh Naga, thanh mảnh làm mất cân đối tỷ lệ đầu. Miệng rồng há rộng hứng ngọc. Môi dưới ngắn, lưỡi dài uốn lượn vươn ra đỡ lấy viên ngọc. Hai hàm có răng nanh nhọn kéo dài uốn cong liền sát mũi. (Cũng có loại đầu Rồng: cổ uốn khúc xuống rồi ngược lên). Hình dáng thân Rồng thể hiện theo lối nhìn nghiêng, uốn lượn mềm mại (như hình giun đất uốn lượn hay còn gọi là rồng giun, rồng lãi). Các khúc uốn lượn phình to và co lại gần nhau (như hình túi phình đáy, miệng co) đặt xuôi, đặt ngược đều đặn, liên tục thu dần về đuôi. Mình Rồng tròn để trơn không có vảy. Toàn bộ thân hình Rồng nở về phần đầu, thu nhọn về phía đuôi. Rồng Lý 4 chân có khuỷu chân dài thanh mảnh và mỗi chân đều 3 móng biểu trưng cho một xứ phiên thuộc. Các di vật mỹ thuật thời Lý còn lại đến ngày nay không nhiều, những hình tượng Rồng còn lại ở các Chùa (như Chùa Dạm, Chùa Phật Tích, Chùa Long Đội, Chùa Chương Sơn, Chùa Quỳnh Lâm, Chùa Báo Ân, Chùa Linh Xứng, Chùa Sùng Nghiêm, ...) và mới tìm thấy thêm ở Hoàng thành Thăng Long (2000-2005) hình Rồng trên một số gốm từ buổi đầu lập đô, nhà Lý chỉ là mô típ trang trí đơn giản thiếu chau chuốt, thiếu tinh tế, thanh mảnh. Bên cạnh đó nhiều tượng, đồ gốm được trang trí đơn giản. Nội dung tư tưởng thẩm mỹ sơ khai, có ý nghĩa tín ngưỡng dân gian cổ của cư dân nông nghiệp. Rồng thời Trần Trong chạm khắc, còn có tượng Rồng ở thành bậc thành quách, lăng mộ và chùa. Hình tượng Rồng có nhiều thay đổi so với thời Lý. Thân Rồng to mập, khoẻ chắc, khúc nới ra uốn lượn đều đặn hình sin thu dần về đuôi. Đầu xuất hiện cặp sừng, đôi tai và những chi tiết mới. Hình dáng Rồng uy nghi mang ý nghĩa mới của vương triều. Nổi rõ phong cách với những hình khối, đường nét mập khỏe, tinh lọc giản dị, vững chãi mà không nặng nề, không tĩnh của cốt cách truyền thống, cũng nằm trong bối cảnh khí thế Đông A thượng võ thời Trần. Tượng Rồng ở khu lăng mộ An Sinh (Thế kỷ XIV Đông Triều, Quảng Ninh) điển hình là đôi tượng ở thành bậc cửa lăng vua Trần Anh Tông, dài 1,7m mình tròn mập, đuôi dài và nhọn. Bốn chân to khỏe, có bốn móng nhọn. Đầu dữ tợn, mào kéo dài ra phía trước, cặp sừng nhọn vút về phía sau. Bờm tóc to trải dài, những chòm lông quanh cổ hình xoắn ốc dựng lên. Trên thân có chạm vẩy. Đôi tượng Rồng (ở thành nhà Hồ, dài 3,6m) đầu bị gãy mất, còn lại từ má bờm uốn sóng đều đặn trải dài nhọn. Thân Rồng dài và mập, có vẩy hình vòng cung, uốn khúc cong sáu nhịp đều đặn thon đến cuối đuôi. Hình dáng Rồng thời Trần đa dạng, nên trong cùng một thời gian, những chi tiết hình Rồng đã có những khác nhau. Chẳng hạn: Có dạng đuôi thẳng vút nhọn, lại có đuôi xoắn tròn, hay có đuôi chạm văn xoắn ốc. Có Rồng chạm ba móng, lại có Rồng bốn móng. Hình Rồng với bốn khúc uốn, trên bệ tượng Chùa Thanh Sam (Ứng Hòa - Hà Tây(cũ)) chạm đầu quay lại nằm gọn trong khúc uốn lớn. Râu uốn lượn dài, hai chân trước to, giơ ba móng. Cũng Rồng với bốn khúc uốn thì chạm đá bệ tượng Chùa Đô Quan (Yên Khang, Ý Yên, Nam Định), khúc lớn vòng qua đầu, ba khúc uốn còn lại gần như thẳng. Râu uốn lượn dài, hai chân trước to bốn móng. Lại có hình Rồng với bảy khúc uốn chạm đá bệ tượng chùa Thầy (Sài Sơn, Quốc Oai, Hà Tây) dáng Rồng trườn lên phía trước. Đầu ngước ngậm ngọc, hai mào dài xoắn lại, bờm tỏa dài uốn lượn ra phía sau, vây rồng nhọn cao. Bốn chân to với bốn móng nhọn, Còn có các đầu Rồng (đất nung) thấy ở tháp Phổ Minh (Nam Định), hay ở Đông Triều - Quảng Ninh, ở Hoàng thành Thăng Long. Hoặc có hình Rồng trang trí trên gạch gốm tráng men Chùa Hoa Yên (Yên Tử - Quảng Ninh). Rồng thời Lê sơ Phát triển trên cơ sở tiếp thu Rồng thời Trần, cơ bản vẫn giữ hình dáng thân uốn cứng cáp, to khoẻ, mào và sừng ở đầu trông dữ hơn. Nổi bật hình tượng đôi Rồng trên các thành bậc đá (làm thời vua Lê Thánh Tông (1470-1497)) như: điện Lam Kinh (1433) và điện Kính Thiên (1467). Đôi Rồng uốn khúc bò từ trên nền thềm điện xuống (đặt lối lên chính giữa). Đầu Rồng to, có hai nhánh sừng nhô cao, mắt lồi, bờm mượt cuộn ra sau. Lưng Rồng nhô hình vây nhọn theo khúc uốn. Một tay Rồng cầm lấy râu. Chân Rồng chạm năm móng sắc nhọn, các hình xoắn trang trí bên thân Rồng, kết hợp với mây đao lửa. Đó là mô típ trang trí điển hình mang đặc trưng thời Lê Sơ. Hình tượng Rồng trang nghiêm, râu bờm và sừng nổi cao dũng mãnh uy quyền. Những chạm khắc trừu tượng hình rồng uốn khúc ở mặt ngoài thành bậc đá của điện Lam Kinh (Thanh Hóa), Điện Kính Thiên, Đàn Nam Giao (Hà Nội) trong khung tam giác vuông viền hình hoa chanh, đều chạm hoa văn hoa sen, hoa cúc và lá cách điệu, mây xoắn cuộn, nổi ở giữa là hình đao ngọn lửa (gọi là mây đao lửa). Còn thấy hình Rồng bốn móng kết với hình mây hoa lá trên các văn bia (Văn Miếu). Những chạm khắc hình Rồng và các mô típ Mây đao lửa, hoa văn với nét chạm sắc sảo, điêu luyện, bố cục chặt chẽ với đặc trưng riêng, tiêu biểu phong cách thời Lê Sơ. Rồng thời Mạc Hình tượng Rồng thời Mạc kế thừa rồng truyền thống Lý, Trần, và cả rồng thời Lê sơ. Đặc điểm chung là: Thân mập, uốn lượn đều đặn, bờm kéo dài uốn theo xuống nửa lưng, mây đao lửa điểm xuyết trên thân, sóng cuộn dưới bụng, chân ngắn, lông khuỷu sợi đơn uốn xoắn. Đầu rồng có sừng hai chạc, hai mắt lồi, mũi sư tử, mồm thú nhô ra phía trước. Các chân Rồng thường chạm bốn móng. Hình tượng rồng phát triển trên các chạm khắc Chùa và Đình làng. Còn hình: Rồng, phượng, lân trang trí trên gạch Chùa Ông, Chùa Trăm Gian, và Chùa Bối Khê hoặc gốm đất nung: Rồng, Phượng, con Xô, con Kìm là gắn trên bờ nóc, bờ giải, các đầu đao, tàu mái: cung điện, đình, chùa. Hiện còn thấy hai đầu rồng: có sừng hai chạc, mắt lồi, tai to, mồm sư tử cao 0.85 cm trên hai bờ mái ở Chùa Mui (Hà Tây cũ). Hình Rồng mây trang trí trên gốm dáng uốn lượn, thân hình khỏe chắc. Đình là công trình to lớn, đòi hỏi nhu cầu thẩm mỹ với giá trị nghệ thuật. Những thành phần kiến trúc gỗ vốn nặng nề, thô mộc của kết cấu kiến trúc gỗ. Ta thấy chạm đề tài Tứ linh, như các đầu dư chạm Đầu Rồng ngậm ngọc, đầu bẩy, các kẻ hiên chạm các đề tài như: Rồng cuốn thủy, Cá hóa Rồng. Các cốn, các vì nóc chạm Rồng, Lân. Bức chạm gỗ Rồng Nho học ở Đình Vân Sa (Ba Vì, Sơn Tây) độc đáo, thể hiện Rồng bố đang cầm bút nho chỉ bảo, các Rồng con giơ sách dâng lên, nhằm ca ngợi việc học hành. Thể hiện rõ bàn tay (người) cầm bút, tay dâng sách rất rõ. Hình tượng Rồng được nhân hóa, đó là nét mới rồng gắn với đời thường. Những chạm khắc ở Đình Thổ Hà (Bắc Giang), Đình Tây Đằng (Ba Vì, Sơn Tây), Đình Lỗ Hạnh (Bắc Giang) thể hiện Rồng và các vật linh. Tượng Rồng thành bậc (đá) Chùa Nhân Trai (Hải Phòng) uốn lượn đều đặn, sừng quặp ra sau, bờm kéo dài uốn xuống lưng. Bia Chùa Trà Phương chạm khái quát Rồng Phượng. Các hình Long - Lân Chùa Trăm Gian, Chùa Đậu, Chùa Bối Khê thể hiện những bố cục sinh động, khối hình khỏe khoắn, đậm tính cách dân gian. Bia đá thời Mạc phát triển, Rồng trang trí trên trán bia, diềm bia, các góc của bia. Rồng thời Lê trung hưng Thời này phục hưng những giá trị nghệ thuật truyền thống nhà Lê. Hình rồng là mô típ tiêu biểu, đặc trưng, thoát khỏi hình thức khuôn mẫu, để trở về nguồn, với ý nghĩa giá trị sáng tạo mới. Hình Rồng với đầu nhô, có sừng, hai râu mép dài uốn lượn duỗi ra phía trước, tạo dáng rồng thêm sinh động. Rồng kết hợp hoa văn mây lửa vẽ men xanh lưu loát. Kỹ thuật vẽ men màu và kỹ thuật đắp nổi trên gốm điêu luyện. Đặc điểm hình Rồng cũng có thay đổi. Đầu Rồng đơn giản, thường chỉ thấy râu cằm thưa nhọn, bờm ngắn tỏa hình quạt. Mào Rồng thanh mảnh uốn lượn kéo dài ra phía trước, hoặc rủ xuống hai bên. Các hình mây đao lửa thường vút lên từ đầu các chân Rồng. Hình Rồng với mây đao lửa vẫn duy trì nhưng ở cuối thế kỷ XVII các mây đao lửa có chiều hướng ngắn lại, và thưa. Độ uốn lượn của đao mây ít lại, thường chỉ còn hai khúc uốn rồi bắt sang chiều ngang của đao mây. Rồng thời hậu Lê Hình Rồng thân ngắn và các khúc uốn thường chỉ 3 đến 4 lần cong uốn, chỉ làm to khúc uốn liền đầu, các khúc sau thường ngắn và thuôn gần thẳng về đuôi. Chân Rồng bốn móng. Hình mây đao lửa gần như mất. Mây chuyển sang các hình dải thưa vắt vào chân Rồng, điển hình như: Hai Rồng chầu mặt trời chạm đá bia Chùa Chuông 1711 (Hưng Yên), và chạm đá bia Đền Din (Nam Dương - Nam Ninh - Nam Định). Hoặc hình Rồng biến thành hình mây, như: Hai Rồng mây hóa chầu mặt trời chạm đá bia Chùa Côn Sơn 1788 (Chí Linh - Hải Dương). Rồng Tây Sơn, nhà Nguyễn Hình tượng con Rồng thời Nguyễn là hình tượng con rồng điển hình của Việt Nam vẫn giữ những nét đẹp do kế thừa tinh hoa truyền thống, điển hình kế thừa chiếc mũi to, mõm ngắn từ các thời trước tạo vẽ vui vẻ thân thiện, nhìn chung rồng thời Nguyễn là hình ảnh về rồng gần gũi nhất với dân tộc Việt Nam, có độ uốn lượn đều đặn, chau chuốt, phần lớn là thanh mảnh và tinh tế. Đặc điểm chỏm đầu thường bẹt, nổi vừa phải. Mắt là hai u tròn, mũi gồ, miệng hé mở lộ răng nanh nhọn. Sừng hai chạc cong ra phía sau. Tóc nhiều chẽ xoè kiểu nan quạt và hơi lượn sóng. Thân Rồng chạm vẩy, hàng vây lưng hình tam giác nhô cao nhọn. đuôi Rồng lượn sóng. Chân Rồng có hai cặp trước và sau, các móng thường chõe ra. Những Rồng trong cung vua thường chạm năm móng. Rồng thành bậc kiến trúc thân mập, khúc uốn thấp. Rồng trang trí quanh cột gỗ sơn son, hoặc trang trí quanh cột đồng (như ở Ngọ Môn, Lăng Minh Mạng, Lăng Tự Đức, Lăng Thiệu Trị, Lăng Đồng Khánh). Con Rồng được sử dụng nhiều đường cong uốn vừa phải, thể hiện đao và tóc Rồng cứng cáp sắc sảo. Đầu lớn uy dũng, mắt to tròn, mũi nở, miệng mở rộng, răng cửa nhọn, thân dài và cơ bắp uyển chuyển uốn lượn với vẩy âm dương ngũ sắc, đuôi Rồng lượn sóng hoặc tõe các tua đuôi, chân rồng với năm móng sắc lẽm chỉ có ở bậc hoàng đế, tựu chung lại Rồng thời Nguyễn là biểu tượng cho một đế quốc phương Nam với vẻ đẹp uy quyền. Hình ảnh Rồng thời Nguyễn còn lại tương đối nhiều ở các di tích chùa, đình từ Huế ra vùng đồng bằng sông Hồng. Các định danh Hà Nội, thủ đô của Việt Nam, được biết đến trong thời trung đại như Thăng Long (Thăng có nghĩa là "phát triển, tăng, bay hoặc lên" và Long, có nghĩa là "con rồng"); vốn vẫn được gọi bằng tên này trong văn học. Năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Đại La, ông đã nhìn thấy một con rồng vàng bay vòng quanh trên bầu trời trong xanh, do đó ông đã đổi tên của Đại La thành Thăng Long, hàm ý là "tương lai tươi sáng và phát triển của Việt Nam". Hơn nữa, một trong Thăng Long Tứ Trấn là thần Long Đỗ đã giúp Lý Thái Tổ để xây dựng Thăng Long thành. Nhiều địa danh tại Việt Nam kết hợp từ Long (Hán - Việt: Rồng), hoặc Rồng: Vịnh Hạ Long, phần sông Mekong chảy qua Việt Nam gồm 9 chi lưu và được gọi là Cửu Long (nghĩa là chín con rồng), cầu Hàm Rồng, cầu Long Biên. Những sự vật khác như: thanh long, vòi rồng, xương rồng (Cactaceae), long nhãn (mắt rồng)... Hình ảnh Chú thích
Mật mã học là một ngành có lịch sử từ hàng nghìn năm nay. Trong phần lớn thời gian phát triển của mình (ngoại trừ vài thập kỷ trở lại đây), lịch sử mật mã học chính là lịch sử của những phương pháp mật mã học cổ điển - các phương pháp mật mã hóa với bút và giấy, đôi khi có hỗ trợ từ những dụng cụ cơ khí đơn giản. Vào đầu thế kỷ 20, sự xuất hiện của các cơ cấu cơ khí và điện cơ, chẳng hạn như máy Enigma, đã cung cấp những cơ chế phức tạp và hiệu quả hơn cho việc mật mã hóa. Sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của ngành điện tử và máy tính trong những thập kỷ gần đây đã tạo điều kiện để mật mã học phát triển nhảy vọt lên một tầm cao mới. Sự phát triển của mật mã học luôn luôn đi kèm với sự phát triển của các kỹ thuật phá mã (hay thám mã). Các phát hiện và ứng dụng của các kỹ thuật phá mã trong một số trường hợp đã có ảnh hưởng đáng kể đến các sự kiện lịch sử. Một vài sự kiện đáng ghi nhớ bao gồm việc phát hiện ra bức điện Zimmermann khiến Hoa Kỳ tham gia Thế chiến I và việc phá mã thành công hệ thống mật mã của Đức Quốc xã góp phần làm đẩy nhanh thời điểm kết thúc thế chiến II. Cho tới đầu thập kỷ 1970, các kỹ thuật liên quan tới mật mã học hầu như chỉ nằm trong tay các chính phủ. Hai sự kiện đã khiến cho mật mã học trở nên thích hợp cho mọi người, đó là: sự xuất hiện của tiêu chuẩn mật mã hóa DES và sự ra đời của các kỹ thuật mật mã hóa khóa công khai. Mật mã học cổ điển Xem thêm: Mật mã học cổ điển Những bằng chứng sớm nhất về sử dụng mật mã học là các chữ tượng hình không tiêu chuẩn tìm thấy trên các bức tượng Ai Cập cổ đại (cách đây khoảng 4500). Những ký hiệu tỏ ra không phải để phục vụ mục đích truyền thông tin bí mật mà có vẻ như là nhằm mục đích gợi nên những điều thần bí, trí tò mò hoặc thậm chí để tạo sự thích thú cho người xem. Ngoài ra còn rất nhiều ví dụ khác về những ứng dụng của mật mã học hoặc là những điều tương tự. Muộn hơn, các học giả về tiếng Hebrew có sử dụng một phương pháp mã hóa thay thế bảng chữ cái đơn giản chẳng hạn như mật mã Atbash (khoảng năm 500 đến năm 600). Mật mã học từ lâu đã được sử dụng trong các tác phẩm tôn giáo để che giấu thông tin với chính quyền hoặc nền văn hóa thống trị. Ví dụ tiêu biểu nhất là "số chỉ kẻ thù của Chúa" (tiếng Anh: Number of the Beast) xuất hiện trong kinh Tân Ước của Cơ đốc giáo. Ở đây, số 666 có thể là cách mã hóa để chỉ đến Đế chế La Mã hoặc là đến hoàng đế Nero của đế chế này. Việc không đề cập trực tiếp sẽ đỡ gây rắc rối khi cuốn sách bị chính quyền chú ý. Đối với Cơ đốc giáo chính thống thì việc che giấu này kết thúc khi Constantine cải đạo và chấp nhận đạo Cơ đốc là tôn giáo chính thống của đế chế. Người Hy Lạp cổ đại cũng được biết đến là đã sử dụng các kỹ thuật mật mã (chẳng hạn như gậy mật mã). Cũng có những bằng chứng rõ ràng chứng tỏ người La Mã nắm được các kỹ thuật mật mã (mật mã Caesar và các biến thể). Thậm chí đã có những đề cập đến một cuốn sách nói về mật mã trong quân đội La Mã; tuy nhiên cuốn sách này đã thất truyền. Tại Ấn Độ, mật mã học cũng khá nổi tiếng. Trong cuốn sách Kama Sutra, mật mã học được xem là cách những người yêu nhau trao đổi thông tin mà không bị phát hiện. Thời Trung cổ Xem thêm: Bản thảo Voynich Nguyên do xuất phát có thể là từ việc phân tích bản kinh Qur'an, do nhu cầu tôn giáo, mà kỹ thuật phân tích tần suất đã được phát minh để phá vỡ các hệ thống mật mã đơn ký tự vào khoảng năm 1000. Đây chính là kỹ thuật phá mã cơ bản nhất được sử dụng, mãi cho tới tận thời điểm của thế chiến thứ II. Về nguyên tắc, mọi kỹ thuật mật mã đều không chống lại được kỹ thuật phân tích mã (cryptanalytic technique) này cho tới khi kỹ thuật mật mã dùng nhiều bảng chữ cái được Alberti sáng tạo (năm 1465). Mật mã học (tuy âm thầm) ngày càng trở nên quan trọng dưới tác động của những thay đổi, cạnh tranh trong chính trị và tôn giáo. Chẳng hạn tại châu Âu, trong và sau thời kỳ Phục hưng, các công dân của các thành bang thuộc Ý, gồm cả các thành bang thuộc giáo phận và Công giáo La Mã, đã sử dụng và phát triển rộng rãi các kỹ thuật mật mã. Tuy nhiên rất ít trong số này tiếp thu được công trình của Alberti (các công trình của họ không phản ảnh sự hiểu biết hoặc tri thức về kỹ thuật tân tiến của Alberti) và do đó hầu như tất cả những người phát triển và sử dụng các hệ thống này đều quá lạc quan về độ an toàn. Điều này hầu như vẫn còn đúng cho tới tận hiện nay, nhiều nhà phát triển không xác định được điểm yếu của hệ thống. Do thiếu hiểu biết cho nên các đánh giá dựa trên suy đoán và hy vọng là phổ biến. Mật mã học, phân tích mã học và sự phản bội của nhân viên tình báo, của người đưa thư, đều xuất hiện trong âm mưu Babington diễn ra dưới triều đại của nữ hoàng Elizabeth I dẫn đến kết cục xử tử nữ hoàng Mary I của Scotland. Một thông điệp được mã hóa từ thời "người dưới mặt nạ sắt" (Man in the Iron Mask) (được giải mã vào khoảng 1900 bởi Étienne Bazeries) cho biết một số thông tin về số phận của tù nhân này (đáng tiếc thay là những thông tin này cũng chưa được rõ ràng cho lắm). Mật mã học, và những lạm dụng của nó, cũng là những phần tử liên quan đến mưu đồ dẫn tới việc xử tử Mata Hari và âm mưu quỷ quyệt dẫn đến trò hề trong việc kết án Dreyfus và bỏ tù hai người đầu thế kỷ 20. May mắn thay, những nhà mật mã học (cryptographer) cũng nhúng tay vào việc phơi bày mưu đồ dẫn đến các khúc mắc của Dreyfus; Mata Hari, ngược lại, đã bị bắn chết. Ngoài các nước ở Trung Đông và châu Âu, mật mã học hầu như không được phát triển. Tại Nhật Bản, mãi cho tới 1510, mật mã học vẫn chưa được sử dụng và các kỹ thuật tiên tiến chỉ được biết đến sau khi nước này mở cửa với phương Tây (thập kỷ 1860). Mật mã học từ 1800 tới Thế chiến II Tuy mật mã học có một lịch sử dài và phức tạp, mãi cho đến thế kỷ 19 nó mới được phát triển một cách có hệ thống, không chỉ còn là những tiếp cận nhất thời, vô tổ chức. Những ví dụ về phân tích mã bao gồm công trình của Charles Babbage trong kỷ nguyên của Chiến tranh Krim (Crimean War) về toán phân tích mật mã đơn ký tự. Công trình của ông, tuy hơi muộn màng, đã được Friedrich Kasiski, người Phổ, khôi phục và công bố. Tại thời điểm này, để hiểu được mật mã học, người ta thường phải dựa vào những kinh nghiệm từng trải (rules of thumb); xin xem thêm các bài viết về mật mã học của Auguste Kerckhoffs cuối thế kỷ 19. Trong thập niên 1840, Edgar Allan Poe đã xây dựng một số phương pháp có hệ thống để giải mật mã. Cụ thể là, ông đã bày tỏ khả năng của mình trong tờ báo hằng tuần Alexander's Weekly (Express) Messenger ở Philadelphia, mời mọi người đệ trình các phương pháp mã hóa của họ, và ông là người đứng ra giải. Sự thành công của ông gây chấn động với công chúng trong vài tháng. Sau này ông có viết một luận văn về các phương pháp mật mã hóa và chúng trở thành những công cụ rất có lợi, được áp dụng vào việc giải mã của Đức trong Thế chiến II. Trong thời gian trước và tới thời điểm của Thế chiến II, nhiều phương pháp toán học đã hình thành (đáng chú ý là ứng dụng của William F. Friedman dùng kỹ thuật thống kê để phân tích và kiến tạo mật mã, và thành công bước đầu của Marian Rejewski trong việc bẻ gãy mật mã của hệ thống Enigma của Quân đội Đức). Sau Thế chiến II trở đi, cả hai ngành, mật mã học và phân tích mã, ngày càng sử dụng nhiều các cơ sở toán học. Tuy thế, chỉ đến khi máy tính và các phương tiện truyền thông Internet trở nên phổ biến, người ta mới có thể mang tính hữu dụng của mật mã học vào trong những thói quen sử dụng hằng ngày của mọi người, thay vì chỉ được dùng bởi các chính quyền quốc gia hay các hoạt động kinh doanh lớn trước đó. Mật mã học trong Thế chiến II Trong thế chiến II, các hệ thống mật mã cơ khí và cơ điện tử được sử dụng rộng rãi mặc dù các hệ thống thủ công vẫn được dùng tại những nơi không đủ điều kiện. Các kỹ thuật phân tích mật mã đã có những đột phá trong thời kỳ này, tất cả đều diễn ra trong bí mật. Cho đến gần đây, các thông tin này mới dần được tiết lộ do thời kỳ giữ bí mật 50 năm của chính phủ Anh đã kết thúc, các bản lưu của Hoa Kỳ dần được công bố cùng với sự xuất hiện của các bài báo và hồi ký có liên quan. Người Đức đã sử dụng rộng rãi một hệ thống máy rôto cơ điện tử, dưới nhiều hình thức khác nhau, có tên gọi là máy Enigma. Vào tháng 12 năm 1932, Marian Rejewski, một nhà toán học tại Cục mật mã Ba Lan (tiếng Ba Lan: Biuro Szyfrów), đã dựng lại hệ thống này dựa trên toán học và một số thông tin có được từ các tài liệu do đại úy Gustave Bertrand của tình báo quân sự Pháp cung cấp. Đây có thể coi là đột phá lớn nhất trong lịch sử phân tích mật mã trong suốt một nghìn năm trở lại. Rejewski cùng với các đồng sự của mình là Jerzy Różycki và Henryk Zygalski đã tiếp tục nghiên cứu và bắt nhịp với những tiến hóa trong các thành phần của hệ thống cũng như các thủ tục mật mã hóa. Cùng với những tiến triển của tình hình chính trị, nguồn tài chính của Ba Lan trở nên cạn kiệt và nguy cơ của cuộc chiến tranh trở nên gần kề, vào ngày 25 tháng 7 năm 1939 tại Warszawa, cục mật mã Ba Lan, dưới chỉ đạo của bộ tham mưu, đã trao cho đại diện tình báo Pháp và Anh những thông tin bí mật về hệ thống Enigma. Ngay sau khi Thế chiến II bắt đầu (ngày 1 tháng 9 năm 1939), các thành viên chủ chốt của cục mật mã Ba Lan được sơ tán về phía tây nam; và đến ngày 17 tháng 9, khi quân đội Liên Xô tiến vào Ba Lan, thì họ lại được chuyển sang România. Từ đây, họ tới Paris (Pháp). Tại PC Bruno, ở gần Paris, họ tiếp tục phân tích Enigma và hợp tác với các nhà mật mã học của Anh tại Bletchley Park lúc này đã tiến bộ kịp thời. Những người Anh, trong đó bao gồm những tên tuổi lớn của ngành mật mã học như Gordon Welchman và Alan Turing, người sáng lập khái niệm khoa học điện toán hiện đại, đã góp công lớn trong việc phát triển các kỹ thuật phá mã hệ thống máy Enigma. Ngày 19 tháng 4 năm 1945, các tướng lĩnh cấp cao của Anh được chỉ thị không được tiết lộ tin tức rằng mã Enigma đã bị phá, bởi vì như vậy nó sẽ tạo điều kiện cho kẻ thù bị đánh bại cơ sở để nói rằng họ đã "không bị đánh bại một cách sòng phẳng" (were not well and fairly beaten) . Các nhà mật mã học của Hải quân Mỹ (với sự hợp tác của các nhà mật mã học Anh và Hà Lan sau 1940) đã xâm nhập được vào một số hệ thống mật mã của Hải quân Nhật. Việc xâm nhập vào hệ thống JN-25 trong số chúng đã mang lại chiến thắng vẻ vang cho Mỹ trong trận Midway. SIS, một nhóm trong quân đội Mỹ, đã thành công trong việc xâm nhập hệ thống mật mã ngoại giao tối mật của Nhật (một máy cơ điện dùng "bộ chuyển mạch dịch bước" (stepping switch) được người Mỹ gọi là Purple) ngay cả trước khi thế chiến II bắt đầu. Người Mỹ đặt tên cho những bí mật mà họ tìm được từ việc thám mã, có thể đặc biệt là từ việc phá mã máy Purple, với cái tên "Magic". Người Anh sau này đặt tên cho những bí mật mà họ tìm ra trong việc thám mã, đặc biệt là từ luồng thông điệp được mã hóa bởi các máy Enigma, là "Ultra". Cái tên Anh trước đó của Ultra là Boniface. Quân đội Đức cũng cho triển khai một số thử nghiệm cơ học sử dụng thuật toán mật mã dùng một lần (one-time pad). Bletchley Park gọi chúng là mã Fish, và ông Max Newman cùng đồng nghiệp của mình đã thiết kế ra một máy tính điện tử số khả lập trình (programmable digital electronic computer) đầu tiên là máy Colossus để giúp việc thám mã của họ. Bộ ngoại giao Đức bắt đầu sử dụng thuật toán mật mã dùng một lần vào năm 1919; một số luồng giao thông của nó đã bị người ta đọc được trong Thế chiến II, một phần do kết quả của việc khám phá ra một số tài liệu chủ chốt tại Nam Mỹ, do sự bất cẩn của những người đưa thư của Đức không hủy thông điệp một cách cẩn thận. Bộ ngoại giao của Nhật cũng cục bộ xây dựng một hệ thống dựa trên nguyên lý của "bộ điện cơ chuyển mạch dịch bước" (được Mỹ gọi là Purple), và đồng thời cũng sử dụng một số máy tương tự để trang bị cho một số tòa đại sứ Nhật Bản. Một trong số chúng được người Mỹ gọi là "Máy-M" (M-machine), và một cái nữa được gọi là "Red". Tất cả những máy này đều ít nhiều đã bị phía Đồng Minh phá mã. Các máy mật mã mà phe Đồng Minh sử dụng trong thế chiến II, bao gồm cả máy TypeX của Anh và máy SIGABA của Mỹ, đều là những thiết kế cơ điện dùng rôto trên tinh thần tương tự như máy Enigma, song với nhiều nâng cấp lớn. Không có hệ thống nào bị phá mã trong quá trình của cuộc chiến tranh. Người Ba Lan sử dụng máy Lacida, song do tính thiếu an ninh, máy không tiếp tục được dùng. Các phân đội trên mặt trận chỉ sử dụng máy M-209 và các máy thuộc họ M-94 ít bảo an hơn. Đầu tiên, các nhân viên mật vụ trong Cơ quan đặc vụ của Anh (Special Operations Executive - SOE) sử dụng "mật mã thơ" (các bài thơ mà họ ghi nhớ là những chìa khóa), song ở những thời kỳ sau trong cuộc chiến, họ bắt đầu chuyển sang dùng các hình thức của mật mã dùng một lần (one-time pad). Mật mã học hiện đại Shannon Nhiều người cho rằng kỷ nguyên của mật mã học hiện đại được bắt đầu với Claude Shannon, người được coi là cha đẻ của mật mã toán học. Năm 1949 ông đã công bố bài Lý thuyết về truyền thông trong các hệ thống bảo mật (Communication Theory of Secrecy Systems) trên tập san Bell System Technical Journal - Tập san kỹ thuật của hệ thống Bell - và một thời gian ngắn sau đó, trong cuốn Mathematical Theory of Communication - Lý thuyết toán học trong truyền thông - cùng với tác giả Warren Weaver. Những công trình này, cùng với những công trình nghiên cứu khác của ông về lý thuyết về tin học và truyền thông (information and communication theory), đã thiết lập một nền tảng lý thuyết cơ bản cho mật mã học và thám mã học. Với ảnh hưởng đó, mật mã học hầu như bị thâu tóm bởi các cơ quan truyền thông mật của chính phủ, chẳng hạn như NSA, và biến mất khỏi tầm hiểu biết của công chúng. Rất ít các công trình được tiếp tục công bố, cho đến thời kỳ giữa thập niên 1970, khi mọi sự được thay đổi. Tiêu chuẩn mật mã Thời kỳ giữa thập niên kỷ 1970 được chứng kiến hai tiến bộ chính lớn (công khai). Đầu tiên là sự công bố đề xuất Tiêu chuẩn mật mã hóa dữ liệu (Data Encryption Standard) trong "Công báo Liên bang" (Federal Register) ở nước Mỹ vào ngày 17 tháng 3 năm 1975. Với đề cử của Cục Tiêu chuẩn Quốc gia (National Bureau of Standards - NBS) (hiện là NIST), bản đề xuất DES được công ty IBM (International Business Machines) đệ trình trở thành một trong những cố gắng trong việc xây dựng các công cụ tiện ích cho thương mại, như cho các nhà băng và cho các tổ chức tài chính lớn. Sau những chỉ đạo và thay đổi của NSA, vào năm 1977, nó đã được chấp thuận và được phát hành dưới cái tên Bản Công bố về Tiêu chuẩn Xử lý Thông tin của Liên bang (Federal Information Processing Standard Publication - FIPS) (phiên bản hiện nay là FIPS 46-3). DES là phương thức mật mã công khai đầu tiên được một cơ quan quốc gia như NSA "tôn sùng". Sự phát hành bản đặc tả của nó bởi NBS đã khuyến khích sự quan tâm chú ý của công chúng cũng như của các tổ chức nghiên cứu về mật mã học. Năm 2001, DES đã chính thức được thay thế bởi AES (viết tắt của Advanced Encryption Standard - Tiêu chuẩn mã hóa tiên tiến) khi NIST công bố phiên bản FIPS 197. Sau một cuộc thi tổ chức công khai, NIST đã chọn Rijndael, do hai nhà mật mã người Bỉ đệ trình, và nó trở thành AES. Hiện nay DES và một số biến thể của nó (như Tam phần DES (Triple DES); xin xem thêm trong phiên bản FIPS 46-3), vẫn còn được sử dụng, do trước đây nó đã được gắn liền với nhiều tiêu chuẩn của quốc gia và của các tổ chức. Với chiều dài khoá chỉ là 56-bit, nó đã được chứng minh là không đủ sức chống lại những tấn công kiểu vét cạn (brute force attack - tấn công dùng bạo lực). Một trong những cuộc tấn công kiểu này được thực hiện bởi nhóm "nhân quyền cyber" (cyber civil-rights group) tên là Tổ chức tiền tuyến điện tử (Electronic Frontier Foundation) vào năm 1997, và đã phá mã thành công trong 56 tiếng đồng hồ—câu chuyện này được nhắc đến trong cuốn Cracking DES (Phá vỡ DES), được xuất bản bởi "O'Reilly and Associates". Do kết quả này mà hiện nay việc sử dụng phương pháp mật mã hóa DES nguyên dạng, có thể được khẳng định một cách không nghi ngờ, là một việc làm mạo hiểm, không an toàn, và những thông điệp ở dưới sự bảo vệ của những hệ thống mã hóa trước đây dùng DES, cũng như tất cả các thông điệp được truyền gửi từ năm 1976 trở đi sử dụng DES, đều ở trong tình trạng rất đáng lo ngại. Bất chấp chất lượng vốn có của nó, một số sự kiện xảy ra trong năm 1976, đặc biệt là sự kiện công khai nhất của Whitfield Diffie, chỉ ra rằng chiều dài khóa mà DES sử dụng (56-bit) là một khóa quá nhỏ. Đã có một số nghi ngờ xuất hiện nói rằng một số các tổ chức của chính phủ, ngay tại thời điểm hồi bấy giờ, cũng đã có đủ công suất máy tính để phá mã các thông điệp dùng DES; rõ ràng là những cơ quan khác cũng đã có khả năng để thực hiện việc này rồi. Khóa công khai Tiến triển thứ hai, vào năm 1976, có lẽ còn đột phá hơn nữa, vì tiến triển này đã thay đổi nền tảng cơ bản trong cách làm việc của các hệ thống mật mã hóa. Đó chính là công bố của bài viết phương hướng mới trong mật mã học (New Directions in Cryptography) của Whitfield Diffie và Martin Hellman. Bài viết giới thiệu một phương pháp hoàn toàn mới về cách thức phân phối các khóa mật mã. Đây là một bước tiến khá xa trong việc giải quyết một vấn đề cơ bản trong mật mã học, vấn đề phân phối khóa, và nó được gọi là trao đổi khóa Diffie-Hellman (Diffie-Hellman key exchange). Bài viết còn kích thích sự phát triển gần như tức thời của một lớp các thuật toán mật mã hóa mới, các thuật toán chìa khóa bất đối xứng (asymmetric key algorithms). Trước thời kỳ này, hầu hết các thuật toán mật mã hóa hiện đại đều là những thuật toán khóa đối xứng (symmetric key algorithms), trong đó cả người gửi và người nhận phải dùng chung một khóa, tức khóa dùng trong thuật toán mật mã, và cả hai người đều phải giữ bí mật về khóa này. Tất cả các máy điện cơ dùng trong thế chiến II, kể cả mã Caesar và mã Atbash, và về bản chất mà nói, kể cả hầu hết các hệ thống mã được dùng trong suốt quá trình lịch sử nữa đều thuộc về loại này. Đương nhiên, khóa của một mã chính là sách mã (codebook), và là cái cũng phải được phân phối và giữ gìn một cách bí mật tương tự. Do nhu cầu an ninh, khóa cho mỗi một hệ thống như vậy nhất thiết phải được trao đổi giữa các bên giao thông liên lạc bằng một phương thức an toàn nào đấy, trước khi họ sử dụng hệ thống (thuật ngữ thường được dùng là 'thông qua một kênh an toàn'), ví dụ như bằng việc sử dụng một người đưa thư đáng tin cậy với một cặp tài liệu được khóa vào cổ tay bằng một cặp khóa tay, hoặc bằng cuộc gặp gỡ mặt đối mặt, hay bằng một con chim bồ câu đưa thư trung thành... Vấn đề này chưa bao giờ được xem là dễ thực hiện, và nó nhanh chóng trở nên một việc gần như không thể quản lý được khi số lượng người tham gia tăng lên, hay khi người ta không còn các kênh an toàn để trao đổi khóa nữa, hoặc lúc họ phải liên tục thay đổi các chìa khóa - một thói quen nên thực hiện trong khi làm việc với mật mã. Cụ thể là mỗi một cặp truyền thông cần phải có một khóa riêng nếu, theo như thiết kế của hệ thống mật mã, không một người thứ ba nào, kể cả khi người ấy là một người dùng, được phép giải mã các thông điệp. Một hệ thống thuộc loại này được gọi là một hệ thống dùng chìa khóa mật, hoặc một hệ thống mật mã hóa dùng khóa đối xứng. Hệ thống trao đổi khóa Diffie-Hellman (cùng những phiên bản được nâng cấp kế tiếp hay các biến thể của nó) tạo điều kiện cho các hoạt động này trong các hệ thống trở nên dễ dàng hơn rất nhiều, đồng thời cũng an toàn hơn, hơn tất cả những gì có thể làm trước đây. Ngược lại, đối với mật mã hóa dùng khóa bất đối xứng, người ta phải có một cặp khóa có quan hệ toán học để dùng trong thuật toán, một dùng để mã hóa và một dùng để giải mã. Một số những thuật toán này, song không phải tất cả, có thêm đặc tính là một trong các khóa có thể được công bố công khai trong khi cái kia không thể nào (ít nhất bằng những phương pháp hiện có) được suy ra từ khóa 'công khai'. Trong các hệ thống này, khóa còn lại phải được giữ bí mật và nó thường được gọi bằng một cái tên, hơi có vẻ lộn xộn, là khóa 'cá nhân' (private key) hay khóa bí mật. Một thuật toán thuộc loại này được gọi là một hệ thống 'khóa công khai' hay hệ thống khóa bất đối xứng. Đối với những hệ thống dùng các thuật toán này, mỗi người nhận chỉ cần có một cặp chìa khóa mà thôi (bất chấp số người gửi là bao nhiêu đi chăng nữa). Trong 2 khóa, một khóa luôn được giữ bí mật và một được công bố công khai nên không cần phải dùng đến một kênh an toàn để trao đổi khóa. Chỉ cần đảm bảo khóa bí mật không bị lộ thì an ninh của hệ thống vẫn được đảm bảo và có thể sử dụng cặp khóa trong một thời gian dài. Đặc tính đáng ngạc nhiên này của các thuật toán tạo khả năng, cũng như tính khả thi, cho phép việc triển khai các hệ thống mật mã có chất lượng cao một cách rộng rãi, và ai cũng có thể sử dụng chúng được. Các thuật toán mật mã khóa bất đối xứng dựa trên một lớp các bài toán gọi là hàm một chiều (one-way functions). Các hàm này có đặc tính là rất dễ dàng thực hiện theo chiều xuôi nhưng lại rất khó (về khối lượng tính toán) để thực hiện theo chiều ngược lại. Một ví dụ kinh điển cho lớp bài toán này là hàm nhân hai số nguyên tố rất lớn. Ta có thể tính tích số của 2 số nguyên tố này một cách khá dễ dàng nhưng nếu chỉ cho biết tích số thì rất khó để tìm ra 2 thừa số ban đầu. Do những đặc tính của hàm một chiều, hầu hết các khóa có thể lại là những khóa yếu và chỉ còn lại một phần nhỏ có thể dùng để làm khóa. Vì thế, các thuật toán khóa bất đối xứng đòi hỏi độ dài khóa lớn hơn rất nhiều so với các thuật toán khóa đối xứng để đạt được độ an toàn tương đương. Ngoài ra, việc thực hiện thuật toán khóa bất đối xứng đòi hỏi khối lượng tính toán lớn hơn nhiều lần so với thuật toán khóa đối xứng. Bên cạnh đó, đối với các hệ thống khóa đối xứng, việc tạo ra một khóa ngẫu nhiên để làm khóa phiên chỉ dùng trong một phiên giao dịch là khá dễ dàng. Vì thế, trong thực tế người ta thường dùng kết hợp: hệ thống mật mã khóa bất đối xứng được dùng để trao đổi khóa phiên còn hệ thống mật mã khóa đối xứng dùng khóa phiên có được để trao đổi các bản tin thực sự. Mật mã học dùng khóa bất đối xứng, tức trao đổi khóa Diffie-Hellman, và những thuật toán nổi tiếng dùng khóa công khai / khóa bí mật (ví dụ như cái mà người ta vẫn thường gọi là thuật toán RSA), tất cả hình như đã được xây dựng một cách độc lập tại một cơ quan tình báo của Anh, trước thời điểm công bố của Diffie and Hellman vào năm 1976. Sở chỉ huy giao thông liên lạc của chính phủ (Government Communications Headquarters - GCHQ) - Cơ quan tình báo Anh Quốc - có xuất bản một số tài liệu quả quyết rằng chính họ đã xây dựng mật mã học dùng khóa công khai, trước khi bài viết của Diffie và Hellman được công bố. Nhiều tài liệu mật do GCHQ viết trong quá trình những năm 1960 và 1970, là những bài cuối cùng cũng dẫn đến một số kế hoạch đại bộ phận tương tự như phương pháp mật mã hóa RSA và phương pháp trao đổi chìa khóa Diffie-Hellman vào năm 1973 và 1974. Một số tài liệu này hiện được phát hành, và những nhà sáng chế (James H. Ellis, Clifford Cocks, và Malcolm Williamson) cũng đã cho công bố (một số) công trình của họ. Chính trị trong mật mã học Kết quả của việc này đã phá vỡ tính gần như độc quyền về mật mã học của các tổ chức chính phủ trên toàn thế giới (Xem Crypto (Bí mật) của Steven Levy để biết thêm về bài báo nói đến điều luật gây tranh cãi ở Mỹ). Lần đầu tiên trong lịch sử, những người không làm việc trong các tổ chức của chính phủ được phép truy cập các mật mã mà ngay cả chính phủ cũng khó có thể bẻ gãy được. Rất nhiều cuộc tranh cãi và xung đột, công khai lẫn bí mật, khởi sự tức thời và đến bây giờ cũng vẫn chưa lắng xuống. Tại rất nhiều các quốc gia, xuất khẩu mật mã (export of cryptography) vẫn còn là một vấn đề bị hạn chế. Mãi đến năm 1996 việc xuất khẩu mật mã ở Mỹ dùng những chìa khóa dài hơn 40 bit, vẫn còn là một việc hết sức giới hạn. Ngay cả đến năm 2004, cựu giám đốc của FBI, Louis Freeh, cũng đã làm chứng trước Hội đồng 9/11 (9/11 Commission), kêu gọi việc phát hành những luật pháp mới chống lại việc sử dụng mật mã trong môi trường công cộng. Người biện hộ nổi tiếng nhất đối với việc cho phép công chúng sử dụng các mật mã có độ tin cậy cao là Phil Zimmermann, với việc xuất bản chương trình ứng dụng PGP (Pretty Good Privacy) của mình vào năm 1991. Khi ông cảm thấy bị đe dọa bởi các điều lệ pháp luật, lúc đó đang được chính phủ Mỹ cân nhắc, và nó đòi hỏi là tất cả các giải pháp mật mã trong nước Mỹ phải tạo các cửa sau (back doors) - cho phép chính phủ theo dõi việc sử dụng, hoặc đọc nội dung của chúng - ông đã cho phát hành một phiên bản PGP miễn phí. Những cố gắng của ông trong việc phát hành PGP trên toàn cầu đã mang lại cho ông một cuộc đấu tranh lâu dài với Bộ Tư Pháp (Justice Department) vì viện tội là ông đã vi phạm các điều khoản hạn chế trong xuất khẩu (export restrictions). Bộ Tư Pháp cuối cùng phải hủy bỏ bản cáo trạng chống lại Zimmermann, và sự phân bố phần mềm PGP miễn phí được lan truyền trên khắp toàn cầu, cuối cùng nó đã trở thành một tiêu chuẩn mở (open standard) (xem RFC2440 hay OpenPGP) Các kỹ thuật phá mã hiện đại Trong khi những mã hiện đại tương tự như AES được đại bộ phận cho rằng là những mã không thể phá được, một số những thiết kế nghèo nàn vẫn đôi khi được chấp nhận và sử dụng, và do đó đã gây ra không ít những vụ phá mã, dùng phương pháp thám mã, đã xảy ra trong những thập kỷ gần đây. Ví dụ về những thiết kế mật mã bị bẻ gãy nổi tiếng bao gồm DES, mã hóa WEP phiên bản đầu tiên dùng trong kỹ thuật truyền thông vô tuyến Wi-Fi, Hệ thống Xáo trộn Nội dung (Content Scrambling System) được sử dụng để mã hóa và quản lý việc sử dụng DVD, và với các mã A5/1, A5/2 được sử dụng trong điện thoại di động GSM. Thêm vào đó, chưa có một chứng minh nào khẳng định được nền tảng toán học của mật mã dùng khóa công khai là 'không thể bẻ gãy', cho nên tiến triển của toán học trong tương lai có thể sẽ làm cho những hệ thống phụ thuộc vào chúng trở nên mất an toàn. Trong khi một số nhà quan sát nhìn trước được nguy cơ bị chọc thủng như vậy, thì độ lớn khóa đề nghị đối với việc bảo an lại càng ngày càng phải tăng lên, vì công suất máy tính cần thiết để bẻ gãy các mã càng ngày càng trở nên rẻ tiền hơn và sẵn có.
Họ Phi lao (danh pháp khoa học: Casuarinaceae) là một họ trong thực vật hai lá mầm thuộc về bộ Fagales, bao gồm 3 hoặc 4 chi, tùy theo hệ thống phân loại, với khoảng 70-95 loài cây thân gỗ và cây bụi có nguồn gốc ở khu vực nhiệt đới Cựu Thế giới (Indo-Malaysia), Australia và các đảo trên Thái Bình Dương. Đã có thời, tất cả các loài trong họ này được đặt trong một chi duy nhất là chi Casuarina, nhưng hiện nay chúng được tách ra thành các chi Allocasuarina, Casuarina, Ceuthostoma và Gymnostoma. Các thành viên trong họ này được đặc trưng bởi các cành nhỏ rủ xuống kiểu equisetoid (có nghĩa là "giống như Equisetum (mộc tặc)") và chúng là cây thường xanh với cơ quan sinh sản cùng hoặc khác gốc. Rễ của chúng có các nốt sần cố định đạm chứa vi khuẩn thuộc chi Frankia. Phân loại Họ Phi lao Chi Allocasuarina: 61 loài. Chi Casuarina: 14 loài. Chi Ceuthostoma: 2 loài. Chi Gymnostoma (gồm cả Quadrangula): 14 loài. Phát sinh chủng loài Cây phát sinh chủng loài dưới đây vẽ theo Steane et al. (2003)
Cookie (hay còn gọi là HTTP cookie, web cookie, Internet cookie, cookie trình duyệt) là những tập tin một trang web gửi đến máy người dùng và được lưu lại thông qua trình duyệt khi người dùng truy cập trang web đó. Cookie được dùng với mục đích phổ biến là để lưu trữ phiên đăng nhập nhằm phục vụ cho mục đích xác thực với website, duy trì trạng thái đăng nhập. Ngoài ra, cookie còn được dùng để ghi nhớ thông tin trạng thái (ví dụ, quốc gia, ngôn ngữ), ghi nhớ hoạt động người dùng thực hiện trong quá trình truy cập và duyệt một trang web (ví dụ, những nút bấm hay đường liên kết người dùng tương tác). Cookie cũng được dùng để lưu lại các thông tin khác mà người dùng nhập hay điền vào trang web như tên, địa chỉ, email, v.v Thuật ngữ Các loại cookie khác nhau được gọi bằng các thuật ngữ khác nhau tùy vào đặc điểm và mục đích sử dụng của cookie. Các thuật ngữ bên dưới được giữ nguyên theo tên gọi tiếng Anh cho tiện việc tra cứu. Session cookie Session cookie (tạm dịch: cookie phiên chạy) chỉ tồn tại trong bộ nhớ tạm thời khi người dùng duyệt web. Thông thường, trình duyệt sẽ xóa bỏ cookie khi người dùng ngưng phiên duyệt web. Không như các loại cookie khác, session cookie không có thời hạn có hiệu lực. Đó cũng là yếu tố để trình duyệt phân biệt session cookie và các loại cookie khác. Persistent cookie Không như session cookie, persistent cookie (tạm dịch: cookie cố định) sẽ hết hiệu lực sau một thời điểm nào đó hoặc sau một khoảng thời gian nào đó được ấn định trước. Trong thời gian có hiệu lực của một persistent cookie, thông tin mà persistent cookie lưu lại sẽ được gửi đến máy chủ của website mà người dùng truy cập mỗi khi họ duyệt trang đó, hoặc khi họ truy cập một nguồn tài nguyên thuộc website thông qua một website khác (ví dụ, hình ảnh). Secure cookie Secure cookie (tạm dịch: cookie an toàn) chỉ có thể được gửi và nhận qua một kết nối được mã hoá (HTTPS). Các secure cookie không được gửi và nhận qua một kết nối không mã hoá (HTTP). HTTP-only cookie HTTP-only cookie (tạm dịch: cookie HTTP) không được truy cập bởi các giao diện lập trình ứng dụng (API) phía người dùng (client-side APIs) như JavaScript. Same-site cookie Same-site cookie (tạm dịch: cookie cùng trang) là loại cookie chỉ được gửi qua các yêu cầu xuất phát cùng một tên miền mục tiêu. Same-site cookie ra đời vào 2016 cùng với sự xuất hiện của Google Chrome bản 51. Third-party cookie Thông thường, thông tin về tên miền của một cookie sẽ trùng với tên miền được hiển thị ở thanh địa chỉ của trình duyệt. Đây được gọi là first-party cookie (tạm dịch: cookie bên thứ nhất). Trái với nó, một third-party cookie (tạm dịch: cookie bên thứ ba) sẽ thuộc một tên miền khác với tên miền trên thanh địa chỉ. Các cookie loại này thường gặp trong trường hợp một website hiển thị thông tin từ các website khác, ví dụ như các banner quảng cáo từ website khác. Third-party cookie được dùng rộng rãi trên web. Theo một khảo sát được thực hiện năm 2018, trong 938,093 trang web phổ biến theo Alexa, hơn 70% số trang được tải xuống có chứa third-party cookie với số lượng hơn 11 cookie mỗi trang tin. Supercookie Supercookie (tạm dịch: cookie chủ) là loại cookie xuất phát từ các tên miền ở tầng cao nhất (ví dụ như.com) hay các hậu tố công cộng (public suffix) như.co.uk. Các loại cookie thông thường khác, ngược lại, xuất phát từ một tên miền, ví dụ như example.com. Supercookie có thể là một mối nguy hiểm tiềm tàng vì các supercookie có thể được dùng để nguỵ trang một yêu cầu không hợp pháp trông như một yêu cầu hợp pháp từ người dùng. Zombie cookie Zombie cookie (tạm dịch: cookie ma) là loại bị xoá đi. Ứng dụng của cookie Cookie thường được dùng để quản lý phiên chạy web, cá nhân hoá và theo dõi hoạt động của người dùng. Quản lý phiên chạy Cookie được dùng để quản lý phiên chạy bằng cách ghi nhớ trạng thái của người dùng. Ví dụ về ứng dụng của cookie trong quản lý phiên chạy bao gồm: tình trạng đăng nhập của người dùng, tình trạng giỏ hàng của người dùng, thông tin điểm số game. Cá nhân hoá Cookie cũng được dùng để cá nhân hoá kinh nghiệm người dùng. Website dùng cookie để ghi nhớ các lựa chọn ưa thích mà người dùng thiết lập khi tương tác với website trước đó, ví dụ: màu sắc trang nền của website, ngôn ngữ mặc định. Theo dõi hoạt động Theo dõi hoạt động người dùng là một trong những ứng dụng phổ biến nhất của cookie. Các trang web dùng cookie để ghi lại và phân tích thói quen duyệt web của người dùng, ví dụ như những trang nào thường được người dùng ghé thăm, với tần suất nào, những sản phẩm, nút bấm hay đường link nào người dùng dành thời gian xem hoặc tương tác nhiều nhất... Cookie và quyền riêng tư Các công ty quảng cáo sử dụng third-party cookie để theo dõi hoạt động của người dùng từ nhiều trang web khác nhau. Cụ thể, một công ty quảng cáo có thể đặt hình ảnh quảng cáo trên nhiều trang và theo đó thu thập thông tin về hoạt động của người dùng. Việc biết được người dùng truy cập những trang web nào cho phép các công ty quảng cáo thực hiện các chiến dịch quảng cáo theo đối tượng, dựa trên phỏng đoán về nhu cầu và sở thích của người dùng. Quy định chung về bảo mật thông tin (GDPR) của Liên minh châu Âu Việc sử dụng cookie để theo dõi và thu thập thông tin về hoạt động của người dùng web đe doạ sự riêng tư và bảo mật thông tin của người dùng. Vì vậy, các chính sách và quy định về việc sử dụng cookie đã được ban hành ở nhiều nước. Được nhắc đến nhiều trong số này là Quy định chung về bảo mật thông tin (GDPR) của Liên minh Châu Âu. Liên quan đến việc sử dụng cookie, GDPR yêu cầu các công ty phải có sự chấp thuận của người dùng châu Âu về việc các website này dùng cookie để thu thập thông tin về hoạt động người dùng, dù các công ty này có trụ sở hay hoạt động ở bất kỳ nước nào. Trong một nghiên cứu được thực hiện năm 2018 trên 500 website được truy cập nhiều nhất ở mỗi nước trong 28 nước thành viên của Liên minh châu Âu, tỉ lệ các website hiển thị thông báo về việc chấp thuận cookie đã tăng từ 46.1% trong tháng 1 năm 2018 lên 62,1% trong tháng 5 năm 2018 (thời điểm GDPR có hiệu lực). Hiển thị thông tin cookie Để chấp hành các chính sách, quy định về bảo mật thông tin và sử dụng cookie, chủ các trang web phải cung cấp cho người dùng thông tin về cookie được dùng trên trang web. Tuy nhiên, không có cùng một khuôn mẫu làm chuẩn, các trang web hiển thị thông tin về cookie theo những cách rất khác nhau. Thông thường, thông tin về cookie trên một website được trình bày thông qua ba công cụ: Thông báo về việc dùng cookie, Chính sách cookie hoặc Chính sách riêng tư, Chức năng điều chỉnh cookie. Các website có thể dùng cả ba công cụ hoặc ít hơn. Thông báo về việc dùng cookie Khi người dùng truy cập một trang web, một tin nhắn sẽ được hiển thị để thông báo cho người dùng về việc trang web đó có sử dụng cookie để thu thập thông tin duyệt web của người dùng. Thông báo dùng cookie này có thể được hiển thị ở đầu trang, giữa trang hay cuối trang dưới dạng một bảng tin nhắn ngắn. Thông báo dùng cookie cũng có thể xuất hiện dưới dạng một cửa sổ pop-up chiếm phần lớn màn hình; ở dạng này, thông báo cookie chiếm màn hình và người dùng thường không thể tiếp tục quá trình duyệt web nếu họ không có thao tác nào trên thông báo cookie (đóng cửa sổ, đồng ý hay từ chối cookie). Chính sách cookie hoặc Chính sách riêng tư Không như Thông báo dùng cookie, các Chính sách cookie hay Chính sách riêng tư thường chứa nhiều thông tin hơn về các cookie mà một trang web sử dụng và thường dưới dạng văn bản dài, hiển thị như một trang tin. Một trang web có thể có trang hiển thị Chính sách cookie riêng rẽ với Chính sách riêng tư. Trong một vài trường hợp khác, Chính sách cookie là một phần của Chính sách riêng tư. Thông thường, các trang chính sách này chứa thông tin cụ thể về cookie như tên gọi cookie, các nhóm và phân loại cookie, mục đích sử dụng cookie, các đối tác mà trang web làm việc với hoặc cho phép đặt cookie. Các Chính sách cookie hoặc Chính sách riêng tư này cũng thường bao gồm các hướng dẫn để người dùng có thể chọn cho phép hay từ chối một hay nhiều loại cookie. Chức năng điều chỉnh cookie Các trang web cũng có thể có chức năng điều chỉnh cookie để người dùng có thể lựa chọn cho phép hay từ chối loại cookie họ muốn. Chức năng này thường được hiển thị dưới dạng một bảng mẫu trong đó các cookie thường được sắp xếp và phân loại thành các nhóm khác nhau, theo mục đích sử dụng hoặc đặc điểm của cookie, ví dụ, cookie tối cần thiết, cookie chức năng, cookie quảng cáo, cookie phân tích... Nếu một trang web không hỗ trợ chức năng điều chỉnh cookie này, trong Chính sách cookie hoặc Chính sách riêng tư của mình, trang web đó thường đưa thông tin để hướng dẫn người dùng cách chấp nhập hoặc từ chối cookie thông qua việc điều chỉnh trình duyệt. Mặt khác, một vài trang web cũng hỗ trợ tính năng điều chỉnh cookie dưới dạng các điều chỉnh có trong mục quản lý tài khoản của người dùng.
Trong logic toán, một phân ngành logic, cơ sở của mọi ngành toán học, mệnh đề, hay gọi đầy đủ là mệnh đề logic là một khái niệm nguyên thủy, không định nghĩa. Thuộc tính cơ bản của một mệnh đề là giá trị chân lý của nó, được quy định như sau: Mỗi mệnh đề có đúng một trong hai giá trị chân lý 0 hoặc 1. Mệnh đề có giá trị chân lý 1 là mệnh đề đúng, mệnh đề có giá trị chân lý 0 là mệnh đề sai. Ký hiệu: Người ta thường dùng các chữ cái a, b, c,... để ký hiệu cho các mệnh đề. Nếu mệnh đề a có giá trị chân lý là 1 thì ta ký hiệu G(a) = 1; nếu mệnh đề a có giá trị chân lý là 0 thì ta ký hiệu là G(a) = 0. Chẳng hạn, để ký hiệu a là mệnh đề "Paris là thủ đô của nước Pháp" ta sẽ viết: a = "Paris là thủ đô của nước Pháp" hoặc a: "Paris là thủ đô của nước Pháp". Ở đây, a là mệnh đề đúng nên G(a) = 1. Chú ý: 1. Trong thực tế có những mệnh đề mà tính đúng sai của nó luôn gắn với một thời gian và địa điểm cụ thể: đúng ở thời gian hoặc địa điểm này nhưng sai ở thời gian hoặc địa điểm khác. Nhưng ở bất kì thời điểm nào, địa điểm nào cũng luôn có giá trị chân lý đúng hoặc sai. Chẳng hạn: Sáng nay bạn An đi học. Trời mưa. Học sinh tiểu học đang đi nghỉ hè. 2. Ta thừa nhận các luật sau đây của logic mệnh đề: Luật bài trùng: Mỗi mệnh đề phải hoặc đúng, hoặc sai; không có mệnh đề nào không đúng cũng không sai. Luật mâu thuẫn: Không có mệnh đề nào vừa đúng lại vừa sai. 3. Có những mệnh đề mà ta không biết (hoặc chưa biết) đúng hoặc sai nhưng biết "chắc chắn" nó nhận một giá trị. Chẳng hạn: Trên Sao Hỏa có sự sống. Mệnh đề và câu Mệnh đề có thể là một câu nhưng không phải mọi câu đều là mệnh đề. Có thể chia các câu trong khoa học cũng như trong cuộc sống ra làm hai loại: loại thứ nhất gồm những câu phản ánh tính đúng hoặc sai một thực tế khách quan và loại thứ hai gồm những câu không phản ánh tính đúng hoặc sai một thực tế khách quan nào. Những câu thuộc loại thứ nhất là chính những mệnh đề. Vì vậy có thể nói: "Mệnh đề là một câu khẳng định có tính chất hoặc đúng hoặc sai". Ví dụ: Nhận xét: nói chung những câu nghi vấn, câu cảm thán, câu mệnh lệnh đều không phải là mệnh đề. Mệnh đề logic và mệnh đề mờ Nếu như trong logic toán, một mệnh đề chỉ có thể nhận một trong hai giá trị chân lý 0 hoặc 1 thì trong Trí tuệ nhân tạo người ta dùng logic mờ, mà ở đó giá trị chân lý của một mệnh đề là một số nằm giữa 0 và 1. Mệnh đề có giá trị chân lý 0 là sai, có giá trị chân lý 1 là đúng. Còn giá trị chân lý nằm giữa 0 và 1 chỉ ra mức độ thay đổi của chân lý. Các phép toán logic cơ bản Trong toán học, khi có hai số, người ta dùng các phép toán số học (cộng, trừ, nhân, chia,...) tác động vào chúng để nhận được những số mới. Tương tự, khi có mệnh đề, người ta dùng các phép logic tác động vào chúng để nhận được những mệnh đề mới. Dưới đây ta trình bày định nghĩa và các tính chất cơ bản của các phép toán này. Phép phủ định Mệnh đề phủ định: Mệnh đề phủ định của mệnh dề a là mệnh đề có giá trị đối lập với mệnh đề a, kí hiệu là . Phủ định của mệnh đề a là một mệnh đề, ký hiệu là , đúng khi a sai và sai khi a đúng. Ví dụ 1: Nếu a = "Paris là thủ đô của nước Pháp" thì mệnh đề phủ định có thể diễn đạt như sau: = "Không phải Paris là thủ đô của nước Pháp" hoặc = "Paris không phải là thủ đô của nước Pháp". Ở đây G(a) = 1 còn G() = 0. Ví dụ 2: Nếu b = "15 lớn hơn 30" thì mệnh đề phủ định có thể diễn đạt như sau: = "Không phải 15 lớn hơn 30" hoặc = "15 không lớn hơn 30" hoặc = "15 nhỏ hơn hoặc bằng 30" Ở đây G(b) = 0 còn G() = 1. Ví dụ 3: Nếu c = "Chuyến tàu TN1 hôm nay bãi bỏ" thì mệnh đề phủ định có thể diễn đạt như sau: = "Chuyến tàu TN1 hôm nay không bãi bỏ". Nếu qua xác minh mệnh đề c đúng (hoặc sai) thì mệnh đề phủ định sẽ sai (hoặc đúng). Chú ý: Mệnh đề phủ định a thường được diễn đạt là "không phải a". Phép hội (Tương Đương Hàm Min) Hội của hai mệnh đề a, b là một mệnh đề, đọc là a và b, ký hiệu a Λ b (hoặc a.b, \[a\intersec b\]), đúng khi cả hai mệnh đề a, b cùng đúng và sai trong các trường hợp còn lại. Chú ý: Để thiết lập mệnh đề hội của hai mệnh đề a, b ta ghép hai mệnh đề đó bởi liên từ "và" hay một liên từ khác cùng loại. Những liên từ đó là: mà, nhưng, song, đồng thời, vẫn, cùng,... hoặc dùng dấu phẩy hoặc không dùng liên từ gì. Ví dụ 1: "Lúc 8 giờ sáng nay Hà có mặt ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh" là hội của hai mệnh đề a = "Lúc 8 giờ sáng nay Hà có mặt ở Hà Nội" và b = "Lúc 8 giờ sáng nay Hà có mặt ở thành phố Hồ Chí Minh". Vì hai mệnh đề này không thể cùng đúng, nên G(a Λ b) = 0. Ví dụ 2: "Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố lớn nhất trong cả nước nhưng không phải là thủ đô" là hội của hai mệnh đề a = "Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố lớn nhất trong cả nước" và b = "Thành phố Hồ Chí Minh không phải là thủ đô". Rõ ràng là G(a) = 1 và G(b) = 1 nên G(a Λ b) = 1. Ví dụ 3: "Số π lớn hơn 2 song nhỏ hơn 3". "Chị Nga nói thạo tiếng Pháp mà không biết tiếng Anh". "ABC là tam giác vuông cân" là hội của hai mệnh đề a = "ABC là tam giác vuông" và b = "ABC là tam giác cân". "Không những trời nắng to mà còn gió tây". "Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa". Chú ý: Đôi khi trong mệnh đề có liên từ "và" nhưng không có nghĩa của mệnh đề hội. Chẳng hạn: "Số lẻ và số chẵn là hai tập con rời nhau của tập số tự nhiên". "Hùng đạt được tất cả 20 điểm 9 và 10". Phép tuyển (Tương Đương Hàm Max) Tuyển của hai mệnh đề a, b là một mệnh đề đọc là a hoặc b, ký hiệu là a ν b (hoặc a+b), sai khi cả hai mệnh đề cùng sai và đúng trong trường hợp còn lại. Phép tuyển trên còn được gọi là phép tuyển không loại trừ. Phép tuyển loại trừ của hai mệnh đề a và b, chỉ đúng khi hoặc a, hoặc b đúng. Chú ý: Để thiết lập mệnh đề tuyển của hai mệnh đề a, b ta ghép hai mệnh đề đó bởi liên từ "hoặc" (hay liên từ khác cùng loại). Ví dụ 1: "Tháng 12 có 31 ngày hoặc 2 + 2 = 4" là tuyển của hai mệnh đề a = "Tháng 12 có 31 ngày" và b = "2 + 2 = 4". Ở đây G(a ν b) = 1. Ví dụ 2: "3 nhỏ hơn hoặc bằng 4"   ← là mệnh đề đúng "Số lẻ là số có chữ số tận cùng bằng 1, 3, 5, 7 hoặc 9"   ← là mệnh đề đúng "20 là số lẻ hoặc chia hết cho 3"   ← là mệnh đề sai Chú ý: Trong thực tế, liên từ "hoặc" thường được dùng với hai nghĩa "loại trừ" và "không loại trừ". Phép tuyển "hoặc a hoặc b" là phép tuyển loại trừ để chỉ a hoặc b nhưng không thể cả a lẫn b. Phép tuyển "a hoặc b" là phép tuyển không loại trừ để chỉ a hoặc b và có thể cả a lẫn b. Chẳng hạn: "Hôm nay là ngày Chủ nhật hoặc ngày lễ"   ← là phép tuyển không loại trừ. "20 là số lẻ hoặc nó chia hết cho 2"   ← là phép tuyển loại trừ. Phép kéo theo a kéo theo b là một mệnh đề, ký hiệu là a b, chỉ sai khi a đúng và b sai và đúng trong các trường hợp còn lại. Chú ý: Mệnh đề a kéo theo b thường được diễn đạt dưới nhiều hình thức khác nhau, chẳng hạn: "Nếu a thì b""Có b khi có a""Từ a suy ra b""a là điều kiện đủ để có b""b là điều kiện cần (ắt có) để có a".............. Ví dụ: "15 có chữ số tận cùng bằng 5 suy ra 15 chia hết cho 5"   ← mệnh đề đúng. "Nếu dây tóc bóng đèn có dòng điện chạy qua thì bóng đèn sáng"   ← mệnh đề đúng. Chú ý: 1. Trong logic, khi xét giá trị chân lý của mệnh đề a b người ta không quan tâm đến mối quan hệ về nội dung của hai mệnh đề a, b. Không phân biệt trường hợp a có phải là nguyên nhân để có b hay không, mà chỉ quan tâm đến tính đúng, sai của chúng. Ví dụ: "Nếu mặt trời quay quanh Trái Đất thì Việt Nam nằm ở châu Âu"   ← mệnh đề đúng. Vì ở đây hai mệnh đề a = "mặt trời quay quanh Trái Đất" và b = "Việt Nam nằm ở châu Âu" đều sai. "Nếu tháng 12 có 31 ngày thì mỗi năm có 13 tháng"   ← mệnh đề sai. 2. Theo bảng chân lý trên, ta thấy: Nếu a sai thì a b luôn đúng. Nếu a đúng thì a b đúng khi b đúng. Vì vậy để chứng minh mệnh đề a b đúng ta chỉ cần xét trường hợp a và b cùng đúng và phép chứng minh mệnh đề a b được tiến hành theo ba bước: Bước 1. Giả sử a đúng. Bước 2. Từ giả thiết a đúng, dùng lập luận và các mệnh đề toán học đã biết, suy ra b đúng. Bước 3. Kết luận a b luôn đúng. Trong mệnh đề a b ta gọi a là giả thiết, b là kết luận. 3. Nếu ta coi a b là mệnh đề thuận thì b a là mệnh đề đảo, là mệnh đề phản và là mệnh đề phản đảo. 4. Trong văn học, mệnh đề kéo theo còn được diễn đạt bằng nhiều hình thức phong phú. Chẳng hạn:"Mấy đời bánh đúc có xương,Mấy đời dì ghẻ có thương con chồng" hoặc"Chuồn chuồn bay thấp thì mưa,Bay cao thì nắng bay vừa thì râm". Phép tương đương a tương đương b là một mệnh đề, ký hiệu là a b, nếu cả hai mệnh đề a và b cùng đúng hoặc cùng sai. Chú ý: 1. Trong thực tế, mệnh đề "a tương đương b" thường được diễn đạt dưới nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn:"a khi và chỉ khi b""a nếu và chỉ nếu b""a và b là hai mệnh đề tương đương""a là điều kiều kiện cần và đủ để có b" 2. Hai mệnh đề a, b tương đương với nhau hoàn toàn không có nghĩa là nội dung của chúng như nhau, mà nó chỉ nói lên rằng chúng có cùng giá trị chân lý (cùng đúng hoặc cùng sai). Ví dụ: "Tháng 12 có 31 ngày khi và chỉ khi Trái Đất quay quanh mặt trời" là mệnh đề đúng. "12 giờ trưa hôm nay Tuấn có mặt ở Hà Nội nếu và chỉ nếu vào giờ đó anh đang ở thành phố Hồ Chí Minh" là mệnh đề sai. "Hình vuông có một góc tù khi và chỉ khi 100 là số nguyên tố" là mệnh đề đúng. 3. Một cách khác, người ta cũng nói rằng a tương đương b khi và chỉ khi cả hai mệnh đề a b và b a cùng đúng (hoặc cùng sai). Vì vậy để chứng minh mệnh đề a b ta chứng minh hai mệnh đề a b và b a. 4. Các cặp mệnh đề thuận và phản đảo, đảo và phản là những cặp mệnh đề tương đương. Đây chính là cơ sở của phương pháp chứng minh gián tiếp trong toán học. ==Sự tương đương logic Công thức Trong phần trên ta đã xét năm phép toán trên các mệnh đề. Như vậy, nếu có các mệnh đề a, b, c,... khi dùng các phép toán logic tác động vào, chúng ta sẽ nhận được những mệnh đề ngày càng phức tạp hơn. Mỗi mệnh đề như thế và cả những mệnh đề xuất phát ta gọi là công thức. Hay nói cách khác: a) Mỗi mệnh đề gọi là một công thức. b) Nếu P, Q là những công thức thì , P Λ Q, P ν Q, P Q, P Q cũng đều là công thức. c) Mọi dãy ký hiệu khác không xác định theo quy tắc a), b) đều không phải là công thức. Mỗi công thức được tạo thành từ những mệnh đề dưới tác dụng của các phép toán logic. Như vậy ta gán cho mỗi mệnh đề có mặt trong công thức P một giá trị chân lý, dùng bảng chân lý của các phép logic ta khẳng định được công thức P là mệnh đề đúng hoặc sai. Nếu P là mệnh đề đúng (hoặc sai) thì ta nói công thức P có giá trị chân lý bằng 1 (hoặc 0 ). Ví dụ:   (1) là công thức có giá trị chân lý bằng 1 (với mọi mệnh đề a).   (2) là một công thức có giá trị chân lý bằng 0 (với mọi mệnh đề a, b) Sự tương đương logic Cho P và Q là hai công thức. Ta nói rằng hai công thức P, Q tương đương logic với nhau, ký hiệu là P ≡ Q, nếu với mọi hệ chân lý gán cho các mệnh đề có mặt trong hai công thức đó thì chúng luôn nhận giá trị chân lý như nhau. Đặc biệt, hai mệnh đề a, b gọi là tương đương logic, ký hiệu là a ≡ b, nếu chúng cùng đúng hoặc cùng sai. Chú ý: 1. Ký hiệu a ≡ b là để chỉ hai mệnh đề tương đương logic chứ không phải là hai mệnh đề bằng nhau. 2. Hai mệnh đề tương đương logic có thể về nội dung chúng hoàn toàn không có liên quan. Chẳng hạn: "Tháng 2 có 31 ngày ≡ 2 + 2 = 11". 3. Quan hệ P ≡ Q còn được gọi là một đẳng thức. Đẳng thức Dưới đây là một số đẳng thức thường gặp trong logic mệnh đề: Phủ định của phủ định (1)   ≡ p. Luật De Morgan (2)   ≡ (3)   ≡ Tính chất kết hợp của các phép logic (4)   (p Λ q) Λ r ≡ p Λ (q Λ r) (5)   (p ν q) ν r ≡ p ν (q ν r) Tính chất giao hoán của các phép logic (6)   p Λ q ≡ q Λ p (7)   p ν q ≡ q ν p (8)   p q ≡ q p Tính chất phân phối (9)   p Λ (q ν r) ≡ (p Λ q) ν (p Λ r) (10)   p ν (q Λ r) ≡ (p ν q) Λ (p ν r) Tính lũy đẳng (11)   p Λ p ≡ p (12)   p ν p ≡ p Biểu diễn phép kéo theo qua các phép logic khác (13)   ≡ (14)   ≡ (15)   ≡   (luật phản đảo) Biểu diễn tương đương qua các phép logic khác (16)   ≡ (17)   ≡ Các đẳng thức về 0 và 1 Người ta còn dùng ký hiệu 1 (hoặc 0) để chỉ một mệnh đề luôn luôn đúng (hoặc luôn luôn sai). Ta có các đẳng thức sau về 0 và 1: (18)   p Λ 0 ≡ 0 (19)   p ν 0 ≡ p (20)   p Λ 1 ≡ p (21)   p ν 1 ≡ 1 (22)   p ν ≡ 1 (luật bài trung) (23)   p Λ ≡ 0 (luật mâu thuẫn) Chứng minh đẳng thức Để chứng minh một đẳng thức trong logic mệnh đề ta thường dùng phương pháp lập bảng giá trị chân lý. Ví dụ 1: Chứng minh:   ≡   Nhìn cột 3 và 4 trong bảng trên ta thấy hai công thức     và     luôn nhận giá trị chân lý như nhau. Vậy ta có điều phải chứng minh. Ví dụ 2: Chứng minh:   ≡   Nhìn cột 3 và 4 trong bảng trên ta thấy hai công thức     và     luôn nhận giá trị chân lý như nhau. Vậy ta có điều phải chứng minh. Hàm mệnh đề. Các lượng từ tồn tại và tổng quát Khái niệm về hàm mệnh đề Ta xét các ví dụ sau: Ví dụ 1: "Số tự nhiên n chia hết cho 5". Về phương diện ngôn ngữ thì đây là một câu. Nhưng câu này chưa phản ánh tính đúng hoặc sai một thực tế khách quan nào, cho nên nó chưa phải là mệnh đề. Song nếu ta thay n bằng số tự nhiên cụ thể, chẳng hạn: Thay n = 100 ta được mệnh đề đúng: "Số 100 chia hết cho 5". Thay n = 101 ta được mệnh đề sai: "Số 101 chia hết cho 5". Ví dụ 2: "x + 3 > 7". Tương tự như trong ví dụ 1, x + 3 > 7 chưa phải là mệnh đề, song nếu ta thay x bởi một số thực cụ thể, chẳng hạn: Thay x = 0 ta được mệnh đề sai: "0 + 3 > 7". Thay x = 5 ta được mệnh đề đúng: "5 + 3 > 7". Ví dụ 3: "Ông A là nhà toán học vĩ đại". Câu trên chưa phải là mệnh đề. Nhưng nếu ta chọn "ông A" là "Gausơ" sẽ được mệnh đề đúng: "Gausơ là nhà toán học vĩ đại", nếu ta chọn "ông A" là "Đinh Bộ Lĩnh" thì sẽ được mệnh đề sai: "Đinh Bộ Lĩnh là nhà toán học vĩ đại". Từ các ví dụ trên ta đi đến định nghĩa sau: Những câu có chứa các biến mà bản thân nó chưa phải là mệnh đề nhưng khi ta thay các biến đó bởi các phần tử thuộc tập xác định X thì nó trở thành mệnh đề (đúng hoặc sai) ta sẽ gọi là hàm mệnh đề (hoặc vị từ, hàm phán đoán, mệnh đề không xác định, mệnh đề chứa biến). Tập X gọi là miền xác định của hàm mệnh đề đó. Ta dùng ký hiệu: T(n), F(x),... để chỉ các hàm mệnh đề. Chẳng hạn: Hàm mệnh đề T(n): "Số tự nhiên n chia hết cho 5" có miền xác định là tập các số tự nhiên N. Tập các số tự nhiên có tận cùng bằng 0 hoặc 5 là miền đúng của T(n). Hàm mệnh đề F(x) = "x + 3 > 7" có miền xác định là các số thực. Tập các số thực lớn hơn 4 ta gọi là miền đúng của hàm mệnh đề F(x). Mệnh đề tồn tại Cho T(x) là hàm mệnh đề xác định trên miền X. Nếu ta đặt thêm cụm từ "Tồn tại sao cho..." vào trước hàm mệnh đề T(x) ta được mệnh đề: Ta gọi mệnh đề có cấu trúc như trên là mệnh đề tồn tại. Ký hiệu là: hoặc Ký hiệu gọi là lượng từ tồn tại. Ví dụ: "Tồn tại số thực x sao cho x + 4 > 7" là mệnh đề đúng. Ký hiệu là: "Tồn tại số tự nhiên n sao cho n chia hết cho 5" là mệnh đề đúng. Ký hiệu là: "Tồn tại số thực x sao cho x2 + 1 = 0" là mệnh đề sai. Ký hiệu là: Chú ý: 1. Trong thực tế, mệnh đề tồn tại còn được diễn đạt dưới những dạng khác nhau, chẳng hạn: "Tồn tại ít nhất một sao cho T(x)". "Có một sao cho T(x)". "Có ít nhất một sao cho T(x)". "Ít ra cũng có một người là nhà toán học". "Một số người là nhà toán học". "Có nhiều người là nhà toán học" .................. 2. Ta dùng ký hiệu với nghĩa "Tồn tại duy nhất một sao cho T(x)". Mệnh đề tổng quát Cho T(x) là hàm mệnh đề xác định trên miền X. Nếu ta đặt thêm cụm từ "Với mọi ta có..." vào trước hàm mệnh đề T(x) ta được mệnh đề: Ta gọi mệnh đề có cấu trúc như trên là mệnh đề tổng quát (hoặc toàn thể, phổ biến, phổ cập,...). Ký hiệu là: hoặc hoặc Ký hiệu gọi là lượng từ tổng quát (hay toàn thể, phổ biến, phổ cập,...) Phủ định của mệnh đề tồn tại và tổng quát Phủ định các mệnh đề tồn tại và tổng quát được thiết lập theo hai quy tắc dưới đây: Như vậy, hai mệnh đề: và   là phủ định của nhau. và   là phủ định của nhau. Ví dụ: Ký hiệu là: Ký hiệu là: Ứng dụng. Giải bài toán bằng suy luận logic Thông thường khi giải một bài toán dùng công cụ của logic mệnh đề ta tiến hành theo các bước sau: Bước 1: Phiên dịch đề bài từ ngôn ngữ đời thường sang ngôn ngữ của logic mệnh đề: Tìm xem bài toán được tạo thành từ những mệnh đề nào. Diễn đạt các điều kiện (đã cho và phải tìm) trong bài toán bằng ngôn ngữ của logic mệnh đề. Bước 2: Phân tích mối liên hệ giữa điều kiện đã cho với kết luận của bài toán bằng ngôn ngữ của logic mệnh đề. Bước 3: Dùng các phương pháp suy luận logic dẫn dắt từ các điều kiện đã cho tới kết luận của bài toán. Ví dụ: Tại Tiger Cup 98 có bốn đội lọt vào vòng bán kết: Việt Nam, Singapore, Thái Lan và Indonesia. Trước khi thi đấu vòng bán kết, ba bạn Dụng, Quang, Trung dự đoán như sau: Dụng: Singapore nhì, còn Thái Lan ba. Quang: Việt Nam nhì, còn Thái Lan tư. Trung: Singapore nhất và Indonesia nhì. Kết quả, mỗi bạn dự đoán đúng một đội và sai một đội. Hỏi mỗi đội đã đạt giải mấy? Giải: Ký hiệu các mệnh đề: d1, d2 là hai dự đoán của Dụng. q1, q2 là hai dự đoán của Quang. t1, t2 là hai dự đoán của Trung. Vì Dụng có một dự đoán đúng và một dự đoán sai, nên có hai khả năng: Nếu G(d1) = 1 thì G(t1) = 0. Suy ra G(t2) = 1. Điều này vô lý vì cả hai đội Singapore và Indonesia đều đạt giải nhì. Nếu G(d1) = 0 thì G(d2) = 1. Suy ra G(q2) = 0 và G(q1) = 1. Suy ra G(t2) = 0 và G(t1) = 1. Vậy Singapore nhất, Việt Nam nhì, Thái Lan ba còn Indonesia đạt giải tư. Giải bài toán trong kĩ thuật Mệnh đề logic còn được ứng dụng trong kĩ thuật lắp ráp các mạch điện và thiết bị trong nhà máy. Dưới đây là một ví dụ minh họa. Ví dụ: Giữa công tắc và dây may so của một chiếc Bàn là có rơle tự ngắt (để khi dây may so nóng đến nhiệt độ quy định cho phép thì rơle tự ngắt mạch điện cho Bàn là được an toàn). Hãy thiết lập nguyên tắc logic của quá trình hoạt động của chiếc Bàn là đó (thiết lập mối liên hệ giữa việc đóng, ngắt mạch của công tắc, rơle với nhiệt độ cho phép của dây may so). Giải: Ký hiệu các mệnh đề: c = "Công tắc Bàn là đóng mạch". r = "Rơ le Bàn là đóng mạch". t = "Dây may so trong Bàn là nóng tới nhiệt độ cho phép". Mối liên hệ giữa trạng thái an toàn của Bàn là và giá trị chân lý của các mệnh đề c, r, t có thể biểu diễn bởi bảng sau: Nhìn vào bảng trên ta thấy: Trạng thái 1 và 5 không đảm bảo an toàn, vì khi dây may so đã nóng tới nhiệt độ quy định cho phép mà rơle vẫn đóng mạch thì dẫn đến hỏng Bàn là hoặc đồ là. Trạng thái 4 và 8 không đảm bảo an toàn vì dây may so chưa nóng tới nhiệt độ quy định cho phép mà rơle đã ngắt mạch thì Bàn là không sử dụng được. Các trạng thái còn lại: 2, 3, 6 và 7 đều đảm bảo an toàn. Các trạng thái đó được mô tả bằng các công thức logic sau: Vậy Bàn là hoạt động an toàn khi và chỉ khi:   (1) Áp dụng các đẳng thức về luật phân phối, các đẳng thức về 0 và 1 cho trạng thái 2 với 6 và 3 với 7, ta có:   (2)   (3) Dùng bảng chân lý ta nhận được:             (4) Từ (1), (2), (3) và (4) ta suy ra: Bàn là hoạt động an toàn khi và chỉ khi Quy trình trên ta có thể phát biểu thành lời như sau: để Bàn là hoạt động an toàn phải đảm bảo nguyên tắc: "Công tắc rơle đóng mạch khi và chỉ khi nhiệt độ dây may so chưa tới hạn cho phép" hay "nhiệt độ dây may so tới hạn cho phép khi và chỉ khi công tắc rơle ngắt mạch điện".
Tăng kali máu là tăng nồng độ ion kali trong máu (trên 5,0 mmol/l). Nồng độ kali tăng quá cao trong máu được xem là một cấp cứu y khoa do nguy cơ gây rối loạn nhịp tim có thể dẫn đến tử vong. Dấu hiệu và triệu chứng Triệu chứng thường không đặc hiệu, gồm cảm giác khó chịu, đánh trống ngực và yếu cơ; khó thở nhẹ có thể là dấu hiệu của nhiễm toan chuyển hoá, một trong các bối cảnh xảy ra tăng kali máu. Tuy nhiên, tình trạng tăng kali thường được phát hiện khi làm sàng lọc xét nghiệm máu cho một bệnh lý nội khoa, hoặc nó chỉ gây chú ý khi đã có biến chứng, như rối loạn nhịp tim hay đột tử. Trong quá trình lấy bệnh sử, thầy thuốc sẽ tập trung chú ý vào bệnh thận và việc dùng thuốc, vì đây là các nguyên nhân chính. Sự kết hợp của đau bụng, hạ đường máu và tăng sắc tố, thường trong bệnh sử của bệnh tự miễn khác, có thể là dấu hiệu của bệnh Addison - chính nó cũng là một khẩn cấp y khoa. Chẩn đoán Để thu thập đầy đủ thông tin cho chẩn đoán, nồng độ kali cần được đo đi đo lại nhiều lần, vì kali cũng có thể tăngdo tán huyết ở mẫu bệnh phẩm đầu tiên. Thông thường, máu cũng được xét nghiệm chức năng thận (creatinine, nitơ trong urea máu (BUN)), glucose và đôi khi cả creatine kinase và cortisol. Tính chênh lệch kali xuyên ống (trans-tubular potassium gradient) cũng có thể giúp phân biệt nguyên nhân của tăng kali máu. Điện tâm đồ cũng thường được thực hiện sớm để xác định ảnh hưởng lên tim. Sóng T cao, hình lều, P nhỏ và phức hợp QRS rộng (tạo dạng hình sin) là dấu hiệu cho tác động trên tim của lượng kali tăng quá mức binh thường. Dấu hiệu này đơn thuần cũng là lý do quan trọng để điều trị, vì nó có thể báo trước rung thất. Thông thường đo khí máu động mạch và siêu âm thận cũng được thực hiện. Nguyên nhân Loại trừ không hiệu quả khỏi cơ thể Suy thận Thuốc can thiệp vào thải trừ trong nước tiểu Thuốc ức chế men chuyển và đối kháng thụ thể angiotensin Thuốc lợi tiểu giữ kali, như amiloride và spironolactone Thuốc kháng viêm không steroid (NSAID) như ibuprofen, naproxen hay celecoxib Thuốc ức chế miễn dịch loại ức chế calcineurin ciclosporin và tacrolimus Thuốc kháng sinh trimethoprim Thuốc chống ký sinh trùng pentamidine Thiếu hay đề kháng mineralocorticoid, như Bệnh Addison Thiếu aldosterone, gồm giảm nồng độ aldosterone do thuốc chống đông máu, heparin Tăng sản thượng thận bẩm sinh Phóng thích quá mức từ tế bào Li giải cơ vân, bỏng hay các nguyên nhân gây hoại tử mô nhanh chóng khác, như hội chứng li giải khối u Truyền máu ồ ạt hay tán huyết trầm trọng Kali di chuyển ra khỏi tế bào do nhiễm toan, nồng độ insulin thấp, điều trị ức chế beta, quá liều digoxin hay gây tê với succinylcholine Nhập quá nhiều Nhiễm độc với chất thay thế muối (’’salt-substitute’’), thức ăn bổ sung chứa kali, hoặc truyền kali chloride (KCl). Với người có chức năng thận bình thường và không bị yếu tố nào ảnh hưởng đến thải trừ kali, tăng kali máu do ngộ độc kali chỉ gặp ở trường hợp truyền lượng lớn KCl hoặc dùng liều rất lớn các chất bổ sung chứa KCl đường uống. Tiêm ở liều gây chết Tăng kali máu xảy ra một cách cố ý khi hành hình bằng cách tiêm gây chết. Kali chloride được dùng ở bước thứ ba và cũng là bước cuối cùng trong 3 thuốc dùng để gây chết, sau natri thiopental làm cho tử tội bất tỉnh, rồi pancuronium bromide được thêm vào để gây suy sụp hô hấp. Sinh lý bệnh Kali là cation nội bào quan trọng nhất và tham gia vào nhiều quá trình tế bào, bao gồm dẫn truyền điện thế động trong tế bào thần kinh. Nguồn kali chính trong thức ăn là rau củ (cà chua và khoai tây, trái cây (cam, chuối) và thịt. Thải trừ xảy ra qua đường tiêu hoá và thận. Thải trừ kali ở thận xảy ra thụ động (qua cầu thận), và tái hấp thu tích cực qua ống gần và nhánh lên của quai Henle. Ở ống xa và ống góp (thận) kali được thải trừ tích cực dưới sự điều khiển của aldosterone. Tăng kali xảy ra khi kali được tạo ra quá nhiều (ăn vào, li giải mô) hoặc không được thải trừ hữu hiệu. Kali có thể không được thải trừ hữu hiệu do nguyên nhân hormone (thiếu aldosterone) hoặc do các nguyên nhân từ nhu mô thận gây tổn thương bài tiết. Tăng kali ngoại bào gây khử cực điện thế màng tế bào. Sự khử cực này mở một số kênh natri chịu tác động của điện thế, nhưng không đủ để phát sinh một điện thế động. Sau một thời gian ngắn, kênh natri đang mở bị bất hoạt và trở nên đề kháng, làm tăng ngưỡng để phát sinh điện thế động. Điều này dẫn đến tổn thương các hệ cơ quan thần kinh cơ, tim và tiêu hoá. Trong đó, mối quan tâm lớn nhất là dẫn truyền tim, có thể dẫn đến rung thất và vô tâm thu. Điều trị Khi rối loạn nhịp xảy ra, hoặc khi lượng kali vượt quá 6,5 mmol/l, bắt buộc phải có hạ kali khẩn cấp. Một vài thuốc được dùng để hạ lượng kali; việc lựa chọn phụ thuộc vào mức độ và nguyên nhân gây tăng kali máu, cũng như tình trạng của bệnh nhân. Calci (calci gluconate 10%, thường được dùng qua catheter tĩnh mạch trung tâm vì calci có thể gây viêm tĩnh mạch) không làm giảm kali nhưng làm giảm tính kích thích của cơ tim, bảo vệ sự sống khỏi bị đe doạ bởi rối loạn nhịp. Insulin (như tiêm tĩnh mạch 10 U insulin, cùng với 50 ml dextrose 50% để phòng hạ đường máu) tạo dòng di chuyển ion kali vào tế bào, thứ phát sau tăng hoạt động của Na-K ATPase. Bicacbonat (như 1 ống (45 mEq) truyền trong 5 phút) có hiệu quả trong toan chuyển hoá. Ion bicarbonate sẽ kích thích trao đổi H+ trong tế bào với Na+, vì vậy kích thích Na-K ATPase. Salbutamol (albuterol, Ventolin®) là một catacholamine chọn lọc β2, dùng theo đường phun khí dung (10–20 mg). Thuốc này thúc đẩy kali di chuyển vào tế bào, làm giảm nồng độ trong máu. Polystyrene sulfonate (Calcium Resonium, Kayexalate) là một resin gắn kali trong ruột và thải trừ nó theo phân ra khỏi cơ thể. Calcium Resonium (15 g 3 lần một ngày trong nước) có thể dùng đường miệng. Kayexalate có thể được dùng đường uống hoặc đặt hậu môn. Các trường hợp rất nặng hoặc kháng trị có thể cần thẩm phân để loại kali ra khỏi tuần hoàn. Điều trị tăng kali mạn tính có thể dùng thuốc lợi tiểu như furosemide (Lasix®) hay hydrochlorothiazide. Khi thiếu mineralocorticoid góp phần vào bệnh cảnh, hydrocortisone liều cao và saline tiêm mạch có thể đủ để điều trị.
Quy thức kiến trúc cổ Việt Nam là một trật tự hoặc những quy cách thống nhất về kích thước, các tương quan tỷ lệ giữa các chi tiết, thành phần kiến trúc trong một công trình kiến trúc theo phong cách cổ điển của Việt Nam với những quy tắc, khuôn phép riêng biệt và điển hình đã được người Việt sử dụng trong lịch sử Việt Nam. Nó được đánh giá là thể hiện tài hoa, tri thức và truyền thống trong kiến trúc cổ Việt Nam. Sơ khởi ban đầu Kiến trúc cổ Việt Nam còn lại không nhiều và không hẳn là những công trình tiêu biểu nhất. Tinh hoa của kiến trúc cổ Việt Nam đã bị chôn vùi sau các cuộc tàn phá triệt hạ sáp nhập văn hóa phương Nam của Trung Hoa và quy luật thời gian nên đa số những công trình cổ còn hiện hữu, có niên đại từ thời nhà Lê Trung Hưng (thế kỷ 16) đến thời nhà Nguyễn (thế kỷ 19-20). Kiến thức về kiến trúc thời Lý-Trần, vốn được xem là thời kỳ văn minh rực rỡ nhất của Đại Việt, từng sánh ngang cùng Trung Hoa phương Bắc, nhưng về di tích cổ thì số còn sót lại rất ít. Những nền đất còn lại của các ngôi chùa từ thời kỳ này như chùa Phật Tích, chùa Dâu dù không trọn vẹn có nhiều chi tiết được thay thế vẫn chứng minh được quy mô và kỹ thuật xây cất của hai triều Lý Trần. Tuy vậy, số công trình cho đến thế kỷ 20 còn lại trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay cũng minh định khá rõ cách thức xây dựng trong dân gian và nơi cung đình, tạo nên "quy thức kiến trúc cổ Việt Nam". Nên lưu ý nhiều giá trị văn hóa kiến trúc của Việt Nam từ trước thời Lê Trung Hưng đã không được tiếp nối, vì thế những quy thức kiến trúc này có thể sẽ không áp dụng cho các kiến trúc của các thời kỳ trước đó. Kiến trúc cung đình Kiến trúc dân gian Kiến trúc cung đình và dân gian Việt Nam cũng lấy gỗ làm vật liệu xây dựng cơ bản và tạo đặc trưng riêng cho nền kiến trúc của mình, tương phản với kiến trúc chuộng dùng gạch hay đá của nhiều vùng khác trên thế giới như lân bang Campuchia. Nét đặc trưng Có ba nét đặc trưng của kiến trúc cổ Việt Nam trong nền kiến trúc gỗ cổ phương Đông: Dốc mái thẳng, đao cong. Dùng bảy, kẻ đỡ mái hiên (chủ yếu thời Lê, Nguyễn) hoặc là hệ đấu củng (chủ yếu đến hết thời Lý, Trần dần bổ sung hoặc thay thế bằng bảy/kẻ). Cả hai phương pháp tồn tại song song tùy vào trình độ người thợ mà chọn lựa thi công. Hệ đấu-củng tương đối phức tạp, có độ bền cao, về khía cạnh thẩm mỹ thì trau chuốt và đẹp hơn nên yêu cầu tay nghề người thợ cao và tỉ mỉ trong công việc. Cột mập to, phình ở phần giữa thân dưới Nếu so sánh với quy thức kiến trúc cổ Trung Quốc thời Minh Thanh sẽ thấy được sự khác nhau: Dốc mái võng xuống Đỡ mái hiên chỉ dùng bằng hệ đấu-củng (còn gọi là "con sơn chồng đấu" hoặc "chồng đấu tiếp rui") Cột thanh mảnh, tròn đều Mái nhà Triền mái của kiến trúc cổ Việt Nam thẳng, không cong, nhưng hếch lên ở góc mái tạo sự thanh thoát. Phần mái lớn và thường chiếm tới 2/3 chiều cao mặt đứng công trình, nhất là đối với mái đình. Góc mái tức "tầu đao" làm cong uốn ngược, còn được gọi là đao quật. Trong khi đó kiến trúc Trung Hoa hay Nhật Bản tuy cũng mái cong vươn ra nhưng chỉ hơi hếch ở góc mái còn thân mái võng xuống, dốc nhiều ở đỉnh rồi xoải dần khi xuống diềm mái. Trang trí trên mái cổ thường có các phần đặc trưng như những con giống gắn trên đầu đao, trong đó con giống luôn là hình tượng thể hiện tinh thần ngôi nhà, được làm từ đất nung hay vữa truyền thống. Tiếp theo là các bờ nóc có đặt gạch hoa chanh, đỉnh mái gắn con kìm (long nghê, hay cá chép hóa rồng) ở hai đầu bờ nóc, con sô ở chỗ bờ quyết (bờ guột), con náp, hay lạc long thủy quái. "Khu đĩ" thường để trống thông thoáng và có chạm yếm trang trí gọi là "vỉ ruồi". Hệ thống đỡ mái hiên là bằng cây Bảy/kẻ hoặc đấu-củng. Bảy/kẻ đây là một thanh gỗ đặt chéo theo triền dốc mái, khi đến diềm mái thì vươn ra bằng nguyên tắc đòn bẩy, phương pháp sử dụng đơn giản ít cầu kỳ tuy nhiên không được đánh giá cao về thẩm mỹ và độ bền kém hơn so với hệ đấu-củng. Đấu-củng ra đời trước bảy/kẻ được sử dụng nhiều trong kiến trúc Lý-Trần, tương đối phức tạp, trau chuốt và thẩm mỹ đẹp hơn Bảy/kẻ, đặc biệt có độ bền cao nên yêu cầu tay nghề người thợ giỏi, tỉ mỉ trong công việc cái mà ít người thợ Việt hiện nay có thể thực hiện được. Ngói được sử dụng có thể là ngói âm dương (ngói lưu ly) hoặc ngói hài (ngói vảy): Từ xưa thì ngói âm dương đã gắn liền với các công trình kiến trúc của Việt Nam. Bạn có thể dễ dàng bắt gặp bất cứ nơi đâu trên đất Việt, từ phố cổ Hội An với những ngôi nhà cổ kính, hay những mái nhà quen thuộc nơi phố xá hay làng quê. Ngói âm dương ra đời tại Việt Nam là một thành quả, một sự sáng tạo của con người trong suốt quá trình lao động miệt mài. Đây là thành quả đáng trân trọng trong lĩnh vực kiến trúc xây dựng. Nó được sử dụng khá phổ biến trên khắp vùng miền. Mái ngói cùng đường nét hoa văn chạm khắc nâng niu được xuất hiện từ các tỉnh miền núi phía Bắc, đến miền Trung, miền Nam. Chính mái ngói đã khiến ngôi nhà mang một vẻ đẹp hoài cổ, sang trọng, trở thành một nét đẹp văn hóa trong bản sắc người Việt. Ngói âm dương với ưu điểm độ bền cao, cấu trúc thiết kế lợp đặc biệt mang đến sự thoáng mát vào mùa hè ấm áp vào mùa đông thường được sử dụng cho các công trình hành chính nhà nước hoặc nhà tầng lớp cao, quan lại, kiến trúc tôn giáo. Ngói hài xuất hiện vào khoảng có niên đại TK XIII-XIV đến nay, thường được sử dụng trong kiến trúc dân gian, chi phí thấp, độ bền thường không cao, có nét tương đồng với ngói của người Khmer, Thái Lan. Cột Cột là phần đỡ chính của công trình, toàn bộ khối lượng công trình đều đặt lên các cột. Cột tròn và to mập, phình ở giữa. Tiết diện của cột thường là cột thân tròn nhưng cũng có khi dùng cột vuông. Sức nặng công trình được đặt lên cột, cột đặt lên các đế chân cột chứ không chôn xuống nền và chính sức nặng của công trình làm công trình ổn định và vững vàng. Căn nhà được xây dựng theo các vì nhà, sau đó các vì được dựng lên và nối với nhau bằng các xà ngang và xà ngưỡng tạo thành một hình hộp, sau đó là lợp mái và làm tường nhà. Vì nhà chính là đơn vị cơ bản khi nói đến kích thước ngôi nhà, giữa hai vì gọi là "gian". Vì nhà cũng là đặc trưng cho lối kiến trúc theo từng địa phương và từng thời kỳ, tuy rất trung thành với thức kiến trúc cổ Việt Nam. Chạm khắc Trong thức kiến trúc cổ Việt Nam chạm trổ là phần rất quan trọng, nó thể hiện tinh thần công trình. So với kiến trúc Trung Hoa thích vẽ hình và sơn màu sặc sỡ, kiến trúc dân gian Việt Nam thường để mộc màu gỗ hay quét sơn ta bảo vệ có màu nâu, thích chạm trổ. Thước tầm Trong thức kiến trúc cổ Việt Nam, tất cả các kích thước tính của công trình đều dựa theo "thước tầm", một cây thước được tính theo kích thước cơ thể gia chủ. Đây là một điều độc đáo, theo cách phân tích cái đẹp tỷ lệ thì thước tầm là modulor của kiến trúc cổ Việt Nam như modulor của kiến trúc Hy Lạp, tạo ra vẻ đẹp hình học tinh tế như độ dốc mái, tỉ lệ chiều cao mái với phần chân cột, sự thích hợp với người gia chủ. Một số hình ảnh Tên gọi các cấu kiện Khung nhà phân không gian nhà thành các gian nhà, thường có các bộ phận sau: Cột là kết cấu đứng chịu nén, thường có các loại cột: Cột cái: cột chính của nhà đặt ở hai đầu nhịp chính tạo chiều sâu cho gian giữa. Nối hai cột cái là câu đầu. Cột quân hay cột con: cột phụ ngắn hơn cột cái, nằm ở đầu nhịp phụ hai bên nhịp chính. Khác biệt chiều cao của cột cái và cột con tạo ra độ dốc của mái nhà. Xà nách nối cột con với cột cái. Cột hiên: nằm ở hiên nhà, phía trước, ngắn hơn cột con. Kẻ bảy nối cột con và cột hiên. Xà là các giằng ngang chịu kéo, liên kết các cột với nhau, gồm có các loại xà nằm trong khung và các loại xà nằm ngoài khung vuông góc với khung. Xà nằm trong khung, thường đặt ở cao độ đỉnh các cột quân để liên kết được cả cột cái và cột quân, gồm: Xà lòng, tức câu đầu hay chếnh: liên kết các cột cái của khung; Xà nách hay thuận: liên kết cột quân vào cột cái, trong khung. Đấu củng: bao gồm hai bộ phận là "đấu" (đóng vái trò là bệ đỡ) và "củng" (giống hình khuỷu tay, đóng vài trò là tay đỡ) được dùng để dỡ kết cấu khác bên trên là mái hiên. Kẻ là các dầm đơn đặt theo phương chéo của mái nhà, gác lên các cột bằng liên kết mộng, thường có các loại kẻ sau: Kẻ ngồi loại kẻ gác từ cột cái sang cột quân, trong khung; Kẻ hiên gác từ cột quân sang cột hiên, trong khung. Một phần kẻ hiên được kéo dài đâm xuyên qua cột hiên để đỡ phần chân mái. Bảy hay bảy hậu hoặc bảy hiên: là dầm nằm trong khung liên kết vào cột quân phía sau nhà, đỡ phần mái vẩy phía sau. Đối với nhà ở thì tiền kẻ, hậu bảy. Đối với các công trình công cộng như đình làng, thường bốn mặt xung quanh đều có hiên thoáng không có cột hiên, nên thường dùng bảy hiên. Câu đầu là dầm ngang chính đặt trên cùng, khoá các đầu trên của các cột cái trong khung (gác lên các cột cái). Con rường hay chồng rường là các đoạn gối đỡ mái dạng dầm gỗ hộp để đỡ hoành mái, được đặt chồng lên nhau. Chiều dài của chúng thu ngắn dần cân theo chiều vát của mái, càng lên cao các con rường bên trên càng ngắn. Ở vì nóc các con rường nằm chồng lên câu đầu. Con lợn còn gọi là rường bụng lợn: là con rường trên cùng, gối lên con rường bên dưới qua hai đoạn cột ngắn gọi là trụ trốn, và làm nhiệm vụ đỡ xà nóc (thượng lương). Bên dưới rường bụng lợn (giữa hai trụ trốn) là ván lá đề thường để điêu khắc trang trí. Con lợn có thể được thay bằng giá chiêng. Rường cụt là loại rường nằm ở vì nách (giữa cột cái và cột quân), chúng nằm chồng trên xà nách, chúng cũng đỡ hoành và vẫn thu dần chiều dài khi lên cao theo độ dốc mái. Các loại xà nằm ngoài khung gồm có: Xà thượng liên kết đỉnh các cột cái; xà này song song với chiều dài của nhà. Xà hạ hay xà đại, liên kết các cột cái tại cao độ đỉnh cột quân, gần sát vị trí liên kết xà lòng, xà nách vào cột cái. Xà này cũng chạy song song với chiều dài của nhà. Xà tử thượng (xà trên của cột con): liên kết các cột quân của các khung ở bên trên. Xà tử hạ (xà dưới của cột con): liên kết các cột quân của các khung ở bên dưới, tại mức độ cao ngay trên hệ cửa bức bàn. Xà ngưỡng nối các cột quân ở vị trí ngưỡng cửa. Xà này đỡ hệ thống cửa bức bàn. Xà hiên liên kết các cột hiên của các khung. Thượng lương, còn gọi là đòn dông hay Xà nóc đặt trên đỉnh mái. Các kết cấu mái: Hoành là các dầm chính đỡ mái đặt nằm ngang theo chiều dài nhà, vuông góc với khung nhà. Dui hay rui là các dầm phụ trung gian, đặt dọc theo chiều dốc mái (trực giao với hoành), gối lên hệ thống hoành. Mè là các dầm phụ nhỏ, đặt trực giao với dui, song song với hoành, gối lên hệ dui. khoảng cách giữa các mè là nhỏ nhất, vừa đủ để lợp ngói. Việc sử dụng hệ kết cấu hoành - dui - mè, nhằm phân nhỏ nhịp của kết cấu đỡ mái thành hệ lưới vừa đủ để lát lớp gạch màn và lợp ngói bên trên. Gạch màn là một loại gạch lá nem đơn bằng đất nung, có tác dụng đỡ ngói đồng thời tạo độ phẳng cho mái, chống thấm dột và chống nóng. Gạch màn ngồi trực tiếp trên lớp mè. Ngói âm dương (ngói lưu ly) Từ ngàn xưa người Việt đã sáng tạo ra ngói âm dương, cấu tạo bao gồm Ngói Dương là tấm lợp nằm ngửa, còn ngói âm là ngói úp xuống ngói dương. Đón mái sẽ là các cặp ngói âm dương diềm (ngói riềm hoặc ngói diềm, đầu ngói) hay còn được gọi với tên khác như ngói câu đầu hoặc trích thủy, những cặp diềm có hoa văn tinh xảo, họa tiết khắc nổi được tạo nên bởi bàn tay khéo léo của người thợ lành nghề lão luyện, tăng độ thẩm mỹ của mái ngói, cấu tạo đặc biệt vòng nửa vòng úp đã tạo ra tác dụng tạo khoảng trống giữ khí, thông gió cho mái nhà, giúp quá trình thoát nước được dễ dàng chính cấu trúc thiết kế lợp đặc biệt này mang đến sự thoáng mát vào mùa hè ấm áp vào mùa đông. Bên cạnh đó, ngói âm dương có tuổi thọ khá cao, ước tính phải đến 50 năm mới có dấu hiệu xuống cấp. Ngói mũi hài hay ngói vẩy, bằng đất nung, trực tiếp chống thấm dột và chống nóng, lợp trên lớp gạch màn và cũng có thể có lớp đất sét kẹp giữa, thường dùng cho kiến trúc dân gian, nhà ở người tầng lớp thấp, loại ngói thường thấy ở kiến trúc Thái Lan, Khmer, hay lên rêu nhanh trong điều kiện ẩm thấp, mưa gió. Các chi tiết kiến trúc khác: Cửa bức bàn Con tiện Dạ tàu Đầu đao Căn nhà Việt cổ truyền có thể làm theo: Hình thức hai mái, hai đầu hồi bít đốc, Hình thức bốn mái, với hai mái phụ hai đầu hồi gọi là hai chái nhà. Mỗi chái nhà gồm có một hàng cột quân (có thể thêm một hàng cột hiên), các hàng cột này xoay vuông góc với các hàng cột trong các gian chính. Hình thức 8 mái chồng diêm. Truyền thống người Việt thường làm theo nhà theo cơ số lẻ: Phương đình 1 gian chính giữa, bốn xung quanh hệ cột quân đẳng hướng; Nhà 3 gian; Nhà 5 gian hay nhà 3 gian 2 chái; Nhà 7 gian hay nhà 5 gian 2 chái; Nhà 9 gian hay nhà 7 gian 2 chái. Bộ phận trần thiết Cửa và cửa sổ trong căn nhà cổ truyền là nơi không gian trong và ngoài tiếp giáp nhau. Nói chung thì cửa ra vào khá lớn, có khi không có cánh cửa mà để ngỏ, chỉ buông rèm hoặc có tấm liếp che. Nếu gắn cánh cửa thì có thể dùng "cửa bức bàn" bằng ván kín. Cầu kỳ hơn thì dùng cửa "thượng song hạ bản" tức là phía trên chấn song, phía dưới làm gỗ kín. Ngưỡng cửa khá cao, người ra vào phải giơ chân bước qua. Cửa sổ thì tương đối nhỏ so với cửa ra vào. Chú thích
Trong an ninh đối với các hệ thống máy tính, điều khiển truy cập trên cơ sở vai trò (tiếng Anh: Role-Based Access Control - viết tắt là RBAC) là một trong số các phương pháp điều khiển và đảm bảo quyền sử dụng cho người dùng. Đây là một phương pháp có thể thay thế Điều khiển truy cập tùy quyền (discretionary access control - DAC) và Điều khiển truy cập bắt buộc (mandatory access control - MAC). Điều khiển truy cập trên cơ sở vai trò (RBAC) khác với hình thức MAC và DAC truyền thống. MAC và DAC trước đây là hai mô hình duy nhất được phổ biến trong điều khiển truy cập. Nếu một hệ thống không dùng MAC thì người ta chỉ có thể cho rằng hệ thống đó dùng DAC, hoặc ngược lại, mà thôi. Song cuộc nghiên cứu trong những năm 1990 đã chứng minh rằng RBAC không phải là MAC hoặc DAC. Trong nội bộ một tổ chức, các vai trò (roles) được kiến tạo để đảm nhận các chức năng công việc khác nhau. Mỗi vai trò được gắn liền với một số quyền hạn cho phép nó thao tác một số hoạt động cụ thể ('permissions'). Các thành viên trong lực lượng cán bộ công nhân viên (hoặc những người dùng trong hệ thống) được phân phối một vai trò riêng, và thông qua việc phân phối vai trò này mà họ tiếp thu được một số những quyền hạn cho phép họ thi hành những chức năng cụ thể trong hệ thống. Vì người dùng không được cấp phép một cách trực tiếp, song chỉ tiếp thu được những quyền hạn thông qua vai trò của họ (hoặc các vai trò), việc quản lý quyền hạn của người dùng trở thành một việc đơn giản, và người ta chỉ cần chỉ định những vai trò thích hợp cho người dùng mà thôi. Việc chỉ định vai trò này đơn giản hóa những công việc thông thường như việc cho thêm một người dùng vào trong hệ thống, hay đổi ban công tác (department) của người dùng. RBAC khác với các danh sách điểu khiển truy cập (access control list - ACL) được dùng trong hệ thống điều khiển truy cập tùy quyền, ở chỗ, nó chỉ định các quyền hạn tới từng hoạt động cụ thể với ý nghĩa trong cơ quan tổ chức, thay vì tới các đối tượng dữ liệu hạ tầng. Lấy ví dụ, một danh sách điều khiển truy cập có thể được dùng để cho phép hoặc từ chối quyền truy cập viết một tập tin hệ thống (system file), song nó không nói cho ta biết phương cách cụ thể để thay đổi tập tin đó. Trong một hệ thống dùng RBAC, một thao tác có thể là việc một chương trình ứng dụng tài chính kiến tạo một giao dịch trong 'tài khoản tín dụng' (credit account transaction), hay là việc một chương trình ứng dụng y học khởi thủy một bản ghi 'thử nghiệm nồng độ đường trong máu' (blood sugar level test). Việc chỉ định quyền hạn cho phép thi hành một thao tác nhất định là một việc làm đầy ý nghĩa, vì các thao tác đã được phân định tinh tế và mỗi cá nhân thao tác có một ý nghĩa riêng trong chương trình ứng dụng. Với khái niệm về hệ thống cấp bậc trong vai trò (role hierarchy) và khái niệm về các ràng buộc (constraints), ta có thể điều khiển RBAC để kiến tạo hoặc mô phỏng điều khiển truy cập dùng bố trí mắt lưới (Lattice-Based Access Control - LBAC). Vì thế RBAC có thể được coi như là một siêu tập (superset) của LBAC. Khi định nghĩa một mô hình RBAC, những quy ước sau đây là những quy ước hữu dụng và cần phải cân nhắc: U = (User)Người dùng = Một người hoặc một tác nhân tự động. R = (Role)Vai trò = Chức năng công việc / Danh hiệu dùng định nghĩa một cấp bậc quyền thế. P = Quyềnn được cấp = Sự phê chuẩn một hình thức truy cập tài nguyên. S = (Session)Phiên giao dịch = Một xếp đặt liên kết giữa U, R và P UA = (User Assignment)Chỉ định người dùng. PA = (Permission Assignment)Cấp phép RH = (Role Hierarchy)Sắp xếp trật tự một phần nào theo thứ tự cấp bậc của vai trò. RH còn có thể được viết là > Một người dùng có thể có nhiều vai trò. Một vai trò có thể có thể có nhiều người dùng. Một vai trò có thể có nhiều phép được cấp cho nó. Một phép được cấp có thể được chỉ định cho nhiều vai trò. Phép được cấp cho các vai trò đối lập có thể sẽ bị hạn chế khả năng thừa kế của chúng, nếu một hạn chế (constraint) nào đấy đặt một điều luật giới hạn nó. Chẳng hạn, một cá nhân không thể vừa được phép kiến tạo một trương mục đăng nhập cho một người nào đấy, vừa được phép ủy quyền thủ tục. Chính vì vậy, bằng việc sử dụng ký hiệu của lý thuyết tập hợp (set theory), chúng ta có thể viết: PA là một tiểu tập của (hoặc bằng) P x R và là một phép cấp có mối quan hệ nhiều đối nhiều (many to many) với chỉ định vai trò. UA là một tiểu tập của (hoặc bằng) U x R và có mối quan hệ nhiều đối nhiều (many to many) với chỉ định vai trò. RH là một tiểu tập của (hoặc bằng) R x R Ký hiệu: x > y có nghĩa là y thừa kế các phép cấp của x. Một người dùng có thể cùng một lúc có một bội số các phiên giao dịch với nhiều phép được cấp khác nhau (multiple simultaneous sessions with different permissions). Việc sử dụng RBAC để quản lý các đặc quyền của người dùng trong một hệ thống duy nhất hay trong một chương trình ứng dụng là một thực hành tốt nhất được rộng rãi chấp thuận. Các hệ thống bao gồm thư mục năng động (Active Directory) của Microsoft, SELinux, Oracle DBMS, PostgreSQL 8.1, SAP R/3 và nhiều cái khác đều hầu như thực thi một trong những hình thức của RBAC. Tuy nhiên, việc sử dụng RBAC để quản lý quyền lợi của người dùng, trên toàn thể các chương trình ứng dụng, là một việc làm còn nhiều tranh luận. Sở dĩ như vậy là vì người dùng thường là một đơn vị đặc hữu (unique), cho nên nhiệm vụ định nghĩa các vai trò tương ứng (defining sufficient roles) và chỉ định các tư cách hội viên cho các vai trò một cách phù hợp, trong một tổ chức với hạ tầng cơ sở kỹ thuật thông tin (IT) không đồng nhất, hòng nắm bắt các nhu cầu về quyền lợi, trong khi các nhu cầu này có tầm trải rộng trên hàng chục, hằng trăm hệ thống và trên các chương trình ứng dụng, là một việc hết sức phức tạp. Vấn đề này, và những chiến lược thay thế, hiện đang được bàn luận trên bạch thư (white paper): Beyond Roles: A Practical Approach to Enterprise User Provisioning (Bên ngoài giới hạn của các vai trò: Một tiếp cận thực tiễn trong Kinh doanh Cung cấp Người dùng). Ghi chú
Diễn thuyết trước công chúng là nghệ thuật nói chuyện với một nhóm người theo một phương cách được chuẩn bị kỹ nhằm cung cấp thông tin, gây ảnh hưởng hoặc gây cười cho thính giả. Trong diễn thuyết, cũng giống bất cứ hình thức truyền thông nào khác, có năm yếu tố căn bản thường được biểu thị như sau, "ai đang nói điều gì với ai và đang sử dụng phương tiện nào để gây ra kết quả gì?". Mục tiêu của nghệ thuật diễn thuyết có thể kể từ việc chuyển tải thông tin đến hô hào lôi kéo công chúng đi đến hành động, hoặc chỉ đơn giản là kể một câu chuyện. Một nhà hùng biện tài năng không chỉ cung cấp thông tin cho người nghe mà còn có thể làm thay đổi cảm xúc của họ. Lịch sử Nghệ thuật diễn thuyết trước công chúng, cũng như các bài diễn văn, đã có từ thời xa xưa. Quyển sách giáo khoa đầu tiên về chủ đề này được viết hơn 2.400 năm trước, những nguyên lý được trình bày cặn kẽ trong đó đã được đem vào ứng dụng qua trải nghiệm của những nhà hùng biện Hy Lạp cổ đại. Từ thời Ai Cập cổ đại, người ta đã biết đào luyện nghệ thuật diễn thuyết trước công chúng. Trong các môn học kinh điển ở Hy Lạp và La Mã, thuật hùng biện (soạn và trình bày các bài diễn văn) chiếm phần chính, và là một kỹ năng quan trọng trong cuộc sống thường nhật, ở nơi công cộng hoặc chỗ riêng tư. Aristotle và Quintilian đều bàn luận về thuật hùng biện và mục tiêu của nó, với những quy luật và hình thái rõ ràng. Thuật hùng biện cũng được xem là một phần trong giáo dục đại học tổng quan suốt thời Trung Cổ và thời Phục hưng. Nghệ thuật diễn thuyết trước công chúng đã được phát triển từ thời Hy Lạp cổ đại. Người thời sau biết đến thuật hùng biện Hy Lạp qua những tác phẩm cổ xưa. Nhà hùng biện Hy Lạp diễn thuyết với tư cách cá nhân hơn là đại diện cho khách hàng hoặc cho cộng đồng, vì vậy bất cứ ai muốn thành công tại tòa án, trong chính trường, hay trong đời sống xã hội đều phải học biết kỹ thuật nói chuyện trước đám đông. Khởi thủy, một nhóm người tự nhận là "giáo sư triết học" đứng ra truyền dạy những kỹ năng này để nhận tiền công. Plato, Aristotle, và Socrates đều đã phát triển lý thuyết diễn thuyết trước công chúng để chống lại các "giáo sư triết học". Mặc dù Hy Lạp đánh mất sự thống trị về chính trị, kỹ năng huấn luyện nghệ thuật diễn thuyết trước công chúng của người Hy Lạp đã được người La Mã tiếp nhận rộng rãi. Cùng lúc với sự trỗi dậy của nền Cộng hòa La Mã, những nhà hùng biện La Mã sao chép và dung hòa những kỹ năng diễn thuyết trước công chúng của người Hy Lạp. Người La Mã phát triển thuật hùng biện thành một giáo trình đầy đủ với những hướng dẫn về ngữ pháp (nghiên cứu thi ca), thực hành kỹ năng, và phương pháp soạn diễn văn cả trong hai thể loại thảo luận hay tranh luận công khai. Cicero đã có ảnh hưởng sâu đậm trên thuật hùng biện theo phong cách Latin, nhấn mạnh đến nền giáo dục tổng quan trong mọi lãnh vực của khoa học nhân văn cũng như kỹ năng khai thác sự hóm hỉnh và óc hài hước nhằm tác động đến cảm xúc của cử tọa, cùng nghệ thuật chuyển chủ đề (thường được dùng để đánh lạc hướng người nghe rồi đột ngột dẫn họ trở lại chủ đề chính). Trong thời Đế quốc La Mã, dù không được xem là trọng tâm trong đời sống chính trị như thời Cộng hòa, thuật hùng biện vẫn là nhân tố quan trọng trong luật pháp, và các hình thức giải trí, với những nhà hùng biện nổi tiếng có thể đạt nhiều danh lợi nhờ khả năng diễn thuyết của mình. Phong cách Latin tiếp tục duy trì ảnh hưởng cho đến đầu thế kỷ 20. Với sự trỗi dậy của phương pháp khoa học và sự nhấn mạnh vào phong cách "đơn giản" trong nghệ thuật viết và nói, ngay cả những bài diễn văn trang trọng ngày nay cũng kém xa những bài diễn văn cổ điển trong khía cạnh trau chuốt và bóng bẩy, mặc dù sự thành bại của các chính trị gia ngày nay có thể phụ thuộc vào hiệu quả của những bài diễn văn. Nhiều người cho rằng Abraham Lincoln, Adolf Hitler, Marcus Garvey, John F. Kennedy, và Bill Clinton đã thăng tiến trong sự nghiệp phần lớn nhờ vào kỹ năng hùng biện của họ. Khi xã hội dịch chuyển và các nền văn hóa biến thiên, những nguyên lý này cũng thay đổi dù vẫn duy trì được tính nhất quán của chúng. Kỹ thuật và phương pháp của hình thái này thuộc môn truyền thông học từ lâu vẫn dựa vào cấu trúc hùng biện cũng như sự phụ thuộc vào cử tọa. Tuy nhiên, những tiến bộ trong khoa học kỹ thuật cung ứng cho diễn giả những thiết bị tinh vi hơn, thí dụ như hội nghị trực tuyến và viễn thông. Hội nghị trực tuyến là một trong những công nghệ hiện đại đã làm thay đổi cung cách truyền thông giữa diễn giả và đại chúng. Đào tạo Có thể tôi luyện kỹ năng diễn thuyết bằng cách gia nhập các câu lạc bộ như Rostrum, Toastmasters International, ASC hay International Training in Communication, ở đó thành viên có cơ hội thực hành để phát triển kỹ năng nói chuyện trước đám đông. Thành viên có thể học hỏi bằng cách quan sát và thực hành, cũng như trau dồi kỹ năng của mình bằng cách tiếp thu những hướng dẫn sau khi thực tập. Các kỹ năng này gồm có: Thuật hùng biện Động tác hình thể Luyện giọng Lựa chọn từ ngữ Đọc ghi chú Khai thác tính hài hước Tương tác với thính giả Lãnh đạo Một nhà lãnh đạo tài năng cần phải thành thục trong kỹ năng diễn thuyết trước công chúng, đôi khi chính nó giúp che giấu những khiếm khuyết khác. Trong thực tế, kỹ năng này được sử dụng cho các mục đích rất khác nhau – Adolf Hitler và Martin Luther King, Jr. đều là bậc thầy trong thuật hùng biện; cả hai đều biết cách sử dụng kỹ năng diễn thuyết trước công chúng để tạo ảnh hưởng đáng kể trên xã hội – nhưng theo hai hướng hoàn toàn đối nghịch nhau. Tổng quan Những diễn giả chuyên nghiệp thường được đào tạo trong trường học và thường xuyên tham gia các khóa huấn luyện để hoàn thiện kỹ năng của mình như phương pháp kể chuyện hoặc sử dụng óc hài hước cách hiệu quả, cũng như tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu các chủ đề họ đang theo đuổi. Các diễn giả có khả năng chuyên môn đều được trả lệ phí khi diễn thuyết. Thuộc giới này có thể là những chính trị gia đã rời chính trường, các ngôi sao thể thao, và những nhân vật công chúng khác. Trong một số trường hợp, khoản tiền trả cho họ có thể rất cao. Nỗi sợ hãi khi phải nói chuyện trước đám đông được gọi là glossophobia (hoặc sợ xuất hiện trên sân khấu). Người ta tin rằng đây là nỗi sợ hãi lớn nhất - hơn cả sợ chết - ảnh hưởng đến 75% nhân loại, mặc dù đối với nhiều người chỉ đơn giản là sự lầm tưởng giữa tình trạng căng thẳng thần kinh hoặc lo âu thái quá với chứng glossophobia. Nói chuyện trước đám đông và thuật hùng biện đôi khi được xếp trong số các kỹ năng quan trọng nhất mà một cá nhân có thể sở hữu. Hầu hết các diễn giả thành công đều có năng khiếu tự nhiên để thực hành kỹ năng này cách hiệu quả nhằm giúp họ tác động đến người nghe theo chủ đích họ muốn hướng tới. Ngôn ngữ và tu từ học là hai nhân tố quan trọng trong thuật hùng biện. Kiến thức và sự hiểu biết thấu đáo phương pháp và cách thiết lập mục tiêu truyền thông có thể giúp diễn giả chuyển tải thành công thông điệp của họ. Những nhà lãnh đạo như Martin Luther King, Winston Churchill là những hình mẫu nổi bật về những diễn giả biết cách sử dụng thuật hùng biện để tác động đến xã hội. Có những bài diễn văn rất nổi tiếng và được nghiên cứu kỹ lưỡng trải qua nhiều năm sau khi được công bố. Trong số đó có "Điếu văn của Pericle" (năm 427 TCN), Diễn văn Gettysburg (năm 1863) của Abraham Lincoln, và Tôi có một giấc mơ của Martin Luther King khi ông tuyên đọc tại Tượng đài Lincoln năm 1963. Chú thích
Mệnh đề là một khái niệm cơ bản trong logic và triết học. Tùy theo ứng dụng mà có những định nghĩa khác nhau của mệnh đề: Trong logic toán, có mệnh đề toán học Trong logic mờ, có mệnh đề mờ
Chính trị Việt Nam đi theo nguyên mẫu nhà nước xã hội chủ nghĩa, đơn đảng. Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo cao nhất trong hệ thống chính trị tại Việt Nam. Hiến pháp mới được thông qua vào tháng 11 năm 2013, tái khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong chính trị và xã hội, phác thảo việc tái tổ chức chính phủ và tăng cường cải cách thị trường trong nền kinh tế. Dù Việt Nam là một quốc gia đơn đảng, việc đi theo đường lối tư tưởng chính thống của Đảng đã "giảm bớt phần quan trọng và ưu tiên với mục tiêu phát triển kinh tế và bảo vệ an ninh tổ quốc". Tổng quan Cách tổ chức chính trị ở Việt Nam được sắp xếp theo trục dọc với Đảng Cộng sản giữ địa vị trên hết, không như mô hình tam quyền phân lập như các tổ chức chính phủ dân chủ nghị viện khác. Mô hình khác biệt này được Ủy ban Pháp luật Quốc hội Việt Nam xác nhận. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Phú Trọng trong Hội nghị Trung ương lần thứ năm của Đảng cộng sản Việt Nam năm 2012 tại Hà Nội đã thẳng thừng bác bỏ nguyên tắc tam quyền phân lập vốn là nền tảng chính trị của hầu hết các quốc gia trên thế giới, ông cho rằng "quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp". Cựu Bộ trưởng Bộ Tư pháp Việt Nam, Nguyễn Đình Lộc (tại nhiệm từ năm 1992 đến 2002) thì cho là Việt Nam tuân theo mô hình "quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có phân công, phối hợp giữa các quyền lực đó" với một đảng lãnh đạo và cầm quyền. Quyền lực quan trọng nhất bên trong Chính phủ Việt Nam – ngoài Đảng Cộng sản – là các cơ quan hành pháp do hiến pháp năm 2013 quy định: các chức vụ chủ tịch nước và thủ tướng. Chủ tịch nước Việt Nam hoạt động với tư cách nguyên thủ quốc gia, Thống lĩnh các lực lượng vũ trang và Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh kiêm Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang. Thủ tướng Việt Nam lãnh đạo một chính phủ hiện gồm 4 phó thủ tướng và 22 bộ trưởng và các ủy ban, tất cả các chức vụ và ủy ban trên đều được Quốc hội thông qua và Chủ tịch nước bổ nhiệm. Dưới đây là Sơ đồ tổ chức hệ thống chính trị của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: Phân bố quyền lực Hiến pháp 2013 tái khẳng định vai trò ưu tiên của Đảng Cộng sản, tuy nhiên, cũng theo bản hiến pháp đó thì Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là tổ chức duy nhất nắm quyền lập pháp. Cơ quan này có trách nhiệm to lớn trong việc giám sát mọi chức năng của Chính phủ. Tổng Bí thư là chức danh dành cho người lãnh đạo cao nhất trong hệ thống chính trị tại Việt Nam, kiêm nhiệm chức danh Bí thư Quân ủy Trung ương là người lãnh đạo tối cao của Quân đội nhân dân Việt Nam. Chủ tịch nước với vai trò là Nguyên thủ quốc gia, là người đại diện về mặt Nhà nước, là nhân vật quyền lực số 2 trong hệ thống chính trị. Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu cơ quan hành pháp, là nhân vật quyền lực số 3. Chủ tịch Quốc hội đứng đầu Quốc hội, tức cơ quan lập pháp, là nhân vật quyền lực số 4. Từng được coi là một cơ quan chỉ để phê chuẩn, Quốc hội đã vươn ra tiếp nhận vai trò quan trọng hơn trong việc thực thi quyền lực thông qua trách nhiệm lập pháp, nhất trong những năm 2000 trở đi. Tuy nhiên, Quốc hội vẫn là đối tượng chịu sự lãnh đạo của Đảng. Khoảng gần 90% đại biểu Quốc hội là Đảng viên. Số còn lại dù không phải là Đảng viên, nhưng phải được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thông qua mới có thể tranh cử vào Quốc hội. Quốc hội họp 2 lần 1 năm, mỗi lần kéo dài từ 7–10 tuần; đại biểu Quốc hội có nhiệm kỳ 5 năm. Việt Nam có một cơ quan tư pháp riêng biệt, nhưng nhánh này có vai trò khá mờ nhạt. Nói chung, số lượng luật sư còn ít và các thủ tục tòa án còn nhiều vấn đề bất cập. Tuy nhiên từ năm 2016, hệ thống tư pháp ngày càng được cải thiện rõ rệt và có vai trò rất quan trọng trong phòng chống tham nhũng ở Việt Nam. Đảng Cộng sản Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Bộ Chính trị với 16 thành viên hiện nay, được bầu ra vào tháng 1 năm 2021 và do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đứng đầu, quyết định chính sách của Đảng; Ban Bí thư gồm 10 người giám sát việc thi hành chính sách hàng ngày. Dù đã có một số nỗ lực nhằm giảm sự chồng chéo và hạn chế sự can thiệp lẫn nhau giữa các vị trí của Đảng và chính quyền, cách quản lý này hiện vẫn đang được áp dụng và mở rộng. Các thành viên chính của Bộ Chính trị như Võ Văn Thưởng, Phạm Minh Chính, Vương Đình Huệ hiện cũng giữ các vị trí cao trong Nhà nước, Chính phủ và Quốc hội. Ngoài ra, Quân ủy Trung ương của Đảng quyết định chính sách quốc phòng, Tổng Bí thư (kiêm nhiệm Bí thư Quân ủy Trung ương) là lãnh đạo tối cao của Quân đội nhân dân Việt Nam, thể hiện quan điểm Đảng lãnh đạo Quân đội trực tiếp, tuyệt đối. Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành 5 năm/lần để đưa ra phương hướng lãnh đạo của Đảng và Chính phủ. Đại hội gần nhất tính đến hiện nay (2021) là Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII diễn ra từ ngày 25 tháng 1 đến ngày 1 tháng 2 năm 2021 tại Hà Nội với sự tham gia của 1587 đại biểu. Ban Chấp hành Trung ương Đảng với 169 Ủy viên chính thức, 20 Ủy viên dự khuyết, do Đại hội Đại biểu toàn quốc của đảng bầu ra, họp (thường kỳ) 2 lần/năm. Năm 2021, Đại hội Đảng nhóm họp 1587 đảng viên từ các tỉnh thành. Danh sách ứng cử viên được Trung ương Đảng Cộng sản soạn ra và đại hội sẽ bỏ phiếu chọn 180 người (2021) vào Trung ương và 18 người vào Bộ Chính trị, đứng đầu là Tổng Bí thư. Đây là những nhân vật quyền lực nhất trong đảng. Nhà nước Đứng đầu Nhà nước là Chủ tịch nước Việt Nam do Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội với nhiệm kỳ 5 năm. Nhà nước Việt Nam bao gồm 4 cơ quan là: Cơ quan quyền lực nhà nước (lập pháp), tức Quốc hội Việt Nam; Cơ quan hành chính nhà nước (hành pháp), tức Chính phủ Việt Nam; Cơ quan xét xử nhà nước (tư pháp), tức Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam; Cơ quan kiểm sát nhà nước (công tố), tức Viện kiểm sát nhân dân tối cao Việt Nam. Lập pháp Quốc hội Việt Nam theo mô hình đơn viện. Đại biểu Quốc hội do nhân dân trực tiếp bầu lên với nhiệm kỳ 5 năm. Đứng đầu Quốc hội là Chủ tịch Quốc hội Việt Nam do các đại biểu bầu ra. Với Việt Nam là một quốc gia độc đảng, điều này có nghĩa là chỉ có một đảng chính trị duy nhất theo luật pháp quy định có quyền nắm quyền cai trị. Chiếu theo Điều 4 của Hiến pháp năm 2013 thì đảng đó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên nhiều người Việt Nam trong và ngoài nước, nhất là những người bất đồng chính kiến, cho rằng không có một điều luật nào trong các văn bản hiện hành cấm các chính đảng khác thành lập và hoạt động tại Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một tổ chức chính trị ngoại vi của Đảng Cộng sản Việt Nam đứng làm trung gian để thông qua và thanh lọc chọn ra danh sách những người có quyền ứng cử. Trong số 500 đại biểu Quốc hội thì chỉ có khoảng 10% đại biểu không phải là Đảng viên. Hành pháp |Thủ tướng Chính phủ |Phạm Minh Chính |Đảng Cộng sản Việt Nam |05/04/2021 |- |rowspan=7|Các Phó Thủ tướng |Trần Lưu Quang |Đảng Cộng sản Việt Nam |5/1/2023 |- |Trần Hồng Hà |Đảng Cộng sản Việt Nam |5/1/2023 |- |Lê Văn Thành |Đảng Cộng sản Việt Nam |08/04/2021 |- |Lê Minh Khái |Đảng Cộng sản Việt Nam |08/04/2021 |} Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội Việt Nam và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất – trực thuộc Chủ tịch nước. Chính phủ chịu sự giám sát của Quốc hội và Chủ tịch nước. Chính phủ phải chấp hành: 1. Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội 2. Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội 3. Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước Chính phủ Việt Nam được thành lập trong kỳ họp thứ nhất của Quốc hội mỗi khóa và có nhiệm kỳ là 5 năm. Đứng đầu Chính phủ Việt Nam là Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng do Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội và được Quốc hội phê chuẩn; các Phó thủ tướng do Thủ tướng chỉ định và trình cho Quốc hội phê chuẩn. Các thành viên Chính phủ do Chủ tịch nước bổ nhiệm theo đề xuất của Thủ tướng và được Quốc hội phê chuẩn. Tư pháp Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam là cơ quan xét xử cao nhất của nhà nước – trực thuộc Chủ tịch nước. Tòa án trên nguyên tắc là cơ quan xét xử độc lập với Chính phủ và Quốc hội. Tuy nhiên, Hiến pháp Việt Nam không chấp nhận quy chế tam quyền phân lập, tức là không tách riêng ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp ra, và không cho phép ba nhánh khống chế lẫn nhau. Đứng đầu Tòa án tối cao là Chánh án tối cao, do Chủ tịch nước chỉ định và Quốc hội phê chuẩn. Viện kiểm sát nhân dân tối cao là cơ quan kiểm sát và công tố nhà nước cao nhất - trực thuộc Chủ tịch nước. Cán bộ đứng đầu Viện kiểm sát nhân dân tối cao là Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm. Hiện nay, cả ba nhánh này đều phải phối hợp trong công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật dưới sự lãnh đạo thống nhất và toàn bộ của Chủ tịch nước. Do vậy, tính độc lập của ngành tòa án còn khá nhiều hạn chế. Tòa án thường phải nghe theo các cơ quan điều tra (Bộ Công an) và cơ quan tố tụng (Viện kiểm sát nhân dân tối cao - trực thuộc Chủ tịch nước). Mặt trận Tổ quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị Việt Nam, là tổ chức liên minh và liên hiệp các tổ chức chính trị, xã hội, tôn giáo, và các đoàn thể thanh thiếu niên tại Việt Nam. MTTQVN dưới sự quản lý của Chủ tịch nước. Trong các cuộc bầu cử quốc hội tại Việt Nam, các ứng cử viên đều phải được Mặt trận Tổ quốc phê chuẩn để đưa vào danh sách ứng cử viên. Đồng thời, Mặt trận Tổ quốc còn đảm nhiệm việc giám sát cuộc bầu cử. Đứng đầu MTTQVN là Chủ tịch Mặt trận do Ủy ban Trung ương MTTQVN chọn ra với nhiệm kỳ 5 năm. Các đảng chính trị và các cuộc bầu cử Không có các đảng chính trị đối lập hợp pháp ở Việt Nam, dù một số nhóm đối lập có tồn tại và hoạt động ở nước ngoài, bên trong các cộng đồng người Việt tại các nước như Pháp và Hoa Kỳ. Tại Việt Nam, sau năm 2006, có một số đảng đối lập hoạt động công khai, dù không được Nhà nước Việt Nam chấp nhận và bị đặt ngoài vòng pháp luật. Những nhóm nổi bật gồm có Đảng Việt Tân, Đảng Vì dân, Đảng Thăng tiến Việt Nam, Đảng Dân chủ, Đảng Nhân dân Hành Động và Chính phủ Việt Nam tự do. Chính phủ Việt Nam tự do đã tuyên bố chịu trách nhiệm về một số hành động khủng bố bên trong Việt Nam. Mặc dù có những ý kiến muốn lập ra những chính đảng khác hoạt động trong nước, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 10 tháng 9 năm 2013 đã khẳng định lập trường không chấp nhận một số điểm cơ bản, trong đó có việc không chấp nhận "hình thành tổ chức chính trị đối lập". Các đảng chính trị cũ gồm Việt Nam Quốc dân Đảng, Đảng Cần lao, và Việt Nam Duy tân Hội ở thời thuộc địa. Ngoài ra còn có một số nhóm tự nhận đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam mà phía chính quyền cho rằng do một số thế lực thù địch, phản động, phản bội Tổ quốc lập ra, mà không trực thuộc Mặt trận Tổ quốc, như Khối 8406, Liên minh Dân chủ, Nhân quyền Việt Nam, Câu lạc bộ Nhà báo Tự do. Các khu vực hành chính Việt Nam được chia thành 58 tỉnh: An Giang, Bắc Giang, Bắc Kạn, Bạc Liêu, Bắc Ninh, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bến Tre, Bình Định, Bình Dương, Bình Phước, Bình Thuận, Cà Mau, Cao Bằng, Đắk Lắk, Đắk Nông, Điện Biên, Đồng Nai, Đồng Tháp, Gia Lai, Hà Giang, Hải Dương, Hà Nam, Hà Tĩnh, Hoà Bình, Hậu Giang, Hưng Yên, Khánh Hòa, Kiên Giang, Kon Tum, Lai Châu, Lâm Đồng, Lạng Sơn, Lào Cai, Long An, Nam Định, Nghệ An, Ninh Bình, Ninh Thuận, Phú Thọ, Phú Yên, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Ninh, Quảng Trị, Sóc Trăng, Sơn La, Tây Ninh, Thái Bình, Thái Nguyên, Thanh Hoá, Thừa Thiên-Huế, Tiền Giang, Trà Vinh, Tuyên Quang, Vĩnh Long, Vĩnh Phúc, Yên Bái. Và 5 thành phố trực thuộc trung ương (cấp Trung ương): Cần Thơ, Đà Nẵng, Hải Phòng, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Các tổ chức quốc tế có tham gia Việt Nam là thành viên của Liên Hợp Quốc, Cộng đồng Pháp ngữ, ASEAN và APEC. Năm 2005, Việt Nam tham gia khai trương Hội nghị thượng đỉnh Đông Á, với mục đích để thay thế ASEAN trong tương lai. Việt Nam được phép gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào ngày 7 tháng 11 năm 2006. Ngoài ra Việt Nam còn tham gia ACCT, AsDB, ESCAP, FAO, G77, IAEA, IBRD, ICAO, ICRM, IDA, IFAD, IFC, IFRCS, ILO, IMF, IMO, Inmarsat, Intelsat, Interpol, IOC, IOM (quan sát viên), ISO, ITU, NAM, OPCW, UN, UNCTAD, UNESCO, UNIDO, UPU, WCL, WCO, WFTU, WHO, WIPO, WMO, WTO. Các ý kiến đánh giá về hệ thống chính trị Việt Nam Hai hệ thống Đảng và Nhà nước song hành nhưng Đảng là lãnh đạo Nguyên Chủ tịch Quốc hội, Nguyễn Văn An nhận xét rằng: "Từ chỗ đánh giá Cách mạng dân tộc dân chủ đã hoàn thành, chúng ta phải chuyển ngay sang Cách mạng xã hội chủ nghĩa theo luận thuyết cách mạng không ngừng. Luận thuyết cách mạng không ngừng là đúng, còn cái sai là ở chỗ chúng ta đánh giá cách mạng dân tộc dân chủ đã hoàn thành tới mức phải chuyển ngay sang cách mạng xã hội chủ nghĩa". Ngoài ra, ông còn cho rằng "Với thể chế như hiện nay ở Việt Nam thì mọi thành công hay thất bại đều bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng." Cũng theo ông An, mặc dù "Hiến pháp và Pháp luật đã ghi rất rõ: Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, pháp luật là tối thượng. Song trong thực tiễn thì không ít trường hợp chỉ thị, nghị quyết của Đảng mới là tối thượng. Thực chất chúng ta có hai hệ thống quyền lực song song, đó là hệ thống của Đảng và hệ thống Nhà nước đi kèm theo là hai hệ thống tòa nhà của hai cơ quan đảng và nhà nước cồng kềnh chưa từng có... Quốc hội là nhánh lập pháp có quyền lực cao nhất, song cũng còn nhiều hình thức, thực chất là Trung ương, Bộ Chính trị quyết... Chính phủ là nhánh hành pháp song cũng rất yếu, chủ yếu là chấp hành chỉ thị nghị quyết của Đảng". Từ năm 2016, Việt Nam bắt đầu thực hiện cải cách hệ thống bằng cách hợp nhất một số cơ quan Đảng và Chính phủ tại địa phương (ví dụ như Ban dân vận hợp nhất với sở truyền thông, hợp nhất chức danh chủ tịch xã và bí thư đảng ủy xã) để tinh giản biên chế, hạn chế sự cồng kềnh của bộ máy chính quyền, tránh chồng chéo về chức năng giữa các đơn vị. Không theo tam quyền phân lập Quyền lực nhà nước ở Việt Nam được phân công ra làm ba nhánh song lại thống nhất ở sự chỉ đạo của Đảng... cần phải được khắc phục theo quy luật thống nhất theo Hiến pháp và Pháp luật, tức là thống nhất ở nơi dân. Nếu hiểu ba nhánh quyền lực nhà nước đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng đã được thể chế hóa trong Hiến pháp và pháp luật là đúng, còn nếu hiểu thống nhất trực tiếp ở ban lãnh đạo hoặc cá nhân lãnh đạo cụ thể nào đó thì lại là sai... Mọi chủ trương chính sách của đảng phải được cụ thể hoá bằng Hiến pháp và Pháp luật. Chấp hành Hiến pháp và Pháp luật tức là chấp hành sự lãnh đạo của Đảng. Xã hội sẽ được nhà nước quản trị bằng pháp luật, chứ không quản trị bằng chỉ thị, nghị quyết trực tiếp của đảng. Theo ông Đinh Thế Huynh, Thường trực Ban bí thư: "Việt Nam chúng tôi không có nhu cầu đa nguyên đa đảng, và dứt khoát không đa nguyên đa đảng. Điều đơn giản là Việt Nam đã có lúc đa đảng; tức là năm, 1946 khi chúng tôi Tổng tuyển cử lần đầu tiên thì cũng đã có mấy đảng tham gia. Nhưng khi thực dân Pháp quay lại xâm lược đất nước chúng tôi thì chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân Việt Nam kháng chiến để bảo vệ tổ quốc. Và bây giờ thì Đảng Cộng sản Việt Nam đang tiếp tục lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc". Phe cánh, trách nhiệm tập thể Chính quyền Việt Nam có hai nhược điểm là: vấn nạn phe cánh, và cơ chế trách nhiệm tập thể. Theo nhà phân tích David Koh của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore thì tư tưởng phe cánh đã ăn sâu vào trong cơ chế, trong nền văn hóa người Việt nên không thể gỡ ra được. Còn về trách nhiệm tập thể, cơ chế tập thể chịu trách nhiệm khiến cho trách nhiệm của cá nhân lãnh đạo trở nên không tách bạch, khi họ làm sai thì thường đổ lỗi cho tập thể.
Lee Young-Ae (Hangul: 이영애, sinh ngày 31 tháng 1 năm 1971) là một nữ diễn viên nổi tiếng người Hàn Quốc. Cô được khán giả biết đến với các biệt danh Người đẹp Oxy (Oxygen Lady) và Asia Sweetheart. Sự nghiệp Lee được xem là một viên ngọc sáng của làng giải trí, trở thành "Quốc bảo" của Hàn Quốc và giành được nhiều sự chú ý, lòng yêu mến của đông đảo khán giả tại các nước châu Á sau khi cô thủ vai chính trong bộ phim truyền hình nổi tiếng Nàng Dae Jang-geum. Theo các con số thống kê về lượng khán giả xem truyền hình, tập cuối của phim Dae Jang-Geum đã thu hút gần như một nửa dân số Hồng Kông ngồi ở nhà để xem. Năm 2005, tại Liên hoan phim Rồng Xanh, cô được trao tặng Giải Điện ảnh Rồng Xanh cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất. Năm 2006, cô ký một hợp đồng hai năm với LG Electronics, công ty điện tử hàng đầu của Hàn Quốc, trở thành là người phát ngôn cho tất cả các dòng sản phẩm của LG. Với hợp đồng này, cô sẽ tham dự các tour quảng cáo, bán hàng xung quanh tất cả các quốc gia và vùng lãnh thổ châu Á mà LG hiện diện bao gồm: Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản, Malaysia, Singapore và Indonesia. Năm 2015, tại lễ trao giải Truyền hình Quốc tế Seoul lần thứ 10, Lee Young-Ae đã được vinh danh với giải thưởng Grand Prize of Hallyu (Giải thưởng ghi nhận công lao cũng như sự đóng góp to lớn cho Làn sóng Hallyu) bởi những dự án tên tuối và những đóng góp lớn trong việc truyền bá nền văn hóa, sức ảnh hưởng và hình ảnh con người Hàn Quốc ra toàn thế giới. Đời tư Ngày 24 tháng 8 năm 2009, Lee Young-ae chính thức kết hôn với Jeong Ho-young, một doanh nhân người Mỹ gốc Hàn. Đám cưới được hai bên gia đình tổ chức kín đáo tại Hawaii, bang Honolulu, Hoa Kỳ. Ngày 20 tháng 2 năm 2011, cô đã sinh đôi một trai, một gái là Jeong Seung-bin và Jeong Seung-kwon tại bệnh viện Jeil, quận Jung, Seoul. Danh sách phim Phim điện ảnh Sympathy for Lady Vengeance (2005) One Fine Spring Day (2001) Last Present aka The Gift (2001) Joint Security Area (2000) First Kiss (1998) Inch'Allah (1997) Phim truyền hình Thanh tra Koo (2021) Saimdang, the Herstory (SBS, 2016) Dae Jang Geum (MBC, 2003) Fireworks (SBS, 2000) Invitation (KBS2, 1999) Mighty Waves (SBS, 1999) Food Table of Contents (MBC, 1998) Advocate (MBC, 1998) I Survive Reason (MBC, 1997) Medical Brothers (MBC, 1997) Their Embrace (MBC, 1996) Papa (KBS2, 1996) Love and Marriage (MBC, 1995) West Palace (KBS2, 1995) Asphalt Man (SBS, 1995) How is Your Husband (SBS, 1993) Giải thưởng 1994 SBS Drama Awards, Best New Actress 1995 KBS Drama Awards, Popularity Prize 1996 MBC Drama Awards, Outstanding Actress 1997 SBS Drama Awards, Best Actress 1998 SBS Drama Awards, Best Actress 1999 KBS Drama Awards, Popularity Prize 2001 Korea Movie & Music Awards, Photogenic Prize for Actress 2001 Pusan Film Critics Awards, Best Actress (One Fine Spring Day) 2003 MBC Drama Awards, Grand Prize 2005 International Film Festival of Catalunya, Best Actress (Sympathy For Lady Vengeance) 2005 Blue Dragon film award, Best Actress (Sympathy For Lady Vengeance) 2006 Baeksang award, Best Actress (Sympathy For Lady Vengeance) 2006 Cinemanila International Film Festival Best Actress: Lee Young-ae for Sympathy for Lady Vengeance (South Korea) Chú thích
Los Angeles Times (tiếng Anh của Thời báo Los Angeles, viết tắt LA Times) là một nhật báo được xuất bản tại Los Angeles, California và được phân phối ở khắp miền Tây Hoa Kỳ. Có tổng số phát hành là 843.432 độc giả mỗi ngày vào tháng 9 năm 2005, nó là tờ báo thành phố phổ biến thứ hai ở nước Mỹ (sau The New York Times). Theo lần in World Almanac năm 2005, Los Angeles Times là tờ báo phổ biến thứ tư ở nước Mỹ. Trước đây nó cũng làm chủ của đài truyền hình KTTV. Tờ Times đã đoạt giải Pulitzer 37 lần vào năm 2004, tính bốn lần về biếm họa, một lần về phóng sự trong cuộc Náo loạn Watts năm 1965 và một lần về phóng sự trong cuộc Náo loạn Los Angeles năm 1992. Vào năm 2004, nhật báo này đoạt giải về năm thể loại, nó đứng thứ hai về số thể loại được thắng trong một năm (thứ nhất về thể loại là The New York Times vào năm 2002). Chủ của nhật báo này là Công ty Tribune, hãng xuất bản nhật báo Chicago Tribune của Chicago, Illinois.
Điều khiển truy cập tùy quyền (tiếng Anh: Discretionary Access Control - viết tắt là DAC) định nghĩa những chính sách điều khiển truy cập cơ bản đối với các đối tượng trong một hệ thống tập tin (filesystem). Nói chung, những việc này được giải quyết bằng sự suy xét chín chắn của người chủ sở hữu đối tượng -- phép truy cập và sử dụng tập tin/thư mục và tính sở hữu của người dùng / của nhóm người dùng. Trang Từ vựng viễn thông (tiếng Anh) định nghĩa DAC như "Một phương pháp nhằm hạn chế truy cập các đối tượng trên cơ sở nhận dạng (identity) và nhu cầu cần biết (need-to-know) của nhiều người dùng và/hay của các nhóm mà đối tượng trực thuộc. Phương pháp điều khiển được coi là 'tuỳ quyền' vì lý do một chủ thể với một phép truy cập nào đấy có thể chuyển nhượng phép truy cập (trực tiếp hay gián tiếp) sang bất cứ một chủ thể nào khác trong hệ thống."
USA Today (tiếng Anh của "Hoa Kỳ Hôm nay") là một tờ báo được xuất bản bởi Gannett Corporation và được phân phối khắp Hoa Kỳ. Nó được thành lập bởi Allen "Al" Neuharth. Tờ báo này có tổng số phát hành lớn nhất của các báo Mỹ (trung bình có 2,25 triệu bản sao mỗi ngày thường) và lớn thứ hai của các báo broadsheet tiếng Anh toàn thế giới, đứng sau Thời báo Ấn Độ. Tuy nhiên, số phát hành của nó còn tranh cãi, vì USA Today đã ký nhiều hợp đồng để phân phối trong khách sạn, nhiều khi những khách không biết họ đã trả tiền cho báo này. USA Today được phân phối ở mỗi tiểu bang Hoa Kỳ. Được trình bày nhiều màu sắc và rõ ràng, có nhiều biểu đồ, đồ thị, và hình ảnh lớn, USA Today được thành lập năm 1982 có mục đích làm khác với các tờ báo màu xám và dài dòng của thời đó, như là The Wall Street Journal và The New York Times. Tờ USA Today cũng nổi tiếng về các cuộc thăm dò dư luận khắp nước. Mới đầu tờ báo này cũng cố gắng làm khác biệt về kiểu phân phối. Tờ báo này vẫn được phân phối dùng các máy tự động bán báo có góc cong mà làm người ta nghĩ đến bộ tivi hơn một hộp đựng báo. USA Today cũng muốn bám vào những người hay đi du lịch vì việc, cho nên nó được phân phối rất nhiều ở phi trường và khách sạn và trên máy bay. Nó cũng là một trong những tờ báo đầu tiên sử dụng vệ tinh nhân tạo để gửi phiên bản cuối cùng đến nhiều nơi khắp nước để in ra và phân phối ở các miền thị trường. Sáng kiến sử dụng vệ tinh nhân tạo và trung tâm in ở các miền để tờ báo này hoãn lại giới hạn và bao gồm tin tức và kết quả thể thao đúng thời nhất trong các số. Vào năm 2001, tờ báo này di chuyển tới tòa soạn 120.000 mét vuông (30 mẫu Anh) mới tại McLean (một ngoại ô Washington, D.C. thuộc Quận Fairfax, Virginia). Tòa soạn đầu tiên không xa: các "tòa nhà bạc" cũ của USA Today và Gannett, Inc. mà có mặt trên đường chân trời của Washington nằm tại khu Rosslyn, Quận Arlington, Virginia. Ngày 7 tháng 9 năm 2004, giá của USA Today ở quán bán báo lên từ 50 xu (giá của tờ báo này từ năm 1985) tới 75 xu.
The Washington Post hay Bưu báo Washington là nhật báo lớn nhất và có thể là một trong những tờ báo lâu đời nhất ở Washington, D.C., thủ đô Hoa Kỳ. Nó nổi tiếng toàn thế giới vào đầu thập niên 1970 về cuộc điều tra vụ Watergate do hai nhà báo Bob Woodward và Carl Bernstein thực hiện. Vụ này dẫn đến việc tổng thống Richard Nixon phải từ chức. Nó được coi là một trong những nhật báo Mỹ lớn nhất, cùng với The New York Times nổi tiếng về phóng sự tổng quát và tin tức quốc tế, The Wall Street Journal nổi tiếng về tin tức tài chính, và Los Angeles Times. Dĩ nhiên, tờ Post nổi bật do các phóng sự về Nhà Trắng, Quốc hội, và các khía cạnh khác của chính phủ Hoa Kỳ. Khác với hai tờ báo Times và Journal, The Washington Post nghĩ đến mình là một tờ báo một miền và hiện không xuất bản một số khắp nước hàng ngày để phân phối ngoài vùng bờ biển đông. Tuy nhiên, nó gửi qua bưu điện một "Số Hằng tuần Quốc gia", sưu tập các bài báo trong các số của tuần đó. Phần nhiều độc giả của số in ở Đặc khu Columbia và các ngoại ô ở Maryland và miền bắc Virginia. Vào tháng 10 năm 2005, số phát hành trung bình trong ngày thường là 715.181 và tổng số phát hành vào chủ nhật là 983.243, theo Cục Kiểm tra Tạp chí (Audit Bureau of Circulations), là tờ báo phổ biến thứ năm trong nước tính theo tổng số phát hành, sau The New York Times, The Los Angeles Times, The Wall Street Journal, và USA Today. Tuy số phát hành (giống như hầu hết các tờ báo giấy khác) đang giảm, The Washington Post là một trong những tờ báo có tỷ lệ thâm nhập thị trường cao nhất trong các nhật báo thành phố.
The Cincinnati Enquirer hay Vấn báo Cincinnati là nhật báo buổi sáng được xuất bản tại Cincinnati, là tờ lớn hơn trong số hai nhật báo của thành phố này. Chủ sở hữu của tờ báo này là Công ty Gannett, và tờ báo có thỏa thuận vận hành chung (joint operating agreement, JOA) với nhật báo buổi chiều, The Cincinnati Post, theo đó tờ Enquirer chịu trách nhiệm về các chức năng thương mại của cả hai tờ báo. Công ty cha của Enquirer là Gannett Co. Inc. đã thông báo cho E.W. Scripps Co., nhà xuất bản của The Post là mình không có ý định ký lại JOA này vào năm 2008, điều đó có nghĩa là The Enquirer sẽ trở thành nhật báo duy nhất của thành phố. The Enquirer có tổng số phát hành khoảng 190.000–211.000 bản từ thứ hai tới thứ bảy và khoảng 293.000 bản vào ngày chủ nhật.
Greatest Love of All là bài hát thứ tư và là bài cuối cùng trong đĩa đơn của Whitney Houston trong album đầu tiên cùng tên nghệ sĩ, album Whitney Houston, phát hành vào tháng 4 năm 1986. Bài hát do Michael Masser và Linda Creed sáng tác và được George Benson thu âm lần đầu cho bộ phim The Greatest về Muhammad Ali năm 1977. Bản thu âm đầu tiên là một tác phẩm hay thứ hai của Benson, mặc dù nó không nằm trong bảng xếp hạng 20 bài hay nhất. Phiên bản của Houston được Clive Davis của hãng Arista thu âm. Bài hát được ghi ở B-side kèm theo bài "You Give Good Love", bài mà đã được đứng thứ 3 ở Mỹ. Diễn biến trên các bảng xếp hạng Phiên bản của cô được đứng vị trí đầu trong bảng xếp hạng 100 bài hát hay nhất của Tạp chí Billboard trong ba tuần, đáng chú ý ở đây là bài hát chỉ được ghi ở B-side. Bài hát cũng đứng thứ 3 trong các bài hát được xếp hạng từ một album, đó là một thành tựu mà chưa từng một nữ nghệ sĩ nào hát solo đạt được. Vào thời gian này, đây là bài hát đứng đầu tiên mà có thời gian xếp hạng lâu nhất của Houston. Bài hát cũng đứng đầu trong cả hai bảng xếp hạng thành phần, bảng 100 bài hát hay nhất được mua và 100 bài hát hay nhất trên sóng phát thanh, bản phát hành thứ hai liên tiếp thứ hai của cô cũng được xếp hạng như vậy và giữ được 14 tuần nằm trong số 50 bài hay nhất. Trong bảng xếp hạng của Billboard khác, bài hát cũng rất tuyệt vời và nó đứng thứ ba trong bảng xếp hạng nhạc R&B. Bài hát cũng đã đứng đầu bảng xếp hạng Adult Contemporary trong 5 tuần, vào thời gian này thì tác phẩm của Houston có thời đứng đầu bảng xếp hạng lâu nhất. Trên bình diện quốc tế, bài hát không làm nên thành công của "How Will I Know", đứng thứ 8 ở Anh, thứ 20 ở thụy Sĩ và thứ 21 ở Đức. Tuy nhiên, đây cũng là bài hát đầu tiên của Houston được đứng thứ nhất ở Úc. Bài hát đã giành được giải thưởng âm nhạc Mỹ cho Video nhạc Soul/R&B ưa thích và nó được đề cử chính thức trong giải thưởng Grammy cho Ghi âm của năm và giải thưởng dòng nhạc Soul cho đĩa đơn của năm. Danh sách track US Vinyl / 7" / Single A "Greatest Love Of All" — 4:51 B "Thinking About You" — 4:06 Video âm nhạc Video âm nhạc phản ánh cuộc biểu diễn của cô trong quá khứ, Houston lúc còn bé được hoà hợp với Houston hiện tại, và sau đó là buổi biểu diễn đẹp, đầy thu hút. Cuối video, cô đã trả lại những thứ mà mẹ cô đã từng trao cho cô với cái ôm xiết chặt đầy biết ơn, cảm kích. Bảng xếp hạng và chứng nhận Vị trí xếp hạng Bảng xếp hạng cuối năm Chứng nhận Chú thích
Norton Commander (viết tắt là NC) là một chương trình quản lý tập tin theo kiểu cũ (không dùng giao diện đồ họa) được John Socha viết cho hệ điều hành DOS (16 bit) trước đây và đã được phát hành bởi Trung tâm điện toán Peter Norton (sau này được tập đoàn Symantec mua lại). Norton Commander từng được dùng rất phổ biến bởi khả năng hỗ trợ giao diện đồ họa và tính tiện dụng của nó. Norton Commander dễ sử dụng vì có 2 bảng song song nhau. Sau khi khởi động chương trình, người dùng sẽ nhìn thấy 2 bảng với danh sách các tập tin. Ở phần dưới cùng của màn hình, NC hiển thị danh sách các lệnh, muốn dùng lệnh nào (như copy, paste hay move) chỉ cần bấm vào mà không cần phải gõ các câu lệnh đó. Từ phiên bản 3.0 trở đi có cộng thêm tiện ích xem và chỉnh sửa được gọi bởi 2 phím F3 và F4 đã tạo cho NC thành một công cụ DOS dành cho "siêu người dùng" (superuser). Sau khi Microsoft phát hành Windows 95, một hệ điều hành có giao diện đồ họa mới, NC trở nên ít phổ biến vì phương tiện Windows Explorer của Windows 95 và vì sự thiếu hỗ trợ tên tập tin dài của NC. Lúc phát hành phiên bản NC 5.51 hỗ trợ tên file dài, một phiên bản giao diện đồ họa mới hoàn toàn đã được giới thiệu bởi Symantec vào năm 1999, Norton Commander for Windows. Phiên bản này tích hợp hoàn toàn với Windows (hỗ trợ tính phức tạp của tên tập tin dài và "Thùng rác" - Recycle Bin), tích hợp Quick View để xem nội dung các file như văn bản Microsoft Office trong một bảng nhỏ bên cạnh. Hiện nay nếu muốn dùng Norton Commander trong môi trường DOS hay Windows 95/98 thì có 2 sự lựa chọn: Dùng Volkov Commander có giao diện giống hệt Norton Commander nhưng hỗ trợ tên tập tin dài, Dùng chương trình quản lý tập tin miễn phí free Commander hay có phí Total Commander (có giao diện đồ họa dễ sử dụng) để me may beo.
Douglas Brian "Pete" Peterson (sinh ngày 26 tháng 6 năm 1935) là một chính khách và là một nhà ngoại giao Hoa Kỳ. Ông từng là phi công phục vụ trong Không quân Hoa Kỳ, sau khi máy bay của ông bị bắn rơi trong chiến tranh Việt Nam, ông đã phải làm tù binh trên 6 năm. Peterson cũng là Đại sứ đầu tiên của Hoa Kỳ tại Việt Nam sau 1975, nhậm chức từ 1997 đến 2001. Tiểu sử Ông từng là phi công của Không quân Hoa Kỳ. Đêm 10-9-1966 ông lái máy bay F-4 Phantom II vào đánh phá cầu Phú Lương và cầu Lai Vu thuộc tỉnh Hải Dương đêm 10-9-1966 nhưng bị bắn rơi, nhảy dù xuống thôn An Đoài, xã An Bình, Nam Sách (Hải Dương). Hồi tưởng về lần bị bắn rơi, Peterson đã thành thật nói: Lúc bị người dân Việt Nam bắt, rất có thể tôi đã bị giết chết, rất may đã có người ngăn lại và tôi vô cùng biết ơn điều đó. Ông trải qua 6 năm rưỡi trong nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội (10 tháng 9 năm 1966 - 4 tháng 3 năm 1973). Sau khi trở về nước, năm 1981 ông giải ngũ với quân hàm đại tá, ông thành lập công ty xây dựng tại Tampa (Florida) rồi làm việc tại nông trại của gia đình. Năm 1989 ông bắt đầu tham gia chính trường, là dân biểu của tiểu bang Florida trong nhiệm kỳ 1991-1997. Năm 1995 ông được Văn phòng Tổng thống Hoa Kỳ thông báo ông được chọn vào vị trí Đại sứ Mỹ tại Việt Nam. Vào ngày 9 tháng 5 năm 1997, 22 năm và 10 ngày, sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ngày 30 tháng 4 năm 1975, Douglas "Pete" Peterson được Quốc hội phê chuẩn trở thành đại sứ đầu tiên của Hoa Kỳ ở Việt Nam, kể từ khi Graham Martin được di tản khỏi đất nước này cuối tháng 4 năm 1975 bằng trực thăng. Việt Nam bắt đầu bình thường hóa quan hệ với kẻ thù cũ là Mỹ từ năm 1994, khi cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton tuyên bố dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại trong suốt 19 năm đối với Việt Nam, với lý do là chính quyền cộng sản của Việt Nam đã hợp tác trong việc xác định vị trí của 2.238 lính Mỹ được coi là mất tích trong chiến tranh Việt Nam., Ông từng đảm nhiệm các cương vị Chủ tịch Ban Giám đốc Hội đồng Thương mại Mỹ – Việt, Giám đốc cấp cao của Công ty tư vấn chiến lược quốc tế Albright Stonebridge Group. Gia đình Sau khi Carlotta người vợ đầu mất, năm 1998 ông kết hôn với bà Vi Lê, quốc tịch Australia, nguyên Giám đốc Thương mại Đại sứ quán Australia tại Việt Nam. Năm 2002 gia đình ông chuyển đến sinh sống tại Australia, đến năm 2009 ông nhập quốc tịch nước này. Hiện hai ông bà đang dồn hết tâm trí cho tổ chức cứu trợ trẻ em TASC có trụ sở chính đóng tại Bangkok (Thái Lan) và đi lại như con thoi giữa Việt Nam, Australia, Mỹ và Thái Lan.
CorelDRAW là một phần mềm biên tập đồ họa vector được phát triển và tiếp thị bởi Corel Corporation ở Ottawa, Canada. Đây cũng là tên của Bộ công cụ đồ họa Corel. Phiên bản mới nhất có tên là 2022 (thực chất là phiên bản 24), chưa rõ ngày ra mắt Các hệ thống được hỗ trợ Ngay từ lúc đầu, CorelDRAW được thiết kế cho Windows của Microsoft và hiện nay cũng chỉ khả dụng trên hệ điều hành Windows. Phiên bản mới nhất có tên là CorelDraw Graphics Suite 2023 (thực chất là phiên bản 24), mới được xuất xưởng năm 2023.Tính năng mới bao gồm Đối tượng docker, tác dụng không phá hủy, quy trình làm việc hoàn hảo của pixel, tìm và thay thế luồng công việc, hỗ trợ máy quét 64-bit TWAIN, hỗ trợ PDF/X, quản lý tài sản kỹ thuật số, cải thiện hiệu suất, tăng cường in kết hợp, mẫu hiện đại.1 Các phiên bản cho Macintosh (Mac OS Classic và Mac OS X) là CorelDraw Graphics Suite 2023 cho Mac OS X chưa rõ ngày phát hành và Linux cũng đã từng một lần được xuất xưởng, nhưng những sản phẩm này hiện thời không còn được tiếp tục phát triển. Phiên bản cuối cùng cho Linux là phiên bản 9, ra đời năm 2000. Phiên bản cuối cùng cho Macintosh là phiên bản 11, ra đời năm 2001. Cho đến phiên bản 5, CorelDraw cũng được thiết kế cho OS/2. Lịch sử phát triển Năm 1985, Tiến sĩ Michael Cowpland thành lập hãng Corel để bán các hệ thống desktop publishing dựa trên các phần cứng của Intel. Năm 1987, Corel thuê hai kỹ sư phần mềm Michel Boullion và Pat Beirne để phát triển một chương trình minh họa dựa trên vectơ để đóng gói với các hệ thống xuất bản desktop. Chương trình này - CorelDRAW - được xuất bản lần đầu tiên năm 1989 và được đón nhận một cách nồng nhiệt; với lý do này, Corel sau đó đã chỉ tập trung vào việc phát triển CorelDRAW. Các đặc điểm Có rất nhiều sự sáng tạo trong thiết kế của CorelDRAW: một công cụ biên tập nút hoạt động trên nhiều đối tượng khác nhau, căn lề chữ, stroke-before-fill, fill/stroke nhanh, các palette chọn màu, các phép chiếu và các phép điền gradient phức tạp. CorelDRAW đã tự phân biệt mình với các đối thủ cạnh tranh bằng nhiều cách. Điều đầu tiên đó là định hình một bộ công cụ đồ họa hơn chỉ là một chương trình đồ họa vectơ. Thứ hai, gói phần mềm này luôn luôn chứa một bộ sưu tập lớn các loại phông chữ và các hình vẽ thiết kế sẵn. Đối thủ cạnh tranh chính của CorelDRAW là Adobe Illustrator. Mặc dù đây đều là những chương trình minh họa dựa trên vectơ, nhưng người sử dụng đều có cảm nhận khác nhau về hai chương trình này. Ví dụ, CorelDRAW có thể làm việc với tài liệu nhiều trang; Illustrator chỉ làm việc đơn trang nhưng cho phép chia trang thành theo nhiều lựa chọn in khác nhau nên có thể in trên nhiều trang. Thêm nữa, trong khi Illustrator có thể đọc được định dạng tập tin của CorelDRAW và ngược lại, việc chuyển đổi này không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Đặc điểm này làm cho người sử dụng khó khăn trong việc chuyển đổi giữa hai chương trình này. Bộ công cụ đồ họa CorelDRAW Thời gian trôi đi, có thêm nhiều thành phần bổ trợ được thiết kế để đóng gói cùng với CorelDRAW. Danh sách các gói phần mềm được đóng gói thường thay đổi theo từng phiên cản. Có nhiều chức năng chính vẫn còn được giữ nguyên từ phiên bản này đến phiên bản khác, ngoài một số chức năng như: PowerTRACE (bộ chuyển đổi từ ảnh bitmap sang đồ họa vectơ), PHOTO-PAINT (bộ biên tập đồ họa bitmap), và CAPTURE (tiện ích chụp màn hình). Phiên bản hiện thời của CorelDRAW Graphics Suite X8 chứa các gói sau: CorelDRAW® X8: Phần mềm biên tập đồ họa vectơ và chỉnh sửa trang. Corel® PHOTO-PAINT™ X8: Phần mềm chỉnh sửa ảnh. Corel® CAPTURE™ X8: Cho phép nhiều chế độ thu nhận hình ảnh. Corel® CONNECT™: Công cụ tìm kiếm nội dung. Corel® PowerTRACE™ X8: Chuyển đổi ảnh raster sang đồ họa vectơ. Corel® Website Creator™*: Công cụ thiết kế Website. PhotoZoom Pro 4†: Công cụ cho việc mở rộng hình ảnh kỹ thuật số. ConceptShare™: Công cụ tương tác trực tuyến. Corel cũng xuất bản một số các phần mềm đồ họa dưới tên Corel Painter.
Nộm, trong phương ngữ miền Nam gọi là gỏi, là tên gọi chung cho các món rau trộn chua ngọt trong ẩm thực Việt Nam. Cách làm Cách làm nói chung: trộn rau (tùy loại) với gia vị, rau thơm, tỏi, ớt, đậu phộng,... vào cho vừa ăn. Có loại trộn thêm cả thịt, cá. Một số món nộm: Món nộm truyền thống trong cỗ Tết miền Bắc Việt Nam, gồm su hào/đu đủ, cà rốt, lạc rang, rau mùi,... Nộm thịt bò khô: gồm đu đủ, cà rốt, thịt bò khô, rau kinh giới,... Nộm rau muống: rau muống trụng, kinh giới, mắm tôm, mè rang Thịt gà xé phay: gồm thịt gà luộc, bắp cải, hành tây, rau răm,... Nộm hoa chuối: gồm hoa chuối, lạc rang, nước mắm,... Gỏi ngó sen Chú thích Ẩm thực Việt Nam Salad
Trong khoa học máy tính, kỹ thuật điều khiển truy cập bắt buộc (tiếng Anh: mandatory access control - viết tắt là MAC) được dùng để bảo vệ và ngăn chặn các quy trình máy tính, dữ liệu, và các thiết bị hệ thống khỏi sự lạm dụng. Kỹ thuật này có thể mở rộng và thay thế cho kỹ thuật điều khiển truy cập tùy quyền đối với các phép truy cập và sử dụng hệ thống tập tin (file-system permissions ) cùng những khái niệm về người dùng và nhóm người dùng. Đặc trưng quan trọng nhất của MAC bao hàm việc từ chối người dùng toàn quyền truy cập / sử dụng tài nguyên do chính họ kiến tạo. Chính sách an ninh của hệ thống (như đã được viên quản lý (administrator) quy định) hoàn toàn quyết định các quyền truy cập được công nhận, và một người dùng không thể tự hạn chế quyền truy cập vào các tài nguyên của họ hơn những gì mà viên quản lý chỉ định. (Các hệ thống dùng điều khiển truy cập tùy quyền cho phép người dùng toàn quyền quyết định quyền truy cập được công nhận cho các tài nguyên của họ, có nghĩa là họ có thể (do tình cờ hay do ác ý) ban quyền truy cập cho những người dùng bất hợp pháp.) Mục đích của MAC là định nghĩa một kiến trúc mà trong đó nó đòi hỏi sự đánh giá tất cả các nhãn hiệu có liên quan đến an ninh (security-related labels) và đưa ra những quyết định dựa trên cơ sở ngữ cảnh của các thao tác cùng các nhãn hiệu dữ liệu (data labels) tương đồng. Kiến trúc FLASK và những kiến trúc Cơ cấu tổ chức tổng quát đối với điều khiển truy cập (Generalized Framework for Access Control - GFAC), đi đôi với MAC, trở thành những kỹ thuật khả thi cho những hệ thống an ninh đa tầng cấp (multilevel security systems). Một kiến trúc như vậy sẽ ngăn chặn một người dùng đã được xác thực, hoặc một quy trình tại một phân hạng cụ thể nào đấy (classification), hoặc có một mức độ tin cẩn (trust-level) nhất định nào đấy, không cho họ truy cập thông tin, truy cập các quy trình (processes) hoặc truy cập các thiết bị (devices) ở một tầng cấp khác. Kết quả của việc này là nó cung cấp cho chúng ta một cơ chế chính sách ngăn chặn đối với người dùng và các quy trình, hoặc biết, hoặc chưa biết (lấy ví dụ, một chương trình ứng dụng lạ, chưa từng thấy (unknown program có thể bao hàm một chương trình ứng dụng không đáng tin (untrusted application) và hệ thống phải theo dõi, giám sát và/hay khống chế những truy cập của nó vào các thiết bị và các tập tin). Những yêu cầu của một kiến trúc trong đó đòi hỏi sự phân tách giữa dữ liệu và các thao tác bên trong một máy tính bao gồm: Không tránh né hoặc qua mắt được. (non-bypassable) Có thể đánh giá và so sánh được (evaluatable) (để xác định tính hữu dụng và tính có hiệu lực của một chính sách) Luôn luôn được khởi động do yêu cầu - không tự động (always-invoked) (để ngăn ngừa việc tránh né những kiểm duyệt của hệ thống) Chống can thiệp bên ngoài - như xáo trộn, giả mạo, quấy nhiễu v.v. (tamper-proof) Những thực thi theo xu hướng MAC Một đề án nghiên cứu của NSA gọi là SELinux (Linux với nâng cấp về anh ninh (Security-Enhanced Linux)) xây dựng thêm kiến trúc điều khiển truy cập bắt buộc vào trong bộ điều hành trung tâm của hệ thống điều hành Linux. Trong phiên bản 4 của Linux cấp kinh doanh của Red Hat (Red Hat Enterprise Linux - viết tắt là RHEL) và cả trong những phiên bản sau này, các nhân viên sản xuất phần mềm đã cho biên dịch SELinux vào trong bộ điều hành trung tâm của nó. Bộ mã nguồn tiêu chuẩn của bộ điều hành trung tâm tại kernel.org đều có chứa mã nguồn của SE Linux trong nội dung của nó. SE Linux có khả năng hạn chế tất cả các quy trình trong hệ thống, song do muốn đảm bảo tính sử dụng dễ dàng của hệ điều hành, RHEL chỉ hạn chế những chương trình ứng dụng dễ bị tấn công nhất mà thôi. SUSE Linux (hiện thời được hỗ trợ và bảo quản bởi công ty Novell) có cho thêm phần thực thi của MAC vào trong nó, và phần thực thi này được gọi là AppArmor. AppArmor sử dụng một đặc trưng của phiên bản 2.6 bộ điều hành trung tâm Linux được gọi là LSM - Giao diện cho các môđun về anh ninh trong Linux - (Linux Security Modules interface). LSM cung cấp API với bộ điều hành trung tâm và nó cho phép các môđun trong mã nguồn của bộ điều hành trung tâm chi phối điều khiển truy cập. AppArmor không có khả năng hạn chế tất cả các chương trình ứng dụng, và mã nguồn của nó cũng chưa được sáp nhập với mã nguồn bộ điều hành trung tâm tại kernel.org. Bắt đầu từ phiên bản 5.0, công trình của đề án TrustedBSD khởi công được sáp nhập vào các phát hành của hệ điều hành FreeBSD. Sự phát triển công trình là một công việc chưa hoàn thành và vẫn còn đang được tiếp tục tiến hành (work in progress). Các mô hình thực hiện cũng như các năng lực trong phần mềm về truy cập an ninh càng ngày càng trở nên tốt hơn. MAC trong FreeBSD đến với người dùng với những cấu trúc bố trí trước của MAC hỗ trợ việc thực hiện những mô hình MAC như mô hình tính hoàn chỉnh của Biba (Biba Integrity Model) và mô hình An ninh đa tầng (Multi-Level Security). Hệ điều hành Trusted Solaris (Solaris Tin cẩn) của công ty Sun sử dụng một cơ chế điều khiển truy cập bắt buộc và được thi hành ở cơ sở hạ tầng của hệ thống (mandatory and system-enforced access control mechanism - MAC), trong đó sự cho phép sử dụng thông tin bí mật (clearance) và các nhãn hiệu được dùng để đảm bảo hiệu lực của chính sách an ninh. Những chương trình ứng dụng mà người dùng vận hành được phối hợp với mức độ an ninh của phiên giao dịch mà người dùng đang làm việc. Truy cập vào thông tin, vào chương trình ứng dụng, và vào các thiết bị đều được quản lý và chỉ có thể được ban phép cho tầng cấp an ninh tương đồng hoặc thấp hơn mà thôi. MAC ngăn chặn người dùng quyền viết vào các tập tin ở các tầng thấp hơn (writing to files at lower levels) và đảm bảo hiệu lực của việc này bằng các chính sách an ninh tại cơ sở, địa điểm. Không ai có quyền vượt qua trừ khi họ được ủy quyền đặc biệt hoặc có những đặc quyền. Các kiến trúc MAC trong quá khứ Hiện có vài hệ điều hành chuyên đề về an ninh (security-focused operating systems) thực hiện MAC, và nó tạo nên một phần trung tâm của các hệ điều hành dùng kiến trúc FLASK. Ghi chú So sánh Điều khiển truy cập tùy quyền (Discretionary access control - DAC) Điều khiển truy cập trên cơ sở vai trò (Role-Based Access Control - RBAC) Bảo quản an ninh trên cơ sở năng lực tiềm tàng (Capability-based security)
De Morgan, hay còn gọi là định lý De Morgan, được phát biểu và chứng minh bởi nhà toán học và logic học người Anh lớn lên tại Ấn Độ tên là Augustus De Morgan (1806-1871). Nguyên thủy, định lý này được chứng minh trong lý thuyết tập hợp. Phát biểu Cho A và B là hai tập hợp bất kì thì Trong đó, là ký hiệu của phần bù của tập X. Ứng dụng và Hệ quả Định lý này được phát biểu và dùng lại trong lô gíc và đại số Boole như sau: Từ hai mệnh đề trên cùng với bảng chân trị của phép hội () và phép nghịch đảo () người ta có thể chứng minh rằng mọi mệnh đề lô gíc đều có thể được biểu diễn bằng một mệnh đề mà chỉ bao gồm hai phép toán hội và phép nghịch đảo. Định lý De Morgan là tiền đề cơ bản cho sự phát triển của ngành máy tính vì chỉ cần có hai cổng điện toán - cổng đảo dấu (NOT gate) và cổng và (AND gate) chẳng hạn - thì người ta có thể thiết lập nên bất kì một phép toán lô gíc nào bằng tổ hợp của hai cổng điện toán trên.
Trương Đỗ (không biết năm sinh, năm mất) là quan Ngự sử Đại phu, Đình úy Tự khanh, Trung Đô phủ tổng quản thời Trần Duệ Tông, nổi tiếng là người thanh liêm, cương trực, dũng cảm. Tiểu sử Trương Đỗ là người làng Phù Đới, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, nay là làng Phù Tải, xã Thanh Giang (Thanh Miện, Hải Dương), đỗ Tiến sĩ và làm quan vào nửa sau thế kỷ XIV. Đây là thời kỳ nhà Trần ngày càng suy yếu, kỷ cương lỏng lẻo, gian thần tiếm quyền, khắp nước loạn lạc, nhân dân điêu đứng. Đời vua Trần Dụ Tông, thầy Chu Văn An dâng "thất trảm sớ" đòi chém đầu 7 tên gian thần nhằm làm trong sạch đám cầm quyền, nhưng vua không nghe nên ông lui về núi Phượng Hoàng (Chí Linh) mở trường dạy học. Đến đời Trần Duệ Tông, Ngự sử Đại phu Trương Đỗ ba lần dâng "Bãi chiến sớ" can vua chớ gây cuộc binh đao, nhưng không hiệu quả nên ông cũng từ quan, còn vua Duệ Tông phải trả giá cực đắt bằng chính mạng sống của mình cho thói ương ngạnh không chịu lắng nghe lời tôi hiền can gián. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, năm Bính Thìn (1376), vua Chiêm Thành đã gửi dâng cho vua Trần 10 mâm vàng nhưng viên quan tham ô là Đỗ Tử Bình biển thủ đi rồi trí trá tâu vua rằng Chế Bồng Nga ngạo mạn vô lễ và kích động vua đem quân sang hỏi tội. Vua Duệ Tông nhẹ dạ cả tin và quyết tự mình mang quân đi đánh. Trương Đỗ xác định rõ đây là cuộc chiến tranh không đáng có, chỉ gây tai họa cho nhân dân hai nước nên dâng sớ can: "...Chiêm Thành ở tận cõi Tây xa xôi, hẻo lánh, núi sông hiểm trở. Nay bệ hạ mới lên ngôi, đức chính, giáo hóa chưa thấm nhuần tới phương xa, nên sửa sang văn đức khiến nó phải tự đến thần phục. Sau này, nếu nó không theo, sẽ sai tướng đi đánh cũng không muộn gì". Cốt lõi của lá sớ là dùng ân đức nhân nghĩa để cảm hóa chứ không dùng bạo lực chiến tranh. Trong nước vừa dẹp xong loạn Dương Nhật Lễ, tình hình chưa ổn định, thế và lực còn yếu; mà phía Chiêm Thành lại đang khởi sắc với ông vua dũng cảm là Chế Bồng Nga, cho nên hòa bình là giải pháp duy nhất đúng lúc ấy. Thời phong kiến, vua nắm quyền tối cao, cho nên nói trái ý vua là điều mà viên quan nào cũng hết sức tránh, nếu không muốn mất chức quyền, bổng lộc và chuốc họa vào thân. Trương Đỗ ba lần dâng "Bãi chiến sớ" trái ngược hẳn với quyết định của vua, thật là người chính trực và dũng cảm hơn hẳn các bạn đồng liêu. Ông từ quan để phản đối chiến tranh. Tinh thần vì nghĩa quên thân ấy dễ mấy ai sánh kịp! Nhà sử học lỗi lạc Ngô Sĩ Liên viết: "Trương Đỗ khi làm quan thì không giấu lời nói thẳng, thế là xứng đáng với chức vụ của mình. Khi can, dâng sớ tới ba lần, thế là dám chạm đến cả vua. Mà vua không nghe, thế là tâm trí của vua đã lẫn rồi. Người có trách nhiệm phải nói, không được nghe theo thì bỏ đi, thế là sự tiến lui của Trương Đỗ đều hợp lẽ phải vậy. Tuy lời nói thẳng thường trái tai vua, nhưng lợi cho thân vua. Việc này có thể nêu lên làm gương được". Cự tuyệt lời can tâm huyết của Trương Đỗ, Trần Duệ Tông cứ thân chinh đem 12 vạn quân sang đánh Chiêm Thành, quả nhiên, sa vào bẫy phục kích của đối phương. Chỉ trong một canh giờ, đại quân tan vỡ. Duệ Tông cùng nhiều tướng lĩnh tử trận. Trương Đỗ giữ chức Ngự sử Đại phu, đứng đầu Ngự sử đài - cơ quan can gián vua. Do đức độ, tài năng, ông còn được vua tin cậy giao kiêm nhiệm chức Đình úy tự khanh (đứng đầu cơ quan tra xét các hình án) và Trung đô phủ tổng quản (quản lý mọi mặt của kinh thành Thăng Long). Quyền hành rất lớn, nhưng Trương Đỗ vẫn luôn giữ vững lối sống cao đẹp. Đại Việt sử ký toàn thư đã nêu tóm tắt một số nét phẩm chất đạo đức của ông: "Trương Đỗ là người thanh liêm, thẳng thắn, không bè đảng, phóng khoáng, có chí lớn... Ông làm quan trong sạch, nghèo túng, không gây dựng điền sản, con cháu nối đời làm quan cũng có tiếng là nghèo mà trong sạch...". Những từ ngữ thật cô đọng, hàm súc, chỉ rõ những đức tính cao quý mà những người nắm công quyền thời nào cũng cần noi theo. Sách Kiến văn tiểu lục của Bảng nhãn Lê Quý Đôn trong tập II, trang 257 có tôn vinh 5 vị cao sĩ thời Trần thì Trương Đỗ được xếp sau Chu Văn An một bậc. Đánh giá chung về mấy nhân vật này, Lê Quý Đôn viết: "Đây là những người trong trẻo, cương trực, cao thượng, có phong độ như sĩ quân tử thời Tây Hán, thật không phải những người tầm thường có thể theo kịp được. Bởi vì nhà Trần đãi ngộ sĩ phu rộng rãi, không bó buộc, hòa nhã, có lễ độ, cho nên nhân vật trong một thời có chí khí tự lập, hào hiệp, cao siêu, vững vàng, vượt ra ngoài thói thường, làm rạng rỡ trong sử sách, trên không thẹn với trời, dưới không thẹn với đất...".
Microsoft Visual C++ (còn được gọi là MSVC) là một sản phẩm Môi trường phát triển tích hợp (IDE) cho các ngôn ngữ lập trình C, C++, và C++/CLI của Microsoft. Nó có các công cụ cho phát triển và gỡ lỗi mã nguồn C++, đặc biệt là các mã nguồn viết cho Microsoft Windows API, DirectX API, và Microsoft.NET Framework. Các đặc trưng Các chức năng của Visual C++ như tô sáng cú pháp, IntelliSense (chức năng về tự động hoàn thành việc viết mã) và các chức năng gỡ lỗi tiên tiến. Ví dụ, nó cho phép gỡ lỗi từ xa sử dụng một máy tính khác và cho phép gỡ lỗi bằng cách duyệt qua từng dòng lệnh tại một thời điểm. Chức năng "biên tập và tiếp tục" cho phép thay đổi mã nguồn và dịch lại chương trình trong quá trình gỡ lỗi, mà không cần phải khởi động lại chương trình đang được gỡ lỗi. Đặc trưng biên dịch và xây dựng hệ thống, tính năng tiền biên dịch các tập tin đầu đề (header files) và liên kết tịnh tiến (incremental link) - chỉ liên kết những phần bị thay đổi trong quá trình xây dựng phần mềm mà không làm lại từ đầu: Những đặc trưng về tính năng này thuyên giảm tổng thời gian biên tập, biên dịch và liên kết chương trình phần mềm, đặc biệt đối với những đề án phần mềm lớn. Lịch sử Phiên bản trước của Visual C Professional Edition được gọi là Microsoft C/C++ Professional Development System. Phiên bản tương đương với Phiên bản Tiêu chuẩn (Standard Edition) ngày nay được gọi là Microsoft QuickC. Visual C++ 1.0, có MFC 2.0, là phiên bản đầu tiên của Visual C++, ra đời năm 1992, hỗ trợ cả 16-bit và 32-bit, mặc dù đây là phiên bản tiếp sau của C/C++ 7.0. Visual C++ 1.5, có MFC 2.5, hỗ trợ thêm OLE 2.0 và ODBC cho MFC. Nó nguyên chỉ là một phiên bản dùng 16-bit mà thôi và là phiên bản đầu tiên của Visual C++ được in ấn trên CD-ROM. Phiên bản này cũng quan trọng như phiên bản trước với hỗ trợ cho việc xây dựng phần mềm 16-bit. Visual C++ 2.0, có MFC 3.0, là phiên bản đầu tiên chỉ dành riêng cho 32-bit, mặc dù vào thời điểm đó cũng có Visual C++ 1.51 (một bản cập nhật của Visual C++ 1.5) ra đời. Các phiên bản cập nhật cho phiên bản này gồm có: Visual C++ 2.1, ra đời cùng lúc với Visual C++ 1.52, là một bản cập nhật khác cho Visual C++ 1.5, và 2.2. Visual C++ 4.0, hỗ trợ MFC 4.0, được thiết kế cho Windows 95, cũng như Windows NT. Phiên bản cập nhật cho nó gồm có Visual C++ 4.1 và Visual C++ 4.2, không hỗ trợ Win32s. Visual C++ 5.0, hỗ trợ MFC 4.21, là một bản cập nhật chính từ 4.2. Visual C++ 6.0, MFC 6.0, ra đời 1998, đã và đang được sử dụng rộng rãi cho các project lớn và nhỏ. Visual C++.NET 2002 (còn được gọi là Visual C++ 7.0), hỗ trợ MFC 7.0, ra đời năm 2002, hỗ trợ kiến tạo mã trong khi liên kết (link time code generation) và kiểm lỗi những duyệt thảo trong quá trình thi hành (debugging runtime checks). Phiên bản này còn bao gồm các phần mở rộng sang ngôn ngữ C++, cùng đồng thời kèm theo một giao diện người dùng mới (phân hưởng cùng với Visual Basic và Visual C#). Đây cũng chính là nguyên nhân tại sao Visual C++ 6.0 hiện vẫn còn được sử dụng rộng rãi. Visual C++.NET 2003 (còn được gọi là Visual C++ 7.1), bao gồm MFC 7.1, được phát hành trong năm 2003 và là một phiên bản nâng cấp cơ bản đối với Visual C++.NET 2002. Embedded Visual C++ (Visual C++ nhúng), được dùng trong dòng hệ điều hành Windows CE. Sau này bộ Microsoft Visual Studio 2005 cũng tích hợp eMbedded Visual C++ như một môi trường phát triển riêng biệt. Visual C++ 2005 (Visual C++ 8.0), MFC 8.0, ra đời tháng 11 năm 2005. Hỗ trợ C++/CLI và OpenMP. Visual C++ 2008 (Visual C++ 9.0) Visual C++ 2010 (Visual C++ 10.0) Visual C++ 2012 (Visual C++ 11.0) Visual C++ 2013 Visual C++ 12.0) Visual C++ 2015 Visual C++ 14.0) Các phiên bản hiện thời Có sáu phiên bản của Visual C++ đang được sẵn sàng cho việc sử dụng: Microsoft Visual C++ 2008 Express Edition Microsoft Visual Studio 2015 Community Microsoft Visual Studio 2015 Professional Microsoft Visual Studio 2015 Enterprise Microsoft Visual Studio 2015 Code Microsoft Visual Studio 2015 Express Microsoft Visual Studio 2017 (Community/Professional/Enterprise Bộ Visual Studio chứa Visual C++. Microsoft Visual C++ 2015 Express được cho phép tải về miễn phí tại trang chủ MSDN. Các liên kết ngoài Microsoft's Visual C++ Developer Center Microsoft's Visual C++ Developer Center Community The Visual C++ 2005 Express Edition free download Integrating Visual C++ Toolkit 2003 free optimizing compiler and linker with Visual C++.NET Standard Building Win32 Applications Using Visual C++ 2005 Express
Ánh Tuyết có thể là: Ca sĩ Ánh Tuyết người Hải Phòng nổi tiếng cuối thập niên 1950 và trong thập niên 1960. Ca sĩ Ánh Tuyết, nổi tiếng từ khoảng thập niên 1990 với các ca khúc Văn Cao và nhạc tiền chiến. Nghệ nhân Phạm Thị Ánh Tuyết, nổi tiếng về ẩm thực Hà Nội
Hệ thống sinh dục nam gồm có: tinh hoàn và bộ phận sinh dục phụ như đường dẫn tinh, tuyến tiền liệt, tuyến hành niệu đạo, túi tinh và dương vật. Tinh hoàn Tinh hoàn là một cơ quan sinh tinh trùng, đồng thời là tuyến nội tiết (tiết ra nội tiết tố nam testosteron) làm cho cơ thể phát triển giới tính nam. Hình thể ngoài: Có hai tinh hoàn phải và trái nằm trong bìu. Tinh hoàn trung bình có kích thước dài 5 cm, rộng 3 cm, dày 2,5 cm, cân nặng khoảng 20g. Tinh hoàn được bao bọc bởi một lớp vỏ xơ dày, trắng và không đàn hồi gọi là lớp áo trắng. Hình thể trong: Tinh hoàn được chia thành 300-400 tiểu thùy ngăn cách nhau bởi các vách xuất phát từ mặt trong của lớp áo trắng. Mỗi tiểu thùy có từ 2-4 ống sinh tinh xoắn. Tinh trùng do các ống này sinh ra được đổ vào các ống sinh tinh thẳng, rồi vào lưới tinh hoàn ở phần sau trên của mỗi tinh hoàn. Từ lưới tinh hoàn có 12-15 ống xuất dẫn tinh trùng vào các ống mào tinh. Ở giữa các ống sinh tinh có những nhóm tế bào kẽ tiết ra hormon testosteron. Mào tinh hoàn Mào tinh hoàn uốn cong hình chữ C nằm dọc theo đầu trên và bờ sau tinh hoàn. Mào tinh hoàn có ba phần là đầu, thân và đuôi. Ống dẫn tinh Ống dẫn tinh đi từ đuôi mào tinh hoàn đến mặt sau bàng quang thì kết hợp với ống tiết của túi tinh để tạo thành ống phóng tinh. Nó dài khoảng 30 cm, đường kính 2–3 mm nhưng lòng ống chỉ rộng khoảng 0,5 mm. Túi tinh Túi tinh là một túi dự trữ tinh trùng, là nơi tiết một ít chất dịch trước khi phóng tinh. Nó dài khoảng 5 cm, nằm ở mặt sau bàng quang, dọc bờ dưới của ống dẫn tinh. Đầu dưới của túi tinh mở vào một ống bài xuất ngắn gọi là ống tiết. Ống này kết hợp với ống dẫn tinh cùng bên tạo thành ống phóng tinh. Ống phóng tinh Mỗi ống phóng tinh 2 cm, do ống tinh và ống tiết của túi tinh kết hợp lại tạo thành. Hai ống chạy chếch qua tuyến tiền liệt và đổ vào niệu đạo tiền liệt. Ống mào tinh, ống dẫn tinh, ống phóng tinh và niệu đạo nam hợp thành đường dẫn tinh. Tuyến tiền liệt Tuyến tiền liệt là một khối hình nón mà đáy ở trên, đỉnh ở dưới. Tuyến rộng 4 cm, cao 3 cm và dày 2,5 cm, nặng trung bình 15-20 g (ở người lớn độ tuổi 30-40); ở sau tuổi 45, tuyến thường to ra. Tuyến tiền liệt nằm ở dưới bàng quang và bao quanh niệu đạo tiền liệt. Dịch tiết của tuyến tiền liệt đóng góp khoảng 60% thể tích tinh dịch và góp phần vào sự vận động và sức sống của tinh trùng. Dịch tiết của tuyến tiền liệt được đổ vào niệu đạo tiền liệt. Tuyến hành niệu đạo Có hai tuyến hành niệu đạo nằm ở hai bên niệu đạo màng. Mỗi tuyến to bằng hạt ngô và đổ dịch tiết vào niệu đạo hành xốp bằng một ống tiết. Dịch tiết của tuyến là một chất kiềm có tác dụng trung hòa dịch acid của nước tiểu trong niệu đạo, qua đó bảo vệ cho tinh trùng. Tuyến cũng tiết ra niêm dịch để bôi trơn đầu dương vật và niêm mạc niệu đạo. Dương vật Dương vật gồm gốc, thân và quy đầu dương vật. Gốc dương vật nằm đáy chậu và dính vào xương mu bởi dây chằng treo dương vật. Thân dương vật hình trụ, có mặt trên hơi dẹt gọi là mu dương vật mặt dưới gọi là mặt niệu đạo. Qui đầu dương vật được bao bọc trong một nếp nửa da nửa niêm mạc có thể di động được gọi là bao quy đầu. Ở đỉnh quy đầu có lỗ niệu đạo ngoài (hay còn gọi là lỗ sáo). Dương vật là cơ quan niệu-sinh dục ngoài vừa để dẫn nước tiểu vừa để phóng tinh dịch. Bìu dái Bìu dái là một túi da rất sẫm màu do các lớp của thành bụng trĩu xuống tạo thành. Nó được chia thành hai lớp ngăn, mỗi ngăn chứa một tinh hoàn và một mào tinh. Trong bìu có lớp có Dartos được tạo nên bởi sợi cơ trơn, sợi đàn hồi và sợi liên kết, tương tự như một cơ bám da.
Pharaon (tiếng Copt: ⲡⲣ̅ⲣⲟ Pǝrro; phiên âm tiếng Việt: Pharaông; trong tiếng Ai Cập cổ có nghĩa là "ngôi nhà vĩ đại") là tước hiệu chỉ các vị vua của Ai Cập cổ đại từ Vương triều thứ Nhất cho đến khi bị Đế Quốc La Mã thôn tính năm 30 TCN. Trên thực tế, tước hiệu này chỉ được sử dụng chính thức từ thời kỳ Tân Vương quốc, nhất là Vương triều thứ 18 nhưng đã trở nên thông dụng trong việc dùng để chỉ tất cả các vị vua Ai Cập cổ đại. Tên gọi Pharaon, nghĩa là "ngôi nhà vĩ đại", ban đầu được dùng để chỉ cung điện của vua, nhưng dưới triều đại của Thutmose III (1479–1425 trước công nguyên), sau sự cai trị ngoại lai của Hyksos, đã trở thành cách gọi nhà vua và con trai của thần Ra. "Người ta nói rằng vị thần mặt trời Ai Cập Ra, được xem là cha của mọi pharaon, đã tạo ra chính mình từ một mô đất hình kim tự tháp trước khi sinh ra tất cả các vị thần khác." (Donald B. Redford, tiến sĩ, Penn State) Thuật ngữ pharaon xuất phát từ một từ nối , được viết bằng hai dấu hiệu hai chữ "ngôi nhà" và "cây cột". Từ này chỉ được dùng trong các cụm từ lớn hơn như smr pr-ꜥꜣ 'cận thần của ngôi nhà tối cao', chỉ những tòa nhà của cung điện. Từ Vương triều thứ 12 trở đi từ này xuất hiện trong một câu chúc 'ngôi nhà vĩ đại, hãy sống, thịnh vượng và mạnh khỏe', nhưng vẫn nhằm chỉ cung điện hoàng gia chứ không phải một người. Ví dụ lâu đời nhất về việc sử dụng pr-ꜥꜣ để chỉ nhà vua là trong một bức thư gửi Amenhotep IV (Akhenaten), cai trị trong khoảng thời gian 1353–1336 trước công nguyên, cụ thể là dòng chữ 'Pharaon, hãy sống, thịnh vượng và mạnh khỏe!. Trong Vương triều thứ 18 (từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIV trước công nguyên), tước hiệu pharaon được sử dụng để gọi nhà vua một cách kính cẩn. Tuy nhiên, khoảng cuối Vương triều thứ 21 (thế kỉ X trước công nguyên), thay vì được dùng độc lập như trước, nó bắt đầu được thêm vào những tước hiệu đứng trước tên của nhà vua, và từ Vương triều thứ 25 (từ thế kỉ VIII đến thế kỉ VII trước công nguyên), nó trở thành tiền tố duy nhất được dùng phổ thông cho hoàng gia. Từ Vương triều thứ 19 trở đi, pr-ꜥꜣ đứng độc lập cũng được dùng thường xuyên như hm.f, 'Bệ hạ'. Do đó, thuật ngữ này, từ một từ dùng để chỉ một tòa nhà, đã biến thành tên gọi kính cẩn dành cho nhà vua, nhất là ở Vương triều thứ 22 và Vương triều thứ 23. Chẳng hạn, trường hợp đầu tiên được ghi nhận về việc tước hiệu pharaon gắn liền với tên một nhà vua xảy ra vào năm 17 của Siamun trên một mảnh giấy ghi chép của các thầy tế Karnak. Ở đây, việc một cá nhân được phong làm thầy tế Amun xảy ra chính xác vào triều đại của Pharaon Siamun. Tập quán này tiếp diễn trong triều đại tiếp theo của Psusennes II cũng như các vị vua của Vương triều thứ 21. Trong khi đó việc gọi nhà vua là pr-ꜥꜣ dược tiếp tục trong các văn hóa dân gian Ai Cập. Đến lúc này, từ pr-ꜥꜣ đã được cấu trúc lại và được phát âm là , trong tiếng Hy Lạp cổ đại và trong tiếng Latinh, nguồn gốc của từ tiếng Anh "Pharaoh". Theo thời gian, biến thành từ tiếng Copt prro và sau đó là rro. "Pharaon" trong tiếng Ả Rập hiện đại ở Ai Cập ngày nay là فرعون phát âm như Firʻawn; trong tiếng Hebrew là פַּרְעֹה phát âm như Parʻō và trong tiếng Ge'ez là Färʻon, tất cả những tên gọi trên đều xuất phát từ per-aa trong tiếng Ai Cập cổ đại. Biểu trưng Quyền trượng và gậy Quyền trượng và gậy là dấu hiệu chung của quyền lực ở Ai Cập cổ đại. Một trong số những quyền trượng hoàng gia đầu tiên được tìm ra trong lăng mộ của Khasekhemwy ở Abydos. Các vị vua cũng được biết đến với việc sử dụng một cây gậy, Pharaon Anedjib được miêu tả trên các bức hình khắc vào đá là đang cầm một cây gậy mks. Chiếc quyền trượng có lịch sử lâu đời nhất có lẽ là heqa, đôi khi được miêu tả là cái móc của người chăn cừu. Những ví dụ sớm nhất của biểu chương này có từ thời sơ triều đại. Một chiếc quyền trượng đã được tìm thấy trong một lăng mộ ở Abydos có từ giai đoạn Naqada. Một chiếc quyền trượng khác có liên quan đến nhà vua là was, một cây gậy dài có đỉnh là đầu thú. Những bức vẽ miêu tả was có từ Vương triều thứ nhất. Chiếc quyền trượng này xuất hiện trong tay cả các vị vua lẫn các vị thần. Chiếc đòn đập lúa có liên quan mật thiết tới quyền trượng heqa, nhưng nhà vua cũng được miêu tả chỉ cầm chiếc đòn đập lúa, ví dụ như trên một cán dao có từ thời sơ triều đại, hay trên đầu chùy Narmer. Uraeus Bằng chứng lâu đời nhất về việc sử dụng Uraeus — một con rắn hổ mang đang bạnh cổ — thuộc triều đại của Den từ Vương triều thứ nhất. Con rắn hổ mang được cho là sẽ bảo vệ pharaon bằng cách phun lửa vào kẻ địch. Vương miện và mũ đội đầu Vương miện màu đỏ của Hạ Ai Cập - Deshret - có từ thời sơ triều đại. Một chiếc vương miện đỏ đã được tìm thấy trên một mảnh gốm vỡ ở Naqada. Vua Narmer cũng được miêu tả đang đội vương miện đỏ trên đầu chùy Narmer và tấm bảng Narmer. Vương miện màu trắng của Thượng Ai Cập - Hedjet - được tìm thấy trên một lư hương Qustul có từ thời sơ triều đại. cả Vua Hổ Cáp lẫn vua Narmer đều được miêu tả đang đội vương miện trắng. Sự kết hợp của vương miện đỏ và trắng - Pschent - được ghi nhận lần đầu tiên vào Vương triều thứ nhất. Những mô tả đầu tiên có từ triều đại của Djet. Mũ đội đầu khat và nemes Mũ đội đầu khat là một loại vải trùm đầu được buộc đuôi lại như tóc đuôi gà. Những mô tả đầu tiên về khat có từ triều đại của Den, nhưng không được nhắc đến cho tới triều đại của Djoser. Mũ đội đầu Nemes có từ thời Djoser, dựa trên bức tượng của ông ở Saqqara. Chứng cứ Nhà Ai Cập học Bob Brier đã chỉ ra rằng mặc dù rất phổ biến trong những bức chân dung hoàng gia, chưa từng có một chiếc vương miện Ai Cập cổ nào được tìm ra. Lăng mộ của Tutankhamun, được khai quật trong trạng thái gần như nguyên vẹn, chứa những biểu trưng quyền lực như cái móc và cần đập lúa, nhưng không hề có một chiếc vương miện nào. Vương miện được cho là có phép thuật. Brier phỏng đoán rằng vương miện là những vật dụng tôn giáo, nên rất có thể một vị pharaon đã chết sẽ không được đem theo chiếc vương miện vào hầm mộ, mà thay vào đó chúng được truyền lại cho người kế vị. Tước hiệu Trong thời kỳ Cổ Vương quốc, các vị vua có thể có tới 3 tước hiệu. Tên Horus là cổ nhất và có từ thời sơ triều đại. Tên Nesw Bity được bổ sung giữa Vương triều thứ nhất. Tên Nebty xuất hiện ở cuối Vương triều thứ nhất. Tên bik-nbw chưa được tìm hiểu rõ. Tên ngai và tên đầy đủ xuất hiện muộn hơn và thường nằm trong hình ô van. Đến thời kỳ trung vương quốc, các tên gọi của nhà vua bao gồm Horus, nebty, Horus vàng, tên đầy đủ và tên ngai, với một số pharaon, chỉ có một hoặc hai trong số đó được biết đến. Tên Nesw Bity Tên Nesw Bity bắt nguồn từ triều đại của Den, được viết bằng chữ tượng hình của "cây sậy và con ong", thường được dịch là vua của Thượng và Hạ Ai Cập. Tên news bity mới có thể là tên khai sinh của nhà vua và là tên gọi được ghi chép lại trong sử sách. Tên Horus Tên Horus được nhà vua đặt khi đăng quang và được viết trong một khung hình vuông tượng trưng cho cung điện gọi là serekh. Ví dụ lâu đời nhất của serekh có từ triều đại của vua Ka, trước Vương triều thứ nhất. Tên Horus của một số vị vua thể hiện mối liên hệ với vị thần Horus. Aha nghĩa là "chiến binh Horus", Djer nghĩa là "Horus hùng mạnh", vân vân. Sau đó, các vị vua thể hiện những lý tưởng về vương vị trong tên Horus của mình, Khasekhemwy nghĩa là "Horus: hai quyền năng hòa làm một", Nebra nghĩa là "Horus, chúa tể của Mặt Trời", vân vân. Tên Nebty Ví dụ đầu tiên của tên nebty có từ triều đại của vua Aha ở Vương triều thứ nhất. Tên gọi này liên kết nhà vua với các vị nữ thần Nekhbet và Wadjet. Đứng trước tước hiệu này là hình ảnh con kền kền (Nekhbet) và con rắn hổ mang (Wadjet) trên một chiếc rổ. Tên Horus Vàng Đứng trước tên Horus vàng là hình ảnh con chim ưng trên một dấu hiệu vàng (nbw). Tước hiệu này có lẽ tượng trưng cho thần tính của nhà vua. Mối liên hệ giữa hai dấu hiệu Horus và vàng có thể dùng để chỉ quan niệm rằng cơ thể các vị thần được làm bằng vàng, cũng như các kim tự tháp và cột đá tượng trưng cho tia nắng mặt trời. Dấu hiệu vàng còn có thể được dùng để chỉ Nubt, thành phố của Set. Điều này ám chỉ việc Horus đánh bại Set. Tên Riêng và Tên Ngai Hai tên gọi này được viết trong một hình ô van. Tên ngai thường đứng sau Vua của Thượng và Hạ Ai Cập (nsw bity) hoặc Chúa tể của Hai Vùng đất (nebtawy) và thường bao gồm tên thần Re. Tên riêng thường đứng sau Con trai thần Re (sa-ra) hoặc Chúa tể của Sự hiện diện (neb-kha).
Mai Hoa Dịch số (chữ Hán: 梅花易數) là một hình thức bói toán được xây dựng trên cơ sở triết lý Kinh Dịch với các thuyết Can Chi, âm dương, ngũ hành, bát quái kết hợp thuyết vận khí, bát quái kết hợp ngũ hành… bằng cách lập quẻ chính, hào động và quẻ biến; căn cứ vào sự vật, hiện tượng quan sát hay nghe được, đo đếm được hoặc giờ, ngày, tháng, năm xảy ra (theo âm lịch). Đối tượng bói Xem bói về sự việc, hiện tượng và xem về mệnh vận của người, tương tự như Tử vi, Bát tự Hà Lạc… Nguồn gốc Thiệu Ung (邵雍) (1011 - 1071), tự là Nghiêu Phu (堯夫), hiệu là Khang Tiết (康節), người đời Bắc Tống (Trung Quốc) đã nghiên cứu và phát triển Dịch học và đã có những đóng góp to lớn. Ông đã dùng bát quái để dự đoán thông tin, sáng tạo ra phương pháp lấy quẻ theo sự vật, hiện tượng quan sát hay nghe được hoặc giờ, ngày, tháng, năm (theo âm lịch) xảy ra; dùng các phép tính cộng - trừ để lập quẻ; tìm ra hào động; căn cứ sự sắp xếp của âm dương ngũ hành bát quái cùng các phương pháp phân tích vận khí suy vượng, ngũ hành sinh khắc, quẻ thể, dụng cùng với văn từ của Chu Dịch để đoán giải vận hạn, đoán giải sự việc. Bộ sách "Mai Hoa Dịch số" của Thiệu Tử còn lưu lại đến ngày nay và được coi là một trong Tứ Đại kỳ thư của nền văn hoá Trung Hoa gồm: Kinh dịch (Chu dịch) của Chu Văn Vương soạn, Mai Hoa Dịch do Thiệu Khang Tiết soạn, Ma Y Tướng Thuật do Ma Y Tôn Giả soạn và Địa Lý Toàn Thư (không rõ tác giả) Việt nam dịch là Phong Thủy Toàn Tập gồm 3 tập. Từ thập niên 1980, Thiệu Vĩ Hoa (sinh năm 1936 tại Hồ Bắc - Trung Quốc), là hậu duệ đời thứ 29 của Thiệu Khang Tiết, đã nghiên cứu, phát triển phương pháp dự đoán này và được cho là có những thành công đáng kể. Nhiều tác phẩm của Thiệu Vĩ Hoa đã được dịch và phát hành tại Việt Nam. Các nguyên tắc, nguyên lý Có nhiều cách lập quẻ trong Mai Hoa Dịch Số, có thể lập quẻ theo số ký tự chữ viết, theo số lượng vật đếm được, theo năm tháng ngày giờ toán, lập theo tượng quẻ, Lập quẻ đơn: Quẻ trừ 8 Khi tính lập quái bất kể số nhiều hay ít, chỉ lấy số 8 trừ bớt đi. Nếu trừ 1 lần 8 mà còn lớn, thì trừ nhiêu lần 8 tiếp theo cho tới khi nào số chỉ tồn (số còn lại) từ 8 trở xuống mà xem quẻ. Trị số của quẻ theo Tiên thiên bát quái: Càn = 1; Đoài = 2; Ly = 3; Chấn = 4; Tốn = 5; Khảm = 6; Cấn = 7; Khôn = 8. Tính hào động: Hào trừ 6 Xác định hào động thì lấy tổng số của Thượng quái và Hạ quái và cộng thêm số giờ mà trừ cho 6, trừ 1 hoặc nhiều lần 6, khi nào số còn lại từ 6 đến 1 mới được. Rồi xem Hào động ấy là hào dương thì đổi ra âm, nếu Hào động là âm thì đổi ra dương và quẻ mới sẽ là quẻ biến, quẻ có hào động (chưa đổi từ âm ra dương hoặc ngược lại) sẽ là quẻ dụng (quẻ khách). Phương vị tám quẻ Phương vị tám quẻ tiên thiên của Phục Hy Tám quẻ đọc theo thứ tự: Càn 1, chính Nam - Đoài 2, Đông nam - Ly 3, Chính Đông - Chấn 4, Đông Bắc: thuộc dương, chuyển vận nghịch chiều kim đồng hồ. Tốn 5, Tây Nam - Khảm 6, chính Tây - Cấn 7, Tây Bắc - Khôn 8, chính Bắc: thuộc âm, chuyển vận thuận chiều kim đồng hồ. Thứ tự của các quẻ dựa vào quan hệ kết hợp hào dương thuộc lưỡng nghi kết hợp Tứ tượng (thái dương, thiếu âm, thiếu dương, thái âm) sinh ra Càn, Đoài, Ly, Chấn; và âm thuộc lưỡng nghi kết hợp Tứ tượng sinh ra Tốn, Khảm Cấn, Khôn. Phương vị tám quẻ Hậu thiên của Văn Vương kết hợp Lạc thư Tám quẻ đọc theo thứ tự: Càn, số 6 - Khảm, số 1 - Cấn, số 8 - Chấn, số 3 - Tốn, số 4 – Ly, số 5 – Khôn, số 2 – Đoài, số 7 Thứ tự của các quẻ dựa vào quan hệ Tương Sinh của ngũ hành. Phương của địa bàn làm cơ sở cho hướng: Càn ứng với Thiên hành Kim, hướng Tây Bắc Khảm ứng với Thủy, hướng chính Bắc Cấn ứng với Sơn hành Thổ, hướng Đông Bắc Chấn ứng với Lôi hành Mộc, hướng chính Đông Tốn ứng với Phong hành Mộc, hướng Đông Nam Ly ứng với Hỏa, hướng chính Nam Khôn ứng với Địa hành Thổ, hướng Tây Nam Đoài ứng với Trạch hành Kim, hướng chính Tây Âm dương ngũ hành quan hệ tương khắc qua tâm: Càn Dương Kim ở Tây Bắc khắc Tốn Âm Mộc ở Đông Nam Khảm Dương Thủy ở chính Bắc khắc Ly Âm Hỏa ở chính Nam Cấn Dương Thổ ở Đông Bắc, Khôn Âm Thổ ở Tây Nam, Âm Dương tương khắc Đoài Âm Kim ở chính Tây khắc Chấn Dương Mộc ở chính Đông. Cách lập quẻ Năm, tháng, ngày, giờ Có hai trường phái chính trong Mai Hoa Dịch, đó là Mai Hoa Dịch Số và Mai Hoa Thần Số. Thông thường, các tài liệu công khai chỉ nói về mai hoa dịch số mà thôi, còn tài liệu về Mai Hoa Thần Số đa phần là mật truyền. Sau đây là cách lập quẻ theo phiên bản Mai Hoa Dịch Số. Dùng số chi năm, số của tháng, số của ngày (âm lịch) để xác định thượng quái (hay ngoại quái); dùng số chi năm, số của tháng, số của ngày, số chi giờ (âm lịch) để xác định hạ quái (hay nội quái); dùng số chi năm, số của tháng, số của ngày, số chi giờ (âm lịch) để xác định hào động. Dùng số can năm, số của tháng, số của ngày, số chi giờ sinh (theo âm lịch) lập quẻ để xem mệnh vận đời người; dùng số can năm, số của tháng, số của ngày, số chi giờ xem đoán (theo âm lịch) lập quẻ để xem đoán về sự việc, hiện tượng. Xem bằng số vật Khi muốn bốc quẻ, ta thấy vật gì, đếm số thăm bốc được bao nhiêu, rồi trừ cho một lần hoặc nhiều lần 8, lấy số chỉ tồn làm Thượng quái. Kế cũng lấy số thăm bốc được lần trước cộng thêm số giờ, được bao nhiêu rồi cũng trừ cho một lần hoặc nhiều lần 8, rồi lấy số chỉ tồn làm Hạ quái. Sau hết lấy tổng số đem trừ cho một lần hoặc nhiều lần 6, số chỉ tồn làm hào động. Xem bằng âm thanh nghe được Nghe tiếng nói, tiếng chim hót, tiếng các loại thú kêu, tiếng động, tiếng đánh, tiếng gõ v.v... đều có thể toán quẻ được. Phàm nghe và đếm được bao nhiêu tiếng cũng làm như cách trên. Dùng tiếng nghe được cộng thêm số giờ lúc nghe là giờ thứ mấy trong 12 chi giờ. Nếu nhiều quá 8 thì cũng trừ cho 8, lấy số chỉ tồn làm Hạ quái. Dùng tiếng nghe được và số giờ, trừ cho một hay nhiều lần 6, rồi lấy số chỉ tồn từ 6 đến 1, làm Hào động. Xem từ Phàm toán theo lối từ viết, nếu số từ mà đều nhau thì lấy một nửa làm Thượng quái, một nửa làm Hạ quái. Nếu số từ không đều nhau, thì lấy kém một từ làm Thượng quái gọi là Thiên khinh thanh và lấy số từ nhiều hơn một từ là Hạ quái, gọi là Địa trọng trọc. Xem một từ Phép bói Mai Hoa Dịch số xem từ được xây dựng để xem chữ Hán, một loại chữ viết tượng hình, một chữ (từ) gồm một hay nhiều nét. Ta có thể ứng dụng phép bói Mai Hoa Dịch số xem từ khác chữ Hán, như các chữ viết dùng chữ cái gốc Latinh, một từ gồm một hay nhiều chữ cái. Khi lập quẻ Mai Hoa, một nét trong một từ của chữ Hán tính tương đương một chữ cái trong một từ dùng chữ cái gốc Latinh. Một từ gọi là Thái cực vị phân nghĩa là thủa trời đất chưa chia. Nếu viết tháu (tức là một thể viết từ Hán ngoằn ngoèo rất khó đọc) mà không thể đếm được nét, thì không xem được, nếu viết một từ rõ ràng từng bộ phận, thì lấy bộ phận bên trái là dương, bộ phận bên phải là âm; bộ phận bên trái đếm được bao nhiêu nét, hay chữ cái đem làm Thượng quái, bộ phận bên phải đếm được bao nhiêu nét, hay chữ cái, đem làm Hạ quái, kế lấy số nét, hay chữ cái cả hai bộ phận âm và dương của toàn từ mà tìm hào động. Xem hai từ Hai từ gọi là Lưỡng nghi, chia đều lấy số nét, hay chữ cái của từ đầu làm Thượng quái và số nét, hay chữ cái từ thứ hai làm Hạ quái. Xem ba từ Ba từ gọi là Tam tài, lấy một từ làm Thượng quái và hai từ sau làm Hạ quái (đếm số nét hay chữ cái). Xem bốn từ Bốn từ gọi là Tứ tượng, chia đều làm 2 quái Thượng và Hạ. Còn trên bốn từ, không cần đếm số nét, hay chữ cái mà chỉ dùng tiếng bằng, trắc từng thanh âm mà xem. Bình thanh thì kể 1 Thượng thanh thì kể 2 Khứ thanh thì kể 3 Nhập thanh thì kể 4 (Theo tiếng Trung Hoa, có 4 chính thanh là Bình, Thượng, Khứ, Nhập cũng như nước ta có dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng vậy). Xem năm từ Năm từ gọi là Ngũ hành, lấy hai từ đầu làm Thượng quái và ba từ sau làm Hạ quái (Gọi là Thiên khinh thanh và Địa trọng trọc). Xem sáu từ Sáu từ gọi là Lục hào, chia đều làm Thượng quái và Hạ quái. Xem bảy từ Bảy từ gọi là Thất chánh, lấy ba từ đầu làm Thượng quái và bốn từ sau làm Hạ quái. Xem tám từ Tám từ gọi là Bát quái, chia đều làm Thượng quái và Hạ quái. Xem chín từ Chín từ gọi là Cửu trù, lấy bốn từ đầu làm Thượng quái và năm từ sau làm Hạ quái. Xem mười từ Mười từ gọi là Thành quái, chia đều làm Thượng quái và Hạ quái. Xem mười một từ trở lên Từ 11 từ trở lên đến 100 đều xem được quẻ cả, nhưng trên 11 từ, lại không dùng những thanh âm bằng trắc nữa, mà lại kể số từ, nếu số từ là chẵn thì lấy một nửa làm Thượng quái, một nửa làm Hạ quái; nếu số từ là lẻ thì lấy một nửa non làm Thượng quái, một nửa kia làm Hạ quái, rồi tổng hợp số từ của Thượng quái và Hạ quái để tìm hào động. Xem bằng trượng thước Trượng là 10 thước, xích là một thước. Nếu dùng vật thể dài tới trượng thước để xem, thì lấy số trượng làm Thượng quái và lấy số thước làm Hạ quái. Hợp số trượng và số thước lại gia thêm giờ mà tìm hào động (số tấc không kể). Xem bằng thước tấc Xem vật dài dưới một trượng, lấy số thước làm thượng quái, số tấc làm Hạ quái. Hợp số thước, tấc, gia thêm số giờ, tìm Hào động (số phân không kể) Xem cho người Xem cho người thì quy luật không đồng nhất: Hoặc nghe tiếng nói mà xem Hoặc xét nhân phẩm Hoặc xem sự cử động của thân thể người ta Hoặc xem người cầu có vật gì Hoặc xem sắc phục Hoặc cảm xúc với ngoại vật Hoặc dùng năm tháng, ngày, giờ Hoặc từ viết ra với dụng ý gì Nghe tiếng nói mà xem Nếu nói một câu, làm như cách xem từ nói ở trên, phân số mà xem Nếu nói hai câu, thì dùng những tiếng ở câu nói đầu làm Thượng quái, những tiếng nói trong câu thứ hai làm Hạ quái Nếu nói nhiều câu thì chỉ dùng những tiếng của câu đầu, hoặc dùng tiếng nói của câu chót, còn những câu nói ở giữa không dùng đến Xét nhân phẩm Nghĩa là xem người cầu là đàn ông thì lấy Càn, người cầu là thiếu nữ thì lấy Đoài v.v. mà xem quẻ. Xét sự cử động Nếu người cầu lay động cái đầu thì lấy Càn, lay động chân thì lấy Chấn, thấy cử động con mắt (như nhấp nháy chẳng hạn) thì lấy Ly mà xem. Xem người cầu có vật gì Nghĩa là ngẫu nhiên thấy người cầu cầm trong tay vật gì, nếu là đồ vàng ngọc hoặc vật đó hình tròn thì thuộc Càn; nếu cầm đồ bằng đất, sành, gạch, ngói, hoặc vật hình vuông thì thuộc Khôn. Xem từng loại mà xem. Xem sắc phục Nghĩa là xem người cầu bận sắc phục màu gì, nếu bận áo màu xanh thì thuộc Chấn, bận áo màu đỏ thuộc Ly mà xem. Cảm xúc ngoại vật Đương lúc toán quẻ, nếu thấy nước thuộc về Khảm, thấy lửa thuộc về Ly mà xem. Dùng năm, tháng, ngày, giờ Có thể lập quẻ theo năm, tháng, ngày, giờ khi người đến xin hiêm đoán để xem sự lành dữ và cũng có thể căn cứ theo năm, tháng, ngày, giờ sinh mà lập quẻ xem mệnh vận cho một người. Cách lập quẻ như trình bày ở trên. mm Xem chữ viết Người tới xem cho chính mình dùng: Năm, tháng, ngày, giờ Hoặc đương thời nghe được âm thanh gì Hoặc cảm xúc với ngoại vật gì.Tất cả ba điều kể trên đều có thể toán quẻ. Cũng theo như cách xem nhân thể nói trên Xem động vật Khi thấy động vật từng đàn, từng bầy lộn xộn thì không thể xem quẻ được. Nếu thấy một con vật gì, thì tìm xem trong bảng "Bát quái thuộc vạn vật loại", giả tượng con vật đó, thuộc về quẻ nào, thì lấy quẻ ấy làm thượng quái và con vật đó từ phương nào tới, lấy phương vị đó làm Hạ quái, hợp quái số con vật đó với số phương hướng cộng thêm số giờ để tìm Hào động. Lấy toàn tổng số của số quẻ ấy mà đoán con vật ấy cũng như cách xem con bò rống, con gà gáy ở quẻ Hậu thiên. Muốn xem các loại như: bò, ngựa, chó, lợn, phải dùng năm, tháng, ngày, giờ sinh của chúng mà xem, nếu những con vật đó ta mua thì dùng năm, tháng, ngày, giờ ta đặt mua mà xem. Xem tĩnh vật Xem tịnh vật như: sông, ngòi, núi, đá không thể toán được. Xem về nhà cửa, cây cối các loại: Nhà: dùng năm, tháng, ngày, giờ xây cất hoặc năm, tháng, ngày, giờ mua lại Cây: dùng năm, tháng, ngày, giờ trồng cây Khí cụ, đồ dùng cũng vậy, lấy năm, tháng, ngày giờ tạo ra nó hoặc mua lại mà xem cũng như cách làm cái gối, chiếc ghế (nói ở đầu Lời Tựa) các loại. Kỳ dư không có duyên cớ thì không xem, ví như xem "Quan Mai" vì có cớ là hai con chim, dành cành mai mà đậu đến phải xuống đất. Xem hoa "Mẫu đơn" vì có người hỏi mới xem như cây cổ thụ đương tươi tốt vì có cành khô gãy xuống đất, bởi các duyên cớ trên mà xem quẻ. Nếu không có duyên cớ mà vẫn xem thì không hiệu nghiệm. Gieo quẻ hậu thiên, dùng vật làm quẻ Phép gieo quẻ Hậu Thiên, quan sát kỹ vật, dùng tượng quẻ của vật làm Thượng quái, dùng phương vị (phương hướng) quẻ của vật làm Hạ quái cộng thêm số giờ để tìm hào động. Cách đoán quẻ Thành quẻ Sau khi quẻ bói được thành lập thì quẻ đó là quẻ gốc (bản quái, chủ quái). Quẻ gốc do quẻ trên (thượng, hay ngoại quái) và quẻ dưới (hạ, hay nội quái) hợp thành. Lấy hào thứ hai, hào thứ ba và hào thứ tư (từ trên xuống và từ dưới lên) thành "quẻ hỗ" (hỗ trợ). Xem xét lời hào (Hào từ) và lời quẻ (thoán từ, quái từ) của Chu Dịch để đoán cát hung Thí dụ: chiêm được quẻ Càn, lời hào sơ cửu "Tiềm long vật dụng" (rồng ở ẩn), thì có thể đoán là mọi việc đều còn nấp kín (âm thầm, chưa hiện rõ), nên ẩn náu chờ thời cơ có thể làm được. Nếu chiêm được quẻ Càn, lời hào Cửu nhị là "Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân" (rồng xuất hiện tại điền, thì lợi gặp đại nhân), thì có thể dự đoán nên yết kiến quý nhân. Xem Thể Dụng của quẻ, để luận Ngũ Hành sinh khắc Quẻ trên, quẻ dưới (thượng quái, hạ quái) có công năng của quẻ thể, quẻ dụng (quẻ có hào động); quẻ thể là mình, quẻ dụng lo quản người và việc khác. Thể Dụng theo thuyết Động và Tĩnh Thể là chủ, Dụng là sự việc, ứng dụng sự thể Thể Dụng tỵ hòa (như nhau, hòa nhau) là tốt Thể sinh Dụng hay Dụng khắc Thể là xấu Xem đến khắc ứng, như bói dịch thông thường Nghe nói vui tươi, hay thấy triệu chứng tốt lành là tốt Nghe nói hung dữ hoặc thấy triệu chứng xấu là xấu Thấy vật tròn nguyên vẹn biểu hiệu sự thành công Thấy vật sứt mẻ hư hao biểu lộ sự thất bại Xác định kỳ ứng nghiệm Xét sụ động tĩnh của bản thân như: Ngồi bốc quẻ: ứng sự chậm trễ Bốc quẻ trên đường, lúc đi: ứng sự mau Bốc quẻ trên đường khi chạy: ứng sự mau hơn nữa Bốc quẻ khi nằm: ứng sự chậm hơn Muốn thông suốt sự chiêm bốc, cần nhất lấy Dịch quái làm chủ, thứ đến khắc ứng: Cả hai nếu tốt thì thật là tốt Cả hai đều xấu lại càng xấu hơn Luận quẻ Mai Hoa, phải kết hợp cả luận số và luận lý, tránh thiên kiến một phía, không đạt mục đích linh nghiệm. Cần vận dụng thích hợp nguyên tắc biến thông.
"Dấu phố em qua" là tên một ca khúc do Nguyễn Bình sáng tác. Bài hát đã được Trần Thu Hà thể hiện rất thành công theo phong cách acoustic jazz. Cô thu âm bài này tại Mỹ và sau đó được đánh giá là một cách thể hiện mới lạ và văn minh. Bài hát có lời giản dị, mang tính tự sự, đầy cảm xúc nhưng vẫn rất trẻ trung. Các dãy phố được nhắc đến trong bài hát có lẽ là Hà Nội hoặc một thành phố nào đó thuộc miền Bắc Việt Nam với những "chiều thu nắng vàng", "lá thu bay vờn bay trong gió", "loài hoa thơm"... Bài hát nhắc lại tình cảm một thời gắn liền với những kỷ niệm đẹp mà giờ đây, mỗi khi đi qua từng dãy phố, những kỷ niệm đó lại chợt ùa về làm cho cô gái không giấu nổi tình cảm thực sự đang dồn nén trong lòng. Bài hát là track 6 trong album Bài tình cho giai nhân (1999) của Trần Thu Hà. Trong album Hà Trần 98-03 (2003), bài có vị trí thứ 12. Trong chương trình Sao Mai điểm hẹn 2006 của VTV3, ca sĩ trẻ Hà Anh Tuấn đã hát lại ca khúc này với một tempo nhanh hơn, cũng được khán giả đặc biệt là khán giả trẻ đón nhận.
Đây là danh sách các bài hát do ban nhạc Queen đã thực hiện. Các bài hát do Queen thu âm Các bài hát chỉ hát khi công diễn 1971-1986 (original line-up) 1992 (Deacon/May/Taylor) 1999-2006 (May/Taylor) Các bài hát do Queen thu âm Các bài hát này được ban nhạc Queen thu âm và phát hành. 0–9 "'39" – Brian May, 1975 (A Night at the Opera) A "A Dozen Red Roses for My Darling" – Roger Taylor, 1986 (đĩa đơn A Kind of Magic) "A Human Body" – Taylor, 1980 (đĩa đơn Play The Game) "A Kind of Magic" – Taylor, 1986 (A Kind of Magic) "A Winter's Tale" – Queen, 1995 (Made in Heaven) "Action This Day" – Taylor, 1982 (Hot Space) "All Dead, All Dead" – May, 1977 (News of the World) "All God's People" – Queen/Mike Moran, 1991 (Innuendo) "Another One Bites the Dust" – John Deacon, 1980 (The Game) "Arboria (Planet of the Tree Men)" – Deacon, 1980 (Flash Gordon) B "Back Chat" – Deacon, 1982 (Hot Space) "Battle Theme" – May, 1980 (Flash Gordon) "Bicycle Race" – Freddie Mercury, 1978 (Jazz) "Bijou" – Queen, 1991 (Innuendo) "Blurred Vision" – Queen, 1985 (single One Vision) "Body Language" – Mercury, 1982 (Hot Space) "Bohemian Rhapsody" – Mercury, 1975 (A Night at the Opera) "Breakthru" – Queen (Mercury/Taylor), 1989 (The Miracle) "Brighton Rock" – May, 1974 (Sheer Heart Attack) "Bring Back That Leroy Brown" – Mercury, 1974 (Sheer Heart Attack) C "Calling All Girls" – Taylor, 1982 (Hot Space) "Chinese Torture" – Queen, 1989 (The Miracle) "Coming Soon" – Taylor, 1980 (The Game) "Cool Cat" – Deacon/Mercury, 1982 (Hot Space) "Crash Dive on Mingo City" – May, 1980 (Flash Gordon) "Crazy Little Thing Called Love" – Mercury, 1979 (The Game, 1980) D "Dancer" – May, 1982 (Hot Space) "Dead on Time" – May, 1978 (Jazz) "Dear Friends" – May, 1974 (Sheer Heart Attack) "Death on Two Legs" – Mercury, 1975 (A Night at the Opera) "Delilah" – Queen (Mercury), 1991 (Innuendo) "Dog With a Bone" – 1988 (đã được thu âm cho buổi họp câu lạc bộ những người hâm mộ tổ chức vào năm 1988) "Doing All Right" – May/Tim Staffell, 1973 (Queen) "Don't Lose Your Head" – Taylor, 1986 (A Kind of Magic) "Don't Stop Me Now" – Mercury, 1978 (Jazz) "Don't Try So Hard" – Queen (Mercury), 1991 (Innuendo) "Don't Try Suicide" – Mercury, 1980 (The Game) "Dragon Attack" – May, 1980 (The Game) "Dreamer's Ball" – May, 1978 (Jazz) "Drowse" – Taylor, 1976 (A Day at the Races) E "Escape from the Swamp" – Taylor, 1980 (Flash Gordon) "Execution of Flash" – Deacon, 1980 (Flash Gordon) F "Fat Bottomed Girls" – May, 1978 (Jazz) "Father to Son" – May, 1974 (Queen II) "Fight from the Inside" – Taylor, 1977 (News of the World) "Flash" (còn gọi là "Flash's Theme") – May, 1980 (Flash Gordon) "Flash to the Rescue" – May, 1980 (Flash Gordon) "Flash's Theme Reprise (Victory Celebrations)" – May, 1980 (Flash Gordon) "Flick of the Wrist" – Mercury, 1974 (Sheer Heart Attack) "Football Fight" – Mercury, 1980 (Flash Gordon) "Forever" – May, 1986 (A Kind of Magic) "Friends Will Be Friends" – Mercury/Deacon, 1986 (A Kind of Magic) "Fun It" – Taylor, 1978 (Jazz) "Funny How Love Is" – Mercury, 1974 (Queen II) G "Get Down, Make Love" – Mercury, 1977 (News of the World) "Gimme the Prize (Kurgan's Theme)" – May, 1986 (A Kind of Magic) "God Save the Queen" – Arr.: May, 1975 (A Night at the Opera) "Good Company" – May, 1975 (A Night at the Opera) "Good Old-Fashioned Lover Boy" – Mercury, 1976 (A Day at the Races) "Great King Rat" – Mercury, 1973 (Queen) H "Hammer to Fall" – May, 1984 (The Works) "Hang on in There" – Queen, 1989 (The Miracle) "Headlong" – Queen (May), 1991 (Innuendo) "Heaven for Everyone" – Taylor, 1995 (Made in Heaven) "Hijack My Heart" – Queen (Taylor), 1989 (single The Invisible Man) I "I Can't Live With You" – Queen (May), 1991 (Innuendo) "I Go Crazy" – May, 1984 (single Radio Ga Ga) "I Want It All" – Queen (May), 1989 (The Miracle) "I Want to Break Free" – Deacon, 1984 (The Works) "I Was Born to Love You" – Mercury, 1995 (Made in Heaven) "I'm Going Slightly Mad" – Queen (Mercury), 1991 (Innuendo) "I'm in Love With My Car" – Taylor, 1975 (A Night at the Opera) "If You Can't Beat" – Deacon, 1978 (Jazz) "In Only Seven Days" – Deacon, 1978 (Jazz) "In the Death Cell (Love Theme Reprise)" – Taylor, 1980 (Flash Gordon) "In the Lap of the Gods" – Mercury, 1974 (Sheer Heart Attack) "In the Lap of the Gods...Revisited" – Mercury, 1974 (Sheer Heart Attack) "In the Space Capsule (The Love Theme)" – Taylor, 1980 (Flash Gordon) "Innuendo" – Queen, 1991 (Innuendo) "Invincible Hope" – internet download "Is This the World We Created...?" – Mercury/May, 1984 (The Works) "It's a Beautiful Day" (three different versions) – Queen, 1995 (Made in Heaven) "It's a Hard Life" – Mercury, 1984 (The Works) "It's Late" – May, 1977 (News of the World) J "Jealousy" – Mercury, 1978 (Jazz) "Jesus" – Mercury, 1973 (Queen) K "Keep Passing the Open Windows" – Mercury, 1984 (The Works) "Keep Yourself Alive" – May, 1973 (Queen) "Khashoggi's Ship" – Queen, 1989 (The Miracle) "Killer Queen" – Mercury, 1974 (Sheer Heart Attack) L "Las Palabras de Amor (The Words of Love)" – May, 1982 (Hot Space) "Lazing on a Sunday Afternoon" – Mercury, 1975 (A Night at the Opera) "Leaving Home Ain't Easy" – May, 1978 (Jazz) "Let Me Entertain You" – Mercury, 1978 (Jazz) "Let Me Live" – Queen, 1995 (Made in Heaven) "Liar" – Mercury, 1973 (Queen) "Life Is Real" – Mercury, 1982 (Hot Space) "Lily of the Valley" – Mercury, 1974 (Sheer Heart Attack) "Long Away" – May, 1976 (A Day at the Races) "Loser in the End" – Taylor, 1974 (Queen II) "Lost Opportunity" – Queen (May), 1991 (đĩa đơn I'm Going Slightly Mad) "Love of My Life" – Mercury, 1975 (A Night at the Opera) M "Machines (hoặc 'Back to Humans')" – May/Taylor, 1984 (The Works) "Mad the Swine" – Mercury, 1991 (thu âm khoảng năm 1972) (đĩa đơn Headlong) "Made in Heaven" – Mercury, 1995 (Made in Heaven) "Man on the Prowl" – Mercury, 1984 (The Works) "Marriage of Dale and Ming (And Flash Approaching)" – May/Taylor, 1980 (Flash Gordon) "Ming's Theme (In the Court of Ming the Merciless)" – Mercury, 1980 (Flash Gordon) "Misfire" – Deacon, 1974 (Sheer Heart Attack) "Modern Times Rock 'n' Roll" – Taylor, 1973 (Queen) "More of That Jazz" – Taylor, 1978 (Jazz) "Mother Love" – May/Mercury, 1995 (Made in Heaven) "Mustapha" – Mercury, 1978 (Jazz) "My Baby Does Me" – Queen, 1989 (The Miracle) "My Fairy King" – Mercury, 1973 (Queen) "My Life Has Been Saved" – Queen (Deacon), 1989 (đĩa đơn Scandal, see also Made in Heaven, 1995) "My Melancholy Blues" – Mercury, 1977 (News of the World) N "Need Your Loving Tonight" – Deacon, 1980 (The Game) "New York, New York" (trích đoạn) – 1986 (phim Highlander), được viết bởi John Kander và Fred Ebb; lúc đầu được Liza Minnelli biểu diễn vào năm 1977, hai năm sau được Frank Sinatra thu âm "Nevermore" – Mercury, 1974 (Queen II) "No-One But You (Only the Good Die Young)" – May, 1997 (Queen Rocks) "Now I'm Here" – May, 1974 (Sheer Heart Attack) O "Ogre Battle" – Mercury, 1974 (Queen II) "One Vision" – Queen, 1985 (A Kind of Magic, 1986) "One Year of Love" – Deacon, 1986 (A Kind of Magic) P "Pain Is So Close to Pleasure" – Mercury/Deacon, 1986 (A Kind of Magic) "Party" – Queen, 1989 (The Miracle) "Play the Game" – Mercury, 1980 (The Game) "Princes of the Universe" – Mercury, 1986 (A Kind of Magic) "Procession" – May, 1974 (Queen II) "Put Out the Fire" – May, 1982 (Hot Space) R "Radio Ga Ga" – Taylor, 1984 (The Works) "Rain Must Fall" – Queen, 1989 (The Miracle) "Ride the Wild Wind" – Queen (Taylor), 1991 (Innuendo) "Rock It (Prime Jive)" – Taylor, 1980 (The Game) S "Sail Away Sweet Sister" – May, 1980 (The Game) "Save Me" – May, 1980 (The Game) "Scandal" – Queen, 1989 (The Miracle) "Seaside Rendezvous" – Mercury, 1975 (A Night at the Opera) "See What a Fool I've Been" – May, 1974 (đĩa đơn Seven Seas of Rhye) "Seven Seas of Rhye..." (nhạc cụ) – Mercury, 1973 (Queen) "Seven Seas of Rhye" – Mercury, 1974 (Queen II) "She Makes Me (Stormtrooper in Stilettoes)" – May, 1974 (Sheer Heart Attack) "Sheer Heart Attack" – Taylor, 1977 (News of the World) "Sleeping on the Sidewalk" – May, 1977 (News of the World) "Some Day One Day" – May, 1974 (Queen II) "Somebody to Love" – Mercury, 1976 (A Day at the Races) "Son and Daughter" – May, 1973 (Queen) "Soul Brother" – Queen, 1981 (đĩa đơn Under Pressure) "Spread Your Wings" – Deacon, 1977 (News of the World) "Staying Power" – Mercury, 1982 (Hot Space) "Stealin'" – Queen, 1989 (đĩa đơn Breakthru) "Stone Cold Crazy" – Queen, 1974 (Sheer Heart Attack) "Sweet Lady" – May, 1975 (A Night at the Opera) T "Tear It Up" – May, 1984 (The Works) "Tenement Funster" – Taylor, 1974 (Sheer Heart Attack) "Teo Torriatte (Let Us Cling Together)" – May, 1976 (A Day at the Races) "Thank God It's Christmas" – May/Taylor, 1984 "The Fairy Feller's Master-Stroke" – Mercury, 1974 (Queen II) "The Hero" – May, 1980 (Flash Gordon) "The Hitman" – Queen, 1991 (Innuendo) "The Invisible Man" – Queen (Taylor), 1989 (The Miracle) "The Kiss (Aura Resurrects Flash)" – Mercury, 1980 (Flash Gordon) "The March of the Black Queen" – Mercury, 1974 (Queen II) "The Millionaire Waltz" – Mercury, 1976 (A Day at the Races) "The Miracle" – Queen (Mercury), 1989 (The Miracle) "The Night Comes Down" – May, 1973 (Queen) "The Prophet's Song" – May, 1975 (A Night at the Opera) "The Ring (Hypnotic Seduction of Dale)" – Mercury, 1980 (Flash Gordon) "The Show Must Go On" – Queen, 1991 (Innuendo) "The Wedding March" – Arr.: May, 1980 (Flash Gordon) "These Are the Days of Our Lives" – Queen (Taylor), 1991 (Innuendo) "Tie Your Mother Down" – May, 1976 (A Day at the Races) "Too Much Love Will Kill You" – May/Frank Musker/Elizabeth Lamers, 1995 (Made in Heaven) U "Under Pressure" – Queen/David Bowie, 1981 (Hot Space, 1982) "Untitled Hidden Track" (còn gọi là "Track 13") – Queen, 1995 (Made in Heaven) V "Vultan's Theme (Attack of the Hawk Men)" – Mercury, 1980 (Flash Gordon) W "Was It All Worth It" – Queen, 1989 (The Miracle) "We Are the Champions" – Mercury, 1977 (News of the World) "We Will Rock You" – May, 1977 (News of the World) "White Man" – May, 1976 (A Day at the Races) "White Queen (As It Began)" – May, 1974 (Queen II) "Who Needs You" – Deacon, 1977 (News of the World) "Who Wants to Live Forever" – May, 1986 (A Kind of Magic) Y "You and I" – Deacon, 1976 (A Day at the Races) "You Don't Fool Me" – Queen, 1995 (Made in Heaven) "You Take My Breath Away" – Mercury, 1976 (A Day at the Races) "You're My Best Friend" – Deacon, 1975 (A Night at the Opera) Các bài hát chỉ hát khi công diễn 1971-1986 "Bama Lama Bama Loo" – được Little Richard thu âm lần đầu (1964). "Be Bop A Lula" – được Gene Vincent & The Blue Caps trình diễn lần đầu (1956). "Big Spender" – được Shirley Bassey thu âm (1967); bài hát do Cy Coleman và Dorothy Fields sáng tác cho Sweet Charity. "Danny Boy" – được Ernestine Schumann-Heink thu âm lần đầu (1915). "Gimme Some Lovin'" – được Spencer Davis Group biểu diễn lần đầu (1966); bài hát do Steve Winwood, Muff Winwood và Spencer Davis sáng tác. "Hangman" – bài hát không được phát hành, được công diễn vào thập kỷ 1970. "Hello Mary Lou (Goodbye Heart)" – được Ricky Nelson biểu diễn đầu tiên (1961); do Gene Pitney sáng tác. "I'm a Man" – do Spencer Davis Group biểu diễn lần đầu (1967); được Jimmy Miller và Steve Winwood sáng tác. "Imagine" – được John Lennon sáng tác và biểu diễn lần đầu (1971). "Immigrant Song" – được Led Zeppelin biểu diễn lần đầu (1970); do Jimmy Page và Robert Plant sáng tác. "Jailhouse Rock" – được Elvis Presley biểu diễn lần đầu (1957); do [[Jerry Leiber và Mike Stoller sáng tác. "Lucille" – được Little Richard biểu diễn đầu tiên; do Albert Collins và Richard sáng tác. "Mannish Boy" – được Muddy Waters biểu diễn đầu tiên (1955); "Mannish Boy" của Waters là một sáng tác theo bài "I'm a Man" của Bo Diddley. "Mull of Kintyre" – được Wings biểu diễn đầu tiên (1977); do Paul McCartney và Denny Laine sáng tác. "Not Fade Away" – được Buddy Holly biểu diễn đầu tiên; và cũng được The Rolling Stones hát lại (1964); bài hát do Holly và Norman Petty sáng tác. "Rock in Rio Blues" – bài hát do Queen biểu diễn tại buổi Rock ở Rio vào năm 1985. "Saturday Night's Alright For Fighting – do Elton John biểu diễn đầu tiên (1973); do Bernie Taupin và John sáng tác. "Shake, Rattle and Roll" – được Big Joe Turner thu âm lần đầu vào năm 1954; được Bill Haley & His Comets hát lại cùng năm; cũng được Elvis Presley thu âm vào năm 1956; do Jesse Stone sáng tác. "Silent Night" – được trình bày lần đầu vào năm 1818; do Josef Mohr và Franz Gruber sáng tác. * "Stupid Cupid" – được Connie Francis biểu diễn đầu tiên. "Tavaszi szél vízet áraszt" – bài hát truyền thống của Hungarian. "Tutti Frutti" – được Little Richard hát đầu tiên (1955); do Penniman (Little Richard) và LaBostrie sáng tác. "White Christmas" – được Bing Crosby thu âm lần đầu (1942); do Irving Berlin sáng tác. * "Whole Lotta Shakin' Goin' On" – cũng được Jerry Lee Lewis hát (1957). "(You're So Square) Baby I Don't Care" – được Elvis Presley (1957) và Buddy Holly (1961) hát lần đầu; do Jerry Leiber và Mike Stoller sáng tác. 1992 (Deacon/May/Taylor) Biểu diễn trực tiếp trong Buổi hòa nhạc kỷ niệm Freddie Mercury: "All the Young Dudes" – được Mott the Hoople biểu diễn lần đầu (1972); do David Bowie sáng tác. * "Heaven and Hell" (phần giới thiệu). * "Heroes" – được David Bowie biểu diễn lần đầu (1977); do Bowie và Brian Eno sáng tác. * "Kashmir" (trích đoạn) – được Led Zeppelin biểu diễn đầu tiên (1975); do Jimmy Page, Robert Plant và John Bonham sáng tác. * "Pinball Wizard (phần giới thiệu) – do The Who biểu diễn lần đầu(1969); do Pete Townshend sáng tác. * "Thank You" (trích đoạn) – do Led Zeppelin biểu diễn lần đầu (1969); do Plant and Page sáng tác. * 1999-2006 (May/Taylor) "All Right Now" – được Free biểu diễn lần đầu (1970); do Andy Fraser và Paul Rodgers sáng tác. "Amandla" – bài hát của Queen, Dave Stewart và Anastacia. "Bad Company" – được Bad Company biểu diễn lần đầu (1974); do Simon Kirke và Paul Rodgers sáng tác. "Can't Get Enough" – được Bad Company biểu diễn lần đầu (1974); do Mick Ralphs sáng tác. "Feel Like Makin' Love" – được Bad Company biểu diễn lần đầu (1975); do Paul Rodgers và Mick Ralphs sáng tác. "Fire and Water" – được Free biểu diễn lần đầu (1970); do Andy Fraser và Paul Rodgers sáng tác. "46664 - The Call" – bài hát chưa được phát hành của Queen. "Last Horizon" – do Brian May sáng tác và biểu diễn lần đầu (1992: Back to the Light) "Let There Be Drums" – do Sandy Nelson biểu diễn lần đầu (1961); do Nelson và Richard Podolor sáng tác. "Little Bit of Love" – được Free biểu diễn lần đầu (1972); do Paul Rodgers, Andy Fraser, Paul Kossoff và Simon Kirke sáng tác. "Molly Malone" (một phần của đoạn ghi ta May chơi solo) – bài hát Ireland. * "Reaching Out" – được thu âm lần đầu bởi "Rock Therapy" có sự tham gia của Brian May, Paul Rodgers và Charlie Watts, được phát hành như một đĩa đơn vào năm 1996; do Hill/Black sáng tác. "Red House" – được Jimi Hendrix sáng tác và biểu diễn lần đầu. * "Rock 'n' Roll Fantasy" – được Bad Company biểu diễn lần đầu (1979); do Rodgers sáng tác. "Sakura" (một phần của đoạn ghi ta May chơi solo) – bài hát dân ca Nhật. * "Say It's Not True" – bài hát chưa được phát hành của Queen, do Roger Taylor sáng tác. "Seagull" – được Bad Company biểu diễn lần đầu (1974); do Mick Ralphs và Paul Rodgers sáng tác. "Sunshine of Your Love" (tríchđoạn) – được Cream biểu diễn lần đầu (1967); do Jack Bruce, Pete Brown và Eric Clapton sáng tác. * "Take Love" – bài hát chưa được phát hành của 'Queen + Paul Rodgers', do Rodgers sáng tác. "The Blue Danube" (một phần của đoạn ghi ta May chơi solo) – do Johann Strauss II sáng tác vào năm 1867. * "Wishing Well" – được Free trình diễn lần đầu (1972); do Paul Rodgers, Simon Kirke, Tetsu Yamauchi, Paul Kossoff và John Bundrick sáng tác. (* chỉ được hát 1 lần.)
Rừng Na-Uy (tiếng Nhật: ノルウェイの森, Noruwei no mori) là tiểu thuyết của nhà văn Nhật Bản Murakami Haruki, được xuất bản lần đầu năm 1987. Với thủ pháp dòng ý thức, cốt truyện diễn tiến trong dòng hồi tưởng của nhân vật chính là chàng sinh viên bình thường Watanabe Tōru. Cậu ta đã trải qua nhiều cuộc tình chớp nhoáng với nhiều cô gái trẻ ưa tự do. Nhưng cậu ta cũng có những mối tình sâu nặng, điển hình là với Naoko, người yêu của người bạn thân nhất của cậu, một cô gái không ổn định về cảm xúc, và với Midori, một cô gái thẳng thắn và hoạt bát. Các nhân vật trong truyện hầu hết là những con người cô đơn móc nối với nhau. Có những nhân vật đã phải tìm đến cái chết để mãi mãi giải thoát khỏi nỗi đau đớn ấy. Câu chuyện xảy ra với bối cảnh là nước Nhật những năm 1960, khi mà thanh niên Nhật Bản, như thanh niên nhiều nước khác đương thời, đấu tranh chống lại những định kiến tồn tại trong xã hội. Murakami miêu tả những sinh viên cải cách này như những tên đạo đức giả và thiếu sự kiên định. Tác phẩm này đã đưa Murakami lên thành một trong những nhà văn hàng đầu của Nhật Bản. Tên nguyên gốc của tác phẩm, Noruwei no mori, là cách dịch tiêu chuẩn trong tiếng Nhật cho tựa bài hát "Norwegian Wood" được John Lennon viết khi còn trong nhóm The Beatles (và cũng thường được nhắc đến trong cốt truyện). Tác phẩm được dịch sang tiếng Việt và xuất bản lần đầu tiên vào năm 1997 do Kiều Liên và Hải Thanh thực hiện, Bùi Phụng hiệu đính. Năm 2006 bản dịch mới của Trịnh Lữ được Nhã Nam xuất bản. Cả hai bản dịch đều được dịch từ tiếng Anh. Các nhân vật chính nhân vật chính và là người kể chuyện. Anh là một sinh viên ở Tokyo, ưa thích về drama. Không giống như phần lớn sinh viên, anh quan tâm tới phương Tây và đặc biệt về văn học Mỹ. Anh là bạn thân của Kizuki, đã phát triển tình cảm lãng mạn với Naoko và với người sau này là Midori. Watanabe chán ghét trường học bạn học, ghét quốc ca quốc kỳ và toàn thể xã hội nói chung nhưng anh yêu thiên nhiên, âm nhạc và vài người trong xã hội là Kizuki, Naoko, Reiko và Midori. là một thiếu nữ xinh đẹp và mẫn cảm, bạn gái của Kizuki, nhưng đã có quan hệ với Tōru sau cái chết của Kizuki. Chị gái của Naoko đã tự tử khi mới 17 tuổi và việc Kizuki cũng tự tử ở cùng độ tuổi như vậy đã ảnh hưởng lớn và lâu dài tới trạng thái tình cảm của Naoko. Cô mắc bệnh tâm thần phải điều trị và tự tử trong trại tâm thần. Cô có tâm hồn đẹp nhưng có nỗi sợ kinh hoàng mang tính bệnh lý. một cô gái lanh lợi, học cùng lớp với Tōru. Cô cùng với chị gái đã giúp người cha trông nom một cửa hàng sách nhỏ. Cô, giống Naoko, cũng đã có bạn trai nhưng đồng thời cũng có tình cảm với Tōru khi họ càng ngày càng thân và hiểu nhau hơn, và thậm chí sau này cô đã chia tay bạn trai, và muốn gắn bó với Tōru. Cô căm ghét bố mình vì cho rằng ông yêu thương cô không đủ, rằng ông yêu vợ hơn các con. Cô ghét mẹ vì đã mắng mỏ cô nên ở đám tang cha mẹ Midori kiên quyết không khóc, cô còn thầm chửi các bậc cô bác chú dì vì họ khuyên cô nên tỏ ra đau buồn một chút. Ngoài ra cô ghét thậm tệ trường tiểu học của mình vì ở đó cô đã cố gắng mà không được thành tích gì. Cô ghét các bạn ở trường đại học vì hay sai phái cô. Cô cãi nhau và bỏ học ở câu lạc bộ dân ca vì các bạn chê cô ngu dốt và phân công cô phải làm bánh...bề ngoài nhẹ nhàng nhưng trong lòng Midori cũng có nhiều bức xúc. cô giáo dạy nhạc và là người gần gũi với Naoko khi Naoko phải đi trại điều dưỡng. Cô thường khuyên nhủ Tōru và Naoko, luôn ủng hộ mối quan hệ của họ và cố gắng dung hòa khi Tōru có ý tình cảm nghiêng về Midori hơn. Cô mắc bệnh tâm thần sợ xã hội phê phán đến mức hai lần tự tử hụt. là người bạn thân nhất của Tōru và là bạn trai Naoko. Kizuki đã tự tử khi mới 17 tuổi vì những lý do mà Naoko nói với Watanabe: không thể hòa nhập với xã hội, không thể làm tình với Naoko. một sinh viên khoa ngoại giao trường Đại học Tokyo, người đã trở thành bạn của Tōru khi chia sẻ sự yêu thích về cuốn sách Gatsby vĩ đại. Nagasawa có những mối quan hệ cá nhân phức tạp, quan hệ với rất nhiều cô gái. Tōru thỉnh thoảng đi cùng Nagasawa để quan hệ tình dục với những cô gái mà Nagasawa chọn cho. bạn gái lâu năm của Nagasawa, đẹp và quý phái nhưng tự tử vì thất vọng với Nagasawa. Nội dung Watanabe Tōru, một chàng thanh niên 38 tuổi vừa mới đặt chân tới Hamburg, Đức. Khi bất chợt nghe được bài hát "Norwegian Wood" của Beatles, anh bỗng hồi tưởng lại mối tình đầu của mình với Naoko. Ký ức mang anh trở lại với những năm của thập kỷ 1960, khi có quá nhiều sự việc xảy ra với cuộc sống của anh khi đó. Tōru cùng với người bạn cùng lớp Kizuki, và bạn gái của Kizuki - Naoko là những người bạn thân thiết. Kizuki với Naoko là một đôi với nhau còn Tōru dường như rất hạnh phúc và ủng hộ cho mối tình của họ. Tình bạn này đã bị đứt gãy khi vụ tự tử của Kizuki xảy ra vào ngày sinh nhật lần thứ 17 của anh. Cái chết của Kizuki đã ảnh hưởng sâu sắc tới 2 người bạn còn lại; Tōru luôn cảm thấy ảnh hưởng của cái chết ở mọi nơi còn Naoko thì thấy dường như mất một phần con người mình. Hai người sau này đã tìm đến nhau và cố gắng an ủi nhau, họ đã ngày càng thân nhau hơn và giữa họ đã nảy sinh tình cảm đôi lứa. Trong buổi tối ngày sinh nhật lần thứ 20 của Naoko, Cô đã cảm thấy bị thương tổn ghê gớm và rất cần sự an ủi, chia sẻ. Họ đã quan hệ tình dục với nhau tối hôm đó, và đây cũng là lần đầu của Naoko. Kể từ sau buổi tối đó, Naoko đã để lại cho Tōru một bức thư nói rằng cô cần phải đi xa một thời gian và cũng nghỉ học ở trường để tới nhà nghỉ Ami - một nơi ở kết hợp nơi điều trị thần kinh. Cô đã có một số vấn đề thần kinh không bình thường. Tōru sau này đã kết bạn với Kobayashi Midori, một cô bạn cùng lớp. Cô có mọi thứ mà Naoko không có - sự cởi mở, tự tin, tràn đầy sức sống. Mặc dù anh vẫn yêu Naoko, Tōru vẫn bị Midori hấp dẫn và ngược lại, Midori cũng rất yêu quý Tōru, và tình bạn của họ ngày càng phát triển trong thời gian Naoko vắng mặt. Tōru đã đến thăm Naoko tại nơi điều trị gần Kyoto. Ở đó, anh đã gặp Ishida Reiko, một bệnh nhân khác và là người theo dõi, chăm sóc Naoko. Trong chuyến thăm này và một vài chuyến thăm khác nữa, Reiko cùng với Naoko đã hé lộ thêm vài việc trong quá khứ của mình: Reiko nói về sự tìm kiếm của cô để xác nhận những vấn đề về giới tính còn Naoko nói về việc tự tử không báo trước của chị gái mình vài năm trước. Tōru, khi quay trở lại Tokyo, vẫn tiếp tục mối quan hệ với cả Midori và Naoko. Anh viết một bức thư cho Reiko, xin lời khuyên của cô về việc lựa chọn nên phát triển quan hệ tình cảm lâu dài với Naoko hay Midori. Anh không muốn làm tổn thương Naoko, nhưng anh cũng không muốn để tuột mất Midori. Reiko khuyên anh rằng, nếu bị Midori thu hút mạnh đến thế thì nên yêu hết mình cho dù tình yêu đó có thể phát triển tốt hoặc không, còn đừng nên nói chuyện đó với Naoko vì Tōru vẫn là nguồn sức mạnh lớn lao cho Naoko để cô an tâm chữa bệnh. Sau này, Tōru đã nhận được một lá thư từ Reiko báo rằng Naoko đã tự kết liễu cuộc đời mình. Kết cục của điều đó là việc Tōru một mình lang thang vô định khắp nước Nhật mà chẳng có mục đích nào cả, trong lòng luôn nhớ đến những kỷ niệm xưa giữa hai người và Kizuki, trong khi đó Midori không nhận được liên hệ nào với anh và không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Một thời gian sau, khi đã nhận ra rằng, cái chết không phải là sự đối nghịch mà nó chính là một phần của sự sống, anh quay trở lại Tokyo, và khi đó Reiko tới thăm anh. Trước đây, sau cái chết của Naoko, Reiko đã viết rất nhiều bức thư nói với anh rằng cái chết đó không phải do lỗi của Tōru, không phải lỗi của ai cả, cũng giống như trời mưa không phải do ai. Với sự ủng hộ của chị, anh đã nhận ra rằng, giờ đây Midori là người quan trọng nhất trong cuộc đời anh. Tōru đã nói chuyện tình cảm của mình với Midori. Chuyện gì đã xảy ra tiếp theo tác phẩm không đề cập tới mà đã để một cái kết mở cho người đọc. Tác động tại Việt Nam Rừng Na Uy được dịch lần đầu tiên ở Việt Nam vào năm 1997. Bản dịch tuy không thực sự xuất sắc, và để được in ra, đã buộc phải cắt xén nhiều câu, nhiều đoạn bị cho là "nhạy cảm", "dung tục". Tuy nhiên, khi đó Rừng Na Uy đã ít nhiều gây được sự chú ý của giới Nhật Bản học tại Việt Nam nói riêng và dư luận nói chung. Một số nhà nghiên cứu văn học Nhật Bản ở Việt Nam, khi lần đầu tiếp xúc với tác phẩm, đã bị sốc vì hình ảnh một đất nước, con người Nhật Bản hiển hiện quá xa lạ với truyền thống. Dần dần, giới nghiên cứu cũng đi đến sự thống nhất, rằng đó vẫn là một sản phẩm thuần Nhật, hiển nhiên có thể được sản sinh ra nhờ tính tương phản gay gắt như một hằng số của nền văn hóa xứ sở hoa anh đào. Theo thời gian và độ mở của văn hóa Việt Nam sau 10 năm, bản dịch Rừng Na Uy ra mắt năm 2006 do Nhã Nam phát hành được đánh giá là hoàn chỉnh hơn cả. Dù vẫn có sự tranh cãi tác phẩm sex thuần túy hay là nghệ thuật đích thực, không thể phủ nhận được rằng, tác phẩm đã được giới trẻ đương đại Việt Nam đón nhận nồng nhiệt vì nó phản ánh được tâm tư, cuộc sống và những mối quan tâm của họ hiện nay. Mặc dù tiếng nói của các nhà nghiên cứu về tác phẩm còn rất ít ỏi, hàng trăm thảo luận trên các diễn đàn của giới trẻ Việt Nam đã được mở ra để bàn luận về tác phẩm này, cho thấy nó đã khẳng định vị thế của mình trong lòng bạn đọc trẻ. Điều đó cũng cho thấy đề tài, chủ đề, cốt truyện của Rừng Na Uy tỏ ra phù hợp và dễ đọc với những độc giả lứa tuổi 20 hơn là những nhà nghiên cứu đã cao tuổi đời cũng như tuổi nghề. Chuyển thể Rừng Na Uy được đạo diễn người Pháp gốc Việt Trần Anh Hùng chuyển thể thành phim cùng tên với các diễn viên của Nhật Bản.
Alexandria "Sandi" Thom (sinh ngày 11 tháng 8 năm 1981) là một ca sĩ người Anh. Sandi ký hợp đồng thu âm với hãng RCA/Sony BMG, sau khi giọng ca của cô đã chinh phục hơn 100.000 khán thính giả toàn cầu nhờ những buổi "live show" trên mạng được truyền hình trực tuyến từ… phòng khách của cô. Sandi đã làm chuyến "lưu diễn thế giới" qua việc trình diễn trực tuyến 21 buổi diễn liên tiếp nhau hằng đêm từ ngày 24-2, tại phòng khách chật hẹp của cô ở Tooting, tây nam London. Đêm diễn đầu tiên chỉ có 70 khản giả, nhưng sau đó nhảy vọt lên tới 70.000 người, rồi 120.000 khắp thế giới. Nhiều fan từ cả Jakarta và Pakistan đã bày tỏ lòng cảm kích. Buổi ký hợp đồng thu âm chính thức của cô đã được phát hình trên mạng vào hôm 4-4, ngay tại "sân khấu" nhà ở của Sandi. Tại trang web chính thức www.sandithom.com, album đầu tay mang tên Smile... It Confuses People đã ra mắt vào 5-6 với single đầu tay "I Wish I Was A Punk Rocker" Đầu tháng 6, bài hát I Wish I was a Punk Rocker của Sandi Thom đã chấm dứt 9 tuần thống trị của ca khúc Crazy (nhóm Gnarl Blarkey). Thành công của cả Crazy lẫn I wish I was a Punk Rocker đều cho thấy vị trí quan trọng của Internet trong đời sống hiện tại. Cuối tháng 3, Crazy đạt được vị trí đầu bảng xếp hạng chỉ nhờ vào lượng download bài hát hợp pháp chứ không nhờ vào lượng đĩa đơn bán ra. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử âm nhạc nước Anh có một hiện tượng như vậy nhưng chắc chắn sẽ xuất hiện nhiều trong thời gian tới, khi tải nhạc hợp pháp từ mạng càng lúc càng giữ vai trò quan trọng đối với nền công nghiệp âm nhạc. Nếu như Nelly Furtado rời bỏ folk để đến với dance, hip-hop ở album mới Loose thì Sandi Thom có thể lấp vào tròn trĩnh khoảng trống mà Nelly để lại khi trộn lẫn folk và soul trong đĩa nhạc của mình. Trái với việc tiếp thị kiểu @ qua Internet, đĩa đơn đầu trích từ album, bài I wish I was a Punk Rocker (with Flowers in My Hair) lại toàn những ý hoài cổ. Ngay cái tựa cũng nhắc đến thời nhạc psychedelic, nhạc folk với khẩu hiệu "flower power" những năm 60, với "hoa cài trên mái tóc khi đến San Francisco" trong bài San Francisco. Dòng nhạc kế tiếp trong thập niên 70 chính là punk rock với Sex Pistols, Clash, Ramones và mong muốn của Sandi là trộn lẫn 2 dòng nhạc này: "Tôi muốn mình là kẻ chơi nhạc punk với hoa cài trên tóc, với tinh thần những cuộc cách mạng năm 1969 và 1977 trong không khí. Tôi sinh ra quá trễ trong một thế giới mà mọi người chẳng còn quan tâm đến nhau. Tôi ước được sống trong thời gian mà âm nhạc thật sự có ý nghĩa, radio là bá chủ, khi giới truyền thông chẳng thể nào mua được linh hồn của bạn, khi máy vi tính còn là thứ gì đó cực kỳ kinh khủng. Khi đó, các ngôi sao âm nhạc là những huyền thoại, sự ngây thơ là hạnh phúc và cách duy nhất để liên lạc với nhau là những lá thư tay, khi mà những cửa hàng băng đĩa vẫn thống lĩnh và những gì họ trữ để bán là đĩa nhựa vinyl...". Bài hát cũng chơi chữ trong câu "And when God save the Queen she turned a whiter shade of pale".Các bài hát khác của Sandi như Superman, Time, Under the sun, Lonely Girl... tương đối nhẹ nhàng.
"Play the Game" là tên một bài hát của ban nhạc Queen. Đây là bài hát đầu tiên ở mặt trên trong album 1980 của họ, album The Game. Bài hát mở đầu với một loạt âm thanh, báo trước việc sử dụng nhạc cụ điện tử trong bài hát. Họ dã trình diễn bài hát trong các buổi công diễn từ năm 1980 đến năm 1982. Trong video nhạc, đằng sau Freddy Mercury và ban nhạc đang biểu diễn, là nền có hình ảnh ngọn lửa cháy đỏ rực. Các thành viên trong ban nhạc đều được quay cận cảnh.
Killer Queen là một bài hát của ban nhạc Queen của Anh. Bài hát có trong album Sheer Heart Attack phát hành năm 1974, do Freddie Mercury, linh hồn của ban nhạc sáng tác. Mercury nói rằng bài hát có ảnh hưởng từ những tác phẩm của Beatles, còn phần lời thì bị ảnh hưởng của Beach Boys và Noel Coward. Anh đã viết lời trước tiên cho bài hát và sau đó thì sáng tác nhạc cho phù hợp. Phần hòa âm được làm công phu, kỹ lưỡng từ 4 phần giọng khác nhau (đặc biệt ở trong phần điệp khúc và trong phần hát nền của các đoạn trong bài hát), và phần ghi ta sô lô cũng rất trau chuốt của Brian May nữa. Nội dung bài hát về một gái điếm hạng sang. Bài hát đã nhắc đến Maria Antonia của Áo, vương hậu của Pháp, và nhắc đến cả những nhà chính trị nổi tiếng trong những năm của thập kỷ 1950, 1960 Khrushchev và Kennedy. Bài hát đã đứng thứ 2 trong bảng xếp hạng của Anh. Bài hát cũng truyền cảm hứng cho Araki Hirohiko tạo nên stand Killer Queen trong Jojo. Paul Rodgers đã nói rằng bài hát đã không được hát trong khi Queen + Paul Rodgers đang lưu diễn do: "the melodies are just too on the spot". Phiên bản cover Sum 41 đã hát bài này trong album Killer Queen: A Tribute to Queen. Một phiên bản của Killer Queen đã có trong trò chơi Guitar Hero và Taiko: Drum Master trong PlayStation 2, có cả trong trò chơi Guitar Freaks và Drummania.
Môi trường xã hội là môi trường mà con người là nhân tố trung tâm, tham gia và chi phối môi trường. Việt Nam là cầu nối Đông Nam Á lục địa với Đông Nam Á hải đảo. Việt Nam là giao điểm, nơi giao thoa của các nền văn hoá lớn. Mang trên mình một lịch sử hào hùng: đấu tranh chống xâm lăng phương Bắc, mở rộng bờ cõi Phương Nam. Môi trường xã hội bao gồm: chính trị, kinh tế, văn hoá, thể thao, lịch sử, giáo dục... xoay quanh con người và con người lấy đó làm nguồn sống, làm mục tiêu cho mình. Môi trường xã hội tốt thì các nhân tố cấu thành môi trường sẽ bổ trợ cho nhau, con người sống sẽ được hưởng đầy đủ các quyền: sống, làm việc, cống hiến, hưởng thụ. Từ đây ta thấy môi trường xã hội Việt Nam là nền văn hoá nông nghiệp trọng tình. Mặt trái của môi trường xã hội là các tệ nạn xã hội.
Cầu thủ giao bóng (tiếng Anh: pitcher) là một trong 9 cầu thủ của một đội bóng chày. Cầu thủ này sẽ ném một quả bóng chày từ ụ ném bóng về phía cầu thủ bắt bóng để bắt đầu mỗi lượt chơi, với mục tiêu là khiến cầu thủ phát bóng bị out. Cầu thủ giao bóng thường được coi là cầu thủ quan trọng nhất của đội phòng thủ và do đó nằm ở cuối bên phải của defensive spectrum. Theo truyền thống, cầu thủ giao bóng cũng tham gia phát bóng. Bắt đầu từ năm 1973 với American League (và sau đó là National League) và lan rộng ra các giải đấu khác trong suốt những năm 1980 và 1990, nhiệm vụ phát bóng của cầu thủ giao bóng thường được giao cho vị trí designated hitter, điều đó đã gây ra một số tranh cãi. Kể từ năm 2023, giải Central League của Nhật Bản là giải đấu cấp cao nhất không sử dụng vị trí designated hitter. Các kiểu ném bóng Cầu thủ giao bóng điêu luyện thường ném nhiều kiểu ném bóng khác nhau để ngăn không cho cầu thủ phát bóng đánh trúng bóng. Kiểu ném bóng cơ bản nhất là fastball, trong đó cầu thủ giao bóng ném bóng mạnh và nhanh nhất có thể. Một số cầu thủ giao bóng có thể ném fastball với tốc độ hơn , ví dụ như Aroldis Chapman. Các kiểu ném bóng phổ biến khác là curveball, slider, changeup, cutter, sinker, screwball, forkball, split-fingered fastball, slurve, knuckleball, và vulcan. Ghi chú
Xác thực (, = thật hoặc chính cống, bắt nguồn từ 'authentes' = tác giả/người tạo ra) là một hành động nhằm thiết lập hoặc chứng thực một cái gì đó (hoặc một người nào đó) đáng tin cậy, có nghĩa là, những lời khai báo do người đó đưa ra hoặc về vật đó là sự thật. Xác thực một đối tượng còn có nghĩa là công nhận nguồn gốc (provenance) của đối tượng, trong khi, xác thực một người thường bao gồm việc thẩm tra nhận dạng của họ. Việc xác thực thường phụ thuộc vào một hoặc nhiều nhân tố xác thực (authentication factors) để minh chứng cụ thể. Trong an ninh máy tính (computer security), xác thực là một quy trình nhằm cố gắng xác minh nhận dạng số (digital identity) của phần truyền gửi thông tin (sender) trong giao thông liên lạc chẳng hạn như một yêu cầu đăng nhập. Phần gửi cần phải xác thực có thể là một người dùng sử dụng một máy tính, bản thân một máy tính hoặc một chương trình ứng dụng máy tính (computer program). Ngược lại Sự tin cậy mù quáng (blind credential) hoàn toàn không thiết lập sự đòi hỏi nhận dạng, song chỉ thiết lập quyền hoặc địa vị hẹp hòi của người dùng hoặc của chương trình ứng dụng mà thôi. Trong một mạng lưới tín nhiệm, việc "xác thực" là một cách để đảm bảo rằng người dùng chính là người mà họ nói họ là, và người dùng hiện đang thi hành những chức năng trong một hệ thống, trên thực tế, chính là người đã được ủy quyền để làm những việc đó. Để phân biệt từ "xác thực" (authentication) với một từ gần gũi với nó, "sự ủy quyền" (hay sự cấp phép) (authorization), hai ký hiệu viết tắt thường được dùng để thay thế - A1 tức sự xác thực (authentication) và A2 tức sự ủy quyền (authorization). Vấn đề trong việc ủy quyền thường được nhìn nhận là một vấn đề tương tự như vấn đề trong việc xác thực; Rất nhiều các giao thức an ninh tiêu chuẩn (standard security protocols), các điều lệ bắt buộc, và ngay cả các quy chế cũng dựa trên cơ sở của giả định này. Tuy nhiên, sự sử dụng chính xác hơn của việc xác thực lại diễn tả nó như một quy trình dùng để xác minh sự nhận dạng của một người dùng, trong khi sự ủy quyền là một quy trình nhằm xác minh rằng một người dùng biết trước, có quyền lực để thao tác một quá trình hoạt động nào đó hay không. Sự xác thực do đó phải được tiến hành trước sự ủy quyền. Lấy ví dụ, khi chúng ta trình diện giấy chứng minh hợp thức của mình với một nhân viên thu ngân của nhà băng (bank teller), trước tiên, chúng ta được nhân viên thu ngân chứng thực và sau đó, chúng ta được ủy quyền để truy cập những thông tin về các tài khoản trong nhà băng của mình. Đương nhiên, chúng ta sẽ không được ủy quyền để truy cập các tài khoản mà chúng ta không sở hữu. Do việc ủy quyền không thể được tiến hành mà không có sự xác thực đi kèm, thuật ngữ "sự ủy quyền" còn đôi khi được sử dụng với cái nghĩa là tổ hợp của cả hai, sự xác thực và sự ủy quyền. Một ví dụ quen thuộc là ví dụ về quản lý truy cập. Một hệ thống máy tính đáng ra chỉ nên được sử dụng bởi những người được ủy quyền sử dụng mà thôi và nó phải nỗ lực phát hiện và loại trừ những người dùng không được ủy quyền. Việc truy cập máy do đó thường được quản lý bằng cách đòi hỏi một thủ tục xác thực nhận dạng của người dùng được tiến hành, với một mức độ đáng tin cậy nào đó, rồi sau đó mới ban cho người dùng những đặc quyền mà chúng ta có thể cấp cho chỉ danh của người dùng đó. Những ví dụ thông thường trong việc quản lý truy cập mà trong đó việc xác thực là một việc không tránh khỏi, gồm có: Rút tiền mặt từ một Máy rút tiền tự động (Automated Teller Machine - ATM). Quản lý một máy tính từ xa thông qua Internet. Sử dụng một hệ thống giao dịch ngân hàng trên mạng Internet (Online/Internet banking). Tuy vậy, một điều cần phải để ý là đại bộ phận những bàn bạc trong đề tài này là lệch lạc vì những thuật ngữ được dùng ở đây không được chính xác cho lắm. Một phần của sự lộn xộn này có thể là do âm hưởng 'thi hành luật pháp' trong hầu hết các bàn luận. Đồng thời, cũng không có một máy tính, một chương trình ứng dụng máy tính hoặc một người dùng máy tính nào có thể 'xác thực được nhận dạng' (confirm the identity) của một người khác (another party). Trên bề mặt của một việc tưởng như là minh bạch, dễ hiểu, chúng ta thấy còn có nhiều vấn đề (issues) khúc mắc che giấu bên trong. Chúng ta chỉ có thể áp dụng một hoặc nhiều thử nghiệm để kiểm tra. Nếu việc thử nghiệm không tìm ra những sai sót thì đối tượng bị thử nghiệm sẽ được coi như là có đủ quyền hạn để tiếp tục tiến hành, như đã quy định. Vấn đến là ở chỗ làm thế nào để xác định rằng những thử nghiệm nào là xứng đáng và rất nhiều quy trình dùng để xác định tính xứng đáng của các thử nghiệm cũng không được hoàn hảo. Rất nhiều trường hợp những trắc nghiệm này đã bị lừa đảo một cách thành công, làm cho trắc nghiệm trở nên vô hiệu. Bằng những thất bại của chúng, bản thân những trắc nghiệm này chỉ cho chúng ta thấy một cách chắc chắn tính bất tương xứng của chúng. Rất nhiều người vẫn tiếp tục coi các thử nghiệm, và cái quyết định coi việc thành công vượt qua những thử nghiệm, là những cái có thể chấp nhận được, rồi đổ lỗi những thất bại cho tính 'luộm thuộm' hoặc tình trạng 'kém cỏi' thuộc phần người nào đó. Nan đề là ở chỗ thử nghiệm đáng ra phải có hiệu quả khi được thi hành trên hiện trường chứ không phải trong môi trường lý tưởng, là những nơi không có sự luộm thuộm hoặc không bị ảnh hưởng bởi tính kém cỏi của người điều hành. Trong những trường hợp như vậy, chính thử nghiệm là cái thất bại, chứ không phải là những cái khác. Hãy xem xét một trường hợp phổ biến là trường hợp một lá thư điện tử phê chuẩn (confirmation email) đòi hỏi phải được hồi âm để khởi động một trương mục nào đó. Do việc lá thư hồi âm có thể dễ dàng được bố trí gửi đến từ một địa chỉ giả (bogus) hoặc một địa chỉ không thể phát hiện được (untraceable), phương pháp này là một phương pháp xác minh hoàn toàn không thể tin tưởng được (least robust authentication possible). Thành công trong việc vượt qua thử nghiệm này chẳng có ý nghĩa mấy, và đương nhiên, tính 'luộm thuộm' hoặc tình trạng 'kém cỏi' hầu như chẳng dính dấp một tí nào. Xác thực đa nhân tố Những nhân tố xác thực (authentication factors) dành cho con người nói chung được phân loại theo ba trường hợp sau: Những cái mà người dùng sở hữu bẩm sinh (chẳng hạn, vết lăn tay hoặc mẫu hình võng mạc mắt, chuỗi DNA (có đủ loại định nghĩa về cái nào là cái thích hợp và đầy đủ), mẫu hình về giọng nói (cũng có vài định nghĩa ở đây nữa), sự xác minh chữ ký, tín hiệu sinh điện đặc hữu do cơ thể sống tạo sinh (unique bio-electric signals), hoặc những biệt danh sinh trắc (biometric) identifier) Những cái gì người dùng có (chẳng hạn, chứng minh thư (ID card), chứng chỉ an ninh (security token), chứng chỉ phần mềm (software token) hoặc điện thoại di động (cell phone)) Những gì người dùng biết (chẳng hạn, mật khẩu, mật khẩu ngữ (pass phrase) hoặc số định danh cá nhân (personal identification number - PIN)) Đôi khi, một tổ hợp của những phương pháp trên được sử dụng, chẳng hạn, thẻ nhà băng (bank card) và số định danh cá nhân - trong trường hợp này, thuật ngữ được dùng là 'Xác thực dùng hai nhân tố (two-factor authentication). Trong lịch sử, vết lăn tay được dùng là một phương pháp xác minh đáng tin nhất, song trong những vụ kiện tòa án (court cases) gần đây ở Mỹ và ở nhiều nơi khác, người ta đã có nhiều nghi ngờ có tính chất căn bản, về tính đáng tin cậy của dấu lăn tay. Những phương pháp sinh trắc khác được coi là khả quan hơn (quét võng mạng mắt và quét vết lăn tay là vài ví dụ), song có những bằng chứng chỉ ra rằng những phương pháp này, trên thực tế, dễ bị giả mạo. Trong ngữ cảnh của dữ liệu máy tính, nhiều phương pháp mật mã (cryptographic methods) đã được xây dựng như chữ ký số (digital signature) và phương pháp xác thực bằng thử thách-trả lời (challenge-response authentication). Đây là những ví dụ về những cách hiện nay không thể giả mạo được nếu (và chỉ nếu) chìa khóa của người khởi thủy không bị thỏa hiệp. Rằng việc người khởi thủy (hay bất cứ ai ngoài kẻ tấn công biết (hoặc không biết) về một sự thỏa hiệp nào đấy là một việc chẳng có dính dáng gì hết. Không ai có thể chứng minh được những phương pháp xác thực dùng mật mã này có an toàn hay không, vì có thể những tiến triển trong toán học không lường trước được có thể làm cho chúng, sau này, trở nên dễ bị phá vỡ. Nếu xảy ra, thì việc này sẽ làm cho những phương pháp xác minh được dùng trong quá khứ trở nên không tin cậy. Cụ thể là, một bản giao kèo được ký bằng chữ điện tử có thể sẽ bị nghi ngờ về tính trung thực của nó khi người ta phát hiện ra một tấn công mới đối với kỹ thuật mật mã dùng trong các chữ ký.
Quần đảo Galápagos (tên chính thức: Archipiélago de Colón, tên tiếng Tây Ban Nha khác: Islas Galápagos, ) là một quần đảo, tập hợp các đảo núi lửa nằm về hai phía xích đạo trên Thái Bình Dương, cách đất liền của Ecuador 906 km (563 dặm) về phía tây và thuộc quốc gia này. Quần đảo Galápagos và vùng nước xung quanh tạo thành tỉnh Galápagos của Ecuador, vườn quốc gia Galápagos và khu dự trữ biển Galápagos. Tiếng Tây Ban Nha là ngôn ngữ chính trên quần đảo và số dân ở đây vào khoảng hơn 25.000. Galápagos nổi tiếng với một số lượng lớn các loài đặc hữu từng được Charles Darwin nghiên cứu trong chuyến hành trình Beagle. Những quan sát và thu thập đã đóng góp cho sự khởi đầu thuyết tiến hóa của Darwin. Con người đến Galápagos lần đầu vào năm 1535 một cách tình cờ khi giám mục Fray Tomás de Berlanga tới Peru để phân xử vụ tranh chấp giữa Francisco Pizarro và Diego de Almagro. Gió đã làm chệch hải trình và nhóm của Berlanga tới quần đảo vào ngày 10 tháng 3 năm 1535. Sau khi quay trở về đế quốc Tây Ban Nha, ông đã mô tả về nhóm đảo và những loài động vật cư trú ở đó. Quần đảo được chỉ ra và đặt tên trong tập atlas của Abraham Ortelius xuất bản năm 1570. Vào năm 1684, tên cướp biển Ambrose Cowley đã lập ra tấm bản đồ thô đầu tiên về quần đảo. Cowley đã đặt tên cho những hòn đảo riêng biệt theo tên của một số đồng bọn hoặc các hoàng thân và quý tộc Anh. Những tên này được dùng trong hải đồ chuẩn bị cho chuyến khảo sát Beagle do Robert Fitzroy chỉ huy và trong cuốn sách The Voyage of the Beagle nổi tiếng của Darwin. Đến năm 1832 nước Cộng hòa Ecuador mới đã tiếp quản quyền sở hữu quần đảo từ Tây Ban Nha và đặt cho nó những cái tên chính thức theo tiếng Tây Ban Nha. Các tên cũ vẫn còn được dùng trong các xuất bản phẩm tiếng Anh, trong đó có The Encantadas của Herman Melville. Địa lý Quần đảo Galápagos là một tập hợp gồm 13 đảo chính, 6 đảo nhỏ và 107 khối đá nằm ở phía tây ngoài khơi bờ biển Ecuador, thuộc Thái Bình Dương, có tổng diện tích 8010 km². Quần đảo nằm ở vị trí được xem là điểm nóng địa chất, nơi vỏ Trái Đất vẫn còn yếu do nham thạch phía dưới. Hòn đảo già nhất trong quần đảo được hình thành cách đây từ 5 đến 10 triệu năm. Trong khi những hòn đảo trẻ nhất, hòn Isabela và Fernandina, vẫn đang được hình thành và tạo ra các đợt phun trào núi lửa, lần phun trào mới nhất là năm 2009. Hành chính Hiện quần đảo Galápagos là một tỉnh của Ecuador, đồng thời cũng nằm trong hệ thống khu bảo tồn quốc gia của nước này. Galápagos nổi tiếng với các loài sinh vật đặc hữu (chỉ có tại Galápagos) rất phong phú. Chính hệ thống sinh vật đặc hữu phong phú của Galápagos là tiền đề cho những nghiên cứu giúp Darwin đưa ra thuyết tiến hóa sau này. Lịch sử phát hiện, khám phá Charles Darwin đã ghé thăm quần đảo này trong một chuyến du lịch vòng quanh thế giới kéo dài 5 năm trên tàu Beagle (27 tháng 12 năm 1831 - 2 tháng 10 năm 1836). Ông đã phát hiện ra rằng động vật hoang dã ở đây đã tiến hóa hoàn toàn độc lập với phần còn lại của Trái Đất, với nhiều loài độc nhất vô nhị không nơi nào có, trong số đó có 13 loài sẻ nhỏ. Chính vì vậy, quần đảo này đã trở thành một mô hình nghiên cứu tiến hóa lý tưởng của các nhà khoa học. Người phương Tây đầu tiên đặt chân đến quần đảo là De Berlanga, một Giám mục người Panama, đến Galápagos vào ngày 10 tháng 3 năm 1535. Nhưng mãi đến năm 1570 quần đảo Galápagos mới xuất hiện trên bản đồ thế giới do Abraham Ortelius và Mercator vẽ với tên gọi "Insulae de los Galopegos" (Quần đảo của loài rùa) vì lúc đó trên đảo có rất nhiều rùa khổng lồ. Tuy nhiên, đến nay loài rùa khổng lồ Galápagos còn lại rất ít. Nổi tiếng nhất trong số đó là Lonesome George. Từ năm 1934, quần đảo Galápagos được đưa vào danh sách các khu thiên nhiên cần được bảo vệ cùng với các loài sinh vật đặc hữu của nó. Lúc mới được đưa vào danh sách bảo tồn, chỉ có khoảng 1.000-2.000 người bản địa sống tại quần đảo Galápagos, nhưng đến nay con số này đã lên khoảng 30.000. Năm 1955, Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế tiến hành các cuộc khảo sát thực tế để đề ra biện pháp bảo tồn thích hợp cho quần đảo Galápagos. Năm 1957, UNESCO (Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của LHQ) kết hợp với chính quyền Ecuador để tiến hành các công tác bảo tồn trên quần đảo Galápagos và chọn một khu vực để đặt các hoạt động nghiên cứu. Năm 1959, để kỷ niệm 100 năm ngày Darwin công bố thuyết tiến hóa, chính quyền Ecuador tuyên bố biến 95% quần đảo Galápagos thành khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia. Năm 1986, vùng biển 70.000 km² xung quanh quần đảo cũng được đưa vào khu bảo tồn, là khu bảo tồn dưới nước lớn thứ 2 trên thế giới, chỉ sau khu bảo tồn Dải San hô lớn của Australia. Hiện trên quần đảo Galápagos còn một số loài sinh vật đặc hữu quý hiếm như loài rùa khổng lồ Galápagos, rùa xanh Galápagos, loài kỳ nhông nước và kỳ nhông cạn Galápagos, chim cánh cụt Galápagos… Mới đây, Tổng thống Ecuador Rafael Correa lên tiếng công bố tình trạng nguy hiểm cho các loài sinh vật đang được bảo tồn tại Galápagos. Ông Rafael cho biết các loài vật quý hiếm như rùa khổng lồ, kỳ nhông nước… trên đảo đang đối mặt với nguy cơ bị diệt vong do sự bành trướng của cư dân đảo. Ngoài ra, các loài vật đặc hữu tại đây cũng bị đe dọa nghiêm trọng từ các loài vật do con người mang đến sau này. Quần thể động thực vật Rùa Galápagos
Họ Hồi (danh pháp khoa học: Illiciaceae) là một họ thực vật có hoa. Họ này được phần lớn các nhà phân loại học công nhận, ít nhất là trong vài thập niên vừa qua. Hệ thống APG II năm 2003 không công nhận họ này. Tuy nhiên, hệ thống này cũng cho phép một sự lựa chọn tùy ý để tách họ này từ họ Ngũ vị tử (Schisandraceae). Họ (tách ra tùy chọn) này sau đó có định nghĩa theo truyền thống, bao gồm một chi duy nhất là Chi Hồi (Illicium), với 37-42 loài, chủ yếu sinh trưởng tại khu vực Đông Nam Á và trong khu vực Tây Ấn (Caribe) và những khu vực cận kề thuộc Bắc Mỹ. Hệ thống APG III năm 2009 không công nhận họ này và đưa chi Illicium vào trong họ Schisandraceae. Để xem thêm chi tiết về vị trí của nó trong các hệ thống, xem bài về họ Ngũ vị tử (Schisandraceae). Mô tả Họ này bao gồm các cây bụi hoặc cây gỗ nhỏ thường chứa các hợp chất thơm dễ bay hơi. Các lá thường xanh, đơn, mọc so le, xoắn ốc (đôi khi tụ tập về phía đầu cành cây), như da, có cuống lá, gân lá lông chim, không bẹ lá, có/không đốm tuyến; có/không mùi thơm. Các phiến lá nguyên. Hoa lưỡng tính, và thường sặc sỡ, có kích thước từ nhỏ đến lớn, và bao gồm nhiều phần riêng biệt thay đổi mức độ một chút khi chúng xoắn xung quanh đế hoa. Các phần bắt đầu bằng một bao hoa gồm các cánh đài mọc vòng, với các cánh đài của các vòng xoắn bên ngoài giống lá đài nhiều hơn, dần dần chuyển thành giống cánh hoa nhiều hơn ở các vòng xoắn bên trong. Nhị hoa nhiều và xếp thành vòng xoắn. Các lá noãn cũng sắp xếp thành vòng xoắn, tách biệt và có từ 5 đến nhiều lá noãn mỗi vòng xoắn, mỗi lá noãn chứa một noãn. Thân cây có các mắt một lỗ khuyết. Các mô mạch sơ cấp hình trụ, không có các bó mạch tách biệt; ở bên. Không có libe bên trong. Dày lên thứ sinh phát triển từ vòng phát sinh gỗ thông thường. Mạch gỗ với các quản bào. Các thể hạt ống sàng là loại S. Quả hợp không mọng thịt; lá noãn tạo quả thể nứt, với quả đại (vòng các quả đại thường tỏa tia kiểu hình sao) và có một hạt. Hạt nhiều nội nhũ và dầu. Phôi khu biệt rõ (rất nhỏ), không chất diệp lục. Lá mầm 2. Sự nảy mầm là có lá mầm thấy được. Hóa thực vật Lá chứa tinh dầu. Có các proanthocyanidin và anthocyanidin (cyanidin và delphinidin). Cũng chứa các flavonol (kaempferol và quercetin). Quả tạo ra 2,5 – 5% tinh dầu chứa chủ yếu là trans-anethol. Phát sinh chủng loài Phát sinh chủng loài của họ Hồi trong phạm vi bộ Austrobaileyales là:
Tổ chức Di trú quốc tế (tiếng Anh: International Organization for Migration) là một tổ chức liên chính phủ được thành lập năm 1951 với tư cách là Ủy ban liên chính phủ về di trú châu Âu (Intergovernmental Committee for European Migration) (ICEM) để giúp tái định cư những người phải di chuyển chỗ ở trong chiến tranh thế giới thứ 2. Nhiệm vụ của nó đã phát triển rộng khắp theo thời gian và hiện nay Tổ chức này hoạt động trong lĩnh vực di trú và các vấn đề liên quan đến di trú trên toàn thế giới. Tổ chức này hiện là cơ quan thuộc Liên Hợp Quốc. IOM hoạt động chặt chẽ với các đối tác chính phủ, liên chính phủ và phi chính phủ trên toàn cầu. IOM tận tâm giúp đỡ các chính phủ và người di cư trong việc thúc đẩy di cư nhân đạo và trật tự. Hiến chương IOM công nhận mối liên hệ giữa di cư và sự phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa cũng như quyền về tự do di chuyển. IOM hoạt động hướng tới các giải pháp thực tế cho các vấn đề di cư, cung cấp giúp đỡ nhân đạo cho người di cư có nhu cầu, và hợp tác cùng các đối tác để thúc đẩy hợp tác quốc tế về các vấn đề di cư. IOM bắt đầu hoạt động tại Việt Nam từ năm 1987 và hiện đang hoạt động trong khuôn khổ Hiệp định Hợp tác với chính phủ Việt Nam. Phái đoàn IOM Việt Nam được đặt tại Hà Nội và văn phòng chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh. IOM Việt Nam có đội ngũ nhân viên được đào tạo chuyên sâu và giàu kinh nghiệm để hỗ trợ Chính phủ và nhân dân Việt Nam trong lĩnh vực di cư. Các hoạt động của IOM Việt Nam liên quan tới phúc lợi và chất lượng cuộc sống của nhân dân Việt Nam, đặc biệt là người di cư và di biến động. Sứ mệnh của IOM chú trọng vào di cư an toàn và tính di động. Phái đoàn IOM tại Việt Nam đặt văn phòng chính tại Hà Nội và Văn phòng chi nhánh tại TP Hồ Chí Minh với đội ngũ cán bộ nhiều kinh nghiệm và tận tụy nhằm giúp Chính phủ và người dân Việt Nam trong lĩnh vực di cư. IOM bắt đầu các hoạt động tại Việt Nam vào năm 1987 trong khuôn khổ Biên bản ghi nhớ với Bộ Ngoại giao. IOM có các mối quan hệ hợp tác với các cơ quan như Bộ Ngoại giao, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Công an, Bộ Giao thông, Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Hội Liên hiệp Phụ nữ, một số cơ quan khác và đã tiến hành nhiều hoạt động dự án khắp cả nước. Làm việc cùng các cơ quan đối tác của IOM trong Nhóm quốc gia Liên Hợp quốc (UNCT) đã mang lại sự hiệp lực và tác động phát triển lớn hơn cho người dân. Bằng cách này, IOM giữ vai trò không tách rời trong Sáng kiến Một Liên hợp quốc ở Việt Nam – Sáng kiến mà có được thành công là nhờ vai trò lãnh đạo mạnh mẽ của Chính phủ Việt Nam, Nhóm quốc gia Liên Hợp Quốc tận tụy, và cộng đồng các nhà tài trợ luôn ủng hộ. Mục đích của Sáng kiến Một Liên Hợp Quốc ở Việt Nam bao gồm sự thích hợp và gắn kết tăng cường của Liên Hợp Quốc tại Việt Nam, sự phát triển và hiệu quả sử dụng viện trợ gia tăng, và đảm bảo tính hiệu quả và tiết kiệm chi phí. Những dấu mốc lịch sử của IOM tại Việt Nam Việt Nam trở thành thành viên của IOM: Năm 1989 - IOM thành lập một Tổ công tác tại Thành phố Hồ Chí Minh để phối hợp với Cao ủy Liên Hợp Quốc về Người tị nạn (UNHCR) và Sở Ngoại vụ - một bộ phận thuộc Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN), trong việc thực hiện Chương trình Ra đi Có trật tự (ODP) với việc cung cấp kiểm tra sức khỏe và thu xếp đi lại cho người di cư. Năm 1990 - IOM đã đáp lại yêu cầu của Chính phủ và thu xếp cho việc sơ tán khoảng 14.000 công nhân Việt Nam từ Iraq trở về nước trước khi Chiến tranh vùng Vịnh xẩy ra. Năm 1991 - IOM đã ký Bản ghi nhớ với Chính phủ nước CHXHCNVN để thiết lập mối quan hệ chính thức. IOM mở Văn phòng Phái đoàn tại Hà Nội và chính thức tiếp quản chương trình ODP từ UNHCR. Năm 1993 – Hợp tác với VINACONEX và LOD - hai công ty xuất khẩu lao động hàng đầu, IOM đã cung cấp các khóa đào tạo tiếng Anh cho người lao động di cư trước khi ra nước ngoài lao động. Năm 1996 – IOM bắt đầu thực hiện dự án cung cấp "Hỗ trợ Hồi hương và Tái hòa nhập đối với Nạn nhân bị mua bán trở về" với sự hợp tác của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Lạng Sơn . Năm 1997 - Hợp tác với Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, IOM đã tổ chức hội thảo về phòng chống mua bán phụ nữ và trẻ em ở miền Bắc và miền Nam. Đây là những hội thảo đầu tiên ở Việt Nam trong lĩnh vực phòng chống buôn bán người. Năm 1998 – IOM đã thực hiện dự án thí điểm “Chiến dịch Truyền thông Quốc gia Phòng-Chống Buôn bán người" với Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tại 8 tỉnh, thành phố. Năm 2000 - IOM và Trung ương Hội LHPN Việt Nam thực hiện Chiến dịch Truyền thông Quốc gia Phòng-Chống Buôn bán người tại một số tỉnh và thành phố lựa chọn ở Việt Nam. Chiến dịch đã giúp nâng cao nhận thức của cộng đồng về mối nguy hiểm của nạn Buôn bán người. IOM bắt đầu tham gia vào chương trình khu vực dài hạn để hỗ trợ Hồi hương và Tái hòa nhập cho nạn nhân bị buôn bán ở các nước thuộc Tiểu vùng sông Mekong. IOM đã triển khai dịch vụ hỗ trợ xin thị thực để giúp công dân Việt Nam trong việc xin thị thực nhập cảnh Canada. Năm 2002 - Với sự hỗ trợ của IOM, Bộ Ngoại giao đã đảm nhiệm vai trò thư ký của Tiến trình Tham vấn Liên chính phủ khu vực châu Á - Thái Bình Dương (APC) về Người tị nạn, Người bị di rời và Người di cư. Việt Nam đã tổ chức Hội nghị APC toàn thể lần thứ 7. Năm 2004 - IOM đã  hỗ trợ Hội LHPN Việt Nam với các hoạt động xây dựng năng lực trong công tác phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em, và hỗ trợ Mái ấm Bông Hồng nhỏ tại thành phố Hồ Chí Minh về tái hòa nhập dành cho trẻ em bị buôn bán và dễ bị tổn thương. Năm 2005 - Theo thỏa thuận với Chính phủ Úc, IOM bắt đầu cung cấp hỗ trợ xin thị thực cho người dân có nhu cầu du lịch hoặc di cư đến Úc. Năm 2006 – IOM đã hỗ trợ Chính phủ Việt Nam thực hiện Hiệp định Song phương giữa Chính phủ Hoàng gia Campuchia và Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về hợp tác nhằm Loại bỏ Nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em và Hỗ trợ nạn nhân bị buôn bán ký ngày 10 tháng 10, 2005. Năm 2007 - IOM đã hoàn thành nghiên cứu để nâng cao hiểu biết về tình hình bạo lực đối với người lao động di cư nữ ở Việt Nam và cung cấp thông tin chính xác về nhận thức, trải nghiệm và phản ứng của di cư nữ đối với bạo lực giới, mà có thể được sử dụng để hỗ trợ các nỗ lực vận động thông qua việc xây dựng chính sách và chương trình. Năm 2008 - Trung tâm Tiếp nhận ban đầu dành cho nạn nhân bị buôn bán tỉnh An Giang đã được hoàn thành vào tháng 07 với sự hỗ trợ kỹ thuật của IOM và hỗ trợ tài chính của Cục Dân số, Người tị nạn và Di cư thuộc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Năm 2009 - Trung tâm Tiếp nhận tỉnh Lào Cai dành cho nạn nhân bị buôn bán trở về đã bắt đầu cung cấp hỗ trợ cho các nạn nhân. Hỗ trợ bao gồm tư vấn, hỗ trợ tâm lý xã hội, giáo dục kỹ năng sống, đào tạo nghề, giới thiệu việc làm, hỗ trợ sinh kế/sản xuất bền vững, phòng chống HIV, chăm sóc sức khỏe, trợ giúp pháp lý, và hỗ trợ hồi hương và tái hòa nhập. Năm 2010 - Thứ trưởng Ngoại giao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ông Nguyễn Thanh Sơn, và Tổng Giám đốc IOM, ông William Lacy Swing đã ký Hiệp định hợp tác mới nhằm củng cố mối quan hệ giữa Việt Nam và IOM. Hiệp định đã đưa mối quan hệ chặt chẽ giữa Việt Nam và IOM lên một nền tảng mới, mạnh mẽ hơn, và tạo ra nhiều cơ hội mới cho hợp tác tăng cường để đáp ứng những thách thức di cư của Việt Nam. Năm 2011 - Trung tâm Tiếp nhận tỉnh An Giang tiếp tục thực hiện nhiệm vụ quan trọng với sự hỗ trợ kỹ thuật của IOM và hỗ trợ tài chính từ Cô-oét . Năm 2011 - Trong thời gian khủng hoảng Libya, IOM đã hỗ trợ Việt Nam trong việc phản ứng nhanh và thành công để đưa 10.500 người lao động di cư Việt Nam từ Libya về nước. Năm 2012 - IOM đã hỗ trợ Chính phủ Việt Nam/Bộ Ngoại giao thực hiện và công bố thành công Hồ sơ di cư đầu tiên của Việt Nam - "Tổng quan về Di cư của công dân Việt Nam ra nước ngoài". Với sự hợp tác của Cục Quản lý Lao động ngoài nước, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (MOLISA), Văn phòng hỗ trợ người di cư (MRC) đầu tiên đã được thành lập tại Hà Nội, và hợp tác về hồi hương và tái hòa nhập cho những nạn nhân bị buôn bán cũng đã được tăng cường. Phối hợp với Bộ Công an (MPS), những nỗ lực chung chống nạn buôn bán người cũng như đưa người trái phép đã được tăng cường. Cũng trong năm này, IOM đã tham gia toàn diện vào phương thức "Thống nhất trong Hành động" của Liên Hợp Quốc tại Việt Nam. Năm 2013 - Hợp tác với Cục Quản lý Xuất nhập cảnh (MPSI), IOM đã tổ chức hội thảo khu vực đầu tiên về phòng chống đưa người trái phép tại Hà Nội. Một dự án về giới và di cư đã được thực hiện tại tỉnh Đồng Tháp với sự hợp tác của ADB và các đối tác Việt Nam, kể cả Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Năm 2014 – Hợp tác với Cục Quản lý Xuất nhập cảnh/MPSI và Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng, IOM đã tổ chức hội thảo chính sách về quản lý hiệu quả các dòng di cư hợp pháp và trái phép ngày càng đa dạng ở Việt Nam và một chuỗi các tập huấn dành cho giảng viên (ToT) về phòng chống và phát hiện mua bán người và đưa người trái phép. Với sự hợp tác của Bộ đội Biên phòng và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam ở cấp tỉnh, một chiến dịch truyền thông để ngăn chặn di cư trái phép từ Việt Nam sang Úc đã được thực hiện tại 3 tỉnh mục tiêu, gồm Nghệ An, Hà Tĩnh và Vũng Tàu. IOM cũng đồng tài trợ cho nghiên cứu về tính dễ bị tổn thương của người di cư với bệnh sốt rét để hiểu rõ mối liên quan giữa di cư và dịch tễ học của sốt rét kháng artemisnin tại tỉnh Bình Phước của Việt Nam. IOM đã thực hiện hợp phần nghiên cứu của dự án toàn cầu về chính sách và nghiên cứu "Di cư, Môi trường và Biến đổi khí hậu: Bằng chứng cho chính sách" (MECLEP), bao gồm đánh giá chính sách thích ứng khí hậu và nghiên cứu thực nghiệm của mối liên hệ giữa di cư và biến đổi khí hậu. Năm 2015 - IOM hợp tác chặt chẽ với Bộ Ngoại giao/Cục Lãnh sự (MoFA/CD) để thực hiện dự án nhằm thúc đẩy các chính sách di cư thân thiện với phát triển tại Việt Nam. Hợp tác với Cục Cửa khẩu, IOM đã tổ chức hội thảo nhằm thúc đẩy thảo luận và chia sẻ thông tin giữa các đối tác Việt Nam, các chuyên gia quốc tế và các đối tác chính phủ nước ngoài nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động phòng chống đưa người trái phép. IOM phối hợp với Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao tổ chức Hội thảo khu vực về người di cư trong khủng hoảng tại Tiểu vùng sông Mekong mở rộng và Malaysia. IOM cũng tăng cường nỗ lực trong các lĩnh vực phòng chống buôn bán người tại các đặc khu kinh tế và hành lang kinh tế, đặc biệt ở tỉnh Tây Ninh và Quảng Trị. IOM đã trợ giúp nhân đạo để hồi hương an toàn 111 ngư dân Việt Nam từ Liên bang Micronesia và 1 từ Papua New Guinea. Các liên kết ngoài Tổ chức Di trú Quốc tế Website tại Việt Nam
Iznogoud (phát âm như là "He's no good" - ông ta không tốt - theo lối phát âm tiếng Pháp với chữ H câm) là một nhân vật trong một bộ truyện tranh Pháp, do nhà viết kịch bản René Goscinny (người viết kịch bản cho Astérrix) sáng tạo viết kịch bản, và truyện do Jean Tabary vẽ. Bộ truyện này xuất bản lần đầu năm 1961, đã được dịch ra nhiều thứ tiếng kể cả tiếng Việt. Truyện xảy ra ở thành Baghdad, Đại tể tướng (Vizir) Iznogoud là người có quyền lực thứ hai, chỉ sau Hoàng thượng (Khalif) Haroun El Poussah, nhưng ông ta lúc nào cũng chăm chăm tìm cách hại Hoàng thượng để thế chỗ, và câu nói nổi tiếng của Iznogoud "Ta muốn làm Hoàng thượng thế chỗ của Hoàng thượng!" (Je veux devenir calife à la place du calife !) ngày nay đã đi vào tiếng Pháp hàng ngày để ám chỉ những người nhiều tham vọng luôn muốn làm ông chủ. Trong từng kế hoạch của Iznogoud luôn luôn có sự giúp đỡ của tên hầu cận Dilat Larat (Wa’at Alaaf trong bản dịch tiếng Anh), một cánh tay mặt trung thành và ngốc nghếch (nhưng cũng không ngốc lắm). Ngòi bút châm biếm sắc cạnh của Goscinny đã làm cho câu chuyện đầy tính hồn nhiên và tươi trẻ, và làm cho Iznogoud trở thành một trong những phi-anh-hùng nổi tiếng trong thế giới truyện tranh nước Pháp (mặc dù Iznogoud là một kẻ hung ác thứ thiệt). Hầu hết các âm mưu của Iznogoud đều thất bại, hoặc ít ra cũng mang đến cho kẻ chủ mưu những điều chẳng tốt đẹp gì, còn vị Hoàng thượng hiền lành thường bình yên vô sự và chẳng biết, chẳng hiểu Iznogoud đang làm gì. Ví dụ như khi Đại tể tướng tìm ra một "Con đường mê cung" - con đường này đi mãi rồi cũng trở lại nơi xuất phát, tức là không có lối ra – và ông tể tướng lên ngay kế hoạch dụ Hoàng thượng vào đó để ngài sẽ lạc vĩnh viễn. Tất nhiên, Iznogoud đã quên mất một điều, đó là chính ông ta mới cần thoát ra khỏi con đường đó! Khi Goscinny qua đời năm 1977, họa sĩ Tabary đã quyết định sẽ làm tiếp công việc một mình, giống như họa sĩ Albert Uderzo đã từng làm với bộ truyện tranh Asterix vậy. Trước kia, trong một cuốn sách, Goscinny viết thành từng câu chuyện ngắn, thì Tabary đã thay đổi cách xuất bản, mỗi cuốn sách là một câu chuyện riêng, nhiều hơn và chi tiết hơn. Truyện Iznogoud đã ra tới cuốn #26 (tháng 4 năm 2004) và không có dấu hiệu dừng lại. Năm 1995, một series phim hoạt hình Iznogoud ra đời, và tháng 2 năm 2005, một bộ phim do người thật đóng được phát hành ở Pháp, với 2 diễn viên Michaël Youn (trong vai Iznogoud) và Jacques Villeret (trong vai vị Hoàng thượng), dựa theo tập truyện "Iznogoud: Hoàng thượng ở chỗ của Hoàng thượng". Một vài nhân vật nổi bật khác trong truyện là ông vua hung bạo Sultan Pullmankar, vị vua của vương quốc láng giềng. Đó là một ông vua nóng như lửa, và vương quốc của ông ta có quân đội rất hùng mạnh. Iznogoud luôn cố gắng để khiến Hoàng thượng làm Pullmankar nổi điên lên nằm gây ra chiến tranh. Tuy vậy, Pullmankar chẳng bao giờ nổi điên lên với Hoàng thượng, mà chỉ có Iznogoud tự rước hoạ vào thân thôi. Một nhân vật khác xuất hiện khác thường nữa là một người hang động, có lần Iznogoud đi về thời tiền sử đã đem người hang động này về Baghdad, thế kỷ thứ 8. Iznogoud và chính trị gia Thú vị là nhân vật này cũng đánh dấu ấn của mình vào chính trị Pháp: khi nhà chính trị cánh hữu Bruno Mégret, nhân vật số hai của đảng Mặt trận Quốc gia, cố gắng tiếp quản đảng này từ tay Jean-Marie Le Pen, ông đã lập tức được Le Pen gọi là Iznogoud. "Iznogoud" cũng được dùng cho Nicolas Sarkozy, một người có tham vọng lớn nhưng có dáng vóc nhỏ. Các tập đã xuất bản tại Việt Nam Dưới đây là các tập đã xuất bản tại Việt Nam bởi Nhà xuất bản Trẻ (theo trình tự phát hành). Tuy nhiên, ở Việt Nam mới chỉ phát hành được 8 tập
Gaston Lagaffe là nhân vật chính trong bộ truyện tranh Gaston, được xuất bản năm 1957 bởi nhà hoạt hình người Bỉ André Franquin trên một cuốn tạp chí truyện tranh Bỉ, Spirou. Anh ta đã trở thành một biểu tưởng văn hoá phổ biến ở Pháp, và từ năm 1980 cũng xuất hiện trên các hàng hoá. La gaffe, trong tiếng Pháp, có nghĩa là "tên khờ", "kẻ hay mắc những sai lầm ngớ ngẩn". Franquin cũng là người tạo hình bộ truyện tranh Spirou và Fantasio, và Gaston lúc đầu là những ô tranh riêng lẻ trên tạp chí Spirou, đôi lúc còn xuất hiện trong những câu chuyện về Spirou và Fantasio. Gaston xuất hiện trên tạp chí Spirou' từ năm 1957 đến 1997 khi Franquin qua đời. Gaston Lagaffe có nhiều tên khác nhau theo từng bản dịch, ví dụ ở Hà Lan gọi là Guust Flater; còn ở Na Uy gọi là Viggo. Ở phần lớn châu Âu, bộ truyện tranh này rất nổi tiếng, ngoại trừ vài trang của bản dịch bởi Fantagraphics đầu thập niên 1990, không có bản dịch tiếng Anh. Trong bản dịch này, Gaston được gọi là Gomer Goof. Năm 1996 Franquin được mời đến dự buổi khánh thành bức tượng Gaston Lagaffe, nằm trên đại lộ Pachéco ở Brussels. Các nhân vật Gaston Lagaffe Gaston Lagaffe, anh hùng không có nghề nghiệp (le héros sans emploi) làm việc cho văn phòng tờ Journal de Spirou. Ngay từ đầu Gaston đã được miêu tả là một kẻ lười biếng, một kẻ ngốc, hay bị lạc đường, tìm được ra cách làm cháy bình chữa lửa, hay làm ngập nước cả văn phòng... Những trò ngốc của anh ta đã làm nên cái họ Lagaffe. Một đề tài hay xuất hiện là những trò ngốc của Gaston nhằm ngăn chặn ông chủ ký hợp đồng quan trọng với một doanh nhân tên là Monsieur De Mesmaeker. Anh ta dành phần lớn thời gian để trốn việc bằng cách núp trong tủ áo, hay ngủ gật trong giờ làm việc... Mặc dù lười biếng, Gaston vẫn sáng chế ra nhiều vật dụng nhằm làm cho công việc dễ dàng hơn. Bình thường, nhưñg vật dụng này là viễn tưởng và làm hại chính anh ta. Khi đó anh ta thường biểu lộ sự ngạc nhiên, nỗi buồn hay sự xấu hổ chỉ bằng câu "M'enfin ?" (có thể dịch là "Ôi thôi nào"). Có thể kể tên vài phát minh của Gaston như máy thắt cà vạt, ấm nước siêu âm, đèn đường trong phòng khách, gạt tàn hơi, một dụng cụ gọi là "tất-cả-trong-một" dành cho muỗi, chuột chũi và gà, một cái gương chiếu hậu cho khách bộ hành... Với một tâm hồn âm nhạc, anh ta đã tạo ra một vài nhạc cụ sinh động, nhất là cái "gaffophone", với một âm thanh không thể định rõ là tiếng vỡ cửa sổ, tiếng bể đèn chùm hay là có máy bay phản lực đang bay trên đầu nữa. Những thành viên nhạy bén của đội Hoà bình xanh đã thuê thứ nhạc cụ này để bảo vệ cá voi khỏi các người đánh bắt bằng cách dọa chúng bỏ khu vực. Anh ta cũng chơi nhiều nhạc cụ khác (thật đáng sợ), như là guitar, kèn tuba, kèn trombone... Như là một đầu bếp tài năng, Gaston biết làm nhiều món ăn ngon, như là món cá tuyết dâu, cá tuyết dứa, bánh crếp bóng khí nóng (gồm cả tai nạn do dùng thuốc màu). Cuối cùng, Gaston có xúc cảm đặc biệt về sinh thái học và rất thích mấy con thú nhỏ của mình: một con mèo hiếu động, một con chim mòng biển, một con cá vàng vài con chuột. Nhưng vì căn hộ của anh ta quá nhỏ nên anh ta phải nuôi tất cả mấy con thú đó trong văn phòng. Điều này càng trở nên phiền toái khi anh ta mang về văn phòng một con bò (hay con heo gì đó) mà anh thắng trong một cuộc thi, đặc biệt là khi con thú đó cố ăn mấy giấy tờ quan trọng của mấy người đồng nghiệp Gaston... Tóm lại, Gaston là một đứa trẻ to xác, một con người vụng về với một tấm lòng tốt bụng. Fantasio Fantasio là một trong những nhân vật chính trong bộ truyện tranh này. Là ông chủ, cấp trên của Gaston, ta thường thấy mỗi khi Fantasio cố gắng ký hợp đồng với ngài Monsieur De Mesmaeker thì không khi nào không có sự gián đoạn do Gaston gây ra... Thật lạ là nhân vật Fantasio trong những cuộc phiêu lưu với Spirou, anh là biểu tượng năng động, sáng tạo, trái ngược hẳn với vẻ nghiêm túc của Spirou; vậy mà trong Gaston, anh là một người thẳng tính với mấy trò hề ngốc nghếch của Gaston. Spirou Spirou cũng xuất hiện vài cảnh tượng trưng, thường là đi đôi với Fantasio. Cả Fantasio và Spirou đã không xuất hiện trong bộ truyện tranh này, sau khi André Franquin từ bỏ bộ Spirou và Fantasio sau tập "Món súp Champignac". Léon Prunelle Prunelle là người nối nghiệp Fantasio làm ông chủ Gaston, và lại tiếp tục những cố gắng vô ích từ Fantasio nhằm ký hợp đồng với ông De Mesmaeker. Ông ta đã thề sẽ trở thành "Người bắt Gaston phải làm việc", và luôn săn đuổi Gaston để đề phòng anh này trốn hoặc nghỉ việc. Ông cũng cố gắng tách Gaston ra khỏi mấy trò nấu nướng, sáng tạo máy móc, và khỏi mấy trò ngốc. Tiểu thư Jeanne Tiểu thư Jeanne (Mademoiselle Jeanne, Gaston phát âm là "M'oiselle Jeanne") là một đồng nghiệp của Gaston, và cô nàng xuất hiện trong một vai trò đặc biệt. Bởi vì, cô nàng khoái Gaston, cũng giống như anh chàng này khoái cô vậy. Jeanne có một lòng ngưỡng mộ bất diệt với Gaston. Cô ngưỡng mộ tài năng, lòng dũng cảm, khả năng đương đầu thử thách của anh dù có đối mặt với những thứ điên khùng nhất... Còn Gaston, anh chàng này có lần đã quá khích tới mức mượn một cái thang lớn của sở cứu hoả (nhờ được mấy người bạn giúp đỡ) để tới thăm cô nàng khi cô vừa cãi nhau với mẹ. Anh cũng liên tiếp làm cô nàng thất vọng từ lần này sang lần khác. Ví dụ, có lần Jeanne tin rằng Gaston đang khắc một trái tim có tên của hai người lên vỏ cây, nhưng thực ra là anh chàng chỉ đang ráng vẽ một cái mặt. Tuy nhiên quan hệ giữa hai người này rất trong sáng. Họ gọi nhau là "mình", phần lớn thời gian gặp nhau trong văn phòng, còn rất hiếm khi hẹn hò. Những người bạn khác Jules-de-chez-Smith-en-face (Jules của nhà Smith bên kia đường) là một người bạn tốt của Gaston. Anh ta "làm việc" trong văn phòng đối diện văn phòng của Gaston, phía bên kia con đường. Anh chàng này cũng là một thằng khờ, giống hệt Gaston. Bertrand Labévue là một người bạn nữa của Gaston, cũng là một người anh họ. Cái tên của anh ta nói lên anh ta cũng là một thằng khờ chính hiệu (la bévue'' là một cái từ đồng nghĩa khác của từ "Thằng ngốc"). Ngoài ra còn có nhiều nhân vật như Joseph Longtarin, ông cảnh sát gần khu vực văn phòng Spirou. Ông này thường xuyên trở thành nạn nhân mấy trò phá bĩnh của Gaston cùng mấy người bạn. Hay ông Aimé De Mesmaeker, một doanh nhâu giàu có, nhà có hẳn một phản lực riêng (cho tới khi bị Gaston phá), luôn cố ký kết hợp đồng với ông chủ Fantasio hay Prunelle của Gaston...
là một đô thị quốc gia của Nhật Bản ở vùng Tohoku. Sendai cũng là trung tâm hành chính của tỉnh Miyagi. Lịch sử Mặc dù Sendai đã có người sinh sống từ cách đây 20.000 năm, nhưng lịch sử của thành phố Sendai thì mới bắt đầu từ năm 1600. Lãnh chúa Masamune không hài lòng về phần lãnh địa và thành trì Iwadeyama trước đó của ông ta. Iwadeyama nằm ở phía bắc vùng đất của ông và từ đó rất khó khăn để đến Edo (Tokyo hiện nay). Trong khi đó, Sendai là một địa điểm lý tưởng, tọa lạc ngay trung tâm vùng đất mà Masamune mới giành được, nằm trên con đường chính đến Edo, và còn gần biển nữa. Tokugawa Ieyasu đã cho phép Masamune xây dựng thành quách ở Aobayama, Sendai sau trận thắng Sekigahara. Vào thời điểm đó, chữ Sendai được viết là 千代 - "Thiên Đại", vì ở Aobayama có một ngôi đền với 1000 bức tượng Phật (千体 sentai – thiên thể). Masamune đã đổi cách viết Kanji của thành phố thành 仙台 - "Tiên Đài". Masamune xây dựng thành Sendai vào tháng 12 năm 1600 và bắt tay xây dựng Sendai thành một thị trấn vào năm 1601. Những đồ án của ông ngày đó đã tạo cơ sở cho hệ thống đường sá ở trung tâm thành phố ngày nay. Sendai được hợp nhất thành thành phố vào ngày 1 tháng 4 năm 1889, là kết quả của sự loại trừ chế độ lãnh địa phong kiến. Vào thời điểm hợp nhất, diện tích thành phố là 17,45 km² và dân số là 86.000 người. Tuy nhiên, thành phố lại qua tiếp bảy lần sáp nhập nữa, từ 1928 tới 1988. Thành phố như bây giờ bắt đầu từ tháng 4 năm 1989. Năm 1999, dân số thành phố đã vượt quá 1 triệu người. Sendai bắt đầu được biết tới như một thành phố của cây cối (森の都 Mori no Miyako) từ trước Chiến tranh thế giới thứ hai. Đó là vì các lãnh chúa của Sendai đã khuyến khích dân trồng cây cối trong sân nhà. Kết quả là mọi ngôi nhà, ngôi đền và điện thờ ở trung tâm thành phố đều có những khu rừng gia đình (屋敷林 Ốc Phu Lâm,yashikirin), được sử dụng như nguồn cung cấp gỗ và những nguyên liệu hàng ngày. Những cuộc oanh tạc trong Chiến tranh thế giới thứ hai đã phá huỷ gần hết mọi cây cỏ, và một số lượng lớn nữa bị tiêu hao cho công cuộc phát triển phục hồi đất nước sau chiến tranh. Sendai vẫn được biết đến như "Thành phố của Cây cối", vì một cố gắng rất to lớn nhằm phục hồi lại cây xanh trong thành phố. Địa lý Sendai nằm ở vị trí 38°16ᐟ05ᐥ Bắc, 140°52ᐟ11ᐥ Đông. Diện tích thành phố là 788,09 km², chạy dài từ Thái Bình Dương đến núi Ou, vốn là những ranh giới Đông - Tây của tỉnh Miyagi. Kết quả là làm cho địa lý của thành phố này thực sự đa dạng. Đồng bằng ở phía Đông, vùng đồi ở giữa và núi ở phía Tây thành phố. Điểm cao nhất của thành phố là Đỉnh Funagata, cao 1500 m so với mặt biển. Sông Hirose có 45 km chảy qua Sendai. Dòng sông này được coi là biểu tượng của thành phố Sendai, đặc biệt là khi nó xuất hiện trong bài hát Aobajō Koiuta (青葉城恋唄 Thanh Diệp thành luyến bái hay "Tình ca thành Aoba"). Thành Sendai được xây dựng sát con sông, mục đích là sử dụng sông như một đường hào tự nhiên. Con sông này thường xuyên có lũ lụt đến tận thập niên 1950, khi những con đê và đập nước được xây dựng từ năm 1960 đến 1970 đã làm lũ lụt giảm đi rất nhiều. Con sông bây giờ nổi tiếng với nước sạch và cảnh đẹp tự nhiên, đã từng được Bộ Môi trường Nhật Bản bầu chọn là một trong 100 con sông nổi tiếng nhất nước Nhật. Những ngọn núi ở Sendai là núi lửa ngừng hoạt động, già hơn nhiều ngọn núi lửa nổi tiếng như Zao và Narugo ở thành phố bên cạnh. Tuy nhiên, nhiều suối nước nóng được tìm thấy ở đây. Khí hậu Sendai có khí hậu ôn hoà. Nhiệt độ trung bình 12,1 °C và lượng mưa trung bình 1241,8 mm/năm. Nhiệt độ cao nhất được ghi nhận là 36,8 °C, và thấp nhất là −11,7 °C. Một năm trung bình có khoảng 16,8 ngày thành phố có nhiệt độ cao trên 30 °C và chỉ 2,2 ngày mà nhiệt độ dưới 0 °C, một sự cách biệt nhỏ so với phần lớn các thành phố khác trên đất Nhật. Thành phố hiếm khi gặp bão, và trung bình mỗi năm chỉ có 6 ngày có tuyết dày hơn 10 cm. Mùa mưa ở Sendai thường bắt đầu vào cuối tháng 6 đến đầu tháng 7, trễ hơn so với các nơi khác ở Nhật. Ngày 11/3/2011 Thành phố Sendai bị phá huỷ do trận địa chấn 9,0 độ Ricter trên vùng đứt gãy Thái Bình Dương cách đó 150 km về phía Đông Bắc. Trận động đất kinh hoàng này đã tạo ra đợ sóng thần cao đến 10m ập vào thành phố làn hàng vạn người thiệt mạng. Dân cư Năm 2020, thành phố có dân số là 1.091.407 người với mật độ 1384,9 người/km² (tổng diện tích 788,09 km²) . Hầu hết mọi cư dân thành phố sống trong vùng đô thị nơi gần các ga xe lửa và xe điện ngầm. Cuộc điều tra dân số quốc gia năm 2000 đã cho thấy 88,5% dân số thành phố này (892.252 người) sống trong một diện tích 129,69 km² (bằng 16,6% tổng diện tích thành phố). Mật độ dân ở khu vực này là 6879,9 người/km², gấp 5 lần mật độ dân số thành phố (lúc đó là 1286,6 người/km²). Có khoảng 10.000 người ở Sendai không phải là công dân Nhật. Trong năm 2020, Sendai có 525.828 hộ gia đình. Trung bình một gia đình có khoảng 2,07 thành viên. Các hộ gia đình đã trở nên nhỏ bé hơn so với trước đây, do thực tế là mỗi hộ chỉ có 1 thành viên, hoặc 1 đứa con. Tuổi trung bình của Sendai là 38,4; một trong những thành phố trẻ nhất của Nhật. Giao thông Từ Sendai có đường bộ và đường sắt nối liền với các tỉnh khác trong đất nước. Tàu tốc hành "viên đạn" (shinkansen) từ Sendai đến Tokyo chỉ mất khoảng hai tiếng đồng hồ. Sân bay Sendai là sân bay hạng 2 của Nhật Bản, phục vụ các chuyến bay nội địa và một số chuyến bay quốc tế đi Trung Quốc (Bắc Kinh, Thượng Hải, Đại Liên, Trường Xuân), Hàn Quốc (Seoul), Đài Loan (Đài Bắc), và Guam. Từ sân bay Sendai có tuyến đường sắt đến ga Sendai (giá vé một chiều của năm 2009 là 630 yên Nhật). Đặc sản Sendai là nơi phát sinh của một vài loại đồ ăn, gồm cả gyutan (牛タン, lưỡi bò), hiyashi chuka (mì nguội Trung Hoa) và robatayaki (thịt heo nướng). Tuy nhiên, sau đó robatayaki đã được mang đến Kushiro, nơi đã phát triển và làm cho món ăn trở nên nổi tiếng. Do đó, nhiều người đã tin rằng Kushiro là nguồn gốc của món robatayaki này. Zundamochi (ずんだ餅) và sasakamaboko (笹かまぼこ, kamaboko hình dạng giống như lá tre) cũng được coi là đặc sản của Sendai. Sendai cũng nổi tiếng vớI những món sashimi, sushi và sake. Đó là do Sendai rất gần vài cảng cá chính (như Kesennuma, Ishinomaki và Shiogama) và cũng vì tỉnh Miyagi là một nơi trồng nhiều gạo. Mặc dù, đôi lúc Sendai được cho là nguồn gốc của món "sushi băng tải" (conveyor belt sushi), nhưng nguồn gốc thực sự của nó là ở Osaka. Tuy nhiên, cửa hàng sushi băng tải đầu tiên ở phía đông Nhật Bản đã được mở ở Sendai. Rất nhiều đồ thủ công ở Sendai có nguồn gốc từ thời kì Edo. Ví dụ, Sendai Hira, một loại vải lụa được dệt bằng tay, đồ gốm Tsutsumiyaki và giấy viết Yanagiu Washi. Giáo dục Đôi khi Sendai được gọi là "Thành phố Học viện" (学都 Học đô) vì thành phố này có rất nhiều trường đại học so với dân số của nó. Đại học Tohoku là đại học nổi tiếng nhất ở đây. Đại học này là một trong 7 trường đại học thượng hạng ở Nhật Bản và từng được xếp hạng trong những trường đại học kỷ luật và đòi hỏi nhạy bén nhất châu Á năm 1999 bởi Asiaweek. Động đất và sóng thần Tōhoku 2011 Hình ảnh Chú thích và Tham khảo
IOM có thể là Tổ chức Di trú Quốc tế hay Tổ chức Di cư Quốc tế (International Organization for Migration) Viện Y học Hoa Kỳ (Institute of Medicine) Đảo Man (Isle of Man) thuộc Vương miện Anh Mã IATA cho Đảo Man
Suy giáp là bệnh lý tuyến giáp hoạt động kém hiệu quả dần do các nguyên nhân: vì một khối u cục bộ buộc phải cắt bỏ một phần tuyến giáp, sự viêm nhiễm, xâm hại gây viêm nhiễm của vi khuẩn, các loại ung bướu chèn ép tuyến giáp, đặc biệt là bướu cổ, ảnh hưởng từ một số bệnh khác,... Tuyến giáp hoạt động yếu ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, gây rối loạn chức năng sinh lý, hoạt động của nhiều cơ quan trên cơ thể. Suy giáp có thể dẫn đến tử vong trong thời gian ngắn. Có khả năng ngăn ngừa và điều trị suy giáp, song một số trường hợp có thể gây biến chứng không phục hồi, cần phẫu thuật phức tạp, nguy hiểm. Suy giáp cần được phát hiện càng sớm càng tốt do bệnh diễn biến âm thầm và ngày càng nặng hơn. Việc chậm trễ phát hiện có thể làm giảm khả năng điều trị. Nguyên nhân gây bệnh Gồm có 3 nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng suy giáp,đó là teo tuyến giáp là nguyên nhân phổ biến nhất.Nguyên nhân thứ hai đó là viêm tuyến giáp tự miễn Hashimoto,nguyên nhân này do cơ chế phá hủy tự miễn dịch.Nguyên nhân tiếp theo là do thứ phát sau điều trị cường giáp,đó là tình trạng do phẫu thuật,điều trị bằng đồng hóa trị. Những nguyên nhân ít gặp hơn là việc thiếu đi iod trong chế độ ăn hằng ngày,do tình trạng suy giáp bẩm sinh,do thứ phát sau khi bị bệnh ở tuyến yên hoặc vùng dưới đồi. Triệu chứng lâm sàng Suy giáp là hội chứng đặc trưng khi tình trạng suy giảm chức năng tuyến giáp, sản xuất hormone tuyến giáp không đủ so với nhu cầu của cơ thể. Cụ thể là gây rối loạn chuyển hóa trên lâm sàng và xét nghiệm, gây nên tổn thương ở mô và cơ quan từ đó xuất hiện biểu hiện như phù niêm mạc, lưỡi to, bè ra hai bên, da dày, cũng như những biểu hiện chậm tim mạch,nhịp tim chậm, huyết áp thấp, thần kinh tâm thần bị rối loạn, chán ăn, tiêu hóa giảm, nhu cầu sinh lý giảm. Nội tiết học Bệnh tuyến giáp Rối loạn chuyển hoá
Triều đại nhà Thanh, là một triều đại quân chủ chuyên chế do dòng họ Ái Tân Giác La (; Aisin Gioro, 愛新覺羅, Àixīn Juéluó) lập ra ở vùng Đông Nam Nga vào năm 1616 với quốc hiệu ban đầu là Hậu Kim; 後金. Đến năm 1636, vị Hoàng đế thứ hai là Hoàng Thái Cực quyết định đổi quốc hiệu thành Đại Thanh; 大清 và đến năm 1644 tái chiếm và đóng đô ở Bắc Kinh từ tay con cháu nhà Nam Minh. Nhà Thanh tồn tại đến năm 1912, nếu chỉ tính từ khi mang quốc hiệu Đại Thanh thì tồn tại được 276 năm. Hoàng đế chính thức Trước khi nhập quan Sau khi nhập quan Ngày 29 tháng 12 năm 1911, tại Nam Kinh, Tôn Trung Sơn được cử làm Đại tổng thống Lâm thời của chính quyền Trung Hoa Dân Quốc, nhưng đến ngày 12 tháng 2 năm 1912, Phổ Nghi mới chính thức thoái vị tại Bắc Kinh. Hoàng đế được truy tôn Trong suốt lịch sử Thanh triều để củng cố thêm tính chính danh và chính thống của mình cũng như ghi công tổ tiên của người Mãn nhất là dòng tộc Ái Tân Giác La, các đời Hoàng đế Đại Thanh đã truy phong cho rất nhiều vị, tuy chưa từng là Hoàng đế, tước hiệu cao quý này, dưới đây là danh sách các vị ấy:
Khufu ( ; thường được biết đến theo cách gọi ở Hy Lạp cổ đại là Cheops hay Kheops; tên đầy đủ là Khnum Khufu ) là một vị pharaon của vương triều thứ Tư thuộc thời kỳ Cổ vương quốc của Ai Cập. Ông là vị vua thứ hai của vương triều thứ Tư và đã kế vị người cha là vua Sneferu. Khufu thường được coi là chủ nhân của Đại Kim tự tháp ở Giza, một trong bảy kỳ quan thế giới cổ đại, nhưng nhiều khía cạnh khác liên quan đến triều đại của ông lại được ghi chép khá nghèo nàn. Bức chân dung duy nhất của nhà vua còn được lưu giữ một cách nguyên vẹn tới ngày nay là một bức tượng bằng ngà voi cao ba inch được tìm thấy trong một ngôi đền đổ nát tại Abydos vào năm 1903. Tất cả các bức phù điêu cùng những bức tượng khác đều được tìm thấy trong tình trạng vỡ nát và nhiều công trình của Khufu hiện không còn nữa. Tất cả mọi điều chúng ta biết đến ngày nay về Khufu đều xuất phát từ những dòng chữ khắc trong khu nghĩa địa của ông ở Giza và từ các ghi chép sau này. Ví dụ: Khufu là nhân vật chính trong cuộn giấy cói Westcar nổi tiếng có niên đại thuộc về vương triều thứ 13. Hầu hết các ghi chép đề cập đến vua Khufu đều được viết bởi các sử gia Ai Cập và Hy Lạp cổ đại vào khoảng năm 300 TCN. Những thông tin về cuộc đời của Khufu được ghi lại một cách mâu thuẫn: Trong khi nhà vua vẫn được tôn thờ rất lâu sau khi ông qua đời trong thời kỳ Cổ Vương quốc và Tân vương quốc sau này, các sử gia cổ đại như Manetho, Diodorus và Herodotos lại có cái nhìn mang tính rất tiêu cực về Khufu. Tên của Khufu Tên của Khufu là sự hiến dâng dành cho thần Khnum, điều này có thể là nhằm giúp cho thần Khnum được phổ biến rộng rãi hơn và nâng tầm quan trọng của vị thần này trong tôn giáo. Trên thực tế, một số tước hiệu hoàng gia và tôn giáo, mà bước đầu đã được sử dụng dưới triều đại của ông, có thể cho thấy rằng các pharaon của Ai Cập đã cố gắng nhấn mạnh về nguồn gốc và thân thế thần thánh của họ bằng cách hiến dâng tên đồ hình chính thức của họ dành cho một vị thần nào đó. Khufu có thể đã tự xem mình như là một vị thần sáng tạo, một vai trò vốn được dành cho Khnum, vị thần của mặt đất, sự sáng tạo và mùa màng. Như là hệ quả của nó, nhà vua đã kết nối tên của Khnum với tên của ông. Một điều thú vị nữa đó là vị pharaon này đã sử dụng một cách chính thức hai phiên bản tên gọi thủa nhỏ của ông là Khnum-khuf và Khufu. Cách gọi đầu tiên (đầy đủ) rõ ràng thể hiện đức tin tôn giáo của Khufu đối với Khnum, còn cách gọi tên thứ hai (ngắn hơn) thì lại không. Không rõ tại sao nhà vua lại sử dụng cách gọi tên ngắn gọn như vậy. Có thể dường như tên gọi ngắn gọn này không mang ý nghĩa là phải kết nối với bất kỳ vị thần nào cả. Khufu còn được biết đến với tên gọi theo tiếng Hy Lạp của ông là Kheops hoặc Cheops (, ; theo Diodoros và Herodotos) và một tên gọi theo tiếng Hy Lạp khác ít được biết đến là Súphis ( ; , theo Manetho). Một tên gọi khác hiếm gặp nữa của Khufu, được Josephus sử dụng, là Sofe ( ; ).. Các nhà sử học Ả rập gọi ông là Saurid hay Salhuk trong những câu chuyện thần bí về Khufu và các kim tự tháp Giza. Gia đình Dòng dõi của Khufu Hiện nay các nhà nghiên cứu vẫn chưa thể chắc chắn rằng liệu Khufu có thực sự là con ruột của Sneferu hay không. Phần lớn các nhà Ai Cập học đều tin Sneferu chính là cha ruột của Khufu, nhưng là do các sử nhà sử học thuộc về thời kỳ sau này thường ghi chép lại rằng chỉ có người con trai cả hoặc một người con cháu được lựa chọn mới được thừa hưởng ngai vàng. Vào năm 1925, ngôi mộ của nữ hoàng Hetepheres I, G7000x, đã được tìm thấy ở phía đông của kim tự tháp Khufu. Bên trong ngôi mộ này có chứa nhiều hiện vật quý giá, cùng với một số dòng chữ khắc ghi lại tước hiệu Mut-nesut của bà (nghĩa là "người mẹ của đức vua"), cùng với tên của vua Sneferu. Vì vậy, trước tiên Hetepheres rõ ràng chính là vợ của Sneferu, và họ còn là cha mẹ của vua Khufu. Tuy nhiên, gần đây có một số học giả đã nghi ngờ về giả thuyết này, bởi vì Hetepheres vẫn chưa được biết rõ là đã từng mang tước hiệu Hemet-nesut hay chưa (tước hiệu này có nghĩa là "người vợ của đức vua"), đây là một tước hiệu không thể thiếu để khẳng định địa vị hoàng gia của một nữ hoàng. Thay vào đó, Hetepheres chỉ từng mang tước hiệu Sat-netjer-khetef (nguyên văn: "người con gái từ thân thể thần thánh của Ngài", hay là "người con gái của đức vua"), một tước hiệu lần đầu tiên được đề cập đến. Như là hệ quả, các nhà nghiên cứu giờ đây nghĩ rằng Khufu có thể không phải là người con ruột của Sneferu, nhưng Sneferu đã hợp pháp hóa địa vị và thứ bậc trong hoàng gia của Khufu thông qua hôn nhân. Bằng cách thần thánh hóa thân mẫu của ông như là con gái của một vị thần sống, địa vị mới của Khufu đã được đảm bảo. Giả thuyết này có thể được chứng minh thông qua việc thân mẫu của Khufu được chôn cất gần với người con trai của bà chứ không phải ở trong khu nghĩa địa của chồng bà, như đã được mong đợi Gia phả Danh sách sau đây liệt kê các thành viên hoàng tộc mà có thể có mối liên hệ với Khufu một cách chắc chắn.Cha mẹ: Sneferu: Nhiều khả năng có thể là cha của ông, cũng có lẽ chỉ là cha dượng. Vị Pharaon nổi tiếng đã cho xây dựng ba kim tự tháp. Hetepheres I: Nhiều khả năng có thể là mẹ của ông. Bà là vợ của vua Sneferu và còn được biết đến nhờ vào những hiện vật quý giá của bà được tìm thấy tại Giza. Hôn thê: Meritites I: Người vợ đầu tiên của Khufu. Henutsen: Người vợ thứ hai của Khufu. Tên của bà xuất hiện trên tấm bia đá tóm tắt. Anh chị em: Hepheres: Vợ của Ankhhaf. Ankhhaf: Người em trai của Khufu. Nefermaat I: Một người anh em cùng cha khác mẹ; Ông ta được chôn cất tại Meidum và là chủ nhân của "mastaba đàn ngỗng" nổi tiếng. Rahotep: Người Cả hoặc người anh cùng cha khác mẹ với ông. Chủ nhân của một bức tượng chân dung đôi với kích thước bằng người thật miêu tả ông ta cùng vợ mình là Nofret. Những người con trai của Khufu: Kawab: Nhiều khả năng có thể là con trai cả và là hoàng thái tử, ông ta đã qua đời trước khi triều đại của Khufu kết thúc và do đó đã không kế vị ngôi vua của Khufu. Djedefra: Còn được gọi là Radjedef và Ratoises. Người con đầu tiên kế vị ngai vàng. Khafre: Người con thứ hai kế vị ngai vàng. Djedefhor: Còn được gọi là Hordjedef, được đề cập đến trong cuộn giấy cói Westcar. Baufra: Có thể là một người con trai của Khufu, nhưng lại không được chứng thực thông qua các bằng chứng khảo cổ học hay tư liệu đương thời. Chỉ được biết đến thông qua hai văn kiện sau này. Babaef I: Còn được gọi là Khnum-baef I. Khufukhaf I: Còn được gọi là Kaefkhufu I. Minkhaf I. Horbaef. Con gái: Nefertiabet: Được biết đến với tấm bia đá tuyệt đẹp của bà. Hetepheres II: Vợ của hoàng tử Kawab, sau này còn kết hôn với pharaon Djedefra. Meresankh II. Meritites II: Kết hôn với Akhethotep. Khamerernebty I: Vợ của vua Khafra và là mẹ của vua Menkaura. Cháu nội: Duaenhor: Con trai của Kawab. Kaemsekhem: Con trai thứ hai của Kawab. Mindjedef: Còn được gọi là Djedefmin. Meresankh III, con của Kawab, vợ của Khafre Djaty: Con trai của Horbaef. Iunmin I: Con trai của Khafre. Triều đại Độ dài triều đại Các nhà nghiên cứu hiện vẫn chưa rõ liệu rằng Khufu đã cai trị Ai Cập trong bao lâu, bởi vì các nguồn sử liệu về sau lại mâu thuẫn với nhau và các nguồn sử liệu đương thời lại rất khan hiếm. Tuy vậy, cuộn giấy cói Turin có niên đại dưới vương triều thứ 19 ghi lại rằng Khufu đã cai trị trong 23 năm..Nhà sử học cổ đại Herodotus cho rằng triều đại của ông kéo dài 50 năm còn sử gia Manetho thậm chí ghi rằng ông đã cai trị tới 63 năm. Những con số này ngày nay được coi là sự phóng đại quá mức hoặc là do tác giả đã dịch sai các nguồn sử liệu cổ xưa. Các nguồn sử liệu có niên đại thuộc về triều đại của Khufu đã cung cấp ba manh mối quan trọng: Một trong số chúng được tìm thấy tại ốc đảo Dakhla trong sa mạc Libya. Tên serekh của Khufu đã được khắc trên một bản khắc đá thuật lại "cuộc hành trình Mefat vào năm sau khi tiến hành kiểm kê gia súc lần thứ 13 dưới triều vua Hor-Medjedu". Nguồn sử liệu thứ hai có thể được tìm thấy trong các khoang trống nằm ở phía trên phòng chôn cất chính của kim tự tháp Khufu. Một trong số những dòng chữ khắc này đề cập tới một toán thợ có tên gọi là "những người bạn của Khufu" cùng với ghi chú "vào năm của lần kiểm kê gia súc thứ 17", nhưng hiện vẫn chưa rõ liệu rằng số năm được nhắc đến ở đây cho thấy việc kiểm kê gia súc diễn ra hai năm một lần, hay là con số này đã được ghi lại theo đúng nguyên văn. Tuy nhiên, những bằng chứng gần đây đến từ Wadi al-Jarf giúp phát lộ ra một manh mối thứ ba về độ dài triều đại của Khufu: một vài mảnh giấy cói có chứa các bản báo cáo viết tay đến từ một bến cảng của hoàng gia tại Wadi al-Jarf ngày nay. Những ghi chép này mô tả sự trở về của hạm đội hoàng gia với những kim loại quý hiếm cùng ngọc lam trong "năm sau lần kiểm kê gia súc thứ 13 dưới triều vua Hor-Medjedw". Do đó, niên đại của Khufu được biết đến rõ nhất và được lưu giữ tốt nhất đó là "Năm sau lần kiểm kê gia súc thứ 13". Trong nỗ lực nhằm giải quyết câu đố liên quan đến thời gian trị vì thực sự của Khufu, các nhà Ai Cập học hiện đại đã căn cứ vào sự kiện tiến hành kiểm kê gia súc diễn ra mỗi hai năm một lần dưới triều đại của Senefru. Kiểm kê gia súc là một sự kiện kinh tế quan trọng phục vụ cho việc thu thuế trên toàn bộ Ai Cập. Những đánh giá mới về nguồn sử liệu đương thời và từ tấm bia đá Palermo đã giúp củng cố giả thuyết cho rằng việc kiểm kê gia súc dưới thời Khufu vẫn được tiến hành hai năm một lần chứ không phải diễn ra hàng năm như là suy luận trước đó. Các nhà Ai Cập học như Thomas Schneider, Michael Haase và Rainer Stadelmann còn băn khoăn về việc liệu rằng người biên soạn nên cuộn giấy cói Turin có thực sự đã căn cứ vào những ghi chép liên quan đến sự kiện kiểm kê gia súc diễn ra hai năm một lần trong giai đoạn nửa đầu thời kỳ Cổ Vương quốc hay là đã căn cứ vào việc thu thuế được tiến hành hàng năm dưới vương triều thứ 19. Tóm lại, tất cả các nguồn sử liệu này đều minh chứng cho thấy Khufu đã cai trị ít nhất 26 hoặc 27 năm, và có thể là hơn 34 năm. Sự kiện chính trị Chỉ có một vài gợi ý về các sự kiện diễn ra dưới triều đại của Khufu ở bên trong và bên ngoài Ai Cập. Ở Ai Cập, tên của Khufu xuất hiện trong các bản khắc đá trên các tòa nhà và các bức tượng. Ngoài ra tên của Khufu còn xuất hiện trong các bản khắc đá ở Elkab và Elephantine và tại các mỏ đá địa phương ở Hatnub và Wadi Hammamat. Tại Saqqara, hai bức tượng bằng đất nung của nữ thần Bastet đã được tìm thấy và ở dưới đế của chúng chạm khắc tên horus của Khufu. Chúng đã có mặt tại Saqqara vào thời Trung vương quốc, nhưng có thể đã được tạo ra dưới triều đại của Khufu. Wadi Maghareh Tại Wadi Maghareh ở Sinai, một bản khắc đá đã khắc họa hình ảnh Khufu đang đội vương miện kép. Dưới triều đại của mình, Khufu đã tiến hành một vài cuộc viễn chinh nhằm tìm kiếm các mỏ ngọc lam và đồng. Giống như các vị vua khác như Sekhemkhet, Sneferu và Sahure, vốn cũng được miêu tả trong những bức phù điêu oai vệ tại đó, ông cũng tìm kiếm hai nguồn nguyên liệu quý giá này. Ngoài ra, Khufu cũng đã tiến hành giao thương với Byblos. Ông đã phái một vài đoàn thám hiểm đến Byblos để nhằm trao đổi những công cụ và vũ khí bằng đồng lấy loại gỗ tuyết tùng quý giá. Loại gỗ này là nguồn nguyên liệu thiết yếu dùng để đóng những chiếc thuyền tang lễ lớn và thực sự thì những chiếc thuyền được phát hiện tại Đại Kim tự tháp của ông đã được làm từ chúng. Wadi al-Jarf Gần đây, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những bằng chứng mới liên quan đến các sự kiện diễn ra dưới triều đại của Khufu tại khu vực hải cảng cổ Wadi al-Jarf nằm trên bờ biển Đỏ ở khu vực miền đông Ai Cập. Những vết tích đầu tiên của bến cảng này đã được John Gardner Wilkinson và James Burton khai quật vào năm 1823, nhưng di tích này nhanh chóng bị bỏ qua và chìm dần vào sự quên lãng. Năm 1954, các học giả người Pháp như François Bissey và René Chabot-Morisseau đã tiến hành khai quật lại bến cảng này, nhưng cuộc khai quật của họ cũng đã sớm phải dừng lại. Nguyên nhân là do là cuộc khủng hoảng kênh đào Suez xảy ra. Vào tháng 6 năm 2011, một nhóm các nhà khảo cổ dưới sự lãnh đạo của hai nhà Ai Cập học người Pháp là Pierre Tallet và Gregory Marouard đã tái khởi động lại quá trình khai quật tại địa điểm này. Trong số những hiện vật được khai quật tại đây, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy hàng trăm đoạn giấy cói Trong số đó có mười cuộn giấy vẫn còn đang trong tình trạng nguyên vẹn. Phần lớn các ghi chép này có niên đại vào năm thứ 27 dưới triều đại của Khufu và chúng ghi lại cách thức mà triều đình đã sử dụng để vận chuyển lương thực cùng vật tư cho các thủy thủ và công nhân bến cảng. Giá trị của những tài liệu quan trọng này còn được củng cố thông qua cách diễn đạt điển hình của thời kỳ Cổ vương quốc, cùng với việc các bức thư này được gửi tới cho chính nhà vua và Khufu được gọi bằng tên Horus của ông. Đây là một cách xưng hô điển hình đối với một vị vua khi ông ta đang còn sống; Khi nhà vua qua đời, ông ta được gọi bằng tên đồ hình hoặc bằng tên gọi lúc sinh ra của ông ta. Trong số những cuộn giấy trên có một cuộn giấy nhận được sự quan tâm đặc biệt: đó là nhật ký của Mererer, một viên quan tham gia vào việc xây dựng Đại Kim tự tháp. Thông qua cuốn nhật ký, các nhà nghiên cứu đã có thể tái dựng lại ba tháng của cuộc đời ông ta và có được cái nhìn sâu sắc hơn về cuộc sống thường nhật của người dân dưới vương triều thứ tư. Một bản khắc khác, được tìm thấy trên những bức tường đá vôi của bến cảng, đã đề cập đến tên của viên quan đứng đầu cơ quan ký lục của hoàng gia mà chịu trách nhiệm kiểm soát việc trao đổi hàng hóa:Idu. Tên đồ hình của Khufu cũng còn được khắc trên một số tảng đá vôi lớn tại khu vực này. Hải cảng này đã từng là một địa điểm có tầm quan trọng về cả mặt chiến lược và kinh tế đối với Khufu, bởi vì đây là nơi cập bến của các con thuyền chuyên chở những nguyên vật liệu quý giá như ngọc lam, đồng và quặng đến từ mũi phía nam của bán đảo Sinai. Các đoạn giấy cói còn ghi lại danh sách một số kho hàng được đặt tên theo tên của loại hàng hóa được cất giữ. Chúng cũng đề cập đến một bến cảng chắc chắn nằm ở bờ biển đối diện phía bên kia với Wadi al-Jarf, ở phía tây bán đảo Sinai, tại vị trí pháo đài cổ Tell Ras Budran được Gregory Mumford khai quật vào năm 1960. Nhờ vào việc phát hiện ra các cuộn giấy cói này cùng với pháo đài trên đã giúp các nhà khảo cổ học khám phá ra một tuyến hải trình rõ ràng băng qua biển Đỏ vào giai đoạn sơ khai của lịch sử. Đây chính là tuyến hải trình xa xưa nhất của Ai Cập cổ đại được phát hiện thông qua các bằng chứng khảo cổ học. Theo Tallet, bến cảng này cũng có thể là một trong những cảng biển huyền thoại của Ai Cập cổ đại và tại nơi đây, các chuyến thám hiểm tới vùng đất Punt nổi tiếng đã bắt đầu. Các công trình và tượng khắc Tượng khắc Bức tượng duy nhất của Khufu còn tồn tại gần như nguyên vẹn tới ngày nay là một bức tượng bằng ngà voi nhỏ với tên gọi Bức tượng của Khufu. Nó khắc họa chân dung của nhà vua cùng với vương miện đỏ của Hạ Ai Cập. Nhà vua đang ngồi trên ngai vàng với phần tựa lưng ngắn, ở phía bên phải đầu gối của ông là tên Horus Medjedu. Khufu cầm chiếc néo trong tay phải của ông còn tay trái đặt lên trên chân trái của ông. Bức tượng này đã được Flinders Petrie tìm thấy tại Kom el-Sultan gần Abydos vào năm 1903. Ban đầu, bức tượng nhỏ này được tìm thấy trong tình trạng mất đầu; Theo Petrie nguyên nhân gây nên là do một tai nạn trong khi đào bới. Khi Petrie nhận ra tầm quan trọng của hiện vật này, ông ta đã cho dừng tất cả các công việc khác và treo thưởng cho bất kỳ người công nhân nào có thể tìm thấy phần đầu của nó. Phần đầu của bức tượng chỉ được tìm thấy ba tuần sau đó. Ngày nay, bức tượng nhỏ này đã được khôi phục và trưng bày tại bảo tàng Ai Cập ở Cairo trong phòng 32 với số thứ tự là JE 36143. Hầu hết các nhà Ai Cập học đều tin rằng bức tượng nhỏ này có niên đại thuộc về triều đại của ông, nhưng có một số học giả như là Zahi Hawass thì lại cho rằng đây là một bản sao nghệ thuật vào thời kỳ vương triều thứ 26. Ông ta lập luận rằng không có bất cứ tòa nhà nào mà có niên đại một cách chắc chắn là thuộc về vương triều thứ 4 mà đã từng được khai quật tại Kom el-Sultan hay Abydos. Hơn nữa, ông ta còn chỉ ra rằng khuôn mặt của Khufu ở đây lại mang dáng vẻ của một người mập mạp cùng với nét mặt vô cảm. Hawass đã so sánh khuôn mặt của bức tượng này với dạng khuôn mặt điển hình trên những bức tượng của các vị vua cùng thời, như Sneferu, Khaefra và Menkaura. Khuôn mặt của ba vị vua này thậm chí còn đẹp đẽ, với sự mảnh khảnh và nét mặt phúc hậu- đây rõ ràng là kiểu hình mẫu lý tưởng; Chúng đều không dựa trên thực tế. Thay vào đó, diện mạo của Khufu trên bức tượng ngà voi này lại giống như là tác phẩm của một người nghệ sĩ đã không thực sự chú tâm vào tay nghề của mình hoặc đã thực sự siêng năng. Ngay cả bản thân vua Khufu cũng không bao giờ cho phép trưng bày một tác phẩm tương đối cẩu thả như vậy. Và cuối cùng, Hawass còn lập luận rằng kiểu dáng của chiếc ngai vàng lại không giống với phong cách nghệ thuật của bất cứ hiện vật nào có niên đại thuộc về thời kỳ Cổ vương quốc. Những chiếc ngai vàng của thời kỳ Cổ vương quốc có phần tựa lưng cao đến ngang phần cổ của một vị vua. Nhưng mà bằng chứng quan trọng nhất đã khiến cho Hawass tin rằng bức tượng này là một bản sao nghệ thuật thuộc về giai đoạn rất lâu sau đó chính là biểu tượng chiếc néo-Nehenekh trong tay phải của Khufu. Hình ảnh một vị vua được miêu tả cùng với một chiếc néo chỉ xuất hiện sớm nhất là vào thời kỳ Trung vương quốc. Do đó Zahi Hawass kết luận rằng bức tượng này có thể đã được tạo ra như là một lá bùa hộ mệnh hoặc bùa may mắn để bán cho những người dân sùng đạo. Ban đầu, các nhà nghiên cứu thường cho rằng bức tượng nhỏ này là bức tượng duy nhất của vua Khufu còn nguyên vẹn đến ngày nay. Tuy nhiên, điều này hiện nay không còn đúng nữa. Các cuộc khai quật diễn ra ở Saqqara vào năm 2001 và 2003 đã khám phá ra một cặp tượng bằng đất nung miêu tả một nữ thần sư tử (có thể là thần Bastet hay Sakhmet). Trên đôi chân của nữ thần, hai bức tượng trong dáng vẻ trẻ con của hai vị vua vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Trong khi bức tượng bên phải có thể được xác định là vua Khufu nhờ vào tên Horus của ông, bức tượng còn lại được xác định là thuộc về vua Pepy I của vương triều thứ 6, nhờ vào tên gọi thủa nhỏ của ông ta. Rõ ràng là bức tượng nhỏ của vua Pepy chỉ được thêm vào sau này, bởi vì chúng nằm tách riêng và nằm cách vị thần một khoảng. Cả hai nhóm tượng này đều được tạc theo cách thức tương tự nhau (cả hai đều có cùng kích cỡ và tỷ lệ), sự khác biệt duy nhất đó là một nữ thần sư tử nắm giữ một cây quyền trượng. Các nhà khảo cổ học còn nhận thấy rằng những pho tượng này đã được phục dựng lại vào thời kỳ Trung vương quốc, sau khi chúng bị vỡ. Tuy nhiên, dường như nguyên nhân dẫn đến việc phục dựng lại chúng là do tầm quan trọng của vị nữ thần hơn là dành cho việc thờ cúng các vị vua: tên của họ đã bị thạch cao bao phủ. Trên mảnh vỡ C-2 của tấm bia đá Palermo đã ghi lại rằng có hai bức tượng đứng to lớn của nhà vua đã được tạo ra, trong đó một bức tượng được làm bằng đồng, còn bức tượng còn lại thì được làm từ vàng nguyên chất. Hơn nữa, một số mảnh vỡ bằng đá thạch cao tuyết hoa và travertine của những bức tượng ngồi được George Reisner tìm thấy trong các cuộc khai quật tại Giza đã từng được chạm khắc đầy đủ vương hiệu của Khufu. Trong số những mảnh vỡ của một bức tượng ngồi nhỏ có một mảnh vỡ khắc từ phần khuỷu chân của nhà vua trở xuống. Bên phải của chúng là tên... fu trong đồ hình mà có thể quan sát thấy được, và nó có thể dễ dàng được phục dựng lại như là tên đồ hình của Khufu. Ngoài ra còn có hai hiện vật khác được trưng bày tại Bảo tàng Roemer-und Pelizaeus-Hildesheim được làm bằng đá thạch cao tuyết hoa. Một trong số đó có phần đầu là một nữ thần mèo (có thể là thần Bastet hoặc Sakhmet). Vị trí cánh tay phải của vị nữ thần cho thấy rằng bức tượng này trước kia đã từng thuộc về một nhóm tượng giống như những bức tượng bộ ba nổi tiếng của Mycerinus. Một vài đầu tượng khác cũng có thể thuộc về Khufu. Một trong số đó có tên gọi là "đầu tượng Brooklyn" nằm trong Bảo tàng Brooklyn ở thành phố New York. Nó có kích thước 54,3 cm và được làm bằng đá granite màu hồng. Bởi vì đầu tượng này có gò má phúng phính thế nên nó được cho là của Khufu hoặc là của vua Huni. Một hiện vật tương tự cũng được trưng bày trong bộ sưu tập nghệ thuật Ai Cập của bang ở Munich. Phần đầu của nó được làm bằng đá vôi và chỉ có kích thước tương đối nhỏ là 5,7 cm. Phù điêu Hình ảnh của vua Khufu còn xuất hiện trên một vài mảnh phù điêu vỡ được phát hiện rải rác trong khu nghĩa địa của ông và ở những nơi khác. Tất cả các phù điêu này đều được chế tác từ loại đá vôi có chất lượng cao. Một vài phù điêu trong số đó đến từ khu đền thờ đổ nát của kim tự tháp và con đường đắp đã bị phá hủy, những bức tường của nó đã từng được bao phủ toàn bộ bằng các bức phù điêu này. Một số phù điêu khác lại được tái sử dụng trong vực nghĩa địa kim tự tháp của vua Amenemhat I tại Lisht cũng như tại Tanis và Bubastis Một mảnh phù điêu vỡ trong số đó có chạm khắc đồ hình của vua Khufu cùng với câu: "Dựng nên thánh địa của các vị thần". Một cái khác thì lại được trang trí bằng hình ảnh một đàn bò béo tốt cùng với những bông hoa -chúng đã được chuẩn bị sẵn sàng như là những lễ vật trong nghi lễ hiến tế. Và một bức phù điêu khác thì lại khắc họa hình ảnh nhà vua đội vương miện kép và đang săn một con hà mã. Tại Wadi Maghareh ở Sinai, có một bản khắc đá ghi lại tên và vương hiệu của Khufu như sau: "Hor-Medjedu, Khnum-Khuf, Bikuj-Nebu, vị thần vĩ đại và người kết liễu những kẻ sống trong hang động, cầu cho ngài luôn được phù hộ và mãi trường tồn". Trong một cảnh tượng khác vua Khufu lại đội vương miện kép và ngay gần bên cạnh là hình ảnh của thần Thoth. Trong một cảnh tượng khác nằm gần đó, Khufu đội vương miện Atef trong khi đang kết liễu một kẻ thù. Trong cảnh tượng này còn có sự xuất hiện của thần Wepwawet. Một điều thú vị đó là không có bất cứ mảnh phù điêu vỡ nào khắc họa cảnh tượng vua Khufu đang dâng lễ vật lên cho một vị thần. Đây thực sự là một điều đáng lưu ý, bởi vì trên những bức phù điêu của Sneferu và của tất cả các vị vua từ Menkaura trở đi đều khắc họa cảnh tượng nhà vua đang dâng lễ vật lên cho một vị thần. Có thể chính bởi vì không có những phù điêu khắc họa cảnh tượng đặc biệt này đã khiến các sử gia Hy Lạp cổ đại cho rằng Khufu có thể đã thực sự đóng cửa tất cả các đền thờ và cấm tiến hành tất cả các nghi lễ hiến tế. Khu vực nghĩa trang Kim tự tháp Khu nghĩa trang nằm trong phức hợp kim tự tháp của Khufu được xây dựng ở khu vực phía đông bắc của cao nguyên Giza. Có thể bởi vì thiếu không gian xây dựng cũng như không có các mỏ đá vôi ở địa phương và nền đất ở Dahshur lại yếu cho nên buộc vua Khufu phải di chuyển vị trí của nó về phía bắc và cách xa khu nghĩa trang của vị tiên vương Sneferu. Khufu đã chọn khu vực đỉnh đồi của một cao nguyên tự nhiên để từ vị trí đó có thể quan sát được kim tự tháp tương lai của ông một cách rõ ràng. Khufu quyết định gọi khu nghĩa trang của ông là Akhet-Khufu (nghĩa là "chân trời của Khufu"). Đại Kim tự tháp có kích thước vào khoảng 750 x 750 ft (≙ 230,4 x 230,4 m) và ngày nay chiều cao của nó là 455,2 ft (≙ 138,8 m). Chiều cao ban đầu của nó là 481 ft (≙ 146.5 m), nhưng mà sau đó khối mũ đá hình chóp và lớp vỏ đá vôi đã bị cướp đi mất. Do lớp vỏ bên ngoài đã bị lấy đi cho nên chúng ta có thể nhìn thấy được toàn bộ phần lõi bên trong của kim tự tháp. Phần lõi bên trong được tạo nên từ những khối đá vôi có màu tối trong khi lớp vỏ ngoài của nó được chế tác từ đá vôi trắng. Khối mũ đá hình chóp có thể đã từng được che phủ bằng một lớp hợp kim vàng và bạc, nhưng hiện nay không có bằng chứng khảo cổ học nào chứng minh cho luận điểm trên. Tường và trần nhà của các hành lang cùng với các căn phòng bên trong kim tự tháp được làm từ đá granite bóng, nó là một trong những loại đá cứng nhất được biết đến dưới triều đại của Khufu. Loại vữa được sử dụng là một hỗn hợp của thạch cao, cát, bột đá vôi và nước. Lối vào ban đầu của công trình này nằm ở phía bắc và nó có ba căn phòng: nằm ở phía trên cùng là căn phòng chôn cất của nhà vua (phòng nhà vua), nằm ở giữa là phòng tượng (nó thường bị gọi sai là phòng hoàng hậu) và một căn phòng ngầm chưa hoàn thiện (phòng ngầm) nằm bên dưới phần móng của kim tự tháp. Trong khi căn phòng chôn cất được xác định nhờ vào cỗ quan tài lớn được làm từ đá granite ở bên trong nó, mục đích sử dụng của căn "phòng hoàng hậu" hiện vẫn còn đang nằm trong vòng tranh luận - có thể đây là nơi đặt bức tượng Ka của Khufu. Căn phòng ngầm nằm bên dưới mặt đất vẫn còn là một bí ẩn. Nó vẫn chưa được xây dựng xong; Ở đoạn cuối của căn phòng này về hướng tây có một hành lang hẹp chạy theo hướng nam và một đường thông chưa hoàn chỉnh nằm ở phần chính giữa về phía đông của căn phòng có thể giúp chỉ ra rằng căn phòng ngầm này là căn phòng đầu tiên được xây dựng trong số ba căn phòng của kim tự tháp và kế hoạch xây dựng ban đầu chỉ là một phức hợp đơn giản với một vài căn phòng và các hành lang. Nhưng vì một số nguyên nhân nào đó, công trình này đã bị dừng lại và hai căn phòng khác đã được xây dựng. Một điều đáng lưu ý nữa đó là Hành lang lớn dẫn đến phòng nhà vua: chiều cao của nó là 28,7 ft và dài 151,3 ft. Hành lang này giữ một vai trò rất quan trọng, nó giúp làm phân tán trọng lượng của các khối đá nằm phía trên phòng nhà vua ra xung quanh phần lõi của kim tự tháp. Kim tự tháp Khufu được bao quanh bởi một bức tường ngăn, mỗi đoạn tường cách kim tự tháp 33 ft (≙ 10.1 m). Nằm ở phía đông và ngay phía trước mặt của kim tự tháp là ngôi đền tang lễ. Phần móng của nó được xây dựng bằng đá bazan màu đen, nó vẫn còn khá nguyên vẹn đến ngày nay. Các cột trụ và những cánh cổng được xây dựng bằng đá granite đỏ, trong khi trần đá được xây bằng đá vôi trắng. Ngày nay ngôi đền này đã không còn nữa. Một con đường đắp dài 0,43 dặm đã nối ngôi đền tang lễ với ngôi đền thung lũng. Ngôi đền thung lũng có thể cũng được xây dựng bằng loại vật liệu giống như ngôi đền tang lễ, nhưng do phần móng của nó không còn tồn tại tới tận ngày nay cho nên hình dạng và kích thước ban đầu của ngôi đền thung lũng vẫn chưa được biết rõ Nằm ở phía đông của kim tự tháp Khufu còn có khu nghĩa trang phía Đông, tại đây có các mastaba của các vị hoàng tử và công chúa. Ngoài ra còn có ba kim tự tháp vệ tinh nhỏ thuộc về các Hoàng hậu là Hetepheres (G1-a), Meritites I (G1-b) và Henutsen (G1-c), chúng được xây dựng ở góc đông nam của kim tự tháp Khufu. Nằm gần ngay phía đằng sau các kim tự tháp nữ hoàng G1-b và G1-c, một kim tự tháp thờ cúng của Khufu đã được tìm thấy vào năm 2005. Tại khu vực phía nam của Đại Kim tự tháp có một số mastaba khác cùng với các hố chôn những con thuyền tang lễ của Khufu. Nằm về phía Tây là khu nghĩa trang phía Tây, đây là nơi chôn cất những vị quan lớn trong triều đình cùng các vị tư tế. Có thể bức tượng Nhân sư lớn ở Giza cũng là một phần trong khu phức hợp nghĩa trang của Khufu. Nó được tạc trực tiếp từ đá vôi với kích thước 241 x 66,6 ft (≙ 73,5 x 20,11 m) với hình dáng đầu người mình sư tử, và đội chiếc khăn trùm đầu Nemes của hoàng gia. Ban đầu bức tượng này được sơn màu đỏ, nâu nhạt, màu xanh lục và đen. Ngày nay, các nhà nghiên cứu vẫn đang tranh cãi về việc ai mới là người đã ra lệnh xây dựng bức tượng này: nhiều khả năng có thể chính là Khufu hoặc là một trong hai người con trai của ông là Djedefra và Khaefra. Một bí ẩn khác nữa đó là vai trò ban đầu của bức tượng nhân sư này, mang tính tôn giáo hay biểu tượng. Người Ai Cập sau này gọi nó là Heru-im-Akhet (Hârmachís, "horus ở phía chân trời") và Abu el-Hὀl ("Chúa tể của nỗi kinh hoàng") bởi người Ả Rập. Có thể bức tượng nhân sư chỉ đơn giản đóng vai trò như là người bảo vệ cho khu nghĩa trang thiêng liêng của Giza. Khufu trong các truyền thuyết Ai Cập sau này Thời kỳ Cổ vương quốc Khufu đã có một giáo phái tang lễ lớn trong thời kỳ Cổ vương quốc. Vào thời điểm cuối vương triều thứ 6, có ít nhất 67 vị tư tế tang lễ và 6 viên quan đại thần phụng sự độc lập tại khu nghĩa trang mà đã được chứng thực thông qua các bằng chứng khảo cổ học. Mười người trong số họ đã phụng sự dưới vương triều thứ 4 (7 trong số đó là các thành viên của hoàng gia), 28 người đã phụng sự trong giai đoạn vương triều thứ 5 và 29 người dưới vương triều thứ 6. Đây là một điều đáng lưu ý: Người cha nổi tiếng của Khufu, vua Sneferu chỉ có 18 vị tư tế tang lễ trong cùng khoảng thời gian đó, thậm chí Djedefra cũng chỉ có 8 và của Khaefra là 28. Những giáo phái tang lễ như vậy có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế của vương quốc, bời vì chúng nhận được những điền trang đặc biệt dành cho việc thờ cúng. Một số lượng lớn tên các điền trang này đã được chứng thực dưới triều đại của Khufu. Tuy nhiên vào thời điểm vương triều thứ 6 kết thúc, số lượng các điền trang này đã suy giảm nhanh chóng. Khi mà vương triều thứ 7 được thành lập, tên của các điền trang này đã không còn được ghi lại nữa Thời kỳ Trung vương quốc Tại Wadi Hammamat, có một bản khắc đá có niên đại thuộc về vương triều thứ 12. Nó liệt kê 5 tên đồ hình: Khufu, Djedefra, Khafra, Baufra và Djedefhor. Bởi vì tất cả tên gọi của các vị vua này đều được viết bên trong đồ hình cho nên người ta thường tin rằng Baufra và Djedefhor đã từng cai trị trong một thời gian ngắn, tuy nhiên các nguồn sử liệu đương thời chỉ ghi lại rằng họ là những vị hoàng tử. Tên của vua Khufu hiện diện trong danh sách này có thể chỉ ra rằng ông và những vị vua kế tục đã được thờ phụng như là các vị thần bảo hộ. Giả thuyết này đã được đề xướng nhờ vào việc phát hiện ra những chiếc bình bằng đá thạch cao tuyết hoa có tên của Khufu tại Koptos. Một kiệt tác văn học dưới vương triều thứ 13 có nhắc đến Khufu đó là cuộn giấy cói Westcar nổi tiếng, trong tác phẩm này vua Khufu chứng kiến ​​một phép thuật kỳ diệu và nhận được một lời tiên tri từ một pháp sư tên là Dedi. Trong câu chuyện trên, vua Khufu được mô tả theo một cách khó hiểu. Một mặt, ông được mô tả là một người tàn nhẫn khi ra lệnh chém đầu một tù nhân để thử thách sức mạnh ma thuật của Dedi. Mặt khác, Khufu còn được mô tả là một người hiếu kỳ, sáng suốt và rộng lượng: Ông đã chấp thuận khi bị Dedi từ chối và đồng ý với việc thay thế người tù bằng những loài vật khác, ông còn hỏi chi tiết và tỏ ra hài lòng với lời tiên tri của Dedi, sau cùng ông còn ban thưởng cho vị pháp sư này một cách hào phóng. Sự mâu thuẫn của hình tượng vua Khufu trong tác phẩm này là một chủ đề gây nhiều tranh cãi giữa các nhà Ai Cập học và sử gia cho tới tận ngày nay. Các nhà Ai Cập học và sử học thời kỳ đầu như Adolf Erman, Kurt Heinrich Sethe và Wolfgang Helck đều đánh giá hình tượng của Khufu như là một vị vua tàn nhẫn và báng bổ tôn giáo. Họ dựa vào những ghi chép của các tác giả Hy Lạp cổ đại như Herodotos và Diodorus Siculus, những người đã mô tả hình tượng của Khufu theo một cách tiêu cực và cường điệu. Tuy nhiên, các nhà Ai Cập học khác như Dietrich Wildung lại nhìn nhận sự định đoạt của Khufu giống như là một hành động nhân từ: người tù sẽ được hồi sinh nếu như Dedi thực sự trổ tài phép thuật của ông ta. Wildung nghĩ rằng hành động từ chối của Dedi là một sự ám chỉ cho thấy người Ai Cập đã tôn trọng sinh mạng con người như thế nào. Người Ai Cập cổ đại có quan điểm cho rằng không nên lãng phí sinh mạng của con người vào những phép thuật đen tối hoặc những điều xấu xa tương tự. Verena Lepper và Miriam Lichtheim còn nghi ngờ rằng việc mô tả hình tượng Khufu theo cách khó hiểu vậy chính là dụng ý của tác giả. Ông ta muốn tạo ra một nhân vật bí ẩn Thời kỳ Tân vương quốc Vào thời kỳ Tân vương quốc, khu nghĩa trang của Khufu và các giáo phái thờ cúng hoàng gia ở địa phương đã được tái tổ chức và một lần nữa Giza lại trở thành một trung tâm về kinh tế và tôn giáo. Dưới vương triều thứ 18, vua Amenhotep II đã cho xây dựng một ngôi đền tưởng niệm và một tấm bia đá hoàng gia nổi tiếng ngay gần bức tượng Nhân sư lớn. Người con trai và cũng là vị vua, kế vị ông ta, Thutmose IV, đã ra lệnh dọn sạch cát đang vùi lấp bức tượng và cho dựng một bia đá tưởng niệm - gọi là "Tấm bia đá Giấc mộng" - nằm giữa hai chân trước của nó. Nội dung của hai tấm bia đá này đều khá giống nhau, nhưng không có bất cứ tấm bia đá nào ghi lại những thông tin kỹ lưỡng và hợp lý hơn về người thực sự đã cho xây dựng bức tượng nhân sư này Vào giai đoạn cuối vương triều thứ 18, một ngôi đền dành cho nữ thần Isis đã được xây dựng tại kim tự tháp nhỏ G-I-c (của nữ hoàng Henutsen) trong khu nghĩa trang của Khufu. Dưới vương triều thứ 21, ngôi đền này đã được mở rộng, và nó tiếp tục được mở rộng vào thời kỳ vương triều thứ 26. Trong giai đoạn này, một số tư tế của Isis (Hem-netjer-Iset), mà cũng còn là "tư tế của Khufu" (Hem-netjer-Khufu), đã phụng sự ở đây. Ngoài ra, một chiếc nhẫn dấu bằng vàng có tên của vị tư tế Neferibrê mà có niên đại thuộc về giai đoạn này đã được tìm thấy ở Giza Thời kỳ hậu nguyên Vào thời kỳ hậu nguyên, một lượng lớn các tấm bùa hình bọ hung với tên của Khufu đã được bán cho các cư dân, có thể là như là một loại bùa may mắn. Hiện vẫn còn hơn 30 tấm bùa hình bọ hung được bảo tồn nguyên vẹn đến ngày nay. Tại ngôi đền Isis hiện còn lưu giữ một bản gia phả ghi lại tên của các vị tư tế phụng sự thần Isis từ năm 670 đến năm 488 TCN. Ngoài ra, tấm bia đá tóm tắt nổi tiếng, mà có ghi lại tên của Khufu cùng người vợ ông là Henutsen, cũng có niên đại thuộc về giai đoạn này. Tuy nhiên, các nhà Ai Cập học ngày nay lại nghi vấn rằng liệu vào thời điểm đó Khufu có còn được tôn thờ như là một tổ phụ của hoàng gia nữa hay không; Họ nghĩ rằng nhiều khả năng Khufu đã được nhìn nhận như là người sáng lập nên ngôi đền Isis Khufu trong các tác phẩm Hy Lạp cổ đại Manetho Nhà sử học người Ai Cập Manetho gọi Khufu là "Sûphis" và ghi lại rằng ông đã cai trị tới 63 năm. Ông ta cũng đề cập đến việc Khufu là người đã cho xây dựng Đại Kim tự tháp, và rồi sau đó ông ta lại tuyên bố rằng sử gia Hy Lạp Herodotos cùng thời với mình viết rằng Đại kim tự tháp được xây dựng bởi một vị vua "Khéops" nào đó. Rõ ràng, Manetho đã nghĩ "Khéops" và "Sûiphis" là hai vị vua khác nhau. Manetho cũng nói rằng Khufu đã thể hiện sự bất kính đối với các vị thần, ngoài ra Khufu còn đã viết một cuốn sách thiêng về điều đó và chính bản thân ông ta (Manetho) đã có được quyển sách này trong chuyến hành trình rong ruổi khắp các vùng đất của Ai Cập. Câu chuyện về cuốn "Sách Thiêng" này bị các nhà Ai Cập ngày nay nghi ngờ, đây thật sự là một điều bất thường khi mà một vị pharaon lại đi viết một quyển sách và một tài liệu quý giá như thế lại có thể bị bán đi một cách dễ dàng đến như vậy. Herodotos Nhà sử học Hy Lạp Herodotos thì lại mô tả Khufu như là một bạo chúa tàn bạo và độc ác. Trong tác phẩm Historiae của mình, quyển II, chương 124-126, ông ta viết: "Miễn là Rhámpsinîtos vẫn còn đang làm vua, như họ đã nói với tôi, thì khi đó luật lệ vẫn còn được thực thi ở Ai Cập, và vùng đất này đã từng vô cùng thịnh vượng. Nhưng sau đó Khéops trở thành vua của họ và ông ta đã mang đến cho họ mọi khổ đau: Ông ta đã đóng cửa tất cả các đền thờ. Sau đó ông ta còn cấm các vị tư tế không được tiến hành hiến tế tại những nơi này nữa, không những vậy ông ta còn bắt toàn bộ người dân Ai Cập phải làm việc cho mình. Nhiều người đã phải kéo các khối đá từ những mỏ đá ở dãy núi Ả rập cho tới tận sông Nile, và những người khác sau khi tiếp nhận những khối đá được vận chuyển qua sông bằng thuyền, lại bị ông ta ép phải kéo chúng đến những nơi được gọi là dãy núi Libya. Và họ đã tiến hành như vậy với 100.000 người mỗi lần và cứ ba tháng một lần. Dưới ách áp bức này, đã phải mất 10 năm để xây dựng con đường đắp dùng vào việc kéo những khối đá, và theo như tôi nhìn nhận thì con đường này là một công trình không hề thua kém gì so với kim tự tháp. Nó có chiều dài khoảng 5 furlong và rộng khoảng 10 sải và nơi cao nhất của nó là 8 sải, nó còn được xây bằng loại đá vôi trơn nhẵn cùng với những tranh khắc ở trên nó. Bản thân kim tự tháp này phải mất khoảng 20 năm để xây dựng; Và kim tự tháp này có đáy hình vuông, mỗi cạnh có kích thước 800 feet, và chiều cao của nó cũng gần như vậy. Nó được xây bằng loại đá vôi trơn nhẵn và được lắp với nhau theo một cách hoàn hảo nhất, không có bất cứ khối đá nào có chiều dài ngắn hơn 30 feet. Kim tự tháp này được xây dựng theo từng bậc một, mà đôi lúc còn được gọi là 'hàng' hoặc là 'đáy': Đầu tiên họ tiến hành như sau, họ nâng những khối đá còn lại lên bằng các máy móc làm từ các khúc gỗ ngắn, ban đầu họ nhấc chúng từ mặt đất lên đến tầng thứ nhất, và khi khối đá này lên tới nơi, nó được đặt lên trên một cái máy khác nằm ở tầng thứ nhất, và từ đó nó được kéo lên tầng thứ hai bằng một cái máy khác; Có bao nhiêu tầng thì lại có bấy nhiêu cái máy như vậy, hoặc có lẽ họ đã vận chuyển như vậy bằng cùng một cái máy mà được chế tạo để có thể dễ dàng mang theo đến từng tầng một cách liên tục, để giúp họ chúng có thể vận chuyển các khối đá; hoặc là bằng cả hai cách, theo như những gì được ghi chép lại. Tuy nhiên có thể phần đỉnh của nó đã được hoàn thành đầu tiên, tiếp đó họ tiến hành hoàn tất những tầng kế tiếp, và cuối cùng họ hoàn tất những phần nằm gần mặt đất của nó và là tầng thấp nhất. Về phần kim tự tháp này, theo những gì được trình bày trên bản ghi chép của người Ai Cập về số lượng củ cải, hành và tỏi dành cho những người thợ, và nếu tôi như nhớ một cách chính xác những gì người thông dịch đã nói trong khi đang giải thích bản ghi chép này cho tôi, thì nó đã tiêu tốn tổng cộng 1.600 ta lăng bạc. Hơn nữa, Kheops còn trở thành một kẻ không còn nhân tính, vì muốn kiếm tiền, ông ta đã đẩy con gái của mình vào một nhà chứa và ra lệnh cho cô ta phải kiếm một khoản tiền nhất định từ những người khách làng chơi (họ đã không nói với tôi đó là bao nhiêu). Cô ấy không những kiếm được đủ số tiền theo lệnh của người cha, mà còn nghĩ ra một kế hoạch để nhằm có được một đài tưởng niệm của riêng mình: Cô yêu cầu mỗi người đàn ông đến với mình phải để lại cho cô một khối đá dành cho công trình của mình. Và từ những khối đá này, họ nói với tôi rằng một kim tự tháp đã được xây dựng nằm ngay trước Đại kim tự tháp và ở giữa ba kim tự tháp kia, mỗi cạnh dài 150 feet " Câu chuyện về vua Khafre cũng tương tự như vậy. Ông ta được kể lại là người đã trực tiếp kế vị Khufu và cũng độc ác giống như vậy, và theo Herodotos thì triều đại của ông ta kéo dài trong 56 năm. Trong chương 127-128, Herodotus viết rằng: "Sau khi Khéops qua đời, người em trai Khéphrên của ông ta đã lên kế vị ngai vàng. Vị vua này cũng tiếp bước ông ta... và cai trị trong 56 năm. Ở đây họ tính tổng cộng 106 năm, trong khoảng thời gian này theo như họ kể lại thì không có gì ngoài những điều tồi tệ xảy ra đối với người Ai Cập, và các ngôi đền đều bị đóng cửa và không được mở cửa trở lại trong suốt thời gian này". Herodotos kết thúc câu chuyện về những vị vua độc ác trong chương 128 như sau: "Những vị vua đó, người Ai Cập - bởi vì sự căm ghét đối với họ - sẽ không bao giờ muốn nhắc đến tên của họ nữa. Thậm chí họ còn gọi các kim tự tháp theo tên của dân chăn cừu Philítîs, vốn đang chăn thả trên những miền đất này vào lúc đó". Diodoros của Sicily Sử gia cổ đại Diodoros tuyên bố rằng Khufu đã bị nhân dân của mình căm ghét tới mức vào thời kỳ sau này các viên tư tế tang lễ đã phải bí mật mang chiếc quách hoàng gia cùng với xác ướp của Khufu đi chôn giấu ở một nơi khác. Với bài tường thuật này, ông ta đã củng cố và chứng thực quan điểm của các học giả Hy Lạp, cho rằng kim tự tháp Khufu (cùng với hai kim tự tháp khác) đã được xây dựng bởi những người nô lệ. Ngoài ra, Diodoros còn cho rằng Herodotos "chỉ nói những câu chuyện cổ tích và mang tính hư cấu thú vị". Diodoros còn tuyên bố rằng người Ai Cập vào thời điểm ông ta sống đã không thể trả lời với ông ta một cách chắc chắn về việc ai là người đã thực sự xây dựng các kim tự tháp kia. Ông ta cũng tuyên bố rằng bản thân mình không hề thực sự tin tưởng vào những người phiên dịch và rằng các kim tự tháp kia đã được xây nên bởi những vị vua khác: theo ông ta thì kim tự tháp Khufu được xây dựng bởi một vị vua tên là Harmais, kim tự tháp Khafre được cho là do vua Amasis II xây dựng nên còn Kim tự tháp Menkaura được xem là tác phẩm của vua Inaros I. Diodoros tuyên bố rằng kim tự tháp Khufu đã được bao phủ bên ngoài bằng một màu trắng đẹp tuyệt, nhưng khối mũ đá hình chóp của nó không còn nữa. Ông ta cũng nghĩ rằng kim tự tháp được xây dựng bằng những đường dốc và được phá bỏ sau đó trong quá trình hoàn thiện lớp vỏ đá vôi bên ngoài. Diodoros ước tính rằng tổng số công nhân là 300.000 người và công trình này đã được xây dựng trong suốt 20 năm. Khufu trong các truyền thuyết Ả Rập Năm 642, người Ả Rập chinh phục Ai Cập. Ngay sau khi đặt chân đến trước các kim tự tháp ở Giza, họ đã đi tìm lời giải về việc ai là người đã xây dựng nên các công trình này. Tuy nhiên, vào lúc đó, không còn bất kỳ người dân Ai Cập nào có thể trả lời câu hỏi trên và cũng không còn bất cứ ai có thể dịch chữ tượng hình của người Ai Cập được nữa. Vì thế, các sử gia Ảrập đã tự sáng tạo ra những giả thuyết và câu chuyện của họ. Câu chuyện nổi tiếng nhất về Khufu và kim tự tháp của ông có thể tìm thấy trong tác phẩm Hitat (tên đầy đủ: al-Mawā'iẓ wa-'l-i'tibār fī ḏikr al-ḫiṭaṭ wa-'l-'āṯār), được Muhammad al-Maqrizi (1364-1442) viết vào năm 1430. Cuốn sách này bao gồm tập hợp một vài giả thuyết và những câu chuyện hoang đường về Khufu, đặc biệt là về Đại Kim tự tháp. Mặc dù vậy, bản thân vua Khufu lại ít khi được đề cập đến trong những câu truyện này, không những thế nhiều tác giả Ả rập lại tin rằng Đại Kim tự tháp (cũng như những kim tự tháp khác) đã được thần Hermes (được người Ả rập gọi là Iris) xây dựng nên . Al-Maqrizi chú giải rằng Khufu đã được người Amalek trong kinh thánh gọi tên là Saurid, Salhuk hoặc Sarjak. Tiếp đó ông ta còn viết rằng Khufu đã xây dựng các kim tự tháp sau khi ông trải qua những cơn ác mộng liên hồi về việc trái đất quay lộn ngược, các vì sao rơi xuống khỏi bầu trời còn người dân thì lại đang la hét vì sợ hãi. Một cơn ác mộng khác của ông là về các vì sao rơi xuống khỏi bầu trời và bắt cóc con người, sau đó chúng dùng hai ngọn núi lớn để đè lên họ. Vua Khufu sau đó đã nhận được một lời cảnh báo từ những nhà tiên tri của ông về một trận đại hồng thủy sẽ xảy đến và nó sẽ tàn phá Ai Cập. Để bảo vệ kho báu cùng những quyển sách thông thái của mình, Khufu đã xây dựng ba kim tự tháp ở Giza. Quan điểm hiện đại Theo thời gian, các nhà Ai Cập học đã tiến hành nghiên những nguyên nhân và động cơ có thể đã khiến cho danh tiếng của vua Khufu thay đổi theo thời gian. Từ kết quả của những nghiên cứu được tiến hành gần đây cùng với việc so sánh giữa các ghi chép đương thời, các ghi chép sau này và các cách diễn giải theo tiếng Hy Lạp và Copt, các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng danh tiếng của vua Khufu đã thay đổi một cách chậm chạp, và cách nhìn mang tính tích cực về nhà vua vẫn còn chiếm ưu thế trong kỷ nguyên Hy Lạp và Ptolemaios. Ví dụ, Alan B. Lloyd đã lưu ý đến các ghi chép và những dòng chữ khắc có niên đại thuộc về vương triều thứ 6 đã ghi lại một thị trấn quan trọng có tên là Menat-Khufu, có nghĩa là "bảo mẫu của Khufu". Thị trấn này vẫn rất được coi trọng vào thời kỳ Trung vương quốc. Lloyd tin rằng một tên gọi chân tình như vậy sẽ không bao giờ được lựa chọn để tôn vinh một vị vua xấu xa. Hơn nữa, ông ta còn chỉ ra rằng đã có rất nhiều địa điểm mà tại đó các nghi lễ thờ cúng vua Khufu đã được tiến hành, ngay cả ở bên ngoài Giza. Những giáo phái tang lễ này vẫn tiếp tục tồn tại tới tận thời kỳ Saite và Ba Tư sau này. Những văn bản Lời than khóc nổi tiếng có niên đại vào thời kỳ chuyển tiếp thứ nhất lại bộc lộ một số quan điểm thú vị về những lăng mộ vĩ đại trong quá khứ; Vào thời điểm đó, chúng được nhìn nhận như là bằng chứng của sự phù phiếm. Tuy nhiên, những ghi chép này lại không cho thấy một sự ám chỉ mang tính tiêu cực nào về danh tiếng của các vị vua, và do đó chúng không đánh giá vua Khufu theo cách nhìn tiêu cực. Ngày nay các nhà Ai Cập học hiện đại coi những câu chuyện của Herodotos và Diodoros là một sự bôi nhọ, dựa trên quan điểm triết học đương thời của cả hai tác giả. Họ lập luận rằng các tác giả cổ đại đã sống cách Khufu khoảng 2000 năm và các nguồn sử liệu sẵn có vào thời đại của họ chắc chắn là đã lỗi thời. Ngoài ra, các nhà Ai Cập học còn lưu ý rằng các triết lý của người Ai Cập cổ đại đã thay đổi hoàn toàn kể từ thời Cổ vương quốc. Những lăng mộ khổng lồ như các kim tự tháp ở Giza đã khiến cho người Hy Lạp và các tư tế của thời kỳ Tân vương quốc sau này phải choáng ngợp bởi vì họ chắc chắn vẫn còn nhớ đến vị pharaon Akhenaten và các công trình xây dựng đầy tham vọng của ông ta. Quan điểm này có thể được thúc đẩy bởi sự thật đó là, vào thời điểm Khafra sống, chỉ có nhà vua mới có quyền tạo ra những bức tượng khổng lồ bằng đá quý và trưng bày chúng tại những địa điểm công cộng một cách công khai. Còn tại thời điểm các tác giả Hy Lạp và những vị tư tế này sống, họ không thể giải thích được tại sao các công trình và những bức tượng của Khafra lại ấn tượng đến như vậy, cách giải thích tốt nhất đó là do một vị vua mắc chứng hoang tưởng tự đại tạo nên. Những quan điểm này sau đó đã được các nhà sử học Hy Lạp thu nhận và do đó họ cũng đánh giá tiêu cực về Khafra, bởi vì những câu chuyện xấu xa dễ dàng được công chúng tiếp nhận hơn là những câu chuyện mang tính tích cực và do đó rất nhàm chán. Hơn nữa, một số nhà Ai Cập học đã chỉ ra rằng các sử gia La Mã như Pliny Già và Frontinus (khoảng năm 70 SCN) đều không ngần ngại chế nhạo các kim tự tháp ở Giza: Frontinus gọi chúng là "những kim tự tháp vô dụng, với những cấu trúc quan trọng tương tự như một số hệ thống đường cống nước bị bỏ hoang của chúng ta ở Rome "và Pliny mô tả chúng như là "phô trương về sự giàu có của nhà vua một cách ngu ngốc và vô dụng". Các nhà Ai Cập học ngày nay đã nhìn nhận ra được mục đích mang tính chính trị và xã hội trong những lời chỉ trích này và còn một điều nghịch lý nữa đó là mục đích sử dụng của những công trình này thì lại bị lãng quên, trong khi tên tuổi của những vị vua xây dựng nên chúng thì mãi được lưu truyền. Một gợi ý khác liên quan đến danh tiếng xấu xa của Khufu theo cách nhìn nhận của người Hy Lạp và La mã có thể được ẩn giấu trong cách diễn giải tên vua Khufu theo tiếng Copt. Những ký tự tượng hình Ai Cập tạo nên tên "Khufu" được đọc theo tiếng Copt là "Shêfet", mà thực sự có nghĩa là "vận rủi" hoặc "tội lỗi" trong ngôn ngữ của họ. Cách diễn giải trên theo tiếng Copt bắt nguồn từ cách phát âm sau này của Khufu là "Shufu", và dẫn đến cách đọc theo tiếng Hy Lạp là "Suphis". Có lẽ các tác giả Hy Lạp và La Mã đã sao chép một cách vô thức ý nghĩa xấu của tên Khufu theo cách diễn giải của tiếng Copt. Các nhà Ai Cập học cùng với các sử gia ngày nay cũng cho rằng không nên tin tưởng vào những câu chuyện của người Ả Rập. Họ chỉ ra rằng người Ả Rập cổ đại luôn được dẫn dắt bởi niềm tin tôn giáo nghiêm khắc của họ về việc chỉ có duy nhất một vị thần tồn tại, và do đó không cho phép nhắc đến bất cứ vị thần nào khác. Như là hệ quả của điều này, họ đã chuyển đổi tên của các vị vua Ai Cập và các vị thần thành tên của các vị tiên tri và những vị vua trong kinh thánh. Ví dụ, vị thần Thoth của người Ai Cập đã được gọi theo tên của vị tiên tri Henoch. Vua Khufu đã được gọi là "Saurid", "Salhuk" hoặc "Sarjak", và thường được thay thế trong các câu chuyện khác bằng tên của một vị tiên tri là Šaddād bīn'd. Hơn nữa, các nhà nghiên cứu còn chỉ ra một số mâu thuẫn trong cuốn sách của Al-Maqrizi. Ví dụ, trong chương đầu tiên của tác phẩm Hitat, người Copt được cho là đã phủ nhận bất kỳ sự can thiệp nào của người Amalek ở Ai Cập và các kim tự tháp được dựng lên như là lăng mộ của Šaddād bīn 'Âd. Nhưng một số chương sau đó, Al-Maqrizi tuyên bố rằng Copts gọi Saurid là người đã xây dựng các kim tự tháp này. Khufu trong văn hóa Ngày nay, hình tượng lịch sử của Khufu xuất hiện nhiều trong phim ảnh, tiểu thuyết và phim tài liệu. Năm 1827, nhà văn khoa học viễn tưởng Jane C. Loudon đã viết cuốn tiểu thuyết Xác ướp! Một câu chuyện về thế kỷ 22. Nội dung của tác phẩm này kể về câu chuyện của những công dân sống ở thế kỷ 22 cùng với những công nghệ khoa học tiên tiến, tuy nhiên xã hội của họ đã suy đồi hoàn toàn. Và chỉ có xác ướp của Khufu mới có thể cứu họ. Năm 1939, Nagib Mahfuz đã viết cuốn tiểu thuyết sự thông thái của Khufu dựa trên những câu chuyện trong cuộn giấy cói Westcar. Năm 1997, tác giả người Pháp Guy Brachet đã sáng tác tiểu thuyết Le roman des pyramides, gồm có năm tập, trong đó hai tập đầu (Le temple soleil và Rêve de pierre) đã lấy hình tượng của Khufu và lăng mộ của ông làm bối cảnh. Năm 2004, Page Bryant đã viết tác phẩm khoa học viễn tưởng Lần đến thứ hai của các vị thần từ những vì sao, đề cập tới việc Khufu đến từ vũ trụ. Cuốn tiểu thuyết Truyền thuyết về ma cà rồng Khufu do Raymond Mayotte viết vào năm 2010, kề về việc vua Khufu là một ma cà rồng và vừa tỉnh giấc sau một giấc ngủ dài trong kim tự tháp của ông. Những bộ phim nổi tiếng đề cập đến Khufu hoặc ít nhất là có Đại Kim tự tháp làm bối cảnh bao gồm bộ phim Vùng đất của Pharaoh của Howard Hawks vào năm 1955, nôi dung của nó là một câu chuyện hư cấu về quá trình xây dựng Kim tự tháp Khufu, và bộ phim Stargate của Roland Emmerich vào năm 1994, với phần mở đầu kể về việc tìm thấy một thiết bị ngoài trái đất nằm gần khu vực các kim tự tháp. Khufu và kim tự tháp của ông cũng còn là chủ đề trong các giả thuyết khoa học giả tưởng đề cập đến giả thuyết cho rằng kim tự tháp của Khufu được xây dựng nhờ vào sự giúp đỡ của người ngoài hành tinh và Khufu chỉ đơn giản là đã chiếm đoạt và tái sử dụng công trình này, các giả thuyết này đã bỏ qua các bằng chứng khảo cổ hoặc hoặc thậm chí đã làm sai lệch nó. Ngoài ra, một tiểu hành tinh nằm gần quỹ đạo được đặt tên theo tên của Khufu: 3362 Khufu Chú thích
VBScript (viết tắt của Visual Basic Script Edition) là một ngôn ngữ văn lệnh được thông dịch bởi Windows Script Host của Microsoft. Cấu trúc của nó phản ánh nguồn gốc của nó là một sự biến đổi của ngôn ngữ Visual Basic của Microsoft. Nó có được sự hỗ trợ quan trọng có lợi từ việc các nhà quản lý của Windows tìm kiếm một công cụ tự động mạnh hơn ngôn ngữ batch (được phát triển trong thập niên 1970). VBScript được thông dịch bằng một phương tiện kịch bản là vbscript.dll, thứ có thể được gọi lên bởi phương tiện asp.dll trong môi trường web, wscript.exe trong môi trường đồ họa Windows, và cscript.exe trong môi trường dòng lệnh. Mã nguồn VBScript chứa trong những tập tin văn bản (text) độc lập và có phần mở rộng (kiểu file hay extension) đặc trưng là .vbs nên có thể mở và soạn thảo trong một trình soạn thảo văn bản. Khi được sử dụng trong trình duyệt, VBScript rất giống chức năng với JavaScript – nó tiến hành mã được ghi trong các tập tin HTML. VBScript có được sử dụng để tạo ra các ứng dụng HTML (có dạng .hta) yêu cầu Internet Explorer 5 hoặc mới hơn. Các nhà phát triển web có thể thích JavaScript cho các trình duyệt khác tốt hơn Internet Explorer.
Các Aesir (số ít Áss, giống cái Ásynja, giống cái số nhiều Ásynjur, thường được viết như Æsir; tiếng Anglo-Saxon: Ós; tiếng Đức cổ: Ansuz) là thần tộc lớn nhất trong thần thoại Bắc Âu. Các vị thần quan trọng như Odin, Frigg, Thor, Balder và Tyr thuộc thần tộc này. Ngoài ra còn một thần tộc khác, thần tộc Vanir, cũng được nhắc tới trong thần thoại Bắc Âu. Vị thần gió Njord và các con là Freyr và Freyja là những Vanir đến sống với các Aesir để làm con tin theo một thỏa thuận nhằm chấm dứt chiến tranh giữa hai thần tộc. Các Vanir thường là những vị thần của mùa màng và sung túc trong khi các Aesir đại diện cho sức mạnh và chiến tranh. Asgard là nơi ở của các Aesir. Nguồn gốc tên gọi Từ Áss được cho là có nguồn gốc từ từ ansu ("hơi thở" hoặc "thần thánh") trong ngôn ngữ tiền Ấn-Âu. Trong tiếng Anh cổ, vốn có cùng nguồn gốc với các ngôn ngữ Bắc Âu, từ tượng đương với là os ("vị thần"). Có thể bắt gặp từ này trong một số tên thông dụng trong tiếng Anh như Oswin, Osbert, Oswald, Osborn hay Osmund (trừ tên Oscar vốn có nguồn gốc từ tiếng Gaelic). Một giả thuyết khác do Snorri Sturluson đề xướng vào thế kỷ 13 cho rằng Aesir có nguồn gốc từ chữ Asia ("châu Á"). Schefferus cũng đồng tình với thuyết này khi cho rằng Aesir chỉ "các hoàng đế người châu Á", thủ lĩnh những bộ tộc từ bình nguyên Âu Á tràn vào châu Âu trong thời cổ đại. Danh sách các Aesir Balder - thần ánh sáng, nghệ thuật, cái đẹp, quang minh. Bragi - thần thơ ca và hùng biện, nhà thơ và ca sĩ của Asgard (skald) Forseti - con trai của Balder, thần công lý Freyja (con tin từ tộc Vanir) - nữ thần của tình yêu và sắc đẹp Freyr (con tin từ tộc Vanir) - thần của sự sung túc, ánh sáng Frigg - nữ thần tối cao, hạnh phúc và ánh nắng, bầu trời, vợ của Odin Heimdall - thần gác cầu Bifrost và bảo vệ Asgard Höðr - vị thần mù của mùa đông và bóng tối Hœnir - vị thần hay do dự Iðunn - nữ thần tuổi trẻ, thanh xuân Loki - tên khổng lồ, kẻ lừa đảo Meili - thần của giao thông Nanna - vợ của Balder, nữ thần rừng và nhân cách Njord (con tin từ tộc Vanir) - thần của gió và nghề đi biển Odin - thủ lĩnh của các vị thần, thần của sự khôn ngoan và chiến tranh Sif - vợ của Thor, thần ánh sáng Skadi - nữ thần núi tuyết và săn bắn, vợ của Njord. Thor - thần sấm sét và chiến trận Tyr - vị thần chỉ có một tay, người chiến binh quả cảm, chiến trận và luật lệ Ullr - thần săn bắn Váli - người trả thù Vé - em thứ hai của Odin, vị thần ban cho loài người tiếng nói Viðarr - thần của sự im lặng và sự báo thù Vili - em út của Odin, vị thần ban cho loài người suy nghĩ và tình cảm Vai trò Aesir là các thần sức mạnh và chiến tranh, quyền lực tối cao. Đối với người dân, họ là các thần cai quản sự bình yên, hòa bình và thịnh vượng. Họ lo lắng cho những cuộc chiến, cuộc ẩu đả. Có thể nghe thì bạo lực, nhưng trong thần thoại Bắc Âu thì họ là những người chủ hòa, nhưng cũng có quyết tâm làm nên việc lớn. Như thần Frigg ghét chiến tranh, thần Balder luôn giải hòa hay thần rừng Nanna, thần tươi trẻ Idun cũng như các thần nhạc, thơ đều chủ hòa cả. Ngay cả thần canh giữ cầu Bifrot cũng là để đề phòng chiến tranh, kẻ xấu. Thần lừa đảo Loki cũng là một người cha tốt, không khiêu chiến bao giờ. Các thần ở Aesir thậm chí còn thông minh, sáng suốt hơn các thần ấm no Vanir. Nhưng cả hai đều cần đến nhau để giữ được sự an vui, thịnh vượng. Các thần luôn biết cách ngang dàn mọi chuyện, biết lên tiếng khi mọi chuyện xấu đi, biết kêu gọi, khi không còn đường lui ý chí chiến đấu còn trở nên cao cả và quyết tâm hơn nhiều. Đặc điểm Các Aesir thường tụ tập, họp bàn chia theo sức mạnh, như nhóm chiến tranh, nhóm nữ nhóm nam, nhóm hòa bình, nhóm no đủ... Nhưng những việc hệ trọng thường được bàn theo tất cả các vị thần. Những vị thần Vanir chuyển sang thường không được họp bàn nhiều. Trong thần thoại Bắc Âu chỉ chủ yếu những vị thần ở Asgard nên các thần được chuyển sang mới được nhắc đến... chúng ta có thể thấy ảnh hưởng lớn của các thần Aesir. Vanir và Aesir khác nhau qua nhiều thứ: Aesir đông đúc, Vanir cho phép những việc quan hệ tình dục; rất dễ nhận ra sự khác nhau nhưng vì hai dân tộc đều chủ hòa và ai nấy đều lộng lẫy, bảnh bao và lại có nhiều phép thuật, sức mạnh giống nhau nên vẫn không tránh khỏi nhầm lẫn (Frigg - nữ hoàng của Aesir - và Freya - một nữ thần không thể thiếu ở Vanir - dễ bị nhầm lẫn).
Cảm giác là một quá trình tâm lý phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của các sự vật hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào giác quan của loài người. Các đặc điểm của cảm giác Là một quá trình tâm lý vì nó có mở đầu, diễn biến và kết thúc trong khoảng thời gian xác định. Phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của sự vật hiện tượng cảm giác của con người mang tính xã hội: không chỉ phản ánh những sự vật hiện tượng trong tự nhiên mà cả những sản phẩm do con người tạo ra tùy thuộc vào đặc điểm nghề nghiệp và quá trình học tập rèn luyện Phân loại cảm giác theo đặc tính Hướng ngoại Vui, yêu, thích, dễ chịu, êm dịu, thoải mái, phấn khởi, lâng lâng, trong sạch, bình tĩnh, phóng khoáng, tin cậy, ham muốn, tình dục, bình an, tập trung, bình yên, ấm áp, lạnh giá, hạnh phúc, biết ơn, cố gắng…. Hướng nội Buồn, ghét, giận, bực tức, hối tiếc, run sợ, khó chịu, lo lắng, mệt mỏi, ức chế, căng thẳng, có tội, hồi hộp, giật mình, nóng nảy, phục tùng, ích kỷ, nghi ngờ, khinh dẻ, coi thường, ghen tị, tiếc nuối, ngại, e thẹn, nhớ nhung đợi chờ, chịu đựng, mất tập trung, khinh thường, trống trải, cô liêu, nản chí, suy nghĩ quá nhiều, tội nghiệp, bị lừa dối, hoài nghi …… Hỗn tạp Căng thẳng, trầm cảm……. Phân loại theo giác quan cảm nhận Cảm giác nghe (thính giác) Cảm giác nhìn (thị giác) Cảm giác sờ (xúc giác) Cảm giác ngửi (khứu giác) Cảm giác vị (vị giác) Thần giao cách cảm (giác quan thứ 6) Tiền đình (giác quan thứ 7) Phân loại theo tính đối nghịch của các cảm giác Vui, phấn khởi, lâng lâng – buồn, lo lắng, giận, bực tức Yêu, thích – ghét Dễ chịu, thoải mái – khó chịu, ức chế, căng thẳng Trong sạch – có tội, tội lỗi Bình tĩnh – hồi hộp, nóng nảy, giật mình, thót tim, run sợ Phóng khoáng – keo kiệt Tin cậy, tin tưởng – nghi ngờ, khinh dẻ, coi thường, hoài nghi, bị lừa dối Tập trung – Sao nhãng, sao lãng Ấm áp – lạnh lẽo Bình an, bình yên, an toàn – không an toàn Hạnh phúc – không hạnh phúc, trống trải, cô liêu, cô đơn Biết ơn – không biết ơn Cố gắng – Nản lòng Ham muốn – không ham muốn Khỏe mạnh – mệt mỏi Tôn trọng – khinh thường Kiêu hãnh – phục tùng, cảm phục Muốn chinh phục – không muốn chinh phục Tỉnh táo – không tỉnh táo, buồn ngủ Ngại, e thẹn - Tự tin Ghen tỵ - Chan hòa Tiếc nuối Nhớ nhung, đợi chờ Chịu đựng Căng thẳng Trầm cảm Tình dục Xúc động Hay – dở
Năm Tín lý Duy nhất là năm mệnh đề bằng tiếng Latin xuất hiện trong thời kỳ Cải cách Tin Lành hầu tóm lược năm tín lý căn bản của những nhà cải cách, và nhấn mạnh đến những dị biệt đối với giáo huấn của Giáo hội Công giáo Rôma thời ấy. Sola gratia (Duy Ân điển) Chỉ bởi ân điển mà con người nhận lãnh sự cứu rỗi, không phải bởi công đức. Như thế, cứu rỗi là sự ban cho đến từ Đức Chúa Trời, không phải từ nỗ lực của con người. Tín lý này đi ngược với giáo lý công đức của Công giáo. Sola fide (Duy Đức tin) Con người được xưng công chính (nghĩa là trở nên vô tội trong mắt Đức Chúa Trời) chỉ bởi đức tin, không phải bởi việc lành. Theo giáo huấn Tin Lành, đức tin dẫn đến sự cứu rỗi luôn luôn sản sinh các việc lành. Giáo lý này có thể được tóm lược trong mệnh đề sau "Đức tin dẫn đến sự xưng công chính và việc lành", trái với xác tín của Công giáo "Đức tin và việc lành dẫn đến sự xưng công chính". Tín lý này đôi khi được xem là nguyên lý nền tảng hình thành cuộc cải cách do vai trò trọng tâm của nó trong học thuyết Martin Luther. Sola scriptura (Duy Thánh Kinh) Kinh Thánh là Lời Đức Chúa Trời, là thẩm quyền và mặc khải duy nhất đến từ Đức Chúa Trời được ban cho mọi người. Học thuyết này đi ngược lại giáo huấn của Giáo hội Công giáo cho rằng Kinh Thánh chỉ nên được giải thích theo Truyền thống Tông đồ thánh bởi Magisterium (gồm có Giáo hoàng và các giám mục tại các công đồng của giáo hội). Sola scriptura đôi khi được gọi là nguyên lý hình thái của cuộc cải cách bởi vì nó giúp củng cố tín lý sola fide (duy đức tin). Solus Christus hoặc Solo Christo (Duy Chúa Giê-su Christ) Chúa Giê-su Christ là Đấng Trung bảo duy nhất giữa Đức Chúa Trời và loài người. Không phải Mary (Maria hoặc Ma-ri), hoặc các thánh, cũng không phải linh mục (hoặc bất kỳ ai khác ngoài Chúa Giê-su Christ) có thể hành xử như là đấng trung bảo để đem sự cứu chuộc đến cho loài người. Tín lý này là bất đồng với giáo lý Công giáo về sự cầu nguyện thay của các thánh và về chức năng của linh mục. Soli Deo gloria (Duy Đức Chúa Trời được tôn vinh) Mọi vinh hiển đều dành cho Đức Chúa Trời vì sự cứu rỗi là công việc bởi tay Ngài làm – không chỉ là sự chết chuộc tội của Chúa Giê-xu trên thập tự giá, nhưng còn là sự ban cho đức tin hầu con người được cứu rỗi bởi sự chuộc tội ấy. Những nhà cải cánh Tin Lành tin rằng con người (như các thánh và giáo hoàng của Giáo hội Công giáo) và tổ chức (Giáo hội) không xứng đáng để nhận lấy sự tôn vinh ấy.
Giáo hội Trưởng lão, hay Giáo hội Trưởng nhiệm, là một nhánh Kháng Cách có nguồn gốc từ đảo Anh, đặc biệt là Scotland. Các giáo hội trưởng lão lấy tên từ thể chế trưởng lão trong quản trị giáo hội, được điều hành bởi các hội đồng đại diện của các trưởng lão. Một số lượng lớn các giáo hội Cải cách được tổ chức theo cách này, nhưng từ "Presbyterian", khi được viết hoa, thường được áp dụng duy nhất cho các giáo hội có nguồn gốc từ Giáo hội Scotland, cũng như một số nhóm ly khai người Anh hình thành trong cuộc Nội chiến Anh. Cũng như các giáo hội Cải cách lục địa, các giáo hội Trưởng lão chịu ảnh hưởng từ thần học của Jean Calvin. Trưởng lão phái truy nguyên nguồn gốc của mình đến cuộc Cải cách tôn giáo Scotland dưới sự lãnh đạo của John Knox. Có nhiều giáo hội ly khai trong cộng đồng Trưởng lão tại nhiều quốc gia. Hơn nữa, cộng đồng này còn bị chia cắt vì những lý do thần học, nhất là khi bộc phát Phong trào Khai sáng. Thần học Trưởng Lão đặc biệt nhấn mạnh đến quyền tể trị của Thiên Chúa, bao gồm sự cứu rỗi dành cho con người, xem trọng thẩm quyền của Kinh Thánh, và tính thiết yếu của trải nghiệm quy đạo bởi ân điển, qua đức tin vào Chúa Giê-xu. Lịch sử Thuật ngữ Trưởng Lão đến từ Hi văn presbyteros (), nghĩa là "bậc trưởng thượng", ngụ ý những người được tôn trọng trong cộng đồng và thường không tính đến tuổi tác. Thể chế Trưởng Lão phổ biến trong cộng đồng Kháng Cách, phỏng theo mô hình của cuộc cải cách tại Thuỵ Sĩ. Ở Anh quốc, Scotland và Ireland, do đó các giáo hội cải cách chấp nhận thể chế Trưởng Lão thay vì thể chế giám mục thường được gọi chung là Giáo hội Trưởng Lão. John Knox (1505-1572), một người Scotland từng theo học Calvin ở Geneva, trở về Scotland và thuyết phục Quốc hội Scotland chấp nhận cuộc Cải cách Kháng nghị trong năm 1560. Giáo hội Scotland dần dần được cải cách theo khuynh hướng Trưởng Lão. Ở Ái Nhĩ Lan, Giáo hội Trưởng Lão được hình thành từ Giáo hội Scotland và về sau trở thành Giáo hội Trưởng Lão Ái Nhĩ Lan. Tại Anh, Trào lưu Trưởng Lão được hình thành trong bí mật từ năm 1572, cuối thời trị vì của Elizabeth I tại Anh. Năm 1647, theo một đạo luật được thông qua bởi Quốc hội Anh (Long Parliament) đang dưới quyền kiểm soát của những người Thanh giáo, Giáo hội Anh chấp nhận thể chế Trưởng Lão. Sau khi vương quyền được tái lập năm 1660, giáo hội trở lại thể chế giám mục ở Anh (và trong một thời gian ngắn ở Scotland); giáo hội Trưởng Lão ở Anh vẫn tiếp tục tồn tại như một thực thể bên ngoài quốc giáo. Năm 1719, một sự phân ly lớn, cuộc tranh luận Salter's Hall, xảy ra; với đa số nghiêng về quan điểm phi-Ba Ngôi. Cho tới thế kỷ 18, nhiều giáo đoàn trưởng Lão tại Anh đã theo giáo lý Nhất vị luận (Unitarianism). Học thuyết Trưởng Lão được giới thiệu vào Ái Nhĩ Lan bởi các giáo sĩ và những di dân đến định cư tại Ulster. Năm 1642, Đoàn Trưởng Lão (Presbytery) Ulster được thành lập độc lập với quốc giáo (Anh giáo). Tín hữu Trưởng Lão, cùng tín hữu Công giáo, ở Ulster và Ái Nhĩ Lan trở nên nạn nhân của sự kỳ thị bởi Luật Penal cho đến khi luật này bị thu hồi vào đầu thế kỷ 19. Cả ba nhánh của Trưởng Lão, cũng như các tín hữu của các hội thánh độc lập, cùng các giáo phái Cải cách Hà Lan, Đức và Pháp tại Hoa Kỳ hiệp nhất với nhau để thành lập Giáo hội Trưởng Lão Hoa Kỳ (năm 1706). Ở Anh, những người nhập cư đến từ Scotland trong thế kỷ 19 cùng nhau thành lập các nhà thờ Trưởng Lão, dần dần gia nhập Giáo hội Trưởng Lão Anh quốc. Năm 1972, Giáo hội Trưởng Lão Anh quốc hiệp nhất với Giáo hội Tự trị Giáo đoàn ở Anh và xứ Wales để trở thành Giáo hội Cải cách Hiệp nhất. Tại Wales có Giáo hội Trưởng Lão xứ Wales. Tại Canada, giáo hội Trưởng Lão lớn nhất – cũng là giáo phái Kháng Cách lớn nhất của quốc gia này – là Giáo hội Trưởng Lão Canada, thành lập năm 1875; đến năm 1925 có 70% số giáo đoàn hiệp nhất với Giáo hội Giám Lý Canada và Liên hiệp Tự trị Giáo đoàn Canada để thành lập Giáo hội Canada Hiệp nhất. Đặc điểm Tổ chức Tín hữu Trưởng Lão tự phân biệt mình với các giáo phái khác qua thần học và cấu trúc tổ chức, hoặc theo cách gọi của họ, "trật tự trong giáo hội". Khởi nguyên của các giáo hội Trưởng Lão là Thần học Calvin, cơ cấu tổ chức của giáo hội dựa trên các Trưởng Lão. Chức vụ trưởng lão được phân biệt theo chức năng do giáo hội uỷ nhiệm: trưởng lão chuyên trách giảng dạy và trưởng lão đảm nhiệm công việc quản trị. Cả hai đều được tấn phong và có quyền tham dự các hội đồng giáo đoàn (session), chịu trách nhiệm về kỷ luật, giáo huấn và truyền giáo của giáo đoàn. Thường khi, đặc biệt là ở các giáo đoàn lớn, nhiệm vụ quản lý việc xây dựng cơ sở vật chất, tài chính, giúp đỡ người thiếu thốn trong giáo đoàn được giao cho một nhóm viên chức được giáo đoàn bầu chọn gọi là chấp sự, trong khi các trưởng lão chuyên trách giảng dạy (mục sư) chịu trách nhiệm về giáo huấn, tổ chức thờ phượng và ban thánh lễ. Mỗi giáo đoàn có quyền chọn và mời mục sư đến quản nhiệm, nhưng quyết định này phải được phê chuẩn bởi Đoàn Trưởng Lão (Presbytery). Cấp trên của hội đồng giáo đoàn (session) là Đoàn Trưởng Lão, gồm có các mục sư và các trưởng lão đến từ các giáo đoàn. Đoàn Trưởng Lão gởi đại biểu đến dự các hội đồng cấp vùng hoặc cấp quốc gia gọi là Đại hội đồng, mặc dù đôi khi hiện hữu một cấp trung gian gọi là giáo hạt (synod). Cấu trúc giáo đoàn/trưởng lão đoàn/giáo hạt/đại hội đồng/ được áp dụng tại các giáo hội Trưởng lão có quy mô lớn như Giáo hội Scotland hoặc Giáo hội Trưởng Lão Hoa Kỳ; trong các giáo hội nhỏ hơn, cấu trúc này thường được giản lược bằng cách loại bỏ cấp giáo hạt. Hiện nay, Giáo hội Scotland cũng không còn duy trì cấp giáo hạt. Giáo hội Trưởng Lão đặc biệt quan tâm đến giáo dục, nghiên cứu Kinh Thánh, các tác phẩm thần học, sự thông hiểu và giải thích các học thuyết của giáo hội thể hiện qua các bản tín điều được chấp nhận bởi các giáo phái thuộc cộng đồng Trưởng Lão. Quan điểm phổ biến trong giáo hội là kiến thức giúp thực hành tốt đức tin; tín hữu Trưởng Lão chú trọng đến việc biểu thị đức tin không chỉ bằng lời nói mà còn bằng việc làm, qua sự thể hiện tính hào phóng, hiếu khách và lòng kiên trì theo đuổi những mục tiêu cải cách và công bằng xã hội, cũng như công bố phúc âm của Chúa Cơ Đốc. Thần học Theo truyền thống, thần học Trưởng Lão được biểu thị qua các bản tín điều, nghĩa là các giáo lý được phổ biến trong giáo hội phải xứng hiệp với các tiêu chuẩn thần học. Một số giáo hội Trưởng Lão chấp nhận Tín điều Westminster là chuẩn mực thần học và các mục sư được yêu cầu phải công khai chấp nhận trong khi hai sách giáo lý Westminster (lớn và nhỏ) chỉ được chuẩn thuận để sử dụng trong việc dạy đạo. Nhiều giáo phái Trưởng Lão, nhất là ở khu vực Bắc Mỹ, chấp nhận bản Tiêu chí Westminster (Westminster Standards – bao gồm Tín điều Westminster và hai sách giáo lý Westiminster) là chuẩn mực thần học của họ, chỉ dưới Kinh Thánh. Những văn kiện này thể hiện khuynh hướng thần học Calvin, dù có một số phiên bản có chủ trương dung hoà như các văn kiện phổ biến ở Hoa Kỳ.
Tào Tháo (; ; (155– 15 tháng 3 năm 220), biểu tự Mạnh Đức (孟德), tiểu tự A Man (阿瞞) là nhà chính trị, nhà quân sự và còn là một nhà thơ nổi tiếng cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người đã đặt cơ sở cho thế lực quân sự cát cứ ở miền Bắc Trung Quốc, lập nên chính quyền Tào Ngụy thời Tam Quốc. Ông được con trai truy tôn là Thái Tổ Vũ Hoàng đế (太祖武皇帝). Thân thế Tào Tháo là con trai của Tào Tung. Cha ông vốn xuất thân trong gia đình bình thường, không có tiếng tăm, gia thế không được sử sách nêu rõ. Có ý kiến cho rằng Tào Tung nguyên có tên là Hạ Hầu Tung, sau làm con nuôi hoạn quan Tào Đằng nên lấy họ Tào. Tào Đằng là một trong những Thái giám có thế lực trong triều đình Đông Hán, lần lượt phục vụ 5 đời vua Hán An Đế, Hán Thuận Đế, Hán Xung Đế, Hán Chất Đế, Hán Hoàn Đế và được phong chức Phí Đình hầu. Tào Tung là con nuôi Tào Đằng, nhờ cha nên từng được giữ các chức vụ Tư Lệ hiệu uý, Đại Tư nông, Đại hồng lư. Vì triều đình hủ bại của Hán Linh Đế cho mua quan bán tước nên sau đó Tào Tung còn mua được chức quan Thái uý trong vài tháng. Thời niên thiếu Tào Tháo sinh ra tại huyện Tiêu, nước Bái trong gia đình giàu có, thuở nhỏ thích chơi bời phóng túng, thích săn bắn, ít chịu học hành và tỏ ra tinh ranh. Người chú ruột thấy Tào Tháo như vậy thường mách với Tào Tung về các việc làm của cháu. Tào Tháo biết vậy nghĩ cách, một lần giả bị trúng gió ngã lăn ra. Người chú chạy đi gọi Tào Tung, nhưng khi thấy cha đến thì Tào Tháo lại tươi tỉnh như bình thường. Tào Tung hỏi nguyên do, Tào Tháo nói rằng: Vì chú không thích con nên bày đặt điều xấu thôi Do đó Tào Tung không tin lời người chú mách tội của Tào Tháo nữa. Về điểm này, Mao Tôn Cương khi bình Tam Quốc Diễn Nghĩa cho rằng Tào Tháo "từ nhỏ đã gian xảo cơ mưu", còn Nguyễn Tử Quang trong Tam Quốc bình giảng lại cho rằng: khuyết điểm cũng do ông chú của Tào Tháo vốn có thành kiến không tốt và ít tình cảm với cháu; nếu thấy cháu ngã mà ông chú bế ngay lên mang vào nhà gặp cha thì Tào Tháo không có cách gì lừa cha dối chú được. Khi lớn, Tào Tháo vẫn thích chơi bời, khác hẳn với những sĩ phu trọng danh tiết, tuy vậy vẫn có những người kính trọng ông như Kiều Huyền, Hứa Tử Tương. Hứa Tử Tương đánh giá Tào Tháo là năng thần (quan giỏi) thời trị và gian hùng thời loạn. Năng thần thời trị Năm 20 tuổi, Tào Tháo thi đỗ Hiếu liêm. Ông được quan Kinh Triệu doãn là Tư Mã Phòng (cha của Tư Mã Ý) tiến cử giữ chắc Bắc bộ Uý (coi giữ phía bắc) ở kinh thành Lạc Dương đã nổi tiếng là người nghiêm túc. Sau khi đến nhiệm sở, ông cho đặt roi ngũ sắc trước cửa công đường, hễ ai phạm tội đều trị thẳng tay. Chú của đại thần Kiển Thạc là Kiển Thúc phạm tội vác dao đi đêm, ông sai bắt vào phủ đánh roi thẳng thừng không vì nể. Vì gia thế Tào Tháo rất lớn nên vụ việc này ông không gặp rắc rối, tiếng tăm ông cũng từ đó vang khắp kinh thành. Sau đó, Tào Tháo giữ chức tướng quốc nước Tế Nam, ông lại liên tiếp đứng ra tố cáo các quan tham phạm pháp; sau đó lại phá hơn 600 ngôi miếu thờ mà triều đình không cho phép thờ cúng. Gian thần thời loạn Bỏ trốn Năm 184, cuộc khởi nghĩa Khăn Vàng do Trương Giác lãnh đạo bùng nổ. Tào Tháo cùng các quân phiệt địa phương cùng các tướng trong triều đình đàn áp thành công, nên được Hán Linh Đế phong làm Điển quân hiệu uý trong triều. Khi đó mâu thuẫn giữa phe ngoại thích do Hà Tiến đứng đầu và hoạn quan ngày càng gay gắt. Tào Đằng đã mất, Tào Tháo tuy xuất thân trong gia đình hoạn quan nhưng lại đứng về phía ngoại thích Hà Tiến. Năm 189, Hà Tiến bị hoạn quan lừa giết, Tào Tháo hợp sức với một thủ hạ khác của Hà Tiến là Viên Thiệu đánh vào cung, giết chết các hoạn quan. Sau đó Thứ sử Tây Lương là Đổng Trác - vốn trước được Hà Tiến triệu về kinh - khống chế triều đình, tự xưng là Thái sư. Năm 190, Tào Tháo được Đổng Trác phong lên chức Kiêu kỵ hiệu uý. Sau đó không rõ lý do gì ông bỏ trốn khỏi Lạc Dương. Khi chạy tới Thành Cao phía bắc Trịnh Châu, Tào Tháo ghé vào nhà người quen là Lã Bá Sa. Do hiểu lầm, thấy nhà Lã Bá Sa mài dao định giết lợn, Tào Tháo tưởng là họ giết mình nên đã giết cả nhà Bá Sa. Sau đó Tào Tháo chạy về phía đông tới huyện Trung Mâu. Có viên Bảo trưởng thấy ông có vẻ lén lút, cho rằng ông là đinh tráng trốn binh dịch bèn bắt giữ. Nhưng sau đó Tào Tháo được một viên Công tào cứu giúp, thuyết phục được Huyện lệnh Trung Mâu thả ông ra. Tam Quốc Diễn Nghĩa tường thuật việc Tào Tháo ám sát Đổng Trác không thành mới bỏ trốn; được Trần Cung thả ở Trung Mâu trước và giết Lã Bá Sa khi đi cùng Trần Cung xảy ra sau; nhưng thực ra việc giết Bá Sa không có mặt Trần Cung và sử không chép rõ viên huyện lệnh Trung Mâu có phải Trần Cung hay không. Hợp binh với chư hầu Tào Tháo từ Trung Mâu chạy về phía đông Trần Lưu. Đúng lúc đó Viên Thiệu phát hịch đi các trấn kêu gọi đánh Đổng Trác. Ông bàn mưu với Thái thú Trần Lưu là Trương Mạo khởi binh chống Đổng Trác. Bản thân Tào Tháo được Vệ Tư tặng tiền bạc để mộ quân. Con cháu họ Tào và họ Hạ Hầu đi theo Tào Tháo rất đông. Ông mộ được 5000 người, đi đánh Đổng Trác dưới quyền Trương Mạo; cùng đi theo Trương Mạo còn có Bão Tín cũng mộ được 2 vạn quân. Tam Quốc Diễn Nghĩa kể rằng Tào Tháo chính là người hiệu triệu chư hầu chống Đổng Trác và không ở dưới quyền ai trong các lộ chư hầu. Các chư hầu hội binh chống Đổng Trác khi đó có 10 lộ quân: Viên Thiệu (đứng đầu), Viên Thuật, Hàn Phức, Khổng Do, Lưu Đại, Trương Mạo, Trương Siêu, Vương Khuông, Viên Di, Kiều Mạo. Thái thú Ngô quận là Tôn Kiên không đến hội binh cũng hưởng ứng tự ra quân. Tào Tháo được Viên Thiệu cử làm Phấn Vũ tướng quân, ông lại xin với Viên Thiệu cử Bão Tín làm Phá lỗ tướng quân. Trong khi Tôn Kiên đi tiên phong đánh Đổng Trác thì Viên Thiệu vẫn họp các chư hầu ở Hoài Khánh không hề tiếp ứng, chỉ mở tiệc uống rượu. Đổng Trác sợ uy thế các chư hầu nên tháng 3 năm 191 cũng bỏ Lạc Dương, mang Hán Hiến Đế chạy sang Trường An, để Từ Vinh ở lại đóng quân cạnh Lạc Dương yểm hộ. Thấy Đổng Trác đốt kinh thành bỏ chạy, Tào Tháo kiến nghị Viên Thiệu ra quân truy kích nhưng Thiệu không dám ra quân. Tào Tháo làm ầm lên trong hội nghị chư hầu đòi đi đánh. Trương Mạo cũng đồng tình, trách cứ Viên Thiệu trước chư hầu. Viên Thiệu bất đắc dĩ cho Tào Tháo vài ngàn quân đi. Khi chưa tiến đến Thành Quần, vì ít quân nên ông bị Từ Vinh đánh bại, quân chết quá nửa. Tào Tháo chạy về Toan Táo tìm các chư hầu. Ông kiến nghị chư hầu chia quân: Viên Thiệu thống suất đại quân đánh Thành Cao, bao vây Lạc Dương; còn Viên Thuật thì ngầm đánh từ Nam Dương đánh úp vào cửa Vũ Quan, chiếm lấy Tràng An, cắt đứt đường tiến lui của Đổng Trác. Nhưng Viên Thiệu và các chư hầu bỏ ngoài tai lời kiến nghị của ông. Tào Tháo tức giận bỏ đi, chiêu mộ được thêm 4000 quân mã đi đánh Lạc Dương. Tuy nhiên giữa đường quân mới mộ làm phản. Dù Tào Tháo ra sức trấn áp, tuốt gươm giết chết vài chục người nhưng số đông vẫn tản đi, chỉ còn lại 500 quân theo ông. Tào Tháo đành bỏ việc đánh Đổng Trác để xây dựng lại lực lượng. Các chư hầu do Viên Thiệu đứng đầu cũng chia rẽ và tan rã, đánh giết lẫn nhau. Làm chủ Duyện châu Dẹp Khăn Vàng Trước khi liên minh đánh Đổng Trác tan vỡ, Tào Tháo đã mang tàn quân về quê, ra sức chiêu nạp hào kiệt. Khi đó dù 3 anh em Trương Giác đã chết nhưng lực lượng Khăn Vàng vẫn còn thế lực khá mạnh, có hơn 10 vạn người tụ tập ở Hắc Sơn, chiếm lĩnh Đông quận, triều đình chưa dẹp được. Năm 191, Tào Tháo mang quân đánh nhau với quân Khăn Vàng tại Hắc Sơn. Quân khởi nghĩa tuy đông nhưng ô hợp, bị Tào Tháo dùng kế đánh bại, song lực lượng còn mạnh. Năm 192, quân khởi nghĩa tổ chức phản công. Tào Tháo dùng số quân nhỏ cố thủ ở phía đông Vũ Dương, tự ông mang quân chủ lực tập kích căn cứ Đông quận của địch. Ông đánh chiếm Đông quận và đây trở thành nơi căn cứ đầu tiên của họ Tào. Không lâu sau, quân khởi nghĩa từ Thanh châu tấn công Duyện Châu, giết chết thứ sử Lưu Đại. Theo lời đề nghị của Bão Tín, Tào Tháo mang quân đến cứu Duyện châu. Nhân sĩ ở Đông quận là Trần Cung đến theo Tào Tháo, thuyết phục được các thủ hạ của Lưu Đại nhất trí tôn Tào Tháo thay Lưu Đại quản lý Duyện châu. Ông cùng quân Khăn Vàng quyết chiến tại Thọ Dương. Bão Tín giao chiến bị tử trận. Tào Tháo mang 1000 quân tập kích doanh trại địch nhưng quân Khăn Vàng đã đề phòng khiến ông suýt bị bắt sống. Thấy không thể dùng chiến thuật đánh nhanh, Tào Tháo đổi hướng, đánh chắc từng phần. Ông áp dụng chiến thuật tiêu hao từng bước, quân Khăn Vàng phải lùi dần. Sau cùng, Tào Tháo dồn quân địch vào Tế Bắc và bao vây. Khi đó phía sau lưng quân Khăn Vàng là Thanh châu và Ký châu do Viên Thiệu chiếm giữ. Sau một thời gian, quân Khăn Vàng bị tuyệt lương, không còn đường chạy nên phải đầu hàng. Tào Tháo thu hàng 30 vạn người, chọn ra 10 vạn người đưa vào quân đội của mình. Từ đó lực lượng của ông mạnh lên đáng kể. Tào Tháo làm chủ Duyện châu. Chủ cũ của ông là Trương Mạo làm thái thú quận Trần Lưu là một quận thuộc Duyện châu cũng rất ủng hộ ông. Viên Thiệu ở Ký châu, thù Trương Mạo mắng mình trong hội nghị chư hầu, bèn gửi thư cho Tào Tháo khuyên ông giết Trương Mạo để trừ hậu họa. Tào Tháo không nghe, mang việc đó nói lại với Trương Mạo, vì vậy Mạo rất cảm phục ông. Đánh Từ châu báo thù cha Giữa năm 193, cha Tào Tháo là Tào Tung từ Lạc Dương tới Lang Nha định dưỡng lão, mang theo hơn 100 xe hành lý chứa nhiều vàng bạc châu báu; khi đi ngang qua Từ châu thì bị bộ tướng của Đào Khiêm - thứ sử Từ châu – là Trương Cương giết chết và cướp hết đồ. Đào Khiêm vốn trước không tham gia liên quân chống Đổng Trác; khi Trác bị giết (tháng 4 năm 193), Đào Khiêm vẫn ủng hộ triều đình Tràng An do thủ hạ của Trác là Lý Thôi và Quách Dĩ nắm quyền. Vừa lúc đó ở huyện Hạ Bì thuộc Từ châu có quân khởi nghĩa của Khuyết Tuyên nổi dậy xưng đế, Đào Khiêm lại có liên hệ qua lại. Tào Tháo nghe tin cha bị hại ở Từ châu, cho rằng Đào Khiêm đồng mưu sai khiến thủ hạ, lại lấy cớ Khiêm ủng hộ Lý Thôi và ngụy hoàng đế Khuyết Tuyên, bèn cất vài chục vạn quân đi đánh Từ châu để hỏi tội. Ông cũng muốn nhân đó chiếm luôn địa bàn Từ châu liền kề với Duyện châu để mở rộng thế lực nên thúc quân tấn công mạnh mẽ. Quân Tào chiếm lĩnh hơn 10 thành, sau đó đánh bại quân Đào Khiêm ở Bành Thành, chém hơn 1 vạn quân Từ châu, nước sông Tứ Thủy vì vậy không chảy được. Đào Khiêm rút vào thành Đan Dương cố thủ, sai người đi cầu cứu thứ sử Thanh châu là Điền Khải. Điền Khải lúc đó đang bị Viên Thiệu đánh, đã cầu cứu tướng giữ Bình Nguyên là Công Tôn Toản - người có mâu thuẫn với Thiệu. Toản sai Lưu Bị cùng Quan Vũ và Trương Phi đi cứu Thanh châu. Nghe Đào Khiêm cầu cứu, Khải lại sai Lưu Bị cầm quân đi cứu Từ châu trước. Tam Quốc Diễn Nghĩa mô tả đoạn Lưu Bị cứu Từ châu khá ly kỳ. Tác giả không nhắc việc Điền Khải đánh nhau với Viên Thiệu mà kể rằng Đào Khiêm cầu cứu Điền Khải và Khổng Dung; Dung sắp đi cứu lại bị quân Khăn Vàng của Quản Hợi vây đánh, lại phải cầu cứu Lưu Bị. Lưu Bị mượn quân Công Tôn Toản giải vây cho Khổng Dung rồi 2 người cùng Điền Khải đến cứu Đào Khiêm. Lưu Bị có 4000 quân, chiêu hàng được vài ngàn nạn dân Ô Hoàn, rồi lại được Đào Khiêm cấp 4000 quân nữa, có hơn 1 vạn người, cùng Đào Khiêm thế thủ ở Đan Dương. Tào Tháo vây đánh nhiều ngày không sao phá được, bèn trút tức giận lên dân thường để trả thù cho cha. Ông ra lệnh tàn sát hơn 10 vạn người ở 5 thành Thủ Lự, Tuy Lăng, Hạ Khâu, Bành Thành, Phó Dương cùng các hương trấn sở thuộc. Không chỉ bản dân 5 thành mà nhiều người dân ở Thiểm Tây vì tránh nạn Lý Thôi, Quách Dĩ kéo về đó cũng bị hại. Nghe tin Lã Bố đánh chiếm hậu phương Duyện châu, Tào Tháo đành mang quân trở về cứu. Giao tranh với Lã Bố Năm 194, Trần Cung và Trương Mạo ở Đông quận nghe tin Tào Tháo có hành động tàn sát, hại người vô tội, không phục ông nữa, quyết định phát động binh biến ở hậu phương ở Duyện châu và theo Lã Bố để chống lại ông. Lã Bố sau khi giết Đổng Trác ở Tràng An, bị Lý Thôi và Quách Dĩ đánh bật khỏi kinh thành, phiêu bạt qua chỗ Viên Thuật, Trương Dương và Viên Thiệu đều không được dung nạp, bèn chạy đến quận Hà Nội. Trương Mạo và Trần Cung đón Lã Bố về tôn làm thứ sử Duyện châu, giao cho 10 vạn quân. Lã Bố lấy Bộc Dương làm bản doanh, mang quân chiếm các thành trì của Tào Tháo ở Duyện châu. Chỉ còn 3 thành còn trung thành với Tào Tháo là Yên Thành do Tuân Úc giữ, Đông A do Cức Đê giữ và Phạm Huyện do Cận Long giữ, Lã Bố chưa đánh chiếm được. Tào Tháo mang quân về lấy lại Duyện châu. Thấy Lã Bố chỉ chiếm lấy Bộc Dương mà không đóng quân ra các nơi hiểm yếu như Kháng Phụ, Tế Ninh và bến đò Hoàng Hà, Tào Tháo cho rằng Lã Bố vô mưu, có ý coi thường. Ông dẫn quân tấn công Bộc Dương. Quân Tào Tháo phần đông là người Thanh châu mới theo hàng, không địch nổi quân Lã Bố. Lã Bố theo kế của Trần Cung đánh tan quân Tào ở Bộc Dương. Đại quân Tào Tháo bị thua lớn, doanh trại bị đốt cháy, bản thân ông bị bỏng cánh tay trái và suýt bị Lã Bố bắt sống. Trong bóng đêm, quân kỵ của Lã Bố đuổi đến nơi nhưng không biết mặt ông bèn hỏi Tào Tháo ở đâu, ông nhanh trí chỉ tay phía trước bảo rằng: Người cưỡi ngựa vàng chỗ kia là Tào Tháo Quân Lã Bố tiến lên phía trước truy đuổi, nhờ vậy Tào Tháo quay đầu chạy thoát nạn. Sự kiện Tào Tháo gặp nguy cấp ở Bộc Dương được La Quán Trung mô tả tương tự trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, nhưng chiến sự lại diễn ra chủ yếu trong thành khi Lã Bố dùng mưu dụ Tào Tháo tiến vào. Sau đó Tào Tháo thu quân trở lại, cùng Lã Bố giữ nhau hơn 100 ngày ở Bộc Dương không đánh. Đến mùa thu năm 194, ở Duyện châu có nạn châu chấu hại lúa nên bị mất mùa, cả hai bên đều bị thiếu lương. Tào Tháo phải rút quân về Yên Thành, còn Lã Bố thu quân về Sơn Dương. Mùa đông năm 194, Tào Tháo mang quân về Đông A. Trong tình thế khó khăn, ông định phục tùng Viên Thiệu theo lời dụ nhưng mưu sĩ Trình Dục khuyên can không nên nghe theo mà nên tự lập. Đầu năm 195, Tào Tháo quyết định thay đổi chiến thuật đánh Lã Bố, dương đông kích tây khiến Lã Bố mệt mỏi. Ông chia quân làm nhiều ngả, một mặt điều một cánh quân đi đánh Định Đào. Lã Bố đi cứu; đến mùa hạ ông lại tấn công Cự Dã, bao vây hai tướng của Bố là Tiết Lan và Lý Phong. Trần Cung và Lã Bố mang 1 vạn quân từ Định Đào đi cứu. Tào Tháo lợi dụng địa hình dùng kế mai phục đánh bại Lã Bố trên đường rồi thúc quân lấy Định Đào. Lã Bố và Trần Cung rút quân về Đông Mân. Tào Tháo hạ thành Cự Dã, giết chết Phong và Lan. Trong khi Lã Bố và Trần Cung còn lúng túng chưa biết cử động ra sao thì Tào Tháo đã điều các cánh quân đánh chiếm các thành trì nhỏ ở Duyện châu. Lã Bố nghe tin mấy thành xung quanh bị hạ, hoang mang tột độ bèn chạy về Từ châu theo Lưu Bị. Ở Duyện châu chỉ còn anh em Trương Mạo, Trương Siêu ở Ung Khâu và Tang Hồng ở Đông quận. Trương Mạo biết không thể chống được Tào Tháo, bèn gửi gia quyến cho Trương Siêu, sai giữ Ung Khâu, còn mình đi Thọ Xuân cầu cứu Viên Thuật. Giữa đường, Trương Mạo bị thủ hạ giết chết. Tào Tháo mang quân vây đánh Ung Khâu. Tang Hồng được Viên Thiệu cử làm thái thú Đông quận thay Tào Tháo, sức yếu không cứu được Trương Siêu nên ngày đêm sai người đến Ký châu xin Viên Thiệu cứu Ung Khâu. Viên Thiệu nhất định không cứu Trương Siêu. Sau 4 tháng, Tào Tháo hạ được Ung Khâu, Trương Siêu tự sát. Tào Tháo giết hết gia quyến họ Trương. Tang Hồng vì việc này cũng tuyệt giao với Viên Thiệu và bị Viên Thiệu cử binh giết chết. Tào Tháo tái chiếm được Duyện châu. Giữ lấy thiên tử, củng cố thế lực Đưa vua về Hứa Đô Sau khi Đổng Trác bị Vương Doãn và Lã Bố giết (192), thủ hạ là Lý Thôi và Quách Dĩ mang quân đánh báo thù, đánh chiếm Tràng An, giết Vương Doãn và đuổi Lã Bố. Hai người chia nhau nắm quyền ở Tràng An, vua Hán Hiến Đế vẫn bị khống chế như trước. Năm 194, trong khi các chư hầu ở Sơn Đông giao tranh kịch liệt thì Lý Thôi và Quách Dĩ cũng phát sinh mâu thuẫn đánh nhau ở Tràng An. Chiến sự kéo dài sang năm 195, nhân dân bỏ kinh thành chạy, lực lượng cả hai đều bị yếu đi. Hán Hiến Đế trốn khỏi chỗ Lý và Quách cùng các cận thần chạy về phía đông. Từ đầu năm 196 đến tháng 7 năm đó, sau hành trình dài, Hiến Đế được đưa trở về kinh đô Lạc Dương từng bị Đổng Trác đốt phá, ở vào hoàn cảnh rất thiếu thốn và có nguy cơ bị các chư hầu tranh đoạt. Trong khi Hán Hiến Đế đi từ Trường An sang Lạc Dương thì Tào Tháo lại mang quân tấn công quân Khăn Vàng ở Dự châu, đánh bại quân địch và làm chủ thêm Dự châu. Thấy ông có thực lực lớn mạnh, một vị Vệ tướng quân dưới quyền Hiến Đế ngầm sai người đến Duyện châu gọi Tào Tháo đến Lạc Dương hộ giá. Tào Tháo lập tức sai người nghênh đón vua Hiến Đế. Vì Lạc Dương đã đổ nát, ông bèn đưa Hiến Đế đến Hứa Xương, sai xây dựng lại nơi này cho vua ở. Đây là một bước chuyển rất quan trọng trong sự nghiệp của Tào Tháo vì nhà Hán tuy suy nhưng trong lòng mọi người vẫn tôn trọng, việc Tào Tháo nắm được thiên tử sẽ có cớ nhân danh vua ban ra chính lệnh để sai khiến chư hầu. Hán Hiến Đế đến Hứa Xương, phong Tào Tháo làm Vũ Bình hầu, giữ chức Tư không kiêm Hành Xa kỵ tướng quân. Hiến Đế vốn muốn phong cho ông chức cao hơn là Đại tướng quân nhưng vì Tào Tháo còn e ngại thế lực của Viên Thiệu, muốn tránh xung đột ngay với Thiệu, vì vậy ông đề nghị Hiến Đế phong chức Đại tướng quân cho Thiệu. Mưu sĩ của ông là Tuân Úc được phong làm Thị trung kiêm Thượng thư lệnh, trông nom về văn thư. Phủ Tư không của Tào Tháo từ đó trở thành nơi thực sự ban ra mọi sắc lệnh của triều đình nhà Hán. Phát triển nông nghiệp Chiến tranh liên miên nhiều năm khiến nông nghiệp bị đình đốn, ảnh hưởng rất lớn đến việc cung cấp lương thực cho quân đội trong các cuộc giao tranh giữa các chư hầu. Trong hoàn cảnh kinh tế bị tàn phá, Tào Tháo đã nhận thức được tầm quan trọng của việc khôi phục nông nghiệp. Ngay từ khi làm chủ Duyện châu, Tào Tháo đã rất tán thành ý kiến của Mao Giới và Hàn Hạo về vấn đề này, bắt đầu mang ra thảo luận trong nội bộ. Tư Mã Lãng đề nghị khôi phục chế độ "tỉnh điền" thời Tây Chu, Tào Tháo không tán thành vì cho đó là phục cổ, thụt lùi. Cức Đê đề xuất với Tào Tháo nên tổ chức đồn điền; sau khi thảo luận kỹ ông quyết định cho thi hành. Phương pháp của Cức Đê là chiêu mộ những nhóm nông dân đang lang thang về tập trung lại, xây dựng đồn điền. Họ sẽ được cấp nông cụ, trâu bò, hạt giống để tự canh tác rồi dựa vào số thu hoạch để thu tô của họ. Nhờ áp dụng chính sách này, vùng Duyện châu mà ông cai quản có lương thực đủ dùng. Năm 194, khi đại quân Tào Tháo từ Từ châu trở về đánh Lã Bố, hoàn toàn nhờ vào thành Đông A do Cức Đê trấn thủ cấp quân lương. Sau khi đưa Hán Hiến Đế về Hứa Đô, Tào Tháo tiếp tục thực hiện chính sách này. Ông nhân danh Hiến Đế công bố "Lệnh đồn điền", trong đó nhấn mạnh: Ông áp dụng chính sách đồn điền trong toàn bộ vùng ông cai quản, cử Nhâm Tuấn làm Điển Nông trung lang tướng chủ quản việc chấn hưng nông nghiệp, Cức Đê làm Đồn điền đô uý, chủ quản việc xây dựng đồn điền ở Hứa Xương. Từ đó đồn điền trở thành "quốc sách" với tập đoàn họ Tào. Chế độ đồn điền mà ông áp dụng có 2 loại: đồn điền quân sự và đồn điền dân sự Đồn điền dân sự là hình thức chủ yếu, như mô hình đề xướng của Cức Đê: huy động nông dân mất ruộng, tù binh chiến tranh qua các cuộc xung đột; cứ 50 hộ ghép thành 1 Đồn, do Đồn điền Tư mã quản lý. Các hộ nông dân trong đồn điền gọi là Đồn điền khách, canh tác từ 30-50 mẫu ruộng, nếu dùng trâu bò của triều đình thì phải nộp 6/10, nếu dùng trâu bò của mình thì nộp 5/10. Ban đầu, việc lao động trong đồn điền bị cưỡng bách và địa vị của các Đồn điền khách rất thấp kém nên nhiều người bỏ trốn. Tào Tháo theo kiến nghị của Viên Hoán, bỏ lệnh chiêu mộ Đồn điền khách bằng cưỡng chế. Đồn điền quân sự ra đời muộn hơn, được Tào Tháo cho áp dụng theo kiến nghị của Tư Mã Ý: Cứ cách 5 dặm có 1 đội 60 người vừa làm ruộng vừa canh phòng khu vực của mình. Người quản lý là các tướng trong quân đội. Thực thi chính sách đồn điền đã những thành quả quan trọng. Hàng năm, khu vực Cức Đê quản lý cung cấp hàng triệu hộc quân lương. Đời sống của nông dân được giải quyết, góp phần ổn định khu vực mà ông cai quản để lo việc chinh phạt những khu vực khác. Bá chiếm trung nguyên Địa bàn của Tào Tháo khi đó là đất tứ chiếng nằm giữa trung nguyên, tiếp giáp với các chư hầu: phía bắc có Viên Thiệu ở Ký châu, phía tây có Hàn Toại và Mã Đằng ở Lương châu, phía nam có Trương Tú ở Nam Dương, phía đông nam có Viên Thuật ở Hoài Nam, phía đông có Lã Bố và Lưu Bị ở Từ châu. Để làm chủ trung nguyên, Tào Tháo tính từng bước thôn tính các chư hầu. Ông tránh xung đột với Viên Thiệu là lực lượng mạnh nhất ở Hà Bắc, chủ trương diệt các lực lượng yếu trước. Ông chú tâm dẹp Trương Tú là lực lượng ở gần Hứa Xương, có khả năng uy hiếp ông; kế đó tính đến các chư hầu phương đông và đông nam. Đối với Mã Đằng và Hàn Toại ở xa, ông sai mưu sĩ Chung Do đến Tây Lương thuyết phục hai người trung thành với triều đình nhà Hán. Nhờ vậy ông có thể rảnh tay thực hiện các tính toán của mình. Dẹp Trương Tú Đầu năm 197, Tào Tháo đích thân mang quân tấn công Nam Dương. Trương Tú liệu thế không chống nổi nên đầu hàng. Tào Tháo vui mừng triệu tập các tướng của Tú đến uống rượu. Trong tiệc, Tào Tháo đi mời rượu, mãnh tướng Điển Vi đi cầm rìu lớn đằng sau, uy hiếp mọi người, vì vậy không ai dám ngẩng mặt nhìn ông. Được hơn 10 ngày, Trương Tú bất mãn với Tào Tháo bèn bất ngờ dấy binh làm phản, tập kích doanh trại Tào. Sự việc quá đột ngột, ông không kịp trở tay. Quân Trương Tú sấn đến trại, lúc đó Điển Vi khỏe mạnh một mình trấn giữ, giết rất nhiều quân của Tú. Nhờ Điển Vi chẹn cửa trước nên Tào Tháo dẫn khinh kỵ bỏ chạy thoát bằng cửa sau. Điển Vi cuối cùng bị quân Trương Tú giết chết, con cả Tào Tháo là Tào Ngang cùng cháu là Tào An Dân cũng bị chết trong loạn quân. Tam Quốc Diễn Nghĩa kể rằng Trương Tú trở mặt đánh Tào Tháo vì ông đã ăn nằm với bà thím goá họ Châu của Tú. Tào Tháo thu quân về Hứa Xương. Rất may trong thời gian đó Viên Thuật đang tranh giành với Lã Bố ở phía đông nên không gây khó khăn gì cho ông. Sau đó Tào Tháo lại mang quân đánh Trương Tú. Sau 2 lần giao chiến, Tú không địch nổi, bỏ chạy về Kinh châu theo Lưu Biểu. Tào Tháo bèn lấy danh nghĩa Hán Hiến Đế phong cho Tôn Sách ở Giang Đông - địa bàn liền kề với Lưu Biểu - làm Ngô hầu, Thảo nghịch tướng quân, gợi ý Tôn Sách kiềm chế Lưu Biểu, không cho Biểu dốc toàn lực chi viện cho Trương Tú. Sau vài năm, khi Tào Tháo tập trung lên chiến trường phía bắc với Viên Thiệu thì Trương Tú thế yếu, nhận ra việc Lưu Biểu dung nạp mình chỉ để làm vùng đệm với Tào Tháo; do đó sau khi phân tích lợi hại, Tú trở lại đầu hàng Tào. Tào Tháo chấp nhận cho Tú hàng, không kể lại thù cũ. Tiêu diệt Lã Bố Năm 195, Lã Bố bị Tào Tháo đánh thua chạy sang Từ châu nương nhờ Lưu Bị. Được một thời gian, Lã Bố đánh úp chiếm lấy thủ phủ Từ châu là Hạ Phì của Lưu Bị, làm chủ toàn bộ Từ châu. Lưu Bị thế yếu phải nhường Từ châu cho Lã Bố và đem quân ra đóng ở Tiểu Bái - một quận thuộc Dự châu, hai bên tạm hòa hoãn với nhau. Năm 196, khi Tào Tháo nắm được Hiến Đế, Lã Bố đã sai sứ đến lấy lòng ông và xin làm Châu mục Từ châu nhưng ông chưa đồng ý. Năm 197, Viên Thuật xưng đế ở Thọ Xuân, ngang nhiên chống lại nhà Hán. Lã Bố muốn kết thông gia, giao con gái cho sứ của Thuật là Hàn Dận mang về Thọ Xuân. Nhưng nửa chừng thì Lã Bố đổi ý, đuổi theo cướp con lại rồi bắt Hàn Dận mang đến Hứa Xương nộp Tào Tháo. Ông bèn sai chém Hàn Dận và nhân danh Hán Hiến Đế phong Lã Bố làm Tả tướng quân. Tào Tháo muốn đánh Viên Thuật trước, nên sai người đến giao hảo với Tôn Sách, đề nghị không chi viện cho Thuật. Sách vừa ly khai khỏi Thuật nên đồng lòng với Tào Tháo. Ông mang quân đánh Thọ Xuân, đánh cho Thuật thua to, giết chết tướng của Thuật là Kiều Dị. Trong lúc Tào Tháo định đánh tiếp thì ở Từ châu lại có biến. Năm 198, Lã Bố lo ngại về thế lực của Lưu Bị đang dần phát triển, từ Hạ Phì sai hai bộ tướng Cao Thuận và Trương Liêu mang quân tấn công Tiểu Bái. Lưu Bị thua trận phải cầu cứu Tào Tháo. Ông sai Hạ Hầu Đôn đến cứu nhưng hai đạo quân không địch nổi Cao Thuận và cùng bị đánh bại. Lưu Bị chạy về Hứa Xương nương nhờ ông. Tháng 9 năm 198, Tào Tháo đích thân cùng Lưu Bị mang quân tới đánh Từ châu. Tháng 10 năm đó quân Tào đến Bành Thành, giết chết tướng giữ thành là Hồ Giai và lại tàn sát dân Bành Thành. Sau đó Tào Tháo tiến đến Hạ Phì, Lã Bố mang quân kỵ ra nghênh chiến. Tào Tháo đánh cho Lã Bố đại bại, tướng Tào là Nhạc Tiến bắt sống được viên mãnh tướng của Lã Bố là Thành Liêm. Lã Bố thua liên tiếp mấy trận, phải rút vào trong thành Hạ Phì cố thủ và sai người cầu cứu Viên Thuật và Trương Dương. Quân Tào vây đánh mấy tháng không hạ được, bắt đầu mệt mỏi. Tào Tháo muốn lui quân, nhưng Tuân Du và Quách Gia khuyên nên đánh gấp. Tào Tháo theo kế, sai quân khơi sông Nghi Thủy và sông Tứ Thủy đổ nước vào thành Hạ Phì. Thành ngập nước, Lã Bố nguy khốn phải lui dần vào trong rồi rút lên cố thủ ở lầu Bạch Môn, thế cùng lực kiệt. Viên Thuật không mang quân lại cứu. Đúng lúc đó Trương Dương ở Hà Nội phát binh cứu Lã Bố. Nhưng sau đó Trương Dương bị thủ hạ là Dương Xú giết chết để hàng Tào Tháo. Thủ hạ của Trương Dương là Khuê Cố giết Xú báo thù cho chủ. Tào Tháo bèn sai Sử Hoán mang quân đón đánh, giết Khuê Cố và thu hết thủ hạ của Trương Dương. Thủ hạ của Lã Bố là Hầu Thành bị trách phạt nên oán hận, bèn trói Trần Cung và Cao Thuận mang nộp và mở cửa ra hàng Tào Tháo. Ông cùng Lưu Bị thúc quân vào. Lã Bố trên lầu Bạch Môn bị dồn vào đường cùng, phải bó tay chịu trói. Lã Bố muốn hàng nhưng Tào Tháo theo lời khuyên của Lưu Bị, sai mang Lã Bố giết chết. Sau đó ông giết cả Cao Thuận và Trần Cung. Trong các thuộc hạ của Lã Bố, ông thu dụng Trương Liêu và Tang Bá. Tam Quốc Diễn Nghĩa chép: Ngụy Tục và Tống Hiến đồng mưu với Hầu Thành trói Lã Bố lại rồi mở cửa cho quân Tào vào. Phá Viên Thuật, đuổi Lưu Bị Tào Tháo cùng Lưu Bị thu quân về Hứa Xương. Ông không trả lại Từ châu vốn của Lưu Bị được Đào Khiêm (chết năm 194) giao cho mà sai thủ hạ là Xa Trụ trấn thủ. Ông giữ Lưu Bị ở lại Hứa Xương để kiềm chế, phong làm Tả tướng quân (thay chức của Lã Bố). Việc Tào Tháo nắm trọn quyền hành khiến quốc cữu Đổng Thừa bất mãn, có ý định trừ khử Tào Tháo. Năm 199, Đổng Thừa ngầm liên kết với Lưu Bị để hại ông. Khi chưa có cơ hội cho Đổng Thừa hành động thì Viên Thuật sức cùng lực kiệt đã bỏ Hoài Nam định lên Hà Bắc nhường ngôi cho Viên Thiệu. Tào Tháo phái Lưu Bị mang 1000 quân đi chặn đánh. Thuật bị thua trận phải quay trở lại và kiệt sức ốm chết. Mưu lật đổ Tào Tháo của Đổng Thừa ở Hứa Xương bị bại lộ, Thừa bị Tào Tháo giết cả họ. Tào Tháo tra ra việc Lưu Bị đồng mưu với Thừa. Cùng lúc, Lưu Bị đuổi được Thuật bèn chính thức ly khai khỏi Tào Tháo, mang quân chiếm lại Từ châu, giết chết Xa Trụ. Tào Tháo nổi giận chia quân đi chuẩn bị đánh Từ châu. Lưu Bị biết mình thế yếu bèn sai người đi cầu cứu Viên Thiệu. Tào Tháo cũng sắp quân ở Quan Độ để chờ quân Hà Bắc. Tuy nhiên, sau một thời gian không thấy Viên Thiệu cử động, Tào Tháo quyết định đánh Lưu Bị trước. Có người khuyên ông nên cảnh giác kẻo bị hai bên địch đánh kẹp, nhưng ông quả quyết rằng Viên Thiệu trù trừ không quyết đoán sẽ không ra quân gấp để cứu Lưu Bị. Tào Tháo gấp rút tiến đánh Từ châu. Vài ngàn quân của Lưu Bị không chống nổi, bị thua tan tác. Lưu Bị bỏ chạy sang Hà Bắc theo Viên Thiệu, Trương Phi trốn về Nhữ Nam, gia quyến Lưu Bị đều bị bắt; Quan Vũ không có đường chạy phải đầu hàng Tào Tháo. Tào Tháo chiếm lại Từ châu. Sau khi dẹp được 4 chư hầu Trương Tú, Lã Bố, Viên Thuật, Lưu Bị, ông đã làm chủ địa bàn rộng lớn ở trung nguyên, chính thức ở thế đối mặt với Viên Thiệu hùng mạnh ở Hà Bắc. Khi ông đánh đuổi được Lưu Bị thì Viên Thiệu vẫn chưa chính thức phát binh. Đánh bại cha con Viên Thiệu Trận Bạch Mã, Diên Tân Trong khi Tào Tháo đánh dẹp các chư hầu phía nam và phía đông thì Viên Thiệu cũng tập trung tiêu diệt Công Tôn Toản ở Bình Nguyên, thôn tính U châu, Thanh châu và Tinh châu. Làm chủ địa bàn rộng lớn, có nhiều quân sĩ và hào kiệt, Viên Thiệu trở thành thế lực mạnh mẽ ở phía bắc mà Tào Tháo chưa từng dám đối địch khi mới đến Hứa Xương. Năm 200, Lưu Bị thua trận đến chỗ Thiệu xin hàng. Thiệu bèn phát binh giao tranh với Tào Tháo. Viên Thiệu mang theo Lưu Bị đi đánh Tào Tháo, đóng đại quân ở Lê Dương, sai Trần Lâm thảo hịch kể tội ông. Bài hịch vừa điển nhã vừa hùng kiện, được coi là bài văn nổi tiếng trong văn học cổ điển. Sau đó Viên Thiệu chia quân, một mặt đánh thành Bạch Mã, mặt khác đóng ở bến Diên Tân. Tháng 4 năm 200, Tào Tháo dẫn Trương Liêu và Quan Vũ đi cứu Bạch Mã và cũng chia quân ra Diên Tân để phân tán sự chú ý của Thiệu. Quả nhiên Thiệu tăng cường thêm quân cho Diên Tân mà không chú ý Bạch Mã. Tào Tháo nhân đó đột ngột thúc quân đánh mạnh ở Bạch Mã, sai Quan Vũ ra trận giết chết mãnh tướng của Thiệu là Nhan Lương, giải vây thành Bạch Mã. Tháng 5 năm 200, ông cùng Quan Vũ và Trương Liêu đi men theo sông Hoàng Hà về phía tây đến cứu Diên Tân. Viên Thiệu cùng Lưu Bị và Văn Xú mang quân đuổi theo. Tào Tháo đánh bại Viên Thiệu một trận nữa tại đây, giết chết Văn Xú. Vì lực lượng ít hơn địch nên sau đó ông lui quân về phía nam Tế Thủy, tức là bến Quan Độ đóng đồn, còn Viên Thiệu đóng lại ở Diên Tân. Trận Quan Độ Xem chi tiết: Trận Quan Độ Sau trận Diên Tân, hai bên tạm hưu chiến. Lưu Bị thấy Viên Thiệu không đủ tài năng để chống Tào Tháo nên bỏ đi tìm cách xây dựng lại lực lượng. Quan Vũ ở bên Tào sau khi lập công trả ơn ông cũng lẻn trốn đi tìm Lưu Bị và sau hai người tái ngộ với Trương Phi ở Nhữ Nam. Sau vài tháng ngưng nghỉ điều quân, hai bên tái chiến trong trận thư hùng ở Quan Độ ngay từ tháng 8 năm đó, kéo dài hơn 100 ngày. Tam Quốc Diễn Nghĩa kể rằng sau trận Diên Tân, hai bên lại thu binh về chỗ. Tào Tháo rút về Hứa Xương, Viên Thiệu trở về Ký châu; La Quán Trung tập trung mô tả việc Quan Vũ lén đi khỏi chỗ Tào Tháo, ông còn đi ra tiễn Vũ ở Hứa Xương. Viên Thiệu còn sai Trần Chấn đến Giang Đông lôi kéo Tôn Sách liên minh đánh Tào Tháo nhưng Tôn Sách đột ngột qua đời, Tôn Quyền lên thay theo chính sách của Trương Chiêu, Gia Cát Cẩn, theo Tào mà không theo Viên. Viên Thiệu thấy sứ giả trở về không cầu được họ Tôn bèn tự mình khởi bình lần thứ hai đi đánh. Diễn biến trong tiểu thuyết khá nhiều sự kiện và thư thả nhưng trên thực tế hai bên Viên - Tào đối luỹ từ tháng 5 và cả Viên Thiệu lẫn Tào Tháo đều bám sát không rời chiến trường, tiếp tục điều động binh lực. Bị thua và mất hai tướng, Viên Thiệu điều đại quân đến Dương Vũ, phía tây bắc Trung Mâu, men theo đồi cát dọc bờ sông, dựng vài chục doanh trại kéo dài từ đông qua tây, định triển khai hai cánh bao vây quân Tào rồi tiêu diệt. Tào Tháo không lui binh, cũng chia quân làm nhiều nhóm chống cự, nhưng vì ít quân hơn nhiều nên không đủ phân ra các vị trí có địch. Viên Thiệu mang quân ra khỏi luỹ, giao chiến với quân Tào. Quân Tào thua trận phải lùi lại mấy lần. Tào Tháo ra lệnh tướng sĩ cố giữ vững trận địa, quân địch khiêu chiến nhiều lần nhưng không ra đánh. Viên Thiệu bèn bày trận trên dãy núi đất, dựng nhiều chòi gỗ, đứng trên đó bắn xuống doanh trại quân Tào. Quân Tào mỗi người phải dùng thuẫn gỗ che đỡ tên bắn. Sau đó Tào Tháo dùng xe bắn đá bắn sang, phá nát các chòi gỗ của địch. Viên Thiệu lại cho quân đào nhiều địa đạo vào doanh trại quân Tào. Ông phát hiện bèn sai quân đào đường hầm theo chiều ngang nằm phục sẵn, hễ quân Viên đến thì bắn chết. Hai bên giữ nhau lâu ngày, Tào Tháo sắp hết lương, muốn rút lui, bèn hỏi ý kiến Tuân Úc đang trấn thủ Hứa Xương. Tuân Úc viết thư trả lời, khuyên ông kiên trì giữ, nhất định không được rút lui, nếu không hậu quả sẽ rất xấu. Tào Tháo nghe theo, lệnh cho các tướng sĩ cố sức giữ thế trận. Đánh lâu ngày không hạ được, Viên Thiệu chưa nghĩ ra kế nào khác. Thiệu sai Thuần Vu Quỳnh mang 1 vạn quân đi về nhận lương để chở ra mặt trận. Đúng lúc đó một thủ hạ của Thiệu là Hứa Du có người nhà bị tội vào ngục, xin Viên Thiệu tha không được nên bất mãn, bỏ sang hàng Tào Tháo. Được tin báo của Hứa Du về việc Thuần Vu Quỳnh, Tào Tháo đích thân mang 5000 quân mã đuổi đến kho lương của Viên Thiệu ở Ô Sào. Đang đêm, quân Tào bất ngờ tập kích, Nhạc Tiến chém chết Quỳnh. Tào Tháo đốt sạch kho lương của Viên Thiệu. Trong hơn 1 vạn quân của Quỳnh thì hơn 1000 bị giết, số còn lại đầu hàng. Tào Tháo sai cắt hết mũi xác chết, lưỡi của bò ngựa giao cho quân đầu hàng mang về doanh trại Viên Thiệu để uy hiếp tinh thần, làm nhụt ý chí quân địch. Viên Thiệu thấy lửa cháy từ xa, biết tin Ô Sào bị đánh, một mặt điều quân cứu Quỳnh, mặt khác sai Trương Cáp, Cao Lãm đi cướp doanh trại Tào. Nhưng Tào Tháo đã bố trí quân phòng bị trước, đúng như dự liệu của Cáp và Lãm. Cáp và Lãm không hạ được trại Tào, lại nghe tin Tào Tháo phá tan Ô Sào trở về, bèn quyết định đầu hàng ông. Viên Thiệu liên tiếp nghe tin thua trận, kho lương bị mất, tướng sĩ náo loạn, kéo nhau bỏ chạy. Tào Tháo thừa cơ dẫn quân tập kích khiến quân Thiệu đại bại tan nát. Thiệu hốt hoảng, cùng con là Viên Đàm dẫn 800 quân kỵ chạy một mạch, qua sông Hoàng Hà mới dám dừng lại nghỉ. Hơn 7 vạn quân của Viên Thiệu không theo kịp chủ, đều xin hàng Tào Tháo. Trong số đó có một vài người không hoàn toàn quy thuận, có biểu hiện trá hàng. Tào Tháo sợ phát sinh hậu hoạ bèn ra lệnh chôn sống cả 7 vạn hàng binh. Những diễn biến chính của trận Quan Độ như dựng chòi, đào địa đạo, cướp lương Ô Sào... được Tam Quốc Diễn Nghĩa mô tả khá sát với sử sách. Trừ anh em họ Viên Sau một thời gian ngơi nghỉ, Tào Tháo mang quân truy kích Viên Thiệu. Tháng 4 năm 201, hai bên gặp nhau ở Thương Đình (ven sông Hoàng Hà). Tào Tháo đánh bại Viên Thiệu một trận lớn nữa. Viên Thiệu thu quân về, tinh thần suy sụp, mắc bệnh nằm một chỗ. Trong lúc họ Viên suy yếu, Tào Tháo kịp mang quân về Hứa Xương (tháng 6 năm 201) rồi điều quân tấn công Lưu Bị đang liên kết với tướng Khăn Vàng là Cung Đô ở Nhữ Nam. Ban đầu ông sai Sái Dương đi đánh nhưng Dương bị Lưu Bị giết chết. Tào Tháo bèn tự cầm đại quân đi đánh. Quân Tào giết chết Cung Đô, Lưu Bị không chống nổi, phải bỏ chạy về Kinh châu theo Lưu Biểu. Tam Quốc Diễn Nghĩa kể việc Sái Dương do Quan Vũ giết trong quá trình "qua 5 ải chém 6 tướng" sau khi chia tay Tào Tháo trước trận Quan Độ nhưng thực ra không có việc qua ải chém tướng của Quan Vũ và Sái Dương bị giết ở trận Nhữ Nam. Tạm yên mặt nam, Tào Tháo quay trở lại đánh Hà Bắc. Tháng 5 năm 202, Viên Thiệu ốm không khỏi, qua đời. Khi quân Tào sáp đánh, các con Viên Thiệu là Viên Đàm (con cả) và Viên Thượng (con thứ 3) chia nhau chống giữ. Tào Tháo đánh Viên Đàm ở Lê Dương từ tháng 2 đến tháng 9 năm 203 không hạ được. Nắm được nội tình anh em họ Viên đang tranh giành quyền thừa kế, Tào Tháo bèn rút đại binh để Đàm và Thượng đánh nhau, tự suy yếu lực lượng. Quả nhiên hai anh em mang quân đánh nhau, Viên Đàm bị thua chạy lên Bình Nguyên. Tào Tháo bèn mang đại quân trở lại, để chia rẽ họ Viên, ông lấy danh nghĩa cứu Viên Đàm. Viên Thượng hoảng sợ bỏ đánh Bình Nguyên rút về Nghiệp Thành, hai tướng của Thượng là Lã Khoáng, Lã Tường đầu hàng ông. Sau khi hứa kết thông gia với Viên Đàm, ông lại rút về nam cho anh em họ Viên đánh nhau. Nội tộc họ Viên lại tái chiến. Đầu năm 204, Tào Tháo mang quân đánh Nghiệp Thành. Lúc đó Thượng lên Bình Nguyên đánh Đàm chưa về, thành do Thẩm Phối giữ. Quân Tào tấn công không nổi. Tháng 5 năm đó, Tào Tháo sai đào một hào lớn, dẫn nước sông Chương Hà vào thành. Nghiệp Thành bị nước bao vây cô lập, đến tháng 8 thì dân trong thành chết đói quá nửa. Viên Thượng nghe tin vội về cứu, Tào Tháo điều quân chặn đánh. Quân của Thượng tan vỡ, các tướng dưới quyền chạy sang hàng Tào. Thượng bỏ chạy về Trung Sơn. Thẩm Phối vẫn kiên cường phòng thủ, sai người mang nỏ cứng ra ngoài thành, phục ở chỗ Tào Tháo hay đi tuần qua, có lần ông suýt bị nỏ bắn trúng. Nhưng sau đó cháu Phối là Thẩm Vinh phản họ Viên, mở cửa thành cho quân Tào. Tào Tháo hạ được thành, dụ hàng Thẩm Phối không được bèn sai mang chém để bảo toàn danh tiết cho Thẩm Phối. Trong khi đó họ Viên vẫn đánh lẫn nhau. Viên Đàm đến Trung Sơn đánh Thượng, chiếm luôn Ký châu. Thượng bỏ chạy tới U châu theo anh hai là Viên Hy. Tào Tháo gửi thư tuyên bố cắt đứt thông gia với Viên Đàm, trả lại con gái Đàm và tiến đánh Bình Nguyên. Đàm bỏ chạy về Nam An. Tháng 1 năm 205, Tào Tháo tiến đánh Nam An. Đàm bị thủ hạ giết chết để hàng Tào. Anh em Viên Hy, Viên Thượng ở U châu không lâu thì thủ hạ của Hy là Tiêu Xúc, Trương Nam làm phản, hai anh em phải bỏ chạy sang Liêu Tây, nương nhờ thủ lĩnh Ô Hoàn là Đạp Đốn. Tháng 10 năm 205, Tào Tháo mang đại quân tấn công Liêu Tây, đánh đuổi bộ lạc Ô Hoàn ở 3 bộ Liêu Tây, Liêu Đông và Hữu Bắc Bình ra khỏi Trường Thành. Anh em Hy và Thượng cùng Đạp Đốn chạy sang Liêu Đông với Công Tôn Khang. Cháu Viên Thiệu là Cao Cán trấn thủ Tinh châu, trước nghe tin họ Viên bại trận bèn đầu hàng Tào Tháo. Thấy ông đi đánh Ô Hoàn, Cán lại làm phản. Tháng 1 năm 206, ông dẫn quân trở về đánh Cán. Cán thua chạy đi cầu cứu Hung Nô không được, trở về đến Thượng Lạc thì bị giết. Tam Quốc Diễn Nghĩa kể rằng Cao Cán là con rể của Viên Thiệu. Đầu năm 207, anh em họ Viên đến Liêu Đông. Tào Tháo đi chiêu hàng đến Liễu Thành (Liêu Tây), không mang quân truy đuổi anh em họ Viên đến Liêu Đông. Ông đoán biết nếu tiến đánh, Công Tôn Khang sẽ liên hợp với họ Viên, vì vậy ông chủ ý lui quân về phía nam, tỏ ý không truy bức, Khang sẽ thanh trừng họ Viên. Tào Tháo không chờ động tĩnh từ phía Khang mà chủ động rút lui khỏi Liễu Thành về nam trong hoàn cảnh rất gian khổ. Khi đó ở phía bắc rất lạnh, quân đội của ông bị rét cóng; toàn quân đi 200 dặm không có nước; sau đó phải đào giếng sâu tới 39 trượng mới có nước. Lương thực hết, quân Tào phải giết ngựa chiến để ăn. Quân Tào ăn hết vài ngàn con ngựa mới về tới khu vực có lúa của người Hán. Các nhà sử học Trung Quốc nêu giả thiết, nếu anh em họ Viên biết được tình cảnh thê thảm đó của quân Tào mà dẫn tàn quân truy kích thì chưa biết tình hình sẽ ra sao. Đúng như dự liệu của Tào Tháo, Công Tôn Khang lập tức bắt chém anh em Hy, Thượng và Đạp Đốn ngay lúc đến ra mắt, sai người mang 3 thủ cấp nộp Tào Tháo - khi đó ông đã về đến Nghiệp Thành. Ông phong chức Tương Bình hầu cho Khang để thưởng công. Nam tiến thất bại Sau khi diệt họ Viên, Tào Tháo hoàn toàn làm chủ trung nguyên, trở thành lực lượng mạnh nhất Trung Quốc khi đó. Ông tiến hành cải cách triều đình Đông Hán, khôi phục lại chức Thừa tướng và tự mình đảm nhiệm, đưa hàng loạt người thân tín nắm những chức vụ quan trọng trong triều đình cũng như những nơi hiểm yếu. Các lực lượng chư hầu có địa phận liền kề với ông khi ông mới về Hứa Xương đều đã bị dẹp. Khi đó trong toàn quốc còn lại Lưu Biểu và Lưu Bị ở Kinh châu, Tôn Quyền ở Giang Đông, Trương Lỗ ở Đông Xuyên, Lưu Chương ở Tây Xuyên, Hàn Toại và Mã Đằng ở Tây Lương, Sĩ Nhiếp ở Giao Châu. Tào Tháo quyết định nam tiến diệt Lưu Biểu và Tôn Quyền là những lực lượng đáng kể nhất trong số các chư hầu còn lại. Lấy Kinh châu Lưu Bị từ khi thua Tào Tháo ở Nhữ Nam chạy về Kinh châu theo Lưu Biểu, được sai trấn giữ ở Tân Dã. Tháng 7 năm 208, Tào Tháo khởi binh nam tiến, đánh Kinh châu. Tháng 8 năm đó, khi quân Tào chưa đến nơi thì Lưu Biểu đã ốm chết. Tháng 9, Tào Tháo tiến đến Tân Dã. Lưu Bị từ khi nghe tin đại quân Tào Tháo kéo đến đã bỏ Tân Dã về Phàn Thành. Quân Tào áp sát, con nhỏ của Lưu Biểu là Lưu Tông - người được quyền thừa kế - sợ hãi đầu hàng Tào Tháo. Lưu Bị nghe tin Lưu Tông đầu hàng bèn mang hơn 10 vạn dân chạy đến Giang Lăng - nơi chứa lương thảo và vũ khí của Kinh châu - để thế thủ. Tào Tháo chọn 5000 quân kỵ khoẻ ngày đêm đuổi theo, một ngày đi 300 dặm. Khi quân Tào tới Đương Dương - Tràng Bản thì bị mãnh tướng Trương Phi đánh chặn, tạm thời phải dừng lại. Vừa lúc đó sứ giả của Tôn Quyền là Lỗ Túc đến Tràng Bản, gặp được Lưu Bị. Theo lời khuyên của Lỗ Túc, Lưu Bị quyết định liên minh với Tôn Quyền để chống Tào, sai Gia Cát Lượng sang Đông Ngô; bản thân Lưu Bị hợp binh với Quan Vũ về cố thủ ở Giang Hạ với con lớn của Lưu Biểu là Lưu Kỳ. Tào Tháo thúc quân đuổi tiếp đến Giang Lăng nhưng không thấy Lưu Bị, bèn chiếm lấy kho lương và vũ khí ở đó. Sau đó ông tập hợp đại quân chuẩn bị tiến đánh Tôn Quyền. Thua trận Xích Bích Xem bài chính: Trận Xích Bích Tào Tháo cùng các tướng Tào Nhân, Nhạc Tiến, Tào Thuần, Lý Thông, Mãn Sủng và tướng cũ của Lưu Biểu là Văn Sính dẫn khoảng 22 vạn quân áp sát Giang Đông. Với lực lượng hùng hậu, ông tỏ ra coi thường lực lượng nhỏ yếu của Tôn Quyền, rất tin tưởng vào thắng lợi ở trận này nên không mang theo các danh tướng khác. Ông gửi thư cho Tôn Quyền nói: Tôn Quyền liên kết với Lưu Bị, sai Chu Du mang 3 vạn quân ra phối hợp với Lưu Bị chống lại. Thủy quân Tôn-Lưu ngược dòng Trường Giang từ Hán Khẩu-Phàn Khẩu tới Xích Bích, giao tranh với tiền quân của Tào Tháo. Quân Tào đi đường xa, không hợp thủy thổ, bị bệnh dịch hành hạ nên không thể giành được lợi thế trong những trận giao tranh nhỏ ban đầu và buộc phải lui về đóng quân ở Ô Lâm (phía Bắc Trường Giang). Để giảm sự tròng trành của thuyền chiến (quân Tào không quen thủy chiến hay bị say sóng), Tào Tháo ra lệnh dùng xích sắt nối nhiều thuyền lại với nhau. Quan sát động thái này của Tào Tháo, tướng Hoàng Cái bên Đông Ngô kiến nghị Chu Du dùng kế trá hàng và được Chu Du tán đồng. Hoàng Cái sai người gửi thư trá hàng và Tào Tháo tin theo. Theo thời gian đã hẹn, đội "hàng binh" của Hoàng Cái đến giữa sông thì các hỏa thuyền bắt đầu được châm lửa và chúng theo gió Đông Nam lao thẳng vào hạm đội của quân Tào. Các thuyền chiến của Tào Tháo nhanh chóng bắt lửa khiến một số lớn binh mã chết cháy trên thuyền hoặc chết đuối dưới sông. Trong lúc quân Tào đang hoảng hốt vì đám cháy thì liên quân Chu Du đã chiếm lĩnh trận địa và chia cắt lực lượng của Tào Tháo, buộc ông phải ra lệnh rút lui sau khi phá hủy một phần số thuyền chiến còn lại. Tào Tháo cùng bại binh rút lui về phía đường cái Hoa Dung xuyên qua vùng đầm lầy lớn phía Bắc hồ Động Đình. Chu Du và Lưu Bị không ngừng đuổi theo ông cho tới tận Nam Quận. Cuối cùng, thiệt hại nặng nề khiến Tào Tháo phải bỏ miền Nam rút về Nghiệp Quận, để lại Từ Hoảng và Tào Nhân giữ Giang Lăng, Nhạc Tiến giữ Tương Dương và Mãn Sủng giữ Đương Dương. Củng cố thế đứng phương bắc Bài Thủ sắc Sau trận Xích Bích, về cơ bản thế đứng của ba họ Tào, Tôn và Lưu khá vững, lực lượng khá cân bằng nên Tào Tháo không còn thời cơ nam tiến thuận lợi để thống nhất Trung Hoa như trước nữa. Thế chân vạc hình thành. Trong khi Tôn Quyền và Lưu Bị ra sức giành lấy những vùng đất đai phía nam thì Tào Tháo án binh bất động trong 2 năm 209 - 210. Ông đóng quân ở Nghiệp Thành, huy động người xây đài Đồng Tước để hưởng thụ. Con thứ 4 của ông là Tào Thực vì sự kiện này mới làm bài phú Đài Đồng Tước. Tam Quốc Diễn Nghĩa kể rằng Tào Tháo đã xây đài Đồng Tước trước trận Xích Bích với mục đích sau khi bình định Giang Đông sẽ bắt hai mỹ nhân Đại Kiều và Tiểu Kiều (vợ Tôn Sách và Chu Du) về đó hưởng lạc. La Quán Trung còn khéo léo để Gia Cát Lượng sửa vài chữ trong bài phú của Tào Thực nhằm kích động Chu Du quyết tâm đánh Tào. Để củng cố thực lực phương bắc, ông hạ lệnh chiêu mộ nhân tài; sau đó ban bố tờ "Thủ sắc" để tự trần tình. Bài Thủ sắc đại ý nói bản ý ban đầu ông chỉ hy vọng lập chút công danh, nhưng vì gặp thời loạn nên từng bước lên địa vị Thừa tướng; "nếu không có ta thì nhà Hán đã mất". Cuối bài ông nhấn mạnh việc những người nghi ngờ ông muốn cướp ngôi nhà Hán đều là nghĩ sai; ông cũng muốn rời bỏ chức vụ hiện tại cũng không thể, vì đã kết oán với nhiều người, sợ bị hãm hại. Để cho mọi người thấy điều mình nói không phải dối trá, ông trả lại 3 huyện 2 vạn hộ được phong, chỉ giữ lại huyện Vũ Bình 1 vạn hộ. Chinh phạt Tây Lương Tây Lương tuy ở xa nhưng Tào Tháo luôn quan tâm đúng mức. Ngay thời Lý Thôi và Quách Dĩ cầm quyền, Hàn Toại và Mã Đằng từng mang quân đánh vào kinh thành Tràng An với danh nghĩa cứu vua Hán (194), vì vậy Tào Tháo rất cảnh giác với lực lượng này. Trước khi ra tay đánh dẹp chư hầu ở Trung nguyên, ông từng sai Chung Do viết thư trấn an Đằng và Toại khiến hai người không gây hấn. Trước khi xuống miền nam đánh Kinh châu, năm 208, Tào Tháo đã nhân danh Hán Hiến Đế triệu Mã Đằng về Hứa Xương bổ nhiệm làm Thái uý, ngoài mặt là phong chức nhưng kỳ thực để chia cắt với Hàn Toại; đồng thời ông phong con Đằng là Mã Siêu làm Thiên tướng quân, Đô Đình hầu, cho thay cha quản lý quân đội dưới quyền. Năm 211, Tào Tháo phái Tư Lệ hiệu uý Chung Do và Chinh tây Hộ quân Hạ Hầu Uyên đi đánh Trương Lỗ ở Đông Xuyên. Các tướng ở Tây Lương thấy ông không đánh họ ở chỗ gần mà đánh Trương Lỗ ở xa, nghi ngờ rằng Tào Tháo dùng kế "mượn đường Quắc diệt Ngu". Do đó, 10 tướng lĩnh Tây Lương gồm Hàn Toại, Mã Siêu, Hầu Tuyển, Trình Ngân, Dương Thu, Mã Ngoạn, Trương Hoành, Lương Hưng, Thành Nghi, Lý Kham cất 10 vạn quân làm phản. Mã Siêu và Hàn Toại cầm đầu trong số này, chiếm cứ Đồng Quan. Tháng 7 năm 211, Tào Tháo đích thân mang quân đánh Mã Siêu. Đến Đồng Quan, ông bí mật phái Từ Hoảng và Chu Linh mang 4000 quân vượt bến Bồ Bản, đóng trại ở Hà Tây để chặn đường lui của Mã Siêu. Siêu bàn với Hàn Toại chia quân ra chặn ở bờ bắc ngăn quân Tào nhưng Toại không nghe theo. Siêu bèn tự mình hành động. Tào Tháo cho đại quân vượt sông sang bờ bắc. Khi quân Tào đang qua sông thì Mã Siêu bất thần mang 1 vạn quân đến đánh úp, bắn tên đến như mưa. Người chèo thuyền của Tào Tháo bị trúng tên chết, tướng Hứa Chử một tay cầm yên ngựa che cho Tào Tháo, tay kia chèo thuyền. Cùng lúc đó Huyện lệnh Vị Nam là Đinh Phỉ sai thả hết trâu ngựa ra đường khiến quân Mã Siêu tranh nhau đi bắt, sao nhãng việc truy kích Tào Tháo. Vì vậy ông được thoát nạn, qua bờ bên kia. Theo kế của Giả Hủ, Tào Tháo quyết định dùng kế ly gián Toại và Siêu. Ông vốn quen biết với Toại từ trước, khi ra trận gặp Toại không có mặt Siêu, ông tìm cách bắt chuyện, nói với nhau khá thân mật. Vì vậy Siêu bắt đầu nghi ngờ Toại. Sau đó Tào Tháo lại viết thư gửi Hàn Toại, cố ý gửi nhầm bản nháp, có gạch xoá sửa chữa những chỗ quan trọng. Siêu thấy Toại có thư, đến đòi xem. Thấy thư bị gạch xoá, Siêu càng nghi ngờ là do Toại tự gạch đi. Biết nội bộ quân Tây Lương đã nghi ngờ nhau, Tào Tháo ra quân tiến đánh. Ông dùng khinh binh nhử trước cho địch đuổi theo rồi mới dùng quân tinh nhuệ giáp công. Quân Tây Lương dao động, bị đánh đại bại. Hàn Toại bỏ chạy về Kim Thành; Mã Siêu thua chạy sang bộ lạc của người Nhung. Tào Tháo dẫn quân truy kích Siêu đến tận Yên Định nhưng chưa bắt được Siêu thì có tin Tôn Quyền mang quân đánh trung nguyên nên ông rút đại quân về phía Đông, để Hạ Hầu Uyên ở lại trấn giữ. Năm 212, Tào Tháo về đến Hứa Xương, nhân danh Hiến Đế hạ lệnh giết chết Mã Đằng, tru di tam tộc, giết hết những người cùng họ ở kinh thành. Tam Quốc Diễn Nghĩa kể rằng do Tào Tháo dụ Mã Đằng về kinh giết chết nên Mã Siêu mới khởi binh báo thù. Việc ông xoá thư ly gián Siêu và Toại được kể tương tự trong sử sách. Về sau, Mã Siêu tập hợp người Khương, người Hồ quay trở lại tấn công các quận huyện Lũng Thượng, giết Thứ sử Lương châu là Vi Khang. Thủ hạ của Khang là Dương Phụ khởi binh báo thù cho chủ, hợp binh với Hạ Hầu Uyên đánh bại Mã Siêu. Siêu phải chạy sang đầu hàng Trương Lỗ ở Hán Trung. Vùng Tây Lương cơ bản thuộc quyền kiểm soát của Tào Tháo. Đánh chiếm Đông Xuyên Sau trận giao tranh với Tôn Quyền bất phân thắng bại năm 213, Tào Tháo nhận thấy thế chân vạc đã vững, chưa thôn tính Giang Đông hiểm yếu được. Sang năm 214, Lưu Bị từ Kinh châu tiến vào đánh chiếm Tây Xuyên của Lưu Chương khiến ông phải gấp rút hành động. Ông dự định đánh chiếm Hán Trung (Đông Xuyên) của Trương Lỗ, sau đó xuôi theo sông Hán Thủy xuống phía nam đánh Ích châu để trừ Lưu Bị. Tháng 3 năm 215, Tào Tháo xuất phát qua Trần Thương, không tiến ngay về phía nam mà trước hết ra khỏi Tản Quan phía tây trừ nốt Hàn Toại đang liên minh với vua người tộc Chi (Đê) là Đậu Mậu. Tháng 5, quân Tào đánh tan Đậu Mậu ở Hạ Trì, Hàn Toại bỏ chạy từ Kim Thành tới Tây Bình thì bị thủ hạ giết chết, mang đầu nộp cho Tào Tháo. Tam Quốc Diễn Nghĩa chép: Hàn Toại bị Mã Siêu nghi ngờ thông đồng với Tào Tháo, chém đứt một cánh tay, thành người tàn phế. Khi Tào Tháo đánh bại Siêu năm 211, Hàn Toại đầu hàng. Trừ xong Hàn Toại, Tào Tháo mới quay trở lại đánh Hán Trung. Thấy quân Tào thế mạnh, Trương Lỗ muốn hàng nhưng em là Trương Vệ phản đối. Lỗ cho Vệ mang vài vạn quân ra địch. Trương Vệ ra trấn giữ ải Dương Bình, Tào Tháo đánh 3 ngày không hạ được. Nhưng sau đó bất ngờ quân Tào chiếm được cửa ải. Sử sách chép về sự kiện này không giống nhau. Tam Quốc Chí chép rằng Tào Tháo cho quân tập kích ban đêm và chiếm được ải. Ngụy Tấn thế ngữ chép rằng: Tào Tháo nản chí muốn lui binh, Quách Kham khuyên nên kiên trì; đúng đêm hôm đó có chuyện phát sinh bất ngờ: hàng ngàn con hươu tràn vào trại quân Trương Vệ nên quân Vệ náo loạn; cùng lúc đó tiền quân của Tào Tháo lại đi lạc đường, tiến vào trại của Vệ. Viên trung hộ quân của Tào Tháo là Cao Tộ sợ quân chạy rải rác trong trại địch sẽ bị tiêu diệt, vội gióng trống thổi tù và làm hiệu; không ngờ điều đó khiến Trương Vệ sợ hãi, tưởng quân Tào đã vào đông nên hốt hoảng bỏ chạy, sau bị quân Tào bắt giết. Nghe tin Trương Vệ thua trận, Trương Lỗ muốn hàng nhưng lại nghe theo thủ hạ Diêm Phố khuyên, chưa hàng ngay mà chạy ra núi Đại Ba, dựa vào các thủ lĩnh bộ tộc cố thủ, sau đó mới sai người đến xin Tào Tháo xin giảng hoà. Trước khi đi, Trương Lỗ không nghe theo lời khuyên đốt kho tàng khiến quân Tào đói mà khoá hết kho tàng, niêm phong lại. Tào Tháo khen ngợi việc Trương Lỗ không đốt kho tàng, chấp nhận cho Trương Lỗ đầu hàng, phong làm Trấn Nam tướng quân, Lãng Trung hầu; 5 con trai của Lỗ và Diêm Phố cũng được phong làm liệt hầu. Sau đó ông còn kết thông gia với Trương Lỗ, lấy con gái Lỗ cho con trai mình. Tướng Tây Lương cũ là Mã Siêu bất mãn với Trương Lỗ đã bỏ sang Tây Xuyên theo hàng Lưu Bị từ trước, bộ tướng của Siêu là Bàng Đức ốm nằm lại Đông Xuyên nên lúc đó theo hàng Tào Tháo. Thấy quận Hán Trung rộng lớn, ông chia làm 3: Trung tâm vẫn gọi là Hán Trung, đặt thêm 2 quận Tây Thành và Thượng Dung. Ông để Hạ Hầu Uyên tổng quản trấn thủ cả 3 quận, có thêm Trương Cáp và Đỗ Tập trợ giúp, còn mình cất đại quân về Nghiệp Thành. Hai viên chủ bạ là Tư Mã Ý và Lưu Hoa đã khuyên ông nên thuận đường đánh sang Tây Xuyên, chiếm Ích châu khi Lưu Bị chưa vững chân nhưng Tào Tháo không nghe theo, bỏ mất cơ hội tốt. Trong khi Tào Tháo đánh chiếm Hán Trung thì tướng Trương Liêu được ông sai trấn thủ Hợp Phì đã tự mình đẩy lui được 10 vạn quân của Tôn Quyền đến xâm phạm trong trận Hợp Phì. Có ý kiến cho rằng Tào Tháo bỏ cơ hội đánh Tây Xuyên vì ông không đánh giá cao tài năng quân sự của Lưu Bị và trở về để lo dọn đường cho việc xưng vương. Xưng vương Ban đầu, Tào Tháo được Hán Hiến Đế phong làm Vũ Bình hầu, ăn lộc 1 vạn hộ ở huyện Vũ Bình. Sau trận Xích Bích, Tào Tháo chú trọng xây dựng Nghiệp Thành là thủ phủ cũ của Viên Thiệu, thường đóng đại quân tại đây, ít coi trọng Hứa Xương như thời kỳ đầu. Do tự mình chuyên quyết việc triều đình, ông đã gặp phải sự chống đối ngấm ngầm từ các lực lượng ủng hộ Hán Hiến Đế. Tuy nhiên, các lực lượng này không đủ mạnh và bị Tào Tháo đàn áp thẳng tay, kể cả những người thân thích của Hiến đế cũng bị giết như: Phục hoàng hậu, Đổng Quý phi, Đổng Thừa, Phục Hoàn. Năm 213, ông ép Hiến Đế phong mình làm Ngụy Công, ban cho Cửu tích gồm: xe ngựa, y phục, nhà son, đội nhạc, nạp bệ, cung tên, hổ bôn, việt vàng. Ông cắt Ngụy quận và 9 quận khác ở Ký châu vào lãnh thổ nước Ngụy làm đất ăn lộc. Nước Ngụy của Tào Tháo với tư cách là một nước chư hầu nằm trong lãnh thổ nhà Hán bắt đầu hình thành. Tháng 11 năm 213, ông thiết lập một bộ máy triều đình nước Ngụy riêng biệt, có Thượng thư lệnh, Thị trung và 6 viên khanh. Năm 216, sau khi đánh bại Trương Lỗ trở về, Tào Tháo sai Hoa Hâm chuẩn bị và ép Hán Hiến Đế ra chiếu phong mình làm Ngụy Vương. Ông lập con thứ hai là Tào Phi làm thế tử. Mất Hán Trung Tào Tháo giao Hán Trung cho Hạ Hầu Uyên, Trương Cáp và Đỗ Tập trấn giữ. Năm 216, Trương Cáp mang quân vượt núi Đại Ba, tiến sâu vào 2 quận Ba Đông, Ba Tây, dời vài vạn dân về Hán Trung. Khi Cáp tiến đến Đãng Cừ thì gặp quân của Lưu Bị do Trương Phi chỉ huy chặn lại. Hai bên giữ nhau 50 ngày, cuối cùng Cáp bị Trương Phi đánh bại, chạy về Nam Trịnh. Nghe tin Trương Cáp bại trận, Tào Tháo không trị tội, vẫn phong làm Đãng khấu tướng quân để khuyến khích. Tháng 11 năm 217, Lưu Bị sai Trương Phi đóng đồn ở Cố Sơn, Ngô Lan đóng ở Hạ Bị. Tào Tháo sai Tào Hồng và Tào Hưu ra đối địch. Hồng và Hưu không mắc mưu theo tin đồn của địch, đánh bại Ngô Lan khiến Trương Phi phải rút lui khỏi Cố Sơn. Lan bỏ chạy và bị người tộc Chi giết chết. Nghe tin bại trận, Lưu Bị cùng mưu sĩ Pháp Chính khởi 10 vạn quân, kéo đến ải Dương Bình. Quân Tào giữ ải yếu nên không giữ nổi. Đầu năm 219, Lưu Bị qua sông Miện Thủy, dựa vào sườn núi Định Quân đóng quân. Hạ Hầu Uyên không biết là kế, mang toàn quân đến vây đánh, bị phục binh của tướng Hoàng Trung từ trên núi đổ xuống đánh ngang sườn. Uyên và Thứ sử Ích châu là Triệu Ngung cùng tử trận. Lưu Bị chiếm được Hán Trung. Ngụy vương Tào Tháo được tin, đích thân mang đại quân từ Tràng An qua hang Tà Cốc vào Xuyên để quyết chiến. Lưu Bị giữ thế phòng thủ không ra giao chiến. Qua hơn 1 tháng khiêu chiến không đánh được trận nào, quân Tào mệt mỏi. Lưu Bị lại sai người lọt vào hàng ngũ quân Tào làm nội ứng, phao tin đồn khiến quân Tào chán nản. Tào Tháo lúc đó tuổi đã cao, sức lực không còn tráng kiện; ông liệu thế không thể thắng được Lưu Bị, đành hạ lệnh lui quân. Trước khi rút lui, ông nói với các tướng: Các sử gia Trung Quốc đánh giá câu nói này là lời tự trấn an tinh thần cho mình theo kiểu A.Q. Tào Tháo không những triệt thoái khỏi Hán Trung, mà lệnh cho các cánh quân trong 3 quận Tây Thành và Thượng Dung mà ông mới đặt ra cùng rút về. Quận Thượng Dung và Tây Thành đầu hàng Lưu Bị. Toàn Đông Xuyên mà Tào Tháo đánh chiếm năm 215 mất về tay Lưu Bị. Tam Quốc Diễn Nghĩa mô tả Tào Tháo và Lưu Bị giao tranh ở Hán Trung có khá nhiều trận đánh. Tào Tháo bị Ngụy Diên bắn gãy răng cửa. Mặt trận phía đông và phía nam Từ sau trận Xích Bích, địch thủ mà Tào Tháo giao tranh tại chiến trường phía đông chủ yếu là Tôn Quyền chứ không phải Lưu Bị, dù không phải lần giao tranh nào ông cũng trực tiếp ra trận. Năm 209, Tôn Quyền sai Chu Du tấn công ráo riết vào Giang Lăng, buộc Tào Nhân phải bỏ thành này chạy về Tương Dương. Năm 213, Tào Tháo đích thân dẫn liên quân thủy lục giao tranh với Tôn Quyền tại cửa Nhu Tu bất phân thắng bại. Sang năm sau, hai bên đánh nhau một trận nữa ở Nhu Tu cũng không ngã ngũ. Năm 214, quân Đông Ngô chiếm được Hoãn Thành. Năm 215 khi Tào Tháo đi đánh Trương Lỗ, Tôn Quyền đánh Hợp Phì bị Trương Liêu đẩy lui. Năm 216, Tào Tháo phát động quân thủy và quân bộ ồ ạt từ Cư Sào tấn công nhưng đến tháng 3 sang năm 217 vẫn không hạ được, phải lui về bắc. Trong nhiều năm, Tôn Quyền và Lưu Bị duy trì sự liên kết để chống lại ông, giữ thế chân vạc cân bằng. Nhưng sau khi Tào Tháo mất Hán Trung thì phát sinh biến cố mới. Lưu Bị và Tôn Quyền ngoài mặt là em rể và anh vợ nhưng vẫn tranh chấp nhau vùng Kinh châu mà Lưu Bị mang tiếng “mượn” lâu ngày không trả. Khi vào Tây Xuyên, Lưu Bị giao cho Quan Vũ giữ các quận Kinh châu. Để yên mặt đông, Lưu Bị phải nhân nhượng Tôn Quyền, trả cho Đông Ngô 3 quận để hoà hoãn, đổi lại Tôn Quyền cắt 2 quận cho Quan Vũ. Quan Vũ sau đó vẫn gây bất hòa với Đông Ngô khiến Tôn Quyền quyết định ngả theo Tào Tháo để lấy toàn bộ Kinh châu. Tháng 6 năm 219, sau khi chiếm được Hán Trung, Lưu Bị xưng làm Hán Trung Vương, đứng ngang hàng với Tào Tháo. Trên đà thắng lợi, Lưu Bị sai Quan Vũ đang trấn thủ Kinh châu đem quân bắc tiến, vây hãm Tương Dương, sau đó lại vây đánh Phàn Thành do Tào Nhân trấn thủ. Phàn Thành nguy cấp. Tào Tháo ở Nghiệp Thành rất lo lắng, toan tính thiên đô, rời Hán Hiến Đế từ Hứa Xương về cùng ông ở đất Nghiệp. Nghe lời Tư Mã Ý phân tích lợi hại, Tào Tháo quyết định không thiên đô, sai Vu Cấm và Bàng Đức mang quân đi cứu Phàn Thành. Nhạc Tiến hỗ trợ Tào Nhân cố giữ lấy Thanh Nê. Đúng lúc đó thì Tôn Quyền sai người dâng thư đến xin quy phục, giúp ông giáp công đánh Quan Vũ ở mặt đông. Tào Tháo mừng rỡ, nhưng vẫn dùng quyền thuật: một mặt ông nhận cho Tôn Quyền đầu hàng, phong làm Nam Xương hầu, lĩnh chức Kinh châu mục; mặt khác ông lại mang thư đầu hàng của Quyền buộc vào tên, sai quân bắn vào trại của Quan Vũ. Việc làm đó của ông đẩy Quan Vũ và Tôn Quyền vào thế không đội trời chung khiến ông có thể ngồi nhìn hai bên đánh nhau mà vẫn có thể giải vây cho Phàn Thành, giữ yên được mặt nam. Tuy nhiên, Quan Vũ không hoàn toàn tin vào thư đó, cho rằng Tào Tháo lắm mưu mô, phao tin sai để lung lạc mình. Nhân lúc nước sông Hán Thủy lên cao, Quan Vũ khơi nước sông đổ vào ngoài thành. Bảy đạo quân Vu Cấm và Bàng Đức đóng đồn ở phía bắc Phàn Thành bị nước dìm chết gần hết, số ít bỏ chạy thoát. Cả hai tướng đều bị bắt, Vu Cấm đầu hàng Quan Vũ, còn Bàng Đức không chịu hàng nên bị giết. Tào Tháo nghe tin đó thở dài than: Ta và Vu Cấm biết nhau 30 năm, không ngờ lúc nguy cấp thì ông ta không bằng Bàng Đức! Viện binh cứu Phàn Thành bị tiêu diệt, Tào Tháo vội sai Từ Hoảng mang quân đi cứu. Trong khi Quan Vũ mải đánh Vu Cấm thì Tôn Quyền đã sai Lã Mông mang quân đánh úp Kinh châu. Từ Hoảng mang quân đến cứu viện, dương đông kích tây, phao tin đánh đồn Vi Trủng nhưng kỳ thực đánh đồn Tứ Trủng. Quan Vũ mắc mưu nên bị thua nặng, quân chết rất nhiều; khi thua trận chạy về mới biết Kinh châu đã mất. Quan Vũ cùng đường chạy ra Mạch Thành, cuối cùng bị quân Tôn Quyền bắt sống mang về giết chết. Tôn Quyền giết Quan Vũ, sai người mang đầu đến Lạc Dương nộp cho Tào Tháo. Ông không mang đầu Quan Vũ đi bêu mà sai làm lễ tang trọng thể theo nghi thức an táng chư hầu. Các nhà nghiên cứu cho rằng: Tào Tháo đã phụ nhiều người, nhưng chưa từng phụ Quan Vũ; mặt khác việc làm đó còn mang ý nghĩa chính trị không nhỏ: Tôn Quyền nộp đầu Quan Vũ cho ông để muốn thiên hạ biết rằng mình giết Vũ theo lệnh Tào Tháo, khiến Lưu Bị chĩa mũi nhọn vào ông, nhưng Tào Tháo trọng táng Quan Vũ lại cho ra thông điệp khác: Tôn Quyền tự ý giết Vũ. Tào Tháo đã giải toả được sự hiềm nghi của mọi người và ông đã lái được mũi nhọn của Lưu Bị trở lại phía Tôn Quyền. Sau này Lưu Bị vì mối thù Quan Vũ đã dốc toàn quân đi đánh Tôn Quyền. Qua đời Tào Tháo đã mắc bệnh đau đầu trong nhiều năm. Ông đã sai người triệu danh y Hoa Đà - là người đồng hương ở huyện Tiêu, nước Bái thuộc Dự châu - đến chữa trị. Do thuốc của Hoa Đà hiệu nghiệm, ông đã giữ Hoa Đà lại bên mình một thời gian. Những lúc bị đau, ông nhờ Hoa Đà châm cứu cho một vài mũi kim thì bệnh tình đỡ đi nhiều. Sau này Tào Tháo có người nhà mắc bệnh, lại gọi Hoa Đà tới chữa. Được một thời gian chưa xong, Hoa Đà xin về nhà thăm vợ có bệnh, lại xin nghỉ thêm ít lâu nữa. Tào Tháo nghi ngờ, sai người đến dò xét thì thấy vợ Hoa Đà không có bệnh gì, bèn hạ lệnh bắt Hoa Đà vào ngục hỏi tội. Bị cai ngục tra tấn, Hoa Đà chết trong ngục vào năm 208. Năm 219, Tào Tháo lại tái phát bệnh đau đầu. Ông giao lại bản doanh Nghiệp Thành của nước Ngụy cho thế tử Tào Phi quản lý, còn mình về Lạc Dương dưỡng bệnh. Hứa Xương lúc đó chỉ còn vua hư danh Hán Hiến Đế. Bị bệnh đau đầu hành hạ không có ai chữa được, Tào Tháo rất ân hận vì đã giết Hoa Đà. Tháng giêng năm 220, Tào Tháo qua đời, thọ 66 tuổi. Ông ở ngôi Ngụy vương được 5 năm. Tam Quốc Diễn Nghĩa kể rằng: Tào Tháo mở hộp đựng đầu Quan Vũ ra nhìn, thấy râu tóc dựng đứng lên, trừng mắt ra nhìn; vì vậy Tào Tháo hoảng sợ tới mức tái phát bệnh đau đầu. Hoa Đà được triệu đến chữa bệnh, đề nghị bổ đầu ông ra để phẫu thuật; ông nghi ngờ Hoa Đà muốn giết mình nên bắt giam Hoa Đà vào ngục. Hoa Đà chết trong ngục không lâu sau thì Tào Tháo cũng chết. Thế tử Tào Phi lên nối ngôi Ngụy vương. Vài tháng sau, Tào Phi ép vua Hán Hiến Đế nhường ngôi, lập ra nhà Ngụy, đóng đô ở Lạc Dương. Đó là vua Ngụy Văn đế. Tào Tháo được truy tôn là Thái Tổ Vũ hoàng Đế, thường goi là Ngụy Vũ Đế. Mộ Tào Tháo Tào Tháo trước khi chết đã dặn người dưới trướng của ông ngoài việc xây mộ cho ông, còn phải xây thêm 72 mộ giả (đề phòng những người có thù oán vời ông đào mộ), do đó rất khó tìm được mộ thật của ông. Cuối tháng 12 năm 2009, các nhà khảo cổ Trung Hoa tuyên bố vừa tìm thấy một ngôi mộ lớn, và cho rằng đây là nơi yên nghỉ của Tào Tháo. Theo đài truyền hình trung ương Trung Quốc, Tào Tháo được chôn cất tại làng Xigaoxue, thành phố cổ An Dương, tỉnh Hà Nam. Trong cuộc họp báo ở thủ đô Bắc Kinh vào tháng 12 năm 2009, giám đốc ủy ban học thuật của Viện Khoa học xã hội Trung Quốc là Liu Qingzhu đã mô tả một số chi tiết về mộ: diện tích của mộ là 740 m vuông, có gồm hai ngăn. Các chuyên gia còn phát hiện ba quan tài chứa thi hài của một nam giới ở độ tuổi 60 (Tào Tháo qua đời khi 66 tuổi) và hai phụ nữ. Đồng thời, các chuyên gia cũng tìm thấy văn bia và một dòng chữ, mang nội dung ám chỉ Tào Tháo. Theo Xinhua, các nhà khảo cổ đã khai quật được hơn 250 đồ vật làm bằng vàng, bạc, gốm. Cũng theo ông Liu, họ đã đào được 59 đĩa đá khắc tên và số lượng của những đồ vật trong mộ, trong số đó có 7 chiếc đĩa ghi tên của những vũ khí mà "Ngụy vương thường sử dụng". Các nhà khải cổ cũng khai quật được rất nhiều bức tranh tạc trên đá. Trước khi qua đời, Tào Tháo đã viết di chúc: ông căn dặn rằng ông chỉ mong muốn có một nơi yên nghỉ đơn giản. Theo Hao Benxing - giám đốc Viện Khảo cổ Hà Nam - ngôi mộ cũng khá đơn giản. Trong mộ có những bức vách không có tranh, đồng thời so với nhiều lăng mộ đế vương khác, số đồ vật được chôn theo cũng ít hơn. Ngoài ra, ngôi mộ có vị trí trùng khớp với ghi nhận trong sử sách thời của Tào Tháo. Guan Qiang - giám đốc phòng Khảo cổ thuộc Cục quản lý di sản văn hóa Trung Hoa - đã khẳng định. Mặc dù công việc khai quật vẫn tiếp tục, song những bằng chứng mà chúng tôi đã tìm thấy chứng tỏ rằng ngôi mộ là nơi yên nghỉ của Tào Tháo Theo Guan, trước khi các nhà khảo cổ bắt đầu khai quật nó vào tháng 12 năm 2008, mộ đã nhiều lần bị bọn cướp xâm nhập. Theo VnExpress, cảnh sát đang nỗ lực thu hồi những thứ vật đã bị lấy đi, người dân tỉnh Hà Nam và An Dương cũng sẽ được chính quyền ở đây cho phép tham quan ngôi mộ. Tranh cãi về lăng mộ Một số học giả Trung Quốc cho rằng chưa có đủ bằng chứng để khẳng định ngôi mộ ở Hà Nam là nơi chôn cất Ngụy vương Tào Tháo. Tờ Global Times dẫn lời Giáo sư Yuan Jixi, chuyên nghiên cứu văn học cổ ở Đại học Nhân Dân cho rằng ngôi mộ từng bị đào xới nhiều trước khi các nhà khảo cổ học bắt tay khai quật nó. Vì thế, những cổ vật được tìm thấy có thể là giả và không đủ để thuyết phục đây là mộ của Tào Tháo. Giáo sư cũng thêm rằng vị trí của ngôi mộ không giống như những ghi chép lịch sử thời đó. Giáo sư Gao Menghe thuộc Đại học Phục Đán cũng chung quan điểm này. Ông nhận định vẫn còn quá sớm để nói đây là mộ của nhà quân sự tài ba thời Đông Hán. Ông kêu gọi lấy mẫu ADN từ sọ được tìm thấy và so sánh với hậu duệ của Tào Tháo. Tuy nhiên, Pan Weibin, người đứng đầu nhóm khai quật mộ, bác bỏ những nghi ngờ trên. Ông khẳng định ý kiến của hai vị Giáo sư kia không mang tính chuyên nghiệp vì họ không phải nhà khảo cổ học. Ngày 14 tháng 1 năm 2010, Viện Khảo cổ Trung Quốc khẳng định ngôi mộ cổ được tìm thấy ngày 27/12/2009 ở làng Xigaoxue, thành phố cổ An Dương, tỉnh Hà Nam chính xác là mộ của Tào Tháo. Sáng tác thơ Tào Tháo không chỉ là nhà chính trị, nhà quân sự mà còn là nhà thơ. Hiện nay còn hơn 20 bài thơ của ông để lại, toàn dùng thể cổ nhạc phủ nhưng có phong cách sáng tạo riêng độc đáo. Là một nhà thơ giỏi, ông đã nói rõ lý tưởng chính trị của mình trong nhiều tác phẩm. Ông phản đối "những ông vua làm khổ dân, bắt dân đi phu đóng thuế nặng" (bài Độ quan sơn - Vượt quan sơn); hy vọng có những ông vua hiền sáng suốt (bài Đối tửu - Cùng uống rượu); cảm thông với những nỗi đau của dân chúng chạy loạn cuối thời Đông Hán (bài Cảo lý hành - Bài hành theo điệu Cảo lý) mà nội dung bài cho người đọc thấy một hình ảnh thu nhỏ sinh động của hiện thực với thảm cảnh chiến tranh, chiến trường phơi xương trắng, ruộng đồng hoang vắng. Bài Giới lộ hành (bài hành theo điệu Giới lộ) cũng được truyền tụng ngang với bài Cảo lý hành miêu tả cảnh hoang tàn của kinh đô Lạc Dương sau khi bị Đổng Trác đốt phá, thể hiện một niềm bi ai. Thơ của Tào Tháo còn biểu lộ ý chí quật cường và tinh thần tiến thủ tích cực của ông. Bài Quy tuy thọ (Rùa tuy thọ) là tiếng nói lạc quan, tuy biết rõ đời người hữu hạn và kẻ anh hùng nào rồi cũng về với cát bụi. Bài Quan thương hải (ngắm biển xanh) nổi tiếng với việc lồng cảnh vật thiên nhiên để thể hiện ý chí tung hoành của bản thân. Tuy nhiên, không phải bài nào cũng có tinh thần lạc quan. Trong sự nghiệp của mình, tuy nhiều thắng lợi nhưng Tào Tháo cũng gặp không ít thất bại. Ngồi nhìn tuổi tác ngày càng cao mà chí lớn chưa thỏa, ông viết trong tác phẩm nổi tiếng Đoản ca hành (Bài hành theo điệu đoản ca) để lộ nỗi buồn "như sương buổi sớm, ngày qua ngày thấy khổ nhiều hơn" khiến bài thơ mang âm điệu u uất. Bài Thu hồ hành (Bài hành theo điệu Thu hồ) thể hiện tình điệu sầu thảm còn rõ rệt hơn nữa. Thơ Tào Tháo về căn bản học tập Nhạc phủ đời Hán nhưng cũng thể hiện cá tính sáng tạo của thi nhân rất rõ rệt nên được coi là lão tướng đất U Yên, khí vận trầm hùng Những bài thơ hay nhất của ông sử dụng lời lẽ thuần phác, ít dụng từ hoa mĩ, hình ảnh thơ rõ ràng và giọng thơ bi tráng, hùng hồn, khiến độc giả cảm thấy phấn chấn như được cổ vũ khích lệ. Dù vậy, Tào Tháo cũng có một số bài thơ du tiên, tin vào số mệnh, nội dung và nghệ thuật tương đối ít sức hấp dẫn. Đánh giá sự nghiệp thơ Tào Tháo, Nguyễn Hiến Lê viết: Theo học giả Dịch Quân Tả, người Trung Quốc, thì: Tác phẩm tiêu biểu Xem thêm: Trận Xích Bích#Trận Xích Bích trong văn hóa Khổ hàn hành Bắc thượng Thái Hàng sơn Nam tai hà nguy nguy Dương trường bang khúc chuyết Xa luân vị chi tồi Thụ một hà tiêu sắt Bắc phong thanh chính bi Hùng bi đối ngã tôn Hổ báo hiệp lộ đề Khê cốc thiểu nhân dân Tuyết lạc hà phi phi Diêu canh trường thán tức Viễn hành đa sơ hoài... Dịch thơ: Bài hành tả cảnh lạnh buốt Phía Bắc Thái Hàng sơn, Vòi vọi lên gian nan. Đường ruột dê uống khúc, Làm bánh xe vỡ tan. Cây cối sao hiu hắt. Gió bắt rít trên ngàn. Gấu ngồi xổm ngó khách; Hổ bên đường gầm vang. Tuyết rơi sao phơi phới, Hang hốc ít nhân dân. Dài cổ nhiều than vãn, Đi xa dạ ngùi ngùi... Gia quyến Tào Tháo có nhiều vợ, trong đó có 6 vị phu nhân và các cơ thiếp. Có 25 người con trai và 8 người con gái. Với Biện phu nhân (卞夫人) tức Vũ Tuyên hoàng hậu Tào Phi (曹丕) Tào Tiết (曹節) Tào Thực (曹植) Tào Chương (曹彰) Tào Hùng (曹熊) Với Lưu phu nhân (劉夫人) Tào Ngang (曹昂) Tào Thước (曹鑠) Với Hoàn phu nhân (環夫人) Tào Xung (曹冲) Tào Cứ (曹据) Tào Vũ (曹宇) Với Đỗ phu nhân (杜夫人) Tào Lâm (曹林) Tào Cổn (曹袞) Với Tần phu nhân (秦夫人) Tào Tuyền (曹玹) Tào Tuấn (曹峻) Với Doãn phu nhân (尹夫人) Tào Củ (曹矩) Với những người vợ khác Tào Cán (曹幹) Tào Thượng (曹上) Tào Bưu (曹彪) Tào Cần (曹勤) Tào Thặng (曹乘) Tào Chỉnh (曹整) Tào Kinh (曹京) Tào Quân (曹均) Tào Cức (曹棘) Tào Huy (曹徽) Tào Mậu (曹茂) Tào Kỳ Băng (曹崎硼) Cháu Tào Đức Kiên (曹德耐) Nhận định Khánh quan mà nhìn nhận, Tào Tháo là một chính trị gia lỗi lạc, một nhà lãnh đạo giỏi, nhà quân sự có tài. Ông là người năng động, dám nói dám làm. Nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông khâm phục Tào Tháo nhất trong các đế vương Trung Quốc và gọi ông là "vua của các vua". Về tính cách, ông có thói đa nghi, hung bạo, hiếu sát và cư xử nhiều lúc xảo trá, nên người đương thời thường khiếp sợ chứ không yêu mến ông. Lưu Bị, đối thủ đương thời của Tào Tháo, nhận định: {{cquote|Nay so thế với ta như nước với lửa, là Tào Tháo vậy. Tháo dùng cấp bách, ta dùng khoan hòa; Tháo dùng hung bạo, ta dùng nhân từ; Tháo dùng quỷ quyệt, ta dùng trung tín; mọi thứ đều ngược lại với Tháo, việc mới có thể thành thôi}} Trần Thọ, tác giả Tam quốc chí, đã đánh giá về Tào Tháo như sau: Trương Đễ, thừa tướng Đông Ngô thời Tam quốc, đánh giá Tào Tháo là người có tài chinh chiến, nhưng tàn ngược và đa nghi, người dân sợ chứ không yêu mến ông ta, nhà Tào Ngụy sớm mất cũng là đương nhiên: Đánh giá về ưu điểm và khuyết điểm của Tào Tháo, nhà nghiên cứu Tào Hồng Toại viết: Thói đa nghi và biến trá Đặc điểm nổi bật nhất trong tính cách của Tào Tháo là sự đa nghi, biến trá. Có lúc ông rất thoải mái, có lúc lại hành xử rất tàn nhẫn. Tam quốc chí chép: Trong lần tấn công Từ Châu, Tào Tháo vây đánh nhiều ngày không sao phá được, bèn trút tức giận lên dân thường. Ông ra lệnh tàn sát hơn 10 vạn dân thường ở 5 thành Thủ Lự, Tuy Lăng, Hạ Khâu, Bành Thành, Phó Dương cùng các hương trấn sở thuộc. Không chỉ bản dân 5 thành mà nhiều người dân ở Thiểm Tây vì tránh nạn Lý Thôi, Quách Dĩ kéo về đó cũng bị hại. Đây là vụ thảm sát dân thường lớn bậc nhất vào thời Tam Quốc. Trong trận Quan Độ, hơn 7 vạn quân của Viên Thiệu không theo kịp chủ, đều xin hàng Tào Tháo, nhưng Tào Tháo nghi ngờ có lính trá hàng nên ra lệnh chôn sống tất cả Các vụ thảm sát này là một trong những nguyên nhân khiến người dân Trung Quốc sau này đánh giá Tào Tháo rất tiêu cực. Tào Tháo vốn đa nghi, không yên tâm với bất kỳ ai. Để nắm rõ dân chúng và quần thần có trung thành với mình hay không, Tào Tháo đã gài tai mắt ở khắp nơi. Trong "Tam Quốc Chí" từng nhắc đến "Hiệu sự", chức quan phụ trách việc do thám mà Tào Tháo lập ra, chính là một bộ phận quan lại có tính chất tương tự cơ quan Cẩm y vệ của triều Minh. Người giữ chức vụ chỉ huy "Hiệu sự" đầu tiên là Lô Hồng và Triệu Đạt, trong ngạn ngữ vẫn lưu truyền câu: "Không sợ Tào công, nhưng sợ Lô Hồng. Lô Hồng chưa xong, Triệu Đạt giết tôi". "Hiệu sự" có quyền được lựa chọn quan lại, chúng thường mượn danh triều đình để dối lừa, dùng vũ lực dọa dẫm kẻ khác, o ép người dân và cả quan lại. Có vị quan nói về tác hại rất lớn mà Hiệu vụ gây ra, nhưng Tào Tháo lại trả lời thản nhiên rằng: "Khanh hiểu sâu biết rộng nhưng e là không thể bằng ta. Muốn nắm được mọi việc trong thiên hạ mà lại giao nhiệm vụ này cho kẻ quân tử thì đó là điều không thể" (hàm ý rằng Tào Tháo cần những kẻ gian trá như vậy mới thích hợp để theo dõi người khác) Trong "Thế thuyết tân ngữ" có một đoạn ghi chép về việc Tào Tháo giết ca kỹ. Tào Tháo từng có một ca kỹ sở hữu giọng ca tuyệt vời, kỹ thuật hát vô cùng cao. Nhưng người này lại vô cùng tự phụ, phải vui mới chịu hát. Vậy là Tào Tháo chọn ra một trăm cô gái khác, mời người dạy họ ca hát. Khi đã đào tạo ra ca kỹ có trình độ tương đương, Tào Tháo lập tức giết chết cô ca kỹ kiêu ngạo kia. Hoa Đà nổi tiếng là thầy thuốc giỏi đương thời. Tào Tháo đã mắc bệnh đau đầu trong nhiều năm, sai người triệu ông đến chữa trị, thuốc của Hoa Đà rất hiệu nghiệm. Sau này Tào Tháo có người nhà mắc bệnh, lại gọi Hoa Đà tới chữa. Được một thời gian chưa xong, Hoa Đà xin về nhà thăm vợ có bệnh, lại xin nghỉ thêm ít lâu nữa. Tào Tháo nghi ngờ, sai người đến dò xét thì thấy vợ Hoa Đà không có bệnh gì, bèn nghi ngờ rồi hạ lệnh bắt Hoa Đà vào ngục hỏi tội. Mưu sĩ Tuân Úc xin Tào Tháo tha cho Hoa Đà nhưng Tào Tháo không nghe. Bị ngục lại tra tấn, Hoa Đà chết trong ngục vào năm 208. Năm 219, Tào Tháo lại bị bệnh đau đầu tái phát, nhưng ngoài Hoa Đà thì không có ai chữa được, đến đầu năm sau thì Tào Tháo bệnh chết. Vậy là thói đa nghi góp phần làm nên sự nghiệp Tào Tháo, cuối cùng lại gián tiếp hại chết chính ông ta. Thu nạp thuộc hạ Tào Tháo đã bổ khuyết những kém cỏi của mình trong chính trị và quân sự bằng cách sử dụng kiến nghị của những người khác. Người ta thống kê được số mưu sĩ trong suốt đời Tào Tháo có đến 102 người. Bởi vì Tào Tháo có nhiều thắng lợi vẻ vang được ghi chép lại, thống nhất được vùng lãnh thổ rộng lớn nhất, nên Tào Tháo cũng được mô tả là người dùng người giỏi. Tuy nhiên, suy xét lại toàn bộ cuộc đời của Tào Tháo thì thấy, những lần Tào Tháo thất bại nặng nhất thường là do ông không đánh giá đúng con người. Tào Tháo đã từng nhìn nhận sai nhiều người, tiêu biểu là vụ Trương Mạc ngầm theo Lữ Bố cướp địa bàn Duyện Châu của Tào Tháo. Ông ta nghe tin này, bảo rằng: “Chỉ có Ngụy Chủng là không phản ta”, ai ngờ Ngụy Chủng cũng chạy theo Trương Mạc. Trình Dục, Quách Gia đều khuyên Tào Tháo không nên thả Lưu Bị ra, nhưng ông ta bỏ qua, còn sai Lưu Bị đi đánh Viên Thuật, rốt cuộc Lưu Bị liên ly khai và chiếm Từ Châu, xui Viên Thiệu đánh úp huyện Hứa. Vu Cấm bị Quan Vũ vây khốn, liền bỏ đi hàng Quan Vũ. Tào Tháo kinh ngạc nói: “Ta biết Cấm đã ba mươi năm nay, ngờ đâu lúc lâm nguy ở chỗ gian khó, lại chẳng được như Bàng Đức sao!”. Gia Cát Lượng trong Xuất sư biểu đã dẫn lại nhận định của Lưu Bị về nhược điểm này của Tào Tháo:Tào Tháo năm lần đánh Xương Hi không được, bốn lần vượt Sào Hồ không xong, tin dùng Lý Phục mà Lý Phục mưu mô, ủy thác Hạ Hầu mà Hạ Hầu bại vong. Tiên đế thường khen Tháo là người giỏi, mà vẫn có chỗ kém ấy...Sứ giả Trương Tùng của Lưu Chương đến tỏ ý đồng tình với chiến dịch nam chinh của Tào Tháo, nhưng Tào Tháo thấy Trương Tùng tướng mạo xấu xí nên có ý coi thường Trương Tùng coi đây là mối nhục lớn, sau này trở về Ích châu khuyên Lưu Chương không nên liên minh với Tào Tháo mà chuyển sang Lưu Bị Tập Tạc Xỉ bình luận việc này:Xưa Kia Tề Hoàn Công một lần kiêu căng tự khoe công và chín nước phản lại. Tào Tháo bỗng chốc tự khoe công mà thiên hạ chia ba. Đấy đều là siêng năng phấn đấu suốt mấy chục năm mà vứt bỏ trong khoảnh khắc, há chẳng tiếc sao!Tô Đông Pha từng nhận xét: “Ngụy Vũ (Tào Tháo) giỏi liệu việc mà không giỏi liệu người. Bởi thế nên có lúc coi trọng đối phương mà công lao tiêu tán, có lúc coi nhẹ đối phương mà đi đến chỗ bại”Cũng bởi Tào Tháo đi theo con đường bá đạo, trọng lợi hơn trọng đức; dùng người cốt hiệu quả không tính đến phẩm chất đã gây ra những "tác dụng phụ" có liên hệ mật thiết đến sự suy vong nhanh chóng của triều đại Tào Ngụy sau này. Triệu Dực trong cuốn “Nhị thập nhị sử tráp ký” có bình luận về sự khác biệt trong việc thu nạp nhân tài giữa Tào Tháo - Lưu Bị như sau: “Tào Tháo dùng người lấy quyền lực mà chế ngự, Lưu Bị thì lấy tính tình làm trọng còn Tôn Quyền thì lấy ý khí làm đầu. Lấy quyền thuật chế ngự thì trọng ở cái cốt yếu, lấy tính tình để mà tụ họp thì trọng ở chữ chân thành...”. Có nghĩa là Tào Tháo chuyên dùng quyền lực để áp chế, nhiều thuộc hạ phục vụ ông ta vì sợ uy quyền chứ không phải vì lòng trung thành. Còn Lưu Bị thì lấy tình nghĩa chân thành để đối đãi, khiến các thuộc hạ tự giác mà trung thành chứ không lấy quyền lực để đe dọa họ. Tào Tháo thu nạp thuộc hạ với phương châm “có tài là dùng”, tức là chỉ cần có tài chứ không cần biết liêm sỉ, tiết nghĩa của người đó thế nào. Tào Tháo đối với thuộc hạ và binh sĩ không gây dựng được sự trung thành và tin tưởng như là Lưu Bị, mà Tào Tháo dùng quyền mưu để khống chế họ, nên trong đám thuộc hạ nhiều kẻ luôn có ý làm phản. Về mặt này, ông kém hơn nhiều so với đối thủ của mình là Lưu Bị. Đến cuối đời, Tào Tháo sắp xếp để con là Tào Phi cướp ngôi nhà Hán, mọi việc hết sức dễ dàng. Nhưng để làm điều đó, Tào Tháo phải diệt trừ những thuộc hạ trung nghĩa như Tuân Úc, Thôi Diễm, Khổng Dung, Biên Nhượng để thay thế bằng những kẻ quen làm việc bất nghĩa (như Hoa Hâm), chỉ mở miệng khi cần thiết (như Giả Hủ), hoặc giỏi thủ đoạn (như Tư Mã Ý), hoặc chỉ đón ý chủ nhân để tâu việc cho lọt tai (như Lưu Diệp). Nhà Hán truyền được 400 năm, quan niệm chính trị đề cao Thiên mệnh, nhấn mạnh trung nghĩa đã ăn sâu vào tầng lớp sĩ phu. Nhưng Tào Tháo đã phá bỏ truyền thống đó, ông chứng minh rằng chỉ cần bề tôi có đủ sức mạnh khống chế triều chính là có thể giành ngôi. Như vậy, Tào Tháo đã mở ra thời đại mà không khí chính trị đầy rẫy nghi kị giữa vua và quan, tạo ra thông lệ quyền thần cướp ngôi, bề tôi làm phản. Từ Tào Ngụy cho đến đầu thời nhà Đường, suốt gần 400 năm, chỉ cần bề tôi có chút lực lượng là lập tức làm loạn, không triều đại nào được yên ổn quá 50 năm, "truyền thống" đó chính là do Tào Tháo mở đầu. Chính Tấn Minh Đế khi nghe kể lịch sử từ triều Tào Ngụy tới triều Tấn đã phải ôm mặt khóc, nói rằng "như thế thì nhà Tấn sao được lâu dài!"Mầm quyền lực được cha con họ Tư Mã nhen nhóm từ thời Tào Tháo, không lâu sau đã giành lấy ngôi của con cháu Tào Tháo, giống hệt như cách ông đã dần dần lấy ngôi của nhà Hán. Nhà Tấn thống nhất được toàn thiên hạ sau này, phần lớn là thụ hưởng cơ nghiệp mà Tào Tháo đã xây dựng. Lư Bật nói rằng: “Ngụy lập quốc chưa lâu, Tấn đã cướp mất, tuy đạo trời có vay trả, nhưng cũng bởi vì cha con Tào Tháo đối với kẻ sĩ cương trực chẳng thể dung nạp, bẻ gãy sĩ khí”. Người đời sau ngẫm về cớ sự đó, có làm bài thơ bình rằng:Một phút giang sơn đổi họ Tào,Công phu hai Hán biết là bao?Tào gia muốn học việc Nghiêu, Thuấn,Tư Mã về sau có khác nào! Về quân sự Đối với tài quân sự của ông, Mao Tôn Cương, nhà phê bình tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa, dù có thành kiến không tốt với Tào Tháo cũng công nhận rằng: Tào Tháo đã vận dụng linh hoạt các phép tắc quân sự của Trung Hoa cổ đại. Trong thời gian 25 năm (196-220), Tào Tháo đã bình định hết các lộ chư hầu phương bắc, xây dựng chính quyền Tào Ngụy. Ngoài đóng góp về chính trị và quân sự, phải kể tới đóng góp trong khôi phục nông nghiệp thời loạn lạc của Tào Tháo. Thời chiến loạn, nhiều chư hầu không nghĩ tới sự sống chết của nông dân: khi cần lương thực thì lùng sục để giành lấy, nhưng sau khi có được lại phung phí, đến nỗi khi không còn lương thực để cướp đoạt thì tự suy yếu tan rã - điển hình trong số đó là Viên Thuật. Trong khi nhiều quân phiệt chỉ dùng chính sách cướp đoạt của nông dân thì chính sách đồn điền của Tào Tháo đã góp phần khôi phục nông nghiệp bị tàn phá, vừa giải quyết đời sống nông dân, vừa đảm bảo lương thực cho quân đội của ông. Chính điều đó là một trong những yếu tố quan trọng làm nên chiến thắng của Tào Tháo ở trung nguyên. Đông Ngô, Thục Hán sở dĩ cũng có đủ thực lực, giữ được thế cân bằng với Tào Tháo và con cháu ông sau này nhờ sớm học tập chính sách phát triển đồn điền với mô hình tương tự của Tào Tháo trong khu vực mà họ quản lý. Tuy nhiên, cuộc đời binh nghiệp của Tào Tháo cũng thể hiện sự thiếu sót của ông ta về mặt chiến lược. Tào Tháo chiến thắng liên tiếp trong thời kỳ Quách Gia làm mưu sĩ. Nhưng khi Quách Gia chết rồi, một khi Tào Tháo rời Trung Nguyên, sự nghiệp quân sự của ông liền gặp trắc trở, bị thua nhiều trận. Điều này liên quan đến sở trường sở đoản của Tào Tháo. Sau khi Tào Tháo đi đánh thua trận Xích Bích quay về, đến Ba Khâu gặp dịch bệnh, đốt thuyền, đã than rằng:"Nếu Quách Phụng Hiếu còn, chẳng khiến ta đến nỗi này"Trần Lâm (?-217) đối với thời kỳ đầu cầm quân của Tào Tháo đã nhận xét rằng Tháo “ngu chậm mưu cạn, tiến lui bừa bãi, hao quân tổn tướng, mấy lần tan quân”. Cho tới sau này, ông vẫn thất bại khá nhiều lần, phong độ hết sức trồi sụt, có lúc ông chiến thắng vang dội như ở Trận Quan Độ, có lúc lại thất bại vì mấy đối thủ nhỏ như Xương Hi, Trương Tú, Trương Lỗ Một khi không có mưu sĩ giỏi như Quách Gia giúp đỡ, một khi Tháo rời địa bàn quen thuộc, sự nghiệp quân sự của Tào Tháo liền gặp trắc trở. Tào Tháo quen sử dụng kị binh, nhưng khi rời bỏ địa hình bằng phẳng, chuyển sang tác chiến trên các địa hình mà kỵ binh không thể phát huy năng lực thì Tào Tháo liền thất bại. Ở trên mặt nước, Tào Tháo thua Chu Du, dù có quân đông gấp mấy lần (trận Xích Bích). Đi vào rừng núi, Tào Tháo đánh không lại Lưu Bị (trận Hán Trung). Đây là một trong những lý do khiến cho Tào Tháo không thể thống nhất thiên hạ mà chỉ thống nhất được vùng Trung Nguyên Trong văn học Tam Quốc diễn nghĩa Vai trò lịch sử Trong tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa, nhà văn La Quán Trung ca ngợi Lưu Bị, và xem Tào Tháo là vai phản diện. Trong tiểu thuyết, Tào Tháo được mô tả có hình dáng "cao 7 thước", "mắt nhỏ râu dài". Tam Quốc Diễn Nghĩa mô tả Tào Tháo có những cá tính khá nổi bật: gian xảo, đa nghi, tàn bạo nhưng cũng rất thông minh, nhiều mưu mẹo quyền biến. Dù không ủng hộ Tào Tháo, coi ông là "giặc nhà Hán" nhưng La Quán Trung - qua nhận xét của những nhân vật trong truyện - không phủ nhận vai trò của ông đối với giai đoạn lịch sử loạn lạc, thậm chí thừa nhận ông được nhân dân coi là ứng với "thiên mệnh": Hứa Thiệu - một người giỏi tướng số nhận định Tào Tháo: Tào Hồng liều mạng hộ vệ cho Tào Tháo rút lui khi bị thua Đổng Trác, trong lúc nguy cấp nói với ông: "Thiên hạ có thể không có tôi nhưng không thể không có ông!"Tào Tháo bình định Hà Bắc của Viên Thiệu, các bô lão ra đón xưng tụng rằng: "Thời vua (Hán) Hoàn Đế có người giỏi xem thiên văn là Ân Quỳ đoán rằng: sau 50 năm sẽ có vị chân nhân nổi lên ở vùng Lương Bái, cứu giúp thiên hạ, tính thời gian đến nay thì người đó chính ứng với thừa tướng. Từ nay thiên hạ thái bình rồi"... Quan điểm Tào Tháo có quan điểm: Quan điểm này hoàn toàn trái ngược với chủ trương của Lưu Bị: "thà chết chứ không làm điều bất nghĩa", chính vì vậy Tào Tháo luôn e dè và xem Lưu Bị là kẻ thù nguy hiểm nhất của mình. Với quan niệm này, sau khi giết nhầm người nhà Lã Bá Sa vì thấy họ mài dao giết lợn thì tưởng họ định giết mình, ông đã nhẫn tâm giết nốt Bá Sa vì sợ Bá Sa đi tố cáo. Quyền thuật về chính trị Dùng tóc thay thủ cấp Do phải hành quân qua một ruộng lúa nên Tào Tháo căn dặn không ai được làm tổn hại dù chỉ là một nhành lúa trên cánh đồng. Nhưng con ngựa của Tào Tháo sau đó lại bị bầy chim đang ăn trên ruộng lúa chợt bay vút lên khiến nó hoảng sợ giẫm đạt nát một góc ruộng, Tào Tháo rút gươm kề cổ mình trong tư thế chuẩn bị tự sát thì quan quân xúm lại can ngăn, ông bèn cắt chỏm tóc trên đầu và nói "ta tạm tha tội cho mình, nhưng dùng tóc để thay đầu". Đây cũng là một trong những kỹ xảo chính trị của Tào Tháo. Mượn thủ cấp để mua lòng quân Đây là một việc làm bá đạo, trong một lần đánh chiếm thành trì, do không đủ lương thực nên ông đã sai người cấp phát lương thực làm cái đấu đong gạo nhỏ lại để đong ít số gạo kéo dài thời gian, sau đó ông đổ tội cho viên quan trông coi việc cấp phát là Vương Hậu rồi đổ tội cho Hậu, chém đầu để trấn an lòng quân. Vì việc làm trên Tào Tháo đã trả công cho sự hy sinh oan uổng của viên quan ngày đó bằng cách nhận phụng dưỡng suốt đời gia đình của ông ta. Không nhắc lỗi lầm của thủ hạ Trong trận Quan Độ, Tào Tháo phá tan đại quân Viên Thiệu. Thiệu thu tàn quân bỏ chạy qua sông Hoàng Hà, trong lúc vội vã hoảng sợ, công văn giấy tờ bỏ lại hết. Tào Tháo kéo tới, bắt được đống công văn đó. Nghe báo cáo của cấp dưới, ông biết trong đống công văn có nhiều thư từ của những người cấp dưới mình từng tư thông với Viên Thiệu. Các thuộc hạ của ông đề nghị nên đối chiếu tên từng người để về Hứa Xương sẽ bắt trị tội. Nhưng Tào Tháo xua tay, ra lệnh hãy đốt cả đi. Mọi người ngạc nhiên hỏi vì sao, ông bảo: Sự độ lượng của Tào Tháo khiến những người cấp dưới vô cùng khâm phục, những người từng manh tâm phản ông cũng hết sức cảm kích. Về điểm này, nhiều chính trị gia đương thời và sau ông chưa thể so sánh được. Chọn điểm dừng thích hợp Năm 216, Tào Tháo gần như lùi hẳn về Bắc củng cố thế lực rồi dâng biểu ép vua phải phong mình là Ngụy Vương để có đủ uy quyền mà trấn áp quân Đông Ngô. Có tướng hỏi sao ông "không lập quốc và xưng đế"? Tào Tháo chỉ nói: Việc Tào Tháo so mình với Tây Bá Hầu Cơ Xương đời nhà Chu vì ông không muốn mang tiếng soán ngôi nhà Hán, nhưng đã sắp đặt cho con cháu mình sẽ là người kế tục sự nghiệp đế vương sau này. Lấy lòng tướng sĩ Một trong những ưu điểm của Tào Tháo là biết nhìn người và rất biết cách dùng người. Trong quá trình chinh chiến, Tào Tháo đã thu phục được nhiều hào kiệt cả văn lẫn võ làm người hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển cơ nghiệp của mình. Sở dĩ như vậy vì ông khéo lấy lòng họ. So với Tôn Quyền và Lưu Bị, hàng ngũ tướng sĩ của Tào Tháo đông và mạnh hơn. Ngoài những tướng trong họ có tài như Hạ Hầu Đôn, Hạ Hầu Uyên, Tào Nhân, Tào Hồng; còn những người ngoài họ, trong đó bên văn có Tuân Úc, Tuân Du, Trình Dục, Quách Gia, Lưu Hoa, Giả Hủ, Mãn Sủng, Mao Giới, Hứa Du, Chung Dao; bên võ có Điển Vi, Hứa Chử, Lý Điển, Nhạc Tiến, Vu Cấm, Trương Liêu, Trương Cáp, Từ Hoảng... Lực lượng hùng hậu đó giúp Tào Tháo luôn ở thế mạnh hơn trong những trận giao tranh với phe Lưu Bị và Tôn Quyền. Trong bài Tam Quốc diễn ca cuối tác phẩm, La Quán Trung viết về ông:Tào Tháo mới gian hùng quỷ quyệtKhéo dùng người, thu hết anh hàoĐường đường tướng phủ ngôi cao,Uy quyền hống hách ai nào dám đương?Một việc điển hình là trong trận Uyển Thành, Tào Tháo mất con cả Tào Ngang, cháu Tào An Dân và tướng Điển Vi; nhưng tới khi nhớ tới trận này, ông khóc Điển Vi nhiều hơn cả. Trong trận Quan Độ, khi Hứa Du bỏ Viên Thiệu sang theo hàng, ông không kịp xỏ giày mà đi chân đất ra đón. Ảnh hưởng từ tác phẩm "Tam Quốc Diễn Nghĩa" (bản dịch của Phan Kế Bính) có lối hành văn theo chủ nghĩa "ủng Lưu phản Tào", tức Lưu Bị là tốt - còn Tào Tháo là giặc, ngày nay người ta nhìn Tào Tháo với cái nhìn khách quan hơn và có rất nhiều nhận định về ông: Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa bản đầy đủ từ đời nhà Minh trở đi (bản của Mao Tôn Cương) có xu hướng ủng hộ Lưu Bị và nước Thục cũng như quá đề cao Gia Cát Lượng mà quên đi vai trò chính của Tào Tháo trong việc ngăn chặn cục diện đại loạn cuối thời Đông Hán. Tào Tháo đã dồn nhiều tâm huyết vào đó, ông tuyển chọn nhân tài, chiêu đãi kẻ hiền, thậm chí làm nhiều việc tàn bạo như "chèn ép vua Hiến Đế", "giết thái y Cát Bình", "treo cổ Đổng Quý Phi đang mang long thai", "đánh Phục Hoàng Hậu đến chết",... tuy tàn ác nhưng đứng về góc độ chính trị thì những việc này không thể tránh khỏi đối với Tào Tháo khi ông muốn củng cố quyền lực của mình. Tào Tháo được rất nhiều người tôn sùng, xem như thần tượng, nhiều doanh nhân trên thế giới vận dụng tư tưởng của ông trong kinh doanh, chẳng hạn như hiện tượng "Tam Quốc trong ngành công nghệ thông tin", sự cạnh tranh của ba hãng vi xử lý dành cho máy tính là Intel, AMD và Cyryx (đánh giá của Bill Gates về công nghệ phần cứng những năm cuối thập niên 1990). Trọng Tương vấn Hán Trọng Tương vấn Hán (仲襄問漢) là tác phẩm văn học khuyết danh tác giả, kể theo thuyết tiền căn báo hậu kiếp hay luân hồi quả báo từ thời Hán Sở tranh hùng cho đến thời Tam Quốc. Tác giả xây dựng nội dung để hàng loạt nhân vật thời Hán Sở tái sinh, trong đó danh tướng Hàn Tín nhiều chiến công bị Lưu Bang giết oan đầu thai làm Tào Tháo tung hoành thiên hạ, lập nhiều chiến công ở trung nguyên; còn Lưu Bang bị đầu thai làm Hán Hiến Đế, kiếp sau bị Tào Tháo chèn ép. Thành ngữ Trong dân gian có câu thành ngữ: Đa nghi như Tào Tháo Bị Tào Tháo đuổi Hễ nhắc Tào Tháo là Tào Tháo đến. Xem thêm Tam Quốc Tam Quốc Diễn Nghĩa Tào Ngụy Lưu Bị Tôn Quyền Hà Tiến Đổng Trác Viên Thiệu Lã Bố Viên Thuật Trương Tú Lưu Biểu Mã Đằng Hàn Toại Trương Lỗ Lưu Chương Hán Hiến Đế Quan Vũ Tào Phi Tham khảo Cát Kiếm Hùng chủ biên (2006), Bước thịnh suy của các triều đại phong kiến Trung Quốc, tập 1, NXB Văn hóa thông tin Lê Đông Phương (2007), Kể chuyện Tam Quốc, NXB Đà Nẵng Lê Đông Phương, Vương Tử Kim (2007), Kể chuyện Tần Hán, NXB Đà Nẵng Tào Hồng Toại chủ biên (2004), Thời niên thiếu của các bậc đế vương, NXB Văn hóa thông tin Nguyễn Tử Quang (1989), Tam Quốc bình giảng, NXB tổng hợp An Giang Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân (2006), Tướng soái cổ đại Trung Hoa, tập 1, NXB Lao động Văn học sử Trung Quốc'', GS. Huỳnh Minh Đức dịch, Nxb Trẻ, 1992 Chú thích
Viện Đại học Yale (tiếng Anh: Yale University), còn gọi là Đại học Yale, là viện đại học tư thục ở New Haven, Connecticut. Thành lập năm 1701 ở Khu định cư Connecticut, Yale là một trong những viện đại học lâu đời nhất ở Hoa Kỳ, chỉ sau Trường Đại học Harvard (1636; sau này là Viện Đại học Harvard) và Đại học William & Mary (1693). Được kết hợp thành "Collegiate School", học viện này truy nguyên nguồn gốc của mình đến thế kỷ 17 khi giới lãnh đạo giáo hội tìm cách thành lập một trường đại học nhằm đào tạo mục sư và chính trị gia cho khu định cư. Năm 1718, trường đổi tên thành "Yale College" nhằm vinh danh Elihu Yale, Thống đốc Công ty Đông Ấn Anh Quốc. Năm 1861, Trường Cao học Nghệ thuật và Khoa học là học viện đầu tiên ở Hoa Kỳ cấp bằng Tiến sĩ (PhD.). Đại học Yale là thành viên sáng lập của Hiệp hội các Viện Đại học Mỹ vào năm 1900. Từ đầu thập niên 1930, Yale College được cải tổ thông qua việc thành lập các cơ sở đại học (residential college): hiện có 12 cơ sở, dự định sẽ thành lập thêm hai cơ sở nữa. Yale sử dụng hơn 1 100 nhân sự để giảng dạy và tư vấn cho khoảng 5 300 sinh viên chương trình cử nhân, và 6 100 sinh viên cao học. Tài sản của viện đại học bao gồm 19,4 tỉ USD tiền hiến tặng, đứng thứ hai trong số các học viện nhận tiền hiến tặng nhiều nhất. Có 12, 5 triệu đầu sách được phân phối cho hơn hai mươi thư viện của viện đại học. Trong số những quán quân giải Nobel, 51 người có quan hệ với Yale như là sinh viên, giáo sư, hay nhân viên. Những nhân vật nổi tiếng xuất thân từ Yale có 5 tổng thống Hoa Kỳ, 19 thẩm phán Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, và vài nguyên thủ quốc gia nước ngoài. Trường Luật danh giá của Yale là trường tuyển sinh gắt gao nhất nước Mỹ. Đội thể thao Yale Bulldogs thi đấu liên trường trong Bảng I Ivy League thuộc Hiệp hội Thể thao Đại học Quốc gia (NCAA). Yale và Harvard là hai đối thủ cạnh tranh khốc liệt, với những đỉnh cao truyền thống là The Game (trận đấu bóng bầu dục hằng năm giữa hai viện đại học), và Harvard-Yale Regretta (cuộc đua thuyền hằng năm cũng giữa hai trường). Màu sắc chính thức của viện đại học và các đội thể thao là màu Lam Yale. Lịch sử Khởi thủy Khởi đầu với "Đạo luật Thành lập một Trường Đại học" được Tổng Tòa Khu Định cư Connecticut thông qua ngày 9 tháng 10 năm 1701 trong nỗ lực thiết lập một định chế đào tạo mục sư và giới lãnh đạo thế tục cho Connecticut. Ngay sau đó, một nhóm gồm mười mục sư thuộc giáo hội Tự trị Giáo đoàn: Samuel Andrew, Thomas Buckingham, Israel Chauncy, Samuel Mather, James Noyes, James Pierpont, Abraham Pierson, Noadiah Russell, Joseph Webb và Timothy Woodbridge, tất cả đều là cựu sinh viên Đại học Harvard gặp nhau tại phòng làm việc của Mục sư Samuel Russell ở Brandford, Connecticut, họ gom góp sách để thành lập thư viện đầu tiên của trường. Nhóm người này, với trưởng nhóm là James Pierpont, được gọi là "Những Nhà Sáng lập". Với tên gọi "Collegiate School", học viện khai giảng lần đầu tại nhà riêng của viện trưởng Abraham Pierson, ở Killingworth, nay là Clinton, Connecticut, sau dời đến Saybrook, rồi Wethersfield. Năm 1718, trường được tọa lạc tại New Haven, Connecticut. Cùng lúc xảy ra sự rạn nứt giữa viện trưởng thứ sáu của Harvard, Increase Mather, với các mục sư trong trường về thể chế của giáo hội, Mather quay sang ủng hộ và vận động cho Collegiate School, hi vọng rằng trường sẽ duy trì tinh thần chính thống của Thanh giáo, điều mà Harvard không còn theo đuổi. Năm 1718, Cotton Mather yêu cầu một doanh nhân thành đạt ở xứ Wales tên Elihu Yale trợ giúp tài chính để xây dựng một tòa nhà mới cho trường. Nhờ sự thuyết phục của Jeremiah Dummer, Yale, gây dựng một tài sản trong khi sống ở Ấn Độ như là đại diện cho Công ty Đông Ấn, hiến tặng chín kiện hàng, đem đi bán được 560 bảng Anh, một số tiền đáng giá thời bấy giờ. Yale cũng tặng 417 cuốn sách và một bức chân dung của Vua George I. Cotton Mather đề nghị đổi tên trường thành "Yale College" để bày tỏ lòng biết ơn đối với nhà tài trợ, và cũng để gia tăng cơ hội có thêm những đóng góp mới. Khi tin tức về việc đổi tên trường đến nhà của Elihu Yale ở Wrexham, Wales, ông đang ở Ấn Độ, và không bao giờ trở về. Đào tạo Yale chịu ảnh hưởng sâu đậm từ những phong trào trí thức trong thời kỳ Đại Tỉnh thức và Khai sáng – do sự quan tâm về tôn giáo và khoa học của các viện trưởng như Thomas Clap và Ezra Stiles. Cả hai đã hoạt động hiệu quả trong nỗ lực phát triển chương trình đào tạo có tính khoa học cao trong khi phải đối phó với tình trạng chiến tranh, sự bất ổn trong sinh viên, sự không tương thích trong các giáo trình, nhu cầu cấp bách tìm kiếm sự trợ giúp tài chính, và tranh đấu với viện lập pháp Connecticut. Sinh viên thần học, nhất là vùng New England, xem tiếng Hebrew, cùng với tiếng Hi Lạp và tiếng Latin, là ngôn ngữ cổ điển, rất cần thiết cho việc nghiên cứu Cựu Ước trong nguyên bản. Mục sư Ezra Stiles, viện trưởng từ năm 1778 đến 1795, xem ngôn ngữ Hebrew là phương tiện thiết yếu trong nghiên cứu những bản cổ văn của Kinh Thánh trong nguyên ngữ, yêu cầu tất cả sinh viên năm thứ nhất đều phải học tiếng Hebrew (khác với Havard, ở đây chỉ có những lớp lớn mới học ngôn ngữ này). Ông cũng là người cho ghi dòng chữ Hebrew אורים ותמים (Urim và Thummim) trên huy hiệu của Yale. Thách thức lớn nhất đối với Stiles xảy đến vào tháng 7 năm 1779 khi lực lượng Anh chiếm đóng New Haven và đe dọa san bằng trường đại học. Song, một cựu sinh viên Yale, Edmund Fanning, tùy viên của tư lệnh quân chiếm đóng can thiệp đúng lúc và ngôi trường được bảo toàn. Về sau Fanning được nhà trường trao bằng tiến sĩ danh dự năm 1803. Sinh viên Là trường đại học duy nhất của Connecticut thời ấy, Yale là nơi học tập của các con trai của giới ưu tú. Những vi phạm sẽ bị trừng phạt gồm có: chơi bài, đến quán rượu, phá hoại tài sản nhà trường, và bất tuân giới chức trường học. Lúc ấy, Harvard đã nổi bật với tính ổn định và sự chững chạc của ban giảng huấn trong khi Yale được xem là trẻ trung nhưng đầy nhiệt huyết. Sự quan tâm đặc biệt đến các môn học cổ điển đã sản sinh một số các hội đoàn sinh viên với số hội viên hạn chế. Họ thiết lập các diễn đàn về học thuật hiện đại, văn chương, và chính trị. Các hội đoàn đầu tiên gồm có: Crotonia thành lập năm 1738, Loinonia (1753), và Brothers in Unity (1768). Thế kỷ 19 Bản tường trình năm 1828 của Yale lên tiếng bảo vệ các giáo trình tiếng Latin và tiếng Hi Lạp trước chỉ trích của những người muốn có thêm các giảng khóa về ngôn ngữ hiện đại, toán học, và khoa học. Khác với nền giáo dục đại học tại Âu châu, không có giáo trình quốc gia cho các đại học tại Hoa Kỳ. Vì phải cạnh tranh để thu hút sinh viên và các nguồn hỗ trợ tài chính, giới lãnh đạo đại học phải luôn thích ứng với những đòi hỏi cao về đổi mới. Cùng lúc, họ cũng nhận ra rằng một số lượng đáng kể các sinh viên và sinh viên tiềm năng cần có một nền tảng truyền thống. Bản tường trình của Yale cho biết không thể hủy bỏ những môn học cổ điển, nhưng phải tiếp tục thử nghiệm những giáo trình mới, kết quả thường là hai loại giáo trình cùng song hành. Thể thao Vị anh hùng trong chiến tranh Cách mạng Nathan Hale là hình mẫu của lý tưởng Yale (Hale tốt nghiệp năm 1773) vào đầu thế kỷ 19: một học giả đầy nam tính xuất thân từ giới thượng lưu, xuất sắc trong học thuật và thể thao, sục sôi lòng yêu nước đến nỗi luôn hối tiếc vì mình chỉ có một cuộc đời để cống hiến cho đất nước. Ngày càng có nhiều sinh viên xem các ngôi sao thể thao là những vị anh hùng, nhất là khi chiến thắng trong các cuộc thi đấu trở thành mục tiêu của toàn thể sinh viên, những cựu sinh viên, cũng như những đội thể thao. Cùng với Harvard và Princeton, sinh viên Đại học Yale bác bỏ chủ trương "nghiệp dư" trong thể thao của giới thượng lưu Anh, và bắt tay xây dựng những loại hình thể thao thuần Mỹ như bóng bầu dục. Trong hai năm 1909 và 1910, môn bóng bầu dục đối diện với một cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ sự thất bại của những cải cách trong những năm 1905 và 1906 nhằm giải quyết vấn nạn chấn thương. Các viện trưởng của Harvard, Yale, và Princeton phát triển một đề án cải cách thể thao và tìm cách chặn trước các thay đổi triệt để bị áp đặt bởi chính quyền. Viện trưởng Arthur Hadley của Yale, A. Lawrence Lowell của Harvard, và Woodrow Wilson của Princeton cùng làm việc để phát triển những thay đổi chừng mực nhằm giảm thiểu chấn thương. Nhưng nỗ lực của họ bị giới hạn co cuộc nổi loạn chống lại ban quy tắc và sự thành lập Hiệp hội Thể thao Liên viện. Ba viện đại học hoạt động riêng lẻ và đã giảm thiểu chấn thương. Mở rộng Yale mở rộng dần dần, năm 1810 thành lập trường Y, năm 1822 trường Thần học, năm 1843 trường Luật, năm 1847 trường Cao học Nghệ thuật và Khoa học, cũng trong năm 1847 là trường Khoa học Sheffield, rồi trường Hội họa được thành lập năm 1869. Năm 1887, khi trường tiếp tục phát triển dưới sự lãnh đạo của Timothy Dwight V, Yale College được đổi thành Đại học Yale. Viện đại học về sau mở thêm trường Âm nhạc (năm 1894), trường Lâm nghiệp & Môi trường (Gifford Pinchot thành lập năm 1901), trường Y tế Công cộng (năm 1915), trường Điều dưỡng (1923), trường Kịch nghệ (1955), chương trình Physician Associate (1973), và trường Quản lý (1976). Thế kỷ 21 Năm 2007, Viện trưởng Rick Levin vạch ra những ưu tiên của Yale: "Thứ nhất, trong số những viện đại học nghiên cứu tốt nhất quốc gia, Yale đầu tư đặc biệt cho giáo dục cấp cử nhân. Thứ hai, trong những chương trình cử nhân và cao học, cũng như tại Yale College, chúng ta chú trọng đến việc đào tạo những nhà lãnh đạo." Nhật báo Boston Globe viết, "nếu có một trường học nào chuyên chú đào tạo những nhà lãnh đạo hàng đầu cho đất nước trong suốt ba thập niên qua, thì đó là Yale." Các cựu sinh viên Yale có tên trong các liên danh của hai đảng Dân chủ và Cộng hòa trong các cuộc đua vào Tòa Bạch Ốc từ năm 1972 đến 2004. Những Tổng thống Hoa Kỳ kể từ lúc kết thúc Chiến tranh Việt Nam từng học ở Yale gồm có: Gerald Ford, George H.W. Bush, Bill Clinton, và George W. Bush. Các ứng cử viên tổng thống và phó tổng thổng trong giai đoạn này là John Kerry (2004), Joseph Lieberman (Phó Tổng thống, 2000), và Sargent Shriver (Phó Tổng thống, 1972). Những cựu sinh viên khác của Yale từng ra tranh cử tổng thống có Hillary Rodham Clinton (2008), Howard Dean (2004), Gary Hart (1984 và 1988), Paul Tsongas (1992), Pat Robertson (1988) và Jerry Brown (1976, 1980, 1992). Người ta cố giải thích tại sao Yale có nhiều đại diện trong các cuộc tuyển cử quốc gia kể từ lúc kết thúc Chiến tranh Việt Nam. Những nguồn khác nhau nhận thấy rằng sinh hoạt tích cực tại đại học kể từ thập niên 1960, và ảnh hưởng trí thức của Mục sư William Sloan Coffin trên nhiều sinh viên về sau tham gia vào các chức vụ dân cử là một trong những nguyên nhân. Còn Viện trưởng Yale Richard Levin tin rằng đó là do, kể từ nhiệm kỳ của các viện trưởng Alfred Grisworld và Kingman Brewster, Yale xem việc tạo dựng "một phòng thí nghiệm cho những nhà lãnh đạo trong tương lai" là một ưu tiên. Richard H. Brodhead, từng là khoa trưởng Yale College nay là viện trưởng Đại học Duke, giải thích: "Chúng tôi quan tâm đặc biệt đến việc định hướng cho công đồng khi thực hiện việc tuyển sinh, cũng do truyền thống mạnh mẽ về tình thần tình nguyện tại Yale." Nhà sử học Gaddis Smith, từng học và giảng dạy tại Yale, cho rằng "những đặc điểm của các hoạt động có tổ chức: tại Yale trong thế kỷ 20 đã khiến John Kerry lãnh đạo Đảng Cấp tiến của Liên minh Chính trị Yale, George Pataki lãnh đạo Đảng Bảo thủ, và Joseph Lieberman quản lý tờ Yale Daily News. Camille Paglia vin vào lịch sử thiết lập mạng lưới và tinh thần thượng đẳng: "Cần phải xét đến mạng lưới thân hữu và các hội đoàn được thành lập trong trường." CNN cho rằng George W. Bush hưởng lợi từ chính sách ưu đãi trong tuyển sinh bởi vì ông là "con trai và cháu của những cựu sinh viên," và vì là "thành viên của một gia đình có nhiều thế lực chính trị." Elisabeth Bumiller của tờ New York Times, và James Fallows của nguyệt san The Atlantic Monthly tin rằng văn hóa cộng đồng và tinh thần tương trợ giữa sinh viên, ban giảng huấn, và ban lãnh đạo đã kìm chế ích lợi cá nhân và củng cố tinh thần phục vụ người khác. Trong kỳ tranh cử tổng thống năm 1988, George H. W. Bush (Yale ’48) chế giễu Michael Dukakis về "lập trường ngoại giao sản sinh tại cửa hàng bán lẻ trong khu học xá Harvard." Khi bị tra vấn về sự khác biệt giữa mối quan hệ của Dukakis với Harvard và xuất thân từ Yale của ông, Bush nói, "không giống Harvard, thanh danh của Yale quá lớn đến nỗi không cần có một biểu tượng, trong trường hợp của Yale, tôi nghĩ, không có biểu tượng nào cả", ông cũng thêm rằng Yale không chia sẻ với Harvard những tiếng tăm về "chủ nghĩa tự do và tinh thần thượng đẳng". Howard Dean, ứng viên tranh sự đề cử của Đảng Dân chủ năm 2004, tuyên bố, "Trong một số khía cạnh, tôi khác với ba ứng cử viên năm 2004 cũng xuất thân từ Yale. Yale đã thay đổi nhiều tính từ lớp ’68 và lớp ’71. Lớp của tôi là lớp đầu tiên nhận nữ sinh viên, cũng là lớp đầu tiên có những nỗ lực đáng kể để tuyển sinh viên người Mỹ gốc Phi. Đó là thời điểm rất đặc biệt, trong thời gian ấy đã diễn ra sự thay đổi của cả một thế hệ." Năm 2009, cựu Thủ tướng Anh Tony Blair chọn Yale là một địa điểm – hai địa điểm còn lại là Đại học Durham ở Anh, và Đại học Teknologi Mara – cho Sáng kiến Niềm tin và Toàn cầu hóa Hoa Kỳ của Tổ chức Niềm tin Tony Blair. Từ năm 2009, cựu Tổng thống Mexico Ernesto Zedillo là giám đốc Trung tâm Yale về Nghiên cứu Toàn cầu hóa, và đảm trách việc giảng dạy một khóa chuyên đề cho chương trình cử nhân "Tranh luận Toàn cầu hóa". Vào tháng 8 năm 2013, Đại học Yale ký kết thỏa thuận hợp tác với Đại học Quốc gia Singapore để thành lập Đại học Yale-NUS như một nỗ lợp chung để kiến tạo một ngôi trường theo mô hình giáo dục khai phóng đầu tiên tại Châu Á kết hợp truyền thống văn hóa Á-Âu. Hành chính Ban Quản trị Đại học Yale với 19 thành viên gồm có: Viện trưởng, Thống đốc và Phó Thống đốc Tiểu bang Connecticut, cùng 10 ủy viên, và 6 cựu sinh viên của trường. Richard C. Levin, Viện trưởng Đại học Yale từ năm 1993 đến 2013, là người đứng đầu một trường đại học được trả lương cao nhất tại Hoa Kỳ, năm 2008, thu nhập của ông là 1, 5 triệu đô-la. Tháng 12 năm 2012, sau khi Levin về nghỉ hưu, Peter Salovey, Phó Viện trưởng của Yale từ năm 2008, được chọn thay thế Levin trong cương vị Viện trưởng. Salovey nhậm chức ngày 1 tháng 7 năm 2013. Từ vị trí phó viện trưởng Đại học Yale, vài bậc nữ lưu đã được đề bạt vào chức vụ viện trưởng của những đại học danh giá. Năm 1977, Hanna Holborn Gray được bổ nhiệm quyền Viện trưởng Yale từ vị trí phó viện trưởng, sau đó bà trở thành Viện trưởng Đại học Chicago, là người phụ nữ đầu tiên đảm trách chức vụ lãnh đạo một viện đại học quan trọng. Năm 1994, Phó Viện trưởng Yale Judith Rodin trở thành nữ viện trưởng đầu tiên của một học viện thuộc Ivy League, Đại học Pennsylvania. Năm 2002, Phó Viện trưởng Yale Alison Richard được chọn vào vị trí Phó Viện trưởng Đại học Cambridge. Tương tự, Phó Viện trưởng Susan Hockfield trở thành Viện trưởng Học viện Công nghệ Massachusetts trong năm 2004, và Phụ tá Phó Viện trưởng Kim Bottomly được bổ nhiệm vào chức vụ Viện trưởng Đại học Wellesley vào năm 2007. Bên nam giới thì vào năm 2008, Phó Viện trưởng Andrew Hamilton đảm nhận vị trí Phó Viện trưởng Đại học Oxford. Trước đó, năm 2004, Phó Khoa trưởng Yale College Richard H. Brodhead được chọn làm Viện trưởng Đại học Duke. Khuôn viên đại học Khuôn viên trung tâm của Yale tọa lạc ngay khu trung tâm New Haven, bao trùm một khu đất rộng . Ngoài ra còn có sân golf Yale và khu bảo tồn thiên nhiên với diện tích tổng cộng là thuộc vùng thôn dã của Connecticut và Đảo Horse. Yale nổi tiếng với khuôn viên đại học được xây dựng theo kiến trúc Gothic đại học (Collegiate Gothic), cũng như những tòa nhà được xem như hình mẫu trong kiến trúc: Phòng Triển lãm Nghệ thuật và Trung tâm Nghệ thuật Anh của Louis Kahn, sân trượt băng Ingalls, Ezra Stile College, và Morse College của Eero Saarinen, cũng như Tòa nhà Nghệ thuật & Kiến trúc của Paul Rudolph. Yale sở hữu và phục dựng nhiều tòa nhà nổi tiếng xây dựng từ thế kỷ 19 trên Đại lộ Hillhouse, được Charles Dickens gọi là con phố đẹp nhất nước Mỹ khi ông đến thăm Hoa Kỳ trong thập niên 1840. Nhiều tòa nhà của Yale được thiết kế theo kiến trúc Gothic đại học từ năm 1917 đến 1931, phần lớn được cung cấp tài chính bởi Edward S. Harkness. Trên tường của các tòa nhà là những tác phẩm điêu khắc bằng đá khắc họa chân dung những nhân vật đại học đương thời như tác gia, vận động viên, một nhân vật công chúng đang uống trà, và sinh viên ngủ gật khi đang đọc sách. Tương tự, những tác phẩm trang trí chạm nổi của tòa nhà miêu tả những cảnh sinh hoạt thời ấy như cảnh sát rượt đuổi kẻ trộm hoặc bắt giữ gái buông hương (trên vách Trường Luật), cảnh một sinh viên đang thư giãn với một cốc bia hoặc một điếu thuốc lá. Kiến trúc sư James Gamble Rogers ứng dụng kỹ xảo giả cổ bằng cách cho đổ acid lên tường, đập vỡ có tính toán những cửa sổ kính có chứa chì, rồi chỉnh sửa chúng theo phong cách Trung Cổ, thiết kế những bệ tượng có điêu khắc trang trí rồi để trống để tạo cảm giác theo thời gian chúng đã bị hư hỏng hoặc mất cắp. Trong thực tế, những tòa này trông rất giống các kiến trúc thời Trung Cổ, mặc dù chúng được xây dựng trên nền móng bằng đá khối và có khung thép, những vật liệu phổ biến trong năm 1930. Một ngoại lệ là Tòa tháp Harkness, cao , ban đầu là một kiến trúc với vật liệu xây dựng chính là đá, đến năm 1964 nó được gia cố trở thành Tháp chuông Tưởng niệm Yale. Tòa nhà cổ nhất của khuôn viên đại học Yale là Sảnh Connecticut (xây dựng năm 1750) theo kiến trúc Georgian. Các tòa nhà kiến trúc Georgian được xây dựng từ năm 1929 đến 1933 gồm có Trường Timothy Dwight, Trường Pierson, và Trường Davenport. Thư viện Bản thảo và Sách hiếm Beinecke do Gordon Bunshaft thiết kế là một trong những tòa nhà lớn nhất thế giới dành riêng cho việc bảo tồn sách và bản thảo hiếm, tọa lạc gần trung tâm viện đại học ở Hewitt Quadrangle, được biết đến nhiều hơn với tên "Quảng trường Beinecke". An ninh Ngoài Phòng Cảnh sát Đại học Yale, thành lập năm 1894, còn có các dịch vụ an ninh khác như điện thoại xanh, hộ tống, và xe buýt con thoi. Trong những thập niên 1970 và 1980, nghèo khổ và tội phạm bạo lực nổi lên ở New Haven ảnh hưởng đến nỗ lực tuyển sinh của Yale. Từ năm 1990 đến 2006, mức tội phạm xuống còn một nửa nhờ chiến lược cảnh sát cộng đồng của Cảnh sát New Haven và khuôn viên đại học Yale trở thành địa điểm an toàn nhất trong Ivy League. Trong quãng thời gian từ năm 2002 đến 2004, có 14 báo cáo về tội phạm bạo lực tại Yale (giết người, tấn công nghiêm trọng, và tấn công tình dục), trong khi tại Harvard con số này là 83, Princeton là 24, và Stanford là 54. Học thuật Tuyển sinh Trong kỳ tuyển sinh cho khóa sẽ tốt nghiệp vào năm 2016, Yale sẽ nhận 1 975 sinh viên trong tổng số thí sinh kỷ lục 28 975, đạt mức thấp nhất cho một kỳ tuyển sinh 6, 8%. Hơn 50% sinh viên Đại học Yale được hỗ trợ tài chính, hầu hết là những khoản trợ cấp (grant) và học bổng. Trị giá trung bình một học bổng ở Yale là 35 400 USD một năm. Một nửa số sinh viên hệ cử nhân tại Yale là nữ, hơn 30% thuộc các chủng tộc thiểu số, và 8% là sinh viên quốc tế. Trong tổng số sinh viên, 55% từng học trường công, và 45% tốt nghiệp từ các trường tư thục, tôn giáo hoặc quốc tế. Những bộ sưu tập Thư viện Đại học Yale, với hơn 12 triệu đầu sách, là thư viện đại học lớn thứ hai tại Hoa Kỳ. Cơ sở chính, Thư viện Tưởng niệm Sterling, chứa hơn 4 triệu đầu sách. Có nhiều sách hiếm được tìm thấy trong các bộ sưu tập của Yale. Thư viên Sách hiếm Beinecke có một bộ sưu tập lớn sách và bản thảo hiếm. Thư viện Y khoa Harvey Cushing/Johnh Hay Whitney có những văn bản y khoa có tính lịch sử, bao gồm những quyển sách hiếm cũng như các thiết bị y tế có tính lịch sử. Thư viện Lewis Walpole chứa bộ sưu tập lớn nhất về các tác phẩm văn học Anh. Câu lạc bộ Elizabeth, về mặt kỹ thuật là một tổ chức tư nhân, cung cấp cho những nhà nghiên cứu ở Yale những trang rời cũng như các ấn bản đầu tiên thời kỳ Elizabeth. Những bộ sưu tầm bảo tàng của Yale có giá trị quốc tế. Phòng Triển lãm Nghệ thuật Đại học Yale là bảo tàng viện nghệ thuật đầu tiên trong hệ thống bảo tàng viện thuộc các viện đại học, chứa hơn 180 000 tác phẩm, trong đó có những tác phẩm của các danh họa xưa và những bộ sưu tập quan trọng thuộc nghệ thuật hiện đại. Trung tâm Nghệ thuật Anh của Yale là bộ sưu tập nghệ thuật Anh lớn nhất bên ngoài nước Anh, khởi đầu với sự hiến tặng của Paul Mellon. Bảo tàng Lịch sử Thiên nhiên Peabody có những bộ sưu tập về nhân học, khảo cổ học, và môi trường thiên nhiên. Xếp hạng Năm 2012, tờ U.S. News & World Report xếp Yale đứng hạng ba trong số các viện đại học ở Hoa Kỳ; trong 15 năm qua, Yale luôn ở vị trí này, đứng sau hoặc đồng hạng với Princeton hay Harvard. Năm 2011, Yale đứng thứ tư trong bảng xếp hạng QS World University Rankings, và thứ 10 trong năm 2010 theo Times Higher Education World University Rankings. (Năm 2010 Times Higher Education World University Rankings và QS World University Rankings tách ra.) Yale ở trong năm hạng đầu từ bốn năm qua. Năm 2010, Academic Ranking of World Universities của Đại học Jiao Tong Thượng Hải chọn Yale vào vị trí thứ 11, ARWU cũng xếp Yale thứ 25 về Khoa học Tự nhiên và Toán học, từ 76 đến 100 trong về Kỹ thuật và Khoa học Điện toán, hạng 9 về Đời sống và Nông nghiệp, 21 về Y khoa Lâm sàng và Dược, và hạng 8 về Khoa học Xã hội. Giảng dạy, nghiên cứu, và truyền thống trí thức Yale College là nguồn cung cấp nghiên cứu sinh tiến sĩ lớn thứ 10 cho Hoa Kỳ, và là nguồn lớn nhất của Ivy League. Ban Ngữ văn Anh và Văn học So sánh tham dự vào Phong trào New Criticism. Nhưng tên tuổi của phong trào này như Robert Penn Warren, W. K. Wimsatt, và Cleanth Brooks đều thuộc ban giảng huấn của Yale. Ban Sử của Yale xuất phát từ những trào lưu trí thức quan trọng. Những nhà sử học như C. Vann Woodward và David Brion Davis đều có công trong việc xây dựng nguồn sử gia miền Nam từ những thập niên 1960 và 1970. Trường Âm nhạc Yale giúp thúc đẩy sự phát triển môn lý thuyết âm nhạc trong hạ bán thế kỷ 20. Tạp chí Lý thuyết Âm nhạc được thành lập năm 1957; Allen Forte và David Lewin là những giáo sư và học giả có nhiều ảnh hưởng. Nếp sống Đại học Yale là một đại học nghiên cứu quy mô trung bình, hầu hết sinh viên thuộc các trường cao học hoặc chuyên ngành. Sinh viên hệ cử nhân, thuộc Yale College, đến từ nhiều thành phần chủng tộc, quốc tịch, và giai tầng khác nhau. Trong tổng số sinh viên năm thứ nhất niên khóa 2010 – 2011, 10% không phải công dân Hoa Kỳ, và 54% tốt nghiệp trung học công lập. Yale có quan điểm cởi mở đối với cộng đồng đồng tính nam. Do những hoạt động tích cực của cộng đồng đồng tính luyến ái vào cuối thập niên 1980, Yale bị gán cho biệt danh "Gay Ivy". Các Trường, Khoa Yale có một mạng lưới gồm 12 trường đại học. Mỗi trường có hiệu trưởng và ban giảng huấn riêng. Mỗi trường cũng có các công trình kiến trúc đặc thù, sân trường, phòng họp, phòng học, và phòng ăn; ngoài ra còn có nhà nguyện, thư viện, sân bóng squash, bàn bi-a, quán cà-phê… Mỗi trường thuộc Đại học Yale tự tổ chức các khóa chuyên đề, các sự kiện xã hội, hầu hết đều mở cửa cho sinh viên đến từ các trường khoa khác. Tên các trường khoa được đặt theo các nhân vật hoặc các địa danh quan trọng trong lịch sử Đại học Yale. Danh sách các Trường Khoa Dưới đây là các Trường Khoa thuộc Đại học Yale. Berkeley College, vinh danh Giám mục Anh giáo George Berkeley (1685–1753), nhà tài trợ cho Yale từ lúc ban đầu. Branford College, theo địa danh Branford, Connecticut, nơi Yale tọa lạc trong một thời gian ngắn. Calhoun College, vinh danh John C. Calhoun, Nghị sĩ Quốc hội, Phó Tổng thống Hoa Kỳ. Davenport College, vinh danh Mục sư John Davenport, người thành lập New Haven. Trường thường được gọi tắt là "D'port". Ezra Stiles College, vinh danh Mục sư Ezra Stiles, một viện trưởng của Yale. Trường thường được gọi là Generally "Stiles". Jonathan Edwards College, vinh danh nhà thần học, cựu sinh viên Yale, và người đồng sáng lập Đại học Princeton Jonathan Edwards. Thường gọi tắt là "J.E." Đây là trường lâu đời nhất trong hệ thống trường khoa của Yale. Morse College, vinh danh Samuel F. B. Morse, nhà sáng chế Mã Morse và điện báo. Pierson College, vinh danh viện trưởng đầu tiên của Yale, Abraham Pierson. Có một bức tượng của Abraham Pierson tại Old Campus. Saybrook College, theo tên Old Saybrook, Connecticut, nơi Yale được thành lập. Silliman College, vinh danh nhà khoa học, giáo sư tại Yale Benjamin Silliman. Một nửa cơ sở của Silliman College trước đây thuộc Trường Khoa học Sheffei, trường này cũng thuộc Yale. Timothy Dwight College, vinh danh hai viện trưởng cùng tên, Timothy Dwight IV và Timothy Dwight V. Thường gọi tắt là "T.D." Trumbull College, vinh danh Jonathan Trumbull, Thống đốc đầu tiên của Connecticut. Các tổ chức sinh viên Đại học Yale có những loại tập san, tạp chí, và nhật báo của sinh viên, trong đó có Yale Daily News, xuất bản từ năm 1878, tuần san Yale Herald từ năm 1986, và The Yale Record từ năm 1872, đây là tạp chí hài lâu đời nhất ở Mỹ. Dwight Hall, một tổ chức cộng đồng độc lập, bất vụ lợi với hơn 2 000 sinh viên hoạt động trong hơn 70 dịch vụ cộng đồng tại New Haven. Hội đồng Yale College điều hành những đơn vị quản lý các dịch vụ và sinh hoạt sinh viên. Hội Kịch nghệ Yale và Bulldog Productión cung ứng cho các cộng đồng kịch nghệ và điện ảnh. Liên minh Chính trị Yale có sự tư vấn của những chính trị gia là cựu sinh viên như John Kerry và George Pataki. Cũng có các hội ái hữu dành cho nam hoặc nữ sinh viên. Trong số 18 nhóm a cappella của Yale, nổi tiếng nhất là The Whiffenpoofs. Các hội kín của Yale có Skull and Bones, Scroll and Key, Wolf's Head, Book and Snake, Elihu, Berzelius, St. Elmo, Manuscript, và Mace and Chain. Câu lạc bộ Elizabeth thu hút các sinh viên đại học, sinh viên cao học, ban giảng huấn và nhân viên nhà trường quan tâm đến văn học và nghệ thuật. Thể thao Yale hỗ trợ cho 35 đội thể thao thi đấu cho các giải Ivy League, Thể thao Đại học miền Đông, và Hội Thuyền buồm Liên đại học. Các đội thể thao của Yale cũng tranh tài trong Bảng I Hiệp hội Thể thao Đại học Quốc gia (NCAA). Giống các thành viên khác thuộc Ivy League, Yale không cung cấp học bổng thể thao. Các cơ sở thể thao của Yale gồm có Yale Bowl (sân vận động "bowl" tự nhiên đầu tiên của quốc gia, và là hình mẫu cho những sân vận động như Los Angeles Memorial Coliseum, và Rose Bowl), tọa lạc trong khu phức hợp thể thao Walter Campt, và Payne Whitney Gymnasium, phức hợp thể thao trong nhà lớn thứ hai trên thế giới. Ngày 21 tháng 9 năm 2000 khánh thành cơ sở đua thuyền thứ tư của Yale trong 157 năm tranh tài môn đua thuyền đại học. Nhà đua thuyền Richard Gilder vinh danh vận động viên Olympic môn đua thuyền năm 79 Virginia Gilder và cha của cô Richard Gilder, Olympic ’54, người đã tặng 4 triệu USD trong tổng số 7, 5 triệu USD dành cho đề án. Yale cũng quản lý Gales Ferry, địa điểm huấn luyện cho Đội đua thuyền Yale-Havard. Đội đua thuyền của Yale là đội thể thao đại học đầu tiên ở Mỹ giành huy chương vàng Olympic 1924 và 1956 cho giải đua thuyền tám người. Câu lạc bộ thuyền buồm Yale Corinthian, thành lập năm 1881, là câu lạc bộ thuyền buồm đại học lâu đời nhất trên thế giới. Năm 1896, đội Yale và đội Johns Hopkins thi đấu trận hockey trên băng đầu tiên ở Hoa Kỳ. Người nổi tiếng Nhà tài trợ Yale được nhiều người hỗ trợ tài chính. Trong số những nhà tài trợ lớn được tưởng niệm tại đại học có: Elihu Yale; Jeremiah Dummer; gia đình Harness (Edward, Anna, và William); gia đình Beinecke (Edwin, Frederick, và Walter); John William Sterling; Payne Whitney; Josephs E. Sheffiled, Paul Mellon, Charles B. G. Murphy, và William K. Lanman. Cựu sinh viên Yale niên khóa 1954, dưới sự hướng dẫn của Richard Gilder, quyên tặng 70 triệu USD nhân lễ kỷ niệm 50 năm họp mặt. Cựu sinh viên và ban giảng huấn Nhiều cựu sinh viên Yale nổi tiếng trong các lĩnh vực khác nhau. Trong số họ có các Tổng thống Hoa Kỳ William Howard Taft, Gerald Ford, George H.W. Bush, Bill Clinton và George W. Bush; Thủ tướng Ý Mario Monti; các thẩm phán Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ Sonia Sotomayor, Samuel Alito và Clarence Thomas; các ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Rodham Clinton, Cyrus Vance, và Dean Acheson; ứng cử viên tổng thống Đảng Dân chủ John Kerry; các tác gia Sinclair Lewis, Stephen Vincent Benét, và Tom Wolfe; nhà soạn từ điển Noah Webster; những nhà sáng chế Samuel F.B. Morse và Eli Whitney; nhà ái quốc và là điệp báo đầu tiên Nathan Hale; nhà thần học Jonathan Edwards; các diễn viên và đạo diễn được trao giải Oscar Paul Newman, Vincent Price, Meryl Streep, Jodie Foster, Frances McDormand, Angela Bassett, Elia Kazan, George Roy Hill, Oliver Stone, và Michael Cimino; Viện trưởng Đại học Rose Bruford về Sân khấu và Trình diễn ở Luân Đôn Michael Early; "Ông tổ môn bóng bầu dục Mỹ" Walter Camp; những nhà soạn nhạc Charles Ives, và Cole Porter; nhà sáng lập Đoàn Hòa bình Sargent Shriver; nhà tâm lý học trẻ em Benjamin Spock; nhà điêu khắc Richard Serra; nhà phê bình điện ảnh Gene Siskel; nhà bình luận trên truyền hình Dick Cavett, và Anderson Cooper; chuyên gia William F. Buckley, Jr., và Fareed Zakaria; đồng sáng lập tạp chí Time và là người sáng lập phương phap báo chí hiện đại Briton Hadden, cùng đồng sáng lập còn lại Henry Luce; Tổng thống Mexico Ernesto Zedillo; Tổng thống Đức Karl Carstens; Tổng thống Philippines Jose Paccino Laurel; quán quân giải Nobel Kinh tế và tác gia Paul Krugman, Robert Shiller; nhà phát minh cyclotron và là người đoạt giải Nobel Vật lý Ernest Lawrence; giám đốc Đề án Gene con người Francis S. Collins; nhà kinh tế học Irving Fishcher, nhà toán học và hóa học Josiah Willard Gibbs; Morgan Stanley người sáng lập Harold Stanley; CEO Boeing James McNerney; người sáng lập FedEx Frederick W. Smith; Thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ Tansu Çiller; chủ tịch Time Warner Jeffrey Bewkes; các kiến trúc sư Eero Saarinen, và Norman Foster. Yale trong văn học và văn hóa phổ thông Đại học Yale, một trong những viện đại học lâu đời nhất ở Hoa Kỳ, được nhắc đến như là một định chế sản sinh nhiều người thuộc thành phần ưu tú của xã hội. Khung cảnh nhà trường, cựu sinh viên, sinh viên đang theo học là những nhân tố xuất hiện trong các tác phẩm văn chương và trong văn hóa phổ thông ở Hoa Kỳ. Lấy thí dụ, cuốn tiểu thuyết "Stover at Yale" của Owen Johnson, dẫn dắt người đọc dõi theo những diễn biến nghề nghiệp trong đại học của Dink Stover và Frank Merriwell, là hình mẫu cho những tiểu thuyết thể thao tuổi thiếu niên sau này, chơi bóng bầu dục, bóng chày, đua thuyền, và điền kinh tại Yale, đồng thời giải quyết những ẩn khuất và sửa chữa những sai lầm. Đại học Yale cũng được nhắc đến trong cuốn tiểu thuyết "The Great Gatsby" của F. Scott Fitzgerald. Nick Carraway và Tom Buchanan đều tốt nghiệp từ Yale. Nick viết một loạt bài xã luận cho tờ Yale News trong khi Tom là "một trong những hậu vệ giỏi nhất từng chơi bóng bầu dục tại New Haven."
Bóng bàn là một môn thể thao trong đó hai hoặc bốn người chơi tham gia đánh một trái bóng nhẹ (trái bóng bàn) qua lại trên một chiếc bàn bằng một cây vợt nhỏ. Trò chơi diễn ra trên một mặt bàn cứng được chia làm đôi bởi một tấm lưới. Ngoại trừ loạt giao bóng đầu tiên, bóng bàn có quy tắc thi đấu chung như sau: người chơi phải để trái bóng hướng về phía bản thân nảy đúng một lần trên phần bàn của mình, và trả trái bóng về phía đối phương, sao cho nó nảy ít nhất một lần trên phần bàn của họ. Một điểm được ghi khi có một người chơi không thể trả bóng theo đúng luật. Đây là một trò chơi có tốc độ cao và cũng đòi hỏi phản xạ nhanh nhạy. Tác động tạo xoáy cho trái bóng để thay đổi quỹ đạo và hạn chế các lựa chọn của đối phương là một phương pháp mang lại lợi thế lớn. Bộ môn bóng bàn được điều hành bởi một tổ chức toàn cầu mang tên Liên đoàn bóng bàn quốc tế (ITTF), thành lập năm 1926. Hiện nay, ITTF đã có 226 hiệp hội thành viên. Những điều luật cơ bản của môn bóng bàn đều được ghi trong sổ tay của ITTF. Bóng bàn trở thành môn thể thao Olympic kể từ năm 1988, với một vài nội dung thi đấu. Từ năm 1988 tới năm 2004, tại Thế vận hội, môn này bao gồm các nội dung: đơn nam, đơn nữ, đôi nam và đôi nữ. Đến năm 2008, nội dung đồng đội được tổ chức thay thế cho các nội dung đánh đôi. Tên gọi trong Tiếng Anh của môn thể thao này là table tennis, còn được gọi là ping-pong hoặc whiff-whaff. Lịch sử thế=|nhỏ|Trò chơi ping-pong của hãng Parker Brothers Môn thể thao này có nguồn gốc từ nước Anh thời Victoria, vốn là một trò giải trí trong phòng khách sau giờ ăn tối. Có ý kiến cho rằng phiên bản sơ khai của trò chơi được phát triển bởi các sĩ quan quân đội Anh ở Ấn Độ vào khoảng những năm 1860 hoặc 1870, rồi sau đó mới được mang trở về quê hương. Người ta sử dụng một dãy sách dựng dọc giữa bàn để làm lưới, và dùng hai cuốn sách nữa làm vợt, đánh một trái bóng gôn qua lại liên tục. Cái tên "ping-pong" được sử dụng rộng rãi trước khi công ty J. Jaques & Son Ltd của Anh đăng ký bản quyền vào năm 1901. Từ đó, nó dùng để đặt tên trò chơi được chơi bằng các thiết bị đắt tiền của hãng Jaques, những nhà sản xuất khác thì phải gọi là bóng bàn. Điều tương tự cũng diễn ra ở Hoa Kỳ, khi Jaques bán bản quyền trò chơi "ping-pong" cho Parker Brothers. Hãng Parker Brothers sau đó cũng tiến hành đăng ký bản quyền cho thuật ngữ này vào những năm 1920, khiến các công ty khác buộc phải đổi tên trò chơi của họ thành "bóng bàn" thay vì "ping-pong" vốn phổ biến hơn, nhưng đã bị độc quyền thương hiệu. Môn thể thao có sự biến chuyển lớn đưới tác động của James W. Gibb, một người Anh đam mê bóng bàn, ông tìm ra những trái bóng celluloid trong một chuyến đi Mỹ vào năm 1901 và nhận thấy chúng rất lý tưởng cho bóng bàn. Tiếp theo phải kể đến E.C. Goode, người phát minh ra phiên bản hiện đại hơn của vợt bóng bàn bằng cách cố định một tấm cao su nhão hoặc bị dập vào phần cốt vợt bằng gỗ. Bóng bàn ngày càng phổ biến vào năm 1901 khi những giải đấu đầu tiên ra đời và những cuốn sách viết về môn thể thao này bắt đầu xuất hiện. Tới năm 1902, một giải vô địch thế giới không chính thức được tổ chức. Trong những ngày đầu, hệ thống tính điểm của bóng bàn giống như môn quần vợt sân cỏ. Mặc dù cả "Hiệp hội ping-pong" và "Hiệp hội bóng bàn" đều đã tồn tại từ năm 1910, một hiệp hội mới vẫn được thành lập vào năm 1921 và vào năm 1926 thì nó mang tên Hiệp hội bóng bàn Anh. Liên đoàn bóng bàn quốc tế (ITTF) cũng ra đời vào năm 1926. Luân Đôn là nơi đăng cai tổ chức Giải vô địch thế giới chính thức đầu tiên vào năm 1926. Năm 1933, Hiệp hội Bóng bàn Hoa Kỳ, nay gọi là Bóng bàn Hoa Kỳ, được thành lập. Vào những năm 1930, Edgar Snow nhận xét trên tờ Red Star Over China rằng các lực lượng Cộng sản trong cuộc Nội chiến Trung Quốc có "niềm đam mê với môn bóng bàn kiểu Anh" mà ông thấy "kỳ lạ". Sự phổ biến của bóng bàn suy giảm vào những năm 1930 tại Liên Xô, một phần do sự ưu ái dành cho các môn thể thao mang tính đồng đội và quân sự, và một phần cũng do giả thuyết cho rằng trò chơi này gây hại tới sức khỏe. Những năm 1950, các cây vợt có cấu tạo gồm một tấm cao su kết hợp với một lớp cao su xốp bên dưới đã thay đổi trò chơi một cách đáng kể, gia tăng yếu tố tốc độ và độ xoáy. Chúng được giới thiệu đến Anh bởi nhà sản xuất đồ thể thao S.W. Hancock Ltd. Keo tăng lực bắt đầu được đưa vào sử dụng từ giữa những năm 1980 đã ngày càng làm gia tăng độ xoáy và tốc độ của bóng bàn, dẫn đến việc người ta tìm cách tinh chỉnh thiết bị để làm "giảm tốc độ trận đấu". Bóng bàn chính thức trở thành một môn thể thao Olympic tại Thế vận hội năm 1988. Những thay đổi về luật thế=|nhỏ|Trái bóng bàn 40 mm Sau Thế vận hội 2000 tại Syney, ITTF tiến hành một loạt thay đổi điều luật với mong muốn làm cho môn bóng bàn trở nên phù hợp để khán giả theo dõi qua màn hình nhỏ hơn. Đầu tiên, loại bóng 38 mm (1.50 in) hoàn toàn được thay thế bằng loại bóng 40 mm (1.57 in) vào tháng 10 năm 2000. Điều này làm tăng sức cản không khí cho trái bóng, góp phần làm giảm tốc độ trận đấu. Nhưng cũng trong thời gian này, người chơi bắt đầu tìm cách tăng độ dày lớp mút trên cây vợt của họ, và khiến tốc độ bóng vẫn rất nhanh làm cho khán giả xem truyền hình khó mà bắt kịp. Vài tháng sau, ITTF chuyển hệ thống tính điểm 21 điểm thành 11 điểm đồng thời giảm khoảng cách luân chuyển giao bóng từ năm điểm xuống còn hai điểm, chính thức có hiệu lực vào tháng 9 năm 2001, khiến cho một trận đấu bóng bàn có nhịp độ nhanh và thú vị hơn. Từ năm 2002, ITTF cũng cải biên điều luật giao bóng, ngăn chặn hành vi che bóng khi giao, nhằm tăng thời gian trung bình của mỗi lượt chơi và giảm lợi thế của người cầm giao bóng. Để đối phương có thời gian nhìn nhận pha giao bóng, trái bóng trước khi vào cuộc cần được tung lên không trung với độ cao ít nhất 16 cm (6.3 in). ITTF cũng thông báo rằng tất cả các sự kiện bóng bàn sau tháng 7 năm 2014 đều phải sử dụng loại bóng làm từ chất liệu poly mới. Dụng cụ Bóng thế=|nhỏ|360x360px|Những trái bóng bàn loại 40+ mm với dấu chứng nhận từ ITTF Các điều luật quốc tế quy định môn bóng bàn được chơi với một trái bóng có khối lượng 2.7 gam (0.095 oz) và đường kính 40 mm (1.57 in). Điều luật chi tiết hơn còn nói rằng trái bóng đạt chất lượng sẽ nảy lên 24–26 cm (9.4-10.2 in) khi thả từ độ cao 30.5 cm (12.0 in) xuống một khối thép tiêu chuẩn, do đó có hệ số COR rơi vào khoảng 0.89 đến 0.92. Trái bóng ngày này được làm bằng polymer thay thế cho chất liệu celluloid từ năm 2015, có màu trắng hoặc da cam, với phần lớp phủ bề mặt mờ. Công tác chọn màu cho trái bóng dựa trên màu của bàn và môi trường thi đấu xung quanh. Ví dụ, một trái bóng màu trắng dễ nhìn thấy trên bàn màu xanh lá cây hoặc xanh lam hơn là trên bàn màu xám. Các hãng sản xuất thường thể hiện chất lượng trái bóng của họ bằng hệ thống xếp hạng sao, thường là từ một đến ba sao, ba sao là cấp cao nhất. Nhưng vì hệ thống này không có quy chuẩn thống nhất chung, nên để biết một trái bóng có đạt chuẩn thi đấu chính thức không thì phải thông qua sự chấp thuận của ITTF (có thể được thể hiện bằng logo chứng nhận ngay trên trái bóng). Loại bóng 40 mm được cho ra mắt sau khi Thế vận hội Mùa hè năm 2000 kết thúc, trước đây bóng 38 mm mới là bóng tiêu chuẩn. Sự kiện này gây ra một vài tranh cãi. Chẳng hạn như việc tay vợt số một thế giới Vladimir Samsonov đe dọa rút khỏi World Cup, khi liên đoàn dự kiến đưa trái bóng quy chuẩn mới vào thi đấu từ ngày 12 tháng 10 năm 2000. Bàn thế=|nhỏ|450x450px|Minh họa một bàn thi đấu bóng bàn với các kích thước quy chuẩn Bàn thi đấu có chiều dài 2.74 m (9.0 ft), rộng 1.525 m (5.0 ft) và cao 76 cm (2.5 ft), làm từ bất kỳ vật liệu liên tục nào miễn là tạo ra độ nảy đồng đều khoảng 23 cm (9.1 in) khi thả một trái bóng tiêu chuẩn từ độ cao 30 cm (11.8 in) hoặc từ khoảng 77% mức này. Bàn cũng như phần bề mặt tiếp xúc phải có màu tối và mờ đồng nhất, được chia đều thành hai nửa bằng một tấm lưới có chiều cao 15.25 cm (6.0 in). ITTF thì chỉ phê duyệt bàn làm từ gỗ hoặc các dẫn xuất của gỗ. Kiểu bàn bê tông có lưới thép hoặc đơn thuần là vách ngăn bằng bê tông, đôi khi xuất hiện ở các địa điểm công cộng, chẳng hạn như công viên. Vợt thế=|nhỏ|Manika Batra người Ấn Độ đang trả bóng. Mặt vợt trái tay của cô là mặt gai dài, một loại mặt hiếm khi được các tay vợt đỉnh cao sử dụng. Mỗi người chơi được trang bị một cây vợt gỗ, với nhiều lớp phủ cao su ở một hoặc hai mặt tùy theo phong cách cầm vợt. ITTF dùng thuật ngữ "racket" để gọi tên dụng cụ này, mặc dù từ "bat" phổ biến ở Anh còn từ "paddle" thì được dùng ở Mỹ và Canada. Phần gỗ của vợt được gọi là "cốt vợt", thường được đặc trưng cấu tạo từ một đến bảy lớp gỗ, thực tế thì không chỉ gỗ mà đôi khi còn là các vật liệu khác như cork, sợi thủy tinh, sợi carbon, sợi tổng hợp Kevlar. Theo quy định của ITTF, ít nhất 85% bề dày của cốt vợt phải là gỗ tự nhiên. Các loại gỗ thường được sử dụng là balsa, limba, cypress hoặc "hinoki" khá phổ biến ở Nhật Bản. Về kích thước trung bình, cốt vợt có chiều dài khoảng 17 cm (6.7 in), chiều rộng khoảng 15 cm (5.9 in), dù các hạn chế chính thức chỉ xoay quanh độ phẳng và độ cứng của chính cốt vợt, nhưng kích thước kể trên là tối ưu cho hầu hết các phong cách chơi. Quy định bóng bàn cho phép các mặt cao su khác nhau ở mỗi bên của cây vợt. Các loại mặt vợt khác nhau thì cho chỉ số về độ xoáy và tốc độ khác nhau, trong nhiều trường hợp, chúng còn có khả năng vô hiệu hóa độ xoáy. Ví dụ, một người chơi có thể có một mặt vợt cung cấp nhiều độ xoáy và mặt còn lại thì không tạo xoáy. Bằng cách lật vợt khi chơi, họ có thể có những kiểu trả bóng khác nhau. Để hỗ trợ người chơi nhận diện được các mặt cao su của đối thủ, người ta quy định một mặt cao su phải có màu đỏ, mặt còn lại có màu đen. Người chơi có quyền kiểm tra vợt của đối thủ trước trận đấu để xem loại cao su được sử dụng và màu sắc của nó. Dù là chơi với tốc độ cao và xoay mặt vợt nhanh thì người chơi vẫn hoàn toàn có thể thấy rõ mặt vợt vừa được đối thủ sử dụng để vào bóng. Luật hiện hành cấm thay đổi vợt trong bất kì thời điểm nào của trận đấu, trừ khi hỏng hóc trong quá trình thi đấu. Thi đấu thế=|nhỏ|Thi đấu bóng bàn Bắt đầu một trận đấu Theo điều 2.13.1 của ITTF, lượt giao bóng đầu tiên sẽ được quyết định thông qua phương pháp bắt thăm, phổ biến là tung đồng xu. Cũng khá thường thấy khi một người chơi (hoặc trọng tài) cầm trái bóng trong một bàn tay nào đó, giấu dưới gầm bàn, và để một người chơi còn lại đoán thử trái bóng ở trong tay nào, nếu đoán đúng sẽ được quyền giao bóng trước, hoặc chọn bên bàn để thi đấu. Giao bóng và trả giao bóng thế=|nhỏ|Một pha giao bóng của tay vợt chuyên nghiệp người Nga Alexander Shibaev Trong ván đấu, người cầm giao bóng là người bắt đầu một lượt chơi. Người cầm giao bóng trong tư thế đứng, giữ trái bóng nằm trên lòng bàn tay không cầm vợt được gọi là tay không thuận. Tiếp đó tung không xoáy trái bóng lên không trung với độ cao ít nhất là 16 cm (6.3 in). Người cầm giao bóng dùng vợt tác động vào trái bóng, sao cho bóng chạm phần bàn của mình trước và sau đó chạm trực tiếp vào bàn của người trả giao bóng mà không để chạm vào cụm lưới. Trong các trận đấu cấp thấp, nhiều người chơi bỏ qua thao tác tung bóng. Tuy nhiên, điều này là trái luật và có thể mang lại cho người cầm giao bóng lợi thế không công bằng. Suốt quá trình giao bóng, trái bóng phải ở phía trên mặt bàn và đằng sau đường biên cuối bàn, gọi là bề mặt thi đấu. Người cầm giao bóng không được dùng cơ thể hoặc quần áo để che khuất tầm nhìn trái bóng, tức là đối phương và trọng tài phải luôn nhìn rõ trái bóng. Nếu trọng tài cho rằng một pha giao bóng phạm quy, trước hết họ sẽ tạm ngừng pha giao bóng đó và đưa ra cảnh báo cho người chơi. Sau đó, nếu giao bóng hỏng rõ ràng hoặc bị trọng tài nghi ngờ về tính hợp lệ một lần nữa, người trả giao bóng sẽ ghi điểm. Nếu người cầm giao bóng có pha giao bóng "tốt", thì người trả giao bóng phải trả bóng "tốt" bằng cách đánh trái bóng trước khi nó kịp nảy thêm lần thứ hai, trái bóng sẽ phải qua lưới và lập tức (hoặc sau khi chạm lưới) nảy ít nhất một lần tại phần bàn của đối phương. Tiếp đó, cả người cầm giao bóng và người trả giao bóng phải liên tục trả bóng cho tới khi kết thúc một lượt chơi. Trả giao bóng là một trong những phần khó nhất trận đấu, vì quả giao bóng ban đầu thường khó dự đoán và do đó cũng là pha bóng mang lại nhiều lợi thế nhất cho người chơi, khi họ có thể tùy ý lựa chọn tốc độ lẫn độ xoáy. Let Let là một lượt chơi mà kết quả ghi điểm không được công nhận, và được trọng tài gọi cho các trường hợp sau: Khi giao bóng, bóng chạm lưới nhưng các yếu tố khác của một pha giao bóng tốt đều thỏa mãn hoặc trái bóng bị cản trở bởi người chơi thuộc bên cầm giao bóng. Cản trở ở đây nghĩa là một người chơi chạm vào bóng khi nó vẫn còn ở trên không trung, và bóng vẫn chưa hề chạm vào phần bàn của người chơi đó kể từ lần cuối cùng nó bị tác động. Khi người nhận bóng chưa chuẩn bị sẵn sàng mà bóng vẫn được giao. Khi người chơi không thể thực hiện giao bóng tốt hoặc trả bóng tốt do xáo trộn ngoài tầm kiểm soát của họ. Khi pha bóng bị gián đoạn bởi trọng tài hoặc trợ lý trọng tài. Let còn được gọi cho pha giao bóng lỗi, trong trường hợp trái bóng được đánh bởi người cầm giao bóng đồng thời trái bóng không ở sau đường biên cuối bàn hoặc trái bóng chạm mép bàn hoặc trái bóng chạm lưới. Ghi điểm thế=|nhỏ|Trọng tài bóng bàn Người chơi ghi được điểm với các kết quả trong lượt chơi sau: Đối phương không thể thực hiện thành công một pha giao bóng tốt hoặc trả bóng tốt. Sau khi thực hiện một pha giao bóng tốt hoặc một pha trả bóng tốt, trái bóng chạm vào bất kỳ thứ gì khác ngoài cụm lưới trước khi được đối phương đánh đi. Trái bóng vượt quá phần bàn hoặc ra ngoài đường biên cuối bàn của người chơi mà chưa chạm vào phần bàn của họ sau khi bị đối phương đánh đi. Đối phương cản trở bóng. Đối phương tác động vào bóng hai lần liên tiếp. Chú ý, tay cầm vợt cũng được tính là một phần của vợt và một pha trả bóng tốt thực hiện bằng bàn tay hoặc ngón tay thì vẫn được công nhận. Không tính là lỗi nếu trái bóng vô tình chạm tay hoặc ngón tay rồi mới chạm vào vợt của người chơi. Đối phương đánh bóng bằng một phần không được phủ cao su của cốt vợt. Đối phương tác động làm di chuyển mặt bàn hoặc chạm vào lưới. Đối phương để tay tự do chạm vào mặt bàn. Trong phương pháp đánh khẩn trương, nếu người nhận bóng thực hiện trả bóng tốt 13 lần thì người nhận bóng ghi điểm. Khi đối phương bị cảnh cáo vi phạm hai lần trong một trận đấu cá nhân hoặc đồng đội. Nếu tiếp tục vi phạm thêm lần ba, người chơi sẽ được hai điểm. Nếu trận đấu cá nhân hoặc đồng đội chưa kết thúc, mọi điểm phạt chưa được sử dụng có thể chuyển sang ván đấu tiếp theo. Một ván đấu được định đoạt thắng thua khi một trong hai người chơi giành được 11 điểm trước. Trong trường hợp mỗi bên cùng giành được 10 điểm, người chơi nào giành liên tiếp hai điểm trước thì là người chiến thắng. Một trận gồm một số lẻ ván, với người thắng cuộc là người giành chiến thắng nhiều ván hơn. Trong các cuộc thi đấu, một trận thường có 5 hoặc 7 ván đấu. Đổi giao bóng và kết thúc Quyền cầm giao bóng thay đổi luân phiên giữa các người chơi cứ sau hai điểm (bất kể ai là người giành chiến thắng trong lượt chơi) cho đến khi kết thúc ván đấu, trong trường hợp cả hai người chơi đều ghi được 10 điểm hoặc phương pháp đánh khẩn trương được áp dụng thì trình tự giao bóng và trả giao bóng vẫn giữ nguyên nhưng mỗi người chơi chỉ được giao bóng một lần trong mỗi lượt cầm giao bóng của mình. Người chơi cầm giao bóng đầu tiên trong một ván thì ván sau sẽ chuyển thành người trả giao bóng đầu tiên. Sau mỗi ván đấu, người chơi đổi phần bàn cho nhau. Điều này cũng diễn ra trong ván đấu cuối cùng của một trận đấu, ví dụ ván thứ năm hoặc ván thứ bảy, người chơi sẽ đổi phần bàn cho nhau ngay khi có một trong hai người chơi giành được điểm số thứ năm, bất kể quyền giao bóng đang thuộc về ai. Nếu trình tự giao bóng và trả giao bóng không đúng, điểm ghi được trong tình huống đó vẫn được tính và trận đấu tiếp tục với trình tự tại điểm số vừa được ghi. Đấu đôi thế=|nhỏ|Từng khu vực giao bóng khi thi đấu đôi Ngoài là trò chơi giữa các cá nhân, các cặp đôi cũng có thể tham gia chơi bóng bàn. Thể thức thi đấu đơn và đôi đều có mặt trong các giải đấu quốc tế, bao gồm Thế vận hội từ năm 1988 và Đại hội Thể thao Khối Thịnh vượng chung từ năm 2002. Năm 2005, ITTF thông báo rằng thể thức thi đấu đôi sẽ chỉ còn là một phần của nội dung thi đấu đồng đội trong Thế vận hội 2008. Trong đấu đôi, các điều luật đấu đơn đều được áp dụng ngoại trừ những điều sau đây. Giao bóng Một đường kẻ dọc theo cạnh dài của bàn thi đấu, chia bàn làm hai phần bằng nhau. Mục đích duy nhất của nó là hỗ trợ cho các quy tắc giao bóng khi thi đấu đôi. Một pha giao bóng tốt cần phải làm cho trái bóng nảy lần đầu tiên ở "ô" bàn bên phải của người cầm giao bóng, sau đó nảy ít nhất một lần ở ô bàn bên phải của đối phương (tức là ô bàn ngoài cùng bên trái của người cầm giao bóng), nếu không làm được điều này thì bên trả giao bóng sẽ ghi điểm. Thứ tự chơi, giao bóng và trả giao bóng Người chơi phải đánh bóng lần lượt. Ví dụ, nếu A bắt cặp với B, X bắt cặp với Y, trong đó A là người cầm giao bóng còn X là người trả giao bóng. Thứ tự chơi sẽ là A → X → B → Y. Lượt chơi sẽ tiếp tục diễn ra theo cách này cho đến khi một bên không thể thực hiện một pha trả bóng tốt và bên kia ghi điểm. Sau mỗi lần đổi giao bóng, người trả giao bóng trước đó sẽ trở thành người cầm giao bóng và đối tác của người cầm giao bóng trước đó sẽ trở thành người trả giao bóng. Ví dụ, nếu thứ tự lượt chơi trước đó là A → X → B → Y, thì sau khi đổi giao bóng thứ tự sẽ trở thành X → B → Y → A. Trong ván đấu thứ hai hoặc ván đấu tiếp theo, thứ tự chơi lượt đầu tiên sẽ đổi ngược lại. Ví dụ: nếu thứ tự chơi là A → X → B → Y ở đầu ván đấu đầu tiên, thì thứ tự chơi sẽ đổi thành X → A → Y → B hoặc Y → B → X → A ở đầu ván đấu thứ hai, tùy thuộc vào việc X hay Y là người cầm giao bóng đầu tiên trong ván đấu. Điều đó có nghĩa là người trả giao bóng đầu tiên trong ván đấu này chính là người cầm giao bóng đầu tiên trong ván đấu liền trước đó. Trong mỗi ván đấu của một trận đấu đôi, cặp có quyền giao bóng trước sẽ được chọn người cầm giao bóng. Tuy nhiên, cặp trả giao bóng thì chỉ được chọn người trả giao bóng trong ván đấu đầu tiên mà thôi. Khi một cặp ghi được năm điểm trong ván đấu cuối cùng, các cặp phải đổi phần bàn cho nhau và đổi người trả giao bóng để đảo thứ tự chơi. Ví dụ, khi thứ tự chơi cuối cùng trước khi một cặp ghi được năm điểm ở ván đấu cuối là A → X → B → Y, thì thứ tự chơi sau khi thay đổi sẽ là A → Y → B → X nếu A vẫn còn lần giao bóng thứ hai. Còn nếu không, X sẽ trở thành người cầm giao bóng tiếp theo và thứ tự sẽ là X → A → Y → B. Phương pháp đánh khẩn trương Nếu một ván đấu không thể kết thúc sau 10 phút thi đấu, và có ít hơn 18 điểm được ghi, phương pháp đánh khẩn trương sẽ được áp dụng. Trọng tài tạm ngừng ván đấu, và ván đấu sẽ tiếp tục với việc mỗi người chơi chỉ còn được giao bóng một lần trong mỗi lượt cầm giao bóng. Nếu phương pháp đánh khẩn trương áp dụng khi bóng chưa được giao, người trả giao bóng lượt chơi trước sẽ là người cầm giao bóng đầu tiên. Trong phương pháp đánh khẩn trương, người cầm giao bóng phải ghi được điểm trước khi người trả giao bóng thực hiện thành công 13 pha trả bóng tốt hoặc phải chịu để đối phương ghi điểm. Phương pháp này cũng có thể được áp dụng bất cứ lúc nào theo yêu cầu của hai người chơi hoặc các cặp đấu. Sau khi được đem ra sử dụng, phương pháp đánh khẩn trương vẫn duy trì hiệu lực cho đến khi kết thúc trận đấu. Đây là một điều luật giúp rút ngắn thời gian của một trận bóng bàn, chủ yếu hiện diện trong ván đấu của những người chơi có thiên hướng nặng tính phòng thủ. Cầm vợt Mặc dù người chơi bóng bàn có thể cầm vợt theo nhiều cách khác nhau, nhưng nhìn chung có thể phân loại thành hai trường phái chính, penhold và shakehand. Không có điều luật bóng bàn nào quy định cụ thể về cách người chơi cầm vợt, vậy nên đã có rất nhiều cách cầm vợt được sử dụng. Penhold (Cầm vợt dọc) thế=|nhỏ|Hoàng Trấn Đình, một tay vợt dọc Sở dĩ cách cầm vợt này có cái tên như vậy vì nó tương tự với cách người ta cầm một cây viết. Các phong cách chơi vợt dọc của những người chơi khác nhau thì rất đa dạng. Phong cách phổ biến nhất là phong cách vợt dọc của người Trung Quốc, được thực hiện bằng cách cuộn tròn ngón giữa, ngón áp út và ngón út ở mặt sau cây vợt, sao cho ba ngón tay kể trên luôn cuộn sát nhau. Các tay vợt dọc kiểu Trung Quốc ưa thích loại vợt có phần đầu tròn, phù hợp cho lối chơi trên mặt bàn. Còn có một phong cách vợt dọc khác, được gọi là vợt dọc kiểu Nhật/ Hàn Quốc, khác biệt ở chỗ ba ngón cuối bàn tay đều chạm vào mặt sau của vợt thay vì cuộn vào nhau như kiểu Trung Quốc. Đôi khi xuất hiện một cách cầm vợt kết hợp cả hai kiểu trên, trong đó ngón giữa, ngón áp út và ngón út duỗi thẳng nhưng vẫn chồng lên nhau, hoặc cả ba ngón đều chạm vào mặt sau cây vợt mà vẫn tiếp xúc với nhau. Các tay vợt dọc Nhật Bản và Hàn Quốc thì lại thường dùng vợt đầu vuông dành cho lối chơi xa bàn. Những cây vợt đầu vuông này có một khối chất liệu cork ở phía trên tay cầm, cũng như một lớp cork mỏng ở mặt sau của vợt, để tăng độ bám và sự thoải mái. Trường phái vợt dọc phổ biến ở nhóm người chơi đến từ các quốc gia Đông Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Theo truyền thống, người chơi vợt dọc chỉ dùng một mặt vợt để đánh bóng khi chơi bình thường, và mặt tiếp xúc với ba ngón cuối bàn tay thì không được sử dụng. Lối chơi này được gọi là "vợt dọc truyền thống" và thường áp dụng cho các dòng vợt đầu vuông. Tuy nhiên, vào những năm 1990, người Trung Quốc đã phát triển một kỹ thuật chơi vợt dọc mới, cho phép sử dụng cả hai mặt vợt để đánh bóng, người chơi sẽ thực hiện một cú đánh trái tay (thường là một cú giật bóng) bằng cách xoay mặt vợt truyền thống về phía chính mình, và vào bóng bằng mặt vợt còn lại. Kỹ thuật này đã cải thiện cả về sức mạnh lẫn tâm lý cho người chơi vợt dọc, vì nó loại bỏ được điểm yếu của các cú đánh trái tay trong lối chơi vợt dọc truyền thống. Shakehand (Cầm vợt ngang) Cách cầm vợt này có tên như vậy vì nó tương tự với cách người ta thực hiện một cái bắt tay. Mặc dù đôi khi được gọi là kiểu "tennis", hoặc kiểu "phương Tây", nhưng nó hoàn toàn không liên quan tới cách cầm vợt tennis phương Tây được phổ biến tại Bờ Tây Hoa Kỳ, khi người ta đặt vợt ở góc 90° và chơi tennis bằng cách xoay cổ tay để điều khiển các khớp ngón tay hướng vợt chạm vào trái bóng. Trong bóng bàn, "phương Tây" dùng để chỉ các quốc gia phương Tây, vì đây là cách cầm vợt duy nhất của đa phần các tay vợt bản địa ở châu Âu và châu Mỹ. Sự đơn giản và linh hoạt, cùng với sự thừa nhận của các huấn luyện viên giỏi nhất Trung Quốc rằng phong cách chơi châu Âu nên được mô phỏng và huấn luyện, đã khiến kiểu cầm vợt ngang trở nên phổ biến ngay cả ở Trung Quốc. Nhiều tay vợt đẳng cấp thế giới ở châu Âu và Đông Á đều là những tay vợt ngang, người ta cũng công nhận rằng các kỹ thuật vợt ngang dễ học hơn các kỹ thuật vợt dọc, và cho phép người chơi đa dạng hóa lối chơi trong cả tấn công lẫn phòng thủ. Seemiller Cách cầm vợt được đặt theo tên người sử dụng nó, nhà vô địch bóng bàn Hoa Kỳ, Danny Seemiller. Được thực hiện bằng cách đặt ngón trỏ và ngón cái vào hai bên mép dưới của mặt vợt và giữ tay cầm bằng các ngón còn lại. Vì chỉ dùng một mặt vợt để đánh bóng, nên có thể dùng hai dạng mặt vợt tương phản nhau cho cốt vợt, và "xoay vợt" để đánh lừa đối phương. Danny Seemiller đã sử dụng một mặt mút gai ngược đi kèm một mặt phản xoáy. Nhiều người chơi ngày nay thì kết hợp mặt mút gai ngược với mặt gai dài. Cách cầm vợt này được đánh giá là rất hữu hiệu cho các cú chặn bóng, đặc biệt với các cú đánh trái tay, và cả các cú giật thuận tay với bóng xoáy xuống. Seemiller trở nên nổi tiếng đỉnh điểm vào năm 1985 khi được sử dụng bởi bốn trong số năm người chơi đến từ Hoa Kỳ trong Giải vô địch thế giới, bao gồm Danny Seemiller, Ricky Seemiller, Eric Boggan và Brian Masters. Tư thế 'Một tư thế sẵn sàng tốt sẽ cho phép bạn di chuyển nhanh chóng vào vị trí và giữ được thăng bằng khi thực hiện các cú đánh mạnh mẽ.' Tư thế trong bóng bàn còn được gọi là 'tư thế sẵn sàng'. Đó là vị trí mà người chơi chọn ban đầu khi chuẩn bị trả giao bóng và quay lại sau khi chơi một lượt để chuẩn bị cho lượt chơi tiếp theo. Nó bao gồm việc giữ khoảng cách giữa hai bàn chân rộng hơn vai, và phải hơi cúi người một chút. Cúi người là một động tác hiệu quả để di chuyển nhanh chóng và đưa các cơ bắp vào trạng thái chuẩn bị để chuyển nhiều động năng hơn. Phần thân trên hơi hướng về phía trước, và người chơi phải nhìn về phía chính diện. Vợt trong trạng thái sẵn sàng, với cánh tay cầm vợt hơi gấp khúc. Vị trí phải đem lại cảm giác cân bằng, tạo cơ sở vững chắc cho các pha tấn công và di chuyển nhanh sang hai bên. Người chơi hoàn toàn có thể điều chỉnh tư thế của mình theo sở thích cá nhân và thay đổi tư thế trong các trường hợp cụ thể. Các loại cú đánh Các cú đánh bóng bàn thường được chia thành hai nhóm: tấn công và phòng thủ. Các cú đánh tấn công Hit (Công bóng) Còn được gọi là công bóng nhanh, là một cú đánh trực tiếp vào trái bóng, đẩy nó về phía đối phương. Nó khác với kỹ thuật công bóng trong các bộ môn dùng vợt như tennis vì mặt vợt chủ yếu vuông góc với hướng của cú đánh, và phần nhiều năng lượng tác dụng vào trái bóng đem lại tốc độ thay vì độ xoáy, tạo ra một đường bóng không nhiều vòng cung, nhưng đủ nhanh để làm khó người trả bóng. Công bóng nhanh được sử dụng để giữ bóng trong cuộc, gây áp lực lên đối phương và mở ra những cơ hội tấn công mạnh mẽ hơn. Loop (Giật bóng) Được hoàn thiện trong những năm 1960, về cơ bản giật bóng là kỹ thuật trái ngược với cắt bóng. Mặt vợt song song với hướng của cú đánh và do đó sượt qua trái bóng, đem lại một lượng lớn xoáy lên. Một cú giật bóng tốt sẽ tạo nên quỹ đạo bóng hơi vòng cung, và một khi chạm vào bàn đối phương, trái bóng sẽ nảy vọt về phía trước, giống như cú giao bóng trong môn tennis. Hầu hết các tay vợt chuyên nghiệp hiện nay, chẳng hạn Đinh Ninh, Timo Boll và Trương Kế Khoa sử dụng giật bóng là kỹ thuật tấn công chủ yếu. Counter-hit (Đối công) Đối công là một đòn phản công lại các cú công bóng, thường là những cú giật bóng. Mặt vợt được giữ gần trái bóng và song song với hướng của cú đánh. Đối công được thực hiện ngay sau khi trái bóng chạm bàn bật ra, khiến trái bóng đi nhanh hơn sang phía bàn đối phương. Matsudaira Kenta được biết đến là tay vợt chủ yếu dùng kỹ thuật đối công để tấn công. Flip (Hất bóng) Khi một người chơi cố tấn công một trái bóng chưa nảy ra khỏi mép bàn, người chơi đó sẽ không thể vào bóng theo hướng từ sau ra trước. Tuy nhiên, vẫn có thể tấn công trái bóng bằng một động tác nhanh được thực hiện bằng cổ tay gọi là hất bóng. Hất bóng không phải là một kỹ thuật đặc trưng mà nó có vài điểm tương đồng với giật bóng. Đặc điểm nhận diện của hất bóng là động tác đánh bóng chủ yếu bằng cổ tay. Smash (Bạt bóng) Người chơi thường sẽ thực hiện một cú bạt bóng khi đối phương trả bóng nảy quá cao hoặc quá gần lưới. Nó gần như luôn luôn được thực hiện bằng một cú đánh thuận tay. Bạt bóng sử dụng khả năng tăng tốc nhanh để truyền tốc độ vào trái bóng nhiều nhất có thể, khiến đối phương không kịp phản ứng. Mặt vợt thường vuông góc với hướng của cú đánh. Bởi vì tốc độ là mục tiêu chính của kỹ thuật này, độ xoáy của trái bóng có thể có nhưng thường rất nhỏ. Một người chơi trong thế tấn công sẽ xem các lượt trả bóng là bước tạo điều kiện để họ có thể thực hiện thành công một cú bạt bóng và giành chiến thắng lượt chơi. Bạt bóng được sử dụng nhiều hơn với lối cầm vợt dọc. Các cú đánh phòng thủ Push (Gò bóng) Gò bóng (còn gọi là "thả ngắn" ở châu Á) thường được sử dụng để giữ điểm và tạo cơ hội tấn công. Một cú gò bóng giống như một cú bỏ nhỏ trong tennis: mặt vợt cắt bên dưới trái bóng, tạo ra xoáy xuống và làm trái bóng từ từ quay trở lại bàn đối phương. Một cú gò bóng có thể rất khó bị tấn công vì độ xoáy xuống của trái bóng khiến nó có xu hướng chúi xuống mặt bàn ngay khi vừa chạm vợt của người trả bóng. Để tấn công lại một cú gò bóng, người chơi thường phải sử dụng một cú giật bóng (đối với gò bóng dài) hoặc một cú hất bóng (đối với gò bóng ngắn). Thông thường, giải pháp tốt nhất cho người mới chơi là chỉ cần gò bóng trở lại một lần nữa, tạo ra một chuỗi các cú gò bóng. Nhưng đối với những người chơi giỏi, đó có khả năng là lựa chọn tồi tệ nhất vì đối phương sẽ phản công bằng một cú giật bóng, đặt người chơi vào thế phòng thủ. Gò bóng có lợi thế trong một số trường hợp, chẳng hạn như khi đối phương là người dễ mắc sai lầm. Chop (Cắt bóng) Cắt bóng là một kỹ thuật phòng thủ, đối nghịch với cú giật bóng. Về cơ bản, cắt bóng là một cú gò bóng lớn hơn, nặng hơn, được thực hiện xa bàn. Mặt vợt chủ yếu nằm theo chiều ngang, hơi chếch lên trên và dọc theo hướng của cú đánh. Mục đích của cắt bóng là sử dụng xoáy xuống để đối chọi lại các cú giật xoáy lên của đối phương. Một cú cắt bóng tốt sẽ khiến trái bóng quay trở lại bàn đối phương, theo chiều gần như ngang với mặt bàn. Trong vài trường hợp, độ xoáy xuống nhiều đến mức làm cho trái bóng nảy vọt lên. Một cú cắt bóng như vậy sẽ rất khó để trả bóng do lượng xoáy xuống quá lớn. Một số người chơi phòng thủ có khả năng tạo ra các biến thể không xoáy hoặc xoáy ngang cho cú cắt bóng của mình. Joo Se-hyuk và Vũ Dương là hai trong số nhiều tay vợt rất giỏi cắt bóng. Block (Chặn bóng) Một cú chặn được thực hiện đơn giản bằng cách đặt mặt vợt ngay trước trái bóng khi nó vừa nảy lên, khiến cho trái bóng bật ngược lại phần bàn đối phương với lực gần như không đổi. Kỹ thuật này đòi hỏi tính chính xác, vì độ xoáy, tốc độ và vị trí của trái bóng đều ảnh hưởng tới cú chặn bóng. Đối phương rất có thể thực hiện một cú giật, công bóng hoặc bạt bóng hoàn hảo, chỉ để đánh trả lại cú chặn bóng với tốc độ nhanh nhất. Do sức mạnh bị tác động bởi pha tấn công trước đó, thường thì đối phương không thể phục hồi đủ nhanh để đánh trả lại cú chặn bóng, đặc biệt nếu cú chặn bóng hướng trái bóng tới một vị trí bất ngờ trên bàn. Chặn bóng hầu như luôn tạo ra cùng một kiểu xoáy với cú đánh trước đó của đối phương, nhiều khi tạo ra xoáy lên. Lob (Câu bóng) Cú câu bóng phòng thủ đẩy trái bóng đi ở độ cao tầm năm mét, và đáp xuống phần bàn đối phương với độ xoáy lớn. Kỹ thuật này là thao tác nâng trái bóng lên một độ cao cực lớn trước khi nó rơi trở lại phần bàn đối phương. Một cú câu bóng cũng có khả năng tạo ra bất cứ kiểu xoáy nào. Mặc cho đối phương có thể bạt bóng rất mạnh và nhanh, nhưng một cú câu bóng tốt vẫn có thể khó đánh trả do sự khó lường của trái bóng. Vì vậy, dù lùi xa bàn hàng chục mét và phải chạy để đón trái bóng, một người chơi phòng ngự tốt vẫn sẽ giành được điểm nếu có những cú câu bóng chất lượng. Câu bóng ít được người chơi ưa chuộng. Một ngoại lệ đáng chú ý là trường hợp của tay vợt Michael Maze. Hiệu ứng xoáy Tác động xoáy vào trái bóng là một trong những cách tạo đột biến trong lối chơi bóng bàn. Mặc dù gần như mọi cú đánh hoặc cú giao bóng đều tạo ra độ xoáy cho trái bóng, nhưng nắm được các kiểu xoáy riêng lẻ cho phép người chơi phòng thủ và tung ra các cú đánh một cách hiệu quả. thế=|khung|4 giai đoạn quỹ đạo cong của bóng xoáy xuống Backspin (Xoáy xuống) Xoáy xuống là khi nửa dưới trái bóng xoay theo khuynh hướng ra xa khỏi người chơi và được tạo ra bằng cách tác động vào phần đáy trái bóng theo chiều hướng xuống. Ở cấp độ chuyên nghiệp, xoáy xuống được dùng để phòng thủ, giúp cho người chơi giữ trái bóng nảy ở mức thấp. Xoáy xuống cũng thường xuyên được sử dụng trong các pha giao bóng vì làm cho người trả giao bóng khó tấn công hơn, dù rằng ở trình độ cao người ta thường giao bóng xoáy ngang đi kèm xoáy xuống hoặc xoáy lên. Do lực nâng ban đầu vào trái bóng, nên tồn tại một giới hạn tốc độ cho cú đánh xoáy, để trái bóng không chệch ra ngoài phần bàn của đối phương. Tuy nhiên, bóng xoáy xuống ở tốc độ cao cũng rất khó đối phó vì pha trả bóng cần đảm bảo một góc độ chính xác nhất định. Người ta thường xuyên thay đổi các quy định liên quan đến thiết bị nhằm cố gắng duy trì sự cân bằng giữa các lựa chọn bóng xoáy trong phòng thủ và tấn công. Trên thực tế, người chơi có thể tung một cú bạt bóng để đánh trả bóng xoáy xuống, nhưng chỉ với những trái bóng nảy cao gần lưới mà thôi. thế=|khung|4 giai đoạn quỹ đạo cong của bóng xoáy lên Topspin (Xoáy lên) Cú đánh xoáy lên tác động một phần nhỏ vào đỉnh của trái bóng. Tuy nhiên, giống như xoáy xuống, trục xoay của trái bóng vẫn gần như vuông góc với quỹ đạo của nó, do đó hiệu ứng Magnus vẫn sẽ quyết định quỹ đạo cong của trái bóng. Sau khi lên tới đỉnh của đường cong quỹ đạo, trái bóng sẽ chìm xuống dưới về phía đối phương, trước khi chạm bàn và nảy lên. Khi nảy, xoáy lên sẽ làm tăng tốc trái bóng, giống như một bánh xe tròn tiếp xúc với mặt đất khi đang quay. Xoáy lên làm trái bóng vọt lên trên và đối phương buộc phải điều chỉnh góc vợt của mình để trả bóng, động tác này gọi là "úp vợt". Giới hạn tốc độ của cú đánh xoáy lên nhỏ hơn so với cú đánh xoáy xuống. Cú đánh xoáy lên được sử dụng chủ yếu trong thi đấu chuyên nghiệp vì nó cho đối phương ít thời gian để phản ứng. Trong bóng bàn, đánh bóng xoáy lên được coi là một kỹ thuật tấn công do đẩy cao tốc độ trái bóng, làm giảm hiệu năng cơ sinh học và tăng áp lực đặt lên đối thủ khi hạn chế thời gian đối phó của họ (Có cả những cú câu bóng xoáy lên để phòng thủ xa bàn, nhưng chỉ những người chơi có kỹ năng cao mới sử dụng hiệu quả kỹ thuật này). Xoáy lên là loại xoáy ít gặp nhất trong các pha giao bóng chuyên nghiệp, vì người trả giao bóng có thể dễ dàng tấn công một trái bóng xoáy lên di chuyển ở tốc độ thấp. Sidespin (Xoáy ngang) Loại xoáy này chủ yếu áp dụng cho các pha giao bóng, khi góc tiếp xúc bóng của mặt vợt có thể dễ dàng thay đổi. Không giống như hai kỹ thuật đã nói ở trên, đánh bóng xoáy ngang làm cho trái bóng xoay quanh một trục thẳng đứng, thay vì nằm ngang. Trục xoay vẫn vuông góc với quỹ đạo của trái bóng. Trong trường hợp này, hiệu ứng Magnus ít nhiều vẫn sẽ quyết định quỹ đạo cong của trái bóng. Một điểm khác biệt nữa là không giống như xoáy xuống và xoáy lên, xoáy ngang sẽ ảnh hưởng rất nhỏ đến độ nảy của trái bóng, giống như cách mà một con quay sẽ không di chuyển sang trái hoặc phải nếu trục quay của nó là trục thẳng đứng. Điều này làm cho xoáy ngang trở thành một vũ khí lợi hại khi giao bóng, vì nó làm người trả giao bóng khó nhận diện khi quan sát trái bóng nảy, đồng thời cũng làm cho trái bóng "mất" ít độ xoáy hơn khi nảy. Cú đánh xoáy ngang cũng được sử dụng trong một chuỗi pha bóng tấn công, thường ở khoảng cách xa, bổ trợ cho các cú đánh xoáy xuống và xoáy lên. Kỹ thuật này còn được gọi là "hook". Hook đôi khi được sử dụng trong các pha đánh bóng vòng qua lưới. Corkspin (Xoáy nút chai) Người chơi sử dụng kiểu xoáy này hầu như chỉ khi giao bóng, nhưng ở mức chuyên nghiệp, nó cũng được sử dụng trong các cú câu bóng. Không giống như bất kỳ loại xoáy nào được đề cập ở trên, xoáy nút chai có trục xoay tương đối song song với quỹ đạo của trái bóng, do đó hiệu ứng Magnus ít hoặc không ảnh hưởng tới quỹ đạo của trái bóng trong cú đánh xoáy nút chai: khi nảy, bóng sẽ lao sang phải hoặc trái (theo hướng xoáy), làm cho đối phương rất khó trả bóng. Có vẻ như kiểu xoáy này tạo ra hiệu ứng khó chịu nhất, nhưng đó là trên lý thuyết. Thực tế nó kém hiệu quả hơn về mặt chiến thuật so với các cú đánh xoáy ngang hoặc xoáy xuống, vì hạn chế trong khả nặng gây áp lực cho người trả giao bóng. Cụ thể, ngoài việc thay đổi hướng ban đầu khi nảy, trừ khi trái bóng xoáy nút chai vượt ra ngoài tầm với, đối phương hoàn toàn có thể phản đòn bằng xoáy ngang hoặc xoáy xuống. Cú đánh xoáy nút chai cũng có phần tương tự như cú đánh xoáy xuống nhưng có vận tốc tối đa thấp hơn, đơn giản là do góc tiếp xúc của mặt vợt khi tạo ra cú đánh. Để làm trái bóng xoay theo phương song song với quỹ đạo, vợt phải được đặt ít nhiều vuông góc với quỹ đạo, hạn chế đáng kể động lượng phía trước mà vợt truyền cho trái bóng. Xoáy nút chai hầu như luôn phải kết hợp với các loại xoáy khác, vì nếu sử dụng nó một mình thì vừa kém hiệu quả vừa khó thực hiện. Giải đấu thế=|nhỏ|Một trận đấu năm 2017 giữa các tay vợt đến từ Hoa Kỳ và Triều Tiên. thế=|nhỏ|Tại Nhật Bản, các ngôi sao bóng bàn như Fukuhara Ai, Ito Mima, và Ishikawa Kasumi luôn được đánh giá là những vận động viên có giá trị nhất cả nước. Bóng bàn được tổ chức thi đấu phổ biến ở Đông Á và châu Âu, cũng như đang gây được sự chú ý tại Hoa Kỳ. Những giải đấu quốc tế quan trọng nhất của môn này gồm có Giải vô địch bóng bàn thế giới, World Cup bóng bàn, Thế vận hội và ITTF World Tour. Các giải đấu cấp châu lục thì có: Giải vô địch châu Âu Top-16 châu Âu Giải vô địch châu Á Đại hội thể thao châu Á Các tay vợt người Trung Quốc đã giành tới 60% chức vô địch thế giới dành cho nam kể từ năm 1959; tại giải đấu dành cho nữ Corbillin Cup, họ vô địch tất cả ngoại trừ ba Giải vô địch thế giới, kể từ năm 1971. Một số đội bóng bàn mạnh khác đến từ Đông Á và châu Âu, có thể kể đến như Áo, Belarus, Đức, Hồng Kông, Bồ Đào Nha, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Thụy Điển và Đài Loan. Cũng có những giải đấu dành cho cấp câu lạc bộ; các giải đấu tổ chức riêng ở các quốc gia Áo, Bỉ, Trung Quốc (China Table Tennis Super League), Nhật Bản (T.League), Pháp, Đức (Bundesliga), và Nga là ví dụ cho đẳng cấp cao nhất. Ngoài ra còn có một số giải đấu cấp câu lạc bộ quốc tế quan trọng như Champions League châu Âu và giải đấu cạnh tranh cũ của nó là Cúp các câu lạc bộ châu Âu, nơi các đội câu lạc bộ hàng đầu từ khắp châu Âu tham gia tranh tài. thế=|trái|nhỏ|302x302px|Lý Giảo và Lý Khiết, thi đấu cho Hà Lan, giành vị trí thứ 2 tại Đại hội thể thao châu Âu 2015. Cho đến nay, tất cả sáu vận động viên giành huy chương đơn nữ môn bóng bàn trong lịch sử Đại hội thể thao châu Âu đều là người gốc Hoa. Nhập tịch vận động viên bóng bàn Theo New York Times, 31% tay vợt bóng bàn tại Thế vận hội Mùa hè 2016 là người nhập tịch. Tỷ lệ này cao gấp đôi so với môn thể thao đứng ở vị trí tiếp theo là bóng rổ với 15% cầu thủ nhập tịch. Cũng theo tờ báo này, khoảng 44 trong 172 vận động viên trong Thế vận hội này sinh ra tại Trung Quốc, đại diên cho 22 nước. Đặc biệt, các tay vợt gốc Hoa thi đấu cho Singapore đã giành được ba huy chương Olympic, nhiều hơn tất cả các vận động viên bản địa, thi đấu cho toàn bộ các môn thể thao. Những thành công này gây ra rất nhiều tranh cãi tại Singapore. Trong năm 2014, chủ tịch Liên đoàn bóng bàn Singapore, bà Lee Bee Wah đã phải từ chức vì vấn đề này. Tuy nhiên, người kế nhiệm bà là Ellen Lee về cơ bản vẫn tiếp tục con đường nhập tịch. Tỉ lệ nhập tịch bắt đầu gia tăng kể từ quyết định của ITTF năm 2009 (một năm sau khi Trung Quốc thâu tóm tất cả các huy chương có thể được Thế vận hội môn bóng bàn) nhằm giảm số lượng tay vợt đăng kí thi đấu của mỗi liên đoàn tại cả Thế vận hội lẫn Giải vô địch thế giới. Năm 2019, ITTF thông qua điều luật quy định rõ những tay vợt nhập quốc tịch không được thi đấu cho liên đoàn mới của họ, trước những thời hạn sau: 1 năm sau ngày đăng ký, nếu tay vợt dưới 15 tuổi khi đăng ký và chưa từng đại diện cho liên đoàn khác 3 năm sau ngày đăng ký, nếu người chơi dưới 15 tuổi khi đăng ký và đã từng đại diện cho liên đoàn khác 5 năm sau ngày đăng ký, nếu người chơi từ 15 đến 17 tuổi khi đăng ký 7 năm sau ngày đăng ký, nếu người chơi từ 18 đến 20 tuổi khi đăng ký 9 năm sau ngày đăng ký, nếu người chơi từ 21 tuổi trở lên khi đăng ký Những tay vợt tiêu biểu Có một đại sảnh danh vọng tồn tại ở bảo tàng ITTF. Một tay vợt giành được Grand Slam khi là người vô địch nội dung đơn tại cả Thế vận hội, Giải vô địch thế giới, và World Cup. Jan-Ove Waldner người Thụy Điển là tay vợt nam đầu tiên có Grand Slam tại Thế vận hội 1992. Trong khi đó, Đặng Á Bình người Trung Quốc là tay vợt nữ đầu tiên làm được điều này tại giải World Cup dành cho nữ vào năm 1996. Bảng sau đây là danh sách đầy đủ tất cả những vận động viên đã hoàn thành Grand Slam. Jean-Philippe Gatien (Pháp) và Vương Hạo (Trung Quốc) đã giành được cả hai chức vô địch thế giới và World Cup, nhưng để thua trong các trận tranh huy chương vàng tại Thế vận hội. Jörgen Persson (Thụy Điển) cũng giành được các danh hiệu ngoại trừ Thế vận hội. Persson là một trong ba vận động viên bóng bàn đã thi đấu tại bảy kỳ Thế vận hội. Mã Lâm (Trung Quốc) đã giành cả HCV Thế vận hội và World Cup, nhưng để thua 3 lần vào các năm 1999, 2005 và 2007 trong các trận chung kết của Giải vô địch thế giới. Quản lý thế=|nhỏ|Natalia Partyka, một trong số ít những tay vợt đã thi đấu ở cả Paralympics và Olympics Được thành lập vào năm 1926, Liên đoàn bóng bàn quốc tế (ITTF) là cơ quan quản lý toàn cầu về bộ môn bóng bàn, duy trì hệ thống xếp hạng quốc tế bên cạnh việc tổ chức các sự kiện như Giải vô địch bóng bàn thế giới. Năm 2007, việc quản lý môn bóng bàn dành cho người khuyết tật được chuyển từ Ủy ban Paralympic quốc tế sang ITTF. Ở nhiều lục địa, có các cơ quan quản lý chịu trách nhiệm về môn bóng bàn riêng. Ví dụ, Liên minh bóng bàn châu Âu (ETTU) chịu trách nhiệm quản lý môn bóng bàn ở châu Âu. Ngoài ra còn có các cơ quan cấp quốc gia và chính quyền địa phương khác chịu trách nhiệm về môn thể thao này, chẳng hạn như USA Table Tennis (USATT), là cơ quan quản lý cấp quốc gia về bóng bàn ở Hoa Kỳ. Các biến thể Môn bóng bàn Hardbat sử dụng vợt có "pips" ngắn hướng ra ngoài và không có phần mút, làm giảm tốc độ và độ xoáy của trái bóng khi thi đấu. Giải vô địch Ping Pong thế giới sử dụng loại vợt cũ bằng gỗ, được phủ giấy nhám. Chú thích
An ninh trên cơ sở năng lực tiềm tàng (tiếng Anh: Capability-based security) là một khái niệm trong việc thiết kế các hệ thống an ninh máy tính. Nguyên lý thiết kế An ninh trên cơ sở năng lực tiềm tàng ám chỉ đến nguyên lý thiết kế những chương trình ứng dụng người dùng, sao cho chúng có thể trực tiếp phân hưởng năng lực tiềm tàng với nhau theo nguyên lý đặc quyền tối thiểu (principle of least privilege), và kiến trúc cơ sở hạ tầng của hệ điều hành cần phải có đế tạo điều kiện cho những giao dịch trên có hiệu quả và bảo đảm (secure). Một phương pháp thay thế "an ninh trên cơ sở năng lực tiềm tàng" được dùng trong hầu hết các hệ điều hành trên thị trường là "an ninh trên cơ sở danh sách điều khiển truy cập", trong đó một tiến trình chiếm quyền truy cập vào các đối tượng bằng cách trình diện một tham chiếu không có đặc quyền (unprivileged reference) cho hệ điều hành, gây cho hệ điều hành phản ứng với việc xác định xem những quyền truy cập nào là những cái thích hợp đối với đối tượng đó, dựa trên cơ sở nhận dạng người dùng của tiến trình đã đặt ra yêu cầu. Trong hệ thống an ninh trên cơ sở năng lực tiềm tàng, các chương trình ứng dụng người dùng không đối phó với những tham chiếu không có đặc quyền, song nó đối phó với những năng lực có đặc quyền. Do những năng lực đã được công nhận là những con đường hợp pháp để truy cập đối tượng, bước xác nhận tính hợp lệ của yêu cầu truy cập dựa trên nhận dạng người dùng hoặc những nhân tố khác, là một bước không cần thiết. Tuy đại bộ phận các hệ điều hành đều cho thực hiện một phương tiện tương tự như năng lực tiềm tàng, chúng thường không cung cấp sự hỗ trợ toàn phần để cho phép việc trao đổi các năng lực tiềm tàng giữa các thực thể đáng ngờ (mutually untrusting entities) trở thành những phương pháp cơ bản để cấp và phân bố các quyền truy cập trên toàn thể hệ thống. Ngược lại, một hệ thống an ninh trên cơ sở năng lực tiềm tàng, lại được dự kiến thiết kế chính vì mục đích đó. Giới thiệu về an ninh trên cơ sở năng lực tiềm tàng Một năng lực được định nghĩa là tham chiếu của một đối tượng bảo tồn, với tư cách là sở hữu của một tiến trình người dùng, ban cho tiến trình đó năng lực (cái tên là vì thế) để tương tác với một đối tượng đưới một số hình thức. Những hình thức tương tác này có thể bao gồm việc đọc dữ liệu liên quan của đối tượng, sửa đổi đối tượng, thi hành dữ liệu trong đối tượng như một tiến trình, cùng những quyền truy cập có thể hình dung được khác. Năng lực, theo tính hợp lý, có thể bao gồm một tham chiếu đơn nhất chỉ danh một đối tượng và thiết lập một hoặc nhiều quyền truy cập trên. Giả dụ, trong phân khoảng bộ nhớ của tiến trình người dùng có một chuỗi ký tự sau: /etc/passwd Tuy chuỗi ký tự trên độc nhất chỉ danh một đối tượng trong hệ thống, song nó lại không định rõ những quyền truy cập và do đó, nó không phải là một năng lực. Giả sử, thay thế vào đó, chúng ta có hai giá trị sau: /etc/passwd O_RDWR Các giá trị trên vừa chỉ danh một đối tượng, vừa thiết lập những quyền truy cập (đọc và viết - ReaD/WRite). Tuy nhiên, nó vẫn không phải là một năng lực, bởi vì sở hữu của tiến trình người dùng (user process) đối với những giá trị trên chẳng nói lên một điều gì về tính hợp pháp của truy cập cả. Bây giờ, giả sử chương trình ứng dụng người dùng thi hành thành công câu lệnh sau đây: int fd = open("/etc/passwd", O_RDWR); Biến fd lúc này giữ chỉ mục (index) của file descriptor trong bảng mô tả tập tin của tiến trình. Mô tả tập tin này chính là một năng lực. Sự tồn tại của nó trong bảng mô tả tập tin của tiến trình đủ để cho chúng ta nhận thức rằng tiến trình, quả thực, có quyền truy cập đối tượng một cách hợp pháp. Chúng ta nên lưu ý đến một đặc trưng chủ trốt của sự bố trí trên, ở chỗ, bảng mô tả tập tin nằm trong bộ nhớ của bộ điều hành trung tâm (kernel) và chương trình người dùng không thể điều khiển nó một cách trực tiếp được. Để bảo toàn tính trọn vẹn của chính sách an ninh, hệ điều hành phải đảm bảo rằng chỉ những hoạt động nhất thiết mới xảy ra đối với các năng lực trong hệ thống mà thôi. Trong các hệ điều hành truyền thống, các chương trình ứng dụng thường giao thông liên lạc với nhau và với bộ lưu trữ dữ liệu (storage) bằng các tham chiếu, tương tự như những cái trong hai ví dụ đầu. Các tên đường dẫn (path names) thường được cung cấp trên hình thức các tham số của dòng lệnh (command-line parameters), được gửi qua các ổ cắm (socket), và được lưu trữ trên đĩa. Những tham chiếu này không phải là những năng lực, và nhất định phải được phê chuẩn (validated) trước khi chúng được sử dụng. Đối với những hệ thống này, câu hỏi trung tâm thường là "dưới quyền lực của ai mà một tham chiếu cho trước có thể được đánh giá (evaluated)?" Câu hỏi này trở thành một vấn đề nghiêm trọng đặc biệt đối với những tiến trình cần phải vận hành đại điện cho hai thực thể liên quan đến quyền lực (two authority-bearing entities) khác nhau. Chúng trở nên dễ bị ảnh hưởng bởi các lỗi trong lập trình, vẫn thường được gọi là Vấn đề đại diện lộn xộn ( Confused deputy problem), và rất thường xuyên gây nên hậu quả một lỗ hổng trong an ninh (security hole). Trong hệ thống dựa trên cơ sở năng lực tiềm tàng, bản thân các năng lực được truyền tay giữa các tiến trình và bộ lưu trữ, dùng một cơ cấu mà hệ điều hành biết trước, để bảo tồn tính toàn vẹn của các năng lực. Năng lực Năng lực (capability) (trong một số hệ thống còn được gọi là chìa khóa) là một khái niệm chủ trốt trong an ninh máy tính. Nó ám chỉ đến một giá trị dùng để tham chiếu một đối tượng cùng với một tập hợp các quyền truy cập liên quan. Chương trình ứng dụng trong một hệ thống dựa trên cơ sở năng lực tiềm tàng nhất định phải sử dụng một năng lực để truy cập một đối tượng. Năng lực là một biểu hiện quyền lực có thể truyền giao (communicable token of authority). Một năng lực thường được thực hiện như một cấu trúc dữ liệu có đặc quyền, trong đó bao gồm một bộ phận chỉ định những quyền truy cập nhất định, và một bộ phận chỉ danh đối tượng đơn nhất, cho phép người ta truy cập đối tượng. Trên thực tế, trong các hệ điều hành truyền thống, năng lực được dùng tương tự như file descriptor, song lại được dùng để truy cập tất cả các đối tượng trong hệ thống. Nó thường được hệ điều hành lưu trữ trong một danh sách, cùng với một số cơ cấu bên trong, ngăn chặn chương trình ứng dụng sửa đổi nội dung của năng lực một cách trực tiếp (như để giả mạo quyền truy cập hoặc để thay đổi đối tượng mà nó đang hướng vào). Chương trình ứng dụng sở hữu các năng lực có thể thao tác các chức năng (functions) đối với chúng, chẳng hạn như truyền chúng sang cho các chương trình ứng dụng khác, đổi chúng xuống thành một cái có đặc quyền kém hơn, hoặc xóa bỏ chúng. Năng lực tiềm tàng đạt được mục tiêu nâng cấp an ninh trong hệ thống của chúng, bằng cách nó được sử dụng để thay vào chỗ những tham chiếu có thể bị giả mạo. Một tham chiếu có thể bị giả mạo (lấy ví dụ, một tên đường dẫn (path name)) chỉ danh một đối tượng, song không xác định rõ quyền truy cập thích hợp đối với đối tượng, và chương trình ứng dụng người dùng hiện đang giữ các tham chiếu ấy. Hậu quả là, bất cứ một cố gắng nào truy cập đối tượng được tham chiếu, đều nhất định phải được hệ điều hành phê chuẩn, thông thường phải thông qua việc sử dụng một danh sách điều khiển truy cập (access control list - ACL). Ngược lại, trong một hệ thống dựa trên cơ sở năng lực thuần chủng (pure capability-based system), người ta chỉ cần chương trình ứng dụng người dùng sở hữu các năng lực đó là nó đã có quyền sử dụng đối tượng đang được tham chiếu, chiểu theo những quyền mà năng lực đã xác định trước. Trên lý thuyết, một hệ thống dựa trên cơ sở năng lực thuần chủng loại trừ được nhu cầu về danh sách điều khiển truy cập, hoặc những cơ chế tương tự, bằng cách ban cho các thực thể, tất cả và chỉ những năng lực, mà chúng thực sự cần phải có mà thôi. Tuy nhiều hệ điều hành cho thực thi những phương tiện tương tự với các năng lực, bằng cách sử dụng các mô tả tập tin hoặc các chi điều khiển tập tin (file handles) — lấy ví dụ, trong BSD UNIX, các mô tả tập tin có thể bị hủy bỏ (bị khép lại), có thể được thừa kế bởi các tiến trình con (child processes), hoặc có thể được truyền gửi sang các tiến trình khác thông qua các ổ cắm (sockets) — hiện có một số trở ngại ngăn cản tất cả các lợi ích của một hệ thống dựa trên cơ sở năng lực thuần chủng được chấp nhận trong môi trường của hệ điều hành truyền thống. Trở ngại chủ yếu ở đây chính là thực trạng các thực thể tuy có thể có sở hữu những năng lực (như các tiến trình và các tập tin), song không thể trở thành các chủ thể bền bỉ (persistent entities) theo một phương thức làm cho nó có thể duy trì tính toàn vẹn (integrity) của các thông tin bảo an (secure information) mà năng lực đại diện. Hệ điều hành không thể đặt lòng tin vào một chương trình ứng dụng người dùng đọc lại cho nó biết một năng lực mà không xáo trộn (tamper with) tham chiếu của đối tượng hoặc các quyền truy cập. Hậu quả là, khi một chương trình ứng dụng muốn chiếm lại truy cập vào một đối tượng đang được tham chiếu trên đĩa, hệ điều hành nhất định phải có một phương cách nào đó để phê chuẩn yêu cầu truy cập, và do đó, một danh sách điều khiển truy cập hoặc một cơ chế tương tự nào đó là những cái bắt buộc phải có (mandated). Một tiếp cận mới lạ để giải quyết vấn đề này là việc sử dụng một hệ điều hành trực giao bền bỉ (orthogonally persistent operating system). (Việc này đã được thực hiện trong máy Flex). Xem thêm trong bài Ten15). Trong một hệ thống như vậy, người ta không cần phải hủy bỏ các thực thể và cũng không cần phải hủy bỏ hiệu lực của các năng lực, do đó nó cần phải có một cơ chế tương tự như danh sách điều khiển truy cập, để phục hồi lại các năng lực tại một thời điểm khác, sau đó. Trong bất kỳ tình huống nào, hệ điều hành cũng sẽ quản lý tính toàn vẹn, cũng như tính bảo an, của các năng lực được bao gồm trong tất cả các bộ lưu trữ (contained within all storage), cả những cái linh động (volatile) lẫn những cái bất linh động (nonvolatile); một phần, bằng cách tự thi hành tất cả các nhiệm vụ sắp xếp thứ tự (serialization), thay vì đòi hỏi chương trình người dùng làm việc đó, như trong trường hợp của đại bộ phận các hệ điều hành. Do chương trình người dùng không phải gánh vác trách nhiệm này nữa, chúng ta vừa không cần phải đặt lòng tin vào nó tái sinh năng lực tiềm tàng hợp pháp, vừa không phải phê chuẩn những yêu cầu đối với việc truy cập dùng một cơ chế điều khiển truy cập. Chớ nhầm lẫn giữa quan niệm năng lực tiềm tàng được bàn luận trong bài này với "Năng lực tiềm tàng" trong POSIX 1e/2c, vì năng lực tiềm tàng trong POSIX 1e/2c chỉ là những đặc quyền chưa được trau chuốt (coarse-grained privileges), không thể truyền giao giữa các tiến trình được. Các hệ thống dành cho thương mại và các hệ thống dành cho nghiên cứu EROS - The Extremely Reliable Operating System (Hệ điều hành có độ tin cậy tối cao) KeyKOS - EROS' predecessor (tiền thân của EROS) Coyotos - EROS' successor (hậu kế của EROS) CapROS - Một đề án tiếp tục phát triển cơ sở mã EROS Cambridge CAP computer (máy tính CAP của trường đại học Cambridge) Carnegie Mellon University C.mmp với hệ điều hành Hydra Carnegie Mellon University CM* với hệ điều hành StarOS IBM System/38 và AS/400 Intel iAPX 432 Plessey System 250 (Hệ thống Plessey 250) Symbian Tham chiếu Levy, Henry M., Capability-Based Computer Systems, Digital Equipment Corporation 1984. ISBN 0-932376-22-3. (Các hệ thống máy tính dựa trên cơ sở năng lực tiềm tàng. Tác giả: Henry M. Levy) Một phiên bản điện tử (tiếng Anh) có thể truy cập được tại đây. Đề án EROS E, một ngôn ngữ lập trình dựa trên cơ sở bảo an năng lực (capability security) (ERights.org) Mark S. Miller, Ka-Ping Yee, Jonathan Shapiro. Capability Myths Demolished (Giải thích những bí ẩn về năng lực tiềm tàng), Technical Report SRL2003-02, Systems Research Laboratory, Johns Hopkins University. Có thể truy cập tại đây. The Cambridge CAP Computer, Levy, 1988
Hyundai (tiếng Hàn: 현대그룹, Hanja: 現代그룹) là một tập đoàn đa quốc gia của Hàn Quốc có trụ sở chính đặt tại thành phố Seoul, được nhà tư bản công nghiệp Chung Ju-yung sáng lập vào năm 1947. Đây là một trong những tập đoàn kinh tế đa ngành (Chaebol) được thành lập sớm đầu tiên của Hàn Quốc, đặt nền móng cho ngành công nghiệp nặng cũng như quá trình công nghiệp hóa của quốc gia này. Hiện nay, Hyundai đang có quy mô cùng tầm ảnh hưởng tới nền kinh tế, đời sống chính trị - xã hội lớn thứ hai tại Hàn Quốc sau Samsung.
Ōsaka (tiếng Nhật: 大阪市, Ô-xa-kha. tiếng Việt: Đại Phản) là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Osaka, Nhật Bản và là một đô thị quốc gia. Thành phố Osaka chiếm phần lớn nhất vùng đô thị Keihanshin (京阪神 Khê-han-xin, "Kyoto-Osaka-Kobe") và là thành phố lớn thứ hai ở Nhật Bản với dân số 19 triệu người - trong các thành phố có dân cư cao nhất. Thành phố Ōsaka nằm ở vùng Kinki trên đảo Honshu, ngay cửa sông Yodo trên vịnh Ōsaka. Osaka sẽ tổ chức Expo 2025. Thị trưởng hiện tại của Osaka là Matsui Ichiro. Ōsaka vốn dĩ đã là trung tâm thương mại của Nhật Bản và bây giờ nó là trung tâm công nghiệp và hải cảng chính, trái tim của vùng đô thị Kansai. Từ nguyên Ōsaka có nghĩa là "ngọn đồi lớn" hoặc "độ dốc lớn". Không rõ khi nào cái tên này trở nên nổi bật hơn Naniwa, nhưng bằng chứng bằng văn bản lâu đời nhất cho tên này có từ năm 1496. Tên bằng chữ Kanji là , nhưng viết lại thành cho đến năm 1870, khi các đảng phái cho Minh Trị Duy tân thay đổi nó, dường như để tránh chữ Hán thứ hai bị hiểu sai là , có nghĩa là "cuộc nổi loạn của samurai". Điều này yêu cầu trong cách đánh vần trang trọng hiện nay, tên cũ đó phải được sử dụng rất cẩn thận. Chữ Hán cũ vẫn còn được sử dụng nhưng rất hạn chế, thường là trong bối cảnh lịch sử, nhưng trong tiếng Nhật thì chữ Hán hay đứng một mình, đề cập đến thành phố Osaka hoặc tỉnh Osaka. Lịch sử Thời tiền sử đến thời Kofun Một số dấu hiệu cư trú sớm nhất của con người ở khu vực Osaka là ở bao gồm các gò vỏ, hàu biển và bộ xương người bị chôn vùi từ thế kỷ thứ VI - thế kỷ thứ V trước Công nguyên. Người ta tin ngày nay, khu vực Uehonmachi bao gồm một vùng đất bán đảo với một vùng biển nội địa ở phía đông. Trong thời Yayoi, cư dân thường trú trên đồng bằng phát triển khi việc trồng lúa trở nên phổ biến. Đến thời Kofun, Osaka đã phát triển thành một cảng trung tâm kết nối khu vực với khu vực phía tây của Nhật Bản. Số lượng lớn các ngôi mộ ngày càng lớn hơn được tìm thấy ở đồng bằng Osaka được coi là bằng chứng của sự tập trung quyền lực chính trị, dẫn đến sự hình thành của một nhà nước. Thời Asuka và Nara Kojiki ghi lại rằng trong năm 390-430 sau Công nguyên có một cung điện hoàng gia ở Osumi, ngày nay là quận Higashiyodogawa, nhưng nó có thể là một nơi ở của hoàng gia thứ cấp hơn là một thủ đô. In 645, Thiên hoàng Kōtoku xây Cung điện Naniwa Nagara-Toyosaki nơi ngày nay là Osaka và dời đô từ Asuka (tức Nara) về Ōsaka, biến nó thành thủ đô của Nhật Bản. Khu vực hiện nay gồm cả thành phố Ōsaka, vốn có tên gọi là Naniwa (viết là 難波, 浪華 hay 浪花), và hiện nay ở Ōsaka vẫn có một phường tên là Naniwa (浪速) và Namba (難波). Naniwa được Thiên hoàng Temmu thành lập năm 683, trên vùng đất mà bây giờ là phường Hōenzaka thuộc Osaka. Mặc dù thủ đô đã được chuyển lại đến Asuka (tại tỉnh Nara ngày nay) vào năm 655, Naniwa luôn luôn là đường liên kết có tính sống còn, cả trên bộ lẫn dưới biển, giữa Yamato (tỉnh Nara ngày nay), Hàn Quốc và Trung Quốc. Những nghiên cứu lịch sử cho rằng người Yamato (người Nhật) đã đến cửa sông Yodo lần đầu vào năm 663. Vào thế kỉ thứ 7 và 8, có khi Naniwa là nơi xây cung điện của một vài thiên hoàng. Thành phố này cũng là một trong những hải cảng đầu tiên có sự giao lưu văn hoá và kinh tế với nhà Đường ở Trung Quốc. Naniwa đã được tuyên bố trở lại thủ đô vào năm 744 theo lệnh của Thiên hoàng Shōmu và duy trì như vậy cho đến năm 745, khi Tòa án Hoàng gia chuyển trở lại Heijō-kyō (nay là Nara). Đến cuối thời Nara, vai trò cảng biển của Naniwa đã dần dần bị xóa nhòa bởi các khu vực lân cận, nhưng nó vẫn là một trung tâm của sông, kênh và giao thông đường bộ giữa Heian-kyō (Kyoto ngày nay) và các điểm đến khác. Thời Heian đến Edo Năm 1496, Phật tử Jodo Shinshu đã thành lập tổng hành dinh, chùa Ishiyama Hongan-ji trên những cung điện Hoàng gia Naniwa cũ đã bị phá huỷ. Năm 1570, Oda Nobunaga bao vây ngôi chùa này vào năm 1570. Các nhà tu hành cuối cùng phải bỏ chùa đi vào năm 1580. Ngôi chùa đã bị Toyotomi Hideyoshi san bằng để lấy chỗ xây lâu đài của mình, thành Ōsaka năm 1583. Osaka từ lâu đã được coi là trung tâm kinh tế chính của Nhật Bản, với tỷ lệ lớn dân số thuộc tầng lớp thương gia (xem Bốn tầng lớp của xã hội). Trong suốt thời Edo (1603-1867), Osaka đã phát triển thành một trong những thành phố lớn của Nhật Bản và trở lại vai trò như một hải cảng sống quan trọng. Văn hóa phổ biến của nó có liên quan chặt chẽ với ukiyo-e 'trong thời Edo. Đến năm 1780, việc phát triển song song với nền văn hoá đô thị của Kyōto và Edo, Osaka cũng có những nhà sản xuất bunraku và kabuki đặc trưng, và một cộng đồng nghệ thuật sống. Vào năm 1837, Ōshio Heihachirō, một cấp bậc thấp samurai, đã dẫn đầu một cuộc nổi dậy của nông dân để đáp lại sự không sẵn lòng của thành phố trong việc hỗ trợ nhiều gia đình nghèo và đau khổ trong khu vực. Khoảng một phần tư của thành phố đã bị san bằng trước khi các quan chức của tướng quân dập tắt cuộc nổi loạn, sau đó Ōshio tự sát. Osaka được chính phủ của Bakufu mở cửa ngoại thương chung với Hyōgo (hiện tại là Kobe) vào ngày 1 tháng 1 năm 1868, ngay trước khi Chiến tranh Boshin và Minh Trị Duy tân xảy ra. Không có tài liệu rõ ràng về việc cái tên Ōsaka thay thế tên Naniwa, nhưng những tài liệu viết tay cũ nhất có xuất hiện cái tên này, khoảng những năm 1496, được tìm thấy trong chùa Ishiyama Hongan-ji. Lúc đó, tên này được phát âm là Ōzaka. Dần dần, âm "z" phát âm nhẹ dần, đồng thời âm "o" (ō) dài cũng phát âm ngắn đi. Cư dân Osaka đã rập khuôn trong văn học Edo từ khoảng vào thế kỷ 18. Jippensha Ikku vào năm 1802 miêu tả người Osaka là keo kiệt. Năm 1809, thuật ngữ xúc phạm "Kamigata zeeroku" được cư dân Edo sử dụng để mô tả cư dân của khu vực Osaka về thói tính toán, sự sắc sảo, thiếu tinh thần công dân và sự thô tục của phương ngữ Osaka. Các nhà văn Edo đã xem "zeeroku" là những người học việc ngoan cố, keo kiệt, tham lam, háu ăn và dâm dục. Ở một mức độ nào đó, cư dân Osaka vẫn bị các nhà quan sát Tokyo kỳ thị theo cách tương tự như ngày nay, đặc biệt là về sự háu ăn, được chứng minh trong cụm từ, . Thế kỷ XIX đến nay Đô thị quốc gia được thành lập vào năm 1889 theo pháp lệnh chính phủ, với diện tích ban đầu là 15 km², ngày nay thuộc quận Chūō và Nishi. Sau đó, thành phố đã trải qua ba lần mở rộng lớn để đạt được quy mô hiện tại là 223 km². Osaka là trung tâm công nghiệp của chủ nghĩa tư bản ở Nhật Bản. Nó được biết đến như là "Manchester phương Đông". Sự công nghiệp hóa nhanh chóng đã thu hút nhiều người nhập cư Hàn Quốc. Hệ thống chính trị đa nguyên với sự tập trung vào việc thúc đẩy công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Tỷ lệ biết chữ cao và hệ thống giáo dục tăng cao, tạo ra một tầng lớp trung lưu có sở thích về văn học và sẵn sàng hỗ trợ nghệ thuật. Năm 1927, General Motors vận hành một nhà máy gọi là Osaka Assembly cho đến năm 1941, sản xuất xe Chevrolet, Pontiac, Oldsmobile và Buick, được vận hành và có các nhân viên Nhật Bản. Tại thành phố gần đó Ikeda ở tỉnh Osaka là văn phòng trụ sở của Daihatsu, một trong những nhà sản xuất ô tô lâu đời nhất của Nhật Bản. Giống như châu Âu và châu Mỹ, Osaka có các khu ổ chuột cùng thất nghiệp và nghèo đói. Tại Nhật Bản, chính quyền thành phố lần đầu tiên giới thiệu một hệ thống xóa đói giảm nghèo toàn diện, được sao chép một phần từ các mô hình của Anh. Các nhà hoạch định chính sách Osaka nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ban hành và hỗ trợ lẫn nhau là cách tốt nhất để chống lại nghèo đói. Điều này giảm thiểu chi phí của các chương trình phúc lợi. Trong Thế chiến II, Osaka bị oanh tạc vào năm 1945 bởi Không quân Quân đội Hoa Kỳ như một phần chương trình không kích vào Nhật Bản. Vào ngày 13 tháng 3 năm 1945, tổng cộng có 329 máy bay ném bom hạng nặng Boeing B-29 Superfortress đã tham gia cuộc đột kích trên không vào Osaka. Theo một tù nhân chiến tranh người Mỹ bị giam trong thành phố, cuộc không kích gần như cả đêm và phá hủy 65 km² diện tích thành phố. Hoa Kỳ đã ném bom thành phố một lần nữa vào tháng 6 năm 1945 và một lần nữa vào ngày 14 tháng 8, một ngày trước khi Nhật Bản đầu hàng. Chính phủ đã ra sắc lệnh công nhận Ōsaka là đô thị cấp quốc gia vào ngày 1 tháng 9 năm 1956. Địa lý Phía tây của thành phố giáp vịnh Osaka và hoàn toàn bị bao bởi hơn mười thành phố vệ tinh, tất cả đều ở tỉnh Ōsaka. Thành phố chiếm diện tích lớn hơn (khoảng 13%) so với bất kỳ thành phố hoặc làng nào khác trong tỉnh Osaka. Khi thành phố được thành lập vào năm 1889, nó chiếm khoảng diện tích ngày nay là các phường Chuo và Nishi, chỉ 15,27 km² rồi cuối cùng ngày nay mở rộng ra thành 222,30 km², trong đó lớn nhất là lần mở rộng 126,01 km² vào năm 1925. Điểm cao nhất của Osaka là ở Tsurumi-ku cao 37,5 mét và điểm thấp nhất là ở Nishiyodogawa-ku thấp so với mực nước biển -2,2 mét. Khí hậu Osaka nằm trong khu vực khí hậu cận nhiệt đới ẩm (Köppen Cfa), với bốn mùa rõ rệt. Mùa đông thường ôn hòa, với tháng giêng là tháng lạnh nhất có nhiệt độ trung bình là 9,3 °C. Thành phố hiếm khi thấy tuyết rơi trong mùa đông. Mùa xuân ở Osaka bắt đầu ôn hòa, nhưng cuối cùng lại nóng và ẩm. Nó cũng có xu hướng là mùa ẩm ướt nhất của Osaka, với - xảy ra từ đầu tháng 6 tới cuối tháng 7. Mùa hè rất nóng và ẩm ướt. Vào tháng 8, tháng nóng nhất, nhiệt độ cao trung bình hàng ngày đạt 33,5 °C, trong khi nhiệt độ thấp vào ban đêm trung bình thường dao động khoảng 25,5 °C. Mùa thu ở Osaka chứng kiến ​​một xu hướng mát mẻ, với phần đầu của mùa giống với mùa hè trong khi phần sau của mùa thu giống với mùa đông. Lượng mưa rất nhiều, với mùa đông là mùa ít mưa nhất, trong khi lượng mưa hàng tháng đạt đỉnh vào tháng 6 với mùa mưa "tsuyu", thường kết thúc vào giữa đến cuối tháng 7. Từ cuối tháng 7 đến hết tháng 8, nhiệt độ và độ ẩm của mùa hè và lượng mưa giảm đi một chút. Osaka trải qua một đợt mưa thứ hai vào tháng 9 và đầu tháng 10, khi các xoáy thuận nhiệt đới, bao gồm cả bão xuấ hiện đến từ phía nam hoặc tây nam. Cảnh quan thành phố Cảnh quan thành phố rộng lớn của Osaka đã được mô tả là "chỉ chưa bằng Tokyo do điển hình của hiện tượng đô thị ở Nhật Bản". Các khu dân cư Trung tâm Osaka được chia thành khu kinh doanh và khu thượng lưu được gọi là và . Kita gồm khu Umeda và các khu vực lân cận, một trung tâm kinh doanh và bán lẻ lớn cùng Ga Ōsaka và một mạng lưới mua sắm lớn dưới mặt đất. Kita và Nakanoshima gần đó có các tòa nhà chọc trời. Minami, mặc dù có nghĩa là "phía nam", về cơ bản là ở và về mặt địa lý nó ở trung tâm thành phố. Các khu nổi tiếng ở đây bao gồm các khu vực mua sắm Namba và Shinsaibashi, khu giải trí Dōtonbori, Nipponbashi, cũng như các khu vực văn hóa, nghệ thuật và thời trang như Amerikamura và Horie. Các khu kinh doanh giữa Kita và Minami như Honmachi và Yodoyabashi, được gọi là , nơi trụ sở khu vực của nhiều ngân hàng và tập đoàn quy mô lớn. Đại lộ Midōsuji chạy qua Semba và kết nối Kita và Minami. Xa hơn về phía nam của Minami là các khu phố như Shinsekai (với tòa tháp Tsūtenkaku), Tennoji và Abeno (với Sở thú Tennoji, Shitennō-ji và Abeno Harukas) và khu ổ chuột Kamagasaki, khu ổ chuột lớn nhất ở Nhật Bản. Phía tây của thành phố là vịnh Osaka nổi bật đóng vai trò là cảng chính cũng như một địa điểm du lịch với các điểm tham quan như Kyocera Dome, Universal Studios Japan và Làng cảng Tempozan. Đông Osaka được phân vùng thành một thành phố riêng biệt, mặc dù phía đông của thành phố Osaka có rất nhiều khu bao gồm Tsuruhashi (Thị trấn Hàn Quốc), cũng như Công viên lâu đài Osaka, Khu thương mại Osaka và trung tâm Ga Kyōbashi. Osaka có nhiều kênh và cầu, nhiều trong số đó đóng vai trò là tên gọi cho các khu vực lân cận. Cụm từ "808 cây cầu của Naniwa" là một thành ngữ ở Nhật Bản cũ được sử dụng để chỉ sự ấn tượng và "không thể đếm được". Osaka có khoảng 200 cây cầu vào thời Edo và 1629 cây cầu vào năm 1925. Khi nhiều kênh đào của thành phố dần dần được lấp đầy, con số này giảm xuống còn 872, trong đó có 760 cây cầu hiện đang được quản lý bởi Thành phố Osaka. Quận Osaka có 24 : Những điểm tham quan Trung tâm Ōsaka được chia làm 2 khu: khu phía bắc Kita (北) và phía nam Minami (南). Một khu lẻ Umeda (梅田 –Mai Điền) nằm ở Kita, với khu giải trí quanh cầu Dotonbori, Công viên tam giác và Amerikamura ("làng Mỹ") ở Minami. Minami cũng là quê hương của cây cầu Shinsaibashi (心斎橋) và khu mua sắm Ebisubashi. Khu thương mại trung tâm, bao gồm toà án và ngân hàng, nằm ở vùng Yodoyabashi và Honmachi (本町), giữa Kita và Minami. Khu này cũng có ga cuối, ví dụ như ga Tennoji (天王寺駅) và ga Kyobashi (京橋駅). Ōsaka nổi tiếng với bunraku (nhà hát rối cổ truyền), nhà hát kịch kabuki, và manzai, một hình thức hiện đại của kịch hài đứng. Những điểm thu hút du khách còn có: Kaiyukan Kaiyukan (海遊館, Hải Du quán) là một thủy cung trong vịnh Ōsaka, có 35.000 loài sống dưới nước trong 14 bể lớn. Bể lớn nhất trong số đó cũng là bể lớn nhất thế giới, chứa 5.400 tấn nước và là nhà của nhiều sinh vật biển khác nhau kể cả cá voi và cá mập. Các địa điểm đáng chú ý Quận Shinsekai và Tsūtenkaku Bảo tàng thành phố Ōsaka Công viên Nakanoshima Bảo tàng đồ sứ phương Đông – thành phố Ōsaka Bảo tàng khoa học Ōsaka Thư viện công cộng Nakanoshima Quảng trường trung tâm Ōsaka Bảo tàng đồ sứ và đồ gốm: thành lập năm 1982. Có 2.000 mảnh gốm ở đây, trong đó có cái là tài sản quốc gia. Ở đây cũng có một phòng trưng bày thiên nhiên chuyên về gốm sứ xanh ngọc Hàn Quốc. Khu làng Hoa Kỳ (American Village) Bảo tàng Hài kịch Kamigata và nghệ thuật biểu diễn tỉnh Ōsaka Công viên Tennoji Sở thú Tennoji Bảo tàng nghệ thuật quốc gia, Ōsaka Đền Shitenno Công viên Sumiyoshi Điện thờ Sumiyoshi Taisha Trung tâm thương mại châu Á-Thái Bình Dương Toà nhà WTC Osaka Nơi sinh của Hiromitsu Ishida Thị trấn Den Den Mái vòm Osaka Bảo tàng dân tộc học quốc gia (Minpaku) Bảo tàng nhà nông nghiệp ở công viên Hattori Ryokuchi Giao thông Sân bay quốc tế Kansai là sân bay chính: nó nằm trên một hòn đảo nhân tạo hình chữ nhật ngoài khơi vịnh Osaka, phục vụ cho Osaka và các thành phố vệ tinh như Nara, Kobe và Kyoto. Sân bay có kết nối với trung tâm thành phố và ngoại ô. Sân bay quốc tế Osaka ở Itami và Toyonaka vẫn là nơi đến của phần lớn các chuyến bay nội địa từ các miền khác. Bên cạnh hệ thống đường tàu điện ngầm của thành phố Osaka, còn có mạng lưới của JR và những đường tàu tư nhân, để đi từ Osaka đến các tỉnh láng giềng. Đường tàu Keihan và Hankyu đi tới Kyoto, Hanshin và Hankyu đi tới Kobe, đường Kintetsu đi đến Nara và Nagoya, và đường Nankai để tới Wakayama. Dân số Theo điều tra dân số năm 2005, có 2.628.811 cư dân ở Osaka, tăng 30.037 hay 1,2% so với năm 2000. Có 1.280.325 hộ gia đình với khoảng 2,1 người mỗi hộ. Mật độ dân số là 11.836 người trên mỗi km². Đại động đất Kantō đã gây ra một cuộc di cư lớn đến Osaka trong khoảng thời gian từ 1920 đến 1930 và thành phố trở thành thành phố lớn nhất của Nhật Bản vào năm 1930 với 2.453.573 người, đông hơn cả Tokyo, với dân số 2.070.913 người. Dân số đạt đỉnh ở mức 3.252.340 vào năm 1940 và có mức cao nhất sau chiến tranh là 3.156.222 vào năm 1965, nhưng vẫn tiếp tục giảm kể từ khi cư dân chuyển ra ngoại ô. Có 99.775,5 người nước ngoài sinh sống hợp pháp, hai nhóm lớn nhất là Hàn Quốc (71.015) và Trung Quốc (11.848). Ikuno, với quận Tsuruhashi, là nơi cư trú của một trong những cư dân Hàn Quốc lớn nhất tại Nhật Bản, với 27.466 người sinh sống hợp pháp được gọi là Zainichi Hàn Quốc. Phương ngữ Phương ngữ thường được nói đến của khu vực này là Osaka-ben, một phương ngữ phụ điển hình của Kansai-ben. Trong số nhiều đặc điểm khác đặc trưng cho Osaka-ben, các ví dụ bao gồm sử dụng từ nối ya thay vì da và hậu tố -hen thay vì -nai'' trong động từ phủ định. Chính trị là chính quyền địa phương của thành phố được thành lập theo Luật tự trị địa phương. Hội đồng có 89 ghế, được phân bổ cho hai mươi bốn quận tỷ lệ với dân số và được bầu lại bởi công dân cứ sau mỗi bốn năm. Hội đồng bầu Chủ tịch và Phó Chủ tịch. Toshifumi Tagaya (LDP) là Chủ tịch hiện tại và là chủ tịch thứ 104 kể từ tháng 5 năm 2008. Thị trưởng thành phố được bầu chọn trực tiếp bởi công dân bốn năm một lần, theo Luật tự trị địa phương. Tōru Hashimoto, cựu thống đốc của Ōsaka là thị trưởng thứ 19 của Osaka kể từ năm 2011. Thị trưởng được hỗ trợ bởi hai Phó Thị trưởng, hiện là Akira Morishita và Takashi Kashiwagi, người được ông ta bổ nhiệm theo luật lệ thành phố. Osaka cũng có một số cơ quan của Chính phủ Nhật Bản. Dưới đây là danh sách các Văn phòng Chính phủ được đặt tại Osaka. Lực lượng Bảo vệ bờ biển Nhật Bản, Trụ sở khu vực thứ năm Ủy ban thương mại công bằng Nhật Bản; Văn phòng ở Kinki, Chugoku, Shikoku Phòng tài chính khu vực Kinki Phòng kinh tế, thương mại và công nghiệp khu vực Kinki Cục giao thông khu vực Kinki Cục truyền thông Kinki Cục phát triển khu vực Kinki Cục cảnh sát khu vực Kinki Bộ Ngoại giao, Văn phòng Osaka Hải quan Osaka Tòa án Osaka Tòa án gia đình Osaka Tòa án tối cao Osaka Cơ quan Di trú Osaka Cục Lao động Osaka Đài quan sát khí tượng Osaka Văn phòng công tố viên Osaka Cục hàng không vũ trụ khu vực Osaka Văn phòng luật sư khu vực Osaka Cục thuế khu vực Osaka Tòa phân xử Osaka Vào tháng 7 năm 2012, một dự luật đa đảng đã được đệ trình lên Nghị viện cho phép thực hiện kế hoạch đô thị Osaka theo kế hoạch của thị trưởng thành phố Osaka, thống đốc Osaka và đảng của họ. Nếu được thực hiện, thành phố Osaka, Sakai lân cận và có thể các thành phố lân cận khác sẽ giải thể và được tổ chức lại thành bốn quận đặc biệt của tỉnh Osaka - tương tự như thành phố Tokyo trong tỉnh Tokyo. Các phường đặc biệt là các đơn vị hành chính cấp thành phố để lại một số trách nhiệm hành chính và doanh thu khác cho chính quyền tỉnh. Vào tháng 12 năm 2018, thị trưởng và thống đốc Osaka có thể từ chức để buộc một cuộc trưng cầu dân ý về kế hoạch của thành phố trùng với cuộc bầu cử cho các vị trí đó vào mùa xuân năm 2019. Vào tháng 10 năm 2018, thành phố Osaka chính thức kết thúc mối quan hệ thành phố kết nghĩa với San Francisco của Mỹ sau các vấn đề bất hòa về đài tưởng niệm “comfort women”, trong một lá thư dài 10 trang, 3.800 từ tiếng Anh gửi đến thị trưởng San Francisco London Breed. Chính trị liên quan đến việc sử dụng năng lượng hạt nhân Vào ngày 27 tháng 2 năm 2012, ba thành phố Kansai, Kyoto, Osaka và Kobe, đã cùng yêu cầu Công ty Điện lực Kansai phá vỡ sự phụ thuộc vào năng lượng hạt nhân. Trong một lá thư gửi KEPCO, họ cũng yêu cầu tiết lộ thông tin về nhu cầu và cung cấp điện và với giá thấp hơn và ổn định. Ba thành phố là cổ đông của nhà máy: Osaka sở hữu 9% cổ phần, trong khi Kobe có 3% và Kyoto 0,45%. Toru Hashimoto, thị trưởng thành phố Osaka, đã công bố đề xuất giảm thiểu sự phụ thuộc vào năng lượng hạt nhân trong cuộc họp cổ đông vào tháng 6 năm 2012. Vào ngày 18 tháng 3 năm 2012, thành phố Osaka đã quyết định là cổ đông lớn nhất của Công ty Điện lực Kansai, rằng tại cuộc họp cổ đông tiếp theo vào tháng 6 năm 2012, nó sẽ yêu cầu một loạt thay đổi: rằng Kansai Electric sẽ được tách thành hai công ty, tách nguồn phát điện khỏi truyền tải điện giảm số lượng giám đốc điều hành và nhân viên. việc thực hiện các phép đo tuyệt đối an toàn để đảm bảo an toàn cho các cơ sở hạt nhân. việc xử lý nhiên liệu đã qua sử dụng. lắp đặt loại phát điện nhiệt mới để đảm bảo cung cấp năng lượng phi hạt nhân. bán tất cả các tài sản không cần thiết bao gồm cả cổ phiếu của KEPCO. Trong hành động này, Osaka đã bảo đảm sự hỗ trợ của hai thành phố và cổ đông khác: Kyoto và Kobe, nhưng với quyền biểu quyết kết hợp là 12,5%, họ không chắc chắn về kết quả cuối cùng, bởi vì hai phần ba các cổ đông đồng ý thì mới sửa đổi được điều lệ công ty. Tại một cuộc họp được tổ chức vào ngày 10 tháng 4 năm 2012 bởi "hội đồng chiến lược năng lượng", được thành lập bởi thành phố Osaka và chính quyền các quận, vào cuối năm tài chính 2011, khoảng 69 nhân viên của Công ty Điện lực Kansai đã từng là công chức. "Amakudari" là tên tiếng Nhật của hoạt động khen thưởng này bằng cách thuê các quan chức trước đây kiểm soát và giám sát công ty. Những người như vậy bao gồm: 13 cựu quan chức của: Bộ Đất đai, Cơ sở hạ tầng, Giao thông và Du lịch 3 cựu quan chức của Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp, 2 cựu quan chức của Bộ Môi trường, 16 cựu cảnh sát, 10 cựu lính cứu hỏa, 13 cựu kỹ sư xây dựng. Bên cạnh đó, người ta biết rằng Kansai Electric đã thực hiện khoảng 600 khoản tài trợ bên ngoài, với tổng số tiền khoảng 1,695 tỷ yên: 70 đóng góp đã được trả cho chính quyền địa phương: với tổng số 699 triệu yên 100 đóng góp cho các tổ chức dịch vụ công cộng: 443 triệu yên, 430 đóng góp cho các tổ chức và cơ sở khác nhau: tổng cộng 553 triệu yên Trong cuộc họp này, 8 điều kiện đã được biên soạn, cần phải hoàn thành trước khi khởi động lại lò phản ứng số 3 và số 4 Nhà máy điện hạt nhân Oi: sự đồng ý của người dân và chính quyền địa phương trong vòng 100 km từ nhà máy lập một cơ quan quản lý độc lập mới thỏa thuận an toàn hạt nhân thiết lập các tiêu chuẩn an toàn hạt nhân mới kiểm tra và đánh giá nghiêm ngặt dựa trên các quy tắc an toàn mới này Kinh tế Tổng sản phẩm thành phố của Osaka trong năm tài khóa 2004 là 21,3 nghìn tỷ Yên, tăng 1,2% so với năm trước. Con số này chiếm khoảng 55% tổng sản lượng tại tỉnh Osaka và 26,5% ở khu vực Kinki. Trong năm 2004, thương mại, dịch vụ và sản xuất là ba ngành công nghiệp chính, chiếm lần lượt 30%, 26% và 11%. Thu nhập bình quân đầu người trong thành phố khoảng 3,3 triệu Yên, cao hơn 10% so với tỉnh Osaka. MasterCard toàn cầu báo cáo rằng Osaka đứng thứ 19 trong số các thành phố hàng đầu thế giới và đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu. GDP ở khu vực đại Osaka lớn hơn (Osaka và Kobe) 341 tỷ đô la. Osaka, cùng với Paris và London, có một trong những nơi nằm trong nội địa (hinterland) có tỉ trọng cao nhất trên thế giới. GDP bình quân đầu người của Osaka (danh nghĩa) là 59.958 USD. Trong lịch sử, Osaka là trung tâm thương mại tại Nhật Bản, đặc biệt là trong thời kỳ trung lưu và tiền hiện đại. Nomura Securities, công ty môi giới đầu tiên ở Nhật Bản được thành lập tại thành phố vào năm 1925 và Osaka vẫn là nơi buôn bán hàng đầu. Nhiều công ty lớn đã chuyển văn phòng chính của họ đến Tokyo. Tuy nhiên, một số công ty lớn, như Panasonic, Sharpvà Sanyo, vẫn có trụ sở tại Osaka. Gần đây, thành phố bắt đầu một chương trình, đứng đầu là thị trưởng Junichi Seki, để thu hút đầu tư trong và ngoài nước. Trong Chỉ số Trung tâm Tài chính Toàn cầu 2017, Osaka được xếp hạng là trung tâm tài chính cạnh tranh thứ 15 trên thế giới và cạnh tranh thứ năm ở Châu Á (sau Singapore, Hồng Kông, Tokyo, and Thượng Hải). The Osaka Securities Exchange, specializing in derivatives such as Nikkei 225 futures, is based in Osaka. The merger with JASDAQ will help the Osaka Securities Exchange become the largest exchange in Japan for start-up companies. According to global consulting firm Mercer, Osaka was the second most expensive city for expatriate employees in the world in 2009. It jumped up nine places from 11th place in 2008 and was the eighth most expensive city in 2007. However, it was not ranked in the top ten places of the list in 2013. The Economist Intelligence Unit (EIU) ranked Osaka as the second most expensive city in the world in its 2013 Cost of Living study. Trong lịch sử, Osaka là trung tâm thương mại ở Nhật Bản, đặc biệt là trong thời kì trung cổ và cận đại. Ngày nay, nhiều công ty lớn đã chuyển trụ sở chính về Tokyo đặc biệt là từ cuối những năm 1990, nhưng có một vài công ty vẫn đặt ở Osaka. Sau đây là một vài công ty ở Osaka. Capcom Daimaru Ezaki Glico Đường sắt Hankyu Tàu điện Hanshin ITOCHU Kintetsu Corporation Công ty điện lực Kansai Keyence Matsushita (Panasonic) Tàu điện Nankai Nissin Nova Osaka Gas Resona Holdings, Inc. Roland Sanyo Sharp Suntory Takashimaya Công ty Đường sắt Tây Nhật Bản (JR West) Giáo dục Các trường tiểu học và trung học cơ sở công lập ở Osaka điều hành bởi Phòng giáo dục thành phố Osaka. Các trường trung học phổ thông công lập được điều hành bởi Sở giáo dục phủ Osaka. Thành phố Osaka có một số lượng lớn các trường đại học, nhưng do sự phát triển của các trường cao đẳng nên nhiều trường đại học đã chọn giải pháp chuyển ra ngoại thành. Osaka vẫn là trung tâm của giáo dục cấp cao ở Nhật Bản, có thể so sánh với Kyoto hay Tokyo. ở tỉnh osaka có các trường đại học quốc lập,công lập như sau: Đại học Osaka Đại học thành phố Osaka Đại học tỉnh Osaka (tên chính thức là Đại học phủ lập Osaka) Đại học giáo dục Osaka Văn hoá Nhiều người cho rằng người dân ở Osaka có được hiểu biết là do những người không phải ở Osaka, đặc biệt là người Tokyo. Phần lớn người dân Osaka cảm thấy một sự chia rẽ lớn giữa họ với những người Nhật vùng Kanto. Nhiều người phát cáu lên khi người Tokyo có thể đem Osaka ra làm trò cười chỉ dựa vào 1 chương trình TV kể về thành phố của họ. Một ví dụ rõ ràng của chuyện này là khi nghệ sĩ hài kịch ở Tokyo (sinh ra ở Shikoku) là Saibara Rieko, trên một chương trình truyền hình, đã cảnh báo rằng ai muốn đến Osaka thì nên biết nước máy ở đó rất dơ bẩn và không nên uống. Điều này đã tác động mạnh tới Công ty cấp nước Osaka. Họ đã mời Saibara đến Osaka để thử một show diễn: bịt mắt bà lại và đố bà có thể nhận ra nước máy ở Osaka với nước máy ở Tokyo và nước khoáng. Trò thử này được chiếu trên tivi, nhưng Công ty cấp nước Osaka đã phải thất vọng vì Saibara đã nhận ra nước ở Osaka. Tuy nhiên, một lời xin lỗi được đưa ra và Saibara nói rằng nước ở Osaka cũng không tệ lắm. Osaka nổi tiếng với đồ ăn, có một câu dân gian nói là "bạn muốn thấy Kimono thì đến Kyoto, còn muốn ăn thì hãy đến Osaka" (京の着倒れ、大阪の食い倒れ). Ấm thực vùng Osaka bao gồm okonomiyaki (bánh cake chiên), takoyaki (bạch tuộc tẩm bột nướng), udon (một loại mì), món sushi địa phương và những thức ăn Nhật Bản truyền thống khác. Người ta nói có nguyên một ngành công nghiệp phục vụ ẩm thực ở Osaka, có cả những món ăn trên trung bình, được phục vụ nhanh mà rẻ. Là một thành phố lớn, thành phố công nghiệp, người Osaka luôn nghĩ lúc nào cũng là giờ làm việc. Một người Osaka điển hình không bao giờ chờ đúng đèn giao thông để qua đường nếu ở đó không nhiều xe cộ. Họ cũng là những người đi bộ nhanh nhất Nhật Bản - tốc độ trung bình 1,6 m/s (hơn cả người Tokyo cũng đi nhanh nhưng với vận tốc 1,56 m/s). Các thành phố kết nghĩa Osaka có 8 thành phố kết nghĩa . Các thành phố kết nghĩa: Chicago, Hoa Kỳ Hamburg, Đức San Francisco, Hoa Kỳ São Paulo, Brasil Thượng Hải, Trung Quốc Melbourne, Úc Milano, Ý Sankt-Peterburg, Nga Dubai, Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam Các thành phố hữu nghị và hợp tác: Budapest, Hungary Buenos Aires, Argentina Manila, Philippines Osaka có nhiều cảng kết nghĩa. Chú thích