text
stringlengths
0
512k
127 (một trăm hai mươi bảy) là một số tự nhiên ngay sau 126 và ngay trước 128.
128 (một trăm hai mươi tám) là một số tự nhiên ngay sau 127 và ngay trước 129.
129 (một trăm hai mươi chín) là một số tự nhiên ngay sau 128 và ngay trước 130.
130 (một trăm ba mươi) là một số tự nhiên ngay sau 129 và ngay trước 131.
131 (một trăm ba mươi mốt) là một số tự nhiên ngay sau 130 và ngay trước 132.
là người sáng tác truyện tranh người Nhật. Ông đã bắt đầu vẽ truyện tranh từ khi còn rất trẻ. Sau khi ông vào đại học, nhà xuất bản Shueisha đã phát hiện ra tài năng của ông. Togashi là tác giả của nhiều bộ truyện tranh đình đám ở Nhật, tiêu biểu như Hành Trình U Linh Giới, Level E và Hunter x Hunter được công bố trên tạp chí Weekly Shōnen Jump. Togashi đã kết hôn với của Takeuchi Naoko, tác giả của Sailor Moon. Tại Việt Nam, 2 bộ truyện Hành trình U Linh Giới và Hunter X Hunter đã được Nhà xuất bản Kim Đồng ấn hành vào lần lượt vào năm 2016 và 2017. Tiểu sử Sinh ra tại thành phố Shinjou, tỉnh Yamagata, khi còn là 1 đứa trẻ, ông rất thích thể thao, đặc biệt là bóng chày, nhưng niềm đam mê lớn nhất của ông vẫn là vẽ manga. Togashi đã bắt đầu vẽ manga khá thường xuyên khi ông học năm thứ nhất, thứ hai tiểu học. Tại trường cấp 3, Togashi đã tham gia câu lạc bộ mỹ thuật; sau đó ông đã thi đậu vào trường đại học Yamagata khoa sư phạm với dự định sẽ trở thành giáo viên. Trong khi còn học đại học, ông đã gửi nhiều bộ truyện của mình đến tạp chí truyện tranh Weekly Shounen Jump, được xuất bản bởi Shueisha. Vào năm 1986, khi ông 20 tuổi, tác phẩm Buttobi Straight của ông đã nhận được giải thưởng danh giá nhất dành cho những mangaka mới ra mắt ở Nhật Bản, giải Osamu Tezuka. Một tác phẩm khác của ông, Jura no Mizuki, cũng đã được đề cử danh dự ở tờ tạp chí hằng năm đầu tiên của Shueisha, Hot Step Award Selection, xuất bản năm 1988. Quyết định từ bỏ mục tiêu trở thành giáo viên của ông đến từ một lần thực tập, ông đã rất lo lắng và hoảng sợ khi có nhiều ánh mắt đổ dồn về mình, đến độ ông hoàn toàn không ý thức mình đang nói gì. Trong Yu Yu Hakusho ông phác họa 1 vài hình tượng giáo viên khó chịu, vô lý có lẽ nhờ những trải nghiệm này. Sau khi nghiêm túc với quyết định trở thành 1 họa sĩ truyện tranh chuyên nghiệp, lúc này ông học năm hai đại học, biên tập viên Weekly Shounen Jump của ông đã liên lạc với ông để đề nghị ông chuyển đến Tokyo. Tác phẩm ra mắt vào thời gian đầu của ông cho Shueisha bao gồm “Oukami Nante Kowakunai!!. I’m not afraid of the Wolf!!” là tuyển tập những mẩu truyện hài ngắn. Weekly Shounen Jump cũng đã xuất bản tuyển tập này dưới khổ truyện tankoubon (khổ bình thường) vào năm 1989. Khoảng giữa năm 1989 và 1990, Togashi cũng đã sáng tác bốn tập truyện thuộc thể loại tình cảm, ecchi “Ten de Shouwaru Cupid, Wicked Cupid, Thần tình yêu xấu tính của Thiên Đàng”, kể về mối quan hệ giữa một cậu bé bình thường và một cô nàng yêu tinh xinh đẹp nhưng xấu tính. Năm 1990, Togashi đã làm nên tên tuổi của mình với tác phẩm dài kỳ tiếp theo, Yu Yu Hakusho đã trở thành 1 megahit thời bấy giờ. Dựa trên sở thích về những điều huyền bí và những bộ phim kinh dị, câu chuyện kể về một cậu bé tên là Yusuke Urameshi, sau 1 tai nạn bất ngờ, cậu qua đời nhưng được âm giới quyết định cho trở lại cuộc sống và sau này trở thành “thám tử cõi âm”. Tác phẩm chỉ gồm 175 chương và 19 tập truyện (khổ tankoubon) từ năm 1990 đến 1994, đạt mốc 49 triệu bản in chỉ tính riêng tại Nhật Bản, đem về cho Togashi giải thưởng Shogakukan năm 1994, và được chuyển thể thành anime. Năm 1995, ông sáng tác tiếp Level E, tác phẩm thuộc thể loại khoa học viễn tưởng, gồm 3 tập, được đăng trên Weekly Shounen Jump từ năm 1995 đến 1997. Level E đã được chuyển thể thành anime năm 2011. Tác phẩm lớn tiếp theo của ông là series Hunter x Hunter bắt đầu năm 1998, thể loại hành động, phiêu lưu, siêu nhiên. Câu chuyện diễn biến theo chân nhân vật chính, cậu bé Gon Freecss quyết định lên đường tham gia cuộc thi tuyển chọn Hunter để tìm cha mình, một thợ săn huyền thoại. Tác phẩm này cũng đã rất thành công về mặt thương mại và cũng như  những đánh giá chuyên môn cao, 20 tập đầu đã đạt 55 triệu bản in tại Nhật vào tháng 8, 2011. Năm 2008, Togashi đồng hạng 5 với Eiichiro Oda (tác giả One Piece) trong một cuộc bình chọn được tổ chức bởi công ty Oricon ở hạng mục những mangaka được yêu thích nhất. Cả ba tác phẩm Yu Yu Hakusho, Level E và Hunter x Hunter đều nằm trong top những tác phẩm huyền thoại của Shounen Jump và Yu Yu Hakusho lẫn HunterxHunter đều là hai tác phẩm đứng thứ 13 và 10 trong 20 tác phẩm có số lượng bán ra cao nhất mọi thời đại của Shounen Jump. Togashi Yoshihiro được đánh giá là một trong số những mangaka hiếm hoi có những tác phẩm cân bằng được: thành công về mặt thương mai và chất lượng nội dung truyện cao. Sau khi kết hôn với Naoko Takeuchi, tất cả bản quyền các tác phẩm của ông và vợ đều thuộc công ty của hai người là POT (Yoshihiro Togashi) và PNP- do Naoko Takeuchi thành lập. Khi Togashi gặp gỡ vợ mình, Naoko Takeuchi, tác giả của huyền thoại Sailor Moon (Thủy thủ Mặt Trăng) qua lời giới thiệu của Megumi Ogata, seiyuu (diễn viên lồng tiếng) của Kurama (Yu Yu Hakusho) và cả Haruka Tenoh – Thủy thủ sao Thiên Vương (Sailor Moon) khi Naoko-ss rời Kodansha đến Shueisha..Cả hai cũng đã được giới thiệu tại buổi tiệc được tổ chức bởi Kazushi Hagiwara (1 mangaka của Jump, tác giả “Bastard!!”, phong cách của ông được ảnh hưởng mạnh bởi Togashi) tháng 8, 1997. 1 năm sau đó, hai người đã làm quen nhau trong quá trình Takeuchi được ấn định làm trợ lý cho Togashi trong một thời gian ngắn để vẽ phông nền cho HunterxHunter, Togashi cũng đã góp ý thảo luận cho bộ truyện Sailor Moon rất nhiều. Hai người kết hôn vào ngày 6 tháng 1 năm 1999. Buổi lễ có sự tham dự của rất nhiều đồng nghiệp và cả dàn seiyuu của Sailor Moon và Yu Yu Hakusho. Đây là sự kiện đình đám trong ngành truyện tranh Nhật Bản, được gọi là “sự kết hợp của cặp đôi bạc tỷ”. Takeuchi cũng đã sáng tác 1 series “Baby Punch!” kể về cuộc sống sau khi kết hôn của hai người với hình vẽ chibi nàng thỏ là Naoko Takeuchi và chú cún là Togashi Yoshihiro. Hai người có 2 đứa con, 1 trai 1 gái, và cùng nhau hợp tác, viết cốt truyện bởi Takeuchi và Togashi vẽ minh họa 1 cuốn sách thiếu nhi tựa đề “Oobo-Nu-Tochiibo-Nu” tác phẩm manga Sensēha Toshishita!! (1986, later featured in Ten de Shōwaru Cupid Volume 4)[29] Jura no Miduki (1987, featured in Hop Step Award Selection Volume 1)[6] Ōkami Nante Kowakunai!! (1989, tankōbon published by Shueisha) Buttobi Straight (1987) Tonda Birthday Present (1987, published in Weekly Shōnen Jump) Occult Tanteidan (1988–1989, two parts published in Weekly Shōnen Jump) Horror Angel (1988, published in Weekly Shōnen Jump) Ōkami Nante Kowakunai!! (1989, published in Weekly Shōnen Jump) Ten de Shōwaru Cupid (1989–1990, serialized in Weekly Shōnen Jump) YuYu Hakusho (1990–1994, serialized in Weekly Shōnen Jump) Level E (1995–1997, serialized in Weekly Shōnen Jump) Hunter × Hunter (1998–ongoing, serialized in Weekly Shōnen Jump) những cái khác Sensēha Toshishita!! (1986, later featured in Ten de Shōwaru Cupid Volume 4)[29] Jura no Miduki (1987, featured in Hop Step Award Selection Volume 1)[6] Ōkami Nante Kowakunai!! (1989, tankōbon published by Shueisha) Buttobi Straight (1987) Tonda Birthday Present (1987, published in Weekly Shōnen Jump) Occult Tanteidan (1988–1989, two parts published in Weekly Shōnen Jump) Horror Angel (1988, published in Weekly Shōnen Jump) Ōkami Nante Kowakunai!! (1989, published in Weekly Shōnen Jump) Ten de Shōwaru Cupid (1989–1990, serialized in Weekly Shōnen Jump) YuYu Hakusho (1990–1994, serialized in Weekly Shōnen Jump) Level E (1995–1997, serialized in Weekly Shōnen Jump) Hunter × Hunter (1998–ongoing, serialized in Weekly Shōnen Jump) Chú thích Sinh năm 1966 Họa sĩ manga Nhân vật còn sống
Edda là những câu chuyện dân gian (thường được thuật lại dưới dạng thơ) có nội dung liên quan đến thần thoại Bắc Âu hoặc những anh hùng Bắc Âu. Những câu chuyện này chỉ là một phần nhỏ của văn học truyền miệng Bắc Âu mà tinh hoa là những tác phẩm của những nhà thơ mà cũng là cố vấn hay chiến binh của các vua hay các thủ lĩnh bộ tộc (tiếng Bắc Âu gọi là skald). Chúng được các học giả (phần lớn là người Thiên chúa giáo) ghi chép lại trước khi bị thất truyền. Nguồn gốc tên gọi Có vài giả thuyết về nguồn gốc của cái tên "Edda". Một giả thuyết cho rằng edda có nghĩa là "thơ ca". Một giả thuyết khác lại nói rằng "Edda" có nghĩa là "quyển sách của Oddi". Oddi là nơi Snorri Sturluson ăn học. Edda bằng thơ Nguồn gốc Edda bằng thơ (còn được gọi là Saemundar Edda hoặc Cổ Edda) là tập hợp những bài thơ bằng tiếng Bắc Âu cổ từ bản chép tay Codex Regius tìm thấy ở Iceland. Cùng với Edda bằng văn xuôi (Snorra Edda) của Snorri Sturluson, Edda bằng thơ là nguồn tư liệu quan trọng nhất về thần thoại và truyền thuyết các anh hùng Bắc Âu. Codex Regius được soạn thảo vào khoảng thế kỷ 13 nhưng không ai biết gì về tác phẩm này cho đến khi nó đến tay Brynjólfur Sveinsson, lúc bấy giờ là giám mục Skálholt, vào năm 1643. Vào thời điểm đó, Edda bằng văn xuôi đã nổi tiếng khắp Iceland nhưng các học giả phỏng đoán rằng có một phiên bản Edda khác, mà họ gọi là "Cổ Edda", bao gồm những bài thơ dị giáo mà Snorri Sturluson trích dẫn trong tác phẩm của mình. Giả thuyết này có vẻ là đúng khi Codex Regius được phát hiện. Brynjólfur cho rằng Codex Regius được biên soạn bởi Saemundr Uyên bác - một tu sĩ người Iceland sống vào thế kỷ 12. Không biết tại sao giả thuyết này bị bác bỏ nhưng cái tên Saemundar Edda vẫn được sử dụng. Giám mục Brynjólfur gửi Codex Regius làm quà cho vua Đan Mạch. Một thời gian dài nó được lưu trữ ở Thư viện Hoàng gia tại Copenhagen nhưng vào năm 1971 nó được trả về Iceland. Bố cục và nội dung Trong cổ Edda, có thể được chia thành hai phần là: thần thoại và trường ca anh hùng. Thần thoại Bao gồm các câu truyện viết về thần thánh, quá trình khai thiên lập địa và diễn biến sự việc về thần thánh. Thần thoại được chia thành hai bộ là Codex Regius Gồm hơn 30 bài thơ về thần thánh và anh hùng. Trong đó chủ yếu là Völuspá Völuspá được tìm thấy trong bản thảo Codex Regius và Hauksbók Codex của Haukr Erlendsson, tác giả người Iceland sống vào thế kỉ XIV cũng như trong một vài xtăngxơ được trích dẫn hoặc giải thích trong Tân Edda của Snorri Sturluson (1179 - 1241). Voluspá gồm khoảng 60 xtăngxtơ được viết theo thể thơ Fornyrðislag. Số lượng xtăngxtơ thay đổi theo từng bản thảo. Voluspá là lời volva nói với Odin, tiên đoán về tương lai của thế giới, thế giới được sinh ra thì sẽ có ngày mạt thế, thế giới được sưởi ấm nhờ ánh sáng mặt trời thì sẽ phủ băng lạnh lẽo trong đêm tối. Lời tiên tri ấy bao gồm những sự việc xảy ra từ khi Odin, Ve, Vili giết người khổng lồ Ymir, kiến tạo thế giới đến thời khắc tận thế, hoàng hôn của chư thần - Ragnarok. Hávamál Edda bằng văn xuôi Edda bằng văn xuôi (còn được biết tới dưới tên Tân Edda hoặc Edda của Snorri) là một cuốn sách về thơ ca bằng tiếng Iceland có bao gồm những câu truyện thần thoại. Mục đích của cuốn sách là giúp các nhà thơ nói riêng và độc giả nói chung hiểu được sự tinh tế của những thể thơ cổ và ý nghĩa của những hình ảnh ẩn dụ và các điển cố vốn có rất nhiều trong thơ ca Bắc Âu. Học giả và sử gia Iceland Snorri Sturluson viết Edda bằng văn xuôi (Snorra Edda) vào khoảng năm 1220. Tác phẩm này tồn tại trong bảy bản chép tay được biên soạn trong khoảng thời gian từ năm 1300 đến năm 1600. Edda bằng văn xuôi gồm lời nói đầu và ba tập sách nhỏ: Gylfaginning (Gylfi bị lừa), Skáldskaparmál (ngôn ngữ thơ ca) và Háttatal.
Họ Trầm (danh pháp khoa học: Thymelaeaceae) là một họ thực vật có hoa. Ngoại trừ mối quan hệ chị em với họ Tepuianthaceae, người ta biết rất ít về các mối quan hệ của nó với các họ khác trong bộ Cẩm quỳ. Các ước tính gần đây về số lượng loài trong họ này nằm trong khoảng từ 500 tới 800 hay 891 loài. Họ này phân bổ rộng khắp thế giới với mật độ tập trung cao tại khu vực nhiệt đới châu Phi, đông nam châu Á và Australasia. Các chi tập trung chủ yếu tại châu Phi. Các loài bao gồm chủ yếu là các loài cây thân gỗ và cây bụi, với một ít loài là dây leo và cây thân thảo. Nhiều loài gây ngộ độc nếu ăn phải. Tên gọi trầm là lấy theo tên gọi thông thường của các loài trong chi Aquilaria, do tại Việt Nam có lẽ không có các loài thuộc chi Thymelaea. Dạng chủ yếu là cây gỗ và cây bụi, với một ít là dây leo hay cây thân thảo. Kinh tế Một vài chi có tầm quan trọng kinh tế: Aquilaria: Chi Dó trầm, gồm các loài dó trầm (dó bầu, trầm hương), dó me, dó quýt cung cấp gỗ cũng như một loại nguyên liệu quý hiếm là trầm hương dùng trong sản xuất hương và nước hoa. Daphne: Chi Thụy hương, được trồng vì hoa của chúng có mùi thơm. Gonystylus: Có giá trị vì gỗ cứng có màu trắng Loài Rhamnoneuron balansae: Cây dó giấy làm giấy dó. Phân loại Phần lớn các tác giả chia họ này thành 4 phân họ, nhưng B.E. Herber chia Thymelaeaceae thành 2 phân họ. Ông giữ lại phân họ Gonostyloideae nhưng đổi tên nó thành Octolepidoideae. Ba phân họ truyền thống khác (Synandrodaphnoideae, Aquilarioideae, Thymelaeoideae) được gộp lại thành phân họ Thymelaeoideae nghĩa rộng(sensu lato) và bị giáng cấp tương ứng thành các tông là Synandrodaphneae, Aquilarieae và Daphneae. Phân họ Octolepidoideae không chia thành các tông nhưng tạm thời chia thành 2 nhóm không chính thức là nhóm Octolepis và nhóm Gonystylus. Tương tự, tông Daphneae không chia thành phân tông mà phân chia không chính thức thành 4 nhóm là nhóm Linostoma, nhóm Daphne, nhóm Phaleria và nhóm Gnidia. Tổng cộng 45 chi được Herber công nhận được gộp nhóm như sau. Ba chi trong Daphneae được đặt ở vị trí incertae sedis (không gán vào nhóm cụ thể nào hoặc nằm trong nhóm riêng của chính chúng). Octolepidoideae Nhóm Octolepis: Arnhemia, Deltaria, Lethedon, Octolepis, Solmsia. Nhóm Gonystylus: Aetoxylon, Amyxa, Gonystylus. Thymelaeoideae Synandrodaphneae: Synandrodaphne. Aquilarieae: Aquilaria, Gyrinops. Daphneae Nhóm Linostoma: Craterosiphon, Dicranolepis, Enkleia, Jedda, Linostoma, Lophostoma, Synaptolepis. Nhóm Phaleria: Peddiea, Phaleria. Nhóm Daphne: Daphne, Daphnopsis, Diarthron, Dirca, Edgeworthia, Funifera, Goodallia, Lagetta, Ovidia, Rhamnoneuron, Schoenobiblus, Stellera, Thymelaea, Wikstroemia. Nhóm Gnidia: Dais, Drapetes, Gnidia, Kelleria, Lachnaea, Passerina, Pimelea, Struthiola. Incertae sedis: Linodendron, Stephanodaphne, Lasiadenia. Các chi Peter F. Stevens của APG công nhận 46-50 chi trong họ Thymelaeaceae. Chúng được liệt kê dưới đây. B. E. Herber công nhận 45 chi, loại bỏ Tepuianthus ra khỏi họ, nhập Atemnosiphon và Englerodaphne vào chi Gnidia, Eriosolena vào chi Daphne, và Thecanthes vào chi PimeleaCác chi có số loài lớn nhất bao gồm: Gnidia (160), Pimelea (110), Daphne (95), Wikstroemia (70), Daphnopsis (65), Struthiola (35), Lachnaea (30), Thymelaea (30), Phaleria (30) và Gonystylus (25). {| border="0" | valign="top" | Aetoxylon Amyxa Aquilaria Arnhemia Atemnosiphon Craterosiphon Dais Daphne Daphnopsis Deltaria Diarthron Dicranolepis Dirca Drapetes Edgeworthia Englerodaphne Enkleia| valign="top" | Eriosolena Funifera Gnidia Gonystylus Goodallia Gyrinops Jedda Kelleria Lachnaea Lagetta Lasiadenia Lethedon Linodendron Linostoma Lophostoma Octolepis Ovidia | valign="top" | Passerina Peddiea Phaleria Pimelea Rhamnoneuron (cây dó giấy) Schoenobiblus Solmsia Stellera Stephanodaphne Struthiola Synandrodaphne = Gilgiodaphne Synaptolepis Tepuianthus Thecanthes Thymelaea Wikstroemia (Chi Niệt dó) |} Phát sinh chủng loài Phát sinh chủng loài phân tử đầu tiên cho họ Thymelaeaceae được công bố năm 2002. Nó dựa trên 2 khu vực của DNA lạp lục. Chúng là gen rbcL và không gian liên gen giữa các gen phiên mã trnL và trnF của RNA. Bốn mươi mốt loài được lấy mẫu. Năm 2008, Marline Rautenbach đã thực hiện một nghiên cứu phát sinh chủng loài trong đó 143 loài dược lấy mẫu. Việc lấy mẫu chủ yếu tập trung trong nhóm Gnidia, nhưng việc lấy mẫu trong phần còn lại của họ đã được thực hiện tích cực trong các nghiên cứu trước đó. Bổ sung cho các dữ liệu rbcL và trnL-F, các chuỗi của khu vực ITS (không gian phiên mã nội tại) của nrDNA (DNA ribosome nhân) cũng được sử dụng. Tất cả các nhánh được hỗ trợ mạnh trong các nghiên cứu trước đó đã được phục hồi với sự hỗ trợ thống kê thậm chí còn mạnh hơn. Cây phát sinh dưới đây lấy từ cây phát sinh của Rautenbach (2002). Hình ảnh Chú thích
Tàu con thoi Columbia (số hiệu của NASA: OV-102) là tàu đầu tiên trong phi đội tàu con thoi của NASA có khả năng bay lên vũ trụ. Chuyến bay đầu tiên của nó, STS-1, kéo dài từ 12 đến 14 tháng 4 năm 1981. Vào 1 tháng 2 năm 2003, Columbia vỡ tan trong suốt quá trình hạ cánh trong chuyến bay thứ 28 của tàu làm toàn bộ 7 thành viên phi hành đoàn tử nạn. Lịch sử Việc đóng tàu Columbia bắt đầu năm 1975 chủ yếu là ở Palmdale, California. Columbia được đặt tên từ một tàu thám hiểm nhỏ Columbia với thuyền trưởng người Mỹ Robert Gray, người đã thám hiểm tây bắc Thái Bình Dương và trở thành người chiếc thuyền Mỹ đầu tiên đi vòng quanh thế giới; cái tên cũng được đặt để vinh danh Columbia, Đơn vị Điều khiển (Command Module) của phi thuyền Apollo 11. Sau được đóng xong, trạm quỹ đạo đến Trung tâm Vũ trụ John F. Kennedy vào 25 tháng 3 năm 1979, để chuẩn bị cho lần phóng đầu tiên. Vào 19 tháng 3 năm 1981, trong suốt quá trình chuẩn bị cho một thử nghiệm trên mặt đất, năm công nhân bị ngạt thở trong một lần thanh lọc khí, làm hai người chết. Columbia luôn luôn được nhắc tới như là ngọn cờ đầu của phi đội tàu con thoi. Chuyến bay đầu tiên của Columbia (STS-1) được chỉ huy bởi John Young (một cựu phi hành gia từ thời kì Gemini và Apollo) và được hoa tiêu bởi Robert Crippen, một người chưa từng vào không gian, nhưng đã phục vụ như là thành viên hỗ trợ trong các phi vụ Skylab và Apollo-Soyuz. Nó được phóng lên vào ngày 12 tháng 4 năm 1981, và quay lại vào 14 tháng 4 năm 1981, sau khi bay vòng quanh Trái Đất 36 lần. Vào năm 1983, Columbia thi hành phi vụ vận hành thứ hai (STS-9) với 6 phi hành gia, bao gồm cả một phi hành gia không phải là người Mỹ, Ulf Merbold. Vào 12 tháng 1 năm 1986, Columbia cất cánh với phi hành gia người Mỹ nói tiếng Tây Ban Nha (Hispanic American) đầu tiên, Dr. Franklin R. Chang-Diaz, cũng như là dân biểu đương nhiệm đầu tiên vào không gian, Bill Nelson. Một cái cũng là lần đầu tiên khác được công bố vào 5 tháng 3 năm 1998 khi NASA chỉ định Trung tá Không quân Hoa Kỳ Eileen Collins là chỉ huy của một phi vụ Columbia trong tương lai — làm Collins trở thành chỉ huy phụ nữ của phi vụ tàu con thoi. Thiết kế của trạm quỹ đạo Columbia, không giống như các tàu con thoi hiện hành trong phi đội, được đóng với những kỹ thuật không có sẵn vào thời điểm tàu được đóng ở Palmdale trong giữa thập niên 1970. Một điểm khác biệt lớn giữa Columbia và các tàu con thoi sau này là việc sử dụng các thanh xà nặng trong cánh và thân của trạm quỹ đạo. Do vậy, dù cho các cải tiến trong suốt cuộc đời của con tàu, Columbia vẫn không bao giờ nhẹ như các trạm quỹ đạo khác lúc không chuyên chở gì (Challeger, mặc cho nhiều cải thiện, cũng nặng, nhưng vẫn nhẹ hơn Columbia 2200 lb). Bên ngoài, Columbia là trạm quỹ đạo duy nhất trong phi đội nguyên gốc có hệ thống bảo vệ nhiệt hoàn toàn bằng ngói (TPS). Hệ thống toàn bằng ngói TPS sau này được cải thiện để thêm vào những thảm cách nhiệt bằng nỉ trên thân tàu và mặt trên của cánh — công việc đó được tiến hành trong lần tân trang Columbia lần thứ nhất và giai đoạn sau khi Challenger bị rớt. Cũng độc nhất ở Columbia là những dải mỏng màu đen trên bề mặt trên của cánh tàu con thoi. Những khu vực sọc đen trên cánh này để phân biệt nó với Enterprise, và cũng bởi vì những nhà thiết kế tàu con thoi đầu tiên không biết nhiệt độ lúc tái nhập vào khí quyển sẽ ảnh hưởng thế nào đến mặt trên của cánh. Một đặc điểm bên ngoài độc nhất nữa là, được đặt tên là vỏ bọc "SILTS", phía trên đỉnh của đuôi cánh Columbia, và được cài đặt sau STS-9 để thu nhận thông tin về tia hồng ngoại và các dữ liệu về nhiệt khác. Mặc dù các thiết bị dành cho vỏ bọc đó đã được gỡ bỏ sau các thử nghiệm đầu tiên, NASA quyết định vẫn giữ nó lại ở nguyên vị trí, vì cơ quan dự định sẽ dùng nó trong các thí nghiệm trong tương lai. Cánh đuôi sau này được sửa đổi để có thể gắn các dù cản gió (lúc đáp gần xuống đất) được dùng lần đầu tiên trên Endeavour vào năm 1992. Chuyến bay cuối cùng Trong chuyến bay cuối cùng, tàu mang theo phi hành gia đầu tiên người Israel, Ilan Ramon, và nữ phi hành gia đầu tiên sinh ra ở Ấn Độ, Kalpana Chawla. Các thành viên khác trong phi hành đoàn trên chuyến bay cuối cùng bao gồm Rick Husband (chỉ huy), Willie McCool (phi công), Michael P. Anderson, Laurel B. Clark và David M. Brown. Vào buổi sáng 1 tháng 2 năm 2003, tàu con thoi tái nhập vào khí quyển sau một chuyến bay khoa học kéo dài 16 ngày. NASA mất liên lạc vô tuyến vào khoảng 0900 EST, Qua màn hình theo dõi tình trang của tàu, các chuyên gia mặt đất nhận thấy áp suất trên tàu giảm rất nhanh có thể khiến các phi hành gia bị ngất. Trong khi đó một luồng khí cực nóng tràn vào tàu. Module chứa phi hành đoàn tách khỏi tàu và xoay tròn rất nhanh. Nếu các nhà du hành không mất mạng vì những luồng khí nóng thì họ cũng không thể sống sót sau khi cơ thể bị xoay tròn như chong chóng cùng với module. Nói cách khác 7 phi hành gia trên tàu Columbia không có cơ hội sống sót nào. Những băng ghi hình cho thấy tàu đã vỡ ra trong ngọn lửa phía trên tiểu bang Texas, vào độ cao vào khoảng 39 dặm (63 km) và ở tốc độ 12.500 mph (5,6 km/s). Nguyên nhân được cho là một lượng bọt bằng một chiếc cặp sách rơi vào tấm ván làm bằng chỉ cacbon (tấm thứ tám) bên cánh trái của tàu trong lúc cất cánh 16 ngày trước, làm thủng cánh tàu. Lúc hạ cánh nhiệt độ trong cánh đã tăng lên 4400 độ C và thiêu các bộ phận trong cánh. Một vài người dân ở Texas đã thấy một vài mảnh vỡ bay ra từ tàu trước khi rơi xuống Các chuyến bay Tàu con thoi Columbia bay 28 chuyến, trải qua 300,74- ngày trong không gian, hoàn thành 4.808 vòng quanh quỹ đạo, và bay 125.204.911 dặm tổng cộng, kể luôn cả phi vụ cuối cùng.
Whiteout là hiện tượng thời tiết thường xảy ra ở vùng cực hoặc những nơi tuyết rơi với mật độ dày. Đây thường là một trong những kinh nghiệm thú vị nhưng cũng chứa đầy sự chết chóc đối với những nhà thám hiểm vùng cực. Một nhà thám hiểm lâu năm đã từng nói "nó giống như người ta đi quanh trong một quả bóng bàn vậy". Một ví dụ điển hình của hiện tượng Whiteout xảy ra khi một đám mây lớn kéo qua bầu trời, nhưng ánh nắng vẫn đủ sức xuyên qua, rồi bị phản xạ bởi lớp tuyết ở dưới mặt đất. Ánh sáng phản xạ này trải lên bề mặt dưới của đám mây rồi lại phản xạ xuống, cứ thế ánh sáng bị khuếch tán đi khắp nơi làm cho khung cảnh trở nên "cực trắng". Đến đây có thể hiểu tại sao mọi đường đứt gãy trên mặt đất bị lớp sáng trắng phủ lên làm cho biến mất và đường chân trời cũng không thể nhận ra được nữa, máy bay không thể hạ cánh trong điều kiện này. Bầu trời và mặt đất hợp lại tạo thành một quả cầu trắng xóa xung quanh người quan sát. Khi mà đường chân trời không còn đó để làm cột mốc quan sát thì tài định hướng cũng như khả năng ước lượng khoảng cách của con người cũng biến mất. Không có bóng cây, chi tiết về sự vật trên mặt đất cũng biến mất. Mỗi bước đi của con người khi đó đều dẫn đến hiểm họa khôn lường vì hố và các chỗ đứt, gãy không thể quan sát được. Tất cả các nhà du hành vùng cực đều tìm ra cho mình một cách duy nhất để có thể sống sót: đơn giản là ngồi xuống và chờ cho nó qua đi. Sớm hay muộn ánh sáng ban ngày cũng phải thay đổi và trở lại bình thường, các đường nét trên mặt đất lại dần dần hiện ra.
Chặng đua GP Hungary (tên chính thức Magyar Nagydíj) là một chặng đua của giải đua xe Công thức 1 vô địch thế giới diễn ra hàng năm. Các đội đua sẽ thi đấu trên đường đua Hungaroring tại Budapest, Hungary. Lịch sử Trước chiến tranh thế giới thứ hai, Giải đua GP Hungary được tổ chức một lần vào năm 1936 ở trường đua Nepliget. Đến năm 1986, sau khi xây dựng xong trường đua Hungaroring thì Chặng đua GP Hungary được tổ chức trở lại và duy trì được sự liên tục cho nến ngày nay. Người chiến thắng chặng đua đầu tiên ở Hungaroring là tay đua người Brasil Nelson Piquet thuộc đội đua William. Năm 2009, tay đua Felipe Massa bị tai nạn nghiêm trọng khiến anh suýt mất mạng và phải nghỉ thi đấu toàn bộ phần còn lại của mùa giải. Năm 2021, các tay đua phải xuất phát trên đường ướt. Valtteri Bottas và Lance Stroll gây ra tai nạn liên hoàn ở pha xuất phát khiến cho họ cùng với Charles Leclerc, Sergio Perez và Lando Norris phải bỏ cuộc ngay lập tức, còn Max Verstappen thì chiếc xe bị hỏng nặng. Cuộc đua cũng phải tạm dừng. Khi cuộc đua bắt đầu trở lại thì đường đua cũng đã khô, trừ Lewis Hamilton thì tất cả các tay đua còn lại đều không tham gia pha xuất phát lại mà quyết định vào pit thay lốp. Phải đến vòng đua tiếp theo Hamilton mới thay lốp nên anh bị tụt xuống cuối đoàn đua. Hai vị trí dẫn đầu lúc này thuộc về Esteban Ocon và Sebastian Vettel, họ đã không bỏ lỡ cơ hội và lần lượt cán đích ở hai vị trí đầu tiên. Tuy nhiên Vettel bị hủy thành tích do không vượt qua được bài kiểm tra nhiên liệu. Hamilton cũng kịp vượt trở lại vị trí thứ 3 và được đôn lên P2, đồng thời đoạt lấy ngôi đầu BXH tổng của Verstappen. Tay đua Red Bull do chiếc xe bị hư hại nên thi đấu rất chật vật, chỉ cán đích ở vị trí thứ 9. Chặng đua này chứng kiến nhiều tay đua giành được chiến thắng chặng đua F1 đầu tiên trong sự nghiệp của họ, bao gồm Damon Hill (1993), Fernando Alonso (2003), Jenson Button (2006), Heikki Kovalainen (2008), và Esteban Ocon (2021), trong số đó thì 3 người đầu tiên sau đó đã lên ngôi vô địch F1. Kết quả theo năm
Chặng đua GP Ý (tên chính thức: Gran Premio D’italia) là một chặng đua của giải đua xe Công thức 1 vô địch thế giới diễn ra hàng năm. Các đội đua sẽ thi đấu ở trường đua Monza tại Monza, Ý. Lịch sử Grand Prix Ý được tổ chức lần đầu vào năm 1921, trước năm 1950 thì nó là một giải đua độc lập. Từ năm 1950 nó được sắp nhập và trở thành một chặng đua của giải vô địch thế giới Công thức 1. Người chiến thắng chặng đua F1 Italia (1950) đầu tiên là tay đua của nước chủ nhà Giuseppe Farina. Từ năm 1950 đến nay chặng đua GP Ý luôn được tổ chức ở trường đua Monza, trừ năm 1980 do Monza phải sửa chữa nên trường đua Imola được tổ chức thay. Trong thập niên 1960 và 1970, các chặng đua GP Italia xảy ra nhiều tai nạn thương tâm. Năm 1961 tay đua từng nhiều lần giành chiến thắng chặng đua F1 Wolfgang von Trips đã tử nạn cùng với 14 khán giả xấu số, năm 1970 Jochen Rindt tử nạn, ông là tay đua duy nhất giành được chức vô địch F1 sau khi đã qua đời. Năm 1978 tử thần gọi tên Ronnie Peterson tay đua cũng từng có 1 lần đoạt chức vô địch. Năm 2000 một nhân viên trường đua tên Paolo Gislimberti thiệt mạng do bị một chiếc bánh xe văng trúng người. Năm 2008, Sebastian Vettel giành được chiến thắng F1 đầu tiên trong sự nghiệp sau một cuộc đua dưới mưa. Đây cũng là chiến thắng F1 đầu tiên của đội đua Toro Rosso. Năm 2014, tay đua dẫn đầu đoàn đua là Nico Rosberg có hai tình huống cua lỗi ở góc cua số 1 nên để mất chiến thắng vào tay đồng đội Lewis Hamilton. Kể từ đó cho đến năm 2018, đội đua Mercedes giành được 5 chiến thắng liên tiếp. Đây là đội đua sở hữu chuỗi chiến thắng liên tục lâu nhất ở chặng đua này. Trong 5 chiến thắng đó thì có 4 chiến thắng thuộc về Lewis Hamilton. Năm 2019, Charles Leclerc trở thành tay đua đầu tiên của Ferrari giành chiến thắng ở Monza sau rất nhiều năm. Năm 2020, Lewis Hamilton bị phạt do lỗi vào pit không đúng quy định. Pierre Gasly đã tận dụng tối đa cơ hội để giành chiến thắng F1 đầu tiên trong sự nghiệp. Năm 2021, Max Verstappen gây ra một tai nạn nghiêm trọng cho Lewis Hamilton khiến cho cả hai phải bỏ cuộc. Verstappen bị phạt 3 bậc xuất phát ở chặng đua tiếp theo. Người chiến thắng chặng là Daniel Ricciardo, đây là chiến thắng chặng đầu tiên của đội đua Mclaren sau 9 năm. Kết quả theo năm
Chặng đua GP Nhật Bản (tên chính thức Japanese Grand Prix) là một chặng đua của giải đua xe Công thức 1 vô địch thế giới diễn ra hàng năm. Các đội đua sẽ thi đấu trên đường đua Suzuka tại Suzuka, Nhật Bản. Giải Nhật Bản chính thức trở thành một phần của giải vô địch thế giới Công thức 1 từ năm 1976 với chiến thắng của tay đua người Mỹ Mario Andretti tại đường đua Quốc tế Fuji. Các thông số kỹ thuật của đường đua Suzuka Tham dự giải Công thức 1 từ: 1976 Số lần tham dự giải Công thức 1: 22 (tính đến năm 2006) Chiều dài một vòng đua: 5,807 km Số vòng đua: 53 Tốc độ tối đa: Sức chứa tối đa: Kỷ lục chạy một vòng nhanh nhất: 1 phút 31,540 giây của Kimi Räikkönen (McLaren) năm 2005 Các cá nhân và đội đua vô địch
Phùng Quang Thanh (2 tháng 2 năm 1949 – 11 tháng 9 năm 2021) là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, ông mang quân hàm Đại tướng và từng là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam (2006–2016), Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (2001–2006), Ủy viên Bộ Chính trị khóa X và XI, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XI, XII,XIII. Tiểu sử Phùng Quang Thanh sinh tại xã Thạch Đà, huyện Mê Linh, Vĩnh Phúc nay là huyện Mê Linh, Hà Nội. Ông gia nhập Quân đội nhân dân Việt Nam năm 1967, tham gia chiến đấu ở chiến trường Quảng Trị, Nam Lào trong chiến tranh Việt Nam và Chiến tranh biên giới phía Bắc. Năm 1968, ông gia nhập Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam. Năm 1971, ông được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vì thành tích chiến đấu, lúc đang giữ chức vụ trung đội trưởng thuộc Trung đoàn 64, Sư đoàn 320 Đồng Bằng. Theo lời kể thì: Tháng 10 năm 1971 đến tháng 6 năm 1972, ông được đi học tại Trường Sĩ quan Lục quân. Tháng 7 năm 1972, trở lại đội chiến đấu, giữ chức Tiểu đoàn phó, sau đó là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 9. Tháng 8 năm 1974 đến tháng 12 năm 1976, ông được cử đi học đào tạo cán bộ trung đoàn tại Học viện Quân sự (nay là Học viện Lục quân). Từ năm 1977 đến 1989, ông lần lượt giữ các chức vụ chỉ huy từ cấp Trung đoàn đến Sư đoàn. Tháng 9 năm 1986 đến tháng 7 năm 1988, Đảng ủy viên, Phó Bí thư Đảng ủy rồi phụ trách Sư đoàn 390, sau đó là Đại tá, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 390, Quân đoàn 1. Tháng 8 năm 1988 đến tháng 2 năm 1989, ông là Sư đoàn trưởng Sư đoàn Bộ binh 312. Năm 1989, ông được cử đi học tại Học viện Quân sự Voroshilov (Liên Xô), năm sau về nước, học tại Học viện Quân sự cấp cao (nay là Học viện Quốc phòng Việt Nam). Từ 8/1991- 8/1993, ông làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 312 lần thứ 2. Sau đó được điều về Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu giữ chức Phó Cục trưởng (1993), thăng quân hàm Thiếu tướng (1994) rồi giữ chức Cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu (1995). Tháng 8 năm 1997, ông học lớp chính trị ngắn hạn tại Học viện Chính trị Quân sự. Ông có học vị Cử nhân. Tháng 12 năm 1997, ông được điều về giữ chức Tư lệnh Quân khu 1. Được thăng Trung tướng năm 1999. Từ tháng 5 năm 2001 đến tháng 8 năm 2006 (thăng Thượng tướng năm 2003), ông được Chủ tịch nước bổ nhiệm giữ chức Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (thay Trung tướng Lê Văn Dũng sang giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục chính trị), Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Ngày 27 tháng 6 năm 2006, ông đảm nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam, thay thế cho người tiền nhiệm là Phạm Văn Trà quyết định hưu trí. Ngày 6 tháng 7 năm 2007, ông được Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết trao quân hàm Đại tướng. Ông cũng từng kiêm chức Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Tìm kiếm và Cứu nạn. Ông là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa IX (2001), X (2006), XI (2011), là Ủy viên Bộ Chính trị khóa X (2006), khóa XI (2011). Tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIII, ông được Quốc hội phê chuẩn tiếp tục làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.  Tháng 1 năm 2016, tại Đại hội lần thứ XII của Đảng, ông không tái cử Ủy viên Trung ương Đảng vì nguyên nhân do chuẩn bị nghỉ hưu. Tháng 4 năm 2016, tại Kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIII, Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước miễn nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đối với Đại tướng Phùng Quang Thanh.  Ngày 11 tháng 9 năm 2018, Phùng Quang Thanh được Trần Quốc Vượng, Thường trực Ban Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII trao Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng tại Hà Nội. Lạm phát tướng Theo ông Nguyễn Đăng Quang, cựu Đại tá Công an, tính riêng trong 8 năm – từ 2006 đến 2014 – dưới thời Bộ trưởng Quốc phòng đương nhiệm của Đại tướng Phùng Quang Thanh, đã có tổng cộng 231 sĩ quan cấp tướng, bao gồm 10 Thượng tướng, 65 Trung tướng và 157 Thiếu tướng được thụ phong. Bộ trưởng Phùng Quang Thanh còn muốn Chủ nhiệm các Khoa chính trị Mác-Lênin của các Học viện Quân sự thuộc Bộ Quốc phòng cũng phải được phong hàm Thiếu tướng và Giám đốc Học viện Quốc phòng phải là Thượng tướng. Đến tháng 12 năm 2014 quân đội Việt Nam có 489 sĩ quan cấp tướng, so với ngày 30 tháng 4 năm 1975, với số tướng là 36, đã tăng gấp 13 lần, mặc dù theo Luật sĩ quan QĐND Việt Nam, Quân đội nhân dân Việt Nam được phép có tối đa là 415 sĩ quan cấp tướng. Sức khoẻ Việc ông Thanh không xuất hiện trong các sự kiện chính trị quan trọng của Việt Nam trong một thời gian đã dẫn tới những đồn đoán về tình trạng của ông. Ông không tham dự cuộc họp Chính phủ thường kỳ tháng 6 ngày 29 tháng 6 năm 2015 và Đại hội thi đua quyết thắng toàn quân lần thứ IX khai mạc sáng ngày 1 tháng 7 năm 2015 tại Hà Nội. Ngày 1 tháng 7 năm 2015, báo Tuổi Trẻ đăng bài viết cho biết theo thông tin từ Ban Bảo vệ và Chăm sóc Sức khỏe Trung ương ông Thanh đã sang Pháp chữa bệnh cách đây một tuần. Tại Pháp, ông Thanh được phẫu thuật vào tối ngày 30 tháng 6 năm 2015. Theo nguồn tin của báo Tuổi Trẻ chấn thương vùng ngực từ thời chiến đã khiến phổi của ông Thanh bị xơ hoá một phần. Khoảng hai tháng trước ông Thanh bị "ho nặng". Kết quả sinh thiết không cho thấy ông Thanh bị ung thư nhưng "ho nặng" và xơ hoá phổi có thể là dấu hiệu của bệnh ung thư phổi. Sáng ngày 2 tháng 7 năm 2015, Trưởng ban Bảo vệ và Chăm sóc Sức khỏe Trung ương Nguyễn Quốc Triệu cho phóng viên báo Người Lao động biết ông Thanh bị u phổi, khối u của ông Thanh là khối u lành tính. Cũng trong ngày 2 tháng 7 Phạm Gia Khải, thành viên Ban Bảo vệ và Chăm sóc Sức khỏe Trung ương, nói với phóng viên báo Infonet rằng ông Thanh đang điều trị bệnh ở Paris (Pháp), ông Thanh sang Pháp từ hôm 24 tháng 6 năm 2015. Theo ông Khải thì trước khi ông Thanh sang Pháp "chúng tôi có hội chẩn kiểm tra sức khỏe 3-4 lần và phát hiện một vết sẹo trong phổi. Vết sẹo này là do vết thương hồi chiến tranh chống Mỹ, khi đó ông Thanh bị tai nạn ô tô và đập ngực vào vô lăng xe ô tô". Ông nói "Trước khi sang Pháp chữa bệnh, Đại tướng Phùng Quang Thanh đã được chúng tôi kiểm tra sức khỏe nhiều lần, nhưng không thấy dấu hiệu gì đặc biệt, không áp xe, không ung thư. Nhưng cách đây khoảng 2 tháng, ông Thanh bị ho ra máu, mỗi ngày một ít. Chúng tôi đã cho sinh thiết ở phế quản, tương ứng nơi ra máu nhưng không phát hiện được dấu hiệu gì. Sau đó, ông Thanh được Đại sứ quán Pháp giới thiệu sang Pháp chữa trị". Ông Khải cho phóng viên biết là theo thông tin ông nhận được từ ông Nguyễn Quốc Triệu, Trưởng ban Bảo vệ và Chăm sóc Sức khỏe Trung ương, thì sau phẫu thuật "Sức khỏe của ông Thanh hoàn toàn ổn định, không có diễn biến xấu và tới đây sẽ về Việt Nam". Ngày 6 tháng 7 năm 2015, thanh tra Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam ban hành quyết định số 60/QĐ-XPVPHC xử phạt báo Đời sống và Pháp luật 30 triệu đồng vì trang web doisongphapluat.com của báo này đã đăng bài viết "Tiểu sử Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh" với nội dung là tiểu sử của ông Thanh. Bài viết này bị cho là "vi phạm điều 64 Nghị định số 174/2013/NĐ-CP ngày 13 tháng 11 năm 2013 Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện (gọi tắt là Nghị định 174) của Chính phủ Việt Nam". Hiện bài viết "Tiểu sử Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh" trên trang doisongphapluat đã bị xoá. Theo BBC Tiếng Việt, bài viết về tiểu sử ông Thanh được đăng vào lúc đang có những đồn đoán về sức khoẻ của ông Thanh có thể khiến một số độc giả nghĩ rằng ông Thanh đã qua đời. Ngày 20/7/2015, theo nguồn tin DPA lấy từ một nguồn tin khuyết danh trong bệnh viện, ông Phùng Quang Thanh qua đời vào ngày 19 tháng 7 năm 2015 tại một bệnh viện ở Pháp khi đang chữa trị căn bệnh ung thư phổi. Nhưng ngày 20 tháng 7, Trung tướng Võ Văn Tuấn, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam đã bác bỏ thông tin của Thông tấn xã Đức (DPA) dẫn tin xấu về sức khỏe của ông Thanh vì đã "lấy từ một nguồn tin quân đội không có thẩm quyền phát ngôn". Ông Tuấn cho biết "sức khỏe của Bộ trưởng Phùng Quang Thanh đang ổn định, dự kiến cuối tháng sẽ trở về nước". Nửa ngày sau, DPA đã gỡ bài báo trên khỏi trang web và tới ngày 25/7, DPA đã chính thức gửi thư xin lỗi về thông tin sai lệch liên quan tình trạng sức khoẻ của ông Phùng Quang Thanh. Ngày 25/7/2015 các báo loan tin ông Thanh đã về và được đưa về nhà riêng tại Vĩnh Phúc, Ba Đình, Hà Nội. Tuy nhiên, vẫn có dư luận hoài nghi ông đã về thực sự chưa. Ngày 27/7/2015, ông vắng mặt trong lễ dâng hương tưởng niệm anh hùng liệt sĩ và viếng lăng Hồ Chủ tịch. Tuy nhiên đến tối cùng ngày, ông chính thức xuất hiện tại hội trường Bộ Quốc phòng để tham dự Chương trình giao lưu nghệ thuật "Khát vọng đoàn tụ", nhằm tri ân các anh hùng liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, các gia đình có công với cách mạng . Qua đời Sáng ngày 11/9/2021, theo thông tin từ Ban Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ Trung ương, Đại tướng Phùng Quang Thanh sau một thời gian lâm bệnh, mặc dù được Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam, tập thể các giáo sư, bác sỹ tận tình cứu chữa, gia đình hết lòng chăm sóc, nhưng do bệnh nặng, sức yếu, ông đã từ trần vào hồi 03 giờ 45 phút, ngày 11/9/2021 tại nhà riêng số 10, ngõ 9, đường Nguyễn Tri Phương, quận Ba Đình, Hà Nội. Gia đình Con trai là Đại tá Phùng Quang Hải, sinh năm 1974, nguyên Chủ tịch Tổng công ty 319 - Bộ Quốc phòng Việt Nam. Khen thưởng Huân chương, huy chương Việt Nam Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (1971). Huân chương Hồ Chí Minh. Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất. 50x50px 02 Huân chương Chiến công hạng Nhất. 50x50px Huân chương Chiến công hạng Nhì. Huân chương Chiến công hạng Ba. 50x50px Huân chương Kháng chiến hạng Nhì. 50x50px Huân chương Kháng chiến hạng Ba. 50x50px 02 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhất. 50x50px Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhì. 50x50px 02 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba. Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhì. 50x50px Huy chương Quân kỳ quyết thắng. 50x50px Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba. Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng cùng nhiều phần thưởng cao quý khác của Việt Nam và quốc tế. Huân chương, huy chương nước ngoài 50x50px Huân chương Tự do hạng Nhất của CHDCND Lào. 50x50px Huân chương Hoàng gia Sahametrei hạng Nhất của Vương quốc Campuchia. 50x50px Huân chương Hữu nghị của Liên bang Nga. Lịch sử thụ phong quân hàm Chú thích
Whiteout có thể là: Whiteout: một hiện tượng thời tiết. Whiteout: một bộ phim Whiteout: một trò chơi điện tử Whiteout: một truyện tranh Whiteout: một nhóm nhạc rock
Thời gian Mặt Trời là một loại thang đo thời gian dựa trên ý tưởng là khi Mặt Trời ở trên điểm cao nhất trên bầu trời (của Trái Đất hay của hành tinh khác trong Hệ Mặt Trời) giữa ban ngày thì lúc đó được lấy mốc là giữa trưa (12 giờ vào 135° kinh Đông) Thời gian Mặt Trời thực Thời gian Mặt Trời thực hay thời gian Mặt Trời biểu kiến là thang đo thời gian dựa hoàn toàn trên đồng hồ Mặt Trời, trong đó 12h trưa chính là lúc Mặt Trời nằm ở điểm cao nhất trên bầu trời. Đây là cơ sở để xây dựng ngày Mặt Trời biểu kiến, đó là khoảng thời gian giữa hai lần Mặt Trời đi qua điểm cao nhất trên bầu trời địa phương thiên đỉnh. Ngày Mặt Trời biểu kiến dài hơn ngày sao. Lý do là khi hành tinh quay trọn một vòng quanh trục của nó đối với nền sao, thì cùng lúc nó đã di chuyển trên quỹ đạo được một góc nhỏ, và vị trí của Mặt Trời đã thay đổi trên nền sao. Điều này khiến người quan sát trên hành tinh cần quay thêm góc nhỏ đúng bằng góc mà hành tinh đã di chuyển trên quỹ đạo để lại được nhìn thấy Mặt Trời trên kinh tuyến của mình. Như vậy khoảng thời gian dài thêm của ngày Mặt Trời chính là khoảng thời gian cần để hành tinh tự quay quanh trục một góc bằng góc (so với nền sao) mà nó đã di chuyển được trên quỹ đạo trong một ngày. Ngày Mặt Trời biểu kiến là một khoảng thời gian không cố định, có thể thay đổi từ ngày này qua ngày khác trong năm. Đó là do quỹ đạo của hành tinh quanh Mặt Trời không thực sự là đường tròn mà là đường elip và hành tinh không thực sự chuyển động tròn đều trên quỹ đạo. Theo định luật Kepler về chuyển động của hành tinh trên quỹ đạo, hành tinh di chuyển nhanh hơn khi nó gần Mặt trời và chậm hơn khi nó ở xa Mặt trời. Điều này nghĩa là góc đi được trên quỹ đạo trong một ngày, tỷ lệ với chênh lệch thời gian giữa ngày Mặt Trời thực và ngày theo sao, sẽ lớn hơn tại điểm cận nhật và ít hơn tại điểm viễn nhật. Suy ra tại điểm cận nhật, ngày Mặt Trời thực dài ra, và tại điểm viễn nhật, ngày này ngắn lại. Đối với Trái Đất, do trục của Trái Đất nghiêng so với mặt phẳng quỹ đạo của nó quanh Mặt trời, đường đi của Mặt trời trên thiên cầu (đường hoàng đạo) nghiêng so với mặt phẳng xích đạo của Trái Đất. Khi Mặt trời đi qua hai điểm phân (giao điểm của mặt phẳng hoàng đạo và mặt phẳng xích đạo), hình chiếu của chuyển động này trên xích đạo sẽ chậm nhất. Khi Mặt trời đi qua hai điểm chí (lên cao nhất phía bắc và xuống thấp nhất về phía nam so với xích đạo), hình chiếu của chuyển động Mặt trời trên xích đạo sẽ là nhanh nhất. Do đó ngày Mặt trời biểu kiến sẽ ngắn hơn vào các ngày 26-27 tháng 3, 12-13 tháng 9 và dài hơn vào các ngày 18-19 tháng 6 năm 20-21 tháng 12. Những ngày này lệch đi một chút so với các ngày phân và ngày chí thực do điều chỉnh theo tốc độ nhanh/chậm của Trái Đất tại các điểm cận nhật và viễn nhật. Thời gian Mặt Trời trung bình Thời gian Mặt Trời trung bình được tính theo trung bình của thời gian mặt trời và dùng để tính thời gian cho đồng hồ nhân tạo, sao cho tất cả các ngày Mặt Trời trung bình có độ dài bằng nhau là 24h (86.400 giây). Chênh lệch giữa độ dài của một ngày Mặt trời biểu kiến và độ dài một ngày Mặt trời trung bình dao động từ ngắn hơn 22 giây cho đến dài hơn 29 giây. Vì các ngày dài hoặc ngắn thường đi liền nhau nên khoảng thời gian chênh lệch này được tích lũy lại, và có thể lên tới sớm hơn 17 phút hoặc chậm hơn 14 phút. Vì các chu kỳ này là tuần hoàn nên không có sự tích lũy chênh lệch thời gian qua 1 năm. Mối liên hệ giữa thời gian Mặt Trời trung bình và thời gian Mặt Trời thực được mô tả chính xác qua phương trình thời gian. Trong một năm, giờ xác định theo vị trí Mặt trời có thể nhanh hơn giờ đồng hồ tới 16 phút 33 giây (vào khoảng 31 tháng 10 hoặc 1 tháng 11 dương lịch) hoặc chậm hơn đến 14 phút 6 giây (vào ngày 11 hoặc 12 tháng 2). Tương tự, thời điểm Mặt Trời ở thiên đỉnh có thể không trùng vào 12h trưa. Trên Trái Đất, thời điểm này có thể bị lệch khoảng 15 phút, còn trên Sao Hỏa, hành tinh có quỹ đạo méo hơn, thời điểm này có thể bị lệch tới 1h. Khoảng thời gian Mặt Trời quay mọc liên tiếp giữa hai lần là 24h(1 ngày)
Trong hình học phẳng định lý Brianchon phát biểu rằng nếu một lục giác ngoại tiếp một conic (đường bậc hai) thì 3 đường chéo chính của nó đồng quy. Định lý Brianchon có thể được chứng minh bằng cách sử dụng định lý Pascal thông qua tính chất cực đối cực. Định lý Brianchon được nhà toán học Charles-Julien Brianchon (1785-1864) chứng minh năm 1806 một cách độc lập mà không sử dụng định lý Pascal.
Định lý Brouwer được phát biểu năm 1912 bởi nhà luận lý học Hà Lan Luizen Egbertus Jan Brouwer và còn có tên là Nguyên lý điểm bất động Brouwer. Đây là một trong những định lý toán học quan trọng của thế kỉ 20, ngày nay vẫn đang được tiếp tục mở rộng. Chứng minh nguyên thủy của Brouwer sử dụng phương pháp tôpô (phương pháp bậc của ánh xạ liên tục). Ngày nay đã có ít nhất năm cách chứng minh khác nhau cho nguyên lý nổi tiếng này và hàng chục định lý tương đương với nó đã được tìm ra. Phát biểu (dạng nguyên thủy) Một ánh xạ liên tục f từ hình cầu đóng trong vào chính nó phải có điểm bất động, tức là tồn tại x sao cho f(x)=x. Thí dụ: Trong mặt phẳng phức, mọi ánh xạ liên tục của hình tròn đơn vị vào chính nó sẽ có một điểm cố định. Mở rộng Schauder, Tikhonov đã mở rộng nguyên lý này, và ở dạng tổng quát nó được gọi là nguyên lý Brouwer-Schauder-Tikhonov. Phát biểu như sau: Một ánh xạ liên tục f từ một tập lồi compact trong một không gian vector topo lồi địa phương Hausdorff vào chính nó phải có điểm bất động. Hiện trạng Cho đến nay, người ta chưa biết liệu có thể bỏ đi điều kiện "lồi địa phương" trong định lý trên hay không. Một điểm nữa là người ta đã mở rộng định lý này cho cả các ánh xạ đa trị.
Định lý bất biến miền (Invariance of domain) còn có tên gọi là Định lý Brouwer về tính bất biến của miền (domain), được chứng minh bởi nhà toán học Luitzen Egbertus Jan Brouwer (1881-1966) vào năm 1912. Định lý này được phát biểu cho không gian với tôpô Euclid (hiện nay đã có phát biểu cho các không gian khác). Từ "miền" (domain) (với nghĩa hiện nay không phổ biến) chỉ tập mở. Phát biểu Cho tập hợp là tập mở trong không gian (với tôpô Euclid) và là một đơn ánh liên tục. Khi đó cũng mở trong . Chứng minh Chứng minh dưới đây là chứng minh phổ biến của hiện nay, tuy vậy đây không phải mà chứng minh của Brouwer. Mọi chứng minh cho đến hiện tại của định lý này ít nhiều đều phải nhờ đến các kết quả của tôpô đại số. Cho là tập mở. Với mỗi , có một quả cầu đóng tâm sao cho , có biên là và phần trong là . Ta sẽ chứng minh rằng mở trong , suy ra mở trong . Tuy vậy, do có một sự “gần giống nhau” giữa và , cùng với việc nhiều kết quả đã đạt được đối với mặt cầu , nên người ta thay việc chứng minh đối với thành việc chứng minh đối với . Các mệnh đề về compắc hóa dưới đây cho thấy sự “gần giống nhau” đó. Chứng minh các mệnh đề này có thể xem trong [1]. Mệnh đề. Compắc hóa Alexandroff của một không gian Hausdorff compắc địa phương thì Hausdorff. Do đó các compắc hóa Alexandroff của và đều Hausdorff. Mệnh đề. Nếu đồng phôi với thì compắc hóa một-điểm Hausdorff (Hausdorff one-point compactification) của đồng phôi với compắc hóa một-điểm Hausdorff của .  Do đó vì , nên với và lần lượt là các compắc hóa một-điểm Hausdorff của và , ta có .  Với là ánh xạ chứa trong. Ta lưu ý rằng cách xây dựng compắc hóa Alexandroff của cho thấy mọi tập mở trong vẫn mở trong , tức là ánh xạ mở. Nên với , mở trong mở trong mở trong .  Ta thấy là một đơn ánh, nên nếu với mọi là đơn ánh liên tục, ta chứng minh được mở trong thì định lý bất biến miền được chứng minh. Định lý. Cho là một tập mở trong và là đơn ánh liên tục. Khi đó cũng mở trong . Chứng minh. Với mỗi , có một quả cầu đóng tâm sao cho , có biên là và phần trong là . Ta sẽ chứng minh mở trong . Chứng minh này cần kết quả quan trọng sau (chứng minh mệnh đề sau đây khá dài, ta có thể xem trong [2]). Mệnh đề. Cho là một ánh xạ liên tục sao cho . Khi đó . (Tổng quát của mệnh đề này là, cho là một ánh xạ liên tục sao cho , khi đó , , với là nhóm đồng điều rút gọn (reduced simplicial homology group) thứ của . Định lý này có tên là định lý phân chia Jordan - Brouwer, xem trong [2] hoặc [3]). Áp dụng cho . Do là đơn ánh liên tục, compắc và Hausdorff nên là một đồng phôi từ sang , ta có . Suy ra theo mệnh đề trên, ta có . Ta có là liên thông đường, bên cạnh đó cũng liên thông đường do liên thông đường. Vậy nên chia thành 2 thành phần liên thông đường rời nhau và . Do là compắc nên cũng compắc, suy ra đóng trong (do Hausdorff). Suy ra mở trong . Do đó hai thành phần liên thông đường và cũng là hai thành phần liên thông của . Vậy nên chúng đều mở trong , nói riêng mở trong , do đó mở trong S^{n}. Ta có đpcm. Hệ quả và đồng phôi thì phải bằng . Chứng minh. Giả sử có đồng phôi và . Khi đó với mọi tập mở ta có mở trong . Do , xét ánh xạ chứa trong , ta thấy các phần tử của sẽ được viết dưới dạng . Mặt khác do là một đơn ánh liên tục nên , theo định lý bất biến miền, phải mở trong , điều này là không thể bởi không có lân cận mở nào trong chứa trong . Vậy . Làm ngược lại với , ta có . Vậy và phải bằng nhau. Định lý này có thể chứng minh ngắn gọn bằng cách dùng kết quả về các nhóm đồng điều . Ý nghĩa trực quan. Định lý này cho thấy nếu xem phép đồng phôi, một cách trực quan, là phép co bóp kéo giãn mà không cắt hay dán, thì ta không thể kéo hay co bóp một "đường thẳng" , mặt phẳng hay cả không gian thành hai thứ còn lại.
Tổng khởi nghĩa Hà Nội năm 1945 là sự kiện nhân dân Hà Nội dưới sự lãnh đạo của Việt Minh đã giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và chính phủ Đế quốc Việt Nam vào ngày 19 tháng 8 năm 1945. Đây là một sự kiện lịch sử quan trọng mở đầu cho Cách mạng tháng Tám và sự ra đời của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Bối cảnh lịch sử Vào những ngày đầu tháng 8 năm 1945, tình hình chính sự Hà Nội ngày càng trở nên nóng bỏng hơn do những biến động của Chiến tranh thế giới thứ hai. Quân đội Nhật liên tiếp chịu hết thất bại này tới thất bại khác trên các mặt trận trước quân đội Đồng Minh. Trong thời điểm đó, lãnh đạo Việt Minh đã chỉ thị tiến hành các cuộc tiếp xúc bí mật với Khâm sai Phan Kế Toại, người đại diện cho triều đình nhà Nguyễn tại miền Bắc, đề nghị ông đứng về phía Việt Minh. Ông Toại đang phân vân trước lời mời tham chính của Việt Minh. Chiều 15 tháng 8, khi có tin Nhật chính thức đầu hàng Đồng Minh, hai ông Trần Tử Bình và Nguyễn Khang, hai đại diện của Xứ ủy Bắc Kỳ được giao nhiệm vụ ở lại Hà Nội, đã cấp tốc bàn bạc và đi tới quyết định thành lập Uỷ ban Quân sự Cách mạng Hà Nội (Ủy ban khởi nghĩa) của Mặt trận Việt Minh - do ông Khang làm chủ tịch và bốn ủy viên: Trần Quang Huy, Nguyễn Duy Thân, Lê Trọng Nghĩa và Nguyễn Quyết cùng cố vấn Trần Đình Long - để gấp rút chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền. Ủy ban khởi nghĩa sẽ trực tiếp tổ chức các cuộc mít tinh, tuần hành, biểu dương lực lượng gây hoang mang cho chính phủ Trần Trọng Kim trước khi đi tới việc giành chính quyền. Đồng thời gia tăng vận động để ông Phan Kế Toại nhanh chóng có quyết định từ chức và giao chính quyền cho Việt Minh, qua đó hạn chế những sự cố gây đổ máu cho lực lượng cách mạng. Khâm sai Phan Kế Toại đã gặp Nguyễn Khang, người do Xứ Ủy Bắc Kỳ cử đến. Ông đề nghị Việt Minh tham gia Chính phủ Đế quốc Việt Nam và ngừng các hoạt động chống Nhật nhưng Nguyễn Khang bác bỏ. Ngay sau đó, chính quyền thân Nhật Đế quốc Việt Nam thành lập Uỷ ban Chính trị để đàm phán với Việt Minh. Ủy ban này đề nghị Việt Minh: "Đằng nào các ông cũng thắng, nhưng để điều đình với Đồng Minh sẽ vào Đông Dương giải giáp quân Nhật, đề nghị vùng nông thôn cách thành phố 15km là thuộc quyền các ông, còn thành phố cần có nhân sĩ, trí thức đứng ra giao dịch với Đồng Minh". Đại biểu Việt Minh đã trả lời dứt khoát: "giao dịch với Đồng Minh lúc này, ngoài Việt Minh không ai có thể có lực lượng và danh nghĩa cả". Sau cuộc họp cuối cùng của Hội đồng Tư vấn ngày 16/8/1945, Phan Kế Toại được chính quyền Huế chấp nhận từ chức ngày 17/8/1945, Một số các phụ tá của ông cùng với các quan chức cấp cao của chính quyền Đế quốc Việt Nam tại miền Bắc chạy trốn vào kinh đô Huế. Chuẩn bị cho khởi nghĩa Ngày 17 tháng 8, cuộc mít tinh của Tổng hội công chức chính quyền Trần Trọng Kim tại quảng trường Nhà hát Lớn thành phố để ủng hộ chính phủ thu hồi chủ quyền. Hàng vạn người đứng đầy đường Paulbert (nay là phố Tràng Tiền), người đi xem rất đông, trên bao lơn nhà hát lớn, cờ quẻ ly được kéo lên, mọi người hát vang bài Tiếng Gọi Thanh Niên và hoan hô chính phủ Trần Trọng Kim thu hồi độc lập, họ hô to "Việt Nam độc lập muôn năm". Các đội viên đội Tuyên truyền Giải phóng quân cũng trương cờ đỏ sao vàng và hô to "Ủng hộ Việt Minh". Họ tạo ra một sự hỗn loạn cực độ phá vỡ chương trình tổ chức. Ban tổ chức cố gắng lập lại trật tự nhưng không thể nào kiểm soát nổi tình hình. Theo một tín hiệu đã định trước, nhiều đội viên đội Danh dự của Việt Minh (chuyên ám sát các đối thủ chính trị của Việt Minh) nhảy lên khán đài với súng ngắn trong tay dồn các viên chức Đế quốc Việt Nam vào một góc, hạ cờ Đế quốc Việt Nam xuống, trương cờ đỏ sao vàng lên. Các cán bộ tuyên truyền Việt Minh chuyển sang vừa hô khẩu hiệu vừa kêu gọi quần chúng ủng hộ họ nhưng không có kết quả. Quần chúng không muốn tiếp tục cuộc mít tinh, sự náo động bắt đầu xảy ra. Cuối cùng Nguyễn Khang phát biểu kêu gọi nhân dân ủng hộ Việt Minh với lập luận Việt Nam đã giành độc lập từ tay người Nhật chứ không phải từ tay Pháp, nay Nhật đã bị đánh bại và Việt Nam được tự do, đồng thời kết tội Chính phủ Trần Trọng Kim của Đế quốc Việt Nam phục vụ quyền lợi nước ngoài và kêu gọi dân chúng ủng hộ Việt Minh đánh đổ chính quyền tay sai, đấu tranh cho độc lập dân tộc. Cuộc mít tinh sau đó đã biến thành cuộc tuần hành thị uy của quần chúng cách mạng do Việt Minh điều khiển. Nhiều lính bảo an cũng khoát súng đi theo. Sau cuộc biểu tình Việt Minh phân phát cờ đỏ cho dân chúng để đón quân giải phóng sắp ở chiến khu về. Hàng trăm, hàng ngàn người vào Bắc bộ phủ hô đả đảo phát xít, hoan hô giải phóng, hô hào dân chúng đi chiếm các công sở. Chiều ngày 17 tháng 8, tại làng Vạn Phúc - An toàn khu của Xứ uỷ tại Hà Đông, ông Nguyễn Khang sau khi trực tiếp khảo sát tình hình Hà Nội trở về đã trao đổi với ông Trần Tử Bình và đi tới quyết định: Dựa trên chỉ thị "Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" tiến hành cho Hà Nội khởi nghĩa mà không cần chờ tới lệnh của Trung ương. Quyết định quan trọng này được đưa ra chỉ 2 ngày sau khi có tin Nhật đầu hàng Đồng Minh và Pháp còn đang lúng túng trong chính sách cụ thể đối với Việt Nam và Đông Dương. Việc chớp thời cơ này thật táo bạo vì lúc đó Ủy ban khởi nghĩa chỉ dựa hoàn toàn vào sức mạnh của chính nhân dân thủ đô, với các tổ tự vệ chiến đấu mà chưa có sự hỗ trợ của đội quân giải phóng từ Trung ương và các chiến khu. Sáng ngày 18 tháng 8, Uỷ ban khởi nghĩa Hà Nội chuyển trụ sở làm việc về số nhà 101 Gambetta (nay là phố Trần Hưng Đạo). Các uỷ viên tích cực chuẩn bị cho công việc sáng hôm sau. Ngày 19 tháng 8 năm 1945: Tổng khởi nghĩa Hà Nội Tinh mơ sáng ngày 19 tháng 8, hàng chục vạn người dân ở Hà Nội và các tỉnh lân cận theo các ngả đường kéo về quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội. Khoảng 10 giờ rưỡi, cuộc mít tinh lớn chưa từng có của quần chúng cách mạng được sự bảo vệ của Thanh niên tự vệ, của tổ chức Việt Minh Hoàng Diệu Hà Nội đã diễn ra. Đại diện Việt Minh tuyên bố: Tổng khởi nghĩa! Sau đó một cánh tiến thẳng tới Phủ Khâm sai, cơ quan đầu não của chính phủ, và nhanh chóng làm chủ toàn bộ khu vực này. Lính bảo vệ Phủ đã hạ vũ khí mà không có bất kỳ hành động kháng cự nào trước sức mạnh của nhân dân Hà thành. Khâm sai Bắc kỳ Nguyễn Xuân Chữ (người mới đứng ra thay thế ông Phan Kế Toại) bị bắt giữ và đưa về An toàn khu tại Hà Đông. Cùng thời gian đó, ông Nguyễn Quyết đã chỉ huy nhân dân chiếm Trại Bảo an binh. Nhưng quân đội Nhật đã can thiệp, đưa xe tăng cùng binh lính bao vây quanh trại, đòi tước vũ khí của lực lượng cách mạng. Ông Nguyễn Khang và ông Trần Tử Bình đã quyết định tiến hành đàm phán với quân đội Nhật vì theo phân tích thì quân Nhật đã rất rệu rã, không còn tinh thần chiến đấu cao và muốn bảo toàn lực lượng khi rút về nước. Hơn nữa nếu quân đội Nhật cố ngăn cản thì cũng không được lợi ích gì vì bản thân chính quyền do họ dựng lên quá yếu ớt, không thể đối trọng với sức mạnh của Việt Minh. Đúng như dự đoán, sau khi tiếp nhận đề nghị của Ủy ban Khởi nghĩa, Nhật đã đồng ý rút quân nhưng yêu cầu phải có một cuộc đàm phán chính thức với cấp chỉ huy tối cao của họ. Chiều tối 19 tháng 8, phái đoàn của đàm phán của Việt Minh do ông Lê Trọng Nghĩa và cố vấn Trần Đình Long dẫn đầu đã trực tiếp gặp gỡ và đàm phán với tướng Tsuchihashi - Tổng tư lệnh kiêm Toàn quyền Nhật - ngay tại Tổng hành dinh quân đội Nhật (nay là 33 Phạm Ngũ Lão). Cuộc đàm phán diễn ra khá gay go nhưng cuối cùng phía Nhật, đúng như đã được dự đoán, đã chấp nhận án binh bất động, không can thiệp vào công việc của Việt Minh; đổi lại binh lính của họ sẽ được bảo đảm an toàn, không bị Việt Minh tấn công. Họ đã chấp nhận chính quyền cách mạng. Kết quả đàm phán với Nhật mang ý nghĩa quyết định cho thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa Hà Nội bởi phe Việt Minh đã không chỉ tránh được cuộc đối đầu trực tiếp với lực lượng vũ trang của Nhật mà còn loại trừ mọi hy vọng của các lực lượng chính trị khác vào khả năng đảo ngược tình thế tại thủ đô vào thời điểm đó. Ngay 19 tháng 8, Xứ ủy quyết định thành lập Ủy ban nhân dân Cách mạng Bắc bộ và Ủy ban nhân dân Cách mạng Hà Nội, chính thức hoá vai trò của chính quyền cách mạng với nhân dân và cộng đồng quốc tế. Ngày 20 tháng 8, khoảng 10 giờ 30 sáng, Ủy ban Nhân dân Cách mạng Bắc Bộ, đại diện cho chính quyền cách mạng Lâm thời, đã chính thức ra mắt quốc dân đồng bào tại Vườn hoa Con Cóc trước Bắc Bộ phủ. Ngày 21 tháng 8 tại Huế phong trào Việt Minh bùng nổ. Tướng tư lệnh Nhật đã nhận được chỉ thị của Đông Kinh phải giữ ngôi cho Hoàng đế Bảo Đại, đã bàn với Thủ tướng Trần Trọng Kim như sau: "Mặc dù nước Nhật đã đầu hàng nhưng quân đội Nhật tại đây vẫn có nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự cho tới khi quân đội Đồng minh đến tiếp thu. Xin ngài hãy làm văn thư yêu cầu để chúng tôi tái lập trật tự." nhưng Thủ tướng đã từ chối sự giúp đỡ của họ. Đại tướng Nhật cũng vào yết kiến vua Bảo Đại xin tái lập trật tự để bảo vệ ngai vàng nhưng cũng bị từ chối. Thắng lợi ở Hà Nội lập tức kéo theo một sự rung động và làm tan vỡ hệ thống chính quyền thân Nhật ở toàn vùng. Các tỉnh trưởng, thị trưởng Hải Phòng, Nam Định, Bắc Ninh, Thái Nguyên.... đang ngóng trông tin từ Hà Nội, phải vội vàng chuyển sang tìm gặp và theo Việt Minh ở địa phương. Ngày 23 tháng 8, chính quyền cách mạng ở Hải Phòng được thành lập.
Họ Côm (danh pháp khoa học: Elaeaocarpaceae) là một họ thực vật có hoa. Họ này chứa khoảng 600-650 loài cây thân gỗ và cây bụi trong 12 chi. Các chi có sự đa dạng nhất về loài là Elaeocarpus khoảng 350-485 loài, Sloanea khoảng 85-185 loài và Tetratheca khoảng 50-55 loài. Các loài trong họ Elaeocarpaceae phần lớn là loại cây nhiệt đới và cận nhiệt đới, với một ít là cây ôn đới ấm. Phần lớn các loài là cây thường xanh. Chúng được tìm thấy ở Madagascar, Đông Nam Á, Malaysia, miền đông Australia, New Zealand, Tây Ấn và Nam Mỹ nhưng không có ở châu Phi đại lục. Các loài trong họ này có lá đơn, thường mọc so le, đôi khi mọc đối hay mọc vòng, thường cụm lại ở đầu cành, thường với mép lá có khía nhưng đôi khi suy giảm thành vảy. Hoa mọc ở nách lá, đơn độc hay thành cụm, đối xứng tỏa tia. Các hoa thường có cả bộ phận sinh sản đực lẫn bộ phận sinh sản cái, mẫu 4 hoặc 5, gồm 4-5 lá đài và 4-5 cánh hoa. Ở một số chi thì nhị hoa nhiều gấp đôi số cánh hoa còn ở các chi khác thì là nhiều nhị. Ở phần lớn các loài thì bao phấn dài hơn nhiều so với chỉ nhị. Quả là quả nang, quả hạch hay quả mọng. Các chi Platytheca, Tetratheca và Tremandra trong hệ thống Cronquist được xếp vào họ Tremandraceae. Các chi Sloaneeae Endlicher Aristotelia: 5 loài. Phân bố tại Argentina (đông bắc, tây bắc, nam), Chile (trung, nam), Australia (New South Wales, Tasmania), New Zealand (đảo Bắc, đảo Nam). Sloanea (bao gồm cả Anoniodes, Antholoma, Echinocarpus, Lecostomon): Khoảng 185 loài. Phân bố tại vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới Đông Á, Đông Nam Á, Nam Á đến vùng tây nam Thái Bình Dương, Madagascar, vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Mỹ. Tên gọi các loài có ở Việt Nam là gai nang hay sô loan (tên gọi này có lẽ là phiên âm của Sloanea). Vallea: 2 loài. Phân bố tại Argentina (tây bắc), Bolivia, Colombia, Ecuador, Peru, Venezuela. Elaeocarpeae Bartling Aceratium: 20 loài. Phân bố tại quần đảo Bismarck, Maluku, New Guinea, Philippines, Queensland, quần đảo Santa Cruz, quần đảo Solomon và Vanuatu. Crinodendron (bao gồm cả Tricuspidaria): 4 loài. Phân bố tại Argentina (tây bắc), Bolivia, Brasil (nam), Chile (trung, nam). Du nhập vào quần đảo Juan Fernández. Dubouzetia: 11 loài. Phân bố tại New Caledonia, New Guinea, Australia (Lãnh thổ Bắc Úc, Queensland). Elaeocarpus (bao gồm cả Acronodia, Dicera, Ganitrus, Monocera): Khoảng 483 loài, bản địa từ vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới và ôn đới ấm Đông Á, Đông Nam Á, Nam Á, Madagascar, Australia, New Zealand cho tới các đảo khác trên Thái Bình Dương. Tên gọi các loài có ở Việt Nam là côm. Peripentadenia: 2 loài đặc hữu Australia (Queensland). Platytheca: 3 loài đặc hữu Australia (Tây Úc). Sericolea (bao gồm cả Mischopleura): 18 loài đặc hữu New Guinea. Tetratheca: 53 loài đặc hữu Australia (New South Wales, Nam Úc, Tasmania, Victoria, Tây Úc). Tremandra: 2 loài đặc hữu Australia (Tây Úc). Phát sinh chủng loài Cây phát sinh chủng loài dưới đây lấy theo Crayn D. M. và ctv. 2006. Trong cây này không có chi Platytheca, nhưng nói chung chi này được xếp trong nhánh trước đây là họ Tremandraceae. Ghi chú
Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam là cơ quan tham mưu chiến lược về quân sự, quốc phòng của Đảng, Nhà nước đồng thời là cơ quan chỉ huy cao nhất của Quân đội nhân dân và Dân quân tự vệ Việt Nam. Đứng đầu cơ quan này Tổng tham mưu trưởng, kể từ năm 1978, vị trí này kiêm nhiệm luôn chức vụ Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Lịch sử hình thành Bộ Tổng tham mưu được xem là cơ quan tham mưu quân sự chính quy đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, với ngày thành lập là ngày 7 tháng 9 năm 1945, theo nội dung chỉ thị của Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh giao cho ông Hoàng Văn Thái làm Tổng tham mưu trưởng đầu tiên của lực lượng vũ trang Việt Nam Giải phóng quân do Việt Minh lãnh đạo. Tuy nhiên, do áp lực của quân đội Trung Hoa Quốc Dân Đảng đòi giải thể lực lượng chính quy Việt Nam Giải phóng quân, tháng 11 năm 1945, Việt Nam giải phóng quân đổi tên thành Vệ quốc đoàn. Ngày 2 tháng 3 năm 1946, Kháng chiến Ủy viên Hội được thành lập với Võ Nguyên Giáp làm Chủ tịch; đến ngày 6 tháng 5 năm 1946, thì đổi tên thành Quân sự Ủy viên Hội theo Sắc lệnh 60-SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh, gọi tắt là Quân ủy hội. Bộ Tổng tham mưu Vệ quốc đoàn chuyển thành Cục tham mưu, là một trong 5 cơ quan chuyên môn thuộc Quân ủy hội.Tháng 11 năm 1946, Bộ Quốc phòng sáp nhập với Quân sự Ủy viên Hội thành Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy, do Võ Nguyên Giáp làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Chỉ huy Quân đội toàn quốc. Theo Sắc lệnh 47-SL ngày 1 tháng 5 năm 1947 của Chủ tịch nước, Bộ Tổng tham mưu là một trong 7 cơ quan chuyên môn của Bộ Tổng Chỉ huy. Mãi đến sau năm 1975, khi Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam chấm dứt hoạt động, Bộ Tổng tham mưu chuyển về trực thuộc quyền quản lý hành chính của Bộ Quốc phòng. Lãnh đạo hiện nay Tổ chức Hệ thống cơ quan tham mưu trong Quân đội Bộ Tổng tham mưu thuộc Bộ Quốc phòng. Bộ Tham mưu thuộc các Quân khu, Quân chủng, Bộ đội Biên phòng, Quân đoàn, Tổng cục, Binh chủng, Cảnh sát biển, Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội, và tương đương. Phòng Tham mưu thuộc các Sư đoàn, Lữ đoàn, Vùng Hải quân, Vùng Cảnh sát biển, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và tương đương. Ban Tham mưu thuộc các Trung đoàn, Ban chỉ huy quân sự quận, huyện, thị xã và tương đương. Lãnh đạo qua các thời kỳ Tổng Tham mưu trưởng Phó Tổng Tham mưu trưởng
Trường Chúa Nhật là tên gọi lúc ban đầu của các loại hình giáo dục tôn giáo tổ chức vào ngày Chúa nhật (thường là vào buổi sáng) bởi các giáo phái thuộc cộng đồng Cơ Đốc giáo. Khởi phát vào tháng 7 năm 1780 từ những nỗ lực của Robert Raikes, chủ bút nhật báo Gloucester, người nhận ra nhu cầu giúp đỡ trẻ em sống trong những khu phố nghèo khỏi sa chân vào con đường tội phạm. Các lớp học sáng và chiều chủ nhật được thành lập để dạy kỹ năng đọc và viết, các phép tính và giáo lý cho trẻ em nghèo và trẻ mồ côi. Học viên thường dành từ bốn đến năm giờ mỗi tuần để đến lớp học. Khi ấy chỉ có những lớp học dành cho trẻ em lao động nghèo. Dần dà, các lớp học được hỗ trợ tài chính bởi những nhà tài trợ, những người này được khuyến khích đến thăm và lắng nghe bọn trẻ trả bài; như thế họ là tiền thân của các thanh tra giáo dục sau này. Giáo viên được trả lương trong khi các lớp học thường được tổ chức tại nhà riêng hoặc các căn phòng thuê. Năm 1795, Hannah More đã tổ chức một trường học như thế tại Blagdon. Bọn trẻ được khuyến khích đem sách và bài vở về nhà để chia sẻ với cha mẹ chúng, những người không có cơ hội đến trường; do đó Trường Chúa Nhật cũng được xem là một phương tiện giúp cải thiện vị trí xã hội của một số gia đình nghèo. Những năm đầu thế kỷ 19, có 200. 000 trẻ em tham dự các lớp học Trường Chúa Nhật, khoảng năm 1831, Trường Chúa Nhật tại Anh đã tổ chức các lớp học cho 1.250.000 trẻ em, xấp xỉ 25 % dân số nước Anh, đến năm 1850, con số này lên đến hai triệu. Ngày nay, các lớp học Trường Chúa Nhật là phổ biến trong các nhà thờ Công giáo và Kháng Cách, mặc dù ở các nhà thờ Công giáo, chúng thường được gọi là "lớp giáo lý". Trường Chúa Nhật không phải là một định chế giáo dục hiểu theo nghĩa thông thường, nhưng chỉ đơn giản là những nỗ lực nhằm cống hiến các phương tiện học tập hữu ích liên quan đến giáo lý Cơ Đốc. Các lớp học Trường Chúa Nhật thường kéo dài một giờ hoặc hơn với nội dung nghiên cứu Kinh Thánh, được tổ chức trước, trong khi, hoặc sau lễ thờ phượng hay lễ Misa. Trong khi nhiều lớp học Trường Chúa Nhật tập chú vào việc dạy Kinh Thánh cho trẻ em thì các lớp học dành cho người lớn ngày càng phổ biến. Giáo viên Trường Chúa Nhật thường được tuyển chọn trong số các tín hữu của giáo đoàn, dựa trên kiến thức của họ về Kinh Thánh kèm theo các điều kiện khác như trình độ học vấn. Một số giáo hội yêu cầu giáo viên Trường Chúa Nhật hoặc giáo lý viên tham dự các khoá huấn luyện về tôn giáo nhằm bảo đảm rằng họ đạt đủ phẩm chất cần thiết để có thể giúp đỡ người khác trong các vấn đề về đức tin. Nhiều cha xứ Công giáo hoặc quản nhiệm Kháng Cách thường đích thân phụ trách các lớp học Trường Chúa Nhật.
Robert Raikes (1735-1811) là nhà từ thiện người Anh và là tín hữu Anh giáo, người khởi xướng Phong trào Trường Chúa Nhật. Sinh tại Gloucester, ông thừa hưởng từ cha một cơ ngơi trong ngành xuất bản, năm 1757, trở nên sở hữu chủ Nhật báo Gloucester. Phong trào Trường Chúa Nhật khởi đầu với một trường học cho trẻ em trai trong các khu nhà ổ chuột (slum). Trước đó Raikes đã có cơ hội tiếp xúc với những người bị cầm giữ trong khu vực Poor Law (một phần của nhà tù vào thời ấy) và nhận ra rằng ngăn ngừa các loại tội phạm tốt hơn là đợi đến khi xảy ra rồi mới xử lý. Ông cũng nhận thấy trường học là biện pháp hữu hiệu nhất. Thời gian tốt nhất để đem bọn trẻ vào lớp học là vào ngày Chúa nhật, vì chúng phải làm việc sáu ngày mỗi tuần trong các hãng xưởng. Giáo viên khả dụng là các tín hữu (lay people). Sách giáo khoa là Kinh Thánh. Trong thời gian đầu, giáo trình được bắt đầu với việc học đọc rồi mới học giáo lý. Raikes sử dụng tờ báo ông làm chủ để quảng bá trường chúa nhật, trong những năm đầu ông bỏ tiền túi để trang trải các chi phí. Phong trào khởi đầu từ tháng 7 năm 1780 tại nhà Bà Meredith. Lúc đầu chỉ có trẻ em trai đến học nhưng về sau có thêm học sinh nữ. Trong vòng hai năm, trong và quanh Gloucester mở thêm vài trường học. Ngày 3 tháng 11 năm 1783, Raikes cho phổ biến trên nhật báo Gloucester bảng tường trình về Trường Chúa Nhật, rồi những thông tin về trường chúa nhật được đăng tải trên tạp chí Gentleman’s Magazin, đến năm 1784 trên báo Arminian Magazine. Năm 1831, các lớp học Trường Chúa Nhật ở Anh quốc mỗi tuần dạy Kinh Thánh cho khoảng 1.250.000 trẻ em, xấp xỉ 25% dân số nước Anh. Trường Chúa Nhật được xem là tiền thân của các trường công lập, đôi khi được xem là tiền thân của hệ thống trường học Anh.
132 (một trăm ba mươi hai) là một số tự nhiên ngay sau 131 và ngay trước 133.
Clarence Jordan (29 tháng 7 năm 1912 – 29 tháng 10 năm 1969), là học giả Hi văn Tân Ước, và là nhà sáng lập Nông trang Koinonia, một cộng đồng tôn giáo tuy nhỏ nhưng có nhiều ảnh hưởng ở tây nam tiểu bang Georgia, Hoa Kỳ. Ông cũng là tác giả bản dịch Tân Ước Cotton Patch. Tư tưởng và cung cách thể hiện đức tin trong cuộc sống thường nhật của Jordan đã soi dẫn Millard và Linda Fuller trong nỗ lực thành lập Tổ chức Hỗ trợ Gia cư Habitat (Habitat for Humanity). Tuổi trẻ Jordan chào đời tại Talbotton, Georgia, con trai của J. W. và Maude Josey Jordan, những công dân được kính trọng trong thị trấn. Từ khi còn bé, Jordan đã thấy bất bình với những bất công về kinh tế và chủng tộc mà cậu nhận thấy đang diễn ra trong cộng đồng. Với hi vọng có thể sử dụng khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp để cải thiện cuộc sống của nông dân làm thuê, Jordan ghi danh tại Đại học Georgia và tốt nghiệp năm 1933 chuyên ngành nông nghiệp. Thế nhưng, trong những năm ở đại học, Jordan nhận ra rằng nạn nghèo đói không chỉ xuất phát từ lý do kinh tế mà còn có nguồn căn từ những vấn đề tâm linh. Niềm xác tín này dẫn đưa Jordan đến Chủng viện Thần học Baptist ở Louisville, Kentucky. Ở đây, Jordan nhận học vị Tiến sĩ môn Hi văn năm 1938. Đang khi ở chủng viện, Jordan gặp Florence Kroeger, không lâu sau đó hai người làm lễ thành hôn. Nông trang Koinonia Năm 1942, Jordan cùng vợ và một gia đình khác, Martin và Mabel England, từng là giáo sĩ của giáo phái Baptist, đến sống trên một khu đất rộng 440 mẫu Anh (1,8 km²) gần thị trấn Americus, tiểu bang Georgia nhằm thiết lập một cộng đồng nông nghiệp Cơ Đốc không phân biệt chủng tộc. Họ đặt tên cho cộng đồng là Koinonia (κοινωνία), nghĩa là thông công hoặc thân hữu theo tinh thần của hội thánh thời sơ khai được ký thuật trong Kinh Thánh theo sách Công vụ các Sứ đồ 2: 44,45. Bằng sự tận hiến triệt để nhằm thể hiện lời dạy của Chúa Giê-xu trong Bài giảng trên núi, thành viên của Koinonia ràng buộc với nhau trong tinh thần bình đẳng, khước từ bạo động, thân thiện với môi trường, và đồng sở hữu mọi tài sản. Trong thời gian đầu, cư dân Koinonia được sống trong sự bình an tương đối trong mối quan hệ với những khu dân cư thuộc Quận Sumter. Nhưng khi Phong trào Dân quyền (dưới sự lãnh đạo của Martin Luther King, Jr., đấu tranh đòi quyền bình đẳng cho người Mỹ gốc Phi) tiến triển mạnh, những công dân da trắng trong vùng bắt đầu nhìn xem Kononia (với chủ trương bình đẳng chủng tộc) như là một mối đe dọa. Trong thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, Kononia trở thành mục tiêu nóng của những vụ tẩy chay kinh tế và liên tục bị tấn công, kể cả vài vụ đánh bom. Khi Jordan tìm kiếm sự cứu giúp từ Tổng thống Eisenhower, chính phủ liên bang đã từ chối can thiệp, và chuyển vụ việc sang Thống đốc bang Georgia. Thống đốc tiểu bang, một người triệt để ủng hộ chủ trương phân biệt chủng tộc, đáp trả bằng cách ra lệnh Văn phòng Điều tra tiểu bang Georgia điều tra các thành viên và những người ủng hộ Koinonia dựa trên những cáo buộc cho rằng họ có dính líu đến những người cộng sản. Tuy vậy, Jordan quyết định không tham gia các cuộc tuần hành đang diễn ra trong khu vực. Ông tin rằng biện pháp tốt nhất để thay đổi xã hội là thể hiện một lối sống hoàn toàn khác biệt qua đời sống thường nhật trong cộng đồng. Bản dịch Tân Ước Cotton Patch Đến cuối thập niên 1960, khi sự thù nghịch suy giảm dần, Jordan bắt đầu tập chú vào các hoạt động diễn thuyết và trước tác. Nổi tiếng nhất trong số các tác phẩm của ông là bản dịch Tân Ước Cotton Patch. Jordan tin rằng trong dịch thuật không chỉ dịch chữ và câu, mà còn cần quan tâm đến thông điệp của Kinh Thánh. Như vậy, thành phố Birmingham đương đại là hình ảnh tương đồng của thành Ephesus xưa, do đó Jordan "đặt tên lại" cho thư tín Phao-lô gởi tín hữu thành Ephesus là "Thư gởi tín hữu Cơ Đốc ở Birmingham". Ephesians 2.11-13 được Jordan dịch như sau: "Vì vậy, hãy luôn nhớ rằng các bạn trước đây là người da đen, đôi khi các thành viên thiếu ý thức trong nhà thờ gọi các bạn là "mọi đen", trái ngược với tình bằng hữu Cơ Đốc, họ không chấp nhận các bạn là anh em trong đức tin, và đối đãi với các bạn như thể phúc âm không ích gì cho các bạn; trong mắt thế gian, các bạn sống một đời vô vọng và bị Thiên Chúa ruồng bỏ. Thế nhưng, ngày nay do sự hi sinh tuyệt đối của Chúa Cơ Đốc, các bạn, đã từng bị kỳ thị, nay được đón chào trong tình thân ái Cơ Đốc". Bản dịch Cotton Patch áp dụng phép tương đồng để đem các địa danh của nước Mỹ vào Tân Ước; La Mã trở thành Washington, D.C., Vương quốc Israel trở thành tiểu bang Georgia (Vua Israel trở thành Thống đốc Georgia), Jerusalem là Atlanta và Bethlehem trở thành Gainesville, Georgia. Tổ chức Hỗ trợ Gia cư Năm 1968, Millard và Linda Fuller đến thăm Nông trang Kononia, dự tính chỉ lưu lại trong vài giờ. Nhưng khi chịu thuyết phục bởi những lý tưởng mà Jordan theo đuổi, họ quyết định chọn Koinonia làm nhà. Khủng hoảng trong hôn nhân cùng những bất hạnh trong cuộc đời triệu phú đã khiến họ đi đến quyết định bán hết tài sản để cho người nghèo và chấp nhận cuộc sống đạm bạc theo đức tin Tin Lành. Gia đình mới này đã mang sức sống mới đến cho Koinonia. Tổ chức được đổi tên thành Đồng công Koinonia và khởi xướng chương trình "Nhà ở Đồng công", một đề án có mục tiêu xây dựng nhà ở vừa túi tiền cho những gia đình có thu nhập thấp. Từ những trải nghiệm ở Koinonia, năm 1976 Fuller và vợ thành lập Tổ chức Hỗ trợ Gia cư, hoặc Chỗ ở cho Nhân loại, (Habitat for Humanity). Nhưng Jordan không sống đủ lâu để có thể nhìn thấy căn nhà đầu tiên dành cho người nghèo được hoàn thành. Ngày 29 tháng 10 năm 1969, Jordan đột ngột từ trần vì bệnh tim. Ông được an táng trong một ngôi mộ không tên ở Nông trang Koinonia, một hộp đựng tủ lạnh cũ là quan tài của ông. Những công dân miền nam bang Georgia đã đối xử với ông khi chết cũng giống như cách họ đã đối đãi ông khi còn sống: đến dự đám tang của ông chỉ có gia đình, các thành viên của Koinonia và dân nghèo của cộng đồng. "Ông đã ra đi," một người láng giềng nói lên cảm nghĩ của mình năm 1980, "nhưng bước chân của ông vẫn còn in dấu nơi đây".
133 (một trăm ba mươi ba) là một số tự nhiên ngay sau 132 và ngay trước 134.
134 (một trăm ba mươi bốn) là một số tự nhiên ngay sau 133 và ngay trước 135.
135 (một trăm ba mươi lăm) là một số tự nhiên ngay sau 134 và ngay trước 136.
Nguyễn Tài Cẩn (1926–2011) là một trong những chuyên gia đầu ngành Ngôn ngữ học Việt Nam. Ông đã có công lớn trong việc xây dựng chuyên ngành Ngôn ngữ học tại trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, nay là khoa Ngôn ngữ học của trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. Ông đã được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học – công nghệ năm 2000, được phong tặng học hàm Giáo sư đợt 1 năm 1980 và danh hiệu Nhà giáo Nhân dân năm 2008. Tiểu sử Ông sinh ngày 2 tháng 5 năm 1926 tại làng Thượng Thọ (nay thuộc xã Đại Đồng), huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình Nho học. Thời nhỏ ông theo học trường trung học Thuận Hóa, một trường tư do ông Tôn Quang Phiệt mở, có nhiều thầy dạy giỏi nổi tiếng như Đào Duy Anh, Hoài Thanh,... Sau đó ông thi đỗ học Quốc học Huế, rồi Quốc học Vinh. Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia các công tác kháng chiến tại Nghệ An, là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1949. Năm 1949, ông bắt đầu dạy học. Năm 1952, ông được bổ nhiệm làm trợ lý đại học lớp đầu tại Liên khu 4, năm 1953–1954 là Trưởng phòng chuyên môn của Khu Giáo dục Liên khu bốn. Trong những năm 1955–1960, ông được Bộ Giáo dục Việt Nam cử làm chuyên gia Việt ngữ học đầu tiên của Việt Nam tại Liên Xô (làm việc tại Đại học Tổng hợp Leningrad). Năm 1960 ông bảo vệ thành công luận án phó tiến sĩ ngữ văn đầu tiên của Việt Nam tại Liên Xô về ngành ngôn ngữ học với đề tài "Từ loại Danh từ tiếng Việt". Từ năm 1961 đến năm 1971, ông làm Chủ nhiệm Bộ môn Ngôn ngữ học, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Năm 1980 ông được phong hàm Giáo sư. Ông được mời giảng tại Đại học Paris 7 vào các năm 1982, 1988–1990, và tại Đại học Cornell (Hoa Kỳ) năm 1991. Năm 2000 Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đã được Nhà nước Việt Nam tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về cụm ba công trình Ngữ pháp và Lịch sử tiếng Việt: Ngữ pháp tiếng Việt – từ ghép, đoản ngữ – tập hợp một số bài giảng về ngữ pháp tiếng Việt hiện đại cho sinh viên chuyên ngành ngôn ngữ Khoa ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, trong thời gian 1961–1969. Tiếng, từ ghép, đoản ngữ là ba lĩnh vực then chốt của ngữ pháp tiếng Việt, được tác giả nghiên cứu, lý giải một cách khoa học, mà cho tới bây giờ vẫn được đánh giá là chuẩn xác (tuy các thuật ngữ đã có một số thay đổi). Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt – công trình nghiên cứu về quá trình phát triển ngữ âm tiếng Việt trên cơ sở lý thuyết ngữ âm hiện đại, có liên hệ với các ngôn ngữ có liên quan như tiếng Ê Đê, tiếng Khmer, âm vận học của Trung Quốc. Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán – Việt – công trình nghiên cứu sự ra đời cách đọc Hán–Việt. Năm 2008, ông được phong tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân. Về đời tư, ông kết hôn với một phụ nữ Nga, giáo sư Nonna Stankevitch, cũng là nhà ngôn ngữ học có uy tín, có nhiều nghiên cứu về tiếng Việt; bà từng được Đảng và Nhà nước trao tặng Huân chương Kháng chiến chống Mỹ. Ở Khoa Ngữ Văn của Đại học Tổng hợp trước đây, có lưu truyền một số giai thoại đẹp xung quanh mối tình "xuyên biên giới" của ông với người vợ Nga. Ông mất hồi 19 giờ 10 phút (giờ Hà Nội) ngày 25 tháng 02 năm 2011 tại Moskva (Liên bang Nga) sau một thời gian đau ốm, hưởng thọ 85 tuổi. Danh mục công trình nghiên cứu Nguyễn Tài Cẩn (1971), Cứ liệu ngữ âm lịch sử với vấn đề thời kì xuất hiện của chữ Nôm, in trong: Tạp chí Ngôn ngữ, số 1; in lại trong: Một số vấn đề về chữ Nôm, Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1985, tr. 86–118. Nguyễn Tài Cẩn (1972), Bổ sung thêm một số cứ liệu ngữ âm lịch sử có liên quan đến vấn đề thời kì xuất hiện chữ Nôm, in trong: Thông báo khoa học Trường Đại học Tổng hợp (Văn học – Ngôn ngữ), tập V, Hà Nội, 1972; in lại trong: Một số vấn đề về chữ Nôm, Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1985, tr. 119–137. Nguyễn Tài Cẩn (1974), Thử tìm cách đọc Nôm hai chữ "song viết", in trong Tạp chí Văn học, số 2/1974; in lại trong: Một số vấn đề về chữ Nôm, Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1985, tr. 181–209. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Bàn thêm về "song viết? song biết? song kiết?", in trong: Tạp chí Văn học, số 6/1975; in lại trong: Một số vấn đề về chữ Nôm, Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1985, tr. 210–227. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Từ loại Danh từ trong tiếng Việt hiện đại. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Ngữ pháp tiếng Việt: tiếng, từ ghép, đoản ngữ. Nhà xuất bản Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, 1975; Nhà xuất bản Đại học Quốc gia (tái bản nhiều lần). Nguyễn Tài Cẩn, N.V. Stankevitch (1976), Điểm qua vài nét về tình hình cấu tạo chữ Nôm, in trong: Tạp chí Ngôn ngữ, số 2: tr. 15–25; số 3: tr. 14–24. Nguyễn Tài Cẩn (1979), Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội; tái bản: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002. Nguyễn Tài Cẩn, N.V. Stankevitch (1981), Chữ Nôm, một thành tựu văn hoá của thời đại Lý – Trần, in trong: Viện Sử học, Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý – Trần, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 476–516. Nguyễn Tài Cẩn (1985), Một số vấn đề về chữ Nôm, Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1985. Nguyễn Tài Cẩn (1987), Văn hoá chữ Hán và ngôn ngữ Việt Nam: vai trò của các yếu tố gốc Hán trong tiếng Việt hiện đại, in lần đầu bằng tiếng Nhật trong cuốn Hán tự dân tộc quyết đoán, Tokyo, 1987; in lại bằng tiếng Việt trong: Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hoá, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tr. 424–439. Nguyễn Tài Cẩn (1995), Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (sơ thảo), Nhà xuất bản Giáo dục. Nguyễn Tài Cẩn (1998), Ảnh hưởng Hán văn Lý Trần qua thơ và ngôn ngữ thơ Nguyễn Trung Ngạn, Nhà xuất bản Giáo dục. Nguyễn Tài Cẩn (1998), Tìm hiểu kỹ xảo hồi văn liên hoàn trong bài Vũ trung sơn thủy của Thiệu Trị, Nhà xuất bản Thuận Hoá. Nguyễn Tài Cẩn (2001), Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hoá, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. Nguyễn Tài Cẩn (2002), Tư liệu Truyện Kiều: Bản Duy Minh Thị 1872, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. Nguyễn Tài Cẩn (2004), Tư liệu Truyện Kiều: Từ bản Duy Minh Thị đến bản Kiều Oánh Mậu, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học & Nhà xuất bản Văn học. Nguyễn Tài Cẩn (2008), Tư liệu Truyện Kiều: Thử tìm hiểu bản sơ thảo Đoạn trường tân thanh, Nhà xuất bản Giáo dục. Kỷ lục Việt Nam trong thế kỷ XX Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn có thể tìm ra hơn 60 cách đối lại một câu đối, điều mà ông từng thực hiện trên tạp chí Sông Hương số đầu năm 1988. Nghệ thuật đối đó sở dĩ đạt tới kỷ lục trên là do được thực hiện không phải dựa theo cảm tính hay thói quen như thường thấy mà căn cứ vào phương pháp khoa học của ngành ngôn ngữ học. Chú thích
Nhà Lưu Tống (; 420-479) là triều đại đầu tiên trong số bốn Nam triều ở Trung Quốc, tiếp theo sau nó là nhà Nam Tề. Quốc hiệu Triều đại này do Lưu Dụ (劉裕; 363-422) lập ra, họ của ông cùng với tên gọi triều đại "Tống" hợp thành tên gọi được sử dụng để chỉ triều đại này, Lưu Tống. Tên gọi này được sử dụng nhằm mục đích phân biệt triều đại này với triều đại cùng tên là nhà Tống (宋; 960-1279), là triều đại nổi tiếng, tồn tại lâu hơn và có nhiều sự kiện lịch sử hơn. Nhà Lưu Tống cũng từng được gọi là Nam Tống (南宋), do nó là một triều đại thuộc Nam triều trong lịch sử Trung Quốc, tức là một trong các triều đại có kinh đô đặt tại Kiến Khang (ngày nay là Nam Kinh). Tuy nhiên, nhà Tống (960-1279) kể từ sau năm 1127 cũng phải lui về phía nam, đặt kinh đô tại Lâm An (ngày nay là Hàng Châu, Chiết Giang), cũng được gọi là nhà Nam Tống. Vì thế, đối với triều đại ngắn hơn nhiều này, là chủ đề của bài này, thì tên gọi "Lưu Tống" được sử dụng là hợp lý hơn cả trong nhiều ngữ cảnh. Thành lập Hoàng đế khai quốc Lưu Dụ xuất thân từ trong quân đội, thuở nhỏ gia đình nghèo. Khi nhà Đông Tấn rơi vào thời kỳ xuống dốc, dân nổi lên làm loạn khắp nơi, nội bộ Triều đình đấu đá lẫn nhau làm tê liệt mọi hoạt động trong nước. Năm 402, một viên tướng nhà Đông Tấn là Hoàn Huyền khởi binh soán ngôi, lấy quốc hiệu là Sở. Lưu Dụ cùng Lưu Nghị khởi binh cần vương, cuối cùng tiêu diệt được lực lượng Hoàn Huyền. Sau đó Lưu Dụ xuất quân Nam chinh Bắc phạt, ổn định tình hình. Cuối cùng, Lưu Dụ tấn công tiêu diệt lực lượng của Lưu Nghị và đánh đuổi các tôn thất nhà Đông Tấn là Tư Mã Hưu Chi, Tư Mã Sở Chi. Không còn trở ngại, Lưu Dụ ép Tấn Cung Đế nhường ngôi, lập ra triều Tống. Lãnh thổ Phía bắc đến Tần Lĩnh Hoàng Hà, giáp ranh Bắc Ngụy, phía tây đến Đại Tuyết Sơn, Tứ Xuyên, phía tây nam bao gồm Vân Nam, phía đông nam giáp biển. Lưu Tống là vương triều có lãnh thổ rộng lớn nhất trong các triều đại Nam triều. Về sau khu vực từ Nam Hoàng Hà đến Bắc Hoài Hà bị Bắc Ngụy chiếm đoạt, trong đó có Tế Châu, Duyện Châu, Thanh Châu, Từ Châu. Thời hưng thịnh Tống Vũ Đế lên ngôi thực hành hàng loạt biện pháp tăng cường trung ương tập quyền, giảm bớt gánh nặng cho nông dân, làm dịu bớt mâu thuẫn giai cấp, đẩy nhanh việc khôi phục và phát triển kinh tế. Sau khi lên ngôi, để tránh cái gương của họ Tư Mã, Tống Vũ Đế liền tước bỏ quyền lực của các chư hầu, phiên trấn, tập trung quyền hành trung ương. Do Kinh Châu nhiều lần phản loạn nên biến Kinh Châu phủ thành Kinh Châu hạt, hạn chế quyền hành của các tướng. Để ngừa quyền thần làm loạn nên ra chiếu chỉ phàm sau khi xuất quân hồi sư phải giao lại binh quyền cho triều đình. Quản lý hộ khẩu các thế tộc, giảm bớt nguồn thu của quan phủ chỉnh đốn hộ tịch, thay đổi cách thổ đoạn (thu thuế), chính quyền sở hữu phát hành tiền tệ khuyến khích buôn bán. Tô thuế của nông dân được giảm nhẹ, nuôi dưỡng sức dân, phát triển sinh sản. Từ thời Ngụy Tấn đến nay, triều đình sống xa hoa phú quý, như do Vũ Đế xuất thân nghèo hèn nên chịu khó sống đời thanh bần, đối với ngựa xe, mĩ nữ càng tiết dục. Người sáng lập ra triều đại này Tống Vũ Đế lại được cho là một trong những viên tướng vĩ đại nhất trong thời kỳ Nam Bắc triều, và thời gian trị vì của vị Hoàng đế thứ ba, Tống Văn Đế, được biết đến như là giai đoạn ổn định chính trị và quản lý hành chính tốt, không chỉ của mỗi hoàng đế mà còn của các quan lại trung thực và mạnh mẽ. Thời kỳ này được biết đến dưới tên gọi triều Nguyên Gia (425-453, lấy theo niên hiệu mà vị hoàng đế này dùng) và nó là một trong những thời kỳ hoàng kim nhất của Nam triều. Năm 438, Văn Đế rất coi trọng văn hóa và giáo dục, muốn phát triển Nho thuật cho thành lập các trường học, khuyến khích Nho sinh nghiên cứu. Các quan chức dân sự được triều đình bổ nhiệm giảng dạy các môn khoa học khác nhau: Hà Thượng Chi (382 - 460) giảng môn Huyền học, Tạ Nguyên giảng văn chương, Lôi Thứ Tông giảng Khổng giáo, Hà Thừa Thiên (370–448), Thái thú Hành Dương, nhà thiên văn học nổi tiếng của Trung Quốc cổ đại giảng lịch sử. Năm 435 Đan Dương doãn Tiêu Mô Chi dâng chiếu thư thưa rằng: ”Phật giáo sau khi du nhập vào Trung Quốc đến nay đã trải qua bốn thời đại, chùa chiền thờ Phật hiện nay đã có đến hàng ngàn ngôi. Hiện nay một số người coi việc thờ cúng không còn là thành tâm nữa, mà họ rất coi trọng việc thờ cúng xa hoa, do đó mà hao tiền tốn của, mất thời gian và mệt mỏi. Do đó từ nay về sau, mong Bệ hạ hãy ban chiếu quy định rằng, mọi công việc như đúc tượng Phật, xây chùa đều phải trình báo và được phép của quan phủ, không được làm một cách tùy tiện”. Sau khi xem bức biểu này, Văn Đế thấy rằng việc xây dựng chùa chiền thờ Phật, đúc tượng Phật, đã hao tốn rất nhiều tiền của và công sức của nhân dân, việc đó là lãng phí vô cùng. Do đó ông đã hạ chiếu chỉnh đốn tăng đoàn, điều đó đã khiến cho hàng trăm tăng ni trong cả nước phải hoàn tục (trở lại làm thường dân). Văn hóa, nghệ thuật Dù cho (và có lẽ ở một mức độ nào đó là do) những cuộc tắm máu này, nhưng trong thời nhà Lưu Tống người ta đã sáng tạo ra nhiều tác phẩm thơ ca (thi 詩) lớn và các thể loại thơ ca khác, đáng chú ý là phú (賦). Hoàng tộc đã hỗ trợ cho nhiều tác phẩm văn thơ, và chính họ cũng viết rất nhiều. Thời gian trị vì của Văn Đế là đặc biệt tích cực cho các hoạt động văn chương, với việc họ Lưu hỗ trợ cho việc sưu tập và biên soạn một tập hợp lớn các giai thoại văn xuôi ngắn. Ba người khổng lồ của thời Nguyên Gia là Bão Chiếu (鮑照; ? - 466), Tạ Linh Vận (謝霊運; 385-422) và Nhan Diên Chi (顏延之; 384-456) là những nhà thơ nổi tiếng nhất của thời Lưu Tống, mỗi người trong số họ đã được cho là những ông tổ của ba xu hướng chính trong văn học sau này. Tạ Linh Vận (385 - 433) - cháu nội Khang Lạc công Tạ Huyền, cũng là một nhân vật tài hoa của gia tộc họ Tạ. Do từ nhỏ được gia đình gửi nuôi ở ngoài nên ông còn có tên là Khách Nhi, thường gọi là Tạ Khách. Ông đọc khắp các sách, văn chương trác việt, sánh ngang với Nhan Diên Chi nhưng thực tế còn hơn cả họ Nhan. Ông được tập phong tước Khang Lạc Công, nên người đời thường gọi là Tạ Khang Lạc. Từ nhỏ Tạ Linh Vận đã được sống trong xa hoa, sung sướng, lấy yến ẩm, du ngoạn làm vui. Khi nhậm chức Thái thú Vĩnh Gia, Tạ Linh Vận thường chỉ thích ngao du sơn thủy, không màng danh lợi, rồi cố xin từ quan, dời đến Cối Kê (nay là Thiệu Hưng - Chiết Giang), dựng nhà giữa chốn kề sông tựa núi, phong cảnh tuyệt trần. Ông là nhà thơ nổi tiếng thời Tấn, Tống, thơ ông phần lớn là thơ sơn thủy, trong đó có nhiều câu thơ nổi tiếng được lưu truyền rộng rãi như: "Trì đường sinh xuân thảo, Viên liễu biến minh cầm, (Bờ ao cỏ xuân mượt, Liễu vườn hóa chim kêu)”… Thơ ông cứ vừa viết xong thì khắp Kinh thành đã tranh nhau truyền chép. Ông còn nổi tiếng về thư pháp. Thơ và chữ của ông được Tống Văn Đế coi là "nhị bảo", và cho vời ông về làm quan ở Kinh sư, ngày đêm hầu cận, đàm đạo. Khoảng niên hiệu Nghĩa Hi nhà Đông Tấn, Tạ Linh Vận cùng với Tạ Hồn và các con cháu Tạ gia là Tạ Chiêm, Tạ Hối, Tạ Diệu, Tạ Hoằng Vi lập thành một nhóm thơ văn, thường cùng nhau tụ tập yến ẩm ngâm vịnh, sử sách gọi là "Ô Y chi du" trở thành văn chương thưởng hội nổi tiếng nhất của con cháu họ Tạ. Thơ văn họ Tạ còn có Tạ Diểu (464 - 499), tự Huyền Huy, thường được người đời gọi là Tiểu Tạ (so với Tạ Linh Vận). Ông từng nhậm chức Thái thú Tuyên Thành nhà Tề (Nam triều) nên còn được gọi là Tạ Tuyên Thành. Từ niên thiếu, ông đã có tài hoa xuất chúng, từng làm các chức văn học, công tào ở phủ Cánh Lăng Vương, là một trong "Cánh Lăng bát hữu", văn chương rất được hâm mộ. Ông và Thẩm Ước sáng lập ra thể thơ Vĩnh Minh, đánh dấu một giai đoạn quan trọng trên con đường phát triển thơ ca Trung Quốc từ "cổ thể" tự do đến "cận thể" có cách luật nghiêm chỉnh, trong đó các sáng tác của ông là nhiều nhất, hiện còn hơn hai trăm bài, đến đời Minh được người sau tập hợp lại thành Tạ Tuyên Thành tập. Ông có rất nhiều câu thơ hay được truyền tụng rộng rãi như: "Dư hà thành tán ỷ, Trừng giang tĩnh như luyện (Những đám ráng chiều sót lại thành những tấm là tản mát,Dòng sông trong vắt phẳng lặng như một dải lụa trắng) và "Thiên tế thức quy chu, Vân trung biện giang thụ" (Bên trời biết con thuyền đã trở về; Trong mây nhận rõ được những cái cây bên sông). Thơ của ông chính là mở đầu cho thơ ngũ ngôn, thất ngôn luật thi đời Đường sau này. Đến thời Đường, Lý Bạch, Đỗ Phủ đều có thơ ca ngợi Tạ Diểu, đánh giá cao thơ ca của ông. Cháu nội Tạ Linh Vận là Tạ Siêu Tông cũng nổi tiếng có văn tài, được vua rất ưa chuộng và từng ca ngợi: "Tạ Siêu Tông sừng lân lông phượng, đúng là Tạ Linh Vận tái thế". Tạ Siêu Tông không những giỏi thơ văn mà còn tiếp nối truyền thống uống rượu của họ Tạ. Ông từng giữ chức Hoàng môn lang thời Tề Cao Đế, nhưng do ông thường uống rượu ngay cả khi làm việc ở công đường nên bị điều đi làm chức Trung quân Tư mã cho Nam Quận vương. Các nhà khoa học và thiên văn học cũng tích cực hoạt động trong thời kỳ tương đối yên bình. Đạo Phật bắt đầu được hiểu rõ hơn và được tu luyện rộng rãi hơn trong thời kỳ này, và một số quan lại, chẳng hạn như Tạ Linh Vận, là các Phật tử. Chiến tranh với Bắc Ngụy Xem chi tiết: Chiến tranh Lưu Tống - Bắc Ngụy Nhà Lưu Tống thành lập bắt đầu thời kỳ lịch sử Nam bắc triều chong mặt nhau. Bắc Ngụy trong khi Lưu Tống mới thành lập đã phát động mấy cuộc tấn công nhưng Lưu Tống cũng nhiều lần xua quân bắc phạt, đôi bên có thắng có thua và ngược lại. Lần thứ nhất Năm 422 nhà Ngụy nhân cơ hội Tống Vũ Đế chết liền cho 10 vạn quân tấn công vào các thành Hứa Xương, Hổ Lao, Đông Dương. Sau hơn 200 ngày giao chiến, kết quả quân Tống thất bại, nhiều quân sĩ bị bắt làm tù binh, chỉ có hơn 200 quân chạy thoát. Bên Ngụy số lượng quân chết vì bệnh dịch cũng lên tới trên 2 vạn. Tháng 1 năm 423, quân Ngụy hạ được thành Kim Dung, Lạc Dương và Lâm Tri. Các thành của Tống chỉ có Đông Dương và Hổ Lao còn cầm cự. Tướng Tống là Đàn Đạo Tế mang quân cứu ứng, thấy Đông Dương yếu hơn và gần hơn nên cứu trước. Quân Ngụy đúng lúc đó bị dịch bệnh nên thấy viện binh phải lui. Đàn Đạo Tế không được cấp nhiều lương nên phải dừng lại không truy kích được. Thành bị phá nặng nên tướng trấn thủ Đông Dương là Trúc Quỳ phải dời tới thành Bất Kỳ. Hổ Lao ở xa, các cánh quân của Đạo Tế ở Hồ Lục, Lưu Túy ở Hạng Thành, Thẩm Thúc Ly ở Cao Kiều nhưng không dám tới cứu vì sợ thế lớn của Bắc Ngụy. Do không được cứu nên tới tháng 4 năm 424, thành bị hạ. Quân Ngụy tuy lấy được thành nhưng tổn thất khá nhiều. Sau lần chiến tranh đó, Lưu Tống bị mất vùng đất từ Hồ Lục, Hạng Thành trở lên phía bắc. Cuộc chiến Tống Ngụy lần thứ nhất kết thúc với kết cục quân Tống mất nhiều đất đai ở phía nam Hoàng Hà. Lần thứ hai Trong thời gian trị vì của Tống Văn đế (423-453) thế nước cường thịnh nên nhà Lưu Tống mở các chiến dịch bắc phạt. Nhân lúc Bắc Ngụy phải đối phó với Nhu Nhiên phía bắc, năm 429, Tống Văn Đế đòi Ngụy trả đất Hà Nam. Bắc Ngụy Thái Vũ Đế không chịu. Năm 430, Tống Văn đế sai Đáo Ngạn Chi mang quân bắc phạt. Tháng 7 quân Tống tới Tu Xương. Quân Ngụy ở 4 thành Cao Ngao, Hoạt Đài, Hổ Lao và Kim Dung ít quân nên chủ động rút lui. Ngạn Chi thu 4 trấn rồi tiến đến bến Linh Xương và chia quân tiến sang Đồng Quan phía tây. Tướng Thôi Hạo của Bắc Ngụy thấy quân Tống mắc sai lầm là chỉ có 5 vạn mà dàn ngang 2000 dặm đông tây, nên lực lượng rất yếu ớt. Tháng 10 cùng năm, Bắc Ngụy ra quân phản công, lấy lại được Lạc Dương và Hổ Lao. Tháng 11, Tống Văn đế lại sai Đàn Đạo Tế đi tiếp ứng. Nhưng quân Đạo Tế chưa tới thì Ngạn Chi bị mất 2 thành đã hoảng sợ, hạ lệnh đốt thuyền, bỏ giáp nặng rút về Bành Thành. Quân Ngụy đuổi theo đến Lịch Thành, thái thú Tế Nam của Tống là Tiêu Thừa Chi chỉ có vài trăm quân nhưng dụng "không thành kế", cho mở toang cổng thành. Quân Ngụy sợ có phục binh không dám vào thành. Tháng 2 năm 431, quân Ngụy giao tranh với Đàn Đạo Tế lên bắc cứu Hoạt Đài. Hai bên đánh nhau 30 trận, đều bị tổn thất nặng. Thúc Tôn Kiến bèn dùng kế đánh úp đường vận lương của quân Tống khiến Đạo Tế bị thiếu lương. Đạo Tế phải rút quân. Quân Ngụy truy kích bắt được Chu Tu Chi. Cuộc bắc phạt của Tống Văn đế thất bại. Lần thứ ba Chiến sự Tống - Ngụy tạm ngừng trong nhiều năm. Năm 450, Thái Vũ đế điều 10 vạn quân vây đánh Huyền Hồ. Tướng thủ thành quân Tống là Trần Hỷ chỉ có 1000 quân chống trả trong 42 ngày, quân Ngụy bị thiệt hại hơn 1 vạn nhưng không hạ được thành. Tuy vậy, các thành xung quanh đều sợ thế Ngụy và bỏ thành rút chạy. Lưu Tống yếu thế hơn, nhưng Tống Văn Đế vẫn muốn ra quân. Để chuẩn bị cho cuộc tấn công lần thứ hai, Lưu Tống Văn Đế cho quân đồn trại và vận chuyển lương thảo đến các khu vực ven biên giới, sai các tướng do Vương Huyền Mô cầm đầu đem quân Bắc phạt. Thẩm Khánh Chi can ngăn: "Giữ việc nước, cũng như lo việc nhà vậỵ Muốn bàn luận về việc cày ruộng thì phải bàn luận với 1 nông phu nhiều kinh nghiệm. Muốn bàn luận về việc canh cửi thì phải bàn luận với người đàn bà dệt vải. Nay Bệ hạ muốn mở chiến tranh với nước khác, mà lại để những người bạch diện thư sinh không một chút kinh nghiệm về quân sự đứng ra bàn luận, thì làm sao mà thành công được." Tống Văn Đế không nghe, quyết tâm bắc phạt. Tháng 7 năm 450, quân Tống xuất phát. Phía đông, Vương Huyền Mô và Thẩm Khánh Chi cầm quân thủy; phía tây, hoàng tử Lưu Đãn cùng Liễu Nguyên Cảnh đánh chiếm Hoằng Nông. Chiến sự phía đông: Tướng Ngụy ở các thành Cao Ngao, Nhạc An đều bỏ thành chạy. Huyền Mô đánh Hoạt Đài, 1 tháng không hạ được. Tháng 9, vua Ngụy đích thân nam tiến cứu Hoạt Đài, xưng là có trăm vạn quân. Vương Huyền Mô bỏ lỡ mấy cơ hội hạ thành, nghe tin đó hoảng sợ, rút quân. Quân Ngụy truy kích giết hơn vạn quân Tống. Tổng chỉ huy Tiêu Bân nghe tin Huyền Mô thua trận, định đi cứu thì Mô đã chạy về đến nơi. Thấy quân Ngụy thế lớn, các tướng Tống phải bàn nhau rút về cố thủ ở Cao Ngao, Thanh Khẩu, Lịch Thành. Sau vì vị trí của Cao Ngao đặc biệt nên quân Tống phải bỏ Cao Ngao. Chiến sự phía tây: Tướng Tống là Liễu Nguyên Cảnh cùng lão tướng Bàng Quý Minh tiến đánh Lư Thị rồi hạ được Hoằng Nông, tiến đánh Đồng Quan và Thiểm châu. Tướng Ngụy là Liên Đề không chống nổi, bị tử trận cùng 3000 quân. 2 vạn quân Ngụy bị bắt, được Nguyên Cảnh cho thả hết. Thiểm Thành bị mất khiến Đồng Quan bị mất theo. Quân Tống uy hiếp phía tây dữ dội. Hào kiệt người Hán ở Quan Trung cũng như người Khương (1 trong Ngũ Hồ) hưởng ứng quy hàng. Cùng lúc đó, tướng Tống là Lưu Khang Tổ cũng hạ được Trương Xã rồi tiến đánh Hổ Lao. Nhưng lúc đó tin bại trận của Vương Huyền Mô phía đông báo về Kiến Khang. Tống Văn đế lại cho rằng cánh này bị thua nặng thì phía tây cũng không nên đơn độc vào sâu đất địch nên hạ lệnh lui quân. Các tướng Tống đành rút về Tương Dương. Phía tây của Bắc Ngụy qua được nguy hiểm. Lần thứ tư Thái Vũ đế thấy quân Tống rút lui bèn khởi đại quân nam tiến. Tướng Ngụy là Thác Bạt Nhân đánh Thọ Dương, hạ Huyền Hồ và Hạng Thành. Tống Văn đế điều Lưu Khang Tổ cứu Thọ Dương. Quân Tống chỉ có 8000, đụng 8 vạn quân Ngụy ở Úy Vũ. Chiếm ưu thế quân số, Thác Bạt Nhân tiêu diệt toàn bộ cánh quân này, giết chết Khang Tổ. Tướng giữ Thọ Dương của Tống là hoàng tử Lưu Thước cố thủ không đánh, quân Ngụy không hạ được. Thái Vũ đế đích thân cầm quân chủ lực đánh Bành Thành. Các hoàng tử Lưu Nghĩa Cung (em Tống Văn đế) và Lưu Tuấn (con Văn đế) cố thủ không ra, quân Ngụy không hạ được. Tháng 12 năm 450, Tống Văn đế sai Tang Chất đi cứu Bành Thành. Chất chỉ có 1 vạn quân, đụng đại quân Ngụy, bị giết gần hết, chỉ còn 800 quân chạy vào Vu Thai. Ngụy Thái Vũ đế cho 1 cánh quân nhỏ vây Vu Thai mà cất đại quân nam tiến tiếp. Rằm tháng chạp, quân Ngụy tới Qua Bộ, ông ra lệnh phá nhà dân làm bè, phao tin quân Ngụy muốn vượt Trường Giang vào Kiến Khang. Kinh thành nhà Tống rơi vào tình trạng khẩn cấp, phải điều động cả con em vương công ra trận. Nhưng đến ngày 2 tháng giêng năm 451, Thái Vũ đế hạ lệnh lui quân, chỉ bắt theo dân Tống mang về. Ngụy Thái Vũ đế quay trở lại Vu Thai, đòi tướng Tống là Tạng Chất dâng rượu. Chất sai mang bình nước tiểu cho vua Ngụy. Thái Vũ đế nổi giận hạ lệnh đánh thành, không tiếc mạng quân sĩ cố đánh cho được. Sau đó vua Ngụy lại gửi thư hăm dọa Tạng Chất. Chất cũng cứng cỏi, gửi thư mắng lại, lại chép giải thưởng của triều đình Lưu Tống vào thư: "Ai chém được Phật Ly (tức là Thái Vũ đế), phong hầu vạn hộ, thưởng 1 vạn tấm vải!" Thác Bạt Đào càng tức giận, thúc quân đánh rát, nhưng hơn 1 tháng quân Ngụy hao tổn nhiều vẫn không hạ được thành. Lúc đó Bành Thành vẫn trong tay quân Tống, Thái Vũ đế sợ quân địch hợp 2 mặt đánh lại nên đành giải vây Vu Thai, rút về bắc. Lúc quân Ngụy rút về qua Bành Thành, hoàng thân Lưu Nghĩa Cung không dám ra đánh. Sau đó vua Tống phát lệnh truy kích tới, quân Ngụy bèn giết hơn 1 vạn dân Tống bắt theo về vì họ đi chậm rồi toàn quân rút mau. Chiến tranh Tống - Ngụy kết thúc năm 451. Cả hai bên đều bị thiệt hại nặng nề. Hậu quả với Lưu Tống Sau trận chiến này sức mạnh của quân Tống suy giảm hẳn, tuy nhiên Bắc Ngụy cũng tổn thất quá nửa binh lực. Từ đó hai bên giữ chặt biên giới dọc theo sông Trường Giang. Ghi lại cuộc chiến này trong Tư trị thông giám, sử gia Tư Mã Quang viết: "Quân đội nước Ngụy đã tàn phá các châu Nam Duyện, Từ, Bắc Duyện, Dự, Thanh, Tế. Quân Tống chết và bị thương vô số. Khi quân Ngụy bắt được tù binh, họ nhanh chóng xử tử luôn. Số trẻ em bị đâm ngang người bằng giáo, tai bị cắt xỏ thành từng dây để làm trò giải trí. Những vùng quân Ngụy đi qua bị đốt phá tan hoang đến nỗi cỏ cũng không mọc được. Đến mùa xuân khi chim sẻ quay trở lại, chúng không tìm được chỗ nào để xây tổ và phải bay vào rừng." Nhận định về thất bại quân sự của Tống Văn Đế, Tư Mã Quang viết: "Mỗi lần hoàng đế Văn đế cử tướng lĩnh cầm quân, các tướng lĩnh phải tuân theo kế hoạch của hoàng đế, thậm chí ngày mở chiến dịch cũng phải xin hoàng đế phê chuẩn, và họ chẳng được tự quyết định việc gì cả. Hơn nữa các đội quân dự bị không được huấn luyện kỹ càng, chẳng có kỷ luật, quân lính tiến bừa lên khi thắng trận và chạy tán loạn khi thất bại. Đó là hai lý do khiến Văn đế thất bại, nhà nước suy thoái, kỷ nguyên Nguyên gia kết thúc." Một sử gia khác Thẩm Ước đã cho rằng Văn đế xây dựng quân đội theo cách thức của Quang Vũ đế thời Đông Hán, nhưng Văn đế khác Quang Vũ đế ở chỗ thiếu năng lực lãnh đạo quân sự và đích thân soạn thảo các kế hoạch quân sự. Năm 452, sau khi nhận được tin Thái Vũ đế nhà Bắc Ngụy bị quyền thần Tông Ái giết, Văn đế lại chuẩn bị đánh miền bắc, giao cho tướng Tiêu Hi Hoa cầm quân. Nhưng sau khi cánh quân do Trương Dung chỉ huy bị thất bại tại Kiều Áo, Văn đế từ bỏ chiến dịch. Chinh phạt nước Lâm Ấp Năm 436, Tống Văn Đế sai Thứ sử Giao Châu Đàn Hòa Chi và Tông Xác (người quận Nam Dương) cùng Túc Canh Hiến làm phó tướng đem binh sang đánh Lâm Ấp. Vua Lâm Ấp là Phạm Dương Mại đem quân ra chống cự. Đàn Hòa Chi và Tông Xác tiến quân chém được tướng, phá được thành, quân Lâm Ấp tan vỡ, Phạm Dương Mại cùng với con chạy thoát được. Đàn Hòa Chi vào đất Lâm Ấp lấy được vàng bạc châu báu rất nhiều rồi rút về. Tàn sát trong nội tộc Nhà Lưu Tống sau thời hưng thịnh đã rơi vào tình trạng bất ổn và cuối cùng bị tiêu vong. Một loạt các hoàng đế thiếu năng lực hoặc là các bạo chúa, điều đó đã dẫn tới nhiều cuộc nổi dậy quân sự. Trong số các vị hoàng đế đó có thể kể tới Lưu Thiệu, Tống Hiếu Vũ Đế, Tống Tiền Phế Đế, Tống Minh Đế và Tống Hậu Phế Đế. Vua Minh Đế là đặc biệt tàn bạo, đã giết hại một lượng lớn những người anh em, cháu chắt và các họ hàng gần xa khác - nhiều trong số đó chỉ là trẻ em. Tống Minh Đế đã giết 4 người em trai, 16 người con trai của Hiếu Vũ Đế. Sự thanh trừng tàn khốc diễn ra dưới các đời vua kế tiếp. Lưu Thiệu giết Tống Văn đế Tống Văn Đế có 19 người con, lập con trưởng Lưu Thiệu làm Thái tử. Lưu Thiệu thân thiết với người em là Hoàng tử thứ 4 Lưu Tuấn và cả hai người đều tin theo bà đồng Nghiêm Đạo Dục. Nghe theo bà đồng, Lưu Thiệu làm phép bùa yểm để cha mau chết. Năm 452, việc làm của thái tử Thiệu bị phát giác. Tuy nhiên Văn Đế chỉ mắng hai người con và sai truy tìm bà đồng. Sang tháng giêng năm 453, vẫn có tin tâu báo Nghiêm Đạo Dục còn trong phủ Lưu Thiệu. Văn Đế giận dữ, biết hai người không hối cải, bèn quyết định phế Thái tử Thiệu và hoàng tử Tuấn. Văn đế mật họp các đại thần Từ Trạm Chi, Giang Trạm, Vương Tăng Xước lại bàn nhưng không quyết đoán lập ai làm thái tử. Vì Từ và Giang đều là quốc thích (có người nhà lấy người hoàng tộc) và đều có ý riêng; Vương Tăng Xước biết hoàn cảnh như vậy, khuyên Văn Đế gấp rút thay Thái tử nhưng thấy vua chần chừ thì sợ việc đổi thái tử không thành mà dễ lộ ra (vì 2 người bàn cùng đều thân hoàng tộc) sẽ bị liên lụy, nên ngầm sai người tiết lộ với Phan Thục phi là mẹ hoàng tử Tuấn. Tuấn vội báo cho Thiệu việc hoán ngôi thái tử. Thái tử Thiệu sợ hãi, cấp tốc làm binh biến. Rạng sáng 21 tháng 2 năm 453, Thiệu tập hợp 2000 quân dưới quyền tiến vào Đài Thành, dùng chiếu thư giả lừa quân canh cửa mở cửa thành xông vào. Thủ hạ của Thiệu là Trương Siêu Chi sấn vào cung cấm. Tống Văn Đế trong cơn khủng hoảng bèn lấy bàn làm vật đỡ, liền bị chặt đứt cả bàn tay, sau đó bị giết. Từ Trạm Chi và Giang Trạm ngồi họp cùng Văn Đế đến sáng chưa kịp về, cũng bị giết. Lưu Thiệu tự lập làm hoàng đế, tuy nhiên về sau chính sử Trung Quốc đều gọi niên hiệu của Lưu Thiệu là Nguyên Hung, có nghĩa là giết vua. Ban đầu không biết Vương Tăng Xước giục Văn Đế sớm quyết việc thay thái tử nên Thiệu phong Xước làm Thượng thư Bộ Lại, nhưng sau phát giác bèn giết nốt Xước. Hiếu Vũ đế Một người con khác của Văn Đế cũng mang tên Lưu Tuấn là Vũ Lăng Vương Lưu Tuấn đang cùng Thẩm Khánh Chi đi dẹp quân khởi nghĩa, biết tin chính biến, bèn mang quân về hỏi tội Thiệu. Tháng 3 năm 453, Lưu Thiệu cho rằng Thẩm Khánh Chi theo mình nên viết thư dụ. Không ngờ Khánh Chi mang thư của Thiệu vào báo với Vũ Lăng Vương Lưu Tuấn và đề nghị gấp rút tiến quân. Được tin Vũ Lăng Vương dấy binh, các trấn đều hưởng ứng. Tháng 4 năm 453, Vũ Lăng Vương Tuấn tự lập làm Hoàng đế, tức Hiếu Vũ Đế. Tháng 5 năm đó quân Hiếu Vũ Đế hạ Đài Thành, giết chết Lưu Thiệu. Tứ Hoàng tử Lưu Tuấn (người đồng mưu giết Văn Đế) chạy trốn cũng bị giết nốt. Hiếu Vũ Đế vào cung, giết chết hết gia quyến Lưu Thiệu và Hoàng tử Lưu Tuấn. Không lâu sau, Hiếu Vũ Đế lại sai người đầu độc giết một người em là Nam Bình vương Lưu Thước vì đã được Lưu Thiệu tin tưởng. Năm 454, chú Hiếu Vũ đế là Thứ sử Kinh Châu - Nam Quận vương Lưu Nghĩa Tuyên nghe theo lời Thứ sử Ung Châu Tạng Chất, bèn dấy binh tranh ngôi. Thanh thế Nghĩa Tuyên rất lớn. Hiếu Vũ Đế sợ hãi, toan đầu hàng để nhường lại ngôi, nhưng em là Tùy vương Lưu Đãn cương quyết phản đối, bèn sai Vương Huyền Mô, Thẩm Khánh Chi mang quân đi dẹp. Hai cánh quân Triều đình nhanh chóng đánh bại và giết chết Nghĩa Tuyên và Tang Chất. Hiếu Vũ Đế sai xử tử 16 người con Nghĩa Tuyên cùng tướng giữ Vu Thai là Thẩm Phác vì đã từng phục tùng Lưu Thiệu. Tùy vương Lưu Đãn được đổi vương tước Cánh Lăng vương. Năm 455, một người em khác của Hiếu Vũ đế là Vũ Xương vương Lưu Hồn mới 17 tuổi tự lập làm Sở Vương, đặt niên hiệu và trăm quan. Lưu Hồn vốn là người ham chơi và hay giết người. Thủ hạ của Hồn tố giác, Hiếu Vũ Đế điều quân trấn áp, phế làm thứ dân và giết chết. Năm 459, Cánh Lăng vương Lưu Đãn từng giúp Hiếu Vũ Đế dẹp Nghĩa Tuyên, thấy anh mình nhu nhược, cũng định cướp ngôi. Đãn trấn thủ Quảng Lăng, ngầm chiêu binh làm phản. Việc bị phát giác, Hiếu Vũ Đế sai Thẩm Khánh Chi đi đánh. Đãn cố thủ trong thành, sau bị Khánh Chi phá thành giết chết. Hiếu Vũ Đế giận dân Quảng Lăng chống cự lâu ngày nên khi hạ được thành bèn ra lệnh tàn sát cả thành. Thẩm Khánh Chi phải đứng ra xin cho những người cao không đầy 5 thước được miễn chết nên dân Quảng Lăng mới được sống sốt một số. Phụ nữ trong thành được mang thưởng cho quân sĩ. Sau đó Hiếu Vũ Đế còn ra lệnh chất đầu người chết ở phía nam thành. Hiếu Vũ Đế ghét Thứ sử Dương châu là Ngạn Thoan, bèn vu cho tội câu kết với Lưu Đãn, bức phải tự sát rồi đầy cả nhà xuống Giao Châu, giữa đường giết hết nam giới trong đoàn đi đày. Năm 461, một người em khác là Thứ sử Ung châu - Hải Lăng vương Lưu Hưu Mậu mới 17 tuổi cũng làm phản nhưng bị Tham quân Doãn Huyền Khánh nhanh chóng dẹp được và giết chết. Nhằm phòng ngừa các thế lực quân sự địa phương, Hiếu Vũ Đế phân chia lại địa giới một số châu nhất là các châu Kinh, Dương, Giang. Đông Dương Châu tách ra từ Dương Châu, Hình Châu thành lập từ địa phận Giang Châu và Kinh Châu. Tại các châu, giữa Thứ sử và triều đình có chức quan Điển thiên, nhằm làm tai mắt cho Nhà vua giám sát châu quận, có vai trò ngày càng lớn. Tiền Phế Đế Hiếu Vũ Đế chết năm 464 lúc mới 35 tuổi. Con trưởng của ông là Lưu Tử Nghiệp (449 – 465) tức vị Hoàng đế. Tử Nghiệp mới lên 16 tuổi đã hoang chơi tàn phá, như lời chiếu lên ngôi của Tống Minh Đế mô tả: "Tử Nghiệp hung ác điêu ngoa, chống lại tính trời, mặt người lòng thú, lúc mới 8 tuổi mà đã phản đạo bại đức, từ những năm này, xâm vũ ngũ thường, bỏ trệ tam chính". Việc đầu tiên Lưu Tử Nghiệp làm khi cai trị là giết 3 trọng thần Hoàng thúc Giang Hạ vương Lưu Nghĩa Cung, Thượng thư Liễu Nguyên Cảnh, Thượng thư Tả bộc xạ Nhan Sư Bá. Lưu Nghĩa Cung mưu cùng Nhan Sư Bá và Liễu Nguyên Cảnh lật đổ Tử Nghiệp. Nghĩa Cung muốn lôi kéo Thẩm Khánh Chi, nhưng Nguyên Cảnh lại khinh Khánh Chi vũ phu, không nên dùng. Khánh Chi biết chuyện, nổi giận, bèn phát giác việc mưu phản. Tiền Phế Đế nhanh chóng điều cấm quân bắt được 3 người. Sau đó Tiền Phế Đế đích thân đến hành hình Nghĩa Cung, sai chặt hết chân tay, móc mắt ngâm mật rồi mới phanh bụng. Cả nhà Nghĩa Cung cùng họ Liễu, họ Nhan bị xử tử. Việc mưu phản của Lưu Nghĩa Cung khiến Tử Nghiệp lo lắng những người trong hoàng tộc sẽ đe dọa đến ngôi báu. Vì thế Tử Nghiệp quyết định chuyển toàn bộ tông thất vào ở trong cung. Chẳng cần lý do gì Tử Nghiệp cũng ra lệnh đánh đập những người họ hàng của mình. Thậm chí, có lúc cao hứng còn liền biến các vương gia thành những chiếc giẻ lau, buộc dây thừng vào rồi kéo trên nền đất. Thẩm Khánh Chi tuy có công dẹp loạn nhiều lần, nhưng vì can thẳng Lưu Tử Nghiệp không nên làm điều ác nên cũng bị Tử Nghiệp sai người giết chết (năm 465). Tử Nghiệp ghét em là Tử Loan mới lên 10 tuổi, vì Loan được cha yêu, nên hạ lệnh giết Loan. Các em cùng mẹ của Loan còn rất nhỏ cũng bị giết cùng. Chú Tiền Phế Đế là Nghi Dương vương Lưu Sưởng làm Thứ sử Từ Châu lo lắng cho tính mạng của mình, vì thủ hạ ở Bành Thành lại không đồng lòng, bèn trốn sang hàng Bắc Ngụy. Những người chú khác có chút tài năng cũng bị Tử Nghiệp ngược đãi: Tương Đông vương Lưu Úc bị đổi thành Trư vương (Vương lợn), Kiến An vương Lưu Hưu Nhân bị đổi thành Tử vương (Vương chết), Sơn Dương vương Lưu Hưu Hựu bị đổi thành Tặc vương (Vương giặc), Đông Hải vương Lưu Huy bị đổi thành Lư vương (Vương lừa); tất cả bị nhốt vào lồng tre. Tử Nghiệp là người hoang dâm, trụy lạc và bệnh hoạn, từng thông dâm với chị là Công chúa Sơn Âm Lưu Sở Ngọc, tuy xinh đẹp nhưng cũng dâm loạn vô độ. Khi người anh rể biết chuyện, tìm cách giết người em lẫn cô vợ, Lưu Tử Nghiệp liền hợp mưu với Sở Ngọc giết hại luôn người anh rể của mình. Sở Ngọc còn đòi Tử Nghiệp cấp cho hơn 30 người đàn ông tuấn tú khỏe mạnh để luân phiên hành lạc. Sau đó Tử Nghiệp lại lấy một người cô ruột là công chúa Tân Thái (con gái Văn Đế, em Hiếu Vũ Đế) đã được gả cho tướng Hà Mại, mang vào cung và đổi gọi là Tạ Phi. Hà Mại biết chuyện, muốn dấy binh làm phản để lập Tấn An vương Lưu Tử Huân mới lên 10 tuổi làm vua nhưng bị lộ nên bị giết chết. Tương truyền, Tử Nghiệp còn mắc chứng thị dâm, ra lệnh bắt các vương phi, công chúa ra đứng đầy sân rồi cho đám nô bộc ra hành dâm với họ, còn vua đứng xem để lấy hứng. Tử Nghiệp còn bắt các cung nữ khỏa thân chạy khắp sân để xem, rồi giết khi cô gái đã kiệt sức. Lưu Tử Nghiệp tàn bạo và dâm loạn nên hay nằm mơ. Một lần, nằm mơ thấy có cung nữ muốn giết mình. Sáng hôm sau hỏi một bà đồng, bà đồng này nói rằng trong hoàng cung có "quỷ". Lưu Tử Nghiệp nghe vậy vô cùng sợ hãi nên sau đó thường hay cầm cung tên đi khắp nơi trong cung để bắn "quỷ". Trong khi những biến cố này xảy ra ở Kiến Khang, một cuộc vận động đang thành hình chung quanh Tân An Vương Lưu Tử Huân, người con thứ ba của Hiếu Vũ Đế, nhằm phế Lưu Tử Nghiệp và lập Huân làm Hoàng đế tại Tầm Dương dưới sự lãnh đạo của Đặng Uyển. Nhưng trước khi Huân hành động, Lưu Tử Nghiệp đã bị giết và Lưu Úc lên ngôi. Lưu Úc phong cho Huân làm Xa kỵ tướng quân. Năm 466 xảy ra vụ khởi hấn Nghĩa Gia giành ngôi giữa Lưu Tử Huân và Lưu Úc. Lưu Tử Huân đã lên ngôi đặt niên hiệu Nghĩa Gia sau khi nhận được lời hứa ủng hộ của phần lớn các châu quận, nhưng quân Đặng Uyển thất bại, Lưu Tử Huân bị tướng Thẩm Du Chi giết lúc mới 11 tuổi. Khi Giang Châu mới khởi binh thì trong cung đã có biến. Thủ hạ của Trư vương Lưu Úc đang bị giam là Nguyên Tế Phu đồng mưu với người coi việc ăn mặc của vua là Thọ Thúc Chi, nhân lúc Tiền Phế Đế đang đi khắp nơi trong cung để "bắn quỷ", bèn xông vào cung giết chết. Lưu Úc được cứu thoát ra ngoài, lên ngôi Hoàng đế, tức Lưu Tống Minh Đế. Minh Đế Tháng 12 năm 465, Minh Đế lên ngôi, phong Tấn An vương Lưu Tử Huân làm Xa Kỵ tướng quân, nhưng thủ hạ của Tử Huân là Đặng Uyển không chịu thu binh. Các hoàng tử như Lưu Tử Phòng ở Cối Kê, Lưu Tử Húc ở Kinh châu hưởng ứng. Ngoài ra còn các trấn Thanh châu, Từ châu, Ký châu cũng ủng hộ. Tuy nhiên, lực lượng của Tử Huân nhanh chóng bị dẹp. Tháng 3 năm 466, Ngô Hỷ dẹp được Cối Kê và Ngô Quận. Tháng 8, tướng Thẩm Du Chi tiến vào Tầm Dương, giết chết Tử Huân. Thủ hạ của Tử Huân là Đặng Uyển bị bộ tướng giết. Năm 471, Minh Đế ốm nặng. Thấy Thái tử nhỏ tuổi, sợ bị bị các em cướp ngôi, bèn giết chết các em là Hưu Hựu, Hưu Nhân (Tặc vương và Tử vương thời Tiền Phế Đế), Thứ sử Kinh châu là Bá Lăng Vương Hưu Nhược. Riêng Thứ sử Giang châu là Quế Dương vương Lưu Hưu Phạm vì dốt nát nên được tha chết. Tướng Ngô Hỷ cũng bị bức tử, tội trạng được ghi trong chiếu là: "Quá được lòng người, há có thể thờ vị chúa giữ văn". Đầu năm 472, Minh Đế sắp mất, sợ anh hoàng hậu là tướng quân Vương Cảnh Văn sẽ chuyên quyền, bèn triệu đến bắt uống thuốc độc chết trước. Diệt vong Tháng 4 năm 472, Minh Đế chết, con là Lưu Dục mới 10 tuổi lên ngôi, tức Hậu Phế Đế. Biến loạn trong nội tộc nhà Lưu Tống vẫn không dứt. Năm 474, chú Hậu Phế Đế là Thứ sử Giang Châu - Quế Dương Vương Lưu Hưu Phạm (em Minh Đế) vốn tài năng kém cỏi nên được Minh Đế tha chết, tức giận vì không được làm quan nhiếp chính nên nổi loạn tiến quân về Kiến Khang. Tại Kiến Khang, người nắm quyền quân sự là Tây Dương hầu Tiêu Đạo Thành (427 - 482), nguyên Thứ sử Nam Duyện Châu, dòng dõi Tể tướng Tiêu Hà nhà Tây Hán. Tiêu Đạo Thành đã tham gia trấn áp cuộc nổi dậy của Thái thú Cối Kê, Tầm Dương vương Lưu Tử Phương. Tiêu Đạo Thành phái các tướng Hoàng Hồi và Trương Kính Nhi trá hàng Lưu Hưu Phạm và thừa cơ giết chết Lưu Hưu Phạm, lực lượng của Lưu Hưu Phạm tan rã. Năm 476, cháu nội Văn Đế là Thứ sử Nam Từ Châu, Kiến Bình vương Lưu Cảnh Tố lại làm phản nhưng cũng nhanh chóng bị dẹp. Hai người em họ Cảnh Tố, con trai Lưu Hưu Nhân (Tặc Vương) là Lưu Bá Hiến và Lưu Bá Dung, vì lớn tuổi nhất trong các anh em họ của vua, nên cũng bị nghi là đồng mưu và bị giết. Hậu Phế Đế hiếu sát, thích đeo đoản đao bên người, thích đi đêm hễ gặp chó, lừa, ngựa là giết. Thái hậu can ngăn, Lưu Dục bèn sai quan Thái y nấu thuốc độc định giết mẹ, vì có người can ngăn nên mới thôi. Tháng 6 năm 477, Lưu Dục vào trong trại quân, thấy Tiêu Đạo Thành cởi trần nằm ngủ, bèn vẽ vòng tròn lên bụng Đạo Thành làm bia, định lấy cung bắn vào bụng Đạo Thành. Vương Đạo Ân muốn cứu Đạo Thành, bèn can rằng nếu bắn chết ngay thì không bắn được nhiều lần, nên dùng cung cùn (tên bẻ đầu) mà bắn cho lâu. Hậu Phế Đế nghe theo, nên Đạo Thành thoát chết. Tiêu Đạo Thành căm ghét Lưu Dục, bèn mưu cùng người hầu của Dục là Dương Ngọc Phu làm binh biến. Tháng 7 năm 477, Ngọc Phu nhân lúc Dục ngủ say bèn đâm chết. Tiêu Đạo Thành lập em Dục là An Thành Vương Lưu Chuẩn mới lên 9 tuổi lên ngôi, tức Lưu Tống Thuận Đế. Tống Thuận Đế phong cho Tiêu Đạo Thành tước Tề Công, sau đó là Tề Vương, gia phong Cửu tích. Được 2 năm sau (479), Tiêu Đạo Thành phế Lưu Chuẩn tự làm vua, lập ra nhà Tề, tức là nhà Nam Tề thời Nam Bắc triều. Nhà Lưu Tống diệt vong, tồn tại được 59 năm, tổng cộng có 8 vua (có 9 vua nếu tính cả Lưu Thiệu chỉ làm vua được thời gian ngắn rồi bị giết). Cũng giống như triều đại cùng thời là Bắc Ngụy, nhà Lưu Tống chính là một trong các triều đại Trung Quốc xảy ra nhiều biến động và đau thương nhất trong cung đình: Triều đại này có tới 7/9 ông vua yểu mệnh (qua đời khi chưa đầy 35 tuổi) và nhiều người bị sát hại (6/9 vua). Trung bình mỗi vua chỉ cai trị được 6 năm rưỡi. Điều đáng chú ý là triều Lưu Tống có 1 vị vua bị chính con ruột sát hại (Lưu Tống Văn Đế bị giết bởi thái tử Lưu Thiệu). Triều Lưu Tống có tiếng xấu là loạn luân, đã xảy ra 1 vụ kết hôn loạn luân và bị nghi là đã xảy ra 3 vụ loạn luân khác: Lưu Tống Hiếu Vũ Đế bị nghi loạn luân với mẹ ruột là thái hậu Lộ Huệ Nam rồi sau đó lại bị nghi là đã loạn luân với tất cả những người con gái của người chú Lưu Nghĩa Tuyên (tức loạn luân giữa anh em họ), Lưu Tống Tiền Phế Đế bị nghi loạn luân với chị gái ruột là công chúa Lưu Sở Ngọc và sau đó kết hôn loạn luân với cô ruột là công chúa Lưu Anh Mị (劉英媚). Lưu Tống Hiếu Vũ Đế lại cũng chính là cha của Lưu Tống Tiền Phế Đế, để lại ô danh "2 cha con đều dâm loạn, hành vi không bằng súc sinh". Các hoàng đế Thế phả nhà Tống Các danh tướng nhà Lưu Tống Đàn Đạo Tế Vương Huyền Mô Tạng Chất Thẩm Khánh Chi Thẩm Du Chi
Độc tọa là một trong những tâm thế mà Đạo nhân và Thiền sư trong Đường thi thường dùng để biểu hiện sự tương thông, tương cảm giữa Thiên-Địa-Nhân. Trích Tiên Lý Bạch sáng tác bài này trong thời kỳ mà tên tuổi của ông đã vang danh khắp thiên hạ. Một bài ngũ ngôn tứ tuyệt bốn câu tập trung miêu tả cái thần ở thế độc toạ, vừa thể hiện chỗ hòa diệu như nước với sữa trong hai tư tưởng truyền thống Đạo giáo và tư tưởng đạo Phật.
Trong thần thoại Bắc Âu, Yggdrasil (còn được gọi là Mímameiðr hay Lérað) là "Cây thế giới", một cây thần khổng lồ nối liền chín thế giới trong vũ trụ. Asgard, Álfheim và Vanaheim nằm trên cành của cây tần bì này. Thân của Yggdrasil xuyên qua tâm Midgard. Xung quanh Midgard là Jötunheim và phía dưới là Nidavellir và Svartálfaheim. Ba cái rễ của Yggdrasil đâm xuống Helheim, Niflheim và Muspelheim. Thần thoại về kiến tạo thế giới Trong thần thoại Bắc Âu tồn tại một cái vực thẳm (tương tự như Chaos trong thần thoại Hy Lạp) vô hạn được gọi là Ginnungagap. Ginnungagap tồn tại giữa hai khu vực trái ngược nhau, ở phương Bắc thì lạnh lẽo bao phủ có tên gọi là Niflheim hay vùng đất băng giá. Từ Niffheim có một cái giếng được gọi là Hvergelmir từ đó chảy ra 11 dòng sông là Svöl, Gunnthrá, Fjörn, Fimbulthul, Slid, Hrid, Sylgr, Ylgr, Vid, Leiptr và Gjoll (dòng sông chảy gần nhất với Hel và có cây cầu Gjallarbru bắc qua), các con sông ấy được gọi chung là Élivágar (sông băng). Còn ở phương Nam lại là vùng lúc nào cũng rực lửa gọi là Muspellsheim hay là vùng đất tiêu điều được cai trị bởi tộc người khổng lồ Surtr. Khi ngọn lửa của Múspellsheim làm tan chảy băng giá của Niflheim, dòng băng tan ấy chảy vào Ginnunga-gap hòa vào Élivágar tạo nên sinh vật đầu tiên của vũ trụ: người khổng lồ Ymir hay Aurgelmir. Từ mồ hôi dưới nách của Ymir lại sản sinh ra đôi nam nữ khổng lồ và từ đó sinh ra loài khổng lồ băng giá. Sương muối tiếp tục tan chảy tạo nên con bò khổng lồ Audhumla. Ymir uống sữa bò để tồn tại và phát triển nòi giống. Audhumla tiếp tục ăn bằng cách liếm tảng băng muối. Một hôm, khi con bò Auðhumla đang liếm băng thì lộ ra mái tóc, ngày thứ hai lộ ra cái đầu còn ngày thứ ba sinh ra toàn vẹn cơ thể. Từ đó lại sản sinh ra thần Búri. Búri sinh ra người con trai tên là Borr. Borr kết hôn cùng với Bestla - con gái người khổng lồ Bolthorn và sinh ra ba người con là Odin, Vili và Ve. Càng ngày Ymir càng to lớn và độc ác nên ba anh em Odin, Vili và Ve quyết định giết Ymir. Dòng máu chảy ra từ Ymir nhấn chìm bọn khồng lồ chỉ trừ vợ chồng Bergelmir thoát nạn nhờ con thuyền. Con cháu của Bergelmir ngày càng thù ghét các vị thần Aesir. Người khổng lồ hay người Jotuns hay được biết dưới cái tên gọi: Thursar, Hrímthursar, Risar, Bergrisar hay Troll đều là những kẻ độc ác. Từ xác của Ymir mọc ra cây tần bì Yggdrasill và các vị thần bắt đầu xây dựng thế giới: máu của Ymir tạo thành biển và hồ, sọ tạo thành vòm trời (được bốn người lùn Nordri, Sudri, Austri và Vestri chống giữ ở bốn phương), óc trở thành mây, xương tạo thành núi, những con giòi trong cái xác chết tạo thành người lùn (kẻ chuyên sống dưới mặt đất có quan hệ mật thiết với người khổng lồ). Thần Odin bắt đứa con trai của Bergelmir biến nó thành một con đại bàng và đặt nó tại nơi tận cùng của biển cả. Đôi cánh vỗ của con đại bàng này tạo ra gió và các con sóng biển. Sau khi tạo xong cảnh quan thì ba vị thần tạo ra con người đầu tiên từ những cây gỗ trên bãi biển: người nam Askr (từ cây thân bì) và người nữ Embla (từ thân cây du). Odin ban cho loài người cho linh hồn và trí thông minh, Vili cho cảm xúc, còn Ve cho giác quan và ngoại hình. Loài người sống ở vùng đất giữa đại nguyên mênh mông gọi là Midgard (trung địa). Tộc Jotuns thường xuyên quấy phá con người nên các vị thần dựng những ngọn núi khổng lồ từ lông mày của Ymir để ngăn cách giống khổng lồ với loài người. Không dừng tại đó, ba người con của Borr còn tạo ra mặt trời, mặt trăng và các vì sao từ tia lửa của Múspellsheimr. Họ đặt mặt trời và mặt trăng lên hai cỗ xe riêng biệt. Cỗ xe mặt trời được hai con ngựa là Avrak và Alvsin kéo, phía trước mặt trời là tấm khiên Svalin (có nghĩa là khiên làm mát). Những đứa con của Mundifari đã đặt tên cho con gái là Sól (Sun) và con trai là Máni (Moon). Để trừng phạt sự bất kính ấy các Æsir đã bắt Sól lái cỗ xe mặt trời còn Máni cưỡi cỗ xe mặt trăng. Một hôm Máni bắt được hai đứa trẻ mặt đất đang trên đường mang nước giếng Byrgir trở về cùng với bình đất nung và cây sào của chúng. Tên của chúng là Bil và Hjuki, con của Vidfinn. Kể từ đó chúng luôn đi theo Máni trên suốt chuyến xe của chàng. Một mụ khổng lồ đã sinh ra một bầy ma sói trong đó có hai con tên là Skoll và Hati không ngừng truy đuổi anh em Sól và Máni hòng ăn thịt họ. Bởi thế anh em luôn hối hả trên bầu trời. Khi con sói đến gần mặt trăng thì nó gây nên hiện tượng nguyệt thực (tương tự như gấu ăn trăng). Chín thế giới trong thần thoại Bắc Âu. Ở trung tâm vũ trụ là cây tần bì Yggdrasil có các rễ nối liền chín thế giới lại với nhau. Một rễ nối tới Múspellsheim, một rễ nối tới Niflheim, một rễ nối tới Vanaheimr (vùng đất của các vị thần Vanir), một rễ nối tới Ásgard (vùng đất của các vị thần Æsir). Ngoài ra còn có các thế giới Áflheim (vùng đất của yêu tinh ánh sáng), Svartálfaheimr (vùng đất của yêu tinh bóng tối), Nidavellir (thế giới của người lùn), Jotunheim (vùng đất của người khổng lồ), Helheim (vùng đất của người chết). Giữa Asgard và Midgard được nối bởi cây cầu vồng lửa Bifröst. Múspellsheim Múspellsheim là một trong chín thế giới của Yggdrasil, nơi đây lúc nào cũng rực lửa, nóng bức. Nơi đây là nơi trú ngụ của loài khổng lồ lửa được cầm đầu bởi tên Surtur. Vùng đất này nằm ở phía Nam ở tầng thứ hai đối lập với vùng đất Niflheim. Khi Ragnarok đến, Surtur làm gãy cây cầu Biforst và dùng lửa thiêu cháy thế giới. Tên Surtur giết chết thần Freyr nhưng lại bị tiêu diệt dưới tay thần Thor. Màu sắc biểu tượng cho Múspellsheim là màu đỏ. Niflheim Niflheim là một trong chín thế giới, được biết đến với tên là vùng đất băng giá. Khi Hel sinh ra, Odin đã trục xuất nữ thần xuống vùng đất này để cai quản người chết vì tuổi già và bệnh tật. Helheimr có thể nằm trong Niflheim. Trong Gryfaginning, Odin cho biết ở vùng đất này có cái giếng (suối) Hvergelmir nơi bắt đầu của các sông băng Élivágar. Sông Gjöll chảy gần Helheimr nhất có cây cầu Gjallarbrú bắc qua. Élivágar là khởi nguồn nước trên thế giới. Một trong ba rễ cây Yggdrasil đã vươn xuống giếng Hvergelmir để lấy nước. Bên cạnh giếng Hvergelmir có rất nhiều rắn, và đây chính là nơi sinh sống của con rồng Niðhöggr, nơi Niðhöggr sống và gặm xác chết được gọi là Nastrond (bờ xác chết). Vanaheim Vanaheim là một trong ba thế giới trên thiên đường, trong tiếng Bắc Âu cổ là "vùng đất của các vị thần Vanir". Vanir còn được gọi là Vindheimr (vùng đất của gió). Đây là nơi trú ngụ của các vị thần Vanir - thần bảo trợ cho sự phì nhiêu, giàu có, trí tuệ và tài tiên tri. Nơi này yên bình và sung túc. Thần Njörðr sẽ trở về sau Ragnarök bắt đầu. Vanaheim tượng trưng cho thế giới của nước với biểu tượng là những cơn gió nhẹ mang lại sự sống từ phía Tây. Các thần Vanaheim còn được gọi là thần chết, do đó Vanaheimr - thủy giới nằm ở phái Tây có thể được liên tưởng tới chuyến viễn du cuối cùng. Màu sắc biểu tượng cho vùng đất này là xanh lục, xanh lam sẫm, nâu và vàng bóng pha sắc đỏ. Chương I của Yngling Saga có nhắc đến Vananheimr nằm ở phía Đông sông Don nước Nga. Chương XV của cuốn sách này còn nhắc đến việc nhà vua Sveigðir đã kết hôn với người phụ nữ ở Vanaland, và họ có người con trai là Vanalandi (người từ vùng đất của Vanir). Asgard Xem thêm: Asgard. Helheim Xem thêm: Helheim Svartálfaheimr Nidavellir Xem thêm: Nidavellir Álfheim Jotunheim Nguồn gốc tên gọi Giả thuyết được chấp nhận rộng rãi nhất là Yggdrasil là từ ghép của ygg (khủng khiếp) và drasil (ngựa). Yggr là một trong các biệt danh của Odin nên nghĩa của Yggdrasil được cho là "con ngựa của Odin", ám chỉ chín ngày Odin tự treo mình lên cây này để đổi lấy chữ rune. Thơ ca cổ Bắc Âu đôi khi gọi giá treo cổ là "con ngựa của kẻ chết treo". Một giả thuyết khác cho rằng Yggdrasil có nghĩa là "con ngựa khủng khiếp", tức là không liên quan gì tới Odin. Fjolsvinnsmál, một bài thơ trong Edda bằng thơ gọi cây thế giới là Mimameidr (cây của Mimir). Yggdrasil có thể coi là đồng nhất với Lérað, cái cây có cành lá vươn tận Valhalla và là nguồn thức ăn cho con dê Heiðrún và con hươu Eikþyrnir. Yggdrasil trong sử thi Edda Trong Edda, Yggdrasil được miêu tả là có ba rễ: một qua Asgard, một qua Jötunheim và một qua Hel. Phía dưới rễ qua Asgard là giếng nước Urd (Urðabrunnr - còn gọi là "Giếng số phận"). Ở đó có ba nữ thần số mệnh (còn gọi là các Norn), những người không chịu ảnh hưởng của bất kỳ ai kể cả các thần linh. Những nữ thần này hàng ngày lấy nước từ giếng Urd để tưới cho Yggdrasil giữ nó mãi xanh tươi. Dưới rễ qua Jötunheim là dòng suối (có nơi cho là giếng nước) của Mímir (Mímisbrunnr - còn gọi là "Suối, hay giếng, tri thức") và dưới rễ qua Hel là giếng Hvergelmir (có nghĩa là "cái chảo sôi"). Một con gà trống khổng lồ (hoặc một con chim ưng) tên là Vidofnir đậu trên ngọn của Yggdrasil. Con rồng Níðhöggr gặm phần rễ đi qua Niflheim của nó. Con sóc Ratatosk di chuyển liên tục giữa Vidofnir và Nídhoggr để kể lại những lời xúc phạm lẫn nhau của chúng. Ngoài ra còn có bốn con hươu gặm vỏ của Yggdrasil tên là Duneyrr, Durathror, Dvalin và Dainn. Cái tên Yggdrasil nếu được hiểu là "con ngựa của Odin" được cho là gắn với sự hy sinh của Odin được kể lại trong phần Hávamál của Edda bằng thơ (dù cái cây mà Odin tự treo mình không được nói rõ là Yggdrasil).
Bộ Chính trị là cơ quan có quyền lực tối cao của một Đảng cộng sản. Từ này có thể dùng để chỉ: Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô Bộ Chính trị Đảng Nhân dân Cách mạng Lào Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc. Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Cuba
Liên Xô là một liên bang thành lập trên cơ sở các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa thành phần. Sau khi Liên Xô tan rã vào năm 1991, các nước này tách ra thành các quốc gia độc lập với chính phủ theo thể chế mới (cộng hòa, dân chủ,...). Thứ tự của các nước cộng hòa lập thành Liên Xô được quy định trong điều 71, chương 8 của Hiến pháp Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết. Về đại thể, thứ tự này cũng tương ứng với dân số của các nước cộng hòa khi các nước này được thành lập. Liên bang Nga Ukraine Cộng hòa Uzbekistan Cộng hòa Kazakhstan Cộng hòa Azerbaijan Cộng hòa Belarus Cộng hòa Tajikistan Cộng hòa Moldova Cộng hòa Kyrgyzstan Cộng hòa Turkmenistan Gruzia Cộng hòa Armenia Cộng hòa Litva Cộng hòa Latvia Cộng hòa Estonia Ngoài ra còn có các quốc gia độc lập trên thực tế: Cộng hòa Artsakh, Cộng hòa Abkhazia, Cộng hòa Nam Ossetia - Nhà nước Alania và Transnistria - Cộng hòa Moldova Pridnestrovia. Xếp hạng theo diện tích Xếp hạng theo dân số Bảng xếp hạng sau dựa theo số liệu năm 2020 Xếp hạng theo mật độ dân cư Xếp hạng theo sức mua tương đương Xếp hạng theo thu nhập bình quân đầu người Sức mua tương đương (PPP) Xếp hạng dưới đây dựa theo số liệu năm 2021 của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). So sánh với một số nước Đông Âu từng là thành viên của Khối Warszawa. GDP (danh nghĩa) Chỉ số Phát triển Con người (HDI) Các quốc gia hậu Xô Viết được liệt kê theo Chỉ số Phát triển Con người trong năm 2021. Chỉ số Dân chủ
Nguyên lý Huygens-Fresnel (đặt theo tên của nhà vật lý người Hà Lan Christiaan Huygens, và người Pháp Augustin-Jean Fresnel), ban đầu được đưa ra trong lý thuyết sóng ánh sáng Huygens, giải thích sự lan truyền của ánh sáng như các sóng, nay được ứng dụng trong tính toán về lan truyền của sóng nói chung. Về cơ bản, nguyên lý này cho rằng mỗi điểm nằm trên đầu sóng là nguồn cho các sóng thứ cấp mới; và sự lan truyền của toàn bộ là tổng của các sóng thứ cấp đến từ mọi điểm trong môi trường mà sóng đã đi qua. Cách tiếp cận này cho phép giải thích nhiều hiện tượng quang học và hiện tượng sóng nói chung, như hiện tượng nhiễu xạ. Khi mới ra đời vào thế kỷ 17, nguyên lý Huygens đã thành công trong việc giải thích hàng loạt hiện tượng quang học từ khúc xạ, phản xạ đến nhiễu xạ và giao thoa, dù cho, dưới ảnh hưởng của Isaac Newton, lý thuyết này không được quảng bá bằng lý thuyết hạt ánh sáng của Newton. Sau này nguyên lý Huygens được cho thấy là phù hợp với các lý thuyết vật lý khác về tính chất sóng của vật chất. Ví dụ trong lý thuyết trường lượng tử, biên độ sóng của một sóng-hạt tại một điểm (tỷ lệ với mật độ xác suất tìm thấy hạt đó) bằng tổng biên độ của các hàm sóng tích phân theo mọi đường lan truyền của nó từ nguồn tới điểm đã cho. Nội dung - Mỗi điểm của môi trường có sóng sáng truyền tới đều được coi là nguồn sáng thứ cấp phát ra những sóng sáng gửi về phía trước nó. - Nguồn sáng thứ cấp có biên độ và pha dao động là biên độ và pha dao động sáng do nguồn sáng thực S gây ra tại vị trí của nguồn sáng thứ cấp đó. - Để tính dao động sáng thực do nguồn S gây ra tại một điểm M bất kì, ta có thể thay thế nguồn sáng thực S bằng những nguồn sáng thứ cấp thích hợp nằm trong mặt kín tưởng tượng bao quanh nguồn. Dao động sáng tại điểm M sẽ là tổng hợp các dao động sáng do nguồn thứ cấp nằm trên mặt kín gây ra tại điểm M mà ta xét.
Platin hay còn gọi là bạch kim là một nguyên tố hóa học, ký hiệu Pt có số nguyên tử 78 trong bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học. Tên platin bắt nguồn từ thuật ngữ tiếng Tây Ban Nha platina del Pinto, nghĩa đen là "sắc hơi óng ánh bạc của sông Pinto". Platin là một kim loại chuyển tiếp quý hiếm, màu xám trắng, đặc dẻo, dễ uốn. Mặc dù nó có sáu đồng vị tự nhiên, nhưng platin vẫn là một trong những nguyên tố hiếm nhất trong lớp vỏ Trái Đất với mật độ phân bố trung bình khoảng 0,005 mg/kg. Platin thường được tìm thấy ở một số quặng nickel và đồng, chủ yếu là ở Nam Phi chiếm 80% tổng sản lượng trên toàn thế giới. Platin thuộc nhóm 10 của bảng tuần hoàn cho nên nó có tính trơ, rất ít bị ăn mòn thậm chí ở nhiệt độ cao, vì vậy nó được xem là một kim loại quý. Platin thường xuất hiện ở trong bồi tích tự nhiên của một số con sông, nó lần đầu tiên được sử dụng để sản xuất các đồ tạo tác bởi người bản xứ Nam Mỹ thời kỳ tiền Columbus. Platin đã từng được nhắc đến trong các bản thảo ở châu Âu vào đầu thế kỷ XVI, nhưng vẫn không được phổ biến cho đến năm 1748, khi Antonio de Ulloa báo cáo về một loại kim loại mới có nguồn gốc từ Colombia, sau đó platin đã trở thành tâm điểm của các cuộc điều tra khoa học. Platin được sử dụng trong làm chất xúc tác, trang thiết bị phòng thí nghiệm, thiết bị điện báo, các điện cực, nhiệt kế điện trở bạch kim, thiết bị nha khoa, và đồ trang sức. Platin là một vật liệu khan hiếm, quý và rất có giá trị bởi vì sản lượng khai thác hằng năm chỉ tầm vài trăm tấn. Vì là một kim loại nặng, nó có ảnh hưởng không tốt đối với sức khỏe khi tiếp xúc với các muối của nó, nhưng do khả năng chống ăn mòn cho nên nó ít độc hại hơn so với các kim loại khác. Một số hợp chất của Platin, đặc biệt là cisplatin, được sử dụng để dùng trong hóa trị liệu chống lại một số loại ung thư. Từ nguyên Cách gọi "platin" là cách gọi quy ước của người Việt đối với tên các nguyên tố tiếng Latin: bỏ tiếp vĩ ngữ "-um". Tên gọi Latin "platinum" có gốc từ tiếng Tây Ban Nha "platina", nghĩa đen là "bạc nhỏ". "Bạch kim" (白金 "vàng trắng") là tên gọi khác của cả hai kim loại Ag và Pt. Platin có tên Hán Việt là "bạc" (鉑). Chữ Hán "鉑" hợp thành từ "金" ("kim loại vàng") và "白" ("màu trắng"). Trong tiếng Việt, "bạc" lại bị hiểu thành kim loại có ký hiệu hoá học là Ag. Đặc điểm Tính chất vật lý Ở dạng tinh khiết, platin có màu trắng bạc, sáng bóng, dẻo và dễ uốn. Nó không bị oxy hóa ở bất cứ nhiệt độ nào, tuy nhiên có thể bị ăn mòn bởi các halogen, cyanide, lưu huỳnh và dung dịch kiềm ăn da. Platin không hòa tan trong axit clohiđric và axit nitric, nhưng tan trong nước cường toan để tạo thành axit hexacloroplatinic(IV), H2PtCl6. Platin ít bị mài mòn và mờ cho nên rất thích hợp để làm đồ trang sức mỹ nghệ. Kim loại này khó bị ăn mòn, chịu được nhiệt độ cao và có tính dẫn điện ổn định cho nên được sử dụng trong các ứng dụng công nghiệp. Tính chất hóa học Platin thường có số oxy hóa phổ biến nhất là +2 và +4, các số oxy hóa +1 và +3 ít phổ biến hơn. Ngoài ra các số oxy hóa khác của platin như +5 (trong PtF5) hay +6 (trong PtO3) cũng tồn tại. Tinh thể platin(II) tam phối tử (tetracoordinate) có dạng hình vuông phẳng 16 electron. Platin hòa tan trong nước cường toan cho ra axit hexacloroplatinic(IV) tan ("H2PtCl6", (H3O)2PtCl6.nH2O): Pt + 4HNO3 + 6HCl → H2PtCl6 + 4NO2↑ + 4H2O Platin có tính axit nhẹ nên nó có ái lực lớn đối với lưu huỳnh, ví dụ lưu huỳnh trong dimethyl sulfoxid (DMSO), tạo thành một số phức chất DMSO tùy theo dung môi phản ứng. Đồng vị Platin có sáu đồng vị tự nhiên: 190Pt, 192Pt, 194Pt, 195Pt, 196Pt, và 198Pt. Phổ biến nhất trong số này là 195Pt, chiếm tỉ lệ 33,83%. Đây là đồng vị ổn định duy nhất có spin khác 0; spin l=1/2. Đồng vị 190Pt là hiếm nhất, chỉ chiếm 0,01%. Trong số các đồng vị tự nhiên, chỉ có 190Pt là không ổn định, mặc dù nó bị phân rã với chu kỳ bán rã 6,5 × 1011 năm.198Pt cũng phân rã alpha, nhưng với chu kỳ bán rã lớn hơn 3,2 × 1014 năm, cho nên nó được coi là ổn định. Platin cũng có 31 đồng vị tổng hợp khác nhau, có khối lượng nguyên tử từ 166 đến 202, nâng tổng số đồng vị lên 37. Trong số các đồng vị này, 166Pt là ít ổn định nhất với chu kỳ bán rã 300 μs, ổn định nhất là 193Pt với chu kỳ bán rã 50 năm. Hầu hết các đồng vị platin phân rã hạt nhân theo kiểu kết hợp giữa phân rã beta và phân rã alpha.188Pt, 191Pt, và 193Pt thường phân rã khi bắt electron.190Pt và 198Pt phân rã beta kép. Phân bố Platin là một kim loại cực kỳ hiếm, nó chỉ chiếm mật độ 0,005ppm trong lớp vỏ Trái Đất. Platin tự nhiên thường được tìm thấy ở dạng tinh khiết và hợp kim với iriđi như platiniridi. Phần lớn platin tự nhiên được tìm thấy ở các lớp trầm tích đại trung sinh. Các mỏ bồi tích được khai thác bởi người Nam Mỹ thời kỳ tiền Columbus ở Chocó Department, Colombia vẫn còn là nguồn cung cấp các kim loại nhóm platin. Một mỏ bồi tích lớn khác ở dãy núi Ural, Nga cũng đang được khai thác. Trong các mỏ nickel và đồng, các kim loại nhóm platin thường xuất hiện ở dạng muối sulfide như (Pt,Pd)S, Te2− như PtBiTe, antimonua (PdSb), asenua như PtAs2 và các dạng hợp kim với Ni và Cu. PtAs2 là nguồn platin chính trong quặng nickel ở mỏ Sudbury Basin, Ontario Canada. Mỏ Merensky Reef ở Gauteng, Nam Phi chứa nhiều quặng sulfide của các kim loại quý hiếm Pt, Pd và Ni. Năm 1865, crom đã được phát hiện trong khu vực Bushveld của Nam Phi, tiếp theo sau đó là platin vào năm 1906. Đây là nơi có trữ lượng platin lớn nhất được biết đến. Ngoài ra còn 2 mỏ đồng-nickel trữ lượng lớn gần Norilsk ở Nga và lưu vực Sudbury Canada. Ở lưu vực sông Sudbury, mật độ platin trong quặng nickel thực tế hiện nay chỉ là 0,5 ppm. Các mỏ nhỏ hơn có thể được tìm thấy ở Hoa Kỳ, ví dụ như trong dãy Absaroka ở Montana. Trong năm 2009, Nam Phi là nước sản xuất platin hàng đầu, chiếm gần 80% tổng sản lượng toàn thế giới, tiếp theo là Nga với 11%. Platin tồn tại với mật độ phân bố cao ở Mặt Trăng và các thiên thạch. Tương ứng, platin được tìm thấy hơi nhiều ở những nơi bị sao băng va chạm trên Trái Đất kết hợp với tác động của núi lửa, các lưu vực Sudbury là một ví dụ. Hợp chất Halogen Axit hexacloroplatinic(IV) có lẽ là hợp chất bạch kim quan trọng nhất, vì nó tạo nên các hợp chất platin khác. Bản thân axit này được ứng dụng trong nhiếp ảnh, khắc kẽm, mực in không phai, mạ, làm gương, nhuộm màu sứ, và như một chất xúc tác. Tác dụng của axit hexacloroplatinic(IV) với muối amoni, chẳng hạn như amoni chloride, tạo thành amoni hexacloroplatinat(IV) gần như không tan trong dung dịch amonia. Đốt nóng muối amoni này với sự có mặt của hiđrô sẽ tạo ra platin nguyên chất. Kali hexacloroplatinat(IV) cũng không tan, và axit hexacloroplatinic(IV) đã được sử dụng trong việc xác định ion kali bằng phương pháp phân tích trọng lượng. Khi axit hexacloroplatinic(IV) được đun nóng, nó phân hủy thành PtCl4 và PtCl2 rồi thành platin nguyên tố theo các bước phản ứng sau: (H3O)2PtCl6·nH2O PtCl4 + 2HCl + (n + 2)H2O PtCl4 PtCl2 + Cl2↑ PtCl2 Pt + Cl2↑ Cả ba phản ứng đều là phản ứng thuận nghịch. Platin(II) bromide và platin(IV) bromide cũng có những phản ứng tương tự. Platin hexaflorua là một chất oxy hóa mạnh có khả năng oxy hóa cả oxy. O2 + PtF6 → O2PtF6 Oxit Platin(IV) oxit, PtO2, còn được gọi là chất xúc tác của Adams, là một chất bột màu đen hòa tan trong dung dịch KOH và axit đậm đặc. PtO2 và hiếm hơn PtO (tím đen) đều bị phân hủy khi đun nóng. Platin(II, IV) oxit, Pt3O4, được hình thành từ phản ứng sau đây: 2Pt2+ + Pt4+ + 4O2− → Pt3O4 Pt3O4 tạo thành chất bột màu đen. Pt cũng có thể tạo ra platin(III) oxit (Pt2O3), trước đây chỉ được biết đến dưới dạng ngậm nước. Sự tồn tại của platin(V) oxit chưa rõ, mặc dù hợp chất được xác định là chất rắn màu đỏ nâu. Platin cũng tạo một trioxit với số oxy hóa +6. PtO3 là chất bột màu đỏ nâu, nhưng không ổn định. Hợp chất thu được bằng cách oxy hóa PtO2 trong KOH. PtO3 có tính oxy hóa mạnh (oxy hóa HCl thành Cl2). Muối Hầu hết các hợp chất Pt(IV) thường có màu từ vàng đến cam (như Pt(SO4)2). Pt(IV) cũng có màu nâu sáng, như Pt(NO3)4 trong dung dịch. Chỉ có ít muối Pt(III) được biết đến, như PtCl3, PtBr3, PtI3 và phức PtBr3.2NH3. Pt(II) tạo muối không tan trong nước, như các halide của Pt(II) (trừ PtF2). Các muối chứa oxy của Pt(II) như PtSO4, Pt(NO3)2 cũng được biết đến. Các muối nitrat đã kể trên tan được trong nước, nhưng dung dịch dễ bị phân hủy tạo muối cơ bản. Các hợp chất khác Hình ảnh
Công ty World Wrestling Entertainment (Đấu vật Giải trí Thế giới, gọi tắt là WWE) là một công ty hoạt động trong các lĩnh vực giải trí, thể thao và truyền thông đại chúng (tập trung vào truyền hình, internet và tổ chức thi đấu trực tiếp), chủ yếu là trong ngành đấu vật biểu diễn (tiếng Anh: professional wrestling). Ngoài ra công ty còn đạt doanh thu lớn nhờ vào các dịch vụ khác như điện ảnh, âm nhạc, cấp giấy phép sản xuất và bán sản phẩm trực tiếp. Cái tên WWE cũng đề cập đến việc quảng bá đấu vật chuyên nghiệp, được thành lập năm 1953 với tên Capital Wrestling Corporation. Đây là công ty quảng bá đấu vật lớn nhất thế giới, tổ chức hơn 450 sự kiện trực tiếp các năm qua, với dàn sao được chia thành ba thương hiệu chính lưu diễn toàn cầu, có hơn 900 triệu trụ sở trên toàn cầu với 28 ngôn ngữ. Trụ sở chính của công ty đặt tại Stamford, Connecticut, cùng các văn phòng khác ở New York, Los Angeles, London, Mexico City, Mumbai, Thượng Hải, Singapore, Dubai, Munich và Tokyo. Giống như ở các công ty đấu vật biểu diễn khác, các chương trình của WWE không phải thể thao đối kháng thực thụ, mà chỉ thuần về giải trí, với cốt truyện, kịch bản, và các trận đấu mang tính biểu diễn, cho dù các trận đấu có những đòn đánh có thể gây nguy cơ chấn thương cho người biểu diễn nếu như thực hiện không đúng cách. Điều này được nhắc đến lần đầu năm 1989 bởi chủ sở hữu của WWE là Vince McMahon, nhằm tránh phải nộp thuế cho hiệp hội vận động viên. Từ những năm 1980, WWE công khai các sản phẩm của mình là thể thao biểu diễn giải trí, nhắc tới sản phẩm của mình là sự kết hợp giữa thể thao đối kháng và biểu diễn sân khấu. Chủ sở hữu đa số của công ty là chủ tịch kiêm giám đốc điều hành, nhà quảng bá đấu vật thế hệ thứ ba trong gia đình Vince McMahon, người nắm giữ 42% quyền sở hữu cổ phiếu hiện tại của công ty và 70,5% quyền biểu quyết. Công ty hiện tại, được thành lập ngày 21 tháng 2 năm 1980 với tên Titan Sports, Inc. tại South Yarmouth, Massachusetts. Công ty mua lại chính công ty mẹ của nó, Capital Wrestling Corporation Ltd. năm 1982. Titan đổi tên thành World Wide French Education, Inc. năm 1999 và sau đó là World Wide English/Education, Inc. năm 2002. Kể từ 2011, công ty chính thức được viết tắt thành WWE. Lịch sử Trước thời kỳ Titan Sports (1953-1982) Roderick James "Jess" McMahon một võ sĩ quyền anh đặt ra trận đấu giữa Jess Willard và Jack Johnson vào năm 1915. Năm 1925, Tex Rickard, (ông là người xem thường môn đô vật và ngăn cản, không cho biểu diễn các trận đấu vật ở Madison Square Garden, New York giữa những năm 1939 và 1948) người cộng sự của Roderick James "Jess" McMahon đề xướng môn thi đấu chính thức ở Madison Square Garden là môn quyền anh. Trận đấu đầu tiên là trận tranh đai vô địch hạng nhẹ (light-heavyweight championship) giữa Jack Delaney và Paul Berlenbach. Cùng thời gian đó, cựu đô vật Joseph Raymond "Toots" Mondt đã có một cuộc cách mạng. Ông luôn đề cao môn đấu vật và là người biến đổi đô vật thành một môn thể thao được ưa chuộng. Nhằm tăng sự hấp dẫn cho môn thể thao này, ông đã thành lập "Slam Bang Western Style Wrestling." Việc làm kế tiếp của ông của là hợp tác cùng với Ed Lewis và Billy Sandow, thuyết phục những võ sĩ đô vật ký kết hợp đồng với tên mới 'Gold Dust Trio', đồng thời thay đổi phong cách làm việc. Chính những điều đó đã tạo nên sự thay đổi lớn trong lịch sử ngành đấu vật biểu diễn sau này. Nguồn gốc của WWE có thể được coi là bắt đầu từ năm 1952 khi Roderick James "Jess" McMahon và Toots Mondt thành lập công ty Capitol Wrestling Corporation Ltd. (CWC), sau đó sáp nhập với National Wrestling Alliance (NWA) vào năm 1953. Vào tháng 11 năm 1954, McMahon qua đời. Ray Fabiani, một trong những cổ đông của Mondt, tiến cử con trai của McMahon là Vincent James.[1] Người con nhà McMahon và Mondt đã rất thành công và nhanh chóng kiểm soát được 70% việc book các trận đấu của NWA, chủ yếu nhờ vào sự ảnh hưởng lớn của họ ở vùng Đông Bắc. Năm 1963, McMahon và Mondt có một cuộc tranh cãi với NWA về việc book cho "Nature Boy" Buddy Rogers trở thành nhà vô địch đai NWA World Heavyweight Championship.[2]Cả hai rời NWA để phản đối và thành lập nên WWWF trong thời gian này, đưa Rogers trở thành nhà vô địch đai WWWF World Heavyweight Championship vào tháng 4 năm đó. Rogers để mất đai trước Bruno Sammartino một tháng sau đó, vào ngày 17 tháng 5 năm 1963, sau khi trải qua cơn đau tim một tuần trước khi trận đấu diễn ra. Capitol vận hành WWWF theo một cách khá bảo thủ, nếu như so sánh với các công ty khác:[3] họ tổ chức sự kiện chính hàng tháng thay vì hàng tuần hoặc hai tuần một lần, với các đô vật babyface vô địch đấu với các đô vật heels trong chương trình bao gồm từ một đến ba trận đấu.[4] Sau khi có được hợp đồng truyền hình và thuê Lou Albano làm quản lý cho các đối thủ heel của Sammartino, WWWF bắt đầu bán cổ phần vào năm 1970. Mondt rời khỏi Capitol vào cuối những năm 60, và dù WWWF đã từng rút khỏi NWA, Vince McMahon, Sr. vẫn lặng lẽ gia nhập vào năm 1971. Capitol đổi tên World Wide Wrestling Federation thành World Wrestling Federation (WWF) năm 1979.[5] Tập đoàn Titan Sports (1982-1998) Thời Hoàng Kim (Golden Era, 1982-1993) Năm 1979, con trai của Vincent J. McMahon, Vincent K. McMahon và vợ là Linda thành lập công ty Titan Sports tại  South Yarmouth, Massachusetts. Người con nhà McMahon mua lại Capitol Sports của cha mình vào năm 1982, nắm giữ quyền điều hành công ty. Với mục tiêu biến WWF thành công ty đấu vật biểu diễn lớn nhất đất nước, và rộng hơn là cả thế giới, McMahon tiến hành một quá trình mở rộng về cơ bản sẽ thay đổi bộ mặt của ngành đấu vật biểu diễn. Ở cuộc gặp cổ đông thường niên của NWA năm 1983, nhà McMahon và nhân viên của Capitol là Jim Barnett tuyên bố rút lui khỏi tổ chức này. Điều này khiến các nhà tổ chức khác tức giận và phá bỏ rào cản giữa các công ty đấu vật khác với nhau, thứ được dựng nên từ khi NWA được thành lập vào những năm 1940. Hơn nữa, công ty còn thu được lợi nhuận từ việc quảng cáo, hợp đồng truyền hình và tiền bán băng hình để thu hút các tài năng từ các công ty đối thủ. McMahon nhận được sự chú ý lớn khi ký hợp đồng với tài năng của AWA là Hulk Hogan, người có được sự nổi tiếng ở ngoài ngành đấu vật, nhờ vào sự xuất hiện ở phim Rocky III.[22]McMahon chiêu mộ Roddy Piper làm đối thủ của Hogan, và một thời gian ngắn sau là Jesse Ventura với vai trò bình luận viên. Các đô vật khác gia nhập đội ngũ còn có Jimmy Snuka, Don Muraco,The Iron Sheik, Nikolai Volkoff, Junkyard Dog, Paul Orndorff, Greg Valentine, và Ricky Steamboat. Nhiều đô vật gia nhập sau này cũng là các đô vật từng thi đấu cho AWA hoặc NWA. WWF quyết định tổ chức tour diễn khắp nơi trên đất nước, và việc này đã đòi hỏi một số vốn khá lớn, khiến cho WWF suýt nữa đến bờ vực phá sản. Tương lai của nhà McMahon được phụ thuộc tất cả vào việc ý tưởng độc đáo mang tên WrestleMania thành công hoặc thất bại. WrestleMania đã trở nên rất thành công, và đã (cũng như vẫn) được coi như Super Bowl của đấu vật biểu diễn. Ông đã mời những nhân vật nổi tiếng được nhiều người hâm mộ và biết đến qua truyền hình như Mr. T, Muhammad Ali hay Cyndi Lauper tham gia sự kiện này, cũng như phát sóng trên kênh truyền hình âm nhạc MTV. Sự kiện này cũng như sự ăn khách của nó dẫn đến một thuật ngữ là Rock 'n' Wrestling Connection, là sự kết hợp của văn hóa pop và đấu vật biểu diễn.WWF mở rộng việc làm ăn một cách mạnh mẽ dưới bàn tay của McMahon và đô vật babyface anh hùng là Hulk Hogan trong một vài năm. Sự ra mắt của Saturday Night's Main Event trên đài NBC năm 1985 đánh dấu lần đầu tiên đấu vật biểu diễn được chiếu trên sóng truyền hình kể từ những năm 1950, khi kênh truyền hình đã bị dừng hoạt động là DuMont Television Network chiếu các trận đấu của Capitol Wrestling Corporation của Vince McMahon Sr.. Những năm 1980 được gọi là thời kỳ "Wrestling Boom" (đấu vật biểu diễn bùng nổ) với đỉnh cao là sự kiện WrestleMania III diễn ra ở Pontiac Silverdome năm 1987, với số khán giả kỷ lục là là 93.173 - một kỷ lục mà phải tới 29 năm sau mới bị phá bở WrestleMania 32.[23] Trận tái đấu của main event WrestleMania III giữa nhà vô địch WWF Hulk Hogan và André the Giant tại The Main Event năm 1988 được theo dõi bởi 33 triệu người qua sóng truyền hình, và là trận đấu vật biểu diễn được xem nhiều nhất trong lịch sử truyền hình Bắc Mỹ.[24] Năm 1985, Titan dời văn phòng về Stamford, Connecticut, trước khi trụ sở hiện tại được xây vào năm 1991. Sau đó, tập đoàn Titan Sports mới (tiền thân là tập đoàn WWF) được thành lập ở Delaware năm 1987 và được hợp nhất với các trụ sở tại Massachusetts vào tháng 2 năm 1988.[25] Thời kì Attitude Thời kì Attitude chính thức diễn ra từ năm 1997 (theo sự khởi đầu của "Stone Cold" Steve Austin tại trận đấu King of the Ring vào năm 1996), chấm dứt thời kì cũ và bắt đầu một kỉ nguyên mới, bạo lực đóng vai trò chủ yếu, nhiều hành động thô tục được diễn ra dưới mọi hình thức, trên hết là âm mưu lật đổ đối thủ cạnh tranh của WWE, tập đoàn WCW (World Championship Wrestling). Sau khi Bret Hart "thua" trong trận đấu cuối cùng của mình với Shawn Michaels, đồng thời cũng là trận đấu gây tranh cãi nhiều nhất được biết đến trong lịch sử WWE qua cái tên Montreal Screwjob, Vince McMahon tạo ra tính cách riêng của mình và lấy tên là Mr. McMahon, một vị chỉ huy độc tài và hung tợn, người luôn khinh thường những đấu sĩ mà ông cho là "không phù hợp" như "Stone Cold" Steve Austin. Điều này tạo ra sự kình địch giữa Mr. McMahon và "Stone Cold" Steve Austin, song song với vụ việc trên là việc thành lập nhóm D-Generation X (đứng đầu gồm Triple H và Shawn Michaels). Ngoài ra WWF còn lập ra thể loại chương trình Monday Night Wars (Cuộc chiến tối thứ hai), nhằm cạnh tranh với WCW, nơi xảy ra cuộc thi đấu trực tiếp cùng thời gian. Vào ngày 29 tháng 4 năm 1999, WWF biểu diễn một chương trình đặc biệt mang tên SmackDown! và được phát sóng trên kênh UPN network, sau Raw Is War (Monday Night Wars). Sau đó WWF SmackDown! trở thành một chương trình truyền hình chính thức vào ngày 26 tháng 8 năm 1999 và được trình chiếu hàng tuần vào mỗi đêm thứ năm. Với sự thành công của Attitude vào ngày 19 tháng 9 năm 1999, công ty Titan Sports (lúc này đổi tên thành World Wrestling Federation) trở thành một công ty kinh doanh thuộc về các lĩnh vực giải trí và thể thao, ngoài ra Titan Sports còn nhận được sự đóng góp của 10 triệu cổ đông trong công ty. Không ngừng ở đó, WWF còn muốn mở rộng việc kinh doanh của mình thành nhiều dạng nhằm tăng thêm thu nhập như mở câu lạc bộ về đêm ở Time Square, sản xuất điện ảnh và sách báo. Năm 2000, WWF cùng với kênh truyền hình NBC, tuyên bố thành lập XFL, một liên đoàn bóng đá ở Mỹ. Trong vài tuần đầu XFL được nhiều người đánh giá rất cao, nhưng sau đó lại xuống hạng và bị đánh giá thấp. Mua lại WCW và ECW Sau những cống hiến của McMahon, địa vị của WWF ngày một nâng cao, trong khi đó tình hình của WCW ngày càng tồi tệ và doanh thu thì tụt xuống đến mức báo động, biết rằng WCW sẽ không tồn tại được lâu dài, công ty chính của WCW AOL Time Warner đề nghị không ký kết hợp đồng với WCW nữa. Vào tháng 3 năm 2001, công ty WWF Entertainment mua lại WCW từ AOL Time Warner với giá 7 triệu USD. Không những thế, công ty Extreme Championship Wrestling (ECW) ở phía bắc cũng có số phận tương tự và sau này sáp nhập với WWF/E vào tháng 10 năm 2001. World Wrestling Entertainment Năm 2000, hiệp hội World Wildlife Fund (cũng gọi WWF) là một tổ chức bảo vệ môi trường và hiện nay mang tên World Wide Fund for Nature, khởi kiện McMahon và WWF/E. Phiên tòa đồng ý rằng Titan Sports đã vi phạm một lần vào năm 1994, kết quả là WWF không được hoạt động ra ngoài phạm vi vùng phía bắc như trước đây. Vào ngày 5 tháng 5 năm 2002, WWF thay đổi cơ cấu tổ chức và đổi tên công ty thành WWE, website cũng chuyển từ wwf.com thành wwe.com. Ngày 6 tháng 5 năm 2002, công ty mang tên đầy đủ và chính thức là World Wrestling Entertainment, sự thay đổi trên được công khai vài ngày sau đó và được phát trên chương trình Monday Night Raw. Tháng 4 năm 2002, khoảng một tháng trước khi đổi tên, WWE đề nghị chia thành hai thể loại chương trình riêng biệt, RAW và SmackDown! do hưởng được quyền lợi từ WCW và ECW, ngày càng nhiều các đấu sĩ WCW về thi đấu cho WWE. Điều đó khiến cho thời lượng chương trình của WWE kéo dài hơn trước. Ngoài ra, cứ khoảng vài năm WWE lại mở một cuộc trao đổi các đấu sĩ (Draft Lottery Pick) thi đấu cho mỗi thể loại chương trình khác nhau. Ngày 26 tháng 5 năm 2006, sau khi Rob Van Dam thắng trận tranh đai giữa John Cena, WWE cho khôi phục lại ECW (Extreme Championship Wrestling) và chuyển thành thể loại chương trình thứ ba của WWE. ECW được biểu diễn hàng tuần vào mỗi đêm thứ ba và được phát sóng trên kênh SyFy Channel. Ngày nay ECW đã kết thúc thay vào đó là NXT Kỷ nguyên mới (New Era) Năm 2016, WWE đã tổ chức show "WWE Draft" vào ngày 19/7, đúng vào dịp Smackdown được truyền hình trực tiếp trở lại sau nhiều năm. Sự kiện này đánh dấu một cột mốc mới, một kỷ nguyên mới với 2 brand một lần nữa được tách riêng biệt và khác nhau là Raw và SmackDown. Smackdown được trực tiếp vào thứ ba (với Shane McMahon là tổng lãnh đạo, và General Manager là Paige) và Raw vẫn trực tiếp vào thứ hai hàng tuần (với tổng lãnh đạo là Stephanie McMahon và General Manager là Kurt Angle). Kỷ nguyên mới này được cho là sẽ giúp cho WWE hùng mạnh hơn xưa, khi nhiều đai sẽ trở lại và có rất nhiều các đô vật từ NXT debut lên main roster như Finn Bálor (Raw), Mojo Rawley (Smackdown), Alexa Bliss (Smackdown), Nia Jax (Raw), American Alpha (Smackdown), Carmella (Smackdown). Mặc dù vậy nhưng cũng đã có nhiều đội tan rã trong đợt chia brand vừa rồi như The Lucha Dragons, The Social Outcasts,... Sự thống trị của Gia đình McMahon Quyền lực của Shane McMahon và mối thù với các đô vật Luật đặc cách Vào đầu năm 2019, Vince Kennedy McMahon xuất hiện trên Raw, và tuyên bố luật đặc cách do mình tự sáng tạo ra. Ông nói luật đặc cách sẽ được áp dụng cho hai chương trình chính gồm Raw và SmackDown và ba đô vật ở SmackDown sẽ được tạm thời chuyển sang Raw và ngược lại trong một thời gian nhất định, thương là cả chương trình. Luật đặc cách duy trì cho đến tháng 9 năm 2019 thì bị hủy bỏ. Mùa mới và ra mắt Friday Night SmackDown trên Fox (tháng 10 năm 2019-nay) Vào ngày 3 tháng 10 năm 2019, Raw mở đầu với thông báo đây sẽ là mùa mới. Chương trình diễn ra khá thành công khi xuất hiện nhiều đô vật huyền thoại Hall of Fame làm khách mời, ngoài ra còn có tay boxing hàng đầu thế giới Tyson Fury. Tại SmackDown, chương trình được đổi tên thành Friday Night SmackDown, bắt đầu bằng việc Stephanie McMahon và Vince K. McMahon bước ra và tuyên bố mùa mới chính thức bắt đầu. Đồng thời, Friday Night SmackDown lần đầu tiên sẽ chuyển sang kênh Fox. Tuần sau, WWE Draft diễn ra thành công với việc nhiều ngôi sao mới xuất hiện từ NXT, bên cạnh đó, nhiều siêu sao khác phải rời nhóm. Các chức vô địch và danh hiệu Các chức vô địch hiện tại Raw Chú thích – WWE Women's Tag Team Championship và WWE 24/7 Championship cũng được bảo vệ trên Raw nhưng không được xếp vào thương hiệu này. SmackDown Chú thích – WWE Women's Tag Team Championship và WWE 24/7 Championship cũng được bảo vệ trên SmackDown nhưng không được đề cập trong thương hiệu này. NXT Chú thích 24/7 Championship cũng có thể được bảo vệ trên NXT vì đai được bảo vệ giữa tất cả thương hiệu. NXT Cruiserweight Championship được bảo vệ trên NXT, NXT UK, và 205 Live!. NXT UK Chú thích NXT Cruiserweight Championship và 24/7 Championship cũng được bảo vệ trên NXT UK. Các đai khác Chú thích – 24/7 Championship có thể được bảo vệ mọi lúc, mọi nơi miễn là có trọng tài. Đai có thể được giữ bởi bất cứ ai, không phân biệt giới tính, hoặc họ có phải một đô vật không. Các chức vô địch không còn tồn tại Các thành tựu khác
Bit chẵn lẻ (tiếng Anh: parity bit), hoặc bit kiểm tra (tiếng Anh: check bit), là một bit được thêm vào một chuỗi mã nhị phân, để kiểm tra phát hiện lỗi trong dữ liệu khi truyền đưa hoặc đọc/ghi trên phương tiện lưu trữ. Nó là dạng mã phát hiện lỗi đơn giản nhất. Các bit chẵn lẻ thường được áp dụng cho các đơn vị nhỏ nhất của giao thức truyền thông, phổ biến nhất hiện nay là các octet (byte) 8 bit, mặc dù về nguyên tắc chúng áp dụng tổng quát cho tất cả các dạng chuỗi có số bit khác. Với chuỗi octet thì khung truyền đưa chuỗi có 9 bit, trong đó có 8 bit dữ liệu và bit thứ 9 là bit chẵn lẻ. Nội dung bit chẵn lẻ có giá trị bằng số bù nhị phân cho tổng các bit của octet để tổ hợp octet + parity luôn luôn hoặc là một số chẵn hoặc là một số lẻ, tùy theo lựa chọn của nhà thiết kế hệ thống truyền đưa. Bit chẵn lẻ dùng quy tắc số chẵn (even parity bit), thì bit chẵn lẻ có giá trị bằng 1(2) khi số lượng các bit 1 trong octet là một số lẻ. Khi cộng thêm bit chẵn lẻ vào, tổng số lượng bit có giá trị bằng 1(2) là một số chẵn. Bit chẵn lẻ dùng quy tắc số lẻ (odd parity bit). thì bit chẵn lẻ có giá trị bằng 1(2) nếu số lượng các bit 1 trong octet là một số chẵn. Khi cộng thêm bit chẵn lẻ vào, tổng số bit có giá trị bằng 1(2) là một số lẻ. Bit chẵn lẻ dùng quy tắc chẵn là một trường hợp đặc biệt của kỹ thuật kiểm tra độ dư tuần hoàn (CRC - cyclic redundancy check). Trong CRC, bit CRC được kiến tạo bằmg cách dùng đa thức (polynomial) x+1. Tổ hợp octet + parity là nền tảng để truyền đưa và lưu trữ trong kỹ thuật số. Vào những năm 1960 nó dẫn đến ra đời khối lưu trữ Băng ghi 9 đường dung lượng lớn, ghi 9 bit song song cho ra tốc độ truy cập nhanh ở thời kỳ đó. Phát hiện lỗi Nếu một số lẻ lượng các bit (bao gồm cả bit chẵn lẻ), bị đảo lộn trong khi truyền thông một nhóm bit, thì bit chẵn lẻ sẽ có giá trị không đúng, và do đó báo hiệu rằng lỗi trong truyền thông đã xảy ra. Với lý do này, bit chẵn lẻ còn được gọi là một mã phát hiện lỗi, song nó không phải là một mã sửa lỗi, vì nó chẳng có cách nào xác định được vị trí của bit bị lỗi cả. Khi lỗi bị phát hiện, dữ liệu thu được phải bị bỏ đi và phải được truyền thông lại từ đầu. Trên kênh truyền có độ nhiễu cao, việc truyền tải dữ liệu thành công là một việc rất hao tốn thời gian, và đôi khi, việc truyền thông còn hầu như không thể thực hiện được nữa. Bit chẵn lẻ có một ưu điểm: nó là một mã tốt nhất chiếm chỉ một bit và chỉ dùng vài cổng XOR(XOR gate) để tạo giá trị mà thôi. Xin xem thêm mã Hamming để biết thêm về các mã sửa lỗi khác. Ứng dụng Do đặc tính đơn giản của nó, bit chẵn lẻ được dùng trong rất nhiều ứng dụng phần cứng, những nơi mà việc tái diễn các thao tác khi có trục trặc xảy ra là một việc có thể thực hiện được, hoặc những nơi mà việc phát hiện lỗi đơn thuần là một việc có lợi. Lấy ví dụ, mạch nối SCSI (SCSI bus) dùng bit chẵn lẻ để phát hiện lỗi trong truyền thông, và rất nhiều các phần lưu trữ trong bộ nhớ các lệnh vi xử lý (microprocessor instruction cache) cũng dùng bit chẵn lẻ để bảo trợ hoạt động của nó nữa. Do các dữ liệu trong I-cache chỉ là một bản sao của bộ nhớ chính (main memory), nội dung của nó có thể được xóa đi, nạp lại nếu dữ liệu ở trong chẳng may bị thoái hóa (corrupted). Trong truyền dữ liệu nối tiếp (serial data transmission), dạng thức dữ liệu được dùng phổ thông nhất là dạng thức 7 bit, với một bit chẵn lẻ dùng quy tắc số chẵn, một Start bit và một hoặc hai Stop bit để đánh dấu/đồng bộ điểm bắt đầu cũng như kết thúc một byte dữ liệu trong chuỗi bit trên đường truyền. Dạng thức này thích ứng hầu hết các dạng thức 7-bit ký tự ASCII dưới hình thức byte 8-bit. Một byte dữ liệu trên đường truyền nối tiếp sẽ gồm 01 Start bit (bắt đầu), 7 bit dữ liệu, một parity bit và 01 Stop bit (kết thúc). Byte là một hình thức tiện lợi để biểu đạt dữ liệu. Những dạng thức khác cũng có thể thực hiện được, như dạng thức 8 bit dữ liệu cộng với một bit chẵn lẻ có thể dùng để chuyên chở tất cả các giá trị byte 8-bit. Trong ngữ cảnh của truyền thông nối tiếp (serial communication), bit chẵn lẻ thường được phát sinh và kiểm tra bởi phần cứng giao thức - chẳng hạn như UART - và khi thu nhận, CPU có thể sử dụng kết quả nhận được (và hệ điều hành nữa) thông qua bit báo tình hình (status bit) trong thanh ghi của phần cứng giao thức. Việc khôi phục lại sau khi tình trạng lỗi xảy ra thường được thi hành bằng cách tái truyền dữ liệu, và chi tiết của việc này thường là do phần mềm phụ trách (ví dụ dùng các thường trình nhập/xuất (I/O routine) của hệ điều hành). Khối chẵn lẻ Khối chẵn lẻ (parity block) được dùng trong một số cấu hình RAID, và bằng cách dùng các khối chẵn lẻ, người ta đạt được tính dư thừa. Nếu một trong các ổ đĩa ở trong dãy đĩa bị hỏng, người ta có thể dùng các khối dữ liệu và các khối chẵn lẻ trong các đĩa còn làm việc để kiến tạo lại dữ liệu bị thất lạc (dữ liệu này nguyên ở trong cái đĩa bị hỏng). Trong biểu đồ vẽ sẵn dưới đây, mỗi cột là biểu tượng của một ổ đĩa. Giả sử A1 = 00000111, A2 = 00000101, và A3 = 0000000. Ap - phát sinh do xử lý XOR giữa A1, A2, và A3 - sẽ có giá trị bằng 00000010. Nếu ổ đĩa thứ hai bị hỏng và giá trị A2 không thể truy cập được, thì giá trị này có thể được kiến tạo lại bằng xử lý XOR A1, A3, và Ap như sau: A1 XOR A3 XOR Ap = 00000101 RAID Array A1 A2 A3 Ap B1 B2 Bp C1 C2 C3 C4 Cp Lưu ý: Các khối dữ liệu được đánh dấu theo hình thức A# (# ám chỉ một con số), khối chẵn lẻ là Ap (p = parity).
Hội nghị Yalta, còn gọi là Hội nghị Crimea với tên mã Argonaut, diễn ra ngày từ 4 đến ngày 11 tháng 2 năm 1945, là cuộc gặp giữa nguyên thủ quốc gia của Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và Liên Xô khi Chiến tranh thế giới thứ hai gần kết thúc nhằm thảo luận việc tái cấu trúc Đức và châu Âu hậu chiến tranh. Đại diện ba nước lần lượt là Tổng thống Franklin D. Roosevelt, Thủ tướng Winston Churchill, và Tổng bí thư Joseph Stalin. Hội nghị được tổ chức gần Yalta ở Crimea, Liên Xô, tại Cung điện Livadia, Yusupov, và Vorontsov. Mục đích của cuộc hội nghị là để thiết lập một nền hòa bình hậu chiến với cả trật tự an ninh tập thể và quyền tự quyết cho người dân châu Âu. Với chủ đề chính là sự tái thiết của những quốc gia châu Âu bị chiến tranh giày xéo, hội nghị trở thành một chủ đề gây tranh cãi khi mà Chiến tranh Lạnh chia cắt châu Âu chỉ vài năm sau. Yalta là hội nghị thứ hai trong ba hội nghị thời chiến quan trọng giữa Tam đại cường quốc, sau Hội nghị Tehran tháng 11 năm 1943 và trước Hội nghị Potsdam tháng 7 năm 1945. Trước Yalta còn có một hội nghị ở Moscow tháng 10 năm 1944, không có mặt Roosevelt, nơi Churchill và Stalin bàn về phạm vi ảnh hưởng của Tây Âu và Xô viết. Hội nghị Bắt đầu hội nghị Yalta, phe Đồng Minh phía Tây đã giải phóng toàn bộ Pháp và Bỉ và đang chiến đấu ở biên giới phía tây của Đức. Ở phía đông, quân Xô viết chỉ cách Berlin 65 km, sau khi đẩy lùi quân Phát xít khỏi Ba Lan, Romania, và Bulgaria. Sự thất bại của Đức gần như đã ngã ngủ. Vấn đề còn lại là cục diện hậu chiến của châu Âu. Lãnh đạo Pháp-Tướng Charles de Gaulle không được mời tới cả Hội nghị Yalta lẫn Potsdam, một sự sỉ nhục ngoại giao gieo mầm cho những hiềm khích sâu sắc sau này. De Gaulle cho rằng ông không được mời đến Yalta vì mối thù hằn của Roosevelt, nhưng phía Xô viết cũng phản đối mời ông đến hội nghị. Tuy nhiên, sự vắng mặt của đại diện Pháp tại Yalta khiến cho việc mời de Gaulle đến Hội nghị Postdam sẽ rất khó xử, bởi ông sẽ yêu cầu xét lại những vấn đề đã được nhất trí ở Yalta. Sáng kiến cho một hội nghị "Tam đại cường quốc" thứ hai do Roosevelt khởi xướng, ban đầu mong cuộc gặp diễn ra trước cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11 năm 1944 nhưng rồi muốn cuộc gặp vào đầu năm 1945 ở một địa điểm trung lập tại Địa Trung Hải. Những đề xuất ban đầu bao gồm Thuộc địa vương thất Malta, Cyprus, Sicily, Athens, và Jerusalem. Stalin bác bỏ tất cả những đề xuất đó, nói rằng bác sĩ của ông khuyến cáo ông không thực hiện chuyến đi xa nào. Ông đề xuất gặp nhau tại khu nghỉ dưỡng Biển Đen Yalta tại Crimea. Chứng sợ bay của Stalin được cho là một nguyên nhân dẫn đến quyết định này. Mặc dù vậy, Stalin vẫn để Roosevelt "chủ trì" cuộc hội nghị, và tất cả phiên họp toàn thể diễn ra tại nơi ở của phái đoàn Mỹ tại Cung điện Livadia, và Roosevelt luôn ngồi giữa trong những bức ảnh chụp chung, tất cả đều được chụp bởi nhiếp ảnh gia của Roosevelt. Mỗi nguyên thủ có tầm nhìn riêng cho Đức và châu Âu thời hậu chiến. Roosevelt muốn Liên Xô hỗ trợ trong Chiến tranh Thái Bình Dương chống lại Nhật Bản, cụ thể cho kế hoạch xâm lược Nhật Bản (Chiến dịch Mãn Châu), cũng như sự tham gia của Liên Xô trong Liên Hợp Quốc. Churchill kêu gọi bầu cử tự do và chính quyền dân chủ ở Trung và Đông Âu, đặc biệt là Ba Lan. Stalin yêu cầu phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô bao gồm Đông và Trung Âu như một thành phần cốt lõi của chiến dịch quốc phòng của Liên Xô, và lập trường của ông cứng rắn đến mức ông phần nào có toàn quyền quyết định. Theo thành viên phái đoàn Mỹ và Bộ trưởng Ngoại giao tương lai James F. Byrnes, "câu hỏi đặt ra không phải là chúng ta để người Nga làm gì, mà là chúng ta có thể thuyết phục người Nga làm gì." Ba Lan là vấn đề đầu tiên trên nghị trình của Liên Xô. Stalin nói rằng, "Với chính phủ Liên Xô, Ba Lan là một vấn đề về danh dự" và an ninh vì trong lịch sử, Ba Lan đóng vai trò hành lang cho những cuộc hành quân xâm lược Nga. Ngoài ra, Stalin bàn về lịch sử cho rằng "vì người Nga đã gây tội lớn lên Ba Lan", "chính phủ Liên Xô mong muốn bù đắp lại cho những tội lỗi đó". Stalin kết luận rằng "Ba Lan phải trở nên mạnh mẽ" và "Liên Xô mong muốn thiết lập một Ba Lan cường hào, tự do và độc lập". Theo đó, Stalin nói rằng yêu cầu của chính quyền Ba Lan lưu vong là không đàm phán được, và rằng Liên Xô sẽ giữ phần lãnh thổ đông Ba Lan mà Liên Xô sáp nhập năm 1939, còn Ba Lan sẽ được bù đắp với việc mở rộng biên giới phía tây, vào trong lãnh thổ của Đức. Trái với quan điểm trước đó của ông, Stalin hứa sẽ tổ chức bầu cử tự do ở Ba Lan, mặc cho sự hiện diện của một chính phủ lâm thời do Liên Xô chống lưng cai quản những vùng bị Hồng Quân chiếm. Roosevelt muốn Liên Xô tham chiến ở mặt trận Thái Bình Dương chống lại Nhật Bản, với hy vọng sẽ nhanh chóng kết thúc chiến tranh và giảm bớt thiệt hại cho Mỹ. Một điều kiện để Liên Xô tuyên bố chiến tranh với Nhật là Mỹ chính thức công nhận Mông Cổ là nước độc lập ngoài Trung Quốc (Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ đã là một nước vệ tinh của Liên Xô từ 1924 đến Thế chiến II). Liên Xô cũng muốn sự công nhận của quyền lợi Liên Xô trong Đường sắt Đông Trung Quốc và Cảng Lữ Thuận chính thức nhưng không yêu cầu Trung Quốc cho thuê. Những điều kiện này được chấp thuận mà không có sự tham gia của Trung Quốc. Liên Xô cũng yêu cầu trao trả phía Nam đảo Sakhalin, vốn bị Nhật Bản xâm chiếm trong Chiến tranh Nga–Nhật năm 1905, và Nhật nhượng lại Quần đảo Kuril. Cả hai yêu cầu được Tổng thống Truman chấp thuận. Đáp lại, Stalin cam kết Liên Xô sẽ tham gia mặt trận Thái Bình Dương ba tháng sau khi Đức bại trận. Sau này, ở Postdam, Stalin hứa với Truman sẽ tôn trọng sự thống nhất dân tộc của Triều Tiên, nơi lính Xô viết chiếm đóng một phần. Liên Xô cũng đồng ý tham gia Liên Hợp Quốc với quyền phủ quyết cho thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an, đảm bảo mỗi quốc gia có thể ngăn chặn quyết định ngoài ý muốn. Cả ba nhà lãnh đạo thông qua thỏa thuận của Ủy ban Cố vấn châu Âu về ranh giới các vùng chiếm đóng của Đức với ba vùng chiếm đóng cho ba quốc gia Đồng Minh chủ chốt. Họ cũng đồng ý cho Pháp một vùng chiếm đóng kề vùng của Anh và Mỹ, nhưng de Gaulle giữ quan điểm từ chối vùng của Pháp được định ranh với sự vắng mặt của ông. De Gaulle ra lệnh cho quân Pháp chiếm đóng Stuttgart, và chỉ rút quân khi bị Mỹ đe dọa ngừng cung cấp viện trợ kinh tế. Churchill ở Yalta cho rằng Pháp cần phải trở thành một thành viên của Hội đồng Kiểm soát Đồng Minh cho Đức. Stalin phản đối đề xuất này cho đến khi Roosevelt ủng hộ Churchill, nhưng Stalin vẫn cương quyết không cho Pháp tham gia Ủy ban Tái thiết Đồng Minh đặt tại Moscow và chỉ đồng ý tại Hội nghị Postdam. Ngoài ra, ba nước cũng nhất trí tái thiết tất cả chính phủ cũ cho những nước bị xâm lược, ngoại trừ Romania, Bulgaria, và Ba Lan, với chính phủ lưu vong bị Stalin bác bỏ, và tất cả thường dân sẽ được hồi hương. Tuyên bố Giải phóng châu Âu Tuyên bố Giải phóng châu Âu được viết bởi Winston Churchill, Franklin D. Roosevelt, và Joseph Stalin trong hội nghị Yalta. Tuyên bố là lời hứa cho phép người dân châu Âu "tạo nên những thể chế dân chủ của chính họ", cam kết "thành lập những chính phủ đại diện cho ý chí của nhân dân bằng bầu cử tự do sớm nhất có thể". Lời hứa này tương tự với những dòng của Hiến chương Đại Tây Dương cho "quyền của tất cả người dân được phép chọn thể chế chính phủ của họ". Những điểm chính Những điểm chính của hội nghị bao gồm: Nhất trí ưu tiên đầu hàng không điều kiện của Đức Quốc xã. Sau cuộc chiến, Đức và Berlin sẽ bị chia tách thành bốn vùng chiếm đóng. Stalin đồng ý Pháp sẽ có vùng chiếm đóng thứ tư ở Đức nếu nó được lấy từ vùng của Mỹ và Anh. Đức sẽ thực hiện phi quân sự hóa và tiêu diệt chủ nghĩa quốc xã. Các nước Đồng Minh sẽ đưa ra những biện pháp ngăn chặn Đức hồi phục quân đội, xóa bỏ chủ nghĩa quân đội và giới chức quốc xã cấp cao, trừng phạt những tội phạm chiến tranh. Đức sẽ bồi thường chiến tranh bằng lao động cưỡng bức để đền bù thiệt hại cho những nạn nhân của Đức Quốc xã. Tuy nhiên, những người lao động cũng phải thu hoạch mùa vụ, khai thác urani, và làm những việc khác (xem thêm Lao động cưỡng bức người Đức sau Chiến tranh thế giới thứ hai và Lao động cưỡng bức người Đức tại Liên Xô). Thành lập ủy ban bồi thường đặt tại Liên Xô. Tình trạng của Ba Lan được thảo luận. Các nước nhất trí công nhận Chính phủ lâm thời Cộng hòa Ba Lan do Liên Xô thiết lập "trên cơ sở dân chủ". Biên giới đông Ba Lan đi theo Đường Curzon, và Ba Lan sẽ nhận lãnh thổ đền bù từ Đức ở phía tây. Stalin cam kết cho phép bầu cử tự do ở Ba Lan. Stalin cam kết tham gia vào Liên Hợp Quốc. Stalin yêu cầu 16 nước cộng hòa của Liên Xô trở thành thành viên Liên Hợp Quốc. Đề xuất này được xem xét, nhưng 14 nước bị từ chối. Truman đồng ý trao tư cách thành viên cho Ukraina và Byelorussia trong khi giữ quyền thêm hai phiếu cho Hoa Kỳ. Stalin đồng ý tham chiến với Đế quốc Nhật Bản "trong vòng hai đến ba tháng sau khi Đức đầu hàng và cuộc chiến ở châu Âu kết thúc". Kết quả là Liên Xô chiếm đóng Nam Sakhalin và Quần đảo Kuril, cảng Dalian được quốc tế hóa, và Liên Xô cho thuê cảng Arthur. Đối với việc ném bom Nhật Bản, các nước thỏa thuận sử dụng máy bay B-29 của Lực lượng Phòng không Lục quân Hoa Kỳ gần cửa sông Amur thuộc vùng Komsomolsk-Nikolaevsk, nhưng kế hoạch này không diễn ra. Tướng quân Aleksei Antonov nói rằng Hồng Quân sẽ chiếm lấy nửa phía nam của Đảo Sakhalin và mong muốn phía Mỹ hỗ trợ trong việc bảo vệ Kamchatka. Tội phạm chiến tranh quốc xã sẽ bị truy tìm và xét xử tại nơi tội ác của họ diễn ra. Những lãnh đạo quốc xã bị xử tử. Một "Ủy ban Chia tách Đức" được thiết lập, với mục đích xem xét việc phân chia Đức ra thành những nước nhỏ. Một số đề xuất phân chia được minh họa như sau: Trật tự hai cực Yalta Sự kiện này cũng dẫn đến việc hình thành Trật tự lưỡng cực Yalta là việc phân chia khu vực có ảnh hưởng giữa các nước lớn của phe đồng minh tại Hội nghị. Nội dung của hội nghị về việc kết thúc chiến tranh: Ba cường quốc thống nhất mục đích là tiêu diệt tận gốc Chủ nghĩa Phát xít Đức và Chủ nghĩa quân phiệt Nhật. Liên Xô sẽ tham gia chiến tranh chống Nhật tại Châu Á sau khi chiến tranh ở châu Âu kết thúc. Ba cường quốc thống nhất sẽ thành lập một tổ chức để giữ gìn hòa bình và an ninh thế giới (mà sau này là Liên Hợp Quốc). Hội nghị đã thông qua các quyết định quan trọng về việc phân chia ảnh hưởng của 2 cường quốc Liên Xô và Hoa Kỳ. Theo đó, Liên Xô duy trì ảnh hưởng Đông Âu, Đông Đức, Đông Berlin, quần đảo Kuril, Bắc Triều Tiên, Đông Bắc Trung Quốc và Mông Cổ; tương tự Hoa Kỳ cũng duy trì ảnh hưởng ở phần còn lại của châu Âu (Tây Âu), Tây Đức, Tây Berlin, Nam Triều Tiên, phần còn lại của Nhật Bản, ở bán đảo Triều Tiên, quân đội Liên Xô chiếm đóng miền Bắc, quân đội Mỹ chiếm đóng miền Nam lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới quân sự, nhằm tạo cơ sở cho việc gìn giữ trật tự thế giới sau khi chiến tranh kết thúc. Anh, Pháp được khôi phục khu vực ảnh hưởng cũ. Áo và Phần Lan trở thành nước trung lập. Vùng Mãn Châu, đảo Đài Loan và quần đảo Bành Hồ được trao trả lại cho Trung Quốc. Ngoài ra, theo thỏa thuận của Hội nghị Potsdam, lấy vĩ tuyến 16 làm ranh giới, việc giải giáp quân đội Nhật được giao cho quân đội Anh về phía Nam và quân đội Trung Hoa Dân Quốc về phía Bắc. Trật tự 2 cực Yalta vào năm 1945 đã góp phần hình thành hai hệ thống xã hội đối lập: Tư bản chủ nghĩa và Xã hội chủ nghĩa. Nước Đức chia thành hai nhà nước với hai chế độ chính trị khác nhau: Cộng hòa Liên bang Đức ở phía Tây và Cộng hòa Dân chủ Đức phía Đông. Sự chia cắt thành Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc mà vẫn còn tồn tại cho đến bây giờ. Tại Việt Nam, giới tuyến quân sự tạm thời là vĩ tuyến 17 giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu ở phía Bắc và Quốc gia Việt Nam thuộc Liên hiệp Pháp do Bảo Đại làm quốc trưởng ở phía Nam theo Hiệp định Geneve 1954 là hệ quả của các thỏa thuận giữa các nước đồng minh 1943 đến 1945. Sau 1956, Pháp rút quân, chính phủ Bảo Đại vốn thừa kế Liên hiệp Pháp, đã bị thay thế bởi sự lật đổ của Ngô Đình Diệm bằng việc tổ chức một cuộc Trưng cầu dân ý phế truất Quốc trưởng Bảo Đại vào năm 1955 đương chuyến công du của ông sang Pháp. Sau đó đã cấm không cho Bảo Đại về miền Nam Việt Nam. Những thỏa thuận của 3 cường quốc ở Hội nghị Yalta như vậy đã xâm phạm đến vấn đề chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ cũng như lợi ích dân tộc của các quốc gia này. Sau chiến tranh, hai hệ thống xã hội nêu trên càng được phát triển bởi: Kế hoạch Marshall đối với các nước Tây Âu của Mĩ. Sự thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) vào năm 1949 của khối các nước Xã hội Chủ nghĩa. Trải qua hơn 40 năm, "Trật tự lưỡng cực Yalta" đã từng bước bị xói mòn và sau những biến động to lớn ở Đông Âu và Liên Xô trong những năm 1988–1991, "Trật tự lưỡng cực Yalta" đã bị sụp đổ, do Khối Đông Âu và các liên minh trong phạm vi ảnh hưởng chủ yếu của Liên Xô (liên minh quân sự – khối Hiệp ước Warszawa và liên minh kinh tế – khối SEV) đã bị tan vỡ và do đó thế "lưỡng cực" của hai siêu cường Hoa Kỳ và Liên Xô trong trật tự thế giới cũ đã bị phá vỡ. Thuật ngữ "Trật tự hai cực Yalta" thường chỉ được dùng trong sách giáo khoa các nước theo Xã hội chủ nghĩa. Chú thích Hội nghị Chiến tranh thế giới thứ hai Quan hệ đa phương Nga Quan hệ quốc tế năm 1945 Stalin
Dan Brown (s. ngày 22 tháng 6 năm 1964) là một nhà văn Mỹ chuyên viết tiểu thuyết hư cấu, bao gồm loạt truyện về nhân vật Robert Langdon: Thiên thần và ác quỷ (2000), Mật mã Da Vinci (2003), Biểu tượng thất truyền (2009), Hỏa ngục (2013) và Nguồn cội (2017). Nội dung các tiểu thuyết là đi tìm các báu vật trong vòng 24 giờ. Chúng thường chứa các chủ đề lặp lại về mật mã, nghệ thuật và các thuyết âm mưu. Ba trong số những tiểu thuyết của ông đã được chuyển thể thành phim. Tuổi trẻ Dan Brown sinh ngày 22 tháng 6 năm 1964 và gia đình ở Exeter, New Hampshire, ông là con trưởng trong một gia đình có 3 anh em. Mẹ ông, Constance (Connie) là một nhạc sĩ chuyên nghiệp, chơi đàn organ trong nhà thờ. Cha ông, Richard G. Brown là một thầy giáo dạy toán khá nổi tiếng, từng viết sách giáo khoa và dạy toán tại trường Trung học tư thục Phillips Exeter từ năm 1962 và nghỉ hưu năm 1997. Trường Trung học tư thục Phillips Exeter là một trường nội trú độc nhất với yêu cầu các giáo viên cũng phải sống nội trú trong nhiều năm, vì vậy anh em nhà Dan Brown đã được nuôi dạy dưới mái trường này. Môi trường xã hội tại Exeter thời đó hầu như là môi trường Cơ đốc giáo. Brown hát thánh ca trong nhà thờ, tham gia vào trường đạo và dành cả mùa hè để tham dự các cuộc cắm trại của nhà thờ. Tới năm lớp 9, Dan Brown bắt đầu ghi danh học tại trường công lập Phillips Exeter (khóa 1982), sau này, vào các năm 1985 và 1993, em gái Valerie và em trai Gregory của Dan cũng ghi danh học tại đây. Nhạc sĩ và ca sĩ nhạc Pop Sau khi tốt nghiệp trường Phillips Exeter năm 1982, Brown theo học Trường Cao đẳng Amherst, và tại đây ông trở thành thành viên của Hội Psi Upsilon. Ông chơi bóng quần và hát trong câu lạc bộ Amherst Glee, và đã viết tiểu thuyết Alan Lelchuck. Brown tốt nghiệp Trường Cao đẳng Amherst với hai tấm bằng tiếng Anh và Tiếng Tây Ban Nha vào năm 1986, sau đó chân ướt chân ráo bước vào nghề soạn nhạc, và đã từng có tiếng vang với một tổ hợp trong một băng cassette do ông tự phát hành dành cho thiếu nhi với tiêu đề SynthAnimals (Tổ khúc về Động vật) một tuyển tập các ca khúc như "Happy Frogs" (Chú ếch vui vẻ) và "Suzuki Elephants" (Voi Suzzuki), và đã bán được vài trăm bản. Sau đó, ông thành lập công ty thu âm tư nhân Dalliance, và năm 1990 phát hành đĩa CD Perspective (Viễn cảnh), nhằm vào thị trường người lớn và cũng đã bán được vài trăm bản. Năm 1991, Brown chuyển đến Hollywood, theo đuổi nghề ca sĩ-viết ca khúc-nhạc công piano. Để hỗ trợ con đường tiến thân, ông tham gia giảng dạy tại trường Dự bị Beverly Hills. Trong thời gian ở Los Angeles, ông gia nhập Hiệp hội Nhạc sĩ quốc gia, và đã tham gia nhiều hoạt động của tổ chức này. Tại đây, ông đã gặp Blythe Newlon, một phụ nữ hơn ông 12 tuổi, là Chủ tịch Hiệp hội Phát triển Nghệ sĩ. Mặc dù không phải trách nhiệm của mình, bà đã làm nhiều việc có thể nói là "bất thường" nhằm giúp đỡ cho dự án của Brown; Viết thông câo báo chí, thiết kế các chương trình khuyến mại và giới thiệu Brown với những người có thể hỗ trợ cho sự nghiệp của ông. Hai người có mối quan hệ cá nhân, cho dù mãi tới năm 1993, các cộng sự của họ mới biết đến mối quan hệ này khi Brown quay về New Hampshire và Blythe đã đi cùng ông. Hai người kết hôn vào năm 1997, bên bờ hồ Pea Porridge, một địa điểm gần North Conway, New Hampshire. Trong quá trình giúp đỡ Brown phát triển sự nghiệp ca hát, Blythe cũng có ảnh hưởng rất lớn đến việc phát triển nghề viết văn của Brown, tham gia vào rất nhiều các hoạt động quảng bá cho sách của ông. Bà cũng là đồng tác giả của Brown trong những cuốn "Truyện hài hước" viết thời kỳ đầu dưới bút ký "Khuyết danh", và nhiều người cũng suy đoán rằng bà còn tham gia vào nhiều tác phẩm khác nữa. Trong Lời tựa cuốn tiểu thuyết Deception Point (Điểm dối lừa - 2001), Brown đã từng "cảm ơn Blythe Brown vì những nghiên cứu không mệt mỏi và những dữ liệu đầy tính sáng tạo của mình". Năm 1993, Dan Brown phát hành CD mang tên mình với nhiều ca khúc như "976-Love" (Tình yêu 976) và "If You Believe in Love" (Nếu bạn tin vào Tình yêu). Giáo viên tại New England Brown và Blythe quay về quê nhà New Hampshire vào năm 1993. Brown trở thành giáo viên tiếng Anh tại trường cũ Phillips Exeter và dạy Tiếng Tây Ban Nha cho Lớp 7 tại trường Lincoln Akerman, một trường lớp mẫu giáo đến lớp 8 với khoảng 250 học sinh tại trường Hampton Falls. Năm 1994, Dan Brown phát hành CD Angels & Demons (Thiên thần và Ác quỷ). Tác phẩm này tương tự như công trình nghiên cứu ambigram của nghệ sĩ John Langdon sau này được Brown đưa vào tiểu thuyết Angels & Demons - 2000. Một lần nữa Brown lại cảm ơn sự đóng góp quý báu của người vợ trong vai trò " một nhà biên tập, một cộng sự, một tác giả thứ hai, một chuyên gia làm việc không biết mệt mỏi". Đĩa CD này bao gồm những ca khúc như "Here in These Fields" (Trên những cánh đồng này) và bản ballad tôn giáo "All I Believe" (Tất cả những gì tôi tin). Cũng trong năm 1994, trong khi đi nghỉ tại Tahiti ông đọc tiểu thuyết The Doomsday Conspiracy (Âm mưu ngày tận thế) của Sidney Sheldon và quyết định mình sẽ viết một tiểu thuyết hay hơn về đề tài này. Ông bắt đầu viết tiểu thuyết Digital Fortress (Pháo đài số - 1998), và cùng viết một cuốn sách hài hước với vợ 187 Men to Avoid: A Guide for the Romantically Frustrated Woman (187 loại đàn ông nên tránh: Cẩm nang cho người phụ nữ thất bại trong Tình yêu) dưới bút danh "Danielle Brown" (một trong 187 điều ghi trong cuốn sách đó là "Người đàn ông viết sách cẩm nang dành cho phụ nữ"). Trong phần giới thiệu tác giả của cuốn sách có đoạn "Danielle Brown hiện đang sống tại New England, làm công tác giảng dạy, viết sách và xa lánh đàn ông." Tuy nhiên, phần bản quyền cuốn sách vẫn mang tên Dan Brown. Cuốn sách đã bán được vài ngàn bản dưới dạng copy trước khi xuất bản. Tác giả của những cuốn sách bán chạy nhất Năm 1996, Brown thôi không tham gia giảng dạy nữa và chuyên tâm vào nghề viết văn. Cuốn tiểu thuyết Pháo đài số được xuất bản vào năm 1998. Blythe đã quảng bá rất nhiều cho cuốn sách này, viết thông cáo báo chí, đặt chỗ cho Brown trong các chương trình đối thoại trao đổi trên truyền hình, sắp xếp các cuộc phỏng vấn với báo giới. Vài tháng sau, hai người xuất bản cuốn sách hài hước The Bald Book (Những kẻ hói đầu). Đề tên chính thức trên tác phẩm này là vợ ông, nhưng theo lời một đại diện của nhà xuất bản, về cơ bản cuốn sách là tác phẩm của Brown. Mật mã Da Vinci (2003) (The Da Vinci Code, cuốn thứ hai trong bộ tam phẩm viết về nhân vật Robert Langdon của Brown đã gặt hái thành công lớn với gần 10.000 bản khi phát hành và mỗi lần tái bản sau đó cũng với số lượng tương tự. Khi tái bản lần thứ 4, Mật mã Da Vinci, đã trở thành cuốn sách bán chạy nhất, đứng đầu danh sách những cuốn sách bán chạy nhất của nhật báo The New York Times (New York Times Best Seller list) trong suốt tuần đầu tiên khi tái bản. Giờ đây, tiểu thuyết này được đánh giá là một trong những cuốn sách nổi tiếng nhất của mọi thời đại (mặc dù xung quanh cuốn tiểu thuyết này có những ý kiến phê bình trái ngược nhau) với 60,5 triệu bản sách được bán trên toàn cầu tính đến năm 2006. Thành công của cuốn tiểu thuyết này cũng đã giúp các tác phẩm của Brown trước đó bán chạy hơn. Năm 2004, toàn bộ 4 tiểu thuyết của Brown đã lọt vào danh sách của New York Times trong tuần đầu tái bản, và năm 2005, ông được tạp chí Time bình chọn là một trong 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất trong năm. Tạp chí Forbes đã xếp hạng Dan Brown thứ 12 trong danh sách "Celebrity 100" (100 người nổi tiếng) năm 2005 và ước tính thu nhập hàng năm của ông vào khoảng 76,5 triệu USD. Tạp chí Time ước tính, chỉ riêng cuốn tiểu thuyết Mật mã Da Vinci đã mang về cho Brown khoảng 250 triệu USD. Brown có niềm say mê với mật mã, khóa mã, đề tài nổi bật trong các tác phẩm của ông. Tuy nhiên, nhiều người trong giới phê bình cũng đã đặt dấu hỏi về cách sử dụng mật mã đảo ký tự và khái niệm kỹ thuật của Brown. Hiện nay, sách của Dan Brown đã được dịch ra 40 thứ tiếng khác nhau. Năm 2006, hãng Columbia Pictures đã phát hành bộ phim Mật mã Da Vinci dựa theo tiểu thuyết cùng tên của Dan Brown, do Ron Howard đạo diễn. Bộ phim có sự tham gia của Tom Hanks trong vai Robert Langdon, Audrey Tautou trong vai Sophie Neveu và Ian McKellen trong vai Leigh Teabing. Đây được xem là bộ phim được trông đợi nhiều nhất của năm 2006, và đã được chọn chiếu trong đêm khai mạc Liên hoan phim Cannes ngày 17 tháng 5. Brown cũng có tên trong danh sách nhà sản xuất của bộ phim cũng như là người xây dựng những mật mã xuất hiện trong phim. Một trong những ca khúc ông tự sáng tác và trình diễn, "Phiano", cũng được chọn làm nhạc nền cho phim. Ngoài ra, 2 tác phẩm Thiên thần và ác quỷ (2000) và Biểu tượng thất truyền (2009) cũng đã làm say mê nhiều độc giả trên thế giới. Các vấn đề về vi phạm bản quyền Vào tháng 8 năm 2005, Căn cứ trên những điểm tương đồng của Mật Mã Da Vinci – The Da Vinci Code và tiểu thuyết của Perdue là The Da Vinci Legacy (1983) và Daughter of God (2000), tác gia Lewis Perdue đã thất bại trong vụ kiện Brown đạo văn. Thẩm phán George Daniels đã nói rằng: "Xét trên một cách tổng quan thì không thể đưa ra kết luận rằng The Da Vinci Code giống với Daughter of God". Tháng 4 năm 2006, Brown đã thắng vụ kiện bản quyền được khởi xướng bởi Micheal Baigent và Richard Leigh, những người đã buộc tội Brown ăn cắp ý tưởng từ cuốn sách xuất bản năm 1982 của họ là Holy Blood Holy Grail cho cuốn sách năm 2003 của ông là The Da Vinci Code (Mật Mã Da Vinci). Trong cuốn Holy Blood Holy Grail,Baigent, Leigh, và đồng tác giả Henry Lincoln đã phát triển giả thuyết Jesus và Mary Magdalene đã kết hôn và có 1 đứa con và dòng máu của người vẫn còn duy trì cho đến ngày nay. Ngày 28 tháng 3 năm 2007, nhà xuất bản của Brown, Random Houses, đã thắng vụ kiện nhiều người quan tâm liên quan đến vi phạm bản quyền Tòa án phúc thẩm của nước Anh và xứ Wales đã chối bỏ mọi nỗ lực của Baigent và Leigh và hai người này đã phải chịu toàn bộ án phí lên tới gần 6 triệu đô. Từ thiện Tháng 10 năm 2004, Brown và người thân của ông đã quyên góp 2.2 triệu đô cho Học viện Phillips Exerter để giúp trang bị máy tính và các thiết bị công nghệ cao cho sinh viên. Chỉ trích Phong cách viết văn của Brown bị chỉ trích là vụng về. Nhiều nhà phê bình tập trung vào phần viết của Brown ở phần lời nói đầu của The Da Vinci Code rằng cuốn tiểu thuyết này dựa trên sự thật trên các mối liên hệ với Opus Dei và Tu Viện Sion và rằng "tất cả các mô tả nghệ thuật kiến trúc, các tư liệu trong cuốn tiểu thuyết đó là chính xác". Trong một cuộc phỏng vấn với Matt Lauer trên The Today Show vào tháng 9 năm 2009, Brown đã đáp lại bằng cách nói rằng. "tôi làm mọi thứ có chủ ý và riêng biệt trong những cuốn sách của mình. Và đó là pha trộn thực tế và viễn tưởng theo một cách hiện đại và hiệu quả, để kể một câu truyện, Có nhiều một số người hiểu được những việc mà tôi làm, và họ đọc chúng trên tàu, xe và có một khoảng thời gian tuyệt vời và có những người khác lại đọc những cuốn sách của tác giả khác". Tác phẩm Các tiểu thuyết của ông đều đã được dịch sang tiếng Việt Pháo đài số (Digital Fortress), 1998 Thiên thần và ác quỷ (Angels and demons), 2000 Điểm dối lừa (The deception point), 2001 Mật mã Da Vinci (The Da Vinci code), 2003 Biểu tượng thất truyền (The Lost Symbol), 2009 Hỏa ngục (Inferno), 2014 Nguồn cội (Origin), 2017
Thành phố trực thuộc trung ương là một loại hình đơn vị hành chính cấp tỉnh của Việt Nam. Đây là các thành phố nằm dưới sự quản lý của trung ương. Khác với các thành phố thuộc tỉnh và thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương là chỉ tương đương cấp huyện, thì Thành phố trực thuộc trung ương tương đương cấp tỉnh. Thành phố trực thuộc trung ương là các đô thị loại đặc biệt hoặc đô thị loại I, và được xác định là các đô thị trung tâm cấp quốc gia. Đây là các thành phố lớn, có nền kinh tế phát triển, là khu vực quan trọng về quân sự, chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội là động lực phát triển cho cả quốc gia chứ không còn nằm bó hẹp trong một tỉnh, hay một vùng (liên tỉnh) nữa. Các thành phố này có cơ sở hạ tầng và khoa học công nghệ phát triển, có nhiều cơ sở giáo dục bậc cao, dân cư đông, thuận lợi về giao thông vận tải. Dưới thành phố trực thuộc trung ương có các đơn vị hành chính cấp huyện gồm huyện tại vùng nông thôn và quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương tại vùng đô thị. Hiện nay, thủ đô Hà Nội là thành phố trực thuộc trung ương duy nhất có thị xã trực thuộc (thị xã Sơn Tây). Trước đây, Kiến An và Đồ Sơn cũng đã từng là hai thị xã trực thuộc thành phố Hải Phòng, nhưng nay đã trở thành các quận của Hải Phòng. Ngày 1 tháng 1 năm 2021, thành phố Thủ Đức thuộc Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương đầu tiên được thành lập tại Việt Nam. Quy định trong luật pháp Cấp hành chính Trong Hiến pháp 2013, Chương IX: Chính quyền địa phương, Khoản 1 Điều 110 có viết: 1. Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau: Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh thành chia thành: huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương; Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố chia thành phường và xã; quận chia thành phường. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập. Trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 (sửa đổi, bổ sung 2019), quy định tại Điều 2: Đơn vị hành chính, Chương I: Những quy định chung: Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có: 1. Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh); 2. Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện); 3. Xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã); 4. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Như vậy, thành phố trực thuộc trung ương nằm ở cấp hành chính thứ nhất trong 3 cấp hành chính (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã) của nước Việt Nam. Tiêu chuẩn của đơn vị hành chính Theo Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành năm 2016, tại Điều 4, Mục 2: Tiêu chuẩn của đơn vị hành chính đô thị, Chương I: Tiêu chuẩn của đơn vị hành chính thì một thành phố trực thuộc trung ương cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn như sau: Điều 4. Tiêu chuẩn của thành phố trực thuộc trung ương 1. Quy mô dân số từ 1.500.000 người trở lên. 2. Diện tích tự nhiên từ 1.500 km² trở lên. 3. Đơn vị hành chính trực thuộc: a) Số đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc có từ 11 đơn vị trở lên; b) Tỷ lệ số quận trên tổng số đơn vị hành chính cấp huyện từ 60% trở lên. 4. Đã được công nhận là đô thị loại đặc biệt hoặc loại I; hoặc khu vực dự kiến thành lập thành phố trực thuộc trung ương đã được phân loại đạt tiêu chí của đô thị loại đặc biệt hoặc loại I. 5. Cơ cấu và trình độ phát triển kinh tế - xã hội đạt quy định tại Phụ lục 1 ban hành kèm theo Nghị quyết này. Các thành phố trực thuộc trung ương Hiện nay Việt Nam có 5 thành phố trực thuộc trung ương.
136 (một trăm ba mươi sáu) là một số tự nhiên ngay sau 135 và ngay trước 137.
137 (một trăm ba mươi bảy) là một số tự nhiên ngay sau 136 và ngay trước 138
138 (một trăm ba mươi tám) là một số tự nhiên ngay sau 137 và ngay trước 139.
139 (một trăm ba mươi chín) là một số tự nhiên ngay sau 138 và ngay trước 140.
140 (một trăm bốn mươi) là một số tự nhiên ngay sau 139 và ngay trước 141.
141 (một trăm bốn mươi mốt) là một số tự nhiên ngay sau 140 và ngay trước 142.
142 (một trăm bốn mươi hai) là một số tự nhiên ngay sau 141 và ngay trước 143.
143 (một trăm bốn mươi ba) là một số tự nhiên ngay sau 142 và ngay trước 144.
144 (một trăm bốn mươi bốn) là một số tự nhiên ngay sau 143 và ngay trước 145. Số 144 là số chính phương của số 12 và là số Fibonacci thứ 12
145 (một trăm bốn mươi lăm) là một số tự nhiên ngay sau 144 và ngay trước 146.
146 (một trăm bốn mươi sáu) là một số tự nhiên ngay sau 145 và ngay trước 147.
147 (một trăm bốn mươi bảy) là một số tự nhiên ngay sau 146 và ngay trước 148.
148 (một trăm bốn mươi tám) là một số tự nhiên ngay sau 147 và ngay trước 149.
149 (một trăm bốn mươi chín) là một số tự nhiên ngay sau 148 và ngay trước 150.
150 (một trăm năm mươi) là một số tự nhiên ngay sau 149 và ngay trước 151.
151 (một trăm năm mươi mốt) là một số tự nhiên ngay sau 150 và ngay trước 152. 151 là một số nguyên tố thứ 36.
152 (một trăm năm mươi hai) là một số tự nhiên ngay sau 151 và ngay trước 153.
153 (một trăm năm mươi ba) là một số tự nhiên ngay sau 152 và ngay trước 154. Đặc điểm toán học 153= 1! + 2! + 3! + 4! + 5! 153 = 1^3 + 5^3 + 3^3
154 (một trăm năm mươi bốn) là một số tự nhiên ngay sau 153 và ngay trước 155.
155 (một trăm năm mươi lăm) là một số tự nhiên ngay sau 154 và ngay trước 156.
156 (một trăm năm mươi sáu) là một số tự nhiên ngay sau 155 và ngay trước 157.
157 (một trăm năm mươi bảy) là một số tự nhiên ngay sau 156 và ngay trước 158.
158 (một trăm năm mươi tám) là một số tự nhiên ngay sau 157 và ngay trước 159.
159 (một trăm năm mươi chín) là một số tự nhiên ngay sau 158 và ngay trước 160.
Trong toán học 160 (một trăm sáu mươi) là một số tự nhiên ngay sau 159 và ngay trước 161. Trong viễn thông Số ký tự cho phép trong một dịch vụ tin nhắn ngắn tiêu chuẩn
161 (một trăm sáu mươi mốt) là một số tự nhiên ngay sau 160 và ngay trước 162.
162 (một trăm sáu mươi hai) là một số tự nhiên ngay sau 161 và ngay trước 163.
163 (một trăm sáu mươi ba) là một số tự nhiên ngay sau 162 và ngay trước 164.
164 (một trăm sáu mươi bốn) là một số tự nhiên ngay sau 163 và ngay trước 165.
165 (một trăm sáu mươi lăm) là một số tự nhiên ngay sau 164 và ngay trước 166.
166 (một trăm sáu mươi sáu) là một số tự nhiên ngay sau 165 và ngay trước 167.
167 (một trăm sáu mươi bảy) là một số tự nhiên ngay sau 166 và ngay trước 168.
168 (một trăm sáu mươi tám) là một số tự nhiên ngay sau 167 và ngay trước 169.
169 (một trăm sáu mươi chín) là một số tự nhiên ngay sau 168 và ngay trước 170.
170 (một trăm bảy mươi) là một số tự nhiên ngay sau 169 và ngay trước 171.
171 (một trăm bảy mươi mốt) là một số tự nhiên ngay sau 170 và ngay trước 172.
172 (một trăm bảy mươi hai) là một số tự nhiên ngay sau 171 và ngay trước 173.
173 (một trăm bảy mươi ba) là một số tự nhiên ngay sau 172 và ngay trước 174.
174 (một trăm bảy mươi bốn) là một số tự nhiên ngay sau 173 và ngay trước 175.
175 (một trăm bảy mươi lăm) là một số tự nhiên ngay sau 174 và ngay trước 176.
176 (một trăm bảy mươi sáu) là một số tự nhiên ngay sau 175 và ngay trước 177.
177 (một trăm bảy mươi bảy) là một số tự nhiên ngay sau 176 và ngay trước 178.
178 (một trăm bảy mươi tám) là một số tự nhiên ngay sau 177 và ngay trước 179.
179 (một trăm bảy mươi chín) là một số tự nhiên ngay sau 178 và ngay trước 180. Số học Số 179 là một số nguyên tố, nghĩa là chỉ chia hết cho 1 và cho chính nó. 179 và số lẻ tiếp sau nó, 181 tạo thành cặp số nguyên tố Chen
180 (một trăm tám mươi) là một số tự nhiên ngay sau 179 và ngay trước 181.
181 (một trăm tám mươi mốt) là một số tự nhiên ngay sau 180 và ngay trước 182.
182 (một trăm tám mươi hai) là một số tự nhiên ngay sau 181 và ngay trước 183.
183 (một trăm tám mươi ba) là một số tự nhiên ngay sau 182 và ngay trước 184.
184 (một trăm tám mươi bốn) là một số tự nhiên ngay sau 183 và ngay trước 185.
185 (một trăm tám mươi lăm) là một số tự nhiên ngay sau 184 và ngay trước 186.
186 (một trăm tám mươi sáu) là một số tự nhiên ngay sau 185 và ngay trước 187.
187 (một trăm tám mươi bảy) là một số tự nhiên ngay sau 186 và ngay trước 188.
188 (một trăm tám mươi tám) là một số tự nhiên ngay sau 187 và ngay trước 189. Trong toán học Số 188 là số chẵn. Số 188 có 6 ước: 1, 2, 4, 47, 94, 188. Số 188 là hợp số. Số 188 là số thiếu hụt. Số 188 là số may mắn. Số 188 là số phi totient.
189 (một trăm tám mươi chín) là một số tự nhiên ngay sau 188 và ngay trước 190.
190 (một trăm chín mươi) là một số tự nhiên ngay sau 189 và ngay trước 191.
191 (một trăm chín mươi mốt) là một số tự nhiên ngay sau 190 và ngay trước 192.
192 (một trăm chín mươi hai) là một số tự nhiên liền sau 191 và liền trước 193. Tính chất toán học 192 là số chẵn 192 là tổng của mười số nguyên tố liên tục (5 + 7 + 11 + 13 + 17 + 19 + 23 + 29 + 31 + 37) 192 là hợp số, tạo thành bởi tích của các thừa số 2 × 2 × 2 × 2 × 2 × 2 × 3. 192 là số nhỏ nhất có 14 ước số là 1, 2, 3, 4, 6, 8, 12, 16, 24, 32, 48, 64, 96, và 192.
193 (một trăm chín mươi ba) là một số tự nhiên ngay sau 192 và ngay trước 194.