text
stringlengths 0
512k
|
---|
Linda Caldwell Fuller (sinh ngày 17 tháng 2 năm 1941 tại Tuscaloosa, tiểu bang Alabama), cùng với chồng, Millard, đồng sáng lập Tổ chức Hỗ trợ Gia cư (Habitat for Humanity, hoặc Habitat). Năm 1976, Linda và chồng cùng khởi xướng mục vụ Cơ Đốc hỗ trợ nhà ở cho người nghèo, sau khi đi tiên phong trong chương trình cung cấp nhà ở với giá rẻ tại những vùng nông thôn tây bắc nước Mỹ (1968-1972) nối tiếp với ba năm làm việc ở Phi châu (1973–1976) trong nỗ lực nhắm vào những mục tiêu tương tự. Từ đó, dưới sự lãnh đạo của Millard và Linda, phong trào từ thiện Cơ Đốc này đã phát triển để trở thành mục vụ nhà ở với quy mô hoạt động trên toàn cầu, hiện hữu như một biểu tượng cho sự thành công trong nỗ lực đối đầu với cuộc khủng hoảng về nhà ở cho người nghèo.
Khi Linda chuyên tâm cho văn bằng Cử nhân Giáo dục Tiểu học tại Đại học Huntington ở Montgomery, Alabama, chồng cô và một bạn học bắt tay xây dựng một công ty thị trường. Kỹ năng cao trong lĩnh vực doanh nghiệp đã giúp họ trở nên triệu phú ngay trong tuổi hai mươi. Nhưng lúc đang ở đỉnh cao của sự thành đạt, cuộc hôn nhân của Linda và Millard ngày càng trở nên tồi tệ, khiến họ phải ngồi lại với nhau để tái thẩm định các giá trị và lối sống. Chính cuộc "tra vấn tâm linh" này giúp họ hoà giải với nhau và tái khẳng định lòng tận hiến cho các giá trị Cơ Đốc.
Rồi thì vợ chồng Fuller tiến hành một bước đi ngoạn mục: quyết định bán toàn bộ tài sản để cho người nghèo và khởi sự tìm kiếm lý tưởng sống cho cuộc đời mình. Cuộc hành trình tìm kiếm này dẫn họ đến Nông trang Koinonia, một cộng đồng Cơ Đốc toạ lạc gần Americus, ở đó các thành viên cộng đồng thực hành giáo huấn Cơ Đốc giáo trong cuộc sống hằng ngày.
Cùng với nhà sáng lập Nông trang Koinonia, Clarence Jordan, và những người khác, Linda và Millard Fuller khởi xướng vài chương trình hoạt động, trong đó có mục vụ về nhà ở. Họ chọn xây dựng nhà ở trên nguyên tắc không kiếm lời, cũng không tính lãi trên tiền trả góp, như thế có thể giúp cung ứng nhà ở cho nhiều gia đình nghèo.
Mỗi gia đình mua nhà đều được yêu cầu đầu tư công lao động cho chính căn nhà của mình và cho nhà của những người khác. Điều này giúp làm giảm giá thành của mỗi căn nhà, gia tăng lòng tự hào của người mua nhà, và phát triển những mối quan hệ tích cực. Ngân quỹ xây dựng được đưa vào quỹ xoay vòng, dùng để xây dựng thêm nhà ở. Tiền bán nhà được đưa trở lại vào ngân quỹ, như thế có thêm tiền để xây dựng nhà mới.
Năm 1973, gia đình Fuller gồm bố mẹ và bốn người con đến sống tại châu Phi để thực hiện một phép thử cho mô hình này ở hải ngoại. Được tài trợ bởi Giáo hội Cơ Đốc (Disciples of Christ), họ đã chứng minh sự thành công của đề án để trở nên một chương trình khả thi tại các quốc gia đang phát triển. Linda và Millard tin rằng mô hình nên được ứng dụng và phát triển rộng rãi trên toàn cầu. Yếu tố không kiếm lời cũng không tính tiền lãi lập nền trên một câu Kinh Thánh dạy rằng khi cho người nghèo vay mượn không nên tính tiền lãi ("Trong dân ta có kẻ nghèo nàn ở cùng ngươi, nếu ngươi cho người mượn tiền, chớ xử với họ như người cho vay, cũng chẳng nên bắt họ phải chịu tiền lãi". Xuất Ai Cập ký 22. 25).
Năm 1976, sau khi về nước, Linda và Millard gặp gỡ các thành viên của cộng đồng Koinonia cùng vài người khác và quyết định thành lập một tổ chức mới được đặt tên Habitat for Humanity (Tổ chức Hỗ trợ Gia cư) với mục tiêu cải thiện tình trạng thiếu hụt nhà ở cho người nghèo trên khắp thế giới. Sau khi bị buộc phải rời khỏi Habitat, Linda và Millar thành lập một tổ chức mới gọi là Trung tâm Gia cư Fuller, kêu gọi gây quỹ trợ giúp các nhóm xây dựng nhà ở cho người nghèo.
Linda Fuller được trao tặng nhiều giải thưởng, một trong những phần thưởng vinh dự nhất là Giải thưởng Phục vụ Công cộng Harry S. Truman được trao tặng năm 1994. Bà cũng đã nhận bảy học vị tiến sĩ danh dự.
Bà Fuller cùng chồng, các con đã trưởng thành và 8 cháu, hiện đang sống ở các tiểu bang Georgia và Texas với một nếp sống giản dị từ những khoản lợi tức nhỏ bé .
Tác phẩm
Woman to Woman Wisdom: Inspiration for REAL Life, Thomas Nelson Publishers, Co-Authored with Bettie Youngs and Donna Schuller, tháng 8 năm 2005
Down Home Humor, HFHI Creative Services, Editor, 2001
Partners In The Kitchen: Simple, Decent Cooking, Favorite Recipes Press, Editor, 1997
Partners In The Kitchen: Home Sweet Habitat, Favorite Recipes Press, Editor, 1995
Partners In The Kitchen: From Our House To Yours, Favorite Recipes Press, Editor, 1993
The Excitement Is Building, Word, Inc., Co-Authored with Millard Fuller, 1990 |
La trưởng là một cung thể trưởng dựa trên nốt La (A), bao gồm các nốt sau La, Si, Đô♯, Rê, Mi, Fa♯, Sol♯ và La. Bộ khóa của nó có 3 dấu thăng.
Cung thể tương đương (relative key) với nó là cung Fa thăng thứ và cung thể cùng bậc (parallel key) với nó là cung La thứ. La trưởng là cung duy nhất có hợp âm Neapolitan ở đòi hỏi có giáng bất thường.
Trong các tác phẩm âm nhạc, La trưởng không được sử dụng nhiều như Rê trưởng hay Sol trưởng. Bản Giao hưởng số 7 của Beethoven, Giao hưởng số 6 của Bruckner và Giao hưởng số 4 của Mendelssohn đã có một danh sách gần như hoàn chỉnh các bản giao hưởng có sử dụng cung này trong thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Bản Concerto cho đàn Clarinet của Mozart và Clarinet Quintet cũng đều được viết ở cung La trưởng.
Trong âm nhạc thính phòng, La trưởng được sử dụng thường xuyên hơn. Cả Brahms và Franck đều viết các bản sonata cho violon ở cung La trưởng.
Theo lời của Christian Friedrich Daniel Schubart, La trưởng là một cung thể phù hợp cho "tuyên ngôn của tình yêu trong trắng,... sự hy vọng được nhìn thấy người yêu dấu một lần nữa trong buổi chia tay; niềm hân hoan của tuổi trẻ và niềm tin vào chúa" (declarations of innocent love,... hope of seeing one's beloved again when parting; youthful cheerfulness and trust in God).
Trong dàn nhạc chơi cung này, bộ trống thường được chơi cách một quãng 5 cho La và Mi, hơn là quãng 4 như phần lớn các cung thể khác.
Những bài hát nổi tiếng sử dụng cung này
Happy New Year - ABBA
Is This The Way To Amarillo - Neil Sedaka/Howard Greenfield
Stand By Me - Ben E. King
It's My Party - Lesley Gore
Dancing Queen - ABBA
City of Blinding Lights - U2
Tears In Heaven - Eric Clapton
Country Roads. Take Me home - John Denver
I Will Always Love You - Dolly Parton
Bohemian Rhapsody- Queen
A Summer Song - Chad & Jeremy
Rock Around the Clock - Bill Haley
River Flows In You - Yiruma
Sô nát số 11 cung la trưởng K331-Mozart(chương III là Hành Khúc Thổ Nhĩ Kì-Turkish March nổi tiếng)
Tribute - Yanni. |
La thứ (thường được viết tắt là Am) là một cung thứ dựa trên nốt La (A), bao gồm các nốt nhạc sau La, Si, Đô, Rê, Mi, Fa, Sol và La. Bộ khóa của nó không có dấu thăng cũng như dấu giáng.
Cung thể tương đương (relative key) với nó là cung Đô trưởng và cung thể cùng bậc (parallel key) với nó là cung La trưởng. Các sự thay đổi về giai điệu hay hoà âm trong các phiên bản khác nhau của cung này được viết lại khi cần thiết.
Johann Joachim Quantz coi La thứ cùng với Đô thứ diễn tả "nỗi buồn" có hiệu quả hơn bất cứ cung thứ nào khác.
Những tác phẩm nhạc có sử dụng cung này
Etude 'Winter Wind' - Frédéric Chopin
Sáng tác số 13 - Johann Sebastian Bach
Rondo Alla Turca - Wolfgang Amadeus Mozart
Für Elise - Ludwig van Beethoven
Scottish Symphony - Felix Mendelssohn
Introduction and Rondo Capriccioso - Camille Saint-Saëns
Rhapsody on a Theme of Paganini - Sergei Rachmaninoff
Concerto viết cho Piano - Edvard Grieg
Concerto viết cho Piano - Robert Schumann
Giao hưởng số 6 - Gustav Mahler
Classical Gas - Mason Williams
Những bài hát nổi tiếng
House of the Rising Sun - Traditional
Save Tonight - Eagle Eye Cherry
Anthem for the Year 2000 - Silverchair
Street Spirit (Fade Out) - Radiohead
Smooth Criminal - Alien Ant Farm (bản ban đầu của Michael Jackson)
Californication - Red Hot Chili Peppers (cũng được viết ở cung Đô trưởng)
Otherside - Red Hot Chili Peppers
Dani California - Red Hot Chili Peppers
Mary Jane's Last Dance - Tom Petty and the Heart Breakers
Interlude/tribute to Adam Lambie in the key of a minor - Blonde Sunshine
Stairway to Heaven - Led Zeppelin
Ain't Talkin' 'Bout Love - Van Halen
November Rain - Guns N' Roses
Bad Habit - The Offspring
Pennyroyal Tea - Nirvana
Lover I don't have to Love - Bright Eyes
Here Comes the Rain Again - Eurythmics
Holding Out For a Hero - Bonnie Tyler
Thông tin khác
Chỉ có bài hát "Jane Doe" trong album Songs in A minor của Alicia Keys thật sự là viết ở cung La trưởng. |
Trương Hán Siêu (1274 – 1354, chữ Hán: 張漢超, tên tự là Thăng Phủ hoặc Thăng Am, hiệu Đôn Tẩu) là một vị quan dưới 4 đời vua nhà Trần, từng giữ các chức: Hàn lâm học sĩ, Hành khiển, Hữu ty lang trung, Tả ty lang trung, Thượng thư; khi mất ông được 2 vua truy tặng chức Thái bảo rồi Thái phó. Ông là một danh nhân văn hóa lớn đời Trần, kiệt tác văn chương nổi tiếng nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông là bài Bạch Đằng giang phú (Phú sông Bạch Đằng) – một áng thiên cổ hùng văn rất được lưu truyền.
Tiểu sử
Trương Hán Siêu quê ở làng Phúc Am, huyện Yên Ninh, lộ Trường Yên (nay là phường Phúc Thành, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình).
Theo chính sử, Trương Hán Siêu xuất thân là môn khách của Trần Hưng Đạo, tính tình cương nghị, học vấn uyên thâm. Lược truyện các tác giả Việt Nam viết: Trương Hán Siêu "lập được nhiều công trạng trong 2 trận đánh giặc Nguyên; Từ điển văn học ghi: Trương Hán Siêu "có ít nhiều đóng góp trong 2 cuộc kháng chiến chống Nguyên lần thứ 2 và thứ 3".
Như vậy, Trương Hán Siêu tham dự cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 2 và thứ 3 khi ông còn trẻ và ông cùng với Nguyễn Trung Ngạn là những vị quan thời Trần thọ hơn 80 tuổi.
Sự nghiệp chính trị
Trương Hán Siêu là nhà chính trị, nhà thơ, nhà sử học danh tiếng, học thức sâu rộng, được các vua Trần luôn tôn gọi là Thầy chứ không gọi tên húy. Ông từng làm nhiều chức quan trải suốt 4 đời vua nhà Trần:
Năm 1308, vua Trần Anh Tông phong Trương Hán Siêu làm Hàn lâm học sĩ.
Năm, 1314, vua Trần Minh Tông phong Trương Hán Siêu giữ chức Hành khiển.
Năm 1339, vua Trần Hiến Tông phong Trương Hán Siêu làm Hữu ty lang trung.
Năm 1342, vua Trần Dụ Tông phong Trương Hán Siêu làm Tả ty lang trung kiêm Kinh lược sứ ở Lạng Giang, rồi thăng Tả gián nghị đại phu năm 1345 và năm 1351 làm Tham tri chính sự (như chức Thượng thư). Năm Quý Tỵ 1353, ông lãnh quân Thần sách ra trấn nhậm ở Hóa Châu (Huế), giữ đất này yên ổn. Tháng 11 năm sau, ông cáo bệnh xin về nghỉ, nhưng về chưa đến kinh sư thì ông mất. Sau khi ông mất, vua cho truy tặng hàm Thái bảo
Năm 1363, thượng hoàng Trần Nghệ Tông truy tặng Trương Hán Siêu chức Thái phó và được thờ ở Văn Miếu quốc gia (từ năm 1372), ngang với các bậc hiền triết đời xưa.
Trong Đại Việt sử ký toàn thư, Phan Phu Tiên nhận xét về việc nhà Trần thờ phụng Trương Hán Siêu và Chu Văn An ở Văn miếu như sau:
Bậc danh nho các đời có bài trừ được dị đoan, truyền giữ được đạo thống thì mới được tòng tự ở Văn Miếu, thế là để tỏ rõ đạo học có ngọn nguồn. Nghệ Tông cho Chu An, Trương Hán Siêu được dự vào đó, thì Hán Siêu là người cứng cỏi, bài xích đạo Phật, An sửa mình trong sạch, bền giữ khí tiết, không cầu hiển đạt.
Sự nghiệp văn chương
Trương Hán Siêu là người có học vấn sâu rộng, giàu lòng yêu nước, được các vua đời Trần tôn quý như bậc thầy. Theo Đại Việt Sử Ký, ông là người cứng cỏi bài xích (phản đối) đạo Phật. Các tác phẩm của ông hiện còn 7 bài thơ: Cúc hoa bách vịnh (Vịnh hoa cúc còn 4 bài), Hoá Châu tác (Thơ làm ở Hoá Châu), Dục Thuý sơn (Núi Dục Thuý), Quá Tống đô (Qua kinh đô nhà Tống). Về văn xuôi ông có 2 bài: Khai Nghiêm tự bi ký (Văn bia chùa Khai Nghiêm) và Dục Thuý sơn linh tế tháp ký (Bài ký tháp linh tế núi Dục Thuý), hai bài đều được viết bằng chữ Hán. Riêng hai quyển Hoàng triều đại điển và Hình thư soạn chung với Nguyễn Trung Ngạn, bài biểu Tạ trừ Hàn lâm viện trực học sĩ được dẫn trong Đại Việt sử ký toàn thư và Kiến văn tiểu lục hiện nay vẫn lưu lạc và chưa tìm thấy.
Trương Hán Siêu cũng soạn Linh tế thập ký (bài ký tháp Linh Tế), Quang nghiêm tự bi văn (bài văn bia chùa Quang Nghiêm). Hai bài đó có đề cao Nho học và phê phán Phật giáo. Ông và Nguyễn Trung Ngạn hợp soạn bộ Hoàng triều đại điển và Hình thư đặt nền tảng cho chế độ Phong kiến Việt Nam vận hành theo pháp luật. Ông còn là một nhà văn hoá, có tầm nhìn du lịch sớm nhất Việt Nam.
Bạch Đằng giang phú
Bạch Đằng giang phú (hay Phú sông Bạch Đằng) là tác phẩm xuất sắc của Trương Hán Siêu, đồng thời cũng là tác phẩm tiêu biểu của văn học yêu nước thời Lý - Trần, một đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học và được xem là một áng thiên cổ hùng văn trong lịch sử văn học Việt Nam. Bạch Đằng giang phú thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất và truyền thống đạo lý nhân nghĩa sáng ngời của dân tộc Việt Nam. Do đó, Bạch Đằng giang phú cũng thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp của việc đề cao vai trò, vị trí của con người trước lịch sử. Đây là một áng văn chứa chan niềm tự hào dân tộc, có ý nghĩa tổng kết lại chiến thắng Bạch Đằng thời bấy giờ:
"Giặc tan muôn thuở thăng bình,
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao".
Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu là một trong những bài phú chữ Hán nổi tiếng bậc nhất từ thời Trần còn lại đến nay. Có nhiều vấn đề cần giải mã tác phẩm xuất sắc này, một trong những vấn đề cốt tử làm nên sức sống lâu dài của nó có lẽ chính là nỗi lòng của Trương Thăng Phủ với những vấn đề liên quan đến vận mệnh của vương triều Trần, sâu xa hơn là vận mệnh của nhân dân, dân tộc, của non sông đất nước Đại Việt.
Bạch Đằng giang phú được viết theo phú cổ thể, nguyên tác viết bằng chữ Hán. Cấu tứ của tác phẩm theo hình thức đối đáp giữa chủ và khách. Khách là người yêu cảnh trí thiên nhiên, có thú du ngoạn, tâm hồn khoáng đạt, tâm huyết với lịch sử dân tộc. Khách tìm đến sông Bạch Đằng không chỉ vì yêu thiên nhiên mà còn vì lòng ngưỡng mộ nơi có chiến công oanh liệt và khát vọng tìm hiểu lịch sử dân tộc, noi gương của Tử Trường xưa (sử gia nổi tiếng Trung Quốc đời Hán). Chủ là những bô lão ở ven sông Bạch Đằng mà khách gặp, vừa là dân địa phương, vừa là những người đã từng chứng kiến, từng tham gia chiến trận. Cũng có thể nhân vật bô lão là nhân vật có tính chất hư cấu, tác giả xây dựng lên để dễ dàng bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ về đất nước, dân tộc.
Một số tác phẩm khác
Bài thơ "Dục Thúy Sơn khắc thạch" nói về núi Dục Thúy ở Ninh Bình được khắc bên sườn núi, hãy còn bút tích. Dục Thúy Sơn nghĩa là "núi có hình con chim trả đang tắm gội" - tên này do chính ông đặt cho ngọn núi Non Nước ở quê hương ông.
Nhóm bài thơ "Vịnh Hoa Cúc" do Nguyễn Tấn Hưng dịch:
Trương Hán Siêu trồng hoa cúc bên núi Dục Thúy Sơn, là hoa Sơn kim cúc (Hoàng Hoa). Ngày ngày ông chăm chút cho từng khóm cúc, nhành hoa:
Có lúc ông nhìn trời gió mưa thêm buồn mà than thở:
Khi ở xa, cụ vẫn luôn canh cánh một nỗi nhớ về hoa cúc trên đỉnh núi:
Có lúc lại thiếu thốn làm ông càng buồn thêm nỗi cô đơn. Khi có hoa lại thiếu rượu. Khi có rượu lại không hoa. Cụ ngắm nhìn hoa cúc mà lại càng thêm sầu:
Đời tư
Tuy nhiên, cuộc đời Trương Hán Siêu không phải là không có tì vết. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, ông khinh bỉ người cùng hàng, không giao du với họ, chỉ chơi thân với bọn Phạm Nghiêu Tư, gặp quan thầy thuốc thì thế nào cũng đùa bợt nói cười, đều là những kẻ không đồng điệu với ông. Đến khi coi đất Lạng Giang thì gả con gái cho tù trưởng đất ấy là Nùng Ích Vấn, khi coi chùa Huỳnh Lâm thì gả con gái cho tam bảo nô Nguyễn Chế, đều vì mộ sự giàu có của họ cả. Vì thế Đại Việt Sử ký Toàn thư mới viết rằng:
...Trương Hán Siêu là ông quan văn học, vượt hẳn mọi người, tuy cứng cỏi, chính trực nhưng lại chơi với kẻ không đáng chơi, gả con gái cho người không đáng gả....
Các nhà nghiên cứu hiện nay cho rằng việc Trương Hán Siêu ít giao du với những bạn bè cùng hàng vì những người này trước đây cùng học với ông tại trường của Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc, khi ông bị Nguyễn Văn Long vu oan phải đào tẩu, thì chính những người bạn này đã hùa nhau công kích kết tội ông. Chuyện này ít ai biết vì ông tha thứ không kể tội họ ra, nhưng không kết tình thân, kể cả Mạc Đĩnh Chi.
Trương Hán Siêu chính là người cố vấn chính của Trần Hưng Đạo, nhưng dấu mặt khi Trần Ích Tắc chưa trốn theo quân Nguyên. Sau khi Trần Ích Tắc bại lộ trốn theo quân Nguyên thì Trương Hán Siêu ra mặt công khai ở chung với Trần Hưng Đạo để ngày đêm bàn việc quân. Trương Hán Siêu là người rất giỏi võ nghệ, giỏi âm nhạc. Trương Hán Siêu không thích đạo Phật vì ban đầu thấy Trần Ích Tắc cũng mộ đạo Phật nhưng lại không sáng suốt. Sau này thấy các vua quan nhà Trần thích xây chùa hao tốn công quỹ. Mãi về sau ông mới công nhận đạo Phật hay, nhưng theo cách hiểu của ông. Trần Ích Tắc có xin phép anh là Trần Thánh Tông để mở trường đào tạo nhân tài cho triều đình, rất nhiều danh nhân thời bấy giờ kéo về đây xin theo học như Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Đại Phạp... Trương Hán Siêu là học trò giỏi nhất, được Trần Ích Tắc giao thay mình dạy lại cho các môn đệ. Nhưng lúc đó Nguyễn Văn Long là trưởng tràng rất ganh tị, bày mưu ám sát Trần ích Tắc rồi vu cho Trương Hán Siêu khiến Siêu phải bôn tẩu, về núp trên những hang động của Ninh Bình. Trần Hưng Đạo nghe danh tiếng, chủ động tìm đến để hỏi ý kiến về cuộc chiến tranh với quân Nguyên sắp nổ ra. Ý kiến của Siêu quá chu đáo nên được Vương nghe theo áp dụng.
Kế hoạch lấy không đánh có, lấy nhu thắng cương, vườn không nhà trống, lấy ít đánh nhiều được Siêu phát triển thành đỉnh cao hoàn hảo, phổ biến đến tận làng xã, tập cho dân làng biết làm theo hiệu lệnh từ trung ương một cách nhanh chóng. Khi Trương Hán Siêu còn sống thì bọn gian thần không dám lộng hành. Đến khi ông mất, Phạm Ngũ Lão cũng mất thì một mình Chu Văn An không đủ sức đối phó với bọn gian thần mà phải cáo quan về dạy học.
Tôn vinh
Trương Hán Siêu cùng với các danh nhân khác như Đinh Tiên Hoàng, Lý Quốc Sư (tức Nguyễn Minh Không), Lương Văn Tụy là những người gốc Ninh Bình tiêu biểu được tôn vinh trong nhiều lĩnh vực khác nhau ở địa phương này.
Đền thờ Trương Hán Siêu
Trương Hán Siêu được lập đền thờ tại chân núi Non Nước thuộc công viên Dục Thúy Sơn nằm bên sông Đáy ở thành phố Ninh Bình. Đền thờ Trương Hán Siêu kiến trúc theo kiểu chữ đinh, gồm 3 gian Bái Đường và 2 gian Hậu cung, hai tầng mái lợp bằng ngói, các góc có các đầu đao cong vút lên. Nhìn bán diện rìa mái cuộn lên ở hai đầu như hình ảnh một chiếc thuyền rồng ngoại mục. Trên nóc đền là hai con rồng chầu mặt nguyệt. Mặt tiền của đền có tấm đại tự bằng chữ Hán Trương Thăng Phủ Tư. Bái đường có cửa võng, hương án và hai giá ở hai bên cắm bát bửu. Gian cuối của hậu cung có hương án và tượng Trương Hán Siêu được đúc bằng đồng. Gần đền Trương Hán Siêu là di tích lịch sử văn hoá chùa Non Nước, nằm ở phía đối diện qua núi Non Nước. Tất cả hợp lại thành một khu văn hóa, tâm linh giữa thành phố Ninh Bình.
Làng Phúc Am xưa cũng thờ ông ở di tích chùa Đẩu Long, phường Tân Thành, thành phố Ninh Bình, Ninh Bình. Ông cũng được đúc tượng thờ tại di tích hành cung Vũ Lâm trong quần thể di sản thế giới Tràng An. Khu tưởng niệm danh nhân văn hóa Trương Hán Siêu được xây dựng trong khuôn viên khu di tích Nhà thờ họ Trương Việt Nam ở thị trấn Thiên Tôn, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.
Tại tỉnh Hải Dương có đền Từ Xá, tại thôn Từ Xá, xã Đoàn Kết, Thanh Miện thờ Trương Hán Siêu Căn cứ vào kiến trúc có thể xác định đền có từ thời Lê Trung hưng, trùng tu năm 1907, kiểu chữ đinh, 5 gian tiến tế (14,5x6,2m), 3 gian hậu cung. Công trình hiện còn nhiều chi tiết kiến trúc của thế kỷ 18, nhiều cổ vật ở thế kỷ 18 và 19, trong đó có bức đại tự Trần triều nguyên suý. Hằng năm có hai kỳ hội, ngày 7 tháng 3, kỷ niệm ngày hoá, 12 tháng 8, kỷ niệm ngày sinh. Hội có nhiều trò vui dân gian, như thi quăng chài, đi cầu thùm, bơi lội... Di tích được xếp hạng năm 2001.
Tại Hà Nam có đền Từ Du hay đình Cao Đà thờ Trương Hán Siêu với vai trò là vị tổ lập làng Cao Đà ở xã Nhân Mỹ, huyện Lý Nhân ngày nay.
Trương Hán Siêu cũng được hậu thế tôn vinh tại di tích nhà thờ họ Trương Việt Nam thuộc thị trấn Thiên Tôn, huyện Hoa Lư, Ninh Bình. Đền Trương là nơi thờ những người họ Trương đã khuất tại ban thờ công đồng, trong hậu cung có tượng thờ Ngọc Hoàng Thượng đế (Trương Hữu Nhân) và 14 danh nhân họ Trương tiêu biểu nhất thời phong kiến ở 3 miền Việt Nam gồm: Ban văn thờ Thái phó Trương Hán Siêu, Trạng nguyên Trương Hanh, Trạng nguyên Trương Xán, Thượng thư Trương Công Giai, Thái sư Trương Đăng Quế, Đông các học sĩ Trương Quốc Dụng, Thượng thư Trương Công Hy. Ban võ thờ Tướng Trương Hống, Tướng Trương Hát, Tướng Trương Nữu, Tăng lục võ sư Trương Ma Ni, Tướng Trương Chiến, Đại tướng quân Trương Minh Giảng và Anh hùng Trương Công Định.
Thời nhà Nguyễn, Trương Hán Siêu được thờ ở miếu Lịch Đại Đế vương. Đây là Miếu đường tôn thờ các vị Đế vương và các Danh tướng anh hùng tiêu biểu, như sử sách nhà Nguyễn đã ghi là nơi "Thống kỷ các vị Đế vương, ngưỡng mộ đức tốt của các đời trước", với ý nghĩa "Uống nước nhớ nguồn" tôn thờ các vị Vua, danh tướng anh hùng tiêu biểu từ thời Hồng Bàng trở về sau.
Đền Cố Trạch thuộc khu di tích đền Trần (Nam Định) có gian tả vu là nơi đặt bài vị thờ Trương Hán Siêu.
Giải thưởng Trương Hán Siêu
Ở Ninh Bình có một giải thưởng được trao hàng năm trong lĩnh vực văn học - nghệ thuật cho các tác phẩm tiêu biểu mang tên giải thưởng Trương Hán Siêu. Hàng năm tại khu di tích đền thờ Trương Hán Siêu cũng diễn ra lễ trao học bổng cho các học sinh xuất sắc trong tỉnh Ninh Bình.
Các công trình gắn liền với tên tuổi của Trương Hán Siêu
Tên của Trương Hán Siêu được đặt cho nhiều đường phố ở: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, thành phố Ninh Bình, thành phố Hải Dương, thành phố Huế, thành phố Nha Trang, thành phố Vũng Tàu, thành phố Bà Rịa thành phố Buôn Ma Thuột, thành phố Hải Phòng, thành phố Hòa Bình, thành phố Bạc Liêu, thành phố Tam Điệp, thành phố Cao Lãnh, thành phố Nam Định, thành phố Long Xuyên, thành phố Phan Thiết, thành phố Thanh Hóa, thành phố Hưng Yên, thành phố Kon Tum, thành phố Đông Hà, thành phố Biên Hòa, thành phố Rạch Giá, thành phố Sầm Sơn, Tx Bỉm Sơn,…, đặc biệt, tên ông còn được đặt cho con đường đi qua Trường THPT cùng tên ở quê hương ông – nơi đào tạo ra những học sinh tài năng. |
Trong lý thuyết tính toán, một thuật toán không đơn định là một thuật toán có một hoặc nhiều điểm lựa chọn, mà tại đó có nhiều hướng đi tiếp khác nhau mà không được chỉ rõ hướng nào sẽ được chọn. Mỗi thực thi cụ thể của một thuật toán như vậy chọn lấy một hướng mỗi khi gặp một điểm lựa chọn. Do đó, khi áp dụng cho cùng một dữ liệu đầu vào và trạng thái khởi tạo, có thể có các đường thực thi khác nhau của thuật toán đó, và khi kết thúc, các đường thực thi này thường cho kết quả là các dữ liệu ra khác nhau hoặc kết thúc tại các trạng thái cuối cùng khác nhau.
Ví dụ: Tour du lịch qua n thành phố
Bài toán: cho n thành phố và một số tuyến đường nối một số cặp hai thành phố. Câu hỏi là có hay không một tour đi qua n thành phố và quay lại chỗ cũ mà không đi qua thành phố nào quá 1 lần.
Dưới đây là một ví dụ về một thuật toán không đơn định dùng để kiểm tra xem có tồn tại một tour như trên hay không.
Chọn một hoán vị của n thành phố. Giả sử ta được {c1,c2,..,cn}
Nếu với mọi i từ 1 đến n, ta có tuyến đường trực tiếp giữa hai thành phố ci và ci+1, và giữa c1 và cn cũng có đường nối trực tiếp, thuật toán kết thúc với kết quả có; nếu không, thuật toán kết thúc với kết quả không biết.
Ta thấy rằng thuật toán này không phải lúc nào cũng cho ra một kết quả hữu ích, nhưng nó không bao giờ đưa ra câu trả lời sai. Ngoài ra, nó có thể (đôi khi) đưa ra câu trả lời đúng và có ích một cách nhanh chóng hơn bất kỳ thuật toán đơn định nào cho bài toán này. |
Làng gốm Phù Lãng là một làng nghề cổ truyền chuyên sản xuất gốm thuộc vùng Kinh Bắc.
Địa lý
Làng gốm Phù Lãng thuộc xã Phù Lãng, thị xã Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng 60 km và cách sông Lục Đầu khoảng 4 km. Phù Lãng nằm bên bờ sông Cầu và có nhiều bến đò ngang suốt ngày chở khách qua lại. Địa danh Phù Lãng có thể có từ cuối thời Trần đầu thời Lê. Vào thời kỳ này, Phù Lãng có 3 thôn: Trung thôn, Thượng thôn, Hạ thôn. Phù Lãng được trong và ngoài nước biết đến với nghề gốm truyền thống.
Lịch sử
Theo Tô Nguyễn, Trình Nguyễn trong sách Kinh Bắc-Hà Bắc thì ông tổ nghề gốm Phù Lãng là Lưu Phong Tú. Vào cuối thời Lý, ông được triều đình cử đi sứ sang Trung Quốc. Trong dịp đi này, ông học được nghề làm gốm và truyền dạy cho người trong nước. Đầu tiên, nghề này dược truyền vào vùng dân cư đôi bờ sông Lục Đầu sau đó chuyển về vùng Vạn Kiếp (Hải Dương). Vào khoảng đầu thời Trần (thế kỷ 13) nghề được truyền đến đất Phù Lãng Trung (theo www.bacninh.gov.vn ).
Nghề gốm Phù Lãng được hình thành và phát triển ở đây vào khoảng thời Trần, thế kỷ XIV. Hiện nay, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, một số nhà sưu tập còn lưu giữ và trưng bày một số sản phẩm gốm Phù Lãng có niên đại khoảng thế kỷ 17 - 19. Đó là sản phẩm gốm men nâu và những sắc độ của nó như men da lươn, vàng nhạt, vàng thẫm, vàng nâu...
Sản phẩm gốm
Gốm Phù Lãng tập trung vào ba loại hình:
Gốm dùng trong tín ngưỡng (lư hương, đài thờ, đỉnh...);
Gốm gia dụng (lọ, bình, ang, chum, vại, bình vôi, ống điếu...);
Gốm trang trí (bình, ấm hình thú như ngựa, voi...).
Gốm Phù Lãng có nét sắc thái riêng biệt, đó là những sản phẩm gốm men nâu, nâu đen, vàng nhạt, vàng thẫm, vàng nâu… mà người ta gọi chung là men da lươn. Thêm nữa, nét đặc trưng nổi bật của gốm Phù Lãng là sử dụng phương pháp đắp nổi theo hình thức chạm bong, còn gọi là chạm kép, màu men tự nhiên, bền và lạ; dáng của gốm mộc mạc, thô phác nhưng khỏe khoắn, chứa đựng vẻ đẹp nguyên sơ của đất với lửa, và rất đậm nét của điêu khắc tạo hình.
Kỹ thuật làm gốm
Một xưởng sản xuất gốm gồm năm nhóm chính: tổ lò, tổ chuốt, tổ họa tiết, tổ men, tổ làm sạch.
Chọn đất và xử lý đất sét
Khác với những sản phẩm gốm lấy chất liệu từ "xương" đất sét xanh của Thổ Hà, sét trắng của Bát Tràng, gốm Phù Lãng được tạo nên từ "xương" đất đỏ hồng lấy từ vùng Thống Vát, Cung Khiêm (Bắc Giang). Đất được chở về Phù Lãng theo đường sông (chủ yếu là sông Cầu). Điều này rất thuận lợi do Phù Lãng không phải lấy đất sét tại chính làng họ, tránh phá vỡ cấu trúc địa chất và cảnh quan làng nghề.
Đất để làm đồ sành phải là loại đặc biệt, có độ dẻo. Lấy được đất về, người thợ phải phơi cho đất bạc màu trộn lẫn các lần đất, đập thành những viên nhỏ bằng ngón chân cái rồi mới cho "ngậm" nước, sau đó xéo tròn, nề đất, chọn sạn, phá, sa cho tới khi đất phải nhuyễn mịn như một miếng giò mới thôi. Một miếng đất trước khi chuốt phải nề, xéo tới chục lần mới thành khoanh cho lên bàn xoay nắn thành sản phẩm.
Dưới bàn tay của người thợ thủ công, đất sét được luyện thật nhuyễn, đảm bảo độ dẻo, mịn nhất định và được tạo hình trên bàn xoay bằng tay hoặc trên khuôn.
Tạo hình
Về mặt tạo hình, gốm Phù Lãng được sử dụng nhiều phương pháp khác nhau trong nghệ thuật tạo dáng, với những hình khối đa dạng. Nhưng nhìn chung có thể quy vào hai phương pháp cơ bản:phương pháp thứ nhất tạo hình trên bàn xoay (làm trong gốm gia dụng và trên gốm trang trí); phương pháp thứ hai đó là, in trên khuôn gỗ hoặc khuôn đất nung rồi dán ghép lại (làm trên đồ tín ngưỡng). Mỗi loại hình sản phẩm, mỗi chủng loại hàng đều có những kỹ thuật, kỹ xảo riêng, tất cả đều nhằm đạt được hiệu quả tối đa về hai phương diện kinh tế và thẩm mỹ.
Cũng như nghề gốm Bát Tràng (Gia Lâm), và Thổ Hà (Bắc Giang), phương pháp tạo hình sản phẩm (có tiết diện tròn) là chuốt. Tất cả các sản phẩm được đưa lên bàn xoay tay. Hoạt động xung quanh bàn xoay tay cần phải có hai người, trong đó một người chuyên ngồi chuốt, một người vần bàn xoay. Người vần bàn xoay đồng thời làm nhiệm vụ lăn đất thành đòn để chuốt (còn gọi là xe đòn). Sản phẩm sau khi đã tạo hình xong, để cho se dần, đến khi sờ tay vào không thấy dính, lúc bấy giờ người thợ tiến hành chúng, đấm, thúc bên trong của sản phẩm cho thành hình đồ vật, rồi lại để cho ráo. Lúc này nếu thấy sản phẩm có vết rạn nứt thì được vá lại bằng đất mịn và nát.
Bước cuối cùng trong khâu hoàn thành sản phẩm là ve, nạo sản phẩm sau khi sản phẩm đã thành bạc hàng (chuyển màu trắng). Ve, nạo xong sản phẩm dược tráng một lớp men lên, tạo màu sắc.
Tráng men
Chất liệu làm men tráng gồm có: Tro cây rừng (loại cây mà khi đốt, tàn tro trắng như vôi, như tàn thuốc. Ngày nay nghệ nhân Phù Lãng thường dùng tứ thiết là lim, sến, táu, nghiến), hai là vôi sống (vôi tả), ba là sỏi ống nghiền nát, bốn là bùn phù sa trắng. Bốn chất liệu này, sau khi sơ chế trộn đều với nhau theo một tỷ lệ nhất định rồi để khô, đập nhỏ cho vào nước, gạn qua rây bột, từ đó chế thành một chất lỏng quánh, vàng như mật ong. Khi sản phẩm còn ẩm, người thợ dùng chổi lông quét men lên bên ngoài của sản phẩm một lớp mỏng thích hợp rồi đem phơi. Sau khi quét men và phơi khô, sản phẩm có màu trắng đục.
Nung
Sau công đoạn vào men và tạo màu, phơi khô, sản phẩm được đưa vào lò nung ở nhiệt độ đến 1.000 độ C, để đảm bảo gốm sành nâu có lớp da ngoài đanh mặt, nhẵn bóng và chắc. Xếp sản phẩm trong lò nung phải tuân theo nguyên tắc tiết kiệm tối đa không gian trong lò. Chi phí cho mỗi mẻ đốt lò trung bình cũng phải 25 đến 30 triệu đồng, nếu không nắm vững kỹ thuật chọn đất, đốt lò... thì cả mẻ gốm phải bỏ đi. Một lò thường được một nghìn sản phẩm và phải đun liền trong ba ngày ba đêm hoặc tùy theo từng sản phẩm, lượng nhiệt trong lo khi nung thường phả đều tăng dần nhiệt độ từ ngày thứ hai cho đến khi chín gốm, để nguội và lấy ra khỏi lò thì khi đó mới kết thúc quá trình nung và sản phẩm phải có được độ chuẩn cần thiết, nếu không sẽ bị thải loại. Vì vậy những sản phẩm đạt tiêu chuẩn phải có màu da lươn vàng óng hay màu cánh gián, khi gõ vào sản phẩm có tiếng vang.
Mặc dù nằm tiếp giáp với vùng than (Quảng Ninh) nhưng ở Phù Lãng người ta vẫn sử dụng phương pháp truyền thống - dùng củi để nung, nhờ sự biến nhiệt khác nhau tạo ra những vết táp trên bề mặt gốm mà không phương pháp nào có thể thay thế nổi.
Xương đất sét có màu hồng nhạt, khi nung ở nhiệt độ cao, xương gốm chuyển màu gan gà, với hai màu men chủ đạo là nâu vàng và nâu đen (thường gọi là men da lươn). Nếu vẻ đẹp của Bát Tràng là sự đa dạng về nước men, những nét vẽ tinh tế, thì hồn cốt của Phù Lãng được tạo nên từ sự dân dã, mộc mạc của nước men da lươn này. |
88 (tám mươi tám, tám tám) là một số tự nhiên ngay sau 87 và ngay trước 89.
Trong toán học
Bình phương của 88 là 7744.
Trong hệ thập phân, 88 là một số xuôi ngược (Số đọc từ trái sang phải hay từ phải sang trái đều không thay đổi)
Ý nghĩa văn hóa
Trong văn hóa Trung Quốc
Số 88 tượng trưng cho thịnh vượng và may mắn trong văn hóa Trung Quốc, vì số 8 phát âm theo tiếng Phổ thông hoặc tiếng Quảng Đông tương tự như từ phát (发, Fā hàm ý 发财;Fā cái, phát tài). Số 8 được coi là số may mắn nhất trong văn hóa Trung Quốc, và giá ở các siêu thị Trung Quốc thường có nhiều số 8. Ký tự tiếng Trung Quốc viết chữ số 8 có dạng (八) ngụ ý rằng một người sẽ có tương lai rộng mở, như thể hình dạng chữ số bắt đầu thu hẹp ở trên và mở rộng dần xuống dưới. Thế vận hội Bắc Kinh 2008 khai mạc vào lúc 8 giờ tối ngày 8 tháng 8 năm 2008. Trong ngôn ngữ chat, tin nhắn bằng văn bản, SMS hay IM bằng tiếng Trung Quốc, số 88 thường được sử dụng như là một lời chào "tạm biệt" vì số 88 trong tiếng Quan Thoại được phát âm như bā bā, tương tự như phát âm của "bye bye" trong tiếng Anh. Số điện thoại và số xe hơi với số 88 ở cuối rất phổ biến tại Hồng Kông và chủ sở hữu chúng phải trả một khoản tiền rất đắt. Ở Việt Nam biển xe cơ giới đường bộ 88 là của tỉnh Vĩnh Phúc.
Biểu tượng của Tân chủ nghĩa Quốc xã
Tân Quốc xã (Neo-Nazi) sử dụng số 88 như là một biểu tượng đại diện cho khẩu hiệu Heil Hitler. Chữ H đứng hàng thứ tám trong bảng chữ cái Latin, vì vậy 88 có nghĩa là HH. Con số này đôi khi được sử dụng kết hợp với số 14 (ví dụ như 1488 hoặc 14/88). Trong cách dùng này, số 14 là viết tắt của "mười bốn từ", đó là khẩu hiệu của chủ nghĩa dân tộc da trắng (white nationalist) được tạo ra bởi David Lane, người đã bị kết án khủng bố. Một vài ví dụ như: bài hát 88 rock'n'roll band của ban nhạc Tân Quốc xã Landser, và tên của các ban nhạc như Column 88, Unit 88, White Legion 88 và Barselc88. James von Brunn, người gây ra vụ nổ súng tại bảo tàng Holocaust Memorial Museum (bảo tàng tưởng niệm các nạn nhân Do Thái bị diệt chủng) ở Washington DC, thường ký trên các bản thảo của mình là "JVB-88".
Trong vô tuyến truyền thanh nghiệp dư
Trong ngôn ngữ của vô tuyến truyền thanh nghiệp dư (Amateur Radio), khi gửi một tin nhắn thì số 88 là viết tắt của "ôm và hôn". Nó có vẻ quá thân mật hơn so với số 73, viết tắt của "chúc tốt đẹp", cho nên số 73 thường được sử dụng nhiều hơn. Cả hai số 88 và 73 cũng có thể được sử dụng cùng nhau. Đôi khi cả hai số này còn được thêm chữ s (số nhiều trong tiếng Anh).
Các lĩnh vực khác
Vũ khí: Trong Lực lượng Vệ quốc của Đức, 88 (đọc là "acht-acht") là viết tắt của khẩu pháo phòng không 8.8 cm Flak 18/36/37/41.
Xì tố: trong bài "Texas Hold'em", đôi 8 (88) còn được gọi là người tuyết, vì số 8 trông giống như người tuyết.
Chú thích
Số chẵn |
87 (tám mươi bảy) là một số tự nhiên ngay sau 86 và ngay trước 88. |
86 (tám mươi sáu) là một số tự nhiên ngay sau 85 và ngay trước 87. |
85 (tám mươi lăm) là một số tự nhiên ngay sau 84 và ngay trước 86. |
84 (tám mươi bốn) là một số tự nhiên ngay sau 83 và ngay trước 85. |
Trương Định (Chữ Hán: 張定; 1820 – 1864) hay Trương Công Định hoặc Trương Trường Định, là võ quan triều Nguyễn, và là thủ lĩnh chống Pháp giai đoạn 1859 – 1864, trong lịch sử Việt Nam.
Tóm lược tiểu sử
Trương Định sinh tại làng Tư Cung, phủ Bình Sơn, Quảng Ngãi (nay là xã Tịnh Khê, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi). Cha ông là Lãnh binh Trương Cầm, từng là Hữu thủy Vệ uý ở Gia Định dưới thời vua Thiệu Trị.
Năm 1844, Trương Định theo cha vào Nam. Sau khi cha mất, ông trú ngụ ngay nơi cha đóng quân. Sau đó, ông kết hôn với bà Lê Thị Thưởng, vốn là con gái của một hào phú ở huyện Tân Hòa, tỉnh Gia Định (Gò Công Đông,Tiền Giang ngày nay).
Năm 1850, hưởng ứng chính sách khẩn hoang của tướng Nguyễn Tri Phương, Trương Định xuất tiền ra chiêu mộ dân nghèo lập đồn điền ở Gia Thuận (Gò Công), vì thế, ông được nhà Nguyễn bổ làm Quản cơ, hàm chánh lục phẩm.
Trở thành thủ lĩnh chống Pháp
Năm 1861, Pháp tấn công Gia Định lần thứ nhất , Trương Định đem quân phối hợp với binh của tướng Nguyễn Tri Phương phòng giữ chiến tuyến Chí Hòa. Khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ, ông lui về Gò Công, cùng Lưu Tiến Thiện, Lê Quang Quyền chiêu binh ứng nghĩa, trấn giữ vùng Gia Định-Định Tường.
Ở đây, Trương Định tổ chức lại lực lượng, triển khai tác chiến trong các vùng Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Chợ Lớn, Sài Gòn, Đồng Tháp Mười và kéo dài đến tận biên giới Campuchia.
Kể về ông ở giai đoạn này, sử nhà Nguyễn chép:
Trương Định am hiểu võ nghệ, dũng cảm, mưu lược. Tự Đức năm thứ 14 (1861), thành Gia Định hữu sự, Định hưởng ứng việc nghĩa, chiêu mộ thú dõng được hơn 6.000 người, lại kiêm quản những đầu mục thân hào mộ việc nghĩa, dồn lập 18 cơ quân, luôn chống đánh người Pháp, thu được súng ống khí giới và đúc chế thêm để dùng, được bạt bổ làm Quản cơ lĩnh Phó Lãnh binh Gia Định.
Ngày 5 tháng 6 năm 1862, triều đình Huế ký kết hòa ước với Pháp. Cũng theo sử nhà Nguyễn thì: Tháng 7 năm 1862...từ khi đã định hòa ước rồi, Ngài [Tự Đức] truyền dụ Nam Kỳ nghỉ binh và đòi Trương Định ra Phú Yên. Khi ấy trong các tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên Hòa những người ứng nghĩa rủ nhau đoàn kết, tôn Trương Định làm Đại đầu mục, xin cho ra đánh, Đình thần nghị rằng: "bây giờ việc Bắc Kỳ đương khẩn, mà Nam Kỳ chưa có cơ hội gì, xin giao Phan Thanh Giản hiểu dụ". Nhưng Trương Định đã lâu mà không chịu về cung chức, bị cách chức hàm.
Trên thực tế, ông đã từ chối thư dụ hàng của tướng Pháp là Bonard, bất chấp chiếu vua ra lệnh bãi binh do Phan Thanh Giản truyền vào và rút quân về Gò Công, xưng là Trung thiên tướng quân, và được nhân dân tôn là Bình Tây Đại Nguyên soái, lấy nơi này làm bản doanh, xây dựng các căn cứ địa kháng chiến.
Ngày 16 tháng 12 năm 1862, Trương Định đã ra lệnh tấn công các vị trí của quân Pháp ở cả ba tỉnh miền Đông Nam Bộ, đẩy Pháp vào tình thế lúng túng, bị động. Tháng 2 năm 1863, nhờ có viện binh, Pháp phản công tại Biên Hòa, Chợ Lớn, bao vây Gò Công. Ngày 26 tháng 2 năm 1863, Pháp đánh chiếm thành trì, ông thoát khỏi vòng vây và kéo quân về Biên Hòa.
Tháng 9 năm 1863, tướng Lagrandière sang thay Bonard, mở cuộc càn quét thứ hai, bắt được vợ con và một số tùy tùng của Trương Định.
Qua đời
Ngày 19 tháng 8 năm 1864, Huỳnh Công Tấn phản bội dẫn đường cho quân Pháp bất ngờ bao vây đánh úp. Bản doanh Đám lá tối trời {{efn|Vị trí từ Gò Công đi về hướng ao Trường Đua, theo đường ấp Long Hưng đến ngã ba ấp Giá Trên thuộc xã Kiểng Phước; từ đây có bảng hướng dẫn đi thêm 8,5 km nữa để đến đền thờ Trương Định (Gia Thuận). nơi này, khi xưa là khu vực "Đám lá tối trời".}} thất thủ, Trương Định bị trọng thương (gãy xương sống).
Về cái chết của ông, các nguồn không thống nhất về việc ông có tuẫn tiết hay không. Hầu hết các nguồn cho rằng ông đã tuẫn tiết để khỏi rơi vào tay giặc. Mặt khác, theo Việt sử Tân Biên của Phạm Văn Sơn, "ông và 28 người tùy thuộc bị bắn chết". Khi ấy, ông 44 tuổi.
Hay tin Trương Định tuẫn tiết, vua Tự Đức sai truy tặng ông phẩm hàm, và năm 1871 lại cho lập đền thờ ông tại Tư Cung (Quảng Nghĩa). Con ông là Trương Quyền đã rút lên vùng Châu Đốc tiếp tục chống Pháp thêm 6 năm nữa.
Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã làm 12 bài thơ và một bài văn tế điếu ông. Trích giới thiệu một bài:
Trong Nam, tên họ nổi như cồn
Mấy trận Gò Công nức tiếng đồn
Đấu đạn hỡi rêm tàu bạch quỷ
Hơi gươm thêm rạng vẻ Hoàng Môn
Ngọn cờ ứng nghĩa trời chưa bẻ
Quả ấn Bình Tây đất vội chôn
Nỡ khiến anh hùng rơi giọt luỵ
Lâm dâm ba chữ điếu linh hồn.
Từ đó đến nay, nhiều tên đường tại các thành phố và tên trường học ở Việt Nam được mang tên ông.
Tuyên bố nổi tiếng
Tuyên bố của Trương Định trong thư trả lời thư dụ hàng của tướng Pháp Bonard vào cuối năm 1862:
Ông trả lời Phan Thanh Giản về việc bãi binh chống Pháp: “Triều đình nghị hòa thì cứ nghị hòa còn việc của Định thì Định cứ làm. Định thà đắc tội với Triều đình chứ không nỡ ngồi nhìn giang san này chìm đắm...”
Tuyên bố của Trương Định gửi các quan ở Vĩnh Long, để tỏ ý ly khai với Nam triều (vì sau hòa ước Nhâm Tuất, vua Tự Đức ra lệnh ông phải bãi binh) vào tháng 2 năm 1863:
Hịch của Trương Định (tháng 8 năm 1864):
Mấy đoạn trích trên, được ghi trang trọng tại đền thờ Trương Định, ở ngay trung tâm thị xã Gò Công.
Nhận xét
Trung úy Léopold Pallu (1828 – 1891), sĩ quan tùy viên Tổng hành dinh của Phó đề đốc Charner, và là người chỉ huy đội thủy quân lục chiến đánh vào Đại đồn Chí Hòa, thành Định Tường (Mỹ Tho), viết:
Lúc bấy giờ (tháng 6 năm 1861) có một người An Nam rất cương quyết và hào hùng tên là Trương Định cho biết sẽ dấy loạn khởi nghĩa trong toàn xứ...Là một trong số những người nhiều nghị lực nhất, anh ta đánh lừa là đã chết trong trận Gò Công, nhưng sau đó lại xuất hiện và chiến đấu trong hết mùa mưa...Mãi về sau này, khi ta đã chiếm Biên Hòa, tên Trương Định tung hoành tàn phá hết hai vùng tứ giác của ta...
Trong sách Sài Gòn xưa – Ấn tượng 300 năm của nhà văn Sơn Nam có đoạn:
Yêu nước đậm đà, khảng khái trước nghĩa lớn, đứng hàng đầu trong phong trào kháng Pháp ở Nam Kỳ vẫn là Trương Định. Mang ơn vua, giữ đất cho vua (Gò Công là nơi phát tích của Phạm Đăng Hưng và con gái là bà Từ Dũ), nhưng chống lệnh khi cắt đất cho Pháp. Trương Định và dân đồn điền lợi dụng địa hình rừng ngập mặn Gò Công để khởi nghĩa, đắp đập, xây lũy. Giặc phải vất vả, tổ chức nội ứng mới giết được ông, qua nhiều cuộc hành quân cấp tướng, bố trí súng lớn trên thuyền nhỏ, để di chuyển nơi nước cạn. Địch phải đem xác ông phơi trước chợ để làm chứng cớ...và chôn ông giữa chợ, nếu chôn nơi hẻo lánh, e nghĩa quân lập đàn tế cờ, phục thù cho chủ tướng. Cụ Đồ Chiểu đã đem tất cả tâm huyết viết bài văn tế ông và 10 bài liên hoàn.
Gia quyến
Người vợ chính
Lê Thị Thưởng (? – ?) là con gái một hào phú ở huyện Tân Hòa (Gò Công). Bà và Trương Định kết hôn năm nào không rõ, nhưng theo sử sách thì ...vào năm 1854, nhờ sự trợ giúp của gia đình bên vợ, Trương Định xuất tiền của, chiêu mộ dân nghèo lập đồn điền Gia Thuận (Gò Công).
Sau khi chồng và con mất vì việc nước, chép chuyện của bà như sau:(Trương Định) sau vì thất lợi mà mất, con ông là (Trương) Tuệ cũng chết vì việc quân, vợ (Trương) Định là Lê Thị Thưởng vì không nơi nương tựa nên về quê quán (Quảng Ngãi, quê chồng) làm ăn. Năm (Tự Đức) thứ 27 (1874), quan tỉnh Quảng Ngãi tâu rằng, (Trương) Định là người có nghĩa khí rất đáng khen mà nay vợ của (Trương) Định lại là người nghèo khổ, rất đáng thương. Vậy, xin cấp dưỡng suốt đời cho (vợ Trương Định) mỗi tháng 20 quan và 2 phương gạo...Năm (Tự Đức) thứ 34 (tức năm 1881), lại cấp thêm cho người vợ (của Trương Định) mỗi tháng 10 quan, đồng thời, sai xã ấy phải thỉnh thoảng đến thăm. Khi bà mất, (vua ban) cho 100 quan tiền (để mai táng).Người vợ thứ
Trần Thị Sanh (1820 – 1882) là em họ (con cô) thái hậu Từ Dụ, mẹ vua Tự Đức. Bà Trần Thị Sanh là con thứ sáu của ông Trần Văn Đồ và bà Phạm Thị Phụng. Bà Phụng là em gái ông Phạm Đăng Hưng, cha của bà Phạm Thị Hằng, tức thái hậu Từ Dụ. Trước khi về làm vợ thứ Trương Định, bà từng có một đời chồng là ông Dương Tấn Bổn và một cô con gái tên Dương Thị Hương. Bà Hương sau này gả cho ông Huỳnh Đình Ngươn, cha của chí sĩ Huỳnh Đình Điển. Ông Bổn mất sớm, tình nghĩa vợ chồng đứt đoạn, bà Sanh quyết chí lo chuyện làm ăn và trở thành một trong những người giàu có ở xứ Gò Công.
Giàu có, bà Sanh dùng tiền mua lúa gạo, nhờ Trương Định đem cứu tế dân, và còn đưa tiền cho ông Định quy tụ dân đi khai khẩn đất đai. Sau khi chồng chết được 2 năm, bà về làm hầu thiếp cho Trương Định, nên dân gian mới gọi là bà Hầu.Gò Công có bốn tổng giàu,Mà riêng có một bà Hầu giàu to.Khi Trương Định phất cờ đánh Pháp, bà Sanh (khi này đã trở thành vợ thứ Trương Định) lo việc rèn vũ khí, tích trữ lương thực cho nghĩa quân. Khi chồng mất, bà đem xác ông về chôn tại Gò Công.
Năm 1864, sau khi Trương Định tuẫn tiết, bà Sanh vào chùa quy y, giao quyền trông nom gia sản cho con riêng Dương Thị Hương và con rể là Tri huyện Trường Bình.
Vị trí lăng mộ
Mộ Trương Định ban đầu (1864) được làm bằng hồ ô dước và trên bia đá có khắc mấy chữ: Đại Nam - An Hà lãnh binh kiêm Bình Tây Đại tướng quân Trương công húy Định chi mộ. Nhà cầm quyền Pháp bắt đục bỏ hàng chữ Bình Tây Đại tướng quân và phạt bà Sanh 10.000 quan tiền vì tội lập bia trái phép.
Năm 1874, bà Sanh làm đơn xin tu sửa mộ cho chồng. Lần này mộ Trương Định được xây bằng đá hoa cương, có 3 bức hoành phi và 6 trụ đá ghi lại thân thế và sự nghiệp của ông. Một lần nữa, các hoành phi và trụ đá bị Pháp ra lệnh đục bỏ...
Nhà nghiên cứu Huỳnh Minh cho biết: "Trải nhiều năm Pháp thuộc, mộ Trương Định trở thành hoang phế. Sau có bà Huỳnh Thị Điệu, còn gọi là bà Phủ Hải cho sửa chữa lại. Năm 1956, được sửa sang lần nữa"...
Từ năm 1972 đến năm 1973 xây thêm đền thờ. Lăng mộ và đền thờ Trương Định đã được Bộ Văn hóa - Thông tin Việt Nam công nhận là Di tích lịch sử-văn hóa quốc gia ngày 6 tháng 12 năm 1989.
Lễ hội tưởng niệm ông diễn ra tại đây các ngày 19 và 20 tháng 8 dương lịch hàng năm.
Trương Định cũng được hậu thế tôn vinh tại di tích nhà thờ họ Trương Việt Nam thuộc thị trấn Thiên Tôn, huyện Hoa Lư, Ninh Bình. Đền Trương là nơi thờ những người họ Trương đã khuất tại bàn thờ cộng đồng, trong hậu cung có tượng thờ Ngọc Hoàng Thượng đế (Trương Hữu Nhân) và 14 danh nhân họ Trương tiêu biểu nhất thời phong kiến ở 3 miền Việt Nam gồm: Ban văn thờ Thái phó Trương Hán Siêu, Trạng nguyên Trương Hanh, Trạng nguyên Trương Xán, Thượng thư Trương Công Giai, Thái sư Trương Đăng Quế, Đông các học sĩ Trương Quốc Dụng, Thượng thư Trương Công Hy. Ban võ thờ Tướng Trương Hống, Tướng Trương Hát, Tướng Trương Nữu, Tăng lục võ sư Trương Ma Ni, Tướng Trương Chiến, Đại tướng quân Trương Minh Giảng và Anh hùng Trương Công Định.
Ghi chú
Chú thích |
83 (tám mươi ba) là một số tự nhiên ngay sau 82 và ngay trước 84. |
82 (tám mươi hai) là một số tự nhiên ngay sau 81 và ngay trước 83. |
81 (tám mươi mốt) là một số tự nhiên ngay sau 80 và ngay trước 82.
Căn bậc hai của 81 là 9.
Bình phương của 81 là 6561.
1/81 = 0,01234567890123456789... |
0(khong)
(tám mươi) là một số tự nhiên ngay sau 79 và ngay trước 81. |
79 (bảy mươi chín) là một số tự nhiên ngay sau 78 và ngay trước 80. |
112 (một trăm mười hai) là một số tự nhiên ngay sau 111 và ngay trước 113. |
78 (bảy mươi tám) là một số tự nhiên ngay sau 77 và ngay trước 79. |
77 (bảy mươi bảy) là một số tự nhiên ngay sau 76 và ngay trước 78. |
76 (bảy mươi sáu) là một số tự nhiên ngay sau 75 và ngay trước 77. |
75 (bảy mươi lăm) là một số tự nhiên ngay sau 74 và ngay trước 76. |
74 (bảy mươi tư) là một số tự nhiên ngay sau 73 và ngay trước 75. |
Xung đột vũ trang tại Bắc Ireland (tiếng Ireland: Na Trioblóidí, tiếng Anh: The Troubles, tiếng Anh theo Quốc tế: Northern Ireland conflict) là tên của một cuộc xung đột sắc tộc - dân tộc ở Bắc Ireland trong những năm cuối thế kỷ 20. Nó đôi khi được mô tả như là một cuộc "chiến tranh du kích" hay "chiến tranh cấp độ thấp". Cuộc xung đột bắt đầu vào cuối năm 1960 và thường được coi là kết thúc với vào năm 1998. Mặc dù cuộc xung đột diễn ra chủ yếu tại Bắc Ireland, song bạo lực vẫn lan tràn vào các vùng Cộng hòa Ireland, Vương quốc Anh và châu Âu lục địa.
Cuộc xung đột chủ yếu về mâu thuẫn chính trị và dân tộc, được thúc đẩy bởi các sự kiện lịch sử.
Lịch sử
Cội nguồn của mối xung đột bắt đầu từ cách đây rất lâu: Năm 1171, khi vua Henry II (lên ngôi 1154-1189) của Anh đem quân đánh chiếm Ireland. Henry II cho rằng ông đã nhận được một sắc lệnh của giáo hoàng Adrian IV cho phép quân Anh được quyền xâm chiếm Ireland với điều kiện Anh phải nộp cho Vatican doanh lợi hằng năm. Tuy nhiên thực tế Giáo hoàng chưa bao giờ cho ra đời một sắc lệnh như thế. Suốt thế kỉ XIII nhiều người Anh đã đến Ireland lập nghiệp. Đến thế kỉ XVI xung đột đã trở nên căng thẳng và quyết liệt. Lúc đó phong trào cải cách lan rộng khắp châu Âu đã chia châu lục này thành những vùng đất đai của 2 phe: Tin Lành và Thiên Chúa giáo. Ireland trở thành nơi của những người Thiên Chúa giáo và Anh là đất của người Tin Lành. Cho rằng Ireland sẽ liên minh với những thế lực Thiên Chúa giáo ở Tây Ban Nha và Pháp (và nếu như thế sẽ là mối đe dọa cho Anh). Nữ hoàng Anh Elizabeth I quyết định gửi nhiều đoàn người Tin Lành ở Anh và ở Scotland đến định cư ở Ulster thuộc địa phận Ireland (hiện nằm trong lãnh thổ CH Ireland)
Năm 1801,Ireland bị sáp nhập vào Đại vương quốc Anh (Anh và Scotland thống nhất vào năm 1707 để trở thành Đại vương quốc Anh; xứ Wales thống nhất với Anh năm 1536) hình thành nên "Đại vương quốc Anh và Bắc Ireland" thường được gọi dưới cái tên "Vương quốc Liên hiệp Anh". Người ta hi vọng sự thống nhất này sẽ giải quyết được "vấn đề Ireland" nhưng trong thực tế đó là "cuộc hôn nhân" không hạnh phúc. Ireland vẫn suy yếu về kinh tế và lệ thuộc rất nhiều vào Vương quốc Liên hiệp Anh. Từ thập niên 1860, nhiều chính khách Ireland đã xuất hiện, vận động cho phong trào quốc luật (home rule) nhằm hạn chế sự lệ thuộc của Ireland vào Vương quốc Liên hiệp Anh nhờ vậy cuối cùng quốc luật được thông qua năm 1912 nhưng chưa được thực thi bởi Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Mất kiên nhẫn, một nhóm nhà cách mạng Ireland tổ chức cuộc nổi dậy vào ngày 24/4/1916 mà lịch sử gọi là "Cuộc phản loạn Phục sinh" nổ ra ở Dublin (hiện thuộc cộng hòa Ireland). Cuộc phản loạn đẫm máu kết thúc vào ngày 29/4 với phe nổi dậy đầu hàng vô điều kiện. Cuộc phản loạn phục sinh trở thanh tiền đề cho cuộc chiến giành độc lập của Ireland, nổ ra từ năm 1919-1921. Bắc Ireland - gồm 6 trong số 9 hạt của Ulster với số dân Tin lành lấn áp - vẫn tiếp tục sát cánh với Vương quốc Liên hiệp Anh. Năm 1922, Nam Ireland chủ yếu là dân Thiên Chúa giáo trở thành nước Ireland tự do với thủ đô là Dublin. Sáu hạt ở Bắc Ireland trở thành chính thể riêng biệt của Vương quốc Anh. Nước Ireland tự do (đổi thành EIRE và hiện giờ là Cộng hòa Ireland) không chấp nhận sự chia cắt nhưng Bắc Ireland không đồng ý thống nhất, biên giới được xác định năm 1925. Giữa thập niên 1950, quân đội Cộng hòa Ireland (IRA) bắt đầu chiến dịch khủng bố nhắm vào Bắc Ireland lẫn Anh. Sang thập niên 1960, cộng đồng Thiên Chúa giáo ở Bắc Ireland cũng thực hiện hàng loạt vụ khủng bố, xuất phát từ chính sách phân biệt tôn giáo mà họ bị áp đặt. Cuộc bạo động năm 1968 làm chính phủ Anh điều động quân đội năm 1969 để dẹp loạn và đóng quân ở đó. Năm 1971, Anh tung ra điều luật bắn không cần xét xử, áp dụng cho những kẻ khủng bố. Năm sau, Anh hủy bỏ Quốc hội Bắc Ireland và áp dụng chính sách cai trị trực tiếp. |
La giáng trưởng là một cung thể trưởng dựa trên nốt La giáng, bao gồm các nốt nhạc sau La giáng, Si giáng, Đô, Rê giáng, Mi giáng, Fa, Sol và La giáng'. Bộ khóa của nó có 4 dấu giáng.
Cung thể tương đương (relative key) với nó là cung Fa thứ và cung thể cùng bậc (parallel key) với nó là cung La giáng thứ. Cung này thường gợi cho ta cảm xúc về sự thanh bình, thường xuyên được Franz Schubert sử dụng. Hai mươi tư bản nhạc cho đàn piano của Frédéric Chopin sử dụng La giáng trưởng thường xuyên hơn bất kỳ cung thể nào khác.
Beethoven cũng thường sử dụng La giáng trưởng như là một sự vận động chậm rãi tiếp theo sau cung Đô thứ, Anton Bruckner cũng đã thử bắt chước, sử dụng cung này cho hai bản giao hưởng đầu tiên viết ở cung Đô thứ và Antonín Dvořák cũng đã sử dụng cho bản giao hưởng cung Đô thứ duy nhất của ông.
Bản The Star-Spangled Banner cũng có nhiều đoạn viết ở cung La giáng trưởng và những ca sĩ chuyên nghiệp thường mong muốn được hát nó trước khán giả với giọng La giáng trưởng hoặc Si giáng trưởng.
Bản Giao hưởng số 1 ở cung La giáng trưởng của Edward Elgar là bản giao hưởng duy nhất ở cung này được viết đúng tiêu chuẩn cho dàn nhạc giao hưởng chơi.
Một số bài hát nổi tiếng sử dụng cung này
Maple Leaf Rag - Scott Joplin
In the Mood - Glenn Miller
Poetry in Motion - Johnny Tillotson
Flying Without Wings - Westlife
Goodbye Stranger - Supertramp
American Idiot - Green Day
Macarena - Los Del Rio
All I Want Is You - U2
We Like to Party - Vengaboys
All You Wanted - Michelle Branch
Goodbye to You - Michelle Branch
Satellite - Dave Matthews Band
Proudest Monkey - Dave Matthews Band
Black Hole Sun - Soundgarden
Heart-Shaped Box - Nirvana
He's a Pirate - Blake Neely
Donna Lee - Miles Davis
Buddy Holly'' - Weezer |
Fa trưởng là một âm giai trưởng dựa trên nốt Fa, bao gồm các nốt nhạc sau Fa, Sol, La, Si giáng, Đô, Rê, Mi, và Fa. Bộ khóa của nó có 1 dấu giáng.
Cung thể tương đương (relative key) với nó là cung Rê thứ và cung thể cùng bậc (parallel key) với nó là cung Fa thứ. Fa trưởng là loại cung thể chủ đạo mà kèn Anh hay chơi, tương tự như vậy với kèn basset, trumpet và Wagner tuba. Tuy nhiên, các bản nhạc ở giọng Fa trưởng mà những nhạc cụ này chơi thường được viết ở cung Đô trưởng.
Sáu bản Overture của Francesco Maria Veracini viết cho Hoàng tử Dresden phần lớn ở cung Fa trưởng hoặc Si giáng do sự hạn chế của nhạc cụ khí hơi trong dàn nhạc giao hưởng của Hoàng tử.
Những tác phẩm viết ở cung này
Giao hưởng số 6, the "Pastoral" - Ludwig Van Beethoven
Soul to Squeeze - The Red Hot Chili Peppers (bản này mới đầu được viết ở cung La trưởng)
Theme from Family Guy - Walter Murphy và dàn nhạc của mình
Desperados Under the Eaves - Warren Zevon
Hey Jude - The Beatles
Yesterday - The Beatles
Sail Away - Randy Newman
Bat out of Hell - Meat Loaf
Kentucky Rain - Elvis Presley
Space Oddity - David Bowie
Feels So Good - Chuck Mangione
Scar Tissue - The Red Hot Chili Peppers
La Cucaracha - Mexican Traditional
Happy Birthday To You - Traditional
You Make My Dreams - Daryl Hall & John Oates
"Rich Girl" - Daryl Hall & John Oates
Don't Stop Me Now - Queen
Right Where It Belongs - Nine Inch Nails
Wouldn't It Be Nice - The Beach Boys
Shout!, Shout! - Ernie Maresca
You Sexy Thing - Hot Chocolate
Go Your Own Way - Fleetwood Mac
Axel F - Beverly Hills Cop Theme - Harold Faltermeyer (phần điệp khúc)
Happy Days - Pratt & McClain
Nobody Does It Better - Carly Simon
The House That Built Me - Miranda Lambert |
Si trưởng (viết tắt là B), hay Đô giáng trưởng (viết tắt là C) là một cung thể trưởng dựa trên nốt Si (B), tức Đô giáng (C), bao gồm các nốt nhạc Si (B), Đô thăng (C), Rê thăng (D), Mi (E), Fa thăng (F), Sol thăng (G), La thăng (A), và Si (B). Bộ khóa của nó có 5 dấu thăng.
Cung thể tương đương (relative key) với nó là cung Son thăng thứ và cung thể cùng bậc (parallel key) với nó là cung Si giáng và nó trùng âm với Đô giáng trưởng. Cung thể thứ của nó là Si thứ.
Bộ khóa cho Si trưởng là bộ khoá có nhiều dấu thăng nhất với ba dòng nhạc có dấu thăng.
Trong tiếng Đức, thì nốt Si được ký hiệu là "H," và nốt Si giáng được ký hiệu là "B".
Những tác phẩm cổ điển viết ở cung này
Slavonic Dance số 9 -Antonín Dvořák
Finale, Firebird -Igor Stravinsky
Finale, Hồ Thiên nga -Pyotr Ilyich Tchaikovsky
La Donna è Mobile -Giuseppe Verdi (Rigoletto).
Những tác phẩm viết ở cung này
Penny Lane - The Beatles (cũng có ở cung La trưởng)
We Used To Be Friends - The Dandy Warhols
A Thousand Miles - Vanessa Carlton
Always With Me, Always With You - Joe Satriani
True Blue - Madonna
Run - Collective Soul
Solsbury Hill - Peter Gabriel
The Boxer - Simon & Garfunkel
Take A Chance On Me - ABBA
Dancing In The Dark - Bruce Springsteen
Yellow - Coldplay
Learn To Fly - Foo Fighters
California Girls - The Beach Boys |
Lê Thanh Hải (sinh 1950) là một chính khách Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị khóa X, XI, nguyên Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII. Ông có bằng Cao cấp lí luận chính trị, Cử nhân Kinh tế, Cử nhân Văn chương.
Thân thế và Sự nghiệp
Ông sinh ngày 20 tháng 2 năm 1950, tại Tam Hiệp, Châu Thành, Mỹ Tho (nay là Tiền Giang).
Năm 1966, ông lên Sài Gòn làm thợ hàn và tham gia vào Đội võ trang tuyên truyền thuộc Khu Đoàn Sài Gòn Gia Định với bí danh Hai Nhựt.
Ngày 17 tháng 4 năm 1968, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam, chính thức ngày 17 tháng 1 năm 1969.
Từ năm 1968 đến tháng 4 năm 1975, ông là Phó Bí thư Đoàn ủy Liên phường, Ủy viên Ban Chấp hành Thành Đoàn Sài Gòn – Gia Định, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Học sinh, Phó Văn phòng Thành Đoàn, Phó Ban thường trực Ban Thanh niên Công nhân Thành Đoàn, Ủy viên Ban cán sự quận Phú Tân Sơn.
Từ tháng 5 năm 1975 đến tháng 10 năm 1986 ông là Quận ủy viên quận Tân Bình kiêm Bí thư phường, Chủ tịch phường, Bí thư Quận Đoàn; Ủy viên Ban Thường vụ Thành Đoàn kiêm Trưởng ban Công nghiệp Thành Đoàn; Phó Bí thư Đảng ủy Cấp trên cơ sở kiêm Chỉ huy trưởng Lực lượng Thanh niên Xung phong Thành phố Hồ Chí Minh.
Tháng 10 năm 1986 ông là Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Khóa IV, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Thành phố, Ủy viên Ban Chấp hành Liên đoàn Lao động Thành phố Hồ Chí Minh.
Tháng 1 năm 1990 đến tháng 12 năm 2000 ông là Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Khóa V, Bí thư Quận ủy Quận 5, Đại biểu Hội đồng nhân dân Thành phố Khóa V, Ủy viên Ủy ban nhân dân Thành phố, Ủy viên Ban Thường vụ Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Khóa VI, Phó Chủ tịch thường trực Ủy ban nhân dân Thành phố kiêm Trưởng ban Chỉ đạo Chương trình Xóa đói giảm nghèo của thành phố.
Ngày 18 tháng 5 năm 2001, ông được Hội đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh khóa 6 bầu làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong kì họp bất thường với 78/85 đại biểu có mặt. Trước đó, ông Võ Viết Thanh, Chủ tịch UBND TPHCM đã xin từ nhiệm và đã được Hội đồng nhân dân TPHCM chấp thuận. Ngay sau khi đắc cử, ngoài hai Phó Chủ tịch cũ là Nguyễn Thiện Nhân và Vũ Hùng Việt, Lê Thanh Hải giới thiệu thêm ba đại biểu vào chức danh Phó Chủ tịch UBND TPHCM gồm Mai Quốc Bình, Huỳnh Thị Nhân (Giám đốc Sở Tài chính – Vật giá), và Nguyễn Thành Tài (Chánh văn phòng UBND TPHCM) và ba người này cũng được phê chuẩn.
Từ ngày 18 tháng 5 năm 2001 đến ngày 12 tháng 7 năm 2006, ông giữ các chức vụ Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy, Phó Bí thư Thành ủy, Đại biểu Hội đồng nhân dân Thành phố Khóa VI, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Tháng 4 năm 2006, tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam toàn quốc lần thứ X, ông được bầu vào Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Ngày 28 tháng 6 năm 2006, sau khi Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Minh Triết được bầu làm Chủ tịch nước, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh ký Quyết định phân công ông Lê Thanh Hải, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND TP.HCM giữ chức Bí thư Thành ủy nhiệm kỳ 2005-2010. Ông tái đắc cử chức vụ này nhiệm kỳ 2010-2015. Ngoài ra, ông từng là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII, Đảng ủy viên Đảng ủy Quân khu 7, Bí thư Đảng ủy Bộ Tư lệnh TP. HCM.
Tháng 10 năm 2015, Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ 10 bầu khuyết chức vụ Bí thư Thành ủy. Ông được Bộ Chính trị phân công chỉ đạo Thành ủy. Tại Đại hội XII Đảng Cộng sản Việt Nam ông không tái cử Ban Chấp hành Trung ương Đảng, vì vậy cũng kết thúc nhiệm kỳ tại Bộ Chính trị, thôi giữ chức Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. Kế nhiệm ông trong chức vụ này là ông Đinh La Thăng (Đã bị kỷ luật khai trừ ra khỏi Đảng).
Ông đã được tặng thưởng Huân chương Quyết thắng hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Ba, Huân chương Lao động hạng Ba, Huy chương Vì thế hệ Trẻ, Huy chương Vì sự nghiệp Xây dựng tổ chức Công đoàn, Huy chương Vì sự nghiệp Lao động – Thương binh và Xã hội, Huy chương Vì sức khỏe nhân dân, Kỷ niệm chương Cựu chiến binh Việt Nam.
Gia đình
Hiện nay, ông cư trú tại 48A đường Trương Định, Phường 7 Quận 3, TP.HCM. Vợ ông là Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo ưu tú Trương Thị Hiền, Chủ tịch Hội Nữ trí thức TP.HCM, nguyên Giám đốc Học viện Cán bộ TP. HCM, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 2. Trương Thị Hiền là em út của bà Trương Mỹ Hoa, nguyên Phó Chủ tịch nước Việt Nam.
Con trai đầu là Lê Trương Hải Hiếu (sinh 1981), Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ TP Hồ Chí Minh, Phó Bí thư Quận uỷ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 12, Đại biểu Hội đồng nhân dân Thành phố khóa VIII nhiệm kỳ 2011-2016 bị kỷ luật khiển trách tại hội nghị Thành ủy TP.HCM ngày 17/4/2018 vì "có quan hệ tình cảm với một phụ nữ và có con chung nhưng chậm báo cáo với tổ chức".
Con trai thứ là Lê Trương Hiền Hòa, hiện là một doanh nhân, Giám đốc một công ty kinh doanh bất động sản.
Em của ông là Lê Tấn Hùng, nguyên là Bí thư đảng ủy, Tổng giám đốc Tổng công ty Nông nghiệp Sài Gòn. Tháng 3 năm 2018, ông bị kỷ luật khiển trách vì liên quan hàng loạt sai phạm ở Tổng công ty Nông nghiệp Sài Gòn (Sagri). Sai phạm của ông Hùng liên quan việc ký khống, chi khống hơn 13 tỉ đồng cho hàng chục cán bộ, người lao động học tập nước ngoài. Ngày 12 tháng 6 năm 2019, ông Hùng bị đình chỉ công tác tổng giám đốc, đến tháng 7 năm 2019 ông bị cơ quan điều tra khởi tố và bắt tạm giam do phạm nhiều sai phạm đặc biệt nghiêm trọng trong thời gian đảm nhiệm chức vụ Tổng giám đốc tập đoàn Sagri. Tòa án nhân dân thành phố vào ngày 18/12/2021 tuyên án ông Hùng 25 năm tù (14 năm tù về tội tham ô tài sản, 11 năm tù về tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát lãng phí).
Phong tặng
Huy hiệu 50 tuổi Đảng Cộng sản Việt Nam (được trao ngày 15 tháng 5 năm 2018)
Kỷ luật
Ngày 8 tháng 1 năm 2020, tại Hà Nội, Ủy ban Kiểm tra Trung ương kết luận, dưới sự chủ trì Chủ nhiệm ủy ban Trần Cẩm Tú: Ban Thường vụ Thành ủy và Ban cán sự Đảng UBND TP.HCM đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc, thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu kiểm tra, giám sát, để xảy ra nhiều vi phạm, khuyết điểm nghiêm trọng trong quá trình thực hiện dự án đầu tư Khu đô thị mới Thủ Thiêm, gây hậu quả rất nghiêm trọng, làm thiệt hại lớn tiền và tài sản của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của một bộ phận nhân dân thành phố, gây bức xúc trong xã hội. Ông Lê Thanh Hải, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Thành ủy, chịu trách nhiệm chính về những vi phạm, khuyết điểm của Ban Thường vụ Thành ủy, phải bị xem xét kỷ luật.
Ngày 20 tháng 3 năm 2020, Bộ Chính trị quyết định thi hành kỷ luật ông Lê Thanh Hải bằng hình thức cách chức Bí thư Thành ủy TP.HCM nhiệm kỳ 2010-2015 vì đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ và Quy chế làm việc của Thành ủy; thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, thiếu kiểm tra, giám sát, để xảy ra nhiều vi phạm, khuyết điểm kéo dài trong quá trình thực hiện Dự án đầu tư Khu đô thị mới Thủ Thiêm, ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng bộ và chính quyền Thành phố, gây bức xúc trong xã hội, đến mức phải xem xét, thi hành kỷ luật.
Chú thích |
Nguyễn Văn Chi (sinh ngày 28 tháng 7 năm 1945) là một chính trị gia Việt Nam. Ông từng giữ chức Ủy viên Bộ Chính trị khóa X, Bí thư Trung ương Đảng khóa IX (từ tháng 1 năm 2003), khóa X, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa IX, khóa X.
Tiểu sử
Ông sinh ngày 28 tháng 7 năm 1945, tại xã Hòa Tiến, huyện Hòa Vang, nay là ngoại ô thành phố Đà Nẵng. Thuở nhỏ, ông theo học bậc tiểu học, trung học tại địa phương. Từ năm 1955, ông làm cơ sở hợp pháp và giao liên bí mật cho Huyện ủy Hoà Vang.
Hoạt động cách mạng tại miền Trung
Tháng 10 năm 1964, ông thoát ly gia đình, làm công tác văn thư cho Huyện ủy Hòa Vang.
Từ năm 1965 đến 1969, ông lần lượt giữ các chức vụ Ủy viên Ban Kinh tế huyện Hoà Vang, Phó ban Kinh Tài II huyện Hoà Vang; Phó Ban Tổ chức Đảng ủy khu II Hoà Vang; Thường vụ Đảng ủy khu II, trưởng Ban Tổ chức khu II Hoà Vang.
Ông được kết nạp Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam ngày 14 tháng 6 năm 1965, và đúng một năm sau, vào ngày 14 tháng 6 năm 1966, trở thành đảng viên chính thức.
Từ tháng 3 năm 1971 đến tháng 3 năm 1973, ông lần lượt giữ các chức vụ Phó Bí thư Đảng ủy khu II Hoà Vang; tỉnh ủy viên Quảng Đà, bí thư khu II Hoà Vang; tỉnh ủy viên, chánh văn phòng tỉnh ủy Quảng Đà.
Tháng 4 năm 1974, ông được rút ra Bắc, theo học tại trường Đảng Cao cấp Nguyễn Ái Quốc.
Tháng 5 năm 1976, ông được cử về lại địa phương, được phân công giữ chức Phó Bí thư Huyện ủy Hoà Vang.
Tháng 10 năm 1976, được bầu làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, sau đó được bầu làm Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam-Đà Nẵng, Bí thư Huyện ủy Hoà Vang.
Tháng 7 năm 1979, ông được bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng.
Từ tháng 7 năm 1983 đến tháng 10 năm 1984, ông được cử làm Đặc phái viên của Tỉnh ủy, theo dõi việc phân phối lưu thông hàng hóa (trong cơ chế bao cấp).
Tháng 10 năm 1984, ông được cử làm Phó Bí thư Thành ủy Đà Nẵng.
Tháng 12 năm 1986, ông trúng cử Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương khoá VI, giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam-Đà Nẵng.
Tháng 7 năm 1991, ông tái đắc cử Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương khoá VII, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam-Đà Nẵng.
Từ tháng 4 năm 1994 đến tháng 4 năm 1995, ông được cử làm Phái viên của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chính phủ tại miền Trung và Tây Nguyên.
Hoạt động ở Trung ương
Tháng 6 năm 1996, ông tái đắc cử Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, được phân công giữ chức Phó trưởng Ban Bảo vệ chính trị nội bộ Trung ương.
Tháng 4 năm 2001, ông tiếp tục tái đắc cử Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, được phân công làm Trưởng ban Bảo vệ chính trị nội bộ Trung ương.
Tại Hội nghị Trung ương 7 khóa IX, vào tháng 1 năm 2003, ông được bầu bổ sung vào Ban Bí thư, giữ chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương.
Tại Đại hội Đảng lần thứ X, ông tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, được Trung ương bầu vào Bộ Chính trị và Ban Bí thư.
Tại Đại hội Đảng lần thứ XI, ông thôi không tham gia Ban Chấp hành Trung ương. Tuy vậy, Đại hội đã bầu con trai lớn của ông là Nguyễn Xuân Anh - Bí thư Quận ủy Liên Chiểu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương.
Gia đình
Vợ ông là bà Trần Thị Thủy. Bà Trần Thị Thủy có em trai là Trần Mẫn, Chánh án Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Đà Nẵng.
Ông Nguyễn Văn Chi và bà Trần Thị Thủy có ba con trai là Nguyễn Xuân Anh, Nguyễn Xuân Ánh và Nguyễn Xuân Ảnh.
Hiện nay con trai lớn là Nguyễn Xuân Anh (sinh năm 1976) đã bị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cho thôi Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, và cách chức Bí thư Thành ủy Đà Nẵng. Con trai thứ hai là Nguyễn Xuân Ánh (sinh năm 1979) Quyền Chánh Thanh tra Bộ Ngoại giao, nguyên Tham tán Đại sứ quán Việt Nam tại Canada. Con út là Nguyễn Xuân Ảnh (sinh năm 1983), Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Đường bộ Việt Nam.
Chú thích
Người Đà Nẵng
Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Ủy viên Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XII
Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XII Hà Nội
Người họ Nguyễn tại Việt Nam
Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X
Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 10
Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam – Đà Nẵng |
Vùng văn hóa Á Đông (chữ Nôm: ) hay vùng văn hóa Đông Á (chữ Nôm: ) hay còn gọi là vùng văn hóa chữ Hán (chữ Nôm: ), Đông Á văn hóa quyển (chữ Hán: ), Hán tự văn hóa quyển (chữ Hán: ) hoặc đơn giản hơn với cách gọi Á Đông (亞東) hay Hán quyển (漢圈), là tên gọi chỉ cộng đồng các nước ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, bao gồm sự ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo và Phật giáo, đã từng sử dụng chữ Hán làm công cụ truyền bá ngôn ngữ và truyền tải văn hóa, theo thống nhất học thuật, như Đại Trung Hoa (bao gồm Trung Quốc, Hồng Kông, Ma Cao và Đài Loan), Việt Nam, Hàn Quốc, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, hoặc đang sử dụng chữ Hán làm công cụ truyền bá ngôn ngữ và truyền tải văn hóa như Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản.
Văn hóa quyển chữ Hán cụ thể chỉ Trung Quốc (đất mẹ của chữ Hán), hoặc có từng thời kỳ tại Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản. Những khu vực nói trên chủ yếu là vùng văn hóa lúa nước, có cơ chế sách phong. Ngoài ra còn có một số dân tộc du mục như dân tộc Mông Cổ, Tây Tạng, tuy nằm trong Văn hóa quyển chữ Hán, nhưng không sử dụng chữ Hán. Đôi khi khái niệm còn bao gồm cả Singapore, quốc gia vốn độc lập khỏi Malaysia nhưng hiện nay có đa số là người Hoa. Không nên nhầm lẫn vùng văn hóa Đông Á với Đại Trung Hoa hay Trung Quốc, bao gồm các quốc gia nơi dân số nói tiếng Hoa chiếm ưu thế.
Đế quốc Trung Hoa là một cường quốc trong khu vực và có ảnh hưởng đối với các quốc gia triều cống và láng giềng, trong đó có Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Trong lịch sử cổ điển, bốn nền văn hóa chia sẻ một hệ thống đế quốc chung dưới các vị hoàng đế tương ứng. Các phát minh của Trung Quốc chịu ảnh hưởng và đến lượt lại bị ảnh hưởng bởi những đổi mới của các nền văn hóa khác trong quản trị, triết học, khoa học và nghệ thuật. Chữ viết cổ điển của Trung Quốc (Văn ngôn) đã trở thành ngôn ngữ chung trong khu vực để trao đổi văn học. Ngày nay, Trung Quốc đại lục đã chuyển sang chữ Hán giản thể (điều này cũng ảnh hưởng đến cộng đồng gốc Hoa ở Malaysia và Singapore); chỉ còn Đài Loan, Hồng Kông, và Ma Cao dùng chữ Hán phồn thể.
Vào thời đại Edo của Nhật Bản, những nhà Nho học Nhật Bản và nhà Nho học Triều Tiên thường dùng phương thức bút đàm để tranh luận về vấn đề Nho học; các sứ giả đến từ An Nam và các sứ giả đến từ Triều Tiên viết tặng nhau những bài thơ chữ Hán.
Vào cuối lịch sử cổ điển, tầm quan trọng của văn học cổ điển Trung Quốc giảm dần khi Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam đều sử dụng phương tiện văn học của riêng mình. Nhật Bản phát triển các hệ chữ Katakana và Hiragana, Triều Tiên phát triển Chosŏn'gŭl, Việt Nam phát triển chữ Nôm và chấp nhận chữ Quốc Ngữ từ bảng chữ cái Latin của các nhà truyền giáo châu Âu trong nước. Văn học cổ điển viết bằng chữ Hán dù sao vẫn là một di sản quan trọng của các nền văn hóa Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Trong thế kỷ 21, những ảnh hưởng tư tưởng và văn hóa của Nho giáo và Phật giáo vẫn hiển hiện trong các học thuyết xã hội và văn hóa cao.
Thuật ngữ
Trung Quốc từ lâu đã được coi là một trong những nền văn minh lớn nhất thế giới. Sự hình thành nền văn hóa của người Hán tại sông Hoàng Hà vẫn thường được coi là điểm khởi đầu của thế giới Đông Á. Ngày nay, tổng dân số của khu vực này lên tới khoảng gần hai tỉ người.
Nhà sử học người Nhật Nishijima Sadao (西嶋定生, 1919-1998), giáo sư danh dự tại Đại học Tokyo, ban đầu đã đặt ra thuật ngữ Đông Á văn hóa quyển (東亜文化圏, Tōa bunka-ken). Ông quan niệm về một văn hóa quyển của Trung Quốc và các nước Đông Á khác với phương Tây. Theo Nishijima, khu vực này cùng chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng Nho giáo, Phật giáo và có cùng cấu trúc chính trị - xã hội. Khu vực này bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Bán đảo Triều Tiên, Việt Nam, kéo dài tới những vùng đất giữa Mông Cổ và dãy Himalaya.
Từ nguyên
Đôi khi được sử dụng như một từ đồng nghĩa với phạm vi văn hóa Đông Á, thuật ngữ này bắt nguồn từ từ "Hán", tức Trung Hoa hay Trung Quốc, và "quyển", theo nghĩa đen là phạm vi ảnh hưởng, tức là khu vực chịu ảnh hưởng của một quốc gia.
Là từ ghép của nhau, các ngôn ngữ "CJKV" - Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam - dịch thuật ngữ tiếng Anh là:
Tiếng Trung: quān (圈)
Tiếng Nhật: ken (圏 け ん)
Tiếng Hàn: gwon (권 từ 圏)
Tiếng Việt: quyển/khuyên từ 圏
Victor H. Mair đã thảo luận về nguồn gốc của các thuật ngữ "lĩnh vực văn hóa" này. Chữ 文化圈 (wénhuà quān) trong tiếng Trung có từ một bản dịch năm 1941 cho thuật ngữ tiếng Đức Kulturkreis, ('vùng văn hóa, văn hóa quyển'), mà các nhà dân tộc học người Áo là Fritz Graebner và Wilhelm Schmidt đề xuất. Nhà sử học Nhật Bản Nishijima Sadao đã đặt ra các cụm từ 漢字文化圏 (Kanji bunka-ken, "Hán tự văn hoá quyển") và 中華文化圏 (Chuka bunka-ken, "Trung Hoa văn hoá quyển"), mà sau này Trung Quốc đã mượn lại làm từ ngữ . Nishijima đã nghĩ ra những "lĩnh vực văn hóa" của người Hoa trong Đông Á Thế Giới Luận của ông (東アジア世界論, Higashi Ajia sekai-ron).
Từ điển tiếng Trung-Anh cung cấp các bản dịch tương tự của cụm từ khóa 文化圈 là "giới trí thức hoặc văn học" (Liang Shiqiu, 1975) và "giới văn học, giáo dục" (Lâm Ngữ Đường, 1972).
Hán quyển có thể được coi là đồng nghĩa với Trung Quốc cổ đại và các nền văn minh hậu duệ của nó cũng như "các nền văn minh Viễn Đông" (Đại lục và Nhật Bản). Vào những năm 1930 trong Nghiên cứu Lịch sử, Trung quyển cùng với các nền văn minh phương Tây, Hồi giáo, Chính thống giáo phương Đông, Ấn Độ... được trình bày như một trong những "đề tài nghiên cứu" chính.
So sánh với phương Tây
Nhà sử học người Anh Arnold J. Toynbee đã liệt kê nền văn minh Viễn Đông là một trong những nền văn minh chính được nêu trong cuốn sách của ông, A Study of History. Ông đưa Nhật Bản và Hàn Quốc vào định nghĩa của mình về "nền văn minh Viễn Đông" và đề xuất rằng họ phát triển từ "nền văn minh Trung Hoa" có nguồn gốc từ lưu vực sông Hoàng Hà. Toynbee đã so sánh mối quan hệ giữa nền văn minh Trung Hoa và Viễn Đông với mối quan hệ của nền văn minh Hy Lạp và phương Tây, vốn có "mối liên hệ rõ ràng".
Nhà sử học và Hán học người Mỹ Edwin O. Reischauer cũng nhóm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam vào một khu vực văn hóa mà ông gọi là thế giới Trung Hoa, một nhóm các quốc gia tập trung chia sẻ triết lý đạo đức Nho giáo. Reischauer nói rằng nền văn hóa này có nguồn gốc từ miền Bắc Trung Quốc, so sánh mối quan hệ giữa miền Bắc Trung Quốc và Đông Á với mối quan hệ của nền văn minh Hy Lạp-La Mã và châu Âu. Các tầng lớp tinh hoa của Đông Á được gắn kết với nhau thông qua một ngôn ngữ viết chung dựa trên các ký tự Trung Quốc, giống như cách mà tiếng Latinh đã hoạt động ở châu Âu.
Nhà khoa học chính trị người Mỹ Samuel P. Huntington đã coi thế giới Sinic là một trong nhiều nền văn minh trong cuốn sách Cuộc đụng độ của các nền văn minh. Ông lưu ý rằng "tất cả các học giả đều công nhận sự tồn tại của một nền văn minh Trung Quốc riêng biệt duy nhất có niên đại ít nhất là 1500 năm trước Công nguyên và có lẽ là một nghìn năm trước đó, hoặc của hai nền văn minh Trung Quốc kế tục nền văn minh kia vào những thế kỷ đầu của kỷ nguyên Cơ đốc giáo." Nền văn minh Trung Hoa của Huntington bao gồm Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc, Mông Cổ, Việt Nam và các cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á. Trong số nhiều nền văn minh mà Huntington thảo luận, thế giới Trung Hoa là thế giới duy nhất dựa trên bản sắc văn hóa chứ không phải tôn giáo. Lý thuyết của Huntington là trong một thế giới sau Chiến tranh Lạnh, nhân loại đã "đồng nhất" với các nhóm văn hóa: bộ lạc, dân tộc, cộng đồng tôn giáo ở cấp độ rộng nhất là các nền văn minh." Tuy nhiên, Huntington lại coi là Nhật Bản như là một nền văn minh khác riêng biệt do nằm ở quần đảo (nhưng đấy chỉ nằm trong ý kiến thiểu số).
Tương đồng văn hóa
Chữ Hán
Trong lịch sử, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Bắc Triều Tiên và Việt Nam đều sử dụng chữ Hán. Ngày nay, nó được sử dụng chủ yếu ở Trung Quốc, Nhật Bản và Đài Loan. Mặc dù chữ Hán đã trở nên ít phổ biến tại Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc, nó vẫn giữ một vị trí đặc biệt trên phương diện văn hóa, vì chữ Hán đã có ảnh hưởng rất lớn đến lịch sử và văn học truyền thống. Ngày nay, vẫn có thể thấy chữ Hán trong đền thờ, chùa, các kiến trúc và văn vật truyền thống tại đây. Ở Việt Nam vẫn có một lượng không nhỏ người học chữ Hán và chữ Nôm (loại chữ do người Việt Nam phát triển từ chữ Hán) dùng trong tiếng Việt.
Họ tên người
Họ tên người của vùng văn hoá Đông Á đều đi theo thứ tự "họ trước tên sau", ngược với phương Tây là "tên trước họ sau". Họ người Trung Hoa, người Triều Tiên, người Việt Nam chủ yếu là họ đơn âm viết trong một chữ Hán, một số ít là họ kép viết trong hai chữ Hán, và ba khu vực này có nhiều họ chung như Lý, Trần... Riêng Nhật Bản là một đảo quốc nên có sự khác biệt lớn, họ của người Nhật Bản không có sự cố định trong số lượng chữ Hán và cách đọc. Về tên người cũng tương tự như vậy: tên người Trung Hoa, người Triều Tiên, người Việt Nam cũng thường là một hoặc hai từ đơn âm với chữ Hán, trong khi tên người Nhật cũng không có sự cố định trong số lượng chữ Hán và cách đọc.
Nghệ thuật
Kiến trúc
Các nước thuộc vùng văn hóa Đông Á có kiến trúc có nhiều điểm tương đồng do cùng chịu ảnh hưởng của kiến trúc Trung Hoa cổ, sử dụng kết cấu gỗ và hình thái mái có nhiều điểm tương đồng và dị biệt.
Thư pháp
Xem Thảo thư, Thư pháp, Thư pháp Đông Á, Thư pháp Trung Hoa.
Võ thuật
Xem Võ thuật, Công phu, Wushu, Karate, Taekwondo, Judo, Sumo, Nhất Nam, Vovinam, v.v
Âm nhạc
Các nhạc cụ Trung Quốc như đàn tranh có ảnh hưởng tới các nhạc cụ khác của bán đảo Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam.
Ẩm thực
Các món ăn của Đông Á có rất nhiều nguyên liệu và cách chế biến tương đồng. Tất cả các nước Đông Á đều dùng đũa làm dụng cụ ăn chính. Việc sử dụng nước tương, nước sốt được làm từ quá trình lên men đậu nành, cũng phổ biến ở Đông Á. Gạo là lương thực chính trong tất cả các nước Đông Á và là một trọng tâm chính của vấn đề an ninh lương thực. Ở các nước Đông Á, từ "cơm" cũng có nghĩa là thực phẩm nói chung (chữ Hán giản thể:饭; chữ Hán phồn thể:飯; bính âm: fàn, Hán Việt: phạn). |
Trung Hoa Dân quốc () là đảo quốc và là một quốc gia có chủ quyền thuộc khu vực Đông Á. Ngày nay, do ảnh hưởng từ vị thế lãnh thổ cùng nhiều yếu tố chính trị nên trong một số trường hợp, quốc gia này còn được gọi là Đài Loan () hay Đài Bắc Trung Hoa ().
Đảo Đài Loan nằm ở phía Tây Bắc Thái Bình Dương, ở giữa quần đảo Ryukyu của Nhật Bản và quần đảo Philippines, tách rời khỏi lục địa Á-Âu đồng thời có đường biên giới trên biển giáp với Trung Quốc đại lục thông qua eo biển Đài Loan, Đài Loan có diện tích vào khoảng 36.000 km², là đảo lớn thứ 38 trên thế giới với khoảng 70% diện tích là đồi núi, vùng đồng bằng tập trung chủ yếu tại khu vực ven biển phía tây. Do nằm tại giao giới giữa khí hậu cận nhiệt đới và nhiệt đới nên cảnh quan tự nhiên cùng hệ sinh thái tương đối phong phú và đa nguyên.
Thủ đô của Đài Loan được đặt tại Đài Bắc, thành phố lớn nhất là Tân Bắc bao quanh Đài Bắc, tổng nhân khẩu được ước tính vào khoảng 23,5 triệu người với thành phần chủ yếu là người Hán, dân nhập cư đến từ Trung Quốc đại lục, Hồng Kông, Đông Nam Á và số ít thổ dân Đài Loan.
Những thổ dân Đài Loan bản địa đã cư trú trên hòn đảo từ thời kỳ cổ đại và xã hội Đài Loan vẫn trong trạng thái nguyên thủy cho đến khi người Hà Lan đến. Các sắc tộc từ Quảng Đông, Phúc Kiến bắt đầu di cư tới Đài Loan với số lượng lớn vào thời kỳ chiếm đóng của thực dân Hà Lan và Tây Ban Nha trong giai đoạn đầu của thế kỷ XVII. Năm 1661, Trịnh Thành Công thiết lập nhà nước đầu tiên của người Hán trên đảo và trục xuất người Hà Lan. Năm 1683, nhà Thanh đánh bại chính quyền họ Trịnh và sáp nhập Đài Loan. Nhà Thanh cắt nhượng khu vực này cho Đế quốc Nhật Bản năm 1895 sau khi chiến bại. Trung Hoa Dân Quốc lật đổ nhà Thanh và giành quyền quản lý Trung Quốc đại lục năm 1911. Sau khi Nhật Bản thua trận và đầu hàng Đồng Minh trong Thế Chiến II, Trung Hoa Dân Quốc một lần nữa giành lại quyền kiểm soát đại lục cũng như đảo Đài Loan. Sau thất bại trong Nội chiến Quốc-Cộng, Tưởng Giới Thạch cùng chính phủ Trung Hoa Dân Quốc rút đến đây, còn Đảng Cộng sản do Mao Trạch Đông lãnh đạo thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại đại lục. Nhiều năm sau, do ảnh hưởng của chiến tranh Lạnh, Trung Hoa Dân Quốc vẫn được nhiều quốc gia nhìn nhận là đại biểu hợp pháp duy nhất của Trung Quốc tại Liên Hợp Quốc, đồng thời là một thành viên trong Hội đồng Bảo an. Năm 1971, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa giành được quyền đại diện cho Trung Quốc tại Liên Hợp Quốc, Trung Hoa Dân Quốc do đó đánh mất sự công nhận quốc tế trên quy mô lớn.
Trong giai đoạn cuối của thế kỷ XX, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc trên đảo tập trung phát triển kinh tế và triển khai nhiều cải cách dân chủ, lấy Học thuyết Tam Dân của Tôn Trung Sơn làm nòng cốt. Nền kinh tế Đài Loan từ thập niên 1960 trở đi có sự phát triển thần tốc, tạo nên Kỳ tích Đài Loan. Từ thập niên 1990, Đài Loan trở thành quốc gia phát triển. Đài Loan hiện nay là trung cường quốc và đồng minh không thuộc NATO của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, chính sách ngoại giao thù địch dựa trên nguyên tắc Một Trung Quốc của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đang cản trở sự phát triển và hội nhập của Đài Loan.
Tên gọi
Có nhiều thuyết về nguồn gốc tên gọi nước "Đài Loan", trong văn thư từ thời Minh trở đi, Đài Loan cũng được ghi là "Đại Viên" (大員, Dà yuán), Đài Viên (臺員, Tái yuán), hay Kê Lung Sơn (雞籠山, Jī lóngshān), Kê Lung (雞籠, Jī lóng), Bắc Cảng (北港, Běigǎng), Đông Phiên (東蕃, Dōng fān) "Đại Viên" bắt nguồn từ Taian hoặc Tayan, dùng để gọi người ngoại lai trong ngôn ngữ của người Siraya tại Nam Đài Loan; người Hà Lan trong thời kỳ thống trị Đài Loan gọi đảo là Taioan, dịch âm (tiếng Mân Nam) sang chữ Hán là Đại Viên (大員, Dà yuán), Đại Uyển (大苑, Dà yuàn), Đài Viên (臺員, Tái yuán), Đại Loan (大灣, Dà wān) hoặc Đài Oa Loan (臺窩灣, Tái wō wān), danh xưng này nguyên bản là chỉ phụ cận khu vực An Bình, Đài Nam hiện nay. Thời kỳ Minh Trịnh, danh xưng "Đại Viên" (大員, Dà yuán) bị loại bỏ, gọi toàn đảo là "Đông Đô" (東都, Dōngdū), "Đông Ninh" (東寧, Dōng níng). Sau khi đảo thuộc nhà Thanh, triều đình đặt phủ Đài Loan, từ đó, "Đài Loan" chính thức trở thành danh xưng cho toàn đảo.
Năm 1554, tàu buôn của người Bồ Đào Nha đi qua vùng biển Đài Loan, thủy thủ nhìn từ xa thấy Đài Loan rất đẹp nên hô vang - có nghĩa là 'hòn đảo xinh đẹp'. Trước thập niên 1950, các quốc gia châu Âu chủ yếu gọi Đài Loan là "Formosa".
Năm 1905, khi Tôn Trung Sơn triệu tập hội nghị trù bị Trung Quốc Đồng minh hội tại Nhật Bản, trong "Trung Quốc Đồng minh hội minh thư" đề xuất cương lĩnh "xua đuổi Thát Lỗ, khôi phục Trung Hoa, sáng lập dân quốc, bình đẳng về ruộng đất", đặt tên cho chế độ cộng hòa chưa được thành lập tại Trung Quốc là "Trung Hoa Dân Quốc". Ông nhận thấy rằng dù các chế độ cộng hòa đại đa số thi hành chế độ dân chủ đại nghị, song để xác lập rõ ràng cũng như riêng biệt những nguyên tắc chủ quyền quốc gia thuộc toàn thể quốc dân đồng thời hướng tới tiến hành dân quyền trực tiếp như Thụy Sĩ và Hoa Kỳ đang thực thi thì phải chọn ra một danh xưng hoàn chỉnh, nên mới chọn quốc hiệu là "Trung Hoa Dân Quốc".
Sau khi Trung Hoa Dân Quốc dời sang Đài Loan vào năm 1949, từ thập niên 1950 đến thập niên 1960 được cộng đồng quốc tế gọi là "Trung Hoa quốc gia", "Trung Hoa tự do" hay "Trung Hoa dân chủ", phân biệt với "Trung Hoa đỏ", "Trung Hoa cộng sản" tức nhà nước cùng chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Sau khi quyền đại biểu cho Trung Quốc chuyển cho Đại lục theo Nghị quyết 2758 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc năm 1971, "Trung Quốc" trở thành xưng hô của cộng đồng quốc tế với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Tại Đài Loan trong thập niên 1990, do thời gian chia cắt đã khá lâu dài, chủ nghĩa quốc gia Trung Quốc phai nhạt, ý thức về tính chủ thể của người Đài Loan tăng lên, xã hội cũng như người dân nơi đây bắt đầu sử dụng phổ biến tên gọi "Đài Loan" làm quốc hiệu.
Chịu ảnh hưởng từ chủ trương "một Trung Quốc" của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Trung Hoa Dân Quốc khi tham dự hoạt động hoặc tổ chức quốc tế phải sử dụng các cách xưng hô khác nhau; như "Trung Hoa Đài Bắc" trong Thế vận hội từ năm 1984 trở đi và trong vị trí quan sát viên Tổ chức Y tế Thế giới, hay "khu vực thuế quan cá biệt Đài Bành Kim Mã" trong Tổ chức Thương mại Thế giới. Do có chủ trương chủ quyền với "toàn Trung Quốc", nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nhìn nhận khu vực Đài Loan thuộc lãnh thổ thống trị của mình, cho nên đối với vùng lãnh thổ này trong các sản phẩm báo chí, tin tức, truyền thông thì gọi là "Đài Loan Trung Quốc", "nhà đương cục Đài Loan" hay "khu vực Đài Loan". Chính phủ Trần Thủy Biển trong hoàn cảnh ngoại giao đổi sang tự xưng "Đài Loan", trực tiếp gọi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là "Trung Quốc". Chính phủ Mã Anh Cửu chuyển sang đồng thời sử dụng gọi tắt "Hoa" lẫn "Đài", dựa theo hiến pháp để gọi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là "Đại lục". Gần đây, Chính phủ của Tổng thống Thái Anh Văn và Thủ tướng Lại Thanh Đức luôn tuyên bố hai bờ là hai vùng riêng biệt: Đài Loan và Trung Quốc, cự tuyệt việc thống nhất dưới bất kỳ hình thức nào đồng thời biểu thị sẽ sẵn sàng tự vệ, đáp trả mọi động thái quân sự đến từ phía Đại lục. Không dừng lại ở đó, tới đầu năm 2021, chính phủ Đài Loan chính thức ra mắt hộ chiếu mới cho công dân của mình, trong đó, thiết kế nhấn mạnh vào tên gọi Taiwan (Đài Loan) và loại bỏ dòng chữ Republic of China (Trung Hoa Dân Quốc) bằng tiếng Anh ra khỏi trang bìa của cuốn hộ chiếu mới (nhưng vẫn giữ lại tên gọi này bằng tiếng Trung).
Vị thế chính trị
Hiện tại, vị thế địa - chính trị của Trung Hoa Dân quốc đang tồn tại nhiều tranh luận, bắt nguồn từ quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan. Sau khi chính phủ Trung Hoa Dân quốc rút đến Đài Loan đã nhiều lần chiếu theo hiến pháp, chủ trương rằng bản thân là chủ nhân hợp pháp duy nhất và có chủ quyền hoàn toàn đối với toàn bộ khu vực Trung Quốc. Tuy vậy, kể từ năm 1992 trở đi, chính phủ Trung Hoa Dân quốc quyết định không còn đưa "phản công Đại lục" vào làm mục tiêu chính trị nữa, các vấn đề lãnh thổ theo hiến pháp sau đó tiếp tục gây ra nhiều sự tranh cãi, ngày nay, lập trường của chính phủ phụ thuộc chủ yếu vào liên minh chính trị cầm quyền. Tương tự chính phủ Trung Hoa Dân quốc, chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa mặc dù cũng không kiểm soát được hết tất cả các vùng lãnh thổ dưới quyền tài phán của Trung Hoa Dân quốc trên thực tế, nhưng vẫn tự nhận là đại biểu hợp pháp duy nhất của toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc, đơn phương coi Đài Loan là một tỉnh, đưa ra yêu cầu "thu hồi" Đài Loan tương tự như với các trường hợp của Hồng Kông và Ma Cao, đồng thời biểu thị sẽ sẵn sàng sử dụng đến vũ lực nếu như nước này thất bại trong việc ngăn cản Đài Loan tuyên bố độc lập bằng các biện pháp đối thoại, đàm phán hoặc không thể thống nhất trong hòa bình.
Nhiều quốc gia và tổ chức trên thế giới, do sức ép ngoại giao từ phía chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nên không công nhận chính thức Đài Loan là một quốc gia độc lập. Tuy vậy, hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay vẫn đã và đang duy trì mối quan hệ chính trị, thương mại, ngoại giao, kinh tế,... song phương thực tế với Đài Loan, dù cho không phải dưới hình thức quan hệ ngoại giao chính thức.
Lịch sử
Thời tiền sử
Đài Loan nối liền với đại lục châu Á trong thời kỳ Pleistocen muộn, kéo dài đến khi mực nước biển dâng lên khoảng 10.000 năm trước. Phát hiện những di cốt rời rạc của loài người trên đảo, có niên đại từ 20.000 đến 30.000 năm trước, cũng như nhiều các đồ tạo tác sau này của một văn hóa đồ đá cũ.
Khoảng tầm hơn 8.000 năm trước, người Nam Đảo lần đầu tiên đã đi định cư tại Đài Loan. Hậu duệ của họ nay được gọi là thổ dân Đài Loan và có ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Nam Đảo, một ngữ hệ trải rộng khắp Đông Nam Á hải đảo, Thái Bình Dương và Madagascar. Ngôn ngữ thổ dân Đài Loan có mức độ đa dạng lớn hơn nhiều so với phần còn lại của hệ Nam Đảo, do đó các nhà ngôn ngữ học đề xuất Đài Loan là quê hương của hệ, từ đây các dân tộc đi biển phân tán khắp Đông Nam Á, Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.
Người Hán Trung Quốc vốn biết đến khu vực Đài Loan từ thời Tam Quốc, nhưng chỉ bắt đầu định cư tại quần đảo Bành Hồ thuộc khu vực Đài Loan từ thời nhà Tống vào năm 1171, song do các bộ lạc thổ dân trên đảo Đài Loan đối địch và thiếu tài nguyên mậu dịch có giá trị trong khu vực nên Đài Loan không thu hút người Hán, song thỉnh thoảng có những người mạo hiểm hoặc ngư dân tham gia mậu dịch với thổ dân cho đến thế kỷ XVI. Năm 1281, nhà Nguyên đặt Bành Hồ tuần kiểm ty, cùng thời điểm người Hán ra đây định cư, cơ quan chính quyền Trung Quốc đầu tiên tại khu vực Đài Loan. Năm 1384, nhà Minh ban đầu do thực thi chính sách đóng biển nên đóng cửa sở quan tại Bành Hồ, đến năm 1563 thì đặt lại.
Thế kỷ XVII
Công ty Đông Ấn Hà Lan nỗ lực lập một trạm mậu dịch tại Bành Hồ gần sát đảo Đài Loan vào năm 1622, song bị quân Minh đánh bại và trục xuất. Năm 1624, công ty này lập một thành trì mang tên Pháo đài Zeelandia trên đảo nhỏ mang tên Tayouan ven bờ Đài Loan, nay là bộ phận của đảo này. Một nhân viên của công ty sống trên đảo trong thập niên 1650 mô tả các khu vực đất thấp trên đảo bị phân chia giữa 11 tù bang có quy mô khác nhau, từ hai đến 72 khu dân cư. Một số tù bang nằm dưới quyền kiểm soát của Hà Lan, còn số khác duy trì độc lập. Công ty bắt đầu nhập khẩu lao động từ Phúc Kiến và Bành Hồ từ nhà Minh Trung Quốc theo những người Hà Lan để đến Đài Loan, nhiều người trong số họ ở lại định cư lâu dài, đây chính là những người Hán đầu tiên định cư trên đảo.
Năm 1626, người Tây Ban Nha đổ bộ và chiếm lĩnh miền bắc Đài Loan, tại các cảng Cơ Long và Đạm Thủy ngày nay, nhằm lập căn cứ để bành trướng mậu dịch. Thời kỳ thực dân này kéo dài trong 16 năm đến năm 1642, khi các thành trì cuối cùng của Tây Ban Nha rơi vào tay Hà Lan.
Một nhân vật phản Thanh phục Minh là Trịnh Thành Công đem quân đội sang Đài Loan và chiếm được Pháo đài Zeelandia vào năm 1662, trục xuất chính phủ và quân đội Hà Lan khỏi đảo. Trịnh Thành Công lập chính quyền của người Hán đầu tiên ở Đài Loan vào năm 1661, định đô tại Đài Nam ngày nay. Ông và những người kế vị là Trịnh Kinh (cai trị trong 1662-1682), và Trịnh Khắc Sảng, tiếp tục các cuộc tấn công vào khu vực ven biển đông nam Trung Quốc đại lục trong thời nhà Thanh trong bối cảnh nhà Nam Minh đã bị nhà Thanh tiêu diệt hoàn toàn ở miền Nam Trung Quốc, đây là nơi cuối cùng của phe nhà Minh chống lại người Mãn Châu.
Nhà Thanh cai trị
Năm 1683, quân họ Trịnh chiến bại trong hải chiến Bành Hồ trước quân Thanh dưới quyền Thi Lang, Trịnh Khắc Sảng buộc phải đầu hàng. Khang Hy Đế cho nhập miền tây đảo vào bản đồ Đại Thanh, giao tỉnh Phúc Kiến quản lý, gọi là "phủ Đài Loan". Ban đầu, nhà Thanh có chính sách tiêu cực với Đài Loan, trong quá trình khai phá miền tây đảo không ngừng đàn áp các bộ lạc và chính quyền thổ dân vùng thấp, thống trị đất đai của họ. Nhà Thanh cưỡng chế hàng chục vạn người Hán cư trú tại Đài Loan về nguyên quán tại Đại lục, hạn chế nghiêm ngặt cư dân nội lục di cư sang Đài Loan. Tuy nhiên, có không ít người từ các tỉnh duyên hải đại lục mạo hiểm sang Đài Loan, định cư tạm thời tại nửa phía tây của đảo, sau đó dần dần khai khẩn nửa đông của đảo, song số lượng không nhiều. Do quan lại được phái đến thời kỳ đầu có tố chất thấp, cách biệt về ngôn ngữ giữa quan và dân, cũng như chính sách áp bức cao độ với cư dân Đài Loan, nên phát sinh nhiều khởi nghĩa vũ trang hoặc sự kiện náo loạn, như sự kiện Lâm Sảng Văn năm 1786.
Năm 1724, nhà Thanh giáng chỉ cho phép dân Quảng Đông di cư sang Đài Loan, đến cuối thế kỷ XVIII bắt đầu xuất hiện di dân khai khẩn quy mô lớn. Do xung đột trong phân phối đất đai, tại Đài Loan phát sinh chiến đấu giữa các phân nhóm người Hán, ảnh hưởng đến phân bố dân cư trên đảo sau này. Khi đó, người Hán không ngừng xâm chiếm đất đai của thổ dân vùng thấp, khiến nhóm này bị Hán hóa hoặc phải lên vùng núi cao nương nhờ thổ dân địa phương. Trước hiện tượng này, quan lại nhà Thanh yếu kém không ngăn chặn nổi, quan địa phương thậm chí còn lợi dụng để giảm khả năng bạo loạn chống triều đình.
Đài Loan từ 1860 trở đi bắt đầu mở cửa một bộ phận cảng cho ngoại thương. Trong thời kỳ Chiến tranh Nha phiến, hạm đội Anh Quốc có ý đồ chiếm cảng Cơ Long tại miền bắc và cảng Ngô Tê tại miền tây đảo, song đều thất bại. Năm 1874, Nhật Bản nhân sự kiện người Lưu Cầu đi nhầm vào lãnh thổ người thổ dân Bài Loan, tiến hành xuất binh đến bán đảo Hằng Xuân, tức "sự kiện Mẫu Đơn Xã". Điều này tạo thành một cảnh báo với chính sách của nhà Thanh với Đài Loan, nhà Thanh phái Khâm sai đại thần Thẩm Bảo Trinh sang Đài Loan quản lý, tăng cường lực lượng phòng vệ, cải cách hành chính, tăng cường chính sách để phát triển Đài Loan. Người kế nhiệm là Đinh Nhật Xương tiếp tục thi hành cải cách, khuyến khích cư dân Quảng Đông và Phúc Kiến sang Đài Loan khai khẩn, cho mở mỏ khoáng sản.
Năm 1884, Chiến tranh Pháp-Thanh bùng phát do vấn đề Việt Nam, quân Pháp xuất binh đến quần đảo Bành Hồ và miền bắc Đài Loan. Lưu Minh Truyền được triều đình phái sang Đài Loan, ông nhiều lần đánh bại kế hoạch đổ bộ Đài Loan của Pháp. Năm 1885, nhà Thanh tách Đài Loan khỏi tỉnh Phúc Kiến để lập tỉnh Đài Loan, Lưu Minh Truyền làm tuần phủ. Lưu Minh Truyền tại nhiệm đến năm 1891, ông thiết lập biện pháp phòng ngự, chính lý quân bị, đồng thời phát triển và kiến lập nhiều cơ sở hạ tầng, tuyến đường sắt đầu tiên trên đảo từ Cơ Long đến Tân Trúc khai thông trong thời gian ông tại nhiệm.
Tháng 12 năm Quang Tự thứ 20 (1894), Đường Cảnh Tùng nhậm chức Đài Loan tuần phủ. Do nhà Thanh chiến bại trong Chiến tranh Giáp Ngọ nên phải ký kết Hiệp ước Shimonoseki, cắt nhượng chủ quyền Bành Hồ và Đài Loan cho Nhật Bản.
Nhật trị
Các quan viên thân sĩ bản địa Đài Loan kháng cự cắt nhượng cho Nhật Bản, tại Đài Bắc họ thành lập Đài Loan Dân chủ quốc, Đường Cảnh Tùng là tổng thống lâm thời. Đến khi quân Nhật đổ bộ, Đường Cảnh Tùng dời sang Hạ Môn, Lưu Vĩnh Phúc kế nhiệm làm tổng thống tại Đài Nam. Trong vài tháng sau, quân Dân chủ quốc và quân Nhật phát sinh nhiều cuộc giao tranh ác liệt, khiến khoảng 14.000 binh sĩ Đài Loan chiến tử, sử gọi là "Chiến tranh Ất Mùi", cũng là chiến tranh lớn nhất trong lịch sử Đài Loan.
Sau khi giải quyết thế lực phản kháng, Nhật Bản đặt chức tổng đốc Đài Loan làm quan thống trị tối cao trên đảo. Thời kỳ đầu, chức vụ tổng đốc đều do quân nhân đảm nhiệm để bình định; năm 1898, chính phủ Minh Trị bổ nhiệm tướng lĩnh lục quân Kodama Gentaro làm tổng đốc thứ 4, đồng thời phái Goto Shinpei làm trưởng quan dân chính để phụ tá, từ đó trở đi sử dụng chính sách cai trị cả cương lẫn nhu. Nhật Bản dùng chế độ cảnh sát và chế độ bảo giáp để quản lý Đài Loan, đến Thời kỳ Đại Chính của Nhật Bản, chính cục Đài Loan dần ổn định.
Năm 1908, toàn tuyến đường sắt bắc-nam Đài Loan thông suốt, giao thông bắc nam nay chỉ mất một ngày. Năm 1919, Nhật Bản phái Den Kenjiro làm tổng đốc quan văn đầu tiên của Đài Loan, bắt đầu xây dựng lượng lớn các hạng mục cơ sở hạ tầng như nước máy, điện lực, đường bộ, đường sắt, y tế, giáo dục. Người Nhật khuyến khích nông dân Đài Loan trồng mía, lúa; đồng thời khai thác quy mô lớn các tài nguyên tự nhiên của Đài Loan để cung ứng cho nhu cầu công nghiệp nội địa Nhật Bản. Nhật Bản tiến hành giáo dục ái quốc đối với người Đài Loan, song học sinh Đài Loan thực tế bị phân biệt đối xử hoặc kỳ thị. Vào năm 1938, ước tính có khoảng 309.000 người Nhật định cư tại Đài Loan, sau thế chiến đại đa số họ trở về Nhật Bản.
Nhật Bản thi hành "vận động hoàng dân hóa", giai đoạn một kéo dài từ cuối năm 1936 đến năm 1940 với trọng điểm là "xác lập nhận thức về thời cục, tăng cường ý thức quốc gia". Giai đoạn hai kéo dài từ năm 1941 đến năm 1945 có mục đích là thuyết phục người Đài Loan tận trung vì Nhật Bản. Khuyến khích người Đài Loan nói tiếng Nhật đồng thời thi hành giáo dục kiểu Nhật, mặc quần áo kiểu Nhật, thờ phụng Thần đạo Nhật Bản, hoàn toàn Nhật hóa trong sinh hoạt. Nhật Bản vào năm 1945 còn tiến hành quân dịch toàn diện, đưa người Đài Loan sang chiến trường Trung Quốc và Đông Nam Á. Sau năm 1944, do bị Đồng Minh 25 lần không kích, sản xuất nông-công nghiệp của Đài Loan giảm xuống mức thấp nhất vào trước khi kết thúc đại chiến.
Tháng 4 năm 1945, Thiên hoàng Hirohito ban bố chiếu thư về người Triều Tiên và Đài Loan tham chính, đồng thời thông qua cải cách tuyển cử nghị viện, cấp cho người Đài Loan quyền tham chính và tham chiến như người Nhật Bản nội địa. Ngày 14 tháng 8 cùng năm, Thiên hoàng Hirohito ra tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, Thế chiến II kết thúc. Tưởng Giới Thạch phái Trần Nghi cử hành lễ tiếp nhận đầu hàng của quân Nhật tại Đài Bắc vào ngày 25 tháng 10 năm 1945, đồng thời thay mặt Đồng Minh chiếm lĩnh quân sự Đài Loan và Bành Hồ.
Thời chuyên chính Dân quốc
Do các nhân tố như cơ quan quản lý hành chính Đài Loan thi hành chính sự sai lầm, Đài Loan vào năm 1947 bùng phát sự kiện 28 tháng 2 chống đối chính phủ Quốc dân. Ngày 25 tháng 12 năm 1946, Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc được thông qua, song bị Đảng Cộng sản Trung Quốc bác bỏ, quan hệ Quốc - Cộng chính thức tan vỡ. Nhằm đối phó với nội chiến, Quốc hội vào năm 1948 thông qua "Điều khoản lâm thời thời kỳ động viên dẹp loạn". Tình thế chiến tranh dần trở nên bất lợi cho Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc, cuối cùng bị Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đánh bại với hậu thuẫn của Liên Xô, Đảng Cộng sản thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào tháng 10 năm 1949 tại Bắc Kinh. Tháng 12 cùng năm, Tưởng Giới Thạch hạ lệnh chính phủ rút sang khu vực Đài Loan, chọn Đài Bắc làm thủ đô lâm thời. Chính phủ Quốc dân đưa vàng và ngoại hối dự trữ đến Đài Loan, rất nhiều bộ đội, và khoảng 1-2 triệu cư dân cũng rút sang khu vực Đài Loan.
Ban đầu, Hoa Kỳ bỏ rơi Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc, nhận định Đài Loan sẽ nhanh chóng bị Đảng cộng sản chiếm lĩnh. Tuy nhiên, sau khi bùng phát Chiến tranh Triều Tiên vào năm 1950, Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman thay đổi lập trường, phái Hạm đội 7 đến trú tại eo biển Đài Loan, phòng ngừa hai bên phát sinh xung đột. Đầu thập niên 1950, binh sĩ Trung Hoa Dân Quốc cũng triệt thoái khỏi đảo Hải Nam, đảo Đại Trần, đặt trọng tâm vào Đài Loan, Bành Hồ, Kim Môn, Mã Tổ. Sau đó, Hoa Kỳ thông qua "Điều ước phòng ngự chung Trung-Mỹ" và "Quyết định Formosa 1955" nhằm can thiệp tình hình khu vực, khiến cho chính phủ Trung Hoa Dân Quốc có thể duy trì thống trị khu vực Đài Loan. Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đồng thời chủ trương có chủ quyền với Trung Quốc đại lục và Ngoại Mông Cổ. Do ảnh hưởng từ cục thế Chiến tranh Lạnh, Liên Hợp Quốc và đa số quốc gia phương Tây tiếp tục công nhận Trung Hoa Dân Quốc là chính phủ hợp pháp đại diện cho "Trung Quốc".
Mặc dù mất quyền cai trị Trung Quốc đại lục, phạm vi thống trị chỉ còn khu vực Đài Loan, song chính phủ Trung Hoa Dân Quốc vẫn lập kế hoạch quân sự phản công đại lục. Đối diện với phe đối lập có chủ trương Đài Loan độc lập, cải cách bầu cử quốc hội, thực thi dân chủ có thể dẫn đến cạnh tranh, và sự uy hiếp của quân đội Đảng cộng sản, Quốc hội dựa vào "Điều khoản lâm thời thời kỳ động viên dẹp loạn" sửa đổi để phát triển chính thể chuyên chế, chính phủ độc đảng do Quốc dân đảng nắm ưu thế tuyệt đối. Trung Quốc Quốc dân Đảng trong khi cải cách tổ chức từ thập niên 1950 đến thập niên 1960, cũng không ngừng đàn áp người có lập trường chính trị bất đồng, khiến về sau họ không thể tập hợp phản đối thế lực Quốc dân đảng. Trong thời kỳ khủng bố trắng tại Đài Loan, có 140.000 người bị giam cầm hoặc hành quyết do bị cho là phản đối Quốc dân đảng, thân Đảng cộng sản.
Chuyển đổi chính trị và kinh tế
Thời kỳ đầu, chính phủ tỉnh Đài Loan ngoài thi hành chính sách tự trị địa phương, hợp tác xã, giáo dục cơ sở, còn xúc tiến các cải cách ruộng đất như giảm tô, chuyển nhượng đất công, giảm tiền thuê đất, giúp ổn định phát triển nông nghiệp đồng thời cung cấp một lượng lớn nguyên vật liệu và thực phẩm. Đồng thời dựa vào đó thi hành chế độ kinh tế hiện đại hội nhập thị trường, xúc tiến phát triển doanh nghiệp dân doanh và công thương nghiệp, trở thành mô hình định hướng gia công xuất khẩu. Thập niên 1960 đến thập niên 1970, chính phủ xúc tiến mạnh mẽ chuyển đổi hình thái kinh tế theo định hướng công nghiệp hóa và kỹ thuật. Nhờ tiền vốn từ Hoa Kỳ và nhu cầu sản phẩm của thị trường này, kinh tế Đài Loan tăng trưởng nhanh chóng, thậm chí được gọi là "kỳ tích Đài Loan". Thập niên 1970, tăng trưởng kinh tế Đài Loan chỉ đứng sau Nhật Bản tại châu Á, và được xếp vào nhóm Bốn con rồng châu Á cùng Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapore.
Năm 1971, Liên Hợp Quốc thông qua "Nghị quyết 2758" thừa nhận chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là đại biểu hợp pháp của "Trung Quốc". Sau đó, Trung Hoa Dân quốc chỉ còn duy trì quan hệ ngoại giao với thiểu số quốc gia, quốc tế cũng chuyển sang gọi là "Đài Loan" hoặc "Trung Hoa Đài Bắc". Sau khi Tưởng Giới Thạch mất năm 1975, Nghiêm Gia Cam kế nhiệm, sau đó Tưởng Kinh Quốc làm tổng thống trong hai nhiệm kỳ.. Do chính phủ vẫn lấy lệnh giới nghiêm để khống chế truyền thông, đàn áp phe phản đối và cấm lập đảng, trong thập niên 1970 Trung Hoa Dân Quốc bị xem là quốc gia phi dân chủ. Năm 1979, hoạt động kháng nghị tại thành phố Cao Hùng bị cảnh sát trấn áp, xúc tiến thế lực phản đối trong nước đoàn kết. Đối diện áp lực quốc tế và vận động ngoài đảng, chính phủ triển khai công tác dân chủ hóa, đảng đối lập đầu tiên là Đảng Dân chủ Tiến bộ thành lập vào năm 1986. Năm sau, chính phủ tuyên bố giải trừ giới nghiêm, bỏ cấm lập đảng, mở cửa lĩnh vực báo chí-xuất bản. Sau khi Tưởng Kinh Quốc mất vào năm 1988, Lý Đăng Huy kế nhiệm, ông nhiều lần sửa hiến pháp, xúc tiến bãi bỏ quốc hội vạn niên (đại biểu nhiệm kỳ vô hạn đại diện cho các khu vực tại Đại lục), cải cách toàn diện bầu cử quốc hội.
Đài Loan diễn ra một loạt phát triển dân chủ hóa, dẫn tới bầu cử tổng thống trực tiếp lần đầu tiên vào năm 1996, kết quả là Lý Đăng Huy thắng cử. Năm 2000, ứng cử viên của Đảng Dân chủ Tiến bộ là Trần Thủy Biển đắc cử tổng thống, kết thúc thời kỳ Quốc dân đảng nắm quyền. Trong tám năm chấp chính, Trần Thủy Biển xúc tiến bản địa hóa Đài Loan, song do đảng của ông không kiểm soát Lập pháp viện nên gặp bất lợi trong thực thi chính sách, cuối nhiệm kỳ liên tiếp chịu nghi vấn. Ứng cử viên Quốc dân đảng là Mã Anh Cửu thắng cử tổng thống vào năm 2008 và năm 2012, đồng thời đảng này tiếp tục giành đa số ghế trong Lập pháp viện. Mã Anh Cửu chủ trương xúc tiến tăng trưởng kinh tế và cải thiện quan hệ hai bờ eo biển. Năm 2016, ứng cử viên của Đảng Dân chủ Tiến bộ là Thái Anh Văn đắc cử tổng thống, đảng này cũng lần đầu giành quá bán số ghế trong Lập pháp viện.
Địa lý
Địa hình
Từ năm 1950 trở đi, 99% lãnh thổ thực tế của Trung Hoa Dân Quốc là đảo Đài Loan, 1% còn lại là các đảo nhỏ khác, tổng diện tích lãnh thổ là 36.197 km². Đài Loan tách biệt Trung Quốc đại lục qua eo biển Đài Loan ở phía tây, phía bắc là biển Hoa Đông, phía đông giáp biển Philippines, qua eo biển Luzon ở phía nam là Philippines, phía tây nam là biển Đông.. Đảo dài 400 km theo chiều bắc-nam, rộng 145 km theo chiều đông-tây. Do hình dạng tương tự củ khoai lang, một bộ phận dân chúng tự gọi là 'con cái khoai lang'. Ngoài Đài Loan và các đảo phụ thuộc, Trung Hoa Dân Quốc còn quản lý quần đảo Bành Hồ cách Đài Loan 50 km về phía tây, và quần đảo Kim Môn, Mã Tổ, Ô Khâu nằm gần bờ biển tỉnh Phúc Kiến. Trên biển Đông, Trung Hoa Dân Quốc quản lý quần đảo Đông Sa, đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa, song không có cư dân cư trú vĩnh cửu.
Đảo Đài Loan hình thành do va chạm giữa nền Dương Tử ở phía bắc và tây, mảng Okinawa ở phía đông bắc, và mảng di động Philippines ở phía đông và phía nam, địa thể nhô lên do xung đột giữa hai mảng lớn Á-Âu và Philippines. Do phát triển của kiến tạo vỏ trái đất và kiến tạo sơn, Đài Loan có địa hình đa dạng phức tạp, phần lớn kiến tạo địa chất do mảng Á-Âu tạo thành, mảng Philippines chỉ tạo ra đới hút chìm.. Chịu ảnh hưởng của các mảng như cung núi lửa Luzon, khu vực miền đông và miền nam có kết cấu phức tạp, như thung lũng Hoa Đông song song nhưng có địa chất khác biệt với dãy núi Hải Ngạn.. Đài Loan nằm tại giao giới giữa các mảng nên có nhiều dịch chuyển dẫn đến đứt gãy địa chất, như động đất ngày 21 tháng 9 năm 1999 khiến hơn 2.400 người tử vong, bản đồ tai hại địa chấn của Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ xếp Đài Loan ở cấp cao nhất. Đảo Đài Loan nằm trên Vành đai lửa Thái Bình Dương nên có một số địa hình núi lửa tắt, núi lửa ngủ, và núi lửa, song chỉ có nhóm núi lửa Đại Đồn và đảo Quy Sơn có hoạt động rõ ràng; một lượng lớn suối nước nóng xuất hiện tại khu vực đứt gãy.
Có thể phân đảo Đài Loan thành các loại địa hình như núi, đồi, đồng bằng, cao nguyên, vùng núi miền đông chiếm hơn một nửa diện tích, trong khi đất có thể canh tác chiếm 24%. Các dãy núi Đài Loan phần lớn có hướng tương tự như cấu tạo địa chất, tại miền bắc có hướng đông bắc-tây nam, tại miền nam có hướng bắc tây bắc-nam đông nam, các dãy núi chủ yếu xếp theo thứ tự đông sang tây là dãy núi Hải Ngạn, dãy núi Trung ương, dãy núi Tuyết Sơn, dãy núi Ngọc Sơn, dãy núi Gia Lý Sơn và dãy núi A Lý Sơn. Đài Loan xếp thứ tư thế giới trong danh sách đảo theo điểm cao nhất, nơi cao nhất đảo là đỉnh Ngọc Sơn cao 3.952 trên mực nước biển, ngoài ra còn có trên 200 đỉnh núi cao trên 3.000 m. Từ các dãy Gia Lý Sơn và A Lý Sơn là các vùng chân núi, gò đồi và cao nguyên bằng phẳng hay nhấp nhô, phần lớn gò đồi là cao nguyên đất đỏ bị sông suối xâm thực chia cắt, các vùng gò đồi chủ yếu là Trúc Đông, Trúc Nam và Miêu Lật, cao nguyên phần lớn tạo thành do lớp đá vụn và đất đỏ tích tụ tạo thành, các cao nguyên trọng yếu là Lâm Khẩu, Đào Viên, Đại Đỗ, Bát Quái.
Chịu ảnh hưởng từ biến động của vỏ trái đất, của dòng chảy và xâm thực, một số khu vực đồi núi hình thành bồn địa. So với xung quanh thì bồn địa bằng phẳng, thổ nhưỡng phì nhiêu, nguồn nước dồi dào, phần lớn phát triển thành khu vực dân cư, như bồn địa Đài Bắc, bồn địa Đài Trung, bồn địa Phố Lý, bồn địa Thái Nguyên. Khu vực miền tây do tác động của bồi tích từ hạ du sông suối và dòng chảy bắt nguồn từ địa bàn, hình thành đồng bằng phù sa bằng phẳng, đại đa số nhân khẩu trên đảo cư trú trên đồng bằng. Địa hình đồng bằng có đồng bằng Gia Nam là chủ yếu, ngoài ra ở miền tây còn có đồng bằng Chương Hóa, đồng bằng Bình Đông, đồng bằng Tân Trúc, đồng bằng Thanh Thủy, ở miền đông có đồng bằng Lan Dương và đồng bằng thung lũng Hoa Đông. Xung quanh đảo Đài Loan có các đảo nhỏ như đảo núi lửa Lan Tự, Lục Đảo, Quy Sơn, Cơ Long, Miên Hoa, Bành Giai, Hoa Bình; các đảo đá ngầm san hô ở phía nam có Lưu Cầu, Thất Tinh Nham, Đông Sa, cũng như kiểm soát đảo Ba Bình.
Khí hậu sinh thái
Đài Loan có chí tuyến Bắc chạy qua, nằm tại giao giới giữa khí hậu nhiệt đới hải dương và cận nhiệt đới hải dương, phía bắc chí tuyến bắc được phân thuộc khí hậu cận nhiệt đới còn phía nam được phân thuộc khí hậu nhiệt đới; khí hậu về tổng thể là mùa hạ kéo dài và ẩm thấp, mùa đông khá ngắn và ấm áp. Nhiệt độ bình quân mùa đông là 15 °C-20 °C, còn nhiệt độ bình quân cao vào mùa hạ lên tới 28 °C. Miền bắc do chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc nên từ tháng 1 đến tháng 3 bước vào mùa mưa, miền trung và miền nam không chịu ảnh hưởng. Từ tháng 5 là bắt đầu mùa mưa Đông Á, từ tháng 6 đến tháng 9 thời tiết nóng nực và ẩm thấp, miền nam có mưa nhiều hơn miền bắc. Bão nhiệt đới tấn công Đài Loan từ tháng 7 đến tháng 10, từ tháng 11 đến tháng 12 là mùa khô. Lượng mưa bình quân năm của Đài Loan là 2.500 mm, gấp ba lần bình quân thế giới, song 80% tập trung từ tháng 5 đến tháng 10. Lượng mưa bình quân mỗi người Đài Loan nhận được chỉ bằng 1/6 của thế giới, 46,2% lượng mưa chảy ra biển, 33,3% lượng mưa bốc hơi, chỉ sử dụng được 20,5%. Lượng mưa cũng phân bổ không đều, có khác biệt giữa vùng núi và đồng bằng, miền đông và miền tây, miền nam và miền bắc.
Đài Loan có 151 sông suối, các sông có chiều dài vượt quá 100 km là Trạc Thủy, Cao Bình, Đạm Thủy, Tăng Văn, Đại Giáp, Ô, Tú Cô Loan. Trạc Thủy là sông dài nhất với 186,6 km, sông có lưu vực rộng nhất là Cao Bình. Chịu ảnh hưởng của hướng núi, dòng chảy thường theo hướng tây hay đông. Do dãy núi Trung ương nằm lệch đông, các sông trọng yếu nằm tại nửa phía tây. Mặc dù Đài Loan có lượng mưa dồi dào, song chịu ảnh hưởng của mùa mưa nên cạn vào mùa đông; chỉ có các sông Đạm Thủy, Đại Hán, Cơ Long tại khu vực Đài Bắc có lượng nước ổn định quanh năm. Đại đa số hồ nằm tại bên tây, song hồ tự nhiên chỉ là thiểu số, trong đó lớn nhất là hồ Nhật Nguyệt rộng 8 km².
Tổng chiều dài đường bờ biển Trung Hoa Dân Quốc hiện là hơn 1.813 km, địa hình ven biển Đài Loan khác biệt theo khu vực, phân thành bờ núi tạo thành mũi đất và vịnh biển tại miền bắc, bờ cát thẳng đơn điệu tại miền tây, bờ biển rạn san hô miền nam, bờ biển đứt đoạn tại miền đông do núi và biển liền kề. Đài Loan có hệ động thực vật hoang dã phong phú, ước tính 11% động vật và 27% thực vật là loài đặc hữu, như cá hồi Đài Loan; có hơn 3.000 loài thực vật có hoa, hơn 640 loài dương xỉ, hơn 3.000 loài cá, hơn 500 loài chim. Chính phủ lập 8 khu bảo hộ sinh thái tự nhiên với diện tích chiếm gần 20% lãnh thổ.
Chính trị
Kết cấu chính phủ
Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc thành lập dựa theo hiến pháp và Chủ nghĩa Tam Dân, hiến pháp định vị quốc gia là "nước cộng hòa dân chủ của dân do dân vì dân". Tham khảo "ngũ quyền hiến pháp" của Tôn Trung Sơn, hiến pháp phân chính phủ thành năm cơ cấu là Hành chính viện, Lập pháp viện, Tư pháp viện, Khảo thí viện, Giám sát viện. (Ngũ quyền Phân lập). Sau khi sửa đổi hiến pháp để thi hành chế độ bán tổng thống, tổng thống là nguyên thủ quốc gia và là người thống soái Quân đội Trung Hoa Dân Quốc. Sau lần sửa đổi hiến pháp thứ ba vào năm 1994, tổng thống do công dân trực tiếp bầu ra, có nhiệm kỳ bốn năm và có thể tái nhiệm một lần. Tổng thống có quyền phối hợp điều hành sự vụ Hành chính viện, Lập pháp viện, Tư pháp viện, Khảo thí viện và Giám sát viện, đồng thời bổ nhiệm viện trưởng Hành chính viện và quan chức nội các.
Hành chính viện phụ trách công tác quản lý chính sách quốc gia, bên dưới đặt các cơ quan xử lý công việc hành chính như bộ, ủy ban, ngoài ra còn có 7-9 người là ủy viên chính vụ. Cơ quan lập pháp tối cao là Lập pháp viện theo hình thức đơn viện, các ủy viên lập pháp chọn ra viện trưởng Lập pháp viện. Ủy viên lập pháp có 113 người được bầu theo hai thể thức là trực tiếp bầu cho cá nhân và bầu theo danh sách đảng, có nhiệm kỳ 4 năm. Viện trưởng Hành chính viện do Tổng thống bổ nhiệm, không cần Lập pháp viện phê chuẩn, khiến khi cơ quan hành chính và lập pháp xung đột khó có không gian hiệp thương. Trong quá khứ, Trung Hoa Dân Quốc còn thiết lập Quốc dân đại hội đơn viện, song chính thức bị bãi bỏ vào năm 2005, quyền "phức quyết" chuyển sang do công dân đầu phiếu quyết định
.
Tư pháp viện Trung Hoa Dân Quốc là cơ quan tư pháp tối cao, chủ yếu phân xử tố tụng dân sự, hình sự, hành chính, kỷ luật nhân viên công vụ. Viện trưởng Tư pháp viện cùng phó viện trưởng và 13 thẩm phán hợp thành hội nghị đại pháp quan, thống nhất giải thích hiến pháp, pháp luật, hay pháp lệnh, đồng thời triệu tập tòa án hiến pháp phân xử luận tội tổng thống, phó tổng thống, và giải tán chính đảng vi hiến. Khảo thí viện phụ trách tuyển chọn tư cách nhân viên công vụ, hay sát hạch tuyển chọn quan chức chính phủ. Giám sát viện là cơ cấu thường trực giám sát chính phủ hoạt động, bên dưới đặt các ủy ban để có thể tiến hành điều tra hành chính các cơ quan hành chính
Chế độ pháp luật
Chính phủ Quốc dân dưới quyền Trung Quốc Quốc dân Đảng thông qua hiến pháp vào ngày 25 tháng 12 năm 1946, từ ngày 25 tháng 12 năm sau bước vào 'thể chế hiến chính', đồng thời cải tổ thành chính phủ Trung Hoa Dân Quốc. Tuy nhiên, từ năm 1948 đến năm 1987, do "thời kỳ động viện dẹp loạn" nên rất nhiều điều khoản mất hiệu lực. Các đại biểu quốc dân đại hội, ủy viên lập pháp và ủy viên giám sát khóa 1 với lý do khu vực bầu cử bị Đảng Cộng sản Trung Quốc chiếm cứ nên được tự động tái cử vô hạn. Đến cuối thập niên 1970, sau khi chính phủ triển khai cải cách chính trị, giải trừ giới nghiêm đã đề xuất dân chủ hóa và cải cách hiến chính, đến thập niên 1990 trở thành quốc gia dân chủ khai phóng theo thể chế đa đảng.
Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc là bộ luật căn bản cho chế độ tư pháp của quốc gia, xác lập quyền tư pháp độc lập với quyền hành pháp, quyền lập pháp, quyền khảo thí và quyền giám sát. Hiến pháp đề xuất chính phủ trung ương ngũ quyền phân lập, cùng các quốc sách cơ bản khác, tuy nhiên rất nhiều điều khoản có nội dung lãnh thổ là "Trung Quốc" nên nhiều điều bị tạm đình chỉ để phù hợp với thực tế. Một bộ phận pháp luật theo hệ thống luật thành văn của dân luật châu Âu lục địa, chuẩn theo "luật tiêu chuẩn pháp quy trung ương" phân thành luật quy định thông thường, luật quy định đặc biệt, điều lệ quy định thời chiến, nguyên tắc chung quy phạm tổ chức. Quá trình chế định và sửa đổi pháp luật cần phải thông qua Lập pháp viện thẩm nghị, sau đó do tổng thống công bố thi hành. Hành chính viện, Khảo thí viện hoặc cơ quan khác có thể ban bố quy trình, quy tắc, biện pháp, cương yếu, tiêu chuẩn, và các mệnh lệnh khác, quyền giải thích nội dung thuộc về Tư pháp viện.
Tòa án phổ thông phân thành tòa án tối cao, tòa án cấp cao và tòa án địa phương, bên dưới lập các tòa án hình sự và dân sự, ngoài ra còn có tòa án hiến pháp phụ trách xử lý tranh chấp hiến pháp, tòa án hành chính xử lý tố tụng hành chính, tòa án chuyên biệt xử lý sở hữu trí tuệ, thiếu niên, và công việc gia đình, cùng tòa án quân sự xét xử thời chiến. Tòa án xét xử không sử dụng thẩm phán bồi thẩm đoàn, mà sử dụng phương thức thẩm phán chủ tọa và thẩm phán bồi thẩm cùng xét xử, đồng thời yêu cầu tiến hành trong tình trạng công bằng công khai. Hiện nay, Trung Hoa Dân Quốc duy trì án tử hình, song chính phủ dần giảm số lượng người bị chấp hành, căn cứ điều tra năm 2006 có khoảng 80% dân chúng đồng thuận duy trì tử hình. Tháng 5 năm 2017, Lập pháp viện tuyên bố rằng việc luật dân sự cản trở hôn nhân đồng tính luyến ái là vi hiến, yêu cầu sửa đổi.Hôn nhân đồng giới ở Đài Loan hợp pháp vào ngày 24 tháng 5 năm 2019, trở thành quốc gia đầu tiên ở châu Á hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính, bất chấp việc trưng cầu dân ý cho thấy 69% cử tri Đài Loan phản đối việc công nhận hôn nhân đồng tính
Lập trường chính trị
Tính đến năm 2015, Trung Hoa Dân Quốc tổng cộng có 286 chính đảng cùng nhiều phe phái khác nhau. Các chính đảng ủng hộ thống nhất như Quốc dân Đảng, Thân dân Đảng, Tân đảng được gọi là "phiếm Lam" 泛藍, các chính đảng ủng hộ độc lập như Dân chủ Tiến bộ Đảng, Đài Loan Đoàn kết Liên minh được gọi là "phiếm Lục" 泛綠, ngoài ra còn có các chính đảng khác như Vô đảng Đoàn kết Liên minh. Hai phái có khác biệt trong các quan điểm như về bản sắc quốc gia, ý thức Trung Hoa và ý thức Đài Loan, quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan, địa vị chính trị Đài Loan, quy thuộc chủ quyền, hàm ý "Trung Quốc", "phiếm Lam" cho rằng Đài Loan là một bộ phận của "Trung Quốc", và Trung Hoa Dân Quốc là chính phủ hợp pháp duy nhất, đồng thời ủng hộ định hướng thống nhất Trung Quốc; "phiếm Lục" cho rằng Trung Hoa Dân Quốc tức là Đài Loan độc lập về chủ quyền, phản đối Đài Loan là một bộ phận của "Trung Quốc", đồng thời tìm kiếm công nhận ngoại giao chính thức hoặc tuyên bố độc lập. Trong chính sách ngoại giao, hai phái đều tích cực đề xướng tham dự tổ chức quốc tế, đồng thời cho rằng quốc dân quyết định sự phát triển của chủ quyền.
Từ cuối thời nhà Nam Minh đến năm 1895, tổ tiên của "người bản tỉnh" ở khu vực miền Trung Quốc đại lục chuyển đến Đài Loan. Đến năm 1949, một lượng lớn khác dân chúng Trung Quốc đại lục chuyển đến đảo Đài Loan, hiện nay 98% nhân khẩu thuộc tộc Hán. Có nguồn gốc văn hóa tương đồng với ở Trung Quốc đại lục, song phân ly khu vực do chính trị-ngoại giao, cộng thêm trong thời gian dài ủng hộ chủ trương chủ quyền toàn Trung Quốc, ngày nay bản sắc quốc gia của Trung Hoa Dân Quốc là một nghị đề có sắc thái chính trị. Cùng với ý thức chủ thể và phong trào Đài Loan độc lập nổi lên, "Đài Loan" dần trở thành danh xưng thường dùng. Tuyệt đại đa số dân chúng trong xã hội dân gian cho rằng Đài Loan và Trung Quốc không thuộc cùng một quốc gia, số lượng tự nhận có tính chất và bản chất cũng như danh nghĩa và tên gọi "người Đài Loan" cũng cao hơn số lượng chỉ tự nhận là "người Trung Quốc".
Mặc dù Trung Hoa Dân Quốc thống trị khu vực Đài Loan từ thập niên 1950 có tính độc lập, đồng thời đa số dân chúng cho rằng tự thân có chủ quyền quốc gia, song do chịu uy hiếp quân sự của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, khiến vấn đề Đài Loan độc lập cực kỳ phức tạp. Đại bộ phận dân chúng hy vọng duy trì hiện trạng hai bờ eo biển Đài Loan, song số lượng người chủ trương độc lập đông hơn người chủ trương thống nhất. Ngoài ra, một bộ phận nhân sĩ chủ trương việc Trung Hoa Dân Quốc thu hồi Đài Loan theo "Tuyên bố Cairo" có tranh nghị, cho rằng Trung Hoa Dân Quốc chỉ đại diện cho Đồng Minh chiếm lĩnh quân sự Đài Loan và Bành Hồ; đồng thời căn cứ theo Hiệp ước San Francisco tuyên bố chủ quyền Đài Loan chưa xác định,cho rằng Trung Hoa Dân Quốc là chính phủ lưu vong nước ngoài từ miền eo biển bên kia.
Hành chính
Sau khi chính phủ Trung Hoa Dân Quốc dời sang Đài Loan vào năm 1949, họ chỉ có thể thống trị các đảo thuộc tỉnh Đài Loan (bao gồm đảo Đài Loan, quần đảo Bành Hồ) và tỉnh Phúc Kiến (bao gồm Kim Môn, Mã Tổ). Ngoài ra, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc còn khống chế quần đảo Đông Sa, và đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa trên biển Đông, giao các đảo này cho thành phố Cao Hùng phụ trách quản lý. Trung Hoa Dân Quốc tham gia tranh chấp chủ quyền quần đảo Trường Sa (gọi là Nam Sa) và quần đảo Senkaku (gọi là Điếu Ngư đài). Từ năm 1949 trở đi, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc từng nhiều lần cải cách phân chia hành chính nhằm tổng hợp phát triển khu vực. Trong đó, chức năng của chính phủ cấp tỉnh của tỉnh Phúc Kiến và tỉnh Đài Loan lần lượt được tinh giản vào năm 1956 và 1998, chỉ duy trì công tác mang tính tượng trưng.
Ngoài ra, vào năm 1967 và năm 1979, thành phố Đài Bắc và thành phố Cao Hùng lần lượt được tách khỏi tỉnh Đài Loan để chuyển sang trực thuộc trung ương. Năm 2010, chính phủ lại chuyển các thành phố Tân Bắc, Đài Trung, Đài Nam sang trực thuộc trung ương. Năm thành phố này cũng là năm thành thị trọng yếu nhất của Trung Hoa Dân Quốc hiện nay, trong đó Tân Bắc nguyên là huyện Đài Bắc, Đài Trung cùng Đài Nam và Cao Hùng hợp nhất với các huyện cùng tên. Hiện nay, tỉnh Đài Loan được phân thành 12 huyện và 3 thành phố, tỉnh Phúc Kiến được phân thành 2 huyện, bên dưới là 157 khu thuộc các thành thị, và 211 hương trấn thuộc các huyện. Năm 2014, huyện Đào Viên được chuyển thành thành phố Đào Viên trực thuộc trung ương. Khu vực Trung Hoa Dân Quốc quản lý thực tế hiện được phân chia như sau:
Ngoại giao
Quan hệ quốc tế
Năm 1945, Trung Hoa Dân Quốc tham gia sáng lập Liên Hợp Quốc, đồng thời với danh nghĩa "Trung Quốc" đảm nhiệm vị trí thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Sau khi chính phủ dời sang Đài Loan vào năm 1949, các quốc gia khối phương Tây vẫn duy trì quan hệ song phương. Tuy nhiên, sau khi Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua Nghị quyết 2758 vào ngày 25 tháng 10 năm 1971, qua đó nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nhận được quyền đại diện cho "Trung Quốc" tại Liên Hợp Quốc, trong khi việc tranh thủ "quyền đại biểu song trùng" không có kết quả, Trung Hoa Dân Quốc tuyên bố rút khỏi Liên Hợp Quốc. Chịu ảnh hưởng của áp lực ngoại giao, trong thập niên 1970 có rất nhiều quốc gia thừa nhận nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đồng thời theo nguyên tắc "một Trung Quốc" mà đoạn tuyệt quan hệ ngoại giao với Trung Hoa Dân Quốc. Hiện tại, do mất tư cách thành viên Liên Hợp Quốc, thiếu thừa nhận ngoại giao quy mô lớn và các yếu tố khác, địa vị chính trị và pháp luật của Trung Hoa Dân Quốc tồn tại tranh luận.
Tính đến ngày 09 tháng 12 năm 2021 có 14 quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc và Vatican đặt quan hệ ngoại giao với Đài Loan, các quốc gia bang giao của Trung Hoa Dân Quốc gồm: 4 quốc gia châu Đại Dương là Nauru, Palau, Quần đảo Marshall và Tuvalu; 9 quốc gia Mỹ Latinh-Caribe là Belize, Honduras, Haiti, Nicaragua, Paraguay, Saint Kitts và Nevis, Saint Lucia và Saint Vincent và Grenadines; một quốc gia châu Phi là Eswatini, cùng với Thành Vatican tại châu Âu. Các quốc gia duy trì quan hệ ngoại giao chính thức với Trung Hoa Dân Quốc, hầu hết đặt cơ cấu đại diện ngoại giao tại Đài Bắc. Quốc gia gần đây nhất cắt đứt quan hệ ngoại giao với Đài Loan chính là Nicaragua vào ngày 09/12/2021. Bộ Ngoại giao Nicaragua khẳng định trong tuyên bố rằng: "Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là chính phủ hợp pháp duy nhất đại diện cho toàn bộ Trung Quốc. Đài Loan là một phần lãnh thổ của Trung Quốc". Có hơn 60 quốc gia tuy đoạn tuyệt quan hệ ngoại giao chính thức nhưng lấy danh nghĩa tổ chức quần chúng để thiết lập cơ cấu đại diện chính thức, duy trì quan hệ chính trị, thương mại và văn hóa, đồng thời xử lý công tác lãnh sự. Trung Hoa Dân Quốc thành lập các văn phòng đại diện kinh tế văn hóa Đài Bắc, phát triển ngoại giao thực chất và xúc tiến giao lưu phi chính thức, đồng thời làm cơ quan cung cấp phục vụ lãnh sự. Tuy nhiên, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đoạn tuyệt quan hệ ngoại giao với các nước bang giao của Trung Hoa Dân Quốc, và yêu cầu nước bang giao của mình ủng hộ chủ trương "một Trung Quốc". Chịu ảnh hưởng từ chính sách "một Trung Quốc", rất nhiều tổ chức quốc tế không nhìn nhận Trung Hoa Dân Quốc hoặc Đài Loan là quốc gia có chủ quyền.
Từ năm 1993 đến năm 2008, Trung Hoa Dân Quốc mỗi năm đều yêu cầu gia nhập Liên Hợp Quốc, song bị loại trừ tại Uỷ ban Tổng vụ Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. Do chỉ được thừa nhận quốc tế hạn chế, Quỹ Dân chủ Đài Loan do chính phủ tài trợ lấy danh nghĩa "Đài Loan" gia nhập Tổ chức các Quốc gia và Dân tộc không được đại diện (UNPO), Bộ Ngoại giao Trung Hoa Dân Quốc cũng thêm chữ "TAIWAN" trên hộ chiếu. Đối diện với áp lực kéo dài về vấn đề chủ quyền, Trung Hoa Dân Quốc sử dụng các danh nghĩa như "Khu vực thuế quan đặc biệt Đài-Bành-Kim-Mã", "Trung Hoa Đài Bắc", "Đài Loan" gia nhập các tổ chức như Tổ chức Thương mại Thế giới, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, Ủy ban Olympic Quốc tế, đồng thời tích cực tham dự hoạt động của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế, Tổ chức Y tế Thế giới, Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế và các tổ chức khác của Liên Hợp Quốc.
Quan hệ hai bờ
Sau năm 1949, Trung Hoa Dân Quốc xúc tiến chính sách "phản cộng kháng Nga", có kế hoạch dùng vũ lực phản công Đại lục. Ngược lại chính phủ Đại lục do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo cũng có kế hoạch thu hồi Đài Loan trong năm 1950. Ngày 5/1/1950, Tổng thống Mỹ Truman công bố chính sách của Mỹ đối với Đài Loan như sau: "Nước Mỹ không có ý định dùng lực lượng vũ trang để can dự vào tình thế hiện nay. Chính phủ Mỹ không bao giờ thực hiện phương châm dẫn đến việc bị lôi cuốn vào cuộc nội chiến của Trung Quốc. Tương tự như vậy, Chính phủ Mỹ sẽ không cung cấp viện trợ quân sự hoặc cố vấn quân sự cho Đài Loan". Tuy nhiên, chiến tranh Triều Tiên nổ ra khiến Đại lục không thể thực hiện kế hoạch thu hồi Đài Loan còn Mỹ thay đổi chiến lược xem Đài Loan là một phần trong hệ thống phòng thủ chống Cộng của Mỹ và đặt Đài Loan dưới sự bảo vệ quân sự của Mỹ. Chính phủ Đài Loan tiếp tục tồn tại vì chính phủ Trung Quốc e ngại việc dùng vũ lực thu hồi Đài Loan sẽ dẫn đến một cuộc chiến Triều Tiên thứ hai, chi phí mà họ bỏ ra để thống nhất lãnh thổ sẽ lớn hơn lợi ích mà họ đạt được.
Sau khi giải trừ giới nghiêm năm 1986, giao lưu kinh tế và văn hóa hai bờ eo biển Đài Loan ngày càng thường xuyên hơn, song chia cắt trong thời gian dài khiến rất nhiều thương gia Đài Loan gặp khó khăn. Năm 1991, chính phủ Lý Đăng Huy lập ra "Cương lĩnh Thống nhất Quốc gia", chủ trương lấy nguyên tắc "dân chủ, tự do, quân phú" thống nhất Trung Quốc. Sau khi Quốc dân đại hội có nghị quyết, Lý Đăng Huy tuyên bố kết thúc "động viên dẹp loạn", từ bỏ "phản công Đại lục". Tuy nhiên, do lo ngại phát triển kinh tế và chính trị song phương quá mật thiết, Lý Đăng Huy đề xuất chính sách "giới cấp dụng nhẫn" (không nóng vội). Sau khi Đảng Dân chủ Tiến bộ lên nắm quyền vào năm 2000, họ cũng lo ngại tương tác giữa hai bờ eo biển quá mật thiết, đồng thời vào năm 2006 đề xuất chính sách "tích cực quản lý, hữu hiệu khai phóng", giảm thiểu độ phụ thuộc vào kinh tế Trung Quốc. Trần Thủy Biển còn đề xuất chủ trương "mỗi bên một quốc gia", biểu thị bất kỳ quyết định nào về chủ quyền đều phải qua trình tự công dân đầu phiếu.
Năm 2008, sau khi Quốc dân đảng lên nắm quyền, chính phủ chuyển sang chính sách ngoại giao linh hoạt. Hai bên còn triển khai nhiều lần hội đàm cấp cao giữa hội giao lưu hai bờ của mỗi bên, đồng thời mở các chuyến bay thẳng định kỳ. Mã Anh Cửu còn đề xuất học thuyết quan hệ đặc thù không phải giữa hai quốc gia, chủ trương vấn đề chủ quyền không thể lập tức giải quyết, song đảng cầm quyền hai bên đồng ý lấy "Nhận thức chung 1992" làm biện pháp lâm thời. Năm 2012, Mã Anh Cửu đề xuất chủ trương "một quốc gia hai khu vực", làm cấu trúc cho công việc giữa hai bờ eo biển. Năm 2015, tại Singapore, Mã Anh Cửu và Tập Cận Bình lần đầu tiên tiến hành cuộc gặp gỡ giữa nhà lãnh đạo hai bên, hai bên xác nhận tính trọng yếu của "Nhận thức chung 1992". Chính phủ Thái Anh Văn không có phản ứng với Nhận thức chung 1992, đồng thời cho rằng Đài Loan là quốc gia dân chủ
Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tuyên bố Trung Hoa Dân Quốc đã bị họ thay thế, đồng thời gọi chính phủ Trung Hoa Dân Quốc là "nhà đương cục Đài Loan", không có địa vị độc lập. Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa chủ trương chính sách một Trung Quốc, và bản thân là chính phủ hợp pháp duy nhất đại diện cho Trung Quốc; đồng thời trong thập niên 1980 đề xuất chính sách "một quốc gia, hai chế độ", chủ trương thực hiện thống nhất hòa bình, song cự tuyệt việc từ bỏ sử dụng vũ lực. "Luật chống ly khai quốc gia" năm 2005 nêu ra ba loại tình huống sẽ sử dụng vũ lực nhằm đảm bảo thống nhất
Quân sự
Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc có quy mô lớn và tiên tiến, phân thành ba quân chủng là lục quân, hải quân và không quân. Nhiệm vụ chủ yếu là phòng ngự nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa xâm lược, xem trọng phong tỏa trên biển, đột kích hàng không, hay tập kích đạn tự hành. Lục quân có truyền thống chiếm địa vị chủ đạo, song trọng điểm đang chuyển dịch sang không quân và hải quân, quyền khống chế quân đội do chính phủ dân sự quản lý. Trung Quốc Quốc dân Đảng tham khảo chế độ quân sự của Đảng Cộng sản Liên Xô để thành lập Quốc dân Cách mạng quân vào năm 1924, tiền thân của Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc, dù là sau Bắc phạt hay sau khi thực thi hiến pháp thì quân đội và Quốc dân đảng đều tương quan mật thiết, các nhánh quân sự, công nghiệp vũ khí, đơn vị nghiên cứu từ năm 1948 đến 1949 theo chính phủ dời đến Đài Loan. Do vậy, rất nhiều tướng lĩnh cấp cao trước đây ủng hộ "phiếm Lam", song sau khi các tướng lĩnh này về hưu, đồng thời có thêm nhiều người bản địa tham gia phục dịch, khuynh hướng chính trị của quân đội dần hướng đến quốc gia hóa và trung lập hành chính.
Từ năm 1997 trở đi, chính phủ thực thi tinh giản binh lực, số lượng nhân viên quân sự giảm từ 450.000 năm 1997 xuống còn 380.000 vào năm 2001. Năm 2009, số binh sĩ tại ngũ ước tính là khoảng 300.000 người. Tuy nhiên, vào năm 2005, số lượng quân nhân dự bị lên đến 3,6 triệu người. Chính phủ yêu cầu nam giới từ đủ 18 tuổi có tư cách phù hợp đều phải phục vụ binh dịch, song cũng có các phương án thay thế như phục vụ cơ quan chính phủ hoặc xí nghiệp quốc phòng. Quân đội đang có kế hoạch chuyển sang chế độ tình nguyện toàn diện, thời gian phục dịch giảm từ 14 xuống 12 tháng. Sau khi thất bại trong nội chiến vào năm 1949, chính phủ di dời Học viện Sĩ quan Lục quân, Học viện Sĩ quan Hải quân và Học viện Sĩ quan Không quân lần lượt đến Phượng Sơn, Cương Sơn và Tả Doanh đều thuộc Cao Hùng.
Mặc dù rất nhiều quốc gia châu Á không ngừng giảm thiểu ngân sách quốc phòng, Trung Hoa Dân Quốc không giảm thiểu chi tiêu liên quan; tiếp tục nhấn mạnh hiện đại hóa năng lực phòng ngự và tiến công; đồng thời triển khai quân sự ở mức độ nhất định. Chiến lược của Bộ Quốc phòng Trung Hoa Dân Quốc là tự tiến hành chống cự nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa xâm nhập hoặc phong tỏa, kiên trì đến khi Hoa Kỳ có phản ứng quân sự. Từ năm 2002 đến năm 2011, ngân sách quốc phòng là khoảng 250 tỷ đến 330 tỷ Đài tệ, chiếm 15,52% đến 19,51% tổng ngân sách trung ương. "Luật Quan hệ Đài Loan" của Hoa Kỳ có nội dung cung cấp vũ khí mang tính phòng ngự, đến nay Trung Hoa Dân Quốc đã mua từ Hoa Kỳ nhiều loại thiết bị quân sự, nhằm duy trì năng lực phòng ngự đầy đủ. Trong quá khứ, Pháp và Hà Lan từng bán vũ khí và thiết bị phần cứng quân sự cho Trung Hoa Dân Quốc, song đình chỉ sau thập niên 1990 do áp lực từ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Kinh tế
Tình hình phát triển
Sau khi dời sang Đài Loan vào năm năm 1949, Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đề xuất nhiều kế hoạch kinh tế, trong thập niên 1960 phát triển thành nền kinh tế tư bản chủ nghĩa định hướng xuất khẩu. Ngày nay, chính phủ dần giảm thiểu can dự vào đầu tư và ngoại thương, một số ngân hàng quốc hữu và doanh nghiệp quốc doanh liên tục được tư hữu hóa. Năm 2014, tổng sản phẩm quốc nội đạt 523,567 tỷ USD, GDP/người đạt 22.317 USD. Chấp hành chính sách, xuất khẩu thương phẩm, đầu tư sản xuất trở thành động lực chủ yếu của cải cách sản xuất, sản phẩm cơ giới công nghiệp là mặt hàng xuất khẩu lớn nhất. Xuất siêu khổng lồ khiến dự trữ ngoại hối của Đài Loan chỉ đứng sau nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Nhật Bản và Nga (2014), dự trữ ngoại hối cuối tháng 7 năm 2015 là 421,96 tỷ USD. Đài Loan cùng với Hồng Kông, Hàn Quốc và Singapore được xếp vào nhóm Bốn con rồng châu Á. Năm 2014, GDP bình quân đầu người theo sức mua tương đương của Đài Loan là 45.853,742 USD, xếp thứ 19 thế giới.
Năm 2015, Báo cáo cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế thế giới xếp Đài Loan ở vị trí thứ 14. Căn cứ theo thống kê của Bộ Tài chính Trung Hoa Dân Quốc, năm 2014 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 588,07 tỷ USD, tổng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu lần lượt là 313,84 tỷ USD và 274,23 tỷ USD. Sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ lệ 32,1% GDP vào năm 1952, và giảm xuống còn 1,7% vào năm 2013. Không giống các quốc gia như Hàn Quốc hay Nhật Bản, kinh tế Đài Loan chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, thay vì các tập đoàn quy mô lớn. Đài Loan nhập khẩu nhiều nhất từ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Ả Rập Xê Út và Hàn Quốc, các quốc gia Đài Loan xuất khẩu nhiều nhất là nước Cộng hòa Nhận dân Trung Hoa, Hồng Kông, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Singapore, các đối tác mậu dịch chủ yếu khác là Malaysia, Đức, Úc, Indonesia, Philippines, Việt Nam, Thái Lan.
Năm 2008, Đài Loan đầu tư sang nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hơn 150 tỷ USD, ước tính có 50.000 thương gia, và một triệu doanh nhân Đài Loan cùng thành viên gia đình định cư tại Trung Quốc đại lục. Nhằm giảm giá thành sản xuất, rất nhiều ngành công nghiệp chế tạo và công nghiệp thâm dụng lao động chuyển dời từ Đài Loan sang Trung Quốc đại lục và Đông Nam Á, gây ra tình trạng phi công nghiệp hóa. Tình trạng này khiến tỷ lệ thất nghiệp đạt mức cao nhất kể từ khủng hoảng dầu mỏ, từ năm 2000 đến năm 2008 tỷ lệ thất nghiệp bình quân vượt quá 4%
Giao thông vận tải
Bộ Giao thông Trung Hoa Dân Quốc chịu trách nhiệm về mạng lưới giao thông quy mô lớn tại Đài Loan, Sở Nghiên cứu Vận tải thuộc bộ này được lập ra nhằm giải quyết tình trạng ùn tắc giao thông. Hệ thống công lộ của Trung Hoa Dân Quốc theo quy định phân thành quốc đạo, tỉnh đạo, thị đạo, huyện đạo, khu đạo và hương đạo, ngoài ra còn có công lộ chuyên dụng. Hệ thống công lộ và cầu trên đảo Đài Loan tổng cộng dài khoảng 47.000 km, đại bộ phận tập trung tại khu vực miền tây phát triển hơn. Hai tuyến đường dài nhất đều liên kết miền bắc và miền nam Đài Loan, lần lượt là Công lộ cao tốc Trung Sơn thông xe năm 1978 và dài 373 km, Công lộ cao tốc Formosa thông xe năm 1997 và dài 432 km. Ngoài ra, khu vực phát triển tại miền đông cũng có tuyến đường có thể đi với tốc độ cao, từ Đài Bắc đến huyện Nghi Lan có đường hầm Tuyết Sơn và Công lộ cao tốc Tương Vị Thủy.
Trên lĩnh vực vận tải công cộng, các địa phương lập điểm phục vụ xe buýt đường dài trên quy mô lớn, trong năm 2008 ước tính có 7.200 lượt phục vụ xe buýt đường dài. Cục Quản lý Đường sắt Đài Loan quản lý một mạng lưới đường sắt dày đặc, hệ thống vận tải đường sắt ước tính dài khoảng 1.066,6 km. Căn cứ thống kê năm 2013, số lượt người sử dụng mạng lưới đường sắt của cục hàng ngày là 622.705. Tháng 1 năm 2007, chính phủ ủy thác Công ty Đường sắt cao tốc Đài Loan kinh doanh hệ thống đường sắt cao tốc Đài Loan dài 345 km. Đường sắt cao tốc rút ngắn thời gian đi lại giữa các đô thị lớn, thời gian di chuyển giữa Đài Bắc và Cao Hùng giảm chỉ còn 90 phút, năm 2013 có tổng cộng 47,49 triệu lượt người đi đường sắt cao tốc. Đại đô thị Đài Bắc và khu vực đô thị của Cao Hùng có hệ thống tàu điện ngầm, các hệ thống tàu điện ngầm tại Đài Trung và Đào Viên đang được xây dựng.
Trên đảo Đài Loan có 7 thương cảng trọng yếu, 5 cảng vận chuyển quốc tế chủ yếu là cảng Cơ Long, cảng Tô Áo, cảng Đài Trung, cảng Cao Hùng và cảng Hoa Liên; chính phủ lập khu cảng mậu dịch tự do tại cảng Tô Áo, cảng Đài Bắc, cảng Đài Trung, cảng An Bình và cảng Cao Hùng. Đến cuối năm 2013, tổng cộng 72 cảng có hoạt động kinh doanh, lượng hàng hóa và giá trị lần lượt đạt 14,093 triệu tấn và 501,75 tỷ USD, cảng Cao Hùng là cảng lớn nhất Đài Loan và đứng thứ 13 thế giới về số lượng container (2012). Các sân bay quốc tế chủ yếu của Đài Loan là sân bay Tùng Sơn Đài Bắc, sân bay Đào Viên Đài Loan, sân bay Thanh Tuyền Cương Đài Trung, sân bay quốc tế Cao Hùng. Năm 2013, tổng cộng có 63 công ty hàng không khai thác các chuyến bay đi và đến Đài Loan, China Airlines và EVA Air nằm trong các hãng chủ yếu có đường bay quốc tế. Ngoài ra còn có 15 sân bay quốc nội, liên kết giao thông với các đảo, song lượt vận chuyển hành khách quốc nội bằng máy bay giảm đáng kể từ sau khi Đường sắt cao tốc Đài Loan hình thành.
Công ích
Công ty Điện lực Đài Loan đảm nhiệm công tác phát điện, truyền tải điện, điều độ điện của hệ thống cung cấp điện. Công ty này cũng kinh doanh 78 nhà máy phát điện, trong đó có 39 nhà máy thủy điện, 27 nhà máy nhiệt điện, 3 nhà máy điện hạt nhân, và 9 nhà máy phong điện, ngoài ra công ty còn mua điện năng của một số doanh nghiệp tư nhân. Cơ quan Nước Đài Bắc phụ trách cung ứng nước cho khu vực Đài Bắc, Công ty Nước Đài Loan phụ trách cung ứng nước cho các khu vực còn lại. Công ty Bưu chính Trung Hoa thành lập vào năm 2003 cung cấp dịch vụ bưu chính, tiền thân của công ty là Tổng cục Bưu chính thuộc Bộ Giao thông
Cho đến trước năm 1996, Chunghwa Telecom là công ty duy nhất cung ứng dịch vụ điện tín, sau đó bắt đầu có doanh nghiệp tư nhân tiến vào thị trường này, hiện các đối thủ lớn nhất của Chunghwa Telecom trên thị trường là FarEasTone và Taiwan Mobile. Chunghwa Telecom cũng đã chuyển hướng từ doanh nghiệp quốc doanh sang tư hữu hóa, trong năm 2014 có 35,29% cổ phần của công ty thuộc sở hữu của chính phủ. Đài Loan là một trong số các quốc gia châu Á tích cực phát triển công nghệ Internet, đến cuối năm 2008 có trên 7 triệu hộ sử dụng kết nối mạng băng thông rộng.
Khoa học kỹ thuật
Khi dời sang Đài Loan vào năm 1949, Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc cũng mang theo nhân tài học thuật và khoa học kỹ thuật từ Trung Quốc đại lục, làm cơ sở cho phát triển khoa học kỹ thuật về sau. Qua nhiều năm phát triển, chiều hướng khoa học kỹ thuật Đài Loan có thể phân thành định hướng khoa học kỹ thuật nông nghiệp sản xuất hoa với đại biểu là lan hồ điệp, kỹ thuật chế tạo định hướng sản xuất truyền thống, khoa học kỹ thuật chuyển đổi mô hình với đại biểu là dệt, và tự thân ra sức phát triển sản xuất công nghệ cao như chất bán dẫn, thiết bị ngoại vi, khoa học kỹ thuật quang điện, truyền thông nổi danh trên thế giới. Ngoài ra, vào tháng 1 năm 1999, sau 10 năm phát triển kế hoạch không gian, Đài Loan hoàn thành phóng vệ tinh Formosat-1, qua đó Đài Loan thiết lập kỹ thuật không gian riêng, và thúc đẩy ngành công nghiệp trong nước phát triển năng lực linh kiện vệ tinh. Tuy nhiên, chịu ảnh hưởng từ tình trạng sản xuất chuyển dời ra hải ngoại, Đài Loan phải đối diện với các vấn đề như nâng cao năng suất lao động, phát triển kinh tế trở nên đa nguyên hơn, nâng cao năng lực nghiên cứu phát triển khoa học để doanh nghiệp lưu lại Đài Loan.
Từ năm 1980 trở đi, chính phủ thành lập các khu khoa học như Khu Công nghiệp Khoa học Tân Trúc, Khu Công nghiệp Khoa học Nam Bộ và Khu Công nghiệp Khoa học Trung Bộ, ra sức xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước vào sản xuất công nghệ cao như vi mạch, máy tính, hy vọng có thể thay thế công nghiệp truyền thống bằng công nghiệp tập trung kỹ thuật cao tiêu hao ít năng lượng, ô nhiễm thấp, giá trị gia tăng cao. Ngày nay, công nghệ cao trở thành huyết mạch kinh tế trọng yếu của Đài Loan, rất nhiều công ty tiếp tục phát triển thị trường của mình từ Đài Loan ra toàn cầu, như Acer và Asus sản xuất máy tính cá nhân, HTC sản xuất điện thoại di động, doanh nghiệp công nghiệp điện tử Foxconn. Tháng 5 năm 2009, chính phủ tuyên bố trong tương lai chuyển từ chú trọng công nghiệp công nghệ thông tin, chất bán dẫn, truyền thông, bảng điều khiển sang phát triển sáu ngành công nghiệp mới nổi là nông nghiệp thông minh, công nghệ sinh học, chăm sóc y tế, du lịch lữ hành, năng lượng xanh và sáng tạo văn hóa..
Nhân khẩu
Phân bổ quần thể
Người dân có quốc tịch Trung Hoa Dân Quốc bình thường theo thông tục thông thường được nhận "thẻ thân phận quốc dân Trung Hoa Dân Quốc", hộ chiếu, và các giấy chứng minh khác do chính phủ cấp. Người chưa đủ 14 tuổi chưa được cấp thẻ, dựa vào hộ khẩu để chứng minh thân phận. Theo thống kê năm 2013 của Bộ Nội chính Trung Hoa Dân Quốc, toàn bộ nhân khẩu là khoảng 23,37 triệu người, trong đó 59,92% tập trung tại các thành phố trực thuộc trung ương; mật độ dân số là 646 người/km², chỉ sau Bangladesh trong số các quốc gia có dân số từ 10 triệu trở lên. Cư dân chủ yếu cư trú trên đảo Đài Loan, đông nhất là tại đồng bằng miền tây Đài Loan. Ngoài ra, còn có 103.263 người cư trú tại quần đảo Bành Hồ, 135.114 người cư trú tại quần đảo Kim Môn và 12.595 người cư trú tại quần đảo Mã Tổ (cuối tháng 12 năm 2016), ngoài ra còn có vài chục nghìn công dân không có hộ tịch tại Đài Loan.
Thành phần dân tộc hiện nay của Trung Hoa Dân Quốc: 98% là người có nguồn gốc từ Trung Quốc đại lục, khoảng 2% là thổ dân Đài Loan nói ngôn ngữ Nam Đảo. Trong số kể trên thì 84% người Trung Quốc là hậu duệ của những di dân ban đầu từ Trung Quốc đại lục, cư trú tại Đài Loan trước 1949 gọi là "bản tỉnh nhân". Cộng đồng này từ thế kỷ XVII bắt đầu di cư từ khu vực Đông Nam Trung Quốc, có thể phân thành: nhóm dân Mân Nam chiếm 70% tổng nhân khẩu có nguồn gốc từ duyên hải miền nam tỉnh Phúc Kiến, nhóm dân Khách Gia chiếm 13,5% tổng nhân khẩu có nguồn gốc từ khu vực ngoại vi của tỉnh Quảng Đông. 14% dân số di cư từ các tỉnh tại Trung Quốc đại lục sau khoảng tầm năm 1949, theo chính phủ Trung Hoa Dân Quốc dời sang Đài Loan, gọi là "ngoại tỉnh nhân", trong số đó có nhóm dân Phúc Châu về sau chủ yếu cư trú tại quần đảo Mã Tổ.
Thổ dân Đài Loan chiếm 2,33% tổng nhân khẩu, với số lượng 546.698 người, họ được chính phủ phân thành 16 dân tộc chủ yếu. Trong đó, các dân tộc Amis, Atayal, Bunun, Kavalan, Paiwan, Puyuma, Rukai, Saisiyat, Sakizaya, Seediq, Thao, Truku, Tsou, Saaroa, Kanakanavu cư trú về phía đông của đồng bằng miền tây Đài Loan, còn dân tộc Yami cư trú trên đảo Lan Tự.
Ngoài ra, sau khi phát triển giao lưu hai bờ và quốc tế hóa, Trung Hoa Dân Quốc(Đài Loan)hiện có khoảng tầm vài chục nghìn phối ngẫu với người dân tộc ở tại bên Trung Quốc,khoảng tầm hơn 100 nghìn phối ngẫu ngoại quốc cùng với 300 nghìn lao công ngoại quốc, tổng số nhân khẩu ngoại tịch ước tính là khoảng 562 nghìn người. Trong cộng đồng mới này, có khoảng 434 nghìn người đến từ nơi khu vực Đông Nam Á,khoảng 89 nghìn người đến từ 3 khu vực:Trung Quốc đại lục, Hồng Kông và Ma Cao(Trung Quốc). Ngày nay, Đài Loan dùng cụm từ "cư dân mới" để gọi những cô dâu lấy chồng Đài Loan thay cho cụm từ "cô dâu ngoại quốc", "người di dân".
Ngôn ngữ
Do đại bộ phận nhân khẩu là người đến từ Trung Quốc đại lục, do đó chính phủ đưa tiếng Hán tiêu chuẩn hiện đại làm ngôn ngữ chính thức. Sau khi dời sang Đài Loan, một thời gian dài chính phủ quy định quốc ngữ dựa trên ngữ âm Bắc Kinh làm ngôn ngữ giảng dạy chủ yếu, đồng thời mở rộng truyền bá Trung văn chính thể làm hệ thống chữ viết, trong giáo dục cơ sở giảng dạy ngữ văn quốc ngữ chiếm thời gian nhiều nhất. Tuy vậy, dưới chính quyền của Đảng Dân tiến với chủ trương bản thể hóa Đài Loan đã có lúc đưa những ngôn ngữ bản địa để phổ biến và bảo tồn bằng luật bình đẳng ngôn ngữ.
Ngày nay Quốc ngữ Trung Hoa Dân Quốc và Trung văn chính thể vẫn là ngôn ngữ và văn tự dùng trong công văn pháp luật, giảng dạy, và chủ yếu trong truyền thông. Tuy nhiên, cộng đồng Mân Nam ngoài tiếng Hán tiêu chuẩn hiện đại còn có tiếng mẹ đẻ là tiếng Đài Loan hoặc thông hiểu nhất định ngôn ngữ này, cộng đồng Khách Gia cũng thường đàm thoại bằng tiếng Khách Gia Đài Loan. Tuyệt đại bộ phận "ngoại tỉnh nhân" sử dụng tiếng Hán tiêu chuẩn hiện đại để giao tiếp, song đại đa số cư dân huyện Liên Giang và hương Ô Khâu có tiếng mẹ đẻ tương ứng là tiếng Phúc Châu và tiếng Phủ Tiên. Thổ dân Đài Loan nguyên sử dụng ngữ hệ Nam Đảo, song số lượng biết sử dụng ngôn ngữ tổ tiên ngày càng giảm, trong khi tỷ lệ sử dụng tiếng Hán tiêu chuẩn hiện đại tăng lên. Hiện nay, trong số 14 ngôn ngữ thổ dân còn tồn tại, có 5 ngôn ngữ được nhận định gặp nguy hiểm tuyệt diệt.
Theo luật bảo vệ bình đẳng ngôn ngữ trong vận tải công cộng, tiếng Mân Nam, tiếng Khách Gia, tiếng Thổ Dân Đài Loan và tiếng Phúc Châu cùng Quốc ngữ Trung Hoa Dân Quốc có địa vị bình đẳng. Phương tiện vận tải công cộng gia tăng truyền thanh bằng tiếng Mân Nam và tiếng Khách Gia, ngoài ra còn thêm tiếng thổ dân và tiếng Phúc Châu tùy theo đặc điểm địa phương. Căn cứ điều tra nhân khẩu năm 2010, số lượng nhân khẩu thường trú từ 6 tuổi trở lên sử dụng Quốc ngữ và tiếng 'Mân Nam' Đài Loan tại nhà lần lượt là 83,6% và 81,9%, 6.6% đối với tiếng Khách Gia và 1,4% đối với các ngôn ngữ thổ dân, song việc sử dụng tiếng Mân Nam, tiếng Khách Gia và tiếng thổ dân giảm thiểu cùng với độ tuổi. Sau khi dân chủ hóa xã hội và một số huyện thị thi hành giáo dục tiếng mẹ đẻ, chính phủ bãi bỏ hạn chế ngôn ngữ giảng dạy. Ủy ban Thi hành Quốc ngữ Bộ Giáo dục cũng chỉnh lý vấn đề bính âm tiếng mẹ đẻ và dùng chữ, đề xuất giảng dạy tiếng Mân Nam, tiếng Khách Gia và tiếng Thổ Dân, hy vọng các ngôn ngữ hoặc phương ngữ khác có thể dần hồi sinh thông qua giảng dạy. Ví dụ do bảo hộ sử dụng tiếng Phúc Châu, cấp tiểu học tại quần đảo Mã Tổ có thể thiết kế giảng dạy phương ngữ.
Chính quyền Đài Loan còn có dự định sẽ sớm đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ chính thức thứ hai tại đây, nhằm tăng tính cạnh tranh quốc tế cho quốc gia này.
Tôn giáo
Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc bảo vệ nhân dân được hưởng quyền lợi tự do tôn giáo và tiến hành nghi thức tín ngưỡng. Do ảnh hưởng từ quá trình di dân, truyền thống tín ngưỡng Phật giáo và Đạo giáo của người Hán trở nên thịnh hành và phát triển trong thời gian dài, các đạo Tin Lành, Công giáo La Mã, và Hồi giáo cũng có không ít tín đồ. Căn cứ điều tra nhân khẩu năm 2005, có 18.718.600 người (chiếm 81,3%) có tín ngưỡng tôn giáo, 14%-18% dân số không tín ngưỡng tôn giáo. Điều tra của chính phủ phân loại 26 tôn giáo, các tôn giáo đứng đầu là Phật giáo (8.086.000 người, chiếm 35,1% nhân khẩu), Đạo giáo (7.600.000 người, 33%), Nhất Quán đạo (810.000 người, 3,5%), Tin Lành (605.000 người, 2,6%) và Công giáo La Mã (298.000 người, 1,3%). "The World Factbook" của Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ thì cho rằng trên 93% nhân khẩu tin vào đa thần, kết hợp tôn giáo dân gian, Phật giáo Đại thừa, Nho giáo, sùng bái tổ tiên và Đạo giáo, có 4,5% nhân khẩu tin theo Tin Lành, Công giáo La Mã, ngoài ra có 2,5% dân chúng tin theo các tôn giáo khác như Hồi giáo.
Dân cư Đài Loan phổ biến tế bái Quan Thế Âm Bồ Tát, Thích Ca Mâu Ni, Bảo Sinh Đại Đế, Huyền Thiên Thượng đế, Ma Tổ, Ngọc Hoàng Thượng đế, Quan Thánh Đế Quân, Thành Hoàng, Thổ Thần..., dung hợp các tín ngưỡng Phật giáo, Đạo giáo. Hiện nay có gần 80% dân chúng tin theo tín ngưỡng dân gian Đài Loan, trên 50% thường tham dự các loại hình nghi lễ tôn giáo. Tư tưởng Nho giáo do Khổng Tử đề xướng là một loại triết học tại Trung Quốc trong quá khứ, một sự kết hợp đạo đức, luân lý, phép tắc trong xã hội thế tục hữu quan, về sau trở thành cơ sở giữa văn hóa Trung Hoa và văn hóa Đài Loan. Đại đa số dân chúng thường kết hợp tín ngưỡng tôn giáo với tư tưởng Nho giáo, qua đó đề xướng quan niệm luân lý đạo đức xã hội. Ngoài ra, thổ dân Đài Loan là cộng đồng chủ yếu theo Tin Lành, với trên 64% số lượng dân chúng thổ dân tin theo, nhiều nhà thờ trở thành dấu hiệu rõ rệt nhất của bộ lạc. Tính đến năm 2008, khu vực Đài Loan tổng cộng có 14.993 chùa miếu và giáo đường, gồm 11,731 chùa miếu thờ thần Đạo giáo, 3.262 giáo đường, bình quân mỗi 1500 thị dân lại có một địa điểm tôn giáo có thể cung phụng và sùng bái.
Xã hội
Phúc lợi xã hội
Y tế Trung Hoa Dân Quốc được thành lập vào tháng 4 năm 1928 với tên "Sở y tế trực thuộc Bộ Nội chính (Trung Hoa Dân Quốc)" Sau nhiều lần đổi tên vào năm 2013 thay đổi thành tên chính thức "Bộ Y tế và Phúc lợi Trung Hoa Dân Quốc". Với mục tiêu là phụ trách y tế công cộng, dịch vụ y tế, và phúc lợi xã hội, Bảo hiểm Y tế Toàn dân bắt đầu từ năm 1995 cũng do bộ này quản lý. Hiện nay, có 99,5% công dân tham gia bảo hiểm y tế toàn dân, bảo hiểm y tế toàn dân cũng trợ cấp chi phí y tế cho hộ thu nhập thấp, quân nhân xuất ngũ, trẻ dưới ba tuổi, người thất nghiệp, hộ gặp nạn, người già, và người tàn tật. Bảo hiểm y tế toàn dân chiếm khoảng 5,44% GDP, có thể do chủ sử dụng lao động hoặc cá nhân trả phí bảo hiểm.
Năm 2013, bình quân tuổi thọ của công dân là 79,5 tuổi, tuổi thọ của nữ giới cao hơn của nam giới. Năm 2014, Đài Loan là quốc gia có tổng tỷ suất sinh thấp nhất thế giới, số người từ 65 tuổi trở lên cũng chiếm trên 10% tổng dân số. Theo dự báo, đến năm 2025 số người già sẽ ở quanh mức 20% dân số, Ngày nay, đại bộ phận người cao tuổi do thành viên trong gia đình chăm sóc, tính đến năm 2008 các địa phương đã lập 1.074 viện dưỡng lão. Chi phí hàng tháng của các viện dưỡng lão chủ yếu lấy từ lương hưu của người cao tuổi; gia đình không có tiết kiệm hưu trí được nhận trợ cấp xã hội. Tính đến năm 2007, bất kỳ người nào từ 25 đến 65 tuổi không được cung cấp bảo hiểm xã hội tại nơi làm việc đều phải tham gia bảo hiểm "Quốc dân niên kim".
Chính phủ xác định mức sinh hoạt tối thiểu là 60% thu nhập khả dụng trung bình, đủ điều kiện nhận phúc lợi xã hội và trợ cấp liên quan. Từ năm 2008 trở đi, chính phủ trợ cấp cho cha mẹ có thu nhập không quá 1,5 triệu tệ/năm và có con dưới 2 tuổi mỗi tháng 3.000 tệ, và cũng cung cấp viện trợ xã hội cho gia đình có trẻ bị khuyết tật về tinh thần và thể chất. Ngoài ra, chính phủ cung cấp cho người có huyết thống thổ dân Đài Loan thêm nhiều cơ hội, quy định các cơ quan, trường học, và doanh nghiệp trên 100 người của chính phủ phải có ít nhất 1% thành viên là người thổ dân; thổ dân còn được hưởng lãi suất khá thấp khi vay mua nhà, được hưởng điều khoản ưu đãi khi thuê nhà, trẻ em được trao thêm cơ hội học bổng.
Tính đến tháng 7 năm 2016, Đài Loan có gần 10.500 cửa hàng tiện lợi, như các chuỗi 7-Eleven, FamilyMart, Hi - Life, OK và TTL. Đó như những siêu thị kết nối với văn phòng đa năng được Internet hóa, tuy quy mô nhỏ nhưng có rất nhiều dịch vụ như ăn uống, giao thông, mua sắm, thanh toán và các dịch vụ văn phòng hay thanh toán các loại phí.
Y tế
Năm 2013, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh tại Đài Loan là 3,9‰, mỗi 10 nghìn người có 20,02 bác sĩ, 5,31 nha sĩ và 69,01 giường bệnh phục vụ. Tính đến năm 2012, Đài Loan tổng cộng có 502 bệnh viện và 20.935 phòng khám, trong đó có 82 bệnh viện công lập và 447 phòng khám công lập. Nhờ hệ thống y tế dần hoàn thiện, tuổi thọ dự tính của nam và nữ lần lượt nâng lên 76,2 và 83 tuổi. Năm 2012, các bệnh gây tử vong nhiều nhất là ung thư, bệnh tim, bệnh động mạch vành, và viêm phổi.
Nhằm giảm bớt số bệnh nhân qua đời vì ung thư phổi, ngoài quản lý chế phẩm thuốc lá, chính phủ còn cấm chỉ dân chúng hút thuốc lá tại nơi làm việc, trường học, nhà hàng và ga tàu hỏa và các nơi khác, xúc tiến lập các khu vực hút thuốc có thông gió được chỉ định. Ngoài sử dụng y học hiện đại, tại Đài Loan còn sử dụng rộng rãi chẩn đoán trị liệu Trung y, toàn lãnh thổ có 14 bệnh viện Trung y, 3.462 phòng khám Trung y và có 77 bệnh viện Tây y có khoa Trung y. Cơ quan Quản lý Bệnh tật thuộc Bộ Y tế và Phúc lợi chủ yếu phụ trách giám sát, điều tra, tuyên truyền và điều trị bệnh dịch, nhiều lần ứng phó với các bệnh lao, sốt xuất huyết Dengue, virus đường ruột, hội chứng hô hấp cấp tính nặng, virus cúm A phân nhóm H7N9. Ngoài ra, còn có Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm thuộc Bộ Y tế và Phúc lợi, phụ trách tính an toàn và công dụng của dược phẩm, vắc-xin, thiết bị y tế, thực phẩm, thực phẩm chức năng và hóa mỹ phẩm.
Giáo dục
Chế độ giáo dục Đài Loan chủ yếu là tổng hợp đặc điểm thể chế giáo dục Trung Quốc và Hoa Kỳ mà thành. Chính phủ sử dụng phương thức pháp luật chế định để khiến nhân dân được hưởng giáo dục nghĩa vụ 9 năm, sau đó tiến đến phát triển thành chương trình thông suốt 9 năm, song vào năm 2012 có 99,15% học sinh tiếp tục theo học trung học cao cấp hay trung học cao cấp kỹ thuật. Hiện nay, hệ thống giáo dục Đài Loan bao gồm giáo dục tiểu học 6 năm, giáo dục trung học quốc gia 3 năm, giáo dục trung học cao cấp 3 năm, giáo dục bậc đại học kéo dài 4 năm, các đại học danh tiếng là Đại học quốc lập Đài Loan, Đài học Quốc lập Thanh Hoa, Đại học Quốc lập Giao thông, Đại học Quốc lập Thành Công, Đại học Quốc lập Trung Sơn,Đại học quốc lập Đài Loan .
Hiện nay, giáo dục khiến học sinh đạt điểm số cao trong toán học, khoa học, song bị chỉ trích là tạo áp lực quá lớn cho học sinh, quá nhấn mạnh học thuộc mà lại giảm thiểu sức sáng tạo. Sinh viên sau bốn năm đại học đạt được học vị cử nhân, có thể tiếp tục học tập để đạt học vị thạc sĩ, tiến sĩ; mỗi năm cũng có rất nhiều học sinh sang học tại ngoại quốc, đông nhất là sang Hoa Kỳ. Bộ Giáo dục trong một thời gian dài hướng tới thu hút sinh viên người Hoa hải ngoại tại Đông Á và Đông Nam Á, gần đây tích cực mở rộng số du học sinh quốc tế và Trung Quốc đại lục, đặt trọng điểm vào chương trình đào tạo bằng tiếng Anh để đáp ứng nhu cầu quốc tế hóa. Tính đến cuối năm 2012, số người Đài Loan không biết đọc chiếm khoảng 1,71% tổng dân số.
Truyền thông
Năm 1999, Đài Loan bãi bỏ các hạn chế pháp luật đối với tự do báo chí, số cơ quan truyền thông do đó xuất hiện với số lượng lớn. Năm 2008, có trên 1.300 cơ quan tin tức hoạt động, tuyệt đại đa số là doanh nghiệp quy mô nhỏ thuộc sở hữu tư nhân. Thông tấn xã Trung ương (CNA) là thông tấn xã quốc gia của Trung Hoa Dân Quốc, cơ quan tin tức trọng yếu khác là Thông tấn xã Kinh tế Trung Quốc (CENS) song chủ yếu đưa tin về kinh tế và tài chính. Hiện tại, Trung Hoa Dân Quốc có khoảng 2.000 báo chí xuất bản, song chỉ có 30 tờ thường xuyên xuất hiện trên thị trường, bốn tờ có lượng phát hành nhiều nhất là "Tự Do thời báo", "Tần Quả nhật báo", "Liên Hiệp báo", "Trung Quốc thời báo". Trong đó, "Tự Do thời báo" có kỷ lục phát hành 720 nghìn bản/ngày, còn "Tần Quả nhật báo" với kiểu báo khổ nhỏ đạt thành tích 520 nghìn bản (2008), ngoài ra trên các phương tiện giao thông công cộng như tàu điện ngầm còn có báo chí miễn phí cấp cho công chúng.
Tính đến tháng 10 năm 2013, Đài Loan có 1.737 nhà xuất bản thư tịch đăng ký, đại đa số là doanh nghiệp quy mô nhỏ về tài chính và nhân lực. Các nhà xuất bản này cho ra đời rất nhiều tạp chí, trong đó có trên 6.000 tạp chí có đăng ký với chính phủ, 91% tạp chí xuất bản tại Đài Bắc. Các tạp chí được đón đọc nhiều nhất là về các lĩnh vực kinh tế-tài chính, chuyện tầm phào, thời trang và du lịch, tạp chí chuyện tầm phào được lưu hành nhiều nhất là "Nhất Chu khan". Đến tháng 12 năm 2013, toàn quốc có 171 đài phát thanh hoạt động, trong đó các đài phát thanh âm nhạc được đón nghe nhiều. Đài phát thanh chủ yếu sử dụng tiếng Hán tiêu chuẩn hiện đại và tiếng Mân Nam, song cũng bảo vệ quyền lợi thu nghe chương trình các ngôn ngữ mẹ đẻ của thổ dân Đài Loan theo pháp luật.
Dịch vụ truyền hình tại Đài Loan được cung cấp từ năm 1962, sau đó do Công ty Truyền hình Đài Loan, Công ty Truyền hình Trung Quốc và Công ty Truyền hình Trung Hoa chủ đạo phát triển thị trường, kể từ năm 1993 khi triển khai truyền hình cáp và truyền hình vệ tinh thì mới có thêm các đài truyền hình khác. Các công ty truyền hình sớm nhất đều thuộc sở hữu của chính phủ, sau này việc quốc gia, chính đảng và tài phiệt sở hữu cổ phần trong đài truyền hình bị pháp luật hạn chế. Các kênh được nhiều người xem nhất là TVBS tin tức, Tam Lập tin tức, Trung Thiên tin tức, Đông Sâm tin tức.
Văn hóa
Ẩm thực
Văn hóa ẩm thực Đài Loan dung hợp phong cách ẩm thực các khu vực, các trường phái chủ yếu là ẩm thực Mân Nam Đài Loan, ẩm thực Khách Gia Đài Loan, các phong cách ngoại tỉnh Hồ Nam, Sơn Đông, Quảng Đông. Do đại bộ phận nhân khẩu là người Hán, các món ăn đại đa số là món ăn Trung Quốc, đồng thời hỗn hợp các phong cách phương Nam như Hồng Kông, Tứ Xuyên, Giang Tô, Chiết Giang. Đài Loan từng bị Nhật Bản thống trị trong 50 năm, góp phần hình thành các món ăn của người Mân Nam và người Khách Gia tại Đài Loan, và ảnh hưởng của văn hóa ẩm thực Nhật Bản hiện nay. Do đất canh tác rải rác khiến lương thực không đồng nhất, lương thực chủ yếu của dân chúng là gạo, khoai lang hay khoai môn. Do có Hải lưu Kuroshio đi qua và không khí lạnh tràn xuống vào mùa đông, khiến tài nguyên hải sản vùng biển quanh đảo Đài Loan có sự phong phú, dân chúng thường ăn các loại sinh vật hải dương như cá, sò hến, hay loài giáp xác. Do giá cả đắt nên các loại thịt gà, lợn, bò hay dê xuất hiện khá ít.
Quy trình chế biến các món ăn chủ yếu có đặc điểm là chú ý đến kỹ thuật nấu và phối trộn nguyên liệu, trên bàn tiệc thường thấy các món Phật trèo tường (chữ Hán: 佛跳墙), thịt Đông Pha, chân giò Vạn Loan. Do ảnh hưởng từ tín ngưỡng Phật giáo, bảo vệ môi trường, và sức khỏe nên các khu vực đều có các nhà hàng chuyên món ăn chay. Trong văn hóa ẩm thực Đài Loan còn có văn hóa đồ ăn nhẹ nổi tiếng, sau khi nấu xong chúng được cho vào các khay nhỏ để ăn.
Chợ đêm tại các đô thị do bày bán rất nhiều đồ ăn nhẹ nên thu hút nhiều khách tới, trở thành một đại diện quan trọng cho sinh hoạt văn hóa, các đồ ăn nhẹ thông dụng là trứng chiên hàu, ức gà chiên, đậu phụ thối, gà rán mặn, bánh bao chiên, bánh cơm tiết, mì hàu, cơm thịt hầm, bánh tro, nhục viên, mì đam tử, mì thịt bò, tiểu long bao. Đồ uống nổi tiếng của Đài Loan có hồng trà bong bóng và trà sữa trân châu, hồng trà bong bóng do có fructose nên sau khi lắc đều sẽ có bọt phía trên, trà sữa trân châu có các hạt bột sắn, hai loại đồ uống này cũng được đón nhận khi phổ biến sang Singapore, Malaysia, Hàn Quốc, Việt Nam, Úc, châu Âu và Bắc Mỹ.
Nghệ thuật và giải trí
Do ảnh hưởng từ lịch sử, Đài Loan hiện nay có tính đa nguyên văn hóa mang đặc sắc bản địa. Chính phủ nhận định văn hóa dân gian truyền thống bao gồm tập tục truyền thống của thổ dân Đài Loan, nghệ thuật dân gian của người Hán như cắt giấy, ô giấy dầu, chạm khắc gỗ, thêu, văn hóa lễ tết như Tết Nguyên Đán, Tết Nguyên Tiêu, Tết Thanh Minh, hay tế được mùa của thổ dân Đài Loan. Chính phủ của Quốc dân đảng sau khi dời sang Đài Loan năm 1949 có lập trường chính thức là thúc đẩy các hoạt động văn hóa nghệ thuật như thư pháp Trung Quốc, hội họa Trung Quốc, nghệ thuật dân gian Trung Quốc hay hí khúc truyền thống. Sau khi bãi bỏ giới nghiêm vào năm 1987, xã hội cởi mở và đi kèm với nó là hoạt động văn hóa, mỹ thuật tại Đài Loan bước vào giai đoạn phát triển đa nguyên. Từ năm 2000 trở đi, phong trào bản địa hóa Đài Loan và các vấn đề liên quan trở thành đề tài trọng yếu trong lý luận văn hóa tại Đài Loan.
Đài Loan từ sau năm 1949 có các tác gia nổi tiếng như Dương Quỳ, Bá Dương, Chu Mộng Điệp, Lý Ngao, Bạch Tiên Dũng, Trần Nhược Hy, Quỳnh Dao, Tam Mao, Khâu Diệu Tân, Trương Hệ Quốc. Hai thể loại nhạc kịch Ca tử hí, Bố đại hí từng thịnh hành trên truyền hình và nay vẫn được chính phủ trọng thị, ngoài ra còn có vũ đoàn biểu diễn hiện đại Vân Môn vũ tập. Âm nhạc Đài Loan hiện nay đã xuất hiện hình thức đa nguyên, như âm nhạc dân tộc ngữ hệ Nam Đảo, nhạc khúc truyền thống Trung Quốc đại lục, âm nhạc cổ điển phương Tây và các thể loại âm nhạc đại chúng. Trong đó, âm nhạc cổ điển tại Đài Loan có trình độ phát triển cao, có nghệ sĩ vĩ cầm Lâm Chiêu Lượng, nghệ sĩ dương cầm Hồ Tịnh Vân, Tổng giám đốc Ngô Hạm của Phòng Đoàn thể Âm nhạc Trung tâm Lincoln CMS nhận được nhiều chú ý. Đài Loan còn là khu vực phát triển trọng yếu của âm nhạc đại chúng Hoa ngữ (Mandopop), xuất hiện các ca sĩ chuyên nghiệp như Châu Kiệt Luân, Thái Y Lâm hay Phi Luân Hải.
Ngày nay, ngành giải trí Đài Loan không ngừng được cải biến, hình thành văn hóa truyền thông đại chúng với cơ sở dựa trên truyền hình, Internet. Trong đó, các chương trình truyền hình Đài Loan được bên ngoài đón nhận, được phát sóng tại Singapore, Malaysia và các quốc gia khác tại châu Á. Nhiều công ty tiến hành đầu tư quay phim truyền hình dài tập, các tác phẩm được đón nhận như "Thơ Ngây", "Hoa dạng thiếu niên thiếu nữ", "Định mệnh anh yêu em", "Anh hùng du côn" cũng đạt được thành công tại các quốc gia châu Á khác. Ngoài ra, do hiện nay xã hội Đài Loan có bối cảnh đa nguyên, tự do và giàu tính sáng tác, do đó có thể cung cấp không gian tốt để cho ngành điện ảnh và truyền hình Đài Loan phát triển. Điện ảnh Đài Loan từng nhiều lần nhận giải thưởng quốc tế hay được trình chiếu tại các liên hoan phim trên thế giới, các đạo diễn điện ảnh nổi tiếng của Đài Loan gồm có Lý An, Thái Minh Lượng, Dương Đức Xương, Hầu Hiếu Hiền, Nữu Thừa Trạch và những người khác. Điện ảnh Đài Loan từng xuống dốc trước ảnh hưởng từ nền điện ảnh phát triển của Hồng Kông. Kể từ sau phim "Mũi Đất Số 7" năm 2008, điện ảnh Đài Loan bước vào cơn sốt phục hưng.
Du lịch
Số lượng du khách đến du lịch Đài Loan tăng trưởng theo từng năm, năm 2009 họ đón tiếp 4,4 triệu lượt du khách, tăng trưởng 18% so với năm 2008; tuy xuất hiện xu thế số lượng du khách ngoại quốc giảm thiểu, song dân chúng Trung Quốc đại lục đến Đài Loan du lịch lại nhiều gấp đôi. Đại bộ phận du khách ngoại quốc đến từ các quốc gia châu Á, đặc biệt là từ Nhật Bản, du khách từ các châu lục khác chủ yếu là từ Mỹ và Anh. Địa điểm du lịch trọng yếu bao gồm các công viên quốc gia, các khu phong cảnh cấp quốc gia, và khu du lịch nghỉ dưỡng, ngoài ra các nông trường tiêu khiển và suối nước nóng cũng hấp dẫn không ít du khách. Hiện nay, chính phủ cũng bắt đầu phát triển du lịch y tế, đồng thời có kế hoạch xây dựng một số làng y tế để cung cấp dịch vụ. Các địa điểm du lịch trọng yếu trong khu vực đô thị gồm có Tòa nhà Đài Bắc 101 giữ danh hiệu tòa nhà cao nhất thế giới từ năm 2004 đến năm 2010, Bảo tàng Cố cung Quốc lập, Nhà Tưởng niệm Tưởng Giới Thạch, các công viên kỷ niệm và chợ đêm.
Tại Đài Loan có rất nhiều bảo tàng. Bảo tàng Cố cung Quốc lập là nơi lưu giữ 650.000 hiện vật đồ đồng thanh, đồ ngọc bích, thư pháp, hội họa và đồ sứ Trung Quốc, là một trong những bảo tàng quan trọng nhất trong lĩnh vực sưu tầm nghệ thuật Trung Quốc. Từ năm 1933 trở đi, Chính phủ Trung Hoa Dân quốc bắt đầu đưa các vật phẩm nghệ thuật vốn lưu trữ tại Cố cung Bắc Kinh đi nơi khác, sau nhiều lần di chuyển cuối cùng một bộ phận vật phẩm được vận chuyển đến Đài Loan trong thời gian nội chiến lần thứ hai. Mặc dù mỗi quý bảo tàng đều thay đổi nội dung triển lãm, song phải mất tới 12 năm để trưng bày toàn bộ vật phẩm nghệ thuật sở hữu. Tại Nhà Kỷ niệm Tưởng Giới Thạch có Viện Hí kịch Quốc gia và Phòng Âm nhạc Quốc gia có hoạt động biểu diễn văn nghệ; Nhà Kỷ niệm Tôn Trung Sơn cũng cử hành nhiều loại hình hoạt động văn hóa, âm nhạc và diễn thuyết. Ngoài ra, chính phủ còn thành lập Bảo tàng Mỹ thuật Quốc lập Đài Loan tại Đài Trung, lưu trữ các bức họa từ thời Minh-Thanh và tác phẩm của các nhà nghệ thuật đương đại Đài Loan.
Thể thao
Bóng chày được xem là môn thể thao quốc dân tại Đài Loan, được xã hội hoan nghênh. Hiệp hội Bóng chày Trung Hoa Dân quốc được thành lập vào năm 1973, đến năm 1989 bắt đầu tổ chức Giải Bóng chày Chuyên nghiệp Trung Hoa, đến năm 2003 hợp nhất với Giải Bóng chày Đài Loan. Tính đến năm 2013, Giải Bóng chày Chuyên nghiệp Trung Hoa có bốn đội tuyển, tại mùa giải thứ 24 năm 2013 mỗi sân vận động có trung bình 6.079 khán giả. Đài Loan từng tổ chức Giải vô địch Bóng chày châu Á năm 2001 và 2007, Giải Bóng chày Thế giới năm 2007 và Giải Bóng chày kinh điển Thế giới 2013, và từng giành huy chương đồng và huy chương bạc lần lượt tại Thế vận hội Mùa hè năm 1982 và năm 1992. Rất nhiều tuyển thủ bóng chày Đài Loan từng sang Hoa Kỳ thi đấu tại Major League Baseball. Bóng rổ cũng là môn thể thao được chính phủ khuyến khích, mỗi năm lại tổ chức các giải như Jones Cup, SBL.
Sau khi Chu Mộc Viêm và Trần Thi Hân giành được huy chương vàng tại Thế vận hội Mùa hè 2004, chính phủ tích cực khuyến khích Taekwondo. Vận động viên golf chuyên nghiệp Tăng Nhã Ni có thành tích cao tại Hiệp hội Golf Chuyên nghiệp Nữ Hoa Kỳ, từng liên tục được xếp ở vị trí số 1 thế giới trong 109 tuần. Đài Loan còn có thành tích tốt trong các môn như korfball, bi-a, cầu lông, cử tạ, kéo co, marathon, bóng bàn..., các địa phương lập ra các địa điểm thi đấu thể thao, trung tâm thể thao quốc dân, công viên thể thao, cơ sở thể thao đa công năng, bể bơi, sân bóng chày, sân golf, đường giành riêng cho xe đạp. Ngoài ra, thể thao điện tử hết sức phát triển, Taipei Assassins từng giành chức vô địch Chung kết thế giới Liên Minh Huyền Thoại năm 2012.
Do ảnh hưởng từ chính trị, Đài Loan sử dụng danh nghĩa "Trung Hoa Đài Bắc" tham dự các tổ chức và sự kiện thể thao quốc tế, đồng thời bị cấm sử dụng quốc kỳ và quốc ca, phải sử dụng cờ hoa mai và Quốc kỳ ca để thay thế. Đại hội Thể thao Toàn quốc, Đại hội Thể thao Toàn dân, Đại hội Thể thao Thổ dân Toàn quốc và Đại hội Thể thao người khuyết tật Toàn quốc được tổ chức hai năm một lần; hàng năm đều tổ chức đại hội thể thao toàn quốc của bậc đại học và bậc trung học. Ngoài ra, Đài Loan còn tổ chức một số hoạt động thể dục quốc tế, đồng thời xây dựng cơ sở hạ tầng liên quan, thu được kinh nghiệm chuẩn bị. Một số giải thể dục quốc tế thường niên được tổ chức tại Đài Loan là Marathon Quốc tế Đài Bắc, Giải đua xe đạp vòng quanh Đài Loan, hay Giải vô địch Fubon LPGA Đài Loan, ngoài ra Cao Hùng từng tổ chức World Games 2009, Đài Bắc từng tổ chức Đại hội Thể thao người khiếm thính Thế giới 2009, và là chủ nhà của Đại hội Thể thao Sinh viên Thế giới năm 2017.
Lịch
Lịch Gregory tiêu chuẩn được sử dụng cho hầu hết các mục đích tại Đài Loan. Năm thường được sử dụng bằng hệ thống lịch Dân quốc bắt đầu vào năm 1912, năm lịch Dân quốc được tạo ra. Năm 2022 là năm Dân quốc 111 (民國111年). |
Ngày 22 tháng 11 năm 1963, John F. Kennedy, tổng thống thứ 35 của Hoa Kỳ, bị ám sát khi đang trên đoàn xe hộ tống đi qua Dealey Plaza tại Dallas, Texas. Kennedy, trong lúc ngồi trên xe cùng phu nhân Jacqueline, cùng với Thống đốc bang Texas John Connally và phu nhân Nellie, đã trúng phát đạn chết người do cựu lính thủy quân lục chiến Lee Harvey Oswald nổ súng từ Kho sách giáo khoa Texas gần đó. Đoàn xe tức tốc đến bệnh viện Parkland, tại đây Kennedy được tuyên bố tử vong khoảng 30 phút sau khi sự việc xảy ra. Connally cũng bị thương trong vụ tấn công, nhưng sau đó đã bình phục. Phó Tổng thống Lyndon B. Johnson nhậm chức tổng thống ngay sau cái chết của Kennedy.
Oswald quay lại nhà riêng để lấy một khẩu súng và bắn chết cảnh sát viên J. D. Tippit không lâu sau vụ việc. Khoảng 70 phút sau khi Kennedy và Connally bị bắn, Sở Cảnh sát Dallas bắt và buộc tội Oswald theo luật pháp bang Texas về hành vi sát hại Kennedy và Tippit. Lúc 11 giờ 21 phút ngày 24 tháng 11 năm 1963, khi các ống kính truyền hình trực tiếp đang theo dõi quá trình áp giải Oswald từ tầng hầm của trụ sở Cảnh sát Dallas, anh bị Jack Ruby, chủ một hộp đêm ở Dallas, bắn trọng thương. Giống Kennedy, Oswald được đưa đến bệnh viện Parkland và chết tại đây. Ruby bị kết án về tội giết Oswald, mặc dù bản án sau này bị lật ngược qua kháng cáo, và ông chết trong tù vào năm 1967 trong thời gian chờ đợi phiên xét xử mới.
Trải qua một cuộc điều tra kéo dài 10 tháng, Ủy ban Warren kết luận Oswald đã hành động một mình hoàn toàn trong việc ám sát Kennedy và Ruby cũng đã hành động một mình khi sát hại Oswald. Bốn năm sau vụ ám sát, Ủy viên công tố quận New Orleans, Jim Garrison, buộc tội doanh nhân Clay Shaw với cáo buộc âm mưu ám sát Kennedy; ông được tha bổng trong phiên tòa xét xử duy nhất về vụ việc này diễn ra năm 1969. Những cuộc điều tra cấp liên bang về sau từ các cơ quan như Ủy ban Rockefeller và Ủy ban Church đều đồng thuận với kết quả điều tra của Ủy ban Warren. Trong báo cáo năm 1979, Ủy ban Đặc biệt của Hạ viện Hoa Kỳ về các vụ ám sát (HSCA) kết luận Kennedy có thể đã bị "ám sát do kết quả của một âm mưu gây ra". HSCA không nêu tên cụ thể những nghi phạm âm mưu, nhưng cho rằng "khả năng cao có hai người nổ súng vào Tổng thống". Kết luận của HSCA phần lớn dựa vào một bản ghi âm Dictabelt của cảnh sát; tuy vậy, tính chân thực của bản ghi âm này về sau bị Bộ Tư pháp Hoa Kỳ bác bỏ.
Vụ ám sát Kennedy đã để lại tác động sâu sắc đối với dư luận và vẫn đang là chủ thể tranh luận rộng rãi, cùng với hàng loạt thuyết âm mưu và kịch bản khác được đưa ra. Các cuộc thăm dò cho thấy đa số người dân Hoa Kỳ tin rằng có một âm mưu đằng sau sự việc này. Đây là vụ đầu tiên trong bốn vụ ám sát trọng đại vào thập niên 1960 tại Hoa Kỳ, hai năm trước vụ ám sát Malcolm X và năm năm trước hai vụ ám sát Martin Luther King Jr. và Robert F. Kennedy. Kennedy là tổng thống Hoa Kỳ thứ tư bị ám sát và là tổng thống gần đây nhất qua đời khi còn tại nhiệm.
Bối cảnh
Kennedy
Năm 1960, John F. Kennedy—khi ấy là thượng nghị sĩ đại diện cho bang Massachusetts—được bầu làm tổng thống thứ 35 của Hoa Kỳ cùng với Phó Tổng thống Lyndon B. Johnson. Nhiệm kỳ của Kennedy trùng với giai đoạn đỉnh điểm của Chiến tranh Lạnh và phần lớn chính sách đối ngoại của ông là theo hướng chống lại Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản. Trên cương vị tổng thống, ông đã phê chuẩn các chiến dịch nhằm lật đổ chính phủ cộng sản của Fidel Castro tại Cuba, trong đó đỉnh điểm là cuộc đổ bộ Vịnh Con Lợn thất bại vào năm 1961, một chiến dịch mà ông từ chối để lính Hoa Kỳ can thiệp trực tiếp. Năm tiếp theo, Kennedy hạ nhiệt thành công khủng hoảng tên lửa Cuba, vốn được xem là sự kiện đưa nhân loại tiến gần nhất đến thảm sát hạt nhân.
Năm 1963, Kennedy quyết định sẽ vào Texas để làm dịu xích mích trong nội bộ Đảng Dân chủ cấp bang giữa Thượng nghị sĩ Ralph Yarborough tự do và Thống đốc John Connally bảo thủ. Chuyến đi này đã được sự đồng ý của Kennedy, Johnson và Connally trong một cuộc gặp tại El Paso vào tháng 6. Lộ trình của đoàn xe hộ tống được chốt lại vào ngày 18 tháng 11 và công bố ngay sau đó. Kennedy cũng xem chuyến đi đến Texas là lần khởi động không chính thức chiến dịch tái tranh cử năm 1964 của mình.
Oswald
Lee Harvey Oswald (sinh năm 1939) là một cựu lính thủy quân lục chiến Hoa Kỳ từng phục vụ tại Nhật Bản và Philippines, người đã tán thành chủ nghĩa cộng sản từ khi đọc về Karl Marx năm 14 tuổi. Anh từng vô tình bắn trúng khuỷu tay mình bằng khẩu súng ngắn trái phép và đánh nhau với một sĩ quan, rồi bị đưa lên tòa quân sự hai lần và giáng cấp. Tháng 9 năm 1959, anh nhận lệnh giải ngũ sau khi khai mẹ mình là người tàn tật. Oswald, khi đó 19 tuổi, lên một tàu chở hàng từ New Orleans đến Pháp rồi di chuyển đến Phần Lan, tại đây anh được cấp thị thực Liên Xô.
Oswald sau đó đào thoát sang Liên Xô, và vào tháng 1 năm 1960 thì được đưa đến làm việc tại một nhà máy ở Minsk, Belarus. Năm 1961, anh gặp và kết hôn với Marina Prusakova; cả hai người có một con. Năm 1962, anh về nước với một khoản vay hồi hương từ Đại sứ quán Hoa Kỳ. Anh định cư tại vùng Dallas/Fort Worth, tại đây anh giao lưu với những người nhập cư Nga—trong đó nổi bật nhất có George de Mohrenschildt. Tháng 3 năm 1963, một viên đạn phát ra suýt trúng tướng Edwin Walker tại nhà riêng ở Dallas; các nhân chứng quan sát thấy có hai người đàn ông khả nghi. Dựa vào lời khai của Marina, một giấy ghi chú mà Oswald để lại và bằng chứng đường đạn, Ủy ban Warren nhận định nỗ lực ám sát này là của Oswald.
Tháng 4 năm 1963, Oswald trở về New Orleans nơi mình sinh ra và thành lập một chi nhánh của tổ chức Fair Play for Cuba mà trong đó anh là thành viên duy nhất. Trong khi đang cùng các đồng hương chưa rõ danh tính phát ấn phẩm ủng hộ Castro, anh xô xát với những người Cuba lưu vong chống Castro và bị bắt giữ. Cuối tháng 9 năm 1963, Oswald đến thành phố México và ghé thăm đại sứ quán Liên Xô và Cuba, theo Ủy ban Warren. Chuyến đi đến thành phố México là vấn đề còn tranh cãi; một báo cáo nội bộ từ Ủy ban Đặc biệt của Hạ viện về các vụ ám sát (HSCA) cho rằng người đến thăm đại sứ quán thực chất là kẻ mạo danh Oswald. Ngày 3 tháng 10, Oswald quay lại Dallas và tìm được việc làm tại Kho sách giáo khoa Texas ở Dealey Plaza. Vào tuần làm việc, anh ta sống tách riêng với Marina trong một ngôi nhà cho thuê ở Dallas. Buổi sáng ngày xảy ra vụ ám sát, anh mang theo một bưu kiện dài (mà anh nói với đồng nghiệp rằng có chứa thanh treo rèm) vào kho sách; Ủy ban Warren kết luận bưu kiện đó chứa khẩu súng trường đã tháo rời của anh này.
22 tháng 11
Kennedy đến Dallas và lộ trình tới Dealey Plaza
Ngày 22 tháng 11, chuyên cơ Không lực Một có mặt tại Sân bay Dallas Love vào lúc 11 giờ 40 phút. Tổng thống Kennedy và Đệ nhất Phu nhân lên một chiếc limousine mui trần Lincoln Continental đời 1961 để di chuyển đến tiệc trưa tại Dallas Market Center. Những người còn lại trên xe này—chiếc thứ hai trong đoàn hộ tống—gồm Đặc vụ Cơ quan Mật vụ Bill Greer, tài xế; Đặc vụ Roy Kellerman ngồi ghế hành khách phía trước xe; Thống đốc Connally và phu nhân Nellie, ngồi ngay trước vợ chồng Kennedy. Bốn chiếc mô tô cảnh sát Dallas đi cùng limousine của Kennedy. Phó Tổng thống Johnson và phu nhân Lady Bird cùng với Thượng nghị sĩ Yarborough đi trên một chiếc xe mui trần khác.
Lộ trình 10 dặm uốn khúc của đoàn hộ tống qua Dallas được thiết kế để giúp Kennedy tiếp xúc tối đa với đám đông, bằng cách đi ngang một khu vực ngoại ô của thành phố, tiếp theo là đường Main Street ở khu vực trung tâm trước khi rẽ phải sang đường Houston. Sau khi qua một khoảnh đất khác, đoàn xe dự định rẽ trái vào đường Elm, đi ngang qua Dealey Plaza rồi chạy một đoạn ngắn trên xa lộ Stemmons đi đến Trade Mart. Lộ trình dự kiến đã được báo chí đưa tin từ trước đó vài ngày. Bất chấp mối lo ngại về những người biểu tình chống đối—trong bối cảnh Đại sứ Liên Hợp Quốc dưới thời Kennedy, Adlai Stevenson, từng trúng khạc nhổ nước bọt ở Dallas vào năm 1961—Kennedy vẫn được đám đông người dân chào đón nồng nhiệt.
Vụ nổ súng
Chiếc limousine của Kennedy vào Dealey Plaza lúc 12 giờ 30 phút (theo giờ CST). Nellie Connally quay người về sau và nói với Kennedy rằng, "Ngài Tổng thống, bây giờ họ không thể khiến ông tin rằng chẳng có ai ở Dallas yêu thương và quý trọng ông, đúng không?" Kennedy đáp lại "Không, họ chắc chắn không thể" – cũng là những lời cuối cùng ông nói trước khi qua đời.
Từ đường Houston, chiếc limousine rẽ trái sang phố Elm, đi qua Kho sách giáo khoa Texas. Trong khi xe đang tiếp tục đi xuống con đường này, nhiều phát súng bất ngờ nổ ra; khoảng 80% nhân chứng nhớ lại rằng họ nghe ba tiếng súng. Ủy ban Warren khẳng định đã có ba phát súng nổ và lưu ý rằng phần lớn nhân chứng thấy tiếng súng thứ hai và thứ ba chụm lại nhau. Ngay khi Kennedy bắt đầu vẫy tay, vài nhân chứng nghe tiếng súng đầu tiên, nhưng ít ai trong đám đông hoặc đoàn xe hộ tống phản ứng lại còn nhiều người khác tưởng đây là tiếng pháo nổ hoặc phụt ngược.
Cách nhau một giây, Thống đốc Connally và bà Kennedy đột ngột xoay người từ phía bên trái của họ qua bên phải. Connally—một thợ săn có kinh nghiệm—lập tức nhận ra đây là tiếng súng trường rồi quay đầu và thân mình sang phải, không thấy có gì bất thường phía sau ông. Ông khai rằng ông không thể nhìn thấy Kennedy nên bắt đầu quay về phía trước một lần nữa (quay từ bên phải mình sang trái), và khi đầu ông đang hướng lệch về phía trái trung tâm khoảng 20 độ, ông trúng đạn ở phần lưng phía trên bên phải mình từ một phát súng mà ông không nghe thấy, rồi hét lên "Chúa ơi. Họ sẽ giết hết chúng tôi!"
Theo Ủy ban Warren và HSCA, khi Kennedy đang vẫy tay với đám đông ở phía bên phải mình thì một viên đạn đi vào vùng lưng bên trên và thoát ra khỏi cổ họng ngay dưới thanh quản. Ông nâng khuỷu tay lên và ghì nắm tay lại phía trước vùng mặt và gáy, rồi nghiêng người về trước và sang trái. Bà Kennedy, ở tư thế đối mặt ông, đưa cánh tay ra vòng lại quanh người ông. Dù đây là một vết thương nghiêm trọng, nhưng thời điểm đó ông vẫn còn khả năng cao sống sót.
Theo "thuyết một phát đạn" của Ủy ban Warren—còn gọi là "thuyết phát đạn thần kỳ" bởi các nhà thuyết âm mưu—Thống đốc Connally bị thương do cùng một viên đạn thoát ra từ vùng cổ của Kennedy. Viên đạn này gây một vết thương lối vào hình bầu dục gần vai phải, trúng và phá hủy vài inch xương sườn số 5 bên phải của Connally, rồi đi ra khỏi ngực ngay dưới núm vú phải, xuyên thủng và làm xẹp phổi ông. Sau đó, chính viên đạn ấy đi vào cánh tay ở vị trí ngay trên cổ tay phải và làm vỡ xương quay phải. Viên đạn thoát ra ngay phía dưới cổ tay ở bên trong lòng bàn tay phải và cuối cùng găm vào bắp đùi bên trái của ông.
Ngay khi chiếc limousine qua khỏi gò cỏ, Kennedy trúng phát đạn chí mạng vào đầu. Ủy ban Warren không nêu rõ đây là viên đạn thứ hai hoặc thứ ba phát ra, đồng thời đưa ra kết luận—giống với HSCA về sau—rằng viên đạn thứ hai trúng Kennedy đã đi vào phía sau vùng đầu ông. Sau đó, nó di chuyển từng mảnh qua hộp sọ, tạo ra một lỗ lớn hình "giống ovular" [sic] ở phía sau bên phải vùng đầu, phụt ra máu và mảnh não. Vết máu và chất não văng xa đến chiếc ô tô của Cơ quan Mật vụ đi theo và đội cảnh sát viên mô tô.
Đặc vụ Cơ quan Mật vụ Clint Hill lúc bấy giờ đang ở trên bệ bước chân của xe ô tô chạy ngay sau chiếc limousine của Kennedy. Hill khai với Ủy ban Warren rằng ông nghe một tiếng súng, nhảy xuống đường và chạy về trước để lên xe limousine và che chắn Kennedy. Ông cho biết đã nghe tiếng đạn nổ chết người ngay khi tiếp cận được chiếc Lincoln, "khoảng năm giây" sau tiếng súng nổ đầu tiên được nghe thấy. Sau phát súng vào đầu, bà Kennedy bắt đầu trèo lên cốp xe limousine, nhưng bà về sau không nhớ mình đã làm như vậy. Hill tin rằng bà có thể đang cố với tới một mảnh sọ của Kennedy. Ông nhảy lên đỡ va của chiếc limousine và bám chặt vào xe, cùng lúc đó xe ra khỏi Dealey Plaza và tăng tốc đến bệnh viện Parkland. Sau khi bà Kennedy bò trở lại lên ghế ngồi của mình, cả Thống đốc Connally và phu nhân đã nghe bà nói đi nói lại rằng: "Họ giết chồng tôi rồi. Tôi đang cầm trong tay não của ông ấy."
Trong khi đang đứng bên cạnh đường chui, James Tague chịu một vết thương nhẹ trên má—có thể do mảnh đạn hoặc mảnh bê tông lề đường. FBI tháo mảng bê tông ra sau đó chín tháng và kết quả phân tích quang phổ cho thấy có cặn kim loại giống với lõi chì trong đạn của Oswald. Tague đã làm chứng trước Ủy ban Warren và ban đầu nói ông bị thương bởi đường đạn thứ hai hoặc thứ ba trong ba viên đạn mà ông nghe thấy nổ. Khi luật sư ủy ban buộc ông nói cụ thể hơn, Tague khai nhận ông bị thương từ phát đạn thứ hai.
Dealey Plaza sau sự kiện
Ngay lúc đoàn xe rời khỏi Dealey Plaza, một số nhân chứng đi tìm nơi che chở, còn số khác cùng với các cảnh sát viên chạy nhanh đến gò cỏ để tìm kẻ nổ súng. Không có tay súng nào được tìm thấy phía sau hàng rào cọc của gò. Trong 178 nhân chứng đã làm chứng trước Ủy ban Warren, có 78 người không chắc về nguồn gốc của những phát đạn, 49 người nói rằng chúng đến từ kho sách và 21 người cho rằng chúng đến từ gò cỏ. Không có nhân chứng nào thông báo việc đã nhìn thấy bất cứ ai—kể cả có hoặc không mang súng—ngay sau hàng rào cọc của gò tại thời điểm nổ súng.
Khi sự việc xảy ra, Lee Bowers đang ở trong một nhà điều khiển tín hiệu đường sắt hai tầng, cách hàng rào cọc của gò cỏ 120 yard (110 m); anh đang theo dõi đoàn xe hộ tống và có tầm quan sát không khuất về đường đi mà bất kỳ tay súng nào có thể lợi dụng để trốn khỏi gò cỏ, nhưng không thấy ai rời khỏi hiện trường. Bowers làm chứng với Ủy ban Warren rằng có "một hoặc hai" người đàn ông đang đứng giữa anh và hàng rào trong vụ ám sát: một người là khách quen đến bãi giữ xe và người còn lại mặc đồng phục giống như người trông coi nhà xử án hạt. Anh khai đã nhìn thấy "vài rung chấn" ở gò cỏ vào thời điểm ám sát: "có điều gì đó không bình thường, cái kiểu di chuyển loanh quanh, nhưng có điều gì đó xảy ra ở vị trí đặc biệt này vốn không bình thường, thu hút sự chú ý của tôi vì một lý do nào đó mà tôi không thể xác định".
Lúc 12 giờ 36 phút, thiếu niên Amos Euins tiếp cận Hạ sĩ cảnh sát Dallas D.V. Harkness và trình báo đã thấy một "người đàn ông da màu ... nghiêng ra khỏi cửa sổ [với] một khẩu súng trường" ở tầng sáu của kho sách trong lúc vụ ám sát xảy ra; đáp lại, Harkness phản hồi qua radio rằng ông đang cho phong tỏa kho sách này. Nhân chứng Howard Brennan sau đó đến gặp một phó trưởng cảnh sát và thông báo đã nhìn thấy một tay súng—một người đàn ông da trắng mặc đồ kaki—ở cùng ô cửa sổ đó. Cảnh sát cho phát sóng đoạn mô tả về nghi phạm của Brennan vào lúc 12 giờ 45 phút. Brennan khai rằng sau phát súng thứ hai, "Người này ... đang ngắm bắn viên đạn cuối cùng ... và hình như là đã dừng lại một giây nữa như thể để tự chắc mẩm mình đã trúng mục tiêu." Nhân chứng James R. Worrell Jr. cũng cho biết đã thấy nòng súng nhô ra từ một ô cửa sổ trên tầng sáu của kho sách. Bonnie Ray Williams, người đang ở tầng năm, nói rằng tiếng nổ từ khẩu súng trường to và gần đến mức trần thạch cao rơi xuống đầu ông.
Oswald bỏ trốn, vụ giết hại J. D. Tippit và bắt giữ
Trong quá trình khám xét tầng sáu của nhà kho, hai phụ tá tìm thấy một khẩu súng trường bắn phát một mẫu Carcano M91/38 của Ý. Oswald đã mua khẩu súng qua sử dụng này vào tháng 3 năm trước đó dưới bí danh "A. Hidell" và để nó được giao tới hộp thư bưu điện Dallas của mình. FBI tìm ra dấu một phần lòng bàn tay trên nòng súng, đồng thời sợi chỉ trên súng trường trùng khớp với sợi trên áo của anh ta. Một viên đạn có trên băng ca bệnh viện của Thống đốc Connally và hai mảnh khác trên chiếc limousine đều trùng khớp về mặt đạn đạo với khẩu Carcano.
Oswald rời khỏi kho sách và di chuyển bằng xe buýt đến nhà trọ để lấy áo khoác và súng ngắn ổ xoay. Lúc 13 giờ 12 phút, viên cảnh sát J. D. Tippit thấy Oswald đang đi bộ trong cụm nhà ở lân cận của Oak Cliff và gọi anh này lên xe tuần tra. Sau một cuộc đấu khẩu, Tippit ra khỏi xe và bị Oswald bắn ba lần vào ngực làm gục xuống đất. Anh ta nổ phát đạn cuối cùng vào thái dương của Tippit và thản nhiên đi bộ khỏi hiện trường, rồi bỏ chạy khi nhân chứng xuất hiện.
Vào thời điểm gọi điểm danh tất cả nhân viên kho sách, người giám sát Roy Truly thấy Oswald đang vắng mặt và báo cho cảnh sát. Cảnh sát Dallas sau đó bố ráp một thư viện tại Oak Cliff nhưng nhận ra đã bị nhận dạng sai về nghi phạm. Lúc 13 giờ 36 phút, cảnh sát được gọi đến sau khi Oswald, một người lồ lộ đã kiệt sức do trốn chạy, được bắt gặp đang lén vào Texas Theatre mà chưa trả tiền vé. Oswald bị bắt giữ lúc bộ phim War Is Hell đang công chiếu, sau một hồi vật lộn mà trong đó anh này giơ ra khẩu súng hết đạn của mình. Anh không nhận đã bắn bất kỳ ai và bảo rằng anh bị coi là "thằng khờ" do từng sống ở Liên Xô.
Kennedy qua đời; Johnson nhậm chức
Lúc 12 giờ 38 phút, Kennedy được đưa đến phòng cấp cứu của bệnh viện Parkland. Dù ông vẫn còn thở sau khi trúng đạn, nhưng bác sĩ riêng của ông, George Burkley, lập tức nhận thấy việc sống sót là điều không thể. Các bác sĩ tại Parkland cố gắng thực hiện xoa bóp tim cho Kennedy nhưng không được, và ông được tuyên bố tử vong lúc 13 giờ, đúng 30 phút sau vụ nổ súng. Người dẫn chương trình Walter Cronkite của CBS là người thông báo tin này trên sóng truyền hình trực tiếp.
Do lo ngại về khả năng có một mưu đồ lớn hơn nên Cơ quan Mật vụ thúc giục Johnson rời khỏi Dallas và trở về Nhà Trắng, song ông từ chối tuân theo yêu cầu này khi chưa có bằng chứng về cái chết của Kennedy. Ông trở lại Không lực Một vào khoảng 13 giờ 30 phút và ngay sau đó nhận cuộc gọi điện thoại từ cố vấn McGeorge Bundy và Walter Jenkins khuyên ông trở về Washington, D.C. ngay lập tức. Ông đáp lại rằng ông sẽ không rời Dallas mà không có Jacqueline Kennedy, đồng thời bà sẽ không rời đi khi chưa có thi thể của Kennedy. Theo Esquire, Johnson "không muốn bị nhớ đến như là một kẻ bỏ rơi những góa phụ xinh đẹp".
Tại thời điểm Kennedy bị ám sát, việc giết hại một tổng thống không thuộc phạm vi quyền hạn pháp lý của liên bang. Vì vậy, bác sĩ pháp y hạt Dallas Earl Rose đề nghị luật pháp bang Texas yêu cầu ông thực hiện khám nghiệm tử thi. Một cuộc đối chác căng thẳng giữa các phụ tá của Kennedy và quan chức Dallas suýt leo thang thành ẩu đả trước khi phía tiểu bang cho phép thi thể Kennedy được chuyển lên Không lực Một. Lúc 14 giờ 38 phút, với Jacqueline Kennedy hiện diện bên cạnh, Johnson được thẩm phán liên bang Sarah Tilghman Hughes cho tuyên thệ nhậm chức ngay trên chuyên cơ, không lâu trước khi bay về Washington cùng với quan tài của Kennedy.
Diễn biến ngay sau sự kiện
Khám nghiệm
Cuộc khám nghiệm tử thi Tổng thống Kennedy diễn ra tại Bệnh viện Hải quân Bethesda vào tối ngày 22 tháng 11. Jacqueline Kennedy trước đó quyết định chọn một bệnh viện hải quân làm nơi khám nghiệm do ông Kennedy từng là một sĩ quan hải quân thời Thế Chiến II. Việc khám nghiệm do hai bác sĩ, tư lệnh hải quân James Humes và J. Thornton Boswell, thực hiện; trong đó Humes là người đứng đầu. Dưới áp lực bởi yêu cầu xúc tiến quy trình từ gia đình Kennedy và quan chức Nhà Trắng, các bác sĩ đã thực hiện một cuộc khám nghiệm "gấp gáp" và không đầy đủ. Bác sĩ riêng của Kennedy, Chuẩn đô đốc George Burkley, ký giấy chứng tử vào ngày 23 tháng 11 và ghi lại rằng nguyên nhân cái chết là do vết thương trúng đạn ở hộp sọ.
Ba năm sau cuộc khám nghiệm, bộ não của Kennedy—vốn đã được lấy ra khỏi cơ thể và bảo quản để dành phân tích—bị phát hiện thất lạc khỏi Cơ quan Lưu trữ Quốc gia. Các nhà thuyết âm mưu thường khẳng định bộ não này có thể cho thấy đường đạn qua đầu đã đi vào từ phía trước. Một giả thuyết khác cho rằng em trai của Kennedy, Bộ trưởng Tư pháp Robert F. Kennedy, cho phá hủy bộ não để che giấu mức độ bệnh tật mạn tính và thuốc trị bệnh của tổng thống. Một số ảnh tia X và ảnh chụp khám nghiệm khác cũng bị mất.
Phần lớn nhà sử học xem cuộc khám nghiệm tử thi là phần được tiến hành "thiếu trách nhiệm nhất" trong cuộc điều tra của chính phủ. Hội đồng bệnh học pháp y của HSCA kết luận cuộc khám nghiệm này gặp phải "những thiếu sót nghiêm trọng", như không lấy được đủ ảnh chụp cần thiết, không xác định được điểm vào và ra chính xác của viên đạn trúng đầu, không giải phẫu vùng lưng và cổ và không chú ý xác định góc của các vết đạn một cách tương quan với trục cơ thể. Hội đồng còn nhận định cả hai bác sĩ đều chưa đạt tiêu chuẩn để thực hiện khám nghiệm pháp y. Ông Milton Helpern—Trưởng Bác sĩ Pháp y Thành phố New York—cho rằng việc chọn Humes (người mới chỉ học qua một khóa đào tạo về bệnh học pháp y) làm người đứng đầu cuộc khám nghiệm "cũng giống như việc đưa một cậu bé bảy tuổi mới học ba khóa về violin đến New York Philharmonic và kỳ vọng cậu ấy trình diễn được một bản giao hưởng Tchaikovsky".
Tang lễ
Sau khám nghiệm, Kennedy được đặt yên nghỉ tại Phòng phía Đông của Nhà Trắng trong 24 giờ. Tổng thống Johnson ban hành Tuyên bố Tổng thống số 3561 tuyên bố quốc tang vào ngày 25 tháng 11; chỉ có nhân viên khẩn cấp thiết yếu tiếp tục lên làm việc trong ngày này. Một xe móc ngựa kéo sau đó chuyển quan tài đến Điện Capitol để quàn thi hài. Hàng trăm nghìn người đưa tang đã xếp hàng để theo dõi quan tài được canh gác, với khoảng một phần tư triệu người bước qua khu mái vòm trong vòng 18 giờ quàn thi hài. Ngay cả tại Liên Xô—theo một bản ghi nhớ bởi Giám đốc FBI J. Edgar Hoover—tin tức về vụ ám sát "được đón nhận bởi những cú sốc và nỗi kinh hoàng to lớn, đồng thời những tiếng chuông nhà thờ được vang lên để tưởng nhớ Tổng thống Kennedy".
Lễ tang Kennedy diễn ra ngày 25 tháng 11 tại Nhà thờ chính tòa St. Matthew's với buổi cầu siêu do Hồng y Richard Cushing tổ chức. Khoảng 1.200 khách mời, bao gồm đại biểu từ 90 quốc gia, đến tham dự. Buổi lễ không có điếu văn chính thức, song Giám mục Phụ tá Philip M. Hannan đã đọc những trích đoạn từ các bài phát biểu và bài viết của Kennedy. Sau lễ, Kennedy được chôn cất tại Nghĩa trang quốc gia Arlington ở Virginia. Một ngọn lửa vĩnh cửu được thắp lên ở nơi chôn cất vào năm 1967.
Cái chết của Oswald
Ngày 24 tháng 11, lúc 11 giờ 21 phút, khi Oswald đang được đưa đến một chiếc xe ô tô ở tầng hầm trụ sở Cảnh sát Dallas để di lý từ nhà giam thành phố sang nhà giam hạt, anh trúng phát đạn bởi chủ hộp đêm Dallas Jack Ruby. Vụ nổ súng được phát sóng trực tiếp trên truyền hình. Robert H. Jackson của tờ Dallas Times Herald là người chụp lại khoảnh khắc này, nhờ đó ông nhận giải Pulitzer dành cho nhiếp ảnh năm 1964.
Oswald sau đó được xe cấp cứu chuyển lên bệnh viện Parkland và điều trị bởi cùng đội ngũ bác sĩ đã cố cứu chữa Kennedy. Viên đạn đã đi vào vùng ngực dưới bên trái của anh này nhưng chưa thoát ra khỏi cơ thể; các mạch máu chính của tim mạch như động mạch chủ và tĩnh mạch chủ dưới bị đứt, đồng thời lách, thận và lá gan cũng bị đạn tác động. Sau biện pháp can thiệp ngoại khoa và khử rung tim thất bại, Oswald chết lúc 13 giờ 07 phút.
Ruby bị bắt ngay sau vụ nổ súng và khai trước Ủy ban Warren rằng ông cảm thấy quẫn trí bởi cái chết của Kennedy và việc sát hại Oswald sẽ làm "giải tỏa sự không thoải mái của bà Kennedy khi quay trở lại phiên tòa". Ông còn khẳng định đã bắn Oswald ngay khi có cơ hội mà không cân nhắc đến bất kỳ lý do nào để hành động như vậy. Ban đầu, Ruby muốn tự bào chữa tại tòa đến khi luật sư của ông, Melvin Belli, khuyên ngăn; Belli lập luận Ruby mắc chứng động kinh tâm thần vận động và do đó không phải chịu trách nhiệm. Ruby bị kết án, nhưng bản án sau này bị lật ngược qua kháng cáo. Trong khi đang chờ xét xử lại vào năm 1967, ông chết do thuyên tắc động mạch phổi, một căn bệnh thứ cấp kèm với ung thư. Giống Oswald và Kennedy, Ruby được tuyên bố tử vong tại bệnh viện Parkland.
Đoạn phim và hình ảnh về vụ ám sát
Đứng ở tường dây leo cách cung đường cỡ 65 feet (20 m), thợ may Abraham Zapruder là người đã quay phim vụ giết hại trong đoạn phim 8 mm câm dài 26 giây — còn gọi là đoạn phim Zapruder. Khung số 313 ghi lại đúng thời khắc mà đầu của Kennedy nổ tung. Tạp chí Life cho xuất bản các khung hình phóng to từ đoạn phim Zapruder một thời gian ngắn sau vụ ám sát. Đoạn phim lần đầu tiên được công khai tại phiên tòa xét xử Clay Shaw năm 1969, tiếp theo là trên truyền hình vào năm 1975 bởi Geraldo Rivera. Năm 1999, một hội đồng hòa giải đề nghị chính phủ liên bang trả 615.384 USD mỗi giây phim cho những người thừa kế của Zapruder, qua đó định giá toàn bộ đoạn phim ở mức 16 triệu USD (tương đương 24,8 triệu USD theo thời giá năm 2022).
Zapruder là một trong ít nhất 32 người tại Dealey Plaza được biết là đã thực hiện những bức ảnh hoặc đoạn phim vào khoảng thời điểm xảy ra vụ nổ súng. Trong số các nhiếp ảnh gia ghi lại sự việc, nổi bật nhất là Mary Moorman, người dùng chiếc Polaroid để chụp vài bức ảnh về Kennedy, trong đó có một bức được chụp chưa đến một phần sáu giây sau phát súng vào đầu.
Charles Bronson, Marie Muchmore và Orville Nix cũng là những người ghi hình vụ ám sát, đều từ khoảng cách xa hơn Zapruder. Trong ba người này, chỉ có Nix—người ghi lại khu gò cỏ từ đường Elm ở phía đối diện Zapruder—đã quay phim lại phát súng chí tử. Năm 1966, Nix nhận rằng sau khi ông nộp đoạn phim của mình cho FBI, bản sao trả lại có một số khung hình "bị mất" hoặc "bị phá hỏng". Mặc dù tồn tại một số bản sao chất lượng thấp hơn, nhưng bản phim gốc đã thất lạc từ năm 1978. Ngoài ra, một đoạn phim chưa từng biết đến khác của George Jefferies được công bố vào năm 2007. Từ vị trí cách nơi xảy ra vụ việc khoảng vài khu nhà, đoạn phim này ghi lại áo khoác âu xếp nếp của Kennedy, qua đây giải thích sự không ăn khớp giữa vị trí lỗ đạn trên vùng lưng và chiếc áo khoác của ông.
Một số hình ảnh và đoạn phim có xuất hiện một người phụ nữ không rõ danh tính có vẻ như đang ghi hình vụ ám sát; các nhà nghiên cứu đặt tên người đó là Quý cô Babushka bởi bà này có khăn san xung quanh đầu. Ngoài ra, vào năm 1978, Gordon Arnold đứng ra tự nhận ông đã quay phim lại vụ việc từ gò cỏ và một sĩ quan cảnh sát sau đó tịch thu đoạn phim của mình. Tuy nhiên, thân hình Arnold không xuất hiện rõ trong bất kỳ bức nào chụp lại khu vực đó, và Vincent Bugliosi—tác giả của Reclaiming History—gọi đây là "bằng chứng nhiếp ảnh thuyết phục chứng tỏ câu chuyện của Arnold là bịa đặt".
Điều tra chính thức
Cảnh sát Dallas
Tại trụ sở Cảnh sát Dallas, các cảnh sát viên đã thẩm vấn Oswald về hai vụ bắn chết Kennedy và Tippit qua nhiều buổi gián đoạn diễn ra trong khoảng 12 tiếng đồng hồ, từ 14 giờ 30 phút ngày 22 tháng 11 đến 11 giờ ngày 24 tháng 11. Suốt quá trình thẩm vấn, Oswald không thừa nhận bất kỳ sự dính líu nào và dùng đến những lời khai mà về sau được xác định là sai.
Đại úy J. W. Fritz của Phòng điều tra các vụ giết người và trộm cướp đảm nhiệm phần lớn công việc xét hỏi và chỉ giữ lại những bản ghi chép bước đầu. Vài ngày sau, Fritz viết một biên bản về cuộc thẩm vấn từ ghi chép mà ông thực hiện tiếp đó. Không có bản tốc ký hoặc băng hình nào ghi lại quá trình này. Đại diện của các cơ quan hành pháp khác, trong đó có FBI và Cơ quan Mật vụ, cũng có mặt và đôi lúc tham gia vào việc xét hỏi. Một số đặc vụ FBI có mặt đã chắp bút những biên bản đương thời về cuộc thẩm vấn.
Chiều 22 tháng 11, Cảnh sát Dallas cho xét nghiệm bằng paraffin trên hai tay và má phải của Oswald nhằm xác minh xem anh có vừa nổ súng vào một thời điểm gần đây hay không. Kết quả cho ra dương tính ở hai tay và âm tính ở má phải. Các xét nghiệm như vậy đều không đáng tin và kết quả của chúng không được Ủy ban Warren viện dẫn trong báo cáo của mình.
Cảnh sát Dallas buộc Oswald tổ chức một buổi họp báo sau nửa đêm ngày 23 tháng 11, đồng thời cũng cho rò rỉ nhiều thông tin ra truyền thông trong giai đoạn đầu điều tra. Cách cư xử của họ làm tức giận Johnson, người đã chỉ thị FBI kêu gọi họ "ngừng nói về vụ ám sát". Sau khi FBI bày tỏ lo ngại về khả năng có người cố giết Oswald, phía cảnh sát cam kết với nhà chức trách liên bang rằng sẽ có biện pháp bảo vệ phù hợp đối với anh.
Điều tra của FBI
FBI ngay lập tức mở một cuộc điều tra về vụ ám sát dựa trên quy chế về việc cấm tấn công một viên chức liên bang. Trong vòng 24 giờ sau vụ giết người, Giám đốc Hoover chuyển đến Tổng thống Johnson một báo cáo sơ bộ rằng Oswald là thủ phạm duy nhất. Sau khi Ruby sát hại Oswald, Johnson kiên quyết rằng giới chức bang Texas không có đủ thẩm quyền và chỉ thị FBI thực hiện một cuộc điều tra đầy đủ.
Ngày 9 tháng 12 năm 1963, Ủy ban Warren nhận được kết luận điều tra của FBI, khẳng định đã có ba phát đạn nổ ra—phát đầu tiên trúng vùng lưng phía trên của Kennedy; phát thứ hai trúng Connally; phát thứ ba trúng đầu Kennedy làm ông thiệt mạng. FBI sau đó tiếp tục là bộ phận điều tra chính của Ủy ban Warren trong lĩnh vực này. Tổng cộng có 169 đặc vụ FBI làm việc với vụ án, thực hiện hơn 25.000 cuộc phỏng vấn và viết hơn 2.300 biên bản.
Tính toàn diện của cuộc điều tra từ FBI hiện còn gây tranh chấp. Bugliosi hoan nghênh chất lượng của nó và trích dẫn lời khen ngợi từ nhà thuyết âm mưu Harrison Edward Livingstone về sự tận tụy của cơ quan trong việc dõi theo mọi manh mối. Trong báo cáo năm 1979, HSCA khẳng định việc điều tra của FBI về những người Cuba ủng hộ và chống Castro, cũng như mối liên hệ giữa họ và Oswald hoặc Ruby, còn thiếu sót. HSCA cũng nhận định Hoover "dường như quyết tâm [kết án Oswald với tư cách là sát thủ đơn độc] trong vòng 24 giờ sau vụ ám sát".
Ủy ban Warren
Ngày 29 tháng 11, Tổng thống Johnson ký sắc lệnh thành lập "Ủy ban Tổng thống về vụ ám sát Tổng thống Kennedy" và chọn Chánh án Earl Warren của Tối cao Pháp viện làm người đứng đầu cuộc điều tra, thường gọi là Ủy ban Warren. Bản báo cáo cuối cùng dài 888 trang của cơ quan này được chuyển đến tay Johnson vào ngày 24 tháng 9 năm 1964 và công khai sau đó ba ngày. Ủy ban kết luận Lee Harvey Oswald đã hành động một mình trong việc giết Kennedy và làm bị thương Connally, còn Jack Ruby đã hành động một mình trong việc giết Oswald. Ủy ban không đưa ra kết luận về động cơ gây án của Oswald, nhưng cũng nhắc đến tư tưởng chủ nghĩa Marx và chống độc tài, thiên hướng bạo lực, sự thất bại trong việc hình thành các mối quan hệ cá nhân và lòng ham muốn trở thành một nhân vật quan trọng trong lịch sử.
Khi nghiên cứu đoạn phim Zapruder, các quan chức ủy ban nhận ra thuyết phát đạn của FBI là không khả thi. Thời điểm phản ứng của Kennedy và Connally, do cách nhau một khoảng thời gian ngắn hơn so với chu kỳ tiếp đạn 2,3 giây của súng, đã xảy ra gần nhau đến mức chúng không thể đến từ hai viên đạn khác nhau bởi Oswald. Đây là một trong những phát hiện quan trọng nhất từ ủy ban này: theo đó, một đường đạn duy nhất dẫn đến hai vết thương không gây chết của Kennedy và Connally, còn gọi là "thuyết một phát đạn". Tháng 5 năm 1964, quan chức Arlen Specter tái hiện lại quỹ đạo của phát đạn duy nhất này qua một buổi phục dựng hiện trường ở Dealey Plaza; đường đi của viên đạn hoàn toàn trùng khớp với vết thương của Kennedy và Connally.
Trong số tám thành viên ủy ban, có ba người—Dân biểu Hale Boggs cùng Thượng nghị sĩ John Copper và Richard Russell—cho rằng thuyết trên là "không chắc chắn"; vấn đề vướng mắc mà họ đặt ra không được nhắc đến trong báo cáo cuối cùng. Các nhà thuyết âm mưu gọi thuyết này là "thuyết phát đạn thần kỳ" một phần bởi viên đạn vẫn còn nguyên trạng và được cho là không bị hư hỏng. Tuy nhiên, Michael Baden của HSCA nhận thấy viên đạn đó dù không bị phân mảnh nhưng về cơ bản đã biến dạng. Năm 2023, Đặc vụ Cơ quan Mật vụ Paul Landis—người đứng trên bệ bước chân trong chiếc xe chở Kennedy—nói với tờ The New York Times rằng ông đã lấy được "viên đạn thần kỳ" từ ngay sau ghế ngồi của Kennedy ngay khi đến Parkland, sau đó đặt nó trên băng ca. Landis tin rằng viên đạn đã bật ra từ một vết thương nông trên vùng lưng của Kennedy.
Ngoài 27 tập xuất bản của Báo cáo Warren, ủy ban còn cho ra hàng trăm nghìn trang biên bản điều tra và tài liệu. Relman Morin nhìn nhận "Chưa bao giờ trong lịch sử, một tội ác được điều tra gắt gao như vậy"; Bugliosi khẳng định phát hiện cơ bản của ủy ban "vẫn còn giá trị rất cao". Song, theo Gerald Posner, báo cáo Warren bị dư luận Hoa Kỳ "chế nhạo khắp nơi". Walter Cronkite nhận định, "Mặc dù Ủy ban Warren có toàn quyền tiến hành cuộc điều tra độc lập của riêng mình, nhưng cơ quan này vẫn cho phép FBI và CIA tự điều tra – và do đó đã phủ bóng vĩnh viễn lên các kết quả của mình." Theo một báo cáo năm 2014 từ nhà sử học CIA David Robarge, giám đốc CIA lúc bấy giờ là John A. McCone đã tham gia vào một "cuộc che đậy ôn hòa" bằng cách giấu giếm thông tin từ ủy ban.
Phiên tòa Clay Shaw
Ngày 22 tháng 3 năm 1967, Ủy viên công tố quận New Orleans Jim Garrison bắt và buộc tội Clay Shaw, một doanh nhân ở New Orleans, về âm mưu ám sát Tổng thống Kennedy với sự hỗ trợ từ Oswald, David Ferrie và nhiều cá nhân khác. Là một doanh nhân được kính trọng, người đã giúp đỡ cho việc trùng tu và bảo tồn French Quarter, Shaw được mô tả là "nhân vật phản diện khó tin nhất từ sau Oscar Wilde". Cả Shaw và Ferrie, một kẻ loạn thần kinh nhiệt tình chống Castro, đều là thành viên của cộng đồng người đồng tính ở New Orleans. Ferrie chết, khả năng do tự tử, bốn ngày sau khi tin tức về cuộc điều tra nổ ra. Trong chương trình The Tonight Show Starring Johnny Carson năm 1968, Garrison lần đầu tiên cáo buộc Shaw và Ferrie từng là một phần trong kế hoạch lớn hơn của CIA nhằm giết Kennedy và mưu hại Oswald. Tại phiên tòa kéo dài 34 ngày diễn ra vào năm 1969, Garrison cho phát lại đoạn phim Zapruder và lập luận rằng chuyển động ngả về sau của đầu Kennedy sau phát súng chí mạng là dấu hiệu cho thấy có một tay súng ở phía trước trên gò cỏ.
Trải qua một thời gian ngắn nghị án, tòa tuyên Shaw vô tội. Mark Lane đã phỏng vấn các thành viên bồi thẩm đoàn sau phiên tòa và cho biết có vài thành viên tin rằng Shaw nhiều khả năng dính líu đến một âm mưu, nhưng không có đủ bằng chứng để kết tội. Những phát biểu của Lane vấp phải tranh cãi từ người soạn kịch James Kirkwood—một người bạn riêng của Clay Shaw—khi ông cho rằng có gặp vài thành viên bồi thẩm đoàn vốn đã khẳng định chưa từng nói gì với Lane. Kirkwood cũng bày tỏ nghi ngờ về tuyên bố của Lane rằng bồi thẩm đoàn đã tin có một âm mưu đứng sau; chủ tịch ban hội thẩm Sidney Hebert nói với Kirkwood, "Tôi cũng không nghĩ quá nhiều về Báo cáo Warren cho đến khi phiên tòa diễn ra. Bây giờ tôi nghĩ về nó nhiều hơn trước."
Theo viện sĩ E. Jerald Ogg, phiên xét xử Shaw hiện được xem như là một "sự phản bội công lý", còn Kirkwood ví nó như một phiên điều trần của Tòa án dị giáo Tây Ban Nha. Nhiều nhà quan sát khác mô tả quá trình tố tụng là phụ thuộc nhiều vào sự kỳ thị đồng tính. Đây vẫn là phiên tòa xét xử duy nhất liên quan đến vụ ám sát Kennedy. Năm 1979, cựu giám đốc CIA Richard Helms khai rằng Shaw từng là liên lạc viên bán thời gian tại Phòng Tiếp xúc trong nước của CIA, qua đó ông tình nguyện cung cấp thông tin về các chuyến đi nước ngoài của mình, chủ yếu là đến Mỹ Latinh. Tuy nhiên, theo Max Holland, khoảng 150.000 người Hoa Kỳ là liên lạc viên. Năm 1993, chương trình Frontline của PBS thu được một bức ảnh thể hiện Ferrie và Oswald đứng cùng nhau trong bữa ăn ngoài trời của Lực lượng Không quân Dân sự năm 1955; Ferrie trước đó khai nhận chưa từng biết gì về Oswald.
Hội đồng của Ramsey Clark
Ngoài Chánh án Warren, các thành viên của Ủy ban Warren đều không theo dõi hình ảnh khám nghiệm hoặc ảnh chụp tia X lấy từ cuộc khám nghiệm tử thi Kennedy. Theo Warren, việc này nhằm tránh phải công bố công khai những chi tiết quá tường minh cho "những kẻ tung tin giật gân". Do nhiều suy đoán dai dẳng, vào tháng 2 năm 1968, Bộ trưởng Tư pháp Ramsey Clark cho lập hội đồng gồm bốn chuyên gia y khoa để phân tích những bức ảnh khám nghiệm này. Kết quả phân tích của họ tương đồng với Ủy ban Warren: Kennedy đã trúng hai viên đạn đều đến từ phía sau.
Ủy ban Rockefeller
Năm 1975, Tổng thống Gerald Ford—người từng là thành viên của Ủy ban Warren trước đó một thập niên—cho thành lập Ủy ban Tổng thống về các hoạt động của CIA tại Hoa Kỳ, còn gọi là Ủy ban Rockefeller theo tên của chủ tịch ủy ban, Phó Tổng thống Nelson Rockefeller. Ủy ban có nhiệm vụ xác định xem bất kỳ hoạt động nội địa nào của CIA có bất hợp pháp hay không và đưa ra khuyến nghị thích hợp; theo đó, ủy ban cũng xem xét lại vụ ám sát Kennedy.
Sau năm tháng điều tra, Ủy ban Rockefeller nộp lại báo cáo của mình cho Tổng thống Ford. Báo cáo này xem xét các bằng chứng y khoa và thống nhất rằng Kennedy bị giết bởi hai phát súng từ phía sau. Ủy ban bác bỏ tuyên bố của Garrison rằng chuyển động lùi của đầu Kennedy như trong đoạn phim Zapruder là dấu hiệu của một kẻ nổ súng trên gò cỏ, đồng thời nhận thấy "chuyển động như vậy phải được gây ra bởi sự duỗi thẳng và cứng lại dữ dội của toàn bộ cơ thể do kết quả của một phản ứng thần kinh cơ giống như co giật đối với tổn thương nghiêm trọng gây ra cho các trung tâm thần kinh trong não". HSCA sau này cũng nhìn nhận "tác động đẩy do chất não" phóng từ vết thương thoát ra có thể là nguyên nhân. Nhà nghiên cứu bệnh học Vincent Di Maio khai trước HSCA rằng khái niệm về "sự truyền động lượng" từ một viên đạn trên gò cỏ là vô căn cứ và giống những gì lấy từ "phim ảnh của Arnold Schwarzenegger".
Ủy ban Rockefeller cũng tìm cách xác định xem các đặc vụ CIA—đặc biệt là E. Howard Hunt và Frank Sturgis—có xuất hiện tại Dealey Plaza trong vụ ám sát hay không, cũng như liệu hai người này nằm trong "ba kẻ lang thang" được chụp lại ngay sau vụ việc hay không. Ủy ban không tìm thấy bằng chứng nào cho những tuyên bố trên. Cơ quan này cũng điều tra về mối liên hệ được cho là chủ ý giữa CIA với Oswald và Ruby nhưng không thấy chứng cứ nào, từ đó khẳng định đây là "suy đoán xa vời". Ủy ban kết luận "không có bằng chứng đáng tin cậy nào về sự tham gia của CIA".
Ủy ban Church
Năm 1976, sau vụ bê bối Watergate và những tiết lộ về hành vi sai trái của CIA từ Seymour Hersh (cái gọi là "Family Jewels" của CIA), Thượng viện Hoa Kỳ quyết định thành lập Ủy ban Đặc biệt về nghiên cứu các hoạt động của chính phủ liên quan đến hoạt động tình báo—gọi tắt là Ủy ban Church theo tên chủ tịch, Thượng nghị sĩ Frank Church. Ủy ban có nhiệm vụ điều tra tất cả hành động không đúng đắn và trái pháp luật của CIA và FBI, cả trong và ngoài nước. Bắt nguồn từ những giả thuyết còn tồn đọng, Ủy ban Church quyết định lập một tiểu ban (gồm hai Thượng nghị sĩ Richard Schweiker và Gary Hart) để thẩm tra các hành vi của CIA và FBI liên quan đến vụ ám sát.
Trong bản báo cáo cuối cùng, Ủy ban Church kết luận không có bằng chứng nào về âm mưu do CIA hoặc FBI đứng đầu. Ủy ban nhận thấy cuộc điều tra ban đầu về vụ ám sát là "thiếu sót" và chỉ trích FBI và CIA vì che giấu thông tin từ Ủy ban Warren. Đặc biệt, cơ quan này nhận định những thông tin đã biết về hàng loạt nỗ lực ám sát Castro thất bại của CIA có thể làm ảnh hưởng đáng kể đến quá trình điều tra. Hơn nữa, Ủy ban Church còn cho biết CIA đã cấu kết với xã hội đen trong các âm mưu chống lại Castro. Những tiết lộ này dẫn đến công chúng ngày càng quan tâm chặt chẽ hơn về vụ ám sát.
Ủy ban Đặc biệt của Hạ viện Hoa Kỳ về các vụ ám sát
Do sự hoài nghi ngày càng gia tăng của dư luận và quốc hội đối với kết quả điều tra của Ủy ban Warren cũng như tính trong sạch của các cơ quan chính phủ, vào năm 1976 Ủy ban Đặc biệt của Hạ viện Hoa Kỳ về các vụ ám sát (HSCA) được thành lập để điều tra vụ ám sát Kennedy và Martin Luther King, Jr.
HSCA thực hiện công cuộc điều tra cho đến năm 1978 và công bố bản báo cáo cuối cùng vào năm 1979, kết luận Kennedy nhiều khả năng bị ám sát do có âm mưu đứng sau. Cơ quan này nhận thấy có "xác suất cao" một phát đạn thứ tư được nổ từ gò cỏ, dù phát đạn này được cho là không trúng Kennedy. Về kết luận "có thể có âm mưu", bốn trong mười hai thành viên ủy ban đã viết ra những ý kiến phản biện.
HSCA cũng khẳng định những cuộc điều tra trước đó về trách nhiệm của Oswald là "toàn diện và đáng tin cậy" nhưng lại không điều tra đầy đủ khả năng xảy ra một âm mưu, và các cơ quan liên bang đã thực hiện việc này với "mức độ năng lực khác nhau". Theo đó, FBI và CIA được cho là không chia sẻ đầy đủ thông tin với các cơ quan khác và Ủy ban Warren. Thay vì cung cấp mọi thông tin liên quan, FBI và CIA chỉ đáp ứng những yêu cầu cụ thể và đôi khi vẫn chưa toàn vẹn. Hơn nữa, Cơ quan Mật vụ đã không phân tích chính xác thông tin họ có trước vụ ám sát và chưa thực hiện đầy đủ công tác chuẩn bị để bảo vệ Kennedy.
Lý do chính dẫn đến kết luận về "khả năng có âm mưu", theo các ý kiến phản biện báo cáo, là do quá trình phân tích âm thanh của một bản ghi âm Dictabelt từ kênh cảnh sát với độ xác thực về sau bị bác bỏ. Theo khuyến nghị của HSCA, bản ghi âm Dictabelt và bằng chứng âm thanh về một sát thủ thứ hai sau đó được kiểm tra lại. Dựa trên kết quả điều tra từ Bộ phận Hỗ trợ Kỹ thuật của FBI và một ủy ban được bổ nhiệm đặc biệt của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia xác định "dữ liệu âm thanh đáng tin cậy không hỗ trợ cho kết luận rằng có một tay súng thứ hai", Bộ Tư pháp nhận định "không có bằng chứng thuyết phục nào có thể xác định để ủng hộ giả thuyết về một âm mưu" trong vụ ám sát Kennedy.
Đạo luật JFK và Ủy ban Xét duyệt Hồ sơ Ám sát
Năm 1991, bộ phim JFK của Oliver Stone tạo nên sự quan tâm mới đến vụ ám sát, đặc biệt là về các tài liệu còn thuộc diện bí mật liên quan đến sự việc. Phản ứng trước việc này, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Đạo luật Hồ sơ JFK yêu cầu Cơ quan Lưu trữ Quốc gia phải thu thập và công bố tất cả tài liệu liên quan đến vụ ám sát trong vòng 25 năm. Đạo luật cũng quy định việc thành lập một văn phòng độc lập có tên Ủy ban Xét duyệt Hồ sơ Ám sát nhằm đánh giá hồ sơ nộp lên về tính đầy đủ và bảo mật liên tục. Từ năm 1994 đến năm 1998, Ủy ban đã thu thập và giải mật khoảng 60.000 tài liệu với tổng dung lượng hơn 4 triệu trang.
Một báo cáo nhân sự của Ủy ban Xét duyệt Hồ sơ Ám sát năm 1998 cho rằng những bức ảnh chụp não trong hồ sơ Kennedy có thể không phải là não của Kennedy, bởi chúng được cho là đã cho thấy mức độ nghiêm trọng của vết thương ít hơn nhiều so với Kennedy phải chịu. Bác sĩ Boswell bác bỏ các cáo buộc này. Ủy ban cũng phát hiện ra rằng một số nhân chứng (cả ở bệnh viện Parkland và cuộc khám nghiệm tử thi) đều nhớ thấy một vết thương lớn ở phía sau vùng đầu Kennedy, mâu thuẫn với những bức ảnh chụp vốn không cho thấy khiếm khuyết như vậy. Ủy ban này, cùng với thành viên ủy ban Jeremy Gunn, nhấn mạnh các vấn đề đối với lời khai của nhân chứng, kêu gọi mọi người cân nhắc tất cả bằng chứng sẵn có với sự quan tâm đúng mức đến lỗi con người, thay vì lấy những tuyên bố đơn lẻ "chứng minh" cho giả thuyết này hay giả thuyết khác.
Tất cả hồ sơ còn lại liên quan đến vụ ám sát được dự kiến công bố cho đến tháng 10 năm 2017, trừ một số tài liệu được đảm bảo tiếp tục trì hoãn bởi những đời tổng thống kế nhiệm do "hậu quả có thể xác định... đối với quân đội, quốc phòng, hoạt động tình báo, thực thi pháp luật hoặc hoạt động quan hệ đối ngoại... nghiêm trọng đến mức vượt xa lợi ích công cộng khi công bố." Tổng thống Donald Trump cho biết vào tháng 10 năm 2017 rằng ông sẽ không làm cản trở việc công khai các tài liệu, nhưng vào tháng 4 năm 2018—hạn chót mà Trump đặt ra để công bố hồ sơ về Kennedy—ông quyết định ngăn chặn việc công bố một số hồ sơ đến tháng 10 năm 2021. Tổng thống Joe Biden sau đó tiếp tục trì hoãn công bố với lý do đại dịch COVID-19, trước khi chính thức công khai 13.173 tài liệu chưa qua biên tập vào năm 2022. Một nhóm hồ sơ khác được giải mật vào tháng 6 năm 2023, và cho đến thời điểm này, đã có 99% tài liệu được đưa ra trước công chúng.
Thuyết âm mưu
Vụ ám sát Kennedy được mô tả là "cái nôi của mọi thuyết âm mưu". Các cuộc khảo sát cho thấy phần lớn người Hoa Kỳ tin rằng có một âm mưu đứng sau vụ việc; có khoảng 1.000 đến 2.000 quyển sách—chủ yếu là ủng hộ thuyết âm mưu—được chắp bút từ sau vụ ám sát. Qua những giả thuyết khác nhau, vai trò của Oswald dao động từ đồng phạm cho đến hoàn toàn vô tội. Trong số những tổ chức và cá nhân bị cáo buộc nhiều nhất bao gồm FBI, CIA, quân đội Hoa Kỳ, xã hội đen, tổ hợp quân sự–công nghiệp, Phó Tổng thống Johnson, Castro và KGB. Bugliosi ước tính có tổng cộng 42 nhóm, 82 sát thủ và 214 người có liên quan đến nhiều giả thuyết ám sát khác nhau.
Các nhà thuyết âm mưu thường lập luận có nhiều tay súng khác nhau—một "tam giác đột kích"—và phát đạn chết người được nổ từ phía gò cỏ, trúng Kennedy ở phía trước vùng đầu. Một vài cá nhân có mặt tại Dealey Plaza đã trở thành chủ đề của nhiều đồn đoán, chẳng hạn như ba kẻ lang thang, người cầm ô hoặc vật thể được cho là Badge Man. Những người theo thuyết âm mưu cũng cho rằng cuộc khám nghiệm tử thi và các cuộc điều tra chính thức là thiếu sót hoặc thậm chí đồng lõa, đồng thời nhiều nhân chứng trong vụ ám sát Kennedy đã gặp phải những cái chết bí ẩn và đáng ngờ.
Các thuyết âm mưu này nhận được sự tán thành của nhiều nhân vật nổi tiếng, trong đó có L. Fletcher Prouty, Tham mưu trưởng Các chiến dịch đặc biệt của Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ dưới thời Kennedy, người cho rằng một số phần tử trong quân đội Hoa Kỳ và cộng đồng tình báo đã âm mưu ám sát tổng thống. Thống đốc Connally cũng chối bỏ thuyết một phát đạn, còn Tổng thống Johnson được cho là đã đặt nghi vấn về kết luận của Ủy ban Warren trước khi ông qua đời. Theo Robert F. Kennedy Jr., cha ông khẳng định Báo cáo Warren là một "sản phẩm kém chất lượng" và John F. Kennedy bị sát hại do có âm mưu đứng sau, với khả năng có sự dính líu bởi những người Cuba lưu vong và CIA. Một số nhà lãnh đạo cộng sản như Castro và lãnh đạo Xô Viết Nikita Khrushchev tin rằng Kennedy bị người Hoa Kỳ cánh hữu giết hại. Ngược lại, cựu giám đốc CIA R. James Woolsey lập luận Oswald ám sát Kennedy nhằm hiện thực hóa một phần trong âm mưu của Liên Xô.
Di sản
Tác động chính trị và tưởng niệm
Ngày 27 tháng 11—năm ngày sau vụ ám sát—Tổng thống Johnson có bài phát biểu "Let Us Continue" trước Quốc hội, có giá trị tương đương với diễn văn nhậm chức. Johnson kêu gọi sớm thực hiện các chính sách của Kennedy, đặc biệt là về dân quyền; nỗ lực này sớm được hiện thực hóa qua Đạo luật Dân quyền năm 1964. Ngoài ra, sự nhầm lẫn về việc kế nhiệm của Johnson đã dẫn đến việc ra đời Tu chính án 25 Hiến pháp Hoa Kỳ, thông qua năm 1967 và quy định phó tổng thống trở thành tổng thống sau khi tổng thống đương nhiệm qua đời.
Ngày 29 tháng 11, Tổng thống Johnson ban hành Sắc lệnh 11129, đổi tên Mũi Canaveral—tên gọi có nguồn gốc sớm nhất vào năm 1530—thành Mũi Kennedy. Trung tâm Hoạt động Phóng của NASA, đặt tại mũi này, được đổi tên thành Trung tâm Vũ trụ Kennedy. Chính phủ liên bang còn vinh danh Kennedy qua nhiều hình thức, chẳng hạn như thay đồng nửa đô la Benjamin Franklin bằng đồng nửa đô la Kennedy và đổi tên Trung tâm Văn hóa Quốc gia của Washington, D.C. theo quy hoạch trước đó thành Trung tâm Biểu diễn Nghệ thuật John F. Kennedy. Sân bay của thành phố New York cũng được đổi tên thành Sân bay quốc tế John F. Kennedy.
Vụ ám sát Kennedy còn kéo theo một cuộc cải cách Cơ quan Mật vụ và nhiều thủ tục của cơ quan này. Dòng xe limousine mui trần bị loại bỏ, lượng biên chế gia tăng đáng kể, và các đội chuyên trách như đơn vị chống bắn tỉa được thành lập. Ngân sách của cơ quan cũng tăng mạnh, từ 5,5 triệu USD năm 1963 (tương đương 42 triệu USD theo thời giá năm 2013) lên 1,6 tỷ USD sau đó năm thập kỷ.
Tác động văn hóa
Vụ ám sát John F. Kennedy là vụ đầu tiên trong bốn vụ ám sát lớn vào thập niên 1960 tại Hoa Kỳ, xảy ra hai năm trước vụ ám sát Malcolm X năm 1965 và năm năm trước hai vụ ám sát Martin Luther King Jr. và Robert F. Kennedy năm 1968. Đối với công chúng, vụ ám sát Kennedy góp phần thần thoại hóa cố tổng thống trở thành một nhân vật anh hùng. Mặc dù nhiều học giả thường xem Kennedy là một tổng thống tốt nhưng không vĩ đại, các cuộc thăm dò dư luận liên tục cho thấy ông là tổng thống hậu Thế Chiến II được yêu thích nhất.
Việc Kennedy bị sát hại đã để lại cảm tưởng lâu dài đối với nhiều người. Giống như đối với trận Trân Châu Cảng ngày 7 tháng 12 năm 1941 và cuộc khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001, câu hỏi "Bạn đang ở đâu khi nghe về vụ ám sát Tổng thống Kennedy?" trở thành một chủ đề thảo luận phổ biến. Nhà báo Dan Rather cho rằng vụ ám sát Kennedy sẽ còn được bàn luận "một trăm năm sau, một nghìn năm sau nữa, giống như cách người ta bàn luận về Iliad. Những người khác nhau đọc mô tả của Homeros về cuộc chiến và đưa ra những kết luận khác nhau, và cái chết của Kennedy cũng sẽ như vậy."
Ngoài JFK của Oliver Stone, vụ ám sát cũng được miêu tả trong một vài bộ phim; Executive Action (1973), một tác phẩm ủng hộ thuyết âm mưu do Dalton Trumbo chắp bút kịch bản, là phim điện ảnh đầu tiên mô tả lại sự việc. Nhiều nhà phê bình lập luận rằng đoạn phim Zapruder—vốn đã góp mặt trong nhiều tác phẩm điện ảnh và truyền hình—đã giúp thúc đẩy phong cách cinéma vérité hoặc truyền cảm hứng cho việc thể hiện bạo lực qua hình ảnh mạnh mẽ hơn trong điện ảnh Hoa Kỳ. Một số tác phẩm văn học cũng có nội dung khám phá vụ việc này, chẳng hạn như tiểu thuyết Libra của Don DeLillo năm 1988 trong đó Oswald là một đặc vụ CIA, tác phẩm American Tabloid của James Ellroy năm 1995 và tiểu thuyết du hành thời gian 11/22/63 của Stephen King năm 2011. Vụ ám sát còn xuất hiện trong các sáng tác âm nhạc, ví dụ như bản Elegy for J.F.K. của Igor Stravinsky năm 1964 và bài hát "Crucifixion" của Phil Ochs năm 1966, một ca khúc được cho là làm Robert Kennedy xúc động. Các ca khúc khác liên quan bao gồm "Abraham, Martin and John" (1968) và "Murder Most Foul" của Bob Dylan (2020).
Kỷ vật, bảo tàng và địa danh hiện tại
Năm 1993, Cục Công viên Quốc gia Hoa Kỳ công nhận Dealey Plaza, các công trình xung quanh, đường chui và một đoạn đường sắt liền kề là Khu Danh lam Lịch sử Quốc gia. Tầng sáu của kho sách trước đây được làm thành một bảo tàng do thành phố Dallas quản lý, thu hút hơn 325.000 du khách mỗi năm.
Chiếc Boeing 707 làm chuyên cơ Không lực Một tại thời điểm ám sát hiện được trưng bày tại Bảo tàng Quốc gia Không quân Hoa Kỳ; xe limousine của Kennedy nằm tại Bảo tàng Henry Ford. Nhà táng Lincoln, nơi thi hài Kennedy nằm lại tại Điện Capitol, được đưa ra triển lãm ở Trung tâm Du khách Capitol. Bộ quần áo màu hồng của Jacqueline, ảnh tia X khám nghiệm và trang phục dính máu của Tổng thống Kennedy đều được lưu giữ tại Cơ quan Lưu trữ Quốc gia, và chúng chỉ được tiếp cận với sự cấp phép từ gia đình Kennedy. Một số vật phẩm khác lưu giữ tại đây bao gồm thiết bị trong phòng chấn thương của bệnh viện Parkland; súng trường, nhật ký và súng ngắn ổ xoay của Oswald; các mẩu đạn và kính chắn gió của chiếc limousine. Cơ quan lưu trữ bang Texas đang lưu giữ bộ quần áo bị đạn xuyên thủng của Connally; khẩu súng Ruby sử dụng để giết Oswald thuộc quyền sở hữu của em trai Earl và được bán vào năm 1991 với giá 220.000 USD (tương đương 396.000 USD theo thời giá năm 2022).
Một số vật phẩm đã bị phá hủy theo chỉ đạo của Robert F. Kennedy. Chiếc quan tài chở thi thể của Kennedy từ Dallas đến Washington được thả xuống biển vì "việc trưng bày nó trước công chúng sẽ cực kỳ phản cảm và trái với chính sách công".
Ghi chú và tham khảo
Ghi chú
Chú thích tham khảo
Thư mục
Sách
Tài liệu, báo cáo từ chính phủ và cơ quan
Tài liệu, tang vật và lời khai từ Ủy ban Warren
Tập san học thuật
Tạp chí
Tin bài và trang web |
Trong giải tích vectơ, gradient của một trường vô hướng là một trường vectơ có chiều hướng về phía mức độ tăng lớn nhất của trường vô hướng, và có độ lớn là mức độ thay đổi lớn nhất.
Giả sử là một hàm số từ đến nghĩa là
Theo định nghĩa, gradient của hàm số f là một vectơ cột mà thành phần là đạo hàm theo các biến của :
Ví dụ
Ví dụ, nhiệt độ trong một căn phòng được cho bởi một trường vô hướng , sao cho tại mỗi điểm nhiệt độ là (giả thiết rằng nhiệt độ không thay đổi theo thời gian). Trong trường hợp này, tại mỗi điểm trong căn phòng, gradient của T tại điểm đó cho biết hướng mà theo đó nhiệt độ tăng lên nhanh nhất. Độ lớn của gradient cho biết nhiệt độ thay đổi nhanh đến mức nào nếu ta đi theo hướng đó.
Trong một ví dụ khác, một ngọn đồi có độ cao so với mực nước biển tại điểm là . Gradient của tại mỗi điểm là một vectơ chỉ theo hướng dốc nhất tại điểm đó. Độ dốc của dốc này được cho biết bởi độ lớn của vectơ gradient.
Gradient còn có thể được dùng để đo sự thay đổi của một trường vô hướng theo những hướng khác, không chỉ hướng có sự thay đổi lớn nhất, bằng cách lấy tích điểm. Trong ví dụ ở trên, giả sử dốc lên đồi dốc nhất là 40%. Nếu một con đường đi thẳng lên đồi thì đoạn dốc nhất trên con đường đó cũng là 40%. Nếu thay vì đi thẳng, con đường này đi vòng quanh đồi theo một góc, nó sẽ kém dốc hơn. |
Bùi Tiến Dũng (sinh năm 1959 tại huyện Ứng Hòa tỉnh Hà Tây nay là Hà Nội) hay Con bạc triệu đô (biệt danh do báo chí và giới truyền thông đặt) là tổng giám đốc PMU-18, nhân vật chính trong vụ tham nhũng PMU-18 gây chấn động dư luận Việt Nam trước Đại hội X Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bùi Tiến Dũng là con trai thiếu tướng Bùi Bá Bổng, từng chiến đấu ở chiến trường Tây Nam.
Bùi Tiến Dũng đã đi bộ đội, sau khi giải ngũ thì đời sống rất khó khăn, phải làm thêm vất vả. Cuộc đời ông thay đổi từ khi được vào làm việc tại Vụ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Giao thông Vận tải, rồi được điều sang Ban Quản lý dự án 18 (PMU-18) thuộc Bộ này. Ông thăng tiến rất nhanh, làm phó văn phòng, rồi phó tổng giám đốc. Từ năm 1998 ông là tổng giám đốc PMU-18.
Tháng 1 năm 2006, Bùi Tiến Dũng bị bắt giữ và cáo buộc đã cá độ bóng đá với số tiền trên 1,8 triệu đô la. Cơ quan điều tra Bộ Công an đã tìm thấy tài liệu trong máy tính của trùm cá độ cho thấy trên 200 nhân viên đã tham gia cá độ. Những thông tin công bố sau đó của công an và báo chí cho thấy chân dung một tay chơi sành sỏi: nhậu nhẹt, đánh bạc, bao gái. Mặc dù vụ án vẫn đang được điều tra, nhưng dư luận rộng rãi cho rằng nguồn tiền ăn chơi đó chỉ có thể là tiền tham nhũng.
PMU-18 ban đầu được thành lập để quản lý dự án nâng cấp Quốc lộ 18, sau đó được giao nhiều dự án khác, với số vốn ODA (viện trợ phát triển chính thức) đã giải ngân lên tới hàng chục ngàn tỷ đồng. Vì vậy vụ án đã gây chấn động dư luận Việt Nam cũng như các nước và tổ chức cung cấp ODA cho Việt Nam, trong đó có Nhật Bản và Ngân hàng Thế giới. Họ quan ngại việc quản lý không chặt nguồn vốn vay, làm cho vốn đó bị sử dụng sai mục đích, không giúp được Việt Nam cải thiện cơ sở hạ tầng.
Vụ án gây tai tiếng đến nỗi áp lực lớn của dư luận và sau đó từ bên trong đảng Cộng sản đã khiến ông Đào Đình Bình, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, phải từ chức.
Ngày 7 tháng 8 năm 2007, Tòa án Nhân dân Hà Nội đã tuyên án Bùi Tiến Dũng 13 năm tù vì hai tội danh: đánh bạc và đưa hối lộ. Bùi Tiến Dũng còn bị phạt 50 triệu đồng tội đánh bạc và một tỷ đồng tội đưa hối lộ.
Ngày 6 tháng 10 năm 2016, Bùi Tiến Dũng được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù để chữa bệnh ung thư phổi. Bùi Tiến Dũng đã mất vào ngày 25/10/2022 sau 6 năm tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù để chữa bệnh. An táng tại quê nhà xã Liên Bạt, Ứng Hòa, Hà Nội.
Xử án
Ngày 14 tháng 11 năm 2007, tại phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án Bùi Tiến Dũng cùng các đồng phạm tham gia đánh bạc, tổ chức đánh bạc và đưa hối lộ, "con bạc triệu đô" được Viện Kiểm Sát đề nghị mức án 12 năm, 6 tháng tù giam.
Bùi Tiến Dũng đưa ra lý do kháng cáo là: đã tích cực khai báo, gia đình có công và bản thân cũng được tặng thưởng nhiều huân, huy chương nhưng không được tòa sơ thẩm tính đến khi xét xử. Bên cạnh đó, tội đưa hối lộ của ông mới chỉ dừng lại ở giai đoạn ý định và chưa thực hiện được.
Chiều 14/11, kết thúc phiên tòa phúc thẩm vụ án Bùi Tiến Dũng và đồng phạm, ông vẫn phải giữ nguyên mức án 13 năm tù cho hai tội đánh bạc và đưa hối lộ.
Ngày 6 thánh 10 năm 2016, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên, ông Ma Nghĩa Hùng đã ký quyết định tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù cho ông Bùi Tiến Dũng (57 tuổi), khi đang chấp hành án phạt tù tại trại giam Phú Sơn 4, Tổng cục VIII, Bộ Công an. Lý do được tạm đình chỉ là Bùi Tiến Dũng hiện đang bị ung thư phổi, có tiên lượng xấu và đang điều trị ung thư, xạ trị tại khoa Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai, TP Hà Nội.
Chú thích |
Rhythm and Blues (tiếng Việt: Nhịp điệu và tâm trạng - thường được viết tắt là R&B hay RnB), là một dòng nhạc của người da đen và rất được ưa chuộng trong cộng đồng Da đen tại Mỹ trong thập niên 1940.
Rymthm and Blues là sự kết hợp của 3 dòng nhạc chính là Jazz, Nhạc phúc âm (nhạc tôn giáo của đạo Cơ đốc bắt nguồn từ Thánh ca) và Blues. Nó được biểu diễn lần đầu bởi những người Mỹ gốc Phi. Dòng nhạc này được các ca sĩ rất yêu chuộng, tiêu biểu là nữ danh ca lừng danh thế giới Whitney Houston, hay tại Việt Nam có danh ca Mỹ Linh bởi những giai điệu làm cuốn hút người nghe.
Lịch sử
Những năm cuối 1940
Năm 1947, thuật ngữ Rymthm and Blues được tạo ra như là một thuật ngữ để quảng bá âm nhạc của Jerry Wexler, tạp chí Billboard tại Hoa Kỳ. Nó thay thế cho thuật ngữ nhạc Mỹ da đen trước đó.
Trong năm này, Louis Jordan thống trị bảng xếp hạng R&B với 3/5 ca khúc đứng đầu. Ban nhạc của Jordan, The Tympany Five chơi nhạc với kèn trompet, kèn sắc xô tê nô (kèn có âm vực cao), piano và trống.
Đầu những năm 50
Làm việc với những người Mỹ - Phi, chàng trai gốc Hy Lạp Johny Otis tạo ra rất nhiều ca khúc nổi tiếng vào năm 1951 bao gồm: "Double Crossing Blues", "Mistrustin' Blues" and "Cupid's Boogie", tất cả đều xếp số 1 vào năm này. Otis có được 10 bài đứng trong các bảng xếp hạng top ten năm đó.
Tiếp theo là Clovers xếp thứ 5 trong bảng xếp hạng của năm với ca khúc: "Don't You Know I Love You"
Nhạc cụ
Nhạc cụ chính: Ghi-ta, Bass, Drum kit, kèn Acmonica, kèn trumpet, đàn organ. |
Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội Việt Nam, theo thường lệ họp mỗi tháng một lần.
Tổ chức
Ủy ban Thường vụ Quốc hội gồm chủ tịch là Chủ tịch Quốc hội, các phó chủ tịch là các Phó Chủ tịch Quốc hội, và các ủy viên.
Số thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội do Quốc hội quyết định. Số Phó Chủ tịch Quốc hội và ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội do Quốc hội quyết định tại kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Quốc hội. Tại kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khoá trước giới thiệu danh sách để Quốc hội bầu Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội, các Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội khoá mới. Trong trường hợp khuyết thành viên thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo để Quốc hội quyết định việc bầu bổ sung.
Thành viên của Ủy ban Thường vụ Quốc hội làm việc theo chế độ chuyên trách và không thể đồng thời là thành viên của Chính phủ.
Thông thường, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ gồm các thành viên sau:
Chủ tịch Quốc hội (Chủ tịch Ủy ban)
Các Phó Chủ tịch Quốc hội (đồng Phó Chủ tịch Ủy ban)
Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật
Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường
Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục
Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh
Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội
Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội
Trưởng Ban Công tác Đại biểu
Trưởng Ban Dân nguyện
Chủ tịch Hội đồng Dân tộc
Nhiệm kỳ
Nhiệm kỳ của Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu ra Ủy ban Thường vụ mới.
Nhiệm vụ và quyền hạn
Theo điều 74 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định Ủy ban Thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
Tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì kỳ họp Quốc hội;
Ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao; giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh;
Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;
Đình chỉ việc thi hành văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc bãi bỏ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất; bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
Chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của đại biểu Quốc hội;
Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Bầu cử Quốc gia, Tổng Kiểm toán Nhà nước;
Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhân dân;
Quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
Quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh trong trường hợp Quốc hội không thể họp được và báo cáo Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất;
Quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương;
Thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội;
Phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Tổ chức trưng cầu dân ý theo quyết định của Quốc hội.
Bầu cử đại biểu Quốc hội
Ủy ban Thường vụ Quốc hội có quyền đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia.
Trong việc bầu cử đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
Thành lập Hội đồng bầu cử; ấn định ngày bầu cử và công bố chậm nhất là 90 ngày trước ngày bầu cử;
Ấn định số đơn vị bầu cử, số đại biểu được bầu của mỗi đơn vị bầu cử và công bố chậm nhất là 70 ngày trước ngày bầu cử;
Quyết định việc bầu cử bổ sung đại biểu Quốc hội, ngày bầu cử bổ sung và công bố chậm nhất là 30 ngày trước ngày bầu cử bổ sung; thành lập ban bầu cử bổ sung đại biểu Quốc hội;
Xem xét báo cáo của Hội đồng bầu cử, Ủy ban bầu cử bổ sung đại biểu Quốc hội về tình hình chuẩn bị việc tiến hành và kết quả cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội; khi cần thiết cử đoàn đi kiểm tra việc bầu cử tại các địa phương.
Giải thích Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh
Giám sát hoạt động và tổ chức của Chính phủ
Đối với hoạt động và tổ chức của Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
Xem xét báo cáo của Chính phủ trong thời gian Quốc hội không họp; yêu cầu thành viên của Chính phủ trực tiếp đến báo cáo, báo cáo bằng văn bản hoặc cung cấp tài liệu khi xét thấy cần thiết;
Huỷ bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội huỷ bỏ các văn bản đó tại kỳ họp gần nhất;
Trong thời gian Quốc hội không họp, phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ. Nghị quyết phê chuẩn được gửi đến Chủ tịch trong thời hạn 7 ngày. Việc phê chuẩn phải được báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Đối với hoạt động của các đại biểu Quốc hội
Ủy ban Thường vụ Quốc hội có nhiệm vụ xem xét quyết định việc điều chuyển đại biểu từ đoàn tỉnh này sang đoàn tỉnh khác khi đại biểu chuyển công tác và xem xét đề nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao về việc bắt, giam, giữ, khởi tố đại biểu Quốc hội.
Hoạt động
Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số.
Hiệu quả hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội được bảo đảm bằng hiệu quả của các phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, hoạt động của Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội, các Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, cùng với sự tham gia của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội.
Ảnh hưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng đoàn Quốc hội
Đảng đoàn Quốc hội là một tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Quốc hội, gồm các đảng viên nắm vai trò trọng yếu trong Quốc hội như Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Đảng đoàn Quốc hội chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Các chức vụ Bí thư, Phó Bí thư và các Ủy viên Đảng đoàn đều do Bộ Chính trị chỉ định. Đảng đoàn Quốc hội có các nhiệm vụ:
Lãnh đạo việc chuẩn bị, trình Quốc hội những nội dung thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội; việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo quy định của Hiến pháp, pháp luật, nhất là về các vấn đề: tổ chức và hoạt động của Quốc hội; rút ngắn và kéo dài nhiệm kỳ Quốc hội; chủ trì các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội; công bố tình trạng khẩn cấp, tổng động viên, chiến tranh và hoà bình của đất nước.
Lãnh đạo việc chuẩn bị và báo cáo, xin ý kiến Bộ Chính trị, Ban Bí thư về những vấn đề lớn, còn có ý kiến khác nhau và những vấn đề phức tạp, nhạy cảm thuộc chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền quyết định của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Lãnh đạo việc dự kiến nhân sự của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý.
Lãnh đạo việc xây dựng và thực hiện chế độ, chính sách cụ thể và việc bảo đảm các điều kiện hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội.
(trích Quyết định số 223-QĐ/TW ngày 15-5-2009 của Bộ Chính trị)
Ảnh hưởng
Tính đến ngày 19 tháng 5 năm 2018, Đinh Thế Huynh đã hai năm không tham gia các hoạt động của Quốc hội. Tuy nhiên, ông không bị Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam khóa XIV cho thôi nhiệm vụ đại biểu vì theo giải thích của ông Nguyễn Hạnh Phúc (Tổng Thư ký Quốc hội Việt Nam khóa XIV, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV, Ủy viên Đảng đoàn Quốc hội) thì "Ông Đinh Thế Huynh là cán bộ thuộc Bộ Chính trị quản lý, khi nào cơ quan có thẩm quyền quản lý cán bộ có ý kiến thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ tiến hành xem xét."
Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam hiện nay |
73 (bảy mươi ba) là một số tự nhiên ngay sau 72 và ngay trước 74. |
72 (bảy mươi hai) là một số tự nhiên ngay sau 71 và ngay trước 73. |
71 (bảy mươi mốt) là một số tự nhiên ngay sau 70 và ngay trước 72. |
70 (bảy mươi) là một số tự nhiên ngay sau 69 và ngay trước 71. |
69 (sáu mươi chín) là một số tự nhiên, liền sau 68 và liền trước 70.
Số 69 là am duong |
68 (sáu mươi tám) là một số tự nhiên ngay sau 67 và ngay trước 69. |
67 (sáu mươi bảy) là một số tự nhiên ngay sau 66 và ngay trước 68. |
66 (sáu mươi sáu) là một số tự nhiên ngay sau 65 và ngay trước 67. |
65 (sáu mươi lăm) là một số tự nhiên ngay sau 64 và ngay trước 66. |
64 (sáu mươi bốn) là một số tự nhiên ngay sau 63 và ngay trước 65. |
63 (sáu mươi ba) là một số tự nhiên ngay sau 62 và ngay trước 64. |
Tehran hay Teheran có thể là:
Tehran, thủ đô của Iran
Tỉnh Tehran của Iran
Tehran TV
Tehran Metro
Đại học Tehran
Hội nghị Tehran
Bộ phim Teheran 43
Pas Tehran, một câu lạc bộ bóng đá Iran |
Trong truyền thông liên lạc, một mã hiệu - hay còn gọi là mã số hoặc chỉ đơn thuần là mã - là một công thức để biến đổi một mẩu thông tin (chẳng hạn, một ký tự, một từ, hoặc một thành ngữ) sang một hình thức hoặc một tượng trưng khác, không nhất thiết đồng dạng với mẩu thông tin gốc. Trong truyền thông liên lạc và trong công nghệ xử lý thông tin (information processing), mã hóa (encoding) là một quá trình một nguồn (source) (đối tượng) biến đổi thông tin thành dữ liệu, sau đó truyền gửi dữ liệu tới một máy thu (observer), tương tự như một hệ thống xử lý dữ liệu. Giải mã (decoding) là một quá trình biến đổi dữ liệu ngược lại. Nó biến đổi các dữ liệu được một nguồn gửi đến thành các thông tin mà máy thu (hoặc người nhận) có thể hiểu được. (Xin xem thêm Các phương pháp giải mã). Codec là một phần mềm thực hiện công thức (hoặc thuật toán) để giải quyết cả hai chức năng, mã hóa và giải mã, chẳng hạn MP3 là một codec mà người ta có thể thực hiện trong phần cứng hay trong phần mềm. Nó còn có thể bao gồm cả chức năng nén dữ liệu nữa.
Một trong những nguyên nhân mã hóa được dùng là nó cho phép người ta giao thông liên lạc tại những nơi mà ngôn ngữ viết và nói thông thường trở nên khó khăn hoặc hoàn toàn không dùng được. Chẳng hạn, một mã điện tín thay thế các chữ (ví dụ: tàu hoặc hóa đơn) thành những chữ ngắn hơn, cho phép nguyên văn bản thông tin được truyền gửi với số ký tự ít hơn, truyền được tin nhanh hơn, và quan trọng hơn cả, rẻ tiền hơn. Một ví dụ khác nữa là ví dụ dùng tín hiệu cờ. Sự bố trí của các lá cờ, do người đánh tín hiệu cầm, hoặc do các cánh tay của một đài tín hiệu cờ giữ, được dùng để mã hóa từng phần của thông điệp mà người ta muốn gửi. Mỗi cách bố trí là dấu hiệu của một chữ, hoặc của một con số. Một người khác, đứng ở một nơi xa, thông dịch các tín hiệu cờ và tái tạo lại các chữ đã gửi.
Trong lịch sử mật mã học, một thời, cách dùng mã hiệu để đảm bảo tính tin cẩn (confidentiality) trong truyền thông liên lạc đã trở thành thông dụng, song hiện nay, người ta dùng mật mã (cipher) thay thế. (Xem thêm bài mã hiệu (mật mã học)).
Tính vắn tắt của mã hiệu khi được dùng trong giao thông liên lạc
Mã hiệu có thể được dùng để làm vắn tắt thông điệp. Khi thông điệp điện báo (telegraph messages) đã trở thành đỉnh cao của kỹ thuật (state of the art) trong việc truyền thông liên lạc nhanh chóng giữa những địa điểm cách nhau xa, các mã hiệu thương mại phức tạp có thể mã hóa một tổ hợp từ (thành ngữ) thành chỉ một chữ (thường là những nhóm 5 ký tự) đã được xây dựng, hầu cho các chuyên viên điện báo có thể thuộc lòng và trở nên thông thạo với các "chữ" như BYOXO ("Are you trying to weasel out of our deal?" - Có phải ông đang định né tránh cuộc thỏa thuận buôn bán của chúng ta phải không?), LIOUY ("Why do you not answer my question?" - Tại sao ông không trả lời câu hỏi của tôi?), BMULD ("You're a skunk!" - Mày là một thằng đê tiện!) hay AYYLU ("Not clearly coded, repeat more clearly." - Mã hiệu đánh không rõ ràng, đề nghị nhắc lại rõ hơn.). Các từ mã (code word) được chọn lọc bởi nhiều lý do khác nhau. Có thể là vì chiều dài, vì khả năng phát âm v.v. Nghĩa của chúng được chọn lọc để phù hợp với những nhu cầu mà người ta nghĩ đến như trong các thương lượng về buôn bán, những thuật ngữ trong luật ngoại giao, bất cứ và tất cả những gì trên đây đối với những quy tắc hoạt động tình báo v.v. Số lượng sổ mật mã và nhà xuất bản sổ mật mã tăng nhanh, kể cả một cơ quan hoạt động như một cái vỏ bên ngoài cho cơ quan Black Chamber của Mỹ, lãnh đạo bởi Herbert Yardley trong thời kỳ giữa Thế chiến thứ nhất và Thế chiến thứ hai. Mục đích của những mã hiệu này là nhằm tiết kiệm phí tổn trên đường dây. Việc mã hóa dùng trong công nghệ nén dữ liệu đã có từ trước thời kỳ của máy tính; một ví dụ trước đây là mã Morse điện báo, trong đó những chữ thường dùng được viết ngắn lại. Những kỹ thuật như Mã hóa Huffman hiện được dùng trong những thuật toán vi tính để nén những tập tin có số lượng dữ liệu lớn, thành những cái có hình thể gọn nhẹ hơn, để lưu trữ lại hoặc để truyền thông.
Một ví dụ: bảng mã ASCII
Hiện nay, ASCII có thể được coi là một loại mã dùng trong giao thông liên lạc dữ liệu (còn được gọi là "đại diện ký tự", hay chỉ đơn thuần "ký hiệu") phổ biến nhất. Hoặc trong phiên bản này hoặc trong phiên bản khác (phần nào tương thích), bảng mã ASCII hiện được dùng trong hầu hết các máy tính cá nhân (PC), các thiết bị đầu cuối, các máy in, và các thiết bị giao thông liên lạc khác. Phiên bản gốc của ASCII chỉ bao gồm 128 ký tự dùng 7 bit nhị phân—có nghĩa là dùng một chuỗi 7 ký tự bao gồm các số 1 và 0 mà thôi. Trong bảng mã ASCII, chữ "a" thường lúc nào cũng có giá trị là 1100001, và chữ "A" hoa luôn luôn có giá trị là 1000001, vân vân. Các bản kế thừa sau này của ASCII bao gồm bản dùng 8-bit để biểu đạt các ký tự (có cả các ký tự trong các ngôn ngữ của châu Âu, và những ký hiệu khác như các ký hiệu trong bài tú lơ khơ (♠,♣,♥,♦)), và sau này bản phát triển trọn vẹn nhất bao gồm tất cả các nét chữ trong các hệ thống chữ viết trên toàn thế giới (Xin xem bài Unicode và bài về Bob Bemer).
Các mã số dùng để phát hiện và sửa lỗi (như trong lưu trữ dữ liệu và trong truyền thông)
Các mã số (hay mã hiệu) cũng còn được dùng để đại diện cho dữ liệu, dưới một hình thức tốt hơn để giúp vào việc chống các lỗi lầm xảy ra trong khi truyền thông hay trong việc lưu trữ dữ liệu. Loại "mã" này được gọi là mã sửa lỗi (error-correcting code), và nó làm việc bằng cách cho thêm những giá trị thừa đã được tính toán một cách khôn khéo vào trong dữ liệu lưu trữ (hay dữ liệu được truyền thông). Ví dụ như:
Mã Hamming
Mã Reed-Solomon
Mã Reed-Muller
Mã của ông Bose-Chaudhuri-Hochquenghem
Mã Turbo
Mã Golay
Mã Goppa
Mã kiểm tra chẵn lẽ mật độ thấp (Low-density parity-check code) của Robert G. Gallager
Mã phân khoảng thời gian (space–time code)
Các mã dùng để sửa lỗi đều được tối ưu hóa để phát hiện chùm lỗi đột phát (burst errors) và các lỗi ngẫu nhiên.
Mã hiệu và các từ bằng chữ đầu
Các từ bằng chữ đầu (Acronyms) và các từ viết tắt cũng có thể được coi là các mã hiệu, hay nói cách khác, tất cả các ngôn ngữ và hệ thống chữ viết là các mã hiệu của tư duy nhân loại. Thỉnh thoảng người ta thấy một từ mã chiếm lĩnh được quyền tồn tại độc lập (cả về tổ chức của nhóm từ và về ý nghĩa) trong khi câu thành ngữ gốc của nó dần dần bị lãng quên đi, hoặc ở mức độ tối thiểu, câu thành ngữ không còn ý nghĩa chính xác mà mã hiệu tượng trưng nữa. Chẳng hạn con số "86" đã từng một thời là mã hiệu trong các hiệu ăn với nghĩa là "We're out of the requested item" (Món ăn yêu cầu đã hết). Hiện nay, mã hiệu "86" này lại thường được dùng với cái nghĩa là sự tẩy trừ (removal) hoặc sự hủy bỏ (destruction) của cái gì đó. Số 30 từng được dùng phổ biến trong giới báo chí với cái nghĩa là "end of story" (hết truyện), và đôi khi được dùng trong các ngữ cảnh khác để biểu thị chữ "the end" (Hết).
Mã Gödel
Trong toán học, mã Gödel là nền tảng cho chứng minh Định lý bất toàn của nhà toán học Kurt Gödel. Mục đích của định lý này là liên kết ký hiệu toán học với một số tự nhiên (số Gödel).
Ghi chú
Lỗi ngẫu nhiên là các lỗi xảy ra thất thường, không theo một chu kỳ nhất định.
Số 86 thường được dùng trong các cửa hàng ăn ám chỉ một món ăn hay một thứ nào đó đã bán hết, song có nguồn tin nói rằng chữ này bắt nguồn từ "brass-pounder short code" - các ký hiệu viết tắt của nhân viên điện báo - với cái nghĩa là "bỏ qua thông điệp đã gửi trước", hay "hủy diệt cái gì đi". Chữ brass (đồng thau) được dùng chỉ các thiết bị điện báo được làm bằng đồng thau; chữ pounder (người giã, máy giã) chỉ người điều hành các thiết bị điện báo này vì họ thường "giã các thông điệp sang mã Morse" (pounded out the messages in Morse code). |
Hoàng Hoa Thám (chữ Hán: 黃花探; 1858 – 10 tháng 2 năm 1913), còn gọi là Đề Dương, Đề Thám ("Đề đốc" Thám) hay Hùm thiêng Yên Thế, là người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Thế chống thực dân Pháp (1885 – 1913).
Thân thế
Năm 1962 nhà nghiên cứu Hoài Nam, trong một bài viết đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, cho biết Đề Thám sinh năm 1858, trước khi cải từ họ Trương sang họ Hoàng ông còn mang họ Đoàn. Kể từ đó, hầu hết các tài liệu viết về Đề Thám đều cho rằng ông gốc họ Trương, hồi bé tên Trương Văn Nghĩa (張文義), sau đổi thành Trương Văn Thám (張文探), quê ở xã Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên; sau di cư lên Sơn Tây (nay bao gồm một phần ngoại thành Hà Nội, một phần các tỉnh Phú Thọ, Hòa Bình, Tuyên Quang và toàn tỉnh Vĩnh Phúc), rồi đến Yên Thế (Bắc Giang). Cha ông là Trương Văn Thận và mẹ là Lương Thị Minh. Sinh thời, cha mẹ ông đều là những người rất trọng nghĩa khí; cả hai đều gia nhập cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Văn Nhàn, Nông Văn Vân ở Sơn Tây.
Gần đây, nhà nghiên cứu Khổng Đức Thiêm trong một bài viết công bố trên tạp chí Xưa và Nay đã căn cứ vào Đại Nam thực lục – Chính biên (Đệ nhị kỷ, các quyển CII, CXVIII, CXXIII, CLXII, CLXXIII, CLXXIV), Gia phả họ Bùi (Thái Bình) và Gia phả họ Đoàn (Dị Chế) cho biết Trương Thận (tức cha của Đề Thám) chỉ là biệt danh của một thủ lĩnh nông dân để nổi lên chống lại nhà Nguyễn, tên chính là Đoàn Danh Lại, người làng Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, bị anh em Bùi Duy Kỳ bắt giết đem nộp triều đình vào tháng 9 năm Bính Thân, Minh Mệnh thứ 17 (tháng 10 năm 1836). Cũng theo nhà nghiên cứu Khổng Đức Thiêm, Đoàn Danh Lại có hai con trai: con lớn tên là Đoàn Văn Lễ (sau cải là Trương Văn Leo, không rõ năm sinh), con thứ là Đoàn Văn Nghĩa (tức Trương Văn Nghĩa, tức Đề Thám sau này, sinh được mấy tháng thì bố mẹ bị giết hại). Luận điểm này được Khổng Đức Thiêm khẳng định lại trong tác phẩm Hoàng Hoa Thám (1836–1913).
Chống Pháp
Thời kỳ đầu
Hoàng Hoa Thám tham gia khởi nghĩa của Đại Trận (1870–1875), và được gọi là Đề Dương. Khi Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất (tháng 11 năm1873), Hoàng Hoa Thám gia nhập nghĩa binh của Trần Xuân Soạn, lãnh binh Bắc Ninh. Khi Pháp chiếm Bắc Kỳ lần thứ 2 (tháng 4 năm 1882), ông tham gia khởi nghĩa của Cai Kinh (Hoàng Đình Kinh) ở Hữu Lũng (1882–1888). Cuối năm 1885 ông cùng Bá Phức trở lại Yên Thế đứng dưới cờ của Lương Văn Nắm (tức Đề Nắm) và trở thành một tướng lĩnh có tài.
Tháng 4 năm 1892, Đề Nắm bị thủ hạ Đề Sặt sát hại. Hoàng Hoa Thám trở thành thủ lĩnh tối cao của phong trào Yên Thế, tiếp tục hoạt động, lập căn cứ ở Yên Thế và trở thành thủ lĩnh danh tiếng nhất của phong trào với biệt danh "Hùm thiêng Yên Thế". Trong gần 30 năm lãnh đạo, ông đã tổ chức đánh nhiều trận, tiêu biểu là Luộc Hạ, Cao Thượng (tháng 10 năm 1890), thung lũng Hố Chuối (tháng 12 năm 1890) và Đồng Hom (tháng 2 năm 1892), trực tiếp đương đầu với các Thiếu tướng Godin, Voyron và Đại tá Frey.
Trong hai năm (1893 – 1895) quân Pháp đã tập trung lực lượng để đàn áp cuộc khởi nghĩa Yên Thế, Pháp không từ một thủ đoạn nào, từ phủ dụ đến bao vây tàn sát. Hoàng Hoa Thám bằng chiến thuật du kích tài tình đã tránh được mũi nhọn của quân Pháp và đã gây cho họ những tổn thất nặng nề. Nghĩa quân Yên Thế đã trừng trị nhiều kẻ phản bội, trong đó có Đề Sặt.
Giảng hòa lần thứ nhất 1894
Thấy chưa thể dập tắt được phong trào, tháng 10 năm 1894, Pháp đã chấp nhận giảng hòa, cắt nhượng cho nghĩa quân bốn tổng thuộc Yên Thế. Nhưng chỉ vài tháng sau (đến tháng 10 năm 1895) Pháp đã bội ước, giao cho Đại tá Galliéni huy động hàng ngàn quân có đại bác yểm trợ mở những cuộc tấn công trên quy mô lớn vào Yên Thế, treo giải thưởng 30.000 franc cho kẻ nào bắt được ông. Không đàn áp được phong trào, Pháp tiếp tục bao vây, truy đuổi, tiêu diệt cả lực lượng của Kỳ Đồng đang khai thác đồn điền ở Yên Thế để nghĩa quân mất chỗ dựa về vật chất và tinh thần, buộc Đề Thám phải chấp nhận cuộc giảng hòa lần thứ hai vào năm 1897.
Giảng hòa lần thứ hai 1897
Trong hơn 10 năm hòa hoãn (từ tháng 12 năm 1897 đến ngày 29 tháng 1 năm 1909), nghĩa quân Yên Thế đã có những bước phát triển mới: địa bàn hoạt động được mở rộng từ trung du đến đồng bằng, kể cả vùng Hà Nội. Hoàng Hoa Thám tổ chức ra "đảng Nghĩa Hưng" và "Trung Châu ứng nghĩa đạo" làm nòng cốt. Đặc biệt, Hoàng Hoa Thám đã chỉ đạo cuộc khởi nghĩa ngày 27 tháng 6 năm 1908 trong trại lính pháo thủ tại Hà Nội mà ta hay gọi là vụ Hà thành đầu độc, làm chấn động khắp cả nước. Ngoài ra, Hoàng Hoa Thám còn xúc tiến xây dựng Phồn Xương thành căn cứ kháng chiến, bí mật liên hệ với lực lượng yêu nước ở bên ngoài. Nhiều sĩ phu như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Phạm Văn Ngôn, Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên... đã gặp gỡ Hoàng Hoa Thám và bàn kế hoạch phối hợp hành động, mở rộng hoạt động xuống đồng bằng. Một cánh quân thuộc Trung Quốc Cách mạng Đồng minh hội của Tôn Trung Sơn đã được Đề Thám chu cấp trong một thời gian dài.
Lực lượng suy yếu
Ngày 29 tháng 1 năm 1909, Thống sứ Bắc Kỳ đã huy động 15.000 quân chính quy và lính khố xanh, 400 lính dõng là một lực lượng lớn nhất từ trước tới lúc đó do Đại tá Bataille chỉ huy tổng tấn công vào căn cứ Yên Thế.
Đề Thám vừa tổ chức đánh trả, vừa phải rút lui khỏi Yên Thế. Nghĩa quân bị tổn thất nặng, trong đó có con trai của ông là Cả Trọng bị tử thương. Sau khi thoát khỏi vòng vây, ông chỉ huy lực lượng còn lại phối hợp với các toán nghĩa quân đang có mặt ở Vĩnh Phúc Yên tiến hành một cuộc vận động chiến, thôn trang chiến nổi tiếng, gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại trong tháng 7 năm 1909. Đầu tháng 8 năm 1909, Lê Hoan được tung vào chiến trường. Đề Thám vừa đánh vừa lui về núi Sáng trên dãy Tam Đảo và đánh thắng một trận quan trọng ở đây. Kể từ khi bà Ba Cẩn và con gái út của ông là Hoàng Thị Thế bị bắt, lực lượng nghĩa quân giảm sút dần và tới đầu năm 1910 bị tan rã. Đề Thám phải sống ẩn náu trong núi rừng Yên Thế cùng hai thủ hạ tâm phúc.
Cái chết
Khởi nghĩa Yên Thế chấm dứt vào năm 1913. Có những giả thiết khác nhau về cái chết của thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám.
Trong những ngày cuối cùng, lực lượng ngày càng mỏng, Đề Thám chỉ còn vài thủ hạ bảo vệ bên cạnh và liên tục phải di chuyển. Khi ông tới vùng Hố Lẩy, 3 thủ hạ của cha con Lương Tam Kỳ do người Pháp bố trí trá hàng đã tiếp cận và hạ sát ông khi đang ngủ cùng 2 thủ hạ vào sáng mồng 5 Tết năm Quý Sửu, tức ngày 10 tháng 2 năm 1913, sau đó mang thủ cấp ông ra bêu Phủ đường Yên Thế để thị uy dân chúng. Tuy nhiên, có ý kiến nghi ngờ về giả thiết này khi dẫn 3 thông tin khác:
Nhà cầm quyền Pháp chỉ cho bêu đầu có 2 ngày rồi vội cho tẩm dầu, đốt thành tro đem đổ xuống ao và không cho công bố ảnh thủ cấp những người chống lại bị chém giết.
Theo Lý Đào, một cận vệ cũ của Hoàng Hoa Thám và thường cắt tóc cho Đề Thám nên biết đầu ông có một đường gồ chạy từ trán lên đỉnh đầu, trên khuôn mặt có bộ râu ba chòm, nhưng cái đầu cắm ở Phủ đường không có đường gồ, cằm không có râu.
Theo người dân làng Lèo, thủ cấp bị bêu là của sư ông trụ trì ở chùa Lèo, vì sư ông có dung mạo khá giống với Hoàng Hoa Thám và không thấy xuất hiện từ hôm đó, có lẽ bị giết để thế chỗ.
Hoàng Hoa Thám chạy trốn và sống ẩn dật những ngày cuối đời trong dân chúng, và cuối cùng chết vì bệnh tật. Một số quan lại cho rằng ông mất vào trước thời điểm ngày 10 tháng 2 năm 1913, còn dân chúng lại cho rằng ông mất sau thời gian này.
Hiện tại vẫn chưa xác định được phần mộ Hoàng Hoa Thám, việc này cũng có nhiều giả thiết khác nhau và chưa có kết luận cuối cùng trong giới nghiên cứu.
Gia quyến
Vợ: Đặng Thị Nho (vợ ba)
Con gái: Hoàng Thị Thế hay Marie Beatrice Destham (31/12/1901 – 9/12/1988), con nuôi của Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut và Tổng thống Cộng hòa Pháp Paul Doumer.
Con trai:
Hoàng Đức Trọng hay Cả Trọng (1877–1909). Con trai lớn nhất của Hoàng Hoa Thám với bà vợ cả. Là thủ lĩnh cấp cao của Khởi nghĩa Yên Thế. Mộ phần và đền thờ ông đặt tại đền Gốc Dẻ (thị trấn Nhã Nam, huyện Tân Yên)
Hoàng Hoa Phồn hay Hoàng Văn Vi (1908–1945), có hai người con là Hoàng Thị Hải (1928) và Hoàng Thị Điệp (1930)
Trong văn hoá đại chúng
Hình ảnh công cộng
Ở Việt Nam rất nhiều thành phố như Hà Nội, Tp. HCM, Đà Nẵng, Huế, Nha Trang có đường phố mang tên Hoàng Hoa Thám.
Tên đường phố Đề Thám cũng được đặt ở rất nhiều nơi như Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Thái Bình, Thành phố Cần Thơ, Thành phố Cà Mau và một số địa danh khác, đặc biệt, trường THPT Hoàng Hoa Thám ở Đà Nẵng là trường có bề dày truyền thống trong việc đào tạo học sinh khá giỏi của 2 quận Sơn Trà và Ngũ Hành Sơn. Học sinh của trường cứ mỗi năm 1 lần gặt hái rất nhiều thành công và Tỉ lệ Đậu Đại học-Cao đẳng của trường thuộc top đầu Thành phố. Năm 2003, trường được xác nhận là đã đạt chuẩn Quốc gia.
Điện ảnh |
Tấm xương bói toán, hay bói giáp cốt, là phép bói toán xuất hiện từ đời nhà Thương (1766-1121 TCN). "Giáp" tức là quy giáp (mai rùa), "cốt" là xương thú. Cách bói này được gọi là "bốc". Chữ bốc có hai nét: nét sổ dọc (tung) và nét ngang (hoành), tượng trưng cho những nét nứt ngang dọc trên mai rùa sau khi bị nung nóng. Người thời xưa thường hơ nóng mai rùa hoặc xương thú và đọc những vết nứt ấy để dự đoán việc tốt xấu. |
62 (sáu mươi hai) là một số tự nhiên ngay sau 61 và ngay trước 63. |
61 (sáu mươi mốt) là một số tự nhiên ngay sau 60 và ngay trước 62. |
60 (sáu mươi) là một số tự nhiên ngay sau 59 và ngay trước 61.
60 giây là số giây trong mỗi 1 phút, số phút trong mỗi 1 giờ
60 là số tự nhiên nhỏ nhất chia hết cho tất cả các số từ 1 đến 6
Trong hoá học
60 là số hiệu của nguyên tố Neodymi (Nd) |
59 (năm mươi chín) là một số tự nhiên ngay sau 58 và ngay trước 60.
Toán học
59 là Số nguyên tố thứ 17 và là Số nguyên tố phi chính quy thứ 2 (Sau số 37 và trước số 67)
Hoá học
59 là Số hiệu nguyên tử của nguyên tố Praseodymium |
58 (năm mươi tám) là một số tự nhiên ngay sau 57 và ngay trước 59. |
57 (năm mươi bảy) là một số tự nhiên ngay sau 56 và ngay trước 58. |
56 (năm mươi sáu) là một số tự nhiên ngay sau 55 và ngay trước 57. |
55 (năm mươi lăm) là một số tự nhiên ngay sau 54 và ngay trước 56. |
54 (năm mươi bốn) là một số tự nhiên ngay sau 53 và ngay trước 55.
Trong toán học
Số 54 là số bé nhất=tổng 3 bình phương bằng 3 cách: 72+22+12, 62+32+32,
và 22+52+52. |
53 (năm mươi ba) là một số tự nhiên liền sau 52 và liền trước 54. |
52 (năm mươi hai) là một số tự nhiên ngay sau 51 và ngay trước 53. |
Roberto Donadoni (sinh ngày 9 tháng 9 năm 1963) là một cựu cầu thủ nổi tiếng của câu lạc bộ bóng đá A.C. Milan và đội tuyển Ý. Ông từng là huấn luyện viên trưởng của đội tuyển Ý tại Euro 2008 sau khi Marcello Lippi từ chức. Tuy nhiên, sau khi đội tuyển Ý bị loại ở vòng tứ kết sau loạt sút luân lưu trước Tây Ban Nha - đội sau đó giành chức vô địch, ông bị sa thải và làm huấn luyện viên tại CLB S.S.C. Napoli. Sau đó ông làm huấn luyện viên tại CLB Cagliari Calcio trước khi bị sa thải vào tháng 8 năm 2011.
Ngoài Milan, Roberto Donadoni còn chơi cho các câu lạc bộ khác như Atalanta (Ý), MetroStar (Hoa Kỳ) và Al-Ittihad (Ả Rập Xê Út).
Tại Serie A, Roberto Donadoni chơi tổng cộng 390 trận với 23 bàn thắng. Còn ở đội tuyển Ý, ông đá khoác áo 63 trận và ghi 5 bàn thắng.
Sau khi từ giã sự nghiệp cầu thủ, ông tiếp tục gắn bó với bóng đá bằng cách làm huấn luyện viên các câu lạc bộ bóng đá Ý như Lecco, Livorno và Genoa.
Thành tích
Vô địch Ý: 6
1988, 1992, 1993, 1994, 1996, 1999
Cúp C1/UEFA Champions League: 3
1989, 1990, 1994
Siêu cúp bóng đá châu Âu: 3
1989, 1990, 1995
Cúp bóng đá Liên lục địa: 2
1989, 1990
Vô địch Ả Rập Xê Út: 1 |
Epitope, hay còn gọi là yếu tố quyết định kháng nguyên (antigenic determinant) là vị trí cấu trúc trên một phân tử kháng nguyên có thể phản ứng với một kiểu cấu trúc hóa học của phân tử kháng thể hoặc phân tử thụ thể,trong máu hoặc trên tế bào miễn dịch. kích thước một phân tử đơn vị epitop có thể nhỏ chỉ bao gồm một vài phân tử đường hoặc như hapten chúng nằm sâu trong hốc của các vị trí kết hợp kháng nguyên. Một kháng nguyên có thể có một hoặc nhiều epitop do có nhiều epitop nên kháng nguyên có thể gây phản ứng chéo giữa các kháng nguyên có cùng 1 epitop hay 1 epitop cũng có thể có 2 kháng thể phản ứng đặc hiệu. song giữa các phản ứng khác nhau đó có thể có ái lực liên kết khác nhau do cấu trúc phân tử không gian các liên kết khác nhau. Thường thì phân tử kháng nguyên càng lớn thì thường càng có nhiều epitop
Epicope là một phần của protein sinh miễn dịch có thể được hệ thống miễn dịch nhận ra. Các peptit có thể được nhận biết bởi các thụ thể của tế bào T sau khi một kháng nguyên cụ thể đã được xử lý nội bào, liên kết với ít nhất một phân tử MHC và được biểu hiện trên bề mặt của tế bào trình diện kháng nguyên dưới dạng phức hợp MHC-peptit.
Đa số các epitope có thể coi là các bề mặt ba chiều có thể khớp với các bề mặt Kháng thể
Epicope đề cập đến mục tiêu cụ thể mà một kháng thể riêng lẻ liên kết với.
Khi một kháng thể liên kết với một protein, nó không liên kết với toàn bộ protein có chiều dài đầy đủ. Thay vào đó, nó liên kết với một đoạn của protein đó được gọi là epitope. Nói chung, một epitope có chiều dài khoảng năm hoặc sáu axit amin. Vì vậy, một chuỗi protein có chiều dài đầy đủ điển hình thực sự chứa nhiều biểu mô khác nhau mà các kháng thể có thể liên kết. Và, đối với bất kỳ trình tự protein nhất định nào, thông thường người ta sẽ thấy rằng nhiều kháng thể duy nhất sẽ nhận ra protein. Mỗi kháng thể này liên kết với một epitope cụ thể nằm trên protein đó.
Liên kết giữa kháng thể và epitope xảy ra tại vị trí liên kết kháng nguyên, được gọi là paratope và nằm ở đầu của vùng biến đổi trên kháng thể. Chiếc dù này chỉ có khả năng liên kết với một loại epitope duy nhất.
Lịch sử (phát hiện)
Trong nửa đầu thế kỷ 20, một loạt các khám phá khoa học đã giải thích rằng miễn dịch qua trung gian kháng thể là nền tảng của phản ứng miễn dịch đặc hiệu. Kể từ lần đầu tiên được sử dụng làm công cụ nghiên cứu nhãn miễn dịch vào đầu những năm 1970, công nghệ kháng thể đã được cải thiện rất nhiều và kháng thể đã trở thành công cụ quan trọng cho hầu hết các lĩnh vực nghiên cứu khoa học sự sống. Nguyên tắc cơ bản của bất kỳ kỹ thuật hóa miễn dịch nào là một kháng thể cụ thể sẽ kết hợp với kháng nguyên cụ thể của nó để tạo ra phức hợp kháng thể-kháng nguyên độc quyền. Trong các trang tiếp theo, chúng ta sẽ thảo luận về bản chất của liên kết này và việc sử dụng liên kết mạnh mẽ và cụ thể này như một thẻ phân tử để nghiên cứu.
Về Epitope
Biểu mô là một phần của kháng nguyên mà hệ thống miễn dịch của vật chủ nhận ra, tạo ra phản ứng miễn dịch đối với mầm bệnh xâm nhập. Nó liên kết đặc biệt với thụ thể kháng nguyên tương ứng trên tế bào miễn dịch (chẳng hạn như tế bào B) và liên kết chỉ xảy ra nếu các cấu trúc bổ sung.Một khi epitope và thụ thể liên kết với nhau trong sự kết hợp giống như câu đố này, việc sản xuất kháng thể sẽ được kích thích. Các kháng thể này được nhắm mục tiêu cụ thể đến các biểu mô liên kết với các thụ thể kháng nguyên. Theo cách này, epitope cũng là vùng của kháng nguyên được nhận biết bởi kháng thể cụ thể, sau đó loại bỏ kháng nguyên khỏi cơ thể vật chủ sau khi liên kết với nó. Vùng trên kháng thể liên kết với epitope được gọi là paratope.Nhiều kháng nguyên có một số biểu mô riêng biệt trên bề mặt của chúng. Mỗi loại biểu mô này có thể tương tác với các thụ thể kháng nguyên khác nhau trên các tế bào miễn dịch. Huyết thanh của một người được chủng ngừa thường chứa một hỗn hợp các kháng thể có thể liên kết với các biểu mô khác nhau trên bề mặt của kháng nguyên. Các kháng thể nhắm mục tiêu với cùng một epitope có thể có các khả năng khác nhau để liên kết với nó.Các epitope cũng được coi là yếu tố quyết định kháng nguyên. Nó thường là một loại protein không tự thân. Tuy nhiên, trong trường hợp mắc các bệnh tự miễn dịch, các trình tự trong vật chủ có thể được hệ thống miễn dịch công nhận là các biểu mô. Các biểu bì thường có chiều dài khoảng năm hoặc sáu axit amin.
Nhiều kháng nguyên có nhiều loại biểu mô khác nhau trên bề mặt của chúng. Mỗi epitope có khả năng phản ứng với một thụ thể kháng nguyên tế bào B khác nhau. Ngoài ra, huyết thanh của người hoặc động vật được miễn dịch thường chứa một hỗn hợp các kháng thể, tất cả đều có khả năng kết hợp với cùng một kháng nguyên nhưng có các biểu mô khác nhau xuất hiện trên bề mặt của kháng nguyên. Hơn nữa, các kháng thể liên kết với cùng một epitope thường có các khả năng khác nhau để liên kết với epitope đó.
Có thể có hai hoặc nhiều kháng nguyên khác nhau có chung một biểu mô. Trong những trường hợp này, các kháng thể nhắm mục tiêu đến một kháng nguyên có thể phản ứng với tất cả các kháng nguyên khác mang cùng một epitope. Những kháng nguyên như vậy được gọi là những kháng nguyên phản ứng chéo.
Ánh xạ biểu tượng tế bào T
https://immumap.com/t-cell-epitope-mapping/
Vị trí
Vị trí nhỏ trên một kháng nguyên mà một kháng thể bổ sung có thể liên kết đặc biệt được gọi là một yếu tố quyết định kháng nguyên hoặc biểu mô. Đây thường là một đến sáu monosaccharide hoặc năm đến tám gốc axit amin trên bề mặt của kháng nguyên. Vì các phân tử kháng nguyên tồn tại trong không gian, nên các epitope được nhận biết bởi kháng thể có thể phụ thuộc vào sự hiện diện của cấu trúc kháng nguyên ba chiều cụ thể (ví dụ, một vị trí duy nhất được hình thành do sự tương tác của hai vòng protein hoặc tiểu đơn vị bản địa). Đây được biết đến như là một biểu tượng cấu trúc. Các epitope cũng có thể tương ứng với một trình tự tuyến tính đơn giản của các axit amin và các epitop như vậy được gọi là các epitop tuyến tính.Phạm vi các vị trí liên kết có thể có trên phân tử đích (kháng nguyên) là rất lớn, với mỗi vị trí liên kết tiềm năng có các đặc tính cấu trúc riêng của nó bắt nguồn từ liên kết cộng hóa trị, liên kết ion, tương tác ưa nước và kỵ nước. Thật vậy, điều này có những phân nhánh quan trọng đối với sự lựa chọn và hoạt động của kháng thể. Để xảy ra tương tác hiệu quả giữa kháng nguyên đích và kháng thể, thì phải có sẵn các epitope để gắn kết.Nếu phân tử đích bị biến tính, ví dụ, thông qua sự cố định, giảm, thay đổi pH hoặc trong quá trình chuẩn bị cho điện di trên gel, thì biểu mô có thể bị thay đổi và điều này có thể ảnh hưởng đến khả năng tương tác với kháng thể của nó. Ví dụ, một số kháng thể không hiệu quả trong Western blotting (WB) nhưng lại thích hợp cho các ứng dụng hóa mô miễn dịch (IHC), bởi vì, trong quy trình IHC, một vị trí kháng nguyên phức tạp có thể được duy trì trong mô, trong khi trong quy trình WB, quy trình chuẩn bị mẫu làm thay đổi cấu trúc protein đủ để phá hủy vị trí kháng nguyên, và do đó loại bỏ liên kết kháng thể.
Các loại Epitope
Có ba loại biểu mô: hình dạng, tuyến tính và không liên tục. Sự phân loại này dựa trên cấu trúc của chúng và sự tương tác của chúng với dây của kháng thể. Các biểu mô phù hợp được hình thành thông qua sự tương tác của các gốc axit amin bị ngắt kết nối với nhau. Số lượng các biểu mô cấu trúc không được biết.Các biểu mô tuyến tính không chỉ được xác định bởi cấu trúc chính của chúng (trình tự các axit amin) mà còn bởi các chất tồn tại khác. Các gốc axit amin xa hơn của kháng nguyên cũng như những gốc nằm bên cạnh cấu trúc chính ảnh hưởng đến cấu trúc ba chiều của biểu mô tuyến tính.Các biểu mô liên tục bao gồm các phần của protein được liên kết với nhau bằng cách gấp protein chứ không phải gần nhau trong cấu trúc. Lớp epitope này có thể chứa cả phần cấu trúc và phần tuyến tính. Dữ liệu từ các nghiên cứu khác nhau đã cung cấp bằng chứng rằng hầu hết sự gắn kết kháng nguyên-kháng thể xảy ra tại các vị trí epitope không liên tục. Các kháng thể bảo vệ (ví dụ, những kháng thể trong vắc xin) đặc biệt dựa vào điều này.Tế bào T và B cung cấp phản ứng miễn dịch học dựa trên trí nhớ cụ thể về mầm bệnh. Các biểu mô tế bào B là một phần của kháng nguyên mà các kháng thể hoặc globulin miễn dịch liên kết với. Các biểu mô tế bào T được tìm thấy trên bề mặt của một tế bào trình diện kháng nguyên và được liên kết với các phân tử phức hợp tương thích mô lớn. Epitopes có thể phản ứng chéo.
mô tế bào B ( Epiope cell B)
Các biểu mô tế bào B tương tác trực tiếp với mIgs trên bề mặt của tế bào B và không cần xử lý kháng nguyên cho những tương tác này. Kết quả là, các thụ thể của tế bào B có thể liên kết các kháng nguyên trong các cấu trúc ban đầu của chúng. Đây là lý do tại sao các kháng thể được tạo ra chống lại các protein bản địa thường nhận ra 'các biểu mô không liên tục', các yếu tố quyết định kháng nguyên bao gồm các axit amin cách xa nhau trong trình tự chính nhưng lại gần nhau trong các cấu trúc gấp lại. Các kháng nguyên có thể gợi ra phản ứng của tế bào B khá đa dạng; chúng có thể là protein, lipid, cacbohydrat hoặc các phân tử nhỏ (ví dụ: asenat, trinitrophenol). Điều này trái ngược với hầu hết các biểu mô tế bào T thường là các đoạn peptit ngắn. Bản chất đa dạng của các kháng nguyên tế bào B làm cho việc dự đoán trước các biểu mô tế bào B rất khó.Tương tự, các kháng thể được tạo ra chống lại các protein bị biến tính hoặc các kháng nguyên peptit tổng hợp thường nhận ra 'các biểu mô liên tục (tuần tự)' và không thể nhận ra các protein tương ứng trong cấu trúc bản địa của chúng. Liên kết kháng nguyên với mIgs trên tế bào B gây ra một dòng tín hiệu dẫn đến kích hoạt tế bào B. Việc kích hoạt tế bào B có thể cần hoặc không cần sự trợ giúp của tế bào T. Các kháng nguyên cần sự trợ giúp của tế bào T để kích hoạt tế bào B là các kháng nguyên phụ thuộc vào tuyến ức (phụ thuộc vào T). Các kháng nguyên có thể kích thích tế bào B mà không cần sự trợ giúp của tế bào T là kháng nguyên không phụ thuộc vào tuyến ức (T-độc lập). Phần lớn các kháng nguyên protein phụ thuộc vào T, trong khi hầu hết các kháng nguyên không phụ thuộc T là các phân tử cao phân tử với các yếu tố quyết định kháng nguyên lặp đi lặp lại. Ví dụ về kháng nguyên không phụ thuộc T bao gồm các sản phẩm vi sinh vật như polysaccharid và protein cao phân tử.Đầu tiên, các kháng nguyên của tế bào B phụ thuộc T liên kết với mIgs trên bề mặt của tế bào B. Sau khi liên kết, các kháng nguyên này được nội bào hóa bằng quá trình nội bào qua trung gian thụ thể hoặc bằng quá trình chuyển hóa pinocytosis không đặc hiệu. Khi ở trong tế bào, các protein này vẫn nằm trong các ngăn có mụn nước và không bị trộn lẫn với các protein trong tế bào chất. Các protein nội hóa này được xử lý bởi các protease lysosome để giải phóng các đoạn peptit mà sau đó liên kết với các phân tử MHC lớp II. Các phức hợp peptide – MHC này sau đó nổi lên trên bề mặt của tế bào B, nơi chúng tương tác với các TCR cụ thể trên bề mặt của tế bào trợ giúp T (tế bào T CD4). Tương tác MHC-peptide-TCR dẫn đến giải phóng cytokine từ tế bào T để trực tiếp tăng sinh và trưởng thành tế bào B. Các tế bào B được hoạt hóa cuối cùng sẽ biệt hóa thành các tế bào plasma, tế bào này đã mở rộng rất nhiều tế bào chất và mạng lưới nội chất rộng rãi và hoàn toàn dành cho việc sản xuất các kháng thể. Các yếu tố quyết định kháng nguyên (biểu mô tế bào B) có liên quan đến liên kết ban đầu với các thụ thể tế bào B thường không giống với các yếu tố quyết định (biểu mô tế bào T) tương tác với MHC và TCR. Tuy nhiên, các biểu mô tế bào B và tế bào T này có thể được bản địa hóa thành các vùng chồng chéo trên các protein kháng nguyên.
Các kháng nguyên của tế bào B không phụ thuộc vào T kích hoạt tế bào B bằng cách liên kết chéo các thụ thể trên bề mặt. Nếu không có sự trợ giúp của tế bào T, các tế bào B này không trải qua quá trình chuyển đổi lớp gen immunoglobulin và do đó các kháng thể được tạo ra chủ yếu là IgM. Ngược lại, các phản ứng của kháng thể đối với kháng nguyên phụ thuộc T thường trưởng thành để chứa một tỷ lệ IgG lớn hơn với ái lực cao hơn với kháng nguyên.
Tóm lại
Xác định các biểu mô tế bào B là một bước cơ bản để phát triển vắc xin dựa trên biểu mô, kháng thể điều trị và các công cụ chẩn đoán. Các kháng thể dựa trên Epitope hiện là loại dược phẩm sinh học hứa hẹn nhất. Trong thập kỷ trước, việc phân tích sâu và phân loại silico của các biểu mô được xác định bằng thực nghiệm đã kích thích sự phát triển của các thuật toán để dự đoán biểu tượng. Gần đây, nhiều công cụ silico khác nhau được sử dụng trong nỗ lực dự đoán biểu mô tế bào B dựa trên dữ liệu trình tự và / hoặc cấu trúc. Mục tiêu chính của việc xác định epitope là thay thế một kháng nguyên trong quá trình chủng ngừa, sản xuất kháng thể và chẩn đoán huyết thanh. Việc xác định chính xác các biểu mô tế bào B vẫn còn đặt ra những thách thức lớn đối với các nhà miễn dịch học. Những tiến bộ trong lập bản đồ biểu mô tế bào B và dự đoán tính toán đã mang lại những hiểu biết phân tử về quá trình nhận biết sinh học và hình thành phức hợp kháng nguyên-kháng thể, có thể giúp định vị các biểu mô tế bào B chính xác hơn. Trong bài báo này, chúng tôi đã xem xét một cách toàn diện các phương pháp thử nghiệm hiện đại để nhận dạng biểu mô tế bào B, cơ sở dữ liệu hiện có cho các biểu tượng và tài nguyên silico mới và các công cụ dự đoán có sẵn trực tuyến. Chúng tôi cũng đã xây dựng các xu hướng mới trong dự đoán epitope dựa trên kháng thể. Mục đích của tổng quan này là để hỗ trợ các nhà nghiên cứu xác định các biểu mô tế bào B.
Bằng chứng tiếp tục được tích lũy ủng hộ giả thuyết rằng tổn thương mô trong quá trình đáp ứng miễn dịch có thể dẫn đến việc hình thành các tế bào lympho T và / hoặc B tự phản ứng, bất kể độ đặc hiệu của sự xúc phạm ban đầu. Bài đánh giá này sẽ tập trung chủ yếu vào sự lây lan của epitope ở cấp độ tế bào T. Hiểu được cơ sở tế bào và phân tử của việc biểu mô lây lan trong các bệnh mãn tính khác nhau qua trung gian miễn dịch ở người và các mô hình động vật của chúng là rất quan trọng để hiểu cơ chế bệnh sinh của những bệnh này và mục tiêu cuối cùng là thiết kế các phương pháp điều trị đặc hiệu với kháng nguyên.
mô tế bào T ( Epiope cell T)
Chúng tôi đã xem xét ở đây các nghiên cứu sử dụng peptit tổng hợp để phân tích một số đặc tính của biểu mô tế bào T. Một số kết luận chung có thể được rút ra. Đầu tiên, các biểu mô tế bào T thường có thể được xác định bằng trình tự tuyến tính của khoảng bảy axit amin. Tuy nhiên, nhận xét rằng việc tăng chiều dài peptit thường dẫn đến tăng hiệu lực kháng nguyên đã gợi ý rằng tính kháng nguyên có thể phụ thuộc chủ yếu vào khả năng của các peptit chấp nhận các cấu trúc thứ cấp thích hợp. Hai mô hình dự đoán biểu mô tế bào T chỉ dựa trên dữ liệu trình tự sơ cấp đã được thảo luận. Các nghiên cứu lý sinh về sự liên kết của các peptit với các phân tử Ia đã chỉ ra rằng các peptit kháng nguyên liên kết trực tiếp với Ia; bằng chứng cho thấy rằng mối liên kết nhị phân giữa Ia và peptit xảy ra trong trường hợp không có tế bào T cụ thể. Cuối cùng, một giả thuyết để giải thích quan sát rằng các tế bào B và tế bào T thường nhận ra các biểu mô riêng biệt trên các kháng nguyên đa định lượng đã được nghiên cứu.
MHC-peptit, được gọi là T- biểu mô tế bào. Những cá nhân có ít nhất một phân tử MHC có thể liên kết một cách khao khát nhất với trình tự axit amin gây dị ứng từ một chất gây dị ứng, đồng thời có dòng tế bào T thích hợp có thể nhận ra phức hợp MHC-peptit này, được cho là có xu hướng di truyền phản ứng dị ứng chống lại chất gây dị ứng đó. Khả năng này có thể được kiểm tra trong silico bằng cách sử dụng các kỹ thuật tính toán hiện đại dựa trên toán học và thống kê phức tạp. Các nguyên tắc thiết kế của các kỹ thuật này là khác nhau và do đó dự đoán của chúng sẽ có sự thay đổi. Các chương trình phần mềm sẵn có được phát triển trên cơ sở này có thể kết hợp số lượng ngày càng tăng và độ phức tạp của dữ liệu thí nghiệm sẵn có đã được tổ chức trong cơ sở dữ liệu tin học miễn dịch để dự đoán các biểu mô tế bào T có khả năng gây dị ứng. Tất cả các phương pháp dự đoán biểu mô tế bào T có liên quan có thể được truy cập trực tuyến dưới dạng phần mềm miễn phí. |
Dãy núi Võ Đang () còn có tên là núi Thái Hòa là một dãy núi nhỏ nằm ở phía nam thành phố Thập Yển, Tây Bắc của tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Tại đây có tổ hợp phức hợp của các đền thờ và tu viện Đạo giáo gắn liền với vị thần Trấn Vũ. Võ Đang được coi là cái nôi của võ thuật Thái Cực quyền, Bát Quái chưởng và Đạo giáo, đối cực với Phật giáo của Chùa Thiếu Lâm. Đây cũng là một trong Tứ đại Đạo giáo danh sơn của Trung Quốc và là một địa điểm hành hương quan trọng của Đạo giáo.
Địa lý
Trên bản đồ Trung Quốc, Võ Đang sơn (tiếng Trung: 武当山) là để chỉ toàn bộ dãy núi chạy theo hướng Đông-Tây dọc theo rìa phía nam của sông Hán Thủy và một nhóm đỉnh núi nằm tại nhai đạo Võ Đang Sơn của Đan Giang Khẩu thuộc Thập Yển. Khu vực cụ thể này chính là nơi được gọi là cái nôi của Đạo giáo.
Đỉnh cao nhất của dãy núi là Hải Bạt cao 1612 mét,. Một số người coi nó là một phần của Dãy núi Đại Ba (大巴山), một hệ thống núi lớn hơn nằm ở phía tây Hồ Bắc, Thiểm Tây, Trùng Khánh và Tứ Xuyên.
Lịch sử
Đây là khu phong cảnh rất nổi tiếng, là đất thánh của võ thuật Đạo giáo (đạo thờ Lão Tử tức Thái thượng lão quân), Đạo giáo ở Võ Đang sơn bắt đầu từ đời Chu do Doãn Hỉ mở. Theo truyền thuyết, Doãn Hy về ở ẩn tại Võ Đang sơn dưới chân vách đá Tam Thiên Môn.
Đời Hán có Mã Minh Sinh, Âm Trường Sinh hai thầy trò cùng đến tu đạo ở núi Võ Đang, từ đó trở đi các người ở ẩn, người thanh cao đến tu đạo tại đây. Đạo giáo ở núi Võ Đang thịnh vượng nhất vào thời Minh. Việc này có quan hệ trực tiếp đến việc cướp ngôi vua của Yên vương Chu Đệ và việc đề xướng tín ngưỡng đức Chân Vũ.
Chân Vũ tức Huyền Vũ là một trong bốn vị thần tinh tú bốn phương được sùng bái từ thời cổ đại. Trong nhị thập bát tú, bảy ngôi sao phương Bắc hình tựa Quy Xà (rùa rắn) vì nằm vào phương Bắc, phối hợp với nước màu đen vì thế gọi là "Huyền", Quy Xà thân có vẩy Kỳ Lân ("lân giáp") nên gọi là "Vũ". Đến thời Bắc Tống vì kỵ huý nên đổi là "Chân Vũ".
Đầu đời Minh Kiện Văn Đế (gọi theo niên hiệu của Minh Huệ Đế làm vua từ 1399-1403 tên là Chu Doãn Văn, sau bị Thành Tổ là Chu Đệ cướp ngôi) dùng bọn Tề Thái bày mưu cướp đoạt của các "phiên" (tên chỉ các thuộc quốc hoặc các thân vương trấn giữ biên ải xa kinh đô). Yên Vương Chu Đệ cất quân chống lại, sử gọi là "Tĩnh Nạn". Nhưng Chu Đệ là một phiên vương lại đem quân đánh Thiên Tử, về danh nghĩa, thanh thế đều không có lợi vì vậy phải mượn đến oai thần thánh.
Thần Chân Vũ trấn thủ phương Bắc nên cũng bị Yên vương Chu Đệ ở phương Bắc lấy làm hình ảnh phản chiếu lại thanh uy trên thiên quốc.
Theo truyền thuyết, lúc đúc tượng thần Chân Vũ đã đúc giống hệt Chu Đệ. Cướp được ngôi đế xong, năm Vĩnh Lạc thứ 10 (1412) Minh Thành Tổ Chu Đệ lệnh cho Thị lang bộ Công là Quách Tiến, Long Bình hầu Trương Tín cùng Phò mã Đô úy Mộc Tích Lâm Sơn đốc công xây dựng cung quán ở núi Võ Đang, dùng đến rất nhiều lương tiền trong kho nhà nước, trưng dụng quân dân hơn 30 vạn người kéo dài 11 năm, từ châu thành Cổ Phong có cung Vĩnh Lạc đến Kim điện trên Thiên trụ phong lát đường bằng đá xanh dài hơn 70 km, dọc đường xây dựng 8 cung, hai quán, 36 am, 72 miếu đá, 39 cầu, 12 đình đài... thành cả một quần thể kiến trúc vĩ đại, tổng diện tích xây dựng là 160 vạn mét vuông. Quy mô rất to, tốn phí cực lớn, nói quá lên là trước đó chưa từng có.
Địa điểm thờ phượng đầu tiên là đền thờ Ngũ Long được xây dựng theo lệnh của Đường Thái Tông. Các cấu trúc đặc biệt được xây dựng thêm vào triều đại nhà Tống và Nguyên. Khu phức hợp nhất nhất được xây dựng trên dãy núi là từ thời nhà Minh (thế kỷ 14-17) khi Minh Thành Tổ tuyên bố thờ Hắc Thần hoặc Trấn Vũ. Đền thờ thường xuyên phải xây dựng lại và không phải toàn bộ cấu trúc của nó còn nguyên vẹn cho đến ngày nay. Công trình lâu đời nhất còn tồn tại là Kim điện núi Võ Đang có từ năm 1307. Các công trình kiến trúc đáng chú ý khác gồm có Nam Nham cung được xây dựng từ 1285–1310 và mở rộng năm 1312, Tử Tiêu cung (紫霄宮) được xây dựng từ 1119-26, tái xây dựng vào năm 1413 và mở rộng năm 1803-20.
Năm 1994, UNESCO đã thêm Võ Đang vào danh sách Di sản thế giới.
Ngày 19 tháng 1 năm 2003, Ngọc Chân cung 600 năm tuổi đã vô tình bị thiêu rụi bởi đệ tử của một trường võ thuật. Đám cháy bùng phát khiến ba căn phòng có diện tích 200 mét vuông thành tro bụi. Bức tượng Trương Tam Phong mạ vàng thường được đặt ở trong cung may mắn được chuyển đến một tòa nhà khác ngay trước đám cháy.
Thắng cảnh
Khu vực ngắm cảnh Kim Đỉnh: Tại đây có Kim điện núi Võ Đang là công trình bằng gỗ khung đồng, là kiến trúc cổ nhất tại Võ Đang.
Khu thắng cảnh Nam Nham: Nằm ở sườn núi là nơi có nhiều kiến trúc đáng chú ý như Nam Nham cung, Tử Tiêu cung, miếu thờ Lang Mai (榔梅祠). Trong đó Tử Tiêu cung là một trong những kiến trúc hoàn chỉnh nhất tại đây
Thắng cảnh vườn Phúc Thọ Khang Ninh
Huyền Nhạc môn: Là thắng cảnh nằm ở chân núi phía bắc của Võ Đang là nơi có cổng Huyền Nhạc, Ngọc Hư cung, Nguyên Hòa quán
Thắng cảnh Thái Tử Pha
Thắng cảnh Quỳnh Đài
Thắng cảnh Ngũ Long cung
Hình ảnh
Danh xưng
Thiên Hạ Đệ Nhất Sơn. |
Ngọc, hay đá quý (và một số loại đá bán quý) là các khoáng chất quý hiếm có nguồn gốc từ thiên nhiên hoặc nhân tạo có giá trị thẩm mỹ; màu sắc rực rỡ và đồng đều, có độ tinh khiết và ổn định, chúng khả năng chiết quang và phản quang mạnh, chúng cũng có độ cứng nhất định và phần lớn có khả năng chống ăn mòn. Ngọc có thể được ứng dụng trong nhiều ngành công nghiệp nhưng công dụng chủ yếu được biết đến nhiều nhất là để trang trí và làm các đồ trang sức, đặc biệt là nữ trang.
Tuy trong thực tế hầu như không có một khu biệt nào giữa hai khái niệm "ngọc" và "đá quý". Người ta vẫn ít nhiều nhận thấy ý nghĩa của tên gọi "ngọc" biểu hiện đặc tính của đối tượng cụ thể hơn nên thường gắn với một loại đá quý nhất định (như ngọc lục bảo, lam ngọc, hồng ngọc, hoàng ngọc, ngọc bích, đá mắt mèo); còn "đá quý" có ý nghĩa rộng hơn và khái quát hơn (chẳng hạn khái niệm "nhẫn cưới gắn đá quý" thường chỉ một nhóm những loại nhẫn cưới được gắn hồng ngọc, lam ngọc, ngọc lục bảo phân biệt với nhẫn cưới gắn kim cương và nhẫn cưới phay trơn). Ở một phương diện khác, "đá quý" gắn với những sản phẩm tự nhiên chưa qua gia công, còn "ngọc" được hiểu là những khoáng vật quý hiếm đã được chế tác, mài dũa hoàn chỉnh mà thành, tuy đôi khi sự phân biệt này trở nên mơ hồ tùy theo quan niệm.
Tính chất
Đa số các loại ngọc có tính chất đặc biệt như độ cứng, khả năng tương tác với ánh sáng (chiết quang, phản quang); khả năng chống ăn mòn; tính chất cách điện hay bán dẫn v.v. Các loại đá ngọc phân biệt với các khoáng thạch có màu sắc nhưng ít quý giá hơn (như đá cẩm thạch, đá hoa cương) ở phương diện chủ yếu là sự quý hiếm của nó và độ tinh khiết đồng đều một cách thuần nhất của màu sắc.
Phân loại ngọc
Theo đặc tính
Khoáng vật của thế giới tự nhiên có khoảng hơn 3000 loại, tuy nhiên chỉ có khoảng 100 loại khoáng thạch thích hợp cho việc gia công thành đá quý hoặc đá bán quý. Với những nhà buôn đá quý chỉ có khoảng 20 loại là đối tượng kinh doanh, trong đó kim cương, ngọc lục bảo, hồng ngọc và xa-phia được đánh giá là bốn loại đá quý hàng đầu. Tại Nhật Bản còn xác định bảy loại đá quý nhất, trong đó ngoài bốn loại nói trên còn có opan, alexandrite, jadeite. Ngoài ra, người ta còn gọi kim cương, ngọc lục bảo, hồng ngọc, xa-phia, jadeite và ngọc trai là: "ngũ hoàng nhất hậu" (năm vua và một hoàng hậu).
Theo màu sắc
Một số loại ngọc tuy có thành phần khoáng chất cơ bản giống nhau, nhưng theo màu sắc có thể được phân tách thành loại khác biệt, như hồng ngọc và xa-phia đều là khoáng corundum tuy loại corundum màu đỏ được tách riêng thành hồng ngọc còn các loại có màu sắc khác là xa-phia (khi gắn trên nữ trang phần lớn chỉ sử dụng xa-phia màu xanh lam), các loại thạch anh đều có thành phần chính là silic dioxide nhưng amethyst (thạch anh tím) được tách riêng một loại ngọc vì sự quý hiếm của chúng.
Dưới đây là danh sách một số loại ngọc, màu sắc, độ cứng và ý nghĩa tượng trưng của nó khi được sử dụng với tư cách một món đồ trang sức. Những ý nghĩa tượng trưng này có thể thay đổi không chỉ theo loại ngọc mà còn thay đổi theo màu sắc của ngọc, thậm chí thay đổi theo quan niệm và văn hóa của mỗi dân tộc :
Theo nguồn gốc
Cho đến đầu thế kỷ 20, ngọc vẫn là những sản phẩm của tự nhiên hình thành dưới những tác động lý hóa và sự biến động địa chất của Trái Đất qua hàng triệu năm ngoại trừ một vài loại ngọc hay khoáng vật quý là sản phẩm hữu cơ (như ngọc trai từ trai, sò, ốc nước mặn hay nước ngọt; hổ phách xuất xứ từ những loại thực vật họ thông; các loại san hô đặc biệt là san hô đỏ). Hiện nay, công nghệ sản xuất ngọc nhân tạo đã tiến bộ vượt bậc, khởi đầu là sự nuôi cấy thành công ngọc trai nhân tạo ở Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai, rồi hồng ngọc, xa-phia, hoàng ngọc và cả kim cương nhân tạo cũng lần lượt được nghiên cứu chế tạo trong phòng thí nghiệm tại khắp các châu lục. Những sản phẩm ngọc nhân tạo dần dần tạo được chỗ đứng của mình không chỉ trong các lĩnh vực công nghiệp mà đã bước dần sang địa hạt trang sức, chiếm lĩnh những ngăn, kệ đặt nữ trang tại các cửa hiệu kim hoàn nổi tiếng thế giới. Tuy chất lượng không thua kém gì ngọc thiên nhiên thậm chí có khi còn vượt trội hơn về độ tinh khiết và màu sắc, giá trị quy đổi ra tiền tệ của ngọc nhân tạo vẫn thua xa ngọc xuất xứ từ thiên nhiên.
Nếu ngọc trai, hồng ngọc, xa-phia, hoàng ngọc và ngọc lục bảo được sản xuất nhân tạo về cơ bản tính chất lý hóa không khác gì so với ngọc tự nhiên, tuy có một số sản phẩm (như hồng ngọc) được gia thêm chất phụ gia đặc biệt để phân biệt màu sắc với ngọc tự nhiên khi chiếu dưới tia cực tím, thì kim cương nhân tạo lại đa dạng hơn, trong đó ngoài các bon tinh thể còn phải kể đến những sản phẩm đá giả kim cương như cubic zicon và mossanite mà hình thức không khác biệt lắm với kim cương nhưng chất liệu chế tạo lại hoàn toàn khác. Việc kiểm định chính xác ngọc tự nhiên hay nhân tạo luôn đặt ra nhiều thách thức, những dụng cụ kiểm định ngày càng trở nên tinh xảo hơn và công kiểm định cũng đắt giá hơn.
Theo địa phương
Tuy rất hiếm, trong thực tế người ta cũng có khi xác định một số loại ngọc của địa phương nào đó phân biệt với ngọc của địa phương khác, do chất lượng của ngọc tại mỗi vùng đất có thể khác nhau.
Kim cương với đủ các sắc độ màu có nhiều ở Nam Phi và một số nước vùng Nam châu Phi, Nga, Trung Quốc. Kim cương hồng đỏ hoàn hảo nổi tiếng ở Argyle, Úc.
Ngọc lục bảo (emerald) được khai thác tại Brasil, Zambia, Myanmar. Ngọc ở Colombia được đánh giá là có chất lượng tốt nhất với màu lửa xanh sặc sỡ, sống động và rất tươi.
Hồng ngọc (ruby) có thể khai thác ở Nga, Thái Lan, Campuchia, Việt Nam, Kenya, Tanzania và Sri Lanka.
Xa-phia (sapphire, hay ngọc lam) được châu Úc, châu Phi, Campuchia.
Garmet màu đỏ thẫm, tím đỏ và đen có ở Arizona (Mỹ), Nam Mỹ, Sri Lanka và Ấn Độ. Loại màu xanh lục, lục tối, nâu vàng, vàng hơi nâu và loại có màu xanh ngọc bích có ở Thụy Điển, Sri Lanka và Nam Mỹ. Xanh táo nhạt ở Nga và Phần Lan. Tiêu biểu và đặc trưng là garmet màu đỏ nâu thẫm, được tìm thấy ở Ấn Độ, Nga và Châu Mỹ.
Amethyst (thạch anh tím) có các sắc độ màu từ tím xanh cho đến tím đỏ và đặc điểm chung của nó là thường sáng. Trên hết, những màu mà có giá trị hơn cả là màu tía thẫm đến tím đỏ, được biết đến với cái tên urallian và thạch anh Siberia. Thạch anh tím thường thấy ở Brasil, Uruguay, Nga. Các vùng khác là Bolvia, México, Namibia, Tanzania, Zambia, Mỹ.
Aquamarine (ngọc xanh biển) Trước đây Brasil là một nước lớn cung cấp cho toàn thế giới loại ngọc xanh nhợt này. Ngày nay, những quốc gia châu Phi như Nigeria hay Madagascar được xem như nguồn khai thác tiếp theo loại đá này.
Peridot (khoáng mã não) đầu tiên được tìm thấy tại Zerbernet, sau đó là đến đảo St. Joan, bờ biển Ấn Độ, Pakistan, Kashmir, dãy Hymalaya.
Citrin hay topaz vàng nâu được tìm thấy nhiều ở Brasil, còn gọi là thạch anh topaz, trong khi topaz xanh tìm thấy tại Sri Lanka, châu Phi, Thái Lan và Campuchia.
Công dụng
Từ xa xưa, ngọc và vàng gắn với biểu tượng quyền lực và sự giàu có của giới quý tộc (vua chúa, vương tôn, công tử) khi được khảm trên vương miện, vương trượng, chuôi kiếm, yên ngựa và nữ trang của hoàng gia. Cho đến thời hiện đại cả ngọc và vàng đều có thể được sử dụng như tiền tệ (bản vị). Nhưng trên thế giới không ít loại tiền tệ bị mất giá. Mấy năm trở lại đây giá vàng trên thế giới luôn biến động mạnh mẽ, có lúc giảm đáng kể, trong khi đó giá ngọc lại luôn tăng lên, nhất là đối với những loại ngọc quý xuất xứ từ thiên nhiên. Có không ít nước còn xếp ngọc vào loại tiền cứng được ngân hàng dự trữ và giữ giá, chẳng hạn Iran, nơi mà kho báu hoàng gia, một trong số đó là chiếc vương miện với trên 3000 viên kim cương bị xung công trong cuộc cách mạng lật đổ vua Iran, đã làm nền tảng hậu thuẫn cho tiền tệ Iran đến ngày nay. Từ thập niên 1970 trở lại đây, việc buôn bán các loại ngọc trang sức trên thế giới diễn ra rất sôi động. Năm 1991 kim ngạch mậu dịch của ngọc đã lên tới 96 tỷ USD. Vài năm gần đây tốc độ tăng giá của ngọc vào khoảng 8-12%/năm, và người ta thường nhắc đến một câu nói "vàng thì có giá còn ngọc lại vô giá".
Mỗi loại đá quý có hình dáng và màu sắc riêng nên chúng có những truyền truyết tượng trưng tương ứng, có loại còn được coi là mốc sinh trưởng của tháng và mùa. Vì vậy, đối với con người thì sắc thái của ngọc không chỉ là hiện thân của giàu có mà còn biểu đạt khí chất. Tự cổ chí kim ở cả phương Đông và phương Tây, mọi người đều coi ngọc là tài phúc của tự nhiên, tượng trưng cho hòa bình, hữu nghị, may mắn, như ý, hạnh phúc, sức mạnh và quyền lực. Ngày nay, với màu sắc thần bí vốn có cộng thêm vẻ đẹp tự thân và giá trị kinh tế lớn, ngọc ngày càng có sức hấp dẫn không chỉ với thế giới quý tộc, người mẫu, những ngôi sao màn bạc và những nhà tạo mẫu mà cả đối với mọi người bình thường trên khắp các châu lục.
Ngọc được ứng dụng chủ yếu trong mỹ nghệ và trang sức, tuy nhiên một số loại với tính chất lý hóa đặc biệt có thể được ứng dụng trong khoa học kỹ thuật. Hồng ngọc và xa-phia thường được dùng trong kỹ thuật laser, tạo ra laser hồng ngọc hoặc laser xa-phia; làm chân kính của các dụng cụ cơ khí chính xác như trục của các bánh răng đồng hồ; hoặc các thấu kính đòi hỏi độ tinh khiết và bền như ống kính máy ảnh, các thấu kính hiển vi, mặt kính đồng hồ v.v. Kim cương, do độ cứng cao nhất trong số các khoáng chất thiên nhiên, được sử dụng nhiều trong cắt gọt, mài, giấy ráp đánh bóng và chỉ có kim cương mới cắt và đánh bóng được kim cương. Kim cương không màu và một số màu khác, ngoại trừ màu xanh, còn được ứng dụng chế tạo các điện trở do không dẫn điện, hoặc chất bán dẫn với kim cương xanh, cho các dụng cụ điện tử có khả năng chịu nhiệt và đòi hỏi độ bền cực cao. Nhờ độ cứng cơ học và ít phản ứng hóa học với một số hóa chất, kim cương cũng được ứng dụng để chế tạo một số máy móc chuyên dụng trong công nghệ địa chất như đầu mũi khoan.
Thần bí hơn, trong nhiều nền văn hóa người ta tin rằng một số loại ngọc có khả năng chữa các bệnh nhất định.
Quan niệm truyền thống
Tháng sinh của ngọc
Đối với một số nền văn hóa, mỗi loại ngọc có thể gắn với bản mệnh con người sinh trong những tháng nhất định:
Tháng 1: đá thạch lựu;
Tháng 2: thạch anh tím;
Tháng 3: ngọc xanh biển;
Tháng 4: kim cương;
Tháng 5: ngọc lục bảo;
Tháng 6: ngọc trai hoặc orthoclas (đá Mặt Trăng);
Tháng 7: ruby (hồng ngọc);
Tháng 8: peridot (olivin);
Tháng 9: sapphire (ngọc xa-phia);
Tháng 10: opan;
Tháng 11: topaz vàng nâu hoặc citrin;
Tháng 12: ngọc lam hoặc topaz màu xanh lam.
Mùa sinh của ngọc
Bốn mùa cũng được gắn với tứ quý hàng đầu của các loại ngọc: sức sống mùa xuân là ngọc lục bảo, cái nóng mùa hè là ánh nắng mặt trời trong ruby, tĩnh lặng mùa thu là màu xanh biếc của sapphire, lạnh lẽo mùa đông là vẻ đẹp lấp lánh trong kim cương.
Kỷ niệm ngày cưới
Các lễ kỷ niệm ngày cưới có những cái tên, bên cạnh Đám cưới Giấy (1 năm), Đám cưới Gỗ (5 năm), Đám cưới Đồng (10 năm), Đám cưới Pha lê (15 năm); Đám cưới Sứ (20 năm); Đám cưới Bạc (25 năm) và Đám cưới Vàng (50 năm) là các trường hợp tên những lễ kỉ niệm ngày cưới là của một loại ngọc:
30 năm: Đám cưới Ngọc trai;
40 năm: Đám cưới Hồng ngọc;
45 năm: Đám cưới Ngọc bích;
55 năm: Đám cưới Ngọc lục bảo;
60 năm: Đám cưới Kim cương.
Lựa chọn và bảo quản ngọc
Lựa chọn
Không chỉ kim cương, hầu hết các loại ngọc thường được lựa chọn dựa trên các tiêu chí về màu sắc (color), độ tinh khiết (clarity), kích thước (carat), kiểu dáng, đường cắt (cut) hay còn gọi là tiêu chuẩn 4C. Ngoài ra, đôi khi còn thấy có sự hiện diện của 6C với giá cả (cost) và giấy chứng nhận, kiểm định (certification). Những tiêu chuẩn đó thường được cụ thể hóa thành:
Về màu sắc, ngọc phải tươi sáng đồng đều, độ đậm nhạt phải tương ứng với nhau, đậm quá thì dễ chìm màu, nhạt quá thì lại không có sức hấp dẫn, hồng nên hồng màu huyết chim câu, xanh lam nên xanh như nền trời sau cơn mưa, kim cương phải trong suốt đến nỗi để ánh sáng lọt qua không có chút tạp sắc nào, ngọc lục bảo và jadeite phải có màu sắc rực rỡ.
Độ trong suốt tốt, phản quang mạnh, óng ánh, rất ít lỗi hoặc không có lỗi.
Về kích thước, ngọc càng to càng tốt, nhất là những loại ngọc cao cấp. Giá của ngọc tăng theo cấp số nhân khi trọng lượng của chúng tăng theo cấp số cộng.
Quý hiếm; bền.
Kiểu dáng thời thượng, công nghệ tinh xảo, các bề mặt cắt hoàn hảo.
Bảo quản ngọc
Vì đá ngọc có tính dầu không nên dùng nước để rửa, tránh việc dính chất dầu lên bề mặt của ngọc làm giảm độ sáng. Nếu ngọc bị bẩn, tốt nhất là dùng sóng siêu thanh để tẩy, dùng vải nhung, da hươu lau sạch hoặc dùng rượu thuần chất hoá học lau ướt đến khi ngọc sáng như cũ.
Đại đa số ngọc thiên nhiên có tính chất ổn định, không tan trong acid và kiềm, tuy nhiên cũng cần tránh tiếp xúc với hóa chất nhất là các loại mỹ phẩm.
Ngọc tuy bền nhưng không được tác động mạnh hoặc làm rơi, tránh bị nứt hoặc vỡ nứt. Không được để ngọc va chạm với vật cứng, tuyệt đối không phơi dưới ánh nắng mặt trời, khi không đeo nên cất trong hộp nữ trang có lót mềm.
Kim cương, hồng ngọc, lam ngọc có độ cứng rất cao, không được để cùng với các loại Ngọc khác, tránh làm sứt mẻ các loại ngọc khác.
Trân châu có độ cứng thấp, không chịu được ma sát, những chất cho thêm vào trân châu thường là cơ chất và Calci-Cacbon, vì vậy không được cho tiếp xúc với bất kỳ chất chua nào như muối chua, axit nitric và dấm, mồ hôi và các loại mỹ phẩm, tránh cho trân châu bị biến sắc hoặc mất đi độ cứng.
Một số viên ngọc nổi tiếng
Kim cương
Koh-I-Noor, có trọng lượng 186 carats, được phát hiện vào năm 1304, là viên kim cương có ánh chiết quang rực rỡ nhất nên còn gọi là "Núi ánh sáng".
Excelsior: có trọng lượng ban đầu là 995,2 carats được cắt làm 10 mảnh trong đó có 3 mảnh lớn nhất có trọng lượng 158, 147 và 130 carats. Các mảnh còn lại được cắt làm 21 viên từ 70 carats đến nhỏ hơn 1 carats.
Regent: nặng 410 carats khi chưa được mài, do một nô lệ Ấn Độ tìm thấy được năm 1701, là một viên kim cương đã chứng kiến những thăng trầm của lịch sử một số nước, đặc biệt là Pháp.
Blue Hope: Viên kim cương xanh lớn nhất thế giới, nặng 45,2 carats, mang tên "hy vọng" nhưng người ta tin rằng nó mang lại bất hạnh cho bất cứ ai sở hữu nó.
Cullinan được tìm thấy vào tháng 26 tháng 1 năm 1905 tại Nam Phi, có trọng lượng 3,106 carat. Sau đó Cullinan được cắt thành 9 viên nhỏ hơn, trong đó có một viên lớn nhất mang tên Cullian 1 hay Great Star nặng 530,2 carats.
Lesotho Promise: viên kim cương lớn thứ 15 của thế giới và là viên kim cương lớn nhất trong vòng 100 năm qua, nặng 603 carat.
Các loại ngọc khác
Ngọc trai: viên ngọc trai lớn nhất từ trước đến nay nặng khoảng 6,4 kg, được một người thợ lặn Hồi giáo Philippines vô danh tìm ra tại ngoài khơi của đảo Palawan.
Hồng ngọc tại Việt Nam: Viên rubby với biệt danh "Ngôi sao Việt Nam" có trọng lượng 2.160 gram, tương đương 10.800 ca-ra, được tìm thấy tại mỏ đá quý Tân Hương, xã Tân Hương, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái, được coi là quốc bảo Hồng ngọc Việt Nam.
Đánh giá
Triết gia La Mã cổ đại Pliny the Elder, khi trông thấy một viên đá quý đã thốt lên:"Đây, toàn bộ sự uy nghi của tạo hóa đều chứa đựng trong không gian nhỏ bé này, bộc lộ sự sáng tạo ưu tú", đại ý nói chỉ một hạt đá quý cũng đủ thể hiện cái đẹp của vạn vật.
Chú thích |
Vọng cổ, hay vọng cổ Bạc Liêu, là điệu nhạc rất thịnh hành ở Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Bắt nguồn từ bài "Dạ cổ hoài lang" (nghe tiếng trống đêm, nhớ chồng) của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu (tức Sáu Lầu). Vọng cổ là một trong những bài bản chính của sân khấu cải lương.
Sơ lược nguồn gốc và nhạc pháp
Bài "Dạ cổ hoài lang" có 20 câu, 2 nhóm đầu mỗi nhóm 6 câu, 2 nhóm sau mỗi nhóm 4 câu. Mỗi câu trong bài có 2 nhịp, gọi là nhịp đôi.
Ngay từ thời chỉ mới có nhịp đôi, bản "Dạ cổ hoài lang" đã được đặt lời khác. Việc đặt (ngôn ngữ nhạc Việt gọi là "soạn") lời ở các bản cổ nhạc không giống như đặt lời tân nhạc. Một bài tân nhạc khi đặt lời thì theo sát câu nhạc của lời trước, tức là theo đúng hay rất sát nốt nhạc trong mỗi stanza. Đặt lời một bản cổ nhạc giống như làm bài thơ họa: Theo đúng nốt nhạc (ngôn ngữ nhạc Việt gọi là chữ nhạc) ở cuối câu (chỗ dứt nhạc) và theo giọng bình - trắc ở những chữ đó.
Câu 2 nhịp, tuy nhiên, không thỏa mãn được nhu cầu của các nhà soạn nhạc. Bản nhạc (bản vọng cổ luôn gọi là "bản", không gọi là "bài") được tăng lên 4 nhịp, tức nhịp tư, trong khoảng thời gian 1927-1935. Sau đó tăng lên nhịp tám năm 1936-1945, và cũng khoảng thời gian này được mang tên bản "Vọng cổ". Từ nhịp tám lên nhịp 16, 32, 64, 128,... Bản thông dụng nhất hiện nay là bản nhịp 32.
Bản vọng cổ nhịp đôi, nhịp tư chỉ theo sát chữ nhạc ở chỗ dứt câu. Nhưng khi bản nhạc có nhiều nhịp, phải theo đúng chữ nhạc ở một số nhịp nhất định.
Thí dụ, câu 1 của bản nhịp đôi chỉ cần dứt ở chữ cống, theo chuẩn của bản Dạ cổ hoài lang.
Nhưng câu 1 của bản nhịp 32 phải có chữ hò ở nhịp 16, hò ở 20, xê ở 24, xang ở 28, cống ở 32. Ở bản 32 nhịp, tất cả các câu đều có xề (gọi là "xuống" xề) ở nhịp 4. (Trên thực tế, bản 32 nhịp thường câu 1 và 4 ngắn, chỉ có 16 nhịp sau, còn 16 nhịp đầu nói thơ hoặc nói lối hoặc xen tân nhạc.
Khi câu nhạc còn ngắn, bản nhạc chỉ gieo vần ở cuối câu. Lên tới nhịp 32, 64, các soạn giả bắt đầu gieo vần liên kết bên trong mỗi câu.
Các bản vọng cổ theo nhịp
Cùng với việc tăng số nhịp trong mỗi câu, bản vọng cổ ngày càng đa dạng thêm nhờ sự sáng tạo của các soạn giả, các nghệ sĩ làm bản vọng cổ ngày nay rất phong phú.
Vọng cổ nhịp đôi
Bản Vọng cổ nhịp đôi tức là bản Dạ cổ hoài lang nguyên thủy.
6 câu đầu trong bản này như sau, vần gieo mỗi câu một lần (trong đó có câu vần lưng tức yên vận):
Từ là từ phu tướng,
Bảo kiếng sắc phán (phong) lên đàng.(phán: sai bảo; không phải là phong)
Vào ra luống trông tin chàng.
Năm canh mơ màng.
Em luống trông tin chàng,
Ôi gan vàng thêm (quặn) đau.(thêm:đã đau nhiều rồi; quặn: đau lần đầu. Có lẽ "thêm" phù hợp hơn)
6 câu này có 6 chữ dứt câu như sau:
.......... cống
.......... xang
.......... hò
.......... hò
.......... xề
.......... liu
Những chữ nhạc này được dùng trong tuồng "Tham phú phụ bần" như sau:
(Đào:) Vì đâu nên xui khiến (cống)
Cha nỡ rẽ thúy chia uyên (xang)
Làm cho đôi ta đeo phiền (hò)
Mang nặng lời nguyền (hò)
(Kép:) Đành cam đứt câu nghĩa tình (xề)
Trên Thiên Hoàng xin chứg minh (liu)
...
Tới hết 20 câu thì hết bản.
Vọng cổ nhịp 4
Nhịp tư bắt đầu có từ năm 1927. Từ bản này, vọng cổ có bước thay đổi quan trọng: Chữ nhạc trong bài không theo hơi Bắc (tức Bắc chánh) nữa mà đổi sang hơi Bắc Oán. Dưới đây là sáu câu đầu bản "Khúc oan vô lượng" của soạn giả Huỳnh Thủ Trung tức Tư Chơi.
Đêm nào ngọn đèn khuya, mẹ đây chong trắng đĩa
Chàng ôi, nếu có gặp nhau họa chỉ trong giấc mộng huỳnh lương
Trời đất ôi! Vợ chồng tôi đang vui câu đầm ấm nơi cảnh gia đường
Vì ai gieo oan mà để cho thiếp phải cam dồn dập nơi khốn cảnh đoạn trường
Hơn bốn năm trường tựa nơi canh cửa thiếp trông chờ
Đã biết rằng tuyệt vô hy vọng mà lòng mong thiếp những hoài mong
...
Vọng cổ nhịp 8
Bản nhịp 8, từ năm 1936, bắt đầu ngân nga hơn bản nhịp tư. Người góp công làm bản nhịp tám được công chúng ưa chuộng phải kể đến nghệ sĩ Lưu Hoài Nghĩa tức Năm Nghĩa. Nhiều bản tuồng nhịp 8 tới nay vẫn còn nổi tiếng, như bản "Tô Ánh Nguyệt" của soạn giả Trần Hữu Trang:
Sau khi tôi có chết đi rồi, xin Cậu chứng kiến cho tấc lòng tôi mà tỏ hết khúc nói cho ai kia được rõ nỗi khổ tâm của tôi trước giờ tôi nhắm mắt
Dưới nấm mộ xanh, thân người mạng bạc, ngàn muôn năm linh hồn tôi họa chăng được tiêu tan khối hận chốn tuyền đài
Mười tám năm dư lắm lúc tôi muốn vạch mặt phơi gan mà than thở với đất trời
Nhưng mà mối hận tình nó nấu nung trong tim phổi, nghĩ bao nhiêu tội lỗi, gặp mặt ai tôi nói chẳng nên lời
Ngày hôm nay, tôi sắp lìa xa bao nhiêu kẻ thân yêu quý mến mà từ giã cõi đời
Cậu ôi, tôi nhờ cậu nói lại với má thằng Tâm rằng tôi mong giũ sạch nợ trần ai đặng thoát ra khỏi vòng tình thiên hận hải, vậy tôi xin có một đôi lời nhắn nhủ cùng với ai.
...
Vọng cổ nhịp 16
Tới bản 16, từ năm 1946, mỗi câu bắt đầu dài, như 6 câu sau đây, trong "Tôn Tẫn giả điên", nổi tiếng với giọng ca Út Trà Ôn:
Úy trời đất ôi! Nỗi đoạn trường, cũng vì tôi đây quá tin thằng Bàn Quyên là bạn thiết cho nên ngày hôm nay thân của tôi phải ra nông nỗi
Còn như công cuộc ngày hôm nay đây, bởi tôi không cẩn thận cho nên bạn tôi nó mới đành nhẫn tâm chặt lấy một bàn chơn tôi
Khi tôi còn ở trên non thì tôi quyết ẩn thân tu tâm dưỡng tánh, luyện thuốc trường sanh mong thành chánh quả đặng có tọa hưởng Bồ Đoàn
Nào hay đâu thằng Bàn Quyên nó lên năn nỉ ỷ ôi, lời ngon tiếng ngọt, nó nói rằng chúa của nó là một đấng minh quân chơn mạng. Bởi vậy cho nên nó bảo tôi một một, hai hai cũng phải xuống mà đầu hàng.
Cho nên khi ấy tôi mới hạ san, thì thầy của tôi có cho tôi một bức cẩm nang lại dặn tôi rằng: Hễ khi nào lâm nạn thì dở ra xem rồi liêu> chước biến quyền
Vậy thì tôi đây vọng nguyện với Tôn sư, khai thơ cứu mạng. Ủa sao tôi chẳng thấy điều chi lạ, chỉ thấy trong thơ có một chữ "Cuồng". Ờ, ờ, phải rồi, đây thầy tôi bảo tôi giả điên đặng có thoát thân.
Thời kỳ vọng cổ nhịp 16 cũng là lúc câu vọng cổ có trộn vô những câu nói thơ (tức ngâm thơ, theo điệu Tao Đàn hoặc Vân Tiên) và những câu hò. Đây là sáng kiến của NSND Út Trà Ôn ảnh hưởng cho tới nay. Trong bản "Tôn Tẫn giả điên", Út Trà Ôn nói thơ trong câu 11-12 và hò trong câu 13 như sau:
11. Bây giờ buồn quá, để nói thơ cho bà con cô bác nghe chơi: Buồn cười vua Trụ đa đoan, mê nàng Đắc Kỷ rồi giết oan hết cả trào. Nói qua tới lớp vua U mà yêu ấp ả má đào
12. Ẵm ôm nàng Bao Tỉ giặc vào cũng không hay. Còn vua Kiết có tánh rồi hay say, nghe lời của Muội Hỷ mà lại giết ngay tôi Long Phùng.
13. Hò hơ... chết tôi, tôi chịu xin đừng bận bịu bớ điệu chung tình. Hò hơ... con nhạn bay cao rồi khó bắn, hò hơ... con cá ở ao quỳnh cũng khó câu...
Từ khi có bản vọng cổ 16 nhịp, câu nhạc đã bắt đầu đa dạng phong phú.
Vọng cổ 32 nhịp
Bản vọng cổ 32 nhịp ra đời năm 1941, do nhạc sĩ Trần Tấn Hưng (tức Năm Nhỏ) chế tác, đến năm 1955, thì được đưa ra phổ biến rộng rãi, là bản vọng cổ được coi là tiêu chuẩn hiện nay, mặc dù cũng đã xuất hiện bản 64 nhịp và 128 nhịp. Trần Tấn Hưng tâm đắc nhất là bản Vọng cổ và tiền thân của nó là bản Dạ cổ hoài lang, sở trường của ông lại là chiếc đàn ghi ta phím lõm (lục huyền cầm) nên rất thích hợp với giọng mùi mẫn của loại nhạc điệu này. Năm 1936, Trần Tấn Hưng thọ giáo thầy Nhạc Khị, nhưng Nhạc Khị lúc này đã già yếu nên việc dạy đờn cho các môn sinh mới đều ủy thác cho các đệ tử là Ba Chột, Sáu Lầu, vì vậy Trần Tấn Hưng tuy làm lễ bái sư với Nhạc Khị nhưng kể như chính thức mở đầu cuộc đời nghệ thuật từ hai vị sư huynh này. Theo nhận xét của ông bản Vọng cổ 20 câu nhịp 16, về số câu thì quá dài còn lòng câu của mỗi câu lại ngắn, chỉ phù hợp với đờn ca tài tử không phù hợp với sân khấu cải lương; ông muốn rút số câu lại còn 6 câu và mở bung mỗi câu thành 32 nhịp cho diễn viên dễ trình diễn hơn. Cuối cùng Trần Tấn Hưng đã thành công; ông đã độc tấu bản Vọng cổ nhịp 32 với chiếc đờn ghi ta trong ngày giỗ tổ ngày 12 tháng 8 năm Tân Tỵ (1941). Hôm đó, mọi người đều rất hân hoan, ai nấy đều mỗi câu chúc mừng thành quả của người "em nhỏ"; nhạc sĩ Cao Văn Lầu mừng rỡ hơn ai hết vì ông đã thấy bản Vọng cổ - hóa thân của Dạ cổ hoài lang thêm một lần chuyển mình và phát triển, ông phát biểu: Bản Dạ cổ hoài lang nhịp đôi do tôi đặt ra, nhưng biến đổi thành bản Vọng cổ có nhiều nhịp như hiện nay là do công của Trịnh Thiên Tư, Năm Nghĩa, Mộng Vân và Năm Nhỏ. Bản Vọng cổ nhịp 32 của nhạc sĩ Trần Tấn Hưng đã đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình phát triển của Vọng cổ nói riêng và Cải lương Nam Bộ nói chung; đã góp phần tạo điều kiện cho người sáng tác cổ nhạc, biên soạn kịch bản và diễn viên sân khấu có điều kiện để thực hiện được hết khả năng và nghệ thuật của mình bởi nó dung nạp được tất cả các thể hơi từ Bắc, Hạ, Nam, Oán... do đó, nó được mệnh danh là Hoàng đế của thể loại âm nhạc tài tử và sân khấu ca kịch cải lương.
Từ bản 32 nhịp, mỗi câu bắt đầu có vần gieo ngay trong câu, vì 32 nhịp là quãng quá xa để chỉ có một vần. Câu dưới đây trong bản "Nắng chiều quê ngoại" của soạn giả NSND Viễn Châu là một thí dụ:
Mấy nếp nhà tranh ẩn mình sau hàng tre rủ bóng đang vươn lên ngọn khói lam chiều. Cảnh hoàng hôn sao nhuộm vẻ tiêu điều. Khóm lau thưa xào xạc trên lối đường mòn vẳng lặng cô liêu; nhà Ngoại tôi khuất sau mấy lũy dừa xanh soi bóng dịu hiền, bên cạnh mái đình làng đìu hiu cỏ phủ.Bản vọng cổ 32 nhịp đầy đủ có 6 câu. Tức là ngắn hơn các bản nhịp 8 thường có 20 câu. Tuy nhiên, ngay cả sáu câu cũng có khi không sử dụng hết. Bản vọng cổ khi ghi ra giấy, do đó, thường có đánh số câu để người nghệ sĩ biết bản nhạc sử dụng câu nào. Hai câu 1 và 4 thường chỉ có 16 nhịp cuối câu.
Khi bản vọng cổ đã tới 32 nhịp, nhiều soạn giả chêm vô những câu nói giặm. Để nghệ sĩ vô ca vọng cổ cho êm, soạn giả cũng thường gối đầu bằng một khúc nói lối văn xuôi, những câu nói lối văn vần (lục bát, song thất lục bát, tứ tuyệt, hoặc cả thơ mới), hoặc một bản ngắn cổ điển như Hành vân, Sương chiều, Lý Cái Mơn hoặc tiêu biểu là Lý con sáo.
Các bài vọng cổ, tân cổ
caco
24 giờ phép (Tân nhạc: Trúc Phương; cổ nhạc: Loan Thảo)
Ai cho tôi tình yêu (Tân nhạc: Trúc Phương; cổ nhạc: Hoàng Song Việt/NSND Viễn Châu)
Ai lên xứ hoa đào (Tân nhạc: Hoàng Nguyên; cổ nhạc: NSND Viễn Châu)
Ai ra xứ Huế (Nhạc: Duy Khánh; lời vọng cổ: NSND Viễn Châu)
Ăn năn (Tân nhạc: Hoàng Trang; cổ nhạc: NSND Viễn Châu)
Anh Ba Khía (Tân nhạc: Sơn Hạ; cổ nhạc: Sơn Hạ/Trường Giang/Lâm Hữu Tặng/...)
Anh hãy về đi (Tân nhạc: Ngân Trang – Song Đông; cổ nhạc: Thế Châu)
Ánh lửa Mê Linh (Tác giả: NSND Viễn Châu)
Anh về miền Tây (Nhạc: Minh Vy; lời vọng cổ: Thanh Đông)
Áo em chưa mặc một lần (Tân nhạc: Hoài Linh; cổ nhạc: Loan Thảo)
Áo cưới màu hoa cà (Tân nhạc: Hùng Linh; cổ nhạc: Loan Thảo)
Áo mới Cà Mau (Tân nhạc: Thanh Sơn; cổ nhạc: Phạm Văn Đằng/Hồng Phượng/Thanh Phúc/Viễn Châu...)
Áo vá người vợ hiền (Tác giả: Kiên Giang)
Ba giờ khuya (Tác giả: NSND Viễn Châu)
Bà mẹ quê (Tân nhạc: Phạm Duy; cổ nhạc: Loan Thảo)
Bà mẹ sông Cầu (Thơ: Thanh Tùng; tân nhạc: Hữu Vang; cổ nhạc: Lam Tuyền)
Bạc Liêu hoài cổ (Nhạc: Thanh Sơn; lời vọng cổ: Hoàng Song Việt)
Bạc trắng tình đời (Tân nhạc: Minh Khang; cổ nhạc: Đăng Minh)
Bạch Hải Đường (Tác giả: Viễn Châu)
Bạch Thu Hà (Tác giả: Viễn Châu)
Bâng khuâng Trường Sa (Thơ: Nguyễn Thế Kỷ; nhạc: Lê Đức Trung; lời vọng cổ: Nguyễn Đức Trọng)
Bánh bông lan (Tác giả: Loan Thảo)
Bao la tình ngoại (Tác giả: Thanh Tuyền)
Bát cơm cúng mẹ (Tác giả: Viễn Châu)
Bên đền tưởng niệm (Sáng tác: Trần Hiền Phương)
Bên rặng ô môi (Tác giả: Viễn Châu)
Bến vắng chiều thu (Sáng tác: Viễn Châu)
Biên giới về khuya (Tác giả: Viễn Châu)
Biệt Kinh kỳ (Tác giả: Viễn Châu)
Bốn thằng con (Tác giả: Viễn Châu)
Bông bí vàng (Nhạc: Bắc Sơn; lời vọng cổ: Dương Đình Trí)
Bông bồn bồn rụng trắng (Tác giả: Linh Trúc)
Bông hồng cài áo (Tân nhạc: Phạm Thế Mỹ; cổ nhạc: Bạch Tuyết/...)
Bông súng trắng (Tác giả: Ngô Hồng Khanh)
Bức thư Tư Ếch (Tác giả: Viễn Châu)
Bức tranh hòa bình (Tân nhạc: Hoài Linh; cổ nhạc: Loan Thảo)
Buồng cau quê ngoại (Tác giả: Thu An)
Cà phê miệt vườn (Tân nhạc: Minh Vy; cổ nhạc: Phạm Văn Phúc/Trường Giang)
Cám ơn (Tân nhạc: Ngân Khánh; cổ nhạc: Loan Thảo)
Căn nhà màu tím (Tân nhạc: Hoài Linh; cổ nhạc: Loan Thảo)
Căn nhà ngoại ô (Nhạc: Anh Bằng; lời vọng cổ: Loan Thảo)
Cánh thiệp đầu xuân (Tân nhạc: Lê Dinh, Minh Kỳ; cổ nhạc: Hoàng Song Việt/Viễn Châu)
Câu chuyện đầu năm (Tân nhạc: Hoài An; cổ nhạc: Loan Thảo)
Cây dừa nước mồ côi (Thơ: Hồ Kiên Giang; lời vọng cổ: Trần Việt Liêm)
Cha ơi (Sáng tác: Dương Đình Trí)
Chàng là ai? (Tân nhạc: Nguyễn Hữu Thiết; cổ nhạc: Viễn Châu)
Chén cơm cúng mẹ (Sáng tác: Lê Văn Đương)
Chỉ có một mình anh (Tác giả: Viễn Châu)
Chiếc xuồng cui (Tác giả: Văn Hồng Cẩm)
Chiều cuối tuần (Nhạc: Trúc Phương; lời vọng cổ: Viễn Châu)
Chiều nước lũ (Tân nhạc: Vinh Sử; cổ nhạc: Viễn Châu)
Chim trắng mồ côi (Nhạc: Minh Vy, Hồng Xương Long; lời vọng cổ: Phạm Văn Đằng/Viễn Châu)
Chợ Mới (Tác giả: Trọng Nguyễn)
Chó mực đầu cáo (Sáng tác: Viễn Châu)
Chút tình dạ cổ hoài lang (Tác giả: Viễn Châu)
Chuyến đi về sáng (Tân nhạc: Lê Dinh; cổ nhạc: Yên Lang)
Chuyến tàu hoàng hôn (Tân nhạc: Hoài Linh, Minh Kỳ; cổ nhạc: Loan Thảo/Tường Châu/...)
Chuyến xe cuối tuần (Tác giả: Viễn Sơn)
Cô bán đèn hoa giấy (Sáng tác: Quy Sắc)
Cô gái bán sầu riêng (Tác giả: Viễn Châu)
Cô hàng dừa Xiêm (Tân nhạc: Mạnh Phát; cổ nhạc: Yên Sơn)
Cô lái đò (Nhạc: Nguyễn Đình Phúc; lời vọng cổ: NSND Viễn Châu)
Cơn bão biển (Sáng tác: NSND Thanh Tuấn)
Con đường mang tên em (Nhạc: Trúc Phương; lời vọng cổ: Loan Thảo)
Con đường xưa em đi (Thơ: Hồ Đình Phương; tân nhạc: Châu Kỳ; cổ nhạc: Loan Thảo)
Con gái của mẹ (Tân nhạc: Giao Tiên; cổ nhạc: Loan Thảo)
Còn thương rau đắng mọc sau hè (Tân nhạc: Bắc Sơn; cổ nhạc: Thanh Vũ/...)
Con trai miền Tây (Nhạc: Vũ Quốc Bình; lời vọng cổ: Trường Giang)
Dạ cổ hoài lang (Nguyên tác: Cao Văn Lầu/lời vọng cổ: Tô Thiên Kiều)
Đài hoa dâng Bác (Sáng tác: Trần Nam Dân)
Đám cưới đầu xuân (Tân nhạc: Trần Thiện Thanh; cổ nhạc: Loan Thảo)
Đâu lời đoan thệ (Tác giả: Viễn Châu)
Đau xót lý chim quyên (Tân nhạc: Vũ Đức Sao Biển; cổ nhạc: Bạch Tuyết)
Đau xót lý con cua (Nhạc: Hồng Xương Long, Minh Vy; lời vọng cổ: Hồng Hạnh/Viễn Châu)
Đêm Gành Hào nghe điệu hoài lang (Nhạc: Vũ Đức Sao Biển; lời vọng cổ: Quốc Khánh/...)
Đêm lạnh trong tù (Tác giả: NSND Viễn Châu)
Đêm mộng hồ Tây (Sáng tác: Thu An)
Đêm tàn bến Ngự (Tân nhạc: Dương Thiệu Tước; cổ nhạc: NSND Viễn Châu)
Đêm tóc rối (Tác giả: Hàn Châu)
Đèn trung thu treo cành mận (Sáng tác: Quy Sắc)
Dệt chặng đường xuân (Tác giả: Anh Đông)
Đi hát (Tác giả: NSND Viễn Châu)
Diễm xưa (Tân nhạc: Trịnh Công Sơn; cổ nhạc: Viễn Châu)
Điệu buồn phương Nam (Tân nhạc: Vũ Đức Sao Biển; lời vọng cổ: Anh Kiệt)
Diệu kỳ sức sống Cải lương (Tác giả: Hoàng Song Việt)
Đời (Tác giả: NSND Viễn Châu)
Đợi chờ (Sáng tác: NSND Viễn Châu)
Đội gạo đường xa (Sáng tác: Kiên Giang)
Đồi tím hoa sim (Tân nhạc: Vinh Sử; cổ nhạc: Ngọc Thuyết)
Đời vũ nữ (Tác giả: Viễn Châu)
Dòng sông quê em (Tân nhạc: Trương Quang Lục; cổ nhạc: Huyền Nhung)
Đưa em vào hạ (Tân nhạc: Trầm Tử Thiêng; cổ nhạc: Loan Thảo)
Đừng cắt sợi chỉ hồng (Tác giả: Loan Thảo)
Đừng gọi anh bằng chú (Nhạc: Anh Thi; cổ nhạc: Văn Giai)
Đừng nói xa nhau (Tân nhạc: Châu Kỳ; cổ nhạc: Loan Thảo)
Dương Quý Phi (Sáng tác: Viễn Châu)
Đường xưa lối cũ (Tân nhạc: Hoàng Thi Thơ; cổ nhạc: Loan Thảo)
Duyên phận (Tân nhạc: Thái Thịnh; cổ nhạc: Hoài Nam, Thiện Thanh)
Duyên quê (Tác giả: Viễn Châu)
Em gái miền Tây (Tân nhạc: Nhất Sinh; cổ nhạc: Tân An)
Em ơi đừng khóc nữa (Tác giả: NSƯT Thanh Kim Huệ)
Em sắp về chưa (Tân nhạc: Châu Kỳ; cổ nhạc: Tô Lang)
Em thương người nghệ sĩ (Tác giả: NSND Viễn Châu)
Ga buồn (Tác giả: Ngô Hồng Khanh)
Gái nhà nghèo (Tân nhạc: Vinh Sử; cổ nhạc: Loan Thảo)
Gánh chè khuya (Sáng tác: Thu An)
Gánh lúa đêm trăng (Tác giả: Hải Đăng)
Gánh nước đêm trăng (Tác giả: NSND Viễn Châu)
Gạo trắng trăng thanh (Nhạc: Hoàng Thi Thơ; lời vọng cổ: Loan Thảo)
Giấc mơ cánh cò (Sáng tác: Lâm Hữu Tặng)
Giấc mộng lá sầu riêng (Tác giả: NSND Viễn Châu)
Giọng ca dĩ vãng (Tân nhạc: Bảo Thu; cổ nhạc: Loan Thảo)
Hai lúa lên đời (Tác giả: NSƯT Thanh Nam)
Hai sắc hoa ti-gôn (Thơ: T.T.Kh.; nhạc: Hà Phương; lời vọng cổ: NSND Viễn Châu)
Hán Đế biệt Chiêu Quân (Sáng tác: Viễn Châu)
Hận Kinh Kha (Tác giả: NSND Viễn Châu)
Hàn Mặc Tử (Sáng tác: NSND Viễn Châu)
Hành trình trên đất phù sa (Tân nhạc: Thanh Sơn; cổ nhạc: Đình Trí/...)
Hãy quên nhau (Tân nhạc: Diêm An; cổ nhạc: Loan Thảo)
Hoa lan trắng (Tác giả: NSND Viễn Châu)
Hoa mua trắng (Tác giả: Ngự Bình)
Hoa trôi dòng nước bạc (Sáng tác: Viễn Châu)
Hoa trôi dòng thác lũ (Tác giả: Viễn Châu)
Hồi âm (Tân nhạc: Châu Kỳ; cổ nhạc: Viễn Châu)
Hòn vọng phu (Nhạc: Lê Thương; lời vọng cổ: Viễn Châu/...)
Kẻ ở miền xa (Tân nhạc: Trúc Phương; cổ nhạc: Loan Thảo)
Kép hát làm vua (Tác giả: Viễn Châu)
Khóc Thanh Nga (Sáng tác: Hữu Phước)
Không bao giờ ngăn cách (Nhạc: Trần Thiện Thanh; cổ nhạc: Loan Thảo)
Không bao giờ quên anh (Tân nhạc: Hoàng Trang; cổ nhạc: Viễn Châu)
Khúc nhạc từ ly (Sáng tác: Loan Thảo)
Khung trời kỷ niệm (Nhạc: Hoàng Thanh Việt; cổ nhạc: Loan Thảo)
Kiếp cầm ca (Tân nhạc: Huỳnh Anh; cổ nhạc: Viễn Châu)
Kiều Phong – A Châu (Tác giả: Yên Trang)
Kiều Phong – A Tỷ Ký ức hoa đào (Tác giả: Diệp Vàm Cỏ)
Lá sầu riêng (Nhạc: Hoàng Cầm – Nguyễn Chi; lời vọng cổ: Viễn Châu)
Lá thắm (Tác giả: Trần Nam Dân)
Lá trầu xanh (Sáng tác: Viễn Châu)
Lan và Điệp (Tân nhạc: Mạc Phong Linh, Mai Thiết Lĩnh; cổ nhạc: Viễn Châu)
Lắng tiếng mưa rừng (Sáng tác: Viễn Châu)
Lâu đài tình ái (Tân nhạc: Trần Thiện Thanh; cổ nhạc: Tô Thiên Kiều/...)
Lấy chồng xa (Sáng tác: Võ Đông Điền)
Lỡ mai mình xa nhau (Tân nhạc: Lưu Trần Lê; cổ nhạc: Loan Thảo)
Lời nguyện cầu lúc nửa đêm (Tác giả: Viễn Châu)
Lối về xóm nhỏ (Nhạc: Trịnh Hưng; lời vọng cổ: Quế Chi/Viễn Châu)
Lời yêu chưa ngỏ (Tân nhạc: Vinh Sử; cổ nhạc: Loan Thảo)
Lòng dạ đàn bà (Sáng tác: Viễn Châu)
Lòng mẹ (Nhạc: Y Vân; lời vọng cổ: Loan Thảo)
Lòng mẹ hậu phương Lửa gần rơm (Tân nhạc: Trần Trinh; cổ nhạc: Hoàng Song Việt)
Lý chim quyên (Sáng tác: Loan Thảo)
Lý ngựa ô (Tác giả: Loan Thảo)
Ly rượu đoàn viên (Tác giả: Thu An)
Ly rượu mừng (Nhạc: Phạm Đình Chương; cổ nhạc: Loan Thảo)
Mất nhau rồi (Tân nhạc: Giao Tiên; cổ nhạc: Loan Thảo)
Màu tím hoa sim (Nhạc: Trần Hoàn; lời vọng cổ: Loan Thảo)
Mấy độ thu về (Nhạc: Minh Kỳ – Hoài Linh; lời vọng cổ: Kiên Giang)
Mây trắng biên thùy (Tân nhạc: Minh Kỳ; cổ nhạc: Kiên Giang)
Mây trắng mùa thu (Tác giả: Thu An)
Mẹ dạy con (Tác giả: Viễn Châu)
Mẹ ơi hãy yên lòng (Tác giả: Võ Đông Điền)
Mẹ tôi (Tân nhạc: Nhị Hà; cổ nhạc: Đình Trí)
Mình ơi! (Tân nhạc: Minh Vy; cổ nhạc: Viễn Châu)
Mồ em Phượng (Tác giả: Viễn Châu)
Mơ hoa (Nhạc: Hoàng Giác; lời vọng cổ: NSƯT Xuân Hỷ)
Món quà giáng sinh (Sáng tác: Loan Thảo)
Mộng ban đầu (Tân nhạc: Hoàng Trọng; cổ nhạc: Quế Chi)
Một chuyến xe hoa (Tân nhạc: Lê Dinh, Minh Kỳ; cổ nhạc: Huỳnh Văn Thanh)
Mưa chiều thứ bảy (Tân nhạc: Lê Dinh, Thu Hồ; cổ nhạc: Loan Thảo)
Mùa hoa đào (Sáng tác: Việt Sơn)
Mưa trên phố Huế (Tân nhạc: Minh Kỳ; cổ nhạc: NSND Viễn Châu)
Mùa xuân của mẹ (Tân nhạc: Trịnh Lâm Ngân; cổ nhạc: Loan Thảo)
Mỹ Tho mùa trăng bến hẹn (Tác giả: Trọng Nguyễn)
Năm con vợ (Tác giả: Viễn Châu)
Nắng chiều quê ngoại (Sáng tác: Viễn Châu)
Nàng Son (Sáng tác: Thành Phát)
Nấu bánh đêm xuân (Sáng tác: Quy Sắc)
Nén hương hoài niệm (Tác giả: Viễn Châu)
Ngày em về thăm quê tôi (Tân nhạc: Y Vân; cổ nhạc: Loan Thảo)
Ngày buồn (Tân nhạc: Lam Phương; cổ nhạc: Thế Châu)
Ngày hạnh phúc (Nhạc: Lam Phương; lời vọng cổ: Loan Thảo)
Nghẹn ngào (Tân nhạc: Lam Phương; cổ nhạc: Loan Thảo)
Ngợi ca quê hương em (Nhạc: Thanh Sơn; lời vọng cổ: Đình Trí)
Người đánh đàn trên sông Mỹ Thuận (Tác giả: NSND Viễn Châu)
Người gác hải đăng (Tác giả: Nguyễn Thiên Đăng)
Người giãi bày tâm sự (Tân nhạc: Trúc Phương; cổ nhạc: Thế Châu)
Người lính già vui vẻ (Tác giả: Thanh Trúc)
Người mẹ đào hầm (Tác giả: Trần Nam Dân)
Người ngoài phố (Tác giả: Viễn Châu)
Người về trong mưa (Tác giả: Thu An)
Người yêu nay đã có chồng (Tác giả: Viễn Châu)
Người xa về thành phố (Tân nhạc: Trúc Phương; cổ nhạc Loan Thảo
Nhẫn cỏ cho em (Tân nhạc: Vinh Sử; cổ nhạc: Loan Thảo)
Nhớ mẹ (Tác giả: Viễn Châu)
Nhớ mẹ hiền (Sáng tác: Phan Thanh Vân)
Nhớ mẹ lý mồ côi (Tân nhạc: Trương Quang Tuấn; cổ nhạc: Viễn Châu/Minh Thuận/...)
Nhớ Nha Trang (Tác giả: Minh Thùy)
Nhớ sông (Tác giả: Ngọc Tư, Trúc Linh)
Những ngày xưa thân ái (Nhạc: Phạm Thế Mỹ; lời vọng cổ: Loan Thảo)
Ni cô và kiếm khách (Tác giả: Quy Sắc)
Ni cô và lão ăn mày (Sáng tác: Viễn Châu)
Nỗi buồn của tôi (Tác giả: Văn Hường)
Nỗi buồn mẹ tôi (Nhạc: Minh Vy; lời vọng cổ: Viễn Châu/...)
Nỗi buồn hoa phượng (Tân nhạc: Thanh Sơn; cổ nhạc: Loan Thảo)
Nỗi lòng xa quê (Tác giả: Minh Nõn)
Nỗi mừng ngày cưới (Tác giả: Kiên Giang)
Nỗi niềm câu hát quê hương (Tác giả: Hữu Sơn)
Nụ cười xuân (Tác giả: Thu An)
Nụ hồng (Tân nhạc: Trần Hữu Bích; cổ nhạc: Thanh Vũ)
Nụ tầm xuân (Tân nhạc: Phạm Duy; cổ nhạc: Loan Thảo)
Nửa đêm ngoài phố (Tân nhạc: Trúc Phương; cổ nhạc: Hoàng Song Việt)
Núm ruột quê hương (Tác giả: Hải Đăng)
Nước mắt quê hương (Tân nhạc: Hồ Đình Phương, Châu Kỳ; cổ nhạc: Thế Châu)
Ông bà anh (Tân nhạc: Lê Thiện Hiếu; cổ nhạc: Ngọc Quyền/Tô Thiên Kiều)
Ông lão chèo đò (Sáng tác: Viễn Châu)
Phận làm dâu (Tác giả: Quy Sắc)
Pháp sư giải nghệ (Sáng tác: Viễn Châu)
Phút cuối (Tân nhạc: Lam Phương; cổ nhạc: Loan Thảo)
Quả tim bất diệt (Tác giả: Viễn Châu)
Quán gấm đầu làng (Tân nhạc: Giao Tiên; cổ nhạc: Minh Tâm)
Quán nửa khuya (Tác giả: Yên Lang)
Quê anh quê em (Tác giả: Trọng Nguyễn)
Quê hương (Thơ: Đỗ Trung Quân; nhạc: Giáp Văn Thạch; lời vọng cổ: Phan Văn Thanh)
Ru lại câu hò (Tân nhạc: Vũ Quốc Việt; cổ nhạc: Hoàng Song Việt/...)
Rừng lá thấp (Tân nhạc: Trần Thiện Thanh; cổ nhạc: Loan Thảo)
Rước tình về với quê hương (Nhạc: Hoàng Thi Thơ; lời vọng cổ: Loan Thảo)
Sa mưa giông (Tân nhạc: Bắc Sơn; cổ nhạc: Anh Kiệt)
Sân ga chỉ có một người (Sáng tác: Viễn Châu)
Sao chưa thấy hồi âm (Tân nhạc: Châu Kỳ; cổ nhạc: Viễn Châu)
Sầu vương ý nhạc (Tác giả: Viễn Châu)
Sông quê (Nhạc: Đinh Trầm Ca; cổ nhạc: Huỳnh Nguyên)
Sương lạnh chiều đông (Tân nhạc: Mạnh Phát; cổ nhạc: Loan Thảo)
Tâm sự Mai Đình (Sáng tác: Viễn Châu)
Tâm sự Mộng Cầm (Tác giả: Viễn Châu)
Tâm sự người viễn khách (Tác giả: NSND Viễn Châu)
Tần Quỳnh khóc bạn (Tác giả: Viễn Châu)
Tặng đời chiếc nón bài thơ (Sáng tác: Trần Phán)
Táo quân cải lương chầu Thượng đế (Tác giả: Viễn Châu)
Tàu đêm năm cũ (Tân nhạc: Trúc Phương; cổ nhạc: Viễn Châu)
Tàu qua sân ga (Tác giả: Ngô Hồng Khanh)
Thành phố Hồ Chí Minh (Sáng tác: Trần Nam Dân)
Theo mẹ học thiền (Tác giả: NSƯT Diệu Hiền)
Thì trả cho nhau (Tác giả: Yên Sơn)
Thiên duyên tiền định (Tân nhạc: Hoài Linh; cổ nhạc: Tô Thiên Kiều)
Thư cho vợ hiền (Tân nhạc: Song Ngọc; cổ nhạc: Thế Châu)
Thư xuân trên rừng cao (Tân nhạc: Trịnh Lâm Ngân; cổ nhạc: Loan Thảo)
Thương con cá rô đồng (Nhạc: Sơn Hạ; lời vọng cổ: Jimmy Trần)
Thương hoài ngàn năm (Tác giả: Dương Đình Trí/...)
Thương hoài ngàn năm (Tân nhạc: Phạm Mạnh Cương; cổ nhạc: ?)
Thương màu áo lam (Tân nhạc: Vũ Ngọc Toản; cổ nhạc: Bạch Tuyết)
Thương nhau lý tơ hồng (Nhạc: Trương Quang Tuấn; lời vọng cổ: Viễn Châu)
Thương quá Việt Nam (Tân nhạc: Phạm Thế Mỹ; cổ nhạc: Viễn Châu)
Thương về miền Trung (Tân nhạc: Duy Khánh; cổ nhạc: Viễn Châu/...)
Thương về quê mẹ (Tác giả: Võ Nguyễn Huê Hồng)
Tiền (Tác giả: NSND Viễn Châu)
Tiếng chày trên sóc Bombo (Tân nhạc: Xuân Hồng; cổ nhạc: NSND Viễn Châu)
Tiếng dân chài (Tân nhạc: Phạm Đình Chương; cổ nhạc: Loan Thảo)
Tiếng hát Trương Chi (Tác giả: Quy Sắc)
Tiếng hò sông Hậu (Sáng tác: Điêu Huyền)
Tiếng quốc đêm trăng (Tân nhạc: Vũ Đức Sao Biển; cổ nhạc: Anh Kiệt)
Tiếng rao ngày cũ (Tác giả: Thu An)
Tiếu ngạo giang hồ (Sáng tác: Yên Trang)
Tìm con (Sáng tác: Viễn Châu)
Tình anh bán chiếu (Tác giả: Viễn Châu)
Tình anh lính chiến (Tân nhạc: Lam Phương; cổ nhạc: Yên Lang)
Tình đất đỏ miền Đông (Nhạc: Trần Long Ẩn; cổ nhạc: Loan Thảo)
Tình đời (Tân nhạc: Lam Phương; cổ nhạc: Loan Thảo)
Tình đồng chí (Thơ: Chính Hữu; nhạc: Minh Quốc; lời vọng cổ: Thanh Vũ)
Tình không muộn (Tác giả: Hà Nam Quang)
Tình mẹ con (Sáng tác: Nhị Kiều)
Tình phụ tử (Sáng tác: Quy Sắc)
Tình quê hương (Nhạc: Việt Lang; lời vọng cổ: Bạch Tuyết)
Tình sử Bạch Thu Hà (Tác giả: Viễn Châu)
Tình sử Trương Chi (Sáng tác: Huỳnh Thanh Tuấn)
Tình xuân (Sáng tác: Hoàng Song Việt)
Tôi đi làm rể (Tác giả: Viễn Châu)
Tôn Tẫn giả điên (Tác giả: Viễn Châu)
Trả lại thời gian (Sáng tác: Viễn Châu)
Trách anh đa tình (Tác giả: Đinh Thiên Hương)
Trai tài gái sắc (Nhạc: Thu Giang; lời vọng cổ: Bạch Mai)
Trăng rụng xuống cầu (Tân nhạc: Hoàng Thi Thơ; cổ nhạc: Tứ Lang)
Trăng thu dạ khúc (Tác giả: Hải Đăng)
Trên đường lưu diễn (Tác giả: NSND Viễn Châu)
Trọng Thủy – Mỵ Châu (Sáng tác: NSND Viễn Châu)
Trống trường thành (Sáng tác: Loan Thảo)
Trùm sò đi bụi (Tác giả: Viễn Châu)
Trường hận (Tác giả: Viễn Châu)
Tứ đổ tường (Sáng tác: NSND Viễn Châu)
Tư Ếch coi cải lương (Tác giả: Viễn Châu)
Tư Ếch đại chiến Văn Hường (Tác giả: Viễn Châu)
Tu là cội phúc (Sáng tác: Viễn Châu)
Tựa tuồng sân khấu (Tác giả: NSND Viễn Châu)
Tương phùng nơi đất khách (Sáng tác: Yên Lang)
Tuyết lạnh (Tân nhạc: Lê Dinh – Phương Trà; cổ nhạc: Loan Thảo)
Ước mơ cô thợ cấy (Sáng tác: Thanh Bình)
Vang mãi điệu hoài lang (Sáng tác: Hoàng Song Việt)
Về chung một mái nhà (Nhạc: Xuân Tiên – Y Vân; lời vọng cổ: Nguyễn Thiên Đặng)
Về lại U Minh (Tác giả: Ngô Hồng Khanh)
Về miền Tây (Tân nhạc: Tô Thanh Tùng; cổ nhạc: Hoàng Song Việt)
Về miền Tây (Thơ: Hoàng Tuấn Anh; nhạc: Đình Thậm; lời vọng cổ: Đỗ Linh)
Ve mực mồng tơi (Tác giả: Quy Sắc)
Về Sa Giang (Sáng tác: Loan Thảo)
Về thăm sông Trẹm quê em (Sáng tác: Ngô Hồng Khanh)
Vẹn giữ chữ chung tình (Sáng tác: Liêm Tâm)
Vĩnh biệt (Tân nhạc: Lam Phương; cổ nhạc: Loan Thảo)
Võ Đông Sơ (Tác giả: Viễn Châu)
Vó ngựa trên đồi cỏ non (Tân nhạc: Giao Tiên; cổ nhạc: Thế Châu)
Vợ người ta (Tân nhạc: Phan Mạnh Quỳnh; cổ nhạc: Anh Kiệt)
Vợ tôi đẹp ác (Tác giả: Viễn Châu)
Vợ tôi nói tiếng Tây (Sáng tác: Viễn Châu)
Vợ tôi tôi sợ (Tác giả: Viễn Châu)
Vọng cổ buồn (Nhạc: Minh Vy; lời vọng cổ: Lâm Trí Long)
Vòng tay nào cho em (Tân nhạc: Hoàng Lê Vũ; cổ nhạc: Loan Thảo)
Vườn dâu lá mới (Nhạc: Phạm Thế Mỹ; lời vọng cổ: Loan Thảo)
Xa vắng (Nhạc: Y Vân; lời vọng cổ: Loan Thảo)
Xin anh giữ trọn tình quê (Tân nhạc: Duy Khánh; cổ nhạc: Loan Thảo)
Xin gọi nhau là cố nhân (Tân nhạc: Hàn Sinh; cổ nhạc: Loan Thảo)
Xin trả tôi về (Tân nhạc: Mặc Thế Nhân; cổ nhạc: Loan Thảo)
Xuân đất khách (Tác giả: NSND Viễn Châu)
Xuân đẹp làm sao (Tân nhạc: Thanh Sơn; cổ nhạc: Dương Đình Trí)
Xuân đời con có mẹ (Tác giả: Ngọc Chi)
Xuân này con không về (Tân nhạc: Trịnh Lâm Ngân; cổ nhạc: Loan Thảo)
Xuân tha hương (Sáng tác: Dương Đình Trí)
Yêu lầm (Nhạc: Giao Tiên; lời vọng cổ: Loan Thảo)
Cần Thơ ơi! Thương lắm áo bà ba'' (Tác giả: Hoàng Bửu Hiếu)
...
Chú thích |
Ngạc có thể là:
Tên gọi tắt của tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc.
Họ Ngạc (鄂) của người Trung Quốc.
Tên gọi khác của vòm miệng. Đặc biệt sử dụng nhiều trong lĩnh vực ngôn ngữ học, như ngạc hóa, ngạc cứng, ngạc mềm vân vân.
Tên Hán-Việt của cá sấu. Ví dụ: kình ngạc. |
51 (năm mươi mốt) là một số tự nhiên ngay sau 50 và ngay trước 52. |
50 (năm mươi) là một số tự nhiên ngay sau 49 và ngay trước 51. |
49 (bốn mươi chín) là một số tự nhiên ngay sau 48 và ngay trước 50. |
48 (bốn mươi tám) là một số tự nhiên ngay sau 47 và ngay trước 49. Ước của 48 là 1;2;3;4;6;8;12;16;24;48. |
Trung tướng Vương Thừa Vũ (tên thật là Nguyễn Văn Đồi, sinh năm 1910, mất năm 1980 tại làng Vĩnh Ninh, xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội) là một Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Vương Thừa Vũ là một vị tướng, một nhà lãnh đạo, chỉ huy có tài của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông có nhiều đóng góp cho sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng Thủ đô. Ông là chỉ huy trưởng mặt trận Hà Nội năm 1946 khi toàn quốc kháng chiến nổ ra. Ông cũng là Đại đoàn trưởng kiêm Chính uỷ đầu tiên của Đại đoàn 308, đại đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam (nay là Sư đoàn 308 Quân Tiên Phong, Quân đoàn I).
Thân thế và bước vào con đường binh nghiệp
Ông tên thật là Nguyễn Văn Đồi, sinh năm 1910 tại làng Vĩnh Ninh, xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông nay thuộc huyện Thanh trì, Thành phố Hà Nội. Thuở nhỏ, ông theo cha sang Vân Nam (Trung Quốc) sinh sống. Lớn lên, ông làm thợ hỏa xa tại Vân Nam.
Sau khi Nhật xâm chiếm Mãn Châu, ông đăng lính quân đội Trung Hoa Quốc dân đảng, sau đó được cử vào học tại Trường Quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc) năm 1937. Tại đây, ông đã có những cuộc tiếp xúc đầu tiên và dần có cảm tình với những người Cộng sản Việt Nam như Nguyễn Ái Quốc, Lê Thiết Hùng, Nguyễn Sơn...
Năm 1940, do cuộc thanh trừng của Trung Hoa Quốc dân đảng đối với những người Cộng sản, ông trốn về nước tổ chức hoạt động cách mạng. Tuy nhiên, năm 1941 ông bị thực dân Pháp bắt giam và năm 1942 bị đày tại trại giam Bá Vân (Thái Nguyên). Tại đây, ông được những người tù Cộng sản vận động và tham gia công tác binh vận, phụ trách huấn luyện quân sự trong tù. Ông trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1943.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương. Khi đó, ông đang bị giam tại Nghĩa Lộ (Yên Bái), cùng các bạn tù phá ngục, sau đó dự định tổ chức bạo động giành chính quyền ở Nghĩa Lộ nhưng không thành. Vì thế, ông về Bắc Ninh gây dựng cơ sở cách mạng, huấn luyện quân sự ở Chiến khu II.
Từ Tư lệnh Mặt trận Hà Nội đến vị Đại đoàn trưởng đầu tiên
Khi Việt Minh giành chính quyền, ông được giao nhiệm vụ tiếp quản, phụ trách tổ chức và chỉ huy lực lượng Bảo an binh Hà Nội. Khi quân Pháp gây hấn tại Hà Nội, ông được cử giữ chức Khu trưởng Khu XI Hà Nội, sau đó đổi thành chỉ huy quân sự Khu II bảo vệ Hà Nội, Liên khu phó Liên Khu 1. Dự kiến quân Pháp sẽ nổ súng, Bộ Tư lệnh Quân đội Quốc gia Việt Nam đã chỉ định ông làm Tư lệnh Mặt trận Hà Nội, chỉ huy việc phòng thủ và tấn công quân Pháp tại Hà Nội, nhằm mục đích kéo dài có lợi, sau đó rút lui bảo toàn lực lượng. Ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, khi đã cầm chân được quân Pháp tại nội đô Hà Nội trong 2 tháng.
Sau khi rút khỏi Hà Nội, ông được điều động về làm Khu bộ phó Khu IV, dưới quyền Thiếu tướng Lê Thiết Hùng, sau đó là Nguyễn Sơn. Cuối năm 1947, ông được giao nhiệm vụ làm Phân khu trưởng Phân khu Bình Trị Thiên. Năm 1948, ông được phong quân hàm Đại tá trong đợt phong hàm chính thức đầu tiên của Việt Nam.
Ngày 28 tháng 8 năm 1949, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Quốc gia Việt Nam thành lập Đại đoàn chủ lực đầu tiên mang phiên hiệu Đại đoàn 308. Ông được cử làm Đại đoàn trưởng kiêm Chính uỷ Đại đoàn (đến năm 1951, Song Hào thay ông làm Chính ủy). Từ đó, ông cùng Đại đoàn tham gia nhiều chiến dịch lớn như:
Sông Lô (tháng 5 năm 1949)
Đường số 4 (tháng 10 năm 1949)
Biên giới (tháng 10 năm 1950)
Trung du (tháng 12 năm 1950)
Đông Bắc (tháng 2 năm 1951)
Hà Nam Ninh (tháng 5 năm 1951)
Hòa Bình (tháng 10 năm 1951)
Tây Bắc (tháng 10 năm 1952)
Thượng Lào (tháng 1 năm 1953),
Điện Biên Phủ (tháng 3 năm 1954)
Sau chiến dịch Điện Biên Phủ, ông tiếp tục chỉ huy Đại đoàn 308 tấn công tiêu diệt các đơn vị Pháp tại Bắc Giang, Phả Lại (tháng 7 năm 1954).
Ngày 28 tháng 9 năm 1954, ông được thăng hàm thiếu tướng và được cử làm Chủ tịch Uỷ ban Quân chính Hà Nội (tháng 10 năm 1954), cùng Đại đoàn 308 về tiếp quản Hà Nội.
Tiếp tục con đường binh nghiệp
Sau khi tiếp quản miền Bắc, ông tham gia quá trình tổ chức hiện đại hóa quân đội. Đại đoàn 308 được tổ chức lại thành Sư đoàn.
Từ năm 1956 đến 1963, ông được cử làm Tư lệnh Quân khu Hữu ngạn. Năm 1964, ông được cử làm Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam và giữ chức vụ này đến khi mất vào năm 1980.
Ngoài ra ông còn kiêm chức giám đốc Học viện Quân sự (1964), Tư lệnh Quân khu 4, Quân đội nhân dân Việt Nam (1971).
Ông được phong quân hàm Đại tá năm 1948, Thiếu tướng 1954, Trung tướng 1974; được nhà nước Việt Nam trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh; Huân chương Sao Vàng; Huân chương Quân công hạng nhất, hạng ba; Huân chương Chiến thắng hạng nhất, v.v.
Ông cũng là tác giả hồi ký "Trưởng thành trong chiến đấu" [Nhà xuất bản Hà Nội, 2006] và một số tác phẩm quân sự.
Ông mất năm 1980. Sau khi mất, ông được an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội.
Ngày nay tại Hà Nội, Đà Nẵng, Quảng Bình đều có những đường phố mang tên ông.
Lịch sử thụ phong quân hàm |
Needham-Schroeder là một giao thức truyền thông phục vụ cho việc xác thực trên các mạng máy tính không an toàn. Giao thức do Roger Needham và Michael Schroeder phát minh vào năm 1978. Nó cho phép các thực thể trao đổi thông tin có thể chứng minh nhận dạng của mình đồng thời chống lại việc nghe lén và phát hiện, ngăn chặn việc truy cập, thay đổi thông tin trên đường truyền.
Giao thức Needham-Schroeder với khóa bí mật
Theo cách ký hiệu giao thức mật mã, giao thức Needham-Schroeder với khóa bí mật được mô tả như sau, trong đó, Alice (A) sử dụng máy chủ (S) chứng minh nhận dạng của mình với Bob (B), đồng thời tạo ra một khóa chung ():
(0) Trước khi các giao dịch có thể diễn ra, mỗi người sử dụng trong hệ thống có một khóa bí mật chia sẻ với máy chủ. Ở đây là khóa chung giữa X và máy chủ S.
(1) Khi muốn trao đổi thông tin với Bob, đầu tiên, Alice gửi một gói tin tới máy chủ trong đó có định danh của Alice và Bob cùng với một số được tạo ngẫu nhiên .
(2) Máy chủ tạo ra một khóa phiên để Alice và Bob sử dụng trong giao dịch tiếp theo. Sau đó, máy chủ gửi khóa này cho Alice dưới dạng mật mã hóa bằng khóa chung giữa máy chủ và Alice; đồng thời máy chủ cũng mật mã hóa khóa phiên bằng khóa chung với Bob và gửi cho Alice. Số ngẫu nhiên được gửi kèm cùng gói tin để đảm bảo gói tin là mới (tránh trường hợp kẻ tấn công dùng lại gói tin cũ) và định danh của Bob để Alice biết được người để dùng khóa (trong trường
hợp Alice đồng thời giao dịch với nhiều người).
(3) Alice giải mã và gửi phần mã hóa bằng khóa của Bob tới cho Bob. Alice không thể giải mã được phần này và chỉ có Bob mới giải mã được.
(4) Bob giải mã gói tin nhận được và thu được khóa phiên. Bob tạo ra một số ngẫu nhiên khác và gửi cho Alice sau khi mật mã hóa với khóa phiên để chứng tỏ mình đã nhận được khóa.
(5) Alice giải mã, thực hiện một phép toán đơn giản trên giá trị nhận được rồi gửi lại cho Bob để khẳng định giao dịch tiếp tục và Alice là người thực sự có khóa.
Tấn công
Giao thức này không đảm bảo an toàn. Vấn đề là ở gói tin số 3: Bob không thể xác định được đây có phải là gói tin mới được tạo ra hay là gói tin được phát lại. Nếu một người thứ 3 có được một khóa cũ thì có thể thực hiện tấn công bằng cách phát lại gói tin và làm cho Bob tin rằng mình đang trao đổi thông tin với Alice.
Ngăn chặn
Dùng Tem thời gian (TimeStamp): Xem Giao thức Kerberos
Giao thức Needham-Schroeder với khóa công khai
Giao thức này sử dụng khóa công khai.
Alice (A) và Bob (B) sử dụng server trung gian (S) lưu trữ khóa công khai của các máy. Gọi:
KPA và KSA, tương ứng với khóa công khai và khóa riêng của A
KPB và KSB, tương tự đối với B
KPS và KSS, tương tự với server S. (Chú ý rằng KSS dùng để mã hóa và KPS để giải mã).
Các bước trao đổi:
A lấy khóa công khai của B từ S
S gửi cho A khóa công khai KPB của B và định danh của B, thông tin được mã hóa bởi khóa riêng của S
A gửi số ngẫu nhiên NA và định danh của A cho B, thông tin được mã hóa bởi khóa công khai của B.
B yêu cầu khóa công khai của A.
Server gửi cho B.
B gửi số ngẫu nhiên NB, NA để chứng tỏ đã nhận được từ A, thông tin được mã hóa bằng khóa công khai của A.
A xác nhận và gửi NB tới B, thông tin được mã hóa bằng khóa công khai của B
Tấn công
Cách tấn công với tên gọi man-in-the-middle (người đứng giữa).
Ngăn chặn
Thay:
Bởi: |
Vĩnh Bảo là một huyện ngoại thành thuộc thành phố Hải Phòng, Việt Nam.
Đây là huyện trọng điểm về nông nghiệp của thành phố. Ngoài ra huyện có nhiều nghề thủ công truyền thống khá nổi tiếng như: dệt vải, dệt thảm, chiếu cói, mây tre đan, tạc tượng, sơn mài, điêu khắc gỗ, thêu mỹ nghệ, thuốc lào....
Địa lý
Huyện Vĩnh Bảo nằm ở phía nam của thành phố Hải Phòng, cách trung tâm thành phố khoảng 40 km, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp huyện Tiên Lãng
Phía tây giáp huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình và huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương
Phía nam giáp huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình
Phía bắc giáp huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương.
Huyện có Quốc lộ 10 sang Thái Bình (hướng Tây Nam), hướng ngược lại lên phía Bắc là hướng đi trung tâm thành phố Hải Phòng qua các huyện Tiên Lãng, An Lão. Huyện Vĩnh Bảo được bao bọc kín xung quanh bởi ba con sông:
Sông Luộc phía Tây Bắc, là ranh giới của huyện với tỉnh Hải Dương
Sông Hóa ở phía Tây Nam và Nam, gần như là ranh giới của huyện với tỉnh Thái Bình
Sông Thái Bình làm ranh giới giữa huyện Vĩnh Bảo với huyện Tiên Lãng.
Huyện Vĩnh Bảo là một huyện giữ vai trò trọng yếu trong phát triển vùng kinh tế ngoại thành Hải Phòng. Điểm cực Đông của huyện là cửa của sông Hóa đổ vào sông Thái Bình, trước khi sông Thái Bình đổ ra vịnh Bắc Bộ (biển Đông).
Theo thống kê năm 2019, huyện Vĩnh Bảo có diện tích 183,30 km², dân số là 182.835 người, mật độ dân số đạt 998 người/km². 6% dân số theo đạo Thiên Chúa.
Lịch sử
Huyện Vĩnh Bảo thành lập vào năm Minh Mạng thứ 19 (1838) từ 5 tổng của huyện Tứ Kỳ (An Bồ, Bắc Tạ, Viên Lang, Đông Tạ, Can Trì) và 3 tổng của huyện Vĩnh Lại (Thượng Am, Đông Am và Ngải Am). Huyện lỵ lúc đầu ở tổng An Bồ, sau di dời về tổng Đông Tạ, đều nằm ở địa giới huyện Tứ Kỳ cũ, nên lịch sử huyện Vĩnh Bảo thời trước khi thành lập (1838) là theo lịch sử của các huyện Tứ Kỳ và Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
Thời Hán (206 TCN – 220) vùng đất Vĩnh Bảo thuộc quận Giao Chỉ. Đời nhà Đinh và Tiền Lê (970 – 1009) thuộc Hồng Châu. Thời Lý (1010 – 1225) thuộc lộ Hồng. Thời Trần (1226 – 1400) vùng đất Vĩnh Bảo thuộc châu Hạ Hồng, phủ lộ Tân Hưng.
Thời nhà Hồ (1400 – 1407) vùng đất này thuộc phủ lộ Tân Hưng, trấn Hải Đông. Thời thuộc Minh hay còn gọi là Hậu Trần (1407 – 1427) vùng đất Vĩnh Bảo thuộc địa bàn châu Hạ Hồng, phủ Tân An (Yên). Thời Lê sơ (1428 – 1527) vùng đất Vĩnh Bảo thuộc lộ Nam Sách, sau là thừa tuyên Nam Sách. Năm Quang Thuận thứ 10 (1469) thừa tuyên Nam Sách đổi thành thừa tuyên Hải Dương và năm Hồng Đức thứ 21 (1490) thừa tuyên Hải Dương đổi thành xứ Hải Dương. Năm Hồng Thuận nguyên niên (1509) xứ Hải Dương đổi thành trấn Hải Dương.
Từ năm Minh Đức nguyên niên (1527) đến năm Hồng Minh thứ 2 (1592) thời nhà Mạc, trấn Hải Dương đổi thành đạo Hải Dương. Thời Lê trung hưng đổi thành trấn Hải Dương như cũ. Thời Tây Sơn từ năm Thái Đức nguyên niên (1778) đến năm Bảo Hưng thứ 2 (1802) thuộc phủ Nam Sách, trấn Hải Dương. Từ năm Gia Long nguyên niên (1802) đến năm Gia Long thứ 12 (1813) thuộc phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương.
Năm 1822 phủ Thượng Hồng đổi thành phủ Bình Giang, còn phủ Hạ Hồng đổi thành phủ Ninh Giang. Từ thời gian này 4 huyện (hoặc phân phủ) thuộc phủ Ninh Giang là Gia Lộc, Thanh Miện, Tứ Kỳ và Vĩnh Lại.
Năm Minh Mạng thứ 19 (1838) nhà Nguyễn cắt 5 tổng của huyện Tứ Kỳ (An Bồ, Viên Lang, Đông Tạ, Bắc Tạ, Can Trì), 3 tổng của huyện Vĩnh Lại (Đông Am, Thượng Am, Ngải Am) thành lập ra huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương.. Từ năm Tự Đức thứ 5 (1852) thì phủ Ninh Giang kiêm nhiếp cả huyện Vĩnh Bảo.
Đến năm 1890, phần đất 3 tổng còn lại (Kê Sơn, An Lạc và Hạ Am) bên triền tả sông Hóa từ ngã ba Tranh đến sông Thái Bình của huyện Vĩnh Lại và làng Tranh Chử được giao cho huyện Vĩnh Bảo và Vĩnh Bảo được mở rộng tới 11 tổng, cuối thế kỷ XIX tổng Bắc Tạ tách làm 2 tổng là Uy Nỗ và Bắc Tạ và Vĩnh Bảo từ 1901 có 12 tổng gồm 2 lục tổng.
Từ cuối năm 1952, huyện Vĩnh Bảo thuộc tỉnh Kiến An.
Từ ngày 27 tháng 10 năm 1962, tỉnh Kiến An sáp nhập vào thành phố Hải Phòng, từ đó Vĩnh Bảo là một huyện ngoại thành của Hải Phòng. Từ lúc ban đầu sáp nhập, huyện gồm 25 xã, đến năm 1956 mở thêm 4 xã thành 29 xã như hiện nay.
Ngày 18 tháng 3 năm 1986, thành lập thị trấn Vĩnh Bảo - thị trấn huyện lỵ huyện Vĩnh Bảo - trên cơ sở 223,8 ha diện tích tự nhiên với 4.336 nhân khẩu của xã Tân Hưng và 28 ha diện tích tự nhiên với 1.061 nhân khẩu của xã Nhân Hòa.
Hành chính
Huyện Vĩnh Bảo có 30 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Vĩnh Bảo (huyện lỵ) và 29 xã: An Hòa, Cao Minh, Cổ Am, Cộng Hiền, Đồng Minh, Dũng Tiến, Giang Biên, Hiệp Hòa, Hòa Bình, Hưng Nhân, Hùng Tiến, Liên Am, Lý Học, Nhân Hòa, Tam Cường, Tam Đa, Tân Hưng, Tân Liên, Thắng Thủy, Thanh Lương, Tiền Phong, Trấn Dương, Trung Lập, Việt Tiến, Vĩnh An, Vĩnh Long, Vĩnh Phong, Vinh Quang, Vĩnh Tiến.
Đường phố
18 tháng 3
20 tháng 8
Nguyễn Bỉnh Khiêm (Quốc lộ 37 chạy qua địa bàn thị trấn Vĩnh Bảo)
Kinh tế
Kinh tế Vĩnh Bảo chủ yếu dựa vào nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Những năm gần đây với sự ra đời của cụm công nghiệp Tân Liên, vấn đề việc làm đã phần nào được giải quyết và thúc đẩy sự phát triển kinh tế của huyện. Nhưng sự thiếu thốn cơ sở vật chất khiến khu công nghiệp trở nên khó hấp dẫn các nhà đầu tư. Không những vậy nguy cơ ô nhiễm môi trường từng ngày đang đe dọa đời sống người dân.
Giáo dục
Trường THPT Vĩnh Bảo - Địa chỉ Thị trấn Vĩnh Bảo
Trường THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm - Địa chỉ Xã Lý Học
Trường THPT Cộng Hiền - Địa chỉ Xã Cộng Hiền
Trường THPT Tô Hiệu - Địa chỉ QL 10 qua địa phận xã Vĩnh An
Trường THPT Nguyễn Khuyến - Địa chỉ Khu phố Bắc Hải Thị trấn Vĩnh Bảo
Trung tâm giáo dục thường xuyên - Địa chỉ Khu phố Bắc Hải Thị trấn Vĩnh Bảo
Danh nhân
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1586), người xã Trung Am, huyện Vĩnh Lại, nay là thôn Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo.
Phạm Đức Khản (? - ?), người xã Hội Am (tên Nôm là Cối, Cõi), huyện Vĩnh Lại, nay là thôn Hội Am, xã Cao Minh, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Đỗ Đệ nhị giáp Tiến sỹ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Mậu Thìn, niên hiệu Đại Hòa 6 (1448) đời Lê Nhân Tông. Làm quan đến chức Tả thị lang.
Đào Văn Hiển (? - ?), người xã An Bồ, huyện Tứ Kỳ. Nay là thôn An Bồ, xã Dũng Tiến, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Quý Mùi, niên hiệu Quang Thuận 4 (1463) đời Lê Thánh Tông. Làm quan đến chức Thượng thư Bộ hình. Phần mộ của ông mang tên Mả Nghè còn giữ được nằm ngay sát UBND xã Dũng Tiến.
Dương Đức Nhan (? - ?), người xã Hà Dương, huyện Vĩnh Lại, nay là thôn Hà Dương, xã Cộng Hiền, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Quý Mùi, niên hiệu Quang Thuận 4 (1463) đời Lê Thánh Tông. Làm quan đến chức Hình bộ Hữu thị lang, tước Dương Xuyên hầu. Tác phẩm có bộ Tinh tuyển thi tập (tức Tinh tuyển cổ kim chư gia thi tập) là một hợp tuyển thơ chữ Hán rất nổi tiếng.
Nguyễn Duy Tiếu (? - ?), người xã Đông Lại, huyện Vĩnh Lại. Nay là thôn Đông Lại xã Cao Minh, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân khoa Ất Mùi, niên hiệu Hồng Đức 6 (1475) đời Lê Thánh Tông. Làm quan đến Tự Khanh.
Nguyễn Cối (? - ?), người xã Hội Am (tên Nôm là Cối, Cõi), huyện Vĩnh Lại, nay là thôn Hội Am, xã Cao Minh, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân khoa Mậu Tuất, niên hiệu Đại Hồng Đức 9 (1478) đời Lê Thánh Tông. Làm quan đến chức Tự khanh.
Nguyễn Sâm (? - ?), người làng Đông Tạ, huyện Tứ Kỳ. Nay thuộc thị trấn Vĩnh Bảo, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân khoa Giáp Thìn, niên hiệu Hồng Đức 15 (1484) đời Lê Thánh Tông.
Nguyễn Minh Đạt (? - ?), người xã Đông Quất, huyện Tứ Kỳ. Nay là thôn Tràng, xã Tam Đa. Đỗ Đệ nhị giáp Tiến sỹ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Quý Sửu, niên hiệu Hồng Đức thứ 24 (1493) đời Lê Thánh Tông. Tên thần là Đại lý Tự khanh Quế Nham bá Nguyễn Tướng Công tôn thần. Làm quan tới chức Thượng thư bộ Hình, đi sứ nhà Minh, mất tại Trung Quốc. Trước năm 1938 có miếu thờ năm gian ở xứ Đồng Châu (xã Tam Đa ngày nay).
Nguyễn Bá Tùng (? - ?), người xã Tạ Xá, huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương (cùng quê với Nguyễn Duy Tinh). Nay là thôn Tạ Ngoại và thôn Nội Tạ, xã An Hòa, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Đỗ Đệ nhị giáp Tiến sỹ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Cảnh Thống 5 (1502) đời Lê Hiến Tông.
Nguyễn Đình Tộ (1482 - ?), người xã Đông Quất, huyện Tứ Kỳ. Nay là thôn Tràng, xã Tam Đa, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân khoa thi năm Mậu Thìn (1508) niên hiệu Đoan Khánh thứ 4, làm quan đến chức Tham Chính xứ Hưng Hóa.
Nguyễn Duy Tinh (? - ?), người xã Tạ Xá, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương (cùng quê với Nguyễn Bá Tùng), nay là thôn Tạ Ngoại và thôn Nội Tạ, xã An Hòa, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Đỗ Đệ Tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân khoa Ất Mùi, niên hiệu Đại Chính 6 (1535) đời Mạc Đăng Doanh, cùng khoa thi với Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Làm quan tới chức Thừa Chính sứ, về trí sỹ.
Phạm Tri Chỉ (? - ?) người xã Bắc Tạ, huyện Tứ Kỳ. Nay là xóm Tường Vân, thôn Phương Tường, xã Hùng Tiến, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân khoa Mậu Thìn, niên hiệu Thuần Phúc 4 (1568) đời Mạc Mậu Hợp. Trước làm quan nhà Mạc, sau làm quan nhà Lê đến chức Hữu Thị lang.
Nguyễn Sư Khanh (1566 - ?), người xã Đông Quất, tổng Hu Trì, huyện Tứ Kỳ. Nay là thôn Tràng, xã Tam Đa, huyện Vĩnh Bảo. 27 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân khoa Nhâm Thìn niên hiệu Hồng Ninh 2 (1592) đời Mạc Mậu Hợp. Quy thuận nhà Lê làm quan đến chức Đô cấp sự trung Hình khoa. Mất trên đường đi sứ nhà Minh. Theo tư liệu dân gian, Nguyễn Sư Khanh chết vì đắm thuyền trên đường đi sứ tại cửa Thần Phù (thuộc tỉnh Ninh Bình ngày nay). Ông là cháu của khoa bảng Nguyễn Đình Tộ.
Đặng Duy Minh (1551 - ?), người xã Tranh Khê, tổng An Bồ, huyện Tứ Kỳ. Nay là thôn Tranh Nguyên, xã Vĩnh An, huyện Vĩnh Bảo. Năm 50 tuổi đỗ Hội nguyên, Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân khoa Giáp Thìn, niên hiệu Hoằng Định 6 (1604) đời Lê Kính Tông. Làm quan đến chức Đô cấp sự trung.
Trần Lương Bật (1642 - ?), người xã Cổ Am, huyện Vĩnh Lại. Nay là thôn Cổ Am, xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. 34 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân khoa Giáp Thìn niên hiệu Cảnh Trị 2 (1664) đời Lê Huyền Tông. Làm quan đến chức Binh bộ Hữu thị lang, tước Nam. Sau khi mất được truy tặng chức Tả thị lang.
Đào Công Chính (1639 – 1709), người xã Hội Am (tên Nôm là Cõi), huyện Vĩnh Lại. Nay là thôn Hội Am, xã Cao Minh, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. 23 tuổi đỗ Đệ nhất giáp Tiến sỹ cập đệ Đệ nhị danh (Bảng nhãn) khoa Tân Sửu niên hiệu Vĩnh Thọ 4 (1661) đời Lê Thần Tông. Ông giữ chức Phủ doãn phủ Phụng Thiên, được cử đi sứ nhà Thanh (1673). Khi trở về xét công đi sứ, được thăng hữu thị lang bộ Hình, Nhập thị kinh diên, tước nam. Sau khi mất được truy tặng Lại bộ Hữu thị lang, tước tử.. Tác phẩm: Bắc sứ thi tập 53 bài; Bảo sinh diên thọ toát yếu; Nam Sơn thực lục; Đồng biên tập: Đại Việt sử ký toàn thư (khảo đính).
Trần Công Hân (1702 - ?), người xã Cổ Am, huyện Vĩnh Lại. Nay là xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Thi hương đỗ giải nguyên. 32 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân khoa Quý Sửu niên hiệu Long Đức 2 (1733) đời Lê Huy Phường. Làm quan đến chức Hàn lâm viện Đãi chế (trật Chánh tứ phẩm trở xuống). Tử trận được truy tặng chức Đông các đại học sỹ.
Nhà cách mạng tiền bối Nguyễn Văn Ngọ (1906 – 1954), quê thôn Hạ Đồng, xã Cộng Hiền (xưa thuộc tổng Bắc Tạ, huyện Tứ Kỳ). Vào đảng Cộng sản Việt Nam 08/1929, năm 1930 là ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ, trực tiếp chỉ huy phong trào nông dân khởi nghĩa ở Tiền Hải, nguyên Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính huyện Vĩnh Bảo (22/08/1945 đến 20/12/1945), nguyên Bí thư kiêm Chủ tịch tỉnh Thái Bình từ năm 1946 đến năm 1951, hy sinh năm 1954 tại Trung Quốc và được Trung Quốc vinh danh là Liệt sỹ. An Táng tại nghĩa trang Bát Bảo Sơn – Bắc Kinh, đến năm 1994 được Nhà nước chuyển về an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch - Hà Nội.
Nhà cách mạng tiền bối Nguyễn Đức Cảnh (1908 - 1932), con đẻ bà Trần Thị Thùy thôn Tràng Thọ, xã Cổ Am. Vào đảng 03/1929, là Bí thư đầu tiên của Thành ủy Hải Phòng và là Tổng biên tập đầu tiên của báo Lao động, Chủ tịch Công hội đỏ đầu tiên, tiền thân của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam.
Nhà cách mạng Triệu Thị Đỉnh (1912 – 2007), phu nhân ông Nguyễn Văn Ngọ, Đảng viên năm 1930, Ủy viên xứ ủy Bắc Kỳ, cố Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Bắc Thái, huy hiệu 75 năm tuổi Đảng.
Lê Duy Thái (1702 - ?), người xã Cổ Am, huyện Vĩnh Lại. Nay là xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Sinh năm Quý Dậu. Cử nhân khoa Bính Ngọ (1846). Năm 36 tuổi đỗ Phó bảng Ân khoa Mậu Thân niên hiệu Tự Đức 1 (1848). Làm quan Tri phủ.
Tướng công Đào Trọng Kỳ, quan nhà Nguyễn, Phủ doãn Thừa Thiên, Nam Định, Tổng đốc Sơn Tây. Người có công lớn trong việc đào sông Chanh Dương.
Cử nhân Trần Mỹ, nguyên Tri phủ huyện Hoài Đức Hà Tây thời nhà Nguyễn.
GS. TSKH. Đào Trọng Đạt, sinh năm 1932, quê xã Cổ Am, nguyên Viện trưởng Viện Thú y Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.
GS. TS. NGUT. Đào Văn Lượng, sinh năm 1945, quê xã Cổ Am, nguyên giảng viên Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh, nay là Hiệu trưởng Đại học Công nghệ Sài Gòn (STU) thành phố Hồ Chí Minh.
GS.TS.VS. Đào Trọng Thi, quê gốc xã Cổ Am sinh năm 1951, nguyên giảng viên Đại học Tổng hợp Hà Nội, nguyên Hiệu trưởng Đại học Quốc gia Hà Nội, nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Quốc hội các khóa XI và XII, đại biểu Quốc hội các khóa XI và XII, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, IX, X, XI.
GS.TS. Trần Tiến, sinh năm 1934, quê gốc xã Cổ Am, nguyên cán bộ Viện hàn lâm Khoa học Paris - Pháp (con trai nhà văn Trần Tiêu), sinh sống tại Pháp.
GS.TS. Trần Bảng, sinh năm 1926, quê gốc xã Cổ Am, nguyên Giám đốc Nhà hát Chèo Trung ương, Vụ trưởng Vụ Nghệ thuật Sân khấu Bộ Văn hoá - Thông tin (con trai nhà văn Trần Tiêu).
GS. Đào Nguyên Cát, sinh năm 1927, quê xã Cổ Am, nguyên giảng viên Trường Đảng cao cấp, sau đó làm Tổng Biên tập Thời báo Kinh tế Việt Nam.
GS. Trung tướng Hoàng Phương, tên thật là Hoàng Đình Tý, sinh năm 1924, quê xã Cổ Am, nguyên Chủ nhiệm chính trị Học viện quân chính, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu Lịch sử Quân đội. Đại biểu Quốc hội khóa V và VI.
GS. TS. NGUT. Đại tá Đào Trọng Thắng, sinh năm 1956, quê xã Cổ Am, Chủ nhiệm Khoa động cơ Học viện Kỹ thuật quân sự.
GS. TSKH. Đặng Văn Bát, sinh năm 1944, quê xã Vĩnh Tiến, Chủ tịch Hội đồng Địa chất và Dầu khí Việt Nam, nguyên giảng viên Đại học Mỏ Địa chất, Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước về Khoa học & Công nghệ.
GS. TS. Tạ Hòa Phương, sinh năm 1949, quê xã Dũng Tiến, nguyên giảng viên Khoa Địa chất Đại học Khoa học tưn nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. Nay là Viện trưởng Viện nghiên cứu Cổ sinh. Chủ tịch Hội Cổ sinh Địa tầng Việt Nam
GS. TS. NGUT. Nguyễn Đình Tảo, sinh năm 1955, quê xã Vĩnh Phong,nguyên Phó Chủ nhiệm Bộ môn Mô phôi, nguyên Phó Giám đốc Trung tâm Đào tạo Nghiên cứu Công nghệ Phôi, Học viện Quân Y, Bộ Quốc Phòng.
PGS. TS. TTND. BSCC. Trần Trọng Hải, sinh năm 1947, quê xã Cổ Am, Chủ tịch Hội Phục hồi chức năng Việt Nam, thành viên Viện Hàn lâm Khoa học New York.
TSKH. Đào Văn Cường, sinh năm 1948, quê xã Cổ Am, hiện làm việc tại Canada.
TSKH. Bùi Duy Thành, sinh năm 1960, quê xã Cổ Am, cán bộ Viện Nghiên cứu Nguyên tử Quốc gia.
PGS. TSKH. Đại tá, Liệt sỹ Đào Hữu Chí, sinh năm 1944, quê xã Cổ Am, cố giảng viên Học viện Kỹ thuật quân sự.
PGS. TSKH. NGUT. Nguyễn Hải Kế (1954 – 2013), quê xã Tân Liên, cố Chủ nhiệm khoa Sử Đại học KHXH & NV, Đại học Quốc gia Hà Nội.
GS. TS. Đoàn Đức Việt, sinh năm 1944, quê xã Nhân Hòa, giảng viên Viện Kinh tế Á Châu, Quảng Châu, Trung Quốc.
Nhà giáo nhân dân Đỗ Trung Bích, sinh năm 1927, quê xã Cổ Am, nguyên giảng viên Học viện An ninh, Bộ Công An.
PGS. TS. Nguyễn Văn Thư, nguyên Hiệu trưởng Đại học GTVT thành phố Hồ Chí Minh.
PGS. TS. Vũ Văn Quân, Chủ nhiệm khoa Sử Đại học KHXH và NV, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Đạo diễn, NSND. Trần Đắc (19? - 1995), quê xã Cổ Am, cố Phó Giám đốc Nghệ thuật Xưởng phim Truyện Việt Nam.
Đạo diễn, NSND. Phạm Văn Khoa (1913 – 1992), quê thị trấn Vĩnh Bảo, cố Giám đốc hãng phim truyện Việt Nam.
Nhà văn Khái Hưng.
Nhà văn Trần Tiêu.
Nhà thơ Thi Hoàng - Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2007.
Nhà văn Trung Trung Đỉnh - Giải thưởng văn học ASEAN, Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2007.
Lê Văn Thành, (1962 - 2023), quê xã Tân Liên, cố Phó Thủ tướng Chính phủ, nguyên Bí thư Thành ủy Hải phòng.
Phạm Văn Hưng, sinh năm 1958, quê thôn An Ngoại, xã Tân Liên, Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Chánh Thanh tra Bộ Quốc phòng, nguyên Tư lệnh Quân đoàn 2
Văn hóa
Đặc sản
Dưa Tân Hưng
Thuốc lào Hải Phòng
Lễ hội
Hội Đánh Pháo Đất
Rối Nước
Làng nghề
Huyện Vĩnh Bảo có ít các làng nghề và nghề truyền thống. Nhóm mộc điêu khắc có làng nghề Bảo Hà. Nhóm nghề dệt chiếu ở Đồng Minh số hộ tham gia giảm nhiều, có nguy cơ mai một. Nhóm nghề thương mại dịch vụ hầu như chưa phát triển đáng kể ở tất cả các xã; Vĩnh Bảo thuộc nhóm những huyện có tỉ lệ số hộ tham gia lĩnh vực thương mại dịch vụ thấp nhất ở vùng đồng bằng sông Hồng. Các làng nghề, ngành nghề phụ ở huyện Vĩnh Bảo như:
Làm con giống rối nước Nhân Mục (Nhân Hòa)
Làng nghề tạc tượng, sơn mài Bảo Hà (Đồng Minh)
Nghề trồng và chế biến thuốc lào Lý Học
Làng nghề vớt cá bột nuôi cá giống Hội Am (Cao Minh)
Nghề dệt chiếu xã Đồng Minh
Nghề trồng và chế biến thuốc lào Liên Am.
Chú thích |
Định lý luồng cực đại lát cắt cực tiểu là một phát biểu trong ngành lý thuyết tối ưu hóa về các luồng cực đại trong các mạng vận tải (flow network). Định lý phát biểu rằng:
Lượng cực đại của một luồng bằng khả năng thông qua của một lát cắt tối thiểu.
Định nghĩa
Giả sử là một đồ thị có hướng hữu hạn và mỗi cung có một khả năng thông qua (một giá trị thực không âm). Ngoài ra, giả sử có hai đỉnh, đỉnh phát và đỉnh thu , đã được xác định.
Một lát cắt là một cách chia các nút mạng thành hai tập và , sao cho thuộc tập và thuộc . Do đó, trong một đồ thị có lát cắt có thể.
Khả năng thông qua của một lát cắt là
,
Đó là tổng của các khả năng thông qua của tất cả các cung đi qua lát cắt, từ vùng tới vùng .
Ba điều kiện sau là tương đương:
là một luồng cực đại trong đồ thị
Mạng còn dư (residual network) không chứa đường tăng (augmenting path).
với lát cắt nào đó.
Phác thảo chứng minh: Nếu có một đường tăng, ta có thể gửi luồng theo đó và thu được một luồng lớn hơn, do đó nó không thể là luồng cực đại, và ngược lại. Nếu không có đường tăng nào, ta chia đồ thị thành gồm các nút tới được từ trong mạng còn dư, và gồm các nút không tới được. Khi đó phải bằng 0. Nếu không, tồn tại một cung với , nhưng khi đó, từ lại đến được nên không thể nằm trong .
Ví dụ
Hình bên phải là một mạng với các nút , và luồng cực đại là một luồng tổng từ nút phát tới nút thu có giá trị bằng 5. (Đây thực ra là luồng cực đại duy nhất ta có thể tìm thấy trong mạng này.)
Có ba lát cắt cực tiểu trong mạng. Đối với lát cắt , khả năng thông qua lát cắt là . Với nó là . Và với là .
Lưu ý rằng không phải là một lát cắt cực tiểu, tuy trong luồng đã cho cả và đều đầy. Đó là do trong mạng còn dư có một cung (r,q) với khả năng thông qua .
Lịch sử
Định lý này được chứng minh bởi P. Elias, A. Feinstein, và C.E. Shannon năm 1956, và cũng năm đó, nó được chứng minh một cách độc lập bởi L.R. Ford, Jr. và D.R. Fulkerson. Tìm các luồng cực đại là một dạng bài toán quy hoạch tuyến tính đặc biệt, và định lý luồng cực đại lát cắt cực tiểu có thể được coi là một trường hợp đặc biệt của định lý đôi (duality theorem) cho quy hoạch tuyến tính. |
Son thăng thứ là một cung thứ dựa trên nốt Son thăng (G#), bao gồm các nốt sau Son#, La#, Si;, Đô, Rê, Mi, Fa## và Son#. Bộ khóa của nó có 5 dấu thăng.
Cung thể tương đương (relative key) với nó là cung Si trưởng và cung thể cùng bậc (parallel key) với nó là cung La giáng trưởng. Nó trùng âm với cung La giáng thứ.
Bản Giao hưởng số 17 của Nikolai Myaskovsky là bản giao hưởng duy nhất viết ở cung này.
Các tác phẩm viết ở cung này
Etude Op. 25, số 6 "Thirds" - Chopin
Breaking the Girl - Red Hot Chili Peppers
I.G.Y. (International Geophysical Year) (một phần ở cung Fa thứ) - Donald Fagen
Big Time - Peter Gabriel
Bye Bye Bye - *NSYNC
Prelude Op. 32, số 12 - Rachmaninov
It's A Mistake - Men at Work
Sonata-fantasy - Scriabin
Brother Where You Bound - Supertramp
COPS theme |
Sol giáng trưởng là một cung thể trưởng dựa trên nốt Son giáng, bao gồm các nốt sau Sol giáng, La giáng, Si giáng, Si, Rê giáng, Mi giáng, Fa và Sol giáng. Bộ khóa của nó có 6 dấu giáng.
Cung thể tương đương (relative key) với nó là cung Mi giáng thứ và cung thể cùng bậc (parallel key) với nó là cung Fa thăng thứ. Nó trùng âm với cung Fa thăng trưởng.
Sol giáng trưởng ít khi được sử dụng trong dàn nhạc giao hưởng, nó thường được sử dụng khi chơi piano, như ở trong các khúc ngẫu hứng của Frédéric Chopin và Schubert.
Các tác phẩm ở cung này
Impromptu D.899 số 3 - Franz Schubert
The Winner Takes It All - ABBA
"Tailgunner" - Iron Maiden
Good Vibrations – The Beach Boys
Humoresques, Op. 101: số 7 – Antonín Dvořák
Un Bel Dì Vendremo, bản aria trong vở opera Madame Butterfly của Puccini |
Fa thứ (viết tắt là Fm) là một cung thứ dựa trên nốt Fa (F), bao gồm các nốt: Fa (F), Sol, La giáng (A), Si giáng (B), Đô (C), Rê giáng (D), Mi giáng (E) và Fa (F). Bộ khóa của nó có 4 dấu giáng.
Trùng với cung Fa thứ chính là cung Mi thăng thứ (viết tắt là Em), dựa trên nốt Mi thăng (E), bao gồm các nốt Mi thăng (E), Fa thăng kép (F), Sol thăng (G), La thăng (A), Si thăng (B), Đô thăng (C), Rê thăng (D) và Mi thăng (E'). Bộ khóa của nó 7 dấu thăng và 1 dấu thăng kép.
Cung thể tương đương (relative key) với nó là cung La giáng trưởng và cung thể cùng bậc (parallel key) với nó là cung Fa trưởng.
Fa thứ thường được sử dụng khi viết về nềm đam mê. Hai tác phẩm nổi tiếng viết ở cung này là bản Appassionata Sonata của Beethoven, và Giao hưởng số 49, cung Fa thứ, La Passione của Haydn.
Một vài tác phẩm viết ở cung này Smells Like Teen Spirit - NirvanaHoliday - Green DayBlvd. of Broken Dreams - Green DayThis Masquerade - CarpentersGone Away - The OffspringDammit I Changed Again - The OffspringJust The Two of Us - Grover Washington, Jr.The World Is Not Enough - GarbageDream On - AerosmithBecause Of You - Kelly ClarksonCome Back - J. Geils BandNature's Law - EmbracePapa Don't Preach - Madonna
Rồi tới luôn - Nal
Romance giọng Fa thứ - Pyotr TchaikovskyStayin' Alive'' - Bee Gees
Ballade số 4 - Frédéric Chopin
"Green Onions" - Booker T và the MG's
Ca-chiu-sa - Matvey Blanter |
Đô thứ (viết tắt là Cm), còn được gọi là Si thăng thứ (viết tắt là B♯m) là một cung thứ dựa trên nốt Đô (C), bao gồm các nốt sau Đô (C), Rê (D), Mi giáng (E) , Fa (F), Sol (G), La giáng (A), Si giáng (B) và Đô. Bộ khóa của nó có 3 dấu giáng.
Trong thời kỳ Baroque, nhạc của cung Đô thứ thường có bộ khoá với 2 dấu giáng và một vài bản nhạc hiện nay đã được biên tập lại vẫn giữ bộ khoá như vậy.
Cung thể tương đương (relative key) với nó là cung Mi giáng trưởng và cung thể cùng bậc (parallel key) với nó là cung Đô trưởng.
Hai bản concerto viết cho piano mà Mozart đã viết ở cung thứ, một trong số đó là ở cung Đô thứ, bản Số 24.
Đô thứ thường được sử dụng để viết về các cuộc đấu tranh anh hùng, Beethoven đã viết tác phẩm Giao hưởng số 5 ở cung này. Ba trong số 10 bản giao hưởng được đánh số của Anton Bruckner được viết ở giọng Đô thứ.
Các tác phẩm viết ở cung này
Baby, One More Time - Britney Spears
Over - Lindsay Lohan
Fly Robin Fly - Silver Convention
Just One Fix - Ministry
Ride Like the Wind - Christopher Cross
Die Another Day - Madonna
Toxicity - System of a Down
Since I've Been Loving You - Led Zeppelin
A View to a Kill - Duran Duran
Sweet Dreams - Eurythmics
Shake your booty - KC and the Sunshine Band
Hà Nội, tình yêu của tôi - Văn Dung
Hà Nội mùa thu - Vũ Thanh
Étude Revolutionary - Chopin |
Tập đoàn Điện lực Việt Nam (tên giao dịch quốc tế là Vietnam Electricity, viết tắt là EVN (Électricité du Vietnam) thuộc Bộ Công Thương là một doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt của Việt Nam kinh doanh đa ngành. Trước tháng 9 năm 2006, tập đoàn này chính là Tổng công ty Điện lực Việt Nam, một tổng công ty nhà nước do Trung ương quản lý. Trụ sở chính của tập đoàn nằm tại số 11 phố Cửa Bắc , phường Trúc Bạch, quận Ba Đình, TP Hà Nội.
Lĩnh vực hoạt động
Lĩnh vực kinh doanh chính là sản xuất, điều độ, mua bán buôn điện năng, xuất nhập khẩu điện năng, đầu tư và quản lý vốn đầu tư các dự án điện.
Tập đoàn đầu tư xây dựng và sở hữu các nhà máy phát điện, hệ thống truyền tải điện, hệ thống điện lưới phân phối, điều độ vận hành điện lưới quốc gia, xuất nhập khẩu điện năng với các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào và Campuchia, đảm bảo cung cấp điện thực hiện kế hoạch vận hành theo yêu cầu của Chính phủ Việt Nam.
Lịch sử phát triển
Thành lập
Tổng Công ty Điện lực Việt Nam được thành lập năm 1994 trên cơ sở hợp nhất, sắp xếp các đơn vị sản xuất, lưu thông, sự nghiệp của ngành điện. Năm 1994 cũng là năm đưa vào vận hành đường dây 500kV Bắc Nam thống nhất các hệ thống điện miền Bắc, miền Trung, miền Nam thành hệ thống điện Việt Nam thống nhất.
Tập đoàn Điện lực Việt Nam được thành lập ngày 22/6/2006 trên cơ sở chuyển đổi mô hình Tổng Công ty Điện lực Việt Nam hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con.
Năm 2010 (ngày 25/6/2010) Thủ tướng Chính phủ quyết định chuyển đổi mô hình Tập đoàn Điện lực Việt Nam thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do nhà nước kiểm soát.
Chủ sở hữu vốn điều lệ của EVN là Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (từ năm 2018). Trước năm 2018, Chủ sở hữu vốn của EVN là Chính phủ Việt Nam (Bộ Công Thương) quản lý.
Giai đoạn 1994-2006
Tổng Công ty Điện lực Việt Nam hoạt động theo mô hình công ty nhà nước độc quyền sở hữu toàn bộ ngành dọc bao gồm các nhà máy điện lớn ở Việt Nam, toàn bộ lưới điện truyền tải và lưới điện phân phối đến các hộ dân. Các công trình tiêu biểu trong giai đoạn này bao gồm:
Nhà máy thủy điện Hòa Bình (công suất 1920MW) là nhà máy điện lớn nhất Đông Nam Á cho đến thời điểm hoàn thành nhà máy thủy điện Sơn La (công suất 2400MW).
Nhà máy thủy điện Trị An (công suất 440MW) là nhà máy thủy điện lớn nhất miền Nam
Nhà máy thủy điện Yaly (công suất 720MW) là nhà máy thủy điện lớn nhất miền Trung
Cụm các nhà máy Tua bin khí hỗn hợp Phú Mỹ (tổng công suất 4205 MW) là cụm nhà máy điện lớn nhất miền Nam bao gồm các nhà máy Phú Mỹ 1 (1140MW), Phú Mỹ 2.1 (530MW), Phú Mỹ 2.1 MR (439MW), BOT Phú Mỹ 2.2 (823MW), BOT Phú Mỹ 3 (738MW) và Phú Mỹ 4 (535MW).
Đường dây 500kV Bắc Nam (hay còn gọi là đường dây siêu cao áp 500kV Bắc Nam mạch 1) dài 1488 km từ Hòa Bình đến Thành phố Hồ Chí Minh.
Đường dây 500kV Bắc Nam mạch 2 được xây dựng từ TP Hồ Chí Minh ra Thủ đô Hà Nội hoàn thành năm 2005.
Năm 2006 Doanh thu của EVN là 44920 tỷ đồng.
Giai đoạn 2007-đến nay
Năm 2006, theo quyết định của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Tổng Công ty Điện lực Việt Nam chuyển đổi mô hình hoạt động thành công ty mẹ - công ty con được phép kinh doanh đa ngành thành Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Giai đoạn này EVN từng bước tách bạch các khâu sản xuất, truyền tải, phân phối trong mô hình kinh doanh ngành điện, xây dựng và phát triển thị trường điện ở Việt Nam. Cùng với phong trào đầu tư đa ngành đa nghề của các Doanh nghiệp Việt Nam cuối những năm thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21, EVN bước vào các sân chơi đầu tư tài chính, viễn thông, bất động sản...
Viễn thông: Công ty Viễn thông Điện lực (EVNTelecom) hoạt động trong lĩnh vực phát triển mạng lưới dịch vụ điện thoại cố định nội tỉnh và đường dài trong nước, cùng mạng điện thoại di động, dịch vụ Internet.
Tài chính - ngân hàng: tập đoàn là cổ đông của Ngân hàng thương mại cổ phần An Bình và thành lập Công ty Cổ phần Tài chính Điện lực.
Bất động sản: trực tiếp tham gia và quản lý vốn thông qua các công ty con đầu tư vào các doanh nghiệp kinh doanh, xây dựng và phát triển bất động sản.
Giáo dục: Cao đẳng Điện lực Hà Nội (nâng cấp thành trường Đại học Điện lực Hà nội), Cao đẳng Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh , Cao đẳng Điện lực Miền Trung.
Nghiên cứu: Viện Năng lượng. Từ năm 2010 đã chuyển về thành Viện nghiên cứu trực thuộc Bộ Công Thương.
Do ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng tài chính suy thoái kinh tế 2007 - 2008 và 2012 - 2013, sự cạnh tranh khốc liệt của các doanh nghiệp cùng ngành nghề, cũng như năng lực quản lý của các doanh nghiệp nhà nước nên các lĩnh vực đầu tư kinh doanh khác ngoài điện lực mà EVN đầu tư mất dần các lợi thế cạnh tranh ban đầu và rơi vào suy thoái - kinh doanh lỗ triền miên. Tập đoàn đã phải thoái vốn ở hầu hết các lĩnh vực Viễn thông - Tài chính - Bất động sản. Xung quanh vấn đề này xuất hiện rất nhiều ý kiến phê bình trong xã hội và thông tin đại chúng về việc hiệu quả đầu tư đa ngành đa nghề của các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước nói chung và EVN nói riêng.
Công ty Thông tin Viễn thông Điện lực đã bàn giao về cho Viettel quý 1 năm 2012.
Thoái vốn qua đấu giá cổ phần nắm giữ tại Ngân hàng TMCP An Bình và Công ty Cổ phần Tài chính Điện lực.
Thoái vốn và xóa thương hiệu tham gia tại các doanh nghiệp bất động sản.
Thực hiện lộ trình thị trường hóa ngành điện Việt Nam, EVN đã thành lập và chia tách dần thành các công ty con (hoặc cổ phần hóa) tham gia trong dây chuyền sản xuất-kinh doanh điện năng của ngành điện Việt Nam. Một số mốc quan trọng:
Năm 2007: thành lập công ty mua bán điện là công ty đại diện cho EVN mua buôn, bán buôn điện năng.
Năm 2008: thành lập Tổng Công ty Truyền tải Điện Quốc gia trên cơ sở sáp nhập các công ty truyền tải điện khu vực thành đơn vị truyền tải thống nhất hạch toán độc lập.
Năm 2010: thành lập Tổng Công ty Điện lực miền Bắc, miền Trung, miền Nam, Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là các Đơn vị phân phối và bán lẻ điện.
Năm 2011: vận hành thị trường phát điện cạnh tranh.
Năm 2012: thành lập các Tổng Công ty phát điện 1, 2, 3 là các Đơn vị quản lý các nhà máy điện trong EVN.
Năm 2018: EVN bán đấu giá cổ phần Tổng Công ty phát điện 3 (GENCO 3)
Năm 2019: vận hành thị trường điện bán buôn cạnh tranh
Năm 2021: EVN bán đấu giá cổ phần Tổng Công ty phát điện 2 (GENCO 2)
Hiện nay chỉ các nhà máy thủy điện có ý nghĩa chiến lược đa mục tiêu (phát điện - chống lũ như Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Tuyên Quang, Yaly, Trị An...) thì EVN mới thành lập các công ty con (nắm giữ 100% vốn) trực thuộc. EVN tiến hành cổ phần hóa từng bước các công ty phát điện và Tổng Công ty Phát điện. Năm 2020, tỷ lệ tổng công suất nguồn điện (nhà máy điện) do EVN nắm giữ chỉ còn 55% tổng công suất nguồn điện của cả Việt Nam.
Đề án nghiên cứu tách độc lập bộ phận điều hành hệ thống điện Quốc gia đang được triển khai để trình Chỉnh phủ phê duyệt lộ trình thực hiện.
Cơ cấu tổ chức
Hội đồng thành viên
Chủ tịch: Đặng Hoàng An (19/7/2023)
Thành viên:
Đặng Huy Cường (3/1/2018)
Nguyễn Đức Cường (24/2/2020)
Võ Hồng Lĩnh (1/12/2022)
Trần Đình Nhân (28/12/2018)
Đinh Thế Phúc (27/7/2022)
Cao Quang Quỳnh (24/2/2020)
Ban Tổng giám đốc
Tổng giám đốc: Trần Đình Nhân (28/12/2018)
Phó Tổng giám đốc:
Ngô Sơn Hải
Võ Quang Lâm
Nguyễn Xuân Nam
Phạm Hồng Phương
Nguyễn Tài Anh
Và các Ban tham mưu trực thuộc Cơ quan Tập đoàn.
Các Chủ tịch HĐQL, HĐQT, HĐTV EVN qua các thời kỳ
Thái Phụng Nê (Chủ tịch HĐQL, 10/1994-7/1998)
Đào Văn Hưng (Chủ tịch HĐQT/HĐTV, 7/1998-7/2000; 10/2006-01/2012)
Đặng Hùng (Chủ tịch HĐTV, 7/2000-10/2005)
Nguyễn Mậu Chung (Chủ tịch HĐTV, 11/2005-9/2006)
Phạm Lê Thanh (Thành viên HĐTV phụ trách, 02/2012-8/2012, 1/2015-3/2015)
Hoàng Quốc Vượng (Chủ tịch HĐTV, 9/2012-01/2015)
Dương Quang Thành (Chủ tịch HĐTV, 3/2015-4/2023)
Đặng Huy Cường (Thành viên HĐTV phụ trách, 5/2023-19/7/2023)
Đặng Hoàng An (Chủ tịch HĐTV, 19/7/2023-nay)
Các Tổng giám đốc EVN qua các thời kỳ
Lê Liêm (10/1994-4/1998)
Hoàng Trung Hải (5/1998-7/2000)
Đào Văn Hưng (8/2000-9/2006)
Phạm Lê Thanh (10/2006-6/2015)
Đặng Hoàng An (7/2015-5/2018)
Đinh Quang Tri (Phó Tổng Giám đốc phụ trách, 5/2018-12/2018)
Trần Đình Nhân (12/2018-nay)
Các đơn vị thành viên của EVN
Khối các Công ty / Tổng Công ty nguồn điện
Tổng Công ty Phát điện 1
Tổng Công ty Phát điện 2 - Công ty Cổ phần
Tổng Công ty Phát điện 3 - Công ty Cổ phần
Công ty Thủy điện Hòa Bình
Công ty Thủy điện Sơn La
Công ty Thủy điện Huội Quảng – Bản Chát
Công ty Thủy điện Tuyên Quang
Công ty Thủy điện Ialy
Công ty Phát triển Thủy điện Sê San
Công ty Thủy điện Trị An
Công ty Nhiệt điện Thái Bình
Nhà máy Nhiệt điện Vĩnh Tân 4
Công ty TNHH MTV Nhiệt điện Thủ Đức
Công ty Cổ phần Năng lượng Vĩnh Tân 3 (tỷ lệ CP nắm giữ dưới 50%)
Khối Các Tổng công ty lưới điện
Tổng Công ty Truyền tải Điện Quốc gia
Tổng Công ty Điện lực miền Bắc
Tổng Công ty Điện lực miền Trung
Tổng Công ty Điện lực miền Nam
Tổng Công ty Điện lực Thành phố Hà Nội
Tổng Công ty Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh
Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc gia:
Trung tâm Điều độ Hệ thống Điện Quốc gia là đơn vị điều hành Hệ thống điện (SO) và Thị trường điện (MO) Việt Nam. Bộ Công Thương và EVN đang triển khai lộ trình thành lập công ty trực thuộc và tách hoạt động độc lập đơn vị điều hành SO hoặc/và MO ra khỏi EVN.
Trung tâm Điều độ Hệ thống Điện Quốc gia có 3 Trung tâm Điều độ Hệ thống Điện miền Bắc, miền Trung và miền Nam, điều hành lưới điện truyền tải, phân phối khu vực và các nhà máy điện nhỏ hơn 30 MW.
Công ty mua bán điện: là Đơn vị mua bán buôn điện năng trong thị trường điện
Khối các Công ty Tư vấn
Công ty Cổ phần Tư vấn Xây dựng Điện 1
Công ty Cổ phần Tư vấn Xây dựng Điện 2
Công ty Cổ phần Tư vấn Xây dựng Điện 3: tỷ lệ CP nắm giữ dưới 50%
Công ty Cổ phần Tư vấn Xây dựng Điện 4
Khối các Ban Quản lý Dự án
Ban Quản lý Dự án Điện 1
Ban Quản lý Dự án Điện 2
Ban Quản lý Dự án Điện 3
Ban Quản lý Dự án Đầu tư Xây dựng và Công nghệ EVN
Khối Dịch vụ - Viễn thông - Thông tin
Công ty Viễn thông Điện lực và Công nghệ Thông tin
Trung tâm Thông tin Điện lực
Trung tâm Dịch vụ Sửa chữa EVN
Tổng Công ty Thiết bị Điện Đông Anh (công ty cổ phần): tỷ lệ CP nắm giữ dưới 50%
Các doanh nghiệp khác nắm giữ dưới 50% vốn điều lệ (có lộ trình và thông báo thoái vốn)
Công ty Cổ phần Tài chính Điện lực (EVN-FC): đã thoái vốn cuối năm 2020
Công ty Cổ phần Phong điện Thuận Bình: đã thoái vốn cuối năm 2019
Phê bình
- EVN và Chính phủ Việt Nam chưa phân định rõ các trách nhiệm xã hội và trách nhiệm kinh doanh của một doanh nghiệp nhà nước để có các chỉ số đánh giá hiệu quả hoạt động theo từng lĩnh vực mà EVN được giao nhiệm vụ phải thực hiện.
- Bộ máy lớn, cồng kềnh phải được cải tổ và phân chia hoạt động rành mạch ở các bộ phận khác nhau.
- Dịch vụ khách hàng đã thay đổi tích cực hơn rất nhiều so với trước đây nhưng vẫn còn trường hợp nhỏ lẻ gây bức xúc.
- Việc mua bán điện và điều độ huy động các nhà máy điện bên ngoài EVN còn chịu nhiều tai tiếng về kém minh bạch, EVN hỗ trợ các nhà máy điện trực thuộc nhiều hơn so các nguồn điện độc lập bên ngoài.
Biểu trưng
Biểu tượng chính của biểu trưng là ba ngôi sao 4 cánh lồng vào nhau cùng nằm trong hình khối tròn. Trong đó ngôi sao màu vàng nằm ở trung tâm, tiếp đến là ngôi sao màu đỏ và ngoài cùng là ngôi sao màu xanh dương.
Hình ảnh ngôi sao vàng trên nền đỏ bên trong gợi liên tưởng đến lá quốc kỳ Việt Nam. Hình ảnh đó được đặt ở trung tâm biểu trưng tượng trưng cho một niềm tự hào dân tộc.
Hình ảnh 3 ngôi sao trong biểu trưng lồng vào nhau tượng trưng cho ánh sáng của nguồn điện – đặc trưng chính cho thương hiệu.
Ba ngôi sao lớn dần từ trong ra ngoài tượng trưng cho dòng điện ba pha, cũng đồng thời thể hiện cho nhu cầu sử dụng điện năng ngày càng tăng cao trong đời sống người dân.
Hình khối tròn bên ngoài biểu trưng là Trái Đất. Thể hiện mục tiêu xây dựng và phát triển thương hiệu lớn mạnh không ngừng.
Màu sắc cơ bản được sử dụng làm nguyên liệu thiết kế bộ cờ là 3 màu đang được sử dụng trong Logo EVN: Màu vàng, màu đỏ, màu xanh lam. Trong đó màu xanh lam được sử dụng làm phông nền chủ đạo, ngôi sao 4 cánh nằm trung tâm trên nền trắng của hình địa cầu bên ngoài.
Lá cờ
Vào ngày 1 tháng 5 năm 2013, mẫu lá cờ EVN được thống nhất và được triển khai sử dụng tai các đơn vị thuộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Tuy nhiên trên thực tế, lá cờ hiếm khi được sử dụng bên ngoài các cơ sở lớn và các sự kiện đặc biệt. |
Đô thăng thứ là một cung thứ dựa trên nốt Đô thăng (C#), bao gồm các nốt sau Đô#, Re#, Mi;, Fa#, Sol#, La, Si. Bộ khóa của nó có 4 dấu thăng.
Cung thể tương đương (relative key) với nó là cung Mi trưởng và cung thể cùng bậc (parallel key) với nó là cung Đô thăng trưởng.
Chỉ có hai bản giao hưởng trong thế kỷ XVIII được viết ở cung này. Một bản do Joseph Martin Kraus soạn, ông cũng nhận thấy rằng viết nhạc với cung này rất khó sau khi ông đã viết lại bản nhạc ở cung Đô thứ. Thậm chí vào hai thế kỷ tiếp theo, bản Giao hưởng giọng Đô thăng thứ cũng hiếm có. Có hai bản đáng chú ý là Giao hưởng số 5 của Mahler và Giao hưởng số 7 của Prokofiev
Domenico Scarlatti đã viết hai bản sonata cho đàn phím ở cung Đô thăng thứ, K. 246 và K. 247. Sau khi bản Sonata Ánh trăng của Beethoven's được viết, cung nhạc này được viết thường xuyên hơn cho piano.
Joseph Haydn không viết bất cứ tác phẩm nào ở cung này còn Mozart thì chỉ có một tác phẩm.
Các tác phẩm viết ở cung nàyAll That She Wants - Ace of BaseBarbie Girl - AquaBecause - The BeatlesCalifornia Dreamin' - The Mamas and the PapasHungarian Rhapsody Số 2 - Franz LisztOops I Did It Again - Britney SpearsCrush - Jennifer PaigeLa Isla Bonita - Madonna
Echoes - Pink FloydSonata Ánh trăng - Ludwig van BeethovenHave A Nice Day - Bon JoviMessage in the Bottle - The Police
Butterfly - SmilePrelude ở Đô thăng thứ Op. 3 số 2 (Bells of Moscow) - Sergei RachmaninoffNhớ về Hà Nội'' - Hoàng Hiệp (phần đầu bài hát, phần sau là ở cung Sol trưởng)
Étude Op.10 số 4 - Frédéric Chopin
Nocturne số 20 - Frédéric Chopin
Étude Op.25 số 7 - Frédéric Chopin
Symphony số 4 - Tansman
Nocturne Op.27 số 1 - Frédéric Chopin
Étude số 8 - Heitor Villa-Lobos
Étude Op.2 số 1 - Scriabin
Fantaisie-Impromptu - Frédéric Chopin
Lux Aurumque
Messe solennelle - Louis Vierne |
Phương pháp khối phổ hay phương pháp phổ khối lượng (tiếng Anh: Mass spectrometry - MS) là một kĩ thuật dùng để đo đạc tỉ lệ khối lượng trên điện tích của ion; dùng thiết bị chuyên dụng là khối phổ kế. Kĩ thuật này có nhiều ứng dụng, bao gồm:
Xác định các hợp chất chưa biết bằng cách dựa vào khối lượng của phân tử hợp chất hay từng phần tách riêng của nó
Xác định kết cấu chất đồng vị của các thành phần trong hợp chất
Xác định cấu trúc của một hợp chất bằng cách quan sát từng phần tách riêng của nó
Định lượng lượng hợp chất trong một mẫu dùng các phương pháp khác (phương pháp phổ khối vốn không phải là định lượng)
Nghiên cứu cơ sở của hóa học ion thể khí (ngành hóa học về ion và chất trung tính trong chân không)
Xác định các thuộc tính vật lý, hóa học hay ngay cả sinh học của hợp chất với nhiều hướng tiếp cận khác nhau.
Một khối phổ kế là một thiết bị dùng cho phương pháp phổ khối, cho ra phổ khối lượng của một mẫu để tìm ra thành phần của nó. Có thể ion hóa mẫu và tách các ion của nó với các khối lượng khác nhau và lưu lại thông tin dựa vào việc đo đạc cường độ dòng ion. Một khối phổ kế thông thường gồm 3 phần: phần nguồn ion, phần phân tích khối lượng, và phần đo đạc.
Ví dụ về cách hoạt động
Các hóa chất khác nhau thì có khối lượng phân tử khác nhau. Dựa vào đó, khối phổ kế sẽ xác định chất hóa học nào có nằm trong mẫu. Ví dụ, muối NaCl hấp thụ năng lượng (năng lượng hấp thụ tùy theo nguồn ion, ví dụ MALDI năng lượng là tia laser) tách ra thành các phân tử tích điện, gọi là ion), trong giai đoạn đầu của phương pháp phổ khối. Các ion Na+, Cl- có trọng lượng nguyên tử khác biệt. Do chúng tích điện, nghĩa là đường đi của chúng có thể được điều khiển bằng điện trường hoặc từ trường. Các ion được đưa vào buồng gia tốc và đi qua một khe vào miếng kim loại. Một từ trường được đưa vào buồng đó. Từ trường sẽ tác động vào mỗi ion với cùng một lực và làm chệch hướng chúng về phía đầu đo. Ion nhẹ hơn sẽ bị lệnh nhiều hơn ion nặng vì theo định luật chuyển động của Newton gia tốc tỉ lệ nghịch với khối lượng của phân tử. Đầu đo sẽ xác định xem ion bị lệnh bao nhiêu, và từ giá trị đo này, tỉ lệ khối lượng-trên-điện tích của ion có thể được tính toán. Từ đó, có thể xác định được thành phần hóa học của một mẫu gốc. Trên thực tế thì hai ion Na+ và Cl- sẽ không được đo trong cùng một lần, vì các máy đo chỉ có thể nhận ra ion điện tích dương hoặc điện tích âm nên nếu máy khối phổ kế được điều chỉnh để đo các ion điện tích dương thì chỉ có ion Na+ là được nhận ra bởi máy.
.Một trong những tính năng lớn của khối phổ lượng là có thể tìm thấy cấu tạo không gian của phân tử ví dụ phân tử C7H14O2 có thể là acid hoặc ester... Và khả năng phát hiện ra hợp chất với độ nhậy cực cao từ 10−6 dến 10−12 gram. Dưới đây là một khối phổ (electrospray) của phân tử Kaempferol-rhamnose-rhamnose-glucose (m/z 741) trong loại cỏ thaliana, phân tích với 5.10−6L (nếu dùng máy MALDI thì chỉ cần 0,5.10−6L).
Ứng dụng sinh học
Khối phổ của protein
Protein và các phân mảnh peptit
Protein mà các nhà nghiên cứu sinh học quan tâm thường là sự kết hợp phức tạp của nhiều protein và phân tử khác nhau, cùng tồn tại trong một môi trường sinh học. Điều này đặt ra hai vấn đề chính. Thứ nhất, hai kĩ thuật ion hóa dùng cho các phân tử lớn chỉ làm việc tốt khi mà hỗn hợp từ các thành phần có cấu tạo gần giống, trong khi trong các mẫu sinh học, các protein khác nhau thường là có lượng khác biệt nhau lớn. Nếu hỗn hợp được ion hóa dùng phương pháp phun ion hay MALDI, thì những protein dạng mà dư thừa nhiều có xu hướng giảm tín hiệu so với những cái ít dư thừa hơn. Vấn đề thứ hai, quang phổ khối từ hỗn hợp phức tạp là rất khó để nghiên cứu do có quá nhiều thành phần phức hợp. Đó là vì với tác động của enzym, một protein tạo ra hàng loạt sản phẩm peptit.
Để giải quyết vấn đề này, hai phương pháp được sử dụng rộng rãi để phân mảnh protein, hay các sản phẩm peptit từ sự tác động của enzym. Phương pháp đầu tiên sẽ phân mảnh toàn bộ protein và được gọi là điện chuyển gel hai chiều (2-DE: two-dimensional gel electrophoresis). Phương pháp thứ hai, sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC) được dùng với các phân mảnh peptit sau khi protein phân tách bởi tác động của enzym. Trong một số tình huống, có thể cần phải kết hợp cả hai phương pháp.
Các vết gel được xác định trên 2D Gel thường là thuộc về một protein. Nếu cần biết định danh của protein đó, thì có thể xem xét vết gel đó. Khối peptit kết quả từ tác động của enzym lên protein có thể được xác định bằng khối phổ dùng lấy dấu khối peptit. Nếu thông tin này không cho phép xác định danh tính của protein một cách chính xác, các peptit của nó có thể xem là thuộc về đo phổ khối tandem.
Việc xác định đặc tính của hỗn hợp protein dùng HPLC/MS còn được gọi là shotgun proteomics và mudpit. Một hỗn hợp là kết quả của sự tác động của enzym lên hỗn hợp protein sẽ được phân mảnh theo một hay hai bước bằng ghi sắc lỏng. Chất tách rửa từ giai đoạn ghi sắc có thể hoặc là trực tiếp đưa vào máy đo phổ khối thông qua ion hóa phun điện tử (ESI), hay tách ra thành một loạt các vết nhỏ để sử dụng sau này trong phân tích khối bằng MALDI.
Xác định Protein
Có 2 cách chính trong khối phổ để xác định protein.
Lấy dấu khối peptit (PMF) dùng khối của các peptit đã phân giải làm đầu vào để tìm kiếm trong CSDL của các khối đã biết trước từ danh sách các protein đã biết. Nếu một chuỗi protein trong danh sách tham khảo trùng khớp với giá trị thử nghiệm thì có lý do để tin rằng protein đó có tồn tại trong mẫu gốc.
Tandem MS đang trở thành một phương pháp thử nghiệm phổ biến để xác định protein. Phân ly do va chạm (CID) được dùng trong các ứng dụng chính để khởi tạo một tập các phân mảnh từ một ion peptit cụ thể. Quá trình phân tách chủ yếu dựa vào các chế phẩm phân tách để bẻ gãy liên kết peptit. Vì sự đơn giản của việc phân tách này, nó có thể dùng khối của các phân mảnh quan sát được để so trùng CSDL của các khối đã biết với một hay nhiều chuỗi peptit. |
Chùa Pháp Vân có thể là:
Chùa Pháp Vân (Thường Tín) ở làng Văn Giáp, xã Văn Bình, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội.
Chùa Pháp Vân (Hoàng Mai) ở quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.
Tên gọi khác của Chùa Dâu ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Tên gọi khác của Chùa Nành ở làng Nành, xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
Chùa Pháp Vân ở Tân Phú, thành lập năm 1965 do Hòa thượng Thích Nhất Hạnh. Chùa đang nắm giữ 3 kỷ lục của Việt Nam. |
Thần Quang tự (chứ Hán: 神光寺) là tên chữ Hán của một số ngôi chùa Phật giáo như:
Chùa Keo ở Thái Bình, còn được gọi là chùa Keo Thượng, ở làng Dũng Nhuệ, xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.
Chùa Keo ở Nam Định, còn được gọi là chùa Keo Hạ hoặc Keo Hành Thiện, ở làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Chùa Dạm, còn gọi là chùa Bà Tấm, chùa Cao, chùa Trăm Gian, chùa Lãm Sơn, ở xã Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.
Chùa Ngũ Xã, còn có tên khác là 'Phúc Long tự, ở làng Ngũ Xã (phố Ngũ Xã), quận Ba Đình, Hà Nội. |
Chùa Tháp hay chùa tháp có thể dùng để nói:
khái quát về các công trình kiến trúc Phật giáo gồm chùa và tháp, cũng dùng để chỉ một loại tháp chùa là stupa
về tên gọi dân gian của chùa Phổ Minh và một số chùa khác
về tên gọi của Campuchia trong văn chương (đất nước Chùa tháp) |
Airbus A350 XWB là dòng máy bay chở khách thân rộng, hai động cơ, một tầng, hai lối đi, tầm xa được phát triển bởi nhà sản xuất máy bay Airbus. A350 là thế hệ máy bay Airbus đầu tiên trên thế giới sử dụng vật liệu polymer gia cường bằng sợi carbon (carbon-fiber-reinforced polymer) cho thiết kế cả thân và cánh máy bay. A350 có khả năng mang 250 đến 350 hành khách với cấu hình 3 hạng ghế,và có thể mang theo tối đa 440 hành khách,tùy biến thể. A350 ra đời kế thừa cho hai dòng A330 và A340, trở thành đối thủ cạnh tranh của Boeing 787 Dreamliner và dòng Boeing 777-300ER.
A350XWB sở hữu động cơ thế hệ mới giúp tiết kiệm nhiên liệu, giảm các loại khí NOx, HC, CO, khói thải trong quá trình vận hành. Máy bay trang bị hệ thống điện tử có khả năng giảm tiếng ồn, sử dụng vật liệu, công nghệ cấu trúc 4 lớp giúp đốt cháy nhiên liệu tốt hơn, trọng lượng nhẹ, ít khí thải CO2.
Thiết kế cabin Airspace hiện đại của A350XWB mang lại trải nghiệm bay thoải mái, nhất là với các đường bay dài xuyên Thái Bình Dương. Cụ thể, khoang hành khách trên A350-1000 rộng rãi, yên tĩnh, không gian cá nhân rộng, không khí trong lành, nhiệt độ, độ ẩm phù hợp giúp giảm thiểu hiện tượng jetlag. Thiết bị kết nối tích hợp sẽ giúp hành khách không bị mất kết nối khi đang ở trên không, thoải mái thưởng thức hệ thống giải trí trên máy bay thế hệ mới. Năm 2004, Ý tưởng ban đầu cho A350 là thiết kế một máy bay mới với thiết kế động lực học mới và động cơ nằm bên trong thân dựa trên cơ sở của A330.Nhưng ý tưởng này bị từ chối bởi những khách hàng đầu tiên. Năm 2006, Airbus tái thiết kế máy bay mới và đổi tên A350 XWB (Thân mở rộng - extra wide body). Qatar Airways là khách hàng đầu tiên mở hàng cho A350,với đơn đặt hàng 80 chiếc cho cả ba loại.Tuy nhiên phiên bản A350-800 đã bị hủy bỏ và Vietnam Airlines là khách hàng thứ hai của loại máy bay này với đơn đặt hàng là 14 chiếc.Chi phí phát triển dự án khoảng €12 tỷ Euro (US$15 tỷ Đôla hoặc £10 tỷ Bảng). , Airbus đã nhận được đơn đặt hàng 812 chiếc từ 39 khách hàng trên toàn thế giới. Mẫu A350 thử nghiệm thực hiện chuyến bay thử đầu tiên vào 14 tháng 6 năm 2013 từ Toulouse, France. A350 nhận được chứng nhận từ Cơ quan an toàn hàng không châu Âu, tháng 9 năm 2014 và FAA hai tháng sau. Chiếc A350 đầu tiên giao cho hãng hàng không Qatar Airways vào tháng 12 năm 2014 và sau đó là Vietnam Airlines tháng 6 năm 2015, Airbus nhận đơn hàng từ Tam Airlines, và đưa vào lộ trình phục vụ thương mại tháng 1 năm 2015., Thái Dương Airbus Cambodia - đường Cộng Hòa , Tân Bình
Thiết kế
Tổng quát
Airbus dự kiến có chi phí bảo dưỡng thân máy bay thấp hơn 10% so với thiết kế ban đầu của A350 và có trọng lượng rỗng (chưa lắp ghế) thấp hơn 14% so với Boeing 777. Việc định hình thiết kế cho A350-900 đã được thực hiện vào tháng 12/2008.
Vật liệu
Khung máy bay Airbus A350 được làm từ 53% vật liệu tổng hợp: nhựa gia cố sợi carbon cho hộp cánh ngoài và trung tâm (bề mặt cánh, dầm, xà cánh), thân máy bay (vỏ, khung, dầm dọc và thân sau) và phần đuôi máy bay (đuôi đứng và đuôi ngang); 19% nhôm và hợp kim nhôm-liti cho khung sườn, dầm sàn và buồng càng; 14% titan cho càng đáp, giá treo và các phụ kiện; 6% thép; và 8% các loại vật liệu khác. Đối thủ của Airbus A350, Boeing 787 có 50% vật liệu tổng hợp, 20% nhôm, 15% titan, 10% thép và 5% vật liệu khác.
Thân máy bay
Thân máy bay có chiều rộng không đổi từ cửa 1 đến cửa 4, không giống như các máy bay Airbus trước đây, nhằm mang lại thể tích sử dụng tối đa. Mặt cắt ngang thân máy bay có tiết diện hình oval có đường kính ngoài tối đa là 5,97m, so với 5,64m của A330 / A340. Chiều rộng bên trong của cabin là 5,61m ở chỗ để tay so với 5,49 m của Boeing 787 và 5,87 m ở Boeing 777. Bố trí cấu hình ghế 2–4–2 ở hạng phổ thông cao cấp, với bề rộng ghế là 49,5 cm giữa phần kê tay rộng 5 cm. Airbus tuyên bố rằng ghế sẽ rộng hơn 1,3 cm so với ghế Boeing 787 ở cấu hình tương đương. Hạng Thương Gia sẽ có cấu hình ghế 1-2-1 (dạng xương cá hoặc dạng thẳng tùy theo thiết kế của mỗi hãng). Hạng phổ thông sẽ có cấu hình ghế là 3-3-3 rộng 45 cm, rộng hơn 1,27 cm so với ghế ở cách bố trí tương đương trong 787 và rộng hơn 3,9 cm so với ghế ở Airbus A330.
Phần đầu của Airbus A350 có cấu hình bắt nguồn từ Airbus A380 với buồng càng trước và 6 tấm kính chắn gió trên buồng lái. Điều này về cơ bản khác với cách bố trí bốn cửa sổ trong thiết kế ban đầu. Phần đầu mới, được làm bằng nhôm, cải thiện tính khí động học và cho phép các khu vực nghỉ ngơi của phi hành đoàn được lắp đặt xa hơn về phía trước và loại bỏ bất kỳ sự xâm phạm nào trong khoang hành khách. Kính chắn gió mới đã được sửa đổi để cải thiện tầm nhìn bằng cách giảm chiều rộng của trụ giữa. Bán kính vỏ trên của phần mũi đã được tăng lên.
Hệ càng đáp chính
Airbus đã áp dụng một triết lý mới cho việc gắn hệ càng đáp chính của A350 như một phần của việc chuyển đổi sang cấu trúc cánh tổng hợp. Mỗi càng của hệ càng chính được gắn vào dầm sau cánh ở phía trước và với dầm càng ở phía sau, để chính nó được gắn vào cánh và thân máy bay. Để giúp giảm bớt tải tác động lên cánh, một cấu hình hai bên đã được áp dụng. Giải pháp này giống với thiết kế của Vickers VC10.
Airbus đã nghĩ ra triết lý thiết kế càng chính ba nhánh bao gồm cả bốn bánh và sáu bánh để luôn ở trong giới hạn tải của đường băng. A350-900 có bốn bánh trong khoang càng dài 4,1m. Trong khi đó A350-1000 sử dụng sáu bánh với khoang càng 4,7m. Messier-Dowty có trụ sở tại Pháp cung cấp phần càng chính cho biến thể A350-900 và Hệ thống Hàng không Vũ trụ UTC cung cấp cho biến thể A350−1000. Càng mũi được cung cấp bởi Liebherr Aerospace.
Cánh
Cánh của Airbus A350 làm bằng vật liêu composite mới với sải cánh giống với các biến thể được đề xuất. Sải cánh dài 64,75m nằm trong giới hạn 65m của Tổ chức Mã tham chiếu sân bay ICAO code E như A330 / A340 và Boeing 777. Cánh của A350 có góc vát 31,9 ° cho tốc độ hành trình Mach 0,85 và có tốc độ vận hành tối đa Mach 0,89.
Cánh A350-900 có diện tích 442m2 nằm giữa cánh 436,8 m2 của chiếc Boeing 777-200LR / 300ER hiện tại và cánh 466,8 m2 của chiếc Boeing 777X đang trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, Boeing và Airbus không sử dụng cùng một phép đo. Cánh A350-1000 lớn hơn 22,3m2 so với A350-900 thông qua phần mở rộng 30 cm về phía gốc cánh của mép sau cánh cố định.
Một thiết bị cánh nâng có mép sau mới đã được áp dụng với một bản lề thả tiên tiến tương tự như của A380, cho phép thu hẹp khoảng cách giữa mép sau cánh và cánh tà sau bằng cánh cản lưng. Đó là một kiểu cánh biến hình giới hạn với các tính năng thích ứng để liên tục tối ưu hóa tải trọng của cánh nhằm giảm lượng tiêu thụ nhiên liệu: độ cong của cánh thay đổi để kiểm soát tải theo chiều dọc nơi mà các cánh tà phía trong và phía ngoài lệch cùng nhau và các khác biệt trong việc thiết lập vị trí cánh tà để kiểm soát tải trọng ngang khi các cánh tà bên trong và bên ngoài lệch khác nhau.
Nhà sản xuất đã sử dụng rộng rãi ứng dụng tính toán máy tính về động lực học chất lỏng và cũng đã thực hiện hơn 4.000 giờ thử nghiệm trong hầm gió ở tốc độ thấp và tốc độ cao để tinh chỉnh thiết kế khí động học. Cấu hình cuối cùng của cánh và cánh nhỏ đã đạt được vào ngày 17/12/2008. Thiết bị đầu cánh cong lên trên 4,4m cuối cùng. Đôi cánh được sản xuất tại Nhà máy phía Bắc trị giá 400 triệu bảng Anh (641 triệu USD) của Airbus Broughton, sử dụng 650 công nhân, trong một cơ sở chuyên dụng được xây dựng với 29 triệu bảng Anh hỗ trợ từ Chính phủ xứ Wales.
Buồng lái và thiết bị điện tử
Thiết kế sửa đổi của buồng lái bằng kính của A350 đã loại bỏ màn hình kích thước A380 và sử dụng màn hình tinh thể lỏng 38 cm. Cấu hình sáu màn hình mới bao gồm hai màn hình trung tâm được gắn một bên trên màn hình kia (màn hình thấp hơn phía trên cần đẩy) và một màn hình điều hướng / chuyến bay chính (cho mỗi phi công), với một màn hình hệ thống thông tin trên máy bay liền kề. Airbus cho biết thiết kế buồng lái cho phép đưa những tiến bộ trong tương lai về công nghệ định vị lên màn hình, đồng thời mang lại sự linh hoạt và khả năng tải lên phần mềm mới cũng như kết hợp dữ liệu từ nhiều nguồn và cảm biến để quản lý chuyến bay và điều khiển hệ thống máy bay. Một màn hình hiển thị head-up cũng có trong buồng lái.
Hệ thống điện tử là sự phát triển tiếp theo của khái niệm điện tử hàng không môđun tích hợp (IMA) được tìm thấy trên A380. IMA của A350 sẽ quản lý tới 40 chức năng (so với 23 chức năng của A380) như nâng hạ gầm, nhiên liệu, khí nén, hệ thống môi trường cabin và phát hiện cháy. Airbus tuyên bố rằng những lợi ích bao gồm việc giảm bảo trì và giảm trọng lượng vì IMA thay thế nhiều bộ xử lý và LRU với ít hơn khoảng 50% mô-đun máy tính tiêu chuẩn được gọi là mô-đun có thể thay thế dòng. IMA chạy trên mạng 100 Mbit/s dựa trên tiêu chuẩn AFDX, như được sử dụng trong A380, thay cho kiến trúc được sử dụng trên A330/A340.
Động cơ
Năm 2005, GE là động cơ ra mắt chiếc A350, nhằm mục đích giao hàng trong năm 2010, trong khi Rolls-Royce cung cấp Trent 1700. Đối với A350, GE đã cung cấp GEnx-3A87 87.000 lbf (390 kN) cho A350-800/900, nhưng không phải là phiên bản lực đẩy cao hơn cần thiết cho A350-1000, cạnh tranh với Boeing 777-200LR được cung cấp độc quyền với GE90-115B. Vào tháng 12/2006, Rolls-Royce được chọn làm động cơ khởi động A350 XWB.
Rolls-Royce Trent XWB có đường kính đĩa quạt 300 cm và thiết kế dựa trên những phát triển tiên tiến của Airbus A380 Trent 900 và Boeing 787 Trent 1000. Nó có bốn mức lực đẩy để cung cấp năng lượng cho các biến thể A350: 75.000 lbf (330 kN) và 79.000 lbf (350 kN) cho các biến thể của A350-900 trong khi dòng cơ sở có tiêu chuẩn 84.000 lbf (370 kN) và 97.000 lbf (430 kN) cho A350-1000. Phiên bản có lực đẩy cao hơn sẽ có một số sửa đổi đối với môđun quạt, nó sẽ có cùng đường kính nhưng sẽ chạy nhanh hơn một chút và có thiết kế cánh quạt mới và chạy ở nhiệt độ cao hơn cho phép theo công nghệ vật liệu mới từ nghiên cứu của Rolls-Royce.
Rolls-Royce Trent XWB cũng có thể được hưởng lợi từ hệ thống ống dẫn động cơ tán xạ chế độ âm thanh giảm thế hệ tiếp theo (RAMSES), một ống hút âm thanh của động cơ tĩnh lặng và thiết kế mang theo của ống hút khí "không mối nối" của Airbus được phát triển cho A380. Một lựa chọn xếp hạng "nóng và cao" cho khách hàng Trung Đông Qatar Airways, Emirates và Etihad Airways giữ cho lực đẩy của nó có sẵn ở nhiệt độ và độ cao cao hơn.
Airbus nhắm đến việc chứng nhận A350 có khả năng ETOPS trong 350 phút khi đi vào hoạt động. Con số đó có thể đạt 420 phút sau đó, mặc dù Airbus đã đạt được xếp hạng ETOPS 370 phút vào ngày 15/10/2014, bao phủ 99,7% bề mặt Trái đất. Bộ đảo chiều động cơ và nacelles được cung cấp bởi Hệ thống Hàng không Vũ trụ UTC có trụ sở tại Hoa Kỳ.
Hệ thống
Honeywell cung cấp khối công suất phụ HGT1700 1.700 mã lực (1.300 kW) với mật độ công suất lớn hơn 10% so với TPE331 mà nó được phát triển và hệ thống quản lý không khí: không khí tràn, kiểm soát môi trường, kiểm soát áp suất cabin và hệ thống làm mát bổ sung. Airbus nói rằng thiết kế mới mang lại bầu không khí trong cabin tốt hơn với độ ẩm 20%, độ cao cabin điển hình là dưới 6.000 ft và hệ thống quản lý luồng không khí giúp điều chỉnh luồng không khí trong cabin phù hợp với tải trọng của hành khách với sự lưu thông không khí không có gió lùa.
Tuabin không khí ram, có khả năng tạo ra 100 kilovolt-ampe, được cung cấp bởi Hamilton Sundstrand và nằm ở bề mặt dưới của thân máy bay. Do các vấn đề về pin của 787 Dreamliner vào tháng 2/2013, Airbus đã quyết định chuyển từ lithium-ion sang công nghệ nickel-cadmium đã được kiểm chứng mặc dù chương trình bay thử nghiệm sẽ tiếp tục với các hệ thống pin lithium-ion. Cuối năm 2015, 24 chiếc đã được giao với pin Saft Li-ion nhẹ hơn 80 kg và vào tháng 6/2017, 50 chiếc A350 đã bay cùng chúng và được hưởng lợi từ lịch bảo trì hai năm thay vì 4 đến 6 tháng của NiCd.
Parker Hannifin cung cấp gói nhiên liệu hoàn chỉnh: hệ thống trơ, hệ thống đo lường và quản lý nhiên liệu, thiết bị cơ khí và máy bơm nhiên liệu. Hệ thống làm trơ thùng nhiên liệu có các mô-đun tách không khí để tạo ra không khí được làm giàu nitơ nhằm giảm khả năng bắt lửa của hơi nhiên liệu trong thùng. Parker cũng cung cấp hệ thống sản xuất và phân phối năng lượng thủy lực: bình chứa, ống góp, bộ tích lũy, điều khiển nhiệt, cách ly, phần mềm và các thiết kế máy bơm điều khiển bằng động cơ và động cơ điện mới. Parker ước tính các hợp đồng sẽ tạo ra doanh thu hơn 2 tỷ đô la Mỹ trong suốt thời gian của chương trình.
Biến thể
A350-900
A350-900 là mẫu A350 đầu tiên, có tải trọng 280 tấn, sức chứa 325 hành khách và có tầm bay lên đến 15.000 km. Airbus cho biết mỗi chỗ ngồi, Boeing 777-200ER có mức tiêu thụ nhiên liệu khối cao hơn 30% và chi phí vận hành bằng tiền mặt cao hơn 25% so với A350-900. A350−900 được thiết kế để cạnh tranh với Boeing 777-200ER/LR và Boeing 787-10, đồng thời thay thế Airbus A340-300 và Airbus A340-500.
Một biến thể tầm bay mở rộng của A350−900R được đề xuất là có sức đẩy động cơ cao hơn, kết cấu được tăng cường và thiết bị hạ cánh của A350-1000 nặng 308 tấn để có tầm bay xa hơn 1.500 km. Một chuyên cơ chở hàng A350−900F có tầm bay 9.300 km, trọng tải và khối lượng tương tự với máy bay McDonnell Douglas MD-11 nặng 91,7 tấn nên được nghiên cứu sau khi A350-1000 được hoàn thiện, tùy thuộc vào nhu cầu thị trường.
Giá thuê trung bình của những chiếc A350-900 đầu tiên được sản xuất vào năm 2014 là 1,1 triệu USD mỗi tháng, chưa bao gồm dự phòng bảo dưỡng lên tới 18 triệu USD sau 10–12 năm và giảm xuống còn 940.000 đô la mỗi tháng vào năm 2018 trong khi một chiếc A350-900 mới được cho thuê với giá 1,2 triệu đô la mỗi tháng và nội thất của nó có thể trị giá 12 triệu USD. Đến năm 2018, một bản xây dựng năm 2014 được định giá 108 triệu USD giảm xuống còn 74,5 triệu USD vào năm 2022 trong khi một bản dựng mới được định giá 148 triệu USD, chi phí kiểm tra 6 đến 12 năm là 3 triệu USD và bảo trì động cơ 4–6,5 triệu USD.
A350-900ULR
Trọng lượng cất cánh tối đa cuả A350-900ULR đã được tăng lên 280 tấn và dung tích nhiên liệu của nó tăng từ 141.000 lên 165.000 lít (37.000 đến 44.000 gal) trong các thùng nhiên liệu hiện có, cho phép các chuyến bay kéo dài tới 19 giờ với tầm bay đạt được 18.000 km. Trọng lượng cất cánh tối đa được tăng thêm 5 tấn so với biến thể 275 tấn đã được chứng nhận trước đó. Do mức tiêu thụ nhiên liệu của A350-900 là 5,8 tấn/giờ, nó cần thêm 24 tấn nhiên liệu để bay 19 giờ thay vì 15 giờ tiêu chuẩn: trọng lượng cất cánh tối đa tăng và trọng tải thấp hơn sẽ cho phép công suất nhiên liệu lớn hơn. Các chuyến bay thẳng có thể kéo dài hơn 20 giờ. Chiếc A350−900ULR đầu tiên đã được tung ra mà không có động cơ vào tháng 2/2018 để thử nghiệm trên mặt đất. Các chuyến bay thử nghiệm sau khi lắp đặt động cơ đã kiểm tra dung tích nhiên liệu lớn hơn và đo lường các cải tiến hiệu suất từ các cánh nhỏ mở rộng. Nó thực hiện chuyến bay đầu tiên vào ngày 23/4/2018.
ACJ350
Phiên bản máy bay ACJ350 có nguồn gốc từ A350-900ULR. Do dung tích nhiên liệu tăng lên từ A350-900ULR, ACJ350 có tầm bay tối đa 20.000 km. Không quân Đức sẽ là khách hàng đầu tiên nhận ACJ350 sau khi đặt hàng 3 chiếc thay thế cho 2 chiếc Airbus A340-300.
A350 Tầm trung
Sau khi ra mắt Boeing 787-10 tại Triển lãm Hàng không Paris 2013, Airbus đã thảo luận với các hãng hàng không về một chiếc A350-900 khả thi bay tầm trung với trọng lượng cất cánh tối đa giảm xuống còn 250 tấn. Lực đẩy động cơ sẽ được giảm xuống 70.000–75.000 lbf (310–330 kN) từ 85.000 lbf (380 kN) tiêu chuẩn và biến thể sẽ được tối ưu hóa cho các đường bay lên đến 12.600 km với chỗ ngồi cho tối đa 360 hành khách trong cùng một cấu hình ghế. A350 tầm trung dự kiến sẽ được Etihad Airways và Singapore Airlines đặt hàng. Kể từ năm 2013, không có thông báo nào thêm về biến thể này.
A350F
Một chuyên cơ chở hàng A350-900 được đề cập lần đầu tiên vào năm 2007, cung cấp sức chở tương tự như McDonnell Douglas MD-11F với tầm bay 9.250 km, sẽ được phát triển sau phiên bản chở khách. Vào đầu năm 2020, Airbus đã đề xuất một chiếc A350F trước khi ra mắt. Chuyên cơ vận tải được đề xuất sẽ có kích thước dài hơn một chút so với A350-900 và Airbus sẽ cần 50 đơn đặt hàng để khởi động chương trình trị giá 2–3 tỷ USD. Chiều dài 70,1m và được trang bị động cơ Rolls-Royce Trent XWB-97. Phía đầu máy bay là khu vực nghỉ ngơi của phi hành đoàn với 10 ghế. Cửa gầm hàng nằm phía sau cánh cùng với khoang chính kích thước lớn giúp nó có thể chứa tới 6 động cơ hoặc những kiện hàng đặc biệt như: động vật, xe cộ, dược phẩm. Phiên bản này còn giúp giảm 40% nhiên liệu tiêu thụ cũng như lượng phát thải khí Co2. Nó có thể được đưa vào sử dụng vào năm 2025 nếu biến thể này được tung ra vào năm 2021.
A350-1000
A350-1000 là biến thể lớn nhất của dòng A350 với chiều dài 74 mét. Nó có sức chứa 350-410 hành khách trong cách bố trí ba hạng ghế với tầm bay đạt được 16.100 km. Nó được thiết kế để thay thế Airbus A340-600 và cạnh tranh với Boeing 777-300ER và Boeing 777-9. Airbus ước tính chiếc A350-1000 366 chỗ ngồi sẽ có trọng lượng rỗng vận hành nhẹ hơn 35 tấn so với Boeing 777-9 398 chỗ ngồi, chi phí chuyến đi thấp hơn 15%, chi phí chỗ ngồi thấp hơn 7% và tầm bay xa hơn 740 km. So với một chiếc Boeing 777-300ER với 360 chỗ ngồi, Airbus tuyên bố lợi thế đốt cháy nhiên liệu trên mỗi ghế là 25% đối với một chiếc A350-1000 với 369 chỗ ngồi. Phần mở rộng 7 m có thể chứa thêm 40 hành khách với diện tích cao cấp hơn 40%. A350-1000 có thể phù hợp với hơn 40 chỗ ngồi của Boeing 777-9 bằng cách tăng 10 chỗ ngồi nhưng giảm bớt sự thoải mái.
A350-1000 có khoảng kéo dài 11 khung so với A350−900 và thiết kế cánh lớn hơn một chút so với các kiểu A350−800/900 với phần mở rộng cạnh sau làm tăng diện tích của nó lên 4%. Điều này sẽ mở rộng các thiết bị nâng cao và các dây dẫn, làm cho hợp âm lớn hơn khoảng 16 inch, tối ưu hóa hiệu suất nâng cánh cũng như hiệu suất hành trình. Thiết bị hạ cánh chính là một bộ 6 bánh, được đặt trong một khung dài hơn. Lực đẩy của động cơ Rolls-Royce Trent XWB được tăng lên 97.000 lbf (430 kN). Những nâng cấp này và các nâng cấp kỹ thuật khác là cần thiết để mẫu A350−1000 duy trì tầm hoạt động.
Quá trình lắp ráp các bộ phận chính của thân máy bay đầu tiên bắt đầu vào tháng 9/2015. Vào tháng 2/2016, quá trình lắp ráp cuối cùng bắt đầu tại nhà máy dây chuyền lắp ráp cuối cùng ở Toulouse. Ba máy bay thử nghiệm đã được lên kế hoạch đưa vào hoạt động vào giữa năm 2017. Chiếc máy bay đầu tiên hoàn thành phần thân vào ngày 15/4/2016. Chuyến bay đầu tiên diễn ra vào ngày 24/11/2016.
Chương trình bay thử nghiệm A350-1000 dự kiến kéo dài 1.600 giờ bay; 600 giờ trên chiếc máy bay đầu tiên trên MSN59 để kiểm tra vỏ máy bay, hệ thống và động cơ; 500 giờ trên MSN71 cho các chuyển đổi lạnh và ấm, kiểm tra thiết bị hạ cánh và kiểm tra độ cao; và 500 giờ trên MSN65 để chứng minh lộ trình và đánh giá ETOPS, với cách bố trí nội thất để phát triển và chứng nhận cabin. Trong hành trình ở tốc độ Mach 0,854 (911,901 km/h) và độ cao 35.000 ft, dòng nhiên liệu của nó ở tốc độ 259 t là 6,8 tấn mỗi giờ trong chuyến bay thử nghiệm sớm 10.000 km, dài 11 tiếng rưỡi. Các cuộc thử nghiệm bay cho phép nâng trọng lượng cất cánh tối đa từ 308 lên 316 tấn, tăng 8 tấn cho tầm bay xa hơn 830 km. Airbus sau đó đã hoàn thành kiểm tra chức năng và độ tin cậy.
A350-1000 được cấp giấy chứng nhận do EASA trao vào ngày 21/11/2017, cùng với chứng nhận của FAA. Đơn vị nối tiếp đầu tiên đã nằm trên dây chuyền lắp ráp cuối cùng vào đầu tháng 12. Sau chuyến bay đầu tiên vào ngày 7/12, việc giao hàng cho khách hàng Qatar Airways đã giảm xuống đầu năm 2018. Sự chậm trễ là do vấn đề lắp đặt ghế hạng Thương gia. A350-1000 được giao vào ngày 20/2 và chính thức đi vào hoạt động thương mại trên đường bay Doha đến London Heathrow của Qatar Airways vào ngày 24/2.
Phiên bản kéo dài
Airbus đã khám phá khả năng mở rộng thêm 45 chỗ ngồi. Một đoạn dài 4m sẽ vẫn nằm trong giới hạn lối ra của bốn cặp cửa và mức tăng trọng lượng cất cánh tối đa khiêm tốn từ 308 tấn lên 319 tấn sẽ chỉ cần thêm 3% lực đẩy, trong khả năng của Rolls-Royce Trent XWB-97 và sẽ cho phép tầm bay đạt được 14.100 km để cạnh tranh với Boeing 777-9.
Biến thể này là sự thay thế cho 747-400, tạm gọi là A350-8000, A350-2000 hoặc A350-1100.
A350neo
Vào tháng 11 năm 2018, Airbus đang thuê ở Toulouse và Madrid để phát triển một chiếc A350neo sử dụng động cơ mới. Mặc dù việc ra mắt của nó không được đảm bảo, nhưng nó sẽ được giao vào giữa những năm 2020, sau A321XLR và A320neo, có khả năng cạnh tranh với máy bay tầm trung mới của Boeing. Mục nhập dịch vụ sẽ được xác định bởi các phát triển động cơ có tỷ số vòng cực cao do Pratt & Whitney theo đuổi, thử nghiệm nâng cấp. Động cơ máy bay Safran, thử nghiệm máy bay trình diễn trên mặt đất từ năm 2021 và Rolls-Royce, nhắm đến việc gia nhập dịch vụ Ultrafan năm 2025. Mục tiêu sản xuất là 20 chiếc A350neo hàng tháng, tăng từ 10 chiếc.
Tháng 11/2019, General Electric đã cung cấp động cơ GEnx-1 tiên tiến với hệ thống khí nén và những cải tiến từ GE9X, được phát triển cho chiếc Boeing 777X để cung cấp năng lượng cho chiếc A350neo được đề xuất từ giữa những năm 2020.
Đơn đặt hàng và giao hàng
Đến nay, Airbus đã nhận 935 đơn hàng cố định từ 50 khách hành trên toàn cầu, trong đó 44% đơn hàng đến từ khi vực châu Á - Thái Bình Dương. Hiện tại, tàu bay bàn giao cho 34 hãng hàng không trên toàn thế giới, gồm 16 hãng tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Có 470 máy bay A350 đang hoạt động với 38 nhà khai thác :
Thông số kỹ thuật |
Đề Thám là một biệt danh của Hoàng Hoa Thám (1858–1913), người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Thế chống Pháp. Tên gọi này còn được đặt tên cho một số địa danh sau:
Phường Đề Thám, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng
Phường Đề Thám, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình
Xã Đề Thám, huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn. |
Alfred Lothar Wegener (1 tháng 11 năm 1880 – 3 tháng 11 năm 1930) là một nhà nghiên cứu khoa học đa lĩnh vực người Đức, ông trở lên nổi tiếng với học thuyết trôi dạt lục địa.
Alfred Wegener là người khởi đầu cho thuyết trôi dạt lục địa được trình bày trong tác phẩm "Sự hình thành của lục địa và đại dương". Ông không ngừng nỗ lực khôi phục vật lý địa cầu, địa lý học, khí tượng học và các bộ môn liên quan đến địa chất, các vấn đề được mổ xẻ phân tích và chuyên môn hoá, kết hợp các phương pháp lại để luận chứng cho thuyết trôi dạt lục địa. Trong quá trình nghiên cứu, Alfred Wegener luôn thể hiện khoa học như một hoạt động tinh mỹ của con người và không phải là cơ chế thu thập tin tức khách quan.
Do trình độ khoa học đương thời còn có nhiều hạn chế nên thuyết trôi dạt lục địa của ông còn thiếu sự kết hợp bổ trợ thích hợp của động lực học vật lý và trái ngược với những lý thuyết chính thống. Nhưng lý thuyết của Alfred Wegener đã vượt qua lý luận của thời đại và khiến chúng ta phải khâm phục. Sau 30 năm, "cấu tạo địa tầng học" đã đến được toàn thế giới, cuối cùng mọi người đã chứng nhận sự đúng đắn trong lý thuyết của Alfred Wegener.
Sự nghiệp
Wegener sớm được đào tạo trong lĩnh vực thiên văn học, Tiến sĩ thiên văn học tại Đại học Berlin 1904. Ông thích môn khí tượng học mới. Ông cưới con gái của nhà khí hậu và khí tượng học nổi tiếng Wladimir Köppen, một người đã dùng khinh khí cầu mở đường cho việc sử dụng khinh khí cầu thời tiết để theo dõi những khối không khí. Những bài giảng của ông trở thành sách giáo khoa tiêu chuẩn trong khí tượng học, nhiệt động lực học của khí quyển.
Ngày 6/1/1912, Wegener lần đầu tiên đưa ra lý thuyết trôi dạt lục địa trong đó mô tả sự chuyển động của các mảng lục địa lớn khắp bề mặt hành tinh. Các lục địa di chuyển với tốc độ rất chậm. Tuy nhiên, đa số các nhà khoa học đã không tin giả thuyết này của Wegener. Một câu hỏi đặt ra cho họ là sức mạnh thiên nhiên nào có thể di chuyển cả một lục địa? Wegener đã không thể giải thích được điều này và chứng minh của ông đã không đứng vững được cho đến khi ông qua đời vào năm 1930.
Ông có vài cuộc thám hiểm tới Greenland để nghiên cứu tuần hoàn khí quyển những vùng địa lý Nam cực, khi tồn tại một dòng chảy mà bản thân nó đã gây ra tranh cãi gay gắt. Ông đã chết ở đó (Greenland). |
Chi Đậu Hà Lan (danh pháp khoa học: Pisum) là một chi trong họ Đậu (Fabaceae), có nguồn gốc ở vùng tây nam châu Á và đông bắc châu Phi. Chi này chứa từ một tới năm loài, phụ thuộc vào các diễn giải trong phân loại học; Cơ sở dữ liệu đậu quốc tế (ILDIS) chấp nhận ba loài, trong đó một loài có hai phân loài:
Pisum abyssinicum (từ đồng nghĩa P. sativum phân loài abyssinicum)
Pisum fulvum
Pisum sativum - Đậu Hà Lan, đậu tròn
Pisum sativum phân loài elatius (đồng nghĩa P. elatius, P. syriacum)
Pisum sativum phân loài sativum
Pisum sativum (đậu Hà Lan), được con người đưa vào trồng từ lâu và là một trong những nguồn cung cấp thức ăn của loài người. Nó cũng được Mendel sử dụng trong các nghiên cứu ban đầu của mình về tính di truyền và thừa kế.
Chúng là các loài cây thân thảo sống một năm, với thân leo yếu và lá hình lông chim, ở đầu cuống lá là các sợi dây leo để chúng có thể quấn vào thân cây khác để leo lên. Hạt của chúng chứa nhiều protit (20-26%).
Các loài trong chi Pisum bị ấu trùng của một số loài thuộc bộ Lepidoptera phá hại, bao gồm Bucculatrix pyrivorella, Mamestra brassicae, Korscheltellus lupulina, Hepialus humuli, Hypercompe indecisa, Agrotis segetum, Xestia c-nigrum và Discestra trifolii.
Kinh tế
Hình ảnh
Ghi chú
P |
47 (bốn mươi bảy) là một số tự nhiên ngay sau 46 và ngay trước 48.
Tham khả
Số nguyên tố |
Dương Quảng Hàm (Hán tự: 楊廣涵), tự Hải Lượng (海量), là nhà nghiên cứu văn học, nhà giáo dục Việt Nam.
Tác phẩm Việt Nam văn học sử yếu, do ông dày công biên soạn, được xem là cuốn văn học sử phổ thông bằng chữ quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam.
Tiểu sử và sự nghiệp
Dương Quảng Hàm sinh ngày 14 tháng 7 năm 1898 trong một gia đình có truyền thống nho học tại làng Phú Thị, tổng Mễ Sở, huyện Đông An, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên (nay thuộc xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Cụ nội là Dương Duy Thanh (1804 – 1861), từng làm Đốc học Hà Nội. Cha của ông là Dương Trọng Phổ, anh cả là Dương Bá Trạc, một trong những người sáng lập trường Đông Kinh Nghĩa Thục, trường học cách mạng đầu tiên của thành phố Hà Nội. Em là Dương Tự Quán, đều là những danh sĩ có tiếng đương thời.
Thuở nhỏ ông học chữ Nho, sau ra Hà Nội học chữ quốc ngữ. Năm 1920, tốt nghiệp thủ khoa trường cao đẳng Sư phạm Đông Dương. Từ năm 1920 đến 1946, ông làm giáo viên trường Bưởi (tức trường trung học bảo hộ, tiền thân của trường Chu Văn An ngày nay). Sau thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông được bổ nhiệm làm Tổng Thanh tra Trung học (đến 26/11/1946, được thay bởi Nguyễn Văn Hiểu), rồi làm Hiệu trưởng của trường Bưởi.
Trong hơn 20 năm (1920–1945), ông đã làm việc không mệt mỏi, vừa giảng dạy, vừa viết sách giáo khoa văn học và sử học cho nhà trường từ bậc tiểu học đến bậc trung học, vừa bằng tiếng Pháp vừa bằng tiếng Việt. Hai cuốn sách có giá trị nghiên cứu nhất của ông là Việt Nam văn học sử yếu (1941), Việt Nam thi văn hợp tuyển (1942). Riêng tác phẩm Việt Nam văn học sử yếu được Bộ Quốc gia Giáo dục Việt Nam Cộng hòa chính thức dùng làm sách giáo khoa chương trình lớp Đệ Tam (tức là lớp 10) trong nhiều năm liền.
Hy sinh
Cuối năm 1946, trước tình hình Toàn quốc kháng chiến sắp sửa nổ ra, theo chủ trương của Chính phủ, người Hà Nội tản cư về các vùng quê. Căn nhà của Giáo sư Hàm được đục tường, thông với các nhà bên cạnh thành một lối đi cho dân quân, tự vệ luồn qua đánh du kích. Ngày 19 tháng 12, vợ chồng giáo sư Hàm được dân quân tự vệ dẫn đường, con gái thứ 2 là Dương Thị Thoa (Lê Thi) đang tham gia đội tự vệ, mang cơm tiếp tế cho dân, đã gặp vợ chồng Dương Quảng Hàm trong chớp nhoáng, chỉ kịp đưa hai nắm cơm rồi dặn: "Cậu, mợ (cách gọi cha mẹ của nhân vật) ở lại đây, sẽ có tự vệ đưa ra khỏi thành phố". Đội dân quân tự vệ có chủ trương: Đàn bà đi trước, đàn ông đi sau. Giáo sư Hàm động viên vợ: "Mình yên tâm, ta gặp nhau ở quê". Nào ngờ, đó là giây phút cuối bà nghe tiếng nói của chồng.
Bà Trần Thị Vân vượt qua con đường nguy hiểm, luồn dưới gầm cầu Long Biên đến khu vực an toàn rồi đi đò qua bên kia sông Hồng, thẳng hướng quê nhà Phú Thị (Hưng Yên). Nhưng mãi vẫn không thấy chồng đến. Sau đó, gia đình được thông báo "Trên đường đi, cụ Hàm bị địch phục kích và ngã xuống làn đạn của giặc Pháp". Mãi sau này, bà Vân vẫn cố gắng dò la nhưng thông tin về chồng vẫn bặt vô âm tín. Đến ngày giải phóng Thủ đô, 10/10/1954, bà mới tin là chồng mình đã chết và quyết định lấy ngày 19/12/1946 làm ngày giỗ chồng. Đến nay xác ông Hàm vẫn chưa được tìm thấy và cái chết của ông Hàm vẫn còn là một bí ẩn.
Dương Quảng Hàm hy sinh khi còn đang tại chức vào 19 tháng 12 năm 1946 tại Hà Nội trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, khi mới 48 tuổi. Theo bà Lê Thi, thì sau ngày 2 tháng 9 năm 1945, nhà giáo Dương Quảng Hàm được Việt Minh giao làm Hiệu trưởng Trường Bưởi. Tuy nhiên, đến 19 tháng 12 năm 1946 ông bị địch Pháp phục kích vây bắn và hy sinh. Bà buồn rầu kể: "Khi Pháp đàn áp rất ác liệt, cả nhà tôi bảo bố trốn đi, không ở nội thành nữa nhưng ông nhất quyết không đi với lý do chưa nhận được chỉ thị của cấp trên. Bố tôi bị địch Pháp bắt và đem đi tử hình ở đâu cũng không biết, đến nay gia đình tôi vẫn chưa tìm thấy xác của cụ".
Đời tư
Vợ ông là bà Trần Thị Vân và hai người có với nhau tám người con, 4 người con gái và 4 người con trai.
Cuộc hôn nhân của giáo sư Dương Quảng Hàm với bà Trần Thị Vân khá đặc biệt. Nó xuất phát từ sự hòa giải của hai dòng họ cùng đỗ đạt trong làng Phú Thị, Mễ Sở, Hưng Yên khi các tập tục phong kiến còn đang ngự trị. Đó là dòng họ Dương và dòng họ Trần. Lúc đó, cụ Tú (bố đẻ của bà Trần Thị Vân) đang giữ chức Tiên chỉ, chức vụ danh dự đứng đầu làng. Nhưng anh cả của giáo sư Dương Quảng Hàm là Dương Bá Trạc, con cụ khóa Dương Trọng Phổ, sau đó lại đỗ cử nhân (cao hơn tú tài). Cả làng lấy đó làm vinh dự nên cấp đất, sửa đường, dựng cổng đón tiếp ông lúc vinh quy. Trong họ Dương lúc đó có người muốn đòi chức Tiên chỉ cho ông Dương Bá Trạc, thậm chí gây gổ trở thành hiềm khích giữa hai họ Dương và Trần. Nhưng Dương Bá Trạc chẳng thiết gì cái chức vụ phong kiến. Ông bỏ ra Hà Nội tham gia thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục dạy học, tuyên truyền lòng yêu nước chống Pháp. Ở quê nhà, cụ Dương Trọng Phổ dẹp sự hiềm khích giữa hai họ bằng cách “xin con gái nhà họ Trần về làm dâu nhà họ Dương”. Thế là có cuộc hứa hôn giữa chị gái của cụ bà Trần Thị Vân với người anh thứ tư của giáo sư Dương Quảng Hàm. Nhưng chưa kịp tổ chức cưới thì chị gái Trần Thị Vân mắc bệnh rồi mất. Thế là “duyên chị buộc vào duyên em”.
Cụ khóa Dương Trọng Phổ hỏi cưới Trần Thị Vân cho con trai thứ năm là Dương Quảng Hàm. Trần Thị Vân khi đó lớn hơn 2 tuổi nhưng các cụ cho là rất hợp, bởi vì xưa đã có câu “gái hơn hai, trai hơn một”.
Sau ngày cưới, Trần Thị Vân sang làm dâu nhà họ Dương. Suốt gần 7 năm khi người chồng Dương Quảng Hàm học ở Hà Nội, Trần Thị Vân ở quê cùng bố mẹ chồng và tiếp tục buôn bán ở chợ Mễ. Trần Thị Vân chuyên buôn vải nâu từ Mễ lên Hà Nội. Sau khi Dương Quảng Hàm tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm và được bổ nhiệm về dạy ở trường Bưởi, Trần Thị Vân mới ra Hà Nội ở cùng. Khi đó Dương Quảng Hàm 22 tuổi, còn Trần Thị Vân sang tuổi 24.
Trong ký ức những người con của giáo sư Dương Quảng Hàm, cụ bà Trần Thị Vân vừa lo buôn bán kiếm tiền, vừa lo mọi việc lớn nhỏ trong gia đình nên đôi khi khá nóng tính nhưng đối với chồng, bà luôn nể trọng, nghe theo ý kiến của chồng, nhất là trong việc dạy dỗ con cái.
Noi gương người cha, tám người con của vợ chồng giáo sư Dương Quảng Hàm đều là những trí thức đi theo cách mạng, nối tiếp truyền thống gia đình, đều cố gắng học tập, nghiên cứu và đóng góp cho xã hội như:
Con trai cả – Dương Bá Bành là lớp bác sĩ y khoa đầu tiên tốt nghiệp Y khoa Đại học trong thời kỳ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được đích thân Hồ Chí Minh trao bằng tốt nghiệp.
Con gái thứ – Dương Thị Ngân là phát thanh viên đầu tiên của Đài Tiếng nói Việt Nam, người đọc Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh.
Người con thứ 3 – Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân, Anh hùng lao động Dương Trọng Bái, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, là người biên soạn bộ sách giáo khoa Vật lý đầu tiên cho cấp Trung học phổ thông.
Người con thứ 4 – Giáo sư, tiến sĩ triết học, nguyên Viện trưởng Viện Triết học (nay thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) Dương Thị Thoa (Lê Thi), là người phụ nữ cứu quốc tiêu biểu được lên kéo cờ đỏ sao vàng trong ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Người con thứ 6 – Dương Thị Duyên, nguyên Ủy viên Thường trực Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, là phóng viên nữ Thông tấn xã Việt Nam đầu tiên đi cùng phái đoàn Việt Nam tham gia đàm phán tại Hội nghị Paris năm 1973.
Người con thứ 7 – Giáo sư, bác sĩ Dương Thị Cương, nguyên Viện trưởng Viện Bảo vệ bà mẹ và trẻ sơ sinh (nay là Bệnh viện Phụ sản Trung ương), Chủ nhiệm bộ môn Phụ sản – Trường Đại học Y Hà Nội, Chủ tịch Hội Sản phụ khoa và Kế hoạch hóa gia đình Việt Nam, là người đầu tiên được Giải thưởng Kovalevskaya năm 1999.
Người con út – Dương Tự Minh, Phó Ban liên lạc các chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày tại Hỏa Lò. Hiện trong bảo tàng nhà tù Hỏa Lò vẫn còn lưu giữ số tù VN2017 của Dương Tự Minh.
Tác phẩm
Việt Nam văn học sử yếu
Đây là một bộ sách giáo khoa văn học Việt Nam. Không kể những đề mục phụ, như: Biên tập đại ý , Những chữ viết tắt, Tổng kết, Biểu liệt kê, Mục lục…; Việt Nam văn học sử yếu gồm 48 chương trong đó có nhiều phần có giá trị, như: Văn chương bình dân, Ảnh hưởng của nước Tàu, Các chế độ việc học, việc thi, Ảnh hưởng của nước Pháp, Vấn đề ngôn ngữ văn tự v.v…
Tác giả đã dành nhiều công sức để giới thiệu khái quát nền văn học Việt. Cuối sách còn có Biểu liệt kê các tác gia và tác phẩm, Bảng kê tên theo vần chữ cái các tác gia, tác phẩm có nói trong sách, khá tỉ mỉ và chu đáo.
Trần Hữu Tá nhận xét về sách:
Hữu Ngọc đánh giá:
Khác
Ngoài ra, ông còn biên soạn các cuốn:
Lectures littéraires sur L’ Indochine (Bài tuyển văn học về Đông Dương, biên soạn cùng với Pujarnicle)
Quốc văn trích diễm (1925)
Tập bài thi bằng sơ học yếu lược (1927, soạn chung với Dương Tự Quán),
Những bài lịch sử Việt Nam (1927)
Văn học Việt Nam (1939)
Việt văn giáo khoa thư (1940)
Lý Văn Phức – tiểu sử và văn chương (viết xong khoảng năm 1945)
Và rất nhiều bài báo tiếng Việt, tiếng Pháp đăng trên các báo Nam Phong, Hữu Thanh, Tri Tân và báo của người Pháp…
Ghi công
Hậu thế đã đánh giá về sự nghiệp trước tác của Dương Quảng Hàm là:
Người thầy xuất sắc đã đào tạo hàng nghìn học trò trong một phần tư thế kỷ.
Nhà nghiên cứu văn học đã đặt nền móng cho môn lịch sử văn học, văn học so sánh ở Việt Nam; và là người khởi xướng chương trình quốc học cho nền giáo dục hiện đại.
Về nhân cách, ông là "một nho sĩ yêu nước, một nhà mô phạm từ cách ăn mặc, nói năng đến mối quan hệ thầy trò, nhất nhất đều theo quan niệm chữ Lễ của Khổng học" …
Để ghi nhớ công ơn, ngày 14 tháng 7 năm 1993, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trung tâm khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, Viện Khoa học giáo dục và Viện Văn học đã tổ chức lễ kỷ niệm và hội thảo khoa học về Dương Quảng Hàm nhân 95 năm ngày sinh của ông.
Hiện nay tại tỉnh Hưng Yên, thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh đều có đường phố mang tên Dương Quảng Hàm .
Tại huyện Văn Giang (Hưng Yên) quê hương của Dương Quảng Hàm có một ngôi trường Trung học phổ thông mang tên THPT Dương Quảng Hàm (thành lập năm 2001).
Chú thích |
Họ Cá trê là các loài cá trong họ có danh pháp khoa học là Clariidae. Họ Clariidae là một phần của bộ Siluriformes nằm trong lớp Actinopterygii (cá vây tia). Họ này bao gồm 15 chi và khoảng 114 loài cá trê. Tất cả các loài cá trê đều là cá nước ngọt.
Các loài cá này có khả năng lấy oxy từ không khí do chúng có khả năng hít thở không khí nhờ một cơ quan phức tạp mọc ra từ vòm mang. Một vài loài có khả năng vượt một khoảng cách không lớn trên mặt đất như Clarias batrachus.
Phân bố
Mặc dù các loài cá trê có ở Ấn Độ, Syria, nam Thổ Nhĩ Kỳ, phần lớn khu vực Đông Nam Á, nhưng sự đa dạng loài lớn nhất lại ở châu Phi, trong đó 77 loài ở châu Phi và 37 loài ở châu Á. Chi Clarias có số lượng loài đa dạng nhất, chiếm trên 50% tổng số loài trong họ và phân bố ở cả hai châu lục.
Phân loại
Heteropneustidae chứa chi Heteropneustes với 5 loài cá trê có túi khí sinh sống tại Nam Á (từ Pakistan tới Thái Lan) được một số tác giả coi là họ tách biệt, nhưng một số tác giả coi là phân họ trong họ Cá trê. Với Heteropneustidae và Clariidae như là các họ tách biệt, một bài báo gần đây gộp chúng trong liên họ Clarioidea. Mối quan hệ của cá trê với các họ cá da trơn khác vẫn chưa chắc chắn.
Các chi
Bathyclarias: 8 loài, châu Phi
Channallabes: 6 loài, châu Phi
Clariallabes: 16 loài, châu Phi
Clarias: 60 loài, trong đó 32 loài ở châu Phi và 28 loài ở châu Á. Loài cá trê Phi (Clarias gariepinus) cũng sinh sống ở khu vực Trung Đông và được du nhập vào nhiều nơi.
Dinotopterus: 1 loài đặc hữu hồ Tanganyika
Dolichallabes: 1 loài ở sông Chiloango và trung lưu sông Congo
Encheloclarias: 6 loài, châu Á
Gymnallabes: 2 loài, châu Phi
Heterobranchus: 4 loài, châu Phi
Horaglanis: 3 loài cá trê mù đặc hữu Ấn Độ
Platyallabes: 1 loài ở hạ lưu sông Congo và vực Malebo.
Platyclarias: 1 loài ở thượng lưu sông Kwango (Angola).
Tanganikallabes: 3 loài đặc hữu hồ Tanganyika
Uegitglanis: 1 loài trong hang động gần các sông Jubba và Shebelle (Somali)
Xenoclarias: 1 loài cá trê nước sâu hồ Victoria |
Họ Cá nheo (danh pháp khoa học: Siluridae) là một họ cá da trơn trong bộ Siluriformes.
Họ Cá nheo thực thụ này chứa 12 chi và khoảng 100 loài cá sinh sống trong môi trường nước ngọt ở khu vực miền đông châu Âu và gần như toàn bộ châu Á, ngoại trừ khu vực Siberia và bán đảo Ả Rập. Cá nheo có lớp da trơn, không có vảy. Đầu của chúng hơi bẹp, miệng rộng và có hai râu dài ở hàm trên, bốn râu ngắn ở hàm dưới. Vây lưng nhỏ còn vây hậu môn thì dài. Phụ thuộc vào từng chi, chúng có thể dài từ 8 cm đến 3 mét.
Một số loài đáng chú ý như cá nheo châu Âu (Silurus glanis), cá nheo Aristotle (Silurus aristotelis) ở Hy Lạp, cá nheo sông Amur hiện đã sinh sống trong các con sông ở châu Âu (Silurus asotus) và cá nheo Ấn Độ (Kryptopterus bicirrhis)- một loại cá cảnh khá phổ biến.
Các chi
Belodontichthys
Ceratoglanis
Hemisilurus
Hito
Kryptopterus
Micronema
Ompok
Parasilurus
Pterocryptis
Silurichthys
Silurus
Wallago
Hình ảnh
Chú thích |
Thế kỷ 12 là khoảng thời gian tính từ thời điểm năm 1101 đến hết năm 1200, nghĩa là bằng 100 năm, trong lịch Gregory. |
Thế kỷ 13 là khoảng thời gian tính từ thời điểm năm 1201 đến hết năm 1300, nghĩa là bằng 100 năm, trong lịch Gregory.
Lịch sử
Thế kỷ này nổi tiếng với sự xâm lược của Đế quốc Mông Cổ trên khắp lục địa Á - Âu. |
Thế kỷ 14 là khoảng thời gian tính từ thời điểm năm 1301 đến hết năm 1400, nghĩa là bằng 100 năm, trong lịch Gregory.
Phát minh và khám phá
Năm 1368: Chu Nguyên Chương lãnh đạo nghĩa binh lật đổ Nhà Nguyên, lên ngôi hoàng đế, đặt tên nước là Đại Minh, giải thoát cho cả dân tộc Trung Hoa khỏi ách đô hộ của người Mông Cổ suốt gần 100 năm.
Súng hỏa mai ra đời
Đại dịch mang tên Cái chết đen hoành hành khắp châu Âu, lấy đi mạng sống của gần 100 triệu người |
Thế kỷ 15 (XV) là khoảng thời gian tính từ thời điểm năm 1401 đến hết năm 1500, nghĩa là bằng 100 năm, trong lịch Gregory.
Sự kiện
Năm 1453 : Sự thất thủ của Constantinopolis đã đánh dấu sự kết thúc của Đế quốc Đông La Mã và cái chết của Hoàng đế La Mã cuối cùng là Constantine XI . Chấm dứt con đường tơ lụa mở ra thời đại khám phá và thời kỳ phục hưng diễn ra mạnh mẽ toàn bộ Châu Âu .Ottoman trở thành Đế quốc và là kẻ địch chính hầu hết các quốc gia Châu Âu.
Năm 1453 : Trận castillon trận chiến cuối cùng của Chiến tranh Trăm Năm giữa Anh-Pháp .Đại bác trở thành nhân tố chính quyết định trận chiến đầu tiên trong lịch sử Châu Âu
Năm 1492 : Christopher Columbus đổ bộ lên Châu Mỹ .
Năm 1494 : Đế quốc Tây Ban Nha và Đế quốc Bồ Đào Nha ký Hiệp ước Tordesillas và đồng ý phân chia Thế giới để thiết lập thuộc địa . |
Thế kỷ 16 là khoảng thời gian tính từ thời điểm năm 1501 đến hết năm 1600, nghĩa là bằng 100 năm, trong lịch Gregory.
Các sự kiện
1503: Leonardo da Vinci bắt đầu vẽ bức Mona Lisa.
1504: Michelangelo hoàn thành tượng David tại Florence.
1506: Vương cung thánh đường Thánh Phêrô được khởi công xây dựng.
1508: Michelangelo bắt đầu thi công vẽ trần nhà nguyện Sistine.
1513: Machiavelli viết tác phẩm Quân Vương.
1517: Phong trào Kháng Cách bắt đầu khi Martin Luther công bố 95 luận đề.
1519: Fernão de Magalhães (được biết đến với tên Anh hóa là Ferdinand Magellan) bắt đầu chuyến hải hành vòng quanh Trái Đất đầu tiên.
1521: Minh Thế Tông lên ngôi, bắt đầu giai đoạn trị vì 45 năm.
1533: Michel de Montaigne chào đời.
1534: Jacques Cartier thực hiện chuyến hải hành khám phá ra Canada.
1540: Dòng Tên được Giáo hoàng Phaolô III chính thức công nhận.
1543: Tác phẩm De revolutionibus orbium coelestium về thuyết nhật tâm của Nicolaus Copernicus được xuất bản.
1547: Ivan Bạo Chúa trở thành Sa hoàng.
1549: Thánh Phanxicô Xaviê cập cảng Kagoshima.
1554: Các tu sĩ dòng Tên José de Anchieta và Manuel da Nóbrega thành lập São Paulo.
1557: Nhà Minh bắt đầu cho Bồ Đào Nha thuê Ma Cao.
1564: Galileo Galilei chào đời.
1571: Manila được conquistador người Tây Ban Nha Miguel López de Legazpi thành lập.
1582: Giáo hoàng Grêgôriô XIII cho giới thiệu lịch Gregorius vào tháng 10.
1583: Toyotomi Hideyoshi khởi công xây dựng Thành Osaka.
1593: Hoàn thành Pháo đài Bourtange ở Hà Lan
1597: Vở Romeo và Juliet của William Shakespeare được xuất bản. |
Thế kỷ 18 (tức thế kỷ XVIII) là khoảng thời gian tính từ thời điểm năm 1701 đến hết năm 1800, nghĩa là bằng 100 năm, trong lịch Gregory.
Sự kiện:
Chính quyền vua Lê-Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài suy yếu dẫn đến các cuộc khởi nghĩa của nông dân |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.