text
stringlengths 0
512k
|
---|
Hình học afin là môn hình học không có bao hàm các khái niệm về gốc tọa độ, chiều dài hay góc, mà thay vào đó là các khái niệm về phép trừ của các điểm để cho ra một vectơ.
Nó thuộc dạng nằm giữa của hình học Euclide và hình học xạ ảnh (hình học chiếu). Nó còn gọi là hình học của không gian afin, của một chiều cho sẵn n trên trường K. Trường hợp K là số thực, ta sẽ cụ thể hơn.
Nền móng
Hình học afin có thể xem là hình học của vectơ không chứa các khái niệm chiều dài hay góc. Không gian afin có thể xem là không gian vectơ ở tại cùng chiều khi mà bỏ qua gốc tọa độ 0. Đó là cách nghĩ của các tài liệu cũ khi đề cập đến lý thuyết vectơ tự do. Quan điểm hiện nay và trừu tượng hơn, đề cập ở cuối trang, là sự rút gọn của hình học afin về đại số tuyến tính.
Ứng dụng và các mối quan hệ
Khái niệm hình học afin có nhiều ứng dụng, ví dụ trong hình học vi phân. Do có mối quan hệ mật thiết với đại số tuyến tính, có nhiều cách để diễn đạt mối quan hệ này.
Biến đổi afin
Theo mục tiêu chung của chương trình Erlangen, để có thể nói chính xác hình học affine là gì thì hãy nhìn vào nhóm các phép biến đổi đối xứng của nó.
Điều này có thể thực hiện nhanh chóng trong không gian vectơ V. Nhóm tuyến tính tổng quát GL(V) không phải là toàn bộ nhóm afin: mà còn kém theo phép tịnh tiến theo vectors v trong V. (Phép tịnh tiến này sẽ ánh xạ mọi w trong V thành w + v.) Nhóm afin được tọa bởi nhóm tuyến tính chung và phép tịnh tiến hay chính là semidirect product của V GL(V). (Dùng cách biểu diễn GL(V) trên V để quy định semidirect product.) |
Silva Kaputikyan (tiếng Armenia: Սիլւա Կապուտիկեան) là một nhà thơ lớn của nước cộng hòa Armenia. Bà sinh ngày 20 tháng 1 năm 1919 tại Yerevan, Armenia và mất ngày 25 tháng 8 năm 2006.
Tiểu sử
Silva Kaputikyan sinh ở Erevan. Bố là người tỵ nạn từ thành phố Van (Thổ Nhĩ Kỳ), trước làm biên tập viên của một tờ báo, sau dạy học. Sirvard Kaputikyan tốt nghiệp khoa ngôn ngữ Đại học Erevan và trường viết văn. Bắt đầu in thơ từ năm 1933. Hội viên Hội nhà văn Armenia từ năm 1941. Năm 1952 được tặng Giải thưởng nhà nước Liên Xô.
Những đề tài chính trong thơ Sirva Kaputikyan là tình yêu, lòng yêu nước và sự cô đơn của người phụ nữ. Bà đặc biệt nổi tiếng với nhiều bài thơ về tình yêu, tình mẹ và nhiều bài viết về số phận của cộng đồng người Armenia ở nước ngoài. Ngoài hoạt động văn học bà còn là Đại biểu Xô viết Tối cao Liên Xô và Viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Nga. Bà được tặng nhiều giải thưởng cao quý của nhà nước Armenia, Liên Xô và nhiều giải thưởng của các nước: Ý, Ukraina, Mỹ, Grruzia, Anh.
Silva Kaputikyan là tác giả của gần 60 cuốn sách viết bằng tiếng Armenia và tiếng Nga. Thơ của bà được dịch ra nhiều thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt.
Tác phẩm
Một số tập thơ bằng tiếng Nga:
В эти дни (Trong những ngày này, 1945)
Стихи (Thơ, 1947)
На берегу Занги (Bên bờ sông Zangy, 1947)
Мои родные (Những người ruột thịt của tôi, 1951)
В добрый путь (Lên đường may mắn, 1954)
Откровенная беседа (Cuộc trò chuyện cởi mở, 1955)
Раздумья на полпути (Suy ngẫm trên đường, 1960)
Часы ожидания (Những giờ đợi chờ, 1983)
Тревожный день (Ngày lo âu, 1985)
Một vài bài thơ
Nhạc sĩ Vũ Thành An đã từng lấy bài thơ 'Em bảo anh: "Đi đi!" làm cảm hứng sáng tác nên ca khúc 'Bài không tên số 50'. Dưới đây là toàn bộ nội dung lời bài hát.
Em bảo: "Anh đi đi"
Sao anh không đứng lại?
Em bảo: "Anh đừng đợi"
Sao anh vội về ngay?
Lời nói thoảng gió bay
Đôi mắt huyền đẫm lệ
Mà sao anh dại thế
Không nhìn vào mắt em
Mà sao anh dại thế
Không nhìn vào mắt em
Không nhìn vào mắt sầu
Không nhìn vào mắt sâu?
Những chuyện buồn qua đi
Xin anh không nhắc lại
Em ngu khờ vụng dại
Anh mơ mộng viễn vông
Đời sống nghiệt ngã không
Cho chúng mình ấm mộng
Thì thôi xin gửi sóng
Đưa tình về cuối sông
Thì thôi xin gửi sóng
Đưa tình về cuối sông
Đưa tình về với mộng
Đưa tình vào cõi không |
Boris Nikolaevich Yeltsin (, ; sinh ngày 1 tháng 2 năm 1931 – mất ngày 23 tháng 4 năm 2007) là nhà hoạt động quốc gia, chính trị của Nga và Liên Xô. Ông là tổng thống đầu tiên của Nga, được bầu lên vị trí này 2 lần: ngày 12 tháng 6 năm 1991 và 16 tháng 6 – ngày 3 tháng 7 năm 1996. Ông ở vị trí này từ ngày 10 tháng 7 năm 1991 đến 31 tháng 12 năm 1999. Ông là một trong những chính trị gia nổi tiếng với tư tưởng "Tây hóa" và thường xuyên ủng hộ phương Tây trong nhiều vấn đề quốc tế, và cũng hay bổ nhiệm nhiều người thân phương Tây như ngoại trưởng Nga Andrei Kozyrev, thiếu tướng Alexander Korzhakov..., đối lập với chính phủ kiểu Nga của Putin sau này. Và cũng chính từ những việc làm đó đã góp phần vào sự mất ổn định của nước Nga năm 1998.
Tuổi trẻ
Boris Yeltsin sinh tại làng Butka, quận Talitsa ở Sverdlovsk Oblast Nga. Cha ông, Nikolai Yeltsin, bị kết tội xúi giục chống Xô viết năm 1934 và đã phải vào trại cải tạo (Gulag) trong ba năm. Sau khi được thả, ông thất nghiệp trong một khoảng thời gian và sau đó làm việc trong ngành xây dựng. Mẹ ông, Klavdiya Vasilyevna Yeltsina, làm thợ may.
Yeltsin học tại Trường trung học Pushkin ở Berezniki, Perm Krai. Ông học khá và trong suốt thời gian học sinh ông luôn là lớp trưởng (староста, starosta). Tuy nhiên, ông tuân thủ kỷ luật kém và hay tỏ ra ngang bướng. Ông tham gia vào các vụ đánh nhau trên đường phố và thường xuyên đối đầu với các giáo viên cũng như cha mình. Trong những sự kiện đó ông luôn là người chiến thắng. Vì vậy, sau khi thấy giấy chứng nhận kết quả học tập trong bảy năm của mình bị thu hồi, ông đã yêu cầu thành lập một ủy ban để điều tra trường hợp đó và cuối cùng cũng nhận được giấy chứng nhận ấy, người giáo viên chịu trách nhiệm việc này bị đuổi việc. Ông đỗ kỳ thi kết thúc 10 năm học khi còn chưa hoàn thành khóa học.
Ông rất ưa thích thể thao (đặc biệt là trượt tuyết, thể dục, bóng chuyền, các môn điền kinh, đấm bốc và đấu vật) dù đã mất hai ngón tay khi ông cùng một số người bạn chui vào một kho vũ khí của Hồng Quân lấy vài quả lựu đạn và chặt chúng ra.
Yeltsin được nhận bằng giáo dục cao học tại Viện Bách khoa Ural ở Sverdlovsk, ngành xây dựng, và tốt nghiệp năm 1955. Đề tài văn bằng của ông là "Tháp truyền hình".
Từ năm 1955 tới 1957 ông làm đốc công tại công ty xây dựng Uraltyazhtrubstroi. Từ 1957 đến 1963 ông làm việc tại Sverdlovsk và được thăng chức từ giám sát công trình lên lãnh đạo Ban giám đốc xây dựng công ty Yuzhgorstroi. Năm 1963 ông trở thành kỹ sư trưởng, và năm 1965 lãnh đạo Tổ hợp xây dựng nhà cửa Sverdlovsk. Ông bắt đầu được xếp vào hàng ngũ cán bộ nguồn (nomenclatura) của Đảng Cộng sản Liên Xô năm 1968 khi được chỉ định làm lãnh đạo phụ trách xây dựng bên trong Ủy ban vùng Sverdlovsk của Đảng. Năm 1975 ông trở thành bí thư ủy ban vùng và chịu trách nhiệm phát triển công nghiệp vùng.
Sự nghiệp
Thành viên Đảng cộng sản Liên Xô
Yeltsin từng là một thành viên Đảng cộng sản Liên Xô (CPSU) từ 1961 đến tháng 7 năm 1990, và đã bắt đầu làm việc trong bộ máy hành chính của đảng năm 1968. Sau này ông đã bình luận về các quan điểm cộng sản của mình:
"Tôi đã chân thành tin tưởng vào các lý tưởng về sự công bằng do đảng tuyên truyền, và cũng có cảm giác ấy khi gia nhập đảng, nghiên cứu toàn bộ các hiến chương, các chương trình và các giáo điều, đọc lại các tác phẩm của Lênin, Marx và Engels."
Năm 1977 với tư cách là lãnh đạo đảng tại Sverdlovsk, ông ra lệnh phá huỷ Ipatiev House nơi vị Sa hoàng cuối cùng bị ám sát. Ipatiev House bị phá hủy trong một đêm, rạng sáng ngày 18 tháng 9 năm 1977. Cũng trong thời gian Yeltsin nắm quyền ở Sverdlovsk, một tòa nhà lớn của Đảng cộng sản được xây dựng và được những người sống ở đó gọi là "Răng trắng". Trong 30 năm hoạt động với tư cách một đảng viên cộng sản, Yeltsin đã phát triển các mối quan hệ với những nhân vật chủ chốt bên trong cơ cấu quyền lực Xô viết.
Ông được chỉ định vào Bộ chính trị, và kiêm chức "Thị trưởng" Moskva (bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Liên Xô Ủy ban thành phố Moskva) từ 24 tháng 12 năm 1985 đến 1987. Ông được đề bạt lên tới các chức vụ đó nhờ Mikhail Gorbachev và Yegor Ligachev, những người tin tưởng rằng Yeltsin sẽ trở thành "người đằng mình". Yeltsin cũng được cấp một căn nhà ở thôn quê (dacha) trước kia từng là của Gorbachev. Trong thời gian này, Yeltsin tự thể hiện mình như một nhà cải cách và quần chúng (ví dụ, ông dùng xe điện bánh hơi đi làm), sa thải và cải tổ bộ máy nhân sự của mình nhiều lần. Những sáng kiến của ông gây được tiếng vang trong dân chúng Mátxcơva.
Năm 1987, sau một cuộc đối đầu với Yegor Ligachev, người theo đường lối cứng rắn, và cuối cùng là cả với Mikhail Gorbachev về vụ vợ Gorbachev, Raisa, dính vào các công việc nhà nước, Yeltsin bị hất khỏi các cương vị cao trong đảng. Ngày 21 tháng 10 năm 1987 trong phiên họp toàn thể Ủy ban trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Yeltsin, không được Gorbachev đồng ý trước, to tiếng lên án Bộ chính trị. Ông bày tỏ sự bất bình với cả những bước tiến hành cải tổ chậm chạp trong xã hội và sự lệ thuộc của Tổng bí thư, sau đó đòi từ chức khỏi Bộ chính trị và nói thêm rằng Ủy ban thành phố sẽ quyết định việc ông có rời khỏi chức vụ bí thư thứ nhất Ủy ban đảng thành phố Mátxcơva. Trong phần trả lời của mình, Gorbachev đã buộc tội Yeltsin "non nớt về chính trị" và "hoàn toàn vô trách nhiệm", và đặt vấn đề bãi miễn chức vụ bí thư thứ nhất của Yeltsin tại phiên họp toàn thể Ủy ban đảng thành phố Mátxcơva. Không ai ủng hộ Yeltsin. Những lời chỉ trích Yeltsin tiếp tục diễn ra ngày 11 tháng 11 năm 1987 tại phiên họp của Ủy ban đảng thành phố Mátxcơva. Ông nhận rằng bài phát biểu của ông là một sai lầm. Yeltsin bị cách chức bí thư thứ nhất Ủy ban thành phố Mátxcơva. Ông không bị phát vãng hay bị bỏ tù như những trường hợp trước đó, nhưng bị giáng làm phó ủy viên thường trực Ủy ban nhà nước về Xây dựng. Sau khi bị cách chức, Yeltsin phải vào bệnh viện và theo như tin tức đưa ra (sau này đã được Nikolai Ryzhkov xác nhận) đã định tự sát. Ông ở tình trạng rối loạn và nhục nhã nhưng đã bắt đầu sắp đặt kế hoạch trả thù. Cơ hội của ông đến khi Gorbachev thành lập Đại hội đại biểu nhân dân. Ông phục hồi chức vụ và bắt đầu chỉ trích mạnh mẽ Gorbachev, lấy sự chậm chạp trong quá trình cải tổ ở Liên Xô làm mục tiêu.
Những lời chỉ trích của Yeltsin nhắm vào Bộ chính trị và Gorbachev khiến ông phải chịu một chiến dịch bôi nhọ chống lại mình. Những người tổ chức chiến dịch bôi nhọ đó chắc chắn đã tin rằng việc tống khứ Yeltsin quá dễ dàng để thực hiện với những vụ scandal gây bởi cách cư xử vụng về của ông. Một bài báo trong tờ Pravda đã miêu tả ông say rượu tại một buổi thuyết trình trong chuyến thăm Hoa Kỳ, và một chương trình TV bình luận về bài diễn văn của ông dường như đã xác nhận thông tin này. Tuy nhiên, tình cảm bất mãn của dân chúng với chế độ đang rất mạnh mẽ, và bất kỳ một nỗ lực nào nhằm bôi nhọ Yeltsin chỉ càng khiến ông nổi tiếng hơn. Một tai nạn khác xảy ra với Yeltsin khi ông bị ngã từ một cây cầu. Bình luận về vụ này, Yeltsin bóng gió ám chỉ rằng ông bị ngã vì những kẻ thù của perestroika. Tuy nhiên, những người đối lập với ông lại cho rằng đó chỉ đơn giản vì ông say rượu.
Tổng thống Chính phủ lâm thời Liên bang Nga
Tháng 3 năm 1989, Yeltsin được bầu vào Đại hội đại biểu nhân dân với tư cách đại biểu quận Moskva và giành được ghế trong Xô viết tối cao. Tháng 5 năm 1990, ông được bầu làm chủ tịch Đoàn chủ tịch Xô viết tối cao Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa xô viết Nga (RSFSR). Ông được cả những thành viên theo hướng dân chủ và bảo thủ trong Xô viết tối cao, đang tìm cách nắm thêm quyền lực trong tình hình chính trị biến động của đất nước, ủng hộ. Một phần trong cuộc đấu tranh giành quyền lực đó là sự đối đầu giữa các cơ cấu quyền lực Liên bang Xô viết và Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga. Trong một nỗ lực nhằm giành thêm quyền lực vào tay mình, ngày 12 tháng 6 năm 1990, Đại hội đại biểu nhân dân RSFSR đã đồng ý đưa ra một tuyên bố về chủ quyền và Yeltsin rời khỏi Đảng cộng sản tháng 7 năm 1990.
Ngày 12 tháng 6 năm 1991, Yeltsin thắng 57% số phiếu bầu trong cuộc bầu cử tổng thống dân chủ của nhà nước cộng hòa Nga, đánh bại ứng cử viên được Gorbachev hậu thuẫn, Nikolai Ryzhkov. Trong chiến dịch tranh cử của mình, Yeltsin đã chỉ trích "sự chuyên chính của trung ương", nhưng không đưa ra đề xuất về một nền kinh tế thị trường. Thay vào đó, ông nói rằng mình sẽ đưa đầu vào đường ray tàu hỏa nếu giá cả tăng lên. Yeltsin nhậm chức ngày 10 tháng 7.
Ngày 18 tháng 8 năm 1991, một vụ đảo chính lật đổ Gorbachev do những người cộng sản theo đường lối cứng rắn dưới sự lãnh đạo của Vladimir Kryuchkov diễn ra. Gorbachev bị giữ tại Krym trong khi Yeltsin chạy vội tới Nhà Trắng Nga (trụ sở Xô viết tối cao RSFSR) ở Mátxcơva để dẹp cuộc đảo chính.
Trong việc đánh bại đảo chính có vai trò nổi bật của Boris Yeltsin, người đã huy động dân chúng tụ tập quanh Nhà Trắng, trụ sở chính phủ Nga. Nhà trắng bị quân đội bao vây nhưng quân đội đã dừng lại khi đối diện với những cuộc tuần hành lớn của người dân. Yeltsin đã phản ứng với cuộc đảo chính bằng một bài diễn văn đáng nhớ trên tháp pháo một chiếc xe tăng. Thực ra chính tình báo Mỹ đã thông đồng với Boris Yeltsin và báo trước cho ông ta biết về những kế hoạch quan trọng của phe đối lập, giúp ông ta giành thắng lợi trong cuộc đối đầu với Ủy ban nhà nước về tình trạng khẩn cấp do CIA đã đặt máy nghe trộm ngay dưới chân điện Kremli. Đích thân tổng thống Mỹ George Bush (cha) và thủ tướng Anh là John Major đã gọi điện báo trước về âm mưu đảo chính và thúc giục Yeltsin phải có hành động nhằm tranh thủ sự đồng tình và nắm chắc quân đội. A. Shcherbatov - Chủ tịch Liên minh các quý tộc Nga ở Mỹ, đã tiếp xúc với Đại sứ Mỹ Robert Strauss tại Liên Xô khi đó và đã bay từ Mỹ về Moskva vào đúng ngày xảy ra cuộc đảo chính. Ông kể: "Tôi đã cố tìm hiểu các chi tiết về cuộc đảo chính. Sau đó vài ngày, tôi biết được nhiều điều: CIA đã chuyển tiền qua Đại sứ Strauss cho các tướng lĩnh quân đội mà ông ta đã mua chuộc được: Các sư đoàn lính dù Taman và Dzerzhisk đã đứng về phía Yeltsin." Cho đến tận sau này, khi sự việc bị lộ ra, nhiều người Nga vẫn đánh giá Boris Yeltsin rất tiêu cực vì sự thông đồng của ông ta với tình báo nước ngoài.
Tới ngày 21 tháng 8, đa số lãnh đạo cuộc đảo chính đã phải bỏ chạy khỏi Mátxcơva và Gorbachev đã được rời khỏi Krym và sau đó quay lại Mátxcơva. Dù đã quay lại vị trí, quyền lực của Gorbachev đã bị tổn hại nghiêm trọng. Cả cơ cấu quyền lực Liên bang và của nước Nga đều không còn chú ý đến ông khi sự ủng hộ đã chuyển sang cho Yeltsin. Trong mùa thu năm 1991, chính phủ Nga dần kiểm soát toàn bộ chính phủ liên bang, nắm dần từng bộ. Tháng 11 năm 1991, Yeltsin ra một nghị định cấm Đảng cộng sản trên toàn bộ RSFSR.
Đầu tháng 12 năm 1991, Ukraina trưng cầu dân ý giành lại độc lập từ Liên bang Xô viết. Một tuần sau, ngày 8 tháng 12, Yeltsin gặp gỡ tổng thống Ukraina Leonid Kravchuk và nhà lãnh đạo Belarus, Stanislau Shushkevich, tại Belovezhskaya Pushcha, nơi ba vị tổng thống tuyên bố sự giải tán của Liên bang Xô viết và việc họ sẽ thành lập một Cộng đồng các quốc gia độc lập (CIS) với sự tham gia tình nguyện để thay thế. Theo Mikhail Gorbachev, vị tổng thống Liên bang Xô viết ở thời điểm ấy, Yeltsin đã giữ bí mật các kế hoạch về cuộc gặp tại Belovezhskaya và mục đích chính của việc tuyên bố giải tán là để tống khứ Gorbachev, người ở thời điểm ấy đã bắt đầu khôi phục quyền lực sau các sự kiện tháng 8. Mikhail Gorbachev cũng buộc tội Yeltsin vi phạm ước nguyện của nhân dân đã được thể hiện trong một cuộc trưng cầu dân ý về giữ nguyên Liên bang Xô viết, trong đó đa số dân cư đã bỏ phiếu thuận.
Ngày 24 tháng 12, Liên bang Nga nắm ghế của Liên Xô tại Liên Hợp Quốc. Ngày hôm sau, Tổng thống Gorbachev từ chức và Liên bang xô viết chấm dứt tồn tại (xem Sự sụp đổ của Liên bang Xô viết), và vì thế cũng chấm dứt chế độ cộng sản lớn nhất và có nhiều ảnh hưởng nhất trên thế giới. Các mối quan hệ kinh tế giữa các nước cộng hòa cũ của Liên bang Xô viết bị tổn hại nghiêm trọng. Hàng triệu người gốc Nga bỗng thấy mình đang sống tại một trong những "nước ngoài" vừa được thành lập.
Tổng thống Nga thời hậu Xô viết
Sau khi Liên bang Xô viết tan rã, việc tăng cường quá trình tái cơ cấu kinh tế trở thành một trong những ưu tiên hàng đầu của Yeltsin và chính phủ của ông đã tiến hành một chiến dịch tư nhân hóa ồ ạt các doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, sự thiếu khả năng của chính phủ cũng như những hành động mang tính phá hoại do các lực lượng ủng hộ lạm phát đưa ra khiến nền kinh tế Nga càng suy sụp thêm. Đất nước nhanh chóng rơi vào tình trạng hỗn loạn trong thời gian diễn ra quá trình tái phân phối tài sản quốc gia. Những thành viên cũ của Đảng cộng sản và Đoàn thanh niên cộng sản, đa số họ vẫn còn đang nắm quyền lực trong các cơ cấu của chính phủ mới, có được thời cơ thuận lợi nhất nhằm chiếm đoạt những khối tài sản khổng lồ. Cùng khi ấy, những nhà doanh nghiệp trên khắp đất nước bắt đầu có cơ hội xây dựng doanh nghiệp của riêng mình.
Chương trình cải cách của Yeltsin bắt đầu có hiệu lực ngày 2 tháng 1 năm 1992 (xem Cải cách kinh tế Nga trong thập kỷ 1990 để biết thêm các thông tin chi tiết). Một thời gian ngắn sau đó, giá cả tăng với tốc độ chóng mặt, chi tiêu chính phủ bị hạn chế, và những loại thuế cao mới bắt đầu có hiệu lực. Một cuộc khủng hoảng tài chính khiến nhiều ngành công nghiệp phải đóng cửa và gây ra tình trạng giảm phát kéo dài. Những người quản lý chính sách tín dụng của chính phủ Yeltsin trong thời gian này đã kiếm được những khoản tiền lớn nhờ các quyền lực về tín dụng. Cùng khi ấy, tiết kiệm ngân hàng của người dân thường nhanh chóng tan biến cùng với lạm phát.
Nhiều nhà chính trị nhanh chóng tự tách biệt mình khỏi chương trình của Yeltsin; và ngày càng tham gia vào cuộc đối đầu chính trị giữa một bên là Yeltsin, và những người đối lập chính trị phản đối cuộc cải cách triệt để nền kinh tế ở phía kia. Cả hai phía đều cáo buộc nhau tham nhũng. Aleksandr Rutskoy, người cầm đầu một ủy ban chống tham nhũng, đã tuyên bố thu thập được "mười một cặp" hồ sơ cho thấy các hành động tội phạm của những kẻ thân tín với Yeltsin: cựu quyền thủ tướng (sau này là phó thủ tướng) Yegor Gaidar, thư ký quốc gia Gennady Burbulis, bộ trưởng thông tin và báo chí Mikhail Poltoranin và các cựu phó thủ tướng Vladimir Shumeiko và Alexander Shokhin, chủ tịch Ủy ban Tài sản Nhà nước Anatoly Chubais và bộ trưởng ngoại giao Andrey Kozyrev. Trong số 51 trường hợp Rutskoy báo cáo lên Tòa án Nhà nước, sau này 45 vụ đã được chứng minh là đúng sự thực. Để trả đũa, Yeltsin cách chức chủ tịch ủy ban chống tham nhũng của Aleksandr Rutskoy và buộc tội ông này tham nhũng cũng như có một tài khoản trong nhà băng Thụy Sĩ. Các cáo buộc đó sau này đã được chứng minh là không có cơ sở.
Suốt năm 1992, những sự chống đối với các chính sách cải cách của Yeltsin ngày càng mạnh mẽ trong số những người có tâm huyết với tình hình công nghiệp đất nước, trong số những vị thống đốc vùng muốn có được sự độc lập lớn hơn từ Moskva và trong số những đối thủ của ông đang đấu tranh cho phần của họ từ tài sản nhà nước. Phó tổng thống Nga, Aleksandr Rutskoy, đã tố cáo chương trình của Yeltsin là cuộc "diệt chủng kinh tế." Các vị lãnh đạo tại các nước cộng hòa nhiều dầu mỏ như Tatarstan và Bashkiria kêu gọi giành lấy độc lập hoàn toàn từ nước Nga.
Cũng trong suốt cả năm 1992, Yeltsin đương đầu với Xô viết Tối cao và Đại hội đại biểu nhân dân toàn Nga nhằm giành kiểm soát toàn bộ chính phủ, lĩnh vực hoạch định chính sách chính phủ, lĩnh vực ngân hàng chính phủ và tài sản chính phủ. Trong năm này, người phát ngôn Xô viết tối cao Nga, Ruslan Khasbulatov ra mặt chống đối các cuộc cải cách, dù vẫn tuyên bố ủng hộ các mục tiêu nói chung của Yeltsin. Tháng 12 năm 1992, Đại hội đại biểu nhân dân lần thứ bảy thắng lợi trong việc hạ bệ ứng cử viên được Yeltsin hậu thuẫn là Yegor Gaidar khi ông này tranh chức Thủ tướng Nga.
Cuộc tranh chấp càng gay gắt ngày 20 tháng 3 năm 1992 khi Yeltsin, trong một lần phát biểu trên truyền hình quốc gia, đã thông báo rằng ông đang chuẩn bị nắm lấy một số "quyền lực đặc biệt" nhằm tiến hành các chương trình cải cách của ông. Đối lại, Đại hội đại biểu nhân dân vội vàng kêu gọi nhóm họp phiên thứ 9 nhằm phế bỏ chức vụ tổng thống của Yeltsin theo lời buộc tội ngày 26 tháng 3 năm 1993. Các đối thủ của Yeltsin có được hơn 600 phiếu thuận cho lời buộc tội này, nhưng vẫn còn thiếu 72 phiếu để đạt tới đa số hai phần ba cần thiết. Hơn nữa, ngày 25 tháng 4 năm 1993 Yeltsin giành chiến thắng trong cuộc trưng cầu dân ý về lòng tin của người dân đối với ông cũng như chương trình cải cách nghị viện của ông.
Ngày 21 tháng 9 năm 1993, Yeltsin giải tán Xô viết tối cao và Đại hội đại biểu nhân dân bằng nghị định, trái với Hiến pháp Nga năm 1978, được cập nhật năm 1991, nói rằng:
Điều 121-6. Các quyền lực của Tổng thống Liên bang Nga không thể được sử dụng để thay đổi nhà nước và tổ chức nhà nước Liên bang Nga, để giải tán hay cản trở hoạt động của bất kỳ một tổ chức quyền lực nhà nước nào được bầu ra; nếu không, Tổng thống sẽ ngay lập tức mất quyền lực của mình.
Nghị định của Yeltsin quy định giai đoạn chuyển tiếp cho tới cuộc bầu cử nghị viện mới, Duma Quốc gia và trưng cầu dân ý về một hiến pháp mới. Nghị định này đã gây ra cuộc Khủng hoảng hiến pháp Nga 1993 và chỉ kết thúc với một cuộc tranh giành quân sự tại Mátxcơva, khiến 187 người thiệt mạng, Xô viết tối cao tuyên bố tước bỏ chức vụ tổng thống của Yeltsin, vì vi phạm hiến pháp, và Phó tổng thống Rutskoy tuyên thệ nhậm chức tổng thống tạm quyền. Toà án hiến pháp xác nhận những hành động đó là hợp hiến. Tuy nhiên, cùng với sự hỗ trợ của truyền thông và quân đội, Yeltsin nắm quyền kiểm soát, tìm cách cô lập nghị viện bằng cả sức mạnh và truyền thông. Sau hai tuần cuộc khủng hoảng biến thành những cuộc ẩu đả đẫm máu trên đường phố, toà nhà nghị viện bị ném bom và chiếm giữ, các lãnh đạo nghị viện bị bắt giam.
Các cuộc bầu cử Duma Quốc gia mới được tổ chức ngày 12 tháng 12 năm 1993, trong đó Đảng Dân chủ Tự do Nga cánh hữu và Đảng cộng sản Nga có được số ghế cao, trái ngược với đảng "Sự lựa chọn của nước Nga" được Yeltsin ủng hộ. Tuy nhiên, cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức cùng thời điểm đó đã thông qua hiến pháp mới, theo đó mở rộng quyền lực tổng thống, trao cho ông quyền chỉ định các thành viên chính phủ, bãi nhiệm thủ tướng, và, trong một số trường hợp, giải tán Duma.
Dù có những nỗ lực "cải thiện" chính phủ, mạng lưới các thể chế chính phủ Nga vẫn hầu như đông đảo tương đương thời kỳ Xô viết. Chính phủ có hàng nghìn công chức quan liêu dính líu nặng nề tới hối lộ và tham nhũng.
Việc tư nhân hoá tài sản quốc gia năm 1993 là một sự kiện rất đáng chú ý. Về mặt chính thức, quá trình tư nhân hoá được coi là một sự phân chia công bằng tài sản quốc gia cho các công dân. Trên thực tế, những người dân thường hầu như chỉ có được những chứng từ vô giá trị (một chứng từ chỉ tương đương một chai vodka), trong khi những người có địa vị trong cơ cấu chính phủ chiếm được những khoản gia tài kếch sù. Trong nhiều trường hợp, họ là những người cộng sản cũ có được vị trí này nhờ các quan hệ với chính phủ. Việc tư nhân hoá được quảng cáo là một phần của cuộc đấu tranh chống lại các lực lượng muốn tái lập chủ nghĩa cộng sản trong nước.
Sau khi giành được quyền lực tuyệt đối trong nước, Yeltsin bị cho là đã vi phạm pháp luật khi chỉ định những người họ hàng của mình vào các vị trí chủ chốt trong chính phủ. Con gái ông, Tatyana Dyachenko, một người lập chương trình máy tính, trở thành cố vấn tổng thống năm 1996. Những hành động đó vi phạm trực tiếp vào Luật pháp Liên bang Nga "Về Chức vụ Quốc gia", nói rằng:
Điều 21. Một công dân không thể được chấp nhận giữ một chức vụ nhà nước trong trường hợp người đó là người thân của một quan chức nhà nước và công việc của một người nằm dưới sự quản lý trực tiếp của người kia.
Trong nhiệm kỳ tổng thống của Yeltsin, nhiều cách cư xử vụng về của ông được dân chúng biết tới rộng rãi. Ngày 29 tháng 8 năm 1994, Yeltsin đã thử chỉ huy trực tiếp một giàn giao hưởng trong chuyến viếng thăm Đức của mình. Tình trạng của ông ở thời điểm đó được các nhà báo tường thuật là "thiếu nghiêm chỉnh". Tình tiết này đã được ghi lại. Tháng 9 năm 1994 (theo Tướng Alexander Korzhakov), Yeltsin đã ra lệnh ném thư ký báo chí của mình là Vyacheslav Kostikov xuống sông Volga để làm nhục ông. Ngày 30 tháng 9 năm 1994, Yeltsin không thể ra khỏi máy bay để dự cuộc gặp gỡ chính thức với Thủ tướng Ireland. Những lời giải thích chính thức sau đó nói rằng ông ta ngủ quên.
Tháng 12, 1994, Yeltsin ra lệnh cho quân đội tiến vào Chechnya trong một nỗ lực nhằm tái lập quyền kiểm soát của Mátxcơva với nước cộng hoà li khai này. Sau này Yeltsin đã rút các lực lượng liên bang khỏi Chechnya theo một thoả thuận hoà bình năm 1996 do Aleksandr Lebed khi ấy là thư ký an ninh quốc gia, dàn xếp. Thoả thuận cho phép Chechnya có quyền tự trị rộng rãi hơn nhưng không được hoàn toàn độc lập; xem Chiến tranh Chechnya lần thứ nhất.
Tháng 7, 1996, Yeltsin thắng cử nhiệm kỳ thứ hai với sự hỗ trợ tài chính từ phía các đầu sỏ chính trị, những người đã trở nên giàu có nhờ các mối quan hệ với bộ máy của Yeltsin. Theo Tướng Korzhakov, Roman Abramovich là người quản lý tài chính chính của gia đình Yeltsin. Cũng có lời đồn đại rằng Yeltsin đã bảo vệ Abramovich khỏi bị truy tố vì nhiều hành vi phạm tội khác từ ăn cắp nhiên liệu diesel tới việc dàn xếp chiếm Sibneft một cách trái luật. Dù chỉ có được 35% số phiếu ở vòng đầu tiên cuộc bầu cử năm 1996, Yeltsin đã đánh bại đối thủ cộng sản Gennady Zyuganov trong cuộc đối đầu trực tiếp năm đó. Cuối năm này, Yeltsin phải trải qua một cuộc phẫu thuật đường rẽ (bypass) tim và phải ở trong bệnh viện nhiều tháng.
Trong nhiệm kỳ tổng thống của Yeltsin, ông đã nhận được 40 tỷ dollar Mỹ từ IMF và các tổ chức tài chính quốc tế khác để ủng hộ ông về mặt chính trị và giúp nền kinh tế Nga. Một số người tin rằng việc vay tiền từ IMF chỉ một thời gian ngắn trước khi rơi vào tình trạng vỡ nợ năm 1998 là một âm mưu đã được tính toán kỹ lượng từ trước.
Năm 1998, một cuộc khủng hoàng kinh tế và chính trị xuất hiện khi chính phủ Yeltsin không thể trả nổi các khoản nợ của mình, gây ra tình trạng hoảng loạn trên các thị trường tài chính và khiến đồng tiền tệ quốc gia, đồng rúp mất giá.
Ngày 15 tháng 5 năm 1999, Yeltsin lại vượt qua được một nỗ lực khác nhằm buộc tội ông, lần này bởi những đối thủ dân chủ và cộng sản bên trong Duma Quốc gia. Ông bị buộc nhiều tội vi hiến, quan trọng nhất là đã ký kết các thoả thuận tại Belovezhskaya Puscha, giải tán Liên bang xô viết vào tháng 12, 1991, vụ đảo chính tháng 10, 1993 và gây ra cuộc chiến ở Chechnya năm 1994. Không một lời buộc tội nào ở trên nhận được đủ đa số hai phần ba tại Duma để bắt đầu một tiến trình luận tội tổng thống.
Ngày 9 tháng 8 năm 1999 Yeltsin cách chức thủ tướng Sergei Stepashin, và là lần thứ tư, cách chức toàn bộ nội các. Trong cả cuộc đời mình, Yeltsin luôn nổi tiếng là người bốc đồng trong việc cách chức và cải tổ lại bộ máy nhân sự của mình. Ông chỉ định Vladimir Putin, một người khá kín tiếng ở thời điểm ấy làm thủ tướng và thông báo ý định muốn đưa Putin làm người kế vị mình.
Trong cuộc Chiến tranh Kosovo năm 1999, Yeltsin mạnh mẽ phản đối chiến dịch quân sự của NATO chống lại Nam Tư và cảnh báo Nga có thể can thiệp nếu NATO triển khai bộ binh tới Kosovo.
Yeltsin tiếp tục giữ chức tổng thống Nga tới ngày 31 tháng 12 năm 1999, nhưng các sự kiện năm 1991 đã chứng tỏ là đỉnh cao sự nghiệp của ông, cả về mặt lịch sử và cá nhân. Tỷ lệ ủng hộ ông giảm xuống chỉ còn 5% trong những tháng cuối cùng. Được con gái là Tatyana Dyachenko thuyết phục, ông từ chức ngày 31 tháng 12 năm 1999, và theo Hiến pháp Nga, Thủ tướng Vladimir Putin trở thành tổng thống tạm quyền cho tới khi các cuộc bầu cử mới được tổ chức ngày 26 tháng 3 năm 2000.
Một điều kiện được cho là cần thiết để Putin có được sự hậu thuẫn của Yeltsin là Putin phải đảm bảo rằng Yeltsin cũng như toàn bộ các thành viên "Gia đình" (một thuật ngữ thông dụng chỉ những nhân vật thân thiết với chính phủ trong nhiệm kỳ của ông) sẽ không bị Putin truy tố sau khi trở thành tổng thống vì tội sử dụng quân đội trái hiến pháp chống lại nghị viện hợp pháp, vi phạm các điều luật, tham nhũng, ăn hối lộ hay lừa dối.
Chứng nghiện rượu của Yeltsin
Theo nhiều bản báo cáo, Yeltsin là người uống rượu nhiều. Hơn nữa, chứng nghiện rượu của ông đóng vai trò quan trọng trong những quyết định có tầm ảnh hưởng lớn đối với nước Nga và toàn thể thế giới:
Năm 1989, Yeltsin tới Hoa Kỳ để thực hiện một loạt những bài phát biểu về đời sống xã hội và chính trị tại Liên bang xô viết. Chuyến đi ấy được một bài báo trong tờ La Repubblica, Italia miêu tả là thảm hoạ. Bài báo viết rằng Yeltsin thường xuất hiện trong tình trạng say rượu trước công chúng. Nó đã được tờ Pravda đăng tải lại.
Theo Trợ lý ngoại trưởng Hoa Kỳ Strobe Talbott, Tổng thống Bill Clinton đã biết được về chứng nghiện rượu của Yeltsin trong cuộc nói chuyện điện thoại đầu tiên của họ khi Yeltsin gọi tới chúc mừng nhân Ngày lễ nhậm chức của ông năm 1993. Yeltsin khi ấy đang say rượu. Ông cũng say rượu trong cuộc gặp thượng đỉnh đầu tiên với Clinton tại Vancouver. Talbott nhớ lại rằng Yeltsin đã rất say khi ông tới sân bay vào tháng 9 năm 1994 tới mức ông có thể ngã khỏi máy bay. Trong đêm ấy Yeltsin loạng choạng đi quanh với độc chiếc quần lót và kêu gào đòi bánh pizza. Theo Talbott, đó là một vấn đề lớn và họ đã phải làm hết sức để che giấu nó trước công chúng. Những cuộc điện đàm tới Yeltsin được sắp xếp thời gian để tránh khi ông uống rượu. Trong vụ ném bom Kosovo, Yeltsin, rõ ràng đang say rượu, đã đề xuất rằng ông và Clinton nên gặp nhau trên một chiếc tàu ngầm.
Ngày 30 tháng 9 năm 1994, ông dự định gặp gỡ Taoiseach Albert Reynolds, nhà lãnh đạo Ireland. Ông đã không thể ra khỏi máy bay và để những vị chủ nhà Ireland phải đứng trơ ở đó. Theo tuyên bố chính thức, ông đang mệt và ốm.
Việc phác họa Yeltsin như một người nghiện rượu trong show truyền hình "Kukly" của Victor Shenderovich khiến đã xảy ra một cuộc điều tra hình sự, nhưng sau này nó đã bị bãi bỏ.
Gwynne Dyer, một nhà báo độc lập tại London, đã bình luận trên tờ Moscow Times ngày 13 tháng 4 năm 1999:
"Tôi đã nhìn thấy Tổng thống Boris Yeltsin say rượu và tôi cũng chắc chắn rằng mình đã nhìn thấy ông ở tình trạng tỉnh táo, nhưng trừ khi ông làm một việc rõ ràng như ký cái gì đó hay ngã, thì ta cũng cần một khoảng thời gian để quyết định: cả ngôn ngữ thân thể và các kiểu mẫu phát biểu của ông đều có khuynh hướng che giấu đi vấn đề."
Cuộc sống sau khi từ chức
Các vấn đề cá nhân và sức khỏe của Yeltsin được các phương tiện truyền thông thế giới rất chú ý. Cùng với thời gian, ông ngày càng trở thành một vị lãnh đạo hay thay đổi, và không còn là nhân vật gây nhiều cảm xúc của dư luận như trước nữa. Khả năng ông chết khi đang giữ chức đã được bàn luận nhiều lần.
Yeltsin khá kín tiếng từ khi từ chức, hầu như không xuất hiện và đưa ra những lời bình luận trước công chúng. Tuy nhiên, vào ngày 13 tháng 9 năm 2004, sau Vụ khủng hoảng con tin trường học Beslan, và những vụ tấn công khủng bố mới diễn ra ở Mátxcơva, Putin đã đưa ra sáng kiến thay thế việc bầu cử các thống đốc bằng một hệ thống theo đó họ sẽ được tổng thống chỉ định trực tiếp và được hội đồng lập pháp vùng thông qua. Yeltsin, cùng với Mikhail Gorbachev, đã công khai chỉ trích kế hoạch của Putin như một bước xa rời dân chủ tại Nga và quay lại với tình trạng chính trị tập trung trung ương thời kỳ Xô viết.
Tháng 10 năm 2005, Yeltsin đã trải qua một cuộc giải phẫu hông tại Mátxcơva sau khi bị gãy xương đùi vì bị ngã trong một kỳ nghỉ ở đảo Sardinia, Itala.
Yeltsin và các thành viên gia đình từng tham dự vào bộ máy chính quyền của ông có một cuộc sống dễ chịu và giàu có. Sự giàu có họ có được thông qua việc tham dự vào các cơ cấu chính phủ vượt xa số lương họ có thể nhận được. Ví dụ, năm 1996 họ sở hữu hai thuyền buồm tốc độ cao với giá 450.000 dollar Mỹ, được một công ty Thụy Sĩ chế tạo riêng cho họ. Họ cũng được cho là đang sở hữu một biệt thự tại Pháp trị giá 11 triệu dollar và các cơ sở đua ngựa dắt tiền khác. Việc cháu trai Yeltsin đi học tại Anh Quốc trong giai đoạn giữa những năm 1990 tiêu tốn khoảng 25.000 dollar một năm. Theo tướng Alexander Korzhakov, Roman Abramovich điều hành công việc tài chính của gia đình Yeltsin.
Ngày 1 tháng 2 năm 2006, Yeltsin đã mừng sinh nhật thứ 75 của mình. Ông đã lợi dụng cơ hội này để chỉ trích sự "độc quyền" trong chính sách đối ngoại của Mỹ, và bình luận rằng Vladimir Putin chính là sự lựa chọn đúng đắn cho nước Nga. Ông cũng bác bỏ những lời buộc tội tham nhũng và cho rằng thuật ngữ "gia đình" không hề có ý nghĩa gì hết.
Ông qua đời ngày 23-04-2007, thọ 76 tuổi.
Sự nghiệp viết lách
«Lời thú tội cho đề tài được cho» (1990) — tiểu sử, chuyện về ban bầu cử đại biểu nhân dân.
«Ghi chép của Tổng thống» (1994)
«Marathon Tổng thống» (2000) — về cuộc bầu cử và nhiệm kỳ Tổng thống thứ hai, ra mắt ngay sau khi từ chức. |
YE-5 (tiếng Nga: Е-5, hay Х-5, И-500, МиГ-21), các cách gọi khác: Kh-5, I-500, MiG-21, là một loại máy bay thử nghiệm trong chương trình phát triển MiG-21. Nó là mấu thử đạt yêu cầu đầu tiên, trong thực tế trở thành mẫu cho đợt sản xuất hàng loạt đầu tiên. Bay lần đầu năm 1956. YE-5 được phát triển bởi phòng thiết kế máy bay Mikoyan (ОКБ Микояна) và Gurevich (Гуревича).
Thuộc loại máy bay tiêm kích đánh chặn, cánh tam giác có đuôi, mang động cơ AM-11, đóng năm 1955. Máy bay có thiết kế cánh khá phức tạp, ba lớp ngắn cách mặt, hai lớp ở cạnh trước cánh. Máy bay có 3 mào mỗi cánh, có tác dụng như là làm rộng cánh thêm, trong khi kích thước cánh thật sự hẹp. Máy bay bắt đầu vào vị trí thử nghiệm ngày 9 tháng 1 năm 1956, phi công thử nghiệm V.A. Nhefedov. Ngày 20 tháng 2 xảy ra một sự cố, cháy động cơ khi vận hành thử trên mặt đất, tuốc-bin bị phá hủy. Sau khi sửa chữa và hoãn kế hoạch, máy bay thực hiện 8 chuyến bay từ 26 tháng 3 đến 19 tháng 5. Một lần nữa kế hoạch thử nghiệm lại dừng do động cơ cháy. Từ tháng 10 năm 1956 đến tháng 2 năm 1957, người ta gửi máy bay về xưởng.
Ở đây, phần đầu thân kéo dài ra 40 cm, động cơ R-11-300 mới được trang bị. Động cơ mới mở rộng buồng đối. Từ ngày 1 tháng 4 đến ngày 26 tháng 5 năm 1957, máy bay YE-5 mới thực hiện 13 chuyến bay. Máy bay hoàn thành các thử nghiệm, các đánh giá ký thuật đều tốt ngoại trừ tốn nhiên liệu làm giản tầm bay. Theo yêu cầu Hội đồng Bộ trưởng ngày 18 tháng 6 năm 1957 máy bay chuyển đến nhà máy số 31 với tên gọi MiG-21 (kiểu 65). Ở đây năm 1957, 10 máy bay được đóng.
Năm 1960, phiên bản dùng ván trượt không thụt vào được thử nghiệm, mã tên YE-5-2. Phiên bản YE-4 là máy bay cánh tam giác đầu tiên, khí động chưa hoàn chỉnh, những số liệu bay thử YE-4 dùng để thiết kế khí động YE-5.
Động cơ R-11 là động cơ hai trục lồng nhau lần đầu tiên áp dụng cho máy bay chiến đấu trên thế giới, có khá nhiều ấn bản và hậu duệ được dùng rất lâu. Cấu tạo động cơ gồm hai trục chính, trực ngoài rỗng gắn tuốc-bin đẩy áp cao một tằng và trục trong gắn tuốc-bin đẩy áp thấp một tầng. Mỗi trục gắn vài tầng máy nén dọc trục, tùy đời động cơ có từ 4-8 tầng nén tổng cộng. Một trục phụ phía sau được chụp kín kéo máy phát, bơm dầu. Truyền động mặt trời. Động cơ có áp suất đốt 8,7 atm.
Các động cơ kiểu Nene được dùng cho các máy bay từ MiG-15 đến MiG-19. Động cơ AM-5 dự định lắp cho MiG-19 hoàn thiện rất chậm. Điều đó cho thấy bế tắc khi tiếp tục phát triển kiểu Nene. Loại động cơ này có một tầng nén ly tâm và một tầng tuốc-bin đẩy, áp suất đốt 3-4 atm. Hiệu suất thấp khi tốc độ thấp và gây lực cản lớn khi tốc độ máy bay tăng lên vượt 1900 km/h.
Kiểu cánh xuôi sau cũng dùng từ MiG-15 đến MiG-19. Đến đây, kiểu cánh này nặng, cản mạnh, yếu và phân kỳ luồng gió khi tốc độ máy bay tăng cao. Tuy nhiên, kiểu cánh tam giác của MiG-21 chỉ xuất hiện trong thời gian ngắn. Nhìn chung, MiG-21 là máy bay trung gian giữa thời hỗn chiến dùng súng và thời tìm diệt bằng radar.
Sải cánh: 7,75 mét
Dài: 13,46 mét
Diện tích cánh: 23 mét vuông
khối lượng rỗng: 3506 kg
Khối lượng cất cánh tối đa: 5200 kg
Dung tích dầu trong: 1400 lít
Kiểu động cơ: 1 động cơ phản lực một luồng khí (TurboJet) R -11-300.
Lực đẩy: 5300 kg
Tốc độ tối đa: 1970 km/h
Tầm bay: 1330 km
Tốc độ leo cao: 3125 mét/phút
Trần bay: 17500 mét
Tổ lái: 1 phi công
Vũ khí: 3 đại bác bắn nhanh 30 mm kiểu NR-30 |
Giao thức mật mã (hay giao thức an toàn) là các giao thức (trên lý thuyết hoặc đã thực hiện) nhằm thực hiện các chức năng liên quan tới bảo mật bằng các kỹ thuật mật mã.
Giao thức mật mã được sử dụng rộng rãi cho việc truyền dữ liệu an toàn ở mức ứng dụng. Một giao thức mật mã tiêu biểu thường bao gồm các chức năng sau:
Thỏa thuận khóa;
Nhận thực các bên tham gia;
Truyền dữ liệu an toàn;
Đảm bảo tính chất không thể từ chối (non-reputation).
Một ví dụ là giao thức Transport Layer Security (TLS) để tạo các kết nối web (HTTP) an toàn. Nó bao gồm cơ chế nhận thực dựa trên tiêu chuẩn X.509, cơ chế thiết lập khóa (tạo khóa đối xứng bằng cách dùng hệ thống mã hóa bất đối xứng) và chức năng truyền dữ liệu mức ứng dụng an toàn. Giao thức TLS tiêu chuẩn không bao gồm khả năng không thể từ chối.
Các giao thức mật mã có thể được kiểm tra độ chính xác bằng các phương pháp thuần túy lý thuyết (formal verification). |
Christian Johann Heinrich Heine (tên khi sinh là (tiếng Hebrew) Harry Chaim Heine; 13 tháng 12 năm 1797 – 17 tháng 2 năm 1856) là một trong những nhà thơ nổi tiếng ở Đức.
Tiểu sử
Heine được sinh ra trong một gia đình Do Thái đã có sự biến đổi về văn hoá ở Düsseldorf, Đức. Bố của ông là một thương gia. Khi việc kinh doanh của ông bị thất bại, Heine được gửi tới Hamburg, ở nơi đó, ông chú giàu có Salomon đang làm chủ ngân hàng, đã khuyến khích ông tham gia công việc kinh doanh. Sau khi Heiner thất bại trong lĩnh vực này, ông quay sang nghiên cứu về luật tại các trường Đại học Göttingen, Đại học Bonn và Đại học Humboldt, nhưng ông đã nhận ra rằng mình thích văn học hơn luật, mặc dù ông đã nhận được bằng tốt nghiệp vào năm 1825, cùng thời gian đó, ông đã quyết định chuyển từ đạo Do Thái sang đạo Tin Lành. Việc này cần thiết do sự đối xử khắt khe những người Do Thái tại nhiều vùng nước Đức; nhiều trường hợp, họ còn bị cấm làm việc ở một số vị trí. Điều này bao gồm cả cho những bài giảng tại trường đại học, là những tham vọng đặc biệt của Heine. Khi Heine tự biện minh cho mình trong cuộc đối thoại với người khác thì việc chuyển đổi đó là "cái vé cho việc được tham gia văn hoá châu Âu", mặc dù nó chẳng chứng minh được gì - và nhiều người khác ví dụ anh em họ và nhà soạn nhạc hảo tâm Giacomo Meyerbeer, thấy việc làm này không cần thiết để đạt được những điều đó. Phần lớn cuộc đời mình, Heine đấu tranh với những nhân tố không tương thích giữa con người Do Thái và Đức của ông.
Heine được biết đến với những lời thơ, phần lớn trong số đó (đặc biệt là những tác phẩm thời kỳ đầu của ông) đã được chuyển thành lời các bài hát, phần lớn được thực hiện bởi Robert Schumann. Những tác giả khác cũng đã dùng thơ của ông bao gồm Richard Wagner, Franz Schubert, Felix Mendelssohn, Fanny Mendelssohn, Hugo Wolf và Johannes Brahms; vào thế kỷ 20 thì là Hans Werner Henze và Lord Berners.
Bài thơ đầu tay của Heine là Gedichte ("Những bài thơ"), sáng tác vào năm 1821. Mối tình cuồng si đơn phương của Heine với người em họ Amalie và Therese sau này đã truyền cảm hứng cho ông viết nên những vần thơ hay nhất; Buch der Lieder ("Quyển sách những lời hát", 1827) là tuyển tập đầu tiên có đầy đủ các bài thơ của ông.
Heine rời Đức và đến Paris, Pháp vào 1831. Ở đó, ông đã liên kết với nhóm chủ nghĩa xã hội không tưởng, bao gồm những người của Count Saint-Simon, người mà tuyên truyền một thiên đường theo chủ nghĩa quân bình không giai cấp dựa trên những người có tài thực sự.
Ông ở lại Paris đến cuối đời, ngoại trừ một lần quay lại Đức vào năm 1843. Tác phẩm của ông và những người khác mà bị coi như là có liên đới với cuộc cách mạng Young Germany vào năm 1835 đã bị cấm tại Đức.
Tuy nhiên, Heine vẫn tiếp tục viết về chính trị và xã hội của Đức. Heine viết Deutschland. Ein Wintermärchen (Nước Đức. Chuyện cổ tích mùa đông), một bản miêu tả chuyến tới Đức của ông năm trước và tình hình chính trị ở đó, vào năm 1844; người bạn của ông, Karl Marx, đã cho đăng bài này trong từ báo của ông Vorwärts ("Tiên tiến"). Heine cũng chỉ trích về chính trị không tưởng ở Đức trong bài Atta Troll: Ein Sommernachtstraum (Atta Troll: Một giấc mơ đêm hè) vào năm 1847.
Heine đã phải chịu đau ốm nằm giường trong tám năm cuối cuộc đời mình (vài người đoán rằng ông đã bị bệnh đa xơ cứng hoặc giang mai). Ông mất ở Paris và muốn được chôn cất ở Nghĩa trang Montmartre.
Trong số những quyển sách đã bị đốt cháy ở Quảng trường Opern, Berlin vào năm 1933, sau khi Đức Quốc xã lùng sục Viện Tình dục học (Institut für Sexualwissenschaft), nơi những quyển sách của Heine - như là một điềm báo, một trong những dòng thơ nổi tiếng, "Khi họ đốt sách thì chính là họ cũng đang đốt cả loài người" (Almansor, 1821) - bây giờ đã được khắc sâu trên đất nơi đó.
Thật là thú vị khi nhận ra rằng, mặc dù đây chỉ là những câu nói, là việc Heine ban đầu chỉ muốn nhắc đến việc đốt kinh Koran của Tòa án Dị giáo Tây Ban Nha (Spanish Inquisition), trong nỗ lực để nhổ rễ đạo Hồi ở bán đảo Iberia, trung tâm chính của văn hoá đạo Hồi trung cổ.
Với gần 10.000 nhạc phẩm thuộc đủ mọi thể loại, Heinrich Heine còn là một nhà thơ duy nhất của mọi thời đại và mọi nước có thơ được phổ nhạc nhiều nhất trên hành tinh này.
Câu nói
"Tôi hôn, tức là tôi tồn tại"
"Nếu một người lúc nào cũng có thể mỉm cười được trước tất cả mọi điều thì chắc chắn người đó trong lòng phải có một rạn nứt đau đớn"
"Cái người làm cho tôi ghét nhất, không phải người tôi yêu, cũng không phải người tôi ghét mà chính là người không làm cho tôi yêu mà cũng chẳng làm cho tôi ghét. Đó là con người nhạt".
Một số tác phẩm nổi tiếng
Du bist ein Blume (Em như một đoá hoa - Viết về mối tình đơn phương của Heine với người em họ Amalie)
Im wunderschönen monat Mai (Trong tháng 5 rực rỡ)
Auf Flügeln des Gesanges Gedichte, 1821
Tragödien, nebst einem lyrischen Intermezzo, 1823
Reisebilder, 1826-31
Die Harzreise, 1826
Ideen, das Buch le Grand, 1827
Englische Fragmente, 1827
Buch der Lieder, 1827
Französische Zustände, 1833
Zur Geschichte der neueren schönen Literatur in Deutschland, 1833
Die romantische Schule, 1836
Der Salon, 1836-40
Über Ludwig Börne, 1840
Neue Gedichte, 1844 - Thơ mới
Deutschland. Ein Wintermärchen, 1844 - Đức
Atta Troll. Ein Sommernachtstraum, 1847
Romanzero, 1851
Der Doktor Faust, 1851
Les Dieux en Exil, 1853
Die Harzreise, 1853
Lutezia, 1854
Vermischte Schriften, 1854
Letzte Gedichte und Gedanken, 1869
Sämtliche Werke, 1887-90 (Số 7)
Sämtliche Werke, 1910-20
Sämtliche Werke, 1925-30
Werke und Briefe, 1961-64
Sämtliche Schriften, 1968
Bài thơ Anh và em do Thái Bá Tân dịch:Anh và em không hẹn,Cùng đi chuyến xe đêm.Hai đứa cười vui vẻ,Chỉ mình anh với em. Sáng ra ta kinh ngạc,Thấy người khách thứ baLà tình yêu lậu véLén vào ngồi bên ta. Bản tiếng Anh
The Complete Poems of Heinrich Heine''. Phiên bản tiếng Anh do Hal Draper, Suhrkamp/Insel Publishers Boston, 1982. ISBN 3-518-03048-5
Đã có nhiều dịch giả Việt Nam dịch thơ Heinrich Heine sang tiếng Việt như Xuân Diệu, Tế Hanh, Hoàng Trung Thông, Nguyễn Xuân Sanh, Quang Chiến, Trần Đương, Chu Thu Phương. Trong đó nữ dịch giả Chu Thu Phương đã dịch trọn vẹn tập "Khúc đệm trữ tình" trong bộ "Sách của những bài ca" và được đánh giá là đã giữ được nguyên nhịp điệu, cách chơi chữ, tính nhạc trong thơ Heine.
Một số bài thơ đã dịch ra tiếng Việt
Chú thích |
(IATA: KIX, ICAO: RJBB) là sân bay quốc tế chính phục vụ vùng Đại đô thị Osaka của Nhật Bản và là sân bay quốc tế gần nhất của các thành phố Osaka, Kyoto và Kobe. Đây là công trình được xây dựng trên một đảo nhân tạo (Kankūjima (関空島)) ở giữa vịnh Osaka ngoài khơi đảo Honshu, cách ga Osaka 38 km về phía Tây Nam, nằm giữa ba đô thị là: Izumisano (phía Bắc), Sennan (phía Nam) và Tajiri (giữa) của tỉnh Osaka.
Sây bay Kansai được mở cửa vào ngày 4 tháng 9 năm 1994, giúp giảm tình trạng quá tải cho Sây bay quốc tế Osaka, nay được gọi là sân bay Itami, vốn nằm gần thành phố Osaka hơn. Sân bay hiện gồm 2 nhà ga: Nhà ga số 1 và nhà ga số 2. Khu nhà ga số 1 (Terminal 1) được thiết kế bởi kiến trúc sư người Italia Renzo Piano là nhà ga sân bay dài nhất thế giới với chiều dài 1,7km. Sân bay đóng vai trò là trung tâm vận chuyển quốc tế của All Nippon Airways, Japan Airlines và Nippon Cargo Airlines, đồng thời cũng là trung tâm hàng không của Peach, hãng hàng không giá rẻ đầu tiên của Nhật Bản.
Năm 2016, sân bay phục vụ 25,2 triệu lượt khách, khiến nó trở thành sân bay đông đúc thứ 30 ở châu Á và thứ 3 ở Nhật Bản. Tổng khối lượng hàng hóa thông qua là 802.162 tấn, trong đó 757.414 tấn hàng hóa quốc tế (thứ 18 thế giới) và 44.748 tấn hàng hóa nội địa. Đường băng thứ hai có kích thước 4.000 m × 60 m (13.120 ft × 200 ft) được đưa vào khai thác từ ngày 2/8/2007. Tính đến tháng 6/2014, sân bay Kansai đã trở thành trung tâm hàng không của châu Á, với 780 chuyến bay hàng tuấn đến châu Á và châu Úc (bao gồm 119 chuyến vận chuyển hàng hóa), 59 chuyến bay hàng tuần đến châu Âu và Trung Đông (5 chuyến bay chở hàng hóa) và 80 chuyến bay hàng tuấn đến Bắc Mỹ (42 chuyến bay chở hàng hóa).
Năm 2020, Kansai nhận được giải thưởng của Skytrax: Best Airport Staff in Asia, World's Best Airport Staff, and World's Best Airport for Baggage Delivery.
Lịch sử
Vào những năm 1960, khi hoạt động thương mại của vùng Kansai bị suy giảm nhanh chóng do sức hút của Tokyo, những nhà hoạch định đã đề xuất xây dựng một sân bay mới gần Kobe và Osaka. Sân bay Itami, tọa lạc tại vùng ngoại ô đông đúc dân cư của thành phố Itami và thành phố Toyonaka, bị bao quanh bởi các tòa nhà nên không thể mở rộng và rất nhiều cư dân sống gần đó thường xuyên than phiền về vấn đề ô nhiểm tiếng ồn.
Sau khi nổ ra các cuộc biểu tình phản đối của người dân liên quan đến sân bay quốc tế Tokyo mới (nay là sân bay quốc tế Narita), được sân dựng trên một khu đất trưng thu ở vùng ngoại ô thuộc tỉnh Chiba, những nhà hoạch định đã quyết định sân dựng sân bay mới của vùng Kansai ở ngoài biển. Sân bay mới là một trong các dự án trong nỗ lực hồi sinh Osaka, lúc đó đã bị mất vị thế về kinh tế và văn hóa vào tay Tokyo gần một thế kỷ .
Ban đầu, sân bay mới được lên kế hoạch sẽ được xây dựng gần Kobe nhưng bị chính quyền Kobe phản đối do lo ngại vì vấn đề ô nhiễm tiếng ồn cho cư dân thành phố Kobe, nên sân bay mới phải dời địa điểm xây dựng về phía nam của vịnh Osaka. Tại địa điểm này thì sân bay mới có thể mở cửa hoạt động 24 giờ hằng ngày, không như sân bay Itami nằm trong thành phố. Tuy nhiên, sau này chính quyền thành phố Kobe lại xây dựng một sân bay khác tại vị trí ban đầu dự định xây dựng sân bay Kansai, và đặt tên sân bay đó là sân bay Kobe. Sân bay này chủ yếu phục vụ các chuyến bay nội địa của vùng Kansai.
Quá trình xây dựng
Một hòn đảo nhân tạo dài 4km, rộng 2,5km đã được đề xuất xây dựng. Các kỹ sư đã phải xây dựng phương án khắc phục những nguy cơ đến từ động đất và bão (có thể khiến mực nước dâng cao đến 3m). Độ sâu của biển tại vị trí dự kiến xây dựng hòn đảo là 18m đến 20m, với phần đáy chủ yếu là đất sét Holocene mềm chứa 70% là nước. Một triệu khối cát được đổ xuống để loại bỏ nước và làm rắn chắc đất sét.
Công trình chính thức được khởi công vào năm 1987. Bức tường biển làm bằng đá và 48.000 khối bê tông 4 chân tetrapods được hoàn thành vào năm 1989. 21 triệu mét khối được khai thác từ 3 ngọn núi và 180 triệu mét khối được sử dụng để xây dựng đảo 1. Trong 3 năm, 10.000 công nhân cùng với 80 con tàu đã mất 10 triệu giờ làm việc để hoàn thành lớp đất nền dài 30-40 mét dưới đáy biển và nằm trong bức tường biển. Năm 1990, một cây cầu dài 3 km nối hòn đảo với thị trấn Rinku được khánh thành, tiêu tốn 1 tỷ đô la Mỹ. Với việc xây dựng thành công đảo nhân tạo này, tỉnh Osaka đã tăng thêm diện tích đủ để không còn là tỉnh nhỏ nhất Nhật Bản (Tỉnh Kagawa hiện nay đang là tỉnh có diện tích nhỏ nhất).
Việc đấu thầu xây dựng sân bay đã xảy ra những tranh chấp thương mại quốc tế kéo dài từ cuối thập niên 80 đến đầu thập niên 90. Thủ tướng Nhật Bản Yasuhiro Nakasone đã trấn an những lo ngại của Mỹ, đặc biệt là thượng nghĩ sĩ Frank Murkowsky về việc các hồ sơ dự thầu sẽ bị gian lận theo hướng có lợi cho các công ty Nhật Bản, bằng cách mở những văn phòng đặc biệt cho các nhà thầu quốc tế tiềm năng. Điều này cuối cùng đã làm giảm bớt sự tham gia đấu thầu của các nhà thầu nước ngoài Sau đó, các hãng hàng không nước ngoài than phiền về việc hai phần ba diện tích sảnh khởi hành đã được khai thác bởi các hãng hàng không Nhật Bản, không tương xứng với lượng hành khách thực tế ở sân bay này.
Theo ước tính ban đầu, hòn đảo nhân tạo sẽ chìm 5,7 mét do trọng lượng của vật liệu được sử dụng để xây dựng sẽ nén lớp phù sa dưới đáy biển lại. Tuy nhiên, đến năm 1999, hòn đảo này đã chìm 8,2 mét, nhiều hơn so với các ước tính ban đầu. Dự án trở thành công trình dân dụng đắt đỏ nhất lịch sử hiện đại khi mất 20 năm lập dự án, 3 năm xây dựng và tiêu tốn 15 tỷ đô la Mỹ. Phần lớn kinh nghiệm rút ra từ việc xây dựng sân bay này đã được áp dụng thành công khi xây đảo nhân tạo ở vùng đất nền nhiều phù sa cho các dự án sân bay Kitakyushu mới, sân bay Kobe và sân bay quốc tế Chubu. Bài học từ việc xây dựng sân bay Kansai cũng được áp dụng khi người ta xây dựng sân bay quốc tế Hồng Kông.
Năm 1991, người ta bắt đầu xây dựng nhà ga sân bay. Để dự phòng cho sự chìm xuống của hòn đảo, các kiến trúc sư đã xây dựng các cột có thể điều chỉnh được thiết kế để hỗ trợ phần thân nhà ga. Chúng có thể mở rộng bằng cách chèn các tấm kim loại dày vào đế của chúng. Các quan chức chính phủ đề xuất giảm chiều dài của nhà ga để cắt giảm chi phí, nhưng kiến trúc sư Renzo Piano kiên quyết giữ nguyên chiều dài theo thiết kế của nhà ga. Sân bay chính thức mở cửa vào ngày 4/9/1994.
Ngày 17/1/1995, Nhật Bản hứng chịu trận động đất Hanshin, tâm chấn cách sân bay Kansai khoảng 20km, giết chết 6.434 người trên đảo Honshu. Do kỹ thuật chống động đất của sân bay, sân bay đã không bị ảnh hưởng, chủ yếu là do sử dụng các khớp trượt trong kết cấu. Ngay cả kính trong các cửa sổ vẫn còn nguyên vẹn. Ngày 22/9/1998, sân bay đứng vững trước sự đổ bộ của một cơn bão có tốc độ gió trên 60m/s.
Ngày 19/4/2021, sân bay là một trong mười công trình được Hiệp hội Kỹ sư Xây dựng Hoa Kỳ trao giải thưởng Tượng đài Công trình Dân dụng của Thiên niên kỷ (Civil Engineering Monument of the Millennium)
.
Tính đến năm 2008, tổng vốn đầu tư dự án sân bay Kansai là 20 tỷ đô la Mỹ, bao gồm cải tạo đất, xây dựng hai đường băng, nhà ga và cơ sở bay. Hầu hết các chi phí dự phòng ban đầu là do đảo chìm, do đất mềm ở vịnh Osaka. Sau khi xây dựng, tốc độ sụt lún bị coi là nghiêm trọng đến mức sân bay bị nhiều người chỉ trích đây là một thảm họa kỹ thuật. Tốc độ chìm đã giảm từ 50cm mỗi năm trong năm 1994 xuống còn 7 cm mỗi năm vào năm 2008.
Vận hành
Mở cửa từ ngày 4/9/1994, sân bay đóng vai trò là trung tâm vận chuyển hàng không của một số hãng như All Nippon Airways, Japan Airlines và Nippon Cargo Airlines. Đây là cửa ngõ quốc tế của khu vực Kansai của Nhật Bản, nơi có các thành phố lớn như Kyoto, Kobe và Osaka. Trong khi đó, các chuyến bay nội địa thường được khai thác từ sân bay quốc tế Osaka cũ (sân bay Itami) hoặc từ sân bay Kobe do có vị trí thuận tiện hơn.
Sân bay đã gặp khó khăn trong việc kinh doanh và thanh toán các khoản nợ, và bị lỗ 560 triệu đô la Mỹ mỗi năm. Các hãng hàng không dần hạn chế bay đến sân bay Kansai bởi vì phí hạ cánh quá cao (khoảng 7.500 đô la Mỹ cho một lượt hạ cánh đối với máy bay Boeing 747), đắt thứ hai trên thế giới chỉ sau sân bay Narita. Trong những năm đầu hoạt động, tiền thuê nhà ga quá đắt đỏ và các chi phí dịch vụ đi kèm cũng ở mức cao: một số ước tính trước khi đi vào kinh doanh cho thấy một tách cà phê phải có giá 10 đô la Mỹ. Các chủ doanh nghiệp ở Osaka đã yêu cầu chính phủ phải chịu một phần chi phí xây dựng để giữ mức giá cả sao cho sân bay đủ hấp dẫn đối với hành khách và các hãng hàng không.
Ngày 17/2/2005, sân bay quốc tế Chubu khánh thành tại Nagoya, ngay phía đông Osaka. Việc mở sân bay mới này dự kiến sẽ làm tăng sự cạnh tranh giữa các sân bay quốc tế của Nhật Bản. Bất chấp điều này, tổng số hành khách năm 2005 tăng 11% so với 2004, và hành khách quốc tế tăng lên 3,06 triệu lượt vào năm 2006, tăng 10% so với năm 2005. Sự cạnh tranh càng tăng thêm khi sân bay Kobe cách chưa đến 25km mở cửa vào năm 2006, và sân bay Tokushima ở Shikoku hoàn thành việc kéo dài đường băng vào năm 2007. Mục đích của việc mở rộng này chính là để cạnh tranh với sân bay quốc tế Incheon và sân bay quốc tế Hồng Kông trong vai trò là cửa ngõ vào châu Á, khi các sân bay ở khu vực Tokyo đang bị tắc nghẽn nghiêm trọng. Kansai chứng kiến sự tăng trưởng lượt hành khách quốc tế 5% so với cùng kỳ năm trước vào mùa hè năm 2013, phần lớn đến từ các lượt khách quốc tế của các hãng hàng không giá rẻ ở Đài Loan và Đông Nam Á, bù đắp cho sự sụt giảm của hành khách từ Trung Quốc và Hàn Quốc.
Cơ quan quản lý sân bay đã nhận được hỗ trợ 4 tỷ yên từ Chính phủ cho năm tài chính 2013, và Bộ Đất Đai, Cơ sở hạ tầng, Giao thông cùng với Bộ Tài Chính đã thỏa thuận giảm dần số tiền hỗ trợ theo từng giai đoạn cho đến năm 2015, mặc dù các chính quyền địa phương ở vùng Kansai đã gây sức ép tiếp tục duy trì khoản tiền này.
Kansai được quảng cáo như một sân bay thay thế cho sân bay Narita cho các khách quốc tế ở vùng Đại đô thị Tokyo. Bằng cách bay đến Kansai từ sân bay Haneda và chuyển sang các chuyến bay quốc tế, hành khách có thể tiết kiệm thêm thời gian so với bay từ sân bay Narita: tối đa một tiếng rưỡi đối với cư dân của tỉnh Kanagawa và các tỉnh phía nam của Tokyo.
Mở rộng
Sân bay đã hoạt động hết công suất trong thời gian cao điểm, đặc biệt là các chuyến bay chở hàng, vì vậy một phần của dự án mở rộng Giai đoạn II - đường băng thứ hai - được ưu tiên thực hiện. Do đó, vào năm 2003, tin rằng vấn đề chìm sân bay đã được giải quyết và sắp kết thúc, cơ quan quản lý sân bay đã bắt đầu xây dựng đường băng thứ hai dài 4000m và nhà ga.
Đường băng thứ hai mở cửa ngày 2/8/2007, nhưng phần nhà ga theo dự án ban đầu đã bị hoãn lại. Điều này làm giải vốn đầu tư của dự án xuống còn 910 tỷ yên (khoảng 8 tỷ đô la Mỹ), tiết kiệm 650 tỷ yên so với tính toán ban đầu. Đường băng thứ hai, được khai trương cùng thời điểm diễn ra Giải vô địch điền kinh thế giới IAAF ở Osaka, đã mở rộng quy mô sân bay lên 10,5 km2. Đường băng thứ hai được sử dụng để hạ cánh và khi có sự cố cấm cất cánh từ đường băng số 1. Đường băng mới cho phép sân bay hoạt động 24 giờ mỗi ngày từ tháng 9/2007.
Nhà ga mới được khai trương cuối năm 2012. Các dự án bổ sung sân đỗ và xây dựng đường băng thứ ba (06C/24C) với chiều dài 3,500 mét, nhà ga hàng hóa mới và mở rộng quy mô sân bay lên 13km2 đã được nghiên cứu. Tuy nhiên, chính phủ Nhật bản đã hoãn các dự án này vì lý do kinh tế.
Quan hệ với sân bay Itami
Khó khăn của sân bay
Hiện nay sân bay Kansai phải đối mặt với những khó khăn: sân bay không có vật cản gió cho những máy bay lên xuống. Công ty hàng không Nhật quy định nếu gặp sức gió vượt quá 13 m/s sẽ đình chỉ máy bay lên xuống. Như qua điều tra được biết, vịnh Osaka những ngày có sức gió 13 m/s chiếm 0,6% của một năm. Khó khăn thứ hai là sự ăn mòn của muối biển, nước biển thì là đương nhiên, nhưng gió biển cũng chứa đầy muối. Để chống muối, các kĩ sư đã lặp đặt hệ thống lọc muối ở những chỗ thông gió. Song tuổi thọ của máy lọc muối cũng chỉ được có một năm nên hằng năm phải thay hàng loạt, tốn tới hàng trăm triệu Yên.
Khó khăn thứ 3 là sân bay được xây dựng trên đảo nhân tạo nên thường xuyên bị lún. Theo tính toán thì sau 30-50 năm đảo mới ổn định. Ban quản lý sân bay đã tính, ở đáy nước sâu 18m, đảo cao từ đáy trở lên 33m, mỗi ngày bình quân đảo lún 1mm đến khi ổn định sân bay vẫn còn cao hơn mặt biển 4m. Hơn nữa đảo có 98 cột lớn làm trụ cho toàn nền đảo, mặt khác toàn bộ cấu trúc trên đảo đều mỏng nhẹ nên tạm thời có thể yên tâm.
Các hãng hàng không quốc tế và các tuyến điểm
Hành khách
Hàng hóa |
Chi Nguyệt quế (danh pháp khoa học: Laurus) là một chi của các cây thân gỗ thường xanh thuộc về họ Nguyệt quế (Lauraceae). Chi này bao gồm hai loài, trong đó các đặc trưng cơ bản để phân biệt chúng thường bị chồng lên nhau (Mabberley 1997).
Laurus azorica (Seub.) Franco, từ đồng nghĩa L. canariensis Webb & Berth. Được biết đến với tên gọi nguyệt quế Azores hay theo tên gọi trong tiếng Bồ Đào Nha là Louro, Loureiro, Louro-da-terra, Louro-de-cheiro, nó là loài cây bản địa cả các rừng nguyệt quế cận nhiệt đới ẩm ướt của khu vực Açores và quần đảo Madeira cũng như có mặt tại Maroc.
Laurus nobilis L. (loài điển hình của chi Laurus), được biết đến như là nguyệt quế thực thụ, hay nguyệt quế Hy Lạp, nó là nguồn cung cấp một loại gia vị là lá nguyệt quế. Nó cũng là nguồn để làm các vòng nguyệt quế của người Hy Lạp cổ đại. Nó phân bổ trong khu vực dọc theo bờ biển của Địa Trung Hải từ Tây Ban Nha tới Hy Lạp.
Các hóa thạch có niên đại từ trước các thời kỳ băng hà gần đây cho thấy các loài thuộc chi Laurus trước kia đã từng phân bổ rộng hơn xung quanh khu vực Địa Trung Hải và Bắc Phi, khi mà khí hậu ẩm ướt và mát hơn so với ngày nay. Hiện nay người ta cho rằng sự khô hóa của lưu vực Địa Trung Hải trong các kỷ băng hà đã làm cho chi Laurus rút lui vào các khu vực khí hậu mát hơn, bao gồm miền nam Tây Ban Nha và các đảo thuộc Macaronesia. Với sự kết thúc của kỷ băng hà cuối cùng, L. nobilis đã phần nào phục hồi được khu vực phân bổ trước đây của nó xung quanh Địa Trung Hải.
Nghiên cứu gần đây cho thấy các loại cây được phân loại là L. nobilis ở khu vực miền bắc Tây Ban Nha lại chia sẻ nhiều sự tương đồng về mặt di truyền và hình thái với L. azorica hơn là đối với quần thể L. nobilis có nguồn gốc ở Pháp và Ý (Arroyo-Garcia và những người khác 2001).
Chú thích |
Quyền Anh, còn gọi là đấu quyền, đấm bốc (bốc bắt nguồn từ một từ tiếng Pháp là boxe; phát âm: [/bɔks/]), hay boxing là môn võ thuật và thể thao đối kháng giữa hai người, xuất phát từ phương Tây, sử dụng cú đấm từ cánh tay kết hợp với di chuyển chân, đầu và cơ thể, thường đeo găng tay bảo hộ và các thiết bị bảo vệ khác như băng quấn tay và dụng cụ bảo vệ miệng, răng, bụng, tung những cú đấm vào phần trên cơ thể của đối phương trong một khoảng thời gian xác định tại một sàn đấu tứ giác hình vuông hoặc hình chữ nhật, được thiết kế với nền đàn hồi và dây chằng bốn góc, gọi là sàn đấu Quyền Anh. Thuật ngữ tên gọi Quyền Anh phổ biến ở Việt Nam, bắt nguồn từ tên tiếng Pháp là boxe anglaise (quyền thuật của người Anh), tích hợp từ quyền tức kỹ thuật tay và tên nước Anh, nơi phổ biến bộ môn này thời hiện đại. Hiện nay, tên gọi quốc tế của bộ môn này là boxing, trong tiếng Anh có nghĩa quyền thuật.
Trong Quyền Anh chia thành Quyền Anh nghiệp dư và Quyền Anh chuyên nghiệp. Quyền Anh nghiệp dư là một nội dung thi đấu của nhiều đại hội thể thao trên toàn thế giới, trong đó có Thế vận hội. Đây là môn thi đấu tiêu chuẩn trong hầu hết các giải thể thao quốc tế — và môn này cũng có giải vô địch thế giới của riêng mình. Quyền Anh có hệ thống quy định riêng, được giám sát bởi trọng tài trong những khung thời gian nhất định, các khoảng thời gian từ một đến ba phút được gọi là các hiệp đấu. Trong trận đấu, người thắng cuộc có thể giành được chiến thắng trước khi kết thúc hiệp đấu khi trọng tài cho rằng đối phương không có khả năng tiếp tục trận đấu, truất quyền thi đấu của đối thủ hoặc đối thủ xin thua. Khi trận đấu kết thúc hiệp cuối cùng mà cả hai đối thủ vẫn đứng vững, phiếu ghi điểm của trọng tài sẽ xác định người chiến thắng. Trong trường hợp cả hai võ sĩ đạt được số điểm bằng nhau từ các trọng tài, thì cuộc đấu chuyên nghiệp được coi là hòa. Trong môn Quyền Anh ở Thế vận hội, vì phải tuyên bố người chiến thắng, không có trận hòa, nên các trọng tài sẽ quyết định người thắng dựa trên tiêu chí kỹ thuật.
Kể từ buổi bình minh của lịch sử loài người, tức thời tiền sử rồi cổ đại, con người đã chiến đấu tay đôi, bằng chứng sớm nhất về các cuộc thi đấu thể thao bằng nắm đấm trực tiếp có từ Cận Đông cổ đại vào thiên niên kỷ thứ III và thứ II trước Công nguyên. Bằng chứng sớm nhất về các quy tắc Quyền Anh có từ thời Hy Lạp cổ đại, nơi Quyền Anh được thiết lập như một bộ môn của Thế vận hội vào năm 688 trước Công nguyên. Quyền Anh phát triển từ các trận đấu có phần thưởng ở thế kỷ XVI và XVIII, phần lớn ở đảo Anh, trở thành tiền thân của Quyền Anh hiện đại vào giữa thế kỷ XIX với sự ra đời năm 1867 của Luật Hầu tước Queensberry.
Lịch sử
Lịch sử cổ đại
Cho đến nay vẫn chưa xác định được mốc thời gian cụ thể khi Quyền Anh ra đời. Nhiều minh chứng chỉ ra rằng Quyền Anh có sớm ở Bắc châu Phi khoảng 4000 năm trước Công Nguyên, Địa Trung Hải khoảng 1500 năm TCN, Hy Lạp khoảng 900 năm TCN và La Mã cổ đại khoảng 500 năm trước Công Nguyên. Một nơi khác là vùng Lưỡng Hà, khoảng 3700 năm trước Công Nguyên, ở xứ Mésopotamie đã lưu hành môn đấu quyền, thủy tổ của môn Quyền Anh ngày nay. Có một thời gian môn đấu quyền bị suy vi, mãi đến năm 1750 trước Công Nguyên mới thịnh hành trở lại. Bấy giờ, vào những ngày nghỉ ngơi nhất định, bộ môn này được tổ chức thi đấu với sự tham dự đông đảo của mọi tầng lớp. Hình ảnh mô tả sớm nhất về Quyền Anh bắt nguồn từ một phù điêu của người Sumer ở Iraq từ thiên niên kỷ thứ III trước Công Nguyên. Một tác phẩm điêu khắc từ Thebes Ai Cập (khoảng năm 1350 trước Công Nguyên) thể hiện khung cảnh cả võ sĩ và khán giả. Những bức tranh miêu tả về người Trung Đông và Ai Cập thời kỳ đầu này cho thấy các cuộc tranh tài của công chúng, các võ sĩ đấu quyền tay không hoặc có một chiếc dây đeo ở cổ tay. Bằng chứng sớm nhất về việc chiến đấu bằng nắm đấm có sử dụng găng bảo hộ được tìm thấy trên đảo Crete thời văn minh Minos (khoảng 1500–1400 trước Công Nguyên).
Đương thời, Hy Lạp phát triển khá mạnh mẽ những cuộc thi đấu quyền và rất được yêu thích, thậm chí còn cho phép các đối thủ được mang thêm dây da hoặc dây sắt vào tay để hạ gục đối thủ nhanh hơn, bởi luật thi đấu lúc đó là đấu đến khi nào có một người không thể tiếp tục đấu nữa mới thôi. Theo ghi chép lịch sử Thế vận hội, đấu quyền được giới thiệu lần đầu tiên trong Thế vận hội lần thứ 23, năm 688 trước Công Nguyên. Các võ sĩ sẽ quấn dây da quanh tay để bảo vệ tay. Không chia trận ra làm các hiệp đấu, tức chỉ có một hiệp duy nhất, các võ sĩ chiến đấu cho đến khi một trong số họ thừa nhận thất bại hoặc không thể tiếp tục. Các hạng mục trọng lượng cơ thể vận động viên không được sử dụng, có nghĩa là những người nặng cân hơn có xu hướng chiếm ưu thế. Phong cách đấu quyền được thực hành thường đặc trưng với tư thế chân trái đứng trước, tay trái được sử dụng với nhiều mục đích như bảo vệ đầu, đo khoảng cách, đánh lạc hướng lẫn tấn công và phản công, và cánh tay giữ vai trò chủ đạo trong việc sẵn sàng ra đòn là tay phải. Mục tiêu tấn công thường là phần đầu của đối thủ, ít khi tấn công vào bộ phận khác của cơ thể ở thời kỳ cổ đại.
Năm 146 trước Công Nguyên, sau khi La Mã tiêu diệt Hy Lạp, môn đấu quyền cũng truyền theo đến La Mã với sự hưởng ứng nhiệt tình của tầng lớp thanh niên, cũng sớm trở nên phổ biến ở La Mã cổ đại. Các chiến binh bảo vệ các khớp ngón tay của họ bằng những chiếc kẹp da thuộc quấn quanh nắm tay. Dẫn dần da cứng hơn đã được sử dụng và da thuộc tam giác đã trở thành một vũ khí trang bị cho nắm tay. Những chiếc đinh tán kim loại đã được đưa vào những da thuộc để tăng sức sát thương. Các sự kiện giao tranh được tổ chức tại những giảng đường La Mã. Tuy nhiên, sau một thời gian dài do sự phát triển môn đấu quyền La Mã ngày càng đi sâu vào sự tàn nhẫn, các trận đấu thường dẫn đến cái chết, đến năm 394, Hoàng đế La Mã Theodosius I đã ra lệnh cấm hẳn môn đấu quyền.
Tương đương với Địa Trung Hải, tại tiểu lục địa Ấn Độ cũng đã tồn tại nhiều loại đấu quyền từ Ấn Độ cổ đại. Những tài liệu tham khảo sớm nhất về musti-yuddha đến từ các sử thi Vedic cổ điển như Ramayana và Rig Veda. Sử thi tiếng Phạn Mahabharata mô tả hai chiến binh đấu quyền với bàn tay nắm chặt và chiến đấu bằng các cú đá, đòn đánh bằng ngón tay, đòn đầu gối và những cú húc đầu. Các cuộc đấu tay đôi (niyuddham) thường chiến đấu cho đến chết. Trong thời kỳ của Phó vương Miền Tây (35–405), người cai trị là Rudradaman I — ngoài việc thông thạo các ngành khoa học xã hội lớn bao gồm âm nhạc cổ điển Ấn Độ, ngữ pháp tiếng Phạn và logic học — còn được cho là một kỵ sĩ, người đánh xe cừ khôi, người cưỡi voi, kiếm sĩ và võ sĩ. Gurbilas Shemi, một văn bản của đạo Sikh thế kỷ XIX đã đưa ra nhiều đề cập đến môn võ musti-yuddha.
Thời kỳ đảo Anh
Quy tắc Luân Đôn
Lưu trữ trong lịch sử về hoạt động đấu quyền thời cổ đại đã biến mất sau khi Đế chế La Mã phương Tây sụp đổ, nguyên nhân lớn bởi việc đeo vũ khí trở nên phổ biến một lần nữa khiến cho hứng thú chiến đấu bằng nắm đấm giảm dần. Tuy nhiên, có những ghi chép chi tiết về các môn thể thao sử dụng quyền thuật khác nhau đã được duy trì ở các tỉnh và thành phố của Ý trong khoảng thời gian từ thế kỷ XII đến thế kỷ XVII. Vùng đất khác là Kiev Rus' thời trung cổ cũng có môn thể thao được gọi là "Kulachniy Boy" hay "Fist Fighting" về giao đấu bằng tay. Trong thời kỳ sau Hậu kỳ Trung Cổ đi vào Phục Hưng, khi việc đeo kiếm trở nên ít phổ biến hơn, thì việc giao đấu bằng nắm đấm lại có sự quan tâm mới. Môn thể thao này sau đó trở lại ở Anh vào đầu thế kỷ XVI dưới hình thức đấu quyền tay trần, đôi khi được gọi là đấu thưởng (prizefighting). Tài liệu ghi chép đầu tiên về đấu tay không ở Anh xuất hiện vào năm 1681 tại London Protestant Mercury, và nhà vô địch đấu quyền tay trần đầu tiên của Anh là James Figg vào năm 1719. Đây cũng là thời điểm mà thuật ngữ "boxing" lần đầu tiên được sử dụng. Hình thức Quyền Anh hiện đại thời kỳ này này rất khác. Tại các cuộc thi vào thời của James Figg, ngoài việc đánh đấm, còn có đấu kiếm và nhào lộn. Từ năm 1719 đến năm 1730, James Figg đã chiến thắng nhiều đối thủ và được coi là nhà vô địch Quyền Anh hạng nặng đầu tiên, và cũng là người đầu tiên mở trường dạy môn đấu quyền. Sau đó, một nhà vô địch người Anh thế hệ nối tiếp là Jack Broughton đã đi xa hơn: mở trường dạy đấu quyền, phát minh ra đôi găng tay để giảm bớt tai nạn trong thi đấu, lập ra quy tắc đấu quyền mang tính thể thao hơn. Vào ngày 6 tháng 1 năm 1681, trận đấu Quyền Anh được ghi hình đầu tiên diễn ra ở Anh khi Christopher Monck, Công tước thứ 2 của Albemarle (về sau này là Phó Thống đốc Jamaica) tổ chức một trận đấu quyền giữa quản gia và người bán thịt, đều là người làm của ông, cũng như trao giải là tiền cho người giành chiến thắng.Đấu trận ban đầu không có quy tắc thành văn. Không có phân chia trọng lượng cân nặng người đấu hoặc giới hạn vòng đấu, và không có trọng tài, điều này khiến các trận đấu thường hỗn loạn. Một bài báo đầu tiên về Quyền Anh đã được xuất bản tại Nottingham năm 1713, bởi Sir Thomas Parkyns, Nam tước thứ hai, một người bảo trợ môn đấu vật từ Bunny, Nottinghamshire, ông cũng là người đã thực hành các kỹ thuật mà ông mô tả. Trong bài báo, một trang duy nhất đề cập đến sách hướng dẫn đấu vật và đấu kiếm của ông là Progymnasmata: The inn-play, or Cornish-hugg wrestler, đã mô tả một hệ thống các đòn húc đầu, đấm, khoét mắt, bóp nghẹt và ném mạnh không được công nhận trong Quyền Anh ngày nay. Sau đó, quy tắc Quyền Anh dần xuất hiện. Các quy tắc Quyền Anh đầu tiên được gọi là quy tắc của Broughton, được đưa ra bởi nhà vô địch Jack Broughton vào năm 1743 để bảo vệ các võ sĩ trên võ đài giảm thiểu nguy cơ tử vong. Theo các quy tắc này, nếu một người đấu bị đánh ngã và không thể tiếp tục sau 30 giây, trận đấu sẽ kết thúc. Cấm đánh một võ sĩ đã bị hạ và tấn công dưới thắt lưng. Broughton khuyến khích việc sử dụng mufflers, một dạng băng gạc hoặc găng tay có đệm, được sử dụng trong các trận đánh đôi hoặc đấu súng trong huấn luyện và trong các trận đấu triển lãm công chúng.
Những quy tắc này đã cho phép các võ sĩ thời đó một lợi thế mà ngày nay không có, đó là cho phép võ sĩ hạ một đầu gối để kết thúc hiệp đấu và bắt đầu đếm 30 giây bất cứ lúc nào. Vì vậy, nếu một võ sĩ nhận ra mình đang gặp khó khăn về thể lực thì sẽ có cơ hội phục hồi. Tuy nhiên, điều này được coi là không đàn ông (unmanly), và thường không được phép bởi các quy tắc bổ sung do các võ sĩ thương lượng trước khi đấu. Trong Quyền Anh hiện đại, có giới hạn ba phút cho các hiệp đấu (không giống như võ sĩ bị hạ gục kết thúc quy tắc hiệp đấu). Cố ý hạ gục trong môn Quyền Anh hiện đại sẽ khiến võ sĩ đang hồi phục bị mất điểm trong hệ thống tính điểm. Nhà báo thể thao người Anh Pierce Egan đã đặt ra thuật ngữ "the Sweet Science" như một hình ảnh thu nhỏ cho từ prizefighting, hay đầy đủ hơn là "the Sweet Science of Bruising" như một mô tả về cảnh chiến đấu bằng tay không của người Anh vào đầu thế kỷ XIX. Luật London Prize Ring về đấu quyền đưa ra các biện pháp vẫn còn hiệu lực với Quyền Anh chuyên nghiệp cho đến ngày nay, chẳng hạn như cấm húc đầu né đòn ngoài vòng, khoét, cào, đá, đánh một người khi đang ngã, giữ dây và dùng nhựa, đá hoặc vật cứng trong tay, và cắn.
Quy tắc Queensberry
Năm 1867, Luật Hầu tước Queensberry (Marquess of Queensberry rules) được John Chambers soạn thảo cho các chuỗi thi đấu, chức vô địch đấu quyền nghiệp dư được tổ chức tại Lillie Bridge ở Luân Đôn cho các hạng nhẹ, hạng trung và hạng nặng. Các quy tắc được công bố dưới sự bảo trợ của Hầu tước Queensberry, người luôn gắn liền với tên tuổi của họ. Trong luật, có 12 quy tắc quy định rằng các trận đấu phải là một trận đấu Quyền Anh công bằng, trong một võ đài rộng 24 foot (7,3 m) vuông hoặc tương tự. Các hiệp đấu kéo dài ba phút với khoảng thời gian nghỉ một phút giữa các hiệp đấu. Mỗi võ sĩ được tính mười giây nếu bị đánh ngã và đấu vật bị cấm. Sự ra đời của những đôi găng tay đấu quyền cỡ vừa phải cũng làm thay đổi bản chất của các cuộc đọ sức. Một đôi găng tay đấm bốc trung bình giống như một đôi găng tay phồng và được buộc xung quanh cổ tay. Găng tay có thể được sử dụng để chặn các cú đánh của đối thủ. Do sự ra đời của chúng, các trận đấu trở nên dài hơn và mang tính chiến lược hơn với tầm quan trọng lớn hơn gắn liền với những kỹ thuật, thao tác phòng thủ như trượt, nhấp nhô của cơ thể, phản công và đặt góc tấn công. Do ít chú trọng phòng thủ hơn vào việc sử dụng cẳng tay và nhiều hơn vào găng tay, nên tư thế cẳng tay cổ điển hướng ra ngoài, tư thế nghiêng về phía sau của võ sĩ Quyền Anh tay trần đã được sửa đổi thành tư thế hiện đại hơn, trong đó thân nghiêng về phía trước và tay được giữ gần mặt hơn để phòng thủ.
Năm 1872, bộ luật của Queensbeery chính thức được áp dụng vào những trận đấu. Sau này quy tắc Broughton trở thành luật thi đấu quyền Anh nhà nghề và quy tắc Queensbeery trở thành luật thi đấu quyền Anh nghiệp dư.
Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX
Vào cuối thế kỷ XIX, võ thuật Quyền Anh hay đấu giải đấu quyền có vị trí là một môn thể thao gây tranh cãi, chưa được hợp pháp hóa trong pháp luật. Quyền Anh thời điểm này nằm ngoài vòng pháp luật ở Anh và phần lớn Hoa Kỳ, các trận đấu có thưởng thường được tổ chức tại các tụ điểm cờ bạc và bị truy tìm, chấm dứt bởi cảnh sát. Việc gây gổ và đấu vật tiếp tục diễn ra khá đều đặn, và các cuộc bạo loạn trong những trận đấu quyền có thưởng là chuyện thường xuyên xảy ra. Tuy nhiên, trong suốt thời kỳ này, đã phát sinh ra một số nhà vô địch đấu quyền tay trần đáng chú ý, và họ đã phát triển các chiến thuật chiến đấu khá độc đáo. Năm 1882, án lệ nước Anh R v. Coney 8 QBD 534 gây ảnh hưởng lớn xuất hiện. Trong vụ này, Tòa án Bảo lưu các Vụ án Vương miện Anh (Court for Crown Cases Reserved) phát hiện một cuộc đánh nhau bằng tay trần, gây hậu quả là tổn hại cơ thể với sát thương vô cùng lớn, bất chấp sự đồng ý của những người tham gia. Vụ án cũng cho thấy việc tự nguyện tham dự với tư cách là khán giả là bằng chứng có thể được đưa ra trước bồi thẩm đoàn để chứng minh động cơ hỗ trợ và tiếp tay cho vụ hành hung. Với án lệ này, quy định luật Anh đưa ra cấm đấu quyền tay trần vì tổn thương tính mạng người tham gia, đánh dấu sự kết thúc của đầu quyền tay trần công khai rộng rãi ở Anh.
Giai đoạn này, nhà vô địch hạng nặng thế giới đầu tiên theo Luật Queensberry là "Gentleman Jim" Corbett đã đánh bại John L. Sullivan vào năm 1892 tại Câu lạc bộ điền kinh Pelican ở New Orleans. Năm 1897, trường hợp đầu tiên của việc kiểm duyệt phim ở Hoa Kỳ xảy ra khi một số tiểu bang cấm chiếu các bộ phim đánh nhau có thưởng từ bang Nevada, tiểu bang vẫn quy định hợp pháp hình thức này ở thời điểm đó. Trong suốt thời gian đầu thế kỷ XX, các võ sĩ đấu tranh để đạt được tính hợp pháp môn đấu quyền. Họ được hỗ trợ bởi ảnh hưởng của những người quảng bá như Tex Rickard và sự nổi tiếng của những nhà vô địch nổi tiếng thế giới như John L. Sullivan. Từ cuối thế kỷ XIX, Quyền Anh bắt đầu lan rộng ở các quốc gia không thuộc Anglo-Saxon, chủ yếu ở những quốc gia có ảnh hưởng của Anh hoặc Mỹ, chẳng hạn như Argentina, Uruguay, Panama, Cuba, Mexico, Puerto Rico, Philippines, Nam Phi và Tây Ban Nha. Ở Ecuador và México, môn thể thao này thường được biết đến là box. Tại Argentina, giải vô địch Quyền Anh đầu tiên được tổ chức vào tháng 12 năm 1899, tôn vinh Jorge Newbery, một trong những nhà vô địch đầu tiên của nước này. Năm 1903, Liên đoàn Câu lạc bộ Quyền Anh Pháp được thành lập. Ở Tây Ban Nha, Barcelona đã tổ chức một số võ đường Quyền Anh kể từ năm 1876. Năm 1903, câu lạc bộ vận động viên được thành lập ở Barcelona, trong đó giáo sư người Pháp Vidal tổ chức các cuộc triển lãm Quyền Anh, và vào năm 1908, cháu trai của ông, Jean Vidal, đã mở một phòng tập Quyền Anh trong Nhà thi đấu Villa.
Hiện đại
Năm 1904, lần đầu tiên Quyền Anh được đưa vào chương trình Thế vận hội và trở thành môn thi đấu chính thức của các kỳ Thế vận hội. Năm 1920, Liên đoàn Quyền Anh Thế giới (AIBA) ra đời. Năm 1994, đã có 122 quốc gia gia nhập AIBA, cho đến nay theo thống kê trên trang web của AIBA đã có 194 quốc gia (trong đó có Việt Nam) trực thuộc tổ chức này. Về quy tắc hiện đại, trong suốt thời gian thế kỷ XX, các danh mục mới đã được thêm vào và các giới hạn hạng cân của võ sĩ được sửa đổi, mở rộng phạm vi từ trọng lượng thấp nhất, trọng lượng tối thiểu hoặc hạng rơm (atomweight), đến trọng lượng cao nhất, hạng siêu nặng (super heavyweight), hiện đang có hiệu lực. Mức độ của các trận đấu và hệ thống quy định đòn tấn công cũng đã được sửa đổi. Trong Quyền Anh chuyên nghiệp, vào năm 1982, Hội đồng Quyền anh Thế giới (WBC) đã có sáng kiến, giảm thời gian của các trận tranh đai xuống còn mười hai hiệp sau khi võ sĩ Kim Duk-koo chết vì não năm 1982.
Môn thể thao Quyền Anh hiện đại ban đầu phát sinh từ các địa điểm bất hợp pháp và đấu thưởng ngoài vòng pháp luật, dần dần các tổ chức ngoài vòng pháp luật này được công nhận, đã trở thành những doanh nghiệp thương mại trị giá hàng tỷ USD. Phần lớn tài năng võ sĩ Quyền Anh trẻ vẫn đến từ các khu vực nghèo đói trên khắp thế giới nơi như México, Cuba, Châu Phi, Nam Mỹ và Đông Âu, nơi xuất phát của những vận động viên trẻ đầy khát vọng, những người mong muốn trở thành tương lai của Quyền Anh. Ngay cả ở Mỹ, những vùng nội thành như New York và Chicago đã xuất hiện những tài năng trẻ đầy triển vọng. Theo nhà văn, nhà xuất bản Rubin: "Quyền Anh đã mất đi sức hấp dẫn với tầng lớp trung lưu Mỹ, và hầu hết những võ sĩ Quyền Anh ở Mỹ hiện đại đều đến từ đường phố và là những võ sĩ đường phố". Bắt đầu từ năm 2019 và đến năm 2020, đại dịch COVID-19 bùng phát toàn cầu gây ảnh hưởng đến việc thực hiện các sự kiện Quyền Anh theo lịch trình, vì những hạn chế sinh ra từ các biện pháp phòng ngừa lây lan là cần thiết để ngăn ngừa lây nhiễm. Các biện pháp ngăn chặn được thực hiện, và dần dần các trận đấu được tổ chức đi kèm với phòng bệnh, trong đó trọng tài duy trì việc sử dụng mặt nạ, và các khán giả vắng mặt.
Quy tắc
Trong Quyền Anh, Luật Queensberry từ 1867 là quy tắc chung điều chỉnh Quyền Anh kể từ khi được xuất bản cho đến nay. Mỗi trận đấu Quyền Anh thường bao gồm một số hiệp nhất định trong ba phút, tổng cộng có thể lên đến 12 hiệp. Thường dành một phút giữa mỗi hiệp đấu với các võ sĩ ở các góc được chỉ định của họ để nhận được lời khuyên từ huấn luyện viên và hỗ trợ hồi sức từ đội ngũ của họ. Cuộc đấu được điều khiển bởi một trọng tài làm việc trong võ đài để đánh giá và kiểm soát hành vi của các võ sĩ, quy định về khả năng giao đấu an toàn của họ, đếm thời gian các võ sĩ bị hạ gục và quy định về lỗi vi phạm. Tối đa ba trọng tài thường có mặt tại võ đài để chấm điểm hiệp đấu và chỉ định điểm cho các võ sĩ, dựa trên các cú đấm, phòng thủ, hạ gục, ôm giữ và các biện pháp kỹ thuật khác. Vì cách đánh Quyền Anh theo kiểu kết thúc mở, nhiều trận đấu có kết quả gây tranh cãi, trong đó một hoặc cả hai võ sĩ cho rằng họ đã bị từ chối chiến thắng một cách oan uổng. Mỗi võ sĩ có một góc được chỉ định của võ đài, nơi huấn luyện viên của họ, cũng như đội ngũ của họ tạm đứng. Mỗi võ sĩ bước vào võ đài từ các góc được chỉ định của họ ở đầu mỗi hiệp và phải ngừng đánhm, trở về góc của họ khi kết thúc mỗi hiệp.
Kết luận trận đấu
Số điểm xác định mỗi trận sẽ được ban giám khảo quyết định, và được gọi là "go to distance". Võ sĩ nào có số điểm cao hơn khi kết thúc trận đấu được coi là chiến thắng. Với ba giám khảo, các quyết định nhất trí và chia rẽ có thể xảy ra. Một võ sĩ có thể thắng hiệp đấu trước khi đưa ra quyết định bằng hạ đo ván (knock-out, KO). Nếu võ sĩ bị hạ gục trong trận đấu, được xác định bằng việc võ sĩ có chạm vào sàn vải của võ đài bằng bất kỳ bộ phận nào của cơ thể họ ngoài bàn chân do cú đấm của đối thủ chứ không phải do trượt chân hay không, theo quyết định của trọng tài, trọng tài bắt đầu đếm cho đến khi võ sĩ đứng dậy và có thể tiếp tục. Một số tổ chức yêu cầu trọng tài đếm đến tám bất kể võ sĩ có đứng dậy trước hay không. Trọng tài đếm đến mười, võ sĩ bị đánh gục sẽ được kết luận là bị KO hay chưa (cho dù bất tỉnh hay không) và võ sĩ kia được coi là chiến thắng bằng loại trực tiếp (KO). Cũng có thể xảy ra trường hợp loại trực tiếp kỹ thuật (technical knock-out, TKO) và được quyết định bởi trọng tài, bác sĩ trận đấu hoặc đội ngũ góc võ đài của võ sĩ nếu võ sĩ không thể tiếp tục thi đấu do bị thương hoặc không thể duy trì khả năng bảo vệ bản thân. Nhiều tổ chức phê chuẩn Quyền Anh cũng có "quy tắc ba lần đánh gục", trong đó một võ sĩ bị đối thủ đánh gục (knockdown) ba lần trong một trận sẽ bị xử thua TKO. TKO cũng được coi là loại trực tiếp trong thống kê sự nghiệp của võ sĩ. Quy tắc đếm đến tám "standing eight" cũng có thể có hiệu lực, cho phép trọng tài có quyền đếm đến 8 đối với võ sĩ mà trọng tài cảm thấy đang trong tình trạng nguy hiểm, trạng thái rủi ro và cơ thể bất ổn trong trận, ngay cả khi không có tình huống bị đánh gục nào xảy ra. Sau khi đếm, trọng tài sẽ quan sát võ sĩ và quyết định xem võ sĩ có đủ sức khỏe để tiếp tục hay không. Đối với mục đích tính điểm, quy tắc đếm đến 8 được coi như là một lần đánh ngã.
Điều khoản hạn chế
Về quy tắc chung, các võ sĩ bị cấm ra đòn tấn công dưới thắt lưng, cố tình vấp, giữ, đẩy, cắn đối thủ hoặc khạc nhổ. Quần đùi của võ sĩ được nâng lên để đối thủ không được phép đánh vào vùng háng với ý định gây đau hoặc chấn thương, tức chỉ được tấn công phần cơ thể trên quần. Nếu không tuân theo quy định này thì có thể phạm lỗi. Quy tắc cũng cấm đòn đá, húc đầu hoặc đánh bằng bất kỳ bộ phận nào của cánh tay ngoài các đốt ngón tay của nắm đấm kín (bao gồm cả cấm đánh bằng cùi chỏ, vai hoặc cẳng tay, cũng như bằng găng tay hở, cổ tay, mặt trong, mặt sau hoặc mặt bên của bàn tay). Các võ sĩ cũng bị cấm đánh vào lưng, sau đầu hoặc cổ (được gọi là cú đấm thỏ "rabbit-punch") hoặc thận. Bên cạnh đó, võ sĩ bị cấm cầm dây chằng sàn đấu để hỗ trợ khi đấm, giữ đối thủ trong khi đấm, hoặc cúi xuống dưới thắt lưng của đối thủ (bất kể khoảng cách giữa hai người).
Quyền Anh có kỹ thuật ôm giữ "clinch" – một động tác phòng thủ trong đó một võ sĩ dùng cánh tay của mình để ôm giữ, cố định đối thủ ở tư thế đứng, ngăn chặn tấn công. Khi trọng tài buộc dừng động tác này thì mỗi võ sĩ phải lùi lại một bước trước khi quay lại tấn công. Khi một võ sĩ bị đánh ngã, võ sĩ kia phải ngay lập tức ngừng giao tranh và di chuyển đến góc trung lập xa nhất của võ đài cho đến khi trọng tài ra phán quyết loại trực tiếp hoặc cho trận đấu tiếp tục. Các trường hợp vi phạm các quy tắc này có thể bị trọng tài quy là phạm lỗi, có thể đưa ra cảnh cáo, trừ điểm hoặc truất quyền thi đấu của võ sĩ vi phạm, tự động bị xử thua, tùy theo mức độ nghiêm trọng và tính cố ý của hành vi phạm lỗi. Một lỗi cố ý gây thương tích khiến cho một trận đấu không thể tiếp tục thường khiến võ sĩ phạm lỗi đó bị truất quyền thi đấu. Một võ sĩ trúng phải một cú đánh do tai nạn không cố ý, chẳng hạn như trúng đòn vào hạ bộ, thì có thể có tối đa 5 phút để hồi phục. Những pha phạm lỗi vô tình gây chấn thương khi kết thúc một hiệp đấu có thể dẫn đến khả năng không có kết quả hoặc "no contest", hoặc có thể khiến trận đấu đi đến quyết định nếu đủ hiệp (thường là bốn hiệp trở lên, hoặc ít nhất ba hiệp trong một trận đấu bốn hiệp).
Hệ thống Quyền Anh
Trong suốt thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, các cuộc đấu Quyền Anh thường được thúc đẩy bởi tiền, khi những võ sĩ thi đấu để giành tiền thưởng, những người quảng bá kiểm soát cổng vào sân và khán giả đặt cược vào kết quả. Đầu thế kỷ XX, phong trào Thế vận hội hiện đại làm hồi sinh sự quan tâm đến các môn thể thao nghiệp dư, và Quyền Anh nghiệp dư trở thành một môn thể thao Thế vận hội vào năm 1908. Ở hình thức hiện tại ngày nay, Thế vận hội và các giải đấu nghiệp dư khác thường giới hạn trong ba hoặc bốn hiệp, cách tính điểm được tính dựa trên số lần ra đòn trung mục tiêu, bất kể va chạm và các võ sĩ đeo mũ bảo hộ, giảm số lượng thương tích, hạ đo ván, và loại trực tiếp. Hiện tại, các đòn ghi điểm trong môn Quyền Anh nghiệp dư được các trọng tài phụ tính một cách chủ quan, nhưng Viện Thể thao Úc đã xây dựng và chứng minh một nguyên mẫu của hệ thống tính điểm Quyền Anh tự động, mang tính khách quan, cải thiện độ chính xác và được cho là khiến môn thể thao này trở nên thú vị hơn đối với khán giả. Quyền Anh chuyên nghiệp cho đến nay vẫn là hình thức phổ biến nhất của môn thể thao này trên toàn cầu, mặc dù Quyền Anh nghiệp dư đang chiếm ưu thế ở một số nơi như Cuba và một số nước thuộc Liên Xô cũ. Đối với hầu hết các võ sĩ, một sự nghiệp nghiệp dư, đặc biệt là tại Thế vận hội, phục vụ cho việc phát triển các kỹ năng và tích lũy kinh nghiệm để chuẩn bị cho sự nghiệp chuyên nghiệp. Các võ sĩ phương Tây thường tham gia một kỳ Thế vận hội và sau đó chuyển sang chuyên nghiệp, người Cuba và các nước xã hội chủ nghĩa khác có cơ hội thu về nhiều huy chương. Năm 2016, các võ sĩ chuyên nghiệp đã được tham dự Thế vận hội và các giải đấu khác do AIBA phê chuẩn. Điều này được tiến hành nhằm phổ biến thể thức kết hợp thể thao và sự nghiệp chuyên nghiệp, mang lại cho tất cả các vận động viên cơ hội giống như các võ sĩ được bảo hộ khác. Tuy nhiên, các tổ chức chuyên nghiệp phản đối gay gắt quyết định đó.
Quyền Anh nghiệp dư
Chia hạng thể thức
Quyền Anh nghiệp dư có thể được tìm thấy thể dục thể thao cấp độ đại học, tại Thế vận hội, Đại hội Thể thao Khối thịnh vượng chung, Đại hội Thể thao châu Á, hay Đại hội Thể thao Đông Nam Á. Ở nhiều địa điểm khác nhau có các hiệp hội Quyền Anh nghiệp dư khác nhau quản lý. Quyền Anh nghiệp dư có một hệ thống tính điểm đo lường số lượng đòn đánh trúng đích chính xác được tính, ưu tiên hơn là sát thương vật lý, hay sức mạnh của đòn đánh. Các hiệp đấu bao gồm ba hiệp, mỗi hiệp ba phút trong Thế vận hội, ABA (các hiệp hội quyền anh nghiệp dư) quốc gia, có khoảng cách giữa các hiệp là một phút.
Về chia hạng thể thức của các hạng cân: hệ thống cân Quyền Anh nghiệp dư theo kilôgam (Metric) và hệ thống Aviordupois được sử dụng chia làm 12 hạng cân của Thế vận hội từ 48 kg (105 lb) đến trên 91 kg (200 lb).
Tính điểm thể thao
Ở nghiệp dư, các vận động viên đội mũ bảo hộ đội đầu và đeo găng tay có dải hoặc vòng tròn màu trắng trên đốt ngón tay. Tuy nhiên, có những trường hợp không yêu cầu găng tay trắng, có thể đeo bất kỳ loại găng màu nào. Điểm găng màu trắng chỉ là một cách để giúp giám khảo dễ dàng hơn trong việc ghi điểm đòn đánh tốc độ cao. Mỗi đấu thủ phải được quấn tay đúng cách trước khi đánh để được tối ưu hóa tính chất bảo vệ thêm cho bàn tay của họ, có thêm đệm dưới găng tay. Găng tay của đấu sĩ phải có trọng lượng 12 ounce trừ khi võ sĩ nặng dưới , cho phép đeo găng tay 10 ounce.
Trong khi tung đòn, một cú đấm chỉ được coi là cú đấm ghi điểm khi phần màu trắng của găng tay chạm tới vị trí yếu điểm trên cơ thể của đối thủ. Mỗi cú đấm chạm vào đầu hoặc phần thân với một lực vừa đủ sẽ được cộng một điểm. Để cho điểm mỗi đòn đánh, đòn đó không bị ngăn chặn hay bảo vệ và phải trúng đích với diện tích tiếp xúc hợp lệ của găng, đòn đó phải trúng đích vào phần trước của đầu hay thân thể kể từ thắt lưng trở lên. Các đòn tạt ngang (swing) đánh đúng như trên cũng được tính điểm. Giá trị của các đòn đánh giáp thân sẽ được đánh giá vào thời điểm cuối của lần giáp thân giữa các vận động viên và tùy thuộc vào số đòn đánh chiếm đa số của vận động viên đó. Đòn đánh không ghi điểm là cú đánh vi phạm luật hoặc đánh bằng cạnh, mặt sau của găng, đánh mở găng hoặc bất kỳ phần nào khác ngoài diện tích găng che của các khớp của năm ngón tay (diện tích tiếp xúc hợp lệ), chạm vào cơ thể đối phương mà không có lực của vai hay cơ thể người ra đòn, đánh bằng cánh tay. Hình thức cho điểm theo quyết định được thiết lập, giám định ấn các nút được hướng dẫn để cho điểm vận động viên có những đòn đánh chính xác, hợp lệ. Về cơ bản, những đòn đánh chính xác và các thông tin khác được ghi lại và tính toán một cách tự động bởi máy chấm điểm.
Trọng tài giám sát trận đấu để đảm bảo rằng các đấu thủ chỉ sử dụng các đòn đánh được cho phép. Một chiếc đai mang ở giữa phần hông và bụng là giới hạn cho các cú đấm, bất kỳ võ sĩ nào liên tục tung các đòn thấp hơn đai thắt lưng đều bị loại. Các trọng tài cũng đảm bảo rằng các võ sĩ không sử dụng chiến thuật clinch liên tục để ngăn cản đối thủ tấn công. Nếu điều này xảy ra, trọng tài tách các đối thủ và ra lệnh cho họ tiếp tục thi đấu. Việc ôm giữ đối thủ nhiều lần có thể khiến võ sĩ bị phạt hoặc cuối cùng là bị truất quyền thi đấu. Các trọng tài sẽ dừng hiệp nếu một võ sĩ bị thương nặng, nếu một võ sĩ đang lấn lướt đối thủ hoặc nếu điểm số bị mất cân bằng nghiêm trọng. Các trận đấu nghiệp dư kết thúc theo cách này có thể được ghi nhận là "RSC" (trọng tài dừng cuộc thi) với các ký hiệu cho đối thủ vượt trội trình độ (RSCO), đối thủ vượt trội điểm số (RSCOS), chấn thương (RSCI), hoặc chấn thương đầu (RSCH). Cụ thể "RSC" là khi giám sát trưởng sau khi hội ý với các thành viên trong Ban Giám sát tin tưởng rằng máy chấm điểm điện tử với 15 điểm cách biệt giữa hai vận động viên, trận đấu có thể chấm dứt để tránh cho một vận động viên bị những đòn không cần thiết. Bên cạnh đó, còn có quy định về count-back trong Quyền Anh nghiệp dư. Đó là có năm trọng tài cùng tham gia chấm điểm trong mỗi trận đấu nghiệp dư, nhưng chỉ có điểm số của ba trọng tài chấm cân bằng nhau nhất được chọn để tính điểm chung cuộc. Khi điểm số cuối trận cũng vẫn là ngang bằng nhau thì điểm số từ hai trọng tài sẽ bị loại bỏ, và điểm số của trọng tài còn lại chính là điểm số cuối cùng. Trong trường hợp điểm số vẫn hòa, điểm số cao nhất và thấp nhất của các trọng tài ở góc võ đài xanh và đỏ sẽ bị loại bỏ. Nếu điểm số vẫn hòa, năm trọng tài sẽ họp với nhau để đưa ra biểu quyết võ sĩ thắng trận.
Quyền Anh chuyên nghiệp
Ở Quyền Anh chuyên nghiệp, các trận đấu chuyên nghiệp thường dài hơn nhiều so với các trận nghiệp dư, thường dao động từ mười đến mười hai hiệp, mặc dù các trận đấu bốn hiệp thường xảy ra đối với các võ sĩ ít kinh nghiệm hơn hoặc các võ sĩ câu lạc bộ. Ngoài ra còn có một số trận đấu chuyên nghiệp hai và ba hiệp, đặc biệt là ở Úc. Trong suốt đầu thế kỷ XX, các trận đấu thường có số hiệp không giới hạn, chỉ kết thúc khi một võ sĩ bỏ cuộc, mang lại lợi ích cho những võ sĩ có độ bền cao như Jack Dempsey. Mười lăm hiệp đấu vẫn là giới hạn được quốc tế công nhận cho các trận đấu vô địch trong hầu hết thế kỷ XX cho đến đầu những năm 1980, giảm giới hạn xuống còn mười hai hiệp. Mũ đội đầu không được phép sử dụng trong các cuộc đấu chuyên nghiệp và các võ sĩ thường chịu nhiều sát thương hơn hẳn so với nghiệp dư. Bất cứ lúc nào, trọng tài có thể dừng trận nếu cho rằng một võ sĩ không thể tự vệ do chấn thương. Trong trường hợp đó, võ sĩ còn lại được tuyên thắng trực tiếp. Bên cạnh KO là TKO cũng sẽ tuyên nếu võ sĩ tung ra một cú đấm mở ra một vết cắt vào đối thủ và đối thủ sau đó được bác sĩ cho là không đủ sức khỏe để tiếp tục vì vết cắt chảy máu liên tục. Vì lý do này, trong đội ngũ của mỗi võ sĩ thường có chuyên gia xử lý viết thương, công việc của họ là xử lý vết cắt giữa các hiệp để võ sĩ có thể tiếp tục bất chấp vết cắt. Ngược lại với quyền anh nghiệp dư, các võ sĩ nam chuyên nghiệp phải để ngực trần.
Tại Mỹ, Quyền Anh chuyên nghiệp được tăng cường kiểm soát bởi Ủy ban Quyền Anh Quốc gia (NBA) từ năm 1920 khi New York ban hành một đạo luật mới gọi là Luật Walker nhằm tránh những lạm dụng có thể xảy ra, quy định số tiền trong giải đấu và thiết lập một ủy ban Quyền Anh quốc gia. Sau đó các nước khác cũng thông qua điều luật tương tự và cũng thành lập các phòng ban kiểm soát giống như tại các bang và thành phố của Mỹ. Các bộ luật chính thức về Quyền Anh chuyên nghiệp gồm các chi tiết kỹ thuật về xây dựng võ đài, hình vuông có kích thước là 16 – 20 ft (4.9–6.1 m); trọng lượng tối thiểu của găng tay bông từ 6–8 oz (170–227 g); số vòng đấu tối đa (thường là 12 hiệp trong các trận giành chức vô địch); quy định về trọng tài và giám khảo; các định nghĩa và phạt lỗi; các hệ thống tính điểm để xác định kẻ thắng cuộc mà không phải dùng đến KO. Sau khi Luật Walker được hợp pháp hoá, môn thể thao này ngày càng trở nên phổ biến ở Mỹ. Các nhà vô địch hạng nặng Mỹ nằm trong số những vận động viên nổi tiếng trong làng thể thao. Jack Dempsey giành chức quán quân hạng nặng năm 1919 và bảo vệ danh hiệu của mình trước đối thủ người Pháp Georges Carpentier năm 1921, đây là trận đấu đầu tiên mà doanh thu từ vé vào cổng lên tới hàng triệu USD. Ở hệ thống quản lý, ngày nay, Quyền Anh chuyên nghiệp có bốn tổ chức lớn nhất thế giới là Hiệp hội Quyền Anh Thế giới (WBA), Hội đồng Quyền Anh Thế giới (WBC), Tổ chức Quyền Anh Thế giới (WBO), và Liên đoàn Quyền Anh Quốc tế (IBF) phụ trách việc tổ chức, công nhận, phê chuẩn và xếp hạng Quyền Anh chuyên nghiệp toàn cầu. Bên cạnh đó, có tạp chí The Ring cũng tham gia đăng tải về Quyền Anh chuyên nghiệp.
Phong cách Quyền Anh
Định nghĩa chiến thuật
Phong cách Quyền Anh là thuật ngữ thường được sử dụng để định nghĩa cách tiếp cận, chiến thuật mà các võ sĩ sử dụng trong một trận đấu. Không có phong cách nào của hai võ sĩ là giống nhau, vì mỗi người được nhận định bởi các thuộc tính thể chất và tinh thần của riêng họ. Có năm phong cách chính tồn tại trong Quyền Anh: võ sĩ khoảng cách (outside fighter hoặc "boxer"); võ sĩ sức mạnh (brawler, "slugger"); võ sĩ áp đảo (inside fighter, "swarmer"); võ sĩ toàn năng (boxer/out-fighter); và võ sĩ phản công (counter puncher). Các phong cách này có thể được chia thành một số nhóm nhỏ hơn đối với các võ sĩ có đặc tính riêng rẽ. Triết lý chính của các phong cách đó là mỗi phong cách có một lợi thế hơn hẳn và dẫn đầu, nhưng lại bất lợi hơn phong cách khác ở yếu tố khác. Nó tuân theo nguyên lý oẳn tù tì, các phong cách xoay vòng, không có phong cách vượt trội hơn hẳn, chẳng hạn như võ sĩ khoảng cách đánh bại võ sĩ sức mạnh, võ sĩ sức mạnh đánh bại võ sĩ áp đảo, võ sĩ áp đảo đánh bại võ sĩ khoảng cách.
Võ sĩ khoảng cách
Một võ sĩ khoảng cách hoặc võ sĩ tạo hình (còn được gọi là "out-fighter") đấu quyền với chiến thuật tìm cách duy trì khoảng cách giữa bản thân và đối thủ, chiến đấu bằng những cú đấm nhanh hơn, tầm xa hơn, đặc biệt nhất là cú đâm thẳng (jab) và dần dần khiến đối thủ gục ngã. Do mối quan hệ giữa lực và khoảng cách, khoảng cách lớn giữa hai võ sĩ khiến lực đấm giảm đi, những cú đấm được tung ra yếu hơn, các võ sĩ khoảng cách có xu hướng giành chiến thắng bằng điểm quyết định hơn là loại trực tiếp, mặc dù một số võ sĩ khoảng cách có thành tích loại trực tiếp đáng chú ý. Họ thường được coi là những chiến lược gia Quyền Anh giỏi nhất nhờ khả năng kiểm soát nhịp độ trận đấu và dẫn dắt đối thủ, hạ gục đối thủ một cách có phương pháp và thể hiện nhiều kỹ năng và sự khéo léo hơn bình thường. Những võ sĩ khoảng cách cần có tầm với, tốc độ tay, phản xạ và động tác di chuyển của đôi chân. Những võ sĩ khoảng cách đáng chú ý trong lịch sử Quyền Anh có thể kể tới Muhammad Ali, Larry Holmes, Joe Calzaghe, Wilfredo Gómez, Salvador Sánchez, Cecilia Brækhus, Gene Tunney, Ezzard Charles, Willie Pep, Meldrick Taylor, Ricardo "Finito" López, Floyd Mayweather Jr., Roy Jones Jr., Sugar Ray Leonard, Miguel Vázquez, Sergio "Maravilla" Martínez, Vitali Klitschko, Wladimir Klitschko và Guillermo Rigondeaux. Phong cách này cũng được sử dụng bởi võ sĩ nhân vật hư cấu Apollo Creed trong điện ảnh.
Võ sĩ toàn năng
Một võ sĩ toàng năng (còn được gọi là "boxer-puncher") được xem là võ sĩ toàn diện, có thể chiến đấu ở cả cự ly xa như võ sĩ khoảng cách lẫn cự ly gần với sự kết hợp giữa kỹ thuật và sức mạnh, thường có khả năng hạ gục đối thủ bằng sự kết hợp đa dạng và trong một số trường hợp hạ gục đối thủ chỉ bằng một cú đánh tốc độ cao. Cách di chuyển và chiến thuật của phong cách tương tự như của một võ sĩ khoảng cách (mặc dù nhìn chung võ sĩ tốc độ ở cự ly gần, không cơ động như một võ sĩ khoảng cách), nhưng thay vì giành chiến thắng theo quyết định, phong cách này có xu hướng hạ gục đối thủ bằng cách sử dụng các tổ hợp động tác tốc độ cao hạ đo ván. Một võ sĩ Quyền Anh phải có thể trạng toàn diện để có thể sử dụng phong cách này một cách hiệu quả. Các võ sĩ toàng năng đáng chú ý có thể kể tới Muhammad Ali, Canelo Álvarez, Sugar Ray Leonard, Roy Jones Jr., Wladimir Klitschko, Vasyl Lomachenko, Lennox Lewis, Joe Louis, Wilfredo Gómez, Oscar De La Hoya, Archie Moore, Miguel Cotto, Nonito Donaire, Sam Langford, Henry Armstrong, Sugar Ray Robinson, Tony Zale, Carlos Monzón, Alexis Argüello, Érik Morales, Terry Norris, Marco Antonio Barrera, Naseem Hamed, Thomas Hearns, Julian Jackson và Gennady Golovkin.
Võ sĩ phản đòn
Những võ sĩ phản đòn (còn được gọi là "counter puncher") là những võ sĩ theo phong cách phòng ngự, né đòn, thường dựa vào sai lầm của đối thủ để giành lợi thế, thường áp dụng cho việc chiếm điểm số cao hơn, phù hợp hơn so với chiến thuật hạ đo ván. Võ sĩ phản đòn sử dụng khả năng phòng thủ toàn diện của mình để tránh hoặc chặn các cú đấm của đối thủ, và sau đó ngay lập tức khiến đối thủ mất cảnh giác bằng một cú đấm phản công đúng lúc và đúng vị trí. Trận chiến với một tay đấm phản công điêu luyện có thể biến thành một cuộc chiến tiêu hao thể lực, bởi mỗi đòn tấn công là mỗi lần tự mình đi vào nguy hiểm. Vì vậy, chiến đấu chống lại những tay đấm phản công đòi hỏi phải liên tục chống đỡ và khả năng tránh các đòn tấn công ngược lại của đối thủ. Để thực sự thành công khi sử dụng phong cách này, võ sĩ phản công phải có phản xạ tốt, khả năng dự đoán và nhận thức cao, xác định chính xác thời điểm, vị trí, có tốc độ, cả trong đòn đánh và động tác di chuyển hệ chân. Bên cạnh đó, những tay đấm phản công thường khiến đối thủ của họ gục ngã bằng cách khiến họ bỏ lỡ những cú đấm của mình. Đối thủ đấm trượt càng nhiều thì càng mệt mỏi nhanh hơn, và ảnh hưởng tâm lý của việc không thể tung ra đòn đánh chính xác. Các tay đấm phản đòn thường cố gắng vượt trội hoàn toàn đối thủ của họ, không chỉ về mặt thể chất, mà còn về mặt tinh thần và cảm xúc. Phong cách này có thể cực kỳ khó để áp dụng, đặc biệt thích hợp đối với những võ sĩ dày dạn kinh nghiệm. Võ sĩ phản đòn thường cố gắng tránh xa trung tâm của võ đài, tránh lực sát thương của đối thủ. Một lợi thế lớn trong việc phản đòn là động lượng về phía trước của đối thủ tấn công, tức nhân đôi lực của cú đấm phản đòn.
Những tay đấm phản đòn đáng chú ý có thể kể tới Muhammad Ali, Joe Calzaghe, Vitali Klitschko, Evander Holyfield, Max Schmeling, Chris Byrd, Jim Corbett, Jack Johnson, Bernard Hopkins, Laszlo Papp, Jerry Quarry, Anselmo Moreno, James Toney, Marvin Hagler, Juan Manuel Márquez, Humberto Soto, Floyd Mayweather Jr., Roger Mayweather, Pernell Whitaker, Sergio Gabriel Martinez và Guillermo Rigondeaux. Phong cách đấm bốc này cũng được sử dụng bởi võ sĩ hư cấu Little Mac trong trò chơi Punch-Out!!.
Võ sĩ sức mạnh
Võ sĩ sức mạnh (còn được gọi là "brawler/slugger") là một võ sĩ thường thiếu sự khéo léo trong kỹ thuật và thiếu linh hoạt trong bộ pháp trên võ đài, nhưng được bù đắp bằng việc sở hữu sức mạnh tuyệt đối ở cú đấm. Các võ sĩ này có xu hướng thiếu tính cơ động, ưa thích cơ chế ổn định, thường gặp khó khăn trong việc truy đuổi, tấn công những võ sĩ nhanh nhẹn. Họ cũng có xu hướng bỏ qua các cú đấm kết hợp kỹ thuật, đề cao ra đòn bằng một cánh tay, tung những cú đấm đơn, ít hơn, mạnh hơn (chẳng hạn như đấm móc ngang và đấm móc ngược). Sự chậm chạp và kiểu đánh có thể đoán trước của họ (những cú đấm đơn có cách quan sát rõ ràng) thường khiến họ dễ dàng bị phản công bởi võ sĩ phản đòn, vì vậy những võ sĩ sức mạnh phải có khả năng chịu đòn đáng kể. Tuy nhiên, không phải tất cả các võ sĩ sức mạnh đều không cơ động; một số có thể di chuyển và chuyển đổi phong cách khác nếu cần nhưng vẫn có phong cách sức mạnh như Wilfredo Gómez, Prince Naseem Hamed và Danny García. Trong lịch sử, võ sĩ sức mạnh dễ đoàn vì đòn đơn giản nhưng thường đánh đủ tốt để chống lại các phong cách chiến đấu khác bởi vì họ luyện tập để sở hữu cú đấm rất tốt. Họ thường có cơ hội cao hơn so với các phong cách chiến đấu khác để có thể hạ gục đối thủ bởi vì họ tập trung vào những đòn đánh sát thương khủng khiếp và mạnh mẽ, thay vì những đòn tấn công nhẹ hơn, nhanh hơn. Thông thường, họ tập trung vào việc tập luyện cho phần trên cơ thể thay vì toàn bộ cơ thể để tăng sức mạnh và sức bền. Họ cũng hướng tới mục đích đe dọa đối thủ của họ về sức mạnh, tầm vóc và khả năng ra đòn.
Tài sản cơ thể quan trọng nhất của một võ sĩ sức mạnh chính là sức mạnh và cằm (khả năng chịu đòn, trúng đòn vẫn có thể tiếp tục chiến đấu). Những võ sĩ nổi tiềng với phong cách có thể kể tới George Foreman, Rocky Marciano, Julio César Chávez, Roberto Durán, Sonny Liston, John L. Sullivan, Max Baer, Ray Mancini, David Tua, Arturo Gatti, Micky Ward, Brandon Ríos, Ruslan Provodnikov, Michael Katsidis, James Kirkland, Marcos Maidana, Jake LaMotta, Manny Pacquiao và John Duddy của Ireland. Phong cách Quyền Anh này cũng được sử dụng bởi các võ sĩ hư cấu Rocky Balboa của loạt phim Rocky và James "Clubber" Lang của Rocky III.
Võ sĩ áp đảo
Võ sĩ áp đảo (còn được gọi là "swarmer/in-fighter" hoặc "pressure fighters") thường cố gắng ở tiến cận gần đối thủ, tung những pha bùng nổ dữ dội bằng sự kết hợp của đòn đấm móc ngang và móc dưới. Chủ yếu các võ sĩ người México, Ireland, Mỹ gốc Ireland, Puerto Rico và người Mỹ gốc México đã phổ biến phong cách này. Một võ sĩ áp đảo thành công thường cần cái cằm (chin) tốt bởi vì việc áp đảo đối thủ thường liên quan đến việc bị trúng nhiều đòn jab trước khi có thể di chuyển vào vùng tung đòn hiệu quả. Các võ sĩ áp đảo thường hoạt động tốt nhất ở cự ly gần vì họ thường thấp hơn và ít tầm sải tay hơn so với đối thủ, do đó hiệu quả hơn ở cự ly gần, nơi các cánh tay dài hơn của đối thủ khó vận hành. Tuy nhiên, một số võ sĩ cao lớn cũng tương đối thành thạo trong chiến thuật áp đảo lẫn khoảng cách. Bản chất của phong cách này là không ngừng gây hấn, tạo áp lực. Nhiều võ sĩ thấp bé sử dụng đặc tính được cho là điểm yếu này để đảo ngược thành lợi thế của họ, sử dụng phòng thủ đan và dệt bằng cách uốn cong ở thắt lưng để cuối xuống bên dưới hoặc sang hai bên, tung các cú đấm. Không giống như việc chặn đòn, di chuyển né đòn khiến đối thủ bỏ lỡ một cú đấm, mất thăng bằng, điều này cho phép võ sĩ áp đảo di chuyển về phía trước qua vùng cánh tay mở rộng của đối phương và phản đòn. Một lợi thế khác biệt mà các võ sĩ áp đảo có là khi tung đòn đấm móc ngược đòn trên, họ có thể dồn toàn bộ trọng lượng cơ thể của mình vào cú đấm đó, chẳng hạn như Mike Tyson nổi tiếng với việc ném những cú uppercut tàn khốc. Marvin Hagler được biết đến với cái cằm cứng rắn, sức đấm, đòn tấn công cơ thể và khả năng rình rập nổi tiếng. Một số võ sĩ áp đảo nổi tiếng là khó đánh, và chìa khóa để trở thành võ sĩ áp đảo là sự hiếu chiến, sức bền, cái cằm cứng và sự khéo léo.
Các võ sĩ áp đảo đáng chú ý có thể kể tới Henry Armstrong, Aaron Pryor, Julio César Chávez, Jack Dempsey, Shawn Porter, Miguel Cotto, Joe Frazier, Danny García, Mike Tyson, Manny Pacquiao, Rocky Marciano, Wayne McCullough, James Braddock, Gerry Penalosa, Harry Greb, David Tua, James Toney và Ricky Hatton. Phong cách này cũng đã được sử dụng bởi nhân vật Balrog trong tựa game Street Fighter.
Kết hợp phong cách
Về nguyên tắc, tất cả các võ sĩ đều có những kỹ năng riêng họ cảm thấy thoải mái nhất, và những võ sĩ ưu tú thường có thể kết hợp các phong cách và chiến thuật. Ví dụ, một võ sĩ khoảng cách đôi khi chuyển sang tiếp cận phản đòn, hoặc một võ sĩ sức mạnh có thể chuyển sang áp đảo bằng những cú đấm khủng khiếp của họ. Việc kết hợp phong cách không chỉ có trong Quyền Anh mà còn trong võ thuật, chẳng hạn như sự kết hợp của nhiều loại võ thuật khác nhau để tạo thành mixed martial arts hiện nay. Nhìn chung, các phong cách có lợi thế riêng, phù hợp cho từng người, tạo thành một chu kỳ với mỗi kiểu mạnh hơn so với kiểu này và yếu hơn so với kiểu khác. Các võ sĩ sức mạnh trong trận có xu hướng vượt qua võ sĩ áp đảo vì đòn đánh quá vượt trội của họ, võ sĩ áp đảo khi tiếp cận võ sĩ sức mạnh có khả năng dính đòn cực mạnh. Một ví dụ nổi tiếng về loại lợi thế đối đầu này là chiến thắng KO của George Foreman trước Joe Frazier trong trận đấu ban đầu của họ "The Sunshine Showdown".
Mặc dù võ sĩ áp đảo bất lợi khi đối đầu võ sĩ sức mạnh, nhưng lại thường ưu thế hơn khi đấu với võ sĩ khoảng cách. Các võ sĩ khoảng cách thường thích giao tranh chậm hơn, giữ khoảng cách giữa mình và đối thủ. Võ sĩ áp đảo cố gắng thu hẹp khoảng cách đó và tung ra những hệ thống kỹ thuật liên hoàn dữ dội. Khi bị tiếp cận, võ sĩ khoảng cách mất rất nhiều hiệu quả chiến đấu, vì gặp khó trong việc tung ra những cú đấm mạnh. Ví dụ, võ sĩ áp đảo Joe Frazier, mặc dù thua trước võ sĩ sức mạnh George Foreman, nhưng lại có thể gây khó khăn cho Muhammad Ali trong ba trận đấu của họ. Hoặc Joe Louis sau khi giải nghệ thừa nhận rằng ông không thích võ sĩ áp đảo, hay nhà vô địch bất bại Rocky Marciano là võ sĩ áp đảo trong thời kỳ đỉnh cao của mình.
Ngoài ra, võ sĩ khoảng cách thường có lợi thế đối đầu với một võ sĩ sức mạnh, bởi tốc độ cao và giữ khoảng cách giúp họ dễ dàng né đòn lực lớn. Hầu hết các võ sĩ Quyền Anh cổ điển giữ khoảng cách này, chẳng hạn như Muhammad Ali đều có được ưu thế trước những tay đấm sức mạnh. Một ví dụ về trận đấu theo kiểu kết hợp phong cách này là trận đấu lịch sử của võ sĩ áp đảo Julio César Chávez và võ sĩ khoảng cách Meldrick Taylor. Trận đấu được đặt biệt danh là "Thunder Meets Lightning" như một sự ám chỉ đến sức mạnh áp đảo như tiếng sấm của Chávez và tốc độ vượt khoảng cách chói mắt của Taylor. Chávez là hình ảnh thu nhỏ của phong cách Quyền Anh México, trong khi tốc độ tay chân và khả năng ra đòn của Taylor đã giúp ông có lợi thế sớm. Chávez vẫn không ngừng tiếp cận để áp đảo Taylor, và do sức mạnh cú đấm lớn hơn nên Chávez đã từ từ đánh hạ Taylor, chiến thắng TKO ở phút 2:58, hiệp 12, tức chiến thắng khi chỉ còn 2 giây hết trận.
Trang thiết bị
Thiết bị thi đấu
Với việc là một bộ môn võ thuật đối kháng, sử dụng tay là chủ yếu, các biện pháp phòng ngừa, tránh tổn thương xương ở bàn tay được tạo ra. Hầu hết các huấn luyện viên không cho phép các võ sĩ tập luyện và thi đấu mà không có quấn cổ tay và găng tay, ngoại trừ Quyền Anh tay trần. Băng quấn tay được sử dụng để cố định xương bàn tay, và găng tay được sử dụng để bảo vệ tay khỏi chấn thương va chạm, cho phép các võ sĩ tung ra những cú đấm với lực tối đa. Găng tay đã được yêu cầu trong thi đấu từ cuối thế kỷ XIX, dần dần được cả tiến, ngày càng lớn hơn và nặng hơn. Trước trận đấu, cả hai võ sĩ thỏa thuận về trọng lượng găng tay sẽ sử dụng trong trận, bởi găng tay nhẹ hơn sẽ cho phép các tay đấm hạng nặng gây nhiều sát thương hơn. Đội ngũ cả hai bên được phép kiểm tra bọc và găng tay của đối phương để giúp đảm bảo cả hai đều nằm trong các thông số kỹ thuật đã thỏa thuận và không có hành vi giả mạo nào xảy ra. Ở phần đầu, có dụng cụ bảo vệ miệng hỗ trợ bảo vệ răng, nướu khỏi bị chấn thương, đồng thời để đệm hàm, giúp giảm khả năng bị hóc. Cả hai võ sĩ đều phải đi giày đế mềm để giảm chấn thương do vô tình (hoặc cố ý) giẫm vào chân nhau khi giao đấu. Găng đấm và miếng bảo vệ răng là thiết bị bắt buộc của Quyền Anh. Nhìn chung, hệ thống trang phục sẽ được sử dụng trong một trận đấu phụ thuộc vào loại hình chiến đấu đó là, có phải là một Quyền Anh chuyên nghiệp hay không. Chẳng hạn như nghiệp dư có thêm trang bị là bảo vệ đầu và áo cho võ sĩ. Nhìn chung, còn có thêm những trang bị khác là tất chân, đai đỡ bụng, đai bảo vệ hạ bộ và áo choàng tượng trưng cho võ sĩ.
Đối với găng, việc sản xuất găng tay đã phát triển và đôi khi vật liệu được sử dụng đã thay đổi. Da bò hoặc da dê đã được sử dụng để sản xuất, sử dụng rơm hoặc lông ngựa đã tăng độ đàn hồi, độ lớn của găng. Ngày nay, vật liệu hóa chất tổng hợp được sử dụng phổ biến, có ảnh hưởng lớn đến độ cứng hoặc khả năng bảo vệ của găng tay. Một trong những mục đích của găng tay là để bảo vệ các khớp ngón tay. Găng tay đấu quyền thông thường trông giống như một đôi găng tay phồng và được buộc quanh cổ tay ở mặt trong của cẳng tay. Có những loại găng tay thay vì có dây buộc lại có khóa dán. Có những loại găng tay của các thương hiệu khác nhau, được sản xuất bởi nhiều công ty và có nhiều màu sắc khác nhau. Một trong những điểm cần lưu ý là trọng lượng của găng, được sử dụng tuân theo các quy định giải đấu. Các võ sĩ băng bó tay và cổ tay trước khi đeo găng tay. Vì găng tay chuyên nghiệp phải được thắt chặt bằng dây ở bên trong cổ tay, võ sĩ được hỗ trợ cả đeo găng tay và cởi ra.
Đối với quần, trong bộ môn này gọi là quần Quyền Anh. Hai võ sĩ mặc quần đùi đặc trưng của nhau. Điều này rất quan trọng vì nó là một cách để phân biệt các đối thủ để ban giám khảo có thể dễ dàng chấm điểm một cách chính xác hơn theo thành tích của họ. Loại quần đùi này có thể sản xuất bằng sa tanh và có màu sắc rực rỡ; một số võ sĩ thích bao gồm một số thiết kế đặc biệt hoặc độc đáo, thay đổi theo thời trang quần áo. Trong môn Quyền Anh đương đại, loại quần này có một sợi dây đàn hồi giống như một chiếc lò xo để giữ vững cho võ sĩ quyền anh; đường vành đai trở thành vạch phân định các khu vực tiếp xúc trong giao đấu, nghĩa là các đòn đánh phải được giữ hướng về phía trên của đai quần, không được phép đánh đòn thấp hơn đai quần.
Ở phần chân, có giày Quyền Anh với bốt thường cao đến mắt cá chân, được sử dụng bởi các võ sĩ đương đại với tác dụng hỗ trợ cho mắt cá, vì vậy hình dạng của đôi bốt sẽ bao phủ bộ phận này, chiều cao có thể tới bắp chân. Giày Quyền Anh đủ nhẹ để không cản trở chuyển động khéo léo và đế của chúng cung cấp đủ lực kéo trên vải. Chúng được giữ bằng dây buộc, và được trình bày bằng màu trắng hoặc các màu khác nhau và nhiều kiểu mẫu khác nhau. Một số võ sĩ đã sử dụng cách trang trí hào nhoáng của những thiết bị này như một hình thức đánh lạc hướng đối thủ. Ngoài giày, tư thế tốt của bàn chân là điều cần thiết trong kỹ thuật đấu quyền, vì nó mang lại tính di động của bộ pháp, tính ổn định và cho phép tạo ra sức mạnh lớn hơn của đòn tay.
Thiết bị luyện tập
Đối với việc luyện tập Quyền Anh, người tập có hệ thống thiết bị luyện tập hỗ trợ, và là các thiết bị bổ sung ngoài thiết bị thi đấu vốn có. Người tập thực hành kỹ năng của mình trên một số loại bao đấm. Một túi nhỏ, hình tròn được sử dụng để trau dồi phản xạ và kỹ năng đấm lặp đi lặp lại, trong khi một bao đấm hình trụ lớn chứa đầy cát, chất thay thế tổng hợp hoặc nước được sử dụng để thực hành các cú đấm sức mạnh và đòn cơ thể. Túi hai đầu thường được nối với nhau bằng dây thun ở trên và dưới, di chuyển ngẫu nhiên khi bị dính đòn và giúp người tập hoạt động chính xác về phản xạ. Ngoài các thiết bị đặc biệt, người tập cũng sử dụng các thiết bị tập luyện không chuyên biệt khác cho bộ môn này tùy theo thể trạng cá nhân để xây dựng sức mạnh, tốc độ, sự nhanh nhẹn và sức chịu đựng. Dụng cụ tập luyện thông thường bao gồm tạ tự do, máy chèo thuyền, dây nhảy, và bóng tập. Để tập đòn tay, người tập cũng sử dụng đệm tập trung, trong đó huấn luyện viên, người hướng dẫn cầm miếng đệm ở cả hay tay, tạo mục tiêu để người tập tung đòn đánh vào đệm. Đây là một bài tập phổ biến vì miếng đệm là đối tượng tung đòn di chuyển linh hoạt, thay cho phần đầu của đối thủ tượng trưng. Ngoài ra, các miếng đệm tập trung cũng hỗ trợ tập bộ pháp di chuyển và đo khoảng cách.
Với thiết bị tập là bóng đấm (boxing pear) có hình dạng giống như một quả bóng hình quả lê. Nó được treo trên bệ ngang và ngang tầm mắt. Khi người tập tung đấm, bóng đấm đập vào bảng, bật lên theo bất kỳ hướng nào, và giúp người tập làm quen, thành thạo các chuyển động của bóng đấm này một cách dễ dàng và chính xác. Một công cụ rất hữu ích khác là gương. Trong đó, người tập có thể quan sát và nghiên cứu động tác của mình trong quá trình tập luyện, sửa chữa những sai sót kỹ thuật hình thành khi tung ra bất kỳ đòn đánh nào, bất kỹ bộ pháp nào. Trong một buổi huấn luyện hoàn chỉnh có thể là sử dụng hình bóng của chính người tập trong gương để phỏng đối thủ và tập luyện. Ngoài các thiết bị thi đấu và thiết bị tập luyện ra thì còn có thiết bị là võ đài. Các trận đấu Quyền Anh thường diễn ra trong một sàn đầu, là một bệ nâng được bao quanh bởi các sợi dây gắn với các trụ ở mỗi góc. Thuật ngữ "boxing ring" đã được sử dụng như một phép ẩn dụ cho nhiều khía cạnh của thi đấu tranh giải thưởng nói chung.
Kỹ thuật
Quyền Anh như các bộ môn võ thuật khác, có nhiều kỹ thuật, chủ yếu là thế đứng, đòn tấn công, thế phòng thủ, phản đòn, bộ pháp di chuyển. Tất cả kết hợp thành kỹ thuật, và yêu cầu quá trình học hỏi lâu dài. Những kỹ thuật này nhằm mục đích bảo vệ bản thân, cũng như di chuyển bên trong võ đài và thực hiện từng cú đánh để hạ gục đối thủ.
Tư thế đứng
Tư thế Quyền Anh hiện đại về cơ bản khác với tư thế Quyền Anh điển hình của thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Thế đứng hiện đại có hình dạng cơ thể thẳng đứng hơn, trái ngược với thế đứng dạng ngang, hướng các đốt ngón tay về phía trước được những võ sĩ đầu thế kỷ XX như Jack Johnson áp dụng. Trong tư thế hoàn toàn thẳng đứng, võ sĩ đứng với hai chân rộng bằng vai và chân trước bước trước nửa bước. Các võ sĩ thuận tay phải hoặc còn gọi là tư thế chính thống sẽ đặt bàn chân trái và nắm đấm tay trái đứng trước. Cả hai bàn chân song song, và gót chân phải tách khỏi mặt đất. Nắm tay trước (thường là tay trái) được giữ thẳng đứng sát mặt nhằm phòng thủ, cách khoảng 6 inch ở phía trước mặt ngang tầm mắt. Nắm tay phía sau (thường là tay phải) được giữ bên cạnh cằm và khuỷu tay áp vào lồng ngực để bảo vệ cơ thể. Cằm hếch vào ngực để tránh những cú đấm vào hàm. Cổ tay hơi cong để tránh bị thương khi đấm và khuỷu tay được giữ chặt để bảo vệ lồng ngực. Một số võ sĩ chiến đấu từ tư thế cúi người đứng thẳng, cúi người về phía trước và giữ hai chân gần nhau hơn. Lập trường tư thế chính thống này được coi là lập trường cơ bản của Quyền Anh và các võ sĩ chuyên nghiệp được khuyến khích thay đổi tư thế tùy theo sự thành thạo của bản thân. Trong trường hợp cụ thể, nhiều võ sĩ nhanh nhẹn hạ thấp tay và có động tác chân gần như phóng đại khi ra đòn.
Các tư thế khác nhau cho phép trọng lượng cơ thể được định vị và xây dựng khác nhau; và chính là cơ sở cơ bản để tung đòn, bùng nổ các cú đấm. Ví dụ, tư thế cúi người cho phép trọng lượng cơ thể được định vị thêm về phía trước với chân trái dẫn đầu. Nếu tung cú đấm móc trái từ vị trí này thì tạo ra một động tác đàn hồi mạnh mẽ ở chân trái, kết hợp thành một cú đấm bùng nổ hơn. Tuy nhiên, động tác đấm móc ngang này không thể tối ưu hóa lực nếu võ sĩ sử dụng tư thế thẳng đứng hoặc nếu trọng lượng cơ thể được đặt chủ yếu trên chân sau. Mike Tyson là một võ sĩ có sở trường ở tư thế cúi người và phong cách tung đấm quyền lực này. Vị trí chuẩn bị của trọng lượng cơ thể đặt trên chân định vị uốn cong để tung đòn còn được gọi là đẳng áp dựng trước (Isometric preload) trong khoa học vật lý.
Các võ sĩ thuận tay phải (chủ yếu) sử dụng tư thế chính thống (orthodox stance), chân trái trước chân phải sau; và ngược lại, các võ sĩ thuận tay trái sử dụng tư thế phản chiếu của thế đứng chính thống, tức tư thế phản chính thống (southpaw), điều này có thể gây ra vấn đề cho các võ sĩ có tư thế chính thống không quen thuộc với nhận những cú đấm thọc, đấm móc ngang hoặc móc ngược từ phía đối diện. Ngược lại, tư thế phi chính thống cũng dễ bị trúng đòn tấn công từ tay phải của đối thủ. Trong thế giới Quyền Anh, các võ sĩ Bắc Mỹ có xu hướng thiên về tư thế cân bằng hơn, đối mặt với đối thủ gần như vuông góc, trong khi nhiều võ sĩ châu Âu đứng với thân mình quay sang một bên nhiều hơn. Vị trí của tay cũng có thể khác nhau, vì một số võ sĩ thích đưa cả hai tay lên trước mặt.
Đòn tấn công
Các đòn cơ bản
Có bốn cú đấm cơ bản trong Quyền Anh: cú đấm thọc (jab, hay cú đấm số 1), cú đấm thẳng (cross, hay cú đấm số 2), cú đấm móc ngang (hook, hay cú đấm số 3), và cú đấm móc ngược (uppercut, hay cú đấm số 4), chia đều cho cả hai tay. Bất kỳ cú đấm nào khác ngoài cú đấm thọc đều được coi là cú đấm sức mạnh. Nếu một võ sĩ thuận tay phải (tư thế chính thống), tay trái của người đó sẽ là tay dẫn đầu và tay phải là tay sau. Đối với một võ sĩ thuận tay trái (tư thế phi chính thống) thì các vị trí tay được đảo ngược.
Cú đấm số 1 tức jab là một cú đấm thọc thẳng, tốc độ cao được tung ra bằng tay dẫn đầu từ vị trí bảo vệ, là tay trái ở tư thế chính thống, tay phải ở tư thế phi chính thống. Cú đấm thọc kéo dài từ phía bên của thân thể, đi kèm với một vòng xoay nhỏ theo chiều kim đồng hồ của thân và hông, trong khi nắm tay xoay 90 độ, trở thành nằm ngang khi va chạm. Khi cú đấm đạt đến độ mở rộng hoàn toàn, độ dài tối đa thì vai có thể được đưa lên để bảo vệ cằm. Tay sau vẫn để cạnh mặt để bảo vệ hàm. Sau khi tiếp xúc với mục tiêu, tay dẫn đầu được thu lại nhanh chóng để tiếp tục vị trí bảo vệ trước mặt. Cú thọc được công nhận là cú đấm quan trọng nhất trong các đòn Quyền Anh, vì nó phổ biến nhất, cơ bản nhất và để lại ít khoảng trống nhất cho một cú đấm phản công từ đối thủ. Đòn này có tầm với dài nhất so với bất kỳ cú đấm nào khác và không yêu cầu sức nặng. Do lực phát ra tương đối yếu, cú đấm thọc thường được sử dụng như một công cụ để đo khoảng cách, thăm dò khả năng phòng thủ của đối thủ, quấy rối đối thủ và thiết lập những cú đấm nặng hơn, uy lực hơn theo sau. Võ sĩ có thể thêm nửa bước, di chuyển toàn bộ cơ thể vào cú đấm để gia tăng thêm sức mạnh. Một số võ sĩ đáng chú ý đã có thể phát triển sức mạnh tương đối trong các cú đấm thọc của họ và sử dụng nó để hạ gục đối thủ có thể kể tới Larry Holmes, và Wladimir Klitschko.
Cú đấm số 2 tức cross là một cú đấm thẳng, mạnh mẽ được tung ra bằng tay sau. Từ vị trí bảo vệ, tay sau xuất phát từ cằm, bắt chéo người và đi về phía mục tiêu theo đường thẳng. Vai sau đẩy về phía trước và kết thúc chỉ chạm vào mặt ngoài của cằm. Đồng thời sau khi chạm mục tiêu, tay đánh được thu lại và ôm sát vào khuôn mặt để bảo vệ phần cằm bên trong. Để có thêm sức mạnh, thân và hông được quay ngược chiều kim đồng hồ khi tung đòn. Biện pháp lý tưởng của một cú đẩm thẳng kéo dài tối đa tay, đầu gối và bóng của bàn chân trước nằm trên cùng một mặt phẳng thẳng đứng. Ở đòn này, trọng lượng cũng được chuyển từ bàn chân sau sang bàn chân dẫn, gót chân sau quay ra ngoài vì nó đóng vai trò như một điểm tựa để truyền trọng lượng. Chuyển động cơ thể và chuyển trọng lượng đột ngột mang lại sức mạnh cho đòn đánh. Giống như jab, bộ pháp tiến nửa bước có thể được thêm vào để gia tăng lực. Việc thu tay về sau cú đánh có thể được sử dụng để chống lại một cú đấm thọc phản đòn của đối thủ, hoặc để thiết lập một cú đấm móc. Cú đấm số 2 còn được gọi là "straight" hoặc "right" nếu nó đánh vòng cùng thời điểm với cú jab của đối phương.
Cú đấm số 3 tức hook là một cú đấm móc ngang nửa vòng tròn được tung ra bởi tay trước hướng đến phía bên đầu của đối phương. Từ vị trí bảo vệ, khuỷu tay được thu lại bằng nắm đấm nằm ngang (lòng bàn tay hướng xuống) mặc dù trong thời hiện đại, tỷ lệ lớn các võ sĩ đấm móc bằng nắm đấm thẳng đứng (lòng bàn tay hướng về phía mình). Tay sau gài chắc vào quai hàm để bảo vệ cằm. Thân và hông được xoay theo chiều kim đồng hồ, đẩy nắm đấm qua một vòng cung chặt chẽ, theo chiều kim đồng hồ qua phía trước cơ thể và kết nối với mục tiêu. Đồng thời khi đấm hook, bàn chân dẫn quay theo chiều kim đồng hồ, quay gót chân dẫn ra ngoài. Khi tiếp xúc, đường tròn của vòng kết thúc đột ngột và tay đánh được kéo nhanh chóng trở lại vị trí bảo vệ. Một cú móc ngang cũng có thể nhắm vào phần thân dưới và kỹ thuật này đôi khi được gọi là "rip" để phân biệt với kiểu đấm móc thông thường vào đầu. Đấm móc cũng có thể được tung ra bằng tay phía sau. Võ sĩ có sở trường đấm móc trái đáng chú ý có thể kể tới Joe Frazier, Roy Jones Jr., và Mike Tyson.
Cú đấm số 4 tức uppercut là một cú móc ngược đấm thẳng đứng, hướng từ dưới lên trên và được tung ra bởi tay sau. Từ vị trí bảo vệ, thân mình hơi lệch sang phải, tay sau hạ xuống dưới ngang ngực đối phương và hơi khuỵu gối. Từ vị trí này, tay sau đẩy lên trên theo hình vòng cung hướng lên cằm hoặc thân của đối phương. Đồng thời, đầu gối đẩy lên trên một cách nhanh chóng, thân và hông xoay ngược chiều kim đồng hồ và gót chân sau quay ra ngoài, bắt chước chuyển động cơ thể xoáy ngược. Chiến lược của đòn uppercut phụ thuộc vào khả năng đẩy cơ thể của đối thủ lên, khiến đối thủ mất thăng bằng bởi các đòn tấn công liên tiếp. Cú móc ngược bên phải sau đó là cú móc ngang bên trái là một sự kết hợp chết người sử dụng để hạ gục đối thủ.
Kết hợp đòn
Với bốn cú đấm cơ bản này, Quyền Anh linh hoạt chuyển đổi kết hợp đòn với các dạng như tay (trái, phải), tư thế đứng (chính thống, phi chính thống), bộ pháp (tiến, lùi, vòng tròn), lực đánh, tốc độ đánh, tung ra liên tiếp và nhanh chóng để tạo thành các tổ hợp đòn, hay "combo". Phổ biến nhất là kết hợp jab và cross, được đặt biệt danh là kết hợp "one–two", tức đòn số 1 và số 2. Đây thường là một sự kết hợp hiệu quả, bởi vì cú đánh thọc giúp chặn tầm nhìn của đối phương về tay sau, giúp cho việc tung đòn tay sau có lực và dễ dàng hơn. Những cú đấm tạo thành vòng xoay lớn, quay tròn bắt đầu từ tư thế ngửa lưng với cánh tay duỗi dài như lưỡi câu và toàn bộ trọng lượng cơ thể của võ sĩ ở phía sau kết hợp đôi khi được gọi là đòn "roundhouse", "haymaker", "overhand", hoặc "sucker-punch". Dựa vào trọng lượng cơ thể và lực hướng tâm trong một vòng cung rộng, roundhouse có thể là một đòn mạnh, nhưng nó thường mang đặc tính là một cú đấm ẩn chứa tính hoang dã và thiếu kiểm soát khiến võ sĩ tung đòn chịu rủi ro mất thăng bằng tư thế và phải lường trước rủi ro, tránh sơ hở.
Các cú đấm khoảng không gian rộng, kiểu vòng lặp lại có nhược điểm là mất nhiều thời gian hơn để tung ra, khiến đối thủ có nhiều cảnh báo để phản ứng và phản công. Vì lý do này, roundhouse hoặc haymaker không phải là một cú đấm thông thường và được các huấn luyện viên, chuyên gia coi là dấu hiệu của kỹ thuật kém hoặc sự tuyệt vọng, giảm thể lực của võ sĩ tung đòn. Đôi khi các đòn kết hợp này được sử dụng, vì sức mạnh tiềm tàng to lớn của nó nhằm kết liễu một đối thủ. Một cú đấm độc đáo khác là cú đấm quái dị bolo, hiếm khi được sử dụng. Ở đòn này, võ sĩ thủ vung một cánh tay ra ngoài nhiều lần theo một vòng cung rộng, thường là để đánh lạc hướng trước khi thực hiện tung đòn thực bằng cánh tay đó hoặc cánh tay kia. Ngoài ra, cú hook và uppercut đều có thể được tung bằng cả hai tay, kết hợp có thể đánh lừa đối thủ.
Phòng thủ
Quyền Anh có những kỹ thuật cơ bản mà người tập có thể sử dụng để né tránh hoặc chặn các cú đấm, có ba đòn phòng thủ cơ bản gồm né (slipping), chặn (blocking), và ôm giữ (clinching). Cụ thể hơn, nhóm thứ nhất, đòn né là kỹ thuật xoay cơ thể một khoảng cách nhỏ, khiến cho cú đấm lướt đi qua đầu một cách vô hại. Khi cú đấm của đối thủ đến, võ sĩ xoay mạnh hông và vai, thao tác này sẽ xoay cằm sang một bên và cho phép cú đấm lướt qua. Muhammad Ali nổi tiếng với những cú trượt cực nhanh và gần, cũng như Mike Tyson. Cũng là đòn né còn có đòn phái sinh là đòn lắc lư (sway/fade), đoán trước cú đấm và di chuyển phần trên cơ thể hoặc đầu về phía sau để nó lướt qua hoặc giảm lực đáng kể. Đòn này cũng được gọi là "rolling with the punch" hoặc "riding the punch". Nhóm đòn né có thêm đòn bẻ (duck/break), theo đó thả người xuống với lưng thẳng sao cho cú đấm của đối thủ bị trượt mục tiêu. Tương tự là đòn né lay động (bobbing) hay còn gọi là né đan dệt, theo đó di chuyển đầu sang bên trái, phải hoặc bên dưới không gian một cú đấm sắp chạm tới. Khi cú đấm của đối thủ đến, võ sĩ gập chân nhanh chóng và đồng thời dịch người hơi sang phải hoặc sang trái. Khi cú đấm đã được né tránh, võ sĩ quay trở lại tư thế thẳng đứng, xuất hiện nhanh bên ngoài hoặc bên trong cánh tay vẫn đang duỗi của đối thủ, tức lên xuống ra bên ngoài, hoặc lên xuống vào bên trong. Joe Frazier, Jack Dempsey, Mike Tyson và Rocky Marciano là những bậc thầy về kỹ thuật né lay động.
Nhóm đòn phòng thủ thứ hai tức kỹ thuật chặn là việc sử dụng vai, bàn tay hoặc cánh tay của võ sĩ làm công cụ phục vụ phòng thủ, bảo vệ cơ thể khỏi các cuộc tấn công từ những cú đấm của đối phương. Kỹ thuật chặn đòn thường dùng để chặn các cú đấm trong khi kỹ thuật đỡ lệch (parry) có xu hướng làm chệch hướng đòn đó. Trong kỹ thuật chặn này có thể sử dụng bàn tay che đầu, chấp nhận chịu lực của đòn đấm nhưng giảm áp lực phả nhận. Kỹ thuật che chắn (cover-up) là việc ra đòn phòng thủ như một cơ hội cuối cùng để tránh đòn tấn công vào khuôn mặt hoặc cơ thể không được bảo vệ. Ở kỹ thuật này, hai tay giơ cao để bảo vệ đầu và cằm, đồng thời cẳng tay áp vào thân để cản trở các đánh vào phần dưới cơ thể. Khi bảo vệ cơ thể, võ sĩ xoay hông và để những cú đấm chệch ra khỏi mục tiêu. Để bảo vệ đầu, võ sĩ áp cả hai nắm đấm vào phía trước của khuôn mặt với cẳng tay song song và hướng ra ngoài. Kỹ thuật bảo vệ này yếu thế trước các cuộc tấn công từ bên dưới như uppercut.
Nhóm đòn cơ bản thứ ba, tức ôm giữ (clinching) là một dạng thể thức gài bẫy có liên quan đến hình thức vật lộn thể đứng, và xảy ra khi khoảng cách giữa hai võ sĩ được tiệm cận lại và không thể sử dụng các cú đấm tấn công. Trong tình huống này, võ sĩ cố gắng giữ hoặc trói tay đối phương để đối thủ không thể tung ra những cú đấm móc ngược hay đấm quá tầm vai. Để thực hiện động tác này, võ sĩ vòng hai tay ra bên ngoài vai đối phương, hất về phía dưới cẳng tay để nắm chặt cánh tay của đối phương vào thân mình. Ở vị trí này, cánh tay của đối phương bị kẹp chặt và không thể sử dụng để tấn công. Ôm giữ là trạng thái trận đấu tạm thời trì hoãn, và nhanh chóng sẽ bị trọng tài tách ra để khởi động lại cuộc đấu. Đòn này này về mặt kỹ thuật là vi phạm các quy tắc chung, và trong các trận đấu nghiệp dư thì điểm sẽ bị trừ khá nhanh bởi trọng tài. Tuy nhiên, khó có khả năng bị trừ điểm vì dùng đòn này khi thi đấu Quyền Anh chuyên nghiệp.
Các kỹ thuật đặc biệt
Các kỹ thuật đặc biệt hay chiến lược trái chính thống được những võ sĩ đặc biệt sáng tạo ra và sử dụng. Có thể kể đến Rope-a-dope, cú đấm bolo, cú đấm vượt tầm, và kiểm tra cú đấm móc. Rope-a-dope là chiến thuật được Muhammad Ali sử dụng trong trận đấu "The Rumble in the Jungle" năm 1974 với George Foreman, phương pháp này liên quan đến việc nằm lấy cơ thể ngửa dựa lưng vào dây thừng, che chắn phòng thủ càng nhiều càng tốt, và cho phép đối thủ thực hiện nhiều cú đấm. Tư thế ngả lưng nhưng nhờ có dây thừng không làm cho võ sĩ phòng thủ mất thăng bằng, đồng thời tối đa hóa khoảng cách giữa đầu của người phòng thủ so với đối thủ, tăng khả năng né đòn. Với chiến thuật này, người phòng thủ dụ đối phương tiêu hao năng lượng trong, vẫn bảo toàn sức lực của mình. Nếu thành công, đối thủ tấn công cuối cùng sẽ mệt mỏi, tạo ra các lỗ hổng phòng thủ mà võ sĩ có thể khai thác. Trong Quyền Anh hiện đại, chiến thuật này thường không được khuyến khích vì hầu hết các đối thủ không bị đánh lừa và một số võ sĩ có thể chất dẻo dai để chịu được các cuộc tấn công kéo dài. Tuy nhiên, mới đây, Manny Pacquiao đã khéo léo sử dụng chiến thuật này để đánh giá sức mạnh của Miguel Cotto vào trận tháng 11 năm 2009, hay Tyson Fury cũng đã sử dụng đối phó Francesco Pianeto nhưng không diễn ra suôn sẻ.
Cú đấm Bolo đôi khi được thấy trong Quyền Anh Thế vận hội, là một cú đấm lấy sức mạnh từ khoảng cách được rút ngắn của cung tròn chứ không phải do trọng lượng cơ thể chuyển tiếp; có xu hướng tạo sự ngạc nhiên của góc kỳ lạ mà nó tiếp cận hơn là sức mạnh thực tế của cú đấm. Đây là một chiến thuật được sáng tạo bởi người Philippines, thiên về đánh lạc hướng hơn là thao tác kỹ thuật và không được dạy. Tuy nhiên, một số võ sĩ chuyên nghiệp đã sử dụng cú đấm bolo mang lại hiệu quả tuyệt vời, bao gồm các cựu vô địch hạng bán trung Sugar Ray Leonard, Kid Gavilán cũng như võ sĩ người Anh hiện tại Chris Eubank Jr., Ceferino Garcia được coi là người phát minh ra cú đấm bolo.
Cú đấm vượt tầm (overhand) là một cú đấm được tung ra từ tay phía sau, không nằm trong các đòn mọi võ sĩ. Không giống như cú đấm cross có quỹ đạo song song với mặt đất, cú đấm vượt tầm có một cung tròn lặp lại khi nó được tung ra qua vai với lòng bàn tay hướng ra xa võ sĩ. Nó đặc biệt phổ biến với các võ sĩ có vóc dáng nhỏ hơn đang cố gắng tiếp cận các đối thủ cao hơn. Các võ sĩ đã sử dụng cú đấm này một cách nhất quán và hiệu quả bao gồm các cựu vô địch hạng nặng Rocky Marciano và Tim Witherspoon, cũng như các nhà vô địch MMA Chuck Liddell và Fedor Emelianenko. Cú đấm vượt tầm đã trở thành một đòn phổ biến trong các giải đấu khác liên quan đến đòn đánh bằng tay. Deontay Wilder rất ủng hộ và còn được biết đến với việc hạ gục nhiều đối thủ bằng một trong những đòn đánh vượt tầm tay phải của mình.
Đòn kiểm tra móc (check hook) là chiến thuật được sử dụng để ngăn những võ sĩ áp đảo lao vào tấn công. Có hai dạng để kiểm tra đòn móc. Dạng đầu tiên bao gồm cú móc thông thường. Dạng thứ hai phức tạp hơn liên quan đến động tác di chuyển của bộ pháp. Khi đối thủ lao vào, võ sĩ tung đòn móc ra và xoay người bằng chân trái, xoay bàn chân phải của mình 180 độ xung quanh. Nếu thực hiện chính xác, võ sĩ tấn công sẽ lao vào và lướt qua một cách vô hại. Điều này hiếm khi thấy trong Quyền Anh chuyên nghiệp vì nó đòi hỏi sự chênh lệch lớn về trình độ kỹ năng để thực hiện. Về mặt kỹ thuật, không có cái gọi là đòn kiểm tra móc mà nó chỉ đơn giản là một cú móc áp dụng cho đối thủ đã lảo đảo về phía trước, tức ra đòn móc trên đường di chuyển tấn công của đối thủ. Floyd Mayweather, Jr đã sử dụng một chiến thuật kiểm tra móc chống lại Ricky Hatton, khiến Hatton bị hạ gục.
Mối quan tâm về sức khỏe
Trong giao đấu nói chung và Quyền Anh nói riêng, các đòn đánh dẫn đến người bất tỉnh, thậm chí gây chấn động, có thể gây tổn thương não vĩnh viễn. Không có sự phân chia rõ ràng giữa lực cần thiết để đánh gục một người và lực có khả năng giết chết một người. Do đó, quan điểm, đánh giá, nghiên cứu về vấn đề sức khỏe trong Quyền Anh cũng được quan tâm. Vào tháng 3 năm 1981, bác sĩ giải phẫu thần kinh Fred Sonstein đã tìm cách sử dụng phương pháp chụp cắt lớp vi tính (CAT) trong một nỗ lực để theo dõi sự thoái hóa các chức năng nhận thức của võ sĩ Quyền Anh sau khi thấy sự sa sút về trí não của võ sĩ Bennie Briscoe. Từ năm 1980 đến năm 2007, hơn 200 võ sĩ nghiệp dư, võ sĩ chuyên nghiệp và võ sĩ Toughman đã chết do chấn thương trên võ đài hoặc tập luyện. Năm 1983, các bài xã luận trên Tạp chí Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ kêu gọi cấm Quyền Anh. Biên tập viên, Tiến sĩ George Lundberg đã gọi quyền anh là một sự ghê tởm "obscenity", và không nên được xã hội văn minh tán thành. Kể từ đó, các hiệp hội y khoa của Thịnh vượng chung Anh, Canada, và Úc đã kêu gọi cấm Quyền Anh.
Những người ủng hộ lệnh cấm Quyền Anh cho rằng Quyền Anh là môn thể thao duy nhất mà việc làm tổn thương vận động viên khác là mục tiêu luôn có. Tiến sĩ Bill O'Neill, phát ngôn viên Quyền Anh của Hiệp hội Y khoa Anh đã ủng hộ đề xuất cấm Quyền Anh của BMA: "Đây là môn thể thao duy nhất có ý định gây thương tích nghiêm trọng cho đối thủ của bạn và chúng tôi cảm thấy rằng chúng tôi phải cấm hoàn toàn Quyền Anh." Những người phản đối phản ứng rằng đây là quan điểm sai lầm, lập luận rằng Quyền Anh nghiệp dư được tính điểm chỉ dựa trên tổng số đòn tiếp xúc và không dẫn tới chấn thương. Họ quan sát thấy rằng nhiều võ sĩ chuyên nghiệp lành nghề đã có sự nghiệp thành tựu mà không gây thương tích cho đối thủ bằng cách tích lũy các đòn ghi điểm và tránh các cú đấm kết liễu các hiệp có thông số điểm 10–9 theo hệ thống 10 điểm, và họ lưu ý rằng có nhiều môn thể thao khác cũng tạo chấn thương nghiêm trọng, không chỉ riêng Quyền Anh.
Năm 2007, một nghiên cứu về các võ sĩ nghiệp dư cho thấy mũ đội đầu bảo vệ không ngăn ngừa tổn thương não, và một nghiên cứu khác cho thấy các võ sĩ nghiệp dư phải đối mặt với nguy cơ tổn thương não cao. Nghiên cứu của Đại học Gothenburg đã phân tích mức độ chuỗi ánh sáng dây thần kinh tạm thời trong dịch tủy sống mà họ kết luận là bằng chứng của tổn thương từ các đòn đánh vào đầu, mặc dù mức độ này sẽ sớm giảm xuống. Các nghiên cứu toàn diện hơn về chức năng thần kinh trên các mẫu lớn hơn được thực hiện bởi Đại học Johns Hopkins vào năm 1994 và tỷ lệ tai nạn được phân tích bởi Hội đồng An toàn Quốc gia Hoa Kỳ vào năm 2017 cho thấy Quyền Anh nghiệp dư là một môn thể thao tương đối an toàn. Năm 1997, Hiệp hội Các bác sĩ Quyền Anh chuyên nghiệp Hoa Kỳ được thành lập để tạo ra các quy trình y tế thông qua nghiên cứu và giáo dục để ngăn ngừa chấn thương trong Quyền Anh. Cũng bởi các tranh cãi mà Quyền Anh chuyên nghiệp bị cấm ở Iceland, Iran và Triều Tiên. Bộ môn này đã bị cấm ở Thụy Điển cho đến năm 2007 khi lệnh cấm được dỡ bỏ nhưng các hạn chế nghiêm ngặt, bao gồm quy định trận bốn hiệp ba phút được áp dụng. Quyền Anh bị cấm ở Albania từ năm 1965 cho đến khi chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ vào năm 1991. Na Uy hợp pháp hóa Quyền Anh chuyên nghiệp vào tháng 12 năm 2014. Ở Việt Nam, môn Quyền Anh được cho phép thi đấu từ năm 2002.
Bên cạnh tổn thương cơ thể trong thi đấu, giống như các môn thể thao năng động và tiêu hao năng lượng khác, Quyền Anh được cho là mang lại một số lợi ích chung, chẳng hạn như đốt cháy chất béo, tăng cường cơ bắp, xương và dây chằng dẻo dai, sức khỏe tim mạch, sức bền cơ bắp, cải thiện sự ổn định cốt lõi cơ thể, khả năng phối hợp và nhận thức của cơ thể, sức mạnh và kiểm soát lực, giảm căng thẳng và tạo lòng tự trọng. Một số nhà khoa học cho rằng với cách tiếp cận cẩn thận và chu đáo, Quyền Anh khá có lợi cho sức khỏe. Một ví dụ là Gemma Ruegg, một nhà vô địch hai hạng cân vùng địa phương đến từ Bournemouth ở Dorset, người đã duy trì tập luyện trong suốt thai kỳ của mình và trở lại sàn đấu ba tuần sau khi sinh con gái. Trước đó, Quyền Anh đã giúp cô thoát khỏi chứng nghiện rượu và trầm cảm.
Hall of Fame Quyền Anh
Môn Quyền Anh có hai đại sảnh nổi tiếng được quốc tế công nhận là Đại sảnh Danh vọng Quyền Anh Quốc tế (IBHOF) và Đại sảnh Danh vọng Quyền Anh Thế giới (WBHF), trong đó IBHOF được công nhận rộng rãi nhất. WBHF được thành lập bởi Everett L. Sanders vào năm 1980. Kể từ khi thành lập, WBHF chưa bao giờ có một địa điểm hoặc bảo tàng cố định, điều này đã khiến cho IBHOF, nơi cố định và tổ chức thường niên được công nhận phổ biến và uy tín hơn. IBHOF được lấy cảm hứng như một sự tôn vinh mà một thị trấn ở Mỹ dành cho hai anh hùng địa phương vào năm 1982. Cụ thể là thị trấn Canastota, New York, (cách Syracuse khoảng 15 dặm về phía Đông) đã vinh danh nhà vô địch thế giới trong quá khứ ở hạng bán trung/hạng trung là Carmen Basillo và cháu trai là Billy Backus. Người dân Canastota đã quyên góp tiền cho sự tôn vinh đã truyền cảm hứng cho ý tưởng tạo ra một địa điểm chính thức, một đại sảnh danh vọng cho các võ sĩ xuất sắc hàng năm. Đại sảnh Danh vọng Quyền Anh Quốc tế được thành lập tại Canastota, New York vào năm 1989. Những người được vinh danh đầu tiên vào năm 1990 bao gồm Jack Johnson, Benny Leonard, Jack Dempsey, Henry Armstrong, Sugar Ray Robinson, Archie Moore và Muhammad Ali. Những võ sĩ Quyền Anh đẳng cấp thế giới khác dần được vinh danh, bao gồm Salvador Sanchez, Jose Napoles, Roberto "Manos de Piedra" Durán, Ricardo Lopez, Gabriel "Flash" Elorde, Vicente Saldivar, Ismael Laguna, Eusebio Pedroza, Carlos Monzón, Azumah Nelson, Rocky Marciano, Pipino Cuevas và Ken Buchanan. Lễ vinh danh của Đại sảnh Danh vọng được tổ chức vào tháng 6 hàng năm như một phần của sự kiện kéo dài 4 ngày. Những người hâm mộ đến Canastota cho ngày cuối tuần lễ hội sẽ được tham dự một số sự kiện, bao gồm các buổi ký tặng theo lịch trình, triển lãm Quyền Anh, một cuộc diễu hành giới thiệu các võ sĩ trong quá khứ và hiện tại.
Ngoài ra, vào năm 2013, Đại sảnh Danh vọng Quyền Anh Las Vegas được thành lập tại Las Vegas, Nevada, nơi nổi tiếng nhất về việc tổ chức các trận đấu Quyền Anh, do Steve Lott, cựu trợ lý giám đốc của Mike Tyson thành lập. Đại sảnh Danh vọng Quyền Anh Las Vegas có thư viện băng và phim chiếu các trận đấu ESPN Classic Sports trị giá 75 triệu USD, cùng với bộ sưu tập phát sóng radio. Bộ sưu tập bao gồm các trận chiến của tất cả các nhà vô địch được xem là vĩ đại trong lịch sử bao gồm: Muhammad Ali, Mike Tyson, George Foreman, Roberto Durán, Marvin Hagler, Jack Dempsey, Joe Louis, Joe Frazier, Rocky Marciano và Sugar Ray Robinson. Chính thư viện phim thi đấu độc quyền này đã tách biệt Đại sảnh Danh vọng Quyền Anh Las Vegas khỏi các đại sảnh danh vọng khác, những nơi không có quyền đối với bất kỳ video thể thao nào của họ. Những người được giới thiệu đầu tiên bao gồm Muhammad Ali, Henry Armstrong, Tony Canzoneri, Ezzard Charles, Julio César Chávez Sr., Jack Dempsey, Roberto Durán, Joe Louis và Sugar Ray Robinson.
Các tổ chức quản lý
Trong các giải đấu Quyền Anh nghiệp dư, việc nhận cúp là chuyện thường. Tại Thế vận hội, huy chương được trao cho bốn người đứng đầu. Không giống như các môn thể thao khác hay Quyền Anh nghiệp dư, nơi các danh hiệu thường là những chiếc cúp được trao trực tiếp, trong Quyền Anh chuyên nghiệp, danh hiệu lớn nhất có thể đạt được là đai vô địch. Những năm gần đây, với lý do tăng cường hoạt động cho các hạng mục khác nhau, hầu hết các tổ chức đã chọn cách chia danh hiệu (đai) của nhà vô địch thành hai và thậm chí ba phần. Bằng cách này, tên gọi các danh hiệu có thể là nhà vô địch thế giới thông thường, nhà vô địch tạm thời, hoặc nhà vô địch siêu cấp. Để quản lý vấn đề này, các tổ chức Quyền Anh được thành lập, phụ trách tổ chức, công nhận và phê chuẩn cấp đai vô địch cho các võ sĩ trên thế giới.
Tổ chức Quyền Anh chuyên nghiệp trên thế giới được chia thành nhiều tổ chức quốc tế. Trong đó có bốn tổ chức lớn nhất là: Hiệp hội Quyền Anh Thế giới (WBA), Hội đồng Quyền Anh Thế giới (WBC), Tổ chức Quyền Anh Thế giới (WBO), và Liên đoàn Quyền Anh Quốc tế (IBF). Một số tổ chức nhỏ hơn như Tổ chức Quyền Anh Quốc tế (IBO), Liên đoàn Quyền Anh liên lục địa (IBFed), Liên đoàn Quyền Anh chuyên nghiệp Thế giới (FMBP), Liên minh Quyền Anh Thế giới (UMB), Hội đồng Quyền Anh Quốc tế (CIB). Ngoài ra, về phái nữ có thêm các tổ chức riêng biệt điều chỉnh Quyền Anh nữ, chẳng hạn như Hiệp hội Quyền Anh nữ Quốc tế (WIBA) và Hiệp hội Nữ võ sĩ Quốc tế (IFBA). Về phần Quyền Anh nghiệp dư được quản lý bởi một tổ chức toàn cầu duy nhất là Hiệp hội Quyền Anh nghiệp dư Quốc tế (AIBA). Ngoài ra, có một số đơn vị của chình quyền một số nước tham gia quản lý đa phương như Ban kiểm soát Quyền Anh nước Anh (BBBofC), Liên minh Quyền Anh châu Âu (EBU), và Ủy ban Thể thao tiểu bang Nevada (NSAC). Về lĩnh vực truyền thông, có nhiều tổ chức và trang web khác nhau xếp hạng các võ sĩ Quyền Anh theo cả hạng cân và mọi hạng cân (pound-for-pound) như tạp chí The Ring, ESPN, Bảng xếp hạng Quyền Anh xuyên quốc gia (TBRB), BoxRec, và Hiệp hội Nhà văn Quyền Anh Hoa Kỳ. |
Trong thần thoại Hy Lạp thần Apollo được thể hiện là đội vòng nguyệt quế trên đầu, và thời Hy Lạp cổ đại thì các vòng nguyệt quế được dùng để tặng thưởng cho những người chiến thắng, cả trong những cuộc thi đấu thể thao, bao gồm cả Olympic cổ đại cũng như các cuộc thi thơ dưới sự bảo trợ của vị thần này. Một số vị hoàng đế cũng đội vòng nguyệt quế. Trong khi các vòng nguyệt quế cổ đại thường được mô tả là có hình móng ngựa thì các vòng nguyệt quế ngày nay lại thường có dạng hình tròn. Từ để chỉ người được giải thưởng trong một số ngôn ngữ nước ngoài như tiếng Anh là laureate, tiếng Nga là лауреат (từ tiếng La tinh lаureatus) đều có nghĩa là đội vòng nguyệt quế
Trong thành ngữ thông dụng ngày nay, vòng nguyệt quế dùng để chỉ chiến thắng. Thành ngữ "Ngủ trên vòng nguyệt quế của mình" dùng để chỉ những người dựa vào những thành công trong quá khứ để che đậy những điều kém cỏi của họ trong thời hiện tại.
Nguồn gốc
Apollo, vị thần bảo hộ của thể thao, thường được gắn với hình ảnh đội vòng nguyệt quế. Sự liên tưởng này xuất phát từ câu chuyện Apollo và Daphne trong thần thoại Hy Lạp. Apollo thường chế giễu thần tình yêu Eros (Cupid) về kĩ năng dùng cung tên vì thần chính là vị thần bảo hộ của bộ môn bắn cung. Tức giận vì bị xúc phạm, Eros đã chuẩn bị hai mũi tên, một bằng vàng một bằng bạc. Eros bắn Apollo bằng mũi tên vàng, làm cho thần yêu say đắm nữ thần nymph Daphne và bắn Daphne bằng mũi tên bạc, làm cho nàng căm hận Apollo. Apollo theo đuổi Daphne cuồng nhiệt đến mức nàng phải cầu xin sự giải thoát và rồi hóa thân thành một cây nguyệt quế.
Apollo thề sẽ tôn vinh Daphne mãi mãi và sử dụng quyền năng bất tử cũng như tuổi trẻ vĩnh hằng của mình để làm cho cây nguyệt quế không bao giờ già. Sau đó thần kết cho mình một chiếc vòng từ những nhành cây nguyệt quế và biến Daphne thành một biểu tượng văn hóa đối với những nhạc sĩ và thi sĩ khác. |
Nguyệt quế thực thụ hay nguyệt quế Hy Lạp (danh pháp hai phần: Laurus nobilis, họ Lauraceae), là một loài cây thân gỗ hoặc cây bụi lớn với lá thường xanh có mùi thơm, cao tới 10–18 m, có nguồn gốc tại khu vực ven Địa Trung Hải.
Lá nguyệt quế dài khoảng 6–12 cm và rộng khoảng 2–4 cm, với mép lá nhăn và có khía răng cưa đều đặn rất đặc trưng. Nó là một loài cây có hoa đơn tính nhung hoa đực và hoa cái mọc trên các cây khác nhau; các hoa có màu vàng-lục nhạt, đường kính khoảng 1 cm, mọc thành các cặp cạnh kẽ lá. Quả là loại quả mọng nhỏ màu đen dài khoảng 1 cm, bên trong chứa một hạt.
Sử dụng và biểu tượng
Nguyệt quế là nguồn cung cấp một loại gia vị trong ẩm thực là lá nguyệt quế, được dùng để tạo hương vị trong nấu ăn. Nó cũng là nguồn để làm vòng nguyệt quế của người Hy Lạp cổ đại. Vòng nguyệt quế đã được dùng làm phần thưởng cho người chiến thắng tại các cuộc thi đấu Pythia và Olympic của người Hy Lạp cổ đại.
Một số chứng cứ từ các tài liệu y học cho thấy nguyệt quế được dùng để:
Chống oxy hóa: Fitoterapia. 2003 Sep;74(6):613-6.
Giảm đau và chống viêm nhiễm: Phytother Res. 2003 Aug;17(7):733-6.
Chống co giật (chống động kinh): Phytomedicine. 2002 Apr; 9(3):212-6.
Nó cũng được trồng rộng rãi để làm cây cảnh trong các khu vực có khí hậu Địa Trung Hải hay khí hậu đại dương, cũng như trồng trong nhà tại các khu vực có khí hậu quá lạnh lẽo về mùa đông. |
James Earl "Jimmy" Carter, Jr (sinh ngày 1 tháng 10 năm 1924) là một chính khách, Tổng thống thứ 39 của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ (1977–1981), ông được trao tặng Giải Nobel Hòa bình năm 2002. Trước đó, ông là thống đốc thứ 76 của Tiểu bang Georgia (1971-1975). Năm 1976, Carter là ứng cử viên đại diện của Đảng Dân chủ tranh cử chiếc ghế Tổng thống, ông được xem là "ngựa ô" trong cuộc đua vào Nhà Trắng, rồi vượt qua Tổng thống đương nhiệm Gerald Ford với chiến thắng sít sao trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1976.
Nhiệm kỳ tổng thống của Carter đánh dấu với sự suy thoái khi nước Mỹ gánh chịu những thiệt hại nặng nề sau Chiến tranh Việt Nam, cùng với sự trì trệ kinh tế trong nước. Với vụ khủng hoảng con tin tại Iran, và sự kiện quân đội Liên Xô xâm chiếm Afghanistan năm 1979, Hoa Kỳ chứng kiến sự ảnh hưởng của mình đang bị suy giảm trên trường quốc tế. Lạm phát và lãi suất lên đến đỉnh điểm kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai, khi chính phủ cho đóng băng giá dầu nội địa hầu đối phó với việc tăng giá dầu từ OPEC; các chỉ số lạm phát và thất nghiệp tăng 50% trong bốn năm.
Trong số các thành tựu chính phủ Carter đạt được cần kể đến Thoả ước Kênh đào Panama, Hòa ước Trại David, Hiệp ước SALT II với Liên Xô và việc thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ với Trung Quốc. Bên cạnh đó, Carter tích cực đấu tranh cho nhân quyền trên quy mô toàn cầu và xem nhân quyền là tâm điểm cho chính sách đối ngoại của chính phủ ông. Carter theo đuổi chính sách khuyến khích các nước khác tuân theo những tiêu chuẩn đạo đức cao nhất, là chuẩn mực đạo đức mà ông tin rằng người dân Mỹ cũng muốn tuân thủ.
Nhưng Carter thất bại trong nỗ lực cải cách thuế, thu hẹp bộ máy hành chính của chính quyền, như ông đã hứa khi ra tranh cử năm 1976. Carter cũng không thể thông qua đạo luật thiết lập ngày quốc lễ kỷ niệm Martin Luther King, Jr., dù Đảng Dân chủ của ông đang nắm quyền kiểm soát tại lưỡng viện Quốc hội lẫn Tòa Bạch Ốc. Nhiệm kỳ này của Tổng thống Carter chứng kiến sự ra đời của hai bộ năng lượng và giáo dục, cũng như sự thông qua các đạo luật bảo vệ môi trường. Ông thiết lập chính sách năng lượng quốc gia, và củng cố các cơ quan chính quyền, ban hành những đạo luật ủng hộ mạnh mẽ chủ trương bảo vệ môi trường; điều chỉnh các quy định về vận tải đường bộ, hàng không, đường sắt, tài chính, truyền thông và công nghiệp dầu mỏ cũng như hỗ trợ hệ thống an sinh xã hội; ông lập kỷ lục trong việc bổ nhiệm phụ nữ và các nhân vật thuộc chủng tộc thiểu số vào các vị trí hành pháp và tư pháp.
Những người chỉ trích xem sự kiện khủng hoảng con tin tại Iran là đòn chí tử đánh vào lòng tự hào dân tộc; Carter đã phải liên tục tranh đấu trong 444 ngày tìm kiếm sự phóng thích cho các con tin. Sự thất bại trong nỗ lực giải thoát con tin dẫn đến sự từ chức của Bộ trưởng Ngoại giao Cyrus Vance. Các con tin chỉ được trả tự do sau khi Carter rời bỏ chức vụ, năm phút sau lễ nhậm chức của Ronald Reagan.
Tuy nhiên, sau khi rời Tòa Bạch Ốc, Carter nhận được nhiều sự kính trọng trong vai trò trung gian hòa giải và kiến tạo hòa bình trên chính trường quốc tế. Ông cũng hành động tích cực với cương vị một cựu tổng thống Hoa Kỳ trong nỗ lực phát triển các hoạt động từ thiện. Ông đi đến nhiều nơi trên thế giới để quan sát các cuộc bầu cử, xúc tiến những vòng đàm phán cho hòa bình, và thiết lập nhiều đề án cứu trợ. Năm 1982, ông thành lập Trung tâm Carter như là một diễn đàn cho các vấn đề liên quan đến dân chủ và nhân quyền. Năm 2002, Carter được trao tặng Giải Nobel Hòa bình cho "những nỗ lực của ông nhằm tìm kiếm các giải pháp hòa bình cho các cuộc xung đột quốc tế, nhằm thăng tiến dân chủ và nhân quyền, và thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội".
Carter tiếp tục duy trì sự hợp tác tích cực và lâu dài với Tổ chức Hỗ trợ Gia cư (Habitat for Humanity), một tổ chức từ thiện Cơ Đốc với mục tiêu xây dựng nhà ở cho người nghèo.
Thời thơ ấu
Sinh ra là anh cả trong gia đình bốn con của James Earl Carter và Bessie Lillian Gordy tại Plains, một thị trấn thuộc vùng tây nam tiểu bang Georgia, Carter là tổng thống Mỹ đầu tiên chào đời trong bệnh viện. Cậu bé Carter chứng tỏ mình là một học sinh giỏi ngay từ khi còn rất bé. Cậu luôn ham thích đọc sách. Khi còn là một học sinh trung học, Carter chịu ảnh hưởng bởi một trong các giáo viên ở đây.
Em trai của ông, Billy Carter (1937-1988) gây ra một số rắc rối khi ông còn đương chức, trong khi người em gái chẳng có gì nổi bật ngoại trừ thú vui sưu tầm và chạy xe mô tô Harley Davidson. Nhưng cô em út, Gloria Carter Spann (1929-1983), là một nhà truyền bá phúc âm nổi tiếng.
Carter theo học tại Đại học Tây Nam Georgia, Học viện Kỹ thuật Georgia, và nghiên cứu vật lý hạt nhân tại Đại học Union. Năm 1946, Carter nhận văn bằng cử nhân khoa học tại Học viện Hải quân Hoa Kỳ, Carter tốt nghiệp học viện hải quân với thứ hạng 59 trong tổng số 820 học viên cùng khoá.
Carter phục vụ tại các tiềm thủy đỉnh thuộc Hạm đội Thái Bình Dương và Hạm đội Đại Tây Dương. Về sau, ông được Đô đốc Hyman G. Rickover tuyển chọn vào chương trình tiềm thủy đỉnh hạt nhân của hải quân, tại đây ông phục vụ trong cương vị một kỹ sư hạt nhân. Rickover là một sĩ quan nghiêm khắc, tạo lập nhiều ảnh hưởng trên Carter. Về sau, Carter nói rằng, sau cha mẹ ông, Rickover là người ông chịu ảnh hưởng nhiều nhất.
Yêu binh chủng hải quân, nhưng sau khi cha qua đời, Trung úy Carter xin giải ngũ; ngày 9 tháng 10 năm 1953, Carter rời quân ngũ trở về thị trấn quê hương và thành lập trang trại.
Từ khi còn trẻ tuổi, Carter đã là một tín hữu Cơ Đốc sùng tín, ông phục vụ hội thánh trong cương vị một giáo viên Trường Chúa Nhật suốt cuộc đời chính trị của ông. Ngay cả khi trở thành tổng thống, Carter vẫn dành thời gian vài lần trong ngày để cầu nguyện, và xưng nhận rằng Chúa Giê-xu Cơ Đốc là động lực chủ đạo trong cuộc đời ông.
Carter kết hôn với Rosalynn Smith. Dù đã biết nhau từ trước, hai người có cuộc hẹn lần đầu vào năm 1945, khi Jimmy gia nhập hải quân tại Annapolis. Ngày 7 tháng 7 năm 1946, Jimmy và Rosalynn tổ chức hôn lễ tại Plains, thị trấn quê hương của cả hai.
Rosalynn sinh cho ông ba người con trai, John William (sinh năm 1947); James Earl III (1950), Donnel Jeffrey (1952), và sau này, một cô con gái Amy Lynn (1967).
Rosalynn hoạt động tích cực trong các cuộc vận động tranh cử tổng thống năm 1976 và 1980. Sau khi vào Tòa Bạch Ốc, Rosalynn trở thành cố vấn thân cận và tín cẩn nhất của tổng thống. Bà thường xuyên có mặt trong các buổi họp nội các, và là Đệ nhất Phu nhân đầu tiên mang theo cặp khi đến làm việc tại văn phòng của bà trong Tòa Bạch Ốc.
Chính trường
Carter bắt đầu sự nghiệp chính trị của mình bằng cách tham gia ban quản trị của trường học, bệnh viện và thư viện tại thị trấn Plains. Trong thập niên 1960, ông phục vụ hai nhiệm kỳ tại thượng viện tiểu bang Georgia.
Năm 1970, Carter đắc cử thống đốc tiểu bang Georgia. Trong bài diễn văn nhậm chức, Carter gây kinh ngạc trong tiểu bang và thu hút sự chú ý toàn quốc khi tuyên bố rằng thời kỳ phân biệt chủng tộc đã qua rồi, và tinh thần kỳ thị không còn chỗ đứng trong tương lai của tiểu bang Georgia. Ông là viên chức cấp tiểu bang đầu tiên tại khu vực "Cực Nam" (Deep South) công khai bày tỏ quan điểm này. (Chỉ chưa đầy 15 năm trước, một phát biểu tương tự đồng nghĩa với sự kết thúc một sự nghiệp chính trị như trường hợp của thị trưởng Atlanta, Ivan Allen, Jr., người đã ra làm chứng trước Quốc hội ủng hộ Đạo luật Quyền bầu cử), vì vậy chiến thắng của Carter thu hút sự chú ý của công luận vì được xem là một chỉ dấu của sự thay đổi. Sau đó, ông bổ nhiệm nhiều người da đen vào các vị trí công quyền trên khắp tiểu bang, ông còn cho treo ảnh Martin Luther King, Jr. tại Tòa nhà Tiểu bang như là dấu hiệu của sự khởi đầu từ bỏ quá khứ kỳ thị chủng tộc ở miền Nam Hoa Kỳ. Carter đảm nhiệm chức vụ thống đốc tiểu bang Georgia từ năm 1971 đến năm 1975.
Tranh cử Tổng thống năm 1976
Năm 1975, Carter bắt đầu vận động tranh cử tổng thống hầu như ngay sau khi rời chức vụ thống đốc tiểu bang Georgia. Khi tiến vào các cuộc bầu cử sơ bộ để tranh sự đề cử của đảng Dân chủ, nhiều người xem Carter là nhân vật ít có cơ may khi đối đầu với các chính khách tiếng tăm hơn. Tuy vậy, ký ức về vụ tai tiếng Watergate vẫn tồn lưu cách sống động trong tâm trí của cử tri. Được xem là một chính trị gia ngoại vi và xa cách trung tâm quyền lực Washington, D.C., Carter trở thành một tài sản quý hiếm. Tâm điểm của diễn đàn tranh cử của ông là kêu gọi tái tổ chức bộ máy chính quyền.
Carter, "chú ngựa ô" có ít cơ may nhất, lại thành công trong nỗ lực trở thành ứng viên dẫn đầu trong các cuộc bầu cử sơ bộ ở tiểu bang Iowa và tiểu bang New Hampshire. Carter sử dụng chiến thuật hai mũi tấn công. Ở miền Nam, ông chọn cách nhượng bộ chiến thuật cho George Wallace, trong khi vận động cử tri với hình ảnh của một người con được yêu mến của địa phương. Khi Wallace đã tiêu hao sức lực, ông tiến lên càn quét toàn vùng. Ở miền Bắc, Carter nhận được sự ủng hộ của các tín hữu Cơ Đốc bảo thủ và cử tri nông thôn, nhưng lại có ít cơ may chiếm được đa số phiếu ở hầu hết các tiểu bang. Trong vùng đông dân có nhiều người theo khuynh hướng tự do, ông tìm cách xây dựng những khu vực riêng lẻ có quy mô lớn nhất hầu có thể chiến thắng trong vài tiểu bang. Lúc đầu, nhiều người xem Carter là một ứng viên chỉ có khả năng vận động ở quy mô khu vực, nhưng sau cùng ông đã chứng tỏ mình là ứng cử viên đảng Dân chủ duy nhất có thể kiến tạo một sách lược toàn quốc, dần dần Carter có trong tay sự đề cử của Đảng Dân chủ Hoa Kỳ.
Trong cuộc tổng tuyển cử, Carter khởi đầu với sự cách biệt lớn so với Tổng thống Gerald Ford đang lẽo đẽo theo sau, nhưng qua các cuộc thăm dò Ford dần dần thu ngắn khoảng cách, do công luận bắt đầu tỏ vẻ nghi ngờ về năng lực của ứng viên ít được biết tiếng này. Nhưng Carter kiên trì tiến bước và cuối cùng đã đánh bại Ford với kết quả sít sao trong ngày bầu cử tổ chức trong tháng 11 năm 1976, nhận được 50,1% số phiếu phổ thông, trở thành một trong hai ứng viên tổng thống Đảng Dân chủ giành được đa số phiếu phổ thông kể từ năm 1944 khi Franklin Delano Roosevelt đắc cử tổng thống.
Tâm điểm của chiến dịch tranh cử của Carter là kế hoạch cải tổ chính quyền. Ông là ứng cử viên đầu tiên đến từ vùng "Cực Nam" đắc cử tổng thống kể từ Thời kỳ Tái thiết.
Trong diễn từ nhậm chức, ông nói, "Chúng ta đã biết rằng chất lượng quý hơn số lượng, và đất nước vĩ đại này cũng cần nhận ra những giới hạn của nó, để biết rằng chúng ta không thể giải đáp mọi câu hỏi, cũng không thể giải quyết hết mọi vấn đề." Hành động đầu tiên của Carter khi vào Tòa Bạch Ốc là ra lệnh cắt giảm một nửa số nhân viên ở đây, và yêu cầu các thành viên nội các sử dụng xe riêng khi làm việc.
Tổng thống (1977-1981)
Chính sách
Chính sách đối ngoại của chính quyền Carter được nhớ đến nhiều nhất với vụ khủng hoảng con tin tại Iran, Hiệp ước Hòa bình Trại David giữa Israel và Ai Cập, Hiệp ước SALT II giữa Hoa Kỳ và Liên Xô, Hiệp ước Kênh đào Panama, theo đó con kênh được bàn giao cho Panama, thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ với Trung Quốc sau những nỗ lực mở đường của Richard Nixon, ấn định nhân quyền là tâm điểm của chính sách đối ngoại, và cuối cùng là cuộc khủng hoảng năng lượng. Trong các vấn đề quốc nội, Carter ít thành công hơn, ông tỏ ra đối nghịch với chính đảng của ông và với các đối thủ qua cung cách hành xử được xem là thái độ bất hợp tác với quốc hội – tương tự như khi ông còn là thống đốc. Dù vậy, Carter đã thành công trong việc điều chỉnh một vài ngành công nghiệp, củng cố các cơ quan chính quyền, thiết lập chính sách năng lượng quốc gia và thành lập Bộ Năng lượng và Giáo dục, hỗ trợ hệ thống an sinh xã hội, bổ nhiệm con số kỷ lục phụ nữ và những người thuộc các dân tộc thiểu số vào chính quyền và ngành tư pháp, ban hành các đạo luật mạnh mẽ ủng hộ việc bảo vệ môi trường và mở rộng gấp đôi Cơ quan Quản lý Công viên Quốc gia.
Khi thị trường năng lượng bùng nổ, điều mà Carter làm mọi cách để không xảy ra, ông tính đến việc xuất hiện trước công chúng với bài diễn văn quan trọng thứ năm về năng lượng. Dù vậy, ông cảm thấy người dân Mỹ không còn muốn lắng nghe. Thay vào đó, Carter đến Trại David, suốt trong mười ngày gặp gỡ các thống đốc, thị trưởng, lãnh tụ tôn giáo, nhà khoa học, kinh tế gia và đại diện cử tri. Ông ngồi trên sàn nhà và ghi lại tất cả lời nhận xét của họ, đặc biệt là những lời chỉ trích. Những chuyên gia thăm dò dư luận nói với ông rằng người dân Mỹ đang đối diện với một cuộc khủng hoảng niềm tin khởi phát từ vụ ám sát John F. Kennedy, Chiến tranh Việt Nam, và vụ tai tiếng Watergate. Phó Tổng thống của ông, Walter Mondale, tỏ ý bất đồng và nói rằng luôn có những câu giải đáp đúng đắn cho những vấn nạn thật; và không nên triết lý hoá chúng. Ngày 15 tháng 7 năm 1979, Carter đọc bài diễn văn truyền hình toàn quốc, trong đó ông nhận diện điều mà ông tin là "cuộc khủng hoảng niềm tin" của người dân Mỹ. Được biết đến như là bài "diễn văn phiền muộn", ngay cả khi ông không hề dùng đến từ "phiền muộn" trong nội dung của nó:
{{cquote|
Ngay bây giờ tôi muốn các bạn biết hiểm họa căn cốt đe dọa nền dân chủ Mỹ.... Tôi không nói đến sức mạnh bên ngoài của nước Mỹ, một dân tộc đang sống trong hòa bình với các dân tộc khác trên thế giới, một dân tộc đang thụ hưởng sức mạnh kinh tế và quân sự không ai sánh bằng.
Hiểm họa ấy hầu như vô hình trong cuộc sống thường nhật của chúng ta. Ấy là sự khủng hoảng lòng tin. Ấy là sự khủng hoảng đang đánh thẳng vào trái tim, linh hồn và tinh thần của ý chí dân tộc chúng ta. Chúng ta có thể nhận ra sự khủng hoảng này vì nó đang hiện diện trong mối nghi ngờ ngày càng gia tăng về ý nghĩa của cuộc đời chúng ta đang sống, và trong sự hao tổn tinh thần hiệp nhất dân tộc đã từng giúp chúng ta cùng hướng về một mục đích.}}
Bài diễn văn của Carter, soạn bởi Chris Matthews, được đón nhận rộng rãi, dù một số người cho rằng nó trông giống một bài thuyết giáo. Song, đất nước đang gồng gánh một nền kinh tế suy yếu do lạm phát hai con số bởi giá dầu của OPEC, nhiều công dân tỏ ra thất vọng vì tổng thống không đưa ra nổi giải pháp cụ thể nào. Hai ngày sau khi đọc diễn văn, Carter yêu cầu toàn thể nội các từ chức để rồi chấp thuận sự từ chức của năm người. Về sau ông thú nhận rằng lẽ ra ông chỉ nên yêu cầu năm người này từ chức, sự kiện cả nội các từ chức ngụ ý một sự phân hoá trong Tòa Bạch Ốc. Do không có nỗ lực cụ thể nào giúp đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng, uy tín của Carter càng sút giảm trong các cuộc thăm dò.
Ngày 1 tháng 10 năm 1979, Tổng thống Carter tuyên bố thành lập Lực lượng Triển khai Nhanh (Rapid Deployment Forces - RDF), đơn vị quân đội có khả năng đáp trả nhanh được dùng để điều chuyển đến những địa điểm có rắc rối trên toàn cầu mà không cần phải điều động các đơn vị của NATO. RDF là tiền thân của CENTCOM (United States Central Command - Bộ Chỉ huy Trung ương Hoa Kỳ, đơn vị chỉ huy phối hợp chiến đấu của Quân lực Hoa Kỳ, đặt dưới quyền chỉ huy hành quân của Bộ trưởng Quốc phòng).
Trong số các tổng thống phục vụ ít nhất một nhiệm kỳ, Carter là tổng thống duy nhất chưa bao giờ bổ nhiệm thẩm phán cho Tối cao Pháp viện.
Đối nội
Ngay trong ngày nhậm chức, 20 tháng 1 năm 1977, Carter thực hiện lời hứa khi vận động tranh cử bằng cách ban hành sắc lệnh tuyên bố ân xá cho những thanh niên trốn nghĩa vụ quân sự trong Chiến tranh Việt Nam. .
Nền kinh tế đang gánh chịu lạm phát hai con số, lại thêm lãi suất rất cao, thiếu hụt dầu mỏ, thất nghiệp cao và tăng trưởng kinh tế chậm. Xem ra, Carter chẳng làm được gì để cải thiện tình hình trong khi các chỉ số vạch ra rằng nền kinh tế đang trên đà suy thoái, và Carter phải chịu trách nhiệm về tình trạng này. Ông thuyết phục Quốc hội cho phép nâng Bộ Năng lượng lên cấp nội các. Sau những nỗ lực khuyến khích bảo tồn năng lượng, Carter mặc áo lạnh, cho lắp đặt panô năng lượng Mặt Trời trên mái nhà Tòa Bạch Ốc, ra lệnh Ban Dịch vụ khoá đường dẫn nước nóng trong một số khu vực và không cho trang trí thắp sáng trong các ngày lễ trong năm 1979 và 1980. Các tòa nhà thương mại và công thự trên toàn quốc phải lắp đặt nhiệt kế để ngăn cản nhân viên tăng nhiệt độ phòng trong mùa đông và hạ nhiệt độ phòng trong mùa hè.
Chính phủ cũng được cải tổ bằng cách tách Bộ Y tế, Giáo dục và Phúc lợi Hoa Kỳ (HEW) thành Bộ Giáo dục Hoa Kỳ và Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Hoa Kỳ.
Lạm phát đẩy lãi suất đến mức cao chưa từng có (trên 12% mỗi năm), vào thời điểm tháng 12 năm 1980 lên đến mức cao nhất trong lịch sử 21,5%. Sự thay đổi nhanh chóng mức lãi suất làm giảm hiệu suất tín dụng của lượng tiền dự trữ trong ngân hàng, gieo mầm cho cuộc khủng hoảng tín dụng và tiền tiết kiệm. Tiền đầu tư vào các khoản lợi tức cố định (trái phiếu, hưu bổng) ngày càng mất giá, lãi suất cao dẫn đến tình trạng suy thoái kinh tế trong thập niên 1980. Do thị trường cung ứng tiền vay cho chính phủ đang chịu sức ép, Carter bổ nhiệm Paul Volcker làm Chủ tịch Quỹ Dự trữ Liên bang, thay thế William Miller, người được điều chuyển vào chức vụ Bộ trưởng Tài chánh. Volcker áp dụng các biện pháp siết chặt tiền tệ nhằm làm nguội nền kinh tế và hạ giảm lạm phát. Vockler thành công, nhưng với cái giá phải trả là kinh tế tăng trưởng chậm và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.
Tuy nhiên, trong lúc ấy cũng có những điểm sáng như việc Carter ký ban hành luật hỗ trợ hệ thống an sinh xã hội, làm tăng đôi chút tiền thuế lợi tức và cống hiến việc làm trong chính phủ và bộ máy tư pháp cho phụ nữ, người da đen và người nói tiếng Tây Ban Nha. Carter ban hành luật bảo vệ môi trường. Đạo luật Alaska National Interest Lands Conservation do ông ký ban hành giúp thành lập công viên quốc gia rộng 103 triệu acre (417.000 km²) ở Alaska. Ông cũng thành công trong việc điều chỉnh các ngành công nghiệp vận tải, hoả xa, hàng không, truyền thông, dầu khí và tài chính.
Đối ngoại
Nhân quyền
Trong lĩnh vực đối ngoại, Tổng thống Carter bắt đầu tách rời khỏi chính sách được theo đuổi lâu nay với chủ trương kiềm chế Liên Xô. Thay vào đó là sách lược ngoại giao với ưu tiên hàng đầu là nhân quyền. Đây là sự khác biệt lớn so với lập trường của những tổng thống tiền nhiệm, theo đó các vi phạm nhân quyền sẽ được xem nhẹ nếu chúng xảy ra tại những nước đồng minh của Hoa Kỳ. Tại Nicaragua, chính phủ Carter ngưng ủng hộ nhà độc tài Somoza và chi hàng triệu đô la viện trợ chính phủ Sandinista lên cầm quyền sau một cuộc cách mạng. Những người Sandanista theo chủ nghĩa Marx và đang xây dựng một chế độ chuyên chế, nhưng họ có quan hệ với các phong trào Marxist đang hoạt động ở Honduras và El Salvador. Họ cũng có các mối quan hệ khác (về vũ khí, chính trị và hậu cần) với Cuba, mà Carter quan tâm nhiều đến quyền xã hội và nhân quyền trong mối xung đột lâu dài của Hoa Kỳ với Cuba.
Carter nối tiếp những người tiền nhiệm duy trì lệnh cấm vận đối với Rhodesia, đả kích việc những người Marxitst như Robert Mugabe và Joshua Nkomo bị trục xuất khỏi các cuộc bầu cử. Do áp lực mạnh từ Hoa Kỳ và Anh mà các cuộc tuyển cử mới được tiến hành ở đất nước lúc ấy được gọi là Zimbabwe Rhodesia. Carter nổi tiếng vì những chỉ trích của ông dành cho Alfredo Stroessner, Augusto Pinochet, chính quyền phân biệt chủng tộc ở Nam Phi và những đồng minh truyền thống khác của Hoa Kỳ.
Trung Quốc
Carter tiếp tục chính sách của Richard Nixon bình thường hoá bang giao, thiết lập quan hệ ngoại giao và thương mại với Trung Quốc, do đó chấm dứt bang giao chính thức với Trung hoa Dân quốc (dù hai nước vẫn duy trì quan hệ thương mại và Hoa Kỳ vẫn chính thức công nhận Đài Loan qua Đạo luật Quan hệ Đài Loan).
Hiệp ước Kênh đào Panama
Carter cũng thành công trong nỗ lực thuyết phục Thượng viện phê chuẩn Hiệp ước Kênh đào Panama nhằm chuyển giao kênh đào cho Panama. Tuy nhiên, việc đàm phán và ký kết Hiệp ước Kênh đào Panama vào tháng 9 năm 1977 là một trong những sự kiện gây tranh cãi nhiều nhất trong nhiệm kỳ tổng thống của Jimmy Carter. Hiệp ước này gặp sự chống đối mạnh mẽ từ công luận Mỹ và từ Đảng Cộng hòa. Lý do chính được viện dẫn là Hoa Kỳ đang chuyển giao một tài sản có giá trị chiến lược lớn cho chính phủ thối nát dưới quyền lãnh đạo của nhà độc tài Omar Torrijos. Còn những người ủng hộ hiệp ước lập luận rằng kênh đào được xây dựng trên lãnh thổ Panama, tiếp tục kiểm soát kênh đào có nghĩa là Hoa Kỳ đang chiếm đóng lãnh thổ của một quốc gia khác. Như vậy, qua hiệp ước, Hoa Kỳ hoàn tất việc trao trả chủ quyền cho Panama.
Hiệp ước Trại David
Nhưng thành tựu rực rỡ nhất của Carter trong suốt nhiệm kỳ tổng thống là Hiệp ước Trại David, là hòa ước được ký kết giữa Israel và Ai Cập nhờ những nỗ lực đàm phán của Tổng thống Carter. Carter mời Thủ tướng Israel, Menachem Begin và Tổng thống Ai Cập, Anwar Sadat, đến Trại David để thương thảo. Có lúc Sadat muốn bỏ về, nhưng Carter cho biết Sadat đang làm tổn thương một người bạn và điều này có thể làm hại mối bang giao giữa hai nước, và Sadat đồng ý ở lại. Lúc khác, Begin cương quyết rút lui, Carter ký tặng ảnh và nói chuyện với các cháu của Begin khiến Begin thay đổi quyết định khi nhận ra rằng các cháu của ông và thế hệ kế tiếp của dân tộc Do Thái cần phải sống trong hòa bình. Cho đến nay, hòa bình vẫn được duy trì giữa Israel và Ai Cập.
Đàm phán Hạn chế Vũ khí Chiến lược
Một vấn đề ngoại giao quan trọng khác thu hút nhiều quan tâm của Carter là Hiệp ước SALT II (Strategic Arms Limitations Talks – Đàm phán Hạn chế Vũ khí Chiến lược) là một chuỗi những thương thảo giữa Hoa Kỳ và Liên Xô. Những nỗ lực từ Gerald Ford và Richard Nixon giúp hình thành hiệp ước SALT I, nhưng Carter muốn tiến xa hơn trong lộ trình cắt giảm vũ khí hạt nhân. Ấy là mục tiêu chính của ông, như được trình bày trong bài diễn văn nhậm chức, các loại vũ khí hạt nhân cần phải biến mất khỏi mặt đất. Carter và Leonid Brezhnev, lãnh tụ Liên Xô, đã đạt được thoả ước và tổ chức lễ ký kết. Tuy nhiên, do Liên Xô chiếm đóng Afghanistan vào cuối năm 1979, hiệp ước này không bao giờ được phê chuẩn, nhưng cả hai bên hứa tôn trọng những cam kết đạt được qua đàm phán.
Afghanistan
Tháng 12 năm 1979, quân đội Liên Xô tiến vào Afghanistan sau khi chính phủ thân Moskva bị lật đổ. Chính phủ Carter, cùng nhiều chính trị gia thuộc đảng Cộng hòa và Dân chủ, lo ngại Liên Xô đang tìm cách kiểm soát nguồn dầu mỏ Trung Đông. Những người khác cho rằng Liên Xô quan ngại những cuộc nổi dậy Hồi giáo sẽ lan toả từ Iran và Afghanistan đến hàng triệu người Hồi giáo đang sống trong lãnh thổ Liên Xô. Carter công bố Chủ thuyết Carter: Hoa Kỳ không cho phép bất cứ lực lượng bên ngoài nào kiểm soát Vịnh Ba Tư. Carter tuyên bố chấm dứt hợp đồng lúa mì với Nga, văn kiện then chốt theo sáng kiến của Nixon nhằm thiết lập quan hệ mậu dịch với Liên Xô hầu giảm nhẹ những căng thẳng của cuộc Chiến tranh Lạnh. Xuất khẩu mễ cốc là mối lợi lớn cho nhiều người thuộc khu vực nông nghiệp, và lệnh cấm vận của Carter gây khó khăn cho nông gia Mỹ. Ông cũng cấm người Mỹ tham gia Thế vận hội Mùa hè năm 1980 tổ chức ở Moskva, và phục hồi chế độ đăng ký quân dịch. Carter và Zbigniew Brzezinski khởi xướng một chương trình bí mật trị giá 40 tỉ USD huấn luyện người Hồi giáo bảo thủ tại Pakistan và Afghanistan nhắm vào mục tiêu đánh đổ Liên Xô. Những người chỉ trích qui cho Carter và Reagan trách nhiệm tạo ra tình trạng bất ổn của các chính phủ Afghanistan sau này, lót đường cho sự trỗi dậy của các chế độ thần quyền Hồi giáo trong vùng và những vấn đề hiện nay liên quan đến người Hồi giáo bảo thủ. Tuy nhiên, một số sử gia cho rằng sự bất ổn của Afghanistan xuất phát từ những nhân tố kết hợp từ việc chiếm đóng của Liên Xô.
Khủng hoảng Con tin tại Iran
Sự xung đột giữa nhân quyền và quyền lợi Hoa Kỳ thể hiện trong cung cách xử lý của Carter trong vụ Quốc vương Iran. Kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai, nhà vua của Iran (Shah) là đồng minh thân cận của Mỹ, là một trong hai "trụ cột song đôi" là nền tảng cho chính sách chiến lược của Hoa Kỳ ở Trung Đông. Song nhà vua cai trị đất nước cách chuyên chế, năm 1953 dựa vào kế hoạch của chính phủ Eisenhower để lật đổ thủ tướng Mohamed Mossadegh. Dù Carter ca ngợi nhà vua như một nhà lãnh đạo khôn ngoan và tài năng, khi các cuộc nổi dậy chống vương quyền bùng nổ ở Iran, chính phủ Carter đã không can thiệp.
Nhà vua bị phế truất và lưu vong. Nhiều người tin rằng không có sự ủng hộ của Hoa Kỳ là nguyên nhân chính dẫn đến sự sụp đổ của vương triều. Carter chuẩn bị công nhận chính quyền mới tại Iran, nhưng nỗ lực của ông không có kết quả.
Ngày 22 tháng 10 năm 1979, Carter cho phép quốc vương bị phế truất, Mohamed Rezza Pahlavi đến Mỹ để tị nạn chính trị và chữa bệnh; ngày 15 tháng 12, Pahlavi rời Mỹ đến Panama. Phản ứng với việc cho phép Pahlavi vào nước Mỹ, quân dân Iran chiếm giữ đại sứ quán Hoa Kỳ tại Tehran và bắt giữ 52 con tin người Mỹ. Iran yêu cầu (1) giao trả nhà vua về Iran để chịu xét xử, (2) hoàn trả tài sản của nhà vua cho nhân dân Iran, (3) thừa nhận lỗi lầm của Hoa Kỳ tại Iran trong quá khứ và đưa ra lời xin lỗi, (4) cam kết sẽ không can thiệp vào Iran. Mặc dù nhà vua rời Hoa Kỳ và qua đời ở Ai Cập, cuộc khủng hoảng con tin tiếp tục kéo dài và ảnh hưởng sâu sắc đến năm cuối cùng của nhiệm kỳ tổng thống, ngay cả sau khi một nửa số con tin được phóng thích. Các phản ứng đối với cuộc khủng hoảng, từ "chiến lược Vườn Hồng" đến nỗ lực bất thành nhằm giải thoát con tin được xem là những nhân tố góp phần vào sự thất bại của Carter trong cuộc bầu cử năm 1980.
Bầu cử năm 1980
Carter rời Tòa Bạch Ốc sau chiến thắng vang dội của Ronald Reagan trong cuộc tuyển cử năm 1980. Reagan giành được xấp xỉ 51% phiếu phổ thông, trong khi Carter chỉ có 41%, nhưng vì sự ủng hộ của cử tri dành cho Carter không tập trung vào các khu vực địa dư, Reagan chiếm được 91% phiếu của cử tri đoàn, chỉ để lại cho Carter vỏn vẹn sáu tiểu bang và Đặc khu Columbia. Ứng cử viên độc lập John Bayard Anderson thu hút phiếu của cử tri có khuynh hướng tự do bất bình với chính sách của Carter, tuy chỉ được 7% phiếu nhưng gây khó khăn cho Carter ở những bang có truyền thống ủng hộ Đảng Dân chủ như tiểu bang New York, Wisconsin và Massachusetts.
Cảm giác chung của công luận là việc chính phủ Carter đã không giải quyết hiệu quả cuộc khủng hoảng con tin ở Iran góp phần vào thất bại của ông trong cuộc bầu cử tổng thống. Mặc dù nhóm thương thuyết đã đàm phán thành công với những người bắt giữ con tin, bản thoả thuận chỉ được ký vào ngày 19 tháng 1 năm 1981, sau khi Ronald Reagan đắc cử. Các con tin được trả tự do năm phút sau lễ nhậm chức tổng thống sau 444 ngày bị cầm giữ. Reagan đã yêu cầu Carter đến Đức để chào đón các con tin.
Chính phủ
Sau khi rời Tòa Bạch Ốc
Từ khi rời Tòa Bạch Ốc, Carter trở về sống trong nông trang ở Georgia, để biết mình đang mắc một khoản nợ lên đến một triệu USD, do đã tin cậy những người được ủy thác quản lý tài sản trong thời gian ông tại chức - nhằm mục đích tránh tình trạng xung đột lợi ích khi ông đang phục vụ đất nước trong cương vị tổng thống. Carter tập trung viết sách để trả nợ, tất cả 23 cuốn sách của ông đều được công luận đón nhận rộng rãi, trong số đó có vài quyển là sách bán chạy nhất. Đồng thời, ông cũng dành thì giờ để thành lập Trung tâm Carter và xây dựng thư viện tổng thống
Trong lịch sử nước Mỹ, cựu Tổng thống Jimmy Carter và cựu Phó Tổng thống Walter Mondale là những người từng đứng chung liên danh còn sống lâu nhất sau khi rời chức vụ. Đến ngày 23 tháng 5 năm 2006, Carter và Mondale đã rời nhiệm sở 25 năm và 123 ngày, vượt qua kỷ lục của Tổng thống John Adams và Phó Tổng thống Thomas Jefferson. Adams và Jefferson qua đời trong cùng một ngày – 4 tháng 7 năm 1826. Đến ngày 22 tháng 3 năm 2019, ông vượt qua kỷ lục của cố Tổng thống George H. W. Bush để trở thành Tổng thống sống lâu nhất trong lịch sử nước Mỹ từ trước đến nay.
Ngoại giao
Năm 1994, Carter đến Bắc Triều Tiên theo yêu cầu của Tổng thống Clinton,<ref>Marion V. Creekmore. A Moment of Crisis: Jimmy Carter, The Power of a Peacemaker, and North Korea's Nuclear Ambitions (2006)</ref> khi cuộc khủng hoảng Bán đảo Triều Tiên đang nóng dần do Bắc Triều Tiên trục xuất nhóm thanh tra của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế và doạ sẽ bắt đầu xử lý nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng. Cuộc hội kiến giữa Carter và Kim Il Sung dẫn đến việc ký kết bản thoả hiệp khung, theo đó Bắc Triều Tiên đồng ý ngưng xử lý nhiên liệu hạt nhân đổi lấy việc bình thường hoá bang giao với Mỹ, được nhập dầu và hai lò phản ứng nước nhẹ để thay thế lò graphite của họ. Nhưng Bắc Triều Tiên đã không tuân thủ thoả ước và tìm cách che giấu những vi phạm của họ.
Dù công luận khen ngợi bản thoả ước khung do Jimmy Carter thương thảo như là một thành quả ngoại giao, Bắc Triều Tiên không có ý định chấm dứt chương trình chế tạo vũ khí hạt nhân. Năm 2005, Bắc Triều Tiên tuyên bố đã có vũ khí hạt nhân.
Tháng 5 năm 2002, Carter đến thăm Cuba, gặp Fidel Castro và nói chuyện với công chúng Cuba qua hệ thống truyền hình quốc gia, ông viết và đọc bài diễn văn bằng tiếng Tây Ban Nha. Sự kiện này biến Carter thành tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ, đương nhiệm hoặc mãn nhiệm, đến thăm đảo quốc này kể từ cuộc cách mạng năm 1959 mặc dù khi đương nhiệm ông đã không chịu dỡ bỏ lệnh cấm vận.
Tháng 6 năm 2005, Carter kêu gọi đóng cửa nhà tù Vịnh Guantanamo ở Cuba, địa danh đã trở nên tâm điểm của những lời than phiền về những ngược đãi tù nhân.
Không phải mọi nỗ lực của Carter đều có được sự ủng hộ của Washington; người ta thuật lại rằng các tổng thống Clinton, George H. W. Bush và George W. Bush tỏ ra không hài lòng về những hoạt động ngoại giao "tự do" của Carter ở Iraq và những nơi khác. Những người chỉ trích cho rằng những nỗ lực ngoại giao của Carter (lúc đương nhiệm hoặc mãn nhiệm) là chân thật và có thiện ý, nhưng ông thường thiếu hiểu biết về ẩn ý của những nhà lãnh đạo nước ngoài thiếu thiện chí.
Tháng 10 năm 2007, Carter đến thăm Darfur cùng với các nhà lãnh đạo châu Phi, trong đó có Tổng Giám mục Anh giáo Desmond Tutu, nhưng bị lực lượng an ninh Sudan ngăn cản. Điều này dẫn đến những tranh cãi gay gắt giữa cựu tổng thống Mỹ và giới chức an ninh Sudan.
Hoạt động nhân đạo
Từ sau thất bại trong nỗ lực tái tranh cử, Carter, qua Trung tâm Carter, tham gia tích cực vào các lĩnh vực như chính sách công quốc gia và quốc tế, tìm kiếm giải pháp cho các cuộc tranh chấp, nhân quyền và những hoạt động từ thiện. Ông thành lập Trung tâm Carter ngay sau khi rời Tòa Bạch Ốc, hiện nay cùng với vợ, Rosalynn, đang là đồng chủ tịch trung tâm. Trung tâm Carter tập chú vào các hoạt động như chương trình chăm sóc sức khoẻ với quy mô toàn cầu, trong đó có chiến dịch kiểm soát bệnh sán guinea. Carter và các thành viên khác của trung tâm thường tham gia các hoạt động giám sát tiến trình bầu cử nhằm ủng hộ các cuộc bầu cử tự do và công bằng. Họ đến châu Phi và châu Mỹ Latin với tư cách quan sát viên bầu cử.
Carter và Rosalynn được nhiều người biết tiếng qua sự cộng tác của họ với Tổ chức Hỗ trợ Gia cư Habitat (Habitat for Humanity), một tổ chức từ thiện Cơ Đốc chuyên xây dựng nhà ở cho người nghèo. Sau thất bại trong nỗ lực ở lại Tòa Bạch Ốc cho nhiệm kỳ thứ hai, Carter đến với Habitat trong năm 1984. Từ đó, Carter và vợ mỗi năm dành một tuần lễ cùng làm việc với các thiện nguyện viên khác của tổ chức từ thiện này xây dựng nhà ở cho người nghèo.
Jimmy Carter là tổng thống Hoa Kỳ thứ ba, sau Theodore Roosevelt và Woodrow Wilson, được trao Giải Nobel Hòa bình. Trong bài diễn văn nhận giải, đọc trước một cử tọa đoàn Âu châu, ông nói rằng hành động của Hoa Kỳ sau khi quân đội Liên Xô tiến vào Afghanistan, Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, cũng giống NATO, là sự tiếp nối chủ thuyết an ninh tập thể của Tổng thống Wilson.
Chính trị Mỹ
Carter là bạn rất thân với người tiền nhiệm Gerald Ford, bất kể sự kiện ông là người đánh bại Tổng thống Ford trong kỳ bầu cử tổng thống năm 1976. Carter và vợ thường xuyên đến thăm nhà ông bà Ford.
Ngày 26 tháng 12 năm 2006, tờ New York Times thuật lại rằng, theo yêu cầu của Ford, người kế nhiệm ông, cựu Tổng thống Jimmy Carter, sẽ là người đọc điếu văn trong tang lễ của ông, "Ông Ford đề nghị người kế nhiệm xem xét việc đọc điếu văn trong tang lễ của ông; ngược lại ông sẽ làm như vậy trong tang lễ của Carter, phụ thuộc vào việc người nào sẽ ra đi trước." Ngày 3 tháng 1 năm 2007, Carter đọc bài điếu văn đầy cảm xúc trong tang lễ của Gerald Ford cử hành tại Nhà thờ Grace Episcopal (Anh giáo) ở East Grand Rapids.
Năm 2001, Carter tỏ ra bất bình với lệnh ân xá gây nhiều tranh cãi của Tổng thống Clinton dành cho Marc Rich, gọi nó là "một sự ô nhục" và cho rằng chính số tiền 520 triệu USD Rich đóng góp cho Đảng Dân chủ là nhân tố dẫn đến quyết định ân xá của Clinton.
Tháng 3 năm 2004, Carter công khai chỉ trích George W. Bush và Tony Blair vì đã tiến hành một cuộc chiến không cần thiết, chỉ "dựa trên những lời nói dối và những giải thích sai lệch" nhằm đánh đổ Saddam Hussein. Ông cho rằng Blair đã để những phán đoán chính xác hơn của mình bị tác động bởi định ý của Bush muốn kết thúc cuộc chiến mà cha ông ấy (George H. W. Bush) đã bắt đầu. Tháng 8 năm 2006, Carter chỉ trích Blair là "phụ thuộc" chính phủ Bush, cáo buộc Blair ủng hộ mà không hề tra vấn chính sách "cực đoan hoặc thiếu sáng suốt" của Bush. Ngày 19 tháng 5 năm 2007, khi Blair thực hiện chuyến viếng thăm sau cùng đến Iraq trong cương vị Thủ tướng Anh, Carter sử dụng cơ hội này để đả kích Blair. Ông nói với đài BBC rằng rõ ràng là Blair "phục tùng" Bush và dành sự ủng hộ mù quáng cho Iraq. Carter hi vọng Gordon Brown, người kế nhiệm Blair, sẽ "ít nhiệt tình hơn" đối với chính sách của Bush về Iraq.
Tuyên dương
Carter được trao bằng danh dự tại nhiều trường đại học ở Mỹ như Harvard, Bates và Đại học Pennylvania.
Ngày 22 tháng 11 năm 2004, Thống đốc thuộc Đảng Cộng hòa của Tiểu bang New York, George Pataki bổ nhiệm Carter và các cựu tổng thống khác hiện còn sống, Gerald Ford, George H. W. Bush, và Bill Clinton, là những thành viên danh dự của ban tái thiết tòa nhà World Trade Center.
Do đã phục vụ trong một tiềm thủy đỉnh (tổng thống duy nhất từng làm điều này), một tiềm thủy đỉnh được chọn để đặt theo tên của Carter. Tiềm thủy đỉnh USS Jimmy Carter (SSN-23) được đặt tên vào ngày 27 tháng 4 năm 1998 khiến nó trở nên một trong số rất ít phương tiện của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo một nhân vật còn sống.
Carter nhận dạy một lớp học Trường Chúa Nhật tại nhà thờ Baptist Maranatha ở thị trấn Plain, tiểu bang Georgia. Thông thạo nghề mộc, thỉnh thoảng Carter xuất hiện trên những trang báo của tạp chí Fine Wood Working của nhà xuất bản Taunton Press, ông cũng sử dụng kỹ năng này khi tham gia xây dựng nhà ở cho người nghèo trong các đề án của Tổ chức Hỗ trợ Gia cư Habitat.
Carter là khách mời tại những buổi lễ như lễ khánh thành thư viện của các tổng thống Ronald Reagan, George H. W. Bush, Bill Clinton và George W. Bush. Ông cũng tham dự nhiều diễn đàn, buổi diễn thuyết, uỷ ban, tang lễ và các sự kiện khác. Gần đây nhất, ông đọc điếu văn tại tang lễ của Coretta Scott King, vợ của nhà lãnh đạo Phong trào Dân quyền Mỹ Martin Luther King, Jr.. Ông là hội viên danh dự của Câu lạc bộ Madrid.
Năm 1997, ông được trao Giải Indira Gandhi.
Năm 1998, ông được trao Giải Nhân quyền của Liên Hợp Quốc.
Chú thích |
Chi Mỏ hạc có danh pháp khoa học là Geranium chứa khoảng 422 loài thực vật sống một năm, hai năm hoặc lâu năm, được tìm thấy chủ yếu tại vùng ôn đới cũng như khu vực miền núi của vùng nhiệt đới, chủ yếu tại phần miền đông của khu vực Địa Trung Hải. Các loài thực vật có hoa đẹp này có thể mọc trên bất kỳ loại đấtkhông bị úng nước nào. Sự nhân giống của chúng được thực hiện nhờ các cành giâm vào mùa hè hay bằng hạt về mùa thu hay mùa xuân.
Các loài mỏ hạc bị ấu trùng của một số loài côn trùng thuộc bộ Lepidoptera phá hại, bao gồm Euproctis chrysorrhoea và Amphipyra tragopoginis.
Tên gọi
Tên gọi "mỏ hạc" có nguồn gốc từ bề ngoài của đầu hạt, nó có hình dáng như mỏ của con hạc (sếu). Tên khoa học của chi này có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp geranos, có nghĩa là 'con hạc, con sếu'. Các lá dài, dạng chân vịt có vết nứt nói chung có hình tròn. Hoa của chúng có màu hồng, lam hay trắng với 5 cánh hoa.
Geranium và Phong lữ
Một điều dễ gây nhầm lẫn là từ "Geranium" trong tiếng Anh còn được dịch sang tiếng Việt là phong lữ hay phong lữ thảo, là tên gọi của loài Pelargonium inquinans thuộc chi Pelargonium, do trước đây loài/chi này cũng được phân loại là nằm trong chi Mỏ hạc. Điều lầm lẫn tương tự cũng xảy ra trong tiếng Anh khi từ Geranium trong cách hiểu thông thường lại là tên gọi thông dụng của các loài trong chi Pelargonium. Lưu ý rằng phong lữ còn là tên gọi của một họ thực vật là Gesneriaceae và trong tên gọi của một loài thực vật khác trong chi Cymbopogon là cỏ phong lữ Cymbopogon martini. Tại Hoa Kỳ, các loài mỏ hạc (Geranium thực thụ) nói chung được phân biệt với các loài quỳ thiên trúc ít cứng hơn (chi Pelargonium) với tên gọi là "hardy geranium" do những người làm vườn và trồng/bán cây cảnh nghĩ ra. Người ta cũng có thể phân biệt chúng bằng cách nhìn vào hoa: Các Geranium thực thụ có hoa đối xứng, trong khi các Pelargonium có các cánh hoa không đều hay có vết đốm. Các thành viên khác trước đây được đưa vào chi này, hiện nay được phân loại trong chi Erodium, có tên gọi trong tiếng Anh là filaree tại Bắc Mỹ.
Thư viện ảnh |
Geranium không phải là một từ trong tiếng Việt, nhưng nó được dùng trong các ngữ cảnh sau:
Khi dùng trong ngữ cảnh khoa học về thực vật học thì nó là tên gọi khoa học của chi Mỏ hạc.
Khi được dịch từ các văn bản tiếng Anh sang mà không nói đó là tên khoa học của chi Mỏ hạc thì thường được hiểu như là tên gọi thông dụng trong tiếng Anh thông thường của các loài trong chi Quỳ thiên trúc (Pelargonium), với một loài có tên trong tiếng Việt là phong lữ (từ phong lữ trong tiếng Việt cũng có nhiều hơn một nghĩa) hay phong lữ thảo (danh pháp khoa học: Pelargonium inquinans) có hoa màu đỏ thắm. Sự lộn xộn này là do trước đây chi Pelargonium được phân loại như là một phần của chi Geranium.
Chỉ màu đỏ của hoa phong lữ [thảo]. |
Phong lữ trong tiếng Việt có thể là:
Gesneriaceae (Dumortier): họ Phong lữ, họ Thượng tiễn, họ Tai voi.
Geraniaceae: họ Mỏ hạc.
Pelargonium: chi Phong lữ.
Pelargonium zonale: phong lữ.
Pelargonium inquinans: phong lữ thảo.
Poaceae:
Cymbopogon: chi Sả, cỏ phong lữ. |
400 (bốn trăm) là một số tự nhiên ngay sau 399 và ngay trước 401. |
Eleanor Rosalynn Smith Carter (sinh ngày 18 tháng 8 năm 1927) là phu nhân cựu Tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter. Bà đảm nhiệm cương vị Đệ Nhất Phu nhân Hoa Kỳ từ năm 1977 đến năm 1981.
Thiếu thời
Eleanor Rosalynn Smith chào đời tại thị trấn Plains, tiểu bang Georgia, là con trưởng trong gia đình có bốn người con. Cha của bà là Edgar Smith (1896-1940), một thợ sửa máy móc; còn mẹ là Frances Allethea "Allie" Murray (1904-1997), một thợ may vá.
Khi Rosalynn 13 tuổi thì cha của bà là ông Edgar qua đời. Từ đó bà ấy phải giúp mẹ các công việc như chăm sóc các em, đi làm thợ may vá thay cho mẹ để có thể giúp cho kinh tế gia đình khấm khá hơn. Bà tốt nghiệp thủ khoa trường Trung học Plains, rồi theo học tại Đại học Georgia Southwestern.
Hôn nhân và Gia đình
Mặc dù đã biết nhau từ trước, mãi đến năm 1945, Rosalynn Smith mới có cuộc hẹn lần đầu với Jimmy Carter khi Jimmy gia nhập Hải quân Hoa Kỳ tại Annapolis. Ngày 7 tháng 7 năm 1946, lễ kết hôn của họ được tổ chức ở Plains.
Rosalynn là mẹ của bốn người con: John William "Jack" (1947-), James Earl III "Chip" (1950-), Donnel Jeffrey "Jeff" (1952-) và Amy Lynn (1967-). Chỉ có người con đầu ra đời ở một nơi khác ngoài Georgia, do bà phải theo chồng đến nơi đóng quân.
Năm 1953, sau khi Jimmy giải ngũ, Rosalynn giúp chồng điều hành một nông trang canh tác đậu phụng và một doanh nghiệp chuyên kinh doanh kho bãi, bà phụ trách về kế toán.
Kể từ năm 1962, khi Jimmy Carter đắc cử thượng nghị sĩ của tiểu bang Georgia, Rosalynn bắt đầu tham gia tích cực vào chính trường.
Đệ Nhất Phu nhân Georgia
Khi đang là Đệ Nhất Phu nhân của tiểu bang Georgia, Rosalynn được bổ nhiệm vào Ủy ban Cải thiện Dịch vụ cho người Tàn tật. Ủy ban đã đệ trình Thống đốc Jimmy Carter một bản kiến nghị, phần lớn được phê chuẩn để trở thành luật. Rosalynn cũng phục vụ tại Bệnh viện Khu vực Georgia ở Atlanta, Georgia như là một thiện nguyện viên, trong suốt năm năm là chủ tịch danh dự của Olympic đặc biệt dành cho trẻ em có vấn đề tâm thần của tiểu bang Georgia.
Chiến dịch tranh cử
Tháng 1 năm 1975, khi nhiệm kỳ thống đốc chấm dứt, Jimmy Carter cùng với Rosalynn và Amy trở về Plains. Trước đó ông đã công bố kế hoạch tranh cử tổng thống. Rosalynn quay lại với các chiến dịch vận động tranh cử, lần này là ở cấp quốc gia để hỗ trợ chồng bà. Bà vận động một mình trên danh nghĩa của chồng trên khắp 41 tiểu bang.
Suốt trong những tháng du hành đến nhiều nơi trên khắp đất nước để vận động cho chồng, Rosalynn được bầu vào ban giám đốc Hiệp hội Quốc gia Sức khoẻ Tâm thần; bà cũng được vinh danh bởi Tổ chức Phụ nữ Quốc gia với Giải thưởng Công trạng vì những ủng hộ mạnh mẽ của bà dành cho Tu chính án Quyền Bình đẳng, và được Hiệp hội Thiện nguyện viên Miền Nam trao tặng giải thưởng Thiện nguyện viên của năm.
Đệ Nhất Phu nhân Hoa Kỳ
Tháng 1 năm 1977, Rosalynn cùng chồng tay trong tay đi bộ trên Đại lộ Pennsylvania trong lễ nhậm chức Tổng thống Hoa Kỳ. Không phải là chú trọng vào nghi thức, trong ngày đó bà đã đem theo bữa ăn trưa ngoài trời cho mình và mặc chiếc một chiếc áo cũ sáu năm trước cho buổi lễ.
Giới phóng viên báo chí tại Toà Bạch Ốc thường gọi Rosalynn Carter với biệt danh "Hoa Mộc lan Thép" (The Steel Magnolia), vì ở bà thể hiện một cá tính kết hợp giữa sự dịu dàng của người miền Nam với tính kiên trì đeo đuổi mục đích. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi biết rằng bà là một trong những cố vấn thân cận và tín cẩn nhất của chồng, thường xuyên có mặt trong các buổi họp nội các. Thật vậy, bà là Đệ Nhất Phu nhân đầu tiên mang theo cặp khi đến làm việc tại văn phòng đặt trong Toà Bạch Ốc.
Trong thời gian sống ở Toà Bạch Ốc, Rosalynn Carter được vinh danh bởi nhiều tổ chức và được trao tặng một số giải thưởng. Trong cương vị chủ tịch danh dự Ủy ban của Tổng thống về Sức khoẻ Tâm thần, bà đã vận động thành công thông qua đạo luật Hệ thống Sức khoẻ Tâm thần. Bà cũng được Hiệp hội Sức khoẻ Tâm thần Quốc gia chọn là Thiện nguyên viên của Thập kỷ.
Rosalynn tích cực vận động cho chồng trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1980. Khi điều phối viên chiến dịch báo cho bà và chồng biết, vào hôm cuối tuần trước ngày bầu cử, từ cuộc thăm dò mới nhất cho thấy kết quả bầu cử sẽ sít sao theo hướng có lợi cho Ronald Reagan, như thế họ sẽ thất cử, Rosalynn gập mình trong đau đớn.
Sau khi rời Toà Bạch Ốc
Từ lúc trở về thị trấn Plains, bà Carter nhận một bản tuyên dương của Chủ tịch Hội Tâm lý Mỹ, Giải thưởng Phục vụ Ưu tú cho Nhà lãnh đạo Đạo đức Xã hội Cơ Đốc của Ủy ban Đời sống Cơ Đốc thuộc Liên hiệp Baptist Nam phương vào tháng 8 năm 1983, bà cũng được bầu vào ban giám đốc của Công ty Ganett. Tháng 4 năm 1983, bà trở nên thành viên ban cố vấn cho Tổ chức Hỗ trợ Gia cư (Habitat for Humanity, Inc.). Cuốn tiểu sử của bà, First Lady from Plains (Đệ Nhất Phu nhân đến từ Plains), đã xuất bản trong tháng 5 năm 1984.
Năm 2001, bà được chọn vào Sảnh Danh nhân Phụ nữ Quốc gia (National Women’s Hall of Fame).
Viện Rosalynn Carter
Rosalynn hoạt động tích cực nhằm cải thiện tình trạng nhân quyền trên toàn cầu, và hiện là đồng chủ tịch Trung tâm Carter. Một đề án quan trọng khác của riêng bà là Viện Rosalynn Carter, đặt trụ sở tại Đại học Tây Nam Georgia ở Amerius, Georgia. Đây là nơi bà từng theo học. Thành lập năm 1987 với mục tiêu trình bày các vấn đề liên quan đến việc chăm sóc sức khỏe cho người dân Mỹ, Viện Rosalynn Carter tập chú vào việc đào tạo và hỗ trợ những điều dưỡng viên chuyên nghiệp và tại gia, đang chăm sóc người tàn tật, người mắc bệnh mãn tính, và người già yếu. Hoạt động của viện không chỉ ở địa phương mà còn được mở ra trên khắp nước Mỹ.
Chăm sóc Sức khỏe Tâm thần
Rosalynn từng lãnh đạo ủy ban cải thiện sức khỏe tâm thần được bổ nhiệm bởi chồng bà. Tháng 4 năm 1984, bà trở thành Thành viên Danh dự Hội Tâm thần Mỹ, và là thành viên danh dự ban quản trị Hội Sức khỏe Tâm thần Quốc gia. Năm 2007, cùng Daniel Wellstone, con trai của cố Thượng Nghị sĩ Hoa Kỳ Paul Wellstone, Rosalynn vận động thúc đẩy Quốc hội thông qua các đạo luật liên quan đến bảo hiểm sức khỏe tâm thần. Hai người vận động phê chuẩn Đạo luật Paul Wellstone yêu cầu bình đẳng trong chữa trị các bệnh thể xác và tâm thần; cả hai đều ra làm chứng trước một tiểu ban của Viện Dân biểu.
Trong năm 2007, Trung tâm Carter cung cấp sáu học bổng Rosalynn Carter cho hoạt động báo chí về Sức khỏe Tâm thần. Sáu học bổng kéo dài một năm, bắt đầu từ tháng 9 năm 2008, vận động sự quan tâm của công luận đối với các vấn đề sức khỏe tâm thần cũng như làm xóa bỏ các định kiến về căn bệnh này.
Chú thích |
Trung tâm Carter là một tổ chức phi lợi nhuận được thành lập năm 1982 bởi cựu Tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter và phu nhân, Rosalynn Carter, chủ tịch đương nhiệm của trung tâm là John J. Moores. Toạ lạc ở Atlanta, tiểu bang Georgia, trung tâm nằm trong khuôn viên một khu đại học cùng với Thư viện Tổng thống Jimmy Carter. Trung tâm Carter hoạt động liên kết với Đại học Emory, như thế các sinh viên đến từ Emory và từ nhiều đại học khác có thể làm việc tại trung tâm như là những thực tập sinh nội trú.
Theo website của Trung tâm Carter, tổ chức này có năm nguyên tắc dẫn đường:
Trung tâm đặc biệt quan tâm đến hành động và kết quả. Dựa trên những nghiên cứ và phân tích cẩn thận, trung tâm sẽ chuẩn bị kỹ càng để có thể hành động đúng lúc cho những vấn đề quan trọng và cần có áp lực.
Trung tâm không sao chép những nỗ lực có hiệu quả của người khác.
Trung tâm hành động độc lập và trung lập trong các nỗ lực tìm kiếm giải pháp cho các cuộc tranh chấp.
Trung tâm tin rằng con người có thể cải thiện cuộc sống của mình nếu được cung ứng các kỹ năng cần thiết, kiến thức và cơ hội tiếp cận với các nguồn tài nguyên.
Trung tâm Carter nhận nhiệm vụ quan sát các cuộc bầu cử ở nước ngoài Hoa Kỳ, làm trung gian hoà giải trong các cuộc khủng hoảng quốc tế, củng cố các hệ thống quốc tế, khu vực và quốc gia nhằm đấu tranh cho dân chủ và dân quyền, các chương trình tiên phong làm giảm nhẹ các loạt bệnh tật phổ biến ở khu vực châu Mỹ Latin và Phi châu như bệnh sán Guinea.
Giám sát bầu cử
Trung tâm Carter cử nhân viên đến thực thi nhiệm vụ giám sát tại:
Cuộc Trưng cầu Dân ý tại Venezuela ngày 15 tháng 8 năm 2004 về việc bãi nhiệm Tổng thống Hugo Chavez, kết quả là một thắng lợi cho Chavez với 59,0% số phiếu muốn tổng thống tiếp tục cầm quyền.
Cuộc Tổng tuyển cử ở Ethiopia ngày 15 tháng 5 năm 2005.
Những hoạt động của cựu tổng thống Jimmy Carter đem đến cho ông Giải thưởng Nobel Hoà bình năm 2002 "vì những nỗ lực không mệt mỏi trong nhiều thập niên nhằm tìm kiếm những giải pháp hoà bình cho những xung đột quốc, nhằm thăng tiến dân chủ và dân quyền, và cổ xuý sự phát triển về kinh tế và xã hội". |
Đại Phật đỉnh thủ-lăng-nghiêm kinh (sa. Śūraṃgama-samādhi-sūtra; zh. 大佛頂首楞嚴經 Đại Phật đỉnh thủ-lăng-nghiêm kinh), hoặc Lăng-nghiêm kinh (楞嚴經), hay còn được gọi là Trung Ấn Độ Na-lan-đà Đại Đạo tràng Kinh (中印度那爛陀大道場經), đã được tất cả các trường phái Phật giáo Trung Hoa tụng niệm và nghiên cứu từ đời nhà Đường và thường được luận giải ở các thế kỷ tiếp theo sau. Kinh Lăng Nghiêm rất được những người "hợp nhất tam giáo" (三教一源 Tam Giáo Nhất Nguyên) đời nhà Tống và đời nhà Minh ưa chuộng.
Kinh Lăng Nghiêm dần dần được các tổ Thiền Tông đặc biệt quan tâm, trong đó có các ngài Trường Thủy Tử Duệ (長水子鋭 - đời Tống), Hám Sơn Đức Thanh (憨山德清 - đời Minh) và Tuyên Hoá (宣化; 1918-1995) đã góp nhiều công sức phổ biến và giảng giải.
Thường hay có sự nhầm lẫn giữa kinh này với một bộ kinh khác, gồm 2 quyển, là Thủ-lăng-nghiêm-tam-muội kinh. Thủ Lăng Nghiêm Kinh triển khai giáo lý về bản Tâm và các cảnh giới tu chứng trong Thiền định cùng với phần tuyên thuyết Bạch Tản Cái Đà La Ni. Trong khi đó Thủ-lăng-nghiêm-tam-muội kinh nói về nền tảng giáo lý cơ bản của Đại Thừa, với sức Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội (Đại định kiên cố) mà Bồ Tát trong Đại định ấy có thể thị hiện đi khắp nơi giáo hóa hàng phục Ma Vương một cách tự tại, tuy thị hiện nhập Niết Bàn ở nơi này nhưng lại bày thân đi giáo hóa chúng sinh ở cảnh giới khác.
Tên đầy đủ
Tên trọn vẹn của kinh là Đại Phật đỉnh Như Lai mật nhân tu chứng liễu nghĩa chư Bồ Tát vạn hạnh thủ-lăng-nghiêm kinh (大佛頂如來密因修證了義諸菩薩萬行首楞嚴經), tạm dịch:
"Kinh của đỉnh Đại Phật, chứng ngộ trọn vẹn do tu hành nguyên nhân bí mật của các Như Lai, nền móng của vạn hạnh của tất cả các Bồ Tát"
Bộ Kinh gồm 10 quyển. (Taisho Tripitaka Nº 945)
Nguồn gốc
Theo truyền thống, Kinh Lăng Nghiêm được sư người Ấn Độ tên Bát Lạt Mật Đế (般羅蜜帝) và 2 vị phụ tá dịch năm 705 tại chùa Chế Chỉ (制止寺) ở Quảng Đông, dưới sự bảo trợ của Phòng Dung (房融), một quan gián đại phu của Hoàng hậu Võ Tắc Thiên vừa bị giáng chức xuống hàng quan địa phương tại quê mình. Có người cho là kinh do Phòng Dung viết lại với một lối hành văn cổ điển lưu loát khác hẳn các bản dịch khác. Phẩm chất văn chương, sự thiếu nổi danh của những người dịch, những bình luận về các bực thầy giả hiệu, và sự ưa chuộng trong những người "hợp nhất tam giáo" là nguyên nhân của nhiều sự cáo buộc kinh là ngụy tác.
Vì lý do này, kinh suýt bị thiêu hủy ở Nhật Bản vào thế kỷ thứ 8 và luôn luôn được giữ như của riêng tư ở Nhật. Mặc dầu thế, cộng đồng Phật giáo Trung Hoa và nhiều chuyên gia thời hiện đại như Ron Epsein của Đại học San Francisco và La Hương Lâm (羅香林) của Đại học Hồng Kông, xem Kinh Lăng Nghiêm là một bản dịch tốt đẹp từ tài liệu tiếng Phạn và không phải là một sáng tác của Trung Hoa.
Truyền thuyết
Truyền thuyết cho là Kinh Lăng Nghiêm do ngài Long Thọ tìm được, từ đó được các vua chúa Ấn Độ xem như quốc bảo, và việc đem kinh này ra khỏi Ấn Độ là phạm pháp.
Từ triều đại nhà Tùy, vị sáng lập Thiên Thai tông, Trí Nghĩ (智顗), đã có nghe đến Kinh Lăng Nghiêm và mỗi ngày quay về hướng Tây tụng niệm cầu cho Kinh đến được Trung Hoa.
Sau một lần thử đem ra khỏi Ấn Độ không kết quả, Bát Lạt Mật Đế quyết định giấu Kinh trong cánh tay của mình, Kinh được bao bọc trong lụa và sáp. Khi đến Quảng Đông, ngài lấy Kinh ra từ chỗ giấu, do đó Kinh còn có biệt danh là Kinh Tẩm Máu, (血漬經 Huyết Tí Kinh).
Sau khi hướng dẫn dịch xong, Bát Lạt Mật Đế trở về xứ nhận trách nhiệm tội lén đem Kinh ra ngoài và giải tội cho người canh phòng biên giới bị bắt giữ vì trách nhiệm lây.
Khi được Phòng Dung dâng lên Võ Tắc Thiên, Kinh không được phổ biến ngay vì mới đó có một vụ tai tiếng về giả mạo kinh.
Thiền sư Thần Tú (神秀) tìm thấy Kinh khi cư ngụ trong hoàng cung.
Truyền thống Phật giáo Trung Hoa theo "thiên niên" cho rằng Kinh Lăng Nghiêm là kinh cuối cùng được tìm ra và sẽ bị phá hủy trước tiên khi gần đến thời kỳ Phật pháp bị hủy diệt.
Chú Lăng Nghiêm
Chú Lăng Nghiêm là Chú quan trọng nhất, hơn hết thảy trong các Chú, bao gồm hết thảy thể chất và diệu dụng của Phật pháp. Chú này chia làm 5 bộ: Kim Cang bộ, Bảo Sinh bộ, Liên Hoa bộ, Phật bộ, và Nghiệp bộ. Năm bộ kinh này thuộc về 5 phương:
1. Kim Cang bộ: thuộc về phương Đông, Đức Phật A Súc là chủ
2. Bảo Sinh bộ: thuộc về phương Nam, Phật Bảo Sinh là chủ
3. Phật bộ: thuộc về chính giữa, Phật Thích Ca Mâu Ni là chủ
4. Liên Hoa bộ: thuộc về phương Tây, Phật A Di Đà là chủ
5. Nghiệp bộ: thuộc về phương bắc, Phật thành Tự là chủ
(có vô số Phật nhưng ở chính giữa Phật thích ca đại diện trong thời gian này)
Nếu trên thế gian này không còn người nào tụng Chú Lăng Nghiêm, thì Ma Vương sẽ xuất hiện, chúng ma chưa thể dụng phép thần thông phá hoại nhân gian một cách tự do được chính là vì điều này. Nếu còn một người trì tụng, thì thiên ma Ba Tuần không dám xuất hiện. Vì chúng sợ nhất là Chú Lăng Nghiêm. Chúng muốn tiêu diệt nhất là Chú Lăng Nghiêm. Khi Phật pháp bắt đầu hoại diệt, thì Chú Lăng Nghiêm sẽ mất trước nhất, kể cả kinh Lăng Nghiêm. Lúc đó thiên ma Ba Tuần sẽ có thể xuất hiện hoành hành đầy rẫy khắp nơi như trong kinh đã nói. Lúc ấy sẽ không còn trời đất, không có Phật, chúng tuyệt đối chẳng sợ gì. Mỗi người Phật tử, (tại gia, và xuất gia) học thuộc lòng Chú Lăng Nghiêm và trì tụng mỗi ngày, mở nhạc tụng, hoặc in ấn tống lưu hành rộng lớn để không bị thất truyền, đây chính là hộ pháp, và khiến cho Phật pháp tồn tại lâu dài, đừng xem thường không có ý nghĩa và quan hệ gì. Hiện tại ở đây chỉ có mấy chục người nghe giảng Chú Lăng Nghiêm, nhưng chính mấy chục người này đã giữ chân bọn thiên ma, khiến chúng hoảng sợ khi đề cập đến Chú này.
Nội dung
Theo Ron Epstein, ta có thể nhận ra ảnh hưởng của Mật tông và Du-già hành tông (瑜伽行宗), một tên khác của Duy thức tông (唯識宗), trong Kinh Lăng Nghiêm. Một trong những chủ đề được khai triển là tính vô hiệu của Pháp (sự giảng dạy) riêng lẻ mà không có "định tam muội" đạt được nhờ thiền định. Sự quan trọng của việc giữ giới cũng được nhấn mạnh không kém. Hai chủ đề nầy được đề cập trong đoạn mở đầu qua các điều không may của A-nan-đà.
A-nan-đà đã biết nằm lòng giáo lý của đức Phật nhưng không hành thiền. Là nạn nhân của một nghiệp xấu dẫn đưa A-nan-đà gặp một kỹ nữ, A-nan-đà được cứu thoát nhờ một thần chú do đức Phật đọc.
Kinh cũng khai triển sự phân biệt giữa ý thức phân biệt và chân tâm phổ cập (chứng ngộ trọn vẹn như trong tựa) hiện diện không phân biệt trong tất cả các pháp.
Kinh có những chỉ dẫn cụ thể liên quan đến thiền định, miêu tả 57 giai đoạn đến cảnh giới Bồ Tát, giải thích rõ ràng về nghiệp và tái sinh, cũng như sự trình bày 50 "tâm giới" ma quỷ mà người tu tập có thể gặp phải trên con đường tâm linh.
Theo Thiền sư Hám Sơn Đức Thanh (triều đại nhà Minh), Kinh Lăng Nghiêm chỉ có thể được thông hiểu gián tiếp qua tri giác trung thực nhờ tu tập "Du già hiện sự", bằng cách loại trừ mọi dấu vết của sự phân biệt có ý thức.
Ở Trung Hoa, Kinh Lăng Nghiêm có một vị trí cũng quan trọng như Kinh Pháp Hoa, Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Người ta sẵn lòng nhấn mạnh đến sự tương ứng của nội dung Kinh với nhiều văn bản khác trong Kinh tạng. Trên một bình diện thiết thực, đoạn cuối của Kinh mô tả 50 (10 cho mỗi uẩn) "tâm giới" ma quỷ cản trở tiến bộ tâm linh. Đoạn này cũng như những chú giải liên quan đến Chú Lăng Nghiêm rất được nhiều người ưa đọc.
Thiền sư Tuyên Hoá (1918-1995), một trong những vị đại sư đề xướng Kinh Lăng Nghiêm, cũng nêu ra trước giá trị của Kinh giúp báo động về các vị thầy không chân chính. |
Hoà thượng Tuyên Hóa (tiếng Hán: 宣化上人), pháp danh là An Từ, tự Độ Luân; 26 tháng 4 năm 1918 – 7 tháng 6 năm 1995) là một tu sĩ Phật giáo gốc Trung Quốc, người kế thừa đời thứ 9 của Quy Ngưỡng tông.
Thân thế
Sư tên tục là Bạch Ngọc Thư, sinh ngày 16 tháng 3 năm Mậu Ngọ (tức 26 tháng 4 năm 1918), tại tỉnh Kiết Lâm, huyện Song Thành, tỉnh Tùng Giang, vùng Đông Bắc Trung Hoa (tức Mãn Châu). Cha tên Phú Hải, chuyên nghề nông; mẹ thuộc dòng dõi họ Hồ, sinh được tám người con, năm trai ba gái, và Ngọc Thư là út.
Mẹ sư vốn là một tín đồ Phật giáo sùng đạo. Chịu ảnh hưởng từ mẹ, từ nhỏ sư đã có ý xuất gia. Tuy nhiên, mãi sau khi mẹ qua đời, sư mới đến chùa Tam Duyên lạy Lão Hòa thượng Thường Trí làm thầy, và xuống tóc xuất gia. Khi đó sư mới 19 tuổi.
Sau khi xuất gia, sư trở về mộ phần mẹ thủ hiếu trong ba năm. Suốt thời gian ấy, sư sống trong một túp lều tranh nhỏ, ngày ngày tọa Thiền, tu tập.
Gặp Thiện Tri Thức
Năm 1946, sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc, tình trạng giao thông đã bắt đầu dễ dàng trở lại. Sư bèn tìm xuống phía Nam để đến chùa Nam Hoa ở Tào Khê, tỉnh Quảng Đông, đảnh lễ Lão Hòa thượng Hòa thượng Hư Vân, và đến núi Phổ Đà để thọ Cụ Túc Giới. Cuối cùng, trải hơn 3.000 dặm, sư đã được bái kiến lão Hòa thượng Hư Vân, bậc Đại thiện tri thức mà sư bấy lâu ngưỡng mộ.
Vừa nhìn thấy sư, lão Hòa thượng, lúc ấy đã 109 tuổi, liền nhận ra ngay sự chứng ngộ của sư. Lão Hòa thượng nói: "Như thị, như thị!" và sư cũng đáp lại "Như thị, như thị!" Biết sư là bậc "pháp khí", lão Hòa thượng ấn chứng sở đắc của sư, tặng cho pháp hiệu Tuyên Hóa và sư chính thức trở thành vị tổ thứ chín của Quy Ngưỡng tông. Sau đó, Lão Hòa thượng dạy sư ở lại đảm nhận chức Viện trưởng Viện Giới luật của chùa Nam Hoa.
Sang Hương Cảng
Năm 1949, sư từ giã chùa Nam Hoa, lên đường sang Hương Cảng, và sống trong một sơn động biệt lập. Chẳng bao lâu, có vô số tăng lữ từ Trung Hoa Đại Lục qua Hương Cảng tị nạn và cần sự giúp đỡ của Sư. sư rời sơn động, sáng lập Phật giáo Giảng Đường, chùa Tây Lạc Viên và Từ Hưng Thiền Tự, cùng trợ giúp xây dựng và trùng tu nhiều đạo tràng khác.
Sang Hoa Kỳ
Năm 1961, sư sang Úc Châu hoằng Pháp; và năm sau, 1962, sư đến San Francisco, Hoa Kỳ. Tại đây, nơi một nhà kho nhỏ, sư kiên trì tu hành trong im lặng, chờ đợi cơ duyên hoằng dương Đạo pháp chín muồi. Lúc ấy, sư tự gọi mình là "Mộ Trung Tăng" (nhà sư trong phần mộ) và "Hoạt Tử Nhân" (người đã chết nhưng còn sống).
Hoằng Pháp tại Tây phương
Năm 1968, biết cơ duyên đã đến, sư nói: "Một đóa hoa sẽ nở ra năm cánh." Mùa hè năm ấy, sư chủ trì Pháp hội giảng Kinh Lăng Nghiêm trong 96 ngày. Khi Pháp hội kết thúc, quả nhiên có năm người Mỹ xin xuất gia với Sư. Từ đó, sư chủ trì nhiều Pháp hội khác giảng giải Tâm Kinh, Kinh Địa Tạng, Kinh Pháp Hoa, Kinh Pháp Bảo Đàn, v.v. Năm 1971, sư giảng bộ kinh tối cao của Đại Thừa, Kinh Hoa Nghiêm.
Thành lập tăng đoàn tại Tây phương
Vì số người phát tâm cầu xin xuất gia làm tăng ni ngày một tăng, trong năm 1972, sư quyết định chính thức truyền tam đàn đại giới lần đầu tiên ở Mỹ, tại Kim Sơn Thiền Tự. Sư cung thỉnh chư cao tăng đại đức đăng đàn truyền giới. Năm nam và một nữ thọ giới tỳ kheo và tỳ kheo ny. Tiếp đến, tại Vạn Phật Thánh Thành, tổ chức Tam Đàn Đại Giới vào những năm 1976, 1982, 1989, 1991, 1992 và 1995. Hơn hai trăm giới tử với nhiều quốc tịch đã xuất gia, thọ giới dưới sự chỉ dạy của sư.
Sư quyết tâm đem chính pháp Phật giáo truyền bá sang Tây phương. Đồng thời, tuy khuyến khích các đệ tử tu học Phật pháp theo truyền thống của chư tổ sư, nhưng sư cũng thường nhắc nhở họ nên chú ý dẹp bỏ tập tục mê tín dị đoan đang che lấp Phật Pháp chân chính, để tránh cho Phật giáo Tây phương khỏi bị ô nhiễm bởi những lề lối tu hành băng hoại hiện đang lan truyền trong Phật giáo của người Trung Hoa. sư cũng khuyến khích họ nên hiểu những lý lẽ chính đáng trong sự tu hành của người xưa.
Những cải cách của sư gồm có: Phục hồi giới luật do đức Phật chế ra như tăng sĩ phải đắp y ca sa để biểu thị giới tướng; nhấn mạnh việc đức Phật dạy chư tăng ni thọ trai mỗi ngày một lần, không nên ăn sau giờ ngọ. Tự thân sư thực hành và khuyến khích đệ tử tuân thủ các hạnh này. Sư cũng khích lệ các đệ tử nên ngồi thiền mà không nằm vào ban đêm. Những ngày đầu tại chùa Thiên Hậu, tại khu "phố Tàu" của Cựu Kim Sơn (San Francisco), một số đệ tử xuất gia, vì muốn hành hạnh này, ra đường kiếm những thùng phuy bỏ rồi đem về sửa lại để làm chỗ ngồi vừa vặn, không duỗi chân ra trong lúc ngủ vào ban đêm. Sư cũng thường chỉ trích những người cư sĩ Trung Hoa, thường đi quy y hay làm đệ tử rất nhiều thầy. Riêng sư không nhận những người đã từng quy y với các thầy khác làm đệ tử của mình.
Có vài người Mỹ bị Phật pháp và sư thu hút vì thích những cảm ứng cùng thần thông biến hoá. Họ muốn tìm hiểu về những cảm ứng thần kỳ. Một số có thần thông cũng tự nhiên muốn gần gũi Sư. Nhận thấy rõ tầm nguy hiểm của sự mong cầu thần thông biến hóa, sư thường nhấn mạnh rằng những thần thông cảm ứng phát xuất từ những cảnh giới của sự tu hành, nên chớ đắm trước. Sư nhắc nhở là đức Phật luôn ngăn cấm biểu diễn thần thông. sư cũng nói rõ là thần thông không biểu hiện trí huệ và cũng không nhất định biểu thị phẩm hạnh đoan chính.
Nói chung, sư rất lo lắng về động cơ xuất gia của các đệ tử, nên thường xem xét coi tâm hạnh của họ có được thanh tịnh không. Sư không muốn thấy tăng sĩ ở Mỹ xuất gia vì những động cơ không chính đáng. Vì thế, sư lập ra gia phong cho chúng đệ tử:
"Lạnh chết, không phan duyên
Đói chết, không hóa duyên
Nghèo chết, không cầu duyên
Tùy duyên không đổi, không đổi tùy duyên
Chúng ta quyết định thực hành ba tông chỉ này
Xả mạng vì Phật sự
Tạo mạng vì tăng sự
Chánh mạng vì bổn sự
Nơi sự hiểu lý, nơi lý hiểu sự
Luôn hành tổ sư nhất mạch tâm truyền."
Ngoài ra, sư chế định tiêu chuẩn tu hành cho mình và cho chính các đệ tử xuất gia lẫn tại gia, theo sáu tông chỉ: Không tranh, không tham, không mong cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói láo. Một trong những hành động khoáng đạt là sư đã nỗ lực hàn gắn lại sự phân chia hơn hai ngàn năm, của hai truyền thống Phật giáo, Nam tông và Bắc tông. sư thường cung thỉnh danh tăng Nam tông đến chùa truyền giới, cùng thương thảo và giải quyết những quan điểm dị đồng.
Vạn Phật Thánh Thành
Song song với việc giảng Kinh thuyết Pháp, sư còn làm vô số công đức độ sinh khác. Năm 1976, sư thành lập Vạn Phật Thánh Thành, nền tảng căn cứ địa để hoằng dương Phật Pháp tại Hoa Kỳ. Tại Thánh Thành, sư xây dựng chế độ tùng lâm, đào tạo tăng ni học chúng, tạo nhân duyên thù thắng cho sự chân chính tu hành. sư chủ trương rằng tất cả Phật tử cần phải đoàn kết lại và nên dung hợp Nam, Bắc tông. Vì thế, nhiều dịp truyền thọ Tam Đàn Đại Giới tổ chức tại Vạn Phật Thánh Thành là do chư cao tăng Đại thừa và Tiểu thừa hợp lực chủ trì.
Học viện Phiên dịch Kinh điển Quốc tế
Vào năm 1973, sư chính thức thành lập Hội Phiên dịch Kinh điển (Buddhist Text Translation Society) tại đường Washington ở Cựu Kim Sơn. Đến năm 1977, viện lại được sáp nhập vào trường Đại học Phật giáo Pháp giới, với danh xưng Học viện Phiên dịch Kinh điển Quốc tế. Vào năm 1990, sư lại nới rộng và dời Viện về thành phố Burlingame ở phía nam của Cựu Kim Sơn. Khi Hội Phiên dịch Kinh sách được thành lập, sư lập ra bốn ban để điều hành việc phiên dịch: (1) Ban Phiên dịch, (2) Ban Duyệt thảo, (3) Ban Nhuận sắc và (4) Ban Chứng minh. Bốn ban này cung ứng phương thức tuyệt hảo cho việc huấn luyện những người mới tham gia trong tiến trình phiên dịch. Quan trọng hơn nữa là khi người người đều tập lấy tâm Phật làm tâm mình đang khi phiên dịch và thể nhập vào những lời pháp ngữ của Sư, tâm trí họ được mở rộng và trưởng thành giúp tiến bước vững chắc trên đường tiến đến đạo Bồ Đề vô thượng.
Năm 1980, sư thành lập Trung tâm Cứu Tế Nạn dân, một tổ chức cứu trợ xã hội bất vụ lợi được chính phủ Hoa Kỳ ủy quyền để cứu tế, cung cấp các lớp huấn nghệ và học Anh ngữ, đồng thời giúp tái định cư người tỵ nạn từ Việt Nam, Lào, Campuchia. Trung tâm này đóng cửa vào năm 1986 theo quyết định của chính phủ.
Sáu đại tông chỉ của Vạn Phật Thánh Thành
Bất cứ nơi nào Hòa thượng đến hoằng truyền Phật Pháp, ngài luôn khuyên bảo mọi người theo sáu đại tông chỉ của Vạn Phật Thánh Thành là: không tranh, không tham, không mong cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối.
Hòa thượng khai thị:
- "Sáu Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thánh Thành là mục tiêu tu hành: Không tranh, không tham, không mong cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối. Những điều này là căn bản làm người, là nền tảng tu hành, và là tiêu chuẩn của chánh quyền. Sáu Đại Tông Chỉ này là sáu con đường sáng. Nếu nhớ được sáu đại tông chỉ này, quý vị có thể thành Phật. Tôi đưa ra sáu đại tông chỉ này cho những người muốn thành Phật, thành Bồ Tát, muốn thành Thanh Văn, A La Hán. Đây là những tông chỉ quan trọng nhất. Nếu thực hành được, quý vị có thể dùng suốt đời, mà vẫn không tận dụng hết được!"
- "Các sinh hoạt hằng ngày của người tu hành ở Vạn Phật Thánh Thành, đều không rời khỏi sáu điều mục như sau:
1. Không tranh. Tuyệt đối không tranh với bất cứ ai. Cũng không tranh danh, tranh lợi. Phàm đồ vật gì mà người khác thích thì mình nhường cho họ, chứ không cần phải tranh giành, gọi là: "Tranh chi bất túc, nhượng chi hữu dư," nghĩa là tranh thì không đủ, nhường thì có dư.
2. Không tham. Không phải là miệng nói không tham, nhưng khi cảnh đến thì chỉ lo tham, chẳng thể bỏ qua, thế là sai rồi. Chúng ta cần phải là: Lời nói theo đúng việc làm, và làm đúng theo lời nói, đừng để chúng mâu thuẫn với nhau. Người không có lòng tham mới bồi dưỡng được nhân cách cao thượng.
3. Không cầu. Nếu chúng ta có cầu muốn điều gì, tức là chúng ta sẽ có phiền não. Cầu mà không được, đương nhiên là chúng ta sẽ phiền não. Cho nên nói: "Vô cầu tiện vô ưu," không cầu sẽ không lo - thật là một danh ngôn chí lý. Một khi chúng ta đạt đến trình độ vô cầu, phẩm cách của chúng ta tự nhiên sẽ cao quý. Nhân đáo vô cầu phẩm tự cao, tức là vậy. Trong Bát khổ có "cầu bất đắc khổ," như cầu không được cũng khổ, mà cầu được cũng khổ luôn. Vì lo được lo mất mà tự tìm cái khổ cho mình. Vậy bởi tội gì mình phải khổ như thế. Nếu như quý vị thấy rõ ra mà buông hết tất cả thì quý vị sẽ không còn phiền não nữa.
4. Không tự tư, ích kỷ. Ai ai cũng có lòng ích kỷ. Chuyện gì chúng ta cũng tính toán cho mình trước, lo nghĩ cho con cháu của mình trước hết. Cho nên người tu hành là phải tu đến cảnh giới vô ngã. Vô ngã rồi thì chúng ta còn muốn tranh cái gì, tham cái gì, cầu cái gì nữa đây? Chúng ta phủ nhận hết, và cái gì cũng không muốn. Chúng ta phải học theo tinh thần của Bồ Tát là xả mình vì người. Tại sao thế giới nầy lại ngột ngạt đầy chướng khí, và không lúc nào trong sạch, xán lạn vậy? Bởi vì ai nấy đều tự tư, tự lợi, như nói: "Cái nầy là của tôi, cái kia thuộc về tôi," nên khiến cho thiên hạ đại loạn, thế giới chẳng được an ổn.
5. Không tự lợi. Nếu mọi người đều không có tính tự lợi, lúc nào cũng biết đủ, gặp hoàn cảnh nào cũng cảm thấy an ổn, vậy tự nhiên ai nấy cũng sẽ chung sống hòa bình với nhau. Nếu như người có tâm tham thì giống như cá theo mồi, thấy lợi là quên mất hết tình nghĩa, rồi làm những chuyện tổn hại đạo lý. Có bao nhiêu người đã vì lợi mà thân bại danh liệt, tán gia bại sản. Thậm chí có kẻ còn làm cho nước mất nhà tan, đến nỗi phải lưu lạc, không nơi nương náu.
6. Không vọng ngữ. Bất luận trong hoàn cảnh nào, chúng ta tuyệt đối cũng không nên vọng ngữ. Hễ thấy thì nói thấy, nghe thì nói nghe, chúng ta cứ thật thà mà nói, chớ nói những chuyện không có căn cứ. Chúng ta nên biết, vọng ngữ là nói những lời bịa đặt, làm tổn hại người mà chẳng có lợi ích gì cho mình, và sau khi chết nhất định bị đọa vào địa ngục cắt lưỡi. Điều đó không có chút nghi ngờ gì cả. Cho nên chúng ta phải hết sức cẩn thận.
Hôm nay tôi nói với quý vị những lời tuy rất cạn cợt, nhưng nếu quý vị chịu y chiếu theo đạo lý đó mà làm, thì sẽ hữu dụng vô cùng. Cho nên có câu: "Nói cho hay! Thuyết cho diệu! Nhưng nếu không thực hành thì không phải là Đạo. Đạo là hành, không hành sao có Đạo? Đức là làm, không làm sao có Đức?" Nếu quý vị có thể thực hành theo Lục Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thành, tự nhiên nhân cách của quý vị sẽ cao thượng hơn.
Tôi nói thêm một câu sau chót là: Quý vị đừng nên làm những chuyện ngu si như: "Yểm nhĩ đạo linh" tức bịt tai để trộm chuông. Vì quý vị không thể tự dối mình, mà cũng không thể gạt được Phật! Hà tất bụng dạ phải chứa đầy chuyện quỷ quyệt, rồi tưởng là mình có thể che đậy được hết để dối trên lừa dưới. Há như thế chẳng phải là tự chuốc lấy cái vô lý cho mình hay sao?" .
Đề xướng giáo dục
Để bổ khuyết vào nền giáo dục đang băng hoại tại Tây phương, sư sáng lập trường Đại học Pháp giới, trường trung học Bồi Đức, tiểu học Dục Lương, và phát triển chương trình trợ cấp sinh viên học sinh nghèo khó.
Đối với Sư, giáo dục thanh thiếu niên là nền tảng vững chắc, hay nhất của quốc phòng. Tại bậc tiểu học, sư đề xướng đạo hiếu thuận. Bậc trung học, đề xướng trung thành ái quốc. Bậc đại học, sinh viên không những học các ngành chuyên môn mà còn phải có trách nhiệm chuyển hóa, phát triển, làm lợi ích cho thế nhân.
Sư quân bình nền giáo dục truyền thống và nền giáo dục hiện đại. sư luôn đề xướng phương thức phát triển trí huệ sẵn có của mọi người, tức là dùng cách thức mới mẻ trong việc giáo dục. Cụ thể, sư tự viết vài bài ca bằng tiếng Anh, rồi khuyến khích các đệ tủ dùng những phương pháp đó để giảng dạy Phật pháp.
Năm 1982, sư thành lập chương trình huấn luyện tăng ni và cư sĩ với mục đích chủ yếu vào việc tu trì học tập Phật pháp trong khuôn viên tu viện, dựa trên nền tảng của giới định huệ. Chương trình huấn luyện tăng ni, chú trọng vào sự hành trì tông giáo, luật lệ sinh hoạt và quản lý tự viện. Xuyên qua các chương trình này, sư đã huấn luyện được những nhân tài phục vụ cho Tổng hội và cho Phật giáo.
Do sự đề nghị của cựu quản trị viên thành phố Cựu Kim Sơn, Carol Ruth Silver, sư thành lập trường tiểu học Dục Lương vào năm 1976. Để hỗ trợ việc bồi dưỡng mầm non thiện đức của trẻ em, trường tiểu học nhấn mạnh vào nền giáo dục có phẩm chất. Đề xướng chương trình song ngữ, tiếng Anh và tiếng Hoa, và dạy về căn bản văn hóa của Đông phương cùng Tây phương. Cô Terri Nicholson và các thầy cô giáo khác giảng dạy những lớp học đầu tiên bên dưới hầm nhà của Viện Phiên dịch Quốc tế. Trường học được dời về Vạn Phật Thánh Thành vào năm 1978. Trường trung học Bồi Đức được khai giảng vào năm 1980. Học sinh nam và học sinh nữ được học hành riêng biệt vào năm 1981.
Không phân biệt tôn giáo
Sư thường nhấn mạnh rằng giáo lý Phật giáo là dùng để giáo hóa chúng sinh. Sư cũng phê bình sự phân chia trong Phật giáo. Vì đó là điềm báo hiệu thời mạt pháp. Thêm nữa, Sư nhắc nhở mọi người đừng nên quá chấp trước vào sự phân biệt giữa tôn giáo, mạch phái. sư chủ trương các tôn giáo phải hỗ tương, học hỏi những điều hay lẽ phải và bổ khuyết lẫn nhau. Để thực hành thiết thực, sư mời hồng y Thiên Chúa giáo Vu Bình tại Đài Loan đến Vạn Phật Thánh Thành, thành lập và làm chủ nhiệm trung tâm nghiên cứu tôn giáo thế giới. Sư đề nghị rằng Hồng y Vu Bình sẽ là người Phật tử giữa những người Thiên Chúa giáo, còn sư sẽ là người Thiên Chúa giáo giữa những Phật tử. Chẳng may, Hồng y Vu Bình qua đời đột ngột, làm đình chỉ việc thành lập trung tâm đó. Sau này, vào năm 1994, Viện Nghiên cứu Tôn giáo Thế giới được thành lập tại Berkeley.
Năm 1987, sư chỉ đạo trường Đại học Pháp giới tổ chức hội thảo tôn giáo quốc tế tại Vạn Phật Thánh Thành. Trong năm 1987, Sư cũng diễn giảng tại khóa hội thảo Phật giáo-Cơ Đốc giáo Quốc tế lần thứ ba tại Berkeley. Có lần, Sư được thỉnh mời đọc bài điếu văn tại Giáo đường Từ Ân (Grace Cathedral) ở Cựu Kim Sơn.
Năm 1989, Sư được hội Quaker thỉnh mời đến Pendle Hill, Pennsylvania để thuyết pháp định kỳ tại trung tâm tu học đó. Năm 1992, Sư là quý khách chủ trì pháp hội hằng năm của nhóm Vedata Society. Đáng kể thêm là tình đạo chân thành giữa sư và Cha John Rogers, giáo sĩ trường Đại học Humbolt, rất mật thiết.
Vì Pháp quên mình
Với tinh thần "Vì Pháp quên mình," Hòa thượng không quản khó nhọc, thường xuyên đến các đạo tràng trong và ngoài nước để hoằng dương Phật Pháp. sư được mọi giới kính ngưỡng vì nếp sống khổ hạnh và nghiêm trì giới luật của Sư. Trong thời Mạt Pháp mà nhiều người không tôn trọng giới luật này, sư đã nêu gương sáng và khuyến khích nếp sống khổ hạnh bằng cách chỉ ăn mỗi ngày một bữa vào giờ ngọ và ban đêm thì ngủ ngồi chứ không nằm.
Bình sanh, sư sống nhẫn nhục, khoan dung, nhịn ăn nhiều lần để hồi hướng công đức cho chúng sanh. Cuộc khủng hoảng hỏa tiễn ở Cuba vào năm 1962 đã xảy ra không bao lâu sau khi sư đến Hoa Kỳ. sư đã tuyệt thực năm tuần để hồi hướng cho nền hòa bình thế giới. Vào dịp du hành Đài Loan năm 1989, sư đã nhịn ăn ba tuần lễ để hồi hướng cho dân chúng Đài Loan. Sau đó, sư lại đi hoằng pháp tại nhiều nước châu Âu.
Mặc dầu tuổi đã cao nhưng sư vẫn không muốn nghỉ ngơi tịnh dưỡng. Suốt ba mươi năm liên tục, sư đã đăng đàn thuyết Pháp và giảng luận kinh điển Phật giáo. Chính trong lúc đang bệnh, sư vẫn kiên trì tiếp tục đại nguyện diễn dịch kinh điển Phật giáo.
Niết Bàn
Ngày 7 tháng 6 năm 1995, Hòa thượng Tuyên Hóa thị hiện viên tịch tại Los Angeles, Hoa Kỳ; trao lại cho các đệ tử ba trách nhiệm quan yếu: (1) tiếp tục hoằng dương Phật Pháp, (2) phiên dịch kinh điển Phật giáo và (3) hoàn mãn sự nghiệp giáo dục. Vâng theo di huấn của Sư, tứ chúng đệ tử tại các đạo tràng thuộc Tổng hội Phật giáo Pháp giới đều chuyên tâm trì tụng Kinh Hoa Nghiêm và niệm Phật suốt 49 ngày kể từ hôm sư viên tịch. Ngày 12 tháng 6 năm 1995, lễ nhập quan được cử hành tại Long Beach Thánh Tự; và đến ngày 16 tháng 6, kim quan của sư được cung thỉnh về Vạn Phật Thành. Tại đây lễ truy ân được tổ chức từ ngày 26 đến ngày 28 tháng 7, tro cốt của sư được rải trên địa phận của Vạn Phật Thánh Thành đúng như lời di giáo của Sư:
"Khi tôi đến, tôi không có gì cả; khi tôi đi, tôi vẫn không có gì cả. Tôi không muốn để lại dấu vết gì trên thế gian. Tôi từ hư không đến. Tôi sẽ trở về hư không!"
Dù cho sư không muốn để lại một dấu vết nào trên thế gian này, nhưng công đức hoằng Pháp tại Tây phương, phiên dịch kinh điển, thiết lập đạo tràng và học đường của sư đã gieo hạt giống Bồ Đề và đã gây được ảnh hưởng sâu rộng đến các từng lớp dân chúng Tây phương.
Ngày 23 tháng 6 năm 1996, đúng một năm sau ngày Hòa thượng Tuyên Hóa nhập Niết Bàn, Tổng hội Phật giáo Pháp giới long trọng tổ chức lễ cung thỉnh xá lợi về các đạo tràng. Một trong những lời di huấn của sư là: "Hãy quét sạch tất cả các Pháp, ly khai tất cả các tướng!"
Di sản
Suốt cuộc đời, sư luôn khiêm cung, vô ngã và tận tụy rãi lòng đại bi đến tất cả chúng sanh. sư hành đạo không nghỉ ngơi, chỉ muốn dẹp trừ màng vô minh, mê si đang che lấp bản tính chân thật của chúng sanh. sư luôn hành đạo vì hòa bình nhân loại, tôn giáo, quốc gia, thế giới. Mặc dầu chú trọng vào việc phát triển Tổng hội Phật giáo Pháp giới, sự cống hiến và công đức truyền bá Phật giáo qua Tây phương của sư được tóm tắt như sau:
Phật giáo đã có mặt ở Trung Hoa trước khi Bồ-đề-đạt-ma, tổ sư Thiền tông, từ Ấn Độ sang. Tuy nhiên, hầu hết mọi người đều mê mờ về giáo nghĩa chân chính của Phật pháp, không thể phân biệt gì là chân thật hay giả dối, gì là hời hợt hay thâm sâu. Tổ Bồ-đề-đạt-ma thắp lên ngọn đuốc trí huệ, làm sáng tỏ chân nghĩa của Phật pháp, bằng cách dạy họ tự mình rõ tâm thấy tính (minh tâm kiến tính), chứng được quả vị Bồ-đề. Hòa thượng Tuyên Hóa qua Tây phương sau khi Phật giáo được truyền sang đây khoảng một trăm năm. Lúc đó, có rất nhiều người thích nghiên cứu học hỏi Phật pháp, nhưng cũng rất mù mờ với những hiểu biết sai lầm. Vì vậy, nhận thấy rằng chỉ khi nào tăng đoàn Phật giáo được thanh tịnh và vững mạnh thì Phật giáo tại quốc gia đó mới được hưng thịnh, nên sư trùng hưng cải cách chế độ của tăng đoàn, chú trọng việc giữ gìn giới luật tinh nghiêm của hai chúng đệ tử xuất gia và tại gia. Nhận biết bản tính người Mỹ rất thích thực tế, và nhờ tiếp thừa tinh thần của tổ Bồ-đề-đạt-ma, sư đề xướng thực hành thiền định tinh tấn, để họ có thể trực tiếp tự chứng ngộ giáo nghĩa chân chính của Phật giáo. Vì có một số người nhận thức sai lầm về Phật giáo, sư giảng giải kinh điển Phật giáo bằng phương pháp đơn giản dễ hiểu, và chỉ rõ sự liên hệ mật thiết giữa chân nghĩa kinh điển cùng việc tu tập thực hành trong đời sống hằng ngày. Sau đó, lại phiên dịch những lời chú giải ra Anh ngữ để giúp các độc giả Tây phương tiện việc nghiên cứu học hỏi. Cuối cùng, sư quyết định chọn lựa Tây phương là nơi thực hành giáo hóa, tức dùng sự hành trì chân thật của mình mà hóa độ họ trong đời sống hằng ngày, hầu chỉ rõ chân nghĩa Phật giáo. Nhờ phương thức này, vô số người Tây phương vô cùng cảm động tri ân và thực hành theo những điều sư đã giảng dạy. |
300 (ba trăm) là một số tự nhiên ngay sau 299 và ngay trước 301. |
Vladimir Vladimirovich Putin ( ; phiên âm tiếng Việt: Vla-đi-mia Vla-đi-mia-rô-vích Pu-chin; sinh ngày 7 tháng 10 năm 1952), là một chính trị gia người Nga và là cựu Thủ tướng của Liên bang Nga, là Tổng thống thứ hai của Nga từ ngày 7 tháng 5 năm 2000 cho đến ngày 7 tháng 5 năm 2008 và là Tổng thống thứ tư của Nga từ ngày 7 tháng 5 năm 2012 đến nay. Ông đảm nhiệm chức vụ này theo hiến pháp từ ngày 31 tháng 12 năm 1999 sau khi nguyên tổng thống Boris Nikolayevich Yeltsin từ chức.
Tháng 8 năm 1999, Yeltsin đã bổ nhiệm Putin làm thủ tướng Nga thay thế cho người tiền nhiệm Sergei Stepashin. Ngay sau đó Putin đã nhanh chóng trở nên thu hút ở Nga nhờ cuộc xung đột Nga-Chechnya tháng 9 năm 1999 để đáp trả lại Cuộc chiến tranh ở Dagestan và Vụ ném bom nhà ở của người Nga. Sau chiến dịch này các đảng phái hậu thuẫn Putin đã giành được sự ủng hộ vững chắc trong cuộc bầu cử nghị viện 1999. Đến cuối năm 1999 trước sức ép quá lớn từ các nhà lãnh đạo cũng như người dân Nga, Yeltsin đã quyết định từ chức và Putin trở thành tổng thống lâm thời. Trong cuộc bầu cử vào tháng 3 năm 2000, ông đứng đầu trong mười ứng cử viên và trở thành tổng thống thứ hai của Liên bang Nga thời kỳ hậu Xô viết.
Do giới hạn hiến pháp (không làm quá 2 nhiệm kỳ Tổng thống Nga liên tục), Putin không thể kéo dài thời gian lãnh đạo sang nhiệm kỳ thứ 3. Sau sự thành công của người kế nhiệm của ông, Dmitry Medvedev, trong cuộc Bầu cử tổng thống Nga, 2008, ông được Medvedev đề cử vào chiếc ghế Thủ tướng Nga và chính thức nhậm chức vào ngày 8 tháng 5 năm 2008. Năm 2012, ông tiếp tục tranh cử Tổng thống, và đắc cử nhiệm kỳ thứ 3 với 63% số phiếu cử tri. Năm 2018, Putin giành được 77% phiếu bầu tổng thống vào kỳ bầu cử tháng 3 năm 2018, đồng nghĩa với việc ông sẽ tiếp tục đảm nhiệm chức vụ Tổng thống Nga trong nhiệm kỳ sáu năm sẽ kết thúc vào năm 2024.
Putin là nhà lãnh đạo Nga giành được sự ủng hộ lớn nhất của người dân kể từ sau sự tan rã của Liên Xô. Putin được những người ủng hộ ông khen ngợi vì đã phục hồi sức mạnh của nước Nga sau những năm cầm quyền hỗn loạn của Boris Yeltsin. Trong tám năm cầm quyền, nền kinh tế đã thoát khỏi cơn khủng hoảng với GDP tăng gấp sáu lần (72% PPP). Ông cũng phản bác nhiều vụ tuyên truyền chống phá nước Nga và loại bỏ những đầu sỏ tài phiệt từng lũng đoạn chính trường Nga trong thập niên 1990 Trong khi đó, những người phản đối Putin lại mô tả ông là một nhà độc tài, lạm dụng quyền lực. Một số nhà hoạt động, các tổ chức nhân quyền và một số nhà bình luận phương Tây đã "bày tỏ lo ngại" về tình trạng dân chủ, tự do báo chí và nhân quyền tại Nga, họ cáo buộc Putin đã "vi phạm nhân quyền", đàn áp các cuộc phản đối dân sự cũng như ra lệnh ám sát các đối thủ chính trị của ông. Putin đã bác bỏ các cáo buộc nói trên, ông cũng cho rằng nước phương Tây đang tỏ ra "đạo đức giả" khi họ luôn thuyết giảng nước Nga về dân chủ, nhân quyền nhưng lại liên tục "bất chấp luật pháp quốc tế" và "đem quân xâm lược các nước khác". Các quan chức của chính phủ Hoa Kỳ buộc tội ông đưa ra một chương trình can thiệp chống lại Hillary Clinton và ủng hộ Donald Trump trong cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2016, điều mà Putin đã thường xuyên phủ nhận.
Năm 2007, ông Putin được tạp chí Time chọn làm Nhân vật của năm. Năm 2015, Putin đứng đầu trong danh sách 100 người có sức ảnh hưởng nhất thế giới cũng của tạp chí này. Tạp chí Forbes đã bầu chọn Putin là người quyền lực nhất thế giới trong 4 năm liên tiếp kể từ năm 2013 đến năm 2016., với bình luận rằng "Putin vẫn tiếp tục chứng tỏ ông là một trong số rất ít những người đàn ông trên toàn cầu đủ quyền lực để làm những điều mà ông muốn mà không gặp trở ngại gì, không bị ràng buộc bởi dư luận thế giới trong việc theo đuổi những mục đích riêng".
Cuộc đời và sự nghiệp
Putin sinh tại Leningrad (St. Petersburg từ 1991 và trước 1914). Cuốn tiểu sử của ông, Ot Pervogo Litsa, dịch sang tiếng Anh dưới tiêu đề First Person (Người đầu tiên, tựa Việt: Nhân vật số một, Firstnews Trí Việt) dựa trên các cuộc phỏng vấn được thực hiện với Putin năm 2000 và lấy chi phí từ chiến dịch tranh cử của ông. Cuốn sách nói về xuất thân bình dân của vị tổng thống, gồm cả những năm đầu tiên cuộc đời trong một căn hộ chung cư cũ kỹ nhỏ bé được nhà máy của bố Putin phân. Theo tiểu sử, thời tuổi trẻ ông rất thích theo dõi các âm mưu trong các bộ phim trinh thám của Điện ảnh Xô viết do các diễn viên như Vyacheslav Vasilyevich Tikhonov và Georgiy Stepanovich Zhzhonov thủ vai.
Cũng trong cuốn sách này, Putin nói rằng ông nội ông, bếp trưởng Spiridon Putin, đã được đưa tới các khu ngoại ô Moskva nấu ăn trong một trong những căn nhà nông thôn (dacha) của Joseph Stalin. Trong cuốn sách The Court of the Red Tsar (Triều đình của Sa hoàng Đỏ) của Simon Sebag Montefiore có một chú thích tại trang 300 ghi rằng Putin đã nói ông nội mình ít khi đề cập tới công việc, nhưng ông đã kể lại việc chuẩn bị các bữa ăn cho Grigori Yefimovich Rasputin khi ông này còn là một cậu bé và cả Lenin. Mẹ ông, Maria Ivanovna Shelomova, là công nhân trong nhà máy và cha ông làm việc trong lực lượng hải quân, tại hạm đội tàu ngầm đầu thập niên 1930. Cha ông sau này chuyển sang lực lượng bộ binh trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Hai người anh của ông ra đời giữa thập niên 1930; một người chết vài tháng sau khi sinh; người thứ hai chết vì bệnh bạch hầu trong thời gian phong tỏa Leningrad.
Putin tốt nghiệp Ban quốc tế Khoa luật Đại học Quốc gia St. Petersburg năm 1975 và được tuyển dụng vào KGB. Trong cuốn First Person, Putin đã kể lại với các nhà báo về những nhiệm vụ đầu tiên của mình trong KGB, gồm cả những hoạt động đàn áp đối lập tại Leningrad.
Từ 1985 đến 1990 KGB chuyển Putin sang làm việc tại Dresden, Đông Đức, ở vị trí mà ông cho là hạng thấp. Sau khi chế độ Đông Đức sụp đổ, Putin được gọi về Liên bang Xô Viết và quay trở lại Leningrad, nơi vào tháng 6 năm 1990 ông được trao một chức vụ tại ban Quan hệ quốc tế của Đại học Quốc gia Leningrad, trực tiếp dưới quyền hiệu phó. Tháng 6 năm 1991, ông được chỉ định làm lãnh đạo Ủy ban quốc tế trong văn phòng thị trưởng St. Petersburg, với trách nhiệm tăng cường quan hệ quốc tế và đầu tư nước ngoài.
Putin đã chính thức thôi chức vụ bên trong ngành an ninh quốc gia ngày 20 tháng 8 năm 1991, khi KGB ủng hộ cuộc đảo chính sớm thất bại chống lại Tổng thống Liên Xô Mikhail Sergeyevich Gorbachyov. Năm 1994 ông trở thành Phó chủ tịch thứ nhất thành phố St. Petersburg dưới quyền Anatoly Sobchak, vị trí ông giữ cho tới tận khi được gọi tới Moskva, tháng 8 năm 1996, để nhận nhiều chức vụ cao cấp bên trong bộ máy chính quyền thứ hai của Boris Nikolayevich Yeltsin. Ông là lãnh đạo dân sự của Tổng cục An ninh Liên bang Nga FSB (cơ quan kế tục KGB) từ tháng 7 năm 1998 đến tháng 8 năm 1999, và giữ chức vụ Thư ký Ủy ban An ninh từ tháng 3 đến tháng 8 năm 1999.
Trong thập niên 1990, Putin được nhận bằng phó tiến sĩ kinh tế học tại học viện mỏ ở St. Petersburg (СПбГГУ). Bài luận văn của ông mang chủ đề "Hoạch định chiến lược các nguồn tài nguyên vùng trong bối cảnh thành lập các mối quan hệ thị trường".
Chức vụ Thủ tướng và nhiệm kỳ Tổng thống đầu tiên
Putin được Tổng thống Yeltsin chỉ định làm chủ tịch (predsedatel, hay thủ tướng) Chính phủ Liên bang Nga vào tháng 8 năm 1999, khiến ông trở thành thủ tướng thứ năm của nước Nga trong khoảng thời gian chưa đầy mười tám tháng. Khi được chỉ định, rất ít người tin rằng Putin, một khuôn mặt rõ ràng ít tiếng tăm, có thể giữ ghế lâu hơn so với những người tiền nhiệm. Những đối thủ chính và có thể là người kế nhiệm của Yeltsin như Thị trưởng Moskva Yuriy Mikhaylovich Luzhkov và cựu Thủ tướng Nga Yevgeniy Maksimovich Primakov đã tiến hành các chiến dịch vận động nhằm thay thế vị tổng thống già yếu, đã có phản ứng mạnh mẽ nhằm ngăn cản Putin xuất hiện với tư cách một đối thủ tiềm năng. Hình ảnh một nhân viên ngành an ninh tiếp cận và xử lý vấn đề khủng hoảng Chechnya (xem bên dưới) một cách cứng rắn của Putin đã nhanh chóng lôi cuốn sự ủng hộ của dân chúng, cho phép ông dần vượt xa các đối thủ. Trong khi chính thức không liên kết với một đảng nào, Putin lại nhận được sự ủng hộ của phe Edinstvo (thống nhất) mới thành lập và hiện chiếm đa số trong cuộc bầu cử Duma tháng 12 năm 1999. Putin được tái chỉ định làm Thủ tướng chính phủ và dường như đang ở vị trí thuận lợi nhất cho cuộc bầu cử tổng thống trong mùa hè sau đó. Quá trình thăng tiến của ông tới chức vụ cao nhất nước Nga thậm chí còn nhanh chóng hơn: ngày 31 tháng 12 năm 1999, Yeltsin bất ngờ từ chức, và theo hiến pháp, Putin được chỉ định làm tổng thống (tạm quyền), trở thành vị tổng thống thứ hai của nhà nước Liên bang Nga. Cuộc bầu cử tổng thống được tổ chức ngày 26 tháng 3 năm 2000, trong đó Putin đã thắng cử ngay từ vòng đầu tiên. Sau này Putin đã trao cho vị cựu tổng thống và gia đình của ông quyền hoàn toàn miễn trừ truy tố (thông qua nghị định tổng thống). Ngay trước đó, Yeltsin và gia đình mình đang bị các cơ quan chức năng Nga và Thụy Sĩ đặt nghi vấn về các trách nhiệm liên quan tới những vụ chuyển tiền bất hợp pháp.
Sau nhiều năm bê bối, thay đổi chính sách liên tục khiến dân chúng bất mãn với Yeltsin - vị tổng thống già cả, vụng về và ốm yếu - thì việc Putin thắng cử và lên nhậm chức đã đánh dấu một bước khởi đầu mới cho nước Nga trong giai đoạn lịch sử hậu Xô viết. Tuy nhiên, việc vị tổng thống mới được thắng cử không tránh khỏi những biện pháp ảnh hưởng hậu trường không nhỏ do nhóm ủng hộ Yeltsin tiến hành, họ đã lựa chọn và ủng hộ Putin nhằm bảo vệ quyền lực riêng cũng như giữ vững các quyền lợi ưu tiên của mình. Khi bộ máy chính phủ mới của Putin hình thành, các bộ mặt nhiều ảnh hưởng cũ thời Yeltsin – gồm cả Lãnh đạo Nhân sự Aleksandr Staliyevich Voloshin và Thủ tướng Mikhail Mikhailovitch Kasyanov – vẫn giữ được nhiều quyền kiểm soát đối với các chính sách và sự chỉ đạo của chính phủ mới. Mặt khác, Putin cũng được hậu thuẫn bởi một nhóm các nhà cải cách kinh tế từ quê hương Sankt-Peterburg của ông, và có thể tin cậy cũng như có được ủng hộ từ siloviki. (Nhóm này được gọi là những thành viên vẫn giữ nhiều quyền lực bên trong các cơ quan an ninh Nga, họ tự coi mình là những người bảo vệ quyền lợi quốc gia khỏi các chính trị gia và các quan chức tham lam, và thường được cung cấp đầy đủ thông tin về mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị Nga.) Sự đấu tranh – và hợp tác – giữa nhiều nhóm đó là đặc trưng lớn nhất của nhiệm ký thứ nhất của Tổng thống Putin.
Ngay khi trúng cử, Putin đã đưa ra nhiều biện pháp nhằm tái lập quyền lực tuyệt đối của Kremlin đối với đời sống chính trị Nga. Thời Yeltsin, 89 vùng lãnh thổ chính trị cấp dưới liên bang ở nước Nga (các nước cộng hoà, vùng, krai, Moskva và Sankt-Peterburg) đều được trao những quyền tự trị rất lớn. Trong khi hành động cải cách triệt để này có mục tiêu nhằm giúp cho các thủ đoạn chính trị của Yeltsin trong giai đoạn đầu thập niên 1990, nó cũng dẫn tới tình trạng phá vỡ các quy tắc liên bang và góp phần làm lớn mạnh các phong trào li khai, nổi tiếng nhất như tại Chechnya. Vì thế, một trong những đạo luật đầu tiên của Putin, nhằm tái lập lại cái mà ông gọi là "quyền lực theo chiều dọc" – nghĩa là quay trở lại với hệ thống liên bang từ trên xuống theo truyền thống. Trong hành động đầu tiên, Putin thông báo chỉ định bảy vị "đại diện toàn quyền" của tổng thống. Trong khi được coi là hành động thức hai nhằm phá vỡ kiểu nhà nước liên bang thời Yeltsin, vì nhiều lý do hệ thống đại diện toàn quyền đã mang lại một số thành công. Một hành động khác còn mang ý nghĩa quan trọng hơn, Putin cũng đã tiến hành cải cách triệt để hệ thống Thượng viện Nga, Ủy ban Liên bang. Putin và bộ máy của mình trực tiếp đối đầu với nhiều vị Thống đốc bất tuân bị buộc tội tham nhũng, dù không phải lúc nào cũng là người chiến thắng.
Những tháng đầu tiên trong nhiệm kỳ tổng thống thứ nhất của Putin được đánh dấu bằng sự dàn xếp quan hệ với các nhóm tài chính-công nghiệp lớn, mà các nguồn tài chính cũng như các đế chế truyền thông của họ từng là những vũ khí quan trọng trong cuộc chiến tranh chính trị xảy ra trong nước những năm trước đó. Các thành viên chủ chốt trong bộ máy cũ của Yeltsin – thường được gọi thông tục là "the Family" (Gia đình) – do Vladimir Aleksandrovich Gusinsky, người từng ủng hộ bộ đôi Primakov/Luzhkov cầm đầu. Trong vòng một năm từ khi Putin lên nắm quyền, Gusinsky từ lúc là một kẻ có ảnh hưởng trở thành người bị giam vào tù. Thành tích ấn tượng nhất của Putin trong nhiệm kỳ tổng thống thứ nhất là ngay khi vừa lên cầm quyền ông đã vực dậy nền kinh tế Nga từ chỗ suy thoái nhiều năm liền chuyển sang tăng trưởng. Nước Nga bắt đầu hồi sinh dưới sự lãnh đạo của Putin.
Cuộc khủng hoảng lớn nhất Putin phải đối mặt trên cương vị tổng thống xảy ra tháng 8 năm 2000, khi chiếc tàu ngầm nguyên tử Nga Kursk đắm ngoài khơi bán đảo Kola, làm thiệt mạng 118 thủy thủ trên tàu. Rất nhiều người thuộc đủ mọi tầng lớp trong xã hội Nga tức giận với sự thất bại của chính phủ và quân đội trong việc cung cấp những thông tin đáng tin cậy về mức độ và sự chắc chắn của thảm họa trong những ngày đầu tiên. Sau nhiều ngày để dân chúng tức giận và ngày càng hoang mang, Putin cắt ngắn kì nghỉ của mình, quay trở lại Moskva nhận trách nhiệm trực tiếp giải quyết cuộc khủng hoảng. Cho tới khi chiếc tàu ngầm được kéo lên, ủy ban điều tra của chính phủ về vụ tai nạn này đã đưa ra rất nhiều giả thuyết về nguyên nhân, gồm cả việc va chạm với tàu ngầm của NATO (một giả thuyết không bao giờ được các bằng chứng ủng hộ và bị các nước thuộc liên minh bác bỏ). Tuy Putin bị chỉ trích trên các phương tiện thông tin đại chúng Nga vì sự bất lực của mình trong những giai đoạn đầu cuộc khủng hoảng, nhưng nó không để lại những hậu quả lâu dài đối với hình ảnh ông trong lòng nhân dân.
Putin không ủng hộ việc xóa bỏ quá khứ Liên bang Xô viết ra khỏi lịch sử nước Nga — vốn là chính sách trước kia của Yeltsin nhằm mục đích chính là đối phó với các đối thủ của Đảng Cộng sản Nga. Ông đã miêu tả niềm tin của mình rằng Liên Xô trước kia là một phần quan trọng trong lịch sử Nga và những di sản của Liên Xô có một ảnh hưởng lớn trên việc hình thành xã hội Nga hiện đại. Vì thế, Putin đã đưa một số biểu tượng thời Xô viết đã quay trở lại nước Nga, như lá cờ đỏ của Hồng quân, tiêu ngữ "Ngôi sao Xô Viết", và Quốc ca Liên Xô (được sửa chữa lời nhưng giữ nguyên nền nhạc) – tất cả những thứ đó đã tạo được ấn tượng tốt với đa số dân chúng Nga. Trả lời những người chỉ trích các hành động đó, Putin đã đưa ra lý lẽ rằng ông là tổng thống của mọi người Nga - gồm cả những người về hưu đã mất mọi thứ cùng với sự chuyển tiếp thời hậu Xô viết, những người vẫn trung thành với những biểu tượng của quá khứ.
Đảng Nước Nga thống nhất ủng hộ Putin đã giành được một thắng lợi vô tiền khoáng hậu trong cuộc Bầu cử Nghị viện Nga 2003. Các nhà quan sát chính thức từ nước ngoài đã gọi đó là một cuộc bầu cử tự do nhưng ghi chú rằng các cơ quan truyền thông lớn do nhà nước kiểm soát, đặc biệt là Truyền hình quốc gia Nga, đã tiến hành các chiến dịch truyền thông rộng lớn và không công bằng dành riêng cho đảng cầm quyền. Quả vậy, đa số các đài truyền hình Nga hiện dưới quyền quản lý trực tiếp hay gián tiếp của Kremlin. Trong khi có số độc giả hạn chế hơn, các tờ báo hiện đa dạng hơn; một số tờ chỉ trích chính phủ Kremlin, trong khi số khác ủng hộ đường lối chính phủ. Một trong hai tờ báo thương mại chính chính, Kommersant, do Boris Abramovich Berezovsky trực tiếp kiểm soát, trong khi tờ kia – tờ Vedomosti vốn được độc giả rất tin tưởng – thuộc sự đồng sở hữu của hai tờ Financial Times và Wall Street Journal.
Những lời chỉ trích trong nước và quốc tế buộc tội Putin đã đạo diễn các phiên tòa xử các nhân vật đầu sỏ chính trị như Boris Abramovich Berezovsky, Vladimir Aleksandrovich Gusinsky, và sau này là Mikhail Borisovich Khodorkovsky như một phần trong nỗ lực của Kremlin nhằm kiểm soát toàn bộ phương tiện truyền thông Nga và các lĩnh vực quan trọng trong nền kinh tế Nga. Về phần mình, chính quyền của Putin đã đưa ra lập luận rằng những hành động của họ chống lại các nhân vật đầu sỏ trên dựa trên tinh thần pháp luật và nhằm kìm chế cũng như hủy bỏ những vấn đề xung đột nghiêm trọng trong nền kinh tế Nga sau nhiều năm có được đặc quyền đặc lợi.
Ngày 24 tháng 2 năm 2004, chưa tới một tháng trước cuộc bầu cử, Putin đã cách chức Thủ tướng Kasyanov và toàn bộ chính phủ Nga và chỉ định Viktor Borisovich Khristenko làm quyền thủ tướng. Ngày 1 tháng 3, ông chỉ định Mikhail Yefimovich Fradkov vào vị trí này.
Nhiệm kỳ Tổng thống thứ hai
Ngày 14 tháng 3 năm 2004, Putin thắng cử nhiệm kỳ hai với 71 phần trăm số phiếu bầu. Một lần nữa các kênh truyền hình lại thực hiện một chiến dịch tuyên truyền một phía ủng hộ Putin, đa số chúng đều là các kênh do nhà nước sở hữu hay kiểm soát. Tuy nhiên, chiến dịch tranh cử và việc kiểm phiếu đều được các phái đoàn của Văn phòng vì các Thể chế Dân chủ và Nhân quyền thuộc Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu tuyên bố là "tự do và công bằng".
Ngày 13 tháng 9 năm 2004, sau vụ Khủng hoảng con tin trường học tại Beslan, và những vụ tấn công hầu như đồng thời của những kẻ khủng bố Chechnya vào Moskva, Putin đã đưa ra một sáng kiến nhằm thay thế cuộc bầu cử các thống đốc vùng bằng một hệ thống theo đó họ sẽ được Tổng thống đề cử và được chấp nhận hay không bởi các cơ quan hành pháp địa phương. Những người phản đối sáng kiến này, gồm cả Mikhail Gorbachev, Boris Yeltsin, và Colin Powell, những người chỉ trích coi đó là một bước xa rời dân chủ ở Nga và quay lại với bộ máy tập trung trung ương thời kỳ Xô viết. Cùng ngày hôm đó, Putin đã công khai ủng hộ kế hoạch của Ủy ban Bầu cử Trung ương về việc bầu các đại biểu Duma dựa hoàn toàn trên sự giới thiệu từ các vùng, chấm dứt một nửa các cuộc bầu cử đại biểu tại các đơn vị chỉ bầu một người.
Ngày 25 tháng 4 năm 2005, Putin đã gây ra một số cuộc tranh luận, khi trong một bài phát biểu trước Quốc hội, được phát trên truyền hình quốc gia đã coi sự sụp đổ của Liên bang Xô viết như là "thảm họa địa chính trị lớn nhất thế kỷ." Lời nói này được phương Tây và một số nước xung quanh nhìn nhận với thái độ chỉ trích; sau này Putin đã nói rõ rằng ông không hẳn ca ngợi Liên bang Xô viết cũ mà chỉ muốn nhấn mạnh tới ảnh hưởng mạnh mẽ của sự sụp đổ này trên thế giới, đặc biệt với kinh tế và đời sống người dân từ các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ và sự dịch chuyển dân cư một phần gây ra từ tình cảm chống Nga tại nhiều nước cộng hòa đó. Trước năm 2005, ngày kỉ niệm Cách mạng tháng Mười 7/11 hàng năm là ngày nghỉ lễ trên toàn nước Nga. Tuy vậy kể từ năm 2005 ngày nghỉ lễ 7/11 tại Nga đã bị Putin bãi bỏ và chỉ còn là một ngày bình thường.
Một trong những khía cạnh gây tranh luận nhiều nhất trong nhiệm kỳ thứ hai của Putin là việc truy tố người giàu nhất nước Nga, Mikhail Khodorkovsky, Chủ tịch công ty dầu mỏ Yukos. Trong khi đa phần phương tiện truyền thông quốc tế coi đó là một hành động chống lại một người từng cung cấp tài chính cho các đối thủ chính trị của Kremlin, chính phủ Nga tuyên bố rằng Khodorkovsky trên thực tế đã thực hiện hành vi mua chuộc phần lớn đại biểu Hạ viện Nga, ngăn chặn việc đưa ra những sửa đổi về thuế nhằm kiếm lợi ích riêng. Chắc chắn rằng, những vụ tư nhân hóa trước đó, gồm cả việc tư nhân hoá Yukos, đều được coi là có sự gian dối (Yukos, được định giá 30 tỷ dollar năm 2004, từng được định giá bán cho Khodorkovsky chỉ có 110 triệu dollar), và giống như những nhóm chính trị đầu sỏ khác, cái tên Yukos-Menatep luôn gắn liền với những lời buộc tội có liên quan tới các tổ chức tội phạm. Những đầu sỏ tài phiệt khác, từng thiết lập được quan hệ tốt với Kremlin, như Roman Abramovich và Vladimir Potanin, không bị đặt vấn đề nghi vấn tài sản ở mức độ như vậy.
Khi nhiệm kỳ thứ 2 sắp kết thúc, nhiều người đã đề nghị sửa đổi Hiến pháp Nga để cho phép Putin ra tranh cử Tổng thống lần thứ 3. Tuy nhiên ông đã từ chối điều này và tuyên bố dù không ở cương vị tổng thống, ông vẫn muốn có ảnh hưởng đến tình hình chính trị của nước Nga. Trong cuộc bầu cử Duma năm 2007, Đảng Nước Nga Thống nhất (Единая Россия) do ông đứng đầu đã chiến thắng với 64,5% số phiếu ủng hộ, qua đó để ngỏ khả năng ông lên làm Thủ tướng hoặc Chủ tịch Duma. Ngày 10 tháng 12 năm 2007, Putin tuyên bố ủng hộ Phó thủ tướng Dmitry Medvedev trở thành người kế nhiệm mình. Ngay lập tức, Dmitry Medvedev đề nghị Putin trở thành thủ tướng nếu ông trúng cử Tổng thống. Ngày 17 tháng 12, Putin tuyên bố đồng ý nắm chức thủ tướng sau cuộc bầu cử năm tới.
Dù có nhiều thành tựu nhưng dưới thời Putin các chỉ số khả năng cạnh tranh và điều kiện kinh doanh chưa có nhiều cải thiện, tham nhũng lại gia tăng. Sự phát triển kinh tế hiện nay của nước Nga phần lớn là do giá dầu tăng nhiều hơn là do hiệu quả của các chính sách của Putin
Gần 10 năm thực hiện chính sách tái thiết nước Nga, Putin đã ổn định đáng kể tình hình đất nước, giúp cho xã hội quay lại hoài niệm về cường quốc Xô viết, đồng thời ông cũng công kích Mỹ và các nước phương Tây. Phương Tây thì cáo buộc ông kiểm soát chặt chẽ truyền thông và trấn áp những người đối lập.
Nhiệm kỳ Tổng thống thứ ba
Nước Nga đã phát triển bùng nổ trong hai nhiệm kỳ Tổng thống đầu tiên của Putin từ năm 2000 đến năm 2008 nhờ giá dầu và giá các mặt hàng xuất khẩu của nước này tăng cao trong giai đoạn này. Tăng trưởng trung bình hàng năm của Nga trong giai đoạn này lên tới mức 7% và Putin cam kết sẽ nhanh chóng đưa nền kinh tế Nga trở lại các mức tăng trưởng cao này sau khi Nga bị suy giảm tới 7,9% trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-2009.
Bộ trưởng Kinh tế Nga Alexei Ulyukayev cảnh báo rằng nước Nga có nguy cơ đối mặt với tăng trưởng thấp do Điện Kremlin không thực hiện các cải cách trong khi giá dầu vẫn ở mức cao. Ulyukayev đã dự báo mức tăng trưởng GDP trung bình hàng năm của Nga chỉ khoảng từ 2,5% - 3,0% từ nay cho đến tận năm 2025. Khu vực dầu mỏ và khí đốt tự nhiên của Nga chiếm tới gần 25% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và khoảng 30% tổng thu nhập ngân sách quốc gia. Ngoài ra, bộ máy hành chính cồng kềnh, quan liêu ngày càng phình to và chi tiêu quốc gia thiếu hiệu quả cũng là những nhân tố cản trở tới mức tăng trưởng.
Vào ngày 4 tháng 3 năm 2012, Putin đắc cử Tổng thống Nga nhiệm kỳ thứ 3, với 63,6% số phiếu bầu. Phe đối lập với ông đã liên tục cáo buộc bầu cử bị gian lận. Nhiều cuộc biểu tình chống Putin đã diễn ra ngay trong và sau chiến dịch tranh cử tổng thống. Khoảng 20.000 người đã tụ tập tại Moscow vào ngày 6 tháng 5 để phản đối việc Putin nắm quyền tổng thống thêm một nhiệm kỳ nữa. Đã xảy ra đụng độ, khoảng 30 cảnh sát bị thương và hàng trăm người bị bắt. Một cuộc tập hợp của 130.000 người ủng hộ Putin cũng diễn ra khi ông phát biểu tại sân vận động Luzhniki ở Moscow, tuy vậy có những thông tin cho rằng một số người trong số đó là lao động do chủ cử đến, hoặc nhận tiền để đến, một số khác thì cho biết rằng họ tham gia vì lầm tưởng rằng đây là một lễ hội dân gian nào đó chứ không hề có ý tới để ủng hộ cho ông Putin
Vào năm 2014, quân đội Nga đã thực hiện một số cuộc xâm nhập trái phép vào lãnh thổ Ukraine. Sau cuộc biểu tình Euromaidan và sự sụp đổ của chính quyền Tổng thống Ukraine Viktor Yanukovych, lực lượng vũ trang đặc biệt của Nga đã nhanh chóng kiểm soát các vị trí chiến lược và cơ sở hạ tầng trong phạm vi lãnh thổ Ukraine của Crimea. Nga sau đó đã sáp nhập Crimea sau cuộc trưng cầu dân ý, khi mà người dân Crimea bỏ phiếu sáp nhập vùng lãnh thổ này vào Liên bang Nga. Sau đó, các cuộc biểu tình của các nhóm thân Nga ở vùng Donbass của Ukraine đã leo thang thành một cuộc xung đột vũ trang giữa chính phủ Ukraine và lực lượng ly khai do Nga hậu thuẫn tại Donetsk và Lugansk. Các quốc gia phương Tây và các tổ chức như Tổ chức Ân xá quốc tế đã lên án Nga vì những hành động của họ ở Ukraine sau cuộc cách mạng, cáo buộc Nga vi phạm luật pháp quốc tế và vi phạm chủ quyền của Ukraine. Nhiều quốc gia áp dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với Nga. Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua nghị quyết tuyên bố rằng cuộc trưng cầu dân ý không hợp lệ, và sự sáp nhập Crimea vào Nga là bất hợp pháp.
Các động thái của Putin đối với vấn đề Ukraine hoàn toàn mâu thuẫn với tuyên bố trước đó của ông (vào năm 2008, chính Putin đã từng khẳng định rằng Crimea là một phần lãnh thổ không thể tách rời của Ukraine và tuyên bố Nga không hề có ý định xâm phạm chủ quyền của Ukraine) . Giữa năm 2014, tỷ lệ ủng hộ ông Putin đã tăng vọt sau khi Nga sáp nhập Crimea. Với sự kiện sáp nhập Crimea, người dân Nga đã lại có cơ hội để nhớ về vị trí siêu cường như trước đây. Theo TASS, kết quả khảo sát của hãng điều tra VTSIOM công bố ngày 3/8/2017 cho thấy tỉ lệ ủng hộ ông Vladimir Putin ở cương vị Tổng thống Nga là 83,5% vào cuối tháng 7/2017.
Cuối 2014, Nga lâm vào cuộc cuộc khủng hoảng tài chính dẫn tới sự suy giảm nhanh chóng giá trị của đồng rúp Nga đối với các đồng tiền khác trong năm 2014 và suy thoái trong nền kinh tế Nga. Hai trong số những yếu tố chính góp phần vào sự suy giảm kinh tế Nga là do việc các nước phương Tây áp đặt trừng phạt kinh tế do sự can thiệp quân sự của Nga ở Ukraina và việc giảm giá của dầu thô, là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Nga, giảm giá gần 50% so với mức cao của năm trong tháng 6 năm 2014 đến ngày 16 tháng 12 năm 2014.. Khủng hoảng này đã ảnh hưởng đến nền kinh tế Nga, bao gồm cả người tiêu dùng và các công ty, cũng như có một tác động tiêu cực đến thị trường tài chính toàn cầu. Thực tế đã cho thấy, chính người dân Nga đang phải đối mặt với nhiều khó khăn do tác động của những biện pháp trừng phạt này mang lại. Lệnh cấm vận của Phương Tây cũng đã ảnh hưởng đáng kể đến sản xuất và tiêu dùng của Nga. Việc giá cả sẽ tăng do tình trạng thiếu hụt và lạm phát tăng, dẫn đến tiết kiệm giảm, tiền lương giảm và thất nghiệp gia tăng, hệ quả là chất lượng cuộc sống của người dân Nga giảm sút, đặc biệt là các gia đình trung lưu và những người Nga nghèo. Trong năm 2015, GDP của Nga giảm 3,7%. Vào năm 2016, mức lương trung bình của người Nga bị sụt giảm xuống chỉ còn 450 USD một tháng (so với mức 967 USD một tháng vào năm 2013), thấp hơn cả Trung Quốc và Ba Lan . Tỉ lệ người nghèo ở Nga đang có chiều hướng gia tăng, từ 16.1 triệu người sống dưới mức nghèo trong năm 2015 đã nhảy vọt lên con số 19.2 triệu người vào năm 2016 . Đồng rúp của Nga cũng liên tục mất giá. Tính đến tháng 3 năm 2016, giá trị của đồng rúp chỉ còn bằng 50% so với thời điểm tháng 7 năm 2014 .
Sau 2 năm suy giảm, đến cuối năm 2017, sau những cải cách của chính phủ, kinh tế Nga trên đà hồi phục và có mức tăng trưởng khá khả quan. Bối cảnh quốc tế cũng khả quan hơn khi giá dầu thế giới tăng và lần lượt vượt các mốc 60USD/thùng, 70USD/thùng - cao nhất trong 3 năm qua. Ngân hàng Goldman Sachs đầu năm 2018 dự báo tăng trưởng kinh tế Nga sẽ đạt 3,3% trong năm 2018, cao hơn cả những ước tính của chính phủ nước này. Chi tiêu tiêu dùng đang tăng. Lạm phát đã giảm xuống còn dưới 2%. Tuy vậy theo một cuộc khảo sát với 1.400 nhà quản lý doanh nghiệp ở Nga vào năm 2018, hơn 3/4 số người tham gia khảo sát (tỉ lệ 76%) đã đánh giá tình trạng của nền kinh tế Nga hiện nay là "khủng hoảng và thảm khốc", trong khi chỉ 4% cho rằng nền kinh tế đất nước đang hoạt động tốt .
Vào ngày 30 tháng 9 năm 2015, Tổng thống Putin đã cho phép quân đội Nga can thiệp quân sự vào cuộc Nội chiến Syria, sau khi có lời yêu cầu chính thức của chính phủ Syria nhằm giúp đỡ quân đội nước này chống lại phiến quân Nhà nước Hồi giáo tự xưng và các nhóm thánh chiến được Phương Tây bảo trợ. Đến tháng 3 năm 2017, phần lớn quân đội Nga đã rút khỏi Syria, tuy nhiên Nga vẫn duy trì một nhóm tác chiến không quân và cố vấn quân sự để hỗ trợ quân đội Syria.
Nhiệm kỳ Tổng thống thứ tư
Putin đã giành được chiến thắng áp đảo trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2018 với hơn 76% phiếu bầu. Đảng cộng sản Liên bang Nga cáo buộc cuộc bầu cử đã có sự sắp đặt từ trước để cho Putin giành thắng lợi . Hàng trăm người ủng hộ Đảng Cộng sản Nga đã xuống đường biểu tình phản đối Putin vì họ cho rằng cuộc bầu cử tổng thống Nga có sự gian lận . Nhiệm kỳ thứ tư của Putin bắt đầu vào tháng 5 năm 2018.
Theo một cuộc thăm dò ý kiến ở Nga vào năm 2018, số người dân Nga đặt niềm tin đối với Putin đã sụt xuống trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế trì trệ, thu nhập của người dân giảm sút và quyết định tăng tuổi nghỉ hưu của chính phủ vấp phải sự phản đối rộng rãi. Một cuộc khảo sát khác của Trung tâm Levada vào tháng 12 năm 2018 cho thấy 63% người dân ủng hộ chính sách của Putin, tụt giảm so với mức 89% vào tháng 6 năm 2015.
Năm 2018, kinh tế của Nga đã đạt mức tăng trưởng 2,3%, vượt hơn dự báo 1,6% của Ngân hàng Thế giới (WB). Ngân hàng Thế giới cũng dự báo tăng trưởng cho năm 2019 là 1,4%, năm 2020 và 2021 ở mức 1,8%. Nền kinh tế Nga đang phải đối mặt với các nguy cơ cả từ trong và ngoài nước, gồm các lệnh trừng phạt mở rộng, sự xáo trộn tài chính và giá dầu giảm mạnh. Theo WB, việc triển khai thành công và hiệu quả các sáng kiến đầu tư cơ sở hạ tầng của chính phủ cũng góp phần giúp tăng trưởng đầu tư, nếu các dự án quốc gia của Nga được triển khai hiệu quả thì chúng sẽ giúp tăng tốc độ phát triển kinh tế của quốc gia này, nhưng chỉ sau năm 2021.
Chống lại ảnh hưởng của phương Tây
Theo báo Pravda của Nga, Quỹ Dân chủ Mỹ (NED - National Endowment for Democracy) có mặt trên khắp đất nước Nga, thâm nhập vào diễn biến chính trị ở Nga hiện nay, giúp đỡ "trung tâm tin tức quốc tế" đặt tại Moskva để hơn 80 tổ chức phi chính phủ xuyên quốc gia có thể tận dụng "trung tâm tin tức" này để tổ chức họp báo về các vấn đề. Tổ chức này cũng tài trợ cho nhiều tổ chức thanh niên và các buổi thảo luận dưới nhiều hình thức khác nhau với mục đích "bồi dưỡng thế hệ lãnh đạo mới cho đất nước Nga". Chỉ trong năm 2010, NED tiêu tốn 278.300 USD để tài trợ cho hàng chục chương trình như thế này trên khắp đất nước Nga. Theo học giả người Mỹ Frederick William Engdahl thì "Washington không muốn Moscow xuất hiện kẻ mạnh. Sự trở lại của Putin sẽ trở thành chướng ngại lớn nhất của Mỹ và châu Âu... Đối với Washington, nước Nga có dân chủ thật sự hay không không quan trọng. Quan trọng nhất là phải lật đổ chướng ngại vật lớn nhất ngăn cản kế hoạch của Mỹ - Putin".
Năm 2006, Chính phủ Nga đã quyết định cấm hoạt động tổ chức Giám sát nhân quyền, Ân xá quốc tế, Viện Cộng hòa quốc tế... cùng hơn 90 tổ chức phi chính phủ (NGO). Một trong những nguyên nhân chính là sự can thiệp vào nội bộ Nga của các tổ chức NGO này. Tuy gọi là "phi chính phủ" nhưng các tổ chức thuộc dạng này ngày càng liên hệ chặt chẽ với chính phủ nhiều nước, thậm chí hiện diện trong các chiến dịch tranh cử tại Nga chứ không đơn thuần hoạt động nhân đạo. Tờ The Economist đã đưa ra câu hỏi rằng liệu có phải vài NGO là bù nhìn của (một số) chính phủ đối thủ của Nga. Một trong những nguyên nhân chính của hiện tượng bùng nổ NGO trong vài năm gần đây là do sự tài trợ từ các chính phủ phương Tây nhằm can thiệp vào nội bộ nước Nga
Trả lời phỏng vấn CNN, Putin nói rằng ông chống lại các giá trị văn hóa ngoại lai du nhập từ phương Tây, bởi nó sẽ gây băng hoại văn hóa truyền thống Nga, làm nước Nga suy đồi. Ông nói:Tôi muốn nhắc lại đôi điều mà tôi đã phát biểu trong Diễn văn đọc tại Quốc hội Liên bang: Vâng, đây là một cách tiếp cận bảo thủ, nhưng tôi muốn nhắc bạn về những phát ngôn của nhà triết học Nga Berdyaev rằng: chủ nghĩa bảo thủ không cản trở sự chuyển động về phía trước và tiến lên trên mà nó giúp ngăn chặn sự chuyển động thụt lùi và đi xuống. Theo tôi, đó là một công thức rất tốt, và nó là công thức mà tôi đề xuất. Chẳng có gì bất thường với chúng tôi ở đây. Nga là đất nước có một nền văn hóa cổ đại rất sâu sắc, và nếu chúng tôi muốn trở nên mạnh mẽ và phát triển một cách tự tin, chúng tôi phải dựa vào nền văn hóa và những truyền thống này, chứ không chỉ tập trung vào tương lai."Hiến pháp năm 2020 do Putin chủ trì sửa đổi cũng bổ sung điều khoản "bảo vệ sự thật lịch sử", cấm "xem thường những người anh hùng đã bảo vệ Tổ quốc", quy định này nhằm chống việc xét lại lịch sử, phủ nhận vai trò của Liên Xô trong thắng chủ nghĩa phát xít ở Thế chiến II.
Chống phong trào cổ vũ đồng tính luyến ái
Năm 2013, nước Nga dưới thời Tổng thống Vladimir Putin đã ra bộ luật cấm mọi hình thức tuyên truyền về đồng tính luyến ái và hôn nhân đồng tính. Bộ luật cấm những sự kiện cổ vũ cho người đồng tính, quy định việc cung cấp những thông tin "tuyên truyền việc về đồng tính nữ, lưỡng tính và chuyển giới" cho trẻ vị thành niên là phạm pháp, đồng thời các sự kiện cổ vũ cho quan hệ đồng tính cũng bị cấm. Đây là một nỗ lực nhằm tuyên dương những giá trị truyền thống của nước Nga và chống lại trào lưu cổ vũ đồng tính luyến ái, đòi hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính đến từ các nước phương Tây, mà Chính phủ Nga tin rằng đang làm băng hoại giới trẻ và phá hủy nền tảng luân lý gia đình của nước Nga, khiến nước Nga suy yếu Bộ luật cấm tuyên truyền đồng tính đã được Duma Quốc gia Nga (Hạ viện Nga) thông qua với số phiếu tuyệt đối 436 thuận - 0 phiếu chống, và 88% người dân Nga được phỏng vấn đã bày tỏ ủng hộ đối với lệnh cấm Bên cạnh đó, từ năm 2015, Chính quyền thành phố Moskva và quốc hội Nga đã đề ra Ngày tình yêu gia đình để tập hợp các chiến dịch tuyên truyền bảo vệ giá trị gia đình truyền thống, ngăn chặn sự truyền bá của các nhóm hoạt động đồng tính, các tổ chức phi chính phủ đòi hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính.
Tổng thống Nga Vladimir Putin lý giải: "Vấn đề đồng tính ở Nga đã được cố tình phóng đại từ bên ngoài vì những lý do chính trị, và tôi tin rằng, đó không phải là những mục đích tốt... Tôi không thấy bất cứ điều gì phản dân chủ trong hành vi pháp lý này. Tôi tin rằng chúng ta nên để trẻ em sống trong yên bình. Chúng ta cần phải cung cấp cho trẻ em một cơ hội để phát triển, giúp trẻ em nhận ra mình là ai và có quyền đưa ra quyết định cho mình. Trẻ em muốn sống trong một cuộc hôn nhân tự nhiên bình thường hay là một cuộc hôn nhân phi truyền thống? Đó là điều duy nhất tôi muốn nói" Putin cho biết chính sách cấm đồng tính luyến ái là vấn đề quan trọng cho việc duy trì dân số đất nước: "Người châu Âu đang chết dần (do già hóa dân số)... và hôn nhân đồng tính không thể tạo ra trẻ em", "chúng tôi có sự lựa chọn cho riêng chúng tôi (nước Nga), và chúng tôi đã làm thế vì đất nước của chúng tôi".
Năm 2020, ông Putin tiếp tục khẳng định nước Nga sẽ không cho phép hôn nhân đồng tính. Trong Hiến pháp Nga sửa đổi năm 2020 do Putin chủ trì xây dựng, định nghĩa về hôn nhân đã ghi rõ: hôn nhân là sự kết hợp "giữa một người nam và một người nữ", quy định này sẽ ngăn chặn mọi ý đồ hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính ở Nga (vì sẽ vi phạm Hiến pháp). Hơn 78% cử tri Nga đã bỏ phiếu đồng ý Hiến pháp Nga sửa đổi này Putin nói: "Liên quan đến vấn đề 'phụ huynh số 1' và 'phụ huynh số 2', thì tôi đã nói công khai về điều này và tôi sẽ nhắc lại một lần nữa: chừng nào tôi còn làm tổng thống thì điều này sẽ không xảy ra. (Một đứa trẻ) sẽ phải có cha và mẹ."Ngày 24 tháng 7 năm 2023, Tổng thống Vladimir Putin đã ký ban hành Luật cấm chuyển giới tại Nga. Theo đó, nước Nga sẽ cấm thực hiện chuyển đổi giới tính và thay đổi giới tính trên giấy tờ tùy thân, trừ ngoại lệ là những người bị dị tật bẩm sinh ở bộ phận sinh dục. Các nhà lập pháp Nga nêu lý do ban hành luật này là nhằm bảo vệ các giá trị truyền thống của nước này trước "tư tưởng chống gia đình của phương Tây" Một nguồn tin cho biết luật mới sẽ không chỉ để bảo vệ giá trị gia đình mà còn đảm bảo nguồn nhân lực cho quân đội Nga. Kể từ khi chiến tranh Nga-Ucraina năm 2022 nổ ra, đã có sự gia tăng đáng kể việc nam giới Nga trả tiền cho các phòng khám tư nhân để được cấp giấy xác nhận là người chuyển giới, sau đó họ có thể thay đổi giới tính trên giấy tờ tùy thân để trốn nghĩa vụ quân sự Chủ tịch Duma Quốc gia Nga Vyacheslav Volodin ủng hộ luật này, và cho rằng nền công nghiệp chuyển giới đã gây ảnh hưởng xấu tới xã hội, khi số ca phẫu thuật chuyển giới ở Mỹ đã tăng 50 lần trong 10 năm qua, khoảng 1,4% thiếu niên Mỹ từ 13 - 17 tuổi đã tự coi mình là người chuyển giới vào năm 2022. Ông cho rằng "Đây là con đường dẫn đến sự suy thoái của một quốc gia", và luật cấm chuyển giới được Nga ban hành để tránh viễn cảnh tương tự
Tại Hội nghị quốc tế Valdai ngày 21/10/2021, ông Putin tuyên bố phong trào cổ vũ hôn nhân đồng tính, chuyển giới sẽ gây ra sự phá hủy nền tảng đạo đức gia đình, gây ra những hậu quả to lớn không thể lường trước cho xã hộiĐiều thực sự quái dị là trẻ em được dạy dỗ ngay từ nhỏ rằng một cậu bé có thể dễ dàng trở thành một cô gái và ngược lại... Họ làm như vậy trong khi ngăn cản cha mẹ khỏi quá trình này và buộc đứa trẻ phải đưa ra những quyết định có thể đảo lộn cả cuộc đời của chúng. Họ thậm chí không thèm tham khảo ý kiến của các nhà tâm lý học trẻ em - một đứa trẻ ở độ tuổi này thậm chí có khả năng đưa ra quyết định kiểu này không? Nói thẳng ra, điều này cấu thành tội ác chống lại loài người, và nó đang được thực hiện dưới danh nghĩa và dưới ngọn cờ "tiến bộ".Một lần nữa, đối với người Nga chúng tôi, đây không phải là một sự suy đoán, mà là những bài học từ lịch sử gian lao và đôi khi bi thảm của chúng tôi. Chi phí cho các thử nghiệm xã hội không hợp lý (hôn nhân đồng tính, chuyển giới) đôi khi vượt quá cả tưởng tượng. Những hành động như vậy không chỉ có thể phá hủy vật chất, mà cả nền tảng tinh thần cho sự tồn tại của con người, để lại những đống đổ nát về mặt đạo đức mà về lâu dài không gì có thể thay thế được.Chủ nghĩa Putin
Chủ nghĩa Putin (tiếng Nga: Путинизм, tiếng Anh: Putinism), cũng gọi là chế độ Putin (tiếng Anh: Putin regime), là thuật ngữ được sử dụng trên báo chí phương Tây và các nhà phân tích Nga để chỉ trích Vladimir Putin. Những thuật ngữ này thường đi đôi với nghĩa tiêu cực, dùng để mô tả hệ thống chính trị Nga dưới sự điều hành của Vladimir Putin trên cương vị Tổng thống (2000 - 2008, 2012 - nay) và Thủ tướng (giữa nhiệm kỳ thứ hai và thứ ba), nơi nhiều quyền lực chính trị và tài chính được kiểm soát bởi Siloviki - tức là những người có chân trong guồng máy an ninh quốc gia, thuộc về một trong tổng số 22 cơ quan an ninh và tình báo chính phủ, chẳng hạn như FSB, cảnh sát và quân đội. Nhiều người trong số này cùng chung nền tảng nghề nghiệp (tình báo) với Putin, hoặc là bạn thân của ông.
Vấn đề ChechnyaXem thêm: Chiến tranh Chechnya lần thứ hai.Việc Putin lên nắm quyền chỉ đạo chính phủ vào tháng 8 năm 1999 trùng khớp với sự tái hiện tình trạng gây hấn của cuộc xung đột hầu như đã yên tĩnh tại Bắc Caucasus, khi những người Chechnya tập hợp với nhau và xâm nhập nước Daghestan láng giềng. Cả trong nước Nga và bên ngoài, uy tín của Putin trước công chúng ngày càng tăng qua cách xử lý cứng rắn nhiệm vụ khó khăn này.
Trong chiến dịch vận động bầu cử Duma mùa thu năm 1999, các phương tiện truyền thông đại chúng do Kremlin kiểm soát hoặc có liên minh với họ đã cáo buộc các đối thủ chính của Putin không cương quyết với chủ nghĩa khủng bố. Khi đã lên nắm quyền tổng thống ngày 31 tháng 12 năm 1999, Putin đã thực hiện một cuộc viếng thăm chưa từng có tới doanh trại quân đội Nga ở Chechnya; một trong những hình ảnh sớm nhất mà dân chúng Nga thấy được là vị tổng thống tạm quyền của họ đang giới thiệu những con dao săn cho các binh sĩ. Suốt mùa đông năm 1999, chính phủ Putin thường xuyên tuyên bố thắng lợi đã ở gần tầm tay. Quân đội Nga đã chiếm được thủ đô Grozny, sau một cuộc vây hãm từ cuối năm 1999 đến tháng 2 năm 2000.
Các nhóm nhỏ phiến quân Chechnya tiếp tục đánh du kích ở khu vực Bắc Kavkaz trong 9 năm tiếp theo. Cho đến năm 2009, về cơ bản quân Nga đã dập tắt được phiến quân Chechnya.
Chính sách đối ngoại
Trong khi tổng thống Putin bị một số nhân vật đồng nhiệm phương Tây chỉ trích là chuyên quyền, các mối quan hệ của ông với Cựu Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush, cựu Thủ tướng Đức Gerhard Schröder, Cựu Tổng thống Pháp Jacques Chirac, và cựu Thủ tướng Italy Silvio Berlusconi rõ ràng là thân thiện. Mối quan hệ của Putin với cựu Thủ tướng của Đức, bà Angela Merkel, được cho là "lạnh" và theo "kiểu thương mại" hơn so với quan hệ với Gerhard Schröder.
Trong thời gian nhiệm kỳ của mình, Putin đã tìm cách tăng cường quan hệ với các nước thành viên khác thuộc Cộng đồng các quốc gia độc lập. Vùng "đệm" với ảnh hưởng truyền thống của Nga một lần nữa lại trở thành chính sách đối ngoại ưu tiên thời Putin, khi EU và NATO đã mở rộng ảnh hưởng ra đa phần các quốc gia vùng Trung Âu và gần đây là cả các nước Baltic. Trong khi khôn khéo chấp nhận sự mở rộng của NATO tới các nước Baltic, Putin tìm cách tăng cường ảnh hưởng của Nga tại Belarus và Ukraina.
Putin đã làm nhiều người theo chủ nghĩa quốc gia Nga và cả bộ trưởng quốc phòng của ông bất ngờ, khi ngay sau Các vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001 tại Hoa Kỳ, đồng ý thành lập các căn cứ quân sự liên minh tại Trung Á trước và trong khi diễn ra cuộc tấn công quân sự do Mỹ tiến hành vào Afghanistan. Những người theo chủ nghĩa quốc gia Nga phản đối bất kỳ sự hiện diện quân sự Hoa Kỳ nào tại lãnh thổ thuộc Liên Xô cũ, và đã hy vọng rằng Putin sẽ giữ người Mỹ bên ngoài các nước cộng hòa Trung Á, hay ít nhất buộc Washington phải đảm bảo rút quân ngay lập tức khi hoàn thành sứ mệnh. Mặt khác, Putin ủng hộ cuộc chiến tranh chống khủng bố của chính phủ Hoa Kỳ , và đã bày tỏ sự chia buồn sâu sắc tới các nạn nhân của vụ khủng bố kinh hoàng tại Mỹ.
Trong cuộc Khủng hoảng Iraq năm 2003, Putin phản đối hành động xâm lược Iraq của Washington khi chưa có một nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc cho phép rõ ràng một sự sử dụng quân sự như vậy. Sau cuộc chiến này được chính thức tuyên bố kết thúc, Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush đã yêu cầu Liên hiệp quốc dỡ bỏ lệnh cấm vận Iraq. Putin ủng hộ thực hiện việc này theo đúng trình tự, cho rằng phái bộ Liên hiệp quốc đầu tiên phải có cơ hội hoàn thành công việc tìm kiếm vũ khí hủy diệt hàng loạt tại Iraq.
Trong cuộc Bầu cử tổng thống Ukraine, 2004, Putin đã tới thăm Ukraine hai lần trước đó để bày tỏ sự ủng hộ Thủ tướng Ukraine Viktor Yanukovych và đã chúc mừng ông trong cái gọi là chiến thắng trước khi các kết quả bầu cử chính thức được ông bố. Sự ủng hộ trực tiếp của Putin với ứng cử viên thân Nga Yanukovych đã bị chỉ trích rộng rãi và bị coi là sự can thiệp trái phép vào các công việc nước Ukraine hậu Xô viết.
Năm 2008, Putin đem quân can thiệp vào cuộc nội chiến tại Gruzia, ủng hộ hai tỉnh Nam Ossetia và Abkhazia ly khai khỏi quốc gia này. Hành động can thiệp quân sự này của Nga bị các nước Phương Tây phản đối quyết liệt. Vào ngày 26 tháng 8 năm 2008, trong khoảng thời gian đình chiến, Nga đã chính thức công nhận nền độc lập của Nam Ossetia và AbkhaziaRussia Recognizes Independence of Georgian Areas , by Clifford J. Levy, The New York Times, 26 tháng 8 2008.. Gruzia bác bỏ hoàn toàn động thái này để bảo toàn sự toàn vẹn lãnh thổ của họ; một số quốc gia phương Tây như Hoa Kỳ và Đức cũng phản đối quyết định này và cho rằng nó vi phạm luật pháp quốc tế26 tháng 8 năm 2008-bk-estland.html; Chancellor Merkel calls recognition absolutely inacceptable and against international law 26 tháng 8 năm 2008. Toàn bộ 7 nước thuộc khối G7 cũng lên án Nga đang xâm phạm quyền toàn vẹn lãnh thổ của Gruzia khi công nhận nền độc lập tại hai tỉnh ly khai Nam Ossetia và Abkhazia của Gruzia.. 189 trên tổng số 193 quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc (ngoại trừ Nga, Venezuela, Nicaragua, và Nauru) cũng không công nhận nền độc lập của Nam Ossetia mà vẫn tiếp tục xem lãnh thổ này là một bộ phận lãnh thổ không thể tách rời của Gruzia .
Đến năm 2014, nước Nga can thiệp vào cuộc khủng hoảng tại Ukraine thông qua việc hỗ trợ quân ly khai ở các tỉnh miền Đông, sáp nhập vùng Crimea của Ukraine vào lãnh thổ Liên bang Nga sau cuộc trưng cầu dân ý của người dân địa phương bất chấp sự phản đối của các nước phương Tây.
Năm 2015, quân đội Nga được cử sang Syria hỗ trợ quân đội chính phủ nước này trong cuộc Nội chiến Syria. Đây là hành động đánh dấu việc Nga đã quay trở lại trong cuộc đua giành quyền ảnh hưởng tại khu vực Trung Đông.
Đời tư
Putin nói tiếng Đức hầu như tương đương tiếng mẹ đẻ, và tiếng Anh ở mức trung bình.
Vợ Putin là Lyudmila Putina, một cựu tiếp viên hàng không và giáo viên dạy tiếng Đức, sinh tại Kaliningrad, (trước kia là Königsberg). Họ có hai con gái, Marya (sinh 1985) và Yekaterina (Katya) (sinh 1986 tại Dresden). Hai người theo học Trường Đức tại Moskva (Deutsche Schule Moskau) cho tới khi ông được chỉ định làm thủ tướng. Tin ngày 7.6.2013 trên BBC cho biết, Putin và vợ đã tuyên bố ly dị sau gần 30 năm chung sống. Ngày 02.04.2014, phát ngôn viên của Putin, ông Dmitri Peskow, loan báo ở Moskva 2 người đã chính thức ly dị.
Putin là một thành viên của Giáo hội Chính thống giáo Nga. Cha của ông là một "người vô thần hăng hái" nhưng mẹ ông là một "tín hữu Chính thống giáo nhiệt thành". Dù bà không giữ các bức linh ảnh tại nhà nhưng bà dự lễ nhà thờ thường xuyên, bất chấp việc chính quyền Xô viết đàn áp Giáo hội khi đó. Bà đảm bảo cho việc Putin được báp têm hồi nhỏ và thường đưa ông đi dự lễ. Cha ông biết điều này nhưng phớt lờ đi. Theo tự sự của Putin, sự chấn hưng cảm thức tôn giáo của ông diễn ra sau tai nạn xe hơi nghiêm trọng của vợ năm 1993 và càng sâu sắc hơn sau một đám cháy lớn nguy hiểm tới tính mạng tại ngôi nhà vùng nông thôn dacha của ông vào tháng 8 năm 1996.
Katerina Tikhonova, con gái út Putin, lấy Kirill Shamalov vào tháng 2 năm 2013, con trai một người bạn của ông. Nhờ quan hệ này, theo thông tấn xã Reuter, Kirill vay được khoản tiền hơn 1 tỉ USD từ một ngân hàng để mua cổ phần của công ty hóa dầu Sibur, một doanh nghiệp lớn của Nga. Chỉ trong vòng 18 tháng, con rể Putin đã nắm giữ được một lượng lớn cổ phần trị giá 2,85 tỉ USD của Sibur.
Sự ủng hộ cho Putin
Như được minh chứng tại một cuộc khảo sát ý kiến dân chúng do Ý kiến dân chúng Thế giới tại Hoa Kỳ, 26 tháng 6-2 tháng 7 năm 2006 và Levada Center tại Nga, 9-14 tháng 6 năm 2006 tiến hành. World Public opinion Chính phủ của Tổng thống Putin được đa số dân chúng trong nước ủng hộ thậm chí cho cả những cải cách "gây tranh cãi nhất" của ông.
Các kết quả khảo sát năm 2017 cho thấy tỷ lệ ủng hộ của công chúng Nga dành cho Tổng thống Vladimir Putin lên tới 83,5%, trong đó có hơn 80% người trẻ Nga ủng hộ các chính sách của ông Hồi cuối năm 2015, tỷ lệ ủng hộ Putin ở mức cao nhất là 89,9%, nhờ kết quả của hoạt động quân sự ở Syria.
Nguyên nhân sự ủng hộ Putin là do Putin đã giúp tình hình kinh tế ổn định trở lại sau 10 năm hỗn loạn thập niên 1990, mang lại cho đất nước Nga "ánh sáng hưng thịnh" và trong suốt 14 năm, thu nhập thực tế của người Nga đã tăng gấp 7 lần. Với sự kiện sáp nhập Crimea và đem quân hỗ trợ Chính phủ Syria trong cuộc chiến chống khủng bố, người Nga đã lại có cơ hội cảm nhận về vị trí siêu cường như thời Liên Xô.
Theo một cuộc khảo sát vào năm 2015 của Gallup về mức độ được yêu thích của các nhà lãnh đạo trên thế giới, tỉ lệ ủng hộ của Putin trên toàn cầu là 33% (trong khi tỉ lệ không ủng hộ lên tới 43%), thua xa mức độ yêu thích mà nhân dân trên toàn thế giới dành cho Tổng thống Mỹ Barack Obama (với tỉ lệ ủng hộ 53% và tỉ lệ không ủng hộ là 29%).. Việt Nam là một trong số những nước có tỉ lệ ủng hộ dành cho Putin cao nhất (76%) song con số này vẫn kém hon so với mức ủng hộ mà người Việt dành cho ông Obama (80%). Tuy nhiên nếu xét về quan điểm trong nước, tỷ lệ người dân Mỹ ủng hộ ông Obama chỉ ở mức 12% trong khi tỷ lệ người dân Nga ủng hộ ông Putin đạt tới 72%.
Tới năm 2017, cũng theo khảo sát của Gallup với câu hỏi "bạn muốn chọn Donald Trump hay Vladimir Putin là lãnh đạo nước mình", 17% chọn Donald Trump trong khi 29% chọn Vladimir Putin, 45% chọn một nhà lãnh đạo khác.
Các chỉ trích về sự chuyên quyền
Trong bản tường trình thường niên của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (Hoa Kỳ) công bố ngày 31/01/2008, họ cho rằng nước Nga là quốc gia thứ sáu đang có khuynh hướng đi về thể chế độc tài cùng với các nước Pakistan, Kenya, Nigeria, Thái Lan và Bahrain. Giám đốc Human Rights Watch là ông Kenneth Roth nói: "Nước Nga, giống hệt như Kenya, Pakistan hay Nigeria - đang khoác lên mình chiếc áo choàng dân chủ cho những cuộc bầu cử".Putin chú trọng phát triển các chương trình xã hội để giành tình cảm của dân chúng hơn là đầu tư vào nền kinh tế. Theo một cuộc khảo sát vào năm 2016, chỉ 14% người Nga được hỏi tin rằng nền kinh tế Nga đang đi lên .
Tại cuộc họp báo chung với Tổng thống George Bush năm 2005 ở Slovakia, Putin trả lời về các cáo buộc rằng ông là nhà độc tài:"Nước Nga đã đưa ra lựa chọn của mình theo hướng dân chủ. Mười bốn năm trước, một cách độc lập, không bị bất cứ một sức ép nào từ bên ngoài, nó đã đưa ra quyết định đó trên cơ sở lợi ích của chính mình và lợi ích của người dân - những công dân của nó. Đó chính là lựa chọn cuối cùng của chúng tôi, và chúng tôi không có con đường quay trở lại.Đầu tiên, chúng tôi không chuẩn bị tạo nên - sáng tạo bất kỳ một kiểu dân chủ đặc biệt nào của Nga; chúng tôi đang chuẩn bị đưa ra các nguyên tắc căn bản của một nền dân chủ từng được thành lập trên thế giới. Nhưng tất nhiên, tất cả các định chế dân chủ hiện đại - các nguyên tắc dân chủ phải tương xứng với tình trạng phát triển hiện tại của nước Nga, với lịch sử và truyền thống của chúng tôi.Không hề có điều gì bất bình thường ở đây. Về hoạt động của các thể chế dân chủ chính, có thể có một số sự khác biệt, nhưng các nguyên tắc căn bản và nền tảng đang được áp dụng theo cách thức để chúng sẽ được phát triển bởi một xã hội hiện đại và văn minh...Tôi tin rằng rất nhiều người sẽ đồng ý với tôi, việc áp dụng những nguyên tắc và tiêu chuẩn dân chủ không thể đi liên với sự sụp đổ quốc gia và sự nghèo đói của nhân dân."Ngoài lề
Tập võ Nhu đạo
Một trong những môn thể thao ưa thích của Putin là môn võ nhu đạo (judo). Putin đã bắt đầu tập judo khi mới 13 tuổi và tiếp tục tập luyện tới tận ngày nay. Putin đã thắng trong những cuộc tỉ thí tại quê nhà Leningrad (hiện nay là Sankt-Peterburg), gồm cả giải vô địch dành cho trẻ em tại Leningrad. Ông là chủ tịch của Yawara Dojo, võ đường tại Sankt-Peterburg nơi ông từng luyện tập thời trẻ. Một cuốn sách do Putin đồng tác giả về môn thể thao ưa thích của mình, đã được xuất bản bằng tiếng Anh với tựa đề Judo: Lịch sử, Lý thuyết, Thực hành.Dù ông không phải là lãnh đạo thế giới đầu tiên luyện tập judo, Putin là nhà lãnh đạo thứ nhất đạt tới những cấp bậc cao trong môn này. Hiện nay ông mang đai đen (dan thứ 6) và giỏi nhất đòn Harai Goshi, một cách quật ném bằng hông.
Sau một chuyến thăm nhà nước tới Nhật Bản, Putin đã được mời tới Học viện Judo Kodokan để trình diễn trước các học viên và quan chức Nhật Bản nhiều kỹ thuật judo.
Ngoài Judo ra ông còn học karate hệ phái kyokushin-kan và được bát đẳng huyền đai là đẳng thứ 8 trong 10 đẳng
Sở thích
Putin đeo một chiếc đồng hồ Patek Philippe Calatrava trị giá 60.000 dollar Mỹ, gần tương đương mức lương tổng thống của ông. Dù là người thuận tay phải, ông đeo đồng hồ trên tay phải bởi vì "...nếu tôi đeo nó trên cổ tay trái, cái núm nhỏ để lên dây cót sẽ chạm vào tay và cọ xát vào nó."
Trong quãng thời gian từ 1985 đến 1990, Putin được Ủy ban an ninh quốc gia Nga cử đi công tác tại Dresden (Đông Đức cũ). Tại đó, Putin đã có rất nhiều kỷ niệm như việc cô con gái thứ 2 Yekaterina của ông cũng được sinh ra tại chính mảnh đất Đông Đức (cũ). Là một người đam mê thể thao, Putin đã dành tình cảm của mình cho CLB FC Schalke 04 của Đức, dù đó là giai đoạn mà đội bóng vùng Ruhr không giành được những thành tích nổi trội.
Putin ngày 14 tháng 10 năm 2009, đưa ra đề nghị là Trung Quốc, các nước Trung Á và Nga nên tổ chức một cuộc thi hát hàng năm để có thể gia tăng các mối liên lạc văn hóa. Putin cũng đề nghị là cuộc thi hát này có thể được gọi là "Intervision" để đối đầu với cuộc thi hát nổi tiếng thường niên của lục địa châu Âu mang tên Eurovision. Một cuộc thi như vậy sẽ cho thấy các nam, nữ ca sĩ Trung Quốc tranh tài với các ca sĩ Uzbek, Tajik, Kazakh, Nga và Kyrgyz. Thông tấn xã Interfax tường thuật lời của Putin, nói thêm là: "Việc tổ chức một cuộc thi hát quốc tế hiện đại, Intervision, sẽ củng cố các mối liên lạc văn hóa giữa các nước chúng ta." Cuộc thi hát hàng năm của lục địa châu Âu, Eurovision, được khởi đầu từ năm 1956, đã thu hút mỗi lần cả trăm triệu khán giả truyền hình, không những của lục địa châu Âu, mà cả của thế giới nữa. Moskva cũng sau đó tổ chức cuộc thi hát Eurovision 2009 này, vào tháng 5 năm 2008.
Sở thích cởi trần
Putin có sở thích là cởi trần khi đi dã ngoại. Vào đầu tháng 8 năm 2009, Putin đã gây sự chú ý thường chỉ dành cho các anh hùng các loại phim hành động ở Hollywood khi điện Kremlin công bố hình ảnh ông câu cá, bơi lội, chèo thuyền và cưỡi ngựa trong lúc cởi trần khoe ngực trong vùng núi Siberia và được các cơ quan truyền thông thế giới sử dụng tối đa. Trong chuyến viếng thăm ngắn ngủi đến vùng đồng cỏ và sông suối ở Cộng hòa Tuva thuộc Nga, vị thủ tướng đã cởi áo để bổ củi, cưỡi ngựa và bơi bướm dưới suối, tất cả để cho các máy hình của chính phủ tha hồ chụp.
Hai đài truyền hình nhà nước Nga đã loan tải hình ảnh những giờ phút hưởng nhàn của Putin vào tối ngày 4 tháng 8, và chỉ trong vài giờ, tất cả mọi cơ quan truyền thông thế giới, từ đài BBC cho đến các tờ báo lá cải đều vội vã khai thác, một phần cũng vì có sự hấp dẫn trong một tháng bị chậm tin - tháng 8 thường là tháng ít tin nhất trong năm. Giới truyền thông Tây Phương có vẻ bị lôi cuốn bởi hình ảnh là một cựu trung tá tình báo KGB nói năng cứng rắn, được coi là sức mạnh cầm quyền thực sự đằng sau cái ngai của Tổng thống Dmitry Medvedev, lại cởi áo khoe hầu như hết cả, cho quần chúng ngưỡng mộ.
Và việc cởi áo khoe thân hình của Putin có vẻ cũng cho thấy ông nay đã đứng cùng hàng ngũ với các chính trị gia thế giới được truyền thông săn đuổi, như Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama và Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy. Ngay cả trang web chuyên bàn tán đời tư giới tài tử Hollywoood cũng nhập cuộc, bằng cách diễu cợt ngực của vị thủ tướng. "Người đàn ông 56 tuổi này đã khoe vũ khí hủy diệt của mình, còn được gọi là cặp vú, bằng cách cưỡi ngựa khi cởi trần lúc đang đi nghỉ ở Siberi." Tờ National Post ở Canada tường thuật rằng Putin "rõ ràng là khoái được chụp hình... Những hình ảnh này có nhiều và người cựu nhân viên KGB này rất dễ dàng để cho ra một cuốn lịch của mình."
Thường xuyên trễ giờ
Putin mang tiếng là thường xuyên trễ giờ, thậm chí là cả cuộc hẹn với các nguyên thủ quốc gia và lãnh đạo tôn giáo. Nhiều nhà lãnh đạo châu Âu thường phải đợi ông trên dưới một tiếng. Ngoại trưởng Mỹ John Kerry phải đi dạo ở Quảng trường Đỏ ba giờ để được gặp Putin, còn cựu Tổng thống Ukraina Viktor Yanukovych thậm chí từng phải đợi bốn giờ. Hai lần hội kiến Giáo hoàng Phanxicô ông cũng đều đi trễ. Danh sách những người từng phải đợi Putin khi hội họp còn có cả các nữ chính khách như Nữ hoàng Anh Elizabeth II, Tổng thống Hàn Quốc Park Geun-hye hay Thủ tướng Đức Angela Merkel. Thậm chí, ngay đến cả vợ cũ của ông, bà Lyudmila Putina cũng từng kêu than rằng ông Putin thường xuyên cho bà "leo cây" ngay từ những lần hẹn hò đầu tiên.
BBC năm 2013 có dẫn một nguồn tin thân cận với Putin nói rằng, Putin trễ hẹn là hệ quả của việc ông quá tỉ mỉ. Theo nguồn tin này, trước các cuộc gặp quan trọng, Putin thường kiểm tra kỹ các nguồn thông tin và chi tiết, vì vậy ông luôn đi trễ.
Trích dẫn
Nhận xét về phong trào Bolshevik và chủ nghĩa cộng sản
Putin nói rằng ông tin tưởng chân thành vào chủ nghĩa cộng sản khi còn phục vụ trong cơ quan tình báo KGB, nó hứa hẹn một xã hội công bằng và ngay thẳng "rất giống như trong Kinh Thánh", dù thực tế "Đất nước chúng ta không được giống như Thành phố Mặt trời" như lý tưởng của những nhà chủ nghĩa xã hội, ông nói. Còn theo như thông tấn xã Nga Interfax, tổng thống Putin nói rằng ông vẫn thích những ý tưởng của chủ nghĩa cộng sản và chưa hề bỏ thẻ đảng viên của mình: "Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, nhưng thẻ đảng của tôi hiện vẫn đang nằm đâu đó. Tôi đã và vẫn còn yêu thích những ý tưởng Xã hội Chủ nghĩa. Nếu chúng ta nhìn vào Bộ Quy tắc tạo lập Chủ nghĩa Cộng sản vốn từng được vận hành rộng khắp dưới thời Liên bang Xô Viết, thì nó gần giống như Kinh thánh. Đây không phải là lời nói bông đùa, thực sự là có sự gần gũi với Kinh thánh", đồng thời Putin cho biết thêm Bộ Quy tắc kia nêu lên những ý tưởng hết sức tốt đẹp, đó là bình đẳng, tương ái và hạnh phúc.
Năm 2007, Putin chỉ trích Joseph Stalin vì những cuộc thanh trừng và chiến dịch tập thể hóa nông nghiệp mang nặng tính cưỡng bức: "Dĩ nhiên chúng ta đã đạt được một số thành tựu tích cực [dưới thời Stalin], nhưng với một cái giá không thể chấp nhận được. Sự đàn áp đã diễn ra. Đây là một sự thật. Hàng triệu đồng bào của chúng ta đã phải chịu đựng chúng"https://www.reuters.com/article/us-russia-purges-idUSL3072723020071030. Nhưng vào năm 2013, khi thăm Anh quốc, Putin tuyên bố Stalin không có gì khác biệt so với một anh hùng của nước Anh, nhà quân sự Oliver Cromwell, người đã chém đầu vua Anh và giết nhiều người trong cuộc nội chiến Anh, nhưng ngày nay được dựng tượng trước tòa nhà Quốc hội Anh: "Cụ thể là Cromwell khác Stalin như thế nào? Không khác gì cả. Theo quan điểm của những người theo chủ nghĩa tự do, Cromwell cũng là một nhà độc tài đẫm máu. Cromwell đã sống ở một thời đại khác. Đối với chúng ta, tất cả những thời đại đó đều rất khốc liệt. Vì vậy, chúng ta phải đối xử cẩn thận với từng giai đoạn lịch sử của mình" Ông còn cho biết có nước Nga đang có kế hoạch khôi phục tượng Stalin và một số lãnh đạo thời kỳ Liên Xô khác
Trong 1 cuộc phỏng vấn, 1 nhà báo Đức nói rằng ông ta cảm thấy ngạc nhiên khi Putin gọi việc Liên Xô tan rã là một bi kịch, bởi nhà báo này cho rằng sự tan rã của Liên Xô đã mang lại tự do cho các quốc gia thành viên cũ mà không cần đổ máu. Putin đã trả lời "Đức tái hợp, và Liên Xô tan rã. Thật lạ khi ông thấy ngạc nhiên. Tôi nghĩ rằng ông đã ném một em bé ra khỏi bồn tắm - đó là vấn đề. Giải phóng khỏi chế độ độc tài không nhất thiết phải đi kèm với sự sụp đổ của nhà nước. Đối với bi kịch mà tôi đã nói, điều đó là hiển nhiên. Hãy tưởng tượng rằng một buổi sáng mọi người thức dậy và phát hiện ra rằng từ giờ họ không sống ở một quốc gia thống nhất, mà ở ngoài biên giới Liên bang Nga, mặc dù họ luôn tự nhận mình là một phần của dân tộc Nga. Có 25 triệu người như vậy. Chỉ cần nghĩ về con số này! Đây là thảm kịch rõ ràng, đi kèm với đó là sự gián đoạn của các mối quan hệ kinh tế và gia đình, với việc mất tất cả số tiền mọi người đã tiết kiệm trong suốt cuộc đời của họ, cùng với những hậu quả tàn khốc khác. Đây không phải là một bi kịch cho mỗi người ư? Tất nhiên đó là một bi kịch! Người dân ở Nga nói rằng những người không hối tiếc về sự sụp đổ của Liên Xô thì không có trái tim, và những người hối tiếc thì không có não. Chúng tôi không hối tiếc điều này, chúng tôi chỉ đơn giản nêu thực tế và biết rằng chúng tôi cần nhìn về phía trước, không phải ngược lại. Chúng tôi sẽ không cho phép quá khứ kéo chúng tôi xuống và ngăn chúng tôi tiến lên phía trước... Dân chủ không thể phát triển mà không có luật pháp".
Ngày 25 tháng 1 năm 2016, trong cuộc gặp mặt với các nhà hoạt động ủng hộ điện Kremlin tại thành phố Stavropol Putin chỉ trích khái niệm "quốc gia liên bang" của Lenin mà trong đó các thực thể có quyền được ly khai, ông cho là khái niệm này đóng góp một phần lớn vào sự tan rã của Liên Xô năm 1991Vladimir Putin accuses Lenin of placing a 'time bomb' under Russia, theguardian, 25.1.2016 Một ngày sau, theo thông tấn xã Nga TASS, ông giải thích rõ hơn ý câu nói của mình: "Ý tôi muốn nói về cuộc tranh luận giữa Stalin và Lenin về việc cần xây dựng Liên bang Xô Viết như thế nào. Hồi đó Stalin đưa ra ý tưởng tự trị hóa Liên bang xô viết, theo đó, các chủ thể của Nhà nước tương lai sẽ gia nhập Liên Xô trên cơ sở tự trị với những quyền hạn rộng lớn. Lenin đã kịch liệt chỉ trích lập trường của Stalin và cho rằng ý tưởng đó không hợp thời". Putin nói Lenin chủ trương "thành lập Liên Xô trên cơ sở bình đẳng hoàn toàn, các chủ thể (những nước cộng hòa tự trị) có quyền tách ra khỏi Liên bang", điều này tuy tôn trọng nguyên tắc bình đẳng dân tộc nhưng lại trở thành mầm mống pháp lý gây tan rã Liên Xô sau này
Khi được hỏi vì sao Putin quyết định sử dụng phần nhạc của Quốc ca Liên Xô cho bản Quốc ca mới của Liên bang Nga, Putin đã trả lời: "Nếu chúng ta xóa bỏ mọi điều đã có từ trước và sau tháng 10/1917, thì có nghĩa chúng ta đã công nhận rằng, cha ông ta đã sống một cuộc đời hoàn toàn vô nghĩa lý. Bằng cả trái tim và trí tuệ, tôi không thể nào đồng ý thế được".
Putin là người rất tiếc nuối sự tan rã của Liên Xô. Năm 2017, ông trả lời phỏng vấn với đạo diễn người Mỹ Oliver Stone như sau: "Tôi thường nghe những lời chỉ trích về việc tôi lấy làm tiếc trước sự tan rã của Liên Xô. Đầu tiên và quan trọng nhất, trong một đêm sau sự tan rã của Liên Xô, 25 triệu người Nga đã ở nước ngoài và đó là một trong những thảm họa lớn nhất của thế kỷ 20. Sau đó cuộc nội chiến toàn diện bắt đầu. Đồng thời hệ thống an sinh xã hội hoàn toàn bị phá hủy, toàn bộ các lĩnh vực của nền kinh tế dừng lại, cũng như hệ thống chăm sóc sức khỏe và quân đội. Hàng triệu người rơi vào tình trạng nghèo đói. Chúng tôi không thể quên những sự kiện này".
Vào ngày 30 tháng 10 năm 2017, đúng vào "Ngày Tưởng niệm các nạn nhân của đàn áp chính trị" ở Nga, Putin đã tham gia buổi lễ khánh thành Bức tường Đau khổ (Wall of Grief), một tượng đài ở Moscow được dựng lên để tưởng nhớ các nạn nhân của cuộc đàn áp chính trị trong giai đoạn cầm quyền của nhà lãnh đạo Joseph Stalin. Trong buổi lễ, Putin đã phát biểu: "Quá khứ khủng khiếp này không thể bị xoá nhòa khỏi ký ức của quốc gia, không có bất cứ điều gì, không có lợi ích cao cả nào cho nhân dân có thể biện minh cho chuyện đó [...] "
Khi nhiều người cho rằng Putin có ý định khôi phục lại Liên Xô, ông nói rằng mình không có ý định đưa mô hình Nhà nước Liên Xô quay trở lại nước Nga một lần nữa bởi điều đó không phù hợp với tình hình hiện nay. Ông từng nói: "Bất cứ ai không cảm thấy tiếc nuối vì sự sụp đổ của Liên Xô là kẻ không có trái tim. Bất cứ ai muốn khôi phục nó thì là kẻ không có não"
Tháng 11 năm 2017, khi được hỏi về tầm ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười, Tổng thống Nga Vladimir Putin nhận định: "Mô hình xã hội và ý thức hệ mà nhà nước (Liên Xô) mới thành lập cố gắng thực hiện lúc đầu sau cách mạng 1917, đã là đầu máy chuyển hóa mạnh mẽ trên toàn thế giới (điều này là rõ ràng và cũng phải thừa nhận), cái mô hình đó đã khiến người ta phải đánh giá lại các mô hình phát triển, tạo ra cạnh tranh và mâu thuẫn, từ đó tạo ra lợi ích mà theo tôi phần lớn do phương Tây được hưởng... Nhiều thành tựu của phương Tây trong thế kỷ XX là phản ứng trước thách thức của Liên Xô. Tôi đang nói về việc nâng cao chất lượng sống, hình thành giới trung lưu mạnh, cải tổ thị trường lao động và không gian xã hội, thúc đẩy giáo dục, đảm bảo nhân quyền gồm cả quyền cho người thiểu số và phụ nữ, vượt qua phân biệt chủng tộc mà quý vị nhớ đã từng là hành vi xấu hổ ở nhiều nước kể cả Mỹ, chỉ vài thập niên trước đây."
Đầu năm 2018, Putin đã nói rằng ông sẽ đảo ngược sự kiện Liên Xô sụp đổ nếu ông đã có cơ hội làm thế để thay đổi lịch sử nước Nga hiện đại. Khi nhận được câu hỏi nhanh của người ủng hộ về sự kiện nào trong lịch sử Nga nào ông muốn thay đổi, Tổng thống Putin đáp ngắn gọn rằng: "Sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết".
Cá nhân Putin rất tôn kính đối với Lenin, ông đã cổ vũ người dân Nga "hãy tự hào với tinh thần cách mạng của giai cấp vô sản Nga". Chưa đầy một năm sau trên cương vị tổng thống Nga, Putin đã phát biểu: ông không muốn thi hài Lenin bị mang đi hỏa táng, mà "cần phải bảo vệ sự yên tĩnh của Người".
Chủ nghĩa khủng bố và Chechnya
Putin nói về những kẻ cực đoan Chechnya, ngày 24 tháng 9 năm 1999: "Chúng tôi sẽ theo bước những kẻ khủng bố ở bất kỳ đâu. Nếu cần phải bắt chúng trong nhà xí (shithouse), chúng tôi sẽ tấn công chúng trong nhà xí." ("мочить в сортире" trong tiếng Nga):
Trả lời những người kêu gọi Putin đàm phán với những kẻ li khai Chechnya sau vụ Khủng hoảng con tin trường học tại Beslan, tháng 9 năm 2004: "Sao bạn không gặp Osama bin Laden, mời hắn tới Brussels hay Nhà Trắng và bắt đầu đàm phán, hỏi hắn muốn gì và trao cho hắn những thứ đó để hắn cho bạn được sống hòa bình? Bạn sẽ thấy rằng có thể đặt ra một số giới hạn khi bạn phải giải quyết vấn đề với những tên con hoang (bastard) đó, vì thế tại sao chúng tôi phải đàm phán với những kẻ giết hại trẻ em? Không ai có đủ quyền đạo đức để nói với chúng tôi đàm phán với những kẻ giết hại trẻ em."Khi một nhà báo hỏi tại sao ông mời Hamas tới Kremlin để đàm phán, Putin đã trả lời "Thiêu cháy những cây cầu – đặc biệt trong chính trị – là cách dễ dàng nhất, nhưng không phải là điều hiệu quả nhất để thực hiện. Đó là lý do tại sao chúng tôi không vội vàng tuyên bố một tổ chức là khủng bố, và tìm cách làm việc với mọi người trong vùng nhiều nguy cơ này."Sau thảm kịch Beslan, Putin đã giải thích sự thất bại của Cơ quan An ninh Nga bằng câu "Chúng tôi yếu kém. Và sự yếu kém đang bị đào thải."Xem thêm Bài phát biểu của Putin với nhân dân nước Cộng hòa Chechnya ngày 17 tháng 3 năm 2003.
Phê phán việc phương Tây tấn công các nước khác
Sau hàng loạt biến cố chính trị tại Trung Đông dẫn tới sự trỗi dậy của chủ nghĩa khủng bố, trong thông điệp liên bang năm 2015, Putin đã nói về trách nhiệm của các nước phương Tây trong nguyên nhân xảy ra tình trạng này:
Trong bài phát biểu hùng hồn trước Đại hội đồng Liên hiệp quốc (UNGA) hôm 28/9/2015, Putin phát biểu lên án nước phương Tây cố gắng áp đặt ý chí của mình dưới vỏ bọc "các giá trị dân chủ" mà không đếm xỉa tới hệ tư tưởng và nền văn hóa, quan điểm và lợi ích của nhân dân các quốc gia, dân tộc khác. Ông cho rằng phương Tây "tự cho mình là vĩ đại," song thực ra lại "không hề có trách nhiệm":
Trả lời CNN vào tháng 9/2017, Vladimir Putin nhận định rằng: việc các nước như Iraq và Libya bị Hoa Kỳ và phương Tây tấn công đã gián tiếp gây ra khủng hoảng hạt nhân ở bán đảo Triều Tiên. Bắc Triều Tiên thấy rằng chỉ có vũ khí hạt nhân mới là cách duy nhất để bảo vệ đất nước khỏi sự đe dọa của Hoa Kỳ. Triều Tiên thấy rõ số phận của nhà lãnh đạo Iraq là Saddam Hussein, người đã bị hành quyết sau khi Mỹ tấn công Iraq với lý do giả mạo là nước này tàng trữ vũ khí hủy diệt hàng loạt. Putin nói:
Dân chủ
Trả lời sự chỉ trích từ phía nhà báo Mỹ Mike Wallace rằng kế hoạch của ông chấm dứt các cuộc bầu cử thống đốc trực tiếp và chỉ định họ đi ngược lại tinh thần dân chủ, Putin đã trả lời:
"Nguyên tắc chỉ định các lãnh đạo vùng không phải là một dấu hiệu của sự thiếu dân chủ. Ví dụ, Ấn Độ được gọi là nền dân chủ lớn nhất thế giới. Nhưng những thống đốc của họ luôn được chỉ định bởi chính phủ trung ương và không ai tranh cãi rằng Ấn Độ là một nước dân chủ."
"Tại Hoa Kỳ, đầu tiên bạn lựa chọn các đại cử tri sau đó họ sẽ bầu ra các tổng thống. Tại Nga, tổng thống được chọn lựa thông qua cuộc bầu cử trực tiếp của toàn dân. Việc ấy thậm chí còn dân chủ hơn," Putin nói. "Và nước bạn hiện đang gặp phải vấn đề với những cuộc bầu cử của mình," ông nói với Wallace. "Bốn năm trước cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ phải đưa ra tòa án giải quyết. Hệ thống tòa án đã phải dính vào đó. Nhưng chúng tôi không chọc mũi vào hệ thống dân chủ của nước bạn, điều đó tùy thuộc vào nhân dân Hoa Kỳ." Toàn bộ cuộc phỏng vấn...
Trả lời câu hỏi trên đài truyền hình Hà Lan "Ông có thể tưởng tượng một tình huống theo đó ông sẽ ở lại chức vụ thêm một nhiệm kỳ thứ ba?", Putin nói:
"Tôi nhận ra rằng 2008 sẽ là một cuộc thử nghiệm quan trọng cho nước Nga, và không hề dễ dàng.Cùng lúc ấy, Hiến pháp Liên bang Nga quy định rằng Tổng thống, lãnh đạo nhà nước, được bầu với nhiệm kỳ bốn năm thông qua bỏ phiếu kín trực tiếp và không được tại nhiệm quá hai nhiệm kỳ liên tục.Tất nhiên tôi không dửng dưng với câu hỏi ai sẽ đứng ra đảm đương vận mệnh quốc gia Tôi đã cống hiến đời mình để phục vụ. Nhưng nếu mỗi lãnh đạo quốc gia đều thay đổi hiến pháp để phục vụ mình, chúng tôi sẽ nhanh chóng thấy rằng mình không còn là một quốc gia nữa. Tôi nghĩ rằng các lực lượng chính trị khác nhau ở Nga đã đủ trưởng thành để nhận thấy trách nhiệm của họ trước nhân dân Liên bang Nga. Trong bất kỳ trường hợp nào, người nhận được đa số phiếu bầu của các công dân Nga sẽ trở thành tổng thống đất nước."
Tại cuộc họp báo chung với Tổng thống George Bush năm 2005 ở Slovakia, Putin nói:
"Nước Nga đã đưa ra lựa chọn của mình theo hướng dân chủ. Mười bốn năm trước, một cách độc lập, không bị bất cứ một sức ép nào từ bên ngoài, nó đã đưa ra quyết định đó trên cơ sở lợi ích của chính mình và lợi ích của người dân - những công dân của nó. Đó chính là lựa chọn cuối cùng của chúng tôi, và chúng tôi không có con đường quay trở lại. Không thể có sự trở lại với ngày xưa. Và sự bảo đảm cho điều đó là sự lựa chọn của người dân Nga, chính họ. Không, những sự bảo đảm từ bên ngoài không thể được thực hiện. Đó là điều bất khả thi. Nó sẽ là điều không thể đối với nước Nga ngày nay. Bất kỳ một hình thức quay trở lại nào với chế độ chuyên chế với nước Nga đều là điều không thể, vì điều kiện của xã hội Nga.Khi mà các vấn đề vẫn còn đang được thảo luận trên các phương tiện truyền thông giữa các đối tác của chúng tôi, tôi chỉ có thể nhắc lại điều đã từng được Tổng thống Hoa Kỳ nói. Đầu tiên, chúng tôi không chuẩn bị tạo nên - sáng tạo bất kỳ một kiểu dân chủ đặc biệt nào của Nga; chúng tôi đang chuẩn bị đưa ra các nguyên tắc căn bản của một nền dân chủ từng được thành lập trên thế giới. Nhưng tất nhiên, tất cả các định chế dân chủ hiện đại - các nguyên tắc dân chủ phải tương xứng với tình trạng phát triển hiện tại của nước Nga, với lịch sử và truyền thống của chúng tôi.Không hề có điều gì bất bình thường ở đây. Tại mọi quốc gia, các nguyên tắc đó đều được thể hiện theo cách này hay cách kia. Về luật bầu cử, chúng tôi có thể so sánh với Hoa Kỳ và một số nước châu Âu. Về hoạt động của các thể chế dân chủ chính, có thể có một số sự khác biệt, nhưng các nguyên tắc căn bản và nền tảng đang được áp dụng theo cách thức để chúng sẽ được phát triển bởi một xã hội hiện đại và văn minh.Trong giai đoạn trước kia của chúng tôi, không thể nghi ngờ sự thực rằng giai đoạn phát triển đó của Liên bang Nga với những nhà chính trị lớp trước, dù có những khó khăn xuất hiện khi có những thay đổi, họ đã mang lại điều chủ yếu cho người dân Nga - đó là tự do. Nhưng tôi tin rằng rất nhiều người sẽ đồng ý với tôi, việc áp dụng những nguyên tắc và tiêu chuẩn dân chủ không thể đi liên với sự sụp đổ quốc gia và sự nghèo đói của nhân dân.Chúng tôi tin tưởng, và cá nhân tôi tin tưởng rằng việc áp dụng và tăng cường dân chủ trên đất nước Nga sẽ không hủy hoại khái niệm dân chủ. Cần tăng cường vị thế quốc gia và cần cải thiện mức sống của người dân. Đây chính là phương hướng chúng tôi đang hành động."
Và, sau khi nói về tự do thông tin,
"Khi chúng tôi thảo luận các vấn đề đó, rất thẳng thắn, chúng tôi, và đặc biệt là tôi, không nghĩ rằng phải đặt vấn đề đó với tầm quan trọng quá lớn, các vấn đề mới đó được tạo ra không từ cái gì cả. Và tôi không nghĩ rằng chúng tôi phải hủy hoại quan hệ Nga-Mỹ, bởi vì chúng tôi quan tâm tới sự phát triển mối quan hệ đó. Chúng tôi rất chú trọng tới mọi lời bình luận của báo chí hay các lực lượng đối lập, nhưng trách nhiệm của chúng tôi là, dù có rất nhiều vấn đề như vậy, trách nhiệm của chúng tôi là phát triển một cách chắc chắn mối quan hệ Nga-Mỹ."
Khi xảy ra sự kiện Wikileaks năm 2010:
"Các vị gọi đấy là dân chủ? Các vị luôn rêu rao rằng mình là nhà dân chủ, còn chúng tôi là độc tài, nhưng nếu các vị mà ra lệnh bắt Julian Assange thì quả là một sự nhục nhã. Tôi có thể khó chịu với ông ta, nhưng không có nghĩa là phải bắt ông ta rồi đem ra tử hình kiểu Mỹ thế này. Thụy Điển, Anh đang đi ngược lại quyền tự do báo chí đó là thế nào? Thật là một kiểu Hoa Kỳ chính gốc: đòi bỏ tù Assange rồi kết án Bradley Manning thì thật là ngớ ngẩn."
Phê phán việc xét lại lịch sử
Putin phản đối những quan điểm xét lại lịch sử, phủ nhận công lao và những sự hy sinh của Liên Xô trong cuộc chiến chống chủ nghĩa phát xít:Thưa các bạn, ký ức về cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại đó là đạo đức, đó là lương tâm, đó là trách nhiệm của tất cả chúng ta. Ngày hôm nay, có những kẻ đã cố tình bóp méo sự thật về cuộc chiến tranh tàn khốc ấy. Chúng không biết ngượng lừa dối con cháu mình, phản bội lại ký ức về những người anh hùng, về cuộc chiến mà tất cả đã dâng hiến để có được chiến thắng. Ký ức về cuộc chiến tranh, về các cựu chiến binh sẽ mãi mãi không thể xóa nhòa và không thể bóp méo...Nước Nga biết rất rõ thế nào là chiến tranh, mỗi một gia đình đều đã mất mát trong cuộc chiến tranh ấy và ký ức thiêng liêng về họ, niềm tự hào về họ sẽ mãi mãi đồng hành cùng chúng ta.Cuộc sống tại Nga
Putin nói về việc nhân tài đang di cư khỏi nước Nga, ngày 6 tháng 6 năm 2003: "Nếu chất xám đang bị chảy máu, thì thực sự chất xám đang tồn tại. Đó đã là điều tốt. Nó có nghĩa rằng, họ có chất lượng rất cao, nếu không chẳng ai cần đến họ cả."
Trích từ bài phát biểu hàng năm của Putin trước Quốc hội, 2005:"Tôi sẽ nhắc lại lịch sử gần đây của nước Nga thêm một lần nữa.Trên hết, chúng ta cần biết rằng sự sụp đổ của Liên bang xô viết là một thảm họa địa chính trị lớn của thế kỷ. Đối với quốc gia Nga, nó đã trở thành một bi kịch thực sự. Hàng triệu công dân và những người yêu nước của chúng ta bỗng nhiên thấy họ đang sống bên ngoài lãnh thổ Nga. Hơn nữa, bệnh dịch tan rã ảnh hưởng tới ngay cả nước Nga.Các khoản tiết kiệm cá nhân mất giá trị, và các lý tưởng cũ bị phá bỏ. Nhiều thể chế đã bị giản tán hay cải cách một cách cẩn trọng. Sự can thiệp khủng bố và sự đầu hàng của Khasavyurt tiếp sau đó đe dọa sự thống nhất quốc gia. Các nhóm đầu sỏ chính trị - nắm quyền kiểm soát tuyệt đối các kênh thông tin - chỉ phục vụ cho lợi ích của riêng họ. Sự nghèo đói của nhân dân bắt đầu được coi là tiêu chuẩn. Và tất cả mọi điều đó đã xảy ra vì nguyên nhân của sự giảm sút kinh tế, tài chính bất ổn định, và sự tê liệt của các thể chế xã hội.Nhiều người nghĩ hay có vẻ nghĩ rằng ở lúc mà nền dân chủ non trẻ của chúng ta không phải là một sự tiếp nối của nước Nga, nhưng là sự sụp đổ sau cùng của nó, sự đau đớn kéo dài của hệ thống Xô viết.Nhưng họ đã sai lầm.Đó chính là giai đoạn khi những sự phát triển đáng chú ý bắt đầu diễn ra ở Nga. Xã hội của chúng ta không chỉ tạo ra sức mạnh tự cường mà còn cả một lòng tin cho một cuộc sống mới và tự do."Read more...
Trích từ Bài phát biểu hàng năm trước Quốc hội của Putin ngày 10 tháng 5 năm 2006:
"Những nỗ lực của chúng ta hiện nay tập trung vào các lĩnh vực trực tiếp quyết định tới chất lượng cuộc sống các công dân của chúng ta. Chúng ta dang tiến hành các dự án quốc gia trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, nông nghiệp và xây dựng nhà cửa. Như mọi người biết, các vấn đề trong các lĩnh vực đó đã tích lũy lại không chỉ sau giai đoạn vài năm mà là cả hàng thập kỷ."
"Trong khi thực hiện kế hoạch quốc gia to lớn với mục tiêu hàng đầu là hạnh phúc cho đại chúng, rõ ràng là bước chân một số người đang đi lên và sẽ đi lên. Nhưng những bước chân đó thuộc về một thiểu số khá nhỏ những người đang tìm cách kiếm địa vị và sự giàu có hay cả hai thứ đó bằng những lối tắt gây hại cho tổng thể đông đảo. Đó là những lời hoa mỹ và đáng tiếc rằng tôi không phải là người nghĩ ra chúng. Đó là những lời nói của Franklin Delano Roosevelt, Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, năm 1934."
"Chúng ta đã nói rất nhiều về sự cần thiết phải có được tăng trưởng kinh tế cao coi đó là ưu tiên tuyệt đối của đất nước. Bài phát biểu hàng năm năm 2003 lần đầu tiên đã đặt ra mục tiêu tăng gấp đôi GDP trong một thập kỷ. {...} nhưng tôi muốn nhấn mạnh rằng nếu chúng ta không đề cập tới một số vấn đề, không cải thiện các nền tảng kinh tế vi mô của chúng ta, không đảm bảo mức độ tự do cần thiết, không tạo ra được các điều kiện công bằng cho cạnh tranh và không tăng cường quyền sở hữu tài sản, chúng ta sẽ không thể hoàn thành các mục tiêu kinh tế đã đề ra đúng thời hạn."
"Chúng ta đã bắt đầu những bước vững chắc để thay đổi cơ cấu nền kinh tế và, như chúng ta đã quyết tâm, sẽ mang lại cho nó một chất lượng mang tính đổi mới."
"Nước Nga phải nhận ra toàn bộ tiềm năng của mình trong các lĩnh vực công nghệ cao như kỹ thuật năng lượng hiện đại, vận tải và thông tin, vũ trụ và chế tạo máy bay. Đất nước chúng ta phải là một nhà xuất khẩu lớn về các dịch vụ tri thức."
"Sự bảo vệ chắc chắn các quyền sở hữu trí tuệ là một điều kiện quan trọng cho sự phát triển công nghệ mới. Chúng ta phải đảm bảo bản quyền bên trong nước mình - đây cũng là trách nhiệm của chúng ta với các đối tác nước ngoài. Và chúng ta cũng phải đảm bảo sự bảo vệ lớn hơn cho các bản quyền của người Nga ở nước ngoài."
"Chúng ta cũng phải tiếp tục quá trình ủy thác quyền lực. Đặc biệt, các vùng phải có quyền của mình bên trong những nguồn vốn đầu tư lấy từ ngân sách quốc gia, đó là những cách thức đang được sử dụng hiện nay để cung cấp tài chính cho các cơ cấu quyền lực địa phương. Đã đến lúc tách việc giám sát quá trình xây dựng các trường học, nhà tắm công cộng và các hệ thống thoát nước khỏi Moskva."
"Mọi người biết rằng dân số nước ta đang giảm bớt với mức trung bình 700.000 người mỗi năm. Chúng ta đã nhiều lần đề cập tới vấn đề này nhưng đa số đều chưa làm gì nhiều để giải quyết nó. Giải quyết vấn đề này đỏi hỏi chúng ta phải tiến hành các bước sau. Đầu tiên, chúng ta cần hạ thấp tỉ lệ tử vong. Thứ hai, chúng ta cần một chính sách nhập cư hữu hiệu. Và thứ ba, chúng ta cần phải tăng mức sinh."
"Chúng ta đang nói về việc ngăn chặn nhập khẩu và sản xuất rượu lậu. Dự án Chăm sóc sức khỏe quốc gia tập trung vào việc bảo vệ, ngăn chặn và điều trị bệnh tim mạch và các loại bệnh khác gây nên tỷ lệ tử vong cao trong dân số nước ta.
Về chính sách nhập cư, sự ưu tiên của chúng ta là thu hút những người yêu nước từ bên ngoài. Theo phương hướng này, chúng ta cần khuyến khích những người có trình độ tay nghề nhập cư vào trong nước, khuyến khích những người có giáo dục cao đến với nước Nga. Những người đến với chúng ta phải tôn trọng văn hóa và các truyền thống của nước Nga.
Nhưng không một số lượng nhập cư nào có thể giải quyết được các vấn đề nhân khẩu nếu chúng ta không đưa ra các điều kiện và biện pháp khuyến khích tỷ lệ sinh sản ở đây trong chính đất nước chúng ta. Chúng ta không thể giải quyết được vấn đề này trừ khi đưa ra được những chương trình hỗ trợ hiệu quả cho các bà mẹ, trẻ em và các gia đình.
Thậm chí một sự tăng trưởng nhỏ trong tỷ lệ sinh và sự giảm sút nhỏ trong tỷ lệ tử ở trẻ em như chúng ta mới chứng kiến gần đây cũng không mang lại nhiều kết quả bằng sự cải thiện tình hình kinh tế xã hội của đất nước. Sự cải thiện là tốt nhưng vẫn còn chưa đủ.
Công việc chúng ta đã tiến hành với các dự án về những vấn đề đó trong những năm vừa qua đã thiết lập được một nền tảng tốt, gồm cả việc giải quyết vấn đề nhân khẩu, nhưng nó vẫn chưa đủ, và bạn biết lý do tại sao. Tình hình trong lĩnh vực này vẫn còn đáng lo ngại."
Putin cũng đã đề xuất một chương trình lớn nhằm khuyến khích sinh sản, gồm khoản trợ cấp 250.000 rúp cho người sinh con thứ hai.
"Mối đe dọa khủng bố vẫn còn rất hiện thực. Các cuộc xung đột địa phương vẫn là môi trường tốt nuôi dưỡng khủng bố, một nguồn cung cấp vũ khí và chiến trường để chúng thử nghiệm khả năng của mình. Các cuộc xung đột đó thường phát sinh trên cơ sở dân tộc, thường là những cuộc xung đột giữa các tôn giáo, do những kẻ cực đoan xúi giục và lôi kéo.
Tôi biết rằng có có những người bên ngoài kia muốn thấy nước Nga sa lầy trong các vấn đề đó, không thể giải quyết được những vấn đề của riêng mình và phát triển."
Khi so sánh chi tiêu quốc phòng của Nga theo tỷ lệ GDP với chi tiêu của Pháp và Anh, Putin đề cập tới Hoa Kỳ:
"Ngân sách quốc phòng của họ theo các con số tuyệt đối lớn gấp 25 lần nước Nga. Đây là điều trong phòng thủ được gọi là 'ngôi nhà của họ — pháo đài của họ'. Và đó là điều tốt cho họ, Tôi nói. Được đấy!
Nhưng điều đó có nghĩa rằng chúng tôi cũng cần xây dựng ngôi nhà của riêng mình, biến nó trở thành mạnh mẽ và được bảo vệ. Sau mọi điều, chúng tôi thấy cái đang xảy ra trên thế giới hiện này. Con sói biết cần phải ăn thịt ai, như tục ngữ đã nói. Nó biết phải ăn thịt ai và có lẽ cũng không muốn nghe lời bất kỳ ai."
"Khi cần thiết phải phản công một cuộc tấn công trên diện rộng của khủng bố quốc tế tại Bắc Caucasus năm 1999, những vấn đề trong các lực lượng vũ trang trở thành nỗi đau đớn hiển nhiên. {...} Các lực lượng vũ trang của chúng ta có tới 1.400.000 người nhưng không có đủ người để chiến đấu. Đó là việc tại sao những chú bé chưa từng nhìn thấy chiến tranh bị gửi ra chiến trường. Tôi sẽ không bao giờ quên điều này. {...} Tình hình này trong các lực lượng vũ trang hiện đã thay đổi nhiều. Chúng ta đã tạo ra một cơ cấu mới cho các lực lượng vụ trang và các đơn vị hiện đang được trang bị các loại vũ khí, thiết bị mới, hiện đại và đây sẽ là cơ sở căn bản cho nền quốc phòng của chúng ta tới năm 2020."
"Nước Nga hiện đại cần có một quân đội có mọi khả năng tiến đương đầu thích đáng với mọi mối đe dọa mới mà chúng ta phải đối mặt. Chúng ta cần có các lực lượng vũ trang có khả năng chiến đấu đồng thời trên cả mặt trận quốc tế, khu vực và - nếu cần thiết - trong nhiều cuộc xung đột địa phương. Chúng ta cần các lực lượng vũ trang đảm bảo được sự an minh, sự toàn vẹn lãnh thổ cho nước Nga trong bất kỳ hoàn cảnh nào."
"Tới năm 2008, các binh lính chuyên nghiệp sẽ chiếm hai phần ba lực lượng vũ trang. Điều này sẽ giúp chúng ta giảm thời gian nghĩa vụ quân sự xuống còn một năm."
"Các lực lượng vũ trang đóng quân tại Chechnya đều là những người lính chuyên nghiệp. Bởi vì bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 năm 2007, quân đội của Bộ nội vụ tại Chechnya sẽ cũng gồm toàn bộ lính chuyên nghiệp. Nói cách khách, chúng ta sẽ không sử dụng các binh lính nghĩa vụ trong mọi chiến dịch chống khủng bố nữa."
"Một lượng lớn thanh niên ở tuổi nghĩa vụ quân sự hiện nay bị các bệnh kinh niên và có vấn đề với rượu, thuốc lá và thỉnh thoảng là cả ma tuý. Tôi nghĩ rằng trong các trường học của chúng ta, chúng ta cần không chỉ giáo dục mà còn phải lo lắng đến thể chất cũng như phát triển tinh thần yêu nước của họ. Chúng ta cần tái lập hệ thống huấn luyện tiền quân sự và giúp phát triển các môn thể thao quân sự."
Trả lời phỏng vấn CNN, Putin cho biết ông chống lại các giá trị phương Tây nhằm bảo vệ nhân dân Nga. Ông nói:
"Có một ý thức hệ nhất định từng thống trị ở Liên Xô cũ, và bất kể chúng ta cảm thấy thế nào về nó, thì nó vẫn dựa trên một số giá trị rõ ràng, gần như mang tính tôn giáo. Quy tắc đạo đức của Người xây dựng Chủ nghĩa cộng sản, nếu bạn đọc nó, chỉ là một bản sao lấy cảm hứng từ Kinh Thánh: ngươi không được giết người, chớ trộm cắp, chớ thèm muốn vợ người hàng xóm. Quy tắc đạo đức của Người xây dựng Chủ nghĩa cộng sản cũng có những điều răn đó, chỉ có điều chúng được viết bằng một ngôn ngữ đơn giản, ngắn gọn.Tôi muốn nhắc lại đôi điều mà tôi đã phát biểu trong Diễn văn đọc tại Quốc hội Liên bang: Vâng, đây là một cách tiếp cận bảo thủ, nhưng tôi muốn nhắc bạn về những phát ngôn của nhà triết học Nga Berdyaev rằng: chủ nghĩa bảo thủ không cản trở sự chuyển động về phía trước và tiến lên trên mà nó giúp ngăn chặn sự chuyển động thụt lùi và đi xuống. Theo tôi, đó là một công thức rất tốt, và nó là công thức mà tôi đề xuất. Chẳng có gì bất thường với chúng tôi ở đây. Nga là đất nước có một nền văn hóa cổ đại rất sâu sắc, và nếu chúng tôi muốn trở nên mạnh mẽ và phát triển một cách tự tin, chúng tôi phải dựa vào nền văn hóa và những truyền thống này, chứ không chỉ tập trung vào tương lai."Các phát biểu khác
Trong một bản dịch được xuất bản ngày 12 tháng 7 năm 2006, Putin được báo cáo là đã trả lời câu chỉ trích chính trị của Phó tổng thống Hoa Kỳ Dick Cheney nói, "Tôi nghĩ những lời phát biểu kiểu này của Phó tổng thống của các bạn cũng cùng loại với những phát đạn bắn trượt khi đi săn." Sau này Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush đã lưu ý rằng lời bình luận "khá thông minh, thật vậy, khá hài hước."
Trong cuộc Họp thượng đỉnh G8 lần thứ 32 tháng 7 năm 2006, Putin được trích dẫn đã nói, "Tôi xin nói với các ngài một cách thành thật, chúng ta chắc chắn là không muốn có cùng kiểu dân chủ như họ có ở Iraq." đối lại những lời cáo buộc của Mỹ về sự giảm sút dân chủ ở Nga.
Cũng trong cuộc họp thượng đỉnh G8 lần thứ 32, sau khi các nhà báo chỉ trích thành tích Nhân quyền của chính phủ Nga, Putin được trích dẫn đã nói rằng, "Cũng có nhiều câu hỏi khác, những câu hỏi chúng ta cần nói về cuộc chiến chống tham nhũng. Chúng tôi muốn nghe kinh nghiệm của các bạn, gồm cả cách nó đã được áp dụng thế nào với Lord Levy." Lord Levy, một thành viên của Hạ viện Anh, đã bị bắt (và được bảo lãnh tại ngoại) tuần trước vì liên quan tới vụ "Đổi tiền lấy chức tước" (Cash for Peerages). Cảnh sát điều tra vụ cung cấp các khoản tài chính cho các đảng chính trị Anh nhằm đổi lấy chức tước quý tộc."Tôi vốn không phải là một đảng viên theo sự cần thiết. Tôi cũng không thể nói rằng mình là người cộng sản hoàn toàn lý tưởng, nhưng dù sao chăng nữa tôi vẫn trân trọng. Không như nhiều người khác, tôi đã chỉ là một thành viên bình thường trong đảng, và cũng không như nhiều người khác, tôi không vứt bỏ thẻ đảng của mình, không đem đốt nó đi. Bây giờ tôi không muốn phán xét bất cứ ai... Nhưng Đảng Cộng sản Liên Xô đã tan rã, còn tấm thẻ đảng của tôi vẫn nằm ở đâu đó chứ không mất", "Tôi rất thích và cho đến nay vẫn thích tư tưởng cộng sản, tư tưởng xã hội chủ nghĩa" — ông Putin cho biết tại Diễn đàn liên khu vực của Mặt trận Nhân dân toàn Nga (ONF) tháng 1/2016. Ông cho rằng lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản về một xã hội công bằng và đúng đắn "rất giống như trong Kinh Thánh", dù thực tế "Đất nước chúng ta không giống như Thành phố Mặt trời" như những nhà cách mạng chủ nghĩa xã hội mường tượng nên, ông nói.
Chính sách đối ngoại
Sau khi nói rằng Hoa Kỳ không nên tấn công Iraq vào năm 2003: "Nhưng nếu Hoa Kỳ đã rút quân và để mặc Iraq mà không thành lập nên những nền tảng cho một quốc gia thống nhất có chủ quyền, thì đó rõ ràng là một sai lầm thứ hai."
Từ 2006 bài phát biểu trước Quốc hội Liên bang:
"Chính sách đối ngoại hiện đại của nước Nga dựa trên những nguyên tắc thực dụng, có thể dự đoán và tôn trọng luật pháp quốc tế."
"Tôi muốn nhấn mạnh rằng ở thời điểm toàn cầu hóa hiện nay khi một cấu trúc quốc tế mới đang trong quá trình hình thành, vai trò của Tổ chức Liên hiệp quốc đã có một vị thế quan trọng mới. Đây là diễn đàn mang tính đại diện và quốc tế cao nhất và nó vẫn là xương sống của trật tự quốc tế hiện đại. Rõ ràng rằng những nền tảng của tổ chức quốc tế này đã được đặt ra ở một giai đoạn hoàn toàn khác biệt và vì thế sự cải cách Liên hiệp quốc là điều cần thiết không thể tranh cãi.
Nước Nga, vốn đóng vai trò quan trọng trong công việc này, coi hai nguyên tắc sau là điều quan trọng.
Thứ nhất, cải cách phải khiến Liên hiệp quốc hoạt động hiệu quả hơn. Thứ hai, cải cách phải được đa số các nước thành viên của nó ủng hộ. Nếu không có sự đòng thuận trong Liên hiệp quốc, sẽ rất khó để đảm bảo sự cân đối trên thế giới."
Từ Cuộc gặp gỡ với các Cơ quan thông tấn các nước thành viên G8:
[Về vai trò của Liên hiệp quốc] "Sự thực rằng các vấn đề hiện nay đang được thảo luận cởi mở bên trong Liên hiệp quốc và rằng Liên hiệp quốc vẫn là một nền tảng để giải quyết các vấn đề quốc tế chứ không phải phục vụ cho lợi ích chính sách đối ngoại của bất kỳ một quốc gia nào biến nó không những mang tính quốc tế lớn hơn mà còn là rất cần thiết cho việc đưa ra những quyết định có thể chấp nhận được cho vũ đài quốc tế hiện nay. Chúng ta không có bất kỳ một tổ chức quốc tế nào tương tự như vậy."
[Về vấn đề Iran] "Đầu tiên chúng ta phải phát triển những phương cách tiếp cận chung với các đối tác của chúng ta, những cách tiếp cận có thể chấp nhận được với các đối tác Iran của chúng ta và sẽ không làm hạn chế khả năng sử dụng công nghệ hiện đại của họ. Chùng lúc ấy, những cách tiếp cận đó phải hoàn toàn thỏa mãn những lo ngại của cộng đồng quốc tế về việc không phổ biến vũ khí hạt nhân và các công nghệ hạt nhân bị coi là gây nguy hại đến nền hòa bình quốc tế.
Lập trường chính của chúng ta rất cụ thể. Chúng ta phản đối sử dụng vũ lực trong mọi hoàn cảnh. Đó là điều rõ ràng.
[Về vụ tranh chấp khí đốt với Ukraina] "Nước Nga đã cung cấp năng lượng cho châu Âu trong 40 năm qua. Chưa từng có một ngày hay một giờ nào sự cung cấp đó bị ngừng trệ. Và vào đầu năm nay nước Nga đã cung cấp toàn bộ, tôi muốn nhấn mạnh điều này, toàn bộ số lượng cung cấp cho các đối tác phương Tây và các khách hàng châu Âu. Để hiểu tại sao Ukraine, một nước trung gian, lại hút trái phép một khối lượng lớn các nguồn tài nguyên của châu Âu, bạn không nên hỏi chúng tôi: bạn phải hỏi Ukraina."
[Về chủ nghĩa ly khai] "Nước Nga không bao giờ quan tâm tới vấn đề tham gia vào bất kỳ một tổ chức khủng bố nào bên ngoài lãnh thổ của nó. Và chúng tôi không có kế hoạch làm như vậy.
Tôi nghĩ rằng chúng ta phải phát triển những cách quảnh lý thống nhất, những tiêu chuẩn và những cách thức tiếp cận các sự kiện diễn ra đồng thời trên các vùng khác nhau của thế giới. Nếu không tình trạng hỗn loạn sẽ xảy ra. {...}
Tôi rất lo lắng về điều này. Và tôi muốn sự lo lắng của nước Nga được truyền đi và chia sẻ. Chúng ta phải hiểu rằng đây không phải là những cuộc ganh đua thể thao theo đó một người nào đó sẽ chiến thắng một thứ gì đó trước người kia."
Chống hôn nhân đồng tính
Năm 2020, ông Putin đã nói rằng Nga sẽ không chấp nhận hôn nhân đồng tính chừng nào ông còn nắm quyền. Trong Hiến pháp Nga sửa đổi năm 2020 do tổng thống Vladimir Putin đề xuất, định nghĩa về hôn nhân ghi rõ hôn nhân là sự kết hợp "giữa một người nam và một người nữ", quy định này sẽ ngăn chặn mọi ý đồ ra luật hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính ở Nga (vì sẽ vi phạm Hiến pháp) Hơn 78% cử tri Nga đã bỏ phiếu đồng ý Hiến pháp Nga sửa đổi này Putin nói: "Liên quan đến vấn đề 'phụ huynh số 1' và 'phụ huynh số 2', thì tôi đã nói công khai về điều này và tôi sẽ nhắc lại một lần nữa: chừng nào tôi còn làm tổng thống thì điều này sẽ không xảy ra. (Một đứa trẻ) sẽ phải có cha và mẹ."''
Những thành tựu
Nước Nga dưới sự lãnh đạo của Putin đã khôi phục lại được vị thế cường quốc sau 10 năm hỗn loạn kể từ khi Liên Xô tan rã.
Nền kinh tế Nga vượt qua khủng hoảng và trở thành nước có tổng sản phẩm quốc dân đứng thứ 5 thế giới (theo sức mua tương đương) vào năm 2017. Vào thời điểm năm 2000, Nga chỉ có 12 tỷ USD dự trữ ngoại hối và nợ công ở mức cao, tương đương 92,1% GDP. Đến năm 2018, nợ công của Nga giảm xuống chỉ còn 17,4% theo GDP và dự trữ ngoại hối tăng lên 356 tỷ USD. Tổng sổ vàng dự trữ lên gần 1.400 tấn.. Nền kinh tế đã tăng gấp đôi quy mô, số lượng người dân sống dưới mức đói nghèo đã giảm một nửa
Khôi phục lại niềm tin của người Nga vào đất nước.
Trong thập niên 2000, dân số Nga liên tiếp giảm sút do tỷ lệ sinh đẻ giảm và số lượng người tử vong trẻ tuổi tăng mạnh. Để đạt mục tiêu tăng trưởng dân số, Chính phủ Nga đã thông qua các ưu đãi tài chính cho các cặp vợ chồng muốn sinh con, cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cũng như tạo điều kiện về việc làm tốt hơn cho các bà mẹ. Đến năm 2018, dân số Nga đã tăng trở lại, tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong rất thấp và đã tỷ lệ tử vong ở sản phụ gần như bằng không. Tuổi thọ bình quân của người Nga đã tăng 7 năm so với năm 2000, đạt gần 73 vào năm 2017.
Vượt qua khủng hoảng do các thắng lợi của các biến động tại các nước láng giềng như Ukraine và Gruzia cũng như duy trì được các tổ chức CIS, CSTO và tham gia lập 1 tổ chức mới là SCO (Tổ chức hợp tác Thượng Hải).
Khôi phục lại phần nào thế lực tại những vị trí đã mất ở những khu vực ảnh hưởng truyền thống như Việt Nam, Trung Đông, Ấn Độ, Trung Quốc và phát triển mối quan hệ với những đối tác mới (các nước Mỹ Latinh).
Tái sáp nhập bán đảo Crimea vào lãnh thổ Nga sau cuộc trưng cầu dân ý địa phương năm 2014.
Việc Nga hỗ trợ Chính phủ Syria và Thổ Nhĩ Kỳ trong cuộc chiến chống các nhóm đối lập đã nâng cao vị thế của Nga tại khu vực Trung Đông. Đầu tháng 12/2017, Tổng thống Putin tuyên bố với sự trợ giúp của quân đội Nga, lực lượng vũ trang Syria đã giải phóng gần như toàn bộ lãnh thổ Syria khỏi tay Nhà nước khủng bố tự xưng IS.
Về mặt cá nhân, ông Putin để lại ấn tượng về một chính khách rất mạnh mẽ trong các vấn đề quốc tế và nhạy bén trong các cuộc đàm phán.
Những hạn chế
Kinh tế Nga chưa đủ quy mô để trở thành một nền kinh tế có ảnh hưởng mạnh trên thế giới như dưới thời Liên Xô. Nga chưa thể trở thành một đối tác hàng đầu đối với những nước thân cận như Trung Quốc và Ấn Độ, và cũng không phải là đối tác hàng đầu đối với bất cứ một nền kinh tế chủ chốt nào trên thế giới, thậm chí cả các nước thuộc CIS.
Nga không có khả năng gây ảnh hưởng lớn trên thế giới về lối sống, văn hóa và nghệ thuật như dưới thời Liên Xô. Những lãnh thổ mà phần lớn người dân nói tiếng Nga đang nhỏ lại và vị thế của văn hóa và nghệ thuật Nga ở ngoài nước Nga bị sụt giảm.
Không tạo dựng được một chính sách hiệu quả trong quan hệ với cộng đồng người Nga ở nước ngoài như cách mà Trung Quốc tạo ra với cộng đồng Hoa kiều cũng như mất ảnh hưởng lên 2 nước láng giềng là Gruzia và Ukraina.
Thất bại trên thị trường hợp tác kỹ thuật quân sự với một số khách hàng. Một số khách hàng mua các loại vũ khí của Nga đã từ chối các hợp đồng mua bán và đưa ra lý do trì hoãn.
Tỉ lệ tội phạm ở Nga vẫn ở mức rất cao so với mặt bằng chung của châu Âu và thế giới. Theo thống kê của Văn phòng Tội phạm và Ma túy Liên Hợp Quốc, tỉ lệ giết người cố ý ở Nga vào năm 2016 là 10.82/100.000, cao gấp đôi so với Hoa Kỳ (5.8/100.000) và cao hơn rất nhiều so với tỉ lệ trung bình của toàn thế giới (6.2/100.000) .
Tham nhũng vẫn là vấn đề rất lớn ở Nga. Năm 2017, Tổ chức Minh bạch Quốc tế xếp Nga đứng thứ 135/176 trên thế giới về Chỉ số nhận thức tham nhũng. Theo Ngân hàng Thế giới, tham nhũng gây thiệt hại lên tới 50% tổng GDP của Nga .
Nga hiện là một trong những nước có tỉ lệ tự sát cao nhất thế giới. Theo thống kê của WHO vào năm 2016, tỉ lệ tự tử ở Nga đứng thứ 3 trên toàn cầu (chỉ sau 2 nước là Lesotho và Guyana), với 26,5 vụ trên 100.000 người . Năm 2012, tỷ lệ tự tử ở tuổi vị thành niên tại Nga cao gấp ba lần mức trung bình của thế giới .
Những lời đồn đại liên quan tới Putin
Tài sản
Các trang tin phương Tây như The Guardian và The Sunday Times của Anh nói rằng Tổng thống Vladimir Putin bị cho là cầm đầu một băng đảng, mà tài sản tổng cộng khoảng 130 tỷ USD.. Theo một phim tài liệu Đài Truyền hình ARD (Đức), người ta phỏng đoán là của cải của ông mà được đứng tên bởi các tay chân thân cận khoảng 40 tỷ USD, trong đó có một lâu đài bên sườn núi, cạnh một hồ, có đường xe thông qua núi chạy lên đó, tổng cộng cả khu vực tốn khoảng 1 tỷ USD.
Xếp hạng
Nhân vật của năm do tạp chí Time bình chọn năm 2007
Nhân vật có ảnh hưởng thứ nhì năm 2008 do tạp chí Time bình chọn
Liên tiếp 3 năm (2009, 2010 và 2011) nằm trong danh sách 10 người quyền lực nhất thế giới do tạp chí Forbes bình chọn. Năm 2013, Putin được bầu vào vị trí số một trong Danh sách những người quyền lực nhất thế giới của Forbes. |
Họ Mỏ hạc (danh pháp khoa học: Geraniaceae) là một họ thực vật có hoa. Nó bao gồm cả chi Geranium (các loài mỏ hạc) và các loài cây trồng làm cảnh như quỳ thiên trúc, phong lữ mà các nhà thực vật học ngày nay phân loại là thuộc chi Pelargonium, cùng với các chi có hình dạng bề ngoài tương tự khác.
Trong họ này có khoảng 805 loài, phân bổ trong khoảng 7 đến 14 chi; danh sách các chi trong bảng phân loại thuộc bài này lấy từ cơ sở dữ liệu của Vườn thực vật hoàng gia Kew, Anh quốc. Về mặt số lượng, quan trọng nhất là các chi Geranium, Pelargonium và Erodium. Phần lớn các loài được tìm thấy trong các khu vực ôn đới hoặc ôn đới ấm, đặc biệt là miền nam châu Phi, mặc dù có một số loài sinh trưởng trong khu vực nhiệt đới. Các loài cây này có thể là cây sống một năm hoặc lâu năm. Các loài cây có thân lớn thường có thân gỗ; phần lớn có lông bao phủ. Hoa có 5 cánh và chủ yếu là lưỡng tính.
Người ta cũng có thể phân biệt chi Hypseocharis có khoảng 1-3 loài sinh trưởng trong khu vực tây nam dãy Andes ở Nam Mỹ với phần còn lại của họ này. Một số tác giả đặt chi Hyspeocharis trong họ độc chi là Hypseocharitaceae, trong khi các nguồn cũ lại đặt chi này trong họ Oxalidaceae.
Phân loại
APG chia họ này ra thành 2 nhóm như sau:
Hypseocharis: Đồng nghĩa Hypseocharitaceae Weddell, 1 chi và 1-6 loài thực vật thân thảo sống lâu năm tại tây nam Andes ở Nam Mỹ (tây bắc Argentina, Bolivia, Peru).
Geranioideae Arnott: Khoảng 5-6 chi và 800 loài cây bụi. Đồng nghĩa: Erodiaceae Horaninow. Các chi đa dạng nhất là Geranium (430 loài), Pelargonium (280 loài), Erodium (80 loài), Monsonia (40 loài khi gộp cả chi Sarcocaulon). Phân bố tại vùng ôn đới, đặc biệt là miền nam châu Phi.
California: 1 loài, California macrophylla, tách ra từ chi Erodium. Miền tây Hoa Kỳ và tây bắc Mexico.
Erodium (bao gồm cả Erodion, Myrrhina, Ramphocarpus). 119 loài, khu vực bản địa là vùng ôn đới đại lục Á-Âu (gồm cả Tây Á), Australia, Bắc Phi, tây nam Hoa Kỳ, Mexico, Peru, Brasil tới miền nam Nam Mỹ.
Geranium (bao gồm cả Geranion, Geraniopsis, Neurophyllodes, Robertiella, Robertium). 354 loài, phân bố rộng khắp tại vùng ôn đới, cận nhiệt đới và miền núi nhiệt đới.
Monsonia (bao gồm cả Olopetalum). 26 loài, phân bố từ châu Phi (gồm cả Madagascar) qua Tây Á tới Ấn Độ.
Pelargonium (bao gồm cả Anisopetala, Campylia, Chorisma, Ciconium, Corthumia, Cortusina, Cynosbata, Dibrachya, Dimacria, Eumorpha, Geraniospermum, Grenvillea, Hoarea, Isopetalum, Jenkinsonia, Ligularia, Myrrhidium, Otidia, Pelargonion, Peristera, Phymatanthus, Polyactium, Polyschisma, Scolopacium, Seymouria): 283 loài, bản địa đông và nam châu Phi (gồm cả Madagascar), bán đảo Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ, Australia, Thái Lan. Du nhập vào một số nơi tại Trung Mỹ, Hoa Kỳ, Ecuador, Morocco, châu Âu, Nam Á, Uzbekistan, Việt Nam, Nhật Bản.
Sarcocaulon: 14 loài. Có thể gộp trong chi Monsonia, nhưng việc gộp lại này dường như làm cho Monsonia trở thành đa ngành.
Phát sinh chủng loài
Cây phát sinh chủng loài dưới đây lấy theo Price & Palmer (1993), với sự bổ sung lấy theo Fiz O. (2008) và Jeiter et al. (2017). |
Bộ Mỏ hạc (danh pháp khoa học: Geraniales) là một bộ nhỏ của thực vật có hoa, nằm trong phạm vi nhánh hoa Hồng (rosids) của thực vật hai lá mầm. Họ lớn nhất trong bộ này là Geraniaceae với khoảng 750- 800 loài. Ngoài ra, bộ này còn một số họ nhỏ khác, tổng cộng chưa tới 40 loài. Phần lớn các loài trong bộ Mỏ hạc là cây thân thảo, nhưng có một vài loài là cây bụi hay cây thân gỗ nhỏ.
Tầm quan trọng kinh tế của bộ Mỏ hạc là không đáng kể. Một số loài trong chi Pelargonium được trồng để lấy tinh dầu thơm sử dụng trong công nghiệp sản xuất nước hoa. Một số loài khác, chủ yếu trong họ Geraniaceae, được trồng làm cảnh hoặc làm cây thuốc trong y học.
Các mẫu hóa thạch cổ thực vật học của bộ này hiện nay vẫn không tìm thấy.
Phân loại
Các họ đưa ra trong bài này là điển hình trong các phân loại mới nhất. Trong các định nghĩa đó thì họ Hypseocharitaceae được đưa vào trong họ Geraniaceae, các họ Francoaceae và Greyiaceae được đưa vào trong họ Melianthaceae, nhưng chúng cũng có thể được coi là các họ riêng rẽ. Ngoài ra, họ Ledocarpaceae cũng có thể đưa vào trong họ Vivianiaceae.
Geraniaceae s.l.
Geraniaceae s.s.
Hypseocharitaceae
Melianthaceae s.l.
Melianthaceae s.s.
Francoaceae
Greyiaceae
Vivianiaceae s.l.
Vivianiaceae s.s.
Ledocarpaceae
Hệ thống APG III năm 2009 chỉ công nhận 3 họ là Geraniaceae, Melianthaceae và Vivianiaceae (tất cả đều hiểu theo nghĩa rộng).
Hệ thống APG IV năm 2016 chỉ công nhận 2 họ là Geraniaceae và Francoaceae (tất cả đều hiểu theo nghĩa rộng). Họ Vivianiaceae được gộp chung với họ Melianthaceae tạo thành họ Francoaceae theo nghĩa rộng.
Trong hệ thống Cronquist
Trong hệ thống Cronquist cũ thì bộ Geraniales có cấu trúc khác, bao gồm các họ sau:
Họ Geraniaceae
Họ Oxalidaceae (APG II coi họ này thuộc bộ Chua me đất - Oxalidales, phân nhóm rosid)
Họ Limnanthaceae (APG II coi họ này thuộc bộ Cải - Brassicales, phân nhóm eurosid II)
Họ Tropaeolaceae (APG II coi họ này thuộc bộ Cải - Brassicales, phân nhóm eurosid II)
Họ Balsaminaceae (APG II coi họ này thuộc bộ Thạch nam - Ericales, phân nhóm asterid)
Các họ Vivianiaceae và Ledocarpaceae được đưa vào trong họ Geraniaceae, còn họ Hypseocharitaceae nằm trong họ Oxalidaceae, hiện nay được coi là thuộc bộ riêng của chính nó là bộ Oxalidales. Họ Melianthaceae được đặt trong bộ Sapindales, các họ Greyiaceae và Francoaceae nằm trong bộ Rosales, sau đó lại được xếp vào họ Saxifragaceae.
Phát sinh chủng loài
Biểu đồ phát sinh chủng loài dưới đây lấy theo Wang và ctv. (2009), với tên gọi các bộ lấy từ website của Angiosperm Phylogeny.. Các nhánh với mức hỗ trợ tự khởi động thấp hơn 50% bị bỏ qua. Các nhánh khác có mức hỗ trợ 100% ngoại trừ những nơi có con số chỉ ra mức hỗ trợ cụ thể.
Phát sinh chủng loài trong nội bộ bộ Mỏ hạc như sau: |
Loạn luân hoặc phi luân là hoạt động tình dục giữa những người trong cùng gia đình hoặc những người có liên hệ huyết thống gần gũi. Loạn luân thường bao gồm các hoạt động tình dục giữa những người có quan hệ họ hàng gần (chung dòng máu), và thỉnh thoảng giữa những người có quan hệ luật pháp, con riêng, con nuôi hoặc có liên quan đến hôn nhân (ví dụ con với mẹ kế), hoặc các thành viên trong thị tộc có cùng tổ tiên.
Cấm kỵ về loạn luân đã và đang là những cấm kỵ mang tính văn hóa phổ quát , kể cả trong các xã hội cũ và mới. Đa phần các xã hội hiện đại có luật cấm loạn luân hoặc các hạn chế xã hội về hôn nhân cận huyết rất chặt chẽ. Trong các xã hội mà loạn luân là bất hợp pháp, việc loạn luân đồng thuận giữa hai người lớn được một số người coi là một tội phạm không nạn nhân. Một số nền văn hoá mở rộng quan niệm loạn luân cho các trường hợp người thân mà không có quan hệ huyết thống như được một người mẹ nuôi chung, anh chị em có cha/mẹ khác nhau, và các anh chị nhận nuôi. Các thân nhân bậc ba (như dì, cậu, cháu, anh con chú con bác) trung bình chiếm 12,5% gen, và quan hệ tình dục giữa họ được nhìn nhận khác nhau ở nhiều nền văn hoá khác nhau, từ mức bị hạn chế đến mức được xã hội chấp nhận.
Giải thích chung cho việc cấm loạn luân là tránh việc sinh sản cận huyết: con cái sẽ bị các rối loạn di truyền nếu cha mẹ có quan hệ di truyền gần gũi. Con cái của các cặp đôi trên có nguy cơ cao hơn về các rối loạn bẩm sinh, tử vong, và khuyết tật về phát triển và thể chất, và nguy cơ đó tỷ lệ thuận với hệ số gần gũi giữa cha mẹ chúng - một số đo mức độ gần gũi có liên quan đến di truyền. Nhưng việc tránh hôn nhân cận huyết không phải lý do duy nhất khi cấm loạn luân vì hai lý do. Thứ nhất, hầu hết các luật cấm loạn luân không liên quan đến huyết thống mà liên quan đến mối quan hệ - nghĩa là các mối quan hệ được hôn nhân thiết lập (ví dụ như con dâu với bố chồng, hoặc con gái với cha dượng) - cũng như các mối quan hệ do nhận con nuôi tạo ra. Thứ hai, các luật cấm loạn luân cũng áp dụng đối với tình dục không sinh sản - ví dụ như tình dục giữa hai người có huyết thống nhưng vô sinh, giữa hai người có quan hệ tình dục đồng giới, hoặc quan hệ tình dục được thực hiện với các thiết bị ngừa thai mặc dù hành động loạn luân không gây ra hậu quả gì trong hai trường hợp trên.
Đa phần các xã hội coi loạn luân là điều cấm kỵ. Điều cấm kỵ này là một trong những cấm kỵ chung của đa phần nền văn hóa bao gồm cả những nước hiện tại và những nước trong quá khứ, với hình phạt dành cho hành vi này. Tuy nhiên trong vài xã hội như Ai Cập cổ đại hay nhà Trần, có những quan hệ loạn luân trong hoàng tộc giữa anh/chị và em, cha và con gái, mẹ và con trai, chú và cháu gái, cô và cháu trai nhằm bảo tồn dòng máu hoàng gia không cho họ khác có cơ hội nắm quyền. Trong một số xã hội khác, như người Bali và vài bộ tộc Inuit có những quan niệm khác về vi phạm pháp luật và đạo đức trong loạn luân. Tuy nhiên, mối quan hệ tình dục với một người họ hàng bậc nhất (như cha mẹ hoặc anh chị em ruột) thường bị cấm trên toàn cầu. Tuy vậy ở một số quốc gia khác, cho phép các mối quan hệ loạn luân giữa những người trưởng thành đồng ý (với độ tuổi thay đổi theo địa điểm), bao gồm ở Hà Lan, Pháp, Slovenia và Tây Ban Nha, Trunng Quốc, Nga, Ấn Độ,Nhật Bản, Triều Tiền, Hàn Quốc,Thái lan,Ukraine ,Singapore,Isarel và một số quốc gia khác(xem trong dẫn chứng ).Mỹ thì tùy từng bang còn Đức thì chỉ cho các cặp đồng giới. Thụy Điển là quốc gia cho phép kết hôn giữa anh chị em cùng cha khác mẹ và họ phải nhờ sự tư vấn của chính phủ trước khi kết hôn.
Lịch sử
Thời cổ đại
Trong xã hội Trung Quốc cổ đại, anh em họ có cùng họ (những người có liên quan đằng nội) không được kết hôn, trong khi những người có họ khác nhau (tức là anh em họ đằng ngoại hoặc con bác con cô) được phép kết hôn.
Một số Pharaon Ai Cập lấy anh chị em con chú con bác và có vài người con với họ. Ví dụ, Tutankhamun lấy người em con chú Ankhesenamun, và ngay bản thân ông ta là con của một hôn nhân cận huyết giữa Akhenaton và một người em ruột không rõ tên. Việc lấy anh em họ trong xã hội Ai Cập thời đó được áp dụng rộng rãi trong suốt giai đoạn Graeco-Roman. Hàng loạt các văn bản viết trên giấy cói và thống kê nhân khẩu thời La Mã cho thấy nhiều cặp vợ chồng là anh chị em ruột có chung cả cha và mẹ. Quan hệ loạn luân nổi tiếng nhất xảy ra dưới triều đại Ai Cập thuộc Hy Lạp; Cleopatra VII kết hôn với em trai mình, Ptolemaios XIII, trong khi cha mẹ của bà, Cleopatra V và Ptolemaios XII, là anh chị em ruột.
Câu chuyện về Oedipus, với chủ đề loạn luân vô tình giữa mẹ và con, kết thúc trong thảm hoạ và cho thấy những cấm kỵ loạn luân trong thời cổ đại khi Oedipus bị trừng phạt vì những hành động loạn luân bằng cách tự chọc mù mắt. Trong "phần tiếp theo" của Oedipus, Antigone, bốn đứa con của Oedipus cũng bị trừng phạt vì hôn nhân loạn luân của cha mẹ họ. Loạn luân xuất hiện trong chuyện kể về sự ra đời của Adonis được chấp nhận rộng rãi, khi mẹ ông, Myrrha đã cải trang thành một gái mại dâm và quan hệ tình dục với cha mình-Cinyras- trong một lễ hội.
Trong thời Hy Lạp cổ đại, vua Sparta Leonidas I, anh hùng huyền thoại của trận Thermopylae, đã kết hôn với cháu gái của mình, Gorgo, Nữ hoàng của Sparta, con gái của người anh cùng cha khác mẹ Cleomenes I. Pháp luật Hy Lạp cho phép kết hôn giữa anh và em gái nếu họ có các bà mẹ khác nhau. Ví dụ, một số tác giả nói rằng Elpinice đã có thời gian kết hôn với người anh cùng cha khác mẹ của mình Cimon.
Loạn luân được Vergilius nhắc đến và phê phán trong cuốn sách Aeneis Book VI: hic thalamum invasit natae vetitosque hymenaeos; "Người này đã xông vào buồng của con gái mình và thực hiện một hành vi tình dục bị cấm".
Luật La Mã cấm hôn nhân cận huyết trong phạm vi 4 đời nhưng không có mức độ gần gũi liên quan đến hôn nhân. Luật La Mã cấm bất cứ cuộc hôn nhân nào giữa cha mẹ và con cái. Việc nhận con nuôi được coi là giống như mối quan hệ gần gũi với việc cha nuôi không thể kết hôn với một người con gái hoặc cháu gái nuôi ngay cả khi việc nhận con nuôi đã bị hủy bỏ. Các cuộc hôn nhân loạn luân bị coi thường và bị coi là "nefas" (chống lại luật pháp của các vị thần và con người) trong thời kỳ La Mã cổ đại. Trong năm 295, việc loạn luân đã bị cấm đoán với một sắc lệnh của hoàng đế, chia khái niệm incestus thành hai dạng không cân bằng với nhau: incestus iuris gentium được áp dụng cho cả người La Mã và người không phải người La Mã trong Đế chế, và incestus iuris civilis, chỉ áp dụng đến công dân La Mã. Do đó, một người Ai Cập có thể kết hôn với cô ruột của mình, nhưng một người La Mã thì không thể. Mặc dù hành vi loạn luân là không được chấp nhận được trong Đế quốc La Mã, có tin đồn rằng Hoàng đế La Mã Caligula đã có quan hệ tình dục với cả ba chị em của mình (Julia Livilla, Drusilla, và Agrippina con). Hoàng đế Claudius, sau khi tử hình vợ trước của mình, kết hôn với Agrippina con, con gái của anh trai, và thay đổi luật để cho phép hôn nhân như vậy, đáng lẽ ra là bất hợp pháp. Trong khi đó luật cấm kết hôn với con gái của chị gái vẫn được Claudius duy trì. Việc cấm loạn luân ở La Mã cổ đại được chứng minh bởi thực tế là các chính trị gia sẽ sử dụng tội loạn luân (thường là những cáo buộc gian dối) như một cách chế nhạo và một biện pháp tước quyền lực chính trị của các đối thủ.
Trong Thần thoại Bắc Âu, có các motif anh chị em ruột lấy nhau, một ví dụ rõ rệt nhất là hôn nhân giữa Njord và em gái kiêm vợ (có lẽ là Nerthus), sinh ra hai con Freyja và Freyr. Loki cũng đã buộc tội hai anh em Freyja và Freyr có quan hệ tình dục với nhau.
Trong Kinh Thánh
Theo Sáng thế ký 20:12 của Kinh Thánh Hebrew, Thượng phụ Abraham và vợ ông, Sarah, là anh chị em ruột, cả hai đều là con của Terah, nhưng với các bà mẹ khác nhau. Theo 2 Samuel, Amnon, con của vua David, đã cưỡng hiếp em cùng cha khác mẹ, Tamar (2 Sa-mu-ên 13).
Trong Sáng thế ký 19:30-38, khi sống trong một khu vực bị cô lập sau khi thành Sodom và Gomorrah bị tàn phá, hai con gái của Lot đã âm mưu và quyến rũ cha mình do thiếu đàn bà để tiếp tục dòng dõi của ông. Vì tình trạng say xỉn, Lot đã "không nhận ra" đứa con lớn của mình, và đêm hôm sau ông lại ngủ cùng với đứa con gái thứ hai. (Sáng thế ký 19: 32-35)
Các nguồn khác
Theo Sách Năm Toàn Xá, Cain cưới người em ruột Awan.
Từ thời Trung Cổ trở đi
Nhiều quân chủ quốc gia châu Âu có họ hàng với nhau do các cuộc hôn nhân chính trị, dẫn đến đôi khi các con chú con bác con dì xa (và cả con chú con bác trực hệ) kết hôn. Điều này đặc biệt đúng trong các nhà Habsburg, Hohenzollern, Savoy và Bourbon. Tuy nhiên, mối quan hệ tình cảm giữa anh chị em ruột, vốn đã được chấp nhận trong các nền văn hoá khác, được cho là đáng ghê tởm. Ví dụ, khi Anne Boleyn và anh trai George Boleyn loạn luân, cả hai anh em đã bị hành quyết vào tháng 5 năm 1536.
Những cuộc hôn nhân cận huyết cũng tồn tại trong các gia tộc hoàng gia của Nhật Bản cổ đại, Triều Tiên, Inca Peru, Hawaii cổ đại, và đôi khi là Trung Phi, Mexico và Thái Lan . Giống như các pharaoh của Ai Cập cổ đại, các vua Inca đã kết hôn với các chị em của họ. Ví dụ: Huayna Capac là con trai của Topa Inca Yupanqui và em gái kiêm vợ của Inca.
Các cuộc hôn nhân giữa anh chị em đã được ghi nhận ở Nhật Bản cổ đại như cuộc hôn nhân của Thiên hoàng Bidatsu và em gái của ông, Hoàng hậu Suiko. Hoàng tử Nhật Bản Kinashi no Karu có quan hệ tình dục với em gái Karu no Ōiratsume, mặc dù hành động này được xem là ngu xuẩn. Để ngăn chặn ảnh hưởng của các họ khác, một người em cùng cha khác mẹ của vua Cao Ly Quang Tông đã trở thành vợ ông vào thế kỷ thứ X. Tên hoàng hậu này là Daemok. Cuộc hôn nhân giữa các anh chị em đã phổ biến ở Ai Cập trong thời kỳ La Mã như một số số liệu điều tra dân số đã cho thấy.
Ở bang Tamil Nadu vùng Nam Ấn Độ, phong tục tập quán phổ biến cho phép nam giới kết hôn với con gái của các chị em gái.
Việt Nam
Trong lịch sử Việt Nam, nhà Trần khuyến khích hôn nhân nội tộc để tránh nạn ngoại thích. Theo thống kê, trong 175 năm tồn tại, nhà Trần đã diễn ra khoảng 35 cuộc hôn nhân nội tộc, trong đó có trường hợp vua Trần Anh Tông. Hiện nay, một số dân tộc thiểu số ở Việt Nam vẫn duy trì tục nối dây cũng là một hình thái phong tục tương tự.
Tỷ lệ và thống kê
Loạn luân giữa người lớn và người dưới độ tuổi đồng ý quan hệ được coi là một hình thức lạm dụng tình dục trẻ em, đây là một trong những hình thức lạm dụng trẻ em cực đoan nhất; nó thường dẫn đến chấn thương tâm lý nghiêm trọng và lâu dài, đặc biệt là trong trường hợp loạn luân giữa con với bố mẹ. Tỷ lệ xuất hiện loạn luân rất khó để tổng hợp, nhưng nghiên cứu đã ước tính thấp hơn 1% dân số nói chung có ít nhất một liên hệ tình dục như vậy, với tỷ lệ dưới 0,1% có quan hệ tình dục hoặc có thử quan hệ tình dục nhưng chưa thành. Đối với phụ nữ, các nghiên cứu cho tỷ lệ ước tính lên đến 20%.
Loạn luân giữa cha và con gái trong nhiều năm là hình thức loạn luân liên tục xảy ra và được nghiên cứu kỹ càng nhất. Gần đây hơn, các nghiên cứu đã cho thấy rằng việc loạn luân giữa anh chị em ruột, đặc biệt là việc anh trai có quan hệ tình dục với em gái ruột là hình thức loạn luân phổ biến nhất, với một số nghiên cứu cho thấy loạn luân giữa anh chị em ruột xảy ra thường xuyên hơn các hình thức loạn luân khác. Một số nghiên cứu cho thấy những kẻ phạm tội vị thành niên lạm dụng anh chị em ruột thường chọn em ruột, lạm dụng nạn nhân trong một khoảng thời gian dài hơn, sử dụng bạo lực thường xuyên và nghiêm trọng hơn những người loạn luân khi trưởng thành và lạm dụng anh chị em ruột có tỷ lệ hành vi tình dục xâm nhập cao hơn việc loạn luân của cha lẫn cha dượng. Việc loạn luân của cha ruột và anh trai gây ra nhiều đau khổ và căng thẳng hơn so với loạn luân của cha dượng.
Phân loại
Giữa người lớn và trẻ em
Tình dục giữa một thành viên người lớn và một đứa trẻ trong cùng gia đình thường được coi là một hình thức lạm dụng tình dục trẻ em gọi là lạm dụng loạn luân trẻ em, và trong nhiều năm đã là hình thức loạn luân được báo cáo nhiều nhất. Tình dục giữa con gái với cha ruột hoặc cha dượng là hình thức thường xảy ra nhất của loạn luân giữa người lớn và trẻ em, thứ nhì là loạn luân của con với mẹ hoặc mẹ kế. Nhiều nghiên cứu nhận thấy rằng cha dượng thường có xu hướng loạn luân hơn cha đẻ. Một nghiên cứu các phụ nữ trưởng thành ở San Francisco ước tính rằng 17% phụ nữ bị cha dượng lạm dụng và 2% bị cha đẻ lạm dụng. Loạn luân giữa cha và con trai được báo cáo ít hơn, nhưng không rõ tỷ lệ thấp này là đúng hay không vì nhiều khả năng hình thức loạn luân này không được báo cáo đầy đủ. Tỷ lệ loạn luân giữa cha mẹ và con cái rất khó đánh giá do người trong cuộc giữ bí mật và không muốn mất tính riêng tư.
Trong một tin tức năm 1999, BBC tường thuật rằng, "Báo cáo cho thấy rằng cuộc sống gia đình gần gũi ở Ấn Độ che giấu việc lạm dụng tình dục của các thành viên trong gia đình đối với trẻ em và các bé gái vị thành niên Tổ chức RAHI của Delhi cho biết 76% người được hỏi trong cuộc khảo sát của họ đã bị ngược đãi khi họ còn nhỏ - 40% trong số họ bị chính thành viên trong gia đình ngược đãi."
Theo Trung tâm Nạn nhân Tội phạm Quốc gia, một tỷ lệ lớn hiếp dâm tại Hoa Kỳ do chính thành viên trong gia đình thực hiện:
Một nghiên cứu về các nạn nhân của loạn luân giữa cha và con gái trong thập niên 1970 cho thấy có những "đặc điểm chung" trong gia đình trước khi xảy ra loạn luân: sự lạnh nhạt giữa mẹ và con gái, tính gia trưởng của người cha và quá trình chuyển đổi một số trách nhiệm gia đình truyền thống từ mẹ sang con gái. Con gái lớn tuổi nhất và là con gái duy nhất có nhiều khả năng là nạn nhân của loạn luân dạng này. Nghiên cứu cũng cho rằng kinh nghiệm loạn luân gây hại cho người phụ nữ trong cuộc sống sau này, thường dẫn đến lòng tự trọng thấp, hoạt động tình dục không lành mạnh, khinh thường các phụ nữ khác và hàng loạt vấn đề về tình cảm khác.
Trẻ em là nạn nhân loạn luân khi lớn lên thường xuyên cảm thấy thiếu tự tin, hay gặp khó khăn trong mối quan hệ giữa các cá nhân, rối loạn chức năng tình dục, và có nguy cơ cao bị các rối loạn tâm thần, bao gồm trầm cảm, rối loạn lo âu, hội chứng sợ hãi, rối loạn dạng cơ thể, lạm dụng chất kích thích, rối loạn nhân cách ranh giới, và rối loạn căng thẳng sau chấn thương phức tạp. Nghiên cứu của Leslie Margolin chỉ ra rằng loạn luân mẹ con không gây ra một số phản ứng sinh học bẩm sinh, nhưng những ảnh hưởng tiêu cực này liên quan trực tiếp hơn đến các ý nghĩa của hành vi loạn luân đối với những người tham gia.
Nhà Goler tại Nova Scotia là một ví dụ cụ thể trong đó lạm dụng tình dục trẻ em dưới hình thức loạn luận ép buộc giữa người lớn với trẻ em và các anh chị em ruột với nhau đã xảy ra trong ít nhất ba thế hệ. Một số trẻ em nhà Goler là nạn nhân của sự lạm dụng tình dục của cha, mẹ, chú, bác, cô, dì, anh chị em ruột, anh chị em họ và với nhau. Khi bị cảnh sát thẩm vấn, một số người lớn thừa nhận đã tham gia vào nhiều hình thức hoạt động tình dục, và bao gồm cả giao hợp đầy đủ, nhiều lần với trẻ em. Mười sáu người lớn (cả nam và nữ) bị buộc tội hàng trăm cáo buộc loạn luân và lạm dụng tình dục trẻ em, một số trường hợp khi chúng chỉ mới 5 tuổi. Tháng 7 năm 2012, đã có 12 trẻ em được tách ra khỏi gia đình 'Colt' (tên bút danh) tại New South Wales, Australia, sau khi khám phá ra việc loạn luân kéo dài 4 thế hệ tại đây. Các nhân viên bảo vệ trẻ em và các nhà tâm lý học cho biết các cuộc phỏng vấn với trẻ em cho thấy rằng đây là nơi " cho phép tình dục miễn phí cho tất cả mọi người".
Ở Nhật Bản, có một quan niệm sai lầm phổ biến rằng việc loạn luân giữa mẹ và con trai là chuyện bình thường, vì cách thức nó được miêu tả trên báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng. Theo Hideo Tokuoka, "Khi người Mỹ nghĩ về loạn luân, họ nghĩ đến bố và con gái, ở Nhật Bản người ta nghĩ đến mẹ và con trai" do giới truyền thông thông tin rất chi tiết về loạn luân mẹ và con trai tại Nhật. Một số nhà nghiên cứu phương Tây cho rằng loạn luân giữa mẹ và con trai là điều phổ biến ở Nhật Bản, tuy nhiên nghiên cứu về các thống kê nạn nhân từ cảnh sát và các hệ thống y tế đã cho thấy sự thật khác biệt; nó cho thấy đại đa số lạm dụng tình dục, bao gồm loạn luân, ở Nhật Bản là do nam giới lạm dụng các cô gái trẻ.
Giữa anh em ruột/anh em họ
Loạn luân giữa các anh chị em ruột hoặc anh chị em họ trong lứa tuổi nhỏ được coi là rất phổ biến nhưng ít khi được báo cáo. Loạn luân giữa các anh chị em ruột hay họ trở thành lạm dụng tình dục giữa trẻ em với nhau khi nó xảy ra mà không được đồng tình, không bình đẳng, hoặc do đe dọa/bắt ép. Dạng loạn luân này được coi là dạng loạn luân phổ biến nhất trong họ hàng gần. Dạng loạn luân được báo cáo phổ biến nhất là lạm dụng tình dục của anh chị lớn tuổi hơn đối với em ruột/em họ. Một nghiên cứu năm 2006 cho thấy phần lớn người lớn bị ép loạn luân với anh chị em họ đã có các niềm tin "bị bóp méo" hoặc "gây khó chịu" (chẳng hạn như coi hành động loạn luân đó là "bình thường") cả về về kinh nghiệm của riêng họ và quan niệm về lạm dụng tình dục nói chung.
Loạn luân giữa các anh chị em ruột/họ phổ biến trong các gia đình mà có bố hoặc mẹ hoặc cả hai đều thường xuyên vắng nhà hoặc không gần gũi con cái. Khi đó các anh chị ưa bắt nạt sẽ sử dụng loạn luân như một hình thức thể hiện quyền lực với người em. Sự vắng mặt của người cha được coi là nhân tố chính trong hầu hết các trường hợp em gái bị anh ruột lạm dụng tình dục. Các ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển tuổi thơ lẫn các triệu chứng tâm lý khi trở thành người lớn của loạn luân giữa anh trai và em gái là tương tự các hậu quả của loạn luân giữa cha và con gái, bao gồm: lạm dụng chất kích thích, trầm cảm, khuynh hướng tự tử và rối loạn ăn uống.
Giữa hai người lớn đồng thuận
Hoạt động tình dục giữa những người đã trưởng thành có quan hệ họ hàng gần gũi đôi khi được coi là hấp dẫn tình dục di truyền. Hình thức loạn luân này không được báo cáo rộng rãi, nhưng bằng chứng cho thấy rằng hành vi này diễn ra, có thể thường xuyên hơn nhiều so với những gì mọi người đã biết. Các phòng chat Internet và một số trang web chuyên đề đã được tạo ra cung cấp hỗ trợ cho các cặp vợ chồng loạn luân theo dạng này.
Người ủng hộ việc loạn luân giữa hai người lớn đồng thuận vạch rõ ranh giới rõ ràng giữa hành vi tình dục của những người trưởng thành đồng thuận và hãm hiếp, lạm dụng tình dục trẻ em và loạn luân mang tính lạm dụng. Tuy nhiên, thậm chí các mối quan hệ đồng thuận như vậy vẫn được phân loại là "loạn luân". James Roffee, một giảng viên cao cấp về tội phạm học tại Đại học Monash và cựu nhân viên về đáp ứng pháp lý đối với hoạt động tình dục gia đình ở Anh, xứ Wales, và Scotland thảo luận về cách Công ước Châu Âu về Quyền con người coi tất cả hành vi tình dục giữa người trong một gia đình là phạm tội, ngay cả khi tất cả các bên đồng thuận hoàn toàn và có kiến thức về mọi hậu quả có thể xảy ra. Ông cũng lập luận rằng việc sử dụng các công cụ ngôn ngữ đặc biệt của luật pháp làm cho người đọc hiểu rằng tất cả các hoạt động tình dục giữa người trong một gia đình là vô đạo đức và phạm tội hình sự, ngay cả khi tất cả các bên đều là người lớn và đồng thuận.
Trong một bài viết ở tạp chí Slate, William Saletan đã đưa ra một mối quan hệ pháp lý giữa tình dục đồng giới và loạn luân đồng thuận giữa những người trưởng thành. Năm 2003, Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Rick Santorum đã bình luận trong một bài viết về trường hợp Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đang hoãn xử lý liên quan đến các luật cấm quan hệ tình dục với súc vật (chủ yếu là vấn đề quyền Hiến pháp về Bảo mật và Bảo vệ Bình đẳng theo Luật) như sau:
Giữa cháu và cô dì chú bác
Ở Hà Lan, lấy cháu trai hoặc cháu gái của mình là hợp pháp, nhưng chỉ khi có sự cho phép của chính phủ Hà Lan, do nguy cơ có thể có các khiếm khuyết di truyền trong số con cái được sinh ra. Các cuộc hôn nhân của cô dì chú bác lấy các cháu mình thường xảy ra trong số những người nhập cư ngoại quốc. Vào tháng 11 năm 2008, Viện Khoa học của Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo (CDA) tuyên bố rằng họ muốn cấm hôn nhân dạng này.
Quan hệ tình dục giữa người lớn (người từ 18 tuổi trở lên) luôn luôn là hợp pháp ở Hà Lan và Bỉ, ngay cả trong số các thành viên trong gia đình có quan hệ họ hàng gần. Hành vi tình dục giữa một thành viên người lớn với trẻ vị thành niên trong gia đình là bất hợp pháp, mặc dù chúng không được xếp loại là loạn luân, nhưng vì lý do lạm dụng thẩm quyền như người lớn đối với trẻ vị thành niên, tương tự với hành vi lạm dụng tình dục của một giáo viên, huấn luyện viên, hoặc cha xứ.
Ở Florida, quan hệ tình dục đồng giới lớn với một người được biết đến là dì, chú, cháu gái hoặc cháu trai của bạn là một trọng án ở mức độ ba. Các tiểu bang khác cũng thường cấm hôn nhân giữa các quan hệ họ hàng trên. Tính hợp pháp của quan hệ tình dục với con cô con bác hoặc con dì khác nhau theo từng tiểu bang.
Tại Vương quốc Anh, loạn luân chỉ bao gồm quan hệ tình dục với cha mẹ, ông bà, con hoặc anh chị em ruột, nhưng hành vi phạm tội "quan hệ tình dục với người lớn" mới được đưa ra gần đây đã mở rộng đến cả những người anh chị em con cô con cậu con dì, chú bác, dì, cháu trai và cháu gái. Thuật ngữ "loạn luân" vẫn được sử dụng rộng rãi trong văn hoá đại chúng để mô tả bất kỳ hình thức hoạt động tình dục nào với người có họ hàng.
Giữa hai người lớn đồng thuận có họ hàng gần
Trường hợp công khai nhất mối quan hệ tình dục có đồng thuận giữa hai người lớn là anh chị em trong những năm gần đây là trường hợp của 2 anh em ruột từ Đức, Patrick Stübing và Susan Karolewski. Vì hành vi bạo lực của cha mình, Patrick đã được cha mẹ nuôi đón về vào năm 3 tuổi và đã nhận nuôi sau đó. Ở tuổi 23, anh biết về cha mẹ đẻ của mình, liên lạc với mẹ, gặp bà và em gái 16 tuổi Susan lần đầu tiên. Patrick ngay lập tức đã chuyển tới gia đình ruột của mình sau đó. Sau 6 tháng kể từ khi người mẹ chết đột ngột, hai anh em đã gần gũi nhau, và có con đầu lòng với nhau vào năm 2001. Đến năm 2004, họ có bốn người con với nhau: Eric, Sarah, Nancy, và Sofia. Bản chất công khai của mối quan hệ của họ, và các vụ truy tố lặp đi lặp lại, và thậm chí án tù cho họ đã khiến nhiều người Đức phải đặt câu hỏi việc loạn luân có đồng thuận giữa hai người trưởng thành có đáng phải bị trừng phạt hay không. Một bài báo viết về họ trên Der Spiegel nói rằng cặp đôi này hạnh phúc bên nhau. Theo hồ sơ tòa án, ba đứa con đầu tiên của họ có khuyết tật về thể chất và tinh thần, và đã được đưa vào khu chăm sóc nuôi dưỡng đặc biệt. Vào tháng 4 năm 2012, tại Tòa án Nhân quyền châu Âu, Patrick Stübing thua kiện khi cho rằng sự kết án đã vi phạm quyền riêng tư của mình đối với cuộc sống và gia đình. Vào ngày 24 tháng 9 năm 2014, Hội đồng Đạo đức Đức đã khuyến cáo rằng chính phủ bãi bỏ các đạo luật phạm tội loạn luân giữa hai người, cho rằng những lệnh cấm như vậy ảnh hưởng đến công dân.
Một số xã hội phân biệt loạn luân giữa anh chị em ruột và loạn luân giữa anh chị em con cô con bác con dì. Trong xã hội cổ đại, hôn nhân giữa anh chị em ruột thịt và hôn nhân giữa anh chị em con cô con bác con dì đều đã xảy ra.
Các quan hệ con cô con bác con cậu con dì
Hôn nhân và quan hệ tình dục giữa các con cô con bác con cậu con dì bị coi là loạn luân trong một số nền văn hóa, nhưng đã xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới. Hiện tại, 24 tiểu bang Hoa Kỳ cấm hôn nhân dạng này, và 7 tiểu bang khác cho phép nhưng chỉ trong những trường hợp đặc biệt.
Vương quốc Anh cho phép cả hôn nhân lẫn quan hệ tình dục giữa các con cô con bác con cậu con dì.
Ở một số xã hội không thuộc phương Tây, kết hôn giữa những người họ hàng có gen sinh học gần nhau chiếm xấp xỉ 20% đến 60% tổng số hôn nhân.
Hôn nhân giữa họ hàng anh em con chú con bác mức đầu tiên và thứ hai là hiếm, chiếm dưới 1% số cuộc hôn nhân ở Tây Âu, Bắc Mỹ và Châu Đại Dương, trong khi tỷ lệ này lên tới 9% ở Nam Mỹ, Đông Á và Nam Âu và khoảng 50% ở các vùng Trung Đông, Bắc Phi và Nam Á. Các cộng đồng như Dhond và Bhittani ở Pakistan ưa chuộng các hôn nhân giữa người anh em họ với niềm tin là chúng sẽ đảm bảo độ tinh khiết của dòng tộc, giúp vợ chồng hiểu nhau kỹ hơn, và đảm bảo rằng tài sản phụ hệ sẽ không rơi vào tay của "người ngoài". Các cuộc hôn nhân giữa hai người anh em họ được ưu tiên trong dòng tộc Yanomami của Brazil Amazonia, và đây chỉ là một trong số nhiều xã hội bộ tộc khác được các nhà nhân loại học xác định.
Có một số nền văn hóa ở Châu Á kỳ thị hôn nhân anh em họ, trong một số trường hợp, thậm chí hôn nhân giữa anh em họ thứ hai hoặc những người có quan hệ họ hàng xa hơn. Điều này đặc biệt đúng trong văn hóa của Hàn Quốc. Ở Hàn Quốc, trước năm 1997, bất kỳ ai có cùng họ và tộc đều bị cấm kết hôn. Do luật này được coi là vi hiến, Hàn Quốc hiện chỉ cấm tối đa anh em họ thứ ba (xem Điều 809 Bộ luật Dân sự Hàn Quốc). Văn hóa Hmong cấm kết hôn của bất kỳ ai có cùng họ - làm như vậy sẽ bị cả cộng đồng xa lánh và họ thường bị tước bỏ họ của mình. Một số cộng đồng Ấn Độ giáo ở Ấn Độ cấm hôn nhân anh em họ.
Trong một đánh giá của 48 nghiên cứu về trẻ em được sinh ra từ các cặp vợ chồng là anh chị em họ, tỷ lệ dị tật bẩm sinh cao gấp đôi so với các cặp không cùng quan hệ: 4% đối với các cặp anh em họ so với 2% đối với dân số chung.
Định nghĩa thông qua hôn nhân
Một số nền văn hóa bao gồm quan hệ họ hàng bằng hôn nhân trong loạn luân bị cấm; các mối quan hệ được gọi là mối quan hệ (affirnity) chứ không phải là quan hệ bà con (consanguinity). Ví dụ, câu hỏi về tính hợp pháp và đạo đức của một người đàn ông góa vợ muốn kết hôn với em gái của người vợ đã qua đời của mình là chủ đề của cuộc tranh luận gay gắt và kéo dài ở Vương quốc Anh vào thế kỷ 19, trong đó có Matthew Boulton và Charles La Trobe. Các cuộc hôn nhân lần lượt được thực hiện ở Scotland và Thụy Sĩ, nơi chúng hợp pháp. Ở châu Âu thời trung cổ, việc đứng lên làm cha mẹ đối với một đứa trẻ cũng tạo ra một mối quan hệ thân thuộc. [ cần dẫn nguồn ] Nhưng trong các xã hội khác, anh chị em của vợ / chồng đã qua đời được coi là người lý tưởng để kết hôn. Kinh thánh tiếng Do Thái cấm một người đàn ông kết hôn với người vợ góa của anh trai mình, ngoại trừ trường hợp nếu anh trai anh ta chết mà không có con, thay vào đó, người đàn ông phải kết hôn với người vợ góa của anh trai mình để "sinh sản cho giống anh ta" (theo ). Một số xã hội từ lâu đã thực hành chế độ đa thê, một hình thức đa phu thê, trong đó một người đàn ông kết hôn với nhiều người vợ là chị em của nhau (mặc dù không có quan hệ họ hàng gần).
Trong luật Hồi giáo, việc kết hôn giữa những người có quan hệ huyết thống gần gũi như cha mẹ, cha mẹ vợ, cha mẹ chồng, anh chị em ruột, anh chị em riêng, con của anh chị em, cô dì chú bác bị cấm, trong khi anh em họ thứ nhất hoặc thứ hai có thể kết hôn. Kết hôn với người vợ góa của anh trai, hoặc em gái của người vợ đã qua đời hoặc đã ly hôn cũng được cho phép.
Giao phối cận huyết
Con cái của các cặp bố mẹ có quan hệ sinh học có thể chịu tác động của giao phối cận huyết. Những đứa con như vậy có khả năng bị dị tật bẩm sinh cao hơn (xem Hệ số quan hệ) vì nó làm tăng tỷ lệ hợp tử đồng hợp tử đối với các alen lặn có hại sinh ra các rối loạn này (xem Bệnh trầm cảm cận huyết). Bởi vì hầu hết các alen như vậy rất hiếm trong quần thể, không chắc rằng hai người kết hôn không có quan hệ huyết thống đều là người mang gen dị hợp tử. Tuy nhiên, bởi vì những người họ hàng gần có chung một phần lớn các alen của họ, xác suất để bất kỳ alen nào hiếm gặp như vậy có mặt trong tổ tiên chung sẽ được thừa hưởng từ cả bố và mẹ có liên quan sẽ tăng lên đáng kể so với các cặp vợ chồng không lai. Trái với suy nghĩ thông thường, giao phối cận huyết không làm thay đổi tần số alen mà ngược lại, làm tăng tỷ lệ tương đối giữa các thể đồng hợp tử với dị hợp tử. Điều này có hai tác động trái ngược nhau.
Trong ngắn hạn, bởi vì loạn luân sinh sản tăng zygosity, alen lặn có hại sẽ thể hiện bản thân thường xuyên hơn, dẫn đến sự gia tăng sẩy thai của hợp tử, tử vong chu sinh, và con cái sau khi sinh với dị tật bẩm sinh.
Tuy nhiên, về lâu dài, do sự tiếp xúc của các alen lặn có hại đối với chọn lọc tự nhiên ngày càng nhiều, tần số của chúng giảm nhanh hơn trong quần thể cận huyết, dẫn đến một quần thể "khỏe mạnh hơn" (với ít alen lặn có hại hơn).
Hai người có quan hệ họ hàng càng gần thì hợp tử càng cao và do đó cái giá sinh học phải trả của giao phối cận huyết càng nghiêm trọng. Thực tế này có thể giải thích tại sao giao phối cận huyết giữa những người họ hàng gần, chẳng hạn như anh chị em ruột, ít phổ biến hơn giao phối cận huyết giữa anh em họ.
Ngoài ra còn có thể có những ảnh hưởng có hại khác ngoài những ảnh hưởng do bệnh lặn. Do đó, các hệ thống miễn dịch tương tự có thể dễ bị các bệnh truyền nhiễm hơn (xem Phức hợp tương hợp mô chính và lựa chọn giới tính).
Một nghiên cứu năm 1994 cho thấy tỷ lệ tử vong dư thừa trung bình khi giao phối cận huyết giữa những người anh em họ đầu tiên là 4,4%. Con cái của các công đoàn cha mẹ - con cái hoặc anh chị em ruột có nguy cơ cao hơn so với các công đoàn anh chị em họ. Các nghiên cứu cho rằng 20-36% những đứa trẻ này sẽ chết hoặc bị tàn tật nặng do giao phối cận huyết. [32] Một nghiên cứu trên 29 con cái do loạn luân giữa anh trai-em gái hoặc cha-con gái cho thấy 20 đứa con sinh ra có bất thường bẩm sinh, trong đó có bốn con do nguyên nhân trực tiếp của alen lặn trên NST thường.
Luật pháp
Luật liên quan đến hoạt động tình dục giữa những người thân ruột thịt khác nhau đáng kể giữa các khu vực pháp lý, và tùy thuộc vào loại hoạt động tình dục và bản chất của mối quan hệ gia đình của các bên liên quan, cũng như độ tuổi và giới tính của các bên. Luật cấm loạn luân có thể mở rộng đến các hạn chế về quyền kết hôn, quyền này cũng khác nhau giữa các khu vực tài phán. Hầu hết các khu vực pháp lý đều cấm các cuộc hôn nhân giữa cha mẹ-con cái và anh chị em, trong khi những khu vực khác cũng cấm các cuộc hôn nhân anh em họ và chú-cháu gái và dì-cháu. Ở hầu hết các nơi, loạn luân là bất hợp pháp, bất kể độ tuổi của hai đối tác. Ở các quốc gia khác, cho phép các mối quan hệ loạn luân giữa những người trưởng thành đồng ý (với độ tuổi thay đổi theo địa điểm), bao gồm ở Hà Lan, Pháp, Slovenia và Tây Ban Nha, Trunng Quốc, Nga, Ấn Độ,Nhật Bản, Triều Tiền, Hàn Quốc,Thái lan,Ukraine và một số quốc gia khác(xem trong dẫn chứng ).Mỹ thì tùy từng bang còn Đức thì chỉ cho các cặp đồng giới. Thụy Điển là quốc gia duy nhất cho phép kết hôn giữa anh chị em cùng cha khác mẹ và họ phải nhờ sự tư vấn của chính phủ trước khi kết hôn.
Mặc dù tính hợp pháp của tội loạn luân đồng thuận khác nhau giữa các quốc gia, nhưng tấn công tình dục đối với người thân thường được coi là một tội rất nghiêm trọng. Trong một số hệ thống pháp luật, việc thủ phạm là họ hàng gần của nạn nhân tạo thành một tình tiết tăng nặng trong trường hợp phạm tội tình dục như hiếp dâm và thực hiện hành vi tình dục với trẻ vị thành niên - đây là trường hợp ở Romania.
Việt Nam
Khoản 12, 13 điều 8 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 quy định:
Những người cùng dòng máu về trực hệ là cha-mẹ đối với con; ông-bà đối với cháu nội và cháu ngoại
Những người có họ trong phạm vi ba đời là những người cùng một gốc sinh ra: cha mẹ là đời thứ nhất; anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh chị em con chú con bác, con cô con cậu, con dì là đời thứ ba.
Điều 10 Luật hôn nhân và gia đình này cũng quy định các trường hợp cấm kết hôn:
.....
3. Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời
4. Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng
....
Điều 150 Luật Hình sự năm 1999 của Việt Nam quy định khung xử phạt đối với tội loạn luân là:
Người nào giao cấu với người cùng dòng máu về trực hệ, với anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
Quan điểm tôn giáo
Do Thái giáo
Theo kinh Torah, theo , "con cái của Israel" - đàn ông và phụ nữ Israel như nhau - bị cấm quan hệ tình dục giữa những người "gần họ hàng" (câu 6), những người được định nghĩa là:
Cha mẹ và con cái (câu 7)
Anh chị em cùng cha khác mẹ (câu 9, 11). Các mối quan hệ giữa những mối quan hệ này đặc biệt đơn lẻ vì một lời nguyền trong Phục truyền luật lệ ký 27, và chúng thuộc hai loại quan hệ loạn luân duy nhất nằm trong số các mối quan hệ đặc biệt đơn lẻ — với các mối quan hệ đặc biệt đơn lẻ khác là những mối quan hệ không loạn luân phản bội gia đình (xem câu 20) và thú tính (xem câu 21)
Ông bà và cháu (câu 10)
Dì và cháu, chú và cháu gái, v.v. (câu 12–14). Mối quan hệ giữa những mối quan hệ này là loại mối quan hệ thứ hai đặc biệt được chỉ ra vì một lời nguyền trong Phục truyền luật lệ ký 27, và những ví dụ rõ ràng về con rể và mẹ vợ (câu 23) dùng để nhắc nhở dân Israel rằng cha mẹ- vợ chồng cũng (hoặc ít nhất cũng phải là) cô dì chú bác của con rể:
Và Môi-se truyền lệnh cho con cái Israel theo lời CHÚA phán rằng: 'Chi phái con trai Giô-sép nói đúng. Đây là điều mà CHÚA đã truyền cho các con gái của Zelophehad, rằng: Hãy để họ kết hôn với người mà họ cho là tốt nhất; chỉ trong gia đình của bộ tộc cha họ họ mới được kết hôn. Con cái Israel sẽ không bị loại bỏ từ bộ tộc này sang bộ tộc khác; vì con cái Israel sẽ phân chia mỗi người làm sản nghiệp của chi phái tổ phụ mình. Và mọi người con gái, có quyền thừa kế trong bất kỳ chi phái nào của con cái Israel, sẽ làm vợ cho một trong những gia đình thuộc chi tộc của cha mình, hầu cho con cái Israel có thể sở hữu cơ nghiệp của tổ phụ mình. Vì vậy, sẽ không có quyền thừa kế nào được chuyển từ bộ tộc này sang bộ tộc khác; vì các chi tộc của con cái Israeln sẽ phân chia mỗi người cho cơ nghiệp riêng của mình. ' Ngay cả như CHÚA đã truyền lệnh cho Môi-se, các con gái của Zelophehad cũng vậy. Đối với Mahlah, Tirzah và Hoglah, Milcah và Noah, các con gái của Zelophehad, đã kết hôn với con trai của anh em của cha họ. ()
Mối quan hệ loạn luân được coi là rất nghiêm trọng giữa chillulim HaShem, những hành vi mang lại sự hổ thẹn cho danh Chúa, cùng với những mối quan hệ bị cấm đoán khác được đề cập trong Lê-vi Ký 18, có thể bị trừng phạt bằng cái chết như được quy định trong Leviticus 20.
Vào thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên, Soferim (những người ghi chép) đã tuyên bố rằng có những mối quan hệ mà trong đó hôn nhân cấu thành tội loạn luân, ngoài những mối quan hệ được đề cập trong Torah. Những mối quan hệ bổ sung này được gọi là giây (tiếng Do Thái: sheniyyot), và bao gồm vợ của ông nội và cháu trai của một người đàn ông. Các giáo sĩ Do Thái cổ điển cấm kết hôn giữa một người đàn ông và bất kỳ giây nào trong số những giây này của anh ta, trên cơ sở rằng làm như vậy sẽ hoạt động như một biện pháp bảo vệ chống lại việc vi phạm các quy tắc loạn luân trong Kinh thánh, mặc dù đã có cuộc tranh luận không hồi kết về chính xác các giới hạn nên có. định nghĩa của giây.
Các cuộc hôn nhân bị cấm trong kinh Torah (ngoại trừ hôn nhân chú-cháu) được các giáo sĩ Do Thái thời Trung cổ coi là không hợp lệ - như thể chúng chưa từng xảy ra; Bất kỳ đứa trẻ nào được sinh ra bởi một cặp vợ chồng như vậy đều bị coi là con hoang theo luật Do Thái, và họ hàng của người phối ngẫu không bị coi là quan hệ bị cấm đối với một cuộc hôn nhân xa hơn. Mặt khác, những mối quan hệ bị cấm do được coi là giây, v.v., bị coi là xấu xa, nhưng vẫn có giá trị; trong khi họ có thể đã gây áp lực để một cặp vợ chồng ly hôn như vậy, bất kỳ đứa con nào của công đoàn vẫn được coi là hợp pháp.
Kitô giáo
Giáo hội Công giáo coi loạn luân là tội chống lại Bí tích Hôn phối. Đối với Giáo hội Công giáo, trung tâm của sự vô luân của tội loạn luân là sự băng hoại và xáo trộn các mối quan hệ gia đình đúng đắn. Những mối quan hệ rối loạn này có đặc điểm đặc biệt nghiêm trọng và vô đạo đức khi nó trở thành lạm dụng tình dục trẻ em.
Như Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo nói rằng:
2388 Loạn luân chỉ quan hệ thân mật giữa họ hàng hoặc vợ chồng trong mức độ cấm kết hôn giữa họ. Thánh Phao-lô bêu xấu điều đặc biệt nghiêm trọng này: 'Người ta cho rằng trong anh em có sự vô luân... vì một người đang sống với vợ của cha mình.... Nhân danh Chúa Jêsus... bạn phải giao người này cho Sa-tan vì xác thịt bị hủy diệt.... ' Loạn luân làm hỏng các mối quan hệ gia đình và đánh dấu sự thoái trào đối với thú tính.
2389 Liên quan đến loạn luân là bất kỳ hành vi lạm dụng tình dục nào do người lớn gây ra đối với trẻ em hoặc thanh thiếu niên được giao cho họ chăm sóc. Hành vi phạm tội được kết hợp bởi sự tổn hại tai tiếng gây ra cho sự toàn vẹn về thể chất và đạo đức của người trẻ, những người sẽ vẫn còn vết sẹo do nó suốt đời; và vi phạm trách nhiệm đối với sự giáo dục của họ.
Sách Lời nguyện chung của Hiệp thông Anh giáo cho phép các cuộc hôn nhân lên đến và bao gồm cả anh em họ con chú con bác con cô con dì.
Hồi giáo
Kinh Qur'an đưa ra các quy tắc cụ thể liên quan đến loạn luân, cấm một người đàn ông kết hôn hoặc quan hệ tình dục với:
vợ của bố anh ấy (mẹ anh ấy, hoặc mẹ kế ), mẹ vợ anh ấy, một người phụ nữ mà anh ấy đã nuôi dưỡng, thậm chí cả con của người phụ nữ này
em gái của cha mẹ (dì),
em gái của anh ấy, em gái cùng cha khác mẹ của anh ấy, một người phụ nữ đã được nuôi dưỡng từ cùng một người phụ nữ với anh ấy, chị dâu của anh ấy (em gái của vợ) khi vẫn còn kết hôn. Mối quan hệ một nửa cũng thiêng liêng như mối quan hệ trọn vẹn.
cháu gái của anh ấy (con của anh chị em ruột),
con gái ông, con gái riêng của ông (nếu cuộc hôn nhân với mẹ cô đã được viên mãn), con dâu của ông.
Hôn nhân anh em họ được ủng hộ trong kinh sách Hồi giáo và phổ biến ở Trung Đông.
Mặc dù Hồi giáo cho phép hôn nhân anh em họ, có những người Hadith do Muhammad kêu gọi giữ khoảng cách với hôn nhân của họ hàng.
Hỏa giáo
Ở Ba Tư cổ đại, loạn luân giữa anh em họ là một đức tính tốt đẹp mặc dù theo một số nguồn, loạn luân được cho là liên quan đến cha mẹ-con cái hoặc anh chị em. Dưới thời hoàng gia Zoroastrianism, các giáo sĩ và dân thường thực hành loạn luân, mặc dù mức độ của lớp sau này là không rõ. Truyền thống này được gọi là Xwedodah (Avestan). Truyền thống được coi là thiêng liêng đến mức chất lỏng cơ thể do một cặp vợ chồng loạn luân tiết ra được cho là có khả năng chữa bệnh. Ví dụ, Vendidad khuyên những người mang xác chết nên thanh lọc bản thân bằng hỗn hợp nước tiểu của một cặp vợ chồng loạn luân đã kết hôn. Friedrich Nietzsche, trong cuốn sách Sự ra đời của bi kịch, đã trích dẫn rằng trong số những người Zoroastrian, một linh mục khôn ngoan chỉ được sinh ra bởi Xvaetvadatha.
Xvaetvadatha đã được thực hành ở mức độ nào ở Sasanian Iran và trước đây, đặc biệt là bên ngoài các gia đình hoàng gia và quý tộc ("loạn luân triều đại") và, có lẽ, các giáo sĩ, và liệu các thực hành được quy định với họ có thể được coi là đặc trưng của dân số nói chung hay không. thông thoáng. Còn thiếu gia phả và tài liệu điều tra về tần suất của Xvaetvadatha. Tuy nhiên, bằng chứng từ Dura-Europos, kết hợp với bằng chứng của các nguồn Do Thái và Thiên chúa giáo trích dẫn các trường hợp thực tế dưới thời người Sasanians, củng cố bằng chứng của các văn bản Zoroastrian. Trong văn học Zoroastrian thời kỳ hậu Sasanian, Xvaetvadatha được cho là ám chỉ các cuộc hôn nhân giữa anh em họ, vốn luôn tương đối phổ biến. Người ta quan sát thấy rằng những hành vi loạn luân như vậy nhận được rất nhiều sự tôn vinh như một thực hành tôn giáo và, ngoài việc bị người nước ngoài lên án (mặc dù độ tin cậy của những lời buộc tội này còn nghi ngờ vì những lời buộc tội loạn luân là một cách phổ biến để bôi nhọ các nhóm khác), được coi là một thách thức lớn bởi chính những người đề xướng nó, với các tài khoản cho thấy rằng bốn lần giao cấu được coi là một thành tựu hiếm hoi xứng đáng được cứu rỗi vĩnh viễn. Có ý kiến cho rằng vì thực hiện quan hệ loạn luân là một thách thức cá nhân lớn, dường như đáng ghê tởm ngay cả đối với những người theo đạo Hỏa giáo thời đó, nên nó phục vụ như một tín hiệu trung thực về cam kết và sự tận tâm với lý tưởng tôn giáo.
Ấn Độ giáo
Rigveda coi loạn luân là "xấu xa". Ấn Độ giáo nói về loạn luân bằng những thuật ngữ ghê tởm. Những người theo đạo Hindu tin rằng có cả nghiệp quả và tác hại thực tế của loạn luân và do đó thực hành các quy tắc nghiêm ngặt của cả nội sản và ngoại tộc, liên quan đến gia phả (gotra) hoặc huyết thống (Pravara). Hôn nhân theo kiểu gotra (hôn nhân swagotra) bị cấm theo quy tắc exogamy trong hệ thống hôn nhân truyền thống. Những người trong gotra được coi là họ hàng và kết hôn với một người như vậy sẽ bị coi là loạn luân. Kết hôn với anh em họ nội (một dạng quan hệ loạn luân anh em họ song song) bị nghiêm cấm.
Mặc dù nhìn chung cuộc hôn nhân giữa những người có gothra giống nhau đều bị cấm, cách này được xác định có thể thay đổi trong khu vực. Tùy thuộc vào văn hóa và đẳng cấp của người dân trong khu vực, hôn nhân có thể được hạn chế tối đa là bảy thế hệ gothra của cha, mẹ, và bà ngoại. Ở một số vùng nông thôn, việc kết hôn bị cấm trong cùng một cộng đồng địa phương chỉ được phép với những người ngoài cộng đồng, vì họ coi một làng nhỏ như anh chị em trong một gia đình lớn. Các quy tắc này được thực thi nghiêm ngặt và đôi khi một cặp đôi vi phạm chúng sẽ bị trừng phạt thô bạo.
Động vật
Nhiều loài động vật có vú, bao gồm cả họ hàng linh trưởng gần gũi nhất của loài người, có xu hướng tránh giao phối với họ hàng gần, đặc biệt nếu có sẵn bạn tình thay thế. Tuy nhiên, một số con tinh tinh đã được ghi nhận đang cố gắng giao phối với mẹ của chúng. Những con chuột đực đã được ghi nhận có tham gia giao phối với chị em của chúng, nhưng chúng có xu hướng thích những con cái không có quan hệ huyết thống hơn là chị em của chúng.
Những người chăn nuôi gia súc thường thực hành chăn nuôi có kiểm soát để loại bỏ các đặc điểm không mong muốn trong quần thể, điều này cũng đi đôi với việc loại bỏ những con được coi là không phù hợp, đặc biệt khi cố gắng thiết lập một đặc điểm mới và mong muốn trong đàn.
Côn trùng
Đại học Bang North Carolina phát hiện ra rằng rệp, trái ngược với hầu hết các loài côn trùng khác, chịu đựng được sự loạn luân và có khả năng chịu đựng các tác động di truyền của việc giao phối cận huyết khá tốt.
Phim ảnh và game
Yosuga no Sora
Sách tham khảo
Bixler, Ray H. (1982) "Comment on the Incidence and Purpose of Royal Sibling Incest," American Ethnologist, 9(3), August, pp. 580–582.
Leavitt, G. C. (1990) "Sociobiological explanations of incest avoidance: A critical claim of evidential claims", American Anthropologist, 92: 971–993.
<cite id = Potter2007>
Sacco, Lynn (2009). Unspeakable: Father–Daughter Incest in American History. Johns Hopkins University Press. 351 |
Quy tắc bàn tay phải (tiếng Anh: right-hand rule) cũng được gọi là quy tắc nắm tay phải, là một quy tắc phổ biến được dùng trong toán học và vật lý cho việc nhận biết các quy ước ký hiệu vectơ trong 3 chiều. Có một vài nguyên tắc nắm tay phải khác nhau để dễ hình dung các vật chất, được ứng dụng trong từng trường hợp, mục đính khác nhau.
- Quy tắc nắm tay phải xác định chiều dòng điện cảm ứng trong một dây dẫn chuyển động trong một từ trường: Nắm bàn tay phải rồi đặt sao cho ngón cái dọc theo dây dẫn mang dòng điện và chỉ theo chiều của dòng điện.Khum 4 ngón tay còn lại và chiều khum của 4 ngón là chiều của đường sức từ
- Quy tắc bàn tay trái (còn gọi là quy tắc Fleming) là quy tắc định hướng của lực do một từ trường tác động lên một đoạn mạch có dòng điện chạy qua và đặt trong từ trường. Đặt bàn tay trái sao cho các đường cảm ứng từ hướng vào lòng bàn tay, chiều từ cổ tay đến ngón tay giữa hướng theo chiều dòng điện thì ngón tay cái choãi ra 90° chỉ chiều của lực điện từ
Sử dụng
Trong vật lý
Trong vật lý, quy tắc nắm tay phải để xác định chiều của dòng điện khi biết chiều của cảm ứng từ hoặc xác định chiều của cảm ứng từ khi biết chiều của dòng điện.
Ứng dụng điện từ
Quy tắc nắm tay phải được sử dụng trong điện từ học.
Quy tắc xác định chiều dòng điện cảm ứng trong một dây dẫn chuyển động trong một từ trường
Nắm bàn tay phải, rồi đặt sao cho bốn ngón tay hướng theo chiều dòng điện chạy qua các vòng dây thì ngón tay cái choãi ra chỉ chiều của đường sức từ trong lòng ống dây.
Trong toán học
Quy tắc nắm tay phải được sử dụng để xác định hướng cảm sinh của đường cong biên khi áp dụng định lý Stokes. Nắm bàn tay phải rồi đặt sao cho ngón cái choãi ra chỉ theo chiều của véc-tơ pháp tuyến. Thế thì bốn ngón tay còn lại sẽ cho ta định hướng cảm sinh của đường cong biên. |
Lake of Fire là bài hát của ban nhạc Alternative rock Mỹ có tên là Meat Puppets. Bài hát có trong album làm năm 1983 của họ, album Meat Puppets II.
Phiên bản khác
Một phiên bản khác có trong album năm 1994 của Meat Puppets là album Too High to Die.
Bản cover
Bài hát đã được ban nhạc grunge Nirvana thực hiện trong buổi biểu diễn trong chương trình MTV Unplugged năm 1993. Phiên bản này cũng có trong album làm năm 1994 MTV Unplugged in New York'' của ban nhạc. |
Phạm Tiến Duật (14 tháng 1 năm 1941 – 4 tháng 12 năm 2007) là một nhà thơ Việt Nam với nhiều tác phẩm thơ tiêu biểu viết trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam.
Tiểu sử
Phạm Tiến Duật sinh ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ, Việt Nam. Cha ông là nhà giáo, dạy chữ Hán và tiếng Pháp, còn mẹ làm ruộng, không biết chữ. Ông tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, nhưng sau đó không tiếp tục với nghề giáo mà quyết định lên đường nhập ngũ. Trong 14 năm tại ngũ, ông đã có 8 năm gắn bó với Trường Sơn với Đoàn 559. Cũng chính trong thời gian này Phạm Tiến Duật đã sáng tác rất nhiều tác phẩm thơ nổi tiếng, ông từng bộc bạch: “Tôi gắn bó máu thịt với Trường Sơn và có thể nói Trường Sơn đã đẻ ra nhà thơ Phạm Tiến Duật. Trước đây, bây giờ và sau này nếu tôi viết được chút gì neo lại trong lòng bạn đọc chính là nhờ những năm tháng ở Trường Sơn”. Năm 1970, sau khi đoạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ, Phạm Tiến Duật được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Chiến tranh kết thúc, ông về làm việc tại Ban Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam. Ông sống ở Hà Nội, là Phó trưởng Ban Đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam. Ông cũng là người dẫn chương trình của chương trình Vui – Khỏe – Có ích trên kênh VTV3, Đài Truyền hình Việt Nam những năm đầu lên sóng.
Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001và được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2012.
Ngày 19 tháng 11 năm 2007, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã ký tặng thưởng Huân chương Lao động hạng nhì cho nhà thơ Phạm Tiến Duật.
Ngày 4 tháng 12 năm 2007, vào khoảng 8 giờ 50 phút, ông mất tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 vì căn bệnh ung thư phổi.
Tác phẩm
Ông đóng góp chủ yếu là tác phẩm thơ, phần lớn thơ được sáng tác trong thời kỳ ông tham gia quân ngũ. Ông chủ yếu viết về hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Thơ của ông được các nhà văn khác đánh giá cao và có nét riêng như: giọng điệu sôi nổi, trẻ trung và có cái "tinh nghịch" nhưng cũng rất sâu sắc. Nhiều bài thơ của ông đã được phổ nhạc thành bài hát trong đó tiêu biểu nhất là "Trường Sơn đông, Trường Sơn tây".
Những tập thơ chính:
Gửi em cô bộ đội lái xe (thơ, 1968) - ra đời khi cuộc kháng chiến Mỹ đang xảy ra vô cùng ác liệt.
Vầng trăng - Quầng lửa (thơ, 1970), nổi tiếng nhất với tác phẩm "Bài thơ về tiểu đội xe không kính"
Ở hai đầu núi (thơ, 1981)
Vầng trăng và những quầng lửa (thơ, 1983)
Thơ một chặng đường (tập tuyển, 1994)
Nhóm lửa (thơ, 1996)
Tiếng bom và tiếng chuông chùa (trường ca, 1997)
Tuyển tập Phạm Tiến Duật (in xong đợt đầu ngày ngày 17 tháng 11 năm 2007, khi Phạm Tiến Duật đang ốm nặng). Tập thơ và trường ca này đã được trao Giải thưởng văn học 2007 của Trung tâm Văn hóa Doanh nhân.
Vừa làm vừa nghĩ (tập tiểu luận, 2003)
Ông được ca tụng là "con chim lửa của Trường Sơn huyền thoại", "cây săng lẻ của rừng già", "nhà thơ lớn nhất thời chống Mỹ" và "ngọn lửa đèn" của một thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ ông thời chống Mỹ từng được đánh giá là "có sức mạnh của cả một sư đoàn".
Vinh danh
Hiện nay, tên của ông được đặt tên cho một tuyến phố ở quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội, từ ngã ba giao cắt đường tiếp nối phố Chế Lan Viên tại tòa OCT1 Khu đô thị Resco đến ngã ba giao cắt đường tiếp nối phố Chế Lan Viên (đối diện Trường THCS Cổ Nhuế 2, thuộc tổ dân phố Viên 1, phường Cổ Nhuế 2).
Chú thích |
Chương trình Apollo (tiếng Anh: Apollo program, còn được biết đến là project Apollo), là chương trình đưa người vào vũ trụ thứ ba của Hoa Kỳ do NASA thực hiện, đã thành công trong việc chuẩn bị và đưa những người đầu tiên lên Mặt Trăng từ năm 1968 đến năm 1972. Chương trình này được thành lập đầu tiên vào năm 1960 dưới thời chính quyền của Tổng thống Dwight D. Eisenhower, sau chuyến bay đầu tiên của Chương trình Mercury. Sau này, Tổng thống John F. Kennedy đã phát biểu mục tiêu của chương trình là "hạ cánh một người xuống Mặt Trăng và đưa người đó trở lại Trái Đất an toàn" trong một bài phát biểu trước Quốc hội vào ngày 25 tháng 5 năm 1961. Đây là chương trình đưa con người vào vũ trụ thứ ba của Hoa Kỳ, trước đó là Chương trình Mercury và Chương trình Gemini.
Lựa chọn một phương án
Khi Kennedy đã xác định Mặt Trăng như là một mục tiêu, những người lập kế hoạch cho chương trình Apollo phải đối mặt với thách thức là thiết kế một con tàu vũ trụ có thể đáp ứng mục tiêu đó, đồng thời giảm thiểu rủi ro đối với tính mạng con người, chi phí, yêu cầu về công nghệ và kỹ năng của phi hành gia. Có bốn phương án khả thi đã được đưa ra xem xét.
Bay lên trực tiếp (Direct Ascent): Tàu vũ trụ sẽ được phóng và di chuyển trực tiếp lên bề mặt Mặt Trăng mà không cần đi vào quỹ đạo Mặt Trăng trước. Thiết kế này sẽ yêu cầu phát triển một phương tiện phóng cực mạnh như Saturn C-8 hoặc Nova để mang trọng tải lên Mặt Trăng.
Quỹ đạo điểm hẹn Trái Đất (Earth Orbit Rendezvous (EOR)): Phương án này sẽ đòi hỏi việc phóng lên hai tên lửa Saturn V, một chứa phi thuyền và một chứa nhiên liệu. Phi thuyền sẽ lưu lại trên quỹ đạo và được nạp vào đủ nhiên liệu để có thể bay lên đến Mặt Trăng rồi quay về. Cũng vậy, toàn bộ phi thuyền sẽ hạ xuống Mặt Trăng.
Gặp nhau trên bề mặt Mặt Trăng (Lunar Surface Rendezvous): Hai tàu vũ trụ sẽ được phóng liên tiếp. Đầu tiên, một phương tiện tự động mang nhiên liệu đẩy để quay trở lại Trái Đất, sẽ hạ cánh trên Mặt Trăng, một thời gian sau phương tiện có người lái sẽ theo sau. Nhiên liệu đẩy sẽ phải được chuyển từ phương tiện tự động sang phương tiện có người lái.
Quỹ đạo điểm hẹn Mặt Trăng (Lunar Orbit Rendezvous, LOR): Phương án này, được chấp nhận và sử dụng, đưa ra bởi John Houbolt và sử dụng kỹ thuật quỹ đạo điểm hẹn Mặt Trăng. Phi thuyền được chia ra thành nhiều đơn vị, bao gồm một Đơn vị điều khiển (Command/Service Module, CSM) và một Đơn vị Mặt Trăng (Lunar Module, LM; ban đầu là Lunar Excursion Module, LEM). CSM chứa một hệ thống hỗ trợ cuộc sống cho một phi hành đoàn ba người trong chuyến bay năm ngày lên Mặt Trăng rồi quay về và một vỏ bảo vệ nhiệt để khi họ tái nhập vào lại khí quyển của Trái Đất. LM sẽ tách ra khỏi CSM trên quỹ đạo Mặt Trăng và mang hai phi hành gia hạ xuống bề mặt Mặt Trăng, sau đó quay trở lại CSM.
Tương phản với các phương án khác, phương án LOR đòi hỏi chỉ một phần nhỏ của phi thuyền hạ cánh trên Mặt Trăng, do đó làm giảm thiểu khối lượng được phóng từ bề mặt Mặt Trăng cho chuyến bay trở về. Khối lượng được phóng lại được giảm thiểu thêm nữa bằng cách để lại một phần của LM (phần với máy móc hạ xuống) trên bề mặt Mặt Trăng.
Đơn vị Mặt Trăng (Lunar Module) bản thân nó bao gồm một tầng hạ xuống và một tầng phóng lên, tầng dưới sẽ trở thành bệ phóng cho tầng trên khi đoàn thám hiểm Mặt Trăng quay lại quỹ đạo Mặt Trăng, nơi họ sẽ nhập lại vào với CSM trước khi quay trở lại Trái Đất. Phương án này có một thuận lợi là vì LM cuối cùng sẽ bị bỏ đi, nó có thể được làm rất nhẹ, để toàn bộ phi vụ có thể được phóng chỉ bởi một tên lửa Saturn V. Tuy nhiên, lúc LOR được quyết định, một số người phác thảo chuyến bay không thoải mái trước số lượng nhập vào và tách ra cần thiết cho phương án.
Để học các kỹ thuật hạ xuống Mặt Trăng, các phi hành gia thực tập trong Phương tiện nghiên cứu việc hạ xuống Mặt Trăng (Lunar Landing Research Vehicle, LLRV), một khí cụ bay mô phỏng (bởi một động cơ phản lực đặc biệt) trọng lực được giảm đi mà Đơn vị Mặt Trăng sẽ bay trong đó.
Các phi thuyền
Phi thuyền Apollo là một phần của chương trình Apollo, được thiết kế với nhiều đơn vị khác nhau để thực hiện nhiệm vụ được đặt ra. Từ trên xuống, phi thuyền có các thành phần: hệ thống thoát hiểm khi phóng (Lauch Escape System), đơn vị điều khiển (Command Module, CM), đơn vị dịch vụ (Service Module), đơn vị đáp xuống Mặt Trăng (Lunar Module, LM) và bộ chuyển đổi Mặt Trăng (Lunar Module Adapter).
Tất cả các tầng này của phi thuyền nằm trên đỉnh của tên lửa phóng. Các tên lửa phóng là Little Joe II, Saturn I, Saturn IB và Saturn V.
Vào ngày 20 tháng 7 năm 1969, tàu Apollo 11 đã đưa những phi hành gia đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng là Neil Armstrong và Edwin "Buzz" Aldrin.
Các chuyến bay sau đó, ngoài Apollo 13, đều thành công trong việc đưa người lên mặt trăng. Tổng cộng có 6 phi thuyền Apollo (với 12 phi hành gia) đã hạ cánh xuống mặt trăng.
Sự cố Apollo 13
Ngày 11/4/1970, Apollo 13 được phóng. Nhưng 2 ngày sau đó, đột nhiên thùng oxy trong module dịch vụ của con tàu phát nổ, các hệ thống điện trong con tàu bị hư hại. Các phi hành gia gồm James A. Lovell, John L. "Jack" Swigert và Fred W. Haise đã chạy vào module đáp Mặt Trăng và cả phi hành đoàn đã xoay xở đưa con tàu về Trái Đất an toàn.
Các chuyến bay có người lái
Các chuyến bay lên Mặt Trăng bị hủy bỏ
Các chuyến bay hậu-Apollo sử dụng thiết bị của Apollo và Saturn IB |
"I'll Be There for You" là bài hát của bạn nhạc hard rock nước Mỹ Bon Jovi, phát hành năm 1989 làm đĩa đơn thứ ba từ album của họ New Jersey. Bài hát được sáng tác bởi Jon Bon Jovi và Richie Sambora. Đĩa đơn này đã nhanh chóng đạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 nước Mỹ.
"I'll Be There for You" là đĩa đơn quán quân thứ tư trên Billboard và cũng là đĩa đơn quán quân cuối cùng của nhóm.
Bài hát cũng được coi là một trong những bài hát tiêu biểu của Bon Jovi và thể loại cổ điển của nhạc power ballad.
Video âm nhạc
Video âm nhạc cho "I'll Be There for You" có cảnh ban nhạc đầu tiên đứng ở một sân khấu tối, linh hồn của ban nhạc Jon Bon Jovi và tay ghi ta Richie Sambora được quay cận cảnh nhiều nhất. Cảnh trong video sau đó bị tắt giữa chừng và tiếp theo đến cảnh buổi biểu diễn của Bon Jovi tại Wembley Arena cũ ở London, Anh.
Xếp hạng
Chú thích
Bài hát của Bon Jovi
Đĩa đơn năm 1989
Đĩa đơn quán quân Billboard Hot 100
Rock ballad
Bài hát năm 1988
Bài hát hard rock |
Trong hình học, một phép biến đổi afin hay ánh xạ afin (tiếng Latin, affinis, nghĩa là "được kết nối với") giữa hai không gian vector bao gồm một biến đổi tuyến tính đi kèm bởi một phép tịnh tiến:
Với hữu hạn chiều, mỗi biến đổi afin được cho bởi ma trận A và một vectơ b, hay viết dưới dạng là ma trận A kèm theo cột bổ sung b. Một biến đổi afin tương ứng với phép nhân một ma trận và cộng thêm một vectơ, và có thể hiểu đơn giản biến đổi afin tương ứng với phép nhân ma trận thông thường nếu gộp ma trận A và vectơ cột b bằng cách thêm một hàng ở cuối ma trận với chỉ toàn số 0 ngoại trừ một số 1 ở bên phải ở cột của vectơ b:
trong khi đó, thành phần 1 thì được thêm vào đáy của các vector cột:
(tọa độ đồng nhất).
Biến đổi afin chỉ có thể đảo ngược khi và chỉ khi A là nghịch đảo được. Các biến đổi afin có thể nghịch đảo tạo thành nhóm afin, nhóm này nhận nhóm tuyến tính chung (general linear group) bậc n làm nhóm con và chính nó cũng là nhóm con của nhóm tuyến tính chung bậc n+1.
Biến đổi tương đồng tạo thành nhóm con với A là giá trị vô hướng nhân với một ma trận trực giao. Khi và chỉ khi định thức của A là 1 hay -1 thì phép biển đổi bảo toàn diện tích; chúng cũng tạo thành một nhóm con. Kết hợp cả hai điều kiện chúng ta có isometry, là nhóm con của cả hai khi A là ma trận trực giao.
Mỗi nhóm này có một nhóm con các phép biến đổi mà đảm bảo bảo toàn hướng: là những cái mà khi định thức của A là dương. |
Ga Phan Thiết là nhà ga hành khách của tuyến đường sắt du lịch nối từ Sài Gòn đến Phan Thiết (còn được gọi là tuyến đường sắt "Hội Tụ Xanh"). Ngoài ra, đây còn là ga vận chuyển hàng hóa từ Phan Thiết đến Ga Bình Thuận (tên cũ: Ga Mương Mán) để hòa mạng tuyến đường sắt Bắc-Nam.
Lịch sử
Năm 1899, toàn quyền Đông Dương thành lập một phái đoàn mang tên Lang Biang. Phái đoàn này có nhiệm vụ xây dựng đường xe lửa từ Phan Rang – Tháp Chàm đi ngang qua D'Ran rồi lên Đà Lạt, nối cửa biển Ninh Chử với Tây Nguyên, nối các tỉnh miền Nam với miền Trung. Các công trường như Tháp Chàm - Đà Lạt, Tháp Chàm - Biên Hòa, Tháp Chàm - Nha Trang lần lượt xuất hiện.
Năm 1903, họ xây xong khu vực nhà ga Phan Thiết với hệ thống kho, bãi.
Năm 1920, tuyến đường sắt Biên Hòa - Tháp Chàm được nối liền và đi ngang qua thành phố Phan Thiết, ga Phan Thiết là một ga trạm của tuyến đường sắt này.
Năm 2012, ga Phan Thiết được di dời ra khỏi trung tâm thành phố, tọa lạc cạnh Quốc lộ 1.
Như vậy, danh xưng Ga Phan Thiết đã có tuổi đời hơn một thế kỷ.
Đặc điểm
Trước đây, ga Phan Thiết tọa lạc ở trung tâm thành phố, cách sông Cà Ty không xa (chỉ khoảng 5 cây số). Tuy là ga của thành phố, nhưng ga này vẫn bị coi là "ga lẻ" bởi vì tàu từ Nam ra Bắc đều phải chạy qua ga Mương Mán, rồi mới đến ga Phan Thiết nếu hành khách có yêu cầu. Mỗi ngày chỉ có một số tàu dừng bánh và xuất phát tại đây. Từ đây, tàu chạy ra ga Mương Mán và đón hành khách từ ga Mương Mán về thành phố. Ngày 28 tháng 4 năm 2006, tỉnh Bình Thuận liên kết với công ty đường sắt mở lại tuyến đường sắt Sài Gòn - Phan Thiết để phục vụ ngành du lịch.
Ngày 16 tháng 4 năm 2012, tại thành phố Phan Thiết (Bình Thuận) đã diễn ra lễ khánh thành 2 công trình giao thông là nhà ga Phan Thiết mới thay thế cho nhà ga cũ. Tọa lạc tại xã Phong Nẫm, ga Phan Thiết mới cách vị trí ga cũ hơn 1.000 mét, cách Quốc lộ 1 500 mét và cách ga Mương Mán khoảng 9.000 mét. |
Tuyên Hóa có thể là:
Nhân vật
Thiên hoàng Tuyên Hóa của Nhật Bản .
Tuyên Hóa, một tu sĩ Phật giáo gốc Trung Quốc.
Địa phương
Xưa
Tuyên Hóa là một trong 17 phủ của Việt Nam vào thời thuộc Minh, vào đầu triều Lê là châu
Tuyên Hóa là tổng cũ thuộc huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Thiên, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam
Tuyên Hóa là xã cũ thuộc huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam
Huyện cũ Tuyên Hóa thuộc địa cấp thị Trương Gia Khẩu tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc
Nay
Tuyên Hóa là huyện thuộc tỉnh Quảng Bình, Việt Nam.
Tuyên Hóa là quận thuộc địa cấp thị Trương Gia Khẩu tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc |
200 (hai trăm) là một số tự nhiên ngay sau 199 và ngay trước 201.
Con số xuất hiện trong dãy số Padovan, đứng trước 86, 114, 151 (nó là tổng của hai số đầu tiên trong dãy số này).
Tổng của hàm totient Euler φ (x) của 25 số nguyên đầu tiên là 200.
200 là số không chuẩn nhỏ nhất trong cơ số 10 - nó không thể biến thành số nguyên tố chỉ bằng cách thay đổi một trong các chữ số của nó thành bất kỳ chữ số nào khác.
Nó cũng là số Achilles.
Chú thích
Số chẵn |
Để có thông tin về lịch sử và công dụng của sợi bông, xem bài bông vải.
Chi Bông (danh pháp khoa học: Gossypium) là một chi thực vật của 39-40 loài cây bụi trong họ Cẩm quỳ (Malvaceae), có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới của cả Cựu Thế giới và Tân Thế giới. Các loài bông vải, nguồn cung cấp sợi bông thương phẩm thuộc về chi này.
Các loài bông có thể cao tới 3 m (10 ft). Lá của chúng rộng bản và có thùy, với 3 hay 5 thùy (ít khi 7). Các hạt chứa trong quả nang gọi là quả bông, mỗi hạt được bao phủ bởi các sợi giống như lông tơ, gọi là sợi bông. Các loài bông có giá trị thương phẩm là G. hirsutum (Hoa Kỳ và Úc), G. arboreum và G. herbaceum (châu Á), G. barbadense (Ai Cập). Trong khi các sợi bông của các loài, giống trong tự nhiên có thể có các màu trắng, nâu, lục thì nỗi lo sợ về việc làm hư hỏng tính di truyền của giống bông sợi trắng đã làm cho người ta ngăn cấm việc trồng các giống bông có sợi có các màu không phải là trắng trong nhiều khu vực trồng bông.
Các loài
Các loài bông có giá trị thương phẩm
Các sợi bông thương phẩm, được dùng để sản xuất vải bông và may mặc quần áo, được thu hoạch từ quả của cây bông. Các loài sau đây được trồng với quy mô lớn:
Gossypium arboreum L. – cây bông châu Á này có nguồn gốc ở Nam Á.
Gossypium barbadense L. – cây bông Nam Mỹ hay cây bông đảo biển, có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới Nam Mỹ.
Gossypium herbaceum L. – cây bông vải hay cây bông Cận Đông, có nguồn gốc ở miền nam châu Phi.
Gossypium hirsutum L. – cây bông cao nguyên, có nguồn gốc ở khu vực Trung Mỹ, Caribe và miền nam Florida, Hoa Kỳ.
Các loài không thương phẩm
Gossypium sturtianum J.H. Willis – cây bông Úc hay hồng sa mạc Sturt (Sturt's Desert Rose), có nguồn gốc ở Úc.
Gossypium thurberi Tod. – cây bông dại Arizona, có nguồn gốc ở Arizona, New Mexico và miền bắc México.
Gossypium tomentosum Nutt. cũ Seem – Ma‘o hay cây bông Hawaii, là loài đặc hữu của khu vực quần đảo Hawaii. Các sợi bông của loài này là ngắn và có màu nâu hung đỏ, không phù hợp cho việc xe sợi hay xoắn sợi thành các sợi chỉ.
Một vài hình ảnh về cây bông
Sâu bệnh
Sâu
Mọt bông (Anthonomus grandis)
Rệp muội bông (Aphis gossypii)
Sâu ăn quả bông như các loài sâu xanh chi Helicoverpa như (H. armigera, H. zea) và sâu ăn chồi bông như H. punctigera, là các loài sâu bướm phá hoại mùa màng của cây bông.
Một số ấu trùng của các côn trùng khác thuộc bộ Lepidoptera phá hại bông - xem Danh sách Lepidoptera phá hại cây bông.
Rệp lục (Creontiades dilutus), một loài côn trùng hút nhựa.
Nhện đỏ son: Các loài thuộc chi Tetranychus như T. urticae, T. ludeni và T. lambi.
Bọ trĩ như Thrips tabaci, Scirtothrips dorsalis và Frankliniella schultzei.
Rầy xanh hai chấm (Amrasca devastans).
Bệnh
Đốm lá Alternaria do Alternaria macrospora và Alternaria alternata gây ra
Thối quả Anthracnose do Colletotrichum gossypii gây ra
Thối rễ đen do nấm Thielaviopsis basicola gây ra
Tàn lụi do Xanthomonas campestris pv. malvacearum gây ra
Thối quả Fusarium do các loài Fusarium gây ra.
Thối quả Phytophthora, do Phytophthora nicotianae thứ parasitica gây ra
Thối quả Sclerotinia, do nấm Sclerotinia sclerotiorum gây ra
Bông biến đổi gen
Bông biến đổi gen (GM) được tạo ra để giảm sự phụ thuộc lớn vào thuốc trừ sâu. Bông biến đổi gen được sử dụng rộng rãi khắp thế giới với ý kiến cho rằng nó cần ít thuốc trừ sâu so với bông thông thường tới 80 %. Tổ chức ISAAA cho rằng bông biến đổi gen được trồng trên diện tích lên tới 67.000 km² vào năm 2002 và chiếm 20 % tổng diện tích trồng bông trên toàn thế giới. 73 % sản lượng bông của Hoa Kỳ trong năm 2003 là từ bông biến đổi gen.
Sự giới thiệu bông biến đổi gen ban đầu vào trong sản xuất là do thảm họa mất mùa bông tại Australia - sản lượng đã thấp hơn rất nhiều so với dự báo và các giống bông thương phẩm bị thụ phấn chéo với các giống bông lai tạp khác. Hiện nay tại Australia, sau khi đưa giống biến đổi gen thứ hai vào sản xuất thì năm 2003 đã có 15% sản lượng bông của nước này là từ bông biến đổi gen và năm 2004 là 80% sản lượng khi mà giống nguyên thủy đã bị cấm trồng.
Bông "hữu cơ"
Bông "hữu cơ" là bông trồng không sử dụng thuốc trừ sâu hay các phụ gia hóa chất khác vào phân bón, thay vì điều đó, người ta sử dụng các phương pháp ít gây hại môi trường . Bông hữu cơ được dùng để sản xuất nhiều thứ, từ khăn mùi soa tới các bộ áo choàng kimono. Có các mức độ cấp chứng chỉ khác nhau, nhưng ít nhất thì sản phẩm phải được thu hoạch từ bông trồng trên đất không sử dụng các hóa chất ttrong ít nhất 3 năm trước.
Chú thích |
Trong viễn thông (telecommunication), từ thiết bị đầu cuối có những nghĩa sau đây:
Thiết bị truyền thông ở hai đầu dây liên kết mối giao thông, giúp cho các trạm thông nối hoàn thành nhiệm vụ định trước.
Thiết bị, trong các hệ thống tiếp âm radio, dùng để thu và phát số liệu. Nên phân biệt sự khác nhau của thiết bị này với các thiết bị dùng để tiếp các tín hiệu đã được giải điều biến lại để khôi phuc tín hiệu gốc.
Các tổng đài điện thoại và điện tín (switchboards - trung tâm chuyển mạch) cùng những linh kiện trung tâm khác, nơi mạch truyền thông kết thúc. |
Chi Cá buồm (danh pháp khoa học: Istiophorus) là một loài cá sống trong tất cả các đại dương trên thế giới. Chúng có màu xanh lam hay xám và có vây lưng giống như một cánh buồm thu nhỏ đặc trưng trên lưng, thông thường kéo dài trên toàn bộ phần lưng. Cá buồm là loại cá lớn nhanh, đạt tới 1,2-1,5 m trong một năm. Chúng là loại cá bơi nhanh nhất dưới biển, với vận tốc có thể lên tới 109 km/h (68 dặm Anh/h). Chúng kiếm ăn dưới bề mặt biển hoặc ở độ sâu trung bình và tìm bắt những con cá hay mực nhỏ.
Cá buồm đôi khi bị nhầm lẫn với cá maclin trắng (Tetrapterus albidus) hoặc cá maclin xanh (Makaira nigricans) loại nhỏ, nhưng nói chung chúng được phân biệt khá dễ dàng nhờ bộ vây lưng giống như cánh buồm đẹp mắt.
Các loài
Istiophorus albicans (syn. Istiophorus americanus): Cá buồm Đại Tây Dương. Loài cá này dài tới 1,7 m và cân nặng tới 20 kg. Sinh sống trong khu vực Đại Tây Dương, có thể sống tới các vĩ độ thuộc vùng ôn đới ấm.
Istiophorus platypterus: Cá buồm. Loài cá này dài tới 3,6 m và cân nặng tới 125 kg. Sinh sống trong cả Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương, trong khu vực biển quanh vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới.
Lưu ý
Một số tài liệu gọi cá buồm là cá cờ, nhưng tên gọi này dễ gây nhầm lẫn, do cá cờ còn là một trong các tên gọi của ít nhất là một trong số các loài sau:
Cá cờ mặt trăng: Velifer hypselopterus họ Veliferidae.
Cá cờ Ấn Độ (cá maclin đen): Makaira indica (tên gọi khác: cá cờ gòn) cùng họ Istiophoridae.
Cá lia thia: Macropodus opercularis (các tên gọi khác: cá cờ, cá thia thia, cá thia lia v.v), một loài cá nước ngọt thuộc họ Cá tai tượng Osphronemidae.
Chú thích |
Đối với động vật da gai, xem bài Gnathostomata (da gai)
Động vật có quai hàm (danh pháp khoa học: Gnathostomata) là một nhóm động vật có xương sống với quai hàm.
Nhóm này theo truyền thống được coi là một siêu lớp, bao gồm các lớp rất quen thuộc là cá, chim, động vật có vú v.v, và nó là nhóm có quan hệ chị-em với các động vật có xương sống nhưng không có quai hàm là Agnatha. Tuy nhiên, các nghiên cứu di truyền học gần đây đã đặt ra vấn đề đánh giá lại Gnathostomata như là một nhóm.
Người ta cho rằng quai hàm đã tiến hóa từ các vòm phía trước để hỗ trợ mang đã có được vai trò mới, được biến đổi để bơm nước qua mang bằng cách đóng và mở miệng cố hiệu quả hơn. Miệng sau đó có thể phát triển to và rộng hơn, làm cho nó có khả năng bắt được những con mồi nhỏ hơn. Cơ chế đóng và mở miệng này với thời gian trở nên mạnh và bền bỉ hơn, và dần đã chuyển thành quai hàm thực thụ. Các xương đã biến đổi trên bề mặt của lớp da có thể di chuyển vào trong miệng và trở thành các răng nguyên thủy. Cá giáp có hàm cổ đại (Placodermi) đã sử dụng các tấm xương sắc bén thay vì có răng.
Các đặc trưng phân biệt khác của động vật có quai hàm còn tồn tại là các màng bọc myelin cho các nơron, cũng như hệ miễn dịch có khả năng thích ứng.
Phân loại & Phát sinh loài
Phân ngành Vertebrata
(không phân hạng) Gnathostomatomorpha
Cận ngành Gnathostomata
Lớp Placodermi - tuyệt chủng (cá da phiến)
Tiểu ngành Eugnathostomata (động vật có quai hàm thực thụ)
Lớp Chondrichthyes (cá sụn)
(không phân hạng) Teleostomi (Acanthodii, Tetrapoda & Osteichthyes)
Lớp Acanthodii - tuyệt chủng ("cá mập gai")
Siêu lớp Osteichthyes (hay Teleostomi) (cá xương)
Lớp Actinopterygii (cá vây tia)
Lớp Sarcopterygii (cá vây thùy)
Siêu lớp Tetrapoda
Lớp Amphibia (động vật lưỡng cư)
(không phân hạng) Amniota (động vật có màng ối)
Lớp Reptilia hay Saurosida (bò sát)
Lớp Aves (chim)
Lớp Synapsida
Lớp Mammalia (động vật có vú)
Chú thích |
Taepodong-2 (đọc như Tê-pô-đông) là loại tên lửa tầm xa do Bắc Triều Tiên chế tạo. Đây là loại tên lửa thế hệ thứ hai của Taepodong-1. Ngày 5 tháng 7 năm 2006 cuộc thử nghiệm thất bại.
Thiết kế
Tên lửa nặng 79.189 kg, có chiều dài khoảng 35.8m, đường kính từ 2,0 - 2,2m
tốc độ là 7.927-8.980 m/s.
Tầm bắn
Taepodong-2 có thể mang đầu đạn hạt nhân và có tầm bắn từ 6.000-9.000 km. Còn tên lửa ICBM Taepodong-2 đủ sức công phá các mục tiêu Mỹ không chỉ ở khu vực Thái Bình Dương mà cả các thành phố Chicago, bang Illinois, Hoa Kỳ...
Lịch sử Taepodong-2
CHDCND Triều Tiên quan tâm tới chế tạo tên lửa từ những năm 1960. Tên lửa Scud B do Liên Xô cũ chế tạo được chuyển giao cho Bắc Triều Tiên. Tên lửa tầm ngắn Scud B với tầm bắn từ 280–300 km, đã được cải tiến thành tên lửa Scud C. Cuối năm 1980, CHDCND Triều Tiên đã chế tạo các tên lửa nhiều tầng, cứ sau 5 năm tên lửa thế hệ Scud mới lại ra đời.
Tháng 5 năm 1990, CHDCND Triều Tiên cho bắn thử tên lửa Nodong- hay còn gọi là Taepodong thế hệ 1 đầu tiên tại trung tâm bắn thử tên lửa Musudan Ri. Tháng 5 năm 1993 cũng tại trung tâm thử tên lửa Musudan Ri, CHDCND Triều Tiên đã thử thành công quả tên lửa Nodong đầu tiên.
Một ngày cuối tháng 5/ 2006, vệ tinh gián điệp của Mỹ và Nhật Bản đều chụp được những bức ảnh cho thấy CHDCND Triều Tiên đang nạp nhiên liệu lỏng vào một quả tên lửa lớn. Phân tích các dấu hiệu khác liên quan, các chuyên gia quân sự Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc đi đến kết luận rằng CHDCND Triều Tiên đang chuẩn bị cho một cuộc thử tên lửa vượt đại châu (ICBM), thế hệ mới Taepodong-2.
Được biết Taepodong-2 có thể mang đầu đạn hạt nhân có tầm bắn từ 6.000-9.000 km. Với tầm bắn này, tên lửa ICBM Taepodong-2 đủ sức để công phá các mục tiêu Mỹ không chỉ ở khu vực Thái Bình Dương mà cả các thành phố Chicago, bang Illinois, Hoa Kỳ. Sự thật về năng lực tên lửa của CHDCND Triều Tiên đến nay thế nào không ai dám nói chắc. Tuy nhiên có một điều mà ai cũng phải thừa nhận là CHDCND Triều Tiên đã nhiều lần thử thành công tên lửa Taepodong-1 tầm bắn khoảng 2.000 km. Hơn nữa, gần đây phía Bình Nhưỡng công khai thừa nhận rằng họ đã có một số đầu đạn hạt nhân.CHDCND Triều Tiên bắt đầu quan tâm tới việc chế tạo tên lửa từ những năm 1960. Không rõ bằng cách nào, những dàn tên lửa Scud B do Liên Xô chế tạo và cung cấp cho Ai Cập thời gian đó đã có mặt tại CHDCND Triều Tiên. Từ mẫu tên lửa tầm ngắn Scud B với tầm bắn từ 280 – 300 km, các chuyên gia quân sự CHDCND Triều Tiên đã cải tiến thành tên lửa Scud C. Từ đó công nghệ chế tạo tên lửa của CHDCND Triều Tiên không ngừng phát triển. Cuối những năm 1980, CHDCND Triều Tiên đã đạt đến trình độ chế tạo các tên lửa nhiều tầng. Trung bình cứ sau 5 năm tên lửa thế hệ Scud lại được nâng cấp một lần. Tên lửa Scud B và Scud C đã được triển khai hàng loạt ở phía Bắc bán đảo Triều Tiên thời gian đó.
Những thử nghiệm đầu tiên
Tại CHDCND Triều Tiên, Học viện Khoa học Tự nhiên số 2 - trước đây là Học viện Khoa học quốc phòng - chịu trách nhiệm nghiên cứu và chế tạo các loại vũ khí. Tuy nhiên, khoảng cuối những năm 1980, một cơ sở nghiên cứu vũ khí khác có biệt danh là "Nhà máy số 7" hay còn gọi là Trung tâm nghiên cứu và phát triển San Um Dong- là nơi lần đầu tiên đưa ra mẫu của một loại tên lửa tầm xa thời kỳ đầu mang tên Paektusan để thay thế cho các thế hệ tên lửa Scud. Từ mẫu thiết kế của "Nhà máy số 7", Học viện Khoa học tự nhiên số 2 đã chế tạo thành công tên lửa Taepodong trên cơ sở kinh nghiệm chế tạo các tên lửa thế hệ Scud vốn bị coi là vừa không bắn được xa, vừa thiếu chính xác. Đây chính là loại tên lửa tầm xa đầu tiên của CHDCND Triều Tiên còn được gọi với các tên khác nhau tùy thuộc từng thế hệ như tên lửa Taepodong đời đầu hay tên lửa Nodong.Tháng 5/1990, CHDCND Triều Tiên cho bắn thử tên lửa Nodong- hay còn gọi là Taepodong thế hệ 1 đầu tiên tại trung tâm bắn thử tên lửa Musudan Ri. Các vệ tinh gián điệp Mỹ theo dõi rất chặt diễn biến của cuộc thử vũ khí này. Theo đánh giá của các chuyên gia quân sự Mỹ thì cuộc thử tên lửa Nodong đầu tiên này đã thất bại. Ba năm sau, vào khoảng cuối tháng 5/1993 cũng tại trung tâm thử tên lửa Musudan Ri, CHDCND Triều Tiên đã thử thành công quả tên lửa Nodong đầu tiên. Sau khi đã hiệu chỉnh và thay đổi một số thiết kế cho phù hợp, tháng 3/1994 Bình Nhưỡng lại tiến hành vụ thử mới với tên lửa Nodong. Lần này, có các chuyên gia quân sự từ Iran và Pakistan được mời tới quan sát. Sau lần thử này đúng một năm, các vệ tinh do thám Mỹ đã xác định được rằng CHDCND Triều Tiên đã sở hữu tên lửa tầm xa thế hệ Taepodong-1. Thông tin này được củng cố nhờ các hình ảnh mà vệ tinh do thám của Mỹ thu được hồi tháng 6 năm 1994 về việc Bình Nhưỡng thử các động cơ tên lửa cho cả hai loại Paektusan-1 và Taepodong-2.Các chuyên gia cho rằng CHDCND Triều Tiên sẽ khó mà chế tạo thành công tên lửa Nodong nếu không có sự trợ giúp to lớn từ các nước ngoài. Một tài liệu nói rằng Bình Nhưỡng đã nhận được sự giúp đỡ nói trên từ Nga, Trung Quốc, Aicập, và Iran. Sự giúp đỡ bao gồm từ việc Trung Quốc giúp đào tạo kỹ thuật trong lĩnh vực khoa học không gian, Hiệp hội những kiều dân Triều Tiên định cư tại Nhật Bản cung cấp các vi mạch và chíp điện tử đặc dụng, Iran giúp đỡ về tài chính, v.v. Nhờ đó mà CHDCND Triều Tiên có trong tay các loại máy công cụ chính xác do nước ngoài sản xuất rất cần thiết cho việc chế tạo tên lửa. |
Vụ án Lệ Chi viên, tức Vụ án vườn vải, là một vụ án oan nổi tiếng thời Lê sơ. Qua vụ án này, quan Đại thần Hành khiển Nguyễn Trãi và vợ là Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ bị triều đình Lê Sơ kết tội giết vua Lê Thái Tông, bắt tội chém đầu đến 3 họ nhà Nguyễn Trãi.
Đến năm 1464, thời vua Lê Thánh Tông, Nguyễn Trãi được minh oan, người con còn sống sót duy nhất của ông là Nguyễn Anh Vũ được cất làm quan huyện, bản thân ông được truy tặng tước hiệu.
Những nhân vật chính
Nạn nhân: Vua Lê Thái Tông
Nguyên nhân chết: có thể do Đột quỵ.
Người bị kết án là thủ phạm: Nguyễn Thị Lộ (vợ Nguyễn Trãi).
Những người bị liên lụy và cùng bị xử tử: Nguyễn Trãi cùng 3 họ của ông.
Bối cảnh trước vụ án
Lên ngôi năm 1433 khi 11 tuổi, Lê Thái Tông tỏ ra là vị vua tài năng, quyết đoán, bên trong trừ bỏ 2 đại thần phụ chính Lê Sát và Lê Ngân, bên ngoài đánh dẹp các thổ tù phía Tây Bắc. Tại hậu cung, vua có sáu người vợ:
Lê Ngọc Dao: con Tư đồ Lê Sát, bị phế làm dân thường sau khi Lê Sát bị giết năm 1437.
Lê Nhật Lệ: con đại thần Lê Ngân, bị truất xuống làm Tu dung sau khi Lê Ngân bị giết năm 1437.
Dương Thị Bí: sinh ra Lê Nghi Dân năm 1439, là Phi bị phế xuống làm Chiêu nghi, còn Nghi Dân bị truất ngôi Thái tử (được lập vào năm 1440), phong làm Lạng Sơn vương năm 1441.
Bùi Quý Nhân, mẹ của Cung vương Lê Khắc Xương. Cả hai mẹ con không được sủng ái.
Nguyễn Thị Anh: sinh ra Thái tử Lê Bang Cơ (Vua Lê Nhân Tông) năm 1441, được phong Thần phi sau khi Dương Thị Bí bị phế truất.
Ngô Thị Ngọc Dao: Tiệp dư, vì làm mất lòng Thái Tông nên từng bị bắt giam, được đại thần Trịnh Khả cứu thoát. Sau đó sinh ra Hoàng tử Lê Tư Thành vào tháng 7 năm 1442, rồi hai mẹ con dời ra sống ngoài kinh thành.
Ngoài ra, sử sách ghi nhận Lê Thái Tông còn có quan hệ tình cảm với vợ thứ của Thừa chỉ Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ, một người phụ nữ "rất đẹp, văn chương rất hay", được gọi vào cung phong làm Lễ nghi học sĩ, ngày đêm hầu bên cạnh.
Thừa chỉ Nguyễn Trãi là công thần khai quốc nhà Hậu Lê, một văn thần có nhiều đóng góp trong khởi nghĩa Lam Sơn. Tuy nhiên đến thời bình, trong chính trường nhà Hậu Lê thời Lê Thái Tổ và sau đó là Lê Thái Tông, sự nghiệp của ông lúc thăng lúc giáng vì có bất đồng quan điểm với một số đại thần khác, một số kế sách không được dùng. Nguyễn Trãi bất mãn và lui về ở ẩn năm 1439.
Vụ án
Diễn biến
Có 3 nguồn chính sử đề cập đến vụ án Lệ Chi viên là Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục và Lịch triều hiến chương loại chí.
Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư:
Ngày 27 tháng 7 (âm lịch) năm Nhâm Tuất (1442), vua Lê Thái Tông đi tuần ở miền Đông, duyệt quân ở thành Chí Linh, Hải Dương. Nguyễn Trãi đón vua ngự ở chùa Côn Sơn, nơi ở của Nguyễn Trãi. Ngày 4 tháng 8 (âm lịch) vua về đến Lệ Chi viên thuộc huyện Gia Định (nay thuộc thôn Đại Lai, xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh). Cùng đi với vua có Nguyễn Thị Lộ, một người thiếp của Nguyễn Trãi khi ấy đã vào tuổi 40 (bà sinh năm 1400) được vua Lê Thái Tông yêu quý vì sự xinh đẹp, có tài văn chương, luôn được vào hầu bên cạnh vua. Khi về đến Lệ Chi viên, vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi mất.
Các quan bí mật đưa về, ngày 6 tháng 8 (âm lịch) mới đến kinh sư, nửa đêm vào đến cung mới phát tang. Triều đình đã quy cho Nguyễn Thị Lộ tội giết vua. Ngay sau khi Thái tử Bang Cơ mới 2 tuổi lên nối ngôi (tức là Lê Nhân Tông), triều đình bắt Nguyễn Trãi tru di tam tộc vào ngày 16 tháng 8 (âm lịch) năm này.
Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục:
Tháng 7 âm lịch, Lê Thái Tông tuần hành phía đông, duyệt võ ở Chí Linh, Nguyễn Trãi đón mời, nhà vua đến chơi chùa núi Côn Sơn, nơi ở của Nguyễn Trãi.
Nguyễn Thị Lộ, vợ lẽ của Nguyễn Trãi, người đẹp mà lại hay chữ. Nhà vua nghe tiếng, trước đây từng mời đến, phong làm Lễ nghi học sĩ; ngày đêm cho hầu ở bên, nhân đó, sàm sỡ với Thị Lộ. Trong đợt đi tuần phía đông, Thái Tông quay về đến trại Vải làng Đại Lại, huyện Gia Định, thì mắc chứng sốt rét. Thị Lộ vào hầu suốt đêm, nhà vua mất.
Trăm quan giấu kín việc này, lặng lẽ rước ngự giá về kinh đô mới phát tang. Người ta đều nói Thị Lộ giết vua, bèn bắt giết Thị Lộ. Ngay sau khi Thái tử Bang Cơ mới 2 tuổi lên nối ngôi (tức là Lê Nhân Tông), triều đình bắt và giết Nguyễn Trãi, tru di cả họ. Người ta đều cho là oan.
Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí:
Trong 3 sách chính sử nêu trên, Đại Việt sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử thông giám cương mục cùng thống nhất cho rằng Lê Thái Tông bị bạo bệnh mà qua đời, và sau khi thi hài Lê Thái Tông được đưa về kinh đô thì Nguyễn Thị Lộ bị mọi người đồng loạt buộc tội giết vua. Riêng Lịch triều hiến chương loại chí cho rằng Nguyễn Thị Lộ dùng thuốc độc giết vua.
Hậu kỳ
Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, ngay khi Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc, nhiều người đã cho là ông bị oan.
Lê Nhân Tông khi xem sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi từng có ý kiến rằng: "Nguyễn Trãi là người trung thành giúp đức Thái Tổ dẹp loạn tặc, giúp đức Thái Tông sửa sang thái bình... không may bị người đàn bà gây biến, để người lương thiện mắc tội rất là đáng thương".
Năm 1464, Lê Thánh Tông chính thức ban chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng ông tước Tán Trù bá, cho người con trai còn sống sót của ông là Nguyễn Anh Vũ làm chức Đồng Tri châu. Năm 1512, Lê Tương Dực truy tặng Nguyễn Trãi làm Tế Văn hầu.
Giai thoại
Giai thoại về cái chết của Nguyễn Trãi được truyền tụng qua sự tích Rắn báo oán rất nổi tiếng. Theo Nguyễn Đổng Chi ghi nhận và phân tích, đây là câu chuyện do tầng lớp Nho sĩ bịa đặt ra nhằm huyền thoại hóa tấn thảm kịch của Nguyễn Trãi, xóa mờ sự thật về tấn thảm kịch ấy, để có một cách giải thích hợp với lý trí trước cái chết oan khốc của một người như ông và cả dòng họ ông. Chính vì vậy, câu chuyện có những nhân tố hoang đường, thậm chí còn xuyên tạc hình ảnh một nhân vật tài hoa như Thị Lộ. Cũng như Nguyễn Đổng Chi ghi nhận, sự tích "Rắn báo oán" này được thêu dệt dựa trên hai câu chuyện có nội dung tương tự ở Trung Quốc:
Truyện Phương Chính Học: Phương Chính Học đời Nguyên, khi người ông nội mất sắp đào huyệt cất đám thì đứa con (tức bố Phương Chính Học) đêm nằm mộng thấy một bà già hiện ra bảo:"Chúng tôi ở đây đã lâu, xin ông thư thả cho chúng tôi di chuyển đi một nơi khác, rồi hãy đào". Người con tỉnh dậy không biết thế nào cả. Ngày hôm sau những người đào huyệt thấy một ổ rắn rất nhiều con, bèn dùng gậy đánh chết tất cả. Lúc ấy con dâu người chết (tức mẹ Phương Chính Học) đang có mang. Bà ta bỗng thấy một luồng hắc khí bay vào nhà nơi mình ngồi. Khi Phương Chính Học sinh ra có cái lưỡi giống lưỡi rắn. Về sau Phương Chính Học cũng bị vạ diệt tộc, người ta cho đó là do đàn rắn thác sinh vào Phương Chính Học để báo thù.
Truyện Ngô Trân: Ngô Trân đời Tống có lần đóng quân đất Thục cho người khai phá khu rừng rậm ở Kim Bình, vì sợ nơi ấy là chỗ ẩn nấp của giặc cướp. Lệnh đốt rừng sắp thi hành, bỗng có một bà già dắt con đến cửa dinh kêu rằng:"Nghe nói tướng quân sắp cho đốt quả núi này. Đó là quân lệnh tôi không dám ngăn trở. Nhưng mẹ con tôi ở đây đã lâu, xin tướng quân cho thư thả một chút để cho chúng tôi dời đi nơi khác đã". Ngô Trần thét mắng mụ già, mụ ra đi còn nói:"Nếu tướng quân không nghe, sẽ bị diệt cả họ!". Ngô Trân giục quân cứ đốt. Ngày hôm sau họ thấy ở trong núi có hai con rắn chết. Nhưng trong khi lửa bốc cháy thì một luồng hắc khí vọt bay về phía Đông Nam đúng vào lúc con dâu nhà Ngô Trần đẻ ra Ngô Hy.
Ý kiến xét lại vụ án
Lê Nhân Tông từng có ý kiến xem Nguyễn Trãi bị oan khi đọc sách Dư địa chí ông viết, nhưng vẫn cho rằng Nguyễn Thị Lộ là thủ phạm gây ra cái chết của vua cha Thái Tông. Lê Thánh Tông chính thức ban chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi nhưng không nói tới Nguyễn Thị Lộ.
Trong giới sử học hiện nay, có ý kiến của các nhà chuyên môn như Vũ Khiêu, Phan Huy Lê, Hoàng Đạo Chúc, Phan Văn Các, Đinh Xuân Lâm cho rằng: còn một người nữa chịu oan khuất chưa từng được minh oan là Nguyễn Thị Lộ. Trong hội thảo khoa học về Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Nguyễn Thị Lộ đã bị triều đình nhà Lê đương thời (do Thái hậu Nguyễn Thị Anh chấp chính cho vua nhỏ Lê Nhân Tông mới lên 2 tuổi) vu khống.
Nhóm tác giả nghiên cứu lịch sử đương đại Phan Duy Kha, Lã Duy Lan, Đinh Công Vĩ trong tác phẩm "Nhìn lại lịch sử", xuất bản năm 2003, cho rằng chủ mưu vụ án chính là Nguyễn Thị Anh, vợ thứ của vua Lê Thái Tông.
Ngôi thái tử
Ngoài các suy đoán căn cứ vào sử sách, gần đây các nhà nghiên cứu nói trên đã tham khảo gia phả dòng họ Đinh là con cháu của công thần Đinh Liệt nhà Hậu Lê và phát hiện nhiều bài thơ của chính Đinh Liệt để lại (được công bố trong "Nhìn lại lịch sử" của họ). Bài thơ được viết bằng chữ Hán nhưng viết theo kiểu ẩn ý, dùng phép nói lái để người đọc suy đoán rằng: Thái tử Lê Bang Cơ (tức vua Lê Nhân Tông) không phải là con vua Lê Thái Tông.
Vua Lê Thái Tông lúc mất mới 20 tuổi nhưng trước khi mất vua đã có bốn con trai. Con lớn nhất là Lê Nghi Dân, con thứ hai là Khắc Xương, con thứ ba là Bang Cơ (Lê Nhân Tông sau này), con thứ tư là Tư Thành (Lê Thánh Tông sau này). Vì các hoàng tử đều còn quá nhỏ (chỉ chênh nhau một vài tuổi) nên việc tranh chấp ngôi thái tử xảy ra giữa các bà vợ vua Thái Tông. Nguyễn Thị Anh là mẹ của Bang Cơ.
Nghi Dân là con lớn nhất vốn đã được lập làm thái tử dù còn rất nhỏ. Nhưng sau đó Nguyễn Thị Anh được vua sủng ái nên năm 1441 vua truất ngôi của Nghi Dân mà lập Bang Cơ. Bà mẹ của Khắc Xương vốn không được vua sủng ái nên không thể tranh chấp ngôi thái tử. Tuy nhiên, nhiều người trong triều dị nghị rằng, Nguyễn Thị Anh đã có thai trước khi vào cung và Bang Cơ không phải là con vua Thái Tông. Cùng lúc đó, một bà phi khác của vua là Ngô Thị Ngọc Dao lại có mang sắp sinh. Nguyễn Thị Anh sợ chuyện bại lộ thì ngôi lớn sẽ thuộc về con bà Ngọc Dao nên tìm cách hại bà Ngọc Dao. Bà này được vợ chồng Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ hết sức che chở, mang đi nuôi giấu và sinh được Hoàng tử Lê Tư Thành năm 1442.
Biết bà Ngọc Dao đã sinh con trai mà ngày càng nhiều người đồn đại về dòng máu của Bang Cơ, nhân lúc con mình còn đang ở ngôi đương kim thái tử, Nguyễn Thị Anh chủ động ra tay trước. Nhân dịp vua Thái Tông về thăm Nguyễn Trãi, sợ Nguyễn Trãi gièm pha mình và nói tốt cho Tư Thành nên bà sai người sát hại vua Thái Tông rồi đổ tội cho vợ chồng Nguyễn Trãi.
Sau khi vua mất, Bang Cơ lên ngôi, Nguyễn Thị Anh được làm Thái hậu, nắm quyền trị nước. Nguyễn Trãi không thể biện bạch cho sự oan uổng của mình và phải chịu án tru di tam tộc.
Theo sử sách, ngày 9 tháng 9 (âm lịch) năm Nhâm Tuất (1442), chỉ vài ngày sau khi hành hình gia đình Nguyễn Trãi, triều đình (thực ra chính là Thái hậu Nguyễn Thị Anh nhiếp chính thay con) ra lệnh giết hai hoạn quan Đinh Phúc, Đinh Thắng vì trước khi chết Nguyễn Trãi có nói là "hối không nghe lời của Thắng và Phúc". Các nhà nghiên cứu nói trên cho rằng chính Đinh Phúc, Đinh Thắng là những người khuyên Nguyễn Trãi sớm tố cáo Nguyễn Thị Anh với vua Thái Tông. Do đó để diệt khẩu, bà sai giết hai người này.
Chính bởi thân thế của Lê Nhân Tông có phần "không chính" nên sau này, năm Kỷ Mão (1459), con trưởng của vua Thái Tông là Lê Nghi Dân lấy lý do để làm binh biến giết hai mẹ con Nguyễn Thị Anh. Trong bài chiếu lên ngôi, Nghi Dân nói rõ: "... Diên Ninh [Nhân Tông] tự biết mình không phải là con của Tiên đế [Thái Tông]..."
Phản biện
Nhà nghiên cứu lịch sử Vũ Thị Thường đã đăng trên Tạp chí sông Hương về nghi án Lệ Chi viên, phản đối tác giả Bùi Văn Nguyên trong tác phẩm Văn chương Nguyễn Trãi, khi nhà nghiên cứu này cho rằng: "Cuối cùng bọn gian thần phía bà phi Nguyễn Thị Anh âm mưu giết hại vua Lê Thái Tông, Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ để giành ngôi cho Bang Cơ khỏi rơi vào tay Tư Thành, người được Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ ủng hộ" với những lập luận như sau:
Lê Tư Thành là con thứ tư, mới sinh được 14 ngày, mẹ của Tư Thành chỉ được phong Tiệp dư, không phải là mối đe dọa với mẹ con bà Nguyễn Thị Anh.
Vua Thái Tông là vị vua tài giỏi, không dễ để giết. Năm 16 tuổi, vua đã thân hành đi đánh châu Phục Lễ; đánh Hà Tông Lai làm phản, đánh thổ quan nghịch Nghiễm thu phục đất đai của cải. Sách Đại Việt sử ký viết rằng: Vua thiên tư, thông minh trí tuệ, bên trong ức chế quyền thần, bên ngoài dẹp di địch.
Nguyễn Thị Anh đang được sủng ái, con là Bang Cơ được lập làm Hoàng thái tử, ngôi kế vị cầm chắc trong tay, lẽ nào lại giết đi chỗ dựa vững chắc nhất của họ.
Nguyễn Trãi trước sau không đóng vai trò gì quan trọng trong triều đình (?), Nguyễn Thị Lộ chỉ là Lễ nghi học sĩ, dạy cung nhân, không đủ quyền lực để tôn phù hay hạ bệ ai xuống. Lúc được các đại thần tiến cử Nguyễn Trãi và các quan khác để dạy vua, vua Thái Tông đã từ chối việc này. Khi soạn nhã nhạc, vua Lê Thái Tông theo ý của Lương Đăng soạn lễ nhạc chứ không theo ý của Nguyễn Trãi. Về quê ông làm đề cử ở chùa Hun, 1 chức vị rất thấp. Không thể nào gây ảnh hưởng với một vị vua tài giỏi, có cá tính mạnh mẽ, không chịu sự phụ chính như Lê Thái Tông, từng đã giết Đại Tư đồ Lê Sát, Lê Ngân, giáng chức nhiều trọng thần khác.
Tác giả Vũ Thị Thường kết luận rằng vua Lê Thái Tông chết đột ngột ở Lệ Chi viên, Nguyễn Trãi chỉ là người không may mắn mà thôi, và không nên suy luận đi quá xa.
Trong văn học nghệ thuật
Vụ án Lệ Chi viên từng được thể hiện trong nhiều tác phẩm văn học và nghệ thuật trong đó có các tác phẩm được báo chí đánh giá cao như vở cải lương Rạng ngọc Côn Sơn của Đoàn Cải lương Trần Hữu Trang, vở chèo Oan khuất một thời của Nhà hát Chèo Hà Nội.
Vở kịch Bí mật Lệ Chi Viên của Công ty Thái Dương (sân khấu IDECAF) từng được báo chí ca ngợi đã giành được ba giải Mai Vàng (năm 2007): giải Đạo diễn sân khấu cho Nghệ sĩ ưu tú Thành Lộc, giải Nam diễn viên Kịch nói cho Hữu Châu (vai Nguyễn Trãi) và giải Nữ diễn viên Kịch nói cho Thanh Thủy (vai Nguyễn Thị Anh).
Phim tài liệu Bí mật vụ án Lệ Chi viên từng được chiếu trên VTV1.
Năm 2012, bộ phim Thiên mệnh anh hùng của đạo diễn Victor Vũ cũng lấy bối cảnh là 12 năm sau khi Nguyễn Trãi chết, các thế lực vương tôn tranh giành nhau, trong đó có Tuyên Từ Thái hậu.
Về các bài thơ của Đinh Liệt
Trong cuốn "Ngọc phả họ Đinh" do Công bộ Thượng thư Đinh Công Nhiếp, con trai đầu của Thái sư Đinh Liệt, có một số bài thơ do Đinh Liệt viết có liên quan đến vụ án Lệ Chi viên.
Bài thơ Nôm nhận xét về Lê Thái Tông:
Tống Thai dáng dấp một anh quân,
Đắc sắc say chơi biếng kiệm cần.
Họa tự trong nhà nhô đầu mọc,
Di căn bệnh hoạn hại cho thân.
Trong bài này Đinh Liệt buộc phải dùng phép nói lái: Tống Thai tức là Thái Tông (Lê Nguyên Long). Vua là một anh quân vì ông biết ngăn ngừa cường thần, dẹp phiên trấn, sùng nho, mở thi cử, song lại quá ham mê tửu sắc. Về họa tự trong nhà, Đinh Liệt có bài thơ:
Nhung tân lục cá nguyệt khai hoa,
Bất thức hà nhân chủng bảo đa.
Chủ kháo Tống Thai vi linh dược,
Cựu binh tân tửu thịnh y khoa.Nhung tân đọc lái là Nhân Tông, tức là Bang Cơ, con Nguyễn Thị Anh, thịnh y là thị Anh. Bài này có thể tạm dịch:Nhân Tông sáu tháng đã ra hoa,Dòng máu ai đây quý báu à?Núp bóng Thái Tông làm linh dược,Thị Anh dùng ngón đổi dòng cha.Trước khi vào cung, Thị Anh đã gian díu với Lê Nguyên Sơn, một người thuộc họ xa của dòng dõi Lê Khoáng (cha Lê Lợi). Một bài thơ khác, Đinh Liệt viết:Tống Thai mạc kiến nguy ký hiện,Nịch ái Thịnh y nhật nhật tăng.Mỹ sắc điềm ngôn gia phỉ báng,Cơ đồ sự nghiệp hải hà băng.Dịch là:Thái Tông chẳng thấy nguy đã hiện,Say đắm Thị Anh cứ mãi tăng.Sắc đẹp lời ngon kèm phỉ báng,Cơ đồ sự nghiệp có ngày băng.Việc Thị Anh giết hai hoạn quan Đinh Phúc, Đinh Thắng được Đinh Liệt viết trong bài thơ mà nhiều người cho rằng vì chính hai người này đã mật báo cho ông và Nguyễn Trãi biết:Nhung Tân hà hữu Tống thai tinh,Lục nguyệt khai hoa quái dị hình.Niên nguyệt nhật thời Thăng Đính ký,Hoàng bào ô nhiễm vạn niên thanh.Dịch là:Nhân Tông không phải máu Thái Tông,Sáu tháng hoài thai cảnh lạ lùng.Năm, tháng, ngày, giờ Đinh Thắng chép,Hoàng bào dơ bẩn tiếng ngàn năm.''
Với cách gọi các vua bằng miếu hiệu như Thái Tông, Nhân Tông, chắc chắn các bài thơ này Đinh Liệt viết vào thời Lê Thánh Tông. Dù Nhân Tông và Thái hậu Nguyễn thị đã chết nhưng việc này vẫn không thể nói công khai, vì trên danh nghĩa, ngôi vua của Nhân Tông vẫn là hợp pháp. Có như vậy, việc cướp ngôi của Lê Nghi Dân mới là "phản nghịch" và việc lên ngôi của Thánh Tông mới là hợp lẽ. Đây chính là nguyên nhân khiến Đinh Liệt phải dùng phép nói ẩn ý để truyền lại cho đời sau. Sau này tới đời vua Lê Thánh Tông, vua Thánh Tông đã minh oan cho Nguyễn Trãi. Tuy nhiên, những bài thơ trên được tìm thấy trong gia phả họ Đinh thất lạc tại Trung Quốc nên tính chính xác của nó không được kiểm chứng, chỉ mang tính tham khảo giả thuyết. |
Hát văn, còn gọi là chầu văn, hát hầu đồng, hát bóng, là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền của Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ (Đạo Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Đức Thánh Vương Trần Hưng Đạo), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Bằng cách sử dụng âm nhạc mang tính tâm linh với các lời văn trau chuốt nghiêm trang, chầu văn được coi là hình thức ca hát mang ý nghĩa chầu thánh. Hát văn có xuất xứ ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Thời kỳ thịnh vượng nhất của hát văn là cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20. Vào thời gian này, thường có các cuộc thi hát để chọn người hát cung văn. Từ năm 1954, hát văn dần dần mai một vì hầu đồng bị cấm do bị coi là mê tín dị đoan. Đến đầu những năm 1990, hát văn lại có cơ hội phát triển. Các trung tâm của hát văn là Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình và một số vùng thuộc đồng bằng Bắc Bộ. Nghệ thuật chầu văn đang được quan tâm bảo tồn và đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể. Hiện tại, Nghi lễ chầu văn của người Nam Định và cả Việt nam đã được đưa vào danh sách 33 di sản văn hóa phi vật thể Việt Nam (đợt 1) và được công nhận là Di sản thế giới. Ở Huế cũng có hình thức chầu văn, nhưng giai điệu rất khác biệt so với các tỉnh Bắc Bộ.
Phân loại
Hát văn có nhiều hình thức biểu diễn bao gồm là hát thờ, hát thi, hát hầu (hát phục vụ hầu đồng, lên đồng), và hát văn nơi cửa đền, cửa đình:
Hát thờ: được hát vào các ngày lễ tiết, những ngày tiệc thánh (ngày thánh đản sinh, ngày thánh hóa...) và hát trước khi vào các giá văn lên đồng.
Hát hầu, trong hát hầu theo tín ngưỡng tứ phủ thì ba giá tam tòa Thánh Mẫu là bắt buộc và hầu tráng bóng chứ không tung khăn. Các giá tung khăn bắt đầu từ hàng Quan Lớn trở xuống. Trong tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần, người ta có thể kết hợp hầu tứ phủ hoặc hầu riêng, nếu hầu kết hợp với tứ phủ thì thường thỉnh tam tòa Thánh Mẫu đầu tiên, còn nếu hầu riêng thì mới thỉnh đức Thánh Vương Trần Triều đầu tiên. Một số bài hát văn hầu phổ biến như "Cô Đôi Thượng Ngàn", "Văn khấn Thiên Y A Na",...
Hát văn nơi cửa đền, đình: thường gặp tại các đền phủ trong những ngày đầu xuân, ngày lễ hội. Các cung văn hát chầu văn phục vụ khách hành hương đi lễ. Thường thì cung văn sẽ hát văn về vị thánh thờ tại đền, đình và hát theo yêu cầu của khách hành hương. Nhiều khi lời ca tiếng hát được coi như một bài văn khấn nguyện cầu các mong ước của khách hành hương. Một đoạn văn thường hát thí dụ như: "Con đi cầu lộc cầu tài. Cầu con cầu của gái trai đẹp lòng. Gia trung nước thuận một dòng. Thuyền xuôi một bến vợ chồng ấm êm. Độ cho cầu được ước nên. Đắc tài sai lộc ấm êm cửa nhà. Lộc gần cho chí lộc xa. Lộc tài lộc thọ lộc đà yên vui."
Hát chầu văn cửa đình được xem là thịnh hành nhất nơi xứ Huế, các cung văn hát những bài thơ ca ngợi thành hoàng làng và cầu phúc cho dân chúng. Nhạc Cung đình, nhạc Nghi lễ áp dụng trong nghi thức hầu đồng hình thành một thể loại mới gọi là nhạc Chầu văn, gắn liền với tính ngưỡng thờ Mẫu mà dường như tách khỏi âm nhạc xứ Huế.
Nhạc Chầu văn chính là quá trình biến lời trên những bài văn chầu được cấu thành bởi những khổ thơ lục bát hoặc song thất lục bát thành nhạc điệu. Nội dung của nó ca tụng các vị Tiên – Thánh – Thần có công chống giặc ngoại xâm, giúp đỡ dân lành trong việc trồng trọt, chăn nuôi, hiện nay được thờ tự trong tính ngưỡng thờ Mẫu.
Chầu văn Huế có đặc trưng riêng, trên cơ sở hệ thống thang âm cổ truyền (thang năm âm – ngũ cung) của vùng Bắc Trung bộ nói riêng và Việt Nam nói chung. Nó mang tính không ổn định và thường chuyển biến trong thang âm vì lệ thuộc vào giọng hát, thủ thuật nhấn, rung,... của cung văn.
Nhịp điệu cũng là một trong những yếu tố tạo nên tính chất đặc trưng của nó. Phổ biến nhất là nhịp 2/4, ngoài ra còn có nhịp 3/7 nhưng ít khi sử dụng, nếu dùng thì ở trong bản văn thỉnh Hội đồng. Ngoài việc sử dụng những làn điệu chính gốc như giọng Phú, Sắp, Thượng, Đài, Quảng, Cờn còn kết hợp những thể biến cách, kế thừa những làn điệu dân ca miền Bắc như Long lành, Trống quân, Ta lý, hát Thượng.
Hầu đồng là nghi lễ nhập hồn của các vị Thánh Tứ Phủ vào thân xác ông Đồng bà Cốt. Trong nghi lễ đó, hát vǎn phục vụ cho quá trình nhập đồng hiển thánh. Sau khi đã múa các thánh thường ngồi nghe cung văn hát, kể sự tích lai lịch vị thánh đang giáng. Với các giá ông Hoàng thì cung văn ngâm các bài thơ cổ. Thánh biểu hiện sự hài lòng bằng động tác về gối và thưởng tiền cho cung văn. Lúc này cũng là lúc thánh dùng những thứ người hầu đồng dâng như: rượu, thuốc lá, trầu nước v.v. Các thứ thánh dùng phải làm nghi thức khai cuông (khai quang) cho thanh sạch.
Trình bày
Thứ tự trình diễn
Nghi lễ hát chầu văn lên đồng có thể chia thành bốn phần chính:
Mời thánh nhập
Kể sự tích và công đức
Xin thánh phù hộ
Đưa tiễn
Bài hát thường chấm dứt với câu: "Xe loan thánh giá hồi cung!"
Cung văn ngồi một bên mé trong khi người hầu bóng, gọi là đệ tử thánh, ngồi trước bàn thờ. Hai bên cung văn là nhạc công tấu nhạc cùng ban phụ họa hát theo. Hai bên đệ tử thánh thì có người phụ việc sửa soạn khăn áo để khi thánh nhập thì trang phục ăn khớp với giá đồng. Người phụ việc cũng lo các lễ vật dâng cúng cùng lộc thánh để phát cho các người đến cung nghinh.
Phần lời của chầu văn
Chầu văn sử dụng nhiều thể thơ khác nhau như thơ thất ngôn, song thất lục bát, lục bát, nhất bát song thất (có thể gọi là song thất nhất bát gồm có một câu tám và hai câu bảy chữ), hát nói…
Lời của các bản văn thường có nội dung ca ngợi công đức, kể sự tích các thánh, khen vẻ đẹp ngoại hình và thú phong lưu của các vị ấy, đồng thời tả cảnh và xin được ban ơn phù hộ.
Các thí dụ minh họa: - Thể thất ngôn: (trích đoạn bỉ của văn công đồng)
森森鶴駕從空下
Sâm sâm hạc giá tòng không hạ
顯顯鸞輿滿坐前
Hiển hiển loan dư mãn tọa tiền
不舍威光敷神力
Bất xả uy quang phu thần lực
證明功德量無邊
Chứng minh công đức lượng vô biên
- Thể song thất lục bát: (Trích văn Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên) Chốn cung tiên mây lồng ánh nguyệt
Cảnh bầu trời gió quyện hương bay
Cửu trùng tọa chín tầng mây
Thiên Tiên Đệ Nhất ngự rày trung cung
Gió đông phong hây hây xạ nức
Bộ tiên nàng chầu chực hôm mai
Dập dìu nơi chốn trang đài
Chính cung Mẫu ngự trong ngoài sửa sang
- Thể lục bát: (Trích văn Chầu Đệ Nhị)
Trên ngàn gió cuốn rung cây
Dưới khe cá lặn chim bay về ngàn
Canh khuya nguyệt lặn sao tàn
Chiếc thoi bán nguyệt khoan khoan chèo vào
Gập ghềnh quán thấp lầu cao
Khi ra núi đỏ lúc nào ngàn xanh
Thượng ngàn Đệ Nhị tối linh
Ngôi cao công chúa quyền hành núi non
- Thể song thất nhất bát (Trích văn Cô Bơ Thoải)
Nhang thơm một triện,trống điểm ba hồi
Đệ tử con, dâng bản văn mời
Dẫn sự tích thoải cung công chúa
Tiền duyên sinh ở:thượng giới tiên cung
Biến hóa lên về Động Đình trung
Thác sinh xuống,con vua thoải tộc
Điềm trời giáng phúc,thoang thoảng đưa hương
Mãn nguyệt liền,hoa nở phi phương
Da tựa tuyết ánh hường tươi tốt
- Thể hát nói: (Trích văn Quan Đệ Nhị)
Nhác trông lên tòa vàng san sát,
Không đâu bằng Phố Cát, Đồi Ngang
Đá lô xô nước chảy làn làn
Điều một thú cỏ hoa như vẽ
Nhạn chiều hôm bay về lẻ tẻ,
Trên sườn non chim sẻ ríu ran.
nước dưới khe tung tính tiếng đàn,
Trên đỉnh núi tùng reo điểm trống
Ngần ngật Sòng Sơn kiêu dĩ lộng
Thanh thanh chi thủy chiếu trần tâm
Sơn chi cao hệ thủy chí thâm
Đây thực chốn non nhân nước trí
Âm nhạc
Hát văn là lễ nhạc hát chầu Thánh nên có vai trò quan trọng trong lễ hầu đồng. Lời ca, tiếng nhạc của cung văn nhằm mời gọi các vị Thánh về. Hát văn làm cho buổi lễ sống động. Những người hát văn vừa chơi nhạc cụ vừa thay nhau hát trong một vấn hầu thường kéo dài từ 4-8 tiếng
Các nhạc cụ chính gồm đàn nguyệt, guitar phím lõm, trống ban (trống con), trống đế, phách, cảnh, thanh la, sinh tiền, chén gõ (hầu văn Huế) và ngoài ra còn sử dụng nhiều nhạc cụ khác như: trống cái, sáo, đàn nhị, kèn bầu, chuông, mõ, đàn bầu.
Hát văn thường được nhắc tới kèm hai địa danh là Hà Nội và Nam Định, song hát văn Hà Nội hay hát theo lối bay bướm hơn hát văn Nam Định. Hát văn Nam Định thường đơn giản mộc mạc.
Các làn điệu và tiết tấu
Về tiết tấu, hát văn thường sử dụng nhịp ngoại (đảo phách). Loại nhịp này mang đến một cảm giác không ổn định trong tâm trí người nghe, đưa người nghe vào trạng thái mông lung, huyền ảo.
Hát chầu văn sử dụng nhiều làn điệu (hay còn gọi là lối hát, cách hát). Người xưa còn gọi làn điệu là cách 格. Thí dụ như điệu bỉ thì gọi là bỉ cách, điệu dọc thì gọi là dọc cách…
Các làn điệu hát văn cơ bản gồm: Bỉ, Miễu, Thổng, Phú Bình, Phú Chênh, Phú Nói, Phú rầu (phú dầu), Đưa Thơ, Vãn, Dọc, Cờn Xá, Kiều Dương, Hãm, Dồn, điệu kiều thỉnh, Hát Sai (Hành Sai), ngâm thơ. Ngoài ra còn sử dụng nhiều làn điệu khác như hát nói trong ca trù, hát then, hò Huế, cải lương,...
Mỗi giá hầu thường có một số điệu hát riêng, như các giá về Thiên phủ hay Địa phủ thường dùng dọc, phú, giá về Thoải phủ thường là cờn, còn các giá Nhạc Phủ là Xá.
Bỉ mang sắc thái trịnh trọng, được dùng để mở đầu cho hình thức hát văn thờ. Thông thường điệu Bỉ được hát trên thể thơ thất ngôn tứ cú (bốn câu mỗi câu bảy chữ) hoặc thất ngôn bát cú (tám câu mỗi câu bảy chữ) nhưng cũng có khi điệu này có thể hát trên các thể thơ khác như song thất lục bát, lục bát, song thất nhất bát. Trong các bản sự tích chư thánh được hát thờ thì đoạn bỉ thường là đoạn giới thiệu tóm tắt nội dung chính của cả bản văn. Các đoạn bỉ cũng thường sử dụng nhiều câu đối nhau (biền ngẫu). Một điều đặc biệt nữa đó là điệu bỉ chỉ có trong hát văn thờ mà tuyệt nhiên không có trong hát văn hầu đồng. Bỉ được lấy theo dây lệch, nhịp theo lối dồn phách.
Miễu là lối hát rất nghiêm trang, đĩnh đạc, chỉ được dùng trong hát thi và hát thờ, tuyệt nhiên không bao giờ được dùng trong Hầu Bóng. Miễu được lấy theo dây lệch, nhịp đôi.
Thổng chỉ dành riêng cho văn thờ và văn thi, được lấy theo dây bằng, nhịp ba.
Phú Bình dành riêng cho hát văn thờ, rất đĩnh đạc, và dùng để hát ca ngợi các nam thần. Phú Bình được lấy theo dây lệch, nhịp 3.
Phú Chênh là lối hát buồn, thường dùng để hát trong những cảnh chia ly. Được lấy theo dây bằng, nhịp 3.
Phú nói (thường mượn từ thể cách hát nói trong ca trù): thường dùng để mô tả cảnh hai người gặp gỡ, nói chuyện với nhau. Dùng trong hát văn thờ, văn thi và cả trong hầu bóng. Lấy theo dây bằng, nhịp ba hoặc không có nhịp mà chỉ dồn phách.
Phú rầu là lối hát rất buồn, được lấy theo dây bằng nhưng hát theo nhịp đôi.
Đưa thơ được lấy theo dây bằng, nhịp 3 và dồn phách, nhưng chủ yếu là dồn phách.
Vãn lấy theo dây bằng, nhịp đôi, hát theo lối song thất lục bát, hát theo lối vay trả (vay của câu trước thì trả lại trong câu sau).
Dọc lấy theo dây bằng, nhịp đôi, hát theo lối song thất - lục bát và hát theo nguyên tắc vay trả. Nếu hát từng câu thì gọi là nhất cú. Nếu hát liền hai câu song thất - lục bát thì gọi là "Dọc gối hạc" hay "Dọc nhị cú".
Cờn dùng để ca ngợi sắc đẹp các vị nữ thần. Cờn được lấy theo dây lệch, nhịp đôi. Có thể hát theo dây bằng, nhưng hầu hết là hát kiểu dây lệch (biến hóa).
Hãm lấy theo dây bằng, nhịp đôi, đây là lối hát rất khó vì phải hát liền song thất lục bát. Trong lối hát này có một tuyệt chiêu là Hạ Tứ Tự, có nghĩa là mượn bốn chữ của trổ sau, khi sang một trổ mới thì lại trả lại bốn chữ ấy.
Dồn được lấy theo dây bằng, nhịp 3.
Xá là một trong những điệu hát quan trọng nhất khi hát văn hầu bóng (cùng với Cờn, Dọc, Phú nói). Điệu Xá đặc trưng cho các giá nữ thần miền thượng.
Ngoài ra hát chầu văn còn có thể mượn các làn điệu nhạc cổ truyền khác như xẩm, quan họ, ca Huế, cải lương (dân ca Nam Bộ) và cả những điệu hát của dân tộc thiểu số
Xen kẽ những đoạn hát là đoạn nhạc không lời, gọi là lưu không.
Một số nghệ nhân hát văn nổi tiếng
Hà Nội
Nghệ nhân Cả Mã
Nghệ nhân Vĩnh Hàng Tre - Tâm Cẩn
Nghệ nhân Phạm Văn Kiêm: Ông đã có công bảo tồn, sưu tầm và sáng tác nhiều bản văn, cho thu âm và dành nhiều tâm huyết cho nghệ thuật này. Tư liệu ông để lại được thu thập vào cuối những năm 1980 đã giúp đỡ tác giả Lê Y Linh viết cuốn Cung văn và Điện thần, bản dịch của luận án tiến sĩ âm nhạc bảo vệ tại trường Sorbonne, Paris, Pháp.
Nghệ nhân Hoàng Trọng Kha: Trước ông tham gia làm nhạc công đoàn cải lương
Nghệ nhân Lê Bá Cao (Thường tín-Hà nội)
Nghệ nhân Bạch Phượng: Từng thu âm tại Đài TNVN
Các Nghệ sĩ Thanh Long, Khắc Tư, Trọng Quỳnh, NSƯT Xuân Hinh
Nam Định
NSND Bùi Trọng Đang: Nghệ sĩ chèo giỏi đàn hát chầu văn
NSƯT Kim Liên - Thế Tuyền: Cặp đôi hát - đàn quê Nam Định nổi tiếng, từng công tác tại Đài TNVN
Sài Gòn
Nhóm nữ nghệ sĩ Thanh Nhàn
Nghệ nhân Thu Thủy - Huy Dự
Thông tin thêm
Chầu văn cũng được nhắc tới trong các bộ phim và bài hát Việt Nam như trong bài Nghe em câu hát văn chiều nay của nhạc sĩ Nguyễn Cường, hay đoạn hát văn " Tống Biệt" trong phim, Mê Thảo, thời vang bóng, Long thành cầm giả ca
Một số tác phẩm
Cô Đôi Thượng Ngàn
Huế đô cảnh đẹp
Chú thích |
Tàu thủy là một công trình kỹ thuật nổi, có thể chuyển dịch trên mặt nước, hay ngầm dưới nước, theo hướng đã định, với tốc độ cần thiết, và chuyên chở hàng hóa hay hành khách tùy theo đặc tính sử dụng của con tàu.
Con tàu hiện đại là một công trình phức tạp, khác hẳn với những công trình kỹ thuật ở trên mặt đất, đó là vì tàu hoạt động trong một môi trường đặc biệt là nước. Tàu thủy thường phân biệt với thuyền dựa trên kích thước và khả năng hoạt động độc lập trong một thời gian kéo dài
Từ cuối thế kỷ 18 trở về trước, các thuyền buồm đều vận chuyển nhờ gió biển trong khi gió lại thổi thất thường. Người ta đã nghĩ tới việc dùng một nguồn năng lực nào không thay đổi và đủ mạnh để thay thế gió.
Cuộc Cách mạng Công nghiệp vào đầu thế kỷ 18 đã mang lại cho ngành Hàng Hải một sản phẩm chế tạo do các nhà phát minh và kỹ thuật, đó là máy hơi nước, một dụng cụ sinh ra động lực. Máy hơi nước đã được áp dụng vào thuật hàng hải và tàu thủy ra đời.
Lịch sử
Sau Rumsey, John Fitch mới đúng là nhà chế tạo tàu thủy đầu tiên. Chính vì cần tới các miền đất Viễn Tây mà Fitch tới Pennsylvania để học hỏi về máy hơi nước. Vào năm 1785, Fitch bắt đầu đóng một kiểu tàu thủy có guồng (paddle wheel) tại bên sườn tàu. Hai năm sau, nhà phát minh này lắp động cơ vào một chiếc thuyền dài 14 mét. Không biết vì sao, Fitch đã đổi ý và lại cho lắp các mái chèo thẳng đứng. Động cơ truyền sức mạnh vào hai bộ máy chèo, mỗi bộ gồm 6 chiếc, tại mỗi cạnh thuyền. Các mái chèo này lần lượt nhấc lên rồi cắm xuống, đẩy nước về phía sau. Mặc dù phương pháp này rất vụng về, lần thử trên sông vẫn mang lại thành công. Vào một buổi chiều tháng 8 năm 1787, con tàu đã vượt được khoảng cách 40 dậm với vận tốc 4 dậm một giờ.
Tàu chạy bằng máy "không khí"
Vào khoảng năm 1700, Newcomen đã chế ra chiếc máy "không khí" nhưng loại máy này còn quá yếu và nặng nề, không thể áp dụng cho tàu thủy. Cũng vào thời kỳ này, Denis Papin đã tìm cách áp dụng phát minh về máy hơi nước của ông ta vào tàu thủy nhưng chiếc tàu làm mẫu của Papin bị các thủy thủ ganh tị phá vỡ vào năm 1707 và Denis Papin từ bỏ việc chế tạo.
Tàu chạy máy hơi nước
Chiếc máy hơi nước thực sự được James Watt chế ra vào khoảng năm 1770 và tại nước Pháp, nhiều người đã tìm cách áp dụng máy hơi nước vào việc chuyển vận trên mặt nước. Các Bá Tước Auxiron và Follenay đã làm các tàu thủy nhưng các con tàu này đều bị chìm trên dòng sông Seine, có thể do sự phá hoại của các thủy thủ thời đó, vì họ sợ bị thất nghiệp. Tới năm 1783, Bá Tước Jouffroy d'Abbans đã thành công trong việc đóng chiếc tàu thủy Pyroscaphe và cho tàu này chạy trên sông Saone trong 15 phút trước sự chứng kiến của hàng ngàn người quan sát. Bá Tước d'Abbans đã xin trợ giúp của chính phủ nhưng dự án bị Hàn Lâm Viện Pháp bác bỏ vì Viện đang tài trợ các thí nghiệm về khinh khí cầu của Montgolfier. Vì thế công trình nghiên cứu tàu thủy của Bá Tước d'Abbans phải bỏ dở.
Cha đẻ
Hai người Mỹ đầu tiên được gán cho danh dự đã chế tạo các tàu thủy đầu tiên là James Rumsey và John Fitch. J. Rumsey đã cố gắng lắp một động cơ dùng hơi nước vào một chiếc thuyền vào năm 1786 nhưng chẳng may, Rumsey đã chọn phải một động cơ không thích hợp. Động cơ này hút nước ở trước tàu và nhả ra sau tàu. Sau nhiều lần thử thất bại, Rumsey sang nước Anh và tại nơi này, ông ta chế tạo một tàu thủy khác. Rumsey qua đời bất ngờ khiến cho công cuộc thí nghiệm bị chấm dứt dù cho về sau, trong chuyến chạy thử trên dòng sông Thames, chiếc tàu thủy của ông Rumsey đã chạy được với vận tốc 4 hải lý một giờ.
Sau Rumsey, John Fitch mới đúng là nhà chế tạo tàu thủy đầu tiên. Chính vì cần tới các miền đất Viễn Tây mà Fitch tới Pennsylvania để học hỏi về máy hơi nước. Vào năm 1785, Fitch bắt đầu đóng một kiểu tàu thủy có guồng (paddle wheel) tại bên sườn tàu. Hai năm sau, nhà phát minh này lắp động cơ vào một chiếc thuyền dài 14 mét. Không biết vì sao, Fitch đã đổi ý và lại cho lắp các mái chèo thẳng đứng. Động cơ truyền sức mạnh vào hai bộ máy chèo, mỗi bộ gồm 6 chiếc, tại mỗi cạnh thuyền. Các mái chèo này lần lượt nhấc lên rồi cắm xuống, đẩy nước về phía sau. Mặc dù phương pháp này rất vụng về, lần thử trên sông vẫn mang lại thành công. Vào một buổi chiều tháng 8 năm 1787, con tàu đã vượt được khoảng cách 40 dậm với vận tốc 4 dậm một giờ.
Fitch như vậy đã chiếm được địa vị độc tôn về đóng tàu thủy chạy trong các tiểu bang New Jersey, New York, Pennsylvania, Delaware và Virginia. Vì tin tưởng thành công nên Fitch trù tính đóng một chiếc tàu thủy lớn hơn, dài 18 mét và cũng chạy bằng hơi nước. Vào năm 1788, con tàu này được hạ thủy và cũng thành công trong việc chở 30 hành khách chạy trên hải trình từ Philadelphia tới Burlington. Trong khoảng thời gian này, tiền vốn của Fitch cạn dần trong khi dân chúng lại không quan tâm đến phát minh đó. Fitch cố gắng chế tạo con tàu thứ ba vào năm 1790. Chiếc tàu thủy này có nồi súp de tốt hơn và bộ máy đơn giản hơn, tàu đã di chuyển trên dòng sông Delaware và được các báo chí tại Philadelphia ca tụng. Mặc dù cách đẩy nước vụng về, con tàu này của Fitch đã thành công về cơ khí và đã di chuyển được hơn 2,000 dậm, chở cả hành khách lẫn hàng hóa.
Khi sắc luật về bằng sáng chế được chấp thuận vào năm 1791, Fitch được cấp bằng phát minh về tàu thủy nhưng cũng loại bằng cấp này được cấp cho Rumsey và Stevens trong khi đó Fitch đứng đầu về tài năng. Mặc dù bất mãn và bị túng thiếu, Fitch vẫn tiếp tục nuôi dưỡng giấc mơ về tàu thủy. Tưởng rằng có thể thành công hơn tại nước Pháp, Fitch xuống tàu sang Pháp vào năm 1793. Tại nước Pháp và để chắc chắn, Fitch lại xin bằng phát minh về tàu thủy nhưng rồi vẫn gặp vận sui. Cuộc Cách mạng Pháp đã cản trở các cuộc thí nghiệm của Fitch. Dù sao, Fitch cũng ảnh hưởng tới sự phát triển về tàu thủy của xứ sở này. Fitch đã để lại các họa đồ vẽ tàu thủy cho viên Lãnh Sự Mỹ tại Paris rồi ông này đã cho một kỹ sư trẻ tuổi kiêm họa sĩ xem. Viên kỹ sư này tên là Robert Fulton. Trong lúc đó, Fitch trở lại Hoa Kỳ với sức khỏe mong manh. Nhà phát minh này đã cố gắng làm cho dân chúng quan tâm về sự chuyển vận của tàu thủy bằng cuộc triển lãm một con tàu nhỏ dùng động cơ hơi nước, nhưng dân chúng vẫn lãnh đạm. Fitch lui về Kentucky, trở nên mất trí rồi qua năm 1798, qua đời vì dùng quá liều thuốc phiện.
Hai nhà phát minh Stevens và Fulton
Trong khi các tàu thủy của Fitch xuôi ngược trên dòng sông Delaware, một người đã trông thấy tàu chạy và đã nhìn thấy khả năng vô biên của tàu thủy, người đó là Đại tá John Stevens. Đầu tiên, do cần có một phương tiện khứ hồi từ nhà tại New York City tới miền đất sở hữu tại Hoboken mà Stevens quyết định đóng lấy một chiếc tàu thủy. Stevens còn nhận ra vài chỗ nhầm lẫn trong phát minh của Fitch, hơn nữa nhờ giàu có, Stevens dễ thực hiện những cải cách cần thiết.
Stevens thuyết phục được người anh rể tên là Robert Livingston cùng bỏ tiền ra đặt một động cơ hơi nước tại xưởng đúc New Jersey rồi lắp động cơ này vào một con thuyền dài 60 feet (gần 18 mét). Lần thử vào năm 1798 gặp thất bại vì tàu đã dùng phương pháp đẩy giống như phương cách của Rumsey. Lần thử thứ hai cũng không thành công dù cho nhà phát minh dùng các mái chèo thẳng đứng đặt tại đuôi tàu, giống như cách thức của Fitch. Rồi bộ máy quá nặng nề đã làm bể vỡ con thuyền mong manh. Không lâu sau đó, Livingston lãnh nhiệm vụ làm Đại sứ Hoa Kỳ tại nước Pháp còn Stevens tiếp tục thí nghiệm và trở nên viên kỹ sư máy hơi nước tài giỏi nhất Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ 19.
Năm 1802, Stevens lắp vào chiếc thuyền dài 8 mét một máy hơi nước nhỏ liên hợp với một chân vịt có 4 cánh. Nhà phát minh đã dùng con tàu này để đi nhiều lần từ New York tới Hoboken. Vài năm sau, Stevens hoàn thành một con tàu thứ hai có hai chân vịt chuyển vận nhờ một động cơ áp suất cao do chính ông ta vẽ kiểu. Và danh vọng tột đỉnh tới với Stevens khi ông ta đóng xong con tàu Phoenix trong 2 năm. Con tàu này dài 31 mét, có động cơ đồ sộ. Stevens trở lại cách đẩy tàu kiểu cũ, tức là dùng các bánh xe guồng (paddle wheels) và làm cho chắc chắn, ông ta lại thêm hai chiếc cột để khi cần tới, có thể kéo buồm lên.
Vì danh tiếng của Fitch, Stevens không dám cho tàu chạy trong tiểu bang New York nên đành phải cho tàu ra khơi. Chiếc Phoenix đã chạy được từ New York tới Philadelphia bình yên. Như vậy Stevens đoạt danh dự là người đầu tiên hoàn thành một cuộc du lịch bằng tàu thủy ra ngoài biển khơi. Nhưng thành tích này không được nhiều người khác quan tâm vì vào thời bấy giờ, dân chúng Hoa Kỳ đang mải chú ý tới các cuộc chạy thử tàu thủy của Robert Fulton trên dòng sông Hudson. Trong những năm tiếp theo, Stevens chuyên về chế tạo các phà chạy bằng máy hơi nước và cũng quan tâm cả về ngành hỏa xa.
Khởi đầu Fulton thử nghiệm các phương pháp đẩy và xem xét các kiểu vỏ tàu. Fulton coi tàu và máy là một đơn vị chứ không phải là hai thứ riêng rẽ. Vào năm 1803, Fulton hoàn thành con tàu dài 23 mét, rộng 2.4 mét. Con tàu bỏ neo trên dòng sông Seine nhưng rồi bị vỡ đôi trước khi thử. Bộ máy tàu được cứu thoát để rồi được đặt vào một vỏ tàu mới cứng cáp hơn. Cùng trong năm này, con tàu mới được hạ thủy. Lần thử thứ nhất thành công, tàu đã di chuyển một cách kỳ dị trên mặt nước nhờ hai bánh xe guồng đạp nước. Tuy nhiên dân chúng chứng kiến cuộc thử vẫn coi đây là một sản phẩm mới, hơn là một bước tiến nhiều triển vọng lớn lao.
Năm 1806, Fulton trở về Hoa Kỳ với kiến thức rộng rãi về kênh đào, tàu ngầm và tàu thủy. Fulton bắt tay vào việc vẽ vỏ tàu. Vào năm sau con tàu mới được lắp động cơ do Watt chế tạo. Con tàu này trông rất xấu xí, được đặt tên là Clermont theo tên miền ruộng đất của Livingston tại Hudson. Tàu Clermont thực ra là một sà lan phẳng đáy, thiếu tỉ lệ về chiều dài, bộ máy tàu được đặt phía trước và làm chuyển động hai bánh xe guồng không che phủ gồm những guồng dài 15 feet. Khi tàu chạy, nước văng ướt khắp phần giữa tàu.
Ngày 17/8/1807, 40 hành khách đã dự một cuộc du ngoạn khứ hồi từ New York tới Albany mà không gặp một tai nạn nào. Tàu chạy được 150 dậm trong 32 giờ, như vậy tốc dộ ngược dòng của tàu là 5 dậm một giờ. Cuộc chạy thử này đã là một điểm son trong lịch sử hàng hải và cũng chứng minh cách vận chuyển thành công dùng máy hơi nước. Nhưng hơn hẳn nhiều nhà phát minh khác, Fulton đã cải cách tàu thủy thành một loại tàu đẹp mắt và theo đòi hỏi của dân chúng. Trong các lần thử sau, Fulton đã cho bao phủ các guồng nước và lập ra các phòng hành khách có giường ngủ và dụng cụ nấu bếp. Vì thế Công ty Tàu Thủy Trên Sông Hudson (the Hudson River Steamboat Company) thành hình. Vào tháng 9 năm 1807, bắt đầu có các chuyến tàu theo thời biểu và giá vé từ New York tới Albany là 7 mỹ kim. Trong các năm sau, hai con tàu thủy nữa được đóng để cung cấp các chuyến đi hàng ngày giữa hai địa điểm này.
Trong cuộc chiến tranh 1812, Fulton được giao cho công việc đóng chiếc tàu chiến đầu tiên. Thực ra đây là một con tàu với hai vỏ tàu đặt cạnh nhau và bánh xe guồng được đặt ở giữa, cạnh tàu được lắp các tấm thép. Về sau con tàu chiến này vẫn còn dở dang mặc dù chiến tranh đã chấm dứt và Fulton đã qua đời vào năm 1815.
Tàu thủy dùng chân vịt
Trong khi tại Hoa Kỳ các nhà tiên phong đang thử nghiệm về tàu thủy thì tại các nước khác, những tiến bộ cũng được thực hiện. Vào năm 1812, người Anh đã khánh thành việc chuyên chở bằng tàu thủy giữa Glasgow và Helensburgh, rồi hai năm sau nữa, hai con tàu thủy bắt đầu xuôi ngược trên dòng sông Thames. Nhờ Stevens và Fulton chứng tỏ khả năng của tàu thủy nên những nhà phát minh bắt đầu tìm cách cải tiến về động cơ cũng như kiểu đóng tàu. Lúc đầu, những nhà kỹ thuật này bị ảnh hưởng bởi họa đồ và dụng cụ của các thuyền buồm vì thế vào lúc ban đầu, các tàu thủy đều có cột buồm và cánh buồm trong khi động cơ lại được coi là bộ phận phụ thuộc. Guồng đạp nước vẫn còn được sử dụng, sự chứng minh của Stevens về chân vịt đã bị người đời quên lãng.
Dần dần các cải cách cũng xuất hiện, vỏ tàu bằng gỗ được thay thế bằng sắt, sau lại bằng thép. Các động cơ càng ngày càng mạnh hơn và có hiệu lực hơn, các guồng nước được thay thế bằng chân vịt. Trong khi các cải tiến này đang được thực hiện thì tàu thủy cũng tăng dần về kích thước, về khả năng chuyên chở và tầm xa vận chuyển. Tất cả những tiến bộ này đã khiến cho ngành hàng hải xuyên đại dương phát triển.
Cuộc vượt biển đầu tiên bằng tàu thủy được thực hiện năm 1818 do tàu buồm Savanna chở thư từ và hàng hóa. Con tàu này đã chạy trên hải trình New York - Le Havre. Tàu Savanna được lắp động cơ và guồng đạp nước với tính cách phụ và trong 80 giờ chuyển vận, động cơ hơi nước đã được dùng để tăng thêm tốc độ cho tàu.
Nhưng danh dự chính đáng về vượt đại dương bằng năng lực hoàn toàn của hơi nước phải được dành cho con tàu Curacao, một chiếc tàu thủy Hòa Lan khởi hành từ Rotterdam để đi tới West Indies vào năm 1827. Trong vòng 10 năm, nhiều con tàu khác đã hoàn thành nhiều cuộc vượt biển đầy nguy hiểm và càng ngày, thời gian di chuyển càng ít hơn. Đáng ghi nhớ nhất là thời gian kỷ lục 25 ngày vượt biển Đại Tây Dương của con tàu Royal William, do Sammuel Cunard và các cộng sự viên đóng xong trong vào năm 1883 tại Quebec. Những cuộc vượt biển này đã chứng tỏ rằng tàu thủy chạy trên biển thích hợp hơn chạy trên sông, và nhiều công ty được thành lập để đóng tàu dùng trong các chuyến đi thông thường.
Vào năm 1838, Công ty Hàng Hải Hơi Nước Anh Mỹ (the British and American Steam Navigation) bắt đầu hoạt động với con tàu Sirius trọng tải 703 tấn. Các động cơ hoàn hảo hơn cũng xuất hiện dần, cho phép tàu đi được các chặng đường xa hơn, lại chở nhiều hơn về hành khách và hàng hóa. Thời gian vượt biển cũng được thu ngắn và kỷ lục là 15 ngày với con tàu Great Western, trọng tải 1440 tấn, do công ty Cunard Line thành lập năm 1840.
Mặc dù vào thời kỳ này, vận tốc của tàu đã đạt được 9 hải lý một giờ nhờ các động cơ mạnh hơn, phần lớn các con tàu thủy vẫn dùng buồm để lợi dụng sự xuôi gió. Trong khi bánh xe guồng chứng tỏ sự thích hợp trong việc sử dụng trên sông hồ thì người ta lại thấy cách đẩy này không hiệu quả và bất tiện với loại tàu thủy đi biển. Trước đó nhiều năm, chân vịt đã được dùng tại con tàu Clermont chạy trên sông Hudson. Năm 1836, chân vịt đã được hai nhà phát minh cầu chứng tại hai nơi riêng biệt: đó là hai ông F. P. Smith người Anh và John Ericsson người Thụy Điển, quốc tịch Hoa Kỳ. Nhiều cuộc thí nghiệm với những con tàu nhỏ lắp chân vịt đã chứng tỏ rằng khi dùng chân vịt con tàu vừa có thêm sức mạnh, vừa tiết kiệm được nhiên liệu hơn dùng bánh xe guồng.
Thực ra, ưu điểm về chân vịt chỉ được chứng tỏ khi có con tàu Great Britain hạ thủy tại Bristol vào năm 1844. Đây là một con tàu lớn, dài 96 mét và trọng tải 3,440 tấn. Tàu được trang bị động cơ 4 xy lanh 200 mã lực nên đã chạy với tốc độ 12 hải lý một giờ. Ngoài việc sử dụng tới chân vịt, vỏ tàu lại được đóng bằng sắt, tất cả những ưu điểm này đã khiến cho con tàu mang danh hiệu "cách mạng".
Từ năm 1856, các con tàu thủy của Hoa Kỳ vẫn còn dùng bánh xe guồng. 9 năm về trước, hai con tàu Herman và Washington trọng tải 1850 tấn đã được cho chạy giữa Bremen và New York, rồi vài năm sau lại có thêm hải lộ New York - Le Havre. Các đội tàu biển bằng gỗ và dùng guồng được thành hình, lúc đầu nhận được tiền trợ cấp của chính phủ nhưng sau nhiều tai nạn, tiền trợ cấp bị khước từ. Khi các tàu thủy đóng bằng gỗ và dùng guồng biến dần trên Đại Tây Dương thì làn sóng di dân sang châu Mỹ tăng lên. Vì thế bắt đầu từ năm 1850, nhiều con tàu tân tiến được đóng cho các công ty North German Lloyd, Hamburg-American Lines, British-Inman Line và Cunard Line để chở một số đông hành khách. Những con tàu này có vỏ bằng sắt và đều dùng chân vịt.
Một biến cố lớn lao nhất trong lịch sử đóng tàu là sự chế tạo thất bại của con tàu Great Eastern. Con tàu này được đóng để giao thương với châu Úc và Viễn Đông nên được lấy mẫu căn cứ vào con tàu Đảo Anh. Tàu Great Eastern dài hơn 180 mét, trọng tải 18,900 tấn và để cho chắc chắn về sức đẩy, tàu dùng cả bánh xe guồng vận chuyển do một động cơ 3,400 mã lực cùng với chân vịt quay bởi một động cơ khác mạnh 4,800 mã lực. Tàu được hạ thủy vào năm 1851 nhưng bị mắc cạn ngay khi chạm nước. Công ty đóng tàu bị phá sản. Rồi con tàu này được bán đi để chạy trên Đại Tây Dương nhưng đây là điều không thích hợp khi con tàu trải dây cáp qua đại dương.
Càng ngày các nhà kỹ thuật càng tìm cách cải tiến tàu thủy, làm sao tiết kiệm được nhiên liệu và tăng thêm sức mạnh. Từ năm 1854, động cơ kép được áp dụng vào tàu thủy. Chân vịt kép cũng được dùng từ năm 1862 rồi tới loại chân vịt 3 lớp và 4 lớp.
Sau khi Sir Charles Algernon Parsons phát minh ra động cơ turbine, thì con tàu đầu tiên được lắp loại động cơ này là Turbinia. Con tàu này được đóng tại xưởng Clyde vào năm 1894 và đã chạy với vận tốc 34 hải lý một giờ. Năm 1905, con tàu Carmania trọng tải 19,000 tấn được lắp động cơ turbine. Sự thành công về loại động cơ này khiến cho người ta đóng tiếp hai con tàu biển nữa là Mauretania và Lusitania. Tàu Mauretania trọng tải 31,900 tấn, có động cơ turbine 68,000 mã lực và chân vịt 4 lớp, đã đạt được tới vận tốc 25 hải lý một giờ. Con tàu xuyên đại dương này đã giữ kỷ lục trong 22 năm liền.
Ngoài động cơ turbine, các nhà kỹ thuật còn dùng động cơ diesel vào tàu thủy. Từ năm 1903, con tàu Anh Wandal đã dùng động cơ diesel để phát điện. Lúc đầu các động cơ diesel chỉ được dùng cho loại tàu chở hàng hóa nhưng từ năm 1924, các con tàu chở khách cũng được lắp loại động cơ này. Con tàu lớn đầu tiên dùng động cơ diesel là chiếc Gripsholm đóng xong vào năm 1925. Hai năm sau, động cơ diesel lại được dùng cho con tàu Augustus trọng tải 32,000 tấn của công ty Navigazione Generale Italiana.
Từ năm 1930, động cơ diesel được dùng cho hầu hết các con tàu thủy và mặc dù không còn khói như trước kia, ống khói cổ truyền trên tàu vẫn không bị bỏ hẳn vì còn được dùng vào việc làm thoát hơi vào trong không khí.
Phân loại
- Theo động học: 3 nhóm
+ theo nhóm khí động học: dùng nệm khí để không chạm nước, tránh tạo sóng tàu đệm không khí.
+ theo nhóm thủy động học: dùng động lực nâng nổi tàu, giảm tạo sóng tàu cánh ngầm.
+ theo định luật Archimede: dùng tĩnh lực cân bằng tàu để nổi trên mặt nước tàu bình thường.
- Theo chức năng chuyên chở và đối tượng phục vụ: tàu hàng, tàu khách, tàu đánh bắt thủy sản, tàu quân sự, tàu nghiên cứu thềm lục địa, tàu chuyên dụng.
- Theo vùng hoạt động (cấp tàu):
+ tàu biển:
cấp không hạn chế.
hạn chế cấp I: cách bờ không quá 200 hải lý
hạn chế cấp II: cách bờ không quá 50 hải lý.
hạn chế cấp III: cách bờ không quá 20 hải lý.
+ tàu sông:
hạn chế cấp I: chiều cao sóng h1/3 không quá 2m.
hạn chế cấp II: chiều cao sóng h1/3 không quá 1.2m.
+ Tàu pha sông biển: chạy cách bờ không quá 12 hải lý. theo cấp tàu biển.
Chú thích |
YE-6 (tiếng Nga: ОКБ Микояна Гуревича Е-6) là một loại máy bay thử nghiệm được phát triển bởi phòng thiết kế máy bay Mikoyan và Gurevich, Liên Xô. Đây là một máy bay thử nghiệm nằm trong chương trình phát triển máy bay diệt mục tiêu trên không MiG-21. YE-6 được phát triển với yêu cầu góc đón gió (AoA) lớn và thử nghiệm sử dụng tên lửa.
Cải tiến từ máy bay thử nghiệm YE-5, chiếc đã trở thành mẫu cho MiG-21 được trang bị đợt đầu. Máy bay YE-6 có những đặc điểm cải tiến giống các máy bay thử nghiệm YE-152. Đây là lần đầu tiên MiG thử nghiệm bào khí trước (canard foreplanes). Thiết bị này gắn cố định khi bay nhưng dễ dàng tháo ra và thay đổi vị trí lắp khi máy bay đỗ trong xưởng. Điều đó cho phép máy bay sử dụng các mẫu bào khí khác nhau trong thử nghiệm.
YE-6 cũng là máy bay đầu tiên trong nhóm MiG-21 xác định vũ khí chủ lực là tên lửa. Nó có radar tìm kiếm và ngắm bắn lắp trong mũi, chiến đấu tốt mọi thời tiết, công kích bằng tên lửa tầm nhiệt K-13 và tên lửa hướng radar bán chủ động tầm ngắn, cả hai tên lửa đều bắn góc hẹp YE-6 mang 2 tên lửa ở giá dưới cánh và giao tiếp tên lửa-phi công. MiG-21 được xếp vào lớp máy bay diệt mục tiêu trên không phản lực Liên Xô thứ 2, chiến đấu bằng radar và tên lửa ở tốc độ trên dưới hai lần tốc độ âm thanh. (Máy bay diệt mục tiêu trên không hay được dịch ra tiếng Việt là "máy bay tiêm kích", "máy bay đánh chặn", "máy bay khu trục". Trong tiếng Anh nó hay được gọi là interceptor, fighter hay destroyer). Tuy nhiên, những MiG-21 đầu tiên, bản sao của mẫu thử YE-5 bay lần đầu ngày 1 tháng 4 năm 1957 lại sử dụng đại bác bắn nhanh 30mm làm vũ khí đối không. YE-6 là mã tên dùng trong nhà máy và viện nghiên cứu, cũng như các YE khác khi còn là mẫu thử nghiệm. Tuy nhiên sau đó nó đã có tên, tức đã được Hội đồng Bộ trưởng duyệt cho sản xuất số lượng hạn chế nhằm đánh giá chiến thuật, tên YE-6 là MiG-21F, giai đoạn này là bước đệm, nếu vượt qua thì các mẫu thử sẽ được trang bị và có thể chiến đấu trong thực tế. Nhưng chỉ đến máy bay YE-7 mới được sản xuất hàng loạt và trang bị với tên gọi MiG-21PF, đây có thể coi là sản phẩm thực tế đầu tiên của MiG dùng tên lửa có điều khiển làm vũ khí chính. Ngoài việc cải tiến radar, YE-7 bỏ đi các thử nghiệm khí động bào khí trước. Trừ bào khí (canard foreplanes), máy bay YE-6 đại thể giống như YE-5, thân thon hơn, như là các MiG-21 được sản xuất lớn, dạng cánh tam giác có đủ đuôi.
YE-6 tồn tại không lâu, không được đưa vào sản xuất lớn, trên cơ sở của nó người ta thiết kế YE-8. Nguyên nhân do hệ thống ổn định điện tử hồi đó chưa có, chưa cho phép di chuyển thiết bị lái lên xuống từ đuôi lên đầu máy bay, đồng thời, năng lực động cơ và kết cấu khí động làm tăng tốc độ, dẫn đến những nhược điểm của kiểu mũi MiG-21 truyền thống. Một nguyên nhân nữa là các radar không chiến và tên lửa có điều khiển tiến bộ nhanh chóng, yêu cầu máy bay cần cải tiến kết cấu đáp ứng. Cả YE-6 và YE-8 áp dụng nhiều kỹ thuật quá mới. Về phương thức chiến đấu, các MiG-21 thực tế là máy bay lai, nó đã dùng tên lửa và radar như vũ khí diệt mục tiêu trên không chính, thay cho súng, nhưng chưa có khả năng bắn tên lửa dẫn đường kiểu radar bán chủ động tầm xa, góc lớn. Do đó, nó vẫn phải ngắm bắn tầm gần góc hẹp bằng tên lửa hướng hồng ngoại tầm ngắn nên vẫn cần độ linh hoạt cao, được coi là máy bay trung gian giữa dogfight bằng súng và FBV bằng tên lửa có điều khiển. Tuy nhiên, một giai đoạn rất ngắn người ta bỏ súng của MiG-21 đi, do chủ quan không thấy cần nữa. Nhưng thực tế thử nghiệm và chiến trường Việt Nam sau đó chứng minh rằng súng vẫn rất cần thiết. Hiện tượng này còn thấy ở máy bay F-4 của Mỹ, sau Chiến tranh Việt Nam, năm 1972 thì F-4 mang súng trở lại như các máy bay cũ, trước đấy F-4 không có súng.
Bào khí (canard foreplanes) là cánh phụ lắp phía trước máy bay, trước cánh chính. Ngày nay, có bốn loại bào khí được sử dụng.
Kiểu gắn cố định, tách rời ra khỏi cánh. Kiểu này đơn giản, nhưng ít được dùng, thấy trong một số máy bay được trang bị của Tây Âu.
Kiểu tách rời ra khỏi cánh nhưng điều khiển được. Như là JAS-39 của Thụy Điển, MFI-1.44 của MiG. Một nhóm máy bay không chiến rất mạnh cuối thế kỷ 20, những máy bay theo kiểu mẫu thử YE-155, bao gồm MiG-25, MiG-31 (Liên Xô, Nga), F-15 (Mỹ) sử dụng bào khí điều khiển được nhưng kiêm chức năng của cửa hút gió đóng bớt lại được.
Kiểu gắn cố định nhưng là phần gốc cánh sát thân kéo dài lên phía trước. Kiểu này nhẹ, đơn giản, vững chắc, lực cản nhỏ hay được sử dụng cho các máy bay đa năng có khả năng diệt mục tiêu trên không. Thấy ở một số mẫu máy bay chiến đấu phổ biến nhất sau những năm 1970, như là F-16 (Mỹ), SU-27 và MiG-29 (Liên Xô và Nga). Một số máy bay thuộc nhóm SU-27 bao gồm các máy bay từ SU-27 đến SU-35. Máy bay cuối cùng của dòng SU-27 là SU-37 cùng một số phiên bản cải tiến của SU-30, SU-35, SU-32 chuyển sang tách rời điều khiển được, tuy nhiên số lượng sản xuất còn ít ỏi.
Kiểu làm mép sắc phần trước và giữa thân, bè ngang ra. Ban đầu ở A-12 và các máy bay cải tiến của mẫu này như F-12, SR-71. Hiện này được dùng trên hai loại máy bay mới nhất của Mỹ là F-22 và F-35. Kiểu này chỉ giới hạn ở chức năng chống xoáy cuộn không khí gây chống bốc hay dìm đầu máy bay ở tốc độ chênh lệch lớn. Kiểu này rất chắc chắn, gọn nhẹ, giúp gia tải (gia tốc chiều đứng) rất tốt.
Ngày nay, bào khí (canard foreplanes) cho phép máy bay ăn lái, góc đón gió lớn, ổn định chiều lên xuống ở các tốc độ khác nhau, chống xoáy giảm lực cản... nhưng cần phải sử dụng với hệ thống ổn định và lái tự động bằng máy tính. Ngày đó, thiết bị này gây nhiều bất ổn cho máy bay.
YE-8 cũng đã được đặt tên MiG-23, nhưng cũng như YE-50 đã từng được tên như vậy, còn lâu loại MiG-23 thật sự mới xuất hiện. Chỉ có 2 chiếc YE-8 được đóng, kiểu máy bay này rất lâu sau đó MiG không dùng, nhưng kết cấu thân của nó thì vô cùng "vô tiền khoáng hậu", đến cuối thế kỷ 20, đó là kết cấu thân máy bay chiến đấu phổ biến nhất trên thế giới. YE-8 được thiết kế lại từ YE-6 để thỏa mãn tốc độ cao trên M2 và khoang radar không chiến lớn. Cả YE-6 và YE-8 đóng góp rất nhiều cho kỹ thuật máy bay chiến đấu với vai trò là phòng thí nghiệm bay. |
YE-8 (tiếng Nga: ОКБ Микояна Гуревича Е-8) là một loại máy bay thử nghiệm được phát triển bởi phòng thiết kế máy bay Mikoyan và Gurevich, Liên Xô, là một máy bay thử nghiệm nằm trong chương trình phát triển máy bay diệt mục tiêu trên không MiG-21. YE-8 được phát triển thỏa mãn các yêu cầu mới mà động cơ và thiết bị chiến đấu trên không đặt ra. Máy bay là một nỗ lực tăng góc đón gió, linh hoạt, tốc độ, độ cao, gia tốc, khả năng sử dụng khí tài điện tử. Trong các máy bay thử nghiệm nhóm MiG-21, YE-8 là phát triển tiếp theo của YE-6, vốn tồn tại trong thời gian ngắn. YE-8 cũng không đi đến sản xuất lớn và trang bị tuy đã được dặt tên là MiG-23. Có hai máy bay YE-8 được đóng, gọi là YE-81 và YE-8-2, có thể coi là những máy bay thử nghiệm đầu tiên của kiểu MiG-23, tuy rằng sau đó MiG-23 sử dụng kết cấu khí động hơi khác. YE-8 có nhiệm vụ là chiến đấu trên không chuyên nghiệp, những máy bay có nhiệm vụ chiến đấu trên không hay được viết bằng tiếng Anh là fighter, interceptor và destroyer, hay được viết bằng tiếng Việt là máy bay tiêm kích, máy bay đánh chặn, máy bay khu trục, ngày nay hay dùng ngữ từ máy bay đánh chặn và interceptor. YE-150, YE-8 là hai nhánh phát triển nâng cao của máy bay chiến đấu MiG-21. Đây là mẫu thử nghiệm giống MiG-21 đầu tiên có khả năng bắn tên lửa điều khiển bằng radar bán chủ động tầm xa, là máy bay đạt tính FBV, bắn quá tầm nhìn đầu tiên của MiG. YE-6, YE-8 là các phòng thí nghiệm bay đóng góp rất lớn vào phát triển kỹ thuật.
MiG MFI-1.44
Vào tháng 1 năm cuối cùng của Cộng sản Liên Xô, máy bay chiến đấu thế hệ 5 MiG MFI-1.44 được giới thiệu hạn chế. MFI là phiên âm tiếng Nga МФИ, viết tắt của cụm từ "Máy Bay Tiền Tuyến". Loại máy bay này phía Liên Xô do PE-V.M.Petlyakov khởi xướng, tiêu biểu là PE-2 (Tiếng Nga: ОКБ Петлякова tức là phòng thiết kế Petlyakov). Chúng làm các nhiệm vụ hỗ trợ mặt đất bám sát (close air support), áp chế mặt đất (interdiction), kiểm soát bầu trời (air superiority). Yêu cầu sử dụng được ở những sân bay tiền tuyến và có thể được trang bị trong những đơn vị Lục Quân cấp Tập đoàn Quân trở lên. Tuy vậy thích hợp nhất cho lực lượng Không Quân, sau đó là Phòng Không. Máy bay thử nghiệm MFI-1.44 nay đang được tranh cãi chuyển sang sản xuất hàng loạt và trang bị với tên trong trang bị là MiG-35. Dịch sang tiếng Việt sát nghĩa nhất là fighter, tuy nhiên, không có định nghĩa hoàn toàn ngang nhau giữa tiếng Nga và tiếng Anh, do sự khác biệt khoa học quân sựMỹ và Nga. Máy bay gây ấn tượng mạnh. Bình luận về việc nó xuất hiện, nhiều nhà phân tích, trong đó có những chuyên gia nhiều kinh nghiệm về Hàng Không, đã cho rằng máy bay có cấu hình của máy bay đa năng có chức năng diệt mục tiêu trên không (fighter & destroyer) Mỹ F-16. Tuy nhiên, chỉ có một số ít nhà nghiên cứu, thuộc lớp cổ, đã nhận xét chính xác rằng, máy bay đúng là giống F-16, nhưng F-16 sử dụng kết cấu thân của một máy bay thử nghiệm bí mật mang số hiệu YE-8. Kết cấu thân này áp dụng không chỉ trên F-16, những máy bay kết cấu này và gần giống kết cấu này nhưng có hai động cơ, hoặc dùng kết cấu thân và bào khí trước của YE-8 nhưng mở rộng cánh bỏ đuôi ngang (cánh tam giác không đuôi ngang) là các máy bay chiến đấu phổ biến nhất cuối thế kỷ 20: F-16 Mỹ và các máy bay tương tự (Lavi Israel, F-2 Nhật, J-10 Trung Quốc), Máy bay chiến đấu châu Âu Typhoon EF-2000 Eurofighter, MiG-29 (và bản phát triển MiG-33). Tất cả những kết cấu khí động đó đều là kết cấu góc đón gió AoA lớn để đạt gia tải lớn, thuận tiện trang bị điện tử, yêu cầu lái và ổn định điện tử, đa năng có không chiến. MiG MFI-1.44 về khí động là cấu hình máy bay hai động cơ, cửa hút gió dưới bụng, cánh tam giác không đuôi ngang, hai đuôi đứng, bào khí trước điều khiển được. Không hoàn toàn giống, nhưng những máy bay kiểu này thừa kế những tính toán khí động của YE-8, việc thất thoát kỹ thuật này đến nay vẫn còn là điều hoàn toàn bí ẩn. Thất thoát xảy ra cuối những năm 1960, đánh dấu bàng hàng loạt máy bay thử nghiệm giống máy bay Liên Xô được đóng và thử nghiệm ở căn cứ tuyệt mật Area-51, Mỹ. Các chương trình này là bước mở đầu cho việc người Mỹ dừng các kết cấu máy bay chiến đấu truyền thống của họ như F-4, F-5, F-8, F-105... cho ra đời một thế hệ máy bay giống Liên Xô là F-14, F-15, F-16.
Riêng F-16 và các máy bay giống nó thì kết cấu giống hệt YE-8, máy bay có bào khí trước cố định+cánh+đuôi+cửa hút gió dưới thân góc đón gió lớn, chỉ có điểm khác biệt là kết cấu cánh tam giác được thay bằng cánh tứ giác. (Cánh tam giác có đuôi kiểu MiG-21 chỉ được các nhà thiết kế ưa chuộng trong thời gian ngắn). Bào khí cố định chuyển thành phần kéo dài của gốc cánh. (Phương án bào khí cố định này được áp dụng nhiều, trừ một số máy bay Tây Âu vẫn dùng bào khí cố định nhưng tách rời như của YE-6, YE-8, YE-152).
Ngày ngày 28 tháng 10 năm 1958
Ngày ngày 28 tháng 10 năm 1958 xảy ra một sự kiện lịch sử. Sau một thời gian xung đột, hôm đó, đột nhiên các máy bay của Đài Loan thắng lớn, diệt gọn 9 máy bay Mig-15 Trung Quốc trong đất liền. Đây là lần đầu tiên các F-86 sử dụng tên lửa tầm nhiệt AIM-9, có thể là lần đầu tiên tên lửa có điều khiển không đối không xung trận. (Theo những bức ảnh còn lại, trong chiến tranh Thế giới thứ II, Đức đã bắn tên lửa lái dây kích nổ âm thanh về phía máy bay Đồng Minh, một vài người Đức nói rằng tên lửa X-4 này đã có kết quả hạ mục tiêu, nhưng những gì còn lại của câu chuyện này quá ít ỏi. Điều chắc chắn là các tên lửa X-4 tính năng rất hạn chế). Về mặt quân sự, người Trung Quốc tỏ ra không mấy dũng cảm, họ dừng hoàn toàn các trận không chiến, huy động một lực lượng khổng lồ người rà soát từ đề-xi-mét vuông trong vùng vài trăm ki-lô-mét vuông bên dưới trận đánh. Trung Quốc tìm được một số mảnh tên lửa và rất may mắn, một quả tên lửa cắm vào mục tiêu mà không nổ, máy bay này cố hạ cánh, nhưng phi công không sống sót, máy bay bị phá hủy, nhưng tên lửa cắm vào nó thì gần như nguyên vẹn. Sự kiện này ảnh hưởng lớn đến các máy bay diệt mục tiêu trên không Liên Xô, họ lập tức huy động một lực lượng khoa học lớn, cho ra đời tên lửa R-13, sau này sẽ dùng trên MiG-21 trong chiến tranh Việt Nam. Trung Quốc giữ lại đầu dò hồng ngoại, với hy vọng sẽ có tên lửa tốt hơn của Liên Xô. Tuy nhiên, 30 năm sau đó, kỹ thuật sản xuất tên lửa của Trung Quốc vẫn bế tắc. Trước trận chiến này, Liên Xô đầu tư vào tên lửa tầm quang, được dẫn đường bởi đèn chiếu từ máy bay mẹ vào mục tiêu, hướng này rất hạn chế kết quả. Thời điểm trước 1958, các tên lửa dẫn đường radar vẫn thiếu điều kiện thực hiện tác chiến hiệu quả trên máy bay nhỏ. Sự kiện này được giữ hết sức bí mật, nhiều năm sau sự sụp đổ của Liên Xô, phương Tây vẫn không hiểu tại sao thiết kế AIM-9 thất thoát.
Phương thức chiến đấu
Thời đại tên lửa có điều khiển của MiG bắt đầu.
Năm 1959, đối với không quân Liên Xô có một sự kiện lịch sử. Tướng Ivan Pstưgo (Иван Пстыго, sau này là Nguyên Soái, tư lệnh Không Quân) kết thúc giai đoạn thử nghiệm và đưa vào trang bị máy bay MiG-21F chiến thuật, đánh dấu việc không quân Liên Xô bắt đầu thời đại đối không bằng tên lửa và radar (máy bay này là mẫu thử YE-6 không lắp bào khí dùng hai tên lửa. Liên Xô lúc đó dựa vào ba loại tên lửa không đối không chính: tên lửa hướng radar bán chủ động được ưu tiên nhất, tên lửa tầm quang được đầu tư phát triển lớn và trang bị rộng nhưng đây là hướng bế tắc sau này, tên lửa tầm nhiệt đang nghiên cứu). Phòng thiết kế OKB-155 lúc đó thuộc Ủy ban Thiết bị Hàng không (hay được viết tắt tiếng Nga là ГКАТ) do Mikhoyan lãnh đạo. Bất chấp khối lượng công việc rất lớn khi bắt đầu tổ chức sản xuất hàng loạt máy bay mới, vẫn tiến tới việc phát triển một mẫu máy bay chiến đấu ưn thế. Phòng thiết kế tiến hành tạo mới song song một số mẫu máy bay có yêu cầu chung: diệt mục tiêu trên không, hạng nặng, tốc độ cao. (Nên hiểu mức độ của từ "hạng nặng" lúc mà yêu cầu máy bay không chiến vẫn còn nhỏ nhẹ).
Tuy nhiên, đó mới là kết cấu trung gian.
Về quan điểm kỹ thuật, MiG-21F là máy bay sử dụng phương pháp không chiến dựa trên radar và tên lửa có điều khiển, là lớp máy bay chiến đấu trên không phản lực thứ 2, khác biệt lớp thứ nhất mà dòng MiG có hai máy bay MiG-15 và MiG-17. (MiG-19 là máy bay đa năng, fighter, "máy bay cường kích", nó không phải là máy bay chiến đấu trên không chuyên nghiệp và vì những lý do sau, nó chiến đấu trên không không tốt.) Về quan điểm chiến thuật, máy bay MiG-21 vẫn phải bắn trong góc hẹp tầm ngắn, vẫn là máy bay Dogfight. Cách đánh này không khác gì của MiG-15, MiG-17 và hoàn toàn khác FBV của MiG-25. Vậy, thực chất MiG-21 là máy bay phản lực không chiến thế hệ 1,5 của Liên Xô, máy bay trung gian giao thời.
Dogfight
Những vấn đề khí động không còn là mục tiêu quan trọng nhất nữa. Từ khi có máy bay, những nỗ lực khí động, công suất cánh quạt hay lực đẩy phản lực, động cơ... đến thời điểm YE-8 ra đời, luôn là những vấn đề lớn nhất mà các nhà chế tạo thân cánh, máy bay... quan tâm. Nhắc lại một lần nữa, các MiG-21 là máy bay trung gian. Chúng vẫn sử dụng cách đánh dogfight, phương pháp chiến đấu tiêu diệt mục tiêu trên không bằng cách đặt địch vào đường thẳng của phương bay, trước mũi ta và tránh để địch làm như vậy. Dogfight đạt ưu thế bằng tính linh hoạt của máy bay, bao gồm các đặc tính vòng bán kính hẹp, ít giảm tốc độ khi đổi hướng, tốc dộ leo cao và gia tốc trục dọc mạnh, tỷ lệ lực đẩy động cơ/khối lượng, tỷ lệ diện tích cánh/khối lượng, tầm mắt phi công... Những yêu cầu đó của ưu thế đòi hỏi máy bay có thiết kế khí động, động cơ ưu việt và quan trọng nhất là phải nhỏ, nhẹ. YE-6 riêng về khí động là nỗ lực nâng cao góc đón gió, góc giữa hướng máy bay và phương bay, tăng gia tải và khả năng bắn tên lửa tầm ngắn. Một đặc trưng của dogfight là cần những máy bay chiến đấu trên không chuyên nghiệp, những máy bay có khả năng ném bom nặng nề khó linh hoạt nhào lộn hỗn chiến.
FBV
Tên lửa có điều khiển và các phương tiện quan sát, giám sát điện tử đã cho phép những thiết bị có đường bay tồi nhất bắn rụng những máy bay linh hoạt nhất. Cực đoan nhất có thể nói rằng, tên lửa điều khiển bằng radar, xuất phát từ những bệ phóng đất đối không không thể rời mặt đất được, nay đã nhỏ gọn và bắn rụng được máy bay với hiệu suất cao. Dễ hiểu nơn thì hình dung ra cách máy bay không chiến tiêu diệt mục tiêu trên không bằng tên lửa, thứ thiết bị bay linh hoạt hơn máy bay có người lái, xuất phát từ máy bay mang radar. Phương pháp chiến đấu ngày nay được gọi là FBV (fire beyond vision), bắn qua tầm nhìn. Sử dụng máy bay có phương tiện quan sát điện tử tốt hơn nhiều mắt phi công (lúc đó trọng tâm là radar không chiến). Diệt địch bằng thứ vũ khí linh hoạt và tầm xa hơn đại bác bắn nhanh NR30 là các tên lửa có điều khiển. Yêu cầu của FBV cần máy bay có khí tài quan sát mạnh và mang được tên lửa linh hoạt, tầm xa, tốc độ cao để địch không chạy được. Máy bay như thế quan trọng nhất là to mạnh. Như vậy, dogfight và FBV mâu thuẫn nhau, cần hai kết cấu động lực cho máy bay diệt mục tiêu trên không khác nhau. Trước khi năng lực của máy tính đủ mạnh làm nảy sinh yêu cầu nhận dạng, radar có hai chức năng tìm kiếm và bám-ngắm bắn (search và track-lock).
Radar của MiG trước YE-8
Trong dòng MiG, radar được áp dụng dần dần. Ban đầu dùng cho mục tiêu chiến đấu mọi thời tiết, mức đầu tiên của FBV. Ban đầu, máy bay diệt mục tiêu trên không trang bị một radar ngắm bắn (track radar), đây là một radar có ăng-ten(antena) chảo và máy tính tương tự, sau khi phi công chiếu nó vào mục tiêu thì nó tự bám theo mục tiêu bằng cách ngoáy chảo theo chỗ phản xạ mạnh nhất, phi công phải phát hiện mục tiêu bằng mắt thường rồi mới bám bằng lock radar. Tiếp theo, tính năng tìm kiếm đạt được bằng một ăng-ten quét qua lại, thể hiện trên một màn hình có bộ nhớ sơ khai là chất huỳnh quang lưu ảnh (scan radar). Máy bay MiG-15P chiến đấu mọi thời tiết là giải pháp đầu tiên, mang ăng-ten bám-ngắm bắn đặt trong một mũ chụp tròn trên cửa hút gió. MiG-15bisP-SP-1 (МиГ-15Пбис-СП-1) và phiên bản không người lái là tên lửa Kometa có radar bám-ngắm bắn kiểu này. Máy bay MiG-9 cũ cũng có những cải tiến như vậy. Sau đó, vị trí này được dùng cho ăn-ten tìm kiếm rộng hơn chứ không tròn, mũ chụp trông như cái môi trên (của miệng người). Hai radar tìm và bám cùng được bố trí trên máy bay MiG-15bisP-SP-5 (МиГ-15Пбис-СП-5), radar tìm kiếm bố trí ở môi trên, radar bám-ngắm bắn chuyến xuống giữa cửa hút gió. MiG-21 có hai radar như vậy, dùng chung một màn hình thể hiện một chế độ, chuyển chế độ bằng công-tắc (switch). Khác với MiG-15bisP-SP-5, MiG-21 đặt hai ăng-ten trong một nắp đậy chung hình chóp.
Động lực.
Cửa hút gió
Kết cấu cửa hút gió của các máy bay MiG-15, MiG-17, MiG-19 là kết cấu cửa hút gió của máy bay dưới âm. Tuy nhiên, MiG-15 khi bổ nhào đã có thể đạt siêu âm trong nhiều tình huống, máy bay MiG-17 dễ dàng đạt và vượt tốc độ âm thanh, được coi là máy bay chiến đấu siêm âm đầu tiên của Liên Xô được trang bị (máy bay này khi bay ổn định tốc độ ngang không đạt tốc độ âm thanh, nhưng sát nút). Máy bay phát triển của MiG-17 là I-350 vượt tốc độ âm thanh khi bay ngang, nhưng nó lập túc hỏng động cơ, sau nhiều nỗ lực, chương trình dừng. Trong chiến tranh Triều Tiên, việc MiG-15 bị dừng động cơ đột ngột khi bổ nhào gây khá nhiều thương vong, bắt đầu được chú ý, nhưng nguyên nhân vẫn còn bí ẩn (sau này, Yuri Gagarin, nhà Du Hành Vũ Trụ đầu tiên của Thế giới cũng mất trong một tai nạn MiG-15). Người ta giải thích được hiện tượng, khi tốc độ gió bằng tốc độ âm thanh, thì sóng âm đi cùng máy bay, luôn được máy bay tiếp năng lượng, hiện tượng tích năng lượng này gây nổ. Vụ nổ sẽ xảy ra ở ngoài máy bay khi vượt tốc độ M1, gọi là tiếng nổ vượt tường âm thanh. Hiện tượng này cũng gây lực cản đột nhiên tăng vọt ở M1, buộc phải có các giải pháp về lực đẩy. Máy bay YE-50 khi vượt tường âm thanh rung bần bật như con ngựa hoang, là kết cấu khí động cổ lỗ MiG-19 nhưng vượt M2, máy bay này gặp nhiều tai nạn khi thử nghiệm và chương trình dừng. Đây là chiéc máy bay thử nghiệm đầu tiên được đặt tên MiG-23. (Tuy nhiên, trong kế hoạch lập ra trước YE-50, thì MiG-21 chưa được chính thức đặt tên. Có thể cách đặt tên này chỉ là một hành động tình báo. Kết quả vụ đánh lạc hướng này có vẻ tốt, vì đến năm 1963, phương Tây mới hiểu rằng YE-2 không phải là MiG-21. Điều này dẫn đến việc phương Tây đặt 3 tên cho riêng máy bay MiG-21). Ở trong đường hút gió máy bay thì tốc độ dòng khí khác ở ngoài, ở MiG-15 tốc độ gió này cao hơn tốc độ máy bay, hiện tượng bùng nổ xảy ra trước khi máy bay đạt M1 gây dừng hoặc hỏng động cơ. Các máy bay sau đó của lớp máy bay không chiến thứ nhất vẫn dùng cửa hút này, mặc dù tốc độ tối đa của chúng đạt trên 1700 km/h. Người ta gia cố động cơ, mang theo oxy để khởi động lại, tăng quán tính rotor động cơ tránh dừng, tăng dung lượng pin để khởi động lại...Có nhiều giải pháp, nhưng không giải pháp nào chống việc bùng nổ, nguyên nhân là máy nén của lớp động cơ Nene yếu, nếu áp dụng biện pháp chống bùng nổ sẽ hạn chế động cơ, nhất là ở tốc độ thấp. Các máy bay thời MiG-21 có cửa hút dễ nhận, đây là phương án chống bùng nổ bằng cách dẫn khí vào qua khe hẹp gập góc, làm triệt tiêu sóng âm. Phương án này được áp dụng khi áp suất đốt của động cơ đã tăng, do máy nén đã hút và nén gió tốt hơn. Kết cấu cửa hút gió và nắp đậy ăng-ten radar tạo nên hình dáng đặc trưng của mũi máy bay MiG-21 và các máy bay cùng thời.
Động cơ, động cơ yêu cầu có bào khí, bào khí yêu cầu máy tính. Lúc này máy tính còn yếu. ???
Đến năm 1960 là thời kỳ động cơ phản lực phát triển chóng mặt. Đầu những năm 1960 đánh dấu việc phổ biến các loại máy bay không chiến có tốc độ ngang trên M2, lác đác có các máy bay thử nghiệm đạt trên M3. Trong khi đó, chỉ cách 15 năm, khi thế chiến kết thúc, rất ít máy bay chiến đấu đạt tốc độ 900 km/h. Việc động cơ đẩy máy bay đi nhanh hơn dẫn đến việc chạy đua thay đổi cấu trúc khí động và thân cánh. Những động cơ ban đầu áp dụng cho máy bay chiến đấu trên không có áp suất đốt thấp, vào khoảng 3-4atm, đây là những động cơ của MiG-15, MiG-17, MiG-19, do áp suất đốt thấp nên hiệu suất sử dụng nhiên liệu thấp. Máy bay MiG-21 có kết cấu máy nén mới. Động cơ của máy bay này xuất phát từ kiểu động cơ ban đầu R-11. Đây là động cơ có hai tầng turbine phát động. Các turbine này đặt trên hai trục khác nhau, truyền động qua bánh răng. Trục có tốc độ cao nối turbine áp cao và máy nén áp cao, đặt lồng bên ngoài trục áp thấp. Nhờ kết cấu này, động cơ có kích thước nhỏ nhẹ và lực đẩy mạnh, hiệu suất được cải thiện khi áp đốt đặt 8-9atm. Tuy nhỏ nhẹ nhưng động cơ này chỉ có một luồng khí, vẫn tốn nhiên liệu nhất là khi mang nặng và tốc độ bay thấp. Các động cơ này đã đẩy máy bay chiến đấu trên không được trang bị phổ biến có tốc độ trên M2. Với tốc độ mới, xuất hiện nhiều yêu cầu thay đổi kỹ thuật.
Kiểu cửa hút gió khe hẹp giờ đây gây lực cản lớn, người ta thay bằng kiểu cửa hút gió có ống tích áp. Đây là ống lớn dẫn khí, tương đối dài và rộng. Tốc độ dòng khí và áp suất trong này thay đổi, dẫn đến việc dập tắt các xung chấn động. Đồng thời, việc máy bay bay trên dải tốc độ rộng dẫn đến nhu cầu hạn chế bới dòng khí vào cửa hút gió khi tốc độ cao. Việc thay đổi cân bằng trục dọc ở tốc độ thấp và tốc độ cao cũng gây nên những vấn đề kỹ thuật cùng rất nhiều ta nạn trong khi thử nghiệm. Một máy bay có thiết kế ổn định khí động trong tốc độ thấp thì khi tăng tốc, nó lại bị ngóc lên hay chúi xuống, nhiều khi mất cân bằng trục dọc này gây tai nạn. Điều này dẫn đến yêu cầu điều khiển "góc đón gió" "Angle Of Attack". Như trên đã nói, góc đón gió lớn còn tạo thuận lợi cho bắn tên lửa tầm ngắn (góc bắn đến 30 độ chứ súng chỉ có 0 độ). Việc điều khiển góc đón gió giúp cho góc nghiêng của các cửa hút tĩnh thiết kế đặc biệt thay đổi, thay đổi lượng gió thông qua động cơ ở các tốc độ khác nhau. Kết cấu truyền thống của MiG cho đến MiG-21 là cửa hút gió trước máy bay, động cơ đặt sau buồng lái. Radar đặt trong không gian chật trội giữa cửa hút gió. Dòng khí đi dọc thân khi nâng tốc độ lên M2,5 sinh nhiệt làm nóng thân máy bay đến mức nguy hiểm.
YE-6 và YE-8 được thiết kế như là máy bay MiG-21 thử nghiệm góc đón gió lớn. Chúng có một thiết bị lái hoàn toàn mới so với trước đây: bào khí, canard foreplane. Người Nga lúc đó gọi thiết bị này là "cánh ngang trước", hay được biết đến với từ viết tắt "PGO". Đây là các cánh phụ trước cánh chính, ở YE-6 và YE-8 chúng dễ dàng tháo ra và lắp cánh có hình dạng khác vào phục vụ cho thử nghiệm. Nhờ bào khí này, việc ổn định trục dọc ở tốc độ cao, điều khiển lượng gió thông qua động cơ và điều khiển góc đón gió thuận lợi hơn. Cũng nhờ bào khí trước này, máy bay ăn lái hơn và trở nên linh hoạt hơn. Tuy nhiên, nếu dùng cơ cấu lái phía sau cũ, máy bay tự ổn định vững vàng hơn khi bay ổn định tốc độ. Thiết bị lái trước đem tính bất ổn đến cùng khả năng ăn lái. Điều này cần việc ổn định cưỡng bức bằng điện tử. Trước đây, máy bay ổn định chủ yếu bằng các lực quán tính-khí động tương tác, đưa máy bay về tư thế cân bằng cần thiết, gọi là tự ổn định khí động. Còn để đưa thiết bị lái lên phía trước, cần những cảm biến nhậy để đo các thay đổi tư thế và máy tính nhanh để điều khiển các thiết bị lái đưa máy bay về vị trí cân bằng. Ngày nay hầu hết các máy bay chiến đấu tiên tiến đều sử dụng bào khí.
Nói dễ hiểu hơn. Bào khí trước diều khiển dễ dàng góc đón gió cho phép lực nâng dưới cánh lớn, đẩy máy bay đổi hướng với gia tốc lớn (gia tải lớn). Chính điều này tạo ra tính linh hoạt của máy bay.
Tuy nhiên, đây là nguyên nhân lớn nhất là các máy bay hậu duệ của YE-8 không thể áp dụng bào khí và bào khí điều khiển được. Lúc này máy tính điện tử còn quá yếu. Chính nguyên nhân này làm cho kiểu máy bay này rất lâu sau đó mới phổ biến.
A-12, Attacker nhưng không bao giờ Attacking. Cấu hình cổ lỗ của thế hệ MiG-21 lại là cấu hình thực hiện máy bay chiến đấu nhanh nhất thế giới đến giờ. SR-71, cánh chim tự hào của người Mỹ.
Cuối những năm 1950 và đầu những năm 1960, cũng như Liên Xô, nước Mỹ đi vào cuộc cách mạng mới trong không chiến, cần chế tạo những máy bay mới mang những khí tài mới. Họ cũng đặt ra những yêu cầu như phía Liên Xô. Túc là, máy bay to lớn mang tên lửa-radar lớn, bay nhanh và xa, chống tăng nhiệt độ. Khoảng năm 1959, chiếc A-12 trình diễn. Nhìn chung, máy bay này có các đặc điểm kỹ thuật cùng lớp YE-6. Máy bay có cánh tam giác, cửa hút gió khe hẹp, động cơ áp suất đốt thấp. Máy bay không điều khiển lượng khí thông qua động cơ, thay vào đó, nó sử dụng động cơ lai turbojet-ramjet. Khi máy bay bay nhanh, không khí vào cửa hút gió nhiều, một phần không khí không đi qua buồng đốt trước turbine phát động mà đến thẳng buồng đốt hậu. Kết cấu này sử dụng tỷ lệ lớn năng lực từ buồng đốt hậu, nới áp suất đốt rất thấp, do đó tốn nhiên liệu. Tuy nhiên, kết cấu này hết sức đơn giản. Máy bay có cấu tạo thên ống trụ và cũng gặp phải những vẫn đề cân bằng trục dọc, nhưng người ta không làm bào khí trước mà làm mét hai bên bè ra theo tỷ lệ đường kính.
Người ta sử dụng giá thành khủng khiếp để giải quyết vến đề nhiệt độ. Toàn thân máy bay, khi bay có nhiệt độ đến 200-300 độ C trừ khoang chứa đồ điện và buồng lái được làm mát. Trên 90% trọng lượng máy bay được làm bằng titan nguyên chất. Kim loại này rất cứng và việc gia công các chi tiết bằng nó cũng đắt, còn hơn cả giá nguyên liệu vốn đã trên trời. Trước khi máy bay cất cánh, người ra đốt nóng nó đến trên 200 độ C, dài ra vài inch, như nhiệt độ khi đang bay, lúc đó máy bay mới có hình dáng chính xác. Giá vỏ máy bay cao một phần vì hệ thống làm mát kiểu toát mồ hôi. Khắp thân máy bay khoan nhiều lỗ nhỏ li ti, khi nóng lên, các lỗ này to ra, nhiên liệu thoát ra đó rồi bay hơi, làm nguội.
Nhiên liệu chứa ngay trong vỏ máy bay không cần bình chữa cách ly. Nhiên liệu có số hiệu JP7 (Jet Propellant 7, MIL-T-38219), được lọc kỹ các chất bay hơi. Thành phần chủ yếu là các Ancan no và Alcan no vòng, Ancan kết hợp vòng Benzen (alkanes, cycloalkanes, alkylbenzenes). JP7 có bổ sung một ít chất chống bay hơi napan (naphthalenes), chất bôi trơn fluoride carbon. Nhiên liệu an toàn, rất khó bắt cháy và sản sinh năng lượng cao (ném diêm vào diêm tắt chứ không cháy). Do khó điểm hỏa, động cơ sử dụng phương pháp mồi lửa hóa học: lúc động cơ khởi động người ta phun cùng nhiên liệu một chất oxy hóa tự bắt cháy khi gặp nhiên liệu.
A-12 đến năm 1960 được chuyển thành YF-12, nhiệm vụ chính là chiến đấu trên không. Máy bay namg radar Hughes AN/ASG-18 và tên lửa AIM-47. Đến năm 1966, chương trình dừng lại. Có thể, lý do lớn nhất để người Mỹ không làm các máy bay chiến đấu trên không này là nó quá đắt. A-12 sau đó cũng không được chế tạo như máy bay ném bom. Phiên bản trinh sát phát triển từ YF-12 có tên SR-71 Blackbird còn được sử dụng đến hết thế kỷ 20 với số lượng rất ít ỏi và tỷ lệ tai nạn khủng khiếp. YF-12 cho đến giờ vẫn là máy bay chiến đấu trên không bay nhanh và cao nhất.
Tuy nhiên, nhiệm vụ ban đầu của nó là tấn công mặt đát và không chiến. Với những nhiệm vụ đó, mẫu máy bay này không đạt yêu cầu. Điều này nói lên những giới hạn của kết cấu cánh tam giác, thân trụ, cửa hút gió khe hẹp. Thành công của A-12 làm cả Liên Xô và Mỹ kéo dài cấu trúc đã quá cổ này.
Thời đại mới, nhiều điều mới. YE-8.
Tướng Ivan Pastưgo đặt ra nhiệm vụ chế tạo một máy bay chiến đấu trên không mới, đáp ứng các yêu cầu đặt ra trên. Yêu cầu đầu tiên là mang bộ khí tài tấn công chính S-23, bao gồm nhóm tên lửa K-23 và radar "Sapphire", đèn chiếu "ASP-PF" (đèn này dùng để dẫn đường tên lửa tầm quang, đầu dò hướng hồng ngoại "Spectrum". Nhóm tên lửa này có tên lửa tầm nhiệt và tên lửa hướng radar bán chủ động. Máy bay chiến đấu trong mọi thời tiết, tốc độ chiến đấu khoảng M0,5-M1,8, độ cao chiến đấu 18 km. Nhóm vũ khí mới có tên hiệu như vậy do máy bay chiến đấu mới được sẽ đặt số hiệu MiG-23 nếu được đưa vào sản xuất trang bị. Việc phát triển hệ thống khí tài và máy bay được tiến hàng song song. Máy bay được phát triển dựa trên MiG-21PF tức (YE-7), mẫu thử sẽ có tên trong thử nghiệm, do phòng nghiên cứu đặt là YE-8. Ngày 30 tháng 5 năm 1960, bộ quốc phòng Liên Xô ký quyết định phát triển máy bay này. Dựa vào kinh nghiệm thiết kế và các kết quả thử nghiệm, việc đầu tiên người ta đi tìm kết cấu cửa hút gió mới. Có hai phương án được chọn, cửa hút gió hai bên thân và cửa hút gió dưới thân. Người ta đã chọn kiểu thứ hai phù hợp với động cơ, cho phép thích hợp hơn với góc đón gió lớn, sử dụng góc đón gió hạn chế lượng khí vào động cơ, trạng thái trượt ngang, xoáy. Bào khí trước thừa kế những kinh nghiệm của mẫu thử MiG-21F-13 (còn gọi là mẫu thử YE-6T/3, tên đặt của OKB) và YE-6. Ban đầu, kết cấu lắp cánh phụ được copy từ máy bay thử nghiệm này, đây là mẫu thử YE-6 số 3, tên tiếng Nga là Е-6Т/3. Lúc này, chưa có đủ máy tính và kinh nghiệm bay thử nghiệm để thực hiện bào khí trước điều khiển được. Bào khí của YE-8 thả tự do ở tốc độ dưới âm thanh, coi như không tham gia vào hoạt động. Khi tốc độ cao, người ta khóa bào khí này theo trục máy bay. Nhờ vậy, máy bay thích hợp với cả tốc độ thấp và tốc độ cao. Lúc đó, bào khí trước ngoài nhiệm vụ ổn định trục dọc còn có nhiệm vụ thay đổi nhanh hướng máy bay theo yêu cầu, chống lại quá trình tự ổn định khí động bằng đuôi, nên bào khí trước lúc đó còn có tên là "chống ổn định". Quá trình cố định vào khí trước diễn ra không hề làm phức tạp hoạt động của phi công. Thiết bị dùng để lắp bào khí này được gọi là PGO, trong mẫu YE-8 được trình diễn, nó mang đôi cánh phụ sải 2,6 mét. Theo tính toán, đôi bào khí này giảm hệ số bốc đầu ở tốc độ M1,5-M2 đi một nửa. (hệ số bốc đầu là số đo người Nga chỉ mức độ lệch của lực cân bằng trục dọc khi thay đổi tốc độ). Bào khí này cũng giúp thay đổi tâm khí động nằm ngang, giúp tăng gia tốc lực nâng. Trong thực tế, ở độ cao 15000 mét, quá tải nâng (gia tải) đạt 5,0 so với 2,5 của MiG-21 khác. Kết cấu máy bay MiG-21 có nhiều sức mạnh tiềm tàng, do đó từ 1959-1972 nó lập được rất nhiều kỷ lực thế giới trong các phiên bản sửa đổi. Ở thời điểm đầu những năm 1960, YE-8 với quá tải lực nâng lớn đã trở thành máy bay chiến đấu có khả năng vận động cao, đi trước rất nhiều các máy bay MiG-29, F-16 và SU-27.
Máy bay cần tăng cao năng lực động cơ trước nhiều khó khăn. Đầu tiên là động cơ AM-11 tỏ dấu hiệu khó phát triển và đang được dừng chương trình. Trong khi đó, máy bay cần lực đẩy ít nhất cao hơn 800 kg so với động cơ AM-11. Mikoyanđặt cược vào loại động cơ mới, được phát triển và chế tạo ở nhà máy Soyuz, chương trình lãnh đạo bởi Nikola Georgievich Metskhvarisvili, học trò tài năng của nhà sản xuất động cơ Vladimir Yakovlev Klimov, mang số hiệu "Nhà máy 300"(завод №300). Cửa hút gió mới chỉ riêng nó đã gióp phần đáng kể vào tăng áp suất đốt. Cùng với việc cải tiến cửa hút, các thành tựu của ngành luyện kim đã cho phép thay đổi cấu trúc đĩa và cánh nén. Tốc độ máy nén áp thấp tăng lên. Cánh nén tầng đầu tiên được sửa đổi hình dạng và tốc độ, giảm chấn động gió, điều này làm việc phóng vũ khí thuận lợi hơn nhưng quan trọng hơn tránh quá nhiệt động cơ. (Chấn động ở cửa hút nguy hiểm khi tăng tốc vượt qua M1). Nhóm thiết kế đã mở rộng một chút động cơ R-11-300 tăng lượng khí thông qua. Một số cải tiến khác cũng được thực hiện, như việc tăng cường oxy khi khởi động, mũi chống đóng băng. Phần đuôi động cơ, buồng đốt hậu được lồng vào phần trước. Các thiết bị đuôi máy bay được lắp vào khoang thân, trượt trên ống đuôi động cơ bởi ray và các con lăn, điều này bảo vệ các cơ cấu đuôi máy bay khỏi nhiệt độ động cơ. Lượng khí thông qua của động cơ R-11-2FS-300 là 64 kg/s tăng lên 74 kg/s. Động cơ mới được đặt tên R-21F-300. Lực đẩy có đốt hậu tăng từ 6175 kg lên 7200 kg. Khởi động cũng tốt hơn. Với trọng lượng cất cánh 6800 kg, máy bay đạt tỷ lệ lực đẩy tiên tiến ngày nay. Hầu hết các tham số kích thước R-21F-300 đều tăng so với R-11F-300. Đường kính 772mm và 845mm, đường kính ngoài ống đốt hậu 902mm lên 987mm, khối lượng 1165 kg tăng lên 1250 kg. Những lần thử nghiệm động cơ đầu tiên, không may, không gây được ấn tượng mạnh. Kết cấu cửa hút gió chưa đảm bảo ổn định dòng khí dẫn đến tăng nhiệt độ. Tư liệu để lại không nói rõ các phương pháp nào đã được áp dụng để ổn định cánh máy nén áp thấp. Việc cải tiến này dẫn đến khai tử kiểu hút gió khe hẹp truyền thống của MiG-21. Đây là lần đầu tiên hãng MiG chế tạo cửa hút gió chống bùng nổ xung M1 kiểu ống tích áp này. Kết cấu ống và động cơ này về sau vẫn được dùng ở MiG-23
Cùng với việc cải tiến kết cấu tầng đầu máy nén để ổn định dòng khí, các nhà thiết kế cũng đưa ra giải pháp đầu tiên điều chỉnh diện tích cửa hút. Một cơ cấu máy tự động gồm một vách cố định, một cửa mở được tự động thay đổi diện tích cửa hút theo tốc độ, bằng một buồng cao su. Cơ cấu này chỉ hoạt động khi các càng bánh đã đóng lại. Độ mở của cơ cấu này được chỉ thị trong buồng lái bởi đồng hồ 20 mức. Song song với cơ cấu tự động này là một cơ cấu đóng mở điều khiển được, ban đầu dược dùng để kiểm tra khả năng hoạt động của cơ cấu tự động, khi bay dùng để đảm bảo an toàn hoạt động hệ tự động. Để máy bay cất cánh dễ dàng, một cánh phụ chỉ hoạt động khi cất cánh một cách tự động: khi máy bay trên mặt đất và cất cánh, cánh phụ này mở ra bằng áp suất từ động cơ, sau đó cánh này đóng lại khi tốc độ đủ lớn làm tăng áp trong ống dẫn khí vào. Việc diều chỉnh cửa hút và tần đầu máy nén thay đổi tỷ số nén từ 4,1 đến 10,4 và đảm bảo ổn định lượng thông qua, tỷ lệ cháy... dù máy bay có bay với các tốc dộ rất khác nhau.
Việc dưa cửa hút gió lui về sau tạo điều kiện có khoang rộng cho radar, đặt trong một nắp chụp phía trước máy bay, không còn hạn chế kích thước. như ở dòng MiG-21 khác. Tuy vậy, máy bay thừa kế nhiều của MiG-21PF như là kết cấu nối thân-cánh. Cũng có một số thay đổi như khoang chứa dù hãm, càng trước, ghế phóng...
Máy bay đầu tiên, số hiệu YE-8-1 không mang vũ khí và khí tài, khoang rộng trước mũi đặt các máy móc điều khiển và ghi chép phục vụ việc thử nghiệm. Đến tháng 12 năm 1960, cấp trên đã duyệt các phương án kỹ thuật. Đến tháng 1 năm 1963, máy bay hoàn thành và chuyển đến sân bay Zhukovskiy. Ngày 5 tháng 3, máy bay đã được lắp cánh và lần đầu tiên được kéo ra đường chạy. Máy bay YE-8-1 rơi trong thử nghiệm sau đó. Máy bay tiếp theo YE-8-2 tiếp tục thử nghiệm, dựa trên các kết quả, nhười ta thiết kế YE-8M, sau này trở thành hình mẫu để phát triển MiG-23.
Kết thúc của kết cấu MiG-21
YE-8 chỉ xuất hiện trong thời gian ngắn và số lượng 2 chiếc. Những máy bay ban đầu dòng MiG-21 thử nghiệm như YE-1, YE-2 vẫn sử dụng loại cánh xuôi sau. YE-4 có thể coi là chiếc MiG-21 đầu tiên và đến YE-6 xuất hiện bào khí trước. Dòng MiG-21 ban đầu dược thiết kế để chiến đấu dogfight, nhưng các đồ điện tử xuất hiện, nên những MiG-21 sau đó nỗ lực sử dụng những phương tiện đầu tiên của phương thức FBV.YE-8 là nỗ lực lớn nhất của dòng MiG-21, một chiếc máy bay linh hoạt, tốc độ cao, tầm bay xa, gia tốc lực nâng lớn với khối lượng nhỏ, khoang radar lớn. Những yêu cầu chiến đấu và kỹ thuật mới đòi hỏi rất nhiều các phương tiện tự động. YE-8 là một máy bay hết sức thú vị, có lẽ là một trong những máy móc cuối cùng sử dụng các phương tiện cơ khí không có máy tính để thực hiện các cơ cấu tự động khá phức tạp. YE-8 đã đạt những điểm vận động như máy bay dùng máy tính bằng các cơ cấu cơ khí thông minh.
Nhưng những thử nghiệm YE-8 cũng chứng minh trần kỹ thuật của kết cấu MiG-21, vai trò không thể thiếu của máy tính hàng không. Trên các kết quả thử nghiệm YE-8, người ta thiết kế các máy bay sử dụng máy tính, ổn định điện tử tự động, và chính điều này khai tử dòng máy bay tự cân bằng MiG-21 về trước, cũng như kết cấu hết sức thú vị của YE-8. Sau YE-8, các máy bay MiG-25 và MiG-23 hoàn toàn sử dụng máy tính điều khiển, chiến đấu bằng tên lửa, quan sát bằng radar. Các cơ cấu tự động thú vị của YE-8 được thay thế bằng các máy đo, các ống thủy lực, máy tính số mạnh.
Những kết quả của YE-8 về bào khí trước, điều khiển cửa hút gió, chống xung và ổn định dòng khí vào... đóng góp lớn cho các máy bay chiến đấu. Nó quả là máy bay đi trước thời đại. Kết cấu khí động của nó đến nay vẫn được sử dụng rộng rãi.
YE-8
Sải cánh, m 7.15
Dài, m 16.90
Diện tích cánh, m2 23.12
Khối lượng, kg
Máy bay rỗng: 5670
Cất cánh thường: 6800
Cất cánh lớn nhất: 8200
Dầu trong, l 3200
Tốc độ tối đa, km/h 2230 (M=2,1)
Trần bay, m 20000
Động cơ: 1 động cơ R-21F-300. |
Đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp () là đội tuyển đại diện cho Pháp ở môn bóng đá nam quốc tế và được kiểm soát bởi Liên đoàn bóng đá Pháp (Fédération française de football), còn được gọi là FFF. Màu áo của đội là xanh lam, trắng và đỏ, và coq gaulois là biểu tượng của nó. Pháp thường được gọi là Les Bleus (The Blues).
Pháp thi đấu trên sân nhà tại Stade de France ở Saint-Denis, Île-de-France , và huấn luyện viên của họ là Didier Deschamps. Họ đã giành được hai FIFA World Cup, hai UEFA Euro, hai FIFA Confederations Cup, một CONMEBOL–UEFA Cup of Champions và một danh hiệu UEFA Nations League. Pháp đã trải qua nhiều thành công trong ba thời kỳ khác nhau: lần lượt vào những năm 1980, cuối những năm 1990/đầu những năm 2000 và cuối những năm 2010, dẫn đến nhiều danh hiệu lớn. Pháp là một trong bốn đội châu Âu tham dự World Cup khai mạc năm 1930. Hai mươi tám năm sau, đội do Raymond Kopa và Just Fontaine dẫn dắt đã về đích ở vị trí thứ ba tại Giải vô địch bóng đá thế giới 1958 .
Năm 1984, dưới sự dẫn dắt của người từng ba lần giành Quả bóng vàng Michel Platini, Pháp đã vô địch UEFA Euro 1984 (danh hiệu chính thức đầu tiên), một CONMEBOL–UEFA Cup of Champions (1985) và lọt vào hai trận bán kết World Cup khác (1982 và 1986). Tuy nhiên, Pháp chỉ bắt đầu đạt đến đỉnh cao từ những năm 1990 trở đi, với việc thành lập INF Clairefontaine.
Dưới chiếc băng đội trưởng của Didier Deschamps, và với Zinedine Zidane trên sân, Les Bleus đã vô địch FIFA World Cup vào năm 1998 và đăng quang tại UEFA Euro 2000. Họ cũng giành được Cúp Liên đoàn các châu lục vào năm 2001 và 2003. Ba năm sau, Pháp lọt vào trận chung kết FIFA World Cup 2006, nơi họ thua 5–3 trên chấm phạt đền trước Ý. Một thập kỷ sau, đội lọt vào trận chung kết UEFA Euro, nơi họ thua Bồ Đào Nha 1–0 trong hiệp phụ. Hai năm sau, Pháp vô địch FIFA World Cup 2018, danh hiệu thứ hai trong giải đấu đó, đánh bại Croatia 4–2 trong trận chung kết vào ngày 15 tháng 7 năm 2018. Cuối cùng, đội tuyển Pháp đã trở thành đội tuyển quốc gia châu Âu đầu tiên vô địch tất cả các giải đấu cấp cao của FIFA và liên đoàn sau khi giành chức vô địch UEFA Nations League vào tháng 10 năm 2021.
Lịch sử
Những năm đầu
Sự ra đời của đội tuyển bóng đá Pháp gắn liền với sự ra đời của Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA) vào năm 1904. Tính từ thời điểm đó, các trận đấu quốc tế được tổ chức dưới sự điều hành của FIFA. Trước thời điểm năm 1904, một số trận đấu tập hợp các cầu thủ Pháp xuất sắc nhất cũng được tổ chức, đa phần dưới phiên hiệu của Liên hiệp các hiệp hội thể thao Pháp (Union des sociétés françaises de sports athlétiques - USFSA). Năm trận đấu quốc tế giữa tuyển USFSA với các đội tuyển Bỉ và Anh nghiệp dư đã được tổ chức từ năm 1900 cho đến năm 1904, với chiến thắng 6-2 trước tuyển Bỉ và 4 thất bại trước đội bóng Anh Quốc. Đại diện cho Pháp tại Thế vận hội Mùa hè 1900, là tuyển USFSA gồm các cầu thủ thuộc câu lạc bộ Club français. Đội giành huy chương bạc.
Đội tuyển bóng đá Pháp thi đấu trận đấu chính thức đầu tiên vào ngày mùng 1 tháng 5 năm 1904 và thủ hòa 3 - 3 với đội tuyển Bỉ. Ba cầu thủ ghi bàn đầu tiên trong lịch sử đội tuyển Pháp là Louis Mesnier, Marius Royet và Gaston Cyprès. Năm 1905, đội thi đấu trận đầu tiên trên sân nhà trước tuyển Thụy Sĩ, và giành chiến thắng đầu tiên. Những năm tiếp sau đó đội có những thành tích ít vẻ vang hơn, đặc biệt với hai trận đại bại trước tuyển Đan Mạch cách nhau có 3 ngày (0-9 rồi 1-17) tại Thế vận hội Luân Đôn. Dù không được FIFA công nhận chính thức từ ngày mùng 7 tháng 6 năm 1908, USFSA vẫn còn được phép tổ chức đội tuyển chuẩn bị cho Thế vận hội Mùa hè 1908. Hội cử hai đội Pháp A và B sang London. Luật khi đó cho phép mỗi quốc gia cử hai đội đại diện, nhưng chỉ có Pháp dùng tới quyền này. 44 cầu thủ Pháp tới London trong tình trạng mệt mỏi sau chuyến đi dài bằng tàu hỏa và tàu thủy và tới đúng sáng ngày thi đấu mới tới nơi. Kết quả là hai trận thảm hại (được tính là trận đấu thứ 11 và 12 trong lịch sử đội tuyển Pháp). Kể từ trận gặp Bỉ ngày 9 tháng 5 năm 1908, Ủy ban liên hiệp hội Pháp (Comité français interfédéral - CFI) quản lý đội tuyển và là tổ chức duy nhất được FIFA công nhận. Những năm tiếp theo CFI không thống nhất được với USFSA, tổ chức vốn là một trong những thành viên sáng lập của Ủy ban Olympic Quốc tế (IOC), để cử một đội tuyển Pháp đi dự Thế vận hội năm 1912. Pháp đành tuyên bố bỏ cuộc.
Nhưng USFSA cũng buộc phải tái tổ chức những năm sau đó, trở thành một thành viên bán trực thuộc CFI từ năm 1913. Thế chiến thứ nhất bùng nổ làm gián đoạn các hoạt động thi đấu thể thao, trong số các tuyển thủ Pháp ra chiến tuyến, có tổng cộng 17 người hy sinh ngoài mặt trận.
Hòa bình lập lại, CFI trở thành Liên đoàn bóng đá Pháp ("Fédération Française de Football") từ năm 1919. USFSA cũng sáp nhập vào liên đoàn kể từ năm 1921. Từ đây chấm dứt tranh cãi liệu đội đại diện cho nước Pháp có phải là Đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp hay chỉ là một đội tuyển các cầu thủ thuộc quyền quản lý của liên đoàn này hay liên đoàn kia.
Để chuẩn bị cho Thế vận hội Mùa hè 1924 được tổ chức tại Paris. Sau một chuỗi trận toàn thua, đội đã quyết định thuê một huấn luyện viên người Anh, ông Charles Griffiths, về huấn luyện đội.<ref>Thierry Terret, Les paris des Jeux olympiques de 1924, Atlantica, 2008, trang 448.</ref> Griffiths ngay lập tức bị chỉ trích kịch liệt vì gọi lên đội tuyển nhiều cầu thủ đang đầu quân cho các câu lạc bộ ở tỉnh.
Bốn năm sau đó, tại Thế vận hội Mùa hè 1928, đội cũng không vượt qua vòng đấu đầu tiên khi để thua Ý với tỉ số 3-4.
Thập niên 1930
Đội tuyển Pháp là một trong 13 đội bóng tham dự giải vô địch bóng đá thế giới đầu tiên được tổ chức năm 1930 tại Uruguay (tiền đạo Lucien Laurent là cầu thủ đầu tiên ghi bàn tại một kỳ World Cup trong trận gặp Mexico). Đội không vượt qua vòng bảng: với thành tích thắng Mexico 4-1 nhưng để thua hai trận kế tiếp cùng với tỉ số 0-1 trước Argentina và Chile.
Năm sau đó, đội có hai chiến thắng ấn tượng, đầu tiên là đánh bại tuyển Đức với tỉ số 1-0, sau đó là quật ngã Anh với tỉ số đậm 5-2 vào ngày 14 tháng 5 năm 1931.
Đến World Cup 1934, giải thi đấu theo thể thức loại trực tiếp, theo bốc thăm ở vòng 1, Pháp sẽ gặp tuyển Áo, một trong những ứng cứ viên của giải. Trận đấu diễn ra vào ngày 27 tháng 5 năm 1934, Pháp chỉ chịu thua với tỉ số 2-3 sau hai hiệp phụ. Khi đội về tới Paris, gần 4.000 người đã tụ tập đón đội.
Cầu thủ da màu đầu tiên, Raoul Diagne, lần đầu tiên khoác áo đội vào năm 1931. Cầu thủ gốc Bắc Phi đầu tiên thi đấu cho tuyển Pháp là tiền vệ tổ chức người Maroc Larbi Ben Barek. Raoul Diagne và Larbi Ben Barek thi đấu cùng nhau trong trận đấu nổi tiếng gặp tuyển Ý ngày 4 tháng 12 năm 1938. Đội tuyển Pháp " black, blanc, beur " - " đen, trắng, Ả Rập " ra đời vào ngày hôm đó.
Thế hệ vàng thập niên 1950
Những năm 1950 chứng kiến Pháp trình làng thế hệ vàng đầu tiên của mình bao gồm các cầu thủ như Just Fontaine, Raymond Kopa, Jean Vincent, Robert Jonquet, Maryan Wisnieski, Thadée Cisowski, và Armand Penverne. Tại World Cup 1958, Pháp vào đến vòng bán kết và thua Brazil. Trong trận đấu tranh hạng ba, Pháp đánh bại Tây Đức 6-3 với 4 bàn thắng của Fontaine, người đã giành danh hiệu vua phá lưới giải đấu với số bàn thắng lên tới con số 13, một kỷ lục của World Cup vẫn đứng vững đến hiện nay. Pháp làm chủ nhà Giải vô địch bóng đá châu Âu năm 1960 và lại đến vòng bán kết. Trong vòng này, Pháp phải đối mặt với Nam Tư và bị thua ngược 5-4 dù đã dẫn trước 4-2 đến phút 75. Trong trận đấu tranh hạng ba, Pháp bị Tiệp Khắc đánh bại 2-0.
Khủng hoảng những năm 1960 - 70
Những năm 1960 và 70 chứng kiến sự thoái trào đáng kể của bóng đá Pháp khiến họ bị loại khỏi nhiều giải đấu quốc tế. Ngày 25 tháng 4 năm 1964, Henri Guérin đã chính thức trở thành huấn luyện viên. Dưới thời Guérin, Pháp không vượt qua vòng loại World Cup 1962 và Euro 1964. Họ lọt vào vòng chung kết World Cup 1966 nhưng phải về nước ngay sau vòng bảng của giải đấu. Guérin bị sa thải sau World Cup này. Ông được thay thế bởi José Arribas và Jean Snella. Thời đại của bộ đôi huấn luyện viên này chỉ kéo dài trong bốn trận đấu và họ được thay thế bởi cựu cầu thủ quốc tế Just Fontaine, người chỉ huấn luyện cho đội hai trận. Louis Dugauguez kế tục nhưng cũng không đưa Pháp vượt qua vòng loại World Cup 1970. Sau khi Dugauguez bị sa thải, Georges Boulogne lên nắm quyền và cũng bị sa thải sau thất bại tại vòng loại World Cup 1974 và được thay thế bằng huấn luyện viên người Rumani Stefan Kovacs, người nước ngoài đầu tiên và duy nhất huấn luyện đội tuyển quốc gia thời điểm đó. Kovács cũng gây thất vọng khi không thể đưa Pháp đến World Cup 1974 và Euro 1976. Sau hai năm huấn luyện, ông bị sa thải và được thay thế bằng Michel Hidalgo.
Thế hệ vàng thập niên 1980
Dưới thời Hidalgo, Pháp phát triển mạnh mẽ, chủ yếu là do sự tỏa sáng của tiền vệ Michel Platini, người cùng với Jean Tigana, Alain Giresse, và Luis Fernández hình thành nên "Hình vuông ma thuật", làm ám ảnh nhiều hàng phòng thủ đối phương, bắt đầu từ World Cup 1982, nơi mà Pháp lọt đến vòng bán kết và chỉ thua cay đắng trên chấm phạt đền trước đối thủ Tây Đức. Trận bán kết giữa Pháp và Đức năm 1982 được coi là một trong những trận đấu lớn nhất trong lịch sử World Cup. Pháp lần đầu có được danh hiệu quốc tế 2 năm sau đó, với chức vô địch Euro 1984, giải đấu mà họ tổ chức trên sân nhà. Dưới sự dẫn dắt của Platini, người đã ghi 9 bàn thắng tại giải, Pháp đánh bại Tây Ban Nha 2-0 trong trận chung kết với hai bàn thắng của Platini và Bruno Bellone. Sau chức vô địch Euro, Hidalgo rời đội và được thay thế bởi cựu tuyển thủ quốc tế Henri Michel. Pháp sau này hoàn thành hat-trick khi họ giành huy chương vàng tại Thế vận hội mùa hè 1984, một năm sau đó, Pháp đánh bại Uruguay 2-0 để giành Cúp Artemio Franchi, tiền thân của Siêu cúp Liên lục địa CONMEBOL–UEFA. Trong thời gian một năm, Pháp đã sở hữu ba trong số bốn danh hiệu quốc tế lớn. Tại World Cup 1986, Pháp là một ứng cử viên rất nặng ký và một lần nữa, ở kỳ World Cup thứ hai liên tiếp, lại lọt đến vòng bán kết, nơi họ phải đối mặt với Tây Đức. Một lần nữa, họ lại để thua 0-2. Chiến thắng 4-2 trước Bỉ đã giúp Pháp có được vị trí thứ ba.
Thế hệ vàng thập niên 1990 - 2000
Năm 1988, Liên đoàn bóng đá Pháp mở Học viện bóng đá quốc gia Clairefontaine. Năm tháng sau khi Clairefontaine mở của, huấn luyện viên Henri Michel bị sa thải sau khi không đưa được đội đến Giải vô địch bóng đá thế giới 1990. Người thay thế là huyền thoại Platini, đã đưa Pháp đến Euro 1992 sau khi toàn thắng ở vòng loại. Mặc dù đã có chuỗi 19 trận bất bại trước đó, Pháp bị loại ở vòng bảng sau khi thúc thủ trước Đan Mạch 1-2 trong trận đấu cuối cùng. Một tuần sau khi kết thúc giải đấu, Platini từ chức và được thay thế bằng người trợ lý Gérard Houllier của mình. Dưới thời Houllier, Pháp và những cổ động viên của họ đã trải qua một thảm kịch đau lòng sau khi họ gần như đã đủ điểm tham dự World Cup 1994, và chỉ cần giành 1 điểm trong 2 trận đấu trên sân nhà trước Israel và Bulgaria là hoàn thành mục tiêu vượt qua vòng loại. Tuy nhiên, trong trận đấu với Israel, Pháp đã thua 2-3, và trong trận gặp Bulgaria, đội lại thua ngược 1-2. Houllier đã phải ra đi và trợ lý của ông là Aimé Jacquet đã được bổ nhiệm với sứ mệnh dẫn dắt đội bóng tại World Cup 1998, nơi Pháp làm chủ nhà.
Để thay đổi một đội tuyển Pháp rệu rã đã vắng mặt hai kỳ World Cup liên tiếp, Jacquet thẳng tay loại bỏ nhiều cựu binh như Eric Cantona để nhường chỗ cho các tuyển thủ trẻ, tiêu biểu là Zinedine Zidane. Kể từ đó, bóng đá Pháp bắt đầu xuất hiện một thế hệ vàng gặt hái rất nhiều thành công. Đội đã lọt tới trận bán kết của Euro 1996, nơi họ chỉ chịu thua 6-5 trên chấm phạt đền trước Cộng hòa Séc. Và trong giải đấu lớn tiếp theo là World Cup 1998, Jacquet cuối cùng đã dẫn dắt Pháp đến vinh quang khi đánh bại đương kim vô địch Brasil 3-0 trong trận chung kết tại Stade de France, qua đó giúp người Pháp có chức vô địch thế giới lần đầu tiên trong lịch sử. Jacquet rút lui sau chiến thắng tại World Cup và đã được kế tục thành công bởi trợ lý Roger Lemerre, người đã đưa Pháp giành được chức vô địch châu Âu lần thứ hai tại Euro 2000. Được dẫn dắt bởi danh thủ Zidane, Pháp đánh bại Ý 2-1 trong trận chung kết với bàn thắng vàng của David Trezeguet trong hiệp phụ. Đây là lần đầu tiên có một đội tuyển quốc gia có được cả hai chức vô địch World Cup và Euro cùng lúc kể từ khi Tây Đức làm được vào năm 1974, và đây cũng là lần đầu tiên một đội đương kim vô địch thế giới giành được chức vô địch châu Âu. Nhờ hai chức vô địch World Cup và Euro liên tiếp, Pháp đã lần đầu tiên nhảy lên vị trí số một trên bảng xếp hạng của FIFA.
Sau khi giành được Confederation Cup vào năm 2001, Pháp đã thâu tóm đầy đủ 3 danh hiệu quan trọng nhất của bóng đá thế giới. Thế hệ vàng của Pháp, ngoài sự xuất sắc của Zidane còn phải kể đến các danh thủ như Thierry Henry, David Trezeguet, Patrick Vieira, Didier Deschamps, Emmanuel Petit, Lilian Thuram, Bixente Lizarazu, Laurent Blanc, Youri Djorkaeff, Robert Pirès, Fabien Barthez và một số tuyển thủ khác như: Sylvain Wiltord, Djibril Cissé, Frank Leboeuf, Claude Makélélé,... Mặc dù hầu hết các cầu thủ trong đội tuyển Pháp lúc đó đều là các siêu sao hàng đầu thế giới ở vị trí của mình nhưng nhiều người lo ngại rằng Pháp quá phụ thuộc vào khả năng tổ chức trận đấu của Zidane và khi vắng cầu thủ này, những ngôi sao khác trong đội tuyển Pháp không thể chơi kết dính và bùng nổ được nữa. Minh chứng rõ nét cho điều này là tại World Cup 2002 khi Zidane bất ngờ dính chấn thương trong trận đấu giao hữu với chủ nhà Hàn Quốc trước khi giải đấu khai mạc, Pháp nhanh chóng thể hiện lối chơi rời rạc khi thiếu vắng nhạc trưởng của mình và bị loại cay đắng, bất chấp việc họ đang sở hữu ba "vua phá lưới" ở ba giải VĐQG hàng đầu châu Âu khi ấy: Henry (Premier League), Trezeguet (Serie A) và Cisse (Ligue 1). Mặc dù rơi vào bảng đấu dễ thở với những đối thủ dưới cơ là Đan Mạch, Uruguay và Senegal, Pháp kết thúc vòng bảng với chỉ 1 điểm kiếm được và không ghi được một bàn thắng nào, trở thành đội đương kim vô địch có thành tích kém cỏi nhất trong các kỳ World Cup. Lemerre bị sa thải sau giải đấu và Santini lên nắm đội.
Sau khi giành thêm Confederation Cup vào năm 2003, Pháp lại nổi lên như là ứng cử viên hàng đầu cho chức vô địch Euro 2004, giải đấu mà họ vẫn đang là các nhà đương kim vô địch. Tuy nhiên, một lần nữa, sự dựa dẫm quá nhiều vào Zidane khiến Pháp phải trả giá. Sau khi cứu cho Pháp khỏi thất bại trước Anh trong trận đấu mở màn bằng hai bàn thắng ghi liền trong 3 phút cuối trận, Zidane chẳng thể làm gì khi bị vô hiệu hóa trước lối chơi kỉ luật của các cầu thủ Hy Lạp (đội sau đó vô địch) tại vòng tứ kết. Pháp thua 0-1 và trở thành cựu vương của châu Âu. Sau giải đấu, Zidane tuyên bố từ giã đội tuyển.
Jacques Santini từ chức huấn luyện viên và Raymond Domenech đã được chọn để thay thế ông. Pháp thi đấu chật vật ở nửa đầu vòng loại World Cup 2006. Điều này khiến Domenech đã phải thuyết phục một số một số lão tướng trở lại đội tuyển để giúp đội vượt qua vòng loại. Nghe theo lời thuyết phục này, ba cựu binh sáng giá là Zidane, Thuram và Makélélé trở lại đội tuyển và giúp Pháp cán đích với vị trí nhất bảng tại vòng loại World Cup 2006. Ở World Cup 2006, Pháp đã thi đấu khá nhạt nhòa ở vòng bảng khi liên tiếp hòa Thụy Sỹ và Hàn Quốc, trước khi nhọc nhằn đánh bại đội yếu nhất bảng Togo để đi tiếp với vị trì nhì bảng. Tuy nhiên, cùng với sự tỏa sáng của Zidane, đội đã chơi ấn tượng ở vòng loại trực tiếp và tiến thẳng đến trận đấu cuối cùng của giải sau khi liên tiếp đánh bại Tây Ban Nha, Brazil và Bồ Đào Nha. Pháp đã gặp Ý trong trận chung kết, hòa 1-1 sau 120 phút trước khi thua 5-3 trên chấm phạt đền.
Khủng hoảng thế hệ thời kì "hậu Zidane"
Trận chung kết World Cup 2006 cũng là trận đấu cuối cùng trong sự nghiệp của Zidane. Sau một thập niên tạo ảnh hưởng lớn lên lối chơi của đội tuyển Pháp, việc Zidane giã từ sự nghiệp đã tạo ra một sự hẫng hụt đối với đội bóng "Áo Lam". Dù Domenech cố gắng xây dựng một đội bóng không lệ thuộc vào một cá nhân nào nhưng đây tỏ ra là một công việc quá sức. Domenech vẫn phải tin dùng vào các cựu binh như Thuram hay Makelele để ổn định lối chơi của đội và không tin dùng nhiều cầu thủ trẻ tài năng. Mặc dù Pháp đã lọt được vào cả vòng chung kết của Euro 2008 và World Cup 2010 nhưng đó đều là những chiến dịch rất khó nhọc, đặc biệt là ở vòng loại World Cup 2010 khi Pháp phải nhờ đến "bàn tay bẩn" của Henry trong hiệp phụ trận đấu tranh vé vớt với Ireland để được góp mặt tại World Cup. Trong cả hai giải đấu lớn nói trên, Pháp đều thi đấu tệ hại, thiếu gắn kết và đều bị loại ngay từ vòng bảng.
Đặc biệt, tại World Cup 2010, những mâu thuẫn nội bộ trong đội tuyển đã lên đến đỉnh điểm khi toàn bộ đội bóng đã bỏ một buổi tập và công khai một bức thư ngỏ để phản đối quyết định của LĐBĐ Pháp (FFF) và huấn luyện viên Domenech khi đuổi tiền đạo Nicolas Anelka về nước ngay sau trận thua Mexico do tiền đạo này đã lăng mạ ông Domenech trong phòng thay đồ. Vụ việc này đã khiến cho toàn bộ đội hình của đội tuyển Pháp dự World Cup đều bị treo giò ít nhất một trận sau đó. Triều đại của Domenech cũng kết thúc sau giải đấu này.
Nỗ lực tái thiết của Blanc
Mặc dù việc bổ nhiệm Laurent Blanc vào vị trí huấn luyện viên trưởng chỉ diễn ra sau World Cup 2010 nhưng trên thực tế, ngay từ trước khi World Cup diễn ra, nhiều tờ tạp chí của Pháp đã tiết lộ thông tin này.
Trong trận đấu đầu tiên dưới triều đại của Blanc (gặp Na Uy trong một trận giao hữu), toàn bộ 23 cầu thủ dự World Cup trước đó của Pháp đều bị treo giò. Blanc buộc phải xây dựng một bộ khung đội tuyển với nhiều gương mặt trẻ và mới để thay thế một đội tuyển đã rệu rã. Pháp khởi đầu kỉ nguyên Blanc bằng thất bại 1-2 trước Na Uy.
Trong trận đấu chính thức đầu tiên tại vòng loại Euro 2012, vẫn còn 5 tuyển thủ của Pháp bị treo giò bao gồm Anelka, Ribery, Evra, Abidal, Toulalan. Pháp thất thủ trên sân nhà trước đội bóng trung bình Belarus với tỉ số 0-1.
Tuy nhiên, khi bị dồn vào thế chân tường, các cầu thủ Pháp đã thể hiện tinh thần thi đấu quyết tâm, họ giành chiến thắng 2-0 ngay trên sân của đối thủ khó chơi nhất bảng đấu là Bosnia và Heczegovina. Kể từ đó, Pháp đã có chuỗi 4 trận thắng liên tiếp tại vòng loại, để vươn lên dẫn đầu bảng D. Pháp cũng giành chiến thắng 2-1 trên sân Wembley trước Anh và 1-0 trên sân nhà trước Brazil trong các trận giao hữu, như để đánh dấu sự trở lại của mình. Nỗ lực tái thiết của Blanc dù gặp nhiều khó khăn lúc đầu nhưng bắt đầu có những bước tiến vững chắc. Pháp kết thúc vòng loại với vị trí nhất bảng D và giành tấm vé trực tiếp tham dự vòng chung kết Euro 2012.
Tại Euro 2012, đội tuyển Pháp ban đầu thi đấu khá ổn khi hòa Anh với tỉ số 1-1 với bàn thắng gỡ hòa của Samir Nasri và thắng chủ nhà Ukraina với tỉ số 2-0 bằng hai bàn thắng của Jérémy Menez và Yohan Cabaye. Tuy nhiên, Pháp bất ngờ thua đội đã bị loại là Thụy Điển với tỉ số 0-2 ở lượt cuối bảng D và chỉ có thể đi tiếp với vị trí nhì bảng, qua đó phải sớm gặp ĐKVĐ Tây Ban Nha ở tứ kết. Trận thua này khiến phòng thay đồ của tuyển Pháp một lần nữa rơi vào trạng thái xung đột buộc FFF phải điều tra hành vi của 4 nghi can có liên quan là Samir Nasri, Hatem Ben Arfa, Jeremy Menez và Yann M'Vila. Pháp sau đó không thể tạo được bất ngờ trước một Tây Ban Nha quá mạnh lúc ấy, khi thua với tỉ số 0-2 ở tứ kết. Sau Euro 2012, huấn luyện viên Laurent Blanc đã từ chức.
Triều đại Didier Deschamp và thế hệ vàng mới
Didier Deschamps đến với đội bóng áo lam năm 2012 sau khi Laurent Blanc từ chức. Ở vòng loại World Cup 2014, Pháp rơi vào bảng đấu có Tây Ban Nha và chỉ đứng nhì bảng, qua đó phải đá play-off trước Ukraine để kiếm vé dự World Cup. Đội đã để thua Ukraine 0-2 trong trận lượt đi tại Kiev và đứng trước nguy cơ lỡ hẹn với World Cup lần đầu tiên kể từ năm 1994. Tuy nhiên Pháp đã chơi xuất thần trong trận lượt về tại Stade de France khi lội ngược dòng bằng trận thắng 3-0 để giành vé đến Brazil.
Sau khi giành vé dự World Cup 2014 một cách hú vía, Deschamp quyết định mạnh tay thanh lọc đội hình. Những cầu thủ vô kỷ luật và thường xuyên gây thất vọng như Samir Nasri, Hatem Ben Arfa, Jeremy Menez đều bị gạt khỏi đội hình dự World Cup, thay vào đó là những gương mặt triển vọng như Olivier Giroud, Paul Pogba, Blaise Matuidi và cầu thủ gốc Việt Nam Yohan Cabaye. Với một tập thể đoàn kết, Pháp thi đấu ấn tượng khi đứng đầu bảng đấu có Honduras, Thụy Sỹ và Ecuador. Đội hạ Nigeria 2-0 ở vòng 2 trước khi để thua sát nút trước đội tuyển (đội sau đó đăng quang) với tỉ số 0-1 ở tứ kết. Với màn trình diễn tốt tại giải, tiền vệ Paul Pogba đã được trao giải thưởng Cầu thủ trẻ hay nhất World Cup.
Hai năm sau, đội hình tuyển Pháp tiếp tục được Deschamp trẻ hóa mạnh mẽ, với mục đích xây dựng một tập thể gắn kết và kỷ luật. Điều đó dẫn đến việc hai tuyển thủ kỳ cựu là Karim Benzema và Mathieu Valbuena đều bị loại khỏi đội tuyển do bê bối cá nhân. Deschamp tiếp tục đưa tuyển Pháp tiến vào trận chung kết Euro 2016 mà Pháp là chủ nhà, trước khi để thua sát nút trước của Cristiano Ronaldo với tỉ số 0-1 trong hiệp phụ và để tuột mất chức vô địch. Trước đó đội đã bất ngờ đánh bại các nhà đương kim vô địch thế giới Đức 2-0 ở bán kết, đánh dấu chiến thắng đầu tiên của họ trước những "Cỗ xe tăng" ở một giải đấu chính thức kể từ năm 1958. Đây là những bước tiến quan trọng của đội tuyển Pháp để trở lại chu kỳ thành công sau nhiều năm trì trệ.Trong 2 năm kế tiếp, Pháp bắt đầu trình làng một thế hệ tài năng mới, quy tụ dàn cầu thủ đẳng cấp trải đều khắp các tuyến. Đội đã thi đấu suôn sẻ ở vòng loại World Cup 2018 và giành vé dự World Cup với vị trí nhất bảng vòng loại lần đầu tiên sau 12 năm. Tại World Cup 2018, họ thậm chí sở hữu đội hình có giá trị chuyển nhượng đắt nhất giải - hơn 1 tỷ euro. Những cầu thủ nổi bật lúc ấy có thể kể đến như Antoine Griezmann, Paul Pogba, Raphaël Varane, N'Golo Kanté, Benjamin Mendy, Benjamin Pavard, Ousmane Dembélé, Kingsley Coman và đặc biệt là tài năng trẻ sáng giá Kylian Mbappé. Với một đội hình mạnh và đồng đều, Pháp dễ dàng đứng đầu bảng đấu có Đan Mạch, Peru và Úc dù họ không bung hết sức. Ở vòng knock-out, đội vượt qua một loạt các đối thủ mạnh như Argentina, Uruguay và Bỉ để lọt vào trận chung kết gặp Croatia. Cuối cùng, Deschamp và các cầu thủ Pháp đã giành chức vô địch thế giới lần thứ 2 trong lịch sử khi thắng Croatia 4–2 trong trận chung kết. Với cá nhân Deschamp, ông cũng đã đi vào lịch sử với tư cách là người thứ 3 vô địch World Cup trên cả cương vị cầu thủ và huấn luyện viên, trước đó người đầu tiên là Mario Zagallo và người thứ 2 là Franz Beckenbauer. Kylian Mbappé được trao giải Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất và Antoine Griezmann được trao Quả bóng đồng và Chiếc giày bạc cho màn trình diễn của họ trong suốt giải đấu. Sau khi ghi bàn trong trận chung kết, Mbappé trở thành cầu thủ tuổi teen thứ 2 ghi bàn trong trận Chung kết World Cup, người cuối cùng là Pelé vào năm 1958.
Tại giải Euro 2020, Pháp nằm cùng bảng F với Đức, Bồ Đào Nha & Hungary, trận ra quân Pháp thắng Đức 1-0 do Hummels phản lưới nhà, cầm hòa Hungary 1-1 và Bồ Đào Nha 2-2 qua đó đứng nhất bảng F, tuy nhiên Pháp đã phải dừng bước tại vòng 16 đội khi để Thụy Sỹ hòa 3-3 cả trận và thua 4-5 trên chấm 11m với cú đá hỏng ăn cuối của Kylian Mbappe.
Tại giải UEFA Nations League 2020-21, Pháp nằm ở bảng A3 cùng Bồ Đào Nha, Thụy Điển & Croatia, đội đứng nhất bảng khi đạt 16 điểm & giành quyền dự vòng Chung kết giải đấu, tại bán kết Pháp hạ Bỉ 3-2, sau đó đánh bại Tây Ban Nha 2-1 để có lần đầu tiên vô địch giải đấu. Tuy nhiên tại mùa giải 2022-23, họ trở thành cựu vương khi xếp thứ 3 bảng A1 với 5 điểm.
Tại World Cup 2022, Pháp cùng bảng D với , và , Pháp đứng đầu bảng với 6 điểm với 2 chiến thắng 4-1 trước Úc, 2-1 trước Đan Mạch và thua 0-1 trước Tunisia; Pháp lần lượt vượt qua Ba Lan 3-1 tại vòng 16 đội, Anh với tỷ số 2-1 tại tứ kết, và thắng Maroc 2-0 tại bán kết để có lần thứ 2 liên tiếp lọt vào chung kết đối đầu với Argentina. Tuy nhiên, những chú gà trống Gaulois đã không thể bảo vệ được chức vô địch của mình khi thất bại 2–4 trước ở loạt sút luân lưu sau khi hai đội hòa nhau 3–3 sau 120 phút thi đấu chung kết, dù Kylian Mbappé lập được cú hat-trick và nhận danh hiệu Vua phá lưới với 8 bàn thắng.
Danh hiệu
20px Vô địch thế giới: 3
Vô địch: 1998; 2018; 2022
Á quân: 2006,
Hạng ba: 1958; 1986
Vô địch châu Âu: 2
Vô địch: 1984; 2000
Á quân: 2016
UEFA Nations League: 1
Vô địch: 2021
Vô địch Liên đoàn châu lục: 2
Vô địch: 2001; 2003
Bóng đá nam tại Olympic:
1984
1900
Thành tích quốc tế
Giải vô địch bóng đá thế giới
{| width="500" class="wikitable" style="text-align: center;"
|-
!width=120|Năm
!width=120|Kết quả
!width=60|
!width=60|
!width=60|
!width=60|
!width=60|
!width=60|
|-
| 1930||rowspan=2|Vòng 1||3||1||0||2||4||3
|-
| 1934||1||0||0||1||2||3
|-
|style="border: 3px solid red"| 1938||Tứ kết||2||1||0||1||4||4
|-
|1950|| colspan="7" |Không vượt qua vòng loại
|-
| 1954||Vòng 1||2||1||0||1||3||3
|- bgcolor="#cd7f32"
| 1958 ||Hạng ba||6||4||0||2||23||15
|-
|1962|| colspan="7" |Không vượt qua vòng loại
|-
| 1966 ||Vòng 1||3||0||1||2||2||5
|-
|1970 đến 1974|| colspan="7" |Không vượt qua vòng loại
|-
| 1978||Vòng 1||3||1||0||2||5||5
|-
| 1982||Hạng tư||7||3||2||2||16||12
|- bgcolor="#cd7f32"
| 1986||Hạng ba||7||4||2||1||12||6
|-
|1990 đến 1994|| colspan="7" |Không vượt qua vòng loại
|- bgcolor=gold
|style="border: 3px solid red"| 1998||Vô địch||7||6||1||0||15||'2
|-
| 2002||Vòng 1||3||0||1||2||0||3
|- bgcolor="#c0c0c0"
| 2006||Á quân||7||4||3||0||9||3|-
| 2010||Vòng 1||3||0||1||2||1||4
|-
| 2014||Tứ kết||5||3||1||1||10||3
|- bgcolor=gold
| 2018||Vô địch||7||6||1||0||14||6
|- bgcolor=silver
| 2022||Á quân||7||5||1||1||16||8|-
| 2026 đến 2034|| colspan="7" |Chưa xác định
|-
|Tổng cộng||16/222 lần: Vô địch||73||39||14||20||136||85'|}
FIFA Confederations Cup
Giải vô địch bóng đá châu Âu
UEFA Nations League
Thế vận hội
(Nội dung thi đấu dành cho cấp đội tuyển quốc gia cho đến kỳ Đại hội năm 1988)
Lịch thi đấu
2023
Cầu thủ
Đội hình hiện tại
Đây là đội hình 23 cầu thủ được gọi Vòng loại UEFA Euro 2024 lần lượt gặp và trận giao hữu với lần lượt vào ngày 7 và 12 tháng 9 năm 2023. Số liệu thống kê tính đến ngày 19 tháng 6 năm 2023 sau trận gặp .Triệu tập gần đây
Notes
INJ = Withdrew due to injury
PRE = Preliminary squad
RET = Retired from the national team
SUS = Serving suspension
Kỷ lục Cầu thủ in đậm vẫn đang thi đấu cho đội tuyển quốc gia. Thi đấu nhiều nhất
phải|nhỏ|Hugo Lloris là cầu thủ khoác áo đội tuyển quốc gia nhiều nhất với 145 lần.
Ghi bàn nhiều nhất
phải|nhỏ|Olivier Giroud là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất cho đội tuyển quốc gia với 54 bàn thắng.
Huấn luyện viên
Ban huấn luyện Cập nhật: 1 tháng 7 năm 2015.
Chú thích
Ghi chú
Tham khảo
Jean-Michel Cazal, Pierre Cazal, Michel Oreggia: L'intégrale de l'équipe de France de football, 1904-1998, Paris, First éd., 1998.
Denis Chaumier, Les Bleus: tous les joueurs de l'équipe de France de 1904 à nos jours, Paris, Larousse, 2004.
Gérard Ernault, Les Bleus en Argentine, Paris, Calmann-Lévy, 1978.
Gilles Gauthey, L'équipe de France, Paris, 1962
Dominique Grimault, Les Bleus: le livre officiel de l'équipe de France, Paris, Solar, 1998.
Fabrice Jouhaud, Le livre d'or du football, 2005, Paris, Solar, 2005.
Éric Maitrot et Karim Nedjari, L'histoire secrète des Bleus: de la gloire à la désillusion, 1993-2002, Paris, Flammarion, 2002.
Marianne Mako, Ces hommes en bleu: 30 vies en confidence, Paris, France loisirs, 1999.
Alain Mercier et Cyril Pocréaux, L'aventure des bleus: les 50 plus belles histoires de l'équipe de France de football, Boulogne, Timée-éd., 2004.
Stéphane Meunier et Philippe Tournon, Les yeux dans les Bleus. 2, Dans les coulisses des Bleus 2002, Paris, Canal + éd., 2002.
Stéphane Meunier, Les yeux dans les Bleus, Paris, le Grand livre du mois, 1998.
Gérard Rancinan et Grégoire Soussan, Ils ont fait les Bleus: Trezeguet, Henry, Djorkaeff, Dugarry, Zidane, Vieira, Petit, Thuram, Lebœuf, Desailly, Lizarazu, Candela, Barthez, Boulogne, Horizon illimité, 2002.
Jean-Philippe Réthacker, L'équipe de France de football, Paris, O.D.I.L., 1976
Jean-Philippe Réthacker, Génération champions: équipe de France de football, Évreux; Lausanne, Éd. Atlas, 2000-2002, 6 volumes.
Thierry Roland, Champions d'Europe, Paris, Hachette, 1984.
Jacques Thibert, Les Coqs du football, Paris, Calmann-Lévy, 1972.
Stéphane Verger, Poèmes Bleus (hommage à nos champions du monde 1998), Paris, Le Manuscrit, 2005.
Stéphane Verger, Nos Bleus en 3 tomes (Les 810 joueurs de l'équipe de France), Paris, Le Manuscrit, 2006.
Marcel Desailly, Capitaine, Paris, Stock, 2002.
Aimé Jacquet, Ma vie pour une étoile, Paris, Robert Laffont/Plon, 1999.
Lilian Thuram et James Burnet, 8 juillet 1998, Paris, A. Carrière, 2004.
Christian Vella, Roger Lemerre: les Bleus au cœur, Paris, Kiron-le Félin, 2002.
Pierre-Louis Basse, Séville 82 France-Allemagne: le match du siècle, Paris, éd. Privé, 2005.
Rodolphe Baudeau, Vianney Delourme, Cyril Toulet, Le bêtisier des bleus, 1904-2004'', Paris, Hors Collection, 2004. |
Đội tuyển bóng đá quốc gia Anh () là đội tuyển của Hiệp hội bóng đá Anh và đại diện cho Anh trên bình diện quốc tế. Sân nhà của đội tuyển Anh là sân vận động Wembley, London. Trung tâm huấn luyện quốc gia của đội tuyển là St George's Park tại Burton upon Trent. Huấn luyện viên hiện tại của đội là Gareth Southgate.
Trận đấu quốc tế đầu tiên mà môn bóng đá được tổ chức thi đấu, vào năm 1872, cũng là trận đấu ra mắt của đội tuyển Anh cùng với đội tuyển Scotland. Ra đời gần như sớm nhất và nghiễm nhiên được đánh giá cao, tuy nhiên đội tuyển Anh lại có bảng thành tích khiêm tốn so với nhiều đại gia của bóng đá thế giới. Đội dự Cúp thế giới từ năm 1950 và lên ngôi 1 lần duy nhất năm 1966, ngoài ra thì đứng hạng tư 2 lần. Ở cấp độ châu lục, tuyển Anh có thành tích tốt nhất là ngôi á quân vào năm 2020.
Do là một trong bốn đội tuyển bóng đá quốc gia thuộc Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, đội tuyển Anh có một thời gian dài không tham dự Olympic. Đến tận Thế vận hội Mùa hè 2012 diễn ra tại Luân Đôn thì lần đầu tiên mới có một đội tuyển đại diện cho Vương quốc Anh.
Lịch sử
Những năm đầu
Đội tuyển bóng đá quốc gia Anh là đội bóng lâu đời trên thế giới, được thành lập cùng một lúc với đội tuyển bóng đá Scotland. Trận đấu giữa đội tuyển Anh và đội tuyển Scotland đã diễn ra vào ngày 5 tháng 3 năm 1870 được tổ chức bởi Hiệp hội bóng đá Anh (FA). Một trận đấu giao hữu được tổ chức lại bởi Đội tuyển bóng đá Scotland vào ngày 30 tháng 11 năm 1872. Trận đấu này, diễn ra tại Crescent Hamilton ở Scotland, được xem như là trận đấu bóng đá quốc tế chính thức đầu tiên.
Đội tuyển bóng đá Anh gia nhập Liên đoàn bóng đá thế giới vào năm 1906 và thi đấu giao hữu với các đội bóng khắp châu Âu ngoài Vương quốc Anh vào năm 1908. Sân vận động Wembley được khai trương vào năm 1923 và trở thành sân nhà của đội. Mối quan hệ giữa FA và FIFA trở nên căng thẳng và đội bóng rời khỏi FIFA vào năm 1928, trước khi gia nhập lại vào năm 1946. Kết quả là, Anh không tham dự World Cup cho đến năm 1950.
Vô địch World Cup 1966 & sau đó
World Cup năm 1966 được tổ chức tại Anh, Alf Ramsey dẫn dắt tuyển Anh giành chiến thắng với tỷ số 4-2 trước Tây Đức sau hiệp phụ trong trận chung kết, trong đó Geoff Hurst ghi một hat-trick. Tại UEFA Euro 1968, đội lần đầu tiên lọt vào bán kết nhưng bị loại bởi Nam Tư. Đội tuyển Anh đủ điều kiện tham dự World Cup năm 1970 được tổ chức tại México với tư cách là nhà đương kim vô địch. Đội vào đến vòng tứ kết nhưng đã bị loại bởi Tây Đức. Anh tuy dẫn trước 2-0 nhưng cuối cùng đã bị đánh bại 3-2 sau hiệp phụ.
Sau đó là thập kỷ 70 đen tối khi bóng đá Anh không vượt qua được vòng loại 2 kỳ World Cup: 1974 và 1978, cũng như 2 kỳ Euro: 1972 và 1976.
Bước vào thập niên 80, đội tuyển Anh có chút khởi sắc khi lọt vào vòng chung kết Euro 1980 nhưng bị loại từ vòng bảng. Tại World Cup 1982, Anh dừng bước ở vòng bảng thứ 2. Đội không vượt qua vòng loại Euro 1984 trước khi dự World Cup 1986, nơi mà đội Anh đã chơi xuất sắc trước khi bị loại ở tứ kết bởi Argentina bằng 2 bàn thắng nổi tiếng của Diego Maradona mà sau này được gọi là "Bàn tay của Chúa". Đội tiếp tục vượt qua vòng loại của Euro 1988, nhưng bị loại ngay ở vòng bảng với thành tích ba trận toàn thua.
1990-2000
Sang thập niên 90, đội tuyển Anh gây ấn tượng ở vòng chung kết World Cup 1990 khi lọt vào đến bán kết và chỉ chịu thua Tây Đức trong loạt sút luân lưu. Tại giải này, đội giành hạng tư chung cuộc. Anh vượt qua vòng loại Euro 1992 với thành tích bất bại, tại Euro 1992, đội cùng bảng A với Thụy Điển, Đan Mạch và Pháp, Anh xếp cuối bảng và bị loại. Sau đó, đội chơi không tốt và không vượt qua vòng loại World Cup 1994.
Tuyển Anh là chủ nhà của Euro 1996, họ đứng nhất bảng A sau hai chiến thắng trước Scotland và Hà Lan, cùng một trận hòa trước Thụy Sĩ. Tại tứ kết, Anh vượt qua Tây Ban Nha sau loạt đá luân lưu, trước khi dừng bước tại bán kết trước đội vô địch Đức cũng trên chấm 11 mét.
Anh vượt qua vòng loại World Cup 1998, và đứng nhì bảng G sau Romania. Tại vòng 1/16, Anh để thua Argentina trong loạt sút luân lưu ở trận đấu mà David Beckham phải nhận thẻ đỏ. Đội dừng bước ngay ở vòng bảng Euro 2000 khi chỉ có được 3 điểm sau trận thắng Đức, và thua 2 trận trước Bồ Đào Nha và Romania.
Sven-Göran Eriksson, Steve McClaren và Fabio Capello
Anh tái ngộ Argentina tại bảng F World Cup 2002. Bàn thắng duy nhất trên chấm phạt đền của David Beckham trước Argentina đã giúp Anh trả món nợ 4 năm về trước, và giúp họ đoạt ngôi nhì bảng của chính đối thủ. Anh lọt vào vòng 1/16 và thắng Đan Mạch 3-0. Tại tứ kết, Anh để thua đội vô địch Brazil 1-2 và dừng bước.
Ở vòng bảng Euro 2004, Anh thua Pháp 1-2 ngay trận đầu ra quân, nhưng đã thắng liền hai trận trước Thụy Sĩ và Croatia để đoạt ngôi nhì bảng B (sau Pháp). Bước vào tứ kết, Anh hòa chủ nhà Bồ Đào Nha 2-2 sau 120 phút thi đấu, và để thua 5-6 trong loạt sút luân lưu với một cú sút penalty thảm họa của David Beckham.
Đội nằm ở bảng B World Cup 2006 cùng các đội Thụy Điển, Paraguay và Trinidad & Tobago. Anh thắng Paraguay 1-0, thắng Trinidad & Tobago 2-0 và hòa Thụy Điển 2-2, giành vị trí nhất bảng. Anh vượt qua Ecuador 1-0 ở vòng 1/16 trước khi gặp lại Bồ Đào Nha ở tứ kết. Trong một trận đấu mà Wayne Rooney phải nhận thẻ đỏ, Anh hòa Bồ Đào Nha 0-0 trong 120 phút và thua 1-3 trên chấm luân lưu.
Đội đã thi đấu không tốt tại vòng loại Euro 2008 và chỉ xếp thứ 3 tại bảng đấu sau Croatia và Nga, qua đó mất quyền dự Euro 2008 tổ chức tại Áo và Thụy Sĩ. Steve McClaren bị sa thải sau khi Anh thua 2-3 trước Croatia ngay trên sân nhà.
Tại World Cup 2010, Anh vượt qua vòng bảng khi có 5 điểm, nhưng để thua với tỷ số 4-1 trước Đức tại vòng 16 đội, thất bại nặng nề nhất của đội bóng trong một kỳ World Cup. Trận đấu có nhiều tranh cãi khi bàn thắng hợp lệ của tiền vệ Frank Lampard đã không được công nhận do trọng tài chính đã không nhìn thấy bóng lăn qua vạch vôi của khung thành.
Roy Hodgson, Sam Allardyce và Gareth Southgate
Vào tháng 2 năm 2012, Fabio Capello từ chức huấn luyện viên trưởng sau bất đồng với FA trong vụ việc loại bỏ đội trưởng John Terry sau cáo buộc phân biệt chủng tộc nhắm lên cầu thủ này. Vào ngày 1 tháng 5 năm 2012, Roy Hodgson được công bố làm huấn luyện viên mới, chỉ 6 tuần trước khi Euro 2012 khởi tranh. Đội tuyển Anh vượt qua vòng bảng nhưng để thua trong loạt sút luân lưu trước Ý.
Tại World Cup 2014, Anh thất bại hai trận liên tiếp trước Ý và Uruguay cùng với tỷ số 2-1. Đây là lần đầu tiên Anh thất bại hai trận đầu tiên kể từ World Cup 1950 (khi đó Anh thất bại khi đối đầu với Mỹ và Tây Ban Nha), và kết thúc giải đấu với chỉ 1 điểm, đây là lần đầu tiên Anh bị loại ở vòng bảng kể từ World Cup 1958.
Tại Euro 2016, Anh cùng bảng với , và , kết thúc vòng bảng Anh đứng nhì với 5 điểm, kém xứ Wales 1 điểm, lọt vào vòng 16 đội nhưng thất bại 2-1 chung cuộc trước . Sau Euro 2016, huấn luyện viên Roy Hodgson quyết định từ chức. Sam Allardyce được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng sau đó 1 tháng, nhưng từ chức sau 1 trận và 67 ngày do bê bối bị cánh báo chí quay được cảnh ông bí mật cung cấp lời khuyên lách luật chuyển nhượng cho các doanh nhân và nhận khoản tiền 400.000 bảng.Gareth Southgate, khi đó là huấn luyện viên U-21 Anh làm huấn luyện viên tạm quyền cho đến tháng 11, sau đó trở thành nhà cầm quân chính thức. Ông giúp Anh dễ dàng vượt qua vòng loại World Cup 2018 với thành tích bất bại.
Tại World Cup 2018, Anh đứng nhì bảng G khi xếp sau . Tại vòng 16 đội, Anh hòa 1-1 & thắng 4-3 ở loạt sút luân lưu 11m, Anh thắng 2-0 tại tứ kết, qua đó lọt vào bán kết sau 28 năm, nơi họ để thua 1-2 trong hiệp phụ. Sau đó trong trận tranh hạng 3, họ thua Bỉ 0-2 và giành hạng 4 chung cuộc. Tiền đạo Harry Kane đạt giải vua phá lưới với 6 bàn thắng.
Tại UEFA Nations League 2018–19, Anh thi đấu thành công và lọt vào bán kết lần đầu tiên, sau đó giành vị trí thứ 3 chung cuộc sau chiến thắng 6-5 trước ở loạt đá luân lưu 11m sau khi hai đội hòa không bàn thắng trong suốt 120 phút thi đấu chính thức.
Vào ngày 14 tháng 11 năm 2019, Anh đã chơi trận đấu Quốc tế thứ 1000 khi đánh bại Montenegro 7–0 tại Wembley tại vòng loại UEFA Euro 2020.
Tại Euro 2020, Anh nằm cùng bảng D cùng , và . Anh kết thúc vòng bảng với 7 điểm sau 3 trận vòng bảng, thắng 1–0 trước Croatia và Séc, hòa 0–0 với Scotland. Tại vòng 16 đội Anh hạ 2-0, thắng 4-0 tại tứ kết & 2-1 để có lần đầu tiên lọt vào trận chung kết, và chỉ chịu thất thủ trước ở loạt sút luân lưu 11m sau khi hai đội hòa nhau 1-1, trong đó Marcus Rashford, Jadon Sancho và Bukayo Saka đều đá hỏng quả 11m quyết định, qua đó giành vị trí á quân.
Tại UEFA Nations League 2022–23, Anh đã để Hungary đánh bại 4–0 một cách thuyết phục, trận thua đậm nhất trên sân nhà kể từ năm 1928. Vào ngày 23 tháng 9 năm 2022, Anh để thua Ý tỷ số 1–0 tại San Siro, qua đó khiến đội phải xuống hạng B trong mùa giải 2024–25.
Tại World Cup 2022, Anh cùng bảng B với , và ; Anh đánh bại Iran 6-2, hòa Mỹ 0-0 và thắng Wales 3-0 để đứng đầu bảng với 7 điểm sau 3 trận vòng bảng. Sau đó, Anh đã đánh bại ở vòng 16 đội với tỷ số 3-0, nhưng dừng bước tại tứ kết trước đương kim vô địch với tỷ số 1-2. Trong bối cảnh đó, Gareth Southgate bất ngờ nhận được sự ủng hộ tuyệt đối của FA khi để ông tiếp tục dẫn dắt tuyển Anh đến hết tháng 12/2024, hoặc ít nhất đến hết Euro 2024. Tại vòng loại UEFA Euro 2024, Anh giành vé sớm dự vòng chung kết trước 3 vòng đấu sau chiến thắng 3-1 trước Ý.
Logo và áo thi đấu
Logo của Đội tuyển Anh cũng chính là logo của Hiệp hội Bóng đá Anh, với hình chiếc khiên trắng chứa ba con sư tử màu xanh đậm, được cách điệu từ huy hiệu Hoàng gia Vương quốc Anh (Kingdom of England) và sau này là một phần trong Quốc huy của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Từ logo đó, Đội tuyển cũng được gọi với biệt danh là "Tam Sư".Màu áo sân nhà truyền thống của Đội tuyển bóng đá quốc gia Anh là áo sơ mi trắng, quần ngắn màu xanh dương, tất màu trắng hoặc màu đen. Nhà tài trợ áo đấu đầu tiên là Umbro vào năm 1954. Các trường hợp ngoại lệ là giai đoạn 1959-1965 được tài trợ áo đấu bởi Bukta và giai đoạn 1974-1984 được tài trợ áo đấu bởi Admiral. Từ năm 2013 đến nay, trang phục được tài trợ bởi hãng Nike.
Danh hiệu
Vô địch thế giới: 1
Vô địch: 1966
Vô địch châu Âu: 0
Á quân: 2020
UEFA Nations League: 0
Hạng ba: UEFA Nations League 2018–19
Sân vận động
Trong 50 năm đầu tiên tồn tại đội tuyển chơi các trận sân nhà của họ trên khắp nước Anh. Ban đầu đội sử dụng các sân cricket rồi mới sử dụng các sân của các câu lạc bộ bóng đá. Sân vận động Empire hay sau này là Sân vận động Wembley được xây tại Wembley, Luân Đôn để phục vụ cho Triển lãm Đế quốc Anh.
Anh thi đấu trận đấu đầu tiên tại sân vận động này vào năm 1924 với đội tuyển Scotland và trong khoảng 27 năm tiếp theo, sân Wembley được sử dụng chỉ để thi đấu giao hữu với Scotland. Sân vận động Wembley trở thành sân nhà của anh trong những năm 1950. Sân đóng cửa vào năm 2000 và bắt đầu xây dựng lại. Trong thời gian sau đó, đặc biệt là vòng loại World Cup 2006, đội tuyển Anh thi đấu tại các sân trung lập tại các địa điểm khác nhau trên khắp đất nước. Phần lớn các trận thi đấu diễn ra tại Old Trafford của Manchester Untied và một số trận tại St. James' Park của Newcastle United khi Old Trafford không thể đáp ứng. Đội tuyển bóng đá quốc gia Anh trở lại thi đấu tại Sân vận động Wembley mới vào năm 2007.
Trận đấu đầu tiên của họ trên sân vận động Wembley mới là vào tháng 3 năm 2007 khi họ hòa với Brazil. Sân vận động hiện thuộc sở hữu của FA, thông qua công ty con Wembley National Stadium Limited.
Ban huấn luyện
Lịch thi đấu
2023
Cầu thủ
Đội hình hiện tại
24 cầu thủ dưới đây đã được gọi cho trận đấu Vòng loại EURO 2024 với Ukraina và trận đấu giao hữu với Scotland vào ngày 9 và 12 tháng 9 năm 2023.
Trent Alexander-Arnold và Jack Grealish đều rút khỏi đội hình do chấn thương vào 4 tháng 9 năm 2023.
Số liệu thống kê tính đến ngày 12 tháng 9 năm 2023, sau trận gặp Scotland.
Triệu tập gần đây
Những cầu thủ sau đây cũng đã được gọi vào đội tuyển Anh trong vòng 12 tháng qua.
SUS
Chú thích:
PRE Đội hình sơ bộ / dự bị
RET Đã giã từ đội tuyển quốc gia
SUS Đình chỉ lên tuyển
WD Cầu thủ đã rút khỏi đội vì vấn đề không liên quan đến chấn thương.
Kỷ lục
Cập nhật ngày 23 tháng 3 năm 2023.
Các cầu thủ khoác áo đội tuyển nhiều nhất
''Những cầu thủ in đậm vẫn còn thi đấu cho đội tuyển quốc gia.
Các cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất
Thành tích quốc tế
Giải vô địch bóng đá thế giới (World Cup)
Giải vô địch châu Âu (Euro)
Giải vô địch bóng đá các quốc gia châu Âu (UEFA Nations League)
Huấn luyện viên
Số liệu tính đến ngày 27 tháng 9 năm 2016.
1: Huấn luyện viên tạm quyền |
Đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan () là đội tuyển đại diện cho Hà Lan trên bình diện quốc tế kể từ năm 1905. Đội tuyển quốc gia được kiểm soát bởi Hiệp hội bóng đá Hoàng gia Hà Lan (KNVB), cơ quan quản lý bóng đá ở Hà Lan, là một bộ phận của UEFA, và thuộc thẩm quyền của FIFA. Họ được coi là một trong những đội tuyển quốc gia xuất sắc nhất của bóng đá thế giới và được mọi người đánh giá là một trong những đội tuyển quốc gia vĩ đại nhất mọi thời đại. Hầu hết các trận đấu trên sân nhà của Hà Lan đều diễn ra tại Johan Cruyff Arena và Stadion Feijenoord.
Đội được gọi một cách thông tục là Het Nederlands Elftal (The Dutch Eleven) hoặc Oranje, sau Ngôi nhà của Orange-Nassau và chiếc áo đấu màu cam đặc biệt của họ. Giống như chính quốc gia này, đội này đôi khi (cũng được gọi một cách thông tục) là Holland. Cổ động viên được biết đến với cái tên "Het Oranje Legioen" (The Orange Legion).
Hà Lan đã tham dự 11 kỳ FIFA World Cup, góp mặt trong các trận chung kết 3 lần (vào các năm 1974, 1978 và 2010). Họ cũng đã góp mặt mười lần tại giải vô địch bóng đá châu Âu, vô địch giải đấu năm 1988 ở Tây Đức. Ngoài ra, đội đã giành được huy chương đồng tại Olympic vào các năm 1908, 1912 và 1920. Hà Lan có những đối thủ bóng đá lâu đời với các nước láng giềng Bỉ và Đức.
Lịch sử
Hình ảnh đội tuyển
Trang phục và huy hiệu
Đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan nổi tiếng thi đấu trong màu áo cam rực rỡ. Màu cam là màu quốc gia lịch sử của Hà Lan, có nguồn gốc từ một trong nhiều chức danh của nguyên thủ quốc gia, Thân vương xứ Oranje. Áo đấu sân khách hiện tại của Hà Lan có màu đen. Sư tử trên huy hiệu là linh vật quốc gia và hoàng gia Hà Lan và đã có trên huy hiệu từ năm 1907 khi họ giành chiến thắng 3-1 trước Bỉ.
Nike là nhà cung cấp bộ quần áo bóng đá của đội tuyển quốc gia, một khoản tài trợ bắt đầu từ năm 1996 và được ký hợp đồng tiếp tục cho đến ít nhất là năm 2026. Trước đó, đội được cung cấp bởi Adidas và Lotto.
Nhà cung cấp trang phục
Kình địch
Bắt nguồn sâu xa từ chuyện chống Đức do bị Đức chiếm đóng Hà Lan trong Thế chiến thứ hai, đối thủ truyền kiếp của Hà Lan là Đức. Bắt đầu từ năm 1974, khi người Hà Lan thua Tây Đức ở World Cup 1974 trong trận chung kết, sự kình địch giữa hai quốc gia đã trở thành một trong những trận đấu nổi tiếng nhất trong làng bóng đá quốc tế.
Ở một mức độ thấp hơn, Hà Lan duy trì sự cạnh tranh với quốc gia láng giềng khác của họ, Bỉ; Trận đấu giữa Bỉ và Hà Lan được gọi là trận derby Vùng nước thấp. Họ đã thi đấu 126 trận tính đến tháng 5 năm 2018 và cả hai thi đấu với nhau thường xuyên từ năm 1905 đến năm 1964. Điều này đã giảm bớt do sự trỗi dậy của bóng đá bán chuyên nghiệp.
Truyền thông
Các trận đấu của đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan được phát sóng trên Nederlandse Omroep Stichting bao gồm tất cả các trận giao hữu, vòng loại Nations League và World Cup . Hợp đồng mới nhất có thời hạn 4 năm cho đến năm 2022.
Sân nhà
Đội tuyển quốc gia Hà Lan không có sân vận động quốc gia mà chủ yếu thi đấu tại Sân vận động Johan Cruyff ở Amsterdam. Nó đã tổ chức trận đấu quốc tế đầu tiên của Hà Lan vào năm 1997, trận đấu vòng loại World Cup 1998 với San Marino mà Hà Lan đã thắng 4–0. Nó chính thức được gọi là Amsterdam Arena cho đến năm 2018 khi nó được đổi tên để tưởng nhớ Johan Cruyff.
Trong vài năm qua, De Kuip ở Rotterdam tổ chức các trận đấu thường xuyên hơn. Đôi khi, các trận đấu diễn ra tại Philips Stadion ở Eindhoven và De Grolsch Veste ở Enschede.
Giải đấu
Giải vô địch bóng đá thế giới
Giải vô địch châu Âu
UEFA Nations League
Thế vận hội
(Nội dung thi đấu dành cho cấp đội tuyển quốc gia cho đến kỳ Đại hội năm 1988)
Huấn luyện viên
Cees van Hasselt 1905–1908
Edgar Chadwick 1908–1913
Billy Hunter 1914
Jack Reynolds 1919
Fred Warburton 1919–1923
Bob Glendenning 1923, 1925–1940
Billy Townley 1924
J.E. Bollington 1924
Karel Kaufman 1946, 1949, 1954–1955
Jesse Carver 1947–1948
Tom Sneddon 1948
Jaap van der Leck 1949–1954
Friedrich Donenfeld 1955, 1956–1957
Max Merkel 1955–1956
Heinrich Müller 1956
George Hardwick 1957
Elek Schwartz 1957–1964
Denis Neville 1964–1966
Georg Keßler 1966–1970
František Fadrhonc 1970–1974
Rinus Michels 1974–1992
George Knobel 1974–1976
Jan Zwartkruis 1976–1977, 1978–1981
Ernst Happel 1977–1978
Kees Rijvers 1981–1984
Leo Beenhakker 1985–1986, 1990
Thijs Libregts 1988–1990
Dick Advocaat 1992–1994, 2002–2004, 2017
Guus Hiddink 1994–1998, 2014–2015
Frank Rijkaard 1998–2000
Louis van Gaal 2000–2002, 2012–2014, 2021–2022
Marco van Basten 2004–2008
Bert van Marwijk 2008–2012
Danny Blind 2015–2017
Ronald Koeman 2018–2020
Frank de Boer 2020–2021
Louis Van Gaal 2021-2022
Ronald Koeman 2023-
Lịch đấu
2023
Cầu thủ
Đây là đội hình đã hoàn thành UEFA Nations League 2022–23.
Số liệu thống kê tính đến ngày 18 tháng 6 năm 2023 sau trận gặp
Triệu tập gần đây
Các cầu thủ được gọi lên trong vòng 12 tháng.
SUS Bị cấm thi đấu.
INJ Rút lui vì chấn thương.
RET Từ giã đội tuyển.
PRE Chỉ nằm trong danh sách sơ bộ.
COV Có kết quả xét nghiệm dương tính với COVID-19.
Kỷ lục
Cầu thủ in đậm vẫn thi đấu cho đội tuyển quốc gia.
Thi đấu nhiều nhất
Ghi nhiều bàn nhất |
Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha () là đội tuyển của Liên đoàn bóng đá Hoàng gia Tây Ban Nha và đại diện cho Tây Ban Nha trên bình diện quốc tế chính thức kể từ năm 1920 bắt đầu bằng trận đấu với Đan Mạch. Tây Ban Nha có những biệt danh như La Roja ("Đội Quân Màu Đỏ"), La Furia Roja ("Cơn Thịnh Nộ Màu Đỏ"), La Furia Española ("Cơn Thịnh Nộ Của Tây Ban Nha") hay đơn giản là La Furia ("Cơn Thịnh Nộ"). Tây Ban Nha trở thành thành viên chính thức của FIFA vào năm 1904 nhưng Liên đoàn bóng đá Hoàng gia Tây Ban Nha lại được thành lập vào năm 1909. Tây Ban Nha đã tham dự 15 trên 21 lần tổ chức Giải vô địch bóng đá thế giới (liên tục kể từ năm 1978) và 10 trên 15 lần tổ chức Giải vô địch bóng đá châu Âu.
Tây Ban Nha nằm trong số 8 đội bóng từng vô địch thế giới, ghi dấu ấn với ba danh hiệu giành được ở World Cup 2010, Euro 2008 và 2012, viết nên trang sử độc nhất vô nhị đó là vô địch ba giải đấu lớn liên tiếp. Tây Ban Nha cũng từng giữ kỷ lục có số trận bất bại liên tiếp nhiều nhất thế giới với 35 trận kéo dài trong gần 3 năm (đến khi đội tuyển Ý phá vỡ kỉ lục vào năm 2021 với 37 trận bất bại) và liên tục nhận giải thưởng "Đội bóng của năm" cả 6 năm hoàng kim từ 2008 đến 2013.
Lịch sử
Những năm đầu
Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha được thành lập vào năm 1920, đại diện cho Tây Ban Nha tham dự Thế vận hội Mùa hè tổ chức tại Bỉ trong năm đó.
Tây Ban Nha có trận đấu đầu tiên vào ngày 29 tháng 8 năm 1920 đấu với Đội tuyển Đan Mạch. Trận đấu kết thúc với chiến thắng 1–0 cho Tây Ban Nha. Ở trận đấu tiếp theo, Tây Ban Nha không thể giành chiến thắng khi để thua Bỉ 1–3.
Những cuộc nội chiến và Chiến tranh thế giới lần thứ hai làm Tây Ban Nha không thể chơi 1 trận đấu nào tại World Cup 1934 và World Cup 1950.
Euro 1964
Tây Ban Nha có danh hiệu đầu tiên khi đánh bại Hungary 2–1 để tiến tới trận chung kết và thi đấu với Liên Xô. Tây Ban Nha tiếp tục giành chiến thắng 2–1 để có danh hiệu lớn đầu tiên sau 44 năm.
World Cup 1982
Năm 1976, Tây Ban Nha được chọn là chủ nhà của World Cup 1982, được kỳ vọng rất cao nhưng Tây Ban Nha chỉ vào được tới vòng 2.
Euro 1984
Cựu huấn luyện viên Real Madrid Miguel Muñoz, người đã dẫn dắt Tây Ban Nha trong năm 1969, trở lại và huấn luyện tuyển. Vòng loại Euro 1984 thì Tây Ban Nha nằm ở bảng 7 cùng với Hà Lan, Ireland, Iceland và Malta. Trong trận đấu cuối cùng, Tây Ban Nha cần thắng ít nhất trên 11 bàn để có thể vượt qua Hà Lan ở vị trí dẫn đầu. Sau khi dẫn 3–1. ở hiệp 1, hiệp 2 Tây Ban Nha ghi thêm 9 bàn thắng biến tỉ số thành 12–1, dẫn đầu nhóm để tới vòng chung kết. Tại vòng chung kết, Tây Ban Nha nằm ở bảng B cùng với Romania, Bồ Đào Nha và Tây Đức, sau hai trận hòa 1–1, Tây Ban Nha thắng 1–0 trước Tây Đức ở trận đấu cuối cùng để đứng đầu bảng B. Bán kết họ gặp Đan Mạch, hòa 1–1 và thắng 5–4 trên chấm penalty. Sau đó Tây Ban Nha đã bị Pháp đánh bại 2–0 ở chung kết và để tuột mất chức vô địch.
Euro 2000 và World Cup 2002
Sau khi thất bại ở trận đấu đầu tiên của vòng loại Euro 2000 (thua Síp 2-3), Liên đoàn bóng đá Hoàng gia Tây Ban Nha quyết định sa thải huấn luyện viên Javier Clemente, José Antonio Camacho lên thay. Tây Ban Nha thắng những trận còn lại của vòng bảng. Nhưng thất bại ở tứ kết khi để thua Pháp 2-1 và chấp nhận dừng bước.
Vòng loại World Cup 2002 diễn ra đúng như mong đợi,đứng đầu bảng đấu có rất nhiều đối thủ mạnh. Tại VCK World Cup, Tây Ban Nha đứng đầu bảng B với ba trận toàn thắng. Ở vòng tứ kết thì Tây Ban Nha đối đầu với Hàn Quốc và để thua trên chấm luân lưu.
Euro 2004
Euro 2004 diễn ra tại Bồ Đào Nha. Tây Ban Nha rơi vào bảng A với Bồ Đào Nha, Nga và Hy Lạp. Họ đánh bại Nga 1–0, hòa Hy Lạp 1–1 nhưng lại thất bại trước Bồ Đào Nha và không đủ điểm để vượt qua vòng bảng. Iñaki Sáez bị sa thải 1 tuần sau đó, Luis Aragones lên thay.
World Cup 2006, Thế hệ vàng 2007 và Euro 2008
Tại World Cup 2006 tổ chức tại Đức, Tây Ban Nha lọt vào bảng H và xuất sắc thắng tất cả các trận đấu nhưng lại thất bại trước Pháp 1–3 tại vòng 2. Họ được an ủi bằng giải thưởng Fair-play cho Tây Ban Nha và Brazil.
Sau khi bị loại khỏi giải, Luis Aragonés nhận ra đội bóng không có đủ thể lực và tranh chấp không quyết liệt để gây khó khăn cho đối thủ, họ bắt đầu tập trung nghiên cứu Tiki-Taka, chiến thuật sử dụng các đường chuyền ngắn, nâng cao tỉ lệ kiểm soát bóng.
Vòng loại Euro 2008, Tây Ban Nha rơi vào bảng F, đứng đầu bảng với 28 trên 36 điểm có thể giành được. Tại lễ bốc thăm cho vòng chung kết,đội rơi vòng bảng D, có trận đấu mở màn với Nga, chiến thắng thuyết phục với tỉ số 4–1. Trận đấu thứ 2 với Thụy Điển, Tây Ban Nha sớm mở tỉ số ở phút thứ 15 nhờ công của Fernando Torres, bị thủng lưới sớm, Thụy Điển dồn lên tấn công. Phút thứ 34, Zlatan Ibrahimovic san bằng tỉ số 1–1 với pha lừa bóng rồi tung ra cú sút quyết đoán.Thế trận sau đó diễn ra khá bế tắc, vào phút bù giờ cuối cùng, sau pha phản công nhanh, David Villa ghi bàn ấn định tỉ số 2–1, giúp Tây Ban Nha đoạt vé sớm vào tứ kết. Trận đấu còn lại Tây Ban Nha thắng nhà đương kim vô địch Hy Lạp 2–1, giành điểm tối đa sau 3 trận đấu. Đương kim vô địch thế giới lúc đó-Ý là đối thủ của họ trong trận tứ kết, 120 phút kết thúc với tỷ số 0–0, Tây Ban Nha chiến thắng ở loạt luân lưu với tỉ số 4-2. Trong loạt sút luân lưu, trừ lần Guiza không thắng được Buffon ở loạt sút thứ tư, Tây Ban Nha đã thực hiện thành công cả bốn quả luân lưu còn lại bằng những cú sút lạnh lùng quyết đoán của Villa, Santi Cazorla, Senna rồi Fabregas. Nhưng công lớn nhất phải thuộc về thủ môn Iker Casillas. Trong một ngày thi đấu xuất thần, anh đã phán đoán chuẩn xác, đổ người từ chối các pha dứt điểm của Daniele De Rossi ở loạt sút thứ hai rồi Antonio Di Natale ở loạt sút thứ tư. Tây Ban Nha gặp lại Nga tại bán kết và cũng đánh bại họ một lần nữa với chiến thắng 3-0.
Trận chung kết tại Sân vận động Ernst Happel, Viên. Tây Ban Nha đánh bại Đức 1-0 với bàn thắng duy nhất của Fernando Torres ở phút thứ 33. Đây là danh hiệu lớn đầu tiên của Tây Ban Nha kể từ năm 1964.Tây Ban Nha cũng là đội ghi được nhiều bàn nhất với 12 bàn thắng, David Villa giành danh hiệu vua phá lưới, Xavi được bầu chọn là cầu thủ hay nhất giải, và có tới chín cầu thủ của Tây Ban Nha được chọn vào đội hình tiêu biểu của giải.
Cúp Liên đoàn các châu lục 2009
Luis Aragonés đã quyết định ra đi trong vinh quang sau khi giành chức vô địch Euro 2008, người lên thay là Vicente del Bosque.
Năm 2008,David Villa ghi được 16 bàn/15 trận, phá vỡ kỷ lục của Raúl. Ngày 11 tháng 2 năm 2009, anh tiếp tục lập kỷ lục với bàn thắng vào lưới Đội tuyển Anh, trở thành cầu thủ Tây Ban Nha đầu tiên ghi bàn trong sáu trận liên tiếp.
Tây Ban Nha thắng cả ba trận vòng bảng của Confed Cup 2009. Trận thắng New Zealand 5-0, Torres cũng lập kỷ lục khi lập cú hat-trick nhanh nhất lịch sử. Hai trận đấu còn lại, Tây Ban Nha thắng Iraq 1-0 và thắng Nam Phi 2-0.
Ngày 24 tháng 6, kỉ lục bất bại 35 trận liên tiếp của Tây Ban Nha bị phá vỡ khi họ để thua Mỹ 2-0 ở bán kết. Tây Ban Nha đánh bại Nam Phi 3-2 sau hiệp phụ tại trận tranh giải ba.
World Cup 2010
Xem thêm:Giải vô địch bóng đá thế giới 2010, Trận chung kết Giải vô địch bóng đá thế giới 2010
Tại World Cup 2010, Tây Ban Nha nằm ở bảng H cùng với Thụy Sĩ, Honduras và Chile. Tây Ban Nha thua 1-0 ở trận mở màn với Thụy Sĩ. Ở trận đấu thứ hai, họ đánh bại Honduras với hai bàn thắng của David Villa. Trận đấu cuối cùng của vòng bảng, vào ngày 25/6 với Chile kết thúc với chiến thắng 2-1.Tây Ban Nha giành quyền vào vòng knock-out, thắng Bồ Đào Nha 1-0, tứ kết họ tiếp tục thắng Paraguay 1-0 để giành quyền vào bán kết.
Tây Ban Nha lần đầu tiên vào đến một trận Chung kết World Cup từ năm 1950 khi đánh bại Đức 1-0 ở bán kết với bàn thắng duy nhất tới từ cú đánh đầu của Carles Puyol.
Trận chung kết với Hà Lan diễn ra không bàn thắng trong suốt 90 phút, buộc hai đội phải bước vào hiệp phụ. Andrés Iniesta ghi bàn thắng duy nhất của trận đấu từ đường kiến tạo của Cesc Fàbregas ở phút thứ 116 tại hiệp phụ thứ 2. Qua đó, đội bóng đã giành chức vô địch World Cup lần đầu tiên.
Tây Ban Nha cũng giành được giải thưởng Fair play của FIFA ngoài ra một số cầu thủ trong đội hình cũng có danh hiệu. Thủ môn Iker Casillas giành danh hiệu Găng tay vàng, David Villa giành Quả bóng đồng và chiếc giày bạc.
Đường tới vinh quang Euro 2012: Nhà vô địch châu Âu lần thứ 3
Vòng loại Euro 2012, Tây Ban Nha nằm ở bảng I với tỉ lệ chiến thắng 100%. Họ đánh bại CH Séc, Scotland, Litva và Liechtenstein để tiến vào vòng chung kết.
VCK Tây Ban Nha nằm ở bảng C, cùng với Ý, Croatia và Cộng hòa Ireland. Trận mở màn với Ý vào ngày 10/6/2012, Ý vượt lên dẫn trước ở phút thứ 61, sau tình huống tấn công chớp nhoáng, Pirlo tung ra đường chuyền chính xác, tiền đạo vào thay người Antonio Di Natale dứt điểm hiểm hóc mở tỉ số của trận đấu,những phút sau đó Tây Ban Nha tìm lại được thế trận, và họ đã có bàn gỡ nhờ công của Cesc Fàbregas.
Trận đấu tiếp theo, với Cộng hòa Ireland vào ngày 14 tháng 6, tiền đạo của Chelsea Fernando Torres lập cú đúp, hai bàn thắng còn lại của David Silva và Cesc Fàbregas giúp Tây Ban Nha đại thắng 4-0. Trận đấu cuối cùng của vòng bảng với Croatia vào ngày 18/6,khó khăn hơn các trận đấu khác, Croatia đã có những cơ hội ghi bàn khá rõ rệt. Khi trận đấu dần đi đến hồi kết, phút thứ 88, Jesús Navas ghi bàn thắng duy nhất của trận đấu, giúp Tây Ban Nha tiến tới tứ kết.
Tứ kết họ đối đầu với Pháp vào ngày 23 tháng 6 năm 2012, Tây Ban Nha mở tỷ số trận đấu, với cú đánh đầu của Xabi Alonso. Họ hoàn tất chiến thắng khi Pedro bị phạm lỗi trong vòng cấm địa, Alonso ghi bàn từ chấm penalty. Giúp Tây Ban Nha thắng 2-0, Xabi Alonso đánh dấu cột mốc 100 trận của anh cho tuyển .
Bán kết, Tây Ban Nha gặp Bồ Đào Nha, đội đã đánh bại Cộng hòa Czech ở tứ kết với bàn thắng muộn của Cristiano Ronaldo. Bồ Đào Nha ép sân ngay từ những phút đầu, tạo ra nhiều cơ hội nhưng không thể chuyển hóa thành bàn thắng. Tây Ban Nha vẫn bình tĩnh phòng ngự buộc trận đấu phải đi vào loạt sút luân lưu. Cao trào được đẩy lên khi Bruno Alves sút hỏng quả penalty thứ 4. Kết quả Tây Ban Nha giành chiến thắng 4-2 trên chấm luân lưu. Đây đã là trận chung kết Euro thứ tư của họ, lần trước vào các năm 1964, 1984 và 2008.
Chung kết Euro 2012, Tây Ban Nha giành chức vô địch khi ghi bốn bàn thắng vào lưới Ý. Hiệp 1, họ nhanh chóng kiểm soát thế trận với hai bàn thắng ở phút thứ 14 do công của David Silva và 41 của Jordi Alba. Hiệp hai, Ý sử dụng lượt thay người cuối cùng của mình, thay Antonio Di Natale bằng Thiago Motta, ngay sau khi vào sân, Motta đã bị chấn thương gân kheo, vì đã hết quyền thay người, Ý chỉ còn thi đấu với 10 cầu thủ. Tây Ban Nha ghi thêm hai bàn thắng trong hiệp 2, nhờ công của Fernando Torres và Juan Mata ở phút thứ 84 và 88, giúp Tây Ban Nha vô địch Euro 2012 lần thứ hai liên tiếp. Đây cũng là danh hiệu thứ 3 liên tiếp của họ sau (Euro 2008 và World Cup 2010). Fernando Torres kết thúc giải với 3 bàn thắng và nhận danh hiệu vua phá lưới.
Tây Ban Nha cũng lập nên một vài kỷ lục sau chức vô địch:
Tây Ban Nha trở thành đội bóng đầu tiên vô địch ba giải đấu lớn liên tiếp (Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012)
Trận Chung kết Euro 2012 có cách biệt lớn nhất (4-0) nhiều hơn 1 bàn so với trận chung kết năm 1972 (Tây Đức 3-0 Liên Xô)
Tây Ban Nha trở thành đội bóng thành công nhất lịch sử Euro, cùng với đội tuyển Đức (ba danh hiệu vô địch)
Tây Ban Nha trở thành đội có hiệu số bàn thắng lớn nhất lịch sử Euro, 12-1.
Cúp Liên đoàn các châu lục 2013
Tây Ban Nha bắt đầu Confed Cup 2013 bằng trận thắng 2-1 trước Uruguay, trận đấu mà Tây Ban Nha kiểm soát hoàn toàn thế trận, tung ra 9 cú sút trúng đích, trong khi Uruguay chỉ có 1 và cũng là cú sút mang lại bàn thắng của Luis Suárez. Trận đấu thứ hai của vòng bảng với Tahiti, Tây Ban Nha đã phá kỷ lục về trận thắng đậm nhất của FIFA, 10-0, với cú poker của Fernando Torres và hat-trick của David Villa. Trận đấu cuối cùng họ thắng Nigeria 3-0, hoàn tất vòng bảng với ba trận toàn thắng.
Trong trận bán kết với Đội tuyển Ý, hòa 0-0 trong cả thời gian đá chính và hiệp phụ, Tây Ban Nha đã thắng 7-6 trên chấm penalty khi Jesús Navas thực hiện thành công còn Bonucci đá hỏng, giúp Tây Ban Nha tiến tới trận chung kết Confed Cup đầu tiên, nhưng lại để thua Brazil 3-0. Họ được an ủi với danh hiệu chiếc giày vàng cho Fernando Torres.
Giải vô địch bóng đá thế giới 2014
Tại giải đấu này, với tư cách đương kim vô địch, Tây Ban Nha được đánh giá là một trong những ứng cử viên của chức vô địch. Họ được bốc thăm vào một bảng đấu được đánh giá không khó khăn gồm Hà Lan, Chile và Úc. Trận đấu đầu tiên của họ tái hiện trận chung kết World Cup 2010. Tây Ban Nha dẫn trước nhờ cú phạt đền thành công của Xabi Alonso, nhưng Hà Lan mới chứng tỏ họ là đội mạnh hơn. Tây Ban Nha mất điều khiển trận đấu và thất bại với tỉ số bất ngờ 1-5. Trận tiếp theo gặp Chile để duy trì hi vọng nhưng Tây Ban Nha tiếp tục thua 0-2. Với hai trận thất bại, Tây Ban Nha trở thành một trong những đội đầu tiên bị loại khỏi giải này và gia nhập vào danh sách những nhà đương kim vô địch thế giới bị chính thức loại ở vòng bảng World Cup cùng với Brasil năm 1966, Pháp năm 2002 và Ý năm 2010 (Ý cũng bị loại từ vòng bảng World Cup 1950). Ở trận đấu cuối cùng, Tây Ban Nha thắng Úc với tỉ số 3-0 để kết thúc giải ở vị trí thứ ba bảng đấu.
Giải vô địch bóng đá châu Âu 2016
Tây Ban Nha đến với Euro 2016 với mục tiêu là để bảo vệ thành công ngôi vô địch. Ở giải đấu này, Tây Ban Nha nằm cùng bảng với các đội , và ; kết thúc vòng bảng, Tây Ban Nha xếp thứ hai sau Croatia, lọt vào vòng 16 đội nhưng thất bại chung cuộc trước . Sau Euro 2016, huấn luyện viên Vicente del Bosque giã từ sự nghiệp huấn luyện.
Giải vô địch bóng đá thế giới 2018
Tây Ban Nha mở màn World Cup 2018 với trận hòa 3-3 trước , đây là trận đấu TBN có 3 bàn thắng của Diego Costa và Nacho Fernández còn BĐN là hattrick của Cristiano Ronaldo. Trận đấu thứ hai, Tây Ban Nha dành chiến thắng 1-0 trước với bàn thắng của Diego Costa. Lượt trận thứ 3, TBN hòa 2-2 bằng các bàn thắng của Isco, Iago Aspas để có ngôi đầu bảng. Bước vào vòng 16 đội, Tây Ban Nha gặp chủ nhà , trận đấu mở màn bằng bàn phản lưới nhà của lão tướng Sergei Ignashevich bên phía Nga, phút 41 trận đấu Gerard Piqué để bóng chạm tay vô duyên trong vòng cấm và Artem Dzyuba chớp lấy cơ hội để gỡ hòa. Hai đội kéo nhau vào penalty, tại đây Tây Ban Nha để thủ thành Igor Akinfeev cản phá 2 quả pen và thua với tỉ số 4-3 trên loạt đấu súng. Fernando Hierro cùng các học trò đã phải dừng bước đầy tiếc nuối.
Phong cách thi đấu
Tiqui-Taca là lối chơi sử dụng các đường chuyền ngắn nhằm nâng cao tỉ lệ kiểm soát bóng. Sơ đồ chiến thuật lý tưởng cho Tiqui-Taca là 4-3-3, hay đôi khi có biến thể là 4-1-2-3 và 3-4-3. Bên cạnh đó, đi kèm phải là lối tấn công phối hợp nhóm và phòng ngự khu vực đạt độ ăn ý cao.
Tiqui-Taca là chuyền và chạy. Bóng được chuyền sệt, và chuyền liên tục từ cầu thủ này sang cầu thủ khác. Các cầu thủ không có bóng phải linh động di chuyển để đón bóng. Nhưng vì chỉ tăng tốc và di chuyển trong phạm vi ngắn nên cầu thủ mất sức không nhiều; ngược lại, đội đối phương nếu không thích nghi sẽ bị mất sức do đeo bám và dễ bị rối loạn đội hình.
Barcelona và Tây Ban Nha đã gây dựng một tiqui-taca gần như hoàn hảo và nó đang ngày càng phổ biến trên toàn thế giới. Tất cả các đội trẻ của Barcelona hiện giờ đều phải học đá và vận hành chiến thuật theo kiểu tiqui-taca.
Logo và trang phục thi đấu
Logo chính thức của Đội tuyển Tây Ban Nha là hình Quốc huy với phía trên là số 1909 tương ứng với năm thành lập Liên đoàn, phía dưới là một dải băng in 4 chữ "RFEF" là viết tắt của Real Federación Española de Fútbol ("Liên đoàn Bóng đá Hoàng gia Tây Ban Nha" trong tiếng Tây Ban Nha) và một quả bóng ở giữa. Tại các kỳ World Cup, một ngôi sao vàng sẽ được in lên trên cùng, tượng trung cho một lần vô địch.
Trang phục thi đấu truyền thống của Đội tuyển Tây Ban Nha là áo màu đỏ, quần xanh đậm hoặc đen, tất đỏ hoặc đen hay xanh đậm. Trang phục thi đấu phụ hiện tại là màu áo trắng với hoa văn màu đỏ hoặc vàng, quần trắng và tất trắng. Đội cũng từng sử dụng màu áo thi đấu phụ là màu đen hay xanh da trời.
Tài trợ trang phục
Giải đấu
Giải vô địch bóng đá thế giới
Giải vô địch bóng đá châu Âu
Cúp Liên đoàn các châu lục
UEFA Nations League
Thế vận hội
(Nội dung thi đấu dành cho cấp đội tuyển quốc gia cho đến kỳ Đại hội năm 1988)
Kỷ lục
Đội bóng
Số trận bất bại liên tiếp 35 trận (2007-2009) (bằng với từ 1993-1996)
Số trận thắng liên tiếp (bao gồm cả giao hữu) 15 trận (2008-2009)
Số trận bất bại liên tiếp ở các giải đấu chính thức của FIFA28 trận (2010-2013)
Số trận thắng nhiều nhất bởi 1 huấn luyện viên nước ngoài 13 trận - Vicente del Bosque
Số điểm cao nhất ở vòng loại World Cup 30/30 điểm World Cup 2010, vòng loại bảng 5
Đội vô địch World Cup để thủng lưới ít nhất2 bàn - World Cup 2010 (bằng với , 1998 và , 2006)
Cầu thủ
Số trận khoác áo nhiều nhất180- Sergio Ramos
Số bàn thắng nhiều nhất59 - David Villa
Số bàn thắng ghi được nhiều nhất trong 1 mùa giải13 - David Villa (2008-2009)
Số hattrick ghi được nhiều nhất3 - Fernando Torres và David Villa
Số trận ghi bàn liên tiếp6 - David Villa
Số bàn thắng ghi được nhiều nhất ở World Cup8 - David Villa
Số bàn thắng ghi được nhiều nhất ở một kỳ World Cup5 - Emilio Butragueño(1986) & David Villa(2010)
Số trận ghi bàn liên tiếp ở World Cup4 - David Villa(2010)
Số bàn thắng ghi được nhiều nhất ở Euro5 - Fernando Torres
Số bàn thắng ghi được nhiều nhất ở một kỳ Euro4 - David Villa
Số bàn thắng ghi được nhiều nhất ở Confed Cup8 - Fernando Torres
Số bàn thắng ghi được nhiều nhất ở một kỳ Confed Cup5 - Fernando Torres
Danh sách cầu thủ khoác áo đội tuyển nhiều nhất
Danh sách cầu thủ khoác áo đội tuyển nhiều nhất tính đến ngày 6 tháng 12 năm 2022:
Các cầu thủ in đậm vẫn đang thi đấu cho đội tuyển.
Danh sách cầu thủ ghi bàn cho đội tuyển nhiều nhất
Danh sách cầu thủ ghi bàn cho đội tuyển nhiều nhất tính đến ngày 18 tháng 6 năm 2022:
Số lần ghi bàn trên chấm phạt đền
Tính đến ngày 14 tháng 6 năm 2015, có tất cả năm cầu thủ ghi từ 5 bàn thắng trở lên trên chấm phạt đền cho đội tuyển:
Huấn luyện viên
Lịch đấu
2023
Đội hình
Đây là đội hình đã hoàn thành UEFA Nations League 2022–23 vào tháng 6 năm 2023.
Số liệu thống kê tính đến ngày 18 tháng 6 năm 2023 sau trận gặp .
Triệu tập gần đây
Chú thích:
COV Cầu thủ rút lui do dương tính với COVID-19
INJ Cầu thủ rút lui vì chấn thương
PRE Danh sách sơ bộ.
RET Cầu thủ đã giã từ đội tuyển quốc gia
Chú thích |
Đội tuyển bóng đá quốc gia Ý () đại diện cho Ý ở đấu trường quốc tế kể từ trận đấu đầu tiên vào năm 1910. Đội tuyển quốc gia được kiểm soát bởi Liên đoàn bóng đá Ý (FIGC), cơ quan quản lý bóng đá ở Ý, là người đồng sáng lập và là thành viên của UEFA. Các trận đấu trên sân nhà của Ý được diễn ra tại nhiều sân vận động khác nhau trên khắp nước Ý, và trụ sở kỹ thuật và sân tập chính của đội, Centro Tecnico Federale di Coverciano, được đặt tại Firenze. Ý là nhà vô địch châu Âu, đã giành chức vô địch UEFA Euro 2020.
Ý là một trong những đội tuyển quốc gia thành công nhất trong lịch sử bóng đá. Đội từng 4 lần vô địch World Cup (1934, 1938, 1982, 2006) và góp mặt ở hai trận chung kết khác (1970, 1994), một lần giành vị trí thứ ba (1990) và một lần giành vị trí thứ tư (1978). Ý cũng đã giành được hai chức vô địch châu Âu (1968, 2020) và góp mặt trong hai trận chung kết khác của giải đấu (2000, 2012). Đội tuyển Ý cũng giành được vị trí thứ hai tại CONMEBOL–UEFA Cup of Champions năm 2022, và vị trí thứ ba tại FIFA Confederations Cup năm 2013 và tại UEFA Nations League vào các năm 2021, 2023.
Đội được gọi với biệt danh là Gli Azzurri (Binh đoàn thiên thanh), vì màu xanh thiên thanh là màu sắc chung của các đội tuyển quốc gia đại diện cho Ý, nó là màu sơn truyền thống của Vương tộc Savoia, triều đại trị vì Vương quốc Ý. Năm 1938, Ý trở thành đội đầu tiên bảo vệ được chức vô địch World Cup và do Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Ý đã giữ được danh hiệu này thêm 12 năm nữa. Ý trước đó cũng đã giành được hai Cúp Quốc tế Trung Âu (1927–30, 1933–35). Giữa hai lần vô địch World Cup đầu tiên, Ý đã vô địch giải bóng đá Olympic (1936). Sau khi phần lớn đội thiệt mạng trong một vụ tai nạn máy bay năm 1949, Ý đã có những kết quả tệ hại trong những năm 1950, thậm chí không thể vượt qua vòng loại World Cup 1958. Việc không đủ điều kiện tham dự World Cup đã không xảy ra lần nữa cho đến các mùa giải liên tiếp 2018 và 2022. Đội đã bất bại từ tháng 10 năm 2018 đến tháng 10 năm 2021 và giữ kỷ lục thế giới về số trận bất bại liên tiếp (37).
Ý có sự cạnh tranh đáng chú ý với các quốc gia bóng đá khác, chẳng hạn như Brasil, Croatia, Pháp, Đức và Tây Ban Nha. Tại Bảng xếp hạng bóng đá nam FIFA, có hiệu lực từ tháng 8 năm 1993, Ý đã nhiều lần chiếm vị trí đầu tiên, vào tháng 11 năm 1993 và trong suốt năm 2007 (tháng 2, tháng 4–tháng 6, tháng 9), với vị trí kém nhất vào tháng 8 năm 2018 ở vị trí thứ 21.
Lịch sử
Khởi đầu và hai danh hiệu World Cup đầu tiên vào các năm 1934 và 1938
Một nỗ lực ban đầu để thành lập một đội tuyển quốc gia Ý diễn ra vào ngày 30 tháng 4 năm 1899, khi tuyển Ý đấu với đội hình 11 người Thụy Sĩ, thua 0–2 tại Torino. Trận đấu chính thức đầu tiên của đội được tổ chức tại Milan vào ngày 15 tháng 5 năm 1910. Ý đánh bại Pháp với tỷ số 6–2, với bàn thắng đầu tiên của Ý do Pietro Lana ghi bàn. Đội Ý thi đấu với hệ thống (2–3–5) và bao gồm: De Simoni; Varisco, Calì; Trerè, Fossati, Capello; Debernardi, Rizzi, Cevenini I, Lana, Boiocchi. Đội trưởng đầu tiên của đội là Francesco Calì.
Thành công đầu tiên trong một giải đấu chính thức đến với huy chương đồng tại Thế vận hội Mùa hè 1928, được tổ chức tại Amsterdam. Sau khi thua trận bán kết trước Uruguay, chiến thắng 11–3 trước Ai Cập đã đảm bảo vị trí thứ ba trong giải đấu. Tại 1927–30 và 1933–35 Cúp Quốc tế Trung Âu, Ý giành vị trí đầu tiên trong số năm đội Trung Âu, đứng đầu bảng với 11 điểm trong cả hai phiên bản của giải đấu. Ý sau đó cũng giành được huy chương vàng tại Thế vận hội Mùa hè 1936 với chiến thắng 2–1 trong hiệp phụ trong trận tranh huy chương vàng trước Áo vào ngày 15 tháng 8 năm 1936.
Sau khi từ chối tham dự kỳ World Cup khai mạc (1930, tại Uruguay), đội tuyển quốc gia Ý đã vô địch hai giải đấu liên tiếp vào năm 1934 và 1938, dưới sự chỉ đạo của huấn luyện viên Vittorio Pozzo và màn trình diễn của Giuseppe Meazza, người được coi là một trong những những cầu thủ bóng đá Ý hay nhất mọi thời đại của một số người. Ý đăng cai Giải vô địch bóng đá thế giới 1934, và chơi trận đấu đầu tiên tại Giải vô địch thế giới với chiến thắng 7–1 trước Hoa Kỳ tại Rome. Ý đánh bại Tiệp Khắc 2–1 trong hiệp phụ trong trận chung kết ở Rome, với các bàn thắng của Raimundo Orsi và Angelo Schiavio để đạt danh hiệu vô địch thế giới đầu tiên vào năm 1934. Họ giành được danh hiệu thứ hai vào năm 1938 trong trận thắng 4–2 trước Hungary, với hai bàn thắng của Gino Colaussi và hai bàn thắng của Silvio Piola ở World Cup sau đó. Có tin đồn, trước trận chung kết năm 1938, Thủ tướng Ý phát xít Benito Mussolini đã gửi một bức điện cho đội, nói rằng "Vincere o morire!" (được dịch theo nghĩa đen là "Thắng hoặc chết!"). Tuy nhiên, không có hồ sơ nào về một bức điện như vậy, và cầu thủ World Cup Pietro Rava đã nói khi được phỏng vấn: "Không, không, không, điều đó không đúng. Anh ấy đã gửi một bức điện chúc chúng tôi may mắn, nhưng không bao giờ 'thắng hoặc chết."
1946–1966: Hậu Thế chiến II
Năm 1949, 10 trong số 11 cầu thủ trong đội hình ban đầu của đội đã thiệt mạng trong một vụ tai nạn máy bay ảnh hưởng đến Torino, đội đã giành 5 chức vô địch Serie A trước đó. Ý đã không tiến xa hơn vòng đầu tiên của World Cup 1950, vì họ đã suy yếu nghiêm trọng do thảm họa hàng không. Đội đã di chuyển bằng thuyền chứ không phải bằng máy bay vì lo sợ một tai nạn khác.
Trong các trận chung kết World Cup 1954 và 1962, Ý không thể vượt qua vòng đầu tiên và không đủ điều kiện tham dự World Cup 1958 do thất bại 1–2 trước Bắc Ireland trong trận đấu cuối cùng của vòng loại. Ý đã không tham gia phiên bản đầu tiên của Giải vô địch châu Âu vào năm 1960 (khi đó được gọi là Cúp các quốc gia châu Âu), và bị Liên Xô loại ở vòng đầu tiên của vòng loại Cúp các quốc gia châu Âu năm 1964.
Việc họ tham dự World Cup 1966 đã kết thúc bằng thất bại 0–1 dưới tay CHDCND Triều Tiên. Mặc dù là ứng cử viên được yêu thích nhất của giải đấu, Azzurri, với đội hình năm 1966 bao gồm Gianni Rivera và Giacomo Bulgarelli, đã bị loại ở vòng đầu tiên bởi những người Bắc Triều Tiên bán chuyên nghiệp. Đội tuyển Ý đã bị lên án gay gắt khi trở về nhà, trong khi cầu thủ ghi bàn của Bắc Triều Tiên Pak Doo-ik được tôn vinh là chàng David đã giết Goliath. Khi tuyển Ý trở về nhà, những người hâm mộ tức giận đã ném trái cây và cà chua thối vào xe buýt chở họ ở sân bay.
1968–1974: Vô địch châu Âu và á quân World Cup
nhỏ|212x212px|Đội trưởng Giacinto Facchetti nâng cúp UEFA Euro 1968
Năm 1968, Ý tham gia Giải vô địch châu Âu đầu tiên của họ, tổ chức Giải vô địch châu Âu và giành chức vô địch giải đấu lớn đầu tiên kể từ World Cup 1938, đánh bại Nam Tư tại Rome để giành danh hiệu. Trận đấu là trận chung kết Giải vô địch châu Âu hoặc Giải vô địch thế giới duy nhất phải đá lại. Sau hiệp phụ, trận chung kết kết thúc với tỷ số hòa 1–1, và trong những ngày trước loạt sút luân lưu, luật yêu cầu trận đấu phải được đá lại vài ngày sau đó. Ý đã thắng trận đá lại 2–0 (với các bàn thắng của Gigi Riva và Pietro Anastasi) để giành cúp.
Tại World Cup 1970, khai thác màn trình diễn của các cầu thủ vô địch châu Âu như Giacinto Facchetti, Gianni Rivera và Gigi Riva cùng với một trung vệ mới Roberto Boninsegna, đội đã có thể trở lại một trận chung kết World Cup sau 32 năm. Họ đạt được kết quả này sau một trong những trận đấu nổi tiếng nhất trong lịch sử bóng đá—"Trận đấu của thế kỷ", trận bán kết Giải vô địch bóng đá thế giới 1970 giữa Ý và Tây Đức mà Ý đã thắng 4–3 trong hiệp phụ, với năm trong số bảy bàn thắng được ghi. trong hiệp phụ. Sau đó, họ bị Brasil đánh bại 4–1 trong trận chung kết.
Chu kỳ thành công quốc tế đã kết thúc tại World Cup 1974, nơi đội bị loại ở vòng bảng sau trận thua 2–1 trước Ba Lan trong trận đấu cuối cùng của bảng.
1978–1986: Thế hệ thứ ba tại World Cup
Tại World Cup 1978 ở Argentina, một thế hệ cầu thủ Ý mới, nổi tiếng nhất là Paolo Rossi, bước ra đấu trường quốc tế. Ý là đội duy nhất trong giải đấu đánh bại nhà vô địch cuối cùng và đội chủ nhà Argentina. Các trận đấu ở vòng hai với Tây Đức (0–0), Áo (1–0) và Hà Lan (1–2) đã đưa Ý đến trận chung kết tranh hạng ba, nơi đội bị Brasil đánh bại 2–1. Trong trận đấu loại Ý khỏi giải đấu với Hà Lan, thủ môn Ý Dino Zoff đã bị đánh bại bởi một cú sút xa của Arie Haan, và Zoff đã bị chỉ trích vì thất bại. Ý đăng cai Euro 1980, giải đấu đầu tiên được tổ chức giữa tám đội thay vì bốn đội, tự động đủ điều kiện tham dự vòng chung kết với tư cách chủ nhà. Sau hai trận hòa với Tây Ban Nha và Bỉ và chiến thắng sít sao 1–0 trước Anh, Ý đã bị Tiệp Khắc đánh bại trong trận tranh hạng ba trên chấm phạt đền 9–8 sau khi Fulvio Collovati sút hỏng quả đá phạt.
Sau vụ bê bối ở Serie A, nơi một số cầu thủ của đội tuyển Quốc gia như Paolo Rossi bị truy tố và treo giò vì dàn xếp tỷ số và cá cược bất hợp pháp, Azzurri đã vượt qua vòng loại thứ hai của World Cup 1982 sau ba trận hòa tẻ nhạt trước Ba Lan, Peru và Cameroon. Bị chỉ trích ầm ĩ, đội tuyển Ý quyết định cấm báo chí từ đó trở đi, chỉ có huấn luyện viên Enzo Bearzot và đội trưởng Dino Zoff được chỉ định phát biểu trước báo giới. Italia tập hợp lại ở bảng 2, bảng tử thần với Argentina và Brasil. Trong trận mở màn, Ý thắng Argentina 2–1, với các bàn thắng của Ý, đều bởi những tiền đạo thuận chân trái, được ghi bởi Marco Tardelli và Antonio Cabrini. Sau khi Brazil đánh bại Argentina 3–1, Ý cần phải thắng để tiến vào bán kết. Hai lần Ý vươn lên dẫn trước nhờ các bàn thắng của Paolo Rossi và hai lần Brasil lội ngược dòng. Khi Falcão ghi bàn nâng tỷ số lên 2–2, lẽ ra Brasil đã vượt qua nhờ hiệu số bàn thắng bại, nhưng ở phút thứ 74, Rossi đã ghi bàn thắng ấn định chiến thắng, cho một cú hat-trick, trong một vòng cấm địa đông đúc để đưa Ý vào bán kết sau một những trận đấu vĩ đại nhất trong lịch sử World Cup.
Ý sau đó tiến vào trận bán kết, nơi họ đánh bại Ba Lan với hai bàn thắng của Rossi. Trong trận chung kết, Ý gặp Tây Đức, đội đã giành chiến thắng trong loạt sút luân lưu trước Pháp. Hiệp một kết thúc không có tỷ số, sau khi Antonio Cabrini bỏ lỡ quả phạt đền do Hans-Peter Briegel phạm lỗi với Bruno Conti. Trong hiệp hai, Paolo Rossi một lần nữa ghi bàn thắng đầu tiên, và trong khi người Đức đang dâng cao tấn công để tìm kiếm bàn gỡ hòa, Marco Tardelli và cầu thủ vào thay người Alessandro Altobelli đã kết thúc hai pha phản công khéo léo để nâng tỷ số lên 3–0. Paul Breitnerghi bàn thắng an ủi cho Tây Đức ở phút thứ bảy sau khi kết thúc trận đấu.
Tiếng hét của Tardelli "Gol! Gol!" là một trong những hình ảnh xác định chiến thắng World Cup 1982 của Ý. Paolo Rossi giành Chiếc giày vàng với sáu bàn thắng cũng như giải Quả bóng vàng cho cầu thủ xuất sắc nhất giải đấu, và thủ môn đội trưởng 40 tuổi Dino Zoff trở thành cầu thủ lớn tuổi nhất vô địch World Cup. Tuy nhiên, Ý không đủ điều kiện tham dự Euro 1984. Ý sau đó tham gia với tư cách là nhà đương kim vô địch tại World Cup 1986 nhưng bị loại bởi nhà đương kim vô địch châu Âu, Pháp, ở vòng 16 đội.
1986–1994: Á quân World Cup
Năm 1986, Azeglio Vicini được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng mới, thay thế Bearzot. Huấn luyện viên mới nhường cơ hội cho các cầu thủ trẻ, chẳng hạn như Ciro Ferrara và Gianluca Vialli: Tiền đạo của Sampdoria ghi bàn giúp Ý tham dự UEFA Euro 1988. Anh cũng được cho là người kế vị có thể của Altobelli, có thái độ mục tiêu giống như ông. Cả hai tiền đạo đều sút tung lưới Đức, nơi Liên Xô đánh bại Azzurri ở bán kết.
Ý tổ chức World Cup lần thứ hai vào năm 1990. Hàng công của Ý nổi bật với tiền đạo tài năng Salvatore Schillaci và Roberto Baggio trẻ tuổi. Ý đã chơi gần như tất cả các trận đấu của họ ở Rome và không để thủng lưới bàn nào trong năm trận đầu tiên; tuy nhiên, họ đã thua trong trận bán kết ở Napoli trước đương kim vô địch Argentina. Cầu thủ người Argentina Maradona, người từng chơi cho Napoli, đã đưa ra nhận xét trước trận đấu liên quan đến sự bất bình đẳng Bắc-Nam ở Ý và risorgimento, yêu cầu người Neapolitan cổ vũ Argentina trong trận đấu. Ý thua 4–3 trên chấm phạt đền sau khi hòa 1–1 sau hiệp phụ. Bàn mở tỷ số trong hiệp một của Schillaci đã bị gỡ hòa trong hiệp hai bởi pha đánh đầu của Claudio Caniggia cho Argentina. Aldo Serena sút hỏng quả phạt đền cuối cùng với Roberto Donadoni cũng bị thủ môn Sergio Goycochea cản phá quả phạt đền. Ý tiếp tục đánh bại Anh 2–1 trong trận tranh hạng ba tại Bari, với Schillaci ghi bàn thắng quyết định trên chấm phạt đền để trở thành vua phá lưới của giải đấu với sáu bàn thắng. Ý sau đó không đủ điều kiện tham dự UEFA Euro 1992. Vào tháng 11 năm 1993, lần đầu tiên FIFA xếp Ý ở vị trí đầu tiên trong Bảng xếp hạng FIFA kể từ khi hệ thống xếp hạng được giới thiệu vào tháng 12 năm 1992.
Tại FIFA World Cup 1994 ở Hoa Kỳ, Ý đã thua trận mở màn trước Ireland với tỷ số 0–1 tại Sân vận động Giants gần Thành phố New York. Sau chiến thắng 1–0 trước Na Uy tại Thành phố New York và trận hòa 1–1 với México tại Sân vận động RFK ở Washington, D.C., Ý vượt qua Bảng E dựa trên số bàn thắng ghi được giữa bốn đội bằng điểm. Trong trận đấu ở vòng 16 tại Sân vận động Foxboro gần Boston, Ý đã thất bại muộn 0–1 trước Nigeria, nhưng Baggio đã giải cứu Ý bằng bàn gỡ hòa ở phút 88 và một quả phạt đền trong hiệp phụ để mang về chiến thắng. Baggio ghi một bàn thắng muộn khác vào lưới Tây Ban Nha tại trận tứ kết của họ ở Boston để ấn định chiến thắng 2–1 và hai bàn thắng vào lưới Bulgaria trong trận bán kết của họ ở Thành phố New York để giành chiến thắng 2–1 khác.
Trong trận chung kết, diễn ra tại sân vận động Rose Bowl ở Los Angeles cách 2.700 dặm (4.320 km) và ba múi giờ so với phần Đông Bắc Đại Tây Dương của Hoa Kỳ, nơi họ đã chơi tất cả các trận trước đó, Ý, đội có 24 giờ ít nghỉ ngơi hơn Brasil, chơi 120 phút không bàn thắng, đưa trận đấu đến loạt sút luân lưu, lần đầu tiên một trận chung kết World Cup được giải quyết bằng loạt sút luân lưu. Ý thua loạt luân lưu sau đó với tỷ số 3–2 sau khi Baggio, người đã thi đấu với sự hỗ trợ của một mũi tiêm thuốc giảm đau và gân khoeo bị băng bó nặng nề, đá hỏng quả phạt đền cuối cùng của trận đấu, sút dội xà ngang.
1996–2000: Á quân Giải vô địch châu Âu
Sau khi vượt qua vòng loại UEFA Euro 1996 bằng điểm với Croatia, Ý đã không vượt qua vòng bảng ở giải đấu cuối cùng. Đánh bại Nga với tỷ số 2–1 nhưng để thua Cộng hòa Séc với tỷ số tương tự, Ý cần phải thắng trong trận đấu cuối cùng của vòng bảng để tiến vào tứ kết. Gianfranco Zola không thực hiện được quả phạt đền quyết định trong trận hòa 0–0 trước Đức, đội cuối cùng đã vô địch giải đấu.
Tụt xuống vị trí thứ hai sau Anh trong chiến dịch vòng loại cho World Cup 1998, Ý giành một suất tham dự giải đấu cuối cùng sau khi đánh bại Nga trong trận play-off, với bàn thắng quyết định của Pierluigi Casiraghi trong chiến thắng chung cuộc 2–1 vào ngày 15 tháng 11 năm 1997. Sau khi đứng nhất bảng và vượt qua Na Uy ở vòng hai, Ý phải đối mặt với loạt sút luân lưu ở tứ kết, lần thứ ba liên tiếp khi tham dự World Cup. Phía Ý, nơi Alessandro Del Piero và Baggio làm mới bộ đôi tiếp sức gây tranh cãi giữa Mazzola và Rivera từ năm 1970, đã cầm hòa nhà vô địch thế giới cuối cùng và đội chủ nhà, Pháp, với tỷ số hòa 0–0 sau hiệp phụ, nhưng thua 4–3 trong loạt đá luân lưu. Với hai bàn thắng ghi được trong giải đấu này, Baggio vẫn là cầu thủ Ý duy nhất ghi bàn trong ba kỳ FIFA World Cup khác nhau.
Hai năm sau, Ý phải đối mặt với một loạt sút luân lưu khác tại UEFA Euro 2000 nhưng đã giành chiến thắng trước đội đồng chủ nhà, Hà Lan trong trận bán kết. Thủ môn người Ý Francesco Toldo cản phá được một quả phạt đền trong trận đấu và hai quả phạt đền trong loạt sút luân lưu, trong khi các cầu thủ Hà Lan sút hỏng một quả phạt đền khác trong trận đấu và một quả phạt đền trong loạt sút luân lưu với tỷ lệ một quả phạt đền được ghi trong sáu lần thực hiện. Tiền đạo Francesco Totti đã ghi bàn thắng trên chấm phạt đền bằng cú chip cucchiaio ("thìa"). Ý kết thúc giải đấu với vị trí á quân, thua chung cuộc 1–2 trước Pháp (bàn thắng vàng trong hiệp phụ) sau khi để thủng lưới bàn gỡ hòa chỉ 30 giây trước khi hết thời gian bù giờ. Sau thất bại, huấn luyện viên Dino Zoff đã từ chức để phản đối sau khi bị chủ tịch câu lạc bộ AC Milan và chính trị gia Silvio Berlusconi chỉ trích.
2000–2004: Kỷ nguyên Trapattoni
Giovanni Trapattoni phụ trách đội vào tháng 7 năm 2000 sau khi Dino Zoff từ chức. Chơi ở Nhóm 8 của quá trình vòng loại FIFA World Cup 2002, Ý đã bất bại sau khi đối đầu với România, Georgia, Hungary và Litva. Ở vòng chung kết, chiến thắng 2–0 trước Ecuador với cú đúp của Christian Vieri, sau đó là một loạt trận tranh cãi. Trong trận đấu với Croatia, trọng tài người Anh Graham Poll đã không công nhận hai bàn thắng dẫn đến thất bại 1–2 cho Ý. Bất chấp hai bàn thua do lỗi việt vị, bàn thắng muộn bằng đầu của Alessandro Del Piero đã giúp Ý có trận hòa 1–1 với México, đủ để tiến vào vòng loại trực tiếp.
Đồng chủ nhà Hàn Quốc đã loại Ý ở vòng 16 đội với tỷ số 2–1. Trận đấu gây tranh cãi với các thành viên của đội Ý, đáng chú ý nhất là tiền đạo Francesco Totti và huấn luyện viên Giovanni Trapattoni, cho thấy một âm mưu loại Ý khỏi giải đấu. Trapattoni thậm chí còn cáo buộc FIFA ra lệnh cho quan chức này đảm bảo Hàn Quốc thắng để một trong hai quốc gia chủ nhà tiếp tục tham dự giải đấu. Các quyết định gây tranh cãi nhất của trọng tài Byron Moreno là quả phạt đền sớm được trao cho Hàn Quốc (do Buffon cản phá), bàn thắng vàng của Damiano Tommasi bị thổi phạt việt vị, và việc Totti bị đuổi khỏi sân sau khi nhận thẻ vàng thứ hai vì hành vi ăn vạ trong vòng cấm. Chủ tịch FIFA Sepp Blatter tuyên bố rằng các trọng tài biên là một "thảm họa" và thừa nhận rằng Ý đã mắc phải những lỗi việt vị tồi tệ trong các trận đấu vòng bảng, nhưng ông bác bỏ các cáo buộc âm mưu. Trong khi đặt câu hỏi về việc Totti bị Moreno đuổi khỏi sân, Blatter từ chối đổ lỗi hoàn toàn trận thua của Ý cho các trọng tài, nói rằng: "Việc Ý bị loại không chỉ do trọng tài và trọng tài biên mắc lỗi không tính trước. Ý đã phạm sai lầm cả trong phòng ngự và tấn công."
Trapattoni tiếp tục huấn luyện đội tuyển Ý tham dự UEFA Euro 2004 tại Bồ Đào Nha. Anh ấy đã hướng dẫn đội cán đích ở vị trí đầu tiên trong Nhóm 9 khi vượt qua Wales, Serbia và Montenegro, Phần Lan và Azerbaijan. Với các trận hòa trước Đan Mạch và Thụy Điển cùng với chiến thắng trước Bulgaria ở bảng C, Ý đã bị loại sau tỷ số 5 điểm ba bên dựa trên số bàn thắng ghi được trong các trận đấu giữa các đội bằng điểm. Thủ môn Gianluigi Buffon và chủ tịch liên đoàn bóng đá Ý khi đó là Franco Carraro cáo buộc các đội Thụy Điển và Đan Mạch dàn xếp kết quả. Bất chấp những lời kêu gọi, người phát ngôn của UEFA khi đó là Robert Faulkner cho biết tổ chức này sẽ không điều tra kết quả.
Sau khi ban đầu từ chối từ chức sau khi Ý bị loại khỏi giải đấu, Liên đoàn bóng đá Ý đã thay thế Tapattoni bằng Marcello Lippi.
Lần thứ tư vô địch World Cup năm 2006
Lippi có trận ra mắt đầu tiên trong trận thua 0–2 trước Iceland vào tháng 8 năm 2004 nhưng cuối cùng đã đủ điều kiện tham dự FIFA World Cup 2006.
Với những tranh cãi đang diễn ra ở giải quốc nội, Ý bước vào giải đấu cuối cùng với tư cách là một trong tám đội hạt giống và được xếp vào Bảng E cùng với Ghana, Hoa Kỳ và Cộng hòa Séc. Ý đã thắng trận mở màn, 2–0, trước đội bóng châu Phi, với các bàn thắng của Andrea Pirlo và cầu thủ vào thay người Vincenzo Iaquinta. Chủ tịch FIFA Sepp Blatter đánh giá màn trình diễn của đội là tốt nhất trong các trận khai mạc. Trận đấu thứ hai với Hoa Kỳ kết thúc với tỷ số hòa 1-1 với cú đánh đầu của Alberto Gilardino gỡ hòa bằng bàn phản lưới nhà của Cristian Zaccardo. Trong trận đấu, De Rossi bị đuổi khỏi sân và sau đó bị treo giò 4 trận vì thúc cùi chỏ vào tiền đạo người Mỹ Brian McBride. Ý đứng đầu bảng E với chiến thắng 2–0 trước Cộng hòa Séc, với các bàn thắng của Marco Materazzi và Filippo Inzaghi, tiến vào vòng loại trực tiếp.
Ở vòng 16 đội, Ý giành chiến thắng 1–0 trước Úc nhờ Francesco Totti ghi một quả phạt đền sau khi trọng tài Luis Medina Cantalejo cho rằng Lucas Neill đã phạm lỗi với Fabio Grosso. Ý vượt qua Ukraina, 3–0, sau khi sớm dẫn trước nhờ công của Gianluca Zambrotta và các bàn thắng bổ sung của Luca Toni. Lippi dành chiến thắng cho cựu tuyển thủ Ý Gianluca Pessotto, người đang ở trong bệnh viện hồi phục sau một nỗ lực tự sát rõ ràng. Ở bán kết, Ý đánh bại chủ nhà Đức 2–0 nhờ các bàn thắng của Fabio Grosso và Alessandro Del Piero ở những phút cuối cùng của hiệp phụ.
Azzurri đã giành chức vô địch World Cup lần thứ tư sau khi đánh bại Pháp trong trận chung kết. Đội trưởng tuyển Pháp Zinedine Zidane đã mở tỷ số từ quả phạt đền ở phút thứ bảy trước khi Materazzi ghi bàn từ một quả phạt góc, mười hai phút sau. Tỉ số vẫn được giữ nguyên dù đến hiệp phụ và Zidane bị đuổi khỏi sân vì húc đầu vào Materazzi. Ý tiếp tục giành chiến thắng trong loạt sút luân lưu với tỷ số 5–3, với việc tất cả các cầu thủ Ý đều ghi bàn.
FIFA đã điền tên bảy cầu thủ Ý — Gianluigi Buffon, Fabio Cannavaro, Gianluca Zambrotta, Andrea Pirlo, Gennaro Gattuso, Francesco Totti và Luca Toni — vào All Star Team 23 cầu thủ của giải đấu. Buffon cũng giành được Giải thưởng Lev Yashin, được trao cho thủ môn xuất sắc nhất giải đấu; anh chỉ để thủng lưới hai bàn trong bảy trận đấu của giải đấu, bàn đầu tiên do Zaccardo phản lưới nhà và bàn thứ hai từ quả phạt đền của Zidane trong trận chung kết, và bất bại trong 460 phút liên tiếp. Để vinh danh Ý giành chức vô địch FIFA World Cup lần thứ tư, các thành viên của đội đã được trao tặng Huân chương Cavaliere của Ý.
2006–2010: Suy tàn sau World Cup
Marcello Lippi, người đã tuyên bố từ chức ba ngày sau chức vô địch World Cup, được thay thế bởi Roberto Donadoni với tư cách là huấn luyện viên mới của Azzurri. Ý thi đấu tại Bảng B Vòng loại UEFA Euro 2008, cùng với Pháp. Ý đứng đầu bảng, với Pháp là á quân. Vào ngày 14 tháng 2 năm 2007, Ý leo lên vị trí thứ nhất trong Bảng xếp hạng FIFA từ vị trí thứ hai, với tổng số 1.488 điểm, hơn đội xếp thứ hai là Argentina 37 điểm. Đây là lần thứ hai trong lịch sử Azzurri được xếp ở vị trí đầu tiên, lần đầu tiên là vào năm 1993; họ cũng sẽ được xếp hạng đầu tiên nhiều lần trong suốt năm 2007, cũng vào tháng 4 đến tháng 6 và tháng 9.
Tại UEFA Euro 2008, Azzurri để thua 0–3 trước Hà Lan trong trận mở màn vòng bảng. Trận đấu tiếp theo với România kết thúc với tỷ số 1–1, với bàn thắng của Christian Panucci chỉ một phút sau khi Adrian Mutu của Romania tận dụng sai lầm của Gianluca Zambrotta để đưa Romania vượt lên dẫn trước. Kết quả được bảo toàn nhờ Gianluigi Buffon cản phá thành công quả phạt đền của Mutu ở phút 80. Trận đấu cuối cùng vòng bảng với Pháp, trận tái đấu của Vòng chung kết Giải vô địch bóng đá thế giới 2006, Ý giành chiến thắng 2–0. Andrea Pirlo ghi bàn từ chấm phạt đền sau pha phạm lỗi và thẻ đỏ dành cho hậu vệ người Pháp Éric Abidal, và sau đó là quả đá phạt trực tiếp của Daniele De Rossi đi chệch hướng dẫn đến bàn thắng thứ hai cho Ý. Romania, bước vào ngày đầu tiên dẫn trước Ý một điểm ở bảng C, để thua Hà Lan 2–0, giúp Ý giành quyền vào tứ kết gặp nhà vô địch cuối cùng là Tây Ban Nha, nơi họ thua 2–4 trên chấm luân lưu sau khi hòa 0–0 sau 120 phút. Trong vòng một tuần sau trận đấu, hợp đồng của Roberto Donadoni bị chấm dứt và Marcello Lippi được tái bổ nhiệm làm huấn luyện viên.
Ý đã đủ điều kiện tham dự FIFA Confederations Cup lần đầu tiên được tổ chức tại Nam Phi vào tháng 6 năm 2009 nhờ vô địch World Cup 2006. Họ đã thắng trận mở màn của giải đấu với tỷ số 3–1 trước Hoa Kỳ, nhưng các thất bại sau đó trước Ai Cập (0–1) và Brasil (0–3) đồng nghĩa với việc họ chỉ đứng thứ ba trong bảng nhờ số bàn thắng ghi được, và đã bị loại.
Vào tháng 10 năm 2009, họ vượt qua vòng loại sau khi hòa Cộng hòa Ireland 2–2. Vào ngày 4 tháng 12 năm 2009, lễ bốc thăm chia bảng World Cup đã được thực hiện: Ý sẽ nằm ở Bảng F cùng với ba đội yếu hơn: Paraguay, New Zealand và Slovakia. Tại FIFA World Cup 2010 ở Nam Phi, đương kim vô địch Ý bất ngờ bị loại ngay từ vòng đầu tiên, xếp cuối bảng. Sau khi bị Paraguay và New Zealand cầm hòa 1–1, họ để thua 2–3 trước Slovakia. Đây là lần đầu tiên Ý không thể thắng một trận nào tại một giải đấu vòng chung kết World Cup, và sau đó trở thành đội tuyển thứ ba bị loại ngay từ vòng bảng khi đang là dương kim vô địch World Cup; đầu tiên là Brasil vào năm 1966 và Pháp thứ hai vào năm 2002. Thật trùng hợp, Pháp từng là đối thủ của Ý và thua trận chung kết tại World Cup 2006, cũng bị loại mà không thắng nổi trận nào ở vòng đầu tiên tại Nam Phi, khiến đây là lần đầu tiên không có đội nào lọt vào trận chung kết của giải đấu trước không thể lọt vào vòng thứ hai.
2010–2014: Á quân Giải vô địch châu Âu
Marcello Lippi từ chức sau chiến dịch World Cup của Ý và được thay thế bởi Cesare Prandelli, mặc dù người kế nhiệm Lippi đã được công bố trước giải đấu. Ý bắt đầu chiến dịch của họ với Prandelli bằng trận thua 0–1 trước Bờ Biển Ngà trong một trận giao hữu. Trong vòng loại Euro 2012, Ý lội ngược dòng đánh bại Estonia 2–1. Ở vòng loại Euro tiếp theo, Ý đã thống trị Quần đảo Faroe với tỷ số 5–0. Ý sau đó hòa 0–0 với Bắc Ireland. Năm ngày sau, Ý đấu với Serbia; tuy nhiên, người hâm mộ Serbia ở Stadio Luigi Ferraris bắt đầu náo loạn, ném pháo sáng và bắn pháo hoa xuống sân, sau đó khiến trận đấu phải hủy bỏ. Sau khi xem xét kỷ luật của UEFA, Ý đã được trao chiến thắng 3–0 để đưa họ lên đầu bảng. Trong trận đấu đầu tiên của họ trong năm 2011, Ý đã hòa 1–1 trong trận giao hữu với Đức tại Dortmund, tại chính sân vận động mà họ đã đánh bại Đức 2–0 để tiến vào trận chung kết của Giải vô địch bóng đá thế giới 2006. Vào tháng 3 năm 2011, Ý giành chiến thắng 1–0 trước Slovenia để một lần nữa đảm bảo vị trí đầu bảng vòng loại. Sau đó, họ đánh bại Ukraine 2–0 trong một trận giao hữu, mặc dù bị giảm tới 10 người trong giai đoạn cuối của trận đấu. Với thất bại 3–0 của Estonia ở một trận đấu khác vòng loại Euro 2012, Ý của Prandelli đã dẫn đầu bảng và cũng có 9 trận bất bại liên tiếp kể từ thất bại đầu tiên. Kỉ lục này đã kết thúc vào ngày 7 tháng 6 năm 2011 bởi đội bóng hiện tại của Trapattoni, Cộng hòa Ireland, với việc Ý thua 0–2 trong trận giao hữu ở Liège.
Vào đầu mùa giải thứ hai dưới thời huấn luyện viên Prandelli, vào ngày 10 tháng 8 năm 2011, Ý đã đánh bại đương kim vô địch thế giới Tây Ban Nha với tỷ số 2-1 trong một trận giao hữu diễn ra tại Stadio San Nicola của Bari, nhưng để thua trong một trận giao hữu trước Hoa Kỳ, 0–1, trên sân nhà vào ngày 29 tháng 2 năm 2012. Ý bắt đầu chiến dịch UEFA Euro 2012 với trận hòa 1–1 trước Tây Ban Nha, và trong trận đấu tiếp theo, họ hòa 1–1 trước Croatia. Họ đứng thứ hai trong bảng sau Tây Ban Nha khi đánh bại Cộng hòa Ireland 2–0, giúp họ giành quyền vào tứ kết với đội thắng bảng D, Anh. Sau một tình huống chủ yếu là một chiều mà Ý không tận dụng được cơ hội của mình, họ đã đánh bại Anh trên chấm phạt đền, mặc dù họ đã bị dẫn trước trong loạt luân lưu sớm. Một pha cứu thua của thủ môn Gianluigi Buffon đã đưa họ vượt lên dẫn trước sau cú sút hiểm hóc của Andrea Pirlo. Đội bóng của Prandelli thắng loạt luân lưu 4–2. Trong trận đấu tiếp theo, trận bán kết đầu tiên của giải đấu, họ phải đối mặt với đội tuyển Đức, đội được nhiều người cho là nhà vô địch châu Âu tiếp theo. Tuy nhiên, hai bàn thắng trong hiệp một của Mario Balotelli chứng kiến Đức về nước, và người Ý đã lọt vào trận chung kết để đối mặt với những nhà đương kim vô địch Tây Ban Nha. Trong trận chung kết, họ đã không thể lặp lại thành tích trước đó trước Tây Ban Nha, thất thủ 4–0 để mất chức vô địch. Các cầu thủ của Prandelli còn bị hủy hoại bởi chuỗi chấn thương khiến họ phải chơi với mười người trong nửa giờ qua, khi cầu thủ dự bị Thiago Motta buộc phải rời sân sau khi thực hiện cả ba lần thay người.
Tại FIFA Confederations Cup 2013 ở Brasil, Ý bắt đầu ở cùng bảng với México, Nhật Bản và Brasil. Sau khi đánh bại México 2–1 và Nhật Bản 4–3, Ý cuối cùng đã thua trận cuối cùng vòng bảng trước chủ nhà Brazil 4–2. Ý sau đó đối đầu với Tây Ban Nha ở bán kết, trong trận tái đấu của trận chung kết Euro 2012. Ý thua 6–7 (0–0 sau hiệp phụ) trong loạt sút luân lưu sau khi Leonardo Bonucci thực hiện không thành công quả đá phạt đền của mình. Prandelli được khen ngợi về chiến thuật của ông trước các nhà đương kim vô địch World Cup và châu Âu. Ý sau đó đã có thể giành chiến thắng trong trận tranh hạng ba khi đánh bại Uruguay với tỷ số 5–4 (2–2 sau hiệp phụ). Ý đã được bốc thăm ở Bảng B cho Chiến dịch vòng loại World Cup 2014. Họ đã giành chiến thắng ở vòng loại mà không để thua trận nào. Mặc dù lần chạy thành công này, họ đã không được xếp hạt giống vào nhóm 1 cho lần xếp hạt giống cuối cùng. Vào tháng 12 năm 2013, Ý được xếp vào bảng D với Costa Rica, Anh và Uruguay. Trong khi Ý đánh bại Anh 2–1 trong trận đầu tiên, đội yếu hơn là Costa Rica đánh bại Ý 1–0 trong trận đấu thứ hai ở vòng bảng. Trong trận đấu cuối cùng vòng bảng của Ý, họ đã bị loại bởi Uruguay 1–0, một phần do hai quyết định gây tranh cãi của trọng tài Marco Antonio Rodríguez (México). Phút 59, tiền vệ Claudio Marchisio bị đuổi khỏi sân sau một pha vào bóng đáng ngờ. Sau đó ở phút 80, với tỷ số hòa 0–0 mà lẽ ra Ý sẽ vào vòng trong, tiền đạo người Uruguay Luis Suárez đã cắn vào vai hậu vệ Giorgio Chiellini nhưng không bị đuổi khỏi sân. Uruguay tiếp tục ghi bàn sau đó ở phút 81 với cú đánh đầu của Diego Godín từ một quả phạt góc, giành chiến thắng 1–0 và loại Ý. Đây là lần thứ hai liên tiếp Ý không lọt vào vòng 16 đội tại các VCK World Cup. Ngay sau trận thua này, huấn luyện viên Cesare Prandelli đã từ chức.
2014–2016: Chiến dịch Euro 2016
Cựu huấn luyện viên thành công của Juventus, Antonio Conte, đã được chọn để thay thế Cesare Prandelli làm huấn luyện viên sau World Cup 2014. Trận ra mắt của Conte với tư cách là huấn luyện viên là trận đấu với đội vào bán kết World Cup 2014 là Hà Lan, khi đó Ý thắng 2–0. Thất bại đầu tiên của Ý dưới thời Conte diễn ra sau 10 trận đấu sau trận thua giao hữu quốc tế 1–0 trước Bồ Đào Nha vào ngày 16 tháng 6 năm 2015. Vào ngày 10 tháng 10 năm 2015, Ý đủ điều kiện tham dự Euro 2016, nhờ chiến thắng 3–1 trước Azerbaijan; kết quả đó có nghĩa là Ý đã có 50 trận bất bại ở vòng loại châu Âu. Ba ngày sau, với chiến thắng 2–1 trước Na Uy, Ý đứng đầu bảng vòng loại Euro 2016 với 24 điểm; hơn đội xếp thứ hai là Croatia bốn điểm. Với số phận tương tự như lễ bốc thăm vòng bảng World Cup 2014, Ý không được xếp vào nhóm hạt giống số một. Điều này khiến Ý phải đối đầu với Bỉ, Thụy Điển và Cộng hòa Ireland ở bảng E.
Vào ngày 4 tháng 4 năm 2016, có thông báo rằng Antonio Conte sẽ từ chức huấn luyện viên đội tuyển Ý sau Euro 2016 để trở thành huấn luyện viên trưởng của câu lạc bộ Anh Chelsea khi bắt đầu mùa giải Premier League 2016–17. Đội hình 23 người, ban đầu bị nhiều người hâm mộ và giới truyền thông chỉ trích về chiến thuật và chất lượng, chứng kiến sự vắng mặt đáng chú ý với Andrea Pirlo và Sebastian Giovinco bị loại gây tranh cãi và Claudio Marchisio và Marco Verratti vắng mặt vì chấn thương. Ý mở màn Euro 2016 với chiến thắng 2–0 trước Bỉ vào ngày 13 tháng 6. Ý vượt qua vòng 16 với một trận đấu còn lại vào ngày 17 tháng 6 với bàn thắng duy nhất của Éder trong chiến thắng trước Thụy Điển; lần đầu tiên họ thắng trận thứ hai ở một giải đấu quốc tế lớn kể từ Euro 2000. Ý cũng lần đầu tiên đứng đầu bảng đấu ở một giải đấu lớn kể từ World Cup 2006. Ý đánh bại đương kim vô địch châu Âu Tây Ban Nha 2–0 trong trận đấu thuộc vòng 16 đội vào ngày 27 tháng 6. Ý sau đó đối đầu với các nhà đương kim vô địch thế giới, kình địch Đức, trong trận tứ kết. Mesut Özil ghi bàn mở tỷ số ở phút 65 cho Đức, trước khi Leonardo Bonucci thực hiện thành công quả phạt đền ở phút 78 cho Ý. Tỷ số vẫn là 1–1 sau hiệp phụ và Đức đánh bại Ý 6–5 trong loạt sút luân lưu sau đó. Đó là lần đầu tiên Đức vượt qua Ý ở một giải đấu lớn.
Không thể vượt qua vòng loại World Cup 2018
Đối với vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2018, Ý được xếp vào nhóm thứ hai do đứng ở vị trí thứ 17 trên Bảng xếp hạng bóng đá nam FIFA tại thời điểm bốc thăm chia bảng; Ý đã được bốc thăm với Tây Ban Nha từ nhóm một vào ngày 25 tháng 7 năm 2015. Sau khi Conte rời đi theo kế hoạch sau Euro 2016, Gian Piero Ventura đã tiếp quản vị trí huấn luyện viên cho đội vào ngày 18 tháng 7 năm 2016, ký hợp đồng hai năm. Trận đấu đầu tiên của ông trên cương vị chỉ đạo là trận giao hữu với Pháp, được tổ chức tại Stadio San Nicola vào ngày 1 tháng 9, kết thúc với tỷ số thua 1–3. Bốn ngày sau, ông giành chiến thắng trong trận đấu chính thức đầu tiên dẫn dắt đội tuyển Ý, trận mở màn của đội tuyển tại Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2018 gặp Israel tại Haifa, kết thúc với chiến thắng 3–1 cho Ý.
Sau khi Ý thắng tất cả các trận vòng loại ngoại trừ trận hòa 1–1 trên sân nhà trước Macedonia, cũng như trận hòa 1–1 với Tây Ban Nha trên sân nhà vào ngày 6 tháng 10 năm 2016 và trận thua 3–0 trước Tây Ban Nha vào ngày 2 tháng 9 năm 2017, Ý kết thúc ở bảng G ở vị trí thứ hai, kém Tây Ban Nha năm điểm. Ý sau đó buộc phải vượt qua vòng play-off gặp Thụy Điển. Sau trận thua chung cuộc 0–1 trước Thụy Điển, vào ngày 13 tháng 11 năm 2017, Ý không thể vượt qua vòng loại World Cup 2018, lần đầu tiên họ không thể vượt qua vòng loại World Cup kể từ năm 1958. Ngay sau trận đấu, các cựu binh Andrea Barzagli, Daniele De Rossi và đội trưởng Gianluigi Buffon đều đã tuyên bố giã từ đội tuyển quốc gia. Vào ngày 15 tháng 11 năm 2017, Ventura bị sa thải khỏi vị trí huấn luyện viên trưởng, và vào ngày 20 tháng 11 năm 2017, Carlo Tavecchio từ chức chủ tịch Liên đoàn bóng đá Ý.
2018–nay: Kỷ nguyên Mancini
Sự hồi sinh và danh hiệu châu Âu thứ hai
Vào ngày 5 tháng 2 năm 2018, huấn luyện viên U-21 Ý Luigi Di Biagio được bổ nhiệm làm huấn luyện viên tạm quyền của đội cấp cao. Vào ngày 17 tháng 3 năm 2018, bất chấp quyết định giải nghệ ban đầu của các cựu binh Buffon và Chiellini, cả hai đều được triệu tập cho trận giao hữu với Ý vào tháng 3 năm 2018 bởi huấn luyện viên tạm quyền Di Biagio. Sau các trận giao hữu vào tháng 3 với Argentina và Anh, trong đó Ý lần lượt bị đánh bại và bị cầm hòa, vào ngày 12 tháng 4 năm 2018, Ý đã tụt sáu bậc xuống Bảng xếp hạng Thế giới FIFA thấp nhất của họ vào thời điểm đó, xuống vị trí thứ 20. Vào ngày 14 tháng 5 năm 2018, Roberto Mancini được công bố là huấn luyện viên mới. Vào ngày 28 tháng 5 năm 2018, Ý đã thắng trận đầu tiên dưới thời Mancini, chiến thắng 2–1 trong trận giao hữu trước Ả Rập Xê Út. Vào ngày 16 tháng 8 năm 2018, trong Bảng xếp hạng bóng đá nam FIFA sau World Cup 2018, Ý đã tụt hai bậc xuống thứ hạng thấp nhất từ trước đến nay của họ, xuống vị trí thứ 21. Vào ngày 7 tháng 9 năm 2018, Ý tham gia giải đấu mới UEFA Nations League, hòa trận đầu tiên của giải đấu với Ba Lan tại Bologna với tỷ số 1–1.
Vào ngày 12 tháng 10 năm 2019, Ý vượt qua vòng loại Euro 2020 với ba trận đấu còn lại sau chiến thắng 2–0 trên sân nhà trước Hy Lạp. Vào ngày 18 tháng 11, Ý kết thúc bảng J với mười trận thắng trong cả mười trận đấu, trở thành đội tuyển quốc gia thứ sáu đủ điều kiện tham dự Giải vô địch châu Âu với thành tích hoàn hảo, và là đội bóng thứ bảy, sau Pháp (1992 và 2004), Cộng hòa Séc (2000), Đức, Tây Ban Nha (cả hai năm 2012) và Anh (2016). Vào ngày 17 tháng 3 năm 2020, UEFA xác nhận rằng Euro 2020 đã bị hoãn lại một năm để đối phó với đại dịch COVID-19 tại Châu Âu.
Vào ngày 18 tháng 11 năm 2020, với chiến thắng 2–0 trên sân khách trước Bosnia và Herzegovina, Ý đã về nhất bảng đấu UEFA Nations League 2020–21 và đủ điều kiện tham dự vòng chung kết của giải đấu.
Vào tháng 6 năm 2021, Ý bắt đầu tham dự UEFA Euro 2020 ở Bảng A, cùng với Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Sĩ và Wales. Là một trong những quốc gia chủ nhà, Ý đã chơi cả ba trận vòng bảng trên sân nhà Stadio Olimpico ở Rome. Ý mở đầu giải đấu với chiến thắng 3–0 trước Thổ Nhĩ Kỳ. Ý sau đó đã vượt qua một Thụy Sĩ có hàng phòng ngự chắc chắn với chiến thắng 3–0 khác, với Manuel Locatelli ghi hai bàn và Ciro Immobile ghi bàn cuối cùng để giành một suất vào vòng 16 với một trận đấu còn lại, bất chấp đội trưởng Giorgio Chiellini dính chấn thương. Đã chắc suất vào vòng loại trực tiếp, Ý đánh bại Xứ Wales với tỷ số 1–0 với một đội hình được luân chuyển nhiều, với Matteo Pessina ghi bàn thắng duy nhất trong hiệp một để đảm bảo đội kết thúc với thành tích hoàn hảo ở vòng bảng. Ý trở thành đội đầu tiên trong lịch sử Giải vô địch châu Âu thắng mọi trận vòng bảng mà không để thủng lưới.
Ở vòng 16 diễn ra tại Sân vận động Wembley, Ý đã gặp khó khăn trước Áo, và chỉ trong khoảng thời gian đầu tiên của hiệp phụ, các cầu thủ vào thay người Ý Federico Chiesa và Pessina mỗi người đã ghi một bàn giúp Ý dẫn trước 2–0. Mặc dù cầu thủ vào thay người Saša Kalajdžić đã cứu được bàn thắng cho Áo trong hiệp phụ thứ hai (bàn thua đầu tiên của người Ý tại giải đấu), Ý vẫn giành quyền vào tứ kết. Trận tứ kết giữa Ý gặp Bỉ, diễn ra tại Allianz Arena ở Munich, chứng kiến sự thống trị mạnh mẽ của Ý, khi Nicolò Barella đánh bại Thibaut Courtois ghi bàn ở phút 31, trước khi Lorenzo Insigne nhân đôi cách biệt cho Ý ở phút 44 bằng một pha lập công uy lực; Romelu Lukaku của Bỉ sau đó đã thực hiện thành công quả phạt đền trong thời gian bù giờ của hiệp một. Bất chấp chấn thương gót chân trong hiệp hai của Leonardo Spinazzola khiến anh phải nghỉ thi đấu trong phần còn lại của giải đấu, Ý một lần nữa giữ tỷ số để loại Bỉ. Chiến thắng này đã thiết lập một kỷ lục mới về chuỗi 15 trận thắng tại Giải vô địch châu Âu dài nhất, bao gồm cả vòng loại và vòng chung kết. Ý sau đó trở lại Wembley để đối mặt với Tây Ban Nha ở bán kết, giải vô địch châu Âu lần thứ tư liên tiếp mà hai bên gặp nhau. Trong một thế trận chặt chẽ bị lấn át bởi lối chơi cầm bóng, Ý đã có được bàn thắng vượt lên dẫn trước của Chiesa ở phút thứ 60; tuy nhiên, 20 phút sau Álvaro Morata đã gỡ hòa cho Tây Ban Nha để san bằng tỉ số 1–1. Không có thêm bàn thắng nào được ghi trong hiệp phụ, dẫn đến loạt sút luân lưu ; cả Locatelli và Dani Olmo đều không ghi được quả phạt đền đầu tiên cho đội của họ, trước khi Gianluigi Donnarumma cản phá được quả đá thứ tư của Tây Ban Nha từ Morata. Jorginho sau đó đã ghi bàn thắng sau đó để đưa Ý vào trận chung kết châu Âu đầu tiên kể từ năm 2012.
Vào ngày 11 tháng 7 năm 2021, Ý giành chức vô địch UEFA Euro 2020 bằng chiến thắng 3–2 trên loạt sút luân lưu sau khi hòa 1–1 (Bonucci gỡ hòa trong hiệp hai để cân bằng bàn mở tỷ số do Shaw ghi) trong hiệp phụ đấu với Anh trong trận chung kết tổ chức ở London. Ý giành danh hiệu vô địch châu Âu lần thứ hai sau 53 năm kể từ lần đầu tiên, giành chiến thắng trên sân nhà vào năm 1968. Vào ngày 16 tháng 7, tất cả các thành viên của đội vô địch Châu Âu đã được trao tặng Huân chương Cavaliere của Ý.
Không thể vượt qua vòng loại World Cup 2022
Vào tháng 10 năm 2021, Ý tham dự Vòng chung kết UEFA Nations League được tổ chức trên sân nhà. Vào ngày 6 tháng 10, Ý chơi trận bán kết với Tây Ban Nha, thua 2–1 tại San Siro. Trận đấu này đã phá vỡ kỷ lục 37 trận bất bại, hơn 3 năm sau thất bại gần nhất. Bốn ngày sau, Ý giành vị trí thứ ba chung cuộc 2–1 trước Bỉ tại Sân vận động Juventus. Vào ngày 15 tháng 11 năm 2021, Ý hòa 0–0 với Bắc Ireland trong trận đấu cuối cùng ở bảng C vòng loại World Cup 2022 và kết thúc ở vị trí thứ hai, kém Thụy Sĩ hai điểm. Ý sau đó phải trải qua vòng loại thứ hai một lần nữa.
Vào ngày 24 tháng 3 năm 2022, Ý thua 0–1 trong trận bán kết play-off trước Bắc Macedonia ở Palermo, tại Stadio Renzo Barbera, không thể vượt qua vòng loại World Cup lần thứ hai liên tiếp. Vào ngày 1 tháng 6 năm 2022, Ý tham gia trận đấu CONMEBOL–UEFA Cup of Champions, được đổi tên thành Finalissima 2022, thua 0–3 trước Argentina tại London. Vào ngày 26 tháng 9, Ý lọt vào Vòng chung kết UEFA Nations League 2023 sau khi đánh bại Hungary 2–0 tại Budapest và giành vị trí thứ 3 chung cuộc.
Kình địch
nhỏ|289x289px|Các trận đấu giữa Ý và Croatia được gọi là các trận Derby Adriatic vì chúng được ngăn cách bởi Biển Adriatic. Ảnh: Một trận Derby Adriatic tại Euro 2012.
Ý vs Brasil: Các trận đấu giữa các quốc gia được gọi là Trận Derby Thế giới (tiếng Bồ Đào Nha: Clásico Mundial trong tiếng Bồ Đào Nha). Các quốc gia bóng đá thành công nhất trên thế giới, họ đã cùng nhau giành được chín chức vô địch World Cup. Kể từ trận đấu đầu tiên tại Giải vô địch bóng đá thế giới 1938, họ đã đối đầu với nhau tổng cộng năm lần tại Giải vô địch thế giới, đáng chú ý nhất là trận chung kết FIFA World Cup 1970 và trận chung kết FIFA World Cup 1994, trong đó Brasil thắng lần lượt 4–1 và 3–2 trên chấm phạt đền sau những trận hòa không bàn thắng.
Ý vs Croatia: Các trận đấu giữa hai quốc gia được gọi là trận Derby Adriatic (tiếng Ý: Derby Adriatico) được đặt tên theo Biển Adriatic ngăn cách họ. Ý chưa bao giờ thắng Croatia, với hầu hết các trận đấu diễn ra ở các vòng loại và giải đấu. Hai bên đã thi đấu ở vòng loại và vòng bảng của Euro 1996, Euro 2012 và Euro 2016 với nhiều lần xảy ra rắc rối đám đông và ném pháo sáng xuống sân. Họ chỉ gặp nhau duy nhất tại World Cup 2002, trong một trận đấu vòng bảng mà Croatia lội ngược dòng đánh bại Ý 2–1, sau khi hai bàn thắng của Ý không được công nhận một cách gây tranh cãi.
Ý vs Tây Ban Nha: Các trận đấu giữa hai quốc gia được gọi là trận Derby Địa Trung Hải (tiếng Tây Ban Nha: Rivalidad futbolística Italia-España) được đặt tên theo Địa Trung Hải ngăn cách hai quốc gia. Hai quốc gia đã xảy ra tranh chấp từ năm 1920, và mặc dù hai quốc gia không phải là láng giềng gần nhau về mặt địa lý, nhưng sự kình địch của họ ở cấp độ quốc tế được tăng cường bởi màn trình diễn mạnh mẽ của các câu lạc bộ đại diện trong các giải đấu của UEFA, trong đó họ là một trong những hiệp hội hàng đầu và có mỗi người đều thích sự thống trị. Kể từ trận tứ kết giữa hai quốc gia tại Euro 2008, kình địch lại tiếp tục, với trận đấu đáng chú ý nhất giữa hai bên là trong trận chung kết UEFA Euro 2012, mà Tây Ban Nha đã thắng 4–0.
Ý vs Pháp: Các trận đấu giữa hai quốc gia chính thức bắt đầu vào ngày 15 tháng 5 năm 1910, trận đấu đầu tiên được ghi nhận của Ý kết thúc với chiến thắng 6–2. Các trận đấu đáng chú ý tại FIFA World Cup và UEFA Euro bao gồm trận chung kết FIFA World Cup 2006, khi người Ý đánh bại Pháp 5–3 trong loạt sút luân lưu, sau khi hòa 1–1, và Euro 2000, Pháp đã giành chiến thắng với bàn thắng vàng trong hiệp phụ của David Trezeguet.
Ý vs Đức: Các trận đấu giữa hai quốc gia đã diễn ra trong năm trận đấu tại World Cup, đáng chú ý là trong "Trận đấu của thế kỷ", trận bán kết World Cup 1970 giữa hai quốc gia mà Ý thắng 4–3 trong hiệp phụ, với năm trong số bảy bàn thắng đến trong hiệp phụ. Đức cũng đã giành được ba chức vô địch châu Âu trong khi Ý đã giành được nó hai lần. Hai quốc gia đã đối đầu với nhau bốn lần tại giải vô địch châu Âu, với ba trận hòa (một chiến thắng trong loạt sút luân lưu của Đức) và một chiến thắng của Ý. Đức chưa bao giờ đánh bại Ý trong một trận đấu lớn cho đến khi họ giành chiến thắng ở tứ kết Euro 2016, trên chấm phạt đền (mặc dù theo thống kê được coi là hòa), với tất cả các trận thắng khác của Đức trước Ý đều là trong các trận giao hữu.
Hình ảnh đội tuyển
Trang phục và huy hiệu
Chiếc áo đầu tiên của đội tuyển Ý, trong trận ra mắt với Pháp vào ngày 15 tháng 5 năm 1910, có màu trắng. Việc lựa chọn màu sắc là do chưa đưa ra quyết định về hình thức bên ngoài của bộ sản phẩm nên đã quyết định không có màu sắc, đó là lý do tại sao màu trắng được chọn. Sau hai trận đấu, trong trận giao hữu với Hungary tại Milan vào ngày 6 tháng 1 năm 1911, áo sơ mi trắng được thay thế bằng áo thi đấu màu xanh lam (đặc biệt là savoy azure) — màu xanh lam là màu đường viền của huy hiệu Hoàng gia Savoy được sử dụng trên lá cờ. của Vương quốc Ý (1861–1946); áo sơ mi được đi kèm với quần đùi trắng và tất đen (sau này trở thành màu xanh lam). Nhóm nghiên cứu sau đó được gọi là gli Azzurri (the Blues).
Vào những năm 1930, Ý mặc bộ đồ đen, theo đơn đặt hàng của chế độ phát xít Benito Mussolini. Bộ đồ đen ra mắt vào ngày 17 tháng 2 năm 1935 trong trận giao hữu với Pháp tại Stadio Nazionale PNF ở Rome. Một chiếc áo sơ mi xanh, quần đùi trắng và tất đen được mặc tại Thế vận hội Olympic 1936 ở Berlin vào năm sau. Tại FIFA World Cup 1938 ở Pháp, bộ quần áo bóng đá toàn màu đen đã được mặc một lần trong trận đấu với Pháp.
Sau Thế chiến II, chế độ phát xít sụp đổ và chế độ quân chủ bị xóa bỏ vào năm 1946. Cùng năm đó chứng kiến sự ra đời của Cộng hòa Ý và bộ quần áo bóng đá trắng xanh được phục hồi. Cây thánh giá của Ngôi nhà Hoàng gia Savoy trước đây đã bị xóa khỏi quốc kỳ Ý, và do đó, khỏi huy hiệu của đội tuyển quốc gia, giờ đây chỉ gồm có Tricolore. Đối với FIFA World Cup 1954, tên của đất nước bằng tiếng Ý, ITALIA, được đặt phía trên tấm khiên ba màu, và đối với FIFA World Cup 1982, FIGC, tên viết tắt của Liên đoàn bóng đá Ý, đã được đưa vào huy hiệu.
Năm 1983, để ăn mừng chiến thắng tại World Cup của năm trước, ba ngôi sao vàng đã thay thế ITALIA phía trên bộ ba màu, tượng trưng cho ba lần vô địch World Cup của họ cho đến thời điểm đó. Năm 1984, một biểu tượng hình tròn được ra mắt, có ba ngôi sao, dòng chữ ITALIA và FIGC, và ba màu.
Nhà sản xuất bộ quần áo đầu tiên được biết đến là Adidas vào năm 1974. Từ năm 2003 đến năm 2022, bộ quần áo này đã được sản xuất bởi Puma. Kể từ những năm 2000, đồng phục toàn màu xanh lam bao gồm cả quần đùi màu xanh lam đôi khi được sử dụng, đặc biệt là trong các giải đấu quốc tế. Sau chức vô địch World Cup 2006 của Ý, một ngôi sao thứ tư đã được thêm vào huy hiệu ba màu. Vào tháng 3 năm 2022, sau gần 20 năm gắn bó với Puma, có thông báo rằng Adidas sẽ là nhà sản xuất bộ quần áo bóng đá của Ý từ năm 2023.
Lịch thi đấu
2023
Thành tích quốc tế
Giải vô địch thế giới
Cúp Liên đoàn các châu lục
Giải vô địch châu Âu
UEFA Nations League
Thế vận hội
(Nội dung thi đấu dành cho cấp đội tuyển quốc gia cho đến kỳ Đại hội năm 1988)
Tổng hợp danh hiệu
Dưới đây là tổng hợp những thành tích thi đấu mà Italia đã đạt được qua các giải đấu quốc tế
FIFA World Cup
Vô địch (4): 1934, 1938, 1982, 2006
Á quân (2): 1970, 1994
Hạng ba (1): 1990
Giải vô địch bóng đá châu Âu
Vô địch (2): 1968, 2020
Á quân (2): 2000, 2012
FIFA Confederations Cup
Hạng ba (1): 2013
Thế vận hội Olympic
Huy chương vàng (1): 1936
Huy chương đồng (1): 1928
Đội hình
Đội hình hiện tại
Những cầu thủ sau đây được triệu tập tham dự vòng loại UEFA Euro 2024 gặp và lần lượt vào ngày 9 và 12 tháng 9 năm 2023..
Thông tin chính xác kể từ ngày 18 tháng 6 năm 2023, sau trận đấu với .
Triệu tập gần đây
Những cầu thủ sau đây cũng đã được gọi vào đội trong vòng mười hai tháng qua.
INJ Withdrew due to injury
Hồ sơ cá nhân
Kỷ lục cầu thủ
Ra sân nhiều nhất
Tính đến ngày 15 tháng 6 năm 2023, cầu thủ ra sân nhiều nhất cho đội tuyển Ý là:
Cầu thủ in đậm vẫn đang thi đấu cho đội tuyển bóng đá quốc gia.
Ghi nhiều bàn thắng nhất
Tính đến ngày 26 tháng 3 năm 2023, những cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất cho Ý là:
Cầu thủ in đậm vẫn đang thi đấu cho đội tuyển bóng đá quốc gia.
Các đội trưởng
Danh sách thời gian đeo băng đội trưởng của các đội trưởng khác nhau qua các năm.
1910 Francesco Calì
1911–1914 Giuseppe Milano
1914–1915 Virgilio Fossati
1920–1925 Renzo De Vecchi
1925–1927 Luigi Cevenini
1927–1930 Adolfo Baloncieri
1931–1934 Umberto Caligaris
1934 Gianpiero Combi
1935–1936 Luigi Allemandi
1937–1939 Giuseppe Meazza
1940–1947 Silvio Piola
1947–1949 Valentino Mazzola
1949–1950 Riccardo Carapellese
1951–1952 Carlo Annovazzi
1952–1960 Giampiero Boniperti
1961–1962 Lorenzo Buffon
1962–1963 Cesare Maldini
1963–1966 Sandro Salvadore
1966–1977 Giacinto Facchetti
1977–1983 Dino Zoff
1983–1985 Marco Tardelli
1985–1986 Gaetano Scirea
1986–1987 Antonio Cabrini
1988–1991 Giuseppe Bergomi
1991–1994 Franco Baresi
1994–2002 Paolo Maldini
2002–2010 Fabio Cannavaro
2010–2018 Gianluigi Buffon
2018–2022 Giorgio Chiellini
2022–2023 Leonardo Bonucci
2023-nay Ciro Immobile
Huấn luyện viên
Huấn luyện nhiều trận nhất
Enzo Bearzot: 104
Ghi chú
Chú thích |
Lâm Thiệu Lương (tiếng Trung Quốc: 林紹良; còn được gọi Liem Sioe Liong hay Sudono Salim; 10 tháng 9 năm 1915 tại Phúc Kiến, Trung Quốc – 10 tháng 6 năm 2012 tại Singapore) là cựu tỷ phú người Indonesia gốc Hoa và cũng là trùm tài phiệt giàu nhất châu Á trong những thập kỉ 1960–1970.
Gốc gác và xuất thân
Lâm Thiệu Lương sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo tại Phúc Kiến, Trung Quốc. Năm 20 tuổi, Lâm Thiệu Lương cùng một người anh rời quê sang Indonesia để kiếm sống. Một chủ xưởng ép dầu đã nhận hai anh em vào làm.
Nhìn chung, trong cộng đồng dân Hoa di cư thì cộng đồng người Phúc Kiến thường là thành công hơn cả. Trường hợp của Lâm Thiệu Lương là một trong những thí dụ điển hình cho nhận định này.
Khởi đầu
Không có thân thế tốt nên Lâm Thiệu Lương cũng chỉ có một khởi đầu khiêm tốn. Tuy vậy, Lâm Thiệu Lương "máu" kinh doanh từ trẻ. Ngay từ ngày còn làm thuê cho ông chủ xưởng ép dầu, anh đã buôn bán. Lâm Thiệu Lương đem số vốn liếng nhỏ bé dành dụm được mở cửa hàng bán lạc rang. Lanh mồm lẹ miệng và khéo léo, Lâm Thiệu Lương có rất nhiều khách hàng quen. Rồi Liem mở rộng cửa hàng, bán thêm cả cà phê hạt và cà phê đã rang xay. Ban đầu, Liem chỉ đủ vốn để bán lẻ, anh còn sẵn sàng giao hàng tận nhà cho người mua. Khi lưng vốn đã nặng hơn, Liem chuyển sang buôn sỉ, khi này, Lương đã mang dáng dấp của một anh "Ba Tàu" chính hiệu. Kế tiếp, Lương buôn tới hàng tá mặt hàng, từ thực phẩm, lạc, cà phê, đường cho tới quần áo, đồ dùng, máy móc... đủ cả.
Mười năm sau, Lương bắt đầu chuyển sang buôn sỉ gỗ quý, thuốc men, quần áo. Anh bắt đầu tiếp cận và bắt quen được với một vài nhân vật trong quân đội.
Cái bánh đấu thầu, thời cơ và định mệnh
Thời điểm đó, Hoa kiều hầu như đã nắm trọn món hời lớn là những món hàng đấu thầu cho quân đội Indonesia. Lương không môi giới mà trực tiếp nhảy vào làm đầu nậu và nhận thầu trực tiếp rồi "đánh" hàng cho phía quân nhân. Đơn đặt hàng, dĩ nhiên, cũng "hầm bà lằng", từ trang phục cho tới thuốc men.
Rồi Lương quen với một sĩ quan trẻ tuổi, kém anh 5 tuổi, giọng nói đặc sệt thổ âm Java, khi này mới chỉ là một cậu trai đang thực hiện nghĩa vụ quân sự, nhưng sẽ trở thành nhân vật khuynh đảo cả đất nước Indonesia này trong hơn ba chục năm. Viên sĩ quan đó có cái tên là Suharto, hay Haji Mohammad Soeharto.
Những năm 1960, 1970
Đây là giai đoạn mà người gốc Hoa đã thao túng cả nền kinh tế Indonesia, và Lương đã trở thành một thương gia cỡ bự. Và anh chàng sĩ quan ngày nọ, kể từ ngày 12 tháng 3 năm 1967, đã trở thành Suharto Tổng thống. Thời kì này, cả cộng đồng gốc Hoa gặp phải sự tẩy chay, thù hằn và đe dọa ngày một mạnh mẽ và quá khích từ người Indonesia bản xứ, nhưng với riêng Lương, dựa vào tiềm lực đã tạo dựng được cũng như hàng loạt mối quan hệ ngày càng phức tạp và đan xen, càng lúc càng phất to. Đây cũng chính là hai thập kỉ mà tiền tài cũng như danh vọng của Lương đạt tới đỉnh cao nhất.
Lương có một chủ trương khá lạ: cứ có tiền là đổ vào làm ăn chứ không sắm sanh nhiều vàng bạc hay biệt thự, nhà vườn. Tập đoàn của Lâm Thiệu Lương khi này – tập đoàn Salim sở hữu đa phần cổ phiếu của ngân hàng BCA (Bank Central Asia) – ngân hàng thương mại cổ phần "khủng" toàn xứ Indonesia. Khách hàng "sộp" nhất của BCA là những công ty hàng đầu trong những ngành công nghiệp chủ chốt. Lương sử dụng BCA để với tay và thu vén vào trong tay hoặc quyền kiểm soát, hoặc ảnh hưởng trong những ngành như công nghiệp chế biến, thép, cơ khí và xây dựng.
Từ giữa những năm 1960, Lâm Thiệu Lương cùng với một số doanh gia người Hoa làm chủ hoàn toàn thị trường bột mì và thị xi măng của Indonesia. Nhiều năm liền, riêng một công ty xi măng của Lâm Thiệu Lương đã chiếm tới 50% sản lượng xi măng của cả nước. Với vị thế như độc quyền Lâm Thiệu Lương có thể thao túng giá cả trên thị trường nội địa.
Tuy vậy, Lương vẫn chưa hài lòng, dường như từng ấy sự chi phối và ảnh hưởng đối với ông là chưa đủ.
Và bởi vậy, Lương tham gia vào một quỹ đầu tư. Các quỹ đầu tư là một hình thức kinh doanh mà thông qua việc các công ty khác (bên B) mời quỹ đầu tư (bên A) tham gia góp vốn vào công ty hoặc dự án của họ, bên A có quyền tạo ảnh hưởng tới bên B, khi tỉ lệ góp ít thì cùng ăn chia phần lời, khi tỉ lệ hùn cao hơn, A có quyền đưa người vào ban lãnh đạo của B. Và quỹ đầu tư Thái Bình Dương đã kiểm soát phần lớn các hoạt động xuất nhập khẩu. Địa bàn hoạt động của nó không chỉ bó hẹp mỗi thị trường Indonesia mà còn lan tỏa ra nhiều nước, quan trọng nhất là các nước Đông Nam Á và khu vực lân cận. Trong cái quỹ đầu tư đó, Lương có 30% tổng số cổ phần.
Cộng lại, trong tay Lâm Thiệu Lương có cỡ 200 công ty khác nhau của mọi lĩnh vực. Tổng doanh số xuất nhập khẩu của các công ty này là quãng độ vài tỷ USD mỗi năm.
Những quan hệ "ngoại hạng"
Có thể xác định rõ ràng được rằng khi mổ xẻ nguyên nhân thành công của Lương, bên cạnh khả năng kinh doanh đơn thuần vốn đã không phải bàn cãi của Lương, thì nguyên nhân quan trọng vào loại bậc nhất chính là những mối quan hệ cấp cao của ông. Lâm Thiệu Lương có mặt khắp nơi, mọi chỗ, mọi ngành trong nền kinh tế Indonesia nhưng các công ty đều đứng danh người khác hoặc là công ty cổ phần với nhiều nhân vật có thế lực.
Các nhà phân tích khẳng định chính mối quan hệ thâm giao với gia đình Tổng thống Suharto đã tạo cho Lâm Thiệu Lương một vỏ bọc và một "tư thế" quá thuận lợi để làm ăn. Trong rất nhiều công ty, Lâm Thiệu Lương đã để cho con trai hay người nhà của Tổng thống đứng tên hoặc tham gia cổ đông chính. Góp vốn vào ngân hàng BCA của gia đình Lâm Thiệu Lương có hai con trai của Suharto. Có những thông tin cho rằng vì thế mà những lúc khó khăn về vốn và thanh khoản thì BCA được nhà nước bơm tiền khá dễ dàng. Một đặc điểm dễ nhận thấy trong tính cách của Lâm Thiệu Lương là ông khéo léo trong ngoại giao, biết nhiều và quan hệ rộng với các chính khách, nhà chính trị. Lương có biệt tài nhận định và phán đoán con người rất tinh tế chính xác, hay như cách nói của người Hoa thì Lương rất có con mắt liên tài.
Ông thường "ngắm" trước những nhân vật sẽ có vị trí cao trong chính trường theo một cách thức rất kì khu để rồi sau khi đã "định vị" được rồi thì tiến tới kết thân với họ và gặt hái thành quả của mình. Trường hợp của Tổng thống Suharto là thí dụ tiêu biểu nhất. Có thể kể ra hàng loạt những thí dụ khác nữa, Lâm Thiệu Lương đã tận dụng tối đa các lợi thế này để phục vụ mưu cầu kinh doanh của mình. Lâm Thiệu Lương đã khôn khéo và kỳ công xây dựng cho mình các liên minh chặt chẽ với những người có thế lực.
Sự liên minh đó, trong rất nhiều trường hợp được ràng buộc bởi các quan hệ kinh tế đa chiều. Nhiều thông tin thống kê cho thấy rằng chí ít thì cũng có gần 30 công ty của Lâm Thiệu Lương là có cổ phần của các "sếp bự" của nhiều ngành kinh tế quan trọng như ngoại thương, tài chính, công nghiệp, y tế...
Đọc thêm
Tập đoàn Lực Bảo |
Tống có thể chỉ:
Nước Tống (thế kỉ 11 TCN – 286 TCN),một nước chư hầu của nhà Chu Trung Quốc.
Nhà Lưu Tống hay Nam Triều Tống (420-479), triều đại đầu tiên của Nam triều Trung Quốc.
Nước Tống (623-624), chính quyền của Phụ Công Thạch thời Tùy mạt Đường sơ
Tống (960-1279), hoàng triều Trung Quốc, cựu đế quốc vùng Đông Á, được phân làm 2 thời kỳ:
Bắc Tống 960-1126
Nam Tống 1227-1279
Đại Tống, chính quyền của cuộc khởi nghĩa Lưu Phúc Thông cuối thời nhà Nguyên
Một họ người tại các nước Đông Á, gốc từ Trung Quốc, Triều Tiên, Tống (họ). |
Minh có thể chỉ:
Triều đại Minh (1368–1644) trong lịch sử Trung Quốc
Nam Minh (1644–1662), Triều đại kế thừa nhà Minh
Một thể văn vần: minh (văn học)
Một đơn vị hành chính của Nội Mông Cổ: minh (Nội Mông Cổ)
Tên một giáo phái: Minh giáo
Họ người: Minh (họ)
Tên người: Hồ Chí Minh, Dương Văn Minh, Minh Nhí,... |
Nguyên trong tiếng Việt có thể chỉ các đối tượng:
Đơn vị tiền tệ của Trung Hoa, xem Yuan Trung Quốc
Nhà Nguyên, một triều đại của phong kiến Trung Quốc
Sông Nguyên, tức Nguyên Giang hay Nguyên Giang (sông Hồng): một con sông tại Trung Quốc
Số nguyên trong toán học
Bên nguyên, chỉ bên (hoặc người) đi kiện
Họ Nguyên, họ người Á Đông |
Viện Đại học Victoria hay Đại học Victoria (tiếng Anh: University of Victoria, thường gọi tắt là UVic) là một viện đại học nằm về phía đông bắc của thành phố Victoria, British Columbia, Canada. UVic được thành lập năm 1963. Đây là viện đại học đứng thứ 20 của Canada năm 2004, 2005 về khía cạnh nghiên cứu.
Các ngành học
Các viện trưởng
W. Harry Hickman, 1963-1964, quyền
Malcolm G. Taylor, 1964-1968
Robert T. D. Wallace, 1968-1969, quyền
Bruce J. Partridge, 1969-1972
Hugh E. Farquhar, 1972-1974
Stephen A. Jennings, 1974, quyền
Howard E. Petch, 1975-1990
David F. Strong, 1990-2000
David H. Turpin, 2000-hiện tại
Chú thích |
Vũ Xuân Thiều (1945–1972) là một thượng úy Quân đội nhân dân Việt Nam, anh hùng cảm tử đã lao vào tiêu diệt máy bay Boeing B-52 Stratofortress của Không quân Hoa Kỳ trong chiến dịch Linebacker II. Ở quận Long Biên, Hà Nội hiện có một con đường mang tên Vũ Xuân Thiều.
Tiểu sử
Anh hùng Vũ Xuân Thiều sinh năm 1945, dân tộc Kinh, tôn giáo Thiên Chúa giáo, quê ở xã Hải An, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, cư trú tại phố Đặng Dung, Hà Nội. Ông là con thứ bảy trong gia đình có 10 người con. Từng theo học tại trường Trung học phổ thông Chu Văn An và Đại học Bách khoa Hà Nội, ông trốn gia đình để nhập ngũ khi đang học đại học năm thứ ba vào năm 1965. Sau khi được tuyển chọn vào không quân, ông mới báo tin cho gia đình biết.
Năm 1968, sau khi hoàn thành xuất sắc khóa học tập và huấn luyện bay ở Liên Xô, phi công Vũ Xuân Thiều trở về nước và được biên chế về Đoàn không quân Sao Đỏ (E921). Khi hy sinh, ông là đảng viên, thượng uý, trung đội trưởng thuộc Đại đội 9, Trung đoàn 927, Sư đoàn 371, Không quân Nhân dân Việt Nam.
Trung tuần tháng 12 năm 1972, khi Hoa Kỳ mở rộng cuộc tập kích chiến lược quy mô lớn bằng máy bay ném bom Boeing B-52 Stratofortress vào thành phố Hà Nội và Hải Phòng, Vũ Xuân Thiều cùng đồng đội quyết tâm tiêu diệt B-52. Để đánh chắc thắng ông đề xuất phương án công kích gần, mặc dù có khả năng nguy hiểm cho cả máy bay và phi công.
Hạ B-52
Theo tin tình báo, đêm 28 tháng 12, lúc 21 giờ 30 phút đến 23 giờ 50 phút, sẽ có 50 lần/chiếc Boeing B-52 Stratofortress vào đánh phá Hà Nội, Hải Phòng. Bộ Tư lệnh Không quân yêu cầu tất cả các sở chỉ huy và các đơn vị trực chiến phải theo dõi chặt chẽ và sẵn sàng cất cánh chiến đấu. Trong khi đó, phi công Vũ Xuân Thiều trực ban chiến đấu tại sân bay Cẩm Thủy; phi công Đinh Tôn trực ban chiến đấu ở sân bay Nội Bài đã sẵn sàng. Ngày 28 tháng 12 năm 1972, lúc 21 giờ 41 phút, Vũ Xuân Thiều được lệnh cất cánh từ sân bay dã chiến Cẩm Thủy, Thanh Hóa (người trực chỉ huy tại sân bay Cẩm Thủy là Đại tá phi công Hoàng Biểu, một trong những phi công bay đêm dày dạn kinh nghiệm).
Lúc 21 giờ 52 phút, Sc B-1 (Thọ Xuân) lệnh Thiều vòng phải, bay hướng 360°, thông báo mục tiêu phía trước 50°, cự ly 15 km, nhưng do nhiễu quá nặng, Vũ Xuân Thiều vẫn chưa phát hiện được mục tiêu. Lúc này tại sở chỉ huy, sĩ quan dẫn đường trên hiện sóng ra đa Trần Xuân Mão, bằng kinh nghiệm của mình đã phát hiện chấm trắng đục giữa nền nhiễu, anh khẳng định đó là B-52, chúng đã đổi hướng, bay ngược lên Sơn La rồi mới vòng xuống đánh phá Hà Nội. Sở chỉ huy lập tức lệnh Thiều vòng phải gấp, bay hướng 90°, qua Sầm Nưa, lên hướng Bắc đuổi theo tốp B-52 đang bay về hướng Nà Sản, Sơn La.
Lúc 21 giờ 58 phút, khi đến Sơn La, Vũ Xuân Thiều phát hiện mục tiêu, anh lập tức báo cáo và tăng tốc độ bám sát. Trong bầu trời tối đen, ra đa lại bị nhiễu rất nặng nên rất khó phán đoán cự ly, Thiều phán đoán cự ly bằng mắt, theo tín hiệu đèn hàng hành của B-52. Lúc này tại sở chỉ huy tiền phương, Phó Tư lệnh Trần Mạnh nhắc: "046 bật công tắc bắn cả loạt, kiên quyết tiêu diệt địch". Phi công Vũ Xuân Thiều trả lời: "046 nghe rõ!". Ông đã phóng cả hai quả tên lửa nhưng chưa hạ được nó. Ông liền tăng tốc đâm thẳng vào chiếc B-52 còn mang đầy bom chưa ném. Cũng có tài liệu khác cho rằng do tấn công từ cự ly quá gần nên ông đã thiệt mạng do máy bay va vào mảnh vỡ của chiếc B-52 đang cháy. Đây là chiếc B-52 thứ hai bị hạ bởi Không quân Nhân dân Việt Nam.
Tuy nhiên, tài liệu của phía Mỹ không ghi nhận chiếc B-52 này bị rơi. Mặt khác, họ còn cho rằng chiếc Mikoyan-Gurevich MiG-21 của Vũ Xuân Thiều đã bị bắn rơi trước khi kịp tiếp cận với B-52, sau khi hứng chịu 3 tên lửa AIM-7 Sparrow từ 2 chiếc F-4D của Không quân Mỹ. Một trong những chiếc F-4 được điều khiển bởi Thiếu tá Harry McKee và Đại úy John Dubler.
Tối 27 tháng 12 năm 2012, nhân kỷ niệm 40 năm ngày hi sinh của phi công Vũ Xuân Thiều, Thiếu tướng Phạm Ngọc Lan (người được cử lên địa điểm nơi Thiều hạ B-52 đêm 28 tháng 12 năm 1972) đã kể lại: "... Ngay tối 28 tháng 12 năm 1972, lúc khoảng 12 giờ đêm, tôi nhận được điện từ sở chỉ huy giao dẫn đầu đoàn cán bộ lên địa điểm nơi phi công Vũ Xuân Thiều bắn rơi B-52 tại Sơn La để nắm và xác minh tình hình. Khi đến nơi, tôi có gặp các chiến sĩ bộ binh đóng quân tại khu vực, mọi người đều nói tối hôm qua thấy hai bó lửa rất to bùng cháy và rơi xuống. Đứng trên đồi chúng tôi nhìn thấy xác B-52 cháy sém một phía, phía bên kia quả đồi là xác chiếc MiG màu ánh bạc. Chúng tôi còn nhặt được hai mảnh xác máy bay MiG và B-52 găm vào nhau, đó là dấu hiệu cho thấy máy bay của Thiều đã lao vào chiếc B-52. Tôi lập tức điện về báo cáo tình hình cho Bộ Tổng tham mưu và Quân chủng Phòng không - Không quân: "Chúng tôi đã đến hiện trường, sờ được xác máy bay B-52, chính xác Vũ Xuân Thiều đã bắn rơi ở cự ly gần và lao vào chiếc B-52, tôi sẽ mang hai mảnh xác máy bay găm vào nhau về báo cáo". Với kinh nghiệm nhiều năm chiến đấu và chỉ huy chiến đấu, tôi linh cảm rằng trong giây phút cuối cùng Vũ Xuân Thiều đã quyết tử để quyết tâm tiêu diệt B-52".
Danh hiệu truy tặng
Tuy được ghi nhận đã hạ B-52 nhưng Vũ Xuân Thiều không được truy tặng danh hiệu ngay vì các cấp chỉ huy e ngại các phi công khác sẽ học theo lối tấn công "cảm tử" này, mà mỗi phi công chiến đấu thì phải đào tạo rất lâu dài mới có được. Tới tháng 12 năm 1994, ông đã được Chính phủ Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Nhận xét
Theo Hà Quang Hưng, đồng đội cùng đoàn bay MiG-21 khóa 3: "Đấy là một con người trí thức, dáng dấp rất "trai Hà Nội", sống hòa đồng, hiền hậu, thông minh. Một con người sống bằng nội tâm. Tư cách thì vừa như thanh niên thành phố lại như thanh niên huyện"
Theo Trần Ngọc Nhuận, người cùng học ở Trường Đại học Bách khoa, cùng nhập ngũ và sang Nga huấn luyện bay: "Ngược lại với vẻ bề ngoài thư sinh thì tính cách của Thiều lại là người có bản lĩnh, khá lì. Trong khi thực hiện các bài bay huấn luyện xạ kích, Thiều thường xử lý khá táo bạo, quyết liệt, kết quả luôn đạt điểm tối ưu"
Theo Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Đăng Kính, một trong những cán bộ đầu tiên của Đại đội bay đêm: "Thiều là phi công dũng cảm, kiên nghị, rất hăng hái, muốn đánh trận"
Chú thích và Tham khảo |
Quỳnh Lưu là một huyện đồng bằng ven biển nằm ở phía đông bắc tỉnh Nghệ An, Việt Nam.
Địa lý
Huyện Quỳnh Lưu nằm ở phía đông bắc của tỉnh Nghệ An, huyện lỵ là thị trấn Cầu Giát, nằm cách thành phố Vinh khoảng 60 km, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp thị xã Hoàng Mai và Biển Đông
Phía tây giáp huyện Nghĩa Đàn, huyện Tân Kỳ và thị xã Thái Hòa
Phía nam giáp huyện Yên Thành và huyện Diễn Châu
Phía bắc giáp thị xã Nghi Sơn và huyện Như Thanh thuộc tỉnh Thanh Hóa.
Theo thống kê năm 2019, huyện Quỳnh Lưu có diện tích 445,1 km², dân số là 276.259 người, mật độ dân số đạt 621 người/km². Quỳnh Lưu là huyện đông dân nhất tỉnh Nghệ An sau thành phố Vinh. 26% dân số theo đạo Thiên Chúa.
Khí hậu
Huyện Quỳnh Lưu nằm trong khu vực nhiệt đới nhưng lại ở miền biển nên thường nhận được ba luồng gió:
- Gió mùa Đông Bắc nằm sâu trong lục địa lạnh lẽo của vùng Sibia và Mông Cổ, từng đợt thổi qua Trung Quốc và vịnh Bắc Bộ tràn về, bà con gọi là gió bắc.
- Gió mùa Tây Nam ở tận vịnh Bengal tràn qua lục địa, luồn qua các dãy Trường Sơn, thổi sang mà nhân dân thường gọi là gió Lào nhưng chính là gió tây khô nóng.
- Gió mùa Đông Nam mát mẻ từ biển Đông thổi vào nhân dân gọi là gió nồm
Khí hậu ở huyện Quỳnh Lưu chia làm hai mùa rõ rệt:
- Mùa nóng từ tháng 5 đến tháng 10 dương lịch. Mùa này tiết trời nóng nực, nhiệt độ trung bình 30C, có ngày lên tới 40C.
- Mùa lạnh từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 dương lịch năm sau. Mùa này thường có gió mùa đông bắc, mưa kéo dài.
Hành chính
Huyện Quỳnh Lưu có 33 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Cầu Giát (huyện lỵ) và 32 xã: An Hòa, Ngọc Sơn, Quỳnh Bá, Quỳnh Bảng, Quỳnh Châu, Quỳnh Diễn, Quỳnh Đôi, Quỳnh Giang, Quỳnh Hậu, Quỳnh Hoa, Quỳnh Hồng, Quỳnh Hưng, Quỳnh Lâm, Quỳnh Long, Quỳnh Lương, Quỳnh Minh, Quỳnh Mỹ, Quỳnh Nghĩa, Quỳnh Ngọc, Quỳnh Tam, Quỳnh Tân, Quỳnh Thạch, Quỳnh Thanh, Quỳnh Thắng, Quỳnh Thọ, Quỳnh Thuận, Quỳnh Văn, Quỳnh Yên, Sơn Hải, Tân Sơn, Tân Thắng, Tiến Thủy.
Tuy một số xã thuộc miền núi và trung du như Quỳnh Châu, Quỳnh Tam, Quỳnh Thắng, nhưng phần lớn các xã nằm ở vùng đồng bằng nhỏ hẹp dọc theo biển Đông.
Lịch sử
Quỳnh Lưu là một vùng đất cổ có cư dân sinh sống từ rất lâu đời. Bằng chứng là di chỉ văn hóa Quỳnh Văn. Ngoài Quỳnh Văn, các di chỉ cồn sò, điệp thuộc loại hình văn hoá Quỳnh Văn còn có ở một số địa phương như Quỳnh Hoa, Quỳnh Hậu, Quỳnh Xuân, Quỳnh Bảng, Quỳnh Lương, Quỳnh Minh, Quỳnh Nghĩa, Quỳnh Hồng, Mai Hùng...
Niên đại văn hoá Quỳnh Văn được xác định là ít nhất ở thời kỳ đồ đá, tức là cách ngày nay khoảng 6000 năm. Cư dân nguyên thủy ở Quỳnh Lưu sinh sống thành từng bộ lạc ở vùng lõm, đồng lầy dọc bờ biển. Chính bằng lao động của mình, những chủ nhân cổ xưa trên mảnh đất Quỳnh Lưu đã "khai thiên phá thạch", vật lộn với thiên nhiên, tạo nên một kỳ tích hình thành vùng đất và hình thành cộng dân cư thời xa xưa.
Tên Quỳnh Lưu xuất hiện vào thế kỷ XV thời Nhà Lê (1430) ở cương vực từ biển Đông lên tận Quỳ Châu gồm 7 tổng phía trên (thuộc đất huyện Nghĩa Đàn hiện nay) và 4 tổng phía dưới (thuộc đất huyện Quỳnh Lưu ngày nay).
Từ năm 1430 trở về trước, cương vực Quỳnh Lưu hiện nay thuộc đất Hàm Hoan (tên của vùng Nghệ Tĩnh từ thế kỷ I đến thế kỷ III).
Từ cuối thể ký III đầu thế kỷ IV, Hàm Hoan đổi tên thành Đức Châu.
Đến giữa thế kỷ VII (năm 650) thời Bắc thuộc, Nghệ Tĩnh hiện nay được gọi là Hoan Châu, rồi đến nửa cuối thể kỷ VIII (năm 764), Hoan Châu tách ra thành Hoan Châu và Diễn Châu. Diễn Châu lúc bấy giờ bao gồm các huyện ngày nay của Nghệ An như Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu, Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp, Quỳ Châu, Quế Phong.
Thời nhà Lý, Diễn Châu là một châu, sau đổi thành một lộ và sau nữa đổi thành phủ, tức là một đơn vị hành chính thuộc chính quyền trung ương từ năm 1010 đến 1225, Quỳnh Lưu lúc bấy giờ nằm trong châu, lộ hoặc phủ Diễn Châu.
Đến thời Trần, vùng Hoan Châu và Diễn Châu được đổi tên là trại, sau là lộ, phủ; năm 1397, Diễn Châu được gọi là trấn với tên là Vọng Giang.
Thời nhà Hồ, trấn Vọng Giang được đổi thành phủ Linh Nguyên (nghĩa là đất linh thiêng) gồm đất Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu và Nghĩa Đàn ngày nay.
Đến thời Lê, Diễn Châu chỉ là một phủ của Nghệ An. Phủ Diễn Châu thời kỳ này bao gồm hai huyện Đông Thành và Quỳnh Lưu. Như vậy, tên "Quỳnh Lưu" lần đầu tiên xuất hiện ở thời nhà Lê với niên đại được xác định là năm 1430.
Từ mốc thời gian thành lập huyện Quỳnh Lưu trở đi tức là đến thời nhà Nguyễn, năm Minh Mệnh thừ 12 (1831), cả nước chia thành 29 tỉnh, trong đó tỉnh Nghệ An và tỉnh Hà Tĩnh được lập riêng. Quỳnh Lưu là đơn vị hành chính thuộc phủ Diễn Châu của tỉnh Nghệ An gồm 11 tổng. Từ năm Minh Mệnh thứ 21 (1840), 7 tổng ở vùng trên được tách thành huyện Nghĩa Đường (sau đổi tên thành Nghĩa Đàn), 4 tổng còn lại (Quỳnh Lâm, Hoàng Mai, Hoàn Hậu, Thanh Viên) là huyện Quỳnh Lưu như hiện nay thuộc phủ Diễn Châu.
Đến thời kỳ thực dân Pháp đô hộ Việt Nam, năm 1919, chính quyền thực dân phong kiến bỏ cấp phủ, Quỳnh Lưu trở thành đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh không còn là cấp dưới thuộc Diễn Châu nữa.
Sau năm 1945, một số làng phía bắc huyện Diễn Châu và huyện Yên Thành được sáp nhập vào huyện Quỳnh Lưu. Huyện Quỳnh Lưu khi đó gồm có 16 xã: Cầu Giát, Liên Hóa, Phú Nghĩa, Quỳnh Anh, Quỳnh Chi, Quỳnh Dị, Quỳnh Diễn, Quỳnh Giang, Quỳnh Ngọc, Quỳnh Phú, Quỳnh Sơn, Quỳnh Tân, Quỳnh Vinh, Tam Xuân, Văn Hải, Văn Thanh.
Sau cải cách ruộng đất 1956, các xã lớn được chia thành các xã có quy mô nhỏ hơn: chia xã Văn Thanh thành hai xã lấy tên là xã Quỳnh ải và xã Quỳnh Sơn ; chia xã Quỳnh Chi thành 3 xã: Quỳnh An, Quỳnh Hoan vàQuỳnh Ngọc ; chia xã Phú Nghĩa thành hai xã lấy tên là xã Quỳnh Nghĩa và Tiến Thủy; chia xã Quỳnh Phú thành 3 xã lấy tên là xã Quỳnh Bảng, xã Quỳnh Lương và xã Quỳnh Minh; chia xã Cầu Giát thành 4 đơn vị hành chính lấy tên là thị trấn Cầu Giát, xã Quỳnh Hồng, xã Quỳnh Hậu và xã Quỳnh Thạch; chia xã Quỳnh Tân thành hai xã lấy tên là xã Quỳnh Long và xã Quỳnh Thuận; chia xã Quỳnh Anh thành 3 xã lấy tên là xã Quỳnh Đôi, xã Quỳnh Thanh và xã Quỳnh Yên; đổi tên xã Văn Hải thành xã Quỳnh Thọ; chia xã Liên Hóa thành hai xã lấy tên là xã Quỳnh Bá và xã Quỳnh Hưng; chia xãQuỳnh Giang thành 3 xã lấy tên là xã Quỳnh Giang, xã Quỳnh Lâm và xã Quỳnh Mỹ; đổi tên xã Quỳnh Sơn thành xã Quỳnh Hoa; chia xã Tam Xuân thành 3 xã lấy tên là xã Quỳnh Thắng, xã Quỳnh Châu và xã Quỳnh Tam.
Huyện Quỳnh Lưu có thị trấn Cầu Giát và 36 xã: Quỳnh An, Quỳnh Bá, Quỳnh Bảng, Quỳnh Châu, Quỳnh Diễn, Quỳnh Đôi, Quỳnh Giang, Quỳnh Hải, Quỳnh Hậu, Quỳnh Hoa, Quỳnh Hoan, Quỳnh Hồng, Quỳnh Hưng, Quỳnh Lâm, Quỳnh Lập, Quỳnh Liên, Quỳnh Lộc, Quỳnh Long, Quỳnh Lương, Quỳnh Mai, Quỳnh Minh, Quỳnh Mỹ, Quỳnh Nghĩa, Quỳnh Ngọc, Quỳnh Phương, Quỳnh Sơn, Quỳnh Tam, Quỳnh Thạch, Quỳnh Thắng, Quỳnh Thanh, Quỳnh Thọ, Quỳnh Thuận, Quỳnh Văn, Quỳnh Xuân, Quỳnh Yên, Tiến Thủy.
Ngày 24 tháng 3 năm 1969, hợp nhất xã Quỳnh Sơn và xã Quỳnh Hải thành một xã lấy tên là xã Sơn Hải; hợp nhất xã Quỳnh An và xã Quỳnh Hoan thành một xã lấy tên là xã An Hòa; chia xã Quỳnh Dị thành hai xã lấy tên là xã Quỳnh Dị và xã Mai Hùng; chia xã Quỳnh Vinh thành hai xã lấy tên là xã Quỳnh Vinh và xã Quỳnh Trang.
Ngày 2 tháng 4 năm 1973, thành lập xã Quỳnh Tân trên cơ sở một phần diện tích và dân số của các xã Quỳnh Xuân và Quỳnh Văn.
Tháng 2 năm 1976, Quỳnh Lưu là huyện thuộc tỉnh Nghệ Tĩnh, hợp nhất xã Quỳnh Bảng và xã Quỳnh Liên thành một xã lấy tên là xã Quỳnh Phú, hợp nhất các xã Quỳnh Hồng, Quỳnh Hậu và Quỳnh Thạch thành một xã lấy tên là xã Quỳnh Sơn.
Huyện Quỳnh Lưu có thị trấn Cầu Giát và 34 xã: Quỳnh Thọ, Quỳnh Bá, Quỳnh Châu, Quỳnh Diễn, Quỳnh Đôi, Quỳnh Giang, Quỳnh Hoa, Quỳnh Hưng, Quỳnh Lâm, Quỳnh Lập, Quỳnh Lộc, Quỳnh Long, Quỳnh Lương, Quỳnh Mai, Quỳnh Minh, Quỳnh Mỹ, Quỳnh Nghĩa, Quỳnh Ngọc, Quỳnh Phú, Quỳnh Phương, Quỳnh Sơn, Quỳnh Tam, Quỳnh Tân, Quỳnh Thắng, Quỳnh Thanh, Quỳnh Thuận, Quỳnh Trang, Quỳnh Văn, Quỳnh Xuân, Quỳnh Yên, An Hòa, Mai Hùng, Sơn Hải, Tiến Thủy.
Ngày 19 tháng 9 năm 1981, chia xã Quỳnh Sơn thành 3 xã: Quỳnh Hồng, Quỳnh Hậu, Quỳnh Thạch; chia xã Quỳnh Mai thành 3 xã: Quỳnh Vinh, Quỳnh Thiện, Quỳnh Dị; chia xã Quỳnh Phú thành 2 xã: Quỳnh Bảng và Quỳnh Liên; chia xã Quỳnh Tam thành 2 xã: Quỳnh Tam và Tân Sơn; thành lập một xã lấy tên là xã Ngọc Sơn.
Ngày 12 tháng 8 năm 1991, huyện Quỳnh Lưu trở lại thuộc tỉnh Nghệ An vừa tái lập.
Ngày 10 tháng 4 năm 2002, chia xã Quỳnh Thắng thành 2 xã: Quỳnh Thắng và Tân Thắng.
Ngày 21 tháng 4 năm 2006, chuyển xã Quỳnh Thiện thành thị trấn Hoàng Mai.
Đến cuối năm 2012, huyện Quỳnh Lưu có 43 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 2 thị trấn: Cầu Giát (huyện lỵ), Hoàng Mai và 41 xã: Quỳnh Thọ, Quỳnh Bá, Quỳnh Bảng, Quỳnh Châu, Quỳnh Dị, Quỳnh Diễn, Quỳnh Đôi, Quỳnh Giang, Quỳnh Hậu, Quỳnh Hoa, Quỳnh Hồng, Quỳnh Hưng, Quỳnh Lâm, Quỳnh Lập, Quỳnh Liên, Quỳnh Lộc, Quỳnh Long, Quỳnh Lương, Quỳnh Minh, Quỳnh Mỹ, Quỳnh Nghĩa, Quỳnh Ngọc, Quỳnh Phương, Quỳnh Tam, Quỳnh Tân, Quỳnh Thạch, Quỳnh Thắng, Quỳnh Thanh, Quỳnh Thuận, Quỳnh Trang, Quỳnh Văn, Quỳnh Vinh, Quỳnh Xuân, Quỳnh Yên, An Hòa, Mai Hùng, Ngọc Sơn, Sơn Hải, Tân Sơn, Tân Thắng, Tiến Thủy.
Ngày 3 tháng 4 năm 2013, tách toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thị trấn Hoàng Mai và 9 xã: Mai Hùng, Quỳnh Vinh, Quỳnh Lộc, Quỳnh Lập, Quỳnh Dị, Quỳnh Phương, Quỳnh Liên, Quỳnh Xuân, Quỳnh Trang để thành lập thị xã Hoàng Mai.
Huyện Quỳnh Lưu còn lại 1 thị trấn và 32 xã trực thuộc như hiện nay.
Kinh tế
Với đặc điểm địa lý của huyện, người dân miền tây chủ yếu khai thác cây công nghiệp như: nhựa thông, bạch đàn, tràm… Người dân vùng đồng bằng chủ yếu là trồng lúa
Người dân vùng biển thường sống bằng nghề đánh bắt cá, làm muối và trồng rau.
Ngày 20/5/2022, Phó Thủ tướng Thường trực Phạm Bình Minh ký Quyết định số 624/QĐ-TTg công nhận huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An đạt chuẩn nông thôn mới năm 2020.
Văn hóa - du lịch
Di tích lịch sử
Đền Hồ Quý Ly ở xã Ngọc Sơn
Di chỉ khảo cổ học Quỳnh Văn ở xã Quỳnh Văn
Đền Quỳnh Tụ
Nhà thờ họ Hồ ở xã Quỳnh Đôi
Đình Tám Mái ở thôn Phủ Yên, xã Quỳnh Thuận
Đình Làng Quỳnh Đôi ở xã Quỳnh Đôi
Đền Voi ở xã Quỳnh Hồng
Đền Chính ở xã Tiến Thủy
Đền Thượng ở xã Quỳnh Nghĩa.
Huyện Quỳnh Lưu có khu du lịch Biển Quỳnh chạy dài từ xã Quỳnh Lập (nay thuộc thị xã Hoàng Mai) đến xã Tiến Thủy với bãi cát vàng, ngoài ra còn có động Hang Dơi Quỳnh Tam.
Danh nhân
Quỳnh Lưu còn là nơi phát tích của dòng họ Hồ ở Việt Nam từ thế kỷ thứ 10. Hồ Hưng Dật, người huyện Vũ Lâm, tỉnh Chiết Giang, đậu Trạng nguyên từ thời vua Ẩn Đế (948 - 995) nhà Hậu Hán, sang làm Thái thú Châu Diễn, đến hương Bào Đột (nay thuộc xã Quỳnh Lâm và xã Ngọc Sơn, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An) lập nghiệp, làm trại chủ và trở thành vị tổ khai cơ họ Hồ ở Châu Diễn. Họ Hồ ở Quỳnh Lưu có các nhân vật nổi tiếng như nhà Vua Hồ Quý Ly; nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương; bảng nhãn Hồ Sĩ Dương, Hoàng giáp Hồ Sĩ Đống, Hồ Phi Tích, nhà cách mạng Hồ Tùng Mậu, Hoàng Văn Hợp, liệt sĩ cách mạng kháng chiến chống Pháp (1930-1931) nguyên Huyện ủy viên huyện ủy Quỳnh Lưu - Nghệ An,... Họ Hồ đến Yên Thành thì có Hồ Tông Thốc,... ra Thanh Hóa thì sinh ra Hồ Quý Ly,... vào Hưng Nguyên thì tạo nên dòng dõi Quang Trung nhà Tây Sơn.
Quỳnh Lưu còn là quê hương của nhiều nhà khoa bảng nổi tiếng trong lịch sử như: Thám hoa Dương Cát Phủ; danh sĩ Phạm Đình Toái, Hoàng Văn Hoan...
Ngày nay có những người nổi tiếng: chính khách Hồ Đức Việt; nhà báo Hồ Anh Dũng; Trung tướng Lê Nam Phong; Trung tướng, PGS, TS, NGND Phan Đức Dư (Giám đốc Học viện An ninh nhân dân); Thiếu tướng Lê Tất Thắng, Phó Tư lệnh Quân khu 4; Giáo sư Phan Cự Đệ; Giáo sư Phan Nguyên Di; nhà văn Nguyễn Minh Châu (tác giả 'Dấu chân người lính); nhà văn Bùi Hiển; nhà thơ Tú Mỡ; nhà thơ Hoàng Trung Thông, nhà thơ trào phúng Dương Quân, Hoàng Nhật Tân (Hoàng Thanh Đạm) nhà nghiên cứu sử học và dịch giả, con trai Hoàng Văn Hoan, Dương Viên, nguyên Tổng thư ký hội mỹ thuật tạo hình Việt Nam. Dương Văn Lan, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Ngoại thương Hà Nội; nguyên Giám đốc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Dương Như Xuyên, Phó Giáo sư, tiến sĩ, nguyên Giám đốc Trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh Nghệ An. Thiếu tướng, Nhạc sĩ An Thuyên, Nhạc sĩ Ánh Dương; Các anh hùng Cù Chính Lan, Phan Văn Trinh, Vũ Văn Huynh, Hoàng Hữu Nhất, Hoàng Quốc Đông, Nguyễn Thị Hồng, Nguyễn Đình Khoa, Nguyễn Thị Minh Châu; ông Hồ Mẫu Ngoạt- Ủy viên Trung ương Đảng, Chánh văn phòng Tổng bí thư.
Giao thông
Đường sắt
Ngoài tuyến đường sắt bắc nam chạy dọc theo chiều từ bắc xưống nam huyện, huyện này còn có tuyến đường sắt địa phương nối từ ga Cầu Giát qua ngã ba Tam Lệ, lên huyện Quỳ Hợp. Đây là một trong số rất ít các tuyến đường sắt nội tỉnh ở Việt Nam, nối đường sắt quốc gia với vùng đất đỏ Phủ Quỳ.
Đường bộ
Ngoài Quốc lộ 1 chạy dọc theo vùng trung tâm huyện, còn có quốc lộ 48 chạy cắt qua các xã phía tây nam huyện lên thị xã Thái Hòa, huyện còn có 2 tỉnh lộ 537A và 537B nối từ quốc lộ 48 chạy về các xã ven biển tạo thành hình vòng cung. Đây cũng là địa phương có tuyến Đường cao tốc Nghi Sơn – Diễn Châu đi qua.
Đường thủy
Với 3 cửa sông đổ ra biển và được nối với nhau bởi hệ thống kênh đào nhà Lê, giao thông đường thủy được nối thông suốt từ bắc xuống nam, từ tây sang đông huyện, hiện nay đã có một cảng cá ở cửa lạch Quèn phục vụ cho nghề cá rất phát triển ở đây. |
Viện Đại học Laval hay Đại học Laval (tiếng Pháp: Université Laval) là một trong số những viện đại học lớn nhất của Québec và Canada. Đây là viện đại học được thành lập sớm nhất ở Canada và thứ tư ở Bắc Mỹ, sau Viện Đại học Tự trị St. Domingue, Viện Đại học Tự trị Quốc gia Mexico, và Viện Đại học Harvard. Laval có trụ sở chính đặt tại quận Sainte-Foy & Sillery, Thành phố Québec, bang Québec, Canada.
Lịch sử
Viện Đại học Laval được thành lập năm 1663 dưới tên Tiểu chủng viện Québec bởi cha François de Montmorency-Laval, đức Giám mục đầu tiên của vùng Tân Pháp (La Nouvelle France). Trong giai đoạn quản lý của người Pháp, đây là cơ sở đào tạo của các thầy tu cho các làng của vùng Tân Pháp. Sau cuộc chinh phục của người Anh, năm 1759, người Anh mở rộng các đào tạo ra chuyên ngành nghề tự do.
Năm 1852, nữ hoàng Anh Victoria ra quyết định chính thức thành lập trường Đại học Laval, đặt dưới quyền quản lý của nữ hoàng. Năm 1878, Đại học Laval mở phân hiệu đầu tiên tại Montréal. Năm 1920, phân hiệu này tách ra trở thành Đại học Montréal. |
DTE, nguyên là chữ viết tắt của Data Terminal Equipment trong tiếng Anh, hay Thiết bị cuối xử lý số liệu (hoặc dữ liệu). Từ này ám chỉ đến một thiết bị cuối (end instrument) sử dụng để biến tư liệu sang tín hiệu truyền thông, hoặc biến những tín hiệu thu được sang tư liệu. Thiết bị cuối xử lý số liệu (DTE) giao thông với thiết bị kết cuối kênh số liệu (Data Circuit-terminating Equipment - DCE). IBM là công ty giới thiệu sự phân loại thiết bị cuối xử lý số liệu (DTE) và thiết bị kết cuối kênh số liệu (DCE).
DTE là một đơn vị xử lý (functional unit) trong một trạm dữ liệu (data station) hoặc một bồn lưu trữ dữ liệu (data sink), nhằm hỗ trợ tính năng điều khiển truyền thông dữ liệu, vận hành trong quy định của một giao thức liên kết (link protocol) nhất định.
Thiết bị cuối xử lý số liệu (DTE) có thể chỉ đơn giản là một thiết bị hoặc một hệ thống liên thông kết nối phụ, bao gồm nhiều bộ phận thiết bị nhỏ, thao tác tất cả những chức năng cần thiết để người dùng có thể truyền thông. Hoặc là người dùng tương tác với DTE (ví dụ thông qua một giao diện người-máy (Human-Machine interface)), hoặc chính DTE trở thành người dùng nữa.
Thông thường, thiết bị DTE là một thiết bị đầu cuối (hoặc một máy tính mô phỏng thiết bị đầu cuối), và DCE là modem.
DTE thường được coi là một giắc đực (male connector) và DCE là một giắc cái (female connector).
Theo quy tắc chung, DCE cung cấp một cái đồng hồ (đồng hồ nội hành - internal clocking) và thiết bị DTE đồng bộ hóa với đồng hồ của DTE (đồng hồ ngoại hành - external clocking). Các giắc cắm D-sub tuân theo một quy chế riêng trong việc bố trí đầu cắm. Các thiết bị DTE thường truyền tin dùng đầu cắm số 2 và nhận nhận tin dùng đầu cắm số 3. Các thiết bị DCE thì ngược lại, đầu cắm số 2 dùng để nhận tin trong khi đầu cắm số 3 dùng để truyền tín hiệu. |
Trong viễn thông (telecomunications), truyền tin (transmission) là một hành động phát những thông điệp điện tín (electrical messages) - liên quan cả đến hiện tượng bức xạ năng lượng (radiant energy) thông qua phương tiện truyền thông (media). Các thông điệp có thể là một chuỗi các đơn vị số liệu (series of data units), như các ký số nhị phân, hoặc các nhóm của chúng được gọi bằng những cái tên khác nhau như khung dữ liệu (frames), hay khối dữ liệu (blocks).
Quá trình truyền thông có thể được phân ra làm hai phần:
Việc phát tín hiệu, thông điệp, hoặc bất cứ một dạng thức thông tin nào do bên gửi gửi đi để thông tin đó được thu nhận ở một nơi nào đó.
Việc truyền một tín hiệu (propagation of a signal) bằng các phương tiện như điện báo (telegraph), điện thoại, đài rađiô, máy truyền hình, hoặc bằng cách sao chép (facsimile) thông qua những môi giới như dây điện, cáp đồng trục (coaxial cable), sóng cực ngắn (microwave), sợi quang (optical fiber), hoặc tần số rađiô.
Trong lý thuyết thông tin nói chung, truyền tin nói đến quá trình giao thông tin tức thông qua một kênh truyền thông. |
Trong lý thuyết mã hóa (coding theory), Kênh nhị phân đối xứng (tiếng Anh: binary symmetric channel, viết tắt là BSC), là một mô hình lý tưởng của một kênh truyền thông truyền tín bit qua lại. Trong kênh nhị phân đối xứng, xác suất (probability) của một con số 1 trở thành số 0, hay một con số 0 trở thành số 1 là tương tự như nhau (đối xứng là như vậy). Vì số 1 và 0 có thể được đại diện bởi nhiều hình thức khác nhau (có xung điện (pulse) hoặc không có xung điện chẳng hạn), trên thực tế, giả định này thường không có giá trị. Tuy nhiên giả định giúp cho việc phân tích trở nên dễ dàng hơn.
Theo phương pháp chính quy, giả thử p < ½ là xác suất lỗi xảy ra trong truyền dẫn. Xác suất của một bit truyền qua Kênh nhị phân đối xứng được thu nhận chính xác là (1−p), không kể loại bit nào được truyền (0 hoặc 1). Nếu ta cho rằng phần nhận (receiver) bên kia đầu dây biết p, thì ta có thể cho rằng , mà không sợ mất chính xác vì tính tổng quát (without loss of generality) của nó, vì nếu không, chúng ta có thể chỉ cần hoán vị ký hiệu nhận được (0 thành 1 hoặc ngược lại), tạo xác suất sai số bằng . Vấn đề này còn trở nên tế nhị hơn nữa nếu đầu nhận hoàn toàn không biết p là gì. |
Trần Văn Quang (26 tháng 5 năm 1917–3 tháng 11 năm 2013 tại Hà Nội) là một Thượng tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, từng giữ các chức Cục trưởng Cục tác chiến, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam từ 1992 đến 2002.
Tiểu sử
Ông còn có tên gọi là Trần Thúc Kính, sinh 1917, quê tại xã Nghi Hoa, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Chịu nhiều ảnh hưởng của các anh trai là nhà hoạt động cách mạng Trần Văn Tăng (1900-1930), Bí thư tỉnh bộ Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội tại Quảng Nam, Trần Văn Cung (1906-1977), bí thư đầu tiên của chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam (Nhà 5D Hàm Long). Anh trai thứ ba là Trần Thúc Vinh (Trần Văn Tụy) (1910-1993), Chánh văn phòng ty Công an Hà Tĩnh. Em trai là Trần Văn Bành (1920-2009), Đại tá, Cục trưởng Cục Quân lực, Cục trưởng Cục Đối ngoại Bộ quốc phòng.
Ông tham gia cách mạng từ 1935, gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1936. Từ 1938 đến 1939, ông là Thành ủy viên Sài Gòn - Chợ Lớn. Năm 1939, bị thực dân Pháp bắt giam. Tháng 10 năm 1940, ông vượt ngục được Xứ ủy trao nhiệm vụ tổ chức lại Đảng bộ tỉnh Nghệ An. Tháng 4 năm 1941, ông bị bắt lần thứ hai, bị kết án tù chung thân và bị đưa đi đày tại Buôn Ma Thuột.
Tháng 6 năm 1945, ông ra tù, tham gia Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Nghệ An, được cử vào Tỉnh ủy, phụ trách Ủy viên quân sự. Năm 1946, ông được phân công giữ chức Chính ủy Bộ Chỉ huy tiếp phòng quân (chỉ huy trưởng là Thiếu tướng Lê Thiết Hùng). Tháng 11 năm 1946, ông là Chính ủy Khu IV (Tư lệnh cũng là Lê Thiết Hùng). Từ năm 1948 đến 1949, ông giữ chức Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy Phân khu Bình - Trị - Thiên.
Tháng 5 năm 1950, Đại đoàn 304 được thành lập, ông được chỉ định giữ chức Chính ủy Đại đoàn, Bí thư đại đoàn ủy. Năm 1951, ông được điều giữ chức Cục trưởng Cục Địch vận.
Năm 1953, ông được cử giữ chức Cục trưởng Cục Tác chiến, Bộ Tổng tham mưu, đặc biệt chuyên trách chiến dịch Điện Biên Phủ.
Năm 1958, ông giữ chức Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam kiêm Cục trưởng Cục Tác chiến, hàm Thiếu tướng.
Năm 1961, ông được điều vào Nam, giữ chức Ủy viên Trung ương Cục miền Nam, phụ trách quân sự.
Năm 1965, ông làm tư lệnh Quân khu IV.
Trong những năm 1966 - 1973, ông giữ chức Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu Trị-Thiên, Bí thư Quân khu ủy, Bí thư Khu ủy Trị-Thiên-Huế.
Năm 1974, ông được thăng quân hàm Trung tướng và được điều động trở lại chức Phó Tổng tham mưu trưởng.
Từ tháng 11 năm 1977 ông giữ chức Thứ trưởng Bộ quốc phòng.
Từ năm 1978 đến 1981, ông là Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân tình nguyện Việt Nam ở Lào (Binh đoàn 678), Bí thư đảng ủy Binh đoàn. Binh đoàn 678 do Trung tướng Trần Văn Quang làm tư lệnh kiêm chính ủy, gồm ba sư đoàn bộ binh (324, 968, 337), một số phân đội binh chủng làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào. Binh đoàn 678 có nhiệm vụ cùng Lào xây dựng nền kinh tế và nền quốc phòng toàn dân vững mạnh trong cả nước Lào, tăng cường và bảo vệ khối liên minh Việt - Lào. .
Năm 1981, ông được tái cử giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, và được thăng Thượng tướng năm 1984.
Từ năm 1992 đến 2002, ông là Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam (2 khóa)..
Ông là Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội Đảng III năm 1960. Ông trở thành ủy viên chính thức năm 1961, là Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) và Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khóa III.
Ông qua đời ngày 3 tháng 11 năm 2013 tại Hà Nội.
Phần thưởng cao quý
Ông được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng:
Huân chương Sao Vàng
Huân chương Hồ Chí Minh
Huân chương Quân công hạng nhất
Huân chương Chiến thắng hạng nhất
Huân chương Kháng chiến hạng nhất
Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhất
Huy hiệu 75 năm tuổi Đảng.
Lịch sử thụ phong quân hàm
Gia đình |
Tôn Sĩ Nghị (1720-1796), tên tiếng Trung: 孫士毅, tự Trí Dã (智冶), một tên tự khác là Bổ Sơn (补山), người tỉnh Chiết Giang, là một đại thần của nhà Thanh, Trung Quốc., và là một trong những bại tướng dưới tay vua Quang Trung của Đại Việt .
Ông nguyên là quan văn, đỗ tiến sĩ đời Càn Long; trải qua các chức vụ như nội các Trung thư, Thị độc, Biên tu, Thái thường tự Thiếu khanh. Sau đó tới Sơn Đông làm bố chính sứ rồi đổi sang làm tuần phủ Quảng Tây. Ông cũng hai lần làm tổng đốc Lưỡng Quảng trong thời kỳ trị vì của hoàng đế Càn Long. Lần thứ nhất, từ ngày 26 tháng 2 năm 1785 tới ngày 1 tháng 9 năm 1785, phụng chỉ dụ của hoàng đế Càn Long đến thay thế Thư Thường làm tổng đốc Lưỡng Quảng với chức danh là Tổng đốc Lưỡng Quảng cùng địa phương đề đốc quân vụ, lương thảo kiêm tuần phủ sự, là chức quan cao cấp nhất tại hai tỉnh Quảng Tây và Quảng Đông. Sau đó Phú Lặc Hồn thay thế ông từ ngày 1 tháng 9 năm 1785 tới ngày 2 tháng 5 năm 1786. Từ ngày này ông lại tiếp tục làm tổng đốc Lưỡng Quảng cho tới ngày 19 tháng 2 năm 1789 và người thay thế ông là Phúc Khang An (?-1796), sau khi đội quân do ông chỉ huy nhằm giúp Lê Chiêu Thống quay lại ngai vàng của Đại Việt bị quân đội của Nguyễn Huệ đánh bại trong trận chiến tại Thăng Long dịp tết Kỷ Dậu 1789 .
Năm 1787, ông chỉ huy việc phòng ngự tại Triều Châu đề phòng quân khởi nghĩa của Lâm Sảng Văn (林爽文) tại Đài Loan tiến vào Quảng Đông. Năm sau, ông chỉ huy quân đội nhà Thanh tiến vào Đại Việt theo yêu cầu của Lê Chiêu Thống nhằm giúp ông này phục hồi nhà Hậu Lê. Chiến dịch hành quân này của Tôn Sĩ Nghị là một trong mười chiến dịch hành quân lớn (Thập toàn võ công) trong đời hoàng đế Càn Long, được ghi lại trong Thập toàn ký (1792) của vị hoàng đế này. Cũng nhân đó mà Càn Long tự xưng là Thập toàn lão nhân. Chi tiết cụ thể xem bài Chiến thắng Kỷ Dậu.
Mặc dù không thành công trong việc phục hồi nhà Hậu Lê nhưng sau đó ông vẫn được phong là Nhất đẳng Mưu Dũng công, là quân cơ đại thần và đảm nhận chức vụ Binh bộ Thượng thư. Năm 1791, đổi sang làm tổng đốc Tứ Xuyên, cung ứng quân nhu cho đội quân của Phúc Khang An trong chiến dịch trừng phạt quân đội của người Gurkha tại khu vực ngày nay là Gorkha thuộc Nepal (sử sách Trung Hoa gọi là 廓尔喀之乱 - Khuếch Nhĩ Khách chi loạn). Thời gian sau đó ông còn dẫn quân trấn áp khởi nghĩa của người Miêu và Bạch Liên giáo. Ông mất năm Gia Khánh thứ nhất (1796).
Trong văn hoá đại chúng |
Nyasaland, hay Xứ bảo hộ Nyasaland, là xứ bảo hộ của Anh tại châu Phi được thành lập năm 1907 sau khi Xứ bảo hộ Trung Phi thuộc Anh (British Central Africa Protectorate) đổi tên. Từ năm 1953 tới 1963, Nyasaland thuộc Liên bang Rhodesia và Nyasaland. Sau khi Liên bang tan rã, Nyasaland giành độc lập từ Anh vào ngày 6 tháng 7 năm 1964 và đổi tên thành Malawi.
Lịch sử Nyasaland được đánh dấu bởi sự thất thoát một lượng lớn ruộng công tại châu Phi vào đâu thời thuộc địa. Vào tháng 1 năm 1915, Đức cha John Chilembwe tổ chức một cuộc nổi loạn nhằm phản đối sự phân biệt đối với người châu Phi, buộc các chính quyền thực dân phải đánh giá lại các chính sách của họ. Tầng lớp thượng lưu trí thức người châu Phi dần có tiếng nói và tích cực tham gia vào các hoạt động chính trị từ thập niên 1930, ban đầu thông qua các hiệp hội, và sau 1944, thông qua Đại hội Phi Nyasaland (NAC).
Các cuộc kích động dân sự gia tăng đáng kể kể từ khi Nyasaland bị ép phải gia nhập Liên bang với Nam và Bắc Rhodesia vào năm 1953. Sự thất bại của NAC trong việc khống chế đã dẫn tới sự sụp đổ. Không lâu sau đất nước này được khôi phục nhờ một thế hệ trẻ trung và giàu sưc chiến đấu hơn, góp phần đưa Hastings Banda trở lại quê hương và lãnh đạo đất nước giành độc lập. |
Manta có thể chỉ:
Manta (chi cá đuối)
Malta
Manta, Cuneo thuộc tỉnh Cuneo |
Trần Tử Bình (1907-1967) là một trong những vị tướng đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà . Ông là người lãnh đạo phong trào công nhân cao su Phú Riềng 1930; Một trong những cốt cán của Ủy ban Khởi nghĩa Hà Nội trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945. Sau Cách mạng tháng Tám ông đã được bổ nhiệm vào nhiều chức vụ của quân đội và Nhà nước như Phó giám đốc - chính ủy Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (1946), Phó Bí thư Quân Ủy Trung ương (1947), Chính ủy trường Lục quân tại Trung Quốc (1950-1956), Tổng Thanh tra Quân đội kiêm Phó Tổng thanh tra Chính phủ (1956-1958), Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1959-1967). Huân chương Sao Vàng (2008).
Tiểu sử
Trần Tử Bình tên thật là Phạm Văn Phu, sinh năm 1907, trong một gia đình nông dân nghèo theo đạo Công giáo, tại xã Tiêu Động, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Biệt danh khi hoạt động Trần Tử Bình của ông có nghĩa "sống phong trần, lãng tử, dám xả thân vì chính nghĩa, bình đẳng"
Phong trào Phú Riềng Đỏ 1930
Vì tham gia phong trào yêu nước, vận động giáo sinh ở Chủng viện Hoàng Nguyên (Hà Đông) để tang cụ Phan Chu Trinh nên cuối năm 1926 ông bị đuổi học. Năm 1927, được Tống Văn Trân giác ngộ, ông đã ký hợp đồng vào Nam Bộ làm phu đồn điền cao su Phú Riềng.
Tại Phú Riềng, ông được nhà cách mạng Ngô Gia Tự giác ngộ, kết nạp vào Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội. Tháng 10 năm 1929, là đảng viên Đông Dương Cộng sản Đảng tại chi bộ Phú Riềng.
Cuối năm 1929, thay Nguyễn Xuân Cừ làm bí thư chi bộ. Đầu năm 1930, chi bộ lãnh đạo cuộc đấu tranh đòi quyền sống của 5.000 công nhân Phú Riềng, làm nên phong trào "Phú Riềng Đỏ" lịch sử. Sau đó, ông bị bắt, bị kết án 10 năm tù, bị đày ra Côn Đảo.
Thời kỳ tù Côn Đảo 1931-1936
Thời kỳ bị Pháp giam cầm tại Côn Đảo ông vẫn tiếp tục học tập lý luận cách mạng, chủ nghĩa Marx-Lenin và đấu tranh đòi độc lập cho Việt Nam từ trong tù. Cũng trong quãng thời gian này ông đã kết thân với các nhà cách mạng cộng sản khác như: Tôn Đức Thắng, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng, Lê Văn Lương, Phạm Hùng, Hà Huy Giáp, Trần Xuân Độ, Nguyễn Văn Phát, v.v. đây là lứa cán bộ cốt cán đầu tiên của cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Năm 1936, do ảnh hưởng của Mặt trận Bình dân Pháp, chính quyền thực dân phải thả ông về đất liền và quản thúc ông ở quê nhà.
Thời kỳ hoạt động bí mật 1936-1945
Sau khi được trả tự do ông quay trở về Hà Nam và làm thầy ký ở phố huyện Bình Lục, nhưng vẫn tiếp tục bí mật hoạt động cách mạng. Thời kỳ này ông đã lần lựơt giữ các chức vụ khác nhau trong Đảng bộ tỉnh Hà Nam như Bí thư chi bộ, Bí thư Huyện ủy Bình Lục và Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam.
Năm 1940, ông được bầu là Uỷ viên Xứ uỷ Bắc Kỳ và trực tiếp phụ trách Bí thư Khu uỷ khu C (Liên tỉnh: Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình) vào 1940, 1943; rồi năm 1941 - phụ trách Bí thư Khu uỷ khu D (Liên tỉnh: Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phú Thọ, Tuyên Quang).
Ngày 24 tháng 12 năm 1943, ông bị bắt ở Thái Bình. Đầu năm 1944, sau khi vượt ngục ở nhà tù Hà Nam bất thành ông bị chính quyền Pháp chuyển về nhà tù Hoả Lò (Hà Nội), nơi được coi là nhà tù tuyệt đối an toàn của chế độ thực dân Pháp. Tại Hỏa Lò, ông được bầu làm Trưởng ban sinh hoạt, tổ chức hoạt động công khai của tù chính trị. Ngày 11 tháng 3 năm 1945, lợi dụng sự kiện phát-xít Nhật hất cẳng Pháp ra khỏi Đông Dương, việc quản lý nhà tù Hỏa Lò có sự thay thày đổi chủ, lộn xộn và bị lơi lỏng, Trần Tử Bình cùng các tù chính trị cộng sản đã tổ chức cuộc vượt ngục nổi tiếng trong lịch sử theo đường cống ngầm giải thoát cho gần 100 tù chính trị, trong số đó có các ông Đỗ Mười, Trần Đăng Ninh...
Sau khi thoát khỏi Hỏa Lò, ông trở về xây dựng Chiến khu Quang Trung hay Chiến khu Hòa - Ninh - Thanh, Bộ chỉ huy đặt tại thôn Tâm Quy xã Hà Tân huyện Hà Trung tinh Thanh Hóa (là khu vực giáp ranh các tỉnh: Hòa Bình - Ninh Bình - Thanh Hóa).
Ngày 19 tháng 8 năm 1945, với tư cách là Ủy viên Thường vụ Xứ uỷ Bắc Kỳ, Ông đã trực tiếp tham gia lãnh đạo Tổng khởi nghĩa Hà Nội và một số tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ.
Thời kỳ phục vụ quân đội 1945-1959
Tháng 9 năm 1945, ông được giao nhiệm vụ Phó giám đốc, Chính trị ủy viên Trường Quân chính Việt Nam, (sau đổi tên là Trường Huấn luyện Cán bộ Việt Nam, rồi: Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn).
• Từ tháng 3/1947 đến 10/1950 ông được đề bạt làm Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Phụ trách công tác Cán bộ và Kiểm tra Đảng. Cuối 1947, ông cùng Lê Thiết Hùng chỉ huy mặt trận Sông Lô thắng lợi.
Tháng 1 năm 1948, ông được phong Thiếu tướng trong đợt phong quân hàm đầu tiên (cùng đợt với các ông Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Trung tướng Nguyễn Bình và các Thiếu tướng: Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Văn Tiến Dũng, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiến Mai, Trần Đại Nghĩa). Cùng thời gian đó đó ông được bổ nhiệm làm Phó Tổng thanh tra Quân đội. Ông làm Công tố viên trong phiên Tòa án quân sự tối cao xét xử vụ án Trần Dụ Châu tham nhũng năm 1950.
• Từ 10/1950-1956, ông nhận nhiệm vụ Chính ủy viên Quân hiệu Lục quân Trần Quốc Tuấn (sau đổi tên là Trường Lục quân Việt Nam, kiêm Phó Tổng Thanh tra Quân đội
• Tháng 2 năm 1951, ông được cử làm đại biểu Quân đội dự Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam II tại Việt Bắc.
• Thời gian 1956-1959, ông nhận nhiệm vụ Chánh Tổng Thanh tra Quân đội, Phó Tổng Thanh tra Chính phủ Việt Nam, tham gia củng cố và trong sạch hóa chính quyền thời hậu chiến.
• Năm 1960, ông được bầu làm đại biểu quân đội dự Đại hội Đảng III, và được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông cũng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa II và khóa III.
Thời kỳ công tác ngoại giao 1959-1967
• Năm 1959, ông được chuyển sang công tác tại Bộ Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và được bổ nhiệm làm Đại sứ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Trung Quốc, kiêm đại sứ tại Mông Cổ thay cho ông Nguyễn Khang.
Trong 8 năm công tác tại Bắc Kinh, ông được bầu làm Trưởng Ngoại giao Đoàn Bắc Kinh. Ở giai đoạn này, mâu thuẫn trong quan hệ giữa hai nước đồng minh Trung Quốc và Liên Xô diễn ra rất căng thẳng, thậm chí đã có lúc Trung Quốc gây sức ép để Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải ngả theo Trung Quốc. Tuy nhiên, đây là hai đồng minh lớn của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nguồn viện trợ của cả hai bên là vô cùng cần thiết cho cuộc chiến nhằm thống nhất đất nước của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, việc ngả về một bên sẽ làm mất lòng bên kia và gây ra tác hại to lớn về nguồn viện trợ, phương diện chính trị cũng như sức mạnh quân sự của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Được nhiều đồng nghiệp và cấp trên đánh giá cao về sự khôn ngoan, khéo léo, mềm dẻo, đại sứ Trần Tử Bình đã góp phần giải quyết mâu thuẫn Trung-Việt trong "vấn đề Liên Xô" và vận động được Trung Quốc tiếp tục ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, không để quan hệ Việt - Xô ảnh hưởng đến quan hệ Việt - Trung .
• Trong lần về nước họp đầu năm 1967, ông bị ốm nặng và từ trần tại Bệnh viện Hữu nghị Việt-Xô, Hà Nội vào sáng ngày 11 tháng 2 năm 1967 (tức mùng ba Tết Đinh Mùi). Ông qua đời khi vừa tròn 60 tuổi .
Lễ tang của ông được cử hành trọng thể tại Câu lạc bộ Quân nhân, Bộ Quốc phòng và tổ chức theo nghi thức cấp Nhà nước dành cho sĩ quan cấp Tướng. Sau đó, ông được an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội.
Gia đình
• Trong cuộc đời hoạt động cách mạng và chính trị của mình, ông luôn nhận được sự động viên mạnh mẽ và nhiệt thành từ bà Nguyễn Thị Hưng - người vợ, người đồng chí của ông. Nguyễn Thị Hưng cũng đã tham gia lãnh đạo phong trào cách mạng tại Hưng Yên và là người trực tiếp lãnh đạo cướp kho thóc Đồng Long, đây là một sự kiện lịch sử quan trọng (đã từng được đưa lên phim truyện). Bà cũng có đóng góp vào công cuộc phát triển phong trào phụ nữ tại nhiều tỉnh phía bắc. Sau năm 1957 bà đã đảm đương nhiều cương vị tại Bộ Ngoại thương (nay là Bộ Công thương), một trong những bộ lớn thời bao cấp, trong đó có chức vụ Chánh Thanh tra của bộ.
• Đã quen sử dụng cái tên Trần Tử Bình nên tám người con của ông bà (6 trai, 2 gái) đều lấy họ Trần: Trần Yên Hồng, Trần Kháng Chiến, Trần Thắng Lợi, Trần Kiến Quốc, Trần Thành Công, Trần Hữu Nghị, Trần Hạnh Phúc, Trần Việt Trung. Mỗi tên đều gắn với sự kiện của đất nước. Tuy nhiên họ không bao giờ quên đi họ gốc của mình (họ Phạm)..
Vinh danh và Khen thưởng
Khen thưởng
Huân chương Sao Vàng (2008)
Huân chương Hồ Chí Minh(2001)
Huân chương Độc lập hạng Nhất (1967)
Huân chương Quân công hạng Ba
Huân chương Chiến thắnghạng Nhất
Vinh danh
Tên ông được gắn biển trên một số tuyến đường của các thành phố như:
Phường Nghĩa Tân, Quận Cầu Giấy, TP. Hà Nội.
Huyện Củ Chi, TP Hồ Chí Minh.
Quận Cẩm Lệ - Thành phố Đà Nẵng
Huyện Hoà Vang, TP Đà Nẵng.
Thị xã Thủ Dầu Một, Tỉnh Bình Dương
Thành phố Phủ Lý - Tỉnh Hà Nam
Huyện Bình Lục, Tỉnh Hà Nam
Phường Phước Long, TP Nha Trang, Khánh Hoà . |
100 hay một trăm (số La Mã: C) là một số tự nhiên ngay sau 99 và ngay trước 101.
Tính chất trong toán học
100 là số tự nhiên nhỏ nhất có 3 chữ số
Là số chính phương (102 = 100)
Thể hiện tỷ lệ tuyệt đối (100%)
100 là tổng của chín số nguyên tố đầu tiên, cũng như tổng của một số cặp số nguyên tố như 3 + 97, 11 + 89, 17 + 83, 29 + 71, 41 + 59 và 47 + 53.
100 là tổng của các lập phương của bốn số nguyên dương đầu tiên (100 = 13 + 23 + 33 + 43). Điều này có liên quan đến định lý Nicomachus với thực tế là 100 cũng bằng bình phương của tổng của bốn số nguyên dương đầu tiên: 100 = 102 = (1 + 2 + 3 + 4)2
26 + 62 = 100, nên 100 là một số Leyland.
Trong khoa học
100 là số nguyên tử của Fermi
Trên thang độ C, 100 độ là nhiệt độ sôi của nước cất ở mực nước biển
Đường Kármán nằm ở độ cao 100 km so với mực nước biển của Trái đất và thường được sử dụng để xác định ranh giới giữa bầu khí quyển của Trái đất và không gian bên ngoài vũ trụ.
Trong chính trị
Thượng viện Hoa Kỳ có 100 thượng nghị sĩ.
Trong tiền tệ
Hầu hết các loại tiền tệ trên thế giới được chia thành 100 đơn vị con; ví dụ, một euro là một trăm cent. |
Bảng mạch in hay bo mạch in (tiếng Anh: printed circuit board - PCB) , đôi khi gọi tắt là mạch in, là bảng được sử dụng để kết nối các linh kiện điện tử với nhau nhờ các đường dẫn điện được "in" trên một tấm vật liệu cách điện. Chúng xuất hiện và đóng một vai trò quan trọng ở hầu hết các thiết bị điện tử ngày nay..
Chế tạo bảng mạch in là công đoạn quan trọng trong quá trình chế tạo mạch điện tử. Trước đây, việc sản xuất bảng mạch in diễn ra một cách thủ công, rời rạc. Tất cả các công đoạn đều được làm bằng tay, từ khâu lập sơ đồ mạch điện cho đến khâu lắp ráp. Ngày nay, các hệ thống hỗ trợ thiết kế và sản xuất bằng máy tính (CAD-CAM) cùng các máy CNC đã đảm bảo quá trình sản xuất mạch in diễn ra một cách liên tục, khép kín; giảm nhẹ sự can thiệp của con người, qua đó giảm sai sót gây ra trong các khâu trung gian; tiết kiệm thời gian và chi phí sản xuất cũng như cho ra sản phẩm giá thành hạ.
Việc chế tạo mạch in thường sử dụng một trong hai phương pháp sau đây:
Phương pháp truyền thống để chế tạo PCB, là chế tạo bảng có các đường dẫn điện bằng đồng trên tấm nền cứng (một số có thể là nền dẻo) được làm bằng nhựa bakelit (trước đây) hoặc bằng FR-4 (Flame Retardant 4), một loại vật liệu composit được tổng hợp từ sợi thủy tinh và epoxy (hiện nay). Tấm nền được làm bằng vật liệu FR-4 thường được gọi thông tục là "gỗ fip". Tấm mạch ban đầu gồm tối thiểu một lớp cách điện và một lớp đồng (đây chính là mạch in 2 lớp, loại mạch in cơ bản nhất của lĩnh vực điện tử). Số lớp của một bảng mạch in thì tùy thuộc vào số lượng linh kiện, kích thước thiết bị và độ phức tạp của mạch điện. Sơ đồ mạch điện được vẽ sẵn và được in (theo kiểu in ảnh hoặc in lưới) lên mặt lớp đồng. Sau đó, người ta tiến hành loại bỏ phần đồng thừa bằng hóa chất (hoặc bằng máy phay) theo vết ảnh được in trên tấm mạch để tạo thành các đường dẫn điện.. Công nghệ này ra đời từ những năm 1950 và vẫn còn được sử dụng cho đến tận ngày nay.
Công nghệ mới hiện nay là in điện tử (Printed electronics), sử dụng phương pháp in khắc đường dẫn điện trên tấm mạch bằng máy khắc laser chuyên dụng. Công nghệ này ưu việt hơn nhiều so với phương pháp chế tạo truyền thống như: độ chính xác trong gia công cao, tiết kiệm thời gian và chi phí sản xuất nhờ tính tự động hóa cao nên được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất.
Lịch sử
Trước thập niên 1950, cách duy nhất để người ta kết nối các linh kiện điện tử trong một thiết bị điện tử là sử dụng phương pháp nối dây "điểm-điểm" (point-to-point). Phương pháp này sử dụng rất nhiều dây dẫn với nhiều độ dài khác nhau nối vào 2 cực của các linh kiện làm cho các mạch điện có cấu trúc rất phức tạp, tốn nhiều thời gian sản xuất, giá cả cũng rất đắt tiền cũng như tuổi thọ sử dụng của các mạch nối dây không được cao do các chân nối sẽ bị hoen rỉ sau một thời gian sử dụng. Việc sửa chữa các mạch điện này cũng rất khó khăn và tốn kém do cấu tạo của chúng quá phức tạp. Các mạch nối dây vẫn được sử dụng rộng rãi cho đến thập niên 1980 trên các ti vi và radio.
Khi transistor ra đời năm 1947 tại phòng thí nghiệm Bell (Bell Lab), người ta đã nhận thấy rằng đây chính là giải pháp hiệu quả nhất để thay thế cho các đèn điện tử chân không to, nặng, kém bền, tiêu thụ nhiều điện, hiệu suất thấp và toả rất nhiều nhiệt. Các transistor được đánh giá là nhỏ, tiêu thụ ít điện năng, hiệu suất cao và bền hơn rất nhiều so với đèn chân không nên nó đã nhanh chóng len lỏi vào hầu hết các thiết bị điện tử kể từ giữa thập niên 1950. Kể từ đây, nhu cầu thu nhỏ và đơn giản hóa cấu trúc mạch điện đã phát sinh làm cho các nhà sản xuất mạch điện gặp rất nhiều khó khăn. Họ đã thử qua nhiều cách khác nhau nhưng đều thất bại cho đến khi họ để ý tới một phát minh quân sự đã được Chính phủ Hoa Kỳ thương mại hóa dân sự vào năm 1948, đó chính là bảng mạch in. Trước đó, phát minh này đóng vai trò quan trọng trong các ngòi nổ cận đích (proximity fuze) của Quân đội Hoa Kỳ trong Thế chiến 2. Bài toán thu nhỏ và đơn giản hóa mạch điện đã được giải quyết một cách đáng kể và bảng mạch in đã mở ra thời kì "bùng nổ" của các thiết bị điện tử gia đình ở Mỹ rồi sau đó lan nhanh sang Canada, các quốc gia Tây Âu (Anh, Pháp, Đức,...), Nhật Bản và các quốc gia khác trong từ cuối thập niên 50-đầu thập niên 60 của thế kỉ XX.
Lúc ra đời thì in mạch là công nghệ vượt trội, dẫn đến tên gọi "bảng mạch in" hay PCB . Sự phát triển của công nghệ mạch in dẫn đến, tùy theo nhu cầu làm mạch mà hiện nay bảng mạch in được đặc trưng với số lớp khác nhau:
Mạch in hai lớp có một mặt đồng, được dùng phổ biến ở chuột máy tính, một phần các ti vi, các thiết bị âm thanh dân dụng, mạch điều khiển của quạt điện, lò vi sóng,...
Mạch in ba lớp có hai mặt đồng, dùng trong các thiết bị điện tử phức tạp (như các đồng hồ đo lường điện tử)
Mạch in năm lớp, tương đương với ép hai loại kể trên, có ba lớp đồng và hai lớp cách điện, được dùng trong các hệ phức tạp cao (như máy tính cá nhân).
Mạch in nhiều lớp (số lớp mạch dao động từ 6 đến 40 lớp, thậm chí 50 lớp) được dùng trong thiết bị lớn có kết nối phức tạp với nhiều linh kiện (như các siêu máy tính, máy chủ, các thiết bị điện tử dùng cho các hoạt động thám hiểm không gian,...)
Từ những năm 1970 các bảng mạch được phủ sơn chống ẩm và ăn mòn, có màu xanh lục sẫm, gọi là "phủ lăc". Lúc đầu các đường mạch được vẽ bằng tay, sau chuyển sang in ảnh hoặc in lưới lên mặt lớp đồng. Những bảng mạch in thời đầu được thiết kế ở dạng bản vẽ kỹ thuật với tỷ lệ lớn hơn cỡ thật, sau đó được thu về kích cỡ thật, đưa bản các lỗ lên máy khoan bảng mạch theo tọa độ, rồi in và gia công mạch. Về sau xuất hiện in chỉ dẫn gồm chữ và hình vẽ (legend hay silkscreen) bằng mực sơn lên hai mặt bảng mạch bán thành phẩm, để chỉ dẫn cho lắp ráp và sửa chữa.
Từ cỡ năm 1975, thời kỳ khởi đầu của thiết kế và sản xuất hỗ trợ bằng máy tính (CAD-CAM), thiết kế bảng mạch in thực hiện trên máy tính nhưng tách rời với thiết kế sơ đồ mạch điện. Lúc các máy tính cá nhân ra đời thì xuất hiện các trình hỗ trợ vẽ bảng mạch, làm việc trong môi trường PC-DOS. Trình có thư viện biên tập được, chứa kích cỡ và sắp xếp chân của các linh kiện nhiều chân cơ bản, tuy nhiên người dùng phải nắm chắc sơ đồ mạch để bố trí vị trí linh kiện và chạy đường mạch hợp lý. Các trình PC-DOS thường quản lý 3 lớp vẽ là mặt linh kiện (component), mặt hàn (solder), và lớp chỉ dẫn (silkscreen). Kết quả được xuất ra bản ảnh PCX hoặc BMP cho các lớp để đưa lên film hoặc lưới in, và bản lỗ để đưa lên máy khoan bảng mạch theo tọa đô.
Từ năm 1981 "tự động hóa thiết kế điện tử" (EDA, Electronic design automation), còn gọi là "thiết kế điện tử hỗ trợ bằng máy tính" (ECAD, electronic computer-aided design) ra đời, với các phần mềm hỗ trợ thiết kế được phát triển riêng cho mạch điện tử. Ban đầu các phần mềm hoạt động ở các máy tính trạm, và khi Microsoft Windows cho máy tính cá nhân ra đời thì có các phiên bản cho PC. Các công đoạn được tích hợp trong các gói phần mềm, đảm nhận từ thiết kế sơ đồ mạch điện, thiết kế bảng mạch in và sau đó điều khiển gia công bảng mạch, trong đó máy khoan lỗ hoạt động như một plotter đặc chủng .
Các module
Bên cạnh cách lắp ráp lên một tấm PCB, thì khi cần tiết kiệm không gian người ta lắp các mạch với nhiều bảng PCB nhỏ theo khối tạo thành module, như cordwood module. Các bảng PCB có dạng chữ nhật, tròn, tam giác hay đa giác tùy theo không gian đặt module đó.
Các module này được dùng trong mạch điều khiển ở các thiết bị vũ trụ, tên lửa, máy bay xe cộ, đầu đạn, đầu dò, ống đo đạc trong các ngành khoa học kỹ thuật và y tế,... Nó cũng được áp dụng trong việc chế ra các module có chức năng xác định nhưng hay dùng đến, chuẩn hóa thành thương phẩm, thường gọi là "pack".
Thiết kế
Ngày nay mạch in hiện được thiết kế trên máy tính bằng các phần mềm chuyên dụng thiết kế mạch điện tử, như Orcad, Altium (trước đây là Protel), Fritzing,... Các phần mềm này hỗ trợ thiết kế từ lập sơ đồ mạch nguyên lý đến làm mạch in, trong đó thiết kế mạch in là công đoạn sau cùng. Những bước chính trong thiết kế trên máy tính có :
Thiết kế sơ đồ mạch điện thông qua công cụ tự động hóa thiết kế điện tử (EDA, Electronic design automation).
Xác định kích thước và hình mẫu bảng PCB và vỏ hộp phù hợp cho hệ mạch.
Xác định vị trí các linh kiện có tính đến kích thước và mức tỏa nhiệt của chúng, và các tản nhiệt nếu có.
Xác định số lớp PCB tùy theo độ phức tạp của mạch, bố trí mảng đất (Ground), màng đường nguồn (Power) và mảng đường truyền tín hiệu. Để làm giảm tối đa nhiễu điện từ giữa các linh kiện và đường tín hiệu thì các tín hiệu tần cao cần được định tuyến trong các lớp bên trong giữa mảng đất và/hoặc mảng nguồn .
Xác định trở kháng đường truyền bằng sử dụng độ dày lớp điện môi, chiều dày và chiều rộng vết đồng. Trong trường hợp tín hiệu khác biệt thì cần tính đến tách đường. Các dạng microstrip, stripline hoặc stripline kép có thể được sử dụng để định tuyến các tín hiệu. Các công cụ tự động hóa thiết kế điện tử thường cho phép tự động làm rõ kết nối tín hiệu, kết nối đất và nguồn.
Xuất ra các tệp Gerber để điều khiển máy gia công bảng mạch.
Nếu công đoạn lập sơ đồ mạch điện thực hiện đúng với cú pháp yêu cầu, thì người dùng có thể chạy mô phỏng kiểm tra lỗi, cũng như dùng nó cho việc tự động bố trí đường mạch trong bảng mạch in.
Khi thiết kế bảng mạch in thì người thiết kế cần phải hiểu biết về kích thước các đối tượng, bố trí và sắp xếp các linh kiện sao cho phù hợp nhất trên một bảng mạch, đồng thời tránh nhiễu lẫn nhau giữa chúng. Hỗ trợ cho việc thiết kế mạch in là thư viện các linh kiện, gồm các kích cỡ, bố trí chân,... để người dùng gọi ra trong bố trí không gian trên bảng mạch. Thành công của một thiết kế tùy thuộc kinh nghiệm người dùng, và trong nhiều trường hợp phải làm nhiều phiên bản mới đạt được bản như ý.
Các phần mềm thiết kế
Chỉ dẫn
Chú thích |
Tàu con thoi Discovery (tiếng Anh của "khám phá"; mã số: OV-103) là một trong số những tàu con thoi thuộc về Cục Quản trị Hàng không và Không gian Quốc gia Hoa Kỳ (NASA). Cất cánh lần đầu tiên vào năm 1984, Discovery là tàu con thoi thứ ba được đưa vào hoạt động. Tàu Discovery vừa phục vụ nghiên cứu, vừa phục vụ cho việc lắp đặt Trạm Vũ trụ Quốc tế (ISS).
Tàu được lấy tên từ những con tàu thám hiểm tên Discovery. Đầu tiên là HMS Discovery, một con tàu biển đã đưa thuyền trưởng James Cook trên chuyến đi lớn thứ ba và cũng là cuối cùng của ông ta. Ngoài ra, còn có con tàu Discovery của Henry Hudson, được sử dụng trong năm 1610–1611 để đi tìm Tuyến đường biển Tây Bắc (Northwest Passage), và RRS Discovery, một con tàu được sử dụng bởi Scott và Shackleton cho những cuộc thám hiểm tới châu Nam Cực năm 1901–1904 (và vẫn còn đang được gìn giữ làm bảo tàng). Tàu con thoi này cũng trùng tên với Discovery One, con tàu trong phim 2001: A Space Odyssey.
Discovery là tàu con thoi đã phóng Kính viễn vọng Hubble. Phi vụ sửa chữa lần thứ hai và lần ba của Hubble cũng được thực hiện bởi Discovery. Tàu này cũng đã phóng vệ tinh thám hiểm Ulysses và 3 vệ tinh TDRS. Discovery đã được chọn hai lần trong việc trở lại các chuyến bay lên quỹ đạo, lần thứ nhất là chuyến bay trong năm 1988, sau thảm họa Challenger, và lần thứ hai là vào tháng 7 năm 2005, sau thảm họa Columbia. Discovery cũng đã đưa phi hành gia John Glenn của Chương trình Mercury, 77 tuổi vào lúc đó, trở lại không gian trong STS-95 vào ngày 29 tháng 10 năm 1998, làm ông trở thành người cao tuổi nhất du hành vào không gian.
Các phi vụ nổi bật
STS-41-D: Chuyến bay đầu tiên
STS-51-D: Đưa thượng nghị sĩ Hoa Kỳ đầu tiên vào không gian, Jake Garn (Cộng Hòa-Utah)
STS-26: Quay trở lại không gian sau khi thảm họa Challenger (STS-51-L)
STS-31: Phóng Kính viễn vọng Hubble
STS-95: Chuyến bay thứ hai của John Glenn, người cao tuổi nhất vào không gian và là nghị viên thứ hai vào không gian.
STS-114: Quay trở lại không gian sau thảm họa Columbia (STS-107)
STS-121: Chuyến thứ hai trở lại không gian sau thảm họa Columbia và là lần phóng tàu con thoi đầu tiên nhân dịp Quốc khánh Hoa Kỳ 4 tháng 7.
Danh sách các phi vụ
‡ Phi vụ có thời gian lâu nhất của Discovery
– Phi vụ có thời gian ngắn nhất của Discovery
Thư viện ảnh
Huy hiệu các phi vụ của Discovery
Chú thích |
Harry S. Truman (8 tháng 5 năm 1884 - 26 tháng 12 năm 1972) là Tổng thống thứ 33 của Hoa Kỳ (1945–1953), kế nhiệm do cái chết của Franklin D. Roosevelt khi đang giữ chức vụ phó tổng thống. Ông đã thực hiện Kế hoạch Marshall để tái thiết nền kinh tế Tây Âu, và đã sáng lập nên Học thuyết Truman và NATO.
Truman lớn lên ở Indepedence, Missouri, và trong thời gian Thế chiến I đã được lệnh tới Pháp với chức vụ đại úy trong sư đoàn pháo binh. Khi trở về, ông đã mở một tiệm may ở thành phố Kansas, Missouri và sau đó được bầu làm thẩm phán cho Hạt Jackson năm 1922. Truman được bầu vào Thượng viện Hoa Kỳ từ Missouri năm 1943 và đạt tới danh tiếng tầm quốc gia khi là Chủ tịch của Ủy ban Truman nhằm giảm lãng phí và kém hiệu quả trong những hợp đồng thời chiến. Không lâu sau khi kế nhiệm vị trí tổng thống ông đã cho phép lần đầu và duy nhất sử dụng bom hạt nhân trong chiến tranh. Chính quyền của Truman đã tham gia một chính sách đối ngoại theo chủ nghĩa quốc tế và đã từ bỏ chủ nghĩa biệt lập. Ông đã tập hợp liên minh mới trong suốt kỳ bầu cử tổng thống 1948 và đã chiến thắng kinh ngạc.
Ông cũng được xem là tổng thống nghèo nhất trong lịch sử Hoa Kỳ . Từ khi thất bại với việc kinh doanh một mỏ kẽm lúc còn trẻ, sau đó ông phải lao động tay chân. Khi hãng quần áo của ông (chung vốn với 1 người bạn) bị phá sản, Truman còn nợ 30.000 đô la (một tài sản lớn vào thời điểm đó). Sau khi mãn nhiệm tổng thống, ông và vợ nghèo đến nỗi là hai người đầu tiên nhận trợ cấp Medicare sau khi Tổng thống Lyndon Johnson ký thành luật .
Thời trẻ, gia đình và giáo dục
Harry S. Truman chào đời vào ngày 8 tháng 5 năm 1884 tại Lamar, tiểu bang Missouri, Hoa Kỳ. Ông là con trai cả trong gia đình có ba người con. Cha của ông là John Anderson Truman và mẹ của ông là Martha Ellen Young. Harry được đặt tên theo người bác đã mất của ông là Harrison "Harry" Young. Ký tự "S" trong tên của Truman được dùng để tôn kính ông nội và ông ngoại của ông, Anderson Shipp Truman và Solomon Young. Ông có một em trai là John Vivian (1886-1965) và một em gái là Mary Jane (1889-1978). Tổ tiên của Harry bắt nguồn từ nước Anh với sự kết hợp giữa các dòng máu người Scotland-Ireland, Đức và Pháp.
Cha của Harry làm nghề nông và buôn bán gia súc. Gia đình ông đã sống nhiều năm ở Lamar cho tới khi ông 10 tháng tuổi, khi họ di chuyển tới một nông trại gần
Harrisonville, Missouri. Gia đình tiếp tục di chuyển tới Belton, và năm 1887 tới nông trại rộng 240 ha của ông bà ông ở Grandview. Khi Harry lên sáu, cha mẹ ông đã di chuyển tới Independence, Missouri, vì vậy ông đã có thể đi học ở trường Nhà thờ Chủ nhật Presbyterian. Ông đã không nhận được nền giáo dục đầy đủ cho tới khi lên lớp 8. Trong khi sống ở Independence, ông đã làm việc cho những người hàng xóm Do thái, làm công việc cho họ vào ngày Shabbat, việc mà tôn giáo của họ ngăn cấm làm điều đó vào ngày đó.
Harry rất thích âm nhạc, đọc sách lịch sử, chính vì vậy mà ông đã trở nên gần gũi với mẹ của mình là bà Martha. Khi làm tổng thống, Harry đã xin những lời khuyên về chính trị cũng như cá nhân từ mẹ ông. Ông đã dậy từ 5 giờ sáng để thực hành học piano, thứ ông đã học hơn hai lần một tuần cho tới khi ông 15 tuổi, trở thành một người chơi piano có kĩ năng khá giỏi. Truman đã làm việc như một người phụ việc tại Hội nghị quốc gia đảng Dân chủ 1900 ở thành phố Kansas, bố ông đã có nhiều người bạn, những người đã hoạt động trong đảng Dân chủ và đã giúp Harry đạt được vị trí chính trị đầu tiên của ông.
Sau khi tốt nghiệp từ trường phổ thông Independence năm 1901, Truman đã vào học trường cao đẳng thương nghiệp của Spalding, một trường kinh tế thành phố Kansas; ông đã học kế toán, tốc ký, và đánh máy chữ, nhưng đã phải bỏ dở sau một năm học.
Sự nghiệp
Truman tận dụng kinh nghiệm khi học đại học kinh tế của ông để giành được một công việc theo dõi thời gian tại công ty xe lửa Atchison, Topeka & Santa Fe Railway, ngủ tại một trại gần những đường ray. Ông sau đó đã làm một loạt các công việc văn phòng, và được thuê thời gian ngắn tại phòng bưu phẩm của tờ báo The Kansas City Star. Truman và người em trai Vivian sau đó làm thư ký tại Ngân hàng thương nghiệp quốc gia tại thành phố Kansas; một trong những đồng nghiệp của họ, người cũng sống cùng phòng với ông, Arthur Eisenhower, anh em của Dwight D. Eisenhower và Milton S. Eisenhower.
Ông trở lại trang trại Grandview năm 1906, nơi ông đã sống cho tới khi gia nhập quân đội năm 1917 sau khi bắt đầu Thế chiến I. Trong suốt thời kỳ này, ông đã tán tỉnh Bess Wallace; ông đã cầu hôn năm 1911, nhưng cô đã từ chối ông. Truman sau đã nói ông có ý định cầu hôn lần nữa, nhưng ông muốn có một thu nhập tốt hơn thu nhập của một nông dân. Trong suốt những năm ở trang trại và ngay sau Thế chiến I, ông đã hoạt động tích cực trong nhiều lĩnh vực kinh doanh mạo hiểm, bao gồm một mỏ kẽm và chì gần thành phố Commerce, Oklahoma, một công ty đã mua đất và cho thuê quyền khoan dầu cho những người dò tìm, và đầu cơ bất động sản ở thành phố Kansas. Truman thỉnh thoảng đã thu được một vài lợi nhuận từ những hoạt động kinh doanh, nhưng đã không chứng tỏ đã thành công trong dài hạn.
Truman là tổng thống duy nhất từ tổng thống William McKinley (đắc cử năm 1896) người đã không có bằng đại học. Ngoài thời gian ngắn học đại học kinh tế, từ 1923 tới 1925 ông đã học những khóa ban đêm cho diện sinh viên chưa tốt nghiệp tại Trường Luật thành phố Kansas (bây giờ là Trường Đại học Luật thành phố Missouri-Kansas), nhưng thôi học sau khi thất bại việc bầu lại chức thẩm phán hạt. Ông được thông báo bởi những luật sư trong khu vực thành phố Kansas rằng giáo dục và kinh nghiệm của ông có thể đủ để nhận một chứng chỉ để hành nghề luật. Tuy nhiên, ông đã không tiếp tục, bởi ông đã thằng cử chức vụ thẩm phán.
Trong khi làm tổng thống năm 1947, Truman đã nộp đơn xin một chứng chỉ để hành nghề luật. Một người bạn người là một luật sư đã bắt đầu tiến hành dàn xếp, và thông báo Truman rằng đơn phải được chứng thực. Vào lúc Truman nhận được thông tin ông đã thay đổi, do vậy ông không xin chứng thực. Sau khi phát hiện lại đơn xin của Truman, năm 1996 Tòa án tối cao Missouri công bố trao cho Truman chứng chỉ luật danh dự sau khi ông đã chết.
Tổng thống Hoa Kỳ (1945-1953)
Trong đối nội Truman đối phó với một giai đoạn hỗn loạn của nền kinh tế, được đánh dấu với nhiều thiếu hụt nghiêm trọng, hàng loạt vụ đình công và sự thông qua đạo luật Taft-Hartley vượt qua sự phủ quyết (veto) của ông. Ông tái đắc cử vào năm 1948 nhưng không kiểm soát được Quốc hội và không thể thông qua một chương trình Thỏa thuận Công bằng (Fair Deal) của ông. Ông đã sử dụng quyền hành pháp của mình để bắt đầu sự xóa bỏ nạn phân biệt chủng tộc trong quân đội Hoa Kỳ và bắt đầu cuộc "báo động đỏ" thứ hai để loại bỏ hàng ngàn người thân với chủ nghĩa cộng sản trong các cơ quan nhà nước. Ông cũng là người đã khơi mào trong chiến lược diễn biến hòa bình lật đổ chế độ cộng sản ở Liên Xô qua câu nói:"Chủ nghĩa cộng sản là mối đe dọa đến sự tồn vong của Mỹ cũng như các nước đồng minh". Hàng trăm người được ông bổ nhiệm bị buộc phải từ chức trong hàng loạt các vụ bê bối về tài chính và âm mưu thân với Liên Xô chống lại Hoa Kỳ.
Nhiệm kì tổng thống của Truman có nhiều sự kiện xảy ra trên thế giới, bắt đầu với chiến thắng Đức quốc xã, vụ thả bom nguyên tử ở Hiroshima và Nagasaki, sự đầu hàng của phát xít Nhật và sự kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai, sự thành lập của Liên Hợp Quốc, kế hoạch Marshall để tái thiết lại châu Âu, học thuyết Truman để kiểm soát sự bành trướng của Liên Xô hay chủ nghĩa cộng sản, sự bắt đầu của Chiến tranh Lạnh, sự thành lập của khối NATO và Chiến tranh Triều Tiên. Sự kiện cuối cùng làm hao tổn 44.000 lính Hoa Kỳ, hy sinh hoặc mất tích, và làm cho Truman không được tái đắc cử nhiệm kỳ thứ 3. Với việc vận động chống lại sự thất bại của Truman ("Triều Tiên! Cộng sản! Tham nhũng!"), ứng viên Cộng hòa Dwight D. Eisenhower đã kết thúc 20 năm thống trị của Đảng Dân chủ vào năm 1952.
Phục vụ trong quân đội
Vệ binh quốc gia
Bởi vì thiếu tiền cho việc học đại học, Truman đã tính đến việc gia nhập Học viện quân sự Hoa Kỳ, nơi không cần học phí, nhưng ông đã bị từ chối bởi thị lực kém. Ông đã đăng ký vào Vệ binh quốc gia Missouri năm 1905, và phục vụ cho tới 1911 ở thành phố Kansas- căn cứ Battery B, Trung đoàn pháo binh số 2 vùng Missouri, nơi ông đã đạt tới cấp bậc hạ sỹ. Tại buổi thi tuyển, mắt ông không đeo kính là 20/50 mắt phải và 20/400 mắt trái (vượt quá tiêu chuẩn cho mù chính thức). Lần thứ hai ông kiểm tra, ông đã qua bằng việc bí mật ghi nhớ biểu đồ đo mắt. Ông được mô tả cao 1,77m, mắt xám, tóc đen và làn da sáng.
Qua đời
Vào ngày 5, tháng 12 năm 1972, Truman đã mắc bệnh viêm phổi. Ông đã biểu lộ triệu chứng suy chức năng đa cơ quan, rơi vào hôn mê, và chết vào lúc 7:50 sáng ngày 26 tháng 12, ở tuổi 88.
Bess Truman đã chọn cách tổ chức lễ tang đơn giản tại thư viện hơn là một lễ tang cấp quốc gia tại Washington. Một tuần sau khi đám tang, quan chức quốc tế và văn phòng Washington mới tham dự lễ tưởng niệm tại Thánh đường Quốc gia Washington.
Bess chết năm 1982 và được chôn kế bên Harry tại Bảo tàng và Thư viện Harry S.Truman ở Independence, Missouri.
Chú thích |
Đội tuyển bóng đá quốc gia Argentina () đại diện cho Argentina ở môn bóng đá nam quốc tế và được quản lý bởi Hiệp hội bóng đá Argentina, cơ quan quản lý bóng đá ở Argentina.
La Selección (Đội tuyển quốc gia), còn được gọi là La Albiceleste, đã góp mặt trong 6 trận chung kết World Cup, bao gồm trận chung kết đầu tiên vào năm 1930, mà họ thua 4–2 trước Uruguay. Argentina đã giành chiến thắng trong trận chung kết tiếp theo vào năm 1978, đánh bại Hà Lan 3–1 trong hiệp phụ. Argentina lại vô địch vào năm 1986 với chiến thắng 3–2 trước Tây Đức, và một chiến dịch giải đấu lấy cảm hứng từ đội trưởng Diego Maradona của họ. Họ lọt vào vòng chung kết World Cup một lần nữa vào năm 1990, và để thua 1–0 trước Tây Đức qua quả phạt đền ở phút 87 do Andreas Brehme thực hiện. Argentina tiếp tục bị người Đức gieo sầu trong trận chung kết vào năm 2014 với bàn thắng duy nhất trong hiệp phụ của Mario Götze. 8 năm sau, Argentina góp mặt trong trận chung kết World Cup vào năm 2022, nơi họ đã giành chiến thắng trước đội tuyển ở loạt sút luân lưu 4–2 sau khi hai đội hòa nhau 3–3 trong 120 phút thi đấu chính thức.
Các huấn luyện viên vô địch World Cup của đội là César Luis Menotti năm 1978, Carlos Bilardo năm 1986 và Lionel Scaloni năm 2022. Kể từ khi Quả bóng vàng dành cho cầu thủ xuất sắc nhất giải đấu được FIFA chính thức trao tặng từ năm 1982, các cầu thủ Argentina đã giành được nó ba lần; Maradona năm 1986 và Messi năm 2014 và 2022. Những cầu thủ Argentina Guillermo Stábile năm 1930 và Mario Kempes năm 1978 là những cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất tại các kỳ World Cup tương ứng của họ.
Argentina cũng đã rất thành công ở Copa América, vô địch 15 lần, kỷ lục được chia sẻ với Uruguay, gần đây nhất vô địch năm 2021. Đội cũng đã giành được FIFA Confederations Cup 1992. Argentina là đội thành công nhất tại CONMEBOL–UEFA Cup of Champions, với hai lần vô địch, vào năm 1993 và 2022. Argentina được biết là có sự kình địch với Brasil, Uruguay, Anh, Đức và Hà Lan. Tính đến năm 2022, Argentina giữ kỷ lục về số danh hiệu chính thức mà một đội tuyển quốc gia nam giành được nhiều nhất với 22 danh hiệu. Về cá nhân cầu thủ Argentina, Lionel Messi là cầu thủ khoác áo đội tuyển nhiều nhất mọi thời đại với 175 trận và là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất với 103 bàn.
Lịch sử
Trận đấu đầu tiên Argentina thi đấu là gặp Uruguay vào ngày 20 tháng 6 năm 1902. Trận đấu quốc tế đầu tiên của cả hai bên được tổ chức tại Montevideo và Argentina thắng 6–0. Trong những năm đầu tiên tồn tại, Argentina chỉ thi đấu giao hữu với các đội Nam Mỹ khác. Lý do cho điều này rất đa dạng, bao gồm thời gian di chuyển dài giữa các quốc gia và sự gián đoạn do Chiến tranh thế giới thứ nhất.
La Albiceleste đã 6 lần góp mặt ở các trận chung kết World Cup, trong đó có trận chung kết đầu tiên vào năm 1930, họ thua 4–2 trước Uruguay. Argentina giành chiến thắng trong trận chung kết tiếp theo vào năm 1978, đánh bại Hà Lan 3–1. Tám năm sau, vào năm 1986, Argentina dưới sự dẫn đầu của Diego Maradona giành chức vô địch lần thứ hai với chiến thắng 3–2 trước Tây Đức. Dưới sự dẫn đầu của Maradona, họ lại lọt vào trận chung kết năm 1990, nhưng cuối cùng để thua 1–0 trước Tây Đức, bởi một quả phạt đền gây nhiều tranh cãi. Được dẫn đầu bởi Lionel Messi, Argentina lọt vào trận chung kết năm 2014, nơi họ bị Đức đánh bại 1–0 trong hiệp phụ. Năm 2022, một lần nữa dưới băng đội trưởng của Messi, Argentina lần thứ ba vô địch World Cup, đánh bại Pháp 4–2 trên chấm phạt đền, sau khi hòa 3–3 sau hiệp phụ. Các huấn luyện viên vô địch World Cup của đội tuyển là César Luis Menotti năm 1978, Carlos Bilardo năm 1986 và Lionel Scaloni năm 2022.
Argentina cũng đã rất thành công trong Giải vô địch bóng đá Nam Mỹ, Copa América, vô địch 15 lần, kỷ lục mà quốc gia này chia sẻ với Uruguay; họ đã lên ngôi vô địch gần đây nhất vào năm 2021. Đội cũng đã giành được Cúp Liên đoàn các châu lục khai mạc vào năm 1992 và Siêu cúp Liên lục địa CONMEBOL–UEFA vào năm 1993 và 2022.
Tháng 3 năm 2007, Argentina lần đầu tiên đứng đầu bảng xếp hạng bóng đá nam FIFA.
Sân nhà
Argentina chơi hầu hết các trận đấu trên sân nhà tại sân vận động của River Plate, Estadio Monumental, ở Buenos Aires, mặc dù đội cũng thường xuyên sử dụng nhiều địa điểm khác, chẳng hạn như Estadio Único Madre de Ciudades và Sân vận động Boca Juniors, La Bombonera. Những địa điểm đó, cùng với Estadio Mario Alberto Kempes và Estadio San Juan del Bicentenario, được sử dụng cho vòng loại World Cup 2022. Ngoài ra, Argentina thi đấu một số trận tại Rosario Central trong chiến dịch vòng loại World Cup 2010 của họ.
Sân vận động G.E.B.A. là nơi Argentina thi đấu các trận đấu quốc tế đầu tiên với tư cách là đội địa phương. Trận đấu được tổ chức vào ngày 13 tháng 9 năm 1908, cho Copa Newton và trận đấu với Uruguay có ý nghĩa lịch sử vì đây là lần đầu tiên Argentina mặc áo thi đấu sọc xanh trắng nhạt, đây sẽ là đồng phục chính thức cho đến ngày nay. GEBA cũng là địa điểm tổ chức Copa Centenario Revolución de Mayo, giải đấu quốc tế Nam Mỹ đầu tiên được tổ chức vào năm 1910. Đội tuyển quốc gia Argentina chơi trận cuối cùng tại GEBA vào ngày 19 tháng 10 năm 1919, khi đội giành được Copa Premier Honor Argentino sau đánh bại Uruguay với tỷ số 6–1.
Hơn nữa, Estadio Sportivo Barracas cũng được coi là một địa điểm đáng nhớ của Argentina; sân vận động được Argentina sử dụng phổ biến từ năm 1920 đến năm 1932. Chơi tại sân vận động cho La Albiceleste vào ngày 2 tháng 10 năm 1924, tiền đạo Cesáreo Onzari đã ghi bàn trực tiếp từ một quả phạt góc, sự cố đầu tiên như vậy trong bóng đá, khi Argentina đánh bại Uruguay 2–1; những bàn thắng như vậy ngày nay thường được gọi là bàn thắng Olympic do Argentina vừa giành được danh hiệu Olympic 1924. Sportivo Barracas sau đó bị phá bỏ sau năm 1936.
Hình ảnh đội tuyển
Đồng phục
Bộ quần áo bóng đá được Argentina mặc lần đầu tiên trong trận ra mắt chính thức trước Uruguay vào năm 1902 là một chiếc áo màu xanh nhạt. Vào ngày 2 tháng 7 năm 1908, Argentina ra mắt sọc dọc màu xanh nhạt trên áo thi đấu màu trắng, khi đội thi đấu với đội được thành lập bởi các cầu thủ Liga Paulista tại Velódromo Paulistano, họ đã sử dụng áo thi đấu này trong trận đấu chính thức với Uruguay vào ngày 13 tháng 9 năm 1908, và áo thi đấu sọc vẫn là trang phục thi đấu chính thức của Argentina kể từ đó. Trang phục thi đấu sân khách của đội có màu xanh đậm, với màu sắc của quần đùi và tất thay đổi theo thời gian.
Argentina cũng đã mặc những bộ quần áo khác; vào ngày 3 tháng 6 năm 1919 tại Rio de Janeiro, thi đấu với Brasil, Argentina mặc trang phục thi đấu màu xanh nhạt, tương tự như của Uruguay, để bày tỏ sự tôn trọng đối với Roberto Chery, thủ môn dự bị của Uruguay, người đã ngã quỵ và qua đời trong trận đấu với Chile tại Giải vô địch Nam Mỹ 1919; trận đấu giữa Argentina và Brasil được tổ chức bởi Liên đoàn bóng đá Brasil vì lợi ích của những người thân của Chery. Tại World Cup 1958, Argentina mặc áo đấu màu vàng của câu lạc bộ Thụy Điển IFK Malmö trong trận đấu với Tây Đức, khi đội đến Thụy Điển mà không có trang phục thi đấu sân khách.
Tại World Cup 1986 ở Mexico, huấn luyện viên lúc bấy giờ, Carlos Bilardo, đã yêu cầu nhà cung cấp trang phục thi đấu của đội, Le Coq Sportif, cung cấp những chiếc áo sơ mi xanh nhạt hơn cho trận tứ kết với Anh sau ba ngày nữa, nhưng họ không thể cung cấp được. Sau đó, một thành viên của ban huấn luyện đã lùng sục các cửa hàng ở Thành phố México để tìm 38 chiếc áo sơ mi trơn, được biến đổi với phiên bản ngẫu hứng của biểu tượng AFA được thêu trên áo và số áo bóng bầu dục Mỹ màu bạc được ủi ở mặt sau. Mặc áo thể thao với số áo tạm thời, Argentina đánh bại Anh vào ngày 22 tháng 6, với Diego Maradona ghi "bàn thắng của Chúa" nổi tiếng của mình. Sau đó, chiếc áo sơ mi trở thành biểu tượng của dịp này và là món đồ quan trọng của các nhà sưu tập.
Tại World Cup 2018 ở Nga, Argentina ra mắt bộ quần áo bóng đá sân khách màu đen; và tại World Cup 2022 ở Qatar, lần đầu tiên họ mặc trang phục thi đấu sân khách màu tím trong một trận đấu chính thức.
Nhà tài trợ trang phục
Huy hiệu
Argentina đã sử dụng logo của Hiệp hội bóng đá Argentina làm biểu tượng kể từ lần đầu tiên nó được mặc tại World Cup 1958 ở Thụy Điển; biểu tượng đã được thêm vào áo khoác của đội, nhưng không phải áo sơ mi. Biểu tượng này không được sử dụng trên áo thi đấu cho đến ngày 16 tháng 11 năm 1976, khi Argentina đấu với Liên Xô tại Estadio Monumental. Lúc đầu, biểu tượng được sử dụng không bao gồm vòng nguyệt quế, lần đầu tiên được thêm vào cho World Cup 1982.
Như một thông lệ, hai ngôi sao đã được thêm vào phía trên huy hiệu vào năm 2004, tượng trưng cho hai chức vô địch World Cup của Argentina năm 1978 và 1986. Năm 2022, một ngôi sao thứ ba đã được thêm vào sau khi Argentina lần thứ ba lên ngôi vô địch thế giới.
Lịch thi đấu
Sau đây là danh sách các kết quả trận đấu trong 12 tháng trước, cũng như bất kỳ trận đấu nào trong tương lai đã được lên lịch.
2022
2023
Ban huấn luyện
Lịch sử huấn luyện viên
Nguồn:
Pedro Calomino (1921)
Ángel Vázquez (1924–25)
José Lago Millán (1927–28)
Francisco Olazar (1929)
Francisco Olazar & Juan J. Tramutola (1929–1930)
Felipe Pascucci (1934)
Manuel Seoane (1935–37)
Ángel Fernández Roca (1937–1939)
Guillermo Stábile (1939–1958)
José Manuel Moreno (1959)
Guillermo Stábile (1960)
Victorio Spinetto (1960–61)
José D'Amico (1962)
Juan Carlos Lorenzo (1962)
Néstor Rossi (1962)
Jim Lópes (1962)
Horacio A. Torres (1963–64)
José D'Amico (1964)
José María Minella (1964–65)
Osvaldo Zubeldía (1965)
Juan Carlos Lorenzo (1966)
Jim Lópes (1967)
Carmelo Faraone (1967)
Renato Cesarini (1967–68)
José María Minella (1968)
Humberto Maschio (1968–69)
Adolfo Pedernera (1969)
Juan José Pizzuti (1970–72)
Omar Sívori (1972–73)
Vladislao Cap (1974)
César Menotti (1974–83)
Carlos Bilardo (1983–90)
Alfio Basile (1990–94)
Daniel Passarella (1994–98)
Marcelo Bielsa (1998–2004)
José Pékerman (2004–06)
Alfio Basile (2006–08)
Diego Maradona (2008–10)
Sergio Batista (2010–11)
Alejandro Sabella (2011–14)
Gerardo Martino (2014–16)
Edgardo Bauza (2016–17)
Jorge Sampaoli (2017–18)
Lionel Scaloni (2018–nay)
Đội hình hiện tại
Đội hình hiện tại
23 cầu thủ sau đây có tên trong đội hình tham dự Vòng loại World Cup 2026 gặp Paraguay và Peru lần lượt vào ngày 12 và 17 tháng 10 năm 2023.
Số lần khoác áo và số bàn thắng được tính đến ngày 18 tháng 10 năm 2023, sau trận đấu với Peru.
Triệu tập gần đây
Những cầu thủ sau đây đã được gọi vào đội trong mười hai tháng qua.
COV Rút khỏi đội do bị cách ly hoặc bị lây nhiễm COVID-19
INJ Rút lui do chấn thương
PRE Đội hình sơ bộ
RET Chia tay đội tuyển quốc gia
SUS Treo giò
at U23 Được gọi vào đội U-23 Argentina
Kỷ lục
Cầu thủ in đậm vẫn đang thi đấu cho đội tuyển quốc gia.
Khoác áo nhiều nhất
Ghi bàn nhiều nhất
Đội trưởng vô địch World Cup
Ra sân
Cầu thủ khoác áo nhiều nhất: 175, Lionel Messi, 2005–
Cầu thủ trẻ nhất: Diego Maradona, 16 tuổi 3 tháng 28 ngày trong trận đấu với Hungary năm 1977
Cầu thủ trẻ nhất ra sân trong một trận đấu tại FIFA World Cup: Lionel Messi, 18 tuổi, 11 tháng và 23 ngày trong trận đấu với Serbia & Montenegro năm 2006
Cầu thủ lớn tuổi nhất: Ángel Labruna, 39 tuổi, 8 tháng và 18 ngày trong trận đấu với Tiệp Khắc tại FIFA World Cup 1958.
Bàn thắng
Ghi nhiều bàn thắng nhất: 103, Lionel Messi, 2005–
Cầu thủ ghi bàn lớn tuổi nhất: Martín Palermo, 36 tuổi 7 tháng vào năm 2010 trong trận gặp Hy Lạp.
Cầu thủ ghi bàn trẻ nhất: Diego Maradona, 18 tuổi, 7 tháng và 4 ngày vào năm 1979 trong trận đấu với Scotland.
Cầu thủ trẻ nhất ghi bàn trong một trận đấu tại FIFA World Cup: Lionel Messi, 18 tuổi 357 ngày, vào lưới Serbia & Montenegro năm 2006.
Ghi nhiều bàn thắng nhất trong một trận: 5 – Manuel Seoane năm 1925, Juan Marvezzi năm 1941, Lionel Messi năm 2022.
Ghi nhiều bàn thắng nhất trong một năm dương lịch: 18 – Lionel Messi năm 2022
Ghi nhiều bàn thắng nhất tại các vòng chung kết Giải vô địch bóng đá thế giới: 13 – Lionel Messi
Kỷ lục huấn luyện viên trưởng
Dẫn dắt nhiều trận nhất
Guillermo Stábile: 127 Guillermo đã huấn luyện Argentina trong 123 trận đấu, khiến ông trở thành một trong số ít huấn luyện viên đã cầm quân hơn 100 trận đấu quốc tế. Khi còn làm việc cho đội tuyển quốc gia, ông đã dẫn dắt họ đến những chiến thắng tại Giải vô địch bóng đá Nam Mỹ vào các năm 1941, 1945, 1946, 1947, 1955, và 1957.
Thành tích và giải thưởng World Cup
Quả bóng vàng World Cup
Quả bóng vàng World Cup được FIFA trao cho cầu thủ xuất sắc nhất tại World Cup kể từ năm 1982; Các cầu thủ Argentina đã ba lần vô địch; Maradona năm 1986 và Messi năm 2014 và 2022.
Vua phá lưới World Cup
Guillermo Stábile năm 1930 và Mario Kempes năm 1978 đều là những cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất tại các kỳ World Cup tương ứng của họ.
Găng tay vàng World Cup
Thủ môn xuất sắc nhất World Cup được trao giải Găng tay vàng FIFA World Cup. Vào năm 2022, Emiliano Martínez đã giành được giải thưởng này.
Giải cầu thủ trẻ World Cup
Cầu thủ xuất sắc nhất tại World Cup không quá 21 tuổi trong năm dương lịch của giải đấu được trao Giải thưởng Cầu thủ trẻ của World Cup. Vào năm 2022, Enzo Fernández đã giành được giải thưởng này.
Giải đấu
Vô địch Á quân Hạng ba Giải đấu diễn ra toàn bộ hoặc một phần trên sân nhà
Giải vô địch bóng đá thế giới
*Các trận hòa bao gồm các trận đấu loại trực tiếp quyết định trên chấm luân lưu.
Cúp bóng đá Nam Mỹ
Tính đến năm 2021, đội tuyển Argentina đã 15 lần vô địch, 15 lần đứng thứ 2 và 5 lần đứng thứ 3.
Thế vận hội
(Nội dung thi đấu dành cho cấp đội tuyển quốc gia cho đến kỳ Đại hội năm 1988)
Đại hội Thể thao liên Mỹ
(Nội dung thi đấu dành cho cấp đội tuyển quốc gia cho đến kỳ Đại hội năm 1995)
Thành tích đối đầu
Kình địch
Danh hiệu
Giải vô địch bóng đá thế giới
Vô địch (3): 1978, 1986, 2022
Á quân (3): 1930, 1990, 2014
Giải vô địch bóng đá Nam Mỹ / Cúp bóng đá Nam Mỹ
Vô địch (15): 1921, 1925, 1927, 1929, 1937, 1941, 1945, 1946, 1947, 1955, 1957, 1959 (Argentina), 1991, 1993, 2021
Á quân (14): 1916, 1917, 1920, 1923, 1924, 1926, 1935, 1942, 1959 (Ecuador), 1967, 2004, 2007, 2015, 2016
Hạng ba (5): 1919, 1956, 1963, 1989, 2019
Cúp Liên đoàn các châu lục
Vô địch (1): 1992
Á quân (2): 1995, 2005
Thế vận hội Mùa hè
Huy chương bạc (1): 1928
Đại hội Thể thao liên Mỹ
Huy chương vàng (5): 1951, 1955, 1959, 1971, 1995
Huy chương bạc (1): 1963
Huy chương đồng (3): 1975, 1979, 1987
Cúp các đội vô địch CONMEBOL–UEFA
Vô địch (2): 1993, 2022
Ghi chú và tham khảo
Ghi chú |
Đội tuyển bóng đá quốc gia Bồ Đào Nha (), là đội tuyển bóng đá nam đại diện cho Bồ Đào Nha trên bình diện quốc tế, được quản lý bởi Liên đoàn bóng đá Bồ Đào Nha.
Lần đầu tiên Bồ Đào Nha tham dự một vòng chung kết giải đấu lớn là tại World Cup 1966, nơi chứng kiến Quả bóng vàng Eusébio cán đích ở vị trí thứ ba. Hai lần tiếp theo Bồ Đào Nha vượt qua vòng chung kết World Cup là vào các năm 1986 và 2002, đều dừng bước ở vòng bảng. Bồ Đào Nha cũng lọt vào bán kết của UEFA Euro 1984, để thua 3–2 sau hiệp phụ trước đội chủ nhà và đội chiến thắng chung cuộc là Pháp.
Trong thời kỳ này, Bồ Đào Nha không nằm trong nhóm các đội là ứng cử viên vô địch, với việc Bồ Đào Nha tham dự các giải đấu lớn hầu như không thường xuyên, nhưng từ cuối Chiến tranh Lạnh cho đến ngày nay, đội đã phát triển, có mặt ở tất cả giai đoạn cuối của các giải đấu lớn. Điều này một phần lớn là do Bồ Đào Nha đã sản sinh ra một số cầu thủ đẳng cấp thế giới, chẳng hạn như Luís Figo, Rui Costa, Ricardo Carvalho và Cristiano Ronaldo, những người được coi là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất. Thế hệ vàng này đã giúp Bồ Đào Nha lọt vào bán kết Euro 2000, thua 2-1 sau hiệp phụ trước đội thắng cuối cùng là Pháp, giành vị trí thứ hai tại Chung kết Euro 2004 sau trận thua Hy Lạp trên sân nhà, cũng như lọt vào bán kết World Cup 2006, kết thúc ở vị trí thứ tư sau khi thua 1–3 trước chủ nhà Đức, do đó là kết quả tốt nhất của đất nước tại World Cup kể từ năm 1966. Mặc dù mất nhiều cầu thủ thuộc thế hệ vàng, những cầu thủ mới như Fábio Coentrão, João Moutinho, Nani và Pepe đã giúp người Bồ Đào Nha lọt vào bán kết Euro 2012, thua Tây Ban Nha trên chấm phạt đền, với Cristiano Ronaldo kết thúc với tư cách là đồng vua phá lưới của giải đấu với ba bàn thắng.
Năm 2014, Fernando Santos được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng mới cho đội tuyển quốc gia. Hai năm sau tại Euro 2016, Santos đã mang về cho Bồ Đào Nha danh hiệu lớn đầu tiên, đánh bại chủ nhà Pháp với tỷ số 1–0 sau hiệp phụ, với bàn thắng ấn định chiến thắng của Eder. Ronaldo kết thúc giải đấu với Chiếc giày bạc. Với chiến thắng, Bồ Đào Nha có lần góp mặt duy nhất tại FIFA Confederations Cup được tổ chức tại Nga, nơi họ kết thúc ở vị trí thứ 3. Bồ Đào Nha đã vượt qua vòng loại và đăng cai Vòng chung kết UEFA Nations League 2018–19, nơi họ chiến thắng Hà Lan 1–0, với bàn thắng ấn định chiến thắng của Gonçalo Guedes. Đây là giải đấu lớn thứ 2 mà người Bồ Đào Nha có được trong ba trận chung kết.
Bồ Đào Nha được gọi thông tục là Seleção das Quinas (giai thoại dựa trên lá cờ của quốc gia này) và có những đối thủ đáng chú ý với Brasil, người mà họ có nhiều mối quan hệ văn hóa chung, và với Tây Ban Nha, được gọi là A Guerra Ibérica ở Tiếng Bồ Đào Nha hay "Chiến tranh Iberia" trong tiếng Anh, với sự cạnh tranh giữa hai quốc gia từ năm 1581.
Sân vận động nhà của đội là Estádio Nacional, ở Oeira, mặc dù hầu hết các trận đấu trên sân nhà của họ thường được diễn ra ở các sân vận động khác trên toàn quốc. Huấn luyện viên trưởng hiện tại của đội là Roberto Martinez và đội trưởng là Cristiano Ronaldo, người cũng đang giữ kỷ lục khoác áo đội tuyển nhiều nhất và ghi nhiều bàn thắng nhất
Lịch sử
Nỗ lực cho những kỳ World Cup đầu tiên
Bồ Đào Nha không được mời tham dự World Cup 1930, giải đấu chỉ diễn ra ở giai đoạn cuối và không có vòng loại. Đội đã tham dự vòng loại FIFA World Cup 1934, nhưng không loại được đối thủ Tây Ban Nha của họ, tổng cộng hai trận thua ở vòng hai lượt đi, với trận thua 9–0 ở Madrid và thua 2-1 ở Lisbon với tổng số điểm là 11–1.
Trong vòng loại FIFA World Cup 1938, Seleção đã chơi một trận với Syria được tổ chức trên sân trung lập ở Milan. Họ thua 2-1 và không thể giành quyền vào vòng chung kết. Do xung đột quốc tế do Chiến tranh thế giới thứ hai, không có World Cup nào được tổ chức cho đến cuộc tranh tài năm 1950 và sau đó, đội tuyển quốc gia có rất ít trận đấu với các đội khác. Thất bại 10–0 trong trận giao hữu trên sân nhà trước Anh, hai năm sau chiến tranh, vẫn được coi là thất bại lớn nhất từ trước đến nay của họ.
Những năm 1950 và đầu những năm 1960
Khi trận đấu bắt đầu lại, đội sẽ thi đấu vòng tròn hai lượt với Tây Ban Nha, giống như ở vòng loại năm 1934. Sau thất bại 5–1 tại Madrid, họ đã để hòa trong ván thứ hai với tỷ số 2–2 và do đó vòng loại kết thúc với tỷ số chung cuộc 7–3. Trong khi họ không đủ điều kiện ra sân, sau đó họ sẽ được mời thay thế Thổ Nhĩ Kỳ, đội đã rút khỏi tham gia; Tuy nhiên, Bồ Đào Nha cũng từ chối tham gia.
Đối với vòng loại World Cup 1954, đội tuyển đấu với Áo. Người Áo đã thắng ván đầu tiên với kết quả 9–1. Điều tốt nhất mà đội tuyển quốc gia có thể làm là cầm hòa không bàn thắng ở Lisbon, và vòng đấu kết thúc với thất bại 9–1.
Tại vòng loại năm 1958, lần đầu tiên Bồ Đào Nha giành chiến thắng trong trận đấu vòng loại với tỷ số 3–0 trên sân nhà với Ý. Tuy nhiên, họ đứng cuối cùng ở vòng bảng có sự góp mặt của Bắc Ireland; chỉ có đội xếp thứ nhất, Bắc Ireland, sẽ vượt qua vòng loại.
Năm 1960 là năm UEFA thành lập Giải vô địch bóng đá châu Âu. Phiên bản đầu tiên là một giải đấu loại trực tiếp, bốn đội cuối cùng tham gia vào giai đoạn cuối chỉ có một lượt đi trong khi các giai đoạn cũ có hai lượt đi. Ở vòng đầu tiên, Seleção das Quinas đã giành chiến thắng 2–0 trước Đông Đức và 3–2 trước Porto trong trận lượt về, kết thúc với chiến thắng 5–2 hai lượt đi. Đối thủ trong trận tứ kết là Nam Tư. Mặc dù thắng trận đầu tiên với tỷ số 2-1, họ đã thua trận lượt về 5–1 tại Belgrade, và thua chung cuộc 6–3.
Anh và Luxembourg là hai đối thủ của vòng loại FIFA World Cup 1962 của đội tuyển quốc gia. Bồ Đào Nha đứng nhì bảng, sau Anh. Giống như ở vòng loại World Cup trước, chỉ có đội đứng đầu bảng mới được vượt qua vòng loại.
Tại giải vô địch châu Âu năm 1964, Bồ Đào Nha đối đầu với Bulgaria ở vòng loại. Người Bồ Đào Nha thua ở Sofia và thắng ở Lisbon. Với tỷ số hòa 4–4, một trận đấu lại là cần thiết ở một quốc gia trung lập. Tại Stadio Olimpico ở Rome, Bồ Đào Nha thua 1–0 nhờ một bàn thắng muộn của Georgi Asparuhov.
World Cup 1966 và 1970
Tại vòng loại World Cup 1966, Bồ Đào Nha được xếp vào cùng bảng với Tiệp Khắc, Romania và Thổ Nhĩ Kỳ. Họ đứng đầu bảng với chỉ một trận hòa và một thất bại trong cả sáu trận đấu và cuối cùng đủ điều kiện tham dự FIFA World Cup, năm đó vòng chung kết sẽ được tổ chức tại Anh. Các kết quả đáng chú ý là cả chiến thắng 1–0 trên sân khách trước Tiệp Khắc và Thổ Nhĩ Kỳ và chiến thắng 5–1 trên sân nhà trước người Thổ Nhĩ Kỳ.
Tại World Cup 1966, Bồ Đào Nha khởi đầu thành công với cả ba chiến thắng vòng bảng trước Hungary, Bulgaria và đương kim vô địch Brasil. Vòng 2 họ đánh bại ngựa ô đến từ châu Á là CHDCND Triều Tiên với tỉ số 5–3, trong đó Eusébio ghi liền 4 bàn sau khi Bồ Đào Nha bị dẫn trước 0–3. Ở bán kết họ thất bại trước chủ nhà Anh (đội bóng sau đó đã vô địch giải đấu) với tỉ số 1–2. Bồ Đào Nha sau đó dành chiến thắng 2–1 trước Liên Xô để giành lấy hạng ba, thành tích tốt nhất của họ tại World Cup cho đến nay. Eusébio là Vua phá lưới của giải đấu với 9 bàn thắng.
Eusébio còn tham dự vòng loại các kì World Cup 1970 và 1974, tuy nhiên Bồ Đào Nha đã không thể vượt qua vòng loại.
Cuối những năm 1970 cho đến đầu những năm 1990
Bồ Đào Nha đã được xếp cùng với Áo, Bỉ, Na Uy và Scotland để tranh giành vị trí đầu tiên trong bảng, điều này sẽ giúp họ đi đến vòng cuối cùng của UEFA Euro 1980. Bồ Đào Nha giành vị trí thứ ba.
Đối với vòng loại năm 1982, đội tuyển Bồ Đào Nha phải đối đầu với Israel, Bắc Ireland, Scotland và Thụy Điển cho hai vị trí đầu bảng. Bồ Đào Nha kết thúc ở vị trí thứ tư.
Trong chiến dịch vòng loại Euro 1984, Bồ Đào Nha được xếp chung nhóm với Phần Lan, Ba Lan và Liên Xô. Bồ Đào Nha giành ngôi nhất bảng với chiến thắng trước Liên Xô. Bồ Đào Nha kết thúc ở bảng B, cùng với Tây Ban Nha, Tây Đức và Romania. Trong hai trận đầu tiên, họ lần lượt hòa 0–0 và 1–1 trước Tây Đức và Tây Ban Nha. Chiến thắng 1–0 trước Romania đã giúp họ giành vị trí thứ hai trong bảng, để đi tiếp vào vòng loại trực tiếp, nơi họ đấu với đội chủ nhà, Pháp. Trận đấu hòa sau 90 phút và bước sang hiệp phụ; Bồ Đào Nha dẫn trước 2–1, nhưng Pháp ghi bàn ở các phút 114 và 119 để loại Bồ Đào Nha 3–2 và đi tiếp vào trận chung kết.
Đối với giải đấu năm 1986, Seleção đã đấu với Tiệp Khắc, Malta, Thụy Điển và Tây Đức cho hai vị trí sẽ đảm bảo cho họ một vé đến Mexico. Cần một chiến thắng trong trận đấu cuối cùng gặp Tây Đức tại Stuttgart, Bồ Đào Nha đã giành chiến thắng trong trận đấu để trở thành đội đầu tiên đánh bại Tây Đức trên sân nhà trong một trận đấu chính thức. Đội đã sớm xuất sắc ở vòng bảng sau một trận thắng và hai trận thua. Họ bắt đầu với chiến thắng 1–0 trước Anh, nhưng sau đó lần lượt bị Ba Lan và Maroc đánh bại với tỷ số 1–0 và 3–1. Việc ở lại Mexico của họ được đánh dấu bằng Vụ việc Saltillo, nơi các cầu thủ từ chối tập luyện để giành thêm giải thưởng từ Liên đoàn bóng đá Bồ Đào Nha.
Đối với UEFA Euro 1988, đội tuyển Bồ Đào Nha đã cố gắng đứng đầu bảng vòng loại của họ trong một nhóm với Ý, Malta, Thụy Điển và Thụy Sĩ; tuy nhiên, họ đã về thứ ba.
Vòng loại World Cup 1990 nằm trong bảng đấu cùng với Bỉ, Tiệp Khắc, Luxembourg và Thụy Sĩ, Bồ Đào Nha đã chiến đấu để giành một trong hai vị trí đầu tiên của bảng. Chơi trên sân nhà trước Tiệp Khắc, trận đấu kết thúc với tỷ số 0–0 cho phép đội bóng Trung Âu giành vị trí thứ hai.
Trong lễ bốc thăm vòng loại Euro 1992, Hà Lan, Hy Lạp, Phần Lan và Malta là các đội khác, xếp thứ hai sau Hà Lan.
Đối với vòng loại World Cup 1994, Bồ Đào Nha nằm cùng bảng với Estonia, Ý, Malta, Scotland và Thụy Sĩ cho hai vị trí cao nhất. Họ kết thúc ở vị trí thứ ba sau Ý và Thụy Sĩ.
1995 đến 2006: Thế hệ vàng
trái|nhỏ|Bồ Đào Nha đã thua trận chung kết Euro 2004 với tỷ số 1–0 trước Hy Lạp với cú đánh đầu của Angelos Charisteas (ảnh).
Ở vòng bảng, Bồ Đào Nha hòa 1–1 trước đương kim vô địch Đan Mạch, thắng Thổ Nhĩ Kỳ 1–0 và hạ Croatia với tỉ số 3–0. "Brazil châu Âu" chính thức vào tứ kết với vị trí đầu bảng. Tuy nhiên ở tứ kết họ thất thủ trước đương kim á quân Cộng hoà Séc với tỉ số 0–1.
Đây là giải đấu mà Thế hệ vàng của Bồ Đào Nha với thủ lĩnh là Luís Figo đã thi đấu rất thành công. Họ lần lượt đánh bại Anh, Romania, Đức để dành ngôi đầu bảng và vượt qua Thổ Nhĩ Kỳ ở tứ kết.
Tại bán kết họ gặp Pháp (nhà đương kim vô địch thế giới năm 1998) Bồ Đào Nha là đội mở tỉ số nhưng Pháp đã gỡ hòa và có bàn thắng vàng trên chấm phạt đền của Zinedine Zidane trong hiệp phụ. Chung cuộc, Pháp dành chiến thắng với tỉ số 2–1. Trọng tài người Áo Gunter Benko đã có quyết định gây tranh cãi sau khi Abel Xavier để bóng chạm tay từ cú sút của Sylvain Wiltord. (Ban đầu Benko chỉ cho Pháp một quả phạt góc, sau đó thay đổi quyết định thành một quả penalty khi tham khảo ý kiến của trợ lý trọng tài). Abel Xavier, Nuno Gomes và Paulo Bento của Bồ Đào Nha đã bị cấm thi đấu quốc tế dài hạn sau khi xô trọng tài để phản đối quyết định đó.
Bồ Đào Nha tại World Cup 2002 được kì vọng sẽ là đội nhất bảng D, bảng đấu có sự hiện diện của Mỹ, Ba Lan và Hàn Quốc. Tuy nhiên họ đã bị thua sốc trước đội tuyển Mỹ ngay ở trận mở màn với tỉ số 2–3. Ở trận đấu thứ hai họ thắng đậm Ba Lan với tỉ số 4–0. Cần một điểm ở trận cuối cùng nhưng Bồ Đào Nha đã bất ngờ phải nhận thất bại trước đội bóng được đánh giá yếu hơn họ rất nhiều là chủ nhà Hàn Quốc với tỉ số 0–1
Giải đấu Euro 2004 được tổ chức tại chính đất nước Bồ Đào Nha. Bồ Đào Nha với tư cách chủ nhà đã vào đến trận chung kết trước khi thua Hy Lạp với tỉ số 0–1 bằng bàn thắng của tiền đạo Angelos Charisteas. Trước đó ở trận khai mạc Hy Lạp cũng đã dành chiến thắng 2–1 trước Bồ Đào Nha. Đây là lần thứ hai trong lịch sử giải đấu mà có hai đội tuyển gặp nhau ở cả trận chung kết và trận khai mạc, trước đó ở Euro 1988, Liên Xô và Hà Lan cũng đã từng gặp nhau ở cả trận khai mạc và trận chung kết.
trái|nhỏ|Luís Figo thi đấu tại FIFA World Cup 2006.
Đội tuyển Bồ Đào Nha tham dự World Cup 2006 dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên vừa đưa đội tuyển Brasil vô địch World Cup 2002, Luiz Felipe Scolari. Họ dễ dàng dành được vị trí nhất bảng D với cả ba chiến thắng trước những đối thủ không được đánh giá quá cao là Angola (1–0), Iran (2–0), và Mexico (2–1).
Ở vòng 1/8 Bồ Đào Nha đã vượt qua Hà Lan với tỉ số 1–0 trong một trận đấu được coi là bạo lực nhất trong lịch sử World Cup với 16 thẻ vàng và 4 cầu thủ bị truất quyền thi đấu.
Bồ Đào Nha tiếp tục vượt qua Anh trên loạt sút luân lưu ở tứ kết và lần đầu tiên có được tấm vé vào chơi trận bán kết kể từ sau năm 1966.
Tuy nhiên, Bồ Đào Nha lần lượt thất bại trước Pháp (0–1) ở bán kết và chủ nhà Đức (1–3) ở trận tranh hạng ba khiến họ không thể có lần đầu tiên giành được huy chương đồng tại World Cup kể từ năm 1966.
Mặc dù chỉ vào tới bán kết nhưng người dân Bồ Đào Nha vẫn tiếp đón đội tuyển của họ như những người hùng khi họ trở về quê nhà. Đội bóng được nhận danh hiệu Đội bóng được mến mộ nhất giải đấu này, giải thưởng được bình chọn qua việc bỏ phiếu của những người hâm mộ.
Thế hệ vàng của Bồ Đào Nha như Luís Figo, Rui Costa, Sérgio Conceição... lần lượt giải nghệ khỏi đội tuyển quốc gia sau World Cup 2006. Một lứa cầu thủ mới của Bồ Đào Nha như Ricardo Quaresma, João Moutinho, Miguel Veloso, Nani, Manuel Fernandes và đặc biệt là Cristiano Ronaldo được kì vọng sẽ đem lại những thành công xán lạn trong tương lai cho đội tuyển quốc gia sau khi họ đã cùng các đàn anh đưa đội tuyển của mình lọt vào trận chung kết Euro 2004.
2008 đến 2014: Thế hệ vàng mới và nhiều kết quả khác nhau
Tại vòng loại Euro 2008, Bồ Đào Nha đứng thứ 2 sau Ba Lan, và thắng hai trận vòng bảng đầu tiên trước Thổ Nhĩ Kỳ và Cộng hòa Séc, mặc dù thất bại trước đồng chủ nhà Thụy Sĩ, sau đó tại trận tứ kết với Đức đội thua 3-2. Sau giải đấu, Scolari rời đi để tiếp quản Chelsea, Carlos Queiroz được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng mới.
Bồ Đào Nha về nhì ở vòng loại FIFA World Cup 2010 dưới thời Carlos Queiroz, sau đó đánh bại Bosnia và Herzegovina trong trận play-off, qua đó lọt vào mọi giải đấu trong thập kỷ. Một chuỗi 19 trận bất bại, trong đó đội chỉ để lọt lưới 3 bàn, kết thúc với thất bại 1–0 trước nhà vô địch cuối cùng là Tây Ban Nha ở vòng 16 đội. Queiroz sau đó đã bị chỉ trích vì đã thiết lập đội của mình một cách quá thận trọng. Sau World Cup, đội hình gồm Simão, Paulo Ferreira, Miguel và Tiago tất cả đã từ giã sự nghiệp bóng đá quốc tế. Queiroz đã bị cấm huấn luyện đội tuyển quốc gia trong 1 tháng sau khi anh ta cố gắng ngăn chặn một cuộc kiểm tra doping cho đội tuyển trong khi chuẩn bị cho World Cup, cũng như đưa ra những lời lẽ xúc phạm đến những người kiểm tra. Do đó, anh ta bị treo giò thêm sáu tháng. Sau đó, một số phương tiện truyền thông bùng nổ từ Queiroz chống lại những người đứng đầu Liên đoàn bóng đá Bồ Đào Nha, điều này một phần khiến ông bị sa thải. Paulo Bento được bổ nhiệm làm người thay thế.
Đội của Bento đủ điều kiện tham dự Euro 2012, Họ xếp cùng bảng B với Đức, Đan Mạch và Hà Lan được mệnh danh là " bảng tử thần ". Họ thua Đức 0–1 trận đầu tiên, sau đó đánh bại Đan Mạch 3–2. Trận đấu cuối cùng ở vòng bảng là với Hà Lan. Sau khi Van der Vaart đưa Hà Lan dẫn trước 1–0, Ronaldo đã ghi hai bàn để đảm bảo chiến thắng 2–1. Bồ Đào Nha đứng thứ hai trong bảng và vượt qua vòng loại trực tiếp. Bồ Đào Nha đã đánh bại Cộng hòa Séc 1–0 trong trận tứ kết với cú đánh đầu của Ronaldo. Tại bán kết gặp Tây Ban Nha, 2 đội hòa 0–0 và Bồ Đào Nha thua 4–2 trên chấm phạt đền.
Tại vòng loại FIFA World Cup 2014, Bồ Đào Nha thắng chung cuộc 4–2 trong trận play-off với Thụy Điển với cả 4 bàn thắng được ghi do công của Ronaldo, và được xếp vào bảng G cùng với Hoa Kỳ, Đức và Ghana. Trận đấu đầu tiên của họ trước người Đức là trận thua tồi tệ nhất từ trước đến nay của họ tại một kỳ World Cup với trận thua 4–0. Họ hòa 2–2 trước Hoa Kỳ và thắng 2–1 trước Ghana. Tuy nhiên, đội đã bị loại do kém Mỹ về hiệu số bàn thắng bại.
2016–nay: Kỷ nguyên Fernando Santos và những vinh quang quốc tế đầu tiên
Tại Vòng loại Euro 2016, Bồ Đào Nha bắt đầu vòng loại với thất bại 0-1 trên sân nhà trước Albania, khiến Bento bị sa thải, thay thế bằng Fernando Santos vào tháng 9 năm 2014. Đội sau đó toàn thắng 7 trận còn lại, giành quyền dự Euro 2016. Tại vòng chung kết trên đất Pháp, Bồ Đào Nha được xếp vào bảng F cùng với Iceland, Áo và Hungary; Bồ Đào Nha tiến vào vòng loại trực tiếp với tư cách là đội đứng thứ 3 có thành tích tốt nhất sau 3 trận hòa đáng thất vọng liên tiếp. Tại vòng 16 đội, Bồ Đào Nha đánh bại Croatia 1-0 sau hiệp phụ với pha dứt điểm bồi thành công của Quaresma, tiếp đó hòa Ba Lan 1-1 và thắng 5-3 trên chấm phạt đền tại tứ kết Bồ Đào Nha đã đánh bại xứ Wales ở bán kết trong hai hiệp đấu chính thức với tỉ số 2–0 do công của Cristiano Ronaldo và Nani . Tại trận chung kết, Bồ Đào Nha gặp chủ nhà Pháp, đội bóng đã loại Đức (nhà đương kim vô địch thế giới năm 2014) ở bán kết. Đội trưởng Cristiano Ronaldo bị chấn thương ngay ở những phút đầu tiên của trận đấu do tiền đạo của Pháp Dimitri Payet áp sát rất nhanh. Ronaldo đã được thay ra nghỉ để tiền đạo Ricardo Quaresma vào sân. Băng đội trưởng được trao lại cho tiền đạo Nani. Tuy không có sự phục vụ ngôi sao sáng nhất đội bóng là Cristiano Ronaldo nhưng Bồ Đào Nha đã xuất sắc cầm hòa Pháp đến hiệp phụ trận đấu và ở phút thứ 109, tiền đạo vừa được thay vào sân Éder đã ghi bàn từ một tình huống sút xa ngoài vòng cấm, ấn định chiến thắng 1–0 cho Bồ Đào Nha. Ronaldo cùng những người đồng đội đã chính thức trở thành nhà vô địch Euro 2016 sau 12 năm chờ đợi.
Sau khi vô địch Euro 2016, Bồ Đào Nha đã tham dự FIFA Confederations Cup 2017. Trong trận mở màn vào ngày 17 tháng 6, Bồ Đào Nha hòa 2–2 với Mexico. Ba ngày sau, Bồ Đào Nha thắng chủ nhà Nga 1–0, với bàn thắng duy nhất của trận đấu được ghi bởi Cristiano Ronaldo. Vào ngày 24 tháng 6, Bồ Đào Nha đánh bại New Zealand 4–0 để đứng đầu bảng và tiến vào bán kết. Ronaldo cũng là cầu thủ xuất sắc nhất trận trong cả ba trận vòng bảng của Bồ Đào Nha. Bồ Đào Nha bị loại khỏi giải đấu sau khi thua Chile 0-3 trên chấm phạt đền ở bán kết. Bồ Đào Nha kết thúc giải ở vị trí thứ 3 sau khi đánh bại Mexico 2–1 sau hiệp phụ.
nhỏ|246x246px|Bồ Đào Nha tại FIFA World Cup 2018.
Trong lễ bốc thăm vòng loại FIFA World Cup 2018, Bồ Đào Nha được xếp vào bảng B cùng với Thụy Sĩ, Hungary, Quần đảo Faroe, Andorra và Latvia. Bồ Đào Nha chỉ thua một trận trước Thụy Sĩ với tỷ số 2–0. Tuy nhiên, Bồ Đào Nha đã phục thù bằng trận đấu cuối cùng ở vòng bảng đánh bại Thụy Sĩ với tỷ số 2–0, để đứng đầu bảng và giành quyền tham dự World Cup 2018.
Tại FIFA World Cup 2018, Bồ Đào Nha được xếp vào bảng B cùng với Tây Ban Nha, Maroc và Iran. Trong trận mở màn vào ngày 15 tháng 6, Bồ Đào Nha hòa 3–3 trước Tây Ban Nha, với một hat-trick của Cristiano Ronaldo. Ronaldo ghi bàn thắng duy nhất trong chiến thắng 1–0 trước Morocco, phá kỷ lục của Puskás. Bồ Đào Nha hòa 1-1 với Iran trong trận đấu cuối cùng vòng bảng, đưa Bồ Đào Nha đi tiếp vào vòng hai với tư cách là đội nhì bảng sau Tây Ban Nha. Vào ngày 30 tháng 6, Bồ Đào Nha bị loại sau thất bại 2-1 trước Uruguay ở vòng 16 đội.
trái|nhỏ|255x255px|Gonçalo Guedes, cầu thủ ghi bàn thắng quyết định vào lưới Hà Lan trong trận chung kết UEFA Nations League 2019.
Sau World Cup, Bồ Đào Nha là một phần của giải đấu mới khai mạc UEFA Nations League, Seleção được xếp ở hạng A và được bốc thăm vào Nhóm 3 cùng với Ý và Ba Lan. Vào ngày 9 tháng 3 năm 2018, UEFA thông báo rằng Bồ Đào Nha đã bày tỏ sự quan tâm đến việc đấu thầu cho các trận chung kết Nations League, sau đó được thông báo rằng đội vô địch vòng bảng sẽ được chỉ định làm chủ nhà. Bồ Đào Nha bắt đầu giải đấu khi đánh bại Ý trong chiến thắng 1–0 trên sân nhà, với André Silva ghi bàn thắng duy nhất của trận đấu. Trong trận đấu thứ 2, Bồ Đào Nha đánh bại Ba Lan 3–2 trên sân khách. Trong hai trận đấu còn lại, Bồ Đào Nha hòa Ý 0–0 trên sân khách và Ba Lan 1-1 trên sân nhà, để tiến vào trận chung kết Nations League, qua đó tự động giành quyền đăng cai, được Ủy ban điều hành UEFA xác nhận trên Ngày 3 tháng 12 năm 2018. Trong trận bán kết vào ngày 5 tháng 6 năm 2019, Cristiano Ronaldo đã ghi hat-trick vào lưới Thụy Sĩ để đảm bảo cho đội chủ nhà một suất trong trận chung kết. Bốn ngày sau, trong trận chung kết tại Estádio do Dragão ở Porto, Bồ Đào Nha đánh bại Hà Lan 1–0, với bàn duy nhất do Gonçalo Guedes ghi ở phút 60.
Bồ Đào Nha được bốc thăm ở bảng B cho vòng loại UEFA Euro 2020 với Lithuania, Luxembourg, Ukraine và Serbia. Bồ Đào Nha đã thắng 5 trận, hòa 2 và thua 1 để giành quyền tham dự vòng chung kết với vị trí thứ 2. Trong quá trình đó, Fernando Santos đã vượt qua kỷ lục của Luiz Felipe Scolari để trở thành huấn luyện viên của Bồ Đào Nha có nhiều chiến thắng nhất. Đội bóng của Santos được xếp cùng với Pháp, Đức và Hungary trong một "bảng đấu tử thần" . Bồ Đào Nha tiến vào vòng tiếp theo khi đánh bại Hungary, hòa Pháp và thua Đức. Ở đó, đội thua 0–1 với Bỉ và trở thành cựu vương.
Bồ Đào Nha được xếp vào bảng A cho Vòng loại FIFA World Cup 2022 cùng với Azerbaijan, Luxembourg, Cộng hòa Ireland và Serbia. Thất bại 2-1 trên sân nhà trước Serbia vào ngày thi đấu cuối cùng đồng nghĩa với việc đội xếp thứ 2 và không thể giành quyền trực tiếp tham dự World Cup. Đội sẽ phải thắng trận playoff bao gồm Thổ Nhĩ Kỳ, Ý và Bắc Macedonia để đủ điều kiện dự vòng chung kết. Bồ Đào Nha đánh bại Thổ Nhĩ Kỳ 3-1 trong trận bán kết, sau đó hạ Bắc Macedonia 2-0 tại chung kết để góp mặt tại World Cup 2022.
Hình ảnh đội tuyển
Trang phục
Bộ quần áo bóng đá sân nhà truyền thống của Bồ Đào Nha chủ yếu có màu đỏ với viền màu xanh lá cây, phản ánh màu sắc của quốc kỳ. Trong những năm qua, màu đỏ đặc biệt đã xen kẽ giữa màu đỏ tía đậm hơn và màu đỏ tươi nhạt hơn. Cả hai chiếc quần đùi màu xanh lá cây và màu đỏ đã được sử dụng để hoàn thành dải.Mặt khác, bộ trang phục thi đấu trên sân khách của đội đã thay đổi đáng kể. Màu trắng thường được ưu tiên làm màu chủ đạo, hoặc với quần short màu xanh, hoặc màu đỏ và xanh lá cây nổi bật. Trong thời gian gần đây, màu đen đã được sử dụng, cũng như màu xanh ngọc lam-teal, sau này xuất hiện trong chiến dịch giành chức vô địch Euro 2016.
Trên các phương tiện truyền thông
Các trận đấu vòng loại, Nations League và giao hữu của Bồ Đào Nha được phát sóng miễn phí bởi đài truyền hình công cộng RTP và mạng truyền hình trả tiền Sport TV.
Thành tích quốc tế
Giải vô địch bóng đá thế giới
Vô địch Á quân Hạng ba Hạng tư
* Hòa bao gồm các trận đấu loại trực tiếp phải quyết định bằng sút phạt đền. Màu tối hơn chỉ chiến thắng, màu bình thường chỉ thất bại.
Giải vô địch bóng đá châu Âu
* Hòa bao gồm các trận đấu loại trực tiếp phải quyết định bằng sút phạt đền. Màu tối hơn chỉ chiến thắng, màu bình thường chỉ thất bại.
Cúp Liên đoàn các châu lục
* Hòa bao gồm các trận đấu loại trực tiếp phải quyết định bằng sút phạt đền. Màu tối hơn chỉ chiến thắng, màu bình thường chỉ thất bại.
UEFA Nations League
* Hòa bao gồm các trận đấu loại trực tiếp phải quyết định bằng sút phạt đền. Màu tối hơn chỉ chiến thắng, màu bình thường chỉ thất bại.
Thế vận hội
(Nội dung thi đấu dành cho cấp đội tuyển quốc gia cho đến kỳ Đại hội năm 1988)
Danh hiệu
Vô địch bóng đá thế giới
Hạng ba: 1966
Hạng tư: 2006
Vô địch bóng đá châu Âu
Vô địch: 2016
Á quân: 2004
Bán kết: 1984; 2000; 2012
UEFA Nations League
Vô địch: UEFA Nations League 2018–19
Confederations Cup
Hạng ba: 2017
Giải thưởng khác
Giải phong cách (FIFA World Cup Most Entertaining Team): 2006
Kết quả gần đây và lịch thi đấu sắp tới
2023
Ban huấn luyện
Lịch sử huấn luyện
Đội hình
Đội hình hiện tại
25 cầu thủ sau đây được triệu tập cho Vòng loại UEFA Euro 2024 lần lượt gặp Liechtenstein và Luxembourg vào ngày 23 và 26 tháng 3 năm 2023.
Số trận và bàn thắng chính xác kể từ: 26 tháng 3 năm 2023, sau trận đấu với Luxembourg
Triệu tập gần đây
Những cầu thủ sau đây cũng đã được gọi vào đội tuyển Bồ Đào Nha trong vòng 12 tháng qua.
COV Cầu thủ đã rút khỏi đội do nhiễm COVID-19.
INJ Cầu thủ rút khỏi đội vì chấn thương.
PRE Đội hình sơ bộ.
RET Cầu thủ chia tay bóng đá quốc tế.
OTH Cầu thủ rút khỏi đội vì những lý do khác.
Kỷ lục
Thi đấu nhiều nhất
Cầu thủ in đậm vẫn còn thi đấu cho đội tuyển quốc gia.
Ghi bàn nhiều nhất
Cầu thủ in đậm vẫn còn thi đấu cho đội tuyển quốc gia.
Các kỷ lục khác
Ghi nhiều bàn thắng nhất trong một kỳ World Cup Eusébio (9 — 1966)
Thi đấu nhiều trận nhất tại World Cup Cristiano Ronaldo (23 — 2006, 2010, 2014 , 2018 ,2022)
Ghi nhiều bàn thắng nhất trong một kỳ Euro Cristiano Ronaldo (5 — 2020)
Ghi nhiều bàn thắng nhất tại EURO Cristiano Ronaldo (14 — 2004, 2008, 2012 & 2016, 2020)
Thi đấu nhiều trận nhất tại EURO Cristiano Ronaldo (25 — 2004, 2008, 2012 & 2016, 2020)
Cầu thủ trẻ nhất thi đấu 100 trận Cristiano Ronaldo (27 tuổi, 8 tháng và 11 ngày, 1–1 trong trận gặp Bắc Ireland ngày 16 tháng 10 năm 2012)
Cầu thủ lập nhiều hat-trick nhất Cristiano Ronaldo (10)
Cầu thủ đầu tiên thi đấu và ghi bàn ở 5 kỳ EURO liên tiếp Cristiano Ronaldo (2004, 2008, 2012, 2016, 2020)
Cầu thủ đầu tiên thi đấu và ghi bàn tại 5 kỳ world cup liên tiếp [2006,2010,2014,2018,2022] Cristiano ronaldo
Cầu thủ duy nhất ghi bàn trong 12 giải đấu cao nhất cấp độ đội tuyển Cristiano Ronaldo
Euro: 2004, 2008, 2012, 2016, 2020
FIFA World Cup: 2006, 2010, 2014, 2018, 2022
Confederations Cup: 2017
UEFA Nations League: 2018-19
Chú thích |
Chủ nghĩa Sô vanh (chauvinism) là một chủ nghĩa dân tộc cực đoan cho rằng nhóm hoặc dân tộc của mình là thượng đẳng và chính nghĩa còn những dân tộc hay nhóm khác là yếu đuối, hạ đẳng và đáng khinh. Thuật ngữ này có nguồn gốc từ tên của Nicolas Chauvin, một người lính cuồng tín của Napoléon Bonaparte mà sự tôn thờ cuồng loạn của ông ta đối với Hoàng đế đã khiến ông ta liên tục chiến đấu cho nước Pháp ngay cả khi đã bị thương 17 lần trong các cuộc chiến tranh xâm lược của Napoléon. Tương truyền, trong trận đánh quyết định tại Waterloo khi quân Pháp đã bị thất bại nặng nề, Chauvin ta đã thét lên rằng "Đội Cựu Cận vệ có chết nhưng không đầu hàng!", hàm ý một nhiệt huyết mù quáng đối với Tổ quốc hay một hội nhóm của mình.
Chủ nghĩa Sô vanh là một hình thức cực đoan của chủ nghĩa dân tộc, dẫn đến chủ nghĩa dân tộc lệch lạc, dân tộc nước lớn, dân tộc hẹp hòi, bài ngoại, tự cho dân tộc mình là dân tộc siêu đẳng có sứ mệnh lãnh đạo các dân tộc khác.
Trong bài Imperialism, Nationalism, Chauvinism (Chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa Sô vanh), đăng tại tạp chí The Review of Politics 7.4, (tháng 10 năm 1945), tr. 457, Hannah Arendt mô tả khái niệm này như sau:
"Chủ nghĩa Sô vanh gần như là một sản phẩm tự nhiên của khái niệm quốc gia khi nó xuất phát trực tiếp từ quan niệm cũ về 'sứ mạng quốc gia'... Sứ mạng của một quốc gia có thể được hiểu là mang ánh sáng của nó đến cho các dân tộc kém may mắn hơn mà vì lý do nào đó đã bị lịch sử bỏ lại. Khi khái niệm này chưa phát triển thành hệ tư tưởng Sô vanh chủ nghĩa và nằm yên trong lĩnh vực khá là mơ hồ về niềm tự hào dân tộc, nó thường dẫn đến kết quả là một tinh thần trách niệm cao đối với chất lượng cuộc sống của những người mà theo ý của nó là 'tụt hậu'."
Miêu tả trên không đánh giá một người theo chủ nghĩa Sô vanh là đúng hay sai, chỉ là người đó đã mù quáng khi đến với chủ nghĩa đó và lờ đi các thực tế có thể làm thay quyết định của mình. Tuy nhiên, trong cách dùng hiện đại, người ta thường có ý rằng người theo chủ nghĩa Sô vanh vừa mù quáng vừa sai lầm. |
Lý thuyết mã hóa là nghiên cứu về các đặc tính của mã và khả năng thích ứng với các ứng dụng cụ thể của chúng. Mã được sử dụng cho nén dữ liệu, mật mã, phát hiện và sửa lỗi, truyền dữ liệu và lưu trữ dữ liệu. Các mã hiệu được nghiên cứu bởi nhiều ngành khoa học khác nhau - như lý thuyết thông tin, kỹ thuật điện, toán học, ngôn ngữ học và khoa học máy tính - với mục đích thiết kế các phương pháp truyền dữ liệu hiệu quả và đáng tin cậy. Điều này thường liên quan đến việc loại bỏ dư thừa và sửa chữa hoặc phát hiện lỗi trong dữ liệu truyền đi.
Có bốn loại mã hóa:
Nén dữ liệu (hoặc mã hóa nguồn)
Kiểm soát lỗi (hoặc mã hóa kênh)
Mã hóa mật mã
Mã hóa dòng
Nén dữ liệu cố gắng loại bỏ sự dư thừa không mong muốn từ dữ liệu từ một nguồn nhằm truyền nó một cách hiệu quả hơn. Ví dụ, nén dữ liệu ZIP giúp thu nhỏ kích thước tập tin, nhằm giảm thiểu lưu lượng Internet.
Sửa lỗi thêm các dư thừa hữu ích vào dữ liệu từ một nguồn để làm cho việc truyền dữ liệu bền vững hơn với các nhiễu trên kênh truyền. Người dùng thông thường có thể không nhận ra rằng có nhiều ứng dụng sử dụng kỹ thuật sửa lỗi. Đĩa âm nhạc (CD) thông thường sử dụng Reed-Solomon để nhằm sửa lỗi do những vết xước và bụi trên bề mặt đĩa. Trong ứng dụng này, kênh truyền thông lại chính là bản thân cái đĩa CD. Điện thoại di động "Cell phones" cũng dùng kỹ thuật mã hóa có hiệu ứng cao (powerful coding technique) để sửa các lỗi trong việc truyền sóng rađiô ở tần số cao bị yếu mờ và bị nhiễu. Modem xử lý số liệu, truyền thông qua đường điện thoại, và thậm chí cả Mạng lưới giám sát Không gian Sâu NASA đều sử dụng kỹ thuật mã hóa trên kênh truyền để truyền những bit số liệu qua đường dây một cách hiệu quả hơn, ví dụ như turbo code và LDPC code.
Mã hóa dùng nguồn
Mục đích của mã hóa dùng nguồn là lấy dữ liệu nguồn và thu nhỏ chúng lại.
Nguyên lý
Entrôpi của nguồn là một đo đạc về tin tức. Căn bản mà nói, mã của nguồn được dùng để loại bỏ những phần thừa, không cần thiết còn tồn trong nguồn, để lại phần nguồn với số lượng bit ít hơn, nhưng với nhiều tin tức hơn.
Mỗi loại mã hóa nguồn sử dụng một kỹ thuật khác nhau hòng đạt được giới hạn entrôpi của nguồn. , trong đó là entrôpi của nguồn (tần số bit), và là tần số bit sau khi số liệu đã được nén. Cụ thể là, không có phương pháp mã hóa nguồn nào có thể tốt hơn giới hạn entrôpi của ký hiệu (the entropy limit of the symbol).
Ví dụ
Truyền thông bản sao FAX dùng một kỹ thuật đơn giản là trường đạc mã (run-length code).
Mã hóa trên kênh truyền
Mục đích của lý thuyết Mã hóa trên kênh truyền (channel encoding theory) là tìm những mã có thể truyền thông nhanh chóng, chứa đựng nhiều mã ký (code word) hợp lệ và có thể sửa lỗi (error correction) hoặc ít nhất phát hiện các lỗi xảy ra (error detection). Các mục đích trên không phụ thuộc vào nhau, và mỗi loại mã có công dụng tối ưu cho một ứng dụng riêng biệt. Những đặc tính mà mỗi loại mã này cần còn tuỳ thuộc nhiều vào xác suất lỗi xảy ra trong quá trình truyền thông. Đối với một đĩa CD thông thường, lỗi trong âm thanh xảy ra chủ yếu là do bụi và những vết xước trên mặt đĩa. Vì thế, các mã được lồng vào với nhau. Dữ liệu được phân bổ trên toàn bộ mặt đĩa. Tuy không được tốt cho lắm, song một mã tái diễn đơn giản có thể được dùng làm một ví dụ dễ hiểu. Chẳng hạn, chúng ta lấy một khối số liệu bit (đại diện cho âm thanh) và truyền gửi chúng ba lần liền. Bên máy thu, chúng ta kiểm tra cả ba phần lặp lại ở trên, từng bit từng bit một, rồi lấy cái nào có số bầu cao nhất. Điểm trái khoáy ở đây là, chúng ta không chỉ truyền gửi các bit theo thứ tự. Chúng ta lồng nó vào với nhau. Khối dữ liệu này, trước tiên, được chia ra làm 4 khối nhỏ. Sau đó chúng ta gửi một bit ở khối đầu tiên, tiếp theo một bit ở khối thứ hai v.v tuần tự qua các khối. Việc này được lặp đi lặp lại ba lần để phân bổ số liệu ra trên bề mặt đĩa. Trong ngữ cảnh của mã tái diễn đơn giản ở trên, việc làm này hình như không được hiệu quả cho lắm. Song hiện nay có những mã có hiệu ứng cao, rất phù hợp với việc sửa lỗi xảy ra đột ngột do một vết xước hay một vết bụi, khi dùng kỹ thuật lồng số liệu nói trên.
Mỗi mã thường chỉ thích hợp cho một ứng dụng nhất định. Viễn thông trong vũ trụ (deep space) bị giới hạn bởi nhiễu nhiệt (thermal noise) trong thiết bị thu. Hiện trạng này không xảy ra một cách đột phát bất thường, song xảy ra theo một chu trình tiếp diễn. Tương tự như vậy, modem với dải tần hẹp bị hạn chế vì nhiễu âm tồn tại trong mạng lưới điện thoại. Những nhiễu âm này có thể được biểu hiện rõ hơn bằng một mô hình âm tạp tiếp diễn. Điện thoại di động "Cell phones" hay có vấn đề do sự suy sóng nhanh chóng xảy ra. Tần số cao được dùng có thể gây ra sự suy sóng tín hiệu một cách nhanh chóng (rapid fading), ngay cả khi máy nhận chỉ dời chỗ vài phân Anh (inches) . Một lần nữa, người ta hiện đã có một loại thuộc hạng Mã hóa trên kênh truyền được thiết kế để đối đầu với tình trạng suy sóng.
Từ "Lý thuyết mã hóa đại số" ám chỉ để một chi nhánh của lý thuyết mã hóa trên kênh truyền, trong đó đặc tính của mã được biểu hiện bằng các đại số và dựa vào đó mà nghiên cứu sâu hơn.
Lý thuyết mã hóa đại số được chia ra làm hai loại mã chính
Mã khối tuyến tính (Linear block codes)
Mã kết hợp (Convolutional codes)
Chúng phân tích ba đặc tính sau của mã—nói chung là:
Chiều dài của mã (code word length)
Tổng số các mã ký hợp lệ (total number of valid code words)
Khoảng cách Hamming tối thiểu giữa hai mã ký hợp lệ (the minimum Hamming distance between two valid code words)
Mã khối tuyến tính
Mã khối tuyến tính mang tính năng tuyến tính (linearity), chẳng hạn tổng của hai mã ký nào đấy lại chính là một mã ký; và chúng được ứng dụng vào các bit của nguồn trên từng khối một; cái tên mã khối tuyến tính là vì vậy (linear block codes). Có những khối mã bất tuyến tính, song khó mà chứng minh được rằng một mã nào đó là một mã tốt nếu mã ấy không có đặc tính này.
Bất cứ mã khối tuyến tính nào cũng được đại diện là , trong đó
n, là chiều dài của mã ký, trong ký hiệu (symbols),
m, là số ký hiệu nguồn (source symbols) được dùng để mã hóa tức thời,
, là khoảng cách hamming tối thiểu của mã (the minimum hamming distance for the code)
Có nhiều loại mã khối tuyến tính, như
Mã tuần hoàn (Cyclic codes) (Mã Hamming là một bộ phận nhỏ (subset) của mã tuần hoàn)
Mã tái diễn (Repetition codes)
Mã chẵn lẻ (Parity codes)
Mã Reed-Solomon (Reed Solomon codes)
Mã BCH (BCH code)
Mã Reed-Muller
Mã hoàn hảo (Perfect codes)
Mã khối được gắn liền với bài toán "đóng gói đồng xu" là bài toán gây một số chú ý trong nhiều năm qua. Trên bề diện hai chiều, chúng ta có thể hình dung được vấn đề một cách dễ dàng. Lấy một nắm đồng xu, để nằm trên mặt bàn, rồi dồn chúng lại gần với nhau. Kết quả cho chúng ta một mẫu hình lục giác tương tự như hình tổ ong. Các mã khối còn dựa vào nhiều chiều khác nữa, không dễ gì mà hình dung được. Mã Golay có hiệu ứng cao, dùng trong truyền thông qua khoảng không vũ trụ, sử dụng những 24 chiều. Nếu được dùng là mã nhị phân (thường thấy), các chiều ám chỉ đến chiều dài của mã ký như đã định nghĩa ở trên.
Lý thuyết về mã sử dụng mô hình hình cầu với số chiều "N". Lấy ví dụ, bao nhiêu đồng xu phải cần để phủ kín một mặt bàn, hay trong khoảng không 3 chiều, bao nhiêu hòn bi phải cần để nhồi kín một hình cầu. Những cân nhắc khác bao gồm việc chọn lựa mã. Lấy ví dụ, do nhồi nhữmg hình lục lăng vào trong một cái hộp hình chữ nhật, chúng ta để lại những khoảng trống ở các góc. Khi các chiều của hộp được tăng lên, tỷ lệ phần trăm so sánh của các khoảng trống nhỏ đi, cho đến một cỡ nào đấy, những phần nhồi chiếm hết các khoảng không và mã này được gọi mã hoàn hảo. Số mã kiểu này tương đối hiếm (Hamming , Golay )
Một điều thường bị bỏ qua là số lượng những hàng xóm kế cận (neighbors) mà một mã ký có thể có. Chúng ta có thể dùng lại ví dụ các đồng xu ở đây. Đầu tiên, chúng ta gộp các đồng xu lại theo các hàng hình chữ nhật. Mỗi một đồng xu có 4 đồng kế cận (và bốn cái ở bốn góc xa hơn). Trong bố cục của hình lục giác, mỗi đồng xu có 6 đồng kế cận. Khi chúng ta tăng số chiều lên, số lượng các đồng kế cận tăng lên một cách nhanh chóng.
Kết quả là số lượng các âm tạp, bên cạch các âm chính, mà máy thu có thể chọn, cũng tăng lên, và do đó mà gây ra lỗi. Đây chính là khuyết điểm căn bản của mã khối, và cũng là khuyết điểm của tất cả các loại mã. Có thể việc gây lỗi trở nên khó khăn hơn, nếu chỉ có một hàng xóm kế cận mà thôi, song con số các hàng xóm kế cận có thể lớn đến độ làm cho chính tổng xác suất lỗi bị ảnh hưởng (total error probability actually suffers).
Mã kết hợp
Mã kết hợp (Convolutional codes) được sử dụng trong các modem dải tần âm (voiceband modems) (V.32, V.17, V.34) và trong các điện thoại di động GSM, cũng như trong các thiết bị truyền thông của quân đội vũ trang và trong các thiết bị truyền thông với vệ tinh.
Ý định ở đây là làm cho tất cả các ký hiệu mã ký (codeword symbol) trở thành tổng trọng số (weighted sum) của nhiều loại ký hiệu thông điệp trong nhập liệu (various input message symbols). Nó tương tự như toán kết hợp được dùng trong các hệ tuyến tính bất biến (linear time invariant systems) để dùng tìm xuất liệu (output) của một hệ thống, khi chúng ta biết nhập liệu (input) và các đáp ứng xung (impulse response).
Nói chung chúng ta tìm xuất liệu của bộ mã hóa kết hợp hệ (system convolutional encoder), tức sự kết hợp của nhập liệu bit, đối chiếu với trạng thái của bộ mã hóa kết hợp (convolution encoder), hoặc trạng thái của các thanh biến (registers).
Về cơ bản mà nói, mã kết hợp không giúp thêm gì trong việc chống nhiễu hơn một mã khối tương ứng. Trong nhiều trường hợp, chúng nói chung cho chúng ta một phương pháp thực thi đơn giản hơn, hơn hẳn một mã khối có hiệu quả tương ứng (a block code of equal power). Bộ mã hóa thường là một mạch điện đơn giản, có một bộ nhớ (state memory), một vài biện pháp truyền thông tin phản hồi báo tình hình (some feedback logic), thường là các cổng loại trừ XOR (XOR gates). Bộ mã hóa có thể được thực thi trong phần mềm hay phần sụn (firmware).
Thuật toán Viterbi (Viterbi algorithm) là một thuật toán ngắn gọn nhất (optimum algorithm) được dùng để giải mã các mã kết hợp. Hiện có những phương pháp giảm ước giúp vào việc giảm khối lượng tính toán phải làm. Những phương pháp này phần lớn dựa vào việc tìm tuyến đường có khả năng xảy ra cao nhất (most likely paths). Tuy không ngắn gọn, song trong môi trường nhiễu thấp hơn, người ta thường thấy chúng cho những kết quả khả quan. Các bộ điều hành vi xử lý hiện đại (Modern microprocessors) có khả năng thực hiện những thuật toán tìm giảm ước nói trên với tỷ lệ trên 4000 mã ký trong một giây.
Các ứng dụng của lý thuyết mã hóa
Một quan tâm khác của lý thuyết mã hóa là việc thiết kế các mã giúp vào việc đồng bộ hóa (synchronization). Một mã có thể được thiết kế để phát hiện dịch pha sóng điện (phase shift) và sửa lỗi, đồng thời cho phép nhiều tín hiệu (multiple signals) được truyền gửi trên cùng một kênh. Có một hạng loại của những mã mà chúng ta hằng ngày thường gặp trong các điện thoại di động của mình. Chúng được gọi là mã Đa truy nhập phân chia theo mã (Code Division Multiple Access - viết tắt là CDMA). Chi tiết về chúng thuộc phạm vi bên ngoài cuộc đàm luận ở đây, song nói một cách ngắn gọn, mỗi cái điện thoại được gắn cho một mã ký (codeword) lấy ra từ một hạng đặc biệt (special class) (ngành Đại Số). Trong khi truyền thông, mã ký được dùng để xáo trộn các bit đại biểu cho thông điệp âm thanh (voice message). Tại máy thu, một quy trình giải xáo trộn ("descrambling") được tiến hành để giải mã (decipher) thông điệp. Đặc tính của hạng mã ký này cho phép nhiều người dùng (với các mã khác nhau) sử dụng cùng một kênh truyền rađiô trong cùng một lúc. Máy thu, dùng chu trình giải xáo trộn, chỉ "nghe" thấy những người gọi khác như "nhiễu âm" ở độ thấp mà thôi.
Một hạng mã nổi tiếng khác nữa là mã Yêu cầu lặp lại tự động (Automatic Repeat reQuest - viết tắt là ARQ). Trong hạng phổ quát (general class) này, máy phát cho thêm các bit chẵn lẻ kiểm tra (parity check bits) vào các thông điệp dài hơn bình thường. Máy thu kiểm tra bit chẵn lẻ của thông điệp thu được và nếu nó phát hiện ra một sự bất đồng, nó sẽ yêu cầu máy phát truyền tin lại thông điệp. Hầu hết các mạng diện rộng (wide area networks) và các giao thức, ngoại trừ những cái hết sức đơn giản, đều sử dụng tái truyền thông ARQ. Những giao thức thông dụng bao gồm SDLC (IBM), TCP (Internet), X.25 (Quốc tế) và nhiều cái khác nữa. Hiện có nhiều nghiên cứu trên phạm vi rộng trong lĩnh vực về đề tài này do khó khăn trong việc so sánh giữa một gói dữ liệu đã bị từ bỏ (rejected packet) với một gói dữ liệu mới. Gói dữ liệu mới đến này là một gói mới hay là một gói cũ được truyền lại? Thường thì các hệ thống đánh số được sử dụng, tuy nhiên trong một số mạng truyền thông, gói dữ liệu có thể có một định danh khác, hoặc vấn đề này được dành lại cho tầng cao hơn (của giao thức) để nó yêu cầu truyền thông lại. TCP/IP là một giao thức điển hình sử dụng cả hai kỹ thuật. Trong bối cảnh đã kết nối, TCP/IP dành việc truyền thông lại cho mạng lưới truyền thông, và vì thế nó sử dụng mã hóa ARQ. Trong mạng lưới vô tuyến (wireless network), người ta không sử dụng ARQ. Thay vào đó, người ta dành trách nhiệm này cho chương trình ứng dụng kiểm nghiệm gói dữ liệu và yêu cầu việc truyền thông lại khi cần. Việc này có thể nâng cao lên đến mức độ đòi hỏi người dùng phải ấn nút "nạp lại" ("refresh" button) trên một trình duyệt web. Song, ngay cả cái này hiện nay vẫn ở trong hạng ARQ đang được nghiên cứu; người dùng bắt buộc phải can thiệp (the user just has to become involved).
Ghi chú
Một phân Anh viết là "inch", số nhiều là "inches" - bằng khoảng 25.4 mm hay 2.54 cm. Nguyên là chiều rộng của ngón tay cái.
Ông Marcel JE Golay (1902-1989) một nhà Toán học, Vật Lý học người Thụy Sĩ có nhiều cống hiến trong lý thuyết mã hóa.
GSM (tiếng Anh: Global System for Mobile communications - Hệ thống Viễn thông Di động Toàn cầu) thế hệ thứ hai của kỹ thuật số, nguyên được phát triển ở châu Âu, song hiện nay chiếm trên 71% thị trường thế giới. Đầu tiên được phát triển trên dải tần 900 MHz và tiếp đó được cải tiến nâng cấp cho các dải tần 850, 1800 và 1900 MHz. Cái tên GSM nguyên đại diện cho cái tên "Groupe Speciale Mobile", tên của hội đồng CEPT, người khởi công quá trình tiêu chuẩn hóa GSM. |
101 (một trăm linh một) là một số tự nhiên ngay sau 100 và ngay trước 102. Đây là một số nguyên tố |
Cá nhiều vây, cá cửu sừng hay cá khủng long, thuộc họ Polypteridae duy nhất của bộ Polypteriformes, chứa các loài cá vây tia Actinopterygii trông rất cổ. Chúng rất phổ biến trong giới nuôi cá cảnh. Tại Việt Nam, chúng cũng được biết tới là Cá cửu long sừng, cá rồng cửu sừng
Phân bố
Tất cả các loài đã biết đều sống trong môi trường nước ngọt thuộc châu Phi.
Đặc điểm
Tên của loài cá này được đặt theo số vây như những chiếc sừng trên lưng con cá. Dù có tên là cá rồng cửu sừng, nhưng loài này có thể mang tới 12 chiếc vây trên mình. Một số loài cửu sừng hoàng đế có thân ngắn, số vây có thể giảm xuống chỉ còn 7 chiếc.
Chúng có phổi để hít thở không khí và có vây chắc khỏe để kéo cơ thể di chuyển trên mặt đất. Loài cá này sở hữu nhiều đặc điểm tương tự như trong các hóa thạch động vật bốn chân cổ đại. Chúng có các vây dày tương tự như xương và các chuỗi vây lưng nhỏ thay vì có một vây duy nhất. Cấu trúc quai hàm của chúng trông tương tự như quai hàm của động vật bốn chân hơn là so với của các loài cá thuộc cận lớp Teleostei.
Trong nghiên cứu, nhóm chuyên gia thuộc trường Đại học Ottawa, Canada, đưa một vài cá thể Bichir lên sống trên cạn trong 8 tháng để tìm hiểu sự khác biệt với những cá thể Bichir nuôi trong nước. Nhóm nghiên cứu phát hiện ra rằng, những con cá sống trên cạn có đầu ngẩng cao hơn, vây ép sát vào cơ thể hơn, bò nhanh hơn. Chúng trải qua một số thay đổi về xương và cơ bắp và điều này giúp chúng di chuyển hiệu quả hơn trên đất liền. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, với khả năng tự đi bộ và hít thở không khí, loài cá Bichir ở châu Phi có thể thích nghi với cuộc sống trên đất liền nhiều hơn chúng ta tưởng tượng.
Đây là một trong số ít những loài cá trải qua phần lớn cuộc đời ở trạng thái ấu trùng, ngay cả trong giai đoạn trưởng thành và sinh sản. Khi cơ thể phát triển hoàn thiện, một con cá rồng cửu sừng có thể dài tới nửa mét, cá có thể thở bằng hai: bằng mang và bằng miệng. Loài cá này thậm chí còn có phổi, có khả năng tái sinh các chi đã mất (kể cả tim) - một hiện tượng cực hiếm trong tự nhiên.
Thức ăn
Là loài cá dữ ăn thịt, cá rồng cửu sừng có thể ăn được các loại thức ăn từ tôm, cá, ếch nhái, côn trùng, giáp xác hay nhuyễn thể. Dù có nguồn thức ăn đa dạng trong tự nhiên, nhưng giống như nhiều loài cá quý hiếm khác, cá rồng cửu sừng từng đứng trước nguy cơ tuyệt chủng, do môi trường sống bị xâm phạm. Sau này, cá rồng cửu sừng được bảo vệ thông qua dự án phát triển nuôi nhốt, và từ đó trở thành giống cá cảnh được ưa thích trên thế giới.
Các loài
Hiện nay người ta biết 18 loài và phân loài còn tồn tại thuộc hai chi
Chi Erpetoichthys
Erpetoichthys calabaricus Smith, 1865 (đồng nghĩa: Calamoichthys calabaricus): Cá nhiều vây bụi sậy.
Chi Polypterus
Polypterus ansorgii Boulenger, 1910: Cá nhiều vây Guinea.
Polypterus bichir
Polypterus bichir bichir Lacépède, 1803: Cá nhiều vây sông Nin.
Polypterus bichir katangae Poll, 1941.
Polypterus bichir lapradei Steindachner, 1869: Cá nhiều vây.
Polypterus delhezi Boulenger, 1899: Cá nhiều vây vạch sọc.
Polypterus endlicheri
Polypterus endlicheri congicus Boulenger, 1898.
Polypterus endlicheri endlicheri Heckel, 1847: Cá nhiều vây yên ngựa.
Polypterus mokelembembe Schliewen & Schafer, 2006..
Polypterus ornatipinnis Boulenger, 1902: Cá nhiều vây lòe loẹt.
Polypterus palmas
Polypterus palmas buettikoferi Steindachner, 1891.
Polypterus palmas palmas Ayres, 1850: Cá nhiều vây ngắn.
Polypterus palmas polli Gosse, 1988.
Polypterus retropinnis Vaillant, 1899: Cá nhiều vây Tây Phi.
Polypterus senegalus
Polypterus senegalus meridionalis Poll, 1941.
Polypterus senegalus senegalus Cuvier, 1829: Cá nhiều vây xám.
Polypterus teugelsi Britz, 2004.
Polypterus weeksii Boulenger, 1898: Cá nhiều vây đốm.
Các loài đã tuyệt chủng bao gồm:
Polypterus dageti
Polypterus faraou Otero và ctv., 2006 — cuối thế Miocen.
Polypterus sudanensis
Các chi đã tuyệt chủng sau đây có thể thuộc về bộ Polypteriformes.
Dagetella
Latinopollia
Serenoichthys
Bartschichthys
Sudania
Saharaichthys
Sainthilaria
Inbecetemia
Nagaia |
Buran có thể là:
Chương trình Buran - chương trình phát triển tàu con thoi của Liên Xô
Tàu con thoi Buran - tàu vũ trụ đầu tiên và độc nhất của Chương trình Buran
Gió Buran - thổi ngang Đông Á
Tên lửa Buran
Vùng nhiệt Buran của các súng xe tăng |
Kính áp tròng là loại thấu kính mỏng làm từ chất dẻo được đặt trực tiếp lên bề mặt con ngươi để điều chỉnh các tật khúc xạ của mắt. Kính áp tròng được coi là thiết bị y tế và được dùng để điều chỉnh các tật của mắt, dùng để đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ hay chữa bệnh về nhãn khoa.
Năm 2004, theo thống kê có tới 125 triệu người (2%) sử dụng kính áp tròng trên toàn cầu, trong đó có 28 tới 38 triệu người dùng tại Mỹ. Năm 2010, thị phần toàn thế giới ước đạt $6.1 tỉ, trong đó thị phần kính áp tròng mềm tại Mỹ là $2.1 tỉ. Theo ước tính doanh thu thị trường này trên toàn thế giới sẽ đạt $11.7 tỉ vào năm 2015. Theo đó năm 2010, độ tuổi trung bình của người sử dụng kính áp tròng toàn cầu là 31 tuổi và 2/3 trong số đó là nữ giới.
Lịch sử
Lịch sử kính áp tròng bắt đầu từ ý tưởng của Leonardo da Vinci, một trong những con người toàn tài nhất trên thế giới này đã có những nghiên cứu ban đầu về kính áp tròng từ những năm 1500. Bức họa ở trên được Leonardo da Vinci vẽ vào năm 1508 với một thấu kính nằm ở phía cuối của một ống và nước sẽ được sử dụng để tạo mặt cong tạo ra cảm giác y như đang nhìn bằng mắt thường. Ý tưởng kiểu như vậy được lặp lại vào năm 1820 khi Sir John Herschel, một nhà thiên văn học người Anh cho rằng có thể thu nhỏ thấu kính vẫn được sử dụng vào các công việc khác thành loại kính có thể đặt được vào mắt người thường. Phải tới năm 1887, kính áp tròng đầu tiên đã được sản xuất bởi nhà vật lý người Đức có tên là Adolf Eugen Fick. Kính này đã được thử nghiệm trên thỏ và sau đó là trên chính mắt của Fick. Tuy vậy, kính áp tròng thời kỳ này vẫn còn tương đối rộng và chưa thực sự vừa với mắt nên không thể dùng được trong một thời gian lâu mà chỉ dùng được trong khoảng thời gian ngắn. Tới thập niên 1930s, kính được làm bằng nhựa plastic cùng với thủy tinh đã được phát minh ra và sau đó là kính áp tròng thế hệ mới được sử dụng rộng rãi hiện nay (được chế tạo bởi nhà hóa học người Tiệp Otto Wichterle).
Trên thực tế, kính của Leonardo da Vinci vẽ ra không thể coi là kính áp tròng mà chỉ được coi là thiết bị quang học được sử dụng sát với mắt để tăng thị lực. Tuy vậy, tầm nhìn về khoa học của Leonardo da Vinci thì không phải bàn cãi. Tiếp theo phát minh có tính đột phá của Otto Wichterle làm cho kính áp tròng thuận tiện và dễ sử dụng hơn thì ngày nay kính áp tròng vẫn được cải tiến liên tục. Không chỉ cải thiện thị lực, kính áp tròng giúp mắt chống lại tia cực tím/tử ngoại có hại và giúp cho người sử dụng có thể đổi màu mắt một cách dễ dàng.Kính áp tròng ngày càng được hoàn thiện về cấu trúc hoá học, thời gian sử dụng, độ an toàn và thuận tiện nhất trên thị trường. Hiện nay các loại kính áp tròng dài ngày đã dần được thay thế bằng kính áp tròng sử dụng 1 ngày bởi sự tiện lợi của nó.
Hiện nay có 140 triệu người trên thế giới (31-42 triệu người ở Mỹ và 15 triệu người ở Nhật) sử dụng kính áp tròng.
Một số nguyên tắc vệ sinh cơ bản
Vệ sinh bàn tay sạch khi tháo lắp kính, kiểm tra mắt kính còn trong bao bì, còn hạn dùng có bị biến dạng hay không?
Tuân thủ thời gian quy định đeo kính áp tròng
Sử dụng dung dịch rửa kính theo đúng tiêu chuẩn nhà sản xuất hoặc theo đúng lời khuyên bác sĩ. Nên sử dụng dung dịch rửa theo hai bước nhằm giảm thiểu ký sinh trùng acanthamoeba
Vệ sinh sạch hộp đựng kính (áp dụng cho kính dùng dài ngày)
Thay hộp mới theo quy định hãng sản xuất hoặc 4 tuần 1 lần.
Lợi ích
Nguyên lý điều chỉnh thị lực giống như mắt => Chữa đa số các tật về mắt (như cận thị, viễn thị...)
Thoải mái vận động mà không bị rơi
Làm đẹp (đổi màu mắt)
Tiện dụng, thẩm mỹ
Tác hại
Nếu không được giữ vệ sinh cẩn thận, kính áp tròng có thể là tác nhân gây nấm mắt hoặc tổn thương giác mạc. Bản thân các dung dịch để rửa kính cũng có thể là tác nhân gây nhiễm trùng nếu người dùng không tuân thủ các quy tắc vệ sinh đặc biệt |
Trường Cao đẳng Columbia (Columbia College, viết tắt là CC) là một trong những trường cao đẳng tư thục lâu đời nhất tại Vancouver, British Columbia, Canada. Trường được thành lập vào năm 1936. Đây là trường đại học hệ hai năm, cung cấp các khóa học bậc đại học cho sinh viên năm thứ nhất và thứ hai, cấp bằng cao đẳng trong các ngành khai phóng và khoa học, và có chương trình dự bị đại học.
Địa chỉ: 438 Terminal Avenue Vancouver, BC Canada V6A 0C1.
Chương trình
Anh văn(ESL)
Chuyển tiếp đại học
Trung học
Các hiệu trưởng
Ph.D T.Toone (hiện tại)
Thư viện CC |
Bộ ngoại giao là một bộ trong chính phủ. Bộ này đảm nhiệm công việc đối ngoại của chính phủ. Tuy vậy hoạt động của Bộ ngoại giao trên thế giới hiện nay thường kèm theo việc phát triển ngoại thương, xúc tiến thương mại.
Trong hệ thống các cơ quan của quan hệ giao tiếp đối ngoại đại diện cho nhà nước trong công việc đối ngoại và quàn lý về mọi mặt các công việc đó Bộ ngoại giao giữ một vị trí đặc biệt. Trên thực tế Bộ ngoại giao là cơ quan thực hiện chính sách đối ngoại, đại diện cho nhà nước trên trường quốc tế, trong những cuộc tiếp xúc với các nhà nước khác và ngoại giao đoàn ở nước mình. Bộ ngoại giao cũng phối hợp sự hoạt động của các cơ quan làm công tác đối ngoại.
Bộ ngoại giao đảm nhiệm việc tổng kết và phân tích mọi thông tin về tình hình quốc tế, thảo ra các đề nghị liên quan những vấn đề về chính sách đối ngoại.
Nhằm mục đích này, Bộ ngoại giao thường xuyên tiếp xúc với các đại sứ quán và lãnh sự quán của nước mình ở nước ngoài, quản lý hoạt động của các cơ quan đó, thực hiện liên hệ với các cơ quan đại diện ngoại giao của nước ngoài.
Bộ trưởng Bộ ngoại giao
Người đứng đầu Bộ ngoại giao được gọi là bộ trưởng Bộ ngoại giao, hay còn được gọi là ngoại trưởng (foreign minister). Đây là một thành viên chính phủ có nhiệm vụ trợ giúp hình thành chính sách đối ngoại của một quốc gia có chủ quyền. Trong một chính phủ liên hiệp, phó thủ tướng thường cũng kiêm bộ trưởng Bộ ngoại giao.
Tùy thuộc từng nước mà quyền lực của vị ngoại trưởng có thể khác nhau. Trong một thể chế đại nghị cổ điển, bộ trưởng Bộ ngoại giao có thể tạo ảnh hưởng đáng kể trong sự hình thành chính sách đối ngoại, tuy nhiên nếu thủ tướng chính phủ nắm nhiều quyền lực thì quyền lực của bộ trưởng Bộ ngoại giao bị giới hạn hơn hoặc chỉ đóng vai trò phụ trong việc xây dựng chính sách đối ngoại. Trong thể chế tổng thống với nhánh hành pháp mạnh, quyền lực của ngoại trưởng cũng bị giới hạn nhiều. Không ít quốc gia kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã đưa bộ trưởng Bộ ngoại giao và bộ trưởng bộ quốc phòng thành bộ phận của một cơ quan trong nội các gọi là hội đồng an ninh quốc gia nhằm phối hợp chính sách đối ngoại và quốc phòng.
Tên gọi dành cho chức danh bộ trưởng Bộ ngoại giao khá đa dạng: "bộ trưởng Bộ ngoại giao" (minister of foreign relations, chẳng hạn ở Brasil và Liên Xô cũ; hoặc minister of foreign affairs, chẳng hạn ở Việt Nam), "bộ trưởng bộ ngoại vụ" (minister of external affairs, chẳng hạn ở Ấn Độ). Ở nhiều nước nói tiếng Tây Ban Nha thuộc khu vực Mỹ Latinh, canciller là tên gọi thông tục của chức danh này. Một số quốc gia còn có chức danh quốc vụ khanh (secretary of state) với cấp bậc tương đương hoặc thấp hơn bộ trưởng trong chính phủ, thường được bổ nhiệm trong trường hợp thay thế bộ trưởng Bộ ngoại giao để tiến hành các hoạt động đối ngoại.
Tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland thời gian trước năm 1968, Quốc vụ khanh Ngoại giao chỉ xử lý các mối quan hệ với nước ngoài (những nước nằm ngoài Khối Thịnh vượng chung Anh), trong khi Quốc vụ khanh Các vấn đề khối thịnh vượng chung mới là người xử lý quan hệ với các thuộc địa và quốc gia trong khối. Hiện nay, vị bộ trưởng phụ trách chính sách đối ngoại và lãnh thổ hải ngoại thuộc Anh được gọi là Quốc vụ khanh Các vấn đề đối ngoại và khối thịnh vượng chung (Secretary of State for Foreign and Commonwealth Affairs).
Tại Hoa Kỳ, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ xử lý chính sách đối ngoại và là thành viên cao cấp của Nội các Hoa Kỳ. Trong tiếng Anh, chức danh Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ được viết là United States Secretary of State, dịch sát là "Quốc vụ khanh Hoa Kỳ". |
Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ (tiếng Anh: United States Secretary of State) hay Ngoại trưởng Mỹ là người lãnh đạo Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, quản lý về vấn đề đối ngoại. Bộ trưởng là thành viên nội các của chính phủ Hoa Kỳ và là bộ trưởng nội các cao cấp nhất cả về mặt thứ tự kế vị Tổng thống Hoa Kỳ và thứ tự địa vị. Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ hiện tại là Antony Blinken.
Tên gọi
Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam sử dụng cách gọi chính thức là "Ngoại trưởng Hoa Kỳ".
Chức năng
Chức vụ này phát triển từ chức Bộ trưởng Ngoại vụ Hoa Kỳ (United States Secretary of Foreign Affairs) chỉ tồn tại ngắn hạn; phần lớn các chức năng của United States Secretary of State (dịch sát nghĩa là "Thư ký Nhà nước hoặc Quốc vụ khanh", trong tiếng Việt có lúc dịch là Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ; có thể tạm dịch rõ nghĩa hơn từ tiếng Anh là Thư ký Nhà nước Hoa Kỳ (khác với nhiều quốc gia khác người đứng đầu Bộ được gọi là Bộ trưởng (minister), ở Hoa Kỳ người đứng đầu một Bộ được gọi là Thư ký (secretary) của Bộ đó) vì chức vụ này cũng gánh một số trọng trách có liên quan đến quốc nội trong đó có việc tiếp nhận thư từ chức của tổng thống Hoa Kỳ) vẫn đặt trọng tâm quanh các vấn đề đối ngoại. Bộ trưởng nói chung là nhà ngoại giao chính của Hoa Kỳ, và là cố vấn của Tổng thống trên các vấn đề có liên quan đến đối ngoại.
Những trách nhiệm đặc biệt của bộ trưởng ngoại giao bao gồm:
Trông coi Sở Ngoại vụ Hoa Kỳ và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ.
Cố vấn tổng thống về các vấn đề có liên quan đến chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ trong đó có việc bổ nhiệm các đại diện ngoại giao của Hoa Kỳ tại các quốc gia khác, và nhận hay từ chối đại diện ngoại giao từ các quốc gia khác.
Tham dự các cuộc thương thuyết cấp cao với các quốc gia khác, cả song phương hay với tư cách một thành viên trong một hội nghị quốc tế hay các tổ chức hoặc bổ nhiệm đại diện để làm những việc như thế. Việc này gồm có việc thương thuyết các hiệp ước quốc tế hay các thỏa ước khác.
Cung cấp thông tin và dịch vụ cho các công dân Mỹ sống hay du lịch ngoại quốc, trong đó có việc cung cấp giấy ủy nhiệm trong hình thức hộ chiếu và thị thực.
Giám sát chính sách di dân Hoa Kỳ ở ngoại quốc.
Nối liên lạc các vấn đề có liên quan đến chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ đến Quốc hội Hoa Kỳ và công dân Hoa Kỳ.
Các nhiệm vụ ban đầu của bộ trưởng gồm có một số trách nhiệm về đối nội như:
Tiếp nhận, công bố, phân phát và bảo tồn các luật lệ của Hoa Kỳ.
Chuẩn bị, đóng dấu và ghi lại tất cả các ủy nhiệm và bổ nhiệm nhân sự của tổng thống.
Chuẩn bị và chứng thực các văn bản hồ sơ lưu, chứng thực các văn bản có con dấu của bộ.
Giữ Đại ấn Hoa Kỳ.
Giữ các văn bản hồ sơ của các cựu bộ trưởng Quốc hội Lục địa, trừ Bộ trưởng Ngân khố và Bộ trưởng Chiến tranh.
Đa số các chức năng quốc nội của Bộ Ngoại giao nay đã được thuyên chuyển sang cho các cơ quan khác. Những chức năng còn lại gồm có việc cất giữ và sử dụng Đại ấn Hoa Kỳ, thực hiện các chức năng nghi lễ cho Tòa Bạch Ốc và thảo ra những tuyên bố nào đó. Bộ trưởng cũng thương lượng với các cá thể tiểu bang về việc dẫn độ các đào phạm trốn ra ngoại quốc.
Với tư cách là thành viên cao cấp nhất của nội các Hoa Kỳ, bộ trưởng ngoại giao đứng thứ tư trong thứ tự kế vị Tổng thống Hoa Kỳ, sau Phó tổng thống Hoa Kỳ, Chủ tịch Hạ viện Hoa Kỳ, và Chủ tịch Thượng viện tạm quyền Hoa Kỳ. Có đến 6 bộ trưởng ngoại giao đã từng được bầu làm Tổng thống Hoa Kỳ.
Với tư cách là người lãnh đạo Sở Ngoại vụ Hoa Kỳ, bộ trưởng ngoại giao có trách nhiệm điều hành công việc ngoại giao của Hoa Kỳ. Sở ngoại vụ có khoảng 12.000 nhân viên trong và ngoài nước và hỗ trợ cho 265 sứ bộ ngoại giao khắp thế giới.
Luật liên bang () có nói rằng việc từ chức của một tổng thống hay phó tổng thống phải được hoàn tất bằng văn bản và gửi đến văn phòng của Bộ trưởng Ngoại giao. Điều này đã xảy ra một lần khi Tổng thống Richard Nixon từ chức ngày 9 tháng 8 năm 1974. Tổng thống Nixon đã gửi thư từ chức đến Bộ trưởng Ngoại giao Henry Kissinger.
Khi chức vụ này bỏ trống thì các trách nhiệm sẽ được một thành viên khác của nội các thực thi hay trong những lần gần đây hơn, được một viên chức cao cấp của bộ ngoại giao đảm nhiệm cho đến khi tổng thống bổ nhiệm và thượng viện chấp thuận một tân bộ trưởng.
Danh sách các Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ
Các cựu bộ trưởng ngoại giao còn sống
Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2023 có 7 cựu bộ trưởng bộ ngoại giao còn sống. Cựu bộ trưởng qua đời gần đây nhất là Madeleine Albright vào ngày 23 tháng 3 năm 2022. |
Thống tướng Dwight David "Ike" Eisenhower (phát âm: ; 14 tháng 10 năm 1890 – 28 tháng 3 năm 1969) là một vị Thống tướng Lục quân Hoa Kỳ và là Tổng thống Hoa Kỳ thứ 34 từ năm 1953 đến 1961. Trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai, ông phục vụ với tư cách là Tư lệnh Tối cao các lực lượng Đồng Minh tại châu Âu, trong đó có trách nhiệm lập kế hoạch và giám sát cuộc tiến công xâm chiếm thành công vào nước Pháp và Đức năm 1944 – 1945 từ mặt trận phía Tây. Năm 1951, ông trở thành Tư lệnh Tối cao đầu tiên của NATO.
Là một đảng viên Cộng hòa, Eisenhower bước vào cuộc đua tranh cử Tổng thống năm 1952 đối đầu với chủ nghĩa cô lập của thượng nghị sĩ Robert A. Taft, và cái mà ông muốn đi đầu để đối phó là "chủ nghĩa cộng sản, Triều Tiên và tham nhũng". Ông thắng lớn, kết thúc hai mươi năm kiểm soát Đảng Dân chủ. Là Tổng thống, Eisenhower đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân để buộc Trung Quốc đồng ý ngưng bắn trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên. Ông luôn gây sức ép với Liên Xô trong thời Chiến tranh lạnh, cho phép ưu tiên phát triển các loại vũ khí hạt nhân không tốn nhiều kinh phí và giảm các lực lượng khác để tiết kiệm tiền bạc. Ông đã phải chơi trò đuổi bắt trong cuộc chạy đua không gian sau khi Liên Xô phóng vệ tinh Sputnik năm 1957. Về mặt trận trong nước, ông giúp loại Joe McCarthy khỏi quyền lực nhưng mặc khác bỏ đa số các vấn đề chính trị cho phó Tổng thống của mình là Richard Nixon đối phó. Ông từ chối hủy bỏ chương trình New Deal nhưng thay vào đó lại mở rộng chương trình An sinh Xã hội và khởi sự Hệ thống Xa lộ Liên tiểu bang. Ông là Tổng thống đầu tiên bị giới hạn nhiệm kỳ theo tu chính án 22, Hiến pháp Hoa Kỳ. Các sử gia thường xếp hạng Eisenhower trong số 10 Tổng thống hàng đầu của Hoa Kỳ.
Thời thơ ấu và gia đình
Eisenhower có tên khai sinh là David Dwight Eisenhower, sinh ngày 14 tháng 10 năm 1890 tại số 208 Đường Day, khu đông thành phố Denison, Texas, là Tổng thống đầu tiên sinh ra tại tiểu bang này. Ông là người con trai thứ ba trong số bảy anh em trai, có cha là David Jacob Eisenhower và mẹ Ida Elizabeth Stover, gốc Đức, Anh và Thụy Sĩ. Ngôi nhà nơi ông được sinh ra nay được dùng làm nhà lưu niệm lịch sử tiểu bang có tên gọi "Eisenhower Birthplace State Historic Site" do Ủy ban Lịch sử Texas điều hành hoạt động.
Tên ông là David Dwight và mọi người thường gọi ông là Dwight. Ông chọn giữ thứ tự tên gọi của mình là Dwight thay vì là David khi ghi danh vào Học viện Quân sự West Point Hoa Kỳ.
Tổ tiên bên nội của Eisenhower có thể được truy tìm nguồn gốc đến Hans Nicolas Eisenhauer là người có họ Đức với nghĩa là "thợ làm đồ sắt". Hans Eisenhauer và gia đình di cư từ Karlsbrunn (bây giờ là Saarland), Đức đến Lancaster, Pennsylvania năm 1741. Con cháu di chuyển về hướng tây. Gia đình của Eisenhower định cư tại Abilene, Kansas năm 1892. Cha của ông, David Eisenhower, là một kỹ sư có bằng đại học.
Do hoàn cảnh nghèo khó, ngay từ nhỏ cậu bé Eisenhower đã phải cùng với các anh em phụ giúp công việc gia đình, như tham gia trồng rau cải. Lớn lên ông lại phải ra ngoài làm tạp dịch để kiếm sống. Điều này đã hình thành thói quen cần kiệm và ham lao động của vị tướng tương lai. Trong thời gian này có hai sự kiện ảnh hưởng rất lớn đến Eisenhower. Năm 10 tuổi, do tức giận vì không được đi chơi Giáng sinh với một số bạn lớn tuổi hơn, cậu bé Eisenhower đã đấm liên tục vào thân cây cho đến chảy máu tay. Lúc đó mẹ ông đã khuyên rằng: tức giận là vô ích, những người có khả năng khống chế tình cảm của mình còn vĩ đại hơn cả những người khống chế một thành phố. Lời khuyên này đã ảnh hưởng lớn đến tính cách của Eisenhower và giúp ông rất nhiều trong việc tạo lập mối quan hệ tốt với đồng sự và giữ một hình ảnh cá nhân tốt đẹp trong mắt mọi người. Việc thứ hai là khi Eisenhower bị thương ở đầu gối lúc 15 tuổi. Vết thương nhiễm trùng và thầy thuốc đề nghị phải cưa bỏ chân, tuy nhiên Eisenhower thà chết chứ không muốn làm một kẻ tàn phế. Điều kỳ diệu là vết thương của ông phục hồi nhanh chóng sau đó. Ý chí kiên cường và tinh thần dũng cảm của Eisenhower đã bắt đầu bộc lộ trong hoàn cảnh này.
Ông kết hôn với Mamie Geneva Doud (1896–1979), một cư dân của thành phố Boone, Iowa và là con gái của một đại phú thương tại thành Denver, Colorado, vào ngày 1 tháng 7 năm 1916. Chính nhờ cuộc hôn nhân tốt đẹp nên Dwight Eisenhower đã có một hậu phương vững chắc cho đời sống quân sự và chính trị của mình. Hai người có hai người con trai: Doud Dwight và John Sheldon Doud. Doud Dwight sinh ngày 24 tháng 9 năm 1917, và chết vì bệnh sốt đỏ ngày 2 tháng 1 năm 1921 lúc 3 tuổi. Con trai thứ hai của họ, John Sheldon Doud Eisenhower, sinh năm sau đó vào ngày 3 tháng 8 năm 1922; John phục vụ trong Lục quân Hoa Kỳ, về hưu với cấp bậc chuẩn tướng, trở thành nhà văn, và phục vụ trong vai trò đại sứ Mỹ tại Bỉ từ năm 1969 đến 1971. John tốt nghiệp West Point trùng hợp vào ngày D-Day 6 tháng 6 năm 1944 và kết hôn với Barbara Jean Thompson ngày 10 tháng 6 năm 1947. John và Barbara có bốn người con: Dwight David II "David", Barbara Ann, Susan Elaine và Mary Jean. David, tên được đặt cho Trại David, kết hôn với con gái của Tổng thống Richard Nixon là Julie năm 1968.
Giáo dục
Dwight D. Eisenhower học ở trường Trung học Abilene, thành phố Abilene, tiểu bang Kansas và tốt nghiệp năm 1909. Trong trường học, Eisenhower yêu thích nhất là môn lịch sử. Ông rất thích đọc các truyện ký về các vị anh hùng, các danh nhân quân sự thuở xưa; hai người ông hâm mộ nhất là Thống soái Hannibal Barca và Tổng thống Hoa Kỳ George Washington. Khi trưởng thành, Eisenhower vẫn còn nhớ rõ các chiến dịch quân sự quan trọng trong lịch sử. Bạn bè ông cho rằng Eisenhower sẽ trở thành giáo sư tại Đại học Yale. Tuy nhiên do gia cảnh khó khăn ông tạm nghỉ học để đi làm giúp người anh thứ hai có tiền học tiếp. Việc giúp đỡ lẫn nhau là một điểm đặc trưng trong gia đình của Eisenhower và đã giúp ích rất nhiều cho ông sau này. Lúc đó ông làm trưởng toán đêm trong hãng làm bơ Belle Springs. Sau khi làm việc hai năm để giúp anh của ông là Edgar học đại học, một người bạn đã hối thúc ông xin vào Học viện Hải quân Hoa Kỳ. Eisenhower dễ dàng vượt qua kỳ thi tuyển vào Học viện Hải quân Hoa Kỳ ở Annapolis. Tuy nhiên, do quá tuổi nên không được nhận vào trường và ông được Thượng nghị sĩ tiểu bang Kansas là Joseph L. Bristow giới thiệu vào Học viện Quân sự Hoa Kỳ tại West Point, New York năm 1911. Những sự trắc trở trên con đường học vấn của Eisenhower vô hình trung đã đem lại cho nước Mỹ một danh tướng lục quân.
Eisenhower ghi danh vào Học viên Quân sự Hoa Kỳ tại West Point tháng 6 năm 1911. Cha mẹ của ông là những người chống chủ nghĩa quân phiệt đã phản đối ông vào học viện West Point vì họ là những người tài trợ giáo dục cho ông. Eisenhower là một vận động viên mạnh mẽ và có được những thành công nổi bật trong các cuộc tranh tài thể thao.
Tại West Point, Eisenhower học lý luận quân sự cùng với các giáo trình chung khác của bậc Đại học. Ông yêu thích nhất môn Toán và môn Sử, đặc biệt ông bộc lộ đầu óc thông minh trong môn Toán khi có những bài giải còn hay hơn cả đáp án trong sách vở. Đồng thời ông cũng rất yêu thích thể thao: Eisenhower là một trung vệ nổi tiếng trong bóng bầu dục ở năm thứ hai Đại học, mặc dù sau đó ông bị chấn thương đầu gối và phải bỏ môn này - một trục trắc khác trên con đường sự nghiệp của Eisenhower đã giúp cho nước Mỹ không bị mất đi một danh tướng lục quân. Tuy nhiên, ít nhất môn thể thao này đã giúp Eisenhower hình thành tinh thần làm việc tập thể - một điều cực kỳ quan trọng đối với binh nghiệp của ông về sau. Nhìn chung, "danh tiếng" của Eisenhower rất cao trong trường West Point thông qua thái độ nhiệt tình, khoan dung và thân thiện của ông. Nhưng cá tính cứng rắn của Eisenhower đã khiến thành tích học tập và hạnh kiểm của ông không tốt lắm: ông tốt nghiệp năm 1915 chỉ với hạng 61 trong số 168 học sinh. Năm học 1915 được biết đến như là "năm học sao rơi xuống" vì 59 học viên lần lượt trở thành các sĩ quan cấp tướng.
Nghiệp thể thao
Tại West Point, Eisenhower không thành công khi thử thời vận với môn bóng chày. Sau này ông có nói rằng "không thành công với môn bóng chày tại West Point là một trong số những thất vọng lớn của tôi, có lẽ là sự thất vọng lớn nhất." Tuy nhiên, Eisenhower thành công với môn bóng bầu dục.
Năm 1916, trong lúc đóng quân ở đồn Sam Houston, Eisenhower làm huấn luyện viên bóng bầu dục cho trường Đại học St. Louis, bây giờ là viện Đại học St. Mary.
Trong cuộc đời sau này, Eisenhower rất mê say môn golf và gia nhập Câu lạc bộ Golf Quốc gia Augusta năm 1948 sau khi được câu lạc bộ này mời tham dự khi ông viếng thăm nơi này lần đầu tiên. Ông chơi golf thường xuyên trong hai nhiệm kỳ Tổng thống của mình, và cũng như sau khi về hưu. Ông có một sân chơi golf cơ bản được lập tại Trại David.
Khởi sự binh nghiệp
Sau khi tốt nghiệp Học viện Quân sự Hoa Kỳ vào năm 1915, thiếu úy Eisenhower nhận công tác đầu tiên ở đồn Sam Houston, tiểu bang Texas. Tại đây, ông dùng giờ rảnh chỉ vào hai việc: đi săn và làm huấn luyện viên môn bóng bầu dục. Ông phục vụ ngành bộ binh cho đến năm 1918 ở nhiều trại khác nhau trong tiểu bang Texas và Georgia.
Chiến tranh thế giới thứ nhất
Trong thời Chiến tranh thế giới thứ nhất, Eisenhower là chỉ huy số 3 của binh chủng xe tăng mới thành lập và vươn lên cấp bậc tạm thời trong thời chiến là trung tá trong Lục quân Quốc gia. Điều này khiến ông hết sức phấn khởi, và ông đã dùng khả năng tổ chức của mình để giữ sĩ khí và tinh thần sẵn sàng chiến đấu của binh đoàn ở mức cao. Tuy nhiên, một lần nữa số phận đã khiến ông không được toại nguyện khi vào tháng 9 cùng năm, Eisenhower bị phái đi làm sĩ quan huấn luyện tại một doanh trại huấn luyện dành cho các sĩ quan ở tiểu bang Georgia. Sau đó mấy tháng ông lại được điều đến một doanh trại huấn luyện khác. Việc không được tham chiến đã khiến Eisenhower tiếc nuối rất nhiều, nhưng một lần nữa, chính sự trớ trêu của số phận đã làm lợi cho ông: Eisenhower có thể tránh được mặc cảm bắn giết vô tình trong hồi ức và có một đầu óc tỉnh táo khi bước vào công tác lãnh đạo ở thế chiến thứ hai. Và nhiệm vụ đã khiến ông có cơ hội tham gia xây dựng và quản lý hàng nghìn binh sĩ, tham gia soạn thảo và giám sát kế hoạch huấn luyện; những kinh nghiệm tích lũy được trong thời gian này rất có lợi cho sự nghiệp của ông về sau.
Lại nói về những công tác của ông trong thời kỳ này: do tài tổ chức và khả năng nhận biết, tận dụng nhân tài cùng với thái độ quan tâm chăm sóc đối với các thuộc cấp, Eisenhower đã chiếm được cảm tình của các sĩ quan cấp trên lẫn cấp dưới. Một thời gian ngắn sau, ông được điều đi tổ chức đơn vị tăng thiết giáp đầu tiên của Hoa Kỳ. Đó là một công việc hoàn toàn mới mẻ trong tình hình ở Mỹ chưa có một chiếc xe tăng nào cũng như chưa có tài liệu hướng dẫn nào về huấn luyện binh sĩ xe tăng; tuy nhiên Eisenhower vẫn hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ của mình. Vì vậy năm 1918 ông được thăng lên trung tá và nhận được một tấm huân chương. Ông được đánh giá là người khắc khổ, chịu khó, có khả năng dự kiến, tổ chức và huấn luyện sĩ quan. Đơn vị của ông cũng được khen tặng là một trong những đơn vị ưu tú nhất nước Mỹ.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất
Thời gian khó khăn
Trong suốt chiến tranh, ông đào tạo các binh sĩ xe tăng tại Pennsylvania và chưa từng tham gia chiến đấu. Sau chiến tranh, Hoa Kỳ nhanh chóng cắt giảm binh bị và quân hàm tạm thời trong thời chiến của Eisenhower trong Lục quân Quốc gia bị quay trở về cấp bậc thường trực là đại úy trong Lục quân chính quy (vài ngày sau đó được thăng lên thiếu tá) trước khi nhận nhiệm vụ tại Trại Meade, tiểu bang Maryland, nơi ông ở đó cho đến năm 1922. Mặc dù là một quan chức thấp kém vào lúc này nhưng Eisenhower vẫn kiên trì bắt rễ vững chắc trong quân đội. Trong thời gian này ông cũng tích cực nghiên cứu các sách vở, tài liệu quân sự nói về lực lượng tăng thiết giáp. Sở thích của ông về chiến tranh xe tăng được củng cố trong những lần tiếp xúc nói chuyện với George S. Patton và các vị chỉ huy xe tăng cao cấp khác; tuy nhiên ý tưởng của họ về chiến tranh xe tăng không được các cấp chỉ huy cao cấp hơn khuyến khích. Với con mắt nhìn xa trông rộng, ông đã đoán biết được xe tăng và máy bay sẽ là hai lực lượng quan trọng bậc nhất trong chiến tranh sau này. Chính vì vậy ông chủ trương vứt bỏ những loại xe tăng chậm chạm yếu kém, thay vào đó là các loại tăng mạnh, nhanh, hỏa lực tốt.
Tuy nhiên tư tưởng đúng đắn của Eisenhower đã bị viên tư lệnh bộ binh Hoa Kỳ lúc bấy giờ chỉ trích dữ dội, vì ông ta cho rằng thiết giáp là một vật tùy thuộc của bộ binh và không thể tùy tiện thay đổi. Một điều không may khác xảy ra với Eisenhower là người con trai đầu của ông, Doug Dwight bị bệnh sốt phát ban cướp đi sinh mạng vào năm 1921. Hai việc không may này khiến cho Eisenhower cảm thấy hết sức chán nản.
Làm việc dưới trướng Conner
Tuy nhiên vận rủi của Eisenhower không kéo dài lâu. Eisenhower trở thành sĩ quan hành chính cho tướng Fox Conner tại vùng kênh đào Panama nơi ông phục vụ đến năm 1924. Fox Conner là vị tướng có học thức vào hàng bậc nhất trong quân đội Hoa Kỳ và cũng là một trong những người mà Eishenhower cảm kích nhất. Chính Conner đã phát hiện ra tài năng của Eisenhower và dốc tâm bồi dưỡng cho ông. Conner cho rằng một cuộc chiến tranh lớn trong tương lai là điều không tránh khỏi, vì vậy ông cho rằng Eisenhower nên chuyên tâm tìm đọc thật nhiều sách vở quân sự. Đồng thời Conner khuyên Eisenhower nên tìm cách chen chân vào hàng ngũ nhân viên dưới quyền của George Catlett Marshall, lúc này đang là đại tá, vì ông thấy Marshall là người có đảm lược siêu việt. Những lời khuyên của Conner đã giúp ích rất nhiều cho Eisenhower sau này. Dưới sự giám hộ của Conner, ông học lịch sử và học thuyết quân sự (gồm có cuốn sách Vom Kriege của Karl von Clausewitz). Sau này tư tưởng quân sự của ông mang nặng ảnh hưởng của Conner. Năm 1925 – 1926, ông học Đại học Tư lệnh và Tham mưu ở Đồn Leavenworth, Kansas, và rồi phục vụ trong vai trò tư lệnh một tiểu đoàn ở Đồn Benning, tiểu bang Georgia cho đến năm 1927.
Làm việc dưới trướng Douglas MacAthur
Trong suốt cuối thập niên 1920 và đầu thập niên 1930, binh nghiệp của Eisenhower trong Lục quân thời bình dậm chân tại chỗ; nhiều bạn đồng đội của ông phải giải ngũ để tìm việc có lương cao hơn. Ông được thuyên chuyển đến Ủy ban Tượng đài Chiến tranh Mỹ do tướng John J. Pershing điều hành, rồi học Đại học Chiến tranh Lục quân, sau đó phục vụ trong vai trò sĩ quan hành chính cho tướng George V. Mosely, vị trợ tá của Bộ Chiến tranh Hoa Kỳ từ năm 1929 đến 1933. Năm 1930, Eisenhower khởi thảo một kế hoạch động viên cho thời chiến, kế hoạch này được Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ Douglas MacArthur đánh giá rất cao. Chính vì vậy năm 1932, MacArthur - lúc này là Tham mưu trưởng lục quân Mỹ - đã bổ nhiệm Eisenhower làm trợ tá trưởng quân sự cho mình. Eisenhower đã làm việc dưới trướng của MacArthur suốt 7 năm. Trong thời gian này, MacArthur nổi tiếng là một kẻ ngạo mạn và bướng bỉnh, nhưng Eisenhower xem thủ trưởng của mình như một "ông thánh" quả đoán, học cao hiểu rộng. Chính lập trường cứng rắn và tính kiên định của MacArthur đã ảnh hưởng sâu sắc đến Eisenhower. Eisenhower cũng học được nhiều kinh nghiệm đáng quý về quản lý hành chính cùng với nhiều bài học về cách làm việc quá khích của thượng cấp mình. Về phía MacArthur, ông rất quan tâm và trân trọng một sĩ quan tài năng như Eisenhower. Trong một báo cáo giám định MacArthur đã nhận xét Eisenhower là sĩ quan tốt nhất trong quân đội và sẽ là quân nhân có địa vị lãnh đạo trong cuộc chiến tranh tương lai.
Chính vì trân trọng tài năng của Eisenhower, MacArthur đã nằng nặc kéo Eisenhower đi theo mình khi ông nhận lệnh bay sang Phillipines tổ chức lại quân đội vào năm 1936. Người ta cho rằng chính nhờ sự điều động này đã mang lại cho ông sự chuẩn bị quý giá để giao tiếp với những cá nhân có cá tính đầy thử thách như Winston Churchill, George S. Patton và Bernard Law Montgomery trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai. Eisenhower được thăng cấp thường trực lên trung tá vào năm 1936 sau 16 năm với cấp bậc thiếu tá. Ông cũng học bay mặc dù ông chưa bao giờ được xếp loại là một phi công quân sự. Ông thực hiện một chuyến bay một mình trên Philippines năm 1937. Tuy nhiên, bản thân Eisenhower lại cho rằng trong thời gian tại Phillipines ông chỉ được học lái máy bay, được thăng lên trung tá và có thêm một ít kinh nghiệm về việc tiết giảm dự chi của quốc gia. Thêm vào đó, trong thời gian này mối quan hệ giữa Eisenhower và thủ trưởng MacArthur bắt đầu chuyển biến xấu đi. Chính vì thế, vào tháng 9 năm 1939, đúng lúc Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Eisenhower rời Phillipines trở về nước Mỹ.
Sau khi về nước, Dwight D. Eisenhower giữ nhiều chức vụ tham mưu tại Washington, D.C., California và Texas. Ông được bổ nhiệm trung đoàn phó trung đoàn 15 thuộc sư đoàn 3. Sau đó ông trở thành tham mưu trưởng của sư đoàn 3 đóng tại Lewisburg. Tháng 3 năm 1941 Eisenhower được thăng lên đại tá. Tháng 6 năm đó ông được bổ nhiệm là tham mưu trưởng tập đoàn quân số 3 do mọi người tán thưởng tầm nhìn xa, tư tưởng tiến bộ và sự túc trí đa mưu của ông. Trong chức vụ mới này ông đã lãnh đạo thành công một cuộc diễn tập lớn của quân đoàn số 2 và số 3 tại Louisiana. Thành tích này đã khiến ông được phong chuẩn tướng và lọt vào mắt xanh của đại tướng bốn sao George Marshall, lúc này đang là Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ. Ông được thăng cấp chuẩn tướng ngày 3 tháng 10 năm 1941. Tuy khả năng hành chính của ông nổi bật nhưng trong đêm trước ngày Hoa Kỳ tham dự vào Chiến tranh thế giới thứ hai ông vẫn chưa từng giữ một bộ tư lệnh tác chiến nào trên cấp tiểu đoàn huống chi việc được xem là một vị tư lệnh tiềm năng của các cuộc hành quân lớn.
Chiến tranh thế giới thứ hai
Sau khi Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng, Eisenhower được phái đến làm việc ở bộ tổng tham mưu tại Washington nơi ông phục vụ cho đến tháng 6 năm 1942 với trách nhiệm lập kế hoạch tác chiến chính để đánh bại Đức và Nhật Bản. Ông được bổ nhiệm phó tư lệnh đặc trách phòng thủ Thái Bình Dương dưới quyền của tư lệnh Bộ tham mưu Hoạch định Tác chiến (war plans division) là tướng Leonard T. Gerow, và sau đó thay thế Gerow làm tư lệnh Bộ tham mưu Hoạch định Tác chiến. Sau đó ông được bổ nhiệm là trợ tá tham mưu trưởng đặc trách Bộ tham mưu Hành quân dưới quyền của Tham mưu trưởng George C. Marshall là người tìm kiếm tài năng và thăng chức đúng cách.
Năm 1942, Eisenhower được bổ nhiệm tướng tư lệnh Mặt trận Hành quân châu Âu (European Theater of Operations) và đóng quân tại Luân Đôn. Tháng 11, ông cũng được Tổng hành dinh Lực lượng Đồng minh mới bổ nhiệm làm tư lệnh tối cao Lực lượng Viễn chinh Đồng minh cho Mặt trận Hành quân Bắc Phi. Từ "viễn chinh" bị loại bỏ ngay sau khi ông được bổ nhiệm vì các lý do an ninh. Tháng 2 năm 1943, quyền tư lệnh của ông được nới rộng là tư lệnh Tổng hành dinh Lực lượng Đồng minh băng ngang qua vùng lòng chảo Địa Trung Hải bao gồm cả Lục quân 8 của Anh do tướng Bernard Law Montgomery chỉ huy. Lục quân 8 của Hoa Kỳ tiến qua sa mạc phía tây từ phía đông và sẵn sàng mở Chiến dịch Tunisia. Eisenhower lấy được ngôi sao thứ tư của mình (tức là được thăng cấp đại tướng) và bỏ quyền làm tư lệnh Mặt trận Hành quân châu Âu để làm tư lệnh Mặt trận hành quân Bắc Phi. Sau khi các lực lượng phe Trục bị đánh bại tại Bắc Phi, Eisenhower giám sát chiến dịch xâm chiếm Sicilia và đất liền Ý.
Tháng 12 năm 1943, Tổng thống Roosevelt quyết định rằng Eisenhower - chứ không phải Marshall - sẽ là Tư lệnh Tối cao Đồng minh châu Âu. Tháng 1 năm 1944, ông nhận lại chức tư lệnh Mặt trận Hành quân châu Âu và tháng tiếp theo ông được chính thức giao trọng trách làm Tư lệnh Tối cao Đồng minh của Lực lượng Viễn chinh Đồng minh, phục vụ một lúc hai chức vụ cho đến khi kết thúc các cuộc kình địch tại châu Âu vào tháng 5 năm 1945. Với hai chức vụ này, ông đảm trách việc lập kế hoạch và tiến hành cuộc tiến công đổ bộ trên duyên hải Normandy vào tháng 6 năm 1944 dưới mật danh Chiến dịch Overlord, giải phóng tây Âu và xâm chiếm Đức. Một tháng sau cuộc đổ bộ vào vùng duyên hải Normandie ngày 6 tháng 6 năm 1944, cuộc xâm chiếm miền nam nước Pháp bắt đầu và quyền nắm các lực lượng tham chiến trong cuộc xâm chiếm miền nam được chuyển từ Tổng hành dinh Lực lượng Đồng minh sang Tư lệnh Tối cao Đồng minh của Lực lượng Viễn chinh Đồng minh. Từ đó cho đến khi kết thúc chiến tranh tại châu Âu ngày 8 tháng 5 năm 1945, Eisenhower với tư cách là Tư lệnh Tối cao Đồng minh của Lực lượng Viễn chinh Đồng minh đã nắm trong tay bộ tư lệnh tối cao gồm tất cả các lực lượng tác chiến của đồng minh, và với tư cách tư lệnh Mặt trận Hành quân châu Âu (tên gọi riêng cho lực lượng Hoa Kỳ tại Mặt trận phía Tây), ông nắm quyền điều hành tất cả các lực lượng Mỹ trên Mặt trận phía Tây, nằm về phía bắc dãy Alps.
Ngày 20 tháng 12 năm 1944, để công nhận chức vụ cao cấp của ông trong Bộ tư lệnh Đồng minh, ông được thăng chức thống tướng, tương đương với cấp bậc thống chế của phần lớn lục quân châu Âu. Trong chức vụ này và các chức vụ tư lệnh cao trước đây, Eisenhower đã chứng tỏ được tài năng lãnh đạo và ngoại giao rất lớn của mình. Mặc dù ông chưa từng ra chiến trường nhưng ông đã nhận được sự nể trọng của các vị tư lệnh ở tiền tuyến. Ông giao tiếp khéo léo với những thuộc cấp khó khăn như George S. Patton, và các đồng minh như Winston Churchill, Thống chế Bernard Montgomery và Đại tướng Charles de Gaulle. Ông có bất đồng cơ bản với Churchill và Montgomery về các vấn đề chiến lược nhưng những vấn đề này hiếm khi làm phương hại đến mối quan hệ của ông với họ. Ông đã thương thảo với Nguyên soái Zhukov của Liên Xô, và vì thế chiếm được sự tin tưởng mà Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã đặt vào ông.
Chiến dịch Overlord chưa bao giờ được nghĩ chắc chắn là sẽ thành công. Sự nghiêm trọng xoay quanh toàn bộ quyết định trong đó có thời điểm và vị trí của cuộc đổ bộ trên Normandy có lẽ đã được tóm tắt trong một bài diễn văn thứ hai ngắn hơn mà Eisenhower đã viết sẵn trong trường hợp ông cần đến nó. Sau cuộc đổ bộ thành công trong ngày D-Day và đài BBC phát thanh bài diễn văn ngắn của Eisenhower có liên quan đến cuộc đổ bộ thì một bài diễn văn thứ hai không bao giờ được dùng đến đã được một trợ tá tìm thấy trong một túi áo. Nó được viết như sau:
Kết cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai
Chiếm đóng nước Đức
Sau khi Đức đầu hàng vô điều kiện ngày 8 tháng 5 năm 1945, Eisenhower được bổ nhiệm là thống đốc quân sự vùng chiếm đóng của Hoa Kỳ tại Đức với căn cứ đặt tại Frankfurt am Main. Ông không có trách nhiệm đối với ba vùng chiếm đóng khác do Pháp, Anh và Liên Xô kiểm soát. Sau khi phát hiện các trại tử thần của phát xít Đức, ông ra lệnh cho đội quay phim ghi hình để thu thập bằng chứng diệt chủng để sử dụng trong các phiên tòa truy tố các tội phạm chiến tranh. Ông quyết định tái xếp loại tù binh chiến tranh Đức đang bị Hoa Kỳ giam giữ thành "các lực lượng địch bị giải giới". Vì sự tàn phá của nước Đức sau chiến tranh, ông phải đối phó với sự khan hiếm lương thực trầm trọng và một dòng người tỵ nạn khổng lồ bằng việc phân phát đồ tiếp liệu y tế và thực phẩm của Mỹ. Hành động của ông phản ánh thái độ thay đổi của người Mỹ từ thái độ xem nhân dân Đức là những kẻ côn đồ thành những nạn nhân của chủ nghĩa phát xít trong lúc đó ra tay rất mạnh bạo để thanh trừng những người cựu phát xít. Tháng 11 năm 1945, Eisenhower chấp thuận phân phát 1000 bản miễn phí sách của Henry Morgenthau, Jr. có tựa đề Germany is Our Problem (Nước Đức là vấn đề của chúng ta) để cổ vũ và mô tả chi tiết cho Kế hoạch Morgenthau đến các giới chức quân sự Mỹ tại nước Đức bị chiếm đóng. Stephen Ambrose rút ra kết luận rằng mặc dù sau này Eisenhower tuyên bố rằng hành động này không phải là một sự tán thành kế hoạch Morgenthau nhưng việc Eisenhower chấp thuận kế hoạch và trước đó đã cho Morgenthau ít nhất một số ý tưởng của mình về cách nên xử sự thế nào với nước Đức. Theo Vladimir Petrov, Eisenhower cũng nhập các giới chức ngân khố của Morgenthau vào trong lục quân chiếm đóng. Những giới chức này thường được gọi là "Morgenthau boys" (các bé trai của Morgenthau) vì sự nhiệt thành của họ trong việc diễn giải chỉ thị chiếm đóng JCS 1067 nghiêm ngặt như có thể. Lệnh này bị bãi bỏ vào tháng 7 năm 1947. Phó tướng và sau đó thay thế Eisenhower tại Đức là tướng Lucius D. Clay nhận xét: "Không nghi ngờ rằng chỉ thị JCS 1067 đã dự tính cho "nền hòa bình Carthaginia" (có nghĩa dàn xếp hòa bình một cách vội vã và nhằm thuyết phục những người yếu thế của phe thất trận) mà đã chiếm hết các hoạt động của chúng tôi tại Đức trong suốt những tháng đầu chiếm đóng." Các lực lượng chiếm đóng của Hoa Kỳ và gia đình của họ được lệnh nghiêm ngặc là không được chia sẻ lương thực của họ với dân chúng Đức, lương thực còn dư "phải bị hủy bỏ hoặc là làm sao để khỏi ăn được". Những nỗ lực của các cơ quan cứu trợ nhằm gửi lương thực đến Đức đều bị từ chối theo "đạo luật trao đổi với kẻ thù" nhưng vào tháng 1 năm 1946, sau khi được phép của Tổng thống Truman, Eisenhower cho phép hội hồng thập tự Thụy Điển gửi thực phẩm đến trẻ em Đức.
Tham mưu trưởng
Tháng 11 năm 1945, Eisenhower trở về Washington để thay tướng Marshall làm Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ. Vai trò chính của ông là nhanh chóng tháo gỡ lệnh tổng động viên cho hàng triệu binh sĩ, một công việc chậm chạp vì thiếu tàu vận chuyển. Khi căng thẳng giữa Đông và Tây trên vấn đề nước Đức và Hy Lạp leo thang, Eisenhower tin tưởng mãnh liệt vào năm 1946 rằng Liên Xô không muốn chiến tranh và rằng các mối quan hệ thân thiện có thể được duy trì; ông mạnh mẽ ủng hộ Liên Hợp Quốc mới. Tuy nhiên, để thảo ra chính sách có liên quan đến bom nguyên tử cũng như về phía Liên Xô, Tổng thống Truman lắng nghe Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và phớt lờ Eisenhower và toàn bộ Lầu Năm Góc. Giữa năm 1947 Eisenhower quay hướng về chính sách kiềm chế để ngăn chặn sự bành trướng của Liên Xô.
Đại học Columbia và NATO
Năm 1948, Eisenhower trở thành Chủ tịch Đại học Columbia, một đại học tư tại New York; đấy không phải là một chức vụ hợp với ông. Tháng 12 năm 1950, ông rời chức vụ trường đại học khi trở thành Tư lệnh Tối cao của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), và được giao Bộ tư lệnh các lực lượng NATO tại châu Âu. Eisenhower giải ngũ vào ngày 31 tháng 5 năm 1952, và nhận lại chức vụ chủ tịch đại học mà ông tiếp tục giữ cho đến tháng 1 năm 1953.
Năm 1948 cũng là năm hồi ký của ông "Crusade in Europe" (Cuộc Thập tự chinh ở châu Âu) được phát hành. Theo Tự điển Bách khoa Britannica online, tác phẩm này đã mang đến sự thành công lớn về tài chính cho ông.
Bước vào chính trường
Không lâu sau khi ông trở về năm 1952, một phong trào trong Đảng Cộng hòa Hoa Kỳ có tên là "Draft Eisenhower" (tuyển mộ Eisenhower) đã thuyết phục ông tuyên bố ứng cử trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 1952 đối lại với chủ nghĩa không can thiệp của Thượng nghị sĩ Robert Taft (Eisenhower đã từng được cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa ve vãn vào năm 1948 nhưng ông từ chối ra tranh cử vào lúc đó). Eisenhower đánh bại Taft giành quyền đề cử của Đảng Cộng hòa cho cuộc tổng tuyển cử toàn quốc nhưng với một thỏa thuận rằng Thượng nghị sĩ Taft sẽ phải đứng ngoài những vấn đề ngoại vụ trong lúc Eisenhower theo đuổi một chính sách đối nội bảo thủ. Chiến dịch vận động tranh cử của Eisenhower nổi bật với khẩu hiệu đơn giản nhưng hữu hiệu là "I Like Ike" (có nghĩa "tôi thích Ike", Ike biệt danh ngắn gọn của ông) và là một chiến dịch lớn chống các chính sách của Chính phủ Truman liên quan đến "Triều Tiên, chủ nghĩa cộng sản và tham nhũng." Tổng thống Truman, trước đây là 1 người bạn của Eisenhower, sẽ mãi không bao giờ tha thứ cho Eisenhower vì đã không lên tiếng chỉ trích Thượng nghị sĩ Joseph McCarthy trong suốt cuộc vận động tranh cử Tổng thống năm 1952. Truman nói rằng ông trước đây đã từng nghĩ Eisenhower sẽ là một Tổng thống vĩ đại nhưng "ông ấy đã phản bội gần như mọi thứ mà tôi nghĩ ông ấy từng tranh đấu cho."
Trong suốt chiến dịch vận động tranh cử, Eisenhower hứa tự mình đi Triều Tiên và kết thúc chiến tranh tại đó. Ông cũng hứa duy trì một sự ràng buộc mạnh mẽ của NATO chống lại chủ nghĩa cộng sản và một bộ máy hành chính cần kiệm không tham nhũng tại quốc nội. Ông và người phó đứng chung liên danh tranh cử là Richard Nixon (là người có con gái kết hôn với cháu nội của Eisenhower tên David) đã đánh bại liên danh tranh cử của Đảng Dân chủ Hoa Kỳ là Adlai Stevenson và John Sparkman bằng một chiến thắng lớn lao. Sự kiện này đánh dấu lần đầu tiên Đảng Cộng hòa Hoa Kỳ trở lại nắm Nhà Trắng sau 20 năm, và Eisenhower trở thành vị Tổng thống cuối cùng sinh trong thế kỷ 19. Eisenhower, lúc đó 62 tuổi, là người già nhất được bầu làm Tổng thống kể từ khi James Buchanan được bầu năm 1856. Eisenhower là vị tướng duy nhất phục vụ trong chức vụ Tổng thống Hoa Kỳ trong thế kỷ 20, và là Tổng thống gần đây nhất chưa từng giữ một chức vụ dân cử trước khi làm Tổng thống. Các Tổng thống khác của Hoa Kỳ chưa từng ra tranh cử một chức vụ dân cử nào trước khi làm Tổng thống là Zachary Taylor, Ulysses S. Grant, William Howard Taft, và Herbert Hoover.
Vai trò Tổng thống 1953–1961
Suốt thời làm Tổng thống, Eisenhower luôn rao giảng một học thuyết về chủ nghĩa bảo thủ năng động. Ông tiếp tục tất cả các chương trình New Deal chính còn dở dang, đặc biệt là chương trình An sinh Xã hội. Ông mở những chương trình của nó và đưa chúng vào một cơ quan mới cấp nội các, đó là Bộ Y tế, Giáo dục và Phúc lợi Hoa Kỳ trong khi đó nới rộng phúc lợi cho thêm 10 triệu công nhân. Nội các của ông gồm có một số giới chức hành chính công ty và một lãnh đạo công đoàn được một nhà báo đặt cho biệt danh là "8 triệu phú và một thợ ống nước."
Eisenhower tái trúng cử Tổng thống nhiệm kỳ hai năm 1956, giành 457 trong số 531 phiếu đại cử tri đoàn và 57,6% phiếu phổ thông.
Hệ thống Xa lộ Liên tiểu bang
Một trong những thành tựu dài hạn của Eisenhower là tiên phong cổ vũ và ký đạo luật ra lệnh xây dựng Hệ thống Xa lộ Liên tiểu bang năm 1956. Ông biện minh kế hoạch này là thiết yếu đến an ninh của Hoa Kỳ trong thời Chiến tranh lạnh. Lúc đó người ta tin rằng các thành phố lớn của Hoa Kỳ có thể sẽ là các mục tiêu trong một cuộc chiến tranh có thể xảy ra trong tương lai, và vì vậy hệ thống xa lộ này được thiết kế để di tản họ và giúp quân đội tới được các thành phố.
Mục đích Eisenhower xây các xa lộ cải tiến này bị ảnh hưởng bởi những năm tháng ông phục vụ trong binh đoàn vận tải cơ giới liên lục địa của Lục quân Hoa Kỳ vào năm 1919. Lúc đó ông được điều động làm quan sát viên cho nhiệm vụ mà gồm có việc phái một đoàn xe của Lục quân Hoa Kỳ đi từ duyên hải bên này sang duyên hải phía bên kia nước Mỹ. Kinh nghiệm sau đó của ông về hệ thống xa lộ autobahn của Đức trong thời Chiến tranh thế giới thứ hai cũng đã thuyết phục ông về lợi ích của một hệ thống xa lộ liên tiểu bang. Nhận thấy khả năng cải thiện trong việc di chuyển đồ tiếp liệu xuyên suốt đất nước, ông nghĩ rằng một Hệ thống Xa lộ Liên tiểu bang tại Hoa Kỳ không chỉ có lợi cho các hoạt động quân sự mà còn là những nền tảng xây dựng cần cho sự phát triển kinh tế đất nước.
Trung Đông
Ngay sau khi nhậm chức, chính phủ Eisenhower chấp thuận cho phép Cục tình báo trung ương Mỹ lật đổ chính phủ dân cử của Thủ tướng Mohammad Mosaddegh ở Iran. Cuộc đảo chính này được thực hiện xong vào ngày 19 tháng 8 năm 1953. Ngày 15 tháng 12 năm 1954, Eisenhower ký một bản ghi nhớ trao tặng Huân chương An ninh Quốc gia cho nhân viên CIA là Kermit Roosevelt, đây là huân chương cao nhất của Hoa Kỳ dành cho các nhân viên hoạt động trong lĩnh vực an ninh vì vai trò của ông trong cuộc đảo chính, và đến ngày 24 tháng 3 năm 1955, Eisenhower trao cho Kermit Roosevelt, cháu nội của cố Tổng thống Theodore Roosevelt huân chương vừa nói trên trong một buổi lễ đặc biệt tại Nhà Trắng với sự hiện diện của cả hai anh em nhà Dulles (Allen Dulles là giám đốc CIA và John Foster Dulles là Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ vào lúc đó) và Đại sứ Hoa Kỳ tại Iran là Loy Henderson.
Học thuyết Eisenhower
Sau cuộc Khủng hoảng Suez năm 1956, Hoa Kỳ trở thành quốc gia bảo vệ phần lớn những lợi ích của phương Tây tại Trung Đông. Kết quả là, Eisenhower công bố "Học thuyết Eisenhower" vào tháng 1 năm 1957. Để trả đũa Trung Đông, Hoa Kỳ sẽ "chuẩn bị sử dụng lực lượng vũ trang để chống lại sự khiêu khích từ bất cứ quốc gia nào bị chủ nghĩa cộng sản quốc tế kiềm chế." Học thuyết Eisenhower năm 1957 tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ phân phối viện trợ quân sự và kinh tế và, nếu cần thiết, sẽ sử dụng lực lượng quân sự ngăn chặn sự lan tràn của chủ nghĩa cộng sản tại Trung Đông. Eisenhower thấy khó khăn để thuyết phục các quốc gia Ả Rập hàng đầu hay Israel tán thành mục đích hay sự hữu dụng của học thuyết này. Tuy nhiên, ông đã dùng học thuyết này năm 1957- 1958 bằng cách tung viện trợ kinh tế để củng cố mối quan hệ với Vương quốc Jordan, và bằng cách khuyến khích các quốc gia lân bang của Syria xem xét đến các hoạt động quân sự chống lại Syria. Hơn thế nữa, tháng 7 năm 1958, ông phái khoảng chừng dưới 15.000 thủy quân lục chiến và binh sĩ khác đến Liban như một phần của Chiến dịch Blue Bat, một sứ mệnh gìn giữ hòa bình không tác chiến để củng cố chính phủ thân Tây phương và ngăn chặn một cuộc cách mạng cấp tiến, không cho nó tràn ngập quốc gia Liban. Các binh sĩ này rời khỏi vào tháng 10 năm 1958. Học thuyết này bao gồm một sự ràng buộc lớn của Hoa Kỳ đối với nền an ninh và ổn định của Trung Đông và tỏ dấu hiệu một cấp bậc mới giải quyết vấn đề của Hoa Kỳ nhằm áp đặt ảnh hưởng của mình trong các vấn đề quốc tế. Qua việc công bố học thuyết này, Eisenhower đã làm tăng thêm viễn cảnh rằng Hoa Kỳ sẽ chiến đấu tại Trung Đông và chấp nhận những trách nhiệm trong vùng này mà Hoa Kỳ sẽ duy trì hàng thập niên sắp tới.
Việt Nam
Người Pháp đã yêu cầu Dwight D. Eisenhower giúp đỡ tại Đông Dương thuộc Pháp để chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Trung Quốc viện trợ trong cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Năm 1953, Eisenhower phái Trung tướng John W. "Iron Mike" O'Daniel đến Việt Nam để nghiên cứu tình hình và "đánh giá" các lực lượng Pháp ở đó. Tham mưu trưởng Matthew Ridgway đã làm nản lòng Tổng thống bằng việc đệ trình lên ông một bản ước tính chi tiết về một lực lượng quân sự khổng lồ cần phải khai triển cho cuộc chiến. Tuy nhiên sau đó vào năm 1954, Eisenhower đã viện trợ kinh tế và quân sự cho quốc gia Việt Nam Cộng hòa mới được thành lập. Trong những năm theo sau đó, con số các cố vấn quân sự Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam gia tăng vì miền Bắc Việt Nam tăng viện cho "các cuộc nổi dậy" ở miền Nam và vì lo sợ rằng Nam Việt Nam sẽ bị sụp đổ.
Khi Chiến tranh lạnh gia tăng, Bộ trưởng Ngoại giao của Eisenhower là John Foster Dulles tìm cách cô lập Liên bang Xô viết bằng cách xây dựng các nhóm đồng minh vùng gồm các quốc gia chống lại Liên Xô. Nỗ lực của ông đôi khi được gọi là "pacto-mania".
Các vấn đề chủng tộc
Tháng 10 năm 1952, chính phủ Eisenhower tuyên bố kỳ thị chủng tộc là một vấn đề an ninh quốc gia, nghĩa là chủ nghĩa cộng sản khắp thế giới đang sử dụng nạn kỳ thị chủng tộc tại Hoa Kỳ làm một điểm tấn công tuyên truyền của họ. Một ngày sau khi Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ ra quyết định của mình trong vụ án Brown đối đầu với Ban Giáo dục thành phố Topeka mà trong vụ án này các trường học tách ly chủng tộc (tách ly nhưng được đối xử công bằng) bị tuyên án là bất hợp hiến, Eisenhower bảo các viên chức Đặc khu Columbia biến thành phố Washington thành một kiểu mẫu cho toàn quốc noi gương bằng cách hội nhập tất cả các trẻ em da trắng và đen ở các trường công lập lại với nhau. Ông trình lên Quốc hội Hoa Kỳ Đạo luật Nhân quyền 1957 và Đạo luật Nhân quyền 1960 và ký các đạo luật này thành luật. Mặc dù cả hai đạo luật này yếu kém hơn so với luật nhân quyền sau này nhưng chúng đã tạo ra những đạo luật nhân quyền nổi bật đầu tiên kể từ khi Đạo luật Nhân quyền 1875 được Tổng thống Ulysses S. Grant ký thành luật.
Sự kiện "Little Rock Nine" năm 1957 (9 học sinh ở thành phố Little Rock) xảy ra khi tiểu bang Arkansas không tuân theo lệnh tòa án liên bang hội nhập và hòa đồng lại tất cả học sinh của tất cả các chủng tộc tại các trường học. Theo lệnh hành pháp 10730, Eisenhower đặt Vệ binh Quốc gia của tiểu bang Arkansas dưới quyền kiểm soát của liên bang và đưa binh sĩ Lục quân Hoa Kỳ đến để hộ tống 9 học sinh da đen vào trường Trung học Little Rock, một trường công lập toàn da trắng. Việc hội nhập hòa đồng chủng tộc được thực hiện nhưng không phải là không có bạo động. Eisenhower và Thống đốc tiểu bang Arkansas Orval Faubus đã lâm vào những trận tranh cãi dữ dội.
Bổ nhiệm quan chức tư pháp
Eisenhower đã bổ nhiệm các thẩm phán Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ sau đây:
Earl Warren, 1953 (thẩm phán trưởng)
John Marshall Harlan II, 1954
William J. Brennan, 1956
Charles Evans Whittaker, 1957
Potter Stewart, 1958
Ngoài ra năm thẩm phán Tối cao Pháp viện, Eisenhower đã bổ nhiệm 45 thẩm phán cho các Tòa án Thượng thẩm Hoa Kỳ và 129 thẩm phán cho các toàn án khu vực của Hoa Kỳ.
Các tiểu bang mới gia nhập liên bang
Alaska – ngày 3 tháng 1 năm 1959 tiểu bang thứ 49
Hawaii – ngày 21 tháng 8 năm 1959 tiểu bang thứ 50
Các vấn đề sức khỏe
Có lẽ Eisenhower là Tổng thống đầu tiên cho phép công bố các vấn đề sức khỏe cá nhân của Tổng thống khi đang tại chức. Tháng 9 năm 1955, trong lúc đi nghỉ ở Colorado, ông bị lên cơn đau tim trầm trọng mà cần phải nằm bệnh viện vài tuần. Ông được bác sĩ giải phẫu tim mạch nổi tiếng quốc gia là Paul Dudley White điều trị và thường xuyên được vị bác sĩ này thông báo tiến triển sức khỏe của ông đến giới báo chí. Vì cơn đau tim này mà cơ thể Eisenhower phát triển chứng phình mạch tâm thất trái mà dần dần là nguồn gốc của lần đột quy tháng 11 năm 1957. Tổng thống cũng bị mắc chứng bệnh viêm ruột cần giải phẫu vào tháng 6 năm 1956. May thay, ba năm cuối cùng trong nhiệm kỳ của mình, sức khỏe của Eisenhower tương đối là tốt. Tuy nhiên, sau này khi rời Nhà Trắng, ông bị thêm một vài lần nhồi máu cơ tim và sau cùng thân thể bị liệt vì chúng.
Mãn nhiệm Tổng thống
Năm 1961, Eisenhower trở thành vị Tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên "bị bắt buộc theo hiến pháp" rời khỏi chức Tổng thống khi đã phục vụ tối đa hai nhiệm kỳ mà tu chính án 22, Hiến pháp Hoa Kỳ cho phép. Tu chính án này được thông qua năm 1951 trong nhiệm kỳ của Tổng thống Harry S. Truman nhưng quy định của tu chính án không ảnh hưởng đối với Truman vì nó đặc biệt miễn trừ cho Tổng thống đương nhiệm vào lúc nó được đề nghị bởi Quốc hội Hoa Kỳ.
Eisenhower cũng là Tổng thống mãn nhiệm đầu tiên được bảo vệ theo Đạo luật Cựu Tổng thống; hai cựu Tổng thống Hoa Kỳ còn sống vào lúc đó là Herbert Hoover và Harry S. Truman rời nhiệm sở trước khi đạo luật này được thông qua. Chiếu theo đạo luật này, Eisenhower được hưởng lương hưu bổng suốt đời, có một ban nhân viên do chính phủ cung cấp và được sở mật vụ Hoa Kỳ bảo vệ.
Trong cuộc bầu cử Tổng thống để chọn người kế vị ông, Eisenhower ủng hộ phó Tổng thống của mình là đảng viên Cộng hòa Richard Nixon đối đầu với đảng viên Dân chủ John F. Kennedy. Ông hết mực ủng hộ Nixon và nói với bạn bè rằng: "tôi sẽ làm gần như mọi cách để tránh đưa cái ghế của tôi và quốc gia này cho Kennedy." Tuy nhiên, ông chỉ tham gia vận động cho Nixon trong những ngày cuối cùng của chiến dịch vận động tranh cử và thậm chí ông đã làm một số điều bất lợi cho Nixon. Thí dụ, khi được phóng viên báo chí hỏi vào lúc cuối cuộc họp báo được truyền hình là ông hãy nêu ra một trong các ý tưởng về chính sách của Nixon mà ông đã chấp nhận thì ông cười đùa như sau: "Nếu ông cho phép tôi một tuần thì tôi có lẽ sẽ nghĩ ra một." Chiến dịch vận động tranh cử của Kennedy đã sử dụng câu nói này để chống lại cuộc vận động tranh cử của Nixon. Nixon thua khít khao trước Kennedy. Eisenhower, người già nhất được bầu làm Tổng thống (và là Tổng thống già nhất) trong lịch vào lúc đó, như thế đã trao quyền lực cho Tổng thống đắc cử trẻ nhất.
Ngày 17 tháng 1 năm 1961, Eisenhower đọc bài diễn văn cuối cùng được truyền hình trên toàn quốc từ văn phòng bầu dục. Trong bài diễn văn từ biệt, Eisenhower nêu lên vấn đề Chiến tranh lạnh và vai trò của các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ. Ông diễn tả Chiến tranh lạnh qua lời nói như sau: "Chúng ta đối diện một hệ tư tưởng thù địch, toàn cầu trong phạm vi, vô thần trong bản chất, tàn bạo trong chủ tâm và xảo quyệt trong phương sách..." và cảnh báo về cái mà ông thấy như là những đề nghị chi tiêu không chính đáng của chính phủ và ông tiếp tục với một lời cảnh báo khác là "chúng ta phải phòng ngừa chống lại việc mua ảnh hưởng không chính đáng, cho dù được tìm đến hay không được tìm đến, bởi cái mối liên hệ phức tạp giữa quân sự và công nghiệp quân sự... Tiềm năng trỗi dậy tai hại của thứ quyền lực không đúng chỗ vẫn tồn tại và sẽ dai dẳng... Chỉ có sự cảnh giác và hiểu biết của công chúng mới có thể bắt buộc được một sự hài hoà thích hợp của bộ máy quân sự và công nghiệp quốc phòng khổng lồ theo phương thức và mục tiêu hòa bình của chúng ta để nền tự do và an ninh của chúng ta có thể phồn thịnh cùng với nhau."
Vì vấn đề pháp lý liên quan đến việc giữ một cấp bậc quân sự trong lúc tại chức với một chức vụ dân sự, Eisenhower đã phải từ chức thống tướng lục quân trước khi nhận chức Tổng thống Hoa Kỳ. Sau khi mãn nhiệm Tổng thống, sự ủy nhiệm quân sự của ông trên danh sách hồi hưu được tái phục hồi và Eisenhower được ủy nhiệm trở lại là một vị tướng 5-sao trong Lục quân Hoa Kỳ.
Sau khi mãn nhiệm Tổng thống
Eisenhower trở về sống cuộc đời hồi hưu nơi ông và Mamie đã từng sống trong khoảng thời gian dài sau chiến tranh. Đó là một nông trại nằm gần cạnh bãi chiến trường Gettysburg, Pennsylvania. Năm 1967, gia đình Eisenhower quyên tặng nông trại này cho Sở Công viên Quốc gia Hoa Kỳ và từ năm 1980 nó được mở cửa cho công chúng với tên gọi Khu Lịch sử Quốc gia Eisenhower. Lúc hồi hưu, ông không hoàn toàn rút khỏi cuộc đời chính trị; ông đã diễn thuyết tại Hội nghị Quốc gia Đảng Cộng hòa năm 1964 và xuất hiện cùng với Barry Goldwater trong chương trình quảng cáo thương mại tranh cử của đảng Cộng hòa từ Gettysburg.
Qua đời và tang lễ
Dwight D. Eisenhower qua đời vì bị suy tim ứ huyết ngày 28 tháng 3 năm 1969 tại Bệnh viện Lục quân Walter Reed ở Washington D.C. Ngày hôm sau, thi thể của ông được đưa đến khu cầu nguyện Bethlehem của Nhà thờ Quốc gia Washington và được đặt ở đó trong 28 tiếng đồng hồ. Ngày 30 tháng 3, thi thể của ông được đưa đến Tòa Quốc hội Hoa Kỳ và được đặt yên tại mái vòm chính của tòa nhà. Ngày 31 tháng 3, thi thể của Eisenhower được đưa trở về Nhà thờ Quốc gia Washington - nơi tiến hành lễ tang cho ông. Chiều hôm đó, thi thể ông được đặt lên một chuyến xe lửa trên đường đến thành phố Abilene, Kansas. Thi thể ông đến đó ngày 2 tháng 4 và được mai táng vào cuối ngày hôm đó trong một nhà thờ nhỏ trên khu đất Thư viện Tổng thống Eisenhower. Eisenhower được chôn gần bên người con trai của ông mất lúc 3 tuổi vào năm 1921, và sau này vợ ông là Mamie cũng được chôn cất gần ông vào năm 1979.
Richard Nixon nói về cái chết của Eisenhower như sau:
Di sản
Sau khi Eisenhower rời chức vụ Tổng thống, thanh danh của ông xuống thấp và người ta nhận thấy ở ông, một vị Tổng thống "không có làm gì cả". Một phần là vì sự tương phản giữa Eisenhower và người kế nhiệm trẻ tích cực hoạt động là John F. Kennedy. Mặc dù việc sử dụng (chưa từng có trước đây) các binh sĩ Lục quân để cưỡng bách lệnh liên bang bãi bỏ việc tách ly chủng tộc tại trường Trung học Little Rock, Eisenhower bị chỉ trích vì do dự không ủng hộ phong trào nhân quyền đến cấp độ mà những nhà hoạt động nhân quyền khác mong muốn. Eisenhower cũng bị chỉ trích vì việc xử lý sự kiện U-2 năm 1960 (U-2 bị bắn rơi trên bầu trời Liên Xô) và bị mất mặt với quốc tế, việc Liên bang Xô viết dẫn đầu thấy rõ trong cuộc chạy đua không gian, và ông không chống đối chủ nghĩa McCarthy một cách công khai. Đặc biệt, Eisenhower bị chỉ trích vì không bênh vực được cho George Marshall trong những cuộc tấn công từ phía Joseph McCarthy mặc dù cá nhân ông phản đối những tuyên bố và chiến thuật của McCarthy. Những khiếm khuyết này được đưa ra để chống ông trong thời khí thế của chủ nghĩa tự do lên cao trong thập niên 1960 và thập niên 1970. Tuy nhiên từ đó, thanh danh của Eisenhower lên cao trở lại. Trong những cuộc thăm dò vừa qua của các sử gia, Eisenhower thường được xếp hạng trong số 10 vị Tổng thống hàng đầu của Hoa Kỳ từ xưa đến nay.
Mặc dù chủ nghĩa bảo thủ đang lên cao trào trong thập niên 1950 và Eisenhower chia sẻ cái cảm giác này nhưng chính phủ của ông đã thực hiện một vai trò rất ôn hòa trong việc làm thay đổi bức tranh chính trị. "Những chiến thắng của Eisenhower", theo Hans Morgenthau, "là không gì khác hơn ngoài những sự cố không để lại hậu quả trong lịch sử của Đảng Cộng hòa."<ref>Hans J. Morgenthau: "Goldwater – The Romantic Regression", in Commentary, tháng 9 năm 1964.</ref>
Eisenhower là Tổng thống đầu tiên thuê mướn một "Tham mưu trưởng Nhà Trắng" (từ tiếng Anh "Chief of Staff" thường được gọi trong tiếng Việt là "trưởng hay chánh văn phòng Nhà Trắng") hay "người gác cổng" – một ý nghĩ mà ông đã mượn từ Lục quân Hoa Kỳ là chức vụ Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ. Sau này tất cả các Tổng thống Hoa Kỳ từ sau thời Tổng thống Lyndon Johnson đều bắt chước theo. Jimmy Carter ban đầu có ý định không dùng đến một "tham mưu trưởng" nhưng cuối cùng phải từ bỏ ý nghĩ đó và thuê mướn một người.
Dwight D. Eisenhower thành lập tổ chức "People to People International" năm 1956, dựa theo niềm tin của ông là sự tiếp xúc giữa các công dân với nhau sẽ thúc đẩy tiếp xúc văn hóa và hòa bình thế giới. Chương trình này gồm có một bộ phận thành phần đại sứ sinh viên mà sẽ gửi thanh niên Mỹ trong những chuyến đi học tập đến các quốc gia khác.
Eisenhower là Tổng thống đầu tiên xuất hiện trên truyền hình màu. Ông được thu hình khi nói chuyện tại buổi lễ ra mắt phòng thu mới của đài truyền hình WRC-TV tại Washington, D.C., vào ngày 22 tháng 5 năm 1958. Băng thu hình được cất giữ và được tin là băng thu hình màu xưa nhất còn tồn tại.
Chỉ trích
Trong cuốn sách Other Losses xuất bản năm 1989, nhà văn Canada James Bacque gây tranh cãi khi cho rằng Eisenhower đã có chủ tâm tạo ra cái chết của 790.000 tù nhân người Đức trong các trại tập trung vì bệnh, đói, và rét từ 1944 đến 1949. Trong các trại tương tự ở Pháp, khoảng thêm 250.000 người được cho rằng đã vùi xác trong các trại. Ủy ban Hồng Thập tự Quốc tế bị từ chối cho vào các trại, Thụy Sĩ bị tước địa vị là quốc gia có "quyền bảo vệ tù nhân" và các tù binh chiến tranh bị tái xếp loại thành "các lực lượng thù địch bị giải giới" để khỏi được công nhận là tù binh chiến tranh theo Công ước Geneva. Bacque cho rằng vụ giết người tập thể vừa nói ở trên là kết quả trực tiếp đến từ các chính sách của đồng minh phương Tây cùng với Liên Xô cai trị nước Đức bị chia cắt từ tháng 5 năm 1945 cho đến năm 1949. Nhà văn này đổ tội lỗi lên tướng Dwight D. Eisenhower khi cho rằng người Đức bị giữ cho chết đói cho dù có đủ thực phẩm trên thế giới để tránh sự khan hiếm thực phẩm đến mức độ chết người tại Đức năm 1945–1946.
Năm 1990, các sử gia được mời gồm có Stephen Ambrose và Günter Bischof tập hợp tại Trung tâm Hoa Kỳ học Eisenhower của Đại học New Orleans tham gia hội nghị hàm lâm để nghiên cứu về những lời cáo buộc mà Bacque đã đưa ra. Hội nghị kết luận rằng có sự ngược đãi tù binh Đức năm 1945 nhưng đấy không phải là do kết quả từ bất cứ lệnh nào của Eisenhower. Các chứng cứ mà Bacque thu thập được bị cho là lạc văn mạch và quá hời hợt bất cẩn. Năm 1992, một cuốn sách với kết quả của cuộc hội nghị đã được Ambrose và Bischof biên tập và xuất bản.
Tưởng niệm
Hình của Eisenhower có trên đồng đô la kim loại phát hành năm 1971 đến 1978. Gần 700 triệu tiền kim loại mạ đồng-nickel được đúc để lưu hành, và con số nhỏ hơn không lưu hành được phát hành cho các nhà sưu tầm. Ông tái xuất hiện trên đồng đô la tưởng niệm bằng bạc được phát hành năm 1990, kỷ niệm sinh nhật lần thứ 100 của ông. Đồng bạc này có hai hình ảnh của ông trong hai vai trò, người lính và chính khách. Mặt trái mô tả ngôi nhà của ông tại Gettysburg. Trong chương trình phát hành tiền kim loại $1 kỷ niệm các Tổng thống, Eisenhower sẽ có mặt trên một loại tiền kim loại màu vàng mệnh giá $1 vào năm 2015.
Ông được tưởng nhớ vì vai trò của ông trong Chiến tranh thế giới thứ hai, việc xây dựng Hệ thống Xa lộ Liên tiểu bang và kết thúc Chiến tranh Triều Tiên. USS Dwight D. Eisenhower là siêu hàng không mẫu hạm thứ hai thuộc lớp Nimitz được đặt tên để vinh danh ông.
Hệ thống Xa lộ Liên tiểu bang được chính thức gọi tên là Hệ thống Xa lộ Quốc phòng và Liên tiểu bang Quốc gia Dwight D. Eisenhower để vinh danh ông. Một số xa lộ cũng được đặt tên ông trong đó có Xa lộ Tốc hành Eisenhower (Xa lộ Liên tiểu bang 290) gần Chicago và Đường hầm Eisenhower trên Xa lộ Liên tiểu bang 70 nằm ở phía tây Denver.
Đầu máy xe lửa hơi nước Vương quốc Anh lớp A4 số 4496 (đổi số thành 60008) Golden Shuttle được đặt tên lại là Dwight D. Eisenhower năm 1946. Nó được bảo tồn tại Bảo tàng Đường sắt Quốc gia ở Green Bay, Wisconsin.
Đại học Eisenhower là một trường đại học nhỏ dạy mỹ thuật tự do ở Seneca Falls, New York năm 1965 có các lớp học bắt đầu năm 1968. Nhiều vấn đề tài chính đã buộc trường nằm dưới quyền điều hành của Viện Kỹ thuật Rochester năm 1979. Lớp học cuối cùng của trường tốt nghiệp vào năm 1983.
Eisenhower Hall là tòa nhà hoạt động của học viên tại West Point, được xây xong năm 1974. Năm 1983, đài tưởng niệm Eisenhower được khánh thành tại West Point.
Trung tâm Y tế Eisenhower ở Rancho Mirage, California được đặt tên ông năm 1971.
Trung tâm Y tế Lục quân Dwight D. Eisenhower nằm ở đồn Gordon gần thành phố Augusta, Georgia được đặt tên ông để vinh danh ông.
Tháng 2 năm 1971, Trường Dwight D. Eisenhower thuộc xã Freehold, New Jersey được chính thức mở cửa.
Năm 1983, Viện Eisenhower được thành lập ở Washington, D.C. trong vai trò một viện chính sách nhằm giới thiệu rộng rãi những di sản lãnh đạo và tài trí của Eisenhower.
Năm 1989, Đại sứ Hoa Kỳ Charles Price và Thủ tướng Anh Margaret Thatcher khánh thành tượng đồng Eisenhower tại Quảng trường Grosvenor, London. Bức tượng được đặt phía trước Đại sứ quán Hoa Kỳ và phía bên kia là cựu trung tâm bộ tư lệnh Lực lượng Viễn chinh Đồng minh trong thời Chiến tranh thế giới thứ hai nơi mà Eisenhower có các văn phòng trong đó thời chiến tranh.
Năm 1999, Quốc hội Hoa Kỳ thành lập Ủy ban Tượng đài Dwight D. Eisenhower để xây dựng một đài tưởng niệm quốc gia tại Washington, D.C. Năm 2009, ủy ban chọn kiến trúc sư Frank Gehry thiết kế đài tưởng niệm.
Đài tưởng niệm sẽ đứng gần Khu dạo chơi Quốc gia (National Mall) trên Đường Maryland, khu tây nam, bên kia đường là Bảo tàng Hàng không và Không gian Quốc gia (Hoa Kỳ).
Ngày 7 tháng 5 năm 2002, Cựu Tòa Văn phòng Hành chánh được chính thức đặt tên mới là Tòa Văn phòng Hành chánh Eisenhower. Tòa nhà này là một phần của Khu phức hợp Nhà Trắng, ở phía tây của cánh Tây (West Wing) Nhà Trắng. Hiện tại nó có một số văn phòng hành chánh trong đó có văn phòng của phó Tổng thống Hoa Kỳ và phu nhân hay phu quân của mình.
Một công viên quận tại East Meadow, New York (Long Island) được đặt tên ông để vinh danh ông. Ngoài ra, Công viên Tiểu bang Eisenhower trên Hồ Texoma gần nơi ông sinh ra trong thành phố Denison được đặt tên ông; nơi ông được sinh ra hiện nay đang được tiểu bang Texas quản lý như Khu Lịch sử Tiểu bang Nơi sinh của Eisenhower.
Nhiều trường trung học công lập tại Hoa Kỳ được đặt tên Eisenhower.
Có một ngọn núi tên Eisenhower trong dãy núi Tổng thống thuộc nhóm núi White ở tiểu bang New Hampshire.
Một cây nhô ra phía trên lỗ số 17, là lỗ luôn tạo rắc rối cho ông tại Câu lạc bộ Golf Quốc gia Augusta nơi ông là thành viên, được đặt tên "Cây Eisenhower" để vinh danh ông.
Câu lạc bộ Golf Eisenhower ở Học viện Không quân Hoa Kỳ, một sân golf 36-lỗ được xếp hạng một trong số các sân của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, được đặt tên Eisenhower để vinh danh ông.
Lỗ thứ 18 ở Câu lạc bộ Cherry Hills Country gần thành phố Denver được đặt tên ông. Eisenhower là một thành viên lâu năm của câu lạc bộ này, một trong những sân golf mà ông thích.
Huân chương và tưởng thưởng
Tưởng thưởng Hoa Kỳ
Theo thứ tự cao thấp
Huân chương Phục vụ Xuất sắc Lục quân có bốn chùm lá sồi
Huân chương Phục vụ Xuất sắc Hải quân
Huân chương Chiến công
Huân chương Phục vụ Biên giới Mexico
Huân chương Chiến thắng Chiến tranh thế giới thứ nhất
Huân chương Phục vụ Quốc phòng Mỹ
Huân chương Chiến dịch châu Âu-châu Phi-Trung Đông với bốn ngôi sao phục vụ màu đồng và một ngôi sao bạc
Huân chương Chiến thắng Chiến tranh thế giới thứ hai
Huân chương Lục quân Chiếm đóng
Huân chương Phục vụ Quốc phòng Quốc gia (2 lần)
Tưởng thưởng quốc tế
Danh sách các huân chương và tưởng thưởng do các quốc gia khác trao tặng.
Anh: Huân chương Bath, Đại Thập tự Hiệp sĩ (Knight Grand Cross)
Anh: Ngôi sao châu Phi với các mẫu hình số "8" và "1".
Argentine: Huân chương Người giải phóng San Martin, Đại Thập tự
Bỉ: Huân chương Léopold
Bỉ: Thập tự Chiến tranh (Croix de Guerre/Belgisch Oorlogskruis)
Brasil Huân chương Chiến dịch
Brasil: Huân chương Chiến tranh
Brasil: Huân chương Chiến công, Đại Thập tự
Brasil: Huân chương Công trạng Hàng không, Đại Thập tự
Brasil: Huân chương Quốc gia Nam Thập tự (National Order of the Southern Cross)
Chile: Huân chương Chiến công hạng nhất
Trung Quốc: Huân chương Yun Hui
Trung Quốc: Huân chương Yun Fei
Khối Thịnh vượng chung: Huân chương Chiến công
Tiệp Khắc: Huân chương Sư tử trắng
Tiệp khắc: Ngôi sao vàng Chiến thắng
Đan Mạch: Huân chương Voi
Ecuador: Ngôi sao Abdon Calderon
Ai Cập: Huân chương Ismal
Ethiopia: Huân chương Solomon
Pháp: Thập tự Chiến tranh
Pháp: Bắc đẩu bội tinh, Đại Thập tự.
Pháp: Huân chương Giải phóng
Pháp: Huân chương Quân sự
Hy Lạp: Huân chương George I
Guatemala Thập tự Chiến công, hạng nhất
Haiti: Huân chương Vinh dự và Chiến công, Đại Thập tự
Ý: Huân chương Quân sự, Đại Thập tự Hiệp sĩ
Ý: Huân chương Malta
Luxembourg Huân chương Chiến công
Luxembourg: Thập tự Chiến tranh
México: Huân chương Đại bàng Aztec, hạng nhất
Mexico: Huân chương Công trạng Dân sự
Mexico: Huân chương Chiến công
Maroc: Huân chương Ouissam Alaouite
Hà Lan: Huân chương Sư tử Hà Lan, Đại Thập tự Hiệp sĩ
Na Uy: Huân chương St. Olav
Pakistan: Huân chương Pakistan, hạng nhất
Panama: Huân chương Vasco Nunez de Balboa, Đại Thập tự
Panama: Huân chương Manuel Amador Guerrero
Philippines: Ngôi sao Phục vụ Xuất sắc
Philippines: Huân chương Vinh dự, Tổng tư lệnh
Philippines: Huân chương Sikatuna, hạng nhất
Ba Lan: Thập tự Grunwald, hạng nhất
Ba Lan: Huân chương Polonia Restituta
Ba Lan: Virtuti Militari
Liên bang Xô viết: Huân chương Suvorov
Liên bang Xô viết: Huân chương Chiến thắng
Tunisia Huân chương Nichan Iftikhar.
Vinh dự khác
Năm 1966, Eisenhower là người thứ hai được vinh dự nhận giải công dân thế giới của hội Civitan International.
Tên của Eisenhower được đặt cho một số con đường tại các thành phố trên thế giới trong đó có Paris, Pháp.
Tháng 12 năm 1999, Eisenhower được ghi tên trong danh sách những người được ngưỡng mộ nhiều nhất trong thế kỷ 20 của Gallup.
Năm 2009, Eisenhower được ghi tên trong Đại sảnh Danh vọng Golf Thế giới cho thể loại "thành tựu trọn đời" vì những cống hiến của ông cho môn thể thao này.
Trên hết ông là Người Mỹ Trầm Lặng Của Thế giới Vì Hòa Bình.
Chú thích |
Papua New Guinea (; Hiri Motu: Papua Niu Gini, phiên âm tiếng Việt: Pa-pu-a Niu Ghi-nê), tên đầy đủ là Nhà nước Độc lập Papua New Guinea là một quốc gia quần đảo ở châu Đại Dương bên bờ Thái Bình Dương, gồm phía Đông của đảo New Guinea và nhiều đảo xa bờ biển (phía Tây của New Guinea là hai tỉnh Papua và Tây Papua của Indonesia). Papua New Guinea nằm vào phía Tây Nam Thái Bình Dương, ở một vùng được gọi là Mélanésie từ đầu thế kỷ 19. Thủ đô của Papua New Guinea, Port Moresby là một trong số các thành phố lớn của nước này.
Papua New Guinea là một trong những quốc gia có nhiều dân tộc nhất trên thế giới, với hơn 850 ngôn ngữ thổ dân và nhiều dân tộc như vậy, nhưng chỉ vào khoảng 5 triệu người. Đây cũng là một trong những nước có dân số sống tại nông thôn nhiều nhất, chỉ 18% người sống ở những trung tâm thành thị. Đây cũng là nước ít được thám hiểm nhất trên thế giới, không chỉ về địa lý mà còn về văn hóa, nhiều loài động thực vật được cho là chỉ có ở Papua New Guinea.
Từ nguyên
Papua là một từ ngữ dùng để chỉ dạng tóc xoăn tít của dân bản xứ, New Guinea có nghĩa là "Ghi-nê mới" (Tân Ghi-nê). Một nhà thám hiểm đã tình cờ phát hiện ra thổ dân trên hòn đảo này, nhưng ông lại ngạc nhiên vì ngờ ngợ đây là thổ dân da đen ở Guinée với mái tóc xoăn tít (người Guinea không có tóc xoăn như thế) và lại ở rất xa Guinea, nên ông đặt tên cho thổ dân mới phát hiện là Papua New Guinea''' (người Ghi-nê tóc xoăn tít). Và các tên đó trở thành tên quốc gia.
Lịch sử
Những di cốt con người đã được tìm thấy có niên đại từ khoảng 50,000 năm trước. Những cư dân cổ xưa này có lẽ có nguồn gốc ở Đông Nam Á, người Đông Nam Á lại có nguồn gốc từ châu Phi 50,000 tới 70,000 năm trước. New Guinea là một trong những vùng đất đầu tiên sau châu Phi và Âu Á là nơi có người hiện đại sinh sống, với cuộc di cư đầu tiên ở cùng khoảng thời gian cuộc di cư của Australia. Nông nghiệp độc lập phát triển tại các vùng cao nguyên New Guinea khoảng năm 7,000 trước Công Nguyên, khiến đây là một trong số ít khu vực thực hiện thuần hoá thực vật nguyên thủy của thế giới. Một cuộc di cư lớn của những người nói ngôn ngữ Nam Đảo (Austronesia) tới các vùng ven biển khoảng 2,500 năm trước, và nó trùng khớp với sự xuất hiện của đồ gốm, lợn, và một số kỹ thuật đánh cá. Gần đây hơn, khoảng 300 năm trước, khoai lang đã du nhập vào New Guinea từ Moluccas từ Nam Mỹ bởi đế chế thuộc địa thống trị vùng đất này khi ấy, Bồ Đào Nha. Sản lượng thu hoạch cao hơn rất nhiều từ khoai lang đã biến đổi toàn bộ nền nông nghiệp truyền thống, khoai lang đã chiếm hầu hết chỗ của khoai sọ, sản phẩm chủ yếu trước đó, và khiến dân cư tại các vùng cao nguyên tăng lên đáng kể.
Trước thế kỷ XIX người phương Tây ít biết về hòn đảo này, dù các thương gia từ Đông Nam Á đã tới New Guinea từ 5,000 trước để mua lông chim seo cờ làm bút, và các nhà thám hiểm Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã tới hòn đảo này ngay từ thế kỷ XVI (1526 và 1527 Dom Jorge de Meneses). Tên kép của nước này là những kết quả của lịch sử hành chính phức tạp của nó trước khi giành độc lập. Từ papua xuất phát từ pepuah một từ tiếng Malay miêu tả mái tóc quăn của người Melanesia, và "New Guinea" (Nueva Guinea) là cái tên do nhà thám hiểm người Tây Ban Nha Yñigo Ortiz de Retez đặt ra, vào năm 1545 ông đã lưu ý thấy sự tương đồng giữa người dân ở đây với những người ông từng thấy trước đó dọc theo bờ biển Guinea của châu Phi.
Nửa phía bắc nước này rơi vào tay người Đức năm 1884 với tên gọi New Guinea Đức. Trong Thế Chiến I, nó bị Australia chiếm đóng, nước đã bắt đầu quản lý New Guinea Anh, phần phía nam, được đổi tên lại là Papua năm 1904. Sau Thế Chiến I, Australia được Hội quốc liên uỷ quyền cai quản New Guinea Đức cũ. Trái lại Papua, được coi là một Lãnh thổ Bên ngoài của Khối thịnh vượng chung Australia, dù theo pháp luật nó vẫn thuộc sở hữu của người Anh, một vấn đề có tầm quan trọng lớn với hệ thống pháp lý của đất nước sau khi độc lập năm 1975. Sự khác biệt này trong vị thế pháp lý có nghĩa Papua và New Guinea có cơ quan hành chính hoàn toàn riêng biệt, nhưng cả hai đều do Australia kiểm soát.
Chiến dịch New Guinea (1942-1945) là một trong những chiến dịch quân sự lớn thời Thế Chiến II. Xấp xỉ 216,000 binh sĩ, thủy thủ và phi công Nhật, Australia và Mỹ đã chết trong Chiến dịch New Guinea. Hai vùng lãnh thổ đã được gộp vào trong Lãnh thổ Papua và New Guinea sau Thế Chiến II, và sau đó được gọi đơn giản là "Papua New Guinea". Bộ máy hành chính của Papua được mở cho sự giám sát của Liên hiệp quốc. Tuy nhiên, một số vị thế đã tiếp tục (và đang tiếp tục) chỉ được áp dụng ở một vùng lãnh thổ. một vấn đề rất phức tạp ngày nay bởi sự điều chỉnh biên giới của Papua tại các tỉnh liền kề với sự chú tâm tới đường bộ tiếp cận và các nhóm ngôn ngữ, vì thế những vị thế được áp dụng ở một phía biên giới vốn đã không còn tồn tại nữa.
Quá trình giành độc lập một cách hoà bình từ Australia, quyền lực đô thị trên thực tế, diễn ra ngày 16 tháng 9 năm 1975, và hai bên vẫn có quan hệ gần gũi (Australia vẫn là nhà cung cấp viện trợ song phương lớn nhất cho Papua New Guinea).
Một cuộc nổi dậy ly khai diễn ra năm 1975-76 trên đảo Bougainville đã dẫn tới sự thay đổi kéo dài 11 giờ với bản thảo Hiến pháp Papua New Guinea để cho phép Bougainville và mười tám quận khác của Papua New Guinea thời tiền độc lập có vị thế trong liên bang như là các tỉnh. Cuộc nổi dậy lại diễn ra và làm thiệt mạng 20,000 người từ năm 1988 tới khi nó được giải quyết năm 1997. Sau cuộc nổi dậy, Bougainville tự trị đã bầu Joseph Kabui làm tổng thống, nhưng ông đã được vị phó là John Tabinaman kế vị. Tabinaman vẫn là lãnh đạo cho tới khi một cuộc bầu cử nhân dân mới diễn ra tháng 12 năm 2008, với James Tanis là người giành chiến thắng. Cuộc nổi dậy chống người Trung Quốc, có sự tham gia của hàng chục nghìn người, nổ ra tháng 5 năm 2009.
Chính trị
Papua New Guinea là một thành viên Khối thịnh vượng chung, và Quốc vương Charles III là nguyên thủ quốc gia. Theo thoả ước hiến pháp, chuẩn bị cho bản thảo hiến pháp, và được Australia, bên đã chấm dứt quyền quản lý mẫu quốc, hy vọng, Papua New Guinea sẽ lựa chọn việc duy trì liên kết của mình với chế độ quân chủ Anh. Tuy nhiên, những người sáng lập, cho rằng các nghi lễ hoàng gia có một dấu ấn khiến nhà nước mới độc lập sẽ không thể có được một hệ thống nghi lễ bản xứ - vì thế Chế độ quân chủ vẫn được giữ lại. Quốc vương được đại diện bởi Toàn quyền Papua New Guinea, hiện là Sir Paulias Matane. Papua New Guinea và Quần đảo Solomon là các quốc gia bất thường trong Khối thịnh vượng chung bởi các Toàn quyền của họ thực tế bởi nhánh lập pháp lựa chọn chứ không phải bởi hành pháp, như tại một số nền dân chủ nghị viện.
Quyền hành pháp thực tế nằm trong tay Thủ tướng, người lãnh đạo nội các. Thủ tướng hiện nay là Sir Michael Somare. Nghị viện quốc gia đơn viện có 109 ghế, trong số đó 20 ghế thuộc các thống đốc của 19 tỉnh và Quận thủ đô quốc gia (NCD). Các ứng cử viên thành viên nghị viện được bầu khi thủ tướng kêu gọi một cuộc bầu cử quốc gia, tối đa 5 năm sau cuộc bầu cử quốc gia trước đó. Trong những năm đầu độc lập, sự bất ổn định của hệ thống đảng khiến những cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm thường xảy ra trong nghị viện khiến các chính phủ thường xuyên sụp đổ và lại cần tới các cuộc bầu cử quốc gia, theo các điều khoản của dân chủ nghị viện. Trong những năm gần đây, các chính phủ nối tiếp nhau đã thông qua điều luật ngăn chặn những cuộc bỏ phiếu đó được diễn ra sớm hơn 18 tháng từ cuộc bầu cử quốc gia. Điều này được cho là đã dẫn tới sự ổn định lớn hơn, dù có lẽ đã làm giảm tín nhiệm của nhánh hành pháp của chính phủ.
Các cuộc bầu cử tại PNG thu hút rất nhiều ứng cử viên. Sau khi độc lập năm 1975, các thành viên được bầu theo hệ thống first past the post, với người thắng cuộc thường giành chưa tới 15% phiếu. Các cuộc cải cách bầu cử năm 2001 đưa ra hệ thống Bầu cử Ưu đãi Giới hạn (LPV), một phiên bản của Bỏ phiếu Lựa chọn. bầu cử toàn quốc năm 2007 là cuộc bầu cử đầu tiên sử dụng LPV.
Luật pháp
Nghị viện đơn viện ban hành pháp luật theo cùng cách như tại các hệ thống pháp lý khác có "nội các," "chính phủ chịu trách nhiệm," hay "nghị viện dân chủ": nó được nhánh hành pháp đề xuất với nhánh lập pháp, được tranh luận và, nếu được thông qua, sẽ trở thành luật khi nhận được sự đồng ý của hoàng gia thông qua Toàn quyền. Hầu hết luật pháp hiện thực tế là những quy định do phe quan liêu áp dụng theo luật trao quyền đã được Nghị viện thông qua từ trước.
Mọi điều luật thông thường được Nghị viện ban hành phải tương thích với Hiến pháp. Các toà án có quyền phán xử về tình trạng hợp hiến của các điều luật, cả trong các cuộc tranh luận trước toà và về một sự tham khảo khi không có tranh cãi mà chỉ là một câu hỏi về sự khó hiểu của pháp luật. Khá bất thường trong số các nước đang phát triển, nhánh tư pháp của chính phủ tại Papua New Guinea vẫn khá độc lập, và những chính phủ hành pháp tiếp nối nhau vẫn tiếp tục tôn trọng quyền lực của nó.
"Luật bên dưới" — có nghĩa là, luật phong tục của Papua New Guinea — gồm luật phong tục Astralia như nó bắt đầu có hiệu lực ngày 16 tháng 9 năm 1975 (ngày độc lập), và sau đó là các quyết định của các toà án của PNG. Các toà án hoạt động tuân theo Hiến pháp, và gần đây, Underlying Law Act, để có xem xét tới "phong tục" của các cộng đồng truyền thống, với một quan điểm để xác định xem các phong tục nào là chung cho toàn bộ đất nước và có thể được tuyên bố là một phần của luật bên dưới. Trên thực tế, điều này đã cho thấy rất khó khăn, và hầu như đã bị lờ đi. Các điều luận chủ yếu được phỏng theo luật của các quốc gia khác, nhất là Australia và Anh. Sự biện hộ trong các toà án giống với mẫu hình đối lập của các quốc gia luật phong tục khác.
Vùng, tỉnh và quận
Papua New Guinea được chia thành bốn vùng, mục tiêu phân chia chủ yếu không phải về quản lý hành chính mà khá quan trọng trong nhiều lĩnh vực khác như quản lý, thương mại, thể thao và các hoạt động khác.
Quốc gia này có 20 khu vực phân chia có vị thế cấp tỉnh: 18 tỉnh, Vùng Tự trị Bougainville và Quận Thủ đô Quốc gia. Mỗi tỉnh được chia thành một hay nhiều quận, và chúng lại được chia thành một hay nhiều khu vực Quản lý Cấp Địa phương.
Các tỉnh là các đơn vị hành chính cấp thứ nhất của quốc gia. Các chính quyền tỉnh là các chi nhánh của chính phủ quốc gia — Papua New Guinea không phải là một liên bang gồm các tỉnh. Các khu vực phân chia cấp tỉnh gồm như sau:
Trung ương
Chimbu (Simbu)
Cao nguyên phía Đông
Đông New Britain
Đông Sepik
Enga
Vịnh
Madang
Manus
Vịnh Milne
Morobe
New Ireland
Bắc (Tỉnh Oro)
Bougainville (vùng tự trị)
Cao nguyên phía Nam
Tỉnh Tây (Fly)
Cao nguyên phía Tây
Tây New Britain
Tây Sepik (Sandaun)
Quận Thủ đô Quốc gia
Nghị viện đã thông qua việc thành lập hai tỉnh nữa vào năm 2012: Tỉnh Hela, sẽ gồm một phần của Tỉnh Cao nguyên phía Nam hiện tại, và Tỉnh Jiwaka, sẽ được thành lập bằng cách chia Tỉnh Cao nguyên phía Tây.
Địa lý
Với diện tích 462,840 km², Papua New Guinea là nước rộng thứ 54 trên thế giới.
Papua New Guinea chủ yếu là núi non (đỉnh cao nhất là Núi Wilhelm độ cao 4,509 m; 14,793 ft) và chủ yếu được bao phủ bởi những cánh rừng mưa nhiệt đới, cũng như những khu vực đất ướt rất rộng bao quanh các con sông Sepik và Fly.
Papua New Guinea được bao quanh bởi các rặng san hô ngầm đang được quản lý chặt chẽ để bảo tồn.
Nước này nằm trên Vành đai Núi lửa Thái Bình Dương, ở điểm va chạm của nhiều đĩa kiến tạo. Có một số núi lửa đang hoạt động, và những vụ phun trào thường xuyên xảy ra. Động đất cũng là điều thường thấy, thỉnh thoảng đi kèm với các trận sóng thần.
Vùng lục địa của quốc gia là nửa phía đông của đảo New Guinea, nơi có các thị trấn lớn nhất, gồm cả thủ đô Port Moresby và Lae; các hòn đảo lớn khác của Papua New Guinea gồm New Ireland, New Britain, Manus và Bougainville.
Papua New Guinea là một trong số ít khu vực gần xích đạo có tuyết rơi, xảy ra ở những nơi có độ cao lớn trong lục địa.
Sinh thái
Papua New Guinea là một phần của vùng sinh thái Australasia, gồm cả Australia, New Zealand, đông Indonesia, và nhiều nhóm đảo Thái Bình Dương, gồm cả Quần đảo Solomon và Vanuatu.
Về địa lý, hòn đảo New Guinea là nhánh mở rộng phía bắc của đĩa kiến tạo Indo-Australian, hình thành một phần của một lục địa duy nhất Australia-New Guinea (cũng được gọi là Sahul hay Meganesia). Nó được nối với mảng Australia bởi một thềm lục địa nông qua Eo biển Torres, ở những thời cổ đại còn nổi lên như một cầu lục địa — đặc biệt trong những kỷ băng hà khi mực nước biển thấp hơn hiện tại.
Vì thế, nhiều giống chim và thú có vú ở New Guinea có những quan hệ gene chặt chẽ với các giống loài tương tự ở Australia. Đặc trưng chung nhất của hai phía là sự tồn tại của nhiều loài động vật có vú có túi, gồm kangaroo và possum, không có ở bất kỳ nơi nào khác.
Nhiều hòn đảo khác bên trong lãnh thổ PNG, gồm cả New Britain, New Ireland, Bougainville, Đảo Đô đốc, Đảo Trobriand, và Quần đảo Louisiade, chưa bao giờ được kết nối với New Guinea bằng những cầu lục địa, và chúng không có nhiều loài động vật có vú và những loài chim không bay được vốn thường thấy tại New Guinea và Australia.
Australia và New Guinea là những phần của siêu lục địa cổ Gondwana, bắt đầu tan rã thành những lục địa nhỏ hơn ở thời kỳ Cretaceous, 65-130 triệu năm trước. Australia cuối cùng tách hoàn toàn khỏi Nam Cực khoảng 45 triệu năm trước. Toàn bộ các vùng đất của Australasia là nơi sinh sống của quần thực vật Nam Cực, có nguồn gốc từ quần thực vật của nam Gondwana, gồm cả podocarps họ tùng bách và các loài thông Araucaria, và sồi miền nam (Nothofagus) lá rộng. Những họ cây này vẫn hiện diện tại Papua New Guinea.
Bởi đĩa kiến tạo Indo-Australian (gồm các lục địa Ấn Độ, Australia, và thềm Ấn Độ Dương ở giữa) trôi về phía bắc, nó va chạm với Đĩa Âu Á, và sự va chạm của hai đĩa đã đẩy lên dãy Himalayas, các đảo Indonesia và Rặng Trung tâm của New Guinea. Rặng Trung tâm trẻ và cao hơn các ngọn núi của Australia, cao tới mức nó có một số sông băng hiếm ở xích đạo. New Guinea là một phần của chí tuyến ẩm, và nhiều loài thực vật thuộc rừng mưa nhiệt đới Indomalaya, trải dài suốt các eo biển hẹp từ châu Á, pha trộn với hệ thực vật Australia và Antarctic cổ.
Các vùng sinh thái trên cạn
Papua New Guinea gồm một số vùng sinh thái trên cạn:
Rừng nhiệt đới đất thấp Đảo Đô đốc
Rừng mưa núi Rặng Trung tâm
Rừng mưa núi Bán đảo Huon
Rừng mưa Quần đảo Louisiade
Rừng mưa đất thấp New Britain-New Ireland
Rừng mưa núi New Britain-New Ireland
Đước New Guinea
Rừng đầm lầy nước ngọt và rừng mưa đất thấp Bắc New Guinea
Rừng mưa núi Bắc New Guinea
Rừng mưa Quần đảo Solomon (gồm Bougainville và Buka)
Rừng mưa Đông Nam Papuan
Rừng đầm lầy nước ngọt Nam New Guinea
Rừng mưa đất thấp Nam New Guinea
Rừng mưa Đảo Trobriand
Đồng cỏ và savanna Xuyên Fly
Đồng cỏ sub-alpine Rặng Trung tâm
Kinh tế
Papua New Guinea có nhiều tài nguyên thiên nhiên, nhưng việc khai thác gặp khó khăn vì điều kiện địa hình, chi phí cao cho việc phát triển hạ tầng, nhiều vấn đề nghiêm trọng về luật pháp và quy định, và hệ thống đứng tên đất đai khiến việc xác định các chủ sở hữu đất cho mục đích đàm phán thoả thuận khai thác khó khăn. Nông nghiệp là nguồn sống cho khoảng 85% dân số. Các trầm tích khoáng sản, gồm dầu mỏ, đồng, và vàng, chiếm 72% nguồn thu từ xuất khẩu. Nước này cũng có một ngành công nghiệp cà phê đáng chú ý. Cựu thủ tướng Sir Mekere Morauta đã tìm cách tái lập tính toàn thể của các định chế nhà nước, ổn định đồng tiền tệ kina, tái lập sự ổn định của ngân sách quốc gia, tư nhân hoá các doanh nghiệp nhà nước thích hợp, và đảm bảo tình trạng hoà bình tại Bougainville sau thoả thuận năm 1997 chấm dứt tình trạng bất ổn đòi ly khai tại Bougainville. Chính phủ Morauta có những thành công đáng chú ý trong việc thu hút sự giúp đỡ của quốc tế, đặc biệt giành được sự ủng hộ của IMF và Ngân hàng Thế giới trong việc tìm kiếm các khoản cho vay hỗ trợ phát triển. Những thách thức lớn nhất phải đối mặt của Thủ tướng hiện nay, Sir Michael Somare, gồm tạo được lòng tin hơn nữa của nhà đầu tư, tiếp tục các nỗ lực tư nhân hoá tài sản chính phủ, và duy trì sự ủng hộ của các thành viên Nghị viện.
Tháng 3 năm 2006 Hội đồng vì Chính sách Phát triển của Liên hiệp quốc đã kêu gọi chuyển Papua New Guinea từ danh sách quốc gia đang phát triển xuống danh sách quốc gia kém phát triển bởi tình trạng trì trệ kinh tế và xã hội kéo dài. Tuy nhiên, một cuộc đánh giá của Quỹ Tiền tệ Quốc tế vào cuối năm 2008 thấy rằng "một sự tổng hợp của các chính sách tiền tệ và thuế khoá thận trọng, và giá cả các mặt hàng khoáng sản xuất khẩu cao trên thế giới, đã củng cố cho tình trạng tăng trưởng kinh tế và ổn định vi mô gần đây của Papua New Guinea. Tăng trưởng GDP thực, ở mức hơn 6% năm 2007, có nền tảng vững và được trông đợi sẽ tiếp tục cao trong năm 2008."
Sở hữu đất đai
Chỉ khoảng 3% đất đai của Papua New Guinea nằm trong tay tư nhân; nó được giữ trong tay tư nhân theo luật Cho thuê Nhà nước 99 năm, hay nó thuộc Nhà nước. Rõ ràng không có quyền sở hữu toàn quyền; một số ít chủ sở hữu toàn quyền được tự động chuyển đổi sang Cho thuê Nhà nước khi chúng được chuyển giao giữa người bán và người mua. Đất đai không chuyển nhượng thuộc sở hữu phong thục bởi các chủ sở hữu truyền thống. Tình trạng chính thức của seisin thay đổi theo từng nền văn hoá. Nhiều tác gia cho rằng đất đai thuộc sở hữu cộng đồng của các dòng họ truyền thống; tuy nhiên, những cuộc nghiên cứu gần hơn thường cho thấy rằng những mảnh đất nhỏ nhất mà người sở hữu nó không thể chia nhỏ tiếp thuộc người đứng đầu một đại gia đình và các con cháu của họ, hay chỉ riêng các con cháu của họ nếu họ đã chết đi gần đây. Đây là một vấn đề tối quan trọng bởi một vấn đề phát triển kinh tế là xác định thành viên của các nhóm và chủ sở hữu đất đai theo phong tục. Những tranh cãi giữa các công ty khai mỏ và lâm nghiệp và các nhóm chủ sở hữu thường biến thành vấn đề liệu các công ty có tham gia vào mối quan hệ hợp đồng về việc sử dụng đất với chủ sở hữu thực sự không. Tài sản phong tục - thường là đất đai - không thể được phân chia bởi ý chí; nó chỉ có thể được thừa hưởng theo phong tục của người đã mất.
Nhân khẩu
Papua New Guinea là một trong những quốc gia hỗn tạp nhất thế giới. Có hàng trăm nhóm sắc tộc bản xứ tại Papua New Guinea, đa số thuộc nhóm được gọi là Papuans, tổ tiên của họ đã tới vùng New Guinea từ hàng chục nghìn năm trước. Nhiều bộ tộc Papuan tại các vùng xa xôi vẫn chỉ có tiếp xúc ban đầu với thế giới bên ngoài. Các nhóm khác là người Austronesian, tổ tiên của họ đã tới vùng này chưa tới bốn ngàn năm trước. Cũng có nhiều người từ các vùng khác của thế giới hiện sinh sống tại đây, gồm cả người Trung Quốc, người châu Âu, người Australia, người Phillippines, Polynesian và Micronesian. Ở thời điểm đầu độc lập năm 1975, có 40,000 người nước ngoài (chủ yếu là người Australia và người Trung Quốc) tại Papua New Guinea.
Papua New Guinea có nhiều ngôn ngữ hơn bất kỳ một quốc gia nào khác, với hơn 820 ngôn ngữ bản địa, chiếm 12% tổng số ngôn ngữ của thế giới. Các ngôn ngữ bản địa được xếp hạng thành hai nhóm lớn: các ngôn ngữ Austronesian và phi Austronesian (hay các ngôn ngữ Papuan). Có ba ngôn ngữ chính thức tại Papua New Guinea. tiếng Anh là một ngôn ngữ chính thức và là ngôn ngữ của chính phủ và hệ thống giáo dục, nhưng không được sử dụng rộng rãi. Ngôn ngữ chung chủ yếu của đất nước là Tok Pisin (thường được gọi trong tiếng Anh là New Guinea Pidgin hay Melanesian Pidgin), nhiều cuộc tranh cãi trong Nghị viện, nhiều chiến dịch thông tin và quảng cáo, và mãi đến gần đây, một tờ báo quốc gia Wantok, được xuất bản bằng ngôn ngữ này. Nơi duy nhất Tok Pisin không có vị thế chủ chốt là vùng phía nam Papua, nơi người dân thường sử dụng ngôn ngữ chính thức thứ ba, Hiri Motu. Dù nằm trong vùng Papua, Port Moresby có dân số đa dạng và chủ yếu sử dụng Tok Pisin, và ở một mức độ nhỏ hơn là tiếng Anh, với Motu được dùng như ngôn ngữ bản xứ tại các làng lân cận. Với con số trung bình chỉ 7,000 người sử dụng trên mỗi ngôn ngữ, Papua New Guinea có sự đa dạng ngôn ngữ lớn hơn bất kỳ một quốc gia nào khác trên thế giới ngoại trừ Vanuatu.
Sức khoẻ
Chi tiêu công ở mức 3% GDP năm 2004, trong khi chi tiêu tư ở mức 0.6% GDP.
PNG có tỷ lệ mắc HIV và AIDS cao nhất vùng Thái Bình Dương và là nước thứ tư tại vùng châu Á Thái Bình Dương đáp ứng tiêu chí để HIV/AIDS trở thanh bệnh dịch. Thiếu nhận thức về HIV/AIDS là một vấn đề lớn, đặc biệt tại các vùng nông thôn. Có 5 bác sĩ trên 100,000 dân vào đầu những năm 2000.
Hệ thống chăm sóc sức khỏe được mở rộng trên toàn quốc bệnh nhân chỉ phải trả một khoản tiền nhỏ cho việc khám, chữa bệnh và thuốc men. Mỗi tỉnh đều có bệnh viện, nhưng thường thiếu thốn trang thiết bị y tế. Các phương thuốc và cách chữa bệnh dân gian được người dân sử dụng nhiều. Các căn bệnh như sốt rét, lao, sởi... còn khá phổ biến.
Tôn giáo
Các toà án và chính chính phủ thực hiện tán thành quyền theo hiến pháp về tự do ngôn luận, tư tưởng và tín ngưỡng, và không điều luật nào vi phạm vào những quyền đó từng được thông qua, dù Sir Arnold Amet, cựu Trưởng Công tố Papua New Guinea một người công khai ủng hộ Pentecostal Christianity, thường hối thúc cơ quan lập pháp và những định chế khác ngăn cản các hoạt động của Hồi giáo bên trong đất nước.
Cuộc điều tra dân số năm 2000 cho thấy 96% nhân dân là thành viên của một Giáo hội Kitô giáo; tuy nhiên, nhiều công dân kết hợp niềm tin Kitô giáo của họ với một số hình thức tín ngưỡng bản xứ truyền thống. Các tỷ lệ phần trăm tín đồ từ cuộc điều tra như sau:
Giáo hội Công giáo Rôma (27.0%)
Giáo hội Lutheran Tin Lành Papua New Guinea (19.5%)
Giáo hội Thống nhất (11.5%)
Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm (10.0%)
Phong trào Ngũ Tuần (8.6%)
Phong trào Tin Lành (5.2%)
Giáo hội Anh giáo Papua New Guinea (3.2%)
Baptist (0.5%)
Baha'i (0,3%)
Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô (0.4%)
Nhân chứng Giê-hô-va (0.3%)
Cứu thế quân (0.2%)
Các phái Kitô giáo khác (8.0%)
Các tôn giáo nhỏ như Đức tin Bahá'í (15,000 hay 0.3%), trong khi Hồi giáo tại Papua New Guinea chiếm xấp xỉ 1,000 tới 2,000 người hay khoảng 0.04%, (chủ yếu là người nước ngoài định cư có nguồn gốc châu Phi và Đông Nam Á nhưng một số người tại các thị trấn đã cải đạo). Các giáo hội phi Kitô giáo truyền thống và các nhóm tôn giáo phi Kitô giáo có hoạt động trên khắp đất nước. Hội đồng các Giáo hội Papua New Guinea đã nói rằng có cả các nhà truyền giáo của Hồi giáo và Khổng giáo hoạt động, và hoạt động truyền giáo từ nước ngoài nói chung khá mạnh.
Các tôn giáo truyền thống, như Korowai, thường là vật linh. Một số thường có các yếu tố của sự thờ cúng tổ tiên, dù sự tổng quát bị hoài nghi bởi sự đặc biệt hỗn tạp của các xã hội Melanesian. Chiếm ưu thế trong các truyền thống bộ lạc là đức tin vào masalai, hay các linh hồn ma quỷ, được cho là "đầu độc" con người, gây ra thiên tai và cái chết, và việc thực hiện Puri Puri tại các cao nguyên.
Văn hoá
Ước tính có hơn một nghìn nhóm văn hoá khác nhau tại Papua New Guinea. Vì sự đa dạng này, nhiều phong cách thể hiện văn hoá đã xuất hiện; mỗi nhóm đã tạo ra các hình thức thể hiện riêng của mình trong nghệ thuật, nhảy múa, vũ khí, trang phục, ca hát, âm nhạc, kiến trúc và những thứ khác.
Đa phần các nhóm văn hoá khác nhau đó sở hữu ngôn ngữ riêng. Người dân thường sống tại các làng theo kiểu tự cung tự cấp. Tại một số vùng người dân sắn bắn và hái lượm các loại thực vật hoang dã (như khoai lang) để phụ thêm vào bữa ăn. Những người có kỹ năng săn bắn, trồng cấy và đánh cá rất được tôn trọng.
Trên sông Sepik, có truyền thống khắc gỗ, thường dưới hình thức cây cối hay động vật, thể hiện các tinh thần của tổ tiên.
Vỏ sò không còn được dùng làm tiền tệ tại Papua New Guinea nữa, như tại một số khu vực khác — vỏ sò bị huỷ bỏ vị thế tiền tệ năm 1933. Tuy nhiên, di sản này vẫn hiện diện trong một số phong tục địa phương; trong một số nền văn hoá, để có được cô dâu, chú rể phải mang đến một số vỏ trai cạnh vàng như đồ dẫn cưới. Tại các cùng khác, đồ dẫn cưới được trả theo chiều dài của tiền vỏ sò, lợn, cassowaries hay tiền mặt; ở những nơi khác, đồ dẫn cưới không được sử dụng, và các cô dâu phải trả của hồi môn.
Người dân tại các vùng cao nguyên có các lễ nghi địa phương nhiều màu sắc được gọi là "sing sings". Họ sơn mình và mặc lông chim, đeo ngọc trai và da thú để thể hiện tinh thần của các loài chim, cây hay núi non. Thỉnh thoảng một sự kiện quan trọng, như một trận đánh huyền thoại, được thể hiện tại buổi lễ âm nhạc đó.
Giáo dục
Hệ thống giáo dục phổ thông của Papua New Guinea gồm tiểu học 7 năm, trung học 3 năm và trung học cao (lớp 11 và 12). Trẻ em đến trường từ năm 7 tuổi. Tuy nhiên, việc đóng học phí ở tất cả các cấp đã khiến cho nhiều trẻ không thể đến trường và nhiều học sinh phải bỏ dở chương trình học. Những học sinh tốt nghiệp trung học sẽ được nhận học bổng của Nhà nước và vào học một trong hai viện đại học hoặc các trường kĩ thuật và sư phạm.
Papua New Guinea có sáu viện đại học cùng một số định chế giáo dục cấp ba khác. Hai viện đại học có vị thế ngay từ khi thành lập là Đại học Papua New Guinea tại Quận Thủ đô Quốc gia, và Đại học Kỹ thuật Papua New Guinea ở bên ngoài Lae, tại Tỉnh Morobe.
Bốn viện đại học khác trước kia là trường đại học, được thành lập gần đây sau khi được chính phủ công nhận. Chúng là Đại học Goroka ở Tỉnh cao nguyên phía Đông, Đại học Ngôi Lời (do Dòng Truyền giáo Ngôi Lời của Giáo hội Công giáo điều hành) tại Tỉnh Madang, Đại học Vudal ở Tỉnh Đông New Britain và Đại học Phục lâm Thái Bình Dương (do Giáo hội Phục lâm An thất nhật điều hành) ở Quận Thủ đô Quốc gia.
Thể thao
Thể thao là một phần quan trọng của văn hoá Papua New Guinea và rugby league là môn thể thao phổ biến nhất. Tại một quốc gia nơi các cộng đồng cách xa nhau và nhiều người sống với mức độ tồn tại tối thiểu, rugby đã được miêu tả như là một sự thay thế cho chiến tranh bộ lạc như một cách giải thích sự cuồng nhiệt của người dân địa phương với môn này (như một vấn đề của sống và chết). Nhiều người Papua New Guinea đã trở nên nổi tiếng khi đại diện cho quốc gia của mình hay chơi ở một giải chuyên nghiệp nước ngoài. Thậm chí các cầu thủ liên đoàn rugby Australia từng chơi ở giải (Australia) State of Origin, được cổ vũ mạnh mẽ hàng năm ở PNG, thuộc trong những người nổi tiếng nhất quốc gia này. State of Origin là sự kiện quan trọng trong năm của hầu hết người dân Papua New Guinea, dù sự cổ vũ nhiệt tình tới mức nhiều người đã thiệt mạng sau những cuộc đụng độ bạo lực khi cổ vũ cho đội của mình. Đội tuyển rugby quốc gia Papua New Guinea thường đấu với Đội tuyển rugby quốc gia Australia mỗi năm tại Port Moresby. Sức chứa giới hạn của sân vận động trong sự kiện này thường gây ra những vụ bạo loạn; các khán giả xung đột với cảnh sát chống bạo động trong trận đấu năm 2006. Hơn 50% dân số nam dưới 20 tuổi chơi rugby.
Các môn thể thao chính khác tại Papua New Guinea là bóng đá, rugby union, Aussie rules và, ở đông Papua, cricket.
Vận tải
Vận tải tại Papua New Guinea bị hạn chế nhiều bởi địa hình núi non của nước này. Port Moresby không được kết nối bằng đường bộ với bất kỳ một thị trấn lớn khác nào, và nhiều làng ở xa xôi chỉ có thể được tiếp cận bằng máy bay hạng nhẹ hoặc đi bộ. Vì thế, giao thông đường không là hình thức giao thông quan trọng duy nhất. Papua New Guinea có 578 đường băng, đa số chúng chưa được trải nhựa.
Xem thêm
Hệ thống trao thưởng của Papua New Guinea
Các nỗ lực bảo vệ đa dạng sinh thái tại Papua New Guinea
Viễn thông Papua New Guinea
Giáo dục Papua New Guinea
Quan hệ nước ngoài Papua New Guinea
Danh sách các phái bộ ngoại giao tại Papua New Guinea
Danh sách nhân vật Papua New Guinea
Các danh sách thành phố & thị trấn tại Papua New Guinea theo dân số
Danh sách quận và các Khu vực Quản lý cấp Địa phương Papua New Guinea
Quân đội Papua New Guinea
Du lịch Papua New Guinea
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Chính phủ
Prime Minister of Papua New Guinea
Chief of State and Cabinet Members
General information
Papua New Guinea at UCB Libraries GovPubs''
Papua New Guinea Business Directory
PNG Links & Search
Languages of PNG
PNG Government Website Links
GoPNG Who's Who
PNG News Media Links
Blogs, Forums Etc Linkages
Provincial Factsheet
PNG Online Business Directory
http://www.mofahcm.gov.vn/vi/mofa/cn_vakv/
Quốc gia thành viên Khối Thịnh vượng chung Anh
Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Anh
Đảo quốc
Quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc
Quốc gia Melanesia
Quốc gia Australasia
Đông Nam Á hải đảo
Vương quốc Thịnh vượng chung
Khởi đầu năm 1975 ở Papua New Guinea |
Nữ hoàng (chữ Hán: 女皇, tiếng Anh: Empress Regnant), cũng được gọi là Nữ đế (女帝) hay Nữ hoàng đế (女皇帝), là một danh từ dùng để chỉ người phụ nữ làm Hoàng đế, cai trị một Đế quốc. Người phụ nữ cai trị một Vương quốc được gọi là Nữ vương.
Việc kế vị của Nữ hoàng trước đây rất hạn chế, vì quan niệm chỉ có đàn ông mới được thừa kế ngai vàng trong hầu hết các thể chế quốc gia quân chủ từ Châu Âu sang Đông Á. Hầu hết những trường hợp xảy ra việc phụ nữ đăng vị đều ở những tình huống chính trị then chốt, cá biệt hoặc do chính biến chứ không thiên về truyền thống. Do đó, hầu như không có quốc gia nào có đạo luật được quy định về chỉ định Nữ hoàng, khác hoàn toàn với trường hợp có tính truyền thống và trình tự như Hoàng đế nam giới.
Hầu hết các Nữ hoàng đế, dù là phụ nữ nhưng vẫn dùng danh xưng tương tự Hoàng đế. Trong ngôn ngữ Hán, [Hoàng đế] là một tước vị thường chỉ dùng cho nam giới, tuy nhiên nữ giới có trở thành Hoàng đế thì vẫn như cũ được gọi là Hoàng đế, do bản thân danh vị này không phân chia giới tính, chỉ khi nào cần cường điệu hóa giới tính của vị nữ quân chủ ấy thì mới cần gọi cụ thể ra là [Nữ hoàng] mà thôi.
Khái quát
Lịch sử cách gọi
Ở các quốc gia cổ đại như Trung Quốc, Ai Cập, Ba Tư, những người phụ nữ dù xuất thân từ vương thất hay hoàng tộc cũng đều không có quyền kế thừa ngai vị. Do vậy, ngôn ngữ tại những nền văn hóa này không có danh từ "nữ hóa" chỉ đến ngai quốc chủ, như Pharaon của Ai Cập, Hoàng đế của Trung Hoa. Dù có cách dùng [Nữ hoàng] đối với trường hợp Hoàng đế, song điều đó chỉ mang tính tương đối.
Rất nhiều vị Nữ quân chủ cổ đại khi được truyền ngôi vị vẫn sử dụng danh xưng vốn dùng cho nam giới. Như Đế quốc Byzantine, có Irene thành Athena khi lên làm Hoàng đế của Đế quốc, bà dùng danh xưng [Basileus; βασιλεύς] theo truyền thống các Hoàng đế giới tính nam, hơn là tự dùng [Basilissa; βασίλισσα] vốn dành cho các Hoàng hậu Byzantine. Đối với trường hợp Quốc vương cũng vậy, Jadwiga của Ba Lan khi được tôn làm Vương, dùng danh hiệu [Rex Poloniae], tức [King of Poland; Quốc vương của Ba Lan]. Về sau, các đạo luật thừa kế tại một số quốc gia như Vương quốc Anh bắt đầu chấp nhận phụ nữ kế thừa ngôi vua, song không ít các quốc gia ở Châu Âu xem việc này là bất hợp pháp.
Trải qua Đông Á, các Nữ quốc chủ Tân La cùng Trưng Nữ Vương là những vị [Nữ vương] hiếm hoi, riêng [Nữ hoàng] càng hiếm hơn nữa. Những trường hợp phụ nữ trở thành Hoàng đế ở các quốc gia Đông Á đều rơi vào những sự kiện độc nhất vô nhị, không có tiền lệ hoặc không có một truyền thống lâu đời của các triều đại ấy. Kể như Nhật Bản, dù trong lịch sử ghi nhận có tới 8 vị Nữ Thiên hoàng, song không ít các nhận định cho rằng những người phụ nữ này thiên về nhiếp chính tạm thời cho triều đình hơn là có quyền lực thực tế của một Thiên hoàng.
Hầu hết các Nữ hoàng đế, dù là phụ nữ nhưng vẫn dùng danh xưng tương tự Hoàng đế. Trong ngôn ngữ Hán, [Hoàng đế] là một tước vị thường chỉ dùng cho nam giới, tuy nhiên nữ giới có trở thành Hoàng đế thì vẫn như cũ được gọi là Hoàng đế, do bản thân danh vị này không phân chia giới tính, chỉ khi nào cần cường điệu hóa giới tính của vị nữ quân chủ ấy thì mới cần gọi là [Nữ hoàng] mà thôi. Ví dụ như vị Nữ hoàng của Trung Quốc là Võ Tắc Thiên, bà lên ngôi và lập ra triều đại Võ Chu như một Thiên tử truyền thống, tôn xưng danh vị là [Thánh Thần hoàng đế; 聖神皇帝], đều như mọi Hoàng đế nam giới khác trong lịch sử. Hoặc như 8 vị Nữ Thiên hoàng trong lịch sử Nhật Bản, khi tôn xưng cũng đều là [Thiên hoàng] như các vị Thiên hoàng nam giới khác, hoàn toàn không phân biệt.
Tình huống cụ thể
Xét lịch sử từ Châu Âu sang Đông Á, xuất hiện [Nữ hoàng] tựu chung có 3 trường hợp chính:
Quan hệ huyết thống: tức là vị Nữ hoàng vốn là Hoàng nữ của triều đại ấy, thường là con gái của vị Hoàng đế tiền nhiệm.Tình huống này xảy ra thông thường bản thân triều đại ấy có quy định cho con gái kế vị, hoặc một số trường hợp cực kỳ đặc thù nhằm duy trì sự ổn định của chính trị. Như Anna của Nga, Nguyên Chính Nữ hoàng của Nhật Bản và Lý Chiêu Hoàng của Đại Việt.
Hoàng hậu tiếm vị: tình huống này xảy ra khi Hoàng hậu tự lập lên ngôi, sau khi chồng của bà ta, tức Hoàng đế tiền nhiệm qua đời. Tình huống này xảy ra khi vị Hoàng hậu ấy có thế lực rất lớn đương thời. Điển hình như chính Võ Tắc Thiên của Trung Quốc, hay Yekaterina II của Nga.
Cả hai trường hợp trên: tức Hoàng hậu của Hoàng đế, vốn là chị em của Hoàng đế. Điều này xảy ra khá thường xuyên đối với hoàng tộc Nhật Bản, nơi hầu như Hoàng đế và Hoàng hậu đều có quan hệ huyết thống. Điển hình có Thôi Cổ Nữ hoàng, Hoàng Cực Nữ hoàng, Trì Thống Nữ hoàng cùng Nguyên Minh Nữ hoàng.
Quyền lực ngang bằng
Dù nói đến "Nữ hoàng" là phải tự xưng chính thức và lên ngôi, như Võ Tắc Thiên, song thực tế trong lịch sử Trung Quốc cũng có vài người tuy chỉ là Hoàng thái hậu nhưng lại có quyền lực như một Nữ hoàng. Những người này được gọi là lâm triều xưng chế.
Trước thời điểm Võ Tắc Thiên là Lã hậu, cũng là người phụ nữ duy nhất của Trung Quốc ngoài Võ Tắc Thiên được ghi nhận chính thức thời gian cai trị của mình. Thông qua Sử ký Tư Mã Thiên và Hán thư, thời gian cai trị của Lữ hậu được viết hẳn thành "Bản kỷ", một loại ghi chép biên niên vốn chỉ dùng cho các Hoàng đế. Điều này khẳng định địa vị lớn của Lữ hậu. Sau thời đại của Võ Tắc Thiên, lại có Từ Hi Hoàng thái hậu trong những năm cuối thời Quang Tự đã thực sự nắm hết quyền hành, giam lỏng Hoàng đế, dân gian Trung Quốc còn gọi bà là 「Vô miện Nữ hoàng; 无冕女皇」.
Mặt khác lại có những trường hợp như Cảm Thiên Hoàng hậu Tiêu Tháp Bất Yên và Thừa Thiên Thái hậu Gia Luật Phổ Tốc Hoàn của nhà Liêu, Töregene Khatun và Oghul Qaimish của Đế quốc Mông Cổ. Vào thời điểm lâm triều xưng chế của các bà đều là khi Hoàng đế còn quá nhỏ, thực tế đem các bà trở thành Nữ hoàng đế thực tế dù các bà chưa từng tự xưng. Điểm khiến các bà đặc biệt chính là tương tự Lữ hậu, thời gian các bà cai trị đều có tự động đổi niên hiệu riêng, hoặc sách sử tự lấy tên các bà tính làm kỷ nguyên riêng.
Phân biệt ngôn ngữ
So với Hoàng hậu
Trong ngôn ngữ Đông Á, [Nữ hoàng] cùng Hoàng hậu có sự phân biệt rất rõ ràng. Tuy nhiên điều này không xảy ra ở Châu Âu, tại những quốc gia nói tiếng Anh hoặc chung một hệ ngôn ngữ từ Hy Lạp và La Mã, họ đều dùng [Empress] để chỉ trường hợp một người phụ nữ trị vì một Đế quốc (Nữ hoàng) và vợ của Hoàng đế (tức Hoàng hậu).
Vào lúc này, để phân biệt rõ hơn, Nữ hoàng sẽ được thêm vào trợ từ [Regnant; ý là "người trị vì"], trở thành [Empress Regnant]. Còn các Hoàng hậu sẽ được thêm trợ từ [Consort; ý là "hôn phối của quốc chủ"], tức [Empress Consort].
So với Nữ vương
Ngôn ngữ báo chí hiện đại ở Việt Nam lẫn Trung Quốc đại lục, tình trạng xem Nữ hoàng đánh đồng với Nữ vương, thậm chí là với cả Hoàng hậu xảy ra khá phổ biến. Vương thất của Vương quốc Liên hiệp Anh là một [Royal family], tức "vương thất", và vị quân chủ hiện tại của họ là Elizabeth II chỉ là [Nữ vương]. Trong lịch sử nước Anh, chỉ có Victoria của Anh từng trở thành Nữ hoàng, nhưng đó lại là trường hợp phức tạp.
Năm 1877, Victoria được tôn xưng danh hiệu [Empress of India; Nữ hoàng Ấn Độ], biến Victoria vừa là Nữ vương của Vương quốc Liên hiệp Anh, lẫn Nữ hoàng của Đế quốc Ấn Độ. Tuy nhiên, trong vòng Vương quốc Liên hiệp Anh, Victoria không tự xưng Nữ hoàng mà chỉ được biết đến là Nữ vương, tức [Queen Victoria]. Vào thời kỳ Hongkong thuộc nước Anh, do từ [Vương; 王] cùng [Hoàng; 皇] có hiện tượng đồng âm, không ít báo đài gọi Elizabeth II là [Anh Nữ hoàng; 英女皇], dù thực tế bà không bao giờ tự xưng làm Nữ hoàng. Tình trạng này kéo theo ở Việt Nam.
Danh sách Nữ hoàng
Đế quốc Byzantine
Irene thành Athena (797 - 802), bà vốn là vợ của Hoàng đế Leon IV. Trước khi trở thành Nữ hoàng, Irene là Hoàng hậu từ năm 775 đến năm 780, và Hoàng thái hậu từ năm 780 đến năm 797, và lên ngôi Nữ hoàng sau khi phế truất con trai là Hoàng đế Konstantinos VI. Bà là vị Nữ hoàng Byzantine độc tài, tự sử dụng danh xưng [βασιλεύς] vốn chỉ dành cho đàn ông trong thời gian trị vì của mình, điều đó khiến bà chân chính là [Nữ Hoàng đế] duy nhất nếu so với hai người tiếp theo. Vì chống lại sự tự xưng Đế của bà, Giáo hoàng Lêô III đã phong cho Charlemagne làm Hoàng đế La Mã Thần thánh. Triều đại của bà tại vị 5 năm.
Zoë Porphyrogenita (1042 - 1050), con gái của Hoàng đế Konstantinos VIII, Hoàng hậu của Hoàng đế Romanos III Argyros và Mikhael IV. Trở thành Nữ hoàng của Byzantine sau cái chết của Hoàng đế Mikhael V, liên quan đến một chuỗi các sự kiện tranh chấp chính trị. Bà thoái vị nhường lại cho chồng mình, Hoàng đế Konstantinos IX Monomachos. Tại vị 8 năm.
Theodora Porphyrogenita (1042 - 1056), con gái của Hoàng đế Konstantinos VIII. Từng đồng trị vì với Zoe Porphyrogenita vào năm 1042, sau đó cùng trị vì với Konstantinos IX Monomachos cho đến khi vị Hoàng đế này qua đời. Theodora chính thức tự trị vì từ năm 1055 đến khi mất vào năm 1056. Bà là vị Nữ hoàng cuối cùng của toàn bộ Đế quốc Byzantine, tại vị 14 năm.
Đế quốc Trapezous
Theodora Megale Komnene (1284 – 1285), con gái của Hoàng đế Manuel I Megas Komnenos. Với sự giúp đỡ của Quốc vương David VI của Georgia, Theodora kế vị ngai vàng, trước khi bị đánh bại bởi Hoàng đế John II Megas Komnenos. Dù trị vì ngắn ngủi, nhưng Theodora đã kịp in đồng tiền của mình, đồng thời là Nữ hoàng duy nhất của Trapezous có hình trên tiền.
Irene Palaiologina (1340 – 1341), con gái của Hoàng đế Byzantine là Andronikos III Palaiologos. Bà trở thành Hoàng hậu của Hoàng đế Basil Megas Komnenos, sau đó kế vị khi Hoàng đế Basil qua đời thông qua một chuỗi diễn biến lịch sử.
Anna Anachoutlou (1341 - 1342), là con gái của Hoàng đế Alexios II Megas Komnenos, em gái của Andronikos III Palaiologos. Bà đánh bại người chị dâu Irene để trở thành Nữ hoàng, sau đó bị thế lực của Hoàng đế John III Megas Komnenos đánh bại và xử tử.
Đế quốc Nga
Ekaterina I Alekseyevna (1725 - 1727), vợ của Pyotr Đại đế. Sau khi chồng bà qua đời, Ekaterina được di chiếu kế vị, trở thành Nữ hoàng đầu tiên của Đế quốc Nga. Trường hợp hiếm hoi trong lịch sử, không có quan hệ huyết thống với hoàng tộc trị vì, song lại có thể trở thành quân chủ của triều đại ấy. Bà là quân chủ thứ hai của Đế quốc Nga đồng thời là Nữ hoàng đầu tiên, tại vị 2 năm.
Anna Ioannovna (1730 - 1740), con gái của Hoàng đế Ivan V của Nga. Bà kế vị sau khi cháu trai Pyotr II qua đời mà không có người thừa kế. Bà là quân chủ thứ tư của Đế quốc Nga, tại vị 10 năm.
Yelizaveta Petrovna (1741 - 1762), là con gái của Pyotr Đại đế và Nữ hoàng Yekaterina I. Bà lên ngôi sau một loạt đấu tranh chính trị, tiến hành chính biến vào năm 1741 để lật đổ người cháu là Hoàng đế Ivan VI. Bà là quân chủ thứ sáu của Đế quốc Nga, tại vị 20 năm.
Yekaterina II Velikaya (1762 - 1796), xuất thân quý tộc người Phổ, bà là Hoàng hậu của Hoàng đế Pyotr III, sau dùng binh biến để tự lập lên ngôi vị Hoàng đế. Quân chủ thứ 8 của Đế quốc Nga và cũng là Nữ hoàng cuối cùng trong lịch sử của Đế quốc, Ekaterina II được tôn sùng với danh xưng [Đại đế; Velikaya] vì những cống hiến của bà giúp Đế quốc Nga có được vị thế lớn đối với quốc tế. Bà là một trong hai vị [Đại đế] duy nhất trong lịch sử của Đế quốc Nga, bên cạnh vị Hoàng đế khai sáng triều đại là Pyotr I. Bà tại vị 34 năm, một trong hai vị Nữ hoàng tại vị trên 30 năm trong toàn bộ lịch sử thế giới.
Ấn Độ
Victoria của Anh (1877 – 1901), là Nữ vương của Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland. Từ năm 1877, khi chính phủ Anh thiết lập nên Đế quốc tại Ấn Độ, Victoria được tôn xưng là Nữ hoàng Ấn Độ. Bà là vị quân chủ duy nhất trong lịch sử Anh chính thức nhận tước hiệu cao quý [Nữ hoàng], trong khi còn lại đều chỉ là [Nữ vương]. Đồng thời, bà cũng là phụ nữ duy nhất trong lịch sử Ấn Độ được tôn xưng Nữ hoàng, bà tại vị 24 năm.
Tây Ban Nha
Urraca I của León và Castilla (1109 – 1126), vốn là Nữ vương của Vương quốc León, Vương quốc Castilla cùng Vương quốc Galicia. Bà tự xưng tôn vị [Empress of All the Spains; nghĩa là "Nữ hoàng của toàn bộ người Tây Ban Nha"] và [Empress of All Galicia; nghĩa là "Nữ hoàng của toàn bộ Galicia"].
Đế quốc Ethiopia
Zewditu (1916 - 1930), là Nữ hoàng của Đế quốc Ethiopia. Bà là con gái của Hoàng đế Menelik II, kế vị Hoàng đế của Ethiopia sau một loạt diễn biến chính trị, đánh dấu mốc bởi cái chết của Hoàng đế Iyasu V. Danh hiệu của bà theo bản ngữ là [Nigiste Negestatt; ንግሥተ ነገሥታት nígəstä nəgəstât], tức Queen of Kings hay ["Nữ vương của các Vương"], trực tiếp công nhận địa vị của Zewditu vượt lên mức thông thường, ngang hàng với khái niệm Nữ hoàng. Bà là Nữ hoàng đầu tiên trị vì một Đế quốc hiện hữu, được công nhận ở Châu Phi vào thế kỉ 19-20, và cũng là vị Nữ hoàng gần nhất trong lịch sử thế giới hiện đại. Tại vị 14 năm.
Trung Quốc
Võ Tắc Thiên (690 - 705), là Hoàng hậu của Đường Cao Tông Lý Trị. Võ Tắc Thiên sinh hạ Đường Trung Tông Lý Hiển và Đường Duệ Tông Lý Đán, bà trở thành Hoàng thái hậu, song lần lượt phế truất và ép buộc nhường ngôi đối với hai người con trai để tự lập làm Hoàng đế. Bà lập ra triều đại [Đại Chu], mà lịch sử Trung Quốc thường gọi là Võ Chu. Tại vị 15 năm.
Việt Nam
Lý Chiêu Hoàng (1224 - 1225), con gái thứ hai của Lý Huệ Tông. Chiêu Hoàng vốn là Công chúa nhà Lý, sau được Huệ Tông thiện nhượng để làm Thái thượng hoàng. Sau khoảng 1 năm trị vì, Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh và trở thành Hoàng hậu nhà Trần.
Nhật Bản
Thiên hoàng Suiko (592 - 628), con gái Thiên hoàng Kimmei, em gái đồng thời là Hoàng hậu của Thiên hoàng Bidatsu. Bà kế vị sau khi chồng bà là Thiên hoàng Bidatsu qua đời, trở thành vị Thiên hoàng thứ 33 của lịch sử Nhật Bản, và cũng là Nữ Thiên hoàng đầu tiên (có thể khảo chứng được) trong lịch sử của quốc gia này. Thời đại của bà khai sáng nên văn minh cho Nhật Bản, mở đầu thời kỳ Asuka đánh dấu mốc trong lịch sử, lập cháu trai Thánh Đức Thái tử làm Hoàng thái tử quản lý triều chính. Tại vị 36 năm, Thiên hoàng Suiko có số năm trị vì lâu hơn bất kì Nữ hoàng nào khác trong lịch sử thế giới.
Thiên hoàng Kōgyoku (642 - 645; 655 - 661), Hoàng hậu của Thiên hoàng Jomei, sau trở thành Thiên hoàng thứ 35 và 37 trong lịch sử Nhật Bản. Tại vị tổng cộng 9 năm. Triều đại của bà bị gián đoạn do chính biến cung đình của Thiên hoàng Tenji. Tuy từng bị ép nhượng vị, bà vẫn chưa được tôn làm Thái thượng Thiên hoàng, mà chỉ được xưng gọi [Hoàng tổ Mẫu tôn] trong thời gian này.
Thiên hoàng Jitō (690 - 697), con gái của Thiên hoàng Tenji, là cháu gái và cũng là Hoàng hậu của Thiên hoàng Tenmu. Năm 686, Thiên hoàng Tenmu qua đời, bà làm nhiếp chính thay cho người kế vị là Hoàng tử Kusakabe, song Hoàng tử cũng qua đời vào năm 689. Thế rồi sang năm sau, bà kế vị, trở thành vị Thiên hoàng thứ 41 của lịch sử Nhật Bản. Tại vị 7 năm rồi nhường ngôi cho Thiên hoàng Monmu, bà trở thành vị Thái thượng Thiên hoàng đầu tiên, và cũng là nữ giới đầu tiên trong lịch sử ở vị trí Thái thượng Thiên hoàng.
Thiên hoàng Gemmei (707 - 715), con gái của Thiên hoàng Tenji, em gái Thiên hoàng Jitō, vợ của Hoàng tử Kusakabe đồng thời là cô tổ mẫu lẫn mẹ ruột của Thiên hoàng Monmu. Sau khi Thiên hoàng Monmu băng hà mà không có kế tự, bà trở thành Thiên hoàng, là vị Thiên hoàng thứ 43 trong lịch sử Nhật Bản. Tại vị 8 năm, nhường ngôi cho con gái để về làm Thái thượng Thiên hoàng.
Thiên hoàng Genshō (715 - 724), là con gái của Hoàng tử Kusakabe và Thiên hoàng Gemmei. Vị Thiên hoàng thứ 44 trong lịch sử Nhật Bản, và là vị Nữ Thiên hoàng duy nhất kế vị do được một Nữ Thiên hoàng khác nhường ngôi. Tại vị 9 năm, nhường ngôi cho Thiên hoàng Shōmu để làm Thái thượng Thiên hoàng.
Thiên hoàng Kōken (749 - 758; 764 - 770), con gái của Thiên hoàng Shōmu, là Thiên hoàng thứ 46 và 48 trong lịch sử Nhật Bản. Năm 749, được phụ hoàng thiện vị, đến năm 758 lại nhượng vị cho biểu đệ là Thiên hoàng Junnin nhưng thực tế bà vẫn nắm đại quyền của một Thái thượng Thiên hoàng. Năm 764, do Fujiwara no Nakamaro khởi loạn mà lại lần nữa đăng vị. Tại vị tổng cộng 15 năm, mở ra thời kỳ Nara toàn thịnh trong lịch sử Nhật Bản.
Thiên hoàng Meishō (1629 - 1643), con gái của Thiên hoàng Go-Mizunoo và Tokugawa Masako. Vị Thiên hoàng thứ 109 trong lịch sử Nhật Bản, tại vị 14 năm. Nhường ngôi cho Thiên hoàng Go-Kōmyō để trở thành Thái thượng Thiên hoàng.
Thiên hoàng Go-Sakuramachi (1762 - 1770), con gái Thiên hoàng Sakuramachi và là chị gái của Thiên hoàng Momozono. Vì để chấp chính cho cháu trai là Thiên hoàng Go-Momozono còn nhỏ tuổi, bà nên mới tạm thay triều chính, trở thành vị Thiên hoàng thứ 117 trong lịch sử Nhật Bản, tại vị 8 năm. Sau đó Thiên hoàng Go-Momozono trưởng thành, bà thiện vị trở thành Thái thượng Thiên hoàng, tiếp tục giữ vai trò phụ chính cho đến khi qua đời. Tính đến thời điểm hiện tại, bà là vị Nữ Thiên hoàng cuối cùng trong lịch sử của Nhật Bản.
Những người trên danh nghĩa
Trong lịch sử cũng có những trường hợp, về lý thuyết thì chính là Nữ hoàng, song về nhiều phương diện nào đó thì danh vị của họ không được công nhận. Có thể kể đến những người này đều bị kẹt giữa thời đại chính trị hỗn loạn hoặc mạt vận.
Trung Quốc
Nguyên thị (528), con gái duy nhất của Bắc Ngụy Hiếu Minh Đế. Hồ Thái hậu khi ấy là nhiếp chính thời Hiếu Minh Đế, vì Hoàng đế chết mà không có con trai, Thái hậu đã giả mạo Nguyên thị là hoàng tử, và bê lên đăng vị ngai vàng vào ngày 1 tháng 4 năm 528. Sang ngày hôm sau, Thái hậu thay Nguyên thị bằng Nguyên Chiêu. Các sử gia Trung Quốc không công nhận Nguyên thị như một Hoàng đế chính thức.
Trần Thạc Chân (653), thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân vào đầu thời Đường Cao Tông. Bà cải nam trang, tự xưng [Văn Giai Hoàng đế], khởi nghĩa ở Mục Châu. Cuộc khởi nghĩa nhanh chóng thất bại, bản thân bà trong năm đó cũng bị giết. Dù nhiều thông tin chính thống không công nhận bà là Nữ hoàng đế, song học giả Trung Quốc hiện đại như Jian Bozan đã bắt đầu thừa nhận bà.
Nhật Bản
Hoàng hậu Jingu, cũng gọi Thiên hoàng Jingu (神功天皇; Thần Công Thiên hoàng), vợ của Thiên hoàng Chūai, mẹ của Thiên hoàng Ōjin. Sau khi Thiên hoàng Chūai qua đời, Hoàng hậu Jingu tiến hành nhiếp chính, tổng 39 năm, là người thống trị trên thực tế của Nhật Bản khi ấy. Trước thời Minh Trị, bà thường được xem là một Thiên hoàng thật sự, nhiều lần được liệt vào danh sách Thiên hoàng và là ["Nữ Thiên hoàng"] đầu tiên thay thế Thiên hoàng Suiko. Nhưng hiện nay bà chỉ được xem là Hoàng hậu nhiếp chính.
Hoàng nữ Iitoyo, tức Phạn Phong Thanh Hoàng nữ (飯豐青皇女), Cổ sự ký ghi bà là con gái đầu của Thiên hoàng Richū, trong khi Nhật Bản thư kỷ ghi bà là con gái Hoàng tử Ichinobe no Oshiwa. Thời điểm Thiên hoàng Seinei qua đời đến khi Thiên hoàng Kenzō lên ngôi, bà đã lâm triều thính chính trong giai đoạn ngắn. Cả hai sách trên đều không xem bà là Nữ Thiên hoàng, trong khi Fusō Ryakuki lại ghi bà là Thiên hoàng thứ 24, xưng gọi 「Phạn Phong Thiên hoàng; 飯豐天皇」.
Hoàng nữ Hashihiyo, tức Gian Nhân Hoàng nữ (間人皇女), lại gọi 「Trung hoàng mệnh; 中皇命」, con gái Thiên hoàng Jomei, vợ của Thiên hoàng Kōtoku. Giữa lúc Thiên hoàng Kōgyoku qua đời cho đến khi Thiên hoàng Tenji đăng cơ, bà đã tạm thời lãnh chính, thậm chí từng lên ngôi ngắn ngủi.
Đế quốc Brazil
Isabel, Thái nữ của Brazil, con gái cả của Hoàng đế Pedro II của Brazil. Sau khi em trai là Hoàng thái tử Afonso qua đời, bà được lập làm Trữ quân của Đế quốc với danh hiệu 「Princess Imperial」, tương đương "Hoàng thái nữ" theo cách dịch Đông Á. Năm 1889, Đế chế Brazil bị lật đổ, 2 năm sau (1891) thì Hoàng đế Pedro qua đời, Isabel trên danh nghĩa chính là Nữ hoàng của Đế chế Brazil cũ.
Triều Tiên
Lý Hải Viện (李海瑗; 이해원), cháu gái Triều Tiên Cao Tông, con gái thứ của Nghĩa Thân vương Lý Cương (李堈; 이강). Bà là người thứ 3 nhận địa vị Lĩnh chủ của Triều Tiên gia tộc, thường tự xưng 「Văn hóa Đại Hàn Đế quốc Nữ hoàng; 文化大韓帝國女皇; 문화대한제국여제」. |
Chế độ quân chủ tại Vương quốc Anh bắt đầu từ Alfred Vĩ đại với danh hiệu Vua của Anglo-Saxons và kết thúc bởi Nữ vương Anne, người đã trở thành Nữ vương Vương quốc Liên hiệp khi Vương quốc Anh và Vương quốc Scotland thành lập liên minh năm 1707.
Một số dẫn chứng cho rằng một số vị vua đã từng đừng đầu vương quốc Anglo-Saxons được coi là các vị vua đầu tiên của vương quốc Anh. Ví dụ Offa, vua của Mercia, và Egbert, vua của Wessex được các nhà văn nổi tiếng coi là những vị vua đầu tiên của vương quốc Anh, nhưng một số nhà sử học không cho rằng như vậy. Vào cuối thế kỷ thứ VIII Offa đã thống trị miền nam nước Anh và qua đời năm 796. Năm 829 Egbert chinh phục Mercia, nhưng không kiểm soát được lâu. Vào cuối thế kỷ thứ IX Wessex đã chi phối vương quốc Anglo-Saxon. Vua của Wessex là Alfred Đại đế là lãnh chúa của phía tây Mercia và đã sử dụng tước hiệu Vua của Angles và Saxons, ông không bao giờ kiểm soát được miền đông và miền bắc Anh. Con trai ông, Edward Trưởng giả đã chinh phạt đông Danelaw, nhưng con trai của Edward, Æthelstan mới là người cai trị toàn bộ vương quốc Anh sau khi chinh phạt Northumbria năm 927, ông được các nhà sử học hiện đại coi là vị vua đầu tiên của vương quốc Anh.
Hoàng hậu Matilda (1102-1167) là vua Anh duy nhất thường được gọi là "hoàng đế" hay "Nữ hoàng", nhưng danh hiệu đó có được thông qua cuộc hôn nhân của bà với Heinrich V của Thánh chế La Mã và có tính hợp pháp ít nhất là Nữ hoàng Anh.
Lãnh địa xứ Wales được sáp nhập vào vương quốc Anh theo Điều lệ Rhuddlan năm 1284, và năm 1301 vua Edward I trao cho con trai cả của mình, vị vua tương lai Edward II tước hiệu Thân vương xứ Wales. Kể từ thời điểm đó, trừ vua Edward III, tất cả con trai cả của vua Anh đều mang tước hiệu này.
Trong thời gian cai trị của Henry VIII của Anh, một Đạo luật của Quốc hội tuyên bố rằng nước Anh là một đế quốc, lãnh đạo bởi Tể tướng và nhà vua sở hữu vinh dự và tài sản hoàng gia như một vị Hoàng đế. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc lập ra danh hiệu của Hoàng đế của Anh hay Hoàng đế của Vương quốc Anh. Sau khi Nữ vương Elizabeth I qua đời năm 1603 khi không có con cái, vua James VI của Scotland đã được lên ngôi vua vương quốc Anh và đã trở thành James I của Anh. Theo sự tuyên bố hoàng gia, James có tước hiệu "vua của Liên hiệp Anh" () nhưng không sáp nhập vương quốc tới năm 1707 dưới sự trị vì của nữ vương Anne, xứ Anh đã sáp nhập với Scotland để lập lên vương quốc mới theo luật liên minh năm 1707, vương quốc mới là Vương quốc Liên hiệp Anh. Tước hiệu sau này là Quân vương Vương quốc Liên hiệp Anh.
Chú ý: Danh sách này liệt kê các quốc vương và nữ vương của Vương quốc Anh (England Kingdom), không phải là quốc vương và nữ vương của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland (United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland), một quốc gia có chủ quyền mà trong đó có 4 quốc gia cấu thành, gồm: Anh, Wales, Scotland, Bắc Ireland.
Vương tộc Wessex
|-
| AlfredAlfred Vĩ đạik. 886–26 tháng 10, 899(13 năm)
|
| 849Con trai của Æthelwulf xứ Wessexvà Osburh
| Ealhswith xứ Gainsborough8685 con
| 26 tháng 10, 899Thọ 50 tuổi
| Con trai của Æthelwulf xứ WessexHiệp ước Wedmore
|-
| EdwardEdward Trưởng giả26 tháng 10, 899–17 tháng 7, 924()
|
| Con trai của Alfred Vĩ đạivà Ealhswith
| Ecgwynn2 con Ælfflæd8 con Eadgifu xứ Kent4 con
| 17 tháng 7, 924Thọ 50 tuổi
| Con trai của Alfred
|}
|}
|-
| ÆthelstanÆthelstan Vinh quang924–27 tháng 10, 939(14–15 năm)
|
| 894Con trai của Edward Trưởng giảvà Ecgwynn
| Không kết hôn
| 27 tháng 10, 939Thọ 45 tuổi
| Con trai của Edward Trưởng giả
|-
| Edmund IEdmund Cao ngạo27 tháng 10, 939–26 tháng 5, 946()
|
| Con trai của Edward Trưởng giảvà Eadgifu xứ Kent
| Ælfgifu xứ Shaftesbury2 con Æthelflæd xứ Damerham944Không con
| 26 tháng 5, 946PucklechurchBị giết trong một cuộc ẩu đả vào khoảng năm 25 tuổi
| Con trai của Edward Trưởng giả
|-
| Eadred26 tháng 5, 946–23 tháng 11, 955()
|
| Con trai của Edward Trưởng giảvà Eadgifu xứ Kent
| Không kết hôn
| 23 tháng 11, 955FromeThọ 32 tuổi
| Con trai của Edward Trưởng giả
|-
| EadwigEadwig Công chính23 tháng 11, 955–1 tháng 10, 959()
|
| Con trai của Edmund Ivà Ælfgifu xứ Shaftesbury
| ÆlfgifuKhông có con được xác minh
| 1 tháng 10, 959Thọ 19 tuổi
| Con trai của Edmund I
|-
| EdgarEdgar Hòa bình1 tháng 10, 959–8 tháng 7, 975()
|
| WessexCon trai của Edmund Ivà Ælfgifu xứ Shaftesbury
| Æthelflæd1 con Ælfthryth2 con
| 8 tháng 7, 975WinchesterThọ 31 tuổi
| Con trai của Edmund I
|-
| EdwardEdward Tuẫn đạo8 tháng 7, 975–18 tháng 3, 978()
|
| Con trai của Edgar Hòa bìnhvà Æthelflæd
| Không kết hôn
| 18 tháng 3, 978Lâu đài CorfeBị ám sát vào khoảng năm 16 tuổi
| Con trai của Edgar Hòa bình
|-
| (Trị vì lần đầu)ÆthelredÆthelred Bất tài18 tháng 3, 978–1013(34–35 năm)
|
| Con trai của Edgar Hòa bìnhvà Ælfthryth
| Ælfgifu xứ York9919 con Emma xứ Normandie10023 con
| 23 tháng 4, 1016LondonThọ 48 tuổi
| Con trai của Edgar Hòa bình
|}
Vương tộc Đan Mạch
Xứ Anh nằm dưới sự kiểm soát của Sweyn Forkbeard, một vị vua Đan Mạch, sau một cuộc xâm lược vào năm 1013, trong đó Æthelred bỏ ngai vàng và sống lưu vong ở Normandy.
|-
| SweynSweyn Forkbeard25 tháng 12, 1013–3 tháng 2, 1014()
|
| 17 April 963Đan MạchCon trai của Harald Bluetoothvà Tove hoặc Gunhild
| Gunhild xứ Wenden7 con Sigrid Kiêu căng1 con
| 3 tháng 2, 1014GainsboroughThọ 50 tuổi
| Quyền Chinh phạt
|}
Vương tộc Wessex (phục tịch lần 1)
Sau cái chết của Sweyn Forkbeard, Æthelred đang sống lưu vong và một lần nữa lên ngôi vào ngày 3 tháng 2, 1014. Con trai ông kế nhiệm ông sau khi được bầu làm vua bởi công chúng của Luân Đôn và một phần của Hội đồng cố vấn Witan, bất chấp những nỗ lực không ngừng của người Đan Mạch nhằm giành lấy vương miện từ tay người Tây Saxon.
|-
| (Trị vì lần 2)ÆthelredÆthelred Bất tài3 tháng 2, 1014–23 tháng 4, 1016()
|
| Con trai của Edgar Hòa bìnhvà Ælfthryth
| Ælfgifu xứ York9919 con Emma xứ Normandie10023 con
| 23 tháng 4, 1016LondonThọ 48 tuổi
| Con trai của Edgar Hòa bình
|-
| Edmund IIEdmund Phi thường23 tháng 4, 1016–30 tháng 11, 1016()
|
| Con trai của Æthelredvà Ælfgifu xứ York
| Edith xứ Đông Anglia2 con
| 30 tháng 11, 1016GlastonburyThọ 26 tuổi
| Con trai của Æthelred
|}
Vương tộc Đan Mạch (phục tịch)
Sau trận chiến Assandun ngày 18 tháng 10, 1016, Edmund II đã ký hiệp ước với Cnut trong đó tất cả xứ Anh trừ vùng Wessex sẽ được kiểm soát bởi Cnut. Sau cái chết của Edmund ngày 30 tháng 11, 1016, Cnut cai trị vương quốc Anh với tư cách là vị vua duy nhất trong hơn 19 năm sau đó.
| CnutCnut Vĩ đại18 tháng 10, 1016–12 tháng 11, 1035()
|
| Con trai của Sweyn Forkbeardvà Gunhilda của Ba Lan
| Ælfgifu xứ Northampton2 con Emma xứ Normandy10172 con
| 12 tháng 11, 1035ShaftesburyThọ 40 tuổi
| Con trai của SweynHiệp ước Deerhurst
|-
| Harold IHarold Harefoot12 tháng 11, 1035–17 tháng 3, 1040()
|
| Con trai của Cnut Vĩ đạivà Ælfgifu xứ Northampton
|
| 17 tháng 3, 1040OxfordThọ 24 tuổi
| Con trai của Cnut Vĩ đại
|-
| Harthacnut17 tháng 3, 1040–8 tháng 6, 1042()
|
| 1018Con trai của Cnut Vĩ đạivà Emma xứ Normandie
| Không kết hôn
| 8 tháng 6, 1042LambethThọ 24 tuổi
| Con trai của Cnut Vĩ đại
|}
Vương tộc Wessex (phục tịch lần 2)
Sau Harthacnut, người Anglo-Saxon trở lại ngai vàng trong giai đoạn ngắn từ 1042 đến 1066.
|-
| EdwardEdward Người Tuyên xưng Đức tin8 tháng 6, 1042–5 tháng 1, 1066()
|
| IslipCon trai của Æthelredvà Emma xứ Normandie
| Edith xứ Wessex23 tháng 1, 1045Không con
| 5 tháng 1, 1066Cung điện WestminsterThọ 63 tuổi
| Con trai của Æthelred
|}
Vương tộc Godwin
|-
| Harold IIHarold Godwinson6 tháng 1, 1066–14 tháng 10, 1066()
|
| Con trai của Godwin xứ Wessexvà Gytha Thorkelsdóttir
| Edith Swannesha5 con Ealdgyth2 con
| 14 tháng 10, 1066HastingsTử trận trong Trận Hastings năm 44 tuổi
| Được chọn làm người Kế vị bởi Edward Người Tuyên xưng Đức tinTuyển cử bởi Witenagemot
|}
|}
Vương tộc Normandy
Năm 1066, một số nhân vật nổi lên để tranh giành ngai vàng Anh. Trong số họ có Harold Godwinson (được Hội đồng cố vấn Witenagemot sau cái chết của Edward Người Tuyên xưng Đức tin), Vua Harald Hardrada của Na Uy (người tuyên bố mình là người kế vị hợp pháp của Harthacnut) và William II, Công tước xứ Normandy (một chư hầu của Vua Pháp, cháu của Edward Người Tuyên xưng Đức tin). Harald và William đều lên kế hoạch xâm lược nước Anh một cách riêng biệt vào năm 1066. Godwinson đã thành công đẩy lùi cuộc xâm lược của Hardrada, nhưng cuối cùng đã mất ngai vàng vào tay William trong Cuộc xâm lược Anh của người Norman.
Sau Trận Hastings vào ngày 14 tháng 10, 1066, William I chuyển vĩnh viễn thủ đô từ Winchester tới London. Sau khi Harold Godwinson tử trận ở Hastings, Hội đồng người Anglo-Saxon, Witenagemot bầu lên Edgar Ætheling, con trai của Edward Đày ải và cháu trai của Edmund II, làm vua. Vị vua trẻ đã không thể kháng cự quân xâm lược và chưa bao giờ đăng quang. William sau đó đăng quang và trở thành Vua William I của Anh vào ngày Giáng sinh năm 1066, tại Tu viện Westminster.
|-
| William IWilliam Nhà chinh phạt25 tháng 12, 1066–9 tháng 9, 1087()
|
| Lâu đài FalaiseCon trai của Robert Cao ngạovà Herleva
| Matilda xứ FlandersNormandy10539 con
| 9 tháng 9, 1087RouenThọ 59 tuổi
| Được chọn làm người Kế vị bởi Edward Người Tuyên xưng Đức tinCháu của Edward Người Tuyên xưng Đức tinQuyền Chinh phạt
|-
| William IIWilliam Rufus26 tháng 9, 1087–2 tháng 8, 1100()
|
| NormandyCon trai của William Ivà Matilda xứ Flanders
| Không kết hôn
| 2 tháng 8, 1100New ForestBị bắn chết bởi một mũi tên năm 44 tuổi
| Con trai của William IĐược trao Vương quốc Anh thay vì anh trai là [[Robert II xứ Normandie
Robert Curthose]] (người sẽ làm Công tước xứ Normandy)
|-
| Henry IHenry Beauclerc5 tháng 8, 1100–1 tháng 12, 1135()
|
| Tháng 9, 1068SelbyCon trai của William Ivà Matilda xứ Flanders
| Matilda của ScotlandTu viện Westminster11 tháng 11, 11002 con Adeliza xứ LouvainLâu đài Windsor29 tháng 1, 1121Không con
| 1 tháng 12, 1135Saint-Denis-en-LyonsThọ 67 tuổi
| Con trai của William ISoán ngôi (từ Robert Curthose)
|}
Vương tộc Blois
Henry I không có người Kế vị hợp pháp là nam giới vì con trai của ông, William Adelin, đã chết trong thảm họa Con tàu trắng năm 1120. Điều này đã chấm dứt dòng dõi trực tiếp của các vị vua Norman ở Anh. Henry chọn con gái lớn của mình, Matilda (hay Bá tước phu nhân xứ Anjou sau cuộc hôn nhân thứ hai với Geoffrey Plantagenet, Bá tước Anjou và Hoàng hậu qua cuộc hôn nhân đầu tiên với Heinrich V của Thánh chế La Mã), với tư cách là người Kế vị của ông. Trước khi chọn Matilda làm người Kế vị, ông đã đàm phán để chọn cháu trai của mình Stephen của Blois làm người Kế vị của mình. Khi Henry qua đời, Stephen đến Anh, và trong một cuộc binh biến, chính ông đã lên ngôi thay cho Matilda. Khoảng thời gian sau đó được gọi là Thời kỳ Hỗn loạn (The Anarchy) - một cuộc nội chiến kéo dài hơn hai thập kỷ.
|-
| StephenStephen xứ Blois22 tháng 12, 1135–25 tháng 10, 1154()
|
| BloisCon trai của Stephen II xứ Bloisvà Adela xứ Normandy
| Matilda xứ BoulogneWestminster11256 con
| 25 tháng 10, 1154Lâu đài DoverThọ 58 tuổi
| Cháu trai của William ITuyển cửsoán ngôi
|}
Bá tước Eustace IV xứ Boulogne (k. 1130 – 17 tháng 8, 1153) được chọn làm đồng quân vương của xứ Anhbởi cha ông, Vua Stephen, vào ngày 6 tháng 4, 1152, để đảm bảo người thừa kế cho ngai vàng của ông (theo một phong tục ở Pháp, không phải ở Anh). Giáo hoàng và Giáo hội đã không đồng ý với điều này, và Eustace chưa bao giờ đăng quang. Eustace mất vào năm sau lúc 23 tuổi trước cả cha mình, và vì thế chưa bao giờ trở thành vua để tự trị vì.
|}
Vương tộc Anjou/Plantagenet
Vua Stephen đã đi đến một thỏa thuận với Matilda vào tháng 11 năm 1153 với việc ký kết Hiệp ước Wallingford, trong đó Stephen công nhận Henry, con trai của Matilda và người chồng thứ hai của bà Geoffrey Plantagenet xứ Anjou, với tư cách là người Kế vị của mình. Gia tộc có nguồn gốc từ cuộc hôn nhân của Matilda và Geoffrey được biết đến rộng rãi với hai cái tên, Vương tộc Anjou (theo tước hiệu Bá tước xứ Anjou của Geoffrey) và Vương tộc Plantagenet, theo biệt hiệu của ông. Trên thực tế, các quốc vương từ Henry II đến Richard II đều thuộc dòng dõi phụ hệ chính từ Geoffrey, tức là cùng chung một Vương tộc. Tuy nhiên, các sử gia hiện đại thường coi các quốc vương từ Henry II đến John thuộc về vương tộc Anjou, khi họ vẫn cai trị Đế chế Angevin, trong khi các quốc vương từ Henry III đến Richard II thuộc về vương tộc Plantagenet, khi Đế chế Angevin đã sụp đổ. Các quốc vương sau đó, dù vẫn là các dòng phụ hệ thứ của Vương tộc Anjou và Plantagenet, được gọi là Vương tộc Lancaster và Vương tộc York trong Chiến tranh Hoa Hồng.
Các quốc vương thuộc Vương tộc Anjou, thường được gọi là người Angevin (tiếng Pháp có nghĩa là "từ Anjou") cai trị Đế chế Angevin trong thế kỷ 12 và 13, một khu vực trải dài từ dãy núi Pyrenees đến Ireland. Họ không coi xứ Anh là quê hương chính của mình cho đến khi hầu hết các lãnh thổ trên lục địa của họ bị mất vào tay các thế lực khác dưới thời Vua John. Người Angevin đã bắt đầu sử dụng Vương huy Vương thất Anh, thường biểu thị biểu tượng của các vương quốc do họ hoặc những người kế vị nắm giữ hoặc tuyên bố chủ quyền, mặc dù không có biểu tượng của Ireland trong một thời gian khá dài. Dieu et mon droit lần đầu tiên được sử dụng làm phương châm bởi Richard I vào năm 1198 tại Trận chiến Gisors, nơi ông đánh bại lực lượng của Philippe II của Pháp. Nó thường được sử dụng như châm ngôn của các quốc vương Anh kể từ khi được thông qua bởi Edward III.
|-
| Henry IIHenry Curtmantle19 tháng 12, 1154–6 tháng 7, 1189()
|
|
| 5 tháng 3, 1133Le MansCon trai của Geoffroy V xứ Anjouvà Matilda
| Aliénor của AquitaineNhà thờ Bordeaux18 tháng 5, 11528 con
| 6 tháng 7, 1189ChinonThọ 56 tuổi
| Cháu trai của Henry IHiệp ước Wallingford
|-
| colspan=99 | Henry II chọn con trai mình, Henry Vua trẻ (1155–1183), làm đồng quân vương với ông nhưng đây vốn là một phong tục của người Norman trong việc chọn ra người kế vị, và Henry Vua trẻ đã không thể sống lâu hơn cha mình để kế vị ông và trở thành vị vua tự trị vì, nên ông không được tính là một quân chủ chính thống.
|-
| Richard IRichard Trái tim Sư tử3 tháng 9, 1189–6 tháng 4, 1199()
|
| rowspan=2 |
| 8 tháng 9, 1157Cung điện BeaumontCon trai của Henry IIvà Aliénor của Aquitaine
| Berenguela của NavarraLimassol12 tháng 5, 1191Không con
| 6 tháng 4, 1199ChâlusBị bắn chết bởi một tia nỏ năm 41 tuổi
| Con trai của Henry IIQuyền Kế vị
|-
| JohnJohn Thiếu đất27 tháng 5, 1199–19 tháng 10, 1216()
|
| 24 tháng 12, 1166Cung điện BeaumontCon trai của Henry IIvà Aliénor của Aquitaine
| Isabel xứ GloucesterLâu đài Marlborough29 tháng 8, 1189Không con Isabelle I xứ AngoulêmeNhà thờ Bordeaux24 tháng 8, 12005 con
| 19 tháng 10, 1216Newark-on-TrentThọ 49 tuổi
| Con trai của Henry IIĐề cửQuan hệ Máu mủ
|}
|}
Vương tộc Plantagenet
Vương tộc Plantagenet lấy tên từ Geoffrey Plantagenet xứ Anjou, chồng của Matilda và cha của Henry II. Cái tên Plantagenet không được biết đến là một họ đến tận khi Richard xứ York lấy nó làm họ của mình vào thế kỷ 15. Kể từ đó, nó đã được áp dụng làm tên cho vương tộc cho các quốc vương xứ Anh từ Henry II trở đi. Tuy nhiên, các sử gia hiện đại thường coi Henry II và các con trai của ông là thành viên của Vương tộc Anjou, hay Angevin nhờ đế chế lục địa rộng lớn của mình, và hầu hết các vị vua Angevin trước John đã dành nhiều thời gian ở các thuộc địa lục địa của họ hơn là ở xứ Anh.
Kể từ Henry III, sau khi mất hầu hết đất trên lục địa, các vị vua Plantagenet đã giành nhiều thời gian ở Anh hơn. Các vương tộc Lancaster và York đều là các nhánh thứ của vương tộc Plantagenet.
|-
| Henry IIIHenry xứ Winchester28 tháng 10, 1216–16 tháng 11, 1272()
|
| rowspan=3 |
| 1 tháng 10, 1207Lâu đài WinchesterCon trai của Johnvà Isabelle I xứ Angoulême
| Éléonore xứ ProvenceNhà thờ Canterbury14 tháng 1, 12365 con
| 16 tháng 11, 1272Cung điện WestminsterThọ 65 tuổi
| Con trai của JohnQuyền Kế vị
|-
| Edward IEdward Chân dài20 tháng 11, 1272–7 tháng 7, 1307()
|
| 17 tháng 6, 1239Cung điện WestminsterCon trai của Henry IIIvà Éléonore xứ Provence
| Leonor của CastillaTu viện Santa María la Real de Las Huelgas18 tháng 10, 125416 con Margaret của PhápCanterbury10 tháng 9, 12993 con
| 7 tháng 7, 1307Burgh by SandsThọ 68 tuổi
| Con trai của Henry IIIQuyền Kế vị
|-
| Edward IIEdward xứ Caernarfon8 tháng 7, 1307–thoái vị 20 tháng 1, 1327()
|
| 25 tháng 4, 1284Lâu đài CaernarfonCon trai của Edward Ivà Leonor của Castilla
| Isabelle của PhápNhà thờ Boulogne24 tháng 1, 13084 con
| 21 tháng 9, 1327Lâu đài BerkeleyBị ám sát vào năm 43 tuổi
| Con trai của Edward IQuyền Kế vị
|-
| Edward IIIEdward xứ Windsor25 tháng 1, 1327–21 tháng 6, 1377()
|
|
| 13 tháng 11, 1312Lâu đài WindsorCon trai của Edward IIvà Isabelle của Pháp
| Philippa xứ HainaultNhà thờ York25 tháng 1, 132814 con
| 21 tháng 6, 1377Cung điện SheenThọ 64 tuổi
| Con trai của Edward IIQuyền Kế vị
|-
| Richard IIRichard xứ Bordeaux22 tháng 6, 1377–29 tháng 9, 1399()
|
|
| 6 tháng 1, 1367BordeauxCon trai của Edward Hắc Vương tửvà Joan xứ Kent
| Anne xứ Bohemia14 tháng 1, 1382Không con Isabelle của ValoisCalais4 tháng 11, 1396Không con
| 14 tháng 2, 1400Lâu đài PontefractThọ 33 tuổi
| Cháu trai Edward IIIQuyền Kế vị
|}
Vương tộc Lancaster
Vương tộc Lancaster có nguồn gốc từ con trai thứ ba còn sống của Edward III, John xứ Gaunt. Henry IV soán ngôi Richard II (và cũng thay thế vị trí kế vị ngai vàng của Edmund Mortimer (khi ấy 7 tuổi), một hậu duệ của con trai thứ hai của Edward III, Lionel xứ Antwerp).
|-
| Henry IVHenry xứ Bolingbroke30 tháng 9, 1399–20 tháng 3, 1413()
|
|
| Tháng 4, 1367Lâu đài BolingbrokeCon trai của John xứ Gauntvà Blanche xứ Lancaster
| Mary xứ BohunLâu đài Arundel27 tháng 7, 13806 con Joan xứ NavarraNhà thờ Winchester7 tháng 2, 1403Không con
| 20 tháng 3, 1413Tu viện WestminsterThọ 45 tuổi
| Cháu traiNgười Kế vị của Edward IIISoán ngôi
|-
| Henry VHenry xứ Monmouth21 tháng 3, 1413–31 tháng 8, 1422()
|
|
| 16 tháng 9, 1386Lâu đài MonmouthCon trai của Henry IVvà Mary xứ Bohun
| Catherine xứ ValoisNhà thờ Troyes2 tháng 6, 14201 con
| 31 tháng 8, 1422Lâu đài VincennesThọ 35 tuổi
| Con trai của Henry IVQuyền Kế vị Phụ hệ
|-
| (Trị vì lần đầu)Henry VI1 tháng 9, 1422–4 tháng 3, 1461()
|
|
| 6 tháng 12, 1421Lâu đài WindsorCon trai của Henry Vvà Catherine xứ Valois
| Margaret xứ AnjouTu viện Titchfield22 tháng 4, 14451 con
| 21 tháng 5, 1471Tháp Luân ĐônĐược cho là bị ám sát năm 49 tuổi
| Con trai của Henry VQuyền Kế vị Phụ hệ
|}
Vương tộc York
Vương tộc York tuyên bố quyền thừa kế ngai vàng với nguồn gốc từ con trai thứ hai còn sống của Edward III, Lionel xứ Antwerp, nhưng nó thừa hưởng cái tên của mình từ người con trai thứ tư còn sống của Edward, Edmund xứ Langley, Duke of York đầu tiên.
Chiến tranh Hoa Hồng (1455–1485) chứng kiến ngai vàng được chuyển qua lại giữa hai vương tộc đối thủ của nhau, Lancaster và York.
|-
| (Trị vì lần đầu)Edward IV4 tháng 3, 1461–3 tháng 10, 1470()
|
|
| 28 tháng 4, 1442RouenCon trai của Richard xứ Yorkvà Cecily Neville
| Elizabeth WoodvilleGrafton Regis1 tháng 5, 146410 con
| 9 tháng 4, 1483Cung điện WestminsterThọ 40 tuổi
| Chút traiNgười Kế vị của Edward IIISoán ngôiĐạo luật Accord
|}
Vương tộc Lancaster (phục tịch)
|-
| (Trị vì lần hai)Henry VI3 tháng 10, 1470–11 tháng 4, 1471()
|
|
| 6 tháng 12, 1421Lâu đài WindsorCon trai của Henry Vvà Catherine xứ Valois
| Margaret xứ AnjouTu viện Titchfield22 tháng 4, 14451 con
| 21 tháng 5, 1471Tháp Luân ĐônĐược cho là bị ám sát năm 49 tuổi
| Con trai của Henry VSoán ngôi
|}
Vương tộc York (phục tịch)
|-
| (Trị vì lần hai)Edward IV11 tháng 4, 1471–9 tháng 4, 1483()
|
| rowspan=3 |
| 28 tháng 4, 1442RouenCon trai của Richard xứ Yorkvà Cecily Neville
| Elizabeth WoodvilleGrafton Regis1 tháng 5, 146410 con
| 9 tháng 4, 1483Cung điện WestminsterThọ 40 tuổi
| Chút traiNgười Kế vị của Edward IIISoán ngôiĐạo luật Accord
|-
| Edward V9 tháng 4, 1483–25 tháng 6, 1483()
|
| 2 tháng 11, 1470WestminsterCon trai của Edward IVvà Elizabeth Woodville
| Không kết hôn
| Biến mất vào giữa năm 1483LondonĐược cho là bị ám sát năm 12 tuổi
| Con trai của Edward IVQuyền Kế vị
|-
| Richard III26 tháng 6, 1483–22 tháng 8, 1485()
|
| 2 tháng 10, 1452Lâu đài FotheringhayCon trai của Richard xứ Yorkvà Cecily Neville
| Anne NevilleTu viện Westminster12 tháng 7, 14721 con
| 22 tháng 8, 1485Trận BosworthTử trận năm 32 tuổi
| Chút trai của Edward IIITitulus Regius
|}
Vương tộc Tudor
Vương tộc Tudors có nguồn gốc theo mẫu hệ từ John Beaufort, một trong những người con ngoài giá thú của John of Gaunt (người con trai thứ ba còn sống của Edward III), với tình nhân lâu năm của Gaunt Katherine Swynford. Hậu duệ của những người con ngoài giá thú của các vị vua xứ Anh sẽ không có quyền kế vị ngai vàng, nhưng tình hình trở nên phức tạp hơn khi Gaunt và Swynford cuối cùng đã kết hôn vào năm 1396 (25 năm sau khi John Beaufort ra đời). Về cuộc hôn nhân này, Giáo hội đã tuyên bố nhà Beaufort được hợp pháp hóa thông qua một sắc lệnh của giáo hoàng trong cùng một năm. Nghị viện cũng làm điều tương tự như vậy trong một Đạo luật ban hành năm 1397. Trong một tuyên bố sau đó bởi con trai hợp pháp của John xứ Gaunt, Vua Henry IV, cũng công nhận tính hợp pháp của nhà Beaufort, nhưng tuyên bố họ không đủ tư cách để kế vị ngai vàng. Tuy nhiên, nhà Beaufort vẫn giữ quan hệ đồng minh với các hậu duệ khác của Gaunt, những thành viên của Vương tộc Lancaster.
Cháu gái của John Beaufort, Quý bà Margaret Beaufort cưới Edmund Tudor. Tudor là con trai của một vị quan xứ Wales tên là Owain Tudur (được Anh hóa là Owen Tudor) và Catherine of Valois, góa phụ của Vua Henry V nhà Lancaster. Edmund Tudor và anh chị em của ông hoặc là con ngoài giá thú, hoặc là con của một cuộc hôn nhân bí mật, và tài sản của họ là nhờ thiện chí của anh cùng mẹ khác cha hợp pháp của họ, Vua Henry VI. Khi Vương tộc Lancaster sụp đổ, gia tộc Tudor đã trở thành gia tộc kế tục và thay thế họ.
Vào cuối thế kỷ 15,gia tộc Tudor là hy vọng cuối cùng của những người ủng hộ vương tộc Lancaster. Con trai của Edmund Tudor trở thành vua Henry VII sau khi đánh bại Richard III trong Trận Bosworth vào năm 1485, chiến thắng Chiến tranh Hoa Hồng. Vua Henry cưới Elizabeth of York, con gái của Edward IV, qua đó thống nhất hai gia tộc Lancaster và York.
|-
| Henry VII22 tháng 8, 1485–21 tháng 4, 1509()
|
| rowspan=3 |
| 28 tháng 1, 1457Lâu đài PembrokeCon trai của Edmund Tudorvà Margaret Beaufort
| Elizabeth xứ YorkTu viện Westminster18 tháng 1, 14868 con
| 21 tháng 4, 1509Cung điện RichmondThọ 52 tuổi
| Chít trai của Edward IIIQuyền Chinh phạtHôn nhân với Elizabeth xứ York
|-
| Henry VIII22 tháng 4, 1509–28 tháng 1, 1547()
|
| 28 tháng 6, 1491Cung điện GreenwichCon trai của Henry VIIvà Elizabeth xứ York
| Catherine xứ AragonGreenwich11 tháng 6, 15091 con Anne BoleynCung điện Westminster25 tháng 1, 15331 con Jane SeymourCung điện Whitehall30 tháng 5, 15361 con3 cuộc hôn nhân khácKhông con
| 28 tháng 11, 1547Cung điện WhitehallThọ 55 tuổi
| Con trai của Henry VIIQuyền Kế vị
|-
| Edward VI28 tháng 1, 1547–6 tháng 7, 1553()
|
| 12 tháng 10, 1537Cung điện Hampton CourtCon trai của Henry VIIIvà Jane Seymour
| Không kết hôn
| 6 tháng 7, 1553Cung điện GreenwichThọ 15 tuổi
| Con trai của Henry VIIIQuyền Kế vị
|}
|}
|-
| Mary IMary Khát máu19 tháng 7, 1553–17 tháng 11, 1558()
|
| rowspan=2 |
| 18 tháng 2, 1516Cung điện GreenwichCon gái của Henry VIIIvà Catherine xứ Aragon
| Felipe II của Tây Ban NhaNhà thờ Winchester25 tháng 7, 1554Không con
| 17 tháng 11, 1558Cung điện Thánh JamesThọ 42 tuổi
| Con gái của Henry VIIIĐạo luật Kế vị thứ ba
|-
| (Jure uxoris)PhilipPhilip Cẩn trọng25 tháng 7, 1554–17 tháng 11, 1558()
|
| 21 tháng 5, 1527ValladolidCon trai của Karl V của Thánh chế La Mãvà Isabel của Bồ Đào Nha
| Mary I của AnhNhà thờ Winchester25 tháng 7, 1554Không con3 cuộc hôn nhân khác7 con
| 13 tháng 9, 1598El EscorialThọ 71 tuổi
| Chồng của Mary IĐạo luật Hôn nhân của Nữ vương Mary với Felipe của Tây Ban Nha
|-
| colspan=99 align=left |
Theo các điều khoản của Hiệp ước Hôn nhân giữa Philip I của Naples (sau này là Philip II của Tây Ban Nha từ ngày 15 tháng 1 năm 1556) và Nữ vương Mary I, Philip được hưởng các tước hiệu của Mary và danh dự miễn là họ vẫn kết hôn. Tất cả các tài liệu chính thức, bao gồm Đạo luật của Nghị viện, phải được ghi ngày tháng với tên của cả hai vợ chồng. Một Đạo luật của Nghị viện đã trao cho ông ta danh hiệu vua và tuyên bố rằng ông sẽ hỗ trợ Nữ vương trong việc quản lý hạnh phúc các vương quốc và lãnh thổ của bà. (mặc dù ở những nơi khác, Đạo luật vẫn nói rằng Mary là "nữ vương duy nhất"). Tuy nhiên, Philip lại vẫn đồng trị vì với vợ của mình.
|-
| Elizabeth INữ vương Đồng trinh17 tháng 11, 1558–24 tháng 3, 1603()
|
|
| 7 tháng 9, 1533Cung điện GreenwichCon gái của Henry VIIIvà Anne Boleyn
| Không kết hôn
| 24 tháng 3, 1603Cung điện RichmondThọ 69 tuổi
| Con gái của Henry VIIIĐạo luật Kế vị thứ ba
|}
Vương tộc Stuart
Cháu họ của Elizabeth I, người đang là Vua James VI của Scotland, kế vị ngai vàng xứ Anh và trở thành James I trong Liên minh vương thất. James có nguồn gốc từ vương tộc Tudor qua cụ của ông, Margaret Tudor, con gái lớn nhất của Henry VII và vợ của James IV of Scotland. Năm 1604, ông tự tuyên bố mình là Vua Anh [King of Great Britain]. Tuy nhiên, hai nghị viện vẫn hoạt động độc lập cho đến Đạo luật Liên minh 1707.
|-
| James I24 tháng 3, 1603–27 tháng 3, 1625()
|
| rowspan=2 |
| 19 tháng 6, 1566Lâu đài EdinburghCon trai của Mary I của Scotland, và Henry Stuart, Công tước xứ Albany
| Anna của Đan MạchOslo23 tháng 11, 15897 con
| 27 tháng 3, 1625Điện TheobaldsThọ 58 tuổi
| Chút traiNgười Kế vị của Henry VII
|-
| Charles I27 tháng 3, 1625–30 tháng 1, 1649()
|
| 19 tháng 11, 1600Cung điện DunfermlineCon trai của James Ivà Anna của Đan Mạch
| Henriette Marie của PhápTu viện Thánh St Augustine13 tháng 6, 16259 con
| 30 tháng 1, 1649Cung điện WhitehallBị xử tử năm 48 tuổi
| Con trai của James IQuyền Kế vị Mẫu hệ
|}
Đệ Nhất Cộng hoà Anh
Không có quân chủ nào cai trị sau vụ xủ tử Charles I vài năm 1649. Giữa các năm 1649 và 1653, không có bất kỳ ai giữ vị trí nguyên thủ quốc gia của Anh, khi Anh được quản lý trực tiếp bởi Nghị viện Tàn dư với một Hội đồng Nhà nước Anh phục vụ với vai trò hành pháp trong thời kỳ được biết đến với tên gọi Thịnh vượng chung Anh.
Sau một cuộc đảo chính vào năm 1653, Oliver Cromwell đã trực tiếp kiểm soát Anh từ tay Nghị viện. Ông giải tán Nghị viện Tàn dư với tư cách người đứng đầu lực lượng quân sự và Anh bước vào thời kỳ Bảo hộ, dưới quyền kiểm soát trực tiếp của Cromwell với danh hiệu Bảo hộ công.
|-
| Oliver Cromwell16 tháng 12, 1653–3 tháng 9, 1658()
|
| rowspan=2 |
| 25 tháng 4, 1599HuntingdonCon trai của Robert Cromwellvà Elizabeth Steward
| Elizabeth BourchierSt Giles22 tháng 8, 16209 con
| 3 tháng 9, 1658WhitehallThọ 59 tuổi
|-
| Richard Cromwell3 tháng 9, 1658–7 tháng 5, 1659()
|
| 4 tháng 10, 1626HuntingdonCon trai của Oliver Cromwellvà Elizabeth Bourchier
| Dorothy MaijorTháng 5, 16499 con
| 12 tháng 7, 1712CheshuntThọ 85 tuổi
|}
Richard Cromwell đã bị Ủy ban An ninh Anh cưỡng chế phế truất vào tháng 5 năm 1659. Xứ Anh khi ấy không có bất kỳ nguyên thủ quốc gia nào. Sau gần một năm vô chính phủ, chế độ quân chủ đã được trung hưng khi Charles II trở về từ Pháp để nhận ngai vàng.
Vương tộc Stuart (phục vị)
Mặc dù chế độ quân chủ được phục hồi năm 1660, nhưng không ổn định cho tới Cách mạng vinh quang năm 1688 khi Nghị viện cấm người công giáo La Mã lên ngôi.
|-
| Charles II29 tháng 5, 1660–6 tháng 2, 1685()
|
| rowspan=2 |
| 29 tháng 5, 1630Cung điện Thánh JamesCon trai của Charles Ivà Henriette Marie của Pháp
| Catarina xứ BragançaPortsmouth21 tháng 5, 1662Không con
| 6 tháng 2, 1685Cung điện WhitehallThọ 54 tuổi
| Con trai của Charles IQuyền Kế vị Mẫu hệTrung hưng Quân chủ
|-
| James II6 tháng 2, 1685–23 tháng 12, 1688(Truất ngôi sau )
|
| 14 tháng 10, 1633Cung điện Thánh JamesCon trai của Charles Ivà Henriette Marie của Pháp
| Anne HydeThe Strand3 tháng 9, 16608 con Maria xứ ModenaDover21 tháng 11, 16737 con
| 16 tháng 9, 1701Lâu đài Saint-Germain-en-LayeThọ 67 tuổi
| Con trai của Charles IQuyền Kế vị Mẫu hệ
|}
Đệ Nhị Cộng hoà Anh
James II bị Nghị viện phế truất chưa đầy 4 năm sau khi lên ngôi, bắt đầu giai đoạn chuyển tiếp thứ hai của thế kỷ. Để giải quyết câu hỏi ai sẽ thay thế vị vua bị phế truất, một Nghị viện Công ước được triệu tập đã bầu chọn con gái của James là Mary II và chồng của bà (cũng là cháu trai gọi ông là cậu) William III làm đồng quân chủ, trong Cách mạng Vinh quang.
Vương tộc Stuart và Orange
|-
| Mary II13 tháng 2, 1689–28 tháng 12, 1694()
|
|
| 30 tháng 4, 1662Cung điện Thánh JamesCon gái của James IIvà Anne Hyde
| William III của AnhCung điện Thánh James4 tháng 11, 1677Không con
| 28 tháng 12, 1694Cung điện KensingtonThọ 32 tuổi
| Con gái của James IIĐược Nghị viện trao Vương miện
|-
| William IIIWilliam xứ Orange13 tháng 2, 1689–8 tháng 3, 1702()
|
|
| 4 tháng 11, 1650The HagueCon trai của William II xứ Orangeand Mary của Anh
| Mary II của AnhCung điện Thánh James4 tháng 11, 1677Không con
| 8 tháng 3, 1702Cung điện KensingtonThọ 51 tuổi
| Cháu trai của Charles IĐược Nghị viện trao Vương miện
|-
| Anne I8 tháng 3, 1702–1 tháng 5, 1707()
|
|
| 6 tháng 2, 1665Cung điện Thánh JamesCon gái của James IIvà Anne Hyde
| Jørgen của Đan MạchCung điện Thánh James28 tháng 7, 16833 con
| 1 tháng 8, 1714Cung điện KensingtonThọ 49 tuổi
| Con gái của James IIQuyền Kế vị Mẫu hệTuyên ngôn Nhân quyền 1689
|}Trong khi James và các hậu duệ của mình tiếp tục tuyên bố với Ngai vàng, tất cả các tín đồ Công giáo (như James và con trai mình là Charles) đã bị cấm lên ngôi chiếu theo Đạo luật Dàn xếp 1701, ban hành bởi Anne, em gái theo Tin lành của James.
Với Đạo luật Liên minh 1707, Anh [England] với tư cách là một quốc gia có chủ quyền chính thức kết thúc, được thay thế bởi Vương quốc Anh mới; xem Danh sách quân chủ Liên hiệp Anh.
Đạo luật Liên minh 1707
Đạo luật Liên minh 1707 thựuc ra là 2 đạo luật nghị viện khác nhau được thông qua trong các năm 1706 và 1707 bởi Nghị viện xứ Anh và Nghị viện Scotland để hiệu lực hóa Hiệp ước Liên minh được ký kết vào ngày 22 tháng 7, 1706. Đạo luật kết hợp Vương quốc Anh [Kingdom of England] và Vương quốc Scotland (trước đây là 2 quốc gia có chủ quyền riêng biệt, với hai cơ quan lập pháp riêng biệt nhưng chung một quân chủ từ thời James VII và I) và tạo thành Vương quốc Anh mới [Kingdom of Great Britain].
Anh [England], Scotland và Ireland đã có chung một quân chủ trong hơn 100 năm, từ Liên minh vương thất vào năm 1603, khi Vua James VI của Scotland kế vị ngai vàng xứ Anh và Ireland từ bà họ của mình, Nữ vương Elizabeth I. Mặc dù được mô tả là một Liên minh vương thất, nhưng thực tế cho đến năm 1707, hai vương thất riêng biệt mới chính thức được kết hợp làm một.
Đã có những nỗ lực vào năm 1606, 1667 và 1689 nhằm thống nhất Anh và Scotland bằng Đạo luật của Nghị viện nhưng phải đến đầu thế kỷ 18, ý tưởng này mới nhận được sự ủng hộ của cả hai thể chế chính trị đằng sau nó, mặc dù vì những lý do khá khác nhau.
Bảng biểu quân chủ vương quốc Anh
Ghi chú
Chung
Ngày đăng quang
Nơi chôn cất |
Vua (chữ Nôm: 𤤰; chữ Hán: 君[Quân] ; tiếng Anh: monarch) là danh từ trung lập để chỉ nguyên thủ của các quốc gia theo chế độ quân chủ. Từ Hán-Việt tương đương của Vua là Quân chủ (君主) và thường được tôn xưng là Đức vua, Bệ hạ, vị Quân vương hay vị Đế quân.
Về mặt nghĩa, Vua là người đứng đầu tối cao, thực tế hoặc biểu tượng, của một chính quyền; trực tiếp hoặc gián tiếp có danh dự, quyền cai trị, cầm quyền ở một quốc gia. Thường thì các Vua được kế tục bởi hình thức truyền ngôi. Và tùy vào chế độ quân chủ cụ thể mà các vị Quân chủ của từng quốc gia có những tước hiệu khác nhau, điển hình nhất là Quốc vương (tiếng Anh: king) và Hoàng đế (tiếng Anh: emperor).
Tại Châu Âu, do tính chất kiêm nhiệm đặc trưng mà một người là quân chủ đồng thời của nhiều quốc gia, như Nữ vương của nước Anh là Elizabeth II, là đồng thời là Nữ vương của 16 nước khác trong khối Thịnh vượng Chung. Lại có hình thức một quốc gia là liên minh của nhiều Tiểu vương quốc (hay Tiểu bang), với mỗi tiểu quốc / tiểu bang ấy là do một vị vua đứng đầu, và các vị vua này sẽ bầu chọn người là Vua của tất cả các vua, thống trị của liên bang ấy, nền chính trị này vẫn còn tồn tại ở Malaysia, Các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất.
Từ nguyên
Căn cứ theo Giáp cốt văn, chữ [Doãn; 尹] nguyên gốc là biểu thị quyền lực chấp chính, thêm chữ [Khẩu; 口] nghĩa là mệnh lệnh, đã hình thành nên chữ [Quân; 君] - từ nguyên thủy nhất của Hán ngữ biểu thị một vị nguyên thủ quốc gia, thủ lĩnh tối cao hơn mọi người. Sách Xuân Thu phồng lộ (春秋繁露) giải nghĩa chữ Quân như sau: ["Quân, là bậc chấp chưởng hiệu lệnh vậy"; 君也者,掌令者也].
Trong tiếng Anh, danh từ ["Monarch"] có nguyên từ tiếng Hy Lạp là 「μόνᾰρχος, monárkhos」, ý là "Người thống trị (ἀρχός, arkhós) duy nhất (μόνος, mónos)". Nó tương đương với tiếng Latinh là 「monarchus」, trong đó gốc mono là duy nhất, còn gốc archus là người thống trị. Nguyên nghĩa của từ này rất tương đương chữ Quân, biểu thị người tối cao thống trị duy nhất.
Tại Việt Nam, thời kỳ dùng chữ Hán như nhà Lý và nhà Trần, vẫn ghi chép văn tự theo ngôn ngữ Hán mà không có danh từ bản địa hóa ám chỉ người thống trị. Thời nhà Nguyễn, khi các sách chữ Nôm ngày càng nhiều, xuất hiện một từ ghép từ chữ ["Vương"; 王] và ["Bố"; 布], chính là chữ [Vua; 𤤰]. Những sách như Thạch Sanh tân truyện (1917) và Sự tích ông Trạng Quỳnh (1940) đều ghi nhận sự xuất hiện của danh từ này.
Các danh hiệu của Vua
Tại Châu Á
Đông Á
Tuỳ từng thời kỳ và hoàn cảnh, vua mang các tước vị khác nhau. Danh hiệu của vua cũng phản ánh vị thế cao thấp của vị vua đó. Ở các nước Đông Á, tước vị cao nhất của vua là Hoàng đế, thấp hơn là Vương. Đối với các nước chư hầu (lãnh chúa), tước vị của Vua còn phân theo những thứ bậc:
Công;
Hầu;
Bá;
Tử;
Nam;
Theo biến đổi của lịch sử, danh vị của các vị vua tối cao và vua chư hầu cũng có thay đổi. Như trường hợp thời nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc cổ, nhà vua tối cao (tức Thiên tử) xưng làm Vương, các vua chư hầu, tuỳ theo cấp bậc mà được vua nhà Chu phong cho chức từ Công trở xuống. Tới thời đại loạn Chiến Quốc, cả bảy chư hầu cùng xưng Vương, nên khi Tần vương Doanh Chính diệt hết được các nước cho rằng tước Vương không còn cao quý, bèn gộp cả danh hiệu [Hoàng; 皇] và [Đế; 帝] của các vua thời cổ xưa (Tam Hoàng Ngũ Đế) lại, mà xưng là [Hoàng đế]. Nhà Tần không phong chư hầu, nhưng nhà Hán nối tiếp nhà Tần lại phong chư hầu, các chư hầu nhà Hán được phong tước vương. Từ đó các chư hầu phương Đông thường có tước Vương.
Từ đó, các quốc gia tôn sùng chủ nghĩa Hoa Hạ như Việt Nam cũng xưng Hoàng đế, bày tỏ vị vua của mình ngang hàng với Trung Quốc. Nhật Bản có xưng Thiên hoàng, nguyên ban đầu cũng là Hoàng đế. Riêng Triều Tiên, đặc biệt là thời họ Lý cầm quyền, chịu thần phục nhà Minh và nhà Thanh, nên họ chỉ xưng Vương mà không phải Hoàng đế, chỉ một thời gian ngắn Đế quốc Đại Hàn thành lập mà xưng Đế.
Những ngoại tộc ngoài nhóm Hoa Hạ, cũng có các tước vị riêng của mình, như Thiền vu, Khả hãn. Nơi giao thoa giữa Á-Âu là nước Nga, xuất hiện danh hiệu Tsar - hay được dịch thành [Sa Hoàng; 沙皇]. Tất cả tước vị trên đều ngang Hoàng đế của nhóm quốc gia Hoa Hạ.
Tây và Nam Á
Các quốc gia theo Hồi giáo ở vùng Tây Á cùng Nam Á cũng có hệ thống riêng của mình, như Khalip, Imam, Sultan. Trong đó Khalip và Imam mang chiều hướng tôn giáo, còn Sultan lại là thực quyền, tước hiệu này hay được dịch thành Hoàng đế theo quốc gia Hoa Hạ và Emperor theo ngôn ngữ tiếng Anh.
Văn hóa Ba Tư cũng phát triển vững mạnh tại Trung Nam Á và Hindustan, sản sinh ra các tước hiệu như Shah và Padishah, đều tương đương Hoàng đế của Hoa Hạ. Tại Tiểu lục địa Ấn Độ, xuất hiện danh hiệu Raja (राजन्), có nguồn gốc rất lâu đời từ Rigveda, để chỉ những vị Vua của các thành quốc, tiểu ban nằm rải rác khắp lục địa cổ xưa này cho đến khi các triều đại thống nhất thành một Đế quốc. Sau đó Đế quốc Mughal thành lập, các vị Vua của Mughal đều dùng tước vị Ba Tư là [Padishah]. Tiếp đó Đế quốc Maratha xuất hiện, họ dùng tước hiệu Chhatrapati (छत्रपति). Vùng Maharashtra có một nhánh của nhà Maratha, dùng tước hiệu Holkar (होळकर घराणे).
Tại Châu Âu
Thời Hy Lạp cổ đại, xuất hiện danh hiệu Basileus (βασιλεύς) để chỉ một quân chủ tối cao nhất. Thời La Mã cổ đại, khi vẫn còn quân chủ cai trị, từ Rex, được chuyển từ tiếng Hy Lạp cổ là Archon (ἄρχων). Sang thời Cộng hòa La Mã, tuy không theo mô hình chuyên chế quân chủ, nhưng nền Cộng hòa vẫn phải có chức danh cho người đứng đầu, do đó danh từ Imperator được sinh ra. Thời gian này, "Imperator" có ý nghĩa gần tương đương với vị trí tổng tư lệnh của quân đội La Mã.
Sau đó, Cộng hòa La Mã trở thành Đế quốc La Mã, nền chính trị lại dần trở thành quân chủ chuyên chế tập quyền, hình thành nên danh vị [Emperor] trong tiếng Anh, một chuyển ngữ của từ nguyên Imperator, tương đương với Hoàng đế của Đông Á, biểu thị cho một vị vua cai trị một Đế quốc rộng lớn. Ở tiếng Đức, Emperor tương đương với Kaiser (từ nguyên Caesar). Ở Châu Âu, việc thành lập nên một Đế quốc rất hạn chế, ngoài lý do thực lực chính trị, thì khi được gọi là [Emperor] tức là mang dòng dõi của La Mã cổ đại. Không ít các quốc gia, ngôn ngữ khác nằm ngoài ảnh hưởng La Mã tự hình thành tước vị cho vua chúa của họ tương đương với Emperor, nhưng khi được chuyển dịch ngữ tiếng Anh thì luôn có điều chỉnh. Khi chuyển qua ngôn ngữ để xét hệ thống tước vị, luôn có sự chênh lệch về nguyên bản cùng quốc tế hóa, tất cả đều mang sự tượng trưng. Hầu hết đều công nhận [Emperor] ngang với [Hoàng đế] của các nước Hoa Hạ.
Ngoài Emperor, trong tiếng Anh có tước vị rất phổ biến là King. Đây nguyên gốc là từ [cyning], ngang bằng với danh vị Rex của La Mã. Tương đương của King trong tước vị Hoa Hạ ngang với Vương. bên cạnh đó, hệ thống tước hiệu Châu Âu cũng có những tước bị xem là dưới King (Vương), tương tự Ngũ đẳng tước thời nhà Chu, do đó hay được dịch ra rất cân bằng, là:
Duke = Công;
Marquess = Hầu;
Count / Earl = Bá;
Viscount = Tử;
Baron = Nam;
Ngoài ra, cũng còn một số tước vị, như Đại thân vương (Grand Prince), Công vương (Prince), Đại Công tước (Grand Duke), Tuyển đế hầu (Kurfürst),...
Tại Châu Phi
Thời Ai Cập cổ đại, người đứng đầu được tôn sùng là "Pharaoh".
Tại Nam Mỹ
Tại Nam Mỹ có nền văn minh nằm sâu trong rừng Amazon được cho rằng các văn minh này theo chế độ quân chủ
Các nền quân chủ trên thế giới hiện nay
Vương thất Anh;
Vương thất Đan Mạch;
Vương thất Thụy Điển;
Vương thất Na Uy;
Vương thất Hà Lan;
Vương thất Bỉ;
Vương thất Tây Ban Nha;
Vương thất Luxembourg;
Vương thất Monaco;
Vương thất Thái Lan;
Vương thất Campuchia;
Hoàng thất Nhật Bản;
Vương thất Bhutan;
Vương thất Ả Rập Saudi;
Các Tiểu vương thất Ả Rập Thống nhất (UAE);
Vương thất Malaysia;
Vương thất Brunei;
Vương thất Maroc;
Vương thất Oman;
Vương thất Eswatini;
Vương thất Lesotho.
Công quốc Andorra.
Vương quốc Tonga.
Vương quốc Qatar.
mặt hình thức, hoàng gia đúng nghĩa duy nhất còn sót lại trên thế giới là Nhật Bản, đứng đầu là một Hoàng đế hoặc Nữ hoàng, đứng đầu các vương thất còn lại (trừ các nước theo đạo Hồi như Brunei, Saudi và UAE) là các Quốc vương và Nữ vương (Anh, Đan Mạch, v.v...), Thân vương và Nữ thân vương (Monaco, Andorra), Đại công tước và Nữ Đại công tước (Luxembourg). Sở dĩ tất cả các "vương thất" Châu Âu đều gọi chung là "hoàng gia" bởi vì ảnh hưởng và thông dụng của báo đài Việt Nam, khái niệm "hoàng gia" là cơ bản và dễ hiểu nhất để chỉ đến gia đình xuất thân vua chúa. |
Mác trong tiếng Việt có thể là:
Mác (vũ khí) - một loại vũ khí dài có đầu nhọn.
Mác (đơn vị đo lường), đơn vị đo trọng lượng cổ dùng để cân vàng hoặc bạc, tương đương 8 ounce hay 244,75 gam; từ đó có tên của đơn vị tiền tệ mác tại một số nước châu Âu.
Phiên âm từ tên của Karl Marx.
Mác (tiếp thị), từ có gốc từ tiếng Pháp marque để chỉ nhãn hiệu.
Phúc âm Mác |
Modern Talking là một bộ đôi ca sĩ người Đức bao gồm Thomas Anders và Dieter Bohlen. Họ thường được nhắc tới và đề cập đến như bộ đôi ca nhạc sĩ thành công nhất của Đức, và có được một số đĩa đơn danh tiếng gây chú ý, lọt vào top 5 nhiều bảng xếp hạng âm nhạc ở nhiều quốc gia. Một vài đĩa đơn có tiếng tăm nổi bật và thường luôn luôn được nhiều người biết đến rộng rãi nhất là "You're My Heart, You're My Soul", "You Can Win If You Want", "Cheri, Cheri Lady", "Brother Louie", "Atlantis Is Calling (S.O.S. for Love)" và "Geronimo's Cadillac".
Modern Talking làm việc cùng nhau từ năm 1983 tới năm 1987, sau đó nhóm nhạc tan rã. Năm 1997, họ tái hợp và có màn trở lại thành công, thu âm và ra mắt nhiều sản phẩm âm nhạc từ năm 1998 tới năm 2003. Cặp đôi này ra mắt nhiều đĩa đơn một lần nữa lọt vào top 10 của các bảng xếp hạng tại Đức và hải ngoại. Một số đĩa đơn như vậy bao gồm "You're My Heart, You're My Soul '98", "You Are Not Alone" và "TV Makes the Superstar". Đây là 1 nhóm nhạc có tiếng tăm.
Lịch sử
Khởi lập
Được thành lập ban đầu ở Berlin (Tây Berlin) vào đầu năm 1983, nhóm nhạc Tây Đức này trở nên nổi tiếng vang dội trên toàn thế giới vào đầu năm 1985 với "You're My Heart, You're My Soul", đĩa đơn này đã chiếm một vị trí trong top 10 các bảng xếp hạng tại ba mươi lăm quốc gia (bao gồm cả ở quê hương của họ), nơi đĩa đơn này đứng đầu trong sáu tuần liên tiếp, và sau cùng đã đạt được doanh thu lên tới tám triệu bản trên toàn thế giới. Ca khúc này sau đó được tiếp nối với một hit đứng đầu khác, "You Can Win If You Want", được phát hành vào giữa năm 1985 trong album ra mắt The 1st Album. Album này đã nhận được chứng nhận bạch kim tại Cộng hòa Liên bang Đức với doanh số hơn 500.000 bản.
Ngay sau hit thứ hai của mình, Modern Talking ra mắt đĩa đơn "Cheri, Cheri Lady", họ nhanh chóng leo lên các vị trí trong top ở nhiều bảng xếp hạng ở các nước như Tây Đức, Thuỵ Sĩ, Áo và Na Uy, trong khi cũng đạt tới vị trí trong top 10 ở Thuỵ Điển và Hà Lan. Với đĩa đơn này, ca khúc duy nhất được ra mắt trong toàn bộ album thứ hai là Let's Talk About Love, đã là nhân tố thúc đẩy album đạt được chứng nhận bạch kim tại Tây Đức cũng với doanh số hơn 500.000 bản. Thành công được tiếp nối với hai đĩa đơn đạt vị trí số một là "Brother Louie" và "Atlantis Is Calling (S.O.S. for Love)", cả hai đều từ album thứ ba Ready for Romance. Bộ đôi này cũng đạt những thứ hạng cao trên các bảng xếp hạng với đĩa đơn thứ sáu "Geronimo's Cadillac" từ album thứ tư In the Middle of Nowhere và "Jet Airliner" từ album thứ năm Romantic Warriors.
Trong suốt thời kì này, Modern Talking đã thành công tại châu Âu, châu Á, Nam Mỹ, Trung Đông, đặc biệt là ở Iran, nơi mà tất cả nhạc pop phương Tây đã bị cấm sau cuộc cách mạng Hồi giáo năm 1979. Tại Vương quốc Anh, họ chỉ lọt vào top 5 một lần, với ca khúc "Brother Louie". Họ hầu như không hề được biết ở cả Hoa Kỳ và Mexico nên họ coi như thất bại hoàn toàn ở trong hai thị trường này. Họ đã trở thành one-hit wonder tại Canada khi "Brother Louie" đạt vị trí 34 vào năm 1987. Họ ra mắt hai album mỗi năm trong giai đoạn từ 1985 tới 1987, trong khi cũng quảng bá các đĩa đơn trên truyền hình trên khắp châu Âu, sau cùng đã đạt tổng doanh số 65 triệu bản trong vòng ba năm.
Từ 1987 tới 1997
Ngay sau khi cặp đôi tan ra vào giữa năm 1987, Bohlen đã thành lập dự án của riêng mình mang tên Blue System và đạt được một số thứ hạng cao với các ca khúc như "Sorry Little Sarah", "My Bed Is Too Big", "Under My Skin", "Love Suite", "Laila" và "Déjà vu". Trong khi đó, Anders bắt đầu sự nghiệp đơn ca, đi lưu diễn với tên gọi danh nghĩa là Modern Talking trên nhiều châu lục cho tới đầu năm 1989, khi ông bắt đầu thu âm nhiều ca khúc mới mang âm hưởng pop ở LA và London, và cũng ở quê nhà Đức. Anders đã thu âm năm album đơn ca bằng tiếng Anh, Different, Whispers, Down on Sunset, When Will I See You Again và Souled, và một album bằng tiếng Tây Ban Nha, Barcos de Cristal. Ông thành công ở hải ngoại hơn là ở trong nước, nhưng cũng đạt được nhiều hit tại Đức. Mặc dù trải qua nhiều cãi vã và bất đồng trong quá khứ, Bohlen và Anders đã bắt đầu nối lại liên lạc một lần nữa sau khi Anders chuyển về Koblenz, Đức vào năm 1994 nhằm tái thống nhất một nhóm nhạc huyền thoại nổi tiếng một thời.
1998–2003: Tái hợp
Đầu năm 1998, cặp đôi này đã tuyên bố tái hợp và có màn ra mắt đầu tiên cùng nhau vào tháng 3 trên chương trình truyền hình Đức Wetten, dass..?. Họ phát hành một phiên bản mới cảu ca khúc của họ năm 1984 "You're My Heart, You're My Soul '98", và với sự kết hợp phần rap của ca sỹ người Mỹ Eric Singleton. Album trở lại đầu tiên Back for Good, bao gồm bốn ca khúc mới, cũng như tất cả các hit trước đó được làm lại với kĩ thuật hiện đại, đã đứng ở vị trí số một tại Đức trong năm tuần liên tiếp và đứng đầu các bảng xếp hạng ở mười lăm quốc gia, sau cùng đạt doanh số ba triệu bản chỉ tính riêng tại châu Âu. Cặp đôi này đã thắng giải thưởng Nghệ sĩ Đức có doanh số tốt nhất ở World Music Awards năm đó. Album tiếp theo Alone cũng đã lên thẳng vị trí số một tại Đức và vô cùng thành công ở khắp nơi; album này đạt doanh số hơn một triệu bản chỉ tính riêng tại khu vực châu Âu.
Bohlen và Anders tiếp nối thông lệ từ những năm 1980 của Modern Talking khi chỉ chọn ra mắt hai đĩa đơn cho mỗi album, như đã làm trong quá khứ. Một loạt các đĩa đơn và thêm bốn album nữa tiếp nối như Year of the Dragon, America, Victory và Universe. Sau khi đạt đến cột mốc hơn 400 chứng nhận vàng và bạch kim trên toàn thế giới, Bohlen và Anders quyết định tan rã một lần nữa vào năm 2003 ngay trước khi ra mắt một album tổng hợp những bài hát hay nhất khác. Lần chia tay thứ hai này dường như được gây ra chủ yếu bởi miêu tả tiêu cực về Anders bởi Bohlen trong cuốn tự truyện xuất bản vào ngày 4 tháng 10 năm 2003. Trong suốt quá trình tranh cãi dẫn đến việc chia tay sau cùng, Bohlen có tham gia vào Deutschland sucht den Superstar (DSDS), phiên bản tiếng Đức của chương trình Pop Idol của Anh. Album tổng hợp được ra mắt năm 2003 với tên gọi The Final Album, bao gồm tất cả các đĩa đơn của cặp đôi này. Thomas Anders bắt đầu sự nghiệp đơn ca ngay sau khi kết thúc hoạt động với Modern Talking, trong khi đó Bohlen bắt đầu dành thời gian của mình cho việc đào tạo những tài năng âm nhạc mới, đặc biệt là những người được khám phá ở DSDS.
Sản xuất và doanh số tiêu thụ
Năm 1984, Bohlen trích dẫn đĩa đơn hit "Precious Little Diamond" (bởi Fox the Fox), như nguồn cảm hứng của ông trong việc sử dụng dạng đồng ca falsetto. Dàn ca sĩ phòng thu bao gồm Rolf Köhler, Michael Scholz, Detlef Wiedeke và (trong các album ban đầu) Birger Corleis, ngoài Bohlen và Anders, đã tạo ra đặc trưng trong đó có phần đồng ca với âm vực cao của Modern Talking. Köhler, Scholz và Wiedeke sau đó tiếp tục làm việc với Bohlen trong Blue System, trước khi gia nhập với người viết bài hát Thomas Widrat để thành lập Systems in Blue. Köhler, Scholz và Wiedeke không bao giờ được ghi danh đóng góp trong các album của Modern Talking, và sau cùng đã phải đưa nhau ra toà vì vấn đề này. Họ đã nhận được một thoả thuận dàn xếp từ toà án và Bohlen đã xuất bản một ghi chú trong sản phẩm tiếp theo của ông (Obsession, bởi Blue System), thừa nhận đóng góp của bộ ba.
Những ảnh hưởng xa hơn bao gồm nhạc schlager bằng tiếng Đức, disco pop (Bee Gees) và những bài hát tiếng Anh lãng mạn có nguồn gốc Ý và Pháp, như "I Like Chopin" của Gazebo. Sau khi tái hợp vào năm 1998, Bohlen đã sản xuất theo phong cách Eurodance cũng như các bản ballad MOR theo phong cách Mỹ.
Doanh số bán hàng toàn cầu của Modern Talking, sau lần chia tay thứ hai và cuối cùng của bộ đôi huyền thoại này năm 2003, đã đạt 120 triệu của cả đĩa đơn và album, khiến họ trở thành nghệ sĩ âm nhạc Đức có doanh số bán chạy nhất trong lịch sử.
Dieter Bohlen cũng sáng tác cho những nghệ sĩ khác khi vẫn còn hoạt động trong Modern Talking, như cho Chris Norman và Smokie, trong đó bài hát "Midnight Lady" (1986) vẫn là sáng tác nổi tiếng nhất của Bohlen. Ông cũng sáng tác một số lượng lớn ca khúc cho C. C. Catch, sử dụng dạng âm thanh gấp gáp và ít lãng mạn hơn. Một vài bài hát tiếng Anh của Bohlen như "You're My Heart, You're My Soul" cũng được thu âm với lời tiếng Đức bởi Mary Roos, sử dụng cùng những bản nhạc phát lại. Khi Modern Talking tan rã vào năm 1987, một số ca khúc được viết cho album cuối cùng được sắp xếp lại và sau đó chuyển sang album solo đầu tay của Bohlen với Blue System. Album thứ sáu của Modern Talking được ra mắt cùng thời gian với đĩa đơn đầu tiên của Blue System, "Sorry Little Sarah", khi Bohlen đối đầu trên bảng xếp hạng với bản hit "In 100 Years" của Modern Talking.
Sự nghiệp solo
Năm 2006, Bohlen đã để lại một thông điệp bí mật trong ca khúc "Bizarre Bizarre" khi áp dụng kĩ thuật chạy ngược: "There will never be an end to Modern Talking" ("Sẽ không bao giờ có kết thúc cho Modern Talking"). Bohlen có phản hồi, "Ý tôi muốn nói là âm nhạc của Modern Talking sẽ còn sống mãi". Anders đã giữ lại các bài hát Modern Talking trong danh sách các bài hát của mình và sản xuất các bài hát với phong cách tương tự cho các bản thu âm solo của mình ("Independent Girl"). Năm 2006, ông sản xuất album Songs Forever với các phiên bản swing và jazz của những bài hát nổi tiếng (bao gồm hit đầu tiên của Modern Talking). Bohlen đã viết hai cuốn tự truyện về lịch sử của Modern Talking từ quan điểm chủ quan của ông, trong đó cuốn sách đầu tiên bán được một triệu bản ở Đức. Phần tiếp theo bị chỉ trích nặng nề vì sự bất công của ông đối với những người ông làm việc cùng. Như một hậu quả, Bohlen rút khỏi công chúng trong một năm cho đến năm 2006, khi ông nói ông hối hận vì đã ra mắt cuốn sách thứ hai. Anders không phải là người duy nhất buộc tội chống lại Bohlen và yêu cầu sửa đổi các phần của cuốn sách. Frank Farian cũng tỏ ra tức giận bởi sản phẩm văn học của Bohlen và phát hành một cuốn sách trong đó ông đã cố gắng vạch trần Bohlen đã gian lận. Cuốn sách đầu tiên của Bohlen là nền tảng của một bộ phim hoạt hình hài hước có tên là Dieter: Der Film. Nhạc nền của bộ phim này bao gồm "Shooting Star", bài hát chưa được phát hành trước đó của Modern Talking, được viết cho album Universe.
Thành viên
Những con số khác
Modern Talking là ban nhạc Đức duy nhất có năm đĩa đơn đứng số một liên tiếp tại Đức.
Bài hát thành công nhất của họ You're My Heart - You're My Soul ở số 1 tại 35 quốc gia.
Bài hát được ưa thích Cheri Cheri Lady lên tới Số 1 tại 11 quốc gia gồm: Liban, Israel, Đức, Áo, Hy Lạp.
Bài hát Brother Louie đứng trên bảng xếp hạng Anh Quốc 8 tuần liền và đạt tới vị trí thứ 4.
Năm 1988 số đĩa bán ra của Modern Talking đạt tới 85 triệu.
Năm 1998 đĩa số 7 sau khi tái hợp Back for good bán được 700.000 bản trong tuần đầu tiên tại Đức.
Năm 1998 tại cuộc trình diễn đầu tiên bên ngoài nước Đức sau khi tái hợp ở Budapest họ đã biểu diễn trước 214.000 người và được trình chiếu trên MTV châu Âu.
Họ đã bán hơn 100.000 bản 'Back for Good' tại một thị trường nhỏ như Nam Phi, tức đạt mức hơn hai lần đĩa bạch kim tại nước này.
Năm 1999 phiên bản thứ ba bài "Brother Louie" đạt tới Top 5 trong bảng xếp hạng âm nhạc Anh.
Đĩa đơn Sexy Sexy Lover được xếp hạng Top 20 trên bảng xếp hạng MTV châu Âu.
Năm 2001 họ được trao giải Top of the Pops là ban nhạc hay nhất của Đức, tại Manchester.
Các đĩa đơn Win the Race và Ready for the Victory được viết theo yêu cầu của Công ty truyền hình Đức RTL để phát tại các cuộc đua xe công thức 1.
Nhiều bài hát của họ, gồm You're My Heart, You're My Soul và Cheri, Cheri Lady đã được các nghệ sĩ Cantopop cover lại trong thập niên 1980.
Danh sách các đĩa
The 1st Album (1985)
Let's Talk About Love (1985)
Ready for Romance (1986)
In the Middle of Nowhere (1986)
Romantic Warriors (1987)
In the Garden of Venus (1987)
Back for Good (1998)
Alone (1999)
Year of the Dragon (2000)
America (2001)
Victory (2002)
Universe (2003)
Giải thưởng và đề cử |
Columbia College có thể là một trong các trường sau đây:
Columbia College (California), một trường đại học cộng đồng ở Sonora, California
Columbia College (thuộc Columbia University), một trường đại học dạy sinh viên bậc đại học của Viện Đại học Columbia
Columbia College tại Chicago, một trường đại học ở Chicago, Illinois
Columbia College (Missouri), một trường đại học ở Columbia, Missouri
Columbia College (Columbia, Nam Carolina), một trường đại học ở Columbia, Nam Carolina
Columbia College tại Hollywood, một trường về điện ảnh tại Tarzana, Los Angeles, California
Columbia College (Vancouver, British Columbia), một trường đại học hệ hai năm ở Vancouver, British Columbia |
Cá măng trong tiếng Việt có thể là:
Một trong số các tên gọi của cá chó, họ Esocidae, chi Esox với 5 loài sinh sống trong môi trường nước ngọt.
Tên gọi dân dã của cá măng giả, họ Cyprinidae, chi Luciocyprinus với hai loài (theo ITIS) là Luciocyprinus langsoni (Vaillant, 1904) và Luciocyprinus striolatus (Cui và Chu, 1986), sinh sống trong môi trường nước ngọt.
Một trong số các tên gọi của cá măng sữa (hay cá chẽm, cá măng biển), sinh sống trong môi trường nước mặn, có danh pháp khoa học Chanos chanos, là loài duy nhất thuộc chi Chanos và họ Chanidae.
Trong tên gọi của loài cá măng vây vàng Elopichthys bambusa Richardson, 1845 (đồng nghĩa: Elopichthys dahuricus Basilewsky, 1855), loài duy nhất của chi Elopichthys, sinh sống trong khu vực Siberia, Trung Quốc, bắc Việt Nam. Tên tiếng Anh: Yellowcheek. |
102 (một trăm linh hai) là một số tự nhiên ngay sau 101 và ngay trước 103. |
99 (chín mươi chín) là một số tự nhiên ngay sau 98 và ngay trước 100. |
98 (chín mươi tám) là một số tự nhiên ngay sau 97 và ngay trước 99. |
103 (một trăm linh ba) là một số tự nhiên ngay sau 102 và ngay trước 104. |
97 (chín mươi bảy) là một số tự nhiên ngay sau 96 và ngay trước 98 có em gái |
104 (một trăm linh bốn) là một số tự nhiên ngay sau 103 và ngay trước 105. |
96 (chín mươi sáu) là một số tự nhiên ngay sau 95 và ngay trước 97. |
105 (một trăm linh năm) là một số tự nhiên ngay sau 104 và ngay trước 106. |
106 (một trăm linh sáu) là một số tự nhiên ngay sau 105 và ngay trước 107. |
107 (một trăm linh bảy) là một số tự nhiên ngay sau 106 và ngay trước 108. |
108 (một trăm linh tám) là một số tự nhiên ngay sau 107 và ngay trước 109. |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.