text
stringlengths 0
512k
|
---|
Sergey Vladimirovich Ilyushin (tiếng Nga: Серге́й Владимирович Илью́шин; 30 tháng 3 năm 1894 - 9 tháng 2 năm 1977) là một nhà thiết kế máy bay Liên Xô, Viện sĩ Viện Hàn lâm Liên Xô năm 1968, hàm Thượng tướng Kỹ thuật, 3 lần Anh hùng lao động và 7 giải thưởng Stalin. |
Lê Đức Thúy (sinh năm 1948) là một nhà kinh tế ngân hàng, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa khóa IX và X, nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thời gian gần 8 năm (tháng 12 năm 1999 - tháng 7 năm 2007), nguyên Phó chủ tịch chuyên trách của Hội đồng Tư vấn Kinh tế - Tài chính Tiền tệ Quốc gia, nguyên Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia.
Tiểu sử
Ông sinh ngày 30 tháng 6 năm 1948 tại xã Sơn Thịnh, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
Trước khi chuyển sang công tác tại Ngân hàng Nhà nước với chức vụ Phó Thống đốc, ông Thúy từng là trợ lý cho Tổng Bí thư Đỗ Mười.
Từ tháng 9/1992 đến tháng 7 năm 1995, ông cùng ông Cao Đức Phát học cao học quản lý hành chính tại Đại học Harvard, nhận học vị thạc sĩ Quản lý tài chính công.
Trước nhiệm kỳ của ông Thúy, Ngân hàng Nhà nước được Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Tấn Dũng kiêm nhiệm từ tháng 5 năm 1998 tới tháng 12 năm 1999.
Vào tháng 10 năm 2003, ông đứng ra bảo đảm cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần ACB, cũng như cá nhân Tổng Giám đốc của ACB (lúc đó là ông Phạm Văn Thiệt) khi ngân hàng này bị phao tin đồn nhảm là có khuất tất và đang tẩu tán tài sản, lãnh đạo ngân hàng đang chuẩn bị trốn ra nước ngoài.
Ngày 29 tháng 3 năm 2008, tại QĐ số 338/QĐ- TTg, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã quyết định bổ nhiệm ông Lê Đức Thúy, Phó Chủ tịch chuyên trách Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ Quốc gia, giữ chức Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia.
Các tiêu cực
Các vấn đề trong việc chuyển sang tiền polyme
Vào giữa tháng 10 năm 2006, báo chí đăng tải chất vấn của đại biểu quốc hội tỉnh Kiên Giang Nguyễn Thị Việt Nhân về vụ tiền polymer, hóa giá nhà theo diện 61/CP và con trai ông, Lê Đức Minh, có liên quan đến việc in tiền.
Ngày 5 tháng 6 năm 2007, phó Tổng Thanh tra Chính phủ Lê Tiến Hào đã ký văn bản thông báo kết quả nội dung thanh tra tại Ngân hàng Nhà nước và Thống đốc đã bị yêu cầu kiểm điểm về chất lượng tiền xu, về chi phí in tiền polymer, về nâng cấp nhà máy in tiền quốc gia, về tình trạng thua lỗ trong việc kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng Nông nghiệp - Phát triển nông thôn Việt Nam và Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Theo BBC: cảnh sát Úc tìm thấy chứng cứ và đang điều tra vụ hối lộ 10 triệu Úc kim liên quan đến ông Lê Đức Thúy trong đợt in tiền polyme. Như cách phân tích của The Age, người ta có cảm tưởng từ Lương Ngọc Anh tới bố con ông Lê Đức Thúy, trong vụ án ăn hối lộ in tiền cho Ngân hàng Nhà nước, cũng có thể chỉ là những người trung gian đứng dàn xếp đầu cầu dịch vụ in tiền. Còn tiền hối lộ, như đã được viết nhiều lần hồi năm ngoái, ít nhất là 12 triệu Úc kim hoặc $10 triệu được bỏ thẳng vào một số trương mục bí mật ở ngân hàng Thụy Sĩ, và cả một số nước không bị đánh thuế như Bahamas.
Theo tờ The Age của Úc, công ty in tiền Securency cũng đã trả hối lộ cho ông Thúy bằng cách trả tiền học phí cho con ông tại một đại học tại Anh. Doanh nhân Anh Bill Lowther, 71 tuổi đã bị đưa ra tòa án Anh vào tháng 9 năm 2011 về tội mua chuộc ông Thúy bằng cách xin được chỗ và trả tiền học tại đại học Durham và chỗ cư trú cho người con trai ông là Lê Đức Minh để được hợp đồng cho hãng Securency in tiền cho Việt Nam.
Mua rẻ nhà công vụ
Ông Thúy thuộc diện cán bộ phải kê khai tài sản, nhưng không cần phải công khai tài sản trước dân. Qua báo chí người dân biết được ông ngoài căn nhà diện tích đất 120 m² ở phố Bùi Ngọc Dương (Hà Nội) sở hữu do mua bán và tự xây ông còn được bán hóa giá ngôi nhà mặt tiền số 6 Lý Thái Tổ, Hà Nội diện tích đất gần 80 m², theo nghị định 61/CP làm nhà ở vào tháng 1 năm 2005 với giá khoảng 600 triệu đồng (thực nộp do miễn giảm là 476 triệu đồng) trong khi giá trị thị trường có thể lên đến hàng chục tỷ đồng.
Việc chuyển mục đích sử dụng từ công sản sang nhà ở rồi đề nghị bán hóa giá của Ngân hàng Trung ương được đánh giá là không đúng quy định. Thời gian hoàn tất các thủ tục hành chính nhà đất vốn rất nhiêu khê quá nhanh đến mức bất bình thường, từ lúc Ngân hàng nhà nước bàn giao nhà cho sở Tài nguyên môi trường Nhà đất Hà Nội đến lúc cấp sổ đỏ cho ông Thúy chỉ trong vòng 40 ngày, đã làm Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội yêu cầu sở Tài nguyên môi trường nhà đất Hà Nội phải báo cáo giải trình quy trình bán nhà công vụ dễ dàng cho ông Thúy
Vấn đề mua nhà công vụ của ông Thúy đúng lúc báo chí đưa tin vụ bán căn nhà công vụ cho ông Hoàng Văn Nghiên cựu Chủ tịch thành phố Hà Nội góp phần làm dấy lên sự quan tâm của công luận về việc bán rẻ nhà công vụ.
Ông Trương Đình Song - nguyên Vụ trưởng Vụ Tổng kiểm soát NHNN Việt Nam cho rằng: "Ông Lê Đức Thúy là thống đốc thứ 10 của ngành ngân hàng Việt Nam và cũng là thống đốc duy nhất mua rẻ nhà công vụ. Ở Việt Nam, tình trạng các quan chức mua rẻ nhà công vụ kiểu này rất phổ biến". Và Ông Đỗ Trọng Ngoạn, đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang cho rằng: "Nó là một biến tướng của tham nhũng".
Sau khi việc chuyển đổi nhà công thành nhà riêng của thống đốc Lê Đức Thúy bị phát hiện và báo chí lên tiếng. Ngày 5 tháng 10 năm 2006, Thủ tướng chấp nhận đề nghị của Thống đốc Lê Đức Thuý về việc xin trả lại nhà và giao Ngân hàng Nhà nước nhận lại nhà số 6 Lý Thái Tổ để bố trí làm công sở.
Ghi chú |
(tiếng Nga: Оле́г Константи́нович Анто́нов; 7 tháng 2 năm 1906 — 4 tháng 4 năm 1984) là nhà thiết kế máy bay Liên Xô, tiến sĩ khoa học, viện sĩ viện hàn lâm Ukraina 1968, viện sĩ viện hàn lâm Liên Xô năm 1981, anh hùng lao động 1966, đại biểu quốc hội khóa 5, 6 và 7, giải thưởng Stalin 1952 và giải thưởng Lenin 1962.
Antonov sinh ra trong một gia đình dân tộc Nga ở Troitsy, Moskva. Năm 1912, nhà Antonov chuyển đến Saratov và ông đi học ở đây. Từ nhỏ, ông đã thích các thứ liên quan đến hàng không và dành nhiều thời gian ở sân bay gần nhà. Năm 17 tuổi, ông thành lập một câu lạc bộ hàng không nghiệp dư và sau đó gia nhập tổ chức tình nguyện nghiên cứu khoa học hàng không, phòng không do chính quyền Liên Xô lập ra. Ông đã thiết kế một chiếc tàu lượn và đoạt giải nhất trong một cuộc thi mà giải thưởng là một chuyến bay bằng máy bay Junker 12.
Năm 1930, ông tốt nghiệp Viện Bách khoa Kalinin ở Leningrad. Ông tiếp tục thiết kế tàu lượn và là nhà công trình sư trưởng của Nhà máy Tàu lượn Moskva từ năm 1931. Thời gian đó, các học viên phi công của Liên Xô đều được yêu cầu trải qua các giờ học và tập bay bằng tàu lượn, nên nhà máy của Antonov đã sản xuất rất nhiều tàu lượn đáp ứng nhu cầu này.
Năm 1938, khi nhà máy tàu lượn nói trên bị đóng cửa, ông chuyển sang làm tổng công trình sư trưởng của Phòng Thiết kế Yakovlev. Năm 1930, một phòng thiết kế mới do ông đứng đầu được thành lập ở Leningrad. Trong Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, Antonov đã thiết kế một số tàu lượn dùng cho hoạt động tiếp tế cho du kích và vận chuyển xe tăng. Năm 1943, ông trở lại Phòng Thiết kế Yakovlev làm phó cho Yakovlev. Ông đã có nhiều đóng góp trong việc nâng cấp dòng máy bay chiến đấu Yakovlev trong thời gian chiến tranh.
Sau chiến tranh, ông được giao đứng đầu một phòng thiết kế tuyệt mật mà sau này được gọi là Phòng Nghiên cứu và Thiết kế số 153 mà sau này được gọi là Phòng Nghiên cứu và Thiết kế Antonov. Ban đầu Phòng Thiết kế này ở Novosibirsk. Năm 1952, Phòng 153 của ông chuyển từ Novosibirsk về Kiev, Ukraina. Bắt đầu từ năm 1997, cơ quan của ông đã sản xuất hàng loạt máy bay vận tải turboprop tầm trung.
ngày 4 tháng 4 năm 1984, Antonov qua đời ở Kiev và được an táng tại Nghĩa trang Baikove.
Ông kết hôn ba lần và có bốn người con. |
Artbook là một bộ sưu tập bằng giấy hay vật liệu khác nữa, nội dung thông thường bao gồm tranh ảnh và đồ họa, được sắp xếp theo một chủ đề xác định. Nó có thể là một tập hợp những bức ảnh nghệ thuật, những bức ảnh chụp từ phim truyền hình hay phim điện ảnh, hay là sưu tập ảnh tác phẩm của một nghệ sĩ nào đó. Trong những năm gần đây, artbook trở nên phổ biến hơn và cũng được sử dụng như một phương tiện quảng cáo cho những quyển truyện tranh hay phim hoạt hình nhiều tập.
Artbook thường có kích thước 24 cm × 30 cm, được in với chất lượng cao.
Sự hấp dẫn
Artbook từ lâu đã là mục tiêu săn đuổi của các otaku (người hâm mộ cuồng nhiệt anime và manga) như một merchandise. Một số artbook Nhật Bản có tặng kèm một món quà nào đó. Như artbook Naruto tặng một tờ lịch có in hình tất cả các nhân vật, artbook InuYasha có tặng một chuỗi ngọc Inuyasha đeo.
Việc xuất bản và phát hành Artbook
Trước đây otaku Việt Nam thường phải mua những artbook của Nhật Bản với giá 150.000 đến 250.000 đồng. Rẻ hơn có artbook của Trung Quốc nhưng chất lượng kém hơn và thỉnh thoảng còn có lỗi chính tả, có giá 100.000 đến 200.000 đồng.
Tuy nhiên tới đây nhà xuất bản Kim Đồng sẽ ra mắt hai bộ artbook có bản quyền đầu tiên: One piece và Dragon Ball. Đây sẽ là khởi đầu cho những bộ artbook có bản quyền sau này tại Việt Nam |
Pavel Osipovich Sukhoi (tiếng Nga Павел Осипович Сухой) (22 tháng 7 năm 1895 - 15 tháng 9 năm 1975) là một tổng công trình sư thiết kế và chế tạo máy bay của Liên Xô, ông là người Belarus.
Sukhoi được sinh ra ở Glubokoye gần Vitebsk, một ngôi làng nhỏ ở Belarus. Ông đến trường từ năm 1905 đến 1914 tại trường trung học Gomel. Năm 1915 ông đến học tại Trường kỹ thuật Đế chế Moscow (ngày nay là MGTU). Sau khi đệ nhất thế chiến nổ ra, ông nhập ngũ, vào năm 1920 ông được giải ngũ vì những vấn đề liên quan đến sức khỏe. Ông trở lại MGTU, và tốt nghiệp vào năm 1925.
Vào năm 1925 ông hoàn thành luận án có tên Chasseur Single-engined aircraft of 300 cv dưới sự hướng dẫn của Andrei Tupolev. Vào tháng 3-1925 ông bắt đầu làm việc như một kỹ sư/thiết kế ở TsAGI (Viện khí động học). Trong những năm sau đó, Sukhoi được thiết kế và xây dựng những máy bay nổi tiếng thế giới. Những ví dụ bao gồm máy bay ném bom hạng nặng TB-1 và TB-3. Vào năm 1932 ông đứng đầu ban kỹ sư và thiết kế ở TsAGI và năm 1938 ông được thăng chức đứng đầu của phòng thiết kế.
Vào tháng 9-1939, Sukhoi được đứng đầu một phòng công trình và thiết kế độc lập có tên là OKB Sukhoi, trụ sở ở Kharkiv. Sukhoi không hài lòng với vị trí của OKB. OKB Sukhoi được tách ra từ cục khoa học Moscow và nó được chuyển vị trí tới Podmoskovye. Việc di chuyển được hoàn tất trong nửa năm 1941. Vào mùa đông năm 1942, Sukhoi gặp vấn đề khác - ông không có dây chuyền sản xuất của mình, do đó ông không có gì để làm. Ông đã phát triển một máy bay tấn công mặt đất mới, Su-6, nhưng Stalin quyết định rằng máy bay này không được đưa vào sản xuất, khi đó đang dành ưu tiên cho Ilyushin Il-2. Những lý do là: đầu tiên, việc sản xuất những máy bay khác chậm lại và đúng lúc đó là chiến tranh do đó đây là điều không tốt, và thứ 2, Stalin đặc biệt không thích Sukhoi.
Máy bay tiêm kích-ném bom được phát triển bởi Sukhoi là Su-17 và Su-24. Máy bay chiến đấu cuối cùng Sukhoi thiết kế là T-10 (Su-27) nhưng ông không sống được đến lúc xem nó bay. Ông mất vào 25 tháng 12-1975, ông được trao tặng các danh hiệu tiến sĩ khoa học, giảng viên của MGTU, 2 lần Anh hùng Lao động (1957, 1965), Giải thưởng Nhà nước Liên Xô và Giải thưởng Lenin, Giải thưởng số 1 mang tên A. N. Tupolev. |
Lộc Ninh là một huyện biên giới thuộc tỉnh Bình Phước, Việt Nam.
Huyện lỵ của huyện là thị trấn Lộc Ninh. Lộc Ninh có các địa điểm tham quan như Nhà giao tế Lộc Ninh, Căn cứ Tà Thiết, Kho xăng Lộc Quang – Lộc Hoà, sân bay Lộc Ninh. Lộc Ninh là cửa ngõ giao thương với Campuchia của tỉnh Bình Phước qua Cửa khẩu Hoa Lư, Quốc lộ 13 từ Thủ Dầu Một, Bình Dương đi qua huyện đến thẳng biên giới Campuchia.
Địa lý
Lộc Ninh là huyện vùng sâu của tỉnh Bình Phước, có vị trí địa lý:
Phía bắc và phía tây giáp Campuchia
Phía đông giáp huyện Bù Đốp, huyện Bù Gia Mập và huyện Phú Riềng
Phía nam giáp thị xã Bình Long và huyện Hớn Quản
Phía tây nam giáp huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh
Huyện Lộc Ninh với diện tích 853,95 km², dân số ước đạt đến 115.268 người.
Địa hình
Địa hình trung du, độ cao trung bình từ 70m đến 220m, trung tâm huyện là khu vực thị trấn Lộc Ninh và xã Lộc Tấn có nhiều đồi thấp nối tiếp nhau, phía bắc và tây bắc có địa hình khá bằng phẳng.
Hành chính
Huyện Lộc Ninh hiện có 16 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Lộc Ninh và 15 xã: Lộc An, Lộc Điền, Lộc Hiệp, Lộc Hòa, Lộc Hưng, Lộc Khánh, Lộc Phú, Lộc Quang, Lộc Tấn, Lộc Thái, Lộc Thạnh, Lộc Thành, Lộc Thiện, Lộc Thịnh, Lộc Thuận.
Lịch sử
Huyện Lộc Ninh trước đây vốn là một tổng thuộc quận Hớn Quản, tỉnh Thủ Dầu Một.
Năm 1957, khi tỉnh Bình Long được thành lập, thì Lộc Ninh là một trong 2 quận của tỉnh này. Lúc đó quận Lộc Ninh có 18 xã với 95 ấp.
Năm 1960, do hợp nhất một số xã nên quận Lộc Ninh còn 10 xã.
• Ngày 07 tháng 4 năm 1972, Lộc Ninh thuộc quyền kiểm soát của Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
• 1972-1975: Lộc Ninh đã trở thành thủ phủ của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam.
• Nơi đây là căn cứ Bộ chỉ huy Quân ủy Miền Nam, cũng là nơi đặt sở chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử
• Lộc Ninh còn là đoạn cuối của tuyến đường Hồ Chí Minh, một trong những nơi quan trọng nối liền huyết mạch giao thông, tiếp nhận chi viện từ hậu phương miền Bắc với Hậu cần chiến trường Nam bộ B2;
• Nơi đây (tại sân bay Lộc Ninh) đã diễn ra sự kiện trao trả tù binh giữa Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hoà.
Năm 1976, huyện Lộc Ninh thuộc tỉnh Sông Bé mới được thành lập.
Năm 1977, huyện Lộc Ninh cùng với 2 huyện: Chơn Thành và Hớn Quản hợp nhất thành huyện Bình Long.
Huyện Lộc Ninh được tái lập theo Quyết định số 34-CP của Hội đồng Chính phủ ngày 9 tháng 2 năm 1978 trên cơ sở tách một số xã của 2 huyện Phước Long (gồm: Thiện Hưng, Hưng Phước, Tân Hòa, Tân Tiến, Bù Tam) và huyện Bình Long (gồm: Lộc Hiệp, Lộc Thành, Lộc Hưng, Lộc Quảng, Lộc Khánh, Lộc Tấn, Lộc Thắng).
Khi mới tái lập, huyện Lộc Ninh gồm 12 xã: Bù Tam, Hưng Phước, Lộc Hiệp, Lộc Hưng, Lộc Khánh, Lộc Quảng, Lộc Tấn, Lộc Thắng, Lộc Thành, Tân Hòa, Tân Tiến và Thiện Hưng.
Ngày 10 tháng 9 năm 1981, thành lập xã Lộc Hòa.
Ngày 17 tháng 7 năm 1986, chia xã Lộc Hòa thành 2 xã: Lộc Hòa và Lộc An.
Ngày 29 tháng 8 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định 104-CP. Theo đó:
Thành lập thị trấn Lộc Ninh (thị trấn huyện lỵ huyện Lộc Ninh) trên cơ sở một phần diện tích tự nhiên và nhân khẩu của xã Lộc Tấn
Hợp nhất 2 xã Tân Hòa và Bù Tam thành xã Thanh Hòa.
Đổi tên xã Lộc Thắng thành xã Lộc Thái.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, tỉnh Bình Phước được tái lập từ tỉnh Sông Bé cũ, huyện Lộc Ninh thuộc tỉnh Bình Phước.
Ngày 26 tháng 12 năm 1997, thành lập xã Tân Thành trên cơ sở 4.050 ha diện tích tự nhiên và 4.539 nhân khẩu của xã Tân Tiến.
Ngày 18 tháng 3 năm 1998, Chính phủ ban hành Nghị định 119/1998/NĐ-CP. Theo đó:
Thành lập xã Lộc Thiện trên cơ sở 5.000 ha diện tích tự nhiên và 811 nhân khẩu của xã Lộc Thành; 660 ha diện tích tự nhiên và 5.050 nhân khẩu của xã Lộc Thái
Thành lập xã Lộc Điền trên cơ sở 3.886 ha diện tích tự nhiên và 5.856 nhân khẩu của xã Lộc Khánh
Thành lập xã Lộc Thuận trên cơ sở 1.520 ha diện tích tự nhiên và 1.106 nhân khẩu của xã Lộc Thái; 3.429 ha diện tích tự nhiên và 4.655 nhân khẩu của xã Lộc Khánh.
Ngày 20 tháng 2 năm 2003, huyện Bù Đốp được tái lập trên cơ sở tách một phần huyện Lộc Ninh, bao gồm 5 xã: Hưng Phước, Thiện Hưng, Thanh Hòa, Tân Tiến và Tân Thành. Do đó diện tích huyện Lộc Ninh giảm từ 1.236,8 km² xuống còn 863 km², gồm thị trấn Lộc Ninh và 12 xã: Lộc An, Lộc Điền, Lộc Hiệp, Lộc Hòa, Lộc Hưng, Lộc Khánh, Lộc Quảng, Lộc Tấn, Lộc Thái, Lộc Thành, Lộc Thiện, Lộc Thuận.
Ngày 16 tháng 5 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định 60/2005/NĐ-CP. Theo đó:
Thành lập xã Lộc Thạnh trên cơ sở 7.449 ha diện tích tự nhiên và 5.412 nhân khẩu của xã Lộc Tấn
Thành lập xã Lộc Thịnh trên cơ sở 6.272 ha diện tích tự nhiên và 1.657 nhân khẩu của xã Lộc Thành; 85 ha diện tích tự nhiên và 98 nhân khẩu của xã Lộc Khánh; 1.500 ha diện tích tự nhiên và 2.302 nhân khẩu của xã Lộc Hưng.
Ngày 1 tháng 3 năm 2008, thành lập xã Lộc Phú trên cơ sở điều chỉnh 3.026 ha diện tích tự nhiên và 7.035 nhân khẩu của xã Lộc Quang.
Huyện Lộc Ninh có 1 thị trấn và 15 xã như hiện nay.
Kinh tế
Nền kinh tế của Lộc Ninh dựa chủ yếu vào nông nghiệp. Ở Lộc Ninh cũng phát triển các loại cây công nghiệp như cao su, cà phê, điều, tiêu và các loại cây ăn quả lâu năm. Lộc Ninh là vùng đất phì nhiêu, đất ở đây chủ yếu là đất đỏ bazan.
Người dân Lộc Ninh có mức sống trung bình thuộc loại thấp ở Việt Nam. Điều này đã dẫn đến sự di cư vì lý do kinh tế của một bộ phận người dân ở đây sang vùng khác để tìm kiếm cơ hội tốt hơn.
Chú thích |
Gian dâm nói chung được định nghĩa là quan hệ tình dục đồng thuận giữa hai người không kết hôn với nhau. Với nhiều người, thuật từ này mang sắc thái nặng nề của sự không tán thành theo quan điểm luân lý hay tôn giáo. Tuy nhiên, các nền văn hóa, tôn giáo và xã hội có các quan điểm khác nhau về việc thuật từ này được áp dụng với các hành vi tình dục nào và định nghĩa của nó vẫn thường bị tranh cãi.
Tên gọi
Trong nhiều bối cảnh trước đây, gian dâm thường được hiểu là tình dục ngoài hôn nhân (thông dâm và mãi dâm–mại dâm) và tình dục trước hôn nhân. Theo các nghĩa rộng, gian dâm còn đề cập tới loạn luân, ấu dâm, thú dâm, kê dâm, v.v.
Lịch sử, Văn hóa và Luật pháp
Việt Nam
Trong luật pháp Việt Nam thời phong kiến người ta cũng đề ra các hình phạt cho tội gian dâm.
Tháng 9 nhuận năm 1042 vua Lý Thái Tông xuống chiếu ban lệnh: kẻ nào ban đêm vào nhà gian dâm vợ cả, vợ lẽ người ta, người chủ đánh chết, ngay lúc bấy giờ thì không bị tội.
Trong Luật Hồng Đức có hình phạt cho tội thất xuất, trong đó có tội dâm đãng. Theo khoản cuối điều 401 bộ luật này thì nếu người vợ là "gian phụ thì bị xử tội lưu, điền sản trả lại cho chồng, nếu là vợ chưa cưới thì giảm một bậc". Còn theo khoản đầu của điều 401 thì nếu người đàn ông "gian dâm với vợ người khác thì xử tội lưu hay tội chết, với vợ lẽ của người khác thì giảm một bậc". Điều 405 cũng quy định nếu đàn ông thông gian (có ngoại tình đi lại với nhau nhưng không bắt được đang có hành vi gian dâm) với vợ người thì bị xử phạt 60 trượng, biếm 2 tư và bắt nộp tiền ta.
Hoặc theo điều 332 của Hoàng Việt luật lệ (luật Gia Long) thì nếu người vợ mắc tội thông gian thì người chồng có quyền gả bán vợ cho người khác (nhưng không phải là cho gian phu). Điều 254 cũng quy định nếu người chồng thông gian, cưỡng gian đều xử nặng tội.
Hiện nay, người ta không định nghĩa tội danh gian dâm hay thông dâm mà chỉ định nghĩa tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng. Theo quy định tại điều 147 Luật Hình sự Việt Nam 1999 thì:
Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng tới một năm.
Phạm tội trong trường hợp đã có quyết định của tòa án tiêu hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng tới ba năm.
Hậu quả
Ngoài việc bị xử lý theo pháp luật vì hành vi quan hệ tình dục ngoài hôn nhân, thông dâm có thể dẫn tới hậu quả xã hội khác, và những điều này khá phổ biến:
Ảnh hưởng tới hạnh phúc gia đình (xem bài ngoại tình)
Sự ra đời của những đứa trẻ ngoài giá thú (chửa hoang) (con hoang). Một số phụ nữ độc thân (chưa từng kết hôn hoặc đã ly hôn) có quan hệ tình dục với đàn ông đã có gia đình và mang thai, sinh con không có cha vì người đàn ông đó không bỏ vợ để lấy người phụ nữ ngoài hôn nhân. Trong một số trường hợp, khi hành vi gian dâm không bị phát lộ, và người phụ nữ ngoại tình đã có gia đình, thì đứa trẻ sinh ra từ quan hệ vụng trộm có thể được thừa nhận tại gia đình hiện tại của người phụ nữ đó, mang họ người chồng hợp pháp dù ông ta không phải là cha thực sự của đứa trẻ. |
Maryland (IPA: ), là một tiểu bang vùng Trung Đại Tây Dương của Hoa Kỳ, nằm trên bờ biển phía đông của Hoa Kỳ.
Maryland phía bắc giáp Pennsylvania; phía tây giáp Tây Virginia; phía bắc và phía đông là Delaware và Đại Tây Dương; và về phía nam, bên kia sông Potomac, là Virginia và Tây Virginia. Phần giữa của đường biên giới này bị cắt ở phía Maryland bởi Washington, D.C., nằm trên vùng nguyên là của Maryland. Vịnh Chesapeake gần như cắt đôi bang này, và những quận phía đông của vịnh được biết đến với cái tên chung là Eastern Shore.
Đại học Maryland là đại học nổi tiếng nhất ở tiểu bang này.
Biệt danh của tiểu bang Maryland là The Old Line State và The Free State |
Maine () là tiểu bang cực Đông của vùng New England thuộc Đông Bắc Hoa Kỳ. Nó giáp New Hampshire về phía Tây, Vịnh Maine về phía Đông Nam, và các tỉnh của Canada là New Brunswick và Quebec về phía Đông Bắc và Tây Bắc. Nó là tiểu bang lớn nhất vùng New England nếu tính theo tổng diện tích. Trong 50 tiểu bang của nước Mỹ thì Maine là bang nhỏ thứ 12 theo diện tích, ít dân thứ 9, mật độ dân số thấp thứ 13 và là vùng nông thôn nhất. Maine cũng là tiểu bang cực Bắc phía Đông của Ngũ Đại Hồ, tiểu bang duy nhất có tên bao gồm một âm tiết và tiểu bang có biên giới duy nhất với một tiểu bang khác của Hoa Kỳ. Khoảng một nửa diện tích của Maine nằm ở mỗi bên của vĩ tuyến 45 Bắc theo vĩ độ. Thành phố đông dân nhất ở Maine là Portland, trong khi thủ phủ của nó là Augusta.
Maine theo truyền thống được biết đến với bờ biển Đại Tây Dương lởm chởm đá và bờ vịnh; những ngọn núi có đường viền mượt mà; nội địa rừng rậm; sông nước đẹp như tranh vẽ; và các món ăn hải sản và quả việt quất bụi rậm hoang dã, đặc biệt là tôm hùm và nghêu. Vùng ven biển và Down East của Maine đã nổi lên như những trung tâm quan trọng cho nền Công nghiệp sáng tạo, đặc biệt là ở vùng đô thị Portland, nơi cũng đang mang lại sự chỉnh trang.
Lãnh thổ Maine là nơi sinh sống của thổ dân trong hàng nghìn năm sau khi các sông băng rút đi trong Thời kỳ băng hà cuối cùng. Vào thời điểm người châu Âu đến, một số nhà nước nói Ngữ tộc Algonquin đã cai trị khu vực này và những nhà nước này hiện được gọi là Liên minh Wabanaki. Khu định cư châu Âu đầu tiên trong khu vực là của người Pháp, hình thành vào năm 1604 trên đảo Saint Croix, được thành lập bởi Pierre Dugua, Sieur de Mons. Khu định cư đầu tiên của người Anh là Thuộc địa Popham tồn tại trong thời gian ngắn, được thành lập bởi Công ty Plymouth vào năm 1607. Một số khu định cư của người Anh được thành lập dọc theo bờ biển Maine vào những năm 1620, mặc dù khí hậu khắc nghiệt và xung đột với người bản địa địa phương đã khiến nhiều người thất bại.
Khi Maine bước vào thế kỷ XVIII, chỉ có nửa tá khu định cư châu Âu còn tồn tại. Các lực lượng Trung thành và Yêu nước tranh giành lãnh thổ của Maine trong Cách mạng Hoa Kỳ. Trong Chiến tranh năm 1812, khu vực phía Đông Maine phần lớn không được bảo vệ đã bị lực lượng Anh chiếm đóng với mục tiêu sáp nhập nó vào Canada thông qua Thuộc địa New Ireland, nhưng Maine đã quay trở lại Hoa Kỳ sau các cuộc tấn công thất bại của Anh ở biên giới phía Bắc, giữa Đại Tây Dương và phía Nam, hai bên ký Hiệp ước Ghent phục hồi các ranh giới như trước chiến tranh. Maine là một phần của Khối thịnh vượng chung Massachusetts cho đến năm 1820 khi bang này bỏ phiếu tách khỏi Massachusetts để trở thành một tiểu bang riêng biệt. Vào ngày 15 tháng 3 năm 1820, theo Thỏa hiệp Missouri, nó được kết nạp vào Liên minh với tư cách là bang thứ 23.
Lịch sử
Những cư dân được biết đến sớm nhất của lãnh thổ tiểu bang Maine hiện nay là những người Wabanaki nói tiếng Algonquia, bao gồm Passamaquoddy, Maliseet, Penobscot, Androscoggin và Kennebec. Trong Chiến tranh Vua Philip sau này, nhiều bộ lạc trong số này sẽ hợp nhất dưới hình thức này hay hình thức khác để trở thành Liên minh Wabanaki, hỗ trợ người Wampanoag ở Massachusetts và người Mahican của New York. Sau đó, nhiều bộ lạc trong số này đã bị đánh đuổi khỏi lãnh thổ tự nhiên của họ, nhưng hầu hết các bộ lạc của Maine vẫn tiếp tục ở lại, không thay đổi, cho đến Cách mạng Hoa Kỳ. Tuy nhiên, trước thời điểm này, hầu hết những bộ lạc được coi là các nhà nước riêng biệt. Nhiều bộ lạc đã thích nghi với cuộc sống trong các khu định cư lâu dài lấy cảm hứng từ người Iroquois, trong khi những bộ lạc dọc theo bờ biển có xu hướng chuyển từ làng mùa hè sang làng mùa đông theo chu kỳ hàng năm. Họ thường trú đông trong đất liền và tiến đến bờ biển vào mùa hè.
Sự tiếp xúc của người châu Âu với những gì ngày nay được gọi là Maine có thể đã bắt đầu vào khoảng năm 1200 sau Công nguyên khi người Na Uy được cho là đã tương tác với người Penobscot bản địa ở Quận Hancock ngày nay, rất có thể là thông qua thương mại. Nếu được xác nhận, điều này sẽ khiến Maine trở thành địa điểm khám phá ra châu Mỹ sớm nhất của người châu Âu. Khoảng 200 năm trước, từ các khu định cư ở Iceland và Greenland, người Na Uy lần đầu tiên xác định được Châu Mỹ và cố gắng định cư ở các khu vực như Newfoundland, nhưng không thành công trong việc thiết lập một khu định cư lâu dài. Bằng chứng khảo cổ học cho thấy rằng người Na Uy ở Greenland đã quay trở lại Bắc Mỹ trong vài thế kỷ sau khi phát hiện ban đầu để buôn bán và thu thập gỗ, với bằng chứng phù hợp nhất là Maine penny, một đồng xu Na Uy thế kỷ XI được tìm thấy tại một địa điểm của người Mỹ bản địa vào năm 1954.
Khu định cư đầu tiên được xác nhận của người châu Âu ở Maine ngày nay được hình thành vào năm 1604 trên Đảo Saint Croix, do nhà thám hiểm người Pháp Pierre Dugua, Sieur de Mons lãnh đạo. Nhóm của ông bao gồm Samuel de Champlain, được ghi nhận là một nhà thám hiểm. Người Pháp đặt tên cho toàn bộ khu vực là Acadia, bao gồm cả phần sau này trở thành bang Maine. Công ty Plymouth đã thành lập khu định cư người Anh đầu tiên ở Maine tại Thuộc địa Popham vào năm 1607, cùng năm với khu định cư tại Jamestown, Virginia. Những người ở Popham trở lại Anh sau 14 tháng.
Người Pháp đã thành lập hai phái bộ Dòng Tên: một ở Vịnh Penobscot vào năm 1609, và một ở Đảo Mount Desert vào năm 1613. Cùng năm đó, Claude de La Tour thành lập Castine. Năm 1625, Charles de Saint-Étienne de la Tour đã dựng lên Pháo đài Pentagouet để bảo vệ Castine. Các khu vực ven biển phía Đông Maine lần đầu tiên trở thành Tỉnh Maine trong một giấy chứng thực đất đai năm 1622. Phần phía Tây Maine ở phía Bắc sông Kennebec có dân cư thưa thớt hơn và được biết đến vào thế kỷ XVII với tên gọi Lãnh thổ Sagadahock. Một khu định cư thứ 2 đã được cố gắng thực hiện vào năm 1623 bởi nhà thám hiểm và thuyền trưởng hải quân người Anh Christopher Levett tại một nơi gọi là York, nơi ông đã được Vua Charles I của Anh cấp 6.000 mẫu Anh (24 km2). Nó cũng thất bại.
Giấy chứng thực đất đai năm 1622 của Tỉnh Maine, lấy sông Piscataqua làm ranh giới, chia thành Tỉnh New Hampshire ở phía Nam và New Somersetshire ở phía Bắc. Một Giấy chứng thực đất đai gây tranh cãi năm 1630 đã tách khu vực xung quanh Saco ngày nay thành Lygonia. Biện minh cho hành động của mình bằng một cuộc khảo sát địa lý năm 1652 cho thấy có giấy chứng thực đất đai chồng chéo, Thuộc địa Vịnh Massachusetts đã chiếm giữ New Somersetshire và Lygonia bằng vũ lực vào năm 1658. Lãnh thổ Sagadahock giữa sông Kennebec và sông St. Croix trên danh nghĩa trở thành Quận Cornwall, Tỉnh New York theo khoản trợ cấp năm 1664 từ vua Charles II của Anh cho em trai là Hoàng tử James, vào thời điểm đó là Công tước xứ York. Một số vùng đất này đã được Tân Pháp tuyên bố là một phần của Acadia. Tất cả các khu định cư của người Anh tại Thuộc địa Vịnh Massachusetts và Tỉnh New York đã trở thành một phần của Lãnh thổ tự trị New England vào năm 1686. Toàn bộ Maine ngày nay được hợp nhất thành Quận York, Massachusetts theo Công bố hoàng gia năm 1691 cho Tỉnh Vịnh Massachusetts.
Địa lý
Phía Nam và phía Đông là Vịnh Maine, phía Tây là bang New Hampshire. Tỉnh New Brunswick của Canada nằm ở phía Bắc và Đông Bắc, và tỉnh Quebec nằm ở phía Tây Bắc. Maine là bang cực bắc của vùng New England và là bang lớn nhất, chiếm gần một nửa diện tích toàn vùng. Maine là tiểu bang duy nhất có biên giới chính xác chỉ với một tiểu bang khác của Hoa Kỳ (New Hampshire).
Maine là tiểu bang cực Đông của Hoa Kỳ cả về điểm cực và trung tâm địa lý. Thị trấn Lubec là khu định cư có tổ chức ở cực Đông của Hoa Kỳ. Ngọn hải đăng Quoddy Head của nó cũng là nơi gần nhất ở Hoa Kỳ với Châu Phi và Châu Âu. Ga Estcourt là điểm cực Bắc của Maine, cũng như điểm cực Bắc ở New England. (Để biết thêm thông tin, hãy xem các điểm cực của Hoa Kỳ.)
Hồ Moosehead của Maine là hồ lớn nhất nội địa vùng New England, vì Hồ Champlain nằm giữa Vermont, New York và Quebec. Một số hồ khác của Maine, chẳng hạn như Hồ Nam Twin, được mô tả bởi Henry David Thoreau trong "The Maine Woods" (1864). Núi Katahdin là điểm cuối phía Bắc của Đường mòn Appalachia, kéo dài về phía Nam đến Dãy Springer, Georgia và điểm cuối phía Nam của Đường mòn Appalachia Quốc tế mới, khi hoàn thành, sẽ chạy đến Belle Isle, Newfoundland và Labrador.
Đảo Machias Seal và North Rock, ngoài khơi bờ biển Down East của bang, được cả Canada và thị trấn Cutler của Mỹ tuyên bố chủ quyền, và nằm trong một trong bốn khu vực giữa hai quốc gia mà chủ quyền vẫn đang tranh chấp, nhưng đây là khu vực duy nhất trong số các khu vực tranh chấp có đất đai. Cũng ở khu vực cực Đông này trong Vịnh Fundy là Old Sow whirlpool, Vực nước xoáy lớn nhất ở Tây bán cầu.
Maine là tiểu bang có mật độ dân cư thấp nhất ở phía Đông sông Mississippi. Nó được gọi là Tiểu bang Cây Thông; hơn 80% tổng diện tích đất của nó là rừng hoặc không có người ở, độ che phủ rừng nhiều nhất so với bất kỳ tiểu bang nào của Hoa Kỳ. Trong các khu vực nhiều cây cối của nội địa có nhiều vùng đất không có người ở, một số không có tổ chức chính quyền chính thức (rất hiếm ở vùng New England). Ví dụ, lãnh thổ chưa được tổ chức Tây Bắc Aroostook ở phần phía Bắc của bang có diện tích 2.668 dặm vuông (6.910 km2) và dân số là 10 người, hoặc một người cho mỗi 267 dặm vuông (690 km2).
Maine nằm trong quần xã sinh vật rừng hỗn hợp và lá rộng ôn đới. Vùng đất gần bờ biển phía Nam và Trung tâm Đại Tây Dương được bao phủ bởi những cây sồi hỗn hợp của các khu rừng ven biển Đông Bắc. Phần còn lại của bang, bao gồm cả North Woods, được bao phủ bởi rừng New England–Acadia.
Maine có gần 230 dặm (400 km) bờ biển thuộc Đại Tây Dương (và 3.500 dặm (5.600 km) bờ biển thủy triều). West Quoddy Head ở Lubec là điểm cực đông của vùng đất trong 48 bang tiếp giáp. Dọc theo bờ biển nổi tiếng có đá bao quanh của Maine là những ngọn hải đăng, bãi biển, làng chài và hàng ngàn hòn đảo ngoài khơi, bao gồm cả Quần đảo Shoals nằm giữa biên giới với New Hampshire. Có đá lởm chởm và vách đá và nhiều vịnh và cửa hút gió. Nội địa là hồ, sông, rừng và núi. Sự tương phản trực quan này của những sườn dốc có rừng bao phủ xuống biển đã được nhà thơ người Mỹ Edna St. Vincent Millay của Rockland và Camden tóm tắt trong tác phẩm "Renascence":
Các nhà địa chất mô tả kiểu cảnh quan này là "bờ biển bị nhấn chìm", nơi mực nước biển dâng cao đã xâm chiếm các đặc điểm đất đai trước đây, tạo ra các vịnh từ các thung lũng và các đảo từ các đỉnh núi. Sự gia tăng độ cao của đất do sự tan chảy của băng nặng trên sông băng đã gây ra hiệu ứng bật lại nhẹ của lớp đá bên dưới; Tuy nhiên, sự dâng lên của đất không đủ để loại bỏ tất cả ảnh hưởng của mực nước biển dâng và sự xâm lấn của nó đối với các thực thể đất trước đây.
Phần lớn địa mạo của Maine được tạo ra bởi hoạt động băng hà kéo dài vào cuối thời kỳ băng hà cuối cùng. Các đặc điểm băng giá nổi bật bao gồm Somes Sound và Bubble Rock, cả hai đều thuộc Công viên Quốc gia Acadia trên Đảo Mount Desert. Được chạm khắc bởi sông băng, Somes Sound đạt đến độ sâu 175 foot (50 m). Độ sâu cực cao và độ dốc lớn cho phép các tàu lớn di chuyển gần như toàn bộ chiều dài của vịnh hẹp. Những tính năng này cũng đã làm cho nó trở nên hấp dẫn đối với các nhà đóng tàu, chẳng hạn như Du thuyền Hinckley danh tiếng.
Bubble Rock, một loại băng giá thất thường (Glacial erratic), là một tảng đá lớn nằm ở rìa Bubble Mountain trong Công viên Quốc gia Acadia. Bằng cách phân tích loại đá granit, các nhà địa chất phát hiện ra rằng sông băng mang Bubble Rock đến vị trí hiện tại của nó từ Lucerne, 30 dặm (48 km). Iapetus Suture chạy qua phía Bắc và phía Tây của bang, nằm dưới địa thể Laurentia cổ đại, và phía Nam và phía Đông nằm dưới địa thể Avalonia.
Vườn quốc gia Acadia là vườn quốc gia duy nhất ở New England. Các khu vực dưới sự bảo vệ và quản lý của Cục Công viên Quốc gia Hoa Kỳ bao gồm:
Vườn quốc gia Acadia gần Bar Harbor
Đường mòn danh lam thắng cảnh quốc gia Appalachia
Văn hóa Maine Acadia ở Thung lũng St. John
Công viên quốc tế Roosevelt Campobello trên đảo Campobello ở New Brunswick, Canada, do cả Hoa Kỳ và Canada điều hành, ngay bên kia cầu Franklin Delano Roosevelt từ Lubec
Địa điểm Lịch sử Quốc tế Đảo Saint Croix tại Calais
Đài tưởng niệm Quốc gia Rừng và Nước Katahdin
Các vùng đất dưới sự kiểm soát của bang Maine bao gồm:
Công viên bang Maine
Khu vực quản lý động vật hoang dã Maine (WMA)
Khí hậu
Maine có khí hậu lục địa ẩm ướt (Phân loại khí hậu Köppen), với mùa hè ấm áp và đôi khi ẩm ướt, mùa đông dài, lạnh và có rất nhiều tuyết. Mùa đông đặc biệt khắc nghiệt ở phía Bắc và phía Tây của Maine, trong khi các khu vực ven biển được điều hòa một chút bởi Đại Tây Dương, dẫn đến mùa đông ôn hòa hơn một chút và mùa hè mát mẻ hơn so với các vùng nội địa. Nhiệt độ cao nhất vào ban ngày thường nằm trong khoảng 75–85 °F (24–29 °C) trên toàn tiểu bang vào tháng 7, với nhiệt độ thấp nhất qua đêm là 50 °F (khoảng 15 °C). Nhiệt độ tháng Giêng dao động từ mức cao gần 30 °F (−1 °C) ở bờ biển phía Nam đến mức thấp nhất qua đêm trung bình dưới 0 °F (−18 °C) ở vùng cực Bắc.
Nhiệt độ cao kỷ lục của bang là 105 °F (41 °C), được thiết lập vào tháng 7 năm 1911, tại North Bridgton. Lượng mưa ở Maine phân bố đều quanh năm, nhưng với lượng mưa cao nhất vào mùa hè ở phía Bắc/Tây Bắc Maine và lượng mưa cao nhất vào cuối thu hoặc đầu đông dọc theo bờ biển do "Nor'easter" hoặc mưa và bão tuyết dữ dội vào mùa lạnh. Ở ven biển Maine, những tháng cuối mùa xuân và mùa hè thường khô hạn nhất—một điều hiếm thấy trên khắp miền Đông Hoa Kỳ. Maine có ít ngày giông bão hơn bất kỳ tiểu bang nào khác ở phía Đông Dãy núi Rocky, với hầu hết các tiểu bang có trung bình ít hơn hai mươi ngày dông bão một năm. Lốc xoáy hiếm khi xảy ra ở Maine, với trung bình mỗi năm có hai cơn lốc xoáy xảy ra ở bang này, mặc dù con số này đang tăng lên. Hầu hết các cơn giông và lốc xoáy nghiêm trọng xảy ra ở phần Nội địa Tây Nam của bang, nơi nhiệt độ mùa hè thường ấm nhất và bầu khí quyển do đó không ổn định hơn so với các khu vực phía Bắc và ven biển. Maine hiếm khi chứng kiến sự đổ bộ trực tiếp của các cơn bão nhiệt đới, vì chúng có xu hướng quay trở lại biển hoặc suy yếu nhanh chóng khi chúng đến vùng nước mát hơn của Maine.
Vào tháng 1 năm 2009, nhiệt độ thấp kỷ lục mới của bang đã được thiết lập tại Sông Big Black là −50 °F (−46 °C), đánh dấu kỷ lục của New England.
Lượng mưa hàng năm thay đổi từ 35,8 in (909 mm) ở Đảo Presque đến 56,7 in (1.441 mm) ở Công viên Quốc gia Acadia.
Nhân khẩu học
Dân số
Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ ước tính rằng dân số của Maine là 1.344.212 người vào ngày 1 tháng 7 năm 2019, tăng 1,19% kể từ cuộc điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2010. Tại cuộc điều tra dân số năm 2020, 1.362.359 người sống trong tiểu bang. Mật độ dân số của bang là 41,3 người trên một dặm vuông, khiến nó trở thành bang có mật độ dân số thấp nhất ở phía Đông sông Mississippi. Tính đến năm 2010, Maine cũng là bang nông thôn nhất trong Liên minh, với chỉ 38,7% dân số của bang sống trong khu vực thành thị. Như đã giải thích chi tiết trong phần "Địa lý", có những vùng đất rộng lớn không có người ở, một số vùng xa xôi trong nội địa của bang, đặc biệt là ở Rừng Bắc Maine.
Trung tâm dân số trung bình của Maine nằm ở Quận Kennebec, ngay phía Đông Augusta. Vùng đô thị Portland, Maine có mật độ dân số cao nhất với gần 40% dân số Maine. Khu vực này trải dài 3 quận và bao gồm nhiều trang trại và khu vực nhiều cây cối; dân số năm 2016 của Portland là 66.937.
Maine có tốc độ tăng dân số rất chậm kể từ cuộc điều tra dân số năm 1990; tốc độ tăng trưởng của nó (0,57%) kể từ cuộc điều tra dân số năm 2010 đứng thứ 45 trong số 50 tiểu bang. Mức tăng dân số khiêm tốn trong tiểu bang tập trung ở các quận ven biển phía Nam; với nhiều dân số đa dạng hơn đang dần di chuyển vào các khu vực này của tiểu bang. Tuy nhiên, các khu vực phía Bắc, nông thôn hơn của bang đã trải qua sự sụt giảm nhẹ về dân số từ năm 2010 đến năm 2016.
Tính đến năm 2020, Maine có dân số từ 65 tuổi trở lên cao nhất ở Hoa Kỳ.
Theo điều tra dân số năm 2010, Maine có tỷ lệ người da trắng không phải gốc Tây Ban Nha cao nhất so với bất kỳ bang nào, chiếm 94,4% tổng dân số. Trong năm 2011, 89,0% tổng số ca sinh trong tiểu bang là của cha mẹ da trắng không phải gốc Tây Ban Nha. Maine cũng có dân số cao thứ hai trong khu dân cư.
Theo Báo cáo đánh giá tình trạng vô gia cư hàng năm của Bộ Gia cư và Phát triển Đô thị Hoa Kỳ - HUD năm 2022, ước tính có khoảng 4.411 người vô gia cư ở Maine.
Bảng dưới đây cho thấy thành phần chủng tộc của dân số Maine vào năm 2016.
Theo Khảo sát cộng đồng người Mỹ năm 2016, 1,5% dân số Maine là người gốc Tây Ban Nha hoặc La tinh (thuộc bất kỳ chủng tộc nào): người Mexico (0,4%), người Puerto Rico (0,4%), người Cuba (0,1%) và người gốc Tây Ban Nha hoặc người La tinh khác (0,6%).[55] Sáu nhóm tổ tiên lớn nhất là: người Anh (20,7%), người Ireland (17,3%), người Pháp (15,7%), người Đức (8,1%), người Mỹ (7,8%) và Pháp-Canada (7,7%).
Những người viện dẫn rằng họ là người Mỹ phần lớn là người gốc Anh, nhưng có tổ tiên đã sinh sống ở khu vực này quá lâu (thường là từ thế kỷ XVII) nên họ chọn cách xác định đơn giản là người Mỹ.
Maine có tỷ lệ người Mỹ gốc Pháp cao nhất so với bất kỳ bang nào. Hầu hết trong số họ là người gốc Canada, nhưng trong một số trường hợp đã sống ở đó từ trước Chiến tranh Cách mạng Mỹ. Mật độ đặc biệt cao ở phần phía Bắc của Maine thuộc Hạt Aroostook, là một phần của khu vực văn hóa được gọi là Acadia đi qua biên giới vào New Brunswick. Cùng với dân số Acadia ở phía Bắc, nhiều người Canada gốc Pháp đến từ Quebec với tư cách là người nhập cư từ năm 1840 đến năm 1930.
Khu vực thung lũng phía trên sông Saint John từng là một phần của cái gọi là Cộng hòa Madawaska, trước khi biên giới được quyết định trong Hiệp ước Webster-Ashburton năm 1842. Hơn một phần tư dân số của Lewiston, Waterville và Biddeford là người Mỹ gốc Pháp. Hầu hết cư dân của các khu vực Mid Coast và Down East chủ yếu là di sản của Anh. Một số lượng nhỏ hơn các nhóm khác, bao gồm người Ireland, người Ý và người Ba Lan, đã định cư trên khắp tiểu bang kể từ làn sóng nhập cư cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.
Ảnh |
Bùi Dương Lịch (; 1757 – 1828) có tên tự là Tồn Thành(存成), hiệu Thạch Phủ(石甫) và Tồn Trai(存齋) ; là một nhà giáo và là văn thần trải ba triều đại khác nhau: Lê trung hưng, Tây Sơn và nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Thân thế và sự nghiệp
Ông sinh năm Cảnh Hưng thứ 18 (Đinh Sửu, 1757) tại thôn Yên Hội, xã Yên Đồng, tổng Việt Yên, huyện La Sơn, phủ Đức Thọ, tỉnh Nghệ An (nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh).
Họ Bùi của ông vốn là một dòng họ có nhiều người đỗ đạt làm quan, lại có tiếng văn chương ở thôn Yên Hội. Cha ông là Bùi Quốc Toại, đỗ Cử nhân, từng làm Tri phủ Thiệu Thiên (Thanh Hóa) thời Hậu Lê.
Thuở nhỏ, Bùi Dương Lịch học ở nhà với cha. Năm 1774, ông đỗ Hương cống lúc 17 tuổi. Sau đó, ông ra Thăng Long vừa dạy tư vừa tập luyện văn bài ở Quốc Tử Giám, dần nổi tiếng là người hay chữ.
Năm 1786, ông được bổ làm Huấn đạo phủ Lý Nhân, nhưng vì có tang cha nên từ chối. Khi hết tang, ông lại ra Thăng Long học tiếp.
Lúc này cục diện đất nước hết sức rối ren. Kể từ tháng 10 năm 1782, nạn kiêu binh thực sự trở thành quốc nạn. Đến giữa năm 1786, sau khi phong trào Tây Sơn làm chủ Đàng Trong đã nhanh chóng tiến ra Đàng Ngoài tiêu diệt phe chúa Trịnh. Nhưng sau khi quân Tây Sơn rút về Nam, việc tranh chấp quyền hành giữa vua Lê và chúa Trịnh lại diễn ra quyết liệt. Triều đình nhà Hậu Lê bèn xuống chiếu cầu người tài giỏi, Bùi Dương Lịch nhân đó được tiến cử và được vua Lê Chiêu Thống cho làm Nội hàn viện cung phụng sứ ngoại lang (chỉ là một chức quan văn nhỏ ở gần vua, để vua tiện hỏi han). Ngoài việc làm này, ông còn lãnh nhiệm vụ đến nhà riêng của Điền quận công Lê Duy Lựu (em ruột vua) để giảng giải kinh sách. Sau đó, ông được chuyển làm một vài công việc khác, rồi được quản lĩnh đội quân Hậu Thắng .
Tháng 7 năm Chiêu Thống thứ 1 (1787), ông thi đỗ Hoàng giáp lúc 30 tuổi (đây là khoa cuối cùng của triều Lê), nhưng chưa kịp thăng quan và cưới Công chúa (vua Lê Chiêu Thống hứa gả) thì quân Tây Sơn do tướng Vũ Văn Nhậm chỉ huy kéo ra Thăng Long, giết chết Nguyễn Hữu Chỉnh, khiến vua Lê Chiêu Thống hoảng hốt bỏ đi bôn tẩu khắp nơi, rồi cho người sang cầu viện nhà Thanh (Trung Quốc). Lúc bấy giờ, ông chạy vào Thanh Hóa .
Tháng 10 năm Mậu Thân (1788), hàng vạn quân Thanh do tướng Tôn Sĩ Nghị chỉ huy đưa vua Lê về lại Thăng Long. Tháng giêng năm Kỷ Dậu (1789), vua nhà Tây Sơn là Quang Trung (Nguyễn Huệ) kéo quân ra Bắc Hà, đánh tan cả đội quân ấy, khiến nhà vua phải chạy sang Trung Quốc. Theo Bùi gia phả, thì lúc bấy giờ Bùi Dương Lịch chạy lên Lạng Sơn để theo vua, nhưng đi được mấy dặm đường thì bị chặn lại, nên đành rẽ sang Thái Nguyên rồi quay về Thăng Long.
Theo Ốc lậu thoại do ông viết, thì năm Canh Tuất (1790), ông được vua Quang Trung gọi vào Phú Xuân , nhưng đã từ chối, lấy cớ phải ở nhà nuôi dưỡng mẹ già.
Năm 1791, vua Quang Trung lại một lần nữa mời ông ra giúp việc biên soạn và dịch thuật ở Viện Sùng chính (Viện trưởng là La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp), và ông đã nhận lời. Công việc học thuật mà ông tham gia đang phát triển thuận lợi, thì vua Quang Trung mất (tháng 9 năm 1792). Sau đó, ông trở về quê dạy học vì Viện Sùng chính ngừng hoạt động .
Năm 1802, nhà Tây Sơn sụp đổ, vua Gia Long lên ngôi mở đầu triều đại nhà Nguyễn, Bùi Dương Lịch lại được triệu ra. Khẩn khoản chối từ không được, ông phải nhận chức Đốc học Nghệ An (1805), rồi làm Phó Đốc học Quốc Tử Giám ở Huế (1812), nhưng chỉ được một năm thì xin cáo về (1813), tiếp tục sống với nghề dạy học tư và soạn sách cho đến khi mất (Mậu Tý, 1828). Năm ấy, ông 71 tuổi.
Nhớ ơn thầy, những người học trò cũ đã dựng một ngôi nhà thờ ông trên khu đất vườn của ông, hiện tọa lạc tại xã Tùng Ảnh.
Tác phẩm
Trước tác của Bùi Dương Lịch chủ yếu bằng chữ Hán, gồm có:
Bùi gia huấn hài (Sách dạy trẻ của nhà họ Bùi): gồm 2. 000 câu, mỗi câu 4 chữ, khắc in năm 1787. Đây là những trích lục cách ngôn Khổng giáo và kiến thức đương thời dùng để dạy học trò, được Phan Huy Chú khen là "lời gọn, ý rộng" (Văn tịch chí).
Ốc lậu thoại (Câu chuyện ở nơi nhà dột) là một tập hợp thơ văn trên 50 bài, gồm đề vịnh (vịnh cảnh, vịnh phong thổ...), cảm tác theo kiểu "ngôn chí", hoặc bàn giải về đạo trời, đạo Phật...
Lê quý dật sử (Dật sử cuối đời Lê): ghi chép các sự kiện lịch sử cuối Lê và Tây Sơn trong 35 năm (1758 - 1793) theo lối biên niên.
Yên Hội thôn chí (Địa chí thôn Yên Hội) là tập địa phương chí viết về làng quê của tác giả. Phần cuối có phụ lục Bùi gia phả (từ thủy tổ đến tác giả là 7 đời)
Nghệ An phong thổ ký (ghi chép về phong thổ Nghệ An): do nhiều người viết, Bùi Dương Lịch làm Chủ biên, có lẽ hoàn thành vào khoảng năm 1811 - 1812.
Nghệ An chí: chép sơ lược địa chí Nghệ An.
Nghệ An ký (Ghi chép về xứ Nghệ An), gồm 2 tập, được xem là tập đại thành của hai cuốn Nghệ An phong thổ ký và Nghệ An chí. Đây là một trong những tác phẩm địa chí có tiếng của Việt Nam .
Đôi nét về tác giả và tác phẩm
Về tác giả
Xuất thân trong một gia đình nho sĩ nghèo, chịu ơn sâu của nhà Lê, do đó Bùi Dương Lịch không ưa nhà Tây Sơn cũng như nhà Nguyễn. Tuy nhiên, vì hoàn cảnh, ông phải làm quan cho hai triều đại sau, khiến ông mang tiếng là kẻ "thay thầy, đổi chủ", như một bài tán đã mỉa mai:
Lê triều cử tiến sĩ
Tây ngụy sĩ hàn lâm.
Bản triều vi đốc học,
Từ hải cộng tri âm.
Có nghĩa là Triều Lê đỗ tiến sĩ, thời ngụy Tây Sơn làm quan hàn lâm, đến triều ta (nhà Nguyễn) làm đốc học, bốn biển đều biết tiếng ông.
Thực tế, lòng ông luôn hướng về nhà Lê, như trong bài "Phu phụ thạch" (Đá chồng vợ) của ông, trích:
Kỷ độ giang hà thành biến cải,
Phong ba bất một thử kiên kinh.
Tạm dịch:
Bao phen sông nước đổi thay,Phong ba không vẩn lòng này kiên trinh....
Về tác phẩm
Qua các tác phẩm của Bùi Dương Lịch, có thể thấy ông là một nhà sử học, là nhà lịch sử địa lý học, trội hơn nhà văn. Tư tưởng Nho giáo chính thống chi phối ngòi bút của ông khá nặng, kể cả lúc tranh luận với người khác .
Tuy nhiên, đặc biệt ở ông có cái xu hướng tìm tòi khoa học (cách vật trí tri). Khi nghiên cứu hệ ý thức phong kiến thời Nguyễn, GS. Trần Văn Giàu đã cho rằng "nhà nho như Bùi Dương Lịch là hơi hiếm. Ông theo con đường Trương Tái mà tiếp cận với duy vật luận. Trên không có thượng đế sáng tạo, dưới không có linh hồn bất tử, đó là hai điểm cơ bản làm chỗ dựa cho mọi hoạt động bài trừ mê tín và xây dựng sức mạnh tinh thần của con người".
Về mặt bút pháp, cách ghi chép của ông tương đối cặn kẽ, chú trọng phần xác tín của tư liệu. Việc mô tả hình thế núi sông, khí hậu, phong tục…cụ thể rõ ràng, với con mắt của một người trực tiếp điền dã, có phần nào giống phương pháp của Lê Quý Đôn. Đặc biệt, tuy là sách địa chí hoặc tập hợp thơ văn, các tác phẩm của ông đều dành một số trang để nói về mình cùng những sự kiện lịch sử xảy ra dồn dập từ Nghệ An đến Thăng Long vào những năm cuối thế kỷ 18, mà chính ông có tham dự….Đây chính là những trang hồi ký nóng hổi tính thời sự, có giá trị bổ sung cho sách Hoàng Lê nhất thống chí . |
Michigan là một tiểu bang thuộc vùng Bắc-Đông Bắc của Hoa Kỳ, giáp tỉnh Ontario của Canada. Bang này được đặt tên theo hồ Michigan, vốn có xuất xứ từ tiếng Ojibwe là mishigami có nghĩa là "hồ nước lớn". Michigan là bang đông dân thứ 8 trong 50 bang của Mỹ. Thủ phủ của nó là Lansing, thành phố lớn nhất là Detroit. Michigan chính thức được sáp nhập vào liên bang vào ngày 26 tháng 1 năm 1837 và trở thành bang thứ 26 của Hoa Kỳ. |
Hoàn Châu cách cách () là loạt phim truyền hình Trung Quốc do Đài truyền hình Trung ương Trung Quốc hợp tác sản xuất với Công ty truyền bá Di Nhân (怡人傳播公司) của Đài Loan và Đài truyền hình Hồ Nam TV của Đại lục. Bộ phim do chính tác giả nguyên tác là Quỳnh Dao làm biên kịch.
Bộ phim gồm 3 phần, phát hành trong khoảng các năm 1998, 1999 và 2003. Hầu hết các cảnh trong phim đều được thực hiện ở thủ đô Bắc Kinh và tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc. Sau đó Đài Loan cùng Trung Quốc tái hợp tác và cho ra một phiên bản mới có tên Tân Hoàn Châu cách cách phát hành vào năm 2011.
Khái quát
Bộ phim chuyển thể từ bộ tiểu thuyết cùng tên của nữ tác giả Quỳnh Dao. Hoàn Châu cách cách kể về cuộc đời của một cô gái mồ côi có tên Tiểu Yến Tử (小燕子; nghĩa là "chim yến nhỏ"). Cô gái này do mồ côi, từ nhỏ đi theo một gánh diễn trò mà lớn lên, lém lỉnh, tinh ranh và có chút võ nghệ. Vì tính cách hào sảng, cô kết giao với Hạ Tử Vy (夏紫薇) - một thiếu nữ lên Bắc Kinh tìm cha. Sau khi dò hỏi, Tiểu Yến Tử biết được Tử Vy thật là con gái Hoàng đế Càn Long đang trị vì, như vậy Tử Vy chính là một công chúa triều Thanh.
Cô nhận lời giúp Tử Vy trà trộn vào Mộc Lan Vi Trường - nơi diễn ra trò săn thú của Càn Long. Vô tình bị thương do Ngũ a ca Vĩnh Kỳ tưởng nhầm cô là một con hươu, Tiểu Yến Tử lại gây ra hiểu lầm khi Càn Long cho rằng cô là đứa con gái riêng của ông với một phi tần không chính thức Hạ Vũ Hà - chính là mẹ ruột của Hạ Tử Vy. Rắc rối thực sự đến khi Càn Long nhận định Tiểu Yến Tử là con gái mình, và vì tham luyến một chút tình thương mà Tiểu Yến Tử không nhanh chóng phủ nhận hiểu lầm, khiến cô phóng lao phải đâm theo lao, lún sâu vào tội mạo danh mà một khi bị vạch trần sẽ bị xử tội "lừa Vua dối Chúa".
Theo giãi bày của Quỳnh Dao, vào năm 1997 bà đã đến Bắc Kinh, nghe qua sự tích về một Công chúa dân gian được Càn Long nhận làm con nuôi, sau khi chết thì được táng vào Công chúa phần nổi tiếng ở Tây Thành, Bắc Kinh.
Diễn viên
Phần 1: Âm thố dương sai (1998)
Trương Thiết Lâm vai Hoàng đế Càn Long
Triệu Vy vai Tiểu Yến Tử
Tô Hữu Bằng vai Ngũ A Ca Vĩnh Kỳ
Phạm Băng Băng vai Kim Tỏa
Lâm Tâm Như vai Hạ Tử Vy
Châu Kiệt vai Phúc Nhĩ Khang
Đới Xuân Vinh vai Kế hoàng hậu
Triệu Lệ Quyên vai Lệnh Ý Hoàng quý phi
Lý Minh Khải vai Dung ma ma
Trần Chí Bằng vai Phúc Nhĩ Thái
Trương Hằng vai Tây Tạng Công chúa Trại Á (hay còn gọi là Tái Á)
Phần 2: Phong vân tái khởi (1999)
Trương Thiết Lâm vai Hoàng đế Càn Long
Triệu Vy vai Tiểu Yến Tử
Tô Hữu Bằng vai Ngũ A Ca Vĩnh Kỳ
Phạm Băng Băng vai Kim Tỏa
Lâm Tâm Như vai Hạ Tử Vy
Châu Kiệt vai Phúc Nhĩ Khang
Đới Xuân Vinh vai Kế hoàng hậu
Triệu Lệ Quyên vai Lệnh Ý Hoàng quý phi
Lý Minh Khải vai Dung ma ma
Vương Diễm vai Tình Nhi cách cách
Trần Chí Bằng vai Phúc Nhĩ Thái.
Lưu Đan vai Tân Cương Công chúa Hương phi
Chu Hoành Gia vai Tiêu Kiếm
Triệu Mẫn Phân vai Sùng Khánh Hoàng thái hậu
Phần 3: Thiên thượng nhân gian (2003)
Địch Long vai Hoàng đế Càn Long
Huỳnh Dịch vai Tiểu Yến Tử
Cổ Cự Cơ vai Ngũ A Ca Vĩnh Kỳ
Mã Y Lợi vai Hạ Tử Vy
Châu Kiệt vai Phúc Nhĩ Khang
Khương Lê Lê vai Kế Hoàng hậu
Trần Lợi vai Lệnh Ý Hoàng quý phi
Kiều Sâm vai Dung ma ma
Vương Diễm vai Tình Nhi cách cách
Lưu Đào vai Miến Điện công chúa Mộ Sa
Huỳnh Hiểu Minh vai Tiêu Kiếm
Triệu Mẫn Phân vai Sùng Khánh Hoàng thái hậu.
Tưởng Cần Cần vai Hạ Doanh Doanh
Tần Lam vai Trần Tri Hoạ.
Cốt truyện
Nội dung phần đầu
Tên phần này là "Âm thố dương sai" (陰錯暘差)
Bộ phim xảy ra vào năm Càn Long thứ 24, giữa triều đại của Hoàng đế Càn Long. Hạ Tử Vy và cô nha hoàn tên Kim Toả đi từ Tế Nam đến Bắc Kinh để tìm cha của mình. Ở Bắc Kinh, họ gặp Tiểu Yến Tử trong một dịp náo loạn. Vì cảm kích lẫn nhau mà Tiểu Yến Tử và Hạ Tử Vy quyết định kết nghĩa làm chị em. Sau khi kết nghĩa, Tử Vy đem câu chuyện tình của người mẹ Hạ Vũ Hà đã qua đời của cô ra kể với Tiểu Yến Tử. Hóa ra khi xưa, Càn Long Hoàng đế đi tuần du, bản tính phong lưu nổi lên khi gặp gỡ Hạ Vũ Hà xinh đẹp, sau đó ông rời đi nhanh chóng và để lại Hạ Vũ Hà mang long thai. Tiểu Yến Tử hứa sẽ giúp Tử Vy gặp được cha. Một hôm, Tiểu Yến Tử nảy ra kế lẻn vào bãi săn nơi Càn Long sẽ đi săn để giúp Tử Vy gặp ông.
Nhưng đến được bãi săn là phải trèo qua một vách núi, và chỉ có Tiểu Yến Tử, trong người có chút võ công, mới có thể làm được kỳ tích này. Vì thế Tử Vy giao tín vật của mẹ cô để lại, một chiếc quạt và một bức tranh do Càn Long tặng bà, cho Tiểu Yến Tử và nhờ cô đưa tin hộ. Tiểu Yến Tử lẻn được vào bãi săn nhưng trước khi cô có thể kể câu chuyện của Tử Vy cho Càn Long, cô đã bị một mũi tên bắn trúng. Người bắn mũi tên định mệnh này là Ngũ A Ca Vĩnh Kỳ, con trai thứ năm của Càn Long. Khi phát hiện được cái đích của mũi tên của mình không phải là một con hươu như chàng tưởng, mà là một cô gái, Vĩnh Kỳ cùng hai người bạn là hai anh em họ Phúc, Nhĩ Khang và Nhĩ Thái lập tức đưa Tiểu Yến Tử đến gặp Càn Long. Càn Long cố gắng hỏi Tiểu Yến Tử về thân thế của cô nhưng cô chỉ có sức để hỏi Càn Long một câu hỏi mà Tử Vy đã nhờ cô hỏi: Rằng Càn Long còn nhớ Hạ Vũ Hà bên Hồ Đại Minh không? Câu hỏi làm Càn Long sửng sốt và khi ông tim được chiếc quạt và bức tranh trên người Tiểu Yến Tử, ông đưa cô vào cung. Càn Long ra lệnh cho các Thái y phải bằng bất cứ giá nào cứu sống được Tiêu Yến Tử, trong khi đó, ở ngoài cung Tử Vy vô cùng lo lắng cho Tiểu Yến Tử.
Vào lúc Tiểu Yến Tử còn đang hôn mê vì vết thương, Càn Long nhận nhầm cô là con gái của ông và Hạ Vũ Hà. Ông phong cô là [Hoàn Châu cách cách; 還珠格格], có nghĩa là viên ngọc châu được tìm về. Tiểu Yến Tử lớn lên trong cảnh mồ côi và chưa bao giờ được có cảm giác được yêu thương như lúc đó đã tự nhủ sẽ "mượn" cha của Tử Vy vài hôm rồi sẽ trả lại địa vị cho Tử Vy. Ở trong cung, Tiểu Yến Tử làm bạn với Vĩnh Kỳ và Phúc Nhĩ Thái.
Vài ngày sau, Càn Long đưa Tiểu Yến Tử đi tế lễ Thiên Đàn và đội kiệu đưa ông và Tiểu Yến Tử đến nơi tế lễ đi dọc khắp Bắc Kinh. Hạ Tử Vy nhìn thấy Tiểu Yến Tử trong trang phục cách cách đã đuổi theo kiệu của Tiểu Yến Tử trong sự giận dữ và đau khổ. Cô đọc lên bài thơ ghi trên chiếc quạt của mẹ. Khi nghe cô đọc lên bài thơ, Phúc Nhĩ Khang cảm thấy chuyện không bình thường và đưa cô về nhà. Dần dần, Nhĩ Thái và Vĩnh Kỳ và cả nhà họ Phúc biết được sự thật từ Tiểu Yến Tử, là Càn Long đã nhận nhầm cô khi cô hôn mê. Tình cảm nảy nở giữa Tử Vy và Nhĩ Khang. Cùng lúc đó, họ tìm cách để đổi lại chỗ cho Tử Vy và Tiểu Yến Tử và trả lại thân phận thật cho Tử Vy. Họ đưa Tử Vy và Kim Toả vào cung làm Cung nữ cho Tiểu Yến Tử với ý định làm cho Càn Long phải yêu thích cả Tiểu Yến Tử và Tử Vy. Đến lúc đó, khi họ nói ra sự thật, ông sẽ không nỡ giết ai cả. Trong cung, không những Tiểu Yến Tử và Tử Vy phải đối đầu với sự hà khắc cùng nghi kị của Hoàng hậu, họ còn phải che giấu mối tình bí mật giữa Nhĩ Khang và Tử Vy. Trong thời gian này Ngũ a ca Vĩnh Kỳ cũng đem lòng yêu Tiểu Yến Tử.
Rồi sự kiện Quốc vương xứ Tây Tạng và con gái là Tái Á công chúa đến Bắc Kinh. Tính cách Tiểu Yến Tử cùng Tái Á giống nhau, không ai nhường ai, do vậy trong đại hội võ thuật đã ganh đua xem Võ sĩ bên nào mạnh hơn. Võ sĩ của Đại Thanh là Phúc Nhĩ Khang, khi ấy hết sức thuận lợi đánh bại Võ sĩ người Tây Tạng, và cũng từ đó Tái Á đem lòng ngưỡng mộ Nhĩ Khang. Khi biết được Tái Á muốn lấy Nhĩ Khàng làm chồng, Tiểu Yến Tử kể hết cho Càn Long về việc nhầm lẫn thân thế và việc Tử Vy mới thực sự là con gái của Hạ Vũ Hà. Ngay lập tức, Càn Long ra lệnh tra khảo Tiểu Yến Tử cùng Hạ Tử Vy, Kim Tỏa do bảo vệ chủ tử mà cũng bị trách phạt theo, đều giao cho Tông nhân phủ. Hoàng hậu có mệnh lệnh từ Càn Long, do vậy vào Tông nhân phủ sai Lương Đình Quế đối xử với ba người hết sức hà khắc.
Dù lúc đầu ông rất giận dữ, khi cơn giận qua, Càn Long tha thứ cho tất cả mọi người và chấp nhận Tử Vy. Từ đó Tử Vy được phong làm 「Minh Châu cách cách; 明珠格格」 và được chỉ hôn cho Phúc Nhĩ Khang, còn Tiểu Yến Tử do đã được thụ phong nên được sửa thành 「Hoàn Châu quận chúa; 还珠郡主」 và được chỉ hôn cho Ngũ a ca. Nhĩ Thái bắt đầu tìm hiểu Tái Á để giải vây cho Nhĩ Khang, và cuối cùng Nhĩ Thái và Tái Á kết hôn và Nhĩ Thái đi Tây tạng với Tái Á và cha cô.
Nội dung phần hai
Tên phần này là "Phong vân tái khởi" (風雲再起)
Bộ phim bắt đầu khi năm Càn Long thứ 25, Quốc vương A Ly Hòa Trác xứ Hồi Cương dâng Công chúa vì chính sách Hòa thân. Tương truyền, vị Công chúa này của Hồi Cương không chỉ dung mạo đặc biệt diễm lệ, mà toàn thân còn tỏa ra một thứ mùi hương kì lạ.
Tại Bắc Kinh khi ấy, Liễu Thanh và Liễu Hồng - hai người bạn giang hồ của Tiểu Yến Tử - vừa mở một tửu lầu tên là Hội Tân Lầu, do vậy họ mời nhóm bốn người Tiểu Yến Tử đến chung vui. Trong lễ khai trương, họ gặp một Mông Đan, một nam tử người Hồi Cương có hành vi bí ẩn. Trong khi đó ở hoàng cung, Hoàng đế Càn Long cùng Hậu cung làm đại lễ nghênh đón Hoàng thái hậu. Bà là mẹ ruột của Càn Long, do yêu thích Phật giáo mà được mọi người gọi là 「Lão Phật Gia; 老佛爷」. Bà rời khỏi Bắc Kinh đã 1 năm lên Ngũ Đài Sơn ăn chay niệm Phật, sau đó đã chính thức về kinh sau một năm tu tịnh. Cùng về với bà là Cách cách Tình Nhi - con gái của một vị Vương gia đã qua đời và là tâm phúc của Lão Phật Gia. Lão Phật Gia không lấy làm hài lòng khi biết tin Càn Long đã nhận hai cô gái nhân gian làm Cách cách và đã đính hôn họ với Vĩnh Kỳ cùng Nhĩ Khang. Sau khi tiếp xúc chính thức, Lão Phật Gia không hài lòng về thân thế con rơi của Hạ Tử Vy một phần vì mẹ cô là một Dân nữ, bên cạnh đó bà lại càng không ưa Tiểu Yến Tử tính tình nóng nảy.
Cùng lúc đó, Hồi Cương vương là A Ly Hoà Trác đã đưa con gái đến Bắc Kinh. Vị công chúa này có một nét đặc biệt là người cô toát ra một làn hương thơm tự nhiên mà không có gì có thể rửa sạch, nên được gọi là 「Hàm Hương; 含香」. Hồi Cương vương A Ly Hòa Trác đang tìm cách giao hảo với triều Thanh, do vậy dâng con gái quý giá làm quà cho Càn Long, và Càn Long lập tức phong cô làm 「Hương phi; 香妃」, tức vị Phi tử có mùi hương. Có được Hương phi, Càn Long dần ít sủng ái người khác, nhưng vị Hương phi này luôn cố giữ khoảng cách với Càn Long, thậm chí còn muốn tự tử để cự tuyệt chuyện hầu ngủ Hoàng đế. Nhóm người Tiểu Yến Tử, Vĩnh Kỳ, Tử Vy và Nhĩ Khang dần dần biết được câu chuyện giữa Mông Đan và Hàm Hương. Họ là tình nhân nhưng A Ly Hoà Trác luôn muốn dâng Hàm Hương cho Càn Long nên đã không đồng ý cho họ đến bên nhau. Mông Đan và Hàm Hương đã thử bỏ trốn tất cả bảy lần nhưng đều thất bại vì mùi hương của Hàm Hương có thể bị phát hiện. Nhóm bốn người Tiểu Yến Tử bắt đầu một kế hoạch giúp Hàm Hương và Mông Đan bỏ trốn lần nữa.
Trong cung lại thêm chuyện phiền nhiễu khi Lão Phật Gia muốn Nhĩ Khang lấy Cách cách Tình Nhi - một người theo bà là cả nhan sắc cùng tính cách kèm gia thế đều phù hợp với Nhĩ Khang hơn nếu so với Tử Vy. Nhưng cuối cùng, Tình Nhi nhận thấy tình cảm giữa Nhĩ Khang và Tử Vy quá mạnh mẽ nên rút lui, đồng thời chủ động cầu xin Lão Phật Gia tác thành cho hai người. Một hôm, họ gặp một con người bí ẩn khác ở Hội Tân Lầu, tên là Tiêu Kiếm. Tên anh ta dựa theo chiếc tiêu và cây kiếm gia truyền mà anh luôn mang theo. Tiêu Kiếm giúp mọi người với kế hoạch giúp Mông Đan và Hàm Hương bỏ trốn. Khi Càn Long biết được nhóm Tiểu Yến Tử đã giúp Hàm Hương bỏ trốn, ông ra lệnh chém đầu Tử Vy và Tiểu Yến Tử. Ngũ a ca Vĩnh Kỳ, Nhĩ Khang, anh em họ Liễu và Tiêu Kiếm quyết định cướp xe tù và bỏ trốn khỏi hoàng cung, lưu lạc nơi chân trời góc bể.
Trong khi họ chạy trốn, Càn Long bắt đầu cảm thấy nhớ các con và cho người đi tìm họ về. Trong cuộc chạy trốn, Tiêu Kiếm tiết lộ sự thật: Tiểu Yến Tử là em gái của anh. Hai anh em là người họ Phương, Tiêu Kiếm tên thật 「Phương Nghiêm; 方嚴」 còn Tiểu Yến Tử tên thật 「Phương Từ; 方慈」, cha mẹ của Tiêu Kiếm và Tiểu Yến Tử đã bị hại chết và kẻ thủ giết cha của họ lại chính là Càn Long. Khi trước Tiêu Kiếm cố tình không cho Tiểu Yến Tử biết chi tiết này vì tinh cảm giữa cô và Vĩnh Kỳ. Rồi cuối cùng Càn Long cũng tìm được Tiểu Yến Tử, Vĩnh Kỳ, Tử Vy và Nhĩ Khang và đích thân đến đón họ về cung. Cảm động trước tình cảm của Càn Long, cả bốn người đồng ý về cung. Nhĩ Khang thuyết phục Tiêu Kiếm vứt bỏ mối thù giết cha và chấp nhận việc Tiểu Yến Tử làm con dâu Càn Long.
Bộ phim kết thúc với lễ cưới của Vĩnh Kỳ - Tiểu Yến Tử và Nhĩ Khang - Tử Vy. Trong lễ cưới, Tình Nhi tình cờ gặp được Tiêu Kiếm.
Nội dung phần ba
Tên phần này là "Thiên thượng nhân gian" (天上人間)
Phần thứ ba bắt đầu xảy ra vào năm Càn Long thứ 27, Tiểu Yến Tử tuy rằng đã cùng Vĩnh Kỳ thành hôn, nhưng cả hai bọn họ vẫn hồ nháo không có lễ nghi như thuở trước. Cả hai cùng tháp tùng Càn Long và Lão Phật Gia đi Nam tuần.
Khi đi qua Sơn Đông, các quan viên địa phương vì muốn lấy lòng Càn Long mà dâng lên rất nhiều trân bảo, lại chuẩn bị vô số sơn hào hải vị tiến ngự. Tiểu Yến Tử, Tử Vy cùng Ngũ a ca và Nhĩ Khang thông cảm cho nạn dân gặp đói bệnh khi ấy, nhịn không được đem tiệc rượu đồ ăn đều phân phát cho nạn dân, việc làm này khiến Càn Long cùng Lão Phật Gia hết sức cảm động. Trên đường Nam tuần, cặp đôi Tiểu Yến Tử cùng Ngũ a ca vô tư vui vẻ, Hạ Tử Vy cùng Nhĩ Khang ân ái không dứt, chỉ có Tình Nhi cùng Tiêu Kiếm lâm vào hoàn cảnh yêu không được dứt không xong. Tiểu Yến Tử thương tâm vì chuyện của anh trai, do vậy khi đến Hàng Châu đã cùng nhóm Tử Vy an bài Tình Nhi cùng Tiêu Kiếm lên một chiếc thuyền, nhằm tạo cơ hội cho hai người. Vệ sĩ lại nghĩ đây là thích khách, lên thuyền muốn bắt người, Tiểu Yến Tử cùng nhóm Vĩnh Kỳ và Nhĩ Khang ẩu đả vệ sĩ, làm kinh động Càn Long và Lão Phật Gia, do đó Lão Phật Gia biết chuyện tình bất chính giữa Tình Nhi cùng Tiêu Kiếm, trách phạt rất nặng và yêu cầu chấm dứt.
Lúc này Càn Long vô tâm không chú ý đến chuyện giữa Tình Nhi và Tiêu Kiếm, mà bị mê hoặc bởi một nữ tử Thanh lâu tên gọi Hạ Doanh Doanh. Vì tham luyến nhan sắc và lời hát của cô, Càn Long tuyên bố muốn nạp cô làm Phi tử. Chuyện này làm kinh động Lão Phật Gia và Hoàng hậu. Hoàng hậu vì bảo toàn danh dự cho Càn Long, trình huyết thư khẩn thiết can gián, Càn Long giận dữ, đem Hoàng hậu trở lại kinh thành và giam vào Tĩnh Tâm uyển, vĩnh viễn không thể ở lại Khôn Ninh cung. Hoàng hậu vì cảm thấy không thể cứu vãn thói trăng hoa của Hoàng đế, cũng không còn hi vọng gì về hôn nhân bao năm giữa bà và Càn Long, nên quyết định chọn "Cạo đầu làm Ni" để đoạn tuyệt.
Trên đường Nam tuần, đoàn Thánh giá còn biết con gái của Trần Bang Trực của Hải Ninh tên Tri Họa, Lão Phật Gia nhìn thấy cô gái này ôn nhu hiếu thuận nên đưa về hầu bên người và cho theo về kinh, cha mẹ của cô gái không chút nhân nhượng mà đồng ý. Tình Nhi nhận thấy Tri Họa đã ở bên Lão Phật Gia, cũng muốn nhân đó chạy trốn cùng Tiêu Kiếm. Nhĩ Khang lại giả truyền Thánh chỉ, dùng kim bài lệnh tiễn thả bọn họ cao chạy xa bay, Càn Long giận dữ bắt giam Nhĩ Khang vào đại lao của Hàng Châu. Lúc này vì chuyện của Hoàng hậu phản đối nạp Hạ Doanh Doanh, lại đến chuyện Nhĩ Khang làm chuyện động trời, Càn Long tâm tình đều không vui vẻ, quyết định bãi giá hồi kinh, muốn đợi khi hồi cung kinh vấn tội Nhĩ Khang. Đôi uyên ương Tình Nhi cùng Tiêu Kiếm không muốn trở nên ích kỉ, bèn phải quay về, Nhĩ Khang cũng được thả ra. Trở lại kinh thành, Lão Phật Gia cho điều tra thân thế anh em Tiểu Yến Tử, vì để phòng hậu hoạn mà bắt giam Tiêu Kiếm, cuối cùng Tiêu Kiếm trốn đến vùng Vân Nam. Trong quá trình này, cuối cùng Tiểu Yến Tử biết người hại chết cha mẹ mình là thân tín nhất của Càn Long, do vậy đối với Vĩnh Kỳ ngày càng đạm bạc, ý hận đối với Càn Long cũng dần nảy sinh và thúc đẩy gia tăng. Vì bảo thủ bí mật, Lão Phật Gia yêu cầu Vĩnh Kỳ cưới thêm Tri Họa làm vợ, điều kiện là sẽ buông tha cho Tiêu Kiếm. Tiểu Yến Tử vì cứu anh trai, sẵn có ý hận với cha con Càn Long cùng Vĩnh Kỳ nên đã đồng ý. Sau khi cưới, Tri Họa tìm cách chia rẽ Vĩnh Kỳ cùng Tiểu Yến Tử, tạo thành tam giác quan hệ éo le.
Năm Càn Long thứ 30, mùa thu, xảy ra chiến tranh giữa Miến Điện cùng Đại Thanh. Vĩnh Kỳ cùng Nhĩ Khang đều được phái đi tham chiến, tại đây họ gặp Tiêu Kiếm. Trong trận chiến, Nhĩ Khang được báo tin là đã chết, khiến Hạ Tử Vy nghe tin mà thống khổ. Giữa lúc ấy, Tri Họa hạ sinh một con trai tên Miên Ức, khiến tình cảnh giữa Vĩnh Kỳ cùng Tiểu Yến Tử thêm bế tắc. Kỳ lạ thay, Nhĩ Khang không chết, nhưng trí nhớ bị ảnh hưởng, con gái thứ 8 của Miến Điện vương Mãnh Bạch tên Mộ Sa công chúa yêu thích Nhĩ Khang nên tận tình chăm sóc, trong ký ức hỗn loạn đó Nhĩ Khang nhận nhầm Mộ Sa là Hạ Tử Vy. Tiêu Kiếm biết việc này sau lại đến Bắc Kinh, nói cho Tử Vy, do đó Tử Vy quyết định đến Miến Điện tìm kiếm. Giữa lúc ấy, Càn Long dần nghi ngờ và ép hỏi lai lịch Tiêu Kiếm, dẫn đến xung đột khiến Tiêu Kiếm cùng Tiểu Yến Tử suýt giết Càn Long. Sau vì Vĩnh Kỳ cùng Tử Vy hết sức hòa giải, Tiểu Yến Tử cảm động mà khuyên anh trai từ bỏ hận thù. Sau khi giải quyết chuyện này, Tử Vy lên đường Nam hạ để tìm chồng, Vĩnh Kỳ cùng Tiểu Yến Tử đi theo và Vĩnh Kỳ quyết định từ bỏ Hoàng vị. Càn Long tác thành cho mọi người, còn chính thức ban hôn cặp đôi uyên ương bạc mệnh là Tình Nhi cùng Tiêu Kiếm. Ngày họ lên đường đi Miến Điện, Tri Họa ôm Miên Ức gào khóc gọi với Vĩnh Kỳ, Tiểu Yến Tử lúc này mới biết rõ tình cảm mà cô dành cho Vĩnh Kỳ, nhưng vẫn quyết đoán đem Vĩnh Kỳ rời đi.
Ở Miến Điện, với sự hào hiệp của Mộ Sa, Tử Vy cuối cùng cũng tìm lại được Nhĩ Khang. Cả hai lên đường về Bắc Kinh, mà vợ chồng Tiểu Yến Tử cùng Tiêu Kiếm quyết định ở tại Vân Nam sinh sống. Trong ngày đám cưới Tiêu Kiếm cùng Tình Nhi, Tiểu Yến Tử biết được mình có thai. Những năm cuối triều Càn Long, vợ chồng Tiểu Yến Tử được ghé thăm bởi Càn Long và Nhĩ Khang, ba đại gia đình quây quần vui vẻ.
Đối chiếu lịch sử
Dùng sai danh hiệu
Trong các tác phẩm văn học, điện ảnh, truyền hình lấy bối cảnh Thanh triều vào thế kỉ 20, danh hiệu ["Cách cách"] bị hiểu nhầm do sự thông dụng và đặc trưng của nó, nên thường được hiểu thành: Danh hiệu dành cho con gái Hoàng đế nhà Thanh theo tiếng Mãn.
Tuy nhiên, sự thực chứng minh hoàn toàn khác hẳn. Con gái Hoàng đế triều Thanh, tức Hoàng nữ, tùy thân phận con vợ cả (do Hoàng hậu sinh ra) hay con vợ lẽ (Phi tần sinh ra) mà được phong làm Cố Luân Công chúa hoặc Hòa Thạc Công chúa, triều Thanh thậm chí có lệ nếu con gái Thân vương Tông Thất được đưa vào cung nuôi thì cũng dùng lễ Hòa Thạc Công chúa mà đãi ngộ. Bộ tiểu thuyết và phim truyền hình Hoàn Châu Cách cách vẫn khiến hiểu lầm này tồn tại rất lâu. Trong bộ tiểu thuyết và bộ phim này, Càn Long phong cho Tiểu Yến Tử - con gái riêng của mình, làm [Hoàn Châu Cách cách; 还珠格格] như một danh hiệu dành cho Hoàng nữ. Theo nguyên tác, sau khi Hạ Tử Vy được xác định là con gái của Càn Long, được phong làm [Minh Châu Cách cách; 明珠格格], còn Tiểu Yến Tử từ [Hoàn Châu Cách cách] bị đổi thành [Hoàn Châu Quận chúa; 还珠郡主]. Trong khi căn cứ chế độ tước hiệu triều Thanh, "Cách cách" mà một phiên âm Mãn ngữ của tước hiệu "Quận chúa".
Đối chiếu với pháp độ nhà Thanh đã trình bày ở trên, việc sử dụng danh xưng "Cách cách" của Quỳnh Dao hoàn toàn không phù hợp tính lịch sử. Đến khi Tân Hoàn Châu Cách cách tiến hành, biên kịch mới điều chỉnh cho đúng.
Nguyên hình nhân vật
Nguyên hình của nhân vật Tiểu Yến Tử, được Quỳnh Dao dựa trên một truyền thuyết về Công chúa phần (公主坟; nghĩa là "Mộ công chúa"). Cái mộ này rất nổi tiếng ở Bắc Kinh, tọa lạc ở ngoài khu vực Phục Hưng môn kiều (复兴门桥), Tây Thành, Bắc Kinh. Căn cứ theo hồi ức của Quỳnh Dao, năm 1997, bà đến Bắc Kinh đi ngang qua khu vực "Công chúa phần" và lấy cảm hứng viết lên Hoàn Châu cách cách. Bà chia sẻ:
Về mộ phần này, từ năm 1965, những chuyên gia đã xác định rõ, hai vị được táng ở trong đều là con gái của Gia Khánh Đế, là Hòa Thạc Trang Kính Công chúa (con gái Hòa Dụ Hoàng quý phi) cùng Cố Luân Trang Tĩnh Công chúa (con gái Hiếu Thục Duệ Hoàng hậu). Cả hai là Hoàng nữ chính thống. Nguyên nhân có mộ này cũng là vì Hoàng lăng rất ít khi hạ táng thành viên Hoàng thất trưởng thành, bất kể Hoàng tử hay Hoàng nữ, khi có gia tộc riêng hay có gia thất riêng, đặc biệt là có con cháu, thì càng được chọn đất ở nơi khác và xây làm quần thể an táng ở chỗ đấy, việc hai vị Hoàng nữ được táng ở đây là theo lẽ thường. Trước khi khảo nghiệm năm 1965 tiến hành và Quỳnh Dao biết đến, mộ phần này thường được cho là an táng Khổng Tứ Trinh - một Nghĩa nữ của Hiếu Trang Văn Hoàng hậu và được đặc cách phong làm Hòa Thạc Công chúa.
Đối với việc thông tin tác phẩm của mình cùng lịch sử có sai lệch, Quỳnh Dao thẳng thắng bày tỏ:
我不是一个历史学家,《还珠格格》是个完全杜撰的故事,书中牵扯的人物,也充满了我个人的想象力。请读者们千万不要把这部小说和‘历史’混为一谈
"Bản thân tôi không phải nhà nghiên cứu sử. 《Hoàn Châu cách cách》 chỉ hoàn toàn do tôi tưởng tượng hư cấu theo ý mình, các nhân vật tính cách ra sao cũng đều là tôi thêm thắt, thỉnh độc giả đừng xem là tư liệu lịch sử".
Dùng sai địa danh lịch sử
Trong phần hai của bộ phim Hoàn Châu Cách Cách, chị em kết nghĩa Tiểu Yến Tử và Tử Vy cùng Ngũ A Ca Vĩnh Kỳ, Phúc Nhĩ Khang, và nhóm bạn trốn khỏi hoàng cung để tránh sự truy đuổi của triều đình vì mang trọng tội thả Hương Phi. Nhóm bạn quyết định đi xuống miền nam tỉnh Vân Nam, Đại Lý để thành lập một cuộc sống mới. Tuy nhiên, họ đã thay đổi ý nghĩ này và quyết định quay về Hoàng Cung ở Bắc Kinh sau khi biết được Hoàng Thượng đã tha thứ.
Đối với tên địa danh vùng miền trong lịch sử, Đại Lý là tên một vùng đất hay một vương triều nằm phía tây bắc Đại Nam (hay An Nam, tên Việt Nam cổ), bên trên vùng Vân Nam. Tuy nhiên, tiền triều Đại Lý này chỉ tồn tại đến thế kỷ thứ 13 trong khi Hoàn Châu Cách Cách dựa trên một tiểu thuyết cùng tên của Quỳnh Dao trong bối cảnh Thanh triều mà tồn tại từ thế kỷ thứ 16 đến đầu thế kỷ thứ 20. Phải chăng họ đang nhắc tới vùng đất xưa, nơi mà có những thảm cỏ vàng yên bình.
Nhạc phim
Nhạc phim Hoàn châu cách cách được dịch sang Tiếng Việt và được thể hiện thành công nhất là bộ đôi Đan Trường và Cẩm Ly. Ca khúc phần 1 Khi nào 《当》được Đan Trường hát với tên gọi Hoài niệm cũ và Trong mơ 《梦里》 với bản tiếng Việt là Tình hồng như mơ.
Chú thích |
Tháp Chăm (còn gọi là tháp Champa hay tháp Chàm), là tên gọi thông dụng trong tiếng Việt để chỉ kiến trúc đền tháp Chăm Pa, những quần thể thuộc kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng Hindu và Phật giáo của dân tộc Chăm sinh sống ở Duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam ngày nay. Các tháp Chăm là một khối kiến trúc xây dựng bằng gạch nung màu đỏ sẫm lấy từ đất địa phương, phía trên được mở rộng và gọt vun thành hình bông hoa. Mặt bằng tháp đa số là hình vuông có không gian bên trong chật hẹp thường có cửa duy nhất mở về hướng Đông (hướng Mặt Trời mọc). Trần của tháp được cấu tạo vòm cuốn, trong lòng tháp đặt một bệ thờ thần bằng đá. Trong các loại hình di tích kiến trúc cổ ở Việt Nam, kiến trúc đền tháp Chăm Pa giữ một vị trí đặc biệt.
Trong di sản văn hóa Chăm Pa, tháp Chăm là loại hình kiến trúc tôn giáo duy nhất còn lại cho đến ngày nay. Gần 900 năm từ cuối thế kỷ 7 đến nửa đầu thế kỷ 17, người Chăm đã xây dựng nên một nền kiến trúc điêu khắc với hàng trăm đền tháp, xuất hiện ở khắp nơi trên địa bàn cư trú của người Chăm trong lịch sử. Kiến trúc đền tháp Chăm Pa là một loại hình kiến trúc tôn giáo, một di sản có nhiều giá trị để góp phần tìm hiểu nền văn hóa Chăm Pa trong lịch sử. Tính thẩm mỹ trong điêu khắc trên mỗi công trình hiện đã thu hút nhiều thế hệ học giả hơn một thế kỷ quan tâm nghiên cứu.
Dọc miền Trung Việt Nam được ước tính có khoảng 50 tòa đền tháp Chăm, những ngôi tháp mới nhất cũng đã có tuổi đời dao động khoảng 500 đến 600 năm, đặc biệt có những ngôi tháp mang niên đại tới nghìn năm. Đây là sản phẩm kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng của dân tộc Chăm sinh sống ở miền Nam Trung Bộ và mang đặc trưng của kiến trúc Ấn Độ giáo. Theo tiếng Chăm, những đền tháp được gọi là "kalan" (lăng), là nơi các vị vua vương quốc Chăm Pa xây dựng để thờ phụng thần linh. Những vị thần được thờ cúng tại đây có thể là thần Shiva, phúc thần đầu người mình voi Ganesha hoặc những vị Phật tùy theo niềm tin và lòng kính mộ của mỗi vị vua. Tuy nhiên, xã hội Chăm Pa ngày xưa đã có sự kết hợp giữa vương quyền và thần quyền nên nhiều tháp còn thờ những vị vua Chăm Pa, qua đó đền tháp Chăm còn được xây dựng để thờ cúng thần linh. Tuy nhiên, nếu xét riêng trường hợp từng tháp thì thờ tự chỉ là một trong những chức năng, nhưng do hầu hết các tháp hiện nay không còn đồ thờ tự nên việc xác định được những chức năng khác là rất khó.
Việc những vị quân chủ Chăm Pa cho xây dựng những đền thờ thần được nhắc tới sớm nhất vào thế kỷ 6 trong bia ký của Phạm Hồ Đạt (Bhadravarman I). Theo quan niệm Ấn Độ giáo, những thánh đường hay đền thờ là dinh thự của các thần linh. Qua những gì còn sót lại đến nay, có ý kiến cho rằng đền tháp Chăm được xây dựng với mục đích tín ngưỡng, đồng thời những bia ký, đền đài, tượng thờ... đã phản ánh sự đa dạng đời sống văn hóa tinh thần cũng như xã hội vương quốc Chăm Pa cổ.
Tổng quan kiến trúc
Nhìn chung, nhóm đền tháp Chăm Pa có thể chia bố cục theo hai dạng. Loại mang bố cục bộ ba song hành (kiến trúc có 3 Kalan), tiêu biểu là những quần thể tháp Chiên Đàn, Khương Mỹ, Dương Long... Quy hoạch quần thể dạng này có phần kiến trúc chủ thể gồm ba ngôi đền – tháp đứng song hàng theo trục Bắc – Nam, cùng quay mặt về hướng Đông (hướng mọc của mặt trời). Loại bố cục còn lại có một tháp trung tâm (1 Kalan) có thể kể đến tiêu biểu như một loạt nhóm đền tháp trong quần thể thánh địa Mỹ Sơn, Po Klong Garai, Po Nagar… trong đó tháp trung tâm là nơi thờ thần chủ Shiva.
Trừ một vài nhóm đền tháp như Bằng An, Hưng Thạnh mang đặc điểm kiến trúc mang phong cách Bắc Ấn, những tháp còn lại được biết tới ở Việt Nam đa phần đều mang phong cách Nam Ấn.
Danh sách
Dưới đây là danh sách một số di tích đền tháp Chăm Pa tại Việt Nam được xác thực tới ngày nay là có tồn tại.
Nhóm tháp nguyên vẹn hoặc nguyên vẹn một phần
Nhóm tháp phế tích |
Nguyễn Nghiễm (阮儼, 14 tháng 4 năm 1708 – 7 tháng 1 năm 1776) là quan chức, sử gia, nhà thơ thời nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông có công ổn định tình hình Bắc Hà và tham gia chiến dịch đánh chiếm Phú Xuân của Đàng Trong năm 1774-1775.
Thân thế
Nguyễn Nghiễm (阮儼) tự Hy Tư(希思), tôn huý Thiều (玿), hiệu Nghi Hiên (毅軒), biệt hiệu Hồng Ngư cư sĩ (鴻魚居士), sinh ngày 14 tháng 3 âm lịch năm Mậu Tý, tức ngày 14 tháng 4 năm 1708 tại làng Tiên Điền huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Quê tổ ở làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội). Vào đầu thế kỷ 17, tổ 6 đời của ông là Nguyễn Nhiệm (cháu Nguyễn Thiến nhà Mạc) vào Tiên Điền sinh cơ lập nghiệp.
Năm 1724 đời Lê Dụ Tông, Nguyễn Nghiễm đỗ thi Hương khi mới 17 tuổi. Năm 1731 dươi triều vua Lê Duy Phường, ông đỗ Hoàng giáp (nhị giáp tiến sĩ) lúc 24 tuổi. Ngoài ông, anh em họ Nguyễn Tiên Điền còn có Nguyễn Huệ đỗ tiến sĩ và Nguyễn Trọng cũng đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ như Nguyễn Nghiễm.
Sự nghiệp
Tướng võ
Nguyễn Nghiễm được vào triều làm quan, làm đốc suất quân nhung, Hiệp đồng tán nhiệm với các tướng khác trong triều, có công lao.
Chúa Trịnh Giang chơi bời làm hỏng chính sự Bắc Hà. Nguyễn Nghiễm cùng các đại thần bàn nhau phế Trịnh Giang lập Trịnh Doanh làm chúa (1740). Nhờ công sách lập Trịnh Doanh, Nguyễn Nghiễm được thăng làm Tham chính Sơn Nam (1741). Ít lâu sau, ông đổi làm Tế tửu Quốc Tử Giám.
Năm 1743, ông được thăng làm Thừa chỉ Viện hàn lâm, tước Xuân Lĩnh bá. Năm 1746, nhờ có công lao, ông được phong làm Hữu thị lang bộ Công, thăng lên tước hầu và được đặc cách dự chức Bồi tụng trong tướng phủ.
Lúc đó Đàng Ngoài không yên ổn, khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi. Năm 1748, Nguyễn Nghiễm được làm Tuyên phủ sứ tán lý quân vụ, quản cơ Trấn nội, chức Tham lĩnh, tước Lệ quận công, vào Nghệ An đánh dẹp. Thắng trận trở về, ông được thăng làm Thị lang bộ Hình. Ít lâu sau, quân nổi dậy ở vùng núi Thanh Hóa lại ra, ông được sai làm Hiệp đồng đến đánh thành lũy quân địch. Nguyễn Nghiễm đánh đâu thắng đó. Quân nổi dậy bèn đi theo đường tắt đánh vào trị sở Thanh Hoa, quân triều đình thua chạy. Nguyễn Nghiễm mang quân về cứu, chiếm lại được dinh.
Đầu năm 1750, triều đình quy cho ông trách nhiệm để thất thủ Thanh Hoa nên ông bị giáng làm Đại học sĩ đông các. Cuối năm đó, Trịnh Doanh đi đánh quân khởi nghĩa của thủ lĩnh Tương ở Sơn Tây, sai Nguyễn Nghiễm làm Tán lý giữ trách nhiệm hộ giá. Ông cùng tham gia dẹp được quân Tương, nên được thăng làm Thiêm đô ngự sử.
Đầu năm 1752, ông được lệnh ra 4 đạo Sơn Tây, Hưng Hóa đánh hoàng thân Lê Duy Mật. Thắng trận trở về, ông được khôi phục chức cũ. Sang năm 1753 ông lại có công trận, được thăng làm Phó đô ngự sử.
Cuối năm 1753, Nguyễn Nghiễm được Trịnh Doanh giao làm Đốc lĩnh ở Thanh Hoa để dẹp các lực lượng nổi dậy trong vùng núi. Nguyễn Nghiễm tiến quân đến nơi, các lực lượng nổi dậy không chống nổi, bỏ chạy sang Ai Lao. Ông chia quân tiến vào Ai Lao nhưng quân khởi nghĩa đã chạy xa, nên mang quân trở về.
Năm 1755, ông được cử làm Hiệp trấn Nghệ An. Năm 1756, ông được gọi về triều thăng làm Vực quận công đi đánh lực lượng nổi dậy ở Kinh Bắc. Nguyễn Nghiễm thắng trận.
Quan văn
Giữa năm 1754, triều đình mở thi Hội, Nguyễn Nghiễm được Trịnh Doanh cử làm Tả giám thị.
Cuối năm 1757, Nguyễn Nghiễm được thăng làm Tả thị lang bộ Hình. Đầu năm 1761, triều đình xét công đánh quân nổi dậy, Nguyễn Nghiễm được thăng làm Ngự sử, rồi Thượng thư bộ Công và vào phủ làm bồi tụng (thừa tướng), từ đó thôi không giữ việc quân mà phụ trách đội Nghiêm hữu thuộc vệ quan thị hậu.
Ít lâu sau, Nguyễn Nghiễm thêm chức Trung thư giám Quốc Tử Giám và kiêm coi Đông các, rồi làm Tổng tài Quốc sử quán.
Mùa hạ năm 1764, ông được thăng hàm Thiếu phó. Năm 1767, Trịnh Doanh chết, Trịnh Sâm lên thay thăng ông làm Thái tử thái bảo, tước Xuân quận công,bồi tụng (tể tướng).
Cuối năm 1771, ông đã 64 tuổi, bèn xin về hưu ở làng Tiền Điền. Nhưng tháng 3 năm sau (1772), Trịnh Sâm lại mời ông ra làm Tể tướng, rồi Thượng thư bộ Hộ.
Đi nam tiến
Năm 1774, trấn thủ Nghệ An là Bùi Thế Đạt hay biết tình hình nội biến Đàng Trong có anh em Tây Sơn nổi dậy, bèn viết thư về triều nói rằng Thuận Hóa có thể đánh lấy được. Hoàng Ngũ Phúc và Nguyễn Nghiễm đều tán thành việc này. Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm bèn quyết chí ra quân. Nguyễn Nghiễm được sung chức Tả tướng, theo Hoàng Ngũ Phúc, Bùi Thế Đạt mang 3 vạn quân đi đánh chúa Nguyễn ở Đàng Trong.
Quân Trịnh liên tiếp thắng trận. Sang đầu năm 1775, quân Trịnh đánh chiếm được Phú Xuân. Hoàng Ngũ Phúc cử Bùi Thế Đạt ở lại trấn thủ Phú Xuân, còn các tướng trong đó có Nguyễn Nghiễm theo Hoàng Ngũ Phúc tiếp tục đuổi theo chúa Nguyễn vào Quảng Nam.
Chúa Nguyễn bỏ chạy vào Gia Định. Quân Trịnh tiếp tục giao tranh với quân Tây Sơn của Nguyễn Nhạc và đánh bại Tây Sơn ở Cẩm Sa khiến Nguyễn Nhạc phải xin hàng.
Tuy nhiên sau trận Cẩm Sa, từ tháng 7 năm 1775, quân Trịnh bị bệnh dịch tràn lan, bản thân ông và Hoàng Ngũ Phúc đều nhiễm bệnh nặng. Quân Trịnh tiếp tục tiến đến đóng ở Chu Ổ thuộc địa đầu Quảng Ngãi thì dừng lại vì bệnh dịch ngày càng nhiều. Nguyễn Nghiễm bệnh nặng quá, viết thư xin Trịnh Sâm được về quê dưỡng bệnh. Trịnh Sâm chuẩn y.
Hoàng Ngũ Phúc chủ trương rút về Thuận Hóa, còn Nguyễn Nghiễm và Nguyễn Lệnh Tân vẫn đề nghị chia quân đóng giữ Quảng Nam. Cuối cùng Trịnh Sâm nghe lời Hoàng Ngũ Phúc, rút hết quân khỏi Quảng Nam về giữ Thuận Hóa.
Tình cảnh quân Trịnh rất thê thảm: hơn 3000 người nhiễm bệnh, hơn 600 người chết. Đầu tháng 10 năm 1775, Nguyễn Nghiễm cùng Hoàng Ngũ Phúc về tới Phú Xuân. Bùi Thế Đạt ở lại cùng các tướng giữ Thuận Hóa, còn Hoàng Ngũ Phúc và Nguyễn Nghiễm đều trở về bắc dưỡng bệnh, nhưng bệnh cả hai người cùng nhiều đại thần, tướng sĩ ngày càng nặng.
Tháng 11 âm lịch năm 1775, Nguyễn Nghiễm về đến quê nhà ở làng Tiên Điền huyện Nghi Xuân trong tình trạng rất gầy yếu. Không được bao lâu, tới ngày 17 tháng 11, tính theo dương lịch là ngày 07 tháng 1 năm 1776, ông qua đời, thọ 68 tuổi. Trịnh Sâm ban tên thụy cho ông là Trung Cần và truy phong Thượng đẳng phúc thần
Tác phẩm
Ông cùng Ngô Thì Sĩ có làm lời chú và lời bàn trong bộ Đại Việt sử ký bản kỉ tục biên.
Ngoài ra, ông còn soạn các tác phẩm:
Xuân trung liên vịnh
Xuân Đình tạp vinh
Việt sử bị lãm
Lạng Sơn đoàn thành đồ chí
Cổ lễ nhạc chương thi văn tập
Khổng Tử mộng Chu Công
Gia đình
Nguyễn Nghiễm có tất cả tám người vợ và 21 người con, trong đó nổi danh nhất là 3 người:
Con trưởng là Nguyễn Khản làm đến Tham tụng triều Lê mạt. Đương thời Nguyễn Khản và Nguyễn Nghiễm cùng làm quan trong triều.
Nguyễn Đề làm quan nhà Tây Sơn giữ chức Tả đồng nghị Trung thư sảnh, đã từng đi sứ sang Yên Kinh dự lễ nhường ngôi của vua Càn Long nhà Thanh, họa thơ cùng các sứ thần Triều Tiên.
Đại thi hào Nguyễn Du là con thứ 7 của ông và bà vợ ba Trần Thị Tần.
Ông có con rể là Vũ Trinh, Tham tri Chính sự thời Hậu Lê, là một danh nhân văn hóa. (Người con gái của Tể tướng Nguyễn Nghiễm và bà Trần Thị Tần là Nguyễn Thị Diên gả cho Vũ Trinh, người xã Xuân Lan, huyện Lang Tài)
Nhận định
Vua Lê Hiển Tông ban tặng ông câu đối "Lưỡng triều danh Tể tướng - Nhất thế đại nho sư"
Chánh sứ Nhà Thanh tặng ông 4 chữ "Dịch Thế Thư Hương"
Sử gia Phan Huy Chú nhận định về ông như sau:
Ông tài lược văn võ, lúc nhỏ học giỏi thi đỗ. Trải thờ 3 triều, quanh quẩn chỗ đài thự, vào làm tướng văn ra làm tướng võ, ở ngôi Tể tướng 15 năm. Ông sắp đặt gọn mọi việc bề bộn, đối xử ứng tiếp lúc nào cũng như lúc nào, Ân vương (Trịnh Doanh) thường khen là người có đức vọng tài trí. Là bậc nguyên lão trong nước, làm cột đá cho triều đình, công lao và danh vọng long trọng, đời bấy giờ ai cũng khen ngợi. |
2000 (hai nghìn, hay hai ngàn) là một số tự nhiên ngay sau 1999 và ngay trước 2001. |
Tư trị thông giám (chữ Hán: 資治通鑒; Wade-Giles: Tzuchih T'ungchien) là một cuốn biên niên sử quan trọng của Trung Quốc, với tổng cộng 294 thiên và khoảng 3 triệu chữ. Tác giả chính của cuốn sử này là Tư Mã Quang – nhà sử học thời Tống.
Lịch sử
Ban đầu, Tư Mã Quang đặt tên sách là Thông chí, sau đó Tống Thần Tông đổi tên sách thành Tư trị thông giám với hàm ý nhìn việc xưa để thấy rõ việc ngày nay.
Ngoài Tư Mã Quang đóng vai trò chủ biên, những người biên soạn còn có Lưu Thứ, Lưu Ban, Phạm Tổ Vũ và con trai Tư Mã Quang là Tư Mã Khang.
Theo sự phân công của Tư Mã Quang:
Lưu Ban soạn về giai đoạn Lưỡng Hán
Lưu Thứ soạn giai đoạn Lưỡng Tấn Nam Bắc triều
Phạm Tổ Vũ soạn giai đoạn Tùy Đường, Ngũ Đại
Bộ sách là kết quả lao động cật lực của các tác giả sau 19 năm. Để có được công trình này, Tư Mã Quang và các cộng sự đã bỏ ra gần như cả cuộc đời nghiên cứu, khảo chứng. Khi bộ sách hoàn thành năm 1084, Lưu Ban 62 tuổi trông già như ông lão 80, Phạm Tổ Vũ mới 43 tuổi tóc đã bạc, còn Tư Mã Quang 65 tuổi, tóc bạc da mồi và răng rụng. Cuối năm 1084, dù trời mùa đông đầy tuyết, Tư Mã Quang vẫn đóng sách vào 10 chiếc hòm được trang trí chạm trổ lộng lẫy và thân chinh áp tải từ Lạc Dương đến Biện Kinh dâng lên Tống Thần Tông. Khi Tư trị thông giám được mang in ấn nhân bản chưa đầy 1 tháng (1086) thì Tư Mã Quang qua đời vì lao lực.
Sử liệu và biên soạn
Triều đình rất ủng hộ việc soạn sách của Tư Mã Quang, cung cấp cho ông nguồn sử liệu phong phú và đa dạng:
Tàng thư của triều đình có 30.699 quyển sách
Đích thân Tống Thần Tông ban cho ông 2.400 quyển sách khác
Tư Mã Quang tự sưu tầm hơn 5.000 quyển sách ở nhà riêng
Tổng cộng số sách mà Tư Mã Quang và những người cộng sự đã tham khảo để soạn Tư trị thông giám lên đến gần 4 vạn cuốn. Thời đó sách đã được in trên giấy, tương truyền số sách tham khảo chất đầy 2 gian phòng.
Quá trình biên soạn của Tư Mã Quang và những người phụ tá chia làm 3 bước:
Sắp xếp lại các nguồn sử liệu theo trật tự thời gian, phân loại các tài liệu theo hạng mục
Trường biên, sơ bộ xử lý nguồn tư liệu đã sắp xếp, xem xét lựa chọn và cắt bỏ những phần không liên quan, đồng thời hiệu chỉnh cách hành văn
San thành định cảo, do Tư Mã Quang trực tiếp đọc, nghiên cứu, khảo đính những điểm giống và khác nhau giữa các tư liệu và loại bỏ những phần thừa, chỉnh lý và hoàn thành bản thảo.
Nội dung
Tác phẩm Tư trị thông giám được viết theo thể biên niên, khái quát một thời kỳ lịch sử dài 1362 năm, từ năm 403 TCN thời Chiến Quốc đến năm 959 hết thời Hậu Chu. Toàn bộ tác phẩm có 294 quyển, có khoảng 3 triệu chữ, ngoài ra còn có 30 quyển mục lục, 30 quyển Khảo dị (khảo sát sự giống và khác nhau).
Tư trị thông giám được chia thành 16 kỷ:
Chu kỷ, 5 quyển, ghi chép về nhà Chu (từ năm 403 TCN, khi Chu Uy Liệt Vương phong cho ba họ Hàn, Triệu, Ngụy ở nước Tấn trở thành chư hầu)
Quyển 1: Từ Mậu Dần (403 TCN) đến Nhâm Tí (369 TCN), Uy Liệt vương năm 23 đến Liệt vương năm 7, gồm 35 năm.
Quyển 2: Từ Quý Sửu (368 TCN) đến Canh Tí (321 TCN), Hiển vương năm 1 đến năm 48, gồm 48 năm.
Quyển 3: Từ Tân Sửu (320 TCN) đến Quý Hợi (298 TCN), Thận Tịnh vương năm 1 đến Noản vương năm 17, gồm 23 năm.
Quyển 4: Từ Giáp Tí (297 TCN) đến Mậu Tí (273 TCN), Noản vương năm 18 đến năm 42, gồm 25 năm.
Quyển 5: Từ Kỉ Sửu (272 TCN) đến Ất Tị (256 TCN), Noản vương năm 43 đến năm 59, gồm 17 năm.
Tần kỷ, 3 quyển, ghi chép về nhà Tần. Chu kỷ và Tần kỷ nguyên là quyển Thông chí mà Tư Mã Quang đã dâng lên Tống Anh Tông năm 1066.
Quyển 6: Từ Bính Ngọ (255 TCN) đến Quý Dậu (228 TCN), Chiêu Tương vương năm 52 đến Thủy hoàng đế năm 19, gồm 28 năm.
Quyển 7: Từ Giáp Tuất (227 TCN) đến Nhâm Mùi (209 TCN), Thủy hoàng đế năm 20 đến Nhị Thế năm 1, gồm 19 năm.
Quyển 8: Từ Quý Tị (208 TCN) đến Giáp Ngọ (207 TCN), Tần Nhị Thế năm 2 đến năm 3, gồm 2 năm.
Hán kỷ, 60 quyển, ghi chép về nhà Hán
Quyển 9: Từ Ất Mùi (206 TCN) đến Bính Thân (205 TCN), Cao Đế năm 1 đến năm 2, gồm 2 năm.
Quyển 10: Từ Đinh Dậu (204 TCN) đến Mậu Tuất (203 TCN), Cao Đế năm 3 đến năm 4, gồm 2 năm.
Quyển 11: Từ Kỉ Hợi (202 TCN) đến Tân Sửu (200 TCN), Cao Đế năm 5 đến năm 7, gồm 3 năm.
Quyển 12: Từ Nhâm Dần (199 TCN) đến Quý Sửu (188 TCN), Cao Đế năm 8 đến Huệ Đế năm 7, gồm 12 năm.
Quyển 13: Từ Giáp Dần (187 TCN) đến Quý Hợi (178 TCN), Cao Hậu nguyên niên đến Văn Đế Tiền năm 2, gồm 10 năm.
Quyển 14: Từ Giáp Tí (177 TCN) đến Tân Mùi (170 TCN), Văn Đế Tiền năm 3 đến năm 10, gồm 8 năm.
Quyển 15: Từ Nhâm Thân (169 TCN) đến Bính Tuất (155 TCN), Văn Đế Tiền năm 11 đến Cảnh Đế Tiền năm 2, gồm 15 năm.
Quyển 16: Từ Đinh Hợi (154 TCN) đến Canh Tí (141 TCN), Cảnh Đế Tiền năm 3 đến Hậu năm 3, gồm 14 năm.
Quyển 17: Từ Tân Sửu (140 TCN) đến Đinh Mùi (134 TCN), Võ đế Kiến Nguyên năm 1 đến Nguyên Quang năm 1, gồm 7 năm.
Quyển 18: Từ Mậu Thân (133 TCN) đến Bính Tuất (125 TCN), Võ Đế Nguyên Quang năm 2 đến Nguyên Sóc năm 4, gồm 9 năm.
Quyển 19: Từ Đinh Tị (124 TCN) đến Nhâm Tuất (119 TCN), Võ Đế Nguyên Sóc năm 5 đến Nguyên Thú năm 4, gồm 6 năm.
Quyển 20: Từ Quý Hợi (118 TCN) đến Tân Mùi (110 TCN), Võ Đế Nguyên Thú năm 5 đến Nguyên Phong năm 1, gồm 9 năm.
Quyển 21: Từ Nhâm Thân (109 TCN) đến Nhâm Ngọ (99 TCN), Võ Đế Nguyên Phong năm 2 đến Thiên Hán năm 2, gồm 11 năm.
Quyển 22: Từ Quý Mùi (98 TCN) đến Giáp Ngọ (87 TCN), Võ Đế Thiên Hán năm 3 đến Hậu Nguyên năm 2, gồm 12 năm.
Quyển 23: Từ Ất Mùi (86 TCN) đến Bính Ngọ (75 TCN), Chiêu Đế Thủy Nguyên năm 1 đến Phụng Nguyên năm 6, gồm 12 năm.
Quyển 24: Từ Đinh Mùi (74 TCN) đến Quý Sửu (68 TCN), Chiêu Đế Nguyên Bình nguyên niên đến Tuyên Đế Địa Tiết năm 2, gồm 7 năm.
Quyển 25: Từ Giáp Dần (67 TCN) đến Kỷ Mùi (62 TCN), Tuyên Đế Địa Tiết năm 3 đến Nguyên Khang năm 4, gồm 7 năm.
Quyển 26: Từ Canh Thân (61 TCN) đến Nhâm Tuất (59 TCN), Tuyên Đế Thần Tước nguyên niên đến năm thứ 3, gồm 3 năm.
Quyển 27: Từ Quý Hợi (58 TCN) đến Nhâm Thân (49 TCN), Tuyên Đế Thần Tước năm 4 đến Hoàng Long nguyên niên, gồm 10 năm.
Quyển 28: Từ Quý Dậu (48 TCN) đến Kỷ Mão (42 TCN), từ Nguyên Đế Sơ Nguyên nguyên niên đến Vĩnh Quang năm 2, gồm 7 năm.
Quyển 29: Từ Canh Thìn (41 TCN) đến Mậu Tý (33 TCN), từ Nguyên Đế Vĩnh Quang năm 3 đến Cánh Ninh nguyên niên, gồm 9 năm.
Quyển 30: Từ Kỷ Sửu (32 TCN) đến Mậu Tuất (23 TCN), Thành Đế Kiến Thủy nguyên niên đến Dương Sóc năm 2, gồm 9 năm.
Quyển 31: Từ Kỷ Hợi (22 TCN) đến Đinh Mùi (14 TCN), Thành Đế Dương Sóc năm 3 đến Vĩnh Thủy năm 3, gồm 9 năm.
Quyển 32: Từ Mậu Thân (13 TCN) đến Quý Sửu (8 TCN), Thành Đế Vĩnh Thủy năm 4 đến Tuy Hòa nguyên niên, gồm 6 năm.
Quyển 33: Từ Giáp Dần (7 TCN) đến Ất Mão (6 TCN), Thành Đế Tuy Hòa năm 2 đến Ai Đế Kiến Bình nguyên niên, gồm 2 năm.
Quyển 34: Từ Bính Thìn (5 TCN) đến Mậu Ngọ (3 TCN), Ai Đế Kiến Bình năm 2 đến năm 4, gồm 3 năm.
Quyển 35: Từ Kỷ Mùi (2 TCN) đến Nhâm Tuất (2), Ai Đế Nguyên Thọ nguyên niên đến Bình Đế Nguyên Thủy năm 2, gồm 4 năm.nguyên thủy nguyên niên nhị niên
Quyển 36: Từ Quý Hợi (3) đến Mậu Thìn (8), Bình Đế Nguyên Thủy năm 3 đến Vương Mãng Sơ Thủy nguyên niên, gồm 6 năm.
Quyển 37: Từ Kỷ Tị (9) đến Giáp Tuất (14), Vương Mãng Thủy Kiến Quốc nguyên niên đến Thiên Phụng nguyên niên, gồm 6 năm.
Quyển 38: Từ Ất Hợi (15) đến Nhâm Ngọ (22), Vương Mãng Thiên Phụng năm 2 đến Địa Hoàng năm 3, gồm 8 năm.
Quyển 39: Từ Quý Mùi (23) đến Giáp Thân (24), Hoài Dương vương Canh Thủy nguyên niên đến năm 2, gồm 2 năm.
Quyển 40: Từ Ất Dậu (25) đến Bính Tuất (26), Quang Vũ đế Kiến Vũ nguyên niên đến năm 2, gồm 2 năm.
Quyển 41: Từ Đinh Hợi (27) đến Kỷ Sửu (29), Quang Vũ Đế Kiến Vũ năm 3 đến năm 5, gồm 3 năm.
Quyển 42: Từ Canh Dần (30) đến Ất Mùi (35), Quang Vũ Đế Kiến Vũ năm 6 đến năm 11, gồm 6 năm.
Quyển 43: Từ Bính Thân (36) đến Bính Ngọ (46), Quang Vũ Đế Kiến Vũ năm 12 đến năm 22, gồm 11 năm.
Quyển 44: Từ đinh vị(47) đến Canh Thân (60), Quang Vũ Đế Kiến Vũ năm 23 đến Minh Đế Vĩnh Bình năm 3, gồm 14 năm.
Quyển 45: Từ Tân Dậu (61) đến Ất Hợi (75), từ Minh Đế Vĩnh Bình năm 4 đến năm 18, gồm 15 năm.
Quyển 46: Từ Bính Tí (76) đến Giáp Thân (84), từ Chương Đế Kiến Sơ nguyên niên đến Nguyên Hòa nguyên niên, gồm 9 năm.
Quyển 47: Từ Ất Dậu (85) đến Tân Mão(91), Chương Đế Nguyên Hòa năm 2 đến Hòa Đế Vĩnh Nguyên năm 3, gồm 7 năm.
Quyển 48: Từ Nhâm Thìn (92) đến Ất Tị (105), Hòa Đế Vĩnh Nguyên năm 4 đến Nguyên Hưng nguyên niên, gồm 14 năm.
Quyển 49: Từ Bính Ngọ (106) đến Ất Mão (115), Thương Đế Diên Bình nguyên niên đến An Đế Nguyên Sơ năm 2, gồm 10 năm.
Quyển 50: Từ Bính Thìn (116) đến Giáp Tý (124), An Đế Nguyên Sơ năm 3 đến Diên Quang năm 3, gồm 9 năm.
Quyển 51: Từ Ất Sửu (125) đến Quý Dậu (133), An Đế Diên Quang năm 4 đến Thuận Đế Dương Gia năm 2, gồm 9 năm.
Quyển 52: Từ Giáp Tuất (134) đến Ất Dậu (145), Thuận Đế Dương Gia năm 3 đến Xung Đế Vĩnh Gia nguyên niên, gồm 12 năm.
Quyển 53: Từ Bính Tuất (146) đến Bính Thân (156), Chất Đế Bản Sơ nguyên niên đến Hoàn Đế Nguyên Thọ năm 2, gồm 11 năm.
Quyển 54: Từ Đinh Dậu (157) đến Quý Mão (163), Hoàn Đế Vĩnh Thọ năm 3 đến Diên Hy năm 6, gồm 7 năm.
Quyển 55: Từ Giáp Thìn (164) đến Bính Ngọ (166), Hoàn Đế Diên Hy năm 7 đến năm 9, gồm 3 năm.
Quyển 56: Từ Đinh Mùi (167) đến Tân Hợi (171), Hoàn Đế Vĩnh Khang nguyên niên đến Linh Đế Kiến Ninh năm 4, gồm 5 năm
Quyển 57: Từ Nhâm Tí (172) đến Canh Thân (180), Linh Đế Hy Bình nguyên niên đến Quảng Hòa năm 3, gồm 9 năm.
Quyển 58: Từ Tân Dậu (181) đến Đinh Mão (187), Linh Đế Quang Hòa năm 4 đến Trung Bình năm 4, gồm 7 năm.
Quyển 59: Từ Mậu Thìn (188) đến Canh Ngọ (190), Linh Đế Trung Bình năm 5 đến Hiến Đế Sơ Bình nguyên niên, gồm 3 năm.
Quyển 60: Từ Tân Mùi (191) đến Quý Dậu (193), Hiến Đế Sơ Bình năm 2 đến năm 4, gồm 3 năm
Quyển 61: Từ Giáp Tuất (194) đến Ất Hợi (195), Hiến Đế Hưng Bình nguyên niên đến năm 2, gồm 2 năm.
Quyển 62: Từ Bính Tí (196) đến Mậu Dần (198), Hiến Đế Kiến An nguyên niên đến năm 3, gồm 3 năm.
Quyển 63: Từ Kỷ Mão (199) đến Canh Thìn (200), Hiến Đế Kiến An năm 4 đến năm 5, gồm 2 năm.
Quyển 64: Từ Tân Tị (201) đến Ất Dậu (205), Hiến Đế Kiến An năm 6 đến năm 10, gồm 5 năm.
Quyển 65: Từ Bính Tuất (206) đến Mậu Tí (208), Hiến Đế Kiến An năm 11 đến năm 13, gồm 3 năm.
Quyển 66: Từ Kỷ Sửu (209) đến Quý Tị (213), Hiến Đế Kiến An năm 14 đến năm 18, gồm 5 năm.
Quyển 67: Từ Giáp Ngọ (214) đến Bính Thân (216), Hiến Đế Kiến An năm 19 đến năm 21, gồm 3 năm.
Quyển 68: Từ Đinh Mậu (217) đến Kỷ Hợi (219), Hiến Đế Kiến An năm 22 đến năm 24, gồm 3 năm.
Ngụy kỷ, 10 quyển, ghi chép về Tào Ngụy. Thục Hán và Đông Ngô không có kỷ.
Quyển 69: Từ Canh Tý (220) đến Nhâm Dần (222), Văn Đế Hoàng Sơ nguyên niên đến năm 3, gồm 3 năm
Quyển 70: Từ Quý Mão (223) đến Đinh Mùi (227), Văn Đế Hoàng Sơ năm 4 đến Minh Đế Thái Hòa nguyên niên, gồm 5 năm.
Quyển 71: Từ Mậu Thân (228) đến Canh Tuất (230), Minh Đế Thái Hòa năm 2 đến năm 4, gồm 3 năm.
Quyển 72: Từ Tân Hợi (231) đến Giáp Dần (234), Minh Đế Thái Hòa năm 5 đến Thanh Long năm 2, gồm 4 năm.
Quyển 73: Từ Ất Mão (235) đến Đinh Tị (237), Minh Đế Thanh Long năm 3 đến Cảnh Sơ nguyên niên, gồm 3 năm.
Quyển 74: Từ Mậu Ngọ (238) đến Ất Sửu (245), Minh Đế Cảnh Sơ năm 2 đến Thiệu Lăng Lệ công Chánh Thủy năm 6, gồm 8 năm.
Quyển 75: Từ Bính Dần (246) đến Nhâm Thân (252), Thiệu Lăng Lệ công Chánh Thủy năm 7 đến Gia Bình năm 4, gồm 7 năm.
Quyển 76: Từ Quý Dậu (253) đến Ất Hợi (255), Thiệu Lăng Lệ công Gia Bình năm 5 đến Cao Quý Hương công Chánh Nguyên năm 2, gồm 3 năm.
Quyển 77: Từ Bính Tí (256) đến Tân Tị (261), Cao Quý Hương công Cam Lộ nguyên niên đến Nguyên Đế Cảnh Nguyên năm 2, gồm 6 năm.
Quyển 78: Từ Nhâm Ngọ (262) đến Giáp Thân (264), Nguyên Đế Cảnh Nguyên năm 3 đến Hàm Hi nguyên niên, gồm 3 năm.
Tấn kỷ, 40 quyển, ghi chép về nhà Tấn
Quyển 79: Từ Ất Dậu (265) đến Nhâm Thìn (272), Vũ Đế Thái Thủy nguyên niên đến năm 8, gồm 8 năm.
Quyển 80: Từ Quý Tị (273) đến Kỷ Hợi (279), Vũ Đế Thái Thủy năm 9 đến Hàm Ninh năm 5, gồm 7 năm.
Quyển 81: Từ Canh Tí (280) đến Mậu Thân (288), Vũ Đế Thái Khang nguyên niên năm năm 9, gồm 9 năm.
Quyển 82: Từ kỉ dậu (289) đến Mậu Ngọ (298), Vũ Đế Thái Khang năm 10 đến Huệ Đế Nguyên Khang năm 8, gồm 10 năm.
Quyển 83: Từ Kỷ Mùi (299) đến Canh Thân (300), Huệ Đế Nguyên Khang năm 9 đến Vĩnh Khang nguyên niên, gồm 2 năm.
Quyển 84: Từ Tân Dậu (301) đến Nhâm Tuất (302), Huệ Đế Vĩnh Ninh nguyên niên đến Thái An nguyên niên, gồm 2 năm.
Quyển 85: Từ Quý Hợi (303) đến Giáp Tí (304), Huệ Đế Thái An năm 2 đến Vĩnh Hưng nguyên niên, gồm 2 năm.
Quyển 86: Từ Ất sửu (305) đến Mậu Thần (308), Huệ Đế Vĩnh Hưng năm 2 đến Hoài Đế Vĩnh Gia năm 2, gồm 4 năm.
Quyển 87: Từ Kỉ Tị (309) đến Tân Mùi (311), Hoài Đế vĩnh gia năm 3 đến năm 5, gồm 3 năm.
Quyển 88: Từ Nhâm Thân (312) đến Quý Dậu (313), Hoài Đế Vĩnh Gia năm 6 đến Mẫn Đế Kiến Hưng nguyên niên, gồm 2 năm.
Quyển 89: Từ Giáp Tuất (314) đến Bính Tí (316), Mẫn Đế Kiến Hưng năm 2 đến năm 4, gồm 3 năm.
Quyển 90: Từ Đinh Sửu (317) đến Mậu Dần (318), Nguyên Đế Kiến Vũ nguyên niên đến thái hưng nguyên niên, gồm 2 năm.
Tống kỷ, 16 quyển, ghi chép về nhà Lưu Tống
Tề kỷ, 10 quyển, ghi chép về nhà Nam Tề
Lương kỷ, 22 quyển, ghi chép về nhà Lương
Trần kỷ, 10 quyển, ghi chép về nhà Trần. Các triều đại Bắc triều bao gồm Bắc Ngụy, Bắc Tề, Bắc Chu không có kỷ.
Tùy kỷ, 8 quyển, ghi chép về nhà Tùy
Đường kỷ, 81 quyển, ghi chép về nhà Đường
Hậu Lương kỷ, 6 quyển, ghi chép về nhà Hậu Lương
Hậu Đường kỷ, 8 quyển, ghi chép về nhà Hậu Đường
Hậu Tấn kỷ, 6 quyển, ghi chép về nhà Hậu Tấn
Hậu Hán kỷ, 4 quyển, ghi chép về nhà Hậu Hán
Hậu Chu kỷ, 5 quyển, ghi chép về nhà Hậu Chu. Các nước trong Thập quốc không có kỷ.
Tư Mã Quang viết Tư trị thông giám nhằm mục đích củng cố sự thống trị của triều đình nhà Tống nên nội dung cũng như hình thức mang màu sắc chính trị rõ nét, có thể gọi là sử chính trị. Căn cứ vào đức độ và tài năng của các bậc vua chúa, Tư Mã Quang chia thành năm loại: sáng nghiệp, thủ thành, lăng di, trung hưng và loạn vong. Những vua sáng nghiệp được đề cao như Hán Cao Tổ, Hán Quang Vũ Đế, Tùy Văn Đế, Đường Thái Tông… Những ông vua thủ thành như Hán Văn Đế, Hán Cảnh Đế… Loại vua kém nhất là loại thứ 5: loạn vong như Trần Hậu Chủ, Tùy Dạng Đế…
Tư trị thông giám chú trọng đề cập đến nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong tiến trình phát triển của lịch sử.
Về quân sự, những trận đánh nổi tiếng như trận Xích Bích hay trận Phì Thủy được đề cập không chỉ nội dung mà còn nguyên nhân cũng được nêu chi tiết.
Về kinh tế, Tư trị thông giám đi sâu ghi chép những chính sách ruộng đất, tô thuế và lao dịch của các triều đại. Đây là những vấn đề ảnh hưởng đến quốc kế dân sinh như biến pháp của Thương Ưởng thời Chiến Quốc, chính sách trị quốc của Hán Văn Đế, chế độ quân điền của Ngụy Hiếu Văn Đế.
Về văn hóa tư tưởng và học thuật, Tư trị thông giám đưa ra tổng quan về sự phát triển hưng thịnh của nền học thuật Trung Quốc từ Nho giáo, Đạo giáo, Pháp gia, Hình danh, Âm dương, Tung hoành gia; các học phái nhỏ cũng được thống kê ghi chép.
Không chỉ ghi chép các sự kiện lịch sử, Tư Mã Quang còn đưa ra những bình luận, kiến giải về các sự kiện đó. Có phần do ông ghi lại lời bình chú của người đời trước, có phần do ông tự bình chú.
Đặc điểm và giá trị
Tư trị thông giám được đánh giá là cuốn sử biên niên quan trọng hàng đầu của Trung Quốc. Cuốn sách cung cấp những bài học kinh nghiệm cho giai cấp thống trị theo tôn chỉ ban đầu mà cuốn sách đặt ra và thực sự là kiệt tác của sử học Trung Quốc. Nhà sử học đời nhà Thanh là Vương Minh Thịnh đã đánh giá đây là một cuốn sách "không thể thiếu được trong trời đất, tất cả các học giả đều không thể không đọc".
Những ưu điểm nổi bật của Tư trị thông giám là:
Tập hợp lịch sử trong 1362 năm vào một bộ sách, được viết với văn phong gọn gàng, chặt chẽ và tiếp thu được một số ưu điểm của thể loại "kỷ truyện". Mỗi khi bắt đầu một sự kiện lớn trong lịch sử, tác phẩm đều nêu rõ nguyên nhân, kết quả, sử dụng nguồn sử liệu thống nhất, không bị phân tán. Điều đó mở ra một kỷ nguyên mới cho thể biên niên sử
Sách sáng tạo ra phương pháp biên soạn sử mới gồm 3 bước và khảo dị các sự kiện lịch sử, đóng góp to lớn vào việc soạn sách
Về tư tưởng sử học, Tư trị thông giám phản ánh chủ trương dựa vào sự việc để viết thành sách, không hoa mỹ, bài trừ tư tưởng mê tín, phản đối thuyết ma quỷ thần thánh, tôn sùng sự tiến bộ, khi nói sự kiện thì nói sơ lược thời cổ, nói kỹ về thời đại.
Tư trị thông giám có ảnh hưởng sâu rộng trong lịch sử sử học Trung Quốc. Sự thành công của Tư Mã Quang được sánh ngang với tác phẩm Sử ký Tư Mã Thiên.
Có một đặc điểm bị đánh giá là hạn chế của tác phẩm: thể lệ biên niên của sách chỉ biên chép 1 niên hiệu cuối cùng trong năm của các vua chúa, trên thực tế có những năm có hơn 1 niên hiệu lại không được nhắc đến, vì vậy gây khó khăn cho độc giả.
Khái niệm chủ yếu
"Nhược nhục, cường thực" (Yếu thì thịt, mạnh thì ăn) - Tư Trị Thông Giám, chương Đường Kỷ 56 (唐紀 56) viết: "Nhược chi nhục, cường chi thực = Yếu thì thịt, mạnh thì ăn (弱之肉、強之食)".
"Giai tiền vạn lý" (Trước thềm, muôn dặm) - Tư Trị Thông Giám, chương Đường Kỷ 65 (唐紀 65) viết: "Khanh đáo bỉ vi chính thiện ác, trẫm giai tri chi, vật vị kỳ viễn. Thử giai tiền tắc vạn lý dã = Bề tôi đến kia để sửa tốt với ác, mọi sự ta đều biết, bất kỳ ở xa. Chỗ muôn dặm như ở trước thềm (卿到彼為政善惡、朕皆知之、勿謂其遠。此階前則萬里也)".
Bản dịch tiếng Việt
Bộ Tư trị thông giám do nhóm Cổ Thư Lâu tổ chức dịch, Nhà xuất bản Văn học và Công ty TNHH Sách và Truyền thông Việt Nam xuất bản.
Tập 1, năm 2017, gồm Chu kỷ 5 quyển, Tần kỷ 3 quyển, Hán kỷ từ Quyển 1 đến Quyển 8.
Tập 2, năm 2018, gồm Hán kỷ từ Quyển 9 đến Quyển 25.
Tập 3, năm 2018, gồm Hán kỷ từ Quyển 26 đến Quyển 42.
Tập 4, năm 2019, gồm Hán kỷ từ Quyển 43 đến Quyển 60.
Tập 5, năm 2020, gồm Ngụy kỷ 10 Quyển, Tấn kỷ từ Quyển 1 đến Quyển 8.
Tập 6, năm 2020, gồm Tấn kỷ từ Quyển 9 đến Quyển 24.
Tập 7, năm 2020, gồm Tấn kỷ từ Quyển 25 đến Quyển 40.
Tập 8, năm 2022, gồm Tống kỷ 16 Quyển.
Tập 9, năm 2022, gồm Tề kỷ 10 Quyển, Lương kỷ từ Quyển 1 đến Quyển 6. |
Trong mật mã học, mạng lưới tín nhiệm là một mô hình dùng trong các hệ thống PGP, GnuPG, và các hệ thống dựa trên OpenPGP để thiết lập tính xác thực của mối liên hệ giữa khóa công khai và người sử dụng. Trong một khía cạnh nào đó, đây là một lựa chọn thay cho mô hình hạ tầng khóa công khai tập trung (PKI) dựa trên các nhà cung cấp chứng thực số. Cũng như mạng máy tính, tồn tại nhiều mạng lưới tín nhiệm hoạt động độc lập với nhau. Mỗi người sử dụng trong mô hình này có thể là thành viên của nhiều mạng và như vậy họ trở thành cầu nối giữa các mạng đó.
Hoạt động của mạng lưới tín nhiệm
Tất cả các hệ thống tuân theo OpenPGP đều quy định cách thức để xem xét các chứng thực. Các chứng thực thường được chính người dùng tạo ra cho mình (thông qua phần mềm máy khách) và sẽ được ký xác nhận bởi những người dùng khác nếu họ biết được rằng mối quan hệ giữa khóa công khai và định danh người dùng trong chứng thực là đúng. Thông thường việc ký xác nhận được tiến hành trong các buổi ký xác nhận khóa (key signing party).
Các hệ thống tuân theo OpenPGP còn bao gồm các cơ chế để người dùng quyết định sự tin tưởng vào thông tin trong một chứng thực. Chẳng hạn người dùng sẽ tin vào một chứng thực khi chứng thực đó có tối thiểu 3 xác nhận bán phần hoặc 1 xác nhận toàn phần. Các quy định này thông thường có thể thay đổi và thậm chí có thể được bỏ qua.
Các cơ chế mạng lưới tin cậy rất mềm dẻo và việc quyết định hoàn toàn phụ thuộc vào từng người sử dụng. Vì thế chúng không hoàn hảo và cần được giám sát thường xuyên bởi chính những người sử dụng. Các hệ thống hạ tầng khóa công khai trung tâm thì trái lại. Chúng kém mềm dẻo và người dùng bắt buộc phải tuân theo những quy định của nhà cung cấp chứng thực số trung tâm. Các hệ thống này cũng không hoàn hảo và người dùng vẫn cần phải thận trọng khi sử dụng.
Điểm khác với PKI trung tâm
Trong mô hình PKI theo tiêu chuẩn X.509 thì mỗi chứng thực chỉ được ký bởi một thực thể duy nhất là nhà cung cấp chứng thực số (CA). Chứng thực của CA này có thể lại được ký bởi một nhà cung cấp chứng thực số khác cho tới CA cấp cao nhất (tự xác nhận - root CA). Do đó, các chứng thực gốc phải được phân phối rộng rãi và đảm bảo sẵn sàng bất cứ khi nào cần đến. Một cách phân phối đã được sử dụng là thông qua các trình duyệt và chương trình email máy khách. Bằng cách này, các trang web dùng giao thức SSL/TLS hay các email có thể được chứng thực mà người dùng không cần phải cài đặt các chứng thực gốc. Ngày nay, nhiều ứng dụng đã được cài sẵn hàng trăm chứng thực gốc của nhiều nhà cung cấp PKI khác nhau để có thể tự động nhận dạng phần lớn các chứng thực. Tuy nhiên trong số các chứng thực gốc được cài sẵn, một số lại thuộc về các công ty đã ngừng hoạt động (trong thời kỳ bong bóng đầu tư dot.com chẳng hạn). Vì thế trừ trường hợp các PKI này vẫn được quản lý tốt thì các PKI gốc đó không nên được sử dụng.
Các vấn đề của mạng lưới tín nhiệm
Mạng lưới tín nhiệm sẽ không bị ảnh hưởng đáng kể khi một công ty nào đó ngừng hoạt động. Tuy nhiên cũng có nhiều vấn đề nảy sinh trong cách hoạt động của hệ thống. Nếu một người dùng nào đó (cá nhân hoặc tổ chức) bị mất khóa bí mật thì không thể giải mã được các thông tin gửi đến sử dụng khóa công khai trong chứng thực của mình. Trong trường hợp này người nhận chỉ có thể hủy các thông điệp nhận được và thông báo lại cho bên gửi để gửi lại với khóa công khai khác. Các chứng thực PGP thời kỳ đầu hoàn toàn không có thời gian sử dụng. Các phiên bản PGP về sau và các hệ thống dựa trên OpenPGP đều đã đưa thêm thời gian sử dụng vào trong chứng thực. Việc này đã loại bỏ được một số vấn đề khi được sử dụng hợp lý.
Do mạng lưới tín nhiệm không có thực thể đóng vai trò điều khiển trung tâm, một vấn đề khác nảy sinh liên quan đến khía cạnh xã hội của hệ thống. Phần lớn người sử dụng hệ thống sẽ chỉ tin tưởng vào những chứng thực đã được xác nhận bởi một hoặc nhiều người sử dụng khác. Vì thế một người sử dụng mới sẽ không được những người khác tin tưởng cho đến khi có một người sử dụng nào đó xác nhận vào chứng thực mà quá trình này nhiều khi đòi hỏi có sự gặp mặt trực tiếp. Điều này càng đặc biệt khó khăn cho những người sử dụng ở những vùng hẻo lánh hoặc kém phát triển vì mật độ người sử dụng ở những nơi này rất thấp. Một điều nữa cần chú ý là nếu người ký vào chứng thực cũng là người sử dụng mới hoặc không được nhiều người biết đến thì chữ ký của họ cũng sẽ có ít giá trị. Các buổi ký xác nhận khóa là một cơ chế tương đối mới để giải quyết vấn đề này. Tại những buổi như vậy, người dùng có cơ hội dễ dàng hơn để tìm ra người sử dụng khác ký xác nhận cho mình. Ngoài ra cũng có các website cung cấp những thông tin về địa chỉ người dùng hệ thống OpenPGP để giúp cho việc ký xác nhận. Ví dụ như trang Gossamer Spider Web of Trust giúp liên kết người sử dụng OpenPGP thông qua việc tổ chức mạng lưới tín nhiệm theo thứ bậc. |
Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thường được gọi ngắn gọn hơn là Bộ Quốc phòng Việt Nam hay đơn giản là Bộ Quốc phòng (BQP), là cơ quan trực thuộc Chính phủ Việt Nam, tham mưu cho Nhà nước Việt Nam về đường lối, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng bảo vệ Tổ quốc; quản lý nhà nước về lĩnh vực quốc phòng trong phạm vi cả nước; tổ chức thực hiện việc xây dựng, quản lý và chỉ huy Quân đội nhân dân Việt Nam, Dân quân tự vệ; quản lý các dịch vụ công theo quy định của pháp luật. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam vừa là người chỉ đạo thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về quân sự, quốc phòng theo quy định của pháp luật, vừa chịu trách nhiệm tổ chức, xây dựng, quản lý và là người chỉ huy cao nhất trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Dân quân tự vệ.
Lịch sử
Ngay sau khi nhận được tin Đế quốc Nhật Bản tuyên bố đầu hàng phe Đồng Minh ngày 15 tháng 8 năm 1945, các lãnh đạo Việt Minh đã tổ chức Quốc dân Đại hội tại Tân Trào, Tuyên Quang ngày 16 tháng 8, cử ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng do Lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, lãnh đạo thực hiện Cách mạng Tháng Tám. Sau khi giành được chính quyền, ngày 27 tháng 8 năm 1945, Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam được cải tổ thành Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong Tuyên cáo ngày 27 tháng 8, thành phần Chính phủ lâm thời có ông Chu Văn Tấn giữ vai trò Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Ngày 02 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và ra mắt toàn bộ thành viên Chính phủ lâm thời trước quốc dân, trong đó có cả tân Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Chu Văn Tấn.
Tuy nhiên, trên thực tế, các cơ quan nội các vẫn chưa kịp thành lập, kể cả Bộ Quốc phòng. Các lực lượng vũ trang của người Việt đều do các đảng phái chính trị lãnh đạo riêng rẽ hoặc tổ chức tự phát. Trong đó, lực lượng vũ trang có thực lực nhất là Việt Nam Giải phóng quân, do Việt Minh lãnh đạo. Ngày 07 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh ra chỉ thị thành lập Bộ Tham mưu nhằm chỉ huy, điều hành lực lượng vũ trang trong cả nước:
Cùng với chỉ thị này, ông Hoàng Văn Thái được chỉ định làm Tham mưu trưởng và được giao nhiệm vụ tổ chức Bộ Tham mưu. Một nhóm hạt nhân nòng cốt để xây dựng Bộ Tham mưu gồm 8 người là Hoàng Văn Thái, Hoàng Đạo Thúy, Hoàng Minh Đạo, Mai Hữu Thao, Nguyễn Văn Trang, Vũ Văn Thềm, Nghiêm Xuân Hoà, Đỗ Văn Sáng; hình thành cơ cấu tổ chức cơ quan tham mưu bước đầu bao gồm: Phòng Tác chiến - Đồ bản do Hoàng Văn Thái, Tham mưu trưởng, trực tiếp làm Trưởng phòng; Phòng Tình báo do Hoàng Minh Đạo làm Trưởng phòng; Phòng Quân lực do Trần Văn Lư làm Trưởng phòng; Phòng Thông tin liên lạc do Hoàng Đạo Thúy làm Trưởng phòng và Văn phòng quản lý hành chính do Nguyễn Văn Trang phụ trách.
Ngày 23 tháng 9 năm 1945, quân Pháp nổ súng tái chiếm Nam Bộ. Ngày 15 tháng 10 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh phân chia toàn quốc thành 9 chiến khu. Tuy nhiên, do điều kiện chiến tranh, liên lạc khó khăn do chiến sự đã lan đến địa bàn khu 6, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ mới bổ nhiệm các nhân sự của các chiến khu 1, 2, 3, 4. Các chiến khu 5, 6 đặt dưới quyền chỉ đạo của Ủy ban Kháng chiến hành chính miền Nam Việt Nam; các chiến khu 7, 8, 9 được đặt dưới quyền chỉ đạo trực tiếp của Xứ ủy Nam Bộ và Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ. Cùng ngày, thực dân Pháp gây hấn ở Nam Bộ, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ hai.
Ngày 2 tháng 3 năm 1946, Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến được thành lập. Luật sư Phan Anh giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Ngày 2 tháng 3 năm 1946 Ủy ban Kháng chiến toàn quốc (còn gọi là Toàn quốc Kháng chiến Ủy viên Hội) ra đời. Chủ tịch là đại tướng Võ Nguyên Giáp và Vũ Hồng Khanh giữ chức Phó Chủ tịch.
Ngày 25 tháng 3 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 34 về tổ chức Bộ Quốc phòng. Theo đó, Bộ Quốc phòng có Văn phòng và 10 cục chuyên môn: Chế tạo Quân nhu Cục, Chế tạo Quân giới Cục, Chính trị Cục, Tình báo Cục, Quân chính Cục, Quân huấn Cục, Công chính giao thông Cục, Quân pháp Cục, Quân nhu Cục, Quân y Cục. Cũng trong ngày hôm đó, một số nhân sự lãnh đạo các cơ quan chuyên môn của Bộ Quốc phòng cũng được bổ nhiệm. Ngày 6 tháng 5 năm 1946, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 60 đổi tên Ủy ban Kháng chiến toàn quốc thành Quân sự Ủy viên Hội, theo đó Quân sự Ủy viên Hội là một cơ quan tối cao quân sự đặt thẳng dưới quyền điều khiển của Chính phủ và có nhiệm vụ điều khiển quân đội toàn quốc, đứng đầu là Chủ tịch và Phó Chủ tịch ngang hàng với Bộ trưởng và Thứ trưởng các Bộ; quy định tổ chức của Quân sự Ủy viên Hội gồm: Cục Tổng vụ, Cục Tham mưu, Cục Chính trị, Cục Tổng Chỉ huy, Ủy ban Liên lạc và Kiểm soát quân sự Trung ương Việt - Pháp.
Ngày 29 tháng 6 năm 1946, thành lập Đoàn Pháo binh Thủ đô (sau là Cục Pháo Binh rồi Binh chủng Pháo binh). Ngày 7 tháng 7 năm 1946, thành lập Trường Võ bị Đà Lạt sau này là Học viện Lục quân (1981).
Từ ngày 28 tháng 10 đến ngày 9 tháng 11 năm 1946, Quốc hội Việt Nam khóa I, kỳ họp thứ 2 đã quyết định sáp nhập Bộ Quốc phòng hợp với Quân sự Ủy viên hội thành Bộ Quốc phòng-Tổng Chỉ huy. Ngày 30 tháng 11 năm 1946, theo Sắc lệnh số 229 thì "các cơ quan quân sự trên toàn cõi Việt Nam đều đặt dưới quyền Bộ Quốc phòng". Cũng trong ngày 30 tháng 11 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 230 ủy quyền cho đại tướng Võ Nguyên Giáp, đang là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, làm Tổng Chỉ huy quân đội toàn quốc.
Ngày 5 tháng 11 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị công việc khẩn cấp cần làm. Ông nêu rõ: "Công việc khẩn cấp là kháng chiến và kiến quốc. Người dự đoán cuộc kháng chiến sẽ gay go, gian khổ, nhưng chúng ta kiên quyết chống chọi với các trận khủng bố của địch, thì ta sẽ thắng.". Trong tháng 11 năm 1946, cả nước chia thành 12 khu hành chính và quân sự. Mỗi khu có Uỷ ban Kháng chiến Khu phụ phụ trách hành chính, Khu trưởng phụ trách quân đội. Ngày 10 tháng 12 năm 1946, thành lập Khu 7, sau là Quân khu 7 (1975). Cùng ngày, thành lập Khu 9, sau là Quân khu 9 (1976).
Cuối tháng 11, đầu tháng 12 năm 1946, trước tình hình căng thẳng tại Mặt trận Hà Nội, Các cơ quan trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận và Bộ Tổng Chỉ huy di chuyển lên An toàn khu Việt Bắc giáp giới với Trung Quốc để lãnh đạo, tổ chức kháng chiến lâu dài. Các binh công xưởng, xí nghiệp, nhà máy, gần 63.000 nhân dân miền xuôi và hàng vạn tấn máy móc, nguyên vật liệu được vận chuyển, sơ tán lên Việt Bắc để vừa sản xuất vừa tiếp tục chiến đấu.
Ngày 18 tháng 12 năm 1946, thực dân Pháp gửi tối hậu thư cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đòi tước khí giới của lực lượng tự vệ và giành kiểm soát Thủ đô Hà Nội. Ngay trong ngày, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng tại Hà Đông, hạ quyết tâm phát động toàn quốc kháng chiến. Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy chủ trưởng mở cuộc tiến công vào các vị trí quân Pháp ở Hà Nội, Nam Định, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Vinh, Huế, Đà Nẵng... Ban Thường vụ Trung ương Đảng có dự đoán chắc chắn trong 24 giờ thực dân Pháp sẽ nổ súng và chỉ thị cho toàn quân và dân cả nước sẵn sàng chiến đấu. Đến chiều ngày 19 tháng 12 năm 1946, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy đại tướng Võ Nguyên Giáp ra lệnh cho bộ đội chủ lực và các lực lượng vũ trang: "Giờ chiến đấu đã đến". Cơ quan cơ yếu mật mã Bộ Tổng tham mưu truyền đi bản mật lệnh: "Chuyến hàng sẽ đến lúc 18 giờ ngày 21-12. Hàng mang mã hiệu A cộng hai, B trừ hai. Chú ý theo dõi đón hàng đúng giờ". Theo đó, quy ước "chuyến hàng sẽ đến" có nghĩa là tổng giao chiến bắt đầu. A là giờ cộng thêm hai, B là ngày trừ đi hai. Có nghĩa là: "Cuộc tổng giao chiến bắt đầu lúc 20 giờ ngày 19 tháng 12".
Ngày 4 tháng 2 năm 1947, thành lập Cục Quân giới (nay phát triển thành Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng, Viện Khoa học và Công nghệ Quân sự, Tổng cục Kỹ thuật, Bộ Quốc phòng). Cục trưởng là Trần Đại Nghĩa.
Đầu tháng 3 năm 1947, Chính phủ quyết định đổi tên Bộ Tổng Chỉ huy Quân đội Quốc gia thành Bộ Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia và Dân quân tự vệ, và thành lập các ban chỉ huy tỉnh đội, huyện đội, xã đội thuộc ủy ban kháng chiến các cấp. Ngày 20 tháng 3 năm 1947, thành lập Cục Quân báo, Bộ Tổng Tham mưu, sau là Tổng cục Tình báo (1995).
Ngày 1 tháng 5 năm 1947, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 47 quy định tổ chức của Bộ Tổng Chỉ huy gồm các cơ quan: Bộ Tổng Tham mưu, Cục Chính trị, Cục Tình báo và Văn phòng.
Tháng 7 năm 1947, Bộ Quốc phòng-Tổng Chỉ huy tách ra thành Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng Chỉ huy. Ngày 30 tháng 9 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 90 quy định mối quan hệ giữa Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng Chỉ huy. Theo đó, phương châm và kế hoạch về quân nhu, quân giới huấn luyện bộ đội, công binh, vô tuyến điện, hai bên cùng quyết định chung, Bộ Quốc phòng phụ trách thực hiện, Bộ Tổng chỉ huy phụ trách điều động sử dụng, trừ những trường hợp hai bên cùng sử dụng thì Tổng chỉ huy định, Quốc phòng y hiệp. Đứng đầu Bộ Tổng Chỉ huy Quân đội Quốc gia Việt Nam là Tổng Chỉ huy ngang hàng với Bộ trưởng về quyền hạn và danh vị và là thành viên trong Hội đồng Liên bộ.
Ngày 25 tháng 1 năm 1948, Chính phủ ra Sắc lệnh số 120-SL thành lập các liên khu trong cả nước để tăng cường chỉ đạo chiến tranh. Theo Sắc lệnh này, Khu 1 và khu 12 hợp nhất thành Liên khu 1; Khu 2, 3, 11 hợp nhất thành Liên khu 3; Khu 10 và khu 14 hợp nhất thành Liên khu 10; Khu 4 đổi tên thành Liên khu 4; khu 7, 8, 9 và đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn hợp nhất thành Liên khu Nam Bộ. Trong ngày 25 tháng 1 năm 1948, thành lập Cục Tổng Thanh tra.
Ngày 14 tháng 4 năm 1948, Bộ Tổng Chỉ huy Quân đội Quốc gia và dân quân tự vệ đổi tên thành Bộ Tổng Chỉ huy Quân đội Quốc gia và dân quân Việt Nam.Tháng 10 năm 1948, hợp nhất Bộ Tổng Chỉ huy Quân đội Quốc gia và dân quân Việt Nam với Bộ Quốc phòng thành Bộ Quốc phòng-Tổng Chỉ huy.
Ngày 9 tháng 3 năm 1949, thành lập Ban Nghiên cứu Không quân thuộc Bộ Tổng Tham mưu, sau là Ban Nghiên cứu Sân bay (năm 1955), Bộ Tư lệnh Phòng không (năm 1958), Cục Không quân thuộc Bộ Tổng Tham mưu (năm 1959), Quân chủng Phòng không-Không quân (năm 1963).
Ngày 10 tháng 3 năm 1949, thành lập Trường Quân y sĩ Việt Nam, sau là Đại học Quân y (năm 1966), Học viện Quân y (năm 1981).
Ngày 12 tháng 3 năm 1949, Chính phủ ra Sắc lệnh số 14-SL, đổi tên Bộ Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam thành Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam (hay còn gọi là Bộ Quốc phòng-Tổng Tư lệnh); các bộ chỉ huy Liên khu quân sự thành Bộ Tư lệnh Liên khu; Tổng chỉ huy gọi là Tổng Tư lệnh; Liên khu trưởng gọi là Tư lệnh Liên khu.
Ngày 18 tháng 6 năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 50/SL về tổ chức Bộ Quốc phòng thì Bộ Quốc phòng có: Văn phòng; Các Nha: Nha Quân giới, Nha Quân nhu và Nha Quân dược; Các cơ quan: Bộ Tổng Tham mưu, Cục Chính trị, Cục Dân quân Tự vệ, Cục Quân huấn, Cục Quân chính, Cục Quân pháp, Cục Tình báo, Cục Pháo binh, Cục Công binh, Cục Quân giới, Cục Quân nhu, Cục Quân y, Cục Thông tin liên lạc, Cục Vận tải. Đứng đầu các cục là Cục trưởng.
Trong Chiến tranh Đông Dương (1946 - 1954)
Ngày 11 tháng 7 năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 121 thành lập Tổng cục Chính trị và Tổng cục Cung cấp; quy định Bộ Quốc phòng-Tổng Tư lệnh gồm Bộ Tổng Tham mưu (gồm các Cục: Tác chiến, Quân báo, Dân quân, Quân huấn, Thông tin Liên lạc), Tổng cục Chính trị (gồm các Cục: Tổ chức, Tuyên huấn, Địch vận, Quân pháp, Nhà Xuất bản Vệ Quốc quân), Tổng cục Cung cấp (gồm các Cục: Quân lương, Quân y, Quân vụ, Quân giới, Quân trang, Vận tải), Đoàn Thanh tra và Văn phòng.
Ngày 13 tháng 7 năm 1950, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng-Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam đã ra Thông tư số 47/TT-A giải thích về tổ chức mới của Bộ Tổng tư lệnh. Thông tư có đoạn viết: "Để sự chỉ đạo chiến tranh được tập trung hơn nữa, để việc huy động mọi khả năng, mọi lực lượng cho tiền tuyến được nhanh chóng và chu đáo hơn nữa, tổ chức lại Bộ Tổng tư lệnh, thành lập Bộ Tổng tham mưu, hai Tổng cục, đoàn Thanh tra, Văn phòng Bộ Tổng tư lệnh…’’. Từ đây, bắt đầu có cấp Tổng cục bao gồm một số cục trong cơ quan Bộ. Thứ nhất là Bộ Tổng tham mưu gồm Văn phòng, Cục Tác chiến, Cục Quân báo, Cục Thông tin liên lạc, Cục Dân quân, Cục Quân huấn. Thứ hai là Tổng cục Chính trị gồm Văn phòng, Cục Tổ chức, Cục Tuyên huấn, Cục Quân pháp, Cục Địch vận, Nhà xuất bản Vệ quốc quân.Thứ ba là Tổng cục Cung cấp gồm Văn phòng, Cục Quân lương, Cục Quân y, Cục Quân vụ, Cục Vận tải, Cục Quân giới, Cục Quân trang, Phòng Quân khí.Thứ tư là Đoàn Thanh tra. Thứ năm là Văn phòng Bộ Tổng tư lệnh. Ngoài ra còn có Cục Pháo binh, Cục Công binh và quân hiệu (các trường quân sự) được Tổng tư lệnh uỷ quyền Tổng Tham mưu trưởng chỉ đạo.
Ngày 1 tháng 4 năm 1951, thành lập Quân y viện 108, sau là Viện Quân y 108 (1980), Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 (1995). Ngày 15 tháng 6 năm 1951, thành lập Trường Sĩ quan Hậu cần, sau sát nhấp vào Học viện Hậu cần (1974). Ngày 25 tháng 10 năm 1951, thành lập Trường Chính trị Trung cấp, mãi sau này là Học viện Chính trị (2008).
Đầu năm 1955, cơ quan Bộ Quốc phòng-Tổng tư lệnh được chấn chỉnh tổ chức và được gọi là cơ quan Tổng quân uỷ-Bộ Quốc phòng-Tổng tư lệnh. Trong văn bản "Mấy điều giải thích về chấn chỉnh tổ chức cơ quan Tổng quân uỷ" đề ngày 1 tháng 4 năm 1955, có đoạn viết: "Bộ máy chỉ đạo quân sự của Đảng gọi là Tổng quân uỷ, về chính quyền vẫn gọi là Bộ Quốc phòng-Tổng tư lệnh. Những cơ quan chính của Tổng quân uỷ vẫn có Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Cung cấp. Ngoài ra còn có một Văn phòng đồng thời là Văn phòng Tổng quân uỷ và Văn phòng Bộ Quốc phòng-Tổng tư lệnh…’’.
Văn bản đó còn nói đến một số điểm nữa như đổi tên Tổng cục Cung cấp thành Tổng cục Hậu cần, tách và thành lập thêm một số cơ quan trực thuộc Bộ hoặc trực thuộc các Tổng cục và hình thành các cơ quan: Một là Văn phòng Tổng quân uỷ-Bộ Quốc phòng-Tổng tư lệnh. Hai là Bộ Tổng tham mưu: Văn phòng, Cục Tác chiến, Cục Quân báo, Cục Thông tin liên lạc, Cục Quân lực, Cục Quân huấn, Cục Quản lý hành chính kinh tế, Phòng Giao thông quân sự, Phòng Cơ yếu, Phòng Đồ bản. Ba là Tổng cục Chính trị: Văn phòng, Cục Tổ chức, Cục Tuyên huấn, Cục Địch vận, Cục Bảo vệ, Cục Chính trị trực thuộc, Báo Quân đội nhân dân, Thể công, Văn công, Phòng Tài vụ. Bốn là Tổng cục Hậu cần: Bộ Tham mưu, Cục Chính trị, Cục Quân nhu, Cục Quân y, Cục Quản lý xe hơi máy kéo, Cục Quân giới, Phòng Quản lý doanh trại, Phòng Xăng dầu, Phòng Sản xuất trang dụng, các đoàn xe hơi, các đoàn thuyền, canô, báo Hậu cần, trường Hậu cần, Phòng Liên lạc biên giới. Năm là Các đơn vị trực thuộc khác: Cục Pháo binh, Cục Công binh, Cục Phòng không, Cục Hàng không, Cục Phòng thủ bờ biển, Cục Dân quân, Cục Tài vụ, Cục Quân khí, cơ quan quân pháp, trường Lục quân, trường Quân chính trung cấp, Toà soạn Quân chính tập san.
Ngày 22 tháng 2 năm 1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 221 về việc sáp nhập Khu Tả Ngạn với Liên khu 3 thành Liên khu 3. Ngày 7 tháng 5 năm 1955, thành lập Cục Phòng thủ bờ biển, sau là Cục Hải quân (1959), Quân chủng Hải quân (1963).
Ngày 24 tháng 9 năm 1955, Tổng quân uỷ đã ra Nghị quyết số 10/VP-TQU về cải tiến cách làm việc, trong đó có đoạn xác định vị trí, nhiệm vụ của các cơ quan giúp việc: "Đứng về phía chỉ đạo của Đảng về quân sự mà nói thì cơ quan thống nhất chỉ đạo toàn quân là Tổng quân uỷ, các cơ quan giúp việc là Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần. Tổng quân uỷ thông qua các cơ quan Tham mưu, Chính trị, Hậu cần mà thực hiện sự lãnh đạo của mình; ngược lại sự chỉ đạo công tác của các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần đối với đơn vị đều phải tập trung thống nhất vào chủ trương và kế hoạch chung của Tổng quân uỷ mà cơ quan giúp việc hàng ngày cho Tổng quân uỷ là Văn phòng Tổng quân uỷ…’’.
Trong Chiến tranh Việt Nam (1955 - 1975)
Ngày 10 tháng 4 năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 60/SL về việc thành lập Tổng cục Quân huấn trực thuộc Bộ Quốc phòng. Tổng cục Quân huấn có nhiệm vụ giúp Bộ Quốc phòng Tổng tư lệnh chỉ đạo công tác huấn luyện quân sự đối với cán bộ và chiến sĩ các binh chủng trong toàn quân, chỉ đạo công tác các nhà trường của quân đội và chỉ đạo công tác huấn luyện các lực lượng hậu bị.
Ngày 10 tháng 4 năm 1958, thành lập Cục Nghiên cứu điều lệnh và Khoa học Quân sự trực thuộc Tổng cục Quân huấn, sau là Cục Khoa học Công nghệ và Môi trường, Cục Khoa học Quân sự (2014). Cục Khoa học quân sự Bộ Quốc phòng có nhiệm vụ nghiên cứu, tham mưu giúp Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai công tác Khoa học-Công nghệ-Môi trường trong quân đội và thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực này trong toàn quân.
Từ năm 1955, Tổng Quân ủy đã giao cho Trường Sĩ quan Lục quân Việt Nam tổ chức tập huấn những nội dung cơ bản về hóa học, nguyên tử cho đội ngũ giáo viên của trường. Năm 1956, Bộ Quốc phòng đã thành lập Tổ nghiên cứu tác chiến dưới điều kiện vũ khí nguyên tử, hóa học ở Cục Quân huấn. Đây là tổ chức tiền thân, cơ quan chỉ đạo phòng hóa của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 17 tháng 3 năm 1958, Bộ Tổng Tham mưu ban hành Công văn số 173/BTTM, tổ chức các cơ quan trực thuộc Tổng cục Quân huấn trong đó có Phòng Hóa học - Nguyên tử nằm trong Cục Huấn luyện chiến đấu. Phòng Hóa học - Nguyên tử là cơ quan nghiệp vụ làm tham mưu cho Bộ, chỉ đạo huấn luyện Phòng Hóa học - Nguyên tử trong toàn quân; đồng thời phối hợp với các cơ quan, tổ chức, xây dựng một số cơ quan, đơn vị hóa học theo đề án đã được xác định. Ngày 19 tháng 4 năm 1958, Bộ Tổng Tham mưu ra Quyết định số 214/BTM, giao nhiệm vụ cho Trường Sĩ quan Lục quân tổ chức một tiểu đoàn hóa học trực thuộc lấy phiên hiệu là Tiểu đoàn 6. Đây là tiểu đoàn hóa học đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, có nhiệm vụ đào tạo hạ sĩ quan hóa học cho toàn quân, đảm nhiệm phòng hóa học hạt nhân và chiến đấu bằng vũ khí lửa; đồng thời, cùng ngày Bộ Quốc phòng đã quyết định thành lập 2 đại đội hóa học trực thuộc Sư đoàn Bộ binh 308 và Sư đoàn Bộ binh 320. Ngày 19 tháng 4 năm 1958, đánh dấu sự phát triển đầy đủ, yếu tố cần thiết cho sự ra đời Binh chủng Hóa học Quân đội nhân dân Việt Nam và được, Bộ Tổng Tham mưu quyết định lấy làm ngày truyền thống của Bộ đội Hóa học (1973). Ngày 9 tháng 5 năm 1966, theo Quyết định số 34/QĐ-QP, Phòng Hóa học - Nguyên tử được phát triển thành Cục Hóa học thuộc Bộ Tổng Tham mưu. Ngày 17 tháng 7 năm 1976, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã ký Quyết định số 224/QĐ-QP phát triển Cục Hóa học thành Binh chủng Hóa học (năm 1976).
Thực hiện Nghị quyết 58/NQ-TW của Bộ Chính trị, ngày 3 tháng 3 tháng 1959, Thủ tướng ra Nghị định 100/TTg thành lập lực Lượng Công an nhân dân vũ trang. Ngày 19 tháng 11 năm 1958, thành lập Lực lượng Cảnh vệ gồm Cảnh vệ Biên phòng và Cảnh vệ Nội địa. Ngày 10 tháng 10 năm 1979, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 22/NQ-TW, chuyển giao nhiệm vụ và Lực lượng Công an nhân dân vũ trang từ Bộ Nội vụ sang Bộ Quốc phòng. Ngày 31 tháng 5 năm 1988, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị số 41/CT-TW về việc chuyển giao Lực lượng Bộ đội Biên phòng từ Bộ Quốc phòng sang Bộ Nội vụ. Ngày 16 tháng 11 năm 1995, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 754/TTg chuyển Bộ đội biên phòng về trực thuộc Bộ Quốc phòng
Ngày 19 tháng 5 năm 1959, thành lập Đoàn 559, sau là Bộ Tư lệnh Đoàn 559 (1965), Bộ Tư lệnh Trường Sơn (1970), Binh đoàn 12 (1977)
Ngày 12 tháng 10 năm 1960, thành lập Cục Nghiên cứu Kỹ thuật (Viện Kỹ thuật Quân sự), nay là Viện Khoa học và Công nghệ Quân sự.
Ngày 27 tháng 8 năm 1961, thành lập Trường Quân chính sơ cấp Quân Giải phóng miền Nam. Ngày 10 tháng 10 năm 1975, Bộ Quốc phòng ký quyết định thành lập Trường Sĩ quan Lục quân 2 trên cơ sở Trường Lục quân tổng hợp H28, trực thuộc Bộ Quốc phòng, sau là Trường Đại học Nguyễn Huệ (2010).
Trong bối cảnh Hoa Kỳ ra sức phá hoại Hiệp định Genève, trực tiếp nhảy vào miền Nam Việt Nam, thiết lập thể chế chính trị thân Mỹ, áp đặt chính sách thực dân kiểu mới, xây dựng bộ máy bạo lực phản cách mạng và sử dụng bộ máy ấy để đàn áp khốc liệt phong trào cách mạng miền Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam không còn con đường nào khác phải sử dụng bạo lực cách mạng để trấn áp kẻ thù, thực hiện hoài bão lớn nhất của toàn dân tộc là hòa bình, thống nhất, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Từ phong trào cách mạng của quần chúng, hình thức đấu tranh vũ trang tái xuất hiện và cùng với nó là sự ra đời của các lực lượng vũ trang nhân dân ở miền Nam. Nhu cầu cần có một bộ chỉ huy quân sự thống nhất và tại chỗ để kịp thời chỉ đạo chỉ huy toàn thể các lực lượng vũ trang cách mạng tại chiến trường miền Nam đặt ra một cách khẩn bách. Năm 1961, để chỉ huy trực tiếp các lực lượng vũ trang cách mạng tại chiến trường Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Nam Tây Nguyên; Bộ Chính trị quyết định thành lập Bộ Tư lệnh các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam Việt Nam (gọi là Bộ Chỉ huy Miền). Sự ra đời của Bộ Chỉ huy Miền là một tất yếu khách quan, đáp ứng kịp thời yêu cầu của cách mạng miền Nam trong thời điểm chuyển sang chiến tranh cách mạng lúc bấy giờ. Đó là vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang và tiến hành đấu tranh vũ trang chống xâm lược.
Bộ Chỉ huy Miền là một cấp chỉ huy lớn của quân đội, cơ quan chỉ huy cao nhất các lực lượng vũ trang nhân dân ở B2. Bộ Chỉ huy Miền đặt dưới sự lãnh đạo chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, trực tiếp là Trung ương Cục và sự chỉ đạo chỉ huy của Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh". Kể từ khi thành lập cho đến lúc kết thúc nhiệm vụ, Bộ Chỉ huy Miền do các đồng chí sau đây làm Tư lệnh: Phạm Thái Bường (1961), Trần Nam Trung (1961 - 1962), Trần Văn Quang (1962 - 1964), Trần Văn Trà (1964 - 1967, 1973 - 1976), Hoàng Văn Thái (1967 - 1973); và Chính ủy là các đồng chí: Nguyễn Văn Linh (1961 - 1964), Nguyễn Chí Thanh (1964 - 1967), Phạm Hùng (1967 - 1976).
Ngày 28 tháng 5 năm 1964, Bộ Quốc phòng đã ra Quyết định số 62/QĐ-QP thành lập Cục Liên lạc Đối ngoại (Bộ Quốc phòng) để giúp Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng quản lý, chỉ đạo các hoạt động đối ngoại, sau đến ngày 4 tháng 9 năm 1989, đổi tên thành Cục Đối ngoại
Ngày 22 tháng 6 năm 1965, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 100/QĐ-QP thành lập Trung đoàn Xe tăng 203 và ra Quyết định số 101/QĐ-QP thành lập Bộ Tư lệnh Tăng thiết giáp. Nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh Tăng thiết giáp là lãnh đạo, chỉ huy, xây dựng và quản lý các đơn vị xe tăng, thiết giáp dự bị của Bộ và làm tham mưu cho Bộ về Binh chủng TTG. Sự ra đời của Binh chủng TTG đã đánh dấu bước phát triển mới của Bộ đội TTG và sự lớn mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam, thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, chủ trương đúng đắn của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh nhằm tăng cường sức mạnh của quân đội để có đủ khả năng làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, giải phóng miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế. Ngày 5 tháng 10 năm 1965 thành lập Binh chủng Tăng-Thiết giáp.
Ngày 8 tháng 8 năm 1966, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 146/CP thành lập Phân hiệu II Đại học Bách Khoa. Ngày 28 tháng 10 năm 1966, công bố quyết định thành lập Phân Hiệu II Đại học Bách Khoa đồng thời khai giảng khóa đào tạo 1. Ngày 18 tháng 6 năm 1968, Thủ tướng Chính phủ quyết định đổi tên "Phân hiệu II Đại học Bách khoa" thành trường Đại học Kỹ thuật Quân sự. Ngày 15 tháng 12 năm 1981, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Học viện Kỹ thuật Quân sự trên cơ sở trường Đại học Kỹ thuật Quân sự. Ngày 6 tháng 5 năm 1991, Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn trên cơ sở Học viện Kỹ thuật Quân sự với 2 nhiệm vụ đào tạo quân sự và dân sự
Ngày 17 tháng 3 năm 1967, thành lập Binh chủng Đặc công.
Ngày 3 tháng 7 năm 1971, thành lập Cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng
Sau khi Hiệp định Paris 1973 được ký kết, tình thế mới đặt ra vấn đề xây dựng các quân đoàn binh chủng hợp thành có sức cơ động cao, sức đột kích lớn, làm lực lượng quyết định trong các chiến dịch có ý nghĩa chiến lược. Chấp hành Nghị quyết của Bộ Chính trị, Ngày 24 tháng 10 năm 1973, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ký quyết định số 142/QĐ-QP về việc thành lập Quân đoàn 1. Thiếu tướng Lê Trọng Tấn, Phó Tổng Tham mưu trưởng được cử kiêm Tư lệnh Quân đoàn; Thiếu tướng Lê Quang Hòa, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị được cử kiêm Chính ủy Quân đoàn.
Ngày 17 tháng 5 năm 1974, Quân đoàn 2 được thành lập tại Ba Nang, Ba Lòng, Quảng Trị. Sự ra đời của Quân đoàn 2 thể hiện sinh động quy luật về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhiệm vụ chủ yếu của Quân đoàn là tham gia tổ chức các chiến dịch quy mô bằng sức mạnh hiệp đồng binh chủng, thực hiện những đòn tiêu diệt lớn lực lượng địch, phối hợp với các lực lượng tại chỗ và phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân giải phóng hoàn toàn miền Nam. Để thực hiện nhiệm vụ này, yêu cầu đặt ra đối với Quân đoàn là phải xây dựng sức mạnh chiến đấu tổng hợp, sức đột kích mạnh, tính cơ động cao, thành thạo tác chiến tập trung hiệp đồng quân, binh chủng.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ về tổ chức lực lượng, Quân đội nhân dân Việt Nam còn được trang bị một khối lượng lớn vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại. Các quân đoàn chủ lực cũng được thành lập. Công tác bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật, quản lý kỹ thuật và huấn luyện kỹ thuật để cán bộ, chiến sĩ làm chủ vũ khí trang bị kỹ thuật trong khai thác sử dụng đặt ra cho các cấp phải khẩn trương thực hiện. Lượng vũ khí trang bị kỹ thuật rất lớn được trang bị cho các đơn vị đòi hỏi phải tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo tiến hành bảo quản, bảo dưỡng, sửa chữa, cất giữ an toàn phục vụ cho chiến đấu. Trên tình hình thực tế đó cần phải có cơ quan quản lý, chỉ huy, chỉ đạo cấp chiến lược trực thuộc Bộ đảm trách công tác kỹ thuật quân sự để tham mưu đề xuất với Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng về công tác kỹ thuật. Vì vậy, Ngày 10 tháng 9 năm 1974, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 211/CP về việc thành lập Tổng cục Kỹ thuật trực thuộc Bộ Quốc phòng.
Ngày 20 tháng 3 năm 1975, thành lập Cục Vật tư trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu, sau là Cục Kế hoạch và Đầu tư (1998)
Ngay sau khi chiếm được Tây Nguyên, ngày 26 tháng 3 năm 1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ký quyết định số 54/QĐ-QĐ thành lập Quân đoàn 3 trực thuộc Bộ Quốc phòng. Quân đoàn 3 được thành lập có ý nghĩa rất quan trọng, đánh dấu sự ra đời của quân đoàn chủ lực cơ động thứ tư của Quân đội nhân dân Việt Nam. Theo quyết định của Bộ Quốc phòng, cơ cấu tổ chức của Quân đoàn 3 bao gồm: Bộ Tư lệnh, các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần và các đơn vị trực thuộc. Với thành phần là các đơn vị thuộc khối chủ lực B3 đang trong quá trình phát triển Chiến dịch Tây Nguyên, Quân đoàn 3 là một binh đoàn chủ lực binh chủng hợp thành hoàn chỉnh, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, ổn định, sức cơ động cao, hoả lực mạnh, có trình độ và kinh nghiệm tác chiến hiệp đồng binh chủng; có thể độc lập tiến hành một chiến dịch hoặc đảm nhiệm hướng chủ yếu trong đội hình chiến dịch lớn của cấp trên, làm lực lượng quyết định trong các chiến dịch có ý nghĩa chiến lược
Chấp hành nghị quyết của Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về tăng cường quân sự tiến tới thống nhất đất nước, tháng 10 năm 1973, Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng đề nghị Bộ Chính trị thành lập các quân đoàn chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam, ở Nam Bộ và Cực Nam Trung Bộ, từ đầu năm 1974, Trung ương Cục, Quân uỷ và Bộ Tư lệnh Miền đã chỉ đạo lập phương án tổ chức biên chế, dự thảo chức năng nhiệm vụ của một quân đoàn chủ lực trên chiến trường. Sau khi thông qua kế hoạch tổ chức biên chế, ngày 20 tháng 7 năm 1974, Phạm Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Cục chính thức công bố quyết định thành lập Quân đoàn 4 tại chiến khu Dương Minh Châu, miền Đông Nam Bộ. Với chức năng là quả đấm chủ lực mạnh, lực lượng cơ động của Bộ ở chiến trường B2, nhiệm vụ của Quân đoàn 4 là tiêu diệt quân địch, giải phóng nhân dân, làm nòng cốt cho lực lượng vũ trang 3 thứ quân, làm chỗ dựa vững chắc cho lực lượng đấu tranh chính trị của quần chúng, đảm nhận một hướng chiến lược, một khu vực chiến trường, mục tiêu cuối cùng là đánh chiếm Sài Gòn.
Ngày 26 tháng 5 năm 1975, thành lập Bệnh viện Trung ương Quân đội 175, trên cơ sở tiếp quản cơ sở vật chất, hạ tầng của Tổng y viện của chế độ Việt Nam Cộng hòa cũ và sáp nhập 3 bệnh viện: K116, K72, K59 và một số đội điều trị.
Ngày 29 tháng 8 năm 1975, Lễ khánh thành Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được tổ chức trọng thể tại Hội trường Ba Đình, các lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam đã vào Lăng viếng Bác. Hai chiến sĩ tiêu binh Nông Văn Thành người Tày và Nguyễn Văn Ri người Kinh được vinh dự làm nhiệm vụ trong phiên gác đầu tiên. Trước đây, thi hài Hồ Chí Minh được giữ gìn và bảo vệ trong một không gian hẹp, có điều kiện bảo đảm môi trường trong sạch, tinh khiết. Nay thi hài được giữ gìn trong một không gian rộng, hàng ngày có hàng nghìn lượt người đến viếng, rất khó khăn trong việc bảo đảm các thông số kỹ thuật, an ninh và công tác đón tiếp, tuyên truyền. Trước yêu cầu nhiệm vụ mới, ngày 28 tháng 12 năm 1975, Thường vụ Quân uỷ Trung ương ra Quyết định số 279/VP-QU thông qua việc thành lập Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh lấy phiên hiệu là Bộ Tư lệnh 969. Ngày 14 tháng 5 năm 1976, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 109/QĐ-QP thành lập Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, trực thuộc Bộ Quốc phòng.
Thời kì thống nhất
Ngày 14 tháng 1 năm 1976, thành lập Trường Sĩ quan Chính trị, sau là Trường Sĩ quan Chính trị Quân sự (1981), Trường Đại học Chính trị (2010).
Sau khi đất nước thống nhất, năm 1976 Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam chấm dứt hoạt động. Bộ Quốc phòng-Tổng Tư lệnh đổi tên thành Bộ Quốc phòng và giữ tên đó cho đến ngày nay.
Ngày 21 tháng 2 năm 1976, thành lập Học viện Quân sự cao cấp, sau đổi thành Học viện Quân sự cấp cao (năm 1981), sau là Học viện Quốc phòng (năm 1994)
Ngày 5 tháng 4 năm 1976, thành lập Tổng cục Xây dựng Kinh tế. Đến ngày 7 tháng 11 năm 1985 chuyển thành Tổng cục Kinh tế (nay là Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng).
Ngày 4 tháng 7 năm 1978, thành lập Bệnh viện Đông y Quân đội, sau là Viện Y học cổ truyền Quân đội
Ngày 7 tháng 3 năm 1979, thành lập Sư đoàn 319 trực thuộc Quân khu 3, sau là Tổng Công ty 319 trực thuộc Bộ Quốc phòng (2011)
Ngày 28 tháng 5 năm 1981, thành lập Viện Lịch sử Quân sự
Ngày 11 tháng 6 năm 1982, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 903/QP thành lập Binh đoàn 11 trực thuộc Bộ Quốc phòng. Sau là Đoàn 11 (5/1988), Công ty Xây dựng 11 (10/1989), Tổng công ty Xây dựng 11 (4/1991), và hiện nay là Tổng Công ty Thành An (năm 1996).
Ngày 20 tháng 2 năm 1985, thành lập Tổng Công ty 15 (hay là Binh đoàn 15)
Thời kì đổi mới
Ngày 17 tháng 9 năm 1987, thành lập Tổng Công ty Đầu tư Phát triển nhà và Đô thị.
Ngày 7 tháng 3 năm 1988, thành lập Trung tâm Nhiệt đới Việt-Nga.
Ngày 1 tháng 6 năm 1989, thành lập Tổng Công ty Điện tử Thiết bị thông tin, sau là Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội.
Ngày 19 tháng 7 năm 1989, thành lập Xí nghiệp 789 (nay là Tổng Công ty 789 - Bộ Quốc Phòng).
Ngày 1 tháng 9 năm 1989, thành lập Tổng Công ty Trực thăng Việt Nam (hay là Binh đoàn 18).
Ngày 16 tháng 11 năm 1989, thành lập Tổng Công ty Xây dựng Lũng Lô.
Ngày 11 tháng 1 năm 1990, thành lập Viện Chiến lược Quốc phòng.
Ngày 22 tháng 4 năm 1991, thành lập Tổng Công ty Thái Sơn
Ngày 10 tháng 8 năm 1991, thành lập Tổng Công ty Xuất nhập khẩu Tổng hợp Vạn Xuân (hay là VAXUCO)
Ngày 15 tháng 6 năm 1993, thành lập Phòng Quản lý Thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng, nay là Cục Thi hành án (2005).
Ngày 4 tháng 11 năm 1994, thành lập Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội.
Ngày 24 tháng 12 năm 1994, thành lập Tổng Công ty Đông Bắc
Ngày 28 tháng 8 năm 1998, thành lập Cục Cảnh sát biển. Sau là Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển (2013).
Ngày 8 tháng 12 năm 1998, thành lập Tổng Công ty 16 (nay là Binh đoàn 16).
Ngày 24 tháng 12 năm 1998, thành lập Cục Kinh tế.
Ngày 29 tháng 4 năm 1999, thành lập Viện Khoa học Xã hội Nhân văn Quân sự.
Hiện nay (2000 - nay)
Từ Thế kỷ 21 trở đi sự hợp tác hòa bình và phát triển vẫn là xu hướng chủ đạo của các quốc gia. Các nước sẽ tiếp tục tăng cường hợp tác trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực quốc phòng và an ninh. Các cấu trúc an ninh mới được dựa trên cơ chế hợp tác đa phương sẽ tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, tình hình thế giới, khu vực còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ, nhất là, tranh chấp chủ quyền trên các vùng biển, đảo; sự cạnh tranh ảnh hưởng địa chiến lược, địa chính trị giữa các nước lớn diễn ra ngày càng gay gắt; các diễn đàn quốc phòng-an ninh khu vực sẽ đan xen giữa hợp tác và đấu tranh của các bên. Ngoài Cục Đối ngoại của Bộ Quốc phòng ra, lĩnh vực quốc phòng trong nước và quốc tế trước yêu cầu trong thời đại mới cần phải có một cơ quan nghiên cứu chuyên sâu. Vì vậy, ngày 21 tháng 12 năm 2002, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ký Quyết định 189/2002/QĐ-BQP thành lập Viện Quan hệ Quốc tế về Quốc phòng nhằm nghiên cứu tình hình quốc phòng - an ninh của khu vực và quốc tế; tham mưu cho Bộ Quốc phòng về công tác đối ngoại quốc phòng, đồng thời trực tiếp tổ chức và tham gia các hội nghị, hội thảo, diễn đàn an ninh đa phương và đối thoại an ninh song phương trong khu vực và quốc tế.
Ngày 20 tháng 7 năm 2005, Bộ Chính trị thông qua Nghị quyết số 51-NQ/TW về tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Theo đó, ngoài cấp trưởng đứng đầu một đơn vị thì còn có Chính ủy, Chính trị viên (trước là cấp phó về chính trị). Theo đó ngày 21 tháng 11 năm 2011, Ban Bí thư ra Quy định số 50-QĐ/TW về Tổ chức cơ quan chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam nhằm xác định đúng vai trò, chức năng và hoàn thiện cơ chế thực hiện theo Nghị quyết 51/2005/Bộ Chính trị.
Trong hòa bình, yếu tố chính sách càng trở nên quan trọng. Chính sách phải được hiểu một cách đầy đủ là chế độ chính sách và cơ chế quản lý, tổ chức thực hiện các chính sách đó, bao gồm cả nguồn kinh phí bảo đảm thực hiện chính sách. Chính sách đúng cùng với giáo dục chính trị, tư tưởng tốt mới tạo thành động lực đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân và xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Vì vây, ngày 29 tháng 5 năm 2008 Bộ Quốc phòng đã thành lập cơ quan Bảo hiểm Xã hội Bộ Quốc phòng nhằm giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quản lý toàn bộ việc tổ chức bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong quân đội; đảm bảo các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động đang công tác trong quân đội và trước khi chuyển ra. Đây là việc làm theo đúng quan điểm của Đảng: coi mọi chính sách chính trị, kinh tế, xã hội đều lấy trung tâm là con người, vì con người và do con người phù hợp với sự phát triển mọi mặt của quân đội và đất nước trong giai đoạn mới.
Ngày 12 tháng 10 năm 2010, Bộ Quốc phòng tổ chức thành công Hội nghị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng các nước ASEAN Mở rộng (ADMM+) lần thứ nhất tại Hà Nội. Tham dự Hội nghị có Bộ trưởng Quốc phòng và Đại diện Bộ trưởng Quốc phòng 10 quốc gia thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á và 7 nước đối tác đối thoại của ASEAN (dưới đây gọi tắt là các nước "Cộng"), bao gồm Úc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, New Zealand, Nga, Hoa Kỳ và Tổng thư ký ASEAN.
Đây là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử ASEAN bởi ADMM+ là diễn đàn quốc phòng chính thức đầu tiên cấp bộ trưởng quốc phòng giữa ASEAN và các nước đối tác chủ chốt ngoài khu vực. Hội nghị khẳng định tầm quan trọng của việc giữ vững vai trò trung tâm của ASEAN trong tiến trình ADMM+ và nhấn mạnh rằng hợp tác trong khuôn khổ ADMM+ cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của ASEAN là tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, tham vấn, đồng thuận và với nhịp độ phù hợp với tất cả các nước thành viên. Hội nghị khẳng định ADMM+ là một bộ phận quan trọng của cấu trúc an ninh khu vực năng động, hiệu quả, mở và dung nạp. ADMM+ sẽ góp phần tăng cường hữu nghị, lòng tin và hiểu biết lẫn nhau thông qua đối thoại và hợp tác quốc phòng giữa các nước thành viên ADMM+.
Ngày 23 tháng 8 năm 2011, thành lập Tổng Công ty 36.
Ngày 4 tháng 6 năm 2012, trong buổi tiếp thân mật Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Leon Edward Panetta, Bộ trưởng Phùng Quang Thanh đề nghị: "Nếu được dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương, chúng tôi có nhu cầu mua một số loại vũ khí trang bị trước hết để sửa chữa, bảo quản, nâng cấp các loại vũ khí chúng tôi thu được trong chiến tranh. Sau đó, chúng tôi sẽ lựa chọn mua những loại trang bị vũ khí phù hợp yêu cầu hiện đại hóa quân đội của Việt Nam với giá cả cạnh tranh"
Ngày 19 tháng 12 năm 2013, Bộ Quốc phòng Việt Nam tổ chức lễ ra mắt Cổng Thông tin điện tử Bộ Quốc phòng có 2 phiên bản tiếng Anh và tiếng Việt.
Ngày 27 tháng 5 năm 2014, thành lập Trung tâm Gìn giữ Hòa bình Việt Nam. Đây là một việc làm thực tế để Quân đội, Chính phủ và nhân dân Việt Nam chứng minh bằng hành động về những cam kết hội nhập quốc tế toàn diện mà Đảng đã đề ra.
Ngày 21 tháng 10 năm 2014, tại Hà Nội đã diễn ra Đối thoại Chính sách Quốc phòng Việt Nam-Hoa Kỳ năm 2014. Hai bên trao đổi tình hình thế giới, khu vực cùng quan tâm và kiểm điểm lại kết quả đạt được trên 5 lĩnh vực được nêu trong Bản ghi nhớ về hợp tác quốc phòng song phương và thống nhất, trong thời gian qua, một số lĩnh vực có bước phát triển mới, nhất là các hoạt động hợp tác mang tính chất nhân đạo như tìm kiếm quân nhân mất tích (MIA); rà phá bom mìn, vật liệu nổ còn sót lại sau chiến tranh, tẩy rửa chất độc da cam/dioxin...
Ngày 16 tháng 1 năm 2015, tại thủ đô New Delhi (Ấn Độ) đã khai mạc Đối thoại chiến lược quốc phòng Ấn Độ - Việt Nam lần thứ 9. Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng dẫn đầu đoàn Việt Nam tham dự đối thoại. Hai bên đã trao đổi về tình hình quốc tế, khu vực và tiếp tục thống nhất rằng hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế chung của tất cả các quốc gia trong thời đại ngày nay, mọi tranh chấp, bất đồng cần được giải quyết thông qua đối thoại hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực.
Ngày 3 tháng 3 năm 2015, Bộ Quốc phòng Việt Nam tuyên bố, Việt Nam và Israel ký kết Bản Ghi nhớ Hợp tác Quốc phòng, nỗ lực thúc đẩy quan hệ song phương, tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực như hoạt động quân sự, chuyển nhượng công nghệ, hợp tác công nghiệp quân sự.
Ngày 18 tháng 3 năm 2015, Đoàn đại biểu quân sự cấp cao Việt Nam do Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dẫn đầu, đã kết thúc tốt đẹp chuyến đi dự Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN lần thứ 9 (ADMM-9) và dự khai mạc Triển lãm Hàng không-Hàng hải quốc tế Langkawi năm 2015 (LIMA 2015) tại Malaysia. Thông qua cơ chế ADMM, ASEAN muốn gửi đến cộng đồng quốc tế một hình ảnh ASEAN đoàn kết, đồng thuận và hợp tác có hiệu quả. Malaysia cam kết sẽ làm hết sức mình trong việc góp phần vào duy trì hòa bình, ổn định và an ninh trong khu vực theo các chuẩn mực quốc tế.
Ngày 27 tháng 3 năm 2015, Cổng Thông tin Điện tử Ngành Chính sách quân đội chính thức đi vào hoạt động nhằm góp phần tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, hậu phương Quân đội; chỉ đạo, hướng dẫn các hoạt động Công tác chính sách trong toàn quân; thực hiện từng bước các dịch vụ hành chính công trực tuyến nhằm công khai, minh bạch các chế độ, chính sách, quy trình, trách nhiệm tổ chức thực hiện của các cấp, các ngành; thông tin kịp thời hơn về lĩnh vực Công tác chính sách. Đồng thời, đây là trang tin điện tử của Văn phòng Ban chỉ đạo Quốc gia, là một trong những địa chỉ tiếp nhận, cung cấp thông tin về liệt sĩ, mộ liệt sĩ phục vụ cho thực hiện Đề án tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo của Ban chỉ đạo Quốc gia 1237.
Ngày 31 tháng 5 năm 2015, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ Ashton Carter thăm chính thức Bộ Quốc phòng Việt Nam, Bộ Tư lệnh Hải quân và Bộ Tư lệnh Vùng 1 Hải quân Nhân dân Việt Nam. Hai bên đã tiến hành hội đàm trên tinh thần hữu nghị, cởi mở, thẳng thắn và hiểu biết lẫn nhau. Hai bên đã trao đổi về quan hệ quốc phòng song phương và nhận thấy sự phát triển tích cực và ổn định trong quan hệ quốc phòng hai nước. Hoa Kỳ đã triển khai tương đối tích cực các chương trình khắc phục hậu quả chiến tranh, trao đổi đoàn; đối thoại, tham vấn; trao đổi kinh nghiệm trong lĩnh vực tìm kiếm cứu nạn, khắc phục thiên tai, tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc, an ninh biển; đào tạo; quân y; tham vấn lẫn nhau trên các diễn đàn đa phương, ADMM+ và các lĩnh vực khác mà hai bên có nhu cầu và khả năng.
Ngày 2 tháng 9 năm 2015, Bộ Quốc phòng đã tổ chức và phối hợp tốt với các cơ quan đơn vị của các ban ngành đoàn thể Trung ương tổ chức thành công Lễ mít tinh, diễu binh, diễu hành Kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2015) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2015) tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội. Với hơn 30.000 người tham gia trong suốt 3 tháng luyện tập, hợp luyện và tổng duyệt. Ban Chỉ đạo Bộ Quốc phòng về tổ chức các hoạt động Kỷ niệm diễu binh, diễu hành do Thượng tướng Nguyễn Thành Cung làm Trưởng ban Chỉ đạo, Trung tướng Nguyễn Quốc Khánh làm Phó ban Chỉ đạo đã tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ bảo đảm đúng tiến độ đề ra và đảm bảo an toàn trong toàn buổi lễ.
Thực hiện Quyết định số 1198/QĐ-TTg ngày 15/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ, chiều ngày 8 tháng 1 năm 2018 tại Hà Nội, Bộ Quốc phòng tổ chức Lễ công bố quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng. Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng là đơn vị đầu mối trực thuộc Bộ Quốc phòng, giúp Bộ Quốc phòng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước Việt Nam về bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng và công nghệ thông tin trong toàn quân.
Trong năm 2018 và năm 2019, Thực hiện Nghị quyết của Đảng về tinh giản biên chế, Bộ Quốc phòng đang tiến hành từng bước đổi mới, sắp xếp tổ chức các đơn vị quân đội. Theo đó, để cụ thể hóa công việc ở các lĩnh vực khác nhau, Bộ Quốc phòng đã xây dựng kế hoạch, đề án ở một số đơn vị để rút kinh nghiệm, sau đó triển khai trong toàn quân. Quân ủy Trung ương đã chỉ đạo sắp xếp 88 doanh nghiệp quân đội còn 17, giảm 71 doanh nghiệp. Số lượng sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên chức quốc phòng phải giải quyết chế độ là 16.000 người, chưa tính số lao động hợp đồng của các đơn vị. Đối với các cơ quan chiến lược, chiến dịch, Bộ cũng đã rà soát, điều chỉnh tổ chức, hợp nhất các phòng, cục có chức năng, nhiệm vụ tương đồng, phấn đấu đến năm 2021 giảm 10% quân số biên chế so với năm 2015. Bộ Quốc phòng cũng thực hiện cơ chế tự chủ về tài chính đối với 25 bệnh viện trong quân đội, từ bệnh viện Trung ương Quân đội 108 đến bệnh viện của các quân khu, quân đoàn, quân chủng. Với cách làm này, ngân sách nhà nước chi thường chuyên cho biên chế, tổ chức của bệnh viện quân đội sẽ giảm đáng kể. Bộ cũng giải thể 14 Lữ đoàn Công binh dự bị động viên thuộc bảy tổng công ty, gồm: 36, 319, Đông Bắc, Thái Sơn, xây dựng Lũng Lô, xây dựng Trường Sơn, Thành An; giải thể Ban Quản lý dự án 46, 47; sáu trung tâm dạy nghề - giới thiệu việc làm
Lực lượng Quốc phòng
Sách trắng không công bố con số lực lượng quốc phòng.
Theo Global Firepower - Bảng xếp hạng thực lực quân sự của các quốc gia trên thế giới thì tổng quân số lực lượng chính quy của Việt Nam tính đến năm 2013 là 412.000 người.
Lực lượng dự bị động viên cục bộ: 5.040.000 người.
Lực lượng dự bị động viên toàn quốc: 50.645.030 người.
Lực lượng phục vụ: 41.503.949 người.
Theo Cổng Thông tin Điện tử Bộ Quốc phòng thì tổng quân số lực lượng chính quy khoảng 450.000 người. Lực lượng dự bị khoảng 5 triệu người.
Theo thống kê tương đối từng đơn vị cho thấy tổng quân số Lực lượng theo biên chế là khoảng 1 triệu người gồm:
Khối cơ quan đầu não (Bộ Tổng tham mưu, các Tổng cục): 84.000;
Khối Quân chủng: 185.000;
Khối Quân khu: 245.000;
Khối Quân đoàn: 130.000;
Khối Binh chủng: 58.000;
Khối Học viện Nhà trường: 46.000;
Khối cơ quan chuyên môn: 15.350;
Khối Viện Trung tâm Nghiên cứu: 15.500;
Khối Doanh nghiệp Quân đội: 214.500
Quân đội nhân dân Việt Nam có 3 quân chủng (riêng Quân chủng Lục quân không thành lập bộ tư lệnh quân chủng mà do Bộ Quốc phòng trực tiếp quản lý) và 4 bộ tư lệnh độc lập gồm:
Ngân sách Quốc phòng
Bộ Quốc phòng Việt Nam không công bố con số chính xác về ngân sách quốc phòng. Bất cứ một quốc gia nào có chủ quyền cũng đều quan tâm xây dựng chiến lược quốc phòng. Việc phân bổ nguồn lực của đất nước cho lĩnh vực này là một tất yếu khách quan và tỷ lệ phân bổ giữa "súng và bơ" luôn là vấn đề được cân nhắc, tính toán kỹ lưỡng.
Ngân sách Quốc phòng của Việt Nam chủ yếu để bảo đảm đời sống bộ đội, bảo đảm hoạt động của công nghiệp quốc phòng, duy trì khả năng sẵn sàng chiến đấu của Quân đội nhân dân. Với khả năng kinh tế của Việt Nam còn thấp, thu nhập bình quân đầu người chưa cao, đang ưu tiên đầu tư cho thực hiện chính sách xã hội, xoá đói, giảm nghèo, nên ngân sách quốc phòng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu và "cần, kiệm" vẫn là kim chỉ nam hành động.
Năm 2014, Ngân sách chi cho lĩnh vực sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính 704.400 tỷ đồng. Còn ngân sách cụ thể chi cho Quốc phòng thì vẫn là điều tuyệt mật
Báo cáo của ICD Research cho biết, theo thống kê, ngân sách quốc phòng Việt Nam trong năm 2011 là 3 tỷ USD, dự kiến sẽ đạt khoảng 7 tỷ USD vào năm 2015 (tăng 2 tỷ USD). Hiện tại là khoảng 19,13%, trong giai đoạn dự báo sẽ tăng trưởng ở tốc độ CAGR 14,32%. Sự tăng trưởng chi tiêu quốc phòng này là phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế "khá ổn định" của Việt Nam. Trong suốt giai đoạn vừa qua, Việt Nam đã phân bổ 31% ngân sách quốc phòng cho đầu tư ngành công nghiệp – quốc phòng và 69% để mua các trang thiết bị vũ khí của nước ngoài. Tuy nhiên, trong thời kỳ dự báo 2011-2016, tổng ngân sách quốc phòng được đầu tư trong nước sẽ tăng trung bình lên tới con số 35%, tức là Việt Nam sẽ chú trọng nhiều hơn cho ngành quốc phòng trong nước.
Sách trắng quốc phòng
Nhằm mục đích bày tỏ quan điểm của Việt Nam về những vấn đề an ninh mới của khu vực và thế giới, Bộ Quốc phòng Việt Nam công bố sách trắng về quốc phòng của Việt Nam. Sách trắng lần thứ nhất mang tên "Việt Nam củng cố quốc phòng bảo vệ Tổ quốc" vào năm 1998. Gồm 3 phần: Vì hòa bình, độc lập và phát triển, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh; Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh.
Sách trắng lần hai vào ngày 9 tháng 12 năm 2004 với tên gọi là "Quốc phòng Việt Nam những năm đầu của thế kỷ XXI", được xuất bản bằng hai thứ tiếng Việt và tiếng Anh, gồm 3 phần chính: Chính sách quốc phòng Việt Nam, Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Với chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền và lợi ích của các quốc gia khác theo những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế, chủ trương không tham gia bất kỳ liên minh quân sự nào; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình, không sử dụng vũ lực hay đe doạ sử dụng vũ lực đối với nước khác. Ngoài ra Việt Nam khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi đối với vùng biển, đảo của Việt Nam trên Biển Đông.
Sách trắng lần thứ ba vào ngày 8 tháng 12 năm 2009 với tên gọi là "Sách trắng Quốc phòng năm 2009" được xuất bản bằng hai thứ tiếng Việt và tiếng Anh với chủ trương duy trì và phát triển quốc phòng đủ mạnh, kiên trì chính sách quốc phòng mang tính chất hoà bình, tự vệ mà trọng tâm là xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Việt Nam xây dựng quân đội "của dân, do dân, vì dân", có tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật nghiêm, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị hùng hậu, được huấn luyện và trang bị các loại vũ khí ngày càng hiện đại, đủ khả năng bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, các lợi ích quốc gia và chế độ xã hội chủ nghĩa. Việt Nam đẩy mạnh hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, tìm kiếm giải pháp lâu dài cho các tranh chấp lãnh thổ và các tranh chấp khác bằng các biện pháp hoà bình, góp phần xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định và thịnh vượng. Việc xuất bản Sách trắng năm 2009 thể hiện mong muốn và quyết tâm của Việt Nam trong việc phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác, bình đẳng với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Hiệp định về Biên giới
Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc
Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc
Hiệp định biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc
Hiệp định phân định biên giới trên bộ giữa Việt Nam và Campuchia
Hiệp định vùng nước lịch sử giữa Việt Nam và Campuchia
Hiệp định phân định vùng biển giữa Việt Nam và Thái Lan
Hiệp định phân định ranh giới thềm lục địa giữa Việt Nam và Indonesia
Hiệp định phân định biên giới trên bộ giữa Việt Nam và Lào
Thỏa thuận hợp tác thăm dò và khai thác chung vùng chồng lấn giữa Việt Nam và Malaysia
Lãnh đạo hiện nay
Tổ chức Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam và Bộ Quốc phòng Việt Nam trực tiếp, tuyệt đối. Đứng đầu là Quân ủy Trung ương nghiên cứu đề xuất để Ban Chấp hành Trung ương quyết định những vấn đề về đường lối, nhiệm vụ quân sự và quốc phòng; lãnh đạo mọi mặt trong Quân đội. Tổng cục Chính trị đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị trong toàn quân, hoạt động dưới sự lãnh đạo của Ban Bí thư và trực tiếp, thường xuyên của Quân ủy Trung ương.
Dưới Quân ủy Trung ương là Đảng bộ các Tổng cục, Quân khu, Cục trực thuộc Bộ và các đơn vị tương đương Quân đoàn trực thuộc Bộ. Đứng đầu là Bí thư thường là Chính ủy đảm nhiệm; Phó Bí thư là cấp trưởng đơn vị đó đảm nhiệm. Tùy theo số lượng đơn vị và quân số mà phân chia thành Đảng bộ cấp 2, cấp 3 và cấp cơ sở. Và đơn vị trực thuộc cấp cơ sở (tương đương Đại đội) thường được gọi là Chi bộ, đó là cấp tổ chức Đảng nhỏ nhất trong Quân đội.
Tổ chức chính quyền
1945-1950
Từ khi thành lập Bộ Quốc phòng, quy định trong Sắc lệnh của Chủ tịch nước, người chỉ huy cao nhất của Bộ Quốc phòng là Bộ trưởng, tiếp theo là Thứ trưởng. Trong những năm 1946, 1947, 1948, Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng Chỉ huy hợp nhất sau đó lại tách ra rồi lại hợp nhất thì người chỉ huy cao nhất Bộ Quốc phòng-Tổng Chỉ huy là Tổng Tư lệnh kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Giúp việc cho Bộ trưởng có các Thứ trưởng, Tổng Tham mưu trưởng.
Sau khi hợp nhất giữa Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng Chỉ huy thì tổ chức của Bộ Quốc phòng-Tổng Chỉ huy thống nhất gồm Bộ Tổng Tham mưu đứng đầu là Tổng Tham mưu trưởng, Cục Chính trị và các Cục chuyên ngành trực thuộc Bộ.
Trong thời kỳ này, mô hình tổ chức của Bộ Quốc phòng còn sơ khai, thể hiện định hướng cho sự phát triển lớn mạnh hơn về tổ chức sau này. Các cơ quan, đơn vị mới được thành lập là tiền thân cho sự phát triển của các cơ quan, đơn vị sau này. Bộ Quốc phòng được xây dựng theo mô hình tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, cơ chế ngành dọc chuyên môn, chịu sự chỉ huy trực tiếp của thủ trưởng đơn vị cấp mình và sự chỉ huy gián tiếp của thủ trưởng đơn vị cấp trên theo chuyên ngành.
1950-1975
Sau khi Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng Tư lệnh hợp nhất thành Bộ Quốc phòng-Tổng Tư lệnh, người chỉ huy cao nhất là Tổng Tư lệnh kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Hai cơ quan Bộ Tổng Tham mưu và Tổng cục Chính trị là cơ quan đầu ngành về công tác Tham mưu và Chính trị, đứng đầu hai cơ quan là Tổng Tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.
1975-2000
Sau khi thống nhất đất nước, năm 1976, Bộ Quốc phòng-Tổng Tư lệnh chấm dứt hoạt động chỉ còn lại Bộ Quốc phòng. Khi đó người chỉ huy cao nhất của Bộ Quốc phòng là Bộ trưởng là người quân sự và là Ủy viên Bộ Chính trị.
Hiện nay
Với chủ trương tinh giản biên chế gọn nhẹ của Chính phủ. Từ những năm 2000 đến nay, tổ chức của Bộ Quốc phòng chuyển đổi theo hướng giảm số lượng nhân sự, nâng cao chất lượng, tinh nhuệ, gọn nhẹ, từng bước hiện đại hóa, đáp ứng đủ nhu cầu nhiệm vụ bảo vệ Quốc gia và Quốc tế. Tổ chức của Bộ Quốc phòng theo ngành dọc về cơ quan chuyên môn, có chỉ huy trực tiếp và gián tiếp theo ngành dọc. Người chỉ huy cao nhất Bộ Quốc phòng vẫn là Bộ trưởng đồng thời là Ủy viên Hội đồng Quốc phòng và An ninh, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, giúp việc cho Bộ trưởng có các Thứ trưởng, Tổng Tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.
Về tổ chức gồm Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, các Tổng cục, Cục chức năng, quân khu, quân chủng, binh chủng, quân đoàn, Học viện nhà trường và các đơn vị kinh tế trực thuộc Bộ.
Sơ đồ tổ chức
Tổ chức chính quyền hiện nay
Tổ chức quốc tế tham gia
Hội nghị Tư lệnh Lực lượng Quốc phòng các nước ASEAN (ACDFIM)
Khu Kinh tế Quốc phòng
Kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh (QP-AN) vừa là chủ trương, đường lối, quan điểm, vừa là giải pháp để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (BVTQ). Qua mỗi thời kỳ, nhận thức và tổ chức thực hiện nội dung kết hợp đó đều được bổ sung, phát triển phù hợp với yêu cầu mới. Đây là chủ trương chiến lược hết sức quan trọng, được thể hiện nhất quán và xuyên suốt trong các văn kiện Đại hội của Đảng. Trong quá trình xây dựng, mỗi lĩnh vực kinh tế, xã hội, QP-AN đều có mục tiêu riêng. Nhưng khi kết hợp với nhau thì cần phải có sự gắn kết hài hòa các mục tiêu cụ thể để phục vụ cho mục tiêu chung.
Qua đó, có thể khái quát mục tiêu kết hợp kinh tế với QP-AN trong thời kỳ Hội nhập quốc tế là: xây dựng kinh tế phát triển nhanh, bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Nắm vững mục tiêu chung đó là cơ sở để điều chỉnh đúng mức mối quan hệ giữa các lĩnh vực trong quá trình thực hiện sự kết hợp. Hơn nữa, cần nhận rõ những yếu tố tác động mới đối với quá trình thực hiện kết hợp kinh tế với QP-AN. Đó là tác động của toàn cầu hóa dẫn đến ảnh hưởng ngày càng lớn của kinh tế thế giới đối với nền kinh tế nước ta; là mối quan hệ giữa cạnh tranh với hợp tác và phát triển trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; là tốc độ gia tăng đầu tư kinh tế, xâm nhập thị trường của các nước vào nước ta; là sự tồn tại và phát triển của các thành phần kinh tế trong nước liên quan đến đối tượng kết hợp; là tính chất đa dạng, đan xen của nhiệm vụ QP-AN, đối ngoại trong mối quan hệ kết hợp. Và cần phải kết hợp toàn diện, nhưng cần tập trung vào trọng điểm.
Hiện nay, các khu kinh tế, quốc phòng này không những mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội cao mà còn góp phần xây dựng buôn làng có thế trận phòng thủ vững chắc.
Tùy viên Quốc phòng
Tính đến tháng 3 năm 2009, có hơn 20 quốc gia mà Việt Nam cử Tùy viên Quốc phòng hoạt động tại đó cụ thể như sau:
Bộ trưởng qua các thời kỳ
Bài chi tiết: Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (Việt Nam)
Thứ trưởng qua các thời kỳ
Bài chi tiết: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (Việt Nam) |
Aleksandr Sergeyevich Yakovlev (tiếng Nga: Алекса́ндр Серге́евич Я́ковлев; 1 tháng 4 năm 1906 [19 tháng 3 lịch cũ] – 22 tháng 8 năm 1989) là nhà thiết kế máy bay của Liên Xô, Thượng tướng không quân (1946), viện sĩ viện hàn lâm Liên Xô (1976), 2 lần anh hùng lao động (1940, 1957), 6 lần được tặng giải thưởng Stalin (1941, 1942, 1943, 1946, 1947, 1948), giải thưởng Lê Nin (1971) và giải thưởng quốc gia Liên Xô (1977). |
Tư Mã Quang (Phồn thể: 司馬光; Giản thể: 司马光; bính âm: Sima Guang; Wade-Giles: Szuma Kuang; 1019–1086), tự Quân Thật 君實, hiệu Vu Tẩu 迂叟, là một nhà sử học, học giả Trung Quốc, thừa tướng thời nhà Tống. Ông là tác giả của bộ sách sử nổi tiếng Tư trị thông giám.
Là vị quan thanh liêm chính trực, có đóng góp to lớn cho triều đình cũng như nền sử học Trung Hoa, ông là 1 trong 5 vị quan văn thời Nhà Tống được thờ tại Lịch đại Đế Vương miếu (历代帝王庙) được nhà Minh, nhà Thanh xây dựng, trong đó thờ những vị quan văn, võ tướng được đánh giá là tài năng và tận trung nhất qua các triều đại.
Thân thế
Ông sinh năm 1019 tại nơi hiện nay là huyện Vận Thành, tỉnh Sơn Tây trong một gia đình giàu có. Cha ông là Tư Mã Trì từng làm các chức quan huyện, Chuyển vận sứ, Phó sứ tam ty, Lang trung thượng thư Lại bộ, Thiên chương các đãi chế dưới thời Tống Chân Tông và Tống Nhân Tông, nổi tiếng là người trung thực và nhân hậu. Ông chính là hậu duệ của em trai Tư Mã Ý, người đã từng có tiếng tăm dưới trướng Tào Tháo, Tư Mã Phu.
Anh Tư Mã Quang là Tư Mã Đán được nối chức cha, trong quan trường trải qua 17 chức vụ khác nhau, làm đến chức Thái trung đại phu, sống khá đạm bạc.
Thời trẻ
Tư Mã Quang được sự giáo dục nghiêm khắc từ nhỏ của cha và anh. Ông theo học Bàng Tịch - bạn của Tư Mã Trì. Sau này Tư Mã Quang cho rằng nếu không có sự dạy dỗ của Bàng Tịch thì ông không có được những thành đạt trong đời.
Ông đỗ đầu kỳ thi tiến sĩ khi mới 20 tuổi, nhưng khi mới làm quan thì cha và mẹ ông nối nhau qua đời, vì vậy ông phải về chịu tang trong 5 năm.
Sau đó, Tư Mã Quang được Bàng Tịch ra sức tiến cử và truyền đạt tư tưởng tiến thủ trên quan trường. Ông có cơ hội đọc sách làm sử. Ít lâu sau Bàng Tịch mất, ông thờ vợ Bàng Tịch như mẹ mình và coi các con Bàng Tịch như anh em trong nhà.
Quan trường
Thời Tống Nhân Tông, Tư Mã Quang lần lượt trải qua các chức quan địa phương và Điện trung thừa, Kiểm khảo sử quán, Khởi cư xá nhân, Đồng tri gián viện, Ngự sử trung thừa, Tri chế cáo, Hàn lâm học kiêm thị giảng… Trong các vị trí, ông đều làm tốt công việc và được vua Tống trọng dụng.
Trong các vấn đề trọng đại thời vua Nhân Tông và Anh Tông, ông đều có ý kiến và giải pháp riêng, dần dần trở thành nhân vật quan trọng trên chính trường. Ông luôn giữ tư tưởng truyền thống bảo thủ, vì vậy ông trở thành nhân vật trung tâm của phe bảo thủ chống lại những biến pháp cách tân của Vương An Thạch.
Do tư tưởng giữa ông và Vương An Thạch khác nhau, năm 1070, ông từ chức, rời kinh thành đi Vĩnh Hưng. Sở dĩ Tư Mã Quang phản đối biến pháp của Vương An Thạch vì những ký do:
Ông không đồng tình với cách dùng người của Vương An Thạch. An Thạch phế bỏ hết các lão thần, trọng thần trong triều mà thăng chức, bổ nhiệm những người mà Tư Mã Quang cho là "tiểu nhân gian tà".
Pháp luật không đủ vững chắc, chỉ trong vòng 2 năm mà Vương An Thạch ban bố hàng loạt điều luật mới khiến nhân dân không theo kịp.
Những cải cách về nông nghiệp và thương mại ở nông thôn, Tư Mã Quang cho rằng làm gánh nặng với nông dân càng nặng thêm.
Năm 1071, ông đến Tây Kinh Lạc Dương nhưng không nhận chức quan nào, không tham gia đàm luận chính sự mà chỉ tập trung viết sử. Ông được triều đình cho phép chở bản thảo sách Tư trị thông giám tiếp tục về đây biên soạn.
Biến pháp của Vương An Thạch đã làm nảy sinh sự bất hòa trong triều đình. Năm 1076, biến pháp rơi vào bế tắc, Vương An Thạch phải xin từ chức. Cuối cùng Tống Thần Tông lại nhờ đến sự giúp đỡ của Tư Mã Quang.
Năm 1085, Tống Thần Tông qua đời, Tư Mã Quang về kinh dự tang lễ hoàng đế. Sau đó ông trở về Lạc Dương. Thái hậu bèn sai người đến Lạc Dương đón ông về triều, phong chức Môn hạ thị lang (phụ tá cho Thừa tướng) nhưng thực tế là chủ trì mọi việc trong triều.
Tháng 2 nhuận năm 1086, Tư Mã Quang được phong làm thừa tướng. Lúc đó ông đã 67 tuổi, sức khỏe đã yếu. Tuy nhiên, ông vẫn cố đảm đương công việc. Tư Mã Quang phế bỏ những điều luật mới mà Vương An Thạch đề ra vì ông coi đó là "hại dân hại nước". Trong quá trình này, ông phạm một số sai lầm như bỏ luôn chính sách miễn nô dịch của Vương An Thạch, không nghe theo những lời khuyên tích cực của Tô Đông Pha và một số kiến nghị khác.
Ngày 1 tháng 9 âm lịch năm 1086, Tư Mã Quang qua đời, thọ 67 tuổi.
Soạn Tư trị thông giám
Đóng góp lớn nhất trong lĩnh vực sử học của Tư Mã Quang là bộ sách sử Tư trị thông giám. Thời đó, các bộ sử chính yếu của Trung Hoa đều viết theo thể kỷ truyện (viết theo từng nhân vật riêng), không có một bộ thông sử hoàn chỉnh nào theo lối biên niên sử (viết theo dòng thời gian), khiến cho người đọc cảm thấy khó nắm bắt các diễn biến, sự kiện. Mặt khác, ông mong muốn vua Tống nghiên cứu bộ sách để tu chỉnh bản thân, rút ra những bài học xương máu từ sự thịnh suy của các triều đại trước để giữ vừng cơ nghiệp nhà Tống.
Năm 1064, ông dâng lên Tống Anh Tông bộ sách năm tập Biểu biên niên, tóm tắt các sự kiện lịch sử Trung Quốc từ năm 403 TCN tới năm 959, đây có thể được coi là lần giới thiệu đầu tiên của cuốn sách và thỉnh cầu được bảo trợ thực hiện công trình. Năm khởi đầu của bộ sách được lựa chọn là năm vị vua nhà Đông Chu công nhận việc phân chia nước Tấn thời Chiến Quốc giữa ba họ lớn là Hàn, Triệu, Ngụy trong nước này. Tư Mã Quang coi đó sự thừa nhận việc bề tôi tiếm đoạt ngôi vị, đánh dấu sự khởi đầu của thời Chiến Quốc đẫm máu kinh hoàng và mang ý nghĩa quyết định dẫn tới sự chấm dứt nhà Đông Chu và sự thành lập triều đại mới là Nhà Tần.
Năm 1066, ông dâng một bản khác đầy đủ và nhiều chi tiết hơn Thông chí, gồm tám tập chép lại theo lối sử biên niên giai đoạn từ năm 403 TCN tới năm 207 TCN, và lần này nhà vua đã ra chỉ dụ cho phép ông tiếp tục công việc. Ông được quyền sử dụng thư viện hoàng gia, và triều đình cung cấp mọi chi phí giấy, bút và các vật dụng khác liên quan. Ông cũng được cấp tiền trả cho những phụ tá giúp công việc tìm kiếm tài liệu, gồm cả những nhà sử học giàu kinh nghiệm như Lưu Ban, Lưu Thứ và Phạm Tổ Vũ.
Đầu năm sau, 1067, Anh Tông qua đời, vào tháng 11, ông trình bày trước triều đình và hoàng đế mới Tống Thần Tông về công trình đang tiến hành của mình. Hoàng đế không chỉ xác nhận sự quan tâm tới bộ sử đó mà còn đề xuất đổi tên cuốn sách từ Thông chí thành một cái tên ấn tượng và trang trọng hơn Tư trị thông giám và giao cho ông tiếp tục soạn sách.
Tư trị thông giám không chỉ đề cập các sự kiện lịch sử mà còn có những bình luận, kiến giải về các sự kiện đó. Tư Mã Quang viết Tư trị thông giám nhằm đích củng cố sự thống trị của nhà Tống nên nội dung và hình thức công trình sử học này mang màu sắc chính trị rõ nét. Căn cứ vào đức độ và tài năng của các bậc vua chúa, Tư Mã Quang chia thành năm loại: sáng nghiệp, thủ thành, lăng di, trung hưng và loạn vong. Những vua sáng nghiệp được đề cao như Hán Cao Tổ, Hán Quang Vũ Đế, Tùy Văn Đế, Đường Thái Tông… Những ông vua thủ thành (giữ được sự thịnh trị) như Hán Văn Đế, Hán Cảnh Đế… cũng được khen ngợi. Loại vua kém nhất là loại "loạn vong" (cai trị kém làm mất nước) như Trần Hậu Chủ, Tùy Dạng Đế…
Được Tống Thần Tông ủng hộ, cùng với những tài liệu mà ông sưu tầm, ông có tổng cộng gần 4 vạn đầu sách tham khảo để viết Tư trị thông giám. Cuốn sách được hoàn thành vào năm 1084 sau 19 năm. Tựa đề Thông giám ở đây có thể được hiểu được hiểu là đề cập tới một tác phẩm có tính chất tham khảo và hướng dẫn; vì thế hoàng đế đã chấp nhận tác phẩm trong lĩnh vực khoa học lịch sử và những ứng dụng của nó trong công việc triều đình, và trong nhiều thập kỷ cai trị của mình vị hoàng đế luôn để tâm tới công trình đó.
Sau 19 năm miệt mài nghiên cứu, có thể nói là Tư Mã Quang đã dốc tận tâm lực cho bộ sách. Cuối năm 1084, dù trời mùa đông đầy tuyết, Tư Mã Quang vẫn đóng sách vào 10 chiếc hòm được trang trí chạm trổ lộng lẫy và thân chinh áp tải từ Lạc Dương đến Biện Kinh dâng lên Tống Thần Tông. Khi Tư trị thông giám được mang in ấn nhân bản chưa đầy 1 tháng (1086) thì Tư Mã Quang cũng qua đời vì lao lực
Tư trị thông giám có ảnh hưởng sâu rộng đến lịch sử sử học Trung Quốc, thành công được đánh giá ngang với Sử ký Tư Mã Thiên. Nhà sử học đời nhà Thanh là Vương Minh Thịnh đã đánh giá đây là một cuốn sách "không thể thiếu được trong trời đất, tất cả các học giả đều không thể không đọc"
Câu nói nổi tiếng
Trong cuốn “Gia Huấn” của Tư Mã Quang có câu rằng:
“Tích vàng để lại cho con cháu, con cháu chưa chắc giữ được. Tích sách để lại cho con cháu, con cháu chưa chắc đọc được. Chi bằng lặng lẽ tích đức để làm kế lâu dài cho con cháu thì hơn cả”. |
Không gian công cộng là không gian phục vụ chung cho nhu cầu của nhiều người. Có hai thể loại không gian công cộng chính:
Không gian "vật thể". Ví dụ: quảng trường, đường phố, công viên...
Không gian "phi vật thể". Ví dụ: các diễn đàn trên Internet, các trang blog, các trang mạng xã hội hay các cuộc đối thoại tranh luận trực tuyến...
Sự hình thành, phát triển, và thay đổi của không gian công cộng phụ thuộc vào sự phát triển và đặc điểm của đời sống công cộng, vốn không giống nhau giữa các nền văn hóa khác nhau và ở các thời điểm khác nhau.
Trong không gian công cộng, người sử dụng vừa là người quan sát, lại vừa là người tham gia các hoạt động chung. Hình thức hay hoạt động của mỗi người trong không gian công cộng thường gây ảnh hưởng tới những người khác, vì thế, không gian công cộng được coi là nơi diễn ra các xung đột xã hội cũng như là nơi của các hòa giải xã hội giữa các tổ chức cá nhân.
Khái niệm, đặc điểm, cũng như ý nghĩa đối với xã hội của không gian công cộng đã được rất nhiều học giả nghiên cứu. Phần viết dưới đây tập trung vào không gian công cộng "vật thể" trong quy hoạch đô thị.
Việt Nam
Hiện chưa có nhiều nghiên cứu về không gian công cộng đặc thù ở Việt Nam.
Giống như nhiều thành phố đang phát triển ở châu Á khác, không gian công cộng ở các thành phố Việt Nam hiện rất thiếu, không có tổ chức, bị thương mại hóa và lấn chiếm trái phép. Do nhu cầu về không gian sinh hoạt, sản xuất, buôn bán của người dân đô thị hiện quá lớn, quỹ đất ít ỏi còn lại trong nhiều đô thị lớn ở Việt Nam không có khả năng mở rộng. Quá trình đô thị hóa hiện đang mở rộng các thành phố nhưng vẫn chưa tạo được các không gian công cộng đáp ứng nhu cầu xã hội.
Xu hướng tư nhân hóa các không gian công cộng (khuyến khích tư nhân tham gia phát triển hệ thống không gian công cộng) có hiệu quả kinh tế ở nhiều nước nhưng có nguy cơ tiềm tàng gây phân hóa xã hội.
Phát triển không gian công cộng như thế nào cho phù hợp với thời điểm hiện tại vì lợi ích tương lai của toàn xã hội vẫn là một thách thức lớn đối với Việt Nam. |
Phạm Văn Trà (sinh ngày 19 tháng 8 năm 1935, xã Phù Lãng, thị xã Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) là một chính khách Việt Nam, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam (năm 1976), ông mang quân hàm Đại tướng và từng là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam từ năm 1997 đến năm 2006, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (1995 - 1997), Ủy viên Bộ Chính trị khóa VIII, IX.
Tiểu sử
Năm 1953, 18 tuổi, Phạm Văn Trà tham gia Quân đội nhân dân Việt Nam, phục vụ với vai trò là lính thông tin.
Năm 1956, ông là đảng viên của đảng Lao động Việt Nam.
Năm 1964, ông là một trong những người chỉ huy của lực lượng đầu tiên tiếp viện cho chiến trường U Minh. Năm 1964 đến hết chiến tranh, ông là một sĩ quan Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam của lực lượng vũ trang miền Tây.
Năm 1973, ông là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 1 Quân khu 9, dưới quyền Đại tá Lê Đức Anh.
Từ tháng 12 năm 1975 đến năm 1977, ông lần lượt giữ chức Tham mưu trưởng Sư đoàn 4, rồi Sư đoàn phó kiêm Tham mưu trưởng Sư đoàn 330, Quân khu 9.
Từ tháng 9 năm 1978, ông về học tại Học viện Quân sự cấp cao. Đến tháng 8 năm 1980, ông là Sư đoàn trưởng Sư đoàn 330, tham chiến tại Campuchia. Tháng 3 năm 1983, ông là Phó Tư lệnh Mặt trận 979.
Từ năm 1985 đến 1988, ông giữ chức vụ Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân khu 9. Tháng 6 năm 1988, ông được điều về giữ chức vụ Phó Tư lệnh Quân khu 3.
Từ năm 1989 đến 1993, ông giữ chức Tư lệnh Quân khu 3. Đến tháng 12 năm 1993, ông được cử làm Phó Tổng Tham mưu trưởng; từ tháng 12 năm 1995, ông là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng. Đến tháng 12 năm 1997, ông được phân công giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thay tướng Đoàn Khuê nghỉ hưu.
Ông là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VII (1991-1996).
Ông là Ủy viên Bộ Chính trị, Ban chấp Trung ương Đảng khóa VIII (1996-2001), khóa IX (2001-2006), Đại biểu Quốc hội liên tiếp 3 khóa IX, X, XI.
Ngày 28 tháng 6 năm 2006 ông được Quốc hội miễn nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Ông được phong hàm Thiếu tướng 1987, Trung tướng 1993, Thượng tướng năm 1999, Đại tướng năm 2003.
Khen thưởng
50x50px Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (1976).
50x50px Huân chương Hồ Chí Minh.
50x50px Huân chương Quân công hạng Nhất.
2 Huân chương Quân công hạng Nhì.
50x50px Huân chương Kháng chiến hạng Nhất.
Huân chương Chiến công hạng Nhất.
50x50px 2 Huân chương Chiến công hạng Nhì.
50x50px 2 Huân chương Chiến công hạng Ba.
50x50px 3 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhất.
50x50px 3 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhì.
50x50px 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba.
Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhất.
50x50px Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhì.
Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Ba.
50x50px Huy chương Quân kỳ quyết thắng.
50x50px Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba.
50x50px Huân chương Tự do hạng Nhất của Nhà nước CHDCND Lào (02/03/2005).
Huân chương Bảo vệ Tổ quốc Hạng Nhất của Vương quốc Campuchia.
Huy hiệu 65 năm tuổi Đảng (2022).
Kỷ luật
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII, lần thứ 11 (lần 2) đã họp tại thủ đô Hà Nội từ ngày 13 tháng 3 đến ngày 24 tháng 3 năm 2001; Quyết định kỷ luật Khiển trách về trách nhiệm quản lý đối với Phạm Văn Trà Uỷ viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Quốc phòng (Cùng với Lê Văn Dũng) (Trích Nghị quyết Hội nghị TƯ VIII.11.2),vì chưa làm tròn chỉ đạo, ngăn chặn sau vụ phi công cựu Việt Nam Cộng Hoà Lý Tống cướp một chiếc máy bay nhỏ tại Thái Lan sang Thành phố Hồ Chí Minh, thả hơn 50.000 truyền đơn.
Lịch sử thụ phong quân hàm |
Mười bảy khoảnh khắc mùa xuân (tiếng Nga: Семнадцать мгновений весны) là một bộ phim truyền hình dài tập của Liên Xô, trình chiếu lần đầu năm 1973.
Lịch sử
Phim được làm tại xưởng phim Gorky, do Tatyana Lioznova đạo diễn và dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Yulian Semyonov. Phim được chia làm 12 tập với mỗi tập có độ dài khoảng 70 phút và cả phim có thời lượng khoảng 840 phút.
Nội dung
Bộ phim nói về cuộc đời (đã được hư cấu) của một điệp viên người Nga tên là Isaev hoạt động tại nước Đức Quốc xã dưới tên Đức là Stirlitz, do diễn viên Soviet Vyacheslav Tikhonov đóng.
Nội dung phim tập trung vào hoạt động của Isaev trong mười bảy ngày cuối cùng trước khi chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Các vai diễn chính khác do Leonid Bronevoy, Oleg Tabakov, Rostislav Plyatt và Vasily Lanovoy đảm nhận.
Diễn viên
{|class="prettytable sortable"
! Diễn viên
! Vai diễn
! Lồng tiếng
|-
| Yuri Baginyan (Юрий Багинян) || sĩ quan phụ tá của Hermann Göring||
|-
| Valentin Belonogov (Валентин Белоногов) || lính Đức ||
|-
| Mikhail Bocharov (Михаил Бочаров) || Đội viên SS ||
|-
| Wilhelm Burmayer (Вильгельм Бурмайер) || Thống chế Hermann Göring (tập 1, 3), Trung úy đồn trưởng biên phòng cửa khẩu Thụy Sĩ (tập 11, 12)|| Nikolai Grabbe (Николай Граббе)
|-
| Paul Butkevich (Паул Буткевич) || liên lạc viên|| Oleg Mokshantsev (Олег Мокшанцев)
|-
| Leonid Bronevoy (Леонид Броневой) || Trung tướng SS Heinrich Müller||
|-
| Yuri Vizbor (Юрий Визбор) || Martin Bormann|| Yuri Soloviev (Юрий Соловьёв)
|-
| Nikolai Volkov (con) (Николай Волков (младший)) || Erwin Keen ||
|-
| Valentin Gaft (Валентин Гафт) || Gaevernitz||
|-
| Nikolai Gorlov (Николай Горлов) || tiếp tân khách sạn Virginia||
|-
| Sergei Golovanov (Сергей Голованов) || đại sứ Anh tại Liên Xô||
|-
| Ekaterina Gradova (Екатерина Градова) || Catherine Keen (Katya Kozlova - Катя Козлова)||
|-
| Nikolai Gritsenko (Николай Гриценко) || vị tướng trong toa xe||
|-
| Yevgeny Gurov (Евгений Гуров) || chủ tiệm chim cảnh||
|-
| Vladlen Davydov (Владлен Давыдов) || nhân viên của Dulles || Артём Карапетян
|-
| Fritz Dietz (Фриц Диц) || Adolf Hitler || Yevgeny Vesnik (Евгений Весник)
|-
| Alexei Dobronravov (Алексей Добронравов) || bảo vệ biệt thự Stirlits ||
|-
| Lev Durov (Лев Дуров) || Klaus ||
|-
| Yevgeny Evstigneev (Евгений Евстигнеев) || Giáo sư Werner Pleischner ||
|-
| Vladimir Emelyanov (Владимир Емельянов) || Thống chế Wilhelm Keitel||
|-
| Mikhail Zharkovsky (Михаил Жарковский) || Trung tướng SS Ernst Kaltenbrunner||
|-
| Constantine Zheldin (Константин Желдин) || Trung tá SS Wilhelm Holthoff ||
|-
| Yuri Zaev (Юрий Заев) || Bittner ||
|-
| Edward Izotov (Эдуард Изотов) || Trợ lý của Hitler ||
|-
| Yuri Katin-Yartsev (Юрий Катин-Ярцев) || Nhà thiên văn ||
|-
| Vladimir Kenigson (Владимир Кенигсон) || Krause ||
|-
| Andro Kobaladze (Андро Кобаладзе) || Stalin ||
|-
| Vladimir Kozel (Владимир Козел) || кюре||
|-
|Станислав Коренев || адъютант Кальтенбруннера||
|-
|Евгений Кузнецов || группенфюрер СС Фридрих Крюгер||
|-
|Леонид Куравлёв || оберштурмбаннфюрер СС Курт Айсман||
|-
|Евгений Лазарев || сотрудник советской разведки Емельянов||
|-
|Василий Лановой || обергруппенфюрер СС Карл Вольф||
|-
|Григорий Лямпе || физик Рунге||
|-
|Лаврентий Масоха || штандартенфюрер СС Шольц, помощник Мюллера||
|-
|Отто Меллис (в титрах — «Отто Мелиес») || Хельмут Кальдер || Евгений Жариков
|-
|Эмилия Мильтон || фрау Заурих||
|-
|Рудольф Панков || «Одноглазый»||
|-
|Владлен Паулус || советник немецкого посольства||
|-
|Евгений Перов || хозяин кабачка «У грубого Готтлиба»||
|-
|Ростислав Плятт || пастор Фриц Шлаг||
|-
|Николай Прокопович || рейхсфюрер СС Генрих Гиммлер||
|-
|Клен Протасов || стенографист Сталина||
|-
|Виктор Рождественский || адъютант Гиммлера||
|-
|Владимир Рудый || Коваленко||
|-
|Алексей Сафонов || штурмбаннфюрер СС Юрген Рольф||
|-
|Светлана Светличная || Габи Набель||
|-
|Владимир Смирнов || хозяин явочной квартиры||
|-
|Манефа Соболевская || сестра в детском приюте||
|-
|Юрий Соковнин || водитель Бормана||
|-
|Ольга Сошникова || унтершарфюрер СС Барбара Крайн||
|-
|Вячеслав Тихонов || штандартенфюрер СС Макс Штирлиц||
|-
|Олег Табаков || бригадефюрер СС Вальтер Шелленберг||
|-
|Инна Ульянова || дама с лисой||
|-
|Пётр Чернов || Громов||
|-
|Вячеслав Шалевич || Аллен Даллес||
|-
|Элеонора Шашкова || жена полковника Исаева (Штирлица)||
|-
|Георгий Шевцов || сотрудник Холтоффа, избивающий Рунге||
|-
|Алексей Эйбоженко || Гюсман||
|-
|Ян Янакиев || Дольман||
|}
Sự kiện thú vị
Phần âm nhạc của bộ phim do nhạc sĩ Mikayel Tariverdyev viết. Bài hát có tên là "Khoảnh khắc này không phải là vô nghĩa"''.
Bộ phim trở nên quen thuộc khắp Liên Xô và rất nhiều câu nói trong phim cũng đã được nhiều người thuộc lòng và sử dụng trong đời thường. Hiện đang có thảo luận về việc xây dựng một tượng đài kỷ niệm Stirlitz ở thành phố Gorokhovets, nơi ông sinh ra.
Sau 35 năm, kênh truyền hình "Nước Nga" quyết định làm mới – tô màu cho bộ phim huyền thoại này. 12 tập của bộ phim được tô màu hoàn tất trong thời gian 3 năm, với kinh phí gần 3 triệu dollar. Hơn 600 chuyên gia từ Hàn Quốc, Mỹ, Ấn Độ và Trung Quốc tham gia dự án này. Bộ phim cũng được làm lại về phần hiệu ứng âm thanh thực tế hơn.
Bộ phim được làm mới được công chiếu vào năm 2009, nhận được nhiều sự khen ngợi cũng như phản đối. Thậm chí, có một vài ý kiến sẽ thưa kiện những người làm mới vì xâm phạm nguyên bản. |
Đoàn Khuê (1923 – 1999), bí danh Võ Tiến Trình, là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, cấp bậc Đại tướng. Ông nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1991 – 1997), Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (1987 – 1991).
Tiểu sử
Đoàn Khuê sinh ngày 29 tháng 10 năm 1923. Quê quán thôn Gia Đẳng, xã Triệu Tân, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị (nay là xã Triệu Lăng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị). Trú quán: Số nhà 30 Lý Nam Đế, phường Cửa Đông, Quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội.
Ông là Đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương trước Cách mạng Tháng Tám 1945.
Năm 1940: bị thực dân Pháp bắt giam, đày đi Buôn Ma Thuột.
Tháng 6/1945: ông tham gia thành lập Tỉnh ủy lâm thời, Chủ nhiệm Việt Minh, Ủy viên Quân sự tỉnh Quảng Bình. Ông nhập ngũ tháng 9 năm 1945.
1946 - 1947: Chính trị viên Trường Lục quân Trung học Quảng Ngãi.
1947 - 1954: Chính ủy Trung đoàn, Phó Chính ủy Sư đoàn 305.
1954 - 1960: Phó Chính ủy Sư đoàn 675, phụ trách Chính ủy Sư đoàn 351; Chính ủy Lữ đoàn 270.
Năm 1960 - 1964: Phó Chính ủy Quân khu 4.
Năm 1964 - 1975: Phó Chính ủy Quân khu 5, tham gia chỉ huy nhiều chiến dịch trên địa bàn quân khu.
1977 - 1983: Chính ủy kiêm Tư lệnh Quân khu 5.
Tháng 5/1983 - 1987: Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng, Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia.
1987 - 1991: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 8/1991 - 1997: Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương.
Ông là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa IV - VIII; Ủy viên Bộ Chính trị các khóa VI - VIII (1997), Đại biểu Quốc hội khóa VII - IX.
Ông được phong hàm Thiếu tướng năm 1974, Trung tướng năm 1980, Thượng tướng năm 1984, Đại tướng năm 1990.
Ông mất ngày 16 tháng 1 năm 1999 tại Hà Nội, an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch.
Gia đình
Cha của ông là cụ Đoàn Cầu, được kết nạp vào Đảng rất sớm và là người Cộng sản đầu tiên của làng Gia Đẳng, xã Triệu Lăng, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, nay là xã Triệu Lăng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Mẹ của ông là cụ Nguyễn Thị Dương (1902). Hai cụ có tám người con thì 5 người con là Liệt sĩ, cụ bà được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất và truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng theo Quyết định số 394 KT/CTN, ngày 17/12/1994. Năm người con liệt sĩ là:
1. Đoàn Đình
2. Đoàn Giao
3. Đoàn Ngọc Anh
4. Đoàn Cư
5. Đoàn Thị Tùng
Ông có hai người em trai là sĩ quan cao cấp của quân đội là Trung tướng Đoàn Chương (nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược quân sự) và Đại tá Đoàn Thúy.
Ông kết hôn với bà Trương Thị Sương vào cuối năm 1950. Hai người có hai người con:
Con gái Đoàn Thị Minh.
Con trai là Đại tá Đoàn Xuân Thắng.
Tác phẩm
Nửa thế kỷ chiến đấu dưới lá cờ vẻ vang của Đảng/ Đoàn Khuê.- In lần thứ 2.- H.: Quân đội nhân dân, 2004.- 215tr; Tóm tắt nội dung: Gồm những bài viết và bài nói của Đại tướng Đoàn Khuê trong 2 năm 1994 – 1995 về đường lối chính trị, quân sự của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Định hướng cho nhiệm vụ xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại và phát huy truyền thống đoàn kết hiệp đồng, bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa.
Khen thưởng
Ông được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý:
50x50px Huân chương Sao Vàng (truy tặng năm 2007).
50x50px Huân chương Hồ Chí Minh.
50x50px 2 Huân chương Quân công hạng Nhất.
50x50px 2 Huân chương Chiến công hạng Nhất.
50x50px Huân chương Chiến thắng hạng Nhất.
50x50px Huân chương Kháng chiến hạng Nhất.
50x50px Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhất.
50x50px Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhì.
50x50px Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Ba.
50x50px Huy chương Quân kỳ quyết thắng.
50x50px Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba và nhiều huân, huy chương khác.
Vinh danh
Phố Đoàn Khuê được HĐND thành phố Hà Nội đặt tên cho một con đường thuộc phường Việt Hưng, quận Long biên rộng 40 mét, dài 2 100 mét (năm 2013).
Ở phường Khuê Mỹ (thành phố Đà Nẵng); thành phố Đông Hà (tỉnh Quảng Trị); thành phố Kon Tum (tỉnh Kon Tum); thành phố Buôn Ma Thuột, thị xã Buôn Hồ (tỉnh Đắk Lắk) đều có tên đường 'Đoàn Khuê".
Ở thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, cũng có một con đường mang tên Đoàn Khuê, thuộc khu đô thị Thống Nhất, phường Lộc Hạ, với chiều rộng 16,5m, dài khoảng 400m.
Lịch sử thụ phong quân hàm |
3000 (ba nghìn, hay ba ngàn) là một số tự nhiên ngay sau 2999 và ngay trước 3001. |
Kappa có thể là:
Kappa, chữ cái thứ 10 của bảng chữ cái Hy Lạp
Kappa (sinh vật truyền thuyết)
Kappa (truyện ngắn), một tác phẩm của Ryunosuke Akutagawa
Kappa (phép đo Phần Lan)
Kappa (công ty), một công ty thời trang của Ý
Kappa (tên lửa)
Tập đoàn xuất bản Kappa
Kappa, một ngôi làng ở Quận Woodford, bang Illinois, Hoa Kỳ
Kappa Mikey, loạt phim hoạt hình của Hoa Kỳ
kappa Cohen, một hệ số trong phép đo thống kê
GM Kappa, một kiểu xe hơi của công ty General Motors
Lancia Kappa, một kiểu xe hơi của công ty Fiat
Chỉ số Kappa, một chỉ tiêu đánh giá chất lượng của bột giấy
Kappa có thể là viết tắt của:
Kappa Kappa Gamma, hội nữ sinh trường cao đẳng Monmouth, Illinois, Hoa Kỳ
Kappa Kappa Kappa, hội nam sinh trường cao đẳng Monmouth, Illinois, Hoa Kỳ
Kappa Phi Lambda, hội nữ sinh trường đại học Binghamton, New York, Hoa Kỳ |
Những người bạn (tựa gốc tiếng Anh: Friends) là một loạt phim truyền hình hài kịch tình huống Mỹ do David Crane và Marta Kauffman sáng lập, công chiếu lần đầu tiên trên kênh National Broadcasting Company (NBC) vào ngày 22 tháng 9 năm 1994. Loạt phim chủ yếu xoay quanh đời sống xã hội và tình cảm của một nhóm bạn gồm 6 người tầm lứa tuổi 20 sinh sống và làm việc tại Manhattan, thành phố New York. Loạt phim sản xuất bởi Bright/Kauffman/Crane Productions, hợp tác cùng Warner Bros. Television. Những giám đốc sản xuất đầu tiên của loạt phim bao gồm Kevin S. Bright, Marta Kauffman và David Crane.
Kauffman và Crane bắt đầu thực hiện series phim "Những người bạn" dưới cái tên Insomnia Cafe vào tầm giữa tháng 11 và tháng 12 năm 1993. Họ giới thiệu ý tưởng này đến Bright, người từng hợp tác cùng họ trước đây và cùng lên kế hoạch viết 7 trang giới thiệu chương trình để gửi đến đài NBC. Sau vài lần thay đổi và viết lại kịch bản, bao gồm việc loạt phim sẽ được đặt tựa đề là "Six Of One" và "Friend Like Us", loạt phim cuối cùng thống nhất với tên "Những người bạn" và trình chiếu ở khung giờ 8:30 tối thứ Năm trên đài NBC. Phần ghi hình của loạt phim diễn ra tại Warner Bros. Studios ở Burbank, California trực tiếp trước các khán giả. Sau 10 mùa phim, tập phim cuối cùng được NBC tăng cường quảng bá và trình chiếu vào ngày 6 tháng 5 năm 2004, với tỉ suất người xem trung bình 52.5 triệu khán giả Mỹ theo dõi đã trở thành tập phim được xem nhiều nhất trong thập niên 2000 và là một trong những tập kết mùa thu hút nhiều người xem nhất lịch sử truyền hình.
"Những người bạn" nhận nhiều phản hồi tích cực trong suốt thời gian lên sóng và trở thành một trong những loạt phim hài kịch tình huống ăn khách nhất mọi thời đại. Loạt phim giành nhiều giải thưởng và vinh danh, trong đó có 62 đề cử cho giải Primetime Emmy; đồng thời đạt thành công về tỉ lệ khán giả khi giữ vững xếp hạng trong top 10 tỉ lệ người xem trong khung giờ vàng cuối cùng. Trong khi tạo được những ảnh hưởng văn hóa đáng kể, "Những người bạn" tiếp tục được trình chiếu trên toàn cầu với mỗi mùa phim phát hành qua định dạng DVD. Tiếp nối tập phim cuối cùng, một loạt phim ngoại truyện Joey cũng được thực hiện. Dàn diễn viên chính trong sitcom này đã quay lại buổi tái ngộ đặc biệt được công chiếu trên HBO Max vào 27 tháng 5, 2021.
Tiền đề
Rachel Green bỏ trốn khỏi đám cưới của mình và tìm đến người bạn thời thơ ấu Monica Geller, một đầu bếp sinh sống tại thành phố New York. Họ trở thành bạn cùng phòng và Rachel gia nhập nhóm bạn độc thân của Monica, bao gồm: Joey Tribbiani — một diễn viên nghiệp dư gặp khó khăn trong công việc của mình, Chandler Bing — một nhân viên thuộc lĩnh vực kinh doanh, Phoebe Buffay — nhân viên xoa bóp kiêm nhạc công và anh trai của Monica, Ross Geller, một nhà sinh vật học vừa ly dị. Để kiếm sống, Rachel trở thành hầu bàn tại Central Perk, một quán cà phê ở Manhattan nơi cả nhóm thường xuyên ghé thăm. Khi họ không ở quán, bộ sáu thường đến căn hộ của Monica và Rachel gần West Village hay tập trung tại căn hộ Joey và Chandler ngay đối diện hành lang.
Các tập phim chủ yếu xoay quanh những mối quan hệ tình cảm và vấn đề nghề nghiệp vui nhộn của những người bạn trong nhóm, như Joey liên tiếp đi thử vai hay Rachel thường xuyên đi tìm việc làm trong ngành thời trang. Cả sáu nhân vật đều trải qua nhiều cuộc tình và những mối quan hệ nghiêm túc, như Monica và Richard Burke hay Ross với Emily Waltham. Mối quan hệ phức tạp giữa Ross và Rachel luôn trở thành điểm nhấn trong suốt 10 mùa phim, họ liên tục hẹn hò rồi chia tay, Ross sau đó cưới Emily rồi ly hôn một thời gian ngắn sau đó, cuối cùng, anh và Rachel cùng nhau sinh con. Trong khoảng thời gian này, Chandler và Monica cũng hẹn hò và cưới nhau, Phoebe kết hôn với Mike Hannigan. Những nhân vật phụ thường xuyên xuất hiện trong phim bao gồm ba mẹ của Ross và Monica ở Long Island; vợ cũ của Ross cùng con trai của anh; bạn gái cũ của Chandler, Janice; em gái sinh đôi của Phoebe, Ursula; và thợ pha cà phê ở Central Perk, Gunther.
Nhân vật
Loạt phim bao gồm 6 nhân vật chính xuyên suốt thời gian phát sóng, với nhiều nhân vật khác xuất hiện trong tất cả các mùa phim.
Jennifer Aniston trong vai Rachel Green, người đam mê thời trang và là bạn thân thuở ấu thơ của Monica Geller. Rachel chuyển đến ở cùng Monica sau khi suýt cưới người mà cô không yêu, Barry Farber. Rachel và Ross Geller sau đó có mối tình chìm nổi cùng nhau suốt loạt phim. Rachel hẹn hò nhiều người đàn ông khác trong loạt phim, bao gồm gã hàng xóm người Ý, Paolo trong mùa 1; khách hàng Joshua Bergin trong mùa 4; trợ lý Tag trong mùa 7; và Joey Tribbiani trong mùa 10. Công việc đầu tiên của Rachel là bồi bàn ở quán cà phê Central Perk nhưng sau đó trở thành trợ lý mua hàng tại Bloomingdale's trong mùa 3 và là nhà tư vấn mua hàng tại Ralph Lauren trong mùa 5. Rachel và Ross có một đứa con gái tên là Emma trong tập "The One Where Rachel Has a Baby, Part Two". Trong tập cuối của loạt phim, Ross và Rachel thổ lộ tình cảm cùng nhau, khi Rachel từ bỏ công việc ở Paris để trở về bên Ross. Aniston từng xuất hiện trong một số loạt phim hài kịch tình huống không thành công trước khi đến với vai diễn Rachel trong "Những người bạn".
Courteney Cox trong vai Monica Geller, được xem là "người mẹ" của nhóm và là một đầu bếp, cô được biết đến bởi tính cầu toàn, hách dịch, cạnh tranh và bị ám ảnh cưỡng chế. Monica thường xuyên bị bạn bè châm chọc vì thân hình quá khổ lúc còn nhỏ, đặc biệt là bởi anh trai Ross. Monica làm việc như một đầu bếp trong nhiều nhà hàng xuyên suốt loạt phim. Mối quan hệ nghiêm túc đầu tiên của Monica là với người bạn lâu năm của gia đình Richard Burke, người hơn cô 21 tuổi. Cả hai giữ vững mối quan hệ cho đến khi Richard thổ lộ mình không có nguyện vọng có con như hy vọng của Monica. Monica và Chandler Bing bắt đầu hẹn hò sau khi cùng nhau qua đêm tại Luân Đôn trong tập cuối mùa 4, với đám cưới diễn ra ở mùa 7 và nhận nuôi một cặp song sinh vào cuối chương trình. Cox được biết đến từ Ace Ventura: Pet Detective (1994) hay Family Ties (1982–89) trước khi tham gia Những người bạn.
Lisa Kudrow trong vai Phoebe Buffay, một nhân viên massage kiêm nhạc công tự học. Phoebe sống ở vùng ven New York cùng mẹ cho đến khi bà tự tử và Phoebe phải sống lang thang. Phoebe tuy ngớ ngẩn nhưng rất thạo đời, thường mang theo chiếc đàn guitar bên mình, đồng thời sáng tác và hát những bài hát kỳ quặc. Cô có một người em sinh đôi "xấu xa" tên là Ursula, người cũng có tính cách ngớ ngẩn như Phoebe nhưng lại có vẻ ích kỷ và vô tâm. Phoebe có ba mối quan hệ nghiêm túc: tay cảnh sát Gary trong mùa 5, David trong mùa 1 cho đến khi anh chuyển đến Minsk cho một chương trình nghiên cứu và cùng Mike Hannigan trong một mối quan hệ chìm nổi trong mùa 9 và 10. Tuy David và Phoebe có tái hợp khi anh quay về, cô sau cùng từ chối anh ta và đính hôn với Mike trong mùa 9, với đám cưới diễn ra trong mùa 10. Vai diễn này lấy cảm hứng từ nhân vật bồi bàn Ursula Buffay cũng do Kudrow thủ vai trong loạt phim Mad About You của NBC.
Matt LeBlanc trong vai Joey Tribbiani, một người yêu thức ăn và là một diễn viên sống chật vật, nổi tiếng với vai diễn bác sĩ Drake Ramoray trong loạt phim truyền hình dài tập Days of Our Lives. Mặc dù bị cho là một tay lăng nhăng với nhiều mối quan hệ ngắn hạn, Joey lại là người hồn nhiên, ngây thơ, chu đáo và có thiện chí. Joey thường dùng câu chào cửa miệng "How you doin'?" để chinh phục phụ nữ, trong đó có cô em gái Jill của Rachel. Joey ở cùng người bạn thân Chandler trong nhiều năm và vài tháng sau đó cùng với Rachel. Anh phải lòng Rachel trong mùa 8, nhưng Rachel tế nhị từ chối. Sau cùng cả hai hẹn hò với nhau một cách ngắn ngủi trong mùa 10 và sau đó quyết định làm bạn. Trước khi gia nhập Những người bạn, LeBlanc từng tham gia một vai nhỏ trong Married... with Children và là nhân vật chính trong các phần hậu truyện Top of the Heap và Vinnie & Bobby.
Matthew Perry trong vai Chandler Bing, một nhân viên trong ngành khoa học thống kê và cấu trúc tái dữ liệu trong một hãng công ty đa quốc gia. Chandler sau đó bỏ việc và trở thành một copywriter nghiệp dư tại một công ty quảng cáo trong mùa 9. Chandler có một quá khứ gia đình dị biệt, khi là con trai của một nữ tiểu thuyết gia ngôn tình và một người đồng tính nam kiêm ngôi sao hóa trang thành nữ tại Las Vegas. Chandler biết đến bởi nét hài hước mỉa mai và vận rủi trong các mối quan hệ. Chandler hẹn hò cùng Janice Hosenstein trong mùa 1 và sau đó chia tay với cô nhiều lần. Anh cưới Monica trong mùa 7 và nhận nuôi một cặp song sinh vào cuối chương trình. Giống như Aniston, Perry từng tham gia một vài loạt phim truyền hình hài kịch tình huống không thành công trước khi bén duyên với Những người bạn.
David Schwimmer trong vai Ross Geller, anh trai của Monica Geller, một nhà cổ sinh vật học làm việc tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ và sau đó là giáo sư tại Đại học New York. Ross là một người đàn ông dịu dàng và hóm hỉnh, mặc cho đôi lúc trở nên lúng túng và vụng về trong giao tiếp. Ross có mối quan hệ chìm nổi cùng Rachel trong suốt loạt phim. Anh từng có 3 cuộc hôn nhân đổ vỡ trong chương trình: Rachel, Emily và Carol, một người đồng tính nữ và là mẹ của Ben, con trai anh. Các cuộc hôn nhân thất bại chủ yếu vì tính hoang tưởng và ghen tuông của anh, trong khi các cuộc ly hôn trở thành một điểm hài hước trong loạt phim. Anh và Rachel có một đứa con gái tên là Emma vào cuối mùa 8 và thổ lộ tình cảm cùng nhau trong tập phim cuối cùng. Trước khi được tuyển vai trong Những người bạn, Schwimmer đã sắm một vai nhỏ trong The Wonder Years và NYPD Blue.
Diễn viên
Trong hợp đồng bàn đần của các diễn viên ở mùa đầu tiên, họ chỉ được trả 22.500 đô-la Mỹ cho mỗi tập phim. Ở mùa thứ hai, cả nhóm nhận những số lương khác nhau, dao động từ 20.000 đến 40.000 đô-la Mỹ mỗi tập. Trước khi đàm phán về cát-xê cho mùa thứ ba, các diễn viên quyết định muốn nhận số lương ngang nhau, bất chấp những thỏa thuận khác nhau cho từng diễn viên của hãng Warner Bros. Chính vì thế, những thành viên trong nhóm phải bù lương của mình cho thành viên trả lương thấp nhất, với Aniston và Schwimmer phải giảm cát-xê của mình. Các ngôi sao của loạt phim được trả 75.000 đô-la Mỹ mỗi tập ở mùa 3, 85.000 đô-la Mỹ ở mùa 4, 100.000 đô-la Mỹ ở mùa 5, 125.000 đô-la Mỹ ở mùa 6, 750.000 đô-la Mỹ ở mùa 7 và 8. Ở mùa 9 và 10, số tiền lên đến 1 triệu đô-la Mỹ, giúp Aniston, Cox và Kudrow trở thành những nữ diễn viên truyền hình được trả thù lao cao nhất mọi thời đại. Cả nhóm cũng đồng thời bắt đầu nhận tiền bản quyền phát sóng loạt phim từ mùa thứ 5. Vào thời điểm này, lợi nhuận trích từ phần sinh lời của chương trình thường chỉ được đưa đến những ngôi sao nắm quyền sở hữu của chương trình ấy, như Jerry Seinfeld hay Bill Cosby.
Người sáng lập loạt phim David Crane muốn cả sáu diễn viên đều nổi tiếng như nhau và loạt phim được khen ngợi về việc trở thành "chương trình 'tập thể' đích thực đầu tiên". Những diễn viên trong nhóm đều cố gắng để giữ lấy tính tập thể của loạt phim và không cho phép bất cứ thành viên nào chiếm ưu thế; họ tham gia vào những hạng mục giống nhau của các giải thưởng, chọn tham gia những cuộc thương lượng thù lao tập thể và ngỏ ý cùng nhau thực hiện những bìa tạp chí trong mùa đầu tiên. Ngoài đời, các diễn viên đồng thời cũng là bạn thân, điều này khiến ngôi sao khách mời Tom Selleck có cảm giác bị bỏ rơi.
Sau khi loạt phim kết thúc, các diễn viên vẫn tiếp tục là bạn tốt với nhau, đáng chú ý nhất là Cox và Aniston, khi Aniston làm mẹ đỡ đầu cho con gái của Cox và David Arquette, Coco. Trong cuốn sách lưu niệm tạm biệt Friends 'Til the End, mỗi diễn viên đều thừa nhận trong phần phỏng vấn của mình rằng cả nhóm đã trở thành gia đình của họ.
Tập phim
Mùa 1
Mùa phim đầu tiên giới thiệu 6 nhân vật chính: Rachel, Monica, Phoebe, Joey, Chandler và Ross. Rachel tìm đến Central Perk sau khi bỏ trốn khỏi đám cưới với hôn phu Barry và dọn đến ở cùng với Monica, người bạn thân của cô thời trung học. Ross, người thầm mến Rachel từ khi cả hai còn ở trường trung học, liên tục cố gắng thổ lộ tình cảm của mình với cô. Dù vậy, anh luôn gặp phải chướng ngại, như khi chuẩn bị có con với người vợ cũ là đồng tính nữ, Carol. Joey là một diễn viên độc thân sống chật vật, trong khi Phoebe là một nhân viên massage mang tính cách "điên rồ" dựa trên những rắc rối lúc nhỏ sau khi mẹ cô tự sát. Chandler chia tay với cô bạn gái Janice (Maggie Wheeler), người thường xuyên có mặt trong những mùa sau này. Vào cuối mùa phim, Chandler vô tình tiết lộ tình cảm của Ross với Rachel, người nhận ra mình cũng có cảm nhận tương tự. Mùa phim kết thúc khi Rachel đứng chờ Ross tại sân bay sau một chuyến đi.
Mùa 2
Mùa phim thứ hai bắt đầu khi Rachel đứng đợi Ross tại sân bay để bày tỏ tình cảm của cô dành cho anh. Dù vậy, cô biết anh đang hẹn hò Julie (Lauren Tom), người mà anh quen biết từ lúc tốt nghiệp. Ý định muốn thổ lộ tình cảm của Rachel tương tự như ở Ross trong mùa đầu tiên, mặc dù cả hai sau cùng lại bắt đầu một mối quan hệ cùng nhau. Joey được tuyển vai cho phiên bản hư cấu của loạt phim truyền hình dài tập Days of Our Lives, nhưng nhân vật của anh bị giết chết sau khi gặp mâu thuẫn với biên kịch phim. Chandler trở lại với Janice, cô bạn gái cũ từ mùa phim đầu. Monica bắt đầu hẹn họ với Richard (Tom Selleck), một người bạn đã ly hôn của gia đình cô và hơn cô 21 tuổi. Ở cuối mùa phim, họ chia tay khi nhận ra Richard không muốn có con như Monica luôn mong muốn.
Mùa 3
Mùa thứ 3 được kéo dài hơn bình thường. Rachel bắt đầu làm việc tại Bloomingdale's, một hệ thống cửa hàng bán đồ cao cấp và Ross trở nên ghen tuông với đồng nghiệp của cô là Mark. Khi Rachel quyết định tạm dừng mối quan hệ, Ross đau khổ và qua đêm cùng Chloe trong lúc say, khiến Rachel phải chia tay với anh. Trong lúc đó, Chandler đối mặt cuộc chia tay của họ một cách khó khăn vì chúng làm anh nhớ đến vụ ly hôn của cha mẹ mình. Sau khi tin rằng mình không có gia đình, ngoại trừ cô em gái song sinh Ursula (Lisa Kudrow), Phoebe trở nên gắn bó với cậu em cùng cha khác mẹ (Giovanni Ribisi) và mẹ ruột của mình (Teri Garr). Joey bắt đầu có mối quan hệ tình cảm cùng cộng sự Kate (Dina Meyer), trong khi Monica lại có cảm tình với tay triệu phú Pete Becker (Jon Favreau) nhưng sau cùng đổ vỡ vì những bất đồng giữa cả hai.
Mùa 4
Trong tập đầu mùa 4, Ross và Rachel tái hợp sau khi Ross giả vờ đọc một bức thư dài mà Rachel gửi cho anh và sau đó cả hai lại tan vỡ một cách nhanh chóng. Joey hẹn hò cùng Kathy (Paget Brewster), một cô gái mà Chandler có cảm tình. Kathy và Chandler sau đó hôn nhau, khiến cho Chandler và Joey giận dỗi. Phoebe trở thành người mang thai hộ cho em trai và Alice (Debra Jo Rupp), người vợ của anh ta. Sau một vụ cá cược, Monica và Rachel buộc phải đổi căn hộ cho Joey và Chandler, nhưng sau đó mọi thứ trở lại như cũ khi Monica và Rachel hối lộ cho hai chàng trai vé cả mùa của đội Knicks và một nụ hôn kéo dài 1 phút giữa các cô gái. Ross bắt đầu hẹn hò một người phụ nữ Anh tên là Emily (Helen Baxendale) và mùa phim kết thúc trong đám cưới của họ tại Luân Đôn. Trong thời gian tại lễ cưới, Chandler và Monica ngủ cùng nhau, trong khi Rachel quyết định đến dự buổi lễ. Trong lúc tuyên thệ, Ross vô tình đọc nhầm tên của Rachel tại lễ đường, khiến cho quan khách và cô dâu phải hoảng hốt.
Mùa 5
Mùa phim thứ 5 cho thấy Monica và Chandler cố gắng giữ bí mật về mối quan hệ của hai người khỏi nhóm bạn của mình. Phoebe sinh ba trong tập phim thứ 100, bao gồm một bé trai, Frank Jr. Jr. và hai bé gái Leslie và Chandler. Emily đưa ra đề nghị duy nhất để duy trì tình cảm với Ross là phải chấm dứt liên lạc với Rachel. Ross đồng ý, nhưng trong bữa tối sau cùng của cả sáu nhân vật chính cùng nhau, Emily gọi cho Ross và biết Rachel vẫn còn ở cùng anh. Do không thể tin anh hơn nữa, cô quyết định chấm dứt mối quan hệ. Phoebe bắt đầu có mối quan hệ cùng cảnh sát Gary (Michael Rapaport), sau khi tìm thấy phù hiệu của anh và sử dụng nó. Monica và Chandler công bố tình cảm của mình, khiến các bạn mình bất ngờ và hạnh phúc. Họ quyết định kết hôn trong chuyến đi đến Las Vegas nhưng sau đó thay đổi dự định sau khi chứng kiến Ross và Rachel say khướt bước ra khỏi nơi tổ chức tiệc cưới.
Mùa 6
Trong mùa phim thứ 6, cuộc hôn nhân của Ross và Rachel được tiết lộ là sai lầm lúc say và cả hai muốn từ bỏ mối quan hệ này. Ross sau đó nhận ra mình không thể ly hôn lần thứ 3 và cố gắng giữ bí mật với Rachel, dù vậy họ vẫn ly hôn một vài tập sau đó. Monica và Chandler dời về ở cùng nhau, khiến Rachel phải chuyến đến căn hộ của Phoebe. Joey nhận một vai diễn trong chương trình truyền hình Mac and C.H.E.E.S.E., nơi anh phải đóng cùng với một người máy. Ross nhận công việc giảng dạy tại Đại học New York và bắt đầu hẹn hò một cách ngắn ngủi với một trong số những sinh viên của mình, Elizabeth (Alexandra Holden). Khi căn hộ của Phoebe và Rachel bị cháy, Rachel phải đến ở cùng Joey trong khi Phoebe chuyển đến cùng Chandler và Monica. Chandler sau cùng đã cầu hôn Monica, cô đồng ý cho dù bạn trai cũ Richard thổ lộ tình cảm cho cô.
Mùa 7
Mùa thứ 7 chủ yếu tập trung vào Monica và Chandler, những người bắt đầu kế hoạch đám cưới và gặp phải vấn đề tài chính. Chương trình Mac and C.H.E.E.S.E của Joey bị hủy, nhưng anh lại được mời trở lại trên chương trình Days of Our Lives. Căn hộ của Phoebe được sửa chữa nhưng chỉ gồm một phòng ngủ lớn thay vì hai như trước, khiến Rachel quyết định ở lại với Joey. Mùa phim kết thúc khi Monica và Chandler tổ chức đám cưới, nơi Phoebe và Rachel tìm thấy một que thử thai mang kết quả dương tính trong phòng tắm.
Mùa 8
Trong mùa phim thứ 8, que thử thai mang kết quả dương tính được tiết lộ thuộc về Rachel. Ross là cha của đứa bé sau một cuộc điều tra có liên quan đến chiếc áo màu đỏ. Rachel và Ross quyết định nuôi đứa bé nhưng không quay lại với nhau. Joey nuôi giữ tình cảm cùng Rachel nhưng cô không đáp trả. Rachel hạ sinh bé Emma trong tập kết mùa. Tại bệnh viện, mẹ của Ross đưa cho anh chiếc nhẫn đính hôn vì bà muốn anh cưới Rachel. Ross từ chối nhưng vẫn giữ lại chiếc nhẫn, mà sau cùng Joey nhặt được và vô tình cầu hôn Rachel. Cô mở lời đồng ý khi nghĩ anh đang cầu hôn mình.
Mùa 9
Mùa thứ 9 bắt đầu khi Ross và Rachel bắt đầu sống cùng phòng với bé Emma. Monica và Chandler cố gắng thụ thai nhưng bất thành khi biết họ gặp hạn chế về sức khỏe. Phoebe bắt đầu hẹn hò Mike Hannigan (Paul Rudd) thay vì anh chàng bạn trai cũ David (Hank Azaria). Rachel và Emma dọn đến cùng Joey ở giữa mùa phim và Rachel bắt đầu có những trải nghiệm tình cảm dành cho Joey, trong khi nhóm bạn cố gắng đưa Ross và Rachel trở lại. Nhóm đến Barbados trong tập kết mùa để nghe Ross thuyết trình chính trong một buổi hội thảo cổ sinh vật học. Joey và bạn gái Charlie (Aisha Tyler) chia tay và cô lại bắt đầu có mối quan hệ cùng Ross. Sau cùng, Joey và Rachel đáp trả tình cảm của nhau và hôn nhau trong đoạn kết mùa.
Mùa 10
Mùa phim cuối cùng kết thúc nhiều câu chuyện kéo dài. Charlie chia tay với Ross và trở về với bạn trai cũ. Joey và Rachel cố gắng làm hòa với Ross, quyết định kết thúc mối quan hệ và làm bạn cùng nhau. Phoebe và Mike lấy nhau vào giữa mùa phim bên ngoài quán cà phê Central Perk. Monica và Chandler đăng ký nhận nuôi một đứa bé và được Erica (Anna Faris) chấp nhận. Trong tập cuối cùng, Erica hạ sinh một cặp song sinh và khiến Monica và Chandler sửng sốt—một bé trai, Jack (đặt theo tên cha Monica) và một bé gái, Erica (đặt theo tên mẹ ruột). Monica và Chandler cũng chuẩn bị dời về vùng ngoại ô, khiến Joey buồn bã vì nhiều biến đổi trong cuộc sống. Rachel bị đuổi việc và nhận một công việc tại Paris, khi Ross nhận ra mình yêu cô ấy, anh đuổi theo cô. Rachel sau đó hủy bỏ chuyến đi đến Paris, thổ lộ tình cảm cùng Ross và ở lại cùng anh. Loạt phim kết thúc khi tất cả nhân vật chính cùng những đứa con của Monica và Chandler bước ra khỏi căn hộ, đi đến Central Perk để uống ly cà phê sau cùng.
Sản xuất
Triển khai
David Crane và Marta Kauffman bắt đầu phát triển 3 mở đầu phim truyền hình mới—dự kiến công chiếu vào năm 1994—sau khi loạt phim hài kịch tình huống Family Album bị đài CBS dừng phát sóng vào năm 1993. Kauffman và Crane quyết định đệ trình một loạt phim về "6 người trong độ tuổi 20 cố gắng tạo dựng cuộc sống tại Manhattan" đến cho hãng NBC, khi họ nghĩ đây là nơi phù hợp nhất. Crane và Kauffman đưa ý tưởng này đến cộng sự sản xuất Kevin Bright, nhà điều hành sản xuất loạt phim hãng HBO Dream On. Ý tưởng hình thành khi Crane và Kauffman bắt đầu nghĩ về khoảng thời gian họ tốt nghiệp đại học và bắt đầu tự lập tại New York; Kauffman tin rằng họ tìm đến khoảng thời gian mà tương lai "giống như một dấu chấm hỏi." Họ thấy ý tưởng này thú vị khi tin rằng "mọi người đều biết đến cảm giác ấy" và vì đây cũng là cách mà họ cảm nhận về cuộc sống của chính mình vào thời điểm trên. Cả nhóm gọi loạt phim bằng tựa đề Insomnia Cafe và đưa ý tưởng dưới dạng 7 trang giới thiệu đến hãng NBC vào tháng 12 năm 1993.
Ở thời điểm đó, Warren Littlefield, chủ tịch đương thời của hãng NBC Entertainment, đang tìm kiếm thể loại phim hài kịch có liên quan đến những người trẻ chung sống và chi trả chi phí cùng nhau. Littlefield muốn nhóm bạn trẻ này cùng chia sẻ những thời khắc đáng nhớ trong đời mình, những người trở thành "những thành viên mới và đại diện gia đình." Dù vậy, Littlefield lại gặp khó khăn để đưa ý tưởng này vào đời thực và cảm thấy những kịch bản do NBC thực hiện đều không có tiến triển tốt. Khi Kauffman, Crane và Bright đệ trình Insomnia Cafe, Littlefield bị ấn tượng bởi tính tường tận mà họ thấu hiểu các nhân vật của mình. NBC quyết định mua lại ý tưởng tập phim đầu tiên của loạt phim, mạo hiểm hình phạt tài chính nếu tập phim này không được ghi hình. Kauffman và Crane trải qua 3 ngày sáng tác kịch bản tập đầu tiên, với tên gọi của loạt phim lúc này đổi sang Friends Like Us. Littlefield muốn chương trình phải đại diện cho Thế hệ X và khám phá thể loại kết thân mới, nhưng cả ba đều không có chung suy nghĩ. Crane cho rằng đây không phải là chương trình dành riêng cho một thế hệ nào và muốn sản xuất một loạt phim mà mọi người đều muốn xem. NBC phê chuẩn kịch bản tập đầu và đặt mua loạt phim dưới cái tên Six of One, vì tựa đề cũ trùng với một loạt phim hài kịch tình huống khác của đài ABC These Friends of Mine.
Tuyển vai
Từ khi công bố là dự án và được phê chuẩn bởi NBC, Littlefield thông báo nhận nhiều cuộc gọi từ mọi nhà đại diện trong thành phố, mong muốn khách hàng của họ tham gia trong loạt phim. Các buổi thử vai cho những nhân vật chính diễn ra tại New York và Los Angeles. Đạo diễn tuyển vai rút ngắn từ 1.000 diễn viên đăng ký cho mỗi vai xuống còn 75 người, với mỗi người được gọi lại để dượt thoại trước Crane, Kauffman và Bright. Vào cuối tháng 3, số diễn viên tiềm năng giảm xuống chỉ còn từ 3 đến 4 người cho mỗi vai và được mời dượt thoại cùng Les Moonves, chủ tịch đương thời của hãng Warner Bros. Television.
Từng cộng tác cùng David Schwimmer, các nhà sáng lập chương trình nhắm sẵn nhân vật Ross theo hình tượng Schwimmer và anh là diễn viên đầu tiên tuyển vai. Cox muốn vào vai Monica, nhưng các nhà sản xuất lại hình dung cô với nhân vật Rachel bởi "năng lượng vui vẻ và lạc quan", khiến họ không nhìn nhận cô ở vai Monica; sau phần tuyển vai của Cox, Kauffman đồng tình và giao cho cô vai diễn này. Khi Matt LeBlanc dự tuyển cho vai Joey, anh đưa ra một "câu chuyện khác biệt" cho nhân vật này. Dàn biên kịch ban đầu không có ý định mang tính cách khờ khạo cho Joey, nhưng lại cảm thấy đây là khởi nguồn chính của sự hài hước. LeBlanc còn chỉ ra tấm lòng chất phác của nhân vật này, điều mà các biên kịch không nhận ra ở Joey. Cho dù Crane và Kauffman không muốn LeBlanc nhận vai vào thời điểm trên, hãng truyền hình đã yêu cầu họ đưa cho anh vai diễn này. Jennifer Aniston, Matthew Perry và Lisa Kudrow cũng được tuyển từ các lần thử vai trước đó.
Nhiều thay đổi đến câu chuyện của loạt phim diễn ra trong giai đoạn tuyển vai này. Dàn biên kịch cảm thấy cần phải chỉnh lý các nhân vật sao cho phù hợp với diễn viên và quá trình khám phá các nhân vật diễn ra trong xuyên suốt mùa phim đầu tiên. Kauffman thừa nhận nhân vật của Joey đã trở thành "một cá thể hoàn toàn mới" và nó chỉ diễn ra "khi chúng tôi thực hiện tập phim Lễ tạ ơn đầu tiên và nhận ra Monica điên rồ đến mức nào".
Sáng tác
Nhiều tuần sau khi đài NBC quyết định chọn sản xuất Những người bạn, Crane, Kauffman và Bright phải duyệt lại kịch bản dự bị cho những loạt phim truyền hình khác, chủ yếu là những tập phim Seinfeld chưa sản xuất. Kauffman và Crane thuê một đội ngũ gồm 7 biên kịch trẻ tuổi, vì "khi ở độ tuổi 40, bạn không thể thực hiện được nữa. Hãng sản xuất và xưởng phim muốn tìm những người trẻ vừa bước khỏi ngưỡng cửa đại học". Các nhà sáng lập cảm thấy khi sử dụng ngang bằng cùng lúc 6 nhân vật, thay vì chú trọng ở 1 hay 2, sẽ giúp "mở rộng nhiều cốt truyện và đưa cho chương trình nhiều hướng đi". Đa số ý tưởng cốt truyện đều do dàn biên kịch thực hiện, cho dù được các diễn viên thêm thắt các ý tưởng. Dàn biên kịch ban đầu dự định một chuyện tình quan trọng giữa Joey và Monica, khi cả hai là các nhân vật gợi cảm nhất trong kịch bản đệ trình. Ý tưởng mối tình lãng mạn giữa Ross và Rachel hình thành trong quá trình Kauffman và Crane sáng tác kịch bản mở đầu.
Trong lúc sản xuất tập đầu tiên, NBC yêu cầu kịch bản nên chia thành một cốt truyện chi phối và những chi tiết nhỏ khác, nhưng dàn biên kịch đã từ chối, khi muốn có 3 cốt truyện tồn tại song song. NBC còn cho rằng dàn diễn viên quá non trẻ và đề nghị một nhân vật già dặn hơn nhằm đưa lời khuyên đến những người trẻ tuổi. Crane và Kauffman miễn cưỡng đồng ý và viết một bản nháp của tập đầu với sự xuất hiện của "Pat the Cop". Crane cảm thấy câu chuyện rất tồi và Kauffman bông đùa rằng "Bạn biết quyển sách cho trẻ em, Pat the Bunny chứ? Chúng tôi có Pat the Cop". NBC sau cùng loại bỏ ý tưởng này. Ngoại trừ tập cuối, tất cả tập phim đều có định dạng tựa đề "The One...".
Mỗi mùa chiếu vào tháng 6, 7 và 8 tại Hoa Kỳ, các nhà sản xuất thường phác thảo câu chuyện cho mùa phim kế tiếp. Trước khi một tập được sản xuất, Kauffman và Crane thường duyệt lại kịch bản của biên kịch khác, chủ yếu nhằm loại bỏ yếu tố sai lệch ở loạt phim hoặc một nhân vật. Tách biệt với những cốt truyện khác, ý tưởng tình cảm giữa Joey và Rachel chỉ mới quyết định ở nửa sau mùa 8. Các nhà sáng lập không muốn Ross và Rachel trở lại với nhau quá sớm và trong lúc tìm kiếm một chướng ngại tình cảm, một biên kịch đề nghị một câu chuyện lãng mạn cùng Joey. Câu chuyện này sáp nhập vào mùa phim; dù vậy, khi các diễn viên sợ câu chuyện sẽ khiến các nhân vật của họ không còn dễ mến nữa, câu chuyện được rút gọn, cho đến khi đề cập lại trong tập kết mùa. Trong mùa phim thứ 9, các biên kịch phân vân về lượng câu chuyện liên quan đến đứa bé của Rachel, khi họ không muốn chương trình tập trung vào đứa bé nhưng cũng không thể ngó lơ nhân vật này. Crane chia sẻ họ phải mất một thời gian để chấp nhận ý tưởng của mùa phim thứ 10, khi họ có vừa đủ câu chuyện để kể trong mùa phim. Kauffman và Crane cũng quyết định không tiếp tục thực hiện mùa phim thứ 11, ngay cả nếu dàn diễn viên có đồng tình đi chăng nữa.
Ghi hình
Mùa phim đầu tiên ghi hình tại Stage 5 ở Warner Bros. Studios, Burbank, California. Ban điều hành NBC cho rằng phối cảnh quán cà phê có thể quá mới mẻ và đề nghị chuyển sang khung cảnh một quán ăn, nhưng sau cùng giữ nguyên bối cảnh gốc. Cảnh quay tiêu đề phim ghi hình tại đài phun nước Warner Bros. Ranch trong tiết trời lạnh giá lúc 4 giờ sáng tại Burbank. Đầu mùa hai, toàn bộ bối cảnh được chuyển sang Stage 24, với diện tích lớn hơn và đổi tên thành "The Friends Stage" sau khi loạt phim kết thúc. Phim bắt đầu ghi hình vào giữa mùa chiếu tháng 6, 7 và 8 ở Hoa Kỳ vào năm 1994, trực tiếp trước khán giả tại trường quay, những người được cung cấp một bản tóm tắt cả loạt phim nhằm hiểu rõ 6 nhân vật chính; một diễn viên hài cũng xuất hiện để pha trò cho khán giả giữa các cảnh quay. Mỗi tập phim dài 22 phút phải mất đến 6 giờ ghi hình—gấp đôi thời lượng quay của hầu hết các phim hài kịch tình huống khác—vì phần lớn phải thực hiện nhiều lần quay và viết lại kịch bản.
Cho dù các nhà sản xuất luôn muốn tìm những câu chuyện phù hợp theo địa điểm thuận lợi trong tiền đề, Những người bạn chưa bao giờ ghi hình tại New York. Bright cảm thấy ghi hình bên ngoài trường quay khiến tập phim mất đi sự hài hước—ngay cả khi nhiều lần ghi hình ngoại cảnh—và cho rằng khán giả trực tiếp là một phần quan trọng của loạt phim. Khi loạt phim bị chỉ trích vì đề cập đến New York một cách không chính xác, với chi tiết nhóm bạn đều gặp khó khăn về tài chính nhưng vẫn thuê những căn hộ lớn, Bright chỉ ra rằng bối cảnh phải đủ lớn cho các máy ghi hình, ánh sáng hoạt động và "cho khán giả có thể chứng kiến những gì đang diễn ra"; và bối cảnh căn hộ cũng phải đủ rộng để các diễn viên thực hiện các kịch bản hài hước. Tập kết mùa thứ 4 ghi hình tại Luân Đôn vì các nhà sản xuất nhận thức được tầm phổ biến của loạt phim tại Anh Quốc. Các cảnh quay ghi hình tại trường quay có 3 cụm khán giả với tổng cộng 500 người ở mỗi cụm, đánh dấu lần sở hữu khán giả đông đảo nhất loạt phim. Tập kết mùa thứ 5, với bối cảnh tại Las Vegas ghi hình tại Warner Bros. Studios.
Trình chiếu
Sau khi tập phim sản xuất đầu tiên vực dậy kỳ vọng của NBC, loạt phim được trình chiếu dưới cái tên Những người bạn vào ngày 22 tháng 9 năm 1994, vào khung giờ 8 giờ 30 phút thứ Năm hàng tuần. Tập phim đầu tiên chiếu giữa hai loạt phim Mad About You và Seinfeld, với gần 22 triệu khán giả Hoa Kỳ theo dõi. Dựa theo những thành công trong thời gian phát sóng, khi nằm trong số những chương trình quan trọng đêm thứ Năm của NBC, Những người bạn được đài xếp vào mục Must See TV. Crane thông báo có khả năng thực hiện mùa phim thứ 9 vào năm 2001, khiến các nhà phê bình tin rằng anh đang giả vờ và sẽ có ít nhất 2 trong số dàn diễn viên chính không trở lại. Khi Những người bạn xác định trở lại ở mùa thứ 9, thông tin đưa ra với mức tiền—trị giá 7 triệu đô-la Mỹ một tập—là yếu tố giúp loạt phim trải qua thêm một mùa nữa.
Sau khi dự kiến mùa phim thứ 9 sẽ là sản phẩm cuối cùng, NBC ký một hợp đồng vào tháng 12 năm 2002 để mang loạt phim trở lại trong mùa 10. Đội ngũ sáng tạo của loạt phim không muốn đàm phán gia hạn cho đến năm sau và muốn bắt đầu sáng tác các tập còn lại của mùa 9 và khả năng mùa 10. NBC đồng ý trả 10 triệu đô-la Mỹ cho hãng Warner Bros. để sản xuất mỗi tập của mùa phim thứ 10, mức giá cao nhất trong lịch sử của bất kỳ một loạt phim truyền hình dài 30 phút nào. Dù NBC không thể mang lại đủ doanh thu từ quảng cáo để bù lại số tiền đã bỏ ra, loạt phim vẫn chiếm trọn lịch chiếu đêm thứ 5, giành tỉ lệ người xem cao lẫn lợi nhuận cho các loạt phim khác. Dàn diễn viên yêu cầu mùa thứ 10 phải giảm từ 24 tập thông thường xuống 18 tập nhằm giúp họ thực hiện những dự án khác.
Tập cuối
Các nhà sáng lập loạt phim hoàn thành bản nháp đầu tiên của tập phim cuối cùng kéo dài 1 tiếng vào tháng 1 năm 2004, tức 4 tháng trước khi công chiếu. Crane, Kauffman và Bright xem những cái kết từ các loạt phim hài kịch tình huống khác để chuẩn bị phác thảo cho tập phim này, đồng thời chú ý đến những gì có hoặc không hiệu quả. Họ cảm mến những cái kết đúng theo tinh thần của loạt phim và gọi tập cuối của The Mary Tyler Moore Show là tiêu chuẩn vàng. Crane, Kauffman và Bright gặp khó khăn trong việc sáng tác tập cuối và dành ra vài ngày suy nghĩ về cảnh cuối cùng mà không viết thành chữ. Họ không muốn thực hiện "thứ gì đó quá sắp đặt hoặc thiếu màu sắc của chương trình." Các phần then chốt của tập cuối được ghi hình mà không có khán giả tại trường quay mà chỉ có một lượng ít đoàn làm phim. Dàn diễn viên yêu thích tập phim cuối và tự tin rằng khán giả hâm mộ cũng sẽ phản ứng tương tự.
Hãng NBC tăng cường quảng bá tập cuối của Những người bạn, với nhiều tuần xuất hiện rộng khắp trên các phương tiện truyền thông trước khi công chiếu ngày 6 tháng 5 năm 2004. Các chi nhánh địa phương của NBC tổ chức nhiều bữa tiệc trình chiếu khắp Hoa Kỳ, bao gồm một sự kiện trình chiếu đặc biệt tập cuối trên màn hình Astrovision ngoài trời tại Universal CityWalk. Tập cuối là chủ đề của hai tập Dateline NBC, một chương trình tạp chí thời sự trên truyền hình, với một tập kéo dài 2 tiếng đồng hồ. Một tập hồi tưởng bao gồm trích đoạn của những tập trước kéo dài 1 tiếng được trình chiếu trước khi phát sóng tập cuối. Sau tập cuối, The Tonight Show with Jay Leno ghi hình tại phim trường quán cà phê Central Perk của Những người bạn, với sự xuất hiện của những diễn viên chính với tư cách khách mời. Mức giá quảng cáo trung bình trong tập cuối đạt mức 2 triệu đô-la Mỹ cho 30 giây quảng cáo, phá vỡ kỷ lục của tập cuối Seinfeld với 1.7 triệu đô-la Mỹ.
Buổi tái ngộ đặc biệt
Ảnh hưởng
Đánh giá chuyên môn
Những đánh giá ban đầu của loạt phim đa số là trung lập và giành số điểm 59/100 trên trang mạng tổng hợp đánh giá Metacritic, dựa trên 20 bình luận mẫu, đồng nghĩa với mức đánh giá trái chiều. Tom Feran từ The Plain Dealer viết rằng loạt phim mang đến trạng thái "mơ hồ và ít thành công hơn phong cách dạo chơi của Seinfeld", trong khi Ann Hodges từ Houston Chronicle cho rằng loạt phim "muốn trở thành một Seinfeld mới nhưng sẽ không bao giờ hài hước như Seinfeld." Trên tờ Los Angeles Daily News, Ray Richmond gọi đây là "một trong những [loạt phim] hài tươi sáng hơn của mùa chiếu mới" và The Los Angeles Times gọi đây "chắc chắn là loạt phim hài xuất sắc nhất của mùa chiếu mới." Ginny Holbert của Chicago Sun-Times cảm thấy đặc điểm nhân vật Joey và Rachel kém phát triển, trong khi Richmond khen ngợi tính "trẻ trung, dễ mến" của dàn diễn viên, cùng nét kết hợp "ăn ý" giữa họ. Robert Bianco từ USA Today gọi Schwimmer "tuyệt vời", đồng thời khen ngợi dàn diễn viên nữ chính nhưng lo lắng vai diễn của Perry "mơ hồ" và LeBlanc "dựa dẫm quá nhiều vào tính cách khờ khạo một cách mệt mỏi mà anh từng hai lần thử sức." Tác giả cuốn Friends Like Us: The Unofficial Guide to Friends cho rằng dàn diễn viên "cố gắng hơi quá sức", đặc biệt ở Perry và Schwimmer.
Theo tiến triển của loạt phim, các đánh giá dần trở nên tích cực và sau cùng biến Những người bạn trở thành một trong những loạt phim hài kịch tình huống xuất sắc nhất thời đại. Các nhà phê bình khen ngợi loạt phim bởi kịch bản mang tính kiên định và sắc bén cũng như sự hợp tác ăn ý giữa các diễn viên chính. Noel Holston từ Newsday, người từng nhận xét tập phim đầu tiên "giống như muốn trở thành Seinfeld" vào năm 1994, đã bác bỏ bài đánh giá trên sau khi xem lại tập phim và cảm thấy như viết lời xin lỗi đến dàn biên kịch. Heather Havrilesky từ trang mạng Salon cho rằng loạt phim "sải bước tiến" trong mùa thứ 2, với các câu đùa cợt của từng nhân vật và các tình huống "chắc chắn có thể khiến bạn cười vang một vài lần ở mỗi tập" và chất lượng kịch bản cho phép loạt phim trở nên "độc đáo và cải tiến." Bill Carter của The New York Times gọi mùa phim thứ 8 là "sự trở lại vô cùng kinh ngạc", cảm thấy loạt phim "tạo nên những câu chuyện mới hấp dẫn và những tiếng cười lớn" và khen ngợi cách mà phim tìm được lối "trở về trái tim của những người hâm mộ." Liane Bonin từ Entertainment Weekly tuy cảm thấy chiều hướng của mùa 9 "thất vọng tràn trề" và chỉ trích sự xuất hiện của hàng loạt các khách mời là người nổi tiếng, nhưng cho rằng "phần sáng tác vẫn còn nhạy bén." Havrilesky gọi mùa phim cuối cùng "tồi tệ một cách đáng lo ngại, dở hơn những gì mà bạn có thể hình dung ở một chương trình đã từng vô cùng xuất sắc".
Các đánh giá về tập phim cuối cùng chủ yếu là trái chiều. Robert Bianco của USA Today mỏ tả nét giải trí và thỏa mãn của tập phim và khen ngợi sự dung hòa khéo léo giữa cảm xúc và hài hước trong khi đề bật mỗi nhân vật chính. Sarah Rodman của Boston Herald khen ngợi diễn xuất của Aniston và Schwimmer, nhưng cảm thấy cuộc sum họp của các nhân vật "đôi chút quá ngắn gọn, cho dù đó là những gì mà hầu hết những người hâm mộ trung thành của loạt phim mong muốn." Roger Catlin của Hartford Courant cảm thấy những người mới xem loạt phim có thể sẽ "bất ngờ với sự nhạt nhẽo của tập phim và cách mà mọi câu nói đùa gượng gạo tùy thuộc vào sự đỉnh điểm khờ khạo của nhân vật." Ken Parish Perkins trên tờ Fort Worth Star-Telegram cho rằng tập phim "cảm động nhiều hơn hài hước, thỏa mãn hơn trong việc kết thúc hơn là buồn cười thả ga." Theo sau tập cuối cùng của Những người bạn và Frasier, nhiều nhà phê bình dự đoán về số phận của thể loại phim hài kịch tình huống. Các ý kiến trải dài từ dấu hiệu của việc chấm dứt dòng phim hài kịch tình huống, một sự suy giảm nhỏ trong lịch sử của thể loại này và khả năng bị từ chối của truyền hình kịch bản khi dòng chương trình thực tế bắt đầu lên ngôi.
Giải thưởng
Để duy trì định dạng tập thể của loạt phim, dàn diễn viên chính quyết định gia nhập vào cùng một hạng mục diễn xuất tại các giải thưởng. Bắt đầu từ mùa thứ 8, các diễn viên quyết định đệ trình vào bảng đề cử diễn viên chính thay vì ở bảng diễn viên phụ. Loạt phim giành đề cử cho tổng cộng 62 giải Primetime Emmy, giành tổng cộng 6 giải. Trong dàn diễn viên chính, duy chỉ có Aniston và Kudrow là giành giải Emmy, trong khi Cox là diễn viên duy nhất không được đề cử. Loạt phim giành giải Primetime Emmy cho "Loạt phim hài nổi bật" vào năm 2002, với các đề cử diễn ra vào năm 1995, 1996, 1999, 2000 và 2003. Loạt phim còn giành 1 giải American Comedy, 1 giải GLAAD Media, 1 giải Quả cầu vàng, 2 giải Logie, 6 giải Sự lựa chọn của Công chúng, 1 giải Satellite và 1 giải Screen Actors Guild Award.
Những người bạn còn được ghi danh trong nhiều danh sách phim truyền hình xuất sắc nhất bởi các nhà phê bình. Phim xuất hiện trong danh sách "100 chương trình truyền hình xuất sắc nhất mọi thời đại" của tạp chí Time. Trong khi tạp chí Empire xếp phim vào danh sách "50 tập phim xuất sắc nhất mọi thời đại", Hiệp hội tác giả Hoa Kỳ cũng vinh danh phim trong "101 chương trình sáng tác xuất sắc nhất" vào năm 2012. Một cuộc bình chọn do 60 Minutes và Vanity Fair tổ chức xướng danh Những người bạn là loạt phim hài kịch tình huống xuất sắc nhất mọi thời đại.
Vào năm 1997, tập "The One with the Prom Video" lọt vào danh sách "100 tập phim xuất sắc nhất mọi thời đại" của TV Guide. Cũng do trang TV Guide bình chọn, loạt phim còn xếp lần lượt ở vị trí thứ 21 trong danh sách "50 chương trình truyền hình vĩ đại nhất mọi thời đại" và vị trí thứ 28 trong danh sách "60 chương trình truyền hình sáng tác xuất sắc nhất mọi thời đại" vào năm 1997. Đọc giả của trang này còn bình chọn dàn diễn viên của Những người bạn là "Dàn diễn viên phim hài xuất sắc nhất mọi thời đại" với 29% phiếu, vượt mặt Seinfeld với 18% phiếu.
Tỉ lệ người xem
Bảng dưới đây chỉ về tỉ lệ người xem của Những người bạn tại Hoa Kỳ, nơi loạt phim này luôn nằm trong top 10 tỉ lệ người xem truyền hình cuối cùng. Cột "Xếp hạng" chỉ lượng người xem Những người bạn khi so sánh với các loạt phim truyền hình khác trình chiếu trong cùng một khung giờ vàng theo mùa chiếu. Mùa chiếu truyền hình thường bắt đầu vào tháng 9 hàng năm và kết thúc vào tháng 5 kế tiếp, trùng với đợt tổng sắp vào tháng 5 của Nielsen. Cột "Khán giả" cho thấy lượng khán giả cho tất cả tập và mùa phim trình chiếu theo mùa thuộc khung giờ của chương trình. Các cột "Tập đầu mùa" và "Tập kết mùa" biểu thị ngày tháng trình chiếu các tập tương ứng theo mùa phim.
Tập phim đầu tiên trình chiếu trên kênh NBC vào ngày 22 tháng 9 năm 1994 từ 8 giờ 30 đến 9 giờ tối, là chương trình được xem nhiều thứ 15 trong tuần, đạt tỉ lệ người xem 14.7/23 từ Nielsen (mỗi điểm đại diện cho 954.000 căn hộ) và gần 22 triệu người xem. Trong khi đó, có 52.5 triệu người theo dõi tập phim cuối cùng vào ngày 6 tháng 5 năm 2004, trở thành chương trình giải trí được theo dõi nhiều nhất kể từ tập cuối Seinfeld vào năm 1998. Đây còn là tập phim cuối xem nhiều thứ 4 trong lịch sử truyền hình, chỉ đứng sau M*A*S*H, Cheers và Seinfeld, lần lượt theo dõi bởi 105, 80.4 và 76.2 triệu người xem. Tập phim hồi tưởng trước đó thu hút 36 triệu khán giả và tập cuối là chương trình truyền hình được xem nhiều thứ hai trong năm, chỉ đứng sau giải đấu Super Bowl. Trong toàn bộ loạt phim, tập theo dõi nhiều nhất là "The One After the Superbowl" với tổng cộng 52.9 triệu khán giả theo dõi sau khi trận Super Bowl kết thúc, thu về 29.5 tỉ lệ Nielsen và 47% cổ phần khán giả, trở thành tập phim hài kịch tình huống mở đầu sau trận SuperBowl có tỉ lệ theo dõi cao nhất.
Ảnh hưởng văn hóa
Cho dù các nhà sản xuất nghĩ Những người bạn "chỉ là một chương trình truyền hình", nhiều nhà tâm lý học đã chỉ ra những ảnh hưởng văn hóa bắt nguồn từ thời gian trình chiếu loạt phim. Kiểu tóc của Aniston được gọi bằng tên "The Rachel" và sao chép rộng rãi trên toàn thế giới. Câu cửa miệng của Joey, "How you doin'?" trở thành một phần phổ biến của tiếng lóng vùng Tây Hoa Kỳ, thường sử dụng để mở lời hoặc chào bạn bè. Loạt phim còn ảnh hưởng đến ngôn ngữ tiếng Anh, với một nghiên cứu của Đại học Toronto cho thấy các nhân vật thường dùng cụm từ "so" để chỉnh sửa các tính từ thường xuyên hơn bất cứ từ nhấn mạnh nào. Cho dù người bản xứ đã dùng kỹ thuật này vào thời điểm chiếu, việc sử dụng trong loạt phim có thể đã gia tăng sự thay đổi. Thói quen bỏ ngỏ kết thúc của một câu nhằm mục đích mỉa mai của Perry cũng ảnh hưởng đến lời nói của người xem. Theo sau Sự kiện 11 tháng 9, tỉ lệ người xem tăng 17% so với mùa phim trước.
Những người bạn được nhại lại trong tập "Murder Among Friends" của Murder, She Wrote mùa thứ 12. Trong tập phim, trinh thám nghiệp dư Jessica Fletcher (Angela Lansbury) điều tra vụ án mạng của tác giả Buds, một loạt phim truyền hình hư cấu về đời sống thường ngày của một nhóm bạn thành phố. Tập phim lấy cảm hứng sau khi CBS dời Murder, She Wrote từ khung giờ đêm Chủ Nhật sang đêm thứ Năm, đối diện trực tiếp với Những người bạn trên NBC; Bruce Lansbury trích dẫn lời của Angela Lansbury, khi "bày tỏ đôi chút thái độ" về việc dời chương trình vào ngày thứ Năm, nhưng anh thấy nội dung tập phim "dàn dựng thân thiện, không mang không khí ích kỷ." Jerry Ludwig, biên kịch của tập phim, nghiên cứu "gia vị" của Buds bằng việc theo dõi các tập phim Những người bạn.
Quán cà phê Central Perk, một trong những bối cảnh chính trong loạt phim, gây cảm hứng cho nhiều nơi mô phỏng trên toàn cầu. Vào năm 2006, một doanh nhân người Iran khởi động một chuỗi quán Central Perk và đăng ký cái tên này ở 32 quốc gia. Nội thất của chuỗi quán lấy cảm hứng bởi loạt phim Những người bạn, với James Michael Tyler, người vào vai quản lý của Central Perk trong loạt phim, Gunther, cũng đến lễ khánh thành quán cà phê tại Dubai, nơi anh làm việc như một bồi bàn. Từ ngày 24 tháng 9 đến 7 tháng 10 năm 2009, một bản sao của Central Perk xuất hiện tại Đường Broadwick, Soho, Luân Đôn. Quán bán cà phê thật cho khách hàng, trưng bày các kỷ vật và đạo cụ của Những người bạn, như chiếc Cúp Geller từ tập "The One with the Football". Central Perk được tái tạo như một phần của bảo tàng trưng bày tại Warner Bros. Studios và cho thấy trên chương trình The Ellen DeGeneres Show vào tháng 10 năm 2008, cũng là lúc Jennifer Aniston đến thăm lại trường quay kể từ tập cuối vào năm 2004.
Những người bạn còn phát triển lối sống gia đình luân phiên bằng việc đại diện cho những người trẻ có đời sống gia đình khác biệt. Phim đưa ra ý tưởng "mọi điều bạn cần là những người bạn tốt", có thể xây dựng một mái ấm thông qua lựa chọn, thể hiện lối sống mới và phát triển tình bạn mà ta không được thường xuyên chứng kiến trong xã hội thông thường. Theo chuyên gia văn hóa đại chúng tại Đại học Buffalo, Những người bạn là "một trong những chương trình hiếm có đánh dấu sự thay đổi trong văn hóa Mỹ". Cùng với Sex and the City, Những người bạn từng bị chỉ trích bởi "tính quyến rũ hóa tình dục, trong khi ít đề cập đến các tác hại như mang thai hoặc bệnh tình dục" đến đối tượng khán giả vị thành niên. Trang The Guardian khẳng định Những người bạn có những ảnh hưởng lớn đến nhiều loạt phim truyền hình khác, đơn cử như How I Met Your Mother, một loạt phim hài kịch tình huống khác lấy bối cảnh tại Manhattan, với một nhóm bạn trưởng thành và có nét tương đồng giữa các nhân vật.
Phân phối
Phát lại
Vào mùa thu năm 2001, Warner Bros. Domestic Cable thỏa thuận cùng hãng phim TBS (cả hai đều do Time Warner sở hữu) để cung cấp phim trình chiếu lại. Warner Bros. Domestic Cable thông báo đã nhượng lại quyền cáp phụ của Những người bạn cho Nick at Nite. Warner Bros. ước tính thu về 200 triệu đô-la Mỹ từ phí cấp phép và hợp đồng quảng cáo. Nick at Nite phải trả 500.000 đô-la Mỹ cho mỗi tập trình chiếu sau 6 giờ tối trong thời gian 6 năm, kéo dài đến mùa thu năm 2017. TBS cũng tái hợp đồng với thời gian 6 năm trình chiếu giống như Nick at Nite nhưng chỉ trả 275.000 đô-la Mỹ vì trình chiếu giới hạn trước 6 giờ tối, ngoại trừ năm đầu tiên. Tính đến năm 2005, Những người bạn đã thu về 4 triệu đô-la Mỹ mỗi tập phim trong tổng số phí cấp phép 944 triệu đô-la Mỹ tiền mặt.
Ngày 5 tháng 3 năm 2012, phiên bản định dạng cao của toàn bộ 236 tập phim Những người bạn phát hành tại các trạm truyền hình địa phương, bắt đầu bằng tập phim đầu tiên. Với các tập phim phục hồi, Warner Bros. khôi phục lại những hình ảnh được cắt bên góc trái và phải màn hình, sử dụng nguồn phim gốc 35mm để trình chiếu dưới dạng màn hình rộng 16:9. Các tập phục hồi ra mắt tại New Zealand trên hệ thống TV2 từ tháng 1 năm 2011. Netflix bổ sung toàn bộ 10 mùa phim của Những người bạn theo định dạng cao vào hệ thống truyền dữ liệu của họ tại Hoa Kỳ vào ngày 1 tháng 1 năm 2015.
Quốc tế
Những người bạn bắt đầu trình chiếu tại Anh Quốc vào năm 1994 trên Channel 4; dù vậy, năm 1996, Sky1 đã mua lại bản quyền loạt phim này. Dù Channel 4 tiếp tục chiếu vài tuần sau khi Sky1 bắt đầu phát sóng, đây vẫn là một trong những loạt phim ăn khách nhất của đài, với trung bình 2.6 triệu lượt xem mỗi tập. Năm 1999, Channel 4 ký hợp đồng 100 triệu bảng Anh để giành lại quyền chiếu Những người bạn và ER từ Sky1. Hợp đồng 3 năm cho phép Channel 4 chiếu trước những tập phim mới tại Anh Quốc và đàm phán trình chiếu trên truyền hình trả phí cùng các hãng truyền hình khác của Anh Quốc. Tập phim cuối có trung bình 8.6 triệu người xem—nhiều hơn 1/3 khán giả Anh Quốc vào thời điểm đó—và đạt mốc 8.9 triệu khán giả. Đây là lượng người xem cao nhất của Những người bạn, đánh bật tập phim tháng 6 năm 2002 với 6.5 triệu lượt xem. Những lần chiếu lại của phim tại Anh Quốc xuất hiện trên Channel 4, E4 và Comedy Central UK.
Kênh truyền hình Ireland RTÉ Two là nơi đầu tiên tại châu Âu chiếu tập cuối vào ngày 24 tháng 5 năm 2004. Những người bạn mở đầu trên sóng truyền hình Úc vào năm 1996 trên Seven Network, khi bắt đầu chiếu mùa phim thứ hai vào năm 1997 cho đến tập cuối vào năm 2004. Network Ten thông báo vào tháng 11 năm 2007 đã mua lại bản quyền trình chiếu phim tại Úc, phát sóng vào các đêm hàng tuần lúc 7 giờ tối. Chương trình sau đó xuất hiện trên Nine Network, Network Ten, GEM và trên truyền hình trả phí TV Hits, 111 Hits. TV2 chiếu trọn 10 mùa phim tại New Zealand và tiếp tục chiếu lại. Tại Serbia, chương trình ban đầu trình chiếu trên RTV Pink, sau đó chuyển sang kênh B92.
Vào năm 2003, một hãng phát hành phim Hàn Quốc tại Việt Nam từng đàm phán mua lại loạt phim này nhưng do phí bản quyền quá cao nên chào thua. Vào tháng 9 năm 2004, Đài truyền hình Việt Nam công chiếu 48 tập trong mùa 7 và 8 của Những người bạn trên kênh VTV3. Loạt phim phát lúc 18 giờ hàng ngày và thuyết minh tiếng Việt. Việc chiếu giữa chừng của đài nhận nhiều phản hồi gay gắt, khi "khiến người xem rất khó nắm bắt được nội dung câu chuyện, các mối quan hệ và nghề nghiệp của các nhân vật, dù [...] đã phát sóng hơn 10 tập. Thậm chí, vì chiếu lưng chừng nên người dịch cũng khó nắm bắt được câu chuyện, dẫn đến việc dịch phim gặp nhiều sơ suất".
Sản phẩm
Tất cả 10 mùa phim đều phát hành dưới dạng DVD riêng lẻ và dưới dạng bộ đĩa. Mỗi mùa phát hành tại khu vực 1 bao gồm các cảnh đặc biệt và tư liệu cắt từ loạt phim, dù trình chiếu gốc khi phát hành tại Khu vực 2. Trong mùa đầu, mỗi tập được cải tiến chỉnh màu và tăng cường âm thanh. Một lượng lớn các sản phẩm của Những người bạn được nhiều công ty sản xuất. Vào tháng 9 năm 1995, WEA Records phát hành album nhạc của Những người bạn đầu tiên, Friends Original TV Soundtrack, bao gồm âm nhạc sử dụng trong các tập đã thực hiện và trong tương lai. Nhạc phim mở đầu trên Billboard 200 tại vị trí thứ 46, và bán ra 500.000 bản trong tháng 11 năm 1995. Năm 1999, album nhạc phim thứ hai Friends Again ra mắt. Các sản phẩm nhượng quyền khác bao gồm phiên bản tiếng Pháp của DVD trò chơi "Scene It?" và video trò chơi câu đố trên PlayStation 2 và PC mang tựa đề Friends: The One with All the Trivia. Vào ngày 28 tháng 9 năm 2009, một bộ đĩa phát hành tại Anh Quốc nhân kỉ niệm 15 năm của loạt phim, với những tập bổ sung, một tập hướng dẫn và nội dung đặc biệt. Warner Home Video phát hành trọn bộ loạt phim dưới định dạng Blu-ray vào ngày 13 tháng 11 năm 2012.
Bài hát dạo đầu
Vì mong muốn có một ban nhạc thực thụ thực hiện bài hát dạo đầu cho chương trình, Bright đưa ra nhiều cái tên như Natalie Merchant hay Michael Stipe từ nhóm R.E.M. nhưng cả hai đều từ chối. Là một người hâm mộ của The Rembrandts, Bright gọi đến quản lý của nhóm cùng nhã ý muốn hợp tác và nhóm đồng ý ngay lập tức. Dù The Rembrandts thường hay sáng tác âm nhạc của mình, họ lại có ít đóng góp trong bài hát "I'll Be There for You" cho Những người bạn. Đạo diễn âm nhạc Michael Skloff là người nghĩ ra giai điệu, trong khi Allee Willis cùng Kauffman và Crane sáng tác lời một đoạn nhạc 30 giây và phần điệp khúc. Danny Wilde từ nhóm The Rembrandts chia sẻ "Chúng tôi chỉ chỉnh lại đôi chút lời nhạc, Phil nghĩ ra đoạn guitar trứ danh đầu bài hát và chúng tôi trở lại vài ngày sau đó để thu âm phần thân và điệp khúc." Quá trình thực hiện diễn ra trong vòng 3 ngày.
Trong thời gian bài hát lên sóng cùng chương trình trong mùa 1, The Rembrandts không được xuất hiện trong phần ghi danh. Từ khi loạt phim trở nên nổi tiếng, các đài phát thanh Hoa Kỳ nhận nhiều yêu cầu phát "nhạc nền phim Những người bạn", tuy bài hát chỉ dài có vỏn vẹn 40 giây và không đủ để phát hành làm một đĩa đơn. Sau khi các DJ tại trạm phát thanh Nashville phối bài hát thành một phiên bản bổ sung của riêng mình, hãng thu âm đã đề nghị nhóm đến thu âm bài hát dưới dạng đĩa đơn đầy đủ tại một phòng thu tại Los Angeles. Từ khi phát hành làm đĩa đơn, "I'll Be There for You" đạt đến vị trí thứ 17 trên Billboard Hot 100 và giữ ngôi quán quân trên các bảng xếp hạng Hoa Kỳ trong 11 tuần liên tiếp. Bài hát tiếp tục được hãng thu âm đưa vào album phòng thu thứ 3 đạt chứng nhận Bạch kim của nhóm, L.P. (1995).
Ngoại truyện
Joey
Sau tập cuối vào năm 2004, LeBlanc ký hợp đồng cho loạt phim ngoại truyện Joey, theo chân nhân vật Joey đến Los Angeles để theo đuổi nghiệp diễn viên. Kauffman và Crane không có hứng thú với phiên bản ngoại truyện, dù Bright đồng ý đồng sản xuất loạt phim cùng Scott Silveri và Shana Goldberg-Meehan. NBC tăng cường quảng bá cho Joey và đưa phim vào khung giờ cũ vào lúc 8 giờ của Những người bạn. Tập phim đầu tiên theo dõi bởi 18.60 triệu khán giả, nhưng tỉ lệ người xem tiếp tục giảm trong hai mùa phim, với trung bình 10.20 triệu người xem trong mùa đầu và 7.10 triệu người xem trong mùa cuối. Tập cuối của phim chiếu vào ngày 7 tháng 3 năm 2006 với 7.09 triệu khán giả; và bị NBC dừng phát sóng vào ngày 15 tháng 5 năm 2006 chỉ sau 2 mùa. Bright đổ lỗi cho sự hợp tác giữa nhân viên NBC, xưởng phim và các nhà sản xuất vì sớm phá hủy loạt phim:
Dự án phim
Sau khi kết thúc tập cuối, nhiều tin đồn nổi lên về một bộ phim điện ảnh Những người bạn, cho dù chúng đều được chứng minh là sai. Tin đồn về một bộ phim quay trở lại sau khi Sex and the City phát hành vào năm 2008 và đạt thành công về thương mại. Tờ The Daily Telegraph loan tin các diễn viên chính đã đồng tình tham gia vào dự án điện ảnh vào năm 2008 và dự kiến bấm máy trong vòng 18 tháng tới. Khi được hỏi về bộ phim, Kudrow chia sẻ mình không để ý đến câu chuyện nhưng cảm thấy ý tưởng trên rất thú vị. Đạo diễn công khai của hãng Warner Bros., Jayne Trotman, cho rằng "câu chuyện này không đáng tin", và nữ đại diện cho Perry phát biểu rằng "không có điều gì diễn ra như thế, vậy nên tin đồn là sai sự thật." Nhà đồng sáng lập Marta Kauffman chối bỏ những tin đồn tái hợp vào năm 2003, cho rằng "Những người bạn nói về thời gian khi bạn bè là gia đình của bạn và một khi đã có gia đình, ta không cần đến nó nữa." Kudrow và Cox chia sẻ cùng Associated Press vào tháng 1 năm 2010 rằng họ chưa hề tìm đến Crane và Kauffman để thực hiện phiên bản điện ảnh của loạt phim. Đến đầu năm 2020, lần lượt 6 diến viên thủ vai chính trong bộ phim đăng hình ảnh phim trên mạng xã hội với chú thích: "It's happening." (dịch: "Chuyện ấy đang xảy ra.") (riêng LeBlanc lại đăng một bức ảnh khác với ý nghĩa đùa vui) và tag tên nhà đài hiện đang sở hữu bản quyền Những người bạn trực tuyến là HBO Max, làm nhiều người hâm mộ tin rằng sẽ có một phiên bản tái hợp của các thành viên trong tương lai gần. |
Phủ Tây Hồ là một ngôi đền thờ công chúa Liễu Hạnh nằm tại thủ đô Hà Nội của Việt Nam, theo truyền thuyết, phủ được xây dựng vào khoảng thế kỷ 17.
Ngôi đền tọa lạc tại bán đảo lớn của làng Nghi Tàm, nhô ra giữa Hồ Tây, ở số 52 phố Đặng Thai Mai, phường Quảng An, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. Theo truyền thuyết, phủ được xây dựng vào khoảng thế kỷ 17 nhưng có thể có muộn hơn. Vì trong các sách nói về di tích của Thăng Long - Hà Nội cổ ra đời đầu thế kỷ 20 như Thăng Long cổ tích khảo, Long Biên bách nhị vịnh, Tây Hồ chí, Hà Thành linh tích cổ lục,...đều không ghi chép về di tích này.
Phủ Tây Hồ đã được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) cấp bằng di tích Lịch sử-Văn hóa ngày 13 tháng 2 năm 1996. Ngoài ra, tại sân phủ có một cây si cổ thụ cũng đã được công nhận là "cây di sản Việt Nam", và ở kề bên phủ còn có đền Kim Ngưu thờ Trâu Vàng theo truyền thuyết.
Ngày nay, Phủ Tây Hồ mở hội vào 2 ngày lễ chính là mùng 3 tháng 3 âm lịch và 13 tháng 8 âm lịch.
Xuất xứ
Tục truyền rằng Liễu Hạnh là Quỳnh Hoa - con gái thứ hai của Ngọc Hoàng, bị đày xuống trần gian vì tội làm vỡ cái ly ngọc quý. Xuống hạ giới, nàng chu du, khám phá khắp mọi miền, qua đảo Tây Hồ dừng lại, phát hiện ra đây là nơi địa linh sơn thủy hữu tình, bèn lưu lại mở quán nước làm cớ vui thú văn chương giữa thiên nhiên huyền diệu.
Người tiên nữ ấy đã ngang dọc một trời giúp dân an cư lập nghiệp, diệt trừ ma quái, trừng phạt tham quan. Đến triều Nguyễn bà được nhà vua phong "mẫu nghi thiên hạ", là một trong bốn vị thần "Tứ bất tử" của Việt Nam.
Trạng nguyên Phùng Khắc Khoan trong lần đi thuyền dạo chơi trên hồ, thấy cảnh đẹp, bèn ghé vào quán Tiên chúa. Tâm đầu ý hợp, họ cùng vịnh bài thơ "Tây Hồ ngự quán" mà nay vẫn còn lưu truyền mãi. Tiên chúa ở đây trong bao lâu không ai biết, chỉ biết khi Phùng Khắc Khoan trở lại tìm thì không còn. Để nguôi ngoai nỗi nhớ, ông cho lập đền thờ người tri âm.
Kiến trúc
Tam quan vào cổng Phủ Tây Hồ đắp đao lửa, mái làm giả ngói ống, dưới diềm khắc 4 chữ Hán "Phong đài nguyệt các" (Đài gió gác trăng), câu đối hai bên trụ nói về sự tích Phùng Khắc Khoan gặp Liễu Hạnh. Qua cổng Tam Quan là sân phủ rộng rãi chạy sát hồ nước. Trong sân phía bên trái có lầu Cậu, phía bên phải có lầu Cô, tả dương hữu âm, tả phù hữu bật. Phủ chính có quy mô kiến trúc lớn, mặt trước Phủ có cửa tam quan 2 tầng, mái giữa có ghi "Tây Hồ hiển tích" (Dấu để Tây Hồ). Bốn cánh cửa giữa phần trên chạm tứ quý, phần dưới chạm tứ linh, giữa chạm đào thọ. Qua tam quan là phương đình 2 tầng, 8 mái. Nhà tiền tế, hậu cung xây sát sau phương đình; Kế đến là Điện Sơn Trang 3 tầng, 8 mái cong, lòng nhà có 2 tầng, tầng trên thờ Quan Âm, tầng dưới là 3 động Sơn Trang chiếm 3 gian; khu nhà khách, lầu Cô, lầu Cậu…. Phía sau hiên tam quan là tiền đường. Tiền đường có kiến trúc theo kiểu phúc ốc trùng thiềm, tám mái cao vút lên như một vọng lâu. Đây là lối kiến trúc lâu quán của Đạo giáo, cư cao lâm hạ quan sát tứ phương. Phía ngoài tiền đường, ở trên cao là điện thờ Ngọc Hoàng Thượng đế. Sau tiền đường là trung đường xây ba gian đơn giản, tường hồi bít dốc, chắc khỏe. Chính giữa là ban thờ Tam Vị Thánh Mẫu bằng bài vị. Phía bên tả treo quả chuông lớn, phía bên hữu treo chiếc trống lớn theo đúng quy tắc tả dương hữu âm, tả chung hữu cổ. Nơi tôn nghiêm nhất của phủ Tây Hồ là mật cung – cung cấm. Mật cung xây hai gian thờ dọc, kiến trúc theo kiểu phúc ốc trùng thềm, thấp hơn so với trung đường và bái đường, tạo cảm giác ấm cúng thần bí, theo quy luật âm dương của kiến trúc tiền tôn hậu ty, tiền động hậu tĩnh, tiền náo nhiệt hậu tĩnh túc. |
Nguyễn Minh Triết (sinh ngày 8 tháng 10 năm 1942) là nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ năm 2006 cho đến năm 2011. Trước khi trở thành Chủ tịch nước, ông là Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, một chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị tại Việt Nam. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X vào cuối tháng 3 năm 2006, trong danh sách Bộ Chính trị, ông đứng thứ 4 (sau các ông Nông Đức Mạnh, Lê Hồng Anh và Nguyễn Tấn Dũng). Trước đó 5 năm, tại Đại hội Đảng lần thứ IX, trong danh sách Bộ Chính trị, ông cũng đứng thứ 4 sau các ông Nông Đức Mạnh, Trần Đức Lương và Phan Văn Khải.
Tiểu sử và sự nghiệp ban đầu
Ông sinh 8 tháng 10 năm 1942 tại Phú An, Bến Cát, Bình Dương, Việt Nam, trong một gia đình nông dân trung lưu. Năm 1957, ông lên Sài Gòn, theo học tại trường Trung học Petrus Ký, một trường trung học có tiếng thời bấy giờ.
Sau khi tốt nghiệp Tú tài năm 1960, ông theo học khoa Toán trường Đại học Khoa học Sài Gòn. Tại đây, ông bắt đầu tham gia phong trào sinh viên, học sinh Sài Gòn chống chính quyền Ngô Đình Diệm, nằm vùng ở Sài Gòn, gia nhập Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng miền Nam, một tổ chức thanh niên bí mật do Trung ương Cục miền Nam lãnh đạo.
Tháng 11 năm 1963, ông thoát ly ra chiến khu, công tác ở Khu Sài Gòn - Gia Định. Sau đó ông công tác văn thư kế toán, cán bộ nghiên cứu tại Trung ương Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng (Ban thanh vận Trung ương Cục miền Nam). Ngày 30 tháng 3 năm 1965, ông được kết nạp vào Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam với bí danh Trần Phong còn gọi là Sáu Phong, được cử làm Bí thư Đoàn thanh niên Cơ quan Trung ương Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng miền Nam, Thường vụ Đoàn thanh niên các cơ quan Trung ương Cục miền Nam; và đi công tác chiến trường tại tỉnh Mỹ Tho cho đến năm 1973.
Từ năm 1974 đến tháng 8 năm 1979, ông làm Phó Văn phòng Trung ương Đoàn; Phó Ban thanh niên xung phong Trung ương Đoàn. Tháng 9 năm 1979, ông được cử đi học tại trường Đảng Nguyễn Ái Quốc và tốt nghiệp Cử nhân ngành Lý luận chính trị tháng 7 năm 1981.
Từ tháng 7 năm 1981 đến tháng 12 năm 1987, ông lần lượt giữ các chức vụ Trưởng ban Thanh niên xung phong Trung ương Đoàn; rồi Trưởng ban Mặt trận Trung ương Đoàn; Bí thư Đảng ủy cơ quan Trung ương Đoàn tại Thành phố Hồ Chí Minh; Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đoàn; Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam.
Sự nghiệp chính trị ở phía nam
Tháng 1 năm 1988 đến tháng 9 năm 1989, ông được điều động bổ sung làm Tỉnh ủy viên Tỉnh ủy tỉnh Sông Bé. Tháng 10 năm 1989 đến tháng 12 năm 1991, ông được cử làm Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy tỉnh Sông Bé sau này là tỉnh Bình Dương và Bình Phước. Trong những năm đầu tiến hành đổi mới kinh tế, Bình Dương và Thành phố Hồ chí Minh là những nơi có tốc độ tăng trưởng nhanh, thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra vào tháng 6 năm 1991, ông được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, giữ chức Ủy viên Trung ương Đảng. Tại đại hội này, ông chính thức dùng lại tên khai sinh là Nguyễn Minh Triết. Tháng 12 năm 1991, ông được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Sông Bé và giữ chức vụ này cho đến tháng 12 năm 1996.
Tháng 7 năm 1992, ông được bầu làm Đại biểu Quốc hội khóa IX với tư cách đại biểu của tỉnh Sông Bé. Sau đó, tháng 6 năm 1996, ông tái đắc cử chức vụ Ủy viên Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng.
Tháng 1 năm 1997, ông được điều động vào chức vụ Phó Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. Lúc này, Bí thư Thành ủy là ông Trương Tấn Sang, Ủy viên Bộ Chính trị. Đến tháng 12 cùng năm, tại Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung ương Khóa VIII, ông cùng với các ông Nguyễn Phú Trọng, Phan Diễn, Phạm Thanh Ngân được bầu bổ sung vào Bộ Chính trị. Ông được phân công trách nhiệm là Trưởng ban dân vận Trung ương. Sau khi ông chuyển công tác khác, lần lượt ông Trương Quang Được và bà Tòng Thị Phóng, Hà Thị Khiết được phân công nắm giữ chức vụ này sau đại hội 9.
Tháng 1 năm 2000, ông được điều động vào chức vụ Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, ông được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng và được Trung ương bầu vào Bộ Chính trị (tháng 4 năm 2001). Tháng 5 năm 2002, ông một lần nữa được bầu làm Đại biểu Quốc hội Khóa XI, tuy nhiên với tư cách đại biểu của Thành phố Hồ Chí Minh. Tháng 4 năm 2006, ông tái đắc cử chức vụ Ủy viên Bộ Chính trị khóa X
Chủ tịch nước (2006–2011)
Đắc cử Chủ tịch nước
Ngày 27 tháng 6 năm 2006, ông được Quốc hội kỳ họp thứ 9 khóa XI bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sau khi ông Trần Đức Lương từ chức với số phiếu cụ thể là: 464 ĐBQH thông qua; 3 ý kiến không tán thành, 3 ý kiến không biểu quyết. Kết quả bầu cử được công bố sau đó: ông Nguyễn Minh Triết chính thức trở thành tân Chủ tịch nước với 94,12% phiếu thuận (464 Đại biểu). Ngày 24 tháng 7 năm 2007, ông đã tái đắc cử chức vụ này với 487/490 đại biểu tán thành chiếm 98,78%.
Hội nghị APEC tại Việt Nam năm 2006
Chuẩn bị
Nhận thức được tầm quan trọng của việc đăng cai Năm APEC 2006, Việt Nam đã nỗ lực chuẩn bị các vấn đề về tổ chức, nội dung, cơ sở vật chất, hậu cần liên quan.
Ngày 5 tháng 8 năm 2005, Ủy ban Quốc gia về APEC 2006 được thành lập do Phó Thủ tướng Vũ Khoan làm Chủ tịch. Hai Phó Chủ tịch là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Dy Niên và Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển cùng với 28 ủy viên. Ủy ban Quốc gia về APEC 2006 gồm 5 tiểu ban: Nội dung, Vật chất - Hậu cần, An ninh, Văn hóa - Tuyên truyền và Lễ tân.
Ban Thư ký APEC Việt Nam 2006 do Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Lê Công Phụng, đồng thời là Chủ tịch Hội nghị Quan chức cấp cao APEC (SOM) làm Trưởng ban. Ban Thư ký có nhiệm vụ giúp việc cho Ủy ban Quốc gia và điều hành công việc hàng ngày, bao gồm hai đơn vị trực thuộc là Văn phòng Chủ tịch SOM và Nhóm Task Force.
Sự kiện
Tối 18 tháng 11, Nguyễn Minh Triết và Phu nhân Chủ tịch đã mở Dạ tiệc Gala Dinner chiêu đãi các nhà Lãnh đạo Kinh tế APEC lần thứ 14 cùng Phu nhân, Phu quân và các quan chức dự Hội nghị.
Sau hai phiên họp kín ngày 18 và 19-11 tại Trung tâm Hội nghị quốc gia với chủ đề “Hướng tới một cộng đồng năng động vì phát triển bền vững và thịnh vượng” do Việt Nam đề xuất, các nhà Lãnh đạo APEC đã thảo luận hai nội dung chính là đẩy mạnh thương mại và đầu tư trong một thế giới đang thay đổi và những nhân tố cơ bản bảo đảm tính năng động, sự tăng trưởng và phát triển bền vững trong APEC. Các kết quả của sự kiện:
Các Nhà Lãnh đạo APEC ra một Tuyên bố riêng về Vòng đàm phán Doha, khẳng định quyết tâm chính trị mạnh mẽ và đặc biệt nhấn mạnh một số biện pháp thiết thực nhằm sớm khởi động lại vòng đàm phán. Với tư cách Chủ tịch Hội nghị Lãnh đạo Kinh tế APEC - 14 và là một thành viên mới của WTO, Việt Nam đã thể hiện vai trò tích cực trong vấn đề này và coi đây là đóng góp quan trọng của Việt Nam ngay sau khi trở thành thành viên WTO.
Các Nhà Lãnh đạo APEC đã phê chuẩn Chương trình Hành động Hà Nội nhằm thực hiện Lộ trình Busan hướng đến Mục tiêu Bogor. Các Nhà Lãnh đạo đánh giá cao ý nghĩa và nội dung Bản kế hoạch Hành động, cho rằng đây là cơ sở mang tính định hướng cho các hoạt động hợp tác kinh tế thương mại của APEC trong 15 năm tới và góp phần tăng cường và hoàn thiện các cơ chế hợp tác của APEC. Đây là sáng kiến quan trọng của Việt Nam, để lại dấu ấn của Việt Nam trong tiến trình phát triển của APEC.
Các Nhà Lãnh đạo thông qua các khuyến nghị cải cách APEC với nhiều biện pháp cụ thể nhằm làm cho APEC ngày càng có sức sống mạnh mẽ, năng động, hiệu quả hơn. Đây là kết quả hết sức có ý nghĩa đối với tương lai phát triển của APEC.
Các Nhà Lãnh đạo cam kết cần tiếp tục thúc đẩy các hoạt động hợp tác nhằm bảo đảm an ninh cho nhân dân trong khu vực. Các Nhà Lãnh đạo cho rằng chủ nghĩa khủng bố là mối đe dọa nghiêm trọng đến hòa bình, an ninh trên thế giới và trong khu vực. Theo đó, Hội nghị Lãnh đạo Kinh tế APEC lần thứ 14 hoan nghênh các sáng kiến đã được thông qua về chống khủng bố. Bên cạnh đó, các Nhà Lãnh đạo cũng nhất trí cần tăng cường và mở rộng hợp tác nhằm ngăn chặn dịch bệnh, thiên tai, những biến động về năng lượng, những nguy cơ có ảnh hưởng không nhỏ đến sinh mạng và cuộc sống của mọi người dân.
Các Nhà Lãnh đạo thông qua Tuyên bố của Hội nghị liên Bộ trưởng Ngoại giao - Kinh tế APEC lần thứ 18 và Tuyên bố của các Hội nghị Bộ trưởng được tổ chức trong năm 2006 tại Việt Nam gồm Tuyên bố của Hội nghị Bộ trưởng Thương mại, Hội nghị Bộ trưởng về Cúm gia cầm, Hội nghị Bộ trưởng Tài chính, Hội nghị Bộ trưởng Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Hội nghị Bộ trưởng Du lịch.
Tổng kết
APEC Việt Nam 2006 kéo dài trong suốt một năm 2006 với hàng trăm sự kiện lớn, nhỏ. Trong đó, nổi bật nhất là 3 hội nghị các quan chức cấp cao APEC (SOM), mỗi SOM kéo dài 2 tuần với gần 40 cuộc hội thảo, 5 hội nghị Bộ trưởng liên ngành và nhiều hội nghị lớn, quan trọng trong Tuẫn lễ cấp cao. Đặc biệt là sự tham dự của các vị lãnh đạo các nền kinh tế, nguyên thủ quốc gia. APEC Việt Nam 2006 đã thu hút hơn 10.000 đại biểu quan chức cấp cao, doanh nhân, chuyên gia, các nhà khoa học đến từ nhiều nền kinh tế lớn trên thế giới như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc… Thành công của APEC 2006 đã giúp Việt Nam đánh dấu một mốc phát triển mới trong tiến trình hợp tác APEC. Trong thời gian diễn ra Hội nghị, các doanh nghiệp Việt Nam đã ký với các đối tác nước ngoài nhiều hợp đồng kinh tế lên tới gần 2 tỷ USD. Nguyễn Minh Triết đã biểu dương những kết quả mà Ủy ban Quốc gia APEC Việt Nam 2006 đã đạt được và cho biết, thành công của APEC 2006 đã khẳng định đường lối đối ngoại tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam, uy tín và vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng lên. APEC 2006 đã góp phần giúp Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới sau hơn 10 năm đàm phán, góp phần thúc đẩy Hoa Kỳ thông qua Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn đối với Việt Nam, các nước châu Á nhất trí giới thiệu Việt Nam làm đại diện cho khu vực ứng cử chức danh ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc 2008-2009.
Ông đã tặng Huân chương Lao động và Huân chương Chiến công cho các tập thể và cá nhân đã có đóng góp xuất sắc trong Hội nghị APEC Việt Nam 2006.
Đối ngoại
Công du Hoa Kỳ năm 2007
Tháng 6 năm 2007, trên cương vị Chủ tịch nước, ông sang thăm chính thức Hoa Kỳ theo lời mời của Tổng thống George W. Bush. Trong chuyến đi này, ông Triết đã gặp khoảng 800 thương gia ở quận Cam, California, mà trong đó phần đông là người gốc Việt. Tại đây ông đã nói về dân tộc Việt Nam, sự đoàn kết dân tộc, cũng như việc chính quyền Việt Nam không có thành kiến với những người có quan điểm khác biệt... Tại đây ông cũng gặp sự biểu tình chống đối của khoảng 2000 người Mỹ gốc Việt sinh sống ở đó, vì họ cho rằng chính quyền Việt Nam vi phạm nhân quyền. Cũng trong chuyến đi này, ông được xem là đã làm thay đổi nhiều định kiến về Việt Nam bấy lâu của những nghị sĩ Hoa Kỳ với sự bình tĩnh trả lời khôn khéo của mình, giải tỏa nhiều vấn đề phức tạp. Đặc biệt là đã trả lời được hết những uẩn khúc của Chủ tịch Hạ viện bà Nancy Pelosi.
Hình ảnh đối ngoại
Quan điểm kinh tế
Nhận lời mời của Thủ tướng Nhật Bản Naoto Kan. Sáng 11/11, ông Nguyễn Minh Triết dẫn đầu Đoàn đại biểu Việt Nam tham dự Hội nghị các nhà lãnh đạo Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) lần thứ 18 tổ chức tại thành phố Yokohama.
Nguyễn Minh Triết đã có bài phát biểu tại Phiên họp kín thứ nhất. Trong khi nhấn mạnh châu Á - Thái Bình Dương, nhất là khu vực Đông Á, tiếp tục là động lực của quá trình phục hồi và tăng trưởng của kinh tế toàn cầu, ông chỉ rõ việc tăng cường phối hợp và nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế vẫn là nhu cầu bức thiết và APEC cần tiếp tục nỗ lực để giải quyết hậu quả của khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu và đưa kinh tế thế giới bước vào giai đoạn tăng trưởng mới. Cho rằng, trong Chiến lược tăng trưởng mới, vấn đề then chốt là phát triển kinh tế cần gắn liền với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường, trong đó, cần lấy con người là chủ thể và trọng tâm. Ông đề nghị APEC cần đẩy mạnh hợp tác nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các thành viên thông qua tăng cường liên kết kinh tế - thương mại - đầu tư, chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực, phát triển cơ sở hạ tầng và cải cách cơ cấu, gắn kết Chiến lược tăng trưởng mới với việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ và các chương trình hợp tác của các thành viên ở cấp độ tiểu vùng và khu vực. Với vai trò Chủ tịch Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) 2010, ông Nguyễn Minh Triết cũng nêu bật những thành tựu và những đóng góp của ASEAN trong việc thúc đẩy tăng trưởng bền vững.
Miễn nhiệm
Ngày 25 tháng 7 năm 2011, ông được Quốc hội khóa XII miễn nhiệm chức Chủ tịch nước, Thường trực Ban Bí thư Trương Tấn Sang đã được bầu làm Chủ tịch nước mới. Nhiệm kỳ của ông có nhiều sự kiện đặc biệt: 80 năm Ngày thành lập Ðảng Cộng sản Việt Nam, 65 năm Ngày thành lập nước, 120 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh , Ðại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, 35 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam. Trong Ðại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, ông chỉ dự lễ khánh thành tượng đài Thánh Gióng ngày 6 tháng 10 năm 2010, một phần nhỏ của chương trình Đại lễ còn sự kiện chính thì do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng chủ trì khai mạc ngày 1 tháng 10 năm 2010. Trong nhiệm kỳ của ông Việt Nam đã gia nhập WTO.
Nghỉ hưu
Sau nhiệm kỳ chủ tịch nước, ông về quê là Bình Dương sinh sống và ít xuất hiện trước công chúng. Nhưng đôi khi vẫn tham gia một số hoạt động xã hội.
Ngày 24 tháng 9 năm 2020, dự lễ bàn giao nhà đại đoàn kết ở Bình Phước.
Ngày 23 tháng 1 năm 2022, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ tới nhà ông chúc tết.
Ngày 22 tháng 3 năm 2022, tham dự chương trình họp mặt các thế hệ cán bộ đoàn qua các thời kỳ nhân kỷ niệm 91 năm Ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
Huân chương
Trong quá trình công tác, ông đã nhận được Huân chương Độc lập hạng nhì và Huân chương Kháng chiến hạng nhất:
Huân chương Độc lập hạng nhì
Huân chương Kháng chiến hạng nhất
Chú thích |
4000 (bốn nghìn, hay bốn ngàn) là một số tự nhiên ngay sau 3999 và ngay trước 4001. |
Bầu cử ở Việt Nam là quá trình các cử tri của quốc gia này đưa ra quyết định theo các cách thức mà pháp luật quy định để chọn ra các đại biểu đại diện cho mình nắm giữ các chức vụ trong cơ quan dân cử của chính quyền ở trung ương và địa phương trong phạm vi lãnh thổ. Việc bầu cử ở Việt Nam gồm bầu cử Quốc hội (ở Trung ương) và bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp (ở địa phương).
Thông thường, các cuộc bầu cử được tiến hành khi các cơ quan dân cử (hay cơ quan quyền lực nhà nước) hết nhiệm kỳ thì sẽ được ấn định vào vị trí công tác khác. Còn những người trúng cử sau này cũng được ấn định từ trước từ Ủy ban bầu cử. Theo quy định của Hiến pháp năm 1992, nhiệm kỳ của Quốc hội mỗi khóa là năm năm, tương tự, năm năm cũng là nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân các cấp chính vì vậy cứ năm năm một lần, ở Việt Nam lại định kỳ tiến hành bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Tại Việt Nam, các cuộc bầu cử có tính chất pháp lý rất quan trọng, đó là một khâu quan trọng để thành lập các cơ quan quyền lực nhà nước từ trung ương đến địa phương. Là phương thức quan trọng để nhân dân thực hiện quyền lực của mình. Điều 6 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 khẳng định: "Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân".
Thuật ngữ bầu cử ở Việt Nam được cho là gắn mật thiết với khái niệm dân chủ, trong đó những cuộc bầu cử tự do và công bằng là phương thức đảm bảo cho việc tôn trọng các quyền tự do, dân chủ đó. Trong một nền dân chủ, quyền lực của nhà nước chỉ được thực thi khi có sự nhất trí của người dân (người bị quản lý). Cơ chế căn bản để chuyển sự nhất trí đó thành quyền lực nhà nước là tổ chức bầu cử tự do và công bằng.
Bầu cử cũng được hiểu là cách thức nhân dân trao quyền cho Nhà nước và với tư cách là một chế độ tiên tiến, Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam không thể bằng một phương pháp nào khác hơn là bầu cử để thành lập ra các cơ quan của mình.
Cuộc bầu cử là một trong những hình thức hoạt động xã hội – chính trị quan trọng của nhân dân. Bầu cử thu hút sự tham gia đông đảo của cử tri đại diện cho các giai cấp, tầng lớp, tôn giáo, giới tính… Bởi vậy để đạt được kết quả, các cuộc bầu cử phải được tiến hành có tổ chức, theo những trình tự chặt chẽ nhất định.
Những trình tự thủ tục này được pháp luật quy định rất chặt chẽ, ở Việt Nam có hàng loạt các văn bản pháp luật điều chỉnh về bầu cử từ Hiến pháp – văn bản có hiệu lực pháp luật cao nhất đến các đạo luật hiện hành như Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997 đã được sửa đổi bổ sung vào năm 2001 và năm 2007 (gọi chung là Luật bầu cử đại biểu Quốc hội)
Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003 và cho đến các văn bản dưới luật như Nghị định của Chính phủ cụ thể hóa và hướng dẫn chi tiết các văn bản nêu trên.
Quyền bầu cử, ứng cử
Quyền bầu cử và ứng cử vào cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất là một trong những quyền cơ bản về chính trị của công dân. Pháp luật hiện hành đã quy định công dân có quyền bầu cử, có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Theo đó, công dân Việt Nam đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội. Những công dân này không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú đều được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu cử.
Mặc dù vậy, cũng có những công dân đủ các điều kiện trên nhưng không được ghi tên vào danh sách cử tri là các trường hợp người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật hay người đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc người đang bị tạm giam và người mất năng lực hành vi dân sự. Những quy định kiểu như vậy cũng phù hợp với thông lệ quốc tế.
Ngoài ra, những người sau đây cũng không được tham gia ứng cử đại biểu Quốc hội gồm: Những người không được tham gia bầu cử thì đương nhiên không được ứng cử, người đang bị khởi tố về hình sự, người đang phải chấp hành bản án, quyết định hình sự của Toà án hoặc đã chấp hành xong nhưng chưa được xóa án tích hay là những người đang chấp hành quyết định xử lý hành chính khác.
Các nguyên tắc bầu cử
Các nguyên tắc bầu cử là các quy tắc, nguyên lý chỉ đạo được áp dụng cho quyền bầu cử chủ thể (quyền bầu cử chủ động và quyền bầu cử bị động). Nguyên tắc bầu cử là điều kiện được quy định bởi pháp luật bầu cử của mỗi nước, mà việc thực hiện và tuân thủ quy định đó trong quá trình bầu cử quyết định tính hợp pháp của cuộc bầu cử.
Các nước trên thế giới áp dụng các nguyên tắc bầu cử sau: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp (gián tiếp) và bỏ phiếu kín. Những nguyên tắc đó thống nhất với nhau, đảm bảo cho cuộc bầu cử được khách quan, dân chủ, thực hiện đúng nguyện vọng của cử tri khi lựa chọn đại biểu.
Nguyên tắc bầu cử được thể hiện chặt chẽ, thống nhất và xuyên suốt trong toàn bộ quá trình tiến hành bầu cử, bảo đảm cho cuộc bầu cử khách quan, dân chủ, thể hiện đúng nguyện vọng của cử tri khi lựa chọn. Nguyên tắc bầu cử yêu cầu phải quy định rõ quyền và trách nhiệm của cử tri trong bầu cử, trách nhiệm của Nhà nước phải bảo đảm các quy định về bầu cử.
Ở Việt Nam, các nguyên tắc bầu cử dân chủ được kế thừa, bổ sung và phát triển để làm một căn cứ thực hiện một chế độ bầu cử mới thực sự dân chủ. Các nguyên tắc bầu cử theo quy định của pháp luật gồm bốn nguyên tắc đó là phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Điều 7 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 quy định: "Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín".
Những nguyên tắc bầu cử ở Việt Nam theo quy định của pháp luật hiện hành phù hợp với các nguyên tắc bầu cử thông dụng trên thế giới.
Bầu cử Quốc hội
Trình tự tiến hành cuộc bầu cử là vấn đề trung tâm trong việc bầu cử. Đó là một loạt các công việc từ ấn định ngày bầu cử, thành lập đơn vị bầu cử, thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử, công tác chuẩn bị bầu cử cho đến việc lập danh sách cử tri, cư tri thực hiện bỏ phiếu và việc kiểm phiếu, công bố kết quả. Đó cũng là một quy trình chặt chẽ được pháp luật quy định nghiêm ngặt.
Trình tự tiến hành một cuộc bầu cử ở Việt Nam gồm các bước sau:
Ấn định ngày bầu cử
Để tiến hành một cuộc bầu cử, trước hết phải xác định cho được ngày bầu cử (ngày bỏ phiếu). Hiến pháp và Luật bầu cử của đa số các nước chỉ quy định thời hạn chung cho các cuộc bầu cử, còn ngày bầu cử cụ thể do một quan chức hay cơ quan có thẩm quyền xác định.
Ở Việt Nam, ngày bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân do Ủy ban thường vụ Quốc hội ấn định và công bố chậm nhất là 105 ngày trước ngày bầu cử. Điều 85 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 quy định: Hai tháng trước khi Quốc hội hoặc hội đồng nhân dân hết nhiệm kỳ, Quốc hội khóa mới phải được bầu xong.
Ngày bầu cử được ấn định phải là ngày chủ nhật để mọi người có điều kiện tham gia một cách đầy đủ.
Điều 54 Luật bầu cử Quốc hội quy định: Việc bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội được tiến hành cùng một ngày trong cả nước. Ngày bầu cử phải là ngày chủ nhật, do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ấn định và công bố chậm nhất là một trăm lẻ năm ngày trước ngày bầu cử.
Việc Ủy ban thường vụ Quốc hội ấn định ngày bầu cử là công đoạn đầu tiên của công việc tiến hành một cuộc bầu cử. Bắt đầu từ đây, mọi việc có liên quan đến việc bỏ phiếu và xác định kết quả bầu cử bắt đầu được tiến hành.
Trước đây, ở Việt Nam, ngày bầu cử được ấn định chậm nhất là 60 ngày trước ngày bầu cử nhưng thời hạn này là quá ngắn là cho công tác chuẩn bị bầu cử của các cơ quan tổ chức vốn yếu kém về năng lực lại tỏ ra bị động, lúng túng. Pháp luật hiện hành đã nâng thời gian chuẩn bị bầu cử dài hơn bằng cách kéo dài thời gian chậm nhất phải ấn định từ 60 – 90 ngày, kể cả cuộc bầu cử Quốc hội lẫn các cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân.
Trong trường hợp đặc biệt cần hoãn ngày bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu sớm hơn thì Ban bầu cử phải báo cáo với Uỷ ban bầu cử để đề nghị Hội đồng bầu cử xem xét, quyết định.
Trước cuộc bỏ phiếu 10 ngày, Tổ bầu cử phải thường xuyên thông báo cho cử tri biết ngày bầu cử, nơi bỏ phiếu, thời gian bỏ phiếu.
Cử tri chỉ được đi bỏ phiếu đúng vào ngày đã được ấn định trước trên toàn quốc. Tuy vậy, đối với một số vùng miền có khó khăn về giao thông, liên lạc, việc bầu cử có thể tiến hành sớm hơn ngày đã ấn định để kết quả bầu cử có thể kịp chuyển về tổng hợp chung. Trong kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII, một số vùng như huyện đảo Trường Sa (Khánh Hoà) và huyện đảo Bạch Long Vĩ (thành phố Hải Phòng) đã bỏ phiếu sớm hơn.
Thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử
Để tổ chức bầu cử, các nước thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử, thường được gọi là Ủy ban bầu cử. Các loại tổ chức phụ trách bầu cử thông dụng như sau:
Tổ chức bầu cử ở Trung ương: Có nhiệm vụ lãnh đạo cuộc bầu cử trên phạm vi cả nước.
Tổ chức phụ trách bầu cử ở đơn vị bầu cử: Có nhiệm vụ phối hợp và giám sát hoạt động của các tổ chức phụ trách bầu cử ở khu vực bỏ phiếu, lập và đăng ký danh sách ứng cử viên của đơn vị bầu cử, bảo đảm quá trình vận động tranh cử, xác định kết quả bầu cử trong đơn vị bầu cử.
Tổ chức bầu cử ở khu vực bỏ phiếu: Có nhiệm vụ lập danh sách cử tri (nếu không lập thì hiệu đính), tổ chức việc bầu cử và xác định kết quả kiểm phiếu ở khu vực bỏ phiếu.
Tại Việt Nam, việc thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử được chuẩn bị chu đáo. Các tổ chức phụ trách bầu cử được pháp luật quy định thành lập từ trung ương đến địa phương. Đồng thời, Luật quy định khi ra quyết định thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử thì ấn định luôn các chức danh cụ thể của các tổ chức này, để giảm bớt các thủ tục hành chính không cần thiết. Ngoài ra việc phụ trách bầu cử còn được sự hỗ trợ rất lớn từ phía Mặt trận Tổ quốc và Hội đồng nhân dân các cấp.
Các tổ chức phụ trách bầu cử bao gồm:
Hội đồng bầu cử
Giai đoạn tiếp theo của cuộc bầu cử là thành lập Hội đồng bầu cử. Đây là cơ quan lãnh đạo chung cho cuộc bầu cử. Hội đồng bầu cử ở Trung ương được thành lập cho cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội. Hội đồng bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Hội đồng bầu cử Hội đồng nhân dân quận, huyện, xã, phường và cấp tương đương.
Thành phần Hội đồng bầu cử bao gồm đại diện các tổ chức xã hội, tổ chức đảng, Nhà nước.
Hội đồng bầu cử có nhiêm vụ:
1. Lãnh đạo việc tổ chức bầu cử chung; kiểm tra, đôn đốc việc thi hành các quy định của pháp luật về bầu cử và tiến hành cuộc bầu cử.
2. Quy định mẫu thẻ cử tri và phiếu bầu cử; lập và công bố danh sách ứng cử viên theo từng đơn vị bầu cử.
3. Giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác của Uỷ ban bầu cử, Ban bầu cử và Tổ bầu cử; Giải quyết khiếu nại, tố cáo về bầu cử do các tổ chức bầu cử cấp dưới chuyển đến; Giải quyết khiếu nại, tố cáo về người ứng cử; Giải quyết khiếu nại về kết quả bầu cử.
4. Kiểm tra biên bản xác định kết quả bầu cử do Uỷ ban bầu cử, Ban bầu cử gửi đến; làm biên bản tổng kết cuộc bầu cử trong cả nước; Xét và quyết định việc bầu cử lại, bầu cử thêm hoặc huỷ bỏ kết quả bầu cử ở đơn vị bầu cử.
5. Công bố kết quả bầu cử trong cả nước, cấp giấy chứng nhận cho đại biểu trúng cử.
Trong các nhiệm vụ trên thì công việc lãnh đạo công việc bầu cử chung, công bố danh sách ứng cử viên và tuyên bố kết quả bầu cử là những công việc quan trọng của Hội đồng bầu cử.
Hội đồng bầu cử Quốc hội ở Trung ương:
Hội đồng này do Ủy ban Thường vụ Quốc hội thành lập.
Số lượng thành viên được ấn định từ 15 đến 21 người, thành phần gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Tổng thư ký và các uỷ viên là đại diện Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một số cơ quan, tổ chức hữu quan.
Theo Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội phải thành lập và công bố thành phần bầu cử trung ương chậm nhất 105 ngày.
Hội đồng bầu cử ở địa phương:
Tương tự, ở địa phương, Hội đồng bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân do Ủy ban nhân dân cùng cấp phối hợp với thường trực Hội đồng nhân dân cấp đó thành lập.
Thời gian thành lập: Chậm nhất là 90 ngày trước ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
Thành phần Hội đồng gồm đại diện Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Hội đồng bầu cử bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Thư ký.
Số lượng thành viên: Hội đồng bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có từ 15 đến 21 người. Cấp huyện có từ 11 đến 15 người. Cấp xã có từ 9 đến 11 người.
Tất cả các công việc chuẩn bị cho một cuộc bầu cử tiếp theo chủ yếu do các đơn vị bầu cử thực hiện.
Ủy ban bầu cử
Lãnh đạo bầu cử ở các đơn vị do Ủy ban bầu cử (Ban bầu cử) tiến hành. Việc bầu cử về cơ bản lấy đơn vị hành chính cấp huyện là cơ sở, do vậy, mỗi địa phương, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thể có từ 2 đến 5 đơn vị. Để phụ trách chung công việc bầu cử trong lãnh thổ trực thuộc trung ương có từ hai đơn vị bầu cử trở lên, pháp luật quy định thành lập các ủy ban bầu cử. Ủy ban bầu cử có nhiệm vụ lãnh đạo chung hoạt động của các ban bầu cử.
Thời gian thành lập:
Chậm nhất là 95 ngày trước ngày bầu cử, Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sau khi thống nhất với Uỷ ban nhân dân và Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp quyết định thành lập Uỷ ban bầu cử. Đối với Hội đồng nhân dân thì gọi là ban bầu cử.
Số lượng và cơ cấu:
Ủy ban bầu cử có từ 9 đến 15 người, gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Thư ký và các uỷ viên là đại diện Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp, một số cơ quan, tổ chức hữu quan khác. Đối với việc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, ban bầu cử ở các đơn vị bầu cử do Ủy ban nhân dân và Ủy ban mặt trận tổ quốc cùng cấp phối hợp thành lập gồm đại diện của các tổ chức xã hội và tập thể các cử tri ở địa phương từ 5 đến 15 người. Ban bầu cử gồm có trưởng ban, phó trưởng ban và thư ký ban.
Nhiệm vụ của Ủy ban bầu cử/Ban bầu cử gồm:
1. Chuẩn bị và tổ chức bầu cử ở các đơn vị bầu cử. Kiểm tra, đôn đốc việc thi hành, chấp hành pháp luật về bầu cử của các tổ bầu cử.
2. Xem xét hồ sơ của người được giới thiệu ứng cử, người tự ứng cử.
3. In thẻ cử tri và phiếu bầu theo mẫu của Hội đồng bầu cử.
4. Lập danh sách những người ứng cử theo đơn vị bầu cử. Kiểm tra việc lập và niêm yết danh sách cử tri.
5. Giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác của Ban bầu cử, Tổ bầu cử. Giải quyết khiếu nại, tố cáo về bầu cử do Ban bầu cử, Tổ bầu cử chuyển đến. Giải quyết khiếu nại, tố cáo về người ứng cử.
6. Nhận và kiểm tra biên bản xác định kết quả bầu cử của các Ban bầu cử; lập biên bản xác định kết quả bầu cử ở địa phương. Thông báo kết quả bầu cử ở địa phương.
7. Báo cáo tình hình tổ chức và tiến hành bầu cử; Chuyển hồ sơ, biên bản xác định kết quả bầu cử đến Hội đồng bầu cử. Tổ chức việc bầu cử lại, bầu cử thêm (nếu có).
Trong tất cả các nhiệm vụ kể trên, nhiệm vụ làm biên bản tổng hợp các biên bản kiểm phiếu do các tổ bầu cử đưa đến để xác định kết quả trúng cử hoặc không trúng cử hoặc không trúng cử cho từng ứng cử viên là rất quan trọng.
Trong trường hợp tổ chức bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân nhiều cấp (tối đa là ba cấp) cùng một ngày, nếu đơn vị bầu cử Hội đồng nhân dân cấp tỉnh là huyện thì Hội đồng bầu cử Hội đồng nhân dân huyện kiêm cả nhiệm vụ Ban bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh; nếu đơn vị bầu cử Hội đồng nhân dân huyện là xã thì Hội đồng bầu cử xã làm luôn nhiệm vụ của Ban bầu cử Hội đồng nhân dân huyện.
Tổ bầu cử
Phụ trách công việc bầu cử ở khu vực bỏ phiếu là tổ bầu cử. Tổ bầu cử có nhiệm vụ:
Tổ chức việc bầu cử trong khu vực bỏ phiếu.
Bố trí phòng bỏ phiếu, nơi bỏ phiếu (buồng bỏ phiếu), bàn bỏ phiếu và chuẩn bị hòm phiếu.
Phát thẻ cử tri cho cử tri chậm nhất là hai ngày trước ngày bầu cử, phát phiếu bầu cử cho cử tri có đóng dấu của Tổ bầu cử. Bảo đảm trật tự trong phòng bỏ phiếu.
Kiểm phiếu và làm biên bản kết quả kiểm phiếu để gửi đến Ban bầu cử. Giao biên bản kết quả kiểm phiếu và toàn bộ phiếu bầu cho Uỷ ban nhân dân cấp xã. Báo cáo tình hình tổ chức và tiến hành bầu cử theo quy định của các tổ chức phụ trách bầu cử cấp trên (Ủy ban bầu cử, ban bầu cử, Hội đồng bầu cử);
Tổ chức thực hiện việc bầu cử lại, bầu cử thêm (nếu có).
Trong các nhiệm vụ trên thì việc phát phiếu bầu cử và kiểm phiếu bầu cử là những nhiệm vụ quan trọng của tổ bầu cử.
Sự tham gia của các cơ quan hữu quan
Ngoài các tổ chức phụ trách bầu cử được thành lập mang tính lâm thời, phục vụ cho các kỳ bầu cử, luật pháp Việt Nam còn quy định các cơ quan hữu quan khác cũng tham gia vào quá trình bầu cử đó là Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (thường được gọi là Mặt trận Tổ quốc) các cấp và Hội đồng nhân dân các cấp.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài". Mặt trận tổ quốc có vai trò rất lớn trong việc bầu cử. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có trách nhiệm tổ chức hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội và tham gia giám sát việc bầu cử đại biểu Quốc hội để làm rõ vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức đại diện khối đại đoàn kết toàn dân, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.
Bên cạnh đó, để phát huy và đề cao trách nhiệm của Hội đồng nhân dân các cấp với tư cách là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương trong việc tổ chức và tiến hành bầu cử đại biểu Quốc hội, tại Điều 6 của Luật đã xác định rõ vị trí của Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, quận, thị xã thuộc tỉnh, xã, phường, thị trấn trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện công tác bầu cử theo quy định của pháp luật.
Và tại các Điều 15, 16 và 17 đã chính thức giao cho Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sau khi thống nhất với Uỷ ban nhân dân và Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp quyết định thành lập Uỷ ban bầu cử, Ban bầu cử; Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn sau khi thống nhất với Uỷ ban nhân dân, Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp quyết định thành lập các Tổ bầu cử.
Về kinh phí hoạt động
Kinh phí trang trải cho hoạt động của bộ phận phụ trách cũng như trang trải cho toàn bộ cuộc bầu cử được lấy từ ngân sách nhà nước.
Kinh phí dành cho mỗi cuộc bầu cử là khá lớn. Gần đây nhất là cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII đã tiêu tốn đến 350 tỷ đồng tăng 1,5 lần so với mức kinh phí của cuộc bầu cử năm 2002 (tốn hết 230 tỉ đồng).
Theo ông Bùi Ngọc Thanh – Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội thì số kinh phí trên sẽ được chia về các địa phương theo nguyên tắc: Đầu tiên là mức kinh phí gốc dành cho tất cả các tỉnh, thành (phục vụ những công việc giống nhau của công tác bầu cử). Sau đó phân chia theo số lượng cử tri của từng tỉnh (lấy từ con số thống kê dân số- do Tổng cục thống kê cung cấp); Cuối cùng mới tính đến các địa bàn khó khăn, vùng sâu, vùng xa… nguồn kinh phí dự phòng sẽ chỉ cấp cho những tỉnh thực sự có khó khăn.
Thực tế ở Việt Nam thường tổ chức các cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp cùng một ngày và có thể kết hợp chung với các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội để "đỡ tốn kém về mặt vật chất".
Phân chia đơn vị bầu cử
Song song với việc thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử là việc phân chia đơn vị bầu cử. Đây là một bước hết sức quan trọng, nó xác định số lượng đại biểu cho mỗi vùng, miền, cơ cấu đại biểu... và nó tác động trực tiếp đến kết quả bầu cử. Đặc biệt là việc phân chia này diễn ra rất quyết liệt đối với các nước theo chế độ đa đảng.
Đơn vị bầu cử là một đơn vị địa dư có số dân (cử tri) nhất định được bầu một số lượng đại biểu nhất định. Đơn vị bầu cử là khái niệm chỉ một phạm vi địa lý hành chính với số lượng dân cư nhất định, được bầu một số lượng đại biểu Quốc hội nhất định.
Các đơn vị bầu cử được thành lập trên cơ sở luật định hay bởi chính quyền trung ương. Đơn vị bầu cử có một ghế đại biểu là đơn vị được bầu một đại biểu, đơn vị bầu cử có nhiều ghế bầu cử là đơn vị được bầu từ hai đại biểu trở lên.
Về nguyên tắc các đơn vị được bầu cử được thành lập để bảo đảm sự cân bằng lá phiếu của cư tri, tức là bảo đảm tôn trọng nguyên tắc bình đẳng. Điều đó có nghĩa là những đơn vị có một ghế đại biểu thì phải có dân số như nhau.
Ở Việt Nam, đơn vị bầu cử được hiểu là lãnh thổ với một số dân tương ứng nhất định và được bầu ra một lượng đại biểu Quốc hội hoặc hội đồng nhân dân nhất định. Cơ sở để phân chia đơn vị bầu cử cho các cuộc bầu cử khác nhau là tổng số đại biểu Quốc hội hoặc Hội đồng nhân dân phải bầu và số dân sống trên lãnh thổ của đơn vị bầu cử được phân chia. Số đại biểu được bầu cho mỗi đơn vị bầu cử phụ thuộc vào số lượng dân cư sống trên một đơn vị bầu cử.
Ví dụ: Số đại biểu Quốc hội khóa XII được phân bố cho tỉnh Quảng Trị là 06 người trên 2 đơn vị bầu cử, mỗi đơn vị bầu cử là 03 người.
Theo quy định của pháp luật, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được chia thành các đơn vị bầu cử. Ủy ban thường vụ Quốc hội ấn định và công bố số đơn vị bầu cử, danh sách các đơn vị bầu cử và số đại biểu của mỗi đơn vị được tính theo số dân. Ví dụ: số đại biểu Quốc hội khóa XI của Thành phố Hồ Chí Minh là 25 đại biểu, là đoàn đại biểu đông nhất cả nước.
Cũng theo quy định của pháp luật thì tổng số đại biểu Quốc hội là không quá 500 người. Đây là con số hợp lý được nhiều nước áp dụng.
Việc phân bổ số lượng đại biểu Quốc hội cho các tỉnh, thành như sau: Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có ít nhất 3 đại biểu cư trú, làm việc tại địa phương. Số đại biểu tiếp theo được tính theo số dân và dặc điểm của mỗi địa phương.
Riêng Thủ đô Hà Nội được phân bổ số đại biểu thích đáng.
Ngoài ra bên cạnh việc phân chia số ghế cho đại biểu theo lãnh thổ, thì ở Việt Nam, việc dự kiến cơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu Quốc hội được bầu của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan Nhà nước ở trung ương và địa phương, người dân tộc thiểu số, đại biểu là phụ nữ cũng được xem xét để bảo đảm một tỷ lệ thích đáng cho các đại biểu này.
Về nguyên tắc, một nghị viện càng nhiều thành viên thì càng bảo đảm tính đại diện cho tất cả các tầng lớp trong xã hội, quá trình thảo luận càng được sôi nổi, kỹ lưỡng tuy nhiên số lượng như thế nào để đạt hiệu quả còn phải tùy thuộc vào tình hình mỗi nước để ấn định số lượng cho phù hợp.
Dựa trên con số cụ thể được Ủy ban thường vụ Quốc hội ấn định cho mỗi khóa Quốc hội và tổng số dân cư toàn quốc theo số liệu điều tra dân số gần nhất, các đơn vị bầu cử cũng như các địa phương nhận được số lượng đại biểu được bầu tỷ lệ thuận với dân số của đơn vị mình.
Tổng số đại biểu của Hội đồng nhân dân các cấp do Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân quy định theo đó:
Hội đồng nhân dân cấp xã: Tối đa được 35 đại biểu.
Đối với các xã, thị trấn miền xuôi có từ bốn nghìn người trở xuống được bầu 25 đại biểu, có trên bốn nghìn người thì cứ thêm 2.000 người được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không quá ba mươi lăm đại biểu.
Các xã, thị trấn miền núi và hải đảo có từ 3.000 người trở xuống đến 2.000 người được bầu 25 đại biểu, có trên 3.000 người thì cứ thêm 1.000 người được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không quá 35 đại biểu;
Các xã, thị trấn có dưới 2.000 người trở xuống đến 1.000 người được bầu 19 đại biểu (ví dụ: Thị trấn Gio Linh), các xã, thị trấn có dưới 1.000 người được bầu 15 đại biểu.
Các phường có từ 8.000 người trở xuống được bầu 25 đại biểu, có trên 8.000 người thì cứ thêm 4.000 người được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không quá 35 đại biểu.
Hội đồng nhân dân cấp huyện và tương đương: Nhiều nhất không quá 40 đại biểu:
Các huyện miền xuôi và quận có từ 80.000 người trở xuống được bầu 30 đại biểu, có trên 80.000 người thì cứ thêm 10.000 người được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá 40 đại biểu.
Các huyện miền núi và hải đảo có từ 40.000 người trở xuống được bầu 30 đại biểu, có trên 40.000 người thì cứ thêm 5.000 người được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không quá 40 đại biểu.
Các thị xã có từ 70.000 người trở xuống được bầu 30 đại biểu, có trên 70.000 người thì cứ thêm 10.000 người được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không quá 40 đại biểu.
Các thành phố thuộc tỉnh (ví dụ: Thành phố Đông Hà) có từ một trăm nghìn người trở xuống được bầu ba mươi đại biểu, có trên một trăm nghìn người thì cứ thêm mười nghìn người được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá bốn mươi đại biểu.
Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: Không quá 95 đại biểu
Đối với các tỉnh miền xuôi và thành phố trực thuộc trung ương có từ 1.000.000 người trở xuống được bầu 50 đại biểu, có trên 1.000.000 người thì cứ thêm 50.000 người được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không quá 85 đại biểu.
Các tỉnh miền núi có từ 500.000 người trở xuống được bầu 50 đại biểu, có trên 500.000 người thì cứ thêm 30.000 người được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không quá 85 đại biểu.
Thủ đô Hà Nội và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác có trên 3.000.000 người được bầu không quá 95 đại biểu.
Xác định khu vực bỏ phiếu
Để việc bỏ phiếu được thuận tiện, mỗi đơn vị bầu cử được chia thành nhiều khu vực bỏ phiếu. Khu vực bỏ phiếu là đơn vị địa dư thống nhất lượng cử tri nhất định, nơi cử tri tiến hành bỏ phiếu bầu đại diện.
Việc phân chia khu vực bỏ phiếu mang ý nghĩa kỹ thuật thuần túy nhằm tạo điều kiện cho cử tri thực hiện quyền bầu cử của mình. Các nước tiến hành chia đơn vị bầu cử thành các khu vực bỏ phiếu theo các phương pháp khác nhau.
Ở Việt Nam, lãnh thổ các đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh, huyện, xã và tương đương thường rất rộng, một số địa phương hiện nay đi lại rất khó khăn mặt khác Việt Nam là một nước nghèo, việc đầu tư cho hệ thống giao thông còn hạn chế, nhiều hệ thống giao thông thi công kém do nhiều nguyên nhân đã nhanh chóng xuống cấp vì vậy gây thêm khó khăn cho việc bầu cử.
Để thuận tiện cho cử tri thực hiện quyền bầu cử của mình, các đơn vị bầu cử này thường phân chia thành các nơi bỏ phiếu (khu vực bỏ phiếu). Mỗi khu vực có thể có từ 300 đến 2.000 cử tri hoặc có thể cao hoặc thấp hơn, miễn là bảo đảm thuận tiện cho cử tri bỏ phiếu đồng thời cũng dễ cho đơn vị bầu cử.
Để đạt được thuận tiện cao nhất, nếu các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân diễn ra cùng một ngày thì có thể tổ chức chung một khu vực bỏ phiếu. Việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) các đơn vị bầu cử đồng thời là các khu vực bỏ phiếu nếu thuận tiện.
việc phân chia khu vực bỏ phiếu do Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn lập và được Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn. Các khu vực bỏ phiếu trong cùng một đơn vị bầu cử có chung một danh sách ở một đơn vị bầu cử.
Điều 12 Luật bầu cử Quốc hội quy định cụ thể như sau:
Việc chia khu vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp do Uỷ ban nhân dân cấp xã ấn định và phải được Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn.
Mỗi đơn vị bầu cử chia thành nhiều khu vực bỏ phiếu. Mỗi khu vực bỏ phiếu có từ 300 đến 2.000 cử tri.
Ở miền núi, hải đảo và những nơi dân cư không tập trung thì dù chưa có tới ba trăm cử tri cũng có thể thành lập một khu vực bỏ phiếu.
Đơn vị vũ trang nhân dân thành lập những khu vực bỏ phiếu riêng hoặc đơn vị vũ trang nhân dân và địa phương có thể có chung một khu vực bỏ phiếu.
Bệnh viện, nhà an dưỡng, nhà hộ sinh, nhà nuôi người tàn tật có từ 50 cử tri trở lên có thể thành lập khu vực bỏ phiếu riêng.
Cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh đối với những người đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính có thể thành lập khu vực bỏ phiếu riêng.
Nội quy phòng bỏ phiếu:
Để cho cuộc bầu cử có kết quả, đồng thời bảo đảm tính dân chủ, hợp pháp trong cuộc bầu cử, nhất là trong ngày bỏ phiếu, các tổ chức phụ trách bầu cử và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Luật Bầu cử và những văn bản pháp luật về bầu cử. Ngoài ra, mọi người đều phải tuân theo nội quy của phòng bỏ phiếu.
Nội quy phòng bỏ phiếu là tập hợp các quy định do Tổ bầu cử căn cứ vào điều kiện cụ thể nơi bỏ phiếu đề ra, bảo đảm cho việc bầu cử được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và bảo đảm trật tự, an toàn.
Nội quy phòng bỏ phiếu gồm:
1. Các quy định của Luật bầu cử
2. Các quy định về bảo vệ an toàn, an ninh trật tự
3. Các quy định phòng cháy và chữa cháy
4. Một số quy định hướng dẫn cách thức bỏ phiếu.
5. Cách khắc phục và bảo vệ bình chữa cháy.
Thùng phiếu (hòm phiếu):
Tại các khu vực bỏ phiếu, tùy tình hình cụ thể của từng nơi, người ta thường bố trí ít nhất là một hòm phiếu, nhiều nơi bố trí từ hai đến ba hòm phiếu để cử tri đến bỏ phiếu.
Những địa điểm đặt hòm phiếu như vậy được hiểu là hòm phiếu chính và yêu cầu tất cả các cử tri có tên ghi trong danh sách cử tri đều đến bỏ phiếu trực tiếp.
Ngoài ra, tại mỗi khu vực bỏ phiếu, tổ bầu cử thường chuẩn bị hòm phiếu phụ để trong trường hợp lý do đặc biệt nào đó (ốm đau, già yếu...) cử tri không thể đến phòng bỏ phiếu được thì tổ bầu cử mang hòm phiếu này và phiếu bầu đến tận chỗ ở của cử tri để cử tri nhận phiếu và trực tiếp bỏ phiếu bầu.
Hình dáng, kích thước của hòm phiếu phụ nhỏ hơn hòm phiếu chính. Nhưng, trước khi tiến hành bỏ phiếu ở hòm phiếu phụ cũng phải tuân thủ các bước như ở địa điểm bỏ phiếu chính thức (phải kiểm tra hòm phiếu trước sự chứng kiến của cử tri, niêm phong hoặc khóa lại và niêm phong rồi mới tiến hành bỏ phiếu).
Lập danh sách cử tri
Để thực hiện quyền bầu cử của mình, công dân phải đăng ký, ghi tên vào danh sách cử tri. Việc lập danh sách cử tri không những nhằm mục đích bảo đảm quyền bầu cử của công dân mà còn ngăn chặn hiện tượng gian lận trong bầu cử. Có hai phương pháp lập danh sách cử tri đó là bắt buộc và tự nguyện.
Phương pháp bắt buộc là việc lập danh sách do nhà nước hay tổ chức phụ trách ở khu vực bỏ phiếu lập. Phương pháp này còn chia thành hai loại danh sách cử tri thường xuyên và tạm thời.
Danh sách cử tri thường xuyên là danh sách được lập hàng năm không phụ thuộc vào năm đó có tiến hành bầu cử hay không.
Danh sách cử tri tạm thời là danh sách cử tri được lập vào những năm tiến hành bầu cử. Trước mỗi cuộc bầu cử các cơ quan có thẩm quyền mới lập danh sách cử tri và danh sách này không còn giá trị khi cuộc bầu cử kết thúc.
Phương pháp tự nguyện: Cử tri chỉ cần mang theo giấy tờ tùy thân đến cơ quan có thẩm quyền để đăng ký bỏ phiếu.
Ở Việt Nam áp dụng phương pháp lập danh sách bắt buộc khi cử tri tại địa điểm nào thì phải đăng ký danh sách tại nơi đó. Khẩu hiệu thường thấy trong các cuộc bầu cử là: "Bầu cử là quyền và nghĩa vụ của công dân".
Cần lưu ý là việc lập danh sách theo phương pháp bắt buộc nhưng việc bỏ phiếu (đi bầu) lại hoàn toàn tự nguyện. Các công dân có thể tùy ý đi bỏ phiếu hoặc không mà không phải chịu bất cứ một chế tài nào cả.
Theo quy định của pháp luật, những người có quyền bầu cử được ghi tên vào danh sách cử tri nơi mình thường trú hoặc tạm trú. Danh sách cử tri này do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn lập theo khu vực bỏ phiếu. Sau đó, cơ quan này phải niêm yết danh sách cử tri tại trụ sở và những nơi công cộng của khu vực bỏ phiếu, đồng thời phải thông báo rộng rãi việc niêm yết này cho cộng đồng dân cư.
Việc lập danh sách cử tri ở Việt Nam được lập là danh sách cử tri theo danh sách cử tri tạm thời. Nhà nước quy định việc lập danh sách cử tri theo các cuộc bầu cử và phục vụ luôn cho cuộc bầu cử. Khi kết thúc cuộc bầu cử thì danh sách cử tri cũng hết hiệu lực pháp lý.
Người có tên trong danh sách cử tri mới có quyền bầu cử. Cử tri là công dân Việt Nam không phân biệt điều kiện, từ 18 tuổi trở lên thì được đăng ký vào danh sách cử tri.
Ở Việt Nam, cách tính tuổi để công dân bầu cử, ứng cử như sau:
Tuổi để thực hiện quyền bầu cử và ứng cử của công dân được tính từ ngày, tháng, năm sinh ghi trong Giấy khai sinh đến ngày bầu cử đại biểu Quốc hội.
Đối với trường hợp không có Giấy khai sinh thì căn cứ vào sổ hộ khẩu hoặc Giấy chứng minh nhân dân để tính tuổi thực hiện quyền bầu cử, ứng cử. Mỗi tuổi tròn được tính từ ngày, tháng, năm sinh (dương lịch) của năm trước đến ngày, tháng, năm sinh (dương lịch) của năm sau.
Trường hợp không xác định được ngày sinh thì lấy ngày 01 của tháng sinh làm căn cứ để xác định tuổi thực hiện quyền bầu cử và ứng cử. Trường hợp không xác định được ngày và tháng sinh thì lấy ngày 01 tháng 1 của năm sinh làm căn cứ để xác định tuổi thực hiện quyền bầu cử và ứng cử.
Việc lập và niêm yết danh sách cử tri phải được thực hiện chậm nhất là 30 ngày trước ngày bầu cử. Mỗi cử tri được ghi rõ họ tên, năm sinh vào danh sách cử tri.
Khi phát hiện thấy có sai sót trong việc lập danh sách thì cử tri báocáo (bằng miệng hoặc bằng văn bản) với cơ quan lập danh sách cử tri. Họ có quyền khiếu nại, tố cáo hoặc kiến nghị về những sai sót này.
Ngoài việc lập danh sách cử tri theo đơn vị cư trú do Ủy ban nhân dân cấp xã lập thì đối với những người trong lực lượng quân đội, cảnh sát thì danh sách cử tri của họ sẽ do chỉ huy đơn vị lập.
Tuy vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho quân nhân thực hiện quyền bầu cử của mình, pháp luật hiện hành cũng cho phép quân nhân có hộ khẩu thường trú ở địa phương gần khu vực họ đóng quân thì có thể được ghi tên vào danh sách cử tri nơi thường trú và được tham gia bỏ phiếu ở địa phương đó.
Thông thường, mỗi cử tri chỉ được ghi tên vào một danh sách cử tri ở một nơi mình thường trú hoặc tạm trú. Từ khi niêm yết danh sách cử tri cho đến ngày bầu cử, nếu cử tri nào vì đi nơi khác, không thể tham gia bỏ phiếu ở nơi đã ghi tên vào danh sách cử tri thì có quyền được ghi tên và bỏ phiếu ở nơi khác. (Với điều kiện phải có giấy chứng nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi đã đăng ký danh sách cử tri) Ủy ban nhân dân nơi cử tri đã đăng phải ghi ngay vào danh sách bên cạnh tên cử tri "Đi bỏ phiếu nơi khác".
Trong thời hạn 10 ngày trước ngày bầu cử, Tổ bầu cử phải thường xuyên thông báo cho cử tri biết ngày bầu cử, nơi bỏ phiếu, thời gian bỏ phiếu bằng hình thức niêm yết, phát thanh và các phương tiện thông tin khác của địa phương.
Đối với việc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp còn có các quy định khác như: Mỗi cử tri chỉ được ghi tên vào một danh sách cử tri nơi mình cư trú. Trong thời gian lập danh sách cử tri, những người thay đổi nơi cư trú trong phạm vi một đơn vị hành chính cấp huyện được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh; thay đổi nơi cư trú trong phạm vi một đơn vị hành chính cấp tỉnh được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
Cử tri là sinh viên, học sinh, học viên ở các trường chuyên nghiệp, trường đại học, trường cao đẳng, trường trung học chuyên nghiệp và cử tri là quân nhân ở các đơn vị vũ trang nhân dân được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện ở nơi tạm trú hoặc đóng quân.
Giới thiệu ứng cử viên
Giới thiệu ứng cử viên hay đưa người ra ứng cử là một giai đoạn quan trọng trong tiến trình bầu cử, vì cử tri chỉ được lựa chọn bầu trong số những ứng cử viên là đại diện cho mình. Hay nói một cách khác chính giai đoạn này xác định phạm vi nhất định những cá nhân mà trong số đó sẽ bầu ra đại biểu của cơ quan dân cử trung ương hay địa phương.
Hiện nay, trên thế giới phổ biến các phương pháp đưa người ra ứng cử như: tự ứng cử, ứng cử viên được đề cử bởi nhóm cử tri, ứng cử viên được đề cử bởi đảng chính trị hay tổ chức xã hội – chính trị mà biến dạng của nó là phương pháp Praimeris ở Mỹ là phương pháp đề cử ứng cử viên dựa vào ý kiến của cử tri.
Ở Việt Nam, song song với việc thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử là việc giới thiệu ứng cử viên. Đây cũng là giai đoạn cực kỳ quan trọng của cuộc bầu cử. Sự dân chủ không chỉ thể hiện trong khi xác định kết quả bầu cử mà còn ngay từ khi giới thiệu ứng cử viên. Nếu công dân không được giới thiệu ra ứng cử, không lập được danh sách ứng cử thì không có cơ hội để trở thành đại biểu được.
Về mặt nguyên tắc, chủ thể giới thiệu ứng cử viên càng rộng bao nhiêu thì thể hiện sự dân chủ bấy nhiêu của giai đoạn này. Pháp luật hiện hành không hạn chế việc giới thiệu ứng cử viên của các tổ chức chính trị - xã hội và ứngcử viên cũng không bắt buộc phải nộp một khoản tiền ký quỹ để tranh cử.
Pháp luật hiện hành đề cao vai trò của mặt trận tổ quốc Việt Nam trong việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân. Mặt trận tổ quốc là chủ thể duy nhất lập danh sách ứng cử viên đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân.
Pháp luật quy định việc tự ứng cử của công dân nếu đủ điều kiện về độ tuổi,năng lực và sự tín nhiệm của cử tri. Những ứng cư viên này được mặt trận giớithiệu về các nơi ở cơ sở và nơi côngtác để họ được góp ý trước khi được mặt trận tổ quốc hiệp thương lập danh sách ứng cử viên chính thức.
Việc giới thiệu ứng cử viên:
Ở tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội- nghề nghiệp, tổ chức xã hội- nghề nghiệp, tổ chức xã hội thì Ban lãnh đạo của tổ chức đó dự kiến người của tổ chức mình ứng cử đại biểu Quốc hội, tổ chức lấy ý kiến nhận xét của Hội nghị cử tri nơi người đó công tác.
Trên cơ sở ý kiến của Hội nghị cử tri, Ban lãnh đạo tổ chức hội nghị Ban Thường vụ mở rộng, Ban Thường trực mở rộng hoặc Đoàn Chủ tịch mở rộng để thảo luận, giới thiệu người của tổ chức mình ứng cử đại biểu Quốc hội.
Ở cơ quan Nhà nước thì Ban lãnh đạo cơ quan phối hợp với Ban Chấp hành công đoàn dự kiến người của cơ quan mình ứng cử đại biểu Quốc hội, tổ chức lấy ý kiến nhận xét của Hội nghị cử tri nơi người đó công tác.
Trên cơ sở ý kiến của Hội nghị cử tri, Thủ trưởng cơ quan tổ chức hội nghị gồm Ban lãnh đạo cơ quan, Ban Chấp hành công đoàn, đại diện lãnh đạo các đơn vị trực thuộc để thảo luận, giới thiệu người của cơ quan mình ứng cử đại biểu Quốc hội.
Ở đơn vị vũ trang nhân dân thì lãnh đạo, chỉ huy đơn vị dự kiến người của đơn vị mình ứng cử đại biểu Quốc hội, tổ chức lấy ý kiến nhận xét của Hội nghị cử tri nơi người đó công tác.
Trên cơ sở ý kiến của Hội nghị cử tri, lãnh đạo, chỉ huy đơn vị tổ chức hội nghị gồm lãnh đạo, chỉ huy đơn vị, đại diện Ban Chấp hành công đoàn (nếu có), đại diện quân nhân và chỉ huy cấp dưới trực tiếp để thảo luận, giới thiệu người của đơn vị mình ứng cử đại biểu Quốc hội.
Hiệp thương lập danh sách ứng cử viên
Muốn có được danh sách ứng cử viên chính thức cho các đơn vị bầu cử niêm yết để cử tri bỏ phiếu bầu cử, mặt trận tổ quốc Việt Nam phải tổ chức ba hội nghị hiệp thương cơ bản giữa các tổ chức là thành viên: Hội nghị hiệp thương để phân bổ số lượng ứng cử viên mà các tổ chức xã hội được giới thiệu, hội nghị hiệp thương sơ bộ các ứng cử viên để đưa về đơn vị nơi công tác và nơi cư trú lấy ý kiến đóng góp của Hội nghị cử tri, và cuối cùng là hiệp thương để lập danh sách ứng cử viên để đưa về các đơn vị bầu cử.
Các bước hiệp thương:
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy định rõ quy trình hiệp thương giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội gồm 3 bước như sau:
1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức hội nghị hiệp thương lần thứ nhất chậm nhất là 85 ngày trước ngày bầu cử, để thoả thuận về cơ cấu, thành phần đại biểu Quốc hội, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị được bầu làm đại biểu Quốc hội, trên cơ sở dự kiến của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức hội nghị hiệp thương lần thứ hai chậm nhất là 60 ngày trước ngày bầu cử để thoả thuận lập danh sách sơ bộ những người ứng cử đại biểu Quốc hội và gửi lấy ý kiến cử tri nơi cư trú (đối với người tự ứng cử đại biểu Quốc hội thì đồng thời gửi lấy ý kiến cử tri nơi người đó công tác hoặc làm việc (nếu có)), trên cơ sở điều chỉnh lần thứ nhất của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức hội nghị hiệp thương lần thứ ba chậm nhất là 35 ngày trước ngày bầu cử để lựa chọn, lập danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội, trên cơ sở điều chỉnh lần thứ hai của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và kết quả lấy ý kiến cử tri.
Thành phần hội nghị hiệp thương:
Hội nghị hiệp thương ở trung ương do Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức, thành phần gồm: Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đại diện Ban lãnh đạo các tổ chức thành viên của Mặt trận. Đại diện Hội đồng bầu cử, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ được mời tham dự Hội nghị này.
Hội nghị hiệp thương ở địa phương do Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức, thành phần gồm: Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh, đại diện ban lãnh đạo các tổ chức thành viên của Mặt trận và đại diện Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Đại diện Uỷ ban bầu cử, Thường trực Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cùng cấp được mời tham dự Hội nghị này.
Lập danh sách đại biểu và niêm yết danh sách:
Sau khi hiệp thương lần thứ ba và lập danh sách ứng cử đại biểu Quốc hội lần thứ ba, Ban Thường trực Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam gửi đến Hội đồng bầu cử, Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gửi đến Uỷ ban bầu cử danh sách chính thức những người được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội. Thời hạn chậm nhất để thực hiện là 30 ngày trước ngày bầu cử.
Sau khi nhận được danh sách danh sách chính thức do Ban Thường trực Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các Uỷ ban bầu cử gửi đến, Hội đồng bầu cử lập và công bố danh sách những người ứng cử theo từng đơn vị bầu cử trong cả nước chậm nhất là 25 ngày trước ngày bầu cử và Ban bầu cử phải niêm yết danh sách người ứng cử ở địa phương mình theo quyết định của Hội đồng bầu cử Ban bầu cử phải niêm yết danh sách người ứng cử ở địa phương mình theo quyết định của Hội đồng bầu cử.
Việc hiệp thương có ý nghĩa quan trọng về mặt kỹ thuật, quy trình này giúp loại khỏi danh sách nhiều ứng cử viên không đủ tiêu chuẩn, hoặc bị phát hiện có dấu hiệu vi phạm... để chốt danh sách ứng cử viên cuối cùng, giảm bớt hiện tượng "loãng phiếu" khi bầu cử.
Ví dụ: Ở kỳ bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2004 – 2009, sau Hội nghị hiệp thương lần 3, có 27 ứng cử viên Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, 134 cấp huyện, 1.712 cấp xã bị đưa ra khỏi danh sách bầu cử.
Vận động bầu cử
Giai đoạn này là một giai đoạn quan trọng trong tiến trình bầu cử, bởi chính giai đoạn này phần nhiều quyết định sự thành bại của ứng cử viên.
Kể từ khi lập danh sách cho đến ngày bỏ phiếu, các ứng cử viên cũng như các chủ thể giới thiệu ứng cử viên được quyền bình đẳng trong việc vận động, tuyên truyền bầu cử.
Vận động bầu cử là hoạt động gặp gỡ, tiếp xúc của người ứng cử với cử tri và các phương tiện thông tin đại chúng. Mục đích là tạo điều kiện cho người ứng cử đại biểu Quốc hội gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri để báo cáo với cử tri dự kiến chương trình hành động của mình nếu được bầu làm đại biểu...
Ở Việt Nam, việc tổ chức vận động bầu cử phải tuân theo các quy tắc sau:
Nguyên tắc vận động bầu cử:
Nguyên tắc tiến hành vận động bầu cử là bảo đảm dân chủ, bình đẳng đúng pháp luật và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội
Theo đó, việc bầu cử phải bảo đảm: Dân chủ, bình đẳng và xây dựng trong vận động bầu cử, tạo không khí trao đổi thẳng thắn, cởi mở giữa người ứng cử và cử tri. Các ứng cử viên không được lợi dụng vận động bầu cử để tuyên truyền trái với Hiến pháp và pháp luật hoặc làm tổn hại đến danh dự, uy tín và quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Không biến vận động bầu cử thành nơi để khiếu nại, tố cáo hoặc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Không được lạm dụng uy tín, chức vụ, quyền hạn trong việc quản lý các phương tiện thông tin đại chúng trong vận động bầu cử. Không được lợi dụng vận động bầu cử để vận động tài trợ, quyên góp ở trong nước và ngoài nước cho tổ chức, cá nhân mình. Không được sử dụng tiền, tài sản của Nhà nước, tập thể và cá nhân để lôi kéo, mua chuộc cử tri. Bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn trong quá trình vận động bầu cử.
Hình thức vận động bầu cử:
Những người bầu cử đại biểu Quốc hội (hoặc Hội đồng nhân dân) tiến hành vận động bằng hình thức: gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri và các phương tiện thông tin đại chúng để báo cáo với cử tri dự kiến thực hiện trách nhiệm của người đại biểu nếu được bầu làm đại biểu thông qua hội nghị tiếp xúc cử tri do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp ở địa phương nơi mình ứng cử tổ chức. Trả lời phỏng vấn trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy định về quy trình tiến hành hội nghị cử tri như sau:
Hội nghị cử tri ở xã, phường, thị trấn được tổ chức theo đơn vị cấp cơ sở (cơ sở ở đây được hiểu là thôn, xóm, tổ dân phố buôn, bản, ấp) nơi cư trú thường xuyên của người ứng cử do Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn phối hợp với Uỷ ban nhân dân cùng cấp triệu tập và chủ trì. Người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị có người ứng cử được mời tham dự Hội nghị này.
Hội nghị cử tri ở tổ chức chính trị - xã hội do Ban lãnh đạo và Ban Chấp hành công đoàn tổ chức triệu tập và chủ trì.
Hội nghị cử tri ở cơ quan Nhà nước do Ban lãnh đạo phối hợp với Ban Chấp hành công đoàn cơ quan triệu tập và chủ trì.
Hội nghị cử tri ở đơn vị vũ trang nhân dân là Hội nghị quân nhân do lãnh đạo, chỉ huy đơn vị triệu tập và chủ trì. Người ứng cử đại biểu Quốc hội được mời tham dự Hội nghị này.
Tại các Hội nghị trên, cử tri đối chiếu với tiêu chuẩn đại biểu nhận xét, bày tỏ sự tín nhiệm đối với người ứng cử đại biểu bằng cách giơ tay hoặc bỏ phiếu kín theo quyết định của Hội nghị.
Biên bản Hội nghị cử tri lấy ý kiến về những người do cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương giới thiệu được gửi đến Mặt trận Tổ quốc ở Trung ương. Biên bản Hội nghị cử tri lấy ý kiến về những người do cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương giới thiệu và những người tự ứng cử được gửi đến Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Việc tổ chức Hội nghị cử tri nêu trên do Uỷ ban thường vụ Quốc hội phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn.
Trình tự của việc vận động bầu cử:
1. Người ứng cử trình bày dự kiến chương trình hành động của mình nếu được bầu làm đại biểu Quốc hội hoặc đại biểu hội đồng nhân dân
2. Người ứng cử trình bày ý kiến của mình về vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của đại biểu Quốc hội hoặc đại biểu hội đồng nhân dân
3. Người ứng cử và cử tri trao đổi về những vấn đề cùng quan tâm;
4. Người ứng cử trả lời các câu hỏi của cử tri.
5. Hội đồng tiếp xúc cử tri trong vận động bầu cử
Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chủ trì phối hợp với chính quyền địa phương ở đơn vị bầu cử tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri, thành phần gồm đại diện các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cử tri ở địa phương.
Tại hội nghị tiếp xúc cử tri, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phối hợp với Mặt trận Tổ quốc cùng cấp giới thiệu nội dung cơ bản về tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương để người ứng cử xây dựng dự kiến chương trình hành động của mình.
Đối với những người được trung ương giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội ở địa phương nào cần kết hợp nghiên cứu tình hình địa phương đó và tình hình chung của cả nước để xây dựng dự kiến chương trình hành động của mình.
Chương trình hội nghị tiếp xúc cử tri gồm:
1. Tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu.
2. Đại diện Ban thường vụ Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chủ trì cuộc tiếp xúc cử tri giới thiệu và đọc tiểu sử tóm tắt của từng người ứng cử.
3. Từng người ứng cử báo cáo với cử tri về dự kiến việc thực hiện trách nhiệm của người đại biểu nếu được bầu làm đại biểu Quốc hội.
4. Cử tri nêu ý kiến, đề đạt nguyện vọng của mình với những người ứng cử. Cử tri và những người ứng cử trao đổi dân chủ, thẳng thắn và cởi mở những vấn đề cùng quan tâm.
5. Người chủ trì hội nghị phát biểu kết thúc hội nghị.
Bỏ phiếu
Bỏ phiếu kín là một trong những nguyên tắc quan trọng và là một trong những đảm bảo quan trọng của sự tự do thể hiện nguyện vọng của cử tri.
Thủ tục bỏ phiếu được pháp luật bầu cử của các nước (theo những thể thức khác nhau) điều chỉnh tương đối cụ thể. Một điểm chung cho các nước là pháp luật bầu cử đều quy định nguyên tắc bỏ phiếu kín và chỉ có những người có tên trong danh sách cử tri mới có quyền đi bỏ phiếu.
Khi đến phòng bỏ phiếu, cử tri phải xuất trình giấy tờ tùy thân hoặc thẻ cử tri do nhân viên phụ trách bầu cử cung cấp đồng thời nhận phiếu bầu. Cử tri viết trong phòng kín sau đó gấp lại hoặc cho vào phong bì gián lại rồi ra ngoài tự tay bỏ vào thùng phiếu.
Theo thông lệ trên, pháp luật hiện hành ở Việt Nam cũng quy định rất cụ thể về thể thức bỏ phiếu.
Thời gian bỏ phiếu:
Việc bỏ phiếu bắt đầu từ bảy giờ sáng (07 giờ UTC+7) đến bảy giờ tối (19 giờ UTC+7). Tuỳ tình hình địa phương, Tổ bầu cử có thể quyết định cho bắt đầu sớm hơn nhưng không được trước 5 giờ sáng hoặc kết thúc muộn hơn nhưng không được quá 10 giờ đêm.
Trong ngày bầu cử, việc bỏ phiếu phải được tiến hành liên tục. Và không được phép tổ chức tuyên truyền vận động bầu cử tại phòng bỏ phiếu.
Trong trường hợp có sự kiện bất ngờ làm gián đoạn việc bỏ phiếu, thì Tổ bầu cử lập tức niêm phong hòm phiếu, tài liệu liên quan trực tiếp đến cuộc bầu cử, kịp thời báo cáo cho Ban bầu cử biết, đồng thời phải có những biện pháp cần thiết để việc bỏ phiếu được tiếp tục.
Nếu vì một lý do đặc biệt cần phải hoãn ngày bỏ phiếu thì tổ bầu cử phải kịp thời báo cáo cho ban bầu cử biết để hội đồng bầu cử xem xét, quyết định.
Thể thức bỏ phiếu:
Trước khi bỏ phiếu, Tổ bầu cử phải kiểm tra hòm phiếu trước sự chứng kiến của cử tri. Mỗi cử tri có quyền bỏ một phiếu bầu, họ sẽ nhận được một phiếu bầu do tổ bầu cử phát ra sau khi lá phiếu đó đã được đóng dấu của tổ bầu cử. khi bầu cử phải xuất trình thẻ cử tri. Cử tri phải tự mình đi bầu, không được bầu bằng cách gửi thư. Mọi người đều phải tuân theo nội quy của phòng bỏ phiếu.
Luật quy định rõ cử tri phải tự mình đi bầu và phải tự nhận phiếu bầu, không nhờ người khác nhận thay, tự mình viết phiếu bầu, tự mình gạch tên ứng cử viên mình không tín nhiệm (nguyên tắc bầu cử trực tiếp).
Trong trường hợp cử tri không thể tự mình viết được phiếu thì nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu, người viết hộ phải bảo đảm bí mật phiếu bầu.
Người vì tàn tật không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu. Trong trường hợp cử tri ốm đau, già yếu, tàn tật không thể đến phòng bỏ phiếu được thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở của cử tri để cử tri nhận phiếu và bầu.
Người vừa câm, vừa điếc không thuộc các trường hợp quy định không được ghi tên vào danh sách cử tri, vì vậy, người vừa câm, vừa điếc đều được ghi tên vào danh sách cử tri, tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội.
Về việc viết và bỏ phiếu, nếu họ không tự viết được phiếu bầu thì áp dụng theo quy định: "Cử tri không thể tự viết được phiếu bầu thì nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu; người viết hộ phải bảo đảm bí mật phiếu bầu của cử tri; nếu cử tri vì tàn tật không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu".
Người viết phiếu hộ phải đảm bảo giữ bí mật phiếu bầu của cử tri nhờ viết, không được tiết lộ với bất cứ ai, kể cả những người trong tổ chức phụ trách bầu cử về việc người nhờ mình bầu cho ứng cử viên nào. Nếu người viết phiếu hộ mà tiết lộ là vi phạm nguyên tắc bỏ phiếu kín của cử tri.
Mỗi cử tri chỉ có quyền bỏ một phiếu bầu. Khi cử tri viết phiếu bầu, không ai được đến xem, kể cả thành viên Tổ bầu cử; nếu viết hỏng, cử tri có quyền đề nghị Tổ bầu cử đổi phiếu bầu khác.
Khi đã hết giờ bỏ phiếu, nếu còn cử tri có mặt tại phòng bỏ phiếu mà chưa kịp bỏ phiếu thì chỉ sau khi số cử tri này bỏ phiếu xong, Tổ bầu cử mới được tuyên bố kết thúc cuộc bỏ phiếu.
Kiểm phiếu
Sau khi cuộc bỏ phiếu kết thúc, các tổ chức phụ trách bầu cử ở khu vực bỏ phiếu lập tức tiến hành việc kiểm phiếu. Việc kiểm phiếu được tiến hành công khai.
Thông thường, bộ phận kiểm phiếu trước hết phải xác định số lượng cử tri ở khu vực bỏ phiếu đã tham gia bỏ phiếu, sau đó đối chiếu với số phiếu bầu ở trong thùng phiếu có phù hợp hay không, rồi xác định số phiếu hợp lệ và không hợp lệ.
Nếu tổng số phiếu trong hòm phiếu phù hợp với số lượng phiếu mà tổ bầu cử phát ra thì tiến hành kiểm phiếu. Trong trường hợp khác nhau thì phải lập tức báo cho ban bầu cử biết và quyết định.
Giai đoạn kiểm phiếu hoàn toàn do các nhân viên của tổ chức phụ trách bầu cử đảm nhiệm.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, việc kiểm phiếu phải được tiến hành tại phòng bỏ phiếu ngay sau khi cuộc bỏ phiếu kết thúc.
Trước khi mở hòm phiếu, Tổ bầu cử phải thống kê, lập biên bản, niêm phong số phiếu không sử dụng đến và phải mời hai cử tri không phải là người ứng cử chứng kiến việc kiểm phiếu.
Người ứng cử, đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu người ứng cử hoặc người được uỷ nhiệm có quyền chứng kiến việc kiểm phiếu và khiếu nại về việc kiểm phiếu. Các phóng viên báo chí được chứng kiến việc kiểm phiếu.
Việc kiểm phiếu bao gồm các bước sau:
Thống kê, lập biên bản, niêm phong tất cả số phiếu bầu không sử dụng đến.
Xác định tổng số phiếu đã phát ra.
Xác định tổng số cử tri tham gia bỏ phiếu.
Nghiêm cấm việc bỏ phiếu sau khi đã mở hòm phiếu.
Kiểm tra hòm phiếu và tiến hành mở hòm phiếu (cả hòm phiếu phụ nếu có).
Xác định tổng số phiếu được lấy ra từ hòm phiếu.
So sánh tổng số phiếu được lấy ra từ hòm phiếu với số phiếu đã phát ra và với tổng số cử tri tham gia bỏ phiếu.
Xác định số phiếu hợp lệ và không hợp lệ.
Phiếu hợp lệ là phiếu bầu theo mẫu quy định do Tổ bầu cử phát, có dấu của Tổ bầu cử. Phiếu bầu đủ hoặc ít hơn số đại biểu Quốc hội mà đơn vị bầu cử được bầu. Phiếu bầu gạch tên các ứng cử viên không được tín nhiệm bằng cách gạch chéo, gạch xiên, gạch dọc hoặc gạch ngang, nhưng phải gạch hết họ và tên.
Phiếu không hợp lệ là phiếu không theo mẫu quy định do Tổ bầu cử phát. Phiếu không có dấu của Tổ bầu cử (phiếu không do Tổ bầu cử phát ra). Phiếu để số người được bầu quá số đại biểu mà đơn vị bầu cử được bầu. Phiếu gạch xoá hết tên những người ứng cử (hay còn gọi là phiếu trắng). Phiếu ghi tên người ngoài danh sách ứng cử. Phiếu có viết thêm. Phiếu có gạch vào khoảng cách giữa họ và tên hai ứng cử viên. Phiếu không xác định được cử tri bỏ phiếu cho ai (như phiếu gạch không đúng vị trí của tên ứng cử viên hay số ứng cử viên không bị gạch nhiều hơn số đại biểu cần bầu) Phiếu khoanh tròn họ và tên ứng cử viên.
Trong trường hợp có phiếu nghi là không hợp lệ thì Tổ trưởng Tổ bầu cử đưa ra để toàn Tổ giải quyết. Tổ bầu cử không được gạch xoá hoặc sửa các tên ghi trên phiếu bầu.
Đếm số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử.
Giải quyết những khiếu nại, tố cáo về bầu cử hoặc chuyển lên Ban bầu cử giải quyết. Những khiếu nại tại chỗ về việc kiểm phiếu do Tổ bầu cử nhận, giải quyết và ghi cách giải quyết vào biên bản. Trong trường hợp Tổ bầu cử không giải quyết được thì phải ghi rõ ý kiến của Tổ vào biên bản giải quyết khiếu nại và chuyển đến Ban bầu cử.
Làm biên bản và báo cáo về kết quả kiểm phiếu.
Sau khi kiểm phiếu xong, Tổ bầu cử phải lập biên bản kết quả kiểm phiếu. Biên bản kết quả kiểm phiếu phải ghi rõ: Số đại biểu Quốc hội được ấn định cho đơn vị bầu cử. Số người ứng cử. Tổng số cử tri của đơn vị bầu cử, khu vực bỏ phiếu. Số cử tri đã tham gia bỏ phiếu. Tỷ lệ cử tri đã tham gia bỏ phiếu so với tổng số cử tri. Số phiếu hợp lệ. Số phiếu không hợp lệ. Số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử. Danh sách những người trúng cử. Những khiếu nại do các Tổ bầu cử đã giải quyết, những khiếu nại do Ban bầu cử giải quyết, những khiếu nại chuyển đến Uỷ ban bầu cử, Hội đồng bầu cử. Biên bản được lập thành bốn bản, có chữ ký của Tổ trưởng, Thư ký và hai cử tri được mời chứng kiến việc kiểm phiếu.
Chuyển biên bản và báo cáo kết quả kiểm phiếu cho Ban bầu cử. Biên bản được gửi đến Ban bầu cử và Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, ban thường trực Uỷ ban mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn chậm nhất là ba ngày sau ngày bầu cử.
Xác định kết quả bầu cử
Kết quả cuộc bầu cử được xác định trước hết ở từng đơn vị bầu cử. Kết quả này được chuyển lên cho Ủy ban bầu cử ở Trung ương (Hội đồng bầu cử). Trên cơ sở những văn bản do các tổ chức phụ trách ở đơn vị bầu cử gửi đến, Ủy ban bầu cử Trung ương xác nhận tính hợp pháp của cuộc bầu cử ở từng đơn vị bầu cử rồi công bố kết quả bầu cử. Trong trường hợp cần thiết có thể tuyên bố bỏ phiếu vòng hai.
Sau khi nhận được biên bản kết quả kiểm phiếu của các Tổ bầu cử, Ban bầu cử kiểm tra các biên bản đó và lập biên bản xác định kết quả bầu cử ở đơn vị bầu cử của mình.
Biên bản phải ghi rõ: Số lượng ứng cử viên, tổng số cử tri trong đơn vị bầu cử, số lượng cử tri tham gia bỏ phiếu, số lượng phiếu thuận của từng ứng cử viên (số phiếu bầu cho mỗi người) và những vấn đề khác có liên quan đến bầu cử. Cuối cùng là danh sách những người trúng cử.
Biên bản được thành lập thành năm bản, có chữ ký của Trưởng ban, các Phó Trưởng ban và Thư ký. Biên bản được gửi đến Hội đồng bầu cử, Uỷ ban bầu cử, Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chậm nhất là năm ngày sau ngày bầu cử.
Theo quy định của pháp luật về bầu cử, trong số đại biểu mà đơn vị bầu cử được bầu, người ứng cử được quá nửa số phiếu hợp lệ và được nhiều phiếu hơn là người trúng cử. Trong trường hợp nhiều người được số phiếu ngang nhau thì người nhiều tuổi hơn là người trúng cử. Đối với đại biểu Hội đồng nhân dân, trong trường hợp có nhiều số phiếu ngang nhau thì theo đề nghị của ban bầu cử cùng Mặt trận Tổ quốc cùng cấp thì hội đồng bầu cử sẽ quyết định.
Công bố kết quả bầu cử
Sau khi nhận và kiểm tra biên bản xác định kết quả bầu cử của các Ban bầu cử, Uỷ ban bầu cử và giải quyết các khiếu nại, tố cáo (nếu có), Hội đồng bầu cử lập biên bản tổng kết cuộc bầu cử trong cả nước.
Biên bản phải ghi rõ: Tổng số đại biểu được ấn định, tổng số người ứng cử, tổng số cử tri. tổng số cử tri đã tham gia bỏ phiếu, tỷ lệ cử tri đã tham gia bỏ phiếu so với tổng số cử tri, tổng số phiếu hợp lệ, số phiếu không hợp lệ. số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử, số người trúng cử và danh sách những người trúng cử, những vấn đề quan trọng khác có liên quan đến bầu cử như việc vi phạm pháp luật về bầu cử, những khiếu nại, tố cáo do Hội đồng bầu cử giải quyết....
Biên bản được lập thành năm bản, có chữ ký của Chủ tịch, Tổng thư ký Hội đồng bầu cử. Biên bản được gửi đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chậm nhất là 7 ngày sau ngày bầu cử. Một bản trình Quốc hội hoặc Hội đồng nhân dân khoá mới và một bản lưu trữ.
Hội đồng bầu cử căn cứ vào biên bản tổng kết cuộc bầu cử trong cả nước công bố kết quả bầu cử và danh sách những người trúng cử đại biểu Quốc hội (hoặc Hội đồng nhân dân).
Bầu cử thêm, bầu bổ sung
Để đảm bảo công bằng, bình đẳng đối với người trúng cử trong cuộc bầu cử lần thứ nhất và người trúng cử trong cuộc bầu cử thêm, bầu cử lại, Pháp luật hiện hành quy định:
Đối với cuộc bầu cử thêm và bầu cử lại chỉ có giá trị khi có quá nửa số cử tri đi bầu. Người trúng cử phải được quá nửa số phiếu hợp lệ. Nếu bầu cử thêm mà vẫn chưa đủ số đại biểu thì không tổ chức bầu cử thêm lần thứ hai. Nếu bầu cử lại mà số cử tri đi bầu vẫn chưa được quá nửa số cử tri ghi tên trong danh sách thì không tổ chức bầu cử lại lần thứ hai.
Bầu cử thêm:
Bầu cử thêm là cuộc bầu cử do Hội đồng bầu cử quyết định cho đơn vị bầu cử nào đó mà ở cuộc bầu cử đầu tiên, số người trúng cử chưa đủ số đại biểu do Ủy ban thường vụ Quốc hội ấn định cho đơn vị bầu cử đó.
Trong cuộc bầu cử nếu số người trúng cử chưa đủ số đại biểu được bầu ở đơn vị bầu cử thuộc địa phương nào thì Uỷ ban bầu cử ở địa phương đó báo cáo ngay đến Hội đồng bầu cử xem xét, quyết định việc bầu cử thêm số đại biểu còn thiếu.
Khi lập biên bản xác định kết quả bầu cử ở đơn vị bầu cử, Ban bầu cử phải ghi rõ các nội dung và báo cáo ngay cho Ủy ban bầu cử để đề nghị Hội đồng bầu cử xem xét, quyết định việc bầu cử thêm.
Nếu xét thấy việc khuyết đó có ảnh hưởng đến cơ cấu và hoạt động thì Hội đồng bầu cử mới quyết định việc bầu cử thêm cho đỡ tốn kém và phiền phức. Nếu bầu cử thêm thì ngày bầu cử phải được tiến hành chậm nhất là 20 ngày sau cuộc bầu cử đầu tiên.
Điều 50 Luật bầu cử Hội đồng nhân dân quy định: Trong cuộc bầu cử thêm, cử tri chỉ chọn trong danh sách những người ứng cử nhưng không trúng cử kỳ đầu. Nếu bầu thêm mà vẫn không đủ số lượng thì không tổ chức bầu thêm lần thứ hai.
Ở đơn vị bầu cử thuộc địa phương nào nếu số cử tri đi bỏ phiếu chưa được quá nửa số cử tri ghi trong danh sách thì Uỷ ban bầu cử ở địa phương đó báo cáo ngay đến Hội đồng bầu cử xem xét, quyết định việc bầu cử lại ở đơn vị bầu cử đó. Nếu bầu cử lại thì ngày bầu cử được tiến hành chậm nhất là 20 ngày sau ngày bầu cử đầu tiên. Bầu cử thêm không phải thực hiện lại các bước hiệp thương giới thiệu, lựa chọn người ứng cử, mà cử tri chỉ bầu chọn trong danh sách những người đã ứng cử lần đầu chưa trúng cử.
Danh sách cử tri của cuộc bầu cử thêm vẫn căn cứ vào danh sách cử tri trong cuộc bầu cử đầu tiên. Trong cuộc bầu cử thêm, người trúng cử phải là người được quá nửa số phiếu hợp lệ và được nhiều phiếu hơn. Nếu bầu cử thêm mà vẫn chưa đủ số đại biểu theo quy định thì không tổ chức bầu cử thêm lần thứ hai.
Bầu cử lại:
Đối với việc bầu cử đại biểu Quốc hội, luật quy định thẳng cho Ủy ban bầu cử có quyền quyết định việc bầu lại ngay mà không cần qua Hội đồng bầu cử trung ương.
Nếu bầu cử lại mà số cử tri đi bầu vẫn chưa được quá nửa số cử tri ghi tên trong danh sách thì không tổ chức bầu cử lại lần thứ hai.
Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân còn quy định trường hợp các đơn vị vi phạm pháp luật bầu cử nghiêm trọng phải tiến hành bầu lại. Hội đồng bầu cử quyết định hủy bỏ kết quả bầu cử trước đó và ấn định ngày bầu lại cho các đơn vị bầu cử này.
Bầu bổ sung:
Về việc bầu bổ sung, trong nhiệm kỳ có trường hợp khuyết đại biểu ở một đơn vị nào đó thì có thể tổ chức bầu cử bổ sung. Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định việc bầu cử bổ sung đại biểu Quốc hội.
Điều 79 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy định: Trong nhiệm kỳ, nếu đơn vị bầu cử nào khuyết đại biểu Quốc hội thì có thể bầu bổ sung đại biểu Quốc hội ở đơn vị đó; nếu thời gian còn lại của nhiệm kỳ Quốc hội dưới hai năm thì không tổ chức bầu cử bổ sung.
Viêc bầu cử bổ sung đại biểu ỏ Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phô trực thuộc trung ương do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định. Đối vơí việc bầu cử Hội đồng nhân dân huyện, xã và tương đương do thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định.
Điều 80 Luật bầu cử Quốc hội quy định cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội có thẩm quyền quyết định việc bầu cử bổ sung, thành lập Uỷ ban bầu cử bổ sung, quyết định ngày bầu cử bổ sung và công bố chậm nhất là 30 ngày trước ngày bầu cử.
Cơ quan có thẩm quyền quyết định việc bầu cử bổ sung phải xem xét các mặt như: Thời hạn của nhiệm kỳ đại biểu, số đại biểu khuyết có ảnh hưởng đến hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước và đến hoạt động của các tổ đại biểu (do nhu cầu của việc thiếu các cương vị chủ chốt ở địa phương).
Việc bầu cử bổ sung phải tiến hành theo quy định của pháp luật bầu cử. Để phụ trách công việc bầu cử bổ sung, pháp luật quy định thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử bổ sung gồm: Ủy ban bầu cử bổ sung, ban bầu cử bổ sung và tổ bầu củ bổ sung. Quyền hạn và nhiệm vụ của các tổ chức bầu cử bổ sungvà thể thức bỏ phiếu bầu cử giống như những nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức bầu cử và các quy định về bầu cử trong Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
Điều 82 Luật bầu cử Quốc hội quy định chậm nhất là 20 ngày trước ngày bầu cử bổ sung, Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sau khi thống nhất ý kiến với Uỷ ban nhân dân, Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp quyết định thành lập Ban bầu cử bổ sung.
Điều 83 Luật này quy định chậm nhất là 15 ngày trước ngày bầu cử bổ sung, Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn sau khi thống nhất với Uỷ ban nhân dân, Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp quyết định thành lập Tổ bầu cử bổ sung.
Bầu cử Hội đồng nhân dân
Việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân được thực hiện theo quy định của Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân và các văn bản hướng dẫn thi hành. Nhìn chung, trình tự, thủ tục không khác biệt nhiều so với việc bầu cử đại biểu Quốc hội. Chỉ khác biệt đó là phạm vi bầu cử (bầu cử Quốc hội diễn ra trên phạm vi toàn quốc), thành phần tổ chức bầu cử (việc bầu cử Quốc hội do các tổ chức ở cấp trung ương đảm nhiệm). Chính vì vậy mà thực tế các cuộc bầu cử hội đồng nhân dân các cấp thường gộp chung, thậm chí gộp chung với cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội.
Ở Việt Nam, Hội đồng nhân dân được tổ chức làm ba cấp
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh: Bao gồm Hội đồng nhân dân của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
Hội đồng nhân dân cấp huyện: Bao gồm Hội đồng nhân dân các huyện (ví dụ: Hội đồng nhân dân huyện Gio Linh), quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (Ví dụ: Hội đồng nhân dân thành phố Đông Hà).
Hội đồng nhân dân cấp xã: Bao gồm Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn (ví dụ Hội đồng nhân dân thị trấn Gio Linh).
Theo Luật bầu cử Hội đồng nhân dân năm 2003 thì việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân được diễn ra ở cả ba cấp. Cử tri ở mỗi cấp sẽ bầu ra những người đại diện cho mình.
Tuy nhiên, ngày 15 tháng 11 năm 2008, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 26/2008/QH12 về việc thực hiện thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận, phường.
Theo đó, bắt đầu từ ngày 25 tháng 4 năm 2009, sẽ không tổ chức Hội đồng nhân dân ở một số quận, huyện, phường, cụ thể là 67 huyện, 32 quận và 483 phường của 10 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Đối với các quận, huyện, phường còn lại thì vẫn tổ chức bầu cử Hội đồng nhân dân tại đó như bình thường.
Với việc ban hành quy định mới này thì trong nhiệm kỳ tiếp theo, cử tri ở một số quận, huyện, phường sẽ không phải bỏ phiếu để bầu ra hội đồng nhân dân tại những đơn vị đó. Đây là những nỗ lực của Nhà nước Việt Nam trong công cuộc cải cách hành chính, giảm bớt các cơ quan đại biểu trung gian hoạt động không hiệu quả, giảm bớt sự cồng kềnh trong bộ máy nhà nước, tiết kiệm ngân sách cho quốc gia.
Nhận định
Xung quanh việc bầu cử ở Việt Nam, có nhiều nhận định khác nhau về vấn đề này
Nhà nước Việt Nam
Nhận định về bầu cử ở Việt Nam, các nhà chức trách hữu quan đều có những đánh giá hết sức lạc quan về việc bầu cử, dựa trên những con số thống kê, báo cáo tổng kết về kết quả bầu cử các kỳ. Theo đó, kết quả bầu cử được công bố được cho là khả quan với số lượng cử tri đi bầu luôn đạt hơn 99%.
Ở kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII, theo công bố thì tổng số cử tri đi bầu cử là 56.252.543 người trên tổng số 56.467.532 cử tri của cả nước, đạt 99,64%.
Chưa ghi nhận trường hợp gian lận trong bỏ phiếu. Tổng số phiếu bầu: 56.252.543 phiếu. Số phiếu hợp lệ: 55.802.444 phiếu (99,20%). Số phiếu không hợp lệ: 450.099 phiếu (0,80%).
Cơ cấu đại biểu được bầu cũng được cho là tích cực với Tỷ lệ đại biểu quốc hội, hội đồng nhân dân là nữ giới chiếm tỷ lệ khá cao. Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội liên tiếp tăng trong 3 khoá liền và đạt 27,31% ở khoá XI, đứng thứ nhất ở khu vực Châu á và thứ 9 trong 135 nước trong Liên minh Quốc hội thế giới. Trong kỳ bẩu cử Quốc hội khóa XII, tỷ lệ đại biểu là phụ nữ 127 người (chiếm 25,76%), dân tộc thiểu số 87 người (17,65%)...
Đối với các cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân cũng có những số liệu tương tự như: Kỳ bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ba cấp nhiệm kỳ 2004 – 2009 Tổng số cử tri cả nước: 51.551.349 người Số đại biểu được bầu: 3.869 (cấp tỉnh), 23.554 (cấp huyện), 284.507(cấp xã). Số người được giới thiệu ứng cử: 6.052 (cấp tỉnh), 36.281 (cấp huyện), 441.856 (cấp xã). Số người tự ứng cử: 77 (cấp tỉnh), 137 (cấp huyện), 851 (cấp xã). Tỷ lệ ứng cử viên nữ: 32,4% (cấp tỉnh), 30,6% (cấp huyện), 26.4% (cấp xã). Tỷ lệ ứng cử viên ngoài Đảng: 24.3% (cấp tỉnh), 25.9% (cấp huyện), 42% (cấp xã). Số khu vực bỏ phiếu: 87.239.
Với những số liệu đó, nhà cầm quyền cho rằng kết quả bầu cử đã phản ánh "ý nguyện và sức mạnh toàn dân", thể hiện qua việc số cử tri đi bầu cao hơn, kể cả những vùng miền có khó khăn do địa bàn và thời tiết, "không khí dân chủ cao hơn", trong ước muốn xây dựng một Quốc hội mạnh hơn, đủ sức quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước trong thời kỳ hội nhập. Trong ngày bầu cử, "đất trời nước Việt vui cùng lòng người". Trong không khí dân chủ, trách nhiệm và phấn khởi, mỗi người dân như "thấy rõ hơn khát vọng của mình nơi khát vọng dân tộc", và cùng đó, thấy rõ hơn những đòi hỏi cao trong sự lựa chọn trước khi gửi lá phiếu bầu vào "niềm hy vọng và tin tưởng lớn".
Các nhà chức trách đều khẳng định các cuộc bầu cử đề diễn ra thành công tốt đẹp, kết quả cuộc bầu cử thể hiện tinh thần yêu nước của nhân dân Việt Nam, sự tin tưởng của nhân dân vào đường lối đổi mới của Đảng, là sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Các cuộc bầu cử đều đảm yêu cầu dân chủ, đúng luật, an toàn, tiết kiệm.
Hòa trong niềm vui chung khi được trúng cử, đại biểu Nông Đức Mạnh phát biểu: "Tôi hy vọng Quốc hội khóa XII sẽ là Quốc hội của những đại biểu có đức, có tài, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, góp phần xây dựng một Quốc hội thực sự vững vàng, đưa Việt Nam tiếp tục phát triển nhanh hơn, bền vững hơn".
Phương tiện truyền thông trong nước
Trong mỗi kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, các phương tiện truyền thông trong nước đề tham gia tích cực vào quá trình đưa tin về diễn biến và kết quả bầu cử.
Trang nhất của các tờ báo ở Việt Nam như báo Nhân dân, Người Lao động, Lao động, Tuổi Trẻ, Sài Gòn Giải Phóng, Pháp luật.... cho đến các tờ báo liên về quảng cáo, thể thao... đều đồng loạt đưa tin, bài, phóng sự, ảnh về cuộc bầu cử.
Các phương tiện truyền thông như Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói dân dân Việt Nam, các đài truyền hình, đài tiếng nói ở từng địa phương đồng loạt đưa tin, cập nhật thông tin về bầu cử. phản ánh quang cảnh "tấp nập, đông vui" tại khắp các điểm bỏ phiếu.
Các Trang thông tin điện tử cũng đồng loạt đăng tải các hình ảnh, bài viết, tin tức, bình luận, nhận định của công chúng đối với các cuộc bầu cử. Như VietNamNet Lao động....
Nhìn chung, các phương tiện truyền thông đề tuyên truyền, cổ vũ cho các kỳ đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân. Tất cả đều nhấn mạnh vị trí, vai trò, tầm quan trọng của cuộc bầu cử, sự nhiệt tình tham gia bầu cử của nhân dân.
Một số thuật ngữ thường nhắc đến khi đưa tin về bầu cử là: bầu cử là quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong việc xây dựng chính quyền của dân, do dân, vì dân, "Ngày hội lớn của quyền làm chủ đất nước". Không khí bầu cử luôn "hân hoan", "phấn khởi", "tưng bừng"….
Nhưng cũng có một số phương tiện truyền thông có ý kiến cho rằng, với sự băn khoăn của xã hội đối với phẩm chất năng lực của nhiều đại biểu các cấp như hiện nay, không thể nói rằng chất lượng các cuộc bầu cử đó không có vấn đề, không trực tiếp thì gián tiếp, và đã đến lúc cần thiết nên tiến hành tổ chức các diễn đàn đối thoại trực tiếp công khai giữa các ứng cử viên với nhân dân để từ đó người dân có thêm điều kiện lựa chọn khách quan sáng suốt, chính xác nhất những người mà mình sẽ bầu vào cơ quan quyền lực tối cao của Nhà nước.
Phương tiện truyền thông quốc tế
Bầu cử ở Việt Nam được sự quan tâm khá sát sao của giới truyền thông quốc tế. Như cuộc bầu cử Quốc hội khoá XII được nhiều phương tiện truyền thông lớn trên thế giới đưa tin.
Đài Truyền hình NHK của Nhật Bản đã dành thời lượng 3 phút để đưa tin về cuộc bầu cử Quốc hội của Việt Nam. Kênh truyền hình NHK cũng sẽ dành thời gian 30 phút để nói về sự kiện này.
Đưa tin về cuộc bầu cử, hãng Reuters nhận xét: chính sách đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở cửa cho nên kinh tế, cho cải tổ thị trường và cạnh tranh, giúp cải thiện mức sống của người dân.
Bên cạnh việc đưa tin, bài về diễn biến và kết quả bầu cử, một số phương tiện truyền thông quốc tế cũng đã có những chỉ trích về bầu cử ở Việt Nam.
Theo phóng viên Bill Hayton của BBC, những ứng cử viên phải được Đảng cộng sản thông qua, sự kiểm soát này có nghĩa bất cứ ai mà quan điểm không được đảng Cộng sản chấp nhận sẽ không có cơ hội để ra ứng cử.
Đối với tổng tuyển cử, vì các ứng cử viên phải qua đến ba lần Hiệp thương tổng tuyển cử của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nên có chỉ trích cho rằng đây chỉ là quá trình thanh lọc các ứng cử viên ngoài Đảng có tâm huyết.
BBC trích lời ông Nguyễn Văn Yểu phó chủ tịch Quốc hội Việt Nam: "Ở các nước khác có chế độ tranh cử, ở Việt Nam không có tranh cử mà là vận động bầu cử và theo quy định". "Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam với đại diện cao nhất là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, theo điều 4 Hiến pháp 1992 là lãnh đạo Nhà nước và xã hội".
Theo BBC thì chính vì nhiều trường hợp chỉ có một ứng cử viên duy nhất, và người ứng cử viên đó đã thông qua một số thử thách, khảo nghiệm, giám sát, chất vấn từ các thành viên Quốc hội, cũng như trong những quá trình làm việc họ đã gây được uy tín và tạo được sự tin tưởng của Quốc hội rằng họ có khả năng làm việc hiệu quả, nên số phiếu tán thành thường rất cao, hầu hết trên 90%.
BBC còn cho rằng nhân sự cấp cao ở Việt Nam với các chức vụ Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch quốc hội thường đã được Đảng Cộng sản lựa chọn trước thông qua một quá trình khảo nghiệm, giám sát, xem xét cách làm việc, và dựa trên ý kiến chung, việc đưa ra để Quốc hội bầu cử mang nặng tính hình thức hơn là một cuộc bầu cử thật sự.
Họ nhận định bầu cử ở Việt Nam thực chất là bỏ phiếu tín nhiệm, vì các chức vụ đều do Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ định trước dựa trên ý kiến của mọi người và thông qua quá trình giám sát khả năng làm việc của các nhân vật.
Tạp chí The Diplomat cho rằng "Các hành động của các nhà chức trách trong việc giam giữ, phong tỏa các nhà chỉ trích và làm im tiếng nói độc lập, trong một hệ thống bầu cử đảm bảo cho Đảng Cộng sản Việt Nam chiến thắng, chỉ củng cố thực tế rằng cuộc bầu cử sẽ không có ý nghĩa, và đúng hơn là một quá trình được sử dụng để phục vụ lợi ích của chế độ và đảm bảo tính liên tục nắm quyền của họ... Chính danh chỉ có thể đạt được khi người dân được phép lựa chọn lãnh đạo của mình thông qua các cuộc bầu cử tự do và công bằng, một điều đòi hỏi, trong số những thứ khác, phải trả tự do vô điều kiện cho tất cả các tù nhân chính trị, chấm dứt sự quấy rối không ngừng đối với những người thực thi nhân quyền của họ một cách ôn hòa, cải cách luật bầu cử, và mời các quan sát viên độc lập giám sát các cuộc bầu cử. Chỉ khi đó, tính hợp pháp mà Đảng Cộng sản Việt Nam tìm kiếm mới thực sự chính đáng.
Các nhà nghiên cứu
Một số nhà nghiên cứu cho rằng,Lưu Đức Quang, Tự do, công bằng trong bầu cử và liên hệ với bầu cử ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp – Văn phòng Quốc hội, số 89, năm 2007 dù có nhiều điểm tiến bộ, tuy nhiên, cùng với thời gian, thể chế bầu cử ở Việt Nam đã bộc lộ một số nhược điểm cơ bản như:
Quá nhấn mạnh về tính tập trung, thống nhất, biểu hiện cụ thể là số lượng đại biểu Quốc hội hoặc Hội đồng nhân dân chủ yếu được bầu theo dự kiến, theo sự định hướng của lãnh đạo Đảng các cấp. Việc tuyệt đối hoá quan điểm của cấp uỷ trong việc lựa chọn các đại biểu của các tầng lớp nhân dân nhiều khi thể hiện được sự thống nhất, đảm bảo cơ cấu, nhưng thiếu toàn diện.
Trên thực tế, phương pháp này được thể hiện là bệnh hình thức, áp đặt cơ cấu thành phần đại biểu một cách bình quân, máy móc, xơ cứng, không phát huy được tính tích cực của quần chúng nhân dân trong việc lựa chọn người đại diện xứng đáng nhất cho mình. Vì thế, nhiều khi trong các cuộc bầu cử còn có biểu hiện mang tính phong trào, hình thức. Do đó, có nhiều đại biểu được bầu tuy đủ phẩm chất, tư cách nhưng lại không hẳn là đại biểu xứng đáng nhất của nhân dân. Trong tổng số 493 đại biểu được đắc cử ở kỳ họp Quốc hội khóa 12, 92% là đảng viên đảng cộng sản tức đảng cầm quyền.
Ở một số nơi, việc cố gắng thực hiện các dự kiến của cấp uỷ dẫn tới sự không thống nhất, đặc biệt là ở cơ sở. Có người được cấp uỷ giới thiệu nhưng cử tri không bầu, đại biểu có thể được cử tri bầu thì không được giới thiệu hoặc công nhận...Những đại biểu trúng cử theo cách như vậy rất khó làm việc với dân, mặt khác, lại gây mất lòng tin của dân đối với sự lãnh đạo của Đảng.
Ngoài ra, quá trình hiệp thương còn nặng về hợp thức hoá sự chỉ đạo định hướng từ cấp trên. Cử tri ở cơ sở bị rơi vào tình thế bị động, không được giới thiệu người mình tín nhiệm. Mặc dù pháp luật hiện nay có quy định cho người tự ứng cử, nhưng những quy định này cũng chưa đảm bảo công bằng, bình đẳng và chưa đảm bảo rằng người tự ứng cử là người được nhân dân tín nhiệm (chưa có một số lượng nhất định chữ ký hợp pháp của cử tri ủng hộ, như ở nhiều nước).
Việc tự ứng cử, cho đến nay còn chưa được quy định chặt chẽ, thậm chí còn tùy tiện. Về chủ trương, thể chế và tâm lý xã hội vẫn chưa thật sự sẵn sàng cho các cá nhân tự ứng cử. Cơ cấu cho đại biểu tự ứng cử rất thấp (khoảng 10% cho đại biểu Quốc hội lần thứ XII).
Và thể chế bầu cử ở Việt Nam, đặc biệt là những thay đổi từ cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XI và vào Hội đồng nhân dân ba cấp năm 2004, đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế, đã từng rút kinh nghiệm, nhưng Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân và Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội vẫn chưa có những điều chỉnh thích hợp, nhiều điểm chưa đáp ứng được sự chờ đợi của nhân dân, nhất là mâu thuẫn giữa cơ cấu và chất lượng, vấn đề "số dư tương đối lớn" và chuẩn mực "ít nhất từ hai chọn một", vấn đề tự ứng cử, tỉ lệ, chất lượng và tiêu chí giữa đại biểu Quốc hội chuyên trách và không chuyên trách...
Trong điều kiện một Đảng cầm quyền như ở Việt Nam, việc không cho phép hoặc không khuyến khích đảng viên tự ứng cử là một hạn chế, đồng thời cũng làm thu hẹp khả năng lựa chọn của cử tri. Việc lấy ý kiến cử tri nơi công tác và nơi cư trú thường xuyên chưa phản ánh thực chất quyền dân chủ của nhân dân. vì cử tri còn thụ động, họ chỉ được bày tỏ tín nhiệm đối với những người đã có sẵn trong danh sách. Sự tín nhiệm này cũng chỉ mới so với tiêu chuẩn cần thiết (tư cách) của người đại biểu chứ chưa phải là người cử tri lựa chọn trong số những người tốt nhất, xứng đáng hơn giới thiệu ra ứng cử. Đại biểu, đặc biệt là đại biểu Quốc hội nếu mới chỉ nhận được sự "đảm bảo" tư cách của cử tri nơi công tác và nơi cư trú thường xuyên thì chưa đủ, còn phải có sự "đảm bảo" rộng rãi hơn.
Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử Hội đồng nhân dân quy định danh sách ứng cử viên phải nhiều hơn số lượng đại biểu được bầu, nhưng không nói rõ phải nhiều hơn số tối thiểu là bao nhiêu, nên chưa thực sự dân chủ và khoa học. Thông thường, số ứng cử viên chỉ nhiều hơn số đại biểu được bầu 1 đến 2 người vì vậy chưa tạo điều kiện cho cử tri trong việc lựa chọn. Trong các cuộc bầu cử, còn thiếu các cuộc vận động tranh cử và cũng thiếu các chế định cho việc vận động tranh cử. Đại biểu đắc cử chủ yếu phụ thuộc vào định hướng của lãnh đạo, vào cơ cấu chứ không phải vì năng lực và chương trình hành động của họ được thể hiện qua vận động tranh cử.
Giáo sư Trịnh Duy Luận, một nhà xã hội học ở Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam nói điều có thật là một người đi bầu cho cả nhà chứng tỏ người dân Việt Nam không thiết tha gì đến quyền công dân của mình. Và nó chứng tỏ nhà nước Việt Nam không làm cho người dân hiểu quyền lợi và nghĩa vụ của họ như thế nào. Dĩ nhiên, tất cả những nhà lãnh đạo cao cấp của Việt Nam đều tái đắc cử. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng được số phiều bầu cao nhất trong những ứng cử viên với 99.1%.
Nhưng chính sự thiếu ủng hộ cho những ứng cử viên ngoài đảng và những ứng cử viên độc lập đã làm cho mọi người chú ý. Cuộc bầu cử quốc hội khóa XI, đã có ba ứng cử viên độc lập đắc cử. Năm năm trước có hai ứng cử viên viên độc lập đắc cử. Nhưng trong kỳ bầu cử khóa XII chỉ có một người tự ứng cử.
Bên cạnh đó thì cơ chế tự ứng cử cũng có những nhược điểm nhất định như: những thủ tục, điều kiện tự ra ứng cử (ví dụ như phải thu thập chữ ký cử tri, phải đóng tiền…) chưa thật sự chặt chẽ. Tiêu chuẩn đại biểu còn chung chung, chưa định lượng một cách cụ thể nên cử tri cũng không hình dung được người mình bầu có đáp ứng được mong đợi của mình không. Còn người tự ứng cử cũng cứ nghĩ mình có điều kiện như vậy là làm đại biểu được. Quy định về vận động bầu cử chưa tạo điều kiện cho người được đề cử và cả người tự ứng cử có cơ hội bình đẳng như nhau trên các kênh thông tin truyền thông, rồi điều kiện để tiếp xúc, xâm nhập với thực tiễn, gần gũi với cử tri...
Ông Nguyễn Văn An nguyên Chủ tịch Quốc hội Việt Nam cho rằng nếu "không có tranh cử, dân sẽ không có cơ hội lựa chọn cương lĩnh và nguyên thủ. Làm như lâu nay thì chưa thật dân chủ trong Đảng, cũng chưa thật dân chủ trong dân, còn mang nhiều tính hình thức, thụ động, dân ít quan tâm." Để giải quyết lỗi hệ thống này, ông An đưa ra giải pháp rằng "có thể có nhiều đồng chí đưa ra những cương lĩnh tranh cử khác nhau, dăm ba cương lĩnh chẳng hạn, sau đó trong Đảng lựa chọn ra hai ba cương lĩnh tranh cử để đưa ra dân lựa chọn, như sự tranh cử trong nội bộ một Đảng của các nước có đa đảng tham chính. Như vậy, dân sẽ có cơ hội lựa chọn cương lĩnh tranh cử và người đứng đầu cương lĩnh để trở thành cương lĩnh phát triển của đất nước và nguyên thủ quốc gia trong một nhiệm kỳ xác định...
Ông Nguyễn Lễ, Thạc sỹ về Quan hệ Quốc tế tại Đại học California, cho rằng "Khi mà ai đó trở thành đại biểu Quốc hội phụ thuộc nhiều vào tín nhiệm của Đảng hơn là tín nhiệm của dân thì họ sẽ sợ Đảng hơn là sợ dân. Họ sẽ không như các nghị sỹ Mỹ mỗi khi bỏ một lá phiếu phải cân nhắc xem nó có hậu quả thế nào với tương lai chính trị của họ. Kết quả là họ xa rời dân, mất tính giải trình với dân và không nắm được suy nghĩ, nguyện vọng của người dân. Và khi bị tách khỏi nền tảng người dân, chế độ rất dễ lung lay". |
Nhị thập tứ sử (chữ Hán: 二十四史; bính âm: Èrshísì Shǐ; Wade-Giles: Erhshihszu Shih) là tên gọi chung của 24 bộ sử thư do các triều đại phong kiến Trung Quốc biên soạn. Đây đều là các bộ sách sử chính thống do các sử quan của các triều đại biên soạn, nên còn được gọi chung là chính sử. Nhị Thập Tứ Sử ghi chép từ nhân vật Hoàng Đế trong truyền thuyết cho đến năm Sùng Trinh thứ 17 (1644) nhà Minh. Toàn bộ có 3213 quyển, ước tính 40 triệu chữ. Phương pháp biên soạn sử dụng thể kỷ truyện. Nó thường được coi là một nguồn dữ liệu chính xác về truyền thống lịch sử và văn hoá Trung Quốc, và được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu về văn học, nghệ thuật, âm nhạc, khoa học, quân sự, địa lý, dân tộc và nhiều chủ đề khác.
Các cuốn sách trong bộ Nhị thập tứ sử
Tiền tứ sử 前四史
《史記》Sử Ký, do Tư Mã Thiên 司馬遷 biên soạn năm 91 TCN
《漢書》Hán Thư, do Ban Cố 班固 biên soạn năm 82
《三國志》Tam Quốc Chí, do Trần Thọ 陳壽 biên soạn năm 280
《後漢書》Hậu Hán Thư, do Phạm Diệp 范曄 biên soạn năm 445
《宋書》Tống Thư -- Các triều Nam Tống, do Thẩm Ước 沈約 biên soạn năm 488
《齊書》Tề Thư -- Nam Triều, do Tiêu Tử Hiển 蕭子顯 biên soạn năm 537
《魏書》Ngụy Thư -- Bắc Triều, do Ngụy Thâu 魏收 biên soạn năm 554
Đường Sơ Bát Sử 唐初八史
《梁書》Lương Thư -- Nam Triều, do Diêu Tư Liêm 姚思廉 biên soạn năm 636
《陳書》Trần Thư -- Nam Triều, do Diêu Tư Liêm 姚思廉 biên soạn năm 636
《北齊書》Bắc Tề Thư -- Bắc Triều, do Lý Bách Dược 李百藥 biên soạn năm 636
《北周書》Bắc Chu Thư -- Bắc Triều, do Lệnh Hồ Đức Phân 令狐德棻 biên soạn năm 636
《隋書》Tuỳ Thư, do Ngụy Trưng 魏徵 biên soạn năm 636
《晉書》Tấn Thư, do Phòng Huyền Linh 房玄齡 biên soạn năm 648
《南史》Nam Sử, do Lý Diên Thọ 李延壽 biên soạn năm 659
《北史》Bắc Sử, do Lý Diên Thọ 李延壽 biên soạn năm 659
《唐書》Đường Thư, do Lưu Hu 劉昫 biên soạn năm 945
《五代史》Ngũ Đại Sử, do Tiết Cư Chính 薛居正 biên soạn năm 974
《新五代史》Tân Ngũ Đại Sử, do Âu Dương Tu 歐陽修 biên soạn năm 1053
《新唐書》Tân Đường Thư, do Âu Dương Tu 歐陽修 biên soạn năm 1060
Nguyên Mạt Tam Sử 元末三史
《遼史》Liêu Sử, do Thoát Thoát (Toktoghan) 脫脫 biên soạn năm 1345
《金史》Kim Sử, do Thoát Thoát 脫脫 biên soạn năm 1345
《宋史》Tống Sử, do Thoát Thoát 脫脫 biên soạn năm 1345
《元史》Nguyên Sử, do Tống Liêm 宋濂 biên soạn năm 1370
《明史》Minh Sử, do Trương Đình Ngọc 張廷玉 biên soạn năm 1739
Các công trình có tính kế tục
《史記》Sử Ký, được Tư Mã Đàm 司馬談 (cha) truyền cho Tư Mã Thiên 司馬遷 (con)
《漢書》Hán Thư, được Ban Bưu 班彪 (cha), Ban Cố 班固 (con) truyền tới Ban Chiêu 班昭 (em)
《梁書》、《陳書》Lương Thư và Trần Thư, truyền từ Diêu Sát 姚察 (cha) tới Diêu Tư Liêm 姚思廉 (con)
《北齊書》Bắc Tề Thư, truyền từ Lý Đức Lâm 李德林 (cha) tới Lý Bách Dược 李百藥 (con)
《南史》、《北史》Nam Sử và Bắc Sử, truyền từ Lý Đại Sư 李大師 (cha) tới Lý Diên Thọ 李延壽 (con)
Nhị thập ngũ sử và Nhị thập lục sử
Trung Hoa Dân Quốc thời Viên Thế Khải đã biên soạn Tân Nguyên Sử (sửa chữa những sai sót của Nguyên Sử) và Thanh sử cảo (ghi chép lịch sử nhà Thanh). Hai mươi tư bộ sử nói trên cùng với Tân Nguyên Sử được gọi là Nhị thập ngũ sử, cùng với cả hai bộ sử mới được gọi là Nhị thập lục sử. |
Chi Kiều mạch (danh pháp: Fagopyrum) là một chi thực vật có hoa thuộc họ Rau răm (Polygonaceae). Chi này gồm 15-16 loài, trong đó có hai loài cung cấp lương thực có tầm quan trọng đáng kể là kiều mạch hay kiều mạch Nhật Bản (danh pháp hai phần: Fagopyrum esculentum) và kiều mạch Tartar (danh pháp hai phần: Fagopyrum tataricum). Các loài cây này có công dụng tương tự nhau và được phân vào loại giả ngũ cốc, tức là chúng được sử dụng như là ngũ cốc nhưng lại không thuộc về họ Hòa thảo (Poaceae hay Gramineae). Lưu ý là hai loại kiều mạch này còn có tên gọi là lúa mạch hay lúa mạch đen, nhưng chúng không phải là lúa thực thụ. |
Kinh Xuân Thu (chữ Hán: 春秋; bính âm: Chūnqiū), cũng được gọi là Lân Kinh (chữ Hán: 麟經) là bộ biên niên sử của nước Lỗ viết về giai đoạn từ năm 722 TCN tới năm 481 TCN, tức là từ Lỗ Ẩn công năm thứ nhất đến Lỗ Ai công năm thứ 14. Đây là văn bản lịch sử Trung Quốc sớm nhất còn lại và được ghi chép theo thể biên niên. Văn bản được đánh giá cực kỳ súc tích, và nếu bỏ toàn bộ phần truyện, nội dung sẽ dài khoảng 16.000 chữ, vì thế chỉ có thể hiểu được nghĩa của nó với sự hỗ trợ của những truyện của các học giả thời xưa, đặc biệt theo truyền thống Tả truyện.
Bởi vì theo truyền thống, cuốn sách này được coi là do Khổng Tử biên soạn (theo giả thuyết của Mạnh Tử), nó được đưa vào trong bộ Ngũ Kinh của văn học Trung Quốc. Mạnh Tử nói rằng: "Kinh Thi mất, sau đó Kinh Xuân Thu mới làm ra. Nước Tấn gọi là Thặng, nước Sở gọi là Đào Ngột, nước Lỗ gọi là Xuân Thu, cũng là một vậy. Chép việc của Tề Hoàn, Tấn Văn, văn là văn sử. Khổng Tử nói rằng: Về nghĩa thì Khâu này trộm lấy đó vậy". Sử ký của Tư Mã Thiên, thiên "Khổng Tử thế gia" cũng chép: "[Khổng Tử] dựa vào sử ký mà làm ra kinh Xuân Thu, bắt đầu từ Ẩn công, kết thúc vào năm Ai công thứ 14, bao gồm 12 đời vua. Căn cứ vào chỗ vua Lỗ là họ hàng với nhà Chu, nên đưa vào những việc thời Tam đại. Văn từ tuy ngắn, nhưng ý rộng [...] Đến như việc viết kinh Xuân Thu, việc gì đáng viết thì viết, đáng bỏ thì bỏ, bọn Tử Hạ đều không thêm được một lời nào". Tuy nhiên, rất ít học giả hiện đại tin rằng Khổng Tử có nhiều ảnh hưởng trên quá trình trước tác văn bản này mà nó là tác phẩm của nhiều nhà biên niên sử người nước Lỗ.
Nội dung và kết cấu
Buổi đầu lịch sử Trung Quốc, "Xuân Thu" là một từ hoán dụ thường được dùng để chỉ tổng thể khoảng thời gian trong năm, và nó cũng thường được dùng làm tiêu đề cho những cuốn biên niên sử của nhiều nước chư hầu Trung Quốc giai đoạn đó. Ví dụ, thiên Minh Quỷ trong sách Mặc Tử đã đề cập tới nhiều cuốn Biên niên sử Xuân Thu của nhà Chu, nước Yên, nước Tống và nước Tề. Tất cả các văn bản đó hiện đều không còn; chỉ cuốn biên niên sử nước Lỗ còn tồn tại.
Phạm vi sự kiện được ghi chép trong kinh Xuân Thu khá hạn chế. Nó tập trung vào các quan hệ ngoại giao giữa các nước chư hầu phong kiến, các liên minh và các hành động quân sự, cũng như những sự kiện sinh tử bên trong gia đình hoàng gia. Kinh Xuân Thu cũng ghi chép về các sự kiện thảm hoạ thiên nhiên như lũ lụt, động đất, nạn châu chấu và nhật thực, bởi vì những sự kiện đó được xem là phản ánh sự ảnh hưởng của trời đối với thế giới loài người.
Các sự kiện được miêu tả theo trật tự thời gian, đầu tiên là niên hiệu của vua nước Lỗ, mùa, tháng và ngày theo năm can chi. Kết cấu biên niên được tuân thủ chặt chẽ, tới mức liệt kê bốn mùa trong mỗi năm thậm chí khi không có sự kiện nào xảy ra ở thời điểm đó.
Văn phong ngắn gọn và khách quan, và không giúp ích gì cho việc xác định tác giả chính xác của nó.
Mục đích
Theo Trần Trọng Kim, Kinh Xuân Thu có ba mục đích là: chính danh tự, định danh phận, ngụ bao biếm:
Chính danh tự: tôn vua nhà Chu, thể hiện bằng bốn chữ "Xuân vương chính nguyệt" (春王正月, nghĩa là mùa xuân, tháng giêng, vua nhà Chu) để tỏ ý vẫn công nhận vua nhà Chu làm chủ thiên hạ. Theo Sử ký, các vua Ngô, Sở đều tự xưng vương, nhưng kinh Xuân Thu hạ thấp gọi là "tử" (子); hội nghị ở Tiễn Thổ thực ra là thiên tử nhà Chu bị triệu đến, nhưng kinh Xuân Thu che giấu lại nói là "Thiên vương đi tuần ở Hà Dương".
Định danh phận: dùng chữ để định rõ người tà người chính: vua thiên tử chết chép chữ "băng" (崩), vua chư hầu chết chép chữ "hoăng" (薨), vua cướp ngôi chết chép chữ "tồ" (殂), quan ngay chính chết chép chữ "tốt" (卒), quan gian nịnh chết chép chữ "tử" (死). Người có danh phận chính đáng thì chép rõ chức phẩm và tên tự, người không có danh phận chính đáng thì chỉ chép tên tục. Vì thế nên sách Trang Tử, thiên Thiên hạ nói rằng Xuân Thu là sách nói về danh và phận.
Ngụ bao biếm (khen chê): sự khen hay chê là ở chữ dùng: "Nhất tự chi bao, vinh ư hoa cổn, nhất tự chi biếm, nhục ư phủ việt" (一字之褒,榮於華袞,一字之貶,辱於斧鉞, nghĩa là một chữ khen thì vinh hơn cả áo hoa cổn nhà vua ban cho, một chữ chê thì nhục hơn cả phải tội rìu búa). Những việc được khen là "giúp kẻ yếu, chống kẻ mạnh, cứu những nước bị tai nạn, phò những nước bị diệt vong"; những việc bị chê là "những nước chiến tranh nhau, hoặc dùng mưu kế mà khi trá nhau, cùng những con giặc, tôi loàn, và những kẻ phản quốc, thờ quân thù nghịch". Vì thế nên Mạnh Tử nói rằng: "Khổng Tử viết kinh Xuân Thu khiến cho loạn thần, tặc tử sợ".
Cũng theo Mạnh Tử, nguyên nhân Khổng Tử viết kinh Xuân Thu là: "Đời suy đạo yếu, tà thuyết và những việc làm tàn bạo lại dấy lên: có kẻ làm bề tôi mà lại giết vua, có kẻ làm con mà lại giết cha. Khổng Tử sợ, nên làm ra kinh Xuân Thu. Kinh Xuân Thu chép chuyện của thiên tử. Cho nên Khổng Tử nói: Kẻ biết ta chỉ là bởi kinh Xuân Thu! Kẻ bắt tội ta chỉ là bởi kinh Xuân Thu!". Theo Trần Trọng Kim thì Khổng Tử biết rằng trong nước không thể không có vua, nhưng lại sợ những người làm vua lạm dụng quyền lực của mình để làm những điều tàn bạo, cho nên Khổng Tử mới đem cái nghĩa lấy cái "nguyên" (元) của dương khí mà thống trị việc trời, lấy trời mà thống trị vua chúa và bày tỏ nghĩa ấy trong sách Xuân Thu để hạn chế quyền lực của vua. Nhưng vì vua chúa ít người hiểu được lẽ thâm viễn siêu việt ấy, cho nên Khổng Tử mới lấy những tai dị như nhật thực, nguyệt thực, sao chổi, động đất để cảnh tỉnh bậc làm vua, muốn bậc làm vua phải lấy những điềm lạ ấy mà kính sợ, tự mình tu tỉnh lại và làm những điều nhân nghĩa.
Truyện Xuân Thu
Bởi vì văn bản của kinh Xuân Thu ngắn gọn và nội dung hạn chế, một số truyện đã được thêm vào để giải thích và mở rộng nghĩa của nó. Cuốn Hán Thư quyển 30 liệt kê năm truyện Xuân Thu:
Trâu Thị Truyện (鄒氏傳)
Giáp Thị Truyện (夾氏傳)
Công Dương Truyện (公羊傳)
Cốc Lương Truyện (榖梁傳)
Tả Thị Truyện (左氏傳)
Truyện của Trâu thị và Giáp thị hiện không còn. Truyện của Công Dương thị và Cốc Lương thị được biên soạn vào thế kỷ thứ 2 TCN, dù những học giả hiện nay đã đưa ra giả thuyết rằng chúng có thể được thêm vào sớm trước các truyền thống diễn giải bằng văn bản và bằng miệng từ thời Chiến Quốc. Chúng dựa theo những văn bản Xuân Thu khác nhau và được sắp xếp theo kiểu các câu hỏi và trả lời.
Tả thị truyện, được sáng tác đầu thế kỷ thứ 4 TCN, là một văn bản toàn sử về giai đoạn từ năm 722 TCN đến năm 463 TCN. Các học giả hiện nay không đồng ý về việc liệu nó có thực sự là một truyện của kinh Xuân Thu hay không hay nó là một tác phẩm độc lập. Trong bất kỳ trường hợp nào, các học giả đã đồng thuận rằng nó là cuốn hữu ích nhất trong số ba 'truyện' còn lại cả về mặt nguồn thông tin lịch sử của giai đoạn và về mặt giải thích và chú giải kinh Xuân Thu. |
Họ Rau răm hay còn gọi là họ Nghể, họ Kiều mạch có danh pháp khoa học là Polygonaceae, là một nhóm thực vật hai lá mầm, chứa khoảng 43-53 chi và trên 1.100 loài cây thân thảo, cây bụi và cây thân gỗ nhỏ với các cơ quan sinh sản đơn tính xuất hiện tên cùng một cây hay trên hai cây khác nhau. Một số thành viên trong họ này được biết đến như là kiều mạch, chút chít, đại hoàng, nghể, rau răm, hà thủ ô đỏ, hoa ti gôn v.v.
Trong hệ thống Cronquist, họ Polygonaceae được đặt trong bộ của chính nó, nhưng các hệ thống phân loại mới hơn lại coi họ này như là một phần của bộ Caryophyllales.
Từ nguyên
Tên gọi khoa học của họ dựa trên chi Polygonum và lần đầu tiên được Antoine Laurent de Jussieu sử dụng năm 1789 trong sách Genera Plantarum của ông. Tên gọi này là chỉ tới nhiều mắt phồng lên trên thân của nhiều loài. Nó có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp poly nghĩa là nhiều và goni nghĩa là đầu gối hay khớp.
Sự đa dạng
Họ Polygonaceae bao gồm khoảng 1.110-1.200 loài. Chúng phân bố trong 43-53 chi. Các chi lớn nhất là Eriogonum (240 loài), Rumex (200 loài), Coccoloba (120 loài), Persicaria (100 loài) và Calligonum (80 loài). Họ này có mặt rộng khắp trên thế giới, nhưng đa dạng nhất tại khu vực ôn đới Bắc bán cầu, còn trong khu vực nhiệt đới thì có ít số lượng loài hơn.
Sử dụng
Một số loài được trồng làm cây cảnh. Một vài loài trong chi Triplaris cung cấp gỗ. Quả của Coccoloba uvifera ăn được và tại Florida thì thạch làm ra từ loại quả này được buôn bán ở quy mô thương mại. Hạt của 2 loài Fagopyrum cung cấp một loại lương thực (kiều mạch). Cuống lá của đại hoàng (Rheum rhabarbarum) cũng là nguồng cung cấp rau. Lá của chút chít (Rumex acetosa) được dùng làm rau xa lát hay rau ăn lá
Tuy nhiên, họ Polygonaceae cũng chứa một vài loài cỏ dại nguy hiểm nhất. Chúng bao gồm các loài trong các chi Persicaria, Emex, Rumex, Polygonum.
Phân loại
Họ Polygonaceae được định nghĩa rõ ràng và từ lâu đã được nhiều tác giả công nhận. Trong hệ thống APG III năm 2009, nó được đặt trong bộ Caryophyllales. Trong phạm vi bộ này, nó nằm bên ngoài nhánh lớn gọi là Caryophyllales phần lõi. Nó là đơn vị phân loại có quan hệ chị-em với họ Plumbaginaceae, nhưng không giống nhau về mặt hình thái.
Sửa đổi bao hàm toàn diện gần đây cho họ này của John Brandbyge năm 1993 như một phần của hệ thống Kubitzki. Brandbyge tuân theo các hệ thống có sớm hơn về phân loại thực vật để chia họ Polygonaceae ra thành 2 phân họ là Eriogonoideae và Polygonoideae. Kể từ năm 1993 thì định nghĩa của 2 phân họ này đã thay đổi nhờ có các nghiên cứu phát sinh chủng loài về các trình tự DNA. Các chi có quan hệ với Coccoloba và Triplaris đã được chuyển từ Polygonoideae sang Eriogonoideae. Chi Symmeria không thuộc về bất kỳ phân họ nào do nó có quan hệ chị em với toàn bộ phần còn lại của họ này. Chi Afrobrunnichia cũng có thể tạo ra một phân họ mới.
Brandbyge viết miêu tả cho 43 chi của họ Polygonaceae vào năm 1993. Kể từ đó, một vài chi mới đã được dựng lên, và một vài chia tách của các chi Brunnichia, Eriogonum và Persicaria cũng đã được nâng cấp thành chi. Một vài chi là không đơn ngành và giới hạn của chúng cần được sửa đổi. Chúng bao gồm Ruprechtia, Eriogonum, Chorizanthe, Persicaria, Aconogonon, Polygonum, Fallopia và Muehlenbeckia.
Danh sách các chi của họ Polygonaceae có thể tìm thấy ở nhiều nơi trên Internet.
Phân chia dưới đây lấy theo GRIN.
Phân họ Polygonoideae được đặc trưng bởi sự thiếu vắng của tổng bao và sự có mặt của bẹ chìa (các bao vỏ, màng bọc phát triển từ các lá kèm ở các gốc lá đính kèm). Một số bẹ chìa có các tua có lông. Phân họ này bao gồm khoảng 15-20 chi và 590 loài.
Eskemukerjea
Oxygonum
Tông Calligoneae
Calligonum (bao gồm cả Pterococcus).
Pteropyrum
Tông Fagopyreae
Fagopyrum (bao gồm cả Harpagocarpus, Parapteropyrum, Pteroxygonum).
Tông Persicarieae
Aconogonon (bao gồm cả Aconogonum, Pleuropteropyrum). Có thể gộp trong chi Persicaria.
Bistorta. Có thể gộp trong chi Persicaria.
Koenigia
Persicaria (bao gồm cả Amblygonum, Antenoron, Chylocalyx, Rubrivena, Tovara).
Tông Polygoneae
Atraphaxis (bao gồm cả Physopyrum, Tragopyrum).
Fallopia (bao gồm cả Bilderdykia, Reynoutria). Có thể gộp trong chi Polygonum.
Homalocladium. Có thể gộp trong chi Muehlenbeckia.
Knorringia
Muehlenbeckia
Polygonella (bao gồm cả Delopyrum, Dentoceras, Gonopyrum, Thysanella). Có thể gộp trong chi Polygonum.
Polygonum (bao gồm cả Duravia).
Tông Rumiceae
Emex
Oxyria
Rheum
Rumex (bao gồm cả Acetosa, Acetosella, Bucephalora).
Phân họ Eriogonoideae với khoảng 28-30 chi, 520 loài, chỉ tìm thấy tại khu vực Tân Thế giới.
Acanthoscyphus: Có thể gộp trong chi Oxytheca.
Afrobrunnichia
Antigonon (bao gồm cả Corculum).
Aristocapsa
Brunnichia (bao gồm cả Rajania).
Centrostegia
Chorizanthe (bao gồm cả Acanthogonum, Eriogonella).
Coccoloba (bao gồm cả Campderia).
Dedeckera
Dodecahema
Eriogonum
Gilmania (bao gồm cả Phyllogonum).
Goodmania (bao gồm cả Gymnogonium, Gymnogonum).
Gymnopodium (bao gồm cả Millspaughia).
Harfordia
Hollisteria
Johanneshowellia. Có thể gộp trong chi Eriogonum.
Lastarriaea
Leptogonum
Mucronea
Nemacaulis
Neomillspaughia
Oxytheca (bao gồm cả Brisegnoa).
Podopterus
Pterostegia
Ruprechtia (bao gồm cả Enneatypus).
Sidotheca. Có thể gộp trong chi Oxytheca.
Stenogonum
Systenotheca
Triplaris (bao gồm cả Vellasquezia).
Phân họ Symmerioideae (trong sách The Families and Genera of Vascular Plants của Brandbyge và danh sách của GRIN thì xếp trong phân họ Eriogonoideae, nhưng APG tách ra thành phân họ Symmerioideae Meisner.): 1 chi, 1 loài Symmeria paniculata ở miền bắc Nam Mỹ và Tây Phi.
Symmeria
Phát sinh chủng loài
Cây phát sinh chủng loài dưới đây dựa theo 2 bài viết khoa học năm 2009-2010 về phát sinh chủng loài phân tử của họ Polygonaceae.
Chú thích |
Chữ Hán phồn thể (繁體漢字 - Phồn thể Hán tự) hay chữ Hán chính thể (正體漢字 - Chính thể Hán tự) là bộ chữ Hán tiêu chuẩn đầu tiên của tiếng Trung. Dạng chữ viết phồn thể hiện nay đã xuất hiện lần đầu cùng với các văn bản ghi chép thời nhà Hán và ổn định từ thế kỷ 5 trong thời Nam Bắc triều. Thuật ngữ phồn thể hoặc chính thể được sử dụng để phân biệt với chữ Hán giản thể, một hệ thống chữ Hán được giản lược nét hoặc điều chỉnh bộ do chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quy định áp dụng từ năm 1949.
Chữ Hán phồn thể hiện vẫn được sử dụng chính thức tại Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), Hồng Kông và Ma Cao và các cộng đồng Hoa kiều hải ngoại ngoài Đông Nam Á. Chữ Hán giản thể chủ yếu được sử dụng ở Trung Quốc đại lục, Singapore và Malaysia trong các ấn bản chính thức. Việc sử dụng chữ chính thể hay giản thể vẫn là một vấn đề tranh cãi kéo dài trong cộng đồng người Hoa. Người Đài Loan và Hồng Kông cho rằng, chữ giản thể của chính phủ Trung Quốc đại lục làm mất đi ý nghĩa đích thực của chữ Hán.
Hiện nay, nhiều tờ báo trực tuyến Trung Quốc ở nước ngoài cho phép người dùng chuyển đổi giữa cả hai thể. |
Tả truyện (tiếng Trung Quốc: 左傳; bính âm: Zuo Zhuan; Wade-Giles: Tso Chuan), Xuân Thu Tả thị truyện (), hay Tả thị Xuân Thu (), là tác phẩm sớm nhất của Trung Quốc viết về lịch sử phản ánh giai đoạn từ năm 722 TCN đến năm 468 TCN.
Tác giả
Theo truyền thống, Tả truyện thường được coi là tác phẩm của Tả Khâu Minh, và là truyện của kinh Xuân Thu, mặc dầu một số học giả hiện nay vẫn còn tranh luận về điều này. Đa phần học giả nổi tiếng trong số đó, như Dương Bá Tuấn (楊伯峻) cho rằng tác phẩm đã được sáng tác thời Chiến Quốc, và nó đã được hoàn thành không muộn hơn năm 389 TCN.
Nhà sử học hiện đại Trung Quốc là Lê Đông Phương diễn giải về tác giả Tả truyện theo hướng khác. Ông nêu các luận điểm:
Tác giả Tả thị Xuân Thu (tức Tả truyện) không thể là Tả Khâu Minh vì họ của Tả Khâu Minh là Tả Khâu chứ không phải Tả.
Hai chữ Tả truyện có thể không phải là tên người mà là tên địa phương. Tả Thị là quê của danh tướng Ngô Khởi. Ngô Khởi lại là đệ tử của một người học trò của Khổng Tử, tên là Bốc Thương - còn gọi là Tử Hạ. Tử Hạ có sở trường về văn chương.
Có thể chính Tử Hạ mới là tác giả sách này. Ngô Khởi mang bộ sách này về quê Tả Thị. Về sau, bộ sách ấy được các đệ tử của ông mang từ Tả Thị qua nơi khác. Khi sách được truyền bá, người ta quen gọi "Sách Xuân Thu xuất phát từ họ Tả" - và nói gọn lại là Tả thị Xuân Thu, hay Tả truyện.
Nội dung
Theo thứ tự 12 đời vua nước Lỗ từ Lỗ Ẩn Công năm thứ nhất đến Lỗ Ai Công năm thứ hai mươi bảy, tổng cộng 254 năm, Tả truyện ghi chép lịch sử các nước chư hầu lúc bấy giờ, toàn bộ khoảng 18 vạn chữ.
Cuối sách phụ thêm sự kiện Trí bá diệt vong vào năm Lỗ Điệu Công thứ tư.
Đánh giá
Cuốn sách này là một trong những nguồn tài liệu quan trọng để hiểu được lịch sử giai đoạn Xuân Thu.
Cuốn sách cũng chứa đựng thông tin đầu tiên đề cập tới cờ vây trong đoạn viết về năm thứ 25 Lỗ Tương Công theo lịch Gregory là năm 548 TCN.
Với phong cách hành văn dễ hiểu và cô đọng, Tả truyện cũng là một tác phẩm quý giá trong những văn bản kinh điển Trung Quốc. Tác phẩm này và cuốn Sử ký Tư Mã Thiên được nhiều thế hệ coi là những khuôn mẫu văn chương có phong cách duy nhất thời Trung Hoa cổ đại.
Về sau, đời Tây Tấn có danh tướng Đỗ Dự say mê sách Tả truyện đến mức thường mang theo trên mình ngựa khi đi ra ngoài, nên bị gọi là mắc "bệnh Tả truyện". |
Trúc thư kỉ niên (竹書紀年; bính âm: Zhushu jinian; "Biên niên sử viết trên thẻ tre") là một cuốn biên niên sử Trung Quốc cổ đại, được các nhà sử học đánh giá là nguồn tham khảo bổ sung, đối chiếu và đính chính cho một số sự kiện lịch sử cổ đại Trung Quốc.
Nguồn gốc
Văn bản gốc Trúc thư kỉ niên được chôn cùng với vua Ngụy Tương vương (chết năm 296 TCN), chôn ở huyện Cấp và được phát hiện năm 281 thời Tấn Vũ Đế. Vì lý do này, cuốn biên niên sử tồn tại được sau vụ đốt sách chôn nho của Tần Thủy Hoàng. Trúc thư kỉ niên cùng Sử ký Tư Mã Thiên là một trong hai văn bản cổ quan trọng nhất về nước Trung Hoa buổi sơ khai.
Qua chỉnh lý, nghiên cứu, các học giả thời cổ cho rằng đây là sách sử nước Ngụy thời Chiến Quốc. Trúc thư kỉ niên bắt đầu từ thời huyền thoại (Hoàng Đế) và kéo dài tới năm 299 TCN.
Một số nội dung khác biệt với chính sử
Nghiêu nhường ngôi cho Thuấn
Chính sử thường đề cập Nghiêu chọn được Thuấn là người tài đức và nhường ngôi chứ không nhường ngôi cho con mình là Đan Chu. Sử sách nhiều đời sau vẫn nhắc đến sự kiện này là tấm gương mẫu mực của việc chọn người tài đức chứ không vì lợi ích riêng tư của dòng họ. Nhưng Trúc thư kỉ niên chép rằng:
"Thuấn giam Nghiêu ở Bình Dương rồi cướp lấy ngôi vua"
"Thuấn giam Nghiêu và không cho Đan Chu gặp cha".
Vua Vũ nhà Hạ truyền ngôi cho con là Khải:
Chính sử nhắc tới việc Cao Dao được Hạ Vũ chọn kế vị nhưng mất sớm, do đó con Cao Dao là Ích được chọn. Nhưng sau này nhiều người theo con Hạ Vũ là Khải hơn nên ngôi vua thuộc về Khải. Việc chuyển giao quyền lực giữa Ích và Khải khá ôn hoà.
Trúc thư kỉ niên chép rằng giữa Khải và Ích đã nổ ra cuộc đại chiến ở Hộ Sơn; Ích định giành ngôi với Khải và bị Khải giết chết. Trong quá trình chuyển giao quyền lực chính trị, Hạ Vũ bề ngoài truyền ngôi cho Ích như quy định "chọn người hiền tài" nhiều đời trước, nhưng thực tế lại giúp con mình là Khải tăng cường lực lượng, đợi thời cơ để đánh bại Ích.
Y Doãn sang với Hạ Kiệt:
Sử ký chép việc Y Doãn - công thần khai quốc nhà Thương - từng bỏ Thương sang làm quan cho Hạ Kiệt, nhưng sau đó thấy Kiệt hoang dâm tàn bạo, khinh rẻ chư hầu nên Y Doãn trở lại với Thành Thang. Thành Thang vẫn một lòng kính trọng và trọng dụng Y Doãn.
Trúc thư kỉ niên bổ sung thêm về sự việc này: Y Doãn thực chất được Thành Thang cử sang làm gián điệp bên nhà Hạ, lợi dụng sự bất mãn của nàng Muội Hỷ khi nàng không còn được Hạ Kiệt sủng ái để lấy tin tức về tình hình Hạ Kiệt. Sau khi nắm được nội tình nhà Hạ, Y Doãn trở về với Thành Thang.
Muội Hỷ đắc sủng:
Sử sách chép việc Hạ Kiệt sủng ái Muội Hỷ, làm việc thất đức đến nỗi mất nước; Muội Hỷ cùng Kiệt chạy ra Nam Sào.
Trúc thư kỷ niên chép khác: Hạ Kiệt mang quân chinh phạt đất Manh Sơn. Manh Sơn dâng 2 người con gái đẹp là Uyển và Viêm để xin Kiệt lui quân. Hạ Kiệt bằng lòng và sủng ái hai người con gái đất Manh Sơn, lạnh nhạt với nàng Muội Hỷ. Muội Hỷ bị thất sủng nên oán hận Kiệt. Điều này đã bị Y Doãn khai thác để nắm tình hình nhà Hạ.
Dộ tin cậy
Ngoài ra còn một số ghi chép khác với chính sử như việc Tổ Ất kế vị, miếu hiệu Trung Tông,Sử ký tác là Trung Tông Thái Mậu, Giáp cốt văn tác "Trung Tông Tổ Ất" điều này cho thấy độ tin cậy của Trúc thư kỉ niên là rất cao.
Bản dịch tiếng Việt
Trúc thư kỷ niên, Nguyễn Đức Vịnh dịch, Hà Nội: NXB Văn học và Công ty TNHH Sách và Truyền thông Việt Nam, 2021. |
Hán thư (Phồn thể: 漢書; giản thể: 汉书) là một tài liệu lịch sử Trung Quốc cổ đại viết về giai đoạn lịch sử thời Tây Hán từ năm 206 TCN đến năm 25. Đôi khi, sách này cũng được gọi là Tiền Hán thư (前漢書) để phân biệt với cuốn Hậu Hán thư, viết về giai đoạn Đông Hán từ năm 25 đến năm 220, được Phạm Diệp viết trong thế kỷ 5.
Kể từ sau Sử ký, cuốn Hán thư là cuốn sử đồ sộ nhất, vì vậy nó được liệt vào một trong Nhị thập tứ sử - 24 bộ sử nổi tiếng và lớn nhất Trung Quốc. Ngoài ra, hán thư cũng được liệt vào hàng Tứ sử kinh điển, sánh với Tứ thư, Ngũ kinh, bên cạnh có Sử ký, Hậu Hán thư và Tam Quốc Chí.
Các tác giả
Cuốn sách này do Ban Bưu khởi xướng, một người có tiếng về trí thức và là cháu của Ban Tiệp dư (Ban Tiệp dư là cô ruột), phi tần của Hán Thành Đế. Sau khi ông chết (54), người con trai cả Ban Cố tiếp tục hoàn thành cuốn sách, lên tới tổng số 100 quyển, và gồm nhiều bài luận về pháp luật, khoa học, địa lý, và văn chương.
Vào thời gian ấy, việc làm của Ban Cố khiến triều đình nhà Hán rất nghi ngại, vì họ không biết ông sẽ viết gì và nhận xét thế nào về giai đoạn giao thoa giữa Tây Hán và Đông Hán. Triều đình ra lệnh bắt giam Ban Cố và tịch thu sách vở nhà họ Ban, tuy nhiên sau đó do ảnh hưởng của em trai ông là Ban Siêu, ông đã được thả ra và ấn định viết về Hán Quang Vũ Đế, vị Hoàng đế đầu tiên của Đông Hán. Hán Minh Đế sau khi đọc công trình của ông đã rất ấn tượng và cho phép ông thực hiện tiếp Hán thư này. Tuy nhiên, dưới thời Hán Hòa Đế, Ban Cố bị nghi ngờ tạo phản và bị bắt giam vào trong ngục. Ông bị buộc phải tự sát, đó là vào năm 92, khi ông độ 61 tuổi.
Em gái út của Ban Cố là Ban Chiêu cùng Mã Tục - người ở Phù Phong - đã hoàn thành tác phẩm năm 111, khoảng 19 năm sau khi Ban Cố chết trong ngục. Ban Chiêu và Mã Tục là người soạn thảo những quyển nhỏ từ 13-20 (tám biểu biên niên) và quyển 26 (thiên văn chí) được gộp trong tác phẩm đó.
Giống như cuốn Sử ký của Tư Mã Thiên; Trương Khiên, một vị tướng Trung Quốc nổi tiếng, đã tiến hành nhiều chuyến viễn du về phương tây là nguồn cung cấp thông tin chính cho những dữ liệu về văn hoá và kinh tế xã hội ở Tây Vực ở quyển 96 của bộ sách này.
Đặc điểm
Nội dung
Hán thư tuy mô phỏng cách làm sử của Sử ký nhưng có những thay đổi, sáng tạo mới. Ban Cố không đề cập các thời đại trước nhà Hán như Tư Mã Thiên mà chỉ tập trung vào viết sử về nhà Hán. Ban Cố cho rằng, thể loại kỷ truyện của Sử ký bao quát một thời kỳ quá dài, làm mờ nhạt vai trò của nhà Hán đương thời, do đó ông chỉ lựa chọn giai đoạn nhà Hán làm sách.
Hán thư được đánh giá là bộ sử về lịch sử giai đoạn hoàn chỉnh nhất ở Trung Quốc.
Đối với các hoàng đế nhà Hán, Hán thư không gọi là Bản kỷ mà gọi là Kỷ.
Ban Cố nói riêng và các tác giả nói chung viết sách trên tư tưởng độc tôn vị trí của nhà Hán trong sách, chuyển Hạng Vũ từ "Bản kỷ" trong Sử ký sang "Trần Thắng Hạng Tịch liệt truyện" vì Hạng Vũ không phải vua nhà Hán. Tương tự với Vương Mãng dù là vua nhà Tân nhưng là kẻ thù của nhà Hán hay một vua Hán khác là Lưu Bồn Tử (được quân khởi nghĩa Xích Mi lập nên), do chống lại Hán Quang Vũ Đế, cũng chỉ được chép vào liệt truyện. Ban Cố bổ sung thêm thiên bản kỷ về Hán Huệ Đế mà trong sử ký gộp vào trong bản kỷ về Lã hậu.
Hán thư là kho tư liệu phong phú và đa dạng, trong đó bảo lưu được nhiều văn kiện lịch sử quan trọng có giá trị, với nhiều chiếu thư, tấu chương và trước tác thể hiện sách lược, mưu kế, tư tưởng chính trị, ngoại giao của các nhân vật. Hán thư còn bổ sung thêm khá nhiều tư liệu về các dân tộc thiểu số mà Tư Mã Thiên chưa đề cập trong Sử ký.
Ngoài ra, Hán thư còn có các thiên Bách quan công khanh biểu, Hình pháp chí, Địa lý chí, Nghệ văn chí mà Sử ký không có.
Tư tưởng
Hán thư theo tư tưởng Nho giáo chính thống rõ nét. Thời kỳ các tác giả soạn Hán thư, tư tưởng thần học phong kiến đã rất phát triển và trở thành tư tưởng thống trị xã hội. Chính vì vậy, hệ tư tưởng trung quân ái quốc trở thành tư tưởng xuyên suốt trong tác phẩm.
Do đó, một mặt tiếp thu sử liệu từ Sử ký, mặt khác Hán thư lại phê phán Sử ký là vô quân vô chủ, vô thánh vô thần. Điều đó giúp Hán thư trở thành công cụ đắc lực bảo vệ cho hệ tư tưởng phong kiến và được triều đình nhà Hán hoan nghênh.
Trên tư tưởng đó, Hán thư vứt bỏ tư tưởng tiến bộ "cùng thiên nhân chi tế, thông cổ kim chi tiến" của Tư Mã Thiên và tập trung ca ngợi học thuyết thần bí về thiên nhân tương ứng và âm dương ngũ hành, coi đó là quy luật vĩnh hằng của sự phát triển xã hội. Điều này thể hiện trong thiên "Ngũ hành chí". Ban Cố tập trung trận luận thuyết của Đổng Trọng Thư, Lưu Hướng, Lưu Hâm… về học thuyết âm dương ngũ hành. Trong rất nhiều sự kiện lịch sử, Hán thư dựa vào sự thiên biến để kiểm chứng nhân sự. Điều này không hề có trong Sử ký Tư Mã Thiên.
Tư tưởng phong kiến chính thống của Hán thư rất có lợi cho giai cấp phong kiến thống trị qua các thời đại. Truyện Ban Cố trong sách Hậu Hán thư chép rằng:
"Các học giả không ai không ca ngợi Hán thư. Các triều đại về sau cũng không ngừng sao chép, in ấn cuốn sách này".
Văn phong
Khi viết tác phẩm này, Ban Cố sử dụng khá nhiều cổ văn, dùng chữ Hán cổ. Do đó, đây là tác phẩm khó đọc, khó tiếp cận và nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu đánh giá, thậm chí ngay cả những người cùng thời với Ban Cố chưa chắc đã hiểu hết Hán thư.
Chính vì vậy, đời sau có nhiều học giả chú thích cho Hán thư. Theo ghi chép của Tùy thư, từ thời Đông Hán đến thời Nam Bắc triều, đã có hơn 20 học giả tiếp cận với Hán thư, trong đó phần lớn là chú thích.
Tuy nhiên, các bản chú thích Hán thư trước thời nhà Đường đều không còn. Phiên bản chú thích cổ nhất còn được lưu giữ là của Nhan Sư Cổ và một số học giả cùng biên soạn. Ngoài ra còn hai bản phổ biến khác là "Hán thư bổ giải" của Vương Tiến Khiêm đời nhà Thanh và "Hán thư bổ chú bổ chính" của Dương Thúc Đạt thời cận đại
Vai trò
Cách viết sử chỉ tập trung về một triều đại của Ban Cố ảnh hưởng rất lớn đến đời sau. Nhiều sử gia sau ông học tập cách làm sử của ông, chỉ viết sử về một triều đại hay một giai đoạn lịch sử. Trong Nhị thập tứ sử, Hán thư cùng với Sử ký được xếp lên trên hết, được các thế hệ sau coi là kinh điển sử học quan trọng nhất.
Sử gia hiện đại Hsu Mei-ling phát biểu rằng phong cách viết của Ban Cố trong các phần về địa lý đã thiết lập xu hướng cho việc thiết lập các tiết đoạn địa lý trong các văn bản lịch sử, và có thể nhất là đã khuấy động xu hướng về từ điển địa lý tại Trung Quốc cổ đại.
Cuốn sách đã vạch ra các khuôn khổ cho những văn bản ở các triều đại Trung Quốc sau này, và hiện được dùng tham khảo khi nghiên cứu về giai đoạn nhà Hán. Hán thư cũng thường được coi là một phần trong bộ Tiền tứ sử của tổng tập Nhị thập tứ sử, cùng với cuốn Sử ký, Tam Quốc chí và Hậu Hán thư.
Trích dẫn tiêu biểu
"Vạn lý đồng phong" (Muôn dặm, cùng gió) - Sách Hán thư, Chung Vương Giả truyện (終王賈傳): "Kim thiên hạ vi nhất, vạn lý đồng phong = Nay cõi trần là một, muôn dặm cùng một ngọn gió (今天下為一、萬里同風)".
"Mục chỉ khí sử" (Trỏ bằng mắt, khiến bằng thần khí) - Cống Vũ, một nhân vật trong sách Hán thư (truyện Cống Vũ, 貢禹) viết trong thư cho Hán Nguyên đế: "Hành tuy khuyển trệ, gia phú thế túc, mục chỉ khí sử, thị vi hiền nhĩ = Tuy hành vi ta như chó như lợn, nhưng nhà giàu, thế lực đủ, ta trỏ người bằng mắt, khiến người bằng thần khí, vì ấy ta khá hơn người thôi vậy (行雖犬彘、家富勢足、目指氣使、是為賢耳)".
Mục lục
Bản kỷ
Biểu
Chí
Liệt truyện |
Xuân Thu có thể được dùng ở một trong các nghĩa sau:
Việt Nam
Xã Xuân Thu, huyện Sóc Sơn, Hà Nội
Trung Quốc
Xuân Thu: là tên gọi một giai đoạn lịch sử từ 722 TCN đến 481 TCN trong lịch sử Trung Quốc.
Kinh Xuân Thu: là bộ biên niên sử nước Lỗ viết về giai đoạn từ năm 722 TCN tới năm 481 TCN trong lịch sử Trung Quốc.
Tả thị Xuân Thu: là bộ sử được viết thời Chiến quốc, tác giả có thể là Tả Khâu Minh hoặc Bốc Thương.
Lã thị Xuân Thu: là bộ sách bách khoa gồm 26 quyển sách do Lã Bất Vi cùng với các biện sĩ viết ra về học thuật, tư tưởng và những việc trời đất, muôn vật... |
Hậu Hán Thư () là một trong những tác phẩm lịch sử chính thức của Trung Quốc do Phạm Diệp biên soạn vào thế kỷ thứ 5, sử dụng một số cuốn sách sử và văn bản trước đó làm nguồn thông tin. Nó bao quát giai đoạn lịch sử Đông Hán từ năm 25 đến năm 220.
Cuốn sách này là một phần trong bộ Tiền tứ sử của tổng tập Nhị thập tứ sử cùng với các cuốn Sử ký Tư Mã Thiên, Hán Thư và Tam Quốc Chí. Phạm Việp đã sử dụng một số cuốn lịch sử trước đó, gồm cả những tác phẩm của Tư Mã Thiên và Ban Cố, và nhiều cuốn sử khác (một số cuốn có tên trùng với tác phẩm này như cuốn Hán sử của nhiều tác giả viết trong thế kỷ thứ 2 hay cuốn Hậu Hán sử của Viên Hoành từ thế kỷ thứ 4) đa số những cuốn đó không còn tồn tại nguyên vẹn đến ngày nay. 30 quyển cuối cùng của cuốn sách, được lấy từ cuốn Tiếp nối Hán Thư (Tục Hán thư), một tác phẩm do Tư Mã Bưu (司馬彪) thực hiện ở thế kỷ thứ 3, đã được Lưu Chiêu (劉昭) gộp thêm vào ở thế kỷ thứ 6 khi ông thực hiện phần chú giải.
Cuốn "Tây Vực trường sử" (Sử vùng Tây Vực) do Ban Dũng (班勇) thực hiện một thời gian ngắn sau năm 127, dựa trên một phần những ghi chép của cha ông là Ban Siêu, là nguồn tư liệu chính về văn hoá và kinh tế xã hội của Tây Vực trong quyển 88 của cuốn sách này. Điều này khẳng định thêm rằng, chính Phạm Diệp, người đã ghi chép ngắn gọn trong văn bản viết về những nguồn tài liệu của mình trong tập viết về Tây Vực với lời bình luận của ông ở cuối chương rằng ngày tháng trong đoạn về Tây Vực đó đã được sửa đổi, sử dụng ngày tháng khác biệt so với những cuốn sử trước đó, như thông tin của Ban Dũng.
Mục lục
Bản kỷ
Quyển 1 Thượng Quang Vũ Đế thượng (Nguyên tên gốc là Thế Tổ Quang Vũ Đế kỷ, sau Lý Hiền kỵ húy Lý Thế Dân mà đổi tên mới)
Quyển 1 Hạ Quang Vũ Đế hạ
Quyển 2 Hiển Tông, Hiếu Minh Đế
Quyển 3 Túc Tông, Hiếu Chương Đế
Quyển 4 Hiếu Hòa, Hiếu Thương Đế
Quyển 5 Hiếu An Đế
Quyển 6 Hiếu Thuận, Hiếu Xung, Hán Chất Đế
Quyển 7 Hiếu Hoàn Đế
Quyển 8 Hiếu Linh Đế
Quyển 9 Hiếu Hiến Đế (Phụ Hoằng Nông Hoài Vương Lưu Biện)
Quyển 10 Thượng, Hoàng hậu thượng - Quang Vũ Quách Hoàng hậu, Quang Liệt Âm hoàng hậu, Minh Đức Mã Hoàng hậu, Giả Quý Nhân, Chương Đức Đậu hoàng hậu, Hòa Đế Âm Hoàng hậu, Hòa Hi Đặng Hoàng hậu (Là bộ sử duy nhất trong nhị thập tứ sử lập kỷ Hoàng hậu)
Quyển 10 Hạ, Hoàng hậu hạ - An Tư Diêm Hoàng hậu, Thuận Liệt Lương Hoàng hậu, Ngu Mỹ Nhân, Trần Phu nhân, Hiếu Sùng Yển Hoàng hậu, Hoàn Đế Ý Hiến Lương Hoàng hậu, Hoàn Đế Đặng Hoàng hậu, Hoàn Tư Đậu hoàng hậu, Hiếu Nhân Đổng Hoàng hậu, Linh Đế Tống Hoàng hậu, Linh Tư Hà Hoàng hậu, Hiến Đế Phục Hoàng hậu, Hiến Mục Tào hoàng hậu
Liệt truyện
Quyển 11 Lưu Huyền, Lưu Bồn Tử truyện 1
Quyển 12 Vương Lưu Trương Lý Bành Lư truyện 2 - Vương Xương, Lưu Vĩnh, Bàng Manh, Trương Bộ, Vương Hoành, Lý Hiến, Bành Sủng, Lư Phương
Quyển 13 Ngôi Hiêu, Công Tôn Thuật liệt truyện 3
Quyển 14 Tông thất tứ vương tam hầu liệt truyện 4 - Tề Vũ vương Diễn, Bắc Hải Tĩnh vương Hưng, Triệu Hiếu vương Lương, Thành Dương Cung vương Chỉ, Tứ Thủy vương Hấp, An Thành Hiếu hầu Tứ, Thành Vũ Hiếu hầu Thuận, Thuận Dương Hoài Hầu Gia
Quyển 15 Lý Vương Đặng Lai liệt truyện 5 - Lý Thông, Vương Thường, Đặng Thần, Lai Hấp
Quyển 16 Đặng Khấu liệt truyện 6 - Đặng Vũ, Khấu Tuân
Quyển 17 Phùng Sầm Giả liệt truyện 7 - Phùng Dỵ, Sầm Bành, Giả Phục
Quyển 18 Ngô Cái Trần Tang liệt truyện 8 - Ngô Hán, Cái Duyên, Trần Tuấn, Tang Cung
Quyển 19 Cảnh Yểm liệt truyện 9
Quyển 20 Diêu Kỳ Vương Bá Sái Tuân liệt truyện 10 - Diêu Kỳ, Vương Bá, Thái Tuân
Quyển 21 Nhâm Lý Vạn Phi Lưu Cảnh liệt truyện 11 - Nhâm Quang, Lý Trung, Vạn Tu, Bi Đồng, Lưu Thực, Cảnh Thuần
Quyển 22 Chu Cảnh Vương Đỗ Mã Lưu Phó Kiên Mã liệt truyện 12 - Chu Hữu, Cảnh Đan, Vương Lương, Đỗ Mậu, Mã Thành, Lưu Long, Phó Tuấn, Kiên Đàm, Mã Vũ
Quyển 23 Đậu Dung liệt truyện 13 - Đậu Dung, Đậu Cố, Đậu Hiến, Đậu Chương
Quyển 24 Mã Viện liệt truyện 14
Quyển 25 Trác Lỗ Ngụy Lưu liệt truyện 15 - Trác Mậu, Lỗ Cung, Ngụy Bá, Lưu Khoan
Quyển 26 Phục Hầu Tống Sái Phùng Triệu Mưu Vi liệt truyện 16 - Phục Trạm, Hầu Bá, Tống Hoằng, Thái Mậu, Quách Hạ, Phùng Cần, Triệu Hí, Mưu Dung, Vi Bưu
Quyển 27 Tuyên Trương Nhị Vương Đỗ Quách Ngô Thừa Trịnh Triệu liệt truyện 17 - Tuyên Bỉnh, Trương Trạm, Vương Đan, Vương Lương, Đỗ Lâm, Quách Đan, Ngô Lương, Thừa Cung, Trịnh Quân, Triệu Điển
Quyển 28 Thượng - Hoàn Đàm, Phùng Diễn liệt truyện thượng 18
Quyển 28 Hạ - Phùng Diễn liệt truyện hạ 18 - Phùng Báo
Quyển 29 Thân Đồ Cương, Bảo Vĩnh, Chí Uẩn liệt truyện 19
Quyển 30 Thượng - Tô Cánh, Dương Hậu liệt truyện thượng 20
Quyển 30 Hạ - Lang Ỷ, Tương Khải liệt truyện hạ 20
Quyển 31 Quách Đỗ Khổng Trương Liêm Vương Tô Dương Giả Lục liệt truyện 21 - Quách Cấp, Đỗ Thi, Khổng Phấn, Trương Kham, Liêm Phạm, Vương Đường, Tô Chương, Dương Tục, Giả Tông, Lục Khang
Quyển 32 Phàn Hoành, Âm Thức liệt truyện 22
Quyển 33 Chu Phùng Ngu Trịnh Chu liệt truyện 23 - Chu Phù, Phùng Phường, Ngu Duyên, Trịnh Hoằng, Chu Chương
Quyển 34 Lương Thống liệt truyện 24
Quyển 35 Trương Tào Trịnh liệt truyện 25 - Trương Thuần, Trương Phấn, Tào Bao, Trịnh Huyền
Quyển 36 Trịnh Phạm Trần Giả Trương liệt truyện 26 - Trịnh Hưng, Trịnh Chúng, Phạm Thăng, Trần Nguyên, Giả Quỳ, Trương Bá, Trương Khải, Trương Lăng, Trương Huyền
Quyển 37 Hoàn Vinh, Đinh Hồng liệt truyện 27
Quyển 38 Trương Pháp Đằng Phùng Độ Dương liệt truyện 28 - Trương Tông, Pháp Hùng, Đằng Phủ, Phùng Cổn, Độ Thượng, Dương Tuyền
Quyển 39 Lưu Triệu Thuần Vu Giang Lưu Chu Triệu liệt truyện 29 - Lưu Bình, Triệu Hiếu, Thuần Vu Cung, Giang Cách, Lưu Bàn, Chu Bàn, Triệu Tư
Quyển 40 Thượng-Ban Bưu liệt truyện thượng 30
Quyển 40 Hạ-Ban Bưu liệt truyện hạ 30 - Ban Cố
Quyển 41 Đệ Ngũ Chung Ly Tống Hàn liệt truyện 31 - Đệ Ngũ Luân, Chung Ly Ý, Tống Quân, Hàn Lãng
Quyển 42 Quang Vũ thập vương liệt truyện 32 - Lưu Cương, Lưu Phụ, Lưu Khang, Lưu Duyên, Lưu Yên, Lưu Anh, Lưu Thương, Lưu Kinh, Lưu Hành, Lưu Kinh
Quyển 43 Chu Nhạc Hà liệt truyện 33 - Chu Huy, Tôn Mục, Nhạc Khôi, Hà Sưởng
Quyển 44 Đặng Trương Từ Trương Hồ liệt truyện 34 - Đặng Bưu, Trương Vũ, Từ Phòng, Trương Mẫn, Hồ Quảng
Quyển 45 Viên Trương Hàn Chu liệt truyện 35 - Viên An, Viên Kinh, Viên Sưởng, Trương Bô, Hàn Lăng, Chu Vinh
Quyển 46 Quách Trần liệt truyện 36 - Quách Cung, Trần Sủng
Quyển 47 Ban Lương liệt truyện 37 - Ban Siêu, Lương Cận
Quyển 48 Dương Lý Trạch Ứng Hoắc Viên Từ liệt truyện 38 - Dương Chung, Lý Pháp, Trạch Bô, Ứng Phụng, Ứng Thiệu, Hoắc Tư, Viên Duyên, Từ Cầu
Quyển 49 Vương Sung, Vương Phù, Trọng Trường Thống liệt truyện 39
Quyển 50 Hiếu Minh bát vương liệt truyện 40 - Lưu Kiến, Lưu Tiện, Lưu Cung, Lưu Đảng, Lưu Diễn, Lưu Sướng, Lưu Bỉnh, Lưu Trường
Quyển 51 Lý Trần Bàng Trần Kiều liệt truyện 41 - Lý Tuân, Trần Thiện, Bàng Tham, Trần Quy, Kiều Huyền
Quyển 52 Thôi Nhân liệt truyện 42
Quyển 53 Chu Hoàng Từ Khương Thân Đồ liệt truyện 43 - Chu Tiếp, Hoàng Hiến, Từ Trĩ, Khương Quăng, Thân Đồ Bàn
Quyển 54 Dương Chấn liệt truyện 44
Quyển 55 Chương Đế bát vương liệt truyện 45 - Lưu Kháng, Lưu Toàn, Lưu Khánh, Lưu Thọ, Lưu Khai, Lưu Thục, Lưu Vạn Tuế, Lưu Thắng
Quyển 56 Trương Vương Chủng Trần liệt truyện 46 - Trương Hạo, Vương Cung, Chủng Cảo, Trần Cầu
Quyển 57 Đỗ Loan Lưu Lý Lưu Tạ liệt truyện 47 - Đỗ Căn, Loan Ba, Lưu Đào, Lý Vân, Lưu Du, Tạ Bật
Quyển 58 Ngu Truyền Cái Tang liệt truyện 48 - Ngu Hủ, Truyền Tiếp, Cái Huân, Tang Hồng
Quyển 59 Trương Hành liệt truyện 49
Quyển 60 Thượng - Mã Dung liệt truyện thượng 50
Quyển 60 Hạ - Thái Ung liệt truyện hạ 50
Quyển 61 Tả Chu Hoàng liệt truyện 51 - Tả Hùng, Chu Cử, Chu Hiệp, Hoàng Quỳnh, Hoàng Uyển
Quyển 62 Tuân Hàn Chung Trần liệt truyện 52 - Tuân Thục, Tuân Sảng, Tuân Duyệt, Hàn Thiều, Chung Hạo, Trần Thực, Trần Kỷ
Quyển 63 Lý Đỗ liệt truyện 53 - Lý Cố, Đỗ Kiều
Quyển 64 Ngô Duyên Sử Lư Triệu liệt truyện 54 - Ngô Hữu, Duyên Đốc, Sử Bật, Lư Thực, Triệu Kỳ
Quyển 65 Hoàng Phủ Trương Đoạn liệt truyện 55 - Hoàng Phủ Quy, Trương Hoán, Đoạn Huỳnh
Quyển 66 Trần Vương liệt truyện 56 - Trần Phồn, Vương Doãn
Quyển 67 Đảng Cố liệt truyện 57 - Lưu Thục, Lý Ưng, Đỗ Mật, Lưu Hữu, Ngụy Lãng, Phức, Tông Từ, Ba Túc, Phạm Bàng, Doãn Huân, Thái Diễn, Dương Trắc, Trương Kiệm, Sầm Vãn, Trần Tường (Đông Hán), Uyển Khang, Đàn Phu, Lưu Nho, Giả Bưu, Hà Ngung
Quyển 68 Quách Phù Hứa liệt truyện 58 - Quách Thái, Phù Dung, Hứa Thiệu
Quyển 69 Đậu Hà liệt truyện 59 - Đậu Vũ, Hà Tiến
Quyển 70 Trịnh Khổng Tuân liệt truyện 60 - Trịnh Thái, Khổng Dung, Tuân Úc
Quyển 71 Hoàng Phủ Tung, Chu Tuấn liệt truyện 61
Quyển 72 Đổng Trác liệt truyện 62
Quyển 73 Lưu Ngu, Công Tôn Toản, Đào Khiêm liệt truyện 63
Quyển 74 Thượng - Viên Thiệu Lưu Biểu liệt truyện 64 thượng - Viên Thiệu
Quyển 74 Hạ - Viên Thiệu Lưu Biểu liệt truyện 64 hạ - Viên Đàm, Lưu Biểu
Quyển 75 Lưu Yên, Viên Thuật, Lã Bố liệt truyện 65
Quyển 76 Tuần lại liệt truyện 66 - Vệ Táp, Vương Cảnh, Tần Bành, Vương Hoán, Hứa Kinh, Mạnh Thường, Đệ Ngũ Phóng, Lưu Củ, Lưu Sủng, Cừu Lãm, Đồng Khôi, Đệ Dực
Quyển 77 Khốc lại liệt truyện 67 - Đổng Tuyên, Phàn Diệp, Lý Chương, Chu Tri, Hoàng Xương, Dương Cầu, Vương Cát
Quyển 78 Hoạn giả liệt truyện 68 - Trịnh Huề, Thái Luân, Tôn Trình, Tào Đằng, Đan Siêu, Hầu Lãm, Tào Tiết, Thẩm Trung, Lữ Cường, Trương Nhượng
Quyển 79 Thượng - Nho lâm liệt truyện 69 thượng - Lưu Côn, Tử Dật, Oa Đan, Dương Hồng, Nhâm An, Dương Chính, Trương Hưng, Đái Bằng, Ngụy Mãn, Tôn Kỳ, Âu Dương Hấp, Tào Tằng, Tống Đăng, Trương Tuần, Doãn Mẫn, Chu Phòng, Khổng Hy, Dương Luân
Quyển 79 Hạ - Nho lâm liệt truyện 69 hạ - Cao Hủ, Bao Hàm, Ngụy Ứng, Phục Cung, Nhâm Mạt, Cảnh Loan, Tiết Hán, Đỗ Phủ, Triệu Tuần, Dương Nhân, Triệu Diệp, Thời Sơn, Đổng Quân, Đinh Cung, Chu Trạch, Trương Kham, Chung Hưng, Chân Vũ, Lâu Vọng, Trình Tằng, Trương Huyền, Lý Dục, Hà Hưu, Phục Kiền, Dĩnh Dung, Tạ Cai, Hứa Thận, Thái Huyền
Quyển 80 Thượng - Văn uyển liệt truyện 70 thượng - Đỗ Đốc, Vương Long, Hạ Cung, Phó Nghị, Hoàng Hương, Lưu Nghị, Lý Vưu, Tô Thuận, Lưu Trân, Cát Cung, Vương Dật, Thôi Kỳ, Biên Thiều
Quyển 80 Hạ - Văn uyển liệt truyện 70 hạ - Trương Thăng, Sỹ Quận, Triệu Nhất, Lưu Lương, Biên Nhượng, Ly Viêm, Hầu Cẩn, Cao Bưu, Trương Siêu, Nhĩ Hành
Quyển 81 Độc hành liệt truyện 71 Tiều Huyền, Lý Nghiệp, Lưu Mậu, Ôn Tự, Bành Tu, Tác Lư Phóng, Chu Gia, Phạm Thức, Lý Thiện, Vương Truân, Lăng Tục, Lý Sung, Mâu Can, Trần Trọng, Lôi Nghĩa, Phạm Nhiễm, Đái Tựu, Triệu Bao, Hướng Hủ, Lượng Phụ, Lưu Dực, Vương Liệt
Quyển 82 Thượng - Phương thuật liệt truyện 72 thượng - Nhâm Văn Công, Quách Hiến, Hứa Dương, Cao Hoạch, Vương Kiều Giả, Tạ Di Ngô, Dương Do, Lý Nam, Lý Hợp, Đoạn Ế, Liêu Phù, Chiết Tượng, Phàn Anh
Quyển 82 Hạ - Phương thuật liệt truyện 72 hạ - Đường Đàn, Công Sa Mục, Hứa Mạn, Triệu Ngạn, Phàn Chí Trương, Thiện Dương, Hàn Thuyết, Đổng Phù, Quách Ngọc, Hoa Đà, Từ Đăng, Phí Trường Phòng, Kế Tử Huấn, Lưu Căn, Tả Từ, Kế Tử Huân, Hòa Bình
Quyển 83 Dật dân liệt truyện 73 - Hướng Trường, Phùng Manh, Chu Đảng, Vương Bá, Nghiêm Quang, Tỉnh Đan, Lương Hồng, Cao Phượng, Đài Đông, Hàn Khang, Kiểu Thận, Đái Lương, Pháp Chân, Bàng Công
Quyển 84 Liệt nữ truyện 74 (Một trong Nhị thập tứ sử có lập truyện riêng dành cho nữ giới)
Quyển 85 Đông Di liệt truyện 75 - Phù Dư, Ấp Lâu, Cao Câu Ly, Đông Ốc Tự, Uế Mạch, Tam Hàn, Oa
Quyển 86 Nam Man Tây Nam Di liệt truyện 76
Quyển 87 Tây Khương liệt truyện 77 - Khương
Quyển 88 Tây Vực liệt truyện 78 - Vu Điền, Điều Chi, An Tức, Đại Tần, Đại Nguyệt Thị, Thiên Trúc, Yểm Sái, Sơ Lặc, Yên Kỳ, Xa Sư
Quyển 89 Nam Hung Nô liệt truyện 79
Quyển 90 Ô Hoàn, Tiên Ty liệt truyện 80
Chí
Quyển 1 Luật lịch thượng
Quyển 2 Luật lịch trung
Quyển 3 Luật lịch hạ
Quyển 4 Lễ nghi thượng
Quyển 5 Lễ nghi trung
Quyển 6 Lễ nghi hạ
Quyển 7 Tế tự thượng
Quyển 8 Tế tự trung
Quyển 9 Tế tự hạ
Quyển 10 Thiên văn thượng
Quyển 11 Thiên văn trung
Quyển 12 Thiên văn hạ
Quyển 13 Ngũ hành 1
Quyển 14 Ngũ hành 2
Quyển 15 Ngũ hành 3
Quyển 16 Ngũ hành 4
Quyển 17 Ngũ hành 5
Quyển 18 Ngũ hành 6
Quyển 19 Quận quốc 1
Quyển 20 Quận quốc 2
Quyển 21 Quận quốc 3
Quyển 22 Quận quốc 4
Quyển 23 Quận quốc 5
Quyển 24 Bách quan 1
Quyển 25 Bách quan 2
Quyển 26 Bách quan 3
Quyển 27 Bách quan 4
Quyển 28 Bách quan 5
Quyển 29 Dư phục thượng
Quyển 30 Dư phục hạ |
Vyacheslav Vasilyevich Tikhonov (sinh ngày 8 tháng 2 năm 1928 - mất 4 tháng 12 năm 2009 tại Moskva) là một diễn viên Xô viết nổi tiếng, đã nhận được nhiều giải thưởng quốc gia, bao gồm cả danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân Liên Xô (1974) và Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa (1982). Vai diễn thành công nhất của ông là vai Thượng tá SS (Standartenführer) Stirlitz, một điệp viên Xô viết trong phim Mười bảy khoảnh khắc mùa xuân.
Sự nghiệp
Ông sinh ra ở Pavlovsky Posad gần Moskva. Cha ông là công nhân và mẹ ông là bảo mẫu nhà trẻ. Thuở nhỏ, ông có tên là Slava (tiếng Nga có nghĩa là vinh quang).
Vyacheslav Tikhonov có ngoại hình cao ráo và rắn rỏi, có mơ ước trở thành diễn viên điện ảnh, vì vậy ông đã dự thi vào viện điện ảnh VGIK. Nhưng do bản tính rụt rè, không có khả năng nói trước đám đông nên ông bị đánh trượt. Khi các thí sinh dự thi ra về, ông vẫn ở lại trường thi. Đúng lúc đó có một vị giáo sư của trường đi qua, trông thấy ông và thương tình nhận vào trường.
Vào nghề, Vyacheslav Tikhonov được các đạo diễn mời tham gia đóng các phim Đội cận vệ trẻ năm 1948 và Maximka năm 1952, nhưng vì ngoại hình được đánh giá là "đẹp như tượng" của ông chứ không vì phải vì tài năng của ông. Điều đó khác với mong muốn của ông trong nghề diễn.
Vyacheslav Tikhonov rất say mê tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình của Lev Tolstoi. Khi biết đạo diễn nổi tiếng của Liên Xô Sergei Bondachuk sắp làm phim Chiến tranh và hòa bình (War and Peace), ông đã tìm đến gặp Bondachuk và xin được đóng vai Andrei Bolkonsky. Nhưng ông bị Bondachuk từ chối vì lúc đó đã có hai ứng cử viên nổi tiếng khác cho vai diễn này. Tuy nhiên, sau đó 2 nam diễn viên kia lại bận đóng phim khác và nhờ có sự can thiệp của Bộ trưởng Bộ Văn hóa Liên Xô, Tikhonov được đóng vai diễn mà mình mơ ước.
[[Tập tin:RIAN archive 16849 Gagarin, Tereshkova, Tikhonov and Lyubeznov.jpg|nhỏ|phải|200px|V. V. Tikhonov và các Anh hùng Liên Xô(Từ phải: Yu. A. Gagarin, V. V. Tikhonov, V. V. Tereshkova, Ivan Lyubeznov]]
Sau 4 năm, bộ phim hoàn thành. Trong quá trình đóng phim, ông đã gặp rắc rối với đạo diễn Bondachuk, một người rất nghiêm khắc và nguyên tắc. Dù phim Chiến tranh và hòa bình đoạt giải Oscar (1969) nhưng vai diễn Andrei Bolkonsky của Tikhonov không được báo chí Liên Xô khi đó đánh giá cao về và chính đạo diễn Sergei Bondachuk cũng có những ý kiến không hay về vai diễn này.
Là người cả nghĩ, Tikhonov thất vọng, nản chí và muốn từ bỏ điện ảnh để chuyển sang sân khấu. Tuy nhiên, đúng lúc đó ông lại được nữ đạo diễn Tatyana Lioznova mời đóng vai Đại tá SS Stirlitz, tức điệp viên Maksim Isayev của Liên Xô (nhân vật có thật được tiểu thuyết hóa) trong Chiến tranh thế giới thứ hai trong phim Mười bảy khoảnh khắc mùa xuân (Семнадцать мгновений весны). Bộ phim hoàn thành năm 1973. Ngay từ khi ra mắt những tập đầu tiên, bộ phim đã được khán giả Liên Xô ca ngợi và sau đó trở nên quen thuộc với nhiều thế hệ người Nga. Vai diễn này của ông được khán giả Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa yêu thích và mang lại nhiều vinh quang cho ông với các danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân Liên Xô (1974) và Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa (1982).
Sau khi Liên Xô tan rã, ông tham gia vai diễn một ông già trong bộ phim đoạt giải Oscar khác, Cháy bỏng dưới ánh mặt trời (Burnt by the Sun) năm 1994 của đạo diễn Nikita Mikhalkov.
Ngoài những phim nổi tiếng trên, Vyacheslav Tikhonov còn đóng một số phim khác nhưng không gây được tiếng vang.
Tháng 11 năm 2003, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã trao tặng Huân chương Cống hiến Quốc gia hạng III cho Vyacheslav Tikhonov.
Đời tư
Năm 1948, ông kết hôn với Nonna Mordyukova, một nữ diễn viên khá nổi tiếng thời đó, là người cùng đóng phim Đội cận vệ trẻ với ông và sau này cũng được danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân Liên Xô. Hai người có một con trai là Vladimir.
Cuộc hôn nhân của ông với Nonna Mordyukova kéo dài 13 năm thì tan vỡ. Hai người cắt đứt mọi mối quan hệ sau khi chia tay. Tháng 7 năm 2008 khi sắp qua đời, Nonna Mordyukova vẫn hối tiếc về sự chia tay đó.
Vladimir, con trai ông, cũng có ngoại hình đẹp và trở thành diễn viên, nhưng bị sa vào nghiện rượu, ma túy và qua đời khi mới 40 tuổi vì chích thuốc quá liều.
Sau khi chia tay Mordyukova, năm 1968, ông lấy Tamara và có con gái Anna. Những năm cuối đời, ông sống ẩn dật với gia đình ở ngoại ô Moskva.
Ông qua đời ngày 4 tháng 12 năm 2009.
Các phim tham gia
Молодая гвардия ("Đội cận vệ trẻ", 1948)
В мирные дни ("Trong những ngày hòa bình", 1950)
Тарас Шевченко ("Taras Shevchenko", 1951)
Максимка ("Maksimka", 1952)
Сердце бьется вновь ("Trái tim lại đập", 1956)
Дело было в Пенькове ("Họ đã ở Penkovo", 1957)
ЧП. Чрезвычайное происшествие ("Tình huống khẩn cấp", 1958)
Жажда ("Cơn khát", 1959)
Майские звезды ("Những ngôi sao tháng năm", 1959)
Мичман Панин (1960)
Две жизни ("Hai cuộc sống", 1961)
На семи ветрах ("Trên bảy ngọn gió", 1962)
Оптимистическая трагедия ("Bi kịch lạc quan", 1963)
Война и мир (Chiến tranh và hòa bình, 1965-67)
Доживем до понедельника ("Chúng ta sẽ sống đến thứ hai", 1968)
Семейное счастье ("Hạnh phúc gia đình", 1969)
Карусель ("Băng chuyền"1970)
Егор Булычев и другие ("Yegor Bulychev và bạn bè", 1971)
Человек с другой стороны ("Người ở phía bên kia", 1971)
Семнадцать мгновений весны (Mười bảy khoảnh khắc mùa xuân, 1973)
Фронт без флангов ("Mặt trận hở sườn", 1974)
Они сражались за Родину ("Họ chiến đấu vì Tổ Quốc", 1975)
Повесть о человеческом сердце ("Câu chuyện của trái tim con người", 1975)
... И другие официальные лица ("... Và các quan chức", 1976)
Белый Бим Черное ухо ("Bim trắng tai đen", 1977)
Фронт за линией фронта ("Đối diện trên chiến tuyến", 1977)
Отпуск за свой счет ("Chi phí của kỳ nghỉ", 1981)
Фронт в тылу врага ("Mặt trận sau lưng địch", 1981)
Однолюбы ("Vợ chồng", 1982)
Европейская история ("Lịch sử Châu Âu", 1984)
ТАСС уполномочен заявить... (TASS được quyền tuyên bố...", 1984)
Апелляция ("Hấp dẫn", 1987)
Убить дракона ("Giết rồng", 1988)
Любовь с привилегиями ("Đặc quyền của tình yêu", 1989)
Призраки зеленой комнаты ("Những bóng ma của căn phòng màu xanh", 1991)
Бесы (Николай Ставрогин) ("Quỷ dữ", 1992)
Кодекс бесчестия ("Sự sỉ nhục bóng gió", 1993)
Несравненная ("Có một không hai", 1993)
Провинциальный бенефис ("Lợi ích thứ cấp", 1993)
Бульварный роман ("Tiểu thuyết lá cải", 1994)
Утомленные солнцем ("Cháy nắng mặt trời", 1994)
Авантюра ("Mạo hiểm", 1995)
Милый друг давно забытых лет... ("Người bạn của những năm tháng bin lãng quên", 1996)
Сочинение ко Дню Победы ("Sáng tác cho ngày chiến thắng", 1998?)
Зал ожидания ("Hội trường hy vọng", 1998)
Tham khảo
Người hùng trong 17 khoảnh khác mùa xuân: Những nốt trầm trong cuộc đời - bài viết của Trần Quang Vinh trên báo Thể thao văn hóa'' cuối tuần số 32, tuần từ 7 - 13/8/2009, tr 58-59.
Chú dẫn |
Minnesota (; bản địa ) là một tiểu bang vùng Trung Tây của Hoa Kỳ. Minnesota được thành tiểu bang thứ 32 của Hoa Kỳ vào ngày 11 tháng 5 năm 1858. Nó được tạo ra từ lãnh thổ của Minnesota và Wisconsin. Cái tên Minnesota bắt nguồn từ tên mini sota trong tiếng Dakota cho sông Minnesota, nghĩa là "nước trong xanh." Tiểu bang này được biết đến với cái tên nổi tiếng "10.000 hồ", ý nói có rất nhiều hồ lớn nhỏ, trên thực tế nó còn có hơn cả 10.000 hồ. Khẩu hiệu của bang là L'Étoile du Nord (tiếng Pháp: Ngôi Sao của miền Bắc).
Nó là tiểu bang lớn thứ 12 của Hoa Kỳ và đứng hạng 21 tính theo dân số, có 5,3 triệu người dân. Khoảng 60% dân Minnesota sống trong khu vực Minneapolis-Saint Paul khu đô thị còn được biết đến với cái tên "Thành phố sinh đôi", trung tâm thương mại, vui chơi, giáo dục, giao thông và là nhà của trung tâm nghệ thuật nổi tiếng thế giới. Phần còn lại của tiểu bang bao gồm phía tây đồng cỏ, bây giờ được sử dụng cho nền công nghiệp đang phát triển mạnh. Còn rừng lá rụng (deciduous) ở phía đông nam được trồng trọt và làm nơi ở. Còn vùng rừng phía bắc dùng để đào mỏ, lâm nghiệp và các hoạt động giải trí cắm trại thiên nhiên như đi rừng, bắt cá, chèo thuyền...
Minnesota được biết đến như là một nơi với xã hội, chính trị đa dạng và có tỉ lệ người dân đi bầu cử cao. Minnesota được xếp hạng một trong những tiểu bang tốt nhất ở Hoa Kỳ, và có tỉ lệ biết đọc cao. Đa số dân ở Minnesota là người có nguồn gốc Đức và Scandinavia. Tiểu bang còn được biết đến như trung tâm văn hóa của người Mỹ gốc Scandinavia. Mức độ đa dạng chủng tộc gia tăng đáng kể trong các thập kỷ gần đây. Các sắc tộc như người Mỹ gốc châu Phi, người Châu Á, người Latin và Mễ đã hòa nhập với người dân bản địa Minnesota, bao gồm cả người da đỏ như người Dakota, Ojibwe, and Ho-Chunk. Chỉ số đời sống của Minnesota là nằm trong những tiểu bang có chỉ số cao nhất ở Hoa Kỳ và tiểu bang này còn là một trong những tiểu bang có học vấn và giàu nhất Hoa Kỳ.
Từ nguyên
Từ Minnesota bắt nguồn từ tên gọi tiếng Dakota của sông Minnesota: Mnisota. Gốc từ mni có nghĩa là "nước." Mnisota có thể dịch thành nước trong hoặc nước đục tùy theo cách phát âm. Người da đỏ giải thích tên gọi cho những người da trắng định cư ban đầu bằng cách để sữa nhỏ giọt vào nước và gọi nó là mnisota. Nhiều địa điểm trong bang có các tên gọi tương tự, như Minnehaha Falls ("nước cười" (thác)), Minneiska ("nước trắng"), Minneota ("nhiều nước"), Minnetonka ("nước lớn"), Minnetrista ("nước uốn"), và Minneapolis, một sự kết hợp của mni và polis (từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là "thành phố").
Địa lý
Minnesota là tiểu bang xa về phía Bắc thứ nhì của Hoa Kỳ (chỉ sau Alaska). Phần đất Tây Bắc Angle cô lập trong Hồ của Rừng là phần đất duy nhất trong 48 tiểu bang liền nhau nằm ở trên vĩ tuyến 49. Tiểu bang là một phần của Hoa Kỳ gọi là Thượng Trung Tây và là một phần của Vùng Ngũ Đại Hồ. Nó và tiểu bang Michigan giáp với hồ Superior. Nó còn giáp vùng biển và đất liền với tiểu bang Wisconsin ở phía đông. Iowa nằm ở phía nam, North Dakota và South Dakota nằm ở phía tây và tỉnh Ontario và Manitoba của Canada nằm ở phía bắc. Với tổng diện tích 225.180 km² hoặc khoảng 2,25% của Hoa Kỳ. Minnesota là tiểu bang lớn thứ 12 của Hoa Kỳ.
Địa chất
Minnesota chứa đựng một số trong các loại đá cổ nhất được tìm thấy trong Trái Đất, một số đá phiến ma tới 3,6 tỉ tuổi (80% tuổi của Trái Đất). Vào khoảng 2,7 tỉ năm về trước, dung nham bazan chảy ra từ những vết nứt dưới lòng đáy biển vào thời kỳ ban đầu của Trái Đất; những loại đá dung nham còn lại tạo nên Khiên Canada thuộc phía đông bắc Minnesota. Nền móng của các ngọn núi lửa này và hoạt động của biển thời kỳ Tiền Cambri đã tạo nên Dãy Sắt của miền bắc Minnesota. Sau thời kỳ núi lửa hoạt động mạnh vào 1,1 tỉ năm về trước, hoạt động địa chất của Minnesota lắng đọng dần, không còn hoạt động núi lửa và sự hình thành núi nhưng nó lại nhiều lần bị biển chảy mòn vào tạo nên nhiều lớp đá trầm tích.
Vào thời gian cận đại, những tảng đá lớn với dày hơn một kilo-mét phủ hết toàn tiểu bang và hình thành địa hình của nó. Thời kỳ băng hà của Wisconsin kết thúc cách đây 12.000 năm trước. Những sông băng này bao phủ toàn bộ Minnesota trừ những vùng xa phía đông nam, vùng đặc trưng bởi những ngọn đồi dốc và suối chảy qua móng. Vùng đất này được biết đến là khu vực tịnh bởi vì nó không có những sông băng di chuyển. Đa số các phần còn lại của tiểu bang ngoài vùng đông bắc có it nhất 15 mét sét tảng lăn di tích còn lại sau khi thời kỳ băng hà cuối cùng kết thúc. Hồ Agassiz được hình thành ở phía tây bắc vào 13.000 năm trước. Lòng sông đó đã tạo nên thung lũng Sông Đỏ màu mỡ và sự chảy xiết của nó, Sông băng Warren, tạo thành thung lũng của Sông Minnesota và hạ lưu Thượng Mississippi từ Fort Snelling. Địa chất Minnesota khá là yên tĩnh thời nay; nó ít khi gặp phải động đất và đa số là những trận động đất nhẹ.
Đỉnh cao của tiểu bang là Núi Đại Bàng với độ cao 701 m. Cách đó 21 km là điểm thấp nhất tiểu bang với độ cao 183 m tại bờ của Hồ Superior. Tuy sự khác biệt độ cao địa hình lớn nhưng đa số địa hình của tiểu bang này là bán bình nguyên.
Hai đường phân thủy chính lưu thông với nhau ở vùng đông bắc của Minnesota thuộc vùng nông thôn Hibbing, tạo ra tam lưu vực. Giáng thủy có thể luồng theo sông Mississippi xuống phía nam của Vịnh Mexico, hệ thống Saint Lawrence Seaway phía đông của Đại Tây Dương hoặc lưu vực Hudson Bay đến Bắc Băng Dương.
Biệt danh của tiểu bang này là Vùng Đất của 10.000 hồ không phải là biệt danh phóng đại. Minnesota có 11.842 hồ với diện tích ít nhất 0,040 km². Vùng Hồ Superior thuộc Minnesota là vùng lớn nhất với diện tịch 3.896 km² và sâu nhất với độ sâu 390 m trong tiểu bang. Minnesota có 6.564 sông và suối tự nhiên. Tổng chiều dài của chúng là 111.000 km. Sông Mississippi bắt nguồn từ Hồ Itasca và chảy qua biên giới Iowa cách đầu nguồn 1.090 km. Tiếp theo nó nhập với Sông Minnesota River tại Fort Snelling, Sông St. Croix gần Hastings, Sông Chippewa tại Wabasha và nhiều dòng suối khác. Sông Đỏ, ở lòng sông của sông băng Agassiz, rút nước của cùng tây bắc của tiểu bang lên phía bắc đến Vịnh Hudson của Canada. Ước tính khoảng 42.900 km² diện tích tiểu bang là đất ngập nước, nhiều nhất trong các tiểu bang trừ bang Alaska.
Hệ sinh thái
Minnesota có bốn khu vực sinh thái: Prairie Parkland, ở phía tây nam và tây của tiểu bang; Eastern Broadleaf Forest (Gỗ Lớn) ở vùng đông nam, mở rộng qua vùng eo của phía tây bắc tiểu bang, tiếp đó là vùng Tallgrass Aspen Parkland; và phía bắc vùng Laurentian Mixed Forest, là khu rừng chuyển tiếp đến phía bắc taiga và rừng về phía nam. Những rừng phía bắc là nơi với những khu đất hoang dã lớn bao gồm những loại cây Chi Thông và Chi Vân sam hòa hợp với Chi Bạch dương và Chi Dương.
Đa số các khu rừng phía bắc của Minnesota đã từng bị đốn gỗ trong một thời gian. Hiện giờ chỉ còn lại một số ít rừng nguyên sinh trong Rừng Quốc gia Chippewa và Rừng Quốc gia Superior có Khu Vực Ranh Giới Chèo Xuồng Thiên Nhiên với tổng diện tích 161.874 hecta của rừng chưa bị đốn. Tuy việc đốn rừng vẫn diễn ra nhưng sự trồng cây lại đều đặn đã giúp một phần ba của tiểu bang bao phủ bởi rừng. Gần hết các đồng cỏ và xavan cây sồi đã bị hủy hoại bởi trồng trọt, cho súc vật ăn cỏ, đốt rừng và phát triển ngoại ô.
Sự mất cân bằng của hệ sinh thái đã làm ảnh hưởng đến những động vật gốc ở đây bao gồm chồn mactet châu Mỹ, hươu Bắc Mỹ, tuần lộc rừng di trú và bò rừng bizon Bắc Mỹ, trong khi hươu đuôi trắng và linh miêu đuôi cộc phát triển. Minnesota là nơi có nhiều chó sói nhất nước Mỹ ngoài bang Alaska và là nơi trú ngự của thành phần không nhỏ của loài gấu đen Bắc Mỹ và nai sừng tấm châu Âu. Nằm trong vùng bay Mississippi, Minnesota còn là nơi di trú của các loại chim nước như vịt và ngỗng và những loại chim hay bị săn bắn như một trò chơi như gà gô trắng, gà lôi và họ gà Tây. Nó còn là nhà của nhiều loài chim săn mồi bao gồm nhiều cặp đôi đại bàng nhất trong Hoa Kỳ lục địa vào năm 2007 và bao gồm các loại chim săn mồi khác như ưng đuôi lửa, cú trắng. Còn con hồ có rất nhiều loại cá để săn bắn bao gồm sander vitreus, cá vược, cá chó phương bắc, và esox masquinongy. Các con suối ở vùng đông nam và đông bắc có cá hồi suối, cá hồi nâu và cá hồi vân.
Khí hậu
Minnesota đã từng trải qua nhiều đợt khi hậu khắc nghiệt vì đặc điểm khí hậu lục địa của nó, với mùa đông lạnh và mùa hè nóng. Sự khác biệt giữa kỷ lục nóng nhất và lạnh nhất là 174 độ Fahrenheit (96 °C) (từ tại Tower vào ngày 2 tháng 2 năm 1996 đến tại Moorhead vào ngày 6 tháng 7 năm 1936). Các hiện tượng khí hậu như mưa. tuyết. bão tuyết, sấm sét, mưa đá, derecho, lốc xoáy, lốc xoáy thấp. Mùa thu hoạch khoảng 90 ngày tùy theo năm ở vùng Đất Sắt đến 160 ngày ở vùng đông nam Minnesota gần Sông Mississippi và nhiệt độ trung bình từ . Nhiệt độ điểm sương trung bình khoảng ở miền nam đến ở miền bắc. Lượng mưa trung bình khoảng từ và hạn hán xảy ra mỗi 10 đến 50 năm.
Đất bảo tồn
Vườn tiểu bang đầu tiên của Minnesota là Vườn Tiểu Bang Itasca được thành lập vào năm 1891 và là nguồn nước của Sông Mississippi. Đến ngày hôm nay, Minnesota có tới 72 vườn tiểu bang và khu vực giải trí, 58 rừng với diện tích khoảng bốn triệu hecta (16.000 km²) và nhiều khu vực tự nhiên khác được bảo quản bởi Cục Tài nguyên Thiên Nhiên của Minnesota. Hiện có tới 5,5 triệu hecta (22.000 km²) trong Chippewa và Rừng Quốc gia Superior. Rừng Quốc gia Superior ở đông bắc bao phủ Khu Vực Ranh Giới Chèo Xuồng Thiên Nhiên với diện tích hơn một triệu hecta (4.000 km²) và một ngàn hồ. Ở phía tây là Rừng Quốc gia Voyageurs. Sông Quốc gia Mississippi và Khu Vực Giải Trí dài 116 km theo chiều dài của Sông Mississippi đến qua khu trung tâm thành phố Minneapolis–St. Paul và nối liền với địa danh khác đậm bản chất lịch sử, văn hóa và địa hình của tiểu bang này.
Lịch sử
Trước khi người châu Âu di cư đến Bắc Mỹ, Minnesota là nơi ở của người Dakota. Khi người châu Âu định cư ở phía bờ biển đông, phong trào tránh xa người da trắng làm nhiều người Da Đỏ như người Anishinaabe và các người Da Đỏ khác di cư đến vùng Minnesota. Những người châu Âu đầu tiên đến vùng này là các nhà lái buôn lông thú người Pháp đến vào thứ kỷ thứ 17. Vào cuối thế kỷ đó, người Anishinaabe, còn được biết tới là người Ojibwe đã di cư đến vùng phía tây của Minnesota tạo nên tranh chấp với người Dakota. Các nhà thám hiểm như Daniel Greysolon, Sieur du Lhut, Father Louis Hennepin, Jonathan Carver, Henry Schoolcraft, và Joseph Nicollet, cùng các nhà thám hiểm khác đã vẽ ra bản đồ tiểu bang này.
Vào năm 1762, khu vực này trở thành một phần của Louisiana Tây Ban Nha cho tới năm 1802. Một phần của tiểu bang ở phía đông sông Mississippi đã trở thành một phần trong nước Hoa Kỳ khi Hiệp định Paris thứ hai được ký kết vào lúc cách mạng Mỹ kết thúc. Phần đất phía tây của sông Mississippi được mua về qua vụ vùng đất mua Louisiana, tuy nhiên phần Thung Lũ Sông Đỏ bị tranh chấp cho tới khi hiệp ước 1818 được ký. Vào năm 1805, Zebulon Pike thương lượng với người Da Đỏ để lấy đất ở vùng hợp lưu giữa Minnesota và sông Mississippi. Trong khoảng năm từ 1819 tới 1825, Pháo đài Snelling được xây dựng. Lính ở pháo đài đó đã xây cối xay lúa và nhà máy cưa tại Thác Saint Anthony, là công nghiệp lấy nương lượng từ nước đầu tiên và sau này Minneapolis được lập nên ở đây. Trong khi đó những người lập nghiệp ở đất công, các viên chức và các nhà du lịch đã định cư gần pháo đài đó. Vào năm 1839, quân đội Hoa Kỳ bắt họ dời suốt cuối sông và họ đã định cư vùng mà ngày nay trở thành thành phố St. Paul. Lãnh thổ Minnesota được hình thành vào ngày 3 tháng 3 năm 1849. Quốc hội đầu tiên của lãnh thổ này (xảy ra vào ngày 2 tháng 9 năm 1849) bị chi phối bởi những người đàn ông đến từ tiểu bang New England hoặc có gốc từ bang New England. Hàng ngàn người đã đến đây để xây nông trại và đốn gỗ và Minnesota trở thành tiểu bang thứ 32 của Hoa Kỳ vào ngày 11 tháng 5 năm 1858. Những người sáng lập ra tiểu bang này đa số đến từ New England do đó nó có biệt danh là "New England của phía Tây".
Hiệp ước giữa những người định cư gốc châu Âu và người Dakota và Ojibwe đã dần dần ép người bản địa ở đây ra đi đến những khu dành riêng cho người bản địa Mỹ nhỏ hơn. Năm 1861, người ở Mankato lập ra nhóm tên Knights of the Forest, với mục đích loại bỏ hết tất cả người Da Đỏ ở Minnesota. Khi hoàn cảnh trở nên tồi tệ hơn cho người Dakota, xung đột xảy ra và dẫn tới Chiến tranh Dakota 1862. Kết quả của sáu tuần chiến tranh là cuộc hành hình của 38 người Dakota — cuộc hành hình lớn nhất trong lịch sự Hoa Kỳ — và trục xuất gần hết những người Dakota còn lại đến Khu biệt lập Crow Creek tại Lãnh địa Dakota. Có tới 800 người định cư da trắng đã chết trong trận chiến này.
Trồng trọt và đốn củi là nghề chính của nền kinh tế Minnesota. Nhà máy cưa tại Saint Anthony Falls và trung tâm đốn củi như Marine tại St. Croix, Stillwater, và Winona chế biến gỗ với số lượng lớn. Những thành phố này có nhiều sông để tiện cho việc di chuyển. Sau này, Thác nước Saint Anthony Falls được dùng tới để nạp năng lượng cho cối xay bột. Những phát minh mới của thợ cối Minneapolis đã dẫn tới bằng sở hữu bột, bán giá cao gấp đôi so với bánh mì và tinh bột. Tới năm 1900, các cối xay ở Minnesota, của Pillsbury, Northwestern và Công ty Washburn-Crosby (chỉ sau General Mills), thời đó sản xuất 14,1 phần trăm của toàn nước.
Nền công nghiệp đào mỏ sắt được thiết lập khi quặng sắt ở Dãy núi Vermilion và Dãy núi Mesabi vào thập niên 1880s và Dãy núi Cuyuna vào đầu thế kỷ 20. Những quặng đào được vận chuyển bằng được sắt tới Duluth và Two Harbors, rồi sau đó đi theo đường biển để chuyển qua phía đông tới Ngũ Đại Hồ.
Sự phát triển công nghiệp và tăng trưởng sản xuất đã khiến cho dân số tường tường di dân vô thành thị từ nông thôn vào đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên, việc trồng trọt vẫn còn rất thịnh hành. Nền kinh tế Minnesota đã bị ảnh hưởng rất lớn từ đợt Đại khủng hoảng, dẫn tới việc hạ giá cho nông dân, công nhân mỏ bị mất việc và tranh chấp lao động. Trong khi đó miền tây Minnesota và người Dakota còn bị hạn hán làm sự việc trầm trọng hơn. Chính sách kinh tế mớil đã giúp nền kinh tế Hoa Kỳ hồi phục nhanh chóng. Nhóm Civilian Conservation Corps và các chương trình khác đã lập nên một số công ăn việc làm cho các bộ tộc Da Đỏ sống ở khu dành riêng và Luật cải tổ người Da Đỏ của năm 1934 đã mang tới cho những bộ tộc Da Đỏ quyền tự trị. Điều này đã giúp cho người Da Đỏ có tiếng nói trong Hoa Kỳ và đồng thời xúc tiến sự tôn trọng phong tục của người Da Đỏ khi các nghi lễ tôn giáo và ngôn ngữ của họ không còn bị đàn áp.
Sau chiến tranh thế giới II, sự phát triển công nghiệp đã có bước đột phát. Công nghiệp mới đã giúp tăng năng suất nông nghiệp quá các kỹ thuật tự động trang nuôi của heo và gia súc, máy vặn sữa bò và chăn gà số lượng lớn. Trồng trọt trở thành môn chuyên môn với công nghệ lai của bắp và lúa mì và các máy nông nghiệp như máy kéo và máy gặt đập liên hợp được sử dụng rộng rãi. Giáo sư Trường đại học của Minnesota Norman Borlaug đã cống hiến cho những phát triển này qua cuộc cách mạng xanh. Sự phát triển những khu ngoại ô đã tăng trưởng mạnh thông qua sự tăng nhu cầu nhà ở và tiện nghi vận chuyển. Tăng trưởng khả năng vận chuyển đã giúp tạo nên nhiều việc làm chuyên môn.
Minnesota trở thành trung tâm của công nghệ kỹ thuật sau thế chiến II. Hãng Engineering Research Associates được lập ra vào năm 1946 để phát triển máy tính cho Hải quân Hoa Kỳ. Sau đó hãng đó đã hợp nhất với Remington Rand và trở thành Sperry Rand. William Norris rời bỏ Sperry vào năm 1957 để lập nên Control Data Corporation (CDC). Hãng nghiên cứu Cray được thành lập khi Seymour Cray rời khỏi để lập ra công ty riêng. Công ty dụng cụ y tế Medtronic cũng được thành lập ở Thành phố đôi (Minneapolis-Saint Paul) vào năm 1949.
Thành phố và thị xã
Saint Paul, nằm ở phía trung đông Minnesota trải dài bờ sông Mississippi, đã trở thành thủ phủ của Minnesota từ năm 1849, lúc đầu là thủ phủ của Lãnh thổ Minnesota và sau đó trở thành thủ phủ của bang Minnesota từ năm 1858.
thành phố Saint Paul nằm kế bên thành phố đông dân nhất Minnesota, Minneapolis; hai thành phố này và vùng ngoại ô của nó được biết đến như vùng đô thị thành phố đôi, nó là vùng đô thị lớn thứ 13 của Hoa Kỳ và là nhà của 60 phần trăm dân số tiểu bang này. Phần còn lại của tiểu bang được biết là "Đại Minnesota" hoặc "Ngoại Minnesota".
Tiểu bang này có 17 thành phố có dân số trên 50,000 (theo thống kê dân số năm 2010). Theo thứ tự dân số từ lớn đến nhỏ, thành phố Minneapolis, Saint Paul, Rochester, Duluth, Bloomington, Brooklyn Park, Plymouth, Saint Cloud, Woodbury, Eagan, Maple Grove, Coon Rapids, Eden Prairie, Minnetonka, Burnsville, Apple Valley, Blaine và Lakeville. Trong những thành phố đó thì chỉ có thành phố Rochester, Duluth và Saint Cloud là nằm ngoài vùng đô thị của Thành phố Đôi.
Dân số Minnesota đang tiếp tục phát triển, chủ yếu ở vùng đô thị. Dân số của quận Sherburne và Scott tăng gấp đôi từ năm 1980 tới 2000, trong khi 40 trong tổng số 87 quận của tiểu bang này mất đi dân số trong khoảng thời gian đó.
Nhân Khẩu
Dân số
Từ 6.120 người vào năm 1850, dân số Minnesota phát triển tới 1,7 triệu người vào năm 1900. Trong vòng sáu thập niên tới, mỗi thập niên dân số tăng 15 phần trăm trong dân số cho tới 3,4 triệu dân vào năm 1960. Sự phát triển từ đó chậm dần, tăng khoảng 11 phần trăm vào năm 1970 và đạt mức 3,8 triệu dân. Cho vòng ba thế kỷ tới, dân số tăng trung bình khoảng 9 phần trăm cho tới 4,9 triệu dân vào cuộc thống kê dân số năm 2000. Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ phỏng đoán rằng dân số Minnesota là khoảng 5.379.139 vào ngày 1 tháng 7 năm 2012, tăng 1,4 phần trăm tính từ đợt Điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2010. Tốc độ tăng dân số, độ tuổi và phân bố giới tính là khoảng mức trung bình quốc gia. Nơi tập trung dân số của Minnesota là Quận Hennepin.
Chủng tộc và nguồn gốc
Sự phân bố chủng tộc của tiểu bang theo ước lượng của Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ vào năm 2011 là:
Mỹ da trắng: 86,9% (Người da trắng không phải gốc Latin 83,1%, Mỹ da trắng Latin 3,8%)
Người Mỹ gốc Phi: 5,4%
Người Mỹ da đỏ: 1,1%
Người Mỹ gốc châu Á: 4,0%
Người Mỹ gốc Quần đảo Thái Bình Dương: 0,0%
Các chủng tộc khác: 2,4%
Người Mỹ đa chủng tộc: 1,8%
Người Mỹ Latin (từ bất cứ chủng tộc nào) chiếm 4,7 phần trăm của tổng dân số.
Vào năm 2011, người da tắng không phải gốc Latin chiếm 72,3 phần trăm của tổng số trẻ em ra đời. Nhóm dân tộc thiểu số đang phát triển của Minnesota vẫn chỉ chiếm phần trăm nhỏ hơn nếu so với phần trăm dân tộc thiểu số của toàn nước Hoa Kỳ.
Những chủng tộc chính của dân Minnesota vào năm 2010 là:
37,9% gốc Đức
32,1% đến từ Các nước Bắc Âu; (16,8% gốc Na Uy, 9,5% gốc Thụy Điển, 4,7% gốc Phần Lan, gốc Đan Mạch, gốc Iceland, gốc Faroe và gốc Karelia)
11,7% gốc Ireland
6,3% gốc Anh
5,1% gốc Ba Lan
4,2% gốc Pháp
3,7% gốc Séc
Nguồn gốc chủng tộc chiếm dưới 3 phần trăm của tổng dân số là người Mỹ, Ý và Hà Lan, mỗi cái chiếm khoảng từ 2 tới 3 phần trăm dân số; các nguồn gốc khác như từ Châu Phi hạ Sahara và Đông Phi, Scotland, người Canada gốc Pháp, Scotland-Ireland và Mexico, mỗi thứ chiếm khoảng từ 1 tới 1,9 phần trăm dân số; và ít hơn một phần trăm dân số là người Mỹ gốc Nga, Wales, Bosna, Croatia, Serbia, Thụy Sĩ, Ả Rập, Hungary, Ukraina, Hy Lạp, Slovakia, Litva, Bồ Đào Nha và người Tây Ấn. Bang Minnesota có dân số người Somalia cao nhất Hoa Kỳ.
Tôn giáo
Đa số dân số Minnesota theo đạo Tin Lành, bao gồm một phần đáng kể theo Giáo hội Luther vì đa số các người ở đây có nguồn gốc từ Bắc Âu nhưng Giáo hội Công giáo (bao gồm đa số những người gốc Đức, Ireland và Slav) là nhánh Ki-tô giáo chiếm số lượng đông nhất. Theo khảo sát năm 2010 bởi Pew Research Center thì có 32 phần trăm dân Minnesota theo nhóm Tin Lành chính thống, 21 phần trăm theo phong trào Tin Lành, 28 phần trăm theo giáo hội Công giáo, một phần trăm cho các đạo Do Thái, Hồi giáo, Phật giáo, Tin Lành đen và các đức tin khác, bao gồm 13 phần trăm vô đạo. Theo nhóm Association of Religion Data Archives, các nhánh Ki-tô giáo có nhiều người theo nhất vào năm 2010 là giáo hội Công giáo với 1,150,367 người theo, giáo hội Tin Lành Luther tại Hoa Kỳ với 737,537 người theo và Missouri Synod với 182,439 người theo. Các con số này đồng nhất với kết quả thống kê của Khảo sát tôn giáo Hoa Kỳ vào năm 2011, trong đó còn có phần trăm dân số của các nhánh thuộc các tôn giáo khác nhau. Tuy Công giáo có ảnh hưởng lớn, Minnesota có một lịch sử lâu dài với các tôn giáo khác. Những người di cư đạo Do Thái Ashkenazi đầu tiên đã xây dựng hội đường đầu tiên của Saint Paul vào năm 1856. Minnesota có tới 30 nhà thờ Hồi giáo, đa số ở khu đô thị Thành phố đôi. Đền thờ của ECK, nhà thiêng liêng của Eckankar, nằm ở bang Minnesota, và có hàng chục ngàn tín đồ công giáo Eckankar sống ở bang này.
Kinh tế
Từng một thời là tiểu bang chuyên sản xuất vật liệu thô, kinh tế Minnesota đã dần biến đổi thành nền kinh tế chú trọng sản xuất sản phẩm và dịch vụ. Có lẽ đặc điểm đặc trưng của nền kinh tế này là sự đa dạng của nó; sản lượng tương đối của lĩnh vực kinh doanh gần giống như tỉ lệ sản lượng của cả quốc gia Hoa Kỳ. Nền kinh tế Minnesota có tổng sản phẩm nội địa trị giá $262 tỉ đô la vào năm 2008. Vào năm 2008, 32 trên 1.000 công ty đại chúng có trụ sở chính tại Minnesota, bao gồm Target, UnitedHealth Group, 3M, General Mills, U.S. Bancorp, Ameriprise, Hormel, Land O' Lakes, SuperValu, Best Buy, và Valspar. Các công ty tư nằm ở bang Minnesota bao gồm Cargill, là công ty tư có tài sản lớn nhất Hoa Kỳ, và Công ty Carlson, công ty mẹ của Khách sạn Radisson.
Mức thu nhập đầu người của bang vào năm 2008 là $42.772, đứng thứ mười so với 50 tiểu bang. Mức lương hộ khẩu trung vị trong ba năm từ 2002 đến 2004 là $55.914, đứng hạng năm trong Hoa Kỳ và hạng nhất trong 36 tiểu bang không nằm ở ven biển Đại tây dương. Vào tháng 1 năm 2015, tỉ lệ thất nghiệp của bang là 3,7 phần trăm.
Thuế tiểu bang
Bang Minnesota có cơ cấu thuế thu nhập lũy tiến; bốn khung thuế suất thuế thu nhập quốc gia là 5,35, 7,05, 7,85 và 9,85 phần trăm. Tính đến năm 2008, Minnesota được xếp hạng thứ 12 trong tổng số thuế quốc gia và thuế địa phương bình quân đầu người. Trong năm 2008, Minnesotans trả 10,2 phần trăm thu nhập của họ trong thuế tiểu bang và địa phương; trung bình của Hoa Kỳ là 9,7 phần trăm. Thuế bán hàng tiểu bang ở Minnesota là 6,875 phần trăm, nhưng không có thuế bán hàng trên quần áo, thuốc theo toa thuốc, một số dịch vụ hoặc các mặt hàng thực phẩm để tiêu thụ tại nhà. Cơ quan lập pháp tiểu bang có thể cho phép các thành phố lập các loại thuế bán hàng địa phương và thuế địa phương đặc biệt, chẳng hạn như thuế bán hàng bổ sung 0,5 phần trăm ở Minneapolis. Thuế tiêu thụ đặc biệt được áp dụng cho rượu, thuốc lá và nhiên liệu động cơ. Tiểu bang áp đặt thuế sử dụng đối với các mặt hàng được mua ở nơi khác nhưng được sử dụng trong Minnesota. Chủ sở hữu bất động sản ở Minnesota nộp thuế tài sản cho quận, khu đô thị, học khu và các quận có thuế đặc biệt. |
Yulian Semyonovich Semyonov (tên tiếng Nga: Юлиа́н Семёнович Семёнов; 8 tháng 10 năm 1931 - 15 tháng 9 năm 1993) là một nhà văn Liên Xô chuyên viết các tiểu thuyết phản gián.
Tiểu sử và sự nghiệp
Vào năm 1968, Semyonov đã viết một cuốn tiểu thuyết theo ý thức hệ chính thống có tên là Mười bảy khoảnh khắc mùa xuân, dựa trên câu truyện có thật của một điệp viên người Nga, "Stirlitz", trong thời gian 17 ngày ngay trước khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Cuốn tiểu thuyết này cũng đã được dựng thành phim truyền hình nhiều tập. Bộ phim Mười bảy khoảnh khắc mùa xuân đã trở nên quen thuộc với nhiều người dân Liên Xô (cũ).
Tác phẩm
Không cần khẩu lệnh (Пароль не нужен): 1966
Mười bảy khoảnh khắc mùa xuân (Семнадцать мгновений весны): hoàn thành năm 1969, xuất bản năm 1970
TASS được quyền tuyên bố... (ТАСС уполномочен заявить…): 1970
Kim cương dành cho chuyên chính vô sản (Бриллианты для диктатуры пролетариата): 1971
Sự dịu dàng (): 1975 |
Xem Tề (định hướng) về các nghĩa khác của từ "Tề".
Tề (Phồn thể: 齊國; Giản thể: 齐国) là một quốc gia chư hầu của nhà Chu từ thời kỳ Xuân Thu đến tận thời kì Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa. Lãnh thổ của quốc gia này hiện tương ứng với đại bộ phận tỉnh Sơn Đông.
Đất nước này khởi đầu từ Khương Tử Nha, khai quốc công thần giúp Chu Vũ vương lập nên nhà Chu, nước Tề là đất phong của Khương Tử Nha theo lệ phân phong của nhà Chu, truyền đi đời đời. Thời Xuân Thu, nước Tề trứ danh là một chư hầu mạnh dưới thời kỳ của Tề Hoàn công, một trong Ngũ bá. Trong thời kỳ Chiến Quốc, nước Tề đổi từ họ Khương sang họ Điền với vị quân chủ Thái công Điền Hòa, nước Tề cũng nổi lên như là một nhà nước hùng mạnh, được sử sách coi là một trong số 7 quốc gia có ảnh hưởng lớn nhất thời kỳ đó, tức Chiến Quốc Thất hùng.
Năm 221 TCN, nước Tề bị nước Tần diệt, là quốc gia cuối cùng bị Tần Thủy Hoàng chinh phục.
Lịch sử
Vào khoảng thế kỷ 11 TCN, Tề được thành lập một thời gian ngắn sau khi nhà Chu ra đời, là phần thưởng của vua Chu Vũ Vương ban cho Khương Thái Công Lã Vọng. Ban đầu vùng đất phong cho Lã Vọng là Tề (nay thuộc tỉnh Hồ Nam) nên sử gọi nước này là Tề. Sau khi Chu Vũ Vương chết thì xảy ra Loạn tam Giám. Chu công Cơ Đán phải thân chinh sang phía đông dẹp loạn. Sau khi dẹp loạn song, nhằm mục đích trấn áp các thế lực địa phương, Chu công đã cho di dời Tề tới vùng bán đảo Sơn Đông.
Suốt thời Xuân Thu và Chiến Quốc, nước Tề là một nước chư hầu mạnh do khả năng đương đầu với những kẻ thù lớn bên cạnh như Sở và Tần. Kinh đô nước này đóng tại Doanh Khâu (nay là trấn Lâm Truy của quận Lâm Truy, địa cấp thị Truy Bác, tỉnh Sơn Đông). Nước Tề thuộc quyền cai trị của họ Khương trong hơn 600 năm nên sử gọi giai đoạn này là Khương Tề.
Sau đó Điền Hòa, hậu duệ của một quý tộc cũ nước Trần là Điền Kính Trọng lưu vong sang Tề và được vua Tề phong làm lãnh chúa ở đất Điền), đã phế bỏ Tề Khang công năm 391 TCN. Đến năm 386 TCN, Điền Hòa tự lập làm quốc quân. Năm 385 TCN, Chu An Vương buộc phải ban cho Điền Hòa chức Tề hầu. Từ đây trở đi sử gọi là Điền Tề.
Năm 288 TCN, Tề Mẫn vương tuyên bố làm Đông đế (Hoàng đế phía Đông), còn vua Tần Chiêu Tương vương tự xưng Tây đế (Hoàng đế phía tây). Tuy nhiên vì e dè sự tấn công của các nước khác, vua Tề nhanh chóng trở lại xưng Vương, vua Tần cũng e ngại nên sau 3 tháng lại quay về hiệu Vương như cũ.
Năm 284 TCN, Yên Chiêu vương dùng Nhạc Nghị làm thượng tướng quân, hợp quân các nước Yên, Tần, Hàn, Triệu, Ngụy tấn công Tề, tiến vào Lâm Truy, liên tục hạ trên 70 thành trì của Tề. Tôn thất nước Tề chạy tới Cử và Tức Mặc. Tề Mẫn vương chạy tới Cử, bị Náo Xỉ giết chết. Vương tôn Cổ cùng người đất Cử giết Náo Xỉ, lập con của Mẫn vương là Pháp Chương làm Tề vương, tức Tề Tương vương. Yên dẫn quân sang phía đông bao vây Tức Mặc, quân sĩ trong thành cử Điền Đan làm tướng. Quân hai bên giằng co trong vòng 5 năm.
Năm 279 TCN, Điền Đan tổ chức phản công, sử dụng "hỏa ngưu trận" đánh bại quân Yên, thu phục lại các thành trì cùng đất đai trước đó của Tề. Nước Tề tuy được phục hồi, nhưng nguyên khí đã suy kiệt, từ đó trở đi không thể sánh cùng Tần.
Năm 221 TCN, nước Tề chính thức bị Tần diệt vong. Đây cũng là quốc gia cuối cùng trong Thất hùng bị Tần diệt, sự đầu hàng của nước Tề dẫn tới việc thống nhất hoàn toàn Trung Quốc dưới tay Tần Thủy Hoàng.
Hình ảnh
Danh sách quân chủ nước Tề
Khương Tề
Điền Tề
Thủ lĩnh họ Điền
Vua Điền Tề
Thế phả quân chủ nước Tề |
Người, con người, loài người hay nhân loại (danh pháp khoa học: Homo sapiens hay Homo sapiens sapiens, nghĩa đen: người tinh khôn) là loài linh trưởng đông đảo và lan rộng nhất. Người có hai đặc trưng cơ bản là đi đứng bằng hai chân và bộ não lớn phức tạp; những đặc điểm cho phép họ phát triển công cụ, văn hóa và ngôn ngữ tiên tiến. Người là động vật có tính xã hội cao, có xu hướng sống trong các cơ cấu xã hội phức tạp theo quan hệ hợp tác hoặc cạnh tranh; chẳng hạn như gia đình, thân tộc, nhà nước hoặc dân tộc. Tương tác xã hội giữa người với người đã thiết lập các khái niệm như đạo đức, chuẩn mực xã hội và nghi lễ; những giá trị đã góp phần kiến thiết và củng cố xã hội của họ. Trí tò mò muốn thấu hiểu và lý giải các hiện tượng tự nhiên, cùng với khát khao muốn ảnh hưởng và chế ngự các hiện tượng đó, đã thúc đẩy con người phát triển khoa học, triết học, thần thoại, tôn giáo và nhiều lĩnh vực khác.
Mặc dù nhiều nhà khoa học sử dụng danh từ con người để chỉ toàn bộ các loài thuộc chi Homo; song trong lời nói thường nhật, người ta dùng từ con người đơn thuần để chỉ Homo sapiens, thành viên Homo duy nhất còn sót lại. Người hiện đại về mặt giải phẫu (anatomically modern humans) bắt nguồn từ châu Phi cách đây khoảng 300.000 năm, tiến hóa từ tổ tiên Homo heidelbergensis hoặc từ một loài tương tự nào đó, rồi di cư ra khỏi Châu Phi và dần thay thế các quần thể người cổ xưa trên khắp thế giới. Suốt phần lớn lịch sử nhân loại, con người hầu như chỉ sống theo lối du mục và săn bắn hái lượm. Mầm mống hành vi hiện đại ở người xuất hiện cách đây khoảng 160.000-60.000 năm. Cách mạng Đồ đá mới, nở rộ ở Tây Nam Á khoảng 13.000 năm trước (rồi nối tiếp ở các nơi khác), đã chứng kiến sự khai sinh của nông nghiệp, kèm theo các khu định cư đồ sộ do con người xây dựng. Vì dân số ngày một tăng và lương thực ngày một dư thừa, nhà nước đã ra đời trong lòng và giữa các cộng đồng người, kiến tạo nền móng cho các nền văn minh trỗi dậy và suy vong theo thời gian. Hiện nay, loài người vẫn đang tiếp tục sinh sôi nảy nở và dân số của họ đã cán mốc 8 tỉ vào năm 2022.
Các yếu tố di truyền hoặc môi trường có thể gây nên biến thiên sinh học ở ngoại hình, sinh lý, độ nhạy cảm với bệnh tật, khả năng tâm thần, kích thước cơ thể và tuổi thọ của con người. Mặc dù các tộc người thường có vẻ ngoài khá khác biệt, song nếu ta so sánh gen của hai cá nhân bất kỳ thì sẽ thấy họ giống nhau về mặt di truyền đến 99%. Loài người bộc lộ dị hình giới tính tương đối rõ rệt: nhìn chung nam giới có sức mạnh cơ thể lớn hơn, còn nữ giới có tỉ lệ mỡ cơ thể cao hơn. Đến tuổi dậy thì, con người bắt đầu phát triển các đặc điểm giới tính thứ cấp. Phụ nữ (tức con người giống cái đã trưởng thành) có khả năng mang thai, rồi mãn kinh và vô sinh vào khoảng 50 tuổi.
Con người là loài ăn tạp, có thể tiêu thụ nhiều loại động thực vật. Họ biết sử dụng lửa hoặc khai thác các dạng nhiệt năng để chế biến và nấu chín thức ăn; kỹ thuật được kế thừa từ thời H. erectus. Trung bình con người có thể nhịn đói đến 8 tuần nhưng chỉ có thể nhịn uống khoảng 3-4 ngày. Con người là sinh vật ban ngày, ngủ trung bình 7-9 tiếng mỗi ngày. Việc sinh nở ở người tương đối nguy hiểm, tiềm tàng nguy cơ biến chứng hoặc thậm chí tử vong. Thông thường, cả người mẹ lẫn người cha đều tham gia vào việc nuôi dưỡng con trẻ.
Vỏ não trước trán của con người, tức phân khu não bộ đảm nhận chức năng nhận thức bậc cao, rất lớn và phát triển. Họ rất thông minh, có khả năng ghi nhớ từng hồi (episodic memory), có nét mặt biểu cảm linh hoạt, có sự tự nhận thức và lý thuyết tâm trí (theory of mind). Trí óc con người có khả năng nội quan, suy tư, tưởng tượng, tự ý chí hành động và hình thành thế giới quan về tồn tại. Những ưu điểm kể trên đã cho phép con người đạt được những thành tựu công nghệ phức tạp thông qua lý tính và sự truyền tải kiến thức cho các thế hệ tương lai. Ngôn ngữ, nghệ thuật và thương nghiệp là những thứ tạo nên căn tính con người. Các tuyến thương mại đường dài có lẽ đã góp phần tạo nên sự bùng nổ văn hóa và sự phân phối tài nguyên có lợi cho con người; một ưu thế vô cùng lớn khi so với những sinh vật khác.
Định nghĩa và từ nguyên
Tất cả con người hiện đại đều thuộc loài Homo sapiens, danh pháp khoa học mà được Carl Linnaeus đặt ra trong tác phẩm Systema Naturae thế kỷ thứ 18. Danh từ chung "Homo" là một từ mượn học được (learned borrowing) thế kỷ 18 từ của tiếng Latinh, dùng để chỉ con người bất kể giới tính. Danh từ con người có thể dùng để chỉ tất cả các loài thuộc chi Homo, song người ta thường dùng từ này để đề cập đến riêng Homo sapiens, loài Homo duy nhất còn tồn tại. Cái tên "Homo sapiens" có nghĩa là 'người tinh khôn' hoặc 'người thông minh'. Hiện có ý kiến cho rằng một số giống người cổ, đơn cử như người Neanderthal, chính là những phân loài của H. sapiens.
Trong tiếng Việt, từ người đồng nguyên với nhiều từ chỉ người trong các ngôn ngữ Nam Á khác, chẳng hạn như ngài tiếng Mường, bơngai tiếng Bahnar và ngai tiếng Pacoh. Năm 2006, nhà ngôn ngữ học Harry Shorto phục nguyên từ chỉ người ở dạng Môn-Khmer nguyên thủy là *[m]ŋaaj.
Trong tiếng Anh, human là một từ tiếng Anh trung đại được mượn từ humain của tiếng Pháp cổ, rốt cuộc bắt nguồn từ dạng tính từ của homō là hūmānus tiếng Latinh. Từ bản xứ chỉ người trong tiếng Anh là man. Ngoài ra người ta còn dùng từ này để chỉ hai giới, song trong tiếng Anh hiện đại thì nó chỉ riêng đàn ông. Từ man bắt nguồn từ dạng *mann của tiếng Tây-Germanic nguyên thủy, truy gốc xa hơn nữa thì từ căn tố *mon- hoặc *men- của tiếng Ấn-Âu nguyên thủy.
Tiến hóa
Con người là một loài vượn lớn thuộc liên họ Hominoidea. Dòng dõi vượn phái sinh con người lần lượt tách khỏi dòng dõi vượn nhỏ (họ Hylobatidae), dòng dõi đười ươi (chi Pongo), dòng dõi khỉ đột (chi Gorilla), rồi cuối cùng tách khỏi dòng dõi tinh tinh (chi Pan). Lần phân tách cuối cùng giữa dòng dõi người và tinh tinh diễn ra vào khoảng 8–4 triệu năm trước vào cuối thế Miocen. Tại lần phân tách đó, hai nhiễm sắc thể đã kết hợp với nhau để tạo thành nhiễm sắc thể số 2, điều mà giúp lý giải số lượng 23 cặp nhiễm sắc thể ở người chứ không phải 24 như ở các loài vượn khác. Sau đó, tông Người tiếp tục đa dạng hóa thành nhiều loài khác nhau và tách thành ít nhất hai chi riêng biệt. Tuy vậy, tất cả những nhánh đó đều đã bị tuyệt diệt, khiến H. sapiens là chủng người duy nhất còn sót lại.
Chi Homo tiến hóa từ chi Australopithecus. Mặc dù các hóa thạch giai đoạn chuyển tiếp còn khá hiếm, những thành viên sơ kỳ của Homo chia sẻ rõ ràng một số điểm chung với Australopithecus. Hóa thạch cổ nhất của chi Homo là một hài cốt được khai quật từ Ethiopia mang mẫu hiệu LD 350-1 2,8 triệu năm tuổi. Các loài Homo cổ nhất hiện được công nhận là H. habilis và H. rudolfensis, tiến hóa cách đây 2,3 triệu năm. H. erectus (biến thể châu Phi của loài này đôi khi được gọi là H. ergaster) tiến hóa cách đây 2 triệu năm, là loài người cổ xưa đầu tiên rời khỏi châu Phi và phân tán khắp Á-Âu. Cấu trúc cơ thể của người hiện đại đã manh nha phát triển ở H. erectus. H. sapiens phái sinh trực tiếp từ H. heidelbergensis hoặc H. rhodesiensis vào khoảng 300.000 năm trước, hai chủng người mà chính là hậu duệ của quần thể H. erectus còn sót lại ở châu Phi. Sau đó H. sapiens dời khỏi quê nhà, thiên di khắp thế giới và thay thế các chủng người cổ khác. Hành vi hiện đại ở người xuất hiện vào khoảng 160.000-70.000 năm trước, hoặc có lẽ thậm chí sớm hơn thế.
Hiện các nhà khoa học xác định ít nhất hai đợt di cư độc lập "ra khỏi châu Phi": đợt đầu tiên diễn ra cách đây khoảng 130.000-100.000 năm và đợt thứ hai (phát tán về phương nam) diễn ra cách đây khoảng 70.000-50.000 năm. H. sapiens bành trướng tới mọi lục địa và đảo lớn, đặt chân đến Á-Âu khoảng 60.000 năm trước, đặt chân đến Úc khoảng 65.000 năm trước, sang được châu Mỹ khoảng 15.000 năm trước, rồi chinh phục quần đảo Hawaii, Đảo Phục Sinh, Madagascar và New Zealand giữa những năm 300-1280 Công Nguyên.
Bức tranh tiến hóa loài người không đơn thuần là sự diễn tiến tuyến tính hoặc phân tách, mà còn bao gồm cả sự giao phối qua lại giữa các chủng người khác nhau rất phức tạp. Nghiên cứu gen đã chứng tỏ sự lai tạp giữa các chủng người rất phổ biến trong quá trình tiến hóa lịch sử. Bằng chứng ADN chỉ ra rằng gen của người hiện đại ngoài châu Phi đều trộn lẫn một phần gen của người Neanderthal. Hơn nữa, các nhà di truyền học đã phát hiện người Neanderthal và các hominin khác, chẳng hạn như người Denisova, có lẽ đã đóng góp tới 6% bộ gen của họ vào bộ gen của người hiện nay.
Lược sử
Suốt chiều dài lịch sử tồn tại cho đến khoảng 12.000 năm trước, con người hầu như chỉ gắn bó với lối sống săn bắt hái lượm. Bước đột phá khổng lồ của nhân loại 12.000 năm trước, được giới khảo cổ gọi là cách mạng Đồ đá mới cùng phát minh nông nghiệp, diễn ra lần đầu tiên tại Tây Nam Á và lan rộng khắp Cựu thế giới trong các thiên niên kỷ tiếp theo. Nhiều cuộc cách mạng nông nghiệp độc lập cũng diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới sau đó: Trung Bộ châu Mỹ (khoảng 6.000 năm trước), Trung Quốc, Papua New Guinea, và khu vực Sahel-Tây Savanna thuộc Châu Phi. Nguồn lương thực dư thừa đã dẫn đến sự hình thành các khu định cư vĩnh viễn, tạo điều kiện cho con người thuần hóa động vật và áp dụng kim khí vào quá trình lao động sản xuất. Lối sống nông nghiệp định cư đã tạo lập phần móng để các nền văn minh của con người có chỗ phát triển.
Cuộc cách mạng đô thị vào thiên niên kỷ thứ 4 TCN đã chứng kiến sự phát triển của các thị quốc, tiểu biểu như những thành bang Lưỡng Hà kiến thiết bởi người Sumer. Chính tại những thành phố này vào khoảng năm 3000 TCN, con người đã sáng tạo ra dạng thức sớm nhất được biết của chữ viết gọi là chữ hình nêm. Hai nền văn minh phồn vinh tồn tại đồng thời với Lưỡng Hà là Ai Cập cổ đại và văn minh thung lũng sông Ấn. Những nền văn minh đó tiếp xúc nhau thông qua giao thương và phát minh những loại hình công nghệ cơ bản như bánh xe, công cụ cày và các mái buồm. Thiên văn học và toán học được khai sinh; Đại kim tự tháp Giza được người Ai Cập xây dựng. Bằng chứng khảo cổ học chỉ tới một đợt hạn hán nghiêm trọng kéo dài khoảng 1 thế kỷ là nguyên nhân suy tàn của các nền văn minh đó, song nhân loại vẫn tiếp tục tạo dựng những nền văn minh mới. Người Babylon nối gót người Sumer thống trị Lưỡng Hà, và những nền văn minh như văn hóa Porverty Point, văn minh Minos và nhà Thương nổi lên ở các khu vực mới. Vào khoảng năm 1200 TCN, nhiều nền văn minh đồ đồng ở Địa Trung Hải đột ngột sụp đổ và đơn cử tại Hy Lạp được tiếp nối bởi thời kỳ Đen tối. Giai đoạn chuyển tiếp hậu kỳ đồ đồng này đã mở ra thời kỳ đồ sắt trong lịch sử nhân loại.
Kể từ thế kỷ thứ 5 TCN, lịch sử bắt đầu được ghi chép thành văn, cung cấp cho hậu thế những cái nhìn rõ hơn về quá khứ. Giữa thế kỷ 8 và 6 TCN, châu Âu bước vào thời kỳ cổ đại Hy-La đặc trưng bởi hai nền văn minh Hy Lạp và La Mã cổ đại. Ở châu Mỹ, người Maya bắt đầu xây dựng các đô thị và phát minh các hệ lịch phức tạp; ở Châu Phi, vương quốc Aksum thôn tính vương quốc Kush trên đà sa sút rồi thiết lập thương mại giữa Ấn Độ và Địa Trung Hải; ở Tây Á, mô hình nhà nước tập trung của Đế quốc Ba Tư sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới các nhà nước trong tương lai; ở châu Á, đế quốc Gupta thống trị Ấn Độ và nhà Hán của Trung Hoa phát triển rực rỡ.
Sau sự sụp đổ của đế quốc Tây La Mã vào năm 476, châu Âu bước vào thời kỳ Trung cổ. Trong thời kỳ này, Giáo hội Cơ Đốc đóng vai trò là trung tâm quyền lực của xã hội phong kiến châu Âu. Ở Trung Đông, Hồi giáo trở thành tôn giáo lớn nhất và được truyền bá sang Bắc Phi. Giai đoạn này là cột mốc vàng son của thế giới Hồi giáo với những thành tựu kiến trúc nổi bật, những mặc khải trong khoa học kỹ thuật, và sự hình thành bản sắc xã hội rất riêng biệt. Thế giới Cơ đốc giáo và Hồi giáo rốt cuộc va chạm với nhau: Vương quốc Anh, Vương quốc Pháp và Đế quốc La Mã thần thánh phát động hàng loạt cuộc thập tự chinh nhằm giành lại Đất Thánh từ tay người Hồi giáo. Ở châu Mỹ, các xã hội Mississippi phức tạp nở rộ vào khoảng năm 800 CN, trong khi xa hơn về phía nam, người Aztec và người Inca vươn lên kiến tạo những đế quốc đồ sộ. Tại Á-Âu vào thế kỷ 13-14, đế quốc Mông Cổ đã chinh phục được phần lớn thế giới. Cùng thời đó, Đế quốc Mali mở rộng cương vực đến mức cực đại ở Châu Phi, trải dài từ Senegambia đến Bờ Biển Ngà. Tại châu Đại Dương, đế quốc Tuʻi Tonga bành trướng và thiết lập bá quyền khắp Nam Thái Bình Dương.
Môi trường sống và dân số
Các khu định cư sơ khai của con người thường lệ thuộc rất nhiều vào khoảng cách đến nguồn nước và các nguồn tài nguyên thiên nhiên cần thiết để duy trì sư sống, chẳng hạn như quần thể động vật mồi hoặc đất canh tác để trồng trọt và chăn thả gia súc. Con người hiện nay có khả năng thay đổi môi trường sống bằng nhiều phương pháp như công nghệ, thủy lợi, quy hoạch đô thị, xây dựng, phá rừng và sa mạc hóa. Song các khu định cư của họ vẫn dễ bị tổn hại trước thiên tai, nhất là những khu định cư có chất lượng cơ sở hạ tầng kém và tọa lạc tại vị trí địa lý nguy hiểm. Sự quần cư và thay đổi môi trường sống của con người thường được thực hiện với mục đích nhằm bảo hộ, tích lũy tiện nghi hoặc của cải vật chất, mở rộng nguồn thức ăn sẵn có, cải thiện thẩm mỹ, nâng cao kiến thức hoặc tăng cường trao đổi tài nguyên.
Con người là động vật dễ thích nghi mặc dù khả năng chịu đựng của họ đối với các môi trường khắc nghiệt trên Trái Đất không hề cao. Nhờ các công cụ tiên tiến, con người đã có thể tăng cường khả năng thích ứng với các mức nhiệt độ, độ ẩm và độ cao. Sở dĩ bởi vậy, con người đã trở thành loài toàn cầu có thể sống ở đủ kiểu môi trường như rừng mưa nhiệt đới, sa mạc khô cằn, vùng cực lạnh giá và các thành phố ô nhiễm nặng; trái lại, hầu hết sinh vật chỉ sống được trong một số khu vực địa lý nhất định bởi khả năng thích nghi hạn chế của chúng. Tuy nhiên, dân số loài người phân bố bất đồng đều trên bề mặt Trái Đất, biến động từ vùng này sang vùng khác, và vẫn tồn tại những khu vực rộng lớn gần như không có bóng người ở, ví dụ như Nam Cực và các vùng đại dương. Phần lớn dân số loài người (61%) phân bố ở Châu Á; phần còn lại phân bố giảm dần lần lượt ở Châu Mỹ (14%), Châu Phi (14%), Châu Âu (11%) và Châu Đại Dương (0,5%).
Trong vòng vài thế kỷ trở lại đây, con người đã khám phá những môi trường đầy thủ thách như Nam Cực, biển sâu và không gian vũ trụ. Sự cư trú của con người trong những môi trường thù địch này rất hạn chế và tốn kém, thường chỉ dành cho các sứ mệnh khoa học, quân sự hoặc công nghiệp. Con người đã đổ bộ lên Mặt Trăng và sử dụng các loại tàu vũ trụ robot để nghiên cứu các thiên thể. Kể từ đầu thế kỷ 20, con người đã đặt các trạm nghiên cứu lâu dài ở Nam Cực, và kể từ năm 2000, thành lập Trạm Vũ trụ Quốc tế để cư trú trên không gian.
Dân số vào thời điểm nông nghiệp lần đầu xuất hiện (khoảng năm 10.000 TCN) được ước tính rơi vào khoảng từ 1 triệu đến 15 triệu người. Khoảng 50-60 triệu người sống trong lòng Đế chế La Mã thống nhất đông tây vào thế kỷ thứ 4 CN. Bệnh dịch hạch, lần đầu tiên được ghi nhận vào thế kỷ thứ 6 CN, đã tiêu diệt 50% dân số loài người. Nạn dịch kinh hoàng nhất phải kể đến đó là cái chết Đen, gây ra cái chết của 75–200 triệu người tính riêng ở Âu-Á và Bắc Phi. Dân số loài người có lẽ đã đạt ngưỡng 1 tỷ người vào năm 1800. Kể từ đó tăng trưởng theo cấp số nhân, đạt 2 tỷ người vào năm 1930 và 3 tỷ người vào năm 1960, 4 tỷ người vào năm 1975, 5 tỷ người vào năm 1987 và 6 tỷ người vào năm 1999. Dân số thế giới vượt ngưỡng 7 tỷ người vào năm 2011 và vào năm 2020 đã đạt 7,8 tỷ. Tổng sinh khối carbon của toàn thể loài người trên Trái đất vào năm 2018 được ước chừng ở mức 60 triệu tấn, gấp gần 10 lần sinh khối của tất cả các loài thú chưa được thuần hóa.
Năm 2018, 4,2 tỷ người (55%) sống tập trung tại các khu vực thành thị, hơn hẳn con số 751 triệu người vào năm 1950. Các khu vực đô thị hóa nhất lần lượt là Bắc Mỹ (82%), Mỹ Latinh (81%), Châu Âu (74%) và Châu Đại Dương (68%). Dân số Châu Phi và Châu Á chiếm gần 90% tổng số 3,4 tỷ người còn sống ở nông thôn trên toàn cầu. Người dân sống ở đô thị thường phải đối mặt với nhiều vấn đề chẳng hạn như ô nhiễm và tệ nạn xã hội, đặc biệt phổ biến ở các khu ổ chuột nội thành hoặc ngoại thành. Con người đã tác động một cách đáng kể đến môi trường xung quanh. Họ là loài đứng đầu chuỗi thức ăn, hiếm khi bị các loài khác săn mồi. Sự gia tăng dân số, công nghiệp hóa, khai khẩn đất đai, tiêu dùng quá mức và thải nhiên liệu hóa thạch đã tàn phá môi trường. Những vấn nạn đó là nguyên nhân khiến bao dạng sống khác bị đẩy đến bờ vực tuyệt chủng, và gây nên biến đổi khí hậu toàn cầu, rồi càng đẩy nhanh Tuyệt chủng Holocen.
Sinh học
Giải phẫu và sinh lý
Hầu hết các khía cạnh sinh lý người đều tương đồng với các khía cánh sinh lý động vật. Cơ thể con người bao gồm các phần chân, thân, tay, cổ và đầu. Cơ thể người trưởng thành được cấu thành bởi khoảng 100 nghìn tỷ tế bào. Những hệ thống sinh học tồn tại ở người bao gồm hệ thần kinh, hệ tuần hoàn, hệ tiêu hóa, hệ nội tiết, hệ miễn dịch, hệ vỏ bọc, hệ bạch huyết, hệ vận động, hệ sinh dục, hệ hô hấp và hệ tiết niệu. Công thức răng của con người là . Con người có vòm miệng ngắn hơn và răng nhỏ hơn so với những linh trưởng khác. Con người là loài linh trưởng duy nhất có răng nanh ngắn và tương đối phẳng. Răng người có đặc trưng mọc khăng khít và những khoảng răng rụng thường sẽ được lấp nhanh chóng bởi răng mới ở những cá nhân trẻ tuổi. Răng hàm thứ ba (răng khôn) ở người đang dần tiêu biến, nhiều cá nhân thậm chí không có răng này khi sinh.
Giống tinh tinh, con người sở hữu nhiều vết tích tiến hóa như xương cùng, ruột thừa, khớp vai linh hoạt, các ngón tay nắm được và ngón cái đối nhau (tức có thể chĩa vuông góc với các ngón còn lại). Ngoài đi đứng bằng hai chân và kích thước não lớn, con người khác biệt với tinh tinh chủ yếu ở khứu giác, thính giác và khả năng tiêu hóa protein. Mặc dù con người có mật độ nang lông tương đương các loài vượn khác, song lông cơ thể ở người chủ yếu là lông tơ, ngắn và có phân bố thưa thớt. Con người có khoảng 2 triệu tuyến mồ hôi trên toàn bộ cơ thể, nhiều hơn so với tuyến mồ hôi rời rạc của tinh tinh, chủ yếu tập trung quanh lòng bàn tay/bàn chân.
Chiều cao trung bình của một nam giới trưởng thành rơi vào khoảng và chiều cao trung bình của nữ giới trưởng thành rơi vào khoảng (trên toàn cầu). Một số cá nhân bắt đầu suy giảm tầm vóc ở tuổi trung niên, song quá trình này thường diễn ra ở người già. Dân số loài người đang phổ quát cao lớn hơn, có vẻ là kết quả của chế độ dinh dưỡng, trình độ y tế và điều kiện sống tốt hơn. Khối lượng trung bình của một người trưởng thành là đối với nữ và đối với nam. Trọng lượng cơ thể và kiểu hình cơ thể chịu ảnh hưởng từ các yếu tố di truyền và môi trường, và khác nhau giữa từng cá nhân.
Con người có khả năng ném nhanh và chính xác hơn bất kỳ loài vật nào khác. Họ nằm trong số những loài vật chạy đường dài tốt nhất, song khá chậm chạp khi chạy ở cự ly ngắn. Lông mỏng và tuyến mồ hôi hiệu quả là những đặc điểm tiến hóa giúp con người tránh khỏi kiệt sức vì tăng thân nhiệt khi chạy đường dài.
Di truyền
Như hầu hết các động vật khác, con người là loài nhân thực lưỡng bội. Mỗi tế bào xôma sở hữu hai bộ 23 nhiễm sắc thể, mỗi bộ kế thừa từ bố hoặc mẹ; các giao tử chỉ sở hữu duy nhất một bộ nhiễm sắc thể trộn lẫn từ hai bộ nhiễm sắc thể bố mẹ. Trong số 23 cặp nhiễm sắc thể, 22 cặp là nhiễm sắc thể thường và 1 cặp là nhiễm sắc thể giới tính. Hệ thống định giới ở người là XY, trong đó nữ giới có nhiễm sắc thể giới tính XX và nam giới có nhiễm sắc thể giới tính XY. Di truyền và môi trường là hai yếu tố dẫn đến sự khác biệt sinh học ở thể trạng, sinh lý, nhạy cảm bệnh tật và khả năng tâm thần. Tuy nhiên ảnh hưởng của chúng đến sự bộc lộ tính trạng vẫn chưa được giới khoa học hiểu rõ.
Mặc dù không hai cá nhân nào giống hệt nhau về mặt di truyền (kể cả các cặp song sinh giống nhau như đúc), mức độ tương đồng di truyền ở hai cá nhân bất kỳ vẫn lên tới 99,5%-99,9%. Điều này cho thấy con người đồng nhất với nhau hơn hẳn các loài vượn lớn khác, bao gồm cả tinh tinh. Sự khác biệt ADN không đáng kể ở người chứng tỏ một sự kiện thắt cổ chai dân số từng xảy ra vào thế Canh Tân muộn (khoảng 100.000 năm trước). Chọn lọc tự nhiên liên tục gây áp lực lên các quần thể người, và ta có bằng chứng cho thấy bộ gen người ở một số vùng đã được chọn lọc định hướng suốt 15.000 năm qua.
Bộ gen người được giải trình tự lần đầu tiên vào năm 2001 và tính đến năm 2020 thì hàng trăm nghìn bộ gen đã được giải trình tự. Năm 2012, Dự án HapMap Quốc tế so sánh bộ gen của 1.184 cá nhân từ 11 quần thể và đã xác định được 1,6 triệu các đa hình đơn nucleotide (single nucleotide polymorphism). Quần thể châu Phi sở hữu số lượng dị biến di truyền riêng tư (private genetic variant) cao nhất. Trong khi nhiều dị biến ở các quần thể bên ngoài châu Phi cũng được tìm thấy ở các quần thể châu Phi, tuy nhiên vẫn có một số lượng lớn dị biến riêng biệt chỉ xuất hiện ở quần thể châu Đại Dương và châu Mỹ. Theo ước tính năm 2010, con người có khoảng 22.000 gen. Bằng phương pháp so sánh ADN ty thể (loại ADN chỉ được truyền qua dòng mẹ), các nhà di truyền học kết luận rằng tổ tiên nữ giới chung cuối cùng mang chỉ thị di truyền (genetic marker) của tất cả các cá thể người hiện đại chắc chắn đã sống cách đây khoảng 90.000-200.000 năm.
Vòng đời
Sinh sản của con người bắt đầu với quá trình thụ tinh trong thông qua quan hệ tình dục, điều mà vào thời buổi hiện đại cũng có thể đạt được bằng công nghệ hỗ trợ sinh sản. Thời gian thai nghén trung bình ở phụ nữ là 38 tuần nhưng có thể sai lệch đến 37 ngày. Giai đoạn phôi thai kéo dài 8 tuần đầu; vào tuần thứ chín, phôi chuyển sang giai đoạn bào thai. Khởi phát chuyển dạ hoặc mổ lấy thai có thể được thực hiện nếu đứa trẻ cần được sinh ra sớm vì lý do y tế. Ở các nước phát triển, trẻ sơ sinh lúc mới chào đời thường nặng và cao . Tuy nhiên ở các nước đang phát triển, tình trạng nhẹ cân còn khá phổ biến, góp phần làm tăng nguy cơ tử vong ở trẻ.
So với những giống loài khác, việc sinh đẻ của con người rất nguy hiểm, có thể dẫn đến nhiều biến chứng và thậm chí tử vong. Kích thước phần đầu thai nhi loài người thường trùng khít với lỗ xương chậu không như các loài linh trưởng khác. Nguyên do của đặc điểm này chưa được hiểu hoàn toàn, song nó khiến cho quá trình rặn đẻ rất đau đớn và có thể kéo dài tới 24 tiếng hoặc hơn. Ở các nước giàu có trong thế kỷ 20, tỷ lệ sinh nở thành công tăng lên đáng kể nhờ các công cụ y tế mới. Trái lại, mang thai và sinh con không cần phụ sản ở những nước đang phát triển khiến nguy cơ người mẹ tử vong cao gấp 100 lần so với các nước phát triển.
Ở loài người, cả bố và mẹ đều tham gia vào quá trình nuôi nấng con nhỏ, trái ngược với các loài linh trưởng khác, thường chỉ riêng con cái đảm nhận công việc này. Trẻ con loài người bất lực khi mới chào đời, chúng tiếp tục phát triển trong vòng vài năm và trưởng thành sinh dục khi được khoảng 15-17 tuổi. Quãng đời người có thể được chia thành các giai đoạn/độ tuổi tùy thuộc vào tiêu chí phân loại (có khi được chia thành 3 giai đoạn, có khi lại là 12). Một số giai đoạn phổ biến bao gồm tuổi sơ sinh, tuổi thơ ấu, tuổi mới lớn, tuổi lớn và tuổi già. Độ dài các giai đoạn đời người khác nhau ở từng nền văn hóa và từng thời kỳ lịch sử nhất định, song có điểm chung là giai đoạn tăng trưởng nhảy vọt ở độ tuổi thanh thiếu niên. Phụ nữ mãn kinh và trở nên vô sinh vào khoảng năm 50 tuổi. Có nghiên cứu cho rằng hiện tượng mãn kinh giúp làm tăng độ thành công sinh sản tổng thể của phụ nữ, bởi lẽ nó cho phép họ dốc nhiều thời gian và nguồn lực hơn cho những đứa con hiện có, bao gồm cả những đứa cháu chắt (giả thuyết bà cố), thay vì tốn sức sinh đẻ khi về già.
Tuổi thọ con người phụ thuộc vào hai yếu tố chính, di truyền và lối sống. Vì nhiều lý do, bao gồm mặt sinh học/di truyền, phụ nữ bình quân sống thọ hơn nam giới khoảng 4 năm. Tính đến năm 2018, tuổi thọ trung bình toàn cầu của trẻ em gái được ước tính ở mức 74,9 tuổi, và của trẻ em trai là 70,4 tuổi. Tuổi thọ con người cũng tùy thuộc vào khu vực địa lý, chủ yếu tương quan với sự phát triển kinh tế — chẳng hạn, tuổi thọ trung bình tại Hồng Kông là 87,6 đối với trẻ em gái và 81,8 đối với trẻ em trai; trong khi đó, tuổi thọ trung bình ở Cộng hòa Trung Phi là 55,0 đối với trẻ em gái và 50,6 tuổi đối với trẻ em trai. Nhìn chung thì nhân khẩu của các nước phát triển đang bị già hóa, với độ tuổi trung vị là khoảng 40 tuổi. Ở các nước đang phát triển, độ tuổi trung vị nhân khẩu nằm trong khoảng 15-20 tuổi. Ở châu Âu, cứ 5 người lại có 1 người trên 60 tuổi; còn ở châu Phi, cứ 20 người lại có 1 người trên 60 tuổi. Năm 2012, Liên Hợp Quốc ước tính dân số sống thọ hơn 100 tuổi trên khắp thế giới rơi vào khoảng 316.600 người.
Chế độ ăn
Con người là loài ăn tạp, có khả năng tiêu thụ nhiều loại thực vật và động vật. Các dân tộc người trên thế giới có những chế độ ăn riêng từ thuần thịt đến thuần chay. Chế độ ăn uống bị hạn chế có thể dẫn đến các bệnh lý suy dinh dưỡng ở người; tuy nhiên, các tộc người ổn định đã thích nghi với nhiều kiểu chế độ ăn thông qua sự chuyên biệt di truyền và các quy ước văn hóa nhằm cân bằng dưỡng chất từ thức ăn. Văn hóa thường phản ánh chế độ ăn của con người, và rốt cuộc đã dẫn đến sự phát triển của khoa học thực phẩm.
Biến thiên sinh học
Sự khác biệt ở các tính trạng như nhóm máu, bệnh di truyền, đặc điểm sọ não, đặc điểm khuôn mặt, hệ cơ quan, màu mắt, kết cấu và màu tóc, chiều cao và dáng dấp, cũng như màu da, giữa từng cá nhân được gọi là sự biến thiên sinh học (biological variation). Chiều cao điển hình của người trưởng thành nằm trong khoảng từ , nhưng còn phụ thuộc rất lớn vào giới tính, sắc tộc và huyết thống. Các gen ở người định đoạt một phần kích thước cơ thể, nhưng các yếu tố môi trường như chế độ ăn uống, vận động thể dục và giờ giấc đi ngủ cũng có tác động đáng kể.
Ta có bằng chứng cho thấy các quần thể người trên thế giới thích nghi di truyền với các yếu tố bên ngoài khác nhau tương ứng. Chẳng hạn, các gen cho phép người trưởng thành tiêu hóa đường lactose hiện diện thường xuyên hơn ở những quần thể có lịch sử thuần hóa gia súc lâu đời hoặc tiêu thụ nhiều sữa bò. Chứng thiếu máu hồng cầu hình liềm, có thể gia tăng sức chống đỡ đối với bệnh sốt rét, thường xuất hiện ở những quần thể sống ở nơi bệnh sốt rét đầy rẫy. Những quần thể sống lâu đời ở các vùng khí hậu đặc thù phát triển các kiểu hình cụ thể để thích nghi với điều kiện đó; ví dụ như tầm vóc thấp và chắc nịch ở vùng lạnh, cao gầy ở vùng nóng, và thể tích phổi lớn ở vùng núi cao. Ở mức độ cao hơn, quần thể người tại Bajau sống ngoài đại dương đã tiến hóa những đặc điểm cực kỳ độc đáo để có thể lặn tự do.
Tóc người có nhiều màu từ đỏ đến vàng, từ nâu đến đen, với màu đen xuất hiện với tần suất cao nhất. Màu tóc phụ thuộc vào số lượng hắc tố mà cơ thể sản sinh. Nồng độ hắc tố giảm dần theo tuổi tác, dẫn đến tóc bạc hoặc thậm chí trắng. Màu da người có thể biến thiên từ nâu đen đến hồng đào nhạt, hoặc thậm chí gần như trắng toát hoặc không màu nếu cá nhân mắc phải bạch tạng. Màu da có xu hướng thay đổi theo khí hậu và nói chung tương quan theo mức độ bức xạ cực tím ở khu vực địa lý nhất định, với các quần thể có da sẫm màu phân bố chủ yếu ở đường xích đạo. Sạm da có lẽ hình thành để chống chọi với bức xạ cực tím của Mặt Trời. Trái lại thì sắc tố da sáng màu hình thành để đối phó với sự thiếu hụt vitamin D, vốn được cơ thể người tự tổng hợp nếu có ánh sáng Mặt Trời. Da người cũng có khả năng sạm màu khi phơi bày trước bức xạ cực tím (thường gọi là da rám nắng).
Có tương đối ít sự khác biệt giữa các quần thể địa lý của con người, và hầu hết các biến thiên sinh học chỉ dừng ở cấp cá thể. Phần lớn sự biến thiên đó mang tính liên tục mà không có ranh giới phân định rõ ràng. Dữ liệu di truyền đã chứng minh rằng dù cho ta có phân chia loài người thành các nhóm chủng tộc thế nào đi chăng nữa, thì hai người từ cùng một nhóm chủng tộc cũng khác biệt nhau giống như hai người từ bất kỳ hai nhóm chủng tộc khác nhau nào. Các quần thể da sẫm màu ở Châu Phi, Úc và Nam Á không có quan hệ họ hàng gần với nhau.
Nghiên cứu di truyền đã cho thấy các quần thể người bản địa của Châu Phi đa dạng nhất về mặt di truyền và sự đa dạng di truyền giảm dần theo khoảng cách di cư tính từ Châu Phi, rất có thể là hậu quả của một sự kiện thắt cổ chai dân số trong lịch sử di cư của loài người. Những quần thể ngoài châu Phi hấp thụ đầu vào di truyền mới thông qua việc giao phối với các quần thể người cổ địa phương, và họ có thành phần di truyền Neanderthal và Denisova cao hơn so với các quần thể ở châu Phi, song gen Neanderthal ở các quần thể châu Phi có lẽ bị đánh giá thấp hơn mức thực tế. Hơn nữa, các nghiên cứu gần đây đã phát hiện rằng các quần thể người ở châu Phi cận Sahara, và đặc biệt là Tây Phi, sở hữu các biến thể di truyền tổ tiên vốn tồn tại trước loài người hiện đại (về mặt giải phẫu) và đã tiêu biến ở hầu hết các quần thể ngoài châu Phi. Số gen tổ tiên này được cho là bắt nguồn từ sự lai tạp với một hominin cổ xưa chưa xác định đã phân tách trước khi dòng dõi Neanderthal chia cắt khỏi dòng dõi người hiện đại.
Con người là loài vật phân hóa giới tính, chia thành nam giới và nữ giới. Mức độ biến thiên di truyền giữa hai giới loài người rất đáng kể. Trong khi sự biến thiên di truyền nucleotide giữa các cá thể cùng giới tính trong các quần thể toàn cầu không vượt quá 0,1% –0,5%, thì sự khác biệt di truyền giữa nam và nữ đạt ít nhất từ 1-2%. Nam giới trung bình nặng hơn 15% và cao hơn so với nữ giới. Nhìn chung, nhờ vào lượng cơ bắp nhiều hơn và kích cỡ sợi cơ lớn hơn của nam giới, họ sở hữu phần thân trên khỏe hơn 40–50% cũng như phần thân dưới khỏe hơn 20–30% khi so với nữ giới trung bình ở cùng hạng cân. Nữ giới bình quân có tỷ lệ mỡ cơ thể cao hơn nam giới. Ngoài ra, nữ giới có làn da sáng màu hơn nam giới trong cùng một quần thể; sở dĩ bởi phụ nữ hấp thụ nhiều vitamin D hơn trong thời kỳ thai nghén và cho con bú. Bởi sự khác biệt nhiễm sắc thể giữa nam giới và nữ giới này, một số bệnh tật liên quan đến nhiễm sắc thể X và Y chỉ ảnh hưởng một giới tính nhất định. Cũng do khối lượng và thể tích khác nhau, giọng nam thường trầm hơn giọng nữ một quãng tám. Hầu hết phụ nữ đều sống thọ hơn đàn ông trong mọi quần thể trên thế giới.
Tâm lý
Não người là tiêu điểm của hệ thần kinh trung ương, có khả năng điều khiển hệ thần kinh ngoại biên. Ngoài chức năng kiểm soát các hoạt động "cấp thấp", tức các hoạt động không tùy ý hoặc khái yếu tự chủ, như hô hấp hoặc tiêu hóa; bộ não còn là trung tâm điều khiển các hoạt động "cấp cao" như tư duy, lý luận và trừu tượng. Các quá trình nhận thức này cấu thành tâm trí và sinh ra các hành vi hệ quả, đều là những vấn đề được ngành tâm lý học nghiên cứu.
Con người có vỏ não trán trước lớn và phát triển hơn so với các loài linh trưởng khác, một phân khu não bộ liên hệ đến khả năng nhận thức cấp cao. Điều này đã khiến con người tự cho mình thông minh hơn bất kỳ giống loài nào khác. Xác định trí thông minh một cách khách quan là một điều rất khó có thể làm được, bởi động vật cũng có các giác quan thích nghi vượt trội hơn so với sở trường của con người.
Con người sở hữu một số đặc điểm, mà không nhất thiết độc đáo, giúp tách biệt họ khỏi giới động vật. Chẳng hạn, con người có lẽ là động vật duy nhất có trí nhớ từng hồi và có khả năng "du hành thời gian tâm trí" (mental time travel). Ngay cả khi so sánh với các loài động vật xã hội khác, con người có mức độ linh hoạt cao bất thường trong biểu cảm khuôn mặt. Tới nay, con người là loài động vật duy nhất khóc khi xúc động. Con người là một trong số ít động vật có thể tự nhận ra mình trong bài kiểm tra gương. Khẳng định con người là động vật duy nhất có lý thuyết tâm trí hiện đang bị tranh cãi.
Ngủ và mơ
Con người thường sinh hoạt vào ban ngày. Nhu cầu ngủ thường nhật của con người là 7-9 tiếng đối với người lớn, 9-10 tiếng đối với trẻ em và 6-7 tiếng đối với người già. Tuy nhiên, con người hay ngủ không đủ giấc mặc dù điều đó gây ra nhiều hệ lụy khôn lường đến sức khỏe. Theo nghiên cứu của Đại học Pennsylvania (2009), các nhà nghiên cứu giới hạn giấc ngủ của các đối tượng chỉ 4 tiếng/ngày và tìm thấy tương quan với những thay đổi về sinh lý lẫn thần kinh, bao gồm suy giảm trí nhớ, mệt mỏi, cáu giận và khó chịu toàn thân.
Con người mơ khi ngủ, một hiện tượng tâm trí cho họ những trải nghiệm hình ảnh và âm thanh giống như thật. Mơ được kích thích bởi các cầu não (pons) và chủ yếu diễn ra ở giai đoạn ngủ REM. Thời lượng giấc mơ biến thiên từ vài giây đến 30 phút. Con người mơ 3-5 lần mỗi đêm, đôi khi có có thể lên đến 7 lần mỗi đêm. Hầu hết các giấc mơ đều bị lãng quên ngay lập tức hoặc nhanh chóng khi tỉnh dậy, nhưng nếu người ngủ đang ở giai đoạn REM mà bị đánh thức thì khả năng giấc mơ được lưu lại sẽ cao hơn. Các sự kiện trong giấc mơ nói chung nằm ngoài tầm kiểm soát của người mơ, ngoại trừ khi mơ giấc mơ sáng suốt.. Những giấc mộng đôi lúc khởi phát các ý tưởng sáng tạo hoặc truyền cảm hứng cho người mơ.
Ý thức và tư duy
Nói theo cách đơn giản nhất, ý thức con người là "cảm tính hoặc nhận thức về sự hiện hữu nội tại hoặc ngoại tại". Bất chấp hàng thế kỷ các triết gia và các nhà khoa học đã phân tích, định nghĩa, lý giải và tranh luận về nan đề này, ý thức vẫn còn là điều khó hiểu bị bàn cãi, có thể coi là "khía cạnh quen thuộc nhất và bí ẩn nhất trong cuộc sống của ta". Trực giác về sự tồn tại của ý thức là điều duy nhất được hầu hết mọi người đồng ý.
Văn hóa
Bộ kỹ năng trí tuệ chưa từng có tiền lệ trong tự nhiên của loài người là nhân tố then chốt dẫn đến sự diễn tiến công nghệ và sự chiếm lĩnh sinh quyển đồng phát như ta thấy hiện nay. Không kể những loài hominid đã tuyệt chủng, con người là động vật duy nhất có thể truyền dạy các thông tin tổng quát, triển khai bẩm sinh phương pháp nhúng đệ quy để tạo câu cú và giao tiếp những khái niệm phức tạp, hiểu "vật lý thường thức" để thiết kế được các công cụ hữu dụng, và nấu thức ăn trong hoang dã. Giảng dạy và học hỏi là phương thức bảo tồn bản sắc văn hóa và dân tộc của các xã hội loài người. Những đặc điểm và hành vi có thể coi là độc nhất của con người bao gồm khởi lửa, kiến tạo âm vị và sản xuất thanh âm.
Ngôn ngữ
Nghệ thuật
Nghệ thuật của con người có các hình thức bao gồm thị giác, văn học và biểu diễn. Nghệ thuật thị giác bao gồm tranh vẽ, điêu khắc, phim ảnh, thiết kế tương tác và kiến trúc. Nghệ thuật văn học bao gồm văn xuôi, thơ và kịch; nghệ thuật biểu diễn nói chung bao gồm sân khấu, âm nhạc và khiêu vũ. Con người thường kết hợp nhiều hình thức lại với nhau (ví dụ, video âm nhạc). Một số hình thức được xem như mang phẩm chất nghệ thuật chẳng hạn ẩm thực, trò chơi điện tử và nghề dược. Ngoài việc cung cấp giải trí và lan truyền kiến thức, nghệ thuật còn được sử dụng cho các mục đích chính trị.
Nghệ thuật là một đặc tính độc nhất ở con người và có bằng chứng chỉ đến mối liên hệ giữa sự sáng tạo và ngôn ngữ. Bằng chứng sớm nhất của nghệ thuật là những bản khắc vỏ sò được Homo erectus tạo ra 300.000 năm trước khi con người hiện đại tiến hóa. Bằng chứng sớm nhất về nghệ thuật của H. sapiens là đồ trang sức và hình vẽ được tìm thấy trong các hang động ở Nam Phi có niên đại cách đây ít nhất 75.000 năm. Có nhiều giả thuyết khác nhau về việc tại sao con người phát triển nghệ thuật, có lẽ nó cho phép họ giải quyết vấn đề tốt hơn, cung cấp cho họ phương tiện để kiểm soát hoặc ảnh hưởng đến người xung quanh, khuyến khích sự hợp tác và đóng góp trong xã hội của họ hoặc tăng cơ hội thu hút bạn đời tiềm năng của họ. Trí tưởng tượng của con người được rèn rũa thông qua nghệ thuật, kết hợp với logic có lẽ đã mang lại cho loài người sơ khai một lợi thế tiến hóa nhất định.
Bằng chứng về âm nhạc của người có niên đại sớm hơn tranh hang động, và cho đến nay thì âm nhạc là đặc điểm xuất hiện ở mọi nền văn hóa loài người. Tồn tại rất nhiều thể loại âm nhạc và còn biến thiên theo từng dân tộc; khả năng âm nhạc của con người thường sẽ ngụ ý sự tồn tại của những khả năng cấp cao khác ở người, chẳng hạn như hành vi xã hội phức tạp. Một nghiên cứu năm 2014 đã phát hiện rằng: khi nghe nhạc, não người sẽ đồng bộ với nhịp điệu của bản nhạc đó hay chính là lúc một cá nhân dậm chân theo nhịp điệp, gọi theo thuật ngữ là sự cuốn theo (entrainment). Khiêu vũ cũng là một hình thức biểu đạt của con người xuất hiện ở tất cả các nền văn hóa và có lẽ đã phát sinh như một cách giúp con người sơ khai giao tiếp. Nghe nhạc và quan sát điệu nhảy sẽ kích thích vỏ não trán-ổ mắt và các vùng tiếp nhận khoái cảm của não.
Không giống như nói, đọc và viết không được thụ đắc tự nhiên mà phải được truyền dạy. Tuy nhiên, tự sự đã có mặt trước cả từ viết và ngôn ngữ nói miệng, bằng chứng là những bức tranh tường 30.000 năm tuổi bên trong các hang động thuật lại một loạt các cảnh tượng. Một trong những tác phẩm văn học cổ nhất còn sót lại là Sử thi Gilgamesh, được khắc lần đầu tiên trên các bia ký Babylon cổ cách đây khoảng 4.000 năm. Mục đích của văn không đơn thuần là truyền lại kiến thức, việc sử dụng và chia sẻ những hư cấu tưởng tượng thông qua các câu truyện có lẽ đã giúp con người phát triển khả năng giao tiếp và thu hút bạn tình. Kể chuyện cũng là một cách cung cấp cho thính giả những bài học đạo đức và khuyến khích sự tương thân tương ái.
Công cụ và công nghệ
Tôn giáo và tâm linh
Khoa học và triết học
Xã hội |
Đề Đô thành Nam trang (hay còn gọi Đề tích sở kiến xứ) là một trong rất ít những bài Đường thi nói về chủ đề tình yêu của tác giả Thôi Hộ. Tuy sáng tác ít nhưng Thôi Hộ được "lưu danh thiên cổ" cũng nhờ vào bài thất ngôn tứ tuyệt gắn với "thiên tình sử" nhiều giai thoại này.
Khi sáng tác Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng mượn hai câu trong bài thơ này để miêu tả tâm trạng Kim Trọng khi trở lại vườn Thúy thì Kiều đã bước vào con đường lưu lạc.
Tác phẩm
Giai thoại
Thôi Hộ tự Ân công, người quận Bác lăng, nay là Định huyện, tỉnh Trực lệ, Trung Hoa, sống vào khoảng niên đại Đường Đức tông. Thôi Hộ vốn lận đận khoa cử lại là người tuấn nhã, phong lưu nhưng sống khép kín, ít giao du.
Một lần nhân tiết Thanh minh, chàng trai Thôi Hộ dạo chơi phía nam thành Lạc Dương. Nhân thấy một khuôn viên trồng đào rất đẹp, tươi thắm những hoa, chàng đến gõ cổng xin nước uống. Lát sau lại thấy một thiếu nữ diễm lệ e ấp nấp trong vườn đào. Uống nước xong, chàng ra đi.
Năm sau, cũng trong tiết Thanh minh, người con trai trở lại chốn cũ, nhưng cổng đóng then cài, gọi mãi không thấy ai. Chàng viết bài thơ trên dán trên cổng. Lâu sau nữa, khi trở lại, chợt nghe tiếng khóc từ trong nhà vọng ra rồi thấy một ông lão ra hỏi chàng có phải là Thôi Hộ không và cho biết con gái của cụ sau khi đọc xong bài thơ bỏ cả ăn uống, đã chết, xác vẫn còn ở trong nhà. Thôi Hộ tìm vào đến bên xác người con gái, tuy đã tắt thở nhưng vẫn còn ấm và mặt mày vẫn hồng nhuận. Chàng quỳ xuống than van kể lể. Người con gái sống lại và họ trở thành vợ chồng. Bài thơ ghi lại mối tơ duyên bất hủ nhuốm màu sắc một huyền thoại.
Đến năm 796, niên hiệu Trinh Nguyên Thôi Hộ đậu tiến sĩ, làm tiết độ sứ Lĩnh Nam. |
Quản Trọng (chữ Hán: 管仲; 725 TCN - 645 TCN), họ Cơ, tộc Quản, tên thực Di Ngô (夷吾), tự là Trọng, thụy hiệu là Kính (敬), đương thời hay gọi Quản Tử (管子), là một chính trị gia, nhà quân sự và nhà tư tưởng Trung Quốc thời Xuân Thu.
Ông được Bào Thúc Nha (鲍叔牙) tiến cử, Tề Hoàn công phong ông làm Tể tướng. Ông nổi tiếng với chiến lược không đánh mà thắng mà người Trung Hoa gọi là Diễn biến hòa bình, đó là tấn công bằng mưu trí, trừng phạt và dùng kinh tế để giáo huấn.
Quản Trọng đã cải thiện sức mạnh nước Tề thông qua việc tiến hành rất nhiều cải cách. Về mặt chính trị, ông tập trung hóa quyền lực và phân chia nước thành nhiều làng, mỗi làng tập trung vào một lĩnh vực thương mại riêng. Thay vì dựa vào giai cấp quý tộc để thu thuế như truyền thống trước kia, ông áp dụng tiền thuế trực tiếp tới mỗi đơn vị làng xã. Ông cũng phát triển một biện pháp lựa chọn người tài mới và có hiệu quả hơn. Dưới thời Quản Trọng, nước Tề chuyển từ chế độ quan liêu quý tộc sang chế độ quan liêu chuyên nghiệp. Quản Trọng cũng đề xuất nhiều cải cách kinh tế quan trọng. Ông đưa ra một biểu thuế thống nhất. Ông cũng sử dụng nguồn lực nhà nước để khuyến khích sản xuất muối và sắt; các nhà sử học thường cho Quản Trọng là người đề xướng ra sự độc quyền nhà nước về hai mặt hàng này.
Khi ông làm Tể tướng, nước Tề trở thành nước hùng mạnh nhất và Tề Hoàn công được tôn làm đứng đầu Ngũ bá.
Điển cố
Quản Trọng người Dĩnh Thượng (nay là huyện Dĩnh Thượng, tỉnh An Huy), là hậu duệ của Chu Mục vương. Cha ông là Quản Nghiêm.
Quản Trọng gia cảnh bần khố, được Bào Thúc Nha phát hiện tài năng, được mời vào triều làm đại phu, phò tá Công tử Củ (公子纠), còn Bào Thúc Nha phò tá Công tử Tiểu Bạch.
Lúc đó nước Tề rất loạn, sau khi Tề Tương công bị Liên Xưng (連稱) và Quản Chí Phụ (管至父) giết chết, Tề Vô Tri lên ngôi, các Công tử đều lánh nạn sang các nước khác để chờ thời cơ cướp lấy ngôi vua. Quản Trọng hộ tống Công tử Củ tới nước Lỗ, còn Bào Thúc Nha hộ tống Công tử Tiểu Bạch tới nước Lã (hay nước Cử nếu theo tiểu thuyết lịch sử Đông Chu liệt quốc của Phùng Mộng Long).
Không lâu nước Tề rơi vào bạo loạn, Vô Tri bị giết, nước Tề rơi vào tình thế không vua. Công tử Củ và Công tử Tiểu Bạch được tin liền lên đường về nước để cướp ngôi. Khi hai đoàn gặp nhau trên đường, Quản Trọng muốn để Công tử Củ làm vua nên đã bắn một phát tên vào Tiểu Bạch, Tiểu Bạch giả chết rồi vào kinh đô làm vua, tức Tề Hoàn công.
Khi lên được ngôi vị, Tề Hoàn công liền bảo nước Lỗ giết Công tử Củ và bắt giam Quản Trọng. Tề Hoàn công muốn Bào Thúc Nha làm Thừa tướng, giúp ông quản lý đất nước. Bào Thúc Nha cho rằng mình không có đủ năng lực, nên dốc sức tiến cử Quản Trọng đang bị giam ở nước Lỗ. Tề Hoàn công nói rằng: "Người này bắn ta một tên, mối thù này ta chưa quên, mũi tên ta vẫn còn giữ, làm sao có thể dùng hắn được? Đợi hắn về đây, ta sẽ xé hắn ra trăm nghìn mảnh". Bào Thúc Nha đáp "Dĩ nhiên vì Công tử Củ, ông ta đã bắn quân thượng, bây giờ nếu quân thượng trọng dụng ông ấy, ông ấy sẽ vì quân thượng mà đem mũi tên đó bắn cả thiên hạ!".
Tề Hoàn công rất khâm phục Quản Trọng, hơn nữa ông còn rất thẳng thắn, Hoàn công nói với Quản Trọng rằng: "Quả nhân có tật hơi thích nữ sắc, điều này có tai hại gì đối với quốc gia không?".
Quản Trọng trả lời: "Không, ham mê nữ sắc không gây tai hại gì cho quốc gia, không nghe lời khuyên của những người hiền tài mới có hại cho quốc gia và thiên hạ"
Khổng Tử đánh giá Quản Trọng rất cao. Sách Luận ngữ có ghi Tử Cống hỏi "Quản Trọng không phải là người có nhân chăng ? Vua Tề Hoàn Công giết công tử Củ, Quản Trọng không tự sát lại còn làm tể tướng cho Tề Hoàn Công.". Khổng Tử nói "Quản Trọng làm tể tướng cho Tề Hoàn Công, giúp Tề Hoàn Công bá chủ chư hầu, làm cho thiên hạ thái bình, đến đời nay dân vẫn còn chịu ơn. Nếu không có Quản Trọng, sợ chúng ta hôm nay còn đầu bù tóc rối, áo quần rách rưới lang thang khắp đây đó. Quản Trọng đâu có như người thường, vì việc nhỏ mà tự sát ở khe núi để cho chẳng ai biết đến."
Câu nói nổi tiếng
Quản Trọng trong sách Quản Tử, có nói:
Nhất niên chi kế mạc như thụ cốc,
Thập niên chi kế mạc như thụ mộc.
Chung thân chi kế mạc như thụ nhân,
Nhất thụ nhất hoạch giả, cốc dã.
Nhất thụ thập hoạch giả, mộc dã,
Nhất thụ bách hoạch giả, nhân dã.
Tạm dịch:
Kế một năm, chi bằng trồng lúa,
Kế 10 năm, chi bằng trồng cây.
Kế trọn đời, chi bằng trồng người,
Trồng một, gặt một, ấy là lúa.
Trồng một, gặt mười, ấy là cây,
Trồng một, gặt trăm, ấy là người.
Câu nói này đã được Hồ Chí Minh viết gọn vào ngày 13 tháng 9 năm 1958 tại lớp học chính trị của giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc.Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng ngườiVề ý cuối này, xem thêm ý của Lã Bất Vi trong việc gả Triệu Cơ cho Tần Tử Sở.
Sinh ra ta ấy là cha mẹ, mà hiểu biết ta thì trong đời chỉ có một Bảo Thúc Nha mà thôi
Đánh giá
Trong thiên Hiến Vấn của sách Luận ngữ, Khổng Tử nói về Quản Trọng:
"Con người này ư ? Vua nước Tề lấy ấp Biền có ba trăm nhà của Bá Thị thưởng công cho Quản Trọng. Bá Thị phải ăn uống đạm bạc suốt đời mà không hề oán hận"
Tử Lộ hỏi Khổng Tử: "Tề Hoàn Công giết anh là công tử Củ. Thiệu Hốt vì việc này đã tự sát, còn Quản Trọng không tự sát. Như vậy Quản Trọng không được xem là người có nhân chăng ?".
Khổng Tử nói: "Tề Hoàn công nhiều lần triệu tập chư hầu mà không dùng đến binh lực. Đó là nhờ công sức của Quản Trọng. Như thế còn ai nhân bằng ?".
Trong Đông Chu liệt quốc
Quản Trọng xuất hiện từ hồi 15 đến hồi 29 trong bộ truyện Đông Chu liệt quốc của Phùng Mộng Long.
Sự nghiệp, cuộc đời của của ông miêu tả khá sát với sử sách tuy nhiên cũng có một vài chi tiết hoang đường để làm nổi bật vai trò và vị thế của ông. |
Viện Đại học Harvard (tiếng Anh: Harvard University), còn gọi là Đại học Harvard, là một viện đại học tư thục, thành viên của Liên đoàn Ivy nằm ở Cambridge, Massachusetts, Hoa Kỳ. Với lịch sử, tầm ảnh hưởng và danh tiếng của mình ,Harvard là một trong những viện đại học danh tiếng nhất thế giới.
Được thành lập vào năm 1636 bởi Cơ quan Lập pháp Thuộc địa Vịnh Massachusetts và không lâu sau đó đặt theo tên của John Harvard - người đã hiến tặng của cải cho trường, Harvard là cơ sở học tập bậc cao lâu đời nhất Hoa Kỳ. Mặc dù chưa bao giờ có mối quan hệ chính thức với bất kỳ giáo phái nào, Trường Đại học Harvard (Harvard College, sau này là trường giáo dục bậc đại học của Viện Đại học Harvard) trong thời kỳ đầu chủ yếu đào tạo các mục sư Kháng Cách thuộc hệ phái Tự trị Giáo đoàn. Chương trình học và thành phần sinh viên của trường dần dần trở nên có tính chất thế tục trong thế kỷ XVIII, và đến thế kỷ XIX thì Harvard đã nổi lên như một cơ sở văn hóa chủ chốt của giới tinh hoa vùng Boston. Sau Nội chiến Hoa Kỳ, Charles W. Eliot trong nhiệm kỳ viện trưởng kéo dài nhiều năm của mình (từ 1869 đến 1909) đã chuyển đổi trường đại học này và các trường chuyên nghiệp liên kết với nó thành một viện đại học hiện đại. Harvard là thành viên sáng lập Hiệp hội Viện Đại học Bắc Mỹ vào năm 1900. James Bryant Conant lãnh đạo viện đại học này trong suốt thời kỳ Đại suy thoái và Chiến tranh thế giới thứ hai, sau chiến tranh bắt đầu cải cách chương trình học và mở rộng việc tuyển sinh. Trường Đại học Harvard trở thành cơ sở giáo dục dành cho cả nam lẫn nữ vào năm 1977 khi nó sáp nhập với Trường Đại học Radcliffe.
Viện Đại học Harvard được tổ chức thành 11 đơn vị học thuật - 10 phân khoa đại học và Viện Nghiên cứu Cao cấp Radcliffe - với các khuôn viên nằm rải rác khắp vùng đô thị Boston: khuôn viên chính rộng nằm ở thành phố Cambridge, cách Boston chừng về phía tây bắc; Trường Kinh doanh và các cơ sở thể thao, bao gồm Sân vận động Harvard, nằm bên kia sông Charles ở khu Allston của Boston; còn Trường Y khoa, Trường Nha khoa và Trường Y tế Công cộng thì nằm ở Khu Y khoa Longwood. Trong số các tổng thống Hoa Kỳ, có tám người là cựu sinh viên Harvard; chừng 150 người được trao giải Nobel là sinh viên, giảng viên, hay nhân viên của viện đại học này. Ngoài ra, có 62 tỉ phú hiện đang còn sống và 335 Học giả Rhodes, hầu hết sống ở Hoa Kỳ, là cựu sinh viên Harvard. Thư viện Viện Đại học Harvard cũng là thư viện đại học lớn nhất ở Hoa Kỳ. Tính đến tháng 6 năm 2013, tổng số tiền hiến tặng mà Harvard có được là 32,3 tỷ đô-la, lớn hơn ở bất cứ cơ sở học thuật nào trên thế giới.
Lịch sử
Thời thuộc địa
Harvard được thành lập vào năm 1636 theo sau cuộc bỏ phiếu của Cơ quan Lập pháp vùng Thuộc địa Vịnh Massachusetts. Ban đầu được gọi là New College hay "trường đại học ở New Towne". Năm 1638, trường đại học này trở thành nơi có chiếc máy in đầu tiên được biết là có mặt ở Bắc Mỹ, do con tàu John of London chở từ Anh sang. Năm 1639, trường được đổi tên thành Harvard College, theo tên mục sư John Harvard (1607-1638), một cựu sinh viên của Viện Đại học Cambridge ở Anh, người đã hiến tặng tài sản cho trường. John Harvard khi mất đã để lại cho trường 779 bảng Anh (một nửa gia sản của ông) và chừng 400 cuốn sách.
Trong những năm đầu của mình, Trường Đại học Harvard đã đào tạo nhiều mục sư Thanh giáo. Chương trình học của trường dựa theo mô hình viện đại học Anh - nhiều nhà lãnh đạo ở vùng thuộc địa này từng theo học ở Viện Đại học Cambridge - với các môn học cổ điển nhưng làm cho phù hợp với triết lý Thanh giáo thịnh hành lúc bấy giờ. Mặc dù chưa bao giờ thuộc bất kỳ giáo phái nào, nhiều sinh viên tốt nghiệp từ Harvard ra đã trở thành mục sư cho các nhà thờ theo phái Giáo đoàn Tự trị và phái Nhất thể ở khắp vùng New England. Một tập sách giới thiệu, xuất bản vào năm 1643, đã mô tả việc thành lập trường đại học này như là để đáp ứng lại mong muốn "thúc đẩy và làm sống mãi sự học, nếu không thì sợ rằng sẽ để lại những mục sư thất học cho nhà thờ".
Mục sư hàng đầu Boston bấy giờ là Increase Mather đã giữ chức hiệu trưởng từ năm 1685 đến 1701. Năm 1708, John Leverett trở thành hiệu trưởng đầu tiên không phải là người thuộc giới tăng lữ; đây là bước đánh dấu sự chuyển mình của Trường Đại học Harvard khiến nó trở nên độc lập về mặt trí thức khỏi ảnh hưởng của Thanh giáo.
Thế kỷ XIX
Trong suốt thế kỷ XVIII, những ý tưởng của Thời kỳ Khai minh về sức mạnh của lý tính và ý chí tự do trở nên phổ biến trong giới mục sư theo Giáo đoàn Tự trị, khiến họ và giáo đoàn của họ ở trong thế căng thẳng với những nhóm theo thần học Calvin có quan điểm truyền thống hơn. Khi Giáo sư Thần học David Tappan qua đời vào năm 1803 và viện trưởng Harvard Joseph Willard qua đời một năm sau đó, năm 1804, một cuộc đấu tranh đã nỗ ra trong quá trình tìm người thay thế. Henry Ware được chọn vào vị trí giáo sư thần học vào năm 1805, và Samuel Webber - một người theo khuynh hướng tự do - được chỉ định làm viện trưởng hai năm sau đó, đánh dấu sự thay đổi từ thời kỳ những ý tưởng của chủ nghĩa truyền thống là chủ đạo ở Harvard sang thời kỳ những ý tưởng của chủ nghĩa tự do theo lối của Jacobus Arminius.
Năm 1846, những bài giảng về lịch sử tự nhiên của Louis Agassiz được chào đón nồng nhiệt ở New York lẫn trong khuôn viên Trường Đại học Harvard. Cách tiếp cận của Agassiz duy tâm theo một cách hoàn toàn khác và đã đặt cơ sở cho "sự tham gia vào Bản thể Thần tính" của người Mỹ và khả năng hiểu "những hiện thể tri thức". Cách nhìn của Agassiz về khoa học kết hợp quan sát với trực giác và giả định rằng người ta có thể nắm bắt được "kế hoạch thần thánh" trong tất cả các hiện tượng. Quan điểm lưỡng nguyên về tri thức này phù hợp với tư tưởng của chủ nghĩa hiện thực mang tính cảm quan kinh nghiệm bắt nguồn từ hai triết gia Scotland Thomas Reid và Dugald Stewart, người có tác phẩm được đưa vào chương trình học của Harvard vào thời ấy.
Charles W. Eliot, làm viện trưởng giai đoạn 1869–1909, đã loại trừ khỏi chương trình học vị trí được ưu ái của Ki-tô giáo trong khi cho phép sinh viên tự chủ động. Mặc dù Eliot là nhân vật chủ chốt nhất trong việc thế tục hóa nền giáo dục đại học Hoa Kỳ, ông hành động không phải vì mong muốn thế tục hóa giáo dục mà vì những niềm tin theo trường phái Nhất thể Tiên nghiệm (Transcendentalist Unitarian). Bắt nguồn từ William Ellery Channing và Ralph Waldo Emerson, những niềm tin này tập trung vào phẩm cách và giá trị của bản chất con người, quyền và khả năng của mỗi người trong việc tiếp nhận sự thật, và thần tính nằm trong mỗi người.
Thế kỷ XX
Trong suốt thế kỷ XX, danh tiếng quốc tế của Harvard gia tăng khi những khoản tiền hiến tặng nhận được gia tăng và các giáo sư xuất sắc mở rộng phạm vi ảnh hưởng của viện đại học. Số sinh viên theo học cũng tăng lên khi các trường sau đại học mới được thiết lập và ngôi trường đại học dành cho việc giáo dục sinh viên bậc đại học được mở rộng. Trường Đại học Radcliffe, được thành lập vào năm 1879 như là một trường chị em với Trường Đại học Harvard, trở thành một trong những trường hàng đầu dành cho nữ giới ở Hoa Kỳ. Harvard trở thành thành viên sáng lập Hiệp hội Viện Đại học Bắc Mỹ vào năm 1900.
James Bryant Conant, giữ chức viện trưởng từ năm 1933 đến 1953, đã tạo sinh lực mới cho hoạt động học thuật sáng tạo và bảo đảm là nó có vị trí hàng đầu trong các cơ sở nghiên cứu. Conant xem giáo dục đại học như là nơi cung cấp cơ hội cho những người có tài thay vì là quyền của những người giàu, từ đó ông thay đổi các chương trình để nhận diện, thu hút, và hỗ trợ những người trẻ có tài. Năm 1943, ông yêu cầu tập thể giảng viên đưa ra lời phát biểu dứt khoát về việc giáo dục tổng quát phải như thế nào, cả ở bậc trung học lẫn đại học. Bản "Báo cáo" (Report) nhận được, xuất bản vào năm 1945, là một trong những tuyên ngôn có nhiều ảnh hưởng nhất trong lịch sử giáo dục Hoa Kỳ thế kỷ XX.
Trong giai đoạn 1945-1960, chính sách tuyển sinh được mở rộng để thu hút sinh viên từ nhiều hoàn cảnh khác nhau. Trường dành cho sinh viên bậc đại học nay thu hút sinh viên thuộc tầng lớp trung lưu từ các trường công lập, chứ không phải chỉ chủ yếu thu hút sinh viên từ một số trường dự bị đại học ở New England; có nhiều sinh viên Do Thái và Công giáo hơn được nhận, dù vẫn có ít sinh viên da đen, Hispanic, hay Á châu.
Sinh viên nữ vẫn học riêng ở Radcliffe, mặc dù ngày càng có nhiều người lấy các lớp học ở Harvard. Ngoài ra, thành phần sinh viên bậc đại học của Harvard vẫn chủ yếu là nam giới, cứ khoảng bốn nam sinh theo học Trường Đại học Harvard thì có một nữ sinh theo học Radcliffe. Theo sau việc Harvard và Radcliffe bắt đầu tuyển sinh chung vào năm 1977, thành phần nữ sinh viên bậc đại học tăng đều, phản ánh xu hướng chung của giáo dục đại học Hoa Kỳ. Các trường sau đại học của Harvard, vốn nhận sinh viên nữ và những nhóm sinh viên khác với số lượng lớn hơn, cũng đã trở nên có thành phần sinh viên đa dạng hơn trong thời kỳ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Năm 1999, Trường Đại học Radcliffe chính thức sáp nhập vào Viện Đại học Harvard và trở thành Viện Nghiên cứu Cao cấp Radcliffe.
Thế kỷ XXI
Drew Gilpin Faust, Hiệu trưởng Trường Đại học Radcliffe, trở thành nữ viện trưởng đầu tiên của Harvard vào năm 2007. Bà được bổ nhiệm sau khi vị tiền nhiệm là Lawrence Summers từ chức vào năm 2006.
Học thuật
Cơ cấu viện đại học
Viện Đại học Harvard hiện có các phân khoa đại học sau đây:
Phân khoa Khai phóng và Khoa học (Faculty of Arts and Sciences), chịu trách nhiệm về hoạt động giáo dục ở
Trường Đại học Harvard (Harvard College, thành lập năm 1636), đào tạo sinh viên trong các chương trình bậc đại học.
Trường Sau đại học về Khai phóng và Khoa học (Graduate School of Arts and Sciences, 1872).
Trường Kỹ thuật và Khoa học Ứng dụng (Harvard School of Engineering and Applied Sciences, 2007; thành lập từ 1950 và đã có nhiều tên gọi khác nhau).
Phân khoa Giáo dục Thường xuyên (Harvard Division of Continuing Education), bao gồm Trường Harvard Mùa hè (Harvard Summer School, 1871) và Trường Harvard Mở rộng (Harvard Extension School, 1910).
Trường Y khoa (Harvard Medical School, 1782)
Trường Thần học (Harvard Divinity School, 1816)
Trường Luật (Harvard Law School, 1817)
Trường Nha khoa (Harvard School of Dental Medicine, 1867)
Trường Kinh doanh (Harvard Business School, 1908)
Trường Sau đại học về Thiết kế (Harvard Graduate School of Design, 1914)
Trường Sau đại học về Giáo dục (Harvard Graduate School of Education, 1920)
Trường Sức khoẻ Công cộng (Harvard School of Public Health, 1922)
Trường Quản lý Nhà nước John F. Kennedy (John F. Kennedy School of Government, 1936)
Ngoài ra còn có Viện Nghiên cứu Cao cấp Radcliffe (Radcliffe Institute for Advanced Study).
Thư viện và viện bảo tàng
Hệ thống Thư viện Viện Đại học Harvard, trung tâm là Thư viện Widener ở khu Harvard Yard, có hơn 80 thư viện riêng lẻ chứa hơn 15 triệu tài liệu. Theo Hiệp hội Thư viện Hoa Kỳ thì đây là thư viện đại học lớn nhất Hoa Kỳ và là một trong những thư viện lớn nhất thế giới. Thư viện Khoa học Cabot, Thư viện Lamont, và Thư viện Widener là ba trong số các thư viện được sinh viên bậc đại học ưa thích nhất do dễ tiếp cận và ở vào vị trí thuận lợi. Trong hệ thống thư viện của Harvard có những sách hiếm, bản thảo, và các bộ sưu tập đặc biệt; Thư viện Houghton, Thư viện Lịch sử Phụ nữ Arthur và Elizabeth Schesinger, và Văn khố Viện Đại học Harvard là nơi chủ yếu lưu giữ các tài liệu quý hiếm ít đâu có. Bộ sưu tập tài liệu ngôn ngữ Đông Á lớn nhất bên ngoài Đông Á được lưu trữ tại Thư viện Harvard-Yenching.
Harvard điều hành một số viện bảo tàng nghệ thuật, văn hóa, và khoa học. Hệ thống Viện Bảo tàng Nghệ thuật Harvard có ba viện bảo tàng. Viện Bảo tàng Arthur M. Sackler có các bộ sưu tập nghệ thuật cổ, châu Á, Hồi giáo, và Ấn Đô thời kỳ sau; Viện Bảo tàng Busch-Reisinger trưng bày nghệ thuật Trung Âu và Bắc Âu; còn Viện Bảo tàng Fogg thì trưng bày nghệ thuật Tây phương từ thời Trung cổ đến thời hiện tại, nhấn mạnh đến nghệ thuật Ý thời kỳ đầu Phục hưng, nghệ thuật Anh thời tiền-Raphael, và nghệ thuật Pháp thế kỷ XIX. Viện Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Harvard bao gồm Viện Bảo tàng Khoáng chất Harvard, Viện Bảo tàng Thực vật Harvard, và Viện Bảo tàng Động vật Đối chiếu. Những viện bảo tàng khác bao gồm Trung tâm Nghệ thuật Thị giác Carpenter, do Le Corbusier thiết kế, Viện Bảo tàng Khảo cổ và Nhân học Peabody chuyên về lịch sử văn hóa và văn minh Tây Bán cầu, và Viện Bảo tàng Semitic trưng bày các hiện vật khai quật được ở Trung Đông.
Nhân sự và thành phần sinh viên
Harvard có hai cơ quan quản trị là Board of Overseers (Hội đồng Quản trị) và President and Fellows of Harvard College (còn gọi là Harvard Corporation). Hai cơ quan này có thẩm quyền bổ nhiệm Viện trưởng Viện Đại học Harvard. Viện trưởng đương nhiệm là Drew Gilpin Faust. Hiện Harvard có chừng 16.000 giảng viên và nhân viên, trong số đó có chừng 2.400 giảng viên.
Trong sáu năm vừa qua, tổng số sinh viên Harvard nằm trong khoảng từ 19.000 đến 21.000. Harvard có 6.655 sinh viên trong các chương trình bậc đại học, 3.738 sinh viên trong các chương trình sau đại học, và 10.722 sinh viên trong các chương trình chuyên nghiệp sau đại học. Sinh viên nữ chiếm 51%, 48%, và 49% trong tổng số sinh viên bậc đại học, sau đại học, và chuyên nghiệp.
Trường Đại học Harvard nhận 27.500 đơn xin vào học khóa tốt nghiệp vào năm 2013, 2.175 được nhận (chiếm 8%), và 1.658 theo học (76%). 95% sinh viên năm nhất từng nằm trong 10 sinh viên đứng đầu khóa ở trường trung học. 88% sinh viên tốt nghiệp trong vòng 4 năm, 98% tốt nghiệp trong vòng 6 năm. Đối với khóa sẽ tốt nghiệp đại học vào năm 2017, Trường Đại học Harvard chỉ nhận có 5.8% trong số các ứng viên nộp đơn.
Khuôn viên
Khuôn viên chính của Harvard rộng , trung tâm là Harvard Yard ở thành phố Cambridge, nằm cách khu trung tâm thành phố Boston chừng về phía tây-tây bắc, và mở rộng ra khu Quảng trường Harvard ở chung quanh. Khu Harvard Yard có các tòa nhà hành chính và những thư viện chính của viện đại học, các khu học tập bao gồm Sever Hall và University Hall, Nhà thờ Memorial, và phần lớn các cư xá dành cho sinh viên năm nhất. Các sinh viên năm hai, ba, và tư sống trong 12 khu nhà nội trú; chín trong số này nằm ở phía nam Harvard Yard, dọc theo hoặc gần sông Charles, ba khu nhà còn lại vốn trước đây dành cho sinh viên Trường Đại học Radcliffe nằm trong khu dân cư cách Harvard Yard chừng nửa dặm về phía tây bắc ở khu Tứ giác (Quadrangle).
Trường Kinh doanh Harvard và nhiều trong số những cơ sở thể thao của viện đại học, bao gồm Sân vận động Harvard, nằm trong một khuôn viên rộng nằm ở khu Allston, đối diện với Cambridge bên kia sông. Cầu John W. Weeks là cầu đi bộ bắc qua sông Charles, kết nối hai khuôn viên. Trường Y khoa Harvard, Trường Nha khoa Harvard, và Trường Y tế Công cộng nằm ở một khuôn viên rộng ở Khu Học thuật và Y khoa Longwood, cách trung tâm Boston chừng về phía tây nam và cách khuôn viên chính ở Cambridge chừng về phía nam.
Ngoài những khuôn viên chính ở Cambridge, Allston, và Longwood, Harvard còn sở hữu và điều hành Vườn Bách thảo Arnold (Arnold Arboretum), ở khu Jamaica Plain của Boston; Trung tâm Lưu trữ và Thư viện Nghiên cứu Dumbarton Oaks (Dumbarton Oaks Research Library and Collection) ở Washington, D.C.; Rừng Harvard ở Petersham, Massachusetts; Trạm Thực nghiệm Concord (Concord Field Station) ở Estabrook Woods, Concord, Massachusetts và trung tâm nghiên cứu Villa I Tatti ở Florence, Ý. Harvard cũng điều hành Trung tâm Harvard Thượng Hải ở Trung Quốc.
Thể thao
Tại Harvard có các cơ sở thể thao như Lavietes Pavillion, một vận động trường đa năng và là sân nhà của các đội bóng rổ của Harvard. Trung tâm Thể thao Malkin (MAC) vừa là tiện nghi thể dục thể thao phục vụ sinh viên của trường vừa là cơ sở vệ tinh cho các cuộc thi đấu liên trường. Tòa nhà năm tầng của MAC có hai phòng tim mạch, một hồ bơi tiêu chuẩn Olympic, một hồ bơi nhỏ cho môn thể dục nhịp điệu dưới nước và các môn khác, một tầng lửng dành cho các lớp học suốt cả ngày, một phòng tập xe đạp trong nhà, ba phòng tập thể hình, và ba sân tập thể dục có thể sử dụng để chơi bóng rổ. MAC cũng cung cấp dịch vụ huấn luyện cá nhân và các lớp học đặc biệt. MAC là sân nhà của các đội bóng chuyền, đấu kiếm, và wrestling của Harvard.
Weld Boathouse và Newell Boathouse là địa điểm tập luyện của các đội chèo thuyền nam và nữ. Đội chèo thuyền nam cũng sử dụng khu phức hợp Red Top ở Ledyard, Connecticut làm trại huấn luyện cho Harvard-Yale Regatta, cuộc đua thuyền hằng năm giữa Harvard và Yale khởi đầu từ năm 1852. Trung tâm Hockey Bright là sân nhà của các đội hockey của Harvard, còn Trung tâm Murr dành cho các đội quần vợt và bóng quần (squash), và là trung tâm chăm sóc sức khỏe cho vận động viên tất cả các môn thi đấu.
Đến năm 2006, Harvard có 41 đội thi đấu trong Bảng 1 liên trường (đại học), đứng đầu danh sách các đại học thuộc Bảng 1 của Hiệp hội Thể thao Đại học Quốc gia (NCCA).
Đối thủ của Harvard là Yale, tất cả các cuộc tranh tài giữa hai trường này đều quyết liệt, cao điểm là các cuộc thi đấu bóng bầu dục mùa thu mỗi năm, khởi đầu từ năm 1875, trở nên nổi tiếng đến nỗi khi nhắc đến nó người ta chỉ đơn giảin gọi là "trận đấu". Dù không còn được xem là đội bóng số một như một thế kỷ trước đây (từng đoạt giải Rose Bowle năm 1920), Harvard và Yale đã ảnh hưởng đáng kể trên phong cách thi đấu của giải.
Lâu đời hơn giải Rose Bowl đến 23 năm là Harvard-Yale Regatta, các cuộc thi đấu giữa Harvard và Yale đều bắt nguồn từ giải này. Cuộc đua thuyền Harvard-Yale Regatta tổ chức hằng năm vào tháng Sáu trên sông Thames phía đông tiểu bang Connecticut. Đội Harvard được xếp vào một trong các đội chèo thuyền hàng đầu của quốc gia. Trong các môn thể thao khác, các đội thi đấu của Harvard cũng ở trong nhóm đầu như môn hockey trên băng (đối thủ chính là Cornell), bóng quần, mới đây Harvard giành các danh hiệu vô địch môn đấu kiếm nam và nữ của NCAA. Harvard cũng giành ngôi vô địch của Hiệp hội Đua thuyền Liên Đại học năm 2003.
Cựu sinh viên
Trong số những nhân vật nổi tiếng nhất từng theo học ở Harvard có những chính khách Hoa Kỳ như John Hancock, John Adams, John Quincy Adams, Rutherford B. Hayes, Theodore Roosevelt, Franklin Roosevelt, tổng thống thứ 35 của Hoa Kỳ John F. Kennedy, Al Gore, tổng thống thứ 43 của Hoa Kỳ George W. Bush, tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ Barack Obama và phu nhân Michelle Obama, toàn quyền Canada David Lloyd Johnston, các thủ tướng Canada Mackenzie King và Pierre Trudeau; các doanh nhân và nhà từ thiện Aga Khan IV và Bill Gates; nhà từ thiện Huntington Hartford; các tổng thống Mexico Felipe Calderón, Carlos Salinas de Gortari và Miguel de la Madrid, tổng thống Chile Sebastián Piñera, tổng thống Colombia Juan Manuel Santos, tổng thống Costa Rica José María Figueres, tổng thống Đài Loan Mã Anh Cửu, thủ tướng Singapore Lý Hiển Long, thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu và chủ tịch Tối cao Pháp viện Israeli Aharon Barak, tổng thống Peru Alejandro Toledo, thủ tướng Albania Fan S. Noli, tổng thư ký Liên Hợp Quốc Ban Ki-moon; triết gia Henry David Thoreau, các nhà văn Ralph Waldo Emerson và William S. Burroughs, nhà giáo dục Harlan Hanson, nhà thơ Wallace Stevens, T. S. Eliot và E. E. Cummings; chỉ huy dàn nhạc Leonard Bernstein, danh cầm violon Yo Yo Ma, danh hài Conan O'Brien; các diễn viên Fred Gwynne, Jack Lemmon, Natalie Portman, Mira Sorvino, Ashley Judd, Tatyana Ali, Elisabeth Shue, Rashida Jones, Scottie Thompson, Hill Harper, Matt Damon và Tommy Lee Jones; đạo diễn Darren Aronofsky, Mira Nair, Whit Stillman, và Terrence Malick; kiến trúc sư Philip Johnson; các nhạc sĩ Rivers Cuomo, Tom Morello, và Gram Parsons; nhà soạn nhạc Ryan Leslie, người sáng lập Facebook Mark Zuckerberg, nhà lập trình Richard Stallman, danh thủ bóng bầu dục Ryan Fitzpatrick, danh thủ bóng rổ Jeremy Lin và lãnh tụ dân quyền W. E. B. Du Bois.
Trong văn học nghệ thuật
Nhờ có vị trí trung tâm trong giới tinh hoa nước Mỹ, Harvard thường được chọn làm bối cảnh cho nhiều tác phẩm văn học, kịch nghệ, điện ảnh cũng như trong các lĩnh vực văn hóa khác.
Love Story (Chuyện tình), xuất bản năm 1970, của Erich Segal, cựu sinh viên Harvard và là giáo sư môn văn chương cổ điển ở Yale, viết về mối tình lãng mạn giữa một sinh viên luật Harvard con nhà dòng dõi (do Ryan O’Neal thủ diễn) với một nữ sinh viên âm nhạc vào Radcliffe nhờ học bổng (Ali MacGraw). Cả cuốn tiểu thuyết và cuốn phim đều thấm đẫm những hình ảnh thơ mộng của Cambridge. Trong những năm gần đây, ở Harvard vẫn có lệ mỗi năm cho chiếu phim Love Story vào dịp đón tiếp tân sinh viên. Các tác phẩm khác của Erich Segal như The Class (1985) và Doctors (1988) cũng có các nhân vật chính là sinh viên Harvard.
Harvard cũng xuất hiện trong nhiều xuất phẩm điện ảnh ở Mỹ như Stealing Harvard, Legally Blonde, Gilmore Girls, Queer as Folk, The Firm, The Paper Chase, Good Will Hunting, With Honors, How High, Soul Man, 21, và Harvard Man. Kể từ lúc Love Story được dựng thành phim với bối cảnh Harvard thập niên 1960 cho đến phim The Great Debaters thực hiện năm 2007, Harvard không cho phép quay phim bên trong các tòa nhà; hầu hết các cảnh quay đều thực hiện tại những địa điểm có khung cảnh giống Harvard như ở Toronto, hoặc các viện đại học như UCLA, Trường Đại học Wheaton, hay Viện Đại học Bridgewater State, mặc dù cảnh quan ngoài trời và các cảnh quay từ trên cao khuôn viên Harvard ở Cambridge vẫn thường được sử dụng. Phim Legally Blonde có những cảnh quay trước Thư viện Widener của Harvard nhưng không chịu sử dụng sinh viên Harvard làm diễn viên quần chúng vì trang phục của họ trông "không giống Harvard". Cảnh quay lễ tốt nghiệp trong phim With Honors thực hiện tại trước Thính phòng Foellinger của UIUC.
Nhiều cuốn tiểu thuyết lấy bối cảnh Harvard hoặc có các nhân vật chính liên quan đến Harvard. Robert Langdon, nhân vật chính trong các tác phẩm The Da Vinci Code (Mật mã Da vinci) và Angels and Demons của Dan Brown được miêu tả là "giáo sư môn nghệ thuật biểu trưng" (mặc dù "nghệ thuật biểu trưng" – symbolgoy - không phải là tên chính xác của bất kỳ môn học nào). Pamela Thomas-Graham, nhân vật chính trong một bộ tiểu thuyết trinh thám (Blue Blood, Orange Crushed, và A Darker Shade of Crimson) là một giáo sư Harvard người Mỹ gốc Phi. Trong số các tiểu thuyết nổi tiếng có nhân vật chính là sinh viên Harvard phải kể đến cuốn The Sound and the Fury (Âm thanh và Cuồng nộ) của William Faulkner, và Prozac Nation của Elizabeth Wurtzel. Cựu nhân viên CIA Wyman Ford trong Tyrannosaur và Blasphemy của Douglas Preston cũng là cựu sinh viên Harvard.
Cũng mượn khung cảnh Harvard là loạt phim truyền hình rất được ưa thích của Hàn Quốc Love Story in Harvard ("Chuyện tình Harvard", đã chiếu ở Việt Nam), thực hiện những cảnh quay ở Viện Đại học Nam California.
Những nhận xét về Harvard
Năm 1893, sách hướng dẫn của Baedeker gọi Harvard là "học viện lâu đời nhất, giàu nhất, và nổi tiếng nhất ở Mỹ." Hai chi tiết đầu đến nay vẫn còn chính xác; nhưng chi tiết thứ ba thì đang bị tranh cãi. Đến năm 2007, Harvard vẫn đứng đầu trong tất cả bảng xếp hạng các viện đại học trên thế giới của THES-QS University Rankings, và Academic Ranking of World Universities. Năm 2007, tờ U.S. News & World Report cũng xếp Harvard đầu bảng "các viện đại học trong nước".
Tuy nhiên, Harvard cũng là mục tiêu của không ít chỉ trích, bị phê phán về tình trạng "lạm phát điểm số" giống các cơ sở giáo dục đại học khác. Sau những chỉ trích từ các phương tiện truyền thông, Harvard hạn chế hạng danh dự từ 90% trong năm 2004 xuống còn 60% năm 2005, và tỏ ra chọn lọc hơn khi chỉ ban tặng các danh hiệu danh dự "John Harvard Scholar" cho nhóm 5% sinh viên đứng đầu lớp và "Harvard College Scholar" cho nhóm 5% kế cận – với điểm trung bình tối thiểu là 3.8. Quỹ Carnegie Thúc đẩy Hoạt động Giảng dạy, tờ The New York Times, và một số sinh viên lên tiếng chỉ trích Harvard đã phụ thuộc vào các trợ giảng trong một số môn học trong chương trình cử nhân; theo họ, điều này sẽ ảnh hưởng xấu đến chất lượng đào tạo. Một bài viết đăng trên tờ New York Times cho thấy tình trạng này cũng phổ biến tại một số viện đại học thuộc Liên đoàn Ivy.
Tờ Globe cho đăng kết quả khảo sát của Consortium on Financing Higher Education (COFHE) đối với 31 viện đại học hàng đầu, trình bày những vấn đề như tính sẵn sàng của ban giảng huấn, chất lượng giảng dạy, chất lượng tham vấn, đời sống xã hội ở trường học, và tình cảm cộng đồng kể từ năm 1994. Tờ Harvard Crimson cũng đưa ra những phê phán tương tự. Theo trích dẫn của Harvard Crimson, Hiệu trưởng Trường Đại học Harvard là Benedict Gross tỏ ra quan tâm đến các vấn đề COFHE đã nêu, và hứa sẽ cải thiện tình hình. Cựu viện trưởng Viện Đại học Harvard là Larry Summer nhận xét, "Tôi nghĩ vấn đề quan trọng duy nhất là mối quan hệ giữa ban giảng huấn và sinh viên, chúng ta đã để quá nhiều sinh viên cao học tham gia giảng dạy. Các lớp học quá đông đến nỗi giảng viên không biết tên sinh viên. Ít người có cơ hội trải nghiệm phương pháp học tập tích cực như vào phòng thí nghiệm, thảo luận trong lớp, đối thoại tại các hội nghị chuyên đề, hoặc làm việc theo nhóm trong văn khố." |
Ngụy Khắc Đản (魏克憻, 1817–1873) tự Thản Chi, là danh sĩ và là quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Tiểu sử sơ lược
Ngụy Khắc Đản sinh trưởng tại xã Xuân Viên, tổng Xuân Viên, huyện Nghi Xuân, phủ Đức Thọ, tỉnh Nghệ An (nay là xã Xuân Viên, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh).
Cha ông là Ngụy Khắc Thận. Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), Ngụy Khắc Đản thi đỗ cử nhân khoa Tân Sửu tại trường thi xứ Nghệ An, được bổ làm huấn đạo huyện Can Lộc (nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh).
Năm Tự Đức thứ 9 (1856), Ngụy Khắc Đản thi đỗ đầu thi Đình đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh (tức Đình nguyên Thám hoa). Sau đó, ông nhập ngạch Hàm lâm, rồi thăng dần lên Án sát Quảng Nam.
Tháng 8 năm 1858, tàu chiến Pháp nả đạn pháo tấn công Đà Nẵng, đến ngày 5 tháng 6 năm 1862 thì Hòa ước Nhâm Tuất được ký kết giữa triều đình Tự Đức và thực dân Pháp, mà phần thua thiệt ở về phía Việt Nam.
Để chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường) vừa bị mất sau hòa ước trên, năm 1863, Ngụy Khắc Đản được cử làm bồi sứ trong phái đoàn của Phan Thanh Giản đi sang Pháp thương thuyết để chuộc lại lãnh thổ đã mất. Cuộc hội kiến triều đình Napoleon III khá thành công, tháng 12/1863, Pháp cử Gabriel Aubaret làm lãnh sự ở Vọng Các (Bangkok, Thái Lan) và đến Huế để thương thảo hòa ước mới để thay cho Hòa ước Nhâm Tuất mà lịch sử thường gọi là Dự thảo Hòa ước Aubaret. Thông qua dự thảo mới này thì triều đình Huế được chuộc lại 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ, nhưng đến phút cuối thì chính phủ Pháp đã gửi phản lệnh, huỷ bỏ dự thảo hòa ước này.
Đi sứ về, năm 1864, Ngụy Khắc Đản được thăng làm Bố chính sứ Nghệ An, rồi lần lượt trải các chức: Khâm sai Kinh lý Trấn Ninh, sung Tuyên phủ sứ, thự Hữu tham tri bộ Hộ, Thượng thư bộ Binh, Thượng thư bộ Công, sung tham biện viện Cơ mật.
Sau vì bệnh, Ngụy Khắc Đản xin cáo về rồi mất tại quê nhà năm 1873, lúc 56 tuổi. Nghĩ đến công lao, vua Tự Đức chuẩn cho ông thực thụ hàm Tham tri và sai quan đến tế.
Tác phẩm
Tác phẩm của Ngụy Khắc Đản có:
Tây phù nhật ký
Như Tây Ký
Tuồng Kim Vân Kiều
Sách tham khảo
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam chính biên liệt truyện. Nhà xuất bản Văn Học, 2004.
Chú thích |
New Mexico ( ; ) là một tiểu bang tọa lạc ở vùng Tây Nam Hoa Kỳ, giáp biên giới quốc tế với bang Chihuahua của México. New Mexico trở thành bang thứ 47 vào ngày 6 tháng 1 năm 1912. Nó thường được xem là một tiểu bang miền Núi. New Mexico có diện tích lớn thứ năm, dân số lớn thứ 36, và mật độ dân số thấp thứ sáu trong 50 tiểu bang Hoa Kỳ.
Đã có người sinh sống từ hàng nghìn năm trước khi người châu Âu đến khai phá, New Mexico trở thành một phần của thuộc địa Tân Tây Ban Nha của đế quốc Tây Ban Nha năm 1598. Sau đó, nó là một phần của nước México độc lập trước khi trở thành một lãnh thổ Hoa Kỳ và cuối cùng thành một tiểu bang Hoa Kỳ do kết quả của cuộc Chiến tranh Hoa Kỳ-México. Trong các tiểu bang, New Mexico có tỉ lệ người Hispano cao nhất, gồm con cháu của thực dân Tây Ban Nha, những người đã sống ở đây hơn 400 năm. Nó cũng có tỉ lệ người bản địa cao thứ nhì sau Alaska, và có tổng số người bản địa cao thứ tư sau California, Oklahoma, và Arizona. Đa số người bản địa thuộc các dân tộc Navajo, Pueblo, và Apache. Nền văn hóa tiểu bang được định hình qua các ảnh hưởng Hispano và người bản địa này và được thể hiện qua bang kỳ. Màu đỏ và vàng được lấy từ hoàng kỳ Tây Ban Nha, với biểu tượng mặt trời cổ xưa của người Zia.
Có một niềm tin sai lầm rằng New Mexico, hay trong tiếng Tây Ban Nha, lấy tên theo quốc gia México. Tuy nhiên, khi người Tây Ban Nha khai phá New Mexico năm 1563, và lần nữa năm 1581, họ tin rằng nó cũng có nền văn hóa Mexica tương tự của Đế quốc Aztec. Cái tên này đơn giản là được chấp nhận, dù tiểu bang không có liên hệ gì với các bộ tộc tại México.
Chú thích
Tiểu bang Hoa Kỳ
Tây Nam Hoa Kỳ
Tây Hoa Kỳ |
Harry Potter và tên tù nhân ngục Azkaban (tiếng Anh: Harry Potter and the Prisoner of Azkaban) là một quyển tiểu thuyết thuộc thể loại giả tưởng kỳ ảo được viết bởi văn sĩ người Anh J. K. Rowling, đây cũng là tập thứ 3 trong bộ truyện Harry Potter. Quyển sách theo chân Harry Potter, cậu phù thủy nhỏ, trong năm học thứ ba của mình tại Trường Phù thủy và Pháp sư Hogwarts. Cùng với hai người bạn thân là Ronald Weasley và Hermione Granger, Harry phát hiện ra Sirius Black, là một tù nhân trốn chạy từ ngục Azkaban, người được tin rằng là một trong những tay sai của chúa tể Voldemort.
Quyển sách được xuất bản lần đầu tại Vương Quốc Anh vào ngày 8 Tháng Bảy năm 1999 bởi Nhà xuất bản Bloomsbury và tại Hoa Kỳ vào ngày 8 Tháng Chín năm 1999 bởi Nhà xuất bản Scholastic Inc. Rowling nói tập này bà viết dễ dàng hơn và viết rất nhanh, bà đã hoàn thành nó chỉ mất 1 năm kể từ khi bắt tay vào viết. Cuốn sách đã được bán ra 68,000 bản chỉ trong 3 ngày đầu phát hành ở Hoa Kỳ và kể từ đó đã bán được hơn 3 triệu bàn trên khắp cả nước. Quyển này đã thắng giải Whitbread Children's Book Award vào năm 1999, giải Bram Stoker Award, và giải Locus Award for Best Fantasy Novel vào năm 2000, cũng như vài giải thưởng khác nữa bào gồm của giải Hugo.
Bộ phim điện ảnh dựa theo quyển truyện đã được phát hành vào năm 2004, thu được lợi nhuận hơn $796 triệu và nhận được nhiều lời khen ngợi. Ngoài ra, còn có các trò chơi video games dựa trên tập truyện này.
Bản dịch tiếng Việt được nhà văn Lý Lan dịch và xuất bản bởi Nhà xuất bản Trẻ. Ban đầu, tập truyện được chia nhỏ và in thành 9 cuốn truyện nhỏ và được phát hành theo tiến độ chuyển ngữ. Sau đó, vì lý do tác quyền, quyển này đã được in thành sách vào tháng 12 năm 2002, với bìa sách do Nhà xuất bản Trẻ tự thiết kế, đây cũng là quyển duy nhất trong bộ tác phẩm không sử dụng bìa từ phiên bản của Hoa Kỳ.
Tóm tắt truyện
Sau khi kết thúc năm học thứ 2, Harry phải trải qua kỳ nghỉ hè tồi tệ nữa tại gia đình Dursley. Cậu phải lén thực hành pháp thuật vào buổi đêm, cũng như phải có sự cho phép của dì dượng nếu muốn tham quan làng phù thủy Hogsmeade. Dượng Vernon chỉ đồng ý ký giấy tham quan nếu cậu che giấu khả năng pháp thuật và lễ phép với Marge - em gái của ông ta. Nhưng bà cô này liên tục sỉ vả Harry, thậm chí còn lăng mạ cha mẹ cậu. Harry trong cơn tức giận đã không kiểm soát được năng lực pháp thuật của mình, khiến bà cô phồng lên như quả bóng bay và trôi đi. Harry sau đó lập tức gói ghém hành lý rời khỏi nhà Dursley.
Khi cợn giận lắng xuống, Harry ngồi một mình trong công viên, nghĩ rằng mình sẽ bị đuổi học vì đã sử dụng pháp thuật trước mặt Muggle. Bỗng cậu nhìn thấy một con chó đen đang nhìn chằm chằm vào cậu bên kia đường. Rồi chiếc xe khách Hiệp Sĩ từ đâu xuất hiện. Harry nhanh chóng lên xe để đến quán Cái Vạc Lủng. Trên xe, Harry biết được thông tin Sirius Black - một tên tội phạm nguy hiểm và là tay sai của Chúa tể Voldemort đã trốn thoát khỏi nhà tù Azkaban. Khi đến quán Cái Vạc Lủng, bộ trưởng Bộ Pháp Thuật Conelius Fudge cho biết Harry sẽ không bị đuổi học, nhưng cũng dặn cậu đừng nên đi lung tung vào lúc này. Hermione và Ron cũng như cả gia đình Weasley đều có mặt tại đây. Ông Arthur, bố của Ron nói chuyện riêng với Harry, cảnh báo rằng Sirius Black đang nhắm tới cậu, và cậu phải hết sức cẩn thận.
Hôm sau, Harry, Ron và Hermione lên tàu đến Hogwarts. Họ ngồi cùng toa với giáo sư Remus Lupin, người đang ngủ khi cả ba bước vào. Chuyến tàu đột nhiên dừng lại, và các Giám Ngục - sinh vật canh giữ Azkaban do Bộ Pháp Thuật cử đi tìm Sirius Black xuất hiện. Nhưng bọn chúng đặc biệt quan tâm đến Harry và khiến cậu ngất xỉu, buộc thầy Lupin phải thức dậy và đuổi chúng đi bằng Bùa Hộ Mệnh. Khi Harry tỉnh lại, Lupin giải thích rằng lũ Giám Ngục này đặc biệt quan tâm đến những người có trái tim trong sáng, và sẽ hút cạn những suy nghĩ tốt đẹp, hạnh phúc của họ, không cần biết đó có phải người mà Bộ Pháp Thuật tìm kiếm hay không. Ông cũng trấn an ba đứa rằng ông đã đuổi chúng đi rồi.
Trong bữa tiệc đầu năm, giáo sư Dumbledore phải thông báo với đám học sinh tin tức Sirius Black đã trốn thoát, và các Giám Ngục đã được thiết lập xung quanh trường để bảo vệ. Cụ cũng thông báo về sự thay đổi trong bộ máy giáo viên: Remus Lupin là giáo viên mới của môn Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám, và Rubeus Hagrid là giáo viên mới của môn Chăm sóc Sinh vật huyền bí. Năm học thứ 3 cũng là năm mà học sinh sẽ có một môn tự chọn cho riêng mình. Riêng Hermione chọn tham gia tất cả các lớp học, dù giờ học trùng nhau, ngoại trừ môn Tiên tri. Trong lớp Tiên tri, giáo sư Sybill Trelawney yêu cầu đám học sinh đọc lá trà tượng trưng cho tương lai của mình. Nhưng bà đột nhiên sợ hãi khi nhìn vào chén trà của Harry, vì lá trà của cậu có biếu tượng Hung tinh - biểu tượng của cái chết.
Đến lớp Chăm sóc Sinh vật huyền bí, Hagrid giới thiệu với cả lớp con Bằng Mã cưng của ông, Buckbeak, và yêu cầu đám học sinh đến chào hỏi nó. Trong khi Harry làm đúng những gì Hagrid chỉ dẫn và làm thân với Buckbeak, Draco Malfoy lại giở thói ương ngạnh, xông ra khiêu khích Buckbeak, và hậu quả là bị con Bằng Mã đá gãy tay. Thằng nhóc lập tức đi mách bố, và Lucius Malfoy đã gây áp lực lên Bộ Pháp Thuật lẫn Ban Giám Hiệu Hogwarts, ra quyết định tử hình Buckbeak. Tiết học Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám của giáo sư Lupin diễn ra nhẹ nhàng hơn. Ông yêu cầu cả lớp đối phó với Ông Kẹ - sinh vật có khả năng biến thành nỗi sợ của người khác, và dùng câu thần chú "Riddikulus" để biến nó thành thứ gây cười. Nhưng khi đến lượt Harry, Lupin đã chặn lại do nỗi sợ của Harry là Giám Ngục và Voldemort, và nó quá nguy hiểm cho cậu cũng như cả lớp.
Trong kỳ nghỉ, các học sinh được đi tham quan làng Hogsmeade. Nhưng vì những biến cố tại gia đình Dursley, dượng Vernon đã không ký giấy tham quan cho Harry, nên cậu phải ở lại. Cậu gặp Lupin trên cây cầu gỗ. Ông nói rằng mình quen biết cha mẹ của Harry, và họ đều là những người tuyệt vời. Buổi tối, các học sinh Nhà Gryffindor khi trở về phòng sinh hoạt chung đã phát hiện bức tranh của Bà Béo bị xé toạc. Bà Béo phải trốn trong bức tranh khác, lẩm bẳm rằng Sirius Black đã đột nhập vào trường, và cụ Dumbledore phải đế đám học sinh ngủ tại đại sảnh. Snape nói rằng bổ nhiệm giáo viên mới vào lúc này là không an toàn, ám chỉ Lupin. Hôm sau, trong lớp Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám, Snape thay Lupin lên lớp, đồng thời khẳng định Lupin không có khả năng giảng dạy. Hôm sau, trong trận Quidditch giữa Gryffindor và Hufflepuff, Harry lại chạm mặt Giám Ngục. Chúng khiến cậu ngất xỉu rồi rơi xuống đất, còn cây chổi của cậu bị gãy nát. Cụ Dumbledore rất giận dữ vì chuyện này và lập tức đuổi hết bọn chúng đi.
Gần Giáng Sinh, Harry định lẻn đến Hogsmeade. Cậu được Fred và George đưa cho Bản đồ Đạo tặc, để có thể vào làng bằng lối đi bí mật. Nhưng khi nghe lén cuộc trò chuyện giữa giáo sư McGonagall và bộ trưởng Fudge tại quán Ba Cây Chổi, Harry biết được một sự thật động trời: Sirius Black là cha đỡ đầu của cậu, cũng như là người bạn thân nhất với cha mẹ cậu. Chính hắn đã tiết lộ nơi ở bí mật của gia đình Potter cho Voldemort, và sát hại người bạn chung của họ là Peter Pettigrew. Nổi cơn thịnh nộ, Harry hét lên rằng cậu mong Sirius Black tìm đến cậu để cậu có thể tự tay giết chết hắn.
Sau kỳ nghỉ, Harry tìm đến thầy Lupin để được ông dạy thi triển Bùa Hộ Mệnh - pháp thuật cao cấp có thể đẩy lùi lũ Giám Ngục. Và Harry với tài năng thiên phú đã thi triển thành công. Một đêm nọ, Harry mở Bản đồ Đạo tặc ra xem, và bất ngờ thấy tên Peter Pettigrew, dù thực tế là người đó đã chết từ lâu. Cậu chạy một mạch tới nơi nhưng không thấy ai, thậm chí còn đụng phải giáo sư Snape. Rất may, thầy Lupin xuất hiện kịp thời và đưa Harry về phòng mình. Cậu phân trần với thầy Lupin rằng mình đã nhìn thấy tên của Pettigrew, và tấm bản đồ có thể đã bị hỏng.
Hôm sau, khi lớp Tiên tri kết thúc và chỉ còn lại Harry, giáo sư Trelawney bỗng rơi vào trạng thái thôi miên, nói rằng người hầu của Chúa tể Hắc ám sẽ trở lại với chủ nhân của mình. Sau đó, Harry, Ron và Hermione đến an ủi Hagrid vì vụ hành quyết Buckbeak sắp diễn ra. Trên đường đi, Hermione vì ngứa mắt với Draco nên đã tẩn nó một trận vì tội láo nháo. Tại căn lều, Hagrid trả lại cho Ron con chuột cưng Scabbers đã mất tích từ đầu năm. Nhưng con chuột tuột khỏi tay Ron định bỏ trốn. Ron cố gắng đuổi theo, nhưng một con chó đen to lớn bất ngờ chui ra từ dưới gốc cây Liễu Roi và kéo cậu vào đó. Harry và Hermione phải vật lộn với cái cây để cứu Ron. Hóa ra dưới gốc cây là một đường hầm dẫn tới Lều Hét. Tại đây, cả ba phát hiện ra con chó đen kia chính là Sirius Black. Lupin cũng chạy đến và bất ngờ ôm lấy Sirius như một người bạn thân lâu năm. Ông cũng thú nhận với ba đứa rằng mình là Người Sói, cũng là lý do ông vắng mặt trong vài tiết học. Snape cũng chạy đến, và định giao cả Black và Lupin cho lũ Giám Ngục. Nhưng Harry đã đánh gục Snape, và bắt Black và Lupin phải khai ra toàn bộ sự thật. Sự thật được phơi bày, rằng Black hoàn toàn vô tội và bị đổ oan. Mọi tội trạng mà ông bị cáo buộc là do Peter Pettigrew gây ra. Chính Pettigrew mới là kẻ phản bội cha mẹ Harry, và hắn chính là Scabbers. Black và Lupin ép Pettigrew phải trở lại hình dạng người và chuẩn bị giết hắn để trả thù cho James và Lily, nhưng Harry đã ngăn hai người lại, và quyết định giao Pettigrew cho lũ Giám Ngục. Khi tất cả bước ra khỏi căn lều, trăng tròn đã biến Lupin thành Người Sói, tạo thời cơ cho Pettigrew trốn thoát, và Sirius phải hóa thú để bảo vệ ba đứa nhóc. Cả hai giằng co, và chỉ dừng lại khi Lupin nghe thấy tiếng hú của Người Sói khác. Harry và Sirius đuổi theo, nhưng lũ Giám Ngục bất ngờ xuất hiện và tấn công hai người. Harry trong lúc tuyệt vọng đã thấy một Thần Hộ Mệnh hình con hươu xuất hiện và đẩy lui lũ Giám Ngục.
Tỉnh dậy trong bệnh xá của trường, Harry quả quyết rằng chính cha cậu đã dùng Bùa Hộ Mệnh để cứu cậu và Sirius. Cậu và Hermione cũng cố giải thích với cụ Dumbledore rằng Sirius vô tội. Cụ Dumbledore tin hai đứa, nhưng cũng nói rằng lời nói của hai đứa trẻ 13 tuổi sẽ không thuyết phục được người khác. Cụ cũng nói với Hermione rằng cô bé có một thứ có thể cứu nhiều mạng sống vô tội, và ba lần là đủ trước khi rời đi. Hermione đành phải tiết lộ đó là con quay thời gian mà cô được giáo sư McGonagall tặng hồi năm nhất, cũng là thứ giúp cô có thể tham gia tất cả các lớp học. Cả hai cùng quay về thời gian 3 tiếng trước, giải cứu Buckbeak và giả tiếng sói để thu hút sự chú ý của thầy Lupin trong hình dạng Người Sói. Khi cả hai ở hồ nước lúc Harry và Sirius quá khứ bị Giám Ngục tấn công, chính Harry đã dùng Bùa Hộ Mệnh để cứu bản thân và người cha đỡ đầu. Cả hai cùng Buckbeak sau đó bay đến Tháp Đen, nơi Sirius bị giam cầm để cứu ông. Harry dù rất muốn sống cùng người cha đỡ đầu nhưng không thể, vì Sirius không có bằng chứng vô tội và vẫn sẽ bị truy nã. Nhưng cậu thấy an tâm vì dù sao Sirius cũng đã tự do. Cả hai trở về và gặp cụ Dumbledore. Cụ lập tức hiểu ra nhưng không nói gì, chỉ chúc cả hai ngủ ngon.
Cuối năm học, thầy Lupin sau khi trở lại hình dạng người đã quyết định từ chức, vì thông tin ông là Người Sói đã bị lan truyền ra ngoài. Ông trả lại cho Harry tấm Bản đồ Đạo tặc và rời đi. Harry cũng nhận được món quà từ người cha đỡ đầu Sirius Black là cây chổi Tia Chớp cùng giấy tham quan với tư cách là người giám hộ hợp pháp của cậu. |
Harry Potter và chiếc cốc lửa (tiếng Anh: Harry Potter and the Goblet of Fire) là một quyển sách thuộc thể loại giả tưởng kỳ ảo được viết bởi tác giả người Anh J. K. Rowling và đây cũng là phần thứ tư trong bộ tiểu thuyết Harry Potter. Câu chuyện kể về cậu bé Harry Potter, một phù thủy trong năm học thứ tư của mình tại Trường Phù thủy và Pháp sư Hogwarts cùng vời những bí ẩn xung quanh việc thêm tên của Harry vào giải đấu Tam Pháp Thuật, buộc cậu phải nỗ lực hết mình để chiến đấu.
Cuốn sách được xuất bản ở Anh bởi Nhà xuất bản Bloomsbury và ở Hoa Kỳ bởi Nhà xuất bản Scholastic; việc phát hành sách ở cả hai quốc gia cùng vào ngày 8 tháng 7 năm 2000, và đây cũng là lần đầu tiên một quyển trong bộ truyện này được xuất bản ở hai quốc gia cùng một lúc. Cuốn tiểu thuyết này đã đoạt giải Hugo Award, quyển duy nhất trong bộ Harry Potter đạt được giải này vào năm 2001. Quyển sách cũng được chuyển thể thành phim điện ảnh, và được phát hành trên toàn thế giới vào ngày 18 tháng 11 năm 2005, cùng với một trò chơi điện tử của Electronic Arts.
Tại Việt Nam, bộ truyện được Nhà xuất bản trẻ phát hành với tên tiếng Việt là Harry Potter và chiếc cốc lửa do nhà văn Lý Lan dịch, ban đầu sách được chia thành 16 quyển truyện nhỏ và phát hành song song với tiến độ chuyển ngữ của quyển sách. Nhưng sau đó, do không được sự đồng ý từ bên phía bản quyền, sách đã được in thành cuốn dày bìa mềm phát hành tháng 7 năm 2002 với hình minh họa bìa tương tự như phiên bản được xuất bản ở Mỹ.
Tóm tắt nội dung
Sau năm học thứ 3, Harry dành kỳ nghỉ hè của mình tại gia đình Weasley. Nhưng suốt cả mùa hè, cậu luôn mơ thấy một giấc mơ kỳ lạ. Cậu thấy Voldemort trong cơ thể tàn tạ tại dinh thự Riddle, đang bàn bạc với thuộc hạ của mình gồm Peter Pettigrew và một tên lạ mặt khác về việc giết cậu và hồi sinh hắn. Rồi cậu choàng tỉnh khi Hermione lay cậu dậy để đi xem trận chung kết Quidditch World Cup cùng gia đình Weasley và gia đình Diggory. Sau khi trận đấu kết thúc, khi tất cả mọi người đang ăn mừng chức vô địch của Ireland, một đám Tử thần Thực tử - tay sai của Voldemort - bất ngờ tấn công và phóng hỏa khu cắm trại. May mắn là Harry cùng bạn bè của cậu không có ai bị thương.
Một tuần sau, Harry cùng bạn bè trở lại Hogwarts. Năm nay, Hogwarts là chủ nhà của giải đấu Tam Pháp Thuật, cùng với 2 trường khác là Bauxbatons và Dumstrangs. Thần Sáng Alastor Moody, biệt danh “Mắt Điên”, cũng được bổ nhiệm làm giáo viên mới của môn Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám. Vì những biến cố tại khu cắm trại, học sinh dưới 17 tuổi không được phép tham gia giải đấu. Đại diện Hogwarts năm nay là Cedric Diggory, Huynh trưởng của Nhà Hufflepuff, cùng với Fleur Delacour từ Bauxbatons và Viktor Krum từ Dumstrangs. Nhưng mảnh giấy thứ tư bất ngờ bay lên từ Chiếc Cốc Lửa, gọi tên Harry Potter. Tất cả mọi người đều hoang mang, còn Harry cố gắng phân trần rằng cậu không hề bỏ tên mình vào chiếc cốc. Dù vậy, mọi người vẫn phải tuân thủ những đạo luật trước đó. Giải đấu không thể bị hủy bỏ, và Harry chính thức là một Quán Quân. Nhưng cậu vẫn bị nghi ngờ đã gian lận, kể cả Ron, và hai người không nói chuyện với nhau suốt một tháng. Draco thậm chí còn làm hàng loạt sticker “Ủng hộ Cedric Diggory. Potter thối hoắc!” rồi phân phát cho cả trường, khiến Harry không dám nói chuyện với ai. Sau khi tham gia buổi phỏng vấn với tờ Nhật báo Tiên tri, Harry nhận được thư từ Sirius, nói rằng muốn gặp cậu tối nay. Ông cảnh báo cậu phải cẩn thận với những kẻ mới đến Hogwarts, và phải giữ bạn bè sát gần bên.
Bên cạnh giải đấu Tam Pháp Thuật, năm học vẫn tiếp diễn như bình thường. Nhưng lớp Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám do Moody đảm nhiệm diễn ra rất kinh khủng. Ông dạy cho đám học sinh về ba lời nguyền không thể tha thứ trong giới phù thủy: Imperio (Lời Nguyền Độc Đoán), Crucio (Lời Nguyền Hành Hạ) và Avada Kedavra (Lời Nguyền Chết Chóc). Ông thậm chí còn thực hành trước mặt cả lớp khiến nhiều học sinh sợ hãi.
Đến ngày khai màn giải đấu Tam Pháp Thuật, Harry với sự giúp đỡ của Hagrid đã biết được sự nguy hiểm ngay từ vòng thi đầu tiên. Cậu đi báo với Cedric và dặn anh hãy cẩn thận. Rất may mắn là cả bốn Quán Quân đều hoàn thành xuất sắc vòng thi đầu tiên. Ron bây giờ mới nhận ra Harry không đời nào đăng ký tham gia cuộc thi nguy hiểm như vậy, và làm hòa với cậu.
Đến Giáng Sinh, Hogwarts trong vai chủ nhà tổ chức dạ hội Yule Ball. Ron muốn mời Hermione, nhưng cô đã đồng ý với Viktor Krum trước đó. Harry cũng muốn mời crush là Cho Chang, một học sinh của Nhà Ravenclaw, nhưng cô đã đồng ý với Cedric và sau đó trở thành bạn gái của anh.
Buổi dạ hội kết thúc cũng là lúc vòng thi thứ hai bắt đầu, và Harry cùng Cedric chia sẻ vị trí dẫn đầu sau vòng thi. Nhưng sau đó, Harry phát hiện Barty Crouch Sr, người giám sát an ninh cho giải đấu đã chết. Cậu đi tìm giáo sư Dumbledore, nhưng cụ đã rời đi với bộ trưởng Fudge. Harry trong lúc hoang mang vô tình mở ra Chậu Tưởng Ký. Cậu úp mặt vào chậu, và nhận ra Igor Karkaroff, Hiệu trưởng trường Dumstrangs từng là Tử thần Thực tử, từng bị tống vào Azkaban, và Barty Crouch Sr có một đứa con trai cùng tên. Cậu bỗng nhận ra Barty Crouch Jr rất giống với kẻ lạ mặt trong giấc mơ của cậu. Cậu báo với cụ Dumbledore, nhưng cụ khuyên Harry nên gạt điều đó ra khỏi đầu. Trên đường về, Harry bị Snape gọi lại. Ông nói rằng có kẻ đã ăn cắp nguyên liệu trong kho Độc dược, cũng biết bạn bè của cậu đang điều chế thuốc Đa Dịch, và sẽ điều tra đến cùng.
Đến vòng thi cuối cùng, các Quán Quân phải tìm chiếc cúp Tám Pháp Thuật trong mê cung đã được phù phép. Harry và Cedric tìm thấy chiếc cúp, nhưng Cedric bị rễ cây tóm lấy. Harry quyết định bỏ qua chiếc cúp và giải cứu Cedric. Cả hai sau đó cùng chạm vào chiếc cúp, nhưng hóa ra đó lại là một chiếc khóa cảng dẫn đến một nghĩa địa. Vết sẹo của Harry bất ngờ đau nhói, khiến cậu cảm thấy nguy hiểm, và bảo Cedric quay trở lại. Đúng lúc này, Pettigrew - Đuôi Trùn cùng Voldemort xuất hiện, ghim lời nguyền Chết Chóc lên Cedric, khiến anh chết ngay tức khắc, còn Harry bị trói vào bức tượng thần chết. Pettigrew thả Voldemort vào một cái nồi, lấy một khúc xương từ mộ của Tom Riddle Sr – cha của Voldemort, tự chặt tay của mình và lấy một ít máu của Harry, và Voldemort đã hồi sinh. Hắn bắt Harry phải đấu tay đôi với hắn. Nhưng khi hai tia phép thuật chạm vào nhau, linh hồn những người bị Voldemort giết xuất hiện bên cạnh Harry và cầm chân hắn để cậu quay trở lại cuộc thi cùng với xác của Cedric. Tiếng reo hò chỉ được vài giây trước khi tất cả bàng hoàng vì cái chết của Cedric. Harry thì thất hồn bạt vía, nói với cụ Dumbledore rằng Voldemort đã trở lại.
Moody liền kéo Harry ra khỏi đám đông và đưa cậu về văn phòng. Tại đây, Moody tiết lộ chính ông ta đã bỏ tên Harry vào Chiếc Cốc Lửa, cũng như biến chiếc cúp trở thành khóa cảng dẫn đến khu nghĩa địa. Trước khi Moody định làm gì đó với Harry, cụ Dumbledore, giáo sư McGonagall cùng Snape kịp thời xuất hiện và khống chế hắn. Snape đổ cả lọ Chân Dược vào miệng Moody, khiến hắn phải khai ra vị trí giam giữ Alastor Moody thật. Thuốc Đa Dịch hết tác dụng, và kẻ giả mạo chính là Barty Crouch Jr. Hắn thừa nhận tất cả những việc hắn làm đều là theo lệnh của Voldemort, và đã ra tay giết chính cha ruột của mình. Hắn sau đó ngay lập tức bị áp giải về Azkaban.
Hôm sau, toàn trường Hogwarts tổ chức lễ tưởng niệm Cedric Diggory. Cụ Dumbledore cũng tuyên bố Chúa tể Hắc ám đã chính thức trở lại, bất chấp sự phủ nhận từ Bộ Pháp Thuật. Giải đấu kết thúc và học sinh của ba ngôi trường chia tay nhau. Từ bây giờ, mọi thứ sẽ không còn êm đẹp như trước nữa. |
Oklahoma (phát âm như Uốc-lơ-hâu-mơ) ( òɡàlàhoma, ) là một tiểu bang nằm ở miền nam Hoa Kỳ. Với dân số 3,6 triệu người vào năm 2007 và diện tích 177.847 km², Oklahoma là tiểu bang có dân số đứng hàng thứ 28 và diện tích đứng hàng thứ 20 liên bang.
Tên gọi Oklahoma của tiểu bang bắt nguồn từ hai từ okla và humma của người da đỏ Choctow, có nghĩa là "đất của người da đỏ". Ngoài ra, Oklahoma còn có biệt hiệu là Bang Người đến sớm ("The Sooner State"). Được thành lập từ Vùng lãnh thổ của người da đỏ ("Indian Territory"), Oklahoma chính thức trở thành tiểu bang thứ 46 của nước Mỹ vào ngày 16 tháng 11 năm 1907. Thủ phủ và thành phố lớn nhất của tiểu bang là thành phố Oklahoma.
Oklahoma là một tiểu bang sản xuất nhiều dầu mỏ, khí đốt và thực phẩm cho nước Mỹ. Kinh tế của tiểu bang chủ yếu dựa trên các ngành hàng không, năng lượng, viễn thông và công nghệ sinh học. Oklahoma hiện là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất nước Mỹ, đứng thứ ba liên bang về tốc độ gia tăng thu nhập bình quân đầu người và đứng đầu về tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Tên gọi
Tên gọi Oklahoma bắt nguồn từ cụm từ okla humma của người da đỏ Choctow, nghĩa đen có nghĩa là "đất của người da đỏ". Tên gọi này được thủ lĩnh của người Choctow là Allen Wright đưa ra vào năm 1866 trong cuộc đàm phán với chính phủ Mỹ về quyền sử dụng đất đai của người da đỏ tại Oklahoma và việc thành lập một tiểu bang gồm toàn người da đỏ dưới sự giám sát của Bộ Quản lý người da đỏ Hoa Kỳ. Tương tự với từ "Indian" trong tiếng Anh, "okla humma" cũng chỉ toàn bộ người da đỏ nói chung. Oklahoma trở thành tên gọi trên thực tế của Vùng lãnh thổ Oklahoma, rồi chính thức được chấp nhận vào năm 1890, hai năm sau khi vùng này mở cửa cho người da trắng vào định cư.
Địa lý
Oklahoma là tiểu bang có diện tích rộng thứ 20 Hoa Kỳ, tổng diện tích là 69.898 dặm vuông (181.035 km²). Trong đó 68.667 dặm vuông (177.847 km²) là phần đất còn 1231 dặm vuông (2188 km²) là phần nước. Oklahoma là một trong sáu tiểu bang của Frontier Strip, thuộc một phần vùng Great Plains và nằm gần trung tâm địa lý của 48 tiểu bang. Oklahoma giáp với Arkansas và Missouri về phía đông, giáp với Kansas về phía bắc, giáp với Colorado về phía tây bắc, giáp với New Mexico về phía tây và giáp với Texas về phía nam.
Địa hình
Oklahoma nằm giữa vùng Great Plains và cao nguyên Ozark, có địa hình thoải dần từ tây bắc xuống đông nam. Điểm cao nhất của Oklahoma là núi Black Mesa (cao 1516 m), nằm ở vùng tây bắc thuộc cán chảo Oklahoma. Còn điểm thấp nhất của tiểu bang nằm trên sông Little gần biên giới đông nam với độ cao 88 m.
Oklahoma có 4 dãy núi chính: dãy núi Ouachita, dãy núi Arbuckle, dãy núi Wichita và dãy núi Ozark. Vùng cao nguyên trung tâm nước Mỹ, bao gồm dãy núi Ozark và dãy núi Ouachita là vùng miền núi duy nhất nằm giữa dãy núi Rocky và dãy núi Appalachian. Tại Oklahoma có 500 sông và nhánh sông được đặt tên, và 200 hồ nước được tạo ra bởi các đập. Oklahoma có số lượng hồ chứa nhiều nhất toàn liên bang.
Bên cạnh sự đa dạng về địa hình, Oklahoma có tới 11 vùng sinh thái khác nhau. Do sự khác nhau về địa lý giữa miền tây và miền đông Oklahoma, miền đông có tới 8 vùng sinh thái trong khi miền tây chỉ có 3.
Phần lớn tiểu bang Oklahoma nằm trên hai lưu vực chính của sông Red và sông Arkansas, bên cạnh đó còn có sông Lee và sông Little. Ở góc tây bắc, địa hình chủ yếu là các đồng bằng núi cao bán khô hạn xen lẫn các hẻm và vực. Phía tây nam Oklahoma là các đồng bằng nhỏ xen với các dãy núi nhỏ như Antelope Hills và Wichita. Vùng trung tâm tiểu bang là nơi chuyển tiếp giữa đồng cỏ và rừng cây gỗ. Một phần ba phía đông tiểu bang là hai dãy núi Ouachita và Ozark cao dần từ tây sang đông.
Thực vật và động vật
Rừng bao phủ 24% diện tích Oklahoma. Miền tây Oklahoma có khí hậu khô hạn hơn nên thực vật chủ yếu ở đây là các đồng cỏ thân thấp và cây bụi, trong khi đó miền đông Oklahoma lại có nhiều đầm lầy và rừng cây thay lá nhờ lượng mưa cao hơn.
Động vật ở Oklahoma khá đa dạng với nhiều loài như hươu, nai sừng tấm, sói xám, linh miêu đuôi cộc, các loài chim như chim cút, chim bồ câu, chim trĩ, chim giáo chủ, đại bàng, diều hâu đuôi đỏ. Ở những vùng đồng cỏ, bò bison tập trung với số lượng khá đông đúc. Tại Cross Timbers, vùng đất chuyển giao giữa đồng cỏ và rừng thân gỗ ở miền trung Oklahoma có tới 351 loài động vật có xương sống. Miền đông nam Oklahoma cũng có tới 328 loài đông vật có xương sống, với vùng núi Ouachita là nơi sinh sống của nhiều loài động vật như gấu đen, cáo đỏ, cáo xám, rái cá.
Khí hậu
Oklahoma nằm trong đới ôn hòa và chủ yếu là khí hậu lục địa. Phần lớn lãnh thổ bang này nằm trên một vùng gọi là Hành lang Bão tố ("Tornado Alley") kéo dài từ Nam Dakota xuống Texas, nơi thường hay xảy ra những trận lốc xoáy dữ dội. Đây là nơi hội tụ của các luồng không khí khác nhau là luồng không khí lạnh từ phía bắc thổi xuống, luồng không khí ấm và ẩm từ vịnh Mexico thổi lên và luồng không khí khô nóng từ sa mạc phía tây thổi sang, khiến thời tiết Oklahoma luôn biến động và rất khó dự đoán. Lốc xoáy thường xuyên diễn ra và mỗi năm, bình quân Oklahoma phải hứng chịu 54 cơn lốc xoáy, một trong những tỉ lệ cao nhất thế giới. Chính tại thành phố Oklahoma, thủ phủ bang này ngày 3 tháng 5 năm 1999, người ta đã đo được cơn gió có tốc độ mạnh nhất thế giới: 484±32 km/h
Miền đông Oklahoma có khí hậu cận nhiệt đới ẩm nhờ luồng không khí từ vịnh Mexico thổi lên mang theo nhiều hơi nước. Trong khi đó, phía tây Oklahoma lại có khí hậu ôn đới bán khô hạn. Nhiệt độ và lượng mưa giảm dần theo hướng từ đông sang tây. Trong khi miền đông nam Oklahoma có nhiệt độ trung bình năm là 62 °F (17 °C) và lượng mưa là 56 inch (1420 mm) thì vùng cán chảo Oklahoma ở cực tây có nhiệt độ trung bình là 58 °F (14 °C) và lượng mưa là 17 inch (430 mm). Khí hậu Oklahoma tương đối khắc nghiệt, mùa hè nhiệt độ có thể lên đến hơn 100 °F (38 °C) còn mùa đông có thể xuống dưới 0F (-18C). Lượng mưa tuyết giảm dần từ nam lên bắc. Oklahoma là nơi đặt trụ sở Trung tâm Dự báo Bão Quốc gia của Mỹ.
Lịch sử
Những bằng chứng khảo cổ cho thấy những dấu tích của con người ngay từ cuối Thời kỳ Băng hà. Tuy nhiên do khí hậu khắc nghiệt, Oklahoma không có dân cư sinh sống cho đến khi một nhóm người da đỏ đến định cư trong khoảng giữa năm 850 và 1450 sau công nguyên. Năm 1541, nhà thám hiểm người Tây Ban Nha Francisco Vasquez de Coronado đã đi qua Oklahoma. Nhưng sau đó, vùng này lại thuộc về lãnh thổ Louisiana của Pháp trước khi bán lại cho Mỹ vào năm 1803.
Hàng ngàn người thổ dân da đỏ thuộc "Năm bộ lạc văn minh" (Five Civilized Tribes) ở các bang Mississippi, Florida, Alabama, Georgia và Tennessee đã bị chính phủ Mỹ buộc phải rời bỏ quê hương để đến định cư tại vùng đất cằn cỗi Oklahoma trong Cuộc hành trình Nước mắt ("Trail of Tears") trong thập niên 1830. Nhiều người thổ dân da đỏ đã chết trong chuyến hành trình gian khổ và đầy bất công này. Sau khi đến Oklahoma, họ cùng với các dân tộc da đỏ bản địa Osage và Quapaw tạo nên một vùng đất chỉ dành riêng cho người da đỏ, được gọi là Vùng lãnh thổ Người da đỏ ("Indian Territory"). Vùng lãnh thổ này được chính phủ Mỹ hứa không xâm phạm. Đến năm 1890, đã có 30 bộ tộc da đỏ sinh sống tại đây.
Tuy nhiên sự mở rộng đất đai của người da trắng đã dẫn đến Đạo luật Dawes năm 1887 cho phép người da trắng được vào Oklahoma định cư. Một nửa lãnh thổ của Oklahoma được mở cửa cho những đoàn di dân mới đến hoặc được mua bởi công ty đường sắt. Những cuộc "land run" để người da trắng chạy đua vào chiếm đất được tổ chức, trong đó có cuộc chạy đua chiếm đất năm 1889. Trước giờ khai cuộc, một số người khôn ngoan hơn đã vượt giới tuyến vào cắm mốc trước tại những vùng đất nhiều lợi thế. Do đó, Oklahoma ngày nay có biệt hiệu là Bang Người đến sớm ("Sooner State").
Tiếp theo, Đạo luật Curius đã bãi bỏ hoàn toàn quyền lợi pháp lý của người thổ dân da đỏ. Ngày 16 tháng 11 năm 1907, Oklahoma chính thức trở thành tiểu bang thứ 46 của Hoa Kỳ.
Những mỏ dầu đầu tiên với trữ lượng lớn đã nhanh chóng được khai thác tại Oklahoma, mang lại sự hưng thịnh cho nền kinh tế tiểu bang. Thành phố Tulsa trở thành "thủ đô dầu khí của thế giới". Năm 1927, một thương nhân ở Oklahoma là Cyrus Avery đã phát động việc xây dựng Quốc lộ 66, con đường giao thông huyền thoại xuyên nước Mỹ.
Mặc dù Luật Jim Crow và có sự hiện diện của tổ chức phân biệt chủng tộc Ku Klux Klan, thành phố Tulsa vẫn có một trong những cộng đồng người da đen thịnh vượng nhất nước Mỹ. Thế nhưng vào năm 1921, cuộc Bạo động Chủng tộc Tulsa bùng nổ khiến 300 người chết và gây thiệt hại 1,8 triệu USD. Đến cuối thập niên 1920, các hoạt động của tổ chức phản động 3K phần lớn đã bị hạn chế.
Thập niên 1930, trận Bão Bụi ("Dust Bowl") xảy ra. Suốt nhiều năm liền, trời không có một giọt mưa, thời tiết khô hạn và những trận bão bụi mịt mù đã tàn phá nền nông nghiệp của Oklahoma và một số tiểu bang khác như Kansas, Texas, New Mexico và đẩy hàng ngàn nông dân đến chỗ phá sản, phải tìm đường sang miền tây nước Mỹ lập nghiệp. Trong suốt 20 năm, dân số của Oklahoma sụt giảm liên tục. Cuối cùng thời kỳ đen tối này kết thúc vào thập niên 1950 khi những dự án xây đập nước được tiến hành. Vào thập niên 1960, Oklahoma có 200 hồ nước nhân tạo, nhiều nhất liên bang. Hàng ngàn hồ chứa nước được xây dựng đã giúp phục hồi nền nông nghiệp Oklahoma nói riêng và toàn bộ kinh tế Oklahoma nói chung.
Năm 1995, Oklahoma chứng kiến vụ khủng bố kinh hoàng nhất nước Mỹ trước ngày 11 tháng 9 năm 2001. Cao ốc Alfred P. Murrah tại thành phố Oklahoma bị hai tên khủng bố Timothy McVaigh và Terry Nichols đặt bom đánh sập, khiến 168 người chết, trong đó có 19 trẻ em. McVeigh sau đó đã bị xử tử hình còn Nichols thì nhận án tù chung thân không ân xá.
Kinh tế
Kinh tế Oklahoma chủ yếu dựa trên các ngành hàng không, năng lượng, phương tiện giao thông vận tải, chế biến thực phẩm, điện tử và viễn thông. Bang này sản xuất một lượng lớn dầu khí, máy bay và thực phẩm cho nước Mỹ. Từ năm 2000 đến năm 2006, tổng sản phẩm nội địa của Oklahoma đã tăng gấp rưỡi, mức tăng cao thứ 5 liên bang. Năm 2006, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Oklahoma tăng nhanh nhất nước Mỹ, tới 10,8%. Tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người là 9,7% từ 34.305 USD năm 2005 lên 37.620 USD năm 2006.
Một trong những ngành công nghiệp đóng góp nhiều nhất cho kinh tế Oklahoma là ngành hàng không, mang lại 11 tỉ USD mỗi năm. Tulsa là trung tâm sản xuất và bảo trì máy bay của thể giới, trong đó có hãng American Airlines. Ngành hàng không đóng góp khoảng 10% sản lượng công nghiệp của Oklahoma. Bên cạnh đó, các ngành công nghệ sinh học, chế biến thực phẩm, chế tạo máy… cũng đóng góp quan trọng vào nền kinh tế tiểu bang.
Về năng lượng, Oklahoma là nhà sản xuất khí đốt lớn thứ nhì và dầu thô đứng thứ năm nước Mỹ. Bang này cũng đứng thứ năm về trữ lượng dầu thô. Mặc dù có nhiều điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển các nguồn năng lượng sạch, đặc biệt là năng lượng từ gió nhưng 96% năng lượng của Oklahoma vẫn lấy từ các nguồn năng lượng không tái sinh, trong đó 64% từ than và 32% từ khí đốt. Ngành công nghiệp dầu mỏ đóng góp cho Oklahoma 23 tỉ USD mỗi năm và cung cấp hàng ngàn việc làm thu nhập cao cho người dân.
Oklahoma đứng thứ 27 nước Mỹ về sản lượng nông nghiệp. Bang này đều xếp thứ năm về sản lượng thịt gia súc và lúa mì toàn liên bang. Oklahoma chiếm 5,5% sản lượng thịt bò, 6,1% lúa mì, 4,2% sản lượng thịt lợn, 2,2% các sản phẩm từ sữa của nước Mỹ.
Văn hóa
Theo phân loại của Cục Thống kê Hoa Kỳ, Oklahoma thuộc về miền Nam Hoa Kỳ. Đây là bang có tỉ lệ người gốc Đức và người da đỏ bản địa khá cao, và có tới 25 ngôn ngữ bản địa được nói tại Oklahoma, nhiều hơn bất cư một tiểu bang nào khác. Cư dân Oklahoma nổi tiếng với tinh thần phóng khoáng, hào hiệp.
Tại những vùng đô thị lớn của tiểu bang, nhạc jazz phát triển mạnh mẽ song song với các loại hình âm nhạc đặc sắc của người da đỏ bản địa, người México và người châu Á. Oklahoma Mozart Festival tại Bartesville là một trong những lễ hội âm nhạc cổ điển lớn nhất miền nam nước Mỹ. Tại Oklahoma có tới trên 300 viện bảo tàng với nhiều chủ đề khác nhau, trong đó đáng chú ý nhất là Bảo tàng Philbrook tại Tulsa được xếp hạng trong top 50 bảo tàng mĩ thuật đẹp nhất nước Mỹ.
Ngày 16 tháng 11 năm 2007, lễ hội kỷ niệm 100 năm ngày gia nhập liên bang của Oklahoma được tổ chức với hàng loạt lễ hội đa dạng khác nhau. Những lễ hội và sự kiện lớn được tổ chức hàng năm tại hầu hết các địa phương trên cả bang, bao gồm những lễ hội của người Scotland, người Ý, người Việt Nam, người Ireland, người Czech, người Do Thái và người Mỹ gốc Phi. Oklahoma là nơi tập trung rất đông thổ dân da đỏ tại Mỹ và hàng năm họ có lễ hội "pow-wows" rất nổi tiếng. Năm 2006, lễ hội Oktoberfest tại Tulsa được bình chọn là một trong những lễ hội ẩm thực Đức ẩn tượng nhất cả nước.
Nhân khẩu
Người Mỹ gốc Đức tại Oklahoma tập trung chủ yếu tại vùng tây bắc của tiểu bang, trong khi người gốc Anh và Scotland lại chiếm ưu thế tại thành phố Tulsa. Người da đen tập trung đông tại Lawton và thành phố Oklahoma và có một khu vực lịch sử Greenwood dành cho người da đen tại trung tâm thành phố Tulsa. Trong khi Pittsburg có đông người gốc Ireland và vùng bắc có người gốc Thụy Điển thì phía đông lại là nơi tập trung các cộng đồng người gốc Ý và Slav (Ba Lan, Nga, Ukraina, Séc và Slovakia).
Thành phố Oklahoma là nơi tập trung nhiều người gốc Á nhất tiểu bang, trong đó chủ yếu là người Việt Nam đến định cư vào thập niên 1980. Người Việt Nam chiếm tới 1,6% dân số thành phố Oklahoma, bên cạnh các sắc dân gốc Á khác như Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines.
Các hạt miền tây Oklahoma lại có một số lượng lớn người dân gốc México nhập cư làm nhân công và nhóm dân này đang có xu hướng gia tăng nhanh chóng. Người Mỹ gốc Arab chủ yếu đến từ Iran và nhập cư vào Mỹ trong khoảng thập niên 1970, tập trung tại Tulsa và thành phố Oklahoma.
Về tôn giáo, phần lớn người dân Oklahoma theo đạo Tin lành. Phân bố chủng tộc của Oklahoma trong năm 2005 như sau:
Người da trắng: 82,20%
Người da đen: 8,55%
Người da đỏ: 11,31%
Người gốc Á: 1,92%
Người các đảo Thái Bình Dương: 0,16%
Người latinh (Hispanic) thuộc mọi sắc tộc trên: 6,78%
Chính trị
Toàn bộ tiểu bang Oklahoma được chia thành 77 hạt.
Mặc dù có số lượng cử tri thuộc Đảng Dân chủ cao hơn so với Đảng Cộng hòa tới 11,6%, song Oklahoma lại có truyền thống bỏ phiếu cho Đảng Cộng hòa. Bang này đã liên tục bỏ phiếu cho các ứng cử viên Cộng hòa từ năm 1968 đến nay. Trong cuộc bầu cử tổng thống giữa nhiệm kỳ năm 2004, tổng thống George W. Bush đã giành chiến thắng tại Oklahoma với số phiếu áp đảo 65,6%. Một số đảng phái khác cũng có ảnh hưởng mạnh ngoài Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ là Đảng Tự do Oklahoma, Đảng Xanh Oklahoma và Đảng Hiến pháp Oklahoma.
Theo thống kê nhân khẩu năm 2000, số lượng đại diện của Oklahoma tại Hạ viện Hoa Kỳ giảm từ 6 xuống còn 5 đại biểu, trong đó 4 người thuộc Đảng Cộng hòa còn 1 người thuộc Đảng Dân chủ. Còn tại Thượng viện Hoa Kỳ, hai đại diện của Oklahoma đền thuộc Đảng Cộng hòa. |
Chiều ngoại ô Moskva, hay Chiều Moskva, là tên một bài hát tiếng Nga (Подмосковные Вечера) rất trữ tình, nổi tiếng trong và ngoài nước Nga, được rất nhiều người Việt, nhất là ở miền Bắc Việt Nam biết và yêu thích.
Tác giả và tên gọi
Bài hát do nhạc sĩ Vasily Solovyov-Sedoy soạn nhạc, phần lời của Mikhail Matusovsky sáng tác nhưng họ không thống nhất về tên bài hát. Solovyov-Sedoy, nhạc sĩ từ Leningrad tới, cho rằng bài hát cần phải được đặt tên là "Chiều Leningrad" thì đúng hơn là "Chiều Mát-xcơ-va".
Ban đầu, bài hát được viết làm nhạc cho một bộ phim tài liệu về một sự kiện thể thao lớn ở Liên Xô hồi cuối những năm 50 của thế kỷ 20.
Bài hát lấy lại tên vào năm 1955, khi diễn viên trẻ của Nhà hát Nghệ thuật Moskva Vladimir Troshin thu âm cho một bộ phim về thể thao.
Ảnh hưởng
Chiều Moskva là ca khúc được viết "theo đơn đặt hàng" làm nhạc nền cho phim và khi mới xuất hiện lần đầu theo phim thì đều chẳng mấy ai quan tâm.Chiều Moskva, khởi đầu, người ta đặt tên cho nó là Đêm Leningrad được viết làm nhạc cho một bộ phim tài liệu về một sự kiện thể thao lớn ở Liên Xô hồi cuối thập niên 50 thế kỷ 20. Nhưng điều bất ngờ là sau đó, khi hai ca tình khúc trên lần lượt được giới thiệu trên làn sóng phát thanh, thì đều thu hút được sự yêu thích đặc biệt của thính giả và thành công ngoài sự mong đợi của những người sáng tác ra chúng.
Năm 1957, Chiều Moskva đã giành giải trong một cuộc thi ca khúc quốc tế và giành giải nhất tại Festival Thanh niên và Sinh viên Thế giới tổ chức tại Moskva. Chiều Moskva đã nhanh chóng phổ biến khắp thế giới, được đặc biệt ưa thích ở Trung Quốc. Ngay trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, nghệ sĩ piano nổi tiếng người Mỹ Van Cliburn từng trình diễn Chiều Moskva nhiều lần...
Chiều Moskva là một trong những ca khúc được đề nghị phát thanh nhiều nhất theo thư yêu cầu của thính giả Liên Xô trước đây. Từ năm 1964, giai điệu bài ca này được lấy làm nhạc hiệu của Đài Phát thanh Tin tức và Âm nhạc Mayak (Hải đăng) ở Liên Xô.
Năm 2004, ca sĩ người Bỉ Helmut Lotti đã gây ấn tượng với thế giới khi anh trình diễn bản tiếng Anh của ca khúc này, dưới tựa đề Moscow Nights, trong album From Russia With Love.
Khi về tới Việt Nam Chiều Moskva đã trở thành bài hát Nga "đi cùng năm tháng" cùng với những tình khúc nổi tiếng khác như Kachiusa, Triệu bông hồng, Kalinka,... Chiều Moskva đã gắn bó với tên tuổi các ca sĩ như: Trung Kiên, Quang Thọ, Bích Việt, Quang Huy...
Lời Việt
Theo tác giả Đỗ Trọng Nga: Đã nửa thế kỷ qua, tên người dịch bản tiếng Việt của Chiều Moskva là một bí ẩn và bản dịch, dù được rất nhiều người thuộc lòng, cho đến nay vẫn bị coi là "khuyết danh". Từng có nhiều ý kiến cho rằng ca sĩ, Nghệ sĩ Nhân dân Trung Kiên là tác giả phần lời tiếng Việt, song chính ông phủ nhận. Dịch giả Dương Tường thì đoán đó có thể là Ngô Vĩnh Viễn (1924-1994) - người có mặt tại Festival Thanh niên và Sinh viên Thế giới tổ chức tại Moskva năm 1957. Ông Viễn, bút danh Nguyễn Vĩnh, từng dịch một số tác phẩm văn học nổi tiếng của thế giới sang tiếng Việt, như Chuông nguyện hồn ai, Truyện ngắn O. Henry...Tuy nhiên, theo Đặng Vương Hưng, người đầu tiên dịch Chiều Moskva ra tiếng Việt là ông Vương Thịnh (1934-2010), nguyên Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế - Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch Việt Nam. Sinh năm 1934 quê tại Bắc Giang, ông Vương Thịnh từng là một cựu chiến binh của Đại đoàn 308 từ 1949. Những năm 1951-1954, ông là Học viên thiếu sinh quân tại Trung Quốc. Ông cũng là một trong hàng trăm học viên Việt Nam được học lớp Nga ngữ đầu tiên ở Moskva những năm 1954-1956. Ông dịch lời Việt bài hát này đầu thập kỷ 60 của thế kỷ 20, sau khi từ Liên Xô trở về nước. Vương Thịnh đã tự dịch ca khúc Chiều Moskva đang nổi tiếng hồi đó ra tiếng Việt. Sau đó, ông còn cộng tác với Cao Thụy (sau là Đạo diễn điện ảnh) dịch tiếp ca khúc Đôi bờ. Bản dịch Chiều Mát-xcơ-va của ông (cùng Đôi bờ (bài hát)) được in thành tờ gấp khổ nhỏ, phát hành hàng ngàn bản ở miền Bắc Việt Nam và nhanh chóng được người yêu âm nhạc Việt Nam đón nhận.
Nguồn tham khảo |
6000 (sáu nghìn, hay sáu ngàn) là một số tự nhiên ngay sau 5999 và ngay trước 6001.
Một số số nguyên trong khoảng từ 6000 đến 6999
6174: Hằng số Kaprekar |
Sở (chữ Hán: 楚國), đôi khi được gọi Kinh Sở (chữ Hán: 荆楚), là một chư hầu của nhà Chu tồn tại thời Xuân Thu Chiến Quốc kéo đến thời Hán-Sở. Cương vực của quốc gia này án ngữ khoảng dọc sông Hoài Hà và Dương Tử.
Suốt dọc lịch sử, Sở tận dụng được địa thế núi non hiểm trở cận Tây để thôn tính dần 45 phiên khác ở bình nguyên Hoa Trung, có lúc lấn át cả thiên tử, dẫu vậy vẫn duy trì hình thái phong kiến chứ không chuyển hóa sang tập quyền. Quốc tính của Sở là họ Mị.
Trong thời kỳ hưng thịnh nhất của mình, Sở có lúc lấn át cả thiên tử nhà Chu và các chư hầu Xuân Thu-Chiến Quốc hùng mạnh còn lại. Những thần dân cũ của nước Sở trước khi bị nước Tần (thời Tần Thủy Hoàng) thôn tính như là Hạng Vũ, Lưu Bang và Hàn Tín đều đóng một vai trò rất quan trọng trong lịch sử Trung Quốc cổ đại bởi họ có ảnh hưởng quyết định trong những sự kiện mang tính bước ngoặt: sự sụp đổ sớm của nhà Tần (hay đế quốc Tần), chiến tranh Hán-Sở và sự ra đời của nhà Hán (hay đế quốc Hán). Vậy là triều Hán (mà từ đó ra đời các tên gọi phổ biến theo sau như Hán tộc "Hànzú", Hán nhân "Hànrén", Hán tự "Hànzì", Hán ngữ "Hànyǔ") đã được khai sinh bởi những người Sở cũ là Lưu Bang và Hàn Tín.
Lịch sử
Thủy tổ
Theo Sử Ký, mục Sở thế gia thì tổ tiên của quốc vương Sở là Xứng con trai Chuyên Húc, một trong Ngũ Đế trong huyền sử Trung Quốc. Xứng sinh Quyển Chương, Quyển Chương sinh Trọng Lê và Ngô Hồi, 2 anh em có công dẹp loạn Cộng Công nên thay nhau giữ chức hỏa chính thời Đế Cốc Cao Tân thị với danh hiệu Chúc Dung. Ngô Hồi sinh Lục Chung, Lục Chung sinh 6 trai: Côn Ngô, Tham Hồ, Bành Tổ, Hội Nhân, Tào An và Quý Liên. Côn Ngô được nhà Hạ phong hầu nhưng đời sau bị vua Thành Thang nhà Thương diệt, Bành Tổ cũng được Đại Bành thị quốc nhưng đời sau bị vương hậu Phụ Hảo của vua Vũ Đinh nhà Thương đánh bại. Quý Liên lấy họ Mị được xem là thủy tổ của các vua Sở sau này.
Triều đại
Thụ phong ở đất Kinh
Tổ tiên của Sở là Dục Hùng, được cử đi cai quản khu vực ở phía Nam Triều Ca , giữ chức quan trong triều Thương. Dục Hùng đổi thành họ Hùng. Dục Hùng từng là thầy dạy học của Chu Văn Vương, có công trong việc tiêu diệt nhà Thương, nên con ông là Hùng Lệ và cháu ông là Hùng Cuồng đều được phong quan trong triều Chu. Đến đời Hùng Dịch thì được Chu Thành Vương phong cho đất Kinh, làm chư hầu kiến quốc, tước hiệu là Sở tử. Từ thời điểm đó, Sở chính thức trở thành nước chư hầu của nhà Chu. Đất Kinh còn gọi là Kinh Sở, hay Sở quốc. Kinh đô nước Sở ban đầu đặt tại Đan Dương.
Xưng vương lần thứ nhất
Đất tổ ở nam Trường Giang (thuộc phía đông nam tỉnh Hồ Bắc ngày nay), nước Sở nằm ngoài các cuộc tranh chấp tại Trung nguyên, tự do phát triển thế lực ở phương Nam bằng các thành công trong những chiến dịch quân sự mở rộng lãnh thổ. Sở nổi tiếng vì khả năng ép buộc và thu hút các nước khác gia nhập liên minh với họ. Từ một nước độc lập nhỏ ban đầu, Sở phát triển trở thành một đế chế rộng lớn và giàu mạnh so với chư hầu. Đầu tiên, Sở củng cố quyền lực bằng cách thu hút các nước chư hầu nhỏ hơn thành các nước phụ dung của họ ở vùng Hồ Bắc; sau đó họ mở rộng ra phía bắc về phía Đồng bằng Hoa Bắc.
Đến thời Sở Hùng Cừ (khoảng năm 877 TCN), nhà Chu cũng bước vào giai đoạn suy yếu, mà nước Sở tiếp tục lớn mạnh. Để chứng tỏ uy thế, Hùng Cừ phong cho người con trưởng là Hùng Vô Khang làm Câu Nghi Vương, người con thứ là Hùng Chí Hồng làm Ngạc Vương và người con út là Hùng Chấp Tỳ là Việt Chương Vương. Bấy giờ ông Chu Công có câu nói: " Nhung Địch thị ưng, Kinh Thư thị trừng " tức quân Nhung Địch phải dẹp yên, quân Kinh Thư - tức quân nước Sở - phải trừng phạt " là ý muốn dẹp nước Sở trong giai đoạn này vậy. Như vậy, Sở là nước chư hầu nhà Chu đầu tiên ở Trung Nguyên tự xưng tước vương.
Sang đến thời Việt Chương vương Chấp Tì lên ngôi (sau đổi tên là Hùng Duyên), nhà Chu chuẩn bị đem quân trừng phạt nước Sở dám tự ý xưng vương. Hùng Duyên sợ nhà Chu còn mạnh, đành thôi không xưng vương nữa, sai sứ sang nhà Chu nộp cống cỏ mao như cũ, bỏ vương hiệu, tự xưng là tử như cũ nên nhà Chu không đưa quân chinh phạt Sở nữa. Lần xưng vương thứ nhất cũng đánh dấu sự hùng mạnh nhanh chóng của Sở trong thời Tây Chu.
Từ đời Sở Hùng Duyên, niên đại của các quân chủ nước Sở mới được ghi chép rõ rằng trong sử sách.
Nội loạn trong dòng tộc
Từ đời Chấp Tì truyền thêm ba đời nữa thì tới Sở Hùng Nghiêm. Hùng Nghiêm có bốn người con trai là Hùng Sương (熊霜) hay Bá Sương (伯霜), Hùng Tuyết (熊雪) hay Trọng Tuyết (仲雪), Hùng Kham (熊堪) hay Thúc Kham (叔堪), và Hùng Tuấn (熊徇) hay Quý Tuấn (季徇). Sau này, Hùng Nghiêm truyền ngôi cho con trưởng Hùng Sương nhưng ông này chỉ làm vua 6 năm thì mất. Nội bộ nước Sở lại phát sinh tranh chấp quyền lực. Cuối cùng, Hùng Tuấn đánh bại được hai anh, tự lập làm vua, còn Hùng Tuyết tự sát, Hùng Kham bỏ trốn. Ngôi vua của nước Sở được chuyển qua ngành thứ của Hùng Tuấn.
Tranh bá Trung Nguyên
Xưng vương lần thứ hai
Sang thời Đông Chu thế lực nhà Chu ngày càng suy do sự xâm lấn của Nhung Địch, buộc phải thiên về Lạc Ấp. Nước Sở ở xa Trung Nguyên nên sự ràng buộc với nhà Chu cũng lỏng lẻo. Đến năm 706 TCN, vua Sở là Hùng Thông (741 TCN-690 TCN) nhận thấy tổ tiên mình là thầy của Chu Văn vương, mà thế lực của mình hơn hẳn các nước Trung Nguyên nên không hài lòng với tược vị tử nữa. Hùng Thông dùng chính sách chinh phạt các chư hầu khác để tạo uy thế ép nhà Chu nâng tước phong cho mình. Năm 704 TCN, Hùng Thông mời các chư hầu là Ba, Dung, Bộc, Đặng, Giảo, La, Chẩn, Thân, Giang… đến dự hội chư hầu ở đất Lộc thuộc lãnh thổ của Sở. Thấy nước Tùy và nước Hoàng không đến dự, Hùng Thông bèn sai sứ đến trách cứ nước Hoàng và tấn công nước Tùy, buộc vua Tùy giảng hòa và quy phục.
Năm 704 TCN, Hùng Thông tự làm lễ xưng vương hiệu, tức Sở Vũ vương bất chấp sự phản đối của vua nhà Chu. Từ đấy, nước Sở duy trì tước vương đến tận lúc diệt vong.
Sau khi xưng vương, Hùng Thông ra sức khuếch trương thế lực, lần lượt tiêu diệt các chư hầu là Mi, Lô, La, trở thành bá chủ cả một miền Hoa Nam.
Dời đô đến đất Dĩnh
Sau khi Hùng Thông qua đời, con là Hùng Xi lên nối ngôi (Sở Văn vương), thế lực của Sở vẫn cường thịnh. Hùng Xi dời đô sang đất Dĩnh và mở rộng thế lực lên vùng Trung Nguyên, diệt các nước Tức, Thân, Đặng và đánh nước Sái, bắt được vua của Sái.
Bước sang thời Sở Thành vương (672 TCN-626 TCN), dưới sự lãnh đạo cải cách của lệnh doãn (tướng quốc) Tử Văn, Sở bước sang một giai đoạn mới: tiến lên tranh bá với các nước ở Trung Nguyên. Sau những thất bại ban đầu trước nước bá chủ vào thời điểm đó là Tề, cuối cùng, năm 637 TCN, khi Tề đã suy yếu, Sở đã đạt được mục đích của mình khi đánh bại đối thủ tranh bá là Tống trong trận Hoằng Thủy. Thắng lợi này là một bước quan trọng trên con đường xưng bá của Sở.
Tuy nhiên sau đó, nước Tấn ở miền Tây Bắc cũng đang trên đà lớn mạnh và cũng có tham vọng tranh bá. Cuối cùng, quân đội hai nước cũng đã bước vào trận chiến tranh giành ngôi bá với nhau và Tấn đã chiến thắng khi vượt qua Sở ở trận Thành Bộc, qua đó chính thức bước lên ngôi bá chủ. Trận đánh này cũng đã mở đầu cho 100 năm tranh hùng giữa hai nước Tấn và Sở.
Sở Trang vương xưng bá
Sau nhiều lần giao tranh với Tấn, Sở cũng đã bước lên được ngôi bá chủ ở Trung Nguyên dưới thời Sở Trang vương (614 TCN-591 TCN). Ở giai đoạn này, Sở Trang vương thi hành chính sách của Tôn Thúc Ngao, phát triển cả về văn hóa lẫn quân đội. Sử ký có ghi lại sự kiện vào năm 606 TCN, Sở Trang Vương mang quân đánh ngoại tộc Nhung, đóng quân khắp một dải Lạc Thủy. Thế lực hùng mạnh, vua Sở sai người hỏi lấy chín đỉnh - vốn là vật linh thiêng trong tông miếu của nhà Chu, tượng trưng cho quyền lực của thiên tử. Chu Định vương phải sai Vương Tôn Mãn đi lựa lời từ chối, quân Sở mới rút đi.
Năm 597 TCN, thời cơ của Sở đã đến. Sở Trang vương đem quân đánh nước Trịnh là thuộc quốc của Tấn, buộc Trịnh phải quy phục. Sau đó, quân Tấn mới đến cứu Trịnh và giao chiến với quân Sở ở trận Bật. Cuối cùng, quân Sở đánh tan được quân Tấn, giành được quyền bá chủ. Các nước chư hầu lớn như Trần, Sái, Hứa, Trịnh đều quy phục, tôn Sở Trang vương làm minh chủ.
Năm 595 TCN. Sở lại đem binh đánh nước Tống. Quân Tấn không đủ sức đến cứu, khiến Tống đành phải giảng hòa với Sở và cùng hội thề. Từ chiến thắng này, phần lớn các chư hầu Trung Nguyên (trừ một số nước lớn hay ở xa như Tấn, Tề, Lỗ) đều phải thần phục Sở. Sở Trang vương trở thành một trong Ngũ bá của thời Xuân Thu.
Cùng xưng bá với Tấn
Sau khi Sở Trang vương qua đời, thế lực của nước Tấn cũng phục hồi và lại tiếp tục tranh giành ngôi bá chủ với Sở, và Sở đã thất bại trong trận Yển Lăng năm 575 TCN, qua đó mất đi uy thế với các chư hầu khác ở Trung Nguyên.
Năm 546 TCN, do sự sắp đặt của đại thần nước Tống là Hướng Tuất, Tấn và Sở quyết định giảng hòa với nhau để cùng làm bá chủ. Cùng năm đó, hai vị tướng quốc của Tấn và Sở là Triệu Vũ và Khuất Kiến đã triệu tập 14 nước chư hầu là Tấn, Sở, Tề, Tần, Tống, Lỗ, Trịnh, Vệ, Trần, Sái, Tào, Hứa, Chu, Đằng đến hội ở đất Tống cùng lập minh ước. Theo đó, ngoại trừ Tề, Tần là hai nước lớn, các nước còn lại chia nhau làm thuộc quốc của Tấn và Sở, ngôi vị bá chủ do hai nước Tấn, Sở thay nhau nắm giữ. Cuộc hội thề này đã chấm dứt thời đại tranh hùng với Tấn gần 100 năm của Sở.
Thời kì tạm suy yếu
Tranh chấp nội tộc
Sau khi chấm dứt thời kì chiến tranh giành ngôi bá, thì nội loạn lại phát sinh ở Sở, cộng thêm nước Ngô ở phía đông phát triển cường thịnh, làm thế lực của Sở suy yếu hơn trước. Trong 12 năm từ 541 TCN đến 529 TCN, ngôi quốc vương của Sở đã thay đổi đến 4 lần. Sở Giáp Ngao (con Sở Khang vương, trị vì từ 544 TCN-542 TCN) vừa lên ngôi được ba năm thì bị chú là công tử Vi đoạt ngôi và giết chết. Công tử Vi tự xưng là Sở Linh vương. Sở Linh vương ra sức phô trương thế lực, đánh và diệt hai nước Trần, Sái, gây chiến với nước Ngô. Tuy nhiên đến năm 529 TCN, khi ông tiến hành chiến tranh với nước Từ thì ở kinh đô, ba người em là công tử Bỉ, công tử Hắc Quang và công tử Khí Tật nổi dậy. Sở Linh vương cùng đường, phải tự tử. Sau đó, công tử Bỉ vừa lên ngôi được 3 tháng cũng bị em là Khí Tật đoạt ngôi, tức Sở Bình vương (529 TCN-516 TCN). Nội loạn nước Sở chấm dứt với việc ngôi vua chuyển về ngành thứ, nhưng kèm theo đó là họa ngoại xâm từ phía đông cũng bắt đầu đe dọa đến Sở.
Chiến tranh với Ngô
Từ thời Sở Cung vương (590 TCN-561 TCN, cha Sở Bình vương), thế lực nước Ngô đã phát triển, vua Ngô là Ngô Thọ Mộng tự xưng vương. Kể từ đó, Ngô và Sở lại xảy ra chiến tranh. Chỉ riêng trong thời Sở Bình vương, hai nước đã đánh nhau tới 4 lần. Sang thời Sở Chiêu vương thì con số này là 7. Trong những trận giao tranh đó, quân nước Ngô thường tỏ ra thắng thế, chiếm được đất đai của Sở.
Để phòng tránh sự xâm lấn của Ngô, Sở Bình vương phong cho Nang Ngõa làm lệnh doãn. Nang Ngõa cho xây thành vững chắc để củng cố phòng thủ. Đến khi Sở Bình vương qua đời, con là Sở Chiêu vương (515 TCN-489 TCN lên ngôi khi vừa mới 10 tuổi. Do vua còn nhỏ, Nang Ngõa nắm hết quyền lực điều hành đất nước.
Từ năm 515 TCN đến 509 TCN, Ngô và Sở giao tranh thêm 5 lần, quân Sở hầu như thất bại cả 5. Đến năm 506 TCN, thấy thế lực đã lớn, vua Ngô Hạp Lư thân chinh đánh Sở, tiến vào tận Dĩnh Đô. Sở Chiêu vương phải bôn đào qua nước Tùy. Năm 505 TCN, do sự cầu xin của Phần Mạo Bột Tô (có sách chép là Thân Bao Tư), nước Tần mới đồng ý cử binh giúp Sở, nước Sở mới thu hồi lại được Dĩnh Đô và không bị mất nước.
Tuy đã khôi phục kinh đô, song sức mạnh của Sở cũng đã suy giảm. Để tránh sự xâm lược của quân Ngô, năm 504 TCN, Sở Chiêu vương dời đô từ đất Dĩnh sang đất Nhược, đổi tên lại là Dĩnh.
Lại phát triển cường thịnh
Bắc tiến mở rộng lãnh thổ
Bước sang thời Sở Huệ vương (489 TCN-432 TCN), nước Sở tiến hành cải cách, ổn định đất nước phát triển trở lại. Sau đó, Sở tiến hành chiến tranh nhằm tiêu diệt các chư hầu ở phía bắc để mở rộng lãnh thổ, lần lượt diệt các nước Trần (478 TCN), Sái (447 TCN) và Kỉ (445 TCN), Cử (431 TCN thời Sở Giản vương), làm chủ một vùng rộng lớn đến vùng Tứ Thủy, Giang Hoài.
Biến pháp Ngô Khởi
Bước sang thời Chiến Quốc, nước Sở cùng với một số nước khác thi hành cải cách để phát triển thế lực, dưới sự đề xuất của lệnh doãn Ngô Khởi, cũng là một nhà quân sự nổi tiếng thời Chiến Quốc. Ngô Khởi chủ trương tăng cường sức mạnh quân đội, giảm bớt quyền lực của bọn quý tộc, củng cố thế lực ở phía bắc, giảng hòa với nước Tần ở phía tây, nhờ vậy mà thế lực của Sở nhanh chóng lớn mạnh. Năm 481 TCN, Sở đánh bại quân của nước Ngụy (vốn là một khanh tộc của nước Tấn) là nước chư hầu hùng mạnh nhất vào thời điểm đó. Mặc dù không lâu sau đó, Ngô Khởi bị sát hại, nhưng cuộc cải cách của ông vẫn có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao thực lực của Sở, đưa Sở trở thành một trong bảy nước chư hầu hùng mạnh nhất thời đó (Thất hùng).
Quốc lực cường đại
Thời đại hùng mạnh nhất của Sở là khoảng thời gian trị vì của Sở Uy vương. Dưới thời đại của mình, Sở Uy vương mở rộng thế lực đến tận nước Ba, thôn tính nước Việt ở phía đông, đại thắng quân Tề ở Từ Châu. Sử ký có ghi vài dòng về nước Sở thời này như sau:
"Sở là nước mạnh trong thiên hạ, ở phía tây có quận Kiềm Trung, quận Vu; phía đông có đất Hạ Châu, Hải Dương; phía nam có hồ Động Đình, quận Thương Ngô; phía bắc có cửa ải Hinh, đất Tuần Dương. Đất đai rộng hơn năm nghìn dặm, tướng sĩ mặc áo giáp trăm vạn người, xe nghìn cỗ, ngựa vạn con, thóc gạo đủ chi dùng mười năm. Đó là cái vốn để làm Bá làm Vương".
Khủng hoảng và diệt vong
Sở Hoài vương lưu vong
Sau khi Sở Uy vương qua đời, nước Sở cũng bước vào thời kì suy vong. Vị vua nối ngôi, Sở Hoài vương bước vào tình thế đối đầu với nước Tần hùng mạnh ở phía tây. Cuối cùng, hai nước cũng bước vào trận chiến giành quyền bá vương với nhau vào năm 312 TCN. Mặc dù binh lực của Sở không thua kém Tần, nhưng do sự chuẩn bị chưa tốt nên quân Sở gặp thất bại ở Lam Điền, mất 600 dặm Hán Trung về tay Tần.
Năm 299 TCN, Sở Hoài vương bị vua Tần lừa sang hội rồi bắt giữ, sau chết ở Tần (296 TCN). Nhân nước Sở rối loạn, vua Tần lại đem quân đánh Sở, chiếm được Vũ Quan, và dần tiến vào sâu trong lãnh thổ của Sở. Nước Sở ngày một suy yếu, thất thế không chỉ với Tần mà còn với cả nước Tề ở phía đông.
Năm 286 TCN, Sở liên minh cùng với nước Tề và nước Ngụy, cùng đánh nước Tống, chiếm được một phần lãnh thổ của Tống.
Bị mất Dĩnh đô
Quốc lực của Sở nhanh chóng suy yếu, trong khi nước Tần lại ngày một lớn mạnh. Năm 280 TCN, quân Tần đánh bại được quân Sở, đến năm 278 TCN, tướng Tần là Bạch Khởi dẫn quân chiếm các đất Yên và Lăng, sau đó tràn vào Dĩnh Đô. Trước sức mạnh của quân Tần, quân Sở không chống nổi, Sở vương phải bỏ chạy khỏi Dĩnh Đô, dời về đất Trần. Khu lăng mộ các tiên vương nước Sở bị Bạch Khởi thiêu trụi nên bị đổi gọi là Di Lăng.
Năm 277 TCN, Bạch Khởi chiếm đất đất Vu Trung và đất Kiềm Trung của nước Sở, sáp nhập vào Tần. Nước Sở mất đi toàn bộ miền đất phía tây và trở nên yếu thế trước Tần.
Tranh chấp quyền hành
Bước sang thời Sở Khảo Liệt vương (262 TCN-238 TCN), dưới sự điều hành của lệnh doãn là Hoàng Yết, nước Sở chủ trương mở rộng thế lực về phía đông, thôn tính nước Lỗ ở phía bắc năm 256 TCN. Năm 241 TCN, Sở thiên đô từ đất Trần về vùng Thọ Xuân để tránh xa nước Tần.
Sau khi Sở Khảo Liệt vương qua đời, nội bộ của Sở lại phát sinh tranh chấp. Hoàng Yết trước đó muốn được làm cha vua, đã dâng một người thiếp là Lý thị đã có mang cho vua Sở, được vua Sở sủng ái, người con trai của Lý thị (vốn là con Hoàng Yết) là Hãn được phong làm thái tử.
Năm 238 TCN, Sở Khảo Liệt vương qua đời, người anh của Lý thị là Lý Viên bày kế đặt phục binh trong cung đợi Hoàng Yết vào rồi giết chết, tôn Hãn làm vua, tức Sở U vương (237 TCN-227 TCN. Lý Viên tự xưng là lệnh doãn, điều khiển quốc chính.
Năm 227 TCN, người con thứ của Sở Khảo Liệt vương là Phụ Sô giết chết Lý thị, lên ngôi vua, trả ngôi về cho dòng dõi nước Sở. Những cuộc nội loạn liên tiếp đã làm Sở tiếp tục suy yếu, trong khi Tần lại có kế hoạch thống nhất Trung Quốc.
Bị Tần diệt
Từ năm 231 TCN, nước Tần bắt đầu tấn công và tiêu diệt các nước để thống nhất Trung Quốc, lần lượt diệt Tam Tấn (Hàn, Triệu, Ngụy). Năm 225 TCN, Tần vương Chính cử Lý Tín đưa 20 vạn quân đánh nước Sở. Tướng Hạng Yên đem quân ra trận, đánh tan 20 vạn quân của Lý Tín, buộc Tín rút quân.
Năm 224 TCN, vua Tần lại cử Vương Tiễn đem 60 vạn quân sang đánh Sở. Vua Sở huy động quân lính trong nước ra quyết chiến. Vương Tiễn dùng kế cố thủ không ra đánh làm quân Sở mất hết nhuệ khí, sau đó mới đưa quân ra. Quân Tần đánh cho quân Sở đại bại và phải rút chạy.
Quân Tần tiến vào Thọ Xuân, bắt sống Sở vương Phụ Sô. Hạng Yên bỏ chạy về Lan Lăng (phía nam sông Trường Giang), lại tìm lập người tông thất nước Sở là Xương Bình quân lên ngôi. Năm 223 TCN, Vương Tiễn đuổi theo tiến đánh, Xương Bình quân tử trận. Hạng Yên tuyệt vọng bèn tự vẫn. Nước Sở diệt vong.
Không bao lâu sau khi diệt Sở, Tần vương Chính thống nhất Trung Quốc, tự xưng là Tần Thủy Hoàng lập ra nhà Tần.
Phục quốc cuối đời Tần
Trần Thắng và Cảnh Câu
Sau khi Tần Thủy Hoàng qua đời, nhà Tần ngày một suy yếu. Tháng 7 năm 209 TCN, Trần Thắng, Ngô Quảng khởi nghĩa chống lại nhà Tần. Sau khi đánh chiếm làng Đại Trạch, Trần Thắng đánh lấy đất Kỳ và chia quân làm 2 đường: tự mình đánh phía tây, sai tướng Cát Anh tiến về phía đông. Cát Anh tiến đến Đông Thành, tìm được Tương Cương là dòng dõi vua Sở bèn lập làm Sở Vương, tái lập nước Sở.
Trong khi đó, Trần Thắng cũng liên tiếp giành được thắng lợi trước quân đội nhà Tần chiếm được đất Trần, tự lập làm Trương Sở vương. Như vậy cùng lúc đó có tới hai người tự xưng là vua Sở.
Cát Anh ở Đông Thành nghe tin Trần Thắng tự lập, bèn giết Tương Cương, trở về với Trần Thắng.
Tuy nhiên sau đó Trần Thắng không còn được lòng người, các thủ hạ ly khai, tự lập làm vương. Thủ hạ của Ngô Quảng là Điền Tang nổi dậy giết Quảng, đem đầu dâng cho Trần Thắng. Thắng lập Tang làm Lệnh doãn. Tuy nhiên ít lâu sau, Điền Tang bị tướng Tần là Chương Hàm giết chết, Chương Hàm lại kéo quân đánh đất Trần. Trần Thắng bỏ chạy.
Năm 208 TCN, Trần Thắng bị người đánh xe giết chết, thụy là Ẩn vương. Tướng Tần Gia lập dòng dõi vua Sở là Cảnh Câu làm Sở Giả vương. Giả vương chịu chiêu nạp tướng mới khởi nghĩa là Lưu Bang (tức Hán Cao Tổ sau này). Lúc bấy giờ, con tướng quân Hạng Yên là Hạng Lương khởi nghĩa ở đất Ngô, nghe tin Cảnh Câu tự lập bèn đem quân đánh, giết Sở Giả vương.
Thời Sở Nghĩa Đế
Tháng 6 năm 208 TCN, Hạng Lương tìm được con cháu nước Sở là Mi Tâm, bèn lập lên làm Sở Hoài vương để có danh nghĩa chống Tần. Hoài vương phong Trần Anh làm Thượng trụ quốc, Hạng Lương làm Vũ Tín quân.
Cùng năm đó, tướng Tần là Chương Hàm đem quân đánh nước Tề. Hạng Lương đem quân cứu Tề, bị Chương Hàm đánh bại và giết chết ở Định Đào vào tháng 9.
Nghe tin Hạng Lương chết, Sở Hoài vương chỉnh đốn lại đội ngũ, bàn ra quân đánh Tần và cứu nước Triệu đang bị Chương Hàm vây gắt, ra giao ước với chư hầu:
"Ai vào bình định Quan Trung trước thì sẽ cho người ấy làm vua".
Cuối cùng đạo quân của Lưu Bang vào Quan Trung trước nhưng Hạng Vũ nắm được quyền hành, tự lập làm Sở Bá vương, tôn Hoài vương làm Sở Nghĩa Đế.
Năm 207 TCN, Sở Nghĩa Đế thiên đô về Hu Di, phong cho Lưu Bang làm Vũ An hầu, Lữ Thần làm Tư đồ, cha thần là Thanh làm Lệnh doãn, còn Hạng Vũ được phong làm Lỗ công.
Lưu-Hạng phân tranh
Tháng 4 năm 206 TCN, Hạng Vũ dời Sở Nghĩa đế về Trường Sa, ở Sâm huyện, rồi bí mật sai Cửu Giang vương Kình Bố và Hành San vương Ngô Nhuế sát hại Nghĩa Đế trên sông Trường Giang, tự mình chiếm lấy nước Sở.
Tháng 9 năm 202 TCN, Hạng Vũ bị Lưu Bang đánh bại, bèn tự vẫn ở sông Ô Giang. Chiến tranh Hán-Sở kết thúc kèm theo sự diệt vong của nước Sở. Sau này, Lưu Bang lên làm Hoàng đế, phong cho thủ hạ là Hàn Tín làm Sở vương.
Văn hoá
Ảnh hưởng từ các nền văn hóa khác
Dựa trên những khám phá khảo cổ học, văn hóa Sở ban đầu tương tự với văn hóa nước Triệu. Sau này, văn hóa Sở hấp thu thêm nhiều yếu tố bản xứ khi đất nước mở rộng ra phía nam và phía đông, phát triển một văn hóa riêng biệt so với văn hóa truyền thống của các nước chư hầu bắc Chu.
Những đồ vật dùng trong tang lễ buổi đầu nước Sở chủ yếu gồm các chậu đồng theo kiểu Chu. Những mộ Sở sau này, đặc biệt ở giai đoạn Chiến Quốc, chứa đựng những đồ vật khác biệt mang đặc trưng Sở như những đồ sơn mài, sắt và tơ lụa, cùng với sự giảm sút những đồ vật làm bằng đồng.
Một yếu tố mang đặc tính nước Sở thường thấy là sự thể hiện những con rắn, rồng và những loài vật giống rắn. Một số nhà khảo cổ học cho rằng nước Sở có lẽ từng có những mối liên hệ văn hóa với nhà Thương trước đó, bởi vì nhiều yếu tố Sở cũng đã xuất hiện sớm hơn ở những địa điểm có nền văn hóa Thương, như các yếu tố thể hiện những vị thần có đuôi rắn.
Lễ nghi và âm nhạc
Văn hóa Sở muộn được biết đến với sự tương đồng của nó với những trình tự nghi thức kiểu pháp sư. Sở cũng nổi tiếng về âm nhạc đặc trưng của mình; các bằng chứng khảo cổ cho thấy âm nhạc Sở khác biệt so với âm nhạc Chu; nhạc Sở có khuynh hướng sử dụng nhiều phong cách biểu diễn khác nhau, cũng như các nhạc cụ đặc hữu; Tại Sở, đàn sắt được ưa chuộng hơn đàn cổ cầm, trong khi cả hai nhạc khí này được sử dụng như nhau tại các nước chư hầu bắc Chu.
Sở có các mối quan hệ thường xuyên với các dân tộc khác ở phương nam, nổi tiếng nhất là các nước Ba, Việt và các nhóm tộc Bách Việt. Nhiều lễ nghi và các đồ vật dùng trong mai táng kiểu Ba và Việt đã được tìm thấy bên trong lãnh thổ Sở, cùng tồn tại với kiểu và đồ dùng mai táng của Sở.
Những vị vua đầu tiên nhà Hán đã lãng mạn hóa văn hóa Sở, khiến xuất hiện một xu hướng nghiên cứu các yếu tố văn hóa Sở như Sở Từ. Sau thời nhà Hán, Sở lại mang tiếng là một nước man rợ; các học giả Khổng giáo không ưa văn hóa Sở, chỉ trích thứ âm nhạc "dâm dật" và những lễ nghi kiểu pháp sư của nó.
Ngôn ngữ
Sau thời gian dài bị Hán hóa, tiếng Sở đến nay đã bị thất truyền. Chỉ có một vài từ Sở còn lại được đến nay, được ghi trong một số thư tịch cổ chữ Hán thời Chiến Quốc. Hiện chưa có một cố gắng thu thập các từ vựng Sở từ các nguồn này một cách có hệ thống . Các chữ được khẳng định là thuộc ngôn ngữ Sở được liệt kê tại Dự án nghiên cứu ngôn ngữ Sở tại Đại học Massachusetts Amherst
Những người đất Sở nổi tiếng
Khuất Nguyên, nhà thơ nổi tiếng thời cổ đại. Ông là một vị quan trong triều và là người yêu nước, ông đã đưa ra ý kiến thống nhất Sở với các nước chư hầu khác để chống lại sự bành trướng của Tần, tuy nhiên không được ai nghe theo; ông bị vua Sở xua đuổi. Theo tục truyền, đau khổ khi biết tin về cuộc xâm lược của Tần, ông đã trầm mình tại sông Mịch La (汩罗江).
Lưu Bang, hoàng đế sáng lập nhà Hán, sinh trưởng trên phần đất thuộc tỉnh Giang Tô ngày nay, vốn là đất Sở thời Chiến Quốc.
Hạng Vũ, một quý tộc nước Sở cũ, nổi dậy và trở thành một thủ lĩnh chống Tần, sau khi đánh tan quân Tần, đã tự xưng là "Tây Sở Bá Vương", là một đối thủ của người sáng lập Hán triều, Lưu Bang. Ông là một vị tướng tài ba trên chiến trường nhưng lại kiêu ngạo nên đã phải chịu thất bại.
Dưỡng Do Cơ, danh tướng dưới thời Sở Trang Vương và Sở Cung Vương (khoảng 600 TCN), nổi tiếng với tài bắn tên. Bên lề trận Yên Lăng năm 575 TCN, lúc trận đánh chưa khai màn, các tướng sĩ tập dượt phía sau trại, ông cho đánh dấu 3 chiếc lá cây dương 1, 2, 3, rồi đứng cách xa 100 bước, lần lượt bắn 3 mũi tên xuyên thủng 3 chiếc lá theo đúng thứ tự. Tài bắn này đã trở nên câu thành ngữ "bách bộ xuyên dương" còn truyền tụng đến ngày nay.
Vương tộc thế phổ
Nước Sở tính từ đời Dục Hùng tới đời Xương Bình quân bị Tần diệt năm 223 TCN gồm có 46 vua. Nước Sở được lập lại cuối thời Tần, truyền được 5 vua nữa, tổng cộng 51 vua. Dưới đây là bảng liệt kê các vị vua nước Sở (theo Sử ký)
! Thứ tự (thế hệ)
! Thụy hiệu
! Tên húy
! Thời gian ở ngôi
! Số năm
! Quan hệ với vua trước
! Ghi chú
|-----
| 1 (1)
| Sở Dục Hùng
| Dục Hùng
|
|
| thầy của Chu Văn vương
|
|-
| 2 (2)
| Sở Hùng Lệ
| Hùng Lệ/Mị Lệ
|
|
| con Dục Hùng
|
|-----
| 3 (3)
| Sở Hùng Cuồng
| Hùng Cuồng/Mị Cuồng
|
|
| con Hùng Lệ
|
|-
| 4 (4)
| Sở Hùng Dịch
| Hùng Dịch (thụ phong ở đất Kinh)
|
|
| con Hùng Cuồng
|
|-----
| 5 (5)
| Sở Hùng Ngải
| Hùng Ngải/Mị Ngải
|
|
| con Hùng Dịch
|
|-
| 6 (6)
| Sở Hùng Đán
| Hùng Đán/Mị Đán
|
|
| con Hùng Ngải
|
|-----
| 7 (7)
| Sở Hùng Thắng
| Hùng Thắng/Mị Thắng
|
|
| con Hùng Đán
|
|-
| 8 (7)
| Sở Hùng Dương
| Hùng Dương/Mị Dương
|
|
| em Hùng Thắng
|
|-----
| 9 (8)
| Sở Hùng Cừ
| Hùng Cừ/Mị Cừ
|
|
| con Hùng Dương
|
|-
| 10 (9)
| Sở Hùng Chí
| Hùng Chí/Mị Chí/Hùng Chí Hồng
|
|
| con Hùng Cừ
|
|-----
| 11 (9)
| Sở Hùng Duyên
| Hùng Duyên/Mị Duyên/Chấp Tì
| ?-848 TCN
|
| em Hùng Chí
|
|-
| 12 (10)
| Sở Hùng Dũng
| Hùng Dũng/Mị Dũng
| 747 TCN-838 TCN
| 10
| con Hùng Duyên
|
|-----
| 13 (10)
| Sở Hùng Nghiêm
| Hùng Nghiêm/Mị Nguyên
| 837 TCN-828 TCN
| 10
| em Hùng Dũng
|
|-
| 14 (11)
| Sở Hùng Sương
| Hùng Sương/Mị Sương/Bá Sương
| 827 TCN - 822 TCN
| 6
| con Hùng Nghiêm
|
|-----
| 15 (11)
| Sở Hùng Tuân
| Hùng Tuân/Mị Tuân/Quý Tuân
| 821 TCN - 800 TCN
| 22
| em Hùng Sương
| giành ngôi với hai anh
|-
| 16 (12)
| Sở Hùng Ngạc
| Hùng Ngạc/Mị Ngạc
| 799 TCN - 791 TCN
| 9
| con Hùng Tuấn
|
|-----
| 17 (12)
| Sở Nhược Ngao
| Hùng Nghi (Mị Nghi)
| 790 TCN - 764 TCN
| 27
| em Hùng Ngạc
|
|-
| 18 (13)
| Sở Tiêu Ngao
| Hùng Khảm/Mị Khảm
| 763 TCN - 758 TCN
| 6
| con Nhược Ngao
|
|-----
| 19 (14)
| Sở Phần Mạo/Sở Lệ vương
| Hùng Thuận/Mị Thuận
| 757 TCN - 741 TCN
| 17
| con Tiêu Ngao
|
|-
| 20 (15)
| Sở Vũ vương
| Hùng Thông/Mị Thông
| 740 TCN - Tháng 3/690 TCN
| 51
| con Phần Mạo
|
|-----
| 21 (16)
| Sở Văn vương
| Hùng Xi/Mị Xi
| 689 TCN - 6/675 TCN TCN
| 15
| con Vũ vương
|
|-
| 22 (17)
| Sở Đổ Ngao
| Hùng Gian/Mị Gian
| 674 TCN - 672 TCN
| 3
| con Văn vương
| bị giết
|-----
| 23 (17)
| Sở Thành vương
| Hùng Uẩn/Mị Uẩn
| 671 TCN - Tháng 10/626 TCN
| 46
| em Đổ Ngao
| tự sát
|-
| 24 (18)
| Sở Mục vương
| Hùng Thương /Mị Thương
| 625 TCN - 614 TCN
| 12
| con Mục vương
|
|-----
| 25 (19)
| Sở Trang vương
| Hùng Lữ (Mị Lữ)
| 613 TCN - 591 TCN
| 23
| con Mục vương
|
|-
| 26 (20)
| Sở Cung vương
| Hùng Thẩm (Mị Thẩm)
| 590 TCN - 560 TCN
| 31
| con Trang vương
|
|-----
| 27 (21)
| Sở Khang vương
| Hùng Chiêu/Mị Chiêu
| 559 TCN - Tháng 9/545 TCN
| 15
| con trưởng Cung vương
|
|-
| 28 (22)
| Sở Giáp Ngao
| Hùng Viên (Mị Viên)
| 544 TCN - 541 TCN
| 4
| con Khang vương
| bị giết
|-----
| 29 (21)
| Sở Linh vương
| Hùng Vi (Mị Vi)
| 540 TCN - 529 TCN
| 12
| con Cung vương
| bị giết
|-
| 30 (21)
| Sở vương Bỉ/Sở Ti Ngao
| Hùng Bỉ/Mị Bỉ
| 529 TCN
| 1
| em Linh vương
| tự sát
|-----
| 31 (21)
| Sở Bình vương
| Hùng Khí Tật/Hùng Cư
| 528 TCN - Tháng 9/516 TCN
| 13
| em Bỉ
|
|-
| 32 (22)
| Sở Chiêu vương
| Hùng (Mị) Trân/Chẩn
| 515 TCN - Tháng 7/489 TCN
| 27
| con Bình vương
|
|-----
| 33 (23)
| Sở Huệ vương
| Hùng Chương (Mị Chương)
| 488 TCN - 432 TCN
| 57
| con Chiêu vương
|
|-
| 34 (24)
| Sở Giản vương
| Hùng Trung (Mị Trung)
| 431 TCN - 408 TCN
| 24
| con Huệ vương
|
|-----
| 35 (25)
| Sở Thanh vương
| Hùng Đương (Mị Đương)
| 407 TCN - 402 TCN
| 6
| con Giản vương
| bị giết
|-
| 36 (26)
| Sở Điệu vương
| Hùng Nghi (Mị Nghi)
| 401 TCN - 381 TCN
| 21
| con Thanh vương
| bị bắn vào thây
|-----
| 37 (27)
| Sở Túc vương
| Hùng Tang (Mị Tang)
| 380 TCN - 370 TCN
| 11
| con Điệu vương
|
|-
| 38 (27)
| Sở Tuyên vương
| Hùng/Mị Lương Phu
| 369 TCN - 340 TCN
| 30
| em Túc vương
|
|-----
| 39 (28)
| Sở Uy vương
| Hùng Thương/Mị Thương
| 339 TCN - 329 TCN
| 11
| con Tuyên vương
|
|-
| 40 (29)
| Sở Hoài vương
| Hùng Hòe (Mị Hòe)
| 328 TCN - 299 TCN
| 30
| con Uy vương
| bị giam ở Tần
|
|-----
| 41 (30)
| Sở Tương vương
| Hùng Hoành (Mị Hoành)
| 298 TCN - 263 TCN
| 36
| con Hoài vương
|
|-
| 42 (31)
| Sở Khảo Liệt vương
| Hùng Nguyên/Mị Nguyên
| 262 TCN - 238 TCN
| 25
| con Tương vương
|
|-----
| 43 (32)
| Sở U vương
| Hùng Hãn/Mị Hãn
| 237 TCN - 228 TCN
| 10
| con Khảo Liệt vương
|
|-
| 44 (32)
| Sở Ai vương
| Hùng Do (Mị Do)
| 228
| 1
| em U vương
| bị giết
|-----
| 45 (32)
| Sở vương Phụ Sô
| Hùng Phụ Sô/Mị Phụ Sô
| 227 TCN - 223 TCN
| 5
| anh Ai vương
| bị bắt
|-
| 46 (32)
| Xương Bình quân
| Hùng Khải (Mị Khải)
| 223 TCN
| 1
| anh Phụ Sô
| tử trận
|-----
| 47
|
| Tương Cương
| 209 TCN
| 1
|
| bị giết
|-
| 48
| Sở Ẩn vương
| Trần Thắng
| 209 - 208 TCN
| 2
| khởi nghĩa nông dân
| bị giết
|-----
| 49
| Sở Giả vương
| Cảnh Câu/Mị Câu
| 208 TCN
| 1
| con cháu nước Sở
| bị giết
|-
| 50
| Sở Nghĩa Đế
| Hùng Tâm/Mị Tâm
| 208 TCN - 206 TCN
| 3
| dòng dõi vua Sở
| bị giết
|----
| 51
| Sở Bá vương
| Hạng Vũ/Hạng Tịch
| 206 TCN - 202 TCN
| 5
|
| tự tử
|}
Thế phả các quân chủ |
Lỗ (Phồn thể: 魯國, giản thể: 鲁国) là một quốc gia chư hầu thời nhà Chu trong thời kỳ Xuân Thu và Chiến Quốc. Lãnh thổ của nó chủ yếu nằm ở phía nam núi Thái Sơn, ở khu vực trung tâm và miền tây nam của tỉnh Sơn Đông ngày nay cùng một phần các tỉnh An Huy, Hà Nam và Giang Tô.
Quốc gia này là dòng dõi Cơ Bá Cầm, con trai của Chu Công Cơ Đán, em trai của Chu Vũ vương và là vị hiền nhân nhiếp chính thời Chu Thành vương. Quốc gia này nổi tiếng vì là nơi sinh ra của Khổng Tử.
Nguồn gốc
Được thành lập vào khoảng năm 1043 TCN, những người trị vì của quốc gia này mang họ Cơ (姬) và được phong tước Công. Họ là anh em họ với các vị Thiên tử nhà Chu. Người cai trị mang tước công đầu tiên là Cơ Bá Cầm, con trai của Chu Công Đán, là em trai Chu Vũ vương và là người nhiếp chính trong thời kỳ trị vì của Chu Thành vương. Khi Chu Công dẹp loạn Vũ Canh, đã đem Yểm quốc (奄国) phong cho Bá Cầm, sau đổi thành Lỗ quốc.
Kinh đô của quốc gia này nằm tại Lỗ Sơn (魯山), Yểm Thành (奄城) rồi Khúc Phụ (曲阜).
Lịch sử
Thuộc dòng dõi nhà Chu, lại vì công lao của Chu Công, các vị quân chủ nước Lỗ được Chu Thành vương ban tư cách giao tế Văn vương, dùng lễ nhạc Thiên tử, cũng vì thế khiến nước Lỗ trở thành Chu thất cường phiên (周室强藩), được sự triều cống của các tiểu quốc như nước Tào, nước Tiết, nước Đằng, nước Đặng, một hiện tượng cực kì hiếm có trong các nước chư hầu đương thời.
Thời Chu Tuyên vương, Lỗ Vũ công có hai người con là trưởng đích Công tử Quát và thứ xuất Công tử Huy, do Tuyên vương thích Cơ Huy nên lệnh cho Vũ công lập Cơ Huy làm Thế tử, tức Lỗ Ý công. Sau Cơ Bá Ngự là con trai Công tử Quát bất bình, mưu giết Ý công mà tự lập làm ngôi, nước Lỗ đại loạn. Chu Tuyên vương sai quân lính đàn áp Bá Ngự, lập người con út của Vũ công là Cơ Xứng lên ngôi, tức Lỗ Hiếu công. Sau sự việc này, uy tín của nhà Chu tại các quốc gia chư hầu bị suy sụp trầm trọng.
Con của Lỗ Hiếu công là Lỗ Huệ công, có con trưởng là Tức Cô đến tuổi thành niên. Ban đầu, Huệ công cưới con gái của Tống Vũ công là Trọng Tử (仲子) cho Tức Cô, sau do Trọng Tử quá xinh đẹp mà Huệ công bèn cướp làm tần phi, Trọng Tử sinh cho Huệ công người con út là Công tử Doãn, bèn lập Doãn làm Thế tử và Trọng Tử làm phu nhân. Khi Huệ công qua đời, do Thế tử còn quá nhỏ, Tức Cô được tôn lên ngôi, tức Lỗ Ẩn Công. Đại phu Vũ Phủ (羽父) khuyên Lỗ Ẩn Công giết em của ông là Cơ Doãn, và xin làm Thái Tể. Lỗ Ẩn công không nghe, ông chủ trương sẽ nhường lại ngôi cho em, vì trước đây Cơ Doãn còn nhỏ quá nên ông mới nhận ngôi vua. Vũ Phủ lo sợ bị giết, bèn chạy sang theo Cơ Doãn, gièm pha với Cơ Doãn và đề nghị hãy giết Ẩn Công. Cơ Doãn đồng tình, ra tay sát hại Ẩn công vào năm 712 TCN khi Ẩn công đi tế. Cơ Doãn lên ngôi tức Lỗ Hoàn công.
Vào thời Xuân Thu, ở biên giới phía bắc của quốc gia này là nước Tề và ở phía nam là nước Sở hùng mạnh. Mặc dù cuộc xâm lăng của nước Tề đã bị đánh bại trong trận chiến Trường Thược năm 684 TCN, trong thời gian trị vì của Lỗ Trang công, nhưng quốc gia này đã suy yếu đi nhiều trong thời kỳ kể từ thời điểm đó trở đi.
Quyền lực chính trị tại nước Lỗ sau đó, kể từ thời Lỗ Hi công, bị chia sẻ giữa ba thế lực lãnh chúa hùng mạnh là Quý Tôn (con cháu Cơ Quý Hữu ở đất Phí), Mạnh Tôn (con cháu Cơ Khánh Phủ ở đất Thành) và Thúc Tôn (con cháu Cơ Thúc Nha ở đất Hậu). Do họ đều là con cháu Lỗ Hoàn công, nên còn được gọi là Tam Hoàn.
Cuối cùng, nước Lỗ bị nước Sở tiêu diệt năm 256 TCN.
Nước Lỗ là quê hương của Khổng Tử. Kinh Xuân Thu (春秋經, còn gọi là Lân Kinh 麟經) đã được viết để ghi chép lại lịch sử nước Lỗ từ thời Lỗ Ẩn công. Một công trình lớn khác về lịch sử Trung Quốc là Tả truyện (左傳), được coi là của Tả Khâu Minh (左丘明) cũng đã được viết ra tại nước Lỗ.
Các vị quân chủ |
North Carolina hay Bắc Carolina () là một tiểu bang ở vùng Đông Nam Hoa Kỳ. Bắc Carolina là bang lớn thứ 28 và đông dân thứ 9 trong số 50 bang của Hoa Kỳ. Tiểu bang này giáp với Virginia về phía bắc, Đại Tây Dương ở phía đông, Georgia và Nam Carolina về phía nam, và Tennessee về phía tây. Raleigh là thủ phủ của bang và Charlotte là thành phố lớn nhất của nó. Vùng đô thị Charlotte, với dân số ước tính là 2.569.213 người vào năm 2018, là vùng đô thị đông dân nhất ở Bắc Carolina, đông dân thứ 23 ở Hoa Kỳ và là trung tâm ngân hàng lớn nhất trên toàn quốc sau Thành phố New York. Khu vực thống kê kết hợp Raleigh-Durham-Cary là khu vực đô thị lớn thứ hai trong tiểu bang, với dân số ước tính là 2.079.687 người vào năm 2019 và là nơi có công viên nghiên cứu lớn nhất ở Hoa Kỳ, Công viên Tam giác nghiên cứu.
North Carolina được thành lập như một thuộc địa hoàng gia vào năm 1729 và là một trong Mười ba Thuộc địa ban đầu. North Carolina được đặt tên để vinh danh Vua Charles I của Anh, người đầu tiên thành lập thuộc địa Anh, với Carolus trong tiếng Latinh có nghĩa là "Charles". Nghị quyết Halifax Resolves được North Carolina thông qua vào ngày 12 tháng 4 năm 1776, là lời kêu gọi chính thức đầu tiên đòi độc lập khỏi Vương quốc Anh trong cuộc Cách mạng Hoa Kỳ. Vào ngày 21 tháng 11 năm 1789, Bắc Carolina trở thành tiểu bang thứ 12 phê chuẩn Hiến pháp Hoa Kỳ. Trước Nội chiến Hoa Kỳ, Bắc Carolina tuyên bố ly khai khỏi Liên minh vào ngày 20 tháng 5 năm 1861, trở thành tiểu bang thứ 10 trong số mười một tiểu bang gia nhập Liên bang miền Nam. Sau Nội chiến, tiểu bang được khôi phục vào Liên bang vào ngày 4 tháng 7 năm 1868. Vào ngày 17 tháng 12 năm 1903, Orville và Wilbur Wright đã lái thử thành công chuyến bay có điều khiển, liên tục đầu tiên trên thế giới của một chiếc máy bay có động cơ, nặng hơn không khí tại Kill Devil Hills ở Outer Banks của North Carolina. North Carolina sử dụng khẩu hiệu "First in Flight" trên biển số xe của bang để kỷ niệm thành tích này, cùng với một thiết kế thay thế mới hơn mang khẩu hiệu "First in Freedom" liên quan đến Tuyên bố Mecklenburg và Halifax Resolves.
Bắc Carolina được xác định với một loạt các điểm cao và cảnh quan. Từ tây sang đông, độ cao của Bắc Carolina giảm dần từ Dãy núi Appalachia đến Piedmont và đồng bằng ven biển Đại Tây Dương. Núi Mitchell ở Bắc Carolina ở độ cao 6.684 feet (2.037m) là điểm cao nhất ở phía đông Bắc Mỹ của sông Mississippi. Phần lớn bang này nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm; tuy nhiên, miền núi phía tây của bang có khí hậu cận nhiệt đới cao nguyên.
Đây là nơi sinh của các Tổng thống James K. Polk (tại Pineville) và Andrew Johnson (tại Raleigh).
Địa lý
North Carolina giáp với South Carolina về phía nam; với Georgia về phía tây nam; với Tennessee về phía tây; với Virginia về phía bắc; và Đại Tây Dương về phía đông. |
Việt (Phồn thể: 越國; Giản thể: 越国), còn gọi là Việt (戉), Ư Việt (於越/於粤), là một chư hầu của nhà Chu thời Xuân Thu và Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Lãnh thổ quốc gia này tương ứng hiện tại ở vùng đất phía nam Trường Giang, ven biển Chiết Giang, Trung Quốc.
Quốc gia này vì vị trí rất xa Trung Nguyên và thường không được ghi chép nổi bật, chỉ được biết đến khi Việt vương Câu Tiễn đánh bại Ngô Phù Sai, cùng các truyền thuyết về nàng Tây Thi. Vào thời Chiến Quốc, quốc gia này bị nước Sở tiêu diệt.
Lịch sử
Các quốc quân nước Việt thuộc dòng dõi thế nào, vẫn còn nhiều tranh cãi, có hai thuyết (1) là hậu duệ Quốc vương nước Sở, (2) là dòng dõi Hạ Vũ, được phong ở đất Cối Kê để lo việc phụng thờ. Nước này nổi tiếng về chất lượng gia công đồ kim khí, đặc biệt là các thanh kiếm của họ. Kinh đô Việt đặt ở Cối Kê, nay thuộc huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang.
Do vị trí quá xa Trung Nguyên nên tiểu quốc Việt không thu hút nhiều sự quan tâm của nhà Chu và các nước chư hầu lớn. Chỉ đến khi Việt vương Câu Tiễn tiêu diệt nước Ngô, vốn đã đánh phá nước Sở hùng mạnh trước đó, triều Chu phải công nhận địa vị bá chủ phía nam của nước Việt. Thời kỳ này đánh dấu sự thịnh vượng của nước Việt khi quốc gia này nhiều năm nắm giữ địa vị bá chủ trung nguyên với sự công nhận tuyệt đối của triều đình nhà Chu và các chư hầu.
Suy vong
Đầu thời kỳ Chiến Quốc, thế nước Việt vẫn còn rất mạnh. Qua các đời vua tiếp theo sau Câu Tiễn, nước Việt tiếp tục tiến hành tiêu diệt và thâu tóm các nước chư hầu nhỏ khác khiến lãnh thổ tiếp tục mở rộng lên phía bắc. Bấy giờ, lãnh thổ của nước Việt đã rất rộng, giáp ranh hai nước Sơn Đông khác là Lỗ và Tề. Trước khi có sự trỗi dậy của nước Tần, Việt cùng với Sở và Ngụy là ba nước mạnh nhất thời điểm lúc đó. Cũng trong thời gian này mối quan hệ giữa hai nước Tề và Việt không mấy gì là tốt đẹp.
Tuy nhiên, những tranh chấp trong nội bộ dòng tộc đã khiến nước Việt suy yếu, kèm theo đó là những lần bại trận trước nước Sở trong những lần tranh chấp lãnh thổ biên giới đã khiến nước Việt mất dần địa vị bá chủ.
Vào năm 334 TCN, nước Sở mở một cuộc tấn công bất ngờ vào lãnh thổ nước Việt và đoạt lấy vùng Giang Tô, kinh đô cũ của nước Ngô. Cuộc tấn công của nước Sở đã cắt đôi lãnh thổ nước Việt, bấy giờ phần phía bắc của nước Việt đang giáp với nước Tề. Sau nhiều năm kháng cự, cuối cùng nước Việt cũng bị nước Sở tiêu diệt, Việt vương Vô Cương thất trận và bị giết. Lãnh thổ nước Việt bị nước Sở và nước Tề sáp nhập. Con thứ hai của Vô Cương là Minh Di được vua Sở cho cai quản vùng đất Ngô Thành (nay ở huyện Ngô Hưng tỉnh Chiết Giang), nằm ở phía nam Âu Dương Đình, được đặt tên như vậy bởi vì nó được xây dựng ở phía nam và là phía dương (mặt trời) của núi Âu Dương, vì thế ông được đặt danh hiệu là Âu Dương Đình Hầu.
Năm 223 TCN, tướng nước Tần là Vương Tiễn sau khi diệt nước Sở đã tiến vào vùng đất Việt. Các thủ lĩnh người Việt ở đây (là hậu duệ của Câu Tiễn) đều quy phục. Vương Tiễn bèn lấy đất Việt lập quận Cối Kê. Con cháu họ tiếp tục giữ họ Âu, họ Âu Dương hay họ Âu Hầu để tưởng nhớ chức tước ngày xưa của tổ tiên.
Danh sách vua nước Việt |
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VII đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương khóa VII có nhiệm kỳ từ năm 1991 đến năm 1996 gồm 146 ủy viên chính thức, không có ủy viên dự khuyết.
Các Hội nghị
Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương
Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương có nhiệm vụ tham gia ý kiến với Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị các vấn đề chiến lược về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, công tác xây dựng Đảng và công tác vận động nhân dân.
Trong trường hợp cần thiết, Trung ương Đảng và Bộ Chính trị ủy nhiệm các Cố vấn giải quyết một số vấn đề cụ thể.
Các Cố vấn chủ động đề xuất ý kiến về những vấn đề mà các Cố vấn quan tâm.
Các Cố vấn được mời dự Hội nghị Trung ương Đảng và Hội nghị Bộ Chính trị bàn các vấn đề tùy theo nội dung và tính chất hội nghị.
Các Cố vấn được yêu cầu các cấp ủy Đảng, các ban ngành trực tiếp báo cáo và cung cấp thông tin; Văn phòng Trung ương Đảng thường xuyên cung cấp tài liệu cho các Cố vấn như đối với Ủy viên Bộ Chính trị.
Các Cố vấn làm việc chủ yếu dựa vào Văn phòng Trung ương Đảng và các ban của Trung ương Đảng, không tổ chức bộ máy riêng.
Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương khóa VII gồm các Ủy viên sau:
Ủy viên Bộ Chính trị
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương
Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì (tháng 1 năm 1994) đã bầu bổ sung 20 ủy viên Trung ương, thay thế cho các ủy viên vì lý do bệnh tật đã từ trần (Nguyễn Thái Ninh, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương và Thượng tướng Đào Đình Luyện, Tổng Tham mưu trưởng), tự nguyện rút lui và 1 ủy viên bị cách chức: Nguyễn Phú Trọng, Phan Diễn, Thái Phụng Nê, Tô Xuân Toàn, Trần Văn Vụ, Hà Mạnh Trí, Trương Công Thận, Võ Văn Cương, Đặng Thành Học, Đào Trọng Lịch, Đinh Trung, Hồ Đức Việt, Hoàng Thừa, Hoàng Văn Nghiên, Lê Mai, Lê Thanh Đạo, Lư Văn Điền, Bùi Quang Huy, Nguyễn Thế Trị, Sô Lây Tăng.
Ban Bí thư
Đỗ Mười (Tổng Bí thư)
Lê Đức Anh
Đào Duy Tùng
Lê Phước Thọ
Nguyễn Hà Phan (đến 4/1996)
Hồng Hà
Nguyễn Đình Tứ
Trương Mỹ Hoa
Đỗ Quang Thắng
Nguyễn Đức Bình (từ 3/1992)
Lê Khả Phiêu (từ 3/1992).
Tại phiên họp ngày 2-7-1991, Bộ Chính trị đã quyết định phân công các Ủy viên Bộ Chính trị và Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII):
1- Đỗ Mười, Tổng Bí thư.
2- Lê Đức Anh, Phụ trách Quốc phòng, An ninh, Đối ngoại.
3- Võ Văn Kiệt, Giới thiệu với Nhà nước cử làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
4- Đào Duy Tùng, Thường trực Ban Bí thư.
5- Đoàn Khuê, Giới thiệu với Nhà nước cử làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
6- Vũ Oanh, Phụ trách Dân vận và Mặt trận.
7- Lê Phước Thọ, Phụ trách Tổ chức.
8- Phan Văn Khải, Giới thiệu với Nhà nước cử làm Phó Chủ tịch trực Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Bộ Tài chính.
9- Bùi Thiện Ngộ, Giới thiệu với Nhà nước cử làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
10- Nông Đức Mạnh, Phụ trách vấn đề Dân tộc.
11- Phạm Thế Duyệt, Bí thư Thành ủy Hà Nội.
12- Nguyễn Đức Bình, Phụ trách công tác Tư tưởng - Văn hóa và Khoa giáo.
13- Võ Trần Chí, Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh.
1- Nguyễn Hà Phan, Phụ trách khối Kinh tế; phụ trách tài chính của Đảng.
2- Hồng Hà, Phụ trách Đối ngoại; phụ trách Văn phòng Trung ương, cơ yếu, lưu trữ.
3- Nguyễn Đình Tứ, Phụ trách Khoa giáo.
4- Trương Mỹ Hoa, Giới thiệu với Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cử làm Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; cùng Vũ Oanh lo công tác dân vận.
5- Đỗ Quang Thắng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương.
Bộ phận Thường trực Bộ Chính trị và Ban bí thư:
Đỗ Mười
Lê Đức Anh
Đào Duy Tùng
Võ Văn Kiệt (từ giữa năm 1992)
Thay đổi nhân sự
Tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 3 từ ngày 18/6/1992 đến ngày 29/6/1992 đã bàn về việc thông qua nội dung dung và ban hành Nghị quyết Trung ương Đảng về công tác tư tưởng văn hóa; Hội nghị Trung ương lần này đã tiến hành bầu bổ sung nhân sự Ban Bí thư khóa VII là ông Nguyễn Đức Bình, Ủy viên Bộ Chính trị và ông Lê Khả Phiêu, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.
Tại Hội nghị lần thứ sáu của Trung ương họp từ ngày 24 tháng 11 đến ngày 1 tháng 12 năm 1993 đã bàn việc chuẩn bị nội dung và nhân sự cho Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng. Hội nghị đã bầu bổ sung Lê Khả Phiêu, Nguyễn Mạnh Cầm, Đỗ Quang Thắng, Nguyễn Hà Phan vào Bộ Chính trị và cách chức ủy viên Trung ương của Vũ Ngọc Hải.
Tiếp đó, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì họp từ ngày 20 đến ngày 25 tháng 1 năm 1994 đã quyết định bổ sung 20 ủy viên Trung ương để thay thế cho các ủy viên vì lý do sức khỏe, bệnh tật đã từ trần (Nguyễn Thái Ninh, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương đã được Thường trực Bộ Chính trị thông qua bổ sung vào Ban Bí thư phụ trách công tác tư tưởng - văn hóa và khoa giáo tại Hội nghị Trung ương lần thứ 3 và Thượng tướng Đào Đình Luyện, Tổng Tham mưu trưởng), đã tự nguyện rút lui và các ủy viên bị kỷ luật. Danh sách ủy viên được bầu bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương bao gồm: Đào Trọng Lịch, Phan Diễn, Sô Lây Tăng, Bùi Quang Huy, Lư Văn Điền, Hồ Đức Việt, Lê Mai, Nguyễn Thế Trị, Đặng Thành Học, Hoàng Thừa, Trương Công Thận, Trần Văn Vụ, Đinh Trung, Nguyễn Phú Trọng, Hà Mạnh Trí, Lê Thanh Đạo, Tô Xuân Toàn, Thái Phụng Nê, Võ Văn Cương, Hoàng Văn Nghiên. Trong đó, Bộ Ngoại giao là bộ có nhiều xáo động nhất khi đồng thời 2 Thứ trưởng xin rút lui và từ nhiệm là Trần Quang Cơ và Đinh Nho Liêm - nhân vật được nhiều người cho rằng sẽ kế nhiệm chức vụ Bộ trưởng của cựu Ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Cơ Thạch. Có người cho rằng, năm 1993 được đánh dấu là năm có nhiều thay đổi về nhân sự và tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam so với các năm khác, kể từ sau ngày thống nhất đất nước. |
Hãy để mặt trời luôn chiếu sáng (tiếng Nga: Пусть всегда будет солнце!) là một bài hát tiếng Nga được viết cho thiếu nhi. Bài hát được sáng tác năm 1962, Arkady Ostrovsky sáng tác nhạc và phần lời do Lev Ivanovich Oshanin viết. Nhà văn Nga Korney Ivanovich Chukovsky sau này đã viết trong một cuốn sách rằng nội dung chính của bài hát là 4 câu (mà về sau là phần điệp khúc của bài), được sáng tác vào năm 1928 bởi một cậu bé 4 tuổi.
Bài hát được giới thiệu lần đầu vào năm 1962 tại Liên hoan các bài hát Quốc tế ở Sopot, do ca sĩ Nga Tamara Miansarova hát. Nó đã giúp cô giành được giải đầu tiên ở đó và ngay lập tức được phổ biến rộng rãi khắp Liên Xô và một vài quốc gia khác. Bài hát được hát bởi Đội Thiếu niên Tiền phong Liên Xô trong Hội trại ở trường học. Năm 1977, bài hát được lấy làm tên cho Đại hội liên hoan thiếu nhi thế giới lần thứ nhất tổ chức tại Moskva. Bài hát được phổ biến rộng khắp như một biểu tượng hòa bình ở Liên Xô.
Bài hát là một trong số ít những bài không bị suy giảm ảnh hưởng sau khi Liên Xô tan rã và tổ chức Đội Thiếu niên Tiền phong Liên Xô ngừng hoạt động và vẫn được phổ biến tại Nga.
Bài hát đã được Tom Botting dịch sang tiếng Anh và được Ilse, Hans Naumilkat và Manfred Streubel dịch sang tiếng Đức. Lời tiếng Việt do Phong Nhã dịch, nằm trong album ca nhạc thiếu nhi 10 chàng tí hon do Hãng phim Phương Nam sản xuất năm 1996.
Lời bài hát bằng tiếng Việt (do nhạc sỹ Phong Nhã viết)
Một vòng tròn xoe xoay giữa bầu trời
Họa sĩ bé xíu vẽ ông Mặt Trời
Dạt dào niềm vui khoái chí tuyệt vời
Bạn bè năm châu cùng ca hát
ĐK:
Mặt Trời lên
Mãi mãi sáng tươi bầu trời xanh
Mãi mãi ngát xanh và trẻ em
Vui sống giữa mẹ hiền yêu dấu thật êm ấm
Mặt Trời lên
Mãi mãi sáng tươi bầu trời xanh
Mãi mãi ngát xanh và trẻ em
Trên thế giới nguyện cùng nhau tiến đến chân trời |
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VIII họp từ 28 tháng 6 đến 1 tháng 7 năm 1996 đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII gồm 170 Ủy viên (không có Ủy viên dự khuyết). Trước đó, Đại hội đã họp nội bộ từ ngày 22 đến 26 tháng 6 năm 1996.
Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII gồm các Ủy viên sau:
Thường vụ Bộ Chính trị
Thường vụ Bộ Chính trị thực hiện trách nhiệm và quyền hạn do Bộ Chính trị ủy quyền. Những vấn đề do Thường vụ Bộ Chính trị bàn và xử lý trong phạm vi được ủy quyền, nếu là quyết định, chỉ thị dùng danh nghĩa Bộ Chính trị, nếu là thông báo, thông tri, hướng dẫn... thì dùng danh nghĩa Thường vụ Bộ Chính trị và đều có hiệu lực như văn bản Bộ Chính trị ban hành.
Thường vụ Bộ Chính trị chịu trách nhiệm trực tiếp trước Bộ Chính trị về quyết định ban hành, định kỳ hàng tháng báo cáo Bộ Chính trị.
Danh sách Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị
Ủy viên Bộ Chính trị
Ủy ban Kiểm tra Trung ương
Nguyễn Thị Xuân Mỹ (Chủ nhiệm)
Trương Vĩnh Trọng
Vũ Quốc Hùng
Nguyễn Văn Thám
Nguyễn Anh Liên
Hoàng Kim Sơn
Nguyễn Minh Niên
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương
Các Hội nghị |
Versailles no Bara (ベルサイユのばら) là một manga tác phẩm đầu tay của nữ họa sĩ Ikeda Riyoko, và cũng là tác phẩm nổi tiếng nhất của bà.
Bối cảnh
Câu chuyện được xây dựng dựa trên bối cảnh lịch sử nước Pháp giữa thế kỉ 18.
Cuối thế kỉ 18 có ba con người được số phận xếp đặt để gặp nhau ở Lâu đài Versailles - trung tâm của toàn châu lục.
Maria Antonia của Áo là cô con gái út của Nữ hoàng Maria Theresia của Áo. Vì quốc gia, cô phải lên xe hoa khi tuổi đời còn rất trẻ - 14 tuổi. Ở Pháp cô gặp Oscar François Jarjayes, một cô gái bất hạnh bị buộc phải sống trong bộ quân phục, xuất hiện trong cung Versailles với tư cách một sĩ quan cận vệ.
Năm 18 tuổi, trong buổi dạ vũ Antoinette gặp Hans Axel von Fersen, nhà quý tộc Thụy Điển đẹp trai, tài giỏi, là tâm điểm cho biết bao quý cô trong Versailles. Tình yêu của họ chính thức bắt đầu từ đấy, những chuỗi ngày lén lút...
Cái chết của Louis XV đẩy nước Pháp vào trước cửa tử, đặc biệt là sự lên ngôi của Louis XVI và hoàng hậu Marie Antoinette.
Các nhân vật trong truyện
Họ là những con người không lành lặn về tâm hồn. Khoác mình trong những bộ trang phục cầu kì nhưng tâm hồn họ rất trống trải. Họ cần tình yêu và, vì nó, họ sẵn sàng vứt bỏ tất cả.
Oscar François de Jarjeyes
Nữ tư lệnh cảnh vệ hoàng gia Versailles. Về sau do có ác cảm về thân phận quý tộc, cô đã công tác tại Đội Vệ binh B thuộc Đội Vệ binh Pháp.
Sinh ra là con gái út của gia đình Jarjeyes, cô mang trách nhiệm kế nghiệp cha mình. Thế là cô lớn lên như một đứa bé trai. Oscar đã tự đấu tranh với chính mình trước mọi sự dữ ập đến với cô. Ban đầu, cô thầm yêu Fersen nhưng không được anh hồi đáp, bất chấp cả việc cô biết Andre - người bạn thuở ấu thơ cũng đã yêu cô sâu nặng. Qua bao nhiêu biến cố xảy đến, Oscar nhận ra rằng người mình thực sự yêu chính là Andre, và cô cũng đã đem lòng yêu anh rất nhiều. Sau đó, cô đã quyết định tỏ tình với anh và đã thành công. Trước cuộc cách mạng, 2 người thành vợ chồng bất chấp định kiến xã hội & khác biệt giai cấp. Cô chết vì lợi ích của nhân dân, được tôn vinh như một anh hùng và ở cạnh André. Cô bằng tuổi với Marie Antoinette.
André Grandier
Người bạn thuở ấu thơ của Oscar, André yêu Oscar âm thầm và luôn thể hiện tình yêu đó qua cách anh bảo vệ và ở bên cô mọi lúc, thậm chí hi sinh đi rất nhiều thứ để bảo vệ cho cô. Anh yêu cô bằng cả một tình yêu đẹp đẽ, thanh khiết & mặn mà. Cuối cùng Oscar cũng nhận ra được tình cảm của anh. Sau khi chính cô tỏ tình với anh, hai người đã trở thành một đôi. Hai người trở thành vợ chồng không cheo cưới trước khi anh bị bắn chết trong buổi hành quân tại quảng trường. Anh lúc đầu bị chột một mắt khi cố bảo vệ Oscar nhưng sau đó thì mù cả hai mắt, và anh đã giấu kín việc đó cho đến khi Oscar phát hiện ra khi anh lìa đời.
Marie Antoinette
Vương hậu Marie Antoinette nguyên là hoàng nữ nước Áo. Do làm dâu rất sớm, nàng không được mẹ dạy dỗ chu đáo nên Marie Antoinette luôn bị cuốn vào những cuộc vui chơi mà quên đi thần dân của mình. Marie Antoinette yêu Hans Axel von Fersen, họ chỉ hạnh phúc với nhau trong thời gian ngắn trước khi Marie Antoinette bị đem ra tử hình trước nhân dân nước Pháp. Nàng sống rất xa hoa trong khi thần dân của nàng phải cực khổ kiếm sống nên họ đã rất ghét nàng.
Hans Axel von Fersen
Nhà quý tộc Thụy Điển. Trong một lần du ngoạn đến Pháp, chàng gặp Marie Antoinette và đem lòng yêu, mặc dù biết Marie Antoinette là thái tử phi của hoàng gia Versailles. Hai người đã thường xuyên lén lút hẹn hò với nhau bất chấp những lời đồn đoán của người dân và trong nội bộ triều đình. Anh cũng đã lập kế giúp Marie Antoinette trốn thoát cùng hoàng gia nhưng không thành. Sau biến cố Marie Antoinette chết, chàng trở về Thụy Điển, sống một cuộc đời cay độc cho đến khi bị chính dân Thụy Điển đánh đập đến chết tại Stockholm.
Alain de Soisson
Binh sĩ trong vệ binh Versailles. Dù ngoài mặt tỏ vẻ không phục Oscar nhưng thật sự thì anh rất thích Oscar. Nhờ Oscar, anh thoát ra khỏi ám ảnh từ cái chết của người em gái Diane. Sau khi Cách mạng thành công, anh cùng nhà báo Bernard Chatêlet ám sát Hoàng đế Napoleon Bonaparte nhưng không thành và bị nã súng, qua đời.
Rosalie Lamolière
Cô bé quý tộc bị mẹ ruột là phu nhân de Polignac bỏ rơi & lãng quên nên cô sống dưới thân phận một người nghèo hèn với người mẹ nuôi yêu quý của mình. Cô là con gái của nữ bá tước de Polignac. Cô được Oscar giúp đỡ trong một lần nghĩ quẩn, suýt tự bán thân mình, từ đó cô yêu Oscar. Rosalie dù có gốc gác là quý tộc nhưng không bao giờ cô muốn mình trở lại danh hiệu đó. Sau đó, cô gặp và làm quen với Bernard sau khi anh ta bị thương. Từ đó, họ đã phải lòng & yêu nhau. Qua đó, Rosalie & Bernard Chatêlet quyết định tiến tới hôn nhân. Họ đã có một cuộc sống rất hạnh phúc với nhau, và Rosalie đã sinh cho anh một đứa con trai là Francois Chatêlet. Tuy nhiên, sau vụ ám sát Napoleon bất thành của Bernard dẫn đến cái chết của anh, Rosalie đã vô cùng đau buồn.
Bernard Châtelet
Nhà báo Bernard là người căm ghét bọn quý tộc hão. Anh đã cải trang một tên trộm để chuyên đi ăn cắp của cải của các quý tộc, nhưng đã bị Oscar bắt giữ. Tại nhà Oscar, anh gặp và yêu Rosalie. Sau đó anh cùng Rosalie lên Paris. Tại đây, anh vẫn tiếp tục lan truyền chủ nghĩa cộng hòa để nhân dân khởi nghĩa, lật đổ chế độ phong kiến đang dần mục nát của hoàng gia Versailles. Không lâu sau đó, anh có với cô một đứa con là Francois trước khi lên đường ám sát Napoleon. Vụ ám sát bất thành khiến anh tử nạn.
Vua Louis XVI
Louis XVI của Pháp là một vị vua nhu nhược và hiền lành. Do tính tình điềm đạm như vậy nên Louis XVI thường bỏ qua những sai lỗi của vương hậu Marie Antoinette và cắt chức những người cận thần trung tín bên cạnh mình do lời xúi vại của bọn quan quân.
Jeanne de Valois, nữ bá tước la Motte
Jeanne là một cô gái nhà nghèo nhưng đầy tham vọng, do tham muốn sự giàu sang, cô đã quay lưng với mẹ, em gái mình và không từ bất cứ thủ đoạn nào để có cái danh hiệu tử tước. Cô cũng là người gián tiếp hại hoàng hậu Antoinette bị nhân dân ghét bỏ trong vụ án chuỗi ngọc, tuy vậy cuối cùng cô cũng đã gặp vạ và sau đó bị bắt giam, song nó không còn thay đổi được sự căm ghét của dân chúng với Marie Antoinette.
Marie-Jeanne Bécu, nữ bá tước du Barry
Bá tước phu nhân du Barry là một con người đầy quyền lực, do bà là tình nhân của Louis XV. Nhưng thực sự thì bà xuất thân từ tầng lớp hạ đẳng, chuyên đi phục vụ tại các quán rượu. Do gạ gẫm Bá tước du Barry nên bà mới ngồi vào vị trí quyền thế. Sau này, bà bị trục xuất khỏi Versailles cũng do chính tình nhân Louis XV trăng trối trước khi qua đời.
Bá tước de Mercy
Bá tước de Mercy là người Áo, được cử đến Pháp qua mệnh lệnh của nữ hoàng Maria Theresa - mẹ của Marie Antoinette để giúp đỡ Marie trong cương vị hoàng hậu nước Pháp. Bá tước Mercy rất tận tâm cho công việc giúp Marie nhiều điều trong cuộc sống nhưng quá nhiều cận thần xấu xa bên cạnh hoàng hậu nên de Mercy dường như bị lu mờ.
Yolande Martine Gabrielle de Polastron, nữ bá tước de Polignac
Trước đây, khi mới gặp mặt hoàng hậu Marie Antoinette, phu nhân de Polignac tỏ ra là một con người nhân hậu, thu hút người khác bởi vẻ hiền lành, vị tha. Nhưng từ sau khi lôi kéo hoàng hậu vào những cuộc vui vô bổ, bà ta mới lộ rõ bộ mặt là một con người đầy tham vọng, bà ta chỉ lợi dụng hoàng hậu. Sau này, khi hoàng gia Versailles đi vào lối mòn, phu nhân de Polignac đã chạy trốn và bỏ hoàng hậu lại, không một lần giúp đỡ. Phu nhân de Polignac cũng là người có ác cảm với Oscar, bà ta không ít lần hãm hại Oscar bằng cách gián tiếp.
Charlotte de Polignac
Con gái của phu nhân de Polignac, cô cũng giống tính mẹ mình ở chỗ hay bắt bẻ người khác nhưng cô nhân hậu hơn. Charlotte yêu Oscar, cô đã hết lời nói mẹ mình đừng ám hại Oscar và hoãn việc cưới xin ở tuổi 11 của cô, nhưng phu nhân de Polignac không nghe. Do vậy, cô đã tự vẫn vì quá đau khổ.
François Augustin Regnier de Jarjayes
Tướng quân de Jarjayes, cha của Oscar. Ông là một người trung thành phục vụ hoàng gia Versailles, ông không cho phép Oscar có bất cứ hành động nào phản quốc dù đó là hành động đúng. Ông cũng thật sự muốn André cưới con gái mình.
Georgette de Jarjayes
Mẹ Oscar, bà là một người phụ nữ hiền lành và luôn là chỗ dựa cho Oscar khi cô thực sự tuyệt vọng trong cuộc sống. Trước đây Georgette từng là con gái của một gia đình quý tộc nghèo làm hoạ sĩ, sau đó bà kết hôn với Augustin de Jarjayes. Bà từng là quản hầu gái cho hoàng hậu Antoinette.
Marron-Glacè
Vú nuôi nhà de Jarjayes, bà chăm sóc đôi Oscar-André từ bé và yêu thương họ hết mình. Sau khi Oscar và André cùng tử trận tại cuộc phá ngục Bastille, bà lâm bệnh và qua đời.
Victor Clement Girodelle
Phó tư lệnh cảnh vệ hoàng gia Versailles, anh yêu Oscar và xin hỏi cưới cô nhưng không thành. Vì tình yêu sâu nặng đó, anh đành rút lui để Oscar được hạnh phúc thật sự bên người cô yêu - André. Về sau, Girodelle đến Thuỵ Điển và gặp tiểu thư Sophie von Fersen, em gái của Hans Axel von Fersen. Tại đó, Girodelle và Sophie đã yêu nhau nhưng vì những lí do gia đình, họ không thể tiến tới hôn nhân. Sau đó, Girodelle bị ép kết hôn với một tiểu thư khác.
Maria Theresia
Bà là Nữ hoàng Áo vào thế kỉ XVIII. Bà là mẹ của Marie Antoinette. Là một vị nữ hoàng tài giỏi nhưng hết lòng vì 2 đứa con của bà: Joseph II và Marie Antoinette, bà rất lo lắng khi Marie phải kết hôn sớm với thái tử Pháp lúc đó là Louis XVI. Sau này, bà đã không được gặp con gái, khiến cho Joseph, anh trai vương hậu Pháp và là Hoàng đế Áo, đã phải lo lắng cho bệnh của bà. Bà mất sau một cơn đột quỵ vì đau tim ở tuổi 63.
Louis XV
Ông là vị vua Pháp vào thế kỉ XVIII, và là cha Louis XVI. Dưới triều ông, quân đội Pháp đã chiến thắng trong chiến tranh Kế vị Áo, song sau đó đại bại trong chiến tranh Bảy năm. Ông có một người tình là nữ bá tước duBarry, và cô ta đã lợi dụng Louis XV để mang vạ vào thân. Tuy vậy, khi trăng trối lần cuối do mắc bệnh đậu mùa, ông đã hạ lệnh cách chức du Barry và tống giam bà ta vào nhà thờ sám hối suốt đời.
Sophie von Fersen
Sophie von Fersen là em gái của bá tước Hans Axel von Fersen. Cô thường xuyên đưa thư cho anh từ Thuỵ Điển. Sophie rất lo sợ việc anh trai mình dấn thân vào mối tình ngang trái với Marie Antoinette nhưng không thể ngăn cản. Cô và bá tước Victor Clement Girodelle đã yêu nhau. Tuy vậy, cả hai người không thể đến với nhau. Sau khi có một cuộc hôn nhân sắp đặt, Sophie có tên là Sophie Piper
Đánh giá
Truyện Nhật
Tên gốc: Berusaiyu no Bara
Số tập: 10 tập
Phát hành: Nhà xuất bản Shuei Sha |
Đợi anh về (tiếng Nga: Жди меня / Hãy đợi anh) do nhà thơ Konstantin Simonov viết, là một trong những bài thơ nổi tiếng của Nga trong giai đoạn chiến tranh thế giới thứ hai. Bài thơ được sáng tác vào năm 1941 sau khi anh tạm biệt người vợ Valentina Serova để lên đường thực hiện nghĩa vụ chiến đấu nơi tiền tuyến.
Nội dung
Tác phẩm đã được nhà thơ Tố Hữu dịch từ tiếng Nga sang tiếng Việt vào khoảng năm 1949 - 1950 và đã được phổ nhạc.
Bản dịch của Tố Hữu:
Những chi tiết liên quan
Bản dịch Việt ngữ của Tố Hữu cũng đã được phổ nhạc và có cả cổ nhạc. |
PKCS (tiếng Anh: Public Key Cryptography Standards) là một chuẩn do phòng thí nghiệm RSA Data Security Inc phát triển. Nó dựa vào các cấu trúc ASN.1 và thiết kế cho phù hợp với chứng chỉ X.09, các tiêu chuẩn này do ANSI thiết kế, theo đó dữ liệu được chia thành từng khối nhỏ nhất là 8 bit (octet). PKCS hiện tại bao gồm các chuẩn PKCS#1, PKCS#3, PKCS#5,PKCS#7, PKCS#8, PKCS#9, PKCS#11, PKCS#12, PKCS#13, PKCS#15. Hiện tại phiên bản của các bản đang là 2.1. Trong đó có thể tìm được các chuẩn để mã hóa dữ liệu, chuẩn này được thiết kế dựa vào cách mà các thám mã dùng để tấn công vào đoạn mã. Có thể mô tả sơ qua thế này, trong PKCS#1 có các chuẩn mã hóa - giải mã RSAES - OAEP scheme, chuẩn tạo chữ ký điện tử - kiểm tra RSASSA - PSS scheme ver2.1, hay trong PKCS#7 là các chuẩn cú pháp thông điệp mã hóa. PKCS#11 là phức tạp nhất, nó là chuẩn cho việc truyền thông tin trên mạng dưới dạng các gói tin đã mã hóa. |
Hermione Jean Granger ( là một nhân vật hư cấu trong bộ truyện Harry Potter của nữ nhà văn Anh Quốc J. K. Rowling. Cô xuất hiện lần đầu tiên trong truyện Harry Potter và hòn đá phù thủy, cô mở cửa bước vào toa tàu mà Ronald Weasley và Harry Potter ngồi mà điểm đến là Học viện Pháp thuật và Ma thuật Hogwarts. Sau khi được Harry và Ron giải cứu khỏi con quỷ khổng lồ trong nhà vệ sinh nữ, Hermione đã kết thân với cả hai. Sau này, cô thường xuyên dùng sự nhanh trí, gợi mở khéo léo và vốn kiến thức uyên bác để giúp đỡ bạn bè. Tác giả Rowling từng nói rằng nhân vật Hermione khiến cô nhớ lại thời niên thiếu của mình, thường thiếu tự tin hay e sợ thất bại. Theo tạp chí The Hollywood Reporter, Hermione là nhân vật nữ trong phim được yêu mến và hâm mộ nhất.
Trong loạt phim phỏng theo bộ truyện này, diễn viên Emma Watson thủ vai Hermione Granger. Thần hộ mệnh của Hermione Granger là một con rái cá.
Khái quát
Hermione Jean Granger là học sinh gốc Muggle thuộc nhà Gryffindor, và bạn thân của hai nhân vật chính Harry Potter và Ron Weasley. Nhà văn J.K. Rowling cho biết sinh nhật của Hermione là vào ngày 19 tháng 9 năm 1979 và suýt soát gần 12 tuổi khi lần đầu đặt chân tới Hogwarts.
Cô ấy là người giỏi tới mức nắm vững lý thuyết một cách xuất sắc, và theo như mô tả của tác giả Rowling thì Hermione là nhân vật ngay thẳng, giỏi giang và có tư duy logic. Rowling cũng bổ sung rằng cha mẹ của Hermione đều là nha sĩ, và là dân Muggle, vừa bất ngờ về cô con gái kỳ cục vừa tự hào khi biết cô được nhận vào Hogwarts." Họ rất thích thú khi được biết về thế giới phù thủy và lần đầu bước vào Hẻm Xéo cùng với con gái. Rowling miêu tả tính cách của nhân vật Luna Lovegood hoàn toàn trái ngược với Hermione, họ quá khác biệt. Nhân vật tương phản với Hermione ở Hogwarts là Pansy Parkinson, một học sinh hay bắt nạt cô được dựa theo nguyên mẫu ngoài đời của những cô bạn học đã từng chế nhạo nhà văn Rowling khi còn đi học.
Rowling khẳng định nhân vật Hermione có rất nhiều ảnh hưởng trong câu chuyện. Bà nói: "Tôi không có ý sắp đặt để nhân vật Hermione giống mình, nhưng thực sự, cô ấy là hình ảnh cường điệu của tôi khi còn trẻ". Thêm vào đó, hoàn cảnh của Hermione không giống với bà, "rất nhiều bất an và nỗi sợ hãi thất bại to lớn" ẩn dưới hành động học gạo miệt mài của Hermione. Sau cùng, theo tác giả, bên cạnh Albus Dumbledore, Hermione là nhân vật được mô tả hoàn hảo bởi kiến thức giáo khoa, cô ấy có thể luôn đóng vai trò như một mấu chốt (giải thích các từ ngữ lạ trong series truyện bằng chính đoạn thoại của nhân vật, tránh làm đoạn văn thêm dài dòng). Rowling khẳng định tư tưởng bình đẳng nam nữ của bà đã được nhân vật Hermione bảo vệ, " người thông minh nhất" và là một " nữ nhân vật mạnh mẽ".
Tên nhân vật Hermione bắt nguồn từ tiểu thuyết Câu chuyện mùa Đông của đại văn hào William Shakespeare; Nhà văn Rowling muốn chọn một cái tên không quá phổ biến vì nếu càng có ít cô bé mang cái tên đó thì sẽ có ít cô bị trêu chọc hơn Ban đầu họ cho nhân vật dự định sẽ là "Puckle", nhưng tác giả Rowling cảm thấy cái tên này hoàn toàn không phù hợp nên sau đó đã chuyển qua một lựa chọn khác là Granger - cái tên khá phổ biến ở Anh và Pháp, dành cho những người nông dân trồng lúa. J.K. Rowling dự tính đưa "Jane" thay vì "Jean" vào tên của Hermione. Tuy nhiên, vì không muốn nó trùng với tên đệm của giáo sư Dolores Umbridge, bà đã đổi lại ở phần Harry Potter và Bảo bối Tử thần. "Jean" đồng thời cũng là tên đệm của cô con gái Mackenzie của bà, và có nguồn gốc từ chữ Latin, nghĩa là "Chúa nhân từ". J.K. Rowling xác nhận nhân vật Hermione là con một trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2004 chỉ là một đứa trẻ.
Thành tích
Hermione là phù thủy giỏi nhất ở độ tuổi của cô. Cô luôn đọc hết sách giáo khoa mới trước khi bước vào năm học. Trong lớp, Hermione luôn là người đầu tiên (có thể là duy nhất) giơ tay trả lời các câu hỏi của thầy cô giáo. Tuy nhiên, cô vẫn kém hơn Harry ở môn Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám.
Trong kì thi Pháp sư thường đẳng (O.W.Ls), Hermione đạt được 10 chứng chỉ xuất sắc (Outstanding) gồm các môn Chăm sóc sinh vật huyền bí, Độc dược, Biến hình, Thảo dược học, Bùa chú, Thiên văn học, Lịch sử Phép thuật, Số học huyền bí, Cổ ngữ Runes, Muggle học và một chứng chỉ giỏi (Exceed exceptation) môn Phòng chống nghệ thuật hắc ám.
Cô cũng là Huynh trưởng nhà Gryffindor vào năm học thứ năm và thứ sáu, thành lập Hội Vận động cho Quyền lợi Gia tinh (Tiếng Anh viết tắt là S.P.E.W,còn tiếng việt ghi là H.V.Đ.C.Q.L.G.T) vào năm thứ 4. Spew là tên viết tắt của tên tổ chức, vừa có nghĩa là "nôn". Ron và Harry còn thường gọi là "Hột Vịt Đẹt"
Sở hữu
Bản gốc cuốn Những chuyện kể của Beedle Người Hát Rong (The Tales of Beedle the Bard) do giáo sư Dumbledore để lại cho Hermione trong di chúc của thầy.
Vật nuôi
Hermione nuôi một con nửa mèo nửa tiểu yêu lông đỏ, chân vòng kiềng, rất béo được mua vào năm học thứ ba tên là Crookshanks, đây là con mèo thông minh nhất trong họ nhà mèo (theo lời Sirius Black) và cũng rất dũng cảm. Trong tập 3, nó luôn bám riết lấy con chuột Scabbers của Ron, vốn là Peter Pettigrew giả lốt.
Đũa phép
Cây đũa phép của cô được ông Ollivander làm từ gỗ nho với lõi là sợi tim rồng. Trong khi đó, cây đũa của Harry làm từ gỗ cây nhựa ruồi, có lõi là lông chim phượng hoàng và của Ron Weasley là lông kỳ lân. Trong lịch Celt, chất liệu gỗ nho là biểu tượng cho ngày sinh của cô.
Khác
Ngoài ra, Hermione còn được giáo sư Minerva McGonagall tặng cho một sợi dây chuyền cho phép lùi thời gian về quá khứ. Nó đã được cô sử dụng trong phần ba, qua gợi ý của cụ Dumbledore để cứu chú Sirius Black và con bằng mã Buckbeak. Trước đó, cô dùng chúng trong việc học nhiều môn ở nhiều thời điểm khác nhau, bởi năm thứ 3 xuất hiện thêm rất nhiều môn học mới.
Hoạt động ở trường
Khi cô phát hiên ra ở trong trường có nuôi những con gia tinh để phục vụ. Cô rất bức xúc, vậy nên đã thành lập hội để đòi bình đẳng cho gia tinh viết tắt là S.P.E.W. và được dịch sang tiếng Việt là H.V.Đ.C.Q.L.G.T. (Hội vận động cho quyền lợi gia tinh). Tuy nhiên cũng chính vì cách viết tắt này mà Ron và Harry đã nghĩ ra nhiều từ khác để chế giễu đó là "hột vịt đẹt".
Vai trò trong bộ truyện
Harry Potter và hòn đá phù thủy
Hermione Granger xuất hiện đầu tiên trong Harry Potter và hòn đá phù thủy. Theo lời Rowling - tác giả của truyện miêu tả thì Hermione là một cô bé có ngoại hình trung bình. Cô rất giỏi, thông minh và thường đọc hết sách giáo khoa trước khi vào trường, điểm yếu duy nhất của cô là trong môn Bay lượn. Trong những chương đầu cô luôn làm mọi người khó chịu vì tỏ ra là người biết mọi thứ và cũng không ngoại trừ hai người bạn thân của cô sau này. Bộ ba đã cùng bị lạc đến lầu 3 do sự thay đổi cầu thang ở trường, gặp con chó ba đầu. Cô luôn tỏ vẻ khinh thường Harry và Ron. Khi học ở lớp Bùa chú, Hermione đã chỉ chỗ sai cho Ron khi thực hành bùa Bay (Wingardium Leviosa). Bộ ba thực sự không ưa nhau cho đến khi Ron và Harry cứu Hermione thoát khỏi con quỷ khổng lồ bằng chính bùa Bay mà cô đã sửa sai cho Ron. Cô rất biết ơn và đã nói dối các giáo sư để bảo vệ họ khỏi sự trừng phạt. Trong thời gian làm phim, tác giả Rowling tiết lộ rằng bà đã cãi với người viết kịch bản về việc bỏ đoạn chiến đấu với con quỷ khổng lồ. Bà từ chối việc này vì theo bà nghĩ "Hermione... rất hay gây phiền toái trong những chương đầu của Hòn đá phù thủy và cần thiết phải có một thứ gì đó có ý nghĩa to lớn để đưa cô đến gần với Ron và Harry...". Phần kết, Hermione, với sở trường trí thông minh của mình đã giúp Harry giải bài toán hóc búa của giáo sư Severus Snape để vượt qua được ngọn lửa đen, đến được căn phòng cuối cùng có chứa Hòn đá phù thủy, trước đó, cô, Ron và Harry đóng vai quân cờ để giúp Harry qua cửa ải của giáo sư Minerva McGonagall.
Harry Potter và phòng chứa bí mật
Trong cuốn sách thứ hai, Harry Potter và Phòng chứa Bí mật, Hermione ngưỡng mộ thầy giáo mới đẹp trai của môn Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám, thầy Gilderoy Lockhart. Cũng trong tập này, Hermione là nạn nhân của con tử xà, cô bị hình chiếu ánh mắt của nó qua tấm gương làm hóa đá. Nhưng trước đó nhờ thông minh, cô đã tìm tòi, phát hiện ra con tử xà Basilisk và biết được cách thức di chuyển của nó trong "ống nước". Hermione đã ghi lại trong tờ giấy. Harry phát hiện ra tờ giấy vẫn còn nằm trong tay cô khi đến thăm Hermione ở bệnh thất. Nhờ đó mà Harry và Ron đã tìm đến được Phòng chứa bí mật và tiêu diệt con tử xà. Cuối năm, cô cũng hơi thất vọng khi tất cả những kì thi đều bị hủy bỏ. Cũng trong năm học này, cô bị Draco Malfoy gọi là "Máu bùn" (cái tên khinh miệt dùng để gọi những phù thủy gốc Muggle)
Harry Potter và tù nhân ngục Azkaban
Cuốn thứ ba Harry Potter và tên tù nhân ngục Azkaban, Hermione mua một con mèo nửa yêu tinh tên Crookshanks. Chính con mèo đã khiến Ron và Hermione cãi nhau vì Ron nghĩ rằng nó ăn con chuột Scabbers của Ron (thực chất là người hóa thú Peter Pettigrew). Cô còn được giáo sư Minerva McGonagall bí mật tặng cho một dụng cụ quay ngược thời gian để học hai lớp cùng một lúc khi niên học bắt đầu.
Nhờ bài luận văn mà giáo sư Severus Snape yêu cầu làm mà Hermione đã phát hiện được giáo sư Remus Lupin là một người sói. Từ đó, bộ ba đã khám phá ra sự thật về Sirius Black - tên tù nhân đáng nguyền rủa ở ngục Azkaban nhưng thực chất là một người vô tội và là cha đỡ đầu của Harry. Sau khi hiểu ra lời gợi ý của cụ Albus Dumbledore, Hermione đã cùng Harry tự cứu mình khỏi Lupin (khi đó là người sói) và cùng con bằng mã Buckbeak giải cứu chú Sirius Black thoát khỏi những Giám ngục Azkaban bằng dụng cụ quay ngược thời gian của mình.
Harry Potter và chiếc cốc lửa
Hermione có tình cảm với một cầu thủ Quidditch nổi tiếng và cũng là quán quân trường Durmstrang người Bulgaria tên là Viktor Krum, điều này khiến bạn thân của cô là Ronald Weasley rất tức giận vì anh coi Viktor là kẻ thù của Hogwarts (nhưng lý do chính là do Ron ghen với Krum). Tác giả cũng nhờ sự xuất hiện của Krum để giúp người đọc phát âm đúng tên của Hermione, Her-my-o-nee. Trong năm học này, Hermione còn tổ chức Hội Vận Động Vì Quyền Lợi Gia Tinh (S.P.E.W.).
Kết thúc năm học, Viktor trở lại trường Durmstrang, họ vẫn liên hệ thư từ với nhau nhưng chỉ ở mức bạn bè.
Harry Potter và Hội Phượng Hoàng
Trong Harry Potter và Hội Phượng Hoàng, Hermione là người có ý tưởng thành lập Đội quân của Dumbledore (Đ.Q.D).Tiếng Anh: Dumbledore's Army (D.A). Cô là một thành viên rất tích cực chống lại kẻ thù là giáo sư kiêm nhân viên cấp cao của Bộ Pháp thuật là Dolores Umbridge. Tuy nhiên Đội sớm bị tan rã bởi Marietta - bạn thân cùng nhà Ravenclaw của Cho Chang (trong phim là do Cho Chang bị ép uống Chân Dược để khai ra).
Gần kết thúc năm học, Hermione đã đồng tình với Harry - đi đến Bộ Pháp thuật như trong giấc mơ của cậu. Cuối cùng, Hermione cùng Harry và nhiều người khác còn tham gia trận chiến quyết liệt với Voldemort và Tử Thần Thực Tử tại Sở Bảo mật. Tuy Hermione bị chấn thương rất nặng trong cuộc chiến nhưng sau đó đã hoàn toàn bình phục.
Hậu quả của trận chiến ở Bộ Pháp thuật đã khiến cho chú Sirius Black ra đi vĩnh viễn và từ hôm đó Bộ Pháp thuật thừa nhận rằng Chúa tể Hắc ám Voldemort đã trở lại, mặc dù hồi đầu năm học Bộ đã kiên quyết phản đối chuyện đó.
Harry Potter và Hoàng tử lai
Năm thứ sáu, cô đạt 10 chứng chỉ Phù thủy thường đẳng, nhưng vẫn tỏ ra không hài lòng lắm do có một chứng chỉ "Giỏi" chứ không phải "Xuất sắc" trong môn Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám. Nhờ sự xuất sắc trong học tập, cô được giáo sư Horace Slughorn mời gia nhập câu lạc bộ Slug dành cho những học sinh có năng khiếu về một mặt nào đó.
Khi nghe Ginny nói Hermione từng hôn Viktor Krum, Ron rất tức giận và quyết định hẹn hò với Lavender Brown khiến Hermione buồn, tức giận và có thể nói là ghen. Để trả đũa, Hermione đã mời Cormac McLaggen - người Ron rất ghét, cùng đi dự buổi tiệc giáng sinh của thầy Slughorn. Sau khi cụ Dumbledore chết, Ron cũng chia tay Lavender và hai người trở lại làm bạn thân như ban đầu.
Harry Potter và bảo bối tử thần
Trong suốt tập cuối Harry Potter và bảo bối tử thần, Hermione đã giúp Harry Potter tìm kiếm và tiêu diệt những Trường Sinh Linh Giá của Chúa tể Voldemort. Hermione và Ron trao cho nhau nụ hôn đầu tiên và tham gia vào trận chiến Hogwarts cùng những người khác để giết chết Voldemort.
19 năm sau, Ron và Hermione đã kết hôn và có hai người con là Rose - lúc đó đang chuẩn bị bước vào năm học đầu tiên ở Hogwarts và người em trai Hugo.
Harry Potter và đứa trẻ bị nguyền rủa
Năm 2019, Hermione được bầu làm Bộ trưởng Bộ Pháp Thuật.
Chú thích |
Montana là một tiểu bang nằm ở miền tây bắc Hoa Kỳ, là bang thứ 41 gia nhập liên bang vào ngày 8 tháng 11 năm 1889. Thủ phủ của Montana là thành phố Helena, còn thành phố lớn nhất là Billings và Great Falls.
Tiểu bang Montana nổi tiếng với những vùng đồi núi rộng lớn và hùng vĩ thuộc phía bắc dãy núi Rocky. Là tiểu bang đứng thứ 4 về diện tích nhưng dân số lại đứng hàng 44 nên Montana là một trong những tiểu bang dân cư thưa thớt nhất Hoa Kỳ. Nền kinh tế của tiểu bang này chủ yếu dựa trên hoạt động nông nghiệp, khai thác gỗ, khoáng sản và du lịch.
Tên gọi Montana của tiểu bang bắt nguồn từ montaña (trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là "núi"). Montana còn được gọi là Tiểu bang Kho báu ("The Treasure State") do có nhiều tài nguyên thiên nhiên to lớn hoặc Bang có bầu trời rộng ("Big Sky Country") bởi phong cảnh rừng núi hoang sơ kỳ vĩ tại đây. Montana có nhiều khu công viên quốc gia đẹp nổi tiếng.
Địa lý
Với tổng diện tích lên đến 376.978 km², Montana là tiểu bang đứng hàng thứ tư Hoa Kỳ về diện tích (chỉ sau Alaska, Texas và California). Về phía bắc, Montana chia sẻ chung đường biên giới quốc tế với Canada, bao gồm các tỉnh là British Columbia, Alberta, Saskatchewan. Về phía đông, Montana giáp với hai bang Bắc và Nam Dakota, về phía nam giáp với Wyoming và về phía tây và tây nam với Idaho.
Địa hình của Montana rất đa dạng. Dãy núi Rocky chạy hơi chếch qua tiểu bang Montana từ phía tây bắc xuống trung nam chia tiểu bang này thành hai vùng. Phần phía tây chiếm một phần ba diện tích có những vùng đồi núi cao thuộc dãy núi Rocky và thung lũng rộng là cảnh quan tiêu biểu của Montana. Trong khi đó phần phía đông chiếm hai phần ba còn lại thuộc vùng Những Đồng bằng lớn ("Great Plains") với nhiều đồng bằng, thảo nguyên xen lẫn một số dãy núi nhỏ.
Montana có rất nhiều sông. Hệ thống sông ngòi tại đây có vai trò quan trọng trong cung cấp nước uống và điện năng cho cư dân của vùng. Montana là tiểu bang duy nhất tại Mỹ có các sông chảy ra ba biển khác nhau: Thái Bình Dương, Vịnh Hudson và Vịnh Mexico.
Địa hình có ảnh hưởng quan trọng đến thời tiết và khí hậu của Montana. Vùng đồng bằng phía đông của Montana có khí hậu lục địa tương đối khắc nghiệt với mùa hè nóng, mùa đông rất lạnh và có nhiều trận gió lớn. Miền đồi núi phía tây nhờ chịu ảnh hưởng của Thái Bình Dương nên có khí hậu ôn hòa hơn đôi chút với mùa hè mát, mùa đông không lạnh lắm và ít gió bão hơn. Hầu hết diện tích tiểu bang Montana có tuyết rơi khá dày, đặc biệt là mùa đông.
Lịch sử
Những chủ nhân đầu tiên của vùng đất Montana là các bộ tộc thổ dân da đỏ. Họ bao gồm người Crow sống ở phía trung nam tiểu bang, người Cheyenne ở miền đông nam, các bộ lạc Blackfeet, Assiniboine, Gros Ventres ở miền trung, trung bắc và cuối cùng là người Kootenai và người Salish ở phía tây. Bên cạnh đó, còn có các nhóm nhỏ người Pend d'Oreilles và người Kalispel sống gần hồ Flathead và phía tây. Những bộ tộc da đỏ này có đời sống du mục nhờ săn bắn bò rừng bison.
Phần phía đông của tiểu bang Montana nằm trong vùng đất mua Louisiana mà Pháp bán cho Mỹ năm 1803. Sau khi đoàn thám hiểm của Lewis và Clark khám phá ra những mỏ vàng và đồng tại Montana cuối thập niên 1850, vùng đất này trở thành một vùng lãnh thổ do nước Mỹ kiểm soát (Montana Teritory) vào ngày 26 tháng 5 năm 1864 rồi trở thành tiểu bang thứ 41 của Hoa Kỳ vào ngày 8 tháng 11 năm 1889. Các đạo luật Homestead Act được ban hành vào các năm 1862 và đầu thế kỉ 20 để cung cấp đất cho những người dân nhập cư vào Montana khai khẩn trồng trọt.
Các dòng người da trắng đổ vào Montana đã dẫn tới những xung đột với thổ dân da đỏ bản địa. Năm 1876, toàn bộ một trung đoàn kỵ binh của quân đội Mỹ do tướng George Custer đã bị thổ dân da đỏ tiêu diệt trong trận Little Bighorn nổi tiếng. Đây là một trong những trận chiến nổi tiếng nhất trong lịch sử nước Mỹ và tượng trưng cho sự cố gắng bảo vệ quê hương và giữ gìn bản sắc văn hóa của người da đỏ tại đây.
Nhân khẩu
Dân số của Montana hiện nay xấp xỉ 1 triệu người. Đây là bang có mật độ dân số thưa thứ ba ở Hoa Kỳ với mật độ dân số chỉ có 2,39 người/km². Tại Montana, phần lớn người dân là người da trắng có nguồn gốc từ các di dân châu Âu như Đức, Bắc Âu, Anh, Ireland, Đông Âu... Đứng thứ nhì là cộng đồng thổ dân da đỏ bản địa. Ngoài ra các sắc tộc khác như người da đen, người gốc Á chiếm một tỉ lệ khá khiêm tốn. Người hispanic, tức người gốc latinh chiếm tỉ lệ 2,56% trên mọi sắc tộc.
Năm 2006, tổng dân số của Montana là 997.650 người, tăng thêm 0,9% so với năm trước. Dự báo dân số Montana sẽ tiếp tục tăng trưởng đều trong thời gian tới.
Phân bố các sắc tộc của Montana vào năm 2005 như sau:
Người da trắng: 92,52%
Người da đen: 0,62%
Người da đỏ: 7,47%
Người gốc Á: 0,82%
Người các đảo Thái Bình Dương: 0,11%
Người hispanic thuộc mọi sắc tộc trên: 2,56%
Kinh tế
Năm 2020, tổng sản phẩm quốc dân của Montana là 51.91 tỉ đô la Mỹ. Thu nhập bình quân của người dân Montana cùng năm đó là 41.280 USD, đứng hàng thứ 37 nước Mỹ tuy nhiên mức thu nhập này sẽ gia tăng nhanh chóng trong các năm tới.
Kinh tế Montana chủ yếu dựa trên nông nghiệp, chăn nuôi, khai khoáng và du lịch. Tại Montana, các loại cây trồng chủ yếu là lúa mì, lúa mạch, yến mạch, lúa mạch đen, củ cải đường, khoai tây. Về chăn nuôi thì cừu là chủ yếu. Montana có nhiều cánh rừng rộng lớn với một nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động khai thác lâm sản và các loại khoáng sản như vàng, bạc, đồng... hay các mỏ than có trữ lượng lớn.
Du lịch là hoạt động kinh tế quan trọng của Montana. Mỗi năm có hàng triệu lượt khách du lịch tới Montana để tham quan Công viên quốc gia Glacier, hồ Flathead, vùng thượng nguồn con sông Missouri, đài tưởng niệm trận chiến Little Bighorn và một phần công viên quốc gia Yellowstone cùng chung sở hữu với bang láng giềng Wyoming.
Chính trị
Trong lịch sử, Montana được coi là một "Swing state" giữa hai Đảng Cộng hòa Hoa Kỳ và Đảng Dân chủ Hoa Kỳ với truyền thống chọn "người bảo thủ đến Helena và người cấp tiến đến Washington". Mỗi đảng đều có một thời gian cầm quyền khá lâu dài tại Montana trước khi bị đảng kia thay thế. Suốt thập niên 1970, Montana là một bang ủng hộ đảng Dân chủ với vị thống đốc Dân chủ có nhiệm kỳ kéo dài tới 20 năm và các đại diện của đảng Dân chủ chiếm đa số tại cả quốc hội tiểu bang lẫn cơ quan lập pháp. Nhưng đến năm 1988, Montana lại bầu lên một thống đốc Đảng Cộng hòa và gửi các đại đại diện Cộng hòa đến thượng viện liên bang. Trong những năm gần đây, Montana được xếp vào nhóm các bang thiên đảng Cộng hoà, khi tổng thống George W. Bush đã giành được thắng lợi lớn tại Montana trong cuộc bầu cử tổng thống các năm 2000 và 2004. Tuy nhiên, năm 2004, người dân Montana lại bầu Brian Schweitzer, một ứng cử viên Dân chủ vào vị trí thống đốc và đưa các đại diện của Đảng Dân chủ đến thượng viện liên bang. |
Paul Gardner Allen (21 tháng 1 năm 1953 – 15 tháng 10 năm 2018 ở Seattle, Washington) là một nhà đầu tư người Mỹ, đồng sáng lập Microsoft với Bill Gates. Ông thường xuyên xuất hiện trong danh sách những người giàu nhất thế giới; vào năm 2007, Forbes xếp ông là người Mỹ giàu thứ năm , Allen được Forbes xếp hạng là người giàu thứ 44 trên thế giới vào năm 2018, với giá trị tài sản ròng ước tính là 20,3 tỷ USD vào thời điểm ông qua đời Ông là Chủ tịch của Charter Communications, nhưng không còn là cổ đông của DreamWorks Animation nữa. Vừa rồi ông được mời tham dự Học viện Khoa học và Nghệ thuật Hoạt hình (AMPAS).
Allen cũng sở hữu hai câu lạc bộ thể thao: Seattle Seahawks trong Giải Bóng đá Mỹ Quốc gia và Portland Trail Blazers trong Liên hiệp Bóng rổ Quốc gia.
Allen được chẩn đoán mắc U lympho không Hodgkin vào năm 2009. Ông qua đời vì bi Sốc nhiễm khuẩn liên quan đến Ung thư vào ngày 15 tháng 10 năm 2018, hưởng thọ 65 tuổi.
Những năm đầu tiên
Paul Gardner Allen sinh tại Seattle, Washington trong gia đình Kenneth S. Allen, phó giám đốc của thư viện trường Đại học Washington, và Faye G. Allen, vào năm 1953. Allen học tại Lakeside School, một ngôi trường tư thục uy tín ở Seattle, và kết bạn với Gates, người học dưới ông hai lớp nhưng chia sẻ lòng đam mê máy tính với nhau. Allen là một học sinh gương mẫu ở Lakeside School. Họ đã sử dụng máy điện báo của trường để phát triển kỹ năng lập trình trên vài hệ thống máy chia sẻ thời gian. Sau khi tốt nghiệp, Allen nhập học tại trường Đại học Tiểu bang Washington, và là một thành viên tích cực của Phi Kappa Theta Fraternity, mặc dù ông bỏ học sau đó hai năm để làm lập trình viên cho Honeywell ở Boston, ở đó ông gặp lại người bạn cũ. Sau đó ông đã thuyết phục Gates bỏ học ở trường Đại học Harvard để thành lập Microsoft.
Microsoft
Cùng với Bill Gates, ông đã thành lập Microsoft (ban đầu là "Micro – Soft") tại Albuquerque, New Mexico, năm 1975, và bắt đầu bán ngôn ngữ lập trình thông dịch BASIC. Năm 1980, Allen là người đầu tiên mở đầu cho sự đi lên của Microsoft khi mua lại hệ điều hành có tên là QDOS với giá 50.000 đô la Mỹ. Theo hạn chót của IBM, Gates và Allen cảm thấy họ không có đủ thời gian để phát triển một hệ điều hành mới; do đó họ đã mua lại QDOS với chức năng hoàn chỉnh và sửa lại mã nguồn để phù hợp với yêu cầu của IBM. Microsoft đã thắng được hợp đồng cung cấp chương trình hoàn thiện để sử dụng làm hệ điều hành trong loạt máy để bàn mới của IBM. Nó đã trở thành nền tảng cho sự phát triển của Microsoft.
Allen từ chức khỏi Microsoft vào năm 1983 sau khi bị chẩn đoán mắc bệnh Hodgkin, sau đó đã được chữa trị thành công sau vài tháng chữa trị bằng phóng xạ và ghép thần kinh xương.
Vào tháng 11 năm 2000, Allen rút khỏi ban quản trị của Microsoft nhưng được nhờ tư vấn với vị trí cố vấn chiến lược cấp cao của ban điều hành công ty. Ông đã thậm chí nới rộng hơn khoảng cách giữa mình với Microsoft với việc bán 68 triệu cổ phiếu của Microsoft. Có người nói ông hiện vẫn còn sở hữu khoảng 138 triệu cổ phiếu.
Lòng từ thiện
Phần lớn thành công của Paul Allen đã được hiến cho các dịch vụ sức khỏe và dân sinh và cho sự tiến bộ của khoa học và công nghệ. Quỹ gia đình Paul G. Allen được thành lập vào năm 1986 để quản lý những khoản đóng góp. Thông qua quỹ, Allen đã tặng gần 30 triệu Đô la Mỹ hàng năm. Khoảng 75 phần trăm số tiền của Quỹ được tặng cho những tổ chức phi lợi nhuận ở Seattle và tiểu bang Washington. 25 phần trăm còn lại được phân phối cho Portland, Oregon và những thành phố khác ở Tây Bắc Thái Bình Dương. Allen cũng đóng góp thông qua những dự án từ thiện khác như "lòng từ thiện mạo hiểm". Dự án nổi tiếng nhất trong số đó là Dự án Âm nhạc Kinh nghiệm, Học viện Allen về Não học, và Tìm kiếm Trí thông minh ngoài Trái đất thông qua Ma trận Kính viễn vọng Allen. Tổng số tiền từ thiện của Paul Allen vào năm 2005 ươc tính trên 43 triệu Đô la Mỹ.
Trường Đại học Washington là nơi nhận được phần lớn tiền đóng góp của Paul Allen. Vào cuối thập niên 1980, Allen đã đóng góp 18 triệu đô la Mỹ để xây thư viện mới đặt tên cha của ông, Kenneth S. Allen. Năm 2003 5 triệu đô la Mỹ đã được tặng để thành lập Trung tâm Nghệ thuật Thị giác Faye G. Allen, đặt theo tên của mẹ ông. Allen cũng là người đóng góp tư nhân lớn nhất (14 triệu đô la Mỹ) và được đặt theo tên ông Trung tâm Khoa học và Kỹ thuật Máy tính Paul G. Allen (hoàn thành năm 2004). Trong suốt những năm qua, Allen đã đóng góp hàng triệu đô la Mỹ cho Khoa Y trường Đại học Washington, gần đây nhất là 3,2 triệu đô la dành cho nghiên cứu viêm tuyến tiền liệt.
Tên ông đã được đặt cho một giống ruồi hoa vì sự đóng góp của ông cho ngành Dipterology.
Năm 1993, Paul Allen đã tài trợ tiền cho một vụ kiện hai năm trong đó gia đình của nghệ sĩ ghi-ta rock Jimi Hendrix đòi lại bản quyền cho nhạc của ông ta sau khi nhà quản lý di sản được cho là đã bán khi chưa được phép. Allen cũng tài trợ cho việc mua những di sản của Hendrix (bao gồm cây guitar Hendrix đã chơi ở Woodstock và cho trưng bày nó ở triển lãm Dự án Kinh nghiệm Âm nhạc.
Nỗ lực đầu tư và phát triển bất động sản ở Seattle
Allen là nhà phát triển và đầu tư chính trong sự phát triển gây tranh cãi của cộng đồng South Lake Union ở Seattle thành trung tâm công nghệ sinh học. Sự phát triển này đã bị phê phán là sự đầu tư cho bất động sản cho Vulcan Inc. được địa phương hỗ trợ. Những lo lắng về sự thiếu hụt nhà cho người thu nhập thấp rất đáng chú ý. Allen đã đầu tư khoảng 200 triệu đô la Mỹ vào năm 2005, và đã đóng góp vào quỹ "South Lake Union Trolley" của thành phố từ Trung tâm WestLake đến phía nam của Lake Union bang Seattle.
Allen là người tài trợ và là chủ của Dự án Trải nghiệm Âm nhạc.
Những đầu tư khác
Forbes báo cáo rằng Allen sẽ đầu tư 1,6 tỷ đô la vào Bangladesh. Phần lớn số tiền nói trên sẽ được dùng để xây nhà máy điện và phần còn lại để xây nhà máy phân bón.
Cùng một lúc, Quỹ đầu tư mạo hiểm Vulcan của Allen sở hữu TechTV, một kênh truyền hình cáp và vệ tinh 24 giờ ở San Francisco, chiếu thời sự và giới thiệu máy tính, công nghệ và Internet.
Liên quan đến thể thao
Năm 1988, Allen mua lại Portland Trail Blazers đội bóng ở giải NBA từ Harry Glickman với giá 70 triệu đô la, từ đó phát triển và quyên góp cho Sân vận động Rose Garden vào năm 1993. Một trong những khoảnh khắc đáng nhớ nhất của Allen với tư cách là chủ của Trail Blazers là sự tham gia của ông vào cuộc thi ăn hot dog vào giờ nghỉ của trận đấu với Denver Nuggets vào năm 2002. Allen đã ăn 10 cái hot dog trong 12 phút, nhưng thua nhà vô địch thế giới Takeru Kobayashi.
Năm 1997, Allen mua lại đội Seattle Seahawks NFL khi người chủ cũ Ken Behring đe dọa chuyển Seahawks xuống phía nam California. Ông đã đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của sân vận động mới của Seahawks, Qwest Field, mặc dù nó được góp tiền chủ yếu bằng lợi nhuận từ thuế.
Từ năm 2006, Allen đã hỏi những quan chức của Portland và Oregon để hỗ trợ về tài chính cho Blazers, mà ông dự tính sẽ mất khoảng 100 triệu đô la trong ba năm tới. Thị trưởng Portland Tom Potter đang khước từ đề nghị này.
Theo bản bài báo phát hành năm 2006 của Forbes, Blazers được định giá xấp xỉ 300 triệu đô la.
Ngày 27 tháng 4 năm 2007, có tin đồn rằng Allen sẽ đạt được thương vụ mua lại câu lạc bộ bóng đá Anh Southampton. Một nguồn tin gần gũi đã nói "ông tin rằng có một nguồn lợi cho sự đầu tư dài hạn vào Bóng đá Anh. Southampton là một người khổng lồ ngủ quên, một câu lạc bộ gia đình với những giá trị truyền thống, và chúng tôi nhìn thấy giá trị của nó trong thương hiệu toàn cầu."
SpaceShipOne
Năm 2004, Allen đã xác nhận rằng ông nhà đầu tư duy nhất đằng sau phi thuyền thương mại ngoài tầm mắt SpaceShipOne của Scaled Composites của Burt Rutan. SpaceShipOne là nỗ lực tài chính cá nhận đầu tiên đưa thành công con người trong không gian nhìn thấy được và đã chiến thắng trong cuộc thi Ansari X PRIZE.
Ung thư
Ngày 15 tháng 11 năm 2009, Jody Allen, em gái của Paul Allen và CEO của Vulcan thông báo ra đại chúng là Paul được chẩn đoán bị Non-Hodgkin lymphoma, một triệu chứng của ung thư.
Octopus
Năm 2003, sự hạ thủy của con tàu Octopus dài 127m của Paul Allen đã đảm bảo vị trí của nó là một trong những du thuyền lớn nhất thế giới. Nó hiện xếp thứ năm trong Danh sách những du thuyền dài nhất. Allen còn có hai chiếc du thuyền khác.
Đời sống riêng tư
Paul Allen sống độc thân. Năm 2005 New York Daily News nói rằng ông đang hẹn hò với nữ diễn viên và là cựu nữ hoàng sắc đẹp Laura Harring, cùng đóng vai chính trong Mulholland Drive, trong khoảng sáu tháng.
Vào ngày 31 tháng 3 năm 2007, Allen nhận được bằng Tiến sĩ Danh dự của Học viện Công nghệ Liên bang (Thụy Sĩ).
Ghi chú |
Sông Cà Ty là một sông ở tỉnh Bình Thuận chảy qua trung tâm thành phố Phan Thiết .
Dòng chảy
Sông Cà Ty: Bắt nguồn từ dãy núi Ông có độ cao trên 1.300 m, chảy theo hướng Bắc – Nam, sau đó chuyển hướng theo Tây Bắc – Đông Nam đổ ra biển ở cửa Thương Chánh – Phan Thiết. Vùng thượng nguồn còn có tên gọi là sông Mương Mán, chiều dài sông Cà Ty là 65 km, diện tích lưu vực 754 km², chiều dài bình quân lưu vực là 45 km, chiều rộng bình quân lưu vực là 17 km, mật độ
lưới sông là 0,32 km/km², hệ số uốn khúc là 1,40. Độ cao lưu vực có độ cao phổ biến từ 200 – 400m. Độ dốc sông vùng thượng nguồn tương đối lớn khoảng 39%, độ dốc bình quân lưu vực khoảng 48,6‰. Lòng sông được mở rộng về phía cửa ra không lớn, sông chảy một lòng từ thượng
nguồn đến cửa ra. Vùng núi của lưu vực tương đối ngắn nhưng chiều ngang lớn
và thu hẹp về phía hạ lưu. Trên nhánh sông Móng tại xã Hàm Thạnh, huyện Hàm Thuận Nam đã xây dựng hồ chứa nước Sông Móng với dung tích 37 triệu m³.
Sông dài 65 km, diện tích lưu vực 753 km², độ cao trung bình 159 m, độ dốc 11,2%, mật độ lưới sông 0,32 km/km² .
Thượng nguồn sông là một mạng sông suối phức tạp với nhiều tên gọi, ở vùng núi các xã Mỹ Thạnh, Hàm Cần, Hàm Thạnh huyện Hàm Thuận Nam. Các dòng nguồn chảy uốn cong, từ hướng nam sau chuyển hướng đông.
Hai dòng chính là sông Ta Da và sông Móng, chảy theo hướng đông và hợp lưu ở phía đông xã Hàm Thạnh thành sông Cà Ty .
Từ đây sông chảy hướng gần đông qua xã Mương Mán huyện Hàm Thuận Nam, đổi hướng đông nam chảy qua trung tâm thành phố Phan Thiết và đổ ra cửa biển Cồn Chà (Phan Thiết).
Tại thành phố Phan Thiết sông tiếp nhận nước từ sông Cái (Phan Thiết) chảy từ các xã Hàm Minh, Hàm Cường tới .
Tên gọi
Về tên gọi sông có người yêu văn nghệ cho rằng vì lưu lượng nước chảy qua một con sông là nước ngọt, nhưng nước chảy qua sông Cà Ty là nước lợ, đôi lúc là nước mặn, từ rất lâu khi người Việt tới đây sanh sống đã nhận ra điều kỳ lạ này, chính vì vậy mà họ hay nói "kỳ ta, kỳ ta", lâu dần đọc trại thành "Cà Ty" như bây giờ.
Tuy nhiên địa danh bắt đầu với từ "Cà" là phổ biến trong tiếng Việt, tiếng Chăm và tiếng của nhiều dân tộc khác. Tại Ninh Thuận và Bình Thuận còn có Cà Ná, Cà Đú,... Đất Mũi có hẳn một tỉnh Cà Mau. Tại Hà Nội có sông Cà Lồ. Còn chuyện "nước mặn nước lợ" thì từ cửa biển trờ vào vài km xảy ra ở mọi sông vùng nam Trung Bộ. Đó là do lưu lượng mùa nước và mùa khô quá khác nhau. |
Mississippi là một tiểu bang phía nam của Hoa Kỳ. Tên của tiểu bang lấy từ tên sông Mississippi, chảy dọc theo biên giới phía tây. Cái tên đó có nguồn gốc hoặc là từ tiếng Ojibwe, một loại tiếng của người bản địa Bắc Mỹ được nói ở thượng nguồn dòng sông, hoặc là trong tiếng Algonquian, với nghĩa là "sông lớn". Một số tên hiệu khác được gán cho Mississippi là Magnolia State và Hospitality State.
Địa lý
Mississippi phía bắc giáp với Tennessee; phía đông giáp Alabama, về phía nam giáp Louisiana và Vịnh Mexico; về phía tây giáp Louisiana và Arkansas (bên kia sông Mississippi).
Các con sông lớn bao gồm sông Mississippi, sông Big Black, sông Pearl và sông Yazoo. Các hồ lớn bao gồm Ross Barnett Reservoir, hồ Arkabutla, hồ Sardis và hồ Grenada.
Điểm cao nhất Mississippi, một phần là chân dãy núi Cumberland là núi Woodall. Không hẳn là núi, Woodall Mountain chỉ cao 806 feet (246 m) trên mực nước biển. Điểm thấp nhất là dọc theo bờ Vịnh Mexico - cao đúng mực nước biển. Độ cao trung bình là 300 feet (91 m) trên mực nước biển. |
Hòn Rơm là tên một núi nhỏ vẫn còn hoang sơ, nằm tại khu phố Long Sơn, phường Mũi Né, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Việt Nam.
Nguồn gốc tên gọi
Do thời tiết thuận lợi, thích hợp phát triển các loại thực vật nên ở trên núi này có một loại cỏ ống dài khoảng 0,50m vào mùa nắng lớn, cỏ bị cháy khô, màu vàng. Người dân đi biển ở ngoài khơi nhìn vào ngọn núi thấy dáng khô vàng giống như một đụm rơm khổng lồ, nên mới gọi là Hòn Rơm.
Thắng cảnh
Ngày nay, Hòn Rơm thực chất là một "tiểu khu" du lịch của Mũi Né, với cảnh quan đẹp trầm lắng, bãi tắm dài hơn 17 km là những dải cát vàng phục vụ phát triển du lịch, vẫn còn nguyên sơ, chưa có người ở và khai thác, gọi là Bãi sau Hòn Rơm. Tại đây, nước xanh trong vắt, sóng êm, không có đá ngầm. Vào mỗi buổi sáng hoặc buổi chiều, người ta có thể ngồi tại đây ngắm bình minh hay hoàng hôn; vào buổi tối nhìn trăng lên hay tổ chức lửa trại, tắm biển.
Khu du lịch
Nằm trong khu phức hợp các bãi tắm của Hòn Rơm có rất nhiều bãi tắm dành riêng cho du khách. Cụm bãi tắm có rất nhiều khu, ví dụ: Hòn Rơm 1, Hòn Rơm 2, Thùy Trang, v..v. Nhưng hầu hết các bãi tắm này đều dành riêng cho du khách nội địa, trong khi đó, các du khách nước ngoài đều tập trung tại khu resort cao cấp nằm phía trên. |
Suối Tiên là một khe nước nhỏ đổ ra biển, thuộc phường Hàm Tiến, thành phố Phan Thiết, khu vực này được du khách đặt cho là "Bồng Lai Tiên Cảnh". Trước đây, khe nước nhỏ này còn có tên gọi là Suối Tre. Người Phan Thiết cũng ít ai biết Suối Tre vì nó nằm khuất sau những đồi cát cháy nắng.
Không gian tại đây đỏ rực bởi màu cát và nằm cách bãi biển không xa lắm. Có hàng nghìn nhũ cát lô nhô chĩa thẳng lên trời như đỉnh tháp. Cát bị mưa gió bào mòn nên có nhiều hình thù kỳ lạ, nhưng cứng như đá. Từ trên cao nhìn xuống vào lúc chiều tối, khu vực này giống như một vùng lâu đài thành quách bị lãng quên. Giữa những đỉnh nhọn có những khe, hẻm nhỏ để người ưa thám hiểm leo trèo nhưng lối nào cũng hẹp chỉ đủ một bàn chân. |
Âm vị học tiếng Việt là môn học nghiên cứu về cách phát âm tiếng Việt. Bài viết này tập trung vào các chi tiết kỹ thuật trong việc phát âm tiếng Việt viết bằng chữ Quốc ngữ.
Ký hiệu ngữ âm dùng để ký âm tiếng Việt
Các tài liệu ngôn ngữ học ở Việt Nam sử dụng nhiều kiểu ký hiệu ngữ âm khác nhau để ký âm tiếng Việt. Để biểu thị cùng một âm nào đó trong khi tác giả này thì ghi âm đó bằng ký hiệu này thì tác giả khác lại ghi bằng ký hiệu khác. Cùng một ký hiệu lại có thể biểu thị những âm khác nhau tuỳ từng tác giả. Người nghiên cứu ngôn ngữ có thể trộn lẫn các kiểu ký hiệu ngữ âm khác nhau, trộn lẫn cả một số chữ lấy từ văn tự La-tinh tiếng Viêt, tạo thành một hệ thống ký hiệu ngữ âm hỗn hợp dùng để ký âm tiếng Việt. Khi người viết không ký âm tiếng Việt bằng ký hiệu ngữ âm quốc tế mà lại không nêu rõ ý nghĩa của ký hiệu mình sử dụng thì người đọc không thể tránh khỏi việc có những lúc không biết chắc được ký hiệu mình gặp phải được dùng để biểu thị thuộc tính ngữ âm gì. Trong bài này, hệ thống ký hiệu ngữ âm được dùng để ký âm tiếng Việt là ký hiệu ngữ âm quốc tế của Hội Ngữ âm học Quốc tế.
Do không hiểu rõ ý nghĩa và cách sử dụng ký hiệu ngữ âm quốc tế mà một số người nghiên cứu ngôn ngữ ở Việt Nam khi ký âm tiếng Việt bằng ký hiệu ngữ âm quốc tế đã dùng sai ký hiệu. Âm xát ngạc mềm vô thanh lẽ ra phải được ký âm bằng ký hiệu ngữ âm quốc tế là /x/ (tự mẫu La-tinh "ích-xì" viết thường) thì lại bị nhiều người ký âm nhầm là /χ/ (tự mẫu tiếng Hy Lạp "khi" viết thường). Trong bảng ký hiệu ngữ âm quốc tế, /χ/ được dùng làm ký hiệu biểu thị âm xát thuỳ ngạc vô thanh chứ không phải là âm xát ngạc mềm vô thanh. Nhiều người nghiên cứu ngôn ngữ ở Việt Nam không phân biệt âm tắc đôi môi hữu thanh /b/ với âm nổ trong đôi môi hữu thanh /ɓ/, âm tắc lợi hữu thanh /d/ với âm nổ trong lợi hữu thanh /ɗ/. Ở Việt Nam, hai âm nổ trong /ɓ/ và /ɗ/ trong tiếng Việt hay bị ký âm là /b/ và /d/.
Phụ âm đầu
Với phụ âm, có hai giọng chính, giọng Hà Nội và Sài Gòn. Những phụ âm chỉ tồn tại trong giọng Hà Nội có màu đỏ, và những phụ âm chỉ tồn tại trong giọng Sài Gòn có màu xanh.
Tại nhiều vùng ở miền Bắc Bộ Việt Nam, cặp âm mũi - phi mũi /n/ và /l/ đã hợp nhất làm một, chúng không còn là hai âm vị đối lập nhau nữa. Một số người bản ngữ tiếng Việt thiếu hiểu biết về ngôn ngữ học cho rằng việc phát âm phụ âm đầu của từ có hình thức chính tả bắt đầu bằng tự mẫu l thành /n/, n thành /l/ là "nói ngọng". Hiện tượng không còn phân biệt /n/ với /l/ trong các từ có hình thức chính tả bắt đầu bằng tự mẫu n hoặc l có ba kiểu biểu hiện:
Phụ âm đầu của mọi từ có hình thức chính tả bắt đầu bằng n hoặc l đều là /n/.
Phụ âm đầu của từ đều là /l/.
Ở một số từ phụ âm đầu đối ứng với tự mẫu n đứng đầu hình thức chính tả của từ là /n/, với l là /l/, ở một số từ khác âm đối với n là /l/, với l là /n/.
Trong phương ngữ Bắc Bộ, một số từ có phụ âm đầu là âm mũi ngạc cứng hữu thanh /ɲ/, chẳng hạn như nhuộm, nhức, nhỏ (nhỏ trong nhỏ giọt, không phải nhỏ trong nhỏ bé), nhổ, nhốt, còn có biến thể ngữ âm có phụ âm đầu là /z/. Âm /z/ này được ghi lại bằng tự mẫu d hoặc gi hoặc r tuỳ từng từ (ít nhất là một trong ba tự mẫu đó, có khi là hai, thậm chí là cả ba).
Một số từ có phụ âm đầu là âm mũi ngạc mềm hữu thanh /ŋ/ còn có biến thể ngữ âm có phụ âm đầu là âm xát ngạc mềm hữu thanh /ɣ/, được sử dụng tại một số nơi ở Bắc Bộ. Thí dụ: từ ngáy (ngáy trong ngáy ngủ), ngẫm (ngẫm trong suy ngẫm) còn có biến thể ngữ âm là gáy, gẫm.
Trong phương ngữ Bắc Bộ, âm tắc đôi một vô thanh /p/ chỉ là phụ âm đầu trong một số ít từ ngữ được vay mượn từ các ngôn ngữ khác, chủ yếu là từ tiếng Pháp. Trên văn tự, âm /p/ được ghi lại bằng tự mẫu p. Không phải từ nào trong ngôn ngữ khác có phụ âm đầu /p/ thì từ tiếng Việt bắt nguồn từ từ đó cũng sẽ có phụ âm đầu là /p/. Ở một số từ âm /p/ được thay thế bằng âm /ɓ/. Thí dụ: cả hai âm tiết của từ búp bê (bắt nguồn từ từ tiếng Pháp poupée /pu.pe/) đều có phụ âm đầu là /ɓ/ chứ không phải là /p/. Trong phương ngữ Nam Bộ, phụ âm đầu của các từ có hình thức chính tả bắt đầu bằng tự mẫu p là /ɓ/.
Âm tắc thanh hầu được phát âm với thanh môn luôn đóng trước khi đóng miệng. Việc thanh môn thường không được mở trước khi mở miệng tạo nên âm hút vào. Tuy nhiên, thỉnh thoảng thanh môn được mở trước khi mở miệng, tạo nên âm . Do đó, tính chất chủ đạo của âm này là tiền âm thanh hầu hơn là âm nổ.
là âm răng-chân răng (), còn là âm đầu lưỡi-chân răng.
là âm phiến lưỡi-âm vòm lợi (bản lưỡi chạm vào vòm lợi).
thường được phát âm hơi tắc xát thành , nhưng không bật hơi.
Một âm tắc thanh hầu vô thanh được chèn vào từ bắt đầu bằng một nguyên âm hay bán nguyên âm trong giọng Hà Nội.
{| cellpadding="5" style="line-height: 1.0em;"
| ăn
|
| →
|
|-
| uỷ
|
| →
|
|}
Hà Nội
/ɹ/, , và /w/ chỉ có trong các từ mượn.
là âm răng-phiến lưỡi-chân răng: .
là âm đầu lưỡi-chân răng.
Không có các phụ âm quặt lưỡi /ʈʂ/, /ʂ/, /ʐ/ thay vào đó là âm đầu lưỡi: /tʃ/, /ʃ/, /ʒ/ trong trường phổ thông.
Sài Gòn
là âm đầu lưỡi-chân răng.
là âm phiến lưỡi-vòm lợi: .
Một số người không phát âm tách biệt và . Hai âm này đang mất dần sự phân biệt.
Một số người không phát âm tách biệt và . Hai âm này đang mất dần sự phân biệt
Mẫu tự v thường được đọc là trong văn nói thường ngày, nhưng người đọc thường đọc là khi đọc văn bản. Nó được phát âm là hoặc là hoặc là trong từ mượn (va li đọc như wa li, ti vi đọc như ti wi, van đọc như wan, vân vân). Có một số người phát âm như phụ âm chùm với "âm đệm" /j/ , môi khép lúc đầu môi mở và chuyển ngay qua âm /j/, cách đọc này còn được bảo lưu trong các loại hình diễn xướng truyền thống như Hát bội (Tuồng), Đờn ca Tài tử, Cải Lương. Đây chính là hệ quả của việc hợp nhất và biến đổi âm trong phương ngữ miền Nam, (nhưng luôn có ở các phương ngữ miền Bắc và miền Trung).
Một số người phát âm d như là , và gi như là trong các tình huống cần phân biệt, đa phần phát âm cả hai thành .
Trong phương ngữ miền Nam, mẫu tự r có nhiều cách đọc khác nhau tùy thuộc vào người nói. Một người còn có thể có nhiều cách phát âm. Nó có nhiều dạng như âm đầu lưỡi vòm cứng xát , âm chân răng tiếp cận , âm chân răng vỗ , âm chân răng rung , hoặc âm xát vỗ/rung . Ở khu vực giáp ranh giữa Thành phố Hồ Chí Minh và Long An (các huyện Bình Chánh, Cần Giuộc, Cần Đước) mẫu tự r phát âm là [j]. Tại nhiều khu vực ở đồng bằng sông Cửu Long mẫu tự r phát âm là [ɣ].
Lược giảm phụ âm chùm
Trong tiếng Sài Gòn, tất cả phụ âm đầu + cụm đều bị lược giảm:
Sau phụ âm vòm mềm /k, ŋ, ɣ/ và phụ âm thanh hầu /h, ʔ/, phụ âm đi trước được lược bỏ, phụ âm xát vòm mềm vô thanh /x/ mẫu tự kh biến đổi thành phụ âm môi-môi, môi-răng vô thanh tương ứng /ɸ/, /f/ và âm đệm /w/ được lược bỏ, ví dụ: cá khoai đọc như cá phai, khóa máy đọc như phá máy, khỏe không? đọc như phẻ không?.
{| cellpadding="5" style="line-height: 1.0em;"
|u-/o-
|/ʔw/
|→
|u/o
|
|-
| hu-/ho-
|
| →
| u/o
|
|-
| qu-
|
| →
| u/o
|
|-
|go-
|
|→
|o
|/w/
|-
|ngu-/ngo-
|
| →
|u/o
|
|}
Sau phụ âm môi-môi, môi răng /m, ɓ, f, v/ với âm đệm tròn môi /w/ theo sau chỉ có một số ít từ và hầu hết là từ mượn tiếng Pháp, ví dụ: tiền boa (pourboire), đậu pơ-ti-poa (petit pois), xe buýt (bus), vải voan (voile). Phụ âm giữa nguyên và âm đệm được lược bỏ và đọc như: tiền bo, đậu bo, xe bít, vải von.
Các phụ âm chùm thuộc các cơ quan cấu âm còn lại (chân răng, chân răng sau, vòm cứng) với âm đệm /w/, phụ âm giữ nguyên và âm đệm bị lược bỏ như trên, ví dụ: vô duyên đọc như vô diên, cái loa (hát) đọc như cái lo.
Ví dụ so sánh
Trong giọng Hà Nội, d, gi và r đều được phát âm là , còn x và s đều được phát âm là . Bảng bên dưới cho thấy sự khác nhau:
{| class="wikitable" style="text-align: center;"
|-
! colspan="5" | Phụ âm
|-
! rowspan="2" | Hà Nội
! rowspan="2" | Sài Gòn
! colspan="3" | Ví dụ
|-
! Từ
! Hà Nội
! Sài Gòn
|-
|
| rowspan="3" |
| style="text-align: left;" | vợ
|
| hoặc
|-
| rowspan=3 |
| style="text-align: left;" | da
| rowspan=3 |
| rowspan="2" |
|-
| style="text-align: left;" | gia
|-
|
| style="text-align: left;" | ra
|
|-
| rowspan=2 |
|
| style="text-align: left;" | chẻ
| rowspan=2 |
|
|-
| /ʈ/
| style="text-align: left;" | trẻ
|
|-
| rowspan=2 |
|
| style="text-align: left;" | xinh
| rowspan=2 |
|
|-
|
| style="text-align: left;" | sinh
|
|}
Nguyên âm
Nguyên âm hạt nhân
{| class="wikitable" align="right"
!
! Trước
! Giữa
! Sau
|-align=center style="height: 65px"
! Đôi, giữa
|
|
|
|-align=center style="height: 65px"
! Đóng
|
|
|
|-align=center style="height: 65px;"
! Nửa mở
|
|
|
|-align=center style="height: 65px;"
! Mở
|
|
|
|}
Bảng IPA của nguyên âm ở trên dựa theo giọng Hà Nội; các vùng khác có thể có sự khác biệt. Nguyên âm hạt nhân bao gồm nguyên âm đơn (nguyên âm đơn giản) và ba nguyên âm đôi giữa.
Tất cả các nguyên âm đều là nguyên âm không tròn môi chỉ trừ ba nguyên âm sau: .
và được phát âm ngắn — ngắn hơn những nguyên âm khác.
Dù và có một số điểm khác nhau, nhưng nó vẫn được coi gần như là giống nhau.
: Nhiều nguồn, ví dụ như Thompson, , , coi nguyên âm này là nguyên âm đóng sau không tròn môi: . Tuy nhiên, Han cho rằng nguyên âm này giống nguyên âm nửa mở hơn là sau. , và cũng miêu tả nguyên âm này là nguyên âm nửa mở.
Theo , là nguyên âm nửa mở , trong khi là nguyên âm sau [].
Nguyên âm trở thành khi đứng trước : lịch → , chúc → , thức → vv.
chỉ ra trong tiếng Hà Nội, nguyên âm đôi iê , ươ , uô , có thể bị phát âm thành , nhưng khi đứng trước và trong âm tiết mở, chúng luôn được đọc là .
Trong phương ngữ miền Nam, các nguyên âm đóng và nửa mở là nguyên âm đôi trong các âm tiết mở: :
Nguyên âm đóng
Trong tiếng Việt, các nguyên âm hạt nhân có thể kết hợp với âm lướt hoặc để tạo thành nguyên âm đôi và nguyên âm ba. Sau đây là bảng liệt kê các nguyên âm đóng dựa trên phương ngữ miền Bắc.
{| class="wikitable" style="text-align: center;"
|-
! rowspan="2"|
! colspan="2"| Âm lướt
! colspan="2"| Âm lướt
|-
! Trước
! colspan="2"| Giữa
! Sau
|-
! Đôi, nửa mở
|
|
|
|
|-
! Đóng
|
|
|
|
|-
! Nửa mở
|
| –
|
|
|-
! Mở
|
|
|
|
|}
nói rằng ở Hà Nội, những từ có âm ưu và ươu được đọc là , trong khi những vùng khác ở Bắc Bộ vẫn phát âm là và . Những người Hà Nội phát âm là và chỉ đang dùng cách phát âm đánh vần.
Phụ âm cuối
Khi âm tắc nằm ở cuối từ, chúng sẽ không nổ :
{| cellpadding="5" style="line-height: 1.0em;"
|+
| đáp
|
| →
|
|-
| mát
|
| →
|
|-
| khác
|
| →
|
|}
Khi âm vòm mềm nằm tiếp sau , chúng được phát âm với hai môi khép hoặc bị âm môi hóa .
{| cellpadding="5" style="line-height: 1.0em;"
| đọc
|
| →
| ,
|-
| độc
|
| →
| ,
|-
| đục
|
| →
| ,
|-
| phòng
|
| →
| ,
|-
| ông
|
| →
| ,
|-
| ung
|
| →
| ,
|}
Thanh điệu
Giữa các phương ngữ của tiếng Việt có nhiều khác biệt về thanh điệu. Về mặt chính tả, các thanh điệu được xếp thành sáu loại: ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng. Các thanh khác nhau về
Độ cao
Độ dài
Biến thiên giai điệu
Cường độ
Cách phát âm
Không như các ngôn ngữ Mỹ bản địa, Phi hay Trung Quốc, thanh điệu của tiếng Việt không hoàn toàn dựa vào sự biến điệu của thanh, thay vào đó dựa vào nhiều yếu tố phức tạp khác nhau (bao gồm cách phát âm, cao độ, độ dài, nguyên âm, vv). Cho nên nói chính xác thì tiếng Việt là ngôn ngữ giàu ngữ vực chứ không phải là ngôn ngữ "thuần" thanh điệu.
Trong chính tả, dấu thanh được viết trên hoặc dưới nguyên âm.
Phương ngữ miền Bắc
Sáu thanh điệu trong tiếng Hà Nội và một số vùng lân cận:
{| class="wikitable" style="text-align:center;"
|-
! Thanh điệu
! ID thanh
! Miêu tả
! Biến thiên thanh điệu Chao
! Dấu
! Ví dụ
|-
| ngang
| A1
| ngang
| (33)
| align="center" | (không dấu)
| ba
|-
| huyền
| A2
| thấp dần
| (21) hoặc (31)
| align="center" | `
| bà
|-
| sắc
| B1
| cao dần, mạnh
| (35)
| align="center" | ´
| bá
|-
| nặng
| B2
| thấp dần, tắc, ngắn
| (3ˀ2ʔ) hoặc (3ˀ1ʔ)
| align="center" | ̣
| bạ
|-
| hỏi
| C1
| thấp dần rồi cao dần, thô
| (313) hoặc (323) or (31)
| align="center" | ̉
| bả
|-
| ngã
| C2
| cao dần, tắc
| (3ˀ5) hoặc (4ˀ5)
| align="center" | ˜
| bã
|}
Âm tiết và sắp xếp âm
Những vần không phổ biến có thể sẽ không xuất hiện trong bản.
Thanh nặng được thêm vào tất cả các vần chỉ mang tính chất minh họa. Cần phân biệt vần nào mang dấu nào. Xem thêm Quy tắc đặt dấu thanh trong chữ quốc ngữ. Không phải vần nào cũng xuất hiện và không phải vần nào cũng mang dấu nặng.
Phiên âm IPA được dựa trên quy ước của Wikipedia. Các phương ngữ khác nhau có thể có các cách phát âm khác nhau |
Chùa Ông (tức Quan Đế Miếu) là ngôi miếu (nhiều người nhầm là chùa) cổ nhất và có quy mô nhất của người Hoa ở Bình Thuận, nằm tại phường Đức Nghĩa, thành phố Phan Thiết.
Lịch sử
Trên thanh xà cò nóc chính diện có khắc dòng chữ Hán "Thiên kiến Canh Dần niên trọng đông kiết tạo", có nghĩa là "Chùa được thiết lập vào tháng 11 năm Canh Dần" (1770).
Kiến trúc
Nằm trên một diện tích khá lớn, chùa này có lối kiến trúc và trang trí nghệ thuật đặc trưng của người Hoa:
Các dãy nhà nối tiếp nhau tạo nên hình chữ Kim
Hệ thống cột, vĩ kèo chạm khắc rất công phu, tỉ mỉ, có phần giống kĩ thuật chạm khắc trong các ngôi đình chùa của người Việt
Các cột chính đều treo câu đối được chạm khắc, sơn son, thiếp vàng lộng lẫy
Bên trong có những bức tranh chạm gỗ miêu tả các điển tích xưa của người Hoa có niên đại thế kỷ 18. Nhiều bức hoành lớn được chuyển từ Trung Hoa sang ở thế kỷ 19.
Chùa Ông hiện nay còn lưu giữ nhiều chiếc chuông cổ có giá trị về lịch sử và nghệ thuật, phần lớn được đúc tại tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc và được chuyển sang từ triều đại nhà Thanh. Kiểu cách và vật liệu giống Đại hồng chung của người Việt nhưng được trang trí phức tạp và rườm rà hơn trên thân chuông. Chùa Ông là một trong những ngôi chùa có vườn chùa đẹp.
Chức năng
Người Hoa xây dựng để thờ Quan Công (Quan Vân Trường). Sách Đại Nam Nhất Thống Chí tập 12 gọi là Đền Quan Công đúng với tên của miếu. Đặc biệt, nội dung thờ phụng bên trong chỉ thờ tượng Quan Thánh đế quân, cùng những tượng khác chứ không thờ Phật. Ngay trước cổng vào chùa còn tấm biển ghi "Quan Thánh miếu". Chùa không có các nhà sư trụ trì. Thế nhưng trong dân gian từ xưa đến nay cả người Việt và người Hoa đều quen gọi là Chùa Ông.
Sinh hoạt tôn giáo
Ngày Tết Nguyên Đán, Chùa Ông là nơi mà nhiều người đến để cầu cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc, làm ăn may mắn. Chùa Ông còn là trung tâm của Lễ hội Nghinh Ông Quan Thánh Đế Quân của cộng đồng người Hoa tại thành phố Phan Thiết. |
Cát Bà là huyện cũ thuộc thành phố Hải Phòng, Việt Nam, tồn tại trong giai đoạn 1957–1977.
Địa lý
Trước khi giải thể vào năm 1977, Cát Bà là một huyện đảo nằm ở phía đông thành phố Hải Phòng, có địa giới hành chính bao gồm phần lớn quần đảo Cát Bà (ngoại trừ địa bàn xã Phù Long).
Lịch sử
Trước năm 1945, vùng đất này thuộc tổng Hà Sen, huyện Cát Hải, tỉnh Quảng Yên. Theo Danh mục các làng xã Bắc Kỳ, tổng Hà Sen vào năm 1927 có 5 xã và phố Cát Bà (sau đổi thành Đại lý Cát Bà, rồi thị xã Cát Bà).
Năm 1955, tỉnh Quảng Yên sáp nhập với đặc khu Hòn Gai thành khu Hồng Quảng, huyện Cát Hải và thị xã Cát Bà thuộc khu Hồng Quảng. Ngày 5 tháng 6 năm 1956, huyện Cát Hải và thị xã Cát Bà được sáp nhập vào thành phố Hải Phòng. Ngày 22 tháng 7 năm 1957, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 318-TTg về việc thành lập huyện Cát Bà trên cơ sở sáp nhập thị xã Cát Bà và 5 xã: Trân Châu, Xuân Đám, Hiền Hào, Gia Luận, Việt Hải thuộc huyện Cát Hải; thị xã Cát Bà đổi thành thị trấn Cát Bà thuộc huyện Cát Bà.
Ngày 11 tháng 3 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 57-CP. Theo đó, sáp nhập huyện Cát Bà vào huyện Cát Hải.
Từ đó, huyện Cát Bà không còn tồn tại.
Chú thích |
Incheon (phiên âm: In-chơn, Hangeul: 인천, Hanja: 仁川, Hán-Việt: Nhân Xuyên), tên chính thức Incheon Quảng vực thị (인천 광역시 - "Incheon Gwang-yeok si"), là một thành phố nằm ở phía tây bắc Hàn Quốc, giáp với thủ đô Seoul và tỉnh Gyeonggi về phía đông và biển Hoàng Hải ở phía Tây. Vào thời đại đồ đá mới, khu vực thành phố chỉ là nơi cư trú của 4.700 người cho đến khi khi cảng quốc tế Jemulpo được xây dựng vào năm 1883. Ngày nay, dân số thành phố là 2,76 triệu người, khiến Incheon trở thành thành phố đông dân thứ ba tại Hàn Quốc sau Seoul và Busan. Sự phát triển của thành phố trong thời hiện đại được đảm bảo với cùng với sự phát triển của hải cảng và vị thế là một thành phố biển. Là một phần thuộc vùng thủ đô Seoul, Incheon cùng với Seoul và tỉnh Gyeonggi, tạo thành khu vực đô thị lớn thứ tư trên thế giới theo dân số.
Incheon đã góp phần to lớn vào sự phát triển của Hàn Quốc với việc mở cửa cảng ra thế giới bên ngoài, hiện đại hóa Hàn Quốc như một trung tâm công nghiệp hóa. Năm 2003, thành phố được quyết định trở thành khu kinh tế mở đầu tiên của Hàn Quốc. Từ đó, các công ty bản địa lớn và các hãng kinh doanh toàn cầu đã tăng cường đầu tư vào then Khu kinh tế Mở Incheon, bao gồm Samsung với việc lựa chọn Thành phố Quốc tế Songdo làm điểm đầu tư mới cho ngành công nghiệp sinh học của tập đoàn.
Với vai trò là một thành phố quốc tế, Incheon đã tổ chức nhiều hội nghị quốc tế có quy mô lớn, như Lễ hội và Hội chợ Toàn cầu Incheon năm 2009. Á vận hội lần thứ 17 vào năm 2014 đã được tổ chức tại Incheon. Incheon tự đặt nó là vị trí trung tâm của vận chuyển giao thông khu vực Đông Bắc Á với sân bay quốc tế Incheon và cảng Incheon. Thành phố cũng là nơi có Quỹ Khí hậu Xanh, một tổ chức quốc tế giải quyết các vấn đề môi trường.
Lịch sử
Sử sách đầu tiên nói về khu vực Incheon là từ năm 475 CN dưới thời Trường Thọ Vương (Jangsu) của Cao Câu Ly với tên gọi Michuhol. Khu vực đã trải qua một số tên gọi dưới các Triều đại sau đó. Trong thời Cao Ly, Incheon được gọi là Gyeongwon (경원) hoặc Inju (인주). Tên gọi hiện nay của thành phố có từ năm 1413. Sau đó, Quận Incheon trở thành Quận đô thị Incheon (dohobu, 도호부). Old Incheon bao gồm Incheon ngày nay là nam Incheon (tức là Jung-gu, Dong-gu, Nam-gu, Yeonsu-gu và Namdong-gu) và phần phía bắc của thành phố Siheung. Trung tâm thành phố là Gwangyo-dong, nơi có văn phòng tỉnh (도호부 청사) và học viện địa phương (hyanggyo, 향교). Hai tòa nhà còn lại của văn phòng tỉnh Incheon được đặt tại trường tiểu học Munhak, trong khi các tòa nhà văn phòng mới được xây dựng (năm 2001) nằm ngay đối diện Sân vận động bóng chày Munhak.
Một tên lịch sử khác của thành phố, Jemulpo (được La Mã hóa thành Chemulpo), đã không được sử dụng rộng rãi cho đến khi cảng biển ở đây được khai trương vào năm 1883. Sau khi mở cảng Incheon, trung tâm thành phố chuyển từ Gwangyo đến Jemulpo. Hôm nay, hoặc Jemulpo hoặc Gwangyo-dong được coi là "gốc Incheon" (원 인천). Thành phố được đổi tên thành Jinsen (âm Hán-Nhật của Incheon) trong thời cai trị của Nhật Bản ở bán đảo Triều Tiên.
Năm 1914, chính quyền thuộc địa Nhật Bản sáp nhập các khu vực bên ngoài của Incheon cũ (bao gồm cả trung tâm cũ của Gwangyo) với Quận Bupyeong, hình thành Quận Bucheon. Năm 1936 và 1940, một phần của Quận Bucheon được tái kết hợp thành Thành phố Incheon, một số phần của Bupyeong "cũ" đã được sáp nhập vào Incheon.
Incheon ban đầu là một phần của tỉnh Gyeonggi, nhưng đã được cấp quyền trực tiếp (bây giờ là thành phố đô thị trung ương) vào ngày 1 tháng 7 năm 1981; thành phố chính thức tách ra khỏi tỉnh. Năm 1989, các đảo lân cận và thị trấn Gyeyang của quận Gimpo được nhượng lại cho Incheon và năm 1995, thị trấn Geomdan của huyện Gimpo và hai quận Ganghwa và Onjin được sáp nhập vào thành phố Incheon.
Incheon được biết đến với tên Inchon trước khi chính phủ Hàn Quốc công nhận một hệ thống Latinh hóa tiếng Hàn mới (Romaja quốc ngữ) vào năm 2000.
Các sự kiện đáng chú ý
Thành phố là nơi diễn ra hải chiến vịnh Chemulpo, nơi những phát súng đầu tiên của Chiến tranh Nga-Nhật đã nổ ra.
Trong chiến tranh Triều Tiên, Incheon đã từng bị quân Bắc Triều Tiên chiếm đóng vào ngày 4 tháng 9 năm 1950. Vào ngày 15 tháng 9 năm 1950, Incheon là nơi đã diễn ra Trận Incheon, khi các lực lượng Hoa Kỳ tiến hành đổ bộ để làm dịu áp lực cho vành đai Pusan và khởi động cuộc tấn công của Liên Hợp Quốc lên hướng bắc. Kết quả là một trận đánh mang ý nghĩa lớn của quân Liên Hợp Quốc. USS Inchon (MCS-12) được đặt tên theo trận thủy chiến xảy ra sau đó.
Incheon cũng đã tổ chức một loạt các sự kiện quốc tế lớn. Hội chợ toàn cầu & Festival 2009 Incheon được tổ chức tại quận Songdo vào tháng 8 năm 2009. Nó được mở từ ngày 7 tháng 8 đến ngày 25 tháng 10 trong thời gian 80 ngày. Đó là một sự kiện quốc tế toàn diện với các tổ chức và tập đoàn toàn cầu như những người tham gia. Các nhạc sĩ và họa sĩ biểu diễn đã biểu diễn trong sự kiện này.
Thành phố đã tổ chức một cuộc họp của các Bộ trưởng Tài chính G20 vào tháng 2 năm 2010. Incheon là địa điểm tổ chức Hội nghị toàn cầu lần thứ ba của Liên Hợp Quốc, được tổ chức từ ngày 10 đến ngày 14 tháng 8 năm 2011.
Thành phố lần đầu tiên tổ chức lễ hội Biennale cho các nữ họa sỹ Incheon năm 2004, mở rộng sang các họa sĩ quốc tế chào đón trong năm 2007, 2009 và 2011 tiếp theo.
Incheon tổ chức Đại hội Thể thao châu Á 2014.
Hành chính
Thành phố Incheon có 8 quận(gu) và 2 huyện (gun).
Khí hậu
Incheon có khí hậu cận nhiệt đới ẩm và khí hậu lục địa ẩm (Köppen Cwa / Dwa, tương ứng). Giống như các thành phố trung ương khác, Incheon có ảnh hưởng mạnh mẽ của hiệu ứng đảo nhiệt đô thị. Khí hậu của Incheon ở khoảng mức trung bình so với phần còn lại của Hàn Quốc, với 8 địa điểm lạnh hơn và 10 địa điểm ấm hơn, và với 9 địa điểm trở nên ẩm ướt hơn và 9 địa điểm khô hơn.
Incheon trải qua bốn mùa rõ rệt, nhiệt độ và độ ẩm của thành phố luôn dao động mạnh mẽ theo mùa. Tuy nhiên, nhiệt độ không bao giờ tăng lên đến mức cực đoan, và khí hậu của thành phố chủ yếu là ôn hòa. Incheon bị cuốn theo gió mùa vì gió đông bắc tràn vào thành phố vào mùa đông và mùa hè ở Incheon bị ảnh hưởng bởi gió ấm của gió tây nam.
Tôn giáo
Theo điều tra dân số năm 2005, dân số của Incheon 36.1% theo Kitô giáo (22.4% Tin Lành và 13.7% Công giáo) và 13.8% theo Phật giáo. 50.1% dân số phần lớn không theo tôn giáo hoặc theo chủ nghĩa Muism và các tôn giáo bản địa khác.
Kinh tế
Incheon là trung tâm của Khu Công nghiệp Tập Trung. Trong quá trình công nghiệp hóa của Hàn Quốc, một số khu công nghiệp đã được xây dựng trên toàn thành phố, và kết quả là, thành phố phần lớn phụ thuộc vào ngành công nghiệp sản xuất. Nhưng với việc chỉ định Khu kinh tế tự do Incheon vào năm 2003, thành phố hiện đang nỗ lực thúc đẩy các ngành tăng trưởng mới. Các khu công nghiệp lớn bao gồm cụm công nghiệp Bupyeong, nơi có nhà máy GM Incheon (trước đây là nhà máy GM Daewoo Incheon), khu công nghiệp Juan và khu công nghiệp Namdong.
Trong những năm gần đây, ngành công nghiệp sinh học đang nổi lên như một ngành công nghiệp tăng trưởng mới của thành phố. Hiện tại, với tổng công suất 330kℓ / năm, thành phố đứng thứ 2 thế giới về năng lực sản xuất cùng với San Francisco, Hoa Kỳ. Công suất đang được mở rộng, và sau khi hoàn thành vào năm 2018, thành phố sẽ xếp hạng 1 với công suất 510kℓ. Ngoài ra, ngành logistics cũng đang tăng trưởng nhanh, nhờ Sân bay Incheon, được xếp thứ 4 trên thế giới về lưu thông hàng hóa và mở rộng cảng Incheon.
Giáo dục
Vào ngày 27 tháng 2 năm 2007, chính quyền Incheon tuyên bố thành phố là "Thành phố tiếng Anh" và khánh thành chương trình "Khu vực tiếng Anh miễn phí Incheon". Mục tiêu của chương trình là làm cho cư dân thành phố thành thạo tiếng Anh như Hồng Kông và Singapore. Đây là mục đích cuối cùng của việc xây dựng Incheon như là một trung tâm thương mại và kinh doanh ở Đông Bắc Á. Khẩu hiệu chính thức của chương trình là "Nụ cười với tiếng Anh".
Bậc đại học
Incheon là nơi có một số trường cao đẳng và đại học:
Đại học Giáo dục Quốc gia Gyeongin Khuôn viên Incheon
Đại học Inha (trước đây là Viện Công nghệ Inha)
Đại học Gachon Y tế · Khuôn viên Ganghwa
Đại học nữ Gyeongin
Đại học Kỹ thuật Inha
Đại học Công giáo Incheon
Thành phố Incheon
Đại học Quốc gia Incheon
Đại học Jaineung
Đại học Utah Cơ sở Châu Á
SUNY Hàn Quốc
Đại học Anyang Khuôn viên Ganghwa
Đại học Yonsei Khuôn viên quốc tế
Đại học Bách khoa Hàn Quốc Ⅱ
Đại học Seongsan Hyo
Đại học Quốc tế Juan
Trường tiểu học và trung học
Các trường quốc tế:
Trường Quốc tế Chadwick Songdo
Trung Quốc ở nước ngoài tiểu học và Trung / Trung học, Incheon (인천 화교 소 · 중산중 고등학교)
Trường Cheongna Dalton
Các địa danh
Một số hòn đảo phía tây của Hàn Quốc, bao gồm Đảo Ganghwa, Đảo Yeongjong và Đảo Baengnyeong cũng do Incheon quản lý. Đảo Baengnyeong là điểm cực tây của Hàn Quốc.
Trạm Bupyeong là nơi Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến số 1 và tuyến tàu điện ngầm Incheon giao nhau. Có một trung tâm mua sắm dưới mặt đất lớn ở đó chủ yếu là bán quần áo và điện thoại di động của phụ nữ thời thượng. Trên mặt đất, có rất nhiều nhà hàng, cửa hàng bách hóa và Lotte Mart.
Jayu (Freedom) Park là một công viên gần cảng của thành phố. Bức tượng tổng quát Douglas MacArthur, cũng như một đài tưởng niệm kỷ niệm 100 năm quan hệ Mỹ và Hàn Quốc nằm ở đó.
Khu phố Tàu Incheon - Chinatown là khu phố Tàu chính thức duy nhất của Hàn Quốc, nằm đối diện Ga Incheon gần Công viên Jayu.
Bến xe buýt Incheon là khu vực xung quanh bến xe buýt của thành phố. Ngoài ra còn có địa điểm biểu diễn và ga tàu điện ngầm. Trong khu vực này của Guwol-dong là Rodeo Street, một quảng trường trung tâm nhộn nhịp với nhiều nhà hàng và cửa hàng bách hóa.
Wolmido là vị trí của Green Beach, một trong những địa điểm hạ cánh cho lực lượng xâm lược của MacArthur. Nó bây giờ là một địa điểm du lịch địa phương với boardwalk, công viên giải trí và nhiều cá sống trong nhà hàng. Phà chạy từ Wolmido đến Yeongjongdo và Jakyakdo.
Jakyakdo là một hòn đảo nhỏ nằm ở bến cảng gần giữa Wolmido và Yeongjongdo. Có nhiều lối đi bộ và điểm dã ngoại, nhà hàng và các phòng cho thuê theo mùa.
Incheon Landing Operation Memorial Hall là một quảng trường và bảo tàng nhỏ dành riêng cho Incheon Landing. Vũ khí và hiện vật từ chiến tranh và hoạt động được hiển thị.
Incheon Dohobu Cheongsa là khu phức hợp chính phủ cũ của Incheon. Nằm gần sân vận động Munhak, nó đã tồn tại từ ít nhất là triều đại của vua Sejong, khoảng 1424 AD.
Kênh Ara là đường thủy nối Sông Hán và biển Hoàng Hải. Dọc kênh là một công viên và một con đường xe đạp ngày càng trở nên phổ biến với người dân địa phương.
Giao thông
Incheon là một trung tâm vận tải nội địa và quốc tế lớn của Hàn Quốc.
Đường hàng không
Sân bay Quốc tế Incheon là sân bay quốc tế chính của Hàn Quốc và là trung tâm hàng không khu vực. Vào năm 2015, nó là sân bay bận rộn thứ 22 trên thế giới bởi lượng hành khách, với 49.412.750 hành khách.
Có tổng cộng 305.446 chuyến bay (300.634 quốc tế, 4.812 nội địa) đến và đi từ Sân bay Quốc tế Incheon vào năm 2015, trung bình 837 chuyến bay (824 quốc tế, 13 chuyến bay nội địa) hàng ngày. 50,9% số chuyến bay được phục vụ bởi hai hãng hàng không chính của Hàn Quốc là Korean Air và Asiana Airlines, với các hãng hàng không giá rẻ và nước ngoài phục vụ 49,1% còn lại. Các sân bay đang trải qua một sự gia tăng nhanh chóng của hành khách, và việc khai trương nhà ga thứ 2 vào tháng 12/2017 sẽ thúc đẩy lưu lượng truy cập bổ sung.
Cũng xuất hiện trong bộ phim truyền hình Hàn Quốc, "Thành phố hàng không".
Đường thủy
Cảng biển của Incheon là cảng lớn thứ hai tại Hàn Quốc sau cảng biển Busan.
Nhà ga hành khách quốc tế đặt tại cảng cung cấp phà đến năm thành phố ở Trung Quốc: Đại Liên, Thanh Đảo, Thiên Tân, Đan Đông và Uy Hải. Ngoài ra còn có phà đến các đảo xa xôi của Incheon cũng như Đảo Baengnyeong bên trong Đường giới hạn phía Bắc.
Xe buýt
Bến xe buýt Incheon, nằm tại trạm dừng tàu điện ngầm cùng tên, cung cấp dịch vụ đưa đón bằng xe buýt tốc hành đến tất cả các khu vực của Hàn Quốc. Nhiều tuyến xe buýt trong thành phố cung cấp dịch vụ vận chuyển trong phạm vi thành phố cũng như các thành phố lân cận như Bucheon, Gimpo, Seoul và Siheung.
Nhiều tuyến BRT cung cấp dịch vụ vận chuyển giữa Seoul và Incheon.
Đường sắt
Dịch vụ địa phương đến Guro, Seoul, Cheongnyangni, Uijeongbu và Soyosan được cung cấp bởi tuyến tàu điện ngầm Seoul 1. Tuyến có 11 ga trong Incheon và kết nối với Tàu điện ngầm Incheon tại các ga Bupyeong và Juan.
Dịch vụ nhanh trên cùng tuyến đến Ga Yongsan ở Seoul khởi hành từ ga Dongincheon và dừng tại các ga chính.
Tuyến AREX chạy từ Sân bay Quốc tế Incheon đến Ga Seoul qua Sân bay Quốc tế Gimpo. Tuyến Incheon-Gimpo được khai trương vào tháng 3 năm 2007 và được mở rộng đến ga Seoul vào tháng 12 năm 2010. Hành khách có thể chọn dịch vụ tốc độ cao chỉ dừng ở sân bay Incheon và Seoul, mất 43 phút nhưng chỉ khởi hành sau nửa giờ; hoặc dịch vụ tất cả các trạm mất 53 phút nhưng lại cứ sáu phút một lần.
Tuyến KTX đã được giới thiệu trên tuyến AREX vào ngày 30 tháng 6 năm 2014, với các trạm dừng tại Ga Sân bay Quốc tế Incheon và Ga Geoman. Có thêm kế hoạch sử dụng tuyến Suin mới xây dựng để đưa tuyến KTX đến ga Incheon vào năm 2021.
Tàu điện ngầm
Tàu điện ngầm Incheon có hai tuyến tàu điện ngầm phục vụ thành phố. Tuyến đầu tiên kết nối với hệ thống tàu điện ngầm Seoul tại ga Bupyeong (Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến số 1) và tuyến AREX tại ga Gyeyang. Tuyến này kết nối Ga Thương mại Quốc tế tại Songdo với Ga Gyeyang. Dòng có 28 trạm trên 29,4 km (18,3 dặm) của tuyến. Tuyến cũng có các trạm trung chuyển với Tuyến Suin tại Ga Woninjae, với Tuyến Tàu điện ngầm Incheon số 2 tại Ga Incheon City Hall và Tàu điện ngầm Seoul tuyến 7 tại Ga Văn phòng Bupyeong-gu. Tàu điện ngầm Incheon tuyến 2 mở cửa vào tháng 7 năm 2016 và chạy từ Ga Geomdan Oryu đến Ga Unyeon. Dòng tự động là 29,2 km (18,1 dặm) dài, và có 27 trạm, trong đó có các trạm chuyển giao tại Geomam Trạm với dòng AREX, Trạm với Seoul Dòng điện ngầm 1 Juan và tàu điện ngầm Incheon tuyến số 2 tại ga ga tòa thị chính Incheon.
Tàu điện ngầm Incheon được điều hành bởi Công ty Vận tải Nhanh Incheon (IRTC).
Có kế hoạch bổ sung cho tuyến tàu điện ngầm thứ ba ở Incheon.
Korail cũng đã xây dựng một tuyến đường sắt đi lại mới mang tên tuyến Suin. Tuyến khai trương vào năm 2012 từ Ga Oido ở Siheung đến Ga Songdo ở Incheon. Sau đó nó được mở rộng vào năm 2016, và bây giờ đến Ga Incheon, nơi hành khách có thể chuyển sang Tàu điện ngầm Seoul tuyến 1. Vào năm 2017, tuyến sẽ được mở rộng từ Ga Oido đến Ga Suwon.
Seoul Metro đã mở rộng Tàu điện ngầm Seoul tuyến số 7 đến văn phòng Bupyeong-gu vào năm 2011 và cung cấp dịch vụ vận chuyển đến hệ thống tàu điện ngầm Incheon. Nó có 3 trạm trong Incheon. Đến năm 2020, tuyến này sẽ tiếp tục được mở rộng về phía tây đến Ga Seongnam, nơi có thể chuyển sang Tuyến Tàu điện ngầm Incheon số 2.
Thành phố kết nghĩa
Trung Quốc
Đại Liên
Thiên Tân
Alexandria, Ai Cập
Tel Aviv, Israel
Kitakyushu, Nhật Bản
Thành phố Panama, Panama
Manila, Philippines
Hải Phòng, Việt Nam
Ekaterinburg, Nga
Hoa Kỳ
Anchorage, Alaska
Burbank, California
Honolulu, Hawaii
Philadelphia, Pennsylvania |
Độ nhạy của một xét nghiệm là tỷ lệ những trường hợp thực sự có bệnh và có kết quả xét nghiệm dương tính trong toàn bộ các trường hợp có bệnh. Ví dụ: xét nghiệm để xác định một người mắc một bệnh nào đó. Độ nhạy cũng được áp dụng cho các hệ thống tự động phát hiện các sản phẩm lỗi ở một nhà máy.
Công thức để tính độ nhạy như sau:
độ nhạy = số dương tính thật/(số đương tính thật + số âm tính giả)
Độ nhạy 100% được hiểu là toàn bộ những người mắc bệnh hoặc toàn bộ sản phẩm hỏng đều được phát hiện.
Một mình độ nhạy không cho chúng ta biết toàn bộ về xét nghiệm bởi vì 100% độ nhạy có thể có được một cách thông thường bằng việc gán cho toàn bộ các trường hợp kết quả xét nghiệm dương tính. Chính vì vậy, chúng ta cần phải biết thêm về độ đặc hiệu của xét nghiệm.
Ta có thể trình bày dưới dạng bảng như sau:
Độ nhạy = a/(a+c)
Một xét nghiệm độ nhạy cao có sai lầm loại 1 thấp. Sai lầm loại 1 là: kết quả nghiên cứu cho thấy không có mối quan hệ giữa các yếu tố, nhưng thực tế thì có.
Độ đặc hiệu của một xét nghiệm là tỷ lệ những trường hợp thực sự không có bệnh và có kết quả xét nghiệm âm tính trong toàn bộ các trường hợp không bị bệnh. Độ đặc hiệu được tính theo công thức sau:
Độ đặc hiệu = Số trường hợp âm tính thật/ (số trường hợp âm tính thật + số trường hợp dương tính giả)
Đối với một xét nghiệm để xác định xem ai mắc bệnh nào đó, độ đặc hiệu 100% có nghĩa là toàn bộ những người khỏe mạnh (không mắc bệnh) được xác định là khỏe mạnh.
Một mình độ đặc hiệu không cho chúng ta biết toàn bộ về xét nghiệm bởi vì 100% độ đặc hiệu có thể có được một cách thông thường bằng việc gán cho toàn bộ các trường hợp kết quả xét nghiệm âm tính. Chính vì vậy, chúng ta cần phải biết thêm về độ nhạy của xét nghiệm.
Một xét nghiệm với độ đặc hiệu cao có sai lầm loại 2 thấp. Sai lầm loại 2 là loại sai lầm khi kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt (như giả thuyết đặt ra), nhưng thực tế là không có sự khác biệt. |
Xem các nghĩa khác của từ "Vòng tròn lớn" tại Vòng tròn lớn (định hướng)
Vòng Tròn Lớn (tiếng Trung: 大圈幫 Đại Khuyên bang hay 大圈仔 Đại Khuyên tể) là một trong những tổ chức tội phạm lớn nhất của người Hoa có phạm vi hoạt động tại nhiều nước trên thế giới.
Nguồn gốc ra đời và lịch sử phát triển
Vòng Tròn Lớn ra đời tại Hồng Kông, sau đó trong những năm cuối thập niên 1970 đầu thập niên 1980, do sự trấn áp mạnh mẽ của chính quyền nơi đây, băng nhóm này bắt đầu chuyển hướng hoạt động sang Bắc Mỹ. Chúng chọn các khu phố Tàu (Chinatown) sầm uất ở Bắc Mỹ, trong đó đáng kể nhất là ở Thành phố New York (Mỹ), Vancouver và Toronto (Canada) làm địa bàn hoạt động chính.
Cơ cấu tổ chức và các hoạt động
Thực ra thì mạng lưới tổ chức của Vòng Tròn Lớn không quá chặt chẽ với một hệ thống cấp bậc rõ ràng như mafia Ý mà quy tụ nhiều băng nhóm "con" khác nhau, trong đó các thủ lĩnh "con" có vai trò khá độc lập. Các nhóm "con" cũng không phải chia lợi nhuận mà thường nộp "ngân sách" thông qua hình thức quà cáp trong các dịp lễ, hội họp.
Vòng tròn lớn chia làm 2 "giai cấp" khác nhau: những thành viên kỳ cựu, cao cấp chịu trách nhiệm vận chuyển ma túy từ vùng Tam giác vàng đến Bắc Mỹ, các thành viên trẻ, cấp thấp hơn thường tham gia những hoạt động đơn giản như đột nhập vào nhà của những người giàu có hay cướp sòng bạc...
Một trong những hoạt động phổ biến, đem lại nguồn thu lớn cho Vòng tròn lớn là đưa trái phép người qua biên giới. Buôn lậu vũ khí cũng là một thế mạnh khác, có lẽ vì Vòng tròn lớn có nhiều thành viên là các cựu quân nhân. |
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 6 của Đảng Cộng sản Việt Nam (15-18/12/1986) đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương khóa VI (1986-1991) gồm 124 ủy viên chính thức và 49 ủy viên dự khuyết. Sau đó, Ban Chấp hành Trung ương bầu ra 13 ủy viên chính thức và 1 ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị.
Các Hội nghị
Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương
Ngày 17/12/1986, tại phiên họp toàn thể của Đại hội Đảng, Đại hội đã thống nhất thông qua danh sách ủy viên Cố vấn.
Các ủy viên Cố vấn có nhiệm vụ sau:
Tham gia ý kiến với Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương về các vấn đề có tính chiến lược về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, v.v..
Tùy tình hình cụ thể, Bộ Chính trị yêu cầu các ủy viên Cố vấn tham gia ý kiến vào một số vấn đề cần thiết; khi xét có vấn đề quan trọng thì các ủy viên Cố vấn chủ động đề xuất với Bộ Chính trị.
Các ủy viên Cố vấn được sự ủy nhiệm của Bộ Chính trị giải quyết vấn đề cụ thể nhất định.
Các ủy viên Cố vấn được mời dự Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương và Hội nghị Bộ Chính trị khi cần thiết.
Các ủy viên Cố vấn được yêu cầu các cấp ủy Đảng, các ban, ngành trực tiếp báo cáo và cung cấp thông tin.
Văn phòng Trung ương Đảng và các cơ quan có liên quan cung cấp thường xuyên những tài liệu cần thiết.
Phương thức làm việc chủ yếu dựa vào Văn phòng Trung ương Đảng và các ban của Trung ương, không có bộ máy riêng.
Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương khóa VI gồm các Ủy viên sau:
Ủy viên chính thức
Ủy viên dự khuyết
Ủy viên Bộ Chính trị
Ủy viên chính thức:
Nguyễn Văn Linh (Tổng Bí thư)
Phạm Hùng (mất tháng 3 năm 1988)
Võ Chí Công
Đỗ Mười
Võ Văn Kiệt
Lê Đức Anh
Nguyễn Đức Tâm
Nguyễn Cơ Thạch
Đồng Sĩ Nguyên
Trần Xuân Bách (đến tháng 3 năm 1990)
Nguyễn Thanh Bình
Đoàn Khuê
Mai Chí Thọ
Đào Duy Tùng (từ tháng 5 năm 1988).
Ủy viên dự khuyết:
Đào Duy Tùng (đến tháng 5 năm 1988).
Ban Bí thư
Nguyễn Văn Linh (Tổng Bí thư)
Nguyễn Đức Tâm
Trần Xuân Bách (đến tháng 3 năm 1990)
Đào Duy Tùng
Trần Kiên
Lê Phước Thọ
Nguyễn Quyết
Đàm Quang Trung
Vũ Oanh
Nguyễn Khánh
Trần Quyết
Trần Quốc Hương
Phạm Thế Duyệt
Nguyễn Thanh Bình (bổ sung từ tháng 10 năm 1988) |
Chi Chút chít, danh pháp khoa học: Rumex (L.), là một chi thực vật của khoảng 200 loài cây thân thảo sống một năm, hai năm và lâu năm trong họ rau răm (Polygonaceae).
Các loài trong chi này chủ yếu là các loại cây thân thảo sống lâu năm phổ biến, sinh trưởng tốt tại các vùng đất chua chủ yếu tại khu vực Bắc bán cầu, nhưng đã được du nhập gần như khắp mọi nơi.
Nhiều loài là các loại cỏ dại gây phiền toái (và đôi khi được gọi là cỏ chút chít), nhưng một số (đáng chú ý là chút chít Rumex acetosa) có lá ăn được, sử dụng trong các món xúp và xà lách.
Đây là các loại thực vật mọc thẳng với rễ cái dài. Các lá mọng nước và dày tạo thành cụm hình hoa thị tại gốc. Các lá sát gốc có thể khác với các lá ở gần cụm hoa. Chúng có thể có hoặc không có lá kèm. Các gân lá nhỏ. Các mép lá nhẵn hoặc có khía tai bèo.
Các hoa không dễ nhận thấy xuất hiện phía trên các lá và mọc thành cụm giống như một vòng xoắn. Chúng chủ yếu là hoa lưỡng tính, nhưng cũng có thể có chức năng hoặc là như hoa đực hoặc là như hoa cái. Hoa và hạt mọc trên các cụm dài ở trên đỉnh của thân chòi ra từ gốc. Mỗi hạt là một quả bế.
Các loài trong chi Rumex bị ấu trùng của một số loài Lepidoptera phá hại - xem Danh sách Lepidoptera phá Rumex.
Các loài trong chi này có một số công dụng. Chút chít lá rộng (Rumex obtusifolius) còn dược gọi là chút chít bơ do các lá rộng bản của nó đã được dùng để gói và bảo quản bơ. Phần lớn các loài đều chứa axít oxalic và tanin. Chúng có các tính chất làm se và tẩy nhẹ. Tại Vương quốc Anh, các lá giã nhỏ được dùng để làm giảm ngứa do va chạm phải lông của các loài cây tầm ma. Một điều đáng chú ý là các loài chút chít sống khá gần môi trường sinh sống của tầm ma .
Các loài
Rumex acetosa: chút chít thông thường hay cây chút chít trồng trong vườn
Rumex acetosa phân loài acetosa
Rumex acetosa phân loài ambiguus - chút chít trồng trong vườn
Rumex acetosa phân loài arifolius - chút chít trồng trong vườn
Rumex acetosa phân loài hibernicus
Rumex acetosa phân loài hirtulus
Rumex acetosa phân loài vinealis
Rumex acetosella - chút chít cừu, chút chít đồng, chút chít đỏ
Rumex acetosella phân loài acetosella
Rumex acetosella phân loài acetoselloides
Rumex acetosella phân loài multifidus
Rumex acetosella phân loài pyrenaicus - chút chít cừu hạt tròn
Rumex x acutus - chút chít lá sắc
Rumex albescens - chút chít Oahu
Rumex x alexidis - chút chít Alex
Rumex alpestris
Rumex alpinus - đại hoàng thầy tu
Rumex altissimus - chút chít lá đào, chút chít lá trơn
Rumex angiocarpus
Rumex aquaticus - chút chít miền tây
Rumex aquaticus phân loài aquaticus
Rumex aquaticus phân loài arcticus
Rumex aquaticus phân loài protractus
Rumex aquaticus x longifolius
Rumex aquitanicus
Rumex arcticus (đồng nghĩa của Rumex aquaticus phân loài arcticus): chút chít vùng Bắc cực
Rumex azoricus
Rumex balcanicus
Rumex beringensis - chút chít ven biển Bering
Rumex brownei - chút chít Browne
Rumex brownii - chút chít đầm lầy
Rumex bucephalophorus - chút chít đỏ
Rumex bucephalophorus phân loài bucephalophorus
Rumex bucephalophorus phân loài aegaeus
Rumex bucephalophorus phân loài canariensis
Rumex bucephalophorus phân loài gallicus
Rumex bucephalophorus phân loài hispanicus
Rumex bucephalophorus thứ aegaeus
Rumex bucephalophorus thứ subaegaeus
Rumex chrysocarpus - Amamastla
Rumex confertus - chút chít châu Á
Rumex x confusus
Rumex conglomeratus - chút chít cụm
Rumex costaricensis
Rumex crispus - chút chít quăn, chút chít lá hẹp, chút chít chua, chút chít vàng
Rumex crispus phân loài crispus
Rumex crispus phân loài littoreus
Rumex crispus phân loài uliginosus
Rumex crispus x confertus
Rumex crispus x longifolius
Rumex crispus x obtusifolius
Rumex crispus x patientia
Rumex crispus x pulcher
Rumex cristatus: chút chít Hy Lạp
Rumex cristatus phân loài cristatus
Rumex cristatus phân loài kerneri
Rumex crystallinus - chút chít lá bóng
Rumex densiflorus - chút chít hoa dày
Rumex dentatus - chút chít răng
Rumex dentatus phân loài dentatus
Rumex dentatus phân loài halacsyi
Rumex dentatus phân loài reticulatus
Rumex diclinis
Rumex digynus
Rumex dimidiatus
Rumex dimorphophyllus
Rumex x dissimilis - chút chít
Rumex x dobrogensis
Rumex x dolosus
Rumex dregeanus
Rumex drobovii
Rumex drummondii
Rumex × dufftii
Rumex dumosiformis
Rumex dumosus - chút chít thô
Rumex dumosus thứ dumosus
Rumex × dumulosus
Rumex durispissimus
Rumex ecklonianus
Rumex ecuadoriensis
Rumex elbrusensis
Rumex ellenbeckii
Rumex engelmanni
Rumex ephedroides
Rumex erosus
Rumex x erubescens
Rumex erythrocarpus
Rumex esquirolii
Rumex euxinus
Rumex evenkiensis
Rumex x exspectatus
Rumex x fallacinus
Rumex fascicularis
Rumex fascilobus
Rumex fenestratus phân loài puberulus
Rumex fimbriatus
Rumex x finitimus
Rumex flexicaulis
Rumex flexuosiformis
Rumex flexuosus
Rumex foliosus
Rumex fontano-paludosus
Rumex foveolatus
Rumex x franktonis - chút chít Frankton
Rumex fraternus
Rumex fringillimontanus
Rumex frutescens - chút chít lá nêm
Rumex fueginus
Rumex fueginus thứ brachythrix
Rumex fueginus thứ ovato-cordatus
Rumex fueginus thứ tanythrix
Rumex fueginus thứ typicus
Rumex gamsii
Rumex gangotrianus
Rumex gieshueblensis
Rumex giganteus - Pawale
Rumex ginii
Rumex gmelini
Rumex gmelinii thứ latus
Rumex gombae
Rumex gracilescens
Rumex gracilipes
Rumex graminifolius - chút chít lá cỏ
Rumex granulosus
Rumex x griffithii
Rumex x grintzescui
Rumex gussonii
Rumex x gusuleacii
Rumex hadmocarpus
Rumex halophilus
Rumex hararensis
Rumex hasslerianus
Rumex hastatulus - chút chít Heartwing
Rumex hastatus
Rumex hayekii
Rumex hazslinszkyanus
Rumex x heimerlii
Rumex hellenicus
Rumex henrardi
Rumex hesperius
Rumex × heteranthos
Rumex heterophylus
Rumex hexagynus
Rumex hippiatricus
Rumex hirsutus
Rumex horizontalis
Rumex hoschedei
Rumex hostilis
Rumex hultenii
Rumex hungaricus
Rumex x hybridus
Rumex hydrolapathum - chút chít nước loại lớn
Rumex hymenosepalus - chút chít Canaigre
Rumex x impurus
Rumex inconspicuus
Rumex integer
Rumex integrifolia
Rumex x intercedens
Rumex intermedius
Rumex intermedius phân loài algarbiensis
Rumex intermedius phân loài lusitanicus
Rumex interruptus
Rumex x inundatus
Rumex iseriensis
Rumex jacutensis
Rumex japonicus
Rumex x johannis-moorei
Rumex kamtshadalus
Rumex kaschgaricus
Rumex x kaschmirianus
Rumex kerneri - chút chít Kerner
Rumex khekii
Rumex x khorasanicus
Rumex x knafii
Rumex komarovii
Rumex krausei - chút chít Krause
Rumex lachanus
Rumex lacustris
Rumex lanceolatus
Rumex langloisii
Rumex lanuginosus
Rumex lapponicus
Rumex lanuginosus
Rumex latifolius
Rumex lativalvis
Rumex leptocaulis
Rumex leptophyllus
Rumex limoniastrum
Rumex linearis
Rumex x lingulatus
Rumex litoralis
Rumex lonaczewskii
Rumex longifolius - chút chít Dooryard
Rumex longifolius thứ nanus
Rumex longisetus
Rumex lorentzianus
Rumex x lousleyi
Rumex ludovicianus
Rumex lugdunensis
Rumex lunaria
Rumex luxurians
Rumex x lycheanus
Rumex maderensis
Rumex magellanicus
Rumex magellanicus thứ donatii
Rumex magellanicus thứ dusenii
Rumex maritimus - chút chít vàng, chút chít lá cứng
Rumex marschallianus
Rumex maximus
Rumex megalophyllus
Rumex meyeri
Rumex × mezei
Rumex microcarpus
Rumex microdon
Rumex x mirabilis
Rumex mixtus
Rumex moedlingensis
Rumex x monistrolensis
Rumex montanus
Rumex monticola
Rumex muelleri
Rumex x munshii
Rumex muretii
Rumex muricatus
Rumex x nankingensis
Rumex natalensis
Rumex neglectus
Rumex nematopodus - chút chít Arizona
Rumex nemorosus
Rumex nepalensis
Rumex nervosus
Rumex nevadensis
Rumex nigricans
Rumex nikkoensis
Rumex nivalis
Rumex oblongifolius
Rumex obovatus - chút chít nhiệt đới
Rumex obtusifolius - chút chít lá rộng, chút chít đắng, chút chít lá cùn
Rumex obtusifolius phân loài obtusifolius
Rumex occidentalis
Rumex occidentalis thứ perplexus
Rumex occultans
Rumex ochotensis
Rumex orbiculatus - chút chít nước loại lớn
Rumex orientalis
Rumex orthoneurus - chút chít núi Chiricahua
Rumex x oryzetorum
Rumex osswaldii
Rumex oxysepalus
Rumex x pakistanicus
Rumex pallidus - chút chít ven biển
Rumex x palustroides
Rumex pamiricus
Rumex x pannonicus
Rumex papilio
Rumex paraguayensis - chút chít Paraguay
Rumex patagonicus
Rumex patientia - đại hoàng thầy tu
Rumex paucifolius - chút chít bãi cỏ, chút chít cừu, chút chít ít lá
Rumex peisonis
Rumex peregrinus
Rumex persicaris
Rumex peruanus
Rumex pictus
Rumex pilatensis
Rumex planivalvis
Rumex polycarpus
Rumex polygamus
Rumex polyklonos
Rumex polyrrhizus
Rumex ponticus
Rumex popovii
Rumex praecox
Rumex pratensis
Rumex procerus
Rumex x promiscuus
Rumex x propinquus
Rumex protractus
Rumex pseudonatronatus - chút chít đồng
Rumex x pseudopulcher
Rumex pseudoscutatus
Rumex pseudoxyria
Rumex pulcher
Rumex pulcher phân loài divaricatus
Rumex pulcher phân loài pulcher
Rumex pulcher phân loài woodsii
Rumex quarrei
Rumex raulini
Rumex rechingerianus
Rumex rectinervius
Rumex recurvatus
Rumex x rhaeticus
Rumex rhodesius
Rumex x romanicus
Rumex romassa
Rumex x rosemurphyae
Rumex roseus
Rumex rossicus
Rumex rothschildianus
Rumex rugosus (đồng nghĩa của Rumex acetosa) - chút chít lá nhăn
Rumex rothschildianus
Rumex ruwenzoriensis
Rumex sagittatus - chút chít leo
Rumex x sagorski
Rumex salicetorum
Rumex salicifolius - chút chít lá liễu
Rumex salicifolius phân loài angustivalvis
Rumex salicifolius thứ denticulatus
Rumex salicifolius f. escallosus
Rumex salicifolius phân loài montigenitus
Rumex salicifolius thứ nudivalvis
Rumex salicifolius thứ oreolapathum - chút chít lá liễu
Rumex salicifolius thứ triangularis
Rumex salicifolius thứ trigranis
Rumex salinus
Rumex samuelssoni
Rumex sanguineus - chút chít gân đỏ
Rumex sanninensis
Rumex schimperi
Rumex schischkinii
Rumex x schmidtii
Rumex x schreberi
Rumex x schultzei
Rumex scutatus - chút chít Pháp, chút chít lá hình khiên
Rumex scutatus phân loài gallaecicus
Rumex sellowianus
Rumex semigraecus
Rumex shultzii
Rumex sibiricus - chút chít Siberi
Rumex similans
Rumex x similatus
Rumex simonkaianus
Rumex simpliciflorus
Rumex sinuatus
Rumex x skofitzi
Rumex skottsbergii - chút chít Lava
Rumex songaricus
Rumex x sorkhabadensis
Rumex spathulatus
Rumex spiralis - chút chít có cánh
Rumex spurius
Rumex stenoglottis
Rumex x stenophylloides
Rumex stenophyllus (đồng nghĩa của Rumex acetosa) - chút chít lá hẹp
Rumex subalpinus - chút chít chân núi Alp
Rumex subarcticus
Rumex x subdubius
Rumex subrotundus
Rumex subtrilobus
Rumex subvirescens
Rumex suffruticosus
Rumex suzukianus
Rumex sylvaticus
Rumex sylvestris
Rumex x talaricus
Rumex tenax
Rumex tenellus
Rumex thyrsoides
Rumex tianschanicus
Rumex tibeticus
Rumex tingitanus
Rumex tmoleus
Rumex toepffieri
Rumex tolimensis
Rumex tomentellus
Rumex × transbaicalicus
Rumex triangularis
Rumex triangulivalvis
Rumex trifidus
Rumex trinervius
Rumex tuberosus
Rumex tunetanus
Rumex turcestanicus
Rumex ucranicus
Rumex x ujskensis
Rumex x uludaghensis
Rumex uncinulatus
Rumex undulatus
Rumex ursinus
Rumex uruguayensis
Rumex ussuriensis
Rumex usticanus
Rumex utahensis
Rumex venosus - chút chít gân
Rumex verrietianus
Rumex verticillatus - chút chít đầm lầy
Rumex vesceritensis
Rumex vesicarius
Rumex violascens - chút chít hoa tím
Rumex wachteri
Rumex x weberi
Rumex × wildtianus
Rumex woodii
Rumex woodsii
Rumex x wrightii
Rumex × xenogenus
Rumex yezoensis
Rumex yungningensis
Rumex zsakii |
Tình dục không xâm nhập chỉ những hành vi kích thích tình dục lẫn nhau mà không quan hệ tình dục đường âm đạo, đường hậu môn hay đường miệng. Thủ dâm hay tự sướng lẫn nhau là một dạng tình dục không thâm nhập. Một vài hành vi tình dục không xâm nhập là an toàn nếu không có sự tiếp xúc của các dịch cơ thể.
Các dạng của tình dục không thâm nhập
Sau đây là một số ví dụ của tình dục không thâm nhập:
Đưa dương vật vào nách bạn tình.
Mát-xa (xoa bóp) với dầu bôi trơn thân thể ở các vùng nhạy cảm.
Cho ngón tay vào âm đạo hoặc hậu môn.
Dùng tay kích thích dương vật.
Kích thích bộ phận sinh dục bằng bàn chân.
Đưa dương vật vào giữa hai đùi kẹp lại của bạn tình.
Đưa dương vật vào khe trên mông bạn tình.
Đưa dương vật vào khe giữa hai vú của bạn tình nữ, còn được gọi là tư thế làm tình mammal.
Dùng miệng, lưỡi để kích thích núm vú hoặc âm vật, âm đạo.
Tribadism hay làm tình kiểu cây kéo, cọ xát hai âm hộ vào nhau.
Nam và nữ đứng ôm chặt nhau, ép bộ phận sinh dục vào nhau (hoặc ôm thật sát nhau nhảy slow, hít, ngửi mùi thơm cơ thể của nhau).
Dùng mùi thơm cơ thể hoặc nước hoa để kích thích bằng cách đứng sát vào nhau.
Dùng lời nói, biểu cảm, cử chỉ để kích thích ham muốn tình dục lẫn nhau.
Dùng dụng cụ mơn trớn nhẹ nhàng lên bộ phận nhạy cảm trên cơ thể, sờ vào tai, miệng, cổ...
Làm tình ảo, hai người ở xa nhau kích thích nhau nhờ sự trợ giúp của công nghệ.
Một số hoạt động BDSM không bao gồm quan hệ đường âm đạo, hậu môn hay miệng nhưng cũng không được coi là tình dục không thâm nhập vì chúng không được coi là làm tình.
Thủ dâm lẫn nhau
Thủ dâm lẫn nhau là một hành vi tình dục trong đó hai hoặc nhiều người kích thích lẫn nhau bằng tay hoặc dụng cụ và là một dạng tình dục không thâm nhập.
Thủ dâm lẫn nhau có thể được tiến hành trong những điều kiện mà những người tham gia không muốn hoặc không có khả năng thực hiện hành vi tình dục trọn vẹn nhưng vẫn có ham muốn tình dục lẫn nhau. Nó còn có thể là một phần của quá trình quan hệ tình dục với mục đích kích thích tình dục hoặc bổ trợ cho hành động giao hợp. Đối với nhiều người, hành động này được xem là hành vi tình dục tối ưu bởi nó giúp cho những người tham gia tiếp xúc và quan sát lẫn nhau. Nếu được dùng thay cho hành động giao hợp, mục đích thường là để tránh gây rách màng trinh hoặc tránh thai.
Những kĩ thuật thủ dâm lẫn nhau tương tự như kĩ thuật thủ dâm thông thường, chỉ khác ở chỗ có thêm người tham gia. Thủ dâm lẫn nhau có thể được tiến hành theo nhiều hướng, ví dụ như hai người cùng thủ dâm trong phòng mà không tiếp xúc lẫn nhau hoặc một nhóm người thủ dâm cho nhau.
Các thiên hướng tình dục khác nhau đều có thể có thủ dâm lẫn nhau. Thủ dâm lẫn nhau vẫn có thể thỏa mãn tình dục mà không cần quan hệ.
Thủ dâm lẫn nhau có thể dẫn đến hoặc không dẫn đến cực khoái. Nếu không có sự tiếp xúc dịch thể trực tiếp, thủ dâm là một dạng tình dục an toàn và giảm nguy cơ lây nhiễm các bệnh đường tình dục. Do đó, các tổ chức tình dục an toàn khuyến khích những người đồng tính nam thực hiện cách làm tình này thay vì làm tình đường miệng hoặc hậu môn khi đại dịch AIDS bùng nổ những năm 1980.
Frottage
Frottage hay giao hợp khô (dry humping) là hành động tình dục nhằm đạt khoái cảm với một hay nhiều bạn tình có cởi bỏ quần áo hoặc không cởi bỏ quần áo mà không cần quan hệ âm đạo, hậu môn hay đường miệng. Hành động này có thể bao gồm hầu hết các bộ phận của cơ thể bao gồm mông, ngực, bụng, đùi, bàn chân, chân và bộ phận sinh dục. Frottage có thể bao gồm cọ xát bộ phận sinh dục với nhau và hầu hết các dạng frottage khác đều là tình dục không thâm nhập.
Có những thuật ngữ tiếng Anh dễ nhầm lẫn với nhau như:
Frottage chỉ hành vi tình dục bao gồm sự cọ xát, là hành vi được mô tả trong phần này.
Frotteurism có tên tiếng Việt là loạn dục cọ xát, thuật ngữ này dùng để mô tả hành vi quấy rối bằng cách frottage hoặc frottage không có sự hỗ trợ từ đối phương chẳng hạn như cọ xát bộ phận tình dục vào người lạ trong một đám đông trên tàu điện ngầm. Đây là một dạng lệch lạc tình dục.
Frot chỉ việc cọ xát bộ phận sinh dục của hai người đàn ông, còn gọi là đấu kiếm. Vài người lầm tưởng rằng frot là từ viết tắt của frottage.
Frottage có thể giúp cho những người đã có vợ hoặc chồng nhưng đang muốn ngoại tình với người khác nhưng không muốn quan hệ tình dục thâm nhập (hoặc những người vì những lý do đặc biệt khác) có thể phần nào thỏa mãn được tình cảm và nhu cầu tình dục ngoài vợ, chồng của mình mà không bị mặc cảm tội lỗi vì không quan hệ tình dục trực tiếp (cho dương vật vào âm đạo và xuất tinh). Bức tranh màu nước của Johann Nepomuk Geiger, 1840 cho thấy 1 nam lớn tuổi và 1 nữ trẻ tuổi hơn rất nhiều đang thỏa mãn tình dục cho nhau theo kiểu Frottage và vẻ mặt của họ toát lên sự dâng hiến đầy thỏa mãn, mặc dù không quan hệ tình dục thâm nhập.
Chikan (痴漢, チカン, hay ちかん, âm Hán Việt: si hán) là một thuật ngữ tiếng Nhật để chỉ frotteurism hoặc ai đó thừa nhận hành động này của mình.
Lợi ích và ảnh hưởng sức khỏe |
Sách báo khiêu dâm là những văn hóa phẩm có thể khơi lên lòng ham muốn tình dục đối với người đọc nó.
Phân biệt và nhầm lẫn
Sự nhầm lẫn về thể loại thường xảy ra giữa sách báo khiêu dâm và những tác phẩm nghệ thuật.
Thực chất việc phân biệt sách báo khiêu dâm rất khó và chưa có một chuẩn mực chung nhất nào để phân loại nó bởi ham muốn tình dục của những người đọc rất khác nhau (Nam giới, nữ giới, người đồng tính nam, người đồng tính nữ, người mất khả năng tình dục, người vô cảm với tình dục...)
Tuỳ từng người với sự nhận thức của họ mà có thể nhầm lẫn giữa một tác phẩm nghệ thuật là sách báo khiêu dâm và ngược lại (ví dụ có người coi tranh "thời kỳ phục hưng" là "sách báo khiêu dâm").
Quan điểm ở các quốc gia
Nhiều quốc gia cấm xuất bản sách báo khiêu dâm bởi chúng vi phạm đạo đức xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến nền tảng đạo đức - văn hóa, tạo nguy cơ gây mất an ninh của quốc gia đó (ví dụ như làm gia tăng tội phạm hiếp dâm). Hầu hết các quốc gia châu Á, châu Phi đều cấm sách báo khiêu dâm (trừ một ngoại lệ là Nhật Bản). Việt Nam cũng cấm phát hành sách báo khiêu dâm dưới mọi hình thức, mặt khác một số ISP còn ngăn chặn bằng tường lửa đối với các trang web có nội dung khiêu dâm.
Một số quốc gia khác (chủ yếu là ở châu Âu và Bắc Mỹ) thì cho phép tự do xuất bản sách báo khiêu dâm bởi cho rằng đó là quyền tự do của con người, có nhu cầu đọc, xem thì có xuất bản. Tuy nhiên các quốc gia này đều yêu cầu các loại sách báo khiêu dâm, hoặc dính dáng chút ít đến khiêu dâm thì phải có dấu hiệu riêng để các bậc phụ huynh cấm con cái mình đọc. Trên các trang web đăng tải sách báo khiêu dâm ở các nước này thường phải có phần cam kết người xem trên 18 tuổi, tuy nhiên cam kết trên này các trang web thường chỉ là hình thức, vì không thể xác minh người xem có thực sự trên 18 tuổi hay không. Do sự phát triển của internet nên hiện nay không ít trẻ em đã có thể dễ dàng tiếp cận với sách báo khiêu dâm, dẫn tới nguy cơ lớn về ảnh hưởng tiêu cực tới xã hội.
Xuất bản
Phần nhiều sách báo khiêu dâm ngày nay xuất bản qua Internet, phần còn lại in trên giấy dưới dạng tạp chí. Playboy là một tạp chí khiêu dâm nổi tiếng trên thế giới dành cho nam giới. |
Triệu bông hồng (), hay còn được gọi với các tên: Triệu đóa hồng, Triệu triệu đóa hồng, Triệu đóa hoa hồng, Triệu bông hồng thắm, Triệu đóa hồng thắm là tên một ca khúc tiếng Latvia được sáng tác bởi Raimonds Pauls với phần lời của Leons Briedis . Nó được biểu diễn tại Mikrofona aptauja năm 1981 bởi Aija Kukule và Līga Kreicberga . Bài hát là một trong những bài nổi tiếng nhất của Pauls đã được một số nghệ sĩ cover lại, đáng chú ý nhất là Alla Pugacheva người Nga vào năm 1982 với lời bài hát tiếng Nga của nhà thơ Nga Andrey Andreyevich Voznesensky.
Lời nhạc dựa vào một giai thoại trong quyển thứ năm "Бросок на юг" (Về phương nam) thuộc tiểu thuyết "Повесть о жизни" (Tiểu thuyết cuộc đời) của nhà văn K. G. Paustovsky viết năm 1960 về chuyện tình của danh họa người Gruzia Niko Pirosmani (1862 - 1918) với nữ ca sĩ người Pháp Marguerite tại Tiphlis (tên gọi cũ của Tbilisi).
Bài hát có tiết tấu nhanh, sôi động nhưng phảng phất nỗi buồn. Ca sĩ Alla Pugachyova thể hiện bài này rất thành công. Tại Nhật Bản và Hàn Quốc, bài hát này nổi tiếng và phổ biến đến mức được người dân nơi đây đều cho là "biểu tượng của tình ca" và nó có mặt trong tất cả các phòng hát karaoke nơi đây . Ở Việt Nam bài hát cũng rất được ưa chuộng, được nhiều người nghe và hát, và được đặt lời tiếng Việt, người thể hiện thành công nhất cho ca khúc Triệu bông hồng là ca sĩ Cẩm Vân. Theo tác giả Hoàng Anh, báo điện tử Đài tiếng nói Việt Nam, nhạc sĩ Thế Hiển là người đầu tiên đặt lời Việt, phổ biến ca khúc "Triệu đóa hoa hồng" tại Việt Nam. Thế Hiển cho biết, năm 1983 ông đã nhờ một người bạn tìm mua giúp tất cả tư liệu, đĩa hát và văn bản của bài hát để mang về Việt Nam, sau đó nhờ Nghệ sĩ nhân dân Trung Kiên dịch bài hát từ lời Nga sang lời Việt. Ông cũng nhận được một bản dịch khác từ nhạc sĩ Diệp Minh Tuyền. Thế Hiển đánh giá bản dịch nào cũng hay nên đã lấy đoạn 1 là lời của Nghệ sĩ nhân dân Trung Kiên, đoạn sau là lời của nhạc sĩ Diệp Minh Tuyền.
Nội dung bài hát
Chuyện kể rằng có chàng họa sĩ yêu thầm một cô ca sĩ. Cô gái có một điểm đặc biệt là rất yêu những bông hồng, yêu loài hoa tượng trưng cho tình yêu và hạnh phúc. Để làm đẹp lòng cô, chàng đã bán tất cả những gì mình có, nhà cửa, những bức tranh chàng yêu thích, để đổi lấy một triệu bông hoa hồng mang tặng cô và hy vọng cô ấy sẽ vui lòng...nhưng sau đó cô ca sĩ này biết được người tặng những bông hoa hồng đó là một nhà họa sĩ nghèo nên cô đã không lấy anh ta.
Chú thích |
Tần (, Wade-Giles: Qin hoặc Ch'in) (900 TCN-221 TCN) là một nước chư hầu thời Xuân Thu và Chiến Quốc ở Trung Quốc. Cuối cùng nó đã lớn mạnh giữ vị trí thống trị toàn bộ các nước và lần đầu tiên thống nhất Trung Quốc, từ thời điểm này nó được gọi là Nhà Tần. Tính (họ) của vương tộc nước Tần là Doanh (嬴).
Thời Tây Chu
Theo truyền thuyết, các quân chủ nước Tần là hậu duệ Chuyên Húc nhưng không phải ngành dọc mà là ngành ngang. Cháu gái Chuyên Húc là Nữ Tu đang ngồi dệt vải thì bỗng nhiên trên trời có con chim én bay ngang đẻ trứng, quả trứng rơi trúng miệng Nữ Tu bấy giờ đang ngẩng mặt lên há ngáp. Từ đó Nữ Tu thụ thai rồi sinh ra người con trai đặt tên là Đại Nghiệp, Đại Nghiệp còn gọi là Cao Dao lấy con gái bộ lạc Thiếu Điển là Nữ Hoa mà sinh ra Đại Phí. Đại Phí còn gọi là Bá Ích làm quan ở nước Hữu Ngu có công lớn được Đế Thuấn ban thưởng cho Diêu Khương Nữ và phong ấp Doanh ăn lộc, từ đó hậu duệ Bá Ích lấy họ Doanh.
Trước đây vua Vũ nhà Hạ định nhường ngôi cho Cao Dao là người hiền nhưng Cao Dao đã chết trước vua Vũ nên ông quyết định truyền cho con của Cao Dao là Bá Ích, khi vua Vũ mất Bá Ích chủ trì quốc tang 3 năm rồi trao lại ngôi cho con vua Vũ là Khải (có thuyết nói rằng Khải không nghe lời cha mà đoạt ngôi của Bá Ích).
Bá Ích sinh con lớn là còn gọi là Điểu Tục Thị (鸟俗氏), con nhỏ Nhược Mộc còn gọi là Phí Thị (费氏). Nhược Mộc được vua Khải phong cho làm vua nước Từ.
Hậu duệ 5 đời Đại Liêm là sống dưới thời Thái Mậu Đế tức vua Trung Tông nhà Thương, em Mạnh Hí là giữ chức quan trong triều đình. Hậu duệ 4 đời Trung Diễn là sống ở phía Tây đất Nhung. Con Nhung Tư Nhiên là làm quan dưới thời Thương đế Ất, con Trung Quyết là Phi Liêm tiếp tục làm quan cho Thương Trụ Vương. Phi Liêm cùng với con trai trưởng là phò tá Thương Trụ chống lại Chu Vũ vương nên đều bị giết.
Con cháu Phi Liêm ly tán, phân thành 2 dòng chính, về sau hình thành nên tổ tiên của các quân chủ của nước Tần và nước Triệu.
Con nhỏ Phi Liêm là sinh , Mạnh Tăng sinh , Hành Phụ sinh , chính là tổ tiên của Triệu thị sau này.
Ác Lai sinh , Nữ Phòng sinh , Bàng Cao sinh , Thái Kỷ sinh , Đại Lạc sinh và Phi Tử. Phi Tử làm nghề chăn ngựa ở đất Khuyển Khâu (犬丘), được Chu Hiếu vương triệu kiến và giao cho việc cai quản nghề chăn ngựa ở vùng đất giữa 2 sông Thiên Thủy và Vị Thủy. Nhờ có thành tích, Phi Tử được Chu Hiếu vương phong cho ấp Tần, làm phụ dung cho nhà Chu.
Quyền lực của nước Tần bắt đầu tăng lên từ thời điểm Chu Bình vương (người theo danh nghĩa là vua trên toàn bộ Trung Quốc) phong tước Công cho Tần Tương công sau khi quân đội Tần tham gia bảo vệ cho vua Chu khi ông phải bỏ chạy và di chuyển kinh đô trước các cuộc tấn công của bộ tộc Khuyển Nhung phía Bắc vào năm 771 TCN.
Thời Đông Chu
Tần tiếp tục phát triển trở nên hùng mạnh hơn trong những thế kỷ tiếp sau. Các vị vua Tần thực hiện nhiều dự án nhằm thúc đẩy sự cường thịnh của quốc gia như đào các kênh tưới tiêu và xây dựng các thành quách phòng thủ kiên cố. Do lãnh địa cai trị của các vua Tần chủ yếu thuộc địa bàn các bộ tộc được cho là con cháu của tộc Nhung ở thảo nguyên và mới chỉ tiếp xúc với văn hóa nhà Chu. Những yếu tố đó khiến nó khá khác biệt so với các nước chư hầu khác ở Trung Quốc thời điểm ấy và ngay từ khi mới thành lập, Tần đã luôn đối mặt với nguy cơ đối nghịch từ mọi phía.
Sự kiện đáng chú ý nhất trong lịch sử Tần trước thế kỷ thứ 3 TCN là sự xuất hiện của Thương Ưởng. Thương Ưởng là một người tin tưởng nhiệt thành vào các triết lý hệ phái Pháp gia, mà sau này Hàn Phi Tử, một quý tộc của nước Hàn đã hệ thống thành hệ tư tưởng Pháp gia. Pháp gia cho rằng tất cả mọi người đều bình đẳng và rằng luật pháp chặt chẽ và sự trừng phạt hà khắc là cần thiết để giữ gìn trật tự xã hội. Thương Ưởng trở thành tể tướng Tần thời Tần Hiếu công và dần biến nước này trở thành một bộ máy hùng mạnh, được quản lý chặt chẽ, mục tiêu duy nhất của quá trình này là hạn chế mọi đối thủ. Thương Ưởng loại bỏ quý tộc và đưa ra một hình mẫu chế độ mới, đó là quân công huân tước điền trạch chế, chính quyền do người tài cầm đầu - chỉ những người có chiến công, thành tích mới được giữ các chức vụ cao và đặc quyền gia tộc chỉ còn được giữ duy nhất cho hoàng gia. Khi thực hiện kế hoạch này, Thương Ưởng đã khiến nhiều kẻ bất bình, và ngay sau cái chết của Tần Hiếu Công, ông phải bỏ chạy khỏi triều đình và bị giết. Tuy nhiên, những cải cách theo đường lối Pháp gia của Thương Ưởng rõ ràng đã mang lại nhiều lợi ích và những nhà vua về sau này không dại dột mà thay đổi các chính sách đó.
Một trong những kết quả dễ nhận thấy nhất của chương trình cải cách là quân sự. Trước đó, quân đội do quý tộc kiểm soát và là đội quân phong kiến. Từ thời Thương Ưởng, các vị tướng có thể xuất thân từ bất kỳ tầng lớp nào trong xã hội, chỉ cần họ có đủ tài năng. Hơn nữa, quân lính được huấn luyện tốt và có kỷ luật. Tuy nhiên, một điều cần lưu ý là quân đội Tần luôn luôn có ưu thế số lượng vượt trội và được nhà nước hậu thuẫn nhiều. Kết quả của nhiều dự án công cộng với mục tiêu thúc đẩy nông nghiệp khiến Tần có khả năng cung cấp và duy trì cho một lực lượng quân đội lên tới hơn một triệu người - một con số mà không một nước chư hầu nào khác (có lẽ trừ Sở, một nước hùng mạnh khác, về danh nghĩa vẫn là chư hầu của nhà Chu, dù đã tự xưng Vương và xem mình ngang hàng với vua Chu) có thể đạt tới. Tất cả chúng đã tạo ra những sự thay đổi to lớn; những sự biến đổi mang tính cách mạng trong phương thức tiến hành chiến tranh của Tần chỉ diễn ra ở Châu Âu vào thời Cách mạng Pháp, hai ngàn năm sau.
Có được lực lượng quân sự hùng mạnh đó, Tần dần tiêu diệt các nước chư hầu nhỏ bên cạnh và từ thời Tần Huệ Văn vương về sau, vua Tần bỏ tước Công mà xưng Vương.
Năm 260 TCN, tất cả các nước chư hầu khác nhận thấy toàn bộ tầm vóc mà các cuộc cải cách ở Tần mang lại trong phương pháp tiến hành chiến tranh. Tất cả những kiểu cách lịch sự quý tộc đã bị loại bỏ nhường chỗ cho ưu tiên về tính hiệu quả. Sau trận Trường Bình, các tướng Tần đã ra lệnh hành quyết 400.000 tù binh chiến tranh nước Triệu.
Tới giữa thế kỷ thứ 3 Tần đã bắt đầu thực hiện nhiều dự án to lớn khác khiến vị trí ưu việt của họ ngày càng được củng cố vững chắc. Nước Hàn sợ Tần mở rộng về phía Đông sẽ gây hại đến mình vì thế vua Hàn tìm cách phá hoại Tần không phải bằng quân đội, vì lực lượng quá chênh lệch, mà bằng các kỹ sư thủy lợi. Tần có khuynh hướng xây dựng những kênh đào to lớn, một ví dụ là hệ thống tưới sông Mân. Hàn bèn gửi kỹ sư Trịnh Quốc tới triều đình Tần nhằm thuyết phục vua Tần đổ các nguồn tài lực của họ vào các kênh đào còn lớn hơn nữa. Tần đồng ý xây dựng kênh, nhưng không may thay cho Hàn, kế hoạch của họ mang lại hiệu quả trái ngược. Dù nó thực sự đã làm chậm bước tiến của Tần nhưng cùng lúc ấy nó lại không thể tiêu diệt bớt nguồn tài lực của họ và cái gọi là kênh Trịnh Quốc đã hoàn thành vào năm 246 TCN, tất cả chi phí bỏ ra đã được thu về đầy đủ với một khoản lời kếch sù khác. Nhờ thế, Tần trở thành nước trù phú nhất Trung Quốc và lại có khả năng cung cấp thêm lương thực cho hàng trăm ngàn binh sĩ nữa.
Tới thời điểm ấy, từ con số hàng ngàn, các nước chư hầu đã giảm xuống chỉ còn bảy nước lớn. Hai nước mạnh nhất là Tần và Sở. Tuy nhiên, Sở không có nhiều ưu thế, bởi vì nó không mở rộng thêm lãnh thổ được vì các nước đệm xung quanh toàn là nước mạnh. Trái lại Tần dễ dàng sáp nhập các nước chư hầu yếu xung quanh và tuy cuối cùng Sở đã thắng nước Việt vào cuối thế kỷ thứ 4, thì nước này cũng phải chịu nhiều tổn thất quân sự. Dù có những điều đó, Sở vẫn là một đối thủ tiềm tàng đối với việc phát triển quyền lực của Tần.
Hai đối thủ khác của Tần là Triệu và Hàn - cả hai đều mạnh, nhưng họ lại không bao giờ trở thành những mối đe doạ thực sự với Tần, cùng với đội quân đông đảo của họ. Hơn nữa, cái bóng của thiên tử nhà Chu trên lý thuyết vẫn còn đang cai trị Trung Hoa. Năm 256 TCN, cuối cùng vấn đề Chu trị cũng kết thúc khi Tần tiêu diệt nhà Chu. Hành động này gửi một tín hiệu rõ ràng tới các nước chư hầu kia: Tần đang có ý định thống trị Trung Quốc.
Năm 247 TCN Chính 13 tuổi đã lên ngôi vua Tần. Mười bảy năm sau, Tần vương Chính đã phát động một cuộc chiến tranh cuối cùng, nhằm giành lấy uy quyền tối cao với tất cả các chư hầu khác, bắt đầu từ nước Hàn.
Quân đội Tần dễ dàng đánh bại Hàn rồi quay sang Triệu, một đất nước đã suy yếu từ khi quân đội của họ bị tiêu diệt 30 năm trước đó trong trận Trường Bình. Triệu rơi vào tay Tần năm 228 TCN, và ngay sau đó, Nguỵ cũng bại trận. Tới lúc ấy, thắng lợi tuyệt đối của Tần đã gần kề. Tuy nhiên, vẫn còn đó một đối thủ mạnh sau cùng - nước Sở
Khi ấy, hai đội quân đông đảo nhất trong lịch sử thế giới ( cho tới tận thời điểm Cách mạng Pháp) đã lao vào trận chiến giành ngôi vị thống lĩnh Trung Quốc. Năm 223 TCN, Sở bị tiêu diệt, và việc Tần thống nhất Trung Quốc không còn tránh được nữa.
Vài tháng sau họ tiêu diệt và sáp nhập nước Yên. Khi ấy, chỉ còn lại duy nhất nước Tề, và nhận thấy tình huống của mình không còn cứu vãn được nữa, Tề đầu hàng mà không chống cự. Năm 221 TCN, một trong những năm quan trọng nhất trong lịch sử Trung Quốc, Tần vương Chính không chỉ tuyên bố mình là vua cai trị Trung Hoa mà còn lấy danh hiệu chưa từng có cho đến thời điểm bấy giờ (bắt nguồn từ các truyền thuyết về Hoàng Đế và các nhân vật thần thoại khác), Hoàng đế Trung Quốc. Ông đã đổi tên hiệu thành Thủy Hoàng Đế, có nghĩa Hoàng đế đầu tiên, và ra lệnh mọi vị vua tiếp sau của triều đại ông đều phải theo truyền thống đó, lấy danh hiệu theo thế hệ cai trị của mình, Nhị Thế, Tam Thế, cho đến muôn đời.
Trong Đông Chu Liệt Quốc
Quá trình nhà Tần lớn mạnh được miêu tả trong truyện Đông Chu Liệt quốc khá sát với sử sách. Theo đó, khi Bình Vương thiên đô về Đông Lạc thì công lao của nước Tần rất lớn nhưng nước Tần vốn chỉ là nước phụ dung nên phải đứng sau các nước chư hầu khác như Trịnh, Vệ... do đó khi được tin quân Khuyển Nhung tiếp tục gây rối ở đất Kỳ Phong thì Bình Vương cử vua Tần đi dẹp loạn.
Sau khi dẹp loạn xong thì Bình Vương cắt đất Kỳ Phong cho nước Tần và thăng tước Bá lên tước Công cho vua Tần tức Tần Tương Công. Đất Kỳ Phong rộng hơn ngàn dặm lại là nơi phát tích nhà Chu từ đời Văn Vương nên nhiều người cho đó là điềm báo để nước Tần thay nhà Chu thống trị thiên hạ sau này.
Biểu thời gian
Khoảng 900 TCN: Chu Hiếu Vương phong cho Phi Tử làm quan ở đất Tần.
771 TCN: Tần Tương công đem quân giúp nhà Chu đánh lui Khuyển Nhung, Chu Bình Vương chính thức phong vua Tần làm chư hầu.
660 TCN: Tần Mục công, một trong Xuân Thu Ngũ bá lên ngôi.
636 TCN: Tần Mục công đem quân giúp công tử Trùng Nhĩ nước Tấn lên ngôi, tức Tấn Văn công.
624 TCN: Tần Mục công đích thân dẫn quân đi đánh nước Tấn, chiếm được Vương Quan (nay ở phía Tây Văn Hỷ, Sơn Tây) khiến quân Tấn sợ hãi, Mục công bèn dẫn quân Tần đi thu nhặt hài cốt của lính Tần tử trận trước kia rồi quay về.
623 TCN: Mục công cử đại binh tấn công Tây Nhung và giành thắng lợi lớn khiến cho 20 tiểu quốc ở đây quay sang quy phục nước Tần.
621 TCN: Tấn Tương công chết, Tần Khang công muốn đưa công tử Công tử Ung làm vua Tấn, vì vậy, cử một đội quân hộ tống công tử Ung về Tấn. Tuy nhiên, Triệu Thuẫn đã lập con Tấn Tương công là Di Cao lên ngôi, tức Tấn Linh công và sau đó đã cử một đội quân để ngăn chặn công tử Ung, và đánh bại quân của Tần.
578 TCN: Nước Tấn họp 8 nước chư hầu mang quân đánh Tần, đánh bại quân Tần ở đất Mã Toại.
Khoảng 557 TCN Tấn đánh thắng Tần.
506 TCN: Ngô Hạp Lư đánh Sở, Sở Chiêu vương thua chạy sang nước Tùy. Tần Ai công phái quân giúp Sở đánh bại Ngô.
383 TCN: Tần Hiến công thiên đô từ Ung đến Hàm Dương.
364 TCN: Tần đánh bại Ngụy. Chu Hiển Vương sai sứ chúc mừng và Tần, phong cho làm bá chủ.
361 TCN: Tần Hiếu Công lên ngôi. Thương Ưởng từ Nguỵ đến Tần.
356 TCN: Thương Ưởng ban hành những luật thay đổi đầu tiên trong nước.
350 TCN: Thương Ưởng ban hành những luật thay đổi thứ hai trong nước.
336 TCN: Chu Hiển Vương trao việc tế tự Chu Văn Vương, Chu Vũ Vương cho vua Tần.
338 TCN: Tần Hiếu công chết, Tần Huệ Văn Vương lên ngôi và Thương Ưởng bị hành quyết.
324 TCN: nước Tần xưng vương.
316 TCN: Tần chinh phục Thục và Ba.
293 TCN: Tần đánh bại liên minh Nguỵ và Hàn tại trận Y Khuyết, chém 24 vạn thủ cấp.
260 TCN: Tần đánh tan quân Triệu trong trận Trường Bình.
256 TCN: Tần chinh phục nhà Chu.
247 TCN: Tần vương Chính, sau này là Tần Thủy Hoàng, lên ngôi.
230 TCN: Tần chinh phục Hàn.
228 TCN: Tần chinh phục hầu hết Triệu.
225 TCN: Tần chinh phục Nguỵ.
223 TCN: Tần chinh phục Sở.
222 TCN: Tần chinh phục hoàn toàn Triệu và Yên.
221 TCN: Tần chinh phục Tề, hoàn thành việc thống nhất Trung Quốc, khởi đầu nhà Tần. Vua Tần trở thành Hoàng đế Trung Hoa đầu tiên, và được biết đến với danh hiệu Tần Thủy Hoàng.
Các vị vua
Tần Phi Tử (秦非子), cai trị ước khoảng từ 900 TCN tới 858 TCN. Cháu 6 đời của Ác Lai.
Tần hầu (秦侯), cai trị 857 TCN - 848 TCN: con trai của Phi tử
Tần Công Bá (公伯), cai trị 847 TCN - 845 TCN: con trai của Tần hầu
Tần Trọng (秦仲), cai trị 845 TCN - 822 TCN: con trai của Công Bá
Tần Trang công (莊公), cai trị 822 TCN - 778 TCN: con trai của Tần Trọng
Tần Tương công (襄公), cai trị 778 TCN - 766 TCN: con trai của Trang công
Tần Văn công (文公), cai trị 766 TCN - 716 TCN: con trai của Tương công
Tần Ninh công (寧公), cai trị 715 TCN - 704 TCN: cháu nội của Văn công. Còn gọi là Tần Hiến công (憲公). Con trai cả của Văn Công chết sớm, truy phong là Tĩnh công. Ông này là cha của Ninh công.
Tần Xuất tử (出子), cai trị 704 TCN - 698 TCN: con trai út của Ninh công.
Tần Vũ công (武公), cai trị 698 TCN - 678 TCN: con trai cả của Ninh công
Tần Đức công (德公), cai trị 678 TCN - 676 TCN: con trai thứ của Ninh công.
Tần Tuyên công (宣公), cai trị 676 TCN - 664 TCN: con trai cả của Đức công.
Tần Thành công (成公), cai trị 664 TCN - 660 TCN: con trai thứ của Đức công.
Tần Mục công (穆公) Nhậm Hiếu, cai trị 659 TCN - 621 TCN: con trai út của Đức công.
Tần Khang công (康公): Doanh Óanh (罃), cai trị 621 TCN - 609 TCN: con trai của Mục công.
Tần Cung công (共公): Đạo (稻), cai trị 608 TCN - 604 TCN: con trai của Khang công.
Tần Hoàn công (桓公): Vinh (榮), cai trị 604 TCN - 577 TCN: con trai của Cung công.
Tần Cảnh Công (景公): Doanh Hậu (後), cai trị 576 TCN - 537 TCN: con trai của Hoàn công.
Tần Ai công (哀公), cai trị 536 TCN - 501 TCN: con trai của Cảnh Công.
Tần Huệ công (Xuân Thu) (惠公), cai trị 501 TCN - 491 TCN: cháu nội Ai Công. Con trai cả của Ai Công mất sớm, truy phong là Di Công. Di Công là cha của Huệ Công.
Tần Điệu công (悼公), cai trị 491 TCN - 477 TCN: con trai của Huệ Công.
Tần Lệ công (厲公): Thích (刺), cai trị 477 TCN - 443 TCN: con trai của Cảnh Công.
Tần Táo công (躁公), cai trị 443 TCN - 429 TCN: con trai cả của Lệ Công.
Tần Hoài công (懷公), cai trị 429 TCN - 425 TCN: con trai thứ của Lệ Công.
Tần Linh công (靈公): Túc (肅), cai trị 425 TCN - 415 TCN: cháu nội của Hoài công. Cha đẻ là Chiêu tử mất sớm.
Tần Giản công (簡公): Điệu Tử (悼子), cai trị 415 TCN - 400 TCN: con trai nhỏ của Hoài Công.
Tần Huệ công (Chiến Quốc) (惠公), cai trị 400 TCN - 387 TCN: con trai của Giản công.
Tần Xuất công (出公), cai trị 386 TCN - 385 TCN: con trai của Huệ Công.
Tần Hiến công (獻公): Sư Thấp (師隰), cai trị 385 TCN - 362 TCN: con trai của Linh công.
Tần Hiếu công (孝公): Cừ Lương (渠梁), cai trị 362 TCN - 338 TCN: con trai của Hiến công.
Tần Huệ Văn vương (惠文王), cai trị 338 TCN - 311 TCN, cũng được gọi là Huệ Vương (惠王): Doanh Tứ (嬴駟). Con trai của Tần Hiếu công. Xưng vương năm 325 TCN.
Tần Vũ vương (武王), cai trị 311 TCN - 307 TCN: Đảng (蕩), con Huệ Văn vương
Tần Chiêu Tương vương (昭襄王), cai trị 307 TCN - 250 TCN, cũng được gọi là Tắc (則 hay 稷), con thứ của Huệ Văn vương, em Vũ vương
Tần Hiếu Văn vương (孝文王), cai trị 250 TCN - 250 TCN: Trụ (柱), con Chiêu Tương vương
Tần Trang Tương vương (荘襄王), cai trị 250 TCN - 246 TCN: Tử Sở (子楚), con Hiếu Văn vương
Tần Thủy Hoàng (秦始皇), cai trị từ 246 TCN - 210 TCN (với tư cách vua nước Tần (秦王) tới 221 TCN, với tư cách Thủy Hoàng Đế (始皇帝) từ 221 TCN về sau): Doanh Chính (政). Con trai của Tần Trang Tương vương.
Tần Tử Anh (子嬰), cai trị từ giữa tháng 8 năm 207 TCN tới đầu tháng 10 năm 206 TCN.
Thế phả các vị vua |
Tình ca du mục (tiếng Nga: Дорогой длинною) là một bài hát do nhạc sĩ người Nga Boris Fomin (1900-1948) sáng tác với phần lời của nhà thơ Konstantin Podrevskyi.
Bản lời Việt quen thuộc "Tình ca du mục" không rõ tác giả, nên không thể sử dụng trong các chương trình chính thức. Năm 2006, bài này được Nguyễn Quốc Trí viết lời mới, Như lá thu vàng, và được Ngọc Hạ trình bày trong DVD Asia 49 Những Bài Hát Hay Nhất Thế Kỷ 20. Ngoài ra còn có một bản lời Việt khác ít được phổ biến hơn do Phạm Duy viết với tựa đề là Nhớ lúc yêu nhau
Phiên bản tiếng Anh 1968, Those Were the Days, được Mary Hopkin hát và được Paul McCartney sản xuất, đã trở thành một hit số một trên UK Singles Chart.
Giai điệu của bài hát được hàng triệu người Brasil chấp nhận, mặc dù phần lớn trong số họ không biết về nguồn gốc bài hát cũng như tên và lời bài hát gốc; bài hát đã được người dẫn chương trình Silvio Santos của truyền hình Brasil sử dụng trong nhiều năm trong Show de Calouros.
Xếp hạng (phiên bản Mary Hopkin) |
Rasul Gamzatovich Gamzatov (tiếng Avar: Расул ХIамзатов; tiếng Nga: Расул Гамзатович Гамзатов; 8 tháng 9 năm 1923 - 3 tháng 11 năm 2003) là một nhà thơ Nga. Ông là nhà thơ nổi tiếng nhất trong dòng văn học tiếng Avar.
Tiểu sử và sự nghiệp
Rasul Gamzatov sinh ngày 8 tháng 9 năm 1923, cha của ông cũng là một nhà thơ nổi tiếng của Daghestan. Ông làm thơ từ khi 11 tuổi và được nhận giải thưởng Stalin vào năm 29 tuổi. Tác phẩm "Daghestan của tôi" cũng là một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông được bạn bè khắp thế giới biết đến, trong đó có Việt Nam. Ông đã được trao tặng các danh hiệu "Nhà thơ nhân dân Daghestan", "Anh hùng lao động Liên Xô", "Nhà thơ lớn của thế kỷ XX" và giải thưởng "Hoa sen" của Hội nhà văn Á-Phi. Ông còn là Đại biểu Xô-viết tối cao Liên Xô nhiều năm liền và đảm nhận cương vị lãnh đạo Hội nhà văn Daghestan hơn nửa thế kỷ.
Những vần thơ về tình bạn, tình yêu, tình nhân ái của Gamzatov làm xúc động lòng người trên toàn thế giới. Song đó mới chỉ là bản dịch. Những đồng bào của ông khẳng định rằng trong tiếng Avar Kavka, những vần thơ đó còn hay hơn rất nhiều.
Tổng thống Vladimir Putin đã từng có lần mời Gamzatov đến chơi thành phố biển Sochi, nơi ông đang có chuyến công du và đích thân chúc mừng nhà thơ. Putin nói: "Bạn đọc yêu mến Gamzatov vì ông đã dạy chúng ta một cách rất chân thành và tinh tế những giá trị chung của con người như tình yêu, tình bạn, lòng thủy chung, sự trung thực... đã hàng chục năm nay, chưa nói đến văn đàn, ngay cả trong đời sống chính trị của đất nước, Rasul Gamzatov cũng là một tên tuổi không thể thiếu được...".
Ông có uy tín gần như tuyệt đối với tất cả mọi người ở Kavkaz, một vùng đất có nhiều xung đột sắc tộc, văn hóa, tôn giáo.
Ông đã từng viết các câu thơ sau nói các vấn đề trong xã hội:
...Tôi hoàn toàn không ngạc nhiên
Từ xưa tới nay vẫn thế
Thuốc độc, lòng tham và tiền
Có thể giết người ta rất dễ
Nhưng tôi không hiểu một điều
Vì sao, tôi không biết:
Rằng nhiều khi sự thật và tình yêu
Cũng có thể làm cho người ta chết...
Phụ nữ và tình yêu luôn là đề tài chính trong các tác phẩm của ông. Gamzatov được nhiều bạn trẻ biết đến với câu thơ nổi tiếng: "Tôi đã yêu hàng trăm người phụ nữ. Nhưng trong mỗi người đều mang bóng dáng em", và câu "không có ai hát hay bằng những người mẹ...".
Nhiều người nhầm Gamzatov với Abutalib là người nói câu nổi tiếng: "Nếu bạn bắn súng ngắn vào quá khứ thì tương lai sẽ bắn súng thần công vào bạn" ("If you fire at the past from a pistol, The future will shoot back from a cannon."). Lưu ý nếu dịch "pistol" là "súng lục" hoặc "cannon" là "đại bác" sẽ không chính xác, còn nếu đem bổ ngữ ra sau như bản dịch: "Nếu bạn bắn vào quá khứ bằng súng lục, thì tương lai sẽ bắn vào bạn bằng đại bác" thì lại khiến cho ta cảm giác không trôi chảy, mất hay.
Nhà thơ Bùi Chí Vinh đã từng bày tỏ: "...Ngoài đời tôi thích Che Guevara, còn trong văn học tôi thích một nhà thơ chỉ đại diện cho 500.000 dân nhưng tác phẩm lại gây dấu ấn mạnh toàn thế giới. Đó là Rasun Gamzatov, người con vĩ đại của dân tộc Dagestan...".
Bài thơ "Gửi người phụ nữ" của ông có ý thơ hơi giống bài "Lời cuối cùng" của Victor Hugo. Bài thơ đó có đoạn:
Nếu còn lại một nghìn thôi, tôi ở trong số đó.
Nếu còn lại một trăm, tôi vẫn chống địch không rời
Nếu còn lại có mười người, tôi là người cuối sổ
Và nếu chỉ một người còn đứng đó-ấy là tôi!
Còn bài của Gamzatov có đoạn:
Hỡi người phụ nữ, nếu có nghìn đàn ông yêu em, em có biết trong nghìn người ấy, có Rasul Gamzatov nữa mà
Còn nếu như chỉ có, trăm đàn ông yêu em, em hãy nhớ rằng trong số trăm người đó, nhất định Rasul Gamzatov có tên
Còn nếu như yêu em, đàn ông chỉ còn một chục, thì Rasul Gamzatov đứng thứ bảy hay tám trong hàng
Nếu đàn ông chỉ còn lại một người yêu em, tôi xin thề người đó không ai khác, ngoài Rasul Gamzatov em ơi...
Một số tác phẩm
Dagestan của tôi (văn xuôi)
Gửi người phụ nữ
Trái tim tôi thuộc về những ngọn núi
Đàn sếu
Những câu truyện truyền thuyết
Bánh xe cuộc đời
Những năm tháng và những con đường
Người vợ thứ ba
Hộp đen
Độ tuổi thứ tư
Patimat
Mùa xuân trong công viên
Hai bài thơ Xô nê
Một số bài thơ
Ghi chú |
Oregon ( ) (phiên âm tiếng Việt: O-rê-gơn) là một tiểu bang ở vùng Tây Bắc Thái Bình Dương của Hoa Kỳ. Nơi này xưa kia có nhiều bộ lạc người bản thổ sinh sống trước khi những người mua bán da thú, các nhà thám hiểm và dân định cư đến. Lãnh thổ Oregon được thành lập năm 1848 sau khi người Mỹ đến đây định cư vào những năm đầu thập niên 1840. Oregon trở thành tiểu bang thứ 33 của Hoa Kỳ vào ngày 14 tháng 2 năm 1859. Oregon nằm trên duyên hải Thái Bình Dương giữa tiểu bang Washington ở phía bắc, California ở phía nam, Nevada ở phía đông nam và Idaho ở phía đông. Sông Columbia và sông Snake tạo thành các ranh giới phía bắc và đông của Oregon theo thứ tự vừa kể. Salem là thành phố đông dân thứ ba của tiểu bang và cũng là thủ phủ. Thành phố đông dân nhất tiểu bang là Portland. Hiện tại Portland đứng thứ 30 trong số các thành phố lớn nhất Hoa Kỳ với dân số 575.930 người (ước tính năm 2008) và dân số vùng đô thị là 2.175.133 (ước tính năm 2007), vùng đô thị lớn thứ 23 tại Hoa Kỳ.
Thung lũng sông Willamette ở miền tây Oregon là vùng sản xuất nông nghiệp và có mật độ dân cư đông nhất và là nơi có 8 trong số 10 thành phố đông dân nhất Oregon. Theo điều tra dân số năm 2000, tổng dân số của Oregon là khoảng 3,5 triệu người, tăng 20,3% so với năm 1990; ước tính dân số đã đến con số 3,7 triệu người vào năm 2006. Công ty tư hữu lớn nhất Oregon là Intel, nằm trong khu vực Rừng Silicon ở phía tây Portland. Tiểu bang có 199 học khu trong đó học khu "Các trường công lập Portland" là lớn nhất. Có 17 trường đại học cộng đồng và 7 trường đại học công lập trong Hệ thống Đại học Oregon. Đại học Tiểu bang Oregon tại Corvallis và Đại học Oregon tại Eugene là hai viện đại học chính của tiểu bang trong khi đó Đại học Tiểu bang Portland có số lượng ghi danh theo học nhiều nhất.
Các xa lộ chính gồm có Xa lộ liên tiểu bang 5 chạy dọc theo toàn bộ chiều dài bắc-nam của tiểu bang, Xa lộ liên tiểu bang 84 chạy theo hướng đông-tây, Quốc lộ Hoa Kỳ 97 băng ngang miền trung tiểu bang, Quốc lộ Hoa Kỳ 101 chạy hoàn toàn dọc theo duyên hải tiểu bang, và Quốc lộ Hoa Kỳ 20 và Quốc lộ Hoa Kỳ 26 chạy theo hướng đông-tây. Phi trường Quốc tế Portland là phi trường thương mại bận rộn nhất trong tiểu bang, do Cảng Portland, một cảng bận rộn nhất, điều hành. Dịch vụ đường sắt gồm có Union Pacific Railroad và dịch vụ vận tải BNSF Railway, dịch vụ chuyên chở hành khách Amtrak cũng như các tuyến đường sắt đô thị trong Vùng đô thị Portland.
Oregon có đa dạng phong cảnh bao gồm một bờ duyên hải Thái Bình Dương đầy cảnh sắc và lộng gió, các núi lửa của Dãy núi Cascade phủ tuyết và ghồ ghề, những cánh rừng rậm xanh quanh năm, và các hoang mạc trên cao nằm khắp phần lớn phía đông của tiểu bang. Những cây linh sam Douglas và củ tùng vươn tàn cao dọc theo duyên hải Tây Oregon mưa nhiều là hình ảnh tương phản rõ nét với những rừng thông và rừng juniper, thưa thớt và dễ bị cháy, bao phủ những vùng nằm bên nửa phía đông của tiểu bang. Phần phía đông của tiểu bang cũng có các vùng đất nửa khô cằn có các loại cây cỏ bụi rặm, đồng cỏ, và hoang mạc. Những khu vực khô hơn vươn về phía đông từ Trung Oregon. Núi Hood là điểm cao nhất trong tiểu bang với cao độ 11.239 ft (3.425 m) trên mặt biển. Công viên Quốc gia Crater Lake là công viên quốc gia duy nhất tại Oregon. Oregon đứng hạng nhất về cháy rừng tại Hoa Kỳ; năm 2007 Oregon có trên 1.000 vụ cháy rừng.
Lịch sử
Mặc dù có bằng chứng đáng kể rằng con người đã sống trong vùng Tây Bắc Thái Bình Dương 15.000 năm trước đây, ghi nhận đầu tiên về các hoạt động của con người tại nơi mà ngày nay là Oregon được nhà khảo cổ Luther Cressman khám phá vào năm 1938. Ông đã tìm thấy những đôi dép bằng vỏ cây sage gần Đồn Rock Cave. Điều đó chứng tỏ là con người đã sinh sống tại Oregon ít nhất là 13.200 năm trước đây. Khoảng năm 8000 trước Công nguyên, có nhiều khu định cư khắp nơi trên tiểu bang, đa số tập trung dọc theo hạ lưu Sông Columbia, trong các thung lũng miền tây, và quanh các nhánh sông duyên hải.
Vào thế kỷ 16, Oregon là nơi cư ngụ của nhiều nhóm người bản thổ châu Mỹ, bao gồm Bannock, Chasta, Chinook, Kalapuya, Klamath, Molalla, Nez Perce,Takelma, và Umpqua.
James Cook khám phá ra duyên hải năm 1778 trong lúc tìm kiếm Thủy đạo Tây Bắc (Northwest Passage). Cuộc thám hiểm của Lewis và Clark đã đi qua vùng này trong cuộc hành trình khám phá Vùng đất mua lại Louisiana. Họ xây một đồn lủy mùa đông cho họ là Đồn Clatsop gần cửa Sông Columbia. Các cuộc thám hiểm của Lewis và Clark (1805–1806) và David Thompson của Vương quốc Anh (1811) đã công bố có rất nhiều thú lấy da trong khu vực. Năm 1811, nhà tài phiệt New York tên là John Jacob Astor đã xây dựng Đồn Astoria tại cửa Sông Columbia như một trạm miền tây cho Công ty Da thú Thái Bình Dương. Đồn Astoria là khu định cư thường trực đầu tiên của người da trắng tại Oregon.
Trong Chiến tranh năm 1812, người Anh đã giành được kiểm soát tất cả những trạm thu mua của Công ty Da thú Thái Bình Dương. Trong thập niên 1820 và 1830, Công ty Vịnh Hudson của người Anh đã chi phối Tây Bắc Thái Bình Dương từ tổng hành dinh Khu Columbia của họ tại Đồn Vancouver (do John McLoughlin là Khu vực trưởng xây dựng năm 1825 ở phía bên kia Sông Columbia của Portland, Oregon ngày nay).
Năm 1841, người đánh bẫy thú tài tình và cũng là nhà thương buôn tên là Ewing Young mất với số tài sản khá lớn nhưng không có người thừa kế, và cũng không có hệ thống pháp lý nào để định đoạt về tài sản của ông. Một cuộc họp được tổ chức sau đám tang của Young mà trong đó có đề nghị thành lập một chính quyền tài phán. Tiến sĩ Ira L. Babcock được bầu làm Thẩm phán Tối cao. Babcock triệu tập hai cuộc họp năm 1842 tại Champoeg để thảo luận về sói và những con vật khác đáng quan tâm. Các buổi họp này dọn đường cho một cuộc họp toàn dân năm 1843 mà kết quả là thành lập một chính quyền lâm thời do một ủy ban hành pháp lãnh đạo gồm có David Hill, Alanson Beers, và Joseph Gale. Chính quyền này là chính quyền công lập đầu tiên của Xứ Oregon trước khi sáp nhập vào Hoa Kỳ.
Đường mòn Oregon rót vào vùng này nhiều người định cư mới, bắt đầu từ 1842–1843 sau khi Hoa Kỳ đồng ý với Vương quốc Anh cùng định cư Xứ Oregon. Biên giới được giải quyết năm 1846 bằng Hiệp ước Oregon sau một thời kỳ tưởng chừng cả hai sẽ lâm vào chiến tranh lần thứ ba trong 75 năm. Tranh chấp biên giới Oregon giữa Hoa Kỳ và Bắc Mỹ thuộc Anh được giải quyết theo vĩ tuyến 49 độ. Lãnh thổ Oregon được chính thức tổ chức năm 1848.
Định cư gia tăng nhờ vào Đạo luật ban cấp đất năm 1850 cùng với việc cưỡng bức di dời dân số người bản thổ vào các khu dành riêng cho người bản thổ châu Mỹ tại Oregon. Tiểu bang được gia nhập Liên bang vào ngày 14 tháng 2 năm 1859.
Lúc bộc phát Nội chiến Hoa Kỳ, các lực lượng chính quy Hoa Kỳ được lệnh rút về miền Đông Hoa Kỳ. Kị binh tự nguyện được chiêu mộ tại California và được đưa lên phía bắc đến Oregon để giữ trật tự và bảo vệ dân chúng. Đệ nhất Kị binh Oregon phục vụ cho đến tháng 6 năm 1865.
Trong thập niên 1880, việc đưa vào hoạt động các tuyến xe lửa đã giúp cho việc mua bán gỗ, lúa mì của tiểu bang cũng như sự phát triển nhanh hơn các thành phố của nó.
Sự mở rộng công nghiệp bắt đầu một cách nghiêm chỉnh theo sau việc xây dựng Đập nước Bonneville năm 1943 trên Sông Columbia. Năng lượng, thực phẩm, và gỗ của Oregon đã giúp khởi động phát triển miền Tây Hoa Kỳ.
Tiểu bang có một lịch sử dài xung đột: người bản thổ châu Mỹ với các người đánh bẫy thú Anh, người Anh với dân định cư từ Hoa Kỳ, các nhà nuôi gia súc với các nông gia, các thành phố giàu và phát triển với các khu nông thôn nghèo đã được thành lập, những người khai thác gỗ với những nhà hoạt động môi trường, người theo chủ nghĩa da trắng siêu đẳng với những người chống kỳ thị chủng tộc, chủ nghĩa cấp tiến xã hội với chủ nghĩa bảo thủ, những người ủng hộ phúc lợi xã hội với các nhà hoạt động chống tăng thuế, và người bản xứ Oregonia với người California. Người Oregonia cũng có một lịch sử dài với những tư tưởng ly khai. Nhiều người tại nhiều vùng khác nhau và mọi phía trong giới chính trị cố tìm cách thành lập những tiểu bang khác và thậm chí quốc gia khác. (Xem bài: Tiểu bang Jefferson, Cascadia và Ecotopia.)
Các vấn đề đưa ra để bầu cử của tiểu bang Oregon thường có những lời đề nghị theo chiều hướng bảo thủ chính trị (thí dụ như các đề nghị đưa ra là chống đồng tình luyến ái, ủng hộ tôn giáo) bên cạnh với các lời đề nghị theo chiều hướng chính trị tự do.
Tên của tiểu bang
Nguồn gốc tên "Oregon" thì không ai biết. Một lập luận do George R. Stewart đưa ra trong một bài báo đăng trong American Speech năm 1944 đã được Sách Địa danh Oregon tán thành như "lời giải nghĩa hợp lý nhất". Theo Stewart, cái tên là từ một sự nhầm lẫn khắc chữ trong một bản đồ Pháp xuất bản đầu thế kỷ 18 mà trên đó Ouisiconsink (Sông Wisconsin) bị đánh vần thành "Ouaricon-sint" và bị tách ra làm thành hai hàng với chữ -sint nằm bên dưới nên thành ra có nghĩa như là một con sông chảy về hướng tây có tên là "Ouaricon". Các giả thiết khác thì dựa vào nguồn gốc tiếng Tây Ban Nha với những chữ như Orejón ("lỗ tai to") hay Aragón.
Địa lý
Địa lý của Oregon có thể được chia ra thành bảy vùng như sau:
Duyên hải Oregon - phía tây của Dãy núi Duyên hải Oregon
Thung lũng Willamette
Thung lũng Rogue
Dãy núi Cascade
Dãy núi Klamath
Cao nguyên Sông Columbia
Vùng Đại Bồn địa
Những vùng núi non của miền tây Oregon hình thành là do hoạt động núi lửa của Mảng Juan de Fuca, một mảng kiến tạo gây ra mối đe dọa liên tục về hoạt động núi lửa và động đất trong vùng. Hoạt động chính gần nhất là Động đất Cascadia năm 1700; Núi St. Helens thuộc tiểu bang Washington phun trào dung nham năm 1980, một sự kiện có thể nhìn thấy được từ Portland.
Sông Columbia tạo phần nhiều ranh giới phía bắc của Oregon cũng đóng vai trò chính trong sự tiến hóa địa chất của vùng cũng như sự phát triển văn hóa và kinh tế của vùng. Sông Columbia là một trong những con sông lớn nhất Bắc Mỹ, và là con sông duy nhất cắt ngang Dãy núi Cascade. Khoảng 15.000 năm trước đây, sông Columbia liên tục gây lũ lụt phần nhiều Oregon; sự màu mỡ hiện tại của vùng Thung lũng Willamette phần lớn là do kết quả của những vụ lụt lội đó. Nhiều cá hồi là một phần đặc điểm của con sông. Trong thế kỷ 20, có vô số đập thủy điện đã được xây dựng dọc theo Sông Columbia có ảnh hưởng lớn đến cá hồi, giao thông và thương mại, điện năng, và kiểm soát lụt lội.
Ngày nay, phong cảnh của Oregon đa dạng từ rừng mưa nhiệt đới ở vùng Dãy núi Duyên hải Oregon đến hoang mạc khô cằn ở đông nam. Khoảng cách xa nhất của Oregon là 295 dặm Anh (475 km) từ bắc đến nam, và 395 dặm Anh (636 km) từ đông sang tây. Tính về tổng diện tích nước và đất, Oregon là tiểu bang lớn hạng chín với 97.073 dặm vuông Anh (251.418 km²).
Điểm cao nhất tại Oregon là đỉnh của Núi Hood cao 11.239 feet (3.428 mét), và điểm thấp nhất là mực nước biển Thái Bình Dương dọc duyên hải Oregon. Độ cao trung bình là 3.300 feet (1.006 m).
Công viên Quốc gia Hồ miệng núi lửa là Công viên Quốc gia duy nhất của tiểu bang, và là nơi có Hồ miệng núi lửa, hồ sâu nhất tại Hoa Kỳ với độ sâu là 1.943 feet (592 mét).
Oregon cho rằng Sông D là con sông ngắn nhất trên thế giới, mặc dù tiểu bang Montana cũng tuyên bố tương tự đối với Sông Roe của mình. Oregon là nhà của Công viên Mill Ends (tại Portland), công viên nhỏ nhất trên thế giới với khoảng 452 in² (khoảng 3 ft², hay 0,29 m²).
Các thành phố chính và thị trấn
Dân số Oregon tập trung phần lớn tại Thung lũng Willamette kéo dài từ Eugene (nhà của Đại học Oregon, thành phố lớn thứ ba) qua Salem (thủ phủ, thành phố lớn thứ nhì) và Corvallis (nhà của Đại học tiểu bang Oregon) đến Portland (thành phố lớn nhất Oregon.)
Astoria nằm ở cửa Sông Columbia là một khu định cư thường xuyên đầu tiên của người nói tiếng Anh ở phía tây của Rặng Thạch Sơn. Oregon City là thành phố được tổ chức đầu tiên của Lãnh thổ Oregon, và là thủ phủ đầu tiên (từ năm 1848 cho đến năm 1852 khi thủ phủ được dời về Salem.) Nó cũng là nơi cuối của Đường mòn Oregon và là nơi có thư viện công đầu tiên được thiết lập ở phía tây Rặng Thạch Sơn. Bend, gần trung tâm địa lý của tiểu bang, là một trong mười vùng đô thị phát triển nhanh nhất tại Hoa Kỳ. Về phía nam của tiểu bang, vùng Medford là một vùng đô thị phát triển nhanh và là phần giàu văn hóa của tiểu bang. Nó có Phi trường Quốc tế Thung lũng Rogue-Medford, phi trường bận rộn thứ ba của tiểu bang. Xa hơn về phía nam, gần ranh giới California-Oregon, là cộng đồng Ashland.
Khí hậu
Khí hậu Oregon — đặc biệt là phía tây của tiểu bang - bị ảnh hưởng nhiều bởi Thái Bình Dương. Khí hậu thường ôn hòa nhưng cũng có những thời kỳ rất nóng hay lạnh có thể làm ảnh hưởng nhiều nơi của tiểu bang. Lượng mưa trong tiểu bang đa dạng: các hoang mạc ở phía đông Oregon, thí dụ như Hoang mạc Alvord (vì bị che khuất bởi Núi Steens) chỉ có khoảng 200 mm (8 in) lượng nước mưa rơi hàng năm, trong khi vùng sườn núi duyên hải phía tây nhận được khoảng 5000 mm (200 in) hàng năm. Trung tâm dân số Oregon phần lớn nằm ở phần phía tây của tiểu bang thường thì ẩm ướt trong khi các hoang mạc trên cao ở giữa và phía đông của Oregon thì khô hơn.
Luật pháp và chính quyền
Xứ Oregon hoạt động như một Cộng hòa độc lập với một văn phòng hành pháp gồm ba người và một hành chánh trưởng cho đến khi bị Hoa Kỳ sáp nhập vào ngày 13 tháng 8 năm 1848. Ngay sau bị sáp nhập vào Hoa Kỳ, một chính quyền lãnh thổ đã được thiết lập. Oregon duy trì chính quyền lãnh thổ cho đến khi được phép gia nhập thành một tiểu bang của Hoa Kỳ vào ngày 14 tháng 2 năm 1859.
Chính quyền tiểu bang
Chính quyền tiểu bang Oregon có một sự chia sẻ quyền lực tương tự như chính phủ liên bang. Nó có ba ngành, được gọi là những bộ theo Hiến pháp Oregon:
Một Bộ lập pháp (lưỡng viện Quốc hội Oregon),
Một Bộ hành pháp bao gồm một "bộ quản trị" và Thống đốc Oregon phục vụ như hành chánh trưởng, và
Một Bộ tư pháp được Thẩm phán trưởng Tối cao Pháp viện Oregon lãnh đạo.
Các thống đốc tại Oregon phục vụ nhiệm kỳ bốn năm và giới hạn hai nhiệm kỳ liên tiếp, nhưng không giới hạn tổng số nhiệm kỳ. Thư ký tiểu bang Oregon là người thứ nhất kế vị thống đốc. Các viên chức khác của toàn tiểu bang là Trưởng ngân khố, Tổng biện lý, Giám sát viên, và Ủy viên Lao động. Quốc hội Oregon gồm có 30 thành viên Thượng viện và 60 thành viên Hạ viện. Tối cao Pháp viện Oregon có bảy thẩm phán được bầu lên, hiện thời có hai thẩm phán tối cao pháp viện tiểu bang đồng tính duy nhất công khai tại Hoa Kỳ. Họ tự chọn ra một người trong số họ để phục vụ nhiệm kỳ sáu năm với tư cách là thẩm phán trưởng. Tòa án duy nhất mà có thể đảo ngược hay chỉnh lý một quyết định của Tối cao Pháp viện Oregon là Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ.
Tiểu bang vẫn duy trì các mối liên hệ chính thức với 9 chính quyền bộ tộc được chính phủ liên bang công nhận tại Oregon:
Bộ lạc Paiute Burns
Liên hiệp các bộ lạc Coos, Hạ Umpqua và Siuslaw
Liên hiệp các bộ lạc cộng đồng Grand Ronde
Liên hiệp các bộ lạc Siletz
Liên hiệp các bộ lạc Warm Springs
Liên hiệp các bộ lạc Khu dành riêng cho người bản thổ châu Mỹ Umatilla
Bộ lạc Coquille
Nhóm người bản thổ châu Mỹ Umpqua Cow Creek
Các bộ lạc Klamath
Chính phủ liên bang
Giống như tất cả các tiểu bang Hoa Kỳ, Oregon co hai Thượng nghị sĩ tại Thượng viện Hoa Kỳ. Từ Điều tra Dân số Hoa Kỳ năm 1980, Oregon có năm Khu bầu cử Quốc hội.
Sau khi được gia nhập liên bang, Oregon bắt đầu với chỉ một đại diện duy nhất tại Hạ viện Hoa Kỳ (La Fayette Grover phục vụ trong Quốc hội Hoa Kỳ thứ 35 ít hơn một tháng). Theo Hiến pháp Hoa Kỳ thì số đại diện của một tiểu bang tại Hạ viện Hoa Kỳ là dựa vào dân số của tiểu bang đó. Điều tra Dân số Hoa Kỳ năm 1890 cho Oregon thêm một đại diện. Các lần Điều tra Dân số Hoa Kỳ sau đây đã cộng thêm cho Oregon mỗi lần một đại diện là vào năm 1910, 1940, và 1980. Hiện tại Oregon có tổng số là 5 đại diện tại Hạ viện Hoa Kỳ. Xem thêm danh sách Đại biểu Quốc hội Hoa Kỳ từ Oregon.
Kinh tế
Đất trong Thung lũng Willamette màu mở là nhờ vào những vụ lụt lội thời rất xa xưa. Đất màu mở này là nguồn tài nguyên dồi giàu cho các nông sản như khoai tây, bạc hà, hoa bia, và táo (apple) và nhiều loại trái cây khác.
Oregon cũng là một trong bốn vùng chính của thế giới trồng hazelnut, và sản xuất 95% hazelnut trong quốc nội Hoa Kỳ. Trong khi lịch sử sản xuất rượu tại Oregon có thể truy tìm về nguồn gốc trước thời cấm rượu, sản xuất rượu trở thành một ngành công nghệ nổi bật bắt đầu từ thập niên 1970. Năm 2005, Oregon đứng hạng ba trong tất cả các tiểu bang Hoa Kỳ với 303 hãng làm rượu bia. Vì có sự tương đồng về vùng khí hậu và đất đai nên nho trồng tại Oregon thường là những giống nho tương tự tìm thấy tại những vùng làm rượu bia ở Pháp như Alsace và Burgundy. Tại vùng đông bắc của tiểu bang, đặc biệt là quanh Pendleton, có cả hai giống lúa mì đất khô và cầm thủy được trồng. Các nông gia và nhà chăn nuôi Oregon cũng nuôi trồng bò, trừu, các sản phẩm từ sữa, trứng và thịt gà.
Những khu rừng bạt ngàn rộng lớn trong lịch sử đã biến Oregon thành một trong những tiểu bang lâm nghiệp và sản xuất gỗ chính tại Hoa Kỳ. Tuy nhiên những vụ cháy rừng, thu hoạch vượt mức đã giảm thiểu số lượng gỗ sản xuất. Theo Viện Tài nguyên Rừng Oregon, giữa năm 1989 và 2001, số lượng gỗ thu hoạch từ những khu rừng liên bang đã giảm 96%, từ 10 triệu xuống 408 ngàn mét khối mặc dù mức thu hoạch trên đất rừng tư vẫn gần như không thay đổi. Mặc dù có chuyển hướng về hàng thành phẩm như giấy và vật liệu xây dựng nhưng điều đó cũng không làm chậm được sự suy giảm của nền công nghiệp về gỗ tại tiểu bang. Hậu quả của sự xuống dốc này bao gồm việc Weyerhaeuser thu mua hãng Công nghiệp Willamette có tổng hành dinh tại Portland vào tháng 1 năm 2002, việc di chuyển tổng hành dinh công ty của Louisiana Pacific từ Portland đến Nashville, và sự suy sụp của các cựu thị trấn của công ty gỗ như Gilchrist. Dù có những sự thay đổi như thế nhưng Oregon vẫn dẫn đầu Hoa Kỳ về sản xuất gỗ mềm; năm 2001, 14 triệu m³ được sản xuất tại Oregon, so với 10,05 triệu m³ tại tiểu bang Washington, 6,444 triệu m³ tại California, 5,694 triệu m³ tại Georgia, và 5,491 triệu m³) tại Mississippi.
Oregon đôi khi là nơi để thực hiện các bộ phim. Các bộ phim toàn phần hay một phần quay tại Oregon gồm có: The Goonies, National Lampoon's Animal House, Stand By Me, Kindergarten Cop, One Flew Over the Cuckoo's Nest, Paint Your Wagon, The Hunted, Sometimes a Great Notion, Elephant, Bandits, The Ring, The Ring 2, Teenage Mutant Ninja Turtles 3, Short Circuit, Come See The Paradise, The Shining, Drugstore Cowboy, My Own Private Idaho, The Postman, Free Willy, Free Willy 2, 1941, và Swordfish.
Matt Groening, quê ở Oregon, là tác giả của bộ phim hoạt họa truyền hình dài The Simpsons đã thu thập nhiều dữ kiện từ thành phố nhà của mình là Portland vào loạt phim hoạt họa truyền hình dài này.
Các dịch vụ và công nghiệp kỹ thuật cao là những công ty mướn công nhân chính từ thập niên 1970. Tektronix là một công ty tư mướn công nhân nhiều nhất tại Oregon cho đến cuối thập niên 1980. Việc Intel thiết lập và mở rộng nhiều cơ sở sản xuất tại miền đông Quận Washington đã làm tiếp tục sự phát triển mà Tektronix từng khởi đầu. Intel, công ty tư lớn nhất tiểu bang, điều hành bốn cơ sở sản xuất lớn với Ronler Acres, Jones Farm và Hawthorn Farm nằm ở Hillsboro. Sự phân chia ra các công ty nhỏ và sự khởi sự của các công ty mới do hai công ty này tạo ra đưa đến sự thiết lập một khu vực có tên gọi là Rừng Silicon. Sự thối trào của các công ty Dot-com năm 2001 đã đánh gây ảnh hưởng nặng nề cho vùng; nhiều công ty kỹ thuật cao đã giảm số lượng nhân công hoặc khai phá sản. OSDL tạo chấn động tin tức năm 2004 khi họ mướn Linus Torvalds, người phát triển ra Linux. Hiện nay, Đại công ty công nghệ sinh học Genentech đã mua vài mẫu Anh đất tại Hillsboro để cố mở rộng khả năng sản xuất của họ.
Oregon cũng là nhà của nhiều công ty lớn trong những ngành kỹ nghệ khác. Tổng hành dinh thế giới của Nike nằm gần Beaverton. Medford là nhà của hai trong những công ty bán hàng qua thư tín lớn nhất tại Hoa Kỳ: Harry and David Operations Corp. bán những món hàng quà tặng dưới vài tên hiệu, và Musician's Friend, một nhà bán lẽ qua mạng quốc tế các sản phẩm nhạc cụ và có liên quan đến nhạc cụ.Medford cũng là nhà của tổng hành dinh quốc gia của công ty trong danh sách Fortune 1000 là Lithia Motors. Portland là nhà của một trong các nhà xuất bản buôn bán sách lớn nhất miền Tây Hoa Kỳ là Graphic Arts Center Publishing.
Oregon có một trong các ngành công nghệ đánh bắt cá hồi lớn nhất trên thế giới. Du lịch cũng là thế mạnh của tiểu bang; rừng núi xanh tươi, thác nước, hồ nguyên thủy của Oregon (gồm có Công viên Quốc gia Hồ miệng núi lửa), và những bãi biển có cảnh quang đẹp thu hút nhiều du khách quanh năm. Lễ hội Shakespeare Oregon, được tổ chức tại Ashland, là nơi thứ thu hút khách du lịch. Lễ hội bổ sung thêm cho các cảnh đẹp của miền nam tiểu bang và là dịp cho các hoạt động ngoài trời.
Oregon là nhà của một số hãng nấu rượu bia nhỏ và Portland có số lượng hãng nấu rượu bia lớn nhất so với bất cứ thành phố nào trên thế giới.
Tổng sản lượng của Oregon là 132,66 tỉ đô la Mỹ tính đến năm 2006, như vậy nó đứng hàng thứ 27 có tổng sản lượng lớn tại Hoa Kỳ.
Nhân khẩu
Tính đến năm 2012, Oregon có dân số ước tính là 3.899.353, tăng 49.693, hay 1,4% co với năm trước đó và tăng 219.620 hay 6,4% kể từ năm 2000. Con số này bao gồm một sự gia tăng theo tự nhiên kể từ lần điều tra dân số cuối là 75.196 người (có nghĩa là 236.557 sinh trừ đi 161.361 chết) và một sự gia tăng vì di dân là 150.084 người vào tiểu bang. Di dân từ ngoài Hoa Kỳ đưa đến kết quả gia tăng 72.263 người, và di cư trong Hoa Kỳ cho ra một con số gia tăng là 77.821 người.
Trung tâm dân số Oregon nằm trong Quận Linn tại thành phố Lyons.
Tính đến năm 2004, dân số Oregon gồm có 309.700 cư dân sinh ở nước ngoài (chiếm 8,7% dân số tiểu bang) và một con số ước tính là có khoảng 90.000 người di dân bất hợp pháp (2,5% dân số tiểu bang).
Nhóm có nguồn gốc tổ tiên được ghi nhận lớn nhất tại Oregon là: người Đức (20,5%), người Anh (13,2%), người Ireland (11,9%), người Mỹ (6,2%), và người Mexico (5,5%).
Đa số các quận của Oregon có phần đông cư dân là người gốc châu Âu. Người Mỹ gốc Mexico sống tập trung cao nhất tại các quận Malheur và Jefferson.
6,5% dân số Oregon được ghi nhận là nhỏ hơn 5 tuổi, 24,7% dưới 18 tuổi, và 12,8% từ 65 trở lên. Phụ nữ chiếm khoảng 50,4% dân số.
Tôn giáo
Trong tất cả tiểu bang Hoa Kỳ, Oregon có tỉ lệ dân số cao nhất đứng hạng ba tự nhận mình không thuộc bất cứ tôn giáo nào (đồng hạng với Colorado là 21 phần trăm), nhưng sau tiểu bang Washington và Vermont.
Chiều hướng dân số 2000–2003
Ước tính được đưa ra tính đến tháng 9 năm 2004 cho thấy một sự gia tăng dân hàng chục phần trăm trong nhóm người nói tiếng Tây Ban Nha và người gốc Á châu từ Điều tra Dân số năm 2000. Khoảng 60% trong số 138.197 cư dân mới là từ các nhóm dân thiểu số. Sự gia tăng dân số của người gốc Á châu phần đông là tại vùng đô thị Portland, Salem, và Eugene; riêng người nói tiếng Tây Ban Nha thì gia tăng khắp nơi trong tiểu bang.
Đọc thêm
Thác nước Multnomah Falls
Chú thích |
Vòng tròn lớn có thể là:
Vòng tròn lớn trên mặt cầu trong hình học
Vòng Tròn Lớn (băng đảng), một trong những tổ chức tội phạm lớn nhất của người Hoa có phạm vi hoạt động tại nhiều nước trên thế giới. |
Thịnh vượng chung Pennsylvania (tiếng Anh: Commonwealth of Pennsylvania; IPA: ) là một tiểu bang nằm ở phía đông bắc Hoa Kỳ. Là một trong 13 tiểu bang đầu tiên của nước Mỹ từng là thuộc địa cũ của Đế quốc Anh, Pennsylvania được biết đến với các tên gọi Keystone State, phù hợp với vị trí trung tâm giữa các thuộc địa nguyên thủy, hay Quaker State. Với công nghiệp chế tạo Conestoga wagon, súng trường và thuốc lá, Pennsylvania là một khu vực chuyển tiếp xuyên quốc gia có nhiều đặc điểm của cả công nghiệp hóa triệt để của miền bắc và nông nghiệp của miền nam.
Do đó, ba thành phố của Keystone State —Philadelphia, Lancaster và York—đã trở thành thủ đô lâm thời của Hoa Kỳ, do Thomas Jefferson đề cử và ký Tuyên ngôn Độc lập, Articles of Confederation và Hiến pháp ở Pennsylvania. Riêng thành phố cảng Philadelphia được biết đến như là "cái nôi của lịch sử nước Mỹ" (American History).
Pennsylvania có hai khu vực giáp biển: 100 km (63 dặm) đường biên dọc theo hồ Erie và 92 km (57 dặm) dọc theo Delaware Estuary. Philadelphia có một cảng biển lớn và nhiều nhà máy đóng tàu trên sông Delaware.
Bang này có 5 nhà máy điện hạt nhân, nhiều hơn hẳn so với các tiểu bang khác.
Đây là nơi sinh của các Tổng thống James Buchanan (tại Cove Gap, gần Mercersburg) và Joe Biden (tại Scranton).
Đặt tên
Mặc dù người Thụy Điển và Hà Lan là những dân khai phá đầu tiên đến từ châu Âu, một người Anh thuộc tổ chức tôn giáo Quaker tên là William Penn đặt tên Pennsylvania lấy từ tiếng Latin có nghĩa là "Khu rừng nhà Penn", để vinh danh cha ông. Ban đầu Penn định đặt tên "New Wales", bởi vì khung cảnh đồng bằng và khí hậu làm ông ta liên tưởng đến xứ Wales. Cái tên này đã bị bác bỏ do những thành viên người Wales trong Quốc hội chống lại việc tên vùng đất của họ được đặt cho một vùng đất hoang dã và không văn minh như vậy, đặc biệt là được thành lập bởi người Quaker. Penn sau đó đề nghị "Sylvania", tiếng Latin cho "khu rừng", để thay thế. Charles II của Anh sửa lại thành "Pennsylvania". Vì tôn giáo của Quaker cau mày trên hành động ngạo mạn đó, William Penn chống lại ý tưởng đó, nhưng được xoa dịu bởi đề nghị của nhà vua đặt tên tiểu bang vinh danh Đô đốc Sir William Penn, cha của ông ta và là một anh hùng dân tộc, chứ không phải là theo tên ông ta. Ngày nay, hai thành phố lớn của tiểu bang là —Philadelphia, quê hương của chuông Liberty, sảnh Independence, là một khu đô thị sầm uất, và Pittsburgh, một cảng sông bận rộn bên trong lục địa và là một trung tâm lớn cho giáo dục và các tiến bộ kỹ thuật. Dãy núi Pocono và Delaware Water Gap cung cấp các hoạt động giải trí phổ thông.
Pennsylvania là một Commonwealth, mặc cho nó có State Treasury và State Police. Massachusetts, Virginia và Kentucky cũng được biết như là Commonwealth.
Chiến hạm USS Pennsylvania, bị hư hỏng tại Trân Châu Cảng (Pearl Harbor), được đặt tên để vinh danh tiểu bang này, cũng như là một vài chiến hạm hải quân khác. Nó được sửa chữa lại Sun Ship Yard & Dry Dock trước đây ở Chester, Pennsylvania. |
Nevada (phát âm như Nê-va-đa) là một tiểu bang nằm ở miền tây Hoa Kỳ, là tiểu bang thứ 36 gia nhập liên bang vào năm 1864. Thủ phủ của Nevada là thành phố Carson còn thành phố lớn nhất là Las Vegas. Nevada có biệt hiệu là Battle Born State ("Bang ra đời trong chiến tranh") để kỷ niệm việc Nevada gia nhập liên bang đứng về phía miền bắc trong cuộc Nội chiến Mỹ giữa thế kỉ 19.
Nevada là tiểu bang có diện tích rộng hàng thứ 7 tại Hoa Kỳ, bao gồm vùng Bồn Địa Lớn ("Great Basin") về phía bắc và sa mạc Mojave về phía nam. Năm 2006, ước tính dân số Nevada đạt 2,6 triệu người, với 85% dân cư sinh sống trong các khu vực đại đô thị Las Vegas và Reno. Từ một tiểu bang mà phần lớn đất đai khô cằn, ít người sinh sống, ngày nay Nevada đã vươn lên trở thành một trong những bang giàu mạnh nhất nước Mỹ với những ngành kinh tế chủ lực là khai mỏ, chăn nuôi, sòng bạc và du lịch.
Địa lý
Tiểu bang Nevada giáp với Utah về phía đông, giáp với Arizona về phía nam, giáp với California về phía tây và tây nam, giáp với Oregon về phía tây bắc và giáp với Idaho về phía đông bắc.
Phần lớn diện tích Nevada nằm trong một vùng bồn địa thấp và bị chia cắt bởi rất nhiều các dãy núi chạy theo chiều bắc nam. Nhiều dãy núi ở Nevada có đỉnh núi cao trên 4000 m trong khi các thung lũng cũng không thấp dưới 900m. Những dãy núi này có các con sông nhỏ đổ vào một bồn địa trũng trong đất liền chứ không đổ ra biển. Ví dụ như sông Humboldt chảy từ đông sang tây và đổ vào vùng bồn địa Humboldt. Một số con sông khác lại chảy từ tây sang đông bắt nguồn từ dãy Sierra Nevada như sông Walker, sông Truckee và sông Carson.
Miền bắc tiểu bang Nevada nằm trong sa mạc Great Basin, một sa mạc thuộc vùng ôn đới với mùa hè nóng và mùa đông nhiệt độ hạ xuống gần điểm đóng băng. Thình thoảng, hơi ẩm từ gió mùa Arizona mang đến cho vùng sa mạc này những trận mưa bão, hay các cơn bão từ Thái Bình Dương đổ vào cũng có thể gây ra bão tuyết về mùa đông. Nhiệt độ cao nhất tại Nevada là 51,7 °C ghi được tại Laughlin vào ngày 29 tháng 6 năm 1994.
Phía đông của tiểu bang chịu ảnh hưởng của gió mùa Arizona nhiều hơn nên cây cối khá xanh tốt. Cây ngải đắng là loài cây mọc chủ yếu tại đây. Vùng này có nhiều sông suối chảy qua và làm biến đổi hẳn cảnh quan hoang mạc.
Phần phía nam của tiểu bang, trong đó có thành phố Las Vegas nằm trong sa mạc Mojave. Địa hình vùng này thấp hơn phía bắc với độ cao trung bình khoảng 1200m. Mùa hè thường nóng còn mùa đông có thể thay đổi từ mát mẻ sang vô cùng lạnh lẽo.
Nhìn chung khí hậu của Nevada tương đối khắc nghiệt với mùa hè ngắn, nhiệt độ cao hơn 40 °C với một mùa đông dài và lạnh. Do nằm trong khu vực bồn địa và bị các dãy núi cao chắn hơi ẩm từ biển vào, lượng mưa ở Nevada khá thấp và khiến hoang mạc trở thành dạng địa hình chính tại đây.
Lịch sử
Do đất đai cằn cỗi, không thích hợp cho nông nghiệp nên Nevada là một trong những nơi cuối cùng có người đến định cư tại Mỹ. Ban đầu, Nevada thuộc chủ quyền của México nhưng sau khi Mexico thất bại trong cuộc chiến tranh Hoa Kỳ-Mexico năm 1848, nước này đã phải nhường lại 1/3 diện tích lãnh thổ cho Mỹ, trong đó bao gồm vùng đất Nevada.
Năm 1850, Vùng lãnh thổ Utah ("Utah Territory") trong đó bao gồm cả Nevada được chính phủ Mỹ thành lập và người Mormon đã đến đây định cư sinh sống. Tuy nhiên khi những xung đột giữa cộng đồng người Mormon, thời gian đó còn chấp nhận chế độ đa thê với chính phủ Mỹ nổ ra thì người dân Nevada đòi tách khỏi Utah để thành lập một tiểu bang riêng biệt. Ngày 2 tháng 3 năm 1861, Vùng lãnh thổ Nevada ("Nevada Territory") chính thức tách khỏi Vùng lãnh thổ Utah.
Ngày 31 tháng 10 năm 1864, Nevada chính thức được công nhận là tiểu bang thứ 36 của Hoa Kỳ. Mặc dù dân số Nevada lúc đó chỉ bằng 1/6 quy định để được quyền đại diện tại quốc hội liên bang nhưng tổng thống Lincoln đã ủng hộ cho Nevada gia nhập liên bang. Việc này đã giúp tổng thống Lincoln vượt qua cuộc bầu cử tổng thống giữa nhiệm kỳ năm 1864, đưa Đảng Cộng hòa chiếm đa số tại quốc hội cùng như tận dụng được nguồn mỏ bạc to lớn của Nevada cho chiến tranh.
Sau khi cuộc Nội chiến Mỹ kết thúc, khai mỏ đóng vai trò chủ lực trong nền kinh tế của Nevada. Nhưng đến cuối thế kỉ 19, các mỏ bắt đầu cạn kiệt dần đã dẫn tới việc dân cư bỏ đi nơi khác. Tuy nhiên đến đầu thế kỉ 20, các mỏ vàng và bạc mới lại được phát hiện ở Nevada đã giúp khôi phục nền kinh tế của tiểu bang. Sau cuộc Đại khủng hoảng năm 1929, chính phủ liên bang đã khởi công xây dựng Đập Hoover để cung cấp nước tưới cho đồng ruộng và mang lại nguồn điện năng to lớn cho những thành phố lớn của Nevada như Las Vegas. Trong những thập niên 1950, 1960, Nevada là một bãi thử các loại vũ khí hạt nhân của quân đội Mỹ.
Ngày nay, Nevada là một trong những tiểu bang có tốc độ phát triển cao nhất nước Mỹ với ngành công nghiệp sòng bạc khổng lồ bên cạnh các ngành kinh tế khác như khai mỏ, chăn nuôi, du lịch, thương mại. Tiểu bang này có trường Đại học hệ Nevada trong thành phố Reno và thành phố Las Vegas và trường Đại học Touro tại Nevada trong thành phố Henderson.
Nhân khẩu
Theo ước tính của Cục thống kê dân số năm 2007, dân số của Nevada là 2.565.382 người. So với năm trước, dân số của Nevada đã tăng thêm 92.909 người, tức tốc độ tăng dân số đạt tới 3,5%. Dân số tăng nhanh bao gồm một phần là gia tăng dân số tự nhiên và bên cạnh đó, trong những năm gần đây, kinh tế Nevada phát triển mạnh đã thu hút một lượng lớn người nhập cư từ nước ngoài cũng như các vùng khác nhau của nước Mỹ. Năm 2006, Nevada đứng thứ nhì nước Mỹ về tốc độ gia tăng dân số, chỉ sau Arizona.
Nếu tính từ thập niên 1940 đến năm 2003, Nevada dẫn đầu nước Mỹ về tốc độ tăng dân số. Từ năm 1990 đến năm 2000, dân số Nevada tăng thêm 66,3%, trong khi mức trung bình của nước Mỹ chỉ là 13,1%. Hơn hai phần ba dân số của Nevada sống tại khu vực đại đô thị quanh Las Vegas.
Phân bố chủng tộc tại Nevada năm 2005 như sau:
Người da trắng: 84,25%
Người da đen: 8,58%
Người da đỏ: 2,15%
Người gốc Á: 6,87%
Người các đảo Thái Bình Dương: 0,92%
Người hispanic (latinh) thuộc mọi sắc tộc trên: 23,93%
Chính trị
Trong các cuộc bầu cử, Nevada thường giữ vai trò "swing state", tức không thiên về Đảng Cộng hòa hay Đảng Dân chủ. Do vậy, kết quả bầu cử tại Nevada rất khó dự đoán. Các tổng thống gần đây nhất của Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ đều giành chiến thắng tại Nevada. Bang này đã bầu cho cả vị tổng thống Dân chủ Bill Clinton vào các năm 1992, 1996 cũng như bầu cho tổng thống Cộng hòa George W. Bush vào các năm 2000 và 2004.
Kinh tế
Năm 2006, tổng sản phẩm quốc dân của Nevada đạt 117 tỉ USD. Thu nhập bình quân của người dân Nevada là 46.108 USD, đứng hàng thứ 11 toàn liên bang.
Về nông nghiệp, chăn nuôi đóng vai trò chủ yếu. Cỏ khô, chủ yếu là cỏ linh lăng được trồng nhiều để cung cấp thức ăn cho các loại gia súc và cừu. Bên cạnh đó Nevada cũng trồng nhiều tỏi và khoai tây. Theo số liệu ngày 1 tháng 1 năm 2006, tại Nevada có khoảng 500.000 gia súc và 70.000 con cừu.
Khai mỏ là ngành công nghiệp đầu tiên được phát triển tại Nevada. Năm 2004, 6,8 triệu ounce vàng đã được khai thác, mang lại 2,84 tỉ USD cho tiểu bang. Nevada sở hữu tới 8,7% tổng lượng vàng sản xuất của thế giới. Sau vàng, bạc là kim loại được khai thác nhiều thứ hai tại Nevada với 10,3 triệu ounce bạc được khai thác năm 2004, đạt giá trị 69 triệu USD. Tuy nhiên chi phí cho ngành công nghiệp khai thác ở Nevada khá cao và sản lượng khai thác dễ hứng chịu những biến động của thị trường thế giới.
Sau cuộc Đại Khủng hoảng năm 1929, để có thêm tiền thuế cho liên bang Nevada đã chấp nhận hợp pháp hóa ngành công nghiệp sòng bạc. Lúc đầu đây chỉ là một chính sách tạm thời đợi đến khi các ngành kinh tế khác hồi phục sẽ bãi bỏ ngành công nghiệp sòng bạc. Nhưng điều này đã không bao giờ được thực hiện và các sòng bạc đã mang lại cho Nevada hàng tỉ USD mỗi năm và mang lại sự giàu có cho nhiều khu đô thị lớn như Las Vegas, Reno. Ngày nay, bên cạnh ngành công nghệ sòng bạc, Nevada đã phát triển mạnh các ngành kinh tế khác như du lịch, xuất bản, thương mại, sản xuất máy móc, chế biến thực phẩm... |
Missouri (, , , hay là , được đặt tên theo tiếng bộ lạc Siouan nghĩa là "thành phố của nhiều tàu lớn", là một tiểu bang ở vùng trung tâm của Hoa Kỳ. Được xem bởi những người cư ngụ ở đó như là một tiểu bang vùng Trung Tây nhưng có rất nhiều ảnh hưởng văn hóa của miền nam. Tên hiệu của tiểu bang là Show-Me State. Sông Mississippi và sông Missouri là hai con sông lớn chảy qua tiểu bang này.
Đây là nơi sinh của Tổng thống Harry S. Truman (tại Lamar).
Địa lý
Biên giới của Missouri chạm tổng cộng 8 tiểu bang khác. (Tiểu bang Tennessee kế cận cũng như vậy. Không có tiểu bang nào của Hoa Kỳ chạm hơn 8 tiểu bang khác). Bao bọc về phía bắc bởi Iowa; về phía đông, bên kia sông Mississippi, là Illinois, Kentucky và Tennessee; về phía nam là Arkansas; và phía tây là Oklahoma, Kansas và Nebraska (tiểu bang sau ở bên kia sông Missouri).
Phía bắc sông Missouri là Đồng bằng Bắc trải lên tận Iowa, Nebraska and Kansas. Nơi này những ngọn đồi thoai thoải còn lại sau một tảng băng đã từng kéo dài từ phương bắc đến sông Missouri.
Bình nguyên Ozark bắt đầu từ phía nam của con sông và trải dài vào trong Arkansas, đông nam Kansas, và đông bắc Oklahoma. Springfield ở tây nam Missouri nằm trên bình nguyên Ozark. Phía nam Missouri là quê hương của Dãy núi Ozark, một bình nguyên bao quanh bởi Precambrian Dãy St. Francois. Trong vùng Ozarks có một thổ ngữ khác biệt, thường thấy trong những cư dân ở một số địa phương của Kentucky và Tennessee, vẫn còn tồn tại. |
"Đôi bờ" (tiếng Nga: Два берега) là một bài hát Nga, lời của Grigory Mikhailovich Pozhenyan (Григо́рий Миха́йлович Поженя́н), phần nhạc do Andrey Yakovlevich Eshpai (Андре́й Я́ковлевич Эшпа́й) viết cho bộ phim Khát (Жажда) năm 1960 với tên gọi nguyên thủy là "Мы с тобой два берега" ("Em và anh, đôi bờ"). Đĩa nhựa "Đôi bờ" do Maya Kristalinskaya thu âm đầu thập niên 1960 đã bán được 7 triệu bản.
Nội dung
Nội dung bài hát theo nguyên tác là nói về một mối tình vô vọng của một cô gái chung thủy với một chiến sĩ hi sinh ngoài mặt trận, và chính bản thân người con gái cũng nhận thức được điều ấy. Nhưng sâu thẳm tận đáy lòng mình, cô gái lại không hề muốn tin và vẫn hy vọng, đợi chờ. Hình ảnh những con vịt đều có đôi và những bạn gái đều đã có người yêu làm cô không khỏi chạnh lòng, nghĩ đến tình cảnh hiện tại của mình và người con trai như hai bờ của một dòng sông. Tuy vậy, cô vẫn kiên định chờ đợi...
Giai điệu của bài hát nhẹ nhàng, sâu lắng, phản ảnh nội tâm một người thiếu nữ. Lời Việt của bài hát rất thơ mộng nhưng mang tính ẩn dụ để thể hiện đúng ý của nguyên tác, niềm tin đôi bờ đâu cách xa. Câu kết của nguyên tác "Мы с тобой два берега у одной реки" nghĩa là "Em và anh (mãi) như hai bờ của một dòng sông ", hàm ý chẳng bao giờ gặp được nhau.
Lời Việt
Theo nhà văn Đặng Vương Hưng, người đầu tiên dịch "Đôi bờ" ra tiếng Việt là ông Vương Thịnh (1934-2010), nguyên Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam, cùng cộng tác với Cao Thụy (sau là Đạo diễn điện ảnh). "Đôi bờ" đã trở thành bản tình ca Nga ngọt ngào luôn chinh phục, ngự trị tâm hồn những người Việt Nam đã từng đến Nga và cả những ai yêu nhạc nhưng chưa bao giờ đặt chân lên mảnh đất này, được nhiều người thuộc lòng. |
"Nụ cười" () là tên một bài hát Nga do Vladimir Yakovlevich Shainsky (Шаинский, Владимир Яковлевич) viết nhạc và Mikhail Slavtakovich Plyatskovsky (Пляцковский, Михаил Спартакович) viết lời. Bài hát đã được sử dụng trong bộ phim hoạt hình Gấu mèo nhỏ (Крошка Енот). Bài hát không những được ưa chuộng tại Nga mà còn được nhiều người khắp nơi trên thế giới ưa thích. Không chỉ quen thuộc với thiếu nhi mà bài hát được nhiều người lớn thuộc lòng.
Bài hát có giai điệu vui vẻ, tinh nghịch, tràn đầy sự hồ hởi. Khi biểu diễn, thường có tiếng cười xen vào giữa bài hát. Bài hát với ngôn từ trong sáng và tiếng cười hồn nhiên làm người nghe cảm thấy yêu đời và hy vọng vào một tương lai tốt đẹp.
Nội dung bài hát "Nụ cười" ca ngợi niềm lạc quan trong cuộc sống của tuổi trẻ. Ở đó, tiếng cười đem lại niềm tin và hạnh phúc.
Lời tiếng Việt của bài hát do nhạc sĩ Phạm Tuyên đặt.
Lời ca khúc
Bản tiếng Việt:
1)
Cho trời sáng lên cùng với bao nụ cười
Cầu vồng thêm lung linh bao sắc ánh lên ở khắp nơi
Nụ cười tươi chúng ta cùng chung niềm vui
Trong cuộc sống đầm ấm yên vui ta cùng cất tiếng cười.
Để làn mây không bay đi xa, những giọt mưa bay bay bên ta
Để dòng nước từ con suối xinh thành dòng sông sóng xô
Tiếng cười vui luôn luôn bên ta, tiếng cười sẽ luôn luôn ngân xa
Tiếng cười là bạn đường tháng năm của tuổi niên thiếu ta
Tiếng cười vui luôn luôn bên ta, tiếng cười sẽ luôn luôn ngân xa
Tiếng cười là bạn thân tháng năm không thể nào xoá nhoà.
2)
Cho trời sáng lên và áng mây tươi hồng
Đẩy lùi xa bao nhiêu u ám gió mưa và bão bùng
Rừng âm u đã thức dậy đón ngày mới
Trong làn nắng lộng gió ban mai vang bài ca yêu đời.
Để làn mây không bay đi xa, những giọt mưa bay bay bên ta
Để dòng nước từ con suối xinh thành dòng sông sóng xô
Tiếng cười vui luôn luôn bên ta, tiếng cười sẽ luôn luôn ngân xa
Tiếng cười là bạn đường tháng năm của tuổi niên thiếu ta
Tiếng cười vui luôn luôn bên ta, tiếng cười sẽ luôn luôn ngân xa
Tiếng cười là bạn thân tháng năm vẫn tràn ngập lòng ta |
Nebraska (phát âm là Nê-brát-xca) là một tiểu bang thuộc vùng Đồng bằng Lớn và Trung Tây của Hoa Kỳ. Tiểu bang Nebraska giáp với tiểu bang Nam Dakota về phía bắc, Iowa về phía đông, Missouri về phía đông nam, Kansas về phía nam, Colorado về phía tây nam và Wyoming về phía tây. Tiểu bang có diện tích hơn 200.000 km² và dân số khoảng 1,9 triệu người. Thủ phủ của bang là thành phố Lincoln và thành phố đông dân nhất là Omaha nằm bên sông Missouri.
Trước khi người châu Âu xuất hiện, Nebraska là nơi sinh sống của các dân tộc bản địa như người Omaha, Missouria, Ponca, Pawnee, Otoe và Lakota. Tiểu bang này nằm trên hành trình của cuộc thám hiểm của Lewis và Clark. Vào năm 1867, Nebraska trở thành bang thứ 37 gia nhập liên bang và là bang duy nhất ở Hoa Kỳ có quốc hội đơn viện.
Nebraska gồm có hai vùng đất chính: vùng Bình nguyên Dissected Till và vùng Đại Bình nguyên. Bình nguyên Dissected Tills là một vùng đồi thấp và tập trung những thành phố lớn nhất của tiểu bang là Omaha và Lincoln. Vùng Đại Bình nguyên chiếm phần lớn miền tây của bang với phong cảnh đặc trưng là những đồng cỏ rộng lớn phù hợp cho chăn nuôi gia súc. Về mặt khí hậu, nửa phía đông Nebraska có khí hậu lục địa ẩm trong khi nửa phía tây có khí hậu bán khô hạn. Toàn bộ tiểu bang có sự chênh lệch nhiệt độ lớn giữa mùa hè và mùa đông. Bên cạnh đó, tiểu bang này cũng thường phải hứng chịu những trận dông và lốc xoáy dữ dội vào mùa xuân và mùa hè.
Tiểu bang Nebraska có ưu thế về nông nghiệp với những sản phẩm chủ lực là thịt bò, thịt lợn, ngô và đậu tương.
Đây là nơi sinh của Tổng thống Gerald Ford (tại Ohama).
Tên gọi
Tên gọi Nebraska được lấy từ Ñí Brásge trong tiếng Chiwere hoặc Ní Btháska trong tiếng Omaha–Ponca của người dân bản địa, có nghĩa là "mặt nước phẳng". Sở dĩ có tên gọi này vì người bản địa khi xưa đã đặt tên vùng đất theo sông Platte, một con sông chảy qua tiểu bang này từ phía đông sang phía tây trước khi đổ vào sông Mississippi.
Lịch sử
Các dân tộc người bản địa đã sinh sống tại Nebraska hàng nghìn năm trước khi người châu Âu đến khai phá vùng đất này. Họ bao gồm các dân tộc Omaha, Missouria, Ponca, Pawnee, Otoe và nhiều nhánh của tộc người Lakota. Một trong số các dân tộc đó di cư từ các vùng ở phía đông bang Nebraska ngày nay.
Sau khi người châu Âu bắt đầu tiến hành thám hiểm, trao đổi thương mại và thành lập các khu định cư tại châu Mỹ, người Pháp và Tây Ban Nha đều có kế hoạch muốn kiểm soát vùng đất này. Trong những năm 1690, người Tây Ban Nha thiết lập các mối quan hệ về thương mại với dân tộc Apache vốn kiểm soát phần phía tây Nebraska. Đến năm 1703, đến lượt người Pháp cũng thường xuyên buôn bán với các tộc người bản địa ở phần lưu vực sông Missouri của bang này, thậm chí ký được một số hiệp ước với họ vào năm 1719. Khi chiến tranh nổ ra giữa hai nước châu Âu, Tây Ban Nha phái một binh đoàn do trung tướng Pedro de Villasur chỉ huy tiến vào Nebraska vào năm 1720. Được sự hỗ trợ từ phía Pháp, hai bộ tộc Pawnee và Otoe đã đánh bại và thảm sát binh đoàn của Tây Ban Nha.
Chiến tranh Bảy năm (1756-1763) nổ ra và buộc Pháp phải nhường vùng Lãnh thổ Louisiana, trong đó bao gồm cả vùng đất Nebraska ngày nay cho Tây Ban Nha vào năm 1762. Sự rút đi của Pháp dẫn đến việc Anh và Tây Ban Nha cùng tranh giành ảnh hưởng tại vùng lưu vực sông Mississippi. Cả hai nước cùng cử ra các phái đoàn để tiếp xúc và buôn bán với người bản địa.
Đến năm 1800, nước Pháp dưới thời Napoléon Bonaparte giành lại quyền kiểm soát Lãnh thổ Louisiana. Tuy nhiên Hoa Kỳ đã mua lại vùng đất này từ Pháp vào năm 1803 với giá 15 triệu USD đương thời, khiến diện tích lãnh thổ Hoa Kỳ được mở rộng gấp đôi. Ngày 30 tháng 5 năm 1854, chính phủ Hoa Kỳ thành lập Lãnh thổ Nebraska, lúc đó bao trùm các phần đất mà ngày nay thuộc các tiểu bang Nebraska, Wyoming, Nam Dakota, Bắc Dakota, Colorado, và Montana. Thủ phủ của lãnh thổ đặt tại thành phố Omaha.
Trong thập niên 1860, chính phủ Mỹ buộc người bản địa vào các khu định cư rồi lấy đất của họ cho người Mỹ gốc châu Âu canh tác. Hàng ngàn người da trắng tràn vào Nebraska để được nhận đất canh tác với giá rất thấp (hoặc miễn phí) khiến dân số vùng đất này tăng nhanh và đủ điều kiện gia nhập liên bang. Ngày 1 tháng 3 năm 1867, Nebraska chính thức trở thành tiểu bang thứ 37 của Hoa Kỳ. Thủ phủ của bang được dời về thành phố Lancaster, sau đổi tên là Lincoln để tưởng nhớ vị tổng thống Hoa Kỳ vừa mới bị ám sát không lâu Abraham Lincoln.
Cuối thế kỉ 19, dân số Nebraska tiếp tục tăng nhanh nhờ đất đai màu mỡ, thời tiết thuận lợi cùng những tiến bộ về khoa học kỹ thuật trong ngành nông nghiệp. Vùng đồng cỏ rộng lớn của Nebraska đặc biệt phù hợp với việc chăn nuôi gia súc, dẫn đến sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến thịt. Làn sóng di cư của người Mỹ gốc Phi khỏi miền Nam Hoa Kỳ đến những khu vực khác của đất nước cũng bổ sung thêm dân cư cho Nebraska.
Từ thập niên 1960 về sau, người Mỹ bản địa ở Nebraska tham gia ngày càng tích cực vào các hoạt động chính trị và đấu tranh cho quyền lợi của họ, cũng như xây dựng trường lớp nhằm bảo tồn bản sắc văn hóa.
Địa lý
Nebraska giáp với Nam Dakota về phía bắc, Iowa và Missouri về phía đông qua sông Missouri; Kansas về phía nam, Colorado về phía tây nam, và Wyoming về phía đông. Nebraska có 93 quận. Lãnh thổ của tiểu bang thuộc 2 múi giờ khác nhau, với nửa phía đông thuộc múi giờ miền Trung còn nửa phía tây thuộc múi giờ miền núi của Bắc Mỹ. Nebraska có ba con sông chính đều chảy từ phía tây sang phía đông của tiểu bang: sông Platte chảy qua miền trung, sông Niobrara ở miền bắc và sông Republican ở miền nam.
Nebraska bao gồm hai miền đất chính: Bình nguyên Dissected Till và Đại Bình nguyên. Phần cực đông của tiểu bang bị cào bằng bởi những tảng băng từ thời Băng Hà và đồng bằng Dissected Till với những vùng đồi thoải chính là những gì còn lại sau khi băng rút đi. Thủ phủ Lincoln và thành phố lớn nhất tiểu bang Omaha đều tọa lạc bên trong vùng này. Đại Bình nguyên chiếm phần lớn diện tích miền tây tiểu bang Nebraska.
Khí hậu
Tiểu bang Nebraska có 2 dạng khí hậu chính. Nửa phía đông của tiểu bang có khí hậu lục địa ẩm còn nửa phía tây là khí hậu bán khô hạn. Tiểu bang có sự chênh lệch lớn về nhiệt độ và lượng mưa giữa các mùa trong năm. Nhiệt độ trung bình thì tương đối đồng nhất giữa các vùng của Nebraska, nhìn chung mọi nơi đều có mùa hè nóng và mùa đông khá lạnh.
Lượng mưa giảm dần từ phía đông sang phía tây: góc phía đông nam của tiểu bang nhận được 800 mm mỗi năm trong khi phần cực tây chỉ nhận 350 mm. Độ ẩm không khí cũng có xu hướng tương tự. Trong khi đó lượng tuyết rơi của Nebraska thì phân bố khá đồng đều và nằm trong khoảng 65–90 cm mỗi năm.
Tiểu bang Nebraska nằm trong Hành lang Lốc xoáy, một khu vực địa lý ở trung tâm nước Mỹ nơi lốc xoáy thường xuyên xảy ra. Các cơn dông và lốc xoáy thường diễn ra nhiều nhất trong các tháng mùa xuân và mùa hè, đôi khi là vào cả mùa thu. Ở miền tây Nebraska, hiện tượng foehn xảy ra do khu vực này nằm gần dãy núi Rocky khiến cho mùa đông của vùng này bớt lạnh giá.
Nhân khẩu
Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ ước tính dân số của Nebraska là 1.896.190 người vào ngày 1 tháng 7 năm 2015, dựa trên Điều tra dân số Hoa Kỳ 2010.
Chủng tộc và dân tộc
Các dân tộc chiếm tỉ lệ cao nhất tại Nebraska là người Đức (38,6%), người Ireland (12,4%), người Anh (9,6%), người Mexico (8,7%), và người Séc (5,5%).
Nebraska là tiểu bang có số lượng người Mỹ gốc Séc cao nhất cả nước, với Butler là một trong hai quận duy nhất trên cả nước mà người gốc Séc chiếm đa số. Người Mỹ gốc Đức là dân tộc lớn nhất tại hầu hết các hạt của Nebraska, đặc biệt là ở miền đông của tiểu bang. Thurston là hạt duy nhất của bang trong đó người da đỏ chiếm đa số.
Đô thị hóa
Không chỉ riêng Nebraska mà tại nhiều tiểu bang khác ở vùng Trung Tây Hoa Kỳ, việc người dân chuyển từ nông thôn ra thành phố khiến cho dân số của nhiều quận bị giảm xuống. Ước tính khoảng 89% các điểm cư dân tại Nebraska có dưới 3000 người và tiểu bang này có tới hàng trăm thị trấn dân số không quá 1000. Dân số giảm tại các quận nông thôn khiến một số trường học không có đủ học sinh.
Từ năm 1990 đến 2000, 53 trong số 93 quận của Nebraska bị giảm dân số. Quận Frontier có mức giảm nhẹ nhất là 0,06% trong khi quận Hitchcock mất tới 17,04%.
Ngược lại, các vùng đô thị lớn của Nebraska lại ghi nhận mức gia tăng dân số nhanh chóng. Thành phố Omaha có dân số là 390.007 vào năm 2000 nhưng đã tăng lên tới 414.521 vào năm 2005 (tăng 6,3% trong vòng 5 năm). Tương tự, dân số của thủ phủ Lincoln cũng tăng từ 225.581 của năm 2000 lên 258.379 vào năm 2010 (tăng 14,5% trong vòng 10 năm).
Tôn giáo
Cơ cấu tôn giáo của người dân Nebraska như sau:
Kitô giáo – 90%
Công giáo – 28%
Lutheran – 16%
Giám Lý – 11%
Báp-tít – 9%
Trưởng Nhiệm – 4%
Các nhóm Tin Lành khác – 21%
Các nhóm Kitô giáo khác – 1%
Không tôn giáo – 9%
Các tôn giáo khác – 1%
Chính phủ
Chính phủ tiểu bang Nebraska hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp Nebraska, được thông qua vào năm 1875. Theo đó, các hoạt động của chính phủ được tổ chức theo nguyên tắc tam quyền phân lập, bao gồm các nhánh: hành pháp, lập pháp, và tư pháp.
Nhánh hành pháp
Đứng đầu nhánh hành pháp là thống đốc Nebraska, hiện này là ông Pete Ricketts. Thống đốc và phó thống đốc bang có nhiệm kỳ 4 năm.
Nhánh lập pháp
Nghị viện Nebraska là cơ quan Lập pháp Tiểu bang duy nhất ở Hoa Kỳ được tổ chức theo hình thức đơn viện thay vì lưỡng viện như các nơi khác, do đó các đại biểu của cơ quan này đều được gọi là thượng nghị sĩ bang. Một điểm độc đáo nữa của Lập pháp Nebraska là việc các đại biểu của Lập pháp Tiểu bang được bầu theo thể thức không đảng phái, có nghĩa là tên của ứng viên trên phiếu bầu sẽ không đi kèm với tên đảng phái họ tham gia. Trong cơ quan Lập pháp Tiểu bang, các ghế Chủ tịch và ủy viên được bầu chọn mà không phụ thuộc vào việc đảng nào đang chiếm đa số trong cơ quan này. Lập pháp Tiểu bang Nebraska có thể vượt qua sự phủ quyết của thống đốc bang nếu hơn 3/5 số đại biểu ủng hộ, khác với các bang khác là 2/3.
Khi Nebraska trở thành một tiểu bang vào năm 1867, nhánh lập pháp của tiểu bang vẫn có cả Thượng viện và Hạ viện. Thượng nghị sĩ liên bang George W. Norris và nhiều công dân Nebraska khác đưa ra đề xuất thành lập cơ chế lập pháp đơn viện vì cho rằng hình thức tổ chức lưỡng viện có những yếu tố không dân chủ. Họ đề xuất một cuộc trưng cầu dân ý. Năm 1934, người dân Nebraska quyết định bãi bỏ Hạ viện tiểu bang để lập nên thể chế đơn viện hiện nay trong bối cảnh cuộc Đại khủng hoảng khiến kinh tế Hoa Kỳ lâm vào suy thoái.
Nhánh tư pháp
Nebraska có hệ thống tư pháp thống nhất, đứng đầu là Tòa án Tối cao Nebraska có thẩm quyền đối với tất cả các tòa án tại tiểu bang này.
Đại diện tại chính phủ liên bang
Giống như các tiểu bang khác, Nebraska gửi 2 thượng nghị sĩ đến Thượng viện Hoa Kỳ. Các thượng nghị sĩ hiện tại của Nebraska là bà Deb Fischer và ông Ben Sasse, đều thuộc Đảng Cộng hòa. Nebraska có 3 đại diện tại Hạ viện Hoa Kỳ.
Trong các cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ, Nebraska cùng với Maine là 2 tiểu bang cho phép chia phiếu Đại cử tri Đoàn. Ví dụ, trong cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2008, John McCain thắng 4 phiếu đại cử tri còn Barack Obama thắng 1 phiếu từ bang Nebraska. Ở các tiểu bang còn lại, ứng viên tổng thống chiến thắng trong cuộc bầu cử tiểu bang sẽ lấy hết phiếu đại cử tri tại nơi đó.
Theo một điều luật năm 1991 của Nebraska, 2 phiếu đại cử tri của tiểu bang sẽ được dành cho ứng viên tổng thống thu được nhiều phiếu phổ thông nhất trên toàn bộ tiểu bang, 3 phiếu còn lại sẽ thuộc về người chiến thắng tại 3 khu vực quốc hội.
Chính trị
Hầu như trong suốt lịch sử của mình, Nebraska là một tiểu bang trung thành với Đảng Cộng hòa. Từ năm 1940 đến nay, Đảng Dân chủ mới chỉ chiến thắng tại Nebraska có 1 lần duy nhất với ứng viên Lyndon B. Johnson năm 1964. Trong cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2004, ông George W. Bush thắng cả năm phiếu đại cử tri của Nebraska với cách biệt lên đến 33%. Trong cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2016, ứng viên của Đảng Cộng hòa Donald Trump cũng chiến thắng cả năm phiếu tại Nebraska.
Song song với truyền thống ủng hộ Đảng Cộng hòa, Nebraska cũng thường bầu cho các đại biểu trung dung vào các vị trí quan trọng của cả cấp tiểu bang và liên bang. Tiêu biểu cho xu hướng này là việc Nebraska từng bầu ông Ben Nelson, một thượng nghị sĩ liên bang nổi tiếng bảo thủ thuộc Đảng Dân chủ từ năm 2001 đến 2013.
Cựu tổng thống Gerald Ford sinh ra tại Nebraska nhưng rời khỏi bang này từ khi ông còn nhỏ. William Jennings Bryan, người gốc Illinois từng đại diện cho Nebraska tại Quốc hội Hoa Kỳ và từng giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ dưới thời tổng thống Woodrow Wilson. Ông Bryan cũng từng tranh cử tổng thống 3 lần nhưng không thành công.
Kinh tế
Năm 2015, GDP của Nebraska đạt 112,2 tỉ USD, xếp thứ 35 trong tổng số 50 tiểu bang của Hoa Kỳ. Nebraska là một bang mạnh về nông nghiệp, với những sản phẩm chủ lực là thịt bò, thịt lợn, ngô, đậu tương và cao lương. Một số ngành quan trọng trong kinh tế Nebraska là chế tạo, du lịch, vận chuyển hàng hóa, viễn thông, công nghệ thông tin và bảo hiểm.
Thu nhập trung vị của hộ gia đình tại Nebraska là 60.474 USD vào năm 2015, đứng thứ 18 trong số 51 đơn vị hành chính (gồm 50 tiểu bang cộng thêm thủ đô Washington D.C.) và cao hơn khoảng 4.000 USD so với mức trung bình của Hoa Kỳ.
Thành phố Omaha là nơi đặt trụ sở của công ty Berkshire Hathaway của tỷ phú Warren Buffett, một trong những người giàu nhất thế giới. Đây là cũng là nơi sinh của nhà đầu tư nổi tiếng này.
Văn hóa
Văn học
Willa Cather, Mari Sandoz và Bess Streeter Aldrich là ba trong số những nhà văn tiêu biểu viết về Nebraska. Các tác phẩm của họ thường khai thác chủ đề như cuộc sống của người nông dân miền biên viễn, lối sống của những cộng đồng dân cư đa dạng cũng như những khổ đau của người Mỹ bản địa.
Năm 2005, nhà thơ Ted Kooser đoạt giải Pulitzer về thơ. Ông viết nhiều tác phẩm về đời sống nông thôn ở vùng Trung Tây nước Mỹ.
Nghệ thuật
Nebraska có nhiều bảo tàng phục vụ việc nghiên cứu và tham quan về nhiều chủ đề khác nhau: bảo tàng Stuhr ở Grand Island được thành lập nhằm giới thiệu về đời sống của người nông dân di cư đến Nebraska vào thế kỉ 19 và trưng bày các hiện vật của người bản địa. Bảo tàng Great Plains Black tại Omaha giới thiệu về cuộc sống của người Mỹ gốc Phi.
Bảo tàng Mỹ thuật Joslyn tại Omaha và Bảo tàng Mỹ thuật Sheldon ở Lincoln có nhiều bộ sưu tập nghệ thuật lớn tại tại tiểu bang Nebraska.
Giáo dục
Hệ thống Đại học Nebraska
Đại học Nebraska–Lincoln
Đại học Nebraska tại Kearney
Đại học Nebraska tại Omaha
Đại học Y Nebraska
Cao đẳng Kỹ thuật Nông nghiệp Nebraska
Hệ thống Cao đẳng Tiểu bang Nebraska
Cao đẳng Tiểu bang Chadron
Cao đẳng Tiểu bang Peru
Cao đẳng Tiểu bang Wayne
Chú thích
Tiểu bang Hoa Kỳ
Tây Hoa Kỳ
Trung Tây Hoa Kỳ |
Harry Potter và Bảo bối Tử thần (nguyên tác tiếng Anh: Harry Potter and the Deathly Hallows) là cuốn sách thứ bảy và cũng là cuối cùng của bộ tiểu thuyết giả tưởng Harry Potter của nhà văn Anh J.K. Rowling.
Nguyên bản tiếng Anh được phát hành đồng thời tại Anh, Hoa Kỳ, Canada và một số nước khác (trong đó có Việt Nam) vào ngày 21 tháng 7 năm 2007. Bản dịch tiếng Việt vẫn do nhà văn Lý Lan đảm nhiệm, xuất bản ngày 27 tháng 10 cùng năm.
Tóm tắt
Harry Potter và Bảo bối Tử thần tiếp tục cuộc tìm kiếm những Trường Sinh Linh Giá còn lại mà Harry chưa phá hủy trong tập 6. Sau cái chết của Albus Dumbledore, Voldemort và các Tử thần Thực tử đã xâm nhập vào Bộ Pháp Thuật, giết chết Bộ trưởng và thay thế bằng một tên Tử thần Thực tử khác. Dưới chế độ mới, một chính sách kỳ thị đã được chấp hành: những người mang dòng máu Muggle sẽ bị bắt và tước đũa phép, một chính sách tương tự như thời Đức Quốc Xã.
Dưới tình hình đen tối này, Severus Snape trở thành hiệu trưởng mới của trường Hogwarts và Harry là "Kẻ Phá Rối số 1" bị truy nã bởi Bộ Pháp Thuật. Harry, Ron và Hermione không trở lại Hogwarts mà cùng nhau săn lùng và phá hủy các Trường Sinh Linh Giá. Trên đường, họ khám phá ra khá nhiều điều về quá khứ bí ẩn của cụ Dumbledore và các Bảo bối Tử thần - những bảo vật có thể chế ngự cái chết.
Với 4 di vật được cụ Dumbledore để lại trong di chúc và sự hỗ trợ của một ân nhân giấu mặt, Harry, Ron và Hermione cùng nhau phá hủy các Trường Sinh Linh Giá, cuối cùng đánh bại Voldemort và cứu thế giới phù thủy, nhưng họ phải trả một cái giá rất đắt với bao nhiêu người thân tử trận trên chiến trường.
Nội dung
Rời khỏi gia đình Dursley
Voldemort cùng đám tay chân của hắn đang âm mưu tấn công Harry. Voldemort quả quyết rằng Harry phải do chính hắn giết. Nhưng hắn cần cây đũa phép khác, vì cây đũa của hắn và đũa của Harry có chung cấu tạo nên không thể giết đối phương. Hắn sau đó chọn cây đũa của Lucius để trừng phạt cho những thất bại liên tiếp của nhà Malfoy.
Ngay trước khi phép bảo vệ Harry tại gia đình Dursley hết hiệu lực vào thời điểm Harry bước qua tuổi 17, cậu khuyên gia đình Dursley chuyển đi nơi khác. Hermione cũng phải xóa trí nhớ của cha mẹ cô để bảo vệ họ. Hôm sau, Hội Phượng Hoàng đến nhà Dursley để đưa Harry đến Trang trại Hang sóc. Vì không thể độn thổ hay dùng mạng flour, Bill, Fleur, Ron, Hermione, Fred và George cùng uống thuốc Đa Dịch để cải trang thành Harry, nhằm đánh lạc hướng các Tử thần Thực tử, nhưng vẫn bị bọn chúng tấn công, và Harry còn chạm mặt Voldemort. Hắn suýt khiến cậu mất mạng nếu Hedwig không hy sinh để cứu cậu. Harry sau đó cũng đến Trang trại Hang sóc an toàn, nhưng nhận được tin Alastor Moody cũng đã hy sinh, và George bị cắt một bên tai.
Vài ngày sau, tân bộ trưởng Bộ Pháp Thuật Rufus Scrimgeour đến để đưa cho Harry, Ron và Hermione những vật thừa kế theo di chúc của cụ Dumbledore. Ron nhận cái Tắt sáng, Hermione nhận quyển truyện cổ Beedle the Bard viết bằng cổ ngữ Runes, còn Harry được thừa hưởng thanh kiếm Gryffindor và trái Snitch mà cậu đã bắt được trong trận Quidditch đầu tiên. Nhưng thanh kiếm nằm ngoài quyền hạn của cụ, và sẽ xuất hiện bên cạnh người xứng đáng nhất. Còn trái Snitch thì tiết lộ một manh mối: "Ta mở ra vào lúc kết".
Đi tìm những Trường Sinh Linh Giá
Trong lễ cưới của Bill và Fleur, thần hộ mệnh của Kingsley Shacklebolt xuất hiện, thông báo rằng Bộ Pháp Thuật đã thất thủ, bộ trưởng đã chết và bọn Tử thần Thực tử đang tới. Harry, Ron và Hermione phải độn thổ đến London và ẩn náu tại tổng hành dinh của Hội Phượng Hoàng. Tại đó, Harry phát hiện ra rằng R.A.B, người đã lấy đi chiếc mề đay Slytherin là Regulus Arcturus Black, người em trai đã chết của chú Sirius. Hermione nhớ lại là đã từng nhìn thấy một cái mề đay trong đống đồ của gia tinh nhà Black - Kreacher. Kreacher khai rằng chiếc mề đay đã bị Mundungus Fletcher lấy cắp. Nó cùng với Dobby sau đó đã tóm Fletcher về cho Harry. Lão khai rằng đã hối lộ chiếc mề đay cho Dolores Umbridge. Cả ba lập tức cải trang để xông vào Bộ Pháp Thuật, lấy cắp chiếc mề đay và độn thổ đến Rừng Dean. Nhưng Ron đã bị thương nặng và tổng hành dinh của Hội Phượng Hoàng cũng đã bị tiết lộ. Cả ba cũng không thể phá hủy cái mề đay, nên phải thay phiên nhau đeo nó trong khi tìm kiếm thêm Trường Sinh Linh Giá. Nhưng cái mề đay khiến cảm xúc của người đeo nó tiêu cực hơn bình thường. Ron bị ảnh hưởng nặng nề nhất, khi cậu cho rằng Harry và Hermione có tình cảm với nhau, khiến cậu nổi cơn ghen và bỏ đi. Harry và Hermione đành tiếp tục tìm kiếm Trường Sinh Linh Giá. Hermione sau đó phát hiện lý do cụ Dumbledore để lại thanh kiếm Gryffindor cho Harry. Vì cậu đã dùng thanh kiếm để giết con Tử Xà trong Phòng chứa Bí mật, nên bây giờ thanh kiếm đã tẩm nọc độc của con Tử Xà, thứ hiếm hoi có thể phá hủy Trường Sinh Linh Giá. Cả hai sau đó cùng đến Thung lũng Godric với hy vọng thanh kiếm được cất giấu ở đây, nhưng lại bị Nagini - con rắn của Voldemort tấn công, và phải quay lại Rừng Dean. Trong lúc độn thổ, Hermione vô tình làm gãy đũa phép của Harry. Cô tuyệt vọng bảo Harry hãy cùng nhau ở ẩn, nhưng Harry kiên quyết hoàn thành những gì cụ Dumbledore đã giao phó.
Đêm đó, Harry nhìn thấy một thần hộ mệnh hình con hươu cái gần nơi họ dừng chân. Nó dẫn Harry tới một hồ nước băng giá, nơi cất giấu thanh kiếm Gryffindor. Harry liền lặn xuống để lấy thanh kiếm, nhưng chiếc mề đay lập tức siết cổ cậu. Rất may là Ron đã trở lại, cứu sống Harry và lấy được thanh kiếm. Dù tâm trí vẫn bị ảnh hưởng bới chiếc mề đay, Ron vẫn đủ dũng khí, cầm lấy thanh kiếm và chém đứt nó. Cậu cũng thông báo rằng tên của Voldemort giờ đã trở thành từ cấm kỵ, ai nhắc đến tên hắn sẽ bị phát hiện ngay lập tức.
Những Bảo bối Tử thần
Bộ ba tìm đến cha của Luna là Xenophillius Lovegood để hỏi về một ký hiệu mà họ đã thấy trên trang phục ông mặc, giống với hình vẽ tay trong quyển truyện cổ tích của Hermione. Ông nói rằng đó là biểu tượng của Bảo Bối Tử Thần, ba đồ vật huyền thoại có thể chế ngự cái chết: Cây đũa phép Cơm nguội, Viên đá Phục sinh và chiếc Áo choàng Tàng hình. Khi được hỏi về sự vắng mặt của Luna, ông Lovegood thú thật rằng bọn Tử thần Thực tử đã bắt cóc cô bé, và ông ta đã khai ra là ba người đang ở đây để đổi lấy sự an toàn cho con gái; nhưng họ đã kịp trốn chạy.
Những kẻ đi săn tiền thưởng bắt được bộ ba ở nơi họ nghỉ chân, sau khi Harry lỡ thốt ra cái tên Voldemort. Hermione dùng bùa Explode (nổ) làm biến dạng mặt Harry. Nhóm Tử thần Thực tử đưa cả ba về phủ Malfoy kiểm tra. Draco được lệnh tới kiểm tra có phải Harry hay không. Nó ngập ngừng một lúc rồi bảo không phải. Bellatrix bất ngờ nhìn thấy thanh kiếm Gryffindor, khiến mụ nổi khùng và tống giam Harry và Ron, còn mụ dùng lời nguyền Crucio lên Hermione. Trùng hợp, Luna và cụ Olivander cũng đang bị giam ở đây. Lúc ấy, Dobby độn thổ vào hầm giam để giải cứu các tù nhân. Đuôi Trùn đi đến kiểm tra khi nghe thấy tiếng ồn ào. Hắn chẹn cổ Harry, nhưng cậu nói với hắn rằng hắn đã nợ cậu mạng sống của mình. Pettigrew thả tay, và bàn tay bạc của hắn đã siết cổ chính hắn đến chết như một sự trừng phạt cho tội trái lệnh Chúa tể, Harry cố gắng cứu lấy hắn nhưng không được. Harry và Ron chạy lên tầng trên để cứu Hermione. Ron tước khí giới của Bellatrix còn Harry giật lấy đũa phép của Draco. Dobby lại xuất hiện, độn thổ cùng tất cả tới nhà của Bill và Fleur. Nhưng Bellatrix đã kịp ném con dao trúng ngực Dobby, và chú gia tinh tử thương.
Ở nhà Bill và Fleur, cụ Ollivander xác nhận sự tồn tại của Cây đũa phép Cơm nguội, và nói rằng một cây đũa phép có thể đổi chủ nếu người chủ trước của nó bị đánh bại hoặc bị giải giới. Hành vi của Bellatrix làm bộ ba tin rằng một Trường Sinh Linh Giá đang được cất giấu ở hầm Gringotts của gia đình Lestrange. Được Griphook giúp đỡ, họ đột nhập Gringotts, vào được căn hầm và lấy đi Chiếc cúp của Helga Hufflepuff. Việc đột nhập bị bại lộ, Griphook lợi dụng lúc hỗn loạn giật lấy thanh kiếm Gryffindor từ tay Harry, và bỏ cả ba ở lại. Ba người phóng thích con rồng canh giữ hầm rồi cưỡi nó bay thoát khỏi Gringotts. Trong khi đó, Voldemort đã đánh cắp Cây đũa phép Cơm nguội từ ngôi mộ của cụ Dumbledore, đồng thời phát hiện ra những Trường Sinh Linh Giá của hắn đang dần bị phá hủy. Suy nghĩ của hắn vô tình nối với Harry, để lộ ra việc một Trường Sinh Linh Giá được cất giấu tại Hogwarts, đó là chiếc vương miện của Rowena Ravenclaw.
Chiến trường Hogwarts
Cả ba độn thổ đến làng Hogsmeade và suýt bị bọn Tử thần Thực tử phát hiện. Họ được Aberforth Dumbledore – em trai cụ Albus Dumbledore cứu. Cả ba muốn vào Hogwarts để tìm kiếm Trường Sinh Linh Giá. Neville giúp cả ba đến Phòng Yêu Cầu – nơi Đoàn quân Dumbledore đang tập họp. Snape khi biết tin đã lập tức tập hợp tất cả học sinh, yêu cầu những ai biết Harry đang ở đâu phải khai ra ngay lập tức. Harry liền xuất hiện và lớn tiếng với Snape vì đã dám đứng ở chỗ mà cụ Dumbledore từng đứng sau khi đã giết cụ. Giáo sư McGonagall liền đứng ra bảo vệ Harry và tấn công Snape, khiến ông ta phải trốn đi. Lúc này, Voldemort khuếch đại giọng nói của mình, yêu cầu giao nộp Harry đổi lấy sự an toàn. Các học sinh Nhà Slytherin đòi giao nộp Harry khiến giáo sư McGonagall phải yêu cầu giám thị Filch giam tất cả lại.
Tất cả sau đó chuẩn bị cho cuộc chiến, sẵn sàng đối mặt với Voldemort cùng hàng ngàn Tử thần Thực tử. Harry không biết bắt đầu từ đâu nên đã vào phòng sinh hoạt chung của Nhà Ravenclaw nhưng bị Luna ngăn lại. Cô bé dẫn Harry đến gặp Helena, hay Quý Bà Xám - con ma của Nhà Ravenclaw, và cũng là con gái của Rowena Ravenclaw, yêu cầu bà cho biết vị trí cất giấu chiếc vương miện. Helena gợi ý cho Harry đến Phòng Yêu Cầu. Trong lúc đó, Ron và Hermione đến Phòng chứa Bí mật, lấy một chiếc răng nanh của con Tử Xà nay đã bị phân huỷ, và phá hủy chiếc cúp Hufflepuff. Cả hai sau đó cũng thổ lộ tình cảm với nhau.
Harry đến Phòng Yêu Cầu và tìm thấy chiếc vương miện, nhưng bị Draco và đám bạn của nó phá đám. Rất may là Ron và Hermione xuất hiện kịp thời. Goyle liền dùng lời nguyền Lửa Quỷ để phá hủy căn phòng, dù chính nó cũng bị thiêu cháy trong ngọn lửa. Harry, Ron và Hermione dùng chổi bay để thoát ra ngoài, cứu cả Draco và Zabini và mang cả chiếc vương miện đi theo. Ron sau đó lại đá chiếc vương miện vào trong căn phòng, vì Lửa Quỷ cũng có thể phá hủy Trường Sinh Linh Giá. Harry với tâm trí kết nối với Voldemort phát hiện ra Nagini cũng là một Trường Sinh Linh Giá. Cả ba chạy đến hồ nước, nơi Voldemort và Snape đang ở đó. Voldemort cho rằng Snape là chủ nhân thật sự của Cây đũa phép Cơm nguội, vì ông ta đã giết cụ Dumbledore. Hắn nói lời tạm biệt và cắt cổ Snape, lệnh cho Nagini cắn chết ông ta rồi rời đi.
Cả ba chạy vào để kiểm tra vết thương, và thấy Snape chảy hai hàng nước mắt. Ông ta cầu xin Harry hãy lấy nước mắt của mình và đến Chậu Tưởng Ký, nơi cậu sẽ biết toàn bộ sự thật. “Cậu quả thật có đôi mắt tuyệt đẹp của mẹ.” Đó là câu nói cuối cùng của Snape với Harry trước khi lìa đời. Cả ba trở lại đại sảnh, nơi mọi người đang chữa trị vết thương và thu thập xác của nhưng người đã hy sinh. Thầy Lupin, cô Tonks và cả Fred đều đã ra đi.
Harry đến phòng Hiệu trưởng và đổ những giọt nước mắt của Snape vào Chậu Tưởng Ký. Sự thật dần hiện ra, Snape dù căm ghét James Potter, nhưng lại là bạn thân từ nhỏ của Lily, và đã đem lòng yêu cô. Khi biết Voldemort sẽ nhắm đến Lily và gia đình của cô sau khi hắn biết về lời tiên tri, Snape dù là Tử thần Thực tử vẫn đến cầu xin cụ Dumbledore hãy giấu gia đình Potter đi. Cụ Dumbledore đồng ý với điều kiện Snape phải hoàn lương, và ông chấp thuận ngay lập tức. Nhưng sự phản bội của Đuôi Trùn đã phá hỏng kế hoạch, và Snape đã đau khổ cùng cực khi nghe cụ Dumbledore báo tin Lily đã ra đi. Sau sự việc đó, Snape đồng ý làm người bảo vệ cho Harry theo yêu cầu của cụ Dumbledore. Cụ cũng cho biết khi Voldemort tan xác, một phần linh hồn của hắn đã tự nhập vào Harry, đồng nghĩa với việc Harry cũng là một Trường Sinh Linh Giá. Và khi Voldemort hồi sinh, Harry sẽ phải chết, và phải là chính tay Voldemort giết cậu. Cụ cũng biết Voldemort đã giao cho Draco nhiệm vụ giết mình, và chỉ định Snape phải là người giết cụ để bảo vệ linh hồn của thằng bé.
Những ký ức từ Snape khiến Harry bị sốc, vì Snape đứng về phía cụ Dumbledore và luôn bảo vệ cậu suốt thời gian qua, và càng sốc hơn khi biết bản thân cũng là một Trường Sinh Linh Giá. Cậu quyết định hy sinh bản thân để cứu mọi người. Cậu dặn Ron và Hermione phải tiêu diệt Nagini trước khi một mình đến Rừng Cấm. Cậu yêu cầu trái Snitch mở ra, và Viên đá Phục sinh hiện ra, đưa linh hồn những người thân của cậu trở về, bao gồm cha, mẹ, chú Sirius và cả thầy Lupin. Họ nói rằng sẽ luôn ở bên cậu, giúp cậu có thêm dũng khí. Cậu bỏ lại Viên đá Phục sinh, và tiến đến đối mặt Voldemort. Hắn tung lời nguyền Chết Chóc về phía Harry, nhưng chỉ giết được mảnh linh hồn của chính hắn bên trong cậu. Harry thoát nạn, nhưng giả chết để đánh lừa Voldemort. Narcissa Malfoy tiến đến kiểm tra. Bà hỏi Harry về Draco, và Harry gật đầu, ám chỉ con trai bà vẫn còn sống. Narcissa sau đó cũng nói dối với Voldemort rằng Harry đã chết.
Voldemort cùng đám Tử thần Thực tử trở lại trường, tuyên bố Harry đã chết, và giờ tất cả phải nghe theo hắn, nhưng Neville quyết không đầu hàng. Chỉ chờ có thế, Harry bật dậy và tung hàng loạt bùa chú về phía Voldemort. Việc Harry còn sống khiến các Tử thần Thực tử hoang mang và lần lượt rời bỏ Voldemort, bao gồm cả nhà Malfoy. Voldemort và Harry đánh nhau khắp nơi trong lâu đài, còn Ron và Hermione bị Nagini truy đuổi. Khi cả hai bị dồn đến đường cùng, Neville tiến tới chặt đầu con rắn bằng thanh kiếm Gryffindor. Voldemort nhận ra cái chết của Nagini, và hắn bàng hoàng nhận ra rằng chẳng còn Trường Sinh Linh Giá nào của hắn tồn tại nữa. Hắn tung hết sức lực còn lại về phía Harry, nhưng Cây đũa phép Cơm nguội từ chối giết cậu. Nó đáp lại bùa Giải Giới của Harry, văng khỏi tay Voldemort và đáp xuống tay cậu, và Voldemort cũng vĩnh viễn biến mất khỏi giới phù thủy.
Sau cuộc chiến, Ron và Hermione thắc mắc tại sao Cây đũa phép Cơm nguội từ chối giết Harry. Cậu giải thích mọi thứ cho hai người. Dù Snape đã giết cụ Dumbledore, nhưng Draco đã giải giới cụ trước đó, cũng là lúc cây đũa thuộc về nó. Và khi Harry giật lấy cây đũa của Draco tại phủ Malfoy, cũng là lúc cây đũa thuộc về cậu. Dù có trong tay cây đũa quyền năng nhất, Harry vẫn bẻ gãy cây đũa và ném nó đi, vì nó đã gây ra quá nhiều sóng gió và đổi lại bằng mạng sống của quá nhiều người. Chiến tranh phù thủy lần thứ 2 kết thúc, và thế giới phù thủy trở lại yên bình.
Phần kết
Harry và Ginny kết hôn và có ba người con: James Sirius Potter, Albus Severus Potter và Lily Luna Potter. Ron và Hermione cũng đã cưới nhau và có hai đứa con là Rose Weasley và Hugo Weasley. Cả hai cũng là cha mẹ đỡ đầu cho cậu cả James của Harry. 19 năm sau cuộc chiến, hai gia đình gặp nhau tại Ngã Tư Vua, nơi Albus và Rose khởi hành đến Hogwarts. James bắt gặp con trai đỡ đầu của cha mình là Teddy Lupin đang hôn Victoire Weasley (con của Bill và Fleur) trong toa xe lửa. Theo lời Harry thì Ted thường đến ăn tối với gia đình 4 lần/tuần. Harry mong rằng Teddy sẽ thực sự trở thành người trong nhà nếu cưới Victoire. Draco cũng đã kết hôn với Astoria Greengrass và có với nhau một cậu con trai là Scorpius Malfoy.
Trước khi lên tàu đến Hogwarts, Albus tỏ ra lo lắng rằng mình sẽ bị phân vào Nhà Slytherin. Harry trấn an cậu con trai “Albus Severus. Tên của con được đặt theo hai vị Hiệu trưởng của Hogwarts. Một người từng là thành viên của Nhà Slytherin, và đó là người dũng cảm nhất mà cha từng biết. Nhưng nếu muốn, con có thể chọn Nhà Gryffindor. Chiếc Nón Phân Loại sẽ nghe theo lựa chọn của con.” Cuốn sách kết thúc với câu: "Cái sẹo không còn đau nữa trong suốt 19 năm qua. Tất cả đã yên lành."
Quá trình xuất bản
Sau khi tập 6, Harry Potter và hoàng tử lai, được xuất bản, J. K. Rowling viết trong website bà: "Tôi sẽ viết tập Harry Potter cuối cùng trong năm 2006. Hiện nay tôi vừa hào hứng, vừa sợ hãi. Tôi muốn bắt tay vào viết ngay để độc giả sớm được đọc phần cuối, để tìm câu trả lời cho tất cả những vấn đề bí ẩn trong các tập trước".
Rất nhiều độc giả hâm mộ Harry Potter cho rằng ngày xuất bản chính thức Harry Potter vào ngày thứ 7, ngày 7, tháng 7, năm 2007 (7 được coi là con số phép thuật trong Harry Potter).
Trước Giáng sinh năm 2006, website của tác giả đã tiết lộ tên của tập cuối này; và đầu tháng 2 năm 2007, nhà xuất bản cho biết ngày xuất bản sẽ là vào ngày 21 tháng 7 năm 2007.
Bình luận và bổ sung của tác giả
Sau 7 phần truyện, J. K. Rowling đã cung cấp thêm một số thông tin về tương lai của các nhân vật mà bà đã không ghi vào Hồi kết của cuốn sách.
Sau khi cuộc chiến kết thúc và Hogwarts trở lại hoạt động bình thường, giáo sư McGonagall được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng mới của Hogwarts.
Harry trở thành Thần Sáng của Bộ Pháp Thuật, và sau đó được chỉ định làm Giám đốc sở Thần Sáng. Anh thường đến Hogwarts để dạy môn Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám, và cũng đã đấu tranh với Ban Giám Hiệu mới của Hogwarts để đặt di ảnh của Severus Snape trong phòng Hiệu trưởng. Harry được quyền thừa kế toàn bộ tài sản của người cha đỡ đầu Sirius Black do ông không có con cái, kể cả căn nhà số 12 Quảng trường Grimmauld. Vì mảnh linh hồn của Voldermort trong cơ thể Harry đã bị phá hủy, anh không còn có thể nói được Xà ngữ. Anh cũng thường xuyên đưa gia đình đến thăm gia đình Dursley mỗi dịp hè.
Ron có một khoảng thời gian làm việc tại tiệm giỡn Wỉ Woái cùng với George, và sau đó cũng là một Thần Sáng.
Hermione quay trở về trường học nốt năm thứ 7 rồi làm việc ở Bộ Pháp Thuật trong Phòng Điều chỉnh và Quản lý Sinh vật huyền bí, đã nâng cao chất lượng sống cho gia tinh và những sinh vật khác. Sau đó chuyển sang Phòng Thi hành Luật pháp thuật và hỗ trợ diệt trừ áp bức, và các quy định về dòng máu thuần chủng. Cô cũng tìm lại gia đình ở Úc và hủy bùa xóa trí nhớ mà cô đã phù phép họ trước đây. Sau đó cô cũng trở thành Bộ trưởng Bộ Pháp Thuật.
Luna trở thành nhà nghiên cứu Sinh vật huyền bí và kết hôn với Rolf, cháu nội của Newt Scamander - tác giả của cuốn "Sinh vật huyền bí và nơi tìm ra chúng".
Ginny chơi cho đội Quidditch Holyhead Harpies một thời gian, sau đó rời bỏ sự nghiệp thể thao sau khi cưới Harry. Cô trở thành phóng viên mục Quidditch cho tờ Nhật báo Tiên tri.
George tiếp tục ăn nên làm ra với tiệm giỡn Wỉ Woái, với sự giúp sức của Ron. Anh lấy bạn học là Angelina Johnson và có hai con, 1 trai 1 gái. Anh đặt tên cho đứa con trai của mình là Fred để nhớ về ông anh song sinh của mình.
Nhà Slytherin trở nên nhạt nhòa hơn và không còn là thành lũy của những phù thủy thuần chủng như trước. Tuy nhiên, tiếng tăm đen tối vẫn còn duy trì.
Trước khi trở thành Voldemort, Tom Riddle từng hai lần ứng tuyển vị trí giáo viên môn Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám nhưng đều bị từ chối. Và hắn đã ếm một lời nguyền rằng sẽ không một ai có thể làm giáo viên môn này quá 1 năm học. Nhưng lời nguyền đã bị phá vỡ cùng với cái chết của hắn, và đã có một giáo sư dạy môn này qua nhiều năm.
Nhân mã Firenze đã được chào đón quay trở lại bầy đàn, khi cộng đồng Nhân Mã giờ đã biết rằng dựa vào con người không phải là điều đáng xấu hổ.
Kingsley Shacklebolt trở thành Bộ trưởng Bộ Pháp thuật, với Percy Weasley là nhân viên cao cấp trong Bộ. Với sự thay đổi của ông, Azkaban không còn sử dụng Giám ngục nữa, và thế giới đã trở thành "nơi nhiều ánh nắng hơn".
Dolores Umbridge bị bắt, thẩm vấn, và tống giam vì tội ác chống lại Muggle.
Tờ báo Kẻ Lý Sự đã trở về phong cách "điên rồ cao cấp" vốn có của nó, và rất được hoan nghênh vì những câu chuyện hài không lường trước được.
Neville kết hôn với Hannah Abbott, bà chủ mới của quán Cái Vạc Lủng. Anh trở thành giáo viên môn Thảo Dược học kiêm Chủ nhiệm Nhà Gryffindor dưới thời Hiệu trưởng McGonagall. Anh cũng nhận làm cha đỡ đầu cho Albus Severus Potter, cậu thứ nhà Harry.
Teddy Lupin, con trai của thầy Remus Lupin và Nymphadora Tonks và cũng là con trai đỡ đầu của Harry lớn lên một cách yên ả và không bị biến thành Người Sói. Tuy vậy, gene lặn Người Sói vẫn tồn tại trong DNA của cậu.
Phim
Bộ phim Harry Potter và Bảo bối Tử thần có 2 phần, do David Yates đạo diễn, Steve Kloves biên kịch và sản xuất bởi David Heyman, David Barron và J,K.Rowling. Phần 1 của bộ phim ra mắt vào ngày 19 tháng 11 năm 2010, và Phần 2 ra mắt vào ngày 15 tháng 7 năm 2011. Thời gian quay phim kéo dài từ tháng 2 năm 2009 và kết thúc vào ngày 12 tháng 6 năm 2010.
Chú thích
Dự kiến Phim Harry Potter 7 có 2 phần. |
7000 (bảy nghìn, hay bảy ngàn) là một số tự nhiên ngay sau 6999 và ngay trước 7001. |
North Dakota (; tiếng địa phương ) là một tiểu bang Hoa Kỳ, xa nhất về phía bắc của các tiểu bang trong khu vực Đồng bằng Lớn thuộc Trung Tây Hoa Kỳ, mặc dù trong suốt thế kỉ 19 được xem như là một phần của miền tây hoang dã, giáp hai tỉnh Manitoba và Saskatchewan của Canada. Sông Missouri chảy qua phần phía tây của tiểu bang này, tạo thành hồ Sakakawea sau đập Garrison.
Trước đây là một phần của lãnh địa Dakota (đặt theo tên bộ tộc Dakota của dân bản địa châu Mỹ), Bắc Dakota trở thành một tiểu bang vào năm 1889. |
South Carolina hay Nam Carolina là một bang thuộc phía đông nam của Hoa Kỳ. Phía bắc giáp North Carolina, phía đông nam giáp Đại Tây Dương và phía tây nam giáp Georgia dọc theo sông Savannah. South Carolina là một trong 13 thuộc địa nổi dậy chống lại sự thống trị của Anh trong Cách mạng Hoa Kỳ vào ngày 23 tháng 5 năm 1788. Nó là bang đầu tiên ly khai khỏi Liên bang để thành lập Liên minh miền Nam ngày 20 tháng 12 năm 1860. Bang này được đặt tên theo tên vua Charles I của Anh, bởi Carolus là tiếng Latin cho tên Charles. Vào năm 2004, dân số tiểu bang là 4.198.068. Sau Nội chiến Hoa Kỳ, nó được trả lại Hoa Kỳ vào ngày 25 tháng 6 năm 1868.
South Carolina là tiểu bang lớn thứ 40 và đông dân thứ 23 của Hoa Kỳ. GDP của nó vào năm 2013 là 183,6 tỷ đô la, với tốc độ tăng trưởng hàng năm là 3,13%. South Carolina bao gồm 46 quận. Thủ phủ là Columbia với dân số năm 2016 là 134.309; trong khi thành phố lớn nhất của nó là Charleston với dân số năm 2016 là 134.385. Khu vực đô thị Greenville-Anderson-Mauldin là khu vực đô thị lớn nhất trong tiểu bang, với ước tính dân số năm 2016 là 884.975.
South Carolina được đặt theo tên của Vua Charles I của Anh, người đầu tiên thành lập thuộc địa Anh, với Carolus là tiếng Latin của "Charles".
South Carolina được biết đến với 187 dặm của bờ biển, các di tích lịch sử và các đồn điền miền Nam, văn hóa thuộc địa, châu Phi và châu Âu và phát triển kinh tế ngày càng tăng của nó.
Nhiều chiến hạm của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên USS South Carolina để vinh danh tiểu bang này.
Đây là nơi sinh của Tổng thống Andrew Jackson (tại Waxhaw).
Địa lý
Tiểu bang có thể được chia thành ba khu vực địa lý. Từ đông sang tây: đồng bằng ven biển Đại Tây Dương, Piedmont và dãy núi Blue Ridge. Tại địa phương, đồng bằng ven biển được gọi là Low Country và hai khu vực khác là Up Country. Đồng bằng ven biển Đại Tây Dương chiếm hai phần ba tiểu bang. Biên giới phía đông của nó là Quần đảo Biển, một chuỗi các hòn đảo chắn. Biên giới giữa Low Country và Up Country được xác định bởi đường bờ biển Đại Tây Dương, đánh dấu giới hạn của các con sông.
Bờ biển của bang có nhiều đầm lầy và cửa sông mặn, cũng như các cảng tự nhiên như Georgetown và Charleston. Một đặc điểm khác thường của vùng đồng bằng ven biển là một số lượng lớn vịnh Carolina, nguồn gốc không rõ ràng. Các vịnh có xu hướng hình bầu dục, xếp thành một hướng tây bắc và đông nam. Địa hình bằng phẳng và đất được cấu tạo hoàn toàn từ các trầm tích như cát, bùn và đất sét. Các khu vực có hệ thống thoát nước tốt hơn tạo nên đất nông nghiệp tuyệt vời, mặc dù một số vùng đất lầy lội. Các khu vực tự nhiên của đồng bằng ven biển là một phần của vùng sinh thái rừng ven biển Trung Đại Tây Dương.
Ngay phía tây của đồng bằng ven biển là vùng Sandhills. Sandhills là tàn dư của các đụn cát ven biển từ thời điểm đất bị chìm hoặc đại dương dâng cao hơn.
Vùng thượng lưu có nguồn gốc của một dãy núi cổ xưa đã bị xói lở. Nó là đồi núi với đất sét mỏng, đá, và có ít khu vực thích hợp cho canh tác. Phần lớn Piedmont đã từng được nuôi. Do sự thay đổi về kinh tế nông nghiệp, phần lớn đất đai hiện đang được trồng lại thành rừng thông Loblolly cho ngành công nghiệp gỗ. Những khu rừng này là một phần của vùng sinh thái rừng hỗn giao Đông Nam Bộ. Ở rìa phía đông nam của Piedmont là vùng cát trắng, nơi các con sông đổ xuống đồng bằng ven biển. Vùng cát trắng là nguồn năng lượng nước quan trọng ban đầu. Các nhà máy được xây dựng để khai thác tài nguyên này đã khuyến khích sự phát triển của một số thành phố, trong đó có thủ phủ Columbia. Các con sông lớn hơn có thể chuyển hướng đến vùng cát trắng.
Phần phía tây bắc của Piedmont còn được gọi là Foothills. Cherokee Parkway là một tuyến đường lái xe ngắm cảnh qua khu vực này. Đây là nơi có Công viên Bang Table Rock.
Nơi cao nhất trong bang là vùng Blue Ridge, có một vách đá của dãy núi Blue Ridge, tiếp tục chạy đến Bắc Carolina và Georgia, như một phần của dãy núi nam Appalachia. Núi Sassafras, điểm cao nhất của South Carolina ở độ cao 1.090 m, nằm trong khu vực này. Cũng trong khu vực này là Công viên Bang Caesars Head. Môi trường ở đây là vùng sinh thái rừng Appalachian-Blue Ridge. Sông Chattooga, trên biên giới giữa South Carolina và Georgia, là một điểm đến đi bè vượt thác yêu thích.
Hồ
South Carolina có nhiều hồ lớn bao gồm hơn 1.770 km2. Tất cả các hồ lớn ở South Carolina đều do con người tạo ra. Sau đây là các hồ được liệt kê theo kích thước.
Hồ Marion 450 km2
Hồ Strom Thurmond (còn gọi là Hồ Clarks Hill) 290 km2
Hồ Moultrie 240 km2
Hồ Hartwell 230 km2
Hồ Murray 200 km2
Hồ Russell 110 km2
Hồ Keowee 70 km2
Hồ Wylie 50 km2
Hồ Wateree 50 km2
Hồ Greenwood 50 km2
Hồ Jocassee 30 km2
Hồ Bowen
Động đất
Động đất ở South Carolina tần suất lớn xảy ra là dọc theo bờ biển của tiểu bang, trong khu vực Charleston. South Carolina trung bình có 10–15 trận động đất một năm dưới 3 độ Richter (FEMA). Trận động đất Charleston năm 1886 là trận động đất lớn nhất từng xảy ra tại Đông Nam Hoa Kỳ. Trận động đất 7,2 độ richter này làm chết 60 người và phá hủy nhiều thành phố. Các lỗi trong khu vực này khó nghiên cứu trên bề mặt do sự lắng đọng dày của tầng đất.
Khí hậu
South Carolina có khí hậu cận nhiệt đới ẩm (phân loại khí hậu Köppen Cfa), mặc dù các khu vực cao độ ở khu vực Upstate có ít đặc điểm cận nhiệt đới hơn các khu vực ở bờ biển Đại Tây Dương. Vào mùa hè, South Carolina nóng và ẩm, với nhiệt độ ban ngày trung bình từ 86-93 °F (30-34 °C) ở hầu hết các bang và mức thấp qua đêm trung bình là 70-75 °F (21-24 °C) trên bờ biển và từ 66-73 °F (19–23 °C) ở nội địa. Nhiệt độ mùa đông ít đồng đều hơn ở South Carolina.
Các khu vực ven biển của bang có mùa đông rất ôn hòa, với nhiệt độ cao trung bình 60 °F (16 °C) và thấp qua đêm khoảng 40 °F (5-8 °C). Trong nội địa, trung bình tháng một đêm thấp là khoảng 32 °F (0 °C) ở Columbia và nhiệt độ thấp dưới mức đóng băng ở Upstate. Trong khi lượng mưa nhiều năm ở hầu hết toàn bộ tiểu bang, bờ biển có xu hướng có mùa hè ẩm ướt hơn, trong khi đó, mùa xuân và mùa thu có xu hướng là thời kỳ ẩm ướt nhất và mùa đông mùa khô nhất, tháng 11 là tháng khô nhất. Nhiệt độ được ghi nhận cao nhất là 113 °F (45 °C) ở Johnston và Columbia vào ngày 29 tháng 6 năm 2012, và nhiệt độ thấp nhất được ghi là −19 °F (−28C) tại Caesars Head vào ngày 21 tháng 1 năm 1985.
Tuyết rơi ở South Carolina có phần không phổ biến ở phần lớn tiểu bang, trong khi các khu vực ven biển nhận được trung bình hàng năm ít hơn một inch (2,5 cm). Nó không phải là không phổ biến (đặc biệt là bờ biển phía nam). Nội địa nhận được tuyết nhiều hơn một chút, mặc dù không nơi nào trong tiểu bang trung bình hơn 12 inch (30 cm) tuyết hàng năm. Những ngọn núi cực tây bắc South Carolina có xu hướng tích tụ tuyết đáng kể nhất. Mưa đá có xu hướng phổ biến hơn tuyết ở nhiều khu vực của tiểu bang. Cầu đường ở South Carolina thường được đánh dấu là "Cầu đóng băng trước đường".
South Carolina cũng dễ bị bão nhiệt đới và lốc xoáy. Hai trong số những cơn bão mạnh nhất tấn công South Carolina trong lịch sử gần đây là bão Hazel (1954) và bão Hugo (1989).
Cơn bão và lốc xoáy nhiệt đới
Bang đôi khi bị ảnh hưởng bởi các cơn bão nhiệt đới. Đây là mối quan tâm hàng năm trong mùa bão, kéo dài từ ngày 1 tháng 6 đến ngày 30 tháng 11. Thời gian cao điểm của bờ biển phía đông nam Đại Tây Dương là từ đầu tháng 8 đến đầu tháng 10, trong mùa bão Cape Verde. Các cơn bão đáng nhớ tấn công South Carolina bao gồm Hazel (1954), Florence (2018) và Hugo (1989), tất cả các cơn bão cấp 4.
South Carolina trung bình khoảng 50 ngày có hoạt động giông bão mỗi năm. Đây là ít hơn một số tiểu bang xa hơn về phía nam, và nó ít dễ bị tổn thương hơn bởi các cơn lốc xoáy so với các tiểu bang giáp biên giới với Vịnh Mexico. Một số cơn lốc xoáy đáng chú ý đã tấn công South Carolina và tiểu bang trung bình có khoảng 14 cơn lốc xoáy mỗi năm. Mưa đá phổ biến hơn nhiều cơn bão trong tiểu bang, vì thường có sự tương phản rõ rệt về nhiệt độ của điều kiện mặt đất ấm hơn so với không khí lạnh ở trên cao.
Đất thuộc quyền sở hữu liên bang ở South Carolina
Đảo Marine Corps Recruit Depot Parris tại đảo Parris
Địa điểm Lịch sử Quốc gia Charles Pinckney tại Mt. Pleasant
Công viên quốc gia Congaree ở Hopkins
Chiến trường quốc gia Cowpens gần Chesnee
Đài tưởng niệm Quốc gia Pháo đài Moultrie tại đảo Sullivan
Đài tưởng niệm Quốc gia Fort Sumter ở cảng Charleston
Công viên quân sự quốc gia Kings Mountain tại Blacksburg
địa điểm lịch sử quốc gia Ninety Six tại Ninety Six
Đường mòn lịch sử quốc gia Overmountain Victory
Fort Jackson gần Columbia
Cơ sở chung Charleston gần Charleston
Căn cứ không quân Shaw gần Sumter
Nhân khẩu học
Cục điều tra dân số Hoa Kỳ ước tính dân số của South Carolina là 5.024.369 vào ngày 1 tháng 7 năm 2017, tăng 8,6% kể từ cuộc điều tra dân số năm 2010.
Theo ước tính của cuộc điều tra dân số năm 2017, chủng tộc của bang với 68,5% người da trắng (63,8% không phải gốc Tây Ban Nha), 27,3% người da đen hoặc người Mỹ gốc Phi, 0,5% người Mỹ da đỏ và người bản địa Alaska, 1,7% người châu Á, 0,1% người Hawaii bản xứ và người ở các đảo Thái Bình Dương khác, 1,9% từ hai hoặc nhiều chủng tộc. 5,7% tổng dân số là gốc Tây Ban Nha hoặc La tinh.
Theo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, tính đến năm 2014, South Carolina có dân số ước tính là 4.896.146, tăng 63.664 so với năm trước và tăng 270.782, hay 5,85%, kể từ năm 2010. Nhập cư từ bên ngoài Hoa Kỳ dẫn đến sự gia tăng cao của 36.401 người và di cư trong nước tăng 115.084 người. Theo trường Cục Y tế Công cộng Arnold thuộc Đại học South Carolina, Hiệp hội Nghiên cứu Di trú La tinh, dân số sinh ở ngoại quốc của South Carolina tăng trưởng nhanh hơn bất kỳ tiểu bang nào khác từ năm 2000 đến năm 2005.
Một cuộc khảo sát thăm dò ý kiến chính sách công vào tháng 8 năm 2011 cho thấy 21% cử tri ở South Carolina cho rằng hôn nhân đồng giới nên là hợp pháp, trong khi 69% cho rằng nó là bất hợp pháp và 10% không chắc chắn. Một câu hỏi riêng trên cùng một cuộc khảo sát cho thấy 48% cử tri ở South Carolina ủng hộ sự công nhận hợp pháp của các cặp vợ chồng đồng giới, với 19% ủng hộ hôn nhân đồng giới, 29% ủng hộ công đoàn nhưng không kết hôn, 51% không có sự công nhận pháp lý và 2 % không chắc.
Các thành phố lớn
Vào năm 2017, Cục điều tra dân số Hoa Kỳ đã công bố ước tính dân số năm 2016 cho các thành phố đông dân nhất của South Carolina.
Trung tâm dân số
Chính phủ và chính trị
Chính quyền tiểu bang South Carolina bao gồm các chi nhánh điều hành, lập pháp và tư pháp. Cũng có liên quan là hiến pháp tiểu bang, cơ quan thực thi pháp luật, đại diện liên bang, tài chính tiểu bang và thuế tiểu bang.
South Carolina trong lịch sử có một nhánh hành pháp yếu và một cơ quan lập pháp vững mạnh. Trước năm 1865, các thống đốc ở South Carolina được Đại hội bổ nhiệm, và giữ chức danh "Tổng thống Bang". Hiến pháp 1865 đã thay đổi quá trình này, đòi hỏi một cuộc bầu cử phổ biến trong nhân dân. Tuy nhiên, Hiến pháp 1867, được thông qua trong thời kỳ Tái thiết, mở rộng dân chủ hóa bằng cách thiết lập quy tắc cho các hạt.
Hiến pháp tiểu bang năm 1895 đã đảo ngược điều này, làm giảm vai trò của các hạt và tăng cường vai trò tương đối cho cơ quan lập pháp tiểu bang; về cơ bản các hạt là đại diện của bang và được Đại hội đồng cai trị thông qua phái đoàn lập pháp cho từng hạt. Vì mỗi hạt có một thượng nghị sĩ tiểu bang, vị trí đó đặc biệt lớn. Tình trạng này tiếp tục cho đến năm 1973, khi hiến pháp tiểu bang được sửa đổi để cung cấp cho người điều hành cho các hạt. Trong thời gian này, bang đã thay đổi, với sự đô thị hóa ngày càng tăng, nhưng các quận nông thôn vẫn giữ được nhiều quyền lực hơn khi cơ quan lập pháp được đặt tại các đại diện được bầu từ các hạt hơn là các khu dân cư.
Trường hợp tòa án liên bang, Reynolds v. Sims (1964), "đã thiết lập khái niệm một người, một phiếu bầu cho đại diện bầu cử ở cấp tiểu bang." Đạo luật Home Rule năm 1975 đã thực hiện sửa đổi cho thêm quyền lực cho các quận. Với đô thị hóa, chính phủ của họ ngày càng trở nên quan trọng trong tiểu bang.
Một số thay đổi đối với hiến pháp tiểu bang đã ảnh hưởng đến văn phòng của thống đốc và nội các. Năm 1926, nhiệm kỳ của thống đốc kéo dài từ hai đến bốn năm; năm 1982, thống đốc được phép chạy đua ứng cử trong nhiệm kỳ kế tiếp. Năm 1993, tiểu bang thông qua một sửa đổi đòi hỏi một nội các giới hạn (tất cả đều phải được bầu phổ biến trong nhân dân).
Kể từ ngày 2 tháng 1 năm 2016, đã có 2.948.772 cử tri đã đăng ký.
Lịch sử
Thời kỳ tiền định
Có bằng chứng về hoạt động của con người trong khu vực khoảng 40.000 năm trước. Vào thời điểm người châu Âu đến, đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ tiền Columbus vào khoảng năm 1600, có nhiều bộ tộc người Mỹ bản địa riêng biệt, lớn nhất là Cherokee và Catawba với tổng dân số lên tới 20.000.
Ngược lên các con sông của đồng bằng ven biển phía đông là nơi sinh sống khoảng một chục bộ lạc của nền văn hóa Siouan. Dọc theo sông Savannah là Apalachee, Yuchi và Yamasee. Xa hơn về phía tây là Cherokee và dọc theo sông Catawba là Catawba. Những bộ lạc này là những cư dân trong làng, dựa vào nông nghiệp làm nguồn thức ăn chính của họ. Người Cherokee sống trong các căn nhà bằng gỗ và vách đất làm bằng gỗ và đất sét, mái nhà được lợp bằng gỗ hoặc thảm cỏ.
Khoảng một chục bộ lạc nhỏ riêng biệt thu hoạch hàu và cá trên bờ biển và trồng ngô, đậu xanh và các loại đậu. Du lịch nội địa chủ yếu bằng xuồng, họ vượt qua mùa đông trên vùng đồng bằng ven biển, săn hươu và thu thập các loại hạt và trái cây. Tên của những bộ tộc này tồn tại ở những cái tên như đảo Edisto, đảo Kiawah và sông Ashepoo.
Thăm dò
Người Tây Ban Nha là những người châu Âu đầu tiên trong khu vực. Từ ngày 24 tháng 6 đến 14 tháng 7 năm 1521, họ khám phá vùng đất xung quanh vịnh Winyah. Vào ngày 8 tháng 10 năm 1526, họ thành lập San Miguel de Gualdape, gần Georgetown, South Carolina ngày nay. Đây là khu định cư đầu tiên của người châu Âu ở Hoa Kỳ hiện nay. Năm 1540, Hernando de Soto khám phá khu vực này và thị trấn chính của Cofitachequi, nơi ông khám phá ra Maskoki và Chelaque
Năm 1562, Huguenots của Pháp đã thiết lập một khu định cư tại khu vực khảo cổ Charlesfort-Santa Elena trên đảo Parris. Một số người định cư thích một cuộc sống tự nhiên xa nền văn minh và sự tàn bạo của các cuộc chiến tranh tôn giáo. Vào tháng 5 năm 1564, một chuyến thám hiểm thứ hai đã thám hiểm bờ biển từ sông Jordan đến dòng sông Dolphins và chiếm giữ lãnh thổ từ bờ biển đến dãy núi Palassi, một ngữ âm bản địa của dãy núi Appalachia. Vào ngày 20 tháng 6 năm 1564, họ thành lập Fort Caroline, được đặt theo tên của Vua Pháp Charles IX.
Vào ngày 28 tháng 8 năm 1565, người Tây Ban Nha xây một pháo đài tại Augustine và một vài ngày sau đó, tiêu diệt các thực dân Pháp trên bờ sông Massacre. Hai trăm người đàn ông còn lại để bảo vệ Fort Caroline đã bị hành quyết vào ngày 20 tháng 9 năm 1565 bởi vì họ không phải là người Công giáo. Ba năm sau, một chuyến thám hiểm do Dominique de Gourgue dẫn đầu đã kích động một cuộc nổi dậy chung của những người bản xứ đã trục xuất vĩnh viễn người Tây Ban Nha khỏi vùng Piedmont và Cumberland.
Thuộc địa
Sáu mươi năm sau, vào năm 1629, Vua nước Anh Charles I đã thành lập tỉnh Carolina, một khu vực bao gồm miền Nam và Bắc Carolina, Georgia và Tennessee. Năm 1663, Charles II đã trao tặng đất cho 8 người lãnh chúa để đổi lấy sự hỗ trợ tài chính và chính trị của họ trong việc khôi phục ông lên ngôi năm 1660. Anthony Ashley Cooper lên kế hoạch cho Mô hình Đại diện cho tỉnh Carolina và viết các Hiến pháp Cơ bản của Carolina. Sự không tưởng của anh được lấy cảm hứng từ John Locke, một nhà triết học và bác sĩ người Anh, được coi là một trong những nhà tư tưởng sáng tạo có ảnh hưởng nhất và thường được gọi là "Cha đẻ của chủ nghĩa tự do".
Vào những năm 1670, những người trồng trọt từ Barbados đã tự thành lập nơi bây giờ được gọi là Charleston. Những người định cư đã xây dựng các đồn điền lúa ở vùng đất thấp South Carolina, phía đông của Đại Tây Dương. Những người định cư đến từ khắp châu Âu. Trồng rừng được thực hiện bởi những nô lệ châu Phi, người đã hình thành phần lớn dân số vào năm 1720. Một cây trồng hái ra tiền khác là cây Indigo, một nguồn thực vật nhuộm màu xanh, được trồng và phát triển bởi Eliza Lucas.
Trong khi đó, ở vùng đất cao South Carolina, phía tây của dòng Fall, là nơi chiếm đóng của những người nông dân nhỏ và những người buôn bán, những người từ các bộ tộc người Mỹ bản địa ở phía tây. Các nhà thực dân đã lật đổ quy tắc của chủ sở hữu. Năm 1719, thuộc địa đã chính thức trở thành thuộc địa độc lập. Năm 1729, Bắc Carolina được tách ra thành một thuộc địa riêng biệt.
South Carolina thịnh vượng từ sự màu mỡ của vùng đất thấp và các bến cảng, chẳng hạn như tại Charleston. Nó cho phép sự khoan dung trong tôn giáo, khuyến khích các khu định cư mở đất, và buôn bán da con hoăng, gỗ và thịt bò phát triển mạnh. Trồng lúa được phát triển trên diện rộng.
Đến nửa cuối thập niên 1700, South Carolina là một trong những nơi ở của những người giàu nhất sắp sửa trở thành mười ba thuộc địa.
Cách mạng Mỹ
Vào ngày 26 tháng 3 năm 1776, thuộc địa đã thông qua trong Hiến pháp South Carolina, bầu John Rutledge làm tổng trưởng đầu tiên của bang. Tháng 2 năm 1778, South Carolina trở thành tiểu bang đầu tiên phê chuẩn các Điều khoản Liên bang, tài liệu điều hành ban đầu của Hoa Kỳ và tháng 5 năm 1788, South Carolina phê chuẩn Hiến pháp Hoa Kỳ, trở thành tiểu bang thứ tám phê chuẩn.
Trong Chiến tranh Cách mạng Mỹ (1775–1783), khoảng một phần ba việc chiến đấu diễn ra tại South Carolina, nhiều hơn bất kỳ nơi nào khác. Cư dân của bang chịu đựng sự xâm lược của các quân Anh và một cuộc nội chiến đang diễn ra giữa những người trung thành và các phần tử hẻo lánh. Ước tính có khoảng 25.000 nô lệ (30% số người ở South Carolina) bỏ trốn, di cư hoặc chết trong chiến tranh.
Trước cuộc nội chiến (Antebellum)
Cuộc điều tra dân số đầu tiên của Mỹ năm 1790 đã đưa dân số của tiểu bang lên gần 250.000 người. Theo điều tra dân số năm 1800, dân số đã tăng 38% lên gần 340.000 trong đó 146.000 là nô lệ. Vào thời điểm đó, South Carolina có dân số người Do Thái đông nhất ở 16 nước Mỹ, hầu hết sống ở Savannah và Charleston, sau này là thành phố lớn thứ năm của đất nước.
Trong thời kỳ trước cuộc nội chiến nền kinh tế và dân số của bang tăng lên. Bông đã trở thành một cây trồng quan trọng sau khi phát minh ra gin bông. Trong khi danh nghĩa dân chủ, từ năm 1790 cho đến năm 1865, các chủ đất nam giàu có đã kiểm soát South Carolina. Ví dụ, một người đàn ông không đủ điều kiện để ngồi trong Hạ viện Nhà nước trừ khi ông sở hữu một khu đất 500 mẫu đất và 10 người da đen, hoặc ít nhất 150 bảng Anh.
Columbia, thủ phủ mới của tiểu bang được thành lập ở trung tâm tiểu bang, và Cơ quan Lập pháp Tiểu bang lần đầu tiên xây vào năm 1790. Thị trấn phát triển sau khi được kết nối với Charleston qua kênh đào Santee vào năm 1800, một trong những kênh đào đầu tiên ở Hoa Kỳ..
Năm 1832, Pháp lệnh Nullification tuyên bố luật thuế liên bang không vi hiến và không được thi hành trong tiểu bang, dẫn đến Khủng hoảng Nullification. Force Bill được ban hành với mục đích sử dụng bất kỳ lực lượng quân sự cần thiết để thực thi pháp luật liên bang trong tiểu bang.
Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1860 của Hoa Kỳ đã bị chia rẽ mạnh mẽ, với sự bỏ phiếu phía nam cho đảng Dân chủ miền Nam và phía bắc cho Đảng Cộng hòa Abraham Lincoln. Lincoln đã chống chế độ nô lệ, không thừa nhận quyền ly khai, và sẽ không mang lại tài sản liên bang ở các bang miền Nam. Các nhà ly khai miền Nam tin rằng cuộc bầu cử của Lincoln có nghĩa là sự sụp đổ dài hạn cho nền kinh tế nông nghiệp dựa trên chế độ nô lệ và hệ thống xã hội của họ.
Lincoln được bầu làm tổng thống vào ngày 6 tháng 11 năm 1860. Hạ viện nhà nước ngay lập tức đã thông qua "Nghị quyết kêu gọi bầu cử Abraham Lincoln như Tổng thống Mỹ, một hành động thù địch, 9 tháng 11 năm 1860", và trong vòng vài tuần South Carolina tuyên bố ly khai khỏi Hoa Kỳ.
Nội chiến 1861–1865
Vào ngày 12 tháng 4 năm 1861, Liên minh miền Nam (miền Nam) bắt đầu gây chiến bằng các phát đại bác tại Pháo đài Liên bang tại cảng Charleston, sau khi quân đội Mỹ từ chối rời khỏi pháo đài trong hòa bình và Nội chiến Hoa Kỳ bắt đầu. Vào tháng 11 năm đó, Liên minh tấn công cảng Royal Sound và nhanh chóng chiếm đóng hạt Beaufort và các đảo lân cận. Đối với cuộc chiến này, khu vực này phục vụ như là một cơ sở của Liên minh và dàn điểm cho các hoạt động khác. Người da trắng bỏ hoang đồn điền của họ, để lại khoảng 10.000 nô lệ. Một số tổ chức từ thiện miền Bắc đã hợp tác với chính phủ liên bang để giúp những người này tự quản lý các trang trại bông. Người lao động đã được trả bởi đồng bảng Anh và do đó đã trở thành những nô lệ đầu tiên được giải phóng bởi các lực lượng Liên minh để kiếm lương.
Mặc dù bang không phải là một chiến trường lớn nhưng chiến tranh đã hủy hoại nền kinh tế. Dưới sự bảo trợ, tất cả những người đàn ông tuổi từ 18–35 (sau 45) đã được soạn thảo làm việc cho dịch vụ của Liên minh miền Nam. Hơn 60.000 người phục vụ và bang đã mất gần một phần ba dân số nam giới trong độ tuổi chiến đấu.
Vào cuối cuộc chiến vào đầu năm 1865, quân đội của tướng William Tecumseh Sherman đã đi khắp các đồn điền bị tàn phá của bang và hầu hết là ở Columbia.
Tái thiết 1865–1877
Sau chiến tranh, South Carolina đã được phục hồi trong thời gian Tái thiết. Dưới sự tái thiết của tổng thống (1865–66), những người tự do (những nô lệ cũ) được trao quyền hạn chế. Dưới sự tái thiết của Radical (1867–1877), một liên minh đảng Cộng hòa của những người tự do. Họ thành lập hội giáo dục công lập, các tổ chức phúc lợi và quy tắc cho các hạt, mở rộng nền dân chủ.
Ở Texas so với White (1869), Tòa án tối cao đã phán quyết các sắc lệnh ly khai (kể cả của South Carolina) không hợp lệ, và do đó những bang đó chưa bao giờ rời Liên minh. Tuy nhiên, South Carolina đã không lấy lại đại diện trong Quốc hội cho đến ngày đó.
Cho đến cuộc bầu cử tổng thống năm 1868, cơ quan lập pháp của South Carolina, không phải là người bầu cử, đã chọn cử tri của tiểu bang cho cuộc bầu cử tổng thống. South Carolina là bang cuối cùng chọn cử tri theo cách này. Vào ngày 19 tháng 10 năm 1871, Tổng thống Ulysses S. Grant đã tạm ngưng việc xem xét giam giữ tại chín quận South Carolina dưới quyền của Đạo luật Ku Klux Klan. Được dẫn dắt bởi Tổng Chưởng lý của Grant, Amos T. Akerman, hàng trăm người Klansmen đã bị bắt trong khi 2000 người Klansmen bỏ chạy khỏi bang. Điều này đã được thực hiện để ngăn chặn các phần tử bạo lực Klan chống lại các cử tri người Mỹ gốc Phi và da trắng ở miền Nam. Vào giữa những năm 1870, đảng Dân chủ da trắng sử dụng các nhóm bán quân sự như Red Shirts để đe dọa và khủng bố các cử tri da đen. Họ giành lại quyền kiểm soát chính trị của bang dưới sự bảo thủ "Redeemers" và ủng hộ kinh doanh dân chủ Bourbon. Năm 1877, chính phủ liên bang rút quân của mình như là một phần của Hiệp ước năm 1877 và kết thúc Tái thiết.
Phong trào nông nghiệp
Bang trở thành một điểm nóng về căng thẳng chủng tộc và kinh tế trong phong trào Dân túy và Nông dân của những năm 1890. Để ngăn chặn điều đó xảy ra, đảng Dân chủ đã đạt được một hiến pháp mới vào năm 1895 đã giảm hầu hết người da đen và nhiều người da trắng nghèo bằng các yêu cầu mới về thuế thăm dò ý kiến, cư trú và các bài kiểm tra đọc viết. Đến năm 1896, chỉ có 5.500 cử tri da đen vẫn còn trên sổ đăng ký cử tri, mặc dù họ chiếm đa số dân số của tiểu bang. Cuộc điều tra dân số năm 1900 đã chứng minh mức độ cắt giảm quyền lợi: 782.509 công dân Mỹ gốc Phi bao gồm hơn 58% dân số của tiểu bang, nhưng về cơ bản họ không có bất kỳ đại diện chính trị nào trong xã hội Jim Crow.
Hiến pháp năm 1895 giảm bớt sức mạnh chính quyền đại diện địa phương, giảm vai trò của các hạt đối với các chính quyền tiểu bang, thông qua các phái đoàn lập pháp cho từng quận. Vì mỗi quận có một thượng nghị sĩ tiểu bang, người đó có quyền lực đáng kể. Các hạt thiếu chính phủ đại diện cho đến khi luật nhà được thông qua vào năm 1975.
Thống đốc "Pitchfork Ben Tillman", một người theo chủ nghĩa dân túy, đã dẫn đầu nỗ lực để tước quyền lợi cho người da đen và người da trắng nghèo, mặc dù ông đã kiểm soát chính trị bang dân chủ từ những năm 1890 đến năm 1910. Trong hội nghị hiến pháp năm 1895, ông ủng hộ đề xuất của một người đàn ông khác rằng tiểu bang áp dụng quy tắc một lần, cũng như cấm hôn nhân giữa người da trắng và bất kỳ ai có tổ tiên châu Phi.
Bang đã trì hoãn luật một lần như vậy trong nhiều năm. Các nhà lập pháp Virginian đã thông qua một luật một lần vào năm 1924, quên rằng bang của họ có nhiều người có tổ tiên hỗn hợp trong số những người được xác định là người da trắng.
Thế kỷ 20
Đầu thế kỷ 20, South Carolina đã phát triển một ngành công nghiệp dệt may mạnh. Bang cũng chuyển đổi cơ sở nông nghiệp từ bông sang cây trồng có lợi nhuận cao hơn; thu hút các căn cứ quân sự lớn thông qua đoàn đại biểu dân chủ mạnh mẽ của đảng Dân chủ, một phần của miền Nam một bên sau khi giải thể người da đen vào đầu thế kỷ; và tạo ra ngành du lịch. Trong đầu thế kỷ 20, hàng ngàn người Mỹ gốc Phi đã rời khỏi South Carolina và các tiểu bang miền nam khác để tìm việc làm và có cơ hội tốt hơn ở các thành phố miền bắc, Trung Tây và Tây. Tổng cộng từ năm 1910 đến năm 1970, 6,5 triệu người da đen đã rời khỏi miền Nam trong cuộc Di cư vĩ đại. Đến năm 1930, South Carolina có đa số người da trắng lần đầu tiên kể từ năm 1708.
South Carolina là một trong nhiều tiểu bang ban đầu từ chối Bản sửa đổi lần thứ 19 (1920) cho phụ nữ quyền bỏ phiếu. Cơ quan lập pháp South Carolina sau đó đã phê chuẩn sửa đổi vào ngày 1 tháng 7 năm 1969.
Cuộc đấu tranh của phong trào dân quyền diễn ra ở South Carolina như họ đã làm ở các quốc gia miền Nam khác. Tuy nhiên, South Carolina trải qua một phong trào ít bạo lực hơn nhiều so với Mississippi, Alabama, Bắc Louisiana, hoặc Bắc Florida.
Thế kỷ 21
Tính đến năm 2015, South Carolina có tỷ lệ nữ thấp nhất trong số tất cả các tiểu bang trong cơ quan lập pháp tiểu bang, ở mức 13,5% (chỉ có Louisiana, Oklahoma và Wyoming có tỷ lệ thấp hơn, trung bình toàn quốc là 24,3%; Colorado ở mức 41%). Năm 2011, South Carolina xếp hạng nhất trong cả nước về tỷ lệ phụ nữ bị giết bởi đàn ông.
South Carolina thu hút doanh nghiệp mới bằng cách có thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 5%, không có thuế tài sản nhà nước, thuế thu nhập địa phương, thuế hàng tồn kho, thuế bán hàng, thiết bị sản xuất, điện công nghiệp hoặc nguyên liệu cho thành phẩm; không có thuế bán buôn, không có thuế đơn nhất về lợi nhuận trên toàn thế giới.
Bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 năm 2013, South Carolina là một trong những tiểu bang đầu tiên không còn thanh toán cho việc sinh con sớm 'tự chọn', theo bảo hiểm Medicaid và bảo hiểm tư nhân. Thuật ngữ tự chọn sớm được định nghĩa là việc mổ lấy thai trong khoảng 37-39 tuần không dựa trên y khoa. Sự thay đổi này nhằm giúp trẻ em khỏe mạnh hơn và chi phí không cần thiết cho South Carolina.
Vào ngày 20 tháng 11 năm 2014, South Carolina trở thành tiểu bang thứ 35 hợp pháp hóa các cuộc hôn nhân đồng tính, khi một tòa án liên bang ra lệnh thay đổi. Để biết thêm thông tin, xem: Hôn nhân đồng giới ở South Carolina.
Văn hóa
Nghệ thuật
South Carolina có nhiều địa điểm cho nghệ thuật về thị giác và biểu diễn. Bảo tàng Nghệ thuật Gibbes ở Charleston, Bảo tàng Nghệ thuật Hạt Greenville, Bảo tàng Nghệ thuật Columbia, Bảo tàng Nghệ thuật Spartanburg và Bảo tàng Quốc gia South Carolina ở Columbia cùng những nơi khác cung cấp sự tiếp cận nghệ thuật cho tiểu bang. Ngoài ra còn có nhiều di tích lịch sử và bảo tàng nằm rải rác khắp tiểu bang, tỏ lòng tôn kính với nhiều sự kiện và thời kỳ trong lịch sử của tiểu bang từ người Mỹ bản xứ đến ngày nay.
South Carolina cũng có các địa điểm nghệ thuật bao gồm Trung tâm Hòa bình ở Greenville, Trung tâm Nghệ thuật Koger ở Columbia và Nhà hát Newberry, và cả những người khác để mang tài năng địa phương, quốc gia và quốc tế đến các giai đoạn của South Carolina. Một số địa điểm lớn có thể tổ chức các sự kiện lớn, bao gồm Colonial Life Arena ở Columbia, Đấu trường Bon Secours Wellness ở Greenville và Đại hý trường Bắc Charleston.
Một trong những lễ hội nghệ thuật biểu diễn lớn của quốc gia, Spoleto Festival USA, được tổ chức hàng năm tại Charleston. Ngoài ra còn có vô số lễ hội địa phương trên toàn tiểu bang nêu bật nhiều truyền thống văn hóa, sự kiện lịch sử và văn hóa dân gian.
Theo Ủy ban Nghệ thuật South Carolina, các ngành sáng tạo tạo ra 9,2 tỷ đô la mỗi năm và hỗ trợ hơn 78.000 việc làm trong tiểu bang. Một cuộc thăm dò toàn tiểu bang năm 2009 của Viện Nghiên cứu Chính sách và Dịch vụ Công cộng của Đại học South Carolina cho thấy 67% cư dân đã tham gia vào nghệ thuật ở một số hình thức trong năm qua và trung bình công dân đã tham gia nghệ thuật 14 lần trong năm trước.
Tôn giáo
Theo Hiệp hội lưu trữ dữ liệu tôn giáo (ARDA), năm 2010 các giáo phái lớn nhất là Công ước Baptist miền Nam với 913.763 tín đồ, Giáo hội Methodist United với 274.111 tín đồ và Giáo hội Công giáo La Mã với 181.743 tín đồ. Lớn thứ tư là Giáo hội Giám mục Methodist châu Phi với 564 hội thánh và 121.000 thành viên và lớn thứ năm là Giáo hội Trưởng lão (Mỹ) với 320 hội thánh và gần 100.000 thành viên.
Tính đến năm 2010, South Carolina là tiểu bang của Hoa Kỳ có tỷ lệ theo giáo phái Baha'is bình quân đầu người cao nhất với 17.559 tín đồ, khiến cho Baha'i Faith trở thành tôn giáo lớn thứ hai trong bang.
Các môn thể thao
Mặc dù không có đội thể thao chuyên nghiệp lớn nào có trụ sở tại South Carolina, Carolina Panthers có cơ sở huấn luyện ở tiểu bang và chơi tại sân nhà của họ tại sân vận động Clemson's Memorial Stadium, tuy nhiên, họ hiện đang chơi ở Bắc Carolina. Panthers tự coi mình là "Nhóm Carolinas" và không đặt tên cho bản thân sau Charlotte hay Carolinas. Bang cũng là nơi có nhiều đội chuyên nghiệp nhỏ. Các đội đại học đại diện cho các cơ sở đặc biệt của South Carolina, và là những lựa chọn chính là bóng đá, bóng rổ và bóng chày tại tiểu bang. South Carolina cũng là một điểm đến hàng đầu cho các môn thể thao golf và thể thao dưới nước.
South Carolina cũng là nơi có một trong những đường đua đầu tiên của NASCAR và đường đua cao tốc trải nhựa đầu tiên, đường đua Darlington Raceway về phía tây bắc của Florence.
Kinh tế và cơ sở hạ tầng
Theo Cục phân tích kinh tế Mỹ, tổng sản phẩm quốc gia của South Carolina (GSP) là 97 tỷ đô la năm 1997 và 153 tỷ đô la năm 2007. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người của nó trong năm 2000 là 26.772 đô la vào năm 1997 và $ 28,894 trong năm 2007; chiếm 85% trong tổng số 31,619 đô la đầu người thực tế cho Hoa Kỳ tổng thể vào năm 1997 và 76% trong số 38,020 đô la Mỹ cho năm 2007. Nợ của nhà nước trong năm 2012 được tính là 22,9 tỷ đô la hoặc 7.800 đô la cho mỗi người nộp thuế.
Các sản phẩm nông nghiệp chính của bang là thuốc lá, gia cầm, bông, gia súc, các sản phẩm từ sữa, đậu nành, cỏ khô, gạo và lợn. Các sản phẩm công nghiệp bao gồm hàng dệt, sản phẩm hóa chất, sản phẩm giấy, máy móc, ô tô, sản phẩm ô tô và du lịch. Theo Cục Thống kê Lao động, tính đến tháng 3 năm 2012, South Carolina có 1.852.700 việc làm phi nông nghiệp, trong đó 12% đang trong lĩnh vực sản xuất, 11,5% trong ngành giải trí và khách sạn, 19% là thương mại, giao thông và tiện ích và 11,8% trong các dịch vụ giáo dục và y tế. Khu vực dịch vụ chiếm 83,7% nền kinh tế South Carolina.
Trong thời kỳ suy thoái kinh tế vào cuối thập niên 2000, tỷ lệ thất nghiệp của South Carolina đạt mức 12,0% trong tháng 11 và tháng 12 năm 2009. Nó đang tiếp tục giảm liên tục với tỷ lệ thất nghiệp 8,9% tính đến tháng 3 năm 2012.
Nhiều tập đoàn lớn đã chuyển địa điểm của họ đến South Carolina. Boeing đã mở một cơ sở sản xuất máy bay tại Charleston vào năm 2011, là một trong hai địa điểm lắp ráp cuối cùng cho chiếc 787 Dreamliner. South Carolina là một tiểu bang phải làm việc và nhiều doanh nghiệp sử dụng các cơ quan nhân sự để tạm thời lấp đầy các vị trí. Domtar, ở Rock Hill, là công ty Fortune 500 duy nhất có trụ sở tại South Carolina. Danh sách Fortune 1000 bao gồm SCANA, Sonoco Products và ScanSource.
South Carolina cũng được hưởng lợi từ đầu tư nước ngoài. Có 1.950 công ty nước ngoài hoạt động tại South Carolina, tuyển dụng gần 135.000 người. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mang lại 1,06 tỷ đô la cho nền kinh tế nhà nước trong năm 2010. Kể từ năm 1994, BMW đã có một cơ sở sản xuất ở hạt Spartanburg gần Greer và từ năm 1996 Tập đoàn Zapp hoạt động ở Summerville gần Charleston.
Phương tiện truyền thông
Vận chuyển
Đường
Bang có hệ thống đường lớn thứ tư trong cả nước, bao gồm 11 xa lộ liên tiểu bang, đường cao tốc được đánh số, đường cao tốc liên bang, và những con đường thứ cấp, tổng cộng khoảng 67.000 km.
Trên các tuyến đường phụ, South Carolina sử dụng một hệ thống đánh số để theo dõi tất cả các đường cao tốc không liên tiểu bang và chính mà Bộ Giao thông Vận tải South Carolina duy trì. Đường phụ được đánh số theo số của hạt theo sau là một số duy nhất cho đường cụ thể.
Đường sắt
Vận chuyển hành khách
Amtrak vận hành bốn tuyến hành khách ở South Carolina: Crescent, Palmetto, Silver Meteor và Silver Star. Tuyến đường Crescent phục vụ các thành phố Upstate, Silver Star phục vụ các thành phố Midlands, và các tuyến Palmetto và Silver Meteor phục vụ các thành phố nhỏ hơn.
Trạm dừng
Vận chuyển hàng hóa
CSX Transportation và Norfolk Southern là các công ty đường sắt hạng I duy nhất ở South Carolina, vì các công ty vận chuyển hàng hóa khác trong tiểu bang là những tuyến ngắn.
Sân bay lớn và khu vực
Có bảy sân bay quan trọng ở South Carolina, tất cả đều đóng vai trò là trung tâm sân bay khu vực. Khối lượng hành khách đông đúc nhất là Sân bay Quốc tế Charleston. Ngay bên kia biên giới Bắc Carolina là Sân bay Quốc tế Charlotte/Douglas, sân bay bận rộn thứ 30 trên thế giới, về hành khách.
Sân bay Columbia Metropolitan - Columbia
Sân bay Quốc tế Charleston - Bắc Charleston
Sân bay quốc tế Greenville-Spartanburg - Greenville/Spartanburg
Sân bay Florence - Florence
Sân bay Quốc tế Myrtle Beach - Myrtle Beach
Sân bay Hilton Head - Hilton Head Island/Beaufort
Đồi Rock/Sân bay Hạt York - Đồi Rock
Giáo dục
Tính đến năm 2010, South Carolina là một trong ba tiểu bang đã không đồng ý sử dụng các tiêu chuẩn ngôn ngữ và toán học quốc tế cạnh tranh.
Trong năm 2014, Tòa án tối cao South Carolina phán quyết bang đã không cung cấp một nền giáo dục "tối thiểu phù hợp cho trẻ em trong tất cả các phần của tiểu bang theo yêu cầu của hiến pháp của tiểu bang."
South Carolina có 1.144 trường K – 12 tại 85 khu học chánh với số ghi danh là 712.244 vào mùa thu 2009. Tính đến niên khoá 2008-2009, South Carolina đã chi $ 9.450 cho mỗi học sinh, xếp hạng 31 trong nước cho mỗi học sinh chi tiêu.
Vào năm 2015, điểm SAT trung bình toàn quốc là 1490 và trung bình của South Carolina là 1442, thấp hơn 48 điểm so với mức trung bình toàn quốc.
South Carolina là tiểu bang duy nhất sở hữu và vận hành hệ thống xe buýt trường học trên toàn tiểu bang của mình. Tính đến tháng 12 năm 2016, bang duy trì 5582 xe buýt với xe trung bình phục vụ là 15 tuổi với 236.000 dặm, so với tỷ lệ trung bình toàn quốc là 6 năm. Một nửa số xe buýt trường học của tiểu bang trên 15 tuổi và một số được báo cáo lên đến 30 tuổi. Trong năm 2017 trong đề xuất ngân sách, Tổng Giám đốc Giáo dục Molly Spearman đã yêu cầu hợp đồng thuê nhà nước để mua 1.000 xe buýt để thay thế những xe bị hư hại. Bạn có thể mua thêm 175 xe buýt ngay lập tức thông qua chương trình cho thuê chính của Thủ quỹ Riểu bang. Vào ngày 5 tháng 1 năm 2017, Cơ quan bảo vệ môi trường Hoa Kỳ đã trao cho South Carolina hơn 1,1 triệu đô la để thay thế 57 xe buýt trường học bằng các mô hình sạch hơn mới thông qua chương trình Đạo luật giảm phát thải khí thải của nó.
Chăm sóc sức khỏe
Đối với chăm sóc sức khỏe, South Carolina được xếp hạng 33 trong số 50 tiểu bang, theo Quỹ Commonwealth, một nền tảng y tế tư nhân làm việc để cải thiện hệ thống chăm sóc sức khỏe. Tỷ lệ sinh thiếu niên của tiểu bang là 53 trẻ trên 1000 trẻ vị thành niên, so với mức trung bình là 41,9 ca sinh ra ở Hoa Kỳ, theo Quỹ Kaiser Family Foundation. Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh của tiểu bang là 9,4 trường hợp tử vong trên 1.000 ca sinh so với mức trung bình của Mỹ là 6,9 ca tử vong.
Có 2,6 bác sĩ trên 1000 người so với trung bình 3,2 bác sĩ của Hoa Kỳ. Đã có $ 5,114 chi cho chi phí y tế bình quân đầu người trong tiểu bang, so với mức trung bình của Hoa Kỳ là $ 5,283. Có 26% trẻ em và 13% người cao tuổi sống trong nghèo đói ở tiểu bang, so với 23% và 13%, tương ứng ở Mỹ. Và 34% trẻ em bị thừa cân hoặc béo phì, so với mức trung bình của Hoa Kỳ là 32%. |
Thư pháp gia (Hán văn: 書法家, Hi văn: Καλλιγράφος) được hiểu là những người thạo thư pháp và có khả năng đẩy văn tự lên tầm nghệ thuật.
Lịch sử
Thư pháp xuất hiện hầu như đồng thời với sự hình thành văn tự bởi nhu cầu trình bày trang nhã và minh bạch văn bản. Công cụ chính tạo nên thư pháp là bút và chất liệu lưu trữ văn tự, mà sau được hiểu gồm mực và giấy. Thư pháp gia thường không nhất thiết phải là bậc trí giả nhưng ít nhiều được coi trọng nhờ vốn học vấn đủ để biên chép.
Trong thế giới Tây phương, thư pháp gia thường là hiền sĩ hoặc tăng lữ vì đặc thù thực dụng của thể chữ kí ngang mặt giấy. Ngược lại, ở thế giới Á Đông, thư pháp gia có sự phân cấp rất rõ: Thư pháp gia đã ít nhất một lần đậu khoa cử hoặc được kính nể cả tài năng và đức hạnh thì mặc nhiên liệt hạng tinh anh, những người này coi chữ của mình là vốn quý và chỉ đem tặng những ai thân thiết hay khả kính; còn lại, thư pháp gia vốn do thi hỏng thì chẳng những không đủ tư cách dạy học mà còn bị cả sĩ lâm coi khinh, vì thế, đối với họ thì bán chữ thuần túy là cách mưu sinh. Những thư pháp gia có địa vị thấp thường bị lỡm là "vị sư bán tự" (lái "bán tự vi sư"), thi thoảng kiêm thêm nghề bói toán hoặc bốc thuốc làm kế sinh nhai.
Tại Việt Nam hậu kì hiện đại, do tình trạng kì thị cũng như đứt đoạn văn hóa Hán tự, nhiều người tự xưng thư pháp gia đi bán chữ theo lối cổ, nhưng thường phạm những điều kị của giới thư họa truyền thống: Không phân biệt được các thể Hán tự, không biết cách cầm bút, pha mực, thậm chí lạm dụng kí tự Latin vào thư pháp Hán (do bản thân họ không học Hán tự nghiêm túc)... Cho nên lớp người này bị giới nghiên cứu Hán-Nôm tẩy chay.
Văn hóa
Ở Tây Âu trung đại, trang sức thủ bản (manuscriptum illuminatum) là trường phái mĩ thuật kết hợp giữa thư pháp và hội họa, đòi công phu cùng chất liệu tương đối đắt. Thư pháp gia thường là những linh mục có tài nghệ đặc biệt được chủng viện giao phó soạn nội dung liên quan đến thánh tích, các điều hay lạ trong dân gian cùng thời.
Thư pháp Á Đông được cho là hình thành từ thời Đông Châu Liệt Quốc với các thể kim văn, triện văn bắt nguồn từ giáp cốt văn. Đến nay còn giữ được một số bức thư pháp tương truyền của thư giả Vương Hi Chi đời Đông Tấn. Sau này có những Tống Huy Tông, Tô Thức, Đường Dần, Văn Trưng Minh... kế tục. Ở hiện đại, cố chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông cũng được coi là thư pháp gia trứ danh với trường phái Mao tự độc đáo.
Tại Việt Nam, những thư pháp gia có phẩm hạnh thấp thường được gọi đại khái thầy đồ, ông đồ, ông tú, tương đương học vị sinh đồ và tú tài. Thực tế, có rất ít thư pháp gia hạng này đạt danh vị đó, cho nên phải chọn nghề bán chữ nuôi thân, bị khinh miệt nhất trong sĩ lâm.
Mặc dù trình độ thư pháp gia không phải lúc nào cũng cao, những lớp người này góp phần khá trọng yếu trong lịch sử nhân loại ở khía cạnh làm đẹp văn tự, vô hình trung khiến văn bản trở nên hấp dẫn hơn. Tuy nhiên, trong nhiều giai đoạn lịch sử, những kẻ lạm dụng danh xưng thư pháp gia để trục lợi lại vô tình làm tan biến cái hay của thư pháp.
Các truyền thống trên thế giới
Đông Á
Thư pháp Đông Á (chữ Hán: 東亞書法, Đông Á thư pháp) là môn nghệ thuật viết chữ đẹp được hình thành từ việc rèn luyện viết chữ Hán. Người ta dùng bút lông, chấm mực tàu, viết chữ Hán trên các loại giấy tốt hay vải lụa, theo những phong cách khác nhau. Trong nghệ thuật thư pháp Á Đông có 5 phong cách viết là Chân (hay còn gọi là Khải), Triện, Lệ, Hành và Thảo với những quy luật đặc trưng riêng về đường nét, cách thức thể hiện.
Trải qua các triều đại sau đó, sử sách đều có ghi nhận về sự xuất hiện của những thư pháp gia (người viết chữ đẹp) nổi tiếng, như Vương Hy Chi (đời Đông Tấn) hay Tề Bạch Thạch (đời nhà Thanh).
Tiêu chuẩn để đánh giá một tác phẩm thư pháp thường bao gồm nhiều yếu tố rất khắt khe như điểm hoạch (đường nét), kết thể (bố cục), thần vận (cái hồn của tác phẩm)... Cùng với sự lan rộng của chữ Hán trong một khoảng thời gian dài, môn nghệ thuật này được truyền bá khỏi khu vực Trung Quốc và trở nên phổ biến tại các khu vực lân cận thuộc vùng văn hóa Đông Á là Triều Tiên, Nhật Bản.
Thư pháp Trung Hoa là dòng thư pháp được phát triển sớm nhất, mạnh nhất và có ảnh hưởng sâu sắc đến các dòng thư pháp của các ngôn ngữ khác trong vùng Đông Á. Thư pháp chữ Hán không chỉ là một môn của nghệ thuật của riêng Trung Quốc, Đài Loan mà cả vùng văn hóa Đông Á. Tại Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, như Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam, các tác phẩm thư pháp thường được thể hiện bằng chữ Hán và sử dụng bút lông, mực tàu, giấy và nghiên mài mực, còn gọi là "văn phòng tứ bảo". Người Trung Hoa đã đưa nghệ thuật viết chữ lên thành một môn nghệ thuật cao quý có tính chất phô diễn khí phách tiết tháo của con người.
Thư pháp Đông Á vừa là một nghệ thuật độc lập, đồng thời là một thành phần trong bố cục của hội họa theo phong cách cổ Trung Hoa. Nhiều hoạ gia, như Tô Đông Pha, Mễ Phất đời Tống; Tề Bạch Thạch thời hiện đại, nổi tiếng cả về họa lẫn về thư pháp. Thư pháp hỗ trợ cho hội họa và bản thân một bức thư pháp đẹp cũng được coi như một bức họa với quan niệm "thư họa đồng nhất thể".
Ngoài văn phòng tứ bảo, cũng cần kể đến ấn chương (con dấu hay triện) làm bằng các chất liệu như đá, gỗ, kim loại mà việc khắc chạm nó và đóng dấu sử dụng mực chu sa màu đỏ ở đâu trên bức thư pháp cũng đã được nâng lên thành bộ môn nghệ thuật
Nhật Bản
Trong các ngôi nhà cổ, người Nhật Bản thường dành một phòng cho nghi thức "trà đạo", trên vách có một ngăn riêng (gian thờ, gọi là tokonoma) để treo một bức thư họa. Thư pháp tại Nhật Bản gọi là "thư đạo"(書道. Theo các chuyên gia thư pháp Nhật Bản, chữ Hán được truyền từ Trung Quốc sang Nhật Bản từ khoảng 2000 năm trước, được sử dụng phổ biến ở Nhật Bản từ khoảng thế kỷ 5. Sau đó, dựa trên cơ sở chữ Hán, người Nhật đã sáng tạo ra kiểu chữ của mình là chữ Hiragana và Katakana (kiểu chữ biểu thanh). Thư pháp Nhật Bản được hình thành từ hai kiểu chữ chính là kiểu chữ Hán từ Trung Quốc đến và kiểu chữ Hiragana, Katakana. Hiện nay, ở Nhật Bản có từ 8 đến 10 triệu người tham gia viết thư pháp, và thư pháp được coi là một trong những môn nghệ thuật đặc sắc của Nhật Bản. Thư đạo cũng được thêm vào là một môn học nhỏ trong trường học, học sinh được rèn cách mài mực và cách viết.
Triều Tiên và Hàn Quốc
Tại Triều Tiên, thư pháp cũng được đề cao. Thư pháp tại Hàn Quốc gọi là thư nghệ (書藝).
Đông Nam Á
Việt Nam
Ở Việt Nam mặc dù không có truyền thống thư pháp như Trung Hoa hay Nhật Bản, nhưng căn cứ vào một số di cảo, bút tích, mặc tích trên giấy tờ, sách vở, sắc phong hay văn bia còn lại thì nước ta cũng không ít những danh nhân được người đời xưng tụng. Ở các thời kỳ, đều có những người viết chữ đẹp được công nhận như Lý Nhân Tông thời Lý, Nguyễn Đình Giới thời Trần, Bùi Đình Kiên thời Lê hay như Cao Bá Quát thời Nguyễn. Ngày nay, chữ Quốc ngữ viết lối thư pháp bằng công cụ bút lông, mực tàu, như một sự tìm tòi hình thức biểu hiện mới, cũng đang dần trở nên được nhiều người quan tâm. Thư pháp Việt Nam bao gồm hai dòng: Thư pháp chữ Hán-Nôm và Thư pháp chữ Quốc ngữ (chữ Latinh). Thư pháp chữ Quốc ngữ tuy ra đời sau nhưng có sức sáng tạo vô cùng lớn, thư pháp hiện đã được đưa vào rất nhiều chất liệu như gỗ, thư pháp trên đá, thư pháp trên mành tre.
Tây phương
Thư pháp phương Tây có phong cách khác hẳn thư pháp Á Đông. Con chữ được nắn nót theo chuẩn mực và tỷ lệ thay cho lối chữ thảo thường gặp trong Thư pháp Đông Á. Thư pháp phương Tây có thể được thể hiện bằng nhiều phương tiện: bút sắt, cọ, thước, compa, êke... Thư pháp phương Tây sử dụng chữ la mã, bố cục và cách sắp xếp chữ thư pháp thường theo hàng ngang và dọc, ít khi sắp xếp bố cục theo thể hình vuông theo nguyên tắc như của Á Đông.
Thế giới Ả Rập và thư pháp Hồi giáo
Thư pháp Ả Rập là một khía cạnh của nghệ thuật Hồi giáo đã được phát triển song song với đạo Hồi và ngôn ngữ Ả Rập.
Thư pháp Hồi giáo (thư pháp trong tiếng Ả Rập là khatt ul-yad (خط اليد) và trong tiếng Ba Tư là Khosh-Nevisi (خوشنویسی) đã phát triển cùng với Hồi giáo và ngôn ngữ Ả Rập. Vì nó dựa trên các chữ cái Ả Rập nên một số người gọi nó là "thư pháp Ả Rập". Tuy nhiên, thuật ngữ "thư pháp Hồi giáo" là một thuật ngữ thích hợp hơn vì nó bao gồm tất cả các tác phẩm thư pháp của các nhà thư pháp Hồi giáo thuộc các nền văn hóa quốc gia khác nhau, như thư pháp Ba Tư hoặc Ottoman, từ Al-Andalus ở Tây Ban Nha thời trung cổ đến Trung Quốc, Ấn Độ.
Thư pháp Ả Rập/Ba Tư có quan hệ với các trang trí nghệ thuật Hồi giáo trên tường và trần của các nhà thờ Hồi giáo cũng như trên các trang kinh sách. Các nghệ sĩ đương đại của thế giới Hồi giáo đã học hỏi từ các di sản thư pháp để sử dụng trong các tác phẩm của mình.
Thay vì gợi về cái gì đó liên quan đến thực tại của lời nói, đối với các tín đồ Hồi giáo, thư pháp là một sự biểu đạt của nghệ thuật cao quý nhất - nghệ thuật của thế giới tâm linh. Thư pháp đã trở thành hình thức thiêng liêng nhất của nghệ thuật Hồi giáo vì nó mang lại một mối liên kết giữa các ngôn ngữ của người Hồi giáo với đạo Hồi. Kinh thánh của đạo Hồi, kinh Koran, đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của ngôn ngữ Ả Rập, mà mở rộng của nó là thư pháp Ả Rập. Các câu cách ngôn và các đoạn hoàn chỉnh trong kinh Koran vẫn là những nguồn sống động cho thư pháp Ả Rập. |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.