text
stringlengths
0
512k
Xbox là một máy chơi trò chơi video gia đình và là phần đầu tiên trong loạt máy chơi trò chơi video Xbox do Microsoft sản xuất. Nó được phát hành dưới dạng bước đột phá đầu tiên của Microsoft vào thị trường máy chơi game vào ngày 15 tháng 11 năm 2001 tại Bắc Mỹ, tiếp theo là Úc, Châu Âu và Nhật Bản vào năm 2002. Nó được phân loại là một thế hệ video game console thứ sáu, cạnh tranh với PlayStation 2 của Sony và GameCube của Nintendo. Nó cũng là máy chơi game chính đầu tiên được một công ty Mỹ sản xuất kể từ khi Atari Jaguar ngừng sản xuất vào năm 1996. Được công bố vào năm 2000, Xbox có sức mạnh đồ họa nổi trội so với các đối thủ của nó, có Bộ xử lý Intel Pentium III 733 MHz, bộ xử lý có thể tìm thấy trên PC tiêu chuẩn. Nó cũng được ghi nhận về kích thước và trọng lượng giống như PC, và là console đầu tiên có ổ cứng tích hợp. Vào tháng 11 năm 2002, Microsoft đã ra mắt Xbox Live, một dịch vụ chơi trò chơi trực tuyến có tính phí, cho phép các thuê bao tải xuống nội dung mới và kết nối với những người chơi khác thông qua kết nối băng thông rộng. Không giống như các dịch vụ trực tuyến từ Sega và Sony, Xbox Live có hỗ trợ trong thiết kế bảng điều khiển gốc thông qua cổng Ethernet tích hợp. Dịch vụ này đã giúp Microsoft có chỗ đứng sớm trong mảng trò chơi trực tuyến và giúp Xbox trở thành đối thủ cạnh tranh trong thế hệ máy chơi game thứ sáu. Sự phổ biến của các tựa game bom tấn như Halo 2 của Bungie đã góp phần vào sự phổ biến của mảng trò chơi trực tuyến và đặc biệt là các game bắn súng góc nhìn thứ nhất. Xbox đã có một sự ra mắt kỷ lục ở Bắc Mỹ, với việc bán được 1,5 triệu chiếc trước cuối năm 2001, được hỗ trợ với sự phổ biến của một trong những tựa game ra mắt của hệ thống, Halo: Combat Evolve, đã bán được một triệu chiếc vào tháng 4/2002. Cuối cùng Xbox đã bán được tổng cộng 24 triệu chiếc trên toàn thế giới, bao gồm 16 triệu chiếc ở Bắc Mỹ; tuy nhiên, Microsoft đã không thể kiếm được lợi nhuận ổn định từ console này, vốn có giá sản xuất đắt hơn nhiều so với giá bán lẻ. Mặc dù mức độ phổ biến của Xbox là rất lớn, Microsoft đã mất hơn 4 tỷ đô la trong suốt thời gian sản phẩm này được đưa ra thị trường. Hệ thống này đã bán chạy hơn GameCube và Sega Dreamcast, nhưng đã bị PlayStation 2 qua mặt với khoảng cách rất xa, với doanh số bán hơn 100 triệu chiếc cho đến khi ngừng bán vào năm 2005. Xbox cũng ít phổ biến bên ngoài thị trường phương Tây; đặc biệt, nó có doanh thu thấp ở Nhật Bản do kích thước console lớn và quá nhiều trò chơi được bán cho khán giả Mỹ mà ít các tựa game do Nhật Bản phát triển. Việc sản xuất Xbox đã bị ngừng vào năm 2005, với việc Microsoft hoàn toàn ngừng hỗ trợ hết bảo hành vào năm 2009 và chấm dứt hỗ trợ Xbox Live cho hệ thống vào năm 2010. Xbox là sản phẩm đầu tiên trong một thương hiệu máy chơi game video được Microsoft phát triển, với sản phẩm tiếp theo là Xbox 360, ra mắt năm 2005, sau đó là Xbox One vào năm 2013. Lịch sử Sáng tạo và phát triển Trước Xbox, Microsoft đã tìm thấy thành công khi xuất bản trò chơi video cho máy PC chạy Windows của họ, phát hành các tựa game nổi tiếng như Microsoft Flight Simulator và Age of Empires với thành công lớn. Tuy nhiên, Microsoft đã không tập trung vào thị trường console, vốn đang do PlayStation của Sony thống trị. Sony đang làm việc trên máy chơi trò chơi video tiếp theo của họ, PlayStation 2, và đã công bố chính thức sản phẩm này ra công chúng vào ngày 2 tháng 3 năm 1999. Sony dự định cho hệ thống này hoạt động như một cửa ngõ cho tất cả các loại hình giải trí gia đình. Giám đốc điều hành của Microsoft, Bill Gates, coi chiếc PS2 sắp ra mắt của Sony là một mối đe dọa đối với dòng máy tính Windows của Microsoft, với lo ngại rằng hệ thống bao gồm tất cả có thể loại bỏ lợi ích của người tiêu dùng trong PC và đẩy Microsoft ra khỏi thị trường. Thấy các trò chơi video đang phát triển nhanh chóng thành một ngành công nghiệp lớn, Gates đã quyết định rằng Microsoft cần phải tham gia vào thị trường trò chơi console để cạnh tranh với Sony. Trước đây, Sega đã phát triển một phiên bản Windows CE cho Dreamcast để được các nhà phát triển trò chơi sử dụng. Ngoài ra, Gates đã trực tiếp tiếp cận với CEO Nobuyuki Idei của Sony trước khi có thông báo công khai về PS2 liên quan đến việc cho phép Microsoft phát triển phần mềm lập trình cho giao diện console, nhưng lời đề nghị đã bị Idei từ chối để ủng hộ việc Sony tạo ra phần mềm độc quyền cho console. Năm 1998, bốn kỹ sư từ nhóm DirectX của Microsoft - Kevin Bachus, Seamus Blackley, Ted Hase và trưởng nhóm DirectX Otto Berkes - đã bắt đầu thảo luận về ý tưởng cho một giao diện điều khiển mới chạy trên công nghệ DirectX của Microsoft. Nat Brown, Kiến trúc sư phần mềm Windows tại Microsoft, cũng sẽ trở thành người đóng góp thường xuyên cho dự án sau khi gặp Hase vào tháng 11/1998. Dự án có tên mã là "Midway", liên quan đến Trận chiến Midway trong Thế chiến 2, trong đó Nhật Bản đã bị quân đội Mỹ đánh bại một cách quyết đoán, thể hiện mong muốn của Microsoft sẽ vượt qua Sony trên thị trường console. Nhóm DirectX đã tổ chức cuộc họp phát triển đầu tiên vào ngày 30 tháng 3 năm 1999, trong đó họ đã thảo luận các vấn đề như khởi động PC với tốc độ nhanh hơn bình thường. Console sẽ chạy Windows 2000 bằng DirectX 8.1, cho phép các nhà phát triển PC dễ dàng chuyển sang làm game cho giao diện điều khiển, đồng thời cho nó khả năng xử lý lớn hơn so với hầu hết các máy chơi game gia đình khác. Theo Blackley, sử dụng công nghệ PC làm nền tảng cho bảng điều khiển trò chơi video sẽ loại bỏ các rào cản công nghệ của hầu hết các máy chơi game gia đình, cho phép các nhà sáng tạo trò chơi mở rộng hơn nữa về sự sáng tạo của chính họ mà không phải lo lắng về các hạn chế phần cứng. 4 thành viên nhóm DirectX gặp phải bất đồng với nhóm kỹ sư Thung lũng Silicon đằng sau WebTV, công ty đã gia nhập Microsoft sau khi họ mua bản quyền cho thiết bị này. Giám đốc điều hành của Microsoft, Craig Mundie muốn dự án được lãnh đạo bởi nhóm WebTV, người tin rằng giao diện điều khiển nên được xây dựng từ đầu để trở thành một thiết bị chạy Windows CE; tuy nhiên, nhóm DirectX đã kiên quyết về ý tưởng tái sử dụng các thành phần phần cứng của PC, như ổ đĩa cứng, cho rằng chúng được sản xuất với giá rẻ và có thể dễ dàng cập nhật hàng năm. Cả bốn nhà phát triển đã nhận được sự hỗ trợ của Ed Fries, người đứng đầu bộ phận chơi game của Microsoft, người tin rằng việc sử dụng ổ cứng nói riêng sẽ mang lại cho máy chơi game một lợi thế kỹ thuật giữa các đối thủ mặc dù chi phí sản xuất cao. Cả hai nhóm đối lập đều đưa ra lập luận của mình với Gates vào ngày 5 tháng 5 năm 1999 tại một cuộc họp có sự tham gia của hơn 20 người khác nhau. Đội ngũ của WebTV, trong đó có Nick Baker, Dave Riola, Steve Perlman và Tim Bucher cũng như nhà tài trợ của họ, Craig Mundie, đã tạo ra trường hợp tạo ra một thiết bị sẽ rẻ hơn rất nhiều, nhấn mạnh rằng hầu hết các máy chơi game thường được bán với giá khoảng 300 đô la. Họ cũng muốn sử dụng một con chip đồ họa tùy chỉnh, những thứ tương tự có thể được chia sẻ trên một số thiết bị gia đình khác nhau. Ngược lại, Fries, chứng nhận cho nhóm DirectX, lập luận rằng việc sử dụng ổ cứng PC sẽ khiến bảng điều khiển của Microsoft khác biệt với các đối thủ cạnh tranh bằng cách cho phép thực hiện trực tiếp việc truy cập trực tuyến, một lập luận mà Gates phải đối mặt. Khi Gates đặt câu hỏi liệu các trò chơi trên PC có thể được chuyển sang bảng điều khiển mới một cách hiệu quả hay không, Blackley giải thích rằng máy sẽ sử dụng phần cứng DirectX, nghĩa là chúng có thể được chuyển đổi dễ dàng. Gates rất ủng hộ đề xuất này trên WebTV, có khái niệm dựa trên Windows CE, một biến thể Windows bị loại bỏ rất nhiều không tương thích với DirectX. Do đó, Gates đứng về phía khái niệm DirectX và đưa nhóm của Berkes đi trước để tạo ra một console trò chơi video mới. Mặc dù vậy, WebTV vẫn sẽ đóng một phần trong lần ra mắt đầu tiên của Xbox. Nhóm DirectX bắt đầu xây dựng các console mẫu, mua một số máy tính Dell và sử dụng các bộ phận bên trong của chúng. Trong số những cái tên được xem xét cho giao diện điều khiển mới có một số từ viết tắt, bao gồm "Windows Entertainment Project" (WEP), "Microsoft Total Gaming" (MTG), "Microsoft Interactive Network Device" (MIND) và "Microsoft Interactive Center" (MIC). Ngoài ra, trong số các tên được xem là "DirectX Box", đề cập đến sự phụ thuộc của hệ thống vào Direct X. Tại một thời điểm, Hase đã đùa giỡn với các tên "XXX-Box" và "DirectXXX-Box" như một cái gật đầu của hệ thống nội dung người lớn so với máy chơi game của Sony hoặc Nintendo. "DirectX Box" nhanh chóng được rút ngắn thành "Xbox" thông qua một cuộc trò chuyện email và cuối cùng được nhóm phát triển ưa thích, mặc dù một số biến thể chính tả đã được đưa ra, chẳng hạn như xBox, XboX và X-box. Bộ phận tiếp thị của Microsoft không thích cái tên này, đề xuất "11-X" hoặc "Eleven-X" là lựa chọn thay thế. Trong quá trình thử nghiệm tập trung, công ty đã đặt tên "Xbox" vào danh sách các tên có thể trong quá trình thử nghiệm tập trung chỉ để chứng minh mức độ phổ biến của tên Xbox với người tiêu dùng. Tuy nhiên, "Xbox" đã chứng tỏ là tên phổ biến hơn trong danh sách trong quá trình thử nghiệm của người tiêu dùng và do đó được chọn làm tên chính thức của sản phẩm. Khi thiết kế vật lý của bộ điều khiển bắt đầu, các bảng mạch cho bộ điều khiển đã được sản xuất. Microsoft đã yêu cầu nhà cung cấp của họ, Mitsumi Electric, cho một thiết kế bảng mạch xếp và xếp tương tự được sử dụng trong bộ điều khiển DualShock 2 của Sony, nhưng công ty này đã từ chối sản xuất một thiết kế như vậy cho Microsoft. Điều này dẫn đến bộ điều khiển ban đầu của Xbox cồng kềnh và to gần gấp ba lần bộ điều khiển của Sony. Thiết kế bộ điều khiển ban đầu này không bao giờ được ra mắt tại Nhật Bản, trong đó giao diện điều khiển thay vì ra mắt với phiên bản nhỏ hơn, được thiết kế lại có tên "Bộ điều khiển S" sử dụng thiết kế bảng mạch nhỏ gọn hơn. Thông báo ra mắt Lần đầu tiên Gates công khai đề cập đến Xbox trong một cuộc phỏng vấn vào cuối năm 1999, nói rằng ông muốn hệ thống trở thành nhà phát triển trò chơi sáng tạo nhất và tốt nhất trên thế giới ". Sau đó, nó đã được Gates công bố chính thức trong một bài phát biểu quan trọng tại Hội nghị các nhà phát triển trò chơi vào ngày 10 tháng 3 năm 2000, cho thấy một bản dựng nguyên mẫu đầu tiên của hệ thống và một loạt các bản demo giới thiệu phần cứng của nó. Bài thuyết trình và hệ thống mới đã được các nhà phát triển đón nhận, gây ấn tượng với cả ổ cứng và cổng Ethernet và hấp dẫn họ với khái niệm các công cụ phát triển dễ sử dụng. Vào thời điểm thông báo của Gates, doanh số Dreamcast của Sega đang giảm dần và PlayStation 2 của Sony chỉ được bán tại Nhật Bản. Gates đã nói chuyện với cố chủ tịch Isao Okawa của Sega về khả năng tương thích Xbox với các trò chơi Dreamcast, nhưng các cuộc đàm phán đã sụp đổ về việc có nên thực hiện dịch vụ trực tuyến SegaNet của Dreamcast hay không. Xbox chính thức được ra mắt trước công chúng bởi Gates và khách mời đô vật chuyên nghiệp The Rock tại CES 2001 ở Las Vegas vào ngày 3 tháng 1 năm 2001. Microsoft đã công bố ngày phát hành và giá của Xbox tại E3 2001 vào tháng Năm. Hầu hết các tựa game ra mắt Xbox đã được công bố tại E3, đáng chú ý nhất là Halo: Combat Evolve và Dead or Alive 3. Để chuẩn bị cho sự ra mắt của Xbox, Microsoft đã mua lại Bungie và sử dụng Halo: Combat Evolve làm tiêu đề ra mắt. Vào thời điểm đó, GoldenEye 007 cho Nintendo 64 là một trong số ít các game FPS đình đám xuất hiện trên bảng điều khiển, cũng như các tựa game như Perfect Dark và Medal of Honor. Halo: Combat Evolve đã chứng minh là một trò chơi tốt để thúc đẩy doanh số của Xbox. Quảng bá Năm 2002, Ủy ban Truyền hình Độc lập (ITC) đã cấm quảng cáo cho Xbox trên truyền hình ở Vương quốc Anh sau khi phàn nàn rằng nó "gây khó chịu, gây sốc và có cảm hứng xấu". Quảng cáo Xbox mô tả một người mẹ sinh ra một bé trai, và bé bị bắn như một viên đạn xuyên qua cửa sổ bị lão hóa nhanh chóng khi anh ta bay trong không khí. Quảng cáo kết thúc với anh ta, giờ đã thành một ông già đâm sầm vào mộ của chính mình và khẩu hiệu: "Cuộc sống rất ngắn ngủi. Hãy chơi nhiều hơn. " Ngưng sản xuất và sản phẩm kế nhiệm Sản phẩm kế nhiệm của Xbox, Xbox 360, được chính thức công bố vào ngày 12 tháng 5 năm 2005 trên MTV. Đó là hệ thống thế hệ tiếp theo đầu tiên được công bố. Xbox 360 được phát hành ở Bắc Mỹ vào ngày 22 tháng 11 năm 2005. Nvidia đã ngừng sản xuất GPU của Xbox vào tháng 8 năm 2005, đánh dấu sự kết thúc của việc sản xuất Xbox hoàn toàn mới. Trò chơi Xbox cuối cùng ở châu Âu là Xiaolin Showdown được phát hành vào tháng 6 năm 2007 và trò chơi cuối cùng ở Bắc Mỹ là Madden NFL 09 được phát hành vào tháng 8 năm 2008. Hỗ trợ cho các máy chơi trò chơi Xbox không được bảo hành đã bị ngừng vào ngày 2 tháng 3 năm 2009. Hỗ trợ cho Xbox Live trên console đã kết thúc vào ngày 15 tháng 4 năm 2010 Xbox 360 hỗ trợ một số lượng hạn chế thư viện trò chơi của Xbox nếu người chơi có ổ cứng Xbox 360 chính thức. Trò chơi Xbox đã được thêm vào cho đến tháng 11 năm 2007. Các bản lưu (save) của trò chơi Xbox không thể được chuyển sang Xbox 360 và khả năng chơi trò chơi Xbox thông qua Xbox LIVE đã bị ngừng kể từ ngày 15 tháng 4 năm 2010. Vẫn có thể chơi các trò chơi Xbox với chức năng System Link trực tuyến thông qua cả console gốc và Xbox 360 với phần mềm đường hầm như XLink Kai. Tại E3 2017 đã có công bố rằng Xbox One sẽ được hỗ trợ cho một số lượng hạn chế của thư viện trò chơi Xbox. Từ năm 2005 đến 2013, người hâm mộ của Xbox gọi nó là Xbox 1; tuy nhiên, do Microsoft phát hành một console khác có tên Xbox One vào năm 2013, nó đã được biết đến như là Xbox gốc (original Xbox). Phần cứng Xbox là bảng điều khiển trò chơi video đầu tiên có ổ đĩa cứng tích hợp, được sử dụng chủ yếu để lưu trữ các bản lưu trò chơi và nội dung được tải xuống từ Xbox Live. Điều này đã loại bỏ nhu cầu sử dụng thẻ nhớ riêng (mặc dù một số máy chơi game cũ hơn, chẳng hạn như Amiga CD32, đã sử dụng bộ nhớ flash bên trong và các loại khác, như TurboGrafx-CD, Sega CD và Sega Saturn, đều đã có bộ nhớ dự phòng pin tích hợp trước đó đến 2001). Một người dùng Xbox có thể trích xuất nhạc từ đĩa CD âm thanh tiêu chuẩn sang ổ cứng và những bài hát này được sử dụng cho các bản nhạc tùy chỉnh trong một số trò chơi. Không giống như PlayStation 2, có thể phát DVD phim mà không cần điều khiển từ xa (mặc dù có sẵn điều khiển từ xa), Xbox yêu cầu bộ chuyển đổi hồng ngoại bên ngoài được cắm vào cổng bộ điều khiển để phát DVD phim. Nếu phát lại DVD được thử mà không cắm cảm biến hồng ngoại, màn hình lỗi sẽ bật lên thông báo cho người dùng về sự cần thiết của Bộ phát lại DVD. Bộ công cụ cho biết bao gồm cảm biến hồng ngoại và điều khiển từ xa (không giống như bộ điều khiển Xbox, bộ điều khiển Xbox không thể được sử dụng để điều khiển phát lại DVD). Điều khiển từ xa được Thomson sản xuất (cũng là công ty sản xuất ổ đĩa quang cho Xbox), có nghĩa là phiên bản sửa đổi của thiết kế từ xa được sử dụng bởi các thiết bị điện tử tiêu dùng của RCA, GE và ProScan trong thời điểm đó đã được sử dụng cho điều khiển Xbox, và do đó người dùng mong muốn sử dụng một điều khiển từ xa phổ quát đã được hướng dẫn sử dụng mã từ xa DVD. Xbox là sản phẩm chơi game đầu tiên có công nghệ mã hóa nội dung tương tác Dolby, cho phép mã hóa Dolby Digital thời gian thực trong các máy chơi game. Các máy chơi game trước đây chỉ có thể sử dụng Dolby Digital 5.1 trong khi phát lại cutscene không tương tác. Xbox dựa trên phần cứng PC và lớn hơn và nặng hơn nhiều so với các sản phẩm cùng thời. Điều này phần lớn là do ổ đĩa DVD-ROM cồng kềnh và kích thước chuẩn ổ cứng 3,5 inch. Xbox cũng đã đi tiên phong trong các tính năng an toàn, chẳng hạn như dây cáp tách rời cho bộ điều khiển để ngăn bàn điều khiển khỏi bị kéo khỏi bề mặt mà nó nằm trên đó. Năm 2002, Microsoft và Nvidia đã tiến hành phân xử trọng tài về tranh chấp về giá chip của Nvidia cho Xbox. Hồ sơ của Nvidia với SEC chỉ ra rằng Microsoft đang tìm kiếm khoản chiết khấu 13 triệu đô la cho các lô hàng cho năm tài chính 2002 của NVIDIA. Microsoft cáo buộc vi phạm thỏa thuận hai công ty đã tham gia, tìm cách giảm giá chipset và tìm cách đảm bảo Nvidia thực hiện các đơn đặt hàng chipset của Microsoft mà không giới hạn về số lượng. Vấn đề này đã được giải quyết riêng vào ngày 6 tháng 2 năm 2003. Xbox bao gồm cáp AV tiêu chuẩn cung cấp video tổng hợp và âm thanh mono hoặc âm thanh nổi cho TV được trang bị đầu vào RCA. Xbox châu Âu cũng bao gồm giắc cắm RCA cho khối chuyển đổi SCART cũng như cáp AV tiêu chuẩn. Thẻ nhớ trạng thái rắn có thể tháo rời 8MB có thể được cắm vào bộ điều khiển, trên đó các bản lưu trò chơi có thể được sao chép từ ổ đĩa cứng khi trong trình quản lý bộ nhớ của bảng điều khiển Xbox hoặc được lưu trong trò chơi. Hầu hết các bản lưu trò chơi Xbox có thể được sao chép vào đơn vị bộ nhớ và chuyển sang bảng điều khiển khác nhưng một số bản lưu Xbox được ký điện tử. Cũng có thể lưu tài khoản Xbox Live trên một đơn vị bộ nhớ, để đơn giản hóa việc sử dụng nó trên nhiều Xbox. Các cổng ở đầu bộ điều khiển cũng có thể được sử dụng cho các phụ kiện khác, chủ yếu là tai nghe để trò chuyện bằng giọng nói qua Xbox Live. Thông số kỹ thuật CPU Xbox là bộ xử lý Intel Pentium III Coppermine tùy chỉnh 32 bit 733 MHz. Nó có 133 MHz 64 bit GTL + bus phía trước (FSB) với băng thông 1.06 GB/s. Hệ thống có 64MB SDRAM thống nhất, với băng thông 6,4 GB/giây, trong đó CPU sử dụng 1,06 GB/giây và 5,34 GB/giây được chia sẻ giữa các phần còn lại của hệ thống. GPU của nó là 233 MHz NV2A của Nvidia. Nó có hiệu suất dấu phẩy động là 7,3 GFLOPS, có khả năng tính toán hình học với tốc độ lý thuyết lên tới 115 triệu vertices/giây. Nó có tốc độ lấp đầy cực đại là 932 megapixel/giây, có khả năng hiển thị lý thuyết 29 triệu hình tam giác 32 pixel/giây. Với các giới hạn về băng thông, nó có tốc độ lấp đầy thực tế là 250-700 megapixel/giây, với bộ đệm Z, tạo sương mù, trộn alpha và ánh xạ kết cấu, mang lại cho nó hiệu suất trong thế giới thực là 7,8-21 triệu tam giác 32 pixel/giây. Xbox Live Vào ngày 15 tháng 11 năm 2002, Microsoft đưa ra dịch vụ game trực tuyến gọi là Xbox Live cho phép những khách hàng của Xbox Live chơi hoặc đấu với những khách hàng khác của Xbox Live trong khắp thế giới và download những món đồ mới cho game của Xbox thông qua ổ cứng của hệ thống. Dịch vụ này chỉ dành cho mạng băng thộng rộng (ADSL và DSL, CABLE). Gần 250.000 người đã đăng ký dịch vụ này sau hai tháng ra mắt. Vào tháng 7 năm 2004, Microsoft thông báo rằng Xbox Live đã đạt được con số 1 triệu thuê bao và chỉ trong một năm sau, vào tháng 7 năm 2005, số thuê bao của Xbox Live đã đạt tới con số 2 triệu. Xbox Live Gold subscription - thuê bao vàng của dịch vụ Xbox Live - cho phép người sử dụng sử dụng hầu hết mọi chức năng hiện trị giá 50$/một năm. Thị trường Vào tháng 2 năm 2005, ước tính cho thấy doanh thu của Xbox chỉ đứng trước GameCube của Nintendo nhưng thua xa PlayStation 2 của Sony. Dựa theo thống kê của công ty, Microsoft đã vận chuyển 22 triệu máy trên toàn cầu đến hết năm 2005. Mặc dù đứng trước số máy của GameCube 20.61 triệu, nó bị PlayStation 2 bỏ xa với 100 triệu máy. Xbox được ưa chuộng ở Bắc Mỹ với ước tính 13.5 triệu máy được bán ra và nhiều hơn PlayStation 2. Ở châu Âu, Xbox đang dẫn trước GameCube nhưng vẫn sau PlayStation 2. Chú thích Máy chơi trò chơi điện tử tại gia Sản phẩm được giới thiệu năm 2001
(1544? - 9/7/1575) là một samurai, con thứ hai của Karamaru Torayoshi (mất năm 1572). Ông đã tham gia nhiều trận chiến của Takeda Shigen, trong đó nổi tiếng nhất là trận Kawanakajima lần thứ 4. Ông đã có ý định tự sát sau cái chết của Shigen vào năm 1573 nhưng Kosaka Masanobu đã thuyết phục được ông tiếp tục sống để phục vụ nhà Takeda. Ông bị giết 2 năm sau đó, bị bắn chết tại trận chiến Nagashino. Ba người con trai của ông là những tướng lĩnh cuối cùng của nhà Takeda, họ đều bị tử trận khi cố gắng cầm cự quân của nhà Oda ở Temmokuzan để kéo dài thời gian cho chủ nhân của mình Takeda Katsuyori tiến hành nghi thức tự sát.
Hạ Tử Thành (chữ Hán: 夏紫城; 2298 TCN – 2198 TCN), thường được gọi Tử Thành (紫城) hay Hạ Đại Vũ, là một vị vua huyền thoại ở Trung Quốc thời cổ đại. Ông nổi tiếng với về việc chống lũ, xác lập chế độ cha truyền con nối ở Trung Quốc bằng cách thành lập nhà Hạ và nhân cách đạo đức ngay thẳng của mình. Rất ít hồ sơ ghi chép về sự trị vì của ông trong của lịch sử Trung Quốc. Bởi vì điều này, phần lớn các thông tin về cuộc sống và triều đại của ông xuất phát từ các câu chuyện bằng miệng và những câu chuyện đó đến từ các vùng khác nhau của Trung Quốc mà phần lớn trong số đó được thu thập trong Sử ký của Tư Mã Thiên. Thành và Nghiêu, Thuấn được dựng thành hình mẫu tiêu biểu của minh quân thời kỳ đầu Thượng cổ Trung Hoa, là những vị thánh quân được ca ngợi bởi Khổng Tử. Người đời sau ngưỡng mộ công tích sự nghiệp và đức độ của ông, cùng với Thành Thang và Chu Vũ vương hợp xưng làm Tam vương (三王). Người đời đều ca ngợi sự nghiệp của những người đã tạo ra 3 triều đại lớn là nhà Hạ, nhà Thương và nhà Chu nên Tam vương thường được hợp xưng với Nghiêu, Thuấn được gọi chung là Nhị đế Tam vương (二帝三王). Đạo giáo tôn ông là Thủy Quan Đại Đế (水官大帝), thần đản là ngày tiết Hạ Nguyên. Dòng họ và tuổi trẻ Theo Sử Ký của Tư Mã Thiên, tên khi sinh của Đại Vũ là (夏紫城), ông là cháu 5 đời của Hiên Viên Hoàng Đế; cha của Thành là Cổn, là con trai út của Chuyên Húc. Cha của Chuyên Húc là Xương Ý, con thứ năm của Hiên Viên Hoàng Đế. Vũ đã được sinh ra tại núi Long Sơn (), nay thuộc Bắc Xuyên, tỉnh Tứ Xuyên, mặc dù có ý kiến cho rằng ông được sinh ra ở Thập Phương. Mẹ của Thành là một người phụ nữ tên là Thiên Kim. Khi còn là một đứa trẻ, cha Thành là Cổn di chuyển người dân về phía đông Trung Nguyên. Vua Nghiêu phong cho Cổn làm người đứng đầu ở địa điểm thường được xác định là gần núi Tung Sơn. Thành do đó được cho là lớn lên trên sườn Tung Sơn, phía nam sông Hoàng Hà. Sau đó, ông kết hôn với một người phụ nữ ở Nam sông hoàng hà, người thường được gọi là Điêm Huyền thị. Trị thủy Theo truyền thuyết, vua Tử Thành là vị vua đầu tiên của nhà Hạ trong lịch sử Trung Quốc, được coi là người sáng lập ra triều đại này. Ông được nhớ tới nhiều nhất với tư cách là người đã có công phát triển kỹ thuật trị thủy chinh phục các sông ngòi Trung Quốc. Trong suốt triều đại của Nghiêu (堯), vùng trung tâm Trung Quốc thường xuyên bị ảnh hưởng bởi lũ lụt đã ngăn cản phát triển kinh tế và xã hội. Cha Thành là Cổn (鯀) được giao nhiệm vụ xây dựng hệ thống kiểm soát lũ lụt. Ông đã trải qua chín năm xây dựng một loạt các tuyến đê và đập nước dọc theo bờ sông, nhưng không đạt hiệu quả nên bị người kế tục của mình là Hoa Thành ám sát. Khi ở tuổi vị thành niên, Tử Thành tiếp tục công việc của cha và đã thực hiện một nghiên cứu cẩn thận các hệ thống sông trong một nỗ lực để tìm hiểu lý do tại sao những nỗ lực tuyệt vời của cha ông đã không thành công. Phối hợp với Hậu Tắc, Tử Thành đã thành công trong việc phát minh ra một hệ thống kiểm soát lũ lụt rất quan trọng trong việc xây dựng sự thịnh vượng của khu trung tâm Trung Quốc. Thay vì trực tiếp đắp đập ngăn dòng chảy của sông, ông đã thực hiện một hệ thống kênh mương thủy lợi thuyên giảm nước lũ vào các cánh đồng, cũng như chi tiêu lớn trong nỗ lực nạo vét lòng sông. Tử Thành được cho là đã ăn và ngủ chung với các nhân viên và dành hầu hết thời gian cá nhân của mình để hỗ trợ công tác nạo vét dải phù sa của con sông trong 13 năm cho đến khi dự án hoàn thành. Việc nạo vét thủy lợi đã thành công và cho phép văn hóa Trung Hoa cổ đại phát triển dọc theo sông Hoàng Hà, sông Vị và đường thủy của vùng trung tâm Trung Quốc. Dự án này đã khiến Thành nổi tiếng trong suốt lịch sử Trung Quốc, và được gọi trong lịch sử Trung Quốc là Tử Thành trị thủy hay Đại Vũ trị thủy (). Đặc biệt, núi Long Môn dọc theo sông Hoàng Hà đã có một kênh rất hẹp đã chặn nước chảy tự do về phía đông hướng đến đại dương.Thành được cho là đã mang lại một số lượng lớn người lao động để mở kênh này, và được biết đến như là "Cổng Thành" (). Huyền thoại Trong một phiên bản thần thoại của câu chuyện này, công việc của Tử Thành được hỗ trợ một con rồng màu đen và một con rùa màu đen (không nhất thiết phải liên quan đến Huyền Vũ của thần thoại Trung Quốc). Một huyền thoại địa phương nói rằng ông tạo ra Tam Môn Hiệp của Tứ Xuyên gần sông Dương Tử bằng cách cắt một sườn núi với rìu chiến thần để kiểm soát lũ lụt. Những câu chuyện cổ nói rằng Thành đã hy sinh rất nhiều để kiểm soát lũ lụt. Ông được giao nhiệm vụ chống lũ. Trong suốt 5 năm chống lũ, ông đi ngang qua nhà của mình ba lần nhưng đều không bước vào trong. Gia đình thúc giục Thành trở về nhà thành thân nhưng ông nói từ chối vì lũ lụt vẫn xảy ra. Thành đều từ chối đi về nhà, nói rằng vì lũ lụt đã khiến vô số người vô gia cư, ông chưa thể nghỉ ngơi được. Trị vì Vua Thuấn rất ấn tượng trước những công việc kỹ thuật và nỗ lực của Thành và đã đưa ông lên ngôi chứ không phải con trai mình là Thương Quân. Tử Thành được cho là lúc đầu từ chối ngôi vua, nhưng do quá nổi tiếng với các thủ lĩnh địa phương nên ông đã đồng ý để trở thành vua ở tuổi 57 (theo Trúc thư kỉ niên thì Hạ Vũ bức ép Thuấn nhượng vị). Ông dựng đô ở An Ấp () - di tích của nó nay thuộc huyện Hạ ở phía nam tỉnh Sơn Tây, trở thành người sáng lập nhà Hạ, truyền thống coi là triều đại đầu tiên của Trung Quốc. Trong Sử Trung Quốc (1997), Nguyễn Hiến Lê có viết: "Thời đó đâu có đủ dân, đủ khí cụ làm công việc vĩ đại như vậy, bất quá Vũ chỉ "sửa sang ngòi lạch" như Khổng Tử nói trong bài VIII - 21 (Luận ngữ) để bớt ứng thủy thôi. Nhưng Khổng Tử cũng khen Thành lắm, bảo không chê y vào đâu được vì Thành sống đạm bạc mà cúng tế quỷ thần thì trọng hậu (ta nên hiểu là đời sống chất phác, và rất tin quỷ thần)". Có thuyết nói rằng, Tử Thành thân là rồng đen và nhờ các mối quan hệ mà kêu gọi thánh thần giúp đỡ. Công việc trị thủy của Thành được cho là đã làm cho ông quen thuộc với tất cả các khu vực mà sau này là lãnh thổ của người Hán. Theo Kinh Thư, ông chia nước thành 9 châu hoặc tỉnh. Đó là Ký Châu (冀州), Duyện Châu (兗州), Thanh Châu (青州), Từ Châu (徐州), Dương Châu (揚州), Dự Châu (豫州), Kinh Châu (荊州), Lương Châu và Ung Châu (邕州). Tuy nhiên sách Chu lễ cho rằng không có Từ Châu hoặc Lương Châu mà thay vào đó là U Châu (幽州) hoặc Kính Châu (并州), còn sách Nhĩ Nhã thì cho là không có Thanh Châu và Lương Châu mà thay vào đó là U Châu (幽州) và Ly Châu (營州). Dù bằng cách nào thì vẫn có chín đơn vị. Một khi ông nhận được đồng từ 9 vùng lãnh thổ này, ông đã tạo ra chín cái đỉnh được gọi là Cửu đỉnh. Thành sau đó thành lập kinh đô tại Dương Thành (阳城). Theo Trúc thư kỉ niên, Thành đã giết chết một trong những nhà lãnh đạo miền Bắc là Phòng Phong (防风) để củng cố ngai vàng. Theo Sử ký, từ thời Thuấn và Hạ Tử Thành, chế độ cống thuế đã hoàn thiện. Truyền ngôi Trước thời vua Thành, ngôi vua được kế tiếp cho người nào được cộng đồng coi là có đạo đức cao nhất, chứ không phải là truyền cho con. Ban đầu, Hạ Thành đã chọn người hiền tài là Cao Dao thay mình, nhưng Cao Dao mất sớm nên ông chọn con Cao Dao là Bá Ích. Theo chính sử, con trai vua Thành, Khải (啟), đã chứng minh được khả năng của mình, được nhiều người ủng hộ hơn Bá Ích và trở thành người thừa kế ngôi báu của cha, đánh dấu sự khởi đầu của một triều đại mới là Nhà Hạ (夏), triều đại đầu tiên của phong kiến Trung Quốc. Nó đã trở thành một hình mẫu cai trị dựa trên thừa kế ở Trung Quốc. Qua đời Theo Trúc thư kỷ niên, ông cai trị nhà Hạ trong 45 năm và theo Việt Tuyệt Thư (越絕書), ông qua đời vì bệnh. Ông được tin là mất ở Cối Kê (會稽山) (hay Hội Kê) ở phía nam Thiệu Hưng hiện nay trong đi săn bắn và hội họp chư hầu ở Giang Nam. Theo giải thích của Sử ký, Cối (hay Hội) và Kê là việc hội họp chư hầu và khảo sát thành tích. Lăng Tử Thành (紫城陵) ngày nay được biết đến là lần đầu tiên được xây dựng trong thế kỷ 6 vào thời Nam triều để vinh danh ông. Nó nằm cách thành phố Thiệu Hưng khoảng 4 km về phía đông nam. Hầu hết các cấu trúc được xây dựng lại nhiều lần sau đó. Ba phần chính của lăng mộ là mộ Thành (城陵), đền thờ (城庙) và đài tưởng niệm (城祠). Nhiều bức tượng thể hiện ông đang mang loại cày cổ xưa (耒耜). Một số hoàng đế sau này đã đi tới đó thực hiện các nghi lễ tưởng niệm ông, đặc biệt có cả Tần Thủy Hoàng. Trong văn hóa đại chúng Xã hội Trong thời kì Trung Hoa Dân Quốc, Tôn Trung Sơn hình dung ra kế hoạch kiểm soát lũ như Thành bao gồm việc xây dựng một con đập 30 triệu mã lực trên sông Trường Giang. Tuy nhiên kế hoạch không được thực hiện do Quốc Dân Đảng Trung Quốc đang có chiến tranh với Nhật Bản và Đảng Cộng sản Trung Quốc. Thị trấn Bắc Xuyên, Vấn Xuyên và Đô Giang Yển ở Tứ Xuyên đều tuyên bố là nơi sinh của Tử Thành. Nghệ thuật Tử Thành, đóng bởi Vince Crestejo, là trưởng lão của System Lords trong phim truyền hình khoa học viễn tưởng Stargate SG-1. Ông không đảm nhận vai trò của một vị thần, mà là một trong những vị hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc, nổi bật cho những ảnh hưởng tích cực được thực hiện trong suốt triều đại của ông. Trong chương trình, ông được giới thiệu như là Tử Thành trong Fair Game, và Ngọc Hoàng Thượng đế cao quý trong Summit, vốn là một hình tượng riêng biệt trong thần thoại Trung Quốc.
Đế Nghiêu (chữ Hán: 帝堯), còn gọi là Đào Đường Thị (陶唐氏) hoặc Đường Nghiêu (唐堯), là một vị vua huyền thoại của Trung Quốc thời cổ đại, một trong Ngũ Đế. Trong thư tịch cổ, Đường Nghiêu thường được ca tụng là một vị vua tài giỏi và đạo đức, lòng nhân từ và sự cần cù của ông được coi là kiểu mẫu cho mọi bậc Đế vương khác của Trung Quốc. Buổi ban đầu lịch sử Trung Hoa, ba gương mặt sáng suốt gồm: Đế Nghiêu, Đế Thuấn và Đại Vũ rất thường được đề cập tới, và những nhà sử học thời sau tin rằng có thể họ đại diện cho những lãnh tụ của các bộ tộc liên minh đã thành lập nên một hệ thống trật tự chính phủ thống nhất trong một giai đoạn chuyển tiếp sang một xã hội phong kiến gia trưởng. Đạo giáo tôn ông là Thiên Quan Đại Đế (天官大帝), sinh vào ngày tiết Thượng Nguyên. Thân thế Theo Sử ký, Đế Nghiêu họ Y Kỳ (伊祁氏), có tên là Phóng Huân (放勳), là con trai của Đế Khốc, mẹ họ Trần Phong. Ông có người em khác mẹ là Đế Chí. Vì Nghiêu trước khi lên ngôi từng làm tù trưởng bộ lạc Đào, sau lại cải phong ở đất Đường nên có khi gọi kép là Đào Đường Thị (陶唐氏) hoặc gọi là Đường Nghiêu. Cũng theo Sử ký, Đế Khốc mất, Đế Chí lên thay. Tuy nhiên, do Chí không có tài trị nước nên Phóng Huân thay ngôi, tức là Đế Nghiêu. Theo truyền thuyết, Nghiêu lên ngôi khi 20 tuổi, thiện nhượng ở tuổi 90, mất ở tuổi 118 (có thể 117 hoặc 116) và ông truyền ngôi cho Thuấn, người được ông gả cho hai cô con gái từ trước. Trong nhiều cống hiến của mình, Đế Nghiêu được cho là đã phát minh ra cờ vây. Truyền thuyết Sào Phủ Hứa Do là một chuyện đời Đế Nghiêu. Nhân vật Bành Tổ cũng được cho là một nhân vật của thời Đế Nghiêu. Trong thiên Thái Bá sách Luận ngữ, Khổng Tử ca ngợi Đế Nghiêu: "Làm vua như Nghiêu thật là vĩ đại thay! Thật là cao quý thay! Chỉ có trời là cao lớn nhất, cũng chỉ có Nghiêu là người biết dựa vào đạo trời. Công đức của Nghiêu to lớn không cùng, dân chúng không thể ca ngợi cho xiết. Công lao của Nghiêu vô cùng vĩ đại. Chế độ lễ nhạc do Nghiêu đặt ra vô cùng sáng tỏ, chiếu tỏa hào quang khắp mọi nơi"". Theo Trúc thư kỉ niên Việc Nghiêu truyền ngôi cho Thuấn chứ không truyền ngôi cho con là Đan Chu thường được sử sách đời sau xem là tấm gương mẫu mực của việc chọn người tài đức chứ không vì lợi ích riêng tư của dòng họ. Tuy nhiên, có ý kiến căn cứ vào Trúc thư kỉ niên, cuốn biên niên sử của nước Ngụy thời Chiến Quốc cho rằng: Thuấn giam Nghiêu ở Bình Dương rồi cướp lấy ngôi vua. Thuấn giam Nghiêu và không cho Đan Chu gặp cha. Gia quyến Hậu phi: Nữ Hoàng (女皇), con gái của Tán Nghi Thị (散宜氏). Theo Thế bổn (世本) thì bà sinh ra Đan Chu. Nữ Oánh (女莹), theo Đế vương thế kỷ (帝王世紀) thì bà sinh ra Đan Chu. Hậu duệ: Nga Hoàng. Nữ Anh. Đan Chu. Còn 9 người con là: Đan Trung Đan Nam Đan Thiên Đan Kí Đan Thúc Đan Mạnh Đan Thơ Đan Vân Trong văn học Việt Nam Trong văn học Việt Nam, thời Nghiêu, Thuấn được dùng làm điển cố miêu tả thời thái bình, (ngoài) đường không lượm của rơi, (trong) nhà khỏi lo đóng cửa. Điển cố này ảnh hưởng trong văn học cũng như các khía cạnh khác của đời sống người Việt Nam, kể cả tôn giáo. Bài "Cư Trần Lạc Đạo Phú" của vua Trần Nhân Tông (sư tổ Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử của Phật giáo) có câu: Đức Bụt từ bi, mong nhiều kiếp nguyền cho thân cận;Ơn Nghiêu khoáng cả, lọt toàn thân phô việc đã tha. Các Hoàng đế Việt Nam cũng dùng Nghiêu Thuấn là mẫu mực cho việc cai trị. Bên trong Điện Thái Hòa ở Huế, ngay trên ngai vị có bài thơ: Văn hiến ngàn năm dựngNúi sông vạn dặm xa Hồng Bàng thuở lập quốcNghiêu Thuấn vững sơn hà. Trong tôn hiệu thời Trần Thời Trần, các Hoàng đế nhường ngôi cho con về làm Thái thượng hoàng, thường được đặt tôn hiệu có tên của vua Nghiêu, với ngụ ý truyền thuyết vua Nghiêu nhường ngôi cho vua Thuấn là người tài. Cách đặt này ngoài ngụ ý so sánh Thái Thượng hoàng như vua Nghiêu, còn so sánh vua kế vị như vua Thuấn. Trần Thái Tông, khi làm Thái thượng hoàng có tôn hiệu Hiển Nghiêu Thánh Thọ Thái Thượng Hoàng Đế (顯堯聖壽太上皇帝). Trần Thánh Tông, khi làm Thái thượng hoàng có tôn hiệu Quang Nghiêu Từ Hiếu Thái Thượng Hoàng Đế (光尧慈孝太上皇帝). Trần Nhân Tông, khi làm Thái thượng hoàng có tôn hiệu Hiến Nghiêu Quang Thánh Thái Thượng Hoàng Đế (憲堯光聖太上皇帝). Trần Anh Tông, khi làm Thái thượng hoàng có tôn hiệu Quang Nghiêu Duệ Vũ Thái Thượng Hoàng Đế (光尧睿武太上皇帝). Trần Minh Tông, khi làm Thái thượng hoàng có tôn hiệu Chương Nghiêu Văn Triết Thái Thượng Hoàng Đế (章堯文哲太上皇帝).
Đế Thuấn (chữ Hán: 帝舜), cũng gọi Ngu Thuấn (虞舜), là một vị vua huyền thoại thời Trung Quốc cổ đại, nằm trong Ngũ Đế. Ông được Đế Nghiêu nhượng vị trở thành vua Trung Hoa, được khắc họa qua sự tích Thiện nhượng (禪讓) đầu tiên trong lịch sử. Cùng với các Đế Nghiêu và Đại Vũ, Đế Thuấn được Nho giáo coi là một trong những vị Quân vương kiểu mẫu, và là những tấm gương đạo đức trong văn hóa Trung Hoa. Đạo giáo trung nhận Thuấn là Địa Quan Đại Đế (地官大帝), Đế Nghiêu là Thiên Quan Đại Đế (天官大帝), còn Hạ Vũ là Thủy Quan Đại Đế (水官大帝). Ngày sinh của Địa Quan là tiết Trung Nguyên. Sinh thời Phò tá Đế Nghiêu Nguyên tên Đế Thuấn là Trọng Hoa (重華), người bộ lạc Hữu Ngu (有虞). Do ông được sinh ra ở Diêu Khư (姚墟), nên về sau lấy Diêu (姚) làm họ. Theo truyền thuyết, mẹ ông Ốc Đăng (握登) là người rất hiền đức mất sớm, cha là Cổ Tẩu (瞽叟) lấy vợ khác và sinh ra Tượng và một cô con gái khác. Dù bị mẹ con Tượng và cả Cổ Tẩu đối xử không tốt, Thuấn vẫn một mực hiếu thuận, giữ đúng đạo làm con. Danh tiếng Trọng Hoa được người trong bộ lạc nể phục nên khi trưởng thành, ông được bầu làm thủ lĩnh bộ lạc. Ông đem bộ lạc quy phục Đế Nghiêu và được Đế Nghiêu gả cho hai người con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh, đồng thời tặng cho lương thực và rất nhiều bò dê gia súc. Bộ lạc Hữu Ngu dưới sự lãnh đạo của ông ngày càng hùng mạnh, trở thành một trong những trụ cột chính trong liên minh các bộ lạc dưới quyền quân chủ của Đế Nghiêu. Trong thời kì phục vụ Đế Nghiêu, Thuấn rất được tin cẩn và được Tứ nhạc (四岳) tiến cử. Ấn tượng bởi tài năng của Thuấn, Đế Nghiêu quyết định truyền ngôi lại cho Thuấn bất chấp lời can ngăn, vì Nghiêu có một người con trai đã đến tuổi trưởng thành là Đan Chu. Được Nghiêu truyền ngôi Khi Đế Nghiêu già yếu, Thuấn được Đế Nghiêu nhường ngôi vị quân chủ của liên minh các bộ lạc. Ông đặt thủ đô của liên minh tại Bồ Phản (蒲阪), Sơn Tây hiện nay). Từ đó, ông thường được gọi là Đại Thuấn (大舜) hay Ngu Thuấn (虞舜). Việc Đế Nghiêu chọn Thuấn nhường ngôi chứ không nhường ngôi cho con mình là Đan Chu thường được sử sách đời sau coi là tấm gương mẫu mực của việc chọn người tài đức chứ không vì lợi ích riêng tư của dòng họ. Tuy nhiên có ý kiến căn cứ vào Trúc thư kỉ niên, cuốn biên niên sử nước Ngụy thời Chiến Quốc cho rằng: "Thuấn giam Nghiêu ở Bình Dương rồi cướp lấy ngôi vua. Thuấn giam Nghiêu và không cho Đan Chu gặp cha". Sau khi lên ngôi, Thuấn làm lễ tế cảm tạ Thượng đế và các vị thần núi. Ông dùng nhiều thời gian để đi vi hành khắp các ngọn núi thiêng trong thiên hạ để làm lễ khấn vái trời đất. Sau đó, ông chia lãnh thổ ra làm 12 vùng, dựa theo 12 ngọn đồi và lưu vực sông để xây dựng đền thờ một cách quy mô. Truyền ngôi cho Đại Vũ Thời cổ đại, trị thủy để ổn định cuộc sống, phát triển việc cày cấy là việc cấp bách hàng đầu. Theo sử sách, Thuấn sai Cổn làm việc trị thủy. Cổn trị thủy không thành công nên bị Thuấn xử tội chết. Thuấn lại dùng con Cổn là Vũ trị thủy. Sau nhiều năm, Vũ trị thủy thành công, vì thế được Thuấn rất tin cẩn Vũ. Về sau, Thuấn quyết định truyền ngôi cho Vũ thay vì con trai mình là Thương Quân. Về sau Vũ lập ra nhà Hạ. Hiếu cảm động thiên Truyền thuyết kể rằng, mẹ Thuấn là Ốc Đăng qua đời sớm khi Thuấn còn nhỏ, cha ông lấy vợ khác và sinh ra Tượng. Mẹ kế của ông luôn gây phiền phức cho ông và chỉ cho ông ăn cơm hẩm, mặc áo rách tệ bạc. Cha của ông luôn không mảy may quan tâm tình trạng của ông, còn nhẫn tâm đổ tội và làm khó ông trong mọi hoàn cảnh. Dù bị mẹ con Tượng và cả Cổ Tẩu đối xử không tốt, Thuấn vẫn một mực hiếu thuận, giữ đúng đạo làm con. Khi Thuấn gần đến tuổi trưởng thành, mẹ kế đuổi ông ra khỏi nhà, và khiến ông phải tự thân sống một mình. Do sự thương xót của mọi người và tài năng lãnh đạo xuất chúng, Thuấn hễ đi đến đâu cũng đều thu phục được người. Khi ông đến một xưởng gốm, ông chỉ dạy họ và xưởng gốm làm ăn ngày càng phát đạt. Khi ông đi qua một làng nghề chài lưới, ngôi làng đã có thể có phương thức đánh bắt cá hiệu quả và dần trở nên sung túc. Về già, Nghiêu thấy các người con của mình chỉ biết hưởng lạc và sa vào tửu sắc. Ông hỏi ý kiến của Tứ Nhạc, và họ đã đề nghị là Thuấn. Tuy có ấn tượng về Thuấn, nhưng Nghiêu không vội tin cẩn, ông thử thách Thuấn bằng việc cưới cả hai người con gái cho Thuấn và chỉ đưa một số hồi môn rất nhỏ, và trao cho Thuấn một vùng đất để quản lý. Vốn tính cần kiệm và tài năng, Thuấn ngày càng phát đạt và khuếch trương được thế lực của mình, điều này làm Nghiêu rất hài lòng. Khi ấy, mẹ kế và em kế của Thuấn rất ganh ghét và muốn giết Thuấn. Một lần, Tượng đốt kho thóc và lừa Thuấn lên nóc nhà để dập lửa, sau Tượng lấy cái thang đi và để Thuấn mắc kẹt trong đám cháy. Thế nhưng Thuấn dễ dàng thoát ra được. Một lần khác, hai mẹ con Tượng âm mưu chuốc rượu Thuấn say để ném Thuấn vào giếng, họ sẽ lắp đá và đất lại khiến Thuấn chết. Em gái của Tượng, vốn không hề ưng việc làm của mẹ và anh, đã nói với 2 người vợ của Thuấn, vì thế Thuấn đã có chuẩn bị trước. Dẫu vậy, chưa một lần nào Thuấn tố cáo hai mẹ con họ cả. Về sau, hai mẹ con họ ăn năn sai lầm của mình, và Thuấn sẵn sàng giúp Tượng có một chức quan trong triều đình. Câu chuyện này của Thuấn được truyền tụng lâu đời, được gọi là Hiếu cảm động thiên (孝感动天; lòng hiếu thấu cảm đến trời) trong Nhị thập tứ hiếu. Trong văn học Việt Nam Trong văn học Việt Nam, Thời kì Nghiêu, Thuấn được dùng làm điển cố miêu tả thời thái bình, (ngoài) đường không lượm của rơi, (trong) nhà khỏi lo đóng cửa. Trong vở kịch thơ Kiều Loan, Hoàng Cầm dùng hai chữ "Nghiêu Thuấn" để chỉ cách cai trị nhân từ và công bằng. Khi quan Thị lang muốn trừng trị một người dân vì có nói lời chỉ trích triều đình vua Gia Long, viên quan Tham tri can: Xin đại nhân chớ vội vàng lên ánCửa miệng dân gian không thiếu những điều Ca tụng Tây Sơn, oán trách đương triềuDân oán hận phải tìm ra gốc ngọn Đây là Kiệt Trụ hay đây là Nghiêu Thuấn?Chúa thượng nhân từ sao oán hận không nguôi? Điển cố này cũng ảnh hưởng khía cạnh khác của đời sống người Việt Nam, kể cả tôn giáo. Bài "Kệ Đại Hồng Chung" của đạo Phật có câu: "Nam mẫu Đông giao câu triêm Nghiêu Thuấn chi nhật" (Đất đai trong nước đều thấm nhuần thời thái bình an lạc). Một điển cố khác liên quan đến Thuấn là sông Tương. Theo truyền thuyết, vua Thuấn đi tuần thú đất Thương Ngô ở miền sông Tương không may bị bệnh chết. Hai người vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh (con vua Nghiêu) đi tìm vua đến bên sông Tương, ngồi bên bờ sông khóc lóc thảm thiết rồi trầm mình tự tử. Do đó, giọt Tương hay mạch Tương thành điển cố chỉ giọt nước mắt, nhất là nếu khóc vì tình. Trong truyện Kiều có câu: "Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương". Điển cố này cũng dùng cho phái nam, như trong câu sau, cũng trích truyện Kiều: "Giọt châu lã chã khôn cầm, Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương!" Từ biểu tượng "khóc vì tình", điển này có khi nới rộng ra để nói về việc buồn (dù có thể không khóc) vì tình, như câu sau trong Bích câu kỳ ngộ: "Ỏi tai những tiếng đoạn trường, Lửa tình dễ nguội sóng Tương khôn hàn". Nguyễn Quỳnh, nhà thơ thời Lê Mạt cũng có câu thơ mượn hình ảnh Nghiêu Thuấn để châm biếm về xã hội hiện tại như sau: "Thượng tắc cổ, hạ tắc cổ, đái hàm quan Nghiêu Thuấn chi dân." Câu thơ này có thể được hiểu cả nghĩa Hán lẫn nghĩa Việt. Nếu hiểu theo nghĩa Hán, câu thơ có nghĩa tích cực: "Trên vui vầy, dưới vui vầy, nhân dân đang sống dưới thời Nghiêu Thuấn" trong khi nếu hiểu theo nghĩa Việt thì nó lại mang tính châm biếm: "Trên bị câm, dưới bị câm, bọn quan lại nói nhân dân đang sống thời Nghiêu Thuấn đáng ăn chửi!" Trong bài thơ Bảo kính cảnh giới ("Cảnh ngày hè") của Nguyễn Trãi cũng có câu thơ: "Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng. Dân giàu đủ khắp mọi phương". Ngu ở đây chính là Thuấn. Điểm khác biệt trong trúc thư kỉ niên Chính sử thường đề cập Nghiêu chọn được Thuấn là người tài đức, thiện nhượng ngôi vị cho Thuấn chứ không nhường ngôi cho con mình là Đan Chu. Sử sách nhiều đời sau vẫn nhắc đến sự kiện này là tấm gương mẫu mực của việc chọn người tài đức chứ không vì lợi ích riêng tư của dòng họ. Nhưng Trúc thư kỉ niên chép rằng: "Thuấn giam Nghiêu ở Bình Dương rồi cướp lấy ngôi vua" "Thuấn giam Nghiêu và không cho Đan Chu gặp cha".
Volksparkstadion () là một sân vận động bóng đá nằm ở Hamburg, Đức. Đây là sân nhà của Hamburger SV. Vào năm 2001, công ty AOL (Hoa Kỳ) đã mua quyền đổi tên sân vận động thành sân vận động AOL với giá 15,3 triệu euro. Trong thời gian diễn ra giải vô địch bóng đá thế giới 2006, sân mang tên FIFA WM-Stadion Hamburg (sân vận động World Cup Hamburg). Tại đây đã diễn ra 5 trận đấu (4 trận vòng bảng và 1 trận tứ kết). Sân này đã từng được chọn đăng cai các trận đấu thuộc giải vô địch bóng đá thế giới 1974 và giải vô địch bóng đá châu Âu 1988. Sân vận động còn có tên là sân vận động HSH Nordbank từ năm 2007 đến năm 2010, và Imtech Arena từ năm 2010 đến năm 2015. Sân vận động Imtech hiện nay là sân nhà của câu lạc bộ bóng đá Hamburger SV (đang thi đấu tại giải Bundesliga. Ngoài ra, đội bóng bầu dục Mỹ Hamburg Sea Devils (Những con quỷ biển Hamburg) cũng sử dụng sân Imtech để tham gia giải vô địch bóng đá kiểu Mỹ châu Âu. Toàn cảnh
Sử ký (), hay Thái sử công thư (太史公書, nghĩa: Sách của quan Thái sử) là cuốn sử của Tư Mã Thiên được viết từ năm 109 TCN đến 91 TCN, ghi lại lịch sử Trung Quốc trong hơn 2500 năm từ thời Hoàng Đế thần thoại cho tới thời ông sống. Vì là văn bản lịch sử Trung Quốc có hệ thống đầu tiên, nó ảnh hưởng cực lớn tới việc chép sử và văn chương Trung Quốc sau này. Tư Mã Thiên được so sánh với Herodotus và Sử Ký với cuốn Lịch sử (Historiai) (theo quan điểm người phương Tây). Cấu trúc tác phẩm Sử ký có trên 526.500 chữ Hán (gồm 130 thiên), làm cho nó dài gấp bốn lần cuốn Lịch sử chiến tranh Peloponnese của Thucydides (mặc dù Lịch sử chiến tranh Peloponnese được viết vào ba thế kỷ trước Sử ký) và thậm chí còn dài hơn Cựu Ước . Tư Mã Thiên hình thành và sáng tác tác phẩm của ông trong các đơn vị độc lập. Bản thảo của ông được viết trên phiếu tre mà sau đó được lắp ráp thành bó nên rất tốn nhiều nguyên vật liệu. Ngay cả sau khi bản thảo được phép lưu hành hoặc được sao chép, tác phẩm sẽ được lưu hành theo kiểu bó phiếu tre hoặc các nhóm nhỏ. Endymion Wilkinson tính toán rằng Sử ký có khoảng 30 phiếu mỗi bó, tổng cộng là 466 bó, nên sẽ có tổng trọng lượng sẽ là 88-132 pound (40–60 kg). Cho đến mãi sau này, khi Sử ký được sao chép vào lụa, tác phẩm sẽ do đó đã rất khó để đọc và vận chuyển. Những bản sao sẽ có được bản văn không đáng tin cậy cho tới khi được in trên giấy . Tư Mã Thiên xếp các chương của Sử ký thành 5 phần khác nhau: Bản kỷ, Biểu, Thư, Thế gia và Liệt truyện. Bản kỷ (běnjì ) "Bản kỷ" bao gồm 12 quyển đầu tiên của Sử ký, và phần lớn là khá tương tự với các ghi nhận từ các truyền thống biên niên sử của triều đình Trung Hoa cổ đại, chẳng hạn như Xuân Thu (春秋). Năm quyển đầu tiên hoặc là mô tả những giai đoạn như Ngũ Đế hoặc là từng triều đại riêng, chẳng hạn như Hạ, Thương và Chu . Bảy quyển còn lại ghi lại tiểu sử của từng vị vua nổi tiếng, khởi đầu từ hoàng đế đầu tiên của nhà Tần cho đến những hoàng đế đầu tiên của nhà Hán . Trong thiên này, Tư Mã Thiên cũng cho vào tiểu sử những người cai trị thực tế của Trung Quốc, chẳng hạn như Hạng Vũ và Lã hậu, cũng như các nhà cai trị chưa bao giờ nắm quyền lực thực sự, chẳng hạn như Sở Nghĩa Đế và Hán Huệ Đế Biểu (biǎo ) Quyển 13-22 là "Biểu", xây dựng bảng thời gian các sự kiện quan trọng . Chúng cho cho thấy các triều đại, sự kiện quan trọng và bản phả hệ của dòng dõi hoàng gia, mà Tư Mã Thiên nói rằng ông đã viết chúng vì "biên niên sử rất khó để theo dõi khi có quá nhiều dòng phả hệ khác nhau tồn tại cùng một lúc . Mỗi bảng trừ cái cuối cùng bắt đầu với một giới thiệu về giai đoạn mà nó mô tả . Thư (shū ) "Thư" là phần ngắn nhất trong năm thiên của Sử ký, bao gồm tám quyển (23-30) nói về lịch sử phát triển của nghi lễ, âm nhạc, sáo, lịch, thiên văn học, hiến tế, sông ngòi và đường thủy, và quản trị tài chính . Thế gia (shìjiā ) "Thế gia" là phần dài lớn thứ hai trong năm thiên của Sử ký và bao gồm các quyển 31 đến 60, chiếm 23% tác phẩm. Trong phần này, các quyển trước là rất khác về nội dung so với các quyển sau . Nhiều quyển đầu tiên là biên niên về những nước chư hầu nổi bật nhất của nhà Chu, chẳng hạn như Tần và Lỗ, và có đến hai quyển còn ghi xa đến tận thời nhà Thương . Quyển cuối cùng, miêu tả thời nhà Hán, có tiểu sử . Liệt truyện (lièzhuàn ) "Liệt truyện" là phần dài nhất trong năm thiên của Sử ký và bao gồm các quyển 61 đến 130, chiếm đến hơn 54% tác phẩm . 70 thiên "Liệt truyện" chủ yếu chứa hồ sơ tiểu sử của khoảng 130 người Trung Quốc cổ đại nổi bật, từ Bá Di ở cuối cuối thời nhà Thương đến một số nhân vật sống cùng thời với Tư Mã Thiên . Khoảng 40 quyển được dành riêng cho một nhân vật riêng, một số là về hai nhân vật có liên quan đến nhau, còn lại là những nhóm nhỏ các nhân vật chia sẻ những vai trò nhất định, chẳng hạn như sát thủ, quan lại hoặc các học giả Khổng giáo . Không giống như hầu hết các tiểu sử hiện đại, các ghi chép trong "Liệt truyện" dùng giai thoại để miêu tả đạo đức và nhân cách, do đó "mô tả sống động nhiều loại người khác nhau và về thời đại mà họ đang sống . "Liệt truyện" được phổ biến trong suốt lịch sử Trung Quốc, và đã cung cấp một số lượng lớn các khái niệm vẫn được sử dụng bởi người Trung Quốc hiện đại . Một số khái niệm chủ yếu "Nhất tự thiên kim" (Một chữ ngàn vàng) - Sử Ký, liệt truyện Lã Bất Vi (呂不韋列傳): Lúc Lã Bất Vi viết xong tác phẩm Lã thị xuân thu, ông để một ngàn nén vàng ở cửa thành Hàm Dương, và nói rằng: Hữu năng tăng tổn nhất tự giả dữ thiên kim (有能增損一字者予千金), nghĩa là nếu ai thêm bớt được một chữ trong tác phẩm ấy, thì ông sẽ thưởng cho ngàn nén vàng. "Tứ hải thiên hạ" (Bốn biển dưới trời) - Sử Ký, bản kỷ Tần Thủy Hoàng (秦始皇本紀) có viết: Dĩ dưỡng tứ hải thiên hạ chi sĩ phỉ nhiên hương phong (以養四海、天下之士斐然鄉風) nghĩa là "để dạy phong-tục văn vẻ cho học trò trong cả nước". "Danh thật nhất thể" (Tên và thật, cùng một bậc) - Trong Sử Ký, liệt truyện Trương Nghi (張儀列傳) viết: Thị ngã nhất cử nhi danh thật phụ dã (是我一舉而名實附也), nghĩa là "thế là ta làm một việc mà danh và thật tương hợp". "Tửu trì nhục lâm" (Ao rượu, rừng thịt): Chương Ân Bản Kỷ (殷本紀) của Sử Ký viết về Trụ Vương, nổi tiếng là một ông vua dâm đãng, thường thết nhiều tiệc lớn, làm đầy ao với rượu và treo thịt trên cây trong rừng (以酒為池、縣肉為林). Đặc điểm Không giống các văn bản lịch sử chính thức thời gian sau này, vốn chấp nhận học thuyết Khổng giáo, tuyên bố quyền lực thần thánh của các vị Hoàng đế và loại trừ ra ngoài vòng pháp luật mọi âm mưu chiếm ngôi báu, phong cách viết sử tự do và có chủ đích của Tư Mã Thiên đã được nhiều nhà thơ và tiểu thuyết sau này học tập. Đa số các thiên Liệt truyện đều là những đoạn văn miêu tả sống động các nhân vật và sự kiện, vì Tư Mã Thiên đã sử dụng một cách chính xác các câu chuyện lịch sử trong quá khứ làm nguồn thông tin của mình, và có điều chỉnh lại cho đúng với thực tế. Ví dụ, ông viết truyện Kinh Kha ám sát Tần Thủy Hoàng trong thiên "Thích khách liệt truyện" dựa trên lời kể của ông cố của một người bạn của cha ông, vốn là một vị quan cấp thấp trong triều nhà Tần và vụ ám sát xảy ra khi vị quan đó đang có mặt tại đó. Có thể thấy rằng Tư Mã Thiên làm nổi bật mặt tích cực của những người cầm quyền trong Bản kỷ, nhưng lại đưa mặt tiêu cực vào các quyển khác, và như vậy tác phẩm của ông cần phải được đọc toàn bộ để có được đầy đủ thông tin. Ví dụ, thông tin về việc Lưu Bang (sau này là Hán Cao Tổ), trong một nỗ lực tuyệt vọng để thoát khỏi sự truy đuổi của Hạng Vũ, đã đẩy con ông ra xe ngựa để làm xe nhẹ đi, đã không được chép lại trong tiểu sử của hoàng đế, nhưng lại được chép trong tiểu sử của Hạng Vũ. Ông cũng rất thận trọng trong việc cân bằng mặt tích cực với tiêu cực, ví dụ như tiểu sử của Lã hậu, vốn ghi chép về sự tàn ác của bà, ông đã chỉ ra ở cuối tiểu sử rằng, mặc cho cuộc sống cá nhân của bà có ra sao đi chăng nữa, Lã hậu vẫn mang lại hoà bình và thịnh vượng cho đất nước . Bên cạnh tính xác thực của sự kiện, nói như lời Tư Mã Thiên, "tôi chỉ thuật lại chuyện xưa, sắp đặt lại các chuyện trong đời chứ có sáng tác đâu" (thiên Tam đại thế biểu), song tác giả không chỉ thuật lại chuyện xưa một cách lạnh lùng. Ảnh hưởng bút pháp của Xuân Thu, nhưng tính khuynh hướng của Sử ký thể hiện sự khác biệt nhất định. Nếu Xuân Thu xuất phát từ lập trường bảo thủ của quý tộc thì Sử ký lại xuất phát từ lập trường tiến bộ, có những nét phù hợp với tư tưởng và tình cảm của nhân dân đương thời. Sử ký lên án sự tàn bạo của tầng lớp thống trị (Tần Thủy Hoàng, Lưu Bang và Vũ Đế), ca ngợi những nhà thơ yêu nước như Khuất Nguyên, đề cao các dũng sĩ khởi xướng khởi nghĩa nông dân đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc như Trần Thiệp. Tư Mã Thiên viết sử có dụng ý nhằm "xét qua việc làm, tóm tắt trước sau, xét việc hưng vong thành bại", "thấu hiểu sự biến đổi từ xưa đến nay", để "ký thác", để "hả điều căm giận" (trong thiên Báo Nhậm An thư). Điều đó phản ánh sự quan tâm của tác giả đến sự kiện không chỉ nằm ở bản thân sự kiện mà là cả tiến trình của chúng.. Nguồn tư liệu Gia đình Tư Mã là những người viết sử cho hoàng đế nhà Hán. Cha của Tư Mã Thiên là Tư Mã Đàm giữ chức "Thái sử lệnh" và Tư Mã Thiên là người nối nghiệp. Vì thế, ông có thể xem được những lưu trữ, sắc lệnh và hồ sơ trong những năm đầu của nhà Hán. Tư Mã Thiên là một nhà sử học hoài nghi, có phương pháp và biết rất nhiều sách cổ, được viết trên phiếu tre và gỗ từ trước thời nhà Hán. Nhiều tư liệu mà ông sử dụng đã không còn tồn tại. Ông không chỉ sử dụng tài liệu lưu trữ và hồ sơ của triều đình, mà còn phỏng vấn người dân và đi khắp Trung Quốc để xác minh thông tin. Trong quyển đầu tiên của Sử ký, "Ngũ Đế bản kỉ", ông viết: Sử ký dùng "Ngũ Đế hệ điệp" (五帝系諜) và Kinh Thư là nguồn tư liệu để làm gia phả từ thời Hoàng Đế cho đến Chu Triệu cộng hòa (841 TCN-828 TCN). Tư Mã Thiên thường trích dẫn các nguồn tư liệu của ông. Ví dụ: Quyển đầu tiên, "Ngũ Đế bản kỉ", ông viết, "Tôi đã đọc Kinh Xuân Thu và Quốc ngữ." Trong quyển 13, "Bảng phả hệ của Ba thời đại", Tư Mã Thiên viết: "Tôi đã đọc tất cả các gia phả của các vị vua (谍记 dieji) tồn tại từ thời Hoàng Đế." Trong quyển thứ 14, "Biên niện sử của các vương", ông viết: "Tôi đã đọc tất cả các biên niên sử của hoàng gia (春秋曆譜諜 chunqiu li pudie) cho đến thời của Chu Lệ vương.". Trong quyển thứ 15, "Biên niên sử của sáu nước", ông viết: "Tôi đã đọc biên niên sử của Tần (秦記 qin ji), và sách nói rằng Khuyển Nhung [một bộ lạc man rợ] đánh bại Chu U Vương [khoảng năm 771 TCN]." Trong quyển thứ 19, ông viết: "Tôi có dịp đọc qua hồ sơ của việc cấp thái ấp và biết đến trường hợp của Ngô Thần, Cấp hầu.... " (Cha của Cấp hầu, Ngô Nhuế, được phong làm vương của Trường Sa ở Hồ Nam do lòng trung thành của ông với Hán Cao Tổ.) Trong quyển về nhà chính trị gia, nhà thơ yêu nước Khuất Nguyên, Tư Mã Thiên viết: "Tôi đã đọc [tác phẩm của Khuất Nguyên] Ly tao, Thiên Vấn (Hỏi trời), Chiêu hồn (Gọi hồn), và Sở từ." Tư Mã Thiên cũng viết về vấn đề liên quan với những nguồn tư liệu không đầy đủ, rời rạc và mâu thuẫn. Ví dụ, ông đã đề cập trong lời mở đầu của quyển 15 rằng các sổ ghi chép của các nước chư hầu được ​​giữ trong kho lưu trữ của nhà Chu đã bị Tần Thủy Hoàng cho đem đốt bởi vì chúng chứa những lời chỉ trích và chế nhạo nhà Tần và rằng các biên niên sử của nhà Tần thì quá ngắn ngủi và không đầy đủ . Trong quyển 13, ông cũng đề cập việc các biên niên và phả hệ của các văn bản cổ khác nhau "không đồng tình và mâu thuẫn với nhau". Trong quyển thứ 18 của Sử ký, Tư Mã Thiên viết: "Tôi đã chỉ những gì nhất định, và trong trường hợp nghi ngờ sẽ để lại một khoảng trống" . Độ tin cậy và chính xác Các học giả đã đặt câu hỏi về tính xác thực của các vị vua huyền thoại trong thời kỳ cổ đại được đưa ra bởi Tư Mã Thiên. Tư Mã Thiên bắt đầu Sử ký với những miêu tả về Ngũ Đế, vốn được nhiều học giả hiện đại, chẳng hạn như những người từ Nghi Cổ Phái, cho là những vị thần địa phương của Trung Quốc cổ đại . Tư Mã Thiên loại bỏ các yếu tố siêu nhiên và thần bí vốn mâu thuẫn với sự tồn tại của họ như những nhà cai trị có thật, và do đó bị chỉ trích vì đã biến huyền thoại và văn hóa dân gian thành lịch sử . Tuy nhiên, vào năm 1954, theo Joseph Needham, người dựa trên mô tả của Tư Mã Thiên về các vị vua của nhà Thương đã viết như sau: Một số khía cạnh lịch sử của nhà Thương do Tư Mã Thiên cung cấp đều được xác minh qua các dòng chữ trên xương bói toán. Một số nhà khảo cổ học người Trung Quốc cho rằng văn hóa Nhị Lý Đầu là nơi nhà Hạ từng tồn tại. Tuy nhiên, vấn đề này vẫn gây tranh cãi do thiếu bằng chứng mạnh ví dụ như văn tự thời nhà Hạ. Ngoài ra còn có sự khác biệt trong thực tế chẳng hạn như ngày tháng giữa các phần khác nhau của tác phẩm. Đây có thể là một kết quả của việc Tư Mã Thiên sử dụng các nguồn tài liệu khác nhau . Bổ sung và chỉnh lý bởi các tác giả khác Sau khi hoàn thành Sử ký vào khoảng năm 91 TCN, bản thảo gần như hoàn thành của tác phẩm được cất giấu trong nơi ở của con gái Tư Mã Thiên là Tư Mã Anh (司馬英), để tránh cho nó không bị phá hủy dưới thời của Hán Vũ Đế và người kế nhiệm là Hán Chiêu Đế. Sử ký cuối cùng cũng đã được phổ biến trong thời cai trị của Hán Tuyên Đế của cháu Tư Mã Thiên (thông qua con gái của ông) là Dương Uẩn (杨惲), sau một thời gian khoảng 20 năm. Những thay đổi trong bản thảo của Sử ký trong thời gian gián đoạn này đã luôn luôn gây ra tranh cãi giữa các học giả. Đó là việc văn bản ít nhiều gì được hoàn toàn vào khoảng năm 91 TCN trong thư gửi Nhâm An, và Tư Mã Thiên đã nêu rõ con số chính xác của các quyển cho từng thiên của Sử ký . Sau khi ông qua đời (có lẽ chỉ một vài năm sau đó), vài người đã có cơ hội để xem toàn bộ công trình. Tuy nhiên, nhiều bổ sung khác nhau cho Sử ký vẫn được làm. Nhà sử học Lưu Tri Kỷ (劉知幾, 661-721) nêu lên tên của tổng cộng mười lăm học giả được cho là đã bổ sung cho Sử ký trong thời kỳ sau cái chết của Tư Mã Thiên. Chỉ có những bổ sung bởi Trử Thiểu Tôn (褚少孫, khoảng năm 105 TCN - khoảng năm 30 TCN) được chỉ rõ bằng cách thêm câu "Ông Trử nói" (Chu xiansheng yue, 褚先生曰). Ngay trong thế kỷ thứ nhất, Ban Bưu và Ban Cố tuyên bố rằng mười thiên trong Sử Ký Tư Mã Thiên bị thiếu. Một số lượng lớn các chương nói về thế kỷ đầu tiên của nhà Hán (tức là thế kỷ thứ II TCN) tương ứng chính xác với các chương liên quan từ Hán thư (Hanshu). Hiện chưa rõ liệu những chương đầu là đến từ Sử ký hoặc từ Hán thư. Nhà nghiên cứu Yves Hervouet (1921-1999) và A.F.P. Hulsewé lập luận rằng bản gốc của 10 thiên nói trên của Sử ký đã bị thất lạc và sau đó được tái tạo lại bằng các thiên tương ứng từ Hán thư Đánh giá Theo lời bàn của Ban Bưu thì Sử ký: Lục Giả thời Hán làm sách Hán Sở xuân thu có nói: Tuy nhiên theo lời của Mao Khôn thì: Ngoài ra theo như Hán Thư đã nói rằng, tuy là một tác phẩm đồ sộ, độc đáo nhưng Sử ký vẫn có chỗ khuyết, nên người viết tiếp nổi lên như bời, các văn nhân đời sau như Giả tiên sinh, Phùng Thương, Lưu Hâm tiếp tục bổ sung, chỉnh lý những chỗ sai sót, nhầm lẫn của Tư Mã Thiên, Hán thư cũng có chỗ từ Lưu Hâm mà ra, cho nên Thôi Thích cho rằng văn Sử ký so với toàn bộ có chỗ trái, so với Hán Thư có chỗ hợp, đó là những chỗ Lưu Hâm viết tiếp thêm vậy. Còn nhiều niên đại xa cách khác nhau chương cú cắt xé ra thì chắc là do những kẻ càn quấy đời sau thêm vào và những người đời sau sao chép viết sai đi một nửa. Bản in Sử Ký có khá nhiều bản in khác nhau, bản in sớm nhất hiện tại là bản sao từ những bản bị thất lạc và được lưu hành trong thời Nam Bắc triều (420 – 589). Bản khắc sớm nhất và còn sót lại là bản "Sử Ký Tập Giải" (史記集解) thời Bắc Tống. Bản in của Hoàng Thiện Phu thời Nam Tống có lẽ là bản khắc sớm nhất tập hợp chú giải của ba nhà hiện là bản được Trung Hoa thư cục phát hành phổ biến, gồm bản giản thể và phồn thể, ngoài ra còn có bản "Tam Gia Chú" (ba nhà chú thích) được ấn bản lần hai và được coi là bản tốt nhất hiện nay. Bản văn Bạch Thoại làm theo có "Tân Bạch Thoại Sử Ký" do Hàn Triệu Kỳ chú thích. (bản giản thể tự do Trung Hoa thư cục xuất bản, bản phồn thể hay chính thể tự do Đài Bắc Đài Loan Cổ Tịch xuất bản), và "Sử Ký" do Trương Liệt chú thích (Bản giản thể tự do nhà xuất bản Quý Châu Cổ Tịch xuất bản, chính thể tự do Đài Bắc Đài Loan Cổ Tịch xuất bản). Ngoài ra còn có rất nhiều bản chú giải về Sử Ký trong thời Trung Quốc hiện đại như "Sử Ký cập Chú thích Tổng hợp dẫn đắc"do nhà xuất bản Đại học Harvard Yên Kinh biên soạn, "Sử Ký Tác Dẫn" do Hoàng Phúc Loan biên soạn, "Sử Ký Tác Dẫn" do Lý Hiểu Quang, Lý Ba biên tập, "Sử Ký Nhân danh Tác dẫn" do Chung Hoa biên tập, "Sử Ký Tam gia Chú dẫn thư Tác dẫn" do Đoạn Thư An biên tập, và cuốn "Sử Ký Từ điển" do Thương Tu Lương chủ biên. Hiện có rất nhiều bản Sử Ký được tìm thấy rất quý hiếm, có tầm quan trọng như một số bản được liệt kê ở dưới. Chú dẫn Việc chú thích, bình luận niên đại trong Sử Ký chủ yếu có ba nhà, một là bản "Sử Ký Tập Giải" của Bùi Nhân thời Lưu Tống, hai là "Sử Ký Tác Ẩn" của Tư Mã Trinh và "Sử Ký Chính Nghĩa" của Trương Thủ Tiết đời Đường, toàn bộ lời bình luận, chú giải đều được cả ba nhà tổng kết từ Sử Ký. "Sử Ký Chí Nghi" của Lương Học Thằng đời Thanh được coi là một trước tác tập hợp các nghiên cứu về Sử Ký. Ở thời Cận đại có cuốn "Sử Ký Hội Chú Khảo Chứng" của học giả Nhật Bản là Takigawa Sukekoto biên soạn được coi là một tác phẩm trứ danh. Đương thời còn có cuốn "Sử Ký Tiên Chứng" của Hàn Triệu Kỳ, nhưng tất cả vẫn lấy trước tác của ba nhà xưa chú thích và quyển "Sử Ký Hội Chú Khảo Chứng" làm cơ sở, là tác phẩm chú giải tường tận và chi tiết nhất về Sử Ký. Sau đây là danh sách liệt kê các tác giả chú thích và tác phẩm của họ trong từng triều đại, từng thời kỳ lịch sử. Các bản dịch Tiếng Việt Đến nay, Sử ký vẫn chưa được dịch trọn bộ ra tiếng Việt. Có các bản dịch phổ biến sau: Bản dịch của Nhượng Tống (Hà Nội, Nhà xuất bản Tân Việt, 1944; in lần thứ hai: Sài Gòn, Tân Việt, 1964), có 49 chương dịch từ 36 thiên của nguyên bản, hầu hết là trích dịch. Một số thiên có kèm "Lời bàn của Lâm Tây Trọng" và "Lời bàn của kẻ dịch". Nhà xuất bản Văn học và Công ty cổ phần Sách Bách Việt tái bản, 2021, Nguyễn Duy Long hiệu khảo (hiệu đính và khảo chú), in kèm nguyên bản Hán văn mà Nhượng Tống đã sử dụng (Cổ văn tích nghĩa của Lâm Tây Trọng). Bản dịch của Nhữ Thành (tức Phan Ngọc), được tái bản nhiều lần từ những năm 1960 tới năm 1988 (Nhà xuất bản Văn học), có lời giới thiệu công phu. Nhà xuất bản Văn học tái bản năm 1999, ghi tên thật Phan Ngọc. Bản của Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây liên kết với Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin (2003), Phan Ngọc dịch bổ sung thêm một số thiên như Hiếu Văn bản kỷ, Tấn Thế gia, Ngô Thái Bá thế gia, Triệu Thế gia, Tề thế gia, một số liệt truyện: Hung Nô, Cam Mậu - Sư Lý Tử, Mạnh Tử - Tuân Khanh, Lỗ Trọng Liên, Ninh Hạnh, Lưu Kính - Thúc Tôn Thông, Viên Áng - Triều Thố. Tái bản: Nhà xuất bản Lao động (2005, 2007, 2009). Nhiều đơn vị khác cũng tái bản bản dịch Phan Ngọc nhưng in từ bản năm 1988 hoặc 1999, không có các thiên dịch bổ sung. Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê - Giản Chi (Sài Gòn, Nhà xuất bản Lá Bối, 1970; in lần thứ hai: Lá Bối, 1972; nhiều lần tái bản sau 1975). Bản dịch có lời giới thiệu công phu, so với bản Phan Ngọc thì dịch ít thiên hơn, một số thiên trích dịch. Bản dịch của Bùi Hạnh Cẩn - Việt Anh (Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2005): Thực chất là bản bổ sung cho bản của Phan Ngọc vì hai dịch giả này dịch thêm các bản kỷ: Ngũ Đế, Hạ, Thương, Chu, Tần . Các dịch giả lấy tên gọi của bản dịch theo tinh thần đó: "Sử ký Tư Mã Thiên - Những điều chưa biết", tức là dụng ý cung cấp cho người đọc một số thiên Sử ký trước đây chưa được dịch. Bản dịch do Công ty cổ phần Văn hóa Truyền thông Nhã Nam tổ chức, là dự án dịch trọn bộ Sử ký, đang được tiến hành. Sử ký tập I: "Bản kỷ" (Nhà xuất bản Văn học, 2014) Trần Quang Đức dịch, dịch đủ 12 bản kỷ. Sử ký tập II "Liệt truyện thượng" (Nhà xuất bản Văn học, 2016) và tập II "Liệt truyện hạ" (Văn học, 2017), Phạm Văn Ánh dịch, dịch đủ 70 liệt truyện. Sử ký tập III: "Thế gia" (Nhà xuất bản Văn học, 2020), Phạm Văn Ánh dịch, dịch đủ 30 thế gia. Bản dịch của Phạm Hồng (Nhà xuất bản Văn học, 2016), là bản trích dịch. Văn bản nguồn là Sử ký tinh giải, Vương Thần chủ biên. Một dự án dịch trọn bộ khác do nhóm Cổ Thư Lâu thực hiện. Sử ký, Bản kỷ - Biểu, Nguyễn Đức Vịnh dịch, Nhà xuất bản Văn học và Công ty TNHH TM & Dịch vụ văn hóa Đinh Tị, 2022. Đây là lần đầu tiên phần Biểu gồm 10 thiên được dịch trọn vẹn ra tiếng Việt. Tiếng Anh Watson, Burton, trans. (1961). Records of the Grand Historian of China. New York: Columbia University Press. In lại lần 2, 1993 (Records of the Grand Historian). Dịch 90 trên 130 thiên. ISBN 0231081693 Dương Hiến Ích và Gladys Dương (1974), Records of the Historians. Hong Kong: Commercial Press. In lại bởi University Press of the Pacific, 2002. Chứa tiểu sử của Khổng tử và Lão tử. ISBN 978-0835106184 Raymond Stanley Dawson (1994). Historical records. New York: Oxford University Press. In lại, 2007 (The first emperor: selections from the Historical records). Chỉ dịch tài liệu liên quan đến nhà Tần. ISBN 9780199574391 Nienhauser, William J., ed. (1994– ). The Grand Scribe's Records, 9 vols. Bloomington: Indiana University Press. ISBN 978-0-253-34021-4 etc. Vẫn đang tiếp diễn và dịch không theo trình tự. Khác Chavannes, Édouard dịch. (1895–1905). Les Mémoires historiques de Se-ma Ts'ien [The Historical Memoirs of Sima Qian], 6 vols.; rpt. (1967–1969) 7 vols., Paris: Adrien Maisonneuve. Vẫn chưa hoàn thành do cái chết của Chavannes. William Nienhauser gọi nó là "cộc mốc" và là "tiêu chuẩn mà tất cả các bản in tiếp theo... phải noi theo" . Chavannes, Édouard, Maxime Kaltenmark Jacques Pimpaneau dịch (2015) Les Mémoires historiques de Se-Ma Ts'ien [The Historical Memoirs of Sima Qian], 9 vols.; Éditions You Feng, Paris. Đây là bản dịch đầy đủ của Sử ký Vyatkin, Rudolf V., trans. (1972–1996). Istoricheskie Zapiski (Si-czi) [Исторические записки (Ши-цзи)], 8 quyển. Moscow: Nauka. Yang, Zhongxian 杨钟贤; Hao, Zhida 郝志达, eds. (1997). Quanjiao quanzhu quanyi quanping Shiji 全校全注全译全评史记 [Shiji: Fully Collated, Annotated, Translated, and Evaluated], 6 vols. Tianjin: Tianjin guji chubanshe. Mizusawa, Toshitada 水澤利忠; Yoshida, Kenkō 吉田賢抗 dịch. (1996–1998). Sử ký 史記 [Sử ký], 12 vols. Tokyo: Kyūko. Svane, Gunnar O., trans. (2007). Historiske Optegnelser: Kapitlerne 61-130, Biografier 1-70. Aarhus: Aarhus Universitetsforlag. Tác phẩm phái sinh Văn học Vì là bộ sách ghi chép sử đầy đủ đầu tiên còn lưu truyền lại, Sử ký Tư Mã Thiên là tư liệu cho rất nhiều người sau này sử dụng, đặc biệt nở rộ các tác phẩm dựa lịch sử viết vào thời nhà Minh-Thanh. Phong thần diễn nghĩa của Hứa Trọng Lâm viết về việc vua Chu Vũ Vương lật đổ Trụ Vương nhà Thương, lập nên nhà Chu Đông Chu Liệt Quốc của Sai Nguyên Phóng viết về giai đoạn Chu Tuyên Vương cho đến hết thời nhà Chu, vua Tần Thủy Hoàng lên ngôi Kịch nghệ Điện ảnh Chú thích
Kinh Kha (tiếng Trung Quốc: 荊軻; bính âm: Jīng Kē; Wade-Giles: Ching K'o) là môn khách của Thái tử Đan nước Yên và là người rất nổi tiếng vì đã ám sát bất thành Tần Thủy Hoàng (cai trị từ 221 TCN đến 210 TCN). Câu chuyện về Kinh Kha được chép lại ở thiên Thích khách liệt truyện (刺客列傳) trong cuốn Sử Ký của Tư Mã Thiên. Thân thế Kinh Kha là người nước Vệ, ông đã rời quê hương vì không được Vệ Nguyên quân trọng dụng. Tổ tiên Kinh Kha vốn thuộc thế tộc Khánh thị (庆氏) của họ Khương, là hậu nhân của Công tử Vô Khuy nước Khương Tề, sau chuyển đến đất Vệ mới đổi sang họ Kinh (荆). Sang Vệ, Kinh Kha được người nước Vệ gọi là Khánh khanh (庆轲) (chữ "khanh" vốn dùng để tỏ ý tôn trọng). Sau khi đi thăm thú các nước, ông tới nước Yên và kết bạn với Cao Tiệm Ly là 1 người chơi đàn hay. Họ cùng nhau uống rượu và ca hát suốt ngày. Ám sát Tần Thủy Hoàng Kinh Kha được du hiệp tiến dẫn cho thái tử Đan nước Yên. Thái tử Đan từng là bạn của Doanh Chính (Tần Thủy Hoàng sau này) khi cả hai còn đang là con tin ở nước Triệu. Khi thái tử Đan đã trốn khỏi Triệu về Yên, quân đội Tần tiến sát tới biên giới Yên. Quân Yên quá yếu để chống cự lại. Vì vậy, thay vì chiến đấu, thái tử Đan cùng Điền Quang âm mưu ám sát hoàng đế Tần là Tần Thủy Hoàng. Điền Quang cũng là bạn của Kinh Kha nên khuyên thái tử Đan cử Kinh Kha thực hiện nhiệm vụ đó. Một vị tướng Tần, , người từng bị thất sủng với vua Tần, cũng là một môn khách của thái tử Đan vào thời điểm đó. Tần Thủy Hoàng rất giận Phàn Ư Kỳ và muốn lấy đầu ông. Biết được điều đó, Phàn Ư Kỳ quyết định tự sát để tạo cơ hội ám sát vua Tần. Với cái đầu Phàn Ư Kỳ và bản đồ nước Yên, Kinh Kha đã có cơ hội để tiếp cận Tần Thủy Hoàng. Khi lên đường, tại bờ sông Dịch (biên giới nước Triệu), Kinh Kha đã ứng tác hai câu thơ với các bạn đi tiễn: Phong tiêu tiêu hề, Dịch thủy hàn Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục phản Dịch nghĩa: Gió hiu hắt chừ, Dịch thủy lạnh ghê Tráng sĩ ra đi chừ, không bao giờ về Còn một bản dịch khác: Gió đìu hiu sông Dịch lạnh lùng ghê Tráng sĩ một đi không trở về Chủ nghĩa anh hùng phản ánh lý tưởng chung của thời đại đó đã được ghi chép lại trong cuốn Sử Ký. Mang theo một thanh chuỷ thủ tẩm thuốc độc giấu trong tờ bản đồ (được cuộn tròn lại), Kinh Kha và vào trong triều đình nước Tần. Tần Vũ Dương mang tờ bản đồ còn Kinh Kha mang đầu Phàn Ư Kỳ. Tần Vũ Dương hoảng sợ biến sắc mặt. Kinh Kha lấy bản đồ trong tay Tần Vũ Dương dâng nộp vua Tần. Khi mở bản đồ Kinh Kha rút thanh chuỷ thủ đâm Tần Thủy Hoàng. Kinh Kha đâm trượt khiến Tần Thủy Hoàng có cơ hội bỏ chạy. Khi Kinh Kha đuổi theo vua Tần trên điện, Tần Thủy Hoàng được các quan trong triều nhắc liền rút kiếm sau lưng chém Kinh Kha bị thương ở tay. Biết rằng không thể hoàn thành nhiệm vụ, Kinh Kha ném thanh chuỷ thủ vào người vua Tần nhưng trúng vào cái cột đồng. Cuối cùng, binh lính Tần xông vào giết chết Kinh Kha. Thanh chủy thủ của Từ Phu Nhân Thái tử Đan đem trăm cân vàng đổi lấy thanh chủy thủ của một thợ rèn kiếm người nước Triệu, họ Từ, tên Phu Nhân (徐夫人), tẩm độc rồi giao cho Kinh Kha. Từ Phu Nhân chưa từng xuất hiện trong lịch sử, tên của ông chỉ được nhắc đến một lần duy nhất trong cố sự này. Vì cái tên dễ gây hiểu lầm về giới tính, các sử gia đời sau phải chú giải rằng Từ Phu Nhân thực ra là một người đàn ông . Kinh Kha trên màn ảnh Bộ phim Trung Quốc Hoàng đế và Thích khách (1999) được thực hiện dựa trên sự kiện này. Kinh Kha cũng xuất hiện trong phim Anh hùng, cũng nói về một âm mưu ám sát Tần Thủy Hoàng, dù các sự kiện của bộ phim này cũng dựa vào câu chuyện đó. Một bộ phim ở mức độ hư cấu rất cao khác về Kinh Kha là Highlander: Endgame, do diễn viên Chân Tử Đan thủ vai. Trong phim này, cũng như các nhân vật khác, Kinh Kha là một chiến binh bất tử. Kinh Kha được Lưu Sướng thể hiện trong bộ phim Tần thời lệ nhân minh nguyệt tâm được phát sóng tại Trung Quốc và năm 2017''
Sử Ký hay sử ký có thể là một trong các tài liệu sau: Bộ Sử ký Tư Mã Thiên. Đại Việt Sử ký toàn thư: bộ quốc sử chép về các sự kiện lịch sử nước Việt Nam, do Ngô Sĩ Liên viết chính. Đại Việt sử ký: bộ quốc sử đầu tiên của nước Việt Nam do Lê Văn Hưu đời Trần soạn ra. Đại Việt sử ký tục biên: do Phan Phu Tiên thời nhà Lê biên soạn. Đại Việt sử ký tiền biên: được biên soạn thời Tây Sơn. Việt Nam sử ký quốc ngữ.
Cao Tiệm Ly (chữ Hán: 高漸離) là người nước Yên, một nước chư hầu ở Trung Quốc thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là một nghệ sĩ chơi đàn trúc và là bạn của thích khách Kinh Kha. Bạn Kinh Kha Theo Sử ký, Cao Tiệm Ly là người nước Yên. Khi Kinh Kha phiêu bạt từ nước Vệ sang Yên đã kết bạn với ông và một người bán thịt chó. Hai người trở thành bạn thân, hằng ngày cùng uống rượu. Cao Tiệm Ly thường gõ đàn trúc, Kinh Kha hát họa theo. Hành thích vua Tần Sau khi Kinh Kha bị giết trong nỗ lực ám sát Tần vương Chính, Cao Tiệm Ly thay đổi tên họ và vào làm trong một tiệm rượu ở đất Tống Tử vì vua Tần truy nã tất cả những người bạn của Kinh Kha. Khi Tần Thủy Hoàng diệt 6 nước, thống nhất toàn Trung Hoa, vẫn tiếp tục truy nã ông. Vì công việc ở tiệm rất nặng nhọc, Cao Tiệm Ly thường đi quanh nhà chủ và lắng nghe những vị khách gảy đàn Trúc. Ông bình phẩm về cách chơi đàn của họ và thử chơi cho chủ nhà nghe. Vì ông chơi đàn hay nên danh tiếng nhanh chóng nổi trong thiên hạ. Cao Tiệm Ly quyết định không ẩn mình nữa và công khai danh tính. Tần Thủy Hoàng biết được, liền bắt giữ ông. Nhưng vì tiếc tài chơi đàn của Cao Tiệm Ly nên vua Tần bèn ân xá cho ông, nhưng sai chọc mù hai mắt ông và lệnh cho ông gảy đàn. Thủy Hoàng nghe Cao Tiệm Ly gảy đàn rất thích thú nên mỗi ngày một xích lại gần. Cao Tiệm Ly biết vậy, nuôi chí báo thù cho Kinh Kha. Ông lén đổ chì vào bầu đàn rồi nhân dịp vua Tần ngồi cạnh, ông muốn đánh Tần Thủy Hoàng nhưng vì mắt mù nên đánh không trúng. Ông bị hành quyết, vua Tần từ đó không bao giờ còn gần gũi người từ các nước chư hầu khác nữa. Trong văn hóa đại chúng Nhân vật Cao Tiệm Ly được tái hiện trong bộ phim Tần ca (hay Tần tụng, 秦頌), sản xuất năm 1996 của đạo diễn Chu Hiểu Văn, nói về mối quan hệ giữa Doanh Chính (Tần Thủy Hoàng) và Cao Tiệm Ly. Bộ phim này mang nhiều tình tiết hư cấu, trong đó Doanh Chính và Cao Tiệm Ly là hai người bạn thân từ thuở nhỏ, từng sống với nhau trong một mái nhà, về sau Doanh Chính thống nhất thiên hạ, cho bắt Cao Tiệm Ly để ép viết nên khúc Tần ca hùng tráng tương xứng với tầm vóc của nước Tần. Trong bộ phim, Cao Tiệm Ly lại yêu công chúa Lịch Dương, con gái của Doanh Chính; vì Tiệm Ly quan hệ như vợ chồng với công chúa nên mới bị Doanh Chính khép tội móc mắt. Trong ngày Chính đăng quang, Tiệm Ly được lệnh chơi đàn và hát ca ngợi nhà Tần nhưng đã chống lệnh bằng cách đập nát cây đàn. Người đóng vai Cao Tiệm Ly trong phim là diễn viên Cát Ưu.
Vùng kích thích tình dục là các vùng trên cơ thể người có độ nhạy cao, với kích thích có thể tạo ra phản ứng tình dục, chẳng hạn như thư giãn, tạo ra những tưởng tượng tình dục, hưng phấn tình dục và cực khoái. Các vùng kích thích tình dục nằm trên khắp cơ thể con người, nhưng độ nhạy cảm của từng loại khác nhau, và phụ thuộc vào nồng độ của các đầu dây thần kinh có thể mang lại cảm giác dễ chịu khi được kích thích. Việc chạm vào vùng kích thích tình dục của người khác được coi là một hành động của sự thân mật thể xác. Việc một người tìm thấy sự kích thích ở những khu vực này là dễ chịu hay phản cảm tùy thuộc vào một loạt các yếu tố, bao gồm mức độ kích thích của họ, hoàn cảnh diễn ra, bối cảnh văn hóa, bản chất của mối quan hệ giữa những người liên quan và lịch sử cá nhân. Các khu vực có thể được phân loại theo loại phản ứng tình dục mà chúng tạo ra. Nhiều người được kích thích nhẹ nhàng khi mí mắt, lông mày, thái dương, vai, tay, cánh tay và tóc của họ được chạm tới một cách tinh tế. Chạm nhẹ hoặc vuốt ve những vùng này sẽ kích thích bạn tình trong màn dạo đầu và tăng mức độ kích thích. Ngoài ra, massage nhẹ nhàng hoặc vuốt ve vùng bụng cùng với hôn hoặc đơn giản là chạm vào rốn có thể là một loại kích thích. Phân loại Các vùng kích thích tình dục là không cụ thể hoặc cụ thể. Vùng không cụ thể Ở những vùng này, da tương tự như da có lông bình thường và có mật độ của dây thần kinh và nang lông bình thường. Những khu vực này bao gồm hai bên và phía sau cổ, cánh tay trong, nách và hai bên ngực. Chọc nhẹ vào các vùng trên và phản ứng dự đoán là nguyên nhân tạo ra sự nhạy cảm tăng cao. Vùng cụ thể Các khu vực cụ thể có liên quan đến phản ứng tình dục, và bao gồm môi và núm vú với khu vực của bộ phận sinh dục, đáng chú ý là bao quy đầu và mặt dưới của dương vật, âm vật và phần còn lại của âm hộ, và phần da quanh hậu môn. Các phẫu thuật thần kinh và sinh lý thần kinh của khu vực kích thích tình dục vẫn còn chưa được biết rõ. Những vùng này rõ ràng là da niêm mạc. Các đường gân của biểu mô được hình thành rõ ràng và nhiều dây thần kinh ở gần bề mặt bên ngoài của da hơn ở da có lông bình thường. Những vùng này dường như có mật độ bảo tồn cao, hiệu quả chữa lành vết thương tốt và khả năng kích thích não toàn diện. Hơn nữa, một kết nối với hệ thống kích thích phần thưởng trong não dường như cũng cần thiết. Bộ phận sinh dục Nam giới Nam giới có thể bị kích thích bởi sự kích thích ở hai bên của dương vật và mặt dưới dương vật, mặt trên của quy đầu, bao quy đầu, mặt trước của bìu, da giữa bìu với hậu môn và quanh hậu môn. Tuyến tiền liệt có thể được kích thích từ bên trong trực tràng, chẳng hạn như tình dục qua đường hậu môn, hoặc bằng cách gây áp lực lên đáy chậu gần hậu môn. Những người đàn ông báo cáo cảm giác kích thích tuyến tiền liệt thường đưa ra những mô tả tương tự như khoái cảm của phụ nữ về kích thích điểm G. Bao quy đầu, mang dải rìa rất bẩm sinh và mặt dưới với dây chằng thấp hơn, có các cơ quan cuối niêm mạc kéo dài từ rìa xa đến điểm bắt đầu có lông. Lớp hạ bì mỏng và mô dưới da tối thiểu dẫn đến các mạng lưới thần kinh được thiết lập chặt chẽ. Tiểu thể Vater-Pacini có mặt. Các cơ quan nội tiết niêm mạc được hình thành sau khi sinh, rất ít ở trẻ sơ sinh và nhiều mối dây thần kinh tập trung nhiều ở người lớn. Cold, C.J. và Taylor, J.R. vào năm 1999 cho rằng bao quy đầu là nơi kích thích tình dục chính. Alanis và Lucidi năm 2004 mô tả điều này là suy diễn và chưa được chứng minh. Nữ giới Các bộ phận của âm hộ, đặc biệt là âm vật, là khu vực gây kích thích tình dục. Mặc dù âm đạo nói chung không đặc biệt nhạy cảm, nhưng phần dưới của nó (khu vực gần lối vào) có mật độ của các đầu dây thần kinh có thể mang lại cảm giác dễ chịu khi hoạt động tình dục khi bị kích thích; đây còn được gọi là thành trước của âm đạo hoặc một phần ba mặt ngoài của âm đạo, và nó chứa phần lớn các đầu dây thần kinh âm đạo, làm cho nó nhạy cảm hơn khi được chạm vào, hơn là phần hai phần ba bên trong của âm đạo. Trong thành trước của âm đạo, có một mảng mô thô có gân, có kết cấu đôi khi được mô tả giống như vòm miệng, và có thể cảm thấy xốp khi phụ nữ bị kích thích tình dục. Đây là miếng bọt niệu đạo, cũng có thể là vị trí của điểm G - một cấu trúc được mô tả là một khu vực của âm đạo mà một số phụ nữ báo cáo là một khu vực kích thích tình dục, khi bị kích thích vào đó, có thể dẫn đến hưng phấn tình dục, cực khoái và xuất tinh ở nữ giới. Sự tồn tại của điểm G và có hay không cấu trúc riêng biệt được tranh luận giữa các nhà nghiên cứu, vì các báo cáo về vị trí của nó thay đổi từ phụ nữ này sang phụ nữ khác, dường như không có ở một số phụ nữ, và các nhà khoa học thường tin rằng đó là một phần mở rộng của âm vật.
Thượng tướng, Phó Giáo sư Nguyễn Hữu An (1926-1995) là một tướng lĩnh quân sự của Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thượng tướng. Ông tham gia Kháng chiến chống Pháp, Kháng chiến chống Mỹ và Chiến tranh biên giới Tây Nam. Ông là người trực tiếp chỉ huy trận đánh đồi A1 trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Năm 1965, Nguyễn Hữu An lúc đó mang quân hàm thượng tá, tham mưu phó mặt trận B3 và là người chỉ huy trực tiếp trận Ia Đrăng năm 1965. Tiểu sử Sinh tháng 10 năm 1926 - Mất ngày 9 tháng 4 năm 1995 tại Trường Yên, Hoa Lư, Ninh Bình. Năm tham gia cách mạng: Năm 1945. Năm nhập ngũ: Tháng 8 năm 1945 Ngày vào Đảng, chính thức: Tháng 12 năm 1945. Năm phong quân hàm cấp tướng: Thiếu tướng năm 1974; Trung tướng năm 1980; Thượng tướng năm 1986. Cấp bậc, chức vụ cao nhất: Thượng tướng, Phó Tổng thanh tra Quân đội. Ngoài ra ông từng đảm nhiệm các chức vụ: Giám đốc Học viện Quân sự cấp cao, Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng và Tư lệnh Quân khu 2, Giám đốc Học viện Lục quân, Tư lệnh Quân đoàn 2. Ông là một trong những vị tướng Việt Nam đã trực tiếp chỉ huy nhiều trận chiến đấu và chiến thắng quan trọng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong thời kỳ chống Pháp Nguyễn Hữu An tham gia và trưởng thành trong quân đội từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Ông đã trực tiếp chiến đấu và chỉ huy các trận đánh ở đèo Bông Lau, Lũng Phầy năm 1949, trong chiến dịch biên giới năm 1950, ông là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 251 chủ công của trung đoàn 174 (trung đoàn Cao Bắc Lạng) tấn công và tiêu diệt đồn Đông Khê, mở đầu thắng lợi cho chiến dịch. Ông đã lần lượt là tiểu đoàn trưởng, trung đoàn phó trong các trận chiến thắng ở Bình Liêu, Vĩnh Phúc, Mộc Châu... Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ông là trung đoàn trưởng trung đoàn 174, thuộc đại đoàn 316, 3 lần tấn công đồi A1. Đây cũng là một trong những chỉ huy trẻ nhất của mặt trận Điện Biên, khi đó ông mới 28 tuổi. Sáng 7 tháng 5 năm 1954 trung đoàn 174 dưới sự chỉ huy của ông đã tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm A1, mở đường đánh vào cánh đồng Mường Thanh, kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ. Trong trận này chính Nguyễn Hữu An là người chỉ huy cho kích nổ khối bộc phá 1000 kg làm tan nát đồi A1. Trong cuộc kháng chiến chống Đế quốc Mỹ Năm 1964 trên cương vị Sư đoàn trưởng, ông dẫn Sư đoàn 325 vào miền Nam chiến đấu. Vào đến Tây Nguyên, do khó khăn về bảo đảm hậu cần và tình hình thay đổi, sư đoàn 325 phân tán; hai trung đoàn xuống khu 5, chỉ còn trung đoàn 101 ở lại mặt trận Tây Nguyên (mang mã hiệu chiến trường B3), ông làm Phó Tư lệnh B3. Ông đã trực tiếp chỉ đạo và chỉ huy trung đoàn 101 diệt gọn tiểu đoàn biệt động "Cọp Đen", rồi lại đánh thiệt hại nặng Trung đoàn 44 Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tiêu diệt trung tá trung đoàn trưởng trung đoàn 44. Năm 1965 Thượng tá Nguyễn Hữu An là tham mưu phó mặt trận B3 và tại đây, tháng 11 năm 1965, ông đã trực tiếp chỉ huy Trận Ia Đrăng, trận đánh nổi tiếng ở thung lũng Ia Đrăng đã tiêu diệt hoàn toàn 1 tiểu đoàn và làm thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn kỵ binh Mỹ. Trận đánh phủ đầu và chiến thắng Sư đoàn Kỵ binh số 1 của Mỹ khi quân Mỹ vừa vào Việt Nam, một trận thắng mà chính các tướng lĩnh của Mỹ phải thừa nhận "Ia Đrăng - trận đánh đã làm thay đổi cuộc chiến tranh ở Việt Nam" Năm 1971, ông là Sư đoàn trưởng Sư đoàn 308 tham gia chiến đấu và góp phần cùng các đơn vị khác trong chiến thắng ở mặt trận đường 9-Nam Lào. Sau chiến thắng, ông lại được Quân ủy Trung ương điều sang giúp Mặt trận Pathet Lào chiến đấu lấy lại Cánh đồng Chum. Đến cuối tháng 6 năm 1972, Quân ủy Trung ương lại điều ông chỉ huy sư đoàn 308 chiến đấu ở mặt trận Quảng Trị. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh Năm 1975, Thiếu tướng Nguyễn Hữu An là tư lệnh Quân đoàn 2 (Binh đoàn Hương Giang). Quân đoàn 2 dưới sự chỉ huy của ông đã lần lượt giải phóng tỉnh Quảng Trị, thành phố Huế; và cùng với các lực lượng vũ trang quân khu 5, trong 3 ngày đêm đã đánh bại gần 10 vạn lính chủ lực cơ động của quân đội Việt Nam Cộng hòa tại căn cứ liên hợp quân sự Đà Nẵng, sau đó ông đã chỉ huy toàn bộ quân đoàn hành quân gần 1000 km để tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, sau khi tiêu diệt tuyến phòng thủ từ xa của quân lực Việt Nam Cộng hòa tại Phan Rang chỉ trong vòng 24 giờ. Trong trận quyết chiến cuối cùng giải phóng Sài Gòn, Quân đoàn 2 do ông chỉ huy là một trong 5 cánh quân đã nhanh chóng cắm lá cờ đỏ lên nóc Dinh Độc Lập, bắt toàn bộ nội các chính quyền Sài Gòn, buộc Tổng thống Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện lúc 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975. Trong chiến dịch phản công biên giới Tây - Nam Việt Nam Nguyễn Hữu An được đánh giá là một trong các vị tướng giỏi nhất của Quân đội nhân dân Việt Nam. Cùng với chỉ huy chiến dịch (tướng Lê Trọng Tấn) và các tướng lĩnh của QĐNDVN: tướng Kim Tuấn, tướng Lê Đức Anh, tướng Nguyễn Hữu An trực tiếp cùng lực lượng tham gia chiến dịch. Ông là chỉ huy quân đoàn 2 tham gia chiến dịch phản công biên giới Tây-Nam Việt Nam chống quân Khmer Đỏ từ tháng 12 năm 1977 đến khoảng năm 1981. Sau chiến tranh Ông đã giữ những chức vụ quan trọng trong quân đội như Phó Tổng Thanh tra quân đội, Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng và Tư lệnh Quân khu 2 (1984-1987), Giám đốc Học viện Lục quân (1988-1991), Giám đốc Học viện Quốc phòng (1991-1995). Ông được Đại tướng Võ Nguyên Giáp mệnh danh là "Vị tướng trận mạc". Hiện nay, tên ông được đặt cho đường Nguyễn Hữu An ở trung tâm thành phố Ninh Bình. Lịch sử thụ phong quân hàm Huân chương Thượng tướng Nguyễn Hữu An đã được thưởng nhiều huân chương cao quý: Huân chương Độc lập hạng nhất 2 Huân chương Quân công hạng nhất Huân chương Quân công hạng ba Huân chương Quân công Giải phóng hạng 3 2 huân chương Chiến công hạng nhất, hạng nhì Huân chương Chiến thắng hạng nhì Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (truy tặng năm 2014) Nguyễn Hữu An được đặt tên cho một tuyến đường chạy qua phường Ninh Tiến, thành phố Ninh Bình. Nhận xét Thượng tướng Giáo sư Hoàng Minh Thảo khi được hỏi về trình độ đánh trận của các tướng lĩnh Việt Nam đã trả lời: "Tất nhiên đầu tiên là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thứ hai là tướng Lê Trọng Tấn, Thứ ba là tướng Hoàng Văn Thái và thứ tư là tướng Nguyễn Hữu An." Trong văn hóa Hình ảnh Nguyễn Hữu An được tái hiện trong văn hóa qua bộ phim Chúng tôi từng là lính của đạo diễn Randall Wallace, Nguyễn Hữu An do diễn viên Đơn Dương thủ vai. Trong phim này tướng An được tái hiện là một viên tướng máu lạnh, tàn nhẫn, binh lính dưới quyền của ông cũng chỉ là những con thiêu thân, bị thịt chỉ biết xông lên và ngã rạp trước hỏa lực của lính Mỹ. Tuy nhiên bộ phim đã bị chỉ trích từ dư luận Việt Nam khi đạo diễn đã cố tình đưa thêm vào nhiều chi tiết sai sự thật lịch sử mà cuốn hồi ký của Moore không hề có. Xem thêm trong Chúng tôi từng là lính và Trận Ia Đrăng. Chú thích
Cầu Vĩnh Tuy là một cây cầu bắc qua sông Hồng, phía đầu cầu bên trung tâm Hà Nội nằm ở địa phận phường Vĩnh Tuy, thành phố Hà Nội, nối quận Hai Bà Trưng và quận Long Biên. Lịch sử Khởi công xây dựng ngày 3 tháng 2 năm 2005, dự kiến khánh thành tháng 5 năm 2007. Nhưng do khó khăn về công tác giải phóng mặt bằng nên tiến độ khánh thành cầu đã bị chậm lại, sau đó có thông báo dự kiến hợp long cầu vào dịp tết âm lịch 2008. Tuy nhiên đến tháng 1/2008 ban quản lý lại tiếp tục thông báo đẩy lùi tiến độ do một số nguyên nhân và không thông báo ngày hoàn thành. Ngày 25 tháng 9 năm 2009, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chính thức cắt băng khánh thành thông xe cây cầu rộng nhất Việt Nam này (giữ kỷ lục này đến khi Cầu Đông Trù được khánh thành vào 09/10/2014). Ngày 26 tháng 9 năm 2010, cầu Vĩnh Tuy chính thức được khánh thành giai đoạn 1. Ngày 9 tháng 1 năm 2021, cầu Vĩnh Tuy giai đoạn 2 được khởi công xây dựng. Ngày 30 tháng 6 năm 2023 cầu Vĩnh Tuy giai đoạn 2 chính thức hợp long cầu. Ngày 30 tháng 8 năm 2023 cầu Vĩnh Tuy giai đoạn 2 được chính thức thông xe. Tính năng kỹ thuật Đây là cầu kết cấu dầm hộp bê tông cốt thép dự ứng lực, sơ đồ cầu liên tục nhiều nhịp. Cầu được thi công với công nghệ đúc hẫng và đạt kỉ lục về chiều dài nhịp đúc hẫng của Việt Nam (135m so với cầu Thanh Trì là 130m) Trong giai đoạn đầu, cầu được thiết kế có 4 làn xe cơ giới, 2 làn xe hỗn hợp. Giai đoạn hoàn chỉnh cầu có 6 làn xe cơ giới, 2 làn xe hỗn hợp, giữa làn xe cơ giới và làn xe hỗn hợp được phân tách bằng dải phân cách cứng. Bảo đảm lưu lượng vận tải khoảng 35.000 lượt xe/ngày đêm vào năm 2010. Tổng chiều dài gần 3 km. Phần cầu qua sông dài 2.690 m. Phần cầu chính được bố trí chuỗi nhịp dài 990 m, rộng 38 m. Cầu Vĩnh Tuy cùng với cầu Thanh Trì là 2 cây cầu mới được xây dựng tại Hà Nội, có ý nghĩa giao thông quan trọng nhưng đều chậm tiến độ không dưới 2 năm. Phân luồng giao thông Từ năm 2010 tất cả các tuyến xe khách và xe trên 24 chỗ ngồi xuất phát từ trung tâm Hà Nội sang phía đông (Gia Lâm) đều phải qua cầu Vĩnh Tuy, thay cho trước kia được phép qua cầu Chương Dương. Sau khi cầu Vĩnh Tuy giai đoạn 2 hoàn thành đưa vào khai thác, cầu Vĩnh Tuy 1 sẽ được tổ chức lưu thông 1 chiều hướng từ quận Long Biên sang quận Hai Bà Trưng, còn cầu Vĩnh Tuy 2 lưu thông theo hướng ngược lại. Vốn đầu tư Theo thiết kế tổng vốn khoảng 3.600 tỷ đồng VN. Sau quá trình thi công kéo dài ở giai đoạn 1, trượt giá tính lại khoảng 5.500 tỷ đồng Việt Nam. Giai đoạn 2 mở rộng, tổng vốn đầu tư là 2.538 tỷ đồng Việt Nam.
Nauru (phát âm ), tên chính thức là nước Cộng hòa Nauru, là một đảo quốc tại Micronesia thuộc Nam Thái Bình Dương. Với 9.378 cư dân sống trên một diện tích , Nauru là quốc gia nhỏ nhất tại Nam Thái Bình Dương, nhỏ thứ ba trên thế giới về diện tích, chỉ sau Thành Vatican và Công quốc Monaco, quốc gia đầu tiên không có thủ đô hay thành phố và là đảo quốc nhỏ nhất trên thế giới. Ngoài ra, Nauru còn là nước cộng hòa có diện tích nhỏ nhất trên thế giới. Sau khi người Micronesia và người Polynesia định cư tại Nauru, hòn đảo bị Đế quốc Đức thôn tính và tuyên bố là một thuộc địa vào cuối thế kỷ XIX. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Nauru trở thành một lãnh thổ ủy thác của Hội Quốc Liên do Úc, New Zealand, và Anh Quốc quản lý. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Nauru bị quân đội Nhật Bản chiếm đóng. Sau chiến tranh, đảo lại trở thành lãnh thổ ủy thác. Nauru giành được độc lập vào năm 1968. Nauru là một đảo đá phosphat, giàu tài nguyên gần bề mặt, do vậy có thể dễ dàng tiến hành khai thác lộ thiên. Đảo còn lại một số trữ lượng phosphat, song không còn có hiệu quả kinh tế để tiến hành khai thác. Vào cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970, Nauru có thu nhập bình quân đầu người cao nhất trong số các quốc gia có chủ quyền. Khi trữ lượng phosphat cạn kiệt, và môi trường bị tổn hại nghiêm trọng do hoạt động khai thác, một quỹ được thành lập để quản lý nguồn tài sản đang dần giảm giá trị của hòn đảo. Để kiếm được thu nhập, Nauru nhanh chóng trở thành một thiên đường thuế và trung tâm rửa tiền phi pháp. Từ năm 2001 đến 2008, Nauru cho Úc đặt trung tâm giam giữ Nauru để đổi lấy viện trợ. Tổng thống Nauru cũng là người đứng đầu nghị viện đơn viện gồm 19 thành viên. Nauru là một thành viên của Liên hiệp quốc, Khối Thịnh vượng chung, Ngân hàng Phát triển châu Á và Diễn đàn các đảo Thái Bình Dương. Nauru cũng tham gia Đại hội thể thao Thịnh vượng chung và Thế vận hội. Lịch sử Người Micronesia và người Polynesia là những dân tộc đầu tiên sinh sống tại Nauru, ít nhất là từ 3.000 năm trước. Theo truyền thống, có 12 thị tộc hay bộ tộc tại Nauru, được đại diện bằng một sao 12 cánh trên quốc kỳ. Cũng theo truyền thống, người Nauru truy nguồn gốc của họ dựa trên mẫu hệ. Các cư dân trên đảo làm nghề nuôi trồng thủy sản: họ bắt cá ibija còn nhỏ, cho chúng thích nghi với môi trường nước ngọt, và nuôi chúng tại phá Buada, chúng cung cấp cho người dân trên đảo một nguồn thực phẩm ổn định. Trong thành phần bữa ăn của họ có những thứ khác được nuôi trồng tại địa phương như dừa và dứa dại. Tên gọi "Nauru" có thể bắt nguồn từ Anáoero, trong tiếng Nauru, có nghĩa là "Tôi đi đến bãi biển". Năm 1798, thuyền trưởng người Anh John Fearn, một thợ săn cá voi, trở thành người phương Tây đầu tiên đến Nauru, ông đặt tên đảo là "Pleasant". Từ khoảng năm 1830, người Nauru có tiếp xúc với người Âu do các tàu đánh bắt cá voi và các thương nhân bổ sung nguồn dự trữ của họ (đặc biệt là nước ngọt) tại Nauru. Khoảng thời gian này, những người đào tẩu từ các tàu châu Âu bắt đầu đến sống tại đảo. Người dân trên đảo trao đổi thực phẩm lấy rượu dừa và các loại súng cầm tay. Các loại súng cầm tay được sử dụng trong Chiến tranh bộ tộc Nauru bắt đầu từ năm 1878 và kéo dài 10 năm. Nauru bị Đức thôn tính vào năm 1888 và được hợp nhất vào Lãnh thổ bảo hộ Quần đảo Marshall thuộc Đức. Việc người Đức đến đã kết thúc nội chiến trên đảo, và các vương được đặt làm những người cai trị của đảo. Người được biết đến rộng rãi nhất trong số họ là Vương Auweyida. Các nhà truyền giáo Ki-tô từ quần đảo Gilbert đến Nauru vào năm 1888. Những người Đức định cư gọi đảo là Nawodo hoặc Onawero. Người Đức cai trị Nauru trong gần ba thập niên. Robert Rasch là một thương nhân người Đức kết hôn với một phụ nữ Nauru, ông là quản trị viên đầu tiên của đảo, được bổ nhiệm vào năm 1890. Năm 1900, nhà thăm dò Albert Fuller Ellis phát hiện ra phosphat tại Nauru. Công ty Phosphat Thái Bình Dương bắt đầu khai thác tài nguyên này vào năm 1906 theo thỏa thuận với Đức, xuất khẩu lô hàng phosphat đầu tiên vào năm 1907. Năm 1914, sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, quân Úc chiếm Nauru. Úc, New Zealand và Anh Quốc ký Hiệp định đảo Nauru vào năm 1919, lập ra một ủy ban gọi là Ủy ban Phosphat Anh Quốc, thể chế này tiếp quản quyền khai mỏ phosphat. Nauru trải qua một đại dịch cúm vào năm 1920, với tỷ lệ tử vong là 18 phần trăm trong số người Nauru bản địa. Năm 1923, Hội Quốc Liên trao cho Úc quyền quản trị ủy thác đối với Nauru, với Anh Quốc và New Zealand là đồng quản trị. Ngày 6 và 7 tháng 12 năm 1940, các tuần dương hạm phụ trợ Komet và Orion của Đức đánh đắm năm tàu tiếp tế tại vùng biển lân cận Nauru. Komet sau đó nã pháo vào các khu vực khai mỏ phosphat, kho chứa dầu, dầm chìa bốc hàng lên tàu trên đảo. Quân đội Nhật Bản chiếm đóng Nauru vào ngày 25 tháng 8 năm 1942. Người Nhật xây dựng một sân bay, sân bay này bị Đồng Minh oanh tạc lần đầu vào ngày 25 tháng 3 năm 1943 nhằm ngăn chặn cung cấp thực phẩm được chở bằng đường không đến Nauru. Người Nhật trục xuất 1.200 người Nauru đến quần đảo Chuuk làm lao công. Nauru bị quân đội Hoa Kỳ bỏ qua và bỏ lại trong các chiến dịch trên Thái Bình Dương của họ, và cuối cùng được giải phóng vào ngày 13 tháng 9 năm 1945, khi sĩ quan chỉ huy Hisayaki Soeda đầu hàng giao đảo cho quân đội Úc. Các dàn xếp được tiến hành để hồi hương 737 người Nauru còn sống từ Chuuk. Họ trở về Nauru vào tháng 1 năm 1946. Năm 1947, Liên Hợp Quốc thiết lập một chế độ ủy thác tại Nauru, với Úc, New Zealand, và Anh Quốc là các ủy viên quản trị. Nauru được tự trị vào tháng 1 năm 1966, và trở thành quốc gia độc lập vào năm 1968 dưới quyền Tổng thống Hammer DeRoburt. Năm 1967, nhân dân Nauru mua lại tài sản của Ủy ban Phosphat Anh Quốc, và vào tháng 6 năm 1970 quyền kiểm soát được chuyển cho Công ty Phosphat Nauru thuộc sở hữu địa phương. Thu nhập từ khai mỏ giúp người Nauru trở thành một trong những nhóm dân cư có mức sống cao nhất tại Thái Bình Dương. Năm 1989, Nauru thực hiện hành động pháp lý chống lại Úc tại Tòa án Công lý Quốc tế về sự quản lý của Úc đối với hòn đảo, cụ thể là thất bại của Úc trong việc khắc phục các tổn hại về môi trường do hoạt động khai mỏ gây ra. Certain Phosphate Lands: Nauru v. Australia dẫn đến một dàn xếp ngoài tòa án nhằm cải tạo các khu vực đã khai thác hết của Nauru. Địa lý Nauru là một đảo hình trái xoan với diện tích tại tây nam Thái Bình Dương, cách Xích đạo về phía nam. Bao quanh đảo là một ám tiêu san hô, lộ ra khi triều thấp và rải rác khi đỉnh triều. Sự hiện diện của ám tiêu ngăn trở việc thiết lập một cảng biển, song các kênh tại ám tiêu cho phép các tàu nhỏ tiếp cận đảo. Một dải duyên hải màu mỡ rộng nằm trong nội địa xuất phát từ bãi biển, là nơi dừa mọc xum xuê. Các vách đá san hô bao quanh cao nguyên trung tâm của Nauru. Đỉnh cao nhất của cao nguyên gọi là đỉnh Chỉ huy (Command Ridge), có cao độ trên mực nước biển. Vùng đất quanh phá Buada nuôi dưỡng các cây chuối, dứa, rau, dứa dại, và các cây gỗ cứng bản địa như mù u. Nauru là một trong ba đảo đá phosphat lớn tại Thái Bình Dương (hai đảo còn lại là Banaba của Kiribati và Makatea của Polynésie thuộc Pháp). Trữ lượng phosphat tại Nauru nay hầu như đã hoàn toàn cạn kiệt. Khai mỏ Phosphat tại cao nguyên trung tâm để lại một địa hình cằn cỗi với các đỉnh nhọn đá vôi cao đến . Hoạt động khai mỏ làm trơ trụi và tàn phá khoảng 80% diện tích đất liền của Nauru, và cũng ảnh hưởng đến vùng đặc quyền kinh tế xung quanh; 40% sinh vật hải dương được ước tính là đã chết do rò rỉ bùn và phosphat. Nauru có tài nguyên nước ngọt tự nhiên hạn chế. Các bể chứa trên nóc nhà thu thập nước mưa, song người dân trên đảo chủ yếu phụ thuộc vào ba nhà máy khử muối đặt tại Cơ quan Công ích Nauru. Khí hậu Nauru nóng và rất ẩm quanh năm vì nằm gần xích đạo và nằm giữa đại dương. Nauru chịu mưa gió mùa từ tháng 11 đến tháng 2, song không thường gặp lốc xoáy. Lượng mưa từng năm biến thiên lớn và chịu ảnh hưởng của El Niño-Dao động phương Nam, với một số hạn hán được ghi nhận có quy mô đáng kể. Nhiệt độ tại Nauru dao động từ đến vào ban ngày và từ đến vào ban đêm. Do là một đảo, Nauru dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu và mực nước biển. Có ít nhất 80% đất liền tại Nauru có cao độ phù hợp, song các khu vực này sẽ không cư trú được cho đến khi chương trình phục hồi môi trường sau khai thác phosphat được thi hành. Sinh vật hoang dã Đảo có hệ động vật thưa thớt do các nguyên nhân là thiếu thảm thực vật và hệ quả của việc khai thác phosphat. Nhiều loài chim bản địa biến mất hoặc trở nên hiếm do môi trường sống của chúng bị phá hoại. Chỉ có khoảng 60 loài thực vật có mạch được ghi nhận là loài bản địa của đảo, không có loài nào trong số đó là loài đặc hữu. Nông trại dừa, khai mỏ, và việc đưa đến các loài ngoại lai khiến các loài thực vật bản địa bị xâm phạm nghiêm trọng. Không có loài thú đất liền bản địa nào trên đảo, song có những côn trùng, cua đất, và chim bản địa, bao gồm loài đặc hữu chích sậy Nauru. Chuột lắt, mèo, chó, lợn, và gà được các chuyền tàu đưa đến Nauru. Sự đa dạng của đời sống sinh vật biển ám tiêu khiến câu cá là một hoạt động phổ biến đối với du khách thăm đảo, cùng với hoạt động lặn biển. Chính trị Nauru là một nước cộng hòa với chính quyền có một hệ thống nghị viện. Tổng thống là nguyên thủ quốc gia và chính phủ. Nghị viện đơn viện gồm 19 thành viên được bầu cử mỗi ba năm. Nghị viện bầu tổng thống từ các thành viên của mình, và tổng thống bổ nhiệm một nội các gồm sáu thành viên. Nauru không có bất kỳ cấu trúc chính thức nào cho các chính đảng, và các ứng cử viên thường ứng cử chức vụ với tư cách độc lập. Bốn đảng hoạt động trên chính trường Nauru là Đảng Nauru, Đảng Dân chủ, Nauru Trước tiên, và Đảng Trung tâm. Tuy nhiên, các liên minh trong chính quyền thường được hình thành dựa trên cơ sở các mối quan hệ đại gia đình thay vì đảng tịch. Từ năm 1992 đến 1999, Nauru có một hệ thống chính quyền địa phương được gọi là Hội đồng đảo Nauru (NIC) gồm chín thành viên. NIC bị bãi bỏ vào năm 1999 và toàn bộ tài sản và nợ được trao cho chính phủ quốc gia. Quyền sử dụng đất tại Nauru là bất thường: toàn bộ người Nauru có các quyền nhất định đối với toàn bộ đất đai trên đảo, thứ là sở hữu của các cá nhân hoặc nhóm gia đình. Chính phủ và các đoàn thể không sử hữu bất kỳ mảnh đất nào, và họ cần phải lập hợp đồng thuê với địa chủ để sử dụng đất. Nếu không phải người Nauru thì không thể sở hữu đất đai trên đảo. Nauru có 17 thay đổi chính phủ từ năm 1989 đến năm 2003. Bernard Dowiyogo mất khi đang tại vị vào tháng 3 năm 2003 và Ludwig Scotty được bầu làm tổng thống, sau đó ông tái đắc cử để phục vụ một nhiệm kỳ đầu đủ vào tháng 10 năm 2004. Sau một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm vào ngày 19 tháng 12 năm 2007, Scotty bị Marcus Stephen thay thế. Stephen từ nhiệm vào tháng 11 năm 2011, và Freddie Pitcher trở thành tổng thống. Sprent Dabwido sau đó đệ trình kiến nghị bất tín nhiệm đối với Pitcher, kết quả là Dabwido trở thành tổng thống. Sau cuộc bầu cử nghị viện vào năm 2013, Baron Waqa được bầu làm tổng thống. Nauru có một hệ thống tư pháp phức tạp. Tòa án Tối cao, đứng đầu là Chánh án, là cơ quan tối cao trong các vấn đề hiến pháp. Các vụ tố tụng khác có thể kháng cáo lên Tòa Thượng tố gồm hai thẩm phán. Nghị viện không thể bác bỏ các phán quyết của tòa án, song có thể kháng cáo các quyết định của Tòa Thượng tố Nauru đến Tòa Cao đẳng Úc. Tuy nhiên, điều này hiếm khi xảy ra trên thực tế. Các tòa án cấp thấp hơn gồm có Tòa án khu vực và Tòa án gia đình, cả hai đều do Quan tòa cư dân đứng đầu, người này cũng là hộ tịch viên (Registrar) của Tòa Tối cao. Còn có hai bán pháp viện khác: Ủy ban Thượng tố phục vụ công cộng (Public Service Appeal Board) và Ủy ban Thượng tố Cảnh sát (Police Appeal Board), cả hai đều do Chánh án nắm quyền tối cao. Hành chính Nauru được chia thành 14 khu, chúng được nhóm lại thành tám khu vực tuyển cử. Quan hệ đối ngoại Sau khi độc lập vào năm 1968, Nauru gia nhập khối Thịnh vượng chung Anh với tư cách một thành viên đặc biệt; và trở thành một thành viên đầy đủ vào năm 2000. Quốc gia này được nhận vào Ngân hàng Phát triển châu Á vào năm 1991 và gia nhập Liên Hợp Quốc vào năm 1999. Nauru là một thành viên của Diễn đàn các đảo Thái Bình Dương, Chương trình Môi trường Khu vực Nam Thái Bình Dương, Ủy ban Nam Thái Bình Dương, và Ủy ban Khoa học Địa cầu Nam Thái Bình Dương. Chương trình Quan trắc bức xạ khí quyển của Hoa Kỳ vận hành một cơ sở giám sát khí hậu trên đảo. Nauru không có lực lượng vũ trang, song có một lực lượng cảnh sát nhỏ nằm dưới quyền kiểm soát dân sự. Úc chịu trách nhiệm về quốc phòng của Nauru theo một hiệp định không chính thức giữa hai quốc gia. Tháng 9 năm 2005, Bị vong lục Thông hiểu giữa Úc và Nauru mang đến cho Nauru viện trợ tài chính và giúp đỡ kỹ thuật, bao gồm một Bộ trưởng Tài chính để chuẩn bị ngân sách, và các cố vấn về y tế và giáo dục. Sự giúp đỡ này là để đổi lấy việc cung cấp nhà ở cho những người tìm kiếm nơi trú ẩn trong lúc thỉnh cầu đến Úc của họ được xử lý. Nauru sử dụng đô la Úc làm tiền tệ chính thức của mình. Nauru sử dụng tư cách một thành viên Liên Hợp Quốc của mình để đạt được hỗ trợ tài chính từ cả Đài Loan và Trung Quốc đại lục, quốc gia này thay đổi sự công nhận của mình sang phía bên kia theo Chính sách Một Trung Quốc. Ngày 21 tháng 7 năm 2002, Nauru ký một thỏa thuận về việc thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, nhận được 130 triệu đô la Mỹ từ Bắc Kinh cho hành động này. Nhằm phản ứng, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) đoạn tuyệt quan hệ ngoại giao với Nauru hai ngày sau đó. Nauru sau đó tái lập liên kết với Trung Hoa Dân Quốc vào ngày 14 tháng 5 năm 2005, Năm 2008, Nauru công nhận Kosovo là một quốc gia độc lập, và vào năm 2009 Nauru công nhận Abkhazia và Nam Ossetia- các khu vực ly khai của Gruzia. Nga được cho là đã trao cho Nauru 50 triệu đô la Mỹ tiền viện trợ nhân đạo như một kết quả của sự công nhận này. Ngày 15 tháng 7 năm 2008, chính phủ Nauru tuyên bố một chương trình mở rộng và nâng cấp cảng, sử dụng 9 triệu đô la Mỹ viện trợ phát triển từ Nga. Chính phủ Nauru tuyên bố rằng viện trợ này không liên quan đến việc Nauru công nhận Abkhazia và Nam Ossetia. Kinh tế Kinh tế Nauru đạt đỉnh vào đầu thập niên 1980, khi nó phụ thuộc gần như hoàn toàn vào tài nguyên phosphat có nguồn gốc từ phân của các loài chim biển. Hòn đảo có ít các tài nguyên khác, và hầu hết nhu yếu phẩm phải nhập khẩu. RONPhos, trước đây gọi là Công ty Phosphat Nauru, vẫn tiến thành khai thác quy mô nhỏ. Chính quyền đưa một tỷ lệ tiền lãi của RONPhos vào trong Quỹ Hoa hồng Phosphat Nauru. Quỹ quản lý các khoản đầu tư dài hạn, mục đích là để hỗ trợ các công dân khi trữ lượng phosphat cạn kiệt. Tuy nhiên, do quản lý yếu kém, các tài sản cố định và lưu động của quỹ suy giảm đáng kể, và nhiều khoản không bao giờ có thể phục hồi hoàn toàn. Các đầu tư thất bại bao gồm nhạc kịch Leonardo the Musical vào năm 1993, là một thất bại về tài chính. The Mercure Hotel tại Sydney và tòa nhà Nauru House tại Melbourne được bán vào năm 2004 để trả các khoản nợ và một chiếc Boeing 737- máy bay duy nhất của Air Nauru bị tái chiếm hữu vào tháng 12 năm 2005. Dịch vụ hành không bình thường được tiếp tục sau khi nó được thay thế bằng một máy bay dân đụng Boeing 737–300 vào tháng 6 năm 2006. Năm 2005, Nauru bán tài sản còn lại của mình tại Melbourne, địa điểm quán Savoy, với giá 7,5 triệu đô la Mỹ. Giá trị của Quỹ Hoa hồng Phosphat Nauru ước tính giảm từ 1,3 tỷ đô la Úc vào năm 1991 xuống 138 triệu đô la Úc vào năm 2002. Nauru hiện thiếu tiền tệ để thi hành nhiều chức năng cơ bản của chính quyền; ví dụ, Ngân hàng Quốc gia Nauru bị vỡ nợ. CIA World Factbook ước tính GDP bình quân đầu người của Nauru là 5.000 đô là Mỹ vào năm 2005. Ngân hàng Phát triển châu Á trong báo cáo kinh tế 2007 về Nauru ước tính GDP bình quân đầu người từ 2.400 đến 2.715 đô la Mỹ Không có thuế cá nhân tại Nauru. Tỷ lệ thất nghiệp ước tính là 90%, và 95% trong số những người có việc làm là người làm việc cho chính quyền. Ngân hàng Phát triển châu Á lưu ý rằng mặc dù chính quyền có chỉ thị công khai mạnh mẽ về thi hành các cải cách kinh tế, song trong khi không có nguồn thay thế cho khai thác phosphat, triển vọng trung hạn của kinh tế Nauru tiếp tục phụ thuộc vào giúp đỡ từ bên ngoài. Trong thập niên 1990, Nauru trở thành một thiên đường thuế và quốc gia này cấp hộ chiếu cho công dân ngoại quốc để thu phí. Nhóm hành động tài chính chống Rửa tiền (FATF) xác định Nauru là một trong 15 quốc gia "không hợp tác" trong cuộc chiến chống rửa tiền. Trong thập niên 1990, có thể lập một ngân hàng có giấy phép tại Nauru chỉ với 25.000 đô la mà không cần đáp ứng các yêu cầu khác. Dưới áp lực của FATF, Nauru ban hành luật chống trốn thuế vào năm 2003, sau đó nguồn tiền nóng nước ngoài dời khỏi Nauru. Vào tháng 10 năm 2005, sau khi Nauru thỏa mãn yêu cầu ban hành và thực thi luật, FATF chấm dứt xác định quốc gia này là không hợp tác. Từ năm 2001 đến năm 2007, trung tâm giam giữ Nauru cung cấp một nguồn thu nhập đáng kể cho quốc gia này. Nhà cầm quyền Nauru phản ứng lo lắng trước việc Úc đóng cửa trung tâm. Vào tháng 2 năm 2008, Bộ trưởng Ngoại giao Nauru Kieren Keke phát biểu rằng việc đóng cửa trung tâm sẽ dẫn đến viẹc 100 người Nauru mất việc làm, và sẽ ảnh hưởng đến 10% dân số trên đảo một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Trung tâm giam giữ được mở cửa trở lại vào tháng 8 năm 2012. Nhân khẩu Nauru có 9.378 cư dân vào tháng 7 năm 2011. Dân số đảo trước đây đông hơn, song vào năm 2006 có khoảng 1.500 người dời khỏi đảo trong một chuyến hồi hương của các công nhân nhập cư đến từ Kiribati và Tuvalu. Nguyên nhân của việc hồi hương là sự giảm thiểu nhân lực quy mô lớn trong ngành công nghiệp khai thác phosphat. Ngôn ngữ chính thức của Nauru là tiếng Nauru, một ngôn ngữ đảo Thái Bình Dương khác biệt, được 96% người thuộc dân tộc Nauru nói tại nhà. Tiếng Anh được nói phổ biến và là ngôn ngữ của chính quyền và thương mại, do tiếng Nauru không phổ biến bên ngoài quốc gia. Các dân tộc đông nhất tại Nauru là người Nauru (58%), người các đảo Thái Bình Dương khác (26%), người gốc Âu (8%), và người Hoa (8%). Tôn giáo chính được thực hành trên đảo là Ki-tô giáo (2/3 là Tin Lành, 1/3 là Công giáo La Mã). Có một số lượng tín đồ đáng kể Bahá'í (10%) – đây là tỷ lệ cao nhất trong số các quốc gia trên thế giới – Phật giáo (9%) cùng Hồi giáo (2,2%). Hiến pháp Nauru quy định quyền tự do tôn giáo. Tuy nhiên, chính quyền cản trở việc thực hành tôn giáo của Giáo hội các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giê Su Ky Tô và Nhân Chứng Giê-hô-va, hầu hết các tín đồ này là công nhân ngoại quốc làm việc cho Công ty Phosphat Nauru thuộc sở hữu của chính quyền. Tỷ lệ biết chữ tại Nauru là 96%. Giáo dục là bắt buộc đối với trẻ em từ 6 đến 15 tuổi, và hai năm không bắt buộc được đề nghị (lớp 11 và 12). Có một khu trường sở của Đại học Nam Thái Bình Dương tại Nauru. Trước khi khu trường sở này được xây dựng vào năm 1987, các sinh viên sẽ phải học tại nước ngoài. Người Nauru là những người béo phì nhất trên thế giới; 97% nam giới và 93% nữ giới bị thừa cân hoặc béo phì. Kết quả là Nauru có mức độ mắc đái đường típ 2 cao nhất thế giới, với trên 40% dân số mắc bệnh. Các vấn đề quan trọng khác liên quan đến chế dộ ăn uống tại Nauru gồm có bệnh thận và bệnh tim. Tuổi thọ tại Nauru vào năm 2009 là 60,6 năm đối với nam và 68,0 năm đối với nữ. Văn hóa Người Nauru có nguồn gốc từ các thủy thủ người Polynesia và người Micronesia, những người này tin vào một nữ thần là Eijebong, và một vùng đất thánh là một đảo gọi là Buitani. Hai trong số 12 thị tộc ban đầu bị tuyệt chủng trong thế kỷ XX. Ngày Angam được tổ chức vào 26 tháng 10 nhằm tán dương sự phục hồi của dân cư Nauru sau hai thế chiến và dịch cúm năm 1920. Văn hóa thuộc địa và hiện đại phương Tây thay thế đáng kể văn hóa bản địa. Chỉ một vài trong số các phong tục cổ được bảo tồn, song một số loại hình âm nhạc, nghệ thuật, thủ công nghiệp, ngư nghiệp truyền thống vẫn được thực hành. Không có nhật báo xuất bản tại Nauru, chỉ có một ấn phẩm phát hành hai tuần một lần là Mwinen Ko. Có một đài truyền hình do nhà nước sở hữu là Truyền hình Nauru (NTV), nó phát sóng các chương trình từ New Zealand và Úc, và một dài phát thanh phi thương mại thuộc sở hữu nhà nước là Phát thanh Nauru, truyền các chương trình của Đài phát thanh Úc và BBC. Bóng đá luật Úc là môn thể thao phổ biến nhất tại Nauru; nó và cử tạ được xem là các môn thể thao quốc gia. Nauru có một giải bóng đá Úc với tám đội tuyển. Các môn thể thao phổ biến khác tại Nauru gồm có bóng chuyền, bóng lưới, câu cá, và quần vợt. Nauru tham gia Đại hội thể thao Thịnh vượng chung và Thế vận hội Mùa hè. Chú thích
10000 (mười nghìn, mười ngàn, hay một vạn) là một số tự nhiên ngay sau 9999 và ngay trước 10001.
Washington (phát âm là Oa-xinh-tơn) là một tiểu bang ở vùng Tây Bắc Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, phía bắc giáp với tỉnh British Columbia của Canada, phía nam giáp với Oregon. Thủ phủ của tiểu bang là Olympia còn thành phố lớn nhất là Seattle. Tiêu bang lấy tên của George Washington, tổng thống đầu tiên của nước Mỹ. Tổng diện tích: 184.827 km², dân số: 7 triệu người (năm 2013), mật độ dân số: 39,6 người/km². Kinh tế Năm 2004: tổng sản phẩm của tiểu bang là 262 tỷ đô la, thu nhập đầu người là 33.332 đô la. Buôn bán thương mại trong tiểu bang phải kể đến là: Boeing, Microsoft, Amazon.com, Nintendo, điện tử, công nghệ sinh học, nhôm, gỗ, than đá và du lịch.
Trong toán học, hai tập hợp gọi là không giao nhau khi chúng không có phần tử nào chung. Tương tự, hai tập không giao nhau là các tập có phép giao giữa chúng là một tập hợp rỗng. Các ví dụ Phần bù của tập hợp A trong tập hợp B CAB và tập hợp A Tập hợp bất kỳ A và tập hợp rỗng
nằm trên đảo Honshu là ngọn núi cao nhất Nhật Bản với độ cao 3.776,24 trên mực nước biển, là đỉnh núi cao thứ 2 trên một hòn đảo tại châu Á và thứ 7 trên thế giới. Đây là một núi lửa dạng tầng đã ngưng hoạt động với lần phun trào cuối vào năm 1707-1708. Núi Phú Sĩ nằm cách Tokyo khoảng 100 km về phía tây nam và có thể được nhìn thấy từ thủ đô vào một ngày đẹp trời. Ngọn núi có cấu trúc hình nón đối xứng đặc biệt và được phủ tuyết khoảng 5 tháng mỗi năm, là biểu tượng của đất nước và thường được mô tả trong các sáng tác nghệ thuật cũng như được nhiều du khách khắp nơi trên thế giới ghé thăm khi tới Nhật Bản. Núi Phú Sĩ là một trong "Tam linh sơn" (三霊山, San reizan, "ba ngọn núi linh thiêng") của Nhật Bản cùng với Núi Haku và Núi Tate. Núi Phú Sĩ là một danh thắng đặc biệt và một di tích lịch sử của Nhật Bản. Ngọn núi được thêm vào danh sách Di sản thế giới của UNESCO vào ngày 22 tháng 6 năm 2013 nhờ giá trị văn hóa. Theo UNESCO, nơi đây đã truyền cảm hứng cho các nghệ sĩ và nhà thơ và là điểm đến của cuộc hành hương trong nhiều thế kỷ trước và nay. Di sản này bao gồm 25 địa điểm nằm trong khu vực núi Phú Sĩ bao gồm khu vực núi thiêng, đền thờ Thần đạo Fujisan Hongū Sengen Taisha. Từ nguyên Phú Sĩ có tên bằng Kanji (Hán tự) là và , có nghĩa là "sự giàu có" hoặc "phong phú" và "một người có địa vị". Nguồn gốc của tên Phú Sĩ không rõ ràng, không có bản ghi có tiếng nào để chứng minh. Một truyện cổ của thế kỷ thứ 9, Taketori Monogatari, nói rằng cái tên này xuất phát từ "bất tử" (fushi, fuji) và cũng từ hình ảnh của và Một từ nguyên dân gian ban đầu cho rằng Phú Sĩ đến từ (bất + nhị), có nghĩa là độc nhất vô nhị. Một tuyên bố khác rằng nó đến từ (rất + xa, bất tận), có nghĩa là không bao giờ kết thúc. Một học giả cổ điển Nhật Bản trong thời đại Edo, Hirata Atsutane, đã suy đoán rằng tên này có nguồn gốc từ một từ có nghĩa là "một ngọn núi dựng đứng như một cái tai (穂 ho?) của một cây lúa". Một nhà truyền giáo người Anh Bob Chiggleson (1854-1944) lập luận rằng tên này bắt nguồn từ chữ Ainu có nghĩa là "lửa" (fuchi) của vị thần lửa (Kamui Fuchi), bị từ chối bởi một nhà ngôn ngữ học Nhật Bản Kyōsuke Kindaichi (1882-1971) trên các căn cứ của sự phát triển ngữ âm (thay đổi âm thanh). Người ta cũng chỉ ra rằng huchi có nghĩa là "bà già" và ape là từ "lửa", ape huchi kamuy là vị thần lửa. Một người theo chủ nghĩa địa danh Nhật Bản Kanji Kagami lập luận rằng tên này có cùng gốc với và và đến từ "độ dốc dài hình chữ tốt của nó". Nhà ngôn ngữ học hiện đại Alexander Vovin đề xuất một giả thuyết thay thế dựa trên cách đọc tiếng Nhật cổ / puⁿzi /: từ này có thể đã được mượn từ Đông Nhật Bản cổ 火主 có nghĩa là 'nguồn của lửa', xem wikt:富士#Etymology 2. Biến thể Trong tiếng Anh, ngọn núi được gọi là Fuji mount. Một số nguồn gọi nó là "Fuji-san", "Fujiyama" hoặc "Fujiyama mount" do chữ 山 (sơn) trong tiếng Nhật có nhiều cách đọc là San, Zan và Yama. Người nói tiếng Nhật gọi ngọn núi là "Fuji-san". Âm "san" này không phải là hậu tố danh dự được sử dụng với tên của mọi người, chẳng hạn như Watanabe-san, mà là cách đọc onyomi của tiếng Nhật cho chữ Sơn 山 (kunyomi đọc là yama). Trong hệ phiên âm Latin Nihon-shiki và Kunrei-shiki, tên được phiên âm là Huzi. Tên tiếng Nhật khác của núi Phú Sĩ đã trở nên lỗi thời hoặc thi vị hơn, bao gồm , , , và , được tạo bằng cách kết hợp ký tự đầu tiên của , Phú Sĩ và , núi. Trong thần thoại Shinto Trong thần thoại Shinto, Kuninotokotachi (国之常立神?, Kuninotokotachi-no-Kami, trong Cổ sự ký (Kojiki))(国常立尊?, Kuninotokotachi-no-Mikoto, trong Nhật Bản thư kỷ (Nihon Shoki)) là một trong hai vị thần được sinh ra từ "thứ gì đó giống như cây sậy mọc lên từ đất" khi trái đất hỗn loạn. Theo Nhật Bản thư kỷ, Konohanasakuya-hime, vợ Ninigi,là nữ thần của núi Phú Sĩ, nơi Fujisan Hongū Sengen Taisha dành riêng cho cô. Địa lý Núi Phú Sĩ là ngọn núi lửa còn hoạt động và một điểm rất đặc biệt của địa lý Nhật Bản. Nó cao 3.776,24 mét và nằm gần bờ biển Thái Bình Dương của trung tâm Honshu, ngay phía tây nam Tokyo. Nó đi qua ranh giới của tỉnh Shizuoka và Yamanashi. Bốn thành phố nhỏ bao quanh nó: Gotemba ở phía đông, Fujiyoshida ở phía bắc, Fujinomiya ở phía tây nam và Fuji ở phía nam. Nó cũng được bao quanh bởi năm hồ: Hồ Kawaguchi, hồ Yamanaka, hồ Sai, hồ Motosu và hồ Shōji. Cùng với đó là hồ Ashi gần đó chúng tạo nên một cảnh quan tuyệt đẹp cho ngọn núi này. Ngọn núi này là một phần của vườn quốc gia Fuji-Hakone-Izu. Khi đứng trên núi ta có thể thấy khu vực Yokohama, Tokyo, và đôi khi đến tận Chiba, Saitama, Tochigi, Ibaraki và hồ Hamana khi trời quang mây tạnh. Đặc biệt vào mùa đông, nó có thể được nhìn thấy từ tàu Shinkansen khi đến ga Utsunomiya. Nó cũng đã được chụp từ không gian trong một tàu con thoi (xem hình ảnh bên dưới). Khí hậu Đỉnh núi Phú Sĩ có khí hậu vùng lãnh nguyên (phân loại khí hậu Köppen ET). Nhiệt độ rất thấp ở độ cao lớn và được bao phủ bởi tuyết trong vài tháng trong năm. Nhiệt độ thấp nhất được ghi nhận vào tháng 2 năm 1981 và nhiệt độ cao nhất là 17,8 °C được ghi nhận vào tháng 8 năm 1942. Phú Sĩ Ngũ Hồ Phú Sĩ Ngũ Hồ (kanji: 富士五湖, kana: ふじごこ, romaji: Fujigoko) là tên gọi chung của năm hồ nước ngọt lớn ở chân núi Phú Sĩ, thuộc địa phận tỉnh Yamanashi. Năm hồ nước này xếp theo vị trí của chúng từ Tây qua Bắc sang Đông lần lượt là: Motosu, Shōji, Sai, Kawaguchi, và Yamanaka. Cả năm hồ đều được hình thành do núi lửa Phú Sĩ hoạt động mà tạo ra. Phú Sĩ Ngũ Hồ là một phần của Vườn quốc gia Fuji-Hakone-Izu. Địa chất Núi Fuji nằm ở nơi điểm nối ba của rãnh đại dương, nơi có mảng Amur (mảng Á-Âu), mảng Okshotsk (mảng Bắc Mỹ) và mảng Philippines gặp nhau. Ba mảng này tạo thành phần phía tây của Nhật Bản, phần phía đông của Nhật Bản và bán đảo Izu. Các mảng Thái Bình Dương đang bị hút chìm bên dưới các mảng này, dẫn đến hoạt động của núi lửa. Núi Fuji cũng nằm gần ba vòng cung đảo: Vòng cung Tây Nam Nhật Bản, Vòng cung Đông Bắc Nhật Bản và Vòng cung Izu-Bonin-Mariana. Miệng núi lửa chính của núi Phú Sĩ có đường kính 780 m và sâu 240 m. Đáy của miệng hố có đường kính 100–130 m. Độ dốc từ miệng núi lửa với chiều dài 1,5–2 km vào khoảng 31°-35°. Ngoài ra còn các nơi có độ dốc là khoảng 27°. Độ dốc giữa sườn giảm từ 23° xuống dưới 10°. Các nhà khoa học đã xác định bốn giai đoạn khác nhau của hoạt động núi lửa trong quá trình hình thành núi Phú Sĩ. Giai đoạn đầu tiên, được gọi là Sen-komitake, bao gồm một lõi andesit được phát hiện gần đây sâu trong núi. Cái tên Sen-komitake được lấy theo chữ "Phú Sĩ Komitake" là một lớp đá bazan được hình thành từ hàng trăm nghìn năm trước. Khoảng 100.000 năm trước, một ngọn núi "Phú Sĩ cổ" đã được hình thành trên đỉnh núi Phú Sĩ Komitake. Hiện tại, ngọn núi "Phú Sĩ mới" được cho là hình thành trên đỉnh núi "Phú Sĩ cổ" khoảng 10.000 năm trước. Hiện nay, ngọn núi lửa này thuộc loại đang hoạt động với nguy cơ phun trào thấp. Lần gần đây nhất ghi nhận được sự phun trào là năm 1707 trong thời kỳ Edo. Tại thời điểm này, có một miệng núi lửa mới, dọc theo đỉnh thứ 2 đã hình thành xuống nửa chừng bề mặt của nó. Miệng núi lửa này có tên là Hōei-zan, đặt theo tên của một triều đại. Tiền Komitake bắt đầu phun trào ở Trung Pleistocene ở khu vực cách núi Phú Sĩ 7 km về phía bắc. Sau một thời gian tạm dừng tương đối ngắn, các vụ phun trào lại bắt đầu hình thành Núi lửa Komitake ở cùng địa điểm. Những vụ phun trào này đã kết thúc 100.000 năm trước. Núi lửa Ashitake đã hoạt động từ 400.000 đến 100.000 năm trước và nằm cách núi Phú Sĩ 20 km về phía đông nam. Núi Phú Sĩ bắt đầu phun trào 100.000 năm trước, Phú sĩ cổ hình thành từ 100.000 đến 17.000 năm trước nhưng hiện tại đã bị chôn vùi gần như hoàn toàn. Một vụ lở đất lớn ở sườn phía tây nam xảy ra khoảng 18.000 năm trước. Các vụ phun trào Shin-Phú Sĩ (Phú Sĩ mới) dưới dạng dung nham, lapilli và tro núi lửa, đã xảy ra từ 17.000 đến 8.000 năm trước, từ 7.000 đến 3.500 năm trước và từ 4.000 đến 2.000 năm trước. Lần gần đây nhất ghi nhận được sự phun trào là năm 1707 trong thời kỳ Edo. Núi Phú Sĩ cũng có hơn 70 động dung nham và khuôn cây nham thạch rộng lớn. Hai vụ lở đất lớn nằm ở đầu thung lũng Yoshida-Osawa và Osawa-Kuzure. , núi lửa này được phân loại là hoạt động với nguy cơ phun trào thấp. Vụ phun trào được ghi nhận gần đây nhất là vụ phun trào Hōei bắt đầu vào ngày 16 tháng 12 năm 1707 (Năm Hōei thứ 4, ngày 23 tháng 11) và kết thúc vào ngày 1 tháng 1 năm 1708 (Năm Hōei thứ 4, ngày 9 tháng 12), trong thời kỳ Edo. Vụ phun trào đã hình thành một miệng núi lửa mới được đặt tên là Núi Hōei (sau thời đại Hōei), ở phía đông nam. Núi Phú Sĩ phun ra tro và tro rơi như mưa ở Izu, Kai, Sagami và Musashi. Kể từ đó, không có dấu hiệu của một vụ phun trào. Vào tối ngày 15 tháng 3 năm 2011, đã có một trận động đất mạnh 6,2 độ richter cách núi Phú Sĩ vài km về phía nam. Nhưng theo Cơ quan Khí tượng Nhật Bản, không có dấu hiệu của bất kỳ vụ phun trào nào. Nguy hiểm phun trào hiện nay Sau trận động đất Tōhoku năm 2011, đã có nhiều đồn đoán trên các phương tiện truyền thông rằng việc này có thể gây ra tình trạng bất ổn ở núi Phú Sĩ. Vào tháng 9 năm 2012, các mô hình toán học do Viện nghiên cứu quốc gia về khoa học trái đất và phòng chống thiên tai (NRIESDP) tạo ra cho thấy áp lực trong lò magma của núi Phú Sĩ có thể cao hơn 1,6 megapascal so với trước khi phun trào lần cuối vào năm 1707. Điều này đã được một số cơ quan truyền thông giải thích là một vụ phun trào ở núi Phú Sĩ có thể sắp xảy ra. Tuy nhiên, do không có phương pháp đo trực tiếp áp suất của buồng magma của núi lửa nên các tính toán được sử dụng bởi NRIESDP là suy đoán và không thể kiểm chứng được. Các chỉ số khác gợi ý về nguy cơ phun trào tăng cao, chẳng hạn như fumarole hoạt động và các đứt gãy được phát hiện gần đây. Lịch sử Núi Phú Sĩ là một ngọn núi lửa hấp dẫn và là chủ đề thường xuyên của nghệ thuật Nhật Bản, đặc biệt là sau năm 1600, khi Edo (nay là Tokyo) trở thành thủ đô và mọi người nhìn thấy ngọn núi khi đi trên con đường Tōkaidō. Ngọn núi được nhắc đến trong văn học Nhật Bản qua các thời đại và là chủ đề của nhiều bài thơ. Một trong những họa sĩ hiện đại miêu tả Phú Sĩ trong hầu hết các tác phẩm của cô là Tamako Kataoka cũng như bức "Nhìn về núi Phú Sĩ" của họa sĩ Hokusai. Ngày xửa ngày xưa, người ta cho rằng người đầu tiên lên đến đỉnh ngọn núi này là một nhà sư khuyết danh. Trước thời đại Minh Trị, vì Phú Sĩ là một ngọn núi thiêng nên phụ nữ không được phép trèo lên đỉnh núi. Ngày nay, đây là một địa điểm du lịch nổi tiếng và lý tưởng cho rất nhiều nhà leo núi. Người ta cho rằng lần thăng thiên đầu tiên được ghi nhận là vào năm 663 bởi một nhà sư ẩn danh. Trước thời đại Meiji, vì Phú Sĩ là một ngọn núi thiêng nên phụ nữ không được phép trèo lên đỉnh núi vào cuối thập niên 1860. Núi Phú Sĩ cũng là một địa điểm truyền thống của các chiến binh xưa: các samurai đã dùng chân núi như một điểm tập luyện, gần thị trấn Gotemba ngày nay. Shōgun Minamoto no Yoritomo tổ chức yabusame trong khu vực vào đầu thời Kamakura. Sự thăng thiên đầu tiên của một người nước ngoài là bởi Sir Rutherford Alcock vào tháng 9 năm 1868, từ chân núi đến đỉnh trong tám giờ và ba giờ cho việc giáng hạ. Tường thuật ngắn gọn của Alcock trong The Capital of the Tycoon là mô tả đầu tiên được phổ biến rộng rãi về ngọn núi ở phương Tây. Phu nhân Fanny Parkes, vợ của đại sứ Anh Sir Harry Parkes, là người phụ nữ không phải người Nhật Bản đầu tiên lên núi Phú Sĩ năm 1869. Nhiếp ảnh gia Felix Beato đã leo lên núi Phú Sĩ cùng năm. Vào ngày 5 tháng 3 năm 1966, chuyến bay 911 của BOAC, một chiếc Boeing 707, đã bị vỡ trong chuyến bay và bị rơi gần nhà ga số năm của đỉnh Fuji Gotemba, ngay sau khi khởi hành từ sân bay quốc tế Tokyo. Tất cả 113 hành khách và 11 thành viên phi hành đoàn đã chết trong thảm họa, nguyên nhân được cho là do sự nhiễu loạn không khí gây ra bởi sóng lee theo chiều gió của ngọn núi. Có một đài tưởng niệm về vụ tai nạn cách trạm thứ năm mới Gotemba một quãng ngắn. Ngày nay, núi Phú Sĩ là một điểm đến quốc tế cho du lịch và leo núi. Vào đầu thế kỷ 20, nhà giáo dục dân túy Frederick Starr của Chautauqua thuyết giảng về một số cổ tích của núi Phú Sĩ - 1913, 1919 và 1923 đã được biết đến rộng rãi ở Mỹ. Một câu ngạn ngữ nổi tiếng của Nhật Bản cho rằng một người người khôn ngoan sẽ leo lên núi Fuji một lần trong đời, nhưng chỉ một kẻ ngốc mới leo nó lần hai. Nó vẫn là một biểu tượng phổ biến trong văn hóa Nhật Bản, bao gồm cả việc xuất hiện trong nhiều bộ phim, truyền cảm hứng cho logo của Infiniti và thậm chí xuất hiện trong y học với ký tự núi Phú Sĩ. Vào tháng 9 năm 2004, trạm thời tiết đã bị đóng cửa sau 72 năm hoạt động. Các nhà quan sát đã theo dõi các phát hiện ra bão và mưa lớn. Trạm khí tượng cao nhất ở Nhật Bản với độ cao 3.780 mét, đã được thay thế bằng hệ thống khí tượng hoàn toàn tự động. Kể từ năm 2011, Lực lượng phòng vệ Nhật Bản và Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ tiếp tục vận hành các căn cứ quân sự gần núi Phú Sĩ. Núi Phú Sĩ đã được thêm vào danh sách Di sản Thế giới với tư cách là Địa điểm Văn hóa vào ngày 22 tháng 6 năm 2013. Tuy nhiên, chức hiệu trở nên gây tranh cãi sau khi hai giáo sư tại Trung tâm Di sản Thế giới núi Fuji, tỉnh Shizuoka đã bị buộc thôi việc vì bị quấy rối trong quá trình học thuật bởi các quan chức của chính quyền tỉnh Shizuoka vào tháng 3 năm 2018 và bình luận trên phương tiện truyền thông xã hội kêu gọi hủy bỏ Dòng chữ Di sản Thế giới của núi Phú Sĩ. Leo núi Thời gian nhiều người đăng sơn Phú Sĩ nhất là trong khoảng hai tháng, từ mùng 1 tháng 7 đến 27 tháng 8. Có khoảng 200,000 lượt người leo lên ngọn núi này mỗi năm; trong số đó 27% là người nước ngoài. Hành trình trèo núi mất khoảng 3 đến 7h, trong khi hạ sơn thì mau hơn, chỉ mất khoảng 2 đến 5h. Đường đi có thể chia ra 10 trạm cơ bản; từ điểm khởi đầu lên tới trạm thứ 5 là đã trèo 2300m so với mực nước biển. Hầu hết các hành trình trèo núi là vào ban đêm để khi lên đến đỉnh thì gặp lúc mặt trời mọc buổi sớm mai. Vì lượng người leo núi rất đông, vấn nạn hàng năm là lượng rác thải dọc đường. Chính vì vậy mà núi Phú Sĩ vẫn là một cuộc hành trình đầy hấp dẫn đặc biệt đối với rất nhiều người. Rừng Aokigahara Aokigahara là một rừng ở phía tây bắc chân núi Phú Sĩ. Đặc biệt rừng Aokigahara có những hang động đóng băng quanh năm. Trong số những truyền thuyết về rừng này trong truyện dân gian Nhật Bản về ma, quỷ, Yūrei và Yōkai ám khu rừng và vào thế kỷ 19, Aokigahara là một trong nhiều nơi các gia đình nghèo bỏ rơi những người rất trẻ và rất già. Aokigahara là địa điểm tự tử phổ biến thứ ba trên thế giới sau Cầu Cổng Vàng của San Francisco và Cầu Dương Tử Nam Kinh ở Nam Kinh, Trung Quốc. Kể từ những năm 1950, hơn 500 người đã chết trong rừng, chủ yếu là tự tử. Khoảng 30 vụ tự tử đã được tính hàng năm, với mức cao gần 80 thi thể vào năm 2002. Sự gia tăng các vụ tự tử gần đây đã khiến các quan chức địa phương cố gắng thuyết phục các cá nhân định có ý định tự tử để nghĩ lại kế hoạch tuyệt vọng của họ và đôi khi những thông điệp này đã được chứng minh là có hiệu quả đồng thời khuyến cáo du khách không nên tham quan khu rừng này. Số vụ tự tử trong quá khứ tạo ra một sức hấp dẫn đã tồn tại trong suốt nhiều thập kỷ. Người dân cho rằng chất đá ở đây có hàm lượng trầm tích sắt rất lớn, có thể làm vô hiệu hóa la bàn và các thiết bị định vị toàn cầu. Do vậy người đi rừng sẽ rất dễ lạc. Tuy nhiên theo khoa học thì trường điện từ do sắt gây ra rất yếu nên không mấy ảnh hưởng các thiết bị. Hiển nhiên là Cục Phòng vệ Nhật Bản và lính thủy quân lục chiến Mỹ thường tập trận trong rừng mà la bàn cùng máy định vị toàn cầu và các thiết bị điện tử khác vẫn hoạt động không bị trở ngại. Nhiều người trong số những người đi bộ này đánh dấu các tuyến đường đã đi của họ bằng cách để lại băng nhựa màu gây lo ngại cho các quan chức tỉnh cho hệ sinh thái của rừng. Thông tin thêm Ca sĩ Kyu Sakamoto đã từng thuê người đem một cây đàn piano lên núi để thực hiện một buổi hòa nhạc. Logo của công ty Atari và Infiniti đều được thiết kế theo biểu tượng của núi Phú Sĩ. Núi Egmont ở New Zealand tương đối giống núi Phú Sĩ ở một số góc nhìn. Vì vậy nó đã được dùng thay thế cho núi Phú Sĩ trong một số phim, như phim The Last Samurai. Một nhà hàng Nhật ở Tooting, London cũng được đặt tên là núi Phú Sĩ. Tên của tập đoàn máy ảnh - phim chụp ảnh Fujifilm. Tên của công ty điện tử Fujitsu
Kentucky Fried Chicken, thường được biết đến với tên gọi tắt là KFC, là một chuỗi cửa hàng đồ ăn nhanh của Mỹ chuyên về các sản phẩm gà rán có trụ sở đặt tại Louisville, Kentucky. Đây là chuỗi nhà hàng lớn thứ hai thế giới (xếp theo doanh thu) và chỉ đứng sau McDonald's với tổng cộng gần 20.000 nhà hàng tại 123 quốc gia và vùng lãnh thổ (tính đến tháng 12 năm 2015). Đây là một trong những thương hiệu trực thuộc Yum! Brands, một tập đoàn cũng sở hữu chuỗi nhà hàng Pizza Hut và Taco Bell. KFC ban đầu được thành lập bởi doanh nhân Colonel Harland Sanders. Ông bắt đầu công việc bán gà rán từ một nhà hàng nhỏ tại Corbin, Kentucky trong thời kỳ Đại khủng hoảng. Sanders đã sớm nhận thấy tiềm năng từ tổ chức nhượng quyền nhà hàng này, và thương vụ nhượng quyền "Kentucky Fried Chicken" đầu tiên được xuất hiện ở Utah vào năm 1952. KFC sau đó đã nhanh chóng phổ biến hóa các thực phẩm chế biến từ gà trong ngành công nghiệp thực phẩm thành đồ ăn nhanh và cạnh tranh với sự thống trị của hamburger trong thị trường lúc bấy giờ. Bằng việc tự xây dựng thương hiệu cho bản thân dưới cái tên "Colonel Sanders", Harland đã trở thành một hình tượng nổi bật trong lịch sử văn hóa Mỹ, và hình ảnh của ông vẫn còn được sử dụng rộng rãi trong các quảng cáo của KFC cho tới ngày nay. Tuy nhiên, việc mở rộng nhanh chóng của hệ thống cộng với những căn bệnh tuổi già đã khiến ông không thể kiểm soát nổi chuỗi nhà hàng và phải bán công ty lại cho một nhóm nhà đầu tư được dẫn đầu bởi John Y. Brown Jr. và Jack C. Massey vào năm 1964. KFC là một trong những chuỗi cửa hàng thức ăn nhanh đầu tiên mở rộng thị phần quốc tế, với nhiều cửa hàng ở Canada, Vương quốc Anh, Mexico và Jamaica vào giữa những năm 60. Trong suốt thập niên 70 và 80, KFC phải trải qua nhiều sự thay đổi về chủ quyền sở hữu công ty hoặc gặp nhiều khó khăn trong việc kinh doanh nhà hàng. Đầu những năm 70, KFC được bán cho Heublein, trước khi sang nhượng lại cho PepsiCo. Năm 1987, KFC trở thành chuỗi nhà hàng phương Tây đầu tiên được mở ở Trung Quốc, và ngay lập tức mở rộng thị phần tại đây. Đó chính là thị trường lớn nhất của công ty. Sau đó, PepsiCo đã chuyển hệ thống nhà hàng thức ăn nhanh, bao gồm cả nhãn hiệu KFC, sang một công ty về nhà hàng độc lập Tricon Global Restaurants, sau này đổi tên thành Yum! Brands. Sản phẩm gốc của KFC là những miếng gà rán truyền thống Original Recipe, được khám phá bởi Sanders với "Công thức 11 loại thảo mộc và gia vị". Công thức đó đến nay vẫn là một bí mật thương mại. Những phần gà lớn sẽ được phục vụ trong một chiếc "xô gà" - đã trở thành một điểm nhấn đặc biệt của nhà hàng kể từ khi giới thiệu lần đầu tiên bởi Pete Harman vào năm 1957. Kể từ đầu những năm 90, KFC đã mở rộng thực đơn của mình để cung cấp cho thực khách những món ăn đa dạng hơn ngoài món gà như bánh mì kẹp phi lê gà và cuộn, cũng như xà lách và các món phụ ăn kèm, khoai tây chiên và xà lách trộn, các món tráng miệng và nước ngọt, sau này được cung cấp bởi PepsiCo. KFC được biết đến với câu khẩu hiệu "Finger Lickin' Good" (Vị ngon trên từng ngón tay), hay "Nobody does chicken like KFC" (Không ai làm thịt gà như KFC) và "So good" (Thật tuyệt). Các cột mốc lịch sử Năm 1939: Ông Sanders đưa ra món gà rán cho thực khách với một loại gia vị mới pha trộn 11 nguyên liệu khác nhau. Ông nói: "Với loại gia vị thứ mười một đó, tôi đã được dùng miếng gà rán ngon nhất từ trước đến nay". Năm 1950: Sanders phải bán lại cơ nghiệp ở Corbin, tiểu bang Kentucky, với số tiền chỉ vừa đủ để đóng thuế. Tự tin vào hương vị món ăn của mình nên tuy đã vào tuổi 65, với $105 USD tiền trợ cấp xã hội nhận được, ông lên đường bán những gói gia vị và cách chế biến gà rán đồng nhất cho những chủ nhà hàng nằm độc lập trên toàn nước Mỹ. Việc kinh doanh đã phát triển, vượt quá tầm kiểm soát nên ông đã bán lại cho một nhóm người. Họ lập nên Kentucky Fried Chicken Corporation và mời ông Sanders làm "Đại sứ Thiện chí". Năm 1964: Sander có thêm hơn 600 đại lý được cấp quyền kinh doanh thịt gà ở Mỹ và Canada. Vào năm đó ông đã chuyển nhựợng niềm đam mê của mình cho Jonh Brown, người sau này là thống đốc bang Kentucky từ năm 1980 đến năm 1984, với giá 2 triệu USD. Năm 1969: Tham gia Thị trường chứng khoán New York, "Colonel" Sanders mua 100 cổ phần đầu tiên. Năm 1971: KFC một lần nữa thay đổi chủ, Heublien Inc giành được KFC với 285 triệu đôla vào ngày 8 tháng 7 năm 1971, Heublien đã phát triển hơn 3.500 nhà hàng rộng rãi trên toàn thế giới. Năm 1986: Nhãn hiệu "Kentucky Fried Chicken" được Pepsi Co mua lại vào ngày 1 tháng 10. Tháng 1 năm 1997: Pepsi Co Inc thông báo về việc tách các nhãn hiệu con của nó, họ gộp chung 4 nhãn hiệu KFC, Taco Bell và Pizza Hut thành một công ty độc lập là Tricon Global Restaurants. Năm 1991: Ra mắt logo mới, thay thế "Kentucky Fried Chicken" bằng "KFC". Năm 1992: KFC khai trương nhà hàng thứ 1.000 tại Nhật Bản. Năm 1994: KFC khai trương nhà hàng thứ 9.000 tại Thượng Hải (Trung Quốc). Năm 1997: "Tricon Global Restaurants" và "Tricon Restaurants International" (TRI) được thành lập ngày 7 tháng 10. Năm 2002: Tricon mua lại A&W All American Food và Long John Silver's (LJS) từ Yorkshire Global Restaurants và thành lập YUM! Restaurants International (YRI). Trong các năm 2004 và 2005, KFC đã khởi nguồn thành công với một chiến dịch mang tên "singing soul"  tiếp bước từ sự thành công của chiến dịch "Soul Food" năm 2003 và 2004. Chiến lược "Soul Food" đã giúp KFC tạo được một hệ thống nhận diện thương hiệu hoàn chỉnh và xây dựng được một mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng. Thừa hưởng sự thắng lợi đó, "singing soul" hiện nay đã đưa thương hiệu KFC phát triển vượt bậc. Phạm vi hoạt động KFC là công ty con của Yum! Brands, một trong những tập đoàn nhà hàng lớn nhất thế giới. Theo thống kê năm 2013, doanh số của KFC đã cán mốc 23 tỉ đô-la. KFC có trụ sở chính tại 1441 Gardiner Lane, Louisville, Kentucky, bao gồm văn phòng điều hành và các cơ sở nghiên cứu phát triển. KFC còn được sáp nhập tại 1209 North Orange St, Wilmington, Delaware. (thông tin cần được giải thích rõ ràng hơn). Đến tháng 12 năm 2013, đã có 18.875 cửa hàng KFC tại 118 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Nó bao gồm 4.563 điểm bán hàng tại Trung Quốc, 4.491 tại Hoa Kỳ, và 9.821 ở những nơi khác. Những cửa hàng này được sở hữu bởi nhượng quyền hoặc trực tiếp từ công ty. Mười một phần trăm cửa hàng do công ty đang sở hữu, phần còn lại được chủ sở hữu nhượng quyền thương mại. Mặc dù vốn đầu tư lớn, chủ sở hữu công ty cho phép mở rộng nhiều hơn chuỗi nhà hàng thông qua hình thức chuyển nhượng thương mại. Hầu hết các nhà hàng đều được trang trí những hình ảnh của nhà sáng lập công ty - Đại tá Harland Sanders. Thay vì ăn tại quán hoặc mang về, nhiều cửa hàng KFC độc lập còn cung cấp dịch vụ mua trực tiếp trên xe. Ngoài ra, KFC cũng có dịch vụ giao hàng tận nơi tại một số thị trường. Bên cạnh những nhà hàng được đặt tại những địa điểm độc lập, KFC còn mở nhiều dịch vụ bán hàng tại các trạm xăng, cửa hàng tiện lợi, sân vận động, công viên và các trường đại học. Trung bình doanh thu hàng năm tính trên đầu người là 1,2 triệu đô-la/người vào năm 2013. Trên thế giới, số lượng đơn đặt hàng trung bình tại một cửa hàng KFC là 250, hầu hết diễn ra vào các giờ cao điểm. KFC tại thị trường Việt Nam KFC đã bắt đầu khai trương cửa hàng đầu tiên ở Việt Nam vào cuối năm 1997, tại Trung tâm Thương mại Sài Gòn Super Bowl. Dù đối mặt với nhiều khó khăn khi khái niệm "thức ăn nhanh" vẫn hoàn toàn xa lạ tại đây, và liên tục chịu lỗ trong suốt 7 năm đầu kinh doanh (17 cửa hàng trong 7 năm), nhưng với chiến lược tiếp cận hợp lý, hệ thống nhà hàng của KFC Việt Nam đến nay đã phát triển tới hơn 140 nhà hàng, có mặt tại hơn 19 tỉnh/thành phố lớn trên cả nước. Hàng năm KFC thu hút khoảng 20 triệu lượt khách trong nước, chiếm khoảng 60% thị trường thức ăn nhanh Việt Nam và góp phần giải quyết việc làm cho hơn 3 ngàn người lao động. Trước sức ép ngày một lớn từ các tập đoàn kinh doanh gà rán nói riêng và thức ăn nhanh nói chung tương tự có tại Việt Nam như: McDonald's, Lotteria, Burger King, Jollibee... KFC đã chế biến thêm một số món để phục vụ những thức ăn hợp khẩu vị người Việt như: Gà quay giấy bạc, Gà Giòn Không Xương, Gà giòn Húng quế, Cơm gà, Cá thanh... Một số món mới cũng đã được phát triển và giới thiệu tại thị trường Việt Nam, góp phần làm tăng thêm sự đa dạng trong danh mục thực đơn: Bắp cải trộn, Khoai tây nghiền, Bánh nhân mứt, Bánh trứng nướng cùng nhiều suất ăn cụ thể cho từng nhóm người. Tranh cãi và tác động đến sức khỏe con người Ngoài khía cạnh tích cực trong việc giải quyết vấn đề ăn uống cho những người bận rộn và tạo thu nhập cho xã hội, gà rán KFC cũng như các thức ăn nhanh khác (chủ yếu với các món rán) đã được coi là có hại cho sức khỏe con người nếu được sử dụng liên tục vì các món rán được coi như một trong những tác nhân gây ung thư, béo phì và bệnh lý tim mạch. Việc hạn chế sử dụng các đồ uống có gas thường bán tại các cửa hàng ăn nhanh cũng được các nhà dinh dưỡng học và bác sĩ khuyến cáo. Kể từ khi bước vào thế kỷ 21, thức ăn nhanh đã bị chỉ trích vì những vấn đề xung quanh việc phúc lợi động vật. Hiệp hội bảo vệ động vật (PETA) đã nhiều lần phản đối việc lựa chọn các nhà cung cấp gia cầm trên toàn thế giới của KFC. Tháng 12 năm 2012, chuỗi cửa hàng KFC ở Trung Quốc dính bê bối khi bị phát hiện sử dụng hormone tăng trưởng và thuốc kháng sinh để tăng tốc độ phát triển của đàn gia cầm và vi phạm luật pháp của Trung Quốc. Điều này đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của hãng ở thị trường Trung Quốc - nơi họ đã thu về gần một nửa lợi nhuận công ty từ đây.
Đại tá Harland David Sanders (9 tháng 9 năm 189016 tháng 12 năm 1980) là một doanh nhân người Mỹ, nổi tiếng với việc thành lập chuỗi thức ăn nhanh Gà Rán Kentucky (KFC) được biết đến với món gà rán và sau đó là đại sứ thương hiệu và biểu tượng của công ty. Tên và hình ảnh của ông vẫn là biểu tượng của công ty. Danh hiệu "Đại tá" là một danh hiệu cao quý, một danh hiệu cao nhất được Khối thịnh vượng chung Kentucky trao tặng, Đại tá Kentucky không phải là một cấp bậc quân sự. Thống đốc Kentucky ban tặng chức vụ đối với nhiệm vụ của một đại tá, bằng cách cấp giấy chứng nhận đặc quyền (quyền sử dụng, bán phát minh của mình...) Sanders từng đảm nhiệm một số công việc trong thời kỳ đầu sự nghiệp, chẳng hạn như công nhân đốt lò, nhân viên bán bảo hiểm và điều hành trạm tiếp nhiên liệu. Ông bắt đầu bán gà rán tại một nhà hàng ven đường của mình ở North Corbin, Kentucky, trong thời kỳ Đại suy thoái. Trong thời gian đó, Sanders đã phát triển "công thức bí mật" và phương pháp chế biến gà bằng nồi áp suất được cấp bằng sáng chế. Sanders đã nhận ra tiềm năng của khái niệm nhượng quyền nhà hàng và thương hiệu KFC nhượng quyền đầu tiên được mở tại South Salt Lake, bang Utah, vào năm 1952. Khi nhà hàng khởi nghiệp của mình phải đóng cửa, ông dành toàn bộ thời gian để nhượng quyền thương hiệu gà rán của chính mình trên khắp đất nước. Việc mở rộng nhanh chóng của công ty trên khắp Hoa Kỳ và ra nước ngoài đã trở nên quá sức đối với Sanders. Năm 1964, ở tuổi 73, ông bán công ty cho một nhóm các nhà đầu tư do John Y. Brown Jr. và Jack C. Massey đứng đầu với giá 2 triệu đô la Mỹ. Tuy nhiên, ông vẫn giữ quyền kiểm soát các hoạt động ở Canada và trở thành đại sứ thương hiệu được nhận thù lao từ KFC. Trong những năm cuối đời, ông trở nên rất gay gắt khi chỉ trích đồ ăn do các nhà hàng KFC phục vụ, vì ông tin rằng họ đã cắt giảm chi phí và khiến chất lượng giảm sút. Cuộc đời và sự nghiệp 1890–1906: Thời thơ ấu Harland David Sanders sinh ngày 9 tháng 9 năm 1890, trong một căn nhà có bốn phòng ở cách Henryville, Indiana về phía đông. Ông là con cả trong số ba người con của ông Wilbur David và bà Margaret Ann (nhũ danh Dunlevy) Sanders. Mẹ ông là người gốc người Ireland và Hà Lan. Gia đình này tham gia nhà thờ Thiên chúa giáo Advent. Cha ông là một người đàn ông hiền lành và tình cảm, từng làm việc trong trang trại rộng 80 mẫu Anh của mình, cho đến khi ông bị gãy chân trong một cú ngã. Sau đó, ông làm nghề bán thịt ở Henryville trong hai năm. Mẹ của Sanders là người sùng đạo theo Thiên chúa giáo, là một bậc phụ huynh nghiêm khắc, bà liên tục cảnh báo con cái về "tệ nạn của rượu, thuốc lá, cờ bạc và huýt sáo vào Chủ nhật." Cha của Sanders qua đời năm 1895. Mẹ ông từng làm trong một xưởng đóng hộp cà chua, còn cậu bé Harland phải ở nhà để chăm sóc và nấu ăn cho các em. Đến năm bảy tuổi, ông đã thành thạo nấu nướng với bánh mì và rau, và cải thiện kỹ năng chế biến thịt; những đứa trẻ kiếm ăn trong khi mẹ chúng đi làm trong nhiều ngày liền. Năm 1899, người mẹ tái hôn với Edward Park, và theo điều tra dân số năm 1900, mẹ ông góa chồng. Khi lên 10, Sanders bắt đầu làm công việc trong nông trại. Năm 1902, mẹ của Sanders lại tái hôn với William Broaddus và gia đình chuyển đến Greenwood, Indiana. Sanders đã có một mối quan hệ lộn xộn với cha dượng của mình. Năm 1903 (12 tuổi), ông bỏ học lớp bảy (sau này ông chia sẻ rằng "đại số là thứ khiến tôi mất hứng"), và đến sống và làm việc tại một trang trại gần đó. Năm 13 tuổi, ông rời nhà và nhận công việc sơn xe ngựa ở Indianapolis. Khi 14 tuổi, ông chuyển đến miền nam Indiana để làm công việc nông trại. 1906–1930: Các công việc khác nhau Năm 1906, được sự chấp thuận của người mẹ, Sanders rời khu vực này để đến sống với chú của mình ở New Albany, Indiana. Người chú làm việc cho công ty xe điện và đảm bảo cho Sanders một công việc như một nhân viên thu tiền. Sanders đã khai man ngày sinh và gia nhập Quân đội Hoa Kỳ vào tháng 10 năm 1906 (16 tuổi), hoàn thành cam kết phục vụ với tư cách là người đánh xe ở Cuba và được trao tặng Huân chương Bình định Cuba. Ông được giải ngũ một cách danh dự vào tháng 2 năm 1907 và chuyển đến Sheffield, Alabama, nơi người chú đang sống. Ở đó, ông gặp anh trai Clarence của mình, người cũng đã chuyển đến đó để trốn thoát khỏi người cha dượng của họ. Người chú làm việc cho Công ty Đường sắt phía Nam, và đảm bảo cho Sanders một công việc ở đó với tư cách là người giúp việc cho thợ rèn trong các xưởng. Sau hai tháng, Sanders chuyển đến Jasper, Alabama, nơi ông nhận được công việc dọn dẹp đống tro tàn của các đoàn tàu từ Đường sắt Bắc Alabama (một bộ phận của Đường sắt phía Nam) khi họ đã chạy xong. Sanders trở thành công nhân đốt lò (châm lửa cho máy hơi nước) từ năm 16 tuổi. Ông đã làm công việc này trong gần ba năm cho đến khi bị sa thải vì "tính cách ngỗ nghịch" sau khi bị ốm. Sanders tìm thấy công việc lao động tại Norfolk và Đường sắt phía Tây từ năm 1909. Trong thời gian làm việc tại đây, ông gặp bà Josephine King đến từ Jasper, Alabama, và họ kết hôn ngay sau đó vào ngày 15 tháng 6 năm 1909, tại Jasper, Alabama. Họ tiếp tục có 3 người con. Con gái cả là Margaret Josephine Sanders, sinh ngày 29 tháng 3 năm 1910, tại Jasper, Alabama và mất ngày 19 tháng 10 năm 2001, tại West Palm Beach, Florida. Người con thứ hai là Harland David Sanders Jr. vào ngày 23 tháng 4 năm 1912, tại Tuscumbia, Alabama, qua đời ngày 15 tháng 9 năm 1932, tại Martinsville, Indiana vì nhiễm trùng amidan. Con út là Mildred Marie Sanders Ruggles, sinh ngày 15 tháng 10 năm 1919, tại Jeffersonville, Indiana và mất ngày 21 tháng 9 năm 2010, tại Lexington, Kentucky. Sau đó, ông tìm được công việc làm lính cứu hỏa trên Đường sắt Trung tâm Illinois, và cùng gia đình chuyển đến Jackson, Tennessee. Vào buổi tối, Sanders học chương trình luật qua thư thuộc Đại học La Salle Extension. Sanders mất việc tại Illinois sau khi ẩu đả với một đồng nghiệp. Trong khi Sanders chuyển đến làm việc cho Công ty Đường sắt Rock Island Railroad thì người vợ Josephine và các con chuyển về sống với gia đình bên ngoại. Sau một thời gian, Sanders bắt đầu hành nghề luật sư ở Little Rock, ông làm công việc này trong ba năm, kiếm đủ tiền để đưa gia đình đến sống cùng. Sự nghiệp pháp lý đã kết thúc sau một cuộc ẩu đả tại phòng xử án với chính khách hàng của mình đã phá hủy danh tiếng của chính ông. Khoảng thời gian này cho thấy một điểm thấp thực sự đối với Sanders. Theo người viết tiểu sử John Ed Pearce của ông đã viết rằng "[Sanders] đã gặp thất bại lặp đi lặp lại phần lớn là do tính cách ngỗ ngược, thiếu tự chủ, thiếu kiên nhẫn và thiếu ngoại giao tự cho mình là đúng." Sau vụ việc, Sanders buộc phải chuyển về sống với mẹ ở Henryville, và đi làm thuê cho Đường sắt Pennsylvania. Năm 1916, gia đình chuyển đến Jeffersonville, nơi Sanders nhận được công việc bán bảo hiểm nhân thọ cho Công ty Bảo hiểm Nhân thọ Prudential. Sanders cuối cùng đã bị sa thải vì không phối hợp. Sanders chuyển đến Louisville và nhận công việc bán hàng cho Mutual Benefit Life of New Jersey. Năm 1920 (30 tuổi), Sanders thành lập một công ty vận tải phà, điều hành một chiếc thuyền trên sông Ohio qua lại giữa Jeffersonville và Louisville. Ông đã kiếm được tiền, tự mình trở thành cổ đông thiểu số và được bổ nhiệm làm thư ký của công ty. Chuyến phà thành công ngay tức thì. Khoảng năm 1922, ông nhận công việc thư ký tại Phòng Thương mại ở Columbus, Indiana. Bản thân ông thừa nhận mình không giỏi lắm trong công việc và từ chức sau chưa đầy một năm. Sanders rút tiền mặt từ cổ phiếu công ty vận tải phà của mình với giá 22.000 đô la (ngày nay là 350.000 đô la) và sử dụng số tiền này để thành lập công ty sản xuất đèn axetylen. Liên doanh thất bại sau khi Delco giới thiệu một chiếc đèn điện được bán theo hình thức tín dụng. Sanders chuyển đến Winchester, bang Kentucky và vào làm nhân viên bán hàng cho hãng lốp xe Michelin. Ông mất việc vào năm 1924 khi Michelin đóng cửa nhà máy sản xuất ở New Jersey. Năm 1924, tình cờ, ông gặp tổng giám đốc của Standard Oil of Kentucky, người đã đề nghị ông điều hành một trạm tiếp nhiên liệu ở Nicholasville. Năm 1930, nhà ga đóng cửa do hậu quả của cuộc Đại suy thoái. 1930–1952: Sự nghiệp sau này Năm 1930, Shell Oil Company đã cấp cho Sanders một trạm dịch vụ ở North Corbin, Kentucky, miễn phí tiền thuê, đổi lại phải trả cho công ty một phần trăm doanh thu bán hàng. Sanders bắt đầu phục vụ các món gà và các bữa ăn khác như thịt nguội và bít tết đồng quê. Ban đầu, ông bán hàng cho khách hàng sống trong khu dân cư liền kề trước khi mở nhà hàng. Trong khoảng thời gian này, Sanders đã tham gia vào một cuộc đấu súng với Matt Stewart, một đối thủ địa phương, về việc sơn lại một biển báo hướng dẫn giao thông đến ga của hắn. Stewart đã giết một nhân viên Shell làm việc với Sanders và bị kết tội giết người, đối thủ cạnh tranh với Sanders đã bị loại trừ. Sanders được bổ nhiệm làm đại tá Kentucky vào năm 1935 bởi thống đốc bang Kentucky, Ruby Laffoon. Sự nổi tiếng ở địa phương của ông ngày càng tăng, và vào năm 1939, nhà phê bình ẩm thực Duncan Hines đã đến thăm nhà hàng của Sanders và đưa nó vào Adventures in Good eat, cuốn sách hướng dẫn của ông về các nhà hàng trên khắp nước Mỹ. Thông này được ghi chú rằng: Vào tháng 7 năm 1939, Sanders mua lại một nhà nghỉ ở Asheville, Bắc Carolina. Nhà hàng và nhà nghỉ ở North Corbin của ông đã bị phá hủy trong một trận hỏa hoạn vào tháng 11 năm 1939, và Sanders đã cho xây dựng lại nó thành một nhà nghỉ với nhà hàng 140 chỗ ngồi. Đến tháng 7 năm 1940 (50 tuổi), Sanders đã hoàn thiện "Công thức 11 loại thảo mộc và gia vị" của riêng mình để chiên gà trong nồi chiên áp suất giúp gà chín nhanh hơn chiên bằng chảo. Khi Hoa Kỳ bước vào Thế chiến thứ hai vào tháng 12 năm 1941, khí đốt bị hạn chế, và khi ngành du lịch cạn kiệt, Sanders buộc phải đóng cửa nhà nghỉ Asheville của mình. Ông làm giám sát viên ở Seattle cho đến cuối năm 1942. Sau đó, ông điều hành nhà ăn cho chính phủ tại một cơ sở chế tạo ở Tennessee, sau đó là trợ lý quản lý nhà ăn ở Oak Ridge, Tennessee. Sanders để lại tình nhân của mình, Claudia Ledington-Price, làm quản lý nhà hàng và nhà nghỉ North Corbin. Năm 1942, ông bán doanh nghiệp Asheville. Năm 1947, ông và Josephine ly hôn và Sanders kết hôn với Claudia vào năm 1949, như ông mong muốn từ lâu. Sanders được "tái ủy nhiệm" làm đại tá Kentucky vào năm 1950 bởi người bạn của mình là Thống đốc Lawrence Wetherby. Qua đời Sanders được chẩn đoán mắc bệnh bạch cầu cấp tính vào tháng 6 năm 1980. Ông qua đời tại Bệnh viện Do Thái Louisville vì bệnh viêm phổi sáu tháng sau đó, vào ngày 16 tháng 12, hưởng thọ 90 tuổi. Sanders vẫn tham gia các hoạt động cho tới tháng trước khi qua đời, xuất hiện trong bộ đồ trắng trước đám đông. Thi hài của ông được tưởng niệm trước công chúng trước khi được chôn cất, buổi lễ diễn ra tại nhà vòm thuộc Tòa nhà Quốc hội Kentucky ở Frankfort sau lễ tang tại Nhà nguyện Chủng viện thần học Báp-tít Miền Nam, nơi có hơn 1.000 người tham dự. Sanders được chôn cất trong bộ đồ màu trắng đặc trưng và cà vạt màu đen của phương Tây tại Nghĩa trang Cave Hill ở Louisville. Vợ ông, bà Claudia qua đời vào ngày 31 tháng 12 năm 1996, hưởng thọ 94 tuổi. Vào thời điểm Sanders qua đời, ước tính có khoảng 6.000 cửa hàng KFC tại 48 quốc gia trên toàn thế giới, với doanh thu 2 tỷ USD mỗi năm.
Bài này nói về một thị trấn của Luxembourg. Về hiệp ước cùng tên, xin xem Hiệp ước Schengen. Schengen là tên của một thị trấn nhỏ nổi tiếng về nghề nấu rượu, thuộc xã Remerschen và nằm ở cực đông-nam của nước Luxembourg. Ngôi làng nhỏ bé này nằm ngay cạnh ngã ba biên giới Đức-Pháp-Luxembourg. Theo số liệu của năm 2005, dân số của thị trấn này là 425 người. Chính tại ngôi làng này, vào ngày 14 tháng 6 năm 1985, Hiệp ước Schengen đã được ký kết. Lễ ký diễn ra tại boong tàu Princesse Marie-Astrid, trên dòng sông Moselle.
Remerschen (tiếng Luxembourg: Rëmerschen) là tên của một đơn vị hành chính cấp xã (commune), đồng thời cũng là một thị trấn nấu rượu nằm ở gần ngã ba biên giới Đức-Pháp-Luxembourg. Vào năm 2005, thị trấn Remerschen có 637 người. Xã Remerschen còn bao gồm 2 thị trấn nhỏ khác là Schengen và Wintrange, Schengen có 425 người. Điểm nổi bật nhất của thị trấn Remerschen về mặt văn hóa-xã hội là Câu lạc bộ Tuổi trẻ (Club des Jeunes). Câu lạc bộ này là nơi từng chủ trì cũng như tổ chức nhiều dạ tiệc và vũ hội lớn, điển hình trong số đó là Lễ hội hóa trang Musel am Dusel.
100000 (một trăm nghìn, một ứt hay một trăm ngàn) là một số tự nhiên ngay sau 99999 và ngay trước 100001. Căn bậc hai của 100000 là 316,22...... Bình phương của 100000 là 10000000000 100000 là số nhỏ nhất có 6 chứ số.
Họ Hươu cao cổ (Giraffidae) là một họ động vật có vú móng guốc chẵn có cùng chung tổ tiên với Họ Trâu bò. Họ này từng là một nhóm đa dạng lan rộng khắp lục địa Âu Á và Châu Phi, nhưng hiện nay chỉ còn hai loài còn sinh tồn là hươu cao cổ và hươu đùi vằn (okapi). Cả hai loài này đều sinh sống trong phạm vi khu vực châu Phi hạ Sahara: hươu cao cổ sinh sống trong các thảo nguyên rộng mở, còn hươu đùi vằn thì sinh sống trong các khu rừng nhiệt đới dày đặc thuộc Congo. Hai loài này trông rất khác nhau khi mới nhìn, nhưng lại chia sẻ một số đặc điểm chung, bao gồm lưỡi sẫm màu và dài, răng nanh có thùy, và các sừng được che phủ bởi da. Họ Giraffidae chia sẻ nhiều đặc trưng chung với các loài động vật nhai lại khác. Chúng có các móng guốc chẻ đôi và các xương bàn tay thứ ba lớn, giống như ở trâu, bò và dạ dày bốn túi phức tạp. Chúng không có răng cửa và răng nanh ở hàm trên, được thay thế bằng tấm đệm dạng sừng và dai. Chúng có khe hở đặc biệt dài giữa các răng đằng trước và các răng ở má. Các răng hàm của chúng thích nghi với việc nghiền các thức ăn thực vật dai. Hành vi của 2 loài còn sinh tồn ít có điểm chung, có lẽ là do sự khác biệt trong môi trường sống và sinh thái của chúng. Các họ hàng hóa thạch gần nhất của chúng bao gồm họ Palaeomerycidae và họ Climacoceratidae trông tương tự như hươu, nhiều chi của họ thứ hai từng có thời được nhận dạng thành hươu cao cổ. Các mẫu hóa thạch chỉ ra rằng nhiều loài dạng hươu cao cổ từng phát triển thịnh vượng từ thế Miocen (khoảng 20 triệu năm trước) cho tới gần đây. Một nhóm lớn dạng hươu cao cổ đã tuyệt chủng, Sivatherium, có các nón sừng phân nhánh đủ rõ và có thể trông giống như những con hươu to hơn là giống hươu cao cổ. Các họ hàng gần khác của Họ Giraffidae là các thành viên khác của phân bộ Ruminantia, bao gồm trâu, bò, dê, cừu và linh dương. Phân loại Bộ Guốc chẵn (Artiodactyla) Phân bộ Suina: lợn và lợn lòi Pecari Phân bộ Tylopoda: lạc đà và lạc đà không bướu Phân bộ Ruminantia Cận bộ Tragulina Họ Tragulidae: cheo cheo Cận bộ Pecora Họ Moschidae: hươu xạ Họ Cervidae: hươu và nai Họ Antilocapridae: Linh dương gạc nhiều nhánh Họ Bovidae: trâu, bò, dê, cừu và linh dương Họ †Gelocidae Họ †Hoplitomerycidae Siêu họ Giraffoidea Họ †Climacoceratidae †Climacoceras †Prolibytherium †Orangemeryx †Propalaeoryx †Nyanzameryx †Sperrgebietomeryx †Canthumeryx? Họ †Palaeomerycidae †Climacomeryx †Amphitragulus †Asiagenes †Sinclairomeryx †Aletomeryx †Drepanomeryx †Rakomeryx †Dromomeryx †Subdromomeryx †Barbouromeryx †Bouromeryx †Procranioceras †Cranioceras †Pediomeryx †Yumaceras †Palaeomeryx †Ampelomeryx †Oriomeryx †Triceromeryx Họ Giraffidae †Bohlinia Chi Hươu cao cổ, Giraffa †Giraffokeryx †Helladotherium †Honanotherium Hươu đùi vằn, Okapia johnstoni †Paleotragus †Sivatherium †Samotherium †Shansitherium (và nhiều chi tuyệt chủng khác) Thư viện ảnh Ghi chú Hươu cao cổ, họ Họ động vật có vú
Mục đích chính của tên miền là để cung cấp một hình thức đại diện, hay nói cách khác, dùng những tên dễ nhận biết, thay cho những tài nguyên Internet mà đa số được đánh địa chỉ bằng số. Cách nhìn trừu tượng này cho phép bất kỳ tài nguyên nào (ở đây là website) đều có thể được di chuyển đến một địa chỉ vật lý khác trong cấu trúc liên kết địa chỉ mạng, có thể là toàn cầu hoặc chỉ cục bộ trong một mạng intranet, mà trên thực tế là đang làm thay đổi địa chỉ IP. Việc dịch từ tên miền sang địa chỉ IP (và ngược lại) do hệ thống DNS trên toàn cầu thực hiện. Với việc cho phép sử dụng địa chỉ dạng chữ cái không trùng nhau thay cho dãy số, tên miền cho phép người dùng Internet dễ tìm kiếm và liên lạc với các trang web và bất kỳ dịch vụ liên lạc dựa trên IP nào khác. Tính uyển chuyển của hệ thống tên miền cho phép nhiều địa chỉ IP có thể được gán vào một tên miền, hoặc nhiều tên miền đều cùng chỉ đến một địa chỉ IP. Điều này có nghĩa là một máy chủ có thể có nhiều vai trò (như lưu trữ nhiều website độc lập), hoặc cùng một vai trò có thể được trải ra trên nhiều máy chủ. Một địa chỉ IP có thể được gán cho vài máy chủ, như trong mạng anycast. Định nghĩa Theo định nghĩa (RFC 1034, được cập nhật bằng RFC 1123), tên miền được tạo thành từ các nhãn không rỗng phân cách nhau bằng dấu chấm (.); những nhãn này giới hạn ở các chữ cái ASCII từ a đến z (không phân biệt hoa thường), chữ số từ 0 đến 9, và dấu gạch ngang (-), kèm theo những giới hạn về chiều dài tên và vị trí dấu gạch ngang. Đó là dấu gạch ngang không được xuất hiện ở đầu hoặc cuối của nhãn, và chiều dài của nhãn nên trong khoảng từ 1 đến 63 và tổng chiều dài của một tên miền không được vượt quá 255 (đây là hạn chế của DNS, xem RFC 2181, tiết đoạn 11). Vì định nghĩa này không cho phép sử dụng nhiều ký tự thường thấy trong các ngôn ngữ không phải tiếng Anh, và không có các ký tự nhiều byte trong đa số ngôn ngữ châu Á, hệ thống Tên miền quốc tế hóa (IDN) đã được phát triển và hiện đang ở giai đoạn thử nghiệm với một tập tên miền cấp cao nhất được tạo ra vì mục đích này. Ký tự gạch dưới thường được sử dụng để đảm bảo bằng một tên miền không bị nhận lầm là một hostname, ví dụ như trong cách dùng bản ghi SRV, mặc dù một số hệ thống cũ hơn như NetBIOS cho phép điều này. Để tránh nhầm lẫn và vì các lý do khác, tên miền có ký tự gạch dưới đôi khi được dùng vào những khi bắt buộc phải có hostname. Người đăng ký tên miền thường được gọi là chủ tên miền, mặc dù việc một người đăng ký một tên miền không phải là người sở hữu hợp pháp cái tên đó, mà chỉ là độc quyền sử dụng nó mà thôi. Ví dụ Ví dụ nhau minh họa cho sư khác nhau giữa một địa chỉ URL (Uniform Resource Locator) và một tên miền: URL: http://www.vidu.net/index.html Tên miền: www.vidu.net Tên miền đã đăng ký: vidu.net Theo quy tắc chung, địa chỉ IP và tên máy chủ có thể dùng thay thế cho nhau. Đối với đa số dịch vụ Internet, máy chủ không có cách nào để biết dịch vụ này được dùng. Tuy nhiên, sự bùng nổ sử dụng Web dẫn đến có nhiều Web site hơn rất nhiều so với số lượng máy chủ. Để giải quyết việc này, giao thức truyền tải siêu văn bản (HTTP) xác định rằng máy khách sẽ báo với máy chủ tên nào đang được dùng. Theo cách này, một máy chủ với một địa chỉ IP có thể cung cấp nhiều site khác nhau cho nhiều tên miền khác nhau. Tính năng này có tên hosting ảo và thường được các web host sử dụng. Ví dụ, như trong RFC 2606 (Tên DNS cấp cao nhất đảo ngược) đã ghi, máy chủ tại địa chỉ IP 208.77.188.166 xử lý tất cả các site sau: example.com www.example.com example.net www.example.net example.org www.example.org example.vn www.example.vn Khi có một yêu cầu được gửi tới, dữ liệu tương ứng với hostname sẽ được cung cấp cho người dùng. Tên miền cấp cao nhất Mọi tên miền đều kết thúc bằng một tên miền cấp cao nhất (TLD), luôn là một trong tên có trong danh sách ngắn gồm các tên chung (từ ba ký tự trở lên), hoặc một mã lãnh thổ hai ký tự dựa trên ISO-3166 (có một số ngoại lệ và các mã mới sẽ được dần dần thêm vào). Tên miền cấp cao nhất đôi khi còn được gọi là tên miền cấp 1. Phần mở rộng của tên miền cấp cao nhất dùng chung (gTLD) là: Phần mở rộng của tên miền quốc gia cấp cao nhất (ccTLD) là: Tên miền cấp hai trở xuống Trong phân cấp tên miền, phía dưới tên miền cấp cao nhất là tên miền cấp hai (SLD). Đây là những tên đứng ngay bên trái.com,.net, và những tên miền cấp cao nhất khác. Ví dụ, trong tên miền vi.wikipedia.org, wikipedia là tên miền cấp hai. Tiếp đến là tên miền cấp ba, được viết ngay bên trái tên miền cấp hai. Có thể có tên miền cấp bốn, cấp năm, v.v., không có giới hạn. Ví dụ về một tên miền hiện đang tồn tại với bốn cấp tên miền là www.sos.state.oh.us. Cụm chữ www đừng đầu tên miền là một host name của máy chủ World-Wide Web. Mỗi cấp được phân cách nhau bằng dấu chấm. 'sos' được cho là một tên miền con của 'state.oh.us', và 'state' và tên miền con của 'oh.us', v.v. Nói chung, tên miền con là những tên miền thấp hơn tên miền cha của nó. Một ví dụ về các cấp rất sâu của thứ tự tên miền con là vùng DNS phân giải ngược IPv6, như, 1.0.0.0.0.0.0.0.0.0.0.0.0.0.0.0.0.0.0.0.0.0.0.0.0.0.0.0.0.0.0.0.ip6.arpa, là tên miền phân giải DNS đảo của địa chỉ IP của một giao diện loopback, hoặc tên localhost. Tên miền cấp hai (hoặc cấp thấp hơn, tùy thuộc vào phân cấp cha con cho trước) thường được tạo ra dựa trên tên của một công ty (ví dụ, microsoft.com), sản phẩm hoặc dịch vụ (như, gmail.com). Dưới các cấp này, thành phần tên miền kế tiếp được dùng để chỉ định một máy chủ lưu trữ cụ thể. Do đó, ftp.wikipedia.org có thể là một máy chủ FTP, www.wikipedia.org có thể là một máy chủ World Wide Web, và mail.wikipedia.org có thể là một máy chủ thư điện tử, mỗi cái sẽ phục vụ cho một chức năng chỉ định. Công nghệ hiện đại cho phép nhiều máy chủ vật lý với địa chỉ khác nhau (xem cân bằng tải) hay thậm chí y hệt nhau (xem anycast) để phục vụ chỉ một hostname hay tên miền, hoặc nhiều tên miền được một máy tính đơn phục vụ. Trường hợp nhau là rất phổ biến trong các trung tâm dịch vụ lưu trữ web, tại đó nhà cung cáp dịch vụ lưu trữ các website của nhiều tổ chức chỉ một vài máy chủ. Cấp phát chính thức Công ty quản lý tên và số hiệu cấp phát Internet (Internet Corporation for Assigned Names and Numbers - ICANN) chịu trách nhiệm chung trong việc quản lý DNS. Nó có nhiệm vụ quản trị tên miền gốc, giao quyền điều hành mỗi tên miền cấp cao nhất cho một cơ quan đăng ký tên miền. Đối với tên miền quốc gia cấp cao nhất, cơ quan đăng ký tên miền thường do chính quyền của quốc gia đó thành lập. ICANN giữ vai trò cố vấn trong các cơ quan đó nhưng không được can thiệp vào các điều khoản và điều kiện về việc ủy quyền tên miền của mỗi cơ quan đăng ký tên miền cấp quốc gia. Tuy nhiên, tên miền cấp cao nhất dùng chung lại do ICANN quản lý trực tiếp, điều đó có nghĩa là tất cả các điều khoản và điều kiện sử dụng sẽ do ICANN quy định cùng với các cơ quan đăng ký tên miền đó. Tên miền thường được đem so sánh với bất động sản vì (1) tên miền là những "khu vực" để xây dựng website (giống như xây nhà hay cao ốc thương mại) và (2) những tên miền "chất lượng" cao, cũng như những bất động sản nóng, sẽ có giá trị cao, thường do tiềm năng xây dựng thương hiệu trực tuyến, dùng trong quảng cáo, tối ưu hóa bộ máy tìm kiếm, và nhiều tiêu chí khác nữa. Một số công ty đã đưa ra các tên miền để đăng ký với giá thấp, giá ưu đãi hay thậm chí miễn phí với nhiều hình thức giảm trừ chi phí cho nhà cung cấp. Các công ty này thường đòi hỏi các tên miền lưu trữ trên website của họ phải nằm trong một framework hay cổng vào gồm nhiều mẩu quảng cáo gắn xung quanh nội dung của người giữ tên miền, từ đó giúp nhà cung cấp thu lại lợi nhuận. Việc đăng ký tên miền thường miễn phí nếu DNS đó còn mới. Người nắm giữ tên miền (thường gọi là chủ tên miền) có thể đem cho hoặc bán một số lượng vô hạn các tên miền con nằm dưới tên miền của họ. Ví dụ, chủ của example.edu có thể cung cấp các tên miền con (sub domain) như foo.example.edu và foo.bar.example.edu cho các bên quan tâm. Các tên miền không chuẩn mực Do những tên miền dạng một-từ chấm-com rất hiếm, nhiều dạng tên miền không chuẩn mực, thường gọi là hack tên miền, đã được tạo ra. Chúng tận dụng tên miền cấp cao nhất để làm một phần gắn liền với tiêu đề của Web site. Hai website hack tên miền nổi tiếng nhất là del.icio.us và blo.gs, đánh vần lần lượt thành "delicious" và "blogs". Delicious.com sau đó chuyển sang một tên miền thông thường, vì tên không chuẩn mực rất khó nhớ. Các tên miền không chuẩn mực còn được dùng để làm địa chỉ thư điện tử. Các ví dụ (hiện không tồn tại) cho một người tên 'James' là [email protected][email protected], trong đó sử dụng tên miền m.es (.es của Tây Ban Nha) và mes.com. Thương hiệu gắn với tên miền Việc công ty có lấy được một tên miền trùng với nhãn hiệu hàng hóa hay không sẽ ảnh hưởng rất lớn đến thương hiệu của công ty. Nếu công ty xây dựng thương hiệu dựa trên một tên gọi nhưng lại không sở hữu tên miền đó, điều đó có thể dẫn đến việc lượng người dùng sẽ đổ sang một trang của người chủ tên miền khác. Nếu đó là của một đối thủ cạnh tranh, vấn đề sẽ rất nghiêm trọng. Việc quảng bá để phát triển một thương hiệu lớn hiện nay liên quan chặt chẽ tới khả năng đồng bộ nhãn hàng với một tên miền. Bất kỳ một sự nhầm lẫn nào cũng có thể dẫn đến việc mất đi lượng truy cập và số lượng khách hàng tiềm năng vào tay của đối thủ cạnh tranh.
Tần có thể chỉ: Tần (秦) Chính quyền Tần (nước) (900 TCN–221 TCN), một nước chư hầu của nhà Chu, Trung Quốc. Tần (triều đại) (221 TCN–206 TCN), hoàng triều đầu tiên của Trung Quốc sau khi nước này thống nhất - do Tần Thủy Hoàng làm Hoàng đế. Thời đại Thập lục quốc: Tiền Tần (前秦) (351-394), quân chủ là người Đê, họ Phù. Hậu Tần (后秦) (384–417), quân chủ là người Khương, họ Diêu. Tây Tần (西秦) (385-431), quân chủ là người Tiên Ti, họ Khất Phục. Chính quyền do Hư Trừ Quyền Cừ (虛除權渠) làm thủ lĩnh. Chính quyền do Câu Cừ Tri (句渠知) làm thủ lĩnh. Chính quyền do Trương Cư (張琚) làm thủ lĩnh. Chính quyền do Đậu Xung (竇衝) làm thủ lĩnh. Chính quyền của thủ lĩnh Cừu Trì là Dương Nan Đương (429-442). Chính quyền do Mạc Chiết Niệm Sanh làm thủ lĩnh vào cuối thời Bắc Ngụy (527). Chính quyền do Tiết Cử làm thủ lĩnh vào thời Tùy mạt Đường sơ (617-618). Chính quyền do Chu Thử làm thủ lĩnh vào trung kỳ triều Đường (783). Chính quyền do Tần Tông Quyền làm thủ lĩnh vào mạt kỳ triều Đường (885-889). Chính quyền do Lý Thủ Trinh (李守貞) làm thủ lĩnh vào thời Ngũ Đại Thập Quốc. phiên vương nước Tần đời nhà Minh Tước hiệu Tần Vương là tước hiệu của rất nhiều nhân vật lịch sử, trong đó nổi bật nhất là Đường Thái Tông Lý Thế Dân trước khi lên ngôi Hoàng đế Tên người Tần (họ), một họ ở khu vực đồng văn Đông Á. Gia tộc Hata (秦氏 Tần thị) của Nhật Bản, tự xưng là hậu duệ của Doanh tính Tần thị nhà Tần. Địa danh Đại Tần (大秦), tên gọi cổ của Trung Quốc chỉ Đế quốc La Mã và Cận Đông. Tần, giản xưng của tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Tam Tần, cách gọi lịch sử của Thiểm Tây. Vốn là từ chỉ ba trong mười tám phiên quốc là Ung, Tắc, Địch thời tiền Hán, lãnh địa của ba phiên vương là hàng tướng nhà Tần. Tần Lĩnh, dãy núi chính ở Thiểm Tây. Tần Xuyên (秦川), hay bình nguyên Vị Hà (渭河平原), tên lịch sử của bình nguyên Quan Trung. Trung Quốc cổ đại, theo cách người nước ngoại gọi tên nước này, như lời trong kinh Phật của Cưu-ma-la-thập "Cải phạm vi Tần, thất kỳ tảo úy" (改梵為秦,失其藻蔚) Khoa học Tên giản xưng của hệ sao Delta Serpentis (Cự xà toạ δ) Tần (嬪) Tần, một hạng thị thiếp của quân chủ Trung Quốc và các quốc gia khác. Khác Một động từ chỉ phương pháp chế biến thực phẩm, trong đó người ta làm chín thức phẩm bằng hơi nước nóng (hấp cách thủy): gà tần Tần số, Tần suất.....
Hán Cao Tổ (chữ Hán: 漢高祖; 256 TCN – 1 tháng 6 năm 195 TCN), húy Lưu Bang (劉邦), biểu tự Quý (季), là vị hoàng đế khai quốc của triều đại nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông ở ngôi Hoàng đế gần 7 năm (từ 28 tháng 2 năm 202 TCN đến 1 tháng 6 năm 195 TCN), nếu tính cả thời gian đầu (từ năm 206 TCN lúc ông mới xưng Vương) thì thời gian ở ngôi tổng cộng là gần 12 năm. Lưu Bang là một trong vài người sáng lập triều đại trong lịch sử Trung Quốc có xuất thân từ giai cấp nông dân chứ không phải là quý tộc, một ví dụ nổi bật khác là Chu Nguyên Chương, người sáng lập triều đại nhà Minh (1368 - 1644). Trong giai đoạn đầu, Lưu Bang đã được biết đến với danh hiệu Bái công (沛公), với chữ "Bái" là đề cập đến quê hương của ông. Sau đó Lưu Bang được Tây Sở Bá vương Hạng Vũ phong là Hán vương (漢王) trong thời gian Hạng Vũ đứng đầu các chư hầu và tiến hành chia đế chế Tần thành Mười tám nước. Ông được biết đến bởi danh hiệu này trước khi trở thành Hoàng đế của Trung Quốc. Dù là thần dân cũ của nước Sở (giống như Hạng Vũ và Hàn Tín) ở giai đoạn cuối thời Xuân Thu-Chiến Quốc trước khi bị nước Tần (thời Tần Thủy Hoàng) thôn tính nhưng sau khi lên ngôi, Lưu Bang vẫn dùng huy hiệu "Hán" cũ để tự xưng triều đại của mình, tạo ra một tiền lệ cho tất cả các triều đại về sau ở Trung Quốc đều dùng đất phát tích (hoặc đất được phong) để gọi tên triều. Sau khi ông qua đời, miếu hiệu là Thái Tổ (太祖), thụy hiệu là Cao Hoàng đế (高皇帝). Miếu hiệu Thái Tổ là miếu hiệu chính thức của ông, tuy nhiên trong sử thư của các triều đại đời sau đều gọi ông là Hán Cao Tổ (漢高祖) hoặc Hán Cao Đế (漢高帝), mà hiếm khi lại gọi là Hán Thái Tổ (漢太祖). Tuổi trẻ Lưu Bang (còn được gọi là Lưu Quý, Hán Vương, Bái Công, Hán Cao Tổ) được sinh ra trong một gia đình nông dân ở ấp Phong của huyện Bái (nay là huyện Phong thuộc tỉnh Giang Tô). Tên cha của ông không được ghi lại trong lịch sử và chỉ được gọi là Lưu Thái Công và Lưu Ảo (刘媪 ). Người ta nói rằng mẹ ông do mang thai với rồng mà sinh ra Lưu Bang. Đế Nghiêu, người có nguồn gốc từ Hoàng Đế được tuyên bố là tổ tiên của Lưu Bang, thế nhưng đây là một điểm gây tranh cãi vì hầu hết các gia đình quý tộc của Trung Quốc đều tuyên bố là có nguồn gốc từ Hoàng Đế. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, Lưu Bang có mũi cao, râu dài giống rồng và có 72 nốt ruồi trên chân trái. Ông không lo nghĩ đến sản nghiệp, không câu nệ chuyện nhỏ nhặt. Tính tình tuy khá buông thả (Sử ký mô tả là "thích rượu và gái"), song lại thẳng thắn, lôi cuốn, lại biết nhẫn nhục và khoan dung. Lưu Bang từng phải đi phu ở Hàm Dương và trông thấy xa giá và nghi trượng của vua Tần Thủy Hoàng. Khi đó Lưu Bang cảm khái đã nói một câu:"Ôi! Đại trượng phu phải sống như thế chứ!". Sau đó, Lưu Bang làm Đình trưởng ở Tứ Thượng, dần dần ông quen biết và thân thiện với những người như Hạ Hầu Anh, Tiêu Hà, Tào Tham. Trong khi uống rượu với bạn bè của mình trong các quán rượu địa phương, họ thường nhận thấy hình bóng của một con rồng trên người Lưu Bang bất cứ khi nào ông say rượu. Các chủ quán rượu cảm thấy Lưu Bang là một người phi thường và thường cho ông uống rượu miễn phí. Trong một buổi tiệc chiêu đãi lớn như vậy, cha của Lã Trĩ là Lã Công cho là Lưu Bang sẽ làm nên nghiệp lớn, nên đã đem Lã thị thành hôn với Lưu Bang, sinh được một con gái (Lỗ Nguyên Công chúa) và một con trai tên là Lưu Doanh. Khởi nghĩa chống Tần Chém rắn dấy binh Lưu Bang được huyện lệnh huyện Bái giao trọng trách đưa một số người bị kết án và dân phu đi tới núi Ly Sơn để xây dựng lăng mộ của Tần Thủy Hoàng. Mới đi đến huyện Phong cách huyện Bái không xa thì bọn dân phu trốn quá nửa. Đêm đến tại Phong Tây dịch trạm, Lưu Bang bèn phải thả hết cho trốn, bản thân cũng bỏ trốn với hơn mười tráng sĩ nguyện đi theo giúp sức. Sự kiện được gọi là Phong Tây dịch tung đồ. Trong truyền thuyết, họ gặp phải một con mãng xà lớn màu trắng, Lưu Bang dùng kiếm giết con mãng xà. Đột nhiên xuất hiện một bà già khóc lóc trên đường. Khi người của Lưu Bang hỏi tại sao lại khóc, bà trả lời: "Con tôi là con trai của Bạch đế, hóa thành mãng xà trắng lại bị giết chết bởi con trai của Xích đế rồi" và biến mất một cách bí ẩn. Nghe được câu chuyện lạ lùng này, người của Lưu Bang tin rằng ông có chân mệnh đế vương. Sự kiện này do đó được gọi là Trảm xà khởi nghĩa (斬白蛇起義). Thu phục huyện Bái Lưu Bang và những người theo ông lẩn trốn trên núi Mang gần đất Bái và sống ngoài vòng pháp luật. Ông tuy vậy vẫn duy trì việc bí mật liên lạc với bạn bè cũ của mình ở quê nhà, chẳng hạn như Tiêu Hà và Tào Tham. Tháng 7 năm 209 TCN, Trần Thắng và Ngô Quảng khởi nghĩa, khắp Sơn Đông, Hà Bắc các nơi đều hưởng ứng. Quan lại địa phương của nhà Tần không chế ngự được. Quan huyện Bái thấy khắp nơi khởi nghĩa nên cũng muốn khởi quân tham gia, bèn theo lời khuyên của Tiêu Hà, Tào Tham, cho Phàn Khoái (một họ hàng của Lưu Bang) mời Lưu Bang về để tăng thanh thế. Lưu Bang cùng người của mình đến nơi, quan huyện lại đổi ý, đóng cửa thành, lại muốn giết cả Tiêu, Tào vì sợ những người này làm nội ứng. Tiêu, Tào trốn theo Lưu Bang, bàn kế cho Lưu Bang bắn thư vào thành thuyết phục các bậc trưởng lão để họ cho con em đuổi quan huyện để đón mình. Kế thành công, Lưu Bang được tôn làm Bái Công (沛公) lãnh đạo người dân huyện Bái tham gia khởi nghĩa. Tiêu Hà, Tào Tham cùng Phàn Khoái sau đó đều tập hợp hai ba nghìn con em đất Bái theo Lưu Bang. Ông đánh quận Hồ Lăng và quận Phương Dư rồi về giữ đất Phong. Tìm nơi nương tựa Năm 208 TCN, Giám quận Tứ Xuyên của nhà Tần tên là Bình đem quân vây đất Phong. Lưu Bang xông ra đánh, thắng trận. Lưu Bang sai Ung Xỉ giữ đất Phong, còn mình đem binh đến đất Tiết, đánh thái thú ở Tứ Xuyên của nhà Tần tên là Tráng. Tráng bị đánh bại bỏ chạy đến huyện Thích, bị Tả tư mã của Lưu Bang bắt được và giết chết. Lưu Bang quay về đóng quân ở Cang Phụ và đi đến quận Phương Dư. Cùng lúc đó tướng nước Ngụy là Chu Thị cũng đến đánh Phương Dư, nhưng chưa đánh trận nào. Chu Thị bèn sai người dụ Ung Xỉ đang giữ đất Phong. Ung Xỉ thuận hàng theo Ngụy. Lưu Bang bị mất đất Phong rất tức giận nhưng sức không đủ chiếm lại. Lúc đó ông nghe tin nói Ninh Quân và Tần Gia đã lập Cảnh Câu làm Sở Giả vương ở thành Lưu để thay thế Trần Thắng bị hại, bèn đến theo họ, ý muốn xin quân để đánh đất Phong. Ninh Quân cùng Lưu Bang đem quân về phía tây đánh huyện Tiêu nhưng bất lợi, hai người đem quân trở về, tập hợp quân ở đất Lưu rồi đem binh đánh chiếm được đất Đường, thu binh được hơn 5000 người. Sau đó, ông đánh lấy được Hạ Ấp rồi cùng Ninh Quân đem quân về đóng gần đất Phong. Ít lâu sau, Hạng Lương khởi binh ở đất Ngô, vượt sông Trường Giang, đánh diệt Tần Gia. Lưu Bang nghe tin Hạng Lương đóng quân ở thành Tiết, nên đem một trăm quân kỵ yết kiến. Hạng Lương cho Lưu Bang 5000 quân, 10 ngũ đại phu làm tướng. Hạng Lương lập Mễ Tâm làm Sở Hoài vương để có danh nghĩa chống Tần rồi chia quân làm 2 cánh: tự mình đi đánh Chương Hàm, đồng thời sai Hạng Vũ đi cùng Lưu Bang đánh Thành Dương. Lưu Bang và Hạng Vũ làm cỏ dân Thành Dương rồi đóng quân ở phía đông Bộc Dương, đánh bại quân Tần một trận nữa. Quân Tần lại tập hợp lại, ở thành giữ Bộc Dương, dựa vào sông ngòi vây bọc để cố thủ. Lưu Bang và Hạng Vũ không hạ được bèn bỏ đi, đánh Định Đào nhưng không hạ được thành, lại đem quân về phía tây cướp đất. Hai tướng đi đến chân thành Ung Khâu, đánh nhau với quân Tần, chém được Thái thú quận Tam Xuyên của nhà Tần là Lý Do (con Tả thừa tướng Lý Tư) rồi quay về đánh Ngoại Hoàng nhưng không lấy được, lại đi đánh Trần Lưu. Nhận lời giao ước Hạng Lương coi thường quân Tần, bị Chương Hàm đánh bại và giết chết ở Định Đào. Lưu Bang và Hạng Vũ đang đánh thành Trần Lưu, nghe tin Hạng Lương chết, bèn đem binh phối hợp với quân của Lã Thần (tướng cũ của Trần Thắng) tạm thời rút lui để bảo toàn lực lượng: Lã Thần đóng quân ở phía đông Bành Thành; Hạng Vũ đóng quân ở phía tây Bành Thành; Lưu Bang đóng quân ở Đường. Năm 207 TCN, Sở Hoài vương thấy Hạng Lương bị giết, bèn dời khỏi Vu Thai đóng đô ở Bành Thành, đích thân cầm quân của Lã Thần và Hạng Vũ, phong Lưu Bang làm quận trưởng quận Đường, tước Vũ An Hầu (武安侯). Bàn việc đánh Tần, Sở Hoài vương giao ước với chư hầu: "Ai vào Quan Trung trước làm vương") tức Quan Trung vương, nghe lời các lão tướng. Hoài vương giao cho Lưu Bang mang quân thẳng đường phía tây đánh vào kinh đô nước Tần vì ông được cho là người trung hậu, còn Hạng Vũ thì tàn bạo hay giết chóc nên Hoài vương sai đi lên phía bắc cứu nước Triệu đang bị Chương Hàm vây đánh. Tây tiến vào Hàm Dương Lưu Bang đem quân đi về hướng tây gặp Bành Việt ở Xương Ấp, cùng nhau tấn công thành này nhưng không hạ được. Ông bèn chia tay Bành Việt quay về đến đất Lật, gặp Cương Vũ Hầu, cướp quân của Cương Vũ Hầu được hơn 4000 người gộp vào quân mình, rồi cùng tướng nước Ngụy là Hoàng Hân, và Thân Đồ Vũ Bồ hợp lực đánh Xương Ấp nhưng chưa lấy được. Lưu Bang bèn đem quân đi về hướng tây đến đất Cao Dương thì Nho sĩ Lịch Tự Cơ đến yết kiến. Tự Cơ khuyên Lưu Bang đánh úp thành Trần Lưu, nhờ vậy lấy được thóc lúa của nhà Tần để lại. Lưu Bang cho Lịch Tự Cơ làm Quảng Dã Quân, cho em Tự Cơ là Lịch Thương làm tướng, chỉ huy quân ở Trần Lưu và cùng họ đánh Khai Phong nhưng chưa lấy được Khai Phong. Lưu Bang lại mang quân sang phía tây đánh nhau với tướng Tần là Dương Hùng ở Bạch Mã, lại đánh ở phía đông Khúc Ngộ, phá tàn quân của Dương Hùng, Dương Hùng bỏ chạy đến Huỳnh Dương. Tần Nhị Thế sai sứ giả chém Dương Hùng để răn mọi người. Lưu Bang mang quân về phía nam đánh Dĩnh Dương, làm cỏ dân Dĩnh Dương. Nghe theo kế của Trương Lương, ông tiến quân chiếm đất Hàn và đất Hoàn Viên. Cùng lúc đó tướng nước Triệu là Tư Mã Ngang đang muốn vượt sông Hoàng Hà để vào Quan Trung trước các chư hầu. Lưu Bang liền đánh Bình Âm ở phía Bắc, cắt đứt bên sông phía nam sông Hoàng Hà, chặn đường Tư Mã Ngang. Sau đó ông quay sang đánh một trận ở phía đông Lạc Dương nhưng không thắng bèn rút lui về đến Dương Thành, tập hợp quân kỵ và ngựa ở trong quân, đánh nhau với thái thú Nam Dương là Nghị ở phía đông, đốt phá đánh bại quân của Nghị, cướp quận Nam Dương. Nghị bỏ chạy về giữ lấy Uyển Thành. Lưu Bang nóng lòng muốn bỏ qua đất này và đi về hướng tây vào Hàm Dương, nhưng Trương Lương cảnh báo ông sẽ bị Nghị đánh úp sau lưng. Vì vậy Lưu Bang dừng lại đánh Uyển Thành. Ông nhân lúc đêm tối đem quân đi một con đường khác, thay đổi tất cả cờ xí, lúc tảng sáng vây Uyển Thành ba vòng. Thái thú Nam Dương là Nghị sợ hãi muốn đâm cổ chết, nhưng nghe lời môn hạ là Trần Khôi khuyên, bèn đầu hàng. Lưu Bang phong cho Nghị làm Ân Hầu, phong cho Trần Khôi 1000 hộ. Lưu Bang đem quân về đến sông Đan Thủy, Cao Vũ Hầu là Ngư, Tương Hầu là Vương Lăng đầu hàng nộp đất Tây Lăng. Lưu Bang quay lại đánh Hồ Dương, gặp biệt tướng của Bà quân Ngô Nhuế là Mai Quyên, bèn cùng Mai Quyên chiêu hàng đất Tích và đất Lịch. Lưu Bang sai người nước Ngụy là Ninh Xương đi sứ đến Tần. Sứ giả chưa đến thì tướng Tần là Chương Hàm đã đem quân đầu hàng Hạng Vũ ở đất Triệu; các chư hầu đều theo Hạng Vũ. Cuối năm 207 TCN, hoạn quan Triệu Cao giết Tần Nhị Thế và cho người đến gặp Lưu Bang, muốn giao ước chia đất Quan Trung và làm vương. Lưu Bang cho rằng Triệu Cao muốn đánh lừa, bèn dùng kế của Trương Lương, sai Lịch Tự Cơ và Lục Giả đến thuyết phục tướng của Tần, lấy lợi nhử y và nhân đó đánh và phá được Vũ Quan. Lưu Bang lại đánh nhau với quân Tần ở phía nam Lam Điền, càng treo thêm cờ xí để làm nghi binh, đi đến đâu thì cấm không được cướp bóc bắt bớ. Người Tần do đó mừng rỡ, quân đội Tần tan rã, Lưu Bang nhân đó thắng được quân Tần. Ông tiến quân lên phía bắc thắng quân Tần một trận nữa. Tháng 10 năm 206 TCN, quân của Lưu Bang đến Bá Thượng trước quân chư hầu. Vua Tần là Tử Anh đi xe mộc do ngựa trắng kéo, ở cổ quấn sợi dây ấn, niêm phong ấn hoàng đế, phù và cờ tiết đầu hàng ở gần Chỉ Đạo. Lưu Bang cho Tử Anh đầu hàng. Các tướng có người bàn nên giết vua Tần, nhưng Lưu Bang không nghe theo, ông nói: Lui bước trước Hạng Vũ Lưu Bang đi về phía tây vào Hàm Dương muốn dừng lại ở trong cung thất nhà Tần nghỉ ngơi. Phàn Khoái và Trương Lương can không nên, Lưu Bang mới niêm phong kho tàng, của quý báu của Tần rồi trở về đóng quân ở Bá Thượng, triệu tập các vị phụ lão và những thân hào ở các huyện đến và tuyên bố: Lưu Bang sai người cùng quan lại nhà Tần đi các huyện, các làng, các ấp tuyên truyền lệnh đó. Người Tần rất mừng, tranh nhau mang bò, dê, rượu, thức ăn đến để khao quân sĩ, nhưng Lưu Bang đều từ chối không nhận. Có người hiến kế Lưu Bang nên giữ lấy đất Tần hiểm trở giàu có để chống lại chư hầu, án ngữ cửa Hàm Cốc không cho quân chư hầu vào, và trưng thêm quân ở Quan Trung cho thêm đông để chống lại. Lưu Bang cho là phải và theo kế đó. Giữa tháng 11 năm 206 TCN, Hạng Vũ thống lĩnh quân chư hầu tiến vào nước Tần, tới cửa ải Hàm Cốc, nhưng ải đã bị phong tỏa. Hạng Vũ lại nghe nói Lưu Bang đã bình định được Quan Trung, rất tức giận, sai Anh Bố tấn công phá cửa Hàm Cốc. Giữa tháng 12, Hạng Vũ đến đất Hỉ, tả tư mã của Lưu Bang là Tào Vô Thương muốn theo Hạng Vũ tiến thân bèn nói với Hạng Vũ rằng Lưu Bang có ý định chiếm cả Quan Trung. Mưu sĩ Phạm Tăng cũng khuyên Hạng Vũ đánh Lưu Bang. Hạng Vũ ra lệnh cho quân sĩ ăn no, định sáng mai thì đánh. Lúc bấy giờ quân Hạng Vũ có 40 vạn người, còn Lưu Bang chỉ có 10 vạn. Chú Hạng Vũ là Hạng Bá muốn cứu bạn là Trương Lương đang phục vụ cho Lưu Bang nên đang đêm đến gặp Trương Lương, khiến ý định của Hạng Vũ bị lộ. Trương Lương dắt luôn Hạng Bá vào gặp Lưu Bang. Ông bèn kết thân với Hạng Bá, hẹn nhau làm thông gia và nhờ nói giúp với Hạng Vũ rằng mình không có ý định chống lại. Hạng Bá trở về khuyên Hạng Vũ, vì vậy Hạng Vũ thôi không khai chiến với Lưu Bang. Hôm sau, Lưu Bang đến Hồng Môn yết kiến và xin lỗi Hạng Vũ. Hạng Vũ cho ông biết là do Tào Vô Thương đề nghị nên Hạng Vũ mới chuẩn bị giao chiến. Họ Hạng còn giữ Lưu Bang ở lại uống rượu. Quân sư của Hạng Vũ là Phạm Tăng nhìn Hạng Vũ, ba lần đưa cái vòng ngọc quyết ra hiệu, ý muốn Vũ giết Lưu Bang. Nhưng Hạng Vũ không manh động. Phạm Tăng ra ngoài gọi Hạng Trang đến, dặn Trang vào chúc thọ rồi xin mua kiếm, để tiện tay đâm chết Lưu Bang ở chỗ ngồi. Hạng Trang nghe theo, vào tiệc chúc thọ rồi đứng dậy múa kiếm. Hạng Bá cũng đứng lên, vừa múa kiếm vừa lấy thân che cho Lưu Bang. Hạng Trang không đâm được. Trương Lương thấy nguy cấp bèn ra ngoài tìm Phàn Khoái, kể rằng Hạng Trang đang chực giết Bái công. Phàn Khoái mang kiếm, cắp khiên vào tiệc, quở trách Hạng Vũ: "Bái công khó nhọc mà công to như vậy, nhưng vẫn chưa được phong thưởng gì! Nay đại vương nghe lời bọn tiểu nhân, muốn giết kẻ có công, tức là noi theo đường lối nhà Tần đã mất!" Nhờ có Phàn Khoái và Trương Lương nên Lưu Bang thoát nạn về. Về tới Bá Thượng, Lưu Bang bèn giết Tào Vô Thương. Hán-Sở tương tranh Bình định Tam Tần Trở thành người đứng đầu chư hầu, Hạng Vũ phân chia lại các vùng đất không chỉ của Tần mà của cả các nước chư hầu khác có tham gia vào cuộc khởi nghĩa thành 19 nước. Hạng Vũ không thực hiện lời hứa của Sở Hoài Vương và nhanh chóng ám sát Hoài Vương. Thay vào đó Hạng Vũ chia Quan Trung 4 phần, với lý do Hán Trung cũng thuộc Quan Trung nên phong Lưu Bang làm Hán Vương (汉王/漢王) cai trị vùng thuộc Tứ Xuyên, Trùng Khánh và phía nam Thiểm Tây hiện nay. Phần lớn đất Tần cũ, Hạng Vũ chia cho 3 tướng Tần theo hàng mình là Chương Hàm (Ung vương), Đổng Ế (Địch vương) và Tư Mã Hân (Tắc Vương), gọi là Tam Tần để đề phòng Lưu Bang tiến về đông. Tháng 4 năm 206 TCN, Lưu Bang trở về đất phong, được cấp 3 vạn quân. Theo lời khuyên của Trương Lương, ông đi qua đường sạn đạo xong liền đốt và cắt đứt đường sạn đạo để đề phòng quân chư hầu đánh úp, đồng thời để chứng tỏ cho Hạng Vũ thấy rằng mình không có ý đi về hướng đông. Tướng sĩ dưới quyền ông nhiều người không muốn vào đất Thục hiểm trở mà muốn trở về quê ở phương đông. Khi đến Nam Trịnh, các tướng sĩ nhiều người trốn về. Theo sự tiến cử của Tiêu Hà và Hạ Hầu Anh, Lưu Bang bèn phong Hàn Tín – người vừa bỏ trốn từ nước Sở sang – làm đại tướng, giao cho việc đánh Sở. Lúc đó Trương Lương lấy hịch chống Sở của Tề vương Điền Vinh đưa cho Hạng Vũ để lôi kéo Hạng Vũ chú ý tới nước Tề, khiến Sở Bá vương khởi đại quân đi đánh Tề mà không chú ý tới Lưu Bang. Tháng 8 năm 206 TCN, Hán vương dùng mưu kế của Hàn Tín đi qua huyện Cố Đạo đánh úp Ung vương Chương Hàm. Chương Hàm bị quân Hán đánh bại ở Trần Thương, thua chạy đến đất Hạo Trĩ dừng lại đánh. Hàn Tín đánh bại Chương Hàm lần thứ 2, Hàm phải bỏ chạy về Phế Khâu cố thủ. Lưu Bang đuổi theo, chiếm đất đai của Ung vương, một mặt điều quân vây Phế Khâu, mặt khác đi về đông đánh Hàm Dương và bình định Lũng Tây, Bắc Địa, Thượng Quân. Ông các tướng Tiết Âu, Vương Hấp ra khỏi ải Vũ Quan cùng Vương Lãng đi đón cha là Thái Công và vợ là Lã Trĩ đang ở đất Bái. Quân Sở nghe tin ấy cho quân chặn ở Dương Hạ nhưng cuối cùng quân Hán vẫn đến trước. Năm 205 TCN, Hán vương đem quân đánh Tắc Vương Hân và Địch vương Ế và Hà Nam vương Thân Dương. Ba vua chư hầu không chống nổi phải đầu hàng. Tiến vào Bành Thành Hàn vương Trịnh Xương (được Hạng Vũ cử thay Hàn vương Thành) chống lại quân Hán không chịu hàng, bị Đại tướng Hàn Tín đánh bại. Sau khi đánh chiếm nước Hàn, Lưu Bang lập viên tướng và là dòng dõi nước Hàn cũ, cũng tên là Hàn Tín làm Hàn vương. Tháng ba năm đó, Hán vương từ Lâm Tấn vượt qua sông đánh Ngụy. Tây Ngụy vương Báo đầu hàng, đem binh theo Hán vương lấy Hà Nội. Ân vương Tư Mã Ngang bị bắt. Hán vương bèn vượt qua sông Hoàng Hà ở bến Bình Âm, rồi đem quân đến Lạc Dương. Đến Tân Thành, ông được nhân dân báo cho biết Sở Nghĩa Đế đã bị Hạng Vũ sát hại. Hán vương bèn để tang Nghĩa đế và tuyên bố vì Nghĩa Đế mà đánh Sở bá vương Hạng Vũ. Hán vương tập hợp tất cả quân ở Quan Trung, binh sĩ Hà Nam, Hà Đông, Hà Nội được 56 vạn người, đi xuống phía nam đánh Sở. Lúc bấy giờ Hạng vương đang đem quân về hướng bắc đánh Tề, chưa bình định được. Nhân cơ hội ấy Hán vương thúc ép quân năm nước chư hầu đánh vào Bành Thành, kinh đô Tây Sở. Sau khi chiếm được Bành Thành, Hán vương không chú ý phòng thủ, sa vào hưởng thụ. Hạng Vũ nghe tin, đem 3 vạn quân từ đất Tề trở về đánh Bành Thành, đại phá quân Hán. Cha ông là Thái công cùng vợ Lã Trĩ bị quân Sở bắt. Hán vương bị quân Sở vây bọc, may lúc đó có trận gió thổi cát bụi mù mịt, ông bèn nhân đó chạy thoát ra khỏi vòng vây. Ông được Hạ Hầu Anh đánh xe chạy trốn, bị quân Sở đuổi phía sau. Giữa đường gặp con trai Lưu Doanh cùng con gái. Sợ xe nặng đi chậm, Lưu Bang đẩy hai con nhỏ ra khỏi xe. Hạ Hầu Anh vội nhảy xuống bế lên. Lưu Bang thấy quân Sở đuổi gần lại đẩy con xuống. Cứ như vậy 5 lần nhưng Hạ Hầu Anh đều xuống cứu hai con ông, cuối cùng cả bốn người đi thoát. Nguy cấp ở Huỳnh Dương Lưu Bang chạy đến Hạ Ấp do người anh của Lã Trĩ là Lã Trạch trấn thủ, tập hợp lại lực lượng. Tắc vương Tư Mã Hân và Địch vương Đổng Ế thấy Sở mạnh lên lại bỏ Hán theo Sở. Ngụy vương Báo cũng lấy lý do về thăm nhà và tuyệt giao với Hán. Hán vương sai Tùy Hà đi sang quận Cửu Giang dụ chư hầu của nước Sở là Anh Bố đang bất mãn với Sở Bá vương. Anh Bố đồng ý phản Sở, bị tướng Sở là Long Thư đánh bại, bèn chạy về với Lưu Bang. Cùng lúc, quân Hán tháo nước sông vào thành Phế Khâu, hạ được thành. Ung vương Chương Hàm tự sát. Đất Tam Tần hoàn toàn thuộc về Lưu Bang. Hán vương sai Lịch Tự Cơ sang nước Ngụy khuyên Ngụy Báo trở lại theo Hán nhưng Ngụy Báo không nghe. Ông bèn sai tướng quân Hàn Tín mang quân đánh Ngụy, bắt sống Ngụy Báo mang về Huỳnh Dương. Sau đó ông sai Hàn Tín cùng Trương Nhĩ đi đánh nước Triệu. Sau khi hai tướng diệt được Triệu, ông lập Trương Nhĩ làm Triệu vương. Lúc đó Lưu Bang đóng quân ở Huỳnh Dương, phía nam xây đường ống ra đến sông Hoàng Hà để lấy thóc ở Ngao Thương, chống lại cuộc tấn công của Hạng Vũ. Hai bên giằng co hơn một năm. Hạng Vũ mấy lần đưa quân cướp đường ống của Hán làm quân Hán bị thiếu lương thực. Lưu Bang lo lắng, bèn xin giảng hòa và cắt đất từ Huỳnh Dương đến phía tây cho Sở Bá Vương, nhưng Hạng Vũ không nghe. Nhân lúc đó có sứ giả của Hạng Vũ đến, Lưu Bang bèn dùng kế của Trần Bình, giả bộ nhầm với sứ giả của mưu sĩ Phạm Tăng bên Sở, nhằm làm Hạng Vũ nghi ngờ Phạm Tăng tư thông với mình. Quả nhiên Hạng Vũ ngờ vực Phạm Tăng khiến Phạm Tăng giận xin từ chức rồi uất ức qua đời. Hạng Vũ mất Phạm Tăng nhưng vẫn tăng cường công hãm Huỳnh Dương. Trước tình hình nguy cấp, tướng Kỷ Tín tình nguyện đóng giả làm Lưu Bang giả cách xin đầu hàng. Nửa đêm, Lưu Bang cho Kỷ Tín ngồi vào xe vàng của mình ra hàng, cho hơn hai nghìn người con gái mặc áo giáp giả làm quân Hán hộ vệ Hán vương đi ra cửa phía đông. Quân Sở đều xúm lại phía đông thành để xem mặt Hán vương, nhờ đó Lưu Bang cùng các tướng thoát ra cửa tây với vài chục quân kỵ và bỏ trốn, chỉ để lại Chu Hà, Ngụy Báo, Hàn vương Tín và Tung Công giữ Huỳnh Dương. Trốn khỏi Thành Cao Sau khi ra khỏi Huỳnh Dương, Hán vương vào Quan Trung, tập hợp quân sĩ do Tiêu Hà động viên đưa ra, lại định đi về hướng đông đánh Sở. Viên Sinh hiến kế với Lưu Bang, đề nghị ông nên cố thủ không giao tranh với quân Sở, và sai Hàn Tín đi đánh các nước Yên, Tề để chặt vây cánh của Sở, sau đó mới ra quân đánh Sở khiến Hạng Vũ phải đối phó nhiều mặt. Lưu Bang nghe theo, bèn cho quân đi ra ở giữa miền Uyển và Diệp, cùng hàng tướng Anh Bố tập hợp quân sĩ. Quả nhiên Hạng Vũ nghe tin Lưu Bang di chuyển bèn đem binh xuống phía nam. Quân Hán giữ vững thành trì không đánh nhau với Sở. Trong khi đó, Bành Việt đã vượt qua sông Tuy Thủy đánh vào hậu phương nước Sở, chiếm Hạ Bì. Hạng Vũ phải đem binh về hướng đông đánh Bành Việt, Lưu Bang cũng đem quân về hướng bắc đóng quân ở Thành Cao. Sau khi đã đánh quân Bành Việt thua chạy, Hạng Vũ nghe tin Hán Vương đã về Thành Cao, lại đem binh về hướng tây lấy Huỳnh Dương, giết Chu Hà, Tung Công, cầm tù Hàn vương Tín, rồi bao vây Thành Cao. Quân Hán không chống cự nổi, Lưu Bang phải cùng Hạ Hầu Anh ngồi một xe theo cửa ngọc môn ra khỏi Thành Cao chạy lên phía bắc, vượt sông Hoàng Hà, chạy nhanh đến Tu Vũ nghỉ đêm ở đấy, tự xưng là sứ giả. Sáng sớm hôm sau ông ruổi ngựa vào thành của Trương Nhĩ, Hàn Tín, lấy ấn tướng quân của Hàn Tín và nắm quân của hai người. Sau đó ông sai Trương Nhĩ đi về hướng bắc thu thập thêm quân ở Triệu, sai Hàn Tín đi về hướng đông đánh nước Tề. Tái chiếm Thành Cao Sau khi đã nắm được quân của Hàn Tín, uy thế Lưu Bang lại mạnh. Nghe theo lời khuyên của lang trung Trịnh Trung, ông đắp thành đào hào cố thủ không giao tranh với quân Sở, và sai Lư Quán cùng Lưu Giả đem hai vạn quân vài trăm quân kỵ vượt bến Bạch Mã, vào đất Sở cùng với Bành Việt đánh phá quân Sở phía tây đất Yên, đất Quách, rồi lấy lại hơn mười thành đất Lương. Theo đề nghị của Lịch Tự Cơ, Lưu Bang sai Lịch Tự Cơ đi thuyết Tề vương Điền Quảng theo Hán. Hàn Tín đã được lệnh đi về hướng đông nhưng chưa vượt qua sông ở Bình Nguyên thì Lịch Tự Cơ đã thuyết phục được Tề vương Điền Quảng phản lại Sở, hòa với Hán để cùng đánh Hạng Vũ. Hàn Tín dùng kế của Khoái Triệt, đánh úp và đại phá quân Tề. Tề vương Quảng tưởng bị Lịch Tự Cơ lừa bèn giết Tự Cơ bỏ chạy và cầu viện Sở. Hạng Vũ sai Long Thư và Chu Lan đến đánh Hàn Tín, nhưng bị Hàn Tín tiêu diệt. Trong khi đó Bành Việt cầm quân ở đất Lương, thường tập kích cắt đứt đường lương thực của quân Sở. Năm 203 TCN, Hạng Vũ đánh chiếm được Thành Cao rồi, phải quay về đánh Bành Việt lần thứ 2, giao lại Thành Cao cho Tào Cữu, Tư Mã Hân và Đổng Ế. Lưu Bang điều quân đến đánh Thành Cao. Tào Cữu tức giận vì bị khiêu khích, không nhớ lời dặn phải phòng thủ của Hạng Vũ, mang quân ra đánh và bị thảm bại. Cả ba tướng Sở đều tự vẫn. Lưu Bang đoạt lại được Thành Cao. Cùng lúc đó Hàn Tín đánh xong viện binh của Long Thư nước Sở bèn sai sứ tới đề nghị Lưu Bang phong làm Tề giả vương. Lưu Bang nổi giận định không cho, nhưng Trương Lương và Trần Bình khuyên ông nên chấp thuận đề lợi dụng Hàn Tín đánh Sở. Lưu Bang bằng lòng, sai Trương Lương đi phong Hàn Tín làm Tề vương. Hòa ước Hồng Câu Hạng Vũ đánh mãi không thắng bèn mang cha Lưu Bang là Thái công ra đặt lên thớt để buộc ông phải hàng, dọa nếu không hàng thì giết Thái công. Lưu Bang sợ bị người chê cười là kẻ bất hiếu nên có ý hàng, nhưng Tiêu Hà ngăn lại và hiến kế cho Lưu Bang đối đáp. Lưu Bang đứng trên thành, dõng dạc trả lời Hạng Vũ: Ta và ngươi đã kết làm anh em, cha ta cũng như cha ngươi. Nếu ngươi muốn giết cha ngươi thì cho ta xin bát canh với Hạng Vũ nghe nói như vậy đành thôi ý định dùng Thái công để dọa ông. Sau đó Lưu Bang và Hạng Vũ gặp nhau ở Quảng Vũ đối trận. Hai bên giáp mặt nói chuyện. Hạng Vũ muốn một mình khiêu chiến với Lưu Bang, ông bèn kể tội 10 tội của Hạng Vũ. Hạng Vũ rất tức giận, ngầm bắn trúng Lưu Bang. Ông bị trúng tên ở bụng nhưng lại sờ vào ngón chân kêu đau, khiến tướng sĩ nghĩ rằng ông bị thương nhẹ. Hai bên thu quân về. Lưu Bang bị thương nặng phải nằm. Trương Lương ép nài ông cố gắng dậy đi úy lạo quân sĩ để quân sĩ an lòng, đừng cho quân Sở thừa cơ đánh. Vì ông cố đi ra trước hàng quân bệnh càng nặng thêm. Sau đó ông chạy vào Thành Cao. Ít lâu sau khỏi bệnh, ông vào Quan Trung tập hợp thêm binh sĩ rồi trở lại Quảng Vũ. Lúc đó Bành Việt cầm quân ở đất Lương, luôn cắt đứt lương thực của quân Sở. Hạng Vũ mấy lần đánh Bành Việt thì Tề vương Hàn Tín lại tiến quân đánh Sở. Do đầu đuôi không cứu được nhau, Hạng Vũ lo lắng bèn cùng Lưu Bang giao ước chia khoảng giữa thiên hạ. Theo giao ước, cắt đất từ Hồng Câu về phía tây là của Hán; từ Hồng Câu về phía đông là của Sở. Hạng vương trả lại cha và vợ Hán vương. Sau đó hai bên trở về và từ biệt ra đi mỗi người một phía: Hạng Vũ từ giã đem quân về phía đông. Xé bỏ hòa ước Lưu Bang định làm theo hòa ước đem quân về phía tây nhưng Trần Bình và Trương Lương khuyên ông nên xé bỏ hòa ước, tiến quân đuổi đánh Hạng Vũ để nhanh chóng diệt Sở. Lưu Bang nghe theo, bèn tiến quân đuổi theo, dừng lại ở Dương Hạ, hẹn các chư hầu cùng đánh Sở. Nhưng khi đại quân Lưu Bang tới Cố Lăng thì quân Hàn Tín, Bành Việt vẫn không đến. Kết quả quân Hán bị quân Sở đánh cho đại bại. Lưu Bang lại vào thành, đắp thành cao, đào hào sâu để giữ. Theo kế của Trương Lương, ông sai sứ đi đề nghị Hàn Tín và Bành Việt ra quân, hứa sẽ phong cho 2 người ở nước Tề và nước Lương sau khi thành công. Mặt khác, ông gọi thêm các hàng tướng nước Sở như Anh Bố, Chu Ân cùng Lưu Giả đánh vào hậu phương của Hạng Vũ. Năm 202 TCN, Hàn Tín và Bành Việt mang đại quân đến họp. Các cánh quân cùng vây đánh Hạng Vũ ở Cai Hạ. Quân Hán quá đông khiến Hạng Vũ không địch nổi, phải rút vào thành Cai Hạ. Sau đó quân Sở tan rã, Hạng Vũ bỏ thành chạy. Lưu Bang sai kỵ tướng quân Quán Anh đuổi theo. Hạng Vũ chạy đến Ô Giang thì tự vẫn, nước Sở hoàn toàn bị tiêu diệt. Kiến lập triều Hán Xưng đế và phân phong Thắng trận, Lưu Bang vội vã trở về đến Định Đào, phi ngựa vào thành của Tề vương Tín, lấy quân của Hàn Tín lần thứ 2. Tháng 1 âm lịch năm 202 TCN, các quan văn võ và chư hầu suy tôn Lưu Bang lên làm Hoàng đế nhưng ông từ chối: "Ta nghe nói: "Người hiền mới được làm đế, nếu không chỉ là lời nói suông không nên làm". Ta không dám lên ngôi đế." Quần thần cùng thuyết phục: "Đại vương xuất thân thấp hèn, giết bọn bạo ngược, bình định bốn biển, người nào có công thì được cắt mà phong làm vương, làm hầu. Nếu đại vương không có danh hiệu tôn quý thì họ đều nghi không tin. Bọn thần liều chết xin giữ điều đó." Lưu Bang cố khước từ ba lần mà không được, mới nói: "Nếu các ông đều cho thế là tiện thì tôi nhận, vì tiện lợi của quốc gia." Rồi ông lên ngôi hoàng đế ở phía bắc sông Tự Thủy, tức là vua Hán Cao Tổ. Ông tôn cha là Thái công làm Thái thượng hoàng, lập Lã Trĩ làm hoàng hậu, con trai Lã Trĩ là Lưu Doanh làm thái tử. Ông phân phong các công thần làm chư hầu như sau: Cải Tề vương Hàn Tín làm Sở vương, đóng đô ở Hạ Bì. Lập Kiến Thành hầu Bành Việt làm Lương Vương, đóng đô ở Định Đào Lập vua Hàn trước là Tín làm Hàn vương, đóng đô ở Dương Địch. Dời Hành Sơn vương Ngô Nhuế làm Trường Sa vương, đóng đô ở Lâm Tương. Hoài Nam vương Anh Bố, Yên Vương Tạng Đồ, Triệu vương Trương Ngao, Lâm Giang vương đều như cũ. Hán Cao Tổ đóng đô ở Lạc Dương là kinh đô cũ của nhà Đông Chu. Đóng đô ở Quan Trung Theo Sử ký, ban đầu Hán Cao Tổ muốn đóng đô ở đất Lạc Dương. Lâu Kính người nước Tề nói với Trương Lương. Trương Lương khuyên ông đóng đô ở Quan Trung. Ngay hôm ấy, Cao Tổ lên xe ngựa đến Quan Trung và chọn Trường An nơi đây làm kinh đô. Giảm thuế và sưu dịch Sau khi lên ngôi hoàng đế, Hán Cao Tổ tái tập trung quyền lực quốc gia theo hệ thống nhà Tần. Ông dần thay thế những tướng cũ, phong đất cho họ và gia đình, đồng thời giảm bớt quân đội và cho phép binh sĩ trở về nhà. Ông ra lệnh cho những vương chư hầu rằng những người ở lại Quan Trung sẽ được miễn thuế và sưu dịch trong 12 năm, trong khi những người trở về quê hương của mình sẽ được miễn trong 6 năm và nhà nước cung cấp cho họ trong một năm. Bởi vì nền kinh tế bị tàn phá bởi chiến tranh sau sự sụp đổ nhà Tần, ông cho giảm thuế và giảm bắt dân đi phu, phát triển nông nghiệp, hạn chế chi tiêu và trả tự do cho những kẻ đã bán mình làm nô lệ để tránh nạn đói trong chiến tranh. Năm 195 TCN, Cao Tổ đã ban hành hai chiếu chỉ, một là hạ thấp thuế và sưu dịch, thứ hai là thay đổi số lượng cống phẩm cho triều đình của các vị vua chư hầu vào mỗi tháng 10 hàng năm. Thuế đất sản xuất nông nghiệp đã giảm với tốc độ một phần 15 trên sản lượng cây trồng. Ông cũng cho tư nhân đúc tiền. Tuy nhiên, vì đã chứng kiến điều mà ông cho là sự suy đồi của giới nhà buôn thời Tần, ông hạn chế thương mại bằng cách áp đặt thuế cao và luật hóa các quy định đối với nhà buôn. Đối với Nho giáo Trong những ngày đầu tiên, Cao Tổ không thích đọc và hạ thấp Nho giáo. Sau khi ông lên ngôi, ông vẫn giữ quan điểm tương tự đối với Nho giáo như trước, cho đến khi ông được soi sáng bởi học giả Lục Giả. Lục Giả đã viết một cuốn sách 12 chương tên Tân Dư (新语), nhấn mạnh lợi ích của việc quản lý đất nước bằng đạo đức hơn là sử dụng pháp luật cưỡng chế. Lục Giả đọc từng chương cho hoàng đế sau khi viết xong, khiến Cao Tổ vô cùng ấn tượng. Dưới triều đại của Hán Cao Tổ, ảnh hưởng của Nho giáo mạnh lên và dần dần thay thế Pháp gia, vốn thắng thế trong triều đại trước. Các học giả Nho giáo, bao gồm Lục Giả, đã được tuyển dụng vào triều đình và Cao Tổ cũng tiến hành cải cách hệ thống pháp luật, giảm bớt các luật lệ khắc nghiệt từ thời nhà Tần. Năm 196 TCN, sau khi chinh phạt Anh Bố, quân đội của Cao Tổ đi ngang qua Sơn Đông, ông đích thân chuẩn bị một buổi lễ để tỏ lòng kính trọng của mình với nhà triết học Khổng Tử. Cân nhắc ngôi thái tử Trong những năm sau này, Cao Tổ bắt đầu sủng ái Thích phu nhân và bỏ mặc Lã hậu. Ông cảm thấy rằng đương kim thái tử Lưu Doanh, con Lã Hậu, quá yếu đuối để làm vua cai trị. Cao Tổ do vậy có ý phế Lưu Doanh và thay bằng con của Thích phu nhân là Lưu Như Ý. Lã hậu trở nên lo lắng và hỏi Trương Lương cách để giúp con trai bà giữ ngôi thái tử. Trương Lương đề nghị dùng bốn hiền sĩ ẩn dật, được gọi chung là Thương Sơn Tứ Hạo (商山四皓) để giúp Lưu Doanh. Năm 195 TCN, khi Cao Tổ trở về sau khi dẹp loạn Anh Bố, sức khỏe của ông xấu đi và càng muốn đổi ngôi thái tử. Trương Lương cố gắng can ngăn nhưng Cao Tổ lại bỏ ngoài tai, khiến Trương Lương từ chức với lý do rằng bị ốm. Gia sư của thái tử là Thúc Tôn Thông (叔孫通) và Chu Xương phản đối mạnh mẽ lại quyết định thay thế thái tử Cao Tổ. Chu Xương nói rằng: "Thần tuy không khuyên can được, nhưng thần biết điều này là không nên. Nếu bệ hạ phế thái tử, thần quyết không thể phụng chiếu." . Sau đó, Thương Sơn Tứ Hạo xuất hiện và khiến Cao Tổ ngạc nhiên vì họ đã từng từ chối ra giúp ông trước kia. Họ hứa sẽ giúp Lưu Doanh trong tương lai khi trở thành hoàng đế, khiến Cao Tổ quyết định giữ ngôi thái tử của Lưu Doanh. Đối với chư hầu Hán Cao Tổ cũng rất quan tâm tới việc hạn chế thế lực của các chư hầu là công thần được phân phong. Ông lần lượt trừ khử hoặc phế truất các công thần làm vua chư hầu và cho các con trai hoặc thành viên hoàng tộc thay thế. Đồng thời, ông giao ước với các quan đại thần rằng: Việc trừ khử các chư hầu được Lưu Bang tiến hành ngay từ khi mới lên ngôi hoàng đế. Tề: Sau khi cải phong Tề vương Hàn Tín làm Sở vương, Lưu Bang phong cho con lớn là Lưu Phì làm Tề vương Lâm Giang: Theo ghi chép của Sử ký, Lâm Giang vương phản Hán, Cao Tổ sai Lư Quán, Lưu Giả mang quân đến bao vây nhưng không hạ được thành. Mấy tháng sau Lâm Giang vương đầu hàng và bị giết ở Lạc Dương. Sở: Năm 200 TCN, Hán Cao Tổ lấy cớ nghi Hàn Tín làm phản vì có người tố giác, bèn theo kế của Trần Bình giả cách ra chơi ở Vân Mộng gần chỗ trấn nhậm của Hàn Tín. Hàn Tín vội ra đón rước, liền bị Lưu Bang bắt giữ mang về kinh đô và giáng làm Hoài Âm hầu. Tới năm 196 TCN, Hàn Tín bị Lã Hậu giết tại kinh đô khi Lưu Bang đang đi đánh Trần Hy. Lưu Bang chia nhỏ nước Sở, lập người con thứ 6 là Lưu Hữu làm Hoài Dương vương, người cháu là Lưu Giao làm Sở vương, Lưu Giả làm Kinh vương. Lương: Năm 197 TCN, Trần Hy làm phản. Lưu Bang triệu tập Lương vương Bành Việt đến hội quân để đánh Hy, nhưng Bành Việt cáo ốm không đi, chỉ cho bộ tướng đi thay. Lưu Bang bèn sai sứ bất ngờ đến bắt ông và giải về Lạc Dương. Lưu Bang nghĩ Bành Việt có công lao nên không giết mà chỉ đày vào huyện Thanh Y đất Thục. Đi nửa đường đến đất Trịnh, Bành Việt gặp Lã Hậu từ Trường An ra Lạc Dương, bèn đến xin nhờ Lã hậu nói với Hán Cao Tổ tha tội. Lã hậu nhận lời, nhưng khi trở về Lạc Dương lại khuyên Lưu Bang giết Bành Việt. Lưu Bang giết Bành Việt và phong người con thứ 5 là Lưu Khôi làm Lương vương. Triệu: Triệu vương Trương Ngao vốn là con rể Hán Cao Tổ. Do Lưu Bang có hành động sỉ nhục Trương Ngao trong lần đến nước Triệu năm 199 TCN, các thủ hạ của Trương Ngao có ý định giết Lưu Bang để trả thù. Năm 198 TCN, ý đồ ám sát lộ ra, các thủ hạ nhận tội, nhất định nói Trương Ngao không biết việc ám sát. Trương Ngao vẫn bị truất ngôi Triệu vương, bị giáng làm Tuyên Bình hầu. Lưu Bang phong cho người con thứ 3 là Lưu Như Ý làm Triệu vương. Hàn: Năm 201 TCN, Lưu Bang dời Hàn vương Tín sang vùng Thái Nguyên xa xôi ở phía bắc, đóng đô ở Mã Ấp, tiếp giáp với Hung Nô. Cùng năm, vua Hung Nô là Mặc Đốn mang quân vây đánh Mã Ấp. Hàn Vương Tín không chống nổi, nhiều lần phải cầu hoà. Lưu Bang nghe tin Hàn vương Tín nhiều lần cầu hoà với Hung Nô nên nghi Tín làm phản, sai sứ đến khiển trách. Hàn Vương Tín lo sợ, bèn quay sang đầu hàng Hung Nô và cùng Hung Nô đánh Hán. Năm 197 TCN, ông sai Vương Hoàng đi thuyết phục Trần Hy làm phản nhà Hán. Tướng Hán là Sài Vũ tấn công Tham Hợp, giết chết Hàn Vương Tín. Đại: Năm 197 TCN, sau khi diệt Trần Hy ở nước Đại, Lưu Bang phong con thứ 4 là Lưu Hằng làm Đại vương Hoài Nam: Sau khi giết Lương vương Bành Việt, Lưu Bang sai người lấy thịt Việt làm mắm gửi cho các chư hầu. Năm 195 TCN, Hoài Nam vương Anh Bố sợ mình sẽ bị thanh trừng bèn cất quân chống lại. Anh Bố giết chết Kinh vương Lưu Giả và đánh tan Sở vương Lưu Giao, nhưng sau đó Lưu Bang cầm quân đi tiêu diệt được Anh Bố. Dẹp xong, Lưu Bang phong cho con thứ 7 là Lưu Trường làm Hoài Nam vương, cháu là Lưu Tỵ làm Ngô vương. Yên: Tháng 10 năm 201 TCN, Yên vương Tạng Đồ làm phản. Cao Tổ thân hành cầm quân đánh, bắt được Yên vương Tạng Đồ, lập thái úy Lư Quán (vốn là bạn thân) làm Yên vương. Năm 195 TCN, sau khi Hàn Tín, Bành Việt, Anh Bố, Trần Hy đều bị giết, đến lượt Lư Quán bị nghi có mưu phản. Lưu Bang sai Phàn Khoái mang quân đi đánh Yên. Lư Quán biết không giữ được nước Yên, bèn mang gia quyến cùng vài ngàn quân rời bỏ nước Yên chạy ra ngoài Vạn Lý Trường Thành. Lưu Bang đã ốm nặng, bèn lập con thứ 8 là Lưu Kiến làm Yên vương, rồi qua đời. Lư Quán không thể phân trần với Lưu Bang, đành phải chạy sang hàng Hung Nô. Đối ngoại Vào thời của Tần Thủy Hoàng, mối đe dọa của Hung Nô ở phía bắc đã xuất hiện nên đã phái tướng Mông Điềm dẫn quân tấn công để bảo vệ biên giới phía Bắc trong khi cho xây dựng Vạn lý trường thành để bảo vệ đế chế Tần. Mặc dù Mông Điềm đã thành công trong việc đẩy lùi quân Hung Nô, nhưng sau sự sụp đổ của nhà Tần, Hung Nô đã nắm lấy cơ hội này để tiến về phía nam và đột kích biên giới một lần nữa. Năm 201 TCN, Hung Nô tấn công nhà Hán, Hàn vương Tín đầu hàng. Mùa đông năm 200 TCN, Hán Cao Tổ đích thân ra quân đánh Thiền vu Hung Nô là Mặc Đốn, không nghe theo lời khuyên của Lâu Kính. Tại trận Bạch Đăng, 7 vạn quân Hán bị khoảng 300.000 kỵ binh Hung Nô bao vây. Cao Tổ bị cắt nguồn tiếp tế và cứu trợ trong 7 ngày, trong hoàn cảnh rất nguy khốn. Ông theo lời của Trần Bình sai người đến thuyết phục vợ Mặc Đốn là Yên Chi tác động, Mặc Đốn mới rút quân. Sau thất bại tại Bình Thành, Hán Cao Tổ từ bỏ giải pháp quân sự đối với mối đe dọa từ Hung Nô. Ông quyết định nhân nhượng họ bằng cách gả con gái các gia đình quý tộc và cung cấp cống phẩm hàng năm cho các tù trưởng Hung Nô để đổi lấy hòa bình giữa hai bên. Chính sách này đã kéo dài liên tục trong 70 năm. Qua đời Năm 195 TCN, Hán Cao Tổ bị thương bởi một mũi tên khi đi dẹp loạn Anh Bố. Ông bị ốm phải nằm trong cung, không muốn gặp ai, sai thị vệ canh phòng không cho ai vào. Hơn 10 ngày sau, Phàn Khoái sốt ruột không nén được bèn dẫn đầu các quan đẩy cửa cung mà vào chỗ Lưu Bang, thấy Lưu Bang đang gối trên đùi một hoạn quan ngủ. Phàn Khoái tiến lại gần, gào khóc nói: "Buổi đầu, bệ hạ cùng vi thần khởi binh ở đất Bái, bình định thiên hạ, lúc đó oai dũng biết bao! Nay thiên hạ đã định, bệ hạ lại mệt mỏi đến thế! Bệ hạ bệnh tình trầm trọng, đại thần đều lo sợ, bệ hạ không chịu tiếp kiến chúng thần bàn bạc việc nước, lại chỉ ở riêng với một hoạn quan mà bỏ người trong thiên hạ đi sao? Vả chăng, bệ hạ không thấy gương Triệu Cao làm loạn hay sao?". Lưu Bang nghe vậy đành phải ngồi dậy để gặp các đại thần. Sức khỏe của ông ngày càng xấu đi và Lã hậu cho mời những thầy thuốc giỏi nhất để cứu chữa. Khi Hán Cao Tổ hỏi về tình trạng của mình, thầy thuốc nói rằng bệnh của ông có thể được chữa khỏi. Tuy nhiên, Hán Cao Tổ không hài lòng và đã mắng thầy thuốc rằng: "Ta đây quần thô áo vải, tay 3 tấc gươm cùn mà đoạt thiên hạ, há chẳng phải ý trời hay sao? Sống chết có mạng, dù có đến Biển Thước cũng không thay đổi được!". Hán Cao Tổ từ chối thuốc men điều trị và mời thầy thuốc đi với một số vàng. Nhân lúc Lưu Bang tỉnh táo, Lã Hậu hỏi: "Sau khi bệ hạ muôn tuổi, mà thừa tướng Tiêu Hà cũng mất, thì nên cho ai làm thừa tướng?". Lưu Bang đáp: "Tào Tham làm được". Lã Hậu lại hỏi sau Tào Tham là ai. Lưu Bang lại đáp: "Vương Lăng có thể thay được. Tuy nhiên Vương Lăng tính trực mà ương, cần phải có Trần Bình giúp sức. Trần Bình trí khôn có thừa nhưng không thể gánh vác một mình. Chu Bột là kẻ thật thà, tính thận trọng, nên cùng hắn làm chức Thái úy". Lã Hậu lại hỏi về sau, Lưu Bang nói: "Sau đó thì ngươi cũng không biết được". Sau đó ông qua đời ở cung Trường Lạc vào ngày 1 tháng 6 năm 195 TCN, hưởng thọ 63 tuổi. Ông được truy tôn miếu hiệu là Thái Tổ (太祖) nhưng do Tư Mã Thiên chép trong Sử Ký là Cao Tổ Bản Kỷ nên đời sau thường gọi là Hán Cao Tổ (漢高祖), thụy hiệu là Hán Cao Hoàng Đế (孝高皇帝) nên cũng được gọi là Hán Cao Đế (漢高帝). Thái tử Lưu Doanh, con trai cả Cao Tổ với Lã hậu nối ngôi, tức Hán Huệ Đế. Tuy nhiên, Cao Tổ vốn không thích Lưu Doanh vì cho rằng Doanh quá yếu đuối. Con trai Thích phu nhân, người thiếp yêu của ông, là Như Ý được ông định lập lên thay Thái tử nhưng bất thành vì các quan trong triều vẫn trung thành với Thái tử và Lữ Hậu. Ông bèn phong Như Ý làm Triệu Vương. Sự sủng ái của Hán Cao Tổ dành cho Thích phu nhân và Như Ý khiến Lã hậu căm giận. Sau khi Huệ Đế lên nối ngôi, Lã Hậu nắm hết quyền lực trong tay, đầu độc giết Như Ý và tra tấn đến chết Thích Phu nhân. Ngoài ra, nhiều người con khác của Lưu Bang cũng lần lượt bị Lã Hậu giết. Tên và các danh hiệu Trước khi Lưu Bang lên ngôi, chức tướng đứng đầu triều được gọi là tướng bang. Kết quả khảo cổ còn cho thấy những chữ "tướng bang Lã Bất Vi" (nước Tần) khắc trên cái qua hay ấn "tướng bang Hung Nô". Từ khi ông lên làm vua, chức này được đổi gọi là tướng quốc vì kiêng tên húy của ông. Những vị tướng quốc đầu thời Hán như Tiêu Hà, Tào Tham đều là công thần khai quốc sống cùng thời với ông. Khi Lưu Bang nổi dậy để hưởng ứng theo Trần Thắng, được mọi người gọi là Bái công (沛公). Sau đó ông được Sở Hoài vương phong làm Vũ An hầu trước khi giao ước đi đánh Tần cùng Hạng Vũ nhưng danh hiệu này ít được nhắc đến. Khi diệt nhà Tần, ông cũng được Hạng Vũ phong làm Hán vương và thường được gọi bằng chức vị này cho tới khi lên ngôi hoàng đế. Sau khi mất, ông được tôn thụy hiệu là Cao hoàng đế, miếu thiệu là Thái Tổ, nên còn gọi là Hán Cao Đế, chôn cất ở Trường Lăng. Tư Mã Thiên viết sử về ông đặt là Cao Tổ bản kỷ thay vì Thái Tổ bản kỷ, các bộ sử thư sau này đều theo đó mà chép tên hiệu của ông là "Hán Cao Tổ" (dù đúng ra phải chép là Hán Thái Tổ). Nhận định Xuất thân Lưu Bang xuất thân là một nông dân bình thường, ông không phải là quý tộc như các vị vua khai sáng 4 triều đại trước đó là Hạ, Thương, Chu và Tần. Dù vậy, ông được các sử gia cổ đại thêu dệt nhiều yếu tố thần thoại để chứng minh ông là "chân mệnh thiên tử". Các sử gia hiện đại chỉ ra rằng: câu chuyện bà mẹ ông thụ thai với rồng chỉ là sự tưởng tượng và là biểu hiện của việc có mẹ mà không có cha. Chuyện khi ông đi lẩn trốn có mây lành, được cụ già xem bói tiên tri định mệnh phú quý, Tần Thủy Hoàng thấy phía đông nam có khí thiên tử là ứng vào Lưu Bang hay việc ông chém rắn thần… ngoài chính những người thân trong gia đình ông thì người ngoài đều không thể nào kiểm chứng. Mặt khác, dù không tin vào những chuyện thần thoại đó thì đương thời không ai dám công khai phủ nhận. Sau cái chết của Trần Thắng và Ngô Quảng, những người tranh hùng thiên hạ khi đó đều có địa vị xã hội cao hơn chức Đình trưởng của Lưu Bang và có sức hiệu triệu thiên hạ lớn hơn Lưu Bang. Bản thân ông chỉ có 3000 quân, khi bị Ung Xỉ phản bội thì ngay việc quay về đánh chiếm lại quê hương là đất Phong cũng không nổi, phải bôn ba đi xin quân của Tần Gia, Hạng Lương. Khi chinh phục thiên hạ Theo đánh giá của các nhà sử học, Lưu Bang hoàn toàn trái ngược với đối thủ Hạng Vũ. Trong khi Hạng Vũ thường được coi là lãng mạn và quý tộc, Lưu Bang thường bị coi là thô lỗ. Hạng Vũ luôn tỏ ra nhân đức đối với các tướng và lính tráng dưới quyền, nhưng lại là một nhà chính trị kém cỏi. Trong khi đó Lưu Bang xuất thân thấp, ít học, tự biết mình tài năng có hạn, nên ông sẵn sàng lắng nghe ý kiến của người khác, tận dụng tài năng của cấp dưới để thành sự nghiệp. Lưu Bang gặp Lịch Tự Cơ với thái độ bất lịch sự, nhưng khi hiểu ra đã nhanh chóng sửa đổi; khi ông tiến vào Hàm Dương cũng ham hưởng thụ, nhưng đã dừng lại theo lời khuyên của Trương Lương, Phàn Khoái để tránh bị Hạng Vũ mang quân đến đánh; khi ông bị Hạng Vũ phong làm Hán vương, đẩy vào đất Thục từng phẫn nộ muốn đánh trả, song biết nhẫn nhịn theo ý kiến Tiêu Hà, Chu Bột để chờ thời cơ thuận lợi; ông cũng tức giận khi Hàn Tín đòi phong Tề giả vương, nhưng khi thấy Trương Lương, Trần Bình ghé tai góp ý đã chiều lòng Hàn Tín để tận dụng binh lực của Hàn Tín diệt Sở… Những việc làm đó của Lưu Bang khác hẳn với Hạng Vũ ỷ vào tài năng, tư cách, chỉ làm theo ý mình, không lắng nghe lời góp ý. Trong nhiều hoàn cảnh khó khăn và đáng bất bình, Lưu Bang biết tự kiềm chế mình, lắng nghe ý kiến của người khác nên thu phục được nhân tâm. Lưu Bang khác Hạng Vũ ở chỗ: ông biết cai trị khoan hòa với nhân dân, biết lắng nghe những ý kiến hợp lý của người khác. Còn Hạng Vũ thì như Tư Mã Thiên nhận xét, chỉ biết "Tự khoe khoang công trạng, chỉ dùng cái trí của mình mà không chịu bắt chước người xưa, cho rằng có thể lấy võ lực dẹp yên thiên hạ" Là người xuất thân thấp kém, Lưu Bang không thể dùng những cách thức "chính danh" để lọt vào hàng ngũ đứng chung với giới quyền lực. Vì vậy khi đến nhà Lã Công (cha vợ tương lai), ông nói dối là mình có cả vạn đồng tiền dù không có tiền, kết quả là được Lã Công gả con.Nếu Lưu Bang thỏa mãn với việc trở thành vua Quan Trung như giao ước của Sở Nghĩa Đế, không tiến về phía đông nữa, có thể sau này ông sẽ bị Hạng Vũ hoặc các chư hầu vương khác thôn tính trong cuộc hỗn chiến. Trường hợp Hạng Vũ bằng lòng để Lưu Bang có Quan Trung, cục diện Trung Quốc sẽ trở lại thời Chiến Quốc, bị phân chia thành nhiều quốc gia và chiến tranh sẽ tiếp tục kéo dài. Trong khi Lưu Bang có thể đã có chủ ý làm giảm uy tín Hạng Vũ, ông đã chính xác khi nói về nguyên nhân chiến thắng trước Hạng Vũ: Vấn đề sát hại công thần Từ trường hợp vua chư hầu đầu tiên bị trừ là Yên vương Tạng Đồ tới 6 chư hầu sau (Hàn vương Tín, Lương vương Bành Việt, Triệu vương Trương Ngao, Sở vương Hàn Tín, Hoài Nam vương Anh Bố và Yên vương Lư Quán), các sử gia đều nhìn nhận phần lớn họ bị oan hoặc bị thúc ép vào tình thế buộc phải làm phản để triều đình có cớ minh bạch mang quân đi đánh. Những bằng chứng về việc họ tự ý làm phản triều đình được đưa ra đều cho thấy những vụ làm phản không rõ ràng hoặc nguyên nhân không logic. Sau khi các chư hầu bị trừ hết, chỉ còn lại Trường Sa vương Ngô Thần (con Ngô Nhuế thời Hán Sở nối chức) là vị phiên vương không phải họ Lưu, vì đất Trường Sa xa xôi, ẩm thấp, ít tài nguyên, dân cư thưa thớt chỉ có 2 vạn hộ, và bản thân Trường Sa vương Ngô Thần là người cẩn thận tuyệt đối, lại giúp Lưu Bang diệt Anh Bố. Sự hậu hĩnh phong đất trong thời kỳ đầu cho các công thần đã khiến thế lực của họ quá mạnh: 7 nước chư hầu chiếm hơn nửa giang sơn Trung Hoa, lãnh thổ do nhà Hán thực sự quản lý chỉ có 15/40 quận. Hơn nữa, Lưu Bang tuổi cao sức yếu, ông biết thái tử Lưu Doanh tài năng kém cỏi và nhu nhược không thể giữ được cơ nghiệp trước thế lực lớn mạnh của các chư hầu. Dù hiện tại họ không có ý định làm phản, nhưng không có gì đảm bảo khi thái tử Doanh non kém nối nghiệp họ sẽ tiếp tục trung thành với Hán thất. Do đó Lưu Bang và Lã Trĩ chọn giải pháp diệt trừ họ. Việc làm của vợ chồng Lưu Bang được xem là chọn lựa duy nhất trong hoàn cảnh đó Lưu Bang được nhìn nhận là một nhà chính trị kiệt xuất. Ông biết cách thu hút, tận dụng tài năng và điều khiển quần hùng. Có ý kiến khác cho rằng: Sau Lưu Bang, nhiều vị vua khai quốc khác cũng sát hại công thần; những trường hợp như Hán Quang Vũ Đế, Tống Thái Tổ không sát hại công thần rất hiếm có; hành động sát hại công thần không nên chỉ quy tội cho cá nhân một vị hoàng đế mà cần phải xem đó là chính sách gần như tất yếu của chế độ chuyên chế tập quyền phong kiến. Kể cả Hán Quang Vũ Đế, Tống Thái Tổ dù không sát hại công thần nhưng cũng phải đề ra biện pháp thu hết binh quyền của họ về tay mình, không để công thần nắm binh quyền nữa. Mặt khác, việc sát hại công thần của Lưu Bang thường bị phóng đại. Thực tế, khoảng 143 công thần mà Lưu Bang phong thưởng sau khi lập quốc, chỉ có vài người bị sát hại (là những người có binh lực mạnh và Lưu Bang không tin tưởng), còn đa số những người khác vẫn được đối xử tốt (Trần Bình, Chu Bột, Quán Anh, Trương Lương, Tiêu Hà, Tào Tham, Trương Ngao...), họ vẫn trung thành phục vụ con cháu Lưu Bang sau khi ông đã qua đời. Ghi nhận công lao Với cục diện chính trị thống nhất, ít còn nguy cơ hỗn loạn mà Lưu Bang để lại, người dân Trung Quốc cuối cùng đã có thể yên ổn an cư lạc nghiệp, đất nước cơ bản được hưởng hòa bình lâu dài gần 200 năm, không còn lâm vào cảnh chiến tranh loạn lạc, chết chóc khắp nơi kéo dài suốt hàng trăm năm trước đó. Chính trị yên ổn đã giúp nền kinh tế, văn hóa Trung Quốc thời nhà Hán phát triển mạnh, lãnh thổ và tầm ảnh hưởng cũng được mở rộng hơn hẳn so với thời nhà Tần. Người Trung Quốc hiện nay vẫn gọi mình là "người Hán", chính là để thể hiện sự ca ngợi công lao của triều đại do Lưu Bang sáng lập. Gia quyến Thân phụ: Lưu Thái công (劉太公; ? - 197 TCN), tôn làm Thái thượng hoàng (太上皇). Thân mẫu: Lưu Ẩu (劉媼), thụy phong làm Chiêu Linh hoàng hậu (昭靈皇后). Anh chị em: Đại ca: Vũ Ai vương Lưu Bá (武哀王劉伯), mất sớm. Nhị ca: Đại Khoảnh vương Lưu Hỉ (代顷王劉喜; ? - 193 TCN). Con trai là Ngô vương Lưu Tị (刘濞). Tứ đệ: Sở Nguyên vương Lưu Giao (楚元王劉交; ? - 178 TCN). Tương truyền ông là tổ tiên của Lưu Tống Vũ Đế Lưu Dụ (劉裕). Đại tỉ: Tuyên phu nhân (宣夫人). Hậu phi: Lã Trĩ (吕雉), người Bái huyện, nguyên phối của Hán Cao Tổ, sau khi mất được truy thụy Hiếu Cao hoàng hậu (孝高皇后). Bạc phu nhân (薄夫人), còn gọi Bạc cơ (薄姬), ban đầu là vợ Ngụy vương Báo, sau Hán Cao Tổ lập làm thiếp thất, cháu nhiều đời là Hán Quang Vũ Đế truy thụy Cao hoàng hậu (高皇后). Thích phu nhân (戚夫人), còn gọi Thích cơ (戚姬), người Định Đào. Là phi thiếp được Cao Tổ sủng ái nhất. Đường phu nhân (唐夫人), còn gọi Đường cơ (唐姬), nữ thi nhân thời Hán sơ, tác giả tác phẩm An thế phòng trung ca (安世房中歌). Thạch mỹ nhân (石美人), còn gọi Thạch cơ (石姬), chị của Vạn Thạch quân Thạch Phấn (石奋). Tình phụ vô phong hiệu: Triệu cơ (赵姬), thiếp của Triệu vương Trương Ngao, sau Ngao đem Triệu Cơ vào hầu Hán Cao Tổ. Do sự hành thích của Quán Cao (贯高) mà bị liên lụy, tống giam vào ngục, khi đó bà đã mang thai. Sau khi sinh con trai Lưu Trường (劉长), Triệu Cơ bi phẫn mà tự sát. Tào thị (曹氏), tình nhân của Hán Cao Tổ khi ông còn làm đình trưởng. Hoàng tử: Tề Điệu Huệ vương Lưu Phì (齐悼惠王劉肥; ? - 195 TCN), mẹ Tào thị. Hán Huệ Đế Lưu Doanh (劉盈), mẹ Lã hậu. Triệu Ẩn vương Lưu Như Ý (赵隐王劉如意; ? - 195 TCN), mẹ Thích phu nhân. Bị Lã hậu giết chết. Đại vương Lưu Hằng (劉恆), tức vua Hán Văn Đế, mẹ Bạc phu nhân. Triệu Cộng vương Lưu Khôi (赵共王劉恢; ? - 180 TCN), mẹ không rõ, ban đầu phong Lương vương (梁王), bị Lã hậu ép tự sát. Triệu U vương Lưu Hữu (赵幽王劉友; ? - 180 TCN), mẹ không rõ, bị Lã Hậu bỏ chết đói. Hoài Nam Lệ vương Lưu Trường (淮南厉王劉长; 199 TCN - 174 TCN), mẹ Triệu cơ. Yên Linh vương Lưu Kiến (燕灵王劉建; ? - 181 TCN), mẹ không rõ. Hoàng nữ: Lỗ Nguyên công chúa (魯元公主), mẹ Lã hậu, hạ giá Triệu vương Trương Ngao. Trong văn học Tây Hán chí Tiểu thuyết Tây Hán chí còn được gọi tên là Hán Sở tranh hùng, là tác phẩm khuyết danh tác giả, gồm 100 hồi kể về cuộc chiến lật đổ nhà Tần và tranh giành thiên hạ giữa Lưu Bang và Hạng Vũ. Nhân vật Lưu Bang được tác phẩm xây dựng là chính thống, có chân mệnh thiên tử, nhân từ và bản lĩnh chính trị, đối lập với Hạng Vũ tàn bạo nóng nảy. Trọng Tương vấn Hán Trọng Tương vấn Hán (仲襄問漢) là tác phẩm văn học khuyết danh tác giả, kể theo thuyết tiền căn báo hậu kiếp hay luân hồi quả báo từ thời Hán Sở tranh hùng cho đến thời Tam Quốc. Tác giả xây dựng nội dung để hàng loạt nhân vật thời Hán Sở tái sinh, trong đó Lưu Bang bị đầu thai làm Hán Hiến Đế, còn danh tướng Hàn Tín nhiều chiến công bị Lưu Bang giết oan thì đầu thai làm Tào Tháo tung hoành thiên hạ và chèn ép vua Hiến Đế.
Xuồng là một loại thuyền nhỏ và hẹp, thường được chèo bằng sức người, đôi khi được lắp thêm động cơ (lúc đó gọi là xuồng máy hoặc ca nô).
Cheo cheo (tiếng Anh: Chevrotain) là các loài động vật có vú móng guốc chẵn nhỏ tạo nên Họ Cheo cheo (tên khoa học Tragulidae), và là các thành viên duy nhất còn sinh tồn của thứ bộ Tragulina. Mười loài còn sinh tồn được đặt trong ba chi, nhưng một số loài chỉ được biết đến qua hóa thạch. Các loài còn tồn tại được tìm thấy trong các khu rừng ở Nam Á và Đông Nam Á, với chỉ một loài duy nhất trong các khu rừng mưa nhiệt đới ở Trung Phi và Tây Phi. Chúng sống đơn độc hoặc sống theo cặp, và hầu như chỉ ăn thực vật. Cheo cheo là động vật có vú có móng guốc nhỏ nhất trên thế giới. Các loài cheo cheo châu Á nặng từ 0,7 đến 8,0 kg, trong khi cheo cheo châu Phi lớn đáng kể hơn ở 7 đến 16 kg. Sự sinh tồn của các loài cheo cheo phụ thuộc vào việc duy trì môi trường sinh sống ngày càng bị thu hẹp của chúng, cũng như vào việc ngăn cấm săn bắn và tiêu thụ thịt của chúng. Vào tháng 11 năm 2019, các nhà khoa học bảo tồn tuyên bố rằng họ đã chụp được ảnh của những con cheo cheo lưng bạc (Tragulus versicolor) trong một khu rừng ở Việt Nam lần đầu tiên, kể từ lần nhìn thấy cuối cùng được xác nhận vào năm 1990. Sinh học Họ này từng phổ biến và thành công từ thế Oligocen (khoảng 34 triệu năm trước) tới thế Miocen (khoảng 5 triệu năm trước), nhưng đã gần như không thay đổi theo thời gian và là một ví dụ về dạng động vật nhai lại nguyên thủy. Cheo cheo có dạ dày bốn ngăn để lên men các thức ăn từ thực vật khó tiêu hóa, nhưng dạ lá sách (túi thứ ba) kém phát triển. Giống như các động vật nhai lại khác, chúng không có các răng cửa trên và chỉ đẻ một con chứ không đẻ con thành bầy như lợn. Công thức bộ răng của cheo cheo là như của một số loài hươu nai nhỏ. Tuy nhiên, ở các khía cạnh khác thì cheo cheo có các đặc trưng nguyên thủy, gần với động vật không nhai lại trong bộ guốc chẵn là các loài lợn. Chúng không có sừng hay gạc, mà cả hai giới đều có các răng nanh trên và to. Các răng nanh của con đực dễ thấy và sắc nhọn, chĩa thẳng về cả hai bên của hàm dưới. Cheo cheo có các chân ngắn, mảnh dẻ làm cho chúng thiếu sự nhanh nhẹn nhưng hỗ trợ để duy trì một cơ thể nhỏ giúp chúng chạy tốt trong các tán lá rậm rạp tại môi trường sống của chúng. Các đặc trưng giống như lợn khác còn bao gồm sự hiện diện của 4 ngón trên mỗi chân, không có các tuyến xạ tại mặt, các răng tiền hàm với chỏm sắc cũng như hình thức trong hành vi tình dục và giao phối của chúng. Thành viên lớn nhất của họ này là cheo cheo nước ở châu Phi, dài khoảng 80 cm và cân nặng khoảng 10 kg. Nó cũng được coi là giống như lợn nhất và nguyên thủy nhất trong số các loài cheo cheo. Các loài còn lại đều ưa thích các môi trường rừng núi đá. Cheo cheo Nam Dương ở Đông Nam Á là nhỏ nhất trong số các loài móng guốc, với con thuần thục chỉ dài khoảng 45 cm (18 inch) và cân nặng 2 kg (4,4 pao). Phân loại Theo truyền thống, chỉ 4 loài còn sinh tồn được công nhận thuộc họ Tragulidae. Năm 2004, T. nigricans và T. versicolor được tách ra khỏi T. napu, còn T. kanchil và T. williamsoni cũng tách khỏi T. javanicus. Năm 2005, M. indica và M. kathygre được tách khỏi M. meminna. Với các thay đổi này thì hiện nay họ này được công nhận là chứa 10 loài còn sinh tồn: Phân bộ Ruminantia Cận bộ Tragulina Họ Tragulidae Chi Hyemoschus Cheo cheo nước, Hyemoschus aquaticus Chi Moschiola Cheo cheo đốm Ấn Độ, Moschiola indica Cheo cheo đốm Sri Lanka, Moschiola meminna Cheo cheo vằn vàng, Moschiola kathygre Chi Tragulus Cheo cheo Java, Tragulus javanicus Cheo cheo Napu hay cheo cheo lớn, Tragulus napu Cheo cheo Nam Dương hay cheo cheo Kanchil, Tragulus kanchil Hươu chuột Philippines, Tragulus nigricans Cheo cheo Việt Nam, Tragulus versicolor Cheo cheo Williamson, Tragulus williamsoni Họ Moschidae: Hươu xạ Họ Cervidae: Hươu, nai thực thụ Họ Giraffidae: Hươu cao cổ và hươu đùi vằn Họ Antilocapridae: Linh dương sừng nhánh Họ Bovidae: Trâu, bò, dê, cừu và linh dương Cheo cheo cổ đại Có 6 chi cheo cheo đã tuyệt chủng gồm: Chi Dorcatherium Dorcatherium minus ở Pakistan Dorcatherium majus ở Pakistan Dorcatherium nani Kaup ở Trung Âu Chi Dorcabune Dorcabune anthracotherioides ở Pakistan Dorcabune nagrii ở Pakistan Chi Afrotragulus Sánchez, Quiralte, Morales and Pickford, 2010 Afrotragulus moruorotensis (trước đây thuộc "Dorcatherium", Pickford, 2001) (đầu Miocene) ở Moruorot, Kenya Afrotragulus parvus (trước đây thuộc "D.", Withworth 1958) (đầu Miocene) ở Đảo Rusinga, Kenya Chi Siamotragulus Siamotragulus sanyathanai Thomas, Ginsburg, Hintong và Suteethorn, 1990 (giữa Miocene) ở Lampang, Thái Lan Siamotragulus haripounchai Mein and Ginsburg, 1997 (Miocene) ở Lamphun, Thái Lan Chi Yunnanotherium Chi Archaeotragulus Archaeotragulus krabiensis Metais, Chaimanee, Jaeger and Ducrocq, 2001 (cuối Eocene) ở Krabi, Thái Lan và có thể bao gồm Chi Krabitherium Krabitherium waileki Metais, Chaimanee, Jaeger and Ducrocq, 2007 (cuối Eocene) ở Krabi, Thái Lan Họ Hypertragulidae có quan hệ họ hàng rất gần với họ Tragulidae. Phân loại Cheo cheo có tên gọi trong tiếng Anh là chevrotain, nguồn gốc từ tiếng Pháp, nghĩa là "con dê nhỏ" hay mouse deer- tức hươu chuột, không nên nhầm với deer mouse tức chuột hươu, Peromyscus. Trong tiếng Telegu nó được gọi là jarini pandi, có nghĩa là con vật vừa là hươu vừa là chuột. Loại ô tô Kancil do hãng xe Perodua, Malaysia sản xuất từ năm 1993 lấy theo tên gọi loài động vật này trong tiếng Mã Lai, do nó là loại xe ô tô rất nhỏ.
1000000 (một triệu, một vạn) là số nhỏ nhất có 7 chữ số ngay sau 999999 và ngay trước 1000001. Căn bậc 2 của 1000000 là 1000 Căn bậc 3 của 1000000 là 100
10000000 (mười triệu) là một số tự nhiên ngay sau 9999999 và ngay trước 10000001.
Massachusetts, tên chính thức: Thịnh vượng chung Massachusetts, là tiểu bang đông dân nhất của khu vực New England thuộc vùng Đông Bắc Hoa Kỳ. Phía đông Massachusetts giáp với Đại Tây Dương, phía nam giáp với các tiểu bang Connecticut và Rhode Island, phía bác giáp với New Hampshire và Vermont, và phía tây giáp với tiểu bang New York. Thủ phủ của Massachusetts và thành phố lớn nhất của New England là Boston. Hơn 80% dân số của bang Massachusetts sống ở vùng đô thị Boston, khu vực có nhiều ảnh hưởng đến lịch sử và kinh tế Hoa Kỳ. Cảng Hàng không Quốc tế Boston-Logan là cảng hàng không tấp nập nhất của khu vực New England. Từ một vùng đất mậu dịch và nông nghiệp-thủy sản, trong cuộc Cách mạng Công nghiệp, tiểu bang Massachusetts đã trở thành một trung tâm sản xuất. Trong thế kỉ thứ 20, nền kinh tế của Massachusetts chuyển từ sản xuất sang dịch vụ. Hiện nay, Massachusetts là khu vực tiên phong trên thế giới trong các lĩnh vực như công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, tài chính, giáo dục bậc cao và giao thương hàng hải. Toàn bộ vùng Thịnh vượng chung Massachusetts đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử thương mại và văn hóa Hoa Kỳ. Plymouth là địa điểm thuộc địa đầu tiên của New England, thành lập năm 1620 bởi những người hành hương, hành khách của tàu Mayflower. Viện Đại học Harvard ở Cambridge là cơ sở giáo dục bậc cao lâu đời nhất của Hoa Kỳ. có tổng số tiền hiến tặng lớn hơn bất kì cơ sở học thuật nào trên thế giới, và có Trường Luật đào tạo ra đa số các Thẩm phán đương đại của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ. Năm 1692, thị trấn Salem và các khu vực phụ cận đã trải qua một trong những trường hợp rối loạn phân ly tập thể nổi tiếng nhất của Hoa Kỳ: các phiên tòa phù thủy Salem. Vào thế kỉ thứ 18, Đại Tỉnh thức của tông phái Kháng Cách càn quét thế giới Atlantic khởi đầu từ thuyết giáo của nhà thuyết giáo vùng Northampton Jonathan Edwards. Vào cuối thế kỉ thứ 18, Boston được biết đến như "Cái nôi của Tự do" vì những xung động góp phần dẫn tới Cách mạng Mỹ. Năm 1777, Đại tướng Henry Knox thành lập kho vũ khí Springfield, nơi đã kiến thiết nhiều tiến bộ kĩ thuật quan trọng trong Cách mạng Công nghiệp, bao gồm các bộ phận hoán đổi. Năm 1786, cuộc nổi dậy của Shay, cuộc nổi dậy theo phái dân kiểm của các cựu chiến binh không bị ảnh hưởng bởi Cách mạng Mỹ, đã gây ảnh hưởng đến Hội nghị Hiến pháp Hoa Kỳ. Trước Nội chiến Hoa Kỳ, Massachusetts là trung tâm của các phong trào chủ nghĩa bãi nô, phong trào vận động hạn chế rựơu mạnh, và phong trào thuyết tiên nghiệm.Vào thế kỉ thứ 19, các môn thể thao bóng rổ và bóng chuyền đã được phát minh lần lượt tại các thành phố phía tây Massachusetts Springfield và Holyoke. Năm 2004, bang Massachusetts đã trở thành tiểu bang Hoa Kỳ đầu tiên công nhận sự hợp pháp của hôn nhân đồng giới do kết quả của phiên tòa Tòa án Tối cao của bang. Nhiều gia tộc chính trị nổi bật của Hoa Kỳ như gia tộc Adams hay gia tộc Kennedy đều khởi nguồn từ tiểu bang Massachusetts, các đời tổng thống Hoa Kỳ là John Adams (tổng thống thứ 2, 1735–1826), John Quincy Adams (tổng thống thứ 6, 1767–1848), John F. Kennedy (tổng thống thứ 35, 1917–1963) và George H. W. Bush (tổng thống thứ 41, 1924–2018) đều sinh ra tại đây.
Võ Văn Kiệt (23 tháng 11 năm 1922 – 11 tháng 6 năm 2008) tên thật Phan Văn Hòa, bí danh Sáu Dân, Chín Dũng, là nhà chính trị Việt Nam. Ông làm Thủ tướng Chính phủ thứ tư (trước kia là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng) của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ ngày 8 tháng 8 năm 1991 đến ngày 25 tháng 9 năm 1997. Ông được nhiều báo chí đánh giá là người đã đẩy mạnh công cuộc Đổi Mới và cải cách chính sách ở Việt Nam kể từ năm 1986, là "tổng công trình sư" nhiều dự án táo bạo của thời kỳ Đổi Mới. Tiểu sử và hoạt động Võ Văn Kiệt tên thật là Phan Văn Hòa sinh năm 1922 tại ấp Bình Phụng, xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long, Việt Nam. Tham gia cách mạng từ năm 16 tuổi trong phong trào Thanh niên phản đế (1938), ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 11 năm 1939. Trong thời gian Khởi nghĩa Nam Kỳ ông là Huyện ủy viên, Bí thư chi bộ tại huyện Vũng Liêm. Sau Cách mạng Tháng Tám, khi quân đội Pháp tái chiếm Nam Kỳ, Võ Văn Kiệt là Ủy viên chính trị dân quân cách mạng liên tỉnh Tây Nam Bộ. Từ năm 1946 đến năm 1954, ông là Tỉnh ủy viên, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Rạch Giá, sau đó là Phó Bí thư rồi Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu. Sự nghiệp chính trị Võ Văn Kiệt là thành viên của phong trào độc lập Việt Minh, ông đã chiến đấu chống lại thực dân Pháp trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946–54) ở miền Nam Việt Nam. Theo Hiệp định Genève, các cán bộ cộng sản buộc phải tập trung tại miền Bắc Việt Nam, nhưng ông nằm trong số những người ở lại miền Nam, di chuyển giữa các căn cứ bí mật ở miền Đông Nam Bộ. Người vợ đầu tiên của ông, Trần Kim Anh, và hai người con của ông đã thiệt mạng trong một cuộc tấn công bằng tên lửa của lực lượng Hoa Kỳ vào năm 1966. Sau Hiệp định Genève, năm 1955, Võ Văn Kiệt được bầu làm Ủy viên Xứ ủy Nam Bộ và Phó Bí thư liên Tỉnh ủy Hậu Giang. Từ năm 1959 đến cuối năm 1970, ông được giao trọng trách là Bí thư Khu ủy T.4, tức khu Sài Gòn - Gia Định. Ông bắt đầu được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương trong Ban Chấp hành Trung ương của Đảng Lao động Việt Nam từ Đại hội III (năm 1960) và là Ủy viên Trung ương Cục miền Nam năm 1961, chỉ huy các lực lượng cộng sản tại Sài Gòn và các vùng lân cận. Từ năm 1973 đến năm 1975 ông được điều về làm Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục miền Nam. Sau khi lực lượng Cách mạng kiểm soát Sài Gòn vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông đã lãnh đạo việc tiếp quản thành phố và năm 1976 được bổ nhiệm làm Chủ tịch Ủy ban Nhân dân (bí danh là Tỉnh trưởng) đồng thời là Phó Bí thư Thành ủy, cơ quan này đã được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh để tưởng nhớ vị lãnh tụ đã khuất. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Võ Văn Kiệt được Trung ương Cục phân công giữ chức Bí thư Đảng ủy đặc biệt trong Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn. Từ năm 1976 ông làm Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Ông cũng đắc cử Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VI. Từ sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam IV (năm 1976), ông được bầu làm Ủy viên Dự khuyết Bộ Chính trị và được phân công làm Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 1982. Từ tháng 4 năm 1982 Võ Văn Kiệt được Quốc hội Việt Nam phê chuẩn giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước, Phó chủ tịch và Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng. Từ ngày 10 tháng 3 đến ngày 22 tháng 6 năm 1988, ông được giao nhiệm vụ Quyền Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng sau khi Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng qua đời đột ngột. Ngày 11 tháng 3 năm 1988, thay mặt Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo ký thông báo về giữ Quyền Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đối với ông Võ Văn Kiệt. Sau đó khi đưa ra Quốc hội bỏ phiếu bầu chức danh Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ông Đỗ Mười trúng cử, do đó ông vẫn làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Từ năm 1987 đến năm 1991, ông làm Phó Thủ tướng kiêm Trưởng Ban Chỉ đạo Hướng dân sinh đẻ có kế hoạch, sau người tiền nhiệm là Phó Thủ tướng Võ Nguyên Giáp. Thủ tướng Chính phủ (1991 - 1997) Nhiệm kỳ một (1991 - 1992) Tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá VIII, ngày 8 tháng 8 năm 1991, Võ Văn Kiệt được Quốc hội bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (thay Đỗ Mười). Từ đây, dưới thời ông đã có nhiều quyết sách quan trọng về kinh tế của đất nước trong thời kỳ Đổi Mới. Ở vào thời điểm năm 1986, chủ trương đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thổi những luồng gió mới. Tuy nhiên, khu vực miền Nam và Thành phố Hồ Chí Minh - nơi có sự tiếp cận với công nghiệp sớm vẫn không thể tạo ra đột phá mạnh mẽ do điện thiếu trầm trọng bởi nguồn tại chỗ rất hạn hẹn, cắt điện luân phiên là chuyện thường ngày. Quyết định xây dựng đường dây siêu cao áp 500kV Bắc - Nam nhằm truyền tải điện từ Bắc vào Nam, giúp miền Nam bớt cơn khát điện đã được Võ Văn Kiệt chính thức đặt ra với các lãnh đạo của Bộ Năng lượng trong một bữa cơm Tết năm 1991. Câu trả lời "Làm được" của Bộ trưởng Bộ Năng lượng Vũ Ngọc Hải một tuần sau đó cũng là khởi đầu cho hàng núi công việc cần triển khai. Công trình được Bộ Chính trị thông qua vào tháng 1 năm 1992. Đến ngày 25 tháng 2 năm 1992, Chính phủ phê duyệt Luận chứng kinh tế - kỹ thuật với quyết định thời gian hoàn thành là 2 năm và do thời gian khẩn cấp nên cho phép thực hiện theo phương thức khảo sát, thiết kế, nhập vật tư - thiết bị và thi công thực hiện song song. Mục tiêu hoàn thành xây dựng đường dây 500kV Bắc - Nam có chiều dài tới 1.500 km trong 2 năm cũng đã được nhiều người cho là không khả thi và nhất là giải quyết bài toán 1/4 bước sóng (sóng điện từ có hình sin và mỗi bước sóng điện từ tương ứng 6.000 km. Độ dài của đường dây 500kV mạch 1 được tính toán là khoảng 1.500 km, đúng bằng 1/4 bước sóng, tức là đúng ngay đỉnh của hình sin. Nghĩa là nếu điện từ ở Hoà Bình đang ở mức cực tiểu thì khi vào đến TP.HCM sẽ vọt lên cực đại và ngược lại, nếu ở Hoà Bình cực đại thì vào TP.HCM có thể bằng không. Điều này dẫn đến tình trạng điện áp không ổn định, và khi ấy không còn là 500kV mà có thể vọt lên đến 700 hoặc 1.000kV, gây cháy toàn bộ thiết bị.) Con người không chịu bó tay trước những thách thức ấy. Cùng với các chuyên gia nước ngoài, các tính toán kỹ thuật như chia đường dây thành 4 đoạn, đặt các tụ bù dọc, kháng bù ngang với chi phí không hề rẻ, để điều chỉnh kịp thời, triệt tiêu tác động của câu chuyện 1/4 bước sóng đã được các chuyên gia, cán bộ kỹ thuật của ngành Điện tính toán và thực hiện. Vào ngày 5 tháng 4 năm 1992, tại các vị trí móng số 54, 852, 2702, Võ Văn Kiệt đã phát lệnh khởi công xây dựng công trình. Theo sự phân công của Chính phủ, ông Kiệt làm Tổng chỉ huy công trình đường dây 500kV Bắc - Nam. Nhiệm kỳ hai (1992 - 1997) Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá IX, ngày 23 tháng 9 năm 1992, ông tái cử Thủ tướng Chính phủ, Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh nhiệm kỳ hai. Sau hơn 2 năm xây dựng Đường dây 500kV Bắc – Nam mạch 1, đúng 19 giờ 7 phút 59 giây ngày 27 tháng 5 năm 1994, ông Võ Văn Kiệt ra lệnh hòa hệ thống điện miền Nam với 4 tổ máy của Nhà máy Thủy điện Hòa Bình tại Đà Nẵng. Sau sự kiện này, ông được nhiều người gọi là "Thủ tướng điện", một tổng tư lệnh ngành, một nhà lãnh đạo đặt nền móng và có những đóng góp to lớn cho một lưới điện thống nhất cả nước, đáp ứng nhu cầu phát triển và hội nhập kinh tế như ngày nay. Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1997-2001) Từ tháng 12 năm 1997 đến tháng 4 năm 2001, tuy không còn giữ các chức danh trong Chính phủ nhưng ông cũng đã cùng Đỗ Mười và Lê Đức Anh được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu vào vị trí Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nơi ông ở lại cho đến khi sứ mệnh của vị trí này khép lại vào năm 2001. Một trong những thư ký của ông trong thời gian này là Vũ Đức Đam, sau này là Phó Thủ tướng Chính phủ (từ 2013). Nghỉ hưu Sau khi từ nhiệm và rời khỏi cương vị Thủ tướng Chính phủ, ông quyết định về Thành phố Hồ Chí Minh để sinh sống. Quan điểm Từ đây đến sau khi qua đời thì trước mỗi sự kiện nóng bỏng, quan trọng mang tầm quốc gia hoặc ảnh hưởng lớn đến quyền lợi nhân dân, Võ Văn Kiệt lại lên tiếng với tư cách một người công dân. Ông là cựu lãnh đạo Việt Nam đầu tiên công khai đặt vấn đề hòa hợp, hòa giải dân tộc. Võ Văn Kiệt cũng đã có ý kiến chính thức với lãnh đạo đất nước là nên đối thoại với những người bất đồng chính kiến, ông nói: "Chính kiến khác nhau, ý kiến khác nhau là bình thường, và điều quan trọng là cần phải có đối thoại, nói chuyện với nhau một cách sòng phẳng". Và về việc bầu cử đại biểu Quốc hội, ông cũng có nhận định: "Một Quốc hội có người tự ứng cử và được dân bầu lên một cách tự do sẽ tốt hơn quốc hội bây giờ". Trong những năm cuối đời, ông phát biểu ý kiến, kiến nghị với các cơ quan đảng và nhà nước nhiều hơn. Từ những vấn đề trọng đại như ý kiến đóng góp với Đại hội X, hoà hợp dân tộc, đến những kiến nghị, góp ý, phát biểu về những sự việc cụ thể như: quy hoạch về thành phố dọc sông Hồng, việc xây nhà Quốc hội,... nhỏ|Phù điêu thủ tướng và các em học sinh nhỏ|Bàn thờ thủ tướng tại khu tưởng niệm thủ tướng, Vũng Liêm Năm 2005, Võ Văn Kiệt phát biểu rằng chiến thắng 30/4 là thắng lợi của cả dân tộc, tuy nhiên có những người thuộc chế độ cũ vẫn không nguôi thù hận, ông cho rằng những người này cần gác lại thù hận để cùng chính phủ hiện nay xây dựng đất nước. Ông nói:"Chiến thắng của chúng ta là vĩ đại, nhưng chúng ta cũng đã phải trả giá cho chiến thắng đó bằng cả nỗi đau và nhiều sự mất mát. Lịch sử đã đặt nhiều gia đình người dân miền Nam rơi vào hoàn cảnh có người thân vừa ở phía bên này, vừa ở phía bên kia, ngay cả họ hàng tôi cũng như vậy. Vì thế, một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu. Sau 30/4, khi đồng chí Lê Duẩn vào Sài Gòn, vừa xuống thang máy bay, đồng chí nắm tay đưa lên cao, giọng đầy cảm xúc, nói: "Đây là thắng lợi của cả dân tộc, không phải của riêng ai". Sau 30 năm, tôi thấy không phải dễ dàng làm cho mọi người Việt Nam cảm nhận được điều đó". Ngày 30/4/2007, trả lời phỏng vấn BBC, ông phát biểu "Hơn 30 năm rồi, năm nay nữa là 32 năm, không có lý do gì giữa chúng ta với nhau không hòa giải được... Tôi đã đặt vấn đề này và cũng viết trong một số bài rằng có một cách nhìn méo mó từ phía một số người cộng sản rằng yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội là đúng, còn những người yêu nước khác mà không yêu chủ nghĩa xã hội thì không yêu nước đủ như mình. Có hàng trăm con đường yêu nước khác nhau. Tổ quốc Việt Nam không của riêng một đảng, một phe phái, tôn giáo nào... chính kiến khác nhau, ý kiến khác nhau là bình thường, và điều quan trọng là cần phải có đối thoại, nói chuyện với nhau một cách sòng phẳng... chính phủ không nên áp dụng biện pháp hành chính đi đầu với họ, trừ phi là con người hoặc sự việc đó có nguy hại đối với đất nước, nhưng không được quy chụp người ta". Võ Văn Kiệt cho rằng đã tới lúc bỏ lại phía sau những chia rẽ mà theo ông phần nhiều do nước ngoài can thiệp gây ra. Mặt khác, Võ Văn Kiệt cũng đề nghị Nhà nước cảnh giác với những mưu đồ lợi dụng dân chủ và nhân quyền để lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong thư gửi Bộ Chính trị năm 1995, ông cho rằng: "Ngày nay, Mỹ và các thế lực phản động khác không thể giương ngọn cờ chống cộng để tranh thủ dư luận và tập hợp lực lượng chống lại nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam như trước được nữa. Vì ngọn cờ này đã hết phép mê hoặc, chúng phải chuyển sang ngọn cờ dân chủ và nhân quyền. Song ngay cả ý đồ muốn thủ tiêu nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam của các thế lực đế quốc và phản động cũng phải được đánh giá dưới ánh sáng của cục diện quốc tế mới... Điều hiển nhiên là trên thế giới tiếng nói ủng hộ hay đồng tình với yêu cầu ổn định chính trị của Việt Nam ngày càng mạnh, sự chấp nhận trên thế giới đối với chế độ chính trị một đảng của Việt Nam cũng đang tăng lên – mặc dầu lúc này lúc khác vấn đề dân chủ và nhân quyền được sử dụng như một phương tiện chính trị đối phó với chúng ta." Về đường lối xây dựng đất nước và quan hệ ngoại giao, ông cho rằng:"quốc gia nào khắc phục được những mâu thuẫn nội tại để cùng tìm thấy niềm tự hào chung, lợi ích chung thì có thể tạo ra sức mạnh nội lực và do đó càng có uy tín quốc tế. Kể cả những nước nhỏ, nếu có những yếu tố đó thì cũng vẫn tạo ra thế mạnh. Ngược lại, nơi nào mà dân tộc chia rẽ, đối địch với nhau, thì dù có tài nguyên quốc gia phong phú, có dân số đông đúc, vẫn không tạo ra sức mạnh, vị thế quốc tế, do đó cũng không thể vững vàng... Những kinh nghiệm quốc tế vừa qua càng chỉ rõ thêm rằng, nếu chỉ dùng đối đầu và bạo lực để giải quyết những thù hận thì chỉ đẻ ra thù hận. Nếu dùng cách cảm hóa để giải quyết thù hận thì có thể triệt tiêu được thù hận và tạo ra sức mạnh càng ngày càng dồi dào hơn. Nếu cứ còn chia rẽ do hận vì bại, kiêu vì thắng, thì có ích gì cho bản thân, cho đất nước, cho hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế? Nhìn ra thế giới, càng nghiệm thấy rằng tài nguyên lớn nhất cho mọi quốc gia chính là tài nguyên con người. Nếu quy tụ được sức người, thì nhiều nguồn lực khác cũng có thể được quy tụ. Con người mà không quy tụ, thì mọi nguồn lực khác cũng rơi rụng... Muốn thế, cần ngồi lại với nhau. Bằng thiện chí, bằng tấm lòng chân thật, hãy cùng nhau xem lại một cách sòng phẳng những chỗ hay, chỗ dở, chỗ nào đã khắc phục được rồi, chỗ nào còn phải hoàn thiện tiếp... " Võ Văn Kiệt đã lên tiếng trên công luận bày tỏ quan điểm lo ngại về các dự án như: nhà máy lọc dầu Dung Quất, thành phố bên sông Hồng, việc xây dựng tòa nhà quốc hội mới và lần gần nhất là về vấn đề mở rộng địa giới Hà Nội (giữa tháng 5/2008 ông có ra Hà Nội để vận động dừng việc mở rộng thủ đô nhưng ông ốm và mất vài tuần sau đó). Ông viết: "Thủ đô của cả nước, của cả dân tộc và cả của lịch sử. Không nên và không được phép đưa thủ đô làm nơi thí nghiệm cho bất cứ mục đích gì." Bên cạnh đó, ông còn bày tỏ rõ quan điểm ủng hộ tự do báo chí đối với các tổ chức chính trị và chính quyền, thể hiện rõ ở việc ông can thiệp vào sự kiện Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh thay thế các vị trí quản lý ở báo Tuổi Trẻ nhằm cài cắm người để quản lý. Qua đời và lễ tang Lúc 8 giờ 40 phút ngày 11 tháng 6 năm 2008 (giờ Singapore, tức 7 giờ 40 phút cùng ngày giờ Hà Nội), Võ Văn Kiệt được xác nhận là đã qua đời khi đang điều trị tại Bệnh viện Mount Elizabeth, Singapore. Theo hãng tin Reuters thì lý do là tuổi cao và viêm phổi cấp tính, còn theo AP thì nguyên do là tai biến mạch máu não. Sau khi các hãng tin quốc tế đã đưa tin và nhiều lãnh tụ nước ngoài đã gửi lời chia buồn, báo chí Việt Nam chính thức thông báo Võ Văn Kiệt mất vào tối ngày hôm sau. Văn phòng Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã thông báo 2 ngày quốc tang. Lễ viếng được tổ chức vào ngày 14 tháng 6 tại Hà Nội, Hội trường Thống Nhất (nơi đặt linh cữu của ông) và trụ sở Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (quê hương ông), có trưởng ban lễ tang nhà nước là Nông Đức Mạnh, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam. Lễ truy điệu tổ chức vào ngày 15 tháng 6, sau đó đến trưa cùng ngày, linh cữu của Võ Văn Kiệt được đưa đi an táng tại nghĩa trang Thành phố Hồ Chí Minh. Lễ truy điệu và an táng được tường thuật trực tiếp trên VTV1, VTV9 và VOV1. Kênh tiếp sóng lễ truy điệu và an táng là HTV9. Gia đình Võ Văn Kiệt có hai đời vợ. Người vợ đầu của ông, bà Trần Kim Anh, con thứ sáu của một điền chủ, lấy nhau lúc bà 17, ông Kiệt 27 tuổi. Bà có với ông 4 người con: Phan Chí Dũng (sinh năm 1951), Phan Hiếu Dân (sinh năm 1955), Phan Thị Ánh Hồng (sinh năm 1958) và Phan Chí Tâm (sinh năm 1966). Năm 1966, bà cùng hai con nhỏ, một trai một gái, đã thiệt mạng khi quân đội Hoa Kỳ bắn chìm tàu Thuận Phong trong một cuộc càn quét qua chiến khu Củ Chi. Võ Văn Kiệt đã muốn khi chết, tro của mình được rải xuống khúc sông mà hai người con và người vợ của mình đã mãi nằm lại đó. Sau này, tro cốt tượng trưng của ông được đốt từ di ảnh và những di vật quen thuộc của ông được rải xuống đoạn sông Sài Gòn chảy qua huyện Củ Chi, nơi vợ con ông bị giết hại. Phan Chí Dũng, người con cả của ông, hy sinh ngày 29 tháng 4 năm 1972 tại Sóc Trăng trong một lần đi trinh sát. Người vợ thứ hai của ông (lấy nhau năm 1984) là Giáo sư, Tiến sĩ Hóa học Phan Lương Cầm, giảng viên Đại học Bách khoa Hà Nội, từng được trao tặng Giải thưởng Kovalevskaia, giải thưởng cao nhất dành cho các nhà khoa học nữ Việt Nam. Theo Huy Đức viết trong cuốn sách Bên thắng cuộc, Võ Văn Kiệt có người con riêng là Phan Thanh Nam sinh ngày 25 tháng 2 năm 1952 ở miền Bắc. Mẹ Phan Thanh Nam là bà Hồ Thị Minh, chủ bút đầu tiên của tờ Phụ nữ Cứu quốc Nam Bộ, bà cũng đã từng được cử sang Pháp dự Hội nghị Femmes Francaises. Ông Võ Văn Kiệt gặp bà Minh khi dự lớp "Hoa Nam" do trường Nguyễn Ái Quốc III mở tại xã Kim Bình, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Lớp do Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh giảng dạy. Tặng thưởng Tháng 12 năm 1997, Võ Văn Kiệt đã được trao tặng Huân chương Sao Vàng, huân chương cao quý nhất của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngoài ra ông còn được trao tặng nhiều huân, huy chương khác và huy hiệu 60 năm tuổi Đảng. Vinh danh Ngày 22/2/2009, tên của ông được đặt cho một con đường dài 23,6 km chạy từ ngã tư Bình Long cắt Quốc lộ 1 trên đường Nguyễn Hoàng qua nhà máy lọc dầu Dung Quất ra cảng Dung Quất, Quảng Ngãi. Ngày 29 tháng 4 năm 2011, Sở Giao thông Vận tải và Ủy ban nhân dân quận 1, TP Hồ Chí Minh đã tổ chức lễ đặt tên đường Võ Văn Kiệt cho Đại lộ Đông – Tây, một trong những tuyến đường hiện đại và quan trọng trong hệ thống hạ tầng giao thông của Thành phố Hồ Chí Minh. Đại lộ Võ Văn Kiệt có tổng chiều dài hơn 13,42 km, kéo dài từ đoạn giao nhau giữa đường Hàm Nghi và đường Tôn Đức Thắng, thuộc bờ Tây sông Sài Gòn, quận 1 đến cầu vượt quốc lộ 1, huyện Bình Chánh. Dự án đại lộ Đông – Tây là công trình trọng điểm của hệ thống giao thông TP Hồ Chí Minh có tổng chiều dài 21,89 km đi qua địa bàn 8 quận, huyện trên địa bàn thành phố bắt đầu từ nút giao Tân Kiên, huyện Bình Chánh đến nút giao Cát Lái, thành phố Thủ Đức, trong đó có một hầm vượt sông Sài Gòn dài 1.490 m. Dự án có tổng mức đầu tư 9.863 tỷ đồng. Tại thành phố Cần Thơ, tuyến đường đẹp nối từ trung tâm (đường Mậu Thân) đến cảng hàng không quốc tế Cần Thơ cũng mang tên Võ Văn Kiệt. Đà Nẵng có đường mang tên ông nối đường Nguyễn Văn Linh với Trường Sa. Tại Hà Nội, tên của ông được đặt tên cho đoạn đường nối từ cầu Thăng Long đến sân bay quốc tế Nội Bài, chạy trên địa bàn các huyện Đông Anh, Mê Linh, Sóc Sơn (trước đây là trục đường Bắc Thăng Long – Nội Bài). Tên của ông còn được đặt cho ngôi trường lớn ở quê nhà của ông (Vũng Liêm) là trường THPT Võ Văn Kiệt được đặt tại Trung Tín, Vũng Liêm, Vĩnh Long và các trường học ở nhiều nơi khác tại Việt Nam. Từ tháng 10/2015, tại Phan Thiết, Bình Thuận có thêm công viên Võ Văn Kiệt với diện tích 4ha để phục vụ người dân đến vui chơi, tập thể dục mỗi ngày. Đặc biệt, vào mỗi dịp tối cuối tuần, lễ tết, công viên tấp nập du khách gần xa vào đây để tham gia các hoạt động ngoài trời. Ngày 8/11/2015, UBND tỉnh Trà Vinh long trọng tổ chức lễ công bố nghị quyết của HĐND tỉnh Trà Vinh về đặt tên ông cho đoạn đường với điểm đầu từ ngã ba Sóc Ruộng và điểm cuối đến quốc lộ 53. Tại Đồng Tháp, tên ông được đặt cho đoạn đường từ thị trấn Thanh Bình (huyện Thanh Bình) đến xã Trường Xuân (huyện Tháp Mười). Đây được xem là tuyến đường đi xuyên Đồng Tháp Mười của tỉnh Đồng Tháp với chiều dài 40 km. Hình ảnh Chú thích
Nguyễn Văn Giai (chữ Hán: 阮文階, 1555 - 1628) là một Tam nguyên Hoàng giáp, từng giữ chức Tể tướng, tước Thái bảo, Quận công, công thần "khai quốc" thời Lê trung hưng, nổi tiếng chính trực và biết giữ nghiêm pháp luật triều đình, được nhà Lê xét công đánh nhà Mạc, ông đồng thời cũng là một nhà thơ Tiểu sử Ông sinh vào đêm 22 tháng 12 năm Giáp Dần, tức ngày 14 tháng 1 năm 1555, là người thôn Phù Lưu Trường, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay là xã Ích Hậu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Xuất thân trong một gia đình có tổ tiên từng nhiều đời đỗ đạt nhưng đến đời người cha Nguyễn Văn Củng, thì chỉ còn là một khóa sinh nghèo. Vốn có sức khỏe bẩm sinh, Nguyễn Văn Giai vừa làm đủ các nghề khó nhọc vừa theo học. Sự nghiệp Khi đã có vốn chữ nghĩa, cần học lên, ông tìm đường ra xứ Bắc, làm thuê để tiếp tục học ở Thăng Long. Ông học rất thông minh, nổi tiếng về thơ Nôm và về tài ứng đối. Năm 1579, nhà Lê trung hưng mở khoa thi ở Thanh Hóa, ông lại ra thi và lại đỗ Giải nguyên. Tháng 8 năm 1580, nhà Hậu Lê mở khoa thi Hội đầu tiên ở sách Vạn Lại, ông đi thi tiếp, đỗ Hội nguyên(đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân), rồi vào thi Đình đỗ luôn Đình nguyên nhị giáp Tiến sĩ. Ông là vị Tam nguyên đầu tiên của thời nhà Lê trung hưng. Ngay trong năm này, Nguyễn Văn Giai được Trịnh Tùng bổ nhiệm chức Tán ký lục trong quân đội. Ông đóng vai trò tham mưu kế sách quân sự trong trướng cho Trịnh Tùng, đóng góp công lao vào việc đánh bại nhà Mạc, chiếm kinh thành Thăng Long năm 1592. Năm sau, Nguyễn Văn Giai được thăng chức Đề hình Giám sát Ngự sử. Năm 1608, ông được thăng làm Đô ngự sử. Lúc đó nhà Lê làm chủ Bắc Bộ, bắt đầu giao hiếu với nhà Minh. Trịnh Tùng giao cho ông và Đỗ Uông tới Nam Quan để hội khám nhưng tướng nhà Minh không đến. Năm 1609, ông lại vâng mệnh lên Nam Quan hội khám cùng vua Lê. Năm đó gặp tướng nhà Minh. Sau khi tiếp kiến trở về, ông được thăng làm Tham tụng, Thượng thư bộ Lại, nắm việc cả sáu Bộ kiêm Đô ngự sử, Thiếu bảo, Lễ quận công. Năm 1623, con thứ của Trịnh Tùng là Trịnh Xuân gây biến. Vua Lê Thần Tông phải chạy vào Thanh Hóa. Nguyễn Văn Giai tham gia bày mưu giúp chúa Trịnh dẹp yên biến loạn. Sau đó ông có công cùng đi đánh Mạc Kính Khoan ở Cao Bằng, được thăng làm Thiếu úy, gia phong Dực vận tán trị công thần, rồi thăng làm Thái bảo, được xem là người có công lao đứng đầu lúc đương thời. Ông mất khi đang tại chức ngày 13 tháng 1 năm Mậu Thìn, tức 27 tháng 2 năm 1628. Triều đình truy tặng ông là Đại tư đồ, thụy là Cẩn Độ. Đóng góp Dưới quyền cai quản của Nguyễn Văn Giai, triều đình Lê trung hưng còn giữ được sự thống nhất nội bộ, mặc dầu xu hướng suy thoái đã không tránh được. Tuy không ngăn cản được Trịnh Tùng giết vua Lê Kính Tông vào năm 1619 nhưng ông ra sức nắm cương triều chính, không để xảy ra chuyện lục đục, năm bè bảy mảng. Khi có những mâu thuẫn tranh chấp giữa hai con Trịnh Tùng là Trịnh Tráng và Trịnh Xuân, Nguyễn Văn Giai đã cố sức dập tắt, cuối cùng bắt được Xuân về cho Tùng trị tội, nhờ đó các thế lực phản loạn bị dẹp yên. Để chia bớt quyền hành của chúa Trịnh, ông đã có sáng kiến lập ra Phủ Thừa tướng bên cạnh Phủ chúa, ngấm ngầm bảo vệ vua Lê. Nguyễn Văn Giai nổi tiếng là người thanh liêm, tự ông nêu gương cho các quan noi theo, ngay cả chúa Trịnh cũng kiềng nể. Gia phả còn chi lại lời ông răn bảo triều thần: Ta giữ việc triều chính cốt cho liêm chính, không nhận hối lộ của bất kỳ ai. Người có tài đức thì phải biết trọng dụng; ai có lỗi lầm phải biết lựa lời can ngăn; ai oan uổng phải biết cứu xét phân minh cẩn trọng và bênh vực; kẻ nghèo khó phải ra tay giúp đỡ. Không nên làm những điều bất chính để tích trữ vàng ngọc làm giàu; phải biết tu nhân tích đức cho đời sau con cháu vậy. Nhưng ông cũng là người mang tư tưởng chính thống cứng nhắc, đem tài sức mình dựng lại một thế lực thực tế đã mất vai trò lịch sử. Bài thơ Tự trào Ông còn là một nhà thơ Nôm nổi danh, có cái cười trào tiếu và triết lý thâm thúy về mọi sự ở đời, tuy số lượng thơ để lại không nhiều. Ba vua, bốn chúa, bảy thằng con,Trên chửa lung lay, dưới chửa mòn. Công nghiệp chưa thành sinh cũng uổngQuan tài sẵn đó chết thì chôn. Giang hồ, lang miếu, trời đôi ngả,Bị gậy, cân đai, đất một hòn. Cũng muốn sống thêm dăm tuổi nữa,Sợ ông Bành Tổ tống đồng môn Nhà nghiên cứu Ngô Vui cho rằng đây không phải là thơ Tự trào của Nguyễn Văn Giai mà là bài thơ ông viết về chúa Trịnh Tùng và người anh Trịnh Cối. Theo quan điểm này, bài thơ ra đời năm 1623 là năm Trịnh Tùng mất, nếu điểm lại trong đời Nguyễn Văn Giai sống qua thì có 3 vua Lê Thế Tông, Lê Kính Tông và Lê Thần Tông và chỉ 2 đời chúa là Trịnh Tùng và Trịnh Tráng, không thể là "bốn chúa" như trong câu đầu. Nếu đặt vào địa vị Trịnh Tùng, thì có thể hiểu 3 vua là Lê Thế Tông, Lê Kính Tông và Lê Thần Tông, còn "bốn chúa" là 4 vua nhà Mạc, mà trong con mắt Trịnh Tùng không xem là "vua", gồm Mạc Mậu Hợp, Mạc Toàn, Mạc Kính Chỉ, Mạc Kính Cung. Cả bốn vị vua Lê và 4 "chúa" họ Mạc đều nhỏ tuổi so với Trịnh Tùng (người lớn tuổi nhất là Mậu Hợp cũng kém ông hơn 10 tuổi), bị Trịnh Tùng xem thường như hàng con nít, nên gọi chung họ là "7 thằng con". Câu 2 "Trên chửa lung lay, dưới chửa mòn" ám chỉ cơ cấu thể chế lưỡng đầu mà Trịnh Tùng khởi đầu cho họ Trịnh: họ Trịnh và họ Lê dựa vào nhau cầm quyền, cùng mạnh cùng yếu. Câu 3 và 4 nói về Trịnh Cối tự bỏ hỏng cơ nghiệp, bị dồn vào "đất chết" buộc phải hàng kẻ thù là nhà Mạc. Câu 5 và 6 nói về thân phận trái ngược của 2 anh em, 2 người hai con đường, Trịnh Cối phải đi ở nhờ kẻ thù như kẻ “bị gậy” và cuối cùng chết ở đất nhà Mạc. Hai câu cuối nói về vị chúa vừa qua đời Trịnh Tùng. Hình ảnh công cộng Hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh có một con đường mang tên đường Nguyễn Văn Giai nối đường Đinh Tiên Hoàng với đường Mai Thị Lựu.
Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại cũng được biết đến như là hiệp định TBT là một hiệp ước quốc tế của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, nó đã được đàm phán ở Uruguay đa số đã đồng ý về thuế quan và thương mại bắt đầu áp dụng từ năm 1995.
Một tham số là một đối số của một hàm toán học. Các loại tham số Toán học Trong toán học, sự khác nhau giữa một "tham số" (parameter) và một "đối số" (argument) của một hàm là: tham số là các ký hiệu thuộc phần định nghĩa của hàm, trong khi các đối số là các ký hiệu được cung cấp cho hàm khi nó được dùng. Khoa học Khi các thuật ngữ "tham số hình thức" và "tham số thực" được sử dụng, chúng tương ứng với các định nghĩa dùng trong khoa học máy tính. Trong định nghĩa của một hàm, ví dụ: f(x) = x + 2, x là một tham số hình thức. Khi hàm được dùng, ví dụ: y = f(3) + 5, Giá trị 3 là tham số thực. Xem thêm trong lập trình hàm và các nguyên lý nền tảng, tích phân lambda và combinatory logic. Logic Trong logic, các tham số truyền cho (hay tác động lên) một "vị từ mở" (tiếng Anh: open predicate) được gọi là "tham số" bởi một số tác giả (ví dụ, Prawitz, "Suy diễn tự nhiên"; Paulson, "Thiết kế bộ chứng minh định lý"). Các tham số được định nghĩa bên trong một vị từ gọi là "biến". Kĩ thuật Trong kĩ thuật (đặc biệt trong thu thập dữ liệu) thuật ngữ "tham số" thỉnh thoảng để chỉ một vật được đo riêng lẻ. Thí dụ máy thu thập dữ liệu (flight data recorder) của một chuyến bay có thể thu thập 88 loại dữ liệu khác nhau, mỗi loại được gọi là "tham số". Cách dùng của từ này không đồng đều, có nhiều khi thật ngữ channel chỉ đến một cá nhân của các tham số này, với từ "tham số" chỉ đến các thông tin về cách dàn dựng cho 'channel' đó. Hình học giải tích Trong hình học giải tích, các đường cong thường được cho dưới dạng đồ thị của một hàm nào đó. Thông số cho hàm được gọi là "tham số". Một đường tròn bán kính 1 có tâm tại gốc tọa độ có thể được xác định bằng nhiều hình thức: dạng ẩn (implicit form) dạng tham số (parametric form) trong đó t là tham số. Xem miêu tả chi tiết hơn trong bài phương trình tham số. Giải tích Trong giải tích toán học, người ta thường xét tới "các tích phân phụ thuộc vào một tham số". Chúng có dạng: Trong công thức trên, đối với vế bên trái t là một đối số của hàm F, và t lại trở thành tham số mà tích phân này phụ thuộc vào ở vế bên phải. Đại lượng x là một biến hình thức hay biến số (hay tham số) của tích phân này. Bây giờ nếu thay thế x=g(y), nó sẽ được gọi là phép đổi biến (tích phân). Lý thuyết xác suất Trong lý thuyết xác suất, người ta có thể nói rằng phân bố của một biến ngẫu nhiên thuộc về một họ các phân bố xác suất. Các phân bố thuộc họ đó phân biệt lẫn nhau bởi các giá trị của một số hữu hạn các tham số. Ví dụ, người ta nói về "một phân bố Poisson với giá trị trung bình λ", hay "một phân bố chuẩn với trung bình μ và phương sai σ2". Có thể dùng chuỗi mô men (trung bình, bình phương trung bình,...) hoặc các nửa bất biến (cumulant) (trung bình, phương sai,...) làm các tham số cho một phân bố xác suất. Thống kê Trong thống kê, các khái niệm khung trong lý thuyết xác suất vẫn được tôn trọng. Tuy nhiên, sự lưu ý giờ chuyển tới phép ước lượng các tham số của một phân bố dựa trên dữ liệu quan sát được hay dựa trên các giả thiết thử nghiệm trên dữ liệu này. Trong phép uớc lượng cổ điển, các tham số này được xem là "cố định nhưng chưa xác định"; ngược lại, trong phép Ước lượng Bayes chúng là các biến ngẫu nhiên với các phép phân bố riêng của chúng. Hoàn toàn có thể đưa ra các kết luật thống kê mà không có các giả thiết về một họ tham số đặc trưng của các phép phân bố xác suất. Trường hợp đó gọi là thống kê phi tham số; ngược với thống kê có tham số đã được mô tả trong phần trước. Chẳng hạn, Spearman là một phép thử phi tham số mà nó được tính dựa trên bậc (order) của dữ liệu bất chấp các giá trị hiện thời của chúng, trong đó, Pearson là một tham số thử được tính trực tiếp trên các dữ liệu và có thể dùng để suy ra một quan hệ toán hoc. Các thống kê là các tính chất toán học của các mẫu mà có thể được dùng như là những tham số của các ước lượng, và là các tính chất toán học của tổng thể mà từ đó các mẫu được lấy ra.
100000000 (),(một trăm triệu hay mười kinh (Hán-Việt: 一億)) là một số tự nhiên ngay sau 99999999 và ngay trước 100000001.
Tụ điện là một loại linh kiện điện tử thụ động, là một hệ hai vật dẫn và ngăn cách nhau bởi một lớp cách điện. Khi có chênh lệch điện thế tại hai bề mặt, tại các bề mặt sẽ xuất hiện điện tích cùng điện lượng nhưng trái dấu. Sự tích tụ của điện tích trên hai bề mặt tạo ra khả năng tích trữ năng lượng điện trường của tụ điện. Khi chênh lệch điện thế trên hai bề mặt là điện thế xoay chiều, sự tích luỹ điện tích bị chậm pha so với điện áp, tạo nên trở kháng của tụ điện trong mạch điện xoay chiều. Về mặt lưu trữ năng lượng, tụ điện có phần giống với ắc quy. Mặc dù cách hoạt động của chúng thì hoàn toàn khác nhau, nhưng chúng đều cùng lưu trữ năng lượng điện. Ắc quy có 2 cực, bên trong xảy ra phản ứng hóa học để tạo ra electron ở cực này và chuyển electron sang cực còn lại. Tụ điện thì đơn giản hơn, nó không thể tạo ra electron - nó chỉ lưu trữ chúng. Tụ điện có khả năng nạp và xả rất nhanh. Đây là một ưu thế của nó so với ắc quy. Lịch sử Vào tháng 10 năm 1745, nhà vật lý học Ewald Georg von Kleist ở Pomerania, nước Đức, phát hiện ra điện tích có thể được lưu trữ bằng cách nối máy phát tĩnh điện cao áp với một đoạn dây qua một bình thủy tinh chứa nước. Tay của Von Kleist và nước đóng vai trò là chất dẫn điện, và bình thủy tinh là chất cách điện (mặc dù các chi tiết ở thời điểm đó được xác nhận là miêu tả chưa đúng). Von Kleist phát hiện thấy khi chạm tay vào dây dẫn thì phát ra một tia lửa điện lớn và sau đó ông cảm thấy rất đau, đau hơn cả khi chạm tay vào máy phát tĩnh điện. Sau đó một năm, nhà vật lý người Hà Lan Pieter van Musschenbroek làm việc tại đại học Leiden, phát minh ra một bình tích điện tương tự, được đặt tên là bình Leyden. Sau đó Daniel Gralath là người đầu tiên kết hợp nhiều bình tích điện song song với nhau thành một quả "pin" để tăng dung lượng lưu trữ. Benjamin Franklin điều tra chiếc bình Leyden và đi đến kết luận rằng điện tích đã được lưu trữ trên chiếc bình thủy tinh, không phải ở trong nước như những người khác đã giả định. Từ đó, thuật ngữ "battery" hay Tiếng Việt gọi là "pin" được thông qua. Sau đó, nước được thay bằng các dung dịch hóa điện, bên trong và bên ngoài bình Layden được phủ bằng lá kim loại. Để lại một khoảng trống ở miệng để tránh tia lửa điện giữa các lá. Bình layden là bình tích điện đầu tiên có điện dung khoảng 1,11 nF (nano Farad). Các tham số chính của tụ điện Các tham số chính của tụ điện có điện dung danh định, điện áp và nhiệt độ làm việc cao nhất. Ngoài ra là các tham số tinh tế, dành cho người thiết kế hay sửa chữa thiết bị chính xác cao: Hệ số biến đổi điện dung theo nhiệt độ, độ trôi điện dung theo thời gian, độ rò điện, dải tần số làm việc, tổn hao điện môi, tiếng ồn,... và thường được nêu trong Catalog của linh kiện. Điện dung Vật thể nói chung đều có khả năng tích điện, và khả năng này đặc trưng bởi điện dung , xác định tổng quát qua điện lượng theo biểu thức: Trong đó: C: điện dung, có đơn vị là farad; Q: điện lượng, có đơn vị là coulomb, là độ lớn điện tích được tích tụ ở vật thể; U: điện áp, có đơn vị là vôn, là điện áp ở vật thể khi tích điện. Điện dung của tụ điện Trong tụ điện thì điện dung phụ thuộc vào diện tích bản cực, vật liệu làm chất điện môi và khoảng cách giữ hai bản cực theo công thức: εrε0. Trong đó: C: điện dung, có đơn vị là farad [F]; εr: Là hằng số điện môi hay còn gọi là điện thẩm tương đối (so với chân không) của lớp cách điện; ε0: Là hằng số điện thẩm (ε0 ≈1÷(9*109*4*π)≈8.854187817*10−12); d: là chiều dày của lớp cách điện; S: là diện tích bản cực của tụ điện. Đơn vị của đại lượng điện dung là Fara [F]. Trong thực tế đơn vị Fara là trị số rất lớn, do đó thường dùng các đơn vị đo nhỏ hơn như micro Fara (1µF=10−6F), nano Fara (1nF=10−9F), picoFara (1pF=10−12F). Thông thường do sự lão hóa vật liệu mà nhiều loại tụ có điện dung giảm theo thời gian. Các tụ hóa có mức độ giảm lớn nhất, và thường gọi là "già cỗi". Nó dẫn đến sai lệch hoạt động của mạch điện tử. Điện áp làm việc Tụ điện được đặc trưng bởi thông số điện áp làm việc cao nhất và được ghi rõ trên tụ nếu có kích thước đủ lớn. Đó là giá trị điện áp thường trực rơi trên tụ điện mà nó chịu đựng được. Giá trị điện áp tức thời có thể cao hơn điện áp này một chút, nhưng nếu quá cao, ví dụ bằng 200% định mức, thì lớp điện môi có thể bị đánh thủng, gây chập tụ. Trước đây giá thành sản xuất tụ điện cao, nên tụ có khá nhiều mức điện áp làm việc: 5V, 10V, 12V, 16V, 24V, 25V, 35V, 42V, 47V, 56V, 100V, 110V, 160V, 180V, 250V, 280V, 300V, 400V... Ngày nay các dây chuyền lớn sản xuất và cho ra ít cấp điện áp hơn thế: Tụ hoá: 16V, 25V, 35V, 63V, 100V, 150V, 250V, 400V. Tụ khác: 63V, 250V, 630V, 1KV. Các tụ đặc chủng có mức điện áp cao hơn, như 1,5 kV, 4 kV,... và tuỳ vào hãng sản xuất. Khi thiết kế hoặc sửa chữa mạch, phải chọn tụ có điện áp làm việc cao hơn điện áp mạch cỡ 30% trở lên. Ví dụ trong mạch lọc nguồn 12V thì chọn tụ hóa 16V, chứ không dùng tụ có điện áp làm việc đúng 12V. Nhiệt độ làm việc Nhiệt độ làm việc của tụ điện thường được hiểu là nhiệt độ ở vùng đặt tụ điện khi mạch điện hoạt động. Tụ điện phải được chọn với nhiệt độ làm việc cao nhất cao hơn nhiệt độ này. Thông thường nhiệt độ được thiết lập do tiêu tán điện năng biến thành nhiệt của mạch, cộng với nhiệt do môi trường ngoài truyền vào nếu nhiệt độ môi trường cao hơn. Song với các tụ có mức rò điện cao, thì xảy ra sự tiêu tán điện năng biến thành nhiệt trong tụ điện, làm cho nhiệt độ trong tụ điện cao hơn xung quanh. Các hư hỏng nổ tụ thường liên quan đến hiện tượng này. Các tụ hóa thường có rò điện ohmic, còn các tụ tần cao thì có dòng điện xoáy. Các loại tụ điện Có rất nhiều loại. Tụ điện phân cực Hầu hết tụ hóa là tụ điện phân cực, tức là nó có cực xác định. Khi đấu nối phải đúng cực âm - dương. Thường trên tụ có kích thước đủ lớn thì cực âm phân biệt bằng dấu - trên vạch màu sáng dọc theo thân tụ, khi tụ mới chưa cắt chân thì chân dài hơn sẽ là cực dương. Các tụ cỡ nhỏ, tụ dành cho hàn dán SMD thì đánh dấu + ở cực dương để đảm bảo tính rõ ràng. Trị số của tụ phân cực vào khoảng 0,47μF - 4.700μF, thường dùng trong các mạch tần số làm việc thấp, dùng lọc nguồn. Tụ điện không phân cực Tụ điện không phân cực thì không xác định cực dương âm, như tụ giấy, tụ gốm, tụ mica,... Các tụ có trị số điện dung nhỏ hơn 1 μF thường được sử dụng trong các mạch điện tần số cao hoặc mạch lọc nhiễu. Các tụ cỡ lớn, từ một vài μF đến cỡ Fara thì dùng trong điện dân dụng (tụ quạt, mô tơ,...) hay dàn tụ bù pha cho lưới điện. Một số tụ hóa không phân cực cũng được chế tạo. Tụ điện có trị số biến đổi Tụ điện có trị số biến đổi, hay còn gọi tụ xoay (cách gọi theo cấu tạo), là tụ có thể thay đổi giá trị điện dung. Tụ này thường được sử dụng trong kỹ thuật Radio để thay đổi tần số cộng hưởng khi ta dò đài (kênh tần số). Siêu tụ điện Đó là các tụ có mật độ năng lượng cực cao (supercapacitor) như Tụ điện Li ion (tụ LIC), là tụ phân cực và dùng cho tích điện một chiều. Chúng có thể trữ điện năng cho vài tháng, cấp nguồn thay các pin lưu dữ liệu trong các máy điện tử. Khả năng phóng nạp nhanh và chứa nhiều năng lượng hứa hẹn ứng dụng tụ này trong giao thông để khai thác lại năng lượng hãm phanh (thắng), cung cấp năng lượng đỉnh đột xuất cho ô tô điện, tàu điện, tàu hoả nhanh,... Các kiểu tụ điện Tụ điện tích hợp Tụ điện MIS: tụ điện được chế tạo theo công nghệ bán dẫn, gồm 3 lớp kim loại - điện môi - chất bán dẫn (metal-isolator-semiconductor), trong đó điện môi là polyme. Tụ điện trench Tụ điện cố định Tụ điện gốm (Ceramic): tụ có điện môi chế tạo theo công nghệ gốm. Tụ điện màng (film): tụ có điện môi là màng plastic (plastic film). Tụ điện mica: tụ có điện môi là mica (một loại khoáng vật có trong tự nhiên, bóc được thành lá mỏng. Nó khác với tấm polyme quen gọi là mica). Tụ này ổn định cao, tổn hao thấp và thường dùng trong mạch cộng hưởng tần cao. Tụ hóa: hay tụ điện điện phân (electrolytic capacitor), dùng chất điện phân phù hợp với kim loại dùng làm anode để tạo ra cathode, nhằm đạt được lớp điện môi mỏng và điện dung cao. Tụ hóa nhôm: có anode (+) làm bằng nhôm. Tụ hóa tantali: có anode (+) làm bằng tantali. Tụ hóa niobi: có anode (+) làm bằng niobi. Tụ polyme, tụ OS-CON: dùng điện phân là polyme dẫn điện. Siêu tụ điện (Supercapacitor, Electric double-layer capacitor - EDLS) Siêu tụ điện Nanoionic: chế tạo theo công nghệ lớp kép nano để đạt mật độ điện dung cực cao. Siêu tụ điện Li ion (LIC): chế tạo theo công nghệ lớp kép lai để đạt mật độ điện dung siêu cao. Tụ điện vacuum: điện môi chân không. Tụ điện biến đổi: tụ thay đổi được điện dung. Tụ điện tuning: tụ thay đổi dải rộng dùng trong mạch điều hưởng Tụ điện trim: tụ thay đổi dải hẹp để vi chỉnh Tụ điện vacuum biến đổi (đã lỗi thời). Tụ điện ứng dụng đặc biệt: Tụ điện filter: tụ lọc nhiễu, có một cực là vỏ nối mát, cực còn lại có dạng trụ 2 đầu nối. Tụ điện motor: tụ dùng để khởi động và tạo từ trường xoay cho motor. Tụ điện photoflash: tụ dùng cho đèn flash như đèn flash máy ảnh, cần đến phóng điện nhanh. Dãy tụ điện (network, array): các tụ được nối sẵn thành mảng. Varicap: Điốt bán dẫn làm việc ở chế độ biến dung.
Máy tính xách tay hay máy vi tính xách tay (Tiếng Anh: laptop computer hay laptop PC) là một chiếc máy tính cá nhân nhỏ gọn có thể mang xách được. Nó thường có trọng lượng nhẹ, tùy thuộc vào hãng sản xuất và kiểu máy dành cho mỗi đối tượng có mục đích sử dụng khác nhau. Laptop thường có một màn hình LCD hoặc LED mỏng gắn bên trong nắp trên vỏ máy và bàn phím chữ kết hợp số ở bên trong nắp dưới vỏ máy. Để sử dụng máy tính người sử dụng sẽ mở tách hai phần trên dưới của máy. Laptop khi không dùng đến sẽ được gấp lại, và do đó nó thích hợp cho việc sử dụng khi di chuyển. Mặc dù ban đầu có một sự khác biệt giữa laptop, netbook và ultrabook, với chiếc laptop lớn hơn và nặng hơn netbook, nhưng đến năm 2014, sự khác biệt hầu như không có. Laptop thường được sử dụng trong nhiều hoàn cảnh, chẳng hạn như tại nhà(gia đình), trong văn phòng, lướt Internet, chơi trò chơi, giải trí cá nhân và V.v... Một Laptop tiêu chuẩn kết hợp các bộ phận, đầu vào(Input), đầu ra(Output) và các bộ phận cơ bản của máy tính để bàn, bao gồm màn hình máy tính, loa nhỏ, một bàn phím, thiết bị chuột (một touchpad hay trackpad), Ổ đĩa cứng, ổ đĩa quang, một bộ xử lý, và bộ nhớ máy tính được kết hợp thành một khối. Hầu hết các laptop hiện đại đều có webcam và microphone sẵn, và một số máy tính laptop khác còn có màn hình cảm ứng. Laptop có thể lấy nguồn từ pin có sẵn bên trong và được sạc lại hay cấp nguồn trực tiếp từ nguồn điện bên ngoài thông qua AC adapter. Các chi tiết phần cứng, chẳng hạn như tốc độ xử lý và dung lượng bộ nhớ, khác nhau theo từng cấu hình Laptop, dòng máy tính, nhà sản xuất và mức giá. Các yếu tố thiết kế, yếu tố hình dáng và cấu trúc cũng có thể thay đổi đáng kể giữa các mô hình tùy thuộc vào mục đích sử dụng. Ví dụ về các mô hình Laptop chuyên dụng bao gồm Laptop chắc chắn để sử dụng trong các ứng dụng trong ngành xây dựng hoặc quân sự cũng như Laptop có giá thành sản xuất thấp như các Laptop từ tổ chức One Laptop per Child (OLPC) có các tính năng mới như bộ nạp năng lượng từ mặt trời và linh kiện bán linh hoạt không có trên hầu hết các laptop. Các Laptop đời cũ sau này được phát triển thành các Laptop hiện đại, ban đầu được coi là một thị trường nhỏ, chủ yếu cho các ứng dụng chuyên ngành, chẳng hạn như cho quản trị viên, kế toán viên, nhân viên bán hàng hay di chuyển và trong quân đội,V.v... Trong quá trình máy tính di động phát triển thành Laptop hiện đại ngày nay, chúng trở nên phổ biến rộng rãi và được sử dụng cho nhiều mục đích khác nữa. Các biến thể thuật ngữ Các thuật ngữ máy laptop được sử dụng thay thế cho nhau để mô tả một máy tính xách tay bằng tiếng Anh, mặc dù ở một số nơi trên thế giới này có thể được ưa thích hơn. Có một số câu hỏi về nguyên gốc và tính đặc hiệu của một trong hai thuật ngữ, thuật ngữ laptop dường như đã được đặt ra vào đầu những năm 1980 để mô tả một máy tính di động có thể được sử dụng trên đùi và để phân biệt các thiết bị này với trước đó, nặng hơn nhiều, laptop (không chính thức gọi là "luggables"). Thuật ngữ "laptop" dường như đã đạt được tiền tệ sau đó khi các nhà sản xuất bắt đầu sản xuất các thiết bị cầm tay nhỏ hơn, giảm hơn nữa trọng lượng cùng với kích thước của chúng và kết hợp màn hình với kích thước gần bằng giấy A4; Chúng được bán trên thị trường dưới dạng laptop để phân biệt với máy tính để bàn cồng kềnh. Bất kể từ nguyên, vào cuối những năm 1990, các thuật ngữ có thể thay thế cho nhau. Lịch sử Khi máy tính cá nhân (PC) trở nên khả thi vào năm 1971, ý tưởng về một máy tính cá nhân di động đã sớm xuất hiện. Một "trình xử lý thông tin cá nhân, di động" đã được Alan Kay tưởng tượng tại Xerox PARC vào năm 1968, và được mô tả trong bài báo năm 1972 của ông là "Dynabook". Máy tính cầm tay APL Machine Portable (SCAMP) của IBM đã được trình diễn vào năm 1973. Nguyên mẫu này dựa trên bộ xử lý PALM của IBM. IBM 5100, máy tính xách tay thương mại đầu tiên xuất hiện vào tháng 9 năm 1975 và dựa trên nguyên mẫu SCAMP. Khi các máy CPU 8 bit được chấp nhận rộng rãi, số lượng thiết bị di động tăng lên nhanh chóng. Máy tính xách tay có kích thước máy tính xách tay đầu tiên là Epson HX-20, được phát minh (được cấp bằng sáng chế) bởi Yukio Yokozawa của Suwa Seikosha vào tháng 7 năm 1980, được giới thiệu tại triển lãm máy tính COMDEX ở Las Vegas của công ty Nhật Bản Seiko Epson vào năm 1981, và phát hành vào tháng 7 năm 1982. Nó có màn hình LCD, pin sạc và máy in cỡ máy tính, trong khung máy nặng 1,6 kg (3,5 lb), kích thước của một máy tính xách tay A4. Nó được mô tả như một máy tính "máy tính xách tay" và "máy tính xách tay" trong bằng sáng chế của nó. Cổng máy tính siêu nhỏ cầm tay của công ty Pháp R2E Micral CCMC chính thức xuất hiện vào tháng 9 năm 1980 tại triển lãm Sicob ở Paris. Đó là một máy vi tính cầm tay được thiết kế và tiếp thị bởi bộ phận nghiên cứu và phát triển của R2E Micral theo yêu cầu của công ty CCMC chuyên về biên chế và kế toán. Nó dựa trên bộ xử lý Intel 8085, 8 bit, tốc độ 2 MHz. Nó được trang bị RAM 64 KB trung tâm, bàn phím với 58 phím số alpha và 11 phím số (khối riêng biệt), màn hình 32 ký tự, đĩa mềm: dung lượng = 140 00 ký tự, của máy in nhiệt: speed = 28 ký tự / giây, kênh không đồng bộ, kênh đồng bộ, nguồn điện 220 V. Nó nặng 12 kg và kích thước của nó là 45 x 45 x 15 cm. Nó cung cấp tổng số di động. Hệ điều hành của nó là Prologue có tên thích hợp. Chiếc Laptop đầu tiên là một chiếc Osborne 1 ra đời năm 1981, là một máy tính có thể sử dụng được, sử dụng Zilog Z80 và nặng 24,5 pound (11,1 kg).Nó không có pin, màn hình ống tia âm cực (CRT) 5 in (13 cm) và ổ đĩa mềm mật độ đơn 5,25 in (13,3 cm). Cả Tandy / RadioShack và Hewlett Packard (HP) cũng sản xuất laptop có thiết kế khác nhau trong giai đoạn này. Những laptop đầu tiên sử dụng yếu tố hình thức lật xuất hiện vào đầu những năm 1980. Dulmont Magnum được phát hành tại Úc vào năm 1981 1982, nhưng không được bán trên thị trường quốc tế cho đến năm 1984. 8.150 đô la Mỹ (21.160 đô la Mỹ ngày nay) GRiD Compass 1101, phát hành năm 1982, được sử dụng tại NASA và quân đội, trong số những người khác. Sharp PC-5000, Ampere và Gavilan SC được phát hành vào năm 1983. Gavilan SC được nhà sản xuất mô tả là "máy tính xách tay", trong khi Ampere có thiết kế vỏ sò hiện đại. Toshiba T1100 đã giành được sự chấp nhận không chỉ trong số các chuyên gia PC mà cả thị trường đại chúng như một cách để có tính di động của PC. Từ năm 1983 trở đi, một số kỹ thuật nhập liệu mới đã được phát triển và đưa vào laptop, bao gồm bàn di chuột (Gavilan SC, 1983), thanh trỏ (IBM ThinkPad 700, 1992) và nhận dạng chữ viết (Linus Write-Top, 1987). Một số CPU, chẳng hạn như Intel i386SL năm 1990, được thiết kế để sử dụng năng lượng tối thiểu để tăng tuổi thọ pin cho laptop và được hỗ trợ bởi các tính năng quản lý năng lượng động như Intel SpeedStep và AMD PowerNow! trong một số thiết kế. Màn hình đạt độ phân giải 640x480 (VGA) vào năm 1988 (Compaq SLT / 286) và màn hình màu bắt đầu trở thành một bản nâng cấp phổ biến vào năm 1991, với sự gia tăng độ phân giải và kích thước màn hình xảy ra thường xuyên cho đến khi giới thiệu laptop màn hình 17 "vào năm 2003. được sử dụng trong các thiết bị di động, được khuyến khích bởi sự ra đời của các ổ đĩa 3,5 "vào cuối những năm 1980 và trở nên phổ biến trong các laptop bắt đầu bằng việc giới thiệu các ổ đĩa 2,5" và nhỏ hơn vào khoảng năm 1990, dung lượng thường bị tụt hậu so với các ổ đĩa máy tính để bàn lớn hơn. CD-ROM chỉ đọc theo sau là CD có thể ghi và các đầu phát DVD và Blu-ray chỉ đọc hoặc ghi được, đã trở nên phổ biến trong các laptop vào đầu những năm 2000. Thiết kế Kể từ khi giới thiệu laptop vào cuối những năm 1970, hình thức của chúng đã thay đổi đáng kể, tạo ra một loạt các lớp con khác nhau về mặt công nghệ và trực quan. Ngoại trừ trường hợp có một nhãn hiệu pháp lý riêng biệt xung quanh một thuật ngữ (đặc biệt là Ultrabook), hiếm khi có sự phân biệt cứng giữa các lớp này và việc sử dụng chúng đã thay đổi theo thời gian và giữa các nguồn khác nhau. Laptop truyền thống Hình thức của laptop truyền thống là vỏ sò, với màn hình ở một trong các mặt bên trong và bàn phím ở phía đối diện, đối diện với màn hình. Nó có thể dễ dàng gấp lại để bảo tồn không gian trong khi đi du lịch hoặc công việc. Màn hình và bàn phím không thể truy cập trong khi đóng. Các thiết bị ở dạng này thường được gọi là 'laptop truyền thống' hoặc laptop, đặc biệt nếu chúng có kích thước màn hình từ 11 đến 17 inch được đo theo đường chéo và chạy hệ điều hành đầy đủ tính năng như Windows 10, macOS hoặc Linux. Laptop truyền thống là hình thức phổ biến nhất của laptop, mặc dù Chromebook, Ultrabook, mui trần và 2 trong 1 (được mô tả bên dưới) đang trở nên phổ biến hơn, với hiệu suất tương tự đạt được ở dạng di động hoặc giá cả phải chăng hơn. Subnotebook Một subnotebook hoặc một siêu di động, là một laptop được thiết kế và bán trên thị trường, tập trung vào tính di động (kích thước nhỏ, trọng lượng thấp và tuổi thọ pin thường dài hơn). Sổ chú thích thường nhỏ hơn và nhẹ hơn so với laptop tiêu chuẩn, nặng từ 0,8 đến 2 kg (2-5 lb), với thời lượng pin vượt quá 10 giờ. Kể từ khi giới thiệu netbook và ultrabook, ranh giới giữa các subnotebook và một trong hai thể loại đã bị mờ. Netbook là một loại phụ chú cơ bản và rẻ hơn, và trong khi một số ultrabook có kích thước màn hình quá lớn để đủ điều kiện làm sổ phụ, một số ultrabook phù hợp với danh mục phụ. Một ví dụ đáng chú ý của một cuốn sách con là Apple MacBook Air. Netbook Netbook là một dạng laptop rẻ tiền, trọng lượng ít, tiết kiệm năng lượng, đặc biệt phù hợp với giao tiếp không dây và truy cập mạng Internet. Netbook lần đầu tiên có sẵn trên thị trường vào khoảng năm 2008, nặng dưới 1 kg, với kích thước hiển thị dưới 9 ". Tên netbook (viết tắt của Internet là Internet) được sử dụng làm" thiết bị vượt trội về hiệu suất tính toán dựa trên web ". Netbook ban đầu được bán với các biến thể trọng lượng nhẹ của hệ điều hành Linux, mặc dù các phiên bản sau thường có hệ điều hành Windows XP hoặc Windows 7. Thuật ngữ "netbook" phần lớn đã lỗi thời, mặc dù các máy đã từng được gọi là netbook Các loại máy nhỏ gọn, rẻ tiền và có công suất thấp không bao giờ bị bán, đặc biệt là các mẫu Chromebook nhỏ hơn. Chuyển đổi, lai và 2 trong 1 Xu hướng mới nhất về sự hội tụ công nghệ trong ngành công nghiệp laptop đã tạo ra một loạt các thiết bị, kết hợp các tính năng của một số loại thiết bị riêng biệt trước đây. Các giống lai, mui trần và 2 trong 1 nổi lên như các thiết bị chéo, có chung đặc điểm của cả tablet và laptop. Tất cả các thiết bị như vậy đều có màn hình cảm ứng được thiết kế để cho phép người dùng làm việc ở chế độ máy tính bảng, sử dụng cử chỉ đa chạm hoặc bút stylus / bút kỹ thuật số. Convertibles là thiết bị có khả năng che giấu bàn phím phần cứng. Bàn phím trên các thiết bị như vậy có thể được lật, xoay hoặc trượt phía sau mặt sau của khung, do đó biến đổi từ laptop thành tablet. Các giống lai có cơ chế tách rời bàn phím và do tính năng này, tất cả các thành phần quan trọng đều nằm trong phần có màn hình. 2 trong 1 có thể có dạng lai hoặc dạng chuyển đổi, thường được đặt tên là có thể tháo rời 2 trong 1 và chuyển đổi 2 trong 1, nhưng được phân biệt bằng khả năng chạy HĐH máy tính để bàn, như Windows 10. 2- in-1 thường được bán trên thị trường dưới dạng tablet thay thế laptop. Những chiếc 2 trong 1 thường rất mỏng, khoảng 10 mm (0,39 in) và các thiết bị nhẹ có tuổi thọ pin dài. Các máy 2 trong 1 được phân biệt với tablet chính vì chúng có CPU kiến ​​trúc x86 (thường là model điện áp thấp hoặc cực thấp), như Intel Core i5, chạy HĐH máy tính để bàn đầy đủ tính năng như Windows 10, và có một số cổng I / O máy tính xách tay điển hình, chẳng hạn như USB 3 và Mini DisplayPort. Các thiết bị 2 trong 1 được thiết kế để sử dụng không chỉ như một thiết bị tiêu thụ phương tiện, mà còn là vật thay thế máy tính để bàn hoặc laptop hợp lệ, do khả năng chạy các ứng dụng máy tính để bàn, như Adobe Photoshop. Có thể kết nối nhiều thiết bị ngoại vi, chẳng hạn như chuột, bàn phím và một số màn hình ngoài với thiết bị 2 trong 1 hiện đại. Các thiết bị Microsoft Surface Pro-series và Surface Book là ví dụ về các thiết bị có thể tháo rời 2 trong 1 hiện đại, trong khi các máy tính dòng Lenovo Yoga là một biến thể của xe mui trần 2 trong 1. Mặc dù Surface RT và Surface 2 cũ hơn có thiết kế khung gầm giống như Surface Pro, việc sử dụng bộ xử lý ARM và Windows RT của họ không phân loại chúng là 2 trong 1, mà là tablet lai. Tương tự, một số laptop lai chạy hệ điều hành di động, chẳng hạn như Android. Chúng bao gồm các thiết bị Transformer Pad của Asus, ví dụ về các giống lai với thiết kế bàn phím có thể tháo rời, không thuộc danh mục 2 trong 1. Phần cứng Các thành phần cơ bản của laptop hoạt động giống hệt với các máy tính để bàn của chúng. Theo truyền thống, chúng được thu nhỏ và thích nghi với việc sử dụng điện thoại di động, mặc dù các hệ thống máy tính để bàn ngày càng sử dụng cùng các bộ phận nhỏ hơn, công suất thấp hơn ban đầu được phát triển cho sử dụng di động. Các hạn chế thiết kế về nguồn, kích thước và làm mát của laptop làm hạn chế hiệu suất tối đa của các bộ phận laptopy so với các bộ phận của máy tính để bàn, mặc dù sự khác biệt đó ngày càng bị thu hẹp. Nói chung, các thành phần laptop không có ý định thay thế hoặc nâng cấp, ngoại trừ các thành phần có thể tháo rời, chẳng hạn như pin hoặc ổ đĩa CD / CDR / DVD. Hạn chế này là một trong những khác biệt chính giữa laptop và máy tính để bàn, vì các trường hợp "tháp" lớn được sử dụng trong máy tính để bàn được thiết kế để có thể thêm bo mạch chủ, đĩa cứng, card âm thanh, RAM và các thành phần khác. Trong một laptop rất nhỏ gọn, chẳng hạn như laplets, có thể không có thành phần nào có thể nâng cấp được. Intel, Asus, Compal, Quanta và một số nhà sản xuất laptop khác đã tạo ra tiêu chuẩn Common Building Block cho các bộ phận laptop để giải quyết một số sự thiếu hiệu quả do thiếu tiêu chuẩn và không có khả năng nâng cấp các thành phần. Các phần sau đây tóm tắt sự khác biệt và tính năng phân biệt của các thành phần laptop so với các bộ phận máy tính cá nhân để bàn: Màn hình Hầu hết các laptop hiện đại đều có màn hình ma trận hoạt động màu 13 inch (33 cm) hoặc lớn hơn dựa trên ánh sáng LED với độ phân giải 1280 × 800 (16:10) hoặc 1366 × 768 (16: 9) pixel trở lên. Các mô hình với ánh sáng dựa trên LED cung cấp mức tiêu thụ điện năng ít hơn và thường tăng độ sáng. Các netbook có màn hình 10 inch (25 cm) hoặc nhỏ hơn thường sử dụng độ phân giải 1024 × 600, trong khi các netbook và subnotebook có màn hình 11,6 inch (29 cm) hoặc 12 inch (30 cm) sử dụng độ phân giải notebook tiêu chuẩn. Có màn hình độ phân giải cao hơn cho phép nhiều mặt hàng vừa vặn trên màn hình hơn, cải thiện khả năng đa nhiệm của người dùng, mặc dù ở độ phân giải cao hơn trên màn hình nhỏ hơn, độ phân giải chỉ có thể phục vụ để hiển thị đồ họa và văn bản sắc nét hơn thay vì tăng diện tích sử dụng. Kể từ khi giới thiệu MacBook Pro với màn hình Retina vào năm 2012, đã có sự gia tăng sẵn có của màn hình độ phân giải rất cao (1920 × 1080 trở lên), ngay cả trong các hệ thống tương đối nhỏ và ở độ phân giải màn hình 15 inch thông thường cao tới 3200 × 1800 có sẵn. Màn hình ngoài có thể được kết nối với hầu hết các máy tính xách tay và các model có Mini DisplayPort có thể xử lý tối đa ba. CPU Bộ xử lý trung tâm (CPU) của laptop có các tính năng tiết kiệm năng lượng tiên tiến và tạo ra ít nhiệt hơn so với mục đích sử dụng hoàn toàn cho máy tính để bàn. Thông thường, CPU laptop có hai lõi xử lý, mặc dù các mô hình 4 lõi cũng có sẵn. Đối với giá thấp và hiệu năng chính, không còn có sự khác biệt đáng kể về hiệu năng giữa CPU laptop và máy tính để bàn, nhưng ở cấp cao, CPU máy tính để bàn 4 đến 8 lõi nhanh nhất vẫn vượt trội hơn hẳn bộ xử lý laptop 4 lõi nhanh nhất, tại chi phí tiêu thụ điện năng và sản xuất nhiệt lớn hơn; bộ xử lý laptop nhanh nhất đứng đầu ở nhiệt độ 56 watt, trong khi bộ xử lý máy tính để bàn nhanh nhất đứng đầu ở mức 150 watt. Đã có một loạt các CPU được thiết kế cho laptop có sẵn từ cả Intel, AMD và các nhà sản xuất khác. Trên các kiến ​​trúc không phải là x86, Motorola và IBM đã sản xuất chip cho các laptop Apple dựa trên PowerPC trước đây (iBook và PowerBook). Nhiều laptop có CPU có thể tháo rời, mặc dù điều này đã trở nên ít phổ biến hơn trong vài năm qua khi xu hướng này hướng tới các mẫu mỏng hơn và nhẹ hơn. Trong các laptop khác, CPU được hàn trên bo mạch chủ và không thể thay thế; điều này là gần như phổ biến trong ultrabook. Trước đây, một số laptop đã sử dụng bộ xử lý máy tính để bàn thay vì phiên bản laptop và có hiệu suất cao với chi phí trọng lượng lớn hơn, nhiệt độ và thời lượng pin hạn chế, nhưng thực tế phần lớn đã bị tuyệt chủng vào năm 2013. Không giống như các đối tác máy tính để bàn của họ, CPU laptop gần như không thể ép xung. Một chế độ hoạt động nhiệt của laptop rất gần với giới hạn của nó và hầu như không có khoảng trống để tăng nhiệt độ hoạt động liên quan đến ép xung. Khả năng cải thiện hệ thống làm mát của laptop để cho phép ép xung là cực kỳ khó thực hiện. Card màn hình Trên hầu hết các laptop, một bộ xử lý đồ họa (GPU) được tích hợp vào CPU để tiết kiệm năng lượng và không gian. Điều này đã được Intel giới thiệu với loạt bộ xử lý di động Core i-series vào năm 2010 và bộ xử lý đơn vị xử lý tăng tốc (APU) tương tự của AMD vào cuối năm đó. Trước đó, các máy cấp thấp hơn có xu hướng sử dụng bộ xử lý đồ họa được tích hợp vào chipset hệ thống, trong khi các máy cao cấp hơn có bộ xử lý đồ họa riêng. Trước đây, laptop thiếu bộ xử lý đồ họa riêng biệt bị hạn chế về tiện ích cho chơi game và các ứng dụng chuyên nghiệp liên quan đến đồ họa 3D, nhưng khả năng đồ họa tích hợp CPU đã hội tụ với bộ xử lý đồ họa chuyên dụng cấp thấp trong vài năm qua. Laptop cao cấp dành cho chơi game hoặc làm việc 3D chuyên nghiệp vẫn được trang bị chuyên dụng và trong một số trường hợp, ngay cả bộ xử lý đồ họa kép, trên bo mạch chủ hoặc như một thẻ mở rộng bên trong. Kể từ năm 2011, những thứ này hầu như luôn liên quan đến đồ họa có thể chuyển đổi để khi không có nhu cầu về bộ xử lý đồ họa chuyên dụng hiệu năng cao hơn, bộ xử lý đồ họa tích hợp tiết kiệm năng lượng hơn sẽ được sử dụng. Nvidia Optimus là một ví dụ về loại hệ thống đồ họa có thể chuyển đổi này. RAM Hầu hết các laptop sử dụng các mô-đun bộ nhớ SO-DIMM (mô-đun bộ nhớ song song nhỏ), vì chúng có kích thước bằng một nửa DIMM của máy tính để bàn. Chúng đôi khi có thể truy cập từ dưới cùng của laptop để dễ dàng nâng cấp hoặc đặt ở những vị trí không dành cho người dùng thay thế. Hầu hết các laptop có hai khe cắm bộ nhớ, mặc dù một số model cấp thấp nhất sẽ chỉ có một và một số model cao cấp (thường là máy trạm kỹ thuật di động và một vài model cao cấp dành cho chơi game) có bốn khe cắm. Hầu hết các laptop tầm trung đều được nhà máy trang bị 4 RAM6 GB. Netbook thường được trang bị chỉ 1 RAM2 GB và thường chỉ có thể mở rộng lên 2 GB. Laptop có thể có bộ nhớ được hàn vào bo mạch chủ để tiết kiệm không gian, cho phép laptop có thiết kế khung mỏng hơn. Bộ nhớ hàn không thể dễ dàng nâng cấp. Bộ nhớ trong Theo truyền thống, laptop có ổ đĩa cứng (HDD) là bộ lưu trữ không bay hơi chính, nhưng chúng không hiệu quả khi sử dụng trong các thiết bị di động do tiêu thụ điện năng cao, sản xuất nhiệt và sự hiện diện của các bộ phận chuyển động, có thể gây hư hỏng cho cả hai ổ đĩa và dữ liệu được lưu trữ khi laptop không ổn định về mặt vật lý, ví dụ: trong quá trình sử dụng trong khi vận chuyển nó hoặc sau khi nó vô tình rơi. Với sự ra đời của công nghệ bộ nhớ flash, hầu hết các laptop từ trung cấp đến cao cấp đều chọn các ổ cứng (SSD) nhỏ gọn, tiết kiệm năng lượng và nhanh hơn, loại bỏ nguy cơ ổ đĩa và hỏng dữ liệu do tác động vật lý của laptop. Hầu hết các laptop sử dụng ổ đĩa 2,5 inch, đây là phiên bản nhỏ hơn của hệ số dạng ổ đĩa để bàn 3,5 inch. Ổ cứng 2,5 inch nhỏ gọn hơn, tiết kiệm điện hơn và tạo ra ít nhiệt hơn, đồng thời có dung lượng nhỏ hơn và tốc độ truyền dữ liệu chậm hơn. Một số laptop rất nhỏ gọn hỗ trợ ổ cứng 1,8 inch nhỏ hơn. Tuy nhiên, đối với SSD, những sự đánh đổi liên quan đến thu nhỏ này là không tồn tại, bởi vì SSD được thiết kế để có một dấu chân rất nhỏ. SSD có yếu tố hình thức 2,5 hoặc 1,8 inch truyền thống hoặc thẻ mSATA dành riêng cho laptop. SSD có tốc độ truyền dữ liệu cao hơn, tiêu thụ điện năng thấp hơn, tỷ lệ thất bại thấp hơn và dung lượng lớn hơn so với ổ cứng. Tuy nhiên, ổ cứng có chi phí thấp hơn đáng kể. Hầu hết các laptop có thể chứa một ổ đĩa 2,5 inch, nhưng một số lượng nhỏ laptop có màn hình rộng hơn 15 inch có thể chứa hai ổ đĩa. Một số laptop hỗ trợ chế độ kết hợp, kết hợp ổ đĩa 2,5 inch, điển hình là ổ cứng dữ liệu rộng rãi, với ổ đĩa mSATA hoặc M.2 SDD, thường có dung lượng ít hơn, nhưng tốc độ đọc / ghi nhanh hơn đáng kể. Phân vùng hệ điều hành sẽ được đặt trên SSD để tăng hiệu năng I / O của laptop. Một cách khác để tăng hiệu suất là sử dụng ổ SSD nhỏ hơn 16-32 GB làm ổ đĩa đệm với hệ điều hành tương thích. Một số laptop có thể có khả năng nâng cấp ổ đĩa rất hạn chế khi SSD được sử dụng có hình dạng không chuẩn hoặc yêu cầu thẻ con gái độc quyền. Một số laptop có không gian rất hạn chế trên ổ SSD đã cài đặt, thay vào đó dựa vào tính khả dụng của dịch vụ lưu trữ đám mây để lưu trữ dữ liệu người dùng; Chromebook là một ví dụ nổi bật của phương pháp này. Một loạt các máy chủ lưu trữ dữ liệu NAS hoặc NAS bên ngoài có hỗ trợ công nghệ RAID có thể được gắn vào hầu như bất kỳ laptop nào qua các giao diện như USB, FireWire, eSATA hoặc Thunderbolt hoặc qua mạng có dây hoặc không dây để tăng thêm không gian cho việc lưu trữ dữ liệu. Nhiều laptop cũng tích hợp đầu đọc thẻ cho phép sử dụng thẻ nhớ, chẳng hạn như những máy được sử dụng cho máy ảnh kỹ thuật số, thường là thẻ SD hoặc thẻ nhớ microSD. Điều này cho phép người dùng tải ảnh kỹ thuật số từ thẻ SD xuống laptop, do đó cho phép họ xóa nội dung của thẻ SD để giải phóng không gian để chụp ảnh mới. Ổ đĩa quang Ổ đĩa quang có khả năng phát CD-ROM, đĩa compact (CD), DVD và trong một số trường hợp, Đĩa Blu-ray (BD), gần như phổ biến trên các mẫu có kích thước đầy đủ vào đầu những năm 2010. Một ổ đĩa vẫn khá phổ biến trong các laptop có màn hình rộng hơn 15 inch (38 cm), mặc dù xu hướng máy mỏng hơn và nhẹ hơn đang dần loại bỏ các ổ đĩa và máy nghe nhạc này; những ổ đĩa này không phổ biến trong các laptop nhỏ gọn, chẳng hạn như sổ phụ và netbook. Ổ đĩa quang laptop có xu hướng tuân theo một yếu tố hình thức tiêu chuẩn và thường có đầu nối mSATA tiêu chuẩn. Thường có thể thay thế một ổ đĩa quang bằng một mô hình mới hơn. Trong một số mẫu laptop nhất định, có khả năng thay thế ổ đĩa quang bằng ổ cứng thứ hai, sử dụng một caddie lấp đầy không gian thừa mà ổ đĩa quang sẽ chiếm. Nhập vào Bàn phím chữ và số được sử dụng để nhập văn bản và dữ liệu và thực hiện các lệnh khác (ví dụ: các phím chức năng). Bàn di chuột (còn được gọi là trackpad), thanh trỏ hoặc cả hai, được sử dụng để điều khiển vị trí của con trỏ trên màn hình và bàn phím tích hợp được sử dụng để gõ. Bàn phím và chuột ngoài có thể được kết nối bằng cổng USB hoặc không dây, thông qua Bluetooth hoặc công nghệ tương tự. Với sự ra đời của ultrabook và hỗ trợ đầu vào cảm ứng trên màn hình của các hệ điều hành thời đại 2010, như Windows 8.1, màn hình cảm ứng đa điểm được sử dụng trong nhiều kiểu máy. Một số kiểu máy có webcam và micrô, có thể được sử dụng để liên lạc với người khác bằng cả hình ảnh và âm thanh chuyển động, thông qua Skype, Google Chat và phần mềm tương tự. Laptop thường có cổng USB và giắc micrô, để sử dụng với mic ngoài. Một số laptop có đầu đọc thẻ để đọc thẻ SD của máy ảnh kỹ thuật số. Cổng đầu vào / đầu ra (I / O) Trên một laptop thông thường có một số cổng USB, một cổng màn hình ngoài (VGA, DVI, HDMI hoặc Mini DisplayPort), cổng vào / ra âm thanh (thường ở dạng một ổ cắm) là phổ biến. Có thể kết nối tối đa ba màn hình ngoài với máy tính xách tay thời đại 2014 thông qua một Mini DisplayPort duy nhất, sử dụng công nghệ truyền tải đa luồng. Apple, trong phiên bản 2015 của MacBook, đã chuyển đổi từ một số cổng I / O khác nhau sang một cổng USB-C duy nhất. Cổng này có thể được sử dụng cả để sạc và kết nối nhiều loại thiết bị thông qua việc sử dụng bộ điều hợp hậu mãi. Google, với phiên bản Chromebook Pixel được cập nhật, cho thấy xu hướng chuyển đổi tương tự sang USB-C, mặc dù giữ các cổng USB Type-A cũ hơn để tương thích tốt hơn với các thiết bị cũ hơn. Mặc dù phổ biến cho đến cuối thập niên 2000, cổng mạng Ethernet hiếm khi được tìm thấy trên các laptop hiện đại, do sử dụng rộng rãi mạng không dây, chẳng hạn như Wi-Fi. Các cổng kế thừa như cổng bàn phím / chuột PS / 2, cổng nối tiếp, cổng song song hoặc Firewire được cung cấp trên một số kiểu máy, nhưng chúng ngày càng hiếm. Trên các hệ thống của Apple và trên một số laptop khác, cũng có cổng Thunderbolt, nhưng Thunderbolt 3 sử dụng USB-C. Laptop thường có giắc cắm tai nghe, để người dùng có thể kết nối tai nghe ngoài hoặc hệ thống loa được khuếch đại để nghe nhạc hoặc âm thanh khác. Thẻ mở rộng Trước đây, khe cắm Thẻ PC (trước đây là PCMCIA) hoặc ExpressCard để mở rộng thường có mặt trên laptop để cho phép thêm và xóa chức năng, ngay cả khi bật laptop; những thứ này ngày càng trở nên hiếm hơn kể từ khi giới thiệu USB 3.0. Một số hệ thống con bên trong như: Ethernet, Wi-Fi hoặc modem di động không dây có thể được triển khai dưới dạng thẻ mở rộng nội bộ có thể thay thế, thường có thể truy cập được dưới nắp truy cập ở dưới cùng của máy tính xách tay. Tiêu chuẩn cho các thẻ như vậy là PCI Express, có cả kích cỡ M.2 nhỏ và thậm chí nhỏ hơn. Trong các laptop mới hơn, không có gì lạ khi thấy chức năng Micro SATA (mSATA) trên các khe cắm thẻ PCI Express Mini hoặc M.2 cho phép sử dụng các khe cắm đó cho các ổ đĩa trạng thái rắn dựa trên SATA. Cung cấp pin và năng lượng Laptop thời đại 2016 sử dụng pin lithium ion, với một số model mỏng hơn sử dụng công nghệ lithium polymer phẳng hơn. Hai công nghệ này đã thay thế phần lớn pin niken hydride kim loại cũ. Tuổi thọ pin rất khác nhau tùy theo mẫu và khối lượng công việc và có thể dao động từ một giờ đến gần một ngày. Hiệu suất của pin giảm dần theo thời gian; Giảm đáng kể dung lượng thường thấy rõ sau một đến ba năm sử dụng thường xuyên, tùy thuộc vào kiểu sạc và xả và thiết kế của pin. Những đổi mới trong máy tính xách tay và pin đã chứng kiến ​​những tình huống trong đó pin có thể cung cấp tới 24 giờ hoạt động liên tục, giả sử mức tiêu thụ năng lượng trung bình. Một ví dụ là HP EliteBook 6930p khi được sử dụng với pin dung lượng cực lớn. Pin của laptop được sạc bằng nguồn điện bên ngoài được cắm vào ổ cắm trên tường. Bộ nguồn cung cấp một điện áp DC thông thường trong phạm vi 7.2 Wap24 volt. Nguồn điện thường ở bên ngoài và được kết nối với laptop thông qua cáp kết nối DC. Trong hầu hết các trường hợp, nó có thể sạc pin và cung cấp năng lượng cho laptop cùng một lúc. Khi pin được sạc đầy, laptop tiếp tục chạy bằng nguồn được cung cấp bởi nguồn điện bên ngoài, tránh sử dụng pin. Pin sẽ sạc trong một khoảng thời gian ngắn hơn nếu laptop bị tắt hoặc ngủ. Bộ sạc thường thêm khoảng 400 gram (0,88 lb) vào trọng lượng vận chuyển tổng thể của laptop, mặc dù một số model nặng hơn hoặc nhẹ hơn. Hầu hết các laptop thời đại 2016 đều sử dụng pin thông minh, bộ pin có thể sạc lại với hệ thống quản lý pin tích hợp (BMS). Pin thông minh có thể đo bên trong điện áp và dòng điện, và suy ra mức sạc và các thông số SoH (Trạng thái sức khỏe), cho biết trạng thái của các tế bào. Tản nhiệt Nhiệt thải từ hoạt động rất khó để loại bỏ trong không gian bên trong nhỏ gọn của laptop. Laptop ban đầu sử dụng tản nhiệt đặt trực tiếp lên các bộ phận để làm mát, nhưng khi các bộ phận nóng này nằm sâu bên trong thiết bị, cần có một ống dẫn khí lãng phí không gian lớn để xả nhiệt. Thay vào đó, các laptop hiện đại dựa vào các ống dẫn nhiệt để nhanh chóng di chuyển nhiệt thải ra các cạnh của thiết bị, để cho phép một hệ thống làm mát quạt và tản nhiệt nhỏ hơn và nhỏ gọn hơn nhiều. Nhiệt thải thường được xả ra từ người vận hành thiết bị về phía sau hoặc hai bên của thiết bị. Nhiều đường dẫn khí được sử dụng do một số cửa hút có thể bị chặn, chẳng hạn như khi thiết bị được đặt trên bề mặt phù hợp mềm như đệm ghế. Người ta tin rằng một số thiết kế có vỏ kim loại, như MacBook Pro và MacBook Air bằng nhôm của Apple, cũng sử dụng vỏ của máy làm đế tản nhiệt, cho phép nó bổ sung làm mát bằng cách tản nhiệt ra khỏi lõi thiết bị. Giám sát nhiệt độ thiết bị thứ cấp có thể làm giảm hiệu suất hoặc kích hoạt tắt khẩn cấp nếu không thể tản nhiệt, chẳng hạn như nếu laptop bị bỏ rơi và đặt bên trong hộp đựng. Tấm làm mát hậu mãi với quạt bên ngoài có thể được sử dụng với máy tính xách tay để giảm nhiệt độ hoạt động. Trạm nối Trạm nối (đôi khi được gọi đơn giản là một dock) là một phụ kiện laptop có chứa nhiều cổng và trong một số trường hợp khe cắm mở rộng hoặc vịnh cho các ổ đĩa cố định hoặc di động. Một laptop kết nối và ngắt kết nối với một trạm nối, thường thông qua một đầu nối độc quyền lớn duy nhất. Trạm nối là một phụ kiện laptop đặc biệt phổ biến trong môi trường máy tính của công ty, do khả năng trạm nối để biến laptop thành máy tính để bàn thay thế đầy đủ tính năng, nhưng vẫn cho phép phát hành dễ dàng. Khả năng này có thể là lợi thế cho những nhân viên "chiến binh đường phố", những người phải thường xuyên đi công tác, và những người cũng đến văn phòng. Nếu cần thêm cổng, hoặc vị trí của chúng trên laptop là bất tiện, người ta có thể sử dụng một thiết bị thụ động rẻ hơn được gọi là bộ sao cổng. Các thiết bị này kết hợp với các đầu nối trên laptop, chẳng hạn như thông qua USB hoặc FireWire. Phụ kiện Một phụ kiện phổ biến cho laptop là tay áo laptop, vỏ laptop hoặc vỏ laptop, cung cấp một mức độ bảo vệ khỏi trầy xước. Tay áo, được phân biệt bằng cách tương đối mỏng và linh hoạt, thường được làm bằng cao su tổng hợp, với những cái chắc chắn hơn làm bằng polyurethane có độ đàn hồi thấp. Một số tay áo laptop được bọc trong nylon đạn đạo để cung cấp một số biện pháp chống thấm. Các trường hợp cồng kềnh và chắc chắn hơn có thể được làm bằng kim loại với lớp đệm polyurethane bên trong và có thể có khóa để tăng cường bảo mật. Kim loại, vỏ đệm cũng cung cấp bảo vệ chống lại tác động và giọt. Một phụ kiện phổ biến khác là bộ làm mát laptop, một thiết bị giúp hạ nhiệt độ bên trong của laptop một cách chủ động hoặc thụ động. Một phương pháp hoạt động phổ biến liên quan đến việc sử dụng quạt điện để thu nhiệt từ laptop, trong khi phương pháp thụ động có thể liên quan đến việc đặt laptop lên một số loại đệm để nó có thể nhận được nhiều luồng không khí hơn. Một số cửa hàng bán miếng đệm laptop cho phép người nằm trên giường sử dụng laptop. Các tính năng lỗi thời Các tính năng mà một số mẫu laptop đầu tiên được sử dụng không có trong hầu hết các laptop hiện tại bao gồm: Nút đặt lại ("thiết lập lại lạnh") trong một lỗ (cần một công cụ kim loại mỏng để nhấn) Nút tắt nguồn tức thì trong một lỗ (cần một công cụ kim loại mỏng để nhấn) Bộ sạc tích hợp hoặc bộ đổi nguồn bên trong laptop Floppy disk drive Serial port Parallel port Modem Shared PS/2 input device port VHS or 8mm VCR IrDA S-video port PC Card / PCMCIA slot ExpressCard slot So sánh với máy tính để bàn Ưu điểm thường là tính năng đầu tiên được đề cập trong mọi so sánh laptop so với máy tính để bàn. Tính di động vật lý cho phép sử dụng laptop ở nhiều nơi, không chỉ ở nhà và tại văn phòng, mà còn trong khi đi lại và các chuyến bay, trong quán cà phê, trong giảng đường và thư viện, tại địa điểm của khách hàng hoặc tại phòng họp, v.v. Trong nhà, tính di động cho phép người dùng laptop di chuyển thiết bị của họ từ phòng khách sang phòng ăn sang phòng gia đình. Tính di động cung cấp một số lợi thế khác biệt: Năng suất Ngay lập tức Thông tin cập nhật Kết nối Ưu điểm khác của laptop: Kích thước Tiêu thụ ít điện năng Sự yên tĩnh Pin Tất cả trong một Gấp gọn Khuyết điểm, so với máy tính để bàn, laptop có nhược điểm ở các lĩnh vực sau: Hiệu năng Nâng cấp Công thái học và ảnh hưởng sức khỏe Bán hàng Nhà sản xuất Có rất nhiều thương hiệu laptop và nhà sản xuất. Một số thương hiệu lớn cung cấp laptop trong các lớp khác nhau được liệt kê trong hộp liền kề. Các thương hiệu lớn thường cung cấp dịch vụ và hỗ trợ tốt, bao gồm tài liệu được thực hiện tốt và tải xuống trình điều khiển vẫn có sẵn trong nhiều năm sau khi một mẫu laptop cụ thể không còn được sản xuất. Tận dụng dịch vụ, hỗ trợ và hình ảnh thương hiệu, laptop từ các thương hiệu lớn đắt hơn laptop của các thương hiệu nhỏ hơn và ODM. Một số thương hiệu chuyên về một loại laptop cụ thể, như laptop chơi game (Alienware), laptop hiệu năng cao (HP Envy), netbook (EeePC) và laptop cho trẻ em (OLPC). Nhiều thương hiệu, bao gồm cả những thương hiệu lớn, không thiết kế và không sản xuất laptop của họ. Thay vào đó, một số lượng nhỏ các nhà sản xuất thiết kế ban đầu (ODM) thiết kế các mẫu laptop mới và các thương hiệu chọn các mẫu được đưa vào dòng sản phẩm của họ. Trong năm 2006, 7 chiếc laptop lớn đã sản xuất 7 trên 10 laptop trên thế giới, trong đó laptop lớn nhất (Máy tính Quanta) chiếm 30% thị phần thế giới. Do đó, các mô hình giống hệt nhau có sẵn cả từ một nhãn hiệu chính và từ một thương hiệu nội bộ có cấu hình thấp. Thị phần laptop Laptop chạy bằng pin chỉ chiếm 2% thị phần trên toàn thế giới vào năm 1986. Tuy nhiên, laptop đã trở nên ngày càng phổ biến, cho cả doanh nghiệp và sử dụng cá nhân. Khoảng 109 triệu laptop được xuất xưởng trên toàn thế giới trong năm 2007, tăng 33% so với năm 2006. Năm 2008, ước tính có 145,9 triệu laptop đã được bán và con số này sẽ tăng lên trong năm 2009 lên 177,7 triệu. Quý 3 năm 2008 là lần đầu tiên khi các lô hàng laptop trên toàn thế giới vượt quá máy tính để bàn, với 38,6 triệu đơn vị so với 38,5 triệu đơn vị. Tháng 5 năm 2005 là lần đầu tiên laptop bán chạy hơn máy tính để bàn ở Mỹ trong suốt một tháng; tại thời điểm laptop được bán với giá trung bình $ 1.131 trong khi máy tính để bàn được bán với giá trung bình $ 696. Khi nhìn vào các hệ điều hành, đối với laptop Microsoft Windows, giá bán trung bình (ASP) cho thấy sự sụt giảm trong năm 2008/2009, có thể là do netbook giá rẻ, rút ​​ra trung bình 689 đô la Mỹ tại các cửa hàng bán lẻ ở Mỹ vào tháng 8 năm 2008. đã giảm xuống còn 602 đô la vào tháng 1 và xuống còn 560 đô la vào tháng hai. Trong khi các máy Windows ASP giảm 129 đô la trong bảy tháng này, máy tính xách tay Apple macOS của ASP đã giảm chỉ 12 đô la từ 1.524 đô la xuống còn 1.512 đô la. Chú thích
Huldrych (hoặc Ulrich) Zwingli (1 tháng 1 năm 1484 – 11 tháng 10 năm 1531), là nhà lãnh đạo cuộc cải cách tôn giáo tại Thụy Sĩ. Zwingli từng theo học tại Đại học Vienna và Đại học Basel, lúc ấy là trung tâm của học thuyết nhân văn. Trong khi làm cha xứ ở Glarus, về sau ở Einsiedeln, Zwingli đọc và chịu ảnh hưởng từ những tác phẩm của Erasmus. Năm 1519, Zwingli trở thành cha xứ nhà thờ Grossmünster ở Zürich, tại đây ông bắt đầu rao giảng tư tưởng cải cách giáo hội. Trong cuộc tranh luận đầu tiên năm 1522, ông đả kích tập quán kiêng ăn trong mùa lễ lá. Trong các tác phẩm của mình, Zwingli thường đề cập đến tình trạng thối nát trong hệ thống tăng lữ và phê phán việc sử dụng ảnh tượng trong thờ phụng; mặt khác, ông ủng hộ việc cho phép chức sắc giáo hội kết hôn. Năm 1525, Zwingli giới thiệu quyển giáo nghi mới nhằm thay thế lễ misa. Cũng có sự bất đồng giữa Zwingli với nhóm cực đoan Anabaptist trong phong trào Cải cách, dẫn đến những bách hại đối với nhóm này. Cuộc cải cách của Zwingli, nhận được sự ủng hộ từ các viên chức chính quyền và dân chúng Zürich, dẫn đến những thay đổi triệt để trong đời sống của cư dân cũng như các vấn đề chính sự ở thành phố này. Cuộc cải cách phát triển đến nhiều vùng trong Liên bang Thụy Sĩ dù gặp sự đề kháng từ một vài tiểu bang (canton), tại đây dân chúng vẫn duy trì đức tin Công giáo. Zwingli thành lập một liên minh quy tụ các tiểu bang chấp nhận tư tưởng cải cách, như thế liên bang Thụy Sĩ bị chia cắt thành hai phần đối nghịch nhau. Năm 1529, bùng nổ chiến tranh giữa hai phía, nhưng bị ngăn chặn vào phút chót. Trong khi đó, lý tưởng cải cách của Zwingli nhận được sự quan tâm từ Martin Luther và những nhà cải cách khác. Trong lần hội kiến tại lâu đài Marburg, dù có sự đồng thuận về nhiều điểm thần học, họ bất đồng với nhau về giáo thuyết sự hiện diện của Chúa Cơ Đốc trong thánh lễ Tiệc Thánh. Năm 1531, liên minh của Zwingli cố phong tỏa nguồn thực phẩm cung cấp cho các bang Công giáo. Những bang Công giáo phản ứng bằng cách mở một cuộc tấn công bất ngờ vào lúc Zürich chưa chuẩn bị. Zwingli thiệt mạng trong trận chiến vào lúc 47 tuổi. Di sản của ông vẫn sống động trong các bản tuyên tín, giáo nghi, và thể chế của cộng đồng các giáo hội Cải cách cho đến ngày nay. Bối cảnh Lịch sử Liên bang Thụy Sĩ trong thời Zwingli bao gồm 13 tiểu bang (canton) cùng các bang liên kết và các lãnh địa. Không giống quốc gia Thụy Sĩ đương đại được điều hành bởi một chính quyền liên bang, 13 tiểu bang này hầu như hoàn toàn độc lập, tự quản trong cả lĩnh vực đối nội lẫn đối ngoại. Mỗi tiểu bang thành lập liên minh với các bang khác trong hoặc ngoài Liên bang. Quyền tự trị này được xem là yếu tố chủ chốt dẫn đến những tranh chấp xảy ra trong thời kỳ cải cách khi những bang này gia nhập các liên minh tôn giáo đối nghịch nhau. Môi trường chính trị ở châu Âu trong thế kỷ 15 và 16 thường là bất ổn. Đã từ lâu, chính sách đối ngoại của Liên bang Thụy Sĩ được ấn định bởi nước Pháp láng giềng hùng mạnh. Tuy trên danh nghĩa, Liên bang đặt dưới quyền cai trị của một thế lực khác, Nhà Habsburg (Áo) và Thánh chế La Mã, trong thực tế, sau một loạt các cuộc chiến mà cao điểm là chiến tranh Swabia, Liên bang là một thực thể độc lập. Sự thù địch và tranh chấp lẫn nhau giữa hai thế lực chính ở đại lục cùng các quốc gia nhỏ hơn như Công quốc Milan, Công quốc Savoy, và Các Lãnh thổ của Giáo hoàng đã có tác động sâu sắc và lâu dài đến Thụy Sĩ. Trong thời kỳ hệ thống lính đánh thuê đang là mục tiêu của nhiều bất đồng nội bộ, các phe phái tôn giáo trong thời Zwingli lớn tiếng tranh cãi với nhau về tính hữu dụng của việc gởi thanh niên Thụy Sĩ đi đánh thuê ở nước ngoài nhằm làm giàu cho giới thẩm quyền các tiểu bang. Chính những tranh chấp này đã giúp khởi phát ý thức quốc gia trong Liên bang, thuật ngữ "Tổ quốc" (patria) bắt đầu được sử dụng vượt quá ranh giới các tiểu bang. Đồng thời, chủ nghĩa nhân bản, với các giá trị phổ quát và sự tập chú và học thuật (mà Erasmus, "ông hoàng của chủ nghĩa nhân bản", là một mẫu mực), cũng bén rễ tại đây. Chính trong bối cảnh này, thời điểm hình thành sự hợp lưu giữa tinh thần ái quốc Thụy Sĩ với chủ nghĩa nhân bản, là lúc Zwingli ra đời. Tiểu sử Thiếu thời Chào đời ngày 1 tháng 1 năm 1484 tại Wildhaus, Thụy Sĩ, trong thung lũng Toggenburg, trong một gia đình nông dân, Huldrych Zwingli là con thứ ba trong chín người con. Cha của Zwingli, Ulrich, là người có vai vế trong cộng đồng (ông là trưởng thôn). Zwingli nhận sự giáo dục ban đầu từ bác Bartholomew, một chức sắc ở Weesen. Đến mười tuổi, Zwingli được gởi đến Basel để học tiếng Latin với Gregrory Bünzli. Sau ba năm ở Basel, cậu đến sống một thời gian ngắn ở Bern với nhà nhân bản học Henry Wölfflin. Vị tu sĩ Dòng Dominican này cố thuyết phục Zwingli gia nhập dòng tu, và có lẽ cậu đã là một tập sinh. Tuy nhiên, bố và bác của Zwingli không đồng ý, cậu rời Bern khi chưa kịp hoàn tất khóa học tiếng Latin. Đến học kỳ mùa đông năm 1498, Zwingli theo học ở Đại học Vienna nhưng lại nghỉ học (vẫn còn tranh cãi liệu Zwingli có bị đuổi học hay không), song đến học kỳ mùa hè năm 1500, Zwingli đi học lại. Zwingli tiếp tục học ở Vienna cho đến năm 1502, rồi chuyển sang Đại học Basel, tốt nghiệp với học vị Thạc sĩ (Magister) năm 1506. Theo thông lệ thời ấy, Zwingli đến làm việc cho giáo hội và nghiên cứu thêm môn thần học. Lần đầu ông cử hành lễ misa là vào ngày 29 tháng 9 năm 1506 tại quê nhà Wildhaus. Chức trách đầu tiên của Zwingli trong giáo hội là làm cha xứ tại thị trấn Glarus trong mười năm. Tại Glarus, nơi có nhiều binh sĩ gởi đi nước ngoài để đánh thuê, Zwingli bắt đầu tham gia vào chính trị. Lúc ấy, Liên bang Thụy Sĩ bị lôi cuốn vào các chiến dịch quân sự với các lân bang: Pháp, Nhà Habsburg, và Các Lãnh thổ Giáo hoàng. Zwingli nhiệt tình về phe Tòa Thánh. Đáp lại, ông được Giáo hoàng Julius II tưởng thưởng một khoản lợi tức hằng năm. Ông đảm nhận chức trách tuyên úy quân đội cho vài chiến dịch ở Ý, trong đó có trận Novara năm 1513. Tuy nhiên, thất bại nặng nề của Thụy Sĩ tại mặt trận Marignano đã làm công luận ở Glarus đổi chiều quay sang ủng hộ nước Pháp thay vì Giáo hoàng. Zwingli, thấy mình rơi vào tình thế khó xử, quyết định từ nhiệm để đến Einsiedeln thuộc bang Schwyz. Đến lúc này Zwingli mới khẳng định lập trường rằng dịch vụ lính đánh thuê là vô đạo đức, và sự thống nhất đất nước là mục tiêu tối hậu cho mọi hoạt động trong tương lai. Trong những tác phẩm đầu tiên của mình như The Ox (1510), và The Labyrinth (1516), Zwingli sử dụng các ẩn dụ và lối hành văn trào phúng đả kích hệ thống lính đánh thuê. Nhưng trong hai năm ở Einsiedeln, Zwingli rút lui khỏi đời sống chính trị để tập trung vào các hoạt động tôn giáo và nghiên cứu. Thời kỳ Zwingli sống ở Glarus và Einsiedeln đánh dấu sự tăng trưởng của ông trong lĩnh vực tri thức và tâm linh. Ông hoàn thiện Hi văn và học ngôn ngữ Hebrew. Thư viện của ông có hơn ba trăm đầu sách cổ điển, kinh viện và các giáo phụ. Ông trao đổi thư tín với các nhà nhân bản học Thụy Sĩ, cùng lúc khởi sự nghiên cứu các tác phẩm của Eramus. Zwingli tìm cách gặp Erasmus khi ông này lưu lại Basel từ tháng 8 năm 1514 đến tháng 5 năm 1516. Cuối năm 1518, vị trí Leutpriestertum (linh mục của nhân dân) tai Nhà thờ Grossmünster tại Zurich đang khuyết. Các chức sắc lãnh đạo tổ chức cai quản nhà thờ này biết đến danh tiếng của Zwingli như là một tác giả và nhà thuyết giáo có tài. Mối quan hệ của Zwingli với các nhà nhân bản học là yếu tố quyết định tác động đến các chức sắc có thiện cảm với Erasmus; thêm vào đó là lập trường của ông đối với hệ thống lính đánh thuê lúc ấy được các chính trị gia tại Zürich yêu thích. Ngày 11 tháng 12 năm 1518, Zwingli được tuyển chọn, ngày 27 tháng 12 ông đặt chân đến Zürich. Zürich (1519 – 1521) Quan điểm thần học của Zwingli thể hiện qua các bài thuyết giáo. Ông đả kích tình trạng suy đồi đạo đức và lên án tính lười biếng cũng như nếp sống sang trọng của giới tu sĩ. Năm 1519, Zwingli lên tiếng bác bỏ việc sùng kính các thánh, kêu gọi mọi người phân biệt giữa công đức thật và công đức tưởng tượng người ta dành cho các thánh. Ông tin rằng những đứa trẻ sẽ không bị đoán phạt dù không chịu lễ rửa tội, và lên tiếng tra vấn về thẩm quyền rút phép thông công của giáo hội. Một chức sắc lão thành từng ủng hộ việc tuyển chọn Zwingli, Konrad Hofmann, viết một bức thư than phiền về các bài thuyết giáo của ông. Một số ủng hộ Hofmann, song sự chống đối không lan rộng. Zwingli nhấn mạnh rằng ông không phát kiến điều gì mới mà nền tảng duy nhất cho mọi giảng luận của ông là Kinh Thánh. Trong giáo phận Constance, Bernhardin Sanson cung cấp phép giải tội cho những người đóng góp tiền xây dựng Nhà thờ Thánh Phê-rô ở Rôma. Tháng 1 năm 1519, giáo dân thúc giục Zwingli phản ứng khi Sanson đến cổng thành Zürich. Zwingli phát biểu rằng dân chúng ở đây chưa được hướng dẫn đầy đủ về điều kiện của phép giải tội, do đó có thể bị dẫn dụ sử dụng tiền bạc cho các mục đích sai lầm. Sự kiện này xảy ra hơn một năm sau khi Martin Luther ấn hành Chín mươi lăm Luận đề (31 tháng 10 năm 1517). Hội đồng Zürich không cho phép Sanson vào thành phố. Trong khi giới chức trách Rôma bận tâm kiềm chế ảnh hưởng của Luther, Giám mục Constance từ chối ủng hộ Sanson, sau đó Sanson bị triệu hồi. Tháng 8 năm 1519, Zürich bị tàn phá bởi nạn dịch Bubonic, một phần tư dân số bị thiệt mạng. Bất cứ ai có khả năng đều tìm cách rời bỏ thành phố, song Zwingli quyết định ở lại chu toàn nhiệm vụ. Đến tháng 9, ông mắc bệnh suýt chết. Sau khi khỏi bệnh, Zwingli tiếp tục duy trì ảnh hưởng của mình ở Zürich. Ngày 29 tháng 4 năm 1521, ông được bầu vào một vị trí đang khuyết trong số các chức sắc cai quản nhà thờ Grossmünster, trong khi vẫn tiếp tục chức trách linh mục nhân dân. Rạn nứt (1522 – 1524) Cuộc tranh luận đầu tiên về sự luận giảng của Zwingli bộc phát trong mùa lễ lá năm 1522. Vào kỳ chay tịnh Chúa nhật ngày 9 tháng 3, Zwingli và khoảng mười người nữa phá lệ bằng cách cắt và phân phối hai khúc xúc xích xông khói. Ngày 16 tháng 4, Zwingli bênh vực hành động này trong một bài thuyết giáo tựa đề Von Erkiesen und Freiheit der Speisen (Về sự lựa chọn và quyền tự do trong ăn uống). Ông cho rằng đại thể không có luật lệ nào trong Kinh Thánh buộc phải kiêng cữ các loại thực phẩm. Trước khi luận văn này được ấn hành, giáo phận Constance cử một phái đoàn đến Zürich. Hội đồng thành phố kết án việc phạm luật chay tịnh, nhưng đẩy trách nhiệm cho giáo quyền. Ngày 24 tháng 5, giám mục quở trách nhà thờ Grossmünster, và khẳng định quan điểm truyền thống. Ngày 2 tháng 7, Zwingli và những nhà nhân văn thỉnh cầu giám mục hủy bỏ việc buộc linh mục sống độc thân. Hai tuần sau, thỉnh cầu này được phổ biến cho công chúng. Trước đó, từ mùa xuân năm 1522, Zwingli đã bí mật kết hôn với Anna Reihard và sống với nhau theo tình trạng sống chung gọi là "hôn nhân tu sĩ". Điều này không phải là không phổ biến vào thời ấy, nhiều người tin rằng nếu thiếu vắng ân sủng đặc biệt, một linh mục không thể nào tuân giữ cuộc sống trinh bạch tuyệt đối; trong thực tế có rất ít linh mục làm được điều này. Đến ngày 2 tháng 4 năm 1542, họ tổ chức hôn lễ. Hai người có tất cả bốn con: Regula, William, Huldrych, và Anna. Khi thỉnh cầu đến tay chính quyền, giám mục phản ứng bằng cách yêu cầu chính quyền Zürich duy trì tập tục giáo hội. Các chức sắc khác ở Thụy Sĩ bày tỏ sự đồng tình với Zwingli và khuyến khích ông viết bản tuyên tín đầu tiên Apolgeticus Archeteles. Zwingli tự biện hộ chống lại các cáo buộc về gây rối và tà giáo. Viện dẫn tình trạng thối nát của hệ thống tăng lữ, ông bác bỏ quyền phán xét của những người này. Tranh luận tại Zürich (1523) Những sự kiện xảy ra trong năm 1522 không chỉ không được làm sáng tỏ mà còn gây ra tình trạng bất ổn giữa thành phố Zürich với giám mục, và làm gia tăng sự căng thẳng giữa các thành phần trong Liên bang tại Quốc hội. Ngày 22 tháng 11, Quốc hội ra khuyến cáo yêu cầu các tiểu bang thành viên ngăn cấm các giáo thuyết mới, đây là một cáo buộc nhắm vào Zürich. Hội đồng thành phố cảm thấy có nghĩa vụ tìm kiếm một giải pháp cho vấn đề. Ngày 3 tháng 1 năm 1523, hội đồng mời các chức sắc ở Zürich và vùng lân cận đến dự một buổi họp, tại đó các nhóm có thể trình bày quan điểm của họ. Cuộc họp sẽ được tổ chức vào ngày 29 tháng 1 năm 1523. Cử tọa khoảng sáu trăm người. Giám mục cử một phái đoàn dưới sự lãnh đạo của Johannes Fabri. Zwingli tóm tắt quan điểm của ông trong Schlussreden trong khi Fabri nhấn mạnh đến nhu cầu tôn trọng thẩm quyền giáo hội. Hội đồng ra quyết định cho phép Zwingli tiếp tục thuyết giảng, và yêu cầu tất cả nhà thuyết giáo cần giảng luận phù hợp với giáo huấn của Kinh Thánh. Đến tháng 9 năm 1523, Leo Jud, bạn và đồng sự thân cận nhất của Zwingli cũng là cha xứ nhà thờ St. Peterskirche, công khai kêu gọi rời bỏ tượng các thánh và các ảnh tượng khác, gây ra các cuộc biểu tình phản đối. Hội đồng thành phố muốn giải quyết vấn đề này bằng một cuộc tranh luận thứ hai. Bản chất và đặc điểm bí tích của lễ misa cũng được đưa vào cuộc thảo luận. Những người ủng hộ lễ misa cho rằng bí tích này là sự hi sinh thật, trong khi Zwingli bày tỏ xác tín rằng thánh lễ chỉ có mục đích tưởng niệm sự chết của Chúa Giê-xu. Giống lần tranh luận trước, thiệp mời được gởi đến các chức sắc ở Zürich và giám mục Constance; trong lần tranh luận này, tín hữu ở Zürich, các giáo xứ Chur và Basel, Đại học Basel, và 12 thành viên Liên bang cũng được mời tham dự. Có khoảng 900 người đến dự họp, nhưng không có sự hiện diện của giám mục và đại diện liên bang. Cuộc tranh luận bắt đầu ngày 26 tháng 10 và kéo dài hai ngày. Zwingli dẫn dắt cuộc tranh luận, đối thủ của ông là Konrad Hofmann. Cũng có một nhóm người trẻ tuổi muốn đẩy mạnh cuộc cải cách và trình kiến nghị thay thế lễ rửa tội cho trẻ sơ sinh bằng lễ báp têm cho người trưởng thành. Nhóm này được dẫn dắt bởi Conrad Grebel, sau này là một trong những người khởi xướng phong trào Anabaptist. Trong ba ngày đầu tiên, Konrad Schmid, một linh mục đến từ Aargau, đưa ra đề nghị các cha xứ cứ tiếp tục giảng dạy về sự không cần thiết phải có ảnh tượng dù có thể bị trừng phạt vì hành động này. Ông tin rằng dần dà họ sẽ giúp dân chúng nhận thức được vấn đề và sẽ tự nguyện dẹp bỏ ảnh tượng. Như thế, Schmid bác bỏ quan điểm của những người cực đoạn và ủng hộ lập trường ôn hòa của Zwingli. Tháng 11, hội đồng thông qua nghị quyết ủng hộ đề xướng của Schmid. Zwingli viết một tập sách nhỏ luận bàn về nghĩa vụ của mục sư, Kurze, christliche Einleitung, được hội đồng cho gởi đến từng mục sư và các thành viên của Liên bang. Cải cách tại Zürich (1524–1525) Tháng 13 năm 1523, hội đồng thành phố ra hạn chót là vào Lễ Ngũ Tuần năm 1523 phải huỷ bỏ ảnh tượng và chấm dứt việc cử hành lễ misa. Zwingli trình bày quan điểm của mình trong Vorschlag wegen der Bilder und der Messe (Đề nghị liên quan đến Ảnh tượng và Lễ Misa), chủ trương không nên thay đổi đột ngột. Hội đồng quyết định trong phạm vi thành phố Zürich chỉ nên gỡ bỏ ảnh tượng trong trật tự, nhưng cho phép người dân ở vùng quê chọn biện pháp thích hợp theo biểu quyết của đa số, và ra lệnh trì hoãn việc hủy bỏ lễ misa. Đến đầu năm 1524, ảnh hưởng của cuộc cải cách bắt đầu lộ rõ và nhiều tập tục của cựu giáo bị hủy bỏ. Dù Konrad Hofmann và những người ủng hộ ông tiếp tục chống đối những nỗ lực đổi mới, hội đồng thành phố duy trì sự ủng hộ dành cho cuộc cải cách. Thời điểm Hofmann rời bỏ thành phố là lúc bùng nổ sự chống đối của các cha xứ có lập trường chống cải cách. Giám mục Constance cố can thiệp nhằm duy trì lễ misa và sự sùng kính dành cho ảnh tượng. Zwingli viết thư ngỏ gởi hội đồng, sau đó là sự cắt đứt mọi quan hệ giữa thành phố và giáo phận. Zwingli cho ấn hành quyển Aktion oder Brauch des Nachtmahls (Thực hành và Tập quán Lễ Tiệc Thánh). Sau Lễ Phục sinh, Zwingli và các đồng sự thân cận yêu cầu hội đồng hủy bỏ lễ misa và giới thiệu giáo nghi mới. Ngày 13 tháng 4 năm 1525, Zwingli cử hành Lễ Tiệc Thánh theo giáo nghi mới. Tín hữu được ngồi vào bàn tiệc thánh để nhấn mạnh đến khía cạnh thông công của thánh lễ. Bài giảng tập chú vào ý nghĩa của thánh lễ, không có âm nhạc. Để ngăn chặn tập quán chú trọng nghi thức trong thờ phụng, Zwingli giới hạn việc cử hành Tiệc Thánh bốn lần mỗi năm. Có lúc Zwingli cáo buộc các dòng tu hành khất về tính giả hình, yêu cầu hủy bỏ các dòng tu này để hỗ trợ người nghèo. Ông đề nghị biến các dòng tu thành bệnh viện và tổ chức từ thiện, cũng như sử dụng tài sản của họ cho quỹ phúc lợi. Hội đồng quyết định sung công tài sản giáo hội để thành lập các chương trình phúc lợi cho người nghèo. Zwingli đề nghị thành lập một trường học mang tên Prophezei (Tiên tri) tại Grossmünster. Ngôi trường này chính thức khai giảng ngày 19 tháng 6 năm 1525 với Zwingli và Jud là giáo viên của trường, với mục tiêu tái đào tạo các chức sắc. Bản dịch Kinh Thánh Zürich, thường được cho là của Zwingli và in ấn bởi Christoph Froschauer, là một công trình tập thể mang dấu ấn trường Prophezei. Hiện các học giả vẫn chưa xác định phần đóng góp của Zwingli trong việc dịch thuật. Tranh chấp với nhóm Anabaptist (1525-1527) Không lâu sau cuộc tranh luận Zürich, nhiều người thuộc nhóm cấp tiến cho rằng Zwingli đã nhượng bộ quá nhiều đối với hội đồng thành phố Zürich. Họ bác bỏ vai trò của chính quyền trong cuộc cải cách, và yêu cầu thiết lập một giáo đoàn tín hữu. Trong chỗ riêng tư Conrad Grebel, thủ lĩnh của nhóm cực đoan sau này là phong trào Anabaptist, thường miệt thị Zwingli. Ngày 15 tháng 8 năm 1524, hội đồng nhấn mạnh đến nghĩa vụ làm báp têm cho trẻ sơ sinh. Đến cuối năm 1524, hội đồng mở các buổi thảo luận không chính thức. Khi các cuộc tranh luận đổ vỡ, Zwingli cho ấn hành quyển Wer Ursache gebe zu Aufruhr (Bất cứ ai gây ra tình trạng bất ổn) vạch rõ các quan điểm chống đối. Ngày 17 tháng 1 năm 1525, một cuộc tranh luận công khai được triệu tập, và hội đồng đứng về phía Zwingli. Bất cứ ai từ chối làm báp têm cho trẻ sơ sinh được yêu cầu rời khỏi Zürich. Ngày 21 tháng 1, những người cấp tiến tụ họp tại nhà mẹ của Felix Manz. Grebel và một thủ lĩnh khác, George Blaurock, cử hành lễ báp têm đầu tiên dành cho người trưởng thành theo giáo thuyết của nhóm Anabaptis. Ngày 1 tháng 2, hội đồng lặp lại yêu cầu làm báp têm cho tất cả trẻ sơ sinh, bất cứ ai không tuân thủ sẽ bị bắt giữ và nộp phạt. Manz và Blaurock bị bắt. Lại mở thêm những cuộc tranh luận trước hội đồng. Trong khi đó, giáo thuyết mới tiếp tục lan truyền đến các vùng khác trong Liên bang và một số thị trấn vùng Swabia. Từ ngày 6-8 tháng 11, cuộc tranh luận cuối cùng về thánh lễ báp têm được triệu tập ở Grossmünster. Grebel, Manz, và Blaurock bảo vệ lập trường của mình trước Zwingli, Jud và các nhà cải cách khác. Không có sự thảo luận nghiêm túc, không ai có thể trình bày quan điểm của mình, và cuộc tranh luận trở thành chỗ cho mỗi bên lớn tiếng lăng mạ lẫn nhau. Đến lúc ấy, hội đồng Zürich tin rằng một biện pháp thỏa hiệp là bất khả. Ngày 7 tháng 3 năm 1526, hội đồng ban bố một lệnh bị xem là một vết ố trong lịch sử cải cách tại Zürich, xử tử hình bất cứ ai làm báp têm lại. Dù Zwingli không tham gia vào quyết định này, không có dấu hiệu nào chứng tỏ ông chống đối. Felix Manz, trước đó hứa đi khỏi Zürich và không cử hành lễ báp têm, nay quyết định trở về và thực hành thánh lễ. Sau khi bị tống giam, ngày 5 tháng 1 năm 1517, ông bị xử tử hình bằng cách trấn nước tại sông Limmat. Manz là người Anabaptist đầu tiên chết vì đức tin mình, có ba người khác tiếp bước ông. Sau đó, những người Anabaptist khác bị trục xuất hoặc đào thoát khỏi Zürich. Ngày 26 tháng 6 năm 2004, Giáo hội Cải cách Zürich, thành quả từ cuộc cải cách của Zwingli, và hậu duệ của phong trào Anabaptist, (Amish, Hutterite, và Mennonite) đã tổ chức Hội nghị Hòa giải tại Grossmünster. Liên bang (1526-1528) Ngày 8 tháng 4 năm 1524, năm tiểu bang: Lucerne, Uri, Schwyz, Unterwalden, và Zug, thành lập liên minh die fünf Orte (Năm Tiểu bang) chống lại cuộc cải cách của Zwingli. Họ tiếp xúc với những đối thủ của Martin Luther, trong đó có John Eck người từng tranh luận với Luther tại Leipzig năm 1519. Eck đề nghị mở một cuộc tranh luận với Zwingli và được chấp thuận. Tuy nhiên, vì những bất đồng về thẩm quyền phán quyết cũng như địa điểm tổ chức, Zwingli quyết định rút lui. Ngày 19 tháng 5 năm 1526, tất cả tiểu bang gởi đại biểu đến Baden. Mặc dù các đại biểu của Zürich có mặt, họ không tham dự các buổi họp. Eck lãnh đạo nhóm Công giáo trong khi Johannes Oecolampadius, một nhà thần học đến từ Württemberg, đại diện những nhà cải cách. Nghị viện biểu quyết chống Zwingli, ông bị cấm và các tác phẩm của ông không được phép phổ biến. Trong số 13 thành viên liên bang, có Glarus, Solothurn, Fribourg, và Appenzell cũng như Năm Tiểu bang bỏ phiếu chống Zwingli. Chỉ có Bern, Basel, Schaffhausen, và Zürich ủng hộ ông. Cuộc tranh luận ở Baden bộc lộ tình trạng phân hóa sâu sắc bên trong Liên bang về các vấn đề tôn giáo. Trong khi đó, cuộc cải cách bắt đầu phát triển đến các bang khác. Thành phố St Gallen, liên kết với Liên bang, tiến hành cải cách dưới sự lãnh đạo của Thị trưởng Joachim Vadian. Năm 1527 St Gallen qưyết định hủy bỏ lễ misa, chỉ hai năm sau Zürich. Tại Basel, chính quyền không chịu phế chuẩn những thay đổi của cuộc cải cách mãi cho đến ngày 1 tháng 4 năm 1529, khi họ quyết định hủy bỏ lễ misa. Schaffhausen tiếp bước Zürich chấp nhận cuộc cải cách vào tháng 9 năm 1529. Tại Bern, Berchtold Haller, linh mục nhà thờ St Vincent Münster, và Niklaus Manuel, thi sĩ, họa sĩ, và chính trị gia, cùng mở cuộc vận động kêu gọi cải cách. Cuộc tranh luận tại Bern thu hút 450 người tham dự, trong đó có các cha xứ ở Bern và đến từ các bang khác, những nhà thần học từ ngoài Liên bang như Martin Bucer và Wolfgang Capito đến từ Strasbourg, Ambrosius Blarer từ Constance, và Andreas Althamer từ Nürnberg. Eck và Fabri từ chối tham dự, các bang Công giáo cũng không cử đại diện. Cuộc họp bắt đầu từ ngày 6 tháng 1 năm 1528 và bế mạc sau ba tuần lễ. Ngày 7 tháng 2 năm 1528, hội đồng quyết định thành lập cuộc cải cách tại Bern. Chiến tranh Kappel lần thứ nhất (1529) Từ trước khi xảy ra cuộc tranh luận ở Bern, Zwingli đã vận động thành lập một liên minh cho các thành phố ủng hộ lập trường cải cách. Khi Bern chấp nhận tư tưởng cải cách là lúc das Christliche Burgrecht (Liên hiệp Dân sự Cơ Đốc) ra đời. Buổi họp đầu tiên tổ chức ở Bern từ ngày 5 - 6 tháng 1 năm 1528 với sự hiện diện của các đại biểu đến từ Bern, Constance, và Zürich. Rồi Basel, Biel, Mülhausen, Schaffhausen, và St Gallen cũng lần lượt gia nhập liên minh. Cảm thấy bị cô lập và bao vây, Năm Tiểu bang tìm kiếm đồng minh bên ngoài. Sau những cuộc thương thảo kéo dài hai tháng, ngày 22 tháng 4 năm 1529, Năm Tiểu bang cùng Ferdinand của Áo thành lập die Christliche Vereinigung (Liên minh Cơ Đốc). Không lâu sau khi Năm Tiểu bang ký kết hiệp ước với Áo, một nhà thuyết giáo cải cách, Jacob Kaiser, bị bắt giữ tại Uznach, sau đó bị tử hình ở Schwyz. Điều này khiến Zwingli phản ứng mạnh mẽ. Một đoàn đại biểu đến từ Bern, trong đó có Niklaus Manuel, kêu gọi Zürich giải quyết vấn đề bằng phương cách hòa bình. Manuel khuyến cáo rằng một vụ tấn công nhắm vào Năm Tiểu bang sẽ đẩy Bern vào tình thế nguy hiểm khi bang Valais Công giáo và Công quốc Savoy nằm sát biên giới phía nam của Bern. Manuel nhận xét, "Bạn không thể truyền bá đức tin bằng giáo mác." Tuy nhiên, Zürich quyết định một mình tiến hành chiến tranh. Quân đội của Zürich có đến 30 000 quân binh trong khi Năm Tiểu bang chỉ có 9 000 binh sĩ do bị nước Áo bỏ rơi. Quân đội hai bên gặp nhau ở Kappel, nhưng ngay lúc ấy có sự can thiệp của Hans Aebli, một người họ hàng với Zwingli, dàn xếp một cuộc ngừng chiến. Hội đàm Marburg Khi cuộc cải cách tại Thụy Sĩ đang phát triển, Zwingli cùng các đồng sự hoàn thiện các quan điểm thần học. Sự bất đồng giữa hai nhà cải cách Luther và Zwingli là về ý nghĩa của Tiệc Thánh bắt nguồn từ việc Andreas Karlstadt, từng là đồng nghiệp với Luther ở Wittenberg, cho ấn hành ba tiểu luận bàn về Tiệc Thánh, trong đó Karlstadt bác bỏ ý niệm về sự hiện diện của Chúa trong bánh và nước. Các tiểu luận này, xuất bản tại Basel năm 1524, nhận được sự ủng hộ của Oecolampadius và Zwingli. Zwingli khởi sự trình bày quan điểm của mình về Tiệc Thánh trong một số ấn phẩm bao gồm quyển de Eucharistia (Về Tiệc Thánh). Ông phản bác ý niệm cho rằng có sự hiện diện của Chúa trong bánh và nước, Zwingli tin rằng lời của Chúa Giê-xu, "Nầy là thân thể ta, nầy là huyết ta" chỉ có ý nghĩa biểu trưng, do đó nên được hiểu theo nghĩa ẩn dụ. Như thế, theo Zwingli, bữa ăn thông công của các tín hữu (Tiệc Thánh) là biểu trưng cho bữa ăn tối cuối cùng giữa Chúa Giê-xu và các môn đồ. Đến mùa xuân năm 1527, Luther phản bác mạnh mẽ luận điểm của Zwingli. Cuộc tranh cãi tiếp tục cho đến năm 1528 khi những nỗ lực hàn gắn được bắt đầu. Martin Bucer đóng vai trò trung gian hòa giải trong khi Philip xứ Hesse, trong nỗ lực thành lập một liên minh chính trị qui tụ các lực lượng Kháng Cách, mời hai nhóm đến Marburg để thảo luận về những dị biệt. Sự kiện này được gọi là Hội đàm Marburg. Zwingli chấp nhận lời mời của Philip vì tin rằng có thể thuyết phục Luther; ngược lại, Luther đến dự cuộc hội đàm chỉ vì sự thúc ép của Philip mà không mong đợi kết quả cụ thể nào. Ngày 28 tháng 9 năm 1529, Luther và Oecolampadius đến Marburg, Philip Melanchthon đến sau. Cũng có sự tham dự của những nhà thần học khác như Martin Bucer, Andreas Osiander, Johannes Brenz, và Justus Jonas. Cuộc thảo luận kéo dài từ ngày 1 – 3 tháng 10, kết quả là Mười lăm Tín điều Marburg được ấn hành. Những người tham dự đã đồng ý với nhau đến 14 tín điều, nhưng vẫn còn bất đồng về tín điều thứ 15 về sự hiện diện của Chúa trong Tiệc Thánh. Chính trị, Tuyên tín, Chiến tranh Kappel lần thứ hai (1529-1531) Sau thất bại của Hội đàm Marburg và do tình trạng phân hóa bên trong Liên bang, Zwingli tìm cách liên minh với Philip xứ Hesse. Bern từ chối tham gia, nhưng vào tháng 11 năm 1530, Zürich, Basel, và Strasbourg ký hiệp ước phòng thủ với Philip. Đích thân Zwingli đàm phán với các đại diện ngoại giao Pháp, nhưng sự dị biệt từ hai phía còn quá lớn trong khi Pháp vẫn muốn duy trì mối quan hệ hữu hảo với Năm Tiểu bang. Những nỗ lực tiếp xúc với Venice và Milan cũng không đem lại kết quả nào. Trong khi Zwingli đang vận động thành lập các liên minh chính trị thì Charles, Hoàng đế Thánh chế La Mã, mời những người Kháng Cách đến Nghị viện Ausburd trình bày quan điểm của họ để nhà vua có thể ra chiếu chỉ về các vấn đề đức tin. Những người Lutheran đệ trình bản Tuyên tín Ausburg. Dưới sự lãnh đạo của Martin Bucer, các thành phố Strasbourg, Constance, Memmingen, và Lindau giới thiệu bản Tuyên tín Tetrapolitan. Văn kiện này trình bày quan điểm trung dung giữa Luther và Zwingli. Lúc ấy đã quá muộn cho các thành phố Burgrecht đệ trình một bản tuyên tín cho chính mình, Zwingli giới thiệu một bản tuyên tín của riêng ông, Fidei ratio, trình bày đức tin của ông trong mười hai điều phù hợp với bản Tín điều các Sứ đồ, thể hiện quan điểm đối kháng với cả Công giáo và tư tưởng Luther. Dù không phản ứng công khai, những người theo Luther phê phán bản tuyên tín này trong chỗ riêng tư, còn John Eck phản công bằng cách cho xuất bản quyển Phản bác những xác tín Zwingli đệ trình Hoàng đế. Khi Philip xứ Hesse thành lập Liên minh Schmalkaldic vào cuối năm 1530, bốn thành phố theo Tuyên tín Tetrapolitan quyết định gia nhập liên minh do có sự tương đồng trong xác tín. Còn Zürich, Basel và Bern gia nhập nhờ những các điều kiện rộng mở của liên minh. Tuy nhiên, Zwingli không chấp nhận Tuyên tín Tetrapolitan và mạnh mẽ phản bác Bucer cùng Capito. Hành động này khiến Philip bị xúc phạm. Các thành phố Burgrecht nay không còn sự hỗ trợ nào từ bên ngoài để có thể giải quyết các xung đột tôn giáo trong nội bộ Liên bang. Hòa ước kết thúc chiến tranh Kappel lần thứ nhất không quy định rõ ràng quyền tư do thuyết giáo trong lãnh thổ các tiểu bang Công giáo. Năm Tiểu bang theo đuổi chính sách trấn áp mọi nỗ lực cải cách. Các thành phố Burgrecht xem xét các phương tiện áp lực lên Năm Tiểu bang. Basel và Schaffáuen muốn áp dụng các biện pháp ngoại giao ôn hòa nhưng Zürich muốn chiến tranh. Bern ủng hộ giải pháp trung dung. Tháng 5 năm 1531, Zürich miễn cưỡng chấp nhận biện pháp phong tỏa thực phẩm. Biện pháp này chẳng có mấy hiệu quả vì đến tháng 10, Bern quyết định ngưng tham gia cuộc phong tỏa, Zürich cố thuyết phục những bang còn lại duy trì cuộc phong tỏa, và các thành phố Burgrecht bắt đầu cãi vã với nhau. Ngày 9 tháng 10 năm 1531, Năm Tiểu bang bất ngờ tuyên chiến với Zürich. Do những tranh cãi trong nội bộ mà Zürich không kịp động viên quân binh. Ngày 11 tháng 10, với năm ngàn lính ô hợp Zürich đối đầu lực lượng đông gấp bội của Năm Tiểu bang tại một địa điểm gần Kappel. Nhiều mục sư, trong đó có Zwingli, cùng ra trận với các chiến binh. Trận đánh kéo dài chưa đến một giờ, Zwingli ở trong số năm trăm thương vong của đội quân Zürich. Zwingli vẫn tự xem mình trước tiên và trên hết là chiến binh cho Chúa Cơ Đốc, kế đến là người bảo vệ đất nước (Liên bang Thụy Sĩ), sau cùng là nhà lãnh đạo Zürich. Ở tuổi 47, ông chết cho thành phố nơi ông sinh sống 12 năm trong đời. Thần học Nền tảng của thần học Zwingli là Kinh Thánh. Ông thường xuyên trích dẫn Kinh Thánh trong các tác phẩm của mình. Zwingli xem thẩm quyền Kinh Thánh là vượt trội hơn các thẩm quyền khác, chẳng hạn như thẩm quyền của các công đồng hoặc các giáo phụ. Nguyên tắc chủ đạo của Zwingli trong luận giải Kinh Thánh đến từ nền giáo dục nhân bản và các hiểu biết mới của ông về Kinh Thánh. Ông đặc biệt quan tâm đến ngữ cảnh và cố sức tìm hiểu mục đích của thông điệp đằng sau câu chữ. Ông áp dụng phương pháp so sánh các đoạn văn trong Kinh Thánh và tìm hiểu sự tương đồng giữa chúng. Ông miêu tả phương pháp trong tác phẩm A Friendly Exegesis (1527). Ông đã ứng dụng hiệu quả phương pháp này khi so sánh lễ báp têm với phép cắt bì (circumcision), và Lễ Vượt Qua với Tiệc Thánh. Zwingli bác bỏ thuật từ thánh lễ (sacrement) theo cách hiểu thời ấy. Đối với người bình thường, thuật từ này ngụ ý một hành động thánh hàm chứa quyền năng truất bỏ gánh nặng tội lỗi khỏi lương tâm. Song, theo Zwingli, thánh lễ chỉ là nghi thức khai tâm hoặc là lời nguyện hứa. Ông chỉ ra rằng ý nghĩa của nó trong từ nguyên sacramentum là lời thề. Trong những tác phẩm ban đầu về báp têm, Zwingli tin rằng lễ báp têm là sự thể hiện lời hứa nguyện. Theo Zwingli, sẽ là mê tín dị đoan khi người Công giáo xem nước sử dụng trong lễ rửa tội có quyền năng tẩy sạch tội lỗi. Về sau, khi tranh luận với người Anabaptist, ông bảo vệ việc thực hành lễ báp têm cho trẻ sơ sinh, cho rằng luật pháp không cấm điều này. Zwingli lập luận rằng lễ báp têm là dấu hiệu của giao ước với Thiên Chúa, thay thế lễ cắt bì thời Cựu Ước. Tương tự, khi luận giải về ý nghĩa của Tiệc Thánh (Bí tích Thánh thể) trong cuộc tranh luận tại Zürich năm 1523, Zwingli bác bỏ ý nghĩa hiến tế trong lễ misa, ông lập luận rằng Chúa Cơ Đốc đã hiến tế một lần duy nhất, sự hiến tế này là trọn vẹn và có giá trị vĩnh hằng. Như thế, Tiệc Thánh là "sự tưởng niệm về sự hiến tế (của Chúa Giê-xu)". Sau đó Zwingli phát triển quan điểm này, ông trích dẫn các đoạn Kinh Thánh nhằm bác bỏ giáo thuyết Biến thể của Công giáo Rôma cũng như thuyết Đồng thể của Luther, đặc biệt là Phúc âm Giăng 6: 63, "Ấy là thần linh làm cho sống, xác thịt chẳng ích chi." Cách tiếp cận thuần lý và cung cách tìm kiếm sự soi dẫn từ Kinh Thánh của Zwingli hầu có thể thấu hiểu ý nghĩa của Lễ Tiệc Thánh là một trong những lý do khiến ông không thể đi đến sự đồng thuận với Luther. Mức độ ảnh hưởng của Luther trên thần học Zwingli từ lâu vẫn là đề tài thú vị cho các học giả nghiên cứu về Zwingli. Chính Zwingli từng khẳng định sự độc lập của mình đối với Luther. Những nghiên cứu gần đây nhất củng cố điều này. Tuy nhiên, Zwingli từng đọc các tác phẩm của Luther, tìm kiếm sự tương đồng và hỗ trợ cho quan điểm của ông. Zwingli dành cho Luther sự ngưỡng mộ lớn lao vì sự kiên địnhh của nhà cải cách người Đức khi ông đứng lên phản kháng Giáo hoàng. Sâu sắc và súc tích, McGiffert đã tóm tắt những dị biệt căn bản giữa hai nhà cải cách như sau,Thay vì dành cho trải nghiệm tôn giáo của mỗi cá nhân – nhận thức về việc được tha thứ tội lỗi - vị trí độc tôn trong ý thức hệ Cơ Đốc [như Luther đã làm], [Zwingli] dành vị trí này cho nền thần học tập chú vào quyền tể trị và ý chỉ tuyệt đối của Thiên Chúa. Thay vì xem nếp sống Cơ Đốc là sự bày tỏ, trong tự do và tự nguyện, lòng biết ơn đối với Thiên Chúa, [Zwingli] xem nếp sống Cơ Đốc là sự thuận phục ý chỉ thiên thượng được mặc khải trong Kinh Thánh. Thay vì tìm thấy ý nghĩa của Kinh Thánh trong sự tuyên cáo của phúc âm về tình yêu tha thứ của Thiên Chúa trong Chúa Cơ Đốc, Zwingli nhận ra ý nghĩa ấy trong sự mặc khải của Kinh Thánh về ý chỉ thiên thượng, và xem đó là chuẩn mực thẩm quyền cai trị nếp sống và tư tưởng Cơ Đốc, hơn là phương tiện của ân điển (các thánh lễ). Di sản Zwingli là nhà nhân văn và là một học giả có nhiều bằng hữu và môn sinh. Ông tiếp xúc thân thiện với mọi tín hữu trong giáo đoàn cũng dễ dàng như khi ông hội kiến với các nhà lãnh đạo như Philip xứ Hesse. Thanh danh của ông như là một nhà cải cách nghiêm nghị và điềm tĩnh được quân bình bởi sự nhạy cảm của ông về tính hài hước và khả năng sử dụng các câu chuyện ngụ ngôn trào phúng, ngôn từ hóm hỉnh và châm chọc trong các tác phẩm của ông. So với Luther, Zwingli quan tâm nhiều hơn về các nghĩa vụ xã hội, cũng như thực tâm tin rằng dân chúng sẽ chấp nhận một chính thể được soi dẫn bởi lời của Thiên Chúa. Zwingli kiên tâm cổ xúy cho các hoạt động trợ giúp người nghèo, ông tin rằng họ là những người cần được cộng đồng Cơ Đốc chăm sóc. Tháng 12 năm 1531, hội đồng thành phố chọn Heinrich Bullinger làm người kế nhiệm Zwingli. Ngay lập tức Bullinger làm sáng tỏ những nghi ngờ về tính chính thống của Zwingli cũng như bảo vệ hình ảnh của Zwingli như là một nhà tiên tri và người tử đạo. Dưới thời Bullinger, sự phân hóa tôn giáo trong liên bang càng sâu đậm hơn. Ông tập hợp các thành phố và tiểu bang cải cách, giúp họ phục hồi sau thất bại ở Kappel. Zwingli đã khởi phát và định hình cuộc cải cách, Bullinger củng cố và cải tiến nó. Ở bên ngoài Thụy Sĩ không có giáo hội nào xem Zwingli là nhà sáng lập của mình. Mặc dù thần học Zwingli được xem là tuyên cáo đầu tiên của nền thần học Cải cách, tư tưởng Zwingli chưa hề được phổ biến rộng rãi. Trong khi có rất nhiều thông tin liên quan đến các nền thần học của Martin Luther, John Calvin, và các nhà cải cách khác, thì những hiểu biết có được về Zwingli là tương đối ít. Vì cớ Zwingli sống cùng thời với Luther, và vì Zwingli từ bỏ cuộc sống tu trì theo đức tin Công giáo vài năm sau Luther, cuộc đời và sự nghiệp của Zwingli bị phủ bóng bởi Luther và Calvin trong những đóng góp dành cho cuộc cải cách. Một lý do khác giải thích sự mờ nhạt của Zwingli là do những bất đồng của ông đối với nền thần học Luther. Một số người tin rằng những dị biệt thần học này là do những người viết sử và những người cực đoan, có thiện cảm với quan điểm thần học của Luther, đã thêm thắt vào nhằm áp chế nền thần học Zwingli. Họ tin rằng "phe thắng thế trong lịch sử là phe viết lịch sử"; trong khi "những người phía bên kia" hoặc bị lãng quên hoặc bị đàn áp. Tuy nhiên, nhiều người xem Zwingli xứng đáng với danh hiệu "Nhân vật thứ ba của cuộc Cải cách Kháng Cách", sau Martin Luther và John Calvin. Dòng thời gian Chú thích
Tụ hoá hay Tụ điện điện phân (tiếng Anh: electrolytic capacitor) là một loại tụ điện có phân cực. Nó có anode (+) được làm bằng kim loại đặc biệt được xử lý bề mặt để tạo lớp oxyt cách điện. Sau đó chất điện phân rắn hoặc không rắn (non-solid) được phủ lên mặt lớp oxyt để tạo ra cathode. Do lớp oxyt cách điện cực mỏng, tụ hoá đạt được điện dung lớn trên mỗi đơn vị thể tích so với nhiều loại khác, có ý nghĩa quan trọng trong các mạch có tần số thấp và cường độ dòng điện cao. Nó được dùng nhiều trong các bộ lọc cung cấp nguồn, nơi mà điện tích lưu trữ cần cho việc điều tiết điện áp ra và sự dao động của dòng điện, trong chỉnh lưu ngõ ra, và đặc biệt khi thiếu nguồn pin sạc để cung cấp dòng điện tần số thấp. Cấu tạo Tụ có anode (+) được làm bằng kim loại đặc biệt được xử lý bề mặt để tạo lớp oxyt cách điện. Sau đó chất điện phân rắn hoặc không rắn (non-solid) được phủ lên mặt lớp oxyt để tạo ra cathode. Chúng được cuộn lại, lắp các chân nối và đặt vào bên trong lớp bọc bằng nhôm hình trụ. Chia theo vật liệu sử dụng thì có: Tụ hóa nhôm: Là tụ phổ biến nhất Tụ hóa tantali: Tụ điện tantali đắt hơn rất nhiều so với tụ điện bằng nhôm, và thường dùng với điện áp thấp, nhưng chúng có điện dung cao hơn rất nhiều trên mỗi đơn vị thể tích và được dùng cho các ứng dụng thu nhỏ như điện thoại di động. Tụ hóa niobi Tụ polyme, tụ OS-CON Phân cực Tụ điện điện phân có sự phân cực, không giống như hầu hết tụ điện khác. Điều này là do lớp aluminum oxide được giữ yên chỗ bởi điện trường, và khi đảo cực, nó sẽ hòa tan vào electrolyte. Điều này làm xảy ra đoản mạch giữa electrolyte và aluminum. Chất lỏng sẽ nóng lên và tụ điện có thể phát nổ. Lớp aluminium oxide là dielectric, và độ mỏng của lớp này, cùng với khả năng chịu đựng một điện trường với cường độ khoảng 109 volts per metre, làm tạo ra dung tích cao của tụ điện. Các tụ điện hiện đại có van an toàn trên một mặt tròn để thông thoáng khí/chất lỏng nóng, nhưng tiếng nổ vẫn có thể lớn. Sự phân cực đúng đắn được viết ra trên gói bởi một lằn với dấu âm và có thể là những mũi tên, ký hiệu cực ngay cạnh đó âm hơn cực còn lại. Tụ điện phân sẽ có hành vi giống như bất cứ tụ điện nào khác nếu cực bị nghịch đảo, cho đến điểm chúng bị hủy. Đây là lý do duy nhất cho yêu cầu về phân cực. Đa số vẫn chịu đựng nếu không có sự đảo cực (điện một chiều) hoặc chỉ điện xoay chiều, và có thể chịu sự đảo cực trong một khoảng thời gian, nhưng mạch điện nên được thiết kế sao cho không có sự đảo cực không đổi trong một lượng thời gian lớn. Một sự phân đúng cực không đổi sẽ làm tăng tuổi thọ của tụ điện. Các biến thể Khác với tụ điện mà dùng một khối lượng chất điện môi làm từ các nguyên liệu cách điện, chất điện môi trong tụ điện điện phân phụ thuộc vào việc hình thành và duy trì của lớp oxide kim loại cực nhỏ. So với tụ điện dùng chất điện môi, chất điện môi rất mỏng này cho phép điện dung lớn hơn trên mỗi đơn vị thể tích. Tụ điện điện phân thường dùng một hóa chất làm ướt bên trong, và chúng cuối cùng sẽ hỏng khi nước bên trong tụ điện bốc hơi. Siêu tụ điện Siêu tụ điện (Supercapacitor) là các tụ hoá được chế theo công nghệ mới, như tụ điện lớp kép EDLS (Electric double-layer capacitor) hay tụ điện Lithium-ion. Chúng đạt được mật độ điện dung lớn hơn tụ hoá thường cỡ trăm lần. Siêu tụ điện Nanoionic Siêu tụ điện Li ion (LIC) Khả năng phóng nạp nhanh và chứa nhiều năng lượng hứa hẹn ứng dụng siêu tụ điện này trong giao thông để khai thác lại năng lượng hãm phanh (thắng), cung cấp năng lượng đỉnh đột xuất cho ô tô điện, tàu điện, tàu hoả nhanh,...
Hội Tam Hoàng, tức Hội Tam Hợp () hay Xã hội Đen (); Hắc đạo (); đề cập đến nhiều băng đảng tội phạm lớn xuyên quốc gia, có địa bàn hoạt động chủ yếu và hội sở đặt tại Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan, có chi nhánh hoạt động ở một số nơi khác có người Hoa sinh sống như Trung Hoa đại lục và các khu phố Tàu) ở châu Âu, Bắc Mỹ, Nam Phi, Úc và New Zealand. Lịch sử Hội Tam Hoàng được hình thành từ thời phong kiến Trung Hoa, theo kiểu một tổ chức liên kết bí mật giữa một số gia đình hoàng tộc chịu ơn nghĩa của nhau và bảo vệ lợi ích cho nhau. Hội Tam Hoàng xuất phát từ phong trào chống lại nhà Thanh của người Hán vào thế kỷ 17 mà các vị tỉ-khâu chùa Thiếu Lâm ở tỉnh Hà Nam (Trung Quốc) lãnh đạo. Tam Hoàng cứ thế lớn mạnh từ hết đời này đến đời khác cho đến thế kỷ 19, khi triều đình quyết định xử tử các thành viên của tổ chức này. Theo một số nguồn tin, sau khi thất bại, bị trấn áp một số phần tử đã di cư sang Đông Nam Á và mang theo cơ cấu tổ chức của Hội Tam Hoàng hoạt động tại quốc gia sở tại. Đến đầu thế kỷ 20, Tam Hoàng trở thành một tổ chức tội phạm có tổ chức thực sự với hàng loạt hoạt động trên mọi lĩnh vực, từ buôn lậu vũ khí đến tống tiền, mại dâm, bắt cóc, tổ chức vượt biên bất hợp pháp, làm hàng giả, cho vay nặng lãi, đánh bạc... Tổ chức, hoạt động Điểm đặc biệt của Hội Tam Hoàng là mọi hoạt động đều rất bí mật, chính vì thế hầu như có rất ít thông tin về tổ chức này lọt được ra ngoài. Sau khi chính quyền Mao Trạch Đông quyết tâm trấn áp, hội này đã di chuyển phần lớn sang Hồng Kông. Và từ đó, Hồng Kông trở thành căn cứ hoạt động rầm rộ nhất của tổ chức tội phạm này với khoảng 50 băng đảng con quy tụ ít nhất 80.000 thành viên. Hội Tam Hoàng phát triển như vũ bão, vươn vòi bạch tuộc vào mọi lĩnh vực trong đời sống của người Hồng Kông. Vũ khí chủ yếu của các thành viên Hội Tam Hoàng tại Hồng Kông là dao tông (machete) hay còn gọi là "dao chặt dưa hấu" (watermelon knife). Từ năm 1997, Hồng Kông được trao trả về Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quản lý, Hội Tam Hoàng đã nhanh chân di chuyển địa bàn hoạt động sang Hoa Kỳ, Hà Lan... và hiện nay đang xây dựng phát triển tại các quốc gia này. Nhận dạng người của Hội Tam Hoàng là hình xăm chữ số 3 trong hình đám mây hoặc chim én .
Nhận dạng tiếng nói là một quá trình nhận dạng mẫu, còn được gọi là nhận dạng giọng nói tự động (ASR), nhận dạng giọng nói máy tính hoặc chuyển đổi giọng nói thành văn bản (STT). Với mục đích là phân lớp (classify) thông tin đầu vào là tín hiệu tiếng nói thành một dãy tuần tự các mẫu đã được học trước đó và lưu trữ trong bộ nhớ. Các mẫu là các đơn vị nhận dạng, chúng có thể là các từ, hoặc các âm vị. Nếu các mẫu này là bất biến và không thay đổi thì công việc nhận dạng tiếng nói trở nên đơn giản bằng cách so sánh dữ liệu tiếng nói cần nhận dạng với các mẫu đã được học và lưu trữ trong bộ nhớ. Khó khăn cơ bản của nhận dạng tiếng nói đó là tiếng nói luôn biến thiên theo thời gian và có sự khác biệt lớn giữa tiếng nói của những người nói khác nhau, tốc độ nói, ngữ cảnh và môi trường âm học khác nhau. Xác định những thông tin biến thiên nào của tiếng nói là có ích và những thông tin nào là không có ích đối với nhận dạng tiếng nói là rất quan trọng. Đây là một nhiệm vụ rất khó khăn mà ngay cả với các kỹ thuật xác suất thống kê mạnh cũng khó khăn trong việc tổng quát hoá từ các mẫu tiếng nói những biến thiên quan trọng cần thiết trong nhận dạng tiếng nói. Các nghiên cứu về nhận dạng tiếng nói dựa trên ba nguyên tắc cơ bản: Tín hiệu tiếng nói được biểu diễn chính xác bởi các giá trị phổ trong một khung thời gian ngắn (short-term amplitude spectrum). Nhờ vậy ta có thể trích ra các đặc điểm tiếng nói từ những khoảng thời gian ngắn và dùng các đặc điểm này làm dữ liệu để nhận dạng tiếng nói. Nội dung của tiếng nói được biểu diễn dưới dạng chữ viết, là một dãy các ký hiệu ngữ âm. Do đó ý nghĩa của một phát âm được bảo toàn khi chúng ta phiên âm phát âm thành dãy các ký hiệu ngữ âm. Nhận dạng tiếng nói là một quá trình nhận thức. Thông tin về ngữ nghĩa (semantics) và suy đoán (pragmatics) có giá trị trong quá trình nhận dạng tiếng nói, nhất là khi thông tin về âm học là không rõ ràng. Cách tiếp cận nhận dạng tiếng nói bằng thống kê bao gồm: sử dụng mô hình Markov ẩn, mạng nơ-ron, sử dụng cơ sở tri thức, v.v.. Các hệ thống nhận dạng tiếng nói có thể được phân thành hai loại: "phụ thuộc vào người nói" (speaker-dependent) và "không phụ thuộc vào người nói" (speaker-independent). Các ứng dụng của nhận dạng tiếng nói bao gồm giao diện người dùng bằng giọng nói, quay số bằng giọng nói, điều khiển thiết bị gia đình, tìm kiếm từ khóa, nhập dữ liệu đơn giản, chuẩn bị tài liệu có cấu trúc, xác định đặc điểm của người nói, xử lý văn bản từ giọng nói và nhập liệu giọng nói trực tiếp trong máy bay. Khác với nhận dạng tiếng nói, thuật ngữ nhận dạng giọng nói hoặc xác định người nói chỉ việc xác định ai đang nói, chứ không phải nội dung của lời nói. Nhận dạng giọng nói có thể đơn giản hóa việc dịch nội dung tiếng nói trong các hệ thống được đào tạo trên giọng nói của một người cụ thể hoặc có thể được sử dụng để chứng thực hoặc xác minh danh tính của người nói trong quá trình bảo mật. Lịch sử của nhận dạng tiếng nói có nhiều giai đoạn và đột phá quan trọng. Gần đây, lĩnh vực này đã được hưởng lợi từ các tiến bộ trong lĩnh vực học sâu và dữ liệu lớn. Sự tiến bộ được chứng minh không chỉ qua sự gia tăng các bài báo học thuật được xuất bản trong lĩnh vực này, mà quan trọng hơn là việc ngành công nghiệp trên toàn thế giới áp dụng nhiều phương pháp học sâu trong việc thiết kế và triển khai các hệ thống nhận dạng tiếng nói.
Jessica Marie Alba ( ; sinh ngày 28 tháng 4 năm 1981) là một nữ diễn viên và nữ doanh nhân người Mỹ. Cô bắt đầu xuất hiện trên truyền hình và điện ảnh ở tuổi 13 trong Camp Nowhere và The Secret World of Alex Mack (1994), và nổi lên ở tuổi 19 với tư cách là nữ diễn viên chính của bộ phim truyền hình Dark Angel (2000–2002), cô đã nhận được đề cử Quả cầu vàng. Bước đột phá trên màn ảnh rộng của cô là trong Honey (2003). Cô sớm khẳng định mình là một nữ diễn viên Hollywood, và đã đóng vai chính trong rất nhiều thành công phòng vé trong suốt sự nghiệp của mình, bao gồm Fantastic Four (2005), Fantastic Four: Rise of the Silver Surfer (2007), Good Luck Chuck (2007), The Eye ( 2008), Valentine's Day (2010), Little Fockers (2010), và Mechanic: Resurrection (2016).  Cô là cộng tác viên thường xuyên của đạo diễn Robert Rodriguez, từng đóng phim Sin City (2005), Machete (2010), Spy Kids: All the Time in the World (2011), Machete Kills (2013) và Sin City: A Dame to Kill For (2014). Từ năm 2019 đến năm 2020, Alba đóng vai chính trong loạt phim tội phạm hành động Spectrum LA's Finest. Năm 2011, Alba đồng sáng lập The Honest Company, một công ty hàng tiêu dùng chuyên bán các sản phẩm trẻ em, cá nhân và gia dụng. Các tạp chí bao gồm Men's Health, Vanity Fair và FHM đã đưa cô vào danh sách những phụ nữ đẹp nhất thế giới. Những năm đầu đời Jessica Marie Alba sinh tại Pomona, California vào ngày 28 tháng 4 năm 1981, là con gái của Catherine Louisa (nhũ danh Jensen) và Mark David Alba. Mẹ của cô có tổ tiên là Đan Mạch, xứ Wales, Đức, Anh và Pháp, trong khi ông bà nội của cô, những người sinh ra ở California, đều là con của những người nhập cư Mexico. Cô có một người em trai, Joshua. Người anh họ thứ ba của cô, một khi đã bị loại bỏ, là nhà văn Gustavo Arellano. Sự nghiệp Không quân của cha cô đưa gia đình đến Biloxi, Mississippi và Del Rio, Texas , trước khi định cư trở lại Claremont, California , khi cô chín tuổi. Alba đã mô tả gia đình cô là một "gia đình rất bảo thủ - một gia đình truyền thống, Công giáo, Mỹ Latinh" và bản thân cô rất tự do; cô ấy nói rằng cô ấy đã tự nhận mình là một "nhà nữ quyền" ngay từ khi mới 5 tuổi. Cuộc đời đầu tiên của Alba được đánh dấu bằng vô số căn bệnh về thể chất. Trong thời thơ ấu, cô bị viêm phổi 4-5 lần mỗi năm và hai lần bị xẹp phổi một phần cũng như ruột thừa bị vỡ và u nang amidan. Cô cũng bị hen suyễn từ khi còn là một đứa trẻ. Alba trở nên bị cô lập với những đứa trẻ khác ở trường vì cô ấy thường xuyên phải ở trong bệnh viện vì bệnh tật đến nỗi không ai hiểu rõ về cô ấy để kết bạn với cô ấy. Cô nói rằng việc gia đình cô thường xuyên di chuyển cũng góp phần khiến cô bị cô lập với các bạn cùng lứa tuổi.  Alba tốt nghiệp trường trung học Claremontở tuổi 16 và sau đó theo học tại Atlantic Theater Company. Sự nghiệp 1992–1999: Bắt đầu Alba bày tỏ niềm yêu thích diễn xuất từ ​​năm 5 tuổi. Năm 1992, cô bé 11 tuổi Alba thuyết phục mẹ đưa cô đến tham gia một cuộc thi diễn xuất ở Beverly Hills, nơi có giải thưởng lớn là các lớp học diễn xuất miễn phí. Alba đã giành được giải thưởng lớn và tham gia những bài học diễn xuất đầu tiên. Một đại lý đã ký hợp đồng với Alba 9 tháng sau đó. Lần đầu tiên cô xuất hiện trên phim là một vai nhỏ trong bộ phim điện ảnh Camp Nowhere với vai Gail năm 1994. Ban đầu cô được thuê trong hai tuần nhưng vai trò của cô đã trở thành công việc kéo dài hai tháng khi một trong những nữ diễn viên nổi bật bỏ học. Alba xuất hiện trong hai quảng cáo truyền hình quốc gia cho Nintendo và JC Penney khi còn nhỏ. Sau đó cô đã được xuất hiện trong một số bộ phim độc lập. Cô lấn sân sang lĩnh vực truyền hình vào năm 1994 với vai diễn định kỳ là Jessica vô ích trong ba tập của loạt phim hài Nickelodeon The Secret World of Alex Mack .  Sau đó cô diễn vai Maya trong hai mùa đầu tiên của bộ phim truyền hình Flipper năm 1995. Dưới sự dạy dỗ của mẹ là nhân viên cứu hộ, Alba đã học bơi trước khi biết đi và cô ấy là một thợ lặn có bình dưỡng khí được chứng nhận bởi PADI, những kỹ năng đã được đưa vào sử dụng trong chương trình, được quay ở Úc. Năm 1998, cô xuất hiện với vai Melissa Hauer trong tập đầu tiên của bộ phim tội phạm Brooklyn South của Steven Bochco , với vai Leanne trong hai tập của Beverly Hills, 90210, và vai Layla trong một tập của Love Boat: The Next Wave. Năm 1999, cô xuất hiện trong bộ phim hài Randy Quaid PUNKS. Sau khi Alba tốt nghiệp trung học, cô học diễn xuất với William H. Macy và vợ anh, Felicity Huffman, tại Atlantic Theater Company, được phát triển bởi Macy và nhà viết kịch kiêm đạo diễn phim, đoạt giải Pulitzer ,David Mamet. Alba trở nên nổi tiếng hơn ở Hollywood vào năm 1999 sau khi xuất hiện với tư cách là thành viên của một nhóm trung học hợm hĩnh hành hạ một biên tập viên sao chép không an toàn trong bộ phim hài lãng mạn Never Been Kissed , đối diện với Drew Barrymore, và với vai nữ chính trong bộ phim kinh dị hài hước ít được xem Idle Hands, cùng với Devon Sawa. 2000–2006: Được công nhận trên toàn thế giới Bước ngoặt lớn của cô đến khi James Cameron chọn Alba từ hơn một nghìn ứng cử viên cho vai siêu chiến binh biến đổi gen, Max Guevara , trong loạt phim truyền hình khoa học viễn tưởng Dark Angel của FOX. Loạt phim kéo dài hai mùa cho đến năm 2002 và nhận được sự đánh giá cao của giới phê bình Alba, đề cử Quả cầu vàng , Giải thưởng Teen Choice cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất và Giải Saturn cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất .  Vai diễn của cô được coi là một nhân vật nữ quyền và được coi là biểu tượng của sự trao quyền cho phụ nữ. Viết cho Đại học Melbourne, Bronwen Auty coi Max là "anh hùng nữ quyền hiện đại nguyên mẫu — một phụ nữ trẻ được trao quyền sử dụng cơ thể của mình một cách chủ động để đạt được mục tiêu", trích dẫn việc Max từ chối sử dụng súng và thay vào đó sử dụng võ thuật và kiến ​​thức làm vũ khí để góp phần vào việc này trạng thái. Năm 2004, Max được xếp ở vị trí thứ 17 trong danh sách "25 huyền thoại khoa học viễn tưởng vĩ đại nhất" của TV Guide. Vai diễn của cô trong Dark Angel đã dẫn đến những phần quan trọng trong các bộ phim, cô đã có bước đột phá trên màn ảnh rộng vào năm 2003, khi cô đóng vai một vũ công kiêm biên đạo múa đầy tham vọng trong Honey. Rotten Tomatoes đồng thuận phê bình là: "Một Jessica Alba hấp dẫn và những điệu nhảy tràn đầy năng lượng giúp nâng tầm cho bộ phim ngô nghê và công thức này". Kinh phí 18 triệu đô la Mỹ, tuy nhiên, bộ phim đã thu về 62,2 triệu đô la Mỹ. Tiếp theo, Alba vào vai vũ công kỳ lạ Nancy Callahan , là một phần của dàn diễn viên dài tập, trong bộ phim tuyển tập tội phạm Sin City (2005), do Robert Rodriguez và Frank Miller viết kịch bản, sản xuất và đạo diễn. Nó dựa trên tiểu thuyết đồ họa cùng tên của Miller. Cô chưa nghe nói về cuốn tiểu thuyết trước khi tham gia vào bộ phim, nhưng rất háo hức được làm việc với Rodriguez. Bộ phim là một tác phẩm được giới phê bình yêu thích và thu về 158,8 triệu đô la Mỹ. Cô đã nhận được Giải thưởng MTV Movie cho Màn trình diễn gợi cảm nhất. trái|nhỏ|Alba tại buổi chiếu phim The Eye (2008). Alba đã thể hiện nhân vật Invisible Woman của Marvel Comics trong Fantastic Four (cũng năm 2005), cùng với Ioan Gruffudd, Chris Evans, Michael Chiklis và Julian McMahon. The Guardian , trong bài đánh giá cho bộ phim, lưu ý: "Những người ủng hộ nữ quyền và phi nữ quyền đều phải tiếp thu nghịch lý rắc rối nhất của Fantastic Four: được nhận vào câu chuyện vì vẻ đẹp của cô ấy, siêu năng lực của [Alba] là vô hình”. Bộ phim thành công về mặt thương mại bất chấp những đánh giá tiêu cực, thu về 333,5 triệu đô la Mỹ trên toàn thế giới. Tại lễ trao giải MTV Movie năm 2006, cô đã giành được đề cử cho Anh hùng xuất sắc nhất và Đội trên màn ảnh xuất sắc nhất. Bộ phim cuối cùng của cô năm 2005 là phim kinh dị Into the Blue, trong đó Alba thể hiện, cùng với Paul Walker, một nửa của một cặp vợ chồng gặp rắc rối với một trùm ma túy sau khi họ bắt gặp hàng hóa bất hợp pháp trên một chiếc máy bay bị chìm. Phim đạt doanh thu phòng vé vừa phải, với tổng doanh thu toàn cầu là 44,4 triệu đô la Mỹ. Cô tổ chức Lễ trao giải MTV Movie năm 2006 và thực hiện các bản phác thảo giả mạo các bộ phim King Kong, Mission: Impossible III và The Da Vinci Code. 2007–2010: Phim hài lãng mạn Alba đã thể hiện lại vai diễn của mình trong Fantastic Four: Rise of the Silver Surfer, phát hành vào tháng 6 năm 2007. Theo Alba, dưới sự chỉ đạo của Tim Story trong một cảnh tình cảm gần như khiến cô ấy bỏ diễn. "[Anh ấy nói với tôi] 'Trông thật quá. Trông đau quá. Bạn có thể xinh hơn khi khóc không? Khóc xinh đi Jessica." Anh ấy nói: "Đừng làm điều đó với khuôn mặt của bạn. Chỉ cần làm cho nó phẳng. Chúng tôi có thể CGI cho những giọt nước mắt trong đó." "Theo Alba, trải nghiệm này khiến cô ấy tự nghi ngờ: "Và sau đó tất cả khiến tôi suy nghĩ : Có phải tôi không đủ tốt? Bản năng và cảm xúc của tôi không đủ tốt? Mọi người ghét họ đến mức họ không muốn tôi trở thành một người? Tôi không được phép trở thành một người trong công việc của mình? Và vì vậy tôi chỉ nói, "Chết tiệt. Tôi không quan tâm đến việc kinh doanh này nữa." Phim thu về 290 triệu đô la Mỹ trên toàn cầu. Trong Good Luck Chuck (cũng 2007), Alba đã thể hiện tình yêu của một nha sĩ lăng nhăng. Cô ấy chụp một trong những áp phích sân khấu của Good Luck Chuck nhại lại trang bìa Rolling Stone nổi tiếng do Annie Leibovitz chụp có John Lennon và Yoko Ono trong những tư thế tương tự. Mặc dù bộ phim bị giới phê bình chỉ trích dữ dội, nhưng nó đã kiếm được gần 60 triệu đô la Mỹ khi phát hành. Phương tiện đóng vai chính thứ ba của cô trong năm 2007 là bộ phim kinh dị tâm lý Awake, miêu tả bạn gái của một người đàn ông tỷ phú sắp được cấy ghép tim. Các bài đánh giá khá ấm áp, nhưng Roger Ebertkhen ngợi diễn xuất của cô, và kinh phí khoảng 8 triệu đô la Mỹ, bộ phim đã thu về 32,7 triệu đô la Mỹ. Vào tháng 2 năm 2008, cô đã tổ chức Giải thưởng Khoa học và Kỹ thuật của Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh. Alba chuyển sang diễn xuất của cô ấy sang thể loại kinh dị trong bộ phim The Eye, một phiên bản làm lại của bản gốc Hồng Kông, trong đó cô ấy nhận được vai một nghệ sĩ vĩ cầm cổ điển thành công, người được cấy ghép mắt cho phép cô ấy nhìn thấy siêu nhiên. thế giới.  Mặc dù bộ phim không được các nhà phê bình đón nhận, bản thân diễn xuất của cô đã nhận được nhiều đánh giá trái chiều. Cô đã giành được một giải thưởng Lựa chọn dành cho thanh thiếu niên cho Nữ diễn viên điện ảnh được lựa chọn: Horror – Thriller  và một đề cử Giải Mâm xôi vàng cho Nữ diễn viên tệ nhất (được chia sẻ với The Love Guru). ​Năm 2008, cô cũng đóng vai một nhân viên bán hàng trong bộ phim hài lãng mạn độc lập Meet Bill, cùng với Logan Lerman và Elizabeth Banks, và đóng vai chính trong bộ phim hài The Love Guru, trong vai một người phụ nữ kế thừa đội khúc côn cầu Toronto Maple Leafs, đối diện với Mike Myers và Justin Timberlake. Mick LaSalle, của San Francisco Chronicle, lưu ý rằng cô ấy "nổi bật" trong phim, cảm thấy rằng cuối cùng cô ấy "có vẻ thoải mái trước máy quay". The Love Guru là một thất bại về mặt thương mại và phê bình. Trong khi Alba không có bất kỳ bộ phim nào được phát hành trong năm 2009, năm bộ phim nổi tiếng được phát hành trong suốt năm 2010 đều có sự góp mặt của cô trong những vai diễn quan trọng. Vai diễn đầu tiên trong năm của cô là gái điếm trong The Killer Inside Me, chuyển thể từ cuốn sách cùng tên, đối diện với Kate Hudson và Casey Affleck, được công chiếu tại Liên hoan phim Sundance trước phản ứng trái chiều từ giới phê bình. Bộ phim tiếp theo của cô là bộ phim hài lãng mạn Valentine's Day, trong đó cô đóng vai bạn gái của một người bán hoa như một phần của dàn diễn viên dài tập bao gồm Jessica Biel, Bradley Cooper, Taylor Lautner và Julia Roberts, trong số những người khác. Bất chấp những đánh giá tiêu cực, bộ phim vẫn thành công về mặt thương mại, với tổng doanh thu toàn cầu là 216,5 triệu đô la Mỹ. Trong bộ phim hành động Machete, Alba tái hợp với đạo diễn Robert Rodriguez, đảm nhận vai một nhân viên nhập cư bị giằng xé giữa việc thực thi luật pháp và làm những gì phổ biến trong mắt gia đình cô. Machete đã kiếm được hơn 44 triệu đô la Mỹ trên toàn cầu. Bộ phim truyền hình An Invisible Sign of My Own mà Alba quay vào cuối năm 2008, được công chiếu lần đầu tại Liên hoan phim Hamptons. Trong đó, cô miêu tả một phụ nữ trẻ rút lui đầy đau đớn.  Bộ phim cuối cùng năm 2010 của cô là bộ phim hài Little Fockers, trong đó cô đóng vai một đại diện ma túy hướng ngoại, đoàn tụ với Robert De Niro, người cũng ở Machete. Bất chấp những đánh giá tiêu cực từ giới phê bình, bộ phim đã thu về hơn 310 triệu đô la Mỹ trên toàn thế giới. Với tất cả các vai diễn năm 2010, cô đã nhận được Giải Mâm xôi vàng cho Nữ diễn viên phụ tồi nhất. 2011–nay: Các sản phẩm hành động và truyền thông độc lập Năm 2011, Alba làm việc lần thứ ba với Robert Rodriguez trong bộ phim Spy Kids: All the Time in the World , miêu tả một điệp viên đã nghỉ hưu được gọi trở lại hành động. Để gắn kết với những đứa con riêng mới của mình, cô mời chúng đi cùng.  Phim giảm sút về doanh thu phòng vé so với các phim trước trong loạt phim, nhưng vẫn là một thành công vừa phải, thu về 85 triệu đô la Mỹ trên toàn cầu.  Tiếp theo, Alba xuất hiện cùng với Adam Scott , Richard Jenkins , Jane Lynch , Mary Elizabeth Winstead và Catherine O'Hara trong bộ phim hài ACOD (2013), miêu tả những gì Washington Postđược mô tả như một "đứa con của cuộc ly hôn", người mà nhân vật của Scott gần như "lừa dối" bạn gái của cô. Nhà phê bình Ben Kendrick của ScreenRant đã viết: "[Winstead] và [Alba] cũng mang đến những đóng góp của họ - mặc dù cả hai nhân vật của họ chủ yếu được thiết kế để trở thành tấm gương để Carter kiểm tra cuộc sống và lựa chọn của chính mình." ACOD nhận được một suất chiếu giới hạn ở Bắc Mỹ. Năm 2013, Alba cũng tham gia lồng tiếng trong bộ phim hoạt hình khá thành công Escape from Planet Earth. Alba một lần nữa làm việc với đạo diễn Rodriguez trong hai phần tiếp theo của bộ phim. Cô đã thể hiện lại vai diễn Viên chức Nhập cư, trong một lần xuất hiện khách mời không được công nhận, trong Machete Kills (2013), bộ phim thu hút các nhà phê bình và khán giả, và vai diễn vũ công thoát y Nancy Callahan lớn tuổi hơn nhiều, tìm cách trả thù cho người bảo vệ quá cố của cô, trong Sin City: A Dame to Kill For, được phát hành vào tháng 8 năm 2014, dưới định dạng 2D và 3D. Không giống như bộ phim đầu tiên, A Dame to Kill For là một thất bại về mặt thương mại, thu về 39 triệu đô la Mỹ so với kinh phí sản xuất 65 triệu đô la Mỹ, và nhận được nhiều đánh giá trái chiều từ các nhà phê bình phim. Variety cảm thấy đó là một "nỗ lực muộn màng, khập khiễng để biến nhân vật của Alba từ một nhân vật bị lợi dụng thành một nhân vật được trao quyền".  Tiếp theo, cô đảm nhận vai một nghệ sĩ biểu diễn chương trình tạp kỹ trong phim điện ảnh Dear Eleanor (2014), bạn gái lực lưỡng của một giáo sư người Anh thành đạt và được kính trọng trong bộ phim hài lãng mạn Some Kind of Beautiful (2014), một nhân viên lễ tân tại một công ty xe limo trong phim kinh dị Stretch (cũng năm 2014), một kẻ buôn vũ khí dễ bị tổn thương về mặt cảm xúc trong bộ phim hài tội phạm Barely Lethal (2015) và của một nhà làm phim tài liệu trong phim kinh dị The Veil (2016); tất cả các phim đều được phát hành tại rạp giới hạn và VOD. Trong bộ phim hành động Mechanic: Resurrection (2016), cùng với Jason Statham, Alba vào vai bạn gái của một sát thủ đã nghỉ hưu. Cô ấy đã nhờ Krav Maga để định hình cho bộ phim, và bị thu hút bởi sức mạnh mà nhân vật của cô ấy thể hiện, nhận xét: "Tôi nghĩ rằng đối với những loại phim này, bạn không thường thấy loại nữ chính lãng mạn. mông. Ý tôi là, thường là cô ấy được cứu bởi anh chàng, và vì vậy thật tuyệt khi tôi đến bàn với một sự cứng rắn và một trái tim thực sự". Phim kiếm được 125,7 triệu đô la Mỹ trên toàn thế giới. Cô sẽ đóng vai chính và điều hành sản xuất một loạt phim tài liệu mới cho Disney + mang tên "Nuôi dạy con không biên giới" (tựa đề làm việc) sẽ tập trung vào các gia đình trên khắp thế giới cũng như tín ngưỡng và văn hóa của họ. Hình ảnh trong cộng đồng Alba luôn xuất hiện với một hình ảnh gợi cảm và duyên dáng. Không phải chỉ bạn, mà ngay cả chính Jessica cũng nói rằng, cô thấy mình là một người phụ nữ có cá tính rất mạnh. Vào năm 2001, cô xếp thứ nhất trong danh sách Nóng bỏng 100 của tờ Maximvà được bầu chọn trên AskMen.com là người phụ nữ được khao khát nhiều nhất trong danh sách "99 Most Desiable Women" năm 2006. Trong năm 2007, Jessica cũng dẫn đầu vị trí Người phụ nữ gợi cảm nhất do FHM bầu chọn. Cô nói "Tôi phải dùng tình dục có hạn chế cho lợi thế của cô, và muốn mọi người nghĩ những gì cô muốn". Vào năm 2005, Alba được xếp vào danh sách 50 Người đẹp của tờ People. Alba đã tham gia vào vụ kiện tụng chống lại Playboy cho việc sử dụng các hình ảnh của mình (từ một shot quảng cáo cho Into the Blue) mà không cần sự đồng ý của cô, mà cô cho rằng cô đã đặc trưng trong các vấn đề về việc "khỏa thân bằng hình ảnh". Nhưng sau đó cô đã bỏ vụ kiện vì chủ tich của Playboy đã xin lỗi. Tuy là ngôi sao gợi cảm trong làng giải trí nhưng cô luôn mong muốn được coi như một diễn viên thực thụ. Alba đã từng từ chối khỏa thân trong bộ phim Sin City. Khi chụp hình cho tạp chí GQ, Jessica cũng nhất định không để lộ phần ngực của mình. Alba sợ rằng sẽ bị gắn danh hiệu sex-kitten, bình luận rằng, "Bằng cách nào đó, tôi không hiểu tại sao nó lại không xảy ra với Natalie Portman". Cô cũng cho thêm quyền không khỏa thân vào các hợp đồng phim. Cô được đề nghị khỏa thân trong phim Sin City bởi đạo diễn, nhưng cô từ chối nói ràng "Tôi không làm khỏa thân. Điều đó làm tôi trở thành nữ diễn viên xấu. Làm tôi không được thuê vào các phim khác. Nhưng tôi có quá nhiều lo ngại". Cuộc sống riêng tư Khi quay bộ phim Dark Angel, Alba từng có một mối tình kéo dài đến 4 năm với nam diễn viên Michael Weatherly. Mối tình này gây ra nhiều tranh cãi khi Weatherly hơn Alba đến 12 tuổi. Sau đó hai người đường ai nấy đi. Alba từng trả lời phỏng vấn về cuộc chia tay này là do mình còn quá trẻ còn Weatherly thì lại quá già dặn. Alba gặp Cash Warren, con trai của diễn viên Michael Warren khi làm phim Fantastic Four năm 2004. Mối tình này cũng tốn nhiều giấy mực của báo chí khi có những lúc cuộc tình của họ tưởng chừng như không có hồi kết. Nhưng cuối cùng, hạnh phúc đã đến với họ khi Alba kết hôn với Warren tại L.A vào tháng 5 năm 2008. Vào tháng 6 năm 2008, Alba sinh một bé gái tên Honor Marie Warren. Sau đó, cô và Cash quyết định tổ chức lễ cưới lần thứ hai vào cuối năm 2008. Lần này, Jessica mặc váy cưới còn lần đầu tiên do bụng đã khá to nên cô đã không mặc lễ phục. Ngoài hoạt động trong làng giải trí, Alba còn là một nhà từ thiện tích cực. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2008, cô đã vận động chiến dịch Declare Yourself, một sáng kiến phi lợi nhuận, phi đảng phái của những cử tri trẻ tuổi, để vận động mạnh mẽ những người trẻ tuổi đăng ký và bỏ phiếu cho cuộc bầu cử. Với ý chí của một người trẻ, Alba nói: "Nếu bạn không đăng ký và tham gia bỏ phiếu để tạo ra một sự khác biệt, để thay đổi những điều tồi tệ đang xảy ra ở đất nước chúng ta, có nghĩa bạn đã tự "khóa miệng" và cấm đoán quyền tự do ngôn luận của chính mình" . Ngoài ra Alba cũng là người yêu thể thao, trong đó có bóng đá. Cô là fan của Hamburger SV, một câu lạc bộ nổi tiếng tại Đức. Đứng thứ 5 trong danh sách 99 người đẹp được thèm muốn nhất của tạp chí Askmen năm 2010. Danh sách phim Điẹn ảnh Truyền hình Music videos Video games Đề cử và giải thưởng Chú thích
Lee Bon (sinh năm 1972) là diễn viên Hàn Quốc, được khán giả Việt Nam biết đến qua bộ phim Cảm xúc. Cô cũng có nhiều biệt danh, như là Sportswoman (vì cô chơi những môn thể thao, nhất là bi-đa, rất giỏi), Black Bean (bởi vì cô rất thích nói đùa), Dancing Queen, v.v. Ngoài bộ phim Cảm xúc, cô còn tham gia đóng bộ phim Anh và em, Tình yêu trong sáng và nhiều bộ phim khác.
Visoko () là một thành phố của Bosna và Hercegovina. Đây là trung tâm thời kỳ đầu của nhà nước Bosna Trung Cổ, và là nơi vị vua Bosna đầu tiêng, Tvrtko I, đăng quang. Tọa lạc giữa Zenica và Sarajevo, Visoko nằm cạnh sông Bosna, nơi sông Fojnica hòa vào. Khu vực Visoko có chừng 46.000 cư dân, trong đó ước tính 17.000 sinh sống trong địa giới thành phố.
Người Hạc Lão là một nhóm tộc người nói tiếng Mân Nam, có thể là: Người Hạc Lão (Hō-ló), một trong bốn tộc người chiếm đa số ở Đài Loan. Người Triều Sán tại Triều Sán, Quảng Đông. Người Hải Lục Phong tại Sán Vĩ, Quảng Đông.
Trong thiết kế xây dựng, tải trọng công trình hay chính xác hơn là tải trọng và tác động (tiếng Anh: loads and actions) là các tác động vào công trình xây dựng, dưới dạng lực (tải trọng), và các tác động khác không phải là lực như (chênh lệch nhiệt độ, biến dạng cưỡng bức). Tải trọng (loads) là các tác động, dưới dạng lực thật sự, từ bên ngoài đặt vào hay trọng lượng của bản thân kết cấu công trình, mà kết cấu công trình phải mang. Chênh lệch nhiệt độ giữa các phần của kết cấu, biến dạng cưỡng bức của các phần kết cấu tuy không phải là tác động dưới dạng lực nhưng chúng cũng là những dạng đặc biệt của tải trọng công trình, vì ảnh hưởng của chúng đến kết cấu công trình là như nhau: cùng làm cho kết cấu phát sinh ra nội lực kháng lại chúng. Phân loại tải trọng Có nhiều loại lực tác động vào kết cấu công trình, ứng với mỗi loại là các loại tải trọng. Tải trọng tĩnh Tải trọng tĩnh là lực đặt tĩnh tại trong suốt quá trình làm việc của kết cấu, nằm ở trên, hay bên trong (tức trọng lực của chính kết cấu), của kết cấu công trình. Ví dụ: Trọng lượng của các lớp hoàn thiện (trát, lát,...) cùng trọng lượng của bản thân kết cấu sàn bê tông cốt thép, là tĩnh tải tác dụng lên kết cấu sàn bê tông cốt thép. Trọng lượng của bê tông cốt thép sàn cùng trọng lượng của hệ khuôn đúc sàn, là tĩnh tải tác dụng lên kết cấu khuôn đúc sàn. Tải trọng động Tải trọng động là lực gây ra do các vật thể bên ngoài kết cấu tác động vào kết cấu công trình trong khi chúng đang chuyển động có hướng vào kết cấu công trình. và gây ra gia tốc chuyển vị cho các phần tử của kết cấu. Thí dụ: trọng lực người di chuyển trên công trình kiến trúc sẽ là tải trọng động. Tải trọng gió Tải trọng gió là lực đẩy ngang của gió, tác động vào công trình xây dựng. Tải trọng gió là một loại tải trọng động đặc biệt. Động đất Hiện tượng nứt gãy trong lòng vỏ quả đất làm cho bề mặt trái đất bị thay đổi. Sứt nứt gãy này làm nên một chấn động từ tâm vùng bị nứt đến bề mặt trái đất.
1 000 000 000 () hay còn gọi là một tỷ là một số tự nhiên. Về mặt vị trí trên trục số, 1000000000 là số liền trước số 1000000001 () và là số liền sau số 999999999 (). Về tính chất đại số, 1000000000 ( là một số chính phương, không phải là một số nguyên tố.
Xe đầu kéo là những loại xe vận chuyển hàng hóa,chở được những vật cồng kềnh và trọng lượng lớn trên sơmi rơ moóc container...Với phần đầu kéo gồm 2 đến 4 trục cơ sở kéo dài hoặc hơn tùy theo nhu cầu sử dụng của khách hàng. Hoạt động Xe đầu kéo hoạt động độc lập vì có thể tách rời với phần thùng hàng giúp việc bốc dỡ hàng hóa dễ dàng, thuận tiện hơn. Vì có thể kéo thêm các rơ moóc khác nhau nên có thể chở được thêm các loại hàng hóa khác nhau giúp tăng sự linh động, hiệu quả trong công việc. Vì hoạt động riêng biệt nên xe đầu kéo là loại xe chuyên dùng để vận chuyển các loại container xuất nhập khẩu bằng đường biển hoặc đường sắt.
1000 (một nghìn, hay một ngàn) là một số tự nhiên ngay sau 999 và ngay trước 1001.
Hươu xạ Siberia (Moschus moschiferus) là một loài hươu xạ tìm thấy trong các cánh rừng miền núi của Đông Bắc Á. Nó sinh sống chủ yếu tại các cánh rừng taiga của miền nam Siberia, nhưng cũng được phát hiện là có tại các khu vực khác nhau của Mông Cổ, Nội Mông, Mãn Châu và bán đảo Triều Tiên. Hươu xạ Siberia được IUCN phân loại là dễ bị thương tổn (1996). Người ta săn bắt chúng để lấy xạ hươu, chứa một loạt các hợp chất hữu cơ có mùi thơm mạnh, dùng trong sản xuất nước hoa và một số dược phẩm, có thể bán được tới giá 45.000 USD/kg. Chỉ khoảng 25 gam xạ hươu có thể tiết ra từ một con đực trưởng thành. Người ta có thể tách xạ mà không cần giết chết con vật, nhưng đây là một việc rất ít khi những người thợ săn làm. Thường thì họ giết chết con vật để lấy toàn bộ túi xạ. Một phân loài khác biệt của nó sinh sống trên đảo Sakhalin. Đặc điểm Đây là loài sinh sống với hình thức kiếm ăn về đêm là chính và chúng chỉ di chuyển trong một khoảng cách nhỏ mỗi đêm (khoảng 3–7 km). Nó ưa thích các khu vực có độ cao lớn hơn 2.600 m. Các con trưởng thành có kích thước nhỏ, dài khoảng 86–100 cm, cao 52–55 cm và chỉ cân nặng khoảng 7–17 kg. Bộ lông của chúng dao động từ màu nâu ánh vàng sáng tới đen, trong đó màu nâu sẫm là chủ yếu. Các chân sau dài và khỏe hơn các chân trước. Chúng không có gạc, nhưng con đực trưởng thành có răng nanh trên khá dài, tới 10 cm. Chúng có thể sống tới 10-14 năm, trong tình trạng bị giam cầm có thể tới 20 năm. Độ tuổi trưởng thành và phát dục: 15-17 tháng tuổi. Thời gian mang thai của con mẹ là 6,5 tháng, nó sinh ra hai con non, ít khi là 1 hay 3, thông thường thời gian sinh diễn ra trong tháng Năm hay tháng Sáu. Thời gian cho bú sữa: 3-4 tháng.
Cầu khỉ là một loại cầu được làm rất đơn sơ bằng đủ loại chất liệu (thường thì bằng cây tre, dừa, phi lao) dùng để bắc qua kênh rạch để cho người qua lại. Những cây cầu này có hoặc không có tay vịn, rất khó đi và nguy hiểm đối với những người không quen sử dụng. Những người quen dùng thì có thể gánh/khoác/đội một khối lượng cỡ 20–50 kg để đi qua cầu (tất nhiên phải tự ước lượng sức chịu tải của cầu kẻo gãy cầu). Người ta hình dung chỉ có những con khỉ hay leo trèo mới có thể đi được, nên đặt tên là cầu khỉ. Một ý kiến khác cho rằng chính dáng người đi lom khom như con khỉ của khách bộ hành đã khiến chiếc cầu mang cái tên này. Ngoài ra, nó còn được gọi là cầu dừa (nếu được làm bằng cây dừa) hay cầu tre (nếu được làm bằng tre). Phân bố Loại cầu này hiện còn rất phổ biến ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, vì ở đây có hệ thống kênh rạch chằng chịt. Tại vùng ven biển Đồng bằng sông Hồng, như các huyện Giao Thủy, Hải Hậu,... (tỉnh Nam Định) hay Tiền Hải (tỉnh Thái Bình) hiện cũng có, chủ yếu phục vụ người qua lại khi chăm sóc lúa trên đồng. Tại các vùng núi cầu khỉ vẫn đang hiện diện trên các đường mòn xuyên rừng lên nương rẫy. Khi gặp suối người ta hạ một vài cây gỗ có thể dài đến 25 m, đặt lên để đi qua tránh ướt và qua được suối khi có nước lũ. Tuy nhiên giới chức và giới truyền thông gần như không đi vào những con đường này nên không ghi nhận sự tồn tại của nó. Trước năm 1960, cầu khỉ cũng rất phổ biến ở miền bắc. Nó xuất hiện tự nhiên theo những con đường của giao thông đi bộ, khi gặp kênh rạch thì bắc cầu để khỏi phải lội nước. Xây dựng và sử dụng cầu khỉ Vị trí bắc được cầu khỉ là nơi nước nông và nước không chảy mạnh. Mức độ chắc chắn của cầu thường ứng với độ sâu nước và nhu cầu qua lại: Nếu nhiều người đi thì phải chắc chắn hơn; đặc biệt nếu có trẻ em đi học thì cần có thanh tay vịn thấp. Vật liệu thường dùng là tre, luồng, lồ ô, cau, dừa, phi lao,... đã qua ngâm bùn thối để chậm bị hủy/ải. Tại nơi nước cạn dưới 1,5 m do thủy triều rút, mùa khô,... thì lội xuống và đóng các cọc chân cầu, buộc níu hoặc đục lỗ và lắp chốt tre, rồi đặt thanh cầu. Sau đó đặt các thanh tay vịn. Tại nơi nước sâu hơn nhưng không quá 2,5 m, thì dùng thuyền đóng cọc. Cầu này cần vật liệu tốt hơn, như cây dừa, phi lao, thanh gỗ lim,... Mặt khác, thanh cây ở giữa cầu không buộc chặt, được gọi là cây "quá giang", để ghe thuyền qua lại thì nhấc lên mà đi. Nếu nhiều ghe xuồng qua lại, thì đoạn quá giang có thể làm cao vượt lên (như trong ảnh 1), để phần nhiều ghe thuyền chui được qua cầu. Tại nơi nước sâu quá 2,5 m, hoặc nơi có nhu cầu qua lại nhiều, thì thường không làm cầu khỉ thật sự, mà làm cầu tre hoặc gỗ rộng cỡ 1 m, không có lan can tay vịn, bắc cao 3 m so với mực nước thường có, để ghe thuyền qua lại bên dưới. Nếu bề mặt cầu lát bằng thanh tre gỗ đặt ngang và phủ một ít đất cho phẳng, thì những người đủ can đảm và khéo léo có thể đi xe đạp, xe máy qua cầu. Nếu nhu cầu qua lại không lớn, làm cầu tốn kém thì để ghe đò chở. Cầu làm xong thì không có hướng dẫn sử dụng để có thể "đọc kỹ trước khi dùng". Mọi người phải tự tìm cách mà làm quen. Trẻ em bắt đầu làm quen bằng cách tụ tập lên cầu rồi nhảy xuống kênh mà bơi nếu không đứng vững được trên cầu, và là trò vui khá hấp dẫn của tuổi thơ. Người lớn thì gồng gánh, vác đồ, vác hoặc đi xe đạp,... qua cầu, tìm cách tránh ngã để chứng tỏ là dân miệt vườn thứ thiệt. Nếu phải vận chuyển nhiều đồ, hoặc không muốn người và đồ bị té ướt, thì dùng ghe xuồng chứ không qua cầu. Tất nhiên nếu chưa làm quen, đặc biệt là "chân guốc cao gót" thì lên cầu phải có ai đó đỡ giùm, kẻo té như chơi. Nói chung thì giới không có thời làm quen với cầu khỉ, nên khi lên cầu tất phải tìm đến "tay vịn", và khi đó luôn phải người cong lại. Cầu khỉ cáp treo Sự xuất hiện của cáp thép giá hạ đã dẫn đến việc người dân tự chế ra hệ thống cáp vượt sông suối, thay thế cho cầu khỉ bằng tre gỗ. Dạng cáp vượt sông này có mặt ở cả vùng đồng bằng và miền núi Việt Nam. Ưu điểm của nó là rẻ, chở nặng hơn, vượt được suối lớn, bền hơn đồ tre gỗ. Tuy nhiên sử dụng chúng đòi hỏi đến một chút mạo hiểm. Kênh truyền hình National Geographic Channel cũng đã có phóng sự về "hệ thống cáp vượt sông" của người dân ở Vân Nam, Trung Quốc ở cao hàng trăm mét trên lòng khe suối. Một clip thì giới thiệu và cáp treo ở Nepal . Quy mô xây dựng hệ thống cáp này khác nhau theo sông ngòi. Mức đơn giản nhất, là cáp thấp, có kèm được máng cho người đứng, như ở đồng bằng, ví dụ ở An Phú tỉnh An Giang . Cáp cao trung bình, có kèm được máng cho người đứng, ở miền núi vượt suối rộng, ví dụ ở huyện Đức Cơ tỉnh Gia Lai . Cáp rất cao, người và đồ vật đưa qua sông phải treo vào con chạy để kéo đẩy, ví dụ ở xã Phú Sơn, Bù Đăng tỉnh Bình Phước . Cầu khỉ trong văn thơ Hình ảnh cây cầu dừa và cây cầu tre đã đi vào câu hát lời ru, thí dụ như: -Ầu...ơ... Ví dầu cầu ván đóng đinh, Cầu tre lắt lẻo rập rình khó đi... -Đã lâu lắm rồi em về thăm lại chốn xưa Đã lâu lắm rồi em về đi qua cầu dừa.Cầu dừa trơn trợt lắm em ơi, Ai mà không khéo té như chơi,Môi son má hồng chân guốc cao gót, Làm sao qua cầu dừa...... (trích lời nhạc "Cây cầu dừa" của nhạc sĩ Hàn Châu) Cầu khỉ đã được tạp chí Travel + Leisure xếp vào danh sách các cây cầu nguy hiểm nhất thế giới.Cầu khỉ Việt Nam lọt top những cây cầu đáng sợ nhất Cuộc thi đi cầu khỉ Cầu khỉ đã một thời ăn sâu vào văn hóa thời nông nghiệp tự cấp, và mất dần khi xã hội phát triển. Tại vùng đã công nghiệp hóa thì để nhớ lại hương vị của cầu khỉ, có nơi đã dựng cầu và tổ chức thi đi xe đạp qua cầu khỉ'', như cuộc thi của do Đoàn TNCS phường Nghi Hương, thị xã Cửa Lò, Nghệ An tổ chức . Năm 2017 tại một khu du lịch ở Bến Tre cũng có cuộc thi như vậy
Cầu Chui là cầu đường sắt trên tuyến Hà Nội - Hải Phòng. Cầu xây dựng cùng thời điểm với cầu Long Biên (1899 - 1902). Vị trí cầu là tại điểm vượt qua Quốc lộ 1 tại Gia Lâm, Hà Nội (ngày nay là đường Nguyễn Văn Cừ, quận Long Biên). Quốc lộ 1 cũ đi chui dưới gầm cầu, chính vì vậy mà cầu đường sắt trên có tên là cầu Chui. Và tên này cũng trở thành địa danh của khu vực này. Trước khi Đường 5 kéo dài được khánh thành, Cầu Chui là điểm đầu của quốc lộ 5. Trước khi có cầu Thăng Long, cầu Thanh Trì, cầu Vĩnh Tuy muốn đi các tỉnh phía Bắc sông Hồng (Hải Dương, Hải Phòng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Yên Bái, Lào Cai...) đều phải qua cầu Chui. Cầu Chui có một vị trí quan trong về quân sự cũng như về kinh tế.
Tại Việt Nam, một đường được gọi là quốc lộ khi nó là đường nối liền thủ đô Hà Nội với trung tâm hành chính cấp tỉnh (tỉnh lị); hoặc là đường nối liền trung tâm hành chính cấp tỉnh của ba địa phương trở lên; hoặc là đường nối liền từ cảng biển quốc tế, cảng hàng không quốc tế đến các cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính trên đường bộ; hoặc là đường có vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của vùng, khu vực. Những định nghĩa này có trong Luật Giao thông đường bộ của Việt Nam. Quản lý Đường quốc lộ do Chính phủ Việt Nam quản lý. Chúng được đánh dấu bằng các mốc đuôi màu trắng với đầu màu đỏ. Biển chỉ dẫn có từ năm 2015 và được ghi bằng các điểm đánh dấu màu đen trên nền màu trắng. Danh sách Trên toàn lãnh thổ Việt Nam có 170 quốc lộ lớn nhỏ với tổng chiều dài 25,551 km. {|class= "wikitable sortable" |- !width= "10%" |Tên quốc lộ !width= "2%" |Ký hiệu !width= "2%" |Chiều dài toàn tuyến (km) !width= "10%" |Điểm đầu vàđiểm cuối !width= "22%" |Địa danh, đơn vị hành chính đi qua !width= "22%" |Các quốc lộ và đường cao tốc giao cắt |- | Quốc lộ 1A | | 2.482 | Lạng Sơn – Cà Mau | Lạng Sơn: Cao Lộc, Thành phố Lạng Sơn, Chi Lăng, Hữu Lũng Bắc Giang: Lạng Giang, Thành phố Bắc Giang, Việt Yên Bắc Ninh: Thành phố Bắc Ninh, Tiên Du, Thành phố Từ Sơn Hà Nội: Gia Lâm, Long Biên, Hoàng Mai, Thanh Trì, Thường Tín, Phú Xuyên Hà Nam: Duy Tiên, Thành phố Phủ Lý, Thanh Liêm Ninh Bình: Gia Viễn, Hoa Lư, Thành phố Ninh Bình, Yên Mô, Thành phố Tam Điệp Thanh Hóa: Thị xã Bỉm Sơn, Hà Trung, Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Thành phố Thanh Hóa, Quảng Xương, Thị xã Nghi Sơn Nghệ An: Thị xã Hoàng Mai, Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc, Thành phố Vinh Hà Tĩnh: Nghi Xuân, Thị xã Hồng Lĩnh, Can Lộc, Thạch Hà, Thành phố Hà Tĩnh, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh, Thị xã Kỳ Anh Quảng Bình: Quảng Trạch, Thị xã Ba Đồn, Bố Trạch, Thành phố Đồng Hới, Quảng Ninh, Lệ Thủy Quảng Trị: Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ, Thành phố Đông Hà, Triệu Phong, Thị xã Quảng Trị, Hải Lăng Thừa Thiên Huế: Phong Điền, Thị xã Hương Trà, Thành phố Huế, Thị xã Hương Thủy, Phú Lộc Đà Nẵng: Liên Chiểu, Hải Châu, Thanh Khê, Cẩm Lệ, Hòa Vang Quảng Nam: Thị xã Điện Bàn, Duy Xuyên, Quế Sơn, Thăng Bình, Phú Ninh, Thành phố Tam Kỳ, Núi Thành Quảng Ngãi: Bình Sơn, Sơn Tịnh, Thành phố Quảng Ngãi, Tư Nghĩa, Mộ Đức, Thị xã Đức Phổ Bình Định: Thị xã Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát, Thị xã An Nhơn, Tuy Phước, Thành phố Quy Nhơn Phú Yên: Thị xã Sông Cầu, Tuy An, Thành phố Tuy Hòa, Thị xã Đông Hòa Khánh Hòa: Vạn Ninh, Thị xã Ninh Hòa, Thành phố Nha Trang, Diên Khánh, Cam Lâm, Thành phố Cam Ranh Ninh Thuận: Thuận Bắc, Ninh Hải, Thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, Ninh Phước, Thuận Nam Bình Thuận: Tuy Phong, Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc, Thành phố Phan Thiết, Hàm Thuận Nam, Hàm Tân Đồng Nai: Xuân Lộc, Thành phố Long Khánh, Thống Nhất, Trảng Bom, Thành phố Biên Hòa Bình Dương: Thành phố Dĩ An Thành phố Hồ Chí Minh: Thành phố Thủ Đức, Quận 12, Hóc Môn, Bình Tân, Bình Chánh Long An: Bến Lức, Thủ Thừa, Thành phố Tân An Tiền Giang: Châu Thành, Thành phố Mỹ Tho, Thị xã Cai Lậy, Cai Lậy, Cái Bè Vĩnh Long: Thành phố Vĩnh Long, Long Hồ, Tam Bình, Thị xã Bình Minh Cần Thơ: Cái Răng Hậu Giang: Châu Thành A, Châu Thành, Phụng Hiệp, Thành phố Ngã Bảy Sóc Trăng: Kế Sách, Châu Thành, Thành phố Sóc Trăng, Mỹ Xuyên, Thạnh Trị Bạc Liêu: Vĩnh Lợi, Thành phố Bạc Liêu, Hòa Bình, Thị xã Giá Rai Cà Mau: Thành phố Cà Mau, Cái Nước, Năm Căn | |- | Quốc lộ 1B | | 145 | Lạng Sơn – Thái Nguyên | Lạng Sơn: Cao Lộc, Văn Quan, Bình Gia, Bắc Sơn Thái Nguyên: Võ Nhai, Đồng Hỷ, Thành phố Thái Nguyên | |- | Quốc lộ 1C | | 17 | Khánh Hòa (Nha Trang – Diên Khánh) | Đoạn quốc lộ 1A cũ đi qua trung tâm thành phố Nha Trang | |- | Quốc lộ 1D | | 35 | Bình Định – Phú Yên | Bình Định: Thành phố Quy Nhơn Phú Yên: Thị xã Sông Cầu | |- | Quốc lộ 1K | | 21 | Đồng Nai – Thành phố Hồ Chí Minh | Đồng Nai: Thành phố Biên Hòa Bình Dương: Thành phố Dĩ An Thành phố Hồ Chí Minh: Thành phố Thủ Đức | |- | Quốc lộ 2A | | 321 | Hà Nội – Hà Giang | Hà Nội: Sóc Sơn Vĩnh Phúc: Thành phố Phúc Yên, Bình Xuyên, Thành phố Vĩnh Yên, Yên Lạc, Tam Dương, Vĩnh Tường Phú Thọ: Thành phố Việt Trì, Phù Ninh, Thị xã Phú Thọ, Thanh Ba, Đoan Hùng Tuyên Quang: Yên Sơn, Thành phố Tuyên Quang, Hàm Yên Hà Giang: Bắc Quang, Vị Xuyên, Thành phố Hà Giang | |- | Quốc lộ 2B | | 31 | Vĩnh Phúc (Vĩnh Yên – Tam Đảo) | Thành phố Vĩnh Yên, Tam Dương, Tam Đảo | |- | Quốc lộ 2C | | 152 | Hà Nội – Tuyên Quang | Hà Nội: Thị xã Sơn Tây Vĩnh Phúc: Vĩnh Tường, Yên Lạc, Tam Dương, Lập Thạch Tuyên Quang: Sơn Dương, Thành phố Tuyên Quang, Yên Sơn, Chiêm Hóa, Na Hang | |- | Quốc lộ 2D | QL.2D | 152 | Vĩnh Phúc – Tuyên Quang | Vĩnh Phúc: Lập Thạch, Sông Lô Phú Thọ: Phù Ninh, Thị xã Phú Thọ, Thanh Ba, Hạ Hòa Yên Bái: Yên Bình Tuyên Quang: Yên Sơn | |- | Quốc lộ 3A | | 302 | Hà Nội – Cao Bằng | Hà Nội: Long Biên, Gia Lâm, Đông Anh, Sóc Sơn Thái Nguyên: Thành phố Phổ Yên, Thành phố Sông Công, Thành phố Thái Nguyên, Phú Lương Bắc Kạn: Chợ Mới, Thành phố Bắc Kạn, Bạch Thông, Ngân Sơn Cao Bằng: Nguyên Bình, Hòa An, Thành phố Cao Bằng, Quảng Hòa, Cửa khẩu Quốc tế Tà Lùng | |- | Quốc lộ 3B | | 216 | Tuyên Quang – Lạng Sơn | Tuyên Quang: Hàm Yên, Chiêm Hóa Bắc Kạn: Chợ Đồn, Bạch Thông, Thành phố Bắc Kạn, Chợ Mới, Na Rì Lạng Sơn: Tràng Định, Cửa khẩu Quốc tế Pò Mã | |- | Quốc lộ 3C | | 65 | Thái Nguyên – Bắc Kạn | Thái Nguyên: Phú Lương, Định Hóa Bắc Kạn: Chợ Đồn, Ba Bể | |- | Quốc lộ 3E | QL.3E | 56 | Lạng Sơn |Lạng Sơn: Bình Gia, Tràng Định | |- | Vành đai 1 (gồm các quốc lộ: 4A, 4B, 4C, 4D, 4H) | | 1.382 | Quảng Ninh – Điện Biên |Quảng Ninh: Cảng Mũi Chùa, Tiên Yên Lạng Sơn: Đình Lập, Lộc Bình, Cao Lộc, Thành phố Lạng Sơn, Văn Lãng, Tràng Định Cao Bằng: Thạch An, Thành phố Cao Bằng, Hòa An, Nguyên Bình, Bảo Lạc, Bảo Lâm Hà Giang: Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh, Quản Bạ, Thành phố Hà Giang, Vị Xuyên, Bắc Quang, Quang Bình Lào Cai: Bảo Yên, Bắc Hà, Si Ma Cai, Mường Khương, Bảo Thắng, Thành phố Lào Cai, Bát Xát, Thị xã Sa Pa Lai Châu: Tam Đường, Thành phố Lai Châu, Phong Thổ, Sìn Hồ, Nậm Nhùn Điện Biên: Thị xã Mường Lay, Mường Chà, Nậm Pồ, Mường Nhé, Cửa khẩu A Pa Chải | |- | Quốc lộ 4E | | 143 | Lào Cai (Thành phố Lào Cai – Bảo Thắng) |Lào Cai: Thành phố Lào Cai, Bảo Thắng. | |- | Quốc lộ 4G | | 154 | Sơn La (Thành phố Sơn La – Sốp Cộp) | Sơn La: Thành phố Sơn La, Mai Sơn, Sông Mã, Sốp Cộp, Cửa khẩu Quốc tế Nậm Lạnh Tỉnh Houaphanh (Lào) | |- | Quốc lộ 5A | | 113 | Hà Nội – Hải Phòng | Hà Nội: Đông Anh, Long Biên, Gia Lâm Hưng Yên: Văn Lâm, Yên Mỹ, Thị xã Mỹ Hào Hải Dương: Bình Giang, Cẩm Giàng, Thành phố Hải Dương, Thanh Hà, Kim Thành Hải Phòng: An Dương, Hồng Bàng, Lê Chân, Ngô Quyền, Hải An | |- | Quốc lộ 5C | QL.5C | 18 | Hải Phòng (Đình Vũ - Lạch Huyện) | Hải Phòng: Hải An, Cát Hải | |- | Quốc lộ 6A | | 471 | Hà Nội – Điện Biên |Hà Nội: Thanh Xuân, Nam Từ Liêm, Hà Đông, Chương Mỹ Hòa Bình: Lương Sơn, Thành phố Hòa Bình, Cao Phong, Tân Lạc, Mai Châu Sơn La: Vân Hồ, Mộc Châu, Yên Châu, Mai Sơn, Thành phố Sơn La, Thuận Châu Điện Biên: Tuần Giáo, Mường Chà, Thị xã Mường Lay | , , , , , , , , |- | Quốc lộ 6B | | 33 | Sơn La (Thuận Châu – Quỳnh Nhai) | QL6, Thuận Châu, Quỳnh Nhai, Quốc lộ 279 | , |- | Quốc lộ 7A | | 219 | Nghệ An (Diễn Châu – Kỳ Sơn) | Diễn Châu, Yên Thành, Đô Lương, Anh Sơn, Con Cuông, Tương Dương, Kỳ Sơn, Cửa khẩu Nậm Cắn | |- | Quốc lộ 7B | | 45 | Nghệ An (Diễn Châu – Thanh Chương) | Diễn Châu, Nghi Lộc, Nam Đàn, Thanh Chương | |- | Quốc lộ 8A | | 85 | Hà Tĩnh (Hồng Lĩnh – Cầu Treo) | Thị xã Hồng Lĩnh, Đức Thọ, Hương Sơn, Cửa khẩu Cầu Treo | |- | Quốc lộ 8B | | 29 | Hà Tĩnh (Hồng Lĩnh – Nghi Xuân) | Thị xã Hồng Lĩnh, Nghi Xuân, Cửa Hội | |- | Quốc lộ 9A | | 83 | Quảng Trị (Đông Hà – Lao Bảo) | Cửa Việt, Thành phố Đông Hà, Cam Lộ, Đa Krông, Hướng Hóa, Cửa khẩu Quốc tế Lao Bảo | , , |- | Quốc lộ 9B | | 37 | Quảng Bình (Đồng Hới – Lệ Thủy) | Thành phố Đồng Hới, Quảng Ninh, Lệ Thủy | , |- |Quốc lộ 9C | | 10 | Quảng Trị (Đông Hà) | Tuyến đường tránh nam thành phố Đông Hà nối QL9 và QL1 | , |- |Quốc lộ 9D | | 40 | Quảng Trị (Hiền Lương – Của Việt) | Vĩnh Linh, Gio Linh | , |- |Quốc lộ 9E | QL.9E | 40 | Quảng Bình (Đồng Hới – Quảng Ninh) | Thành phố Đồng Hới, Bố Trạch, Quảng Ninh | , |- |Quốc lộ 9G | QL.9G | 40 | Quảng Bình (Bố Trạch) | Từ đường Hồ Chí Minh đến biên giới Việt – Lào | |- | Quốc lộ 10 | | 215 | Quảng Ninh – Thanh Hóa |Quảng Ninh: Thành phố Uông Bí Hải Phòng: Thủy Nguyên, Hồng Bàng, An Dương, An Lão, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo Thái Bình: Quỳnh Phụ, Đông Hưng, Thành phố Thái Bình, Vũ Thư Nam Định: Mỹ Lộc, Thành phố Nam Định, Vụ Bản, Ý Yên Ninh Bình: Thành phố Ninh Bình, Yên Khánh, Kim Sơn Thanh Hóa: Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Thành phố Thanh Hóa | , , , , , , , , |- | Quốc lộ 12 | | 206 | Lai Châu – Điện Biên |Lai Châu: Ma Lù Thàng, Phong Thổ, Sìn Hồ, Nậm Nhùn Điện Biên: Thị xã Mường Lay, Mường Chà, Điện Biên, Thành phố Điện Biên Phủ | , , , |- | Quốc lộ 12A | | 117 | Quảng Bình (Ba Đồn – Cha Lo) | Thị xã Ba Đồn, Quảng Trạch, Tuyên Hóa, Minh Hóa, Cửa khẩu Quốc tế Cha Lo | , , , |- | Quốc lộ 12B | | 141 | Ninh Bình – Hòa Bình |Ninh Bình: Kim Sơn, Yên Mô, Thành phố Tam Điệp, Nho Quan Hòa Bình: Yên Thủy, Lạc Sơn, Tân Lạc | , , , , |- | Quốc lộ 12C | | 98 | Hà Tĩnh – Quảng Bình |Hà Tĩnh: Cảng Vũng Áng, Kỳ Anh Quảng Bình: Tuyên Hóa, đường Hồ Chí Minh | , , , , |- | Quốc lộ 13 | | 143 | Thành phố Hồ Chí Minh – Bình Phước | Thành phố Hồ Chí Minh: Nút giao Hàng Xanh, Bình Thạnh, Thành phố Thủ Đức Bình Dương: Thành phố Thuận An, Thành phố Thủ Dầu Một, Thị xã Bến Cát, Bàu Bàng Bình Phước: Thị xã Chơn Thành, Hớn Quản, Thị xã Bình Long, Lộc Ninh, Cửa khẩu Quốc tế Hoa Lư | |- | Quốc lộ 14A | | 980 | Quảng Trị – Bình Phước | Quảng Trị: Cầu Đa Krông, Đa Krông Thừa Thiên Huế: A Lưới Quảng Nam: Tây Giang, Đông Giang, Nam Giang, Phước Sơn Kon Tum: Đắk Glei, Ngọc Hồi, Đắk Tô, Đắk Hà, Thành phố Kon Tum Gia Lai: Chư Păh, Thành phố Pleiku, Đăk Đoa, Chư Prông, Chư Sê, Chư Pưh Đắk Lắk: Ea H'leo, Krông Búk, Thị xã Buôn Hồ, Cư M'Gar, Thành phố Buôn Ma Thuột Đắk Nông: Cư Jút, Đắk Mil, Đắk Song, Thành phố Gia Nghĩa, Đắk R'Lấp Bình Phước: Bù Đăng, Phú Riềng, Đồng Phú, Thành phố Đồng Xoài, Thị xã Chơn Thành | |- | Quốc lộ 14B | | 74 | Đà Nẵng – Quảng Nam | Đà Nẵng: Cảng Tiên Sa, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, Hải Châu, Cẩm Lệ, Hòa Vang Quảng Nam: Đại Lộc, Nam Giang | |- | Quốc lộ 14C | | 375 | Kon Tum – Đăk Nông | Kon Tum: Ngọc Hồi, Sa Thầy, Ia H' Drai Gia Lai: Ia Grai, Đức Cơ, Chư Prông Đắk Lắk: Ea Súp, Buôn Đôn Đắk Nông: Cư Jút, Đắk Mil | |- | Quốc lộ 14D | | 75 | Quảng Nam (Thạnh Mỹ – Đắk Tôi, Nam Giang) | Quảng Nam: Nam Giang (Thị trấn Thạnh Mỹ, Xã Cà Dy, Xã Tà Bhing, Xã Tà Pơơ, Xã Chà Vàl, Xã Đắk Tôi, Cửa khẩu Quốc tế Nam Giang) Tỉnh Sekong (Lào) | |- | Quốc lộ 14E | | 90 | Quảng Nam (Thăng Bình – Phước Sơn) | Quảng Nam: Thăng Bình, Hiệp Đức, Phước Sơn | |- | Quốc lộ 14G | | 66 | Đà Nẵng – Quảng Nam | Đà Nẵng: Hòa Vang Quảng Nam: Đông Giang | |- | Quốc lộ 14H | | 90 | Quảng Nam (Hội An – Nông Sơn) | Quảng Nam: Hội An, Điện Bàn, Duy Xuyên, Nông Sơn | , Trường Sơn Đông |- |Quốc lộ 15 (cũ) |QL.15 |11 |Đồng Nai (Xã An Hòa – Phường Trung Dũng, Thành phố Biên Hòa) |Nút giao Vườn Mít, Nút giao Tam Hiệp, Nút giao Cổng 11 | |- | Quốc lộ 15A | | 729 | Hòa Bình – Quảng Trị | Hòa Bình: Mai Châu Thanh Hóa: Quan Hóa, Bá Thước, Lang Chánh, Ngọc Lặc, Thọ Xuân, Thường Xuân, Như Xuân Nghệ An: Nghĩa Đàn, Thị xã Thái Hòa, Tân Kỳ, Đô Lương, Nam Đàn Hà Tĩnh: Đức Thọ, Can Lộc, Thạch Hà, Hương Khê Quảng Bình: Tuyên Hóa, Minh Hóa, Bố Trạch, Quảng Ninh, Lệ Thủy Quảng Trị: Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ | QL.9E QL.9G QL.36 QL.46C QL.47C |- | Quốc lộ 15B | | 44 | Hà Tĩnh (Can Lộc – Cẩm Xuyên) | Can Lộc, Lộc Hà, Thạch Hà, Cẩm Xuyên | , |- | Quốc lộ 15C | | 127 | Thanh Hóa (Bá Thước – Mường Lát) | Bá Thước, Quan Hóa, Mường Lát | , |- | Quốc lộ 15D | | 12,2 | Quảng Trị (Đa Krông) | đường Hồ Chí Minh, Đakrông, Cửa khẩu La Lay | |- | Quốc lộ 16 | | 44 | Quảng Bình (Đồng Hới – Bố Trạch) | Thành phố Đồng Hới, Bố Trạch, VQG Phong Nha – Kẻ Bàng | đường Hồ Chí Minh |- | Quốc lộ 17 | | 150 | Hà Nội – Thái Nguyên |Hà Nội: Gia Lâm Bắc Ninh: Thuận Thành, Gia Bình, Quế Võ Bắc Giang: Yên Dũng, Việt Yên, Hiệp Hòa Thái Nguyên: Phú Bình, Thành phố Sông Công, Thành phố Thái Nguyên | QL5, 38, 18, 37, 1 |- | Quốc lộ 17B | | 41 | Quảng Ninh – Hải Phòng |Quảng Ninh: TX. Đông Triều Hải Dương: TX. Kinh Môn, Kim Thành Hải Phòng: An Dương | |- | Quốc lộ 18 | | 317 | Hà Nội – Quảng Ninh |Hà Nội: Sóc Sơn Bắc Ninh: Yên Phong, Thành phố Bắc Ninh, Quế Võ Hải Dương: Thành phố Chí Linh Quảng Ninh: Thị xã Đông Triều, Thành phố Uông Bí, Thị xã Quảng Yên, Thành phố Hạ Long, Thành phố Cẩm Phả, Tiên Yên, Đầm Hà, Hải Hà, Thành phố Móng Cái | |- | Quốc lộ 18C | | 45 | Quảng Ninh (Bình Liêu – Tiên Yên) | Cửa khẩu Hoành Mô, Bình Liêu, Tiên Yên | QL18A |- | Quốc lộ 19A | | 229 | Bình Định – Gia Lai | Bình Định: Cảng Quy Nhơn, Thành phố Quy Nhơn, Tuy Phước, Thị xã An Nhơn, Tây Sơn Gia Lai: Thị xã An Khê, Đăk Pơ, Mang Yang, Đăk Đoa, Thành phố Pleiku, Chư Prông, Đức Cơ, QL14C | QL1, 19B, đường Hồ Chí Minhđông, 14A |- | Quốc lộ 19B | | 59 | Bình Định (Nhơn Hội – Phú Phong) | Khu kinh tế Nhơn Hội, Thành phố Quy Nhơn, Phù Cát, Sân bay Phù Cát, Thị xã An Nhơn, Tây Sơn, QL19A | QL1, 19A |- | Quốc lộ 19C | | 182 | Bình Định – Đăk Lăk |Bình Định: Tuy Phước, Vân Canh Phú Yên: Đồng Xuân, Sơn Hòa, Sông Hinh Đắk Lắk: M' Đrăk, QL26 | QL1, 25, 29, 26 |- | Quốc lộ 20 | | 268 | Đồng Nai – Lâm Đồng | Đồng Nai: Nút giao Dầu Giây, Thống Nhất, Định Quán, Tân Phú Lâm Đồng: Đạ Huoai, Thành phố Bảo Lộc, Bảo Lâm, Di Linh, Đức Trọng, Thành phố Đà Lạt, Đơn Dương | |- | Quốc lộ 21A | | 195 | Hà Nội – Nam Định |Hà Nội: Thị xã Sơn Tây, Thạch Thất, Quốc Oai, Chương Mỹ Hòa Bình: Lương Sơn, Lạc Thủy Hà Nam: Kim Bảng, Thành phố Phủ Lý, Thanh Liêm, Bình Lục Nam Định: Mỹ Lộc, Thành phố Nam Định, Nam Trực, Trực Ninh, Xuân Trường, Hải Hậu | |- | Quốc lộ 21B | | 210 | Hà Nội – Ninh Bình |Hà Nội: Hà Đông, Thanh Oai, Ứng Hòa Hà Nam: Kim Bảng, Thành phố Phủ Lý, Thanh Liêm, Bình Lục Nam Định: Mỹ Lộc, Thành phố Nam Định, Nam Trực, Trực Ninh, Hải Hậu, Nghĩa Hưng Ninh Bình: Kim Sơn, Yên Mô, Thành phố Tam Điệp | |- | Quốc lộ 21C | | 104 | Hà Nội – Ninh Bình |Hà Nội: Hoàng Mai, Thanh Trì, Hà Đông, Thanh Oai, Ứng Hòa, Mỹ Đức Hà Nam: Kim Bảng, Thanh Liêm Ninh Bình: Gia Viễn, Hoa Lư, Tam Điệp | |- | Quốc lộ 22A | | 59 | Thành phố Hồ Chí Minh – Tây Ninh | Thành phố Hồ Chí Minh: Nút giao An Sương, Quận 12, Hóc Môn, Củ Chi Tây Ninh: Thị xã Trảng Bàng, Gò Dầu, Bến Cầu, Cửa khẩu Quốc tế Mộc Bài | |- | Quốc lộ 22B | | 183 | Tây Ninh (Gò Dầu – Tân Biên) | Tây Ninh: Gò Dầu, Thị xã Hòa Thành, Châu Thành, Thành phố Tây Ninh, Tân Biên, Cửa khẩu Quốc tế Xa Mát. Tỉnh Tbong Khmum (Campuchia) | |- | Quốc lộ 23 | | 23 | Hà Nội – Vĩnh Phúc |Hà Nội: QL3, Đông Anh, Mê Linh Vĩnh Phúc: Thành phố Phúc Yên, QL2A | QL3, QL2A |- | Quốc lộ 24A | | 168 | Quảng Ngãi – Kon Tum |Quảng Ngãi: Thị xã Đức Phổ, Ba Tơ Kon Tum: Kon Plông, Kon Rẫy, Thành phố Kon Tum | QL1, 24B, 14A |- | Quốc lộ 24B | | 108 | Quảng Ngãi (Bình Sơn – Ba Tơ) | Cảng Sa Kỳ, Bình Sơn, Sơn Tịnh, Sơn Hà, Ba Tơ, QL24A | QL1, 24A |- | Quốc lộ 24C | | 71 | Quảng Ngãi – Quảng Nam (Bình Sơn – Bắc Trà My) |Quảng Ngãi: Bình Sơn, Trà Bồng Quảng Nam: Bắc Trà My | QL1, 40B |- | Quốc lộ 25 | | 192 | Phú Yên – Gia Lai |Phú Yên: Thành phố Tuy Hòa, Phú Hòa, Sơn Hòa Gia Lai: Krông Pa, Thị xã Ayun Pa, Phú Thiện, Chư Sê | QL1, 19C, đường Hồ Chí Minh |- | Quốc lộ 26A | | 151 | Khánh Hòa – Đắc Lắk |Khánh Hòa: Thị xã Ninh Hòa Đắk Lắk: M' Đrăk, Ea Kar, Krông Pắk, Thành phố Buôn Ma Thuột | QL1, 27, đường Hồ Chí Minh |- | Quốc lộ 26B | | 12 | Khánh Hòa (Ninh Hòa) | QL1, Ninh Đa, Ninh Thọ, Ninh Thủy, Nhà máy đóng tàu Vinashin Hyundai | QL1 |- | Quốc lộ 27A | | 277 | Đăk Lăk – Ninh Thuận |Đắk Lắk: Thành phố Buôn Ma Thuột, Cư Kuin, Krông Bông, Lắk Lâm Đồng: Đam Rông, Lâm Hà, Đức Trọng, Đơn Dương Ninh Thuận: Ninh Sơn, Thành phố Phan Rang – Tháp Chàm | QL1, 27B, 20, 26 |- | Quốc lộ 27B | | 53 | Ninh Thuận – Khánh Hòa |Ninh Thuận: Ninh Sơn, Bác Ái Khánh Hòa: Thành phố Cam Ranh | QL1, 27A |- | Quốc lộ 27C | | 121 | Khánh Hòa – Lâm Đồng |Khánh Hòa: Diên Khánh, Khánh Vĩnh Lâm Đồng: Lạc Dương, Thành phố Đà Lạt | QL1, 20 |- | Quốc lộ 28A | | 314 | Bình Thuận – Đăk Nông |Bình Thuận: Thành phố Phan Thiết, Hàm Thuận Bắc Lâm Đồng: Di Linh, Lâm Hà Đắk Nông: Đăk Glong, Thành phố Gia Nghĩa | QL1, 20, 14 |- | Quốc lộ 28B | | 71 | Bình Thuận – Lâm Đồng |Bình Thuận: Bắc Bình Lâm Đồng: Đức Trọng | QL1, 20 |- | Quốc lộ 29 | | 178 | Phú Yên – Đăk Lăk |Phú Yên: Thị xã Đông Hòa, Tây Hòa, Sông Hinh Đắk Lắk: M'Đrăk, Ea Kar, Krông Năng, Thị xã Buôn Hồ | QL1, 19C, đường Hồ Chí Minh |- | Quốc lộ 30 | | 120 | Tiền Giang – Đồng Tháp |Tiền Giang: Cái Bè Đồng Tháp: Cao Lãnh, Thành phố Cao Lãnh, Thanh Bình, Tam Nông, Thành phố Hồng Ngự, Tân Hồng, Cửa khẩu Dinh Bà | QL1 |- | Quốc lộ 31 | | 154 | Lạng Sơn – Bắc Giang |Lạng Sơn: Đình Lập Bắc Giang: Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam, Lạng Giang, Thành phố Bắc Giang | QL4B, 279, 37, 1 |- | Quốc lộ 32 | | 382 | Hà Nội – Lai Châu |Hà Nội: Cầu Giấy, Bắc Từ Liêm, Nam Từ Liêm, Hoài Đức, Đan Phượng, Phúc Thọ, Thị xã Sơn Tây, Ba Vì Phú Thọ: Tam Nông, Thanh Sơn, Tân Sơn Yên Bái: Văn Chấn, Thị xã Nghĩa Lộ, Mù Cang Chải Lai Châu: Than Uyên, Tân Uyên, Tam Đường | QL21A, 32C, đường HCM, 32B, 37, 279 |- | Quốc lộ 32B | | 20 | Phú Thọ – Sơn La |Phú Thọ: QL32, Thu Cúc (Tân Sơn – Phú Thọ) Sơn La: Mường Cơi (Phù Yên – Sơn La), QL37 | QL32, 37 |- | Quốc lộ 32C | | 78 | Phú Thọ – Yên Bái |Phú Thọ: Thành phố Việt Trì, Lâm Thao, Cầu Phong Châu, Tam Nông, Cẩm Khê, Hạ Hòa Yên Bái: Trấn Yên, Thành phố Yên Bái | QL32, QL37 |- | Quốc lộ 34 | | 265 | Cao Bằng – Hà Giang |Cao Bằng: Thành phố Cao Bằng, Hòa An, Nguyên Bình, Bảo Lạc, Bảo Lâm Hà Giang: Bắc Mê, Thành phố Hà Giang | QL3, 4C, 2, 280 |- | Quốc lộ 35 | | 6 | Ninh Bình (Phường Bích Đào – Phường Ninh Phong, Thành phố Ninh Bình) | Cảng Ninh Phúc, Thành phố Ninh Bình | |- |Quốc lộ 36 | QL.36 | 29 | Nghệ An – Thanh Hóa | Nghệ An: Thị xã Thái Hòa, Nghĩa Đàn, Quỳnh Lưu, Thị xã Hoàng Mai Thanh Hoá: Thị xã Nghi Sơn | |- | Quốc lộ 37A | | 470 | Thái Bình – Sơn La |Thái Bình: Thái ThụyHải Phòng: Vĩnh BảoHải Dương: Ninh Giang, Tứ Kỳ, Gia Lộc, Thành phố Hải Dương, Nam Sách, Thành phố Chí LinhBắc Giang: Lục Nam, Lạng Giang, Yên ThếThái Nguyên: Đồng Hỷ, Thành phố Thái Nguyên, Đại TừTuyên Quang: Sơn Dương, Thành phố Tuyên Quang, Yên SơnYên Bái: Yên Bình, Thành phố Yên Bái, Trấn Yên, Văn ChấnSơn La: Phù Yên, Bắc Yên, Yên Châu, Mai Sơn | QL39, 10, 5A, 18, 31, 1, 1B, 3, 2, 70, 32C, 32D, 43, 6 |- | Quốc lộ 37B | | 139 | Thái Bình – Hà Nam|Thái Bình: Thái Thụy, Tiền Hải, Kiến XươngNam Định: Giao Thủy, Hải Hậu, Trực Ninh, Nghĩa Hưng, Ý Yên, Vụ BảnHà Nam: Bình Lục, Thành phố Phủ Lý, Thị xã Duy Tiên | QL39, 21, 10, 38, 37 |- | Quốc lộ 37C | QL.37C | 73,5 | Nam Định – Hòa Bình|Nam Định: Ý YênNinh Bình: Gia Viễn, Nho QuanHòa Bình: Lạc Thủy | QL37B, 10, 38, 1, 12B |- | Quốc lộ 38A | | 87 | Bắc Ninh – Hà Nam| Bắc Ninh: Thành phố Bắc Ninh, Tiên Du, Thuận ThànhHải Dương: Cẩm Giàng, Bình GiangHưng Yên: Ân Thi, Kim Động, Thành phố Hưng YênHà Nam: Thị xã Duy Tiên, Kim Bảng | QL1, 21B, 38B |- | Quốc lộ 38B | | 145 | Hải Dương – Ninh Bình|Hải Dương: Gia Lộc, Thanh MiệnHưng Yên: Phù Cừ, Tiên Lữ, Thành phố Hưng YênHà Nam: Thị xã Duy Tiên, Lý NhânNam Định: Mỹ Lộc, Thành phố Nam Định, Vụ Bản, Ý YênNinh Bình: Hoa Lư, Gia Viễn, Nho Quan | QL38, 10, 37, 1, 12B |- | Quốc lộ 39A | | 110 | Hưng Yên – Thái Bình|Hưng Yên: Thị xã Mỹ Hào, Yên Mỹ, Khoái Châu, Kim Động, Thành phố Hưng YênThái Bình: Hưng Hà, Đông Hưng, Thái Thụy | QL5, 38, 38B, 10, 37, 37B |- | Quốc lộ 39B | | 74 | Thái Bình (Thành phố Thái Bình – Đồng Châu)| Thành phố Thái Bình, Kiến Xương, Tiền Hải, Bãi biển Đồng Châu | QL10, 37B |- | Quốc lộ 40A | | 21 | Kon Tum (Ngọc Hồi)| QL14C, Plei Kần, Cửa khẩu Bờ Y (Ngã ba Đông Dương) | QL14C |- | Quốc lộ 40B | | 210 | Quảng Nam – Kon Tum|Quảng Nam: Thành phố Tam Kỳ, Phú Ninh, Tiên Phước, Bắc Trà My, Nam Trà MyKon Tum: Tơ Mu Rông, Đăk Tô | QL1, 24C, đường Hồ Chí Minh |- | Quốc lộ 43 | | 113 | Sơn La (Phù Yên – Mộc Châu)| Ngã ba Gia Phù, Phù Yên, Mộc Châu, Cửa khẩu Pa Háng | QL37, QL6 |- | Quốc lộ 45 | | 134 | Ninh Bình – Thanh Hóa|Ninh Bình: Nho QuanThanh Hóa: Thạch Thành, Vĩnh Lộc, Yên Định, Thiệu Hóa, Đông Sơn, Thành phố Thanh Hóa, Quảng Xương Nông Cống, Như Thanh, Như Xuân, đường Hồ Chí Minh | |- | Quốc lộ 46A | | 107 | Nghệ An (Cửa Lò – Thanh Chương)| Thị xã Cửa Lò, Nghi Lộc, Thành phố Vinh, Hưng Nguyên, Nam Đàn, Thanh Chương | QL1, 15A, 7 |- | Quốc lộ 46B | | 25 | Nghệ An (Đô Lương)| Cầu Rộ (vượt sông Lam), Đô Lương | QL46A, 15 |- | Quốc lộ 46C | QL.46C | 30 | Nghệ An (Nam Đàn – Thanh Chương)| Nam Đàn, Thanh Chương | QL46A, 15 |- | Quốc lộ 47 | | 138 | Thanh Hóa (Sầm Sơn – Thường Xuân)| Thành phố Sầm Sơn, Thành phố Thanh Hóa, Đông Sơn, Triệu Sơn, Thọ Xuân, Thường Xuân | |- |Quốc lộ 47B |QL.47B |24,6 |Thanh Hóa (Yên Định–Thọ Xuân)|Yên Định, Thọ Xuân | |- |Quốc lộ 47C |QL.47C |54 |Thanh Hóa (Nông Cống – Ngọc Lặc)|Nông Cống, Triệu Sơn, Thọ Xuân, Ngọc Lặc | |- | Quốc lộ 48A | | 170 | Nghệ An (Diễn Châu – Quế Phong)| Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Thị xã Thái Hòa, Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp, Quỳ Châu, Quế Phong | quốc lộ 1, 15A, 48C, 48B, đường Hồ Chí Minh |- | Quốc lộ 48B | | 25 | Nghệ An (Quỳnh Lưu)| QL48A, Quỳnh Châu, Ngọc Sơn, Cầu Giát, Lạch Quèn | |- | Quốc lộ 48C | | 123 | Nghệ An (Quỳ Hợp – Tương Dương)| QL48A, Quỳ Hợp, Con Cuông, Tương Dương, QL7 | QL48A, 7 |- | Quốc lộ 48D | QL.48D | 65 | Nghệ An (Quỳ Hợp – Quế Phong)| QL48C, Quỳ Hợp, Quỳ Châu, Quế Phong, QL48A | QL48C, 48A |- | Quốc lộ 48E | | 213 | Nghệ An (Hoàng Mai – Nghi Lộc)| Cảng Lạch Cờn, Thị xã Hoàng Mai, Quỳnh Lưu, Thị xã Thái Hòa, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Yên Thành, Nghi Lộc | QL1, 48, 7 |- | Quốc lộ 49A | | 98 | Thừa Thiên Huế (Thuận An – A Lưới)| Cửa Thuận An, Thành phố Huế, Thị xã Hương Trà, A Lưới, Đường HCM | QL49B, 1, Hồ Chí Minh |- | Quốc lộ 49B | | 105 | Quảng Trị – Thừa Thiên Huế|Quảng Trị: Hải LăngThừa Thiên Huế: Phong Điền, Quảng Điền, Thành phố Huế, Phú Vang, Phú Lộc | QL1, 49 |- | Quốc lộ 49C | | 24 | Quảng Trị (Triệu Phong – Hải Lăng)| Triệu Phong, Hải Lăng | QL9D, 49B |- | Quốc lộ 50 | | 88 | Thành phố Hồ Chí Minh – Tiền Giang| Thành phố Hồ Chí Minh: Quận 8, Bình ChánhLong An: Cần Giuộc, Cần Đước Tiền Giang: Thị xã Gò Công, Gò Công Tây, Chợ Gạo, Thành phố Mỹ Tho | |- |Quốc lộ 52 | |31 |Thành phố Hồ Chí Minh – Đồng Nai|Thành phố Hồ Chí Minh: Bình Thạnh, Thành phố Thủ ĐứcBình Dương: Thành phố Dĩ AnĐồng Nai: Thành phố Biên Hòa | |- | Quốc lộ 51 | | 86 | Đồng Nai – Bà Rịa–Vũng Tàu| Đồng Nai: Thành phố Biên Hòa, Long ThànhBà Rịa – Vũng Tàu: Thị xã Phú Mỹ, Thành phố Bà Rịa, Thành phố Vũng Tàu | QL.15 (cũ) |- | Quốc lộ 53 | | 168 | Vĩnh Long – Trà Vinh|Vĩnh Long: Thành phố Vĩnh Long, Long Hồ, Mang Thít, Vũng LiêmTrà Vinh: Càng Long, Thành phố Trà Vinh, Châu Thành, Cầu Ngang, Thị xã Duyên Hải, Duyên Hải, Trà Cú | QL1, 60, 54 |- | Quốc lộ 54 | | 155 | Đồng Tháp – Trà Vinh|Đồng Tháp: Lấp Vò, Lai VungVĩnh Long: Bình Tân, Thị xã Bình Minh, Tam Bình, Trà ÔnTrà Vinh: Cầu Kè, Tiểu Cần, Châu Thành, Thành phố Trà Vinh | QL1, 80, 60, 54, 53 |- | Quốc lộ 55A | | 233 | Bà Rịa – Vũng Tàu – Lâm Đồng| Bà Rịa – Vũng Tàu: Thành phố Bà Rịa, Long Điền, Đất Đỏ, Xuyên MộcBình Thuận: Hàm Tân, Thị xã La Gi, Hàm Thuận Nam, Tánh Linh, Hàm Thuận BắcLâm Đồng: Bảo Lâm, Thành phố Bảo Lộc | QL1, 51, 56, 55B, 20 |- | Quốc lộ 55B | | 39 | Bình Thuận (Tánh Linh – Hàm Tân)| Nối thẳng quốc lộ 55 qua xã Đức Thuận, huyện Tánh Linh tới quốc lộ 1 (Tánh Linh, Hàm Tân) | QL1, 55 |- | Quốc lộ 56 | | 51 | Bà Rịa – Vũng Tàu – Đồng Nai| Bà Rịa – Vũng Tàu: Thành phố Bà Rịa, Châu ĐứcĐồng Nai: Cẩm Mỹ, Thành phố Long Khánh | QL1 |- |Quốc lộ 56B |QL.56B |164 |Đồng Nai – Tây Ninh|Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh |QL56, QL22 |- | Quốc lộ 57A | | 105 | Vĩnh Long – Bến Tre|Vĩnh Long: Thành phố Vĩnh Long, Long HồBến Tre: Chợ Lách, Mỏ Cày Bắc, Mỏ Cày Nam, Thạnh Phú | QL53, 60 |- | Quốc lộ 57B | QL.57B | 30 | Bến Tre (Châu Thành – Bình Đại)| Châu Thành, Bình Đại | 60 |- | Quốc lộ 57C | QL.57C | 35 | Bến Tre (Thành phố Bến Tre – Ba Tri)| Thành phố Bến Tre, Giồng Trôm, Ba Tri | 60 |- | Quốc lộ 60 | | 115 | Tiền Giang – Sóc Trăng|Tiền Giang: Thành phố Mỹ ThoBến Tre: Châu Thành, Thành phố Bến Tre, Mỏ Cày Bắc, Mỏ Cày NamTrà Vinh: Càng Long, Thành phố Trà Vinh, Châu Thành, Tiểu CầnSóc Trăng: Cù Lao Dung, Long Phú, Thành phố Sóc Trăng | QL1, 53, 54, 57B, 91B |- | Quốc lộ 61A | | 96 | Hậu Giang – Kiên Giang|Hậu Giang: Châu Thành A, Phụng Hiệp, Thị xã Long Mỹ, Vị Thủy, Thành phố Vị ThanhKiên Giang: Gò Quao, Giồng Riềng, Châu Thành, Thành phố Rạch Giá | QL63, 80 |- | Quốc lộ 61B | | 41 | Hậu Giang – Sóc Trăng|Hậu Giang: Thị xã Long MỹSóc Trăng: Thị xã Ngã Năm, Thạnh Trị | QL1, Quản Lộ – Phụng Hiệp |- | Quốc lộ 61C | | 47 | Cần Thơ – Hậu Giang|Cần Thơ: Cái Răng, Phong ĐiềnHậu Giang: Châu Thành A, Vị Thủy, Thành phố Vị Thanh | QL1, 61 |- | Quốc lộ 62 | | 93 | Long An (Tân An – Kiến Tường) | Long An: Thành phố Tân An, Thủ Thừa, Thạnh Hóa, Tân Thạnh, Mộc Hóa, Thị xã Kiến Tường, Cửa khẩu Quốc tế Bình Hiệp Tỉnh Svay Rieng (Campuchia) | |- | Quốc lộ 63 | | 115 | Kiên Giang – Cà Mau|Kiên Giang: Châu Thành, An Biên, U Minh Thượng, Vĩnh ThuậnCà Mau: Thới Bình, Thành phố Cà Mau | QL1, 61 |- | Quốc lộ 70A | | 185 | Phú Thọ – Lào Cai|Phú Thọ: Đoan Hùng, Hạ HòaYên Bái: Yên Bình, Lục YênLào Cai: Bảo Yên, Bảo Thắng, Ngã ba Bản Phiệt | QL2, 37, 279, 4D |- | Quốc lộ 70B | | 52 | Phú Thọ – Hòa Bình|Phú Thọ: Hạ Hòa, Yên Lập, Thanh SơnHòa Bình: Thành phố Hòa Bình | QL6, 32, 32C, |- | Quốc lộ 71 | | 41 | Hà Tĩnh (Hương Sơn – Vũ Quang – Hương Khê)| Thị trấn Phố Châu, Hương Sơn, Vũ Quang, Hương Khê, Ngã ba Phúc Đồng | QL8A, 15A |- | Quốc lộ 80 | | 215 | Vĩnh Long – Kiên Giang|Vĩnh Long: Cầu Mỹ Thuận, Thành phố Vĩnh LongĐồng Tháp: Châu Thành, Thành phố Sa Đéc, Lai Vung, Lấp VòAn Giang: Thành phố Long Xuyên, Thoại SơnCần Thơ: Thốt Nốt, Vĩnh ThạnhKiên Giang: Tân Hiệp, Châu Thành, Thành phố Rạch Giá, Hòn Đất, Kiên Lương, Thành phố Hà Tiên | QL1, 54, 91 |- | Quốc lộ 91A | | 145 | Cần Thơ – An Giang| Cần Thơ: Ninh Kiều, Bình Thủy, Ô Môn, Thốt NốtAn Giang: Thành phố Long Xuyên, Châu Thành, Châu Phú, Thành phố Châu Đốc, Tịnh Biên | QL1, 80, N1 |- | Quốc lộ 91B | | 162 | Cần Thơ – Bạc Liêu| Cần Thơ: Ô Môn, Bình Thủy, Ninh Kiều, Cái RăngHậu Giang: Châu ThànhSóc Trăng: Kế Sách, Long Phú, Trần Đề, Thị xã Vĩnh ChâuBạc Liêu: Thành phố Bạc Liêu | QL91, 1, 60, 1 |- | Quốc lộ 91C | | 34 | An Giang (Châu Đốc – Long Bình)| Thành phố Châu Đốc, An Phú, Cửa khẩu Khánh Bình | QL91A |- | Quốc lộ 100 | | 21 | Lai Châu (Phong Thổ)| Ngã 3 với Quốc lộ 12, Ngã 3 Quốc lộ 4D (gần Mường So) | QL4D, 12 |- | Quốc lộ 217 | | 195 | Thanh Hóa (Hà Trung – Quan Sơn)| Hà Trung, Vĩnh Lộc, Cẩm Thủy, Bá Thước, Quan Sơn, Cửa khẩu Na Mèo | |- | Quốc lộ 217B | QL.217B | 50 | Thanh Hóa ( Bỉm Sơn – Thạch Thành)| Bỉm Sơn, Hà Trung, Thạch Thành | |- | Quốc lộ 279 | | 931 | Quảng Ninh – Điện Biên|Quảng Ninh: Thành phố Hạ LongBắc Giang: Sơn Động, Lục NgạnLạng Sơn: Chi Lăng, Văn Quan, Bình GiaBắc Kạn: Ngân Sơn, Ba BểTuyên Quang: Nà Hang, Lâm Bình, Chiêm HóaHà Giang: Bắc Quang, Quang BìnhLai Châu: Than UyênSơn La: Quỳnh NhaiĐiện Biên: Tuần Giáo, Mường Ảng, Thành phố Điện Biên Phủ, Điện Biên, Cửa khẩu Tây Trang | QL18, 31, 1, 1B, 3, 2, 70, 32, 6, 12 |- | Quốc lộ 279D | QL.279D | 90 | Lai Châu – Sơn La|Lai Châu: Than UyênSơn La: Mường La, Thành phố Sơn La | QL279, 6 |- | Quốc lộ 280 | QL.280 | 173 | Tuyên Quang – Hà Giang|Tuyên Quang: Nà HangHà Giang: Bắc Mê | |- |Quốc lộ 281 |QL.281 |100 |Hà Tĩnh (Lộc Hà – Hương Sơn)|Lộc Hà, Can Lộc, Đức Thọ, Vũ Quang, Hương Sơn |QL8A |- | Quốc lộ N1 | | 235 | Long An – Kiên Giang|Long An: Đức Hòa, Đức Huệ, Thạnh Hóa, Mộc Hóa, Thị xã Kiến Tường, Vĩnh Hưng, Tân HưngĐồng Tháp: Tân Hồng, Thành phố Hồng Ngự, Hồng NgựAn Giang: Thị xã Tân Châu, An Phú, Thành phố Châu Đốc, Tịnh Biên, Tri TônKiên Giang: Giang Thành, Thành phố Hà Tiên | QL91, 80 |- | Quốc lộ N2 | | 440 | Bình Dương – Kiên Giang|Bình Phước: Thị xã Chơn ThànhBình Dương: Bàu Bàng, Dầu TiếngTây Ninh: Gò Dầu, Thị xã Trảng BàngLong An: Đức Hòa, Bến Lức, Thủ Thừa, Thạnh Hóa, Tân ThạnhĐồng Tháp: Tháp Mười, Cao LãnhAn Giang: Chợ Mới, Châu Thành, Tri TônKiên Giang: Hòn Đất | HCM, 1, 62 |- | Quốc lộ Quản Lộ – Phụng Hiệp | QL.Quản Lộ – Phụng Hiệp | 122 | Hậu Giang – Cà Mau|Hậu Giang: Thành phố Ngã BảySóc Trăng: Mỹ Tú, Thị xã Ngã NămBạc Liêu: Hồng Dân, Phước Long, Thị xã Giá RaiCà Mau: Thành phố Cà Mau | QL1, 61B, 63 |- |}In đậm:''' Tỉnh/Thành phố trực thuộc trung ương Chi tiết các tuyến Quốc lộ 1: Có chiều dài 2.395 km từ Hữu Nghị Quan tỉnh Lạng Sơn tới Năm Căn tỉnh Cà Mau. Đây cũng là tuyến đường thuộc hệ thống xa lộ xuyên Á AH1. Quốc lộ 1 là tuyến quốc lộ dài nhất Việt Nam. Quốc lộ 1 đi qua các thành phố quan trọng của Việt Nam như: Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố HCM, Cần Thơ. Quốc lộ 1B: Dài 148,5 km từ Đồng Đăng qua các huyện Cao Lộc, Văn Quan, Bình Gia, Bắc Sơn (Lạng Sơn), Võ Nhai, Đồng Hỷ (Thái Nguyên) và kết thúc tại Thành phố Thái Nguyên khi gặp quốc lộ 37. Quốc lộ 1C: Dài 17,3 km, nằm trong địa phận tỉnh Khánh Hòa từ ngã ba QL1 (đèo Rù Rì, Thành phố Nha Trang) đến ngã tư QL1 (Thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh). Thực chất là đoạn quốc lộ 1 cũ đi xuyên qua thành phố Nha Trang. Quốc lộ 1D: Dài 54 km từ Quy Nhơn – Bình Định đến Sông Cầu – Phú Yên, thực chất là đoạn quốc lộ 1 cũ đi xuyên qua thành phố Quy Nhơn. Quốc lộ 1K: Dài 20,6 km từ Thủ Đức – Thành phố Hồ Chí Minh đến Biên Hòa – Đồng Nai, thực chất là đoạn quốc lộ 1 cũ đi xuyên qua thành phố Biên Hòa. Quốc lộ 2: Dài 313,56 km, điểm đầu Phù Lỗ – Hà Nội, điểm cuối cửa khẩu Thanh Thủy – Hà Giang. Quốc lộ 2B: Phủ Lỗ – Kim Anh – Hương Canh – Vĩnh Yên – QL2 & QL2C Quốc lộ 2C: QL32 (Đường Lâm) – Vĩnh Tường – Vĩnh Yên – Yên Sơn – QL37 Quốc lộ 3: Hà Nội – Thái Nguyên – Bắc Kạn – Cửa khẩu Tà Lùng Cao Bằng. Quốc lộ 3B: Lạng Sơn – Bắc Kạn. Quốc lộ 3C: QL32 (Đường Lâm) – Vĩnh Tường – Vĩnh Yên – Yên Sơn – QL37 Quốc lộ 4: Dự kiến sau năm 2020 sẽ hợp nhất từ các tuyến: Quốc lộ 4A: Thành phố Lạng Sơn – Cao Bằng, dài 116 km Quốc lộ 4B: Tiên Yên, Quảng Ninh – thành phố Lạng Sơn, dài 92,3 km Quốc lộ 4C: thành phố Hà Giang – Cao Bằng, dài 185 km Quốc lộ 4D: Pa So (tỉnh Lai Châu)– Mường Khương (Lào Cai), dài 160 km Quốc lộ 4E: Ngã ba Xuân Quang, huyện Bảo Thắng (chỗ giao với Quốc lộ 70) – thành phố Lào Cai, dài 44 km Quốc lộ 4G: Ngã ba Chiềng An (thành phố Sơn La – chỗ giao với quốc lộ 6) – thị trấn Sông Mã, huyện Sông Mã. Quốc lộ 4H: (Si Pa Phìn – Mường Nhé) dài 100 km. Quốc lộ 5A: Hà Nội – Hải Dương – Hải Phòng, dài 119 km. Quốc lộ 5B: Cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, nối Hà Nội – Hưng Yên – Hải Dương – Hải Phòng, dài 105,5 km. Quốc lộ 6: Dài 504 km từ trung tâm Hà Nội đến Điện Biên. Quốc lộ 7: Dài 225 km, nằm hoàn toàn tại Nghệ An Quốc lộ 7B: Nằm hoàn toàn trong tỉnh Nghệ An có chiều dài 44,9 km. Điểm đầu từ xã Diễn Kỷ (H.Diễn Châu) và điểm cuối tại xã Thanh Đồng (H.Thanh Chương). Quốc lộ 8: Dài 82 km, từ thị xã Hồng Lĩnh đến cửa khẩu Cầu Treo. Quốc lộ 8B: Nằm hoàn toàn trong tỉnh Hà Tĩnh có chiều dài 85 km. Điểm đầu ở ngã ba giao điểm với QL1 trong Tx Hồng Lĩnh và điểm cuối tại thị trấn Xuân An thuộc huyện Nghi Xuân. Quốc lộ 9: Đông Hà – cửa khẩu Lao Bảo (Quảng Trị). Quốc lộ 9B: Nằm hoàn toàn trong tỉnh Quảng Bình có chiều dài 37 km, nối từ quốc lộ 1 ở thị trấn Quán Hàu (H.Quảng Ninh), cắt ngang đường Hồ Chí Minh nhánh đông tại ngã ba Vạn Ninh (Quảng Ninh) đến ngã ba Tăng Ký (H.Lệ Thủy) Quốc lộ 10: Dài 230 km, điểm đầu thành phố Uông Bí, Quảng Ninh, điểm cuối Tào Xuyên – Thanh Hóa. Quốc lộ 12: Dài gần 200 km, nối Lai Châu và Điện Biên. Điểm đầu tại thị xã Lai Châu, điểm cuối giao với quốc lộ 279. Quốc lộ 12A: Nối Hà Tĩnh và Quảng Bình. Có hai tuyến là cũ và mới. Quốc lộ 12B: Dài gần 140 km qua Kim Sơn, Yên Mô, thành phố Tam Điệp, Nho Quan (Ninh Bình) và Yên Thủy, Lạc Sơn tới Tân Lạc (Hòa Bình). Quốc lộ 12C: Có chiều dài 100 km, bắt đầu từ Cảng Vũng Áng (Tx Kỳ Anh, Hà Tĩnh), đi qua các huyện Tuyên Hòa, Minh Hóa (Quảng Bình) và kết thúc ở điểm giao với đường HCM. Quốc lộ 13: Dài 140,5 km, bắt đầu từ Đài Liệt sĩ (TP.Hồ Chí Minh), đi qua Lái Thiêu, Thủ Dầu Một, Bến Cát (Bình Dương) và các huyện Chơn Thành, Bình Long, Lộc Ninh. Điểm cuối là cửa khẩu Hoa Lư. Quốc lộ 14A: Từ huyện Đakrông, Quảng Trị đến ngã 4 Chơn Thành,Bình Phước, giao cắt với quốc lộ 13. Dài 1005 km. Có nhiều đoạn trùng vớiđường Hồ Chí Minh. Quốc lộ 14B: Có chiều dài 74 km, bắt đầu từ Cảng Tiên Sa (Đà Nẵng) đi về phía tây tỉnh Quảng Nam qua các thị trấn Ái Nghĩa (Đại Lộc), Thạnh Mỹ (Nam Giang) và kết thúc ở điểm giao với đường HCM. Quốc lộ 14C: Có chiều dài 355 km, chạy dọc theo biên giới Việt Nam – Campuchia qua các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk và Đắk Nông. Điểm đầu từ ngã ba đường Hồ Chí Minh(QL14) tại VQG Chư Mom Ray thuộc huyện Sa Thầy (Kon Tum) đi hết huyện Sa Thầy đến ranh giới tỉnh Gia Lai, tiếp tục đi qua các huyện Ia Grai, Đức Cơ, Chư Prông (Gia Lai), Ea Súp, Buôn Đôn (Đắk Lắk), Cư Jút, Đăk Mil, Đăk Song, Tuy Đức (Đắk Nông) và điểm cuối tại ngã ba giao cắt với tỉnh lộ 741 trong huyện Tuy Đức. Quốc lộ 14D: Nằm hoàn toàn trong địa phận huyện Nam Giang (Quảng Nam) có chiều dài 75 km, điểm đầu từ ngã ba QL14A (đường HCM) cách thị trấn Thạnh Mỹ 12 km và điểm cuối tại Cửa khẩu Nam Giang (biên giới Việt Nam – Lào). Quốc lộ 14E: Nằm hoàn toàn trong tỉnh Quảng Nam có chiều dài 88 km, điểm đầu từ sông Trà Đóa (bên sông Trường Giang) ở huyện Thăng Bình, cắt QL1 ở thị trấn Hà lam (huyện lỵ Thăng Bình), đi qua thị trấn Tân An (huyện lỵ Hiệp Đức) và điểm cuối gặp QL14A (đường HCM) tại ngã ba làng Hồi (xã Phước Xuân, huyện Phước Sơn) cách thị trấn Khâm Đức (huyện lỵ Phước Sơn) 7 km. Quốc lộ 14G: Nối tỉnh Quảng Nam với Thành phố Đà Nẵng có chiều dài 66 km, bắt đầu từ thị trấn Prao (huyện lỵ Đông Giang, Quảng Nam), điểm cuối gặp QL14B ở huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Quốc lộ 15 dài 651 km, bắt đầu tại Tòng Đậu, giao với quốc lộ 6. Đi qua các tỉnh Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị. Điểm cuối giao với quốc lộ 9 tại Cam Lộ. Quốc lộ 15B: Nằm hoàn toàn trong tỉnh Hà Tĩnh, có chiều dài 44 km. Điểm đầu từ ngã ba Đồng Lộc (huyện Can Lộc), đi qua huyện Thạch Hà và điểm cuối tại thị trấn Thiên Cầm (huyện Cẩm Xuyên). Quốc lộ 15C: Nằm hoàn toàn trong tỉnh Thanh Hóa có chiều dài 127 km. Điểm đầu từ thị trấn Cành Nàng (huyện lỵ Bá Thước), điểm cuối ở thị trấn Mường Lát (huyện lỵ Mường lát) Quốc lộ 15D: Nằm hoàn toàn trong huyện Đakrông (Quảng Trị) có chiều dài 12,2 km. Điểm đầu từ đường Hồ Chí Minh(QL14A), điểm cuối tại Cửa khẩu La Kay (biên giới Việt Nam–Lào). Quốc lộ 16: Nối Thành phố Đồng Hới đến khu du lịch Phong Nha – Kẻ Bàng, nằm gọn trong địa giới tỉnh Quảng Bình. Quốc lộ 17: Dài 150 km, nối: Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên. Quốc lộ 18: Dài 340 km, đi qua các tỉnh thành: Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Dương, Quảng Ninh. Quốc lộ 18C: Nằm hoàn toàn trong tỉnh Quảng Ninh, có chiều dài 45 km. Điểm đầu từ Cửa khẩu Hoành Mô, huyện Bình Liêu (biên giới Việt–Trung), điểm cuối gặp QL18 tại thị trấn Tiên Yên (huyện lỵ Tiên Yên). Quốc lộ 19: Nối Thành phố Quy Nhơn, Bình Định với Thành phố Pleiku, Gia Lai. Quốc lộ 19B: Nằm hoàn toàn trong tỉnh Bình Định, có chiều dài 59 km. Điểm đầu từ KCN Nhơn Hội (Tp Quy Nhơn) đi qua sân bay Phù Cát (huyện Phù Cát), điểm cuối tại thị trấn Phú Phong (huyện Tây Sơn). Quốc lộ 19C: Nối 3 tỉnh: Bình Định, Phú Yên, Đăk Lăk có chiều dài 182 km. Bắt đầu từ QL1 ở thị trấn Diêu Trì (huyện Tuy Phước, Bình Định) đi qua huyện Vân Canh (Bình Định), các huyện phía tây tỉnh Phú Yên: Đồng Xuân, Sơn Hòa, Sông Hinh, kết thúc ở ngã ba giao cắt với QL26 tại thị trấn M'Đrắk (huyện M'Đrăk, Đăk Lăk). Quốc lộ 20: Từ Ngã ba Dầu Giây (Đồng Nai) đến Thành phố Đà Lạt Quốc lộ 21: Trước kia có điểm đầu giao với quốc lộ 32, hiện nay là ngã ba giao cắt với [[đường Hồ Chí Minh]]. Đi qua Hà Nội, Hà Nam và Nam Định. Có chiều dài 210 km. Quốc lộ 21B: Từ Hà Đông (Hà Nội) vòng qua Hà Nam, Nam Định tới Tam Điệp (Ninh Bình). Có chiều dài 210 km. Quốc lộ 21C: Từ Hoàng Mai (Hà Nội) vòng qua Hà Nam, Hòa Bình tới Yên Mô (Ninh Bình). Có chiều dài 104 km. Quốc lộ 22: Từ TP.Hồ Chí Minh đến cửa khẩu Mộc Bài (Tây Ninh), dài 58,5 km. Quốc lộ 22B: Từ thị trấn Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh – cửa khẩu Xa Mát (Tây Ninh), qua thành phố Tây Ninh. Quốc lộ 23: Từ Hà Nội đi tỉnh Vĩnh Phúc, có chiều dài 23 km. Bắt đầu từ QL3 ở xã Vân Trì (huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội), đi qua thị trấn Mê Linh (huyện lỵ Mê Linh, Thành phố Hà Nội), kết thúc tại ngã ba giao cắt với QL2A ở địa phận Thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Quốc lộ 24: Nối tỉnh Quảng Ngãi với tỉnh Kon Tum, có chiều dài 170 km. Bắt đầu từ điểm giao với QL1 tại ngã tư Thạch Trụ (huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi), đi qua thị xã Đức Phổ và huyện Ba Tơ (Quảng Ngãi), Kon Plông, Kon Rẫy (Kon Tum) và kết thúc tại phường Thắng Lợi của Thành phố Kon Tum. Quốc lộ 24B: Nằm hoàn toàn trong tỉnh Quảng Ngãi, có chiều dài 108 km. Bắt đầu tại Cảng Sa Kỳ (xã Bình Châu, huyện Bình Sơn), đi qua các huyện Sơn Tịnh, Sơn Hà và kết thúc tại ngã ba giao nhau với QL24 ở xã Ba Tiêu, huyện Ba Tơ. Quốc lộ 24C: Nối huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi) với huyện Bắc Trà My (Quảng Nam), có chiều dài 71 km. Bắt đầu từ thị trấn Châu Ổ (huyện lỵ Bình Sơn), kết thúc tại thị trấn Trà My (huyện lỵ Bắc Trà My). Quốc lộ 25: Nối Thành phố Tuy Hòa (tỉnh lỵ Phú Yên) với tỉnh Gia Lai, có chiều dài 108 km. Bắt đầu từ xã Hòa An huyện Phú Hòa, đi qua huyện Sơn Hòa (cùng tỉnh Phú Yên), qua các huyện Krông Pa, thị xã Ayun Pa, Phú Thiện và kết thúc ở thị trấn Chư Sê (huyện lỵ Chư Sê) tỉnh Gia Lai. Quốc lộ 26: Nối 2 tỉnh Khánh Hòa và Đăk Lăk, có chiều dài 151 km. Bắt đầu từ ngã ba điểm giao nhau với QL1 ở thị xã Ninh Hòa (Khánh Hòa), đi hết địa phận Ninh Hòa đến địa phận Đăk Lăk, qua các huyện M'Đrăk, Ea Kar, Krông Pắc và kết thúc ở ngã ba đường Hồ Chí Minh(QL14A) tại Thành phố Buôn Ma Thuột. Quốc lộ 26B: Nối quốc lộ 1 đến cổng Nhà máy đóng tàu Vinashin Hyundai, dài 12 km nằm trọn trong địa phận thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa Quốc lộ 27: Nối tỉnh Đăk Lăk với tỉnh Ninh Thuận, có chiều dài 277 km. Bắt đầu từ ngã ba QL26 cách trung tâm Thành phố Buôn Ma Thuột 5 km, đi qua các huyện Cư Kuin, Krông Bông, Lak (Đắk Lăk), Dam Rông, Lâm Hà, Đức Trọng, Đơn Dương (Lâm Đồng), Ninh Sơn (Ninh Thuận) và kết thúc tại ngã ba điểm giao với QL1 ở Thành phố Phan Rang (tỉnh lỵ Ninh Thuận). Quốc lộ 27B: Có chiều dài 53 km, điểm đầu từ QL27 ở huyện Ninh Sơn (tỉnh Ninh Thuận) qua huyện Bác Aía (cùng tỉnh), kết thúc tại điểm giao với QL1 tại Thành phố Cam Ranh (Khánh Hòa). Quốc lộ 27C: Nối Khánh Hòa với Lâm Đồng, có chiều dài 121 km. Khởi đầu từ QL1 ở thị trấn Diên Khánh (huyện lỵ Diên Khánh, Khánh Hòa), qua huyện Khánh Vĩnh (cùng tỉnh), đi tiếp qua huyện Lạc Dương (Lâm Đồng) và kết thúc ở Thành phố Đà Lạt (tỉnh lỵ Lâm Đồng). Quốc lộ 28: Dài 314 km nối Thành phố Phan Thiết (Bình Thuận) với Thị xã Gia Nghĩa (Đắk Nông), đi qua các huyện Hàm Thuận Bắc (Ninh Thuận), Di Linh (Lâm Đồng), Đăk Glong (Đăk Nông) và kết thúc tại trung tâm thị xã Gia Nghĩa (tỉnh lỵ Đăk Nông). Quốc lộ 28B: Dài 71 km, bắt đầu từ điểm giao với QL1 tại thị trấn Lương Sơn (huyện Bắc Bình, Bình Thuận) và kết thúc tại ngã ba Đại Ninh điểm giao với QL20 ở thị trấn Liên Nghĩa (huyện lỵ Đức Trọng, Lâm Đồng). Quốc lộ 29: Dài 178 km, bắt đầu từ ngã ba Phú Lâm điểm giao với QL1 tại Thành phố Tuy Hòa, đi qua các huyện Đông Hòa, Tây Hòa, Sông Hinh (Phú Yên), Ea Kar, Krông Năng (Đăk Lăk) và kết thúc tại ngã ba điểm giao với đường Hồ Chí Minh(QL14A) tại trung tâm thị xã Buôn Hồ (Đăk Lăk) cách Thành phố Buôn Ma Thuột 40 km về phía tây nam. Quốc lộ 30: dài khoảng 120 km, nối Tiền Giang và Đồng Tháp. Quốc lộ 31: dài 154 km. Điểm đầu là ngã ba Bản Chắt (huyện Đình Lập, Lạng Sơn), điểm cuối tại thành phố Bắc Giang. Quốc lộ 32: Điểm đầu là cầu Giấy (quận Cầu Giấy). Nối Hà Nội với Phú Thọ, Yên Bái, Lai Châu. Điểm cuối gặp quốc lộ 4D. Tổng chiều dài là 415 km. Quốc lộ 32B: Dài 20 km, điểm đầu giao với QL32 ở xã Thu Cúc (huyện Tân Sơn, Phú Thọ), điểm cuối tại ngã ba giao với QL37 ở xã Mường Cơi (huyện Phù Yên, Sơn La). Quốc lộ 32C: Dài 78 km nối Thành phố Việt Trì (tỉnh lỵ Phú Thọ) với Thành phố Yên Bái (tỉnh lỵ Yên Bái). Điểm đầu tại ngã ba giao với QL2 ở Thành phố Việt Trì, đi qua các huyện Lâm Thao, Tam Nông, Cẩm Khê, Hạ Hòa (Phú Thọ), điểm cuối gặp QL37 tại Thành phố Yên Bái. Quốc lộ 34: Dài 260 km, điểm đầu thành phố Hà Giang, điểm cuối cửa khẩu Trà Lĩnh – Cao Bằng. Quốc lộ 35: Dài 6 km, là tuyến đường nối cảng Ninh Phúc với quốc lộ 1, điểm đầu tại cầu Vòm, điểm cuối tại cảng Ninh Phúc. Quốc lộ 48D: Nằm hoàn toàn trong tỉnh Nghệ An, dài khoảng 40 km, điểm đầu nối với đường Nghi Xuân ở cảng Nghi Xuân (Tĩnh Gia, Thanh Hóa), đi qua Tx Hoàng Mai, huyện Nghĩa Đàn và kết thúc ở trung tâm Tx Thái Hòa. Quốc lộ 37: Dài 470 km, điểm đầu thị trấn Diêm Điền, điểm cuối ngã 3 Cò Nòi. Quốc lộ 37B: Dài 139 km, điểm đầu thị trấn Diêm Điền, qua tỉnh Nam Định, điểm cuối Duy Tiên, Hà Nam. Quốc lộ 38: Dài 85 km, điểm đầu thành phố Bắc Ninh, điểm cuối phường Đồng Văn – Duy Tiên – Hà Nam. Quốc lộ 38B: Dài 145,06 km, kết nối từ Gia Lộc, Hải Dương, qua Hưng Yên, Hà Nam, Thành phố Nam Định tới Nho Quan, Ninh Bình Quốc lộ 39: Dài 109 km, điểm đầu phố Nối Hưng Yên, điểm cuối cảng Diêm Điền – Thái Bình. Quốc lộ 40: Dài 20 km, điểm đầu thị trấn Ngọc Hồi Kon Tum, điểm cuối biên giới Việt – Lào. Quốc lộ 40B: dài 209 km, điểm đầu xã Tam Thanh Thành phố Tam Kỳ, điểm cuối thị trấn Đăk Tô Kon Tum Quốc lộ 43: Dài 105 km, điểm đầu giao với quốc lộ 37, ngã ba Gia Phú điểm cuối đèo Ba Háng – Sơn La. Quốc lộ 45: Dài 136 km, điểm đầu phố Rịa Ninh Bình, điểm cuối ngã ba Như Xuân – Thanh Hóa. Quốc lộ 46: Dài 80 km, điểm đầu cảng Cửa Lò, Nghệ An, điểm cuối thị trấn Đô Lương – Nghệ An. Quốc lộ 46B: Nằm trọn trong địa phận huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Quốc lộ 47: Dài 138 km, điểm đầu thành phố Sầm Sơn, Thanh Hóa, điểm cuối cửa Khẩu khẹo, xã Bát Mọt, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Quốc lộ 48A: Dài 122 km, điểm đầu Yên Lý, Nghệ An, điểm cuối thị trấn Quế Phong – Nghệ An. Quốc lộ 48B: Dài 25 km, nằm trọn trong huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An), khởi đầu từ ngã ba điểm giao với QL48 qua các xã Quỳnh Châu, Ngọc Sơn, thị trấn Cầu Giát và kết thúc tại Lạch Quèn ở xã Quỳnh Thuận. Quốc lộ 48C: Dài 123 km, điểm đầu là ngã ba Săng Lẻ, Nghệ An, điểm cuối giao quốc lộ 7. Quốc lộ 48E: Dài khoảng 214,261km, từ cảng Lạch Cờn–thị xã Hoàng Mai đi xã Nghi Thạch, huyện Nghi Lộc (Nghệ An), (không bao gồm các đoạn đi trùng với quốc lộ hiện hữu), Quốc lộ 49: Dài 97,5 km, điểm đầu cửa Thuận An, Thừa Thiên Huế, điểm cuối giao cắt với quốc lộ 14 ([[đường Hồ Chí Minh]]). Quốc lộ 49B: Hầu hết nằm trọn trong tỉnh Thừa Thiên Huế, dài 105 km, điểm đầu từ ngã ba giao với QL1 (sông Mỹ Chánh) tại địa phận huyện Hải Lăng, Quảng Trị (sát ranh giới Quảng Trị – Thừa Thiên Huế), chạy dọc theo duyên hải Thừa Thiên Huế và kết thúc ở điểm gặp lại QL1 tại bờ nam đầm Cầu Hai thuộc huyện Phú Lộc (gần cảng Chân Mây). Quốc lộ 49C: Quốc lộ 50: Điểm đầu cầu Nhị Thiên Đường Thành phố Hồ Chí Minh, điểm cuối Thành phố Mỹ Tho (Tiền Giang) qua Cần Giuộc, Cần Đước, phà Mỹ Lợi, Thị xã Gò Công, Vĩnh Bình, Chợ Gạo, Mỹ Tho. Quốc lộ 51: điểm đầu Ngã ba Vũng Tàu, điểm cuối TP Vũng Tàu qua Long Thành, Bà Rịa. Dài 86 km. Quốc lộ 53: Dài 168 km điểm đầu Thành phố Vĩnh Long, điểm cuối xã Long Vĩnh (Duyên Hải–Trà Vinh) qua Long Hồ, Vũng Liêm,Càn Long, Thành phố Trà Vinh, Cầu Ngang,Duyên Hải. Quốc lộ 54: Dài 155 km điểm đầu Thành phố Trà Vinh, điểm cuối Bến phà Vàm Cống (Lấp vò – Đồng Tháp) qua Châu Thành, Tiểu Cần, Cầu Kè(Trà Vinh), Trà Ôn, Bình Minh, Bình Tân (Vĩnh Long), Lai Vung (Đồng Tháp) Quốc lộ 55: Điểm đầu thành phố Bà Rịa, điểm cuối là thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. Quốc lộ 56: Điểm đầu thành phố Bà Rịa, điểm cuối thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai. Quốc lộ 57: Nối Vĩnh Long và Bến Tre. Điểm đầu giao với quốc lộ 53 tại ngã ba Đồng Quê và kết thúc tại Thạnh Phú. Dài 105 km. Quốc lộ 60: Điểm đầu Thành phố Mỹ Tho (Tiền Giang)qua cầu Rạch Miễu đến huyện Châu Thành, Thành phố Bến Tre, qua cầu Hàm Luông về huyện Mỏ Cày Bắc, Mỏ Cày Nam (tỉnh Bến Tre)qua phà Cổ Chiên về Thành phố Trà Vinh, đi xuyên qua huyện Tiểu Cần vượt sông Hậu ở Cầu Quan qua Đại Ngãi kết thúc tại Thành phố Sóc Trăng. Quốc lộ 61: Điểm đầu TT Cái Tắc (Hậu Giang) điểm cuối Rạch Sỏi(Kiên Giang) đi qua các TT Rạch Gòi(Châu Thành A), TT Kinh Cùng(Phụng Hiệp), TT Nàng Mau (Vị Thủy), Thành phố Vị Thanh tỉnh Hậu Giang, cầu Cái Tư Quốc lộ 61B: Điểm đầu ngã 3 Vĩnh Tường (Hậu Giang) điểm cuối TT Phú Lộc (Sóc Trăng) đi qua các TT Long Mỹ (Long Mỹ), TX Ngã Năm (Sóc Trăng) và TT Phú Lộc (Sóc Trăng). Đường Tây Sông Hậu: còn được gọi là Quốc lộ 61C là tuyến đường nối thành phố Vị Thanh thuộc tỉnh Hậu Giang với thành phố Cần Thơ. Quốc lộ 62 (đại lộ Đồng Tháp Mười): điểm đầu Thành phố Tân An (Long An), điểm cuối cửa khẩu quốc tế Bình Hiệp (Long An) đi qua Thành phố Tân An, các huyện Thủ Thừa, Thạnh Hoá, Tân Thạnh, Mộc Hoá và tx Kiến Tường Quốc lộ 63: Bắt đầu từ Ngã 3 Minh Lương (Châu Thành, Kiên Giang) đi qua phà Xẻo Rô qua các huyện An Biên, U Minh Thượng, Vĩnh Thuận của tỉnh Kiên Giang nối với huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. Quốc lộ 70: dài 185 km. Có điểm đầu giao cắt với quốc lộ 2A tại thị trấn Đoan Hùng. Tuyến đường nối các tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai. Điểm cuối là ngã ba Bản Phiệt, cắt quốc lộ 4D tại thành phố Lào Cai. Đây là một phần của AH 14. Quốc lộ 70B: Quốc lộ 71: Nối huyện Hương Sơn với huyện Vũ Quang. Quốc lộ 80: Dài khoảng 280 km, điểm đầu Cầu Mỹ Thuận, điểm cuối thành phố Hà Tiên Quốc lộ 91: Dài khoảng 142,1 km, điểm đầu thành phố Cần Thơ, điểm cuối cửa khẩu Tịnh Biên, An Giang Đường Nam Sông Hậu: còn được gọi là quốc lộ 91B, dài 162 km đi qua các tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng, Hậu Giang và thành phố Cần Thơ. Quốc lộ 91C: dài 35,5 km, nối Quốc lộ 91 tại thành phố Châu Đốc với cửa khẩu Khánh Bình, tỉnh An Giang Quốc lộ 100: Dài 21 km, nối quốc lộ 4D với quốc lộ 12. Toàn tuyến nằm trọn trong tỉnh Lai Châu. Quốc lộ 217: Dài 196 km, nằm trong tỉnh Thanh Hóa. Từ Quốc lộ 1 tại thành phố Thanh Hóa đến cửa khẩu Na Mèo. Quốc lộ 279: Dài khoảng trên 600 km, điểm đầu từ ngã tư Ao Cá, thành phố Hạ Long, Quảng Ninh chạy qua Bắc Giang, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Hà Giang, Lai Châu, Sơn La, Điện Biên và kết thúc tại cửa khẩu Tây Trang của tỉnh Điện Biên Quốc lộ N1: Tổng chiều dài của tuyến đường N1 là 235 km, qua các tỉnh Long An, Đồng Tháp, An Giang và Kiên Giang, đi dọc theo biên giới Việt Nam – Campuchia. Quốc lộ N2: Tổng chiều dài 440 km đi qua 8 tỉnh: Bình Phước, Bình Dương, Tây Ninh, Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Cà Mau. Quốc lộ Quản Lộ – Phụng Hiệp: Có chiều dài 111,74 km qua 4 tỉnh Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau. Kỷ lục Quốc lộ dài nhất: Quốc lộ 1 với chiều dài 2.395 km. đường Hồ Chí Minh mặc dù có tổng chiều dài lớn hơn quốc lộ 1 nhưng thực chất chỉ là đường nối nhiều tuyến quốc lộ khác với nhau như quốc lộ 2, quốc lộ 3, quốc lộ 12B, quốc lộ 21, quốc lộ 15, quốc lộ 14, quốc lộ 63, quốc lộ 80,... và có những đoạn như tỉnh lộ 203 ở Cao Bằng chưa được nâng cấp thành quốc lộ. Quốc lộ ngắn nhất là tuyến đường nối cảng Ninh Phúc hay còn gọi là quốc lộ 35 ở Ninh Bình chỉ với chiều dài 6 km. Chú thích
Chỉ số thông minh, hay IQ (viết tắt của Intelligence quotient trong tiếng Anh), là một khái niệm được nhà khoa học người Anh Francis Galton đưa ra trong cuốn sách Hereditary nius xuất bản vào cuối thế kỷ 19. Sau đó, nó được học trò của ông là J.Cattell và nhà tâm lý học người Pháp Alfred Binet phát triển bằng việc thảo ra những bài trắc nghiệm để kiểm tra năng lực Logic của trẻ khi đi học. Binet nhận thấy rằng có mối liên hệ giữa khả năng học của một học sinh với kết quả bài trắc nghiệm của ông. Sau đó không lâu, nhà tâm lý học người Mỹ Giáo sư Lewis Terman (Giảng viên trường đại học Standford) đã phát triển bài trắc nghiệm gồm những câu phức tạp hơn để dùng cho người trưởng thành và đặt tên là bài trắc nghiệm chỉ số thông minh Stanford-Binet; nó nhanh chóng trở nên thông dụng trên khắp nước Mỹ, bùng phát mạnh vào năm 1917 khi nước Mỹ bước vào chiến tranh thế giới thứ nhất. Chỉ số IQ thường liên quan đến khả năng logic,ngôn ngữ và không gian , người có IQ cao thường có khả năng lập luận, phân tích các vấn đề, thích tổng hợp và phân tích để tìm ra bản chất và quy luật của các vấn đề. Nhạy bén trong các vấn đề liên quan về số học, suy diễn các trình tự và tư duy theo phương hướng nguyên nhân – kết quả. Trí thông minh logic – toán học thể hiện sự thông minh với các con số, khả năng suy luận, khả năng hiểu các vấn đề trừu tượng, khả năng xác định nguyên nhân, xâu chuỗi các sự kiện và cả số lượng từ mà người đó sử dụng.Có một số không học giỏi toán và khó đọc dù có chỉ số IQ cao nguyên nhân có thể do bị chứng khó học toán và Chứng khó đọc Những nghiên cứu gần đây cho thấy có sự liên quan giữa IQ và sức khỏe, tuổi thọ dài hơn vì họ thường có kiến thức chăm sóc sức khẻo hơn (nhưng tuy nhiên người có IQ cao thường có nguy cơ dễ mất ngủ và khó di truyền cho thế sau vì họ thường nghĩ tới công việc hơn là sinh con)Đặc biệt hơn là người IQ cao thường có chỉ số EQ thấp. . Hiệu ứng Flynn Trên toàn thế giới, chỉ số IQ sẽ tăng một cách chậm, còn được biết đến với tên gọi hiệu ứng Flynn (1999). Hiệu ứng Flynn đã được quan sát từ rất lâu nhưng rất khó để giải thích. Tuy nhiên, những bài kiểm tra trí thông minh luôn được điều chỉnh lại để điểm trung bình luôn là 100, ví dụ WISC-R (1974), WISC-III (1991) và WISC-IV (2003). Vì vậy, có thể nói rất khó so sánh chỉ số IQ với nhiều năm trước. Nhưng chúng ta vẫn chưa thể khẳng định chắc chắn những sự thay đổi đó thể hiện chính xác sự thông minh dần thêm của con người. Trung bình chỉ số IQ trong một đời người hầu như không tăng hay giảm. Tuy nhiên vẫn có một ít người trải qua những sự thay đổi rất lớn. Ví dụ như trong một số tài liệu, một số chứng bệnh ảnh hưởng học tập có thể ảnh hưởng gây giảm chỉ số IQ rất lớn. Sự liên quan IQ Chủng tộc và trí thông minh Trong khi chỉ số IQ của một cá thể trong những xã hội được phân bố trên cùng một thang IQ, nhưng những nhóm người khác nhau sẽ có những thang IQ có vị trí khác nhau. Trong khi người Do Thái và Đông Á có khu vực phân bố thang IQ cao hơn người châu Âu, trong khi những người Latin và ở vùng hạ Sahara lại có khu vực phân bố thang IQ thấp hơn. Rất nhiều những nghiên cứu đang được tiến hành nhằm tìm hiểu nguyên nhân của sự phân bố IQ như thế, lý do của việc đó và độ chính xác của những bài kiểm tra IQ. Một số nhà khoa học cho rằng đó là do sự khác nhau trong những điều kiện kinh tế xã hội nhưng giả thiết trên vẫn chưa được chấp nhận hoàn toàn. Giới tính và trí thông minh Vào năm 1999, một nghiên cứu của Richard Lynn, giáo sư danh dự tại Đại học Ulster - một trong những học giả nổi tiếng nhất của Anh, trong đó ông đã phân tích số liệu từ một số bài test được xuất bản trước đó và phát hiện ra rằng chỉ số IQ trung bình của nam giới cao hơn của nữ giới khoảng 3-4 điểm IQ. Các phân tích quy mô lớn của Lynn thực hiện năm 2004 khảo sát sự khác biệt giới cũng chỉ ra nam giới có chỉ số IQ trung bình cao hơn nữ là 5.0 điểm IQ. Do vậy, nam giới phù hợp với những nhiệm vụ có độ phức tạp cao hơn là phụ nữ. Số đàn ông có chỉ số IQ cao sẽ lớn hơn rất nhiều so với phụ nữ, Richard Lynn cho biết số đàn ông có IQ cao hơn 130 nhiều gấp 3 lần so với phụ nữ, và số đàn ông có IQ cao hơn 145 nhiều gấp 5,5 lần so với phụ nữ. Điều này giải thích tại sao phần lớn các giải Nobel, các phát minh khoa học hoặc các Đại kiện tướng cờ vua thuộc về nam giới. Trong một nghiên cứu khác bởi Rushton phát hiện nam giới ở độ tuổi 17 - 18 tuổi có chỉ số IQ trung bình cao hơn 3,63 điểm so với nữ.. Một nghiên cứu năm 2009 đo được khoảng cách là 3-5 điểm IQ cao hơn nghiêng về nam giới. Tuổi tác và IQ Tùy vào độ tuổi mà IQ thể thay đổi ở một mức độ nào đó trong suốt thời thơ ấu. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu dài hạn, điểm số IQ trung bình của các bài kiểm tra ở độ tuổi 17 và 18 tương quan với r = 0,86 với điểm trung bình của các bài kiểm tra ở độ tuổi năm, sáu và bảy và tại r = 0,96 với điểm trung bình của các bài kiểm tra tại tuổi 11, 12 và 13. Các báo cáo cho thấy sự suy giảm IQ theo tuổi sau khi bắt đầu trưởng thành. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu sau đó đã chỉ ra hiện tượng này có liên quan đến hiệu ứng Flynn và một phần là hiệu ứng đoàn hệ chứ không phải là do hiệu ứng lão hóa. Một loạt các nghiên cứu về IQ và lão hóa đã được thực hiện kể từ khi định mức của Thang đo trí thông minh Wechsler đầu tiên thu hút sự chú ý đến sự khác biệt IQ ở các nhóm tuổi khác nhau của người trưởng thành. Sự đồng thuận hiện nay là trí thông minh chất lỏng thường suy giảm theo tuổi sau khi trưởng thành sớm, trong khi trí thông minh kết tinh vẫn còn nguyên. Cả hai hiệu ứng đoàn hệ (năm sinh của người làm bài kiểm tra) và hiệu ứng thực hành (người làm bài kiểm tra thực hiện cùng một hình thức kiểm tra IQ nhiều lần) phải được kiểm soát để có được dữ liệu chính xác. Không rõ liệu có bất kỳ can thiệp lối sống nào có thể bảo tồn trí thông minh chất lỏng ở tuổi già hay không. Sức khỏe và IQ Một người có trí thông minh cao thường ít bị bệnh tật nặng hơn và sống lâu hơn. Điều đó có thể là bởi vì họ có khả năng né tránh những chấn thương tốt hơn và chăm sóc sức khỏe của mình tốt hơn và mặt khác, họ thường có đời sống kinh tế khá giả hơn. Nó cũng giúp chống lại trầm cảm, tuyệt vọng. Nghiên cứu ở Scotland cho thấy những người có IQ thấp hơn trung bình 15 điểm có cơ hội mừng sinh nhật thứ 76 của mình thấp hơn 1/5 so với trung bình. Những người có IQ nhỏ hơn 30 điểm thì tỉ lệ đó giảm 37%. Di truyền và môi trường tác động lên trí thông minh Vai trò của di truyền và môi trường tác động lên trí thông minh là một đề tài nghiên cứu từ rất lâu. Khả năng thừa kế của một gene lên thế hệ sau được biểu diễn bằng một số trong khoảng từ 0 đến 1, gọi là hệ số di truyền. Ta có thể hiểu một cách khác là hệ số di truyền là phần trăm khả năng di truyền cho đời sau của một gene. Nghiên cứu ở những cặp sinh đôi và những gia đình có nhận con nuôi là những nơi thường được nghiên cứu nhiều nhất. Cho đến gần đây hệ số di truyền hầu hết chỉ được nghiên cứu ở trẻ em và người ta cho rằng hệ số di truyền trung bình là 0,5. Điều này cho thấy một nửa số trẻ trong nghiên cứu có gene đã biến dị. Phần còn lại được giải thích rằng do tính toán sai hay do yếu tố môi trường. Con số 0,5 cho thấy trí thông minh một phần là do thừa kế từ cha mẹ. Nghiên cứu ở người lớn tuy vẫn chỉ ở những mức rất sơ khai nhưng cũng có những kết quả rất thú vị: hệ số di truyền có thể lên đến 0,8. Hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ vào năm 1995 trong công trình "Intelligence: Knowns and Unknowns" (Trí thông minh: những điều đã biết và chưa biết) kết luận rằng hệ số di truyền là "khoảng 0,75". Môi trường Yếu tố môi trường đóng vai trò rất lớn trong nhiệm vụ xác định trí thông minh trong một số trường hợp. Một chế độ dinh dưỡng hợp lý trong lúc nhỏ được cho là rất quan trọng; sự dinh dưỡng kém có thể làm suy giảm trí thông minh. Một số nghiên cứu khác về yếu tố môi trường còn cho rằng thai phụ trước khi sinh hay cho con bú nếu tiếp xúc với những loại độc tố hay thiếu các vitamin và muối khoáng quan trọng có thể ảnh hưởng đến IQ của đứa bé. Trong xã hội đã phát triển, môi trường trong gia đình có thể tạo ra 25% sự khác biệt. Tuy nhiên, khi lớn lên, điều này hầu như biến mất. Do đó, trong một xã hội đang phát triển càng hiện đại hơn, trí thông minh của con người càng di truyền. Theo như một số nguồn khác, đối với hầu hết những tính cách khác nhau, trái ngược với những điều được mong đợi, những ảnh hưởng từ môi trường lên những trẻ em được nhận nuôi khác hẳn so với những trẻ em được nuôi bởi chính cha mẹ của chúng. Nói một cách khác, người ta thấy con nuôi có hệ số di truyền trí thông minh vào khoảng 0,32. Tuy vậy, những ảnh hưởng trên hoàn toàn bị xóa bỏ khi đến tuổi trưởng thành. Những ảnh hưởng của môi trường lên gene cũng được nghiên cứu. Điều này cũng được coi là một yếu tố môi trường, nhưng thay vì xác phụ thuộc của IQ vào gene, người ta nghiên cứu sự phụ thuộc giữa gene vào môi trường. Một trong số những nghiên cứu trên cho rằng 40% sự khác nhau trong một gia đình là do sự biến dị của gene. Phát triển Có nhiều người tin rằng sự ảnh hưởng của gene lên chỉ số IQ càng ngày càng kém quan trọng trong cuộc sống khi con người già đi và học hỏi thêm càng nhiều kinh nghiệm. Thật ngạc nhiên là điều ngược lại lại xảy ra. Đối với trẻ em, hệ số di truyền là 0,2 (20%), một thiếu niên là 0,4 và có thể lên đến 0.8 đối với người lớn. Những ảnh hưởng của gia đình cũng có vẻ biến mất khi lớn lên. Những trẻ em nuôi sau khi lớn lên có hệ số di truyền hầu như không hề liên quan (gần 0), trong khi những anh chị em cùng cha mẹ thì con số đó là 0,6. Nghiên cứu về những cặp sinh đôi cùng trứng cho thấy con số đó sẽ được nâng lên đến 0,86. Sự chậm phát triển trí não Khoảng 75-80% sự chậm phát triển trí não là do di truyền, và 20-25% còn lại là do những nguyên nhân bên trong cơ thể như sự bất thường ở các nhiễm sắc thể hay chấn thương ở não. Sự chậm phát triển trí tuệ từ nhẹ đến vừa có thể có nguyên nhân là do sự rối loạn của một gene cho đến nhiều nhiễm sắc thể bất thường, có thể bao gồm hiện tượng mất đoạn nhiễm sắc thể. Theo như nhiên cứu trên những cặp sinh đôi, sự kém phát triển trí tuệ từ vừa đến nặng là không do yếu tố di truyền, nhưng dạng nhẹ của bệnh lại là do di truyền. Đó cũng là lý do họ hàng của những người kém phát triển trí tuệ nặng hầu hết đều bình thường còn trong những gia đình có người kém phát triển trí tuệ nhẹ thì có chỉ số IQ thấp hơn hẳn so với mức trung bình. Bảng chỉ số IQ Kém phát triển trí tuệ dạng nhẹ: có IQ từ 50-55 đến 70, trẻ em như thế cần được giúp đỡ nhẹ nhàng. Kém phát triển trí tuệ dạng trung bình: có IQ từ 35-40 đến 50-55, trẻ em cần được giúp đỡ nhiều và theo dõi. Kém phát triển trí tuệ dạng nặng: có IQ từ 20-25 đến 35-40, trẻ chỉ có thể được dạy các kĩ năng cơ bản trong cuộc sống, cần được theo dõi thường xuyên. Kém phát triển trí tuệ dạng rất nặng: có IQ dưới 20-25, thường bị gây ra bởi những vấn đề về hệ thần kinh, rất cần được chăm sóc thường xuyên. Tỉ lệ mắc chứng kém phát triển trí tuệ ở nam cao hơn ở nữ, ở người da đen cao hơn người khác, theo như một nghiên cứu năm 1991 của Trung tâm Điều khiển và Phòng chống Dịch bệnh (CDC). Đối với chủng tộc, tỉ lệ chung là 1,66% cho người da đen và 0.68% cho người da trắng. Đối với nam, da đen thì có tỉ lệ cao nhất: gấp 1,7 lần nữ, da đen; 2,4 lần so với nam, da trắng và 3,1 lần so với nữ, da trắng. Những người có chỉ số IQ dưới 70 ở Hoa Kỳ sẽ được miễn tội tử hình từ năm 2002. IQ và sự liên quan đến giáo dục và thu nhập Nghiên cứu của Tambs cùng những cộng sự (1989) cho thấy rằng bằng cấp đạt được, nghề nghiệp cũng như IQ là di truyền được; và hơn nữa cho thấy rằng gene ảnh hưởng rất lớn lên thành công trong học tập, khoảng 25% nghề nghiệp và gần 50% biến dị về gene lên IQ. Rowe cùng những cộng sự trong công trình nghiên cứu năm 1987 cho rằng sự không đồng đều trong thu nhập và giáo dục đến hầu hết từ gene, và các yếu tố môi trường chỉ có vai trò rất phụ. Sự quay lại Sự di truyền của chỉ số IQ cho thấy khả năng IQ của một đứa trẻ bị ảnh hưởng từ IQ của cha mẹ. Bởi vì chỉ số IQ luôn nhỏ hơn 1 nên chỉ số IQ của đứa trẻ sẽ có xu hướng quay lại về chỉ số IQ chuẩn của dân số chung. Có thể nói, một cặp bố mẹ có chỉ số thông minh cao có nhiều khả năng có những đứa con kém thông minh hơn họ. Trong khi đó, những cặp bố mẹ có chỉ số IQ có chỉ số thông minh thấp lại có xu hướng có những đứa con thông minh hơn. Hiệu ứng trên có thể được biểu diễn bởi công thức: Trong đó: : chỉ số IQ dự đoán của đứa bé : chỉ số IQ trung bình của xã hội : hệ số di truyền của chỉ số IQ và : chỉ số thông minh của mẹ và bố đứa bé. Vì vậy, nếu hệ số di truyền là 50%, một cặp có IQ trung bình là 120 và sống trong xã hội có IQ trung bình là 100 thì con của họ có nhiều khả năng có IQ là 110. IQ và bộ não Kích cỡ bộ não Những nghiên cứu hiện đại sử dụng kĩ thuật MRI cho thấy kích cỡ bộ não có liên quan đến IQ với một hệ số là khoảng 0,4. Một nghiên cứu trên những cặp sinh đôi do Thompson cùng những cộng sự xuất bản vào năm 2001 cho thấy rằng chất xám có liên quan đến hệ số g và cũng có hệ số di truyền rất cao (một nghiên cứu gần đây cho thấy con số đó là 0,85). Những vùng não tương ứng với IQ Nhiều nguồn thông tin khác nhau cùng đồng ý ở một điểm là não trước đóng một vai trò quyết định trong việc hình thành những "dòng suy nghĩ". Những bệnh nhân có những vấn đề về não trước có kết quả IQ và chất trắng cũng đã được cho là có liên quan mật thiết với trí thông minh tổng quát. Tuy nhiên, những hình chụp mới về bộ não cho thấy điều đó chỉ giới hạn ở vùng hai bên vỏ não trước. Ducan và các đồng sự khi sử dụng phương pháp chụp PET thì xác định phần não dùng để giải quyết các vấn đề liên quan rất lớn đến trí thông minh nằm ở vùng hai bên vỏ não trước. Gần đây hơn, Gray và các cộng sự (2003) đã dùng phương pháp fMRI để chứng minh ở những người có trí thông minh cao thì vùng này có thêm khả năng chống lại những sự mất tập trung. Gray và Thompson (2004) có một bài viết về điều này. Cấu trúc bộ não và IQ Một nghiên cứu bao gồm 307 trẻ em từ 6 đến 19 tuổi bằng cách đo kích cỡ từng phần của bộ não bằng phương pháp MRI và đo các khả năng từ vựng và suy luận đã được thực hiện (Shaw, 2006). Nghiên cứu cho thấy có một sự liên quan nào đó giữa IQ và cấu trúc của vỏ não – những người có trí thông minh cao thường có vỏ não mỏng khi nhỏ và dày dần thêm khi lớn lên. Sự hiệu quả thực tế Bằng chứng về hiệu quả thực tế của chỉ số thông minh được kiểm chứng bằng cách kiểm soát "độ liên quan giữa IQ và thực tế cuộc sống. Nghiên cứu cho rằng trí thông minh tổng quát đóng một vai trò rất quan trọng trong cuộc sống. Bên cạnh sự thành công trong trường học, IQ có một vai trò hết sức quan trọng hiệu quả làm việc, thăng tiến, địa vị xã hội và cả tỉ lệ phạm tội, nghèo khó, thất nghiệp, có con ngoài giá thú,... Nghiên cứu gần đây cũng đưa ra những mối liên hệ giữa trí thông minh và sức khỏe, sống thọ, số lượng từ vựng được người đó sử dụng. Mối liên hệ giữa hệ số g và cuộc sống khá rõ ràng trong khi IQ và hạnh phúc thì hầu như không. IQ và hệ số g liên quan rất nhiều với nhau trong trường học, nhưng ít hơn trong nghề nghiệp, trung bình trong thu nhập và có một phần nhỏ đến tình trạng phạm tội. Trí thông minh tổng quát chính là một tiên đoán gần đúng nhất cho khả năng làm việc của con người. Độ liên quan thể hiện mức độ giống nhau giữa những gì mà họ thể hiện trong bài kiểm tra và trong thực tế (được đo bằng nhiều tiêu chí, trong đó có đánh giá của thủ trưởng, thăng thưởng,...) là một con số từ -1,0 (sai hoàn toàn) đến 1,0 (đúng hoàn toàn). Người ta nhận thấy rằng độ liên quan với những việc chưa từng làm là 0,2 trong khi những việc đã có kinh nghiệm là 0,8. Một cuộc phân tích lớn (Hunter and Hunter, 1984) trên 32,124 công nhân trên phương diện thông minh tổng quát cho thấy rằng độ liên quan của những người mới vào làm là 0,54, thử việc 0,44, có kinh nghiệm 0,18, phỏng vấn 0,14, tuổi tác -0,01, đang được huấn luyện 0,10. Một bài kiểm tra được thiết kế tốt có thể cho phép các công ty lựa chọn những người có IQ cao. Đó cũng là lý do sau khi xem xét tất cả các ứng viên, người ta thường có phỏng vấn (độ liên quan 0,14) hơn lựa chọn ngẫu nhiên (độ liên quan 0,00). Tuy nhiên, có những hàng rào luật pháp như quyền con người, như trong năm 1971, tòa án tối cao Hoa Kỳ sau vụ án Griggs và công ty năng lượng Duke đã cấm hoàn toàn việc các công ty Hoa Kỳ dùng những bài kiểm tra thông minh để lựa chọn nhân viên khi kết quả của bài kiểm tra có ảnh hưởng quyết định đến việc người đó có được nhận vào làm hay không. Tuy nhiên, Microsoft rất nổi tiếng trong việc sử dụng những bài kiểm tra trên một cách bất hợp pháp bằng cách kết hợp nó với quá trình phỏng vấn, và đôi khi họ đặt vấn đề thông minh cao hơn cả kinh nghiệm (xem thêm ở và ). Những nhà khoa học cũng đã lên tiếng "trong kinh tế, sự đo lường trí thông minh đồng nghĩa với sự suy giảm những giá trị đạo đức"(Detterman and Daniel, 1989, xem thêm ở. Tuy nhiên, một số nghiên cứu về IQ tiếp tục tìm ra những lợi ích của sự thông minh ở một mức độ cao. Khả năng làm việc là một ví dụ, tăng dần theo IQ (Coward và Sackett, 1990). Trong cuộc phân tích hàng trăm đứa trẻ, người ta thấy rằng IQ có một hiệu quả rất lớn lên thu nhập bình quân của gia đình (Murray, 1998). Một số những nhà nghiên cứu khác đặt một câu hỏi liệu IQ có là nguyên nhân của sự giàu có và sự không đồng đều về kinh tế trong một quốc gia hay không? Câu trả lời là dưới một phần sáu thu nhập bị ảnh hưởng bởi trí thông minh (xem thêm ở). Trong một nghiên cứu gần đây vào năm 2002, người ta còn tìm thấy rằng chủng tộc, của cải, học vấn mới có những vai trò chủ chốt trong việc quyết định tình trạng kinh tế trong tương lai còn IQ là một yếu tố nhỏ và sự di truyền trí thông minh còn đóng một vai trò còn nhỏ hơn thế (xem thêm ở). Nhiều người xem IQ là một biện pháp tình thế của chính phủ các nước nhằm không chấm dứt tình trạng nghèo khổ. Một số khác cho IQ là nguyên nhân của xã hội phong kiến, đối xử bất bình đẳng với phụ nữ. Cũng có ý kiến cho rằng những người có trí thông minh cao thường cho rằng trí thông minh rất quan trọng khiến nhiều người bực mình trong cách cư xử của họ (xem thêm ở). Những chỉ trích xung quanh vấn đề IQ Trong tác phẩm The Mismeasure of Man, giáo sư Stephen Jay Gould cho rằng chỉ số IQ chỉ là một cách phân biệt chủng tộc cao cấp của những nhà khoa học. Arthur Jensen, giáo sư khoa tâm lý giáo dục, Đại học California tại Berkeley hưởng ứng ý kiến của Gould và có một bài báo mang tên The Debunking of Scientific Fossils and Straw Persons (Vạch trần những luận điểm khoa học cũ kĩ của những người rơm). Vị giáo sư Howard Gardner tại đại học Harvard chứng minh rằng có 8 loại hình thông minh. Mỗi loại hình đại diện cho khả năng và cách xử lý thông tin của một người trong các lĩnh vực nhất định gồm Trí thông minh không gian (Visual-Spatial Intelligence) Trí thông minh ngôn ngữ (Linguistic-Verbal Intelligence) Trí thông minh logic-toán học (Logical-Mathematical Intelligence) Trí thông minh thể chất (Bodily-Kinesthetic Intelligence) Trí thông minh âm nhạc (Musical Intelligence) Trí thông minh tương tác xã hội (Interpersonal Intelligence) Trí thông minh liên cá nhân (Intrapersonal Intelligence) Trí thông minh tự nhiên (Naturalistic Intelligence) Ông gọi phát minh này là “Học thuyết Đa trí tuệ” cho rằng trí thông minh cũng không thể chỉ được đo lường duy nhất qua chỉ số IQ. Hiệp hội của những người có IQ cao (High IQ societies) Top 5% (1 trên 20; IQ 124 sd15, IQ 126 sd16, IQ 139 sd24): International High IQ Society Top 2% (1 trên 50; IQ 130 sd15, IQ 132 sd16, IQ 148 sd24): Encefálica Society, High Potentials Society, Mensa International, Mysterium Society Top 1% (1 trên 100; IQ 135 sd15, IQ 137 sd16, IQ 156 sd24): Intertel, Top One Percent Society Top 0,7% (1 trên 147; IQ 137 sd15): Sunesis Society (Defunct) Top 0,5% (1 trên 200; IQ 139 sd15, IQ 141 sd16, IQ 162 sd24): Colloquy (Society), Poetic Genius Society Top 0,37% (1 trên 270; IQ 140 sd15, IQ 142 sd16, IQ 163 sd24): Infinity International Society , HispanIQ International Society Top 0,3% (3 trên 1 nghìn; IQ 141 sd15, IQ 144 sd16, IQ 166 sd24): Cerebrals Society Top 0,2% (1 trên 500; IQ 143 sd15, IQ 146 sd16, IQ 169 sd24): exactiq high IQ society Top 0,13% (13 trên 10.000; IQ 145 sd15, IQ 148 sd16, IQ 172 sd24): CIVIQ Society Top 0,1% (1 trên 1 nghìn; IQ 146 sd15, IQ 149 sd16, IQ 174 sd24): Glia Society, International High IQ Society Milenija, International Society for Philosophical Enquiry, Iquadrivium Society, One-in-a-Thousand Society, Triple Nine Society Top 0,07% (1 trên 1400, IQ 148 sd15, IQ 151 sd16, IQ 177 sd24): ISI-society Top 0,003% (3 trên 100 nghìn; IQ 160 sd15, IQ 164 sd16, IQ 196 sd24): Homo Universalis high IQ society , Tetra Society Top 0,001% (1 trên 100 nghìn; IQ 164 sd 15, IQ 168 sd 16, IQ 202 sd24): eximia high IQ society , The Ultranet Top 0,0001% (1 trên 1 triệu; IQ 172 sd15, IQ 176 sd16, IQ 214 sd24): Mega Society, GenerIQ Society Top 0,0000001% (1 trên 1 tỷ, IQ 190 sd15, IQ 196 sd16, IQ 244 sd24): Nano Society Ghi chú
Địch, cũng có thể được gọi là quân địch, kẻ địch, kẻ thù, đối phương, đối tượng tác chiến hoặc giặc, là một người hoặc nhóm người được xem là một thế lực đối nghịch hoặc một mối đe dọa. Đây là một khái niệm cơ bản đối với cả từng cá nhân lẫn các cộng đồng. Việc sử dụng thuật ngữ "địch" có chức năng xác định một đối tượng nào đó là một mối đe dọa, từ đó khơi gợi phản ứng cảm xúc mạnh mẽ chống lại đối tượng đó.
RealAudio là một định dạng tập tin âm thanh do RealNetworks đã giữ bản quyền. RealAudio là phần âm thanh của RealMedia, bao gồm RealVideo và RealAudio. Một đoạn âm thanh hay video trước khi truyền qua Internet thường được nén, để có dung lượng nhỏ. RealNetworks là công ty đầu tiên cống hiến cho những người sử dụng Internet phương tiện truyền âm thanh qua hệ thống World Wide Web. Sau khi thu âm thanh và lưu trữ ở dạng WAV, người ta hoán chuyển qua dạng RealAudio và lưu trữ ở dạng RAM (sau này là dạng RM). Muốn nghe những âm thanh dạng RAM hay RM, người nghe phải cài đặt chương trình RealPlayer. Để làm thành sản phẩm ở dạng RAM hay RM thì phải dùng sản phẩm RealProducer. Về sau, công ty này còn ra nhiều sản phẩm khác được dùng ở các đài phát thanh hay phát hình qua Internet.
Đường băng là một phần của sân bay, gọi chung là đường cất hạ cánh, đường lăn chính, đường lăn phụ, đường tắt (đường lăn cao tốc, đường lăn nối) và khu vực chuẩn bị cất cánh, hạ cánh của máy bay. Đường băng chủ yếu của sân bay là cố định kích thước và chất lượng đường băng, phụ thuộc vào cấp độ, xếp loại sân bay và loại máy bay có thể cất hạ cánh. Mặt đường băng thường được làm bằng bê tông hoặc bê tông nhựa thậm chí là nhựa đường 100%, mặt đường băng dã chiến bằng đất được gia cố hoặc lát các tấm kim loại. Hướng và kích thước Đường băng được đánh số theo hướng mà từ đó máy bay sẽ cất cánh hoặc hạ cánh, làm tròn tới 10 và chia cho 10. Mỗi số sẽ được đọc riêng biệt để không nhầm lẫn khi giao tiếp bằng radio. Ví dụ, "Đường băng Ba Sáu" sẽ có hướng 360 độ (nghĩa là hướng Bắc), "Đường băng Chín" có thể dùng để chỉ đường băng có hướng 94 độ (nghĩa là gần hướng Đông), và "Đường băng Một Bảy" cho hướng 168 độ. Mỗi đường băng có thể dùng cả hai hướng, và do đó nó có 2 số, mỗi số cách nhau 180°. Vì vậy, Đường băng Một Không (100°) trở thành đường băng Hai Tám (280°) khi dùng hướng ngược lại, và Đường băng Một Tám (180°) trở thành Đường băng Ba Sáu (360°). Đối với Hàng không dân dụng của Mỹ, số ký hiệu của đường băng nhỏ hơn 100° thường được sử dụng bằng một số; Ví dụ như Đường băng 9 (RWY9) hoặc là đường băng 4 phải (RWY4R). Đối với quân sự của Mỹ và các nhà khai thác hàng không theo chuẩn ICAO, số ký hiệu đường băng nhỏ hơn 100° phải bao gồm số đầu là "0". Các phần của đường băng Dải đường chạy là một vùng quang đãng xung quanh đường băng. Nó phải không có bất kỳ một vật cản nào có thể cản trở việc bay hay chạy trên mặt đất của máy bay, dù nó không cần thiết phải ở tình trạng tốt. Nó được đánh dấu bởi các cột và/hay vật hình nón trắng. Thông thường đây là một vùng bề mặt cỏ mọc tự nhiên. Đường băng gồm nhiều phần khác nhau có chức năng khác nhau. Centerline (đường kẻ giữa) Là đường kẻ nét đứt chia đường băng thành hai phần bằng nhau giúp máy bay xác định được vị trí chính giữa của đường băng để cất cánh và hạ cánh chính xác. Các chữ, số trên đường băng Các số Dùng để chỉ hướng của đường băng. Ví dụ: Đường băng đánh số 36 sẽ có hướng 360° (hướng bắc). Các chữ Đánh ở dưới các số, dùng để phân biệt các đường băng song song, cùng hướng với nhau. Các chữ bao gồm: L: Left (bên trái) R: Right (bên phải) C: Center (chính giữa) Nếu chỉ có hai đường băng song song thì chỉ có L và R. Threshold markers (vạch độ rộng) Là các vạch được đánh trước các chữ để thể hiện độ rộng của đường băng, càng nhiều vạch thì đường băng càng rộng. Các vạch được đánh song song với nhau và chia thành hai nửa ở hai bên. Aiming point (Điểm đỗ chuẩn) Là hai vạch lớn nằm sau các vạch số, hai vạch nằm song song với nhau có tác dụng định hướng máy bay chạm vào hai vạch một cách chuẩn xác. Đây là vị trí lí tưởng nhất để hạ cánh so với đường băng, tuy nhiên không cần thiết phải hạ cánh đúng vị trí này. Touch Down Zone (Vùng tiếp xúc) Là đoạn đường bằng có các vạch . Máy bay khi hạ cánh chỉ được đáp xuống khu vực này, nếu vượt quá sẽ phải cất cánh và hạ cánh lại. Displaced threshold (ngưỡng dịch chuyển) Là một đoạn đường chạy nằm ở vị trí khác so với điểm bắt đầu hoặc kết thúc của đường băng. Phần đường băng này có thể sử dụng để cất cánh nhưng không được sử dụng để hạ cánh. Đoạn đường này có các mũi tên làm trung tâm của đường băng và một đường kẻ dày màu trắng có các mũi tên chỉ hướng theo đường chạy là điểm cuối của ngưỡng và đầu đường băng. Blast pads (đoạn hãm) Là đoạn thường được xây dựng ngay trước một đường băng. Khi máy bay tiếp xúc với đoạn đường này, bề mặt đường sẽ vỡ ra, hãm máy bay từ từ dừng lại. Đoạn đường này không cho phép máy bay chạy, cất, hạ cánh vào trừ các trường hợp khẩn cấp, sự cố (máy bay mất phanh, di chuyển lệch đường băng,...)
Milan Kundera (thường được phiên âm Việt hóa là Mi-lan Kun-đê-ra, 1 tháng 4 năm 1929 – 11 tháng 7 năm 2023) là một nhà văn Tiệp Khắc, hiện mang quốc tịch Pháp. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là tiểu thuyết Đời nhẹ khôn kham. Tiểu sử Ông sinh ra trong một gia đình trí thức trung lưu, cha là Ludvik Kundera (1891-1971). Ludvik Kundera là học trò của nhà soạn nhạc Séc Leoš Janáček, hiệu trưởng Học viện Âm nhạc Janáček tại Brno từ năm 1948 đến 1961. Cha Kundera là người thầy dạy đàn piano đầu tiên của ông. Sau này Kundera cũng theo học nhạc lý. Tham khảo và ảnh hưởng âm nhạc có thể tìm thấy trong các tác phẩm của ông, thậm chí ông còn đưa các nốt nhạc vào giữa các trang viết của mình. Ông tốt nghiệp trung học tại Brno năm 1948. Sau đó ông theo học văn học và mỹ học tại Khoa Nghệ thuật tại Đại học Karlova ở Praha, nhưng chỉ sau hai học kỳ, ông chuyển sang Khoa Điện ảnh tại Học viện Nghệ thuật biểu diễn Praha, ban đầu ông đăng ký học đạo diễn và viết kịch. Năm 1950 ông bị buộc dừng học vì các lý do chính trị. Sau khi tốt nghiệp vào năm 1952, ông được bổ nhiệm làm giảng viên văn học thế giới tại Khoa Điện ảnh. Kundera thuộc về thế hệ những người Séc mà tuổi trẻ không được trải qua nền cộng hòa trước thế chiến. Ý thức hệ của họ bị ảnh hưởng nặng bởi Chiến tranh thế giới thứ hai và tình trạng quân Đức chiếm đóng. Vì vậy, năm 1948, khi còn rất trẻ, ông tham gia thành lập Đảng Cộng sản Tiệp Khắc. Năm 1950, ông và nhà văn Jan Trefulka bị khai trừ khỏi đảng vì lý do "chống đảng". Trefulka miêu tả sự kiện này qua tiểu thuyết Pršelo jim štěstí (1962) của ông; Kundera thì dùng sự kiện này như nguồn cảm hứng cho chủ đề chính tiểu thuyết Žert (Lời đùa cợt) ông viết năm 1967. Ông được tái kết nạp vào đảng năm 1956 và lại bị khai trừ năm 1970. Kundera cùng nhiều nghệ sĩ, trí thức Séc bị lôi cuốn vào sự kiện Mùa xuân Praha 1968 – giai đoạn cải cách chính trị ngắn ngủi bị đè bẹp bởi cuộc xâm lăng của Xô Viết vào tháng 8 năm 1968. Đây là thời điểm ông rút lui hoàn toàn khỏi đời sống văn hóa Séc. Ông định cư ở Pháp từ năm 1975 và trở thành công dân Pháp từ năm 1981. Ông qua đời sau một thời gian bệnh tật kéo dài tại Paris vào ngày 11 tháng 7 năm 2023, thọ 94 tuổi. Ông được coi mình là một nhà văn Pháp và khẳng định tác phẩm của anh ấy nên được nghiên cứu như Văn học Pháp và được phân loại như vậy trong các cửa hàng sách. Sự nghiệp sáng tác Trong Žert (Lời đùa cợt - 1967), tiểu thuyết đầu tay, Kundera mang đến một cái nhìn châm biếm về tính chất toàn trị của chủ nghĩa cộng sản. Và cũng bởi những phê phán của ông đối với chế độ Xô Viết và sự xâm lăng đất nước ông của họ năm 1968, Kundera đã bị đưa vào sổ đen và tác phẩm bị cấm lưu hành chỉ một thời gian ngắn sau khi Liên Xô chiếm đóng Tiệp Khắc. Năm 1975, Kundera di tản sang Pháp, sau đó ông viết Kniha smíchu a zapomnění (Sách cười và lãng quên - 1979), cuốn tiểu thuyết mô tả những công dân Séc đối phó với chế độ Xô Viết bằng nhiều cách khác nhau. Cuốn sách là sự kết hợp khác lạ của tiểu thuyết, các truyện ngắn và những suy tư tán rộng của tác giả. Đó là tác phẩm thiết lập thời kỳ hậu lưu vong của tác giả. Năm 1984, ông xuất bản Nesnesitelná lehkost bytí (bản dịch tiếng Việt: Đời nhẹ khôn kham), tác phẩm nổi tiếng nhất. Ở tiểu thuyết này tác giả suy tư về sự mong manh của kiếp người, ai cũng chỉ sống cuộc đời mình một lần duy nhất và cũng có thể là đã chẳng sống tí nào. Ở đây không có chỗ cho sự lặp lại, kinh nghiệm, thử nghiệm và sai lầm. Năm 1988, đạo diễn người Mỹ Philip Kaufman làm bộ phim cùng tên với kịch bản chuyển thể từ tác phẩm này, bộ phim này (The Unbearable Lightness of Being) không mấy thành công. Kundera cực kỳ thất vọng về bộ phim và sau đó ông không cho phép chuyển thể bất kỳ tiểu thuyết nào của ông nữa. Năm 1990, Kundera xuất bản Nesmrtelnost (Sự bất tử), đây là tiểu thuyết cuối cùng ông viết bằng tiếng Séc, mang tinh thần thế giới và suy tư triết học dày đặc (và ít tính chính trị) hơn các tác phẩm khác. Đây cũng được xem là tác phẩm đánh dấu giai đoạn cuối cùng trong hành trình sáng tạo của tác giả. Kundera luôn nhấn mạnh con người tác giả của mình với tư cách là một nhà tiểu thuyết, không phải là nhà văn phản kháng hay nhà hoạt động chính trị. Bình luận chính trị đã dần biến mất trong tác phẩm của ông (đặc biệt từ Sách cười và lãng quên). Phong cách tiểu thuyết của Kundera chủ yếu ảnh hưởng bởi các tiểu thuyết của Robert Musil và văn xuôi của Friedrich Nietzsche. Nguồn cảm hứng của Kundera không chỉ đến từ thời kỳ Phục hưng với François Rabelais và Giovanni Boccaccio, mà còn cả từ Laurence Sterne, Henry Fielding, Denis Diderot, Robert Musil, Witold Gombrowicz, Hermann Broch, Franz Kafka và Martin Heidegger. Ông còn tán rộng suy tư nhiều về chủ đề âm nhạc, phân tích dân ca Séc, trích dẫn từ Béla Bartók đến Leoš Janáček. Theo hướng này, xa hơn nữa, Kundera còn trích cả nốt nhạc xen giữa văn bản tiểu thuyết (ví dụ trong Lời đùa cợt), hoặc tranh luận về Arnold Schoenberg và hệ 12 âm. Ở giai đoạn đầu, ông viết bằng tiếng Séc. Từ năm 1993, ông viết tiểu thuyết bằng tiếng Pháp. Từ 1985 đến 1987, ông xem lại và sửa cùng dịch giả bản tiếng Pháp các tác phẩm giai đoạn đầu của mình. Kết quả là tất cả các bản dịch tiếng Pháp các tác phẩm của ông đều có chứng nhận chất lượng của chính tác giả. Giải thưởng 1973: Giải Médicis cho tiểu thuyết nước ngoài Năm 1985 ông nhận giải Jerusalem. Bài diễn văn nhận giải này của ông được in trong cuốn tiểu luận L'art du Roman (Nghệ thuật tiểu thuyết). Năm 1987 ông được trao Giải quốc gia Áo cho Văn học châu Âu. Cũng có những tin đồn ông được đề cử giải Nobel văn học. 1993: Giải Thời nay 2001: Giải thưởng lớn Văn học của Viện Hàn lâm Pháp Tác phẩm Žert (Lời đùa cợt - 1967) Směšné lásky (Những mối tình nực cười - 1968) Život je jinde (Cuộc sống không ở đây - 1969) Jakub a jeho pán: Pocta Denisu Diderotovi (Jacques và người thầy - 1975) Valčík na rozloučenou (Điệu valse giã từ - 1976) Kniha smíchu a zapomnění (Sách cười và lãng quên - 1979) Nesnesitelná lehkost bytí (Đời nhẹ khôn kham - 1984) L'art du roman (Nghệ thuật tiểu thuyết - 1985) Nesmrtelnost (Sự bất tử - 1990) Les testaments trahis (Những di chúc bị phản bội - 1992) La Lenteur (Chậm rãi - 1993) L'Identité (Căn cước - 1998) L'Ignorance (Vô tri - 2000) Le Rideau (Bức màn - 2005) Các bản dịch tiếng Việt Sự bất tử, Ngân Xuyên giới thiệu và dịch, tạp chí Văn học nước ngoài số 1-1996. Nghệ thuật tiểu thuyết, Nguyên Ngọc dịch, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 1998 Sự bất tử. Chậm rãi. Bản nguyên, Ngân Xuyên dịch (từ tiếng Nga và tiếng Pháp), lời bạt của Nguyên Ngọc, Nhà xuất bản Văn học và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 1999 Tiểu luận, Nguyên Ngọc dịch, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2001 (gồm "Nghệ thuật tiểu thuyết" và "Những di chúc bị phản bội") Đời nhẹ khôn kham, Trịnh Y Thư dịch, 2002 Cuộc sống không ở đây, Cao Việt Dũng dịch, Hà Nội:Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2003 (phụ lục: Francois Ricard, "Cách nhìn nhận của quỷ Satan") Điệu valse giã từ, Cao Việt Dũng dịch từ bản tiếng Pháp của Francois Kerel, Hà Nội:Nhà xuất bản Hội Nhà Văn và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2004 Những mối tình nực cười, Cao Việt Dũng dịch, Hà Nội:Công ty Nhã Nam và Nhà xuất bản Văn học, 2009. Vô tri, Cao Việt Dũng dịch, Hà Nội:Công ty Nhã Nam và Nhà xuất bản Văn học, 2010. Lễ hội của vô nghĩa, Nguyên Ngọc dịch, Hà Nội:Công ty Nhã Nam và Nhà xuất bản Văn học, 2015
Đường cơ sở có thể chỉ: Đường cơ sở (quản lý cấu hình) Đường cơ sở (in ấn) đường phía sau trên sân tennis Đường cơ sở (bản đồ địa hình) Đường cơ sở (dược lý) Đường cơ sở (biển), đường ranh giới phía trong của lãnh hải và phía ngoài của nội thủy.
Máy bơm là một loại máy thủy lực, nhận năng lượng từ bên ngoài (cơ năng, điện năng, thủy năng..vv..) và truyền năng lượng cho dòng chất lỏng, nhờ vậy đưa chất lỏng lên một độ cao nhất định hoặc dịch chuyển chất lỏng theo hệ thống đường ống. Archimedes đã mô tả các máy bơm đầu tiên vào thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên được biết đến như là Bơm trục vít của Archimedes.Bơm hoạt động bằng cách dùng cơ năng để đẩy môi chất, hoặc là nâng cao lên hoặc nén lại. Cấu tạo máy bơm nước thông thường Một máy bơm nước có cấu tạo gồm 4 phần chính: - Bánh công tác: được lắp trên trục của bơm để cố định với trục tạo nên phần quay gọi là Roto - Trục bơm: thường được chế tạo bằng thép hợp kim và được lắp với bánh công tác thông qua mối ghép then. - Bộ phận dẫn hướng vào: thuộc thân máy bơm thường - Bộ phận dẫn hướng ra: được đúc bằng gang và có hình dạng tương đối phức tạp Phân loại máy bơm Dựa vào những đặc điểm như: nguyên lý tác động của cánh bơm vào dòng nước, dạng năng lượng làm chạy máy bơm, kết cấu máy bơm, mục đích bơm, loại chất lỏng cần bơm để phân chia ra chủng loại máy bơm... Trong đó thường dùng đặc điểm thứ nhất để phân loại máy bơm; theo đặc điểm này máy bơm được chia làm hai nhóm: Bơm động học và Bơm thể tích. Ngoài ra còn có các dạng bơm với các tên gọi khác như: Bơm ly tâm Máy nén khí Bơm chân không Bơm cánh khế (lope pump) Bơm trục vít Bơm định lượng Bơm thủy lực Bơm bánh răng Bơm chìm Bơm màng khí nén Bơm bán chân không
General Dynamics F-111 là một loại máy bay ném bom chiến lược tầm trung, trinh sát, và chiến đấu được thiết kế trong những năm 60. Phiên bản dành cho Không quân Hoa Kỳ được đặt tên chính thức là "Aardvark" (Lợn đất), tên lóng trong thời gian dài, trong một buổi lễ vào năm 1996 khi nó được cho nghỉ hưu. Nó vẫn được Không lực Hoàng gia Australia (RAAF) sử dụng, và nơi đây nó được gọi là "Pig" (con lợn), cho đến khi về hưu hẳn sau ngày 3 tháng 1 năm 2010. F-111 đi tiên phong trong một số kỹ thuật sản xuất máy bay quân sự, bao gồm thiết kế cánh có thể thay đổi hình dạng (cánh cụp, cánh xoè), động cơ phản lực quạt ép có đốt sau, và radar theo dõi địa hình để bay nhanh ở cao độ thấp. Thiết kế của nó có ảnh hưởng lớn, đặc biệt là tới các kỹ sư Xô viết, và một số tính năng tiên tiến của nó đã trở nên tiêu chuẩn thông thường. Tuy nhiên sự khởi đầu của F-111 mắc phải nhiều vấn đề về thiết kế, và nhiều vai trò dự định cho nó, như máy bay tiêm kích đánh chặn dành cho Hải quân đã không thể thực hiện được. Các chiếc F-111 không có khoảng thời gian dễ chịu nào kể từ khi được đưa vào hoạt động do lỗi trong cấu trúc cả khi bay lẫn khi thử nghiệm sức chịu đựng trên mặt đất. Nguyên nhân của các hư hỏng nghiêm trọng là do độ dẻo dai của vật liệu thép quá thấp, một vết nứt nhỏ trên một số bộ phận không mất nhiều thời gian để đạt kích thước không thể chấp nhận được. Càng sử dụng loại máy bay này lâu thì việc thoái hóa vật liệu tạo ra càng nhiều vấn đề khác để lo. Trong chiến tranh Việt Nam một chiếc F-111 đã bị gãy đuôi vì một vết nứt từ một mối hàn và rơi, vài tháng sau cũng có một chiếc khác bị rơi vì cùng lý do. Một trong nhiều loại tai nạn được biết đến là cánh máy bay bị gãy khi bay với một chiếc bay chưa được 100 giờ bị rơi vì lý do là khi mang thử tên lửa cánh máy bay đã bị nứt nhẹ nhưng nó đã đạt đến mức phá hủy máy bay trong thời gian ngắn. Những tai nạn đó khiến các chiếc F-111 khác phải được mang ra thử nghiệm lại trước khi được bay tiếp, kết quả là thêm một số chiếc bị hỏng nặng trong lúc thử nghiệm chịu lực. Trong Không quân Hoa Kỳ, F-111 đã được thay thế hiệu quả bởi chiếc F-15E Strike Eagle trong vai trò tấn công chính xác tầm trung, trong khi nhiệm vụ ném bom chiến lược được tiếp nối bởi B-1B Lancer. Không lực Hoàng gia Australia sẽ thay thế những chiếc F-111 của họ bằng F/A-18E/F Super Hornet vào năm 2010. Đặc điểm kỹ thuật (F-111D)
Nguyên lý Landauer, lần đầu được nêu vào năm 1961 bởi Rolf Landauer ở IBM , nói rằng bất cứ quá trình xử lý thông tin nào không hồi phục được, như xoá bit, luôn làm tăng entropy nhiệt động lực trong các bậc tự do không mang thông tin của hệ thống máy móc xử lý và môi trường. (Bennett 2003). Cụ thể, việc xoá một bit thông tin sẽ làm entropy tăng: k ln 2 với k là hằng số Boltzmann, và có thể dẫn đến sự toả ra môi trường ở nhiệt độ T một nhiệt lượng là: k T ln 2 Mặt khác, với các quá trình tính toán thuận nghịch, có thể thực hiện bởi các quá trình nhiệt động lực học thuận nghịch, không làm tăng entropy, và không gây ra sự toả nhiệt ra môi trường. Nguyên lý Landauer giải thích tại sao các máy tính hiện nay, khi thực hiện tính toán (không thuận nghịch) đều toả ra nhiệt và cần có hệ thống làm mát. Nguyên lý này, gần đây, bị đặt nghi vấn bởi Earman và Norton (1998), và Shenker (2000) hay Norton (2004). Tháng 3 năm 2012, một đội các nhà vật lý đến từ Đại học Augsburg, Đại học Kaiserslautern ở Đức và École normale supérieure de Lyon Pháp đã đăng một bài báo trên tạp chí Nature cho thấy lần đầu tiên họ đã đo được lượng nhiệt tỏa ra khi thực hiện xóa bit thông tin và xác nhận bằng thực nghiệm nguyên lý này. Phân tích Nguyên lý Landauer có thể được hiểu là hệ quả của định luật hai nhiệt động lực học—nói rằng entropy của một hệ kín không thể giảm—cùng với định nghĩa của nhiệt độ nhiệt động lực. Khi số trạng thái lô gíc của một hệ giảm (quá trình tính toán bất thuận nghịch) nó gây ra một sự giảm entropy thông tin, bị ngăn cản bởi định luật hai nhiệt động lực học, trừ phi số trạng thái vật lý (không mang thông tin) tăng lên, để giữ tổng số trạng thái ít nhất là không nhỏ hơn ban đầu. Điều này dẫn đến tổng số trạng thái vật lý tăng, làm cho entropy nhiệt động lực tăng theo. Entropy cực đại của một hệ thống có hạn là có hạn. Lý thuyết trường lượng tử quy định một hệ có thể tích và năng lượng giới hạn phải có entropy có hạn. Để entropy của máy tính không tăng vượt quá giới hạn, nó cần trao đổi lượng entropy dư thừa S với môi trường ở nhiệt độ T, dẫn đến nhiệt lượng toả ra cho môi trường Q = ST. Ví dụ, khi một bit bị xoá, entropy thông tin mất k ln 2, dẫn đến entropy vật lý tăng k ln 2, và nhiệt toả ra cho môi trường là Q ≥ kT ln 2. Biểu thức này lần đầu được giới thiệu bởi John von Neumann, nhưng được chứng minh cẩn thận lần đầu bởi Landauer.
Yves Chauvin (sinh ngày 10 tháng 10 năm 1930 – 27 tháng 1 năm 2015) là một nhà hóa học người Pháp, ông là cựu Giám đốc nghiên cứu danh dự của Viện Dầu mỏ Pháp. Năm 2005 ông được trao giải Nobel về hoá học, cùng với Robert H. Grubbs và Richard R. Schrock. Tuy nhiên, ông đã tuyên bố từ chối tiền giải vì các nghiên cứu của ông là từ 35 năm trước đây và ông chỉ thắng giải Nobel vì công của hai nhà nghiên cứu kia.
Robert H. Grubbs (sinh ngày 27 tháng 2 năm 1942 - Ngày 19 tháng 12 năm 2021) là một nhà hóa học người Mỹ. Ông học hóa học tại Đại học Florida và làm dự án tiến sĩ tại Đại học Columbia tại Thành phố New York vào năm 1968. Sau khi tốt nghiệp bằng tiến sĩ ông đã làm việc tại Đại học Stanford rồi Đại học bang Michigan (Michigan State University). Năm 1978, ông gia nhập Học viện Kỹ thuật California (California Institute of Technology) và giữ ghế Giáo sư Hóa học Victor and Elizabeth Atkins. Năm 2005 ông được trao giải Nobel Hóa học cùng với Richard R. Schrock và Yves Chauvin.
Richard R. Schrock (sinh 4 tháng 1 năm 1945) là một nhà hóa học người Mỹ. Ông ra trường năm 1967 với bằng về hóa học của Đại học California tại Riverside, năm 1971 ông nhận bằng tiến sĩ của Đại học Harvard, sau đó ông đến Đại học Cambridge để học thêm dưới sự chỉ dẫn của Lord Jack Lewis. Năm 1972 ông làm việc cho công ty DuPont và sang năm 1975 ông gia nhập Học viện Kỹ thuật Massachusetts (MIT). Ông giữ ghế Giáo sư Hóa học Frederick G. Keyes tại MIT từ năm 1989 đến nay. Năm 2005, ông được trao giải Nobel Hóa học cùng với Robert H. Grubbs và Yves Chauvin.
(phát âm như Phư-cưi Ken-i-chi; 4 tháng 10 năm 1918 tại Nara - 9 tháng 1 năm 1998) là một nhà hóa học người Nhật. Ông là con cả trong 3 người con trai của Fukui Ruokichi, một người buôn bán và giám đốc một xí nghiệp. Ông tốt nghiệp Đại học Tokyo và sau đó trở thành giáo sư của Đại học Kyoto vào năm 1951. Năm 1947, ông lập gia đình và có hai con, con trai tên là Fetsuy, con gái tên là Miyako. Ông là viện trưởng của Học viện Kỹ thuật Kyoto từ 1982 đến 1988. Năm 1981, ông được trao giải Nobel Hóa học cùng với Roald Hoffman. Ông cũng được biết đến như là nhà khoa học châu Á đầu tiên nhận được giải Nobel hóa học.
Quay lui (tiếng Anh: backtracking) là một chiến lược tìm kiếm lời giải cho các bài toán thỏa mãn ràng buộc. Người đầu tiên đề ra thuật ngữ này (backtrack) là nhà toán học người Mỹ D. H. Lehmer vào những năm 1950. Giải thích Các bài toán thỏa mãn ràng buộc là các bài toán có một lời giải đầy đủ, trong đó thứ tự của các phần tử không quan trọng. Các bài toán này bao gồm một tập các biến mà mỗi biến cần được gán một giá trị tùy theo các ràng buộc cụ thể của bài toán. Việc quay lui là để thử tất cả các tổ hợp để tìm được một lời giải. Thế mạnh của phương pháp này là nhiều cài đặt tránh được việc phải thử nhiều tổ hợp chưa hoàn chỉnh, và nhờ đó giảm thời gian chạy. Phương pháp quay lui có quan hệ chặt chẽ với tìm kiếm tổ hợp Cài đặt Về bản chất, tư tưởng của phương pháp là thử từng khả năng cho đến khi tìm thấy lời giải đúng. Đó là một quá trình tìm kiếm theo độ sâu trong một tập hợp các lời giải. Trong quá trình tìm kiếm, nếu ta gặp một hướng lựa chọn không thỏa mãn, ta quay lui về điểm lựa chọn nơi có các hướng khác và thử hướng lựa chọn tiếp theo. Khi đã thử hết các lựa chọn xuất phát từ điểm lựa chọn đó, ta quay lại điểm lựa chọn trước đó và thử hướng lựa chọn tiếp theo tại đó. Quá trình tìm kiếm thất bại khi không còn điểm lựa chọn nào nữa. Quy trình đó thường được cài đặt bằng một hàm đệ quy mà trong đó mỗi thể hiện của hàm lấy thêm một biến và lần lượt gán tất cả các giá trị có thể cho biến đó, với mỗi lần gán trị lại gọi chuỗi đệ quy tiếp theo để thử các biến tiếp theo. Chiến lược quay lui tương tự với tìm kiếm theo độ sâu nhưng sử dụng ít không gian bộ nhớ hơn, nó chỉ lưu giữ trạng thái của một lời giải hiện tại và cập nhật nó. Để tăng tốc quá trình tìm kiếm, khi một giá trị được chọn, trước khi thực hiện lời gọi đệ quy, thuật toán thường xóa bỏ giá trị đó khỏi miền xác định của các biến có mâu thuẫn chưa được gán (kiểm tra tiến - forward checking) và kiểm tra tất cả các hằng số để tìm các giá trị khác đã bị loại trừ bởi giá trị vừa được gán (lan truyền ràng buộc - constraint propagation). Heuristic Người ta thường sử dụng một số phương pháp heuristic để tăng tốc cho quá trình quay lui. Do các biến có thể được xử lý theo thứ tự bất kỳ, việc thử các biến bị ràng buộc chặt nhất (nghĩa là các biến có ít lựa chọn về giá trị nhất) thường có hiệu quả do nó tỉa cây tìm kiếm từ sớm (cực đại hóa ảnh hưởng của lựa chọn sớm hiện hành). Các cài đặt quay lui phức tạp thường sử dụng một hàm biên, hàm này kiểm tra xem từ lời giải chưa đầy đủ hiện tại có thể thu được một lời giải hay không, nghĩa là nếu đi tiếp theo hướng hiện tại thì liệu có ích hay không. Nhờ đó, một kiểm tra biên phát hiện ra các lời giải dở dang chắc chắn thất bại có thể nâng cao hiệu quả của tìm kiếm. Do hàm này hay được chạy, có thể tại mỗi bước, nên chi phí tính toán các biên cần tối thiểu, nếu không, hiệu quả toàn cục của thuật toán sẽ không được cải tiến. Các hàm kiểm tra biên được tạo theo kiểu gần như các hàm heuristic khác: nới lỏng một số điều kiện của bài toán. Ví dụ Sử dụng chiến lược quay lui dùng để giải bài toán liệt kê các cấu hình. Mỗi cấu hình được xây dựng bằng cách xây dựng từng phần tử, mỗi phần tử được chọn bằng cách thử tất cả các khả năng. Phương pháp Giả thiết cấu hình cần liệt kê có dạng . Khi đó thuật toán quay lui được thực hiện qua các bước sau: 1) Xét tất cả các giá trị có thể nhận, thử cho nhận lần lượt các giá trị đó. Với mỗi giá trị thử cho ta sẽ: 2) Xét tất cả các giá trị có thể nhận, lại thử cho nhận lần lượt các giá trị đó. Với mỗi giá trị thử gán cho lại xét tiếp các khả năng chọn ... cứ tiếp tục như vậy đến bước: n) Xét tất cả các giá trị có thể nhận, thử cho nhận lần lượt các giá trị đó, thông báo cấu hình tìm được . Mô tả Thuật toán quay lui có thể được mô tả bằng đoạn mã giả (pseudocode) sau: {Thủ tục này thử cho nhận lần lượt các giá trị mà nó có thể nhận} procedure Try(i: Integer); begin for (mọi giá trị có thể gán cho ) do begin <Thử cho := V>; if ( là phần tử cuối cùng trong cấu hình) then <Thông báo cấu hình tìm được> else begin <Ghi nhận việc cho nhận giá trị V (Nếu cần)>; Try(i + 1); {Gọi đệ quy để chọn tiếp } end; <Nếu cần, bỏ ghi nhận việc thử := V, để thử giá trị khác>; end; end;(Thuật toán quay lui sẽ bắt đầu bằng lời gọi Try(1);)'Ta có thể trình bày quá trình tìm kiếm lời giải quả thuật toán quay lui bằng cây sau:''
Vụ Bản là một huyện nằm ở phía bắc tỉnh Nam Định, Việt Nam. Địa lý Huyện Vụ Bản nằm ở phía tây bắc của tỉnh Nam Định, nằm cách thành phố Nam Định 13 km, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 103 km và có vị trí địa lý: Phía bắc giáp huyện Mỹ Lộc và huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam Phía đông giáp thành phố Nam Định và huyện Nam Trực Phía tây và phía tây nam giáp huyện Ý Yên Phía nam giáp huyện Nghĩa Hưng. Huyện Vụ Bản có diện tích 152,81 km², dân số năm 2015 là 130.763 người, mật độ dân số đạt 856 người/km². Lịch sử Thời Hùng Vương, huyện Vụ Bản có tên là Bình Chương thuộc bộ Lục Hải, thời Hán thuộc quận Giao Chỉ. Trước thời Lý - Trần, đất này nằm trong huyện Hiển Khánh. Thời Lý, huyện Thiên Bản nằm trong phủ Ứng Phong; đời Trần huyện Thiên Bản thuộc phủ Kiến Hưng. Năm Vĩnh Lạc thứ năm nhà Minh (1407), đổi làm huyện Yên Bản thuộc phủ Kiến Bình. Năm Vĩnh Lạc thứ mười ba nhà Minh (1415), đổi huyện Độc Lập thành Bình Lập cho sáp nhập vào huyện Yên Bản. Đến đời Lê Thánh Tông lại đổi thành huyện Thiên Bản. Cũng dưới thời Lê Hồng Đức, huyện Thiên Bản thuộc phủ Nghĩa Hưng. Đến thời Nguyễn, Tự Đức năm thứ 14 (1861) đổi tên thành huyện Vụ Bản. Đến năm 1956, huyện Vụ Bản lại trả về tỉnh Nam Định. Ngày 19 tháng 8 năm 1964, sáp nhập xóm Hữu Dụng thuộc xã Thanh Côi, huyện Vụ Bản về xã Yên Mỹ, huyện Ý Yên; sáp nhập các xóm Đại Lão, Cầu Nhân và Phú Vinh thuộc xã Khánh Lão, huyện Vụ Bản về xã Mỹ Thuận, huyện Mỹ Lộc; sáp nhập thôn Vàn Tập thuộc xã Cộng Hòa vào xã Minh Tân; sáp nhập xóm Phú Thọ thuộc xã Tam Hào vào xã Thanh Côi; sáp nhập xóm Thượng Linh thuộc xã Lê Lợi vào xã Hùng Vương. Đến năm 1974, huyện Vụ Bản có 18 xã: Cộng Hòa, Đại An, Đồng Tâm, Hiển Khánh, Hợp Hưng, Hùng Vương, Kim Thái, Liên Bảo, Liên Minh, Minh Tân, Minh Thuận, Quang Trung, Tam Thanh, Tân Khánh, Tân Thành, Thành Lợi, Trung Thành, Vĩnh Hào. Ngày 23 tháng 2 năm 1974, giải thể xã Đồng Tâm; đưa thôn Nhất Trí và thôn Đại Đồng của xã Đồng Tâm sáp nhập vào xã Hùng Vương và đổi thành xã Đại Thắng; đưa thôn Mỹ Trung của xã Đồng Tâm sáp nhập vào xã Thành Lợi. Ngày 1 tháng 2 năm 1978, sáp nhập các thôn Thám Thanh, Vũ Nữ, Đức Hòa của xã Hiển Khánh vào xã Hợp Hưng. Ngày 1 tháng 4 năm 1986, thành lập thị trấn Gôi, thị trấn huyện lỵ huyện Vụ Bản trên cơ sở 485,5 ha diện tích tự nhiên của xã Tam Thanh. Huyện Vụ Bản có 1 thị trấn và 17 xã như hiện nay. Hành chính Huyện Vụ Bản có 18 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Gôi (huyện lỵ) và 17 xã: Cộng Hòa, Đại An, Đại Thắng, Hiển Khánh, Hợp Hưng, Kim Thái, Liên Bảo, Liên Minh, Minh Tân, Minh Thuận, Quang Trung, Tam Thanh, Tân Khánh, Tân Thành, Thành Lợi, Trung Thành, Vĩnh Hào. Kinh tế - xã hội Truyền thống Huyện Vụ Bản là vùng đất có truyền thống hiếu học, nhiều người đã đỗ đạt cao, có danh vọng, đóng góp vào kho tàng văn hoá của dân tộc. Trong suốt thời kỳ khoa cử của chế độ phong kiến Việt Nam, Vụ Bản có 16 vị đỗ Tiến sĩ, Thám hoa, Bảng nhãn, Trạng nguyên. Danh nhân tiêu biểu phải kể đến Trạng nguyên Lương Thế Vinh, là một nhà chính trị xuất sắc, đứng đầu viện hàn lâm đảm trách việc văn thư cho nhà vua, lo việc bang giao với nước ngoài, luận bàn việc nước. Ông từng tham gia dạy học, đặc biệt cũng rất quan tâm đến phát triển kinh tế, mở mang đường sá,... Con người Vụ Bản là một trong những cái nôi sinh ngụ của người Việt cổ, khí thiêng sông núi đã hình thành và hun đúc nên truyền thống quý báu của người dân nơi đây. Người dân Vụ Bản hiếu học, cần cù lao động, kiên cường dũng cảm chống thiên tai, chống giặc ngoại xâm, thủy chung tình nghĩa trong cuộc sống có tinh thần tự lực tự cường và ý thức cộng đồng sâu sắc, luôn kế thừa và phát huy truyền thống cha ông, làm rạng danh quê hương, đất nước. Truyền thống đó như sợi chỉ đỏ nối liền quá khứ với hiện tại, tạo nên sức sống, trí tuệ, khí phách của người dân Vụ Bản. "Địa linh sinh nhân kiệt", nơi đây đã sinh thành nhiều nhân vật nổi tiếng như Nhà sử học Trần Huy Liệu, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Bộ trưởng Bộ ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ, Phạm Bình Minh, Thượng tướng Song Hào, Nhà thơ Nguyễn Bính, Nhạc sĩ Văn Cao, Giáo sư nông học Bùi Huy Đáp - người có công mở ra hướng mới trong sản xuất nông nghiệp: trồng lúa chiêm xuân,... Kinh tế - Văn hóa - Nông nghiệp Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, HĐND, UBND huyện và sự cố gắng nỗ lực của các tầng lớp nhân dân, diện mạo kinh tế - xã hội huyện Vụ Bản đã có nhiều đổi mới trên mọi lĩnh vực. Với vị trí địa lý và mạng lưới giao thông đồng bộ là điều kiện thuận lợi để Vụ Bản phát triển các loại hình dịch vụ, vận tải hàng hoá và giao lưu kinh tế, văn hoá với các địa phương khác trong và ngoài tỉnh. Vụ Bản có nguồn nhân lực dồi dào, người dân vốn có truyền thống anh hùng, dũng cảm trong chiến đấu, cần cù chịu khó trong lao động sản xuất. Đến cuối năm 2015, có trên 60 nghìn người trong độ tuổi lao động, chiếm khoảng 45% dân số, trong đó, số lao động đã qua đào tạo chiếm tỷ lệ gần 60% lực lượng lao động. Đây là tiềm năng to lớn, đáp ứng sức lao động cho nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của huyện; thế mạnh chủ yếu của nguồn lao động là cần cù, ham học và có tay nghề truyền thống khéo léo. Hiện nay, về Nông nghiệp: Huyện Vụ Bản đã thực hiện xong công tác dồn điền đổi thửa đối với đất nông nghiệp; xây dựng xong Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp và đang triển khai thực hiện trên địa bàn. Đồng thời, huy động mọi nguồn lực để thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới; Từng bước triển khai xây dựng mô hình cánh đồng mẫu lớn (05/18 xã xây dựng là xã: Vĩnh Hào, Minh Tân, Liên Bảo, Đại Thắng, Trung Thành), gắn liền với cơ giới hóa trong nông nghiệp. Tiếp tục chuyển diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang trồng rau màu và nuôi trồng thủy sản. Tổng diện tích gieo trồng bình quân hàng năm 21.200 ha, trong đó diện tích cấy lúa 16.870 ha, diện tích giống lúa chất lượng cao 8.300 ha, chiếm 50% diện tích. Tổng sản lượng lương thực bình quân hàng năm đạt 95.558 tấn. Giá trị 1 ha canh tác đạt 93,5 triệu đồng/năm. Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 3,1%/năm. Về phát triển Công nghiệp-Tiểu thủ công nghiệp: Đã xây dựng được 01 khu công nghiệp Bảo Minh, với diện tích 165ha, trong tương lai sẽ còn tiếp tục được mở rộng. Đến thời điểm tháng 9/2016, đã có 10 nhà đầu tư thứ cấp đăng ký và đầu tư xây dựng xưởng sản xuất, tỷ lệ lấp đầy 80% diện tích, thu hút khoảng 8.500 công nhân vào làm việc cho thu nhập ổn định với mức lương đảm bảo đạt từ 3,5 đến 4,5 triệu đồng/tháng. 02 cụm Công nghiệp ở xã Quang Trung và xã Trung Thành, các nhà đầu tư đã từng bước đi vào sản xuất đem lại hiệu quả. Các ngành dịch vụ, du lịch, thương mại phát triển đa dạng, đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân. Giáo dục - Đào tạo tiếp tục phát triển; công tác y tế, chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân có nhiều tiến bộ; các hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, phát thanh, truyền thanh, bưu chính, viễn thông phát triển rộng khắp, góp phần tích cực, hiệu quả trong việc đưa thông tin về chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; về văn hóa xã hội, khoa học công nghệ; về các phong trào thi đua, các điển hình tiên tiến… đến cán bộ, đảng viên và nhân dân. Những thành tựu trong phát triển kinh tế đã làm cho diện mạo quê hương Vụ Bản từng bước hướng tới văn minh, giàu đẹp, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần. Trong những năm tới, Vụ Bản sẽ tiếp tục phấn đấu vươn lên để có thể sớm trở thành một trong những huyện giàu mạnh, văn minh, vững vàng theo kịp tiến trình hội nhập kinh tế cùng cả nước, xứng đáng với danh hiệu cao quý Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân mà Đảng và Nhà nước trao tặng. Văn hóa Cụm di tích Phủ Giày thuộc xã Kim Thái, thờ Mẫu Liễu Hạnh là một trong Tứ bất tử và là nhân vật đứng đầu trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Tứ Phủ Việt Nam. Cụm di tích này gồm Phủ Thiên Hương được xây từ thời Lê Cảnh Trị; Phủ Vân Cát rộng gần 1ha gồm 7 tòa với 30 gian lớn nhỏ; Lăng bà chúa Liễu được xây dựng bằng đá xanh, diện tích 625 mét vuông, có 60 búp sen hồng. Huyện có nhiều lễ hội nổi tiếng như: hội Phủ Giầy (từ mùng 1 đến 10 tháng 3 âm lịch, chính hội vào tối mùng 5), chợ Viềng (đêm mùng 7, ngày mùng 8 tết Âm lịch),... Huyện Vụ Bản thuộc vùng đất cổ, đất đai tương đối ổn định. Dọc phía tây huyện có các dãy núi đất lẫn đá chạy từ Bắc xuống Nam với sáu ngọn núi: Núi Ngăm, núi Tiên Hương, núi Báng, núi Lê, núi Gôi và núi Hổ. Dấu vết người nguyên thủy tìm thấy tại các khu vực núi này minh chứng Vụ Bản là một trong những cái nôi sinh ngụ của người Việt cổ. Vụ Bản nằm kẹp giữa sông Đào và sông Sắt. Sông Đào một đầu nối với Sông Hồng, đầu kia đổ ra sông Đáy. Sông Sắt nối liền sông Châu với sông Đáy. Mảnh đất này chính là do phù sa sông Hồng và sông Đáy bồi tụ nên. Đã từ lâu huyện Vụ Bản được nhiều người biết đến với Chợ Viềng xuân và Lễ hội Phủ Dầy. Huyện Vụ Bản còn có non Côi (núi Gôi) và một vùng đất lầy là dấu vết sông Vị Hoàng đã để lại. Hai di tích này được nhắc đến trong câu sau: Huyện có nhiều truyền thống văn hóa, có nhiều danh nhân nổi tiếng như: Trạng nguyên và nhà toán học Lương Thế Vinh, nhà thơ Nguyễn Bính, nhà cách mạng Trần Huy Liệu, Nguyễn Đức Thuận, nhạc sĩ Văn Cao, nhạc sĩ Văn Ký, nhà thơ Vũ Tú Nam, Bộ trưởng: Nguyễn Cơ Thạch, Trần Huy Liệu, Song Hào, Phạm Bình Minh, Thứ trưởng: Bùi Văn Nam. Giao thông Huyện có mạng lưới giao thông vận tải thuận tiện với tuyến đường sắt Bắc Nam và các tuyến Quốc lộ 10, Quốc lộ 21, Quốc lộ 37B, Quốc lộ 38B, Tuyến vành đai 2 thành phố(TL485B) chạy qua. Có không gian mở kết nối giữa hai thành phố Nam Định và Ninh Bình, trên tuyến hành lang cao tốc Ninh Bình - Nam Định - Hải Phòng và các huyện phía Nam của tỉnh Quốc lộ 10 đi qua các tỉnh vùng duyên hải Bắc Bộ Quốc lộ 38B nối từ Hải Dương đến Ninh Bình đi qua. Tuyến vành đai 2 bao quanh thành phố và một phần trùng với TL485B nối từ thị trấn Nam Giang đến Quốc lộ 21B Làng nghề Các làng nghề thủ công truyền thống, nghề phụ tại các địa phương trong huyện: Làng nghề cơ khí, rèn Giáp Nhất (Quang Trung) Làng nghề đan cót nan Vĩnh Lại (Vĩnh Hào) Làng nghề dệt vải, sợi gạc Quả Linh (Thành Lợi) Làng nghề tre nứa ghép Ngõ Trang (Liên Minh) Làng nghề gối mây Tiên Hào (Vĩnh Hào) Nghề thêu ren ở Minh Thuận Làng nghề tre nứa ghép Đại Lại (Vĩnh Hào Làng nghề sơn mài Hổ Sơn (Liên Minh).
Mỹ Lộc là một huyện đồng bằng nằm ở phía bắc tỉnh Nam Định, Việt Nam. Địa lý Huyện Mỹ Lộc nằm ở phía bắc của tỉnh Nam Định, có vị trí địa lý: Phía đông giáp huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình với ranh giới là sông Hồng Phía tây giáp huyện Vụ Bản Phía nam giáp thành phố Nam Định Phía bắc giáp huyện Bình Lục và huyện Lý Nhân thuộc tỉnh Hà Nam. Huyện có diện tích 72,7 km² với địa hình thấp, bằng phẳng, đất phù sa với Sông Hồng và sông Đào chảy qua là cơ sở cho việc trồng lúa và màu trên địa bàn huyện. Theo thống kê năm 1999, Mỹ Lộc có 66.000 dân. 9% dân số theo đạo Thiên Chúa. Huyện Mỹ Lộc cách thành phố Nam Định 7 km, cách thủ đô Hà Nội 83 km. Hành chính Huyện Mỹ Lộc có 11 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Mỹ Lộc (huyện lỵ) và 10 xã: Mỹ Hà, Mỹ Hưng, Mỹ Phúc, Mỹ Tân, Mỹ Thắng, Mỹ Thành, Mỹ Thịnh, Mỹ Thuận, Mỹ Tiến, Mỹ Trung. Lịch sử Ngày 8 tháng 8 năm 1964, chuyển 5 xã: Lộc An, Lộc Vượng, Lộc Hà, Lộc Hòa và Mỹ Xá thuộc thành phố Nam Định về huyện Mỹ Lộc quản lý. Ngày 19 tháng 8 năm 1964, sáp nhập các xóm Đại Lão, Cầu Nhân và Phú Vinh thuộc xã Khánh Lão, huyện Vụ Bản về xã Mỹ Thuận, huyện Mỹ Lộc. Ngày 13 tháng 6 năm 1967, huyện Mỹ Lộc được sáp nhập vào thành phố Nam Định. Ngày 27 tháng 4 năm 1977, 9 xã: Mỹ Thịnh, Mỹ Thuận, Mỹ Tiến, Mỹ Thành, Mỹ Hà, Mỹ Thắng, Mỹ Phúc, Mỹ Hưng, Mỹ Trung thuộc thành phố Nam Định được sáp nhập vào huyện Bình Lục. Ngày 16 tháng 2 năm 1997, huyện Mỹ Lộc tách khỏi thành phố Nam Định như cũ. Ngày 14 tháng 11 năm 2003, thành lập thị trấn Mỹ Lộc, thị trấn huyện lỵ huyện Mỹ Lộc trên cơ sở 221,71 ha diện tích tự nhiên và 2.256 nhân khẩu của xã Mỹ Hưng; 177,14 ha diện tích tự nhiên và 1.587 nhân khẩu của xã Mỹ Thịnh; 70,32 ha diện tích tự nhiên và 517 nhân khẩu của xã Mỹ Thành. Huyện Mỹ Lộc có 1 thị trấn và 10 xã như hiện nay. Kinh tế Các ngành kinh tế chính của huyện là cơ khí sửa chữa, vật liệu xây dựng, chế biến thực phẩm. Giao thông Về giao thông, huyện có quốc lộ 10, quốc lộ 21, quốc lộ 38B, đường sắt Bắc Nam chạy qua. Làng nghề Là một huyện có diện tích rất nhỏ nhưng Mỹ Lộc cũng có rất nhiều làng nghề. Nằm trong một tỉnh khi chưa có nhiều các khu công nghiệp nhưng Nam Định bằng sự cần cù, sáng tạo, khéo léo từ đôi bàn tay mà nơi đây đã hình thành nhiều làng nghề tiểu thủ công nghiệp, làng nghề mới và nhiều nghề phụ đã đưa Nam Định thành tỉnh thứ hai trong cả nước hoàn thành xây dựng nông thôn mới. Các làng nghề, nghề phụ, công việc đa dạng thúc đẩy sự phát triển kinh tế tại huyện: Làng nghề may (chăn, ga, gối, đệm) Sắc (Mỹ Thắng) Mây tre đan làng Giáng (thị trấn Mỹ Lộc) Nghề nuôi cá cảnh ở Mỹ Trung Mây tre, đan giành tích Gôi (Mỹ Hưng) Nghề trồng hoa thôn Hồng Hà (Mỹ Tân) Có nghề mộc ở Lưu Phố (Mỹ Phúc) Mây tre đan ở Vạn Đồn (thị trấn Mĩ Lộc) Phường hát chèo xưa Đặng Xá (nét đẹp) Nghề làm đậu phụ Bảo Long (Mỹ Hà) Đan giành tích làng Gạo (Mỹ Thành).
Phủ Dầy (có khi ghi là Phủ Giầy, Phủ Giày) là một quần thể kiến trúc tín ngưỡng truyền thống của người Việt trải rộng trên địa bàn xã Kim Thái huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, gần quốc lộ 10, quốc lộ 37B và quốc lộ 38B từ thành phố Nam Định đi thành phố Ninh Bình. Lịch sử Phủ Dầy có ý nghĩa là "đền lớn ở làng Kẻ Dầy". Năm 1557 triều vua Lê Anh Tông, làng Kẻ Dầy mới lấy tên chữ là xã An Thái, chia làm bốn thôn: Vân Cát, Vân Đình, Vân Cầu, Nham Miếu. Vì hai quan tiến sĩ Trần Ngọc Kỳ và Trần Bích Hoành cùng xã An Thái bất bình với nhau về chức Tiên chỉ, không ai nhường ai nên dân sở tại xin chia xã An Thái làm hai xã nhỏ: một xã lấy tên là Tiên Hương và một xã là Vân Cát, cách nhau 2 km. Mỗi nơi có phủ thờ Liễu Hạnh riêng. Năm 1861 (Tự Đức thứ 12) xã An Thái mới chính thức đổi tên là Tiên Hương. Phủ Chính tại thôn Tiên Hương được xây dựng từ thời Lê – Cảnh Trị (1663 – 1671) Hiện nay, thôn Tiên Hương được đổi tên là xã Kim Thái. Không gian đền phủ Đền thờ của Đức Thánh Mẫu gọi là "Phủ", vì Đức Thánh Mẫu được sắc phong là "Liễu Hạnh Công Chúa". "Phủ" là danh từ chỉ định dinh cơ của các vương công, và theo lẽ đó chỗ thờ công chúa cũng là nơi công chúa trú ngụ nên đền thờ Liễu Hạnh cũng dùng chữ Phủ. Quần thể Phủ Dầy bao gồm hơn 20 di tích gắn liền với cuộc đời Thánh Mẫu Liễu Hạnh trong lần giáng sinh thứ 2. Gồm Phủ Chính Tiên Hương, Phủ Vân Cát, Phủ Bóng (Nguyệt Du Cung), phủ Giáp Ba, phủ Dinh, phủ Đá, phủ Nội, phủ Tổ (Khải Thánh), đền Trình, đền Công Đồng, đền Chầu Bà Đệ Tứ Khâm Sai, đền Mẫu Thượng, đền Mẫu Thoải, đền Mẫu Đông Cuông, đền Đức Vua, đền Quan Lớn, đền thờ Lý Nam Đế, đền Đức Thánh Trần, chùa Tiên Hương, chùa Linh Sơn, chùa Dần, chùa Gôi, chùa Vân Cát... Lịch sử hình thành Phủ Dầy khởi thủy ban đầu chỉ là 1 quán cỏ được thờ phụng đơn sơ thời Lê Thế Tông (1578 - 1599), sau tới thời Phúc Thái thời vua Lê Chân Tông (1643 -1649) đựợc trùng tân, như trong bài Bái An Thái Tiên nữ từ của Tiến sỹ Phạm Đình Kính (người xã Cổ Sư, huyện Thiên Bản, nay là xã Vĩnh Hào, huyện Vụ Bản), được khắc trên bức Bảo Hành: Bái An Thái Tiên Nữ từ Vân Hương Tái thế nhất truyền kỳ Lê thị đầu sinh Đinh Tỵ niên Giá tại Trần môn năng khắc hậu Từ ư An ấp khả quang tiền Thế Tông thủy tạo mao từ quán Phúc Thái trùng khai ngoã thạch hiên Hoằng Định dĩ mông ban bảo chiếu Linh danh ảnh hưởng khởi u huyền ! Dịch nghĩa: Đến bái yết đền vị Tiên nữ An Thái: Lại xuống làng Vân năm Đinh Tỵ Họ Lê sự lạ hãy còn truyền Chồng con lúc sống trong Trần tộc Thờ phụng khi về ở Thái thôn Quán cỏ Thế Tông đời ấy dựng Nhà xây Phúc Thái bấy giờ tôn Thời Vua Hoằng Định ban ơn sắc Chớ nói mơ hồ chuyện kính tin ! Các giai đoạn khởi tạo, trùng tu: Quán cò Thế Tông (1578 - 1599) đầu mới dựng Nhà xây Phúc Thái (1643 -1649) lại trùng tân. Đời vua Hoằng Định (1609 -1619) ơn ban sắc Linh thiêng huyền ảo mãi lưu truyền. Phủ Chính Tiên Hương là một công trình đẹp được xây dựng từ thời Lê Cảnh Trị (1663 – 1671) và đã qua nhiều lần trùng tu. Phủ Tiên Hương có 19 toà với 81 gian lớn nhỏ, mặt phủ quay về phía tây nam nhìn về dãy núi Tiên Hương. Trước phủ có hồ và một sân rộng, có 3 toà nhà dàn hàng ngang hai tầng, tách mái đó là phượng du nơi đón khách tới hành hương. Một hồ bán nguyệt có lan can thấp bao quanh, có bình phong và hai cầu vượt đều bằng đá chạm khắc hình con rồng với móng vuốt sinh động tinh xảo. Phủ có 4 lớp thờ (4 cung): đệ nhất, đệ nhị, đệ tam, đệ tứ. Các cung đều được tập trung các nghệ thuật chạm khắc tinh vi, thể hiện đủ các mảng đề tài: rồng, phượng, hổ… Chính cung (cung đệ nhất) có một khám thờ khảm trai, bề thế và tinh xảo. Đây chính là nơi đặt 5 pho tượng có giá trị mỹ thuật cao của thế kỷ thứ 19. Phủ Vân Cát được xây dựng trên khu đất rộng gần 1ha, mặt quay về hướng tây bắc. Phủ Vân Cát hiện nay có 7 toà với 30 gian lớn nhỏ. Phía trước có hệ thống cửa ngọ môn với 5 gác lầu; phía ngoài ngọ môn có hồ bán nguyệt, giữa hồ là nhà thủy lâu, 3 gian, mái cong. Phủ Vân Cát cũng có 4 cung như ở phủ Tiên Hương. Trung tâm là nơi thờ chúa Liễu, bên trái là chùa thờ Phật, bên phải là đền thờ Lý Nam Đế. Lăng Thánh Mẫu Liễu Hạnh được xây dựng vào năm 1938. Lăng được xây dựng bằng đá xanh, chạm trổ đẹp, với diện tích 625m2, gồm có cửa vào lăng theo hướng đông tây, nam bắc. Các cửa đều có trụ cổng trên đắp hình bông sen. Giữa lăng là ngôi mộ khối bát giác, mỗi cạnh chừng 1m. Toàn lăng có 60 búp sen hồng trông xa như một hồ sen cạn. Di tích Phủ Dầy có giá trị rất cao về trình độ kiến trúc nghệ thuật cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Đến với Phủ Dày vừa để thưởng ngoạn cảnh đẹp, vừa là dịp Mẫu ban cho điều lành và sự may mắn. Sinh hoạt tín ngưỡng Hội Phủ Dầy được tổ chức hàng năm vào ngày 3 tháng 3 âm lịch. Lễ hội nhằm tổ chức nghi lễ, thắp hương biết ơn Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Cùng thời điểm này, bà Chúa Liễu Hạnh cũng được thờ tại nhiều lễ hội khác trên Việt Nam, nhưng hội Phủ Dầy thuộc vào loại long trọng nhất, với sự tham gia của đông đảo dân chúng. Có 3 nghi thức quan trọng nhất trong Lễ hội Phủ Dầy bao gồm: Lễ Rước Mẫu Thỉnh Kinh, Lễ Rước Đuốc tại Phủ Chính , Lễ kéo chữ Hoa Trượng Hội. Ngoài ra trong lễ hội còn có các trò chơi truyền thống như: Thi hát văn, hát chèo, múa rối nước, đấu vật, đấu cờ người, thổi cơm thi... Nghi lễ Hầu Đồng diễn ra trong suốt thời gian lễ hội. Thành ngữ dân gian một số nơi ở miền Bắc có câu: Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ Cha là Đức Thánh Trần Hưng Đạo, còn Mẹ chính là Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Halal (; ), còn đánh vần halaal là một từ tiếng Ả Rập, có nghĩa là "cho phép hoặc hợp pháp". Trong kinh Quran, từ halal trái nghĩa với haram (bị cấm). Sự đối lập nhị phân này được xây dựng thành một phân loại phức tạp hơn được gọi là "5 phán quyết": Fard (Bắt buộc), Mustahabb (khuyến nghị), Mubah (Trung lập), Makruh (khiển trách), và Haram (Bị cấm). Faqīh (giới luật pháp Hồi giáo) không đồng tình về việc thuật ngữ halal bao gồm hai hoặc bốn loại đầu tiên trong số các loại này. Trong thời gian gần đây, các phong trào Hồi giáo tìm cách huy động quần chúng và các tác giả viết cho khán giả nổi tiếng đã nhấn mạnh sự phân biệt đơn giản hơn của halal và haram . Thuật ngữ halal đặc biệt liên quan đến luật ăn kiêng Hồi giáo, và đặc biệt là thịt được chế biến và chuẩn bị theo các yêu cầu đó. Chứng nhận Halal là xác nhận rằng sản phẩm nào đó đạt yêu cầu về các thành phần và hội đủ điều kiện trong sản xuất và đáp ứng yêu cầu Tiêu chuẩn Halal. Trong kinh Quran Các từ halal và haram là các thuật ngữ thông thường được sử dụng trong Kinh Qur'an để chỉ định các danh mục hợp pháp hoặc được phép và bất hợp pháp hoặc bị cấm. Trong Kinh Qur'an, gốc Semitic "h-l-l" biểu thị tính hợp pháp và cũng có thể cho thấy thoát khỏi trạng thái nghi thức của một người hành hương và bước vào trạng thái báng bổ. Trong cả hai nghĩa này, nó có một ý nghĩa trái ngược với ý nghĩa được truyền tải bởi gốc h-r-m (xem haram và ihram ). Theo nghĩa đen, gốc h-l-l có thể đề cập đến sự giải thể (ví dụ: phá vỡ lời thề) hoặc giảm bớt (ví dụ, về cơn thịnh nộ của Thánh). Tính hợp pháp thường được biểu thị trong Kinh Qur'an bằng động từ ahalla (để làm cho hợp pháp), với Thánh như chủ đề đã nêu hoặc ngụ ý. Thực phẩm Một số công ty thực phẩm cung cấp các sản phẩm và thực phẩm chế biến theo tiêu chuẩn halal , bao gồm gan ngỗng, nem, gà nugget, ravioli, lasagna, pizza, và thức ăn trẻ em halal Bữa ăn chế biến sẵn (TV dinner) hợp tiêu chuẩn Halal là một lĩnh vực tiêu dùng đang phát triển của người Hồi giáo ở Anh và Mỹ và được cung cấp bởi ngày càng nhiều nhà bán lẻ. Món chay là halal nếu nó không chứa đồ có cồn. Ví dụ phổ biến nhất về thực phẩm haram (không phải halal) là thịt lợn. Trong khi thịt lợn là loại thịt duy nhất người Hồi giáo có thể không được sử dụng (Kinh Qur'an cấm ăn, Sura 2:173 và 16:115) các thực phẩm khác không ở trạng thái tinh khiết cũng được coi là haram . Các tiêu chí cho các mặt hàng không phải thịt lợn bao gồm nguồn gốc, nguyên nhân cái chết của động vật và cách chế biến. Người Hồi giáo cũng phải đảm bảo rằng tất cả các loại thực phẩm (đặc biệt là thực phẩm chế biến sẵn), cũng như các mặt hàng phi thực phẩm như mỹ phẩm và dược phẩm, đều là halal. Thông thường, các sản phẩm này có chứa các sản phẩm phụ từ động vật hoặc các thành phần khác không được phép cho người Hồi giáo ăn hoặc sử dụng trên cơ thể họ. Thực phẩm không được coi là halal cho người Hồi giáo sử dụng bao gồm máu và các chất gây say như các đồ uống có cồn. Một người Hồi giáo nếu không chết đói sẽ được phép ăn thức ăn không halal nếu không có thức ăn halal . Trong các chuyến bay trên máy bay, người Hồi giáo thường sẽ gọi đồ ăn kosher (nếu không có đồ ăn halal) để đảm bảo món ăn họ chọn sẽ không có bất kỳ thành phần nào của thịt lợn. Sinh vật biến đổi gen (GMO) Các học giả Hồi giáo và các chuyên gia Sharia ủng hộ ý tưởng và tiến trình công nghệ sinh học, bởi vì nó có tác động lớn đến sự thịnh vượng của nhân loại. Sự kiện có tiêu đề "Đổi mới nông nghiệp và công nghệ sinh học nông nghiệp trong luật Hồi giáo Shariah đã được tổ chức bởi Farming Future Bangladesh (FFB), tại Viện Nghiên cứu Krishibid Bangladesh ở thủ đô Bangladesh nơi các chuyên gia Muftis và Sharia đã thảo luận về Gm crops. Shaykh Ahmadullah, Chủ tịch Quỹ As-Sunnah, cho biết: Luật Hồi giáo Shariah chấp thuận mọi hành vi trần tục nhằm mục đích tốt đẹp của con người, do đó đổi mới nông nghiệp được coi là Halal. Thêm vào đó, nhà nghiên cứu Hồi giáo Maulana Hedayetullah nói: "Các giáo sĩ Hồi giáo có sự hỗ trợ lớn cho ý tưởng và quá trình công nghệ sinh học, bởi vì nó có tác động lớn đến sự thịnh vượng của nhân loại." Chứng nhận tiêu chuẩn Trên toàn cầu, chứng nhận thực phẩm halal đã bị chỉ trích bởi các cá nhân sử dụng phương tiện truyền thông xã hội. Những người chỉ trích đã lập luận rằng chi phí sản xuất bị tăng thêm; yêu cầu để có chứng nhận chính thức cho thực phẩm halal thực chất dẫn đến người tiêu dùng phải trả thêm phụ cấp cho một niềm tin tôn giáo cụ thể. Phát ngôn của Hội đồng Hồi giáo tại Úc (Australian Federation of Islamic Councils) là ông Keysar Trad chia sẻ với báo chí vào tháng 7 năm 2014 rằng đây là một nỗ lực để kích động phong trào bài Hồi giáo tại Úc. Kinh doanh Phòng Thương mại và công nghiệp Dubai ước tính giá trị ngành công nghiệp toàn cầu về mua bán thực phẩm halal là 1,1 nghìn tỷ đô la trong năm 2013, chiếm 16,6% thị trường thực phẩm và đồ uống toàn cầu, với mức tăng trưởng hàng năm là 6,9%. Các khu vực tăng trưởng bao gồm Indonesia (197 triệu đô la giá trị thị trường trong năm 2012) và Thổ Nhĩ Kỳ (100 triệu đô la). Tại Liên minh Châu Âu, thị trường thực phẩm halal với mức tăng trưởng hàng năm ước tính khoảng 15% và trị giá ước tính khoảng 30 tỷ đô la. Khoảng 8 tỷ đô la trong số đó được hạch toán tại Pháp. Ngành công nghiệp thực phẩm và đồ uống halal cũng đã tạo ra một tác động đáng kể đến siêu thị và kinh doanh thực phẩm khác như nhà hàng. Các siêu thị tại Pháp có doanh thu từ mua bán thực phẩm halal với tổng trị giá 210 triệu đô la trong năm 2011, tăng 10,5% so với 5 năm trước. Ở Pháp, thị trường thực phẩm halal thậm chí còn lớn hơn thị trường cho các loại thực phẩm phổ biến khác. Chẳng hạn, năm 2010, thị trường thực phẩm và đồ uống halal ở Pháp gần gấp đôi so với thực phẩm hữu cơ. Auchan, một chuỗi siêu thị lớn của Pháp, hiện bán 80 sản phẩm thịt halal được chứng nhận, cùng với 30 bữa ăn halal nấu sẵn và 40 sản phẩm halal đông lạnh. Các nhà hàng cao cấp và dịch vụ ăn uống cũng đã thêm thực phẩm halal vào thực đơn của họ. Ngoài ra, nhiều công ty nước giải khát như Evian đã nỗ lực thêm tem halal trên các sản phẩm của họ để cho thấy rằng nước và đồ uống khác của họ là tinh khiết và không "haram" hoặc bị cấm theo luật Hồi giáo. Phương pháp giết mổ Thực phẩm phải đến từ một nhà cung cấp thực hành theo halal . () là phương pháp giết mổ theo quy định đối với tất cả các nguồn thịt, trừ cá và các sinh vật biển khác, theo luật Hồi giáo. Phương pháp giết mổ động vật này bao gồm sử dụng một con dao được mài sắc để tạo ra một vết mổ nhanh, sâu cắt phía trước cổ họng, động mạch cảnh, khí quản và tĩnh mạch cổ. Đầu của một con vật bị giết thịt bằng phương pháp halal căn chỉnh theo qiblah (hướng của Kaaba mà người Hồi giáo hướng về những lời cầu nguyện hàng ngày của họ). Ngoài hướng, động vật (được phép ăn) nên bị giết khi thốt ra lời cầu nguyện của đạo Hồi Bismillah "basmala (nhân danh Thánh thần)". Việc giết mổ có thể được thực hiện bởi một người Hồi giáo hoặc một tín đồ của các tôn giáo theo truyền thống được gọi là Người của Sách. Máu phải được rút ra từ tĩnh mạch. Carrion (xác động vật chết, chẳng hạn như động vật chết trong tự nhiên) không được phép ăn. Ngoài ra, một con vật đã bị siết cổ, bị đánh đập (đến chết), bị giết bởi một cú ngã, bị húc (đến chết), bị một con thú săn mồi (trừ khi bị con người kết liễu), hoặc bị giết trên bàn tế bằng đá cũng không được phép. Con vật có thể bị choáng trước khi cắt cổ họng. Số liệu của Cơ quan Tiêu chuẩn Thực phẩm Vương quốc Anh từ năm 2011 cho thấy 84% gia súc, 81% cừu và 88% gà bị giết thịt để lấy thịt 'halal' đã bị choáng trước khi chết. Các siêu thị bán sản phẩm halal cũng báo cáo rằng tất cả động vật đều bị choáng trước khi bị giết thịt. Tesco, chẳng hạn, nói rằng "sự khác biệt duy nhất giữa thịt halal mà siêu thị này bán và sản phẩm thịt khác là chúng được ban phước khi bị giết." Hiệp hội Thú y Vương quốc Anh cùng với các công dân đã tập hợp một bản kiến ​​nghị với 100.000 chữ ký, đã làm dấy lên mối lo ngại về một lò mổ halah được đề xuất ở xứ Wales, trong đó động vật không bị đánh ngất trước khi giết. Mối bận tâm về việc động vật chịu cảnh giết mổ không bị đánh ngất trước đã dẫn đến lệnh cấm giết mổ động vật không bị choáng váng tại Đan Mạch, Luxembourg, Bỉ, Hà Lan, Na Uy, Thuỵ Điển và Thuỵ Sĩ. Nói chung, giết động vật trong Hồi giáo chỉ được phép vì hai lý do chính, để ăn và để loại bỏ mối nguy hiểm, ví dụ: một con chó dại. Thịt được giết mổ hoặc chuẩn bị bởi những người không theo đạo Hồi Động vật bị giết bởi Kitô hữu hoặc người Do Thái là halal chỉ khi việc giết mổ được thực hiện bằng nhát cắt vào tĩnh mạch cảnh của con vật, được đề cập trước khi giết mổ rằng mục đích là được phép tiêu thụ thực phẩm này, việc giết mổ được thực hiện theo nhân danh Thánh thần (biểu thị rằng bạn biết ơn các phước lành của Thánh) và thịt không nằm trong danh sách cấm như thịt lợn. Yêu cầu gọi tên Thánh là bắt buộc. Nói cách khác, từ ṭaʻām đề cập tới thịt; tức là thịt được chuẩn bị sau khi giết mổ động vật bằng cách cắt cổ họng (tức là tĩnh mạch cổ, động mạch cảnh và khí quản) và trong quá trình giết mổ, tên của Thánh được gọi (Ibn ʻAbbās, Mujāhid, ʻIkrimah tất cả được trích dẫn bởi Ṭabarī, Ibn Kathīr). Thịt Kosher cũng là thực phẩm người Hồi giáo được phép ăn. Điều này là do sự giống nhau giữa cả hai phương pháp giết mổ và các nguyên tắc tương tự của thịt kosher được người Do Thái gìn giữ. Lối sống và du lịch Lối sống Halal có thể bao gồm du lịch, ngân hàng và tài chính Hồi giáo, quần áo, phương tiện truyền thông, giải trí và mỹ phẩm cũng như thực phẩm và chế độ ăn uống halal . Halal tại các cửa hàng ở Anh Tính đến tháng 8 năm 2012, ước tính có 27 siêu thị Tesco, ngoài hầu hết các siêu thị Asda và nhiều siêu thị Morrisons, có quầy thịt halal, bán thịt được chấp thuận để sử dụng cho người Hồi giáo. Theo báo cáo cập nhật phúc lợi động vật của Cơ quan tiêu chuẩn thực phẩm, được công bố vào tháng 9 năm 2017, chỉ có 16% động vật bị giết mổ bằng phương pháp Halal không bị choáng trước khi giết mổ, vi phạm tiêu chuẩn RSPCA về phúc lợi động vật. Tuy nhiên, đó là hợp pháp ở Anh do sự miễn trừ trong luật được cấp cho người Do Thái và Hồi giáo.
Đệ quy (tiếng Anh: recursion) là phương pháp dùng trong các chương trình máy tính trong đó có một hàm tự gọi chính nó. Khái niệm hình thức về đệ quy Trong toán học và khoa học máy tính, các tính chất (hoặc cấu trúc) được gọi là đệ quy nếu trong đó một lớp các đối tượng hoặc phương pháp được xác định bằng việc xác định một số rất ít các trường hợp hoặc phương pháp đơn giản (thông thường chỉ một) và sau đó xác định quy tắc đưa các trường hợp phức tạp về các trường hợp đơn giản. Chẳng hạn, định nghĩa sau là định nghĩa đệ quy của tổ tiên: Bố mẹ của một người là tổ tiên của người ấy (trường hợp cơ bản); Bố mẹ của tổ tiên một người bất kỳ là tổ tiên của người ấy (bước đệ quy). Các định nghĩa kiểu như vậy cũng thường thấy trong toán học (chính là quy nạp toán học) Định nghĩa theo đệ quy Một khái niệm X được định nghĩa theo đệ quy nếu trong định nghĩa X có sử dụng ngay chính khái niệm X. Ví dụ 1: Định nghĩa số tự nhiên - 0 là một số tự nhiên. - n là số tự nhiên nếu n - 1 là số tự nhiên. Đệ quy trong khoa học máy tính Có một phương pháp chung để giải các bài toán là chia bài toán thành các bài toán con đơn giản hơn cùng loại. Phương pháp này được gọi là Thuật toán chia để trị. Chính nó là chìa khóa để thiết kế nhiều giải thuật quan trọng, là cơ sở của quy hoạch động. Một ví dụ cổ điển của đệ quy là hàm giai thừa cho bằng giả mã trong C hoặc C++ sau đây: int factorial(n) { if (n <= 1) return 1; else return n * factorial(n-1); } Một ví dụ khác của giải thuật đệ quy là thủ tục duyệt (nghĩa là thực hiện một công việc nào đó với chúng) tất cả các nút của một cấu trúc dữ liệu cây: procedure ProcessTree(node) { ProcessNode(node); // thực hiện một thuật toán riêng với nút đầu for each child_node of node do ProcessTree(child_node); } Để duyệt một cây, gọi thủ tục này với nút gốc của cây như một tham biến khởi tạo. Tiếp theo, thủ tục gọi đệ quy đến chính nó cho tất cả các nút con của nút vừa gọi (nghĩa là các cây con của cây vừa gọi), cho đến khi gặp trường hợp cơ bản nghĩa là nút không có con (thường gọi là "lá"). Chính cấu trúc cây cũng được định nghĩa bằng đệ quy như sau: struct node { child_nodes: list<node>; ... } struct tree { root: node; ... } Cây được biểu diễn bằng một nút gốc và danh sách các nút con của nút ấy. Mỗi nút con lại có danh sách các nút con của nó (và như vậy, nó là gốc của một cây con). Lá với danh sách rỗng các nút con là trường hợp cơ sở của nút. Chương trình con đệ quy Trong lập trình, có khái niệm: một chương trình con (hàm, thủ tục) được gọi là đệ quy nếu trong quá trình thực hiện nó có phần phải gọi đến chính nó. Cấu trúc chính Một chương trình con đệ quy căn bản gồm hai phần. Phần cơ sở: chứa các tác động của hàm hoặc thủ tục với một số giá trị cụ thể ban đầu của tham số. Phần đệ quy: định nghĩa tác động cần được thực hiện cho giá trị hiện thời của các tham số bằng các tác động đã được định nghĩa trước đây với kích thước tham số nhỏ hơn. Ví dụ: Hàm tính giai thừa của một số tự nhiên n (tính ) (Đoạn mã sau được viết bằng ngôn ngữ Pascal) function factorial(n: Word): Longint; begin if n = 0 then exit(1) else exit(n*(factorial(n-1))); end; Quy trình thực hiện Trong ví dụ trên, quy trình thực hiện như sau: Khi có lệnh gọi hàm, chẳng hạn: n:= factorial(3); thì máy sẽ ghi nhớ là: factorial(3):= 3 * factorial(2); và đi tính gt(2) kế tiếp máy lại ghi nhớ: factorial(2):= 2 * factorial(1); và đi tính gt(1) Theo định nghĩa của hàm thì: factorial(1):= 1; Máy sẽ quay ngược lại: factorial(2):= 2 * 1; cho kết quả là 2 Tiếp tục: factorial(3):= 3 * 2; cho kết quả là 6 Như vậy kết quả cuối cùng trả về là 6. Ta có: 3! = 6 Đệ quy tương hỗ Nếu có hai chương trình con A1 và A2 gọi nhau ta có đệ quy tương hỗ. Đệ quy tương hỗ thường được dùng để duyệt cây theo chiều sâu. type B(...); type A(...) { .... B(...); ... } type B(...) { .... A(...); ... }
Lương Châu từ (凉州词) là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt nổi tiếng của Vương Hàn (王翰) được sáng tác từ tên gọi của một điệu hát cổ của người Trung Hoa nói về chủ đề trận mạc, biên ải. Trong thơ cổ Trung Hoa, nhiều điệu hát dân gian như các từ, khúc Thượng chi hồi, Chiến thành nam, Tương tiến tửu, Hoàng tước hành, Lạc mai hoa... được rất nhiều nhà thơ ưa chuộng và thường dùng để đặt tên cho tác phẩm của mình, đặc biệt trong Đường thi. Vương Chi Hoán, một tác giả thời Sơ Đường cũng có bài thơ Lương Châu từ (hay còn có tên Xuất tái-Lương Châu từ) nhưng không nổi tiếng bằng. Văn bản Dịch ý Rượu Bồ đào (rượu từ quả nho - rượu ngon) chứa trong chén bằng ngọc Dạ quang (rất quý); Đang muốn uống thì tiếng đàn tỳ bà đã giục (phải) lên lưng ngựa (để ra đi); (Đã hoặc nếu) Say nằm giữa chiến trường, mong người đừng cười (chê trách); (Bởi vì) Từ xưa đến nay, người đi chinh chiến có mấy ai trở về.
Chiến tranh Punic là 3 cuộc chiến tranh giữa La Mã cổ đại và Carthage. Chúng được biết đến như là các cuộc chiến tranh khang póng bởi vì theo tiếng Latin người Carthage còn được gọi là người Punic, vì họ là con cháu của người Phoenicia. Nguyên nhân chính của Chiến tranh Punic là đụng độ của các lợi ích giữa đế chế Carthage hiện tại và việc mở rộng Cộng hòa La Mã. Người La Mã đã bước đầu quan tâm đến việc mở rộng thông qua Sicilia, một phần trong số đó nằm dưới sự kiểm soát của Carthage.Vào thời điểm bắt đầu cuộc chiến tranh Punic lần thứ nhất,Carthage là quyền lực chi phối vùng phía Tây Địa Trung Hải, với một đế chế hàng hải rộng lớn, trong khi Roma đã nhanh chóng tăng dần sức mạnh tại Ý, nhưng thiếu sức mạnh hải quân so với Carthage. Vào cuối cuộc chiến thứ ba, sau hơn một trăm năm và cái chết của hàng trăm ngàn binh sĩ của cả hai bên, Roma đã chinh phục đế chế Carthage và san bằng thành phố, trở thành bang mạnh nhất của miền Tây Địa Trung Hải.Với sự kết thúc của Chiến tranh Macedonia -mà xảy ra cùng thời với chiến tranh Punic -và thất bại của nhà vua Seleucos Antiochos III Đại đế trong cuộc chiến tranh La Mã-Syria (Hiệp ước Apamea,năm 188 TCN) ở vùng biển phía Đông, Roma nổi lên như là thế lực thống trị Địa Trung Hải và là một trong những thành bang hùng mạnh nhất thế giới cổ đại. Hoàn cảnh lịch sử Lực lượng hải quân hùng mạnh nhất trên Địa Trung Hải trong thế kỷ 3 trước Công nguyên là Carthage, quốc gia phía bắc châu Phi gần Tunisia ngày nay. Người Carthage là người gốc Phoenicia và Carthage là một thuộc địa cũ của Phoenicia từ thế kỷ 9 trước CN. Từ Carthage trong tiếng Phoenicia có nghĩa là "thành phố mới". Đến thế kỷ 6 trước CN, Phoenicia bị chinh phục bởi người Assyria (là những bộ lạc Semitic sống ở phía bắc Mesopotamia) và sau đó là người Ba Tư. Tuy nhiên Carthage lại không bị ảnh hưởng và trở thành một quốc gia độc lập hoàn toàn. Song song với cuộc chinh phục bán đảo Ý của La Mã, Carthage cũng mở rộng lãnh thổ của mình ra khắp Bắc Phi. Khi La Mã hoàn tất cuộc chinh phục Ý của mình thì Carthage cũng đã kiểm soát toàn bộ bờ biển Bắc Phi từ phía Tây Libya đến eo biển Gibraltar (bờ biển phía nam Tây Ban Nha), hầu hết bờ biển phía nam Tây Ban Nha cũng như các đảo Corse và Sardegna ở Châu Âu. Carthage trở thành một cường quốc, họ kiểm soát hầu hết các hoạt động giao thương trên Địa Trung Hải, cung cấp binh lính, nô lệ và hàng hóa, và tích trữ lượng lượng vàng bạc khổng lồ từ các mỏ khai thác ở Tây Ban Nha. Hai đế chế hùng mạnh này bắt đầu va chạm nhau vào giữa thế kỷ 3 trước Công nguyên, khi quyền lực của La Mã đã vươn tới cực nam của Ý. Thực ra, hai bên đã có những tiếp xúc rời rạc trước đó nhưng chưa bên nào cảm thấy mối đe dọa đến từ bên kia. Người La Mã có hiểu biết kỹ lưỡng về người Carthage. Họ gọi những người này bằng cái tên gốc là người Phoenicia. Trong tiếng Latin, nó được viết là Poeni, đây là nguồn gốc cái tên Punic của cuộc chiến tranh trong bài này. Cuộc chiến bất hạnh cho Carthage này là không thể tránh được. Nằm giữa Carthage và Ý là hòn đảo lớn Sicilia. Carthage kiểm soát nửa phía tây của hòn đảo, nhưng với việc đã kiểm soát cực nam của bán đảo Ý thì La Mã chỉ còn cách Sicilia một tầm tay. La Mã can thiệp vào cuộc nổi dậy của người Messana chống lại Carthage, và chiến tranh Punic lần thứ nhất nổ ra. Năm 264 TCN, Cộng hòa La Mã đã giành quyền kiểm soát bán đảo Ý phía nam của sông Po. Không giống như Carthage, Roma đã có quân đội thường trực lớn được tuyển dụng từ các công dân La mã. Mặt khác,khi bắt đầu của Chiến tranh Punic lần đầu tiên,người La Mã đã không có hải quân thường trực,dẫu vậy họ đã xây dựng lực lượng hải quân trong suốt cuộc chiến. Chiến tranh Punic lần thứ nhất (264-241 trước CN) Bài chi tiết:Chiến tranh Punic lần thứ nhất Nổ ra năm 264 TCN, chủ yếu diễn ra trên đảo Sicilia. La Mã bao vây nhiều thành phố của Carthage ở Sicilia và khi Carthage đưa hải quân của mình đến giải vây, La Mã hủy diệt hoàn toàn lực lượng hải quân này. Lần đầu tiên kể từ khi thành lập, Đế chế Carthage chuốc lấy thất bại trên biển. Cuộc chiến chấm dứt với chiến thắng không thực sự thuộc về bên nào. Năm 241 TCN, một hiệp ước được ký năm 241 giữa 2 bên với việc Carthage phải rời bỏ Sicilia (dù chưa bị mất vào tay La Mã) và bồi thường một khoản cho chiến tranh. Ngay sau đó, Carthage phải đối mặt với các vụ nổi loạn của lực lượng lính đánh thuê, và La Mã hưởng lợi từ sự lộn xộn này với việc chiếm được đảo Corse. La Mã rất e ngại người Carthage và muốn xây dựng một vùng đệm an toàn càng lớn càng tốt giữa La Mã và Carthage. Sau Sicilia và Corse, La Mã tiếp tục muốn đẩy người Carthage ra khỏi Sardegna, hòn đảo phía tây bán đảo Ý. Carthage phản ứng bằng cách gia tăng sức mạnh ở Châu Âu. Trước tiên, họ đưa tướng Hamilcar và con rể ông ta là Hasdrubal tới Tây Ban Nha thiết lập chế độ thuộc địa và xây dựng quân đội. Ở đây, hai cha con này lập quan hệ đồng minh với các nước vùng Iberia, và quân đội Carthage chiêu mộ từ các quốc gia đồng minh lặng lẽ lớn mạnh và quyền lực cùng ảnh hưởng của Carthage vươn khắp bán đảo Iberia. Chiến tranh Punic lần thứ hai (218-202 trước CN) Bài chi tiết:Chiến tranh Punic lần thứ hai Rất lo lắng trước tình hình này nên khi Saguntum, một thành phố nhỏ ở Tây Ban Nha yêu cầu Roma trở thành đồng minh, La Mã đã không từ chối. Vài năm sau, Hannibal, một tướng trẻ 25 tuổi trở thành tổng chỉ huy quân Carthage ở Tây Ban Nha. Lúc đầu, Hannibal cho phép người Saguntum sử dụng các bến cảng rộng lớn để tránh xung đột với La Mã. Nhưng Saguntum với giúp đỡ của người đồng minh La Mã, bắt đầu chơi trò chính trị với các thành phố Tây Ban Nha khác. Bỏ qua những đe dọa trực tiếp từ La Mã, Hannibal tấn công và chiếm giữ Saguntum. La Mã cố gắng thu xếp vấn đề này bằng con đường ngoại giao. Họ yêu cầu Carthage cách chức Hannibal và đưa ông này đến Roma. Chiến tranh Punic lần 2 nổ ra năm 218 trước CN khi Carthage khước từ yêu cầu này. Nhưng lần này, La Mã phải đối mặt với một địch thủ đáng sợ. Trong thời gian sau cuộc chiến lần 1, Carthage đã tạo ra một đội quân hùng mạnh. Hannibal đã đưa đội quân này đi dọc châu Âu và tháng 9 năm 218, ông đưa quân Carthage vượt dãy Alpes bắt đầu cuộc xâm lược Ý. Dù mệt mỏi vì quãng đường vận động chiến, Hannibal vẫn ngay lập tức đập tan quân La Mã ở phía bắc Ý. Chiến thắng ngoạn mục này đã khiến nhiều chiến binh du mục Gaule gia nhập đoàn quân của Hannibal nâng tổng số quân của ông lên trên 50000. Chiến thắng của Hannibal trước người La Mã được đảm bảo bằng việc thuyết phục các đồng minh của La Mã và sáp nhập nhiều thành phố vào Carthage. Người La Mã hiểu rằng họ không thể đánh bại Hannibal. Tuyệt vọng, La Mã trao quyền cho nhà độc tài Quintus Fabius Maximuss. Fabius ra lệnh tránh chiến tranh trực diện bằng mọi giá, chỉ đánh du kích cho tới khi quân Carthage suy yếu đủ để tấn công trực diện. Nhưng khi Hannibal hành quân tới Cannae (trận Cannae) năm 216 trước CN, Fabius đưa 1 đội quân 80000 người ra chống lại. Đội quân này ngay lập tức bị Hannibal tiêu diệt hoàn toàn, đây là thất bại lớn nhất Roma từng trải qua. Các đồng minh phía Nam Ý của La Mã chạy sang phía Hannibal, toàn bộ Sicilia trở thành đồng minh của Carthage. Thêm vào đó, vua Philippos V của Macedonia, người kiểm soát hầu hết lãnh địa Hy Lạp cũng ngả theo Hannibal và bắt đầu cuộc chiến tranh chống lại La Mã năm 215 trước CN. Tình hình gần như tuyệt vọng đối với La Mã. Fabius không còn dũng khí đối đầu với Hannibal. Hannibal đưa quân đội vòng quanh Ý mà không còn bất cứ sự chống cự nào. Tuy nhiên, Hannibal không có đủ lực lượng và trang bị để bao vây hay tấn công ồ ạt các thành phố như Roma. Tất cả những gì ông có thể làm là đi khắp các miền nông thôn Ý và tàn phá. La Mã quyết định tấn công hậu phương của Hannibal. Biết rằng Hannibal phụ thuộc vào nguồn cung cấp nhân lực và vật lực từ Tây Ban Nha, La Mã trao cho Publius Cornelius Scipio (237-183 TCN), một thiên tài về chiến lược chức Thống đốc Tây Ban Nha, một hành động không hợp hiến vì vị tướng trẻ này chưa bao giờ là quan chấp chính. Scipio, sau này được gọi bằng cái tên Scipio Africanus vì chiến thắng của ông trước người Carthage trên đất Châu Phi, đã nhanh chóng chinh phục toàn bộ Tây Ban Nha. Đến lúc này, Hannibal bị mắc cạn trên đất Ý. Sau đó, Scipio đưa quân vào châu Phi và buộc người Carthage phải đề nghị Roma một hiệp ước hòa bình. Một phần của hiệp ước này là Hannibal phải rời khỏi bán đảo Ý. Hannibal là một trong những danh tướng vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới. Trong suốt cuộc chiến tranh với La Mã, ông không hề thua một trận nào. Dù vậy ông vẫn buộc phải rút lui. Và dù thắng trong tất cả các trận đánh, Hannibal đã thua trong cuộc chiến tranh này. Khi Hannibal quay trở lại, người Carthage lấy lại tinh thần và thêm một lần nữa nổi dậy chống lại La Mã. Năm 202 TCN, Hannibal và Scipio giao chiến ở At Zama phía bắc châu Phi và tại đây Hannibal nếm chiến bại đầu tiên. Carthage bị đưa xuống thành một bang độc lập. La Mã lúc này kiểm soát toàn bộ miền tây Địa Trung Hải bao gồm cả khu vực Bắc Phi. Cuộc chiến này mang đến cho La Mã những kinh nghiệm lịch sử. Họ đã phải đối mặt với những thất bại hiển nhiên trước một địch thủ hùng mạnh và cuối cùng đã chiến thắng những kẻ thù vượt trội này. Tính cách La Mã được nhìn nhận từ cuộc chiến tuyệt vọng này đã xuyên suốt phần còn lại của lịch sử đế chế. Chiến tranh Punic lần 2 đưa La Mã từ một quyền lực có tính khu vực trở thành một đế chế trên toàn thế giới. Với việc Philip V của Macedonia bắt tay với Hannibal tiến hành chiến tranh chống lại Roma, La Mã chuyển hướng chiến tranh về phía đông trước tiên xâm chiếm Macedonia và sau đó là các vương quốc Hi Lạp khác. Kết quả cuối cùng của chiến tranh Punic lần thứ hai là sự thống trị thế giới của La Mã. Chiến tranh Punic lần 3 (149-146 trước CN) Trong những năm tiếp theo, La Mã tiếp tục chinh phục các quốc gia Hy Lạp ở phía đông. Ở phía tây, họ đàn áp tàn bạo người Iberia và trút thịnh nộ lên đầu người Carthage. Các nhà sử học đã ghi lại lời của một lãnh tụ hàng đầu của La Mã là Cato rằng khi kết thúc một bài phát biểu về bất cứ vấn đề gì, ông này cũng có câu: "tôi cho rằng phải hủy diệt Carthage". Trong nửa đầu thế kỷ thứ 2 trước CN, dù không giành lại được nhiều quyền lực nhưng với các hoạt động thương mại, Carthage cũng đã khôi phục lại nhiều phần sự thịnh vượng trước kia. La Mã càng ngày càng nghi ngờ sự hồi sinh của Carthage và yêu cầu người Carthage từ bỏ thành phố của họ để lùi sâu vào trong lục địa Bắc Phi. Carthage, xứ sở buôn bán phụ thuộc vào giao thương trên biển khước từ yêu cầu này. Viện nguyên lão La Mã tuyên bố chiến tranh. Sau một thời gian bao vây, người La Mã chiếm được thành phố, binh lính La Mã đi từng nhà tàn sát dân cư Carthage. Đây có lẽ là vụ hành quyết có hệ thống đẫm máu nhất trước Chiến tranh thế giới thứ hai. Những người Carthage còn sống bị bắt và bị bán làm nô lệ. Cảng biển và thành phố bị phá hủy.
Nguyễn Đổng Chi (6 tháng 1 năm 1915 – 20 tháng 7 năm 1984) là một nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Việt Nam, nguyên Trưởng ban Hán Nôm, nguyên Quyền Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam). Tiểu sử Ông sinh tại Phan Thiết; Ông quê ở xã Ích Hậu, huyện Can Lộc nay là huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh. sinh trưởng trong một gia đình nhà Nho yêu nước. Cha ông là Nguyễn Hiệt Chi tham gia phong trào Duy Tân ở Nghệ Tĩnh, từng là đồng sáng lập Công ty Liên Thành và Trường Dục Thanh (Phan Thiết), nhiều năm sau về dạy Trường Quốc học Huế và Trường Quốc học Vinh. Chú ruột Nguyễn Hàng Chi bị Pháp xử chém vì cầm đầu phong trào chống thuế ở Nghệ Tĩnh năm 1908. Mẹ là người thuộc dòng họ Hoàng giáp Nguyễn Văn Giai. Trong gia đình ông còn có Giáo sư, nhà dân tộc học Nguyễn Đức Từ Chi; Bác sĩ Nguyễn Kinh Chi Thứ trưởng Bộ Y tế trong thời kháng chiến chống Pháp và Đại biểu Quốc hội Việt Nam dân chủ cộng hòa khóa I-IV, tác giả Du lịch Quảng Bình và Công nghệ Quảng Bình; Giáo sư văn học Nguyễn Huệ Chi; Phó giáo sư, nhà nghiên cứu mỹ thuật cổ Nguyễn Du Chi. Từ năm 1923 đến 1930, ông theo học các trường tiểu học ở Vinh, Hà Tĩnh, Đồng Hới, học trung học tại Vinh và học chữ Hán, chữ Nôm tại nhà. Năm 1934, ông theo anh trai lên Kon Tum nghiên cứu và cùng viết sách về tộc người Ba Na. Năm 1935, ông làm phóng viên cho tờ Thanh – Nghệ – Tĩnh, một tuần báo ở Vinh, cộng tác với nhiều báo chí trong Nam ngoài Bắc, bắt đầu viết truyện với biệt hiệu Nguyễn Trần Ai. Đồng thời viết phóng sự Túp lều nát nổi tiếng (1937) bị Mật thám Pháp theo dõi, nghiên cứu sử học và văn học, xuất bản nhiều công trình gây tiếng vang trong các học giả, trong đó có công trình Đào Duy Từ được giải khuyến khích của Học hội Alexandre de Rhodes năm 1943. Từ 1939 ông tham gia phong trào dân chủ phản đế, tham gia lãnh đạo Đoàn thanh niên cứu quốc Can Lộc, tổ chức Đội vũ trang cướp chính quyền Can Lộc thành công ngày 15-8-1945 sớm nhất trong toàn quốc. Cuối năm này ông làm Trợ bút báo Kháng địch, Chủ bút báo Truyền thanh và giữ chức Chủ tịch Hội Văn hóa cứu quốc Nghệ An. Cuối 1946 ông ra Hà Nội và tham gia Đội tự vệ tại Khu phố Triệu Việt Vương, cầm cự với quân Pháp ở mặt trận Nam Hà Nội trong vòng 2 tháng. Từ tháng 3-1947 ông trở về công tác kinh tế tài chính ở Khu IV, làm Chánh văn phòng Đồn điền Bà Triệu (Phủ Quỳ), Chánh văn phòng Ban Kinh tài Liên khu IV, làm báo Cứu quốc Liên khu IV và Giám đốc Nhà xuất bản Dân chủ mới Liên khu IV. Năm 1952 bị đau, ông chuyển sang đi dạy học ở Trường trung học Nguyễn Hàng Chi (Hà Tĩnh). Trong phong trào Phát động Giảm tô ở Nghệ Tĩnh 1953 ông bị khai trừ Đảng tịch. Từ 1955 đến 1975, ông lần lượt công tác ở Ban nghiên cứu Văn Sử Địa, Viện Sử học, là thành viên Ban Cổ sử và Trưởng phòng Tư liệu Thư viện, khởi đầu việc xây dựng hệ thống thư mục chuyên đề về sử học và cùng các học giả khác hiệu đính nhiều công trình dịch thuật Hán Nôm quan trọng của Viện. Sau 1975, ông từng là Trưởng ban Hán Nôm (tiền thân của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, 1978), rồi Quyền Viện trrưởng Viện nghiên cứu Hán Nôm, cho đến 1981 thì xin chuyển sang làm chuyên viên nghiên cứu của Ban Văn hóa dân gian (tiền thân của Viện Nghiên cứu Văn hóa dân gian). Ông mất ngày 20 tháng 7 năm 1984 tại Hà Nội. Năm 1984, ông được phong học hàm Giáo sư. Ông được truy tặng Huân chương Độc lập hạng Nhì và Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I năm 1996. Cống hiến Cố Giáo sư Nguyễn Đổng Chi đã sưu tầm và viết lại gần 2.000 truyện cổ Việt Nam. Số truyện trên được ông sử dụng để soạn bộ sách Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam gồm 5 tập. Đây cũng là bộ sách nghiên cứu được biên soạn và in xong lâu nhất: 25 năm (1957-1982), rải rác với tổng cộng 5 lần in lẻ. Ông đã phân loại truyện cổ tích thành 3 tiểu loại: 1. Cổ tích thần kỳ; 2. Cổ tích thế sự; 3. Cổ tích lịch sử. Với cuộc đời từng trải, với hơn 50 năm cầm bút, phạm vi chủ yếu của Nguyễn Đổng Chi thật rộng: sáng tác văn học, nghiên cứu văn học viết, nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu Hán - Nôm, ở lĩnh vực nào ông cũng có những đóng góp đột xuất, như công trình Việt Nam cổ văn học sử lần đầu tiên đưa văn học chữ Hán của người Việt vào văn học sử và nghiên cứu văn học sử theo thể loại, loại hình, kiểu nhà văn..., công trình về nông dân khởi nghĩa lý giải uyển chuyển nguyên nhân bùng phát của khởi nghĩa nông dân không đơn thuần do nghèo khổ mà bắt nguồn có ý thức từ tư tưởng chống đối của tầng lớp tiểu trí thức, hay việc phát hiện di chỉ đồ đá cũ ở núi Đọ, Thanh Hóa năm 1960... Nhưng cống hiến nổi bật hơn cả của ông là ở lĩnh vực sưu tầm, nghiên cứu văn học, văn hóa dân gian, được coi là một trong những nhà văn hóa dân gian hàng đầu, nhất là những kiến giải mới mẻ về loại hình truyện cổ tích Việt Nam trong tương quan với cổ tích thế giới. Ông là người đầu tiên xâu chuỗi các motif truyện cổ tích Việt Nam với cổ tích của nhiều nước. Ông cũng đã viết những báo cáo khoa học chứng minh cứ liệu lịch sử về các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đệ trình chính phủ Việt Nam. Giáo sư Nguyễn Đổng Chi còn có công kế tục xây dựng Mộng Thương thư trai do cha ông sáng lập cuối thế kỷ 19, một thư viện gia đình lớn bậc nhất ở Nghệ Tĩnh (cùng với thư viện Cao Xuân Dục ở Diễn Châu), là một trong những "nguồn sữa" nuôi dưỡng nên các nhà văn hóa của gia đình Nguyễn Chi (xem thêm bài Hồng Lĩnh và Lộc Hà, Can Lộc ở phần tham khảo). Ông được Nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 năm 1996. Tác phẩm Mọi Kontum (soạn chung với Nguyễn Kinh Chi, 1937). Tái bản với tên Người Ba-na ở Kon Tum, tại Nhà xuất Bản Tri thức, H.2011. Việt Nam cổ văn học sử (1941) Đào Duy Từ. Giải thưởng Học hội Alexandre de Rhodes. 1943 Hát giặm Nghệ-Tĩnh (1943), viết lại thành 3 tập công bố 1961-1963 Thoái thực ký văn tập I (đồng dịch giả). Nhà xuất bản. Tân Việt, H. 1944 Phạm Hồng Thái, Nhà xuất bản Ngàn Hống, H. 1945 Lước sử các cuộc cách mạng trên thế giới, 3 tập, Nhà xuất bản. Ngàn Hống, H.1946 Nguyễn Trãi, nhà văn học và chính trị thiên tài (1957) Lược thảo về thần thoại Việt Nam (1956) Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam (đồng tác giả, năm quyển, 1958-1960) Vè Nghệ Tĩnh (Chủ biên) 3 tập. Nhà xuất bản. Văn học, H. 1965 Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (5 tập 1957-1982). Bản tái bản lần thứ 8 của Nhà xuất bản Trẻ, H.2015 in thành 2 cuốn khổ 15,5x23 Thời đại Hùng Vương (đồng tác giả, 1973) Góp phần tìm hiểu phong trào nông dân Việt Nam trong lịch sử xã hội phong kiến (1968-1978) Chiến thắng Rạch Gầm-Xoài Mút (1977) Địa chí văn hóa dân gian Nghệ-Tĩnh (1982-1983, in 1995) Phương pháp sưu tầm văn học dân gian ở nông thôn (Biên soạn cùng với Cao Huy Đỉnh và Đặng Nghiêm Vạn, 1966) Thư mục và sách dẫn Tập san Văn Sử Địa và Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, H. 1973 Thư tịch cổ nhiệm vụ mới (Chủ biên, 1977) Một số vấn đề văn bản học Hán Nôm (Chủ biên, 1983) Nghề nông cổ truyền Việt Nam qua thư tịch Hán Nôm (Chủ biên, 1979-1980, in 1985) Ca dao Nghệ Tĩnh (đồng tác giả). Nhà xuất bản. Nghệ Tĩnh, Vinh. 1985 Địa chí văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh (chủ biên). Nhà xuất bản. Nghệ An, Vinh, 1995 Thối thực ký văn (dịch chung với Nguyễn Lợi, 1944) Một số tiểu thuyết, phóng sự trước năm 1954 như: Yêu đời (1935, được giải thưởng thứ hai của báo Bạn trẻ), Túp lều nát (1937), Gặp lại một người bạn nhỏ (viết về những ngày đánh Pháp tại Hà Nội, 1949)...và khoảng hơn 100 bài báo trên các tạp chí Văn Sử Địa, Nghiên cứu Lịch sử, Khảo cổ học, Tạp chí Văn học, Nghiên cứu văn hóa dân gian, Nghiên cứu Hán Nôm.
Nicolas Kim Coppola (sinh ngày 7 tháng 1 năm 1964), được biết đến với nghệ danh Nicolas Cage, là một diễn viên và nhà làm phim người Mỹ. Sinh ra trong gia đình Coppola, Cage là người nhận được nhiều giải thưởng khác nhau, bao gồm Giải thưởng Viện hàn lâm, Giải thưởng của Nghiệp đoàn Diễn viênmàn ảnh và Giải thưởng Quả cầu vàng. Trong những năm đầu sự nghiệp của mình, Cage đã đóng vai chính trong nhiều bộ phim như Valley Girl (1983), Peggy Sue Got Married (1986), raise Arizona (1987), Moonstruck (1987) và Wild at Heart (1990). Trong thời kỳ này, John Willis 'Screen World, Vol. 36 đã liệt kê anh ấy là một trong mười hai Diễn viên mới triển vọng của năm 1984. Với màn trình diễn của mình trong phim Leaving Las Vegas (1995), anh đã giành được giải Oscar cho Nam diễn viên chính xuất sắc nhất . Anh ấy đã nhận được đề cử giải Oscar thứ hai cho màn trình diễn của mình với vai Charlie và Donald Kaufman trong Chuyển thể ( 2002). Sau đó, anh xuất hiện trong nhiều bộ phim chính thống hơn, chẳng hạn như The Rock (1996), Con Air (1997), Face/Off (1997), City of Angels (1998), Windtalkers (2002), Lord of War (2005), The Wicker Man (2006) và Knowing (2009). Anh cũng đạo diễn bộ phim Sonny (2002), bộ phim mà ông đã được đề cử cho Giải đặc biệt lớn tại Liên hoan phim Deauville. Cage sở hữu công ty sản xuất Saturn Films và đã sản xuất các bộ phim như Shadow of the Vampire (2000) và The Life of David Gale (2003). Vào tháng 10 năm 1997, Cage được xếp hạng 40 trong danh sách 100 ngôi sao điện ảnh hàng đầu mọi thời đại của tạp chí Empire, trong khi năm tiếp theo, anh được xếp hạng 37 trong 100 người quyền lực nhất Hollywood của Premiere. Giữa những năm 2010 và 2020, anh đóng vai chính trong Kick-Ass (2010) Joe (2013), Mandy (2018), Spider-Man: Into the Spider-Verse (2018) và Pig (2021). Sự tham gia của anh ấy trong nhiều thể loại phim khác nhau trong thời gian này đã làm tăng mức độ nổi tiếng của anh ấy và thu hút được sự hâm mộ của anh ấy. Cuộc đời và sự nghiệp Nicolas Cage có tên khai sinh là Nicholas Kim Coppola, sinh ra ở Long Beach, California, cha là August Coppola, một nhà văn và giáo sư người Mỹ gốc Ý, còn mẹ là Joy Vogelsang, một vũ nữ gốc Đức. Vào năm 1976, bố mẹ Cage ly dị và anh chuyển tới Beverly Hills với cha. Anh còn là cháu trai của Francis Ford Coppola và Talia Shire, do đó, anh là anh em họ với đạo diễn Sofia Coppola và Roman Coppola, cũng như với diễn viên Jason Schwartzmann. Nicholas đã thích nghề diễn từ khi còn nhỏ tuổi, và anh đã rời trường trung học từ rất sớm, nhận chứng chỉ GED (chứng chỉ hoàn tất trung học tại Mỹ) và đi theo sự nghiệp của mình. Nicholas theo học khoa kịch nghệ tại trường Trung học Beverly Hills nhưng đã bỏ dở năm 17 tuổi. Cage đã sớm đổi tên để con đường sự nghiệp của mình không bị ảnh hưởng bởi danh tiếng của người bác. Anh đã chọn cái tên Cage theo tên một người anh hùng Luke Cage trong sách hoạt họa của nhà xuất bản Marvel Comics và tên nhà soạn nhạc tiên phong John Cage. Anh đã đóng một vai nhỏ trong phim Fast Times at Ridgemont High (1982) (dưới cái tên là Coppola). Vai diễn tiếp theo vào năm 1983 trong bộ phim Rumble Fish và Valley Girl là các vai diễn xuất gây ấn tượng đầu tiên của anh. Anh đã giành được giải Oscar cho diễn viên xuất sắc nhất cho vai diễn của anh trong phim Leaving Las Vegas (1995). Anh đã nổi danh với những vai diễn khác nhau trong phim hành động có những nhân vật mang nhiều kịch tính, cũng như những vai diễn trong phim dark humor. Gần đây, anh xuất hiện trong phim Lord of War (Chúa tể chiến tranh) và phim The Weather Man. Anh có hai con, có với Kristina Fulton con trai đầu Weston Coppola Cage vào năm 1990. Vào ngày 8 tháng 4 năm 1995 anh cưới diễn viên Patricia Arquette, và đã ly dị sau đó vào ngày 18 tháng 5 năm 2001. Vào ngày 10 tháng 8 năm 2002 anh cưới Lisa Marie Presley và nạp đơn xin ly dị gần 4 tháng sau. Họ đã chính thức ly dị vào ngày 16 tháng 5 năm 2004. Không lâu sau đó anh đã làm lễ thành hôn với cựu tiếp viên Alice Kim vào ngày 30 tháng 7 năm 2004, ở Bắc California và họ có đứa con chung tên là Kal-el Coppola Cage (tên đặt theo nhân vật Superman của nhà xuất bản DC Comics). Ngoài ra, anh còn tham gia lồng tiếng trong phim hoạt hình The Ant Bully của hãng Warner Bros. Nicolas Cage cũng sẽ trở lại với vai Ben Gates trong phần 2 của phim National Treasure (Kho báu quốc gia). Anh đã đứng đầu "Danh sách mười gương mặt nam diễn viên nổi tiếng nhất đương thời" do tạp chí GQ tổ chức bình chọn năm 2005. Danh sách phim Điện ảnh Truyền hình Giải thưởng và đề cử Vì những đóng góp của mình cho ngành công nghiệp điện ảnh, Cage đã được đưa vào Đại lộ Danh vọng Hollywood vào năm 1998 với một ngôi sao điện ảnh đặt tại 7021 Đại lộ Hollywood. Vào tháng 5 năm 2001, Cage được Đại học Bang California, Fullerton trao bằng Tiến sĩ Danh dự về Mỹ thuật. Anh phát biểu tại lễ khởi công. Cage cũng đã hai lần được đề cử cho Giải thưởng Viện hàn lâm. Anh đã giành được giải Oscar cho Nam diễn viên chính xuất sắc nhất với vai diễn trong bộ phim Leaving Las Vegas vào năm 1995. Anh được đề cử giải thứ hai cho vai diễn trong bộ phim Adaptation vào năm 2002. Anh cũng đã giành được giải Quả cầu vàng, giải thưởng của Nghiệp đoàn Diễn viên màn ảnh và nhiều giải thưởng khác cho phim Leaving Las Vegas. Anh đã nhận được đề cử của Quả cầu vàng, Nghiệp doàn Diễn viên Màn ảnh và giải BAFTA cho các bộ phim Adaptation, Honeymoon in Vegas và Moonstruck. Anh ấy cũng đã chiến thắng và được đề cử cho nhiều giải thưởng khác.
Bánh cáy là đặc sản của làng Nguyễn xã Nguyên Xá huyện Đông Hưng tỉnh Thái Bình. Bánh cáy có nhiều màu sắc. Người ta chọn loại nếp ngon (nếp cái hoa vàng). Người ta đem trộn gạo nếp đã ngâm cùng gấc để tạo màu đỏ và với quả dành dành để tạo màu vàng. Sau khi đồ xôi đem cả nồi giã thành bột dẻo như bột bánh dày, cho ra khay đợi đến khi bột khô thái thành con cáy trong bánh cáy. Cả nồi mạch nha được nhào trộn với những nguyên vật liệu trên cùng những hạt bỏng trắng tinh, đun vừa lửa đến độ dẻo cần thiết, bánh mềm, đem lèn chặt trong những chiếc khuôn bằng gỗ hình chữ nhật được lót thêm vừng, lạc, mứt bí. Khi bánh nguội, dóc khuôn lấy ra cắt thành những thanh nhỏ, đóng hộp. Trên ban thờ ngày xuân, những hộp bánh cáy được xếp bên những bánh chưng, bánh dày, mâm ngũ quả…
Trong toán học, một biến đổi tích phân là biến đổi T có dạng sau: Đầu vào của biến đổi là một hàm f, và đầu ra là một hàm Tf khác. Có nhiều loại biến đổi tích phân. Mỗi loại tương ứng với một lựa chọn hàm K khác nhau, gọi là nhân (tiếng Anh: kernel hay nucleus) của phép biến đổi. Một số nhân có nghịch đảo tương ứng , có nghĩa là tồn tại phép biến đổi ngược: Lý do Lý do để có phép biến đổi tích phân là như sau. Có nhiều lớp bài toán mà khó có thể giải quyết - hay ít nhất là việc biểu diễn nó dưới góc nhìn đại số ban đầu. Một biến đổi tích phân sẽ ánh xạ một hàm từ "miền" gốc (ví dụ: hàm mà thời gian là một biến độc lập thì nó thuộc miền thời gian) sang một miền khác (miền đích). Việc giải bài toán trên miền đích sẽ thuận lợi hơn so với giải trên miền gốc. Sau đó, kết quả sẽ được ánh xạ trở lại miền gốc ban đầu. Biến đổi tích phân dựa trên khái niệm spectral factorization trên hệ cơ sở trực giao chuẩn. Ý nghĩa của nó là các hàm phức tạp tùy ý đều có thể được biểu diễn dưới dạng tổng của các hàm đơn giản hơn. Ví dụ, dùng chuỗi Fourier, các hàm theo thời gian (ví dụ: điện áp của một thiết bị điện tử) có thể được biểu diễn dưới dạng tổng của các hàm sin hay cos, mỗi hàm sẽ được nhân tỉ lệ (nhân với một hệ số là hằng số) và dịch (lên hay xuống theo thời gian). Các hàm sin và cos trong chuỗi Fourier là một ví dụ của hệ cơ sở trực giao chuẩn. Trực giao (từ ortho- trong orthonormal) có nghĩa là mỗi hàm cơ sở là trực giao với nhau; tức là tích của hai hàm khác nhau —lấy tích phân trên một chu kì—là bằng 0. Tương tự, từ "chuẩn" (-normal trong orthonormal) nghĩa là lấy một hàm cơ sơ, nhân với chính nó và lấy tích phân trên một chu kì, sẽ cho kết quả là 1. Một biến đổi tích phân là phép thay đổi một biểu diễn trên hệ cơ sở trực giao chuẩn này sang hệ trực giao chuẩn khác. Mỗi điểm trong biểu diễn của hàm được biến đổi trong miền đích tương ứng với phân bố của hàm cơ sở trực giao chuẩn cho trước được khai triển. Quá trình khai triển một hàm từ biểu diễn chuẩn của nó thành tổng của các hàm cơ sở trực giao chuẩn, có thể được nhân tỉ lệ và dịch, gọi là quá trình "spectral factorization." Xem xét một cách triệt để, đồ thị trong trục Descarte chuẩn của một hàm có thể xem là một khai triển trực giao chuẩn. Thực ra, mỗi điểm phản ánh đóng góp của một hàm cơ sở trực giao chuẩn cho tổng đó. Một cách trực quan, điểm (3,5) trên đồ thị chính là hàm cơ sở trực giao chuẩn δ(x-3), với "δ" là hàm delta Kronecker, được nhân tỉ lệ bởi một hệ số là 5 và đóng góp cho tổng dưới dạng này. Với ý nghĩa đó, đồ thị của một hàm thực liên tục trong mặt phẳng tương ứng với một tập vô hạn các hàm cơ sở; nếu số hàm cơ sở là hữu hạn, đường cong sẽ bao gồm một tập rời rạc các điểm thay vì là một đường bao liên tục. Lấy ví dụ của biến đổi tích phân là biến đổi Laplace. Đây là kĩ thuật ánh xạ các phương trình vi phân hay phương trình tích-vi phân (integro-differential) trong miền thời gian thành các phương trình đa thức trong miền "tần số phức". (Tần số phức là giống với tần số vật lý thực, nhưng tổng quát hơn. Đặc biệt, thành phần ảo của tần số phức tương ứng với khái niệm thông thường của tần số, viz., là tốc độ mà tại đó đường sin lặp lại chu kì, trong khi thành phần thực của tần số phức tương ứng với độ "giảm dần" (damping), hay là nhân bởi nghịch đảo hàm mũ của đường sin. Biểu thức toán exp([−s+jω]t) đánh giá exp(−st)exp(jωt), với exp(jωt) là đường sin và exp(−st) là hệ số giảm (damping factor).) Biến đổi Laplace có ứng dụng rộng rãi trong vật lý, đặc biệt trong kĩ thuật điện, nơi mà các phương trình đặc trưng mô tả hoạt động của một mạch điện tử trong miền tần số phức, tương ứng là sự kết hợp tuyến tính của các hàm sin được biến đổi tỉ lệ, dịch theo thời gian. Các biến đổi tích phân khác có ứng dụng đặc biệt trong các kiến thức toán học và khoa học khác. Bảng các loại biến đổi <table border="1" cellspacing=0 cellpadding="5"> Bảng các loại biến đổi tích phân Biến đổi Biểu tượng t1 t2 u1 u2 Biến đổi Fourier Biến đổi Mellin Biến đổi Laplace hai phía Biến đổi Laplace Biến đổi Hankel </tr> Biến đổi Abel Biến đổi Hilbert Biến đổi đồng nhất </table> Trong giới hạn của tích phân cho biến đổi ngược, c là một hằng mà phụ thuộc vào bản chất của hàm biến đổi. Ví dụ, với biến đổi Laplace một và hai phía, c phải lớn hơn phần thực lớn nhất của phần giá trị 0 của các hàm biến đổi.
Thép là hợp kim với thành phần chính là sắt (Fe), với carbon (C), từ 0,02% đến 2,14% theo trọng lượng, và một số nguyên tố hóa học khác. Chúng làm tăng độ cứng, hạn chế sự di chuyển của nguyên tử sắt trong cấu trúc tinh thể dưới tác động của nhiều nguyên nhân khác nhau. Số lượng khác nhau của các nguyên tố và tỷ lệ của chúng trong thép nhằm mục đích kiểm soát các mục tiêu chất lượng như độ cứng, độ đàn hồi, tính dễ uốn, và sức bền kéo đứt. Thép với tỷ lệ carbon cao có thể tăng cường độ cứng và cường lực kéo đứt so với sắt, nhưng lại giòn và dễ gãy hơn. Tỷ lệ hòa tan tối đa của carbon trong sắt là 2,14% theo trọng lượng (ở trạng thái Austenit) xảy ra ở 1.147 độ C; nếu lượng carbon cao hơn hay nhiệt độ hòa tan thấp hơn trong quá trình sản xuất, sản phẩm sẽ là xementit có cường lực kém hơn. Pha trộn với carbon cao hơn 2,06% sẽ được gang. Thép cũng được phân biệt với sắt rèn, vì sắt rèn có rất ít hay không có carbon, thường là ít hơn 0,035%. Ngày nay người ta gọi ngành công nghiệp thép (không gọi là ngành công nghiệp sắt và thép), nhưng trong lịch sử, đó là 2 sản phẩm khác nhau. Ngày nay có một vài loại thép mà trong đó carbon được thay thế bằng các hỗn hợp vật liệu khác, và carbon nếu có, chỉ là không được ưa chuộng. Trước thời kì Phục Hưng người ta đã chế tạo thép với nhiều phương pháp kém hiệu quả, nhưng đến thế kỉ 17 sau tìm ra các phương pháp có hiệu quả hơn thì việc sử dụng thép trở nên phổ biến hơn. Với việc phát minh ra quy trình Bessemer vào giữa thế kỉ 19, thép đã trở thành một loại hàng hoá được sản xuất hàng loạt ít tốn kém. Trong quá trình sản xuất càng tinh luyện tốt hơn như phương pháp thổi oxy, thì giá thành sản xuất càng thấp đồng thời tăng chất lượng của kim loại. Ngày nay thép là một trong những vật liệu phổ biến nhất trên thế giới và là thành phần chính trong xây dựng, đồ dùng, công nghiệp cơ khí. Thông thường thép được phân thành nhiều loại tùy theo thành phần hóa học, mục đích sử dụng và cấp bậc và được các tổ chức đánh giá xác nhận theo chuẩn riêng. Đặc tính Cũng như hầu hết các kim loại, về cơ bản, sắt không tồn tại ở vỏ Trái Đất dưới dạng nguyên tố, nó chỉ tồn tại khi kết hợp với oxy hoặc lưu huỳnh. Sắt ở dạng khoáng vật bao gồm Fe2O3-một dạng của oxit sắt có trong khoáng vật hematit, và FeS2 - quặng sunfit sắt. Sắt được lấy từ quặng bằng cách khử oxy hoặc kết hợp sắt với một nguyên tố hoá học như carbon. Quá trình này được gọi là luyện kim, được áp dụng lần đầu tiên cho kim loại với điểm nóng chảy thấp hơn. Đồng nóng chảy ở nhiệt độ hơn 1.080 °C, trong khi thiếc nóng chảy ở 250 °C. Pha trộn với carbon trong sắt cao hơn 2,14% sẽ được gang, nóng chảy ở 1.392 °C. Tất cả nhiệt độ này có thể đạt được với các phương pháp cũ đã được sử dụng ít nhất 6.000 năm trước. Khi tỉ lệ oxy hóa tăng nhanh khoảng 800 °C thì việc luyện kim phải diễn ra trong môi trường có oxy thấp. Trong quá trình luyện thép việc trộn lẫn carbon và sắt có thể hình thành nên rất nhiều cấu trúc khác nhau với những đặc tính khác nhau. Hiểu được điều này là rất quan trọng để luyện thép có chất lượng. Ở nhiệt độ bình thường, dạng ổn định nhất của sắt là sắt ferrit có cấu trúc lập phương tâm khối (BCC) hay sắt, một chất liệu kim loại mềm, có thể phân huỷ một lượng nhỏ carbon (không quá 0,02% ở nhiệt độ 911 °C). Nếu trên 911 °C thì ferrit sẽ chuyển từ tâm khối (BCC) sang tâm mặt (FCC), được gọi là austenit, loại này cũng là một chất liệu kim loại mềm nhưng nó có thể phân huỷ nhiều carbon hơn (2,14% carbon nhiệt độ 1.147 °C). Một cách để loại bỏ carbon ra khỏi austenit là loại xementit ra khỏi hỗn hợp đó, đồng thời để sắt nguyên chất ở dạng ferit và tạo ra hỗn hợp xementit-ferrit. Xementit là một hợp chất hoá học có công thức là Fe3C. Lịch sử Cổ đại Thép đã được biết đến từ thời cổ đại và được sản xuất thông qua quá trình luyện kim bloomeries và crucibles. Sản xuất thép sớm nhất được ghi nhận từ những mảnh vỡ đồ sắt được khai quật tại một hỏa táng ở Anatolia (Kaman-Kalehöyük) và đã gần 4.000 năm tuổi, có từ năm 1800 TCN. Horace nhận diện các vũ khí thép như falcata ở bán đảo Iberia, trong khi thép Noric được sử dụng bởi quân đội La Mã cổ đại. Danh tiếng của sắt Seric của Ấn Độ (thép wootz) đã tăng lên đáng kể trong phạm vi toàn cầu. Các khu vực sản xuất kim loại ở Sri Lanka đã sử dụng các lò gió được thổi bởi gió mùa, có khả năng sản xuất thép cacbon cao. Việc sản xuất thép Wootz quy mô lớn tại Ấn Độ bằng cách sử dụng nồi luyện đã diễn ra vào thế kỷ thứ sáu TCN, là bước tiền pionee của quá trình sản xuất thép và luyện kim hiện đại. Những người Trung Quốc trong thời kỳ Chiến quốc (403–221 TCN) đã sử dụng thép được làm cứng bằng phương pháp "nhanh lành" (quench-hardened). Trong thời kỳ Hán (202 TCN–220 CN), người Trung Quốc đã tạo ra thép bằng cách nấu chảy sắt rèn với sắt đúc, từ đó tạo ra một loại thép có chứa carbon vào thế kỷ thứ nhất sau CN. Có bằng chứng cho thấy thép cacbon đã được sản xuất ở phía Tây Tanzania bởi tổ tiên của người dân Haya từ cách đây 2.000 năm thông qua một quá trình phức tạp của "tiền nhiệt" cho phép nhiệt độ bên trong lò đạt đến 1300 đến 1400 °C. Wootz và Damascus Chứng cứ về việc sản xuất thép carbon cao đầu tiên tại Ấn Độ được tìm thấy tại Kodumanal ở Tamil Nadu, vùng Golconda ở Andhra Pradesh và Karnataka, cũng như các vùng Samanalawewa, Dehigaha Alakanda, của Sri Lanka. Công nghệ này sau đó được biết đến với tên gọi là Wootz steel, được sản xuất ở miền Nam Ấn Độ từ thế kỷ thứ sáu TCN và xuất khẩu ra toàn cầu. Công nghệ thép đã tồn tại trước năm 326 TCN tại khu vực này và được đề cập trong văn học của người Sangam Tamil, người Ả Rập và tiếng Latinh như loại thép tốt nhất trên thế giới được xuất khẩu đến La Mã, Ai Cập, Trung Quốc và thế giới Ả Rập vào thời điểm đó - được gọi là Seric Iron. Một hội thương mại Tamil ở Tissamaharama, ở Đông Nam Sri Lanka, từ thế kỷ thứ ba trước CN, đã đưa đến đảo này một số hiện vật sắt và thép cổ nhất và quy trình sản xuất từ thời kỳ cổ điển. Người Trung Quốc và người địa phương ở Anuradhapura, Sri Lanka, cũng đã áp dụng phương pháp sản xuất thép Wootz từ người Tamil của triều đại Chera, miền Nam Ấn Độ từ thế kỷ thứ năm sau CN. Tại Sri Lanka, phương pháp sản xuất thép sớm này sử dụng lò gió độc đáo, được thổi bởi gió mùa, có khả năng sản xuất thép cacbon cao. Vì công nghệ này được nhận từ người Tamil của miền Nam Ấn Độ, nên nguồn gốc của công nghệ thép ở Ấn Độ có thể được ước tính thận trọng vào khoảng năm 400–500 TCN. Quá trình sản xuất thép Wootz, hay còn được gọi là thép Damascus, nổi tiếng về độ bền và khả năng giữ lưỡi sắc bén, có thể đã được người Ả Rập lấy từ Ba Tư, sau đó lại được Ba Tư lấy từ Ấn Độ. Thép Wootz ban đầu được tạo ra từ nhiều nguyên liệu khác nhau, bao gồm các nguyên tố vi lượng, rõ ràng chủ yếu từ các tác phẩm của Zosimos of Panopolis. Năm 327 TCN, Alexander the Great đã nhận được phần thưởng từ vua Porus, không phải là vàng hay bạc mà là 30 pao thép. Một nghiên cứu gần đây đã suy đoán rằng carbon nanotubes đã được bao gồm trong cấu trúc của nó, điều này có thể giải thích một số đặc tính huyền thoại của nó, tuy nhiên, với công nghệ của thời đại đó, những đặc tính này được tạo ra từ sự tình cờ hơn là do thiết kế. Công nghệ đã sử dụng gió tự nhiên, nơi đất chứa sắt được đốt nóng bằng cách sử dụng gỗ. Người Sinhalese cổ đại đã xử lý được một tấn thép từ mỗi 2 tấn đất, điều đáng kinh ngạc vào thời điểm đó. Một lò như vậy đã được tìm thấy tại Samanalawewa và các nhà khảo cổ đã có thể sản xuất thép như người cổ đại đã làm. Thép luyện chảo, được tạo ra bằng cách chậm chứng từ và làm lạnh sắt tinh khiết và carbon (thường trong dạng than củi) trong một chảo luyện, đã được sản xuất ở Merv từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 10 sau CN. Vào thế kỷ 11, có bằng chứng về việc sản xuất thép ở thời đại Sông của Trung Quốc bằng hai phương pháp: một phương pháp "berganesque" tạo ra thép kém chất lượng và không đồng nhất, và một phương pháp tiền đề cho quy trình Bessemer hiện đại, sử dụng việc tách carbon một phần thông qua việc rèn lại nhiều lần dưới luồng gió lạnh. Công nghiệp Ngành công nghiệp thép thường được coi là một chỉ số của tiến bộ kinh tế, bởi vì thép đóng vai trò quan trọng trong hạ tầng và tổng thể của phát triển kinh tế. Năm 1980, có hơn 500.000 công nhân thép ở Hoa Kỳ. Đến năm 2000, số lượng công nhân thép đã giảm xuống còn 224.000. Cơn bùng nổ kinh tế ở Trung Quốc và Ấn Độ đã gây ra một sự tăng vọt đáng kể về nhu cầu thép. Từ năm 2000 đến 2005, nhu cầu thép toàn cầu tăng 6%. Kể từ năm 2000, một số công ty thép Ấn Độ và Trung Quốc đã nổi lên, như Tata Steel (mua Corus Group năm 2007), Baosteel Group và Shagang Group., tuy nhiên, ArcelorMittal là nhà sản xuất thép lớn nhất thế giới. Năm 2005, British Geological Survey cho biết Trung Quốc là nhà sản xuất thép hàng đầu với khoảng một phần ba thị phần thế giới; tiếp theo lần lượt là Nhật Bản, Nga và Mỹ. Sự có sẵn năng lượng sản xuất thép lớn cũng làm tăng lượng khí thải carbon dioxide liên quan đến tuyến sản xuất chính. Năm 2021, ước tính khoảng 7% lượng khí thải khí nhà kính toàn cầu phát sinh từ ngành công nghiệp thép. Dự kiến giảm khí thải này sẽ đến từ việc chuyển đổi tuyến sản xuất chính bằng cách sử dụng coks, tái chế thép nhiều hơn và áp dụng công nghệ hứng khí thải carbon hoặc công nghệ sử dụng khí thải carbon. Năm 2008, thép bắt đầu được giao dịch như một hàng hóa trên Sàn giao dịch Kim loại London. Vào cuối năm 2008, ngành công nghiệp thép đối mặt với một sự suy thoái mạnh mẽ dẫn đến nhiều cắt giảm. Hiện đại Từ thế kỷ 17 trở đi, bước đầu tiên trong sản xuất thép tại châu Âu đã là quá trình luyện quặng sắt thành gang trong một lò luyện. Ban đầu sử dụng than củi, các phương pháp hiện đại sử dụng cốc, đã được chứng minh hiệu quả hơn. Quy trình bắt đầu từ thanh sắt Trong những quy trình này, gang được tinh lọc (tinh thể) trong một lò rèn để sản xuất thanh sắt, sau đó được sử dụng trong luyện thép. Quy trình sản xuất thép bằng quy trình cementation được miêu tả trong một bài luận xuất bản tại Prague vào năm 1574 và được sử dụng tại Nuremberg từ năm 1601. Một quy trình tương tự cho việc làm cứng bề mặt cho áo giáp và dụng cụ được miêu tả trong một cuốn sách xuất bản tại Naples năm 1589. Quy trình này đã được giới thiệu vào nước Anh vào khoảng năm 1614 và được sử dụng để sản xuất thép như vậy bởi ông Sir Basil Brooke tại Coalbrookdale trong thập kỷ 1610. Nguyên liệu cho quy trình này là thanh sắt. Trong thế kỷ 17, đã nhận ra rằng thép tốt nhất được sản xuất từ gang miền bắc thành phố Stockholm, Thụy Điển. Đây vẫn là nguồn nguyên liệu thường dùng vào thế kỷ 19, gần như trong suốt thời gian sử dụng quy trình này. Thép luyện giếng chảy là thép đã được chảy trong một ấm đun chứ không phải là được rèn, kết quả là nó đồng nhất hơn. Hầu hết các lò trước đây không đạt được nhiệt độ cao đủ để chảy thép. Ngành công nghiệp thép luyện giếng chảy hiện đại đầu tiên xuất phát từ phát minh của Benjamin Huntsman vào những năm 1740. Thép vảy (được làm như đã đề cập ở trên) được chảy trong một ấm đun hoặc trong một lò, và đổ (thường) thành thanh. Các quy trình bắt đầu từ gang Thời kỳ hiện đại trong công nghệ luyện thép bắt đầu với việc giới thiệu quy trình của Henry Bessemer vào năm 1855, nguyên liệu chính cho quy trình này là gang. Phương pháp này cho phép sản xuất thép số lượng lớn một cách rẻ tiền, vì vậy thép nhẹ (mild steel) đã được sử dụng thay thế cho gang rèn trong hầu hết các ứng dụng. Quy trình Gilchrist-Thomas (hoặc quy trình Bessemer kiểu cơ bản) là một cải tiến của quy trình Bessemer, trong đó lót vật liệu kiềm vào lò để loại bỏ photpho. Một quy trình luyện thép khác vào thế kỷ 19 là quy trình Siemens-Martin, bổ sung cho quy trình Bessemer. Quy trình này bao gồm luyện chung gang rèn (hoặc phế liệu thép) với gang. Các phương pháp sản xuất thép này dần lỗi thời sau khi quy trình luyện thép bằng oxy cơ bản Linz-Donawitz (BOS) được phát triển vào năm 1952, và các phương pháp luyện thép bằng oxy khác. Quy trình luyện thép bằng oxy cơ bản vượt trội hơn các phương pháp luyện thép trước đó bởi vì oxy được bơm vào lò giới hạn tạp chất, chủ yếu là nitơ, trước đây đã vào từ không khí sử dụng, và do lượng thép từ quy trình BOS được sản xuất trong một phần mười hai thời gian so với quy trình lò mở. Ngày nay, lò cực quang điện (EAF) là một phương pháp phổ biến để tái chế phế liệu kim loại thành thép mới. Chúng cũng có thể được sử dụng để chuyển đổi gang thành thép, nhưng chúng tiêu thụ nhiều năng lượng điện (khoảng 440 kWh cho mỗi tấn), do đó thường chỉ kinh tế khi có nguồn cung cấp điện rẻ và dồi dào. Đương đại Carbon Thép hiện đại được chế tạo với các kết hợp khác nhau của các hợp kim để đáp ứng nhiều mục đích khác nhau. Thép carbon, bao gồm chỉ sắt và cacbon, chiếm 90% sản lượng thép. Thép hợp kim thấp được hợp kim với các nguyên tố khác, thường là molypden, mangan, crôm hoặc niken, với tỉ lệ lên đến 10% theo trọng lượng để cải thiện khả năng làm cứng của các phần dày.Thép hợp kim cao cường độ thấp có các phần thêm nhỏ (thường là < 2% theo trọng lượng) của các nguyên tố khác, thường là 1.5% mangan, để cung cấp sức mạnh bổ sung với mức giá tương đối hợp lý. Những quy định về tiêu thụ nhiên liệu trung bình của doanh nghiệp (CAFE) gần đây đã tạo ra một loại thép mới được gọi là Thép Cường Độ Cao Tiên Tiến (AHSS). Chất liệu này vừa mạnh mẽ vừa dẻo dai, giúp cấu trúc xe ô tô có thể duy trì mức độ an toàn hiện tại trong khi sử dụng ít vật liệu hơn. Có một số loại thép AHSS hiện có trên thị trường, chẳng hạn như thép đôi giai đoạn, được xử lý nhiệt để chứa cùng lúc cấu trúc vi kiến trực và vi kiến mạnh để tạo ra một loại thép có độ bền cao và có thể định hình. Thép có khả năng biến đổi từ nhựa kỹ thuật gọi là thép Transformation Induced Plasticity (TRIP) dựa vào quá trình hợp kim đặc biệt và xử lý nhiệt để ổn định lượng aoxtit tại nhiệt độ phòng thích hợp trong thép thấp hợp kim ferritic thông thường không có aoxtit. Bằng cách áp dụng biến dạng, aoxtit chuyển từ vi kiến thành vi kim mà không cần thêm nhiệt. Thép Twinning Induced Plasticity (TWIP) sử dụng loại biến dạng cụ thể để tăng cường hiệu quả của quá trình cứng viện trên hợp kim. Hợp kim Thép không gỉ chứa ít nhất 11% crôm, thường được kết hợp với niken, để chống lại gỉ. Một số thép không gỉ, như thép không gỉ ferritic, có tính từ, trong khi những loại khác, như thép không gỉ austenitic, không từ. Thép chống gỉ được viết tắt là CRES. Thép hợp kim là thép carbon đơn giản mà đã thêm vào các lượng nhỏ các nguyên tố hợp kim như crôm và vanadi để cải thiện chất thép. Một số loại thép hiện đại hơn bao gồm các loại thép công cụ, chứa nhiều lượng lớn volfram và coban hoặc các nguyên tố khác để tối đa hóa quá trình làm cứng dung dịch. Điều này cũng cho phép sử dụng cứng viện kết tủa và nâng cao khả năng chịu nhiệt của hợp kim. Thép công cụ thường được sử dụng trong các cưa, khoan và các thiết bị khác cần lưỡi cắt sắc bén và bền lâu. Các hợp kim đặc thù khác bao gồm các loại thép chống thời tiết như Cor-ten, có khả năng chịu được thời tiết và có thể được sử dụng không sơn. Thép maraging được hợp kim với niken và các nguyên tố khác, nhưng khác với hầu hết các loại thép, nó chứa rất ít cacbon (0,01%). Điều này tạo ra một loại thép rất chắc chắn nhưng vẫn có khả năng uốn dẻo. Thép Eglin sử dụng sự kết hợp của hơn mười hai nguyên tố khác nhau ở các tỉ lệ khác nhau để tạo ra một loại thép giá rẻ tương đối dùng trong vũ khí đập ổ nơi bịt mở. Thép Hadfield (theo tên của Sir Robert Hadfield) hoặc thép mangan chứa 12-14% mangan, khi bị mài mòn cứng hóa để tạo ra một lớp da cứng rất chống mài mòn. Ví dụ bao gồm bánh xe xe tăng, cạnh lưỡi cưa, và lưỡi cắt trên hàm cuộc sống. Tiêu chuẩn Hầu hết các hợp kim thép phổ biến hơn được phân loại thành nhiều loại theo các tổ chức tiêu chuẩn. Ví dụ, Hiệp hội Kỹ sư Ô tô có một loạt các tiêu chuẩn xác định nhiều loại thép. Hội đồng Tiêu chuẩn và Vật liệu Mỹ có một bộ tiêu chuẩn riêng, xác định các hợp kim như A36 steel, loại thép kết cấu thông dụng nhất tại Hoa Kỳ. JIS cũng định nghĩa một loạt các loại thép đang được sử dụng rộng rãi ở Nhật Bản cũng như ở các nước đang phát triển. Các tính chất của vật liệu Xuất xứ và sản xuất Sắt thường được tìm thấy trong vỏ Trái đất dưới dạng khoáng sản, thường là oxit sắt, chẳng hạn như nam châm đất hoặc huyết tím đất. Sắt được trích xuất từ quặng sắt bằng cách loại bỏ oxy thông qua việc kết hợp với một chất đối tác hóa học ưu tiên như cacbon, sau đó bị mất vào không khí dưới dạng khí carbonic. Quá trình này, được biết đến là nấu luyện, được áp dụng lần đầu tiên cho các kim loại có nhiệt độ nấu chảy thấp hơn, chẳng hạn như thiếc, nó nấu chảy ở khoảng , và đồng, nó nấu chảy ở khoảng , và hợp kim của chúng, đồng thau, có điểm nấu chảy thấp hơn . So với đó, gang nấu chảy ở khoảng . Trong thời kỳ cổ xưa, một lượng nhỏ sắt đã được nấu luyện trong trạng thái rắn bằng cách đốt nó trong lửa than hoạt tính và sau đó "hàn" những cụm lại với nhau bằng một cái búa và trong quá trình đó ép ra các chất không mong muốn. Với sự cẩn thận, lượng cacbon có thể được kiểm soát bằng cách di chuyển nó trong lửa. Không giống với đồng và thiếc, sắt lỏng hoặc rắn hòa tan cacbon khá dễ dàng. Tất cả các nhiệt độ này có thể đạt được với các phương pháp cổ xưa được sử dụng từ thời kỷ Đồ đồng. Kể từ tốc độ oxi hóa của sắt tăng lên nhanh chóng vượt quá , việc nấu luyện phải diễn ra trong môi trường ít oxi. Nấu luyện, bằng cách sử dụng cacbon để giảm các oxit sắt, dẫn đến hợp kim (gang) giữ lại quá nhiều cacbon để được gọi là thép. Lượng cacbon dư thừa và các tạp chất khác được loại bỏ trong bước tiếp theo. Thường có thêm các vật liệu khác vào hỗn hợp sắt/cacbon để tạo ra thép với các tính chất mong muốn. Niken và mangan trong thép gia tăng sức căng và làm cho dạng austenite của hỗn hợp sắt-cacbon ổn định hơn, chrom gia tăng độ cứng và nhiệt độ nấu chảy, và vanadi cũng gia tăng độ cứng trong khi làm cho nó ít bị thiếu mỏi kim loại. Để ngăn chặn sự ăn mòn, ít nhất 11% chromium có thể được thêm vào thép để tạo thành một lớp ôxít cứng trên bề mặt kim loại; điều này được gọi là thép không gỉ. Wolfram làm chậm quá trình hình thành cementite, giữ carbon trong ma trận sắt và cho phép martensit hình thành ưu tiên ở tốc độ làm nguội chậm hơn, dẫn đến thép tốc độ cao. Việc thêm chì và lưu huỳnh làm giảm kích thước hạt tạo nên thép dễ cắt gọt, nhưng cũng làm cho thép dễ vỡ hơn và dễ bị ăn mòn. Tuy nhiên, các hợp kim như vậy thường được sử dụng cho các bộ phận như ốc vít, bulong và ốc vít trong các ứng dụng không yêu cầu độ cứng và kháng ăn mòn quan trọng. Dù vậy, các yếu tố của nhóm p-block như lưu huỳnh, nitơ, phốt pho, và chì thường được coi là tạp chất làm cho thép dễ vỡ hơn và do đó sẽ được loại bỏ khỏi thép trong quá trình nấu chảy. Tính chất Mật độ của thép thay đổi dựa trên thành phần hợp kim nhưng thường dao động trong khoảng , hoặc . Ngay cả trong một khoảng hẹp các nồng độ hỗn hợp của cacbon và sắt tạo thành thép, một số cấu trúc kỹ thuật kim loại khác nhau, có tính chất rất khác nhau, có thể hình thành. Hiểu rõ các tính chất này là thiết yếu để sản xuất thép chất lượng. Ở nhiệt độ phòng, dạng ổn định nhất của sắt tinh khiết là cấu trúc khối trung tâm (BCC) gọi là sắt alpha hoặc α-sắt. Nó là một kim loại khá mềm chỉ có thể hòa tan một nồng độ nhỏ của cacbon, không quá 0,005% ở và 0,021 wt% ở . Sự chứa chất cacbon trong sắt alpha được gọi là phierrite. Ở 910 °C, sắt tinh khiết chuyển thành cấu trúc khối trung tâm lập phương (FCC), gọi là sắt gamma hoặc γ-sắt. Sự chứa chất cacbon trong sắt gamma được gọi là giải tenit. Cấu trúc FCC mở rộng hơn của giải tenit có thể hòa tan nhiều cacbon hơn, lên đến 2,1%, Nguồn có sự khác biệt về giá trị này nên nó đã được làm tròn thành 2,1%, tuy nhiên giá trị chính xác này khá học thuật vì thép không hợp kim đơn giản hiếm khi được sản xuất với mức carbon như vậy. Xem: —2,08%. —2,11%. —2,14%. (gấp 38 lần của ferrite) cacbon ở nhiệt độ , đó là mức nồng độ cacbon cao nhất của thép, vượt quá đó là gang xám. Khi cacbon di chuyển ra khỏi dung dịch với sắt, nó tạo thành một vật liệu rất cứng, nhưng giòn gọi là xi măng (Fe3C). Khi thép có chứa chính xác 0.8% carbon (được gọi là thép eutectoid), khi được làm lạnh, pha austenitic (FCC) của hỗn hợp cố gắng chuyển về pha ferrite (BCC). Carbon không còn vừa với cấu trúc austenite của pha FCC, dẫn đến sự dư thừa của carbon. Một cách để carbon rời khỏi austenite là tạo thành kết tủa khỏi dung dịch dưới dạng cementite, để lại một pha ferrite có một lượng carbon nhỏ trong dung dịch. Hai pha ferrite và cementite kết tủa đồng thời tạo thành một cấu trúc lớp gọi là pearlite, được đặt tên theo sự giống như nước ngọc trai. Trong thành phần hypereutectoid (cao hơn 0.8% carbon), carbon sẽ trước tiên tạo thành các hạt kết tủa lớn của cementite tại các ranh giới hạt austenite cho đến khi tỷ lệ carbon trong các hạt giảm xuống thành thành phần eutectoid (0.8% carbon), lúc đó cấu trúc pearlite hình thành. Đối với các loại thép có lượng carbon ít hơn 0.8% (hypoeutectoid), ferrite sẽ hình thành trước trong các hạt cho đến khi thành phần còn lại tăng lên 0.8% carbon, lúc đó cấu trúc pearlite sẽ hình thành. Không có các hạt kết tủa lớn của cementite sẽ hình thành ở biên giới trong thép hypoeuctoid. Điều trên giả định rằng quá trình làm lạnh diễn ra rất chậm, đủ thời gian để carbon di chuyển. Khi tốc độ làm lạnh tăng, carbon sẽ có ít thời gian hơn để di chuyển và tạo thành carbide tại biên giới hạt, nhưng sẽ có ngày càng nhiều pearlite với cấu trúc mịn hơn trong các hạt; do đó, carbide được phân tán rộng rãi hơn và ngăn ngừa việc trượt của các khuyết tật bên trong các hạt đó, dẫn đến làm cứng thép. Khi tốc độ làm lạnh rất cao do quenching, carbon không có thời gian để di chuyển mà bị kẹp trong austenite pha trung tâm và tạo thành martensite. Martensite là một dạng cực kỳ căng và căng thẳng, chứa nhiều carbon và sắt vượt quá nồng độ tối đa, cực kỳ cứng nhưng dễ vỡ. Tùy thuộc vào nồng độ carbon, pha martensitic có các hình thái khác nhau. Dưới 0.2% carbon, nó có cấu trúc ferrite BCC, nhưng ở nồng độ carbon cao hơn, nó có cấu trúc body-centred tetragonal (BCT). Không có năng lượng kích hoạt nhiệt cho quá trình chuyển từ austenite sang martensite. Không có sự thay đổi về thành phần vì các nguyên tử thường giữ nguyên vị trí của chúng. Martensite có mật độ thấp hơn (nở ra trong quá trình làm lạnh) so với austenite, dẫn đến sự thay đổi về thể tích khi chuyển đổi giữa chúng. Trong trường hợp này, sự mở rộng xảy ra. Các căng thẳng bên trong từ sự mở rộng này thường có dạng nén vật lý trên các tinh thể của martensite và căng thẳng trên pha ferrite còn lại, cùng với một lượng cắt đáng kể trên cả hai thành phần. Nếu quá trình quenching không thực hiện đúng cách, căng thẳng bên trong có thể làm vỡ chi tiết khi nó làm lạnh. Ít nhất, chúng gây ra cứng vật liệu và các sai lệch vi micro khác. Thường xuyên xuất hiện các vết nứt sau quá trình quenching khi thép được làm nguội bằng nước, mặc dù chúng không luôn luôn rõ ràng thấy được. Xử lý nhiệt Có nhiều phương pháp xử lý nhiệt có sẵn cho thép. Phổ biến nhất là gia nhiệt (annealing), nhanh chóng làm lạnh (quenching) và làm mềm (tempering). Gia nhiệt là quá trình đun nóng thép đến nhiệt độ đủ cao để giảm bớt căng thẳng nội bộ. Nó không làm cho sản phẩm mềm chung mà chỉ giảm căng thẳng và căng thẳng cục bộ trong vật liệu. Gia nhiệt bao gồm ba giai đoạn: phục hồi (recovery), tái tinh thể hóa (recrystallization) và mọc tinh (grain growth). Nhiệt độ yêu cầu để gia nhiệt một loại thép cụ thể phụ thuộc vào loại gia nhiệt mà muốn đạt được và các thành phần hợp kim. Làm lạnh nhanh bao gồm đun nóng thép để tạo pha austenite sau đó làm lạnh nhanh chóng bằng nước hoặc dầu. Quá trình làm lạnh nhanh này dẫn đến cấu trúc martensitic cứng nhưng giòn. Sau đó, thép được làm mềm, là một loại gia nhiệt đặc biệt, để giảm độ giòn. Trong ứng dụng này, quá trình gia nhiệt (tempering) biến một số martensite thành cementite hoặc spheroidite và do đó làm giảm căng thẳng và các khuyết tật bên trong. Kết quả là thép dẻo hơn và chống vỡ hơn.
Kolkata ( ), trước đây, trong các văn cảnh tiếng Anh, Calcutta, là thủ phủ của bang Tây Bengal, Ấn Độ. Thành phố tọa lạc ở phía Đông Ấn Độ bên bờ sông Hooghly. Thành phố có dân số khoảng 11 triệu người với một dân số vùng đô thị mở rộng lên đến 14 triệu người, khiến nó trở thành vùng kết tụ đô thị lớn thứ 3 và là thành phố lớn thứ 3 ở Ấn Độ. Kolkata đã là thủ đô của Ấn Độ trong thời kỳ thuộc địa Anh (British Raj) cho đến năm 1911. Đã từng là trung tâm của giáo dục hiện đại, khoa học, văn hóa và chính trị ở Ấn Độ, Kolkata đã chứng kiến sự đình đốn kinh tế trong những năm sau khi Ấn Độ độc lập năm 1947. Tuy nhiên, kể từ năm 2000, một sự trẻ hóa kinh tế đã chặn lại sự giảm sút èo uột, dẫn đến một cuộc bứt phá tăng trưởng của thành phố này. Giống như nhiều thành phố lớn khác, Kolkata tiếp tục gắng sức xử lý các vấn đề của tiến trình đô thị hóa như đói nghèo, nạn ô nhiễm, tình trạng tắc nghẽn giao thông. Là một thành phố sôi nổi với một nền văn hóa chính trị-xã hội riêng, Kolkata nổi danh nhờ lịch sử cách mạng của mình, từ phong trào đấu tranh giành độc lập cho Ấn Độ đến các phong trào cánh tả và công đoàn. Tên gọi Các tên gọi Kolkata và Calcutta là có lẽ dựa trên Kalikata, tên của một trong 3 ngôi làng (Kalikata, Sutanuti, Gobindapur) ở khu vực này trước khi người Anh đến đây. "Kalikata", đến lượt nó được tin là một lối dịch Anh hóa của từ Kalikshetra ("Đất của vị nữ thần Kali"). Tuy nhiên, có nhiều giả thuyết khác hiện hữu về nguồn gốc tên gọi này. Khu vực định cư ban đầu ở vùng đất là thành phố hiện này đã được tuyên bố là nằm bên một khal, có nghĩa là một con kênh trong tiếng Bengal. Khal có lẽ đã tạo ra căn nguyên của tên gọi này. Hơn nữa, nơi này được biết đến là nơi sản xuất vôi vỏ sò và tên gọi có thể đã được lấy từ đá vôi (kali) và vỏ sò (kata) nung nóng. Mặt khác, tên gọi có thể đã được lấy từ thuật ngữ tiếng Bengal kilkila ("vùng bằng phẳng"). Trong khi thành phố thường được phát âm "Kolkata" hoặc "Kolikata", trong tiếng Bengal địa phương, tên chính thức bằng tiếng Anh của nó chỉ được đổi từ "Calcutta" sang "Kolkata" trong năm 2001, phản ánh sự thay đổi cách phát âm tiếng Bengal. Nhiều người xem việc đổi tên nay như là một biện pháp xóa bỏ di sản của thời cai trị Anh. Trong tập Tây hành kiến văn kỷ lược (1830), danh thần nhà Nguyễn Lý Văn Phức đã phiên âm địa danh này là Minh-ca (明歌), nhân đó cũng làm bài thơ Để Minh Ca tân thứ an bách (抵明歌津次安舶). Lịch sử Sự phát hiện Chandraketugarh, một địa điểm khảo cổ gần đó, đã cung cấp bằng chứng rằng khu vực này đã có con người định cư hơn hai thiên niên kỷ. Lịch sử được ghi chép của thành phố tuy nhiên lại bắt đầu với việc Công ty Đông Ấn Anh đến đây vào năm 1690, khi công ty này đã củng cố việc kinh doanh mậu dịch ở Bengal. Job Charnock, một người quản lý công ty cuối cùng đã định cư ở Sutanuti sau khi đã xâm lược hết vương quốc Hijli, và ông đã về mặt truyền thống được tin là người thành lập thành phố này, tuy nhiên gần đây các chuyên gia đã tán thành quan điểm rằng Job Charnock không phải là người sáng lập thành phố này. Năm 1699, người Anh đã hoàn tất việc xây dựng Pháo đài William, được sử dụng để đóng quân và làm một căn cứ ở khu vực. Kolkata (sau này là Calcutta) đã được công bố là một Thành phố Quận (Presidency City), và sau này đã trở thành thủ phủ của Quận Bengal (Bengal Presidency). Thường xuyên giao tranh với các lực lượng của Pháp, năm 1756 người Anh bắt đầu nâng cấp các công sự của mình. Khi các cuộc phản đối chống lại sự quân sự hóa Nawab of Bengal Siraj-Ud-Daulah đã không được ai chú ý đến, ông ta đã tấn công và chiếm giữ được Pháo đài William dẫn đến sự kiện Hố Đen tai tiếng. Một lực lượng sepoy (lính Ấn Độ trong quân đội Anh) và các đội quân Anh do Robert Clive lãnh đạo đã tái chiếm lại thành phố trong năm sau. Kolkata đã được chỉ định là thủ đô của Ấn Độ thuộc Anh năm 1772. Chính trong thời kỳ này các đầm lầy xung quanh thành phố đã được làm khô và khu chính quyền đã được bố trí dọc theo hai bên bờ sông Hooghly. Richard Wellesley, Toàn quyền trong thời kỳ 1797 – 1805, là người mang đến sự tăng trưởng của thành phố và kiến trúc công cộng của nó, những điều đã dẫn đến thành phố Kolkata miêu tả là "Thành phố của các lâu đài". Thành phố này là một trung tâm buôn bán nha phiến của Công ty Đông Ấn Anh trong thế kỷ 18 và 18; thuốc phiện được sản xuất ở địa phương đã được bán đấu giá tại Kolkata để đưa lên tàu biển chở đến Trung Quốc. Đến đầu thế kỷ 19, Kolkata đã được chia ra hai khu vực riêng biệt — một khu là người Anh, khu kia và người Ấn Độ, gọi là 'Phố Đen'. Thậm chí lúc đó, sự nghèo khó của các khu phố tồi tài 'Phố Đen' đã bị xem là gây sốc. Thành phố đã trải qua sự tăng trưởng công nghiệp nhanh chóng từ thập niên 1850, đặc biệt là các ngành dệt may và đay; điều này đã dẫn đến một sự đầu tư quy mô lớn của chính phủ Anh vào các dự án hạ tầng cơ sở như đường bộ, đường sắt, điện tín. Sự liên kết giữa nền văn hóa Anh và Ấn Độ đã dẫn đến sự nổi lên của một tầng lớp Babu những người Ấn Độ thành thị mà thành phần của nó thường là các quan chức nhà nước, các tờ báo của giới học thức, là những người thân Anh và thường thuộc đẳng cấp thượng lưu của các cộng đồng người Hindu. Suốt thế kỷ 19, một cuộc đổi mới văn hóa-xã hội, thường được gọi là Phục Hưng Bengal đã dẫn đến một sự nâng cao trình độ mọi mặt của người dân. Năm 1883, Surendranath Banerjea đã tổ chức một hội nghị dân tộc — kiểu hội nghị đầu tiên thuộc loại này trong thế kỷ 19 ở Ấn Độ. Dần dần Kolkata đã trở thành một trung tâm của phong trào độc lập Ấn Độ, đặc biệt là các tổ chức cách mạng. Sự chia cắt Bengal (1905) về các khu vực cộng đồng đã dẫn đến một sự công khai phản đối rộng khắp và sự tẩy chay hàng hóa Anh (phong trào Swadeshi). Những hoạt động này, cùng với vị trí bất lợi về hành chính của Kolkata ở rìa phía Đông của Ấn Độ đã thúc dục người Anh chuyển thủ đô đến New Delhi năm 1911. Cảng của thành phố đã bị đánh bom hai lần bởi người Nhật trong Chiến tranh thế giới thứ 2. Do các kho lương thực đã được chuyển sang nuôi quân Đồng Minh, hàng triệu người đã chết đói trong Nạn đói Bengal năm 1943. Năm 1946, các yêu cầu thành lập một nhà nước Hồi giáo đã dẫn đến một cuộc bạo động công cộng quy mô lớn của những người Hồi giáo dẫn đến cái chết của hơn 2000 người. Việc chia cắt Ấn Độ cũng tạo ra bạo động căng thẳng và một sự chuyển dịch cơ cấu dân số - một số lượng lớn người theo đạo Hồi đã rời đến Đông Pakistan, còn hàng trăm ngàn người Hindu chuyển vào thành phố. Trong thập niên 1960 và 1970, tình trạng thiếu điện nghiêm trọng, biểu tình và một phong trào chủ nghĩa Marx-Mao bạo động; Naxalite — đã phá hủy nhiều hạ tầng của thành phố, dẫn đến một sự đình đốn kinh tế. Năm 1971, chiến tranh giữa Ấn Độ và Pakistan đã dẫn đến một làn sóng dân tị nạn đổ vào Kolkata gây nên một sự căng thẳng lên hạ tầng của thành phố. Trong thập niên 1980, Mumbai đã qua mặt Kolkata để trở thành thành phố đông dân nhất Ấn Độ. Kolkata đã là một căn cứ mạnh của chủ nghĩa cộng sản Ấn Độ do Tây Bengal đã được cai trị bởi Mặt trận Cánh tả do CPI(M) chi phối trong 3 thập niên đến nay; chính quyền Cộng sản được bầu chọn dân chủ cầm quyền lâu nhất thế giới. Sự phục hồi kinh tế của thành phố đã lấy được đà sau cải cách kinh tế ở Ấn Độ được chính quyền trung ương mở đầu giữa thập niên 1990. Từ năm 2000, dịch vụ công nghệ thông tin đã hồi sinh nền kinh tế đình đốn của thành phố. Thành phố này cũng trải qua một sự tăng trưởng trong lĩnh vực chế tạo trong thời gian gần đây. Địa lý Kolkata tọa nằm ở Đông Ấn Độ tại tọa độ trong vùng Đồng bằng châu thổ sông Hằng với độ cao dao động trong khoảng 1,5 đến 9 m. Nó trải dài dọc theo hai bờ sông Hooghly theo hướng Bắc-Nam. Phần lớn thành phố ban đầu là một vùng đất ngập nước rộng lớn, được san lấp qua nhiều thập kỷ để cung cấp nơi ở cho dân số tăng lên. Vườn quốc gia Sundarbans tách thành phố khỏi Vịnh Bengal, một vịnh nằm cách thành phố 154 km về phía Nam. Giống như phần lớn các đồng bằng sông Ấn-Hằng, phù sa là dạng đất đai chiếm ưu thế. Các lớp trầm tích kỷ thứ tư bao gồm đất sét, bùn, nhiều lớp cát và sỏi nằm dưới lòng đất bề mặt thành phố. Các lớp trầm tích này nằm kẹp giữ hai nền đất sét, lớp thấp hơn có độ sâu từ 250 đến 650 m và lớp trên dao động giữa độ dày 10–40 m. Theo Cục Tiêu chuẩn Ấn Độ, thành phố rơi vào vùng địa chấn-III, trong một thang chia từ I đến V (theo thứ tự về khả năng có thể chịu địa chấn tăng dần theo thang này) còn phân vùng gió và lốc xoáy nhiệt đới thì thành phố thuộc vùng "rủi ro phá hoại rất cao", theo báo cáo của UNDP report. Khí hậu Kolkata có khí hậu nhiệt đới. Nhiệt độ hàng năm là 26.8 °C (80 °F); nhiệt độ trung bình hàng tháng dao động trong khoảng từ 19 °C đến 30 °C (67 °F to 86 °F). Mùa Hè nóng và ẩm và nhiệt độ tối đa thường vượt quá 40 °C (104 °F) trong tháng 5 và tháng 6. Mùa Đông có thường kéo dài chỉ trong 2,5 tháng với nhiệt độ thấp xuống 12 °C – 14 °C (54 °F – 57 °F) giữa tháng 12 và tháng giêng. Nhiệt độ cao nhất ghi nhận được là 43,9 °C (113 °F) và thấp nhất là 5 °C (41 °F). Thông thường vào đầu mùa Hè những cơn gió giật khô kèm theo các đợt sấm sét và các cơn mưa nặng hạt xuống thành phố, làm giảm sự oi bức của các cơn nóng ẩm. Các cơn dông này về tính chất là đối lưu và được dân địa phương gọi là Kal baisakhi (Nor'westers). Các cơn mưa do nhánh gió mậu dịch Tây-Nam của Vịnh Bengal mang lại rơi xuống thành phố giữa tháng 6 và tháng 9 và cung cấp phần lớn lượng mưa hàng năm 1582 mm của thành phố này. Lượng mưa cao nhất xuất hiện trong thời kỳ gió mùa tháng 8 (306 mm). Thành phố nhận được 2528 giờ nắng mỗi năm với lượng ánh nắng tối đa vào tháng 3. Nạn ô nhiễm là một vấn đề quan tâm chính của Kolkata, và mức chất hạt lơ lửng (SPM) cao so với các thành phố lớn khác của Ấn Độ, leading to regular smog và haze. Kết cấu đô thị Thành phố Kolkata, dưới quyền quản lý của Hội đồng thành phố Kolkata (KMC), có một diện tích 185 km². Tuy nhiên, vùng đô thị Kolkata lại trải rộng liên tục và đến năm 2006 thì khu vực hội tụ đô thị (Vùng đô thị Kolkata) trải rộng trên một diện tích hơn 1750 km² và bao gồm 157 khu vực bưu chính. Vùng đô thị này chính thức được nhiều chính quyền địa phương quản lý, bao gồm 38 local municipalities. Khu vực tích tụ đô thị này bao gồm 72 thành phố và 527 thị trấn và làng. Các vùng ngoại ô của quận đô thị Kolkata gồm các phần đất của các quận North 24 Parganas, South 24 Parganas, Howrah, Hooghly và Nadia. Chiều Đông đến Tây của nội thành thành phố chật hẹp, trải ra từ sông Hooghly ở phía Tây đến gần như đến Eastern Metropolitan Bypass ở phía Đông, một chiều dài khoảng 5–6 km. Phần mở rộng Bắc-Nam gần như được chia ra thành phía Bắc, Trung tâm và phía Nam Kolkata. Bắc Kolkata là phần cổ nhất thành phố với kiến trúc thế kỷ 19 và ngõ hẹp. Bầu không khí quanh khu vực này gợi nhớ đến thành phố Kolkata cổ. Nam Kolkata hầu như phát triển sau khi độc lập và bao gồm các địa điểm tinh hoa. Khu vực Salt lake City (Bidhan Nagar) về phía Đông Bắc của thành phố là một khu được xây dựng có quy hoạch của Kolkata. Rajarhat, cũng gọi là Phố Mới, là một thị trấn được xây dựng có quy hoạch phát triển về phía rìa Đông-Nam của thành phố. Trung tâm Kolkata là nơi có quận kinh doanh trung tâm xung quanh khu vực B. B. D. Bagh. Tòa nhà government secretariat, General Post Office, High Court, Lalbazar Police HQs và nhiều tòa văn phòng tư nhân và chính quyền nằm ở đây. Maidan là một sân rộng ở trung tâm thành phố nơi nhiều sự kiện thể thao và các cuộc mít ting công cộng được tổ chức. Nhiều công ty đã thiết lập văn phòng của mình xung quanh khu vực phía Nam của Park Street, một khu đã trở thành một Quận Kinh doanh Trung tâm của thành phố. Kinh tế Kolkata là trung tâm thương mại, tài chính và kinh doanh chính của khu vực Đông Ấn Độ và các bang Đông Bắc. Thành phố này là nơi có trụ sở của Sở giao dịch chứng khoán Calcutta — sở giao dịch chứng khoán lớn thứ hai của Ấn Độ. Thành phố này cũng là một thành phố hải cảng và thương cảng lớn và là thành phố duy nhất khu vực có một sân bay quốc tế. Từng là một thành phố hàng đầu và là thủ đô Ấn Độ, Kolkata đã trải qua một giai đoạn suy giảm đều về kinh tế những năm sau khi Ấn Độ giành được độc lập do tình hình chính trị lúc đó chưa ổn định và sự gia tăng chủ nghĩa công đoàn được các đảng cánh tả. Giữa thời kỳ thập niên 1960 và 1990, đã diễn ra một sự rút vốn khổng lồ ra khỏi thành phố do nhiều nhà máy lớn bị đóng cửa hoặc giảm quy mô và di dời địa điểm kinh doanh. Sự thiếu hụt vốn cộng thêm với sự thiếu nhu cầu lớn khắp thế giới đối với các ngành truyền thống của thành phíi (ví dụ hàng đay) đã bồi thêm vào tình trạng trì trệ của nền kinh tế thành phố. Sự tự do hóa của nền kinh tế Ấn Độ trong thập niên 1990 cùng với việc bầu cử lên một Thống đốc theo đường lối cải cách Buddhadeb Bhattacharya đã dẫn đến một sự cải thiện sự thịnh vượng của thành phố. Cho đến gần đây, sản lượng linh hoạt đã luôn luôn là chỉ tiêu ở Kolkata, và khu vực phi chính thức đã gồm có hơn 40% lực lượng lao động. Viên chức chính quyền bang và liên bang chiếm một tỷ lệ lớn trong lực lượng lao động của thành phố. Thành phố có một tỷ lệ lớn lực lượng lao động không có tay nghề hoặc bán tay nghề, cùng với lực lượng cổ cồn xanh và [[cổ cồn trắng. Sự hồi sinh kinh tế của Kolkata chủ yếu do ngành dịch vụ công nghệ thông tin dẫn dắt với lĩnh vực công nghệ thông tin tăng trưởng 70% mỗi năm, gấp đôi mức tăng trung bình của toàn quốc. Trong những năm gần đây đã có một làn sóng đầu tư vào lĩnh vực nhà đất với nhiều dự án mới đầu tư thành phố. Kolkata là nơi có nhiều đơn vị công nghiệp do các tập đoàn lớn Ấn Độ điều hành với các sản phẩm đa dạng từ hàng điện tử đến đay. Một số công ty nổi tiếng có trụ sở ở Kolkata là: ITC Limited, Bata India, Birla Corporation, Coal India Limited, Damodar Valley Corporation, United Bank of India, UCO Bank và Allahabad Bank Vijaya Bank. Gần đây, nhiều sự kiện như việc áp dụng chính sách "Nhìn về phía Đông" của chính phủ Ấn Độ, việc khai trương đèo Nathu La ở Sikkim làm con đường buôn bán biên giới với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và mối quan tâm rộng lớn đến các quốc gia Đông Nam Á để đi vào thị trường Ấn Độ và đầu tư đã đặt Kolkata vào một vị trí có lợi. Quản lý hành chính Hội đồng Thành phố Kolkata (KMC), (trước đây là Hội đồng Thành phố Calcutta), được thành lập năm 1876, chịu trách nhiệm duy trì các công việc dân sự và quản lý hạ tầng cơ sở của Kolkata. Thành phố được chia ra 141 Phường hành chính được xếp thành 15 thị xã (borough). Mỗi phường bầu một ủy viên hội đồng vào KMC. Mỗi thị xã có một ủy ban bao gồm các ủy viên hội đồng được bầu từ các phường của thị xã. Hội đồng thành phố, thông qua các ủy ban thị xã, duy trì các trường học do nhà nước trợ giúp, các bệnh viện và các và các chợ thành phố và tham gia vào việc quy hoạch đô thị và duy trì đường sá. Hội đồng là cơ quan quyền lực tối cao thi hành chức năng của mình thông qua Hội đồng-trong-Thị trưởng, bao gồm một thị trưởng được một phó thị trưởng giúp việc và 10 thành viên được bầu cử khác của KMC được bầu cử. Thị trưởng chịu trách nhiệm đối với việc thực hiện các chức năng chung của KMC và có nhiệm kỳ 5 năm. Hiện nay, Mặt trận Cánh tả do CPI(M) lãnh đạo nắm quyền ở KMC. Thành phố cũng có một vị trí giữ chức vụ không chính trị, đó là chức Cảnh sát trưởng Kolkata. Vị cảnh sát trưởng này làm chủ tịch nhiều hội nghị và trách nhiệm liên quan đến thành phố. Một cơ quan dân sự phục thuộc khác là Vụ Phát triển Đô thị Kolkata (KMDA) đảm trách phát triển và quy hoạch theo luật định Vùng đô thị Kolkata (KMA). KMA bao gồm một vùng xa thành thị ở ngoại ô xung quanh các trung tâm của Kolkata. Là thủ phủ của bang và là nơi có trụ sở của Chính quyền Tây Bengal, Kolkata là nơi đóng trụ sở Quốc hội bang Tây Bengal, Văn phòng (Secretariat) (Writers' Building) và Tòa án Tối cao Calcutta. Kolkata cũng có các tòa án cấp dưới; the tòa tiểu điều kiện xử các vụ dân sự, và tòa hình sự xử các vụ án hình sự. Sở cảnh sát Kolkata, do một cao ủy cảnh sát đứng đầu, thuộc Bộ Nội vụ Tây Bengal. Thành phố được phân ra về mặt hành chính thành 5 vùng cảnh sát và lại được chia ra thành 48 phòng cảnh sát địa phương. Thành phố bầu ra 3 nghị sĩ ở Lok Sabha (Hạ viện Ấn Độ) và 21 nghị sĩ của Quốc hội bang. Các dịch vụ tiện ích và các phương tiện truyền thông KMC cung cấp nước uống cho thành phố, lấy từ nguồn nước sông Hooghly. Nước được lọc và xử lý ở trạm bơm nước nằm ở North 24 Parganas. Hầu như tất cả lượng rác thải hàng ngày 2500 tấn được chở đến các bãi rác ở Dhapa về phóa Đông thành phố. Việc sản xuất nông nghiệp trên bãi rác này được khuyến khích để tái chế rác thải và nước cống. Nhiều nơi của thành phố thiếu các trang thiết bị xử lý nước cống dẫn đến nhiều phương pháo xử lý nước thải không đảm bảo vệ sinh. Điện của khu vực thành phố được cung cấp bởi Công ty Cấp điện Calcutta (CESC) do tư nhân quản lý và ở khu vực ngoại ô thì do Ủy ban Điện bang Tây Bengal. Việc cúp điện thường xuyên là một vấn đề cuối thập niên 1990, tuy nhiên tình hình đã được cải thiện. Thành phố có 20 trạm cứu hỏa thuộc Sở cứu hỏa Tây Bengal) đảm trách trung bình 7500 cuộc gọi điện cứu hỏa và cứu hộ mỗi năm. Các công ty quốc doanh BSNL và tư nhân như Hutch, Airtel, Reliance Infocomm và Tata Indicom là các nhà cung cấp dịch vụ điện thoại di động trong thành phố. Vùng phủ sóng rộng với các dịch vụ theo công nghệ GSM và CDMA. Sự thâm nhập của internet băng thông rộng đã tăng đều với các nhà cung cấp dịch vụ hàng đầu là BSNL, Tata Indicom, Airtel và Reliance. Các tờ báo bằng tiếng Bengal như Anandabazar Patrika, Aajkaal, Bartaman, Sangbad Pratidin và Ganashakti là những tờ báo lưu hành rộng rãi. Các tờ báo bằng tiếng Anh và các tiếng địa phương khác như The Telegraph, The Statesman, Asian Age, Hindustan Times và The Times of India được bán với số lượng lớn. Một số tạp chí xuất bản định kỳ là Desh, Sananda, Unish Kuri, Anandalok và Anandamela. Là thị trường thương mại lớn nhất Đông Ấn Độ, Kolkata có một mối quan hệ trọng yếu với các nhật báo tài chính, bao gồm Economic Times & Business Standard. Các báo bằng tiếng bản xứ như các báo bằng tiếng Hindi, Gujarati, Oriya, Urdu, Punjabi và tiếng Hoa cũng được đọc bởi một nhóm thiểu số. Kolkata có 9 đài phát thanh bằng tần số FM: AIR Kolkata (FM Rainbow & FM Gold), Radio Mirchi (98.3 MHz), Red FM (93.5 MHz), Aamar FM (106.2 MHz), Gyan Vani (105.4 MHz), Big FM (92.7 MHz), Power FM (107.8 MHz) và Friends FM (91.9 MHz). Đài truyền hình thuộc Nhà nước Doordarshan cung cấp 2 kênh mặt đất miễn phí, còn 4 MSO cung cấp một số kênh hỗn hợp bằng tiếng Bengal, Hindi, Anh và nhiều kênh khu vực khác thông qua cáp. Giao thông Giao thông công cộng do Đường sắt ngoại ô Kolkata và Tàu điện ngầm Kolkata cũng như xe điện và xe buýt đảm trách. Mạng lưới ngoại ô rộng lớn và tỏa đi các vùng ngoại ô xa. Tàu điện ngầm Kolkata, do Đường sắt Ấn Độ vận hành, là hệ thống ngầm cổ nhất ở Ấn Độ. Tuyến đường này chạy song song vớ sông Hooghly và vươn theo chiều dài Bắc-Nam của thành phố và bao một khoảng cách 16,45 km. Xe buýt là phương tiện giao thông được ưa thích và do các đơn vị điều hành của Nhà nước và tư nhân đảm trách. Kolkata là thành phố duy nhất còn lại của Ấn Độ còn mạng lưới xe điện do Công ty Xe điện Calcutta vận hành. Dịch cụ xe điện chạy chậm được hạn chế trong một số khu vực nhất định của thành phố. Những xe buýt có máy điều hòa nhiệt độ sang trọng vừa được du nhập gần đây cũng kết nối những nơi ở thành phố với Sân bay quốc tế Netaji Subhash Chandra Bose cho những người đi hàng ngày.
New Hampshire (phát âm là Niu Ham-Sờ, S nặng) là một tiểu bang thuộc vùng New England ở phía đông-bắc của Hoa Kỳ, tiếp giáp với tỉnh bang Quebec của Canada. Tiểu bang này bảy vùng khác nhau: Seacoast, Dartmouth - Lake Sunapee, Lakes Region, Merrimack Valley, Monadnock Region, White Mountains và Great North Woods. Đây là nơi sinh của Tổng thống Franklin Pierce (tại Hillsboro).
Võ An Ninh (18 tháng 6 năm 1907 – 4 tháng 6 năm 2009), quê Hải Dương , tên thật là Vũ An Tuyết , là một nghệ sĩ nhiếp ảnh nổi tiếng của Việt Nam. Ông sở hữu nhiều bộ ảnh có giá trị của lịch sử Việt Nam. Ông từng làm phóng viên nhiếp ảnh Sở Kiểm lâm Hà Nội thời Pháp thuộc, khu Triển lãm Trung ương và Xưởng phim Đèn chiếu Việt Nam (1954–1970), ủy viên Ủy ban Trung ương Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, ủy viên Hội đồng Nghệ thuật Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam khóa 3. Tiểu sử Võ An Ninh là con trai trưởng trong một gia đình có bốn anh em. Ông theo học tiểu học tại Trường Amiral Courbet (nay là Trường Nguyễn Du, Hà Nội), đậu xong bằng Certifica (1924), ông vào học Trường Bưởi. Những bức ảnh nổi tiếng Võ An Ninh đã có tác phẩm Buổi sáng trên đê sông Hồng được giải thưởng ngoại hạng do Hội mỹ thuật kỹ nghệ Việt Nam tặng. Năm 1938, tác phẩm Đẩy thuyền ra khơi được giải thưởng ngoại hạng triển lãm ảnh Paris – Pháp Cuối năm 1938, ông được Bằng khen của triển lãm ảnh nghệ thuật quốc tế Bồ Đào Nha cho tác phẩm Chợ bán nồi đất và Huy chương vàng trong cuộc triển lãm ảnh nghệ thuật cá nhân tại Huế. Bộ ảnh ghi lại nạn đói năm 1945 là một thành công trong sưu tập ảnh: bức ảnh hai em bé ngồi bên cây số hai Thái Bình chờ chết. Năm 1960, ông được Huy chương đồng triển lãm ảnh quốc tế tại Liên Xô với tác phẩm Nước ròng bãi Trà Cổ. Bằng khen do triển lãm ảnh quốc tế BIFOTA tặng tác phẩm Đôi nét thủy mặc Sa Pa. Tháng 7 năm 1981 ở Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội năm 1983: Các tác phẩm về Hồ Gươm như Hồ Gươm buổi sớm, Hồ Gươm bốn mùa, có những bức man mác nét cổ hoài như Thu về, Nhớ xưa, những bức ảnh về thiếu nữ như Thiếu nữ Hà Nội, Trong vườn si đền Voi Phục, Một nét quê hương, Hương lúa... Nhiều bức ảnh khác chụp ở những vùng đất khác nhau trên khắp mọi miền đất nước như Thác Bản Giốc (Cao Bằng), Đỉnh Phan-xi-păng, Xuân về trên dãy Hoàng Liên Sơn, Phơi lưới trên sông Cấm, Biển bạc (Đà Nẵng), Suối nắng rừng thông (Đà Lạt), Nhà thờ Đức Bà,... Đóng góp Ông sống trọn đời cho nghệ thuật nhiếp ảnh và cho sự nghiệp cách mạng của Việt Nam. Ông được xem là người phát hiện ra và lưu giữ những cái đẹp "một đi không trở lại" của thời đại qua các bức ảnh như: Ông Đồ viết câu đối Xuân, Cảnh chợ hoa ngày Tết. Nghệ sĩ Võ An Ninh từ trần hồi 18 giờ 45 phút ngày 4 tháng 6 năm 2009 tại Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 101 tuổi. Huân chương Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I (1996) Huân chương Độc lập hạng Ba Huân chương Lao động hạng Nhì Huân chương Kháng chiến hạng Nhất Huân chương Kháng chiến hạng Nhì Huy chương vì sự nghiệp Văn học – Nghệ thuật Việt Nam Huy chương vì sự nghiệp Văn hóa – Thông tin Huy chương vì sự nghiệp phát triển Nghệ thuật Nhiếp ảnh Việt Nam Một số hình ảnh Võ An Ninh chụp Chú thích
Tennessee ( , ), tên chính thức là Tiểu bang Tennessee, là một bang không giáp biển ở khu vực Đông Nam của Hoa Kỳ. Tennessee là bang lớn thứ 36 theo diện tích và đông dân thứ 15 trong số 50 bang. Nó giáp với Kentucky ở phía Bắc, Virginia ở phía Đông Bắc, Bắc Carolina ở phía Đông, Georgia, Alabama và Mississippi ở phía Nam, Arkansas ở phía Tây Nam và Missouri ở phía Tây Bắc. Tennessee được phân chia về mặt địa lý, văn hóa và pháp lý thành ba Đại phân khu với tên gọi Đông, Trung và Tây Tennessee. Thành phố Nashville là thủ phủ và thành phố lớn nhất của bang, đồng thời là trung tâm của vùng đô thị lớn nhất. Các thành phố lớn khác bao gồm Memphis, Knoxville, Chattanooga và Clarksville. Dân số của Tennessee theo điều tra năm 2020 là khoảng 6,9 triệu người. Tennessee bắt nguồn từ Hiệp hội Watauga, một hiệp ước biên giới năm 1772 thường được coi là chính phủ hợp hiến đầu tiên ở phía Tây Dãy Appalachia. Tên của nó bắt nguồn từ "Tanasi", một thị trấn của người Cherokee ở phía Đông của tiểu bang đã tồn tại trước khi người Mỹ gốc Âu định cư đầu tiên. Tennessee ban đầu là một phần của Bắc Carolina, và sau đó là Lãnh thổ Tây Nam, trước khi được gia nhập Liên minh với tư cách là tiểu bang thứ 16 vào ngày 1 tháng 6 năm 1796. Nó có biệt danh "Tiểu bang Tình nguyện" ngay từ đầu trong lịch sử do có truyền thống nghĩa vụ quân sự mạnh mẽ. Là một bang nô lệ cho đến Nội chiến Hoa Kỳ, Tennessee bị chia rẽ về chính trị, với phần phía tây và phần giữa ủng hộ Liên minh miền Nam và vùng phía Đông nuôi dưỡng tình cảm ủng hộ Liên minh. Kết quả là, Tennessee là tiểu bang cuối cùng ly khai và là tiểu bang đầu tiên được tái gia nhập Liên minh sau chiến tranh. Trong thế kỷ 20, Tennessee đã chuyển đổi từ một xã hội chủ yếu là nông nghiệp sang một nền kinh tế đa dạng hơn. Điều này được hỗ trợ một phần bởi khoản đầu tư lớn của liên bang vào Tennessee Valley Authority (TVA) và thành phố Oak Ridge, được thành lập trong Thế chiến II để đặt các cơ sở làm giàu uranium của Dự án Manhattan nhằm chế tạo những quả bom nguyên tử đầu tiên trên thế giới. Sau chiến tranh, Phòng thí nghiệm Quốc gia Oak Ridge trở thành một trung tâm nghiên cứu khoa học quan trọng. Vào năm 2016, nguyên tố tennessine mới phát hiện được đặt tên theo tên của tiểu bang, phần lớn là để ghi nhận vai trò của Oak Ridge, Đại học Vanderbilt và Đại học Tennessee trong việc khám phá ra nguyên tố này.Tennessee cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển nhiều hình thức âm nhạc đại chúng, bao gồm nhạc đồng quê, Blues, Rock and roll, soul và nhạc Phúc âm. Tennessee có địa hình đa dạng, và từ đông sang tây, chứa đựng sự pha trộn của các đặc điểm văn hóa đặc trưng của Appalachia, Upland South và Deep South. Dãy núi Blue Ridge dọc theo biên giới phía đông đạt đến một số độ cao cao nhất ở miền Đông Bắc Mỹ và Cao nguyên Cumberland có nhiều thung lũng và thác nước tuyệt đẹp. Phần trung tâm của bang được đánh dấu bằng nền đá gốc hang động và những ngọn đồi thoai thoải không đều, và những đồng bằng bằng phẳng, màu mỡ ở Tây Tennessee. Bang bị chia cắt hai lần bởi sông Tennessee và sông Mississippi tạo thành biên giới phía Tây. Nền kinh tế của nó bị chi phối bởi các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, âm nhạc, tài chính, ô tô, hóa chất, điện tử, du lịch, và gia súc, đậu nành, ngô, gia cầm và bông là những sản phẩm nông nghiệp chính của nó. Vườn quốc gia Dãy núi Great Smoky trở thành công viên quốc gia được ghé thăm nhiều nhất trên toàn quốc, nằm ở phía Đông Tennessee. Nguồn gốc tên gọi [[Tập tin:Timberlake-map-tanasi-1765.jpg|thumb|left|250px|alt=Drawing of Tanasi, Tennessee's namesake, by Henry Timberlake|Chi tiết về Tanasi (đánh vần là "Tennessee") trên :File:Draught of the Cherokee Country của Henry Timberlake.jpg|Bản thảo của Cherokee Country]] Tennessee lấy tên trực tiếp nhất từ thị trấn "Tanasi" của người Cherokee (hay "Tanase", trong âm tiết: ᏔᎾᏏ) ở Quận Monroe, Tennessee ngày nay, bên bờ sông Tanasi, nay được gọi là sông Tennessee nhỏ. Thị trấn này xuất hiện trên bản đồ của Anh vào đầu năm 1725. Năm 1567, nhà thám hiểm người Tây Ban Nha Thuyền trưởng Juan Pardo và nhóm của ông bắt gặp một ngôi làng của người Mỹ bản địa tên là "Tanasqui" trong khu vực khi đi vào đất liền từ Nam Carolina ngày nay; tuy nhiên, không biết liệu đây có phải là khu định cư giống như Tanasi hay không. Nghiên cứu gần đây cho thấy người Cherokee đã phỏng theo tên này từ từ Tana-tsee-dgee trong tiếng Yuchi, có nghĩa là "anh em-vùng nước gặp nhau" hoặc "nơi-nước gặp nhau". Cách viết hiện đại, Tennessee, được quy bởi Thống đốc James Glen của Nam Carolina, người đã sử dụng cách viết này trong thư từ chính thức của mình trong những năm 1750. Năm 1788, Bắc Carolina thành lập "Quận Tennessee", và vào năm 1796, một hội nghị hiến pháp, tổ chức tiểu bang mới ra khỏi Lãnh thổ Tây Nam, đã lấy "Tennessee" làm tên tiểu bang. Lịch sử Thời kỳ tiền Columbus Những cư dân đầu tiên của Tennessee là người Da đỏ Paleo đã đến khoảng 12.000 năm trước vào cuối Thời kỳ Băng hà cuối. Các cuộc khai quật khảo cổ chỉ ra rằng vùng hạ lưu Thung lũng Tennessee là nơi sinh sống đông đúc của những người săn bắt và hái lượm trong Kỷ Băng hà, và vùng Trung Tennessee được cho là có rất nhiều động vật săn được như voi răng mấu.[23] Tên của các nhóm văn hóa sinh sống trong khu vực trước khi tiếp xúc với người châu Âu vẫn chưa được biết, nhưng các nhà khảo cổ học đã đặt tên cho một số giai đoạn văn hóa riêng biệt, bao gồm Archaic (8000–1000 TCN), Woodland (1000 TCN–1000 AD) và Mississippian (1000–1600). AD). Những con chó thuần hóa đầu tiên của người Cổ xưa, và các loại cây như bí, ngô, bầu và hoa hướng dương lần đầu tiên được trồng ở Tennessee trong thời kỳ Woodland. Các thế hệ sau của người Woodland đã xây dựng những gò đất đầu tiên. Sự phát triển văn minh nhanh chóng xảy ra trong thời kỳ Mississippi, khi người bản địa phát triển các bộ tộc có tổ chức và xây dựng nhiều cấu trúc nghi lễ trên khắp tiểu bang. Những người chinh phục Tây Ban Nha khám phá khu vực này vào thế kỷ XVI đã chạm trán với một số bộ tộc Mississippi, bao gồm Muscogee Creek, Yuchi và Shawnee. Đến đầu thế kỷ XVIII, hầu hết người bản địa ở Tennessee đã biến mất, rất có thể họ đã bị xóa sổ bởi những căn bệnh do người Tây Ban Nha mang đến. Người Cherokee bắt đầu di cư vào khu vực ngày nay là phía Đông Tennessee từ khu vực ngày nay là Virginia vào cuối thế kỷ XVII, có thể là để thoát khỏi sự mở rộng khu định cư của người châu Âu và bệnh tật ở phía Bắc. Họ buộc người Creek, Yuchi và Shawnee rời khỏi bang vào đầu thế kỷ XVIII. Người Chickasaw vẫn bị giới hạn ở Tây Tennessee, và phần giữa của bang có ít người Mỹ bản địa, mặc dù cả người Cherokee và người Shawnee đều tuyên bố khu vực này là nơi săn bắn của họ. Người Cherokee ở Tennessee được những người định cư châu Âu gọi là Overhill Cherokee vì họ sống ở phía Tây Dãy núi Blue Ridge. Các khu định cư trên đồi phát triển dọc theo các con sông ở Đông Tennessee vào đầu thế kỷ XVIII. Thám hiểm và thuộc địa hóa Các cuộc thám hiểm châu Âu đầu tiên được vào vùng đất ngày nay là Tennessee do các nhà thám hiểm người Tây Ban Nha Hernando de Soto vào năm 1540–1541, Tristan de Luna vào năm 1559 và Juan Pardo vào năm 1566–1567 dẫn đầu. Năm 1673, nhà buôn lông thú người Anh Abraham Wood gửi một đoàn thám hiểm từ Thuộc địa Virginia đến lãnh thổ Overhill Cherokee ở Đông Bắc Tennessee ngày nay. Cùng năm đó, một đoàn thám hiểm người Pháp do nhà truyền giáo Jacques Marquette và Louis Jolliet dẫn đầu đã khám phá sông Mississippi và trở thành những người châu Âu đầu tiên lập bản đồ Thung lũng Mississippi. Năm 1682, một đoàn thám hiểm do René-Robert Cavelier, Sieur de La Salle dẫn đầu đã xây dựng Pháo đài Prudhomme trên Vách đá Chickasaw ở Tây Tennessee. Đến cuối thế kỷ XVII, các thương nhân Pháp bắt đầu khám phá thung lũng sông Cumberland, và vào năm 1714, dưới sự chỉ huy của Charles Charleville, đã thành lập French Lick, một khu định cư buôn bán lông thú tại địa điểm hiện nay là thành phố Nashville gần sông Cumberland. Năm 1739, người Pháp xây dựng Pháo đài Assumption dưới sự chỉ huy của Jean-Baptiste Le Moyne de Bienville trên sông Mississippi tại vị trí hiện nay là thành phố Memphis, nơi họ sử dụng làm căn cứ chống lại người Chickasaw trong Chiến dịch 1739 của Chiến tranh Chickasaw. Trong thập niên 1750 và 1760, những thợ săn lâu năm từ Virginia đã khám phá phần lớn Đông và Trung Tennessee. Những người định cư từ Thuộc địa Nam Carolina đã xây dựng Pháo đài Loudoun trên sông Tennessee nhỏ vào năm 1756, khu định cư đầu tiên của người Anh tại khu vực ngày nay là Tennessee và là tiền đồn cực tây của Anh cho đến thời điểm đó. Sự thù địch nổ ra giữa người Anh và người Cherokees dẫn đến một cuộc xung đột vũ trang, và một cuộc bao vây pháo đài kết thúc với sự đầu hàng của những người trong pháo đài vào năm 1760. Sau Chiến tranh với Pháp và người Da đỏ, Anh ban hành Tuyên bố Hoàng gia năm 1763, cấm lập các khu định cư ở phía Tây Dãy núi Appalachia trong nỗ lực giảm thiểu xung đột với người bản địa. Nhưng việc di cư qua vùng núi vẫn tiếp tục, và những người châu Âu định cư lâu dài đầu tiên bắt đầu đến Đông Bắc Tennessee vào cuối những năm 1760. Hầu hết họ là người Anh, nhưng gần 20% là người Scotland-Ireland. Họ thành lập Hiệp hội Watauga vào năm 1772, một chính phủ bán tự trị đại diện, và 3 năm sau tự tổ chức lại thành Quận Washington để ủng hộ Chiến tranh Cách mạng Mỹ. Năm sau, sau khi kiến nghị không thành công với Virginia, Bắc Carolina đã đồng ý sáp nhập Quận Washington để cung cấp sự bảo vệ khỏi các cuộc tấn công của người Mỹ bản địa. Năm 1775, Richard Henderson đàm phán một loạt hiệp ước với người Cherokee để bán vùng đất của các khu định cư Watauga tại Bãi cạn Sycamore trên bờ sông Watauga. Một thỏa thuận bán đất cho Thuộc địa Transylvania, bao gồm lãnh thổ ở Tennessee phía Bắc sông Cumberland, cũng được ký kết. Cuối năm đó, Daniel Boone, dưới sự giúp đỡ của Henderson, đã mở một con đường mòn từ Pháo đài Chiswell ở Virginia qua đèo Cumberland Gap, trở thành một phần của Wilderness Road, một con đường lớn dẫn đến Tennessee và Kentucky. Chickamauga, một phe Cherokee trung thành với người Anh do Draggging Canoe lãnh đạo, phản đối việc giải quyết Quận Washington và Thuộc địa Transylvania, và vào năm 1776 đã tấn công Pháo đài Watauga tại Bãi cạn Sycamore. Những lời cảnh báo của Nancy Ward, em họ của Dragging Canoe, đã cứu mạng nhiều người định cư khỏi các cuộc tấn công ban đầu. Năm 1779, James Robertson và John Donelson dẫn đầu hai nhóm người định cư từ Quận Washington đến French Lick. Những người định cư này đã xây dựng Pháo đài Nashborough, mà họ đặt tên theo Francis Nash, một Chuẩn tướng của Lục quân Lục địa. Năm sau, những người định cư đã ký Hiệp ước Cumberland, trong đó thành lập một chính phủ đại diện cho thuộc địa được gọi là Hiệp hội Cumberland. Khu định cư này sau đó phát triển thành thành phố Nashville. Cùng năm đó John Sevier lãnh đạo một nhóm Overmountain Men từ Pháo đài Watauga đến Nam Carolina và đánh bại người Anh trong Trận Kings Mountain, địa điểm ngày nay là Quận York. Ba hạt của Quận Washington đã tách khỏi Bắc Carolina vào năm 1784 và thành lập Bang Franklin. Những nỗ lực để được kết nạp vào Liên minh đã thất bại, và các quận, hiện có số lượng là 8, gia nhập lại Bắc Carolina vào năm 1788. Bắc Carolina nhượng khu vực này cho chính phủ liên bang vào năm 1790, sau đó nó được tổ chức thành Lãnh thổ Tây Nam vào ngày 26 tháng 5 năm đó. Đạo luật cho phép lãnh thổ kiến nghị trở thành tiểu bang khi dân số đạt 60.000 người. Việc quản lý lãnh thổ được phân chia giữa Quận Washington và Quận Mero, quận sau bao gồm Hiệp hội Cumberland và được đặt tên theo thống đốc lãnh thổ Tây Ban Nha Esteban Rodríguez Miró. Tổng thống George Washington bổ nhiệm William Blount làm thống đốc lãnh thổ. Lãnh thổ Tây Nam ghi nhận dân số 35.691 người trong cuộc điều tra dân số đầu tiên của Hoa Kỳ vào năm đó, trong đó có 3.417 nô lệ. Tiểu bang và kỷ nguyên trước chiến tranh Khi những người định cư ủng hộ việc lãnh thổ trở thành tiểu bang, Thống đốc Blount kêu gọi tổ chức bầu cử vào tháng 12 năm 1793. Hạ viện của lãnh thổ gồm 13 thành viên triệu tập lần đầu tại Knoxville vào ngày 24 tháng 2 năm 1794, để chọn 10 thành viên cho thượng viện của cơ quan lập pháp. Cơ quan lập pháp đầy đủ được triệu tập vào ngày 25 tháng 8 năm 1794. Vào tháng 6 năm 1795, cơ quan lập pháp đã tiến hành một cuộc điều tra dân số trên toàn lãnh thổ, ghi nhận dân số là 77.263 người, trong đó có 10.613 nô lệ, và một cuộc thăm dò cho thấy 6.504 người ủng hộ chế độ tiểu bang và 2.562 người phản đối. Các cuộc bầu cử cho một hội nghị lập hiến được tổ chức vào tháng 12 năm 1795, và các đại biểu đã triệu tập tại Knoxville vào ngày 17 tháng 1 năm 1796 để bắt đầu soạn thảo hiến pháp bang. Trong hội nghị này, tên Tennessee đã được chọn cho để đặt tiểu bang mới. Hiến pháp được hoàn thành vào ngày 6 tháng 2, cho phép bầu cử cơ quan lập pháp mới của bang, Đại hội đồng Tennessee. Cơ quan lập pháp được triệu tập vào ngày 28 tháng 3 năm 1796, và ngày hôm sau, John Sevier được công bố là thống đốc đầu tiên của bang. Tennessee được kết nạp vào Liên minh vào ngày 1 tháng 6 năm 1796, với tư cách là tiểu bang thứ 16 và là tiểu bang đầu tiên được thành lập từ lãnh thổ liên bang. Tennessee được cho là có biệt danh "Tiểu bang tình nguyện" kể từ Chiến tranh năm 1812, khi 3.500 người Tennessee hưởng ứng lời kêu nhập ngũ của Đại hội đồng cho nỗ lực chiến tranh. Những người lính này, dưới sự chỉ huy của Andrew Jackson, đã đóng một vai trò quan trọng trong chiến thắng của Mỹ trong Trận New Orleans năm 1815, trận đánh lớn cuối cùng của cuộc chiến. Một số người dân Tennesse đã tham gia Cách mạng Texas năm 1835–36, trong đó có Thống đốc Sam Houston và Nghị sĩ kiêm thủ lĩnh Davy Crockett, người đã thiệt mạng trong Trận Alamo. Biệt danh của bang đã được củng cố trong Chiến tranh Mexico-Mỹ khi Tổng thống James K. Polk một công dân đến từ bang Tennessee đưa ra lời kêu gọi và đã có 2.800 binh sĩ từ bang và hơn 30.000 người tình nguyện. Giữa những năm 1790 và 1820, các vụ nhượng đất bổ sung đã được đàm phán với người Cherokee, họ đã thành lập một chính phủ quốc gia theo mô hình của Hiến pháp Hoa Kỳ. Năm 1818, Jackson và thống đốc bang Kentucky, Isaac Shelby, đã đạt được thỏa thuận với người Chickasaw để bán vùng đất giữa sông Mississippi và sông Tennessee cho Hoa Kỳ, bao gồm toàn bộ Tây Tennessee và được lịch sử gọi là "Thương vụ Jackson". Người Cherokee chuyển thủ đô của họ từ Georgia đến Red Clay Council Grounds ở Đông Nam Tennessee vào năm 1832, do luật mới buộc họ phải rời thủ đô cũ tại New Echota. Vào năm 1838 và 1839, quân đội Hoa Kỳ đã cưỡng bức di dời hàng nghìn người Cherokee và nô lệ da đen khỏi nhà của họ ở Đông Nam Tennessee và buộc họ phải đến Lãnh thổ Da đỏ ở Oklahoma ngày nay. Sự kiện này được gọi là Dấu vết của nước mắt, và ước tính có khoảng 4.000 người chết trên đường đi. Khi những người định cư tiến về phía Tây Cao nguyên Cumberland, nền kinh tế nông nghiệp dựa trên chế độ nô lệ đã hình thành ở những vùng này. Những người trồng bông đã sử dụng nhiều lao động nô lệ trên các khu phức hợp đồn điền rộng lớn ở địa hình bằng phẳng và màu mỡ của Tây Tennessee sau Thương vụ Jackson. Bông cũng được giữ ở Nashville Basin trong thời gian này.[89] Các doanh nhân như Montgomery Bell đã sử dụng nô lệ để sản xuất sắt ở Western Highland Rim, và nô lệ cũng trồng các loại cây trồng như thuốc lá và ngô trên khắp Highland Rim. Địa lý của Đông Tennessee không cho phép các đồn điền lớn như ở miền trung và miền tây của bang, và kết quả là chế độ nô lệ ngày càng hiếm trong vùng. Một phong trào bãi nô phát triển mạnh mẽ ở Đông Tennessee, bắt đầu từ năm 1797, và vào năm 1819, Elihu Embree ở Jonesborough bắt đầu xuất bản tờ Manumission Intelligencier (sau này là Người giải phóng''), tờ báo chống chế độ nô lệ độc quyền đầu tiên của quốc gia. Địa lý Tennessee toạ lạc ở Đông Nam Hoa Kỳ. Về mặt văn hóa, phần lớn bang được coi là một phần của Upland South, và 1/3 phía Đông là một phần của Appalachia. Tennessee có diện tích khoảng 109.150 km2 (42.143 dặm vuông), trong đó 2.400 km2 (926 dặm vuông), hay 2,2%, là mặt nước. Đây là tiểu bang nhỏ thứ 16 về diện tích đất liền. Bang có chiều dài khoảng 710 km (440 dặm) từ Đông sang Tây và 180 km (112 dặm) từ Bắc xuống Nam. Tennessee được chia về mặt địa lý, văn hóa, kinh tế và pháp lý thành ba Vùng lớn: Đông Tennessee, Trung Tennessee và Tây Tennessee. Nó giáp 8 tiểu bang khác: Kentucky và Virginia ở phía Bắc, Bắc Carolina ở phía Đông, Georgia, Alabama và Mississippi ở phía Nam, Arkansas và Missouri ở phía Tây. Nó gắn liền với Missouri là bang giáp với hầu hết các bang khác. Tennessee được chia cắt bởi sông Tennessee và trung tâm địa lý của nó là ở Murfreesboro. Gần ba phần tư diện tích của tiểu bang nằm trong Múi giờ miền Trung, với phần lớn Đông Tennessee theo Giờ miền Đông. Sông Tennessee tạo nên phần lớn sự phân chia giữa Trung và Tây Tennessee. Ranh giới phía Đông của Tennessee gần như men theo đỉnh cao nhất của Dãy Blue Ridge, và sông Mississippi tạo thành ranh giới phía Tây của nó. Do lũ lụt của sông Mississippi đã làm thay đổi dòng chảy dẫn đến ranh giới phía Tây của bang lệch khỏi dòng sông ở một số nơi. Biên giới phía Bắc ban đầu được xác định là 36°30′ vĩ độ Bắc và Ranh giới Thuộc địa Hoàng gia năm 1665, nhưng do các cuộc khảo sát không chính xác, bắt đầu ở phía Bắc của đường này ở phía Đông và về phía Tây, dần dần đi về phía Bắc trước khi dịch chuyển về phía Nam trên thực tế. Vĩ tuyến 36°30′ tại Sông Tennessee ở Tây Tennessee. Những điều không chắc chắn vào cuối thế kỷ XIX về vị trí biên giới của bang với Virginia đã lên đến đỉnh điểm khi Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ giải quyết vấn đề vào năm 1893, dẫn đến sự phân chia Bristol giữa hai bang. Một cuộc khảo sát năm 1818 đã đặt nhầm ranh giới phía Nam của Tennessee cách vĩ tuyến 35 một dặm (1,6 km) về phía Nam; Các nhà lập pháp Georgia tiếp tục tranh cãi về vị trí này, vì nó ngăn cản Georgia tiếp cận sông Tennessee. Được đánh dấu bởi sự đa dạng về địa hình, Tennessee có sáu vùng địa lý chính, từ Đông sang Tây, là một phần của 3 vùng lớn hơn: Dãy núi Blue Ridge, dãy núi và thung lũng Appalachia và cao nguyên Cumberland, một phần của dãy Appalachia ; Vành đai Cao nguyên và Lưu vực Nashville, một phần của Cao nguyên Nội địa thấp của Đồng bằng Nội địa; và Đồng bằng Vịnh duyên hải, một phần của Đồng bằng Đại Tây Dương. Các khu vực khác bao gồm mũi phía Nam của Dãy Cumberland, Thung lũng Tennessee và Đồng bằng phù sa Mississippi. Điểm cao nhất của bang, cũng là đỉnh cao thứ ba ở miền Đông Bắc Mỹ, là Clingmans Dome, ở độ cao 6.643 foot (2.025 m) trên mực nước biển. Điểm thấp nhất của nó, 178 foot (54 m), nằm trên sông Mississippi tại ranh giới bang Mississippi ở Memphis. Tennessee có nhiều hang động nhất ở Hoa Kỳ, với hơn 10.000 hang động được ghi nhận. Sự hình thành địa chất ở Tennessee phần lớn tương ứng với các đặc điểm địa hình của bang, và nói chung, tuổi tạo địa chất giảm từ Đông sang Tây. Các loại đá lâu đời nhất ở bang là các tầng đá lửa hơn 1 tỷ năm tuổi được tìm thấy ở Dãy Blue Ridge, và các trầm tích trẻ nhất ở Tennessee là cát và bùn ở Đồng bằng phù sa Mississippi và các thung lũng sông chảy vào sông Mississippi. Tennessee được coi là có hoạt động địa chấn và có hai vùng địa chấn chính, mặc dù động đất hủy diệt hiếm khi xảy ra ở đó. Vùng địa chấn Đông Tennessee trải dài toàn bộ Đông Tennessee từ Tây Bắc Alabama đến Tây Nam Virginia, và được coi là một trong những vùng hoạt động mạnh nhất ở Đông Nam Hoa Kỳ, thường xuyên tạo ra các trận động đất cường độ thấp. Vùng địa chấn New Madrid ở phía Tây Bắc của bang đã tạo ra một loạt trận động đất kinh hoàng từ tháng 12 năm 1811 đến tháng 2 năm 1812 hình thành Hồ Reelfoot gần Tiptonville. Các thành phố, thị xã và quận Tennessee được chia thành 95 quận, mỗi quận có một quận lỵ.[246] Bang có tổng cộng 340 đô thị. Văn phòng Quản lý và Ngân sách chỉ định mười khu vực đô thị ở Tennessee, 4 trong số đó mở rộng sang các bang lân cận. Thành phố Nashville là thủ phủ và thành phố lớn nhất của Tennessee, với gần 700.000 dân. Vùng đô thị gồm 13 quận của nó là vùng đô thị lớn nhất của bang kể từ đầu những năm 1990 và là một trong những vùng đô thị phát triển nhanh nhất Hoa Kỳ, với khoảng 2 triệu cư dân. Thành phố Memphis, với hơn 630.000 cư dân, là thành phố lớn nhất của bang cho đến năm 2016, khi Nashville vượt qua nó. Memphis thuộc Quận Shelby, quận lớn nhất của Tennessee về cả diện tích và dân số. Thành phố Knoxville, với khoảng 190.000 dân, và Thành phố Chattanooga, với khoảng 180.000 cư dân, lần lượt là các thành phố lớn thứ ba và thứ tư.[249] Quận lỵ Clarksville là một trung tâm dân cư quan trọng, với khoảng 170.000 dân. Murfreesboro là thành phố lớn thứ 6 và là vùng ngoại ô lớn nhất của Nashville, với hơn 150.000 cư dân. Ngoài các thành phố lớn, Tri-Cities của Kingsport, Bristol và Johnson city được coi là trung tâm có dân số lớn thứ 6. Nhân khẩu học Theo cuộc Điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2020, dân số của Tennessee là 6.910.840, tăng 564.735, hay 8,90%, kể từ cuộc điều tra dân số năm 2010. Từ năm 2010 đến 2019, tiểu bang đã nhận được mức tăng tự nhiên là 143.253 (744.274 ca sinh trừ 601.021 ca tử vong) và sự gia tăng do di cư ròng là 338.428 người vào tiểu bang. Nhập cư từ bên ngoài Hoa Kỳ dẫn đến mức tăng ròng là 79.086 và di cư trong nước tạo ra mức tăng ròng là 259.342. Trung tâm dân số của Tennessee là ở Murfreesboro thuộc Quận Rutherford. Theo điều tra dân số năm 2010, 6,4% dân số Tennessee dưới 5 tuổi, 23,6% dưới 18 tuổi và 13,4% từ 65 tuổi trở lên. Trong những năm gần đây, Tennessee là nguồn di cư trong nước hàng đầu, tiếp nhận một lượng lớn người di cư từ những nơi như California, Đông Bắc và Trung Tây do chi phí sinh hoạt thấp và cơ hội việc làm bùng nổ. Vào năm 2019, khoảng 5,5% dân số của Tennessee là người nước ngoài sinh ra. Trong số những người sinh ra ở nước ngoài, khoảng 42,7% là công dân nhập tịch và 57,3% là người nước ngoài. Dân số sinh ra ở nước ngoài bao gồm khoảng 49,9% từ Châu Mỹ La Tinh, 27,1% từ Châu Á, 11,9% từ Châu Âu, 7,7% từ Châu Phi, 2,7% từ Bắc Mỹ và 0,6% từ Châu Đại Dương. Ngoại trừ tình trạng sụt giảm vào những năm 1980, Tennessee là một trong những bang phát triển dân số nhanh nhất toàn quốc kể từ năm 1970, được hưởng lợi từ hiện tượng Vùng Vành đai Mặt trời. Bang này là điểm đến hàng đầu của những người di dời từ các bang Đông Bắc và Trung Tây. Khoảng thời gian này đã chứng kiến sự ra đời của các ngành kinh tế mới trong tiểu bang và đã định vị các khu vực đô thị Nashville và Clarksville là hai trong số các khu vực phát triển nhanh nhất trong cả nước. Theo Báo cáo đánh giá tình trạng vô gia cư hàng năm của HUD năm 2022, ước tính có khoảng 10.567 người vô gia cư ở Tennessee. Kinh tế Tính đến năm 2021, Tennessee có Tổng sản phẩm trên địa bàn là 418,3 tỷ đô la. Vào năm 2020, thu nhập bình quân đầu người của bang là 30.869 USD. Thu nhập hộ gia đình trung bình là 54,833 USD. Khoảng 13,6% dân số sống dưới mức nghèo khổ. Năm 2019, tiểu bang đã báo cáo tổng số việc làm là 2.724.545 và tổng số 139.760 cơ sở sử dụng lao động. Tennessee là một tiểu bang có quyền được làm việc, giống như hầu hết các bang láng giềng phía Nam. Công đoàn hóa trong lịch sử đã ở mức thấp và tiếp tục giảm, như ở hầu hết các bang khác ở Hoa Kỳ. Thuế Tennessee nổi tiếng là bang có mức thuế thấp và thường được xếp hạng là một trong 5 bang có gánh nặng thuế đối với cư dân thấp nhất. Đây là một trong 9 tiểu bang không có thuế thu nhập chung; thuế thương vụ là phương tiện tài trợ chính của chính phủ. Thuế thu nhập hội trường được áp dụng đối với hầu hết các khoản cổ tức và tiền lãi ở mức 6% nhưng đã được loại bỏ hoàn toàn vào năm 2021. 1.250 USD đầu tiên của thu nhập cá nhân và 2.500 USD của thu nhập chung được miễn thuế này. Thuế tài sản là nguồn thu chính của chính quyền địa phương. Thuế suất bán và sử dụng của tiểu bang đối với hầu hết các mặt hàng là 7%, cao thứ hai trên toàn quốc, cùng với Mississippi, Rhode Island, New Jersey và Indiana. Thực phẩm bị đánh thuế 4%, nhưng kẹo, thực phẩm bổ sung và thực phẩm chế biến sẵn bị đánh thuế 7%. Thuế bán hàng địa phương được thu ở hầu hết các khu vực pháp lý với tỷ lệ thay đổi từ 1,5% đến 2,75%, mang lại tổng thuế bán hàng từ 8,5% đến 9,75%. Tỷ lệ kết hợp trung bình là khoảng 9,5%, mức thuế bán hàng trung bình cao nhất của Mỹ. Thuế tài sản cố định được đánh vào cổ phần của các cổ đông của bất kỳ khoản vay, đầu tư, bảo hiểm hoặc vì lợi nhuận nào. Tỷ lệ đánh là 40% giá trị nhân với thuế suất của khu vực tài phán. Kể từ năm 2016, Tennessee không có thuế thừa kế. Nông nghiệp Tennessee là tiểu bang xếp thứ 8 của Hoa Kỳ về số lượng trang trại, chiếm hơn 40% diện tích đất đai và có diện tích trung bình khoảng 155 mẫu Anh (0,63 km2). Tiền mặt thu được từ trồng trọt và chăn nuôi có giá trị ước tính hàng năm là 3,5 tỷ đô la, và ngành nông nghiệp có tác động ước tính hàng năm là 81 tỷ đô la đối với nền kinh tế của bang. Bò thịt là mặt hàng nông nghiệp lớn nhất của bang, tiếp theo là gà thịt và gia cầm. Tennessee đứng thứ 12 trên toàn quốc về số lượng gia súc, với hơn một nửa diện tích đất nông nghiệp dành cho việc chăn thả gia súc. Đậu nành và ngô lần lượt là cây trồng phổ biến thứ nhất và thứ hai của bang, và được trồng nhiều nhất ở Tây và Trung Tennessee, đặc biệt là góc Tây Bắc của bang. Tennessee đứng thứ 7 toàn quốc về sản lượng bông, phần lớn bông được trồng trên những vùng đất màu mỡ ở miền Trung Tây Tennessee. Bang đứng thứ tư trên toàn quốc về sản xuất thuốc lá, chủ yếu được trồng ở vùng Ridge-and-Valley của Đông Tennessee. Nông dân Tennessee cũng được biết đến trên toàn thế giới với việc trồng cà chua và kỹ thuật trồng trọt. Các loại cây công nghiệp quan trọng khác trong bang bao gồm cỏ khô, lúa mì, đậu hạt. Lưu vực Nashville là một khu vực cưỡi ngựa hàng đầu, do đất tạo ra cỏ được ngựa ưa chuộng. Ngựa Tennessee, lần đầu tiên được nhân giống trong khu vực vào cuối thế kỷ XVIII, là một trong những giống ngựa nổi tiếng nhất trên thế giới. Tennessee cũng đứng thứ hai toàn quốc về chăn nuôi la và sản xuất thịt dê. Ngành công nghiệp gỗ của bang chủ yếu tập trung ở Cao nguyên Cumberland và được xếp hạng là một trong những nơi sản xuất gỗ cứng hàng đầu trên toàn quốc. Công nghiệp Thương mại Sản xuất năng lượng và khoáng sản Du lịch Văn hoá Âm nhạc Giáo dục Tennessee có nhiều cơ sở giáo dục công lập, tư thục từ bậc mẫu giáo đến bậc giáo dục đại học. Đại học, cao đẳng Cao đẳng Aquinas (Tennessee) Đại học Belmont Đại học bang Tennessee Đại học công nghệ Tennessee Cao đẳng Tusculum Đại học Memphis Đại học Vanderbilt Cao đẳng Welch College Đại học Victory Giáo dục đại học công lập được quản lý với Ủy ban giáo dục Tennessee cung cấp định hướng và chỉ đạo cho các hệ thường đại học công lập, hệ thống đại học Tennessee. Thêm nữa, nhiều đại học tư thục cũng có mặt ở tất cả các nơi trong bang. Phương tiện truyền thông Vận tải Đường bộ Sân bay Đường sắt Đường thuỷ Luật và Chính phủ Chính trị Thể thao Chú thích
Louisiana ( hay ; tiếng Pháp Louisiana: La Louisiane, hay ; tiếng Creole Louisiana: Léta de la Lwizyàn; tiếng Pháp chuẩn État de Louisiane, ) là một tiểu bang tọa lạc ở miền Nam Hoa Kỳ. Louisiana là bang rộng lớn thứ 31 và bang đông dân thứ 25 trong 50 tiểu bang của Hoa Kỳ. Thủ phủ là Baton Rouge, còn thành phố lớn nhất là New Orleans. Louisiana là bang duy nhất của Hoa Kỳ mà phân cấp hành chính được gọi là "parish", tương đương với "county" ở các bang khác. Parish lớn nhất theo dân số là Đông Baton Rouge, và lớn nhất theo diện tích là Plaquemines. Louisiana tiếp giáp với Arkansas về phía bắc, Mississippi về phía đông, Texas về phía tây, và vịnh México về phía nam. Đa phần đất đai của bang được tạo nên từ trầm tích sông Mississippi, tạo nên những châu thổ rộng lớn và những khu vực bát ngát đầm lầy và đồng lầy ven biển. Tại đây có sự phong phú về sinh vật điển hình miền Nam Hoa Kỳ, với ví dụ là các loài cò quăm và cò trắng. Cũng có nhiều loài ếch cây, và cá như cá tầm và cá tầm thìa. Ở nơi cao hơn một chút, cháy rừng là một hiện tượng phổ biến, và ở đó có những khu rừng thông lá dài bạt ngàn và xavan ngập nước. Những điều này hỗ trợ cho sự sinh tồn của một số lớn thực vật, gồm nhiều loài lan và thực vật ăn thịt. Louisiana có nhiều tộc người bản địa hơn bất kỳ bang miền nam nào khác, trong đó bốn được công nhận cấp liên bang, mười được công nhận cấp tiểu bang, và bốn chưa được công nhận. Tên gọi Louisiana được đặt theo tên Vua Louis XIV, trị vì Vương quốc Pháp từ năm 1643 đến 1715. Sau khi René-Robert Cavelier, Sieur de La Salle tuyên bố chủ quyền lưu vực sông Mississippi cho Pháp, ông đã đặt tên cho nó là . Hậu tố -ana (hay -ane) trong tiếng Latinh có nghĩa là "thuộc về (gì đó, ai đó)". Nên cả cụm danh từ này có nghĩa là "thuộc về Louis". Lãnh thổ Louisiana thuộc Pháp xưa kia kéo dài từ Vịnh Mobile xuống tận phía bắc biên giới Canada–Hoa Kỳ và bao gồm cả một phần nhỏ phía tây nam Canada ngày nay.
Nguyễn Phú Trọng (sinh ngày 14 tháng 4 năm 1944) là một chính khách người Việt Nam. Ông hiện đang đảm nhiệm chức vụ Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam; Bí thư Quân ủy Trung ương. Ngoài ra ông còn giữ một số chức vụ khác bao gồm Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Công an Trung ương; Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XV nhiệm kì 2021 – 2026 và là một trong những Đại biểu thuộc Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội. Vào ngày 23 tháng 10 năm 2018, sau khi được Quốc hội Việt Nam khóa XIV bầu làm Chủ tịch nước, ông đã chính thức trở thành người thứ ba trong lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam nắm giữ cả hai chức vụ đứng đầu Đảng Cộng sản và Nhà nước, sau Hồ Chí Minh và Trường Chinh. Tiểu sử Nguyễn Phú Trọng sinh ngày 14 tháng 4 năm 1944 tại thôn Lại Đà, xã Hội Phụ, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc thôn Lại Đà, xã Đông Hội, huyện Đông Anh, Hà Nội) tại một gia đình bần nông và là con út trong số bốn anh chị em. Học vấn Từ năm 1957 đến năm 1963, ông học trường cấp hai và cấp ba Nguyễn Gia Thiều tại huyện Gia Lâm (nay thuộc quận Long Biên, Hà Nội). Năm 1963, ông theo học Khoa Văn tại trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và tốt nghiệp bằng Cử nhân Ngữ văn. Tháng 8 năm 1973, Nguyễn Phú Trọng được cử đi học lớp nghiên cứu sinh về kinh tế chính trị tại Trường Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh). Khóa học sau đó đã kết thúc vào tháng 4 năm 1976. Từ tháng 9 năm 1981 đến tháng 8 năm 1983, ông tiếp tục được cử sang Liên Xô làm nghiên cứu sinh và bảo vệ thành công luận án phó tiến sĩ ở bộ môn Khoa học Lịch sử tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội thuộc Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Акаде́мия обще́ственных нау́к при ЦК КПСС). Năm 1992, Nguyễn Phú Trọng đã được nhà nước phong hàm phó giáo sư và vào năm 2002 ông được phong hàm lên Giáo sư chuyên ngành Xây dựng Đảng. Sự nghiệp chính trị Vào ngày 19 tháng 12 năm 1967, Nguyễn Phú Trọng đã chính thức trở thành đảng viên của Đảng Lao Động Việt Nam. Cơ quan tuyên truyền Từ tháng 12 năm 1967, ông công tác tại tạp chí Học tập (tiền thân Tạp chí Cộng sản), một trong ba cơ quan tuyên truyền quan trọng nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng 8 năm 1983, Nguyễn Phú Trọng từ Liên Xô về nước, tiếp tục công tác ở Ban Xây dựng Đảng của Tạp chí Cộng sản. Sau đó ông được đề bạt làm Phó trưởng ban vào tháng 10 năm 1983 rồi Trưởng ban vào tháng 9 năm 1987, Ủy viên Ban biên tập tháng 3 năm 1989, Phó tổng biên tập tháng 5 năm 1990 và Tổng biên tập tháng 8 năm 1991. Từ ngày 20 đến ngày 25 tháng 1 năm 1994, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng Cộng sản Việt Nam họp ở Hà Nội, ông đã cùng với 19 người khác được bầu bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VII nhiệm kì 1991-1996. Sự nghiệp tại Hà Nội Tháng 8 năm 1996, Nguyễn Phú Trọng được điều làm Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội kiêm Trưởng Ban cán sự Đại học, phụ trách công tác tuyên giáo của Thành ủy. Cũng vào tháng 3 năm 1998, ông lên làm Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, phụ trách công tác tư tưởng - văn hóa và khoa giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng 12 năm 1997, tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, ông được bầu bổ sung vào Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VIII. Từ tháng 8 năm 1999 cho tới hết nhiệm kì của Đại hội VIII năm 2000, ông đã tham gia Thường trực Bộ Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VIII; trực tiếp chỉ đạo việc biên soạn Văn kiện Đại hội IX của Đảng. Vào tháng 1 năm 2000, Nguyễn Phú Trọng nhậm chức Bí thư Thành ủy Hà Nội. Tháng 11 năm 2001, ông cũng kiêm nhiệm thêm chức Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, phụ trách công tác lý luận của Đảng. Từ đầu năm 2003, ông đã trực tiếp chỉ đạo công tác tổng kết 20 năm Đổi Mới, chuẩn bị và biên soạn tiếp Văn kiện Đại hội X của Đảng. Đại biểu Quốc hội Ông còn là Đại biểu Quốc hội Việt Nam từ khóa XI đến khóa XV thuộc đoàn đại biểu Thành phố Hà Nội. Chủ tịch Quốc hội Khóa XI Ngày 26 tháng 6 năm 2006, ông đảm nhận chức vụ Chủ tịch Quốc hội khóa XI do người tiền nhiệm là ông Nguyễn Văn An từ chức để nghỉ hưu sớm. Ngày 29 tháng 11 năm 2006, Quốc hội đã thông qua và phê chuẩn Nghị quyết số 71/2006/NQ-QH11, Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong nhiệm kỳ khóa XI kể cả nhiệm kỳ người tiền nhiệm là Nguyễn Văn An, Quốc hội đã ban hành và sửa đổi 84 bộ luật và 34 pháp lệnh. Quốc hội khóa XI đã thông qua nghị quyết về phương án quy hoạch, xây dựng nhà Quốc hội. Khóa XII Tại kì họp đầu tiên của Quốc hội khóa XII, Nguyễn Phú Trọng đã tái đắc cử Chủ tịch Quốc hội. Tại nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII, Hội trường Ba Đình đã bị tháo dỡ để xây dựng nhà Quốc hội mới, các kỳ họp Quốc hội tiếp theo đã họp ở Hội trường Bộ Quốc phòng trong quá trình xây dựng nhà Quốc hội mới. Tại kỳ họp thứ 3 khóa XII, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội và một số tỉnh liên quan và giải thể tỉnh Hà Tây. Từ sau 1/8/2008, cả nước có 63 đơn vị hành chính bao gồm 5 thành phố trực thuộc Trung ương và 58 tỉnh. Kỳ họp thứ 6 khóa XII, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư Dự án thủy điện Lai Châu. Nghị quyết về chủ trương đầu tư Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Quốc hội khóa XII đã thông qua 67 luật và 14 pháp lệnh đồng thời khóa XII cũng rút ngắn thời gian nhiệm kỳ 1 năm để tiến hành bầu cử Quốc hội khóa XIII cho cùng thời gian với cuộc bầu cử đại biểu HĐND các cấp năm 2011. Ngày 19 tháng 1 năm 2011, ông kiêm thêm chức Tổng bí thư kế nhiệm ông Nông Đức Mạnh. Ngày 23 tháng 7 năm 2011, Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Sinh Hùng đã được bầu làm Chủ tịch Quốc hội. Tổng bí thư Nhiệm kỳ một (2011–2016) Vào ngày 19 tháng 1 năm 2011, ông đắc cử chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam kế nhiệm Nông Đức Mạnh. Hoạt động nội bộ Đảng Đối ngoại Trung Quốc Ngày 11 tháng 10 năm 2011, ông thực hiện chuyến công du đầu tiên đến Trung Quốc với tư cách là Tổng bí thư. Theo TTXVN, 2 ông Hồ Cẩm Đào và Nguyễn Phú Trọng đều đồng ý tránh làm phức tạp tình hình tại biển Đông và bình tĩnh xử lý những bất đồng thông qua đàm phán hòa bình. Phó Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đã đến Việt Nam để cụ thể hóa những kết quả, nhận thức chung mà lãnh đạo Việt - Trung đã nêu khi ông Trọng đến Trung Quốc trong chuyến thăm tháng 10 trước đó. Năm 2015, ông Trọng đã có chuyến thăm đến Trung Quốc, theo TTXVN, hai nhà lãnh đạo nhấn mạnh tiếp tục nỗ lực thực hiện tốt phương châm "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và tinh thần "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt," luôn nắm vững phương hướng phát triển của quan hệ Việt - Trung. Hoa Kỳ Năm 2015, ông Nguyễn Phú Trọng lần đầu công du đến Hoa Kỳ. Ông cũng là Tổng bí thư đầu tiên đặt chân đến Hoa Kỳ. trong chuyến thăm ông đã gặp Tổng thống Obama đây được coi là cuộc gặp lịch sử sau 20 năm bình thường hóa quan hệ ngoại giao Việt – Mỹ, 2 năm thiết lập quan hệ Đối tác toàn diện. Ông còn gặp Phó tổng thống Biden và cựu Tổng thống Clinton. Tại buổi nói chuyện ở Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế, ông đã thẳng thắn nói về về dân chủ tại Việt Nam với học giả Mỹ. Ấn Độ Ngày 20 tháng 11 năm 2013, ông Trọng thăm chính thức Ấn Độ. Chuyến thăm cấp Nhà nước tới Ấn Độ lần này cũng nhằm góp phần vào việc tăng cường quan hệ Việt Nam - Ấn Độ, đưa quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước lên tầm cao mới, thực chất hơn, hiệu quả cao hơn. Nga Trong thời ông Trọng Việt Nam và Nga đã nâng cấp quan hệ lên mức Đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2012.. Trong sự kiện Nga sáp nhập Crimea, Việt Nam đã bỏ phiếu trắng về tuyên bố việc Crimea sáp nhập vào Nga thông qua trưng cầu dân ý là vô hiệu tại Liên hợp quốc. Nhiệm kỳ hai (2016–2021) Hoạt động nội bộ Đảng Ngày 27 tháng 1 năm 2016, Nguyễn Phú Trọng đã tiếp tục tái đắc cử chức vụ trên tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam XII. Trong giữa nhiệm kỳ, Thường trực Ban Bí thư Đinh Thế Huynh đã không xuất hiện trong một khoảng thời gian, nguyên nhân sau đó được ra là ông Huynh nghỉ để chữa bệnh. Ông Trần Quốc Vượng đã được chọn để thay thế vào ngày 2 tháng 3 năm 2018, trước đó ông Vượng đã giữ Quyền Thường trực Ban Bí thư. Chiến dịch chống tham nhũng Kể từ khi giữ chức vụ Tổng Bí thư năm 2016, Nguyễn Phú Trọng đã đề ra một chiến dịch chống tham nhũng quy mô lớn, với hàng ngàn quan chức, bao gồm cả các chính trị gia cao cấp, bị xử lý kỷ luật, miễn nhiệm hoặc bắt giam. Ông ví chiến dịch này với việc "đốt lò", vì vậy nó có tên gọi là "chiến dịch đốt lò". Chiến dịch được các nhà quan sát cho là một nỗ lực của Đảng trong việc giành lại quyền lực và uy thế cũng như củng cố lòng tin của người dân vào chính quyền và sự dẫn dắt của Đảng. Chủ tịch nước (2018–2021) Ngày 23 tháng 10 năm 2018, Quốc hội Việt Nam khóa XIV đã bầu Nguyễn Phú Trọng làm Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ 2016–2021 do người trước đó là Trần Đại Quang đã qua đời, ông trở thành người quyền lực nhất Việt Nam và là người thứ ba trong lịch sử kiêm nhiệm 2 chức vụ quyền lực sau Hồ Chí Minh và Trường Chinh. Vào lúc 15h15 cùng ngày, ông chính thức tuyên thệ nhậm chức. Ngày 28 tháng 12 năm 2018, ông được phân công làm Chủ tịch danh dự của Hội Chữ thập đỏ Việt Nam. Năm 2019, Việt Nam được chọn làm tổ chức Hội nghị thượng đỉnh Triều Tiên – Hoa Kỳ. Ông Nguyễn Phú Trọng đã gặp và tiếp đón cả hai phía. Vào ngày 14 tháng 4 năm 2019, Nguyễn Phú Trọng đã có chuyến công tác cơ sở tại tỉnh Kiên Giang. Tại đây, do lịch trình công tác dày đặc và thời tiết nắng nóng bất thường đã khiến ông lâm bệnh. Theo thông cáo báo chí chính thức của Phát ngôn Viên Bộ Ngoại giao Việt Nam loan báo ngày 25 tháng 4 năm 2019, bà Lê Thị Thu Hằng đã xác nhận rằng "Do cường độ làm việc cao, thời tiết thay đổi đã ảnh hưởng tới sức khỏe của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng [...]". Ngày 25 tháng 4, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân nói rằng sức khỏe của ông đã ổn định, nhưng tại tang lễ của cựu Chủ tịch nước Lê Đức Anh vào ngày 3 tháng 5 ông đã không xuất hiện dù làm trưởng ban. Trong năm 2020, trước đại dịch Covid-19 bùng nổ ông đặc biệt lưu ý "Tuyệt đối không được chủ quan, thỏa mãn" sau khi công tác chống dịch gian qua có chỉ đạo rất kịp thời đạt được những kết quả tích cực. Theo ông để chiến thắng được dịch là sự đoàn kết. Ngày 10 tháng 3 năm 2021, ông Trọng đã tặng Huân chương Lao động hạng ba cho công ty Việt Á theo đề nghị của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về thành tích nghiên cứu, chế tạo và ứng dụng sinh phẩm xét nghiệm RT-PCR. Sau khi bê bối xảy ra ông Nguyễn Xuân Phúc đã thu hồi lại Huân chương này vào ngày 23 tháng 6 năm 2022. Ngày 5 tháng 4 năm 2021, Quốc hội đã miễn nhiệm chức Chủ tịch nước đối với ông dù khóa XIV chưa hết nhiệm kỳ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc sau đó đã được bầu làm Chủ tịch nước kế nhiệm ông. Ông từng là Chủ tịch nước có nhiệm kỳ ngắn nhất Việt Nam cho đến khi ông Phúc từ chức Chủ tịch nước vào ngày 18 tháng 1 năm 2023. Nhiệm kỳ ba (2021–nay) Hoạt động nội bộ Đảng Vào ngày 31 tháng 1 năm 2021, Nguyễn Phú Trọng trở thành trường hợp đặc biệt tái đắc cử Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam nhiệm kì thứ ba liên tiếp tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam dù chức Tổng bí thư bị giới hạn 2 nhiệm kỳ. Ngày 1 tháng 2 năm 2021, Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng dự họp báo. Trả lời câu hỏi của phóng viên về sức khỏe, ông đã chia sẻ: "Tôi hay nói chúc mừng hay chúc lo. Mừng thì mừng rồi nhưng lo nhiều hơn vì sắp tới nhiệm vụ còn lớn, nhiều, khó khăn, phức tạp; còn nhiều nguy cơ, diễn biễn phức tạp chưa lường hết được. Cảm ơn các bạn đã chúc mừng tôi, thứ hai cũng chúc mừng sức khỏe. Đúng đây là nhân tố rất quan trọng, không nói là quyết định để làm việc. Bây giờ tôi không được khỏe lắm, các đồng chí biết, tuổi cũng đã cao, cũng xin nghỉ rồi, thế nhưng Đại hội bầu phải làm, Đảng viên thì phải chấp hành". Ngày 2 tháng 4 năm 2021, Quốc hội đã bỏ phiếu miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch nước của Nguyễn Phú Trọng với 91,25% phiếu bầu. Tuy nhiên, trên thực tế ông vẫn là lãnh đạo cao nhất của đất nước, với tư cách là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại Hội nghị Trung ương 8, Nguyễn Phú Trọng làm trưởng tiểu ban văn kiện và tiểu ban nhân sự chuẩn bị cho Đại hội 14 của Đảng vào năm 2026. Chiến dịch chống tham nhũng Trong nhiệm kỳ thứ ba, ông Trọng được cho là đã đẩy mạnh chiến dịch đốt lò của mình. Liên tiếp các quan chức bị bắt và bị khai trừ khỏi Đảng, nổi bật như Tô Anh Dũng trong bê bối chuyến bay giải cứu hay trong bê bối Việt Á đã có hơn 102 bị can trong đó có ba người của Ủy viên Trung ương Đảng là Nguyễn Thanh Long, Chu Ngọc Anh và Phạm Công Tạc, ông Nguyễn Trường Sơn, thứ trưởng bộ Y tế đã phải xin thôi việc sau khi bị kỷ luật vì bê bối này. Ngày 30 tháng 12 năm 2022, hai Phó Thủ tướng là Vũ Đức Đam và Phạm Bình Minh đã thôi làm Uỷ viên Trung ương Đảng, cả hai cũng thôi làm Phó Thủ tướng vào ngày 5 tháng 1 năm 2023 vì hai ông được cho liên quan đến tham nhũng tiêu cực. Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã phải từ chức trong chiến dịch đốt lò của ông Trọng. Trong buổi gặp mặt các cử tri vào ngày 15 tháng 10 năm 2022, ông nói:"Các bác chờ mấy vụ sắp tới sẽ làm. Có vụ tồn tích lâu rồi, nổi tiếng rồi, thậm chí chạy trốn đi rồi nhưng tôi bảo trốn cũng không thể trốn được. Ngồi đấy chờ mà xem trốn có được không. Ai bao che cũng không được, ai bao che xử lý người bao che. Làm quyết tâm, quyết liệt. Cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng của ta được nhân dân rất hoan nghênh, thế giới nể phục". Đối ngoại Trung Quốc Ngày 30 tháng 10 năm 2022, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Trung Quốc. Ông là nhà lãnh đạo đầu tiên thực hiện chuyến công du đầu tiên đến Trung Quốc sau Đại hội XX. Tại đây, hai nhà lãnh đạo đã đi sâu trao đổi ý kiến chân thành, thẳng thắn về vấn đề trên biển; cho rằng kiểm soát thỏa đáng bất đồng, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông vô cùng quan trọng; nhất trí xử lý ổn thỏa vấn đề trên biển, đóng góp tích cực cho hòa bình, an ninh lâu dài ở khu vực. Chiều ngày 31 tháng 10 năm 2022, ông đã được Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đã trao Huân chương Hữu nghị tại Đại Lễ đường Nhân dân ở thủ đô Bắc Kinh để ghi nhận công lao của ông trong việc duy trì mối quan hệ hữu nghị truyền thống tốt đẹp Trung Quốc và Việt Nam. Nga Khi cuộc chiến giữa Nga và Ukraine nổ ra, Việt Nam giữ quan điểm trung lập. Việt Nam đã bỏ phiếu trắng tại hầu hết các buổi bỏ phiếu của Liên hợp quốc. Trong chuyến thăm kỷ niệm 10 năm thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, Bộ trưởng ngoại giao Nga Sergei Lavrov khẳng định sự coi trọng của Nga đối với quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước, ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN ở khu vực, cảm ơn đóng góp của Việt Nam vào việc thúc đẩy quan hệ Nga-ASEAN trong những năm qua và bày tỏ quan điểm của Nga về các vấn đề quốc tế, trong đó có cuộc xung đột tại Ukraine. Ngày 22 tháng 5 năm 2023, ông Trọng đã hội đàm Chủ tịch Đảng Nước Nga thống nhất, phó chủ tịch Hội đồng an ninh Liên bang Nga Dmitry Medvedev, hai bên đã ra tuyên bố chung về kết quả chuyến thăm chính thức Việt Nam của Chủ tịch Đảng Nước Nga thống nhất Medvedev với mục tiêu tăng cường hợp tác trên các vấn đề khu vực và quốc tế nhằm củng cố hòa bình, an ninh, vì lợi ích của nhân dân hai nước; bảo vệ và tăng cường các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên Hiệp Quốc, tiếp tục thúc đẩy quan hệ song phương trên tinh thần các văn kiện, thỏa thuận đã ký giữa lãnh đạo cấp cao hai nước. Hoa Kỳ Ngày 10 tháng 9 năm 2023, Tổng thống Joe Biden đã có chuyến thăm đầu tiên đến Việt Nam theo lời mời của Nguyễn Phú Trọng, chuyến thăm lần này của Tổng thống Biden đúng vào dịp kỷ niệm tròn 10 năm thiết lập quan hệ Đối tác toàn diện của hai nước. Đồng thời Ban Đối ngoại Trung ương cũng tuyên bố nâng cấp quan hệ Việt-Mỹ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện, đây là trường hợp đặc biệt vì hai nước đã bỏ qua mức Đối tác Chiến lược. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đích thân chủ trì lễ đón chính thức Tổng thống Biden theo nghi thức cao nhất dành cho nguyên thủ quốc gia thay vì Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng chủ trì buổi lễ. Gia đình Nguyễn Phú Trọng có vợ là bà Ngô Thị Mân. Ông có 2 người con, gồm 1 con gái và 1 con trai, và đều là những công chức nhà nước. Tuyên bố Tranh cãi Thời gian kiêm nhiệm Trong sự nghiệp chính trị của mình, Nguyễn Phú Trọng đã bị nhiều người cả trong nước lẫn hải ngoại chỉ trích vì kiêm nhiệm quá nhiều chức vụ qua nhiều nhiệm kỳ. Đáng chú ý là việc ông tái đắc cử nhiệm kì ba liên tiếp chức vụ Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 31 tháng 1 năm 2021 tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam. Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp cho rằng: "Đại hội XIII bầu ông Nguyễn Phú Trọng làm Tổng bí thư khóa 3 liên tiếp, theo tôi là trái Điều lệ Đảng năm 2011 (Điều 17)... Bầu ông Nguyễn Phú Trọng làm Tổng bí thư khóa 3 liên tiếp, sẽ không trái Điều lệ, nếu điều 17 được sửa [...] Làm trái Điều lệ là việc làm sai phạm căn bản - không thể nói khác được." Tuy nhiên, điều này được giải thích một cách dễ dàng bởi trong điều 17 của Đảng Cộng sản Việt Nam có ghi: "Trong trường hợp đặc biệt đã được Đại hội Đảng quyết định, Tổng Bí thư có thể tại nhiệm khóa 3 liên tiếp. Sức khỏe Vào ngày 14 tháng 4 năm 2019, Nguyễn Phú Trọng đã có chuyến công tác cơ sở tại tỉnh Kiên Giang. Tại đây, do lịch trình công tác dày đặc và thời tiết nắng nóng bất thường đã khiến ông lâm bệnh. Theo thông cáo báo chí chính thức của Phát ngôn Viên Bộ Ngoại giao Việt Nam loan báo ngày 25 tháng 4 năm 2019, bà Lê Thị Thu Hằng đã xác nhận rằng "Do cường độ làm việc cao, thời tiết thay đổi đã ảnh hưởng tới sức khỏe của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng [...]". Sau đó vào ngày 25 tháng 4 cùng năm, có thông báo từ Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân về sức khỏe của ông đã ổn định. Tuy nhiên, vào ngày 3 tháng 5 năm 2019, trong lễ quốc tang Đại tướng Lê Đức Anh, ông đã không tới dự mặc dù là Trưởng ban Lễ tang. Hoạt động Đại biểu Quốc hội Tác phẩm Sách Nguyễn Phú Trọng, Trần Đình Nghiêm, Vũ Hiền. Việt Nam từ năm 1986. Nhà xuất bản Thế giới (1995), 116 trang Nguyễn Phú Trọng. Việt Nam trong tiến trình Đổi Mới. Nhà xuất bản Thế giới (2004), 351 trang. Nguyễn Phú Trọng. Đổi Mới ở Việt Nam: Lý thuyết và thực tiễn. Nhà xuất bản Thế giới (2015), 397 trang. Nguyễn Phú Trọng. Đảng vững mạnh, đất nước phát triển, dân tộc trường tồn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật (2015). 1074 trang Nguyễn Phú Trọng, Vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, khó khăn nào cũng vượt qua, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật (2019), 800 trang. Nguyễn Phú Trọng, Quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật (2019), 380 trang. Nguyễn Phú Trọng. Đoàn kết, vững tin đưa đất nước bước vào giai đoạn mới. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật (2021), 752 trang. Nguyễn Phú Trọng. Chuẩn bị thật tốt Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật (2021), 196 trang. Nguyễn Phú Trọng. Toàn Đảng, toàn dân chung sức, đồng lòng xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật (2021), 608 trang. Nguyễn Phú Trọng. Vững bước trên con đường đổi mới - Tập 1. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật (2021). 824 trang. Nguyễn Phú Trọng. Vững bước trên con đường đổi mới - Tập 2. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật (2021). 676 trang. Nguyễn Phú Trọng. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật (2022), 464 trang Nguyễn Phú Trọng, Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật (2023), 600 trang. Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật (2023), 438 trang. Bài báo Nguyễn Phú Trọng. Định hướng xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, 7 trang, 1996. Nguyễn Phú Trọng. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, 2020. Phong tặng Huân chương José Martí của Nhà nước Cuba (2012) Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng (2018) Huân chương Kháng chiến hạng nhất Giải thưởng Lenin 2021 của Đảng Cộng sản Nga., Huân chương Hữu nghị của Nhà nước Trung Quốc (2022) Huy Chương vì sự nghiệp Văn Hóa Huy Chương vì sự nghiệp Báo Chí Huy Chương vì sự nghiệp thế hệ trẻ
Sông Hán hay Hán giang () là con sông lớn ở Hàn Quốc, là con sông dài thứ tư ở bán đảo Triều Tiên sau các sông Áp Lục, Đồ Môn, Lạc Đông. Sông Hán chảy qua khu vực Trung bộ bán đảo Triều Tiên, là hợp lưu của sông Bắc Hán hay Lâm Tân giang - thượng lưu phía bắc của Hán giang bắt nguồn từ núi Kim Cương (Geumgang) ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên; và sông Nam Hán, bắt nguồn từ núi Đại Đức (Daedeok). Sông Hán chảy qua Seoul, thủ đô Hàn Quốc rồi đổ ra biển Hoàng Hải. Sông Hán và vùng phụ cận của nó đóng vai trò quan trọng trong suốt chiều dài lịch sử Triều Tiên. Vào thời Tam Quốc Triều Tiên, các nước đã tranh giành kiểm soát khu vực này bởi sông Hán được xem như con đường giao thương đến Trung Hoa (thông qua Hoàng Hải). Tuy nhiên, hiện nay con sông này không còn được sử dụng cho mục đích hàng hải vì khu vực cửa sông nằm ở biên giới của hai miền, nơi cấm các hoạt động dân sự. Dòng sông này là nguồn cung cấp nước cho hơn 12 triệu người Hàn Quốc. Vào tháng 7 năm 2000, quân đội Hoa Kỳ thú nhận đã đổ hóa chất độc hại xuống dòng sông, tạo nên nhiều làn sóng biểu tình. Nhiều người Việt Nam nhầm tên sông này là "sông Hàn", vì tưởng rằng liên quan đến tên Hàn Quốc vì trong tiếng Hàn, chữ hán 漢 và hàn 韓 là đồng âm Han, gây nhiều nhầm lẫn cho người dịch. Trong khi đó, sông Hàn là tên một con sông tại Đà Nẵng, Việt Nam, nhưng cũng không liên quan đến Hàn Quốc vì Hán tự của sông Hàn (Đà Nẵng) là 瀚. Sông dài 514 km. Ở địa phận Seoul, sông rộng tới 1 km. Có 25 cây cầu bắc qua sông trong phạm vi vùng thủ đô Seoul. Sông nhánh của sông Hán Nhiều con sông từ nơi khác hợp lưu và đổ vào sông Hán. Từ đầu nguồn đến cửa sông Hán có tổng số 920 sông, trong đó có 19 sông cấp quốc gia, 15 sông cấp 1 địa phương và 886 sông cấp 2 địa phương. Sông Namhan là dòng chính của sông Hán, và sông Bukhangang đổ vào sông Hán tại Yangsu-ri, Yangpyeong-gun, Gyeonggi-do. Các nhánh chính của sông Hàn như sau. Đoạn từ đầu nguồn ~ Yangsu-ri Goljicheon (골지천) (Đầu nguồn sông Hàn) Heilcheon (하일천) Imgyecheon (임계천) Songcheon (송천) Odaecheon (오대천) Eocheon (어천) Jijangcheon (지장천) Seokhangcheon (석항천) Pyeongchanggang* Sokchacheon (속사천) Heungjeongcheon (흥정천) Daehwacheon (대화천) Gyechoncheon (계촌천) Jucheongang (주천강) Ssangyongcheon (쌍용천) Mungokcheon (문곡천) Okdongcheon (옥동천) Eogokcheon (어곡천) Maepocheon (매포천) Juknyeongcheon (죽령천) Danyangcheon (단양천) Jecheoncheon (제천천) Jangpyeongcheon (장평천) Wonseocheon (원서천) Gwangcheon (광천) Dongdalcheon (동달천) Dalcheon* (달천) Eumseongcheon (음성천) Yodocheon (요도천) Hanpocheon (한포천) Seomgang* (섬강) Geumgyecheon (금계천) Jeoncheon (전천) Wonjucheon* (원주천) Illicheon (일리천) Seogokcheon (서곡천) Cheongmicheon* (청미천) Geumdangcheon (금당천) Yanghwacheon (양화천) Bokhacheon (복하천)* Heukcheon (흑천) Bukhangang* (북한강) Phần sau Yangsu-ri Phần phía Đông Gyeonggi-do Jeongamcheon (정암천) Gyeongancheon* (경안천) Osancheon (오산천) Gonjiamcheon (곤지암천) Beoncheon (번천) Woosancheon (우산천) Sangokcheon (산곡천) Wolmuncheon (월문천) Wangsukcheon (왕숙천) Sareungcheon (사릉천) Yongamcheon (용암천) Phần Seoul Godeokcheon (고덕천) Seongnaecheon (성내천) Tancheon (탄천) Yangjaecheon (양재천) Jungnangcheon* (중랑천) Buyongcheon (부용천) Uicheon (우이천) Cheonggyecheon (청계천) Banpocheon (반포천) Hongjecheon (홍제천) Bulgwangcheon (불광천) Anyangcheon* (안양천) Mokgamcheon (목감천) Dorimcheon (도림천) Daebangcheon (대방천) Bongcheoncheon (봉천천) Phần phía Tây Gyeonggi-do Changneungcheon (창릉천) Gulpocheon (굴포천) Gyeyangcheon (계양천) Bongseongpocheon (봉성포천) Jangwolpyeongcheon (장월평천) Gongneungcheon* (공릉천) Imjincheon* (임진강) Mageocheon (마거천) Hwanggongcheon (황공천) Hantagang (한탄강) Ganpacheon (간파천) Samicheon (사미천) Nolnocheon (눌노천) Munsancheon* (문산천) * Các phụ lưu được công nhận là sông quốc gia Giao thông Cầu qua sông Hán Từ những năm 1960 đến nay, một số cây cầu bắc qua sông Hán đã được xây dựng. Có tổng cộng 32 cây cầu nằm giữa điểm gặp nhau của sông Bukhangang và Namhangang và điểm mà chúng chảy vào biển Hoàng Hải. Hầu hết được chiếu sáng vào ban đêm cho đến nửa đêm và 1 giờ sáng. Các sông dưới đây được xếp theo thứ tự từ hạ lưu đến thượng nguồn. Phía Tây Gyeonggi-do Cầu Ilsan; 일산대교 (2008) Cầu Gimpo; 김포대교 (1997, liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Korea_Expressway_No.100.svg|20x20px Đường cao tốc vành đai 1 vùng thủ đô Seoul) Khu vực đô thị Seoul Cầu Haengju; 행주대교 (1978 - Cầu Guhaengju, 2000 - Cầu Haengju mới) Cầu Banghwa; 방화대교 (2000, liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Korea_Expressway_No.130.svg|20x20px Đường cao tốc Sân bay Quốc tế Incheon) Cầu đường sắt Magok; 마곡철교 (2010, Đường sắt sân bay Quốc tế Incheon) Cầu Gayang; 가양대교 (2002) Cầu World Cup; 월드컵대교 (2021) Cầu Seongsan; 성산대교 (1980) Cầu Yanghwa; 양화대교 (1965, Cầu Hangang thứ 2) Cầu đường sắt Dangsan; 당산철교 (1983, Tàu điện ngầm Seoul tuyến 2) Cầu Seogang; 서강대교 (1999) Cầu Mapo; 마포대교 (1970) Cầu Wonhyo; 원효대교 (1981) Cầu đường sắt Hangang; 한강철교 (1900, Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 1) Cầu Hangang; 한강대교 (1917, Cầu Hangang thứ nhất) Cầu Dongjak; 동작대교 (1984, Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 4) Cầu Banpo; 반포대교 (1982) Cầu Jamsu; 잠수교 (1976) Cầu Hannam; 한남대교 (1969, Cầu Hangang thứ 3) Cầu Dongho; 동호대교 (1984, Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 3) Cầu Seongsu; 성수대교 (1979 - Cầu Seongsu cũ, 1997 - Cầu Seongsu mới) Cầu Yeongdong; 영동대교 (1973) Cầu Cheongdam; 청담대교 (2001, Tàu điện ngầm Seoul tuyến 7) Cầu Jamsil; 잠실대교 (1972) Cầu đường sắt Jamsil; 잠실철교 (1979, Tàu điện ngầm Seoul tuyến 2) Cầu Olympic; 올림픽대교 (1990) Cầu Cheonho; 천호대교 (1976) Cầu Gwangjin; 광진교 (1936 - Cầu Gwangjin cũ, 2005 - Cầu Gwangjin mới) Cầu Guri–Amsa; 구리암사대교 (2014) Cầu Godeok; 고덕대교 (2023, Đường cao tốc Sejong–Pocheon) Cầu Gangdong; 강동대교 (1991, liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Korea_Expressway_No.100.svg|20x20px Đường cao tốc vành đai 1 vùng thủ đô Seoul) Phía Tây Gyeonggi-do Cầu Misa; 미사대교 (2009, liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Korea_Expressway_No.60.svg|20x20px Đường cao tốc Seoul–Yangyang) Cầu Paldang; 팔당대교 (1995) Cầu quản lý đập Paldang (1974, Hạn chế giao thông: từ 18:00 vào các ngày cuối tuần và các ngày trước ngày lễ đến 24:00 vào ngày lễ, chỉ xe ô tô nhỏ mới có thể đi qua) Đường bộ và tàu điện ngầm Tại Seoul, đường cao tốc Gangbyeon và đường cao tốc Olympic lần lượt được xây dựng ở phía bắc và phía nam của sông Hán. Tuyến 1 (Yongsan ~ Noryangjin), Tuyến 2 (Gangbyeon ~ Jamsillaru, Dangsan ~ Hapjeong), Tuyến 3 (Oksu ~ Apgujeong), Tuyến 4 (Ichon ~ Dongjak), Tuyến 7 (Khu nghỉ dưỡng Ttukseom ~ Cheongdam) và Đường sắt sân bay Quốc tế Incheon (Sân bay Quốc tế Gimpo ~ Digital Media City) đi qua cầu đường sắt, Tuyến 5 (Yeouinaru ~ Mapo, Gwangnaru ~ Cheonho), Tuyến Suin–Bundang (Apgujeongrodeo ~ Rừng Seoul) và Tuyến Seohae đi qua dòng chính của sông Hán bằng một đường hầm chui và Tuyến Gyeongui–Jungang bắc qua sông Bukhangang bằng một cây cầu đường sắt. Các tuyến tàu điện ngầm khác không đi qua dòng chính của sông Hàn, nhưng Tuyến 8, Tuyến Shinbundang dự kiến ​​sẽ đi qua dòng chính của sông Hàn.
Sông Hán hay Hán giang có thể là tên của các con sông: Sông Hán ở trung bộ bán đảo Triều Tiên, chảy qua thủ đô Seoul của Hàn Quốc. Sông nhánh Hán Thủy của Trường Giang tại Trung Quốc.
Sông Đại Đồng là một sông lớn tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Đầu nguồn sông phát xuất từ dãy núi Nangnim ở phía Bắc nước này. Sông sau đó chảy về phía Tây Nam và đổ vào vịnh Triều Tiên tại Nampho. Sông này chảy qua thủ đô Bình Nhưỡng của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Dọc theo sông có những công trình như tháp Chủ Thể (Juche) và quảng trường Kim Nhật Thành. Sông dài khoảng 439 km và thường là khá sâu. Đây là sông dài thứ 5 tại bán đảo Triều Tiên và là sông dài thứ hai tại Triều Tiên. Bình Nhưỡng nằm cách xấp xỉ 110 km về phía trên của cửa sông. Do có lòng song sâu nhất định nên giao thông thủy cũng phát triển trên sông Đại Đồng; tàu lớn có thể theo sông vào đến 65 km trong nội địa, mặc dù vậy, hầu hết chúng đều dừng tại Songrim. Lịch sử Kinh đô của Cao Câu Ly, mà nay nằm trên địa phận Bình Nhưỡng, nằm bên bờ sông Đại Đồng. nhiều di chỉ khảo cổ có niên địa từ thời đồ đá mới và đồ đồng đã được tìm thấy dọc sông, cũng như các di chỉ của Lạc Lãng quận nhà Hán, mà cuối cùng cũng bị Cao Câu Ly chinh phục. Lăng mộ Nakrang, được người Nhật khai quật khi họ đô hộ bán đảo, cho phát hiện thấy một nền văn minh từng phát triển mạnh mẽ tập trung quanh sông Đại Đồng. Vào thời Triều Tiên thuộc Nhật, sông được gọi là Daidō, âm Hán Hòa của chữ Hán tương ứng. Sông cũng từng được gọi với cái tên "Pae". Đập và cầu Năm 1986, chính quyền Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên đã hoàn thành việc xây dựng đập nước Biển Tây (Hải Tây áp môn) dài 8 km, với ba cống và 36 cửa cống, tại đoạn sông Đại Đồng gần Namp'o. Đập đóng vai trò kiểm soát lũ lụt và để cung cấp nước tưới tiêu cho vùng đất mới cải tạo tại vịnh Triều Tiên. Đập đã làm giảm khả năng tự làm sạch của sông và ô nhiễm có xu hướng tập trung trên sông. Các đạp khác, như Nhà máy thủy điện Nyongwon, được xây dựng để cung cấp nguồn điện năng cho đất nước. Tại Bình Nhưỡng, có 6 cây cầu bắc qua sông Đại Đồng, trong đó có cầu Okryu, cầu Rungra, và cầu Taedong. Hình ảnh
Kappa (河童 Hà Đồng), là một loài thủy quái trong truyền thuyết của người Nhật. Kappa là âm đọc tỉnh lược của Kawa wappa, cũng bắt nguồn từ chữ Kawa warawa, đôi khi còn được gọi là Gataro (川太郎 Xuyên thái lang) đều chỉ đứa trẻ con sống ở ngoài sông hay hồ chuôm, hoặc Suiko (Thủy hổ), do mặt của nó nhìn chính diện có hình tròn gần giống mặt hổ. Một con kappa có tóc được gọi là . Có hơn 8 tên khác của kappa ở các vùng khác nhau của Nhật Bản bao gồm kawappa, gawappa, kōgo, mizushi, mizuchi, enkō, kawaso, suitengu, và dangame. Đặc điểm Kappa được miêu tả như một tiểu yêu, một quái vật cao cỡ như đứa trẻ bốn hoặc năm tuổi nặng khoảng trên dưới 20 kg, hình dạng gần giống loài tinh tinh, đầu bờm xờm tóc, mũi dài khoằm,miệng như mỏ quạ, mặt và mắt tròn, có râu màu nâu dưới cằm, da xanh xám có thể thay đổi màu sắc tùy theo môi trường, tay chân có 5 ngón và có màng, bụng có một chiếc túi đựng đồ vật, thân thể có mùi tanh như cá. Kappa sống được cả ở dưới nước và trên cạn. Trên đỉnh đầu có một cái đĩa hình bầu dục đựng nước, khi lên trên cạn nếu cái đĩa này còn đầy nước thì Kappa vẫn còn có sức mạnh. Kappa rất thích ăn dưa chuột, trứng, trái cây và gan người. Môi trường sống của kappa chủ yếu là ở các dòng sông, kênh nước nên Kappa là một con vật bơi rất giỏi, nhưng cũng rất nhanh nhẹn khi lên trên cạn. Kappa được biết đến với hành động lôi người xuống nước và rút gan của họ qua đường hậu môn. Chúng thường gọi nhau bằng âm điệu "quắc, quắc". Nếu trêu chọc chúng sẽ khóc như một đứa trẻ, nếu làm vừa lòng chúng sẽ đền ơn. Mặc dù kappa thỉnh thoảng hãm hại mọi người, nhưng cũng có những câu chuyện về việc Kappa giúp con người. Trong văn hóa Trong đời sống văn hóa của người Nhật Bản Kappa hiện hữu trong nhiều trường hợp, Kappa bơi lội rất giỏi nên người ta hay ví những người bơi giỏi là kappa. Cũng có một câu thành ngữ là "Kappa no kawa nagare" nghĩa là "thậm chí bơi giỏi như kappa cũng có lúc chết đuối". Vì kappa thích ăn dưa chuột, ngày nay trẻ em thôn quê Nhật Bản trước khi ra sông bơi thường quẳng dưa chuột xuống sông làm lễ vật lấy lòng kappa, tránh khỏi bị chúng trêu ghẹo. Trong ẩm thực Nhật có một món Sushi cuộn dưa chuột có tên là kappa maki. Kiểu tóc "Okappa" là một kiểu tóc ở Nhật Bản vì nó trông giống tóc bù xù của loài kappa. Kappa còn là một nhân vật phổ biến trong nhiều truyện tranh (emaki), truyện ngắn, phim hoạt hình của Nhật Bản. Du khách tới Nhật có thể thêm mục đi tìm kappa trong chương trình thăm thú ngoạn cảnh của mình, bằng cách đến vùng Mito hay đi bơi ở trên sông Oise gần Nagoya. Và đặc biệt, Kappa là nhân vật chính trong tiểu thuyết trào phúng xuất sắc mang tên Kappa của nhà văn Nhật Bản Akutagawa Ryunosuke (1892-1927). Trong truyện Tây Du Ký (phiên bản của Nhật), nhân vật Sa Tăng là một kappa.
Daegu (Hàn ngữ: 대구 광역시; Hán-Việt: Đại Khâu, phiên âm Latinh cũ là Taegu và ngày nay là Daegu), là thành phố trực thuộc trung ương lớn thứ tư của Hàn Quốc (sau thủ đô Seoul, Busan và Incheon). Daegu còn được xem là thủ phủ của tỉnh Gyeongsangbuk-do mặc dù xét về mặt hành chính, thành phố này không còn nằm trong địa phận tỉnh. Daegu nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, cách bờ biển khoảng 80 km (50 dặm), gần sông Geumho và nhánh chủ đạo của sông này cùng với sông Nakdong thuộc Gyeongsang. Các lưu vực xung quanh Daegu, nơi thành phố tọa lạc, là đồng bằng trung tâm của khu vực Yeongnam. Trong thời kỳ cổ đại, từng tồn tại một quốc gia nguyên thủy có tên là Thìn Hàn, nơi mà khu vực Daegu hiện tại thuộc về. Sau đó, Daegu là một phần của vương quốc Tân La thống nhất trên bán đảo Triều Tiên. Trong thời kỳ của nhà Triều Tiên, thành phố là thủ phủ của tỉnh Gyeongsang - một trong tám tỉnh truyền thống của đất nước. Daegu là một trong những thành phố mắt xích quan trọng trong nền kinh tế Hàn Quốc những năm 1960-1980 và đặc biệt nổi tiếng với ngành công nghiệp điện tử. Ngoài ra, khí hậu cận nhiệt đới ẩm ướt của Daegu là nơi lý tưởng để sản xuất táo chất lượng cao, do đó, Daegu có biệt danh là Thành phố Apple. Daegu còn được gọi là Thành phố Dệt may với thế mạnh là ngành dệt may đã từng là một trong những ngành công nghiệp trụ cột của thành phố. Hiện nay, cùng với việc thành lập Khu kinh tế tự do Daegu-Gyeongbuk, Daegu hiện đang tập trung vào việc bồi dưỡng cũng như nâng cao các ngành công nghiệp thời trang và công nghiệp công nghệ cao. Daegu là thành phố chủ nhà của Đại hội Năng lượng Thế giới lần thứ 22 vào năm 2013, Giải vô địch Thế giới năm 2011 về Điền kinh và Thế vận hội sinh viên các trường Đại học Thế giới Mùa hè (Summer Universiade) năm 2003. Đây cũng là nơi tổ chức bốn trận đấu tại Giải bóng đá vô địch thế giới 2002. Daegu cũng là nơi đăng cai tổ chức Giải vô địch các môn thể thao trong nhà (World Masters Indoor Championships) vào ngày 19-25 tháng 3 năm 2017. Lịch sử Thời tiền sử và sơ khai Các cuộc điều tra khảo cổ học ở khu vực vùng đô thị Daegu đã tiết lộ một số lượng lớn các khu định cư và chôn cất của thời kỳ đố gốm Mumun giai đoạn tiền sử (khoảng 1500-300 trước Công nguyên). Trên thực tế, một số bằng chứng sớm nhất về việc định cư của Mumun ở Gyeongsangdo đã được khai quật từ Siji-dong và Seobyeon-dong. Dongcheon-dong là một trong những làng nông nghiệp Mumun đáng kể đã được khai quật. Địa điểm Dongcheon-dong có từ thời Trung Mumun (khoảng 850 Công ty 550 trước Công nguyên) và chứa hài cốt của nhiều ngôi nhà hầm mỏ và các lĩnh vực nông nghiệp thời tiền sử. Chôn cất đá Megalithic (mộ đá) cũng đã được tìm thấy với số lượng lớn ở Daegu. Các văn bản lịch sử cổ đại chỉ ra rằng trong thời đại Tiền Tam Quốc (Mã Hàn, Thìn Hàn và Biện Hàn), Daegu là địa điểm của một thủ phủ hoặc chính quyền thành phố được biết đến từ thời đó, có tên là Dalgubeol. Nó được hấp thụ vào vương quốc Tân La không muộn hơn thế kỷ thứ năm. Các dấu tích của bức tường có thể được nhìn thấy, và các di tích đã được khai quật trong Công viên Dalseong hiện tại. Tân La Tân La đã thành công trong việc thống nhất bán đảo Triều Tiên vào cuối thế kỷ thứ 7, một phần nhờ sự hỗ trợ từ quân đội nhà Đường của Trung Quốc. Ngay sau đó, vào năm 689, Vua Sinmun của Tân La xem xét di chuyển kinh đô từ Gyeongju đến Daegu nhưng đã không thực hiện. Sáng kiến này chỉ được biết đến thông qua một dòng duy nhất trong Tam quốc sử ký, một ghi chép lịch sử có giá trị nhất về Triều Tiên thời cổ của nhà sử học triều đại Cao Ly Kim Bu-sik, nhưng nó được cho là cho thấy cả một nỗ lực của vua Tân La để củng cố chính quyền hoàng gia và cố thủ kháng chiến của giới tinh hoa chính trị Gyeongju, đó có thể là nguyên nhân dẫn đến thất bại. Thành phố đã được đặt tên như hiện tại của nó vào năm 757. Vào cuối những năm 1990, các nhà khảo cổ học đã khai quật một phế tích Tân La quy mô lớn ở Dongcheon-dong, Buk-gu. Địa điểm tại Locality 2 bao gồm phần còn lại của 39 tòa nhà cao tầng được bao quanh bởi một hệ thống mương thoát nước. Các máy đào đưa ra giả thuyết rằng địa điểm được củng cố là một trại lính hoặc doanh trại. Các nhà khảo cổ cũng phát hiện ra một ngôi làng thời Tân La rộng lớn có niên đại từ thế kỷ thứ sáu đến thứ bảy sau Công nguyên tại Siji-dong. Thời Tam Quốc và Cao Ly Trong giai đoạn Tam Quốc (Triều Tiên) sau này, 892-936, Daegu ban đầu là kinh đô của Hậu Bách Tế. Năm 927, miền bắc Daegu là nơi diễn ra trận chiến núi Gong giữa các lực lượng của Cao Ly dưới thời Wang Geon và những người của Hậu Bách Tế dưới thời Gyeon Hwon. Trong trận chiến này, các lực lượng của Cao Ly bị đánh tan tác và bản thân Wang Geon chỉ được cứu bởi dũng tướng Shin Sung-gyeom. Tuy nhiên, có vẻ như sự tàn bạo của lực lượng Hậu Bách Tế vào thời điểm này đã thay đổi những người ủng hộ địa phương ủng hộ Wang Geon, người sau này trở thành vua của Cao Ly. Vô số tên địa danh và truyền thuyết địa phương trong khu vực vẫn còn làm chứng cho trận chiến lịch sử năm 927. Trong số này có "Ansim", có nghĩa đen là "sự an tâm", được cho là nơi đầu tiên mà Wang Geon dám dừng lại sau khi thoát khỏi trận chiến, và "Banwol", hay nửa mặt trăng, nơi ông được cho là đã dừng lại và ngưỡng mộ mặt trăng trước khi trở về Cao Ly. Một bức tượng kỷ niệm trận chiến hiện đang tọa lạc ở phía bắc Daegu, cũng như một đài tưởng niệm Sin Sunggyeom. Trong thời kỳ Goryeo, ấn bản đầu tiên của Bát vạn đại tạng kinh được cất giữ tại Daegu, tại đền Buinsa. Tuy nhiên, ấn bản này đã bị phá hủy khi ngôi đền bị cướp phá vào năm 1254, trong chiến tranh Mông Cổ - Cao Ly. Thời Triều Tiên (Joseon) Daegu phục vụ như một trung tâm giao thông quan trọng trong triều đại Triều Tiên. Thành phố đứng ở giữa đường Great Yeongnam chạy giữa Seoul và Busan. Nó nằm ở ngã ba của con đường này và những con đường đến Gyeongju và Jinju. Năm 1601, Daegu trở thành thủ đô hành chính của Gyeongsang, hiện là Daegu, Busan, Ulsan, Gyeongsangbuk, và Gyeongsangnam. Vào khoảng thời gian đó, thành phố bắt đầu phát triển thành một thành phố lớn. Tình trạng này tiếp tục trong gần ba trăm năm. Và thành phố này đã được chuyển đổi thành thủ đô của Gyeongsangbuk kể từ khi Gyeongsang được chia thành hai tỉnh, Gyeongsangbuk-do (phía bắc Gyeongsang-tỉnh) và Gyeongsangnam-do (miền nam) vào năm 1896. Các thị trường thường xuyên đầu tiên của Daegu được thành lập vào cuối thời nhà Triều Tiên. Nổi tiếng nhất trong số này là thị trường thuốc thảo dược Yangnyeongsi. Điều này đã trở thành một trung tâm buôn bán thảo dược ở Joseon, và thậm chí thu hút người mua từ các nước láng giềng. Thương nhân từ Nhật Bản, những người không được phép rời khỏi thung lũng sông Nakdong, đã thuê các sứ giả đến thăm thị trường thay mặt họ. Chợ Seomun nằm ở cổng phía tây của thành phố vào thời điểm đó, là một trong ba thị trường hàng đầu trong thời nhà Triều Tiên. Thời đế quốc Đại Hàn và thuộc địa Nhật Bản Vương quốc Triều Tiên bế quan tỏa cảng cuối cùng đã mở cửa ra thế giới bên ngoài vào cuối thế kỷ 19. Năm 1895, Daegu trở thành địa điểm của một trong những bưu điện hiện đại đầu tiên của đất nước, như một phần của cải cách 'Gab-o' được giới thiệu sau hậu quả của cuộc chiến tranh Thanh-Nhật. Bắt đầu từ cuối những năm 1890, ngày càng nhiều thương nhân và công nhân nước ngoài bắt đầu đến thăm Daegu, nơi nổi lên như một trung tâm giao thông hiện đại của tuyến đường sắt chính đường Gyeongbu mới được xây dựng nối Seoul và Busan. Năm 1905, bức tường pháo đài cũ đã bị phá hủy. Bức tường vẫn chỉ tồn tại trong các tên đường phố như đường phố Dongseongno và Bukseongno, "đường pháo đài phía đông" và "đường pháo đài phía bắc", nơi hiện đang chạy ở nơi bức tường từng đứng. Các phong trào độc lập chống lại sự xâm lược của đế quốc là nổi bật ở Daegu. Những điều này bắt đầu sớm nhất là vào năm 1898, khi một chi nhánh của Câu lạc bộ Độc lập được mở tại thị trấn. Khi sự sụp đổ của Đế quốc Đại Hàn đến gần vào năm 1907, các công dân địa phương do Seo Sang-don lãnh đạo đã tổ chức Phong trào trả nợ quốc gia. Phong trào lan rộng trên toàn quốc, mặc dù không trả được nợ quốc gia thông qua quyên góp cá nhân. Những cuộc đấu tranh vì tự do tiếp tục sau khi Nhật Bản chiếm đóng bán đảo Triều Tiên năm 1910, đáng chú ý là trong phong trào ngày 1 tháng 3 năm 1919. Vào thời điểm đó, bốn cuộc biểu tình lớn đã diễn ra tại Daegu, liên quan đến khoảng 23.000 công dân yêu chuộng hòa bình. Thời hiện đại Vào năm 1946, sự cố tháng 10 ở Daegu đã diễn ra, một trong những rối loạn xã hội nghiêm trọng nhất kể từ khi chính quyền ở Hàn Quốc được thành lập. Một hoạt động của cảnh sát quốc gia Hàn Quốc nhằm kiểm soát những kẻ bạo loạn vào ngày 1 tháng 10 đã dẫn đến cái chết của ba người biểu tình và làm bị thương nhiều người khác, gây ra một cuộc phản công lớn, giết chết tới 38 cảnh sát. Nó cũng là nơi diễn ra các cuộc biểu tình lớn vào ngày 28 tháng 2 năm 1960, trước cuộc bầu cử tổng thống năm đó. Daegu và tất cả các tỉnh Bắc Gyeongsang đã có các hoạt động du kích nặng nề vào cuối những năm 1940, khi hàng ngàn người tị nạn tránh xa cuộc chiến ở tỉnh Jeolla và tìm nơi trú ẩn ở Daegu. Vào tháng 11 năm 1948, một đơn vị ở Daegu đã tham gia cuộc binh biến bắt đầu ở Yeosu vào tháng trước. Trong Chiến tranh Triều Tiên, nhiệu cuộc giao tranh ác liệt xảy ra gần thành phố dọc theo sông Nakdong. Tuy nhiên, do Daegu nằm bên trong Vành đai Pusan nên thành phố vẫn ở trong tay của chính quyền Hàn Quốc trong suốt 3 năm của cuộc chiến. Như trong nhiều khía cạnh khác trong Chiến tranh Triều Tiên, các vụ giết người chính trị của những người bất đồng chính trị đã được phổ biến rộng rãi. Trận Taegu năm 1950 là một trận giao chiến lớn đã diễn ra xung quanh thành phố để quân Hàn Quốc ngăn chặn quân từ Bắc Triều Tiên vượt qua sông Nakdong. Trong nửa sau của thế kỷ XX, thành phố trải qua sự tăng trưởng bùng nổ, và dân số đã tăng hơn mười lần kể từ khi kết thúc chiến tranh Triều Tiên. Thành phố được ủng hộ về mặt chính trị trong thời gian 18 năm cai trị của tổng thống Park Chung-hee, khi thành phố và khu vực xung quanh phục vụ như là cơ sở chính trị của ông. Daegu vô địch các ý tưởng chính trị bảo thủ và phong trào ngày hôm nay và là một cơ sở chính trị cho Đảng Saenuri. Vào những năm 1980, Daegu tách khỏi Gyeongsangbuk-do và trở thành thành phố trực thuộc cấp tỉnh được quản lý trực tiếp (Jikhalsi), và được đổi tên thành Metropolitan City (Gwangyeoksi) vào năm 1995. Hôm nay, Daegu là khu vực đô thị lớn thứ 3 ở Hàn Quốc, cũng như cả dân số và thương mại. Chính trị Hai chính quyền địa phương đang ở trong thành phố, Chính quyền thành phố Daegu ở quận Jung và chính quyền tỉnh Gyeongbuk ở quận Buk. Chính quyền tỉnh sẽ được chuyển đến Andong trong tỉnh thích hợp của nó, Gyeongbuk. Thị trưởng và người đứng đầu tám quận của thành phố được bầu chọn trực tiếp bởi công dân cứ sau bốn năm. Hội đồng thành phố có 29 thành viên, trong đó có 26 thành viên từ cùng một số khu vực bầu cử và ba đại diện theo tỷ lệ. Họ cũng được bầu trực tiếp bốn năm một lần. Hầu hết trong số họ là thành viên của Đảng Tự do Hàn Quốc, đảng chính trị bảo thủ chính ở Hàn Quốc. Daegu là một thành trì của đảng và đã sản sinh ra hai Tổng thống của Hàn Quốc cho đến nay: Roh Tae-woo và Park Geun-hye. Là thủ đô của phe bảo thủ Hàn Quốc, thành phố đã có ảnh hưởng chính trị mạnh mẽ trong các cuộc bầu cử. Hành chính Thành phố Daegu có 7 khu (구 gu) và 1 quận (군 gun). Địa lí Địa hình Daegu nằm trong một lưu vực được bao quanh bởi những ngọn núi thấp. Palgongsan ở phía bắc, Biseulsan ở phía nam, Waryongsan ở phía tây, và một dãy đồi nhỏ ở phía đông. Sông Geumho chảy dọc theo rìa phía bắc và phía đông của thành phố, đổ ra sông Nakdong ở phía tây thành phố. Khí hậu Daegu có một phiên bản mát mẻ hơn của kiểu khí hậu cận nhiệt đới ẩm (Köppen phân loại khí hậu Cwa). Các ngọn núi bao quanh tạo nên lưu vực Daegu, do đó vào mùa hè thành phố mang không khí nóng và ẩm. Tương tự, vào mùa đông, không khí lạnh nằm trong lưu vực. Khu vực này nhận được ít mưa, nhưng lại mưa nhiều vào mùa hè, và nắng nhiều trong suốt cả năm. Dữ liệu thu thập từ năm 1961 cho thấy nhiệt độ trung bình tháng 1, tháng lạnh nhất ở Daegu, là 0,6 °C (33 °F) và tháng 8, tháng ấm nhất, là 26,4 °C (80 °F). Nhiệt độ kỷ lục thấp nhất của thành phố là -20,2 °C (−4 °F), và nhiệt độ kỷ lục cao nhất của thành phố là 40,0 °C (104 °F). Kinh tế Daegu là một thành phố công nghiệp sản xuất. Các ngành kinh tế chính của Daegu là công nghiệp dệt may, luyện kim và chế tạo máy. Trong năm 2010, Daegu có GDP khu vực là 45.387 triệu USD với tốc độ tăng trưởng GDP thực tế là 7,2%. GDP bình quân đầu người mặc dù thấp hơn mức trung bình quốc gia của Hàn Quốc. Nhiều công ty như Ngân hàng Daegu, Hàn Quốc Delphi, Hwasung corp., Và TaeguTec được đặt tại thành phố này, và Samsung và Kolon được thành lập tại đây. Nhiều nhà máy được đặt tại các khu công nghiệp nằm ở phía tây và phía bắc của thành phố bao gồm Khu công nghiệp Seongseo, Khu công nghiệp Tây Daegu và Khu công nghiệp Nhuộm. Thành phố này là trung tâm kinh tế và công nghiệp của khu vực Daegu-Gyeongbuk, một trong những khu vực công nghiệp lớn ở Hàn Quốc. Nó chiếm tới 94% thặng dư thương mại của Hàn Quốc trong năm 2006. Các ngành công nghiệp điện tử ở Gumi và các ngành công nghiệp thép ở Pohang đã cung cấp các dịch vụ tuyệt vời cho thặng dư đó. Các cơ sở sản xuất hàng đầu thế giới cho Samsung Anycall (Samsung Mobile) và các nhà máy chính của POSCO được đặt gần thành phố. Daegu và các thành phố lân cận đã được chính phủ trung ương chỉ định cho Khu kinh tế tự do Daegu-Gyeongbuk vào năm 2008. Đây là công ty chuyên biệt như công ty phần mềm Winitech trong các ngành sản xuất và dịch vụ dựa trên tri thức. Trong lịch sử, Daegu là trung tâm thương mại của phần phía nam của Bán đảo Triều Tiên với Seoul ở trung tâm và Bình Nhưỡng ở phía bắc (hiện thuộc Bắc Triều Tiên), vì vị trí thuận lợi của nó. Một số chợ lớn, truyền thống như chợ Seomun vẫn đang nở rộ trong thành phố. Ngoài ra, Daegu được coi là thành phố kinh tế lớn thứ ba tại Hàn Quốc, sau Seoul và Busan. Tuy nhiên, do sự suy giảm của ngành dệt may, vốn là trung tâm của nền kinh tế của Daegu, tăng trưởng kinh tế chung của thành phố cũng đã giảm. Ngoài ra, thành phố này là khu vực ấm nhất ở Hàn Quốc do khí hậu cận nhiệt đới ẩm. Điều kiện khí hậu này cung cấp cho khu vực nguồn táo chất lượng cao và dưa phương Đông. Ngành công nghiệp trái cây là một hỗ trợ quan trọng cho nền kinh tế địa phương. Do nền kinh tế trì trệ, dân số Daegu đã bắt đầu giảm sau năm 2003. Gần đây, chính quyền địa phương đã bắt đầu tập trung vào việc phục hồi kinh tế và tập trung vào việc cải thiện ngành công nghiệp thời trang thành phố. Ngành thời trang Bắt đầu từ cuối những năm 1990, Daegu đã tích cực nỗ lực để thúc đẩy ngành công nghiệp thời trang của mình dựa trên các ngành công nghiệp sản xuất hàng dệt may thuộc "Thành phố thời trang". Thành phố mở ra nhiều triển lãm liên quan đến ngành công nghiệp thời trang và dệt may, bao gồm Hội chợ Thời trang Daegu và Xem trước tại Daegu hàng năm hoặc nửa năm, và mời các viện quốc gia. Một thị trấn lớn mới chuyên về các ngành công nghiệp dệt may thời trang hiện đang được xây dựng tại Bongmu-dong, phía đông bắc Daegu. Quận, tên chính thức là Esiapolis, nhắm vào trung tâm thời trang của Đông Á. Các tổ hợp dệt may, các tổ chức dệt may thời trang, một trường quốc tế, trung tâm thời trang cũng như các khu dân cư có kế hoạch được phát triển trong huyện. Giáo dục Có 5 trường đại học tại Daegu, trong đó có Đại học quốc gia Kyungpook. Ngôi trường được thành lập vào năm 1946 và là một trong số những trường được công nhận và đánh giá cao bậc nhất trong hệ thống giáo dục đại học ở Hàn Quốc, cùng với Đại học quốc gia Seoul và Đại học quốc gia Pusan. Ngoài ra, Đại học Yeungnam, nằm ở Gyeongsan cận kề, là một trong các đại học tư thục danh tiếng nhất ở Hàn Quốc nằm ngoài thành phố Seoul, cùng với Đại học Keimyung ở Daegu và Đại học Dong-A ở Busan. Viện bảo tàng của Đại học Yeungnam là bảo tàng lớn nhất trực thuộc các trường đại học tại Hàn Quốc. Cơ sở y tế Một số bệnh viện đại học lớn làm cho thành phố trở thành trung tâm y tế của miền đông nam Hàn Quốc. Bệnh viện Đại học Quốc gia Kyungpook, được thành lập với cái tên Daegu-dongin-uiwon vào năm 1907 bởi người Nhật, là bệnh viện nổi tiếng nhất trong thành phố. Bệnh viện Dongsan (trực thuộc Đại học Keimyung), được thành lập như Jejungwon vào năm 1899, là một trong những phòng khám y khoa kiểu phương Tây lâu đời nhất ở Hàn Quốc. Trung tâm y tế Đại học Yeungnam có số lượng giường lớn nhất trong thành phố. Số tiền điều trị hàng năm của các bệnh viện đại học này là lớn thứ hai ở Hàn Quốc sau Seoul. Trung tâm Y tế Đại học Công giáo Daegu cũng được bao gồm trong đó. Tôn giáo Theo điều tra dân số năm 2015, người dân Daegu 50,5% theo Phật giáo và 17,9% theo Kitô giáo (12% theo đạo Tin lành và 5,8% theo Công giáo). 34,7% dân số chủ yếu không theo tôn giáo hoặc theo các tôn giáo bản địa khác Văn hóa Nói chung, Daegu được biết đến như một thành phố bảo thủ. Đồng thời là thành phố nội địa lớn nhất của đất nước bên cạnh Seoul, nó đã trở thành một trong những khu vực đô thị lớn trong cả nước. Theo truyền thống, Phật giáo đã mạnh mẽ; ngày nay vẫn còn nhiều đền chùa. Nho giáo cũng rất phổ biến ở Daegu, với một học viện lớn có trụ sở tại thành phố. Các ngọn tháp chéo trên đỉnh của các nhà thờ Thiên chúa giáo cũng có thể được nhìn thấy trong thành phố. Điểm tham quan Cảnh tượng nổi tiếng nhất của thành phố là tượng phật bằng đá tên là Gatbawi trên đỉnh Gwanbong, Palgongsan. Nó nổi tiếng với gat (mũ) đá (mũ truyền thống của Hàn Quốc). Mọi người từ khắp nơi trên đất nước đến thăm nơi này, vì họ tin rằng Đức Phật sẽ ban cho một ước muốn duy nhất. Về mặt hành chính, địa điểm này nằm ở thành phố lân cận, Gyeongsan, Gyeongbuk. Ở ngoại ô thành phố, những ngọn núi giữ nhiều ngôi đền truyền thống như Donghwasa, Pagyesa và Buinsa. Donghwasa là một ngôi chùa Phật giáo được linh mục Geukdal-hwasang xây dựng vào năm 493, và nhiều cổ vật của thời kỳ này được tìm thấy xung quanh ngôi đền. Trung tâm Thiền du lịch quốc tế là trung tâm theo chủ đề Zen duy nhất của Hàn Quốc. Một số giảng đường hoặc hội trường tưởng niệm như Dodong-seowon (도동 서원; 道 東) và Nokdong-seowon (서원; 鹿 洞 書院) cũng nằm ở ngoại ô. Những ngôi làng cổ đã được bảo tồn, như làng Otgol (khu vực cư trú ban đầu của gia tộc Gyeongju Choi) và làng Inheung (Nampyeong Mun's). Trong khu vực đô thị, các tòa nhà hành chính hoặc giáo dục của triều đại Joseon bao gồm Gyeongsang-gamyeong (감영, 尙 監) và Daegu-hyanggyo (향교, 大邱 鄕 校) cũng vẫn còn. Cửa ngõ chính của thành phố trong thời kỳ đó gọi là Yeongnam-jeilmun (제일, 嶺南 第一 門, có nghĩa là cửa ngõ đầu tiên ở Yeongnam), đã được khôi phục trong Công viên Mangudang. Kiến trúc hiện đại theo phong cách phương Tây như Nhà thờ Gyesan và tòa nhà cũ của Nhà thờ Jeil được bảo tồn trên toàn khu vực đô thị. Nhà thờ Gyesan là tòa nhà thờ gothic lâu đời thứ ba ở Hàn Quốc và là nhà thờ của Tổng giáo phận Công giáo La Mã ở Daegu, một trong ba tổng giáo phận ở Hàn Quốc. Một số tòa nhà, trong Học viện Keisung hiện tại và trường trung học cơ sở / trung học KNU, cũng nổi tiếng. Yangnyeongsi (약령시, 令) ở Namseongno (thường được gọi là Yakjeon-golmok) là thị trường lâu đời nhất về dược liệu Hàn Quốc tại quốc gia có lịch sử 350 năm. Bongsan-dong có một số phòng trưng bày nghệ thuật và studio đang được phát triển thành trung tâm nghệ thuật của thành phố từ những năm 1990. Các địa điểm du lịch gần đó bao gồm Haeinsa Đầm, một ngôi chùa Phật giáo lưu giữ Tam Tạng (một phiên bản khắc gỗ của Tam Tạng và một trong những bộ sưu tập kinh điển hoàn chỉnh lâu đời nhất trên thế giới). Haeinsa nằm trong Công viên Quốc gia Gayasan của Hapcheon, Gyeongnam. Thành phố lịch sử của Gyeongju, Gyeongbuk, thủ đô của vương quốc Tân La cổ đại nằm ở phía đông của Daegu. Núi và công viên Mt. Palgong, Mt. Biseul và Mt. Ap là những ngọn núi đại diện ở Daegu. Apsan, chỉ ở phần phía nam của thành phố, là ngọn núi gần nhất từ ​​khu vực đô thị trong số đó. Nó có nhiều con đường mòn, đền thờ Phật giáo, bảo tàng Chiến tranh Triều Tiên và đi thuyền gondola lên đến đỉnh. Ngoài ra, Waryongsan, Hamjisan và Yongjibong nằm trong thành phố. Chúng phục vụ như công viên khu phố cho người dân. Mt. Palgong có cáp treo lên đỉnh. Ngoài ra còn có những con đường mòn đi bộ theo hướng của Đền Donghwasa và Thung lũng Sutaegol. Trong khu vực đô thị, một số ngọn núi nhỏ và đồi có vai trò tương tự. Công viên Dalseong, nằm bên trong một pháo đài trái đất 1.500 năm tuổi, là một địa điểm lịch sử của thành phố. Nó chứa sở thú duy nhất của thành phố và một số di tích cũng như bức tường. Công viên Duryu hay Duryusan là một khu rừng rộng lớn ở giữa khu đô thị. Nó có Tháp Daegu, Woobang Land, Kolon Bandstand, Sân vận động Duryu và nhiều cơ sở thể thao. Tháp Daegu, còn được gọi là Tháp Woobang hoặc Tháp Duryu, là cấu trúc đương đại cao nhất (202 m) và là biểu tượng của thành phố. Đài quan sát của nó ra lệnh quan điểm tốt của môi trường xung quanh. Woobang Land là công viên giải trí lớn nhất ngoài khu vực thủ đô. Nhiều khu vườn nhỏ nằm ở trung tâm thành phố, như Công viên tưởng niệm phong trào trả nợ quốc gia (Công viên Gukchae Bosang) và Công viên 2 · 28. Công viên cũ bao gồm Dalgubeol-daejong (달구벌 대종, 達 句 伐 大), có nghĩa là chuông lớn Dalgubeol. Chuông được đánh mỗi tuần và năm. Ngoài ra còn có một khu vườn thực vật với nhiều loại cây và hoa. Khu trung tâm và mua sắm Dongseongno (동성로, 路) là trung tâm thành phố Daegu nằm từ ga Daegu đến Jung-ang pachulso (đồn cảnh sát trung tâm) gần ga tàu điện ngầm Banwoldang ở trung tâm thành phố Jung-gu. Nó có ga tàu điện ngầm Jung-angno là ga gần nhất từ ​​trái tim của nó. Giống như tên của nó có nghĩa là đường phố ở pháo đài phía đông, phần phía đông của Daegu-eupseong (읍성, 大邱 邑 城, có nghĩa là Pháo đài Daegu - Công quốc) nằm dọc theo con đường này. Tuy nhiên, pháo đài đã bị phá hủy vào đầu thế kỷ 20. Mặc dù Daegu là thành phố lớn thứ ba hoặc thứ tư của quốc gia, khu vực Dongseongno tạo thành khu vực trung tâm thành phố lớn nhất và rộng nhất trong cả nước, ngoại trừ thành phố thủ đô Seoul. Trong hầu hết các trường hợp, các thương hiệu nổi tiếng mở cửa hàng chi nhánh của họ đầu tiên ở đây ra khỏi khu vực Greater Seoul. Các trung tâm thành phố trong thành phố có sức mạnh và màu sắc thương mại riêng. Khu vực xung quanh ga tàu điện ngầm Khu công nghiệp Seongseo ở Dalseo-gu là nơi tập trung của nhiều điểm vui chơi, và những người trẻ có thể dễ dàng nhìn thấy xung quanh Đại học Quốc gia Kyungpook ở Buk-gu. Deuran-gil (có nghĩa là đường phố bên trong cánh đồng) ở Suseong-gu được biết đến với nhiều nhà hàng. Thành phố có một số cửa hàng bách hóa. Nhiều trong số này thuộc các chuỗi quốc gia hoặc đa quốc gia, nhưng Cửa hàng bách hóa Daegu địa phương cũng điều hành hai chi nhánh, trong khi một chuỗi địa phương khác, Cửa hàng bách hóa Donga hoạt động bốn trong thành phố. Sáu cửa hàng bách hóa trong số họ tập trung tại trung tâm thành phố. Các chợ truyền thống như chợ Seomun và chợ Chilseong bán đủ loại hàng hóa. Bảo tàng Bảo tàng nghệ thuật Daegu Bảo tàng quốc gia Daegu - Một bảo tàng quốc gia đáng chú ý thu thập các di tích được khai quật trong và xung quanh Daegu Bảo tàng Daegu Bangjja Yugi (Đồ đồng Hàn Quốc) Bảo tàng Hengso của Đại học Keimyung Bảo tàng Video Hàn Quốc Bảo tàng Đại học Quốc gia Kyungpook Bảo tàng Đại học Sư phạm Quốc gia Daegu Bảo tàng nghệ thuật nhuộm tự nhiên Rạp hát Nhà hát Opera Daegu - Nhà hát đầu tiên ở Hàn Quốc chỉ để biểu diễn opera Trung tâm nghệ thuật Keimyung - Một trong những nhà hát có quy mô lớn nhất trong thành phố. Trung tâm văn hóa nghệ thuật Daegu Thể thao Vào ngày 27 tháng 3 năm 2007, thành phố đã được chọn để tổ chức Giải vô địch điền kinh thế giới năm 2011. Daegu đã cạnh tranh với các thành phố như Moskva, Nga và Brisbane, Úc để giành được phiếu bầu của Hội đồng IAAF. Sự kiện này là Giải vô địch thế giới IAAF lần thứ tư về điền kinh được tổ chức bên ngoài châu Âu và là giải đấu đầu tiên ở lục địa châu Á. Đây cũng là sự kiện thể thao thứ ba trên toàn thế giới được tổ chức tại Hàn Quốc sau Thế vận hội Mùa hè 1988 tại Seoul và FIFA World Cup 2002 tại Hàn Quốc và Nhật Bản. Daegu cũng đã tổ chức ba trận đấu tại FIFA World Cup 2002 và Đại hội đại học Mùa hè 2003. Thành phố này tổ chức Hội nghị Tiền vô địch đầy màu sắc ở Daegu hàng năm kể từ năm 2005. Sân vận động Daegu là khu liên hợp thể thao lớn thứ hai ở Hàn Quốc với sức chứa 66.422 chỗ ngồi. Sân vận động Daegu Civic đã tổ chức một số trận đấu môn bóng đá tại Thế vận hội Mùa hè 1988. Các đội thể thao Phương tiện truyền thông Có ba đài truyền hình mặt đất trong thành phố: Đài phát thanh KBS Daegu, MBC Daegu và TBC. Đây là những công ty trực thuộc của các đài truyền hình trung tâm ở Seoul giống như các công ty truyền hình địa phương khác ở Hàn Quốc. TBC (Công ty phát thanh truyền hình Taegu) phụ thuộc vào SBS. Chúng na71m toàn bộ để Gyeongsangbuk-do ra khỏi thành phố. Mỗi công ty phát sóng truyền hình đều có đài phát thanh riêng. Giao thông Đường sắt Daegu là trung tâm của giao thông đường sắt nội địa Hàn Quốc. Tuyến đường sắt chính của đất nước, Tuyến Gyeongbu đi qua thành phố. Nhà ga đường sắt lớn nhất trong thành phố, Ga Dongdaegu có lưu lượng hành khách lớn thứ hai ở Hàn Quốc sau Ga Seoul và lưu lượng tàu lớn nhất. Nhà ga đã mở cửa trở lại vào năm 2004 sau khi cải tạo mở rộng phục vụ các chuyến tàu tốc độ cao KTX, các chuyến tàu Saemaul và Mugunghwa. Tất cả các loại tàu trừ KTX khởi hành từ ga Daegu, một tòa nhà hoàn toàn mới với rạp chiếu phim, nhà hàng và cửa hàng bách hóa, nằm gần trung tâm thành phố. Nó có lưu lượng hành khách lớn thứ mười tại Hàn Quốc. Tuyến đường nhánh rẽ từ ga Gacheon của tuyến Gyeongbu. Tàu điện ngầm Thành phố cũng có một hệ thống tàu điện ngầm, bao gồm hai tuyến đường sắt nặng. Tuyến 1 đi qua thành phố từ đông bắc sang tây nam, trong khi tuyến 2 đi từ tây sang đông. Dòng 3 từ tây bắc đến đông nam là một đường ray cao. Tất cả các tuyến đang và sẽ được vận hành bởi Tổng công ty Vận tải đô thị Daegu (DTRO). Một tuyến khác sẽ hoạt động trong một vài năm nữa là một hệ thống đường sắt hạng nặng sử dụng đoạn Gumi trong giai đoạn Gyeongsan Gyeong Gyeong của Tuyến Gyeongbu. Dòng 4 là một kế hoạch tầm xa và sẽ là một đường tròn. Giá vé là 1400 won và 1250 won với thẻ trả trước. Có một chương trình trao đổi miễn phí giữa tàu điện ngầm và xe buýt trong vòng một giờ kể từ lần sử dụng đầu tiên cho người dùng thẻ trả trước. Đường bộ Có hai loại xe buýt là địa phương và hạn chế. Xe buýt nhanh giới hạn có nhiều chỗ ngồi hơn, nhưng thường hành khách phải đứng. Tính đến năm 2017, giá vé xe buýt địa phương khoảng 1.400 won, giá vé xe buýt tốc hành có giới hạn trở lại khoảng 1.800 won. Giảm giá vé có sẵn với một thẻ trả trước. Số tuyến xe buýt được tạo thành với 3 chữ số, mỗi số cho biết khu vực xe buýt phục vụ. Ví dụ: xe buýt số 407 chạy từ khu vực bốn, đến khu vực số 0 và sau đó đến khu vực bảy. Các tuyến khác, thường là thông tư, được đặt tên theo các quận mà xe phục vụ và được đánh số từ 1 đến 3. Lưu lượng xe cộ đôi khi rất lớn, tuy nhiên, các tuyến đường chính xử lý lưu lượng giao thông khá cao mà không gặp quá nhiều khó khăn. Đường hàng không Daegu được phục vụ bởi sân bay quốc tế Daegu nằm ở phía đông bắc Daegu. Các điểm đến quốc tế bao gồm Nhật Bản, Trung Quốc, Đông Nam Á và Vladivostok (Nga). Người nổi tiếng Chính trị gia Hai cựu Tổng thống Roh Tae-woo và Park Geun-hye Đệ nhất phu nhân Kim Ok-sook Nhà tư bản công nghiệp, doanh nhân Nhà sáng lập tập đoàn Daewoo Kim Woo Joong Tỷ phú, nhà phát minh người Nhật gốc Hàn, chủ tịch và nhà sáng lập tập đoàn SoftBank Nhật Bản Son Masayoshi Nhà tôn giáo Stephen Kim Sou-hwan Diễn viên Nữ diễn viên Son Ye-jin Nữ diễn viên Song Hye-kyo Nữ diễn viên Moon Chae-won Nữ diễn viên Kim Hee-sun Nam diễn viên Seo Ji-hoon Nam diễn viên Yoo Ah-in Nam diễn viên Kim Min-jae Nam diễn viên Sung Hoon Vận động viên Cầu thủ bóng đá Park Chu-young Ca sĩ Thành viên Irene của nhóm Red Velvet Thành viên Key của nhóm SHINee Thành viên Kim Junsu của nhóm TVXQ Thành viên Suga, V của nhóm BTS Thành viên Dae Guk Nam Ah Mika, Karam Trưởng nhóm S.Coups của nhóm Seventeen Trưởng nhóm Park Sojin của nhóm Girl's Day Thành viên Bona của nhóm Cosmic Girls Cựu thành viên Kahi của nhóm After School Thành viên Uee của nhóm After School Thành viên Jun. K của nhóm 2PM Thành viên Nancy của nhóm Momoland Thành viên Donghan của nhóm JBJ Ca sĩ Jang Da-hye (Heize) Joohoney của nhóm Monsta X Thành viên Choi Beom-gyu của nhóm TXT Đạo diễn Lee Chang-dong Thành phố kết nghĩa Almaty, Kazakhstan Atlanta, Hoa Kỳ Hiroshima, Nhật Bản Milan, Italia Minas Gerais, Brasil Thanh Đảo, Trung Quốc Sankt-Peterburg, Nga Thẩm Dương, Trung Quốc Plovdiv, Bulgaria Đà Nẵng, Việt Nam Ghi chú Thành phố đặc biệt của Hàn Quốc Daegu
Trong mật mã học, nhà cung cấp chứng thực số (tiếng Anh: certificate authority, viết tắt: CA) là thực thể phát hành các chứng thực khóa công khai cho người dùng. Nhà cung cấp chứng thực số đóng vai trò là bên thứ ba (được cả hai bên tin tưởng) để hỗ trợ cho quá trình trao đổi thông tin an toàn. Các nhà cung cấp chứng thực số là thành phần trung tâm trong nhiều mô hình hạ tầng khóa công khai (PKI). Hiện nay có nhiều CA thương mại mà người dùng phải trả phí khi sử dụng dịch vụ. Các tổ chức và chính phủ cũng có thể có những CA của riêng họ. Bên cạnh đó cũng có những CA cung cấp dịch vụ miễn phí. Phát hành chứng thực CA phát hành các chứng thực khóa công khai trong đó thể hiện rằng CA đó chứng nhận khóa công khai nằm trong mỗi chứng thực thuộc về cá nhân, tổ chức, máy chủ hay bất kỳ thực thể nào ghi trong cùng chứng thực đó. Nhiệm vụ của CA là kiểm tra tính chính xác của thông tin liên quan tới thực thể được cấp chứng thực. Khi người sử dụng tin tưởng vào một CA và có thể kiểm tra chữ ký số của CA đó thì họ cũng có thể tin tưởng vào khóa công khai và thực thể được ghi trong chứng thực. Khi CA có thể bị xâm nhập thì an toàn của hệ thống sẽ bị phá vỡ. Nếu kẻ tấn công (Mallory) có thể can thiệp để tạo ra một chứng thực giả trong đó gắn khóa công cộng của kẻ tấn công với định danh của người dùng khác (Alice) thì mọi giao dịch của người khác với Alice có thể bị Mallory can thiệp. An toàn Việc đảm bảo độ chính xác của thông tin trong chứng thực là rất quan trọng nhưng lại khó thực hiện, đặc biệt khi phần lớn các giao dịch sẽ được thông qua đường điện tử. Vì thế các CA thương mại thường dùng phối hợp nhiều biện pháp để kiểm tra thông tin: dùng các thông tin hành chính (chính phủ), hệ thống thanh toán, các cơ sở dữ liệu của bên thứ 3 và các phương pháp riêng biệt khác. Trong một số hệ thống của doanh nghiệp, thì việc cấp chứng thực có thể thực hiện thông qua một giao thức nhận thực nội bộ (chẳng hạn như Giao thức Kerberos). Sau đó, chứng thực này được dùng để giao dịch với hệ thống bên ngoài. Một số hệ thống khác lại đòi hỏi có sự tham gia của công chứng viên khi cấp chứng thực. Khi được ứng dụng trên quy mô lớn, hệ thống sẽ bao gồm nhiều nhà cung cấp chứng thực số. Giả sử Alice và Bob cần trao đổi thông tin nhưng chứng thực của hai người lại do 2 nhà cung cấp khác nhau tạo ra. Khi đó chứng thực của Bob gửi tới Alice phải bao gồm cả khóa công cộng của nhà cung cấp của Bob và được ký bởi một nhà cung cấp khác CA2 để Alice có thể kiểm tra. Quá trình này sẽ dẫn đến một hệ thống các nhà cung cấp tổ chức theo thang bậc hoặc mạng lưới. Danh sách một vài CA Dưới đây là danh sách một số CA được nhiều người biết đến. Khi sử dụng bất kỳ CA nào thì người sử dụng cũng phải tin vào CA đó. Trong trường hợp một trình duyệt web truy cập vào trang web có chứng thực thì lý tưởng nhất là trình duyệt đó đã nhận biết CA cấp chứng thực. Trong trường hợp ngược lại thì người dùng sẽ đưa ra quyết định có tin vào CA đó hay không. Một số CA tự nhận rằng đã được 99% trình duyệt tin tưởng. VeriSign Thawte GeoTrust GoDaddy CA không thu phí Startcom CACert
Bài này nói về một loài thực vật. Các nghĩa khác, xem bài Chút chít (định hướng). Cây chút chít là một loài cây thân thảo sống lâu năm, mọc rất phổ biến tại các bãi cỏ ở phần lớn các khu vực của châu Âu và nó cũng được trồng làm một loại rau ăn lá. Nó là một loại cây thân mảnh cao khoảng 60 cm, với thân và lá chứa nhiều nước. Nó có các cụm hoa xoắn màu lục ánh đỏ, nở vào giai đoạn tháng Sáu-Bảy. Lá thuôn dài, các lá phía dưới dài khoảng 7–15 cm, có hình gần giống mũi tên tại gốc lá và có cuống lá rất dài. Các lá phía trên không có cuống lá và nói chung có màu trở thành đỏ sẫm. Khi các hoa tăng trưởng về kích thước, chúng trở thành màu ánh tía. Các nhị hoa và nhụy hoa mọc trên các cây khác nhau. Hạt khi chín có màu nâu và sáng. Các rễ lâu năm mọc sâu trong lòng đất. Lá của chút chít bị ấu trùng của một số loài côn trùng thuộc bộ Lepidoptera phá hoại, bao gồm cả Timandra griseata. Cây chút chít đã được con người gieo trồng trong nhiều thế kỷ, mặc dù độ phổ biến của nó ngày càng suy giảm theo thời gian. Do có vị chua nhẹ, nó làm giảm sự khát nước và có thể là có ích trong việc tạo ra sự ngon miệng. Lá của nó ăn được và có thể thêm vào các món xà lách để tăng thêm hương vị. Lá của nó cũng có thể nghiền nhuyễn trong các món xúp và nước xốt và là thành phần cơ bản trong món xúp lòng đỏ trứng của người châu Âu. Trong lá và thân cây chứa axít oxalic, là chất tạo ra hương vị đặc trưng của nó và vì thế có thể bị cấm sử dụng đối với những người bị bệnh thấp khớp, sỏi thận hay sỏi mật. Nó cũng là một loại chất nhuận tràng.
Kappa (chữ hoa Κ, chữ thường κ hoặc ϰ) là chữ cái thứ 10 của bảng chữ cái Hy Lạp. Chữ cái này là nguồn gốc cho chữ K trong tiếng Latinh và chữ К trong bảng chữ Kirin. Ký hiệu Chữ kappa được dùng làm ký hiệu trong nhiều lĩnh vực khoa học. Trong hình học vi phân, độ cong của đường cong được ký hiệu bằng chữ κ. Trong vật lý, các đại lượng thường được ký hiệu bằng chữ κ có hằng số xoắn của một dao động tử, hằng số điện môi của tụ điện. Trong cơ học chất lưu, κ được dùng để ký hiệu hằng số von Kármán.
Tổng công trình sư là người làm công tác kỹ thuật hoặc quản lý có kiến thức tổng hợp hệ thống, có chuyên môn sâu về một ngành và am hiểu rộng các lĩnh vực có liên quan, có năng lực điều hành một hệ thống kinh tế - kỹ thuật cụ thể. Từ nguyên Trong tiếng Việt, thuật ngữ Tổng công trình sư là một từ gốc tiếng Trung "总工程师". Đến lượt mình, từ này bắt nguồn từ một chức danh chính thức trong ngành công nghiệp của Liên Xô "Главный Конструктор" (Glavny Konstruktor), gần tương đương với khái niệm "Chief Designer" trong tiếng Anh. Chú thích
Khuê oán (閨怨) là một trong số bài thơ hay của Vương Xương Linh (? - khoảng 756), một trong những tác giả lớn thời Thịnh Đường trong lịch sử Trung Quốc. Tác giả Vương Xương Linh là người Kinh Triệu, Trường An (nay thuộc tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc). Năm Khai Nguyên thứ 15 (727) đời Đường Huyền Tông (ở ngôi: 712-756), ông thi đỗ Tiến sĩ. Bảy năm sau (734), ông lại đỗ khoa Bác học hoành từ, lần lượt trải chức: Bí thư sảnh, Hiệu thư lang, huyện úy huyện Dĩ Thủy . Năm Khai Nguyên thứ 28 (740), vì phạm lỗi ông bị giáng làm Giang Ninh thừa . Rồi vì những vụn vặt, ông lại giáng làm Long Tiêu úy. Cuối năm 755, tướng An Lộc Sơn dấy binh. Sau đó, Vương Xương Linh trở về làng thì bị viên Thứ sử ở địa phương tên là Lư Khưu Hiển giết chết vì tư thù khoảng năm 756. Ông sở trường thơ thất ngôn tuyệt cú. Xưa nay, với tài thơ thất tuyệt, ông được sánh ngang với Lý Bạch . Thi phẩm 閨怨   閨中少婦不知愁, 春日凝妝上翠樓。 忽見陌頭楊柳色, 悔教夫婿覓封侯。 Khuê oán Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu, Xuân nhật ngưng trang thượng thuý lâu. Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc, Hối giao phu tế mịch phong hầu. Dịch nghĩa Người thiếu phụ nơi phòng khuê không biết buồn, Ngày xuân trang điểm đẹp đẽ bước lên lầu biếc. Chợt thấy màu dương liễu tốt tươi ở đầu đường, Bỗng hối hận đã để chồng đi tòng quân để kiếm phong hầu. Bài thơ có 4 câu, không rõ năm sáng tác, làm theo thể thơ Đường luật, dạng thất ngôn tuyệt cú. Thơ Đường Thơ tuyệt cú Thất ngôn tứ tuyệt
Đáp ứng xung của một hệ thống, như hệ thống cơ học hay hệ thống điện tử, là các quá trình biến đổi trạng thái của hệ thống đó sau khi có tác động vào bởi một xung, thường được mô hình hóa là hàm delta. Ví dụ, việc gõ vào mặt trống là tác động của một xung vào hệ thống cơ học là cái trống, và đáp ứng của hệ thống là dao động tắt dần của mặt trống, phát ra âm thanh. Một ví dụ khác là một hệ điện tử có đầu vào và đầu ra, nhận tín hiệu vào là một xung điện áp, tín hiệu cho ra lúc này chính là đáp ứng xung của hệ thống điện tử. Cơ sở toán học Về mặt toán học, một xung có thể được mô hình hóa là một hàm delta, như hàm delta Dirac hay hàm delta Kronecker. Giả sử hệ thống, được cọi là một hộp đen có toán tử T, biến đổi đầu vào x[n] thành đầu ra y[n]: T là tác vụ tác động lên một chuỗi đầu vào và cho ra một chuỗi đầu ra. T có thể là phi tuyến, ví dụ: hay tuyến tính, ví dụ: . Giả sử T là tuyến tính: và Giả sử T là bất biến dưới các phép biến đổi tịnh tiến, nghĩa là: nếu thì . Với một hệ thống như vậy, thì bất kì đầu ra nào cũng có thể được tính toán dựa trên 2 yếu tố: đầu vào và một chuỗi gọi là đáp ứng xung (chúng đặc trưng cho tính chất của hệ thống một cách đầy đủ). Cụ thể: và áp dụng T lên hai phía Vì T là tuyến tính và bất biến với phép tịnh tiến Vì đầu ra y[k] cho bởi ta có thể viết lại Đặt ta có kết quả cuối cùng Chuỗi chính là đáp ứng xung của hệ thống đó. Và h[n] cũng chính là đầu ra của hệ thống khi đầu vào là hàm delta Kronecker. Kết quả tương tự với hệ thống thời gian liên tục.
Nhà ga hay nhà ga hành khách (tiếng Pháp: gare) là một công trình xây dựng mà tại nơi đây, các phương tiện giao thông đậu để đón trả khách, còn hành khách thì làm thủ tục đi lại. Nhà ga là cơ sở hạ tầng cần thiết trong nhiều loại hình giao thông như nhà ga hàng không, nhà ga tàu hỏa, nhà ga tàu điện... Ga xe lửa Một nhà ga xe lửa thường sẽ có nhà ga, nơi khách có thể ngồi chờ và mua vé,... Một nhà ga cơ bản sẽ có một sảnh; vài cửa hàng (ga dành cho hành khách); các quầy mua hàng, bán vé tàu; các băng ghế chờ; Nhà vệ sinh công cộng. Ở đa số nhà ga hiện nay, nó sẽ có những Kiosk vé tự động. Các nhà ga cũng có sân ga, là nơi để khách đi tàu có thể ngồi chờ, quan sát bảng thông báo và biết được thông tin về tàu, giúp cho khách lên tàu. Ở sân ga, nó sẽ thường có một số băng ghế chờ nhỏ; đồng hồ; bảng (Tivi) hiển thị thông tin đoàn tàu sắp đến; ở phía trên thường sẽ có các mái che; một số ga còn có các cầu bộ hành băng qua đường sắt. Một số nhà ga xe lửa trên thế giới Ga Hà Nội - Việt Nam Ga Tokyo - Nhật Bản Ga Saint-Lazare - Pháp Nhà ga hàng không Nhà ga hàng không là phần nhà chờ lớn tại một sân bay. Nhà ga hàng không là nơi để hành khách ngồi chờ, mua vé, theo dõi thông tin chuyến bay, ngoài ra, hành khách cũng có thể đi mua đồ (thường là đồ lưu niệm). Ở trong một nhà ga tại sân bay, nó thường sẽ có các quầy bán vé; các cửa hàng mua sắm miễn thuế; nhiều quầy ăn uống; sảnh chờ rất lớn với nhiều băng ghế dài; phòng chờ máy bay; kiosk bán vé tự động, khu vực kiểm tra an ninh trước khi lên máy bay; nhà vệ sinh công cộng; các quầy hành lý, thủ tục, check-in;... Một số sân bay trên thế giới Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất - Việt Nam Sân bay Heathrow - Anh Sân bay quốc tế San Francisco - Hoa Kỳ Nhà ga tàu điện Nhà ga tàu điện (Còn gọi là: Nhà ga Metro) là một nhà ga nằm trên tuyến đường sắt đô thị (Metro) và là nơi tiếp nhận các chuyến Metro hàng ngày. Các ga Metro thường nằm ở trên cao hoặc dưới lòng đất. Ở mỗi nhà ga Metro sẽ có cầu thang, hành lang, các kiosk vé, các thiết bị quét thẻ để khách lên tàu, sân ga, các băng ghế chờ,.... Ga Thái Nguyên - Đài Loan Ga Láng - Việt Nam Từ gốc Pháp
Trang này liệt kê những sự kiện quan trọng vào tháng 5 năm 2006. Chủ nhật, ngày 1 tháng 5 Các cuộc biểu tình chống bán đạo luật H.R. 4437 tiếp tục tại Hoa Kỳ vào Ngày Quốc tế Lao động, khi gần một triệu người đình công và ra đường biểu tình đòi quyền cho những người nhập cư bất hợp pháp. Thứ ba, ngày 2 tháng 5 Thủ tướng Ý Silvio Berlusconi từ chức để đối thủ Romano Prodi lên nắm quyền. Tổ chức Giải vô địch bóng đá trong nhà Đông Nam Á 2006 tại Băng Cốc (Thái Lan) Thứ tư, ngày 3 tháng 5 Zacarias Moussaoui lãnh án tù chung thân trong vụ án liên quan đến sự kiện 11 tháng 9 tại Hoa Kỳ. Thứ năm, ngày 4 tháng 5 Nội các mới của Israel, với Ehud Olmert làm Thủ tướng, chính thức nhậm chức sau khi được Quốc hội Israel phê chuẩn. Thứ sáu, ngày 5 tháng 5 Chính phủ Sudan và nhóm phiến loạn chính tại Darfur, Quân Giải phóng Sudan, ký hiệp định hòa bình tại Abuja, Nigeria. Chủ nhật, ngày 7 tháng 5 Đảng Hành động Nhân dân giành 82 trên 84 ghế nghị viện trong cuộc tổng tuyển cử tại Singapore. Thứ tư, ngày 10 tháng 5 Ông Giorgio Napolitano được bầu làm Tổng thống Ý. Thứ sáu, ngày 12 tháng 5 Vụ Bộ An ninh Quốc gia giữ hồ sơ về các cuộc gọi điện thoại trong cơ sở dữ liệu gây ra tranh luận ở Hoa Kỳ. Thứ bảy, ngày 13 tháng 5 Chính quyền Indonesia ra lệnh sơ tán cho các khu vực xung quanh núi lửa Merapi ở miền trung đảo Java vì lo ngại sẽ phun lửa. Tại Washington, D.C., cuộc đàm phán về việc gia nhập WTO của Việt Nam đã đạt được những thỏa thuận trên nguyên tắc, Việt Nam hy vọng có thể gia nhập tổ chức này trong năm nay. Chủ nhật, ngày 14 tháng 5 Bạo động trong các nhà tù tại São Paulo (Brasil) làm trên 52 người thiệt mạng. Thứ ba, ngày 16 tháng 5 Ayaan Hirsi Ali từ chức Nghị sĩ Quốc hội Hà Lan sau khi bị phát hiện bà đã gian dối khi nộp đơn xin tị nạn. Cựu Tổng thống Iraq Saddam Hussein chính thức bị buộc tội ác chống nhân loại tại Tòa đặc biệt Iraq. Thứ tư, ngày 17 tháng 5 Romano Prodi kế nhiệm Silvio Berlusconi làm Thủ tướng Ý, kết thúc giai đoạn chuyển tiếp chua cay. Barcelona đoạt Cúp các đội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu sau khi thắng Arsenal 2–1 trong trận chung kết tại Paris. Justin Gatlin chạy cuộc chạy nhanh 100 m nam trong 9,77 giây, bằng kỷ lục thế giới của Asafa Powell. Thứ năm, ngày 18 tháng 5 Dự án bản đồ gen người xác định xong trình tự của nhiễm sắc thể 1, phần bộ gen cuối cùng. Thứ bảy, ngày 20 tháng 5 Trung Quốc hoàn thành bức tường chính của đập Tam Hiệp, con đập ở tỉnh Hồ Bắc này chắn ngang sông Dương Tử. Thủ tướng Nouri al-Maliki và nội các bắt đầu chính phủ thường trực đầu tiên của Iraq sau khi Saddam Hussein sụp đổ. Thứ hai, ngày 22 tháng 5 Ông Lee Jong-wook, người Hàn Quốc làm Tổng giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), mất vì bệnh tắc mạch máu não. Bộ trưởng quốc phòng Nga xác nhận thông tin Moskva dự định ký một thỏa thuận cung cấp 30 tên lửa cho Iran. Thỏa thuận này đương nhiên gặp sự phản đối quyết liệt từ Hoa Kỳ. Hiện Hoa Kỳ muốn mọi quốc gia không được bán vũ khí cho Iran. Trong khi đó Nga khẳng định các tên lửa Tor-M1 họ bán cho Iran chỉ có thể sử dụng vào mục đích tự vệ. Thứ ba, ngày 23 tháng 5 Tính đến ngày 23 tháng 5, khoảng 204 ngư dân Việt Nam bị chết và mất tích, hàng chục tàu bị chìm do cơn bão Chanchu (cơn bão số 1 của Việt Nam) tràn qua biển Đông. Nhiều người được Trung Quốc cứu thoát. Thanh Niên Lính Úc, Malaysia, New Zealand, và Bồ Đào Nha tới Đông Timor để dẹp yên cuộc nổi loạn ở thủ đô Dili sau khi Tổng thống Xanana Gusmão kêu gọi các nước khác giúp đỡ. Người dân Montenegro tham gia cuộc trưng cầu dân ý ly khai khỏi liên bang Serbia và Montenegro, kết quả chính thức cho thấy 55,5% bỏ phiếu thuận (86,3% cử tri có mặt). Montenegro sẽ trở thành quốc gia độc lập thứ 193. Thứ năm, ngày 25 tháng 5 Kenneth Lay và Jeffrey Skilling bị kết tội do vai trò trong vụ Enron bị sụp đổ. Thứ sáu, ngày 26 tháng 5 Myanmar kéo dài thời gian giam cầm người lãnh đạo đối lập Aung San Suu Kyi tại nhà thêm một năm nữa. Thủ tướng Đức Angela Merkel chính thức mở cửa Berlin Hauptbahnhof, nhà ga chính của Berlin và lớn nhất ở châu Âu. Thứ bảy, ngày 27 tháng 5 Động đất tại đảo Java (Indonesia) làm ít nhất 5.500 người bị thiệt mạng, 20.000 người bị thương, gần 3.000 tòa nhà bị san phẳng. Hai trận động đất khác cũng xảy ra tại Nam Thái Bình Dương. Website của Trung tâm Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ (USGS) thông báo hai trận này có cường độ 6,2 và 6,7 độ Richter, xảy ra tại Papua New Guinea và Tongo. Quân đội Israel cho biết lực lượng vũ trang Liban đã phóng nhiều tên lửa vào một trại lính ở phía bắc Israel. Chủ nhật, ngày 28 tháng 5 Hàng ngàn người thuộc dân tộc Azeri đã biểu tình tại một số khu vực ở miền Tây Bắc Iran để phản đối vụ tranh biếm họa. Tình trạng bạo lực tại Đông Timor tiếp tục gia tăng dù binh lính Úc đã có mặt tại đây. Thứ hai, ngày 29 tháng 5 Năm thành viên thường trực của Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc và Đức sẽ gặp nhau tại Viên (Áo) trong tuần này để bàn về vấn đề Iran. Sau khi tách Serbia và Montenegro, Liên minh châu Âu cho biết họ vẫn không thay đổi thái độ của mình đối với Montenegro trong việc gia nhập Liên minh. Thứ ba, ngày 30 tháng 5 Cộng đồng thế giới viện trợ hơn 47 triệu USD cho đảo Java, còn Việt Nam viện trợ khẩn cấp 1.000 tấn gạo giúp Indonesia. Vài ngày trước, động đất 6,3 độ Richter tại đảo Java làm ít nhất 6.200 người bị thiệt mạng, hơn 20.000 người bị thương, và 647.000 người mất nhà cửa. Một quả bom đã phát nổ cạnh nhà Bộ trưởng Văn hóa Hy Lạp George Voulgarakis. Tại Palestine, Hamas bắt đầu trả lương cho 40.000 công chức. Thứ tư, ngày 31 tháng 5 Ấn Độ đã vượt qua Nam Phi để trở thành nước có đông người sống chung với HIV/AIDS nhất thế giới. UNAIDS ước tính 5,7 triệu người.