text
stringlengths 0
512k
|
---|
RPG-2 là một loại súng chống tăng không giật dùng cá nhân, còn được gọi tại Việt Nam là B40. Loại súng này được sử dụng rộng rãi trong Chiến tranh Việt Nam, sau đó dần dần thay bằng đời sau RPG-7 hay B41. Trong tiếng Nga súng này có tên là ручной противотанковый гранатомёт, viết tắt là RPG-2 (РПГ-2), có nghĩa là "phóng lựu chống tăng xách tay". Phương tây thường dùng thuật ngữ anti tank rocket launcher (có nghĩa là "súng phóng rốc két /tên lửa chống tăng") cho súng này, tuy rằng ở B40 thì phần "tên lửa" rất yếu, chỉ là cái ngòi. Tại Việt Nam, súng có ký hiệu là B-40 vì tên tiếng Việt của súng này là "Bazooka 40 mm" nên được viết tắt là B40. Súng được gọi là "Bazooka" vì cùng loại với loại súng chống tăng tự chế rất nổi tiếng trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất theo nguyên mẫu là 2 khẩu bazooka 1944 của Mỹ mà OSS cung cấp cho Việt Minh. Việt Nam có hai phiên bản là B-40 và B-50. Vì B40 có thể bắn phiên bản đạn PG-2 của Trung Quốc có tên "Kiểu 50".
Lịch sử
RPG-2 được phát triển ở Nga sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Trước và trong chiến tranh thế giới 2, kỹ thuật của người Liên Xô không thể chế tạo được những súng chống tăng vác vai nhỏ gọn hiệu quả. Trước chiến tranh, người Nga phát triển hai loại vũ khí phản lực, một là giàn tên lửa bắn đạn trái phá BM-13 Katyusha nổi tiếng, hai là Model 1935 76 mm DRP, sau này trở thành các súng lớn chống tăng không giật, ngoài ra có lựu đạn lõm chống tăng. Nhưng kiểu súng chống tăng cá nhân lại không có.
Kinh nghiệm chiến trường cho thấy các súng chống tăng cá nhân Panzerfaust của Đức rất đắc dụng. Người Nga dựa vào mẫu một loại vũ khí phổ biến của Đức là Panzerfaust 44 để chế lại với tên mới là RPG. Phiên bản RPG-1 gần như giống hệt Panzerfaust 44, và không được đưa vào trang bị. Còn RPG-2 là loại cải tiến, bắt đầu được trang bị năm 1949.
Súng này vào Việt Nam trong thời kỳ hiện đại hóa quân đội sau 1954. Nó nhanh chóng tỏ ưu thế trước khẩu Bazooka kiểu 1944 do Mỹ chế tạo, được chấp nhận trang bị với tên gọi B-40. Khẩu súng được ưa chuộng vì nó sẽ thừa kế kinh nghiệm đối phó với hỏa lực mạnh của địch bằng cách đánh gần, nối tiếp nhiệm vụ của khẩu Bazooka.
Trang bị
RPG-2 được thiết kế năm 1947, đến năm 1949 thì trang bị rộng rãi trong Quân đội Liên Xô, đến năm 1959 thì dừng trang bị, thay bởi RPG-7. RPG-2 được sử dụng và chế tạo rất rộng rãi, không thể tính hết được những nước đã sản xuất lậu hay có văn bằng, giống hệt hay hơi khác, cũng không thể tính được số lượng sản xuất vì súng rất dễ chế tạo. Súng được trang bị chính thức trong tất cả các nước dùng vũ khí Liên Xô trước đây.
Triều Tiên, Trung Quốc là những nước đầu tiên dùng RPG-2 trong chiến tranh, sau đó đến Việt Nam, Cuba, Ai Cập, Syria... Súng này tham gia vào rất nhiều cuộc chiến tranh và xung đột ở châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Ở một vài nước đến nay vẫn trang bị. Tuy nhiên, nó chưa bao giờ tham chiến ở Liên Xô, quê hương của nó.
Ở Việt Nam, súng này được trang bị với số lượng rất lớn trong thập niên 1960, thông thường, mỗi tiểu đội có một khẩu. Đến cuối Chiến tranh Việt Nam, bộ đội chủ lực Quân đội Nhân dân Việt Nam dùng chủ yếu súng B-41, còn dân quân thì tiếp tục sử dụng B-40 cho tới ngày nay. Trong thời Chiến tranh Việt Nam, súng B-40 có mặt trong thời kỳ khó khăn nhất, thập niên 1960. Ngày đó, nó là khẩu súng chủ lực để diệt xe cộ, công sự. Những chiến thắng đầu tiên tại Vạn Tường đã thể hiện tính năng của súng có thể phá hủy xe tăng đắt tiền, dùng lối đánh du kích chiến thắng kẻ địch đông và nhiều xe pháo.
Trong Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam còn nhiều súng B-40 và B-41 do Việt Nam sản xuất.
Một số tên khác nhau
Các kiểu súng sau đây không khác nhau nhiều, đều bắn được đạn của nhau, thực chất là một súng.
- RPG-2, bắn đạn PG-2 HEAT
- Kiểu 56, bắn đạn Kiểu 50 HEAT. Trung Quốc còn có loại súng lai, súng giống B41 nhưng bắn đạn B40.
- PG-7
- B40.
- B40. Người nước ngoài cho rằng súng chống tăng B40 bắn đạn B50 HEAT, nhưng ở Việt Nam đều gọi súng đạn là B40
Mô tả
Súng
B40 chỉ là một ống mỏng nhẹ dài nhẵn đường kính trong 40 mm. Phía trên ống có thước ngắm và đầu ruồi gập lại được, đỡ vướng khi vận chuyển, dựng lên khí ngắm bắn. Thước ngắm chỉ có 3 mức, xa nhất 150 mét, các mức thước ngắm là các thanh ngang đặt cố định như chiếc thang. Đạn B40 gồm 2 phần, đầu đạn và liều phóng. Trước khi lắp đạn vào súng phải lắp liều phóng vào đạn. Phần cổ đạn có đinh dễ định vị, khi lắp đặt đinh vao vết lõm miệng nòng súng. Súng bắn bằng tư thế vác vai, một tay nắm nòng súng, một tay nắm tay cầm. Tầm bắn 150 mét, nhiều người cho rằng bắn mục tiêu di động chỉ 100 mét, nhưng trên thực tế, súng bắn rất chính xác, một phần do tên lửa chưa đóng góp nhiều vào chuyển động của đạn.
Đạn
Đầu đạn xuyên giáp kiểu liều nổ lõm góc mở rộng, kiểu này nay ít dùng vì sức xuyên so với giáp hiện nay yếu. Nhưng thời Chiến tranh Việt Nam đây là kiểu đầu lõm hiệu quả, sức xuyên ít giảm theo góc chạm, tăng xác suất diệt mục tiêu. Loại đầu đạn này có góc lõm lớn, hội tụ sóng xung kích vào tiêu điểm ở tâm trục dầu đạn. Người ta lót một tấm kim loại nặng ở mặt lõm, tấm này gọi là tấm tích năng lượng, nó tăng tốc độ đến vài km/s xuyên qua giáp, ở B40 làm bằng đồng, sức xuyên 180 mm thép cán. Súng chỉ bắn một loại đạn xuyên PG-2 (PG là đầu nổ chống tăng). Một phần nhờ kiểu góc mở rộng này mà B40 lập rất nhiều chiến công, nó cùng với B41, ĐKZ-82 mm, ĐKZ-73 mm tạo thành nhóm súng diệt nhiều xe cộ nhất sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Đầu đạn được kích nổ bằng ngòi chạm nổ quán tính, ngòi đặt ở phần cổ đạn. Khi đạn đập vào mục tiêu dừng lại, thì khối nặng của ngòi lao vào hạt nổ.
Lắp đạn và liều
Liều bọc trong ống giấy chống ẩm. Tiếng nổ đanh vì B40 sử dụng thuật phóng đơn giản của các Panzerfaust, sử dụng thuốc nổ đen cháy nhanh, áp suất và tốc độ dòng khí tăng rất nhanh. Sau khi lắp liều vào đầu đạn, vuốt các cánh đàn hồi cho cuộn quanh ống đuôi, nhét đạn vào súng, quay cho đúng vị trí đinh khớp, đến đây đạn nằm chặt trong súng. Ban đầu, đạn có sẵn một đai quấn các cánh đuôi, đai này tự động trượt về trước đầu đạn khi nhồi đạn vào súng, không phải thực hiện động tác vuốt cánh đuôi. Khi quay đầu đạn trong nòng phải quay theo chiều kim đồng hồ, nếu ngược lại các cánh đuôi giãn ra rất chặt. Sau khi bắn, 6 cánh ổn định đàn hồi xòe ra.
Ngòi nổ
Đạn có một ngòi quán tính. Ngòi đập nổ hạt nổ, kích nổ trạm truyền nổ RDX rồi kích nổ liều chính. Ngòi nổ đầu đạn B40 có thanh trụ nặng dài, bình thường khóa ở vị trí an toàn. Khi bắn, gia tốc lớn tiến về trước của đầu đạn làm thanh trụ phá khóa an toàn lùi về sau, chuyển sang chế độ sẵn sàng. Khi đập vào mục tiêu đạn bị hãm lại, thanh trụ tiến về trước đập nổ hạt nổ.
Đạn B40
Tên Nga là PG-2 HEAT (ПГ-2, đầu nổ chống tăng). Đạn còn có tên Kiểu 50 (Trung Quốc), một số nước ngoài gọi đạn Việt Nam là B50. Nhưng ở Việt Nam gọi súng và đạn đều bằng tên B40.
Bắn
Để bắn, xạ thủ lên cò bằng cách lấy ngón tay cái ấn búa sau tay cầm xuống. Khóa an toàn bấm ngang tay cầm. Khi bắn búa đập vào kim hỏa, kim hỏa xuyên qua một lỗ dưới súng. Kim hỏa có lò xo mạnh kéo về ngay lập tức sau khi chọc vào hạt nổ, không ảnh hưởng đến di chuyển của đạn trong nòng.
Súng có thể bắn ở một số tư thế: nằm, quỳ, đứng, tựa giá. Không bắn súng trong phòng, trong xe kín. Khi bắn, chỗ kim hỏa có một luồng phụt về bên phải, thoát khí hạt nổ. luồng phụt này yếu, nhưng để sát mắt có thể gây mù. Những người bóp cò tay trái cần bắn đúng yếu lĩnh, đặt súng tiến về phía trước, thước ngắm dựng đứng, ngắm từ trên súng.
Tiếng nổ của liều phóng đanh, rất khó chịu nhưng không nguy hiểm như B41, vì năng lượng của liều phóng thấp. Vì lý do đó, B40 bắn được tốc độ trung bình 6 phát phút, mỗi xạ thủ bắn được nhiều đạn.
Chiến thuật
Súng B40 rất rẻ, cả súng và đạn đều dễ sản xuất. Súng rất dễ sử dụng, có thể bắn nhanh, liên tục nhiều viên, không gây chấn động như B41. Súng cũng rất nhẹ và hiếm khi hỏng hóc. Đạn có thể mang theo nhiều. Người Việt Nam rất giỏi sử dụng súng bằng chiến thuật "bám thắt lưng", đánh rất gần, từ nhiều hướng, di chuyển liên tục, khắc phục tầm gần của súng. Thông thường một tiểu đội có một khẩu, nhưng trong những chiến dịch tấn công lớn dài ngày, người ta trang bị tăng cường 3 tổ trong tiểu đội mỗi tổ 1 khẩu. Bình thường, tiểu đội thành lập tổ hỏa lực mạnh gồm một B40 và một trung liên, đi kèm tiểu đội trưởng mang AK-47. Trong tất cả các trận đánh nổi tiếng của bộ binh chính quy Việt Nam hồi thập niên 1960 đều có mặt B40.
Ở Liên Xô, khi súng còn đang trong biên chế, cách tổ chức hơi khác. Cách tổ chức này xuất phát từ việc Liên Xô không đưa B40 vào biên chế thường xuyên của bộ binh như Việt Nam, chỉ sử dụng trong những nhiệm vụ không thường xuyên. Tổ chiến đấu dùng B40 của Liên Xô có thể 2 hoặc 3 người, trong đó có 1-2 xạ thủ B40 và một cảnh giới. Mỗi xạ thủ mang 1 súng và 3 đạn dựng trong một túi. Cũng có thể mỗi xạ thủ mang thêm một khẩu AK-47. Cũng như Việt Nam, hai xạ thủ có thể thay nhau bắn đảm bảo an toàn, một xạ thủ vẫn có thể bắn được trong khi người kia nạp đạn.
Hạn chế
Súng B40 thuộc những thế hệ đầu tiên của súng phản lực chống tăng. Súng có thuật phóng đơn giản. Tốc độ đầu nòng của súng là 84 hoặc 85 m/s, thật ra đây là tốc độ tối đa của đạn, càng bay xa thì tốc độ càng giảm đi. Vì tốc độ bay của viên đạn khá thấp nên nó dễ bị chặn lại bởi các vật cản như lưới, bao cát, tường vách mỏng. Việc sử dụng lưới thép để chặn quả đạn chống tăng kiểu này đã có từ năm 1945, đạn B40 khi bắn vào lưới sẽ bị mắc lại và không kích nổ. Lưới là loại thường sử dụng trong xây dựng, đan bằng dây thép 3 mm trở lên, mắt lưới khoảng 60 mm trở xuống. Loại lưới hay dùng trong xây dựng cho đến nay ở Việt Nam vẫn gọi là "lưới B40".
Sức xuyên của súng là 180mm, chưa đủ để xuyên thủng giáp trước của xe tăng chủ lực cuối thập niên 1950 như T-54, M48 Patton.
Cơ chế bắn của súng làm đạn không quay được trong nòng. Thuật phóng dùng thuốc nổ đen làm áp suất tăng đột ngột, không thể nhồi nhiều thuốc phóng. Vì những lý do đó, súng không thể bắn chính xác hơn 150 mét, việc tăng tầm cho súng là vô ích và cũng rất khó.
Cấu tạo ngòi nổ quán tính quá đơn giản, dễ bị trục trặc. Ví dụ, một trong những trận đấnh đầu tiên là trận Vạn Tường, có những phát bắn quan trọng nhưng đạn không nổ.
Về chiến thuật, súng bắn tầm rất gần, nhưng lại không bắn được từ phòng hẹp, vì áp suất lượng khí nén tạo ra quá lớn ở không gian chật chội sẽ gây sát thương mạnh cho xạ thủ (thậm chí nguy hiểm đến tính mạng). Khi súng bắn ở ngoài trận địa, sẽ tạo khói của thuốc nổ đen làm lộ vị trí. Những điều đó làm việc sử dụng B40 trở nên nguy hiểm.
Những nhược điểm này làm cho kiểu súng này sớm được thay thế. Tuy cùng đi vào trang bị với AK-47 nhưng B-40 có tuổi phục vụ rất ngắn, chỉ sau 10 năm là nó đã bị thay thế bởi RPG-7 (Việt Nam goi là B-41). B-41 sử dụng cơ chế "phản lực khí động" hoặc "bán khí động", làm đạn quay trong nòng bằng cánh quạt hay rãnh xoắn, giúp tầm bắn xa hơn. Sức xuyên giáp của đạn B-41 cũng cao hơn hẳn, ngòi nổ cũng đáng tin cậy hơn.
Các quốc gia và vùng lãnh thổ sử dụng B40
... và rất nhiều nước khác |
Đội tuyển bóng đá quốc gia Cộng hòa Séc () là đội tuyển bóng đá quốc gia do Hiệp hội bóng đá Cộng hòa Séc điều hành. Sau khi Tiệp Khắc bị giải thể và tách ra thành Cộng hòa Séc và Slovakia, đội tuyển quốc gia Cộng hòa Séc đã ra đời.
Cộng hòa Séc đoạt giải nhì Euro 96, lọt vào bán kết Euro 2004 và vị trí thứ 3 của Confed Cup 1997. Năm 2006 đội lọt vào vòng chung kết World Cup lần đầu tiên với tư cách là quốc gia độc lập.
Sân vận động
10 thành phố khác nhau đã tổ chức các trận đấu của đội tuyển quốc gia Cộng hòa Séc từ năm 1994 đến năm 2011. Sân vận động Generali Arena của AC Sparta Praha là phổ biến nhất. Tính đến ngày 3 tháng 6 năm 2014, đội đã chơi 36 trên 92 trận sân nhà ở đó. Từ năm 2012, các trận đấu cạnh tranh cũng đã tổ chức tại Doosan Arena, Plzeň.
Các sân vận động đã tổ chức các trận đấu bóng đá quốc tế của Cộng hòa Séc:
Giải đấu
Giải vô địch thế giới
*Tính cả các trận hòa ở các trận đấu loại trực tiếp phải giải quyết bằng sút phạt đền luân lưu.
Giải vô địch châu Âu
*Tính cả các trận hòa ở các trận đấu loại trực tiếp phải giải quyết bằng sút phạt đền luân lưu.
Cúp Liên đoàn các châu lục
*Tính cả các trận hòa ở các trận đấu loại trực tiếp phải giải quyết bằng sút phạt đền luân lưu.
UEFA Nations League
Cầu thủ
Đội hình 26 cầu thủ dưới đây tham dự UEFA Euro 2020.
Số liệu thống kê tính đến ngày 3 tháng 7 năm 2021 sau trận gặp .
Từng triệu tập
INJ = Rút lui vì chấn thương.
PRE = Đội hình sơ bộ.
RET = Đã giã từ đội tuyển quốc gia.
Kỷ lục
Tính đến ngày 4 tháng 9 năm 2016.
Cầu thủ in đậm vẫn còn thi đấu ở đội tuyển quốc gia.
Khoác áo nhiều nhất
Ghi nhiều bàn thắng nhất
Chú thích
Séc
Bóng đá |
Lee Chun-Soo (sinh ngày 9 tháng 7 năm 1981) là cầu thủ bóng đá Hàn Quốc. Anh là thành viên chủ chốt của đội tuyển Hàn Quốc tại giải vô địch bóng đá thế giới 2002 và Thế vận hội Mùa hè 2004. Sau giải vô địch bóng đá thế giới, Lee chuyển sang Real Sociedad của Tây Ban Nha, trở thành người Hàn Quốc đầu tiên chơi cho giải La Liga của Tây Ban Nha. |
Ahn Jung-Hwan (Hangul: 안정환; sinh ngày 27 tháng 1 năm 1976 tại Paju, Gyeonggi) là một cựu cầu thủ bóng đá người Hàn Quốc, anh nổi tiếng với việc ghi bàn thắng vàng cho đội tuyển Hàn Quốc trong trận gặp Ý tại vòng hai World Cup 2002 đồng thời đưa tuyển Hàn tiến vào tứ kết.
Vào thời gian đó, Ahn đang được câu lạc bộ thuộc Giải hạng nhì bóng đá Ý Perugia mượn, tuy nhiên cú đánh đầu của anh vào những phút bù giờ đã khiến cho đội tuyển từng ba lần vô địch phải chia tay World Cup. Ngay hôm sau, chủ tịch của Perugia lúc bấy giờ là Luciano Gaucci đã hủy hợp đồng của anh và tuyên bố trước báo giới rằng: "Tôi không có ý định trả lương cho ai đó đã phá hoại nền bóng đá Ý".
Perugia sau đó rút lại lời nói này, và đề nghị một bản hợp đồng công khai với Ahn. Nhưng Ahn đã từ chối, anh nói rằng "Tôi sẽ không bao giờ bàn đến việc chuyển nhượng của tôi đến Perugia, câu lạc bộ đã xúc phạm tôi thay vì chúc mừng tôi vì bàn thắng tại World Cup".
Ahn sau đó cố gắng đến một câu lạc bộ khác ở châu Âu nhưng không thành công, anh trở lại châu Á, gia nhập J. League với đội Shimizu S-Pulse. Sau một mùa bóng, anh chuyển tới một câu lạc bộ khác cũng của J. League là Yokohama F Marinos. Sau thời gian thành công này ở Nhật, anh quay lại châu Âu để chơi cho câu lạc bộ FC Metz của Pháp vào tháng 7 năm 2005.
Trước khi chuyển đến châu Âu, Ahn đã chơi ở K-League cho câu lạc bộ Daewoo Royals, đội bóng này sau đó đổi tên thành Busan I'Park.
Vào ngày 16 tháng 1 năm 2006 Ahn được mời tập luyện tại Blackburn Rovers nhưng cả hai lần đều không xuất hiện, một trong những ngày đó là sinh nhật của anh.
Vào tháng 2 năm 2006, anh ký hợp đồng 17 tháng với MSV Duisburg của Đức. Tuy nhiên, câu lạc bộ này bị xuống hạng Bundesliga và Ahn thất bại trong việc chuyển tới Hearts của SPL và thêm vài câu lạc bộ tại châu Âu khác. Anh sau đó được MSV giải phóng hợp đồng.
Năm 2006, do Ahn không thể tìm được một câu lạc bộ phù hợp ở châu Âu nên anh đã quay trở lại, lần này là để đầu quân một trong những câu lạc bộ hàng đầu châu Á - Suwon Samsung Bluewings, với hợp đồng 1 năm bắt đầu từ tháng 1 năm 2007.
Ahn đã kết hôn với cựu Hoa hậu Hàn Quốc, Lee Hye-Won. Họ có một con gái sinh vào tháng 4 năm 2004.
Ngày 31 tháng 1 năm 2012, Ahn Jung-hwan chính thức giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế.
Thống kê sự nghiệp |
Tầng vật lý (physical layer - còn có thể gọi là tầng thiết bị, hoặc tầng vật thể) là tầng thứ nhất trong bảy tầng mô hình OSI. Tầng này chịu trách nhiệm ứng đối với các đòi hỏi về dịch vụ từ tầng liên kết dữ liệu.
Tầng này ám chỉ đến phần cứng (hardware) của mạng truyền thông, đến hệ thống dây nối cụ thể, hoặc đến sự liên kết viễn thông điện từ. Tầng này còn xử lý thiết kế điện, khống chế xung đột (collision control), và những chức năng ở hạ tầng thấp nhất.
Tầng vật lý là hạ tầng cơ sở của mạng truyền thông, cung cấp phương tiện truyền tín hiệu thô sơ ở dạng bit. Hình dáng của các nút cắm điện (electrical connector), tần số để phát sóng là bao nhiêu, và những cái thuộc hạ tầng tương tự, được xác định ở đây. Một ví dụ tương tự của tầng này là ví dụ về hạ tầng của một mạng lưới bưu phẩm, bao gồm việc xác định những thứ như giấy thư và mực chẳng hạn.
Chức năng và dịch vụ chính mà tầng vật lý giải quyết là:
Thiết lập và ngắt mạch một liên kết viễn thông trên một phương tiện truyền thông;
Tham gia vào một tiến trình trong đó tài nguyên được nhiều người sử dụng cùng một lúc, chẳng hạn phân giải sự tranh chấp (contention) và khống chế luồng (flow control);
Biến đổi thể dạng của dữ liệu số (digital data) trong thiết bị của người dùng đồng bộ với tín hiệu được truyền qua đường truyền thông (Communication channel).
Hạ tầng phát tín hiệu (Physical signaling sublayer)
Trong một mạng cục bộ (local area network) (LAN) hoặc trong một mạng đô thị (metropolitan area network) (MAN) dùng kiến trúc của kết nối các hệ thống mở (open systems interconnection) (OSI), hạ tầng phát tín hiệu là một phần của tầng vật lý, và tầng này:
Giao diện với tầng con MAC (medium access control sublayer)
Thi hành việc mã hóa ký tự (character encoding), truyền thông (transmission), thu nhận tín hiệu, và giải mã (đecoding)
Có thể thi hành thêm chức năng cách ly.
Nguồn: từ Federal Standard 1037C
Ví dụ
EIA standards: RS-232, RS-422, RS-423, RS-449, RS-485
ITU Recommendations: xem ITU-T
DSL
ISDN
T1 and other T-carrier links, and E1 and other E-carrier links
10BASE-T, 10BASE2, 10BASE5, 100BASE-TX, 100BASE-FX, 100BASE-T, 1000BASE-T, 1000BASE-SX and other varieties of Ethernet
Varieties of 802.11
Ví dụ phần cứng
Bộ lặp (repeater)
Modem
Card mạng
Hub
Chú ý: Tầng vật lý
Liên quan đến sự truyền thông luồng dữ liệu bit không có kết cấu cụ thể, trên tuyến truyền thông. Chịu trách nhiệm về cơ lý, điện lý, và các tính năng quy trình, hòng thiết lập, giữ gìn và ngắt mạch tuyến truyền thông. |
Tháp nước Phan Thiết (còn được gọi dân gian là Lầu Nước) là một công trình kiến trúc nổi tiếng ở Phan Thiết mà ngày nay là biểu tượng (điểm mốc) của thành phố này cũng như của tỉnh Bình Thuận. Hình ảnh của nó được vẽ cách điệu trên biểu trưng của tỉnh Bình Thuận.
Tháp nước Phan Thiết được xây dựng theo chủ trương quy hoạch đô thị của chính quyền thực dân Pháp, nhằm phục vụ cung cấp nước sinh hoạt cho Tòa Công sứ Pháp (nay là trụ sở Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Thuận) và rộng ra là cả cư dân nội thị Phan Thiết.
Công trình này được khởi công xây dựng vào cuối năm 1928 và hoàn thành vào đầu năm 1934 ngay bên tả ngạn sông Cà Ty, do Hoàng thân Souphanouvong người Lào thiết kế. Khi ấy, ông này là du học sinh Trường Trung học Albert Sarraut ở Hà Nội. Bản vẽ thiết kế kiến trúc của ông được Sở Công chánh Hà Nội duyệt và công trình được đưa ra đấu thầu xây dựng. Hồ sơ dự thầu có hai nhà thầu người Pháp và hai nhà thầu người Việt. Trong số đó, nhà thầu Ưng Du (người gốc Huế, làm việc ở Bình Thuận) đã trúng thầu và tiến hành thi công.
Thiết kế
Có những chữ "U.E.PT" (viết tắt của "Usine Des Eaux de Phan Thiet") được kiến trúc bằng các mảnh sứ chén kiểu ngày xưa ghép lại theo lối viết chữ hình tròn chạy quanh tháp nước.
Chi tiết khác
Ngày nay, Tháp nước Phan Thiết không còn giữ chức năng chứa và cấp nước sinh hoạt nữa, thay vào đó, nó trở thành di tích lịch sử của tỉnh Bình Thuận, trên đỉnh có treo quốc kỳ Việt Nam và lá cờ đảng Cộng sản. Bên cạnh đó, rất nhiều doanh nghiệp tại tỉnh này thường cũng lấy hình ảnh tháp nước để đặt trên biểu trưng của họ để định vị địa lý.
Mỗi ngày làm việc trong tuần, tháp nước phát ra tiếng còi to và dài lúc 7 giờ sáng và 5 giờ chiều để báo giờ hành chính (hiện tại đã không còn sử dụng để báo giờ); và một hồi còi đặc biệt vào thời điểm giao thừa Tết Nguyên Đán. |
Stuttgart là thành phố nằm phía nam nước Đức và là thủ phủ của bang Baden Württemberg. Với dân số ước tính 590.000 người (tháng 9/2005) Stuttgart là thành phố lớn nhất của bang Baden Württemberg và là thành phố lớn thứ sáu của Đức. Với Quốc hội bang, chính phủ bang cũng như nhiều cơ quan của bang, Stuttgart là trung tâm chính trị của Baden Württemberg.thành phố lớn gần đó là Frankfurt am Main (204 km về hướng tây-bắc) và München (220 km về phía đông-nam).
Stuttgart là thành phố trực thuộc bang và cũng là trụ sở của khu vực hành chính Stuttgart (4.007.385 dân cư, 30 tháng 6 năm 2005) và vùng Stuttgart (2.666.849, 30 tháng 6 năm 2005) cũng như là của giám mục Tin Lành Württemberg và của Công giáo (giáo xứ Rottenburg Stuttgart).
Chú thích
Thành phố của bang Baden-Württemberg
Stuttgart (vùng)
Thủ phủ bang Đức
Thị trấn spa ở Đức
Württemberg
Đế quốc La Mã Thần thánh thế kỷ 10 |
Lăng Lenin (Tiếng Nga : Мавзолей Ленина) là nơi bảo quản và lưu giữ thi hài của Vladimir Ilyich Lenin, qua đời vào năm 1924. Lăng là công trình xây dựng mới nhất tại trung tâm Quảng trường Đỏ tại thủ đô Moskva của Nga. Lăng là biểu tượng cho chủ nghĩa cộng sản tại Liên Xô (sau này là Nga) và trên thế giới.
Lịch sử xây dựng
Đầu tiên lăng được làm bằng gỗ.
Trong những năm Chiến tranh vệ quốc vĩ đại 1941 thi hài Lenin được sơ tán về vùng Ural.
Từ năm 1953 đến năm 1961 trong lăng có cả thi hài Iosif Vissarionovich Stalin, vì vậy thời kỳ đó gọi là Lăng Lenin và Stalin. (Tiếng Nga: Мавзолей Ленина и Сталина)
Sau đó Stalin được đưa ra khỏi lăng trong thời kỳ xét lại trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô.
Phí tổn
Phí tổn để chăm sóc thi hài và duy trì lăng tốn khoảng 1,5 triệu Dollar mỗi năm, từ 1991 được trả từ một quỹ tư nhân.
Những lần phá hoại trong lăng
Ngày 1 tháng 9 năm 1973, một kẻ khủng bố đã cho nổ bom tự chế tạo trong lăng, làm một số người bị thương nhưng thi hài Lenin không bị sao.
Ngày 20 tháng 1 năm 2015, hai nghệ sĩ người Nga bị cảnh sát bắt giữ sau khi hai người này thực hiện hành vi hắt nước thánh vào tường lăng Lenin và hét to "hãy sống lại và rời đi". |
Hannover (theo tiếng Đức) hoặc Hanover (theo tiếng Anh) nằm trên dòng sông Leine, là thủ phủ của bang Niedersachsen, Đức. Hanover có diện tích 204.010 km² với dân số 516.227 người (11/2005). Hannover là trụ sở của nhiều trường đại học và là một trung tâm dịch vụ, thương mại và công nghiệp quan trọng. Hội chợ CeBIT và Hội chợ Hannover là hai hội chợ quốc tế lớn được tổ chức hằng năm tại đây. Agritechnica, triển lãm kỹ thuật nông nghiệp quan trọng nhất thế giới, được tổ chức hai năm một lần vào tháng 11 của năm lẻ. Lễ hội bắn súng Hannover, lễ hội dành cho những người bắn súng lớn nhất thế giới, cũng được tổ chức hằng năm tại thành phố này.
Thành phố Hannover là một phần của vùng đô thị Hannover-Braunschweig-Göttingen, vùng đô thị lớn thứ tư của Đức.
Hanover và vùng phụ cận
Hanover nằm trong thung lũng của khu vực Berglands ở phía bắc của Tiefland, nằm ở vĩ độ 52°22'28 độ bắc và kinh độ 9°44'19 độ đông. Phía tây nam của thành phố giới hạn bởi vùng núi Weserbergland với hoàng thổ màu mỡ, ở phía bắc với địa hình nhiều cát và đầm lầy của ở khu vực Burgdorf-Peiner và Hannoversche Moor Geest trong khu vực thành phố.
Địa hình địa lý tự nhiên và hạ tầng giao thông ở Hanover tạo nên các điều kiện tốt cho sự phát triển của Hanover, từ 1 ngôi làng nhỏ trở thành 1 thành phố lớn của nước Đức. Vào thời Trung cổ, một tuyến thương mại Bắc - Nam rất cần thiết đã được mở từ thung lũng Leine đến Ortsstelle và Flussfurt. Vào thế kỷ 19, hệ thống đường sắt đã đi theo đó được mở ra, và thông qua việc xây dựng kênh đào Midland như một kết nối đông-tây đã đưa Hanover trở thành một dấu mốc của con đường giao thương quan trọng này vào thế kỷ 20. Điều tương tự này cũng áp dụng cho các phương tiện giao thông đường phố thông qua các điểm nút trên đường cao tốc A2 và A7 gần Hanover.
Chú thích |
Opera là một trình duyệt web và cũng là một bộ phần mềm Internet được phát triển bởi Opera Software, hiện được hơn 270 triệu người sử dụng trên thế giới. Trình duyệt này bao gồm các tác vụ liên quan đến Internet như hiển thị web, gửi và nhận thư điện tử, tin nhắn trên IRC, quản lý danh sách liên hệ, tải tập tin thông qua BitTorrent và trò chuyện trực tuyến. Opera được cung cấp miễn phí cho máy tính cá nhân và điện thoại di động.
Opera là trình duyệt web được sử dụng phổ biến nhất tại Belarus. Opera Mini là trình duyệt cho điện thoại được sử dụng phổ biến nhất trong tháng 5 năm 2012 và đã được chọn làm trình duyệt tích hợp sẵn trong một số dòng điện thoại.
Các tính năng của Opera bao gồm duyệt web theo thẻ (tab), phóng to trang, sử dụng cử chỉ chuột (mouse gestures) và được tích hợp sẵn trình quản lý download. Các tính năng an toàn bao gồm chống trang web giả mạo và phần mềm ác ý (malware), cho phép xóa dữ liệu cá nhân như HTTP cookies. Nhiều tính năng ban đầu chỉ có trong Opera sau đã có mặt trong nhiều trình duyệt web khác.
Opera chạy trên một loạt các hệ điều hành dành cho máy tính cá nhân như Microsoft Windows, Mac OS X, Linux và FreeBDS. Các phiên bản của Opera hiện cũng có mặt cho phép chạy trên các thiết bị sử dụng Maemo, Bada, BlackBerry, Symbian, Windows Phone, Android, iOS và Java ME. Đã có khoảng 120 triệu điện thoại di động bán ra trên thế giới được tích hợp sẵn Opera. Opera là trình duyệt thương mại duy nhất có mặt trên các máy chơi game Nintendo DS và Wii. Một số Set-top box (thiết bị giải mã tín hiệu truyền hình) sử dụng Opera. Công nghệ Opera đã được cấp phép cho Adobe Systems sử dụng trong bộ phần mềm của hãng: Adobe Creative Suite.
Với phiên bản 12.02, tung ra vào ngày 30 tháng 8 năm 2012, Opera là trình duyệt web duy nhất hiện nay vẫn còn hỗ trợ hệ điều hành Windows 2000.
Lịch sử
Opera được bắt đầu phát triển vào năm 1994 trong một dự án nghiên cứu của Telenor, một công ty truyền thông lớn nhất Na Uy. Năm 1995 dự án trên tách ra thành lập một công ty độc lập với Telenor tên là Opera Software ASA.
Các phiên bản 2.0 của trình duyệt Opera trở về trước được đặt tên là MultiTorg Opera và chưa được phổ biến công khai — tuy nhiên tài liệu trực tuyến của nó có thể xem được tại Hội nghị Quốc tế III WWW vào năm 1995 (The Third International WWW Conference). Vào thời điểm đó Opera được biết đến do có giao diện đa tài liệu (multiple document interface — MDI), một danh sách nóng (sidebar) giúp cho việc duyệt web cùng một lúc nhiều trang dễ dàng hơn và là trình duyệt đầu tiên tích hợp chặt chẽ với chuẩn W3C.
Năm 1996, Phiên bản Opera đầu tiên phát hành công khai là Opera 2.0 cho hệ điều hành Windows. Phiên bản này được phát hành dưới dạng shareware Ngày 10 tháng 10 năm 1997, dưới sự đòi hỏi của công chúng, công ty Opera Software bày tỏ sự quan tâm vào việc lập trình trình duyệt của họ cho các hệ điều hành khác nhau như Apple Macintosh, QNX và BeOS bằng cách triển khai Dự án thần kỳ để khảo sát thị trường xem ai sẽ sẵn sàng mua trình duyệt có thể chạy trên các hệ điều hành trên. Ngày 30 tháng 11, công ty ngừng cuộc khảo sát. Trước khi Opera phiên bản 4 ra đời Dự án thần kỳ trở thành một cột mốc mới cho việc viết phần mềm có khả năng chạy trên các hệ điều hành khác nhau.
1998, Opera 3 được phát hành có thể chạy trên nhiều hệ điều hành khác nhau. Phiên bản này giới thiệu tính năng Cascading Style Sheets — CSS.
Ngày 28 tháng 6 năm 2000, Opera 4 cho hệ điều hành Windows được phát hành. Phiên bản này có nhân có khả năng chạy trên nhiều hệ điều hành khác nhau, và một chương trình thư điện tử được tích hợp sẵn.
Ngày 6 tháng 12 năm 2000, Opera 5 là phiên bản đầu tiên miễn phí nhưng có chứa nội dung quảng cáo thay vì chỉ cho dùng thử một thời gian.
Ngày 29 tháng 11 năm 2001, Opera 6 được phát hành với nhiều tính năng mới bao gồm hỗ trợ Unicode, đề nghị sử dụng giao diện đơn tài liệu (single document interface — SDI) cùng với giao diện đa tài liệu (multiple document interface — MDI).
Tháng 1 năm 2003, Opera 7 được phát hành, giới thiệu động cơ layout "Presto" — một cải tiến từ CSS, tập lệnh phía máy khách (client-side scripting), và hỗ trợ DOM (Document Object Model). Tháng 8 năm 2004: Opera 7.6 bắt đầu giới hạn bản kiểm thử alpha. Phiên bản này có nhiều tính năng cao cấp hơn các bản trước như hỗ trợ giọng nói, và giọng nói XML. Phiên bản này cũng có tính năng tương tác với tivi, tự động căn chỉnh độ rộng phù hợp (fit to width). Fit to width là một công nghệ ban đầu sử dụng CSS, nhưng hiện tại nó là một công nghệ nằm hẳn trong Opera. Công nghệ Fit to width giúp trang web đang hiển thị có thể tự động thay đổi độ rộng cho phù hợp với màn hình bằng cách giảm kích cỡ của ảnh và chữ nhỏ đi, cũng có thể loại bỏ hẳn cả ảnh với khổ cho trước để nó vừa với màn hình có độ rộng bất kỳ. Nhưng Opera 7.6 không bao giờ được phát hành như một phiên bản chính thức.
Ngày 12 tháng 1 năm 2005, Opera Software tuyên bố họ sẽ cung cấp trình duyệt Opera miễn phí cho các trường đại học — một sự thay đổi từ 1000 đô la Mỹ đến giấy phép không giới hạn. Các trường được cấp giấy phép miễn phí bao gồm: Massachusetts Institute of Technology (MIT), Đại học Harvard, Đại học Oxford, Georgia Institute of Technology và Đại học Duke. Trước đây trình duyệt Opera bị chỉ trích vì chứa quảng cáo nhưng từ phiên bản mới Opera cho phép người dùng lựa chọn nội dung quảng cáo là ảnh hoặc chữ. Nếu người dùng trả tiền mua phần mềm thì nội dung quảng cáo sẽ được loại bỏ.
Ngày 19 tháng 4 năm 2005, phiên bản 8.0 được phát hành, hỗ trợ SVG Tiny, tính năng đa phương thức (multimodal) và mã JavaScript người dùng, giao diện người dùng trong sáng và thân thiện hơn. Trang chủ mặc định của Opera cải tiến cổng tìm kiếm . Tuy nhiên có một vài thay đổi nhỏ gây khó chịu cho người đã dùng các phiên bản trước như một vài thiết lập nâng cao bị ẩn đi. Ngày 20 tháng 9 năm 2005 với sự ra đời của phiên bản 8.50, Opera Software công bố là trình duyệt của họ sẽ được phát hành free of charge và không có quảng cáo trên trình duyệt, tuy nhiên công ty vẫn hỗ trợ cho các đối tác. Phiên bản này có các tính năng tăng cường sau: tự động sửa lỗi trang web phía máy khách nếu trong quá trình nhận trang web từ máy chủ có lỗi xảy ra, và sửa một số lỗi bảo mật trong trình duyệt.
Ngày 7 tháng 2 năm 2006, Opera Labs được thành lập để cung cấp công nghệ hậu cảnh (behind-the-scenes) tân tiến nhất, các phiên bản Opera xem trước/beta sẽ được tải về tại đây.
Ngày 16 tháng 2 năm 2006, Opera cùng với Nintendo công bố rằng sẽ cùng phát triển và phát hành trình duyệt cho DS, một thiết bị trò chơi cầm tay của Nintendo. Ngày 10 tháng 5 năm 2006, Opera công bố rằng họ là đối tác của Nintendo trong việc phát triển phiên bản mới của trình duyệt cho thiết bị trò chơi mới của hãng có tên là Wii. Phiên bản Opera dành cho Wii gọi là Internet Channel, được tung ra vào ngày 12 tháng 4 năm 2007 và cho phép tải xuống miễn phí cho tới ngày 30 tháng 7 năm 2007, sau thời gian này khách hàng phải trả 500 Wii Point để tải về. Vào ngày 2 tháng tháng 9, công ty đã tiếp tục cho phép tải miễn phí. Các khách hàng phải trả tiền trước đó đã được tặng một NES game với giá trị tương đương.. Phiên bản dành cho Nintendo DS là phiên bản trả phí, được bán ra dưới dạng thẻ cắm vật lý. Đối với máy chơi game Nintendo DSi, người dùng có thể tải miễn phí thông qua Internet, từ DSi shop.
Tính năng
Trong bộ Opera, ngoài chức năng trình duyệt còn có một trình quản lý thư điện tử Opera Mail client tích hợp sẵn, trong các phiên bản bộ Opera trước trình quản lý thư điện tử còn có tên là M2. Opera Mail hỗ trợ POP, SMTP và IMAP và đã bao gồm sổ địa chỉ. Opera Mail có tính năng đọc bản tin newsreader và newsfeed để đọc tệp dạng RSS và Atom, IRC. Phiên bản Opera 9 sẽ có tính năng widgets và hỗ trợ tải tệp theo giao thức BitTorrent. Ngoài ra còn hỗ trợ cử chỉ chuột, duyệt web bằng giọng nói.
Ở phiên bản Opera 12.00 - Opera 12.50, Opera Wiget, duyệt web bằng giọng nói, Opera Unite không còn được hỗ trợ
Khả năng truy cập
Opera được thiết kế để có thể chạy trên các máy đời cũ và yếu. Có khả năng xử lý Dom, CSS nhanh nhất.
Nó có khả năng điều khiển hầu hết các tác vụ của trình duyệt chỉ cần dùng bàn phím, và các phím tắt có thể được định nghĩa cho phù hợp với nhu cầu sử dụng của người dùng. Opera cũng hỗ trợ phím truy cập (một tính năng giúp người dùng đến ngay trang web chỉ cần ấn tổ hợp phím đã đặt trước). Opera là trình duyệt đầu tiên hỗ trợ tính năng mouse gesturre, một tính năng sử dụng kết hợp các di chuyển của chuột và nhắp chuột giúp trình duyệt nhận ra lệnh người dùng muốn yêu cầu, như quay lui, làm tươi nội dung trang web.
Phóng to (nhỏ) trang, cho phép văn bản, ảnh và các nội dung khác như flash, ảnh véc tơ có thể tăng hay giảm kích thước để phù hợp với kích thước màn hình. Để trình duyệt có thể tự động phóng to (nhỏ) trang web người dùng có thể tự định nghĩa một chuẩn riêng.
Công nhệ điều khiển bằng giọng nói, được phát triển bởi IBM, cho phép điều khiển trình duyệt bằng giọng nói mà không cần sử dụng bàn phím hay chuột. Công nghệ này cho phép đọc một văn bản trên trang web hoặc một đoạn văn bản được đánh dấu. IBM cũng có một trình duyệt dựa trên Opera..
Căn chỉnh độ rộng của trang web vừa khít với cửa sổ trình duyệt. Tính năng này tương tự như tính năng Small Screen Rendering (SSR) của Mini, với tính năng này trình duyệt sẽ tự động chỉnh độ rộng của trang web cho phù hợp với kích thước màn hình mà không cần dùng thanh cuộn ngang.
Xếp tab
Kéo tab này lên trên tab kia để bạn có thể tạo ra các nhóm tab. Hiện nay bạn có thể để hàng tá trang web mở, có tổ chức và được kiểm soát.
Opera Turbo
Tăng tốc độ duyệt web trên những Wi-Fi hotspot có nhiều người sử dụng.
Phần mở rộng
Mở rộng các chức năng của Opera bằng cách truy cập danh mục các phần mở rộng của chúng tôi. Tải video xuống, tự động dịch các ngôn ngữ và nhiều tính năng khác. Các phần mở rộng cũng có thể hiển thị thông tin tóm tắt trong Quay Số Nhanh.
Cử chỉ chuột trực quan
Thực hiện các thao tác trình duyệt bằng cách nhấn nhanh chuột. Giữ nút chuột phải trên một trang web để hiển thị hướng dẫn bằng hình ảnh cho biết cách thực hiện các cử chỉ khả dụng.
Quay Số Nhanh
Xem trước các trang yêu thích của bạn mỗi khi bạn mở một tab mới và mở các trang đó bằng một cú nhấp. Chọn bố cục và hình nền bạn thích và bổ sung các phần mở rộng gọn nhẹ có thể hiển thị thông tin hữu ích, trực tiếp.
Opera Link
Đồng bộ hóa các mục Quay Số Nhanh, bookmark, mật khẩu và những dữ liệu hữu ích khác giữa tất cả các máy tính và thiết bị của bạn.
Trình quản lý mật khẩu
Lần đầu tiên bạn đăng nhập vào một trang web, Trình Quản lý Mật Khẩu có thể lưu lại mật khẩu đó. Lần sau, chỉ cần nhấn Ctrl + Enter và bạn sẽ được đăng nhập. Mật khẩu cũng có thể được đồng bộ hóa an toàn bằng Opera Link.
Opera Unite
Đây là hệ thống cho phép bạn chia sẻ nội dung với người khác, mà không phải tải bất kỳ thứ gì lên một trang web. Các ứng dụng Opera Unite có thể truy xuất nhạc trực tuyến, chia sẻ hình ảnh hoặc thậm chí lưu trữ các trang web.
Chỉnh tỷ lệ
Phóng to các trang web để đọc dễ hơn hoặc thu nhỏ để vừa hơn trên màn hình. Chức năng thu phóng của Opera sẽ điều chỉnh lại kích cỡ của mọi thứ, không chỉ văn bản. Bạn cũng có thể ẩn hình ảnh để dễ đọc và tải trang nhanh hơn.
Phiên làm việc
Opera cho phép người dùng lưu trữ nhiều trang web như là một phiên làm việc. Tập hợp các trang web này có thể được mở sau đó và người dùng tiếp tục công việc đang dang dở. Opera cũng cho phép thiết lập cho phép người dùng mở lại trang web mà lần trước đó đang mở. Thông tin về phiên làm việc bao gồm lịch sử và thiết lập của từng trang, như kích thước chữ, độ phóng to, nhỏ được lưu trữ trong một tệp đặc biệt, tệp này có thể được truyền đến máy vi tính khác qua thư điện tử hoặc các thiết bị lưu trữ.
MDI và Tabs
Opera hỗ trợ duyệt tab và một giao diện đa tài liệu (MDI). Điều này có nghĩa là Opera có thể mở cùng lúc nhiều trang web trong một cửa sổ chương trình Opera, và các trang web này như một cửa sổ chương trình con trong Opera, các cửa sổ này có thể thay đổi kích thước, di chuyển trong Opera, thu nhỏ chỉ hiển thị thanh tiêu đề, sắp xếp các trang web theo tầng.
Năm sau, thiết lập mặc định của Opera thay đổi từ MDI sang giao diện đơn giản hơn bằng cách dùng thanh tab. Từ phiên bản 6.0, Opera đề nghị người dùng lựa chọn 3 phương thức sắp xếp các cửa sổ trang web: tab, MDI và SDI (giao diện đơn người dùng, không có tab).
Chặn cửa sổ quảng cáo Pop-up
Opera để người dùng điều lựa chọn có mở quảng cáo pop-up hay không. Mặc định Opera sẽ chặn tất cả các quảng cáo pop-up, nhưng cách xử lý có khác nhau, như mở cửa sổ quảng cáo ở cửa sổ nền, hoặc chặn quảng cáo khi cửa sổ này không phải là kết quả của việc người dùng nhắp chuột vào một liên kết. Một cửa sổ quảng cáo đã bị chặn vẫn có thể mở được vào lần sau, tuỳ thuộc vào lựa chọn của người dùng.
Trình quản lý tải về
Opera hỗ trợ tải tệp về cho người dùng, tệp đang tải về có thể tạm dừng, hoặc nếu trong quá trình tải bị lỗi có thể khôi phục để tải tiếp mà không cần tải lại từ đầu. Nó cũng lưu một danh sách các tệp được tải về gần đây và cho phép mở tệp đã tải về xong từ chính trong trình duyệt. Tệp được tải về cũng có thể mở từ ngoài trình duyệt.
Tìm kiếm dễ dàng
Opera cung cấp một số tính năng cho phép tìm kiếm nhanh và dễ dàng bằng cách sử dụng nhiều động cơ tìm kiếm của các trang web tìm kiếm nổi tiếng và các trang thương mại như Google, Amazon.com, Ebay. Nó cũng cho phép dịch một đoạn văn bản hoặc tìm kiếm nghĩa của một từ bằng cách nhắp chuột phải vào trực tiếp từ đấy.
Themes người dùng định nghĩa
Opera cho phép người dùng tự chỉnh sử và tự tạo một giao diện của chính mình, người dùng có thể thay đổi vị trí và kiểu của thanh công cụ, nút và menu. Chức năng kéo và thả cho phép đặt một liên kết và nút lên thanh công cụ rất đơn giản.
Chuẩn
Kể từ phiên bản 3.5 Opera đã hỗ trợ CSS, và hiện nay một thành viên của nhóm sáng lập ra CSS đang làm việc tại công ty Opera Software. Đến phiên bản 6.0 Opera hỗ trợ hầu hết các chuẩn web phổ biến bao gồm: các công cụ bổ sung của Netscape và một số chuẩn mới được áp dụng gần đây như WAP, chuẩn WML cho thiết bị không dây, hỗ trợ hoàn toàn ECMAScript (hay còn gọi là JavaScript), chuẩn HTML DOM hỗ trợ yếu.
Phiên bản 7.0 giới thiệu một động cơ layout mới nhanh hơn và mạnh hơn có tên là Presto. Với phiên bản này Opera là một trình duyệt hoàn toàn mới, hỗ trợ các chuẩn cũ như Elektra layout engine và hỗ trợ hoàn toàn HTML DOM.
Phiên bản 8.0 ra đời Opera là trình duyệt đầu tiên hỗ trợ chuẩn Scalable Vector Graphics (SVG) 1.1 Tiny. Phiên bản 8.0 Opera có chế độ biểu diễn gọi là Opera Show, cho phép sử dụng tài liệu dạng HTML hoặc XML đối với màn hình lớn và duyệt web. Hình thức của trang web khi hiển thị toàn màn hình được thay đổi trong CSS với đoạn mã media="projection"
Thiết bị di động
Opera có thể tự động định dạng bất kỳ trang web nào để có khung nhìn phù hợp các màn hình có kích thước nhỏ, như điện thoại thông minh, thiết bị trợ giúp cá nhân số. Công nghệ này là độc quyền của Opera, nhưng các trình duyệt khác cũng có thể làm được như vậy bằng cách sử dụng CSS. Phiên bản trình duyệt sử dụng công nghệ độc quyền của Opera hiện có thể sử dụng trên các điện thoại di động thông minh và PDA của các hãng sau: Nokia, BenQ, Sony Ericsson, Sharp Corporation, Sendo, Kyocera, Motorola và Psion.
Để biết thêm chi tiết xem Opera Mini
Opera Mini là một trình duyệt miễn phí gọn nhẹ cho điện thoại di động và các thiết bị khác có sẵn Java ME. Opera Mini sử dụng máy chủ Opera để xử lý và nén trang web trước khi gửi dữ liệu đến thiết bị di động. Điều này giúp các thiết bị di động khác nhau (kích thước màn hình khác nhau) có thể đọc được trang web.
Ngày 1 tháng 1 năm 2006 Opera công bố Google sẽ là đối tác chính cho trình duyệt trên thiết bị di động của họ.
Ngày 15 tháng 2 năm 2006 Opera công bố họ đã phát triển trình duyệt cho Nintendo DS. Trình duyệt này hỗ trợ tối đa cho hệ thống có hai màn hình giúp cho việc hiển thị phóng lớn một đoạn của trang web hoặc các trang web quá dài. DS sử dụng Opera để cập nhật firmware. Trình duyệt này sẽ được bán tại Nhật vào tháng 6 năm 2006 với giá 3.800 yen Nhật (tương đương 32,15 đô la Mỹ). Hiện tại vẫn chưa thấy thông báo của Opera về việc sẽ bán trình duyệt cho DS tại Mỹ hay châu Âu.
Tính tương thích
Vấn đề về tương thích là một nguyên nhân giúp trình duyệt có phổ biến hay không. Các trang web thường chỉ được kiểm thử với trình duyệt Internet Explorer sẽ hiển thị không đúng với trình duyệt khác.
Thường các trang web thống kê trình duyệt trên thế giới sẽ dò xem người sử dụng đang sử dụng trình duyệt nào, Opera cho phép người dùng thay đổi thông tin mà trình duyệt gửi đến trang thống kê. Trong các phiên bản cũ, Opera thường khoác một áo choàng giả dạng trình duyệt Internet Explorer, nhưng vẫn có từ Opera trong thông tin về trình duyệt gửi đến trang web thống kê. Thông thường các trang web thống kê sẽ bỏ qua các thông tin khó hiểu, vì vậy Opera thường không có trong kết quả thống kê trình duyệt được sử dụng trên thế giới, trong các phiên bản mới của trình duyệt Opera, công ty Opera Software đã xây dựng một định danh thông tin riêng của trình duyệt.
Phiên bản mới nhất của Opera đề nghị một phương pháp nâng cao tấm áo choàng — tệp ua.ini. Tệp ua.ini không cho phép người dùng ghi bất cứ thông tin gì vào, nhưng tệp này có một phần định nghĩa trước bao gồm thông tin về trình duyệt Mozilla và Internet Explorer.
Opera phiên bản 8 giới thiệu tính năng dự phòng cao hơn trong vấn đề lỗi mã hóa. Khi trang web đang được mở mà bị đứt kết nối, Opera sẽ cung cấp một tập lệnh tự xử lý lỗi này và ghi đè lên trang web lỗi bằng trang web đã được xử lý lỗi. Tính năng này tương tự như UserJS trong trình duyệt Mozilla, cho phép người dùng chạy đoạn mã của họ vào các thời điểm khác nhau khi trang web được xử lý. Công nghệ này cho phép các trang phổ biến không tương thích với Opera có thể hiển thị đúng trên Opera.
Opera tự cập nhật BrowserJS và ua.ini.
Thư điện tử
Trong một thời gian dài người dùng không thể đổ rác của hòm thư Hotmail, do lỗi phía máy chủ trong việc xác định trình duyệt. Với các phiên bản hiện tại Opera giới thiệu tính năng ua.ini để các trang web có nhu cầu định danh trình duyệt có thể phân biệt giữa nó và trình duyệt khác.
Khi Google phát hành Gmail vào tháng 4 năm 2004, Opera không hỗ trợ Gmail. Do Gmail sử dụng giao thức XMLHttpRequest, một giao thức chưa chuẩn hóa và các trình duyệt như Internet Explorer, Firefox và Safari không hiểu được chuẩn này. Ngày 18 tháng 4 năm 2005, Opera phiên bản 8 phát hành hỗ trợ hoàn toàn Gmail. Tuy nhiên vẫn có một số vấn đề giữa Opera và Gmail, ví dụ khi rich-text editor được xây dựng trong một form mới định nghĩa thì ô rich-text editor không thể sử dụng trong trình duyệt Opera, phiên bản Opera 9 preview 2 sử dụng được nhưng vẫn còn một vài lỗi.
Có rất nhiều vấn đề với Yahoo! Mail, đầu tiên là đứt liên kết của nút Move (nguyên nhân do định danh trình duyệt). Sau khi Yahoo! Mail nâng cấp giao diện mới, vấn đề này không còn nữa, nhưng nút Move có vẻ lớn hơn so với các trình duyệt khác. Do Yahoo! cũng sử dụng ô văn bản rich text, vì vậy Opera cũng bị lỗi trang Yahoo! tương tự như lỗi trang Gmail.
MSN
Trang MSN của Microsoft cũng bị một vài lỗi trên trình duyệt Opera:
Năm 2001, trang MSN thay đổi sau khi Windows XP và trình duyệt Internet Explorer 6 ra đời, việc thay đổi của MSN nhằm ngăn chặn các trình duyệt khác như Opera và Mozilla. Người dùng Windows được khuyến khích nâng cấp trình duyệt lên Intenet Explorer 6 để hiển thị trang MSN tốt hơn và tránh lỗi. Khi được hỏi là tại sao ngăn chặn Opera, Microsoft trả lời do Opera chưa hỗ trợ chuẩn XHTML mới nhất. Đáp lại Opera trả lời rằng trình duyệt của họ đã hỗ trợ chuẩn XHTML, và dưới sự tranh luận gay gắt Microsoft phải để MSN có thể truy cập bởi tất cả các trình duyệt.
Tháng 2 năm 2006, Công ty Opera Software khám phá ra rằng máy chủ của trang web MSN đã gửi thông tin hiển thị trang web cho người dùng Opera khác với thông tin nó gửi cho người dùng Internet Explorer. Hai trình duyệt phổ biến nhất lúc bấy giờ là Internet Explorer và Netscape đều phù hợp với thông tin hiển thị này. Nhưng trình duyệt Opera được trang web MSN phục vụ thông tin hiển thị theo phương thức của các bản Netscape cũ và Opera sử dụng phương thức giải mã khác Internet Explorer nên trang web MSN hiển thị không đúng.
Đoạn mã mà công ty Opera Software tố cáo máy chủ của trang web MSN cung cấp dẫn đến lỗi hiển thị như sau:
ul {list-style-position: outside; margin: -2px 0px 0px -30px;}
Việc kiểm thử cho thấy khi trang web MSN phát hiện trình duyệt đang yêu cầu thông tin từ nó là trình duyệt Opera, nó sẽ gửi thông tin hiển thị cho trình duyệt Opera theo một chuẩn cũ đã lỗi thời. Nếu người dùng sử dụng user agent như oprah thì trang web MSN hiển thị tốt. Opera tố cáo đây là hành động có chủ ý nhằm làm mất uy tín của trình duyệt Opera. Microsoft bác bỏ lời cáo buộc này và cho rằng đây là lỗi lập trình và sửa lỗi này ngay sau đó.
Bất chấp lời bào chữa của Microsoft, Opera làm công khai chuyện Microsoft này bằng cách tạo ra một phiên bản trình duyệt có tên là Bork, cắt xén một đoạn nội dung trang web www.msn.com vào bài phát biểu của Swedish Chef. Opera giải thích rằng đây là một trò đùa cho thấy sự dễ dàng của việc thay đổi trang web nếu muốn. Trong phiên bản press-release họ lặp lại câu thần chú trang web có thể mở bởi tất cả trình duyệt.
Một sự việc bất ngờ xảy ra vào tháng 5 năm 2003, khi máy chủ của trang web MSN thông báo lỗi server error khi người dùng thay đổi lựa chọn ngôn ngữ ưa thích của họ. Mặc dù lỗi này cũng ảnh hưởng đến người dùng Internet Explorer, nhưng do trình duyệt Opera giúp người dùng thay đổi ngôn ngữ dễ dàng hơn nên người sử dụng Opera nhận được thông báo lỗi này nhiều hơn. Bộ phận hỗ trợ của Opera lại tố cáo đây là sự cố gắng của Microsoft làm mất uy tín của họ. Công ty Opera Software đã viện dẫn các trường hợp trên làm chứng cứ để kiện Microsoft vi phạm luật chống độc quyền.
Tháng 5 năm 2004, một người (hay công ty) (entity) không xác định trả cho công ty Opera Software 12,75 triệu đô la Mỹ. Opera CTO Håkon Wium Lie giải thích về sự kiện này là: "Resolved an issue close to his heart", nhưng không có một lời giải thích rõ ràng rằng ai (công ty nào) trả khoản tiền này cho công ty Opera Software, và tại sao lại phải trả. Rất nhiều người cho rằng đây là khoản tiền của Microsoft trả cho công ty Opera Software để tránh phải ra hầu tòa.
Sự chấp nhận của thị trường
Thị phần
Tham khảo thống kê: Usage share of web browsers
Theo số liệu tháng 4 năm 2006, thị phần toàn cầu của Opera chiếm từ 0,5% đến 0,8%, mặc dù thị phần của Opera tại Nga là 8%
, trên 7% tại Ba Lan và trên 6% tại Litva .
Kể từ phiên bản đầu tiên phát hành vào năm 1996, do sự cạnh tranh mạnh của các trình duyệt Internet Explorer, Safari, Netscape, Mozilla Firefox trình duyệt Opera giành được thị phần rất giới hạn trên máy tính để bàn. Trình duyệt Opera chỉ thành công trong lĩnh vực trình duyệt cho thiết bị di động, và sản phẩm chạy đa hệ. Gần đây vẫn chưa có bất kỳ thống kê về trình duyệt trên thiết bị di động, nguyên nhân một phần cũng do thị trường trình duyệt trên thiết bị di động còn khiêm tốn.
Novell đã từng phân phối SUSE Linux kèm với Opera (dựa trên thư viện Qt), SUSE Linux phiên bản 3, Xandros cũng kèm sẵn Opera làm trình duyệt mặc định, nhưng hiện tại SUSE Linux thay Opera bằng Firefox làm trình duyệt mặc định.
Thiết bị trò chơi cầm tay Nintendo DS sẽ sử dụng trình duyệt Opera giúp Nintendo DS truy cập Internet. Thiết bị Wii cũng sử dụng Opera làm trình duyệt để nâng cấp firmware, nhưng hiện tại vẫn chưa biết việc này sẽ được triển khai như thế nào.
Phiên bản
Phiên bản phát hành mới nhất
Ghi chú: Phiên bản phát hành mới nhất có thể khác nhau giữa các ngôn ngữ; số phiên bản ghi ở dưới đây là phiên bản tiếng Anh.
Microsoft Windows & Mac & Unix: 11.60 (đa ngôn ngữ) (phát hành ngày 06/12/2011)
Microsoft Windows: 11.52 (đa ngôn ngữ)
Microsoft Windows: 11.51 (đa ngôn ngữ)
Microsoft Windows: 10.00 có hai bản cho Hoa Kỳ và Quốc tế
Microsoft Windows: 9.00 có hai bản cho Hoa Kỳ và Quốc tế
Microsoft Windows: 8.54 (Windows 95 và muộn hơn)
Microsoft Windows: 3.62 (Windows 3.x)
Mac OS X: 8.54; Mac OS: 6.03
Linux i386, SPARC và PowerPC: 8.54
Linux arm: 7.6 (xem ghi chú dưới đây)
FreeBSD i386: 8.54
Solaris SPARC: 8.54
OS/2: 5.12
BeOS: 3.62
QNX: 6.0.1
Symbian OS Series 60: 8.60 (Series 60 3rd and 2nd Edition) Symbian OS Series 60: 6.20 (Series 60 1st Edition)''
Symbian OS UIQ: 6.31
EPOC: 5.14
Windows Mobile: 8.00u1
Java ME (Opera Mini): 2.0.4062 - pro mobils and other with MIDP 1.0
Pocket PC: 8.60
Windows CE
Phiên bản xem thử
Phiên bản beta cho hệ điều hành Microsoft Windows, Linux, Mac OS X được kiểm thử bởi nhóm kiểm thử beta. Thông tin kỹ thuật chi tiết về bản xem thử có thể tìm thấy tại nhóm tin của Opera, diễn đàn và mailing-list. Ngày 20 tháng 4 năm 2006, Opera phiên bản 9 beta được phát hành.
Phiên bản 9.0 là trình duyệt cho hệ điều hành Windows đầu tiên vượt qua kiểm tra trình duyệt theo chuẩn Acid2..
Phiên bản hàng tuần
Từ ngày 13 tháng 2 năm 2006, Opera bắt đầu phát hành xây dựng mới vào thứ sáu hàng tuần. Các phiên bản cho hệ điều hành Windows, Mac OS X và Unix-like (Linux hoặc FreeBSD) sẽ được xây dựng mỗi tuần, nhưng có thể sẽ có tuần bỏ qua phiên bản cho một hệ điều hành nào đó. Việc xây dựng hàng tuần như trên có thể tìm thấy tại blog của nhóm Desktop . Nhóm này có kinh nghiệp trong xây dựng Technical Preview và chỉ sử dụng cho mục đích kiểm thử.
Tốc độ duyệt
Trình duyệt Opera đã xuất sắc vượt qua các đối thủ trong phần thi này trở thành trình duyệt nhanh nhất. Opera đã tải trang không có Flash về trong vòng 1.64 giây, có Flash trong vòng 2.21 giây. Kết quả này nhanh hơn Google Chrome (1.8 giây và 2.33 giây) và Mozilla Firefox (2.6 giây và 5.59 giây). |
QTorrent là một trình khách BitTorrent dựa trên PyQt. |
rTorrent là một trình khách BitTorrent dạng dòng lệnh, được lập trình bằng ngôn ngữ C++ sử dụng thư viện ncurses, mã nguồn của rTorrent dựa trên thư viện libTorrent cho Unix. Mục đích chính của rTorrent là hiệu suất cao và có mã lập trình tốt. Không như các trình khách BitTorrent khác, thư viện thực thi của rTorrent sử dụng hàm mmap() chuyển trực tiếp file pages vào network stack. Trên một đường truyền Internet có băng thông cao, rTorrent đã được khẳng định làm máy gieo hạt (chỉ tải lên) nhanh hơn rất nhiều lần so với trình khách BitTorrent chính thức
Trình khách rTorrent có thể chạy trên rất nhiều bản phân phối của Linux và Unix và nó chạy trên hầu hết các hệ điều hành dạng POSIX-compliant — ví dụ như FreeBSD.
rTorrent sử dụng thư viện lập trình ncurses vì vậy nó tương thích với screen hoặc dtach
rTorrent cho phép lưu trữ phiên làm việc, các tệp đang tải về và tải lên. Cho phép tải từng tệp riêng lẻ trong một tệp torrent. |
Đường là một lộ trình, đường đi có thể phân biệt giữa các địa điểm. Các con đường nói chung đều phẳng, được trải nhựa, hay làm theo một cách nào đó để cho phép giao thông dễ dàng; dù không cần thiết phải luôn như vậy, và trong lịch sử nhiều con đường chỉ đơn giản là những tuyến đường được nhận biết mà không được xây dựng hay bảo dưỡng chính thức.
Thuật ngữ này cũng thường được dùng để chỉ các đường phố, đường thủy là nơi đi lại của tàu thuyền.
Tại các khu vực đô thị đường có thể đi xuyên qua một thành phố hay làng và được đặt tên như các con phố, phục vụ cả hai chức năng như không gian giao thông đô thị và đường sá. Kinh tế và xã hội phụ thuộc lớn vào những con đường có hiệu quả. Tại Liên minh châu Âu (EU) 44% lượng hàng hoá được vận chuyển bằng xe tải qua các tuyến đường và 85% lượng hành khách được vận chuyển bằng xe hơi, xe buýt hay xe buýt đường dài trên các tuyến đường.
Hoa Kỳ có mạng lưới đường bộ lớn nhất thế giới với 6,430,366 km (2005). Ấn Độ đứng thứ hai về mạng lưới đường bộ với 3,383,344 km (2002). Trung Quốc thứ ba với 1,870,661 km (2004). Khi xét về đường cao tốc thì Hệ thống Đường cao tốc Quốc gia (NTHS) tại Trung Quốc có tổng chiều dài 45,000 km vào cuối năm 2006, và 60,300 km vào cuối năm 2008, đứng thứ hai chỉ sau Hoa Kỳ với 90,000 km năm 2005.
Lịch sử xây dựng đường bộ
Việc coi những con đường mòn đầu tiên là các con đường nhỏ do các con thú tạo ra nói chung không được chấp nhận rộng, với lý lẽ rằng những con thú không đi theo những con đường thường xuyên. Những người khác tin rằng một số con đường bắt nguồn từ những đường mòn do các con thú tạo ra đó. Đường Icknield là một ví dụ về kiểu nguồn gốc đường bộ này, theo đó cả con người và động vật đều lựa chọn cùng một tuyến đường tự nhiên. Tới khoảng năm 10,000 trước Công Nguyên, những con đường mòn gồ ghề đã được những người lữ khách sử dụng.
Các con phố được lát đá đã được tìm thấy ở thành phố Ur tại Trung Đông có niên đại từ 4000 năm trước Công Nguyên.
Các con đường Corduroy (log roads) được tìm thấy có niên đại khoảng 4,000 trước Công Nguyên tại Glastonbury, Anh Quốc.
Sweet Track tại Anh Quốc, là một trong những con đường được thi công cổ nhất được phát hiện và là con đường gỗ cổ nhất được phát hiện ở Bắc Âu. Được xây dựng vào mùa đông năm 3807 trước Công Nguyên hay mùa xuân năm 3806 trước Công Nguyên, niên đại theo vòng gỗ (Khoa nghiên cứu tuổi thọ của cây) cho phép xác định niên đại rất chính xác. Nó từng được tuyên bố là con đường cổ nhất thế giới.
Các con phố lát gạch đã được sử dụng ở Ấn Độ ngay từ năm 3000 trước Công Nguyên.
Năm 500 trước Công Nguyên, Darius I Đại đế đã khởi động một mạng lưới đường sá rộng lớn cho Ba Tư (Iran), gồm cả con Đường Hoàng gia nổi tiếng và là một những tuyến đường cao tốc tốt nhất thời kỳ ấy. Con đường vẫn được sử dụng sau thời La Mã.
Thời cổ đại, việc vận tải bằng đường sông dễ dàng hơn nhiều so với đường bộ, đặc biệt khi xem xét giá thành xây dựng đường và sự khác biệt giữa khả năng vận chuyển của xe ngựa và sà lan trên sông. Một hệ thống lai giữa vận tải đường bộ và đường sông bắt đầu khoảng năm 1740 là tàu ngựa kéo trong đó những chú ngựa đi dọc theo các con đường đã được phát quang dọc bờ sông.
Từ khoảng năm 312 trước Công Nguyên, Đế chế La Mã đã xây dựng những con đường La Mã lát đá thẳng chạy suốt châu Âu và Bắc Phi, để hỗ trợ cho các chiến dịch quân sự của họ. Thời đỉnh cao Đế chế La Mã được kết nối với 29 tuyến đường chính chạy từ Roma và có 78,000 kilômét hay 52,964 dặm La Mã đường lát đá.
Năm 700 sau Công Nguyên, nhiều con đường đã được xây dựng trên khắp Đế chế Ả Rập. Những con đường công phu nhất là những con đường tại Baghdad, Iraq, được trải nhựa đường ở thế kỷ thứ 8. Nhựa đường xuất xứ từ dầu mỏ, có từ các giếng dầu trong vùng, qua các quá trình chưng cất phá huỷ hoá chất.
Vào những năm 1600, việc xây dựng và bảo dưỡng đường sá tại Anh theo truyền thống được thực hiện bởi các giáo xứ địa phương. Điều này khiến đường sá có chất lượng kém và không đồng đều. Để giải quyết vấn đề đó, "Các công ty thu phí đường" đầu tiên được thành lập khoảng năm 1706, để xây dựng những con đường tốt và thu phí từ xe cộ qua lại. Cuối cùng có xấp xỉ 1,100 Công ty tại Anh và khoảng 36,800 km đường được xây dựng. Những cuộc nổi dậy Rebecca tại Carmarthenshire và Rhayader từ năm 1839 tới năm 1844 đã gây sức ép lên Hội đồng Hoàng gia dẫn tới việc giải tán hệ thống năm 1844.
Kinh tế vận tải
Kinh tế vận tải là một nhánh của kinh tế có nhiệm vụ bố trí các nguồn tài nguyên bên trong lĩnh vực vận tải và có những liên kết mạnh với xây dựng dân dụng. Kinh tế vận tải khác biệt so với một số nhánh kinh tế khác về mặt giả định với một nền kinh tế phi không gian và tức thời là không có. Con người và hàng hoá di chuyển qua các mạng lưới ở một số tốc độ. Nhu cầu tăng. Số lượng vé bán ra nhiều thường dẫn tới hạ giá vé. Chính các mạng lưới có thể hay không thể là cạnh tranh. Một chuyến đi một chiều (hoàng hoá cuối cùng từ quan điểm của người tiêu thụ) có thể đòi hỏi sự liên quan tới các dịch vụ của nhiều công ty, cơ quan và phương thức.
Dù các hệ thống vận tải tuân theo cùng lý thuyết cung và cầu như các ngành kinh tế khác, những sự phức tạp của các hiệu ứng mạng lưới và những lựa chọn giữa các hàng hoá không tương đương (ví dụ đi lại bằng xe hơi và xe buýt) khiến việc đánh giá nhu cầu về các cơ sở vận tải là khó khăn. Sự phát triển của các mô hình để ước tính các lựa chọn có thể giữa các hàng hoá không tương đương có liên quan trong các mô hình quyết định vận tải "lựa chọn riêng rẽ" đã dẫn tới sự phát triển của một nhánh quan trọng của toán kinh tế, và một Giải Nobel cho Daniel McFadden.
Trong vận tải, cầu có thể được tính toán trong các con số của các chuyến đi được thực hiện hay trong tổng số khoảng cách đã đi quan của mọi chuyến đi (ví dụ hành khách/kilômét cho vận tải công cộng hay phương tiện/kilômét đi lại (VKT) cho vận chuyển tư nhân). Cung được coi là một thước đo năng lực. Giá của hàng hoá (đi lại) được đo bằng cách sử dụng chi phí chung của chuyến đi, gồm cả chi phí tiền và thời gian. Hiệu ứng tăng cung (năng lực) được quan tâm đặc biệt trong kinh tế vận tải (xem induced demand), bởi các hậu quả môi trường có thể diễn ra là lớn.
Xây dựng và bảo dưỡng đường sá là một hoạt động kinh tế vẫn chủ yếu thuộc lĩnh vực công (dù thường xuyên qua các nhà thầu tư nhân). Đường (ngoại trừ những con đường thuộc sở hữu thư không thể tiếp cận với đại chúng) nói chung được chi trả bằng thuế (thường là thuế gộp sẵn trong giá mua nhiên liệu), dù một số tuyến đường công cộng, đặc biệt là đường cao tốc lấy chi phí từ phí đi lại.
Những ảnh hưởng môi trường
Ô nhiễm không khí
Phương tiện có động cơ hoạt động trên các con đường góp phần tạo ra khí thải, đặc biệt trong điều kiện các con phố chặt ních và giao thông tốc độ thấp ở đô thị. Đặc biệt đáng lo ngại là khí thải dạng hạt từ các động cơ diesel. Những sự tập trung ô nhiễm không khí và những hiệu ứng có hại tới hô hấp lớn hơn ở gần đường so với ở những nơi xa. Bụi đường do các phương tiện cuốn lên có thể gây ra dị ứng. Cát được đổ trên những con đường đóng băng có thể bị các phương tiện nghiền nhỏ thành các hạt mịn và góp phần làm ô nhiễm không khí.
Ô nhiễm nước
Nước đô thị từ các con đường và các bề mặt không thẩm thấu là một nguồn gây ô nhiễm chính. Nước mưa và tuyết tan chảy từ các con đường thường mang theo xăng, dầu động cơ, các kim loại nặng, rác và các chất ô nhiễm khác. Nước thoát từ mặt đường mang theo nhiều nickel, đồng, kẽm, cadmium, chì và hydrocarbon đa vòng thơm (PAHs), được tạo ra như các sản phẩm phụ của động cơ đốt trong hoạt động bằng xăng và các nhiên liệu hoá thạch khác.
Các hoá chất làm tan băng và cát có thể vãi ra hai bên đường, làm ô nhiễm nước ngầm và nước bề mặt. Các loại muối đường (chủ yếu là chloride của natri, calci hay magne) có thể độc hại với các loại cây và động vật nhạy cảm. Cát có thể biến đổi các môi trường lòng suối, gây tác động tới các loài cây và thú sống tại đó.
Ô nhiễm tiếng ồn
Giao thông của phương tiện trên đường tạo ra ô nhiễm tiếng ồn đặc biệt khi hoạt động ở tốc độ cao, gần các đoạn giao cắt và các đoạn dốc. Vì thế, có nhiều hiệu ứng tiếng ồn gây hại cho sức khoẻ từ các hệ thống đường bộ có nhiều phương tiện lưu thông. Các biện pháp giảm nhẹ tiếng ồn có tồn tại để làm giảm những mức độ tiếng ồn. Ý tưởng áp dụng kỹ thuật tiếng ồn vào việc thiết kế đường lần đầu xuất hiện khoảng năm 1973.
Lưu thông bên phải và bên trái
Việc giao thông bên phía phải hay bên phía trái đường tuỳ thuộc theo từng quốc gia. Tại những quốc gia giao thông bên phải, các bảng hiệu giao thông chủ yếu ở bên phải đường, các điểm đường vòng và vòng xoáy giao lộ đi theo hướng ngược chiều kim đồng hồ, và người đi bộ đi ngang qua một con đường hai chiều đầu tiên phải quan sát dòng giao thông bên trái. Tại các quốc gia lưu thông bên trái, mọi điều hoàn toàn ngược lại.
Khoảng 34% dân số thế giới giao thông bên trái, và 66% theo bên phải. Theo khoảng cách đường bộ, khoảng 28% đi bên trái và 72% bên phải, dù ban đầu hầu hết giao thông trên thế giới là theo bên trái.
Xây dựng
Xây dựng đường đòi hỏi việc tạo ra một tuyến đường vượt qua các vật cản địa lý và có cấp đủ thấp để cho phép phương tiện hay người đi bộ đi được. (pg15) và có lẽ cần phải đạt các tiêu chuẩn theo luật or official guidelines. Quá trình này thường bắt đầu với việc loại bỏ đất và đá bằng cách đào hay phá nổ, việc xây dựng các đường đắp cao, cầu và đường hầm, và loại bỏ các loại cây cối (điều này có thể liên quan tới việc phá rừng) và tiếp đó là một lớp vật liệu trải. Nhiều loại thiết bị làm đường được sử dụng trong xây dựng đường.
Sau khi việc thiết kế, phê chuẩn, lên kế hoạch, pháp lý và các xem xét tới môi trường đã được thực hiện việc gióng đường được thực hiện bởi một giám sát viên. Bán kính cong và độ nghiêng được thiết kế để phù hợp nhất với các cốt đất và giảm thiểu khối lượng đào đắp. (page34) Cần đặc biệt lưu ý tới việc bảo vệ các dấu mốc để tham khảo (page59)
Đường bộ được thiết kế và xây dựng chủ yếu cho giao thông của phương tiện và người đi bộ. Các dự liệu về thoát nước và môi trường cần được đặc biệt quan tâm. Các thiết bị để kiểm soát xói lở và trầm lắng cần được xây dựng để hạn chế các hiệu ứng bất lợi. Các đường thoát nước được thi công với các khớp nối được hàn kín trong kiến trúc phụ của đường với các hệ số và đặc tính thoát thích ứng với vùng đất và hệ thống thoát nước chung. Các hệ thống thoát nước phải có khả năng tiêu thoát lưu lượng thiết kế cao nhất từ các cống phía trên và được sự cho phép của cơ quan chức năng liên quan về việc xả lượng nước đó vào trong một dòng suối, lạch, sông hay biển. (page38 to 40)
Một hố thu (để thu chất trầm lắng, sỏi, và đá) và một nguồn nước phải được bố trí trong hay ở khoảng cách thích hợp với địa điểm xây dựng. Sự cho phép từ cơ quan chức năng địa phương có thể là cần thiết với việc khai thác nước hay với thi công (nghiền và sàng) các loại vật tư cho nhu cầu xây dựng. Đất mặt và cây cối được lấy khỏi hố thu và lưu trữ cho việc khôi phục khu vực thi công sau này. Các dốc nghiêng trong khu vực đào đất không được lớn hơn tỷ lệ một dọc trên hai ngang vì các lý do an toàn. (trang 53 tới 56)
Các bề mặt đường, hàng rào và toà nhà cũ cần phải bị dời đi trước khi việc xây dựng có thể bắt đầu. Cây cối trong khu vực xây dựng dường có thể được đánh dấu để giữ lại. Không được lấy đi lớp đất mặt của những cây được bảo vệ này và không được để vật liệu và thiết bị quanh khu vực có cây. Việc bồi thường hay thay thế có thể phải thực hiện nếu cây được bảo vệ bị hư hại. Đa số cây phải được che phủ bảo vệ rễ và phải được bảo quản sử dụng trong quá trình tái lập. Đất mặt thường được lột đi và lưu trữ ở gần đó để khôi phục dọc theo hai bên con đường mới được xây dựng. Gốc và rễ cây bị bỏ đi và các hố phải được đổ đầy lại theo yêu cầu trước khi công việc đào đắp bắt đầu. Việc khôi phục cuối cùng sau khi xây dựng đường được hoàn thành với việc gieo hạt, trồng cây, tưới nước và các hoạt động khác để tái lập khu vực thích hợp với các khu vực không bị ảnh hưởng xung quanh. (page 66 to 67)
Các quá trình đào đắp gồm đào đất, loại bỏ các vật liệu đất bùn, đổ đất mới, lu lèn, xây dựng và sắp xếp gọn gàng. Nếu đá nay các loại vật liệu không thích hợp khác bị phát hiện, nó phải bị loại bỏ, độ ẩm được giám sát và được thay thế bằng vật liệu đắp tiêu chuẩn được lu lèn tới 90% độ đặc. Nói chung việc phá nổ đá không nên được áp dụng với đáy đường. Khi một chỗ lõm phải được đổ đầy tới cấp đường đáy nguyên thủy được lu lèn chặt sau khi đất mặt đã bị loại bỏ. Việc lu lèn được thực hiện bằng "phương pháp lớp lu nén" theo đó một lớp vật liệu lèn được đổ sau đó được lu đạt các tiêu chuẩn, quá trình này được lặp lại cho tới khi đạt cốt yêu cầu. (page 68 to 69)
Con đường hoàn thành được hoàn thiện bởi lớp phủ hay cứ để nguyên bề mặt đá hay tự nhiên. Các kiểu bề mặt đường phụ thuộc vào các yếu tố kinh tế và mục đích sử dụng. Các cải tiến an toàn như biển báo giao thông, barrier, vạch kẻ đường, và các hình thức báo hiệu đường bộ khác cũng được lắp đặt.
Theo một báo cáo tháng 5 năm 2009 của American Association of State Highway and Transportation Officials (AASHTO) và TRIP — một tổ chức nghiên cứu giao thông Mỹ — việc lái xe trên đường trung bình khiến người lái xe Mỹ mất khoảng $400 một năm cho các chi phí phụ trội. Những người lái xe sống ở các khu vực đô thị có trên 250,000 dân trả tới $750 một năm bởi sự nhanh chóng xuống cấp xe, tăng chi phí bảo dưỡng, tốn thêm nhiên liệu, và thay lốp do điều kiện đường sá kém.
Chi phí xây dựng
Theo Cơ quan Đường bộ Tiểu bang New York (New York State Thruway Authority), chi phí để xây dựng đường nhiều làn ở một số bang đông bắc Hoa Kỳ là:
Chi phí trên dặm:
Đường cao tốc có thu phí Connecticut: $3.449.000
Đường cao tốc có thu phí New Jersey: $2.200.000
Đường cao tốc có thu phí Pennsylvania (Đoạn mở rộng Delaware): $1.970.000
Đường có thu phí Bắc Indiana: $1,790,000
Đại lộ Garden State: $1.720.000
Đường cao tốc có thu phí Massachusetts: $1.600.000
Xa lộ, New York tới Pennsylvania Line: $1.547.000
Đường cao tốc có thu phí Ohio: $1.352.000
Đường cao tốc có thu phí Pennsylvania (xây dựng ban đầu): $736.000
Thêm làn
Làn đường tính bằng một đường có chiều rộng mặt lát ít nhất là 5m, vừa đủ cho hai xe ô tô tránh nhau. Khi một đường đơn tuyến (single carriageway) được chuyển thành hai tuyến bằng cách xây dựng một tuyến riêng biệt nữa dọc theo tuyến đầu tiên, nó thường được gọi là duplication hay twinning. Tuyến đường nguyên bản được chuyển từ hai chiều thành một chiều, trong khi tuyến đường bên kia phục vụ chiều ngược lại. Tương tự cách biến các tuyến đường sắt từ đường đơn thành đường đôi, tuyến đường mới không phải luôn luôn được xây dựng dọc theo tuyến đường có sẵn.
Đường giao thông tại Việt Nam
Tại Việt Nam, hiện nay sử dụng các khái niệm sau:
Quốc lộ (national highway): đường có vai trò quan trọng trong mạng lưới toàn quốc về an ninh, kinh tế được Bộ Giao thông Vận tải quản lý thông qua Tổng cục đường bộ, đến Khu quản lý đường bộ, đến các Công ty quản lý và bảo dưỡng đường trực tiếp vận hành và quản lý.
Tỉnh lộ (provincial highway): đường có vai trò quan trọng trong mạng lưới toàn tỉnh về an ninh, kinh tế và được Sở Giao thông Vận tải quản lý thông qua các Công ty quản lý và bảo dưỡng đường trực tiếp vận hành và quản lý.
Đại lộ (boulevard): đường phố có quy mô lớn, có ý nghĩa đặc biệt và giữ vị trí quan trọng trong mạng lưới giao thông đô thị, đáp ứng yêu cầu hạ tầng kỹ thuật, thẩm mỹ và cảnh quan đô thị.
Xa lộ (highway): đường lớn trên 4 làn xe (mỗi làn rộng ít nhất 5m)
Đường cao tốc (expressway): đường dành cho những phương tiện chạy tốc độ cao trên 60 km/h, đường cao tốc là 1 dạng của xa lộ
Đường ô tô: đường dành riêng cho các loại xe ô-tô, xe máy
Đường liên huyện (huyện lộ): đường có vai trò an ninh, kinh tế trong mạng lưới toàn tỉnh, kết nối các huyện với nhau được và Sở Giao thông Vận tải xây dựng, quản lý và bảo dưỡng.
Đường liên xã: đường có vai trò an ninh, kinh tế trong mạng lưới toàn huyện, kết nối các xã.
Đường liên thôn: đường nối các thôn, làng với nhau.
Đường làng (dirty road): đường trong làng còn gọi chung là đường làng ngõ xóm.
Đường (road): lối đi lại được xác định trong quy hoạch đô thị có quy mô lớn về chiều dài, chiều rộng, gồm các trục chính trên địa bàn đô thị, các tuyến vành đai, liên tỉnh.
Phố (street): lối đi lại được xác định trong quy hoạch đô thị, hai bên phố thường có các công trình kế tiếp nhau như nhà ở, cửa hàng.
Ngõ (kiệt) (alley): lối đi lại nhỏ từ đường, phố vào các cụm dân cư đô thị. Từ "kiệt" được dùng ở Huế.
Ngõ cụt (court): lối đi lại nhỏ vào thẳng cụm dân cư đô thị, từ đó không có đường thông sang cụm khác. Muốn thoát ra phải quay lại đầu ngõ.
Ngách (hẻm) (alley): lối đi lại hẹp từ ngõ (kiệt) vào sâu trong các cụm dân cư đô thị.
Đường lánh nạn (emergency lane): là đoạn đường cụt ở những vùng núi cao đèo dốc, được thiết kế cuối đường hơi dốc lên và ụ chắn, để tránh tai nạn cho các loại xe mất phanh, hoặc phải xử lý tình huống tránh gấp.
Đường tránh (bypass): đường trên Quốc lộ vòng qua một đô thị nhằm tránh cho luồng giao thông trên quốc lộ khỏi xung đột với các luồng giao thông trong đô thị.
Đường đê: đường làm trên đỉnh đê cho các loại xe
Đường công vụ: đường phục vụ thi công tại các công trường, thường thì phá bỏ sau khi thi công. Tuy nhiên, cũng có đường công vụ được giữ lại và nâng cấp cho các giai đoạn sau.
Hầm (tunnel): đoạn đường ngầm ngập dưới nước, vượt qua các suối ở vùng núi.
Trên thực tế, quy định nêu trên chỉ được áp dụng chặt chẽ tại Hà Nội và các đô thị phía Bắc. Tại thành phố Hồ Chí Minh, đại lộ được gọi là xa lộ; đường và phố được gọi chung là đường, còn ngõ và ngách được gọi chung là hẻm.
Tại thành phố Thanh Hóa, đường và phố được gọi chung là đường, còn từ phố được dùng để chỉ tổ dân phố hay khu phố. Ví dụ tại phường Đông Vệ có đường Kiều Đại chạy qua các phố Kiều Đại 1 và Kiều Đại 2, hoặc phố Ngô Thị Ngọc Dao nằm hai bên đường Lê Thánh Tông, phía gần Quốc lộ 1. |
Đường có thể chỉ:
Hoá học
Đường là tên gọi chung của những chất hóa học thuộc nhóm phân tử cacbohydrat.
Đường đơn, hay monosaccharide, có vị ngọt đặc trưng bao gồm những chất như
Glucose, còn gọi là đường nho
Fructose, còn gọi là đường trái cây hay đường hoa quả
Galactose, còn gọi là đường sữa
Đường đôi, hay disaccharide, có vị ngọt đặc trưng bao gồm những chất như
Sucrose, hay còn gọi là đường, đường kính, đường cát, đường phèn, đường ăn, v.v.
Maltose, hay còn gọi là đường mạch nha
Lactose, hay còn gọi là đường sữa
Trisaccharide
Oligosaccharide
Đường đa, hay polysaccharide, bao gồm những polyme như tinh bột, cellulose, và kitin
Đường hóa học, những chất ngọt tổng hợp
Toán học
Đường trong toán học là đường nối hai hay nhiều điểm nhưng không có bề rộng.
Đường thẳng
Đường cong
Đường tròn
Xây dựng
Đường giao thông, một lộ trình đi lại
Đường phố
Đường sắt
Đường ray
Đường băng
Chính trị
Đường, một quốc gia trong lịch sử Trung Quốc, kéo dài từ thời kỳ Đế Nghiêu tới nhà Chu
Nhà Đường (618–907), một triều đại trong lịch sử Trung Quốc
Hậu Đường (923–936), một trong năm triều đại trong thời kỳ Ngũ đại Thập quốc, tiền thân của nó là nước Tấn
Nam Đường (937–975), một trong thập quốc thời Ngũ Đại Bắc Tống, trước có tên là Tề, sau mới đổi là Đường với lý do nối tiếp nhà Hậu Đường.
Nước Đường, phiên vương đời nhà Minh
Huyện Đường, một huyện thuộc địa cấp thị Bảo Định, tỉnh Hà Bắc, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Tên riêng
Họ Đường, họ người Á Đông. |
Trong kỹ nghệ liên mạng và mạng máy tính, các tài liệu RFC (tiếng Anh: Request for Comments - Đề nghị duyệt thảo và bình luận) là một chuỗi các bản ghi nhớ chứa đựng những nghiên cứu mới, những đổi mới, và những phương pháp luận ứng dụng cho công nghệ Internet.
Thông qua Đoàn thể Internet (Internet Society), các kỹ sư và các nhà khoa học máy tính có thể công bố luận văn dưới hình thức là một bản ghi nhớ RFC, hoặc là để cho những người đồng nghiệp phê bình (peer review), hoặc chỉ đơn thuần thông báo những quan điểm mới, tin tức, hoặc (thỉnh thoảng) hài hước về kỹ thuật. Tổ chức Lực lượng chuyên trách về kỹ thuật liên mạng (Internet Engineering Task Force - IETF) chấp nhận một số những lý thuyết thông tin đã ứng dụng được công bố trong các bản RFC như những tiêu chuẩn về liên mạng (Internet standards).
Sự kiến tạo và tiến triển của RFC
Chủ biên tập RFC phát hành cho mỗi một bản tài liệu RFC một số đăng ký duy nhất. Một khi số đăng ký đã được phát hành và công bố, bản RFC sẽ không bao giờ bị hủy bỏ hay bị sửa đổi; nếu bản tài liệu cần phải được chỉnh lý, các tác giả của nó sẽ công bố một bản chỉnh lý; chính vì vậy, một số RFC trở nên lỗi thời vì những bản mới của nó. Các bản RFC đã được đăng ký cùng nhau tạo nên một loạt hồ sơ nối tiếp, hình thành lịch sử tiến triển của tiêu chuẩn liên kết mạng (Internet standards).Xin chú ý cụm từ "RFC" không phải là đặc thù riêng cho loạt các tài liệu này. Một số tổ chức khác cũng cho xuất bản những tài liệu, dùng cụm từ "RFC". Dù vậy, cụm từ này đã từ lâu nổi tiếng là cụm từ chỉ loạt tài liệu "RFC" về Internet;
Tiến trình kiến tạo RFC không giống với những tiến trình tiêu chuẩn hóa do những tổ chức chính quy về tiêu chuẩn như ANSI thường làm. Những chuyên gia về kỹ thuật liên mạng truyền thông có thể tự đề bạt một bản dự thảo Internet (Internet Draft) mà không cần có sự hỗ trợ từ những cơ quan bên ngoài. Những bản RFC được công nhận là tiêu chuẩn thường được công bố với sự phê chuẩn của Lực lượng chuyên trách kỹ thuật kết nối mạng (IETF), và đa số do những chuyên gia tham dự trong các nhóm điều hành của IETF thi hành. Khi mới bắt đầu, chúng đều là những bản dự thảo Internet. Cách sắp xếp này cho phép những bản dự thảo được thông qua những vòng thăm dò ý kiến ban đầu, từ những đồng nghiệp, trước khi tài liệu được thanh lọc và trưởng thành nên những bản RFC.
Truyền thống của RFC dựa vào tính thực dụng, vào kinh nghiệm từng trải, quyền tiêu chuẩn hóa những bản thảo thông qua thực tế đạt được bởi các cá nhân hoặc một nhóm cộng tác nhỏ, có những ưu điểm, hơn rất nhiều tiến trình chính quy do hội đồng điều khiển, mà chúng ta thường thấy ở ANSI hoặc ISO.
Ví dụ điển hình cho những ưu điểm trên đây là sự tồn tại lâu dài của truyền thống những RFC điền rồ (joke RFCs), được công bố vào ngày Cá tháng Tư (April Fool's Day) hằng năm. Xin xem trang Danh sách những RFC hài hước .
Các bản RFC đã từng nổi tiếng vì chất lượng của chúng. Trong các bản RFC chúng ta vừa không gặp những sự nhập nhằng khó hiểu, một vấn đề phổ biến trong các bản thiết kế dự thảo, vừa không có những chức năng ngoài dự kiến do sai lầm của hội đồng gây ra, là những ám ảnh về các tiêu chuẩn chính quy, và chúng vạch đường cho một mạng lưới đang được phát triển tới tầng cỡ toàn cầu. Để biết thêm chi tiết về RFC và tiến trình của RFC, xin xem RFC 2026, "Tiến trình của tiêu chuẩn Internet, phiên bản số 3" ("The Internet Standards Process, Revision 3).
Lịch sử
Mẫu hình RFC được khởi đầu vào năm 1969, khi nó là một phần trong hội thảo của dự án ARPANET. Hiện nay, nó là tuyến công bố chính thức của IETF, của Ủy ban kiến trúc liên kết mạng (Internet Architecture Board - viết tắt là IAB)), và tới một mức độ nào đó, của cộng đồng những kỹ sư nghiên cứu về mạng lưới truyền thông vi tính toàn cầu.
Những bản RFC đầu tiên được tác giả của chúng đánh bằng máy chữ và truyền tay các bản in giữa nhóm những kỹ sư nghiên cứu tại ARPA. Tháng 12 năm 1969, các kỹ sư nghiên cứu phân phát các bản RFC mới được viết thông qua mạng lưới truyền thông, vốn là ARPANET, mà hiện nay đang hoạt động. Bản RFC số 1, với đề tài "Phần mềm dành cho máy chủ" (Host Software), được Steve Crocker sinh viên trường đại học California (University of California, Los Angeles - viết tắt là UCLA) viết, và được công bố vào ngày 7 tháng 4, năm 1969. Crocker đã thảo bản dự thảo này trong phòng tắm để tránh đánh thức bạn cùng phòng của mình.
Trong phiên bản RFC số 3, khai điểm của chuỗi các bản RFC, Steve Crocker đặt các bản RFC đưới quyền của "Nhóm điều hành liên mạng" (Network Working Group). Nhóm này hình như chưa bao giờ tồn tại một cách chính thức, chỉ được định nghĩa là "nhóm người này", song sự ủy quyền vẫn còn tồn tại trong các RFC cho đến ngày nay.
Trường đại học UCLA tiếp tục cho ra nhiều các bản RFC trong những năm của thập niên kỷ 1970, không những vì chất lượng uyên thâm, song còn là vì UCLA là những Bộ điều hành giao diện thông điệp (Interface Message Processor) (nút kết nối mạng) đầu tiên trên mạng ARPANET.
Trung tâm nghiên cứu phát triển (Augmentation Research Center - viết tắt là ARC) của ông Douglas Engelbart tại Học viện nghiên cứu Stanford (Stanford Research Institute) - là một trong bốn nút mạng đầu tiên của mạng ARPANET. Nó cũng đồng thời là Trung tâm tin tức liên mạng (Network Information Centre) đầu tiên, đồng thời nó còn là (như đã được nhà xã hội học Thierry Bardini ghi chú) nguồn gốc của một số lớn những RFC ở thời kỳ đầu.
Từ năm 1969 đến năm 1998, ông Jon Postel làm chủ biên tập RFC. Sau khi hợp đồng ủng hộ tài chính của chính phủ Mỹ hết hạn, Hội đồng Internet (thay mặt cho IETF) ký hợp đồng với Chi nhánh điều hành liên mạng (Networking Division) của trường đại học miền Nam California (University of Southern California - viết tắt là USC) đứng ra làm quyền biên tập và chịu trách nhiệm về việc xuất bản (dưới sự chỉ đạo của IAB). Jon Postel tiếp tục giữ chức chủ biên tập cho đến khi ông mất; sau này, Bob Braden lãnh chức chủ nhiệm đề án, trong khi Joyce Reynolds tiếp tục làm một thành viên của nhóm.
Phương thức lấy các bản RFC
Địa chỉ chính thức của các RFC trên World Wide Web (Mạng lưới toàn cầu) là Chủ biên tập RFC. Chúng ta còn có thể lấy chúng từ những nguồn không chính thức khác, thông qua rất nhiều các máy chứa bản sao (mirror sites), truy cập dùng HTTP (HyperText Transfer Protocol), dùng FTP nặc danh (anonymous FTP), dùng giao thức gopher (gopher protocol), hoặc những giao thức phổ biến của tầng ứng dụng.
Ai cũng có thể tiếp cận bất cứ một bản RFC nào đã từng được công bố, như RFC 3700, thông qua liên kết nối URL:
http://www.rfc-editor.org/rfc/rfc3700.txt
Hầu hết các bản RFC đều hiện hữu ở dạng văn bản ASCII, song chúng cũng còn hiện hữu ở các dạng văn bản (file format) khác; Từ năm 2006 trở đi, những phiên bản chính thức của bất cứ đặc tả về tiêu chuẩn Internet nào, cũng đều ở dưới dạng văn bản ASCII. Xin lưu ý, bản RFC 1119 không tồn tại trong các bản RFC tiêu chuẩn được lưu trữ.
Để tiếp cận các chi tiết về dữ liệu (meta data) của một bản RFC, bao gồm lược trình (abstract), những từ chủ chốt, tác giả, ngày xuất bản, đính chính, hiện trạng, và đặc biệt là sự cập nhật những thông tin mới, những thay đổi, ở dạng thức mà người dùng đọc được, một cách dễ dàng, các máy của chủ biên tập RFC cung cấp những bảng điền chi tiết cho những nhu cầu tìm kiếm, với nhiều chức năng khác nhau. Mỗi một lần chuyển hướng (đi lùng tìm văn bản) là một lần các tham số hiệu quả được thay đổi, chẳng hạn: http://purl.net/net/rfc/3700
Cấp bậc
Không phải bản RFC nào cũng là tiêu chuẩn. Chỉ có nhóm IETF đại diện cho Nhóm chỉ đạo kỹ thuật liên kết mạng (Internet Engineering Steering Group - viết tắt là IESG) là có quyền chuẩn y các bản RFC đang trên đà trở thành tiêu chuẩn. Cấp bậc của các bản RFC được chia ra thành những phần như đề cử (proposed) (PS), dự thảo (draft) (DS), và toàn phần (full) tiêu chuẩn Internet (Internet Standards (STD)). Mỗi một biên tập phụ, thuộc một tiêu chuẩn STD nào đó, đều có riêng một con số đặc thù; Kể từ năm 2006 trở đi, tiêu chuẩn số 1 là RFC 3700. Một số các STD tạo nên nhiều nhóm nhỏ, gồm nhiều những RFC liên quan.
Một bản RFC thử nghiệm có thể là một tài liệu của IETF, hoặc một bản đệ trình cá nhân lên chủ biên tập RFC. Trên lý thuyết, thực trạng của các bản tài liệu như là cái tên của nó ám chỉ - chúng chỉ là các "Đề nghị duyệt thảo và bình luận". Trên thực tế một số bản tài liệu không được nâng đỡ trên đà tiêu chuẩn vì không có người tình nguyện thi hành những chi tiết cụ thể trong thủ tục. Một số tài liệu quan trọng cũng chỉ tổn tại như một Bản thảo Internet, trong khi đó lại có những bản RFC chính quy hầu như trở nên lỗi thời (historic). Kể từ năm 2006 trở đi, so sánh bản TAObis I-D với bản RFC 3160, còn được gọi là "The Tao of IETF" (Bản chất Tao trong IETF).
Một bản RFC tin tức hầu như có thể là bất cứ một thứ gì, từ những bản RFC hài hước mùng 1 tháng Tư (April 1st jokes) về những giao thức sở hữu (proprietary protocols) cho đến những bản RFC chủ chốt, được đại đa số biết đến, như bản RFC 1591. Một số bản RFC tin tức được nhóm lại thành một loạt các bài "tin tức đáng để ý" (for your information - viết tắt là FYI). Tuy hiện nay ít ai đăng thêm, một số những FYI cũ vẫn còn rất thích thú, chẳng hạn FYI 18 còn được gọi là RFC 1983, bản "Từ vựng dành cho người dùng Internet". (Internet User's Glossary)
Một bản RFC tồn kho (historic) là một bản lỗi thời và đã có một phiên bản mới thay thế nó. Những bản này liệt trình một giao thức không được coi là đáng để ý trong Internet hiện tại, hoặc đã bị mang ra khỏi đà tiêu chuẩn hóa vì những lý do nào đó. Một số những bản RFC lỗi thời còn không được liệt kê vào hàng các bản tồn kho, vì "Tiến trình tiêu chuẩn hoá Internet" (Internet Standards Process) thường không cho phép những tham chiếu có tính quy chuẩn (normative references) đối với một bản RFC đang trên đà tiêu chuẩn hóa, từ một RFC có địa vị thấp hơn. Đồng thời, ít người chú ý đến việc giải quyết những chi tiết thủ tục yêu cầu, để những bản RFC được phân loại là tồn kho, và những thay đổi được đánh dấu vào tất cả các bản RFC phụ thuộc vào nó.
Dạng vô danh thường được đặt cho những bản RFC quá cũ, không rõ cấp bậc của nó phải là gì nếu phải công bố. Trong một vài trường hợp, những bản RFC ấy còn hoàn toàn không được công bố. Những bản RFC cũ thường, như cái tên của nó ám chỉ, chỉ đơn thuần là những bản "Yêu cầu duyệt thảo và bình luận", không chủ tâm đặc tả một giao thức, một chu trình quản lý, hoặc bất cứ một cái gì khác mà các RFC hiện nay đang được dùng để thực hiện.
Một loạt các bài những thực hành ưu ái (best common practice - viết tắt là BCP) thu thập các tài liệu về quản lý và những văn bản được công nhận là những luật lệ chính quy, và không thuộc dạng tin tức, song chúng không ảnh hưởng đến những dữ liệu được truyền thông qua đường dây. Danh giới giữa các bản trên đà tiêu chuẩn hóa và các bản BCP thường, là một danh giới rất khó phân định. Nếu một tài liệu chỉ ảnh hưởng đến Tiến trình tiêu chuẩn hoá Internet (Internet Standards Process), còn được gọi là BCP 9 hoặc Sự quản lý IETF thì nó rõ ràng là một bản BCP. Nếu bản RFC ấy chỉ định nghĩa những luật lệ và quy định cho những cơ quan đăng ký IANA (Internet Assigned Numbers Authority), thì khó mà có thể phân định được nó là cái nào. Đa số những bản tài liệu này được liệt kê là các bản BCP, song cũng có một số đang trên đà được tiêu chuẩn hóa.
Loạt các bài BCP còn đồng thời nói đến những đề bạt kỹ thuật về phương pháp thực hành những tiêu chuẩn Internet, chẳng hạn đề bạt về cách dùng những bộ lọc nguồn (source filtering) làm cho những tấn công DoS (Denial of Service - Tấn công từ chối dịch vụ) trở nên khó khăn hơn như (RFC 2827: "Network Ingress Filtering: Defeating Denial of Service Attacks which employ IP Source Address Spoofing" - tạm dịch là "Thanh lọc nội mạng: Hủy diệt các tấn công từ chối dịch vụ dùng cách đóng địa chỉ IP giả") - là bản BCP 38. |
Hoàng Cao Khải (chữ Hán: 黃高啟; 1850–1933), là nhà văn, nhà sử học và là đại thần thân Pháp dưới triều vua Thành Thái trong lịch sử Việt Nam. Ông được xem là cộng sự đắc lực của thực dân Pháp vào những năm đầu thế kỷ 20 tại Việt Nam, bị người Việt coi là Việt gian tiêu biểu trong giai đoạn lịch sử này.
Tiểu sử
Nguyên danh của ông là Hoàng Văn Khải, tự Đông Minh, hiệu Thái Xuyên quê ở làng Đông Thái, xã Yên Đồng, tổng Việt Yên, huyện La Sơn, phủ Đức Thọ, tỉnh Nghệ An (nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Đỗ cử nhân ân khoa 1868 lúc 19 tuổi (cùng khóa thi với anh ông Phan Đình Phùng tên là Phan Đình Thuật, Phan Đình Phùng năm 1876 mới đậu ở trường thi Nghệ An) năm Tự Đức thứ 21 (1868), cùng được bổ làm huấn đạo huyện Thọ Xương, sau làm giáo thụ ở phủ Hoài Đức (Hà Tây). Trước khi Pháp chiếm Bắc Kỳ, ông lần lượt giữ các chức vụ Tri huyện Thọ Xương rồi thăng quyền Án sát Lạng Sơn, quyền Tuần phủ Hưng Yên.
Năm 1884, Pháp chiếm Bắc Kỳ, trong khi các phong trào chống Pháp nổi dậy thì ông lại hợp tác với Pháp để đàn áp các phong trào nghĩa quân chống Pháp. Tháng 1 năm 1887, quyền Tuần phủ Hưng Yên, Hoàng Cao Khải được vua Đồng Khánh cho thực thụ Tuần phủ, gia hàm Thự lý Tổng đốc, nhưng vẫn lãnh Tuần phủ kiêm Tiễu phủ sứ ba tỉnh Hải Dương, Bắc Ninh, Hưng Yên, đặc biệt tham gia đàn áp khốc liệt cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy.
Năm 1888, ông được thăng làm Tổng đốc Hải Dương, rồi làm Khâm sai Kinh lược Bắc Kỳ, tước Duyên Mậu quận công (1890), đây là biệt lệ vì quan lại triều Nguyễn chỉ được phong quận công khi đã mất, ban cho thực ấp Thái Hà. Năm 1894, theo lệnh của toàn quyền De Lanessan, ông viết thư dụ hàng Phan Đình Phùng, nhưng bị cự tuyệt.
Sách Việt Nam sử lược ghi rằng:
Lúc ấy quan quyền kinh lược sứ là ông Nguyễn Trọng Hợp cử quan quyền Tổng đốc Hải Dương là Hoàng Cao Khải làm chức Tiểu phủ sứ đi đánh dẹp ở vùng Bãi Sậy.
Hoàng Cao Khải đem quân đi đánh riết mấy mặt. Bọn Phong trào Văn Thân người thì tử trận, người thì bị bắt. Nguyễn Thiện Thuật chạy sang Tàu, sau mất ở Nam Ninh, thuộc Quảng Tây. Đốc Tít ra hàng, phải đày sang ở thành Alger, bên Algérie. Đề Kiều và Lương Tam Kỳ ra thú được ở yên. Cai Kinh bị bắt, Đốc Ngữ ra thú, Hoàng Hoa Thám ở Yên Thế đến năm 1912 mới bị giết.
Năm 1897, Nha Kinh lược Bắc Kỳ bị bãi bỏ, Hoàng Cao Khải được điều về Huế lãnh chức Thượng thư Bộ Binh và làm phụ chính đại thần cho vua Thành Thái, hàm Thái tử Thái phó, Văn minh điện Đại học sĩ. Như vậy, Hoàng Cao Khải là viên Kinh lược sứ Bắc Kỳ cuối cùng của triều Nguyễn.
Năm 1904 khi tỉnh Cầu Đơ được đổi tên là Hà Đông, ông làm Tổng đốc tỉnh Hà Đông, giúp Thống sứ Bắc Kỳ soạn Nghị định về tổ chức bộ máy quản lý cấp xã ở Bắc Kỳ. Về sau con trai ông là Hoàng Trọng Phu kế nhiệm ông làm Tổng đốc Hà Đông đến năm 1937.
Ông về hưu tại Ấp Thái Hà, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông nay thuộc phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội và mất tại đây.
Ngày 6 tháng 5 năm 1922, Hội Thanh niên An Nam (Foyers de la Jeunesse Annamite) được thành lập, Hoàng Cao Khải cùng Thống sứ Bắc Kỳ Monguillot làm đồng Chủ tịch Hội, Chánh mật thám Pháp Marty làm Chủ tịch danh dự.
Khu di tích Lăng mộ
Mộ của Hoàng Cao Khải nằm ở khu vực ấp Thái Hà cũ, nay nằm ở ngõ 252, phố Tây Sơn (phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội). Di tích này ít được chăm sóc, đến nay khá là hoang phế. Khu di tích có tính đặc thù cao về kiến trúc, được xây dựng năm 1893. Nằm rải rác ở khu vực phía Tây gò Đống Đa, gồm nhiều công trình kiến trúc tinh xảo được đánh giá là đạt đến trình độ kỹ thuật cao tay trong nghệ thuật điêu khắc đá của người Việt. Khu lăng mộ Hoàng Cao Khải được xếp hạng di tích quốc gia năm 1962. Bộ Văn hóa lúc đó đánh giá: "Đây là chứng tích duy nhất của nước ta về một quần thể các công trình lăng tẩm, dinh thự của một phó vương"...
Tác phẩm
Hoàng Cao Khải sáng tác cả bằng chữ Hán lẫn chữ Nôm trên nhiều lĩnh vực. Về lịch sử nổi bật có Việt sử yếu, Việt Nam nhân thần giám, Việt sử kinh bằng chữ Hán, sau được chính ông diễn nôm; Nam sử diễn âm bằng chữ Nôm. Ông được xem là có phát kiến mới về phương pháp luận sử học và những đánh giá khác lạ so với thời đó.
Các sáng tác của Hoàng Cao Khải thường lấy đề tài lịch sử như:
Tây nam đắc bằng (Đi về hướng tây nam gặp được bạn) kể việc Gia Long gặp Bá Đa Lộc nhờ cầu viện nước Pháp,
Trung hiếu thần tiên nói về Hưng Đạo Vương và thời Trần.
Ông cũng soạn các truyện lịch sử mang tính giáo dục luân lý phong kiến như Gương sử Nam, Làm con phải hiếu, Đàn bà Việt Nam...
Ông cũng là soạn giả vở tuồng Gia Long phục quốc.
Đánh giá
Hầu hết các sĩ phu đương thời đều coi khinh Hoàng Cao Khải dù Hoàng có tài văn học. Thái độ đó bắt nguồn từ tác phong kẻ sĩ Nho học, vốn bất hợp tác với người Pháp. Hoàng thì ngược lại, cộng tác rất đắc lực với người Pháp. Các con là Hoàng Mạnh Trí, Hoàng Trọng Phu đều làm tổng đốc, Hoàng Gia Mô làm Tri huyện, phục vụ cho người Pháp.
Sĩ phu Hưng Yên có đôi câu đối, chửi khéo Hoàng Cao Khải:
"Ông ra Bắc là may, Quan Kinh lược, tước Quận Công, bốn bể không nhà mà nhất nhỉ".
"Cụ về Tây cũng tiếc, trong triều đình, ngoài bảo hộ một lòng với nước có hai đâu ?"
"Bốn bể không nhà" là ý nói mất gốc; "ông về Tây cũng tiếc": chính nghĩa nói là đi về cõi Tây Trúc, Tây Thiên, âu cũng thiệt thòi nhưng thực ra là nói người Tây tiếc vì mất đi tay sai đắc lực. Còn như "một lòng với nước có hai đâu" chính là một mình ông trung với nước, không có người thứ hai nhưng thực là mỉa có hai nước (nước Nam, nước Tây), ông trung với nước nào ? (Dẫn theo Vũ Ngọc Khánh, "Người có vấn đề trong sử nước ta", Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, 2008) |
Thang độ cứng Mohs đặc trưng cho tính chất chống lại vết trầy xước trên những khoáng vật khác nhau dựa trên tính chất: khoáng vật có độ cứng lớn hơn sẽ làm trầy khoáng vật có độ cứng nhỏ hơn. Nó được nhà khoáng vật học người Đức Friedrich Mohs đưa ra vào năm 1812 và là một trong những thang đo độ cứng trong khoa học.
Mohs dựa trên mười loại khoáng vật đã có sẵn, ngoại trừ kim cương. Độ cứng của vật liệu được đo bằng cách tìm hai loại vật liệu mà nó có thể làm trầy được và bị làm trầy. Ví dụ: nếu một vật liệu nào đó bị apatit (có độ cứng là 5) làm trầy xước nhưng không bị làm trầy bởi fluorit (có độ cứng là 4), thì độ cứng trong thang Mohs sẽ là 4,5.
Thang đo độ cứng Mohs là một thang độ cứng tương đối. Nếu như corundum (độ cứng là 9) chỉ có độ cứng gấp đôi topaz (độ cứng là 8) thì kim cương (độ cứng là 10) lại có độ cứng gấp 4 lần corundum.
Thang cơ bản
Bảng sau đây cho thấy độ cứng của 10 khoáng vật cơ bản.
Theo như thang độ cứng Mohs, móng tay có độ cứng là 2.5, đồng xu bằng đồng có độ cứng 3.5; một lưỡi dao là 5.5; thủy tinh cửa sổ là 5.5, một thanh thép là 6.5. Sử dụng những vật liệu có độ cứng đã được biết trước sẽ cho chúng ta biết chính xác vị trí của vật liệu trên thang đo Mohs.
Thang sửa đổi
Thang độ cứng Mohs có thể được sửa đổi để tính thêm các vật liệu có độ cứng nằm giữa các vật liệu cơ bản. Dưới đây là thang độ cứng sửa đổi của một số vật liệu thường gặp từ http://www.amfed.org/t_mohs, trang web của Hội Khoáng vật học Hoa Kỳ. |
Hải Hậu là một huyện ven biển thuộc tỉnh Nam Định, Việt Nam.
Địa lý
Huyện Hải Hậu nằm ở phía đông nam tỉnh Nam Định, cách thành phố Nam Định khoảng 35 km về phía đông nam, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 135 km, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp huyện Giao Thủy
Phía tây giáp huyện Trực Ninh và huyện Nghĩa Hưng
Phía nam giáp Biển Đông
Phía bắc giáp huyện Xuân Trường.
Cực Nam của huyện nằm tại cửa Lạch Giang của sông Ninh Cơ, thị trấn Thịnh Long, ranh giới với huyện Nghĩa Hưng. Bờ biển Hải Hậu dài dọc theo thị trấn Thịnh Long và các xã Hải Hòa, Hải Triều, Hải Chính, Hải Lý, Hải Đông và giáp với huyện Giao Thủy.
Hành chính
Huyện Hải Hậu có 34 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 3 thị trấn: Yên Định (huyện lỵ), Cồn, Thịnh Long và 31 xã: Hải An, Hải Anh, Hải Bắc, Hải Châu, Hải Chính, Hải Cường, Hải Đông, Hải Đường, Hải Giang, Hải Hà, Hải Hòa, Hải Hưng, Hải Long, Hải Lộc, Hải Lý, Hải Minh, Hải Nam, Hải Ninh, Hải Phong, Hải Phú, Hải Phúc, Hải Phương, Hải Quang, Hải Sơn, Hải Tân, Hải Tây, Hải Thanh, Hải Triều, Hải Trung, Hải Vân, Hải Xuân.
Lịch sử
Ngày 27 tháng 12 năm 1888, Thống sứ Pháp chuẩn y Quyết định của Nha Kinh lược Bắc Kỳ thành lập huyện Hải Hậu gồm các tổng Quần Phương (gồm các làng: Quần Anh Thượng, Quần Anh Trung, Quần Anh Hạ, Phương Đê của tổng Ninh Cường), Ninh Nhất của huyện Trực Ninh, phần lớn tổng Kiên Trung (7 xã phía nam) của huyện Giao Thuỷ và tổng Tân Khai (vùng đất mới khai phá và vẫn tiếp tục được khai phá). Khi mới thành lập, huyện Hải Hậu gồm 5 tổng, 36 xã, thôn.
Sau năm 1954, huyện Hải Hậu có 39 xã: Hải An, Hải Anh, Hải Bắc, Hải Bình, Hải Cát, Hải Châu, Hải Chính, Hải Cường, Hải Đông, Hải Đường, Hải Giang, Hải Hà, Hải Hòa, Hải Hùng, Hải Hưng, Hải Lộc, Hải Long, Hải Lý, Hải Minh, Hải Nam, Hải Ninh, Hải Phong, Hải Phú, Hải Phúc, Hải Phương, Hải Quang, Hải Sơn, Hải Tân, Hải Tây, Hải Thắng, Hải Thanh, Hải Thành, Hải Thịnh, Hải Tiến, Hải Toàn, Hải Triều, Hải Trung, Hải Vân, Hải Xuân.
Năm 1958, thành lập thị trấn Cồn trên cơ sở một phần diện tích tự nhiên và dân số các xã Hải Tiến, Hải Tân và Hải Lý. Đây là thị trấn được thành lập đầu tiên tại Nam Định.
Ngày 29 tháng 1 năm 1966, sáp nhập một phần diện tích và dân số của xã Hải Lộc vào xã Hải Đông.
Ngày 26 tháng 3 năm 1968, sáp nhập 7 xã: Trực Thái, Trực Phú, Trực Đại, Trực Hùng, Trực Cường, Trực Tiến và Trực Thắng của huyện Trực Ninh vào huyện Hải Hậu.
Ngày 28 tháng 8 năm 1971, sáp nhập xã Hải Bình vào xã Hải Minh.
Ngày 18 tháng 12 năm 1976, sáp nhập xã Hải Tiến vào thị trấn Cồn; hợp nhất xã Hải Đường và xã Hải Cát thành một xã lấy tên là xã Hải Đường; hợp nhất xã Hải Trung và xã Hải Thành thành một xã lấy tên là xã Hải Trung; hợp nhất xã Trực Đại và xã Trực Tiến thành một xã lấy tên là xã Trực Đại.
Ngày 27 tháng 6 năm 1977, hợp nhất xã Hải Hưng và xã Hải Thắng thành một xã lấy tên là xã Hải Hưng, hợp nhất xã Hải Anh và xã Hải Hùng thành một xã lấy tên là xã Hải Anh.
Ngày 1 tháng 4 năm 1986, thành lập thị trấn Yên Định, thị trấn huyện lỵ huyện Hải Hậu trên cơ sở 31,72 ha diện tích tự nhiên của xã Hải Bắc, 79,04 ha diện tích tự nhiên của xã Hải Hưng và 112,6 ha diện tích tự nhiên của xã Hải Phương.
Ngày 26 tháng 2 năm 1997, chuyển 6 xã: Trực Thái, Trực Phú, Trực Đại, Trực Hùng, Trực Cường về huyện Trực Ninh vừa tái lập; chuyển xã Hải Thịnh thành thị trấn Thịnh Long.
Ngày 10 tháng 12 năm 2014, thị trấn Thịnh Long được công nhận là đô thị loại IV.
Ngày 1 tháng 2 năm 2020, sáp nhập toàn bộ diện tích và dân số của xã Hải Toàn vào xã Hải An.
Huyện Hải Hậu có 3 thị trấn và 31 xã trực thuộc như hiện nay.
Kinh tế - xã hội
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2003 - 2005 đạt 8,1%/năm, giai đoạn 2006 - 2010 đạt 9,5%/năm; bình quân cả thời kỳ 2003 - 2010 là 8,5%/năm. Thu nhập bình quân năm 2016 đạt khoảng 34,48 triệu đồng/người (theo giá hiện hành).
Hải Hậu là một trong những vựa lúa của Nam Định cũng như vùng đồng bằng sông Hồng. Đây là một trong những đơn vị đầu tiên đạt năng suất lúa 5 tấn/ha. Hải Hậu khá nổi tiếng với gạo tám, nếp hương, dự, v.v...
Kinh tế của Hải Hậu khá đa dạng, gồm nông nghiệp (trồng lúa), đánh bắt và chăn nuôi thủy hải sản, thủ công mỹ nghệ (nghề mộc), làm muối, cây cảnh và đặc biệt là du lịch. Huyện Hải Hậu phát triển du lịch tại bãi tắm Thịnh Long. Ngoài ra cảng Thịnh Long cũng đóng vai trò trong phát triển kinh tế của huyện. Bốn xã được coi là mũi nhọn trong nền kinh tế Hải Hậu là thị trấn Cồn – nơi có chợ Cồn là trung tâm của cả vùng, thị trấn Thịnh Long, thị trấn Yên Định – là trung tâm huyện và xã Hải Giang, Hải Phong, Hải Ninh nơi có những cánh đồng lúa tám thơm đặc sản Hải Hậu. Bờ biển Hải Hậu còn có các cánh đồng muối. Người dân ở đây cũng tham gia đánh bắt hải sản. Ngoài ra, vào lúc nông nhàn người dân cũng đi làm ở các nơi đem lại một nguồn thu nhập quan trọng trong mỗi gia đình.
Hạ tầng
Trong những năm qua, với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, Hải Hậu đã tập trung xây dựng những công trình trọng điểm nhằm góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội - văn hoá và nâng cao đời sống cho người dân. Đến cuối năm 2004, 99% đường giao thông nông thôn trên địa bàn huyện đã được nhựa hoá, bê tông hoá; 99% hộ dân được dùng điện lưới quốc gia, trạm xá được xây dựng theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế, 50% số dân được dùng nước sạch.
Đặc sản
Gạo tám xoan Hải Hậu là một loại gạo thu hoạch trên việc trồng lúa tám xoan tại một số cánh đồng nhỏ của mảnh đất Hải Hậu. Đây là một loại gạo thơm tự nhiên và giàu chất dinh dưỡng. Hiện nay, việc trồng lúa tám xoan chỉ thực sự trồng trên được 2 – 3 xã có chất đất khá đặc biệt của huyện Hải Hậu tỉnh Nam Định. Loại gạo tám này đã được xuất khẩu ra nước ngoài và hiện đang được nhiều các nhà khoa học quan tâm để phát triển giống lúa này. Ngoài gạo tám xoan nổi tiếng, Hải Hậu còn có một số đặc sản như bánh nhãn.
Làng nghề
Nói đến vùng đất trăm nghề người ta thường nghĩ tới khu vực Hà Nội, phía tây Bắc Ninh, phía bắc Hưng Yên, phía đông nam Vĩnh Phúc, các huyện của tỉnh Hà Tây cũ, hay ven thành phố lớn, khu vực giao thông thuận lợi,... Nếu như so với các huyện, khu vực phía Nam vùng đồng bằng sông Hồng thì Hải Hậu là một huyện hiếm hoi đa dạng nhiều làng nghề, làng có nghề và nhóm nghề và có thu nhập bình quân đầu người rất cao từ hiệu quả làng nghề. Các làng nghề truyền thống cũ, làng nghề mới, làng có nghề tại huyện:
Các làng nghề trồng hoa, cây cảnh như: Nguyễn Chẩm A và Đỗ Bá ở thị trấn Cồn; Hồng Tiến ở Hải Phú; Bắc Hưng ở Hải Hưng; Phạm Tăng ở Hải Tân; Hải Sơn; Tam Tùng Nam ở Hải Đường; Văn Lý ở Hải Lý; Xuân Bắc ở Hải Xuân; Cờ Hồng ở Hải Long; Hải Hòa
Trồng dược liệu ở Hải Quang và lân cận
Nghề đan lưới và nghề cá ở Hải Triều
Nghề nuôi trồng thủy sản ở xã Hải Châu và xã Hải Chính
Nghề làm muối ở Hải Lý
Nghề đúc nhôm và mộc ở Hải Vân
Nghề mộc Đông Hữu (Hải Anh)
Các làng nghề mộc mỹ nghệ như: Tam Tùng Đông (Hải Đường); Cồn Thịnh (Hải Anh); Bình Minh (Hải Minh); Phạm Rỵ (Hải Trung)
Nghề đồ cổ xóm 9, 10 khu Tân Tiến (Hải Minh)
Nghề dệt chiếu An Đạo (Hải An) và Phương Đức (Hải Bắc)
Xe đay, dệt chiếu Giáp Nam (Hải Phương)
Kéo sợi PE, dệt lưới thị trấn Thịnh Long
Làm kèn tây Phạm Pháo (Hải Minh)
Làm bánh kẹo Đông Cường (thị trấn Yên Định)
Một số có nghề chế biến thực phẩm thị trấn Yên Định
Một số có nghề chế biến cau ở Hải Đường
Làng nghề xây dựng xã Hải Phúc, Hải Phong.
Giáo dục
Giáo dục, đào tạo ngày càng được xã hội hoá sâu rộng. Tất cả các thị xã, thị trấn đều có trường học cao tầng, nhiều xã có 3 – 4 trường. Chất lượng giáo dục toàn diện được củng cố vững chắc cả về giáo dục, trí dục, đức dục, giáo dục quốc phòng và pháp luật. Đặc biệt, số học sinh ở cả ba cấp đạt kết quả cao qua các kỳ thi học sinh giỏi tăng đều qua các năm, đạt thứ hạng 2, 3 toàn tỉnh. Đến năm 2002, 100% xã, thị trấn hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Năm 2004, toàn huyện có 6 trường mầm non, 30 trường tiểu học, 3 trường trung học cơ sở và 1 trường trung học phổ thông đạt chuẩn quốc gia trong giai đoạn 2001 – 2010.
Huyện Hải Hậu có 8 trường THPT công lập: THPT A Hải Hậu, THPT B Hải Hậu, THPT C Hải Hậu, THPT Thịnh Long và THPT Trần Quốc Tuấn, PTTH Vũ Văn Hiếu, THPT An Phúc, THPT Dân Lập Hải Hậu. Trong đó, trường THPT A Hải Hậu là một trong những lá cờ đầu trong tỉnh về giáo dục đào tạo.
Dân số
Huyện có diện tích 230,22 km². Toàn bộ diện tích huyện Hải Hậu là đồng bằng với khoảng 32 km bờ biển, trên địa bàn huyện không có ngọn núi nào. Huyện có dân số 262.901 người (1/4/2019). 45% dân số theo đạo Thiên Chúa.
Huyện có diện tích 228,14 km², dân số năm 2022 là 333.415 người, mật độ dân số đạt 1.461 người/km².
Giao thông
Huyện có đường bộ quốc lộ 21A (điểm cuối là thị trấn Thịnh Long), Quốc lộ 21B, Quốc lộ 37B (tỉnh lộ 56 cũ), Tỉnh lộ 488, 488C, 489B; đường sông (sông Ninh Cơ) và đường biển. Đây là địa phương có dự án Đường cao tốc Ninh Bình – Hải Phòng đi qua.
Tháng 10/2018, Cầu Thịnh Long nối liền 2 huyện Nghĩa Hưng và Hải Hậu đã chính thức được khởi công và khánh thành vào ngày 28/5/2020 với tổng mức đầu tư hơn 1.158 tỉ đồng.
Danh nhân
Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu (1947-) Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng (1998-2011) Phó Tổng tham mưu trưởng Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, Anh Hùng Lực Lượng Vũ Trang Nhân Dân, Tư Lệnh Quân Đoàn 1, Tư Lệnh thứ nhất quân đoàn 1
Thượng Tướng Vũ Hải Sản (1961-) Ủy viên Ban Chấp hành trung ương Đảng - Ủy viên Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, nguyên Phó Bí thư Đảng ủy, Tư lệnh Quân khu 3.
Thiếu tướng Lê Quốc Sản(1920-2000)
Thiếu tướng Lâm Trọng Đông - Ủy viên Thường Vụ Đảng Ủy Chủ nhiệm Chính trị Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng
Giáo sư Ngô Đức Thịnh, ông nguyên là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam
Nhà thơ Vũ Quần Phương, tên thật là Vũ Ngọc Chúc là nhà thơ, nhà báo và nhà phê bình văn học.
Nhà văn Mai Thảo,tên thật: Nguyễn Đăng Quý, bút hiệu khác: Nguyễn Đăng; là một nhà văn hiện đại Việt Nam.
Nhà văn Nguyễn Thi, một nhà văn Việt Nam nổi tiếng trong thời kì chiến tranh Việt Nam, ông đã được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật năm 2000.
Nhà văn Đào Hồng Cẩm, nhà viết kịch, nhà văn Việt Nam. Ông đã được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học –Nghệ thuật đợt 1 (1996).
Nhạc sĩ Vũ Thành An, một trong những nhạc sĩ nổi bật của miền Nam Việt Nam thời kỳ 1954 - 1975. Các "Bài không tên" là những tác phẩm nổi tiếng của ông. Hiện nay, ông là một phó tế của Giáo hội Công giáo Rôma, đã ngừng sáng tác nhạc tình ca mà chỉ sáng tác thánh ca.[3]
Nhạc sĩ Trương Ngọc Ninh - Phó giám đốc Sở Văn hóa – Thông tin Hà Nội và Phó chủ tịch Hội Âm nhạc Hà Nội
Nhạc sĩ Anh Quân, là nhạc sĩ, nhà sản xuất âm nhạc đã nhận 2 đề cử và giành được 1 giải Cống hiến, chồng của Ca sĩ Mỹ Linh
Ca sĩ Mỹ Linh, là một trong bốn diva Việt Nam bên cạnh Thanh Lam, Hồng Nhung và Trần Thu Hà. Cô cũng là nghệ sĩ đã giành được 7 đề cử và chiến thắng 3 lần tại giải Cống hiến.
Giáo sư Lương Kim Định, là giáo sư, nhà triết học, linh mục Việt Nam. Ông có nhiều tác phẩm nghiên cứu triết học Việt Nam (mà ông gọi là Việt Triết hay Việt Nho).
Nhà giáo ưu tú, Nhà thơ Nguyễn Ngọc Ký...lập kỷ lục Việt Nam "Người thầy đầu tiên của Việt Nam dùng chân để viết".
Giáo sư Kim Cương Đại học Bách Khoa Hà Nội
Ủy viên TW Đảng, Bí thư tỉnh ủy Điện Biên Trần Văn Sơn, nguyên thứ trưởng bộ Xây dựng,là một chính trị gia người Việt Nam. Ông hiện là đại biểu quốc hội Việt Nam khóa XIV nhiệm kì 2016-2021, thuộc đoàn đại biểu quốc hội tỉnh Điện Biên, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII, Bí thư Tỉnh ủy Điện Biên.[1]
Ủy Viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Văn Phòng Quốc hội Vũ Mão, là một chính khách, nhà thơ, nhạc sĩ Việt Nam. Ông từng giữ các chức vụ Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh từ năm 1982 đến năm 1987, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước từ năm 1987 đến 1992, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội từ năm 1992 đến năm 2002, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội từ năm 2002 đến năm 2007, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam năm khóa (khóa 5 đến khóa 9) từ năm 1982 đến năm 2006, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội các khóa 9, 10, 11, Uỷ viên Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp 1992.
Giáo Sư Tiến Sĩ Trần Văn Nhung, Thứ trưởng Bộ Giáo dục & Đào tạo
Thiếu tướng Đỗ Ngọc Cẩn Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Chính trị Công An Nhân Dân. Ông là thành viên Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực nhiệm kỳ 2016- 2021, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Xây dựng lực lượng Công an nhân dân (2014-2018), nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Phòng cháy chữa cháy.
Thiếu tướng Trần Văn Đạt nguyên Phó Chủ Nhiệm Ủy Ban Kiểm Tra Quân ủy Trung ương
Thiếu Tướng Trần Văn Doanh Cục phó cục cảnh sát Ma Tuý - Bộ Công An
Trung tướng Trần Thanh Huyền - Chính ủy Quân Chủng Hải Quân, là một sĩ quan cấp cao của Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Phó Đô đốc, nguyên Chính ủy Quân chủng Hải quân (2008–2012).
Trung tướng Trần Đình Xuyên - Phó Tư lệnh Quân Chủng Hải Quân
Thiếu tướng Trần Ngọc Quyến, quân chủng Phòng Không Không Quân
Đức đệ nhất pháp chủ giáo hội phật giáo Việt Nam Hoà Thượng Thích Đức Nhuận.
Chú thích |
Hội trường Ba Đình là một tòa nhà lớn nằm trước lăng chủ tịch Hồ Chí Minh, trên quảng trường Ba Đình, là nơi thường xuyên diễn ra những hội nghị lớn của Việt Nam và cũng là nơi tổ chức các hoạt động song phương, đa phương, hợp tác quốc tế. Nguyễn Cao Luyện là đồng tác giả của hội trường Ba Đình.
Năm 2007, Hội trường Ba Đình đã được phá dỡ để nhường chỗ xây dựng Nhà Quốc hội.
Ý nghĩa
Hội trường Ba Đình là công trình xây dựng trong thời kì chiến tranh Việt Nam. Trong hơn 4 thập kỷ, Hội trường Ba Đình đã đảm đương sứ mệnh lịch sử tổ chức các sự kiện chính trị quan trọng: 7 nhiệm kỳ Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng, 11 nhiệm kỳ Quốc hội và nhiều nhiệm kỳ Đại hội của các đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội đã diễn ra tốt đẹp. Tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã tham dự và chủ trì nhiều hội nghị quan trọng gắn với sự ra đời các quyết sách lớn của Đảng, Nhà nước trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Hội trường Ba Đình còn là nơi tổ chức các hoạt động mang tính nghi lễ quốc gia và các hoạt động đối ngoại ở tầm quốc tế.
Kiến trúc
Vị trí
Tổng mặt bằng khu vực Hội trường Ba Đình (khoảng 22 ha) được xác định như sau:
Phía Bắc là đường Hoàng Văn Thụ
Phía Nam là đường Điện Biên Phủ, Lô E
Phía Đông là đường Hoàng Diệu, tiếp giáp với Thành cổ Thăng Long
Phía Tây là đường Độc Lập, Quảng trường Ba Đình..
Kiến trúc chính
Hội trường Ba Đình gồm 3 tầng, mặt bằng được bố trí theo hình chữ T, mặt chính diện hướng Tây trông ra Quảng trường Ba Đình; mặt bên hướng Nam tiếp giáp đường Bắc Sơn, đối diện trụ sở Bộ Ngoại giao; mặt bên hướng Bắc, tiếp giáp đường Hoàng Văn Thụ, đối diện trụ sở Văn phòng Trung ương Đảng; mặt sau hướng Đông, tiếp giáp đường Hoàng Diệu, đối diện Khu Thành cổ Hà Nội.
Các phòng ban
Tính đến tháng 8-2007, sau 45 năm tồn tại, ngoài phòng Họp chính, Phòng họp Đoàn Chủ tịch và Thứ ký kỳ họp, Phòng trực của các cơ quan, Trung ương, Phòng tiếp khách quốc tế, trong Hội trường Ba Đình còn có 30 phòng chức năng dành cho cán bộ, công chức các cục, vụ, đơn vị của Văn phòng Quốc hội tập trung phục vụ Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội trong thời gian diễn ra các kỳ họp Quốc hội, bao gồm:
Các phòng dành cho các cục, vụ, đơn vị phục vụ trực tiếp hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và các Ban của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
Các phòng dành cho các cục, vụ, đơn vị phục vụ chung đảm bảo cơ sở vật chất, kỹ thuật, quản lý tài sản, tổ chức hành chinh, văn thư, lễ tân, thông tin, y tế phục vụ đại biểu Quốc hội, cán bộ, công chức phục vụ tại các kỳ họp Quốc hội;
Các phòng làm việc thường xuyên của một số đơn vị như: Trung tâm Thông tin, Thư viện và Nghiên cứu khoa học; Trung tâm Tin học; Ban Quản lý Hội trường Ba Đình; Thư viện Quốc hội…
Mỗi phòng chức năng của Hội trường Ba Đình tuy có nhiệm vụ riêng, nhưng đều có liên quan chặt chẽ với nhau nhằm phục vụ tốt nhất các hoạt động của Đảng, Chính phủ, Quốc hội trong mỗi nhiệm kỳ và đảm bảo điều kiện cho hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các đoàn thể và tổ chức chính trị - xã hội được tổ chức tại đây.
Kế hoạch tháo dỡ
Sáng 2-4-2007, với 86,56% phiếu thuận, Quốc hội khóa XI thông qua nghị quyết về phương án quy hoạch, xây dựng nhà Quốc hội.
Theo đó, nhà Quốc hội được xây dựng tại lô D khu trung tâm chính trị Ba Đình, hội trường Ba Đình lịch sử bị đập bỏ. Nhưng tranh luận về việc xây nhà Quốc hội thì chưa dừng lại ở đây. Vì nhiều người mong muốn giữ lại Hội trường Ba Đình.
Tại Trung tâm Hội nghị quốc gia Mỹ Đình, ngày 2-9-2007, Bộ Xây dựng tổ chức triển lãm các phương án kiến trúc nhà Quốc hội (17 phương án đã trúng tuyển vào vòng chung kết) để tham khảo ý kiến nhân dân.
Vài ngày sau, với tư cách một công dân, nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt đã công bố một lá thư trên báo chí, đề nghị “giữ lại hội trường Ba Đình, xây dựng nhà Quốc hội mới trên một địa điểm mới, tạo dựng một không gian đô thị mới”.
Liền sau ý kiến của ông Kiệt, báo Đại Đoàn Kết ngày 1-11-2007 đã đăng thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Mặc dầu Quốc hội đã biểu quyết, nhưng cán bộ và nhân dân còn có nhiều ý kiến”. Đại tướng cho rằng “đã là di tích lịch sử mà xuống cấp thì phải tu sửa, bảo tồn chứ không phải phá bỏ đi”.
Mặc dù nhận được nhiều ý kiến trái chiều nhưng ban chính trị Việt Nam vẫn quyết định tháo dỡ Hội trường Ba Đình, vì nhà Quốc hội thì phải xây ở trung tâm Chính Trị cộng với việc Hội trường Ba Đình xuống cấp sau nhiều năm phục vụ. Cuối năm 2007 Hội trường Ba Đình chính thức được tháo dỡ.
Lịch sử
Bối cảnh xây dựng
Trước năm 1960, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa có Trụ sở Quốc hội, bởi vậy các kỳ họp của Quốc hội phần lớn đều tổ chức tại Nhà hát lớn Thành phố Hà Nội. Để đảm bảo điều kiện cho hoạt động của Quốc hội, Ban thường trực Quốc hội và hoạt động của các Tiểu ban của Quốc hội, Đảng và Nhà nước đã giao nhiệm vụ cho Bộ Kiến trúc lập dự án xây dựng Nhà Quốc hội ở khu Quần Ngựa, Hà Nội theo quy hoạch của Chính phủ với phương châm “Tiện lợi, chắc chắn, đẹp nhưng trang nghiêm”.
Việc lựa chọn kiểu dáng kiến trúc, trang, thiết bị và vật liệu xây dựng Nhà Quốc hội được nghiên cứu rất kỹ. Với sự giúp đỡ của các chuyên gia Trung Quốc, tháng 5-1960 nhiệm vụ thiết kế Nhà Quốc hội đã hoàn thành và mô hình kiến trúc đã được trưng bày tại Phòng Triển lãm số 45 phố Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội để lấy ý kiến nhân dân. Nhưng, khi triển khai thực hiện lại có nhiều vấn đề nảy sinh cần giải quyết trong đó có “ khó khăn về nguyên vật liệu, vốn kiến thiết cơ bản, Chính phủ đã đề nghị hoãn việc xây dựng Nhà Quốc hội để tập trung vốn thực hiện một số công trình kinh tế cấp thiết. Trong khi chờ đợi xây dựng Nhà Quốc hội, để giải quyết chỗ họp cho các kỳ họp Quốc hội và các hội nghị quan trọng khác, Chính phủ đã phê duyệt phương án xây dựng một nhà họp trước Quảng trường Ba Đình”. Nhà họp đó được nhân dân gọi với tên thân thuộc là Hội trường Ba Đình.
Phục vụ
Tính đến năm 2007, tại Hội trường Ba Đình đã phục vụ 7 kỳ Đại hội Đảng (từ Đại hội IV năm 1976 - Đại hội X năm 2006), 11 nhiệm kỳ Quốc hội (từ 1963 - 2007), chứng kiến 5 nhiệm kỳ Đại hội của Mặt trận tổ quốc Việt Nam (từ Đại hội II năm 1983 - Đại hội VI năm 2004), 5 nhiệm kỳ Đại hội của Tổng Liên đoàn Lao động (từ 1974 - 1993), 6 nhiệm kỳ Đại hội của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (từ 1974 - 2002)
Nguyên nhân tháo dỡ
Hội trường Ba Đình bị tháo dỡ vì là nơi họp tạm thời nên kiến trúc và quy mô xây dựng chỉ ở mức độ khiêm tốn. Chi tiết quan trọng này được cụ Hoàng Phát Hiền, một trong những cán bộ phục vụ nhiều năm gần gũi với Bác Hồ, kể lại với các đồng chí lãnh đạo. Đây cũng là một trong những căn cứ để trung ương yên tâm đưa ra quyết định cuối cùng.
Hình ảnh |
"Don't Stop Me Now" là một bài hát của ban nhạc Queen trong album Jazz năm 1978. Freddie Mercury sáng tác bài này. Bài hát được thu âm vào tháng 8 và tháng 9 năm 1978 ở Montreux, Thụy Sĩ.
Bài hát được sáng tác dựa trên tiếng đàn piano của Mercury còn Deacon và Taylor chơi thêm ghi ta bass và trống cho phần nền, May thì chơi ghita solo.
Lời bài hát là một bức tranh lớn miêu tả cảm giác về sức mạnh và sự hồ hởi, ví dụ "I'm gonna go, go, go there's no stopping me / I'm burning through the sky yeah 200 degrees… "
Bài hát đã đứng thứ 9 trong bảng xếp hạng ở Anh nhưng chỉ đứng thứ 86 ở Mỹ.
Năm 2004, bài hát có mặt trong bộ phim Shaun of the Dead.
Năm 2005 bài hát được bình chọn như là "The Greatest Driving Song Ever" bới những người xem chương trình truyền hình Top Gear của BBC.
Năm 2006, bài hát được sử dụng trong chương trình truyền hình thương mại của Kirin Nuda (tên một loại nước giải khát của Nhật Bản) cho nhà hài kịch Okamura Takashi nhảy breakdance theo nhạc.
Năm 2006, bài hát đã được chơi trong bộ phim hoạt hình American Dad của Mỹ, trong phần Roger 'n' Me khi Stan và Roger đang ở Atlantic City, New Jersey.
Phiên bản cover
Do ban nhạc The Vandals hát lại năm 2004 (nhạc punk).
Do ban nhạc Fobia hát lại (ở Tây Ban Nha).
Trò chơi phát hành ở châu Âu Donkey Konga'' (2004).
McFly cover lại bài hát vào năm 2006, phiên bản này đã đạt đến vị trí số 1 trên UK Singles Chart (cùng với "Please, Please"). |
"Bohemian Rhapsody" là một bài hát của ban nhạc rock người Anh Quốc Queen nằm trong album phòng thu thứ tư của họ, A Night at the Opera (1975). Nó được phát hành vào ngày 31 tháng 10 năm 1975 như là đĩa đơn đầu tiên trích từ album bởi EMI Records và Elektra Records. Bài hát được viết lời bởi giọng ca chính của Queen Freddie Mercury, trong khi phần sản xuất được đảm nhiệm bởi tất cả những thành viên trong nhóm (Mercury, Brian May, Roger Taylor và John Deacon) với Roy Thomas Baker. "Bohemian Rhapsody" là sự cộng hưởng giữa nhiều đoạn khác nhau mà không có phần điệp khúc, bao gồm đoạn giới thiệu, đoạn ballad, đoạn lướt mang phong cách opera, đoạn hard rock và đoạn coda phản chiếu. Bài hát là một bản progressive rock kết hợp với những yếu tố từ hard rock và progressive pop, và mặc dù đã có những giả thuyết xung quanh nội dung lời bài hát, Mercury chưa từng thừa nhận về ý nghĩa thực sự của nó. Năm 1991, "Bohemian Rhapsody" đã được phát hành lại ở Vương quốc Anh như là đĩa đơn mặt A đôi với "These Are the Days of Our Lives", sau sự ra đi của Mercury.
Sau khi phát hành, "Bohemian Rhapsody" nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao sự sáng tạo trong âm nhạc và hoàn thiện về mặt kỹ thuật của nó. Ngoài ra, bài hát còn gặt hái nhiều giải thưởng và đề cử tại những lễ trao giải lớn, bao gồm chiến thắng tại giải Brit năm 1977 cho Đĩa đơn Anh Quốc của năm và hai đề cử giải Grammy cho Trình diễn giọng pop xuất hiện bởi bộ đôi, nhóm nhạc hoặc điệp khúc và Cải biên lời cho hai giọng trở lên xuất sắc nhất tại lễ trao giải thường niên lần thứ 19. "Bohemian Rhapsody" cũng tiếp nhận những thành công vượt trội về mặt thương mại, đứng đầu các bảng xếp hạng ở Úc, Bỉ, Canada, Ireland, Hà Lan, New Zealand và Vương quốc Anh, đồng thời lọt vào top 10 ở hầu hết những quốc gia nó xuất hiện. Tại Hoa Kỳ, nó đạt vị trí thứ sáu trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 vào năm 1976, trước khi đạt vị trí thứ hai vào năm 1992 sau khi xuất hiện trong bộ phim Wayne's World. Tính đến nay, nó đã bán được hơn 11 triệu bản trên toàn cầu, trở thành một trong những đĩa đơn bán chạy nhất mọi thời đại.
Video ca nhạc cho "Bohemian Rhapsody" được đạo diễn bởi Bruce Gowers, trong đó sử dụng nhiều hiệu ứng đặc biệt khác nhau để làm nổi bật sự xuất hiện của Queen, xen kẽ với những cảnh họ trình diễn trên một sân khấu. Được ghi nhận là bài hát trứ danh trong sự nghiệp của nhóm, nó đã lọt vào danh sách những tác phẩm hay nhất mọi thời đại bởi nhiều tổ chức và ấn phẩm âm nhạc, bao gồm vị trí thứ 166 trong danh sách "500 Bài hát xuất sắc nhất mọi thời đại" của Rolling Stone. Bài hát đã được hát lại và sử dụng làm nhạc mẫu bởi nhiều nghệ sĩ, như Elton John, Axl Rose, Elaine Paige, "Weird Al" Yankovic, Robbie Williams, Pink, Adam Lambert, Pentatonix và dàn diễn viên của Glee, cũng như xuất hiện trong nhiều tác phẩm điện ảnh và truyền hình, bao gồm bộ phim tiểu sử năm 2018 cùng tên dựa trên sự nghiệp của nhóm. Ngoài ra, "Bohemian Rhapsody" còn xuất hiện trong nhiều album tuyển tập của Queen, bao gồm Greatest Hits (1981), Stone Cold Classics (2006), The A–Z of Queen, Volume 1 (2007), Absolute Greatest (2009) và Icon (2013).
Danh sách bài hát
Đĩa 7"
"Bohemian Rhapsody" – 5:55
"I'm in Love with My Car" – 3:05
Xếp hạng
Xếp hạng tuần
Xếp hạng thập niên
Xếp hạng cuối năm
Xếp hạng mọi thời đại
Chứng nhận |
Kaiserslautern là một trong 5 thành phố của Đức được gọi là thành phố Barbarossa do trong lịch sử hoàng đế Friedrich I, còn được gọi là Barbarossa, của Đế quốc La Mã Thần thánh đã từng sống tại đây. Ngày nay Kaiserslautern là một thành phố công nghiệp và đại học nằm ở bìa bắc của Rừng Pflaz trong vùng phía nam của bang Rheinland-Pflaz. Kaiserslautern được biết đến trước nhất là nhờ câu lạc bộ bóng đá 1. FC Kaiserslautern.
Kaiserslautern có tròn 99.000 dân cư và là một trong những trung tâm của bang Rheinland-Plalz bên cạnh Trier, Mainz, Ludwigshafen và Koblenz. Ngoài ra, sống trong thành phố và vùng phụ cận là gần 48.000 người Mỹ (quân nhân, cựu quân nhân, nhân viên dân sự Mỹ và gia quyến) phục vụ trong quân đội tại Kaiserslautern và căn cứ không quân Ramstein gần đó. |
Bạch Vân Quán là một đạo quán ở phía ngoài cửa tây của Bắc Kinh, là tổ đình của Toàn Chân phái, nổi tiếng là «Thiên hạ đệ nhất tùng lâm».
Lịch sử
Tên ban đầu của nơi này là Thiên Trường Quán, xây dựng năm 722 theo sắc lệnh của Đường Huyền Tông. Đời Kim, giặc Khiết Đan phương bắc kéo xuống phương nam đánh phá, Thiên Trường Quán bị hủy hoại nặng nề. Năm 1167 Kim Thế Tông sắc lệnh trùng tu, đặt tên lại là Thập Phương Đại Thiên Trường Quán. Năm 1202, đạo quán bị đốt cháy, Kim Chương Tông ban sắc lệnh trùng tu năm 1203, đổi tên là Thái Cực Điện, rồi lại đổi thành Thái Cực Cung.
Đời Nguyên, đạo quán nổi danh kể từ Khưu Xứ Cơ được Thành Cát Tư Hãn quý trọng. Khưu Xứ Cơ về trụ trì Thái Cực Cung năm 1224. Nguyên Thái Tổ ban sắc lệnh tu sửa nơi này và đổi tên thành Trường Xuân Cung. Cuối đời Nguyên, Trường Xuân Cung cũng bị hư hoại trong chiến tranh. Vào những năm Vĩnh Lạc (1403-1424), vua Minh Thành Tổ ban sắc lệnh trùng tu, và đổi tên nơi này thành Bạch Vân Quán năm 1443.
Kiến trúc
Quần thể Bạch Vân Quán gồm Bài Lâu (lầu gỗ cao 7 tầng để quan sát tinh tú), Linh Quan Điện (thờ thần hộ pháp của Đạo giáo là Vương Linh Quan), Ngọc Hoàng Điện (thờ Ngọc Hoàng Thượng đế), Lão Luật Đường (tức Thất Chân Điện, thờ Toàn Chân Thất Tử), Khưu Tổ Điện (kiến trúc trung tâm của Bạch Vân Quán, thờ Khưu Xứ Cơ), Tam Thanh Các, Tứ Ngự Điện (thờ chư thần của Đạo giáo). Những điện đường này xây dựng không cùng thời gian, bên trong có tượng thờ và hình ảnh trang trí tùy theo mục đích thờ phụng. |
Minh Thập Tam lăng () là tập hợp các lăng mộ được xây dựng bởi các Hoàng đế triều đại nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Lăng mộ của vị Hoàng đế đầu tiên nhà Minh là Chu Nguyên Chương là Minh Hiếu lăng ở Nam Kinh, tỉnh Giang Tô. Tuy nhiên, hầu hết các lăng mộ của các vị Hoàng đế khác nằm tại một cụm ở Bắc Kinh được gọi chung là Thập Tam lăng. Nó nằm ở Xương Bình, cách trung tâm Bắc Kinh khoảng về phía Bắc - Tây Bắc. Quần thể lăng mộ này nằm ở sườn phía nam của núi Thiên sơn, dựa theo nguyên tắc phong thủy của vị Hoàng đế nhà Minh thứ ba là Minh Thành Tổ. Sau khi cho xây dựng cung điện Hoàng gia là Tử Cấm Thành vào năm 1420, ông đã lựa chọn địa điểm và cho xây dựng lăng mộ cho riêng mình. Các vị Hoàng đế nhà Minh sau đó cho xây dựng lăng mộ của họ cũng tại khu vực thung lũng với tổng cộng 13 vị Hoàng đế đã lựa chọn chôn cất tại đây.
Lăng mộ của Hoàng đế đầu tiên đặt tại Minh Hiếu lăng ở Nam Kinh. Lăng mộ của vị Hoàng đế thứ hai Minh Huệ Đế là người bị lật đổ bởi Minh Thành Tổ không có lăng mộ nào được biết đến. Minh Đại Tông không được chôn cất tại đây vì Minh Anh Tông không coi ông là một vị vua của nhà Minh. Thay vào đó, thi hài của Minh Đại Tông được chôn vùi ở phía tây Bắc Kinh. Hoàng đế cuối cùng của nhà Minh được chôn cất tại đây là Minh Tư Tông, người đã thắt cổ tự sát vào ngày 25 tháng 4 năm 1644. Ông được chôn cất tại Minh Tư lăng là lăng mộ nhỏ hơn nhiều so với các lăng mộ Hoàng gia khác. Vào năm 1644, quân đội của Lý Tự Thành đã lục soát và đốt cháy nhiều ngôi mộ trước khi tiến vào Bắc Kinh trong tháng 4 năm đó.
Năm 1725, Hoàng đế nhà Thanh là Ung Chính đã ban tước hiệu Hầu cho một chi hậu duệ của nhà Minh, được nhận lương bổng của nhà Thanh với nhiệm vụ thực hiện các nghi lễ tại Thập Tam lăng và sắp xếp vào Chính Bạch kỳ của Bát Kỳ. Sau đó, Càn Long ban tước hiệu Diên Ân hầu cho ông và tước hiệu này được truyền qua 12 thế hệ con cháu cho đến cuối triều đại nhà Thanh.
Hiện tại, Thập Tam lăng là một phần của Di sản thế giới được UNESCO công nhận với tên gọi là Lăng tẩm Hoàng gia Minh-Thanh
Danh sách lăng mộ
Minh Trường lăng (, 1424) là lăng mộ của Minh Thành Tổ và Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu
Minh Hiến lăng (,1425) là lăng mộ của Minh Nhân Tông và Thành Hiếu Chiêu Hoàng hậu
Minh Cảnh lăng (, 1435) là lăng mộ của Minh Tuyên Tông và Hiếu Cung Chương Hoàng hậu
Minh Dụ lăng (, 1449) là lăng mộ của Minh Anh Tông, Hiếu Trang Duệ Hoàng hậu và Hiếu Túc Hoàng hậu
Minh Mậu lăng (, 1487) là lăng mộ của Minh Hiến Tông cùng ba vị Hoàng hậu là Hiếu Trinh Thuần Hoàng hậu, Hiếu Mục Hoàng hậu và Hiếu Huệ Hoàng hậu.
Minh Thái lăng (, 1505) là lăng mộ của Minh Hiếu Tông và Hiếu Thành Kính Hoàng hậu
Minh Khang lăng (, 1521) là lăng mộ của Minh Vũ Tông và Hiếu Tĩnh Nghị Hoàng hậu
Minh Vĩnh lăng (, 1566) là lăng mộ của Minh Thế Tông cùng Hiếu Khiết Túc Hoàng hậu, Hiếu Liệt Hoàng hậu, và Hiếu Khác Hoàng hậu
Minh Chiêu lăng (, 1572) là lăng mộ của Minh Mục Tông cùng Hiếu Ý Trang Hoàng hậu, Hiếu An Hoàng hậu, Hiếu Định Hoàng hậu.
Minh Khánh lăng (, 1620) là lăng mộ của Minh Quang Tông cùng Hiếu Nguyên Trinh Hoàng hậu, Hiếu Hòa Hoàng hậu và Hiếu Thuần Hoàng hậu
Minh Định lăng (, 1620) là lăng mộ của Minh Thần Tông cùng Hiếu Đoan Hiển Hoàng hậu và Hiếu Tĩnh Hoàng hậu
Minh Đức lăng (, 1627) là lăng mộ của Minh Hy Tông và Hiếu Ai Triết Hoàng hậu
Minh Tư lăng (, 1644) là lăng mộ của Minh Tư Tông cùng Hiếu Tiết Liệt Hoàng hậu và Viên Quý phi.
Hình ảnh |
Tị Thử Sơn Trang (; Mãn Châu: Halhūn be jailara gurung) hay Ly Cung () là một tổ hợp của cung điện và vườn hoàng gia nằm ở huyện Thừa Đức, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc. Đây là công trình được coi là đỉnh cao của một khu vườn trên núi với sự phong phú của phong cảnh và kiến trúc từ đền, chùa, cung điện, vườn. Nó là một trong bốn lâm viên nổi tiếng nhất Trung Quốc và được UNESCO công nhận là Di sản thế giới, một Di tích quốc gia và là một thắng cảnh cấp quốc gia được xếp hạng 5A.
Lịch sử
Được xây dựng từ năm 1703 đến 1792 dưới triều đại nhà Thanh, Tị Thử Sơn Trang phải mất đến 89 năm để hoàn thành. Tổng diện tích của nó là , chiếm gần một nửa diện tích của đô thị Thừa Đức. Đây là một khu phức hợp rộng lớn gồm các cung điện, các tòa nhà hành chính và các công trình nghi lễ mang nhiều phong cách kiến trúc khác nhau cùng các khu vườn hoàng gia hòa quyện hài hòa trong một cảnh quan của hồ, đồng cỏ và núi rừng.
Các hoàng đế nhà Thanh từ Khang Hy, Càn Long, Gia Khánh thường đến đây vài tháng trong năm để tránh cái nắng nóng mùa hè ở Bắc Kinh nên khu vực cung điện nằm ở phía nam của Tị Thử Sơn Trang và thiết kế của nó khá giống với Tử Cấm Thành. Trong suốt khoảng thời gian trị vì của mình, hoàng đế Khang Hy đã dành 12 mùa hè tại đây, trong khi con số này của hoàng đế Càn Long là 52. Hai vị vua khác là Gia Khánh và Hàm Phong đều đã băng hà tại đây vào năm 1820 và 1861.
Năm 1912, Trung Hoa Dân Quốc thành lập và sơn trang là một phần của tỉnh Nhiệt Hà, trở thành nơi ở thường xuyên cho nhiều Nhiệt Hà đô thống là Hùng Hy Linh và Vương Hoài Khánh. Năm 1933, quân đội Nhật chiếm đóng Nhiệt Hà và sáp nhập nó vào Mãn Châu quốc. Đã có khoảng 130.000 đồ vật trong sơn trang đã bị lấy đi. Do bảo vệ kém nên nhiều tòa nhà đã bị hư hại nghiêm trọng, một số còn bị phá hủy như rừng Sư Tử (狮子林), Đông Cung (东宫).
Năm 1949, chính phủ Công hòa Nhân dân Trung Hoa đã tiến hành sửa chữa và có những biện pháp để bảo vệ di tích này. Ngày 4 tháng 3 năm 1961, Tị Thử Sơn Trang được đưa vào danh sách Di tích lịch sử và văn hóa cấp quốc gia trong đợt thứ nhất. Từ năm 1976 đến 2006, đã có ba đợt tiến hành sửa chữa được diễn ra. Năm 1994, Tị Thử Sơn Trang cùng với Ngoại Bát Miếu đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới của nhân loại.
Danh thắng
Nguyên tên của nó là Nhiệt Hà Hành Cung, còn người đời hay gọi là Thừa Đức Ly Cung (hành cung hay ly cung là cung điện dành cho vua nghỉ ngơi khi xuất du). Sơn Trang có tổng diện tích nằm dọc theo phía tây thung lũng. Diện tích xây dựng là 100.000 mét vuông với 120 nhóm công trình, ba đồi cao nằm xung quanh tường dài , giống hình dạng của Vạn Lý Trường Thành thu nhỏ. Quần thể gồm hai bộ phận lớn: khu cung điện và khu vườn cảnh. Khu cung điện bao gồm bốn kiến trúc có phong cách cổ phác và điển nhã: Chính Cung, Đông Cung, Tùng Hạc Trai, và Vạn Hác Tùng Phong. Khu vườn cảnh được chia thành cảnh quan hồ, núi, đất bằng. Sơn Trang có nhiều lâu đài điện các, am, miếu, chùa, đạo quán và là khu vườn hoàng gia lớn nhất Trung Quốc. Nhiều người còn cho rằng, nó là hình ảnh thu nhỏ của đất nước Trung Quốc khi những hồ nước ở phía đông nam, núi non ở tây bắc và phong cảnh đồng cỏ, rừng. Tị Thử Sơn Trang không chỉ mang giá trị về thẩm mỹ cao mà còn là nơi ghi dấu của nhiều công trình lịch sử hiếm hoi về sự kết thúc của chế độ Quân chủ chuyên chế ở Trung Quốc.
Một số cảnh quan tiêu biểu của Tị Thử Sơn Trang gồm:
Tam thập lục cảnh: Hai vị hoàng đế Khang Hy và Càn Long mỗi người đã xây dựng 36 tòa nhà và công trình
Lệ Chánh môn: Là cổng chính của khu vực cung điện được xây dựng vào Càn Long năm thứ 19 (1754)
Chính cung: Gồm Tiền cung và Hậu cung. Trong đó có Đạm Bạc Kính Chẩn điện là nơi hoàng đế gặp gỡ các quan lại và sứ thần. Công trình được xây dựng bằng gỗ Trinh nam và không được sơn nên được gọi là "Trinh nam điện". Đây là nơi hoàng đế tổ chức cuộc họp, xử lý các vấn đề chính trị, và tổ chức các nghi lễ chính.
Yên Ba Trí Sảng điện: Là phòng ngủ của hoàng đế được xây dựng vào năm Khang Hy thứ 50 (1711). Đây là khu vực đất vừa cao vừa thoáng và có không khí trong lành và là cảnh đầu tiên của Khang Hy. Đây là nơi hoàng đế Gia Khánh băng hà vào tháng 9 năm 1820. Vào ngày 28 tháng 10 năm 1860, hoàng đế Hàm Phong đã ký Điều ước Bắc Kinh tại gian phía tây.
Tùng Hạc Trai: Được xây dựng vào Càn Long năm thứ 14 (1749) dành cho Thái hậu.
Mặc Hác Tùng Phong: Bao gồm 6 tòa nhà được xây dựng vào năm 1708 là khu vực tòa nhà sớm nhất được xây dựng. Đây là nơi giải quyết các vấn đề của đất nước. Đây là nơi mà Ung Chính và sau đó là Càn Long từng sống khi còn nhỏ.
Hồ Châu Khu: Là một hồ nước nằm ở phía bắc khu vực cung điện mang kiến trúc của một khu vườn Giang Nam. Nó bao gồm 9 hồ nhỏ với 10 đảo nhỏ được kết nối bởi các cây cầu nhưng ngày nay chỉ còn 7 hồ và 8 đảo
Đọc thêm
Hevia, James Louis. "World Heritage, National Culture, and the Restoration of Chengde." positions: east Asia cultures critique 9, no. 1 (2001): 219-43.
In 1998 Foreign Languages Press published "Imperial Resort at Chengde" to guide English language visitors. |
Võng Sư Viên, xây năm 1174 (đời Tống) tại Tô Châu, Trung Quốc, là công trình kiến trúc tiêu biểu cho thể loại nhà vườn (tức là nhà kết hợp hoa viên). Võng sư trong Hán ngữ là người chài lưới (ngư phủ). Tên hoa viên gợi nhớ nhân vật ngư phủ đã từng gặp gỡ thi nhân Khuất Nguyên (khoảng 340-278 TCN), nghĩa là chủ nhân có tâm sự ngao ngán tình đời, muốn tiêu dao, vui thú điền viên như một ngư phủ. Thế kỷ 18, Võng Sư Viên được trùng tu như là nơi hưu trí của một vị quan. Võng Sư Viên gồm ba khu vực: phía đông là nhà nghỉ ngơi, phía tây là vườn hoa nhỏ với thư phòng của chủ nhân, và phần chính yếu là vườn lớn với nhiều loại kỳ hoa dị thảo. |
PKI là một từ chữ đầu có thể đứng cho:
Hạ tầng khóa công khai (tiếng Anh: Public Key Infastructure).
Đảng Cộng sản Indonesia (tiếng Indonesia: Partai Komunis Indonesia).
Công viên Paramount's Kings Island, một khu giải trí tại bang Ohio, Hoa Kỳ.
Danh sách các từ kết hợp từ ba chữ cái
Từ viết tắt từ chữ đầu |
PanVietnam là một hệ thống máy truy tìm dữ liệu toàn văn có hỗ trợ tiếng Việt, tương tự các hệ thống google.com, altavista.com...
Mục tiêu chính của hệ thống nhằm cung cấp máy truy tìm dữ liệu thông tin toàn văn có hỗ trợ tiếng Việt cho các hệ thống thông tin điện tử chuyên sâu như thư viện điện tử, thông tin trên đĩa CD-ROM, trong cơ sở dữ liệu hoặc một số hệ thống thông tin điện tử như báo điện tử...
Hệ thống được phát triển bởi Nguyễn Thế Vinh, Viện Công nghệ Thông tin, Viện Khoa học & Công nghệ Việt Nam. |
"Don't Cry" là một bài hát của ban nhạc rock Guns N' Roses. Bài hát có hai phiên bản khác nhau: bài hát thứ 4 trong album Use Your Illusion I và bài thứ 13 trong album Use Your Illusion II. Hai phiên bản này có phần lời hát do Axl Rose hát lúc đầu thì khác nhau. Còn điệp khúc thì đồng nhất và toàn bộ phần còn lại của bài hát giống nhau.
Bài hát còn có sự tham gia của Shannon Hoon trong ban nhạc Blind Melon hát đệm cùng, anh là một fan cuồng nhiệt của Axl. Anh cũng có mặt trong video của bài hát.
Được xem như là một phần của bộ ba Illusion, "Don't Cry" là bài hát đầu tiên do ban nhạc tự sáng tác cho giọng hát của Axl Rose. Cùng với "Estranged" và "November Rain", bài hát đã dựng nên một câu truyện trong một phần của truyện ngắn "Without You" của Del James.
Axl nói rằng bài hát viết về một cô gái mà Izzy Stradlin hay đi chơi cùng. Axl đã bị cô gái đó cuốn hút.
Axl lúc đó đang ngồi bên ngoài nhà hát The Roxy khóc khi cô ấy chào tạm biệt và cô còn nói với Axl rằng "Don't cry" ("đừng khóc").
Axl và Izzy đã đi cùng nhau vào buổi tối tiếp theo và viết ra bài hát trong vòng 5 phút.
Video âm nhạc
Video âm nhạc của bài hát này giống như những video âm nhạc khác trong các album Illusion, là có quá nhiều hình ảnh mang tính phim ảnh hơn là hình ảnh về công việc của ban nhạc, miêu tả nhân vật chính trong sự tìm hiểu người vợ sau này của anh ấy như là một cuộc chiến đầy cảm xúc. Mặc dù không có âm thanh mạnh mẽ như những người hâm một vẫn thường thấy trong các bài hát của ban nhạc, bài hát vẫn được coi như là một trong những video hay nhất của ban nhạc đã phát hành trong thời gian ngắn ngủi bên nhau của ban nhạc.
Tay chơi ghi ta Izzy Stradlin, là đồng tác giả của bài hát, không có mặt trong video này nhưng có thể nhận thấy anh trong một tờ giấy có dòng chữ viết tay, "Where's Izzy?" ("Izzy đâu?"). Axl cũng chỉ được nhìn thấy rất chớp nhoáng, đang đội một cái mũ chơi bóng chày của đội St. Louis Cardinals. Chi tiết này có liên quan tới việc vào năm 1991 Rose nhảy vào giữa một đám khán giả tại St. Louis ngay vào lúc đang hát dở chừng sau khi một người đàn ông đang cầm máy quay phim đang bị đuổi bắt và đã có sự náo động tiếp theo sau đó. |
Văn Xương Đế Quân Âm Chất Văn (chữ Hán: 文昌帝君陰騭文), thường được gọi tắt là Âm Chất Văn (陰騭文), là một thiện thư (sách khuyến thiện) của Đạo giáo, tương truyền xuất hiện từ đời nhà Tống.
Không rõ sách được được du nhập vào Việt Nam và giới nho sĩ đã biết đến tác phẩm Âm Chất Văn tự bao giờ. Nhưng trong kho sách Hán Nôm còn lưu giữ được, có tác phẩm Âm Chất Văn Chú của Lê Quý Đôn (1726-1784) trọn bộ hai quyển. Theo Trần Văn Giáp, bài đề từ của Phan Huy Chú trong tác phẩm này cho biết Lê Quý Đôn chú giải Âm Chất Văn dựa theo hai bộ sách: Đan Quế Tịch của Hoàng Chính Nguyên năm Càn Long 26 (1761) và Âm Chất Văn Chú (hai quyển) của Tống Tư Nhân năm Càn Long 41 (1776). Hai bản Âm Chất Văn Chú của Lê Quý Đôn mà hiện nay còn giữ được đã khắc in năm Minh Mạng 20 (1839) và năm Tự Đức 16 (1863); in và trữ tại đền Ngọc Sơn. Ngoài ra còn có Âm Chất Văn Diễn Ca của Lê Quý Thận (cháu của Lê Quý Đôn, rể của Phan Huy Ích).
Trong cụm từ "âm chất", "chất" là ấn định và "âm" là âm thầm (chất, định dã; âm, mặc dã). Do đó có nghĩa là Trời âm thầm ấn định và sắp đặt cho dân chúng. Người đời dùng từ "âm chất" như từ "âm đức".
Cuốn sách này phần giảng giải được in ấn trong bộ An Sỹ Toàn Thư quyển thượng và quyển hạ. Được Ấn Quang Đại Sư giới thiệu và tán thán là bộ kỳ thư khuyến thiện, có thể giúp đỡ thế đạo nhân tâm con người. Ngài in ấn và lưu thông với số lượng rất nhiều. |
Bạch Gia Đạo (帛家道) là một Tông phái Đạo giáo Trung Quốc xuất hiện vào thời kỳ ban đầu của Đạo giáo, hoạt động vào đời Ngụy-Tấn (220-420) ở phương bắc và phương nam Trung Quốc (vùng Giang Tô và Chiết Giang). Nguồn gốc của giáo phái này đến nay vẫn chưa rõ. Tương truyền tổ sư của giáo phái này là Bạch Hòa [帛和] và tên giáo phái đặt theo họ của tổ sư.
Bạch Gia Đạo thoạt đầu là tín ngưỡng bình dân, cũng gọi là «tục thần đảo» 俗神禱 vì thờ các tục thần và dâng cúng các thứ huyết thực. Đến đời Đông Tấn (317-420), Bạch Gia Đạo phát triển ở Giang Tô và Chiết Giang, không ít tín đồ thuộc giai cấp sĩ tộc thế gia. Từ đời Đông Tấn trở đi, sử sách không ghi chép về Bạch Gia Đạo, nhưng do mối quan hệ giữa giáo phái này với Thượng Thanh Phái và Thiên Sư Đạo, có lẽ Bạch Gia Đạo đã sáp nhập vào hai giáo phái đó.
Tổ sư Bạch Hòa
Theo Thần Tiên Truyện của Cát Hồng, Bạch Hòa tự là Trọng Lý [仲理], quê ở Liêu Đông 遼東. Thầy của Bạch Hòa là Đổng Phụng [董奉], vốn là một Thần nhân sống thời Tôn Quyền 孫權 (nước Ngô, thời Tam Quốc). Nhiều thuyết nói rằng Vu Cát truyền Thái Bình Kinh cho Bạch Hòa, điều này cho thấy sự liên hệ giữa Bạch Gia Đạo và Thái Bình Đạo.
Về sau, Bạch Hòa đến Tây Thành Sơn [西城山] phục vụ Vương Phương Bình [王方平] rồi ông được phép nhập thạch thất, diện bích (ngó vách) 3 năm. Nơi đây ông xem được các bản văn khắc vào vách của cổ nhân như: Thái Thanh Trung Kinh Thần Đan Phương [太清中經神丹方], Tam Hoàng Thiên Văn Đại Tự [三皇天文大字], Ngũ Nhạc Chân Hình Đồ [五岳真形圖]. Sau đó ông lên núi Lâm Lự Sơn [林慮山] (còn gọi Long Lự Sơn [隆慮山]), thành Địa Tiên [地仙]. Về Bạch Hòa, Thần Tiên Truyện chép: «Bạch Hòa tự là Trọng Lý. Ông được Đổng tiên sinh [tức Đổng Phụng] dạy hành khí và tịch cốc. Rồi ông đến Tây Thành Sơn bái Vương Quân [tức Vương Phương Bình] làm thầy. Vương Quân nói: ‘Yếu quyết của đại đạo không thể nhất thời mà đạt được. Ta tạm đến đảo tiên Doanh Châu, ngươi hãy vào thạch thất này, nhìn chăm chú vào vách đá, lâu ngày trên vách sẽ hiện ra chữ, thấy chữ thì phải đọc hiểu, rồi ngươi sẽ đắc đạo.’ Do đó Bạch Hòa bắt đầu nhìn vách, sau một năm ông không thấy gì, nhưng sau 2 năm thì thấy vách đá hiện chữ lờ mờ, sau 3 năm thì vách đá hiện rõ chữ. Đó là các bộ Thái Thanh Trung Kinh 太清中經, Thần Đan Phương 神丹方, Tam Hoàng Trượng Ngũ Nhạc Đồ 三皇丈五岳圖. Ông tụng niệm vang vang. Vương Quân trở về nói: ‘Ngươi đắc đạo rồi.’ Sau đó Bạch Hòa luyện thần đan, uống nửa tễ thì trường sinh bất tử.» (Bạch Hòa tự Trọng Lý, sư Đổng tiên sinh hành khí đoạn cốc thuật, hựu nghệ ây Thành Sơn Vương Quân. Quân vị viết: ‘Đại đạo chi quyết, phi khả tốt đắc. Ngô tạm vãng Doanh Châu, nhữ ư thử thạch thất trung, khả thục thị thạch bích, cửu cửu đương kiến văn tự, kiến tắc độc chi, đắc đạo hĩ. Hòa nãi thị chi, nhất niên liễu vô sở kiến, nhị niên tự hữu văn tự, tam niên liễu nhiên kiến Thái Thanh Trung Kinh, Thần Đan Phương, Tam Hoàng Trượng Ngũ Nhạc Đồ. Hòa tụng chi, thượng khẩu. Vương Quân hồi viết: ‘Tử đắc chi hĩ.’ Nãi tác thần đan, phục bán tễ, diên niên vô cực. 帛和字仲理,師董先生行氣斷谷術,又詣西城山王君.君謂曰:大道之訣非可卒得.吾暫往瀛州,汝於此石室中可熟視石壁久久當見文字,見則讀之,得道矣.和乃視之,一年了無所見二年似有文字,三年了然見太清中經,神丹方,三皇丈五岳圖.和誦之上口,王君回曰:子得之矣.乃作神丹,服半劑,延年無極).
Theo đó, Bạch Hòa là đạo sĩ thời Tam Quốc. Nhưng Thủy Kinh chú 水經注, quyển 15, chép: «Phía tây nam sông Triền có ngôi mộ của Bạch Trọng Lý, mộ bia khắc ‘Chân nhân Bạch quân chi biểu’. Trọng Lý tên là Hộ, người Ba Quận, Ích Châu. Lập mộ tháng 11, năm Vĩnh Gia thứ 2 (tức 309), đời Tấn Hoài Đế.» (Triền thủy tây nam hữu Bạch Trọng Lý mộ, mộ tiền hữu bi vân: ‘chân nhân Bạch quân chi biểu’. Trọng Lý danh Hộ, Ích châu Ba quận nhân. Tấn Hoài Đế Vĩnh Gia nhị niên thập nhất nguyệt lập. 瀍水西南有帛仲理墓,墓前有碑云:真人帛君之表.仲理名護,益州巴郡人.晉懷帝永嘉二年十一月立). Tức là Bạch Hòa sống vào thời Tây Tấn.
Vì Bạch Hòa quá nổi tiếng, đời Tây Tấn có nhiều đạo sĩ mượn danh Bạch Hòa truyền giáo cho giới quần chúng bình dân ở phía bắc và ở phía nam (vùng Giang Tô và Chiết Giang). Chương ‘Khư hoặc’ 袪惑 trong Bão Phác Tử 抱朴子 chép: «Lại có kẻ giả mạo đạo sĩ nổi danh đời trước, thí dụ như Bạch Hòa nghe nói là 8700 tuổi, lúc thì xuất hiện chốn thế gian, lúc thì đột nhiên biến mất, không ai biết ông ở đâu. Tại Lạc Dương có đạo sĩ nọ, thông thạo mọi việc, tu luyện các loại thuật số. Ông ta nêu những vấn đề hóc búa để chất vấn Bạch Hòa. Hòa nghe đến đâu trả lời đến đấy không chút ngập ngừng. Quả là biết rộng. […] Sau Hòa bỗng đi mất, không ai biết chỗ của ông. Có người ở Hà Bắc tự xưng là Bạch Hòa, nên mọi người xa gần cũng đến phục vụ ông, ông ta trở nên thật giàu có. Đệ tử Bạch Hòa nghe Thầy tái xuất, rất mừng, bèn đến xem thực hư ra sao. Kẻ kia vì thế mà bỏ chạy mất.» (Nãi phục hữu giả thác tác tiền thế hữu danh chi đạo sĩ giả, như Bạch Hòa giả, truyền ngôn dĩ bát thiên thất bách tuế, thời xuất tục gian, hốt nhiên tự khứ, bất tri kỳ tại. Kỳ Lạc trung hữu đạo sĩ, dĩ bác thiệp chúng sự, hiệp luyện thuật số giả, dĩ chư nghi nan tư vấn Hòa, Hòa giai tầm thanh vi luận thích, giai vô nghi ngại, cố vi viễn thức. […] hậu hốt khứ, bất tri sở tại. Hữu nhất nhân ư Hà Bắc tự xưng vi Bạch Hòa, ư thị viễn cận cánh vãng phụng sự chi, đại đắc trí di chí phú. Nhi Bạch Hòa tử đệ, văn Hoà tái xuất, đại hỉ, cố vãng kiến chi, nãi định phi dã. Thử nhân nhân vong tẩu hĩ.) 乃復有假托作前世有名之道士者,如帛和者,傳言已八千七百歲,時出俗間,忽然自去,不知其在.其洛中有道士,已博涉眾事,洽煉術數者,以諸疑難咨問和,和皆尋聲為論釋,皆無疑礙,故為遠識[...]後忽去,不知所在.有一人於河北自稱為帛和,於是遠近竟往奉事之,大得致遺至富.而帛和子弟,聞和再出,大喜,故往見之,乃定非也.此人因亡走矣.
Qua đoạn văn trên, ta thấy vào đời Tây Tấn đã có đạo sĩ giả danh Bạch Hòa và lập giáo. Hơn nữa, tại Hà Bắc là Lạc Dương đã có đệ tử của Bạch Hòa, nhưng bấy giờ tổ chức và quy mô chưa lớn. Họ lấy các bộ kinh mà Bạch Hòa sở đắc (như Thái Thanh Trung Kinh Thần Đan Phương, Tam Hoàng Thiên Văn Đại Tự, Ngũ Nhạc Chân Hình Đồ) để truyền thừa.
Liên hệ với giáo phái khác
Bạch Gia Đạo, Thái Bình Đạo (Thiên Sư Đạo), Thượng Thanh Phái có liên quan với nhau về mặt kinh điển. Theo truyền thuyết, Thái Thượng Lão Quân truyền Thái Bình Kinh cho Vu Cát, rồi Vu Cát truyền lại cho Bạch Hòa. Cũng theo truyền thuyết, Kim Khuyết Hậu Thánh Đế Quân 金闕後聖帝君 truyền Tố Thư 素書 (tức Thái Bình Kinh Phục Văn 太平經復文) cho Thanh Đồng Quân 青童君, Thanh Đồng Quân truyền lại cho Vương Phương Bình 王方平 (ở Tây Thành 西城), Vương Phương Bình truyền lại cho Bạch Hòa. |
Bàn Cổ (tiếng Trung phồn thể: 盤古; giản thể: 盘古; bính âm: Pángǔ) được coi là vị thần khai thiên lập địa, sáng tạo ra vũ trụ trong thần thoại Trung Quốc.
Sự tích
Theo Lão giáo, Bàn Cổ là thủy tổ của loài người, do Mẹ sinh ra. Theo Tam Hoàng Thiên Kinh, sự tích Bàn Cổ như sau:
Tại núi có một cục đá lớn đã thọ khí Âm Dương chiếu diệu rất lâu đời, nên đã thâu được các tính linh thông của vũ trụ mà tạo thành thai người. Sau 10 tháng 16 ngày, đúng giờ Dần, một tiếng nổ vang, khối đá linh ấy nứt ra, sản xuất một vị Linh Chân hy hữu, là Thần mang hình hài như con người được gọi là Bàn Cổ.
Vừa sinh ra thì vị ấy tập đi, tập chạy, tập nhảy, hớp gió nuốt sương, ăn hoa quả, dần dần lớn lên, mình cao trăm thước, đầu như rồng, có lông đầy mình, sức mạnh vô cùng. Một ngày kia, Bàn Cổ chạy qua hướng Tây, bắt gặp một cái búa và một cái dùi ước nặng ngàn cân. Bàn Cổ, tay phải cầm rìu tay trái cầm dùi, ra sức mở mang cõi trần.
Thuở đó Trời Đất còn mờ mịt. Ngài ước cho phân biệt Trời Đất thì nhân vật mới hóa sinh được. Ngài ao ước vừa dứt tiếng thì sấm nổ vang, Thiên thanh, Địa minh, vạn vật sinh ra đều có đủ cả.
Ngài liền chỉ Trời là Cha, chỉ Đất là Mẹ, muôn dân là con. Ngài chính là tôn chủ sáng lập thế gian, nên cũng gọi Ngài là Thái Thượng Đạo Quân. Ngài tự xưng là Thiên tử, tức là con Trời, cai trị muôn dân. Ngài là vị vua đầu tiên của cõi thế gian nên gọi Ngài là Hỗn Độn thị.
Tương truyền, Bàn Cổ có ba người con là Phục Hy, Nữ Oa, và Hoa Tư.
Bàn Cổ thọ được 18.000 tuổi rồi quy tiên. Tiếp theo thì có Thiên Hoàng, Địa Hoàng, rồi Nhân Hoàng nối nhau cai trị thiên hạ.
Nhiệm Phưởng, thế kỷ 6, đã viết huyền thoại Bàn Cổ trong quyển Thuật Dị Ký rằng:
"Ngày xưa khi Bàn Cổ chết, đầu biến thành bốn ngọn núi, hai mắt biến thành mặt trời và Mặt Trăng, mỡ biến thành sông biển, râu tóc biến thành thảo mộc. Thời Tần và Hán, dân gian kể rằng đầu của Bàn Cổ là Đông Nhạc, bụng là Trung Nhạc, tay trái là Nam Nhạc, tay phải là Bắc Nhạc, và hai chân là Tây Nhạc. Các văn nhân ngày xưa kể rằng nước mắt của Bàn Cổ là sông, hơi thở là gió, giọng nói là sấm, đồng tử trong mắt là ánh sáng." |
Bát đoạn cẩm (八段錦) là tác phẩm của Đạo gia nhằm luyện dưỡng thân thể (tức thuộc phép đạo dẫn).
Nguồn gốc
Tương truyền sách do Chung Ly Quyền (Hán Chung Ly) sáng tác; thực tế theo khảo cứu sách xuất hiện khoảng những năm Chính Hoà đời Bắc Tống.
Nội dung
Bát đoạn cẩm gồm tám đoạn luyện tập:
Cách luyện tập
Luyện tập vào buổi sáng hoặc chiều, lúc cơ thể không mệt mỏi.
Tác dụng
Dưỡng sinh và làm nóng cơ thể.
Nhận định
Về nguồn gốc thì nghe nói của Hán Chung Li(một trong Bát Tiên). Còn tranh ảnh thì chưa thấy tranh ảnh cổ(có thể khẳng định) chỉ còn lại bài tập luyện, nhưng bài tập luyện cho đến ngày nay thì không biết có lai tạp hay mai một gì không.
Về tư thế và động tác thì hình như không phải của Thiếu Lâm.
Về hiệu quả thì có lẽ để tăng cường sức khỏe. |
Núi Bồng Lai () hay tiên đảo Bồng Lai (), là một vùng đất truyền thuyết tìm thấy trong thần thoại Trung Quốc. Mệnh danh là Tiên Giới hay Tiên Cảnh.
Vị trí
Theo Sơn Hải kinh, núi Bồng Lai nằm trên một hòn đảo ở rìa phía đông của Bột Hải, cùng với 4 đảo khác trên đó các vị tiên sống, gọi là Phương Trượng (方丈), Doanh Châu (瀛州), Đại Dư (岱輿) và Viên Kiều (員嬌).
Mặc dù thành phố Bồng Lai nằm ở tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc, nhưng việc thành phố này có phải là nơi trên thực tế được miêu tả trong các truyền thuyết hay không vẫn là điều chưa rõ. Tuy nhiên, thành phố này vẫn tự hào vì truyền thuyết này và tuyên bố rằng một khu vực có cảnh quan đẹp trong thành phố này chính là điểm đến của Bát Tiên. Những người khác lại cho rằng ngọn núi này có thể được nhìn thấy dưới dạng các ảo ảnh trên biển thường xuyên xảy ra mà vì thế mà thành phố này nổi tiếng. Đây được coi là nơi Tiên ở theo quan điểm của Đạo giáo.
Một thuyết khác do Nghĩa Sở (義楚) thời Hậu Chu đưa ra đã coi hòn đảo truyền thuyết này là Nhật Bản, trong đó núi Bồng Lai chính là núi Phú Sĩ.
Trong truyền thuyết Trung Hoa
Bồng Lai tam đảo tức ba đảo tiên, gồm Bồng Lai, Phương Trượng, và Doanh Châu; tương truyền, ba đảo thần tiên này ở vịnh Bột Hải. Liệt Tử Xung Hư Chân Kinh nói:
"Phía đông của Bột Hải, không rõ là xa bao nhiêu dặm, có một vùng nước lớn. Thực tế ở đó là một thung lũng không có đáy. Bởi phía dưới của thung lũng không có đáy nên thung lũng được gọi là Quy Khư. Nước từ tám phương trời và chín vùng đất, và nước sông Ngân Hà đều chảy đổ vào nơi này, thế mà nước ở đấy chẳng tăng chẳng giảm. Ở nơi này có năm ngọn núi. Ngọn thứ nhất tên là Đại Dư, ngọn thứ hai là Viên Kiều, ngọn thứ ba là Phương Hồ, ngọn thứ tư là Doanh Châu, và ngọn thứ năm là Bồng Lai. Các núi này cao 30.000 dặm, và chu vi 30.000 dặm. Đỉnh núi là vùng bằng phẳng, có đường kính 9.000 dặm. Các núi cách nhau 70.000 dặm, là nơi dân cư ở. Những đền đài và đạo quán trên đỉnh núi thì bằng vàng và ngọc. Cầm thú ở đó có màu trắng tinh khiết. Cây cối bằng ngọc trai và san hô. Hoa trái có vị thơm ngon dễ chịu. Ai mà ăn được hoa quả ấy sẽ không già và không chết."
Ghi chú
Đảo hư cấu
Núi hư cấu
Truyền thuyết Trung Hoa
Truyền thuyết Nhật Bản
Biển Bột Hải
Thần thoại Nhật Bản
Utopia
Đảo Hoàng Hải |
Cảm Ứng Thiên (chữ Hán: 感應篇) là một kinh sách khuyến thiện rất cổ xưa trong vô số các kinh sách khuyến thiện của Trung Quốc. Nguyên tựa kinh này là Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (太上感應篇). Tựa kinh tiết lộ tác giả là Đức Thái Thượng Lão Quân tức Thái Thượng Đạo Tổ. Tuy nhiên cho đến nay, chưa ai biết về tác giả của Cảm Ứng Thiên.
Quyển Thái Thượng Cảm Ứng Thiên Linh Dị Ký (Ghi chép về những linh nghiệm kỳ lạ do trì tụng Cảm Ứng Thiên) của ngài Vô Tích Vạn Quân Thúc Hào ghi rằng:
Tự Tấn dĩ lai, y thử tu thân thành chân giả đa nhân, phú quý giả dĩ bất kế kỳ số hĩ, phổ thiên hạ nhai cù lý hạng, vô bất truyền bố.
Tạm dịch:
[Kinh này xuất hiện] từ đời Tấn đến nay, người noi theo đó tu thân thành tiên (chân nhân) thì rất nhiều, người trở nên phú quý thì vô số kể; kinh này phổ biến khắp nơi
Câu văn ngắn gọn này cho biết:
Kinh xuất hiện từ đời Tấn (265-420);
Kinh này rất linh nghiệm giúp người trì tụng trở nên phú quý hoặc tu luyện thành chân nhân; và
vì sự linh nghiệm ấy kinh được phổ biến khắp nơi.
Cảm Ứng Thiên hấp thụ tư tưởng và luân lý Nho gia. Các điều thiện trong kinh liệt kê thành 26 loại, các điều ác 170 loại. Cảm Ứng Thiên rất có ảnh hưởng đến hậu thế và được đưa vào Đạo Tạng. |
Cát Hồng (283–343), tự là Trĩ Xuyên, hiệu là Bão Phác Tử (đời gọi là Tiểu Tiên Ông) là hào tộc ở Giang Nam. Ông quê ở huyện Đan Dương Câu Dung (nay thuộc Giang Tô), xuất thân là sĩ tộc thế gia. Cát Hồng có thời làm quan huyện lệnh ở Câu Lậu - thuộc Việt Nam ngày nay.
Thuở nhỏ Cát Hồng lập chí làm văn nho để chấn hưng Nho giáo. Ông nhậm chức Tư Nghị Tham Quân nhưng vì thời thế loạn lạc ông từ quan ở ẩn, bỏ Nho theo Đạo, chuyên cần luyện đan ở La Phù Sơn, Quảng Châu. Đó là năm Quang Hi nguyên niên đời Tây Tấn. Từ luyện đan, ông tìm cầu thuật trường sinh bất tử, hết sức đề xướng thần tiên Đạo giáo. Ông viết Bão Phác Tử Nội Thiên trong thời kỳ tu luyện ở La Phù Sơn đến năm Kiến Vũ nguyên niên đời Đông Tấn thì xong. Cát Hồng học đạo nơi Trịnh Tư Viễn (tức Trịnh Ẩn) mà không học nơi Cát Huyền (Cát Huyền là chú của Cát Hồng, vốn là sư phụ của Trịnh Tư Viễn). Hệ thống truyền thừa đan đạo này như sau: Tả Từ (Tả Nguyên Phóng) truyền đạo cho Cát Huyền (tự Hiếu Tiên, đời gọi là Cát Tiên Ông). Cát Huyền truyền đạo cho Trịnh Tư Viễn (tức Trịnh Ẩn). Trịnh Tư Viễn truyền đạo cho Cát Hồng. |
Giá trị tổng kiểm, hay giá trị kiểm tra, (tiếng Anh: checksum) là một giá trị tính toán dùng để gắn vào một gói dữ liệu khi gói dữ liệu, hoặc tập tin, được truyền qua một mạng lưới truyền thông, hay qua các thiết bị lưu trữ dữ liệu, cho phép nơi nhận gói dữ liệu, dùng con số này để so sánh với giá trị tổng kiểm mà nó tự tính toán trên gói dữ liệu. Nếu hai giá trị tổng kiểm bằng nhau thì gói dữ liệu coi như là được truyền sang chính xác, và dữ liệu nhận được là tương đương với dữ liệu đã gửi. Nếu không thì gói dữ liệu nhận được không còn giống với dữ liệu đã gửi. Trong trường hợp thứ hai, gói dữ liệu nhận được có thể phải bỏ đi, và thiết bị nhận dữ liệu có thể gửi yêu cầu sang cho thiết bị gửi dữ liệu, xin cho gói dữ liệu được truyền lại một lần nữa.
Giá trị tổng kiểm thường được lấy ra từ chính dữ liệu và vì vậy giá trị của nó tùy thuộc vào bản chất và cấu trúc của dữ liệu. Những phương trình toán học dùng để tạo nên giá trị tổng kiểm thường là những phương trình đã được công nhận là một tiêu chuẩn, và được lập trình hóa trong các máy thu và máy nhận. Dù chúng có được thực thi bằng những hệ lập trình khác nhau, nhưng giá trị tổng kiểm cho cùng một dữ liệu, đều phải cho một kết quả tương tự. |
Đạo quán là nơi tu luyện và cử hành nghi thức tôn giáo của các đạo sĩ. Đôi khi gọi là cung quán, ngoài ra còn có các kiến trúc với tên gọi theo quy mô lớn nhỏ khác nhau như: điện, đường, phủ, miếu, am, lâu, xá, trai, các, khuyết, đàn.
Đạo giáo là tôn giáo bản địa, cho nên kiến trúc của đạo quán mang đậm nét kiến trúc truyền thống của Trung Quốc. Ngoài hoa viên, các điện đường lâu các được trang trí và thiết kế mang tính biểu tượng rất cao. Thí dụ các hình ảnh và tượng thể hiện «vũ hoá đăng tiên» (đắc đạo lên cõi tiên), «diên niên ích thọ» (sống trường thọ), «trường sinh bất tử» (sống mãi không chết); các hình vẽ tinh tú mặt trời Mặt Trăng (ngụ ý sự trường tồn và hoà đồng vũ trụ); các vật hay hình vẽ trang trí: cái quạt (phiến, đồng âm với chữ thiện: tốt), cá lội (ngư, đồng âm chữ dư: có dư, giàu), hoa thủy tiên (ngụ ý thành tiên), con dơi (bức, đồng âm với chữ phúc: hạnh phúc), con nai (lộc, đồng âm với chữ lộc: tài lộc); và các thứ thanh nhã mang đậm nét đạo giáo như tùng bách, linh chi, quy, hạc, sư tử, kỳ lân, long, phụng, v.v...
Các đạo quán có rất nhiều khắp nơi của Trung Quốc. Quan trọng nhất là Bạch Vân Quán tại Bắc Kinh.
Hình ảnh
Các Đạo Quán Tại Việt Nam
Đạo quán ở Việt nam tôn thờ các vị chủ yếu như sau: Tam Thanh, Ngọc Hoàng, Lão Quân, Huyền Thiên, Cửu Thiên Huyền Nữ, Văn Xương Đế quân..., các biệt có một số nơi thờ Đế Thích vị vua trời Ấn Độ giáo đã được hòa nhập vào Đạo giáo tại Việt Nam.
đa số đạo quán ở Hà Nội thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, khác với các đạo quán ở Hà Tây cũ chủ yếu thờ Tam Thanh, Ngọc Hoàng.
Trong số các đạo quán còn lại ở Việt nam, Linh Tiên Quán là nơi thờ đầy đủ các vị thần tiên nhất của đạo giáo.
Sau thời Mạc, đa phần các đạo quán được đưa tượng Phật vào và chuyển thành chùa, một số trở thành đền, các đạo quán nổi tiếng tại Việt nam như:
Đan sơn Tứ Quán
Đây là hệ thống 4 đạo quán nổi tiếng ở vùng Hoài Đức, thành phố Hà Nội:
Linh Tiên Quán tại xã Đức Thượng, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội
Diềm Xá Quán tại xã Đắc Sở, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội
Viên Dương Quán tại xã Đức Thượng, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội
Lão Quân Quán tại Xóm 4,Thôn Lưu Xá, xã Đức Giang, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội
Thăng Long Tứ Quán
Trấn Vũ quán, nay gọi là đền Quán Thánh ở phố Quán Thánh.
Huyền Thiên quán, nay là chùa Huyền Thiên ở phố Hàng Khoai.
Đồng Thiên quán, nay là chùa Kim Cổ ở phố Đường Thành.
Đế Thích quán, nay là chùa Vua ở phố Thịnh Yên.
Các chùa quán khác
Đền Ngọc Sơn: thờ Văn xương Đế quân, Lã Động Tân.
Chùa Sổ: Hội Linh Quán, Ước Lễ - Thanh Oai - Hà nội
Chùa Đa Sĩ: Lâm Dương Quán, Đa Sĩ - Kiến Hưng - Hà Đông - Hà nội
Chùa Mui: Hưng Thánh Quán, Tô Hiệu, Thường tín, Hà nội
Bích Câu Đạo quán, Hà nội
Đền Cự Linh, Thạch Bàn - Gia Lâm - Hà nội.
Chùa Ngọc Hoàng Tp.HCM
Đền Đậu An, Hưng Yên
Đền Thượng, núi Sài Sơn, Quốc Oai, Hà nội
Động Thiên Tôn, Ninh Bình
Quán Yên Nhân, Chương mĩ, Hà Nội
Quán Đỗ Động, Thanh Oai, Hà Nội
Âm Ty Quán - Chùa Đôi Hồi, Đền Tam Phủ, thôn Thu Quế, Xã Song Phượng, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà nội.
Đền Tử Đồng Đế Quân, Hoàng Xá, Quốc Oai, Hà Nội
Quán Đế Thích, thôn Sơn Đình, xã Liêu Xá, huyện Yên mỹ, Tỉnh Hưng Yên.
Quán Chân Thánh, xã Nghĩa Trai, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.
Khánh Vân Nam Viện đạo quán - Chùa Khánh Vân Nam Viện, quận 11 Tp.HCM  |
Hoàng Lão Đạo là tiền thân của Thái Bình Đạo, một giáo phái của Đạo giáo. Hoàng là Hoàng Đế, Lão là Lão Tử. Tư tưởng Hoàng Lão bắt nguồn từ các Đạo gia thuộc học phái Tắc Hạ thời Chiến Quốc, đến đầu đời Tây Hán nó biến thành một trào lưu triết học và chính trị mạnh, chủ trương thanh tĩnh vô vi, cho dân nghỉ ngơi, nới tay trị dân. Đến đời Đông Hán, học phái này trở thành tôn giáo, thờ Hoàng Đế và Lão Tử. Chịu ảnh hưởng của Hoàng Lão Đạo, Trương Giác nổi lên, tự xưng là «Đại Hiền Lương Sư», sáng lập Thái Bình Đạo, phát động khởi nghĩa gọi là Hoàng Cân khởi nghĩa mà sử gọi là giặc Khăn Vàng. |
Khấu Khiêm Chi (寇謙之, 365–448), nguyên danh là Khiêm, tự là Phụ Chân, nguyên quán ở Xương Bình, Thượng Cốc (nay thuộc Bắc Kinh), Trung Quốc, là một đạo sĩ đã thực hiện nhiều cải cách cho Bắc Thiên Sư Đạo, một nhánh ở phía bắc Trung Quốc của Ngũ Đấu Mễ Đạo.
Gia đình
Khấu Khiêm Chi tự xưng là cháu đời thứ 13 của Ung Nô Hầu Khấu Tuần Chi đời Đông Hán. Cha của ông là Khấu Tu Chi, làm thái thú ở Đông Lai (thuộc Phù Kiên). Anh trai ông là Khấu Tán, làm thứ sử ở Nam Ung Châu.
Sự nghiệp
Khấu Khiêm Chi thuở nhỏ mộ đạo, có lòng thoát tục, đi tu theo Trương Lỗ. Ông tu đạo lâu năm nhưng không hiệu quả, về sau ông gặp Thành Công Hưng (xưng là tiên) và theo Thành Công Hưng lên Hóa Sơn học đạo thuật, luyện thuốc, tịch cốc; rồi ông ẩn tu tại Tung Sơn. Sau 7 năm, ông dần dần nổi danh.
Lợi dụng Thái Vũ Đế hâm mộ Đạo giáo và bài xích Phật giáo, Khấu Khiêm Chi bắt đầu tiến hành cải cách Thiên Sư Đạo (tức Ngũ Đấu Mễ Đạo). Nội dung chủ yếu của cuộc cải cách là:
Kiên quyết ngăn cấm việc lợi dụng tôn giáo để làm loạn, phản nghịch triều đình. Khấu Khiêm Chi tuyên bố những kẻ đại nghịch bất đạo này là tặc dân ngu ác đã coi thường Lão Quân, do đó sẽ bị trừng phạt. Cốt lõi của sự cải cách của Khấu Khiêm Chi là ông đưa luân lý Nho giáo (đặc biệt nhấn mạnh trung hiếu) vào giới luật của Thiên Sư Đạo. Theo đó, tín đồ tuân thủ giới luật sẽ không làm loạn chống lại triều đình.
Bãi bỏ chế độ ép buộc tín đồ nộp thuế bằng tiền và nộp tô bằng gạo. Khi Trương Lỗ thống trị Hán Trung, thiết lập chính quyền chính–giáo hợp nhất, mỗi giáo khu (tức là trị) vừa là đơn vị hành chánh do các tế tửu cai trị. Họ có quyền trưng thu thuế bằng tiền và tô bằng gạo và xử lý chúng. Khấu Khiêm Chi bãi bỏ chế độ này để trút gánh nặng cho tín đồ. Ông phê phán đó là ngụy pháp của Tam Trương, và ông chủ trương dùng Tân Khoa (do Lão Quân ban truyền) để trừ ngụy pháp.
Khấu Khiêm Chi chỉnh đốn tổ chức của Thiên Sư Đạo, tăng cường giới luật. Sau khi Trương Lỗ mất, Ngũ Đấu Mễ Đạo (tức Thiên Sư Đạo) phát triển rộng khắp Trung Quốc, nhưng tổ chức hỗn loạn và giới luật lỏng lẻo. Khấu Khiêm Chi phản đối các tế tửu trưng thu tài vật của tín đồ; cấm tuyệt thuật phòng trung dâm uế giữa nam nữ; các tế tửu phải theo phép xưa của Nho giáo, khi cha mẹ chết thì phải để tang.
Khấu Khiêm Chi bổ sung giới luật và trai nghi. Bổ sung các tiêu chuẩn đạo đức của Nho giáo như trung, hiếu, nhân, nghĩa, v.v... Đồng thời ông đề cao nghi thức trai tiêu. Ăn chay, tịch cốc, đạo dẫn chỉ có thể sống lâu, nhưng không thể trường sinh bất tử. Muốn trường sinh bất tử thì phải chú trọng trai tiêu. Trai là trai giới, tắm gội thanh khiết; tiêu là cúng bái thần linh đề cầu phúc giải tai họa. Trai tiêu (tục gọi là đạo trường) là nghi thức truyền thống của Đạo giáo, tức là lập đàn cúng tế, đọc kinh, cầu đảo.
Cuộc cải cách của Khấu Khiêm Chi giải trừ sự mâu thuẫn xung đột giữa Đạo giáo với triều đình phong kiến vì nhờ bổ sung luân lý Nho giáo vào giới luật. Do đó một giáo phái ban đầu phát khởi từ dân gian đã phát triển thành tín ngưỡng của thành phần sĩ phu hào tộc, trở thành một công cụ phù hợp với nhu cầu của giai cấp phong kiến thống trị. Năm Thái Bình Chân Quân thứ 9 (tức năm 448) Khấu Khiêm Chi liễu đạo (83 tuổi). |
Khâu Xứ Cơ hay Khưu Xứ Cơ (phồn thể:丘處機, giản thể:丘处机, 10/2/1148 - 21/8/1227), nguyên danh của ông vẫn chưa được biết , tự Thông Mật (通密), đạo hiệu là Trường Xuân Tử là đạo sĩ thời kỳ giao thời giữa nhà Kim và nhà Nguyên, còn được gọi là Trường Xuân chân nhân, quê ở Thê Hà thuộc Đăng Châu (nay là huyện Tê Hà, tỉnh Sơn Đông).
Ông có tên tự là Thông Mật nên còn được gọi là Khâu Thông Mật.
Ông có đạo hiệu Trường Xuân Tử nên còn được gọi là Khâu Trường Xuân.
Tiểu sử
Ông mồ côi cha mẹ từ nhỏ, năm 19 tuổi xuất gia học đạo tại núi Côn Lôn (Ninh Hải). Năm sau, bái Vương Trùng Dương (tổ sư của Toàn Chân Đạo) làm thầy. Tên Xứ Cơ của ông là do Vương Trùng Dương đặt cho. Có lẽ ông là người nổi tiếng nhất trong Toàn Chân thất tử. Sau về núi Long Môn (phía đông nam của thị trấn Bảo Kê, tỉnh Thiểm Tây ngày nay) tu luyện 7 năm, rồi sáng lập ra một chi phái nhỏ gọi là "Long Môn phái". Năm Đại Định thứ 28 (tức năm 1188), vua Kim Thế Tông (Hoàn Nhan Ung) triệu vời ông đến Trung Đô (nay là Bắc Kinh), biệt đãi và trọng vọng.
Năm 1190, vua Kim Chương Tông e ngại Toàn Chân giáo làm mê hoặc dân chúng nên đã ra lệnh cấm. Khưu Xứ Cơ quay trở về Sơn Đông.
Năm 1219, Thành Cát Tư Hãn mời Trường Xuân tử đến gặp ông. Bức thư mời của Thành Cát Tư Hãn, tính theo lịch hiện nay thì viết ngày 15 tháng 5 năm 1219, hiện vẫn còn được lưu giữ và là một trong những di vật có giá trị lịch sử. Bức thư này cho thấy vị Khả Hãn Mông Cổ ghê gớm này lại là một môn đồ nhu mì của sự thông thái, cùng tính tình khiêm tốn và giản dị, gần như là rất nghiêm khắc trong sự tự rèn luyện, giác ngộ được nhiều triết lý về sự sống và quyền lực.
Sau chuyến đi Trường Xuân đã sống tại Bắc Kinh cho đến khi chết vào năm 1227. Ông bị bệnh mất, an táng ở Bạch Vân Quán (Bắc Kinh). Năm Chí Nguyên thứ 6 (1269), Nguyên Thế Tổ truy tặng ông hiệu "Trường Xuân Diễn Đạo Chủ Giáo Chân Nhân" (長春演道主教真人). Năm Chí Đại thứ 2 (1309), Nguyên Vũ Tông phong cho ông danh hiệu "Trường Xuân Toàn Đức Thần Hoá Minh Ứng Chân Quân" (长春全德神化明应真君).
Chuyến đi
Trường Xuân tuân theo lời thỉnh cầu này và rời Sơn Đông vào tháng 2 năm 1220 cùng 18 đệ tử để tới Bắc Kinh. Biết rằng Thành Cát Tư Hãn đã đi xa về phía tây trong các cuộc viễn chinh mới, nhà hiền triết này đã lưu lại tại đây trong mùa đông. Vào tháng 2 năm 1221 Trường Xuân lại lên đường, vượt qua miền đông Mông Cổ để đến doanh trại của người em Thành Cát Tư Hãn là Ujughen, gần hồ Bbr (hay Buyur), ở thượng lưu Kerulun-Amur. Từ đây ông đi về phía tây nam tới Kerulun, vượt qua khu vực Karakorum ở miền bắc khu vực trung tâm Mông Cổ, và sau đó vượt qua dãy núi Altay phần thuộc Trung Quốc ngày nay, có lẽ là gần khu vực Uliassutai. Sau khi đi ngang qua Altay ông đã đến Bishbalig, hay Ürümqi ngày nay (tiếng Duy Ngô Nhĩ: ئۈرۈمچى شەھرى, tiếng Trung: 乌鲁木齐, thủ phủ khu tự trị Tân Cương), và đi dọc theo sườn phía bắc của dãy núi Thiên Sơn tới hồ Sairam, Almalig (hay Kuija), và thung lũng giàu có Ili.
Sau đó đoàn của ông đến sông Chui (thuộc Kyrgyzstan ngày nay) và vượt qua sông này tới Talas (thị trấn nhỏ ở tây bắc Kyrgyzstan) và khu vực Tashkent, và sau đó vượt qua sông Jaxartes (tức sông Syr Darya) tới Samarkand, tại đây ông dừng lại vài tháng. Cuối cùng, qua cổng sắt Termit, vượt qua sông Oxus (sông Amu Darya), và theo đường tới Balkh (một thị trấn nhỏ thuộc Afghanistan ngày nay) và miền bắc Afghanistan, Trường Xuân đã đến được doanh trại của Thành Cát Tư Hãn ở gần dãy núi HinduKush. Nguyên Thái Tổ hỏi ông về phép tu luyện trường sinh bất tử, khen ông là thần tiên, phong là Đại Tông Sư, toàn quyền chưởng quản Đạo giáo trong thiên hạ, nhờ đó mà Toàn Chân Đạo trở nên cực thịnh.
Ngày 7 tháng 3 năm 1223, đoàn của ông quay trở lại phía đông. Hành trình trở về của ông chủ yếu là theo lộ trình cũ nhưng nhanh hơn, với một số sự lệch hướng, chẳng hạn đến thăm Kuku-khoto. Ông về tới Bắc Kinh vào cuối tháng 1 năm 1224. Từ các câu truyện kể về chuyến đi của ông (Trường Xuân Chân Nhân tây du ký, được học trò và bạn đồng hành của ông là Lý Chí Thường viết, chính vì điều này mà tác giả của Tây du ký đôi khi được coi là Trường Xuân, nhưng điều này là không chính xác. Tây du ký do Ngô Thừa Ân viết. Sự nhầm lẫn như vậy là do tên gọi tương tự nhau của hai tác phẩm này) người ta có thể thấy một số hình ảnh đẹp và đầy sức sống nhất được tạo ra bởi thiên nhiên và con người giữa Vạn lý trường thành và Kabul, giữa biển Aral và Hoàng Hải. Đáng chú ý là các phác thảo về người Mông Cổ và người dân ở Samarkand cũng như các vùng phụ cận; bản miêu tả sự màu mỡ, phì nhiêu và các sản phẩm của khu vực này, cũng như của khu vực thung lũng Ili, tại hay gần Almalig-Kulja; và sự miêu tả các dãy núi lớn, đỉnh núi và hẻm núi, chẳng hạn dãy núi Altay, Thiên Sơn, đỉnh Bogdo-ola (?), và cổng sắt Termit. Ngoài ra, ở đây cũng thấy có các chi tiết đáng chú ý về vùng đất dường như là thuộc thượng nguồn sông Enisei.
Theo lệnh của Thành Cát Tư Hãn một số đất đai thuộc hoàng gia trước đó đã được chuyển giao cho ông để xây dựng nơi tu hành cho Đạo giáo. Ông chủ trương tam giáo bình đẳng, tác phẩm có: Nhiếp Sinh Tiêu Tức Luận, Đại Đan Trực Chỉ, Bàn Khê Tập, Huyền Phong Khánh Hội Lục, Minh Đạo Tập.
Tiểu thuyết hóa
Ông được nhà văn Kim Dung xây dựng thành nhân vật Khâu Xứ Cơ trong một cuốn tiểu thuyết của mình là Xạ điêu anh hùng truyện. Trong truyện mô tả ông là người có võ công cao cường hay hành hiệp trượng nghĩa nhưng lại hay tranh cường háo thắng, ông giết nhiều đám cẩu quan vô lại, bán nước hại dân nên mọi người gọi ông là Trường Xuân chân nhân. Một lần trên đường đi hành tẩu giang hồ ông vô tình quen và kết giao với hai huynh đệ Dương Quách tại thôn Ngưu Gia. Số phận run rủi khi 2 nhà họ bị hại ông đã đến chùa Pháp Hoa đòi người, tại đây ông đã tỉ thí với Giang Nam thất quái và hẹn ước 18 năm sau tại lầu Yên Vũ sẽ cho Quách Tĩnh và Dương Khang tỉ thí để xem ai giỏi hơn ai. Trong phần này ông trở thành sư phụ đầu tiên dạy võ cho Dương Khang. Ngoài ra ông còn xuất hiện trong phần Thần điêu hiệp lữ với vai trò chưởng môn đời thứ 3 của Toàn Chân giáo, ông còn một đệ tử nữa là Triệu Chí Kính một kẻ vô lại, lừa thầy phản bạn. Khâu Xứ Cơ cũng được nói đến trong một phim truyền hình Trung Quốc mà nội dung không liên quan đến Anh hùng xạ điêu, là phim Võ Đang (2003). Trong phim này ông là thầy của Trương Tam Phong, tổ sư phái Võ Đang sau này.
Phim ảnh
Anh hùng xạ điêu
Mạch Thiên Ân (1976),
Hạ Vũ (1983),
Dương Nguyên Chương (1988),
Lâm Thượng Vũ (1994),
Chu Hạo Đông (2003),
Nguy Tử (2008),
Thiệu Phong (2017),
Thần điêu hiệp lữ
Mạch Thiên Ân (1976),
Hạ Vũ (1983),
Mao Tĩnh Thuận (1984),
Quách Đức Tín (1995),
Lý Hải Kiệt (1998),
Phan Hồng (1998),
Trần Kế Minh (2006),
Thẩm Bảo Bình (2014),
Lưu Hiểu Hổ (2021), |
Lão Tử Hóa Hồ Kinh là một tác phẩm của đạo sĩ Vương Phù (tức Cơ Công Thứ) sống đời Tây Tấn (265-316) ở Trung Quốc. Nội dung chủ yếu của Hóa Hồ Kinh là kể lại câu chuyện dẫn Quan Lệnh Doãn Hỉ đi sang hướng tây, vào nước Thiên Trúc (Ấn Độ), Hóa thành Phật Đà, lập ra Phù Đồ giáo (tức Phật giáo).
Hoàn cảnh sáng tác
Năm cuối triều vua Huệ Đế (tại vị: 290-306) đời Tây Tấn, một danh tăng tên là Bạch Viễn (tự là Pháp Tổ) đã bác bỏ thuyết Lão Tử Hóa Hồ. Thần Tiên Truyện cho rằng Lão Tử đi về núi Côn Lôn và Tây Thăng Kinh cho rằng Lão Tử bay về hướng tây truyền đạo ở Ấn Độ (Hóa Hồ). Thuyết Lão Tử Hóa Hồ thực sự bắt đầu xuất hiện từ đời Đông Hán thời vua Hoàn Đế. Bạch Viễn và Vương Phù tranh luận nhau. Vương Phù thua bèn sáng tác quyển Lão Tử Hóa Hồ Kinh để bênh vực quan điểm của mình. Tấn Thế Tạp Lục (khoảng đầu thế kỷ 5) chép: "Đạo sĩ Vương Phù đã từng tranh luận với sa môn Bạch Viễn và cãi thua. Sau đó họ Vương mới cải biến Tây Vực Truyện thành Hóa Hồ Kinh, nói rằng Doãn Hỉ đi theo Lão Tử sang Tây Vực giáo hóa rợ Hồ và thành Phật. Đạo Phật bắt đầu từ đó."
Các quyển
Lão Tử Hóa Hồ Kinh chỉ có một quyển, người đời sau tăng bổ thành 10 quyển. Thông Chí Nghệ Văn Lược ghi là 10 quyển, Quận Trai Độc Thư Chí (của Triều Công Vũ) quyển 16, ghi là 10 quyển, Văn Hiến Thông Khảo quyển 224 cũng ghi là có 10 quyển. Tất cả đều chú dẫn Tam Quốc Chí Chú (của Bùi Tùng Chi), Tân Đường Thư Nghệ Văn Chí, v.v. nói về nguyên nhân phát sinh cố sự Hóa Hồ thành Phật và cuộc tranh luận về sự chân ngụy của Hóa Hồ Kinh. Bản Đôn Hoàng Lão Tử Hóa Hồ Kinh 10 quyển bị hư hoại, chỉ còn giữ được quyển 2, 8, và 10.
Ảnh hưởng
Lão Tử Hóa Hồ Kinh ra đời, làm nảy sinh một đại công án tôn giáo kéo dài gần 1000 năm. Bên Đạo giáo cố gắng chứng minh rằng Đạo giáo có trước Phật giáo, và Lão Tử hóa thành Phật mở đạo Phật tại Ấn Độ. Họ sáng tác thêm một số tác phẩm để bênh vực quan điểm như: Huyền Diệu Nội Thiên, Xuất Tái Ký, Quan Lệnh Doãn Hỉ Truyện, Văn Thủy Nội Truyện, Lão Quân Thiên Khai Kinh, v.v. Bên Phật giáo ngoài việc chứng minh sự việc Hóa Hồ Kinh là hư ngụy, họ còn sáng tác những quyển như Chu Thư Dị Ký, Hán Pháp Bản Nội Truyện... chứng minh rằng Phật Thích Ca là sư phụ của Khổng Tử và Lão Tử. Đến đời Đường Cao Tông, và sau là thời Vũ Chu (thời Võ Tắc Thiên xưng đế, đổi quốc hiệu là Chu), chư tăng xin triều đình cấm và hủy bỏ Hóa Hồ Kinh. Mặc dù bát đại học sĩ tâu rằng kinh này không có gì tà ngụy nhưng triều đình cũng hai lần hạ lệnh đốt bỏ (dưới triều Cao Tông và dưới triều Vũ Hậu). Nhưng bấy giờ mệnh lệnh không nghiêm, Hóa Hồ Kinh vẫn tiếp tục lưu hành. Đến đời Nguyên, dưới triều vua Hiến Tông (tại vị 1251-1260) và Thế Tổ (tại vị 1260-1295), Toàn Chân đạo xâm chiếm chùa miếu và điền sản của Phật giáo. Phật giáo lại đem Lão Tử Hóa Hồ Kinh ra tố cáo là ngụy kinh. Thêm một lần nữa Phật giáo và Đạo giáo lại tranh luận kịch liệt. Năm thứ 8 (tức 1259) vua Hiến Tông và năm Chí Nguyên 18 (tức 1282) vua Thế Tổ, Toàn Chân đạo hai lần biện luận đại bại, và Nguyên triều hai lần hạ lệnh đốt bỏ đạo kinh. Lão Tử Hóa Hồ Kinh từ đó bị đốt mất. Chính Thống Đạo Tạng và Vạn Lịch Tục Đạo Tạng đời nhà Minh đều không ghi chép Hóa Hồ Kinh. |
Lưu Nhất Minh (1734-1821) là một nhà nội đan ở đời nhà Thanh, Trung Quốc, giữa các năm Càn Long và Gia Khánh. Ông hiệu là Ngộ Nguyên Tử, biệt hiệu là Tố Phác Tản Nhân. Quê ở huyện Khúc Ốc, phủ Bình Dương, tỉnh Sơn Tây (nay là đông bắc huyện Văn Hỉ, tỉnh Sơn Tây).
Tiểu sử
Gia đình giàu có rất mực nhưng ông đã phế bỏ mà học đạo. Ông là truyền nhân thứ 11 của Long Môn phái. Ông tự thuật đời mình trong tác phẩm Hội Tâm Nội Tập rằng: "Năm 17 tuổi (năm Càn Long 15; tức năm 1750 dương lịch) ta bị bệnh nặng, trăm thứ thuốc đều vô hiệu. Năm sau, ta đi Nam An thuộc Cam Túc để dưỡng bệnh. Bệnh càng ngày càng trầm trọng. May mắn gặp được chân nhân ban cho thuốc, bệnh trầm kha liền dứt. Năm 19 tuổi ta đi tầm đạo. Năm 22 tuổi, nơi Du Trung (nay thuộc Cam Túc), ta gặp được Khám Cốc Lão Nhân truyền dạy bí quyết nội đan, bèn theo đó mà luyện. Về sau, vì cầu tham chứng, ta lần lượt cư ngụ nơi kinh sư 4 năm, Hà Nam 2 năm, Nghiêu Đô (nay là phía nam huyện Lâm Phân tỉnh Sơn Tây) một năm, Tây Tần (nay là huyện Tĩnh Viễn, Cam Túc) 3 năm, và lai vãng bất định trong 4 năm. Trong vòng 13 năm, kinh điển tam giáo ta đều xem kỹ, nhưng các chỗ nghi nan đều chưa được giải rõ. Đến năm Càn Long 37, ta lại đi Hán Thượng, gặp vị tiên Lưu Trượng Nhân (Lưu Ông) chỉ điểm cho, thế là bao nghi nan trong 13 năm qua được hóa giải rõ ràng. Nửa đời sau này ta một mực ẩn cư tu luyện nơi núi Thê Vân và núi Hưng Long thuộc huyện Du Trung, Cam Túc. Ta thiết đàn, truyền đạo, viết sách lập thuyết, trở thành đạo sĩ của Long Môn Phái của Toàn Chân có ảnh hưởng khá lớn ở một dãy Tấn, Thiểm, Cam, Ninh."
Tác phẩm
Lưu Nhất Minh tinh thông nội đan, dịch học và y lý. Ông tác phẩm nhiều, các tác phẩm sau này được hậu nhân kết tập thành Đạo Thư Thập Nhị Chủng (xb năm Dân Quốc nhị niên: 1913), bao gồm: Chu Dịch Xiển Chân, Khổng Dịch Xiển Chân, Ngộ Chân Xiển U, Tu Chân Biện Nan, Tượng Ngôn Phá Nghi, Tu Chân Cửu Yếu, Âm Phù Kinh, Hội Tâm Nội Tập, Hội Tâm Ngoại Tập, Ngộ Đạo Phá Nghi, Chỉ Nam Châm, Huỳnh Đình Kinh Giải, Tham Ngộ Trực Ngôn, Thông Quan Văn, Ngộ Đạo Lục, Kim Đan Tứ Bách Tự Giải, Vô Căn Thụ. Bộ đạo thư này lưu truyền khá rộng rãi. Ông là một đại gia về nội đan học đời Thanh. Về y học, ông soạn quyển Sa Trướng Nhãn Khoa.
Nội đan học của ông thấm nhuần tư tưởng tam giáo hợp nhất. Trong lời tựa quyển Chỉ Nam Châm, ông cho rằng đạo trung chính (trung chính chi đạo) quán thông lý lẽ của tam giáo. Cái đạo trung chính này, Nho gia gọi là Trung Dung, Phật gia gọi là Nhất Thừa, Đạo gia gọi là Kim Đan. Ông soạn Chu Dịch Xiển Chân và Khổng Dịch Xiển Chân để lấy Dịch lý mà luận về kim đan, lấy kim đan để giải thích Dịch học của Nho gia. Trong Tu Chân Biện Nan, ông viết: "Đại Học và Trung Dung đều có cái học về thân tâm, về Tính Mệnh. Trong đó có chỗ tiết lộ rất nhiều về thiên cơ. Đặc biệt, người thường không thể tự đọc mà hiểu được. Đến như giảng rộng Thập Truyện của Dịch, cũng thấy cái học cùng lý tận tánh ở đó." Thế nên, trong lý luận về nội đan, ông đã dung hợp Nho và Phật, đặc biệt là luận về tư tưởng lý học. Lưu Nhất Minh đã xiển dương khá toàn diện về nội đan học. Ông chủ trương tính mệnh song tu; tuần tự mà tiến tu; phân chia đan pháp làm ba hạng thượng, trung, hạ; phân dược vật làm nội, ngoại; bảo rằng nội dược sinh ra từ thân, là nguyên tính; ngoại dược là cái khí chân nhất trong hư không, là nguyên mệnh. Ông cũng thâu tóm lý thuyết của Lý học, cho rằng Tính phân làm Thiên mệnh chi tính và Khí chất chi tính. |
Lục Tu Tĩnh 陸修靜 (406-477), tự là Nguyên Đức, quê ở Đông Thiên, Ngô Hưng (nay là huyện Ngô Hưng của Chiết Giang), Trung Quốc, là một đạo sĩ, người đã thực hiện cải cách Nam Thiên Sư Đạo, nhánh phía nam của Ngũ Đấu Mễ Đạo.
Tiểu sử
Ông là hậu duệ của thừa tướng Lục Khải của nước Ngô thời Tam Quốc. Thuở nhỏ ông theo nghiệp Nho, nhưng hâm mộ Đạo giáo. Khi trưởng thành ông ly gia cắt ái, vào núi tu luyện. Ông là Tổ sư đời thứ 7 của Thượng Thanh Phái. Ông rất nổi tiếng nên cuối những năm Nguyên Gia (424-452) đời Tống Văn Đế (Lưu Nghĩa Long) của Nam Triều, ông được mời vào cung giảng đạo thuyết pháp. Thái hậu sùng mộ Hoàng-Lão nên bái Lục Tu Tĩnh làm thầy. Năm 461, ông ẩn tu tại Lư Sơn. Tống Minh Đế (Lưu Úc) của Nam Triều vốn hâm mộ và muốn hoằng dương Đạo giáo, nên cho xây Sùng Hư quán trên núi Thiên Ấn và mời Lục Tu Tĩnh trụ trì. Đạo giáo cực thịnh nhờ sự trọng vọng của triều đình. Năm 477, Lục Tu Tĩnh liễu đạo, các đệ tử đưa ông về Lư Sơn. Ông được ban thụy hiệu là Giản Tịch tiên sinh, do đó đạo quán tại Lư Sơn đổi tên là Giản Tịch quán.
Ảnh hưởng sau khi mất
Sang đời Bắc Tống, vào những năm Tuyên Hòa (1119–1125), vua Tống Huy Tông phong cho Lục Tu Tĩnh là Đan Nguyên Chân Nhân. Đệ tử của ông có nhiều người nổi tiếng như Tôn Du Nhạc (398-489, sau là tổ sư đời thứ 8 của Thượng Thanh phái), Lý Quả Chi, v.v...
Cống hiến
Lục Tu Tĩnh tác phẩm rất nhiều. Tác phẩm còn lại đến nay và sưu tập trong Chính Thống Đạo Tạng là Thái Thượng Động Huyền Linh Bảo Chúng Giản Văn, Động Huyền Linh Bảo Ngũ Cảm Văn, Lục Tiên Sinh Đạo Môn Khoa Lược, Thái Thượng Động Huyền Linh Bảo Thụ Độ Nghi, Động Huyền Linh Bảo Trai Thuyết Quang Chúc Giới Phạt Đăng Chúc Cảm Nghi, v.v... Nhưng cống hiến quan trọng của ông cho Đạo giáo là cuộc cải cách Thiên Sư Đạo. |
Lý Thiếu Quân () là một đạo sĩ và phương sĩ (magicians) sống vào đời nhà Hán ở Trung Quốc.
Vào đời Tần Thủy Hoàng và các đời vua Hán, các phương sĩ rất được sủng ái. Đời Hán, đứng đầu các phương sĩ là Lý Thiếu Quân. Lý đề xướng một quan điểm mới. Muốn thành tiên thì phải luyện đan. Đan tức là kim đan, ăn kim đan này ắt thành tiên, không những sống lâu không chết (trường sinh cửu thị) mà còn có pháp thuật biến hóa khác nữa. Kim đan được tinh luyện từ thần sa, còn gọi là chu sa. Thần sa (cinabarit) chính là sulfide thủy ngân. Có thuyết cho rằng chu sa chính là một thứ phẩm màu đỏ, theo lời tương truyền, có thể ban cho sự sống nếu được tinh luyện và ăn vào. Nhưng thực tế, cả hai – sulfide thủy ngân hoặc phẩm đỏ chu sa – đều là những chất độc, không thể ăn được. Hán Vũ Đế bị Lý Thiếu Quân thuyết phục (năm 133 TCN). Phương pháp luyện kim đan của họ Lý là chuyển hóa chu sa thành vàng. Xét về cơ sở ban đầu, thuật luyện kim Đông và Tây giống nhau, nhưng tại Trung Quốc điều đặc biệt quan trọng chính là ăn thứ kim đan ấy, để có thể thành tiên trường sinh bất tử. Đó là điều khác biệt cơ bản của thuật đan Trung Quốc và thuật luyện đan (alchemy) Tây phương. |
Lý Xương Linh (, 937—1008) một Đạo gia sống vào thời Bắc Tống (1127-1279), tại Trung Quốc. Quê ông ở Giáp Giang thuộc Hán Gia (nay là Giáp Giang thuộc Tứ Xuyên) vì thế ông còn biệt hiệu là Giáp Giang Ẩn Giả (người ẩn dật ở Giáp Giang). Ông chú giải Thái Thượng Cảm Ứng Thiên thành 30 quyển, nhằm tuyên dương lý lẽ thiên nhân cảm ứng, khuyến thiện và trừng ác. Kinh hấp thụ tư tưởng và luân lý Nho gia. Các điều thiện trong kinh liệt kê thành 26 loại, các điều ác 170 loại. Kinh rất có ảnh hưởng đến hậu thế và được đưa vào Đạo Tạng. |
Mao Sơn Tông (茅山宗) là tên một giáo phái của Đạo giáo, lấy núi Mao Sơn (núi cỏ mao), nằm ở giữa hai huyện Kim Đàn và Cú Dung của tỉnh Giang Tô, Trung Quốc, làm Tổ đình. Mao Sơn có tên xưa là Cú Khúc Sơn, Địa Phế Sơn, Cương Sơn, Kỷ Sơn. Đây là ngọn núi thuộc hàng động thiên phúc địa nổi tiếng.
Mao Sơn Tông kế thừa Thượng Thanh Phái. Đào Hoằng Cảnh là tổ sư đời thứ 9 của Thượng Thanh Phái (vốn là tông phái không chú trọng phù lục). Sau khi quy ẩn 10 năm tại núi Mao Sơn, ông sáng lập Mao Sơn Tông (là tông phái coi trọng phù lục), lấy tên núi làm tên giáo phái, chọn Tam Mao Chân Quân làm Tổ của Tông phái này nên có tên gọi là Mao Sơn Tông. Tông Tổ kỳ tích của Mao Sơn phái trước phải kể đến ba anh em đồng tử nhà họ Mao là Mao Doanh, Mao Cố và Mao Trung.
Mao Doanh tự là Thúc Thân (sanh vào thời Hán Cảnh Đế trung nguyên - công nguyên năm 145) trước nhập vào Hằng Sơn (Cú Khúc Sơn) tu đạo rồi nằm mộng thấy Thái Huyền Ngọc Nữ mà đắc đạo. Mao Cố tự là Qúy Vĩ, sanh năm Mậu Tuất - công nguyên năm 143, là 1 người có hiếu và liêm chính làm quan Thái Thủ. Mao Trung tự là Tư Hòa, sinh vào năm Canh Tý - công nguyên năm 141.
Mao Sơn được mọi người biết đến với uy danh đệ nhất khưu tà trừ ma, đạo pháp thần thông quản đại cao siêu và còn lập đàn, bố trận pháp.
Mao Sơn phái có các đời tông sư rất nổi tiếng, qua nhiều thời, sáng tạo ra những pháp thuật xuất chúng, có ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa đạo giáo Trung Hoa. Mao Sơn Tông là một môn phái lớn trong Bát Đại Huyền Thuật của Trung Quốc với những pháp như: Hành Thông Linh Pháp (đi xuyên âm giới), Thiên Nhãn Thông, Khiển Thi Thuật, Chiêu Hồn Thuật,.v.v...
Ngoài những pháp thuật kể trên Mao Sơn cón có những trận pháp vô cùng huyền diệu như: Cửu đăng liên hoa trận, Cửu tiền bôi đỉnh trận, Bát quái trận,...
Mao Sơn Tông đã từng có thời kỳ rất phát triển và cũng chia ra các chi phái nhỏ, gồm 4 chi môn chính là Mao Sơn Phù Môn (chuyên về phù lục thuật), Mao Sơn Trận Môn (chuyên về Kỳ Binh Độn Giáp trận đồ thuật), Mao Sơn Pháp Môn (chuyên về Pháp Thuật hay Tiên pháp), và xếp thứ tư là Mao Sơn Quỷ Môn (chuyên về Dưỡng Quỷ thuật) đã bị khai trừ (vì trong chi phái này từng xuất hiện một tà sư ma đầu lợi dụng tà thuật để tranh quyền hại chúng sanh, vi phạm Thiên Đạo nên bị các chi phái khác hợp sức tiêu diệt và khai trừ Mao Sơn Dưỡng Quỷ chi ra khỏi Mao Sơn Tông). Đây là một thuyết không chính thức.
Cho đến nay Mao Sơn không còn phát triển rộng rãi như ngày xưa, do quá trình hiện đại hóa của xã hôi, nhưng vẫn còn những người biết và tìm đến học đạo thuật Mao Sơn. Hiện nay Mao Sơn Tông còn hoạt động ở 3 nơi là Trung Quốc, Hồng Kông và Đài Loan (tổ đình thì ở núi Tam Mao -Trung Quốc) có lẽ Mao Sơn đạo phái sẽ không bị thất truyền trong tương lai mai sau.
[b] Do tính chất coi trọng phù chú, đàn pháp mà nó đã có những nghi thức nghi lễ khá hay.
Khiến quần chúng bị mê hoặc khi người Thầy đó nếu không phải là Minh sư.
Bùa chú nói chung rất mơ hồ, do đó trước khi làm một việc gì đó cần phải xem xét kỹ lưỡng tránh bị lừa gạt.
Tam Mao Chân Quân
Mao Doanh tự là Thúc Thân (sanh vào thời vua Hán Cảnh Đế ở Trung Nguyên - Công Nguyên năm 145) tiến nhập vào Hằng Sơn (Cú Khúc Sơn) tu đạo rồi nằm mộng thấy Thái Huyền Ngọc Nữ mà đắc đạo. Mao Cố tự là Qúy Vĩ sanh năm Mậu Tuất - công nguyên năm 143, là 1 người có hiếu và liêm chính làm quan Thái Thủ. Mao Trung tự là Tư Hòa, sinh vào năm Canh Tý - công nguyên năm 141.
Tam Mao Chân Quân (三茅真君)
Mao Doanh chân nhân sau khi đắc đạo vào thời nguyên đế sơ nguyên ngũ niên Đinh Sửu - công nguyên tiền năm 44, đã xuống thế cứu bá tánh và khuyến người tu đạo, dùng tiên thuật khuyến 2 người đệ Mao Cố và Mao Trung học đạo, sau nhập vào Mao Sơn tu ẩn, chia Mao Sơn làm 3, mỗi vị cai quản mỗi xứ. Mao Doanh quản Đại Mao Quân Sơn, Mao Cố quản Trung Mao Quân Sơn và Mao Trung quản Tiểu Mao Quân Sơn. Sau 3 vị cởi Bạch Hạc về Bồng Lai Đảo, được Thái Thượng Lão Quân sắc phong: Mao Doanh được phong là Ti Mệnh Chân Quân, Mao Cố là Định Quốc Chân Quân, Mao Trung là Bảo Sanh Chân Quân, được gọi là Tam Đàn Hỏa Diện Mao Đàn Chân Quân.
Ai đế nguyên thọ nhị niên canh thân tuế (công nguyên năm thứ nhất) năm Mao Doanh 145 tuổi, Vương Mẫu cùng Thượng Nguyên Phu Nhân giáng thân tại Mao Sơn, Vương Mẫu Nương Nương truyền cho Mao Doanh - Ti Mệnh Chân Quân bí pháp Ngọc Bội Kim Đang Thái Tiêu Ẩn Thư Đỗng Phi Nhị Cảnh Nội Phù. Xong Mao Cố và Mao Trung được Thượng Nguyên Phu Nhân tặng Tam nguyên lưu châu, đan cảnh đạo tinh và ẩn địa bát thuật.
Mao Sơn được mọi người biết đến với uy danh đệ nhất khưu tà trừ ma, pháp thần thông quản đại cao siêu và còn lập đàn, bố trận pháp. Mao Sơn phái có các đời tông sư rất nổi tiếng, qua nhiều thời, sáng tạo ra những pháp thuật xuất chúng, có ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa đạo giáo Trung Hoa. Là một môn phái lớn trong tám đại huyền thuật của Trung Quốc với những pháp như: Hành thông linh pháp(đi xuyên thấu tam giới),Luyện cương thi(luyện xác chết thành thi biến nhằm mục đích đưa về quê an táng)...Ngoài những pháp thuật kể trên Mao Sơn cón có những trận pháp vô cùng huyền diệu như: Cửu đăng liên hoa trận, cửu tiền bôi đỉnh trận,bát quái trận,...Cho đến nay Mao Sơn không cón phát triển rộng rãi như ngày xưa, do quá trình hiện đại hóa của xã hôi, nhưng vẫn còn những người biết và tìm đến học đạo thuật Mao Sơn,hiện mao sơn phái còn hoạt động ở 3 nơi là Trung Quốc,Hồng Kông và Đài Loan(tổ đình thì ở núi Mao -Trung Quốc) có lẽ Mao Sơn đạo phái sẽ không bị thất truyền trong tương lai mai sau.
Hệ Thống Truyền Thừa
Sơ Tổ Nguỵ Phu Nhân
Nhị Tổ
Tam Tổ
Tứ Tổ
Ngũ Tổ
Lục Tổ
Thất Tổ Lục Tu Tĩnh Chân nhân
Bát Tổ Tôn Du Nhạc (398-489), Tổ đời thứ 8 của Thượng Thanh phái. Môn đệ của Thất Tổ Lục Tu Tĩnh. |
Mệnh môn có các nghĩa sau đây:
Mệnh môn là quả thận bên phải. Theo Nạn Kinh Tập Chú: "Tả giả vi thận, hữu giả vi mệnh môn. Mệnh môn giả, chư thần tinh chi sở xá, nguyên khí chi sở hệ." (Bên trái là thận, bên phải là mệnh môn. Mệnh môn là nhà của tinh là các thần, là chỗ ràng buộc nguyên khí).
Mệnh môn là trung điểm giữa thận trái và thận phải. Huỳnh Đình Kinh Bí Nghĩa của Lãnh Khiêm giảng: "Tả hữu tương đối, trung hư nhất khiếu vi mệnh môn, tức sinh môn." (Thận trái và thận phải đối xứng nhau, khoảng trống ở giữa là một cái khiếu tên mệnh môn, cũng gọi là sinh môn). Sinh môn thì Huỳnh Đình Nội Cảnh Kinh xác định vị trí: Tự tề hậu tam thốn (sau rốn 3 thốn).
Mệnh môn là hai mắt. Hoàng Đế Tố Vấn Linh Khu Kinh giải: "Thái Dương căn vu Chí Âm kết vu mệnh môn. Mệnh môn giả mục dã." (Thái Dương gốc ở Chí Âm và liên kết ở mệnh môn. Mệnh môn là hai mắt vậy).
Theo kinh điển Đạo giáo, cụ thể là Huỳnh Đình Kinh, mệnh môn (hoặc sinh môn) được đề cập trong Nội Cảnh với ý nghĩa là rốn.
Theo phép xem tướng mặt, mệnh môn là hai lỗ tai. |
Nê Hoàn là một thuật ngữ với 4 ý nghĩa khác nhau:
Nê Hoàn là tên thần não.
Nê Hoàn tượng trưng cho não bộ, như trong Tu Chân Thập Thư viết: "Nê Hoàn là hình tượng của não" (Nê Hoàn não chi tượng). Tiên Học Từ điển của Đái Nguyên Trường cho từ nguyên của Nê Hoàn là: "Trong đầu nơi đỉnh là não hải, não giống như bùn mà có hình tròn, tròn [gọi] là hoàn." (Tại đầu đỉnh đương trung não hải thị dã, dĩ não như nê nhi hình viên, viên giả hoàn dã).
Nê Hoàn là cung thứ 3 trong Cửu Cung, Nội Cảnh giải: Từ giữa 2 chân mày đi vào 3 thốn là Đan Điền Cung, cũng gọi Nê Hoàn Cung.
Trong Phật giáo, Nê Hoàn được dùng để phiên âm từ Nirvana trong tiếng Phạn.
Nê hoàn là chỉ giai đoạn luyện công của một số môn phái, chuyển tiếp sau giai đoạn vận đan điền |
Thiên sư Đạo (chữ Hán: 天师道), còn gọi là Ngũ Đấu Mễ Đạo (五斗米道, nghĩa là "đạo Năm Đấu Gạo"), Chính Nhất Đạo (正一道), Chính Nhất Minh Uy Chi Đạo (正一盟威之道), là một giáo phái ra đời trong giai đoạn đầu của Đạo giáo, tức cuối đời Đông Hán (25–220) trong lịch sử Trung Quốc, do Trương Lăng (34–156) sáng lập. Ban đầu, tôn giáo này không có tên gọi chính thức, thường được gọi là Ngũ Đấu Mễ Đạo do khi các tín đồ nhập giáo đều phải nộp 5 đấu gạo, do đó mà thành tên. Từ đời Đông Tấn trở đi Ngũ Đấu Mễ Đạo được gọi là Thiên Sư Đạo, từ đời nhà Nguyên trở đi gọi là Chính Nhất Đạo. Sau này lấy Long Hổ Sơn làm trung tâm truyền giáo thì đổi tên thành Long Hổ Tông cho đến ngày nay.
Tam Trương
Ngũ Đấu Mễ Đạo bắt đầu từ Trương thiên sư tên thật là họ Trương tên Lăng, người đất Phong (nay là huyện Phong, tỉnh Giang Tô), một hậu duệ của Trương Lương. Trương Lăng từ nhỏ đã nghiền Đạo Đức Kinh, thiên văn, địa lý, Hà Đồ, Lạc Thư, thông đạt Ngũ Kinh; khi trưởng thành từng làm quan huyện lệnh ở Giang Châu, thuộc Ba Quận (nay là Trùng Khánh, Tứ Xuyên), thời Hán Minh Đế. Về sau, ông từ quan, ẩn cư trong núi Bắc Mang Sơn học đạo trường sinh. Thời Hán Thuận Đế (khoảng 115 TCN - 20 SCN đến 144 SCN) Trương Lăng vào Ba Thục, tu đạo ở núi Hạc Minh Sơn (cũng gọi Cốc Minh Sơn), xưng là Tam Thiên Pháp Sư Chính Nhất Chân Nhân. Về sau khi truyền đạo trong dân gian, nói rằng mình được Thái Thượng Lão Quân truyền đạo Chính Nhất Minh Uy, phong làm Thiên Sư. Vì vậy, dân gian gọi đạo của ông là Thiên Sư Đạo.
Trước tiên ông trị bệnh để thu hút quần chúng và sau đó là truyền đạo. Khi quy tụ được đông đảo quần chúng, Trương Lăng (bấy giờ bắt đầu gọi là Trương Đạo Lăng hay Trương Thiên Sư) tổ chức 24 điểm truyền đạo gọi là 24 Trị, trong đó ba trung tâm lớn là Dương Bình Trị, Lộc Đường Trị, và Hạc Minh Trị.
Do người nhập đạo phải nộp 5 đấu gạo, do đó đạo này gọi tên là Ngũ Đấu Mễ Đạo (đạo 5 đấu gạo), cũng gọi là Mễ Vu (米巫) bởi vì đạo này chịu ảnh hưởng nặng nề của Vu giáo (巫教) của dân tộc thiểu số tại Ba Thục. Một cách giải thích khác là Ngũ Đấu Mễ đọc gần âm với Ngũ Đẩu Mẫu (五斗姆), tức là Bắc Đẩu Mẫu trong Ngũ Phương Tinh Đẩu, đứng đầu trong các sao. Hai cách giải thích này đều thông hành; có thể lúc lập giáo, Trương Lăng đã có chủ ý như vậy. Và cho phù hợp với Nhị Thập Bát Tú (28 sao), sau này 24 Trị phát triển thành 28 Trị.
Ban đầu Ngũ Đấu Mễ Đạo gồm các tín đồ dân dã, nhưng khi giáo phái phát triển, thu hút rất nhiều hào tộc, thế gia, thậm chí quan lại, thí dụ họ Vương và họ Tôn ở Lang Nha, họ Tạ và họ Ân ở quận Trần, họ Khổng ở Cối Kê, họ Chu ở Nghĩa Hưng, họ Hứa họ Đào và họ Cát ở Đan Dương... Trong khoảng đời Tấn, các sử gia gọi Ngũ Đấu Mễ Đạo là Thiên Sư Đạo. Tuy nhiên có sử gia cho rằng Ngũ Đấu Mễ Đạo là tên gọi dân dã, còn chính nội bộ tín đồ thì tự xưng giáo phái mình là Thiên Sư Đạo hoặc Chính Nhất Đạo.
Khi Trương Lăng mất, con là Trương Hành kế thừa việc truyền đạo. Khi Trương Hành qua đời, con của Trương Hành là Trương Lỗ kế vị. Cả ba đời ông cháu được người đời gọi là Tam Trương, nhưng trong nội bộ phải gọi là Tam Sư: Trương Lăng là Thiên Sư, Trương Hành là Tự Sư, và Trương Lỗ là Hệ Sư.
Trương Lỗ cai trị khu vực Ba Thục và Hán Trung gần 30 năm với một chính quyền hợp nhất tôn giáo với chính trị. Đến năm Kiến An 20 (tức năm 215), tháng 3, Tào Tháo đánh Hán Trung. Đến tháng 11, Trương Lỗ thua, phải dắt gia quyến và thuộc hạ về Nghiệp Thành quy hàng Tào. Tào Tháo dùng lễ trọng đãi Trương Lỗ để lợi dụng thế lực và ảnh hưởng của Trương Lỗ. Tào Tháo phong Trương Lỗ làm Trấn Nam Tướng Quân, tước Lương Trung Hầu. Năm người con của Trương Lỗ cũng được phong tước hầu. Tào Tháo và Trương Lỗ còn kết thông gia với nhau. Chính quyền của Trương Lỗ tại Ba Thục và Hán Trung bị diệt. Tuy nhiên Ngũ Đấu Mễ Đạo vẫn phát triển, dù tổ chức bị hỗn loạn, nhất là sau khi Trương Lỗ bệnh và mất. Tín đồ mạnh ai nấy truyền đạo, không theo phép tắc gì cả. Nhiều tế tửu lợi dụng tôn giáo để làm việc bất chính, hoang dâm.
Cơ cấu tổ chức
Người mới nhập môn gọi là «quỷ tốt» (鬼卒); tu hành lâu năm lên «tế tửu» (祭酒); khi đủ trình độ cai quản một Trị thì gọi là «trị đầu đại tế tửu» (治頭大祭酒). Tất cả đều dưới quyền của «sư quân» (師君) là Trương Lỗ. Các tín đồ phải giữ giới và tin cậy nhau. Người lầm lỗi phải nhập "tĩnh thất" để sám hối ăn năn. Ngoài ra có chức vụ là «quỷ lại» (鬼吏), chịu trách nhiệm cúng cầu xin cho bệnh nhân mau khỏi bệnh. Khi cúng cầu khỏi bệnh và khỏi tội, cần lập 3 lá sớ viết tên bệnh nhân vào đó (gọi là Tam quan thủ thư 三官手書; tam quan là: Thiên, Địa, Thủy): Một đem lên núi, một chôn xuống đất, và một ném xuống nước.
Trương Lỗ còn lập ra nghi thức trai giới là Đồ thán trai pháp (涂炭齋法), tuy giản đơn nhưng được xem là khởi nguyên của nghi thức trai tiêu (齋醮) về sau của Đạo giáo. Các tế tửu còn có nhiệm vụ thuyết giảng Lão Tử Đạo Đức Kinh dựa vào bản chú của Trương Lỗ, gọi là Lão Tử Tưởng Nhĩ chú (老子想爾注). Ngoài việc dùng phù lục bùa chú để trị bệnh; cúng tế và trai giới để cầu xin giải tội và trừ tai nạn; tín đồ Ngũ Đấu Mễ Đạo còn thực hành thủ nhất, hành khí, phòng trung, v.v...
Trong phạm vi 28 Trị, Trương Lỗ thiết lập các nghĩa xá (義舍), cung cấp gạo thịt, thức ăn miễn phí cho người qua đường. Về mặt cai trị dân, Trương Lỗ dùng hình phạt khoan dung, cấm dân uống rượu, và thi hành nhiều biện pháp có lợi cho dân. Trong cục diện đại loạn cuối đời Hán, chỉ có khu vực Ba Thục và Hán Trung do Trương Lỗ cai trị là thái bình, do đó ảnh hưởng của Trương Lỗ rất lớn.
24 Trị ban đầu gọi là Chính trị (正治), gồm Thượng Bát Trị, Trung Bát Trị, và Hạ Bát Trị; còn 4 Trị tăng thêm về sau gọi là Biệt Trị (別治) hay Bị Trị (備治), gồm:
Thượng Bát Trị là:
Dương Bình Trị (陽平治), tại huyện Cửu Lũng, châu Bành, quận Thục;
Lộc Đường [Sơn] Trị (鹿堂(山)治), tại huyện Miên Trúc, châu Hán;
Hạc Minh [Thần Sơn Thượng] Trị (鶴鳴[神山上]治), tại Hạc Minh Sơn, nay là huyện Đại Ấp, thành phố Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên;
Ly Nguyên Sơn Trị (漓沅山治), tại huyện Cửu Lũng, châu Bành, quận Thục;
Cát Quý Sơn Trị (葛瑰山治), tại huyện Cửu Lũng, châu Bành, quận Thục;
Canh Trừ Trị (庚除治), tại huyện Miên Trúc, quận Quảng Hán;
Tần Trung Trị (秦中治), tại huyện Đức Dương, quận Quảng Hán;
Chân Đa Trị (真多治), tại huyện Kim Đường.
Trung Bát Trị là:
Xương Lợi Trị (昌利治), tại huyện Kim Đường;
Lệ Thượng Trị (隸上治), tại huyện Đức Dương, quận Quảng Hán;
Dũng Tuyền Sơn Thần Trị (涌泉山神治), tại huyện Tiểu Hán, quận Toại Ninh;
Trù Canh Trị (稠稉治), tại huyện Tân Tân, huyện Kiên Vi;
Bắc Bình Trị (北平治), tại huyện Bành Sơn, châu Mi;
Bản Trúc Trị (本竹治), tại huyện Tân Tân, châu Thục;
Mông Tần Trị (蒙秦治), tại huyện Đài Đăng, quận Việt Huề;
Bình Cái Trị (平蓋治), tại huyện Tân Tân, châu Thục.
Hạ Bát Trị là:
Vân Đài Sơn Trị (雲台山治), tại huyện Thương Khê, châu Lương, quận Ba Tây;
Tận Khẩu Trị (濜口治), tại huyện Giang Dương, quận Hán Trung;
Hậu Thành Sơn Trị (後城山治), tại huyện Thập Phương, châu Hán;
Công Mộ Trị (公慕治), tại huyện Thập Phương, châu Hán;
Bình Cương Trị (平岡治), tại huyện Tân Tân, châu Thục;
Chủ Bạc Sơn Trị (主簿山治), tại huyện Bồ Giang, châu Cung;
Ngọc Cục Trị (玉局治), tại cửa Nam của Thành Đô;
Bắc Mang Sơn Trị (北邙山治), tại huyện Lạc Dương, Đông Đô.
4 Biệt Trị (Bị Trị) đều ở phía đông bắc của Kinh Sư Lạc Dương:
Cương Đê Trị (岡氐治), tại núi Lan Vũ;
Bạch Thạch Trị (白石治), tại núi Huyền Cực;
Cụ Sơn Trị (具山治), tại núi Phạn Dương;
Chung Mậu Trị (鍾茂治), tại núi Nguyên Đông.
Khởi nghĩa
Đầu đời Tây Tấn, một người quê ở quận Kiên Vi (nay thuộc Tứ Xuyên), tên là Trần Thụy nổi lên truyền đạo tại Ba Thục. Xưa kia Trần Thụy cũng theo Ngũ Đấu Mễ Đạo, nay tự xưng là Thiên Sư, mô phỏng và cải biên giáo quy. Khu vực truyền đạo cũng gọi là trị (hay đạo trị), người nhập môn phải nộp lễ vật gồm một đấu rượu và một con cá tươi. Các tín đồ nào mà trong nhà có việc tang chế hay thai sản thì trong vòng 100 ngày đều không được phép lui tới đạo trị. Trần Thụy cũng lập ra các chức tế tửu. Tế tửu nào có cha, mẹ, hay vợ qua đời thì không được mang khăn tang. Tế tửu cũng không được phép thăm viếng người bệnh hay người mới sinh con. Tín đồ theo Trần Thụy đông tới mấy ngàn người. Thanh thế càng ngày càng lớn. Năm Hàm Ninh thứ 3 (tức 277), quan trấn nhậm Ích Châu là thứ sử Vương Tuấn quy Trần Thụy vào tội bất hiếu và đem quân đánh dẹp, giết Trần Thụy và nhiều tế tửu cốt cán, đốt cháy các cơ sở truyền đạo (tức đạo trị). Quan thái thú Ba Thục vì là tín đồ của Trần Thụy nên bị bãi chức.
Không lâu sau khi Trần Thụy bị giết, vào các năm Vĩnh Ninh và Thái An (301-303) đời vua Tấn Huệ Đế, tại Tứ Xuyên nổi lên cuộc khởi nghĩa của các lưu dân ở Quan Lũng và tín đồ Ngũ Đấu Mễ Đạo (vốn là dân tộc thiểu số Tung) do Lý Đặc và Lý Hùng lãnh đạo. Lý Đặc là dân thiểu số Tung, theo Ngũ Đấu Mễ Đạo. Năm Vĩnh Ninh (301) Lý Đặc khởi nghĩa. Tháng Giêng năm Thái An (303) Lý Đặc kéo binh tấn công Thành Đô. Tháng 2, Lý Đặc tử trận, nghĩa binh chết thê thảm. Con của Lý Đặc là Lý Hùng dẫn tàn binh rút lui. Sau cùng, một nhánh quân khởi nghĩa do Phạm Trường Sinh (của Ngũ Đấu Mễ Đạo) chỉ huy đã trợ giúp lương thảo cho quân của Lý Hùng. Cùng năm này, họ lại tấn công Thành Đô, và lần này thành công. Lý Hùng năm Vĩnh Hưng nguyên niên (năm 304) xưng là Thành Đô Vương, tôn Phạm Trường Sinh làm vua, nhưng Phạm từ chối. Thế là tháng 6 năm Vĩnh Hưng thứ 2 (tức 305 CN) Lý Hùng xưng hoàng đế, lấy quốc hiệu là Đại Thành. Ngay khi Phạm Trường Sinh từ chối làm vua, Lý Hùng phong Phạm Trường Sinh làm Thừa tướng, rồi ban hiệu là Thiên Địa Thái Sư, và phong làm Tây Sơn Hầu. Phạm Trường Sinh mất, con là Phạm Bí được kế vị thừa tướng. Lý Hùng cai trị 30 năm, chính sách khoan dung; cả thế cục đại loạn mà vùng Ba Thục vẫn bình yên vô sự. Truyền ngôi đến đời thứ 3 là Lý Thọ thì đổi quốc hiệu là Hán, do đó sử sách gọi chính quyền Lý Hùng là Thành Hán. Chính quyền Thành Hán kéo dài 47 năm, trải 6 đời; đến năm Vĩnh Hòa thứ 3 đời Đông Tấn (năm 347) thì bị Hoàn Ôn diệt.
Trong giới tín đồ gốc sĩ tộc thế gia có Đỗ Tử Cung là đầu lĩnh ở Tiền Đường. Ông có nhiều đệ tử, xuất thân là thế gia đại tộc ở Giang Nam. Đỗ Tử Cung mất, môn đồ là Tôn Thái và Tôn Ân kế nghiệp. Tôn Ân vừa là cháu vừa là đệ tử của Tôn Thái. Tôn Thái tự xưng được chân truyền pháp thuật từ Tử Cung, nên tín đồ mê muội coi như thần nhân. Hiếu Vũ Đế (tại vị 373-396) đời Đông Tấn phong Tôn Thái làm Phụ Quốc Tướng Quân và phong làm thái thú ở Tân An. Tôn Thái lợi dụng tà thuật mê hoặc và quy tụ quần chúng, triều đình sợ Tôn Thái làm loạn nên sai Cối Kê Vương là Tư Mã Đạo Tử bắt Tôn Thái giết đi. Tôn Ân và dư đảng chạy trốn ra hải đảo, lập chí báo thù cho sư phụ. Rồi Tôn Ân cùng với em rể là Lư Tuần lãnh đạo khoảng 10 vạn tín đồ của 8 quận đánh Cối Kê (8 quận là: Cối Kê, Ngô Quận, Ngô Hưng, Nghĩa Hưng, Lâm Hải, Vĩnh Gia, Đông Dương, và Tân An). Chiếm được Cối Kê, Tôn Ân tự xưng là Chinh Đông Tướng Quân và gọi quân binh của mình là «trường sinh nhân». Triều đình phái quân chinh phạt. Năm Nguyên Hưng nguyên niên (năm 402), thuộc hạ Lưu Lao của Tôn Ân bại trận, bèn nhảy xuống biển tự trầm. Tôn Ân thua trận ở Lâm Hải cũng nhảy xuống biển tự trầm. Cho rằng Tôn Ân đã thành "thủy tiên", số tín đồ tự trầm theo hơn trăm người. Lư Tuần kế vị, chiến đấu ngoan cường. Năm Nghĩa Hi thứ 7 (năm 411) đời vua An Đế của Đông Tấn, Lư Tuần đánh Quảng Châu, nhưng bị đại bại, bèn chạy sang Giao Châu. Thứ sử Giao Châu là Đỗ Huệ Độ cùng các quan văn võ đánh tan quân Lư Tuần. Quân của Lư Tuần còn khoảng 2000 người. Dư đảng của Lý Tốn là Lý Thoát, thái thú Cửu Chân, nổi loạn, kết tập 5000 dân địa phương để giúp Lư Tuần đánh ở bến sông phía Nam thành Long Biên (tức Hà Nội của Việt Nam ngày nay). Binh của Đỗ Huệ Độ phóng đuốc trĩ vĩ (trĩ vĩ cự 雉尾炬) đốt chiến thuyền Lư Tuần. Lư Tuần nhảy sông tự trầm. Đỗ Huệ Độ cho vớt tử thi Lư Tuần và chặt đầu, gởi về Kiến Khang.
Tôn Ân và tín đồ Ngũ Đấu Mễ Đạo vốn tin tưởng vào Tam Quan (Thiên, Địa, Thủy), đặc biệt tin tưởng vào sự thành thủy tiên; cho nên khi khởi nghĩa thất bại họ đều nhảy xuống sông xuống biển. Người đời gọi là "tự trầm" (nhảy xuống nước tự tử) nhưng tín đồ gọi là "thủy giải" (giải thoát trong nước) hy vọng đó là cách giải thoát thành tiên.
Cải cách
Có thể thấy, sau khi chính quyền tôn giáo và chính trị hợp nhất của Trương Lỗ bị diệt, Ngũ Đấu Mễ Đạo không bị diệt theo mà lại phát triển rộng khắp Trung Quốc. Tín đồ ngoài thành phần bình dân còn có thành phần hào tộc thế gia. Giai đoạn phát triển mạnh của Ngũ Đấu Mễ Đạo là thời Lưỡng Tấn. Quá trình phát triển của Ngũ Đấu Mễ Đạo gợi ra hai vấn đề: (1) Sự xung đột giữa Ngũ Đấu Mễ Đạo với chính quyền phong kiến: Ngũ Đấu Mễ Đạo phát khởi từ dân gian, trước bất công của xã hội phong kiến, họ phất cờ khởi nghĩa, hy vọng thành lập một xã hội thái bình và lý tưởng. (2) Tổ chức suy thoái: Kể từ Trương Lỗ hàng Tào Tháo, cơ cấu tổ chức của giáo phái này phát triển về số lượng, lan rộng khắp nơi, vượt ra khỏi phạm vi của Ba Thục và Hán Trung, nhưng về bản chất thì các giáo nghĩa và giáo qui đã lỏng lẻo và suy thoái. Các tế tửu tự tung tự tác, bừa bãi thu nạp tài sản của tín đồ. Từ các vấn đề này, Ngũ Đấu Mễ Đạo đã trải qua hai cuộc cải cách do đạo sĩ Khấu Khiêm Chi (Bắc Ngụy) và đạo sĩ Lục Tu Tĩnh (Nam Triều Tống) tiến hành. Khấu Khiêm Chi cải cách Ngũ Đấu Mễ Đạo (tức Thiên Sư Đạo) ở phương bắc nên nhánh này gọi là Bắc Thiên Sư Đạo, còn Lục Tu Tĩnh cải cách Ngũ Đấu Mễ Đạo ở phương nam nên nhánh này gọi là Nam Thiên Sư Đạo. Đến đời Tùy, Nam và Bắc Thiên Sư Đạo hợp nhất làm một. Khoảng đời Đường, sử sách không chép rõ diễn biến của Thiên Sư Đạo. Sau đời Đường, cháu của Trương Lăng tức là Trương Thịnh (con thứ tư của Trương Lỗ) tiếp tục truyền giáo tại Long Hổ Sơn ở Giang Tây. Núi này dần trở thành một trung tâm truyền bá Thiên Sư Đạo và giáo phái mang tên mới là Long Hổ Tông theo tên của nơi truyền đạo là Long Hổ Sơn, và giáo phái này bước qua một giai đoạn lịch sử mới.
Khấu Khiêm Chi và Bắc Thiên Sư Đạo
Khấu Khiêm Chi, người Xương Bình, Thượng Cốc (nay thuộc Bắc Kinh), tự xưng là cháu đời thứ 13 của Ung Nô Hầu Khấu Tuần Chi đời Đông Hán, từ nhỏ mộ đạo, theo Trương Lỗ tu tập. Tu đạo lâu năm nhưng không hiệu quả, về sau ông gặp Thành Công Hưng (xưng là tiên) và theo Thành Công Hưng lên Hoa Sơn học đạo thuật, luyện thuốc, tịch cốc; rồi ẩn tu tại Tung Sơn. Sau 7 năm, ông dần dần nổi danh.
Ngũ Đấu Mễ Đạo tức Thiên Sư Đạo từ khi Trương Lăng lập giáo đã quy tụ nông dân, phất cờ khởi nghĩa, xung đột với triều đình phong kiến. Do đó triều đình luôn cảnh giác giáo phái này. Năm Thần Thụy thứ 2 (năm 415) triều Minh Nguyên Đế Thác Bạt Tự của Bắc Ngụy, Khấu Khiêm Chi tuyên bố Thái Thượng Lão Quân giáng lâm Tung Sơn, ban cho ông chức vị Thiên Sư, và ban cho bộ kinh «Vân Trung Âm Tụng Tân Khoa Chi Giới» gồm 20 quyển (gọi tắt là Tân Khoa), ra lệnh cho ông phải phổ truyền bộ Tân Khoa này, đồng thời chỉnh đốn Đạo giáo. Bộ kinh này (tất nhiên là sáng tác của Khấu Khiêm Chi) hiện nay đã mất nguyên bản. Bản Lão Quân Âm Tụng Giới Kinh chép trong Chính Thống Đạo Tạng gồm 1 quyển là bản còn sót lại của 20 quyển nguyên bản, có thể giúp hình dung ra nguyên bản. Quyển kinh này có 30 điều, đại khái thừa nhận địa vị Thiên Sư của Khấu Khiêm Chi, bàn về cải cách tổ chức của các trị (bãi bỏ ngụy pháp của Tam Trương, bãi bỏ chế độ cha truyền con nối của các tế tửu, bãi bỏ chế độ nhận tài vật, thuế và tô của tín đồ, v.v...), cách truyền phù lục, cách thụ giới, cách tu hành, cách viết tấu chương, cách cầu phúc trị bệnh, v.v... Năm Thái Thường thứ 8 (tức năm 423) triều Minh Nguyên Đế của Bắc Ngụy, Khấu Khiêm Chi lại tuyên bố chắt của Lão Quân là Lý Phổ Văn giáng lâm Tung Sơn và truyền cho ông bộ Lục Đồ Chân Kinh (trên 60 quyển), ra lệnh ông phải phụng trì kinh này và phò tá Bắc phương Thái Bình Chân Quân (sau này là đạo hiệu của Thái Vũ Đế).
Sau khi chuẩn bị các bước như trên, Khấu Khiêm Chi rời núi Tung Sơn và đến kinh đô của Bắc Ngụy là Bình Thành (nay là Đại Đồng, Sơn Tây). Ông kết giao với một quan đại thần tên là Thôi Hạo. Thông qua Thôi Hạo, ông dâng đạo thư lên Thái Vũ Đế Thác Bạt Đào. Thái Vũ Đế mới lên ngôi, bản thân hâm mộ Đạo giáo, nghe Thôi Hạo tán dương Khấu Khiêm Chi nên trọng đãi và tín nhiệm ông. Năm sau (năm 425), Thái Vũ Đế thiết lập Thiên Sư Đạo Trường ngay tại Bình Thành, lập đàn cao 5 tầng, tập hợp 120 đạo sĩ cúng tế cầu đảo mỗi ngày 6 lần. Năm 440, Khấu Khiêm Chi nói Thái Thượng Lão Quân giáng lâm bảo ông rằng Lão Quân đã ban đạo hiệu cho Thái Vũ Đế là Thái Bình Chân Quân. Thái Vũ Đế bèn cải niên hiệu là Thái Bình Chân Quân rồi đích thân đến đạo trường để nhận phù lục, và sau đó phong Khấu Khiêm Chi làm quốc sư. Thiên Sư Đạo từ đó cực thịnh. (Niên hiệu Thái Bình Chân Quân bắt đầu từ năm 440 đến 451.)
Lợi dụng Thái Vũ Đế hâm mộ Đạo giáo và bài xích Phật giáo, Khấu Khiêm Chi bắt đầu tiến hành cải cách Thiên Sư Đạo (tức Ngũ Đấu Mễ Đạo). Nội dung chủ yếu của cuộc cải cách là:
- Kiên quyết ngăn cấm việc lợi dụng tôn giáo để làm loạn, phản nghịch triều đình. Khấu Khiêm Chi tuyên bố những kẻ đại nghịch bất đạo này là tặc dân (賊民) ngu ác đã coi thường Lão Quân, do đó sẽ bị trừng phạt. Cốt lõi của sự cải cách của Khấu Khiêm Chi là ông đưa luân lý Nho giáo (đặc biệt nhấn mạnh trung hiếu) vào giới luật của Thiên Sư Đạo. Theo đó, tín đồ tuân thủ giới luật sẽ không làm loạn chống lại triều đình.
- Bãi bỏ chế độ ép buộc tín đồ nộp thuế bằng tiền và nộp tô bằng gạo. Khi Trương Lỗ thống trị Hán Trung, thiết lập chính quyền chính-giáo hợp nhất, mỗi giáo khu (tức là trị) vừa là đơn vị hành chánh do các tế tửu cai trị. Họ có quyền trưng thu thuế bằng tiền và tô bằng gạo và xử lý chúng. Khấu Khiêm Chi bãi bỏ chế độ này để trút gánh nặng cho tín đồ. Ông phê phán đó là ngụy pháp của Tam Trương, và ông chủ trương dùng Tân Khoa (do Lão Quân ban truyền) để trừ ngụy pháp.
- Khấu Khiêm Chi chỉnh đốn tổ chức của Thiên Sư Đạo, tăng cường giới luật. Sau khi Trương Lỗ mất, Ngũ Đấu Mễ Đạo (tức Thiên Sư Đạo) phát triển rộng khắp Trung Quốc, nhưng tổ chức hỗn loạn và giới luật lỏng lẻo. Khấu Khiêm Chi phản đối các tế tửu trưng thu tài vật của tín đồ; cấm tuyệt thuật phòng trung dâm uế giữa nam nữ; các tế tửu phải theo phép xưa của Nho giáo, khi cha mẹ chết thì phải để tang.
- Khấu Khiêm Chi bổ sung giới luật và trai nghi. Bổ sung các tiêu chuẩn đạo đức của Nho giáo như trung, hiếu, nhân, nghĩa, v.v... Đồng thời ông đề cao nghi thức trai tiêu. Ăn chay, tịch cốc, đạo dẫn chỉ có thể sống lâu, nhưng không thể trường sinh bất tử. Muốn trường sinh bất tử thì phải chú trọng trai tiêu. Trai (齋) là trai giới, tắm gội thanh khiết; tiêu (醮) là cúng bái thần linh đề cầu phúc giải tai họa. Trai tiêu (tục gọi là đạo trường 道場) là nghi thức truyền thống của Đạo giáo, tức là lập đàn cúng tế, đọc kinh, cầu đảo.
Cuộc cải cách của Khấu Khiêm Chi giải trừ sự mâu thuẫn xung đột giữa Đạo giáo với triều đình phong kiến vì nhờ bổ sung luân lý Nho giáo vào giới luật. Do đó một giáo phái ban đầu phát khởi từ dân gian đã phát triển thành tín ngưỡng của thành phần sĩ phu hào tộc, trở thành một công cụ phù hợp với nhu cầu của giai cấp phong kiến thống trị. Năm Thái Bình Chân Quân thứ 9 (tức năm 448) Khấu Khiêm Chi liễu đạo (83 tuổi).
Lục Tu Tĩnh và Nam Thiên Sư Đạo
Lục Tu Tĩnh người Đông Thiên, Ngô Hưng (nay là huyện Ngô Hưng của Chiết Giang), là hậu duệ của thừa tướng Lục Khải của nước Ngô thời Tam Quốc. Thuở nhỏ ông theo nghiệp Nho, nhưng hâm mộ Đạo giáo. Khi trưởng thành ông thoát ly gia đình, vào núi tu luyện. Ông là tổ sư đời thứ 7 của Thượng Thanh Phái, rất nổi danh nên cuối những năm Nguyên Gia (424-452) đời Tống Văn Đế Lưu Nghĩa Long của Nam Triều, được mời vào cung giảng đạo thuyết pháp. Thái hậu sùng mộ Hoàng Lão nên bái Lục Tu Tĩnh làm thầy. Năm 461, ông ẩn tu tại Lư Sơn. Tống Minh Đế Lưu Úc của Nam Triều vốn hâm mộ và muốn hoằng dương Đạo giáo, nên cho xây Sùng Hư quán trên núi Thiên Ấn và mời Lục Tu Tĩnh trụ trì. Đạo giáo cực thịnh nhờ sự trọng vọng của triều đình. Năm 477, Lục Tu Tĩnh liễu đạo, các đệ tử đưa ông về Lư Sơn. Ông được ban thụy hiệu là Giản Tịch tiên sinh (簡寂先生), do đó đạo quán tại Lư Sơn đổi tên là Giản Tịch quán (簡寂觀). Sang đời Bắc Tống, vào những năm Tuyên Hòa (1119-1125), vua Tống Huy Tông phong cho Lục Tu Tĩnh là Đan Nguyên Chân Nhân (丹元真人). Đệ tử của ông có nhiều người nổi tiếng như Tôn Du Nhạc (398-489, sau là tổ sư đời thứ 8 của Thượng Thanh Phái), Lý Quả Chi, v.v...
Lục Tu Tĩnh viết sách rất nhiều. Tác phẩm hiện còn lại của ông và được sưu tập trong Chính Thống Đạo Tạng là Thái Thượng Động Huyền Linh Bảo Chúng Giản Văn (太上洞玄靈寶眾簡文), Động Huyền Linh Bảo Ngũ Cảm Văn (洞玄靈寶五感文), Lục Tiên Sinh Đạo Môn Khoa Lược (陸先生道門科略), Thái Thượng Động Huyền Linh Bảo Thụ Độ Nghi (太上洞玄靈寶授度儀), Động Huyền Linh Bảo Trai Thuyết Quang Chúc Giới Phạt Đăng Chúc Cảm Nghi (洞玄靈寶齋說光燭戒罰燈祝感儀), v.v... Nhưng cống hiến quan trọng của ông cho Đạo giáo là cuộc cải cách Thiên Sư Đạo. Trong Lục Tiên Sinh Đạo Môn Khoa Lược, ông đề cập trước tiên việc chỉnh đốn Đạo giáo, bao quát nội dung sau:
Chỉnh đốn tổ chức, kiện toàn chế độ Tam hội nhật (三會日), tức là tập thể thực hành ba ngày trai giới: mồng 5 tháng giêng, mồng 7 tháng 7, và mồng 5 tháng 10.
Chỉnh đốn việc quản lý tín đồ qua chế độ «trạch lục» (宅錄) tức là đăng ký số lượng nhân khẩu trong hộ tín đồ. Trong những ngày Tam hội nhật, tín đồ phải đến sư trị (師治, trụ sở quản lý của trị) để khai báo số nhân khẩu còn hay mất trong hộ.
Cùng lúc tề tựu ở sư trị vào ngày Tam hội nhật để thực hiện việc trạch lục, tín đồ được nghe thuyết giảng giáo lý, các giới cấm, khảo sát kiểm điểm công đức. Các tế tửu viết tên tín đồ vào sớ để khải báo Thiên Tào, cầu xin chư thần ban ơn và hộ trì gia đình tín đồ được an ninh, cầu xin nhương tai giải nạn, v.v...
Lục Tu Tĩnh hết sức coi trọng việc trai giới. Ông tổng kết các nghi thức trai giới đã có và quy định thêm hệ thống trai tiêu gọi là «cửu trai thập nhị pháp» (九齋十二法). Các nghi thức trai tiêu này chịu ảnh hưởng lễ pháp của Nho giáo và tư tưởng «tam nghiệp thanh tịnh» (三業清淨) của Phật giáo.
Bên cạnh việc hệ thống nghi thức trai tiêu, Lục Tu Tĩnh còn tiến hành chỉnh lý hệ thống kinh điển Đạo giáo và phân loại chúng. Ông được kính trọng như một học giả uyên bác của Đạo giáo, đã chỉnh lý, khảo chứng và lập mục lục cho kinh điển của Linh Bảo Phái, của Thượng Thanh Phái, hệ thống các phương thuốc của Đạo giáo, bùa chú, v.v... (tổng cộng 1128 quyển). Từ đời Tùy đời Đường về sau, những tác phẩm và tổng mục do ông lập trở thành cơ sở để sưu tập Đạo Tạng.
Hệ thống truyền thừa
Từ đời Đông Tấn trở đi Ngũ Đấu Mễ Đạo được gọi là Thiên Sư Đạo, từ đời Nguyên trở đi gọi là Chính Nhất Đạo. Hệ thống truyền thừa như sau:
Tổ Thiên Sư Trương Đạo Lăng (34-156), sáng lập Ngũ Đấu Mễ Đạo. Năm Nguyên Trinh nguyên niên (1295), Nguyên Thành Tông ban hiệu là Chính Nhất Xung Huyền Thần Hoá Tĩnh Ứng Hiển Hựu Chân Quân (正一沖玄神化靜應顯佑真君).
Tự Sư Trương Hành (66?-179), con của Trương Đạo Lăng. Năm Chí Đại nguyên niên (1308), Nguyên Vũ Tông phong hiệu là Chính Nhất Tự Sư Thái Thanh Diễn Giáo Diệu Đạo Chân Quân (正一嗣師太清演教妙道真君).
Hệ Sư Trương Lỗ (88?-216), con cả của Trương Hành. Nguyên Thành Tông ban hiệu là Chính Nhất Hệ Sư Thái Thanh Chiêu Hoá Quảng Đức Chân Quân (正一系師太清昭化廣德真君).
Thiên Sư Trương Thịnh (116?-222?), con thứ tư của Trương Lỗ. Năm Nguyên Chí Chính thứ 13 (1341) được ban hiệu Thanh Vi Hiển Giáo Hoằng Đức Chân Quân (清微顯教弘德真君).
Thiên Sư Trương Chiêu Thành (138?-224?), con cả của Trương Thịnh. Năm Nguyên Chí Chính thứ 13 (1341) được ban hiệu Thanh Vi Quảng Giáo Hoằng Đạo Chân Quân (清微廣教弘道真君).
Thiên Sư Trương Tiêu (159?-247?), con cả của Trương Chiêu Thành. Năm Chí Chính 13 đời Nguyên, được vua ban hiệu là Thanh Vi Hoằng Giáo Huyền Diệu Chân Quân (清微弘教玄妙真君).
Trương Hồi (?-?), tự là Trọng Xương. Năm Nguyên Chí Chính thứ 13 (1341) được ban hiệu là Ngọc Thanh Phụ Giáo Hoằng Tế Chân Quân 玉清輔教弘濟真君.
Trương Huýnh (?-?), tự là Ngạn Siêu. Thác Bạt Khuê thường cho vời vào cung để hỏi đạo. Năm Nguyên Chí Chính thứ 13 (1341) được ban hiệu Ngọc Thanh Ứng Hoá Xung Tĩnh Chân Quân 玉清應化沖靜真君.
Trương Phù(?-?), tự là Đức Tín. Năm Nguyên Chí Chính thứ 13 (1341) được ban hiệu Ngọc Thanh Tán Hoá Sùng Diệu Chân Quân 玉清贊化崇妙真君.
Trương Tử Tường (?-?), tự là Lân Bá. Năm Nguyên Chí Chính thứ 13 (1341) được ban hiệu Thượng Thanh Huyền Diệu Đại Hư Chân Quân 上清玄妙大虛真君.
Trương Thông Huyền (?-?), tự là Trọng Đạt. Năm Nguyên Chí Chính thứ 13 (1341) được ban hiệu Thượng Thanh Huyền Ứng Xung Hoà Chân Quân 上清玄應沖和真君.
Trương Hằng (?-?), tự là Đức Nhuận. Đường Cao Tông thường cho vời ông vào cung để hỏi han đạo trị quốc an dân. Năm Nguyên Chí Chính thứ 13 (1341) được ban hiệu Thượng Thanh Huyền Đức Thái Hoà Chân Quân 上清玄德太和真君.
Trương Quang (?-?), tự là Đức Thiệu. Năm Nguyên Chí Chính thứ 13 (1341) được ban hiệu Thái Huyền Chí Đức Quảng Diệu Chân Quân 太玄至德廣妙真君.
Trương Từ Chính (?-?), tự là Tử Minh. Năm Nguyên Chí Chính thứ 13 (1341) được ban hiệu Thái Huyền Thượng Đức Tử Hư Chân Quân 太玄上德紫虛真君.
Trương Cao (?-?), tự là Sĩ Long. Đường Huyền Tông thường cho triều kiến, và Đường Túc Tông rất trọng đãi. Năm Nguyên Chí Chính thứ 13 (1341) được ban hiệu Thái Huyền Sùng Đức Huyền Hoá Chân Quân 太玄崇德玄化真君.
Trương Ứng Thiều (?-?), tự là Trị Phượng. Năm Nguyên Chí Chính thứ 13 (1341) được ban hiệu Động Hư Diễn Đạo Xung Tố Chân Quân 洞虛演道沖素真君.
Trương Thuận (?-?), tự là Trung Phù. Năm Nguyên Chí Chính thứ 13 (1341) được ban hiệu Động Hư Xiển Giáo Phù Hựu Chân Quân 洞虛闡教孚佑真君.
Trương Sĩ Nguyên (?-?), tự là Trọng Lương. Năm Nguyên Chí Chính thứ 13 (1341) được ban hiệu Động Hư Minh Đạo Tán vận Chân Quân 洞虛明道贊運真君.
Trương Tu (?-?), tự là Đức Chân. Năm Nguyên Chí Chính thứ 13 (1341) được ban hiệu Xung Huyền Dực Hoá Chiêu Khánh Chân Quân 沖玄翊化昭慶真君.
Trương Kham (?-?), tự là Tử Kiên. Đường Vũ Tông và Đường Ý Tông rất trọng đãi. Năm Nguyên Chí Chính thứ 13 (1341) được ban hiệu Xung Huyền Động Chân Phù Đức Chân Quân 沖玄洞真孚德真君.
Trương Bỉnh Nhất (?-?), tự là Ôn Phủ. Năm Nguyên Chí Chính thứ 13 (1341) được ban hiệu Thủ Huyền Tử Cực Chiêu Hoá Chân Quân 守玄紫極昭化真君.
Trương Thiện (?-?), tự là Nguyên Trường. Năm Nguyên Chí Chính thứ 13 (1341) được ban hiệu Thanh Hư Sùng Ứng Phù Huệ Chân Quân 清虛崇應孚惠真君.
Trương Quý Văn (?-?), tự là Trọng Khuê. Năm Nguyên Chí Chính thứ 13 (1341) được ban hiệu Thanh Hư Diệu Đạo Phụ Quốc Chân Quân 清虛妙道輔國真君.
Trương Chính Tuỳ (?-?), tự là Bảo Thần. Năm 1016, Tống Chân Tông mời vào cung và lập Thụ lục viện (授籙院) và ban hiệu là Chân Tĩnh tiên sinh (真靜先生). Năm Nguyên Chí Chính thứ 13 (1341) được ban hiệu Thanh Hư Quảng Giáo Diệu Tế Chân Quân 清虛廣教妙濟真君.
Trương Càn Diệu (?-?), tự là Nguyên Quang. Năm 1030, Tống Nhân Tông mời vào cung hỏi đạo và ban hiệu Trừng Tố tiên sinh (澄素先生). Năm Nguyên Chí Chính thứ 13 (1341) được ban hiệu Sùng Huyền Phổ Tế Trạm Tịch Chân Quân 崇玄普濟湛寂真君.
Trương Tự Tông (?-?), tự là Vinh Tổ. Năm 1055, Tống Nhân Tông mời vào ông cung lập đàn cầu đảo, và ban cho hiệu Xung Tĩnh tiên sinh (沖靜先生). Năm Nguyên Chí Chính thứ 13 (1341) được ban hiệu Sùng Chân Phổ Hoá Diệu Ngộ Chân Quân 崇真普化妙悟真君.
Trương Tượng Trung (?-?), tự là Củng Thần. Tống Nhân Tông thường mời vào cung hỏi đạo và trọng đãi. Năm Nguyên Chí Chính thứ 13 (1341) được ban hiệu Sùng Chân Thông Huệ Tử Huyền Chân Quân 崇真通惠紫玄真君.
Trương Đôn Phục (?-?), tự là Diên Chi. Những năm Hi Ninh (1068-1077), Tống Thần Tông thường mời ông vào cung lập đàn, và ban tặng hiệu Bảo Quang tiên sinh (葆光先生). Năm Nguyên Chí Chính thứ 13 (1341) được ban hiệu Thái Cực Vô Vi Diễn Đạo Chân Quân 太極無為演道真君.
Trương Cảnh Đoan (?-?), tự là Tử Nhân. Năm 1108, Tống Huy Tông ban hiệu Bảo Chân tiên sinh 葆真先生. Năm Nguyên Chí Chính thứ 13 (1341) được ban hiệu Thái Cực Thanh Hư Từ Diệu Chân Quân 太極清虛慈妙真君.
Trương Kế Tiên (1092-1128), tự là Gia Văn. Tống Huy Tông nhiều lần mời vào cung hỏi thuật luyện đan, ban hiệu Hư Tĩnh tiên sinh 虛靖先生. Nguyên Vũ Tông ban hiệu Hư Tĩnh Huyền Thông Hoằng Ngộ Chân Quân 虛靖玄通弘悟真君.
Trương Thời Tu (?-?), tự là Triêu Anh. Năm Nguyên Chí Chính thứ 13 (1341) được ban hiệu Chính Nhất Hoằng Hoá Minh Ngộ Chân Quân 正一弘化明悟真君.
Trương Thủ Chân (?-?), tự là Tuân Nhất. Tống Cao Tông thường mời vào cung giảng đạo. Tống Hiếu Tông mời vào cung thiết đàn và ban hiệu Chính Ứng tiên sinh 正應先生. Năm Nguyên Chí Chính thứ 13 (1341) được ban hiệu Sùng Hư Quang Diệu Chính Ứng Chân Quân 崇虛光妙正應真君.
Trương Cảnh Uyên (?-1190), tự là Đức Oanh. Năm Nguyên Chí Chính thứ 13 (1341) được ban hiệu Sùng Chân Thái Tố Xung Đạo Chân Quân 崇真太素沖道真君. Năm 1173, Trương Cảnh Uyên nhận em út Trương Tự Tiên (1171-?) làm con. Khi Cảnh Uyên mất, Tự Tiên 19 tuổi tạm nắm quyền (gọi là Nhiếp Thiên Sư 攝天師) trong 11 năm thì trao ấn kiếm lại cho cháu là Trương Khánh Tiên.
Trương Khánh Tiên (?-1209), tự là Thiệu Tổ, là con của Trương Cảnh Uyên. Đời Tống Ninh Tông, năm 1201, Trương Khánh Tiên nhận ấn kiếm từ Nhiếp Thiên Sư. Năm Nguyên Chí Chính thứ 13 (1341) được ban hiệu Sùng Hư Chân Diệu Quang Hoá Chân Quân 崇虛真妙光化真君.
Trương Khả Đại (1217-1263), tự là Tử Hiền. Trương Khánh Tiên mất sớm, con là Trương Thành Đại còn nhỏ, nên cha của Trương Khả Đại là Trương Thiên Lân (tức Nhân Tĩnh tiên sinh 仁靜先生) tạm chưởng giáo. Nhưng Thành Đại chết yểu và Thiên Lân cũng qua đời (1230) nên Trương Khả Đại được xem là truyền nhân của Trương Khánh Tiên. Tống Lý Tông năm 1236 mời Trương Khả Đại vào cung để xem xét việc trùng san Đạo Tạng. Năm 1239, Tống Lý Tông ban cho hiệu Quán Diệu tiên sinh 觀妙先生. Năm Nguyên Chí Chính thứ 13 (1341) được ban hiệu Thông Huyền Ứng Hoá Quán Diệu Chân Quân 通玄應化觀妙真君.
Trương Tông Diễn (khoảng 1244-1291), tự là Thế Truyền. Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt nhiều lần mời ông vào cung thiết đàn, ban cho ấn triện bằng bạc thuộc hàng nhị phẩm, thống lĩnh Đạo giáo ở Giang Nam. Nguyên Thành Tông ban hiệu Diễn Đạo Linh Ứng Xung Hoà Huyền Tĩnh Chân Quân 演道靈應沖和玄靜真君.
Trương Dữ Đệ (?-1294), tự là Quốc Hoa, là con cả của Trương Tông Diễn. Nguyên Thế Tổ thường mời vào cung và ban hiệu Thể Huyền Hoằng Đạo Quảng Giáo Chân Nhân 體玄弘道廣教真人.
Trương Dữ Tài (?-1316), tự là Quốc Lương, là con thứ của Trương Tông Diễn. Nguyên Thành Tông năm 1296 ban cho ông hiệu Thái Tố Ngưng Thần Quảng Đạo Chân Nhân 太素凝神廣道真人 và ban cho mẹ của ông (Chu thị 周氏) hiệu Huyền Chân Diệu Ứng tiên cô 玄真妙應仙姑. Nguyên Vũ Tông lên ngôi (1308), ban cho ông chức Kim Tử Quang Lộc Đại Phu, phong làm Lưu Quốc Công, ban cho ấn triện bằng vàng hàng nhất phẩm, và ban hiệu Thái Tố Ngưng Thần Quảng Đạo Minh Đức Đại Chân Nhân 太素凝神廣道明德大真人.
Trương Tự Thành (?-1344), tự là Thứ Vọng. Nguyên Nhân Tông năm 1317 ban hiệu Thái Huyền Phụ Hoá Thể Nhân Ứng Đạo Đại Chân Nhân 太玄輔化體仁應道大真人 và ban cho mẹ ông (Dịch thị) hiệu Diệu Minh Huệ Ứng Thường Tĩnh Chân Nhân 妙明慧應常靜真人. Minh Thái Tổ năm 1370 ban hiệu Thái Huyền Hoằng Hoá Minh Thành Sùng Đạo Đại Chân Nhân 太玄弘化明誠崇道大真人.
Trương Tự Đức (?-1352), tự là Thái Ất, là em của Trương Tự Thành. Nguyên Thuận Đế ban hiệu Thái Ất Minh Giáo Quảng Huyền Thể Đạo Đại Chân Nhân 太乙明教廣玄體道大真人.
Trương Chính Ngôn (?-1359), tự là Đông Hoa, là con cả của Trương Tự Đức. Nguyên Thuận Đế ban hiệu Minh Thành Ngưng Đạo Hoằng Văn Quảng Giáo Đại Chân Nhân 明誠凝道弘文廣教大真人, chưởng quản Đạo giáo ở Giang Nam.
Trương Chính Thường (?-1378), tự là Trọng Kỷ, là con của Trương Tự Thành. Minh Thái Tổ năm 1368 ban hiệu Chính Nhất Tự Giáo Hộ Quốc Xiển Tổ Thông Thành Sùng Đạo Hoằng Đức Đại Chân Nhân 正一嗣教護國闡祖通誠崇道弘德大真人.
Trương Vũ Sơ (?-1410), tự là Tử Tuyền. Minh Thái Tổ năm 1380 ban cho ông hiệu Chính Nhất Tự Giáo Đạo Hợp Vô Vi Xiển Tổ Quang Phạm Đại Chân Nhân 正一嗣教道合無為闡祖光范大 真人và ban cho mẹ ông (Bao thị 包氏) hiệu Thanh Hư Xung Tố Diệu Thiện Huyền Quân 清虛沖素妙善玄君.
Trương Vũ Thanh (?-1427), tự là Ngạn Ky, em của Trương Vũ Sơ, kế vị năm 1410. Minh Thành Tổ vời vào cung ban hiệu Chính Nhất Tự Giáo Thanh Hư Xung Tố Quang Tổ Diễn Đạo Đại Chân Nhân 正一嗣教清虛沖素光祖演道大真人 và năm 1419 phong cho vợ của ông (Tôn thị 孫氏) là Đoan Tĩnh Trinh Thục Diệu Huệ Huyền Quân 端靜貞淑妙惠玄君. Minh Nhân Tông lên ngôi (1425) phong ông là Chính Nhất Tự Giáo Thanh Hư Xung Tố Quang Tổ Diễn Đạo Sùng Khiêm Thủ Tĩnh Động Huyền Đại Chân Nhân 正一嗣教清虛沖素光祖演道崇謙守靜洞玄大真人.
Trương Mậu Thừa (1387-1444), tự là Văn Khai. Minh Tuyên Tông năm 1429 ban hiệu Chính Nhất Tự Giáo Sùng Tu Chí Đạo Bao Tố Diễn Pháp Chân Nhân 正一嗣教崇修至道葆素演法真人 và năm 1430 phong cho vợ của ông (Tôn thị 孫氏) là Nhu Huệ Chân Tĩnh Huyền Quân 柔惠真靜玄君. Minh Anh Tông phong cho vợ kế của ông (Đổng thị 董氏) là Ôn Tĩnh Nhu Thuận Huyền Quân 溫靜柔順玄君.
Trương Nguyên Cát (1435-?), tự là Mạnh Dương, là cháu của Trương Mậu Thừa. Năm 1445, Minh Anh Tông ban hiệu Chính Nhất Tự Giáo Xung Hư Thủ Tố Thiệu Tổ Sùng Pháp Chân Nhân 正一嗣教沖虛守素紹祖崇法真人 và năm 1446 phong cho cha ông (Trương Lưu Cương) là Chính Nhất Tự Giáo Sùng Huyền Dưỡng Tố Tịch Tĩnh Chân Nhân 正一嗣教崇玄養素寂靜真人, phong cho mẹ ông (Cao thị 高氏) là Từ Huệ Tĩnh Thục Huyền Quân 慈惠靜淑玄君. Năm 1467, Minh Hiến Tông gia phong cho ông là Chính Nhất Tự Giáo Thể Huyền Sùng Mặc Ngộ Pháp Thông Chân Xiển Đạo Hoằng Hoá Phụ Đức Hựu Thánh Diệu Ứng Đại Chân Nhân 正一嗣教體玄崇默悟法通真闡道弘化輔德佑聖妙應大真人.
Trương Huyền Khánh (?-1509), tự là Thiên Tích, là em họ của Trương Nguyên Cát. Minh Hiến Tông ban hiệu Chính Nhất Tự Giáo Bảo Hoà Dưỡng Tố Kế Tổ Thủ Đạo Đại Chân Nhân 正一嗣教葆和養素繼祖守道大真人 và phong cho mẹ ông (Ngô thị) là Chí Thuận Thục Tĩnh Huyền Quân 志順淑靜玄君.
Trương Ngạn Phiến (1490-1550), tự là Sĩ Chiêm, là con của Trương Huyền Khánh. Năm 1501, Minh Hiếu Tông ban hiệu Chính Nhất Tự Giáo Trí Hư Xung Tĩnh Thừa Tiên Hoằng Hoá Đại Chân Nhân 正一嗣教致虛沖靜承先弘化大真人. Năm 1526, Minh Thế Tông gia phong là Chính Nhất Tự Giáo Hoài Huyền Bão Chân Dưỡng Tố Thủ Mặc Bảo Quang Lý Hoà Trí Hư Xung Tĩnh Thừa Tiên Hoằng Hoá Đại Chân Nhân 正一嗣教懷玄抱真養素守默葆光履和致虛沖靜承先弘化大真人.
Trương Vĩnh Tự (?-1565), tự là Doãn Thừa, là con của Trương Ngạn Phiến. Năm 1549, Minh Thế Tông phong là Chính Nhất Tự Giáo Thủ Huyền Dưỡng Tố Tuân Phạm Sùng Đạo Đại Chân Nhân 正一嗣教守玄養素遵范崇道大真人.
Trương Quốc Tường (?-1611), tự là Văn Chinh, là con của Trương Vĩnh Tự, được ban hiệu Chính Nhất Tự Giáo Ngưng Thành Chí Đạo Xiển Huyền Hoằng Giáo Đại Chân Nhân 正一嗣教凝誠志道闡玄弘教大真人. Năm 1607, ông vâng sắc chỉ của Minh Thần Tông hiệu chỉnh Tục Đạo Tạng.
Trương Hiển Tổ (?-?), tự là Cửu Công, là con của Trương Quốc Tường. Minh Thần Tông sắc chỉ bảo đổi tên Hiển Tổ thành Hiển Dung. Ông mất năm 81 tuổi, được ban hiệu Chính Nhất Tự Giáo Quang Dương Tổ Phạm Xung Hoà Thanh Tố Đại Chân Nhân 正一嗣教光揚祖范沖和清素大真人.
Trương Ứng Kinh (?-1651), tự là Dực Thần, chưởng giáo năm 1636. Năm Khang Hi 42 (1703), ông được phong Quang Lộc đại phu.
Trương Hồng Nhậm (1624-1667), tự là Hán Cơ, là con thứ của Trương Ứng Kinh, chưởng giáo năm 1651. Năm Khang Hi 42, được phong là Quang Lộc đại phu.
Trương Kế Tông (1666-1715), tự là Thiện Thuật, là con Trương Hồng Nhậm. Khi 8 tháng tuổi cha mất, chú là Trương Hồng Hài tạm thời chưởng giáo đến khi Kế Tông lên 14 tuổi mới trao lại ấn kiếm. Năm Khang Hi 42, được phong là Quang Lộc đại phu.
Trương Tích Lân (?-1727), tự là Nhân Chỉ. Thanh Thế Tông lên ngôi, phong làm Quang Lộc đại phu.
Trương Ngộ Long (?-?), tự là Phụ Thiên, còn bé thì cha là Trương Tích Lân mất, hai chú là Trương Khánh Lân và Trương Chiêu Lân tạm nắm quyền. Năm Càn Long thứ 7 (1742) ông phụng sắc chỉ mà chưởng giáo. Năm 1771, ông được phong là Thông Nghị đại phu.
Trương Tồn Nghĩa (1752-1779), tự là Phương Trực, chưởng giáo năm 1766.
Trương Khởi Long (?-1798), tự là Thiệu Vũ. Năm 1780, ông phụng chỉ vua mà chưởng giáo.
Trương Ngọc (?-?), tự là Bội Tương, là con thứ của Trương Khởi Long, chưởng giáo năm 1800. Năm Quang Tự 30 (1904), được phong là Quang Lộc đại phu.
Trương Bồi Nguyên (?-1859), tự là Dục Thành, chưởng giáo năm 1829. Năm Quang Tự 30, được phong là Quang Lộc đại phu.
Trương Nhân Trinh (?-?), tự là Bính Tường, chưởng giáo năm 1862, mất năm 63 tuổi. Năm Quang Tự 30, được phong là Quang Lộc đại phu.
Trương Nguyên Húc (?-1924), tự là Hiểu Sơ, chưởng giáo năm 1904. Đầu năm Dân Quốc việc phong hiệu bị phế bỏ. Khi Viên Thế Khải xưng đế, lại phong cho ông là Chính Nhất Tự Giáo Đại Chân Nhân 正一嗣教大真人.
Trương Ân Phổ (1904-1969), tự là Hạc Cầm, là con của Trương Nguyên Húc, chưởng giáo năm 1924. Năm 1949 ông di cư sang Đài Loan, và năm 1950 sáng lập Đạo giáo hội của Đài Loan. Năm 1957 ông thiết lập Đạo giáo cư sĩ hội và Đạo giáo đại pháp sư hội.
Trương Uyên Tiên (1931-2008), cháu họ Trương Ân Phổ, chưởng giáo năm 1971. Kế vị do con trai của Trương Ân Phổ mất sớm. Năm 1992, sáng lập Hiệp hội Thiên sư đạo Trung Quốc.
Năm 2008, Thiên sư Trương Uyên Tiên lâm bệnh qua đời nhưng không có con trai kế thừa, nội bộ gia tộc họ Trương nổi lên sự tranh quyền kế vị Thiên sư. Tại Đài Loan có Trương Ý Tướng, Trương Mỹ Lương, Trương Ý Phượng, Trương Đạo Trinh. Tại đại lục có Trương Kim Đào, Trương Kế Vũ, Trương Quý Hoa. Ngày 10 tháng 6 năm 2009 (tức ngày 18 tháng 5 Âm lịch), nhân ngày Tổ sư Trương Đạo Lăng thọ đản, Trương Ý Tướng tổ chức lễ kế vị tại Đài Bắc xưng là Thiên sư đời thứ 65. Cùng lúc, Trương Đạo Trinh cũng tổ chức lễ kế vị, xưng Thiên sư đời 66 tại Nam Đầu. Cho đến nay, cục diện 2 vị Thiên sư cùng tồn tại vẫn diễn ra.
Vì ở Đài Loan có Trương Ý Tướng và Trương Đạo Trinh tự xưng là Thiên Sư nhưng không được môn đồ tại Đại Lục công nhận, vì cho rằng họ chưa xứng đáng với chức phận Thiên Sư (Chưởng Môn), nên đã tự hội ý và đưa ra quyết định tổ chức cuộc bầu chọn ra một vị có bối phận cao và đức độ đảm nhận chức vụ Giám Viện của Chính Nhất Đạo tại Đại Lục. Người được tín nhiệm và lựa chọn đảm nhiệm chức vụ Giám Viện là Trương Kim Đào Chân Nhân (1964-?). Trương Kim Đào vẫn đang đảm nhiệm chức vụ Giám Viện cho đến nay. Giám Viện là chức vụ cao nhất trong Chính Nhất Đạo cũng như một số tông phái khác của Đạo Giáo tại Đại Lục hiện nay.
Tam quốc diễn nghĩa
Tại Hồi thứ 59 thì Tam quốc diễn nghĩa giới thiệu kỹ về Hán Trung của Trương Lỗ và Ngũ đấu mễ đạo như sau: "Trương Lỗ nguyên là người ở đất Phong nước Bái. Tổ Trương Lỗ là Trương Lăng, ẩn ở núi Hộc-minh xứ Tây Xuyên, đặt ra sách đạo để dạy dỗ người ta, ai cũng kính nể. Sau khi Lăng chết, con là Trương Hành nối giữ nghiệp ấy. Nhân dân ai đến học đạo đều phải giúp năm đấu thóc; bấy giờ gọi là "giặc gạo". Trương Hành mất, Trương Lỗ thay thế, tự xưng là "Sư quân". Học trò thì gọi là "quỷ tốt", người cầm đầu các nhóm học trò thì gọi là "tế tửu"; ai thống lĩnh nhiều người hơn, gọi là "trị đầu đại tế tửu", cốt giữ điều thật thà làm gốc, không được dối trá. Ai bị đau ốm gì, phải lập một cái đàn để cúng vái; người ốm phải ở riêng một nhà tĩnh mịch, tự xét lại lầm lỗi của mình, và thú thực cả ra, rồi mới cúng vái cho. Người coi việc cúng vái gọi là "gian lệnh tế tửu". Phép cúng thì viết tên họ người ốm, kể tình thú tội, sao ra ba bản văn gọi là "tam quan thủ thư". Một bản đặt lên trên đỉnh núi để tâu với trời; một bản chôn xuống đất để tâu với đất; một bản bỏ xuống nước để tâu với thủy quan. Khi khỏi bệnh, phải tạ lại năm đấu thóc. Lại làm ra một cái nhà gọi là "nghĩa xá", trong nhà chứa đủ cơm gạo, củi lửa, đồ ăn; ai qua lại đó cứ vào lấy mà ăn; ai ăn nhiều quá sẽ bị trời giết. Trong địa hạt ấy, ai phạm tội được khoan hồng ba lần; nếu không chừa thì mới trị tội. Ở xứ ấy không có quan cai trị, mọi việc đều do Tế tửu coi giữ. Trương Lỗ cứ như thế hùng cứ ở xứ Hán-trung đã ba mươi năm trời. Triều đình cho nơi này xa xôi, không thể đánh dẹp được, nên phải phong cho Trương Lỗ làm Trấn nam trung lang tướng, lĩnh chức thái thú ở Hán-ninh, chỉ phải hàng năm tiến cống mà thôi". |
Nhập Dược Kính(入藥鏡) là sách luyện nội đan của Đạo giáo, tác giả là Thôi Hi Phạm đời nhà Hán, có thuyết nói là giữa đời nhà Đường và Ngũ Đại. Toàn văn 82 câu, mỗi câu 3 chữ. Từ đời nhà Tống, sách được chú giải rất nhiều. Sách được đưa vào Đạo Tạng Tập Yếu và Đạo Tạng Tinh Hoa Lục. |
Sào Nguyên Phương (chữ Hán: 巢元方), không rõ về năm sinh và mất cũng như tịch quán của Sào Nguyên Phương, chỉ biết ông là danh y đời nhà Tùy. Những năm Đại Nghiệp (605-616) của Tùy Dạng Đế, ông làm Thái y. Năm 610, ông phụng sắc chỉ của vua mà biên soạn bộ Chư bệnh nguyên hậu luận. |
Tam Nguyên có thể là:
Danh từ chung
Tam nguyên, người đứng đầu cả ba kỳ thi hương, hội, đình ngày trước
Theo âm lịch, đầu ngày, đầu tháng, đầu năm gọi chung là Tam nguyên
Địa danh Trung Quốc
Quận Tam Nguyên thuộc địa cấp thị Tam Minh, tỉnh Phúc Kiến
Huyện Tam Nguyên thuộc địa cấp thị Hàm Dương, tỉnh Thiểm Tây
Khác
Khái niệm Tam Nguyên (Đạo giáo) |
Thiên cực, bao gồm thiên cực Bắc và thiên cực Nam, là 2 vị trí tưởng tượng trên bầu trời là giao điểm của trục quay Trái Đất (nếu kéo dài mãi mãi) với thiên cầu. Nếu quan sát tại cực Bắc và cực Nam của Trái Đất, 2 thiên cực sẽ luôn nằm hướng thẳng đầu người quan sát. Vì Trái Đất tự quay quanh trục, ta sẽ quan sát thấy mọi điểm trên bầu trời đều quay quanh các thiên cực và hoàn thành 1 vòng mỗi ngày (chính xác hơn là mỗi ngày theo thời gian thiên văn).
Các thiên cực cũng là các cực của hệ tọa độ xích đạo, đồng nghĩa với việc xích vĩ độ của thiên cực Bắc là +90 và thiên cực Nam là -90). Mặc dù có vị trí cố định khi quan sát, các thiên cực về lâu dài không giữ vị trí cố định so với các ngôi sao. Do hiện tượng tiến động phân điểm, các thiên cực sẽ di chuyển theo đường tròn trên thiên cầu với chu kì khoảng 25700 năm. Vì trục quay của Trái Đất cũng chịu ảnh hưởng của những chuyển động phức tạp khác nên các thiên cực cũng bị dịch chuyển đôi chút khỏi vị trí sau các vòng quay có độ dài khác nhau ( xem Chương động, Chuyển động cực, Độ nghiêng trục quay ). Và cuối cùng, vị trí các ngôi sao cũng tự thay đổi sau 1 khoảng thời gian dài bởi chuyển động riêng của chúng.
Với các hành tinh ngoài Trái Đất, khái niệm thiên cực vẫn tương tự: các thiên cực của một hành tinh là các giao điểm của trục quay hành tinh với thiên cầu của hành tinh đó. Vì trục quay của các hành tinh có hướng khác nhau nên giữa các điểm này cũng có sự khác biệt. Vị trí quan sát được của các ngôi sao cũng thay đổi đôi chút bởi các hiệu ứng thị sai .
Xác định thiên cực Bắc
Xem thêm: sao cực, trực hóa cực.
Hiện tại, thiên cực Bắc cách ngôi sao Polaris (tên La-tinh stella polaris, nghĩa là "sao cực") khoảng 1 độ. Vì thế, Polaris, thường gọi là ngôi sao Phương bắc, được sử dụng phổ biến trong việc định hướng ở Bắc Bán cầu. Polaris nằm ở ngay trên điểm phía bắc của chân trời và có góc độ cao luôn gần bằng với vĩ độ địa lý của người quan sát. Nói cách khác, hầu hết các vị trí ở Bắc bán cầu đều có thể quan sát được nó, còn ở Nam bán cầu thì, hiển nhiên, là không.
Polaris chỉ gần thiên cực Bắc một khoảng thời gian ngắn trong chu kỳ tiến động 25 700 năm. Ngôi sao này sẽ ở vị trí gần nhất trong khoảng 1000 năm, sau đó, thiên cực Bắc sẽ ở vị trí ở gần nhất với Alrai (Gamma Cephei). Trong khoảng 5500 năm, thiên cực sẽ ở vị trí gần nhất với ngôi sao Alderamin (Alpha Cephei). Và trong 12 000 năm, Vega (Alpha Lyrae) sẽ trở thành "ngôi sao Phương bắc", dù nó sẽ cách khoảng 6 độ so với thiên cực.
Để tìm Polaris, từ một vị trí trên Bắc Bán cầu,hãy hướng về hướng về phía Bắc và tìm nhóm sao Big Dipper (còn gọi là Bắc Đẩu Thất tinh) và nhóm sao Little Dipper. Tập trung vào phần "muỗng" của Big Dipper, nối 1 đường thẳng từ 2 ngôi sao cạnh nhau ở rìa cái muỗng. Đường thẳng này chỉ về phần xa nhất của cái tay cầm của Little Dipper. Vị trí đó chính là Polaris, ngôi sao Phương bắc.
Xác định thiên cực Nam
Thiên cực Nam chỉ có thể quan sát được từ Nam Bán cầu. Nó nằm trong chòm sao mờ Octans. Sigma Octantis được nhận dạng là ngôi sao Phương nam với vị trí cách thiên cực Nam khoảng 1 độ nhưng lại gần như không quan sát được cả ở những đêm trời trong vì độ sáng chỉ đạt 5.5.
Cách thứ nhất: Nam Thập Tự
Thiên cực Nam có thể xác định được từ chòm Nam Thập Tự (Crux) và 2 ngôi sao "chỉ hướng" của nó là α Centauri và β Centauri. Nối 1 đường thẳng tưởng tượng từ γ Crucis đến
- 2 ngôi sao ở 2 đầu của trục dài của chữ thập - và kéo dài đường thẳng này. Đầu tiên, kéo dài trục dài chữ thập hướng xuống phía dưới khoảng 4,5 lần và. Sau đó, nối 2 ngôi sao "chỉ hướng", tìm trung điểm đoạn thẳng này và kẻ một đường vuông góc. Giao điểm của đường vuông góc này và đường trục dài chữ thập sẽ cách thiên cực Nam khoảng 5 tới 6 độ. Có rất ít ngôi sao sáng quan trọng nằm giữa Crux và thiên cực, mặc dù chòm Musca có thể dễ dàng quan sát được nằm ngay dưới Crux.
Cách thứ hai: Canopus và Achernar
Cách thứ hai sử dụng Canopus ( ngôi sao sáng thứ hai trên bầu trời đêm) và Achernar. Dùng 2 ngôi sao này làm 2 đỉnh, vẽ một tam giác đều, đỉnh còn lại sẽ là thiên cực Nam. Nếu sao Canopus chưa mọc, có thể dùng sao Alpha Pavonis làm đỉnh thứ 2 cùng Achernar tìm đỉnh còn lại là thiên cực.
Cách thứ ba: Các đám mây Magellan
Cách thứ ba hiệu quả nhất cho những đêm trời trong và không có mặt trăng nhờ dùng 2 "đám mây" mờ trên bầu trời Nam Bán cầu. Chúng được đặt tên trong các sách thiên văn là Đám mây Magellan Lớn và Đám mây Magellan Nhỏ. Các "đám mây" này thực chất là các thiên hà lùn gần Dải Ngân Hà. Vẽ một tam giác đều, đỉnh thứ ba còn lại chính là thiên cực Nam.
Cách thứ tư: Sirius và Canopus
Nối Sirius, ngôi sao sáng nhất bầu trời đêm, với Canopus, ngôi sao sáng thứ hai và kéo dài 1 đoạn bằng đoạn thẳng vừa nối, ta sẽ có điểm thứ ba nằm cách thiên cực Nam khoảng 2 độ. Nói cách khác, Canopus chính là trung điểm của đoạn thẳng nối Sirius với điểm gần thiên cực. |
Thôi Hi Phạm (崔希范), hiệu Chí Nhất Chân Nhân (至一眞人), là một đạo sĩ sống cuối đời nhà Đường, người đã biên soạn sách Nhập Dược Kính (入藥鏡), một cuốn sách dạy luyện nội đan. Vào đời nhà Nguyên (1279-1368), Vương Đạo Uyên (王道淵) chú giải sách này, với nhan đề Thôi Công Nhập Dược Kính Chú Giải 崔公入藥鏡注解 (1 quyển). |
Tịnh Minh Trung Hiếu Đạo (gọi tắt là Tịnh Minh Đạo) là một giáo phái của Đạo giáo, hưng khởi ở Nam Xương Tây Sơn, vào giữa đời nhà Tống và nhà Nguyên, thờ Hứa Tôn (239-?) làm tổ sư. Thực chất Tịnh Minh Đạo là bắt nguồn từ phái Linh Bảo còn Hứa Tôn là dòng dõi thế gia thời Ngụy Tấn, năm Thái Khang nguyên niên (280) đời Tây Tấn (vua Vũ Đế tức Tư Mã Viêm) nhậm chức huyện lệnh ở huyện Tịnh Dương quận Thục, sau từ quan đi ở ẩn, rồi lấy Nam Xương Tây Sơn làm trung tâm truyền đạo. |
Toàn Chân đạo (全真道) hay Toàn Chân giáo (全真教) (nghĩa là giáo phái toàn hảo, giáo phái chân lý toàn thể) là một giáo phái của Đạo giáo do đạo sĩ Vương Trùng Dương sáng lập.
Vào đời nhà Kim, Vương Trùng Dương (tự là Doãn Khanh) gặp tiên Lã Động Tân và Hán Chung Li tại trấn Cam Hà, được truyền cho khẩu quyết luyện đan là Toàn chân. Ý nói bảo toàn tam bảo (toàn tinh, toàn khí, toàn thần) hội tụ trung cung, kim đan thành tựu. Vương bỏ Nho giáo theo Đạo giáo, tu luyện tại núi Chung Nam, đổi tên là Vương Triết, tự là Tri Minh, hiệu là Trùng Dương Tử (người đời hay gọi là Vương Trùng Dương). Từ khẩu quyết luyện đan, Vương Trùng Dương chọn tên của giáo phái là Toàn Chân đạo, tức Bắc tông.
Tôn chỉ của Toàn Chân giáo là quên mình phục vụ xã hội cứu giúp chúng sinh, tôn trọng sự thật, hướng đến chân lý (toàn chân) nên nhân dân rất kính trọng. Học trò tìm đến ông rất đông, nhưng ông dạy dỗ nghiêm khắc, thường đánh đập để thử thách nên cuối cùng chỉ còn lại bảy người. Nhóm bảy đạo sĩ này được gọi là Bắc Thất Chân hay Toàn Chân thất hiệp.
Đan Dương Tử Mã Ngọc (馬鈺, 1123-1183) là chưởng môn đời thứ hai của Toàn Chân giáo. Về sau sáng lập Ngộ Tiên phái.
Trường Chân Tử Đàm Xứ Đoan (譚處端, 1123-1185) là chưởng môn đời thứ ba của Toàn Chân giáo. Về sau sáng lập Nam Vô phái
Trường Sinh Tử Lưu Xứ Huyền (劉處玄, 1147-1203) là chưởng môn đời thứ tư của Toàn Chân giáo. Về sau sáng lập Tùy Sơn phái
Trường Xuân Tử Khâu Xứ Cơ (丘處機, 1148 - 1227) là người nổi tiếng nhất và là chưởng giáo đời thứ năm của Toàn Chân giáo. Về sau sáng lập Long Môn phái.
Ngọc Dương Tử Vương Xứ Nhất (王處一, 1142-1217) là ngũ đệ tử. Về sau sáng lập Du Sơn phái
Quảng Ninh Tử Hác Đại Thông (郝大通, 1149-1212) là lục đệ tử. Về sau sáng lập Hoa Sơn phái
Thanh Tĩnh Tán Nhân Tôn Bất Nhị (孫不二, 1119-1182) là thất đệ tử và là vợ của Mã Ngọc. Về sau sáng lập Thanh Tịnh phái.
Sau khi Khâu Xứ Cơ mất, ông đã giao lại chức vị chưởng môn cho đệ tử xuất sắc nhất đời thứ 3. Thanh Hoà Tử Doãn Chí Bình trở thành chưởng giáo thứ sáu của Toàn Chân giáo. |
Văn Xương Đế Quân (文昌帝君) hay Văn Xương Tinh (文昌星) là vị thần được dân gian lẫn Đạo giáo tôn sùng là thần chủ quản công danh phúc lộc của sĩ nhân. |
Viên Liễu Phàm tên thật là Viên Hoàng là một viên quan nhà Minh, quê ở Ngô Giang, phủ Tô Châu.
Tác phẩm nổi tiếng của ông là Nhiếp Sinh Tam Yếu và Viên Liễu Phàm Tiên Sinh Tĩnh Tọa Yếu Quyết, Liễu Phàm Tứ Huấn. Quyển Tĩnh Tọa Yếu Quyết có 3 thiên: Dự Hành, Tu Chứng, và Điều Tức. Thiên Dự Hành giới thiệu những điều cần yếu của người luyện tĩnh tọa, trọng điểm là điều tâm, hệ duyên thu tâm, tá sự luyện tâm, tĩnh xứ dưỡng khí, náo xứ luyện thần. Thiên Tu Chứng thảo luận sự tự thể nghiệm của việc tọa thiền. Thiên Điều Tức giới thiệu 3 phương pháp điều tức của Phật giáo Thiên Thai Tông (tức là Lục Diệu Môn, Thập Lục Đặc Thắng, Thông Minh Quán). |
Vương Huyền Phủ (tiếng Trung: 王玄甫), tên thật là Thành, tự Huyền Phủ, người Đông Hải thời Hán (nay là Duyện Châu, Tế Ninh, Sơn Đông).
Ông là người truyền đạo cho Chung Li Quyền; Chung Li Quyền truyền đạo cho Lã Động Tân và Lưu Hải Thiềm (Lưu Thao). Tất cả bốn vị này cùng Vương Trùng Dương được gọi là Bắc ngũ tổ của Toàn Chân giáo. Toàn Chân giáo cực thịnh vào đời nhà Nguyên. Kể từ thời Nguyên các vị này được triều đình phong là Đạo quân và Đế quân. Vương Huyền Phủ được triều Nguyên sắc phong là Toàn Chân Đại Giáo chủ, Đông Hoa Tử Phủ Phụ Nguyên Lập Cực Thiếu Dương Đế Quân và từ đấy có tên là Vương Huyền Phụ (chữ "phụ" này là "phụ Nguyên": giúp đỡ triều Nguyên) và Vương Thiếu Dương. |
Vu giáo (chữ Hán: 巫敎) là một tín ngưỡng thời Xuân Thu (722-481) và Chiến Quốc (403-221). Chữ "vu" (巫) gồm chữ "công" (工) và hai chữ "nhân" (人), tượng trưng hai người đang nhảy múa cầu đảo.
Lịch sử
Vào thời Xuân Thu, người ta gọi chung những người đồng cốt phù thủy là vu hích (巫覡). Vu hích là những người cổ đại cầu đảo thần minh giáng phúc, là người môi giới giữa con người và thần minh, cũng có thể thay mặt quốc gia mà cầu thần minh phù hộ.
Trong thời ban sơ của tôn giáo, vu hích chiếm địa vị quan trọng. Quan chế thời cổ có chức chúc, đó là chức quan phụ trách việc tế trời và cầu đảo thần minh, và vu chính là biệt danh của chúc. Người nam gọi là hịch, người nữ gọi là vu.
Thuyết Văn Giải Tự nói: «Vu, chúc dã» (Vu chính là chúc) và «Hịch năng trai túc sự thần minh dã, tại nam viết hịch, tại nữ viết vu» (Hịch trai giới cúc cung phụng sự thần minh, người nam gọi là hịch, người nữ gọi là vu).
Dần dần vu hích trở thành một tệ mê tín phổ biến trong dân gian, và lưu truyền tại Trung Quốc mấy ngàn năm mà không suy thoái.
Đời Thương là thời kỳ đỉnh thịnh của các vu hích. Vu giáo đã phát triển đến mức gần như một tôn giáo. Các vu hích trở thành "vu sử", giữ chức vụ trọng yếu trong triều đình, vừa có nhiệm vụ về tôn giáo (thông công với thần minh) vừa có nhiệm vụ chính trị. Một số nhân vật vu hích có tên tuổi được cổ tịch đề cập như Y Doãn (tức là A Hành) , Y Trắc (con trai của Y Doãn) , Vu Hàm và con trai là Vu Hiền , Cam Bàn .
Ngoài công việc chính yếu là bốc phệ, các vu hích dần dần bị phân hoá trên nhiều lãnh vực khác nhau như thiên văn, y học, tôn giáo, chính trị... Một số vu hích lại có nguyện vọng truy cầu sự khang kiện và trường thọ nên rất chú trọng đến y dược và luyện dưỡng. Những vu hích này dần dần tách biệt với vu giáo và hình thành một hệ thống độc lập và được gọi là phương sĩ. Phương pháp luyện dưỡng của họ được gọi là phương thuật, để khu biệt với vu thuật của các vu hích.
Chú thích
Tín ngưỡng Trung Quốc
Tín ngưỡng Trung Hoa |
Y Doãn () là tướng nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công giúp Thành Thang tiêu diệt nhà Hạ, thành lập nhà Thương và phò trợ với vai trò nhiếp chính của nhà Thương ổn định trong thời gian đầu.
Trong lịch sử Trung Hoa, Y Doãn cùng với Hoắc Quang thời nhà Hán được xưng tụng là hai đại thần nhiếp chính phế lập vua nhưng được ca ngợi, gọi là [Y Hoắc]. Sự việc của hai người thường được gọi chung bằng cụm 「Y Hoắc chi sự; 伊霍之事」.
Hữu tướng nước Thương
Sử sách chép chưa hoàn toàn thống nhất về lai lịch của Y Doãn. Sử ký Tư Mã Thiên nêu ra những thuyết khác nhau về việc Y Doãn đến với Thành Thang. Có thuyết cho rằng thời đó có một bộ lạc là Hữu Sằn gả con gái cho Thang, đi theo hầu có một người hầu là Y Doãn. Thấy Y Doãn có tài, Thành Thang liền cho làm hữu tướng. Tuy nhiên, Sử ký cũng dẫn thuyết khác cho rằng, Y Doãn là ẩn sĩ, Thành Thang nghe tiếng sai người đến mời 5 lần, Y Doãn mới nhận lời ra giúp. Thuyết này có nhiều điểm tương đồng với lai lịch Y Doãn được ghi chép trong truyện Phong thần diễn nghĩa. Tại hồi thứ nhất Trụ Vương tế miễu bà Nữ Oa, sách chép rằng: "Thành Thang là người nhân đức và trung hậu, nghe đồn ông Y Doãn là người tài trí, thất thời, ẩn cư cày ruộng nơi Sằn Dã, liền đến rước về, dâng cho vua Kiệt, nhà Hạ dùng. Ấy vì lòng trung, Thành Thang không dám dùng riêng người tài cho mình. Ai ngờ vua Kiệt bất trí, không biết dùng người tài, nghe lời dua mị, không trọng dụng Y Doãn, Y Doãn bỏ vua Kiệt trở về với Thành Thang."
Còn có sách khác chép rằng, Y Doãn đã bỏ Thương sang làm quan cho Hạ Kiệt, nhưng sau đó thấy Kiệt hoang dâm tàn bạo, khinh rẻ chư hầu nên Y Doãn trở lại với Thành Thang. Thành Thang vẫn một lòng kính trọng và trọng dụng Y Doãn. Có ý kiến rất khác biệt, căn cứ vào Trúc thư kỉ niên, một cuốn biên niên sử cổ của nước Ngụy thời Chiến Quốc được phát hiện năm 281 đời Tây Tấn: Y Doãn thực chất được Thành Thang cử sang làm gián điệp bên nhà Hạ, lợi dụng sự bất mãn của nàng Muội Hỷ khi nàng không còn được Hạ Kiệt sủng ái để lấy tin tức về tình hình Hạ Kiệt. Sau khi nắm được nội tình nhà Hạ, Y Doãn trở về với Thành Thang.
Ngoài ra, Thành Thang còn thu dụng một người ở bộ lạc khác đến là Trọng Hủy, cho làm tả tướng. Y Doãn và Trọng Hủy được giao trọng trách xử lý công việc trong bộ lạc, đó là việc trái với thông lệ nhiều đời chỉ bó hẹp quyền hành trong tay những người nội tộc của nước Thương.
Giúp Thương diệt Hạ
Y Doãn bày kế cho vua Thành Thang tranh thủ liên minh với các bộ tộc miền hạ lưu sông Hoàng Hà để có vây cánh chống nhà Hạ; sau đó thực hiện việc thanh trừ các bộ tộc thân với nhà Hạ như Cát, Côn Ngô, Bính Chướng Vi. Trong khi đó Hạ Kiệt vẫn say mê tửu sắc, không quan tâm tới chính sự.
Theo kế sách của Y Doãn, Thương Thang bắt đầu khiêu chiến với nhà Hạ, bỏ không nộp cống cho Hạ Kiệt. Hạ Kiệt nổi giận điều động binh mã 9 bộ tộc phía đông trước sau đánh vào bộ lạc Thương. Thành Thang bèn sai người đến nộp cống. Thấy Thang thuần phục, Kiệt cho lui quân.
Sang năm sau, Thang lại bỏ cống nạp. Hạ Kiệt lại tổ chức hội các bộ lạc phụ thuộc ở Hữu Nhung đánh Thương, nhưng lần này các bộ lạc không nghe theo. Bộ lạc Mân lên tiếng phản đối, Hạ Kiệt bèn mang quân đánh Mân trước. Khi Kiệt bị sa lầy vào cuộc chiến với tộc Mân, Thang ra quân diệt Hạ. Năm 1767 TCN, Thành Thang đánh thắng Hạ Kiệt trong trận quyết định ở Minh Điều. Hạ Kiệt thua trận, bị mất ngôi và bị đày ra Nam Sào.
Sau khi nghe Y Doãn báo cáo tình hình các chư hầu đã quy phục, Thương Thang trở về đất Thái Quyển, chính thức lên ngôi vua, lập ra nhà Thương.
Còn theo sách Phong thần diễn nghĩa, vua Kiệt càng ngày càng bạo tàn, vô đạo. Gián quan Long Phùng khuyên can thì bị vua giết hại, Thành Thang sai người khuyên can vua thì vua bắt giam ông tại Hạ Đài suốt một thời gian mới thả về. Về sau, nhờ tài đức của mình, thiên hạ đều khen tụng Thành Thang, hơn bốn mươi nước đều theo về trướng. Ông Thành Thang được Y Doãn phò trợ, đánh đuổi vua Kiệt qua đất Nam Sào, sau đó lên ngôi Thiên tử, lập kinh đô nơi đất Bạt vào năm Ất Mùi, mở đầu nhà Thương.
Đày Thái Giáp
Thành Thang làm vua không lâu, đến năm 1761 TCN thì qua đời. Vì Thái tử Thái Đinh mất sớm trước Thành Thang nên con thứ của Thang là Ngoại Bính được Y Doãn lập làm vua. Nhưng đến năm 1758 TCN, Ngoại Bính cũng qua đời, Y Doãn lại lập em Ngoại Bính là Trọng Nhâm lên ngôi. Chỉ được 4 năm (1754 TCN), Trọng Nhâm lại mất, khi đó con thái tử Thái Đinh là Thái Giáp đã lớn nên Y Doãn lập Thái Giáp lên ngôi.
Y Doãn là nguyên lão 4 triều vua, làm phụ chính, dạy dỗ vị vua trẻ rất cẩn thận. Ông nói với Thái Giáp:"Bậc đế vương phải yêu dân, càng phải chăm chỉ học tập tinh thần trị nước của tổ phụ Thang".
Ông còn lấy bài học của Hạ Kiệt mất nước để khuyên răn Thái Giáp. Tuy nhiên, Thái Giáp từ nhỏ sống trong cảnh quyền quý, chỉ hưởng lạc mà không làm việc. Thái Giáp không nghe những lời dạy của Y Doãn, vẫn chơi bời phóng túng. Thấy Thái Giáp như vậy, Y Doãn quyết định dùng biện pháp mạnh: ông đày vua đến Đổng Cung gần lăng miếu của Thành Thang và tự mình nắm quyền chính. Ông còn sai người đến giám sát Thái Giáp để vua suy nghĩ và tỉnh ngộ.
Sau 3 năm, Thái Giáp hiểu ra sai lầm của mình, quyết tâm sửa chữa khuyết điểm. Khi thấy Thái Giáp biết tu tỉnh, Y Doãn đích thân đến đón rước vua về kinh đô và trao lại quyền hành cho Thái Giáp. Thái Giáp trở thành một vị vua giỏi của nhà Thương. Tương truyền Y Doãn sống hơn 100 tuổi mới mất. Công lao khai quốc và dìu dắt vua nhỏ, giúp cho một triều đình mới thành lập được ổn định, tạo cơ sở tồn tại lâu dài của ông được đời sau nhắc đến rất nhiều. Y Doãn cùng Chu Công Đán nhà Chu trở thành những tấm gương mẫu mực về trung thần phò ấu chúa trong lịch sử Trung Quốc.
Tuy nhiên, căn cứ vào Trúc thư kỉ niên, một số nhà nghiên cứu Trung Quốc đưa ra ý kiến khác cho rằng: không phải Y Doãn trả lại ngôi cho Thái Giáp mà ông đã đày Thái Giáp ra Đổng Cung rồi cướp lấy ngôi nhà Thương. Sau 7 năm, Thái Giáp trốn khỏi Đổng Cung, giết chết Y Doãn giành lại ngôi, phục hồi nhà Thương; hai người con của Y Doãn là Y Trắc và Y Phấn vẫn được lập tế tự cho ông và Thái Giáp chia đôi tài sản của ông cho hai người con. Vì những tình tiết bổ sung từ Trúc thư kỉ niên, có quan điểm đánh giá Y Doãn là một nhân vật khá phức tạp trong lịch sử Trung Quốc cổ đại. |
Shareaza là trình khách của mạng đồng đẳng chạy trên hệ điều hành Windows. Shareaza hỗ trợ tải tệp theo giao thức Gnutella, Gnutella2, EDonkey Network, BitTorrent, FTP và HTTP. Nó có thể tự động tải tệp khi người dùng nhắp chuột vào liên kết dạng nam châm, ed2k, Piolet và Gnutella. Shareaza được phát triển bởi Michael Stokes
Vào cuối năm 2002, dựa trên nền tảng của giao thức Gnutella, Stokes xây dựng một giao thức chia sẻ tệp đồng đẳng mới Gnutella2 và trình khách Shareaza. Việc Stokes xây dựng Gnutella2 từ Gnutella đã nhận được rất nhiều lời chỉ trích từ cộng đồng những người phát triển Gnutella vì Stokes đã phát triển Gnutella2 mà không thông qua bất kỳ một sự thảo luận nào. Tuy được phát triển bởi riêng một cá nhân nhưng Gnutella2 hoạt động rất tốt, tốt hơn cả giao thức Gnutella. Vì vậy hiện nay Gnutella2 được hỗ trợ bởi rất nhiều trình khách của mạng đồng đẳng, ví dụ như Shareaza, MLdonkey, Adagio, Gnucleus, Morpheus, và iMesh. Tên của giao thức Gnutella2 thường được gọi ngắn gọn là Mike's Protocol, hoặc ngắn gọn hơn nữa là MP
Ngày 1 tháng 6 năm 2004, Shareaza phiên bản 2.0 được phát hành theo giấy phép GNU GPL, mã nguồn của Shareaza 2.0 mở tự do. Ngày 19 tháng 9 năm 2004 phiên bản 2.1 được phát hành, phiên bản này sửa rất nhiều lỗi trong phiên bản 2.0 và hỗ trợ Windows XP Service Pack 2 tốt hơn.
Hiện nay Shareaza hỗ trợ 18 ngôn ngữ.
Người dùng Shareaza (cũng như người dùng Azureus và LimeWire) thường xuyên là mục tiêu của các ý đồ xấu, ví dụ như Etomi, yêu cầu người dùng trả một khoản phí để sử dụng phần mềm.
Tính năng
Shareaza có những tính năng nổi bật làm nên sự khác biệt so với các trình khách khác.
Khả năng tải cùng một tệp từ nhiều mạng đồng đẳng theo các giao thức khác nhau vào cùng một thời điểm.
Người dùng có thể lựa chọn chế độ cơ bản hoặc nâng cao, trong chế độ nâng cao người dùng có thể giám sát mạng đồng đẳng Gnutella và thiết lập các tùy chọn nâng cao khác.
Collections, một tính năng cho phép gộp rất nhiều tệp vào trong một tập hợp, tập hợp này có thể tải về cũng như cũng có thể sao lưu.
Điều khiển từ xa – cho phép người dùng điều khiển chương trình Shareaza từ xa.
Lập lịch – cho phép người dùng lập thời gian biểu cho các tác vụ của Shareaza.
Media Player – không giống như các trình chơi media của các phần mềm tải tệp trên mạng đồng đẳng, trình chơi media của Shareaza hoàn toàn bỏ qua các đoạn bị đứt, lỗi và hợp các tệp chunk vào làm một, tính năng này giúp người dùng có thể xem trước một đoạn phim của tệp đang tải về dù chưa tải đủ hoàn toàn tệp. Tuy nhiên tính năng xem trước này không hỗ trợ cho nghe thử âm thanh trong phim có định dạng MPEG.
Hỗ trợ hoàn toàn unicode.
Khả năng thay đổi giao diện, cho phép người dùng tự lựa chọn giao diện mình ưa thích.
Sự chỉ trích
Để xem chi tiết về sự chỉ trích giao thức chia sẻ tệp trên mạng đồng đẳng Gnutella2, hãy xem Gnutella2.
Mặc dù Shareaza có rất nhiều tính năng tân tiến, nhưng Shareaza vẫn bị chỉ trích rất nhiều, đặc biệt là tính năng creeping featurism (một sự nhấn mạnh về tính năng mới của phần mềm không được ảnh hưởng đến mục đích thiết kế của phần mềm như tính đơn giản, gọn nhẹ, tùy biến và giảm thiểu lỗi) và software bloat (một xu hướng các chương trình hiện nay sử dụng nhiều tài nguyên hệ thống hơn các chương trình trước kia). Một tính năng thể hiện sự hỗ trợ yếu mạng Gnutella của chương trình Shareaza là khi chương trình Shareaza đang tự thực hiện quá trình tối ưu hóa để tăng tốc độ thực thi, mạng đồng đẳng Gnutella lại hiểu là máy đấy đã ngừng kết nối vào mạng. Đây là một tính năng Shareaza bị chỉ trích rất nhiều bởi cộng đồng người dùng. Shareaza phiên bản 2.1 và các phiên bản cũ hơn trước đó bị cấm bởi máy chủ Lugdunum eDonkey do một nguyên nhân lỗi (không có chủ ý) là Shareaza chiếm quá nhiều thời gian xử lý của máy chủ, nhưng lỗi này nhanh chóng được khắc phục sau khi Lugdunum đưa ra thảo luận vấn đề này. Nhưng không chỉ vậy, một vài máy theo dõi của giao thức BitTorrent cũng cấm Shareaza vì máy theo dõi nhận ra Shareaza là trình khách gian lận (tải về nhiều hơn tải lên), tuy nhiên những máy theo dõi này cũng cấm rất nhiều máy khách, kể cả máy khách sử dụng Azureus cũng chịu chung số phận.
Hiện nay Shareaza đã trở thành dự án mã nguồn mở, nhưng nó lại sử dụng các công cụ độc quyền của Microsoft trong phát triển phần mềm vì vậy nó bị cộng đồng phát triển mã nguồn mở chỉ trích rất nhiều về điều này. Mã nguồn hiện tại của Shareaza phụ thuộc hoàn toàn vào thư viện của Microsoft Visual Studio và công cụ đồ họa của Windows. Rất nhiều người dùng trên hệ điều hành Linux và Mac OS bày tỏ muốn sử dụng phần mềm Shareaza trên hệ điều hành họ đang dùng nhưng cho đến nay vẫn chưa thấy có một dấu hiệu khả quan. |
Tunisia (viết theo tiếng Anh) hay Tunisie (, phiên âm từ tiếng Pháp: "Tuy-ni-di"; ), tên chính thức Cộng hòa Tunisia () là một quốc gia ở Bắc Phi. Nước này giáp với Algérie ở phía tây, Libya ở phía đông nam, và Biển Địa Trung Hải ở phía bắc và phía đông. Tên nước xuất phát từ tên thủ đô Tunis nằm ở phía đông bắc.
Tunisia là nước nằm ở cực bắc lục địa châu Phi, và là quốc gia nhỏ nhất trong số các quốc gia nằm dọc theo dãy núi Atlas. Miền nam nước này gồm một phần của sa mạc Sahara, và hầu hết phần còn lại gồm đất đai đặc biệt màu mỡ và 1.300 km bờ biển. Nó từng hai lần đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong thời cổ đại, đầu tiên với thành phố Phoenicia nổi tiếng của Carthage, sau đó như Tỉnh châu Phi được gọi là "giỏ bánh mì" của Đế chế La Mã. Sau này, Tunisia bị những kẻ cướp bóc xâm chiếm ở thế kỷ thứ V, người Byzantine ở thế kỷ thứ VI và người Ả Rập ở thế kỷ thứ VII.
Dưới thời Đế chế Ottoman, Tunisia được gọi là "Nhiếp chính Tunis". Nó được chuyển sang thuộc quyền bảo hộ của Pháp vào năm 1881. Sau khi giành được độc lập vào năm 1956, nước này lấy tên chính thức là "Vương quốc Tunisia" ở cuối thời kỳ cầm quyền của Lamine Bey và Triều đại Husainid. Với tuyên bố đưa nhà nước trở thành cộng hoà Tunisia ngày 25 tháng 7 năm 1957, nhà lãnh đạo quốc gia Habib Bourguiba trở thành tổng thống đầu tiên và lãnh đạo cuộc hiện đại hoá đất nước. Ngày nay Tunisia là một quốc gia hướng theo xuất khẩu trong quá trình tự do hoá nền kinh tế của mình.
Tunisia có quan hệ thân cận với cả Liên minh châu Âuvà đã có một thoả thuận kết hợp với tổ chức nàyvà thế giới Ả Rập. Tunisia cũng là một thành viên của Liên đoàn Ả Rập và Liên minh châu Phi.
Từ nguyên
Từ Tunisia xuất xứ từ Tunis; một thành phố thủ đô của Tunisia hiện đại. Hình thức tên hiện nay, với hậu tố Latinh , xuất phát từ chữ Tunisie của tiếng Pháp. Cái tên này đã được các nhà địa lý, sử học Pháp sử dụng như một phần nỗ lực của họ nhằm tạo ra những cái tên mới cho những lãnh thổ và khu vực bảo hộ mà họ mới chiếm được. Từ Pháp Tunisie đã được chấp nhận trong một số ngôn ngữ châu Âu với một ít sửa đổi để tạo ra một cái tên riêng biệt để chỉ nước này. Các ngôn ngữ khác không liên quan tới việc này như trong tiếng Tây Ban Nha Túnez. Trong trường hợp này, cái tên được dùng cho cả quốc gia và thành phố như trong tiếng Ả Rập: تونس và chỉ theo ngữ cảnh, thì mọi người mới phân biệt được sự khác biệt.
Cái tên Tunis có thể được gán cho nhiều nguồn gốc khác nhau. Nó có thể liên quan tới vị nữ thần Phoenician Tanith (aka Tunit), thành phố cổ Tynes hay với nguồn gốc Berber ens có nghĩa "nằm xuống".
Lịch sử
Vào thời điểm bắt đầu có việc chép sử, Tunisia là nơi sinh sống của các bộ lạc Berber. Ven biển đã có người Phoenicia định cư từ thế kỷ X trước Công nguyên. Thành phố Carthage đã được thành lập vào thế kỷ IX trước Công nguyên bởi những người định cư từ Týros (ngày nay thuộc Liban). Truyền thuyết cho rằng Nữ hoàng Elissa đã thành lập thành phố vào năm 814 trước Công nguyên và được nhắc lại bởi nhà văn Hy Lạp Timaeus của Tauromenium. Những người định cư Carthage mang văn hóa và tôn giáo của họ từ những người Phoenicia và Canaan.
Sau một loạt các cuộc chiến với các thành bang Hy Lạp Sicilia vào thế kỷ V trước Công nguyên, quyền lực của Carthage đã mạnh lên và cuối cùng đã trở thành nền văn minh chủ đạo ở phía tây Địa Trung Hải. Người Carthage thờ cúng các vị thần Trung Đông, bao gồm Baal và Tanit. Biểu tượng của thần Tanit, một hình tượng phụ nữ đơn giản với cánh tay dang ra và mặc váy dài là một hình tượng phổ biến được tìm thấy ở các địa điểm cổ. Những người sáng lập của Carthage cũng lập nên một Tophet và được thay đổi vào thời kỳ La Mã.
Dù người La Mã đề cập đến đế quốc mới phát triển ở thành phố Carthage là Punic hay Phoenician, nhưng đế quốc được xây xung quanh Carthage là một chính thể độc lập khỏi các khu định cư Phoenicia ở phía tây Địa Trung Hải.
Một cuộc xâm lược Italia của Carthage do Hannibal chỉ huy trong cuộc chiến tranh Punic thứ hai, một trong một loạt các cuộc chiến với La Mã, gần như làm tê liệt Đế chế La Mã. Carthage cuối cùng đã bị La Mã chinh phục vào thế kỷ II trước Công nguyên, một bước ngoặt dẫn đến việc nền văn minh Địa Trung Hải cổ chủ yếu chịu ảnh hưởng của các nền văn hóa châu Âu thay vì châu Phi. Sau khi La Mã chinh phục, khu vực này đã trở thành một trong những vựa lúa của La Mã và đã bị Latinh hóa và Thiên Chúa giáo hóa hoàn toàn. Lãnh thổ này bị Vandals chinh phục vào thế kỷ V của Công Nguyên và lại bị chinh phục bởi Belisarius một lần nữa vào thế kỷ VI trong thời kỳ trị vì của hoàng đế Byzantine Justinian.
Vào thế kỷ VII, vùng này bị những người Hồi giáo Ả Rập, những người đã lập thành phố Kairouan chinh phục. Các triều đại Hồi đã bị gián đoạn bởi các cuộc nổi loạn của người Berber. Những thời kỳ cai trị của người Aghlabid (thế kỷ thứ IX) và của người Zirid (từ năm 972), những người Fatimid theo Berber, đặc biệt thịnh vượng. Khi những người Zirid làm người Fatimid tức giận ở Cairo (1050), người Fatimid đã gửi bộ tộc Banu Hilal tới trả thù Tunisia.
Những vùng ven biển đã có thời gian ngắn bị người Norman của Sicilia kiểm soát vào thế kỷ XII và việc tái chinh phục của người Ả Rập đã làm cho những tín đồ Thiên Chúa giáo cuối cùng ở biến mất. Năm 1159, Tunisia bị vua Hồi giáo Almohad chinh phục. Sau đó là Hafsids (khoảng 1230 – 1574) của Berber, dưới thời này Tunisia đã thịnh vượng. Cuối thế kỷ XVI, vùng ven biển thành một căn cứ địa của cướp biển. Trong những năm cuối cùng của Hafsids, Tây Ban Nha đã chiếm đóng nhiều thành phố ven biển nhưng lại bị đế chế Ottoman chiếm lại. Dưới thời các toàn quyền người Thổ Nhĩ Kỳ, Beys, Tunisia đã lấy lại độc lập thực sự. Triều đại Hussein của Beys, được thành lập năm 1705, tồn tại đến năm 1957.
Thuộc địa Pháp
Giữa thập kỷ 1800, chính quyền Tunisia dưới sự cai trị của Bey đã thỏa hiệp thông qua các quyết định tài chính gây tranh cãi đã dẫn tới sự suy thoái của Tunisia. Pháp bắt đầu toan tính kiểm soát Tunisia khi Bey lần đầu vay mối khoản tiền lớn để phương Tây hóa đất nước. Những người định cư châu Âu ở nước này được đặc biệt khuyến khích; số lượng người Pháp tăng từ 34,000 năm 1906 lên 144,000 năm 1945. Năm 1910 có 105,000 người Italia ở Tunisia.
Thế Chiến II
Năm 1942– 1943, Tunisia là nơi diễn ra những chiến dịch lớn của các lực lượng Đồng Minh (Đế chế Anh và Hoa Kỳ) chống lại các cường quốc Phe Trục (Italia và Đức) trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Lực lượng chính của quân đội Anh, tiến lên sau chiến thắng của họ trong Trận El Alamein thứ hai dưới sự chỉ huy của Tướng Montgomery, tiến vào Tunisia từ hướng nam. Hoa Kỳ và các đồng minh khác, sau những cuộc xâm lược của họ ở Algérie và Maroc trong Chiến dịch Ngọn đuốc, tiến vào từ phía tây.
Tướng Rommel, chỉ huy các lực lượng Phe Trục ở Bắc Phi, đã hy vọng giáng cho đồng minh một thất bại ở Tunisia như các lực lượng Đức từng thực hiện ở Trận nước Pháp năm 1940. Trước trận El Alamein, các lực lượng đồng minh đã buộc phải rút về hướng Ai Cập. Vì thế trận Tunisia là thử thách lớn cho quân đồng minh. Họ biết rằng để đánh bại các lực lượng phe Trục họ phải phối hợp hành động và nhanh chóng hồi phục từ những thất bại không thể tránh được mà các lực lượng Đức-Italia sẽ gây ra.
Ngày 19 tháng 2 năm 1943, Tướng Rommel mở một cuộc tấn công vào các lực lượng Mỹ ở vùng Đèo Kasserine ở phía tây Tunisia, hy vọng giáng cho một đòn làm mất tinh thần của quân đồng minh như người Đức từng làm được tại Ba Lan và Pháp. Những kết quả ban đầu mang tính thảm hoạ cho người Mỹ; vùng xung quanh Đèo Kasserine là nơi có nhiều nghĩa trang chiến tranh của người Mỹ từ thời điểm đó.
Tuy nhiên, các lực lượng Mỹ cuối cùng đã có thể đảo ngược tình thế. Biết được chiến lược chiến tranh xe tăng rất quan trọng, quân Đồng Minh vượt qua giới tuyến Mareth ngày 20 tháng 3 năm 1943. Sau đó quân đồng minh đã có thể liên kết với nhau vào ngày 8 tháng 4 và vào ngày 2 tháng 5 quân đội Đức-Italia ở Tunisia đầu hàng. Nhờ thế, Hoa Kỳ, Anh Quốc, Pháp tự do và Ba Lan (cũng như các lực lượng khác) đã có thể giành được thắng lợi trong một trận đánh lớn như một đội quân đồng minh.
Trận đánh này, dù thường bị Trận Stalingrad làm lu mờ, là một thắng lợi lớn của đồng minh trong Thế Chiến II phần lớn bởi nó cho phép Đồng Minh trong một ngày sắp tới sẽ giải phóng Tây Âu.
Chính trị hiện thời
Tunisia là một quốc gia có nền dân chủ theo thủ tục. Trên giấy tờ đây là một hệ thống cộng hoà tổng thống có đặc điểm ở hệ thống nghị viện lưỡng viện, gồm Viện Đại biểu và Viện Cố vấn. Tổng thống độc tài Zine El Abidine Ben Ali, trước kia là một nhân vật quân sự, đã nắm quyền từ năm 1987, năm ông lên nhận chức vụ hành pháp của Habib Bourguiba sau khi một đội chuyên gia y tế cho rằng Bourguiba không thích hợp để thực hiện các chức năng của chức vụ này. Trước thời điểm đó Ben Ali là một bộ trưởng của Bourguiba. Ngày nhậm chức, mùng 7 tháng 11, được chào mừng như một ngày lễ quốc gia, với nhiều toà nhà công cộng và thậm chí cả đồng tiền tệ quốc gia và hãng hàng không tư nhân cùng đài truyền hình tư nhân duy nhất (cả hai đều thuộc sở hữu của gia đình đệ Nhất phu nhân) đều mang logo '7 tháng 11'.
Tại Tunisia, Tổng thống được bầu lại với đại đa số phiếu sau mỗi nhiệm kỳ 5 năm. Ông chỉ định một Thủ tướng và nội các, thủ tướng không đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập chính sách. Các thống đốc vùng và các cơ quan hành chính địa phương cũng do chính phủ trung ương chỉ định. Phần lớn các thị trưởng và các hội đồng thành phố được bầu ra với hầu như tất cả các ghế đều thuộc đảng của Tổng thống. Có một cơ cấu nghị viện lưỡng viện, Viện Đại biểu, có 182 ghế, 20% trong số đó được dành cho các đảng đối lập, và Viện Cố vấn gồm các đại diện của các đảng chính trị, các tổ chức chuyên nghiệp do Tổng thống kiểm soát và các cá nhân do Tổng thống của nền Cộng hoà chỉ định. Cả hai viện đều gồm hơn 20% nữ, khiến đây là nước hiếm hoi trong thế giới Ả Rập nơi phụ nữ có các quyền bình đẳng. Khá bất ngờ, đây cũng là quốc gia duy nhất trong thế giới Ả RẬp nơi chế độ đa thê bị luật pháp ngăn cấm. Đây là một phần của nội dung Luật Vị thế Cá nhân của quốc gia được cựu Tổng thống Bourguiba đưa ra năm 1956.
Tư pháp không độc lập về các vấn đề hiến pháp và thường tham nhũng trong những vụ án dân sự. Quân đội không đóng một vai trò rõ ràng trong chính trị và để vị Tổng thống cựu quân nhân mặc sức điều hành đất nước. Hàng trăm hay hàng ngàn thanh niên đã trốn tránh nghĩa vụ quân sự và sống với mối lo sợ thường xuyên về việc bị bắt giữ mặc dù bề ngoài cảnh sát chỉ truy đuổi họ trong một số thời điểm trong năm và thường để họ đi nếu nhận được một khoản hối lộ.
Chế độ liên tục thông qua các điều luật khiến họ có vẻ là dân chủ với những nhà quan sát từ bên ngoài. Từ năm 1987, Tunisia đã nhiều lần cải cách hệ thống chính trị. Họ đã chính thức xoá bỏ hệ thống tổng thống trọn đời và mở cửa nghị viện cho các đảng đối lập. Tuy nhiên, trên thực tế mọi quyền lực được tập trung chính thức trong tay tổng thống và đảng của ông - với văn phòng tổng thống và đảng của tổng thống đang đóng ở toà nhà cao nhất Tunis - và nằm dưới sự ảnh hưởng không chính thức của các gia đình như nhà Trabelsis phía họ vợ tổng thống, Leila, một người hành nghề cắt tóc trước kia. Gần đây Tunisia đã từ chối một yêu cầu của Pháp nhằm dẫn độ hai người cháu của Tổng thống, cháu bên phía Leila, vốn bị các công tố nhà nước Pháp buộc tội ăn cắp hai du thuyền lớn từ một bến cảng của Pháp
Đảng của Tổng thống, được gọi là Tập hợp Dân chủ Hiến định (RCD) trong tiếng Pháp, gồm khoảng 2 triệu thành viên và hơn 6000 văn phòng đại diện trên khắp nước và chiếm hầu hết các định chế quan trọng của nhà nước. Dù đảng đã được đổi tên lại (trong thời Bourguiba nó thường được gọi là ĐẢng Xã hội Destourian), các chính sách của nó vẫn bị coi là hầu như thế tục. Hiện có tám 'đảng chính trị' nhỏ khác ở Tunisia, sáu trong số đó có đại diện trong nghị viện với vẻ ngoài mang tính hợp pháp. Từ năm 2007, toàn bộ các đảng có đại diện trong nghị viện đều được nhà nước trợ cấp để bù cho các chi phí đang gia tăng về giấy in và mở rộng sự xuất bản của họ. Tháng 7 năm 2008, những đề xuất hiến pháp mới đã được 'nghị viện' quốc gia bỏ phiếu.
Trên thực tế không ai từng công khai đưa ra lời chỉ trích chế độ và mọi sự phản kháng đều bị đàn áp mạnh tay và không được truyền thông đưa tin. Việc tự kiểm duyệt được đa số người dân sợ hãi lực lượng cảnh sát thực hiện, và cảnh sát hiện diện ở khắp mọi nơi và thường chặn và lục soát các cá nhân cũng như phương tiện của họ - và thường đòi một khoản tiền hối lộ nhỏ để bù đắp cho khoản lương ít ỏi của họ. Những tờ báo hàng ngày có đăng những bài viết ca tụng vị Tổng thống với chân dung thường được đăng trên trang nhất. Những bức ảnh lớn của tổng thống Ben Ali và những băng rôn 'tự phát' được dựng lên để ca tụng ông xuất hiện tại mọi công trình công cộng và các phố lớn.
Internet bị giới hạn chặt chẽ, gồm cả các site như YouTube. Tuy nhiên, internet đã có sự phát triển vượt bậc với hơn 1,1 triệu người sử dụng và hàng trăm quán cafe internet, được gọi là ‘publinet.’ Điều này phần lớn liên quan tới nạn thất nghiệp trên diện rộng và thiếu dân chủ cùng các cơ hội khiến hàng triệu người bị thất nghiệp. Các nhóm nhân quyền độc lập, như Ân xá Quốc tế, đã đưa ra tài liệu rằng các quyền cá nhân không được tôn trọng.
Bầu cử quốc gia năm 2009
Ngày 25 tháng 10 năm 2009, cuộc tuyển cử quốc gia đã được tổ chức tại Tunisia. Cuộc tuyển cử gồm một cuộc bầu cử tổng thống và một cuộc bầu cử nghị viện. Tổng thống đương nhiệm Zinedine Ben Ali giành một thắng lợi lớn, với 89.62% số phiếu. Đối thủ chính của ông, Mohamed Bouchiha, nhận được 5.01% số phiếu. Đảng của Tổng thống, CDR, cũng giành một thắng lợi lớn với đa số 84.59% trong nghị viện. Phong trào của Đảng Dân chủ Xã hội giành được 4.63% số phiếu.
Cuộc bầu cử bị cả truyền thông trong nước và quốc tế chỉ trích. Human Rights Watch đã thông báo rằng các đảng và các ứng cử viên đã bị cấm xuất hiện ở mức ngang bằng với tổng thống đương nhiệm, và rằng tờ tuần báo của đảng Ettajdid, Ettarik al-Jadid, đã bị chính quyền nắm giữ .
Bốn ứng cử viên tổng thống trong cuộc bầu cử năm 2009 gồm:
Những cuộc biểu tình và sự từ chức của Ben Ali 2010-2011
Để ứng phó với các cuộc biểu tình dâng cao ở Tunisia vào cuối năm 2010, đầu năm 2011, Ben Ali tuyên bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước, giải thể chính phủ vào ngày 14 tháng 1 năm 2011 và hứa tổ chức các cuộc bầu cử lập pháp mới trong vòng sáu tháng. Sau đó cùng ngày trong bài phát biểu đọc trên truyền hình chiều thứ sáu 14 tháng 1 năm 2011, thủ tướng Tunisia Mohamed Ghannouchi loan báo ông sẽ nắm quyền thay tổng thống Ben Ali đã rời đất nước. Tuy nhiên, người đứng đầu Tòa án Hiến pháp của Tunisia, Fethi Abdennadher, xác nhận rằng Gannouchi đã vi phạm Hiến pháp.
Tòa án Hiến pháp Tunisia ngày 15 tháng 1 năm 2011 đã quyết định bãi nhiệm Tổng thống Ben Ali, người bị lật đổ vì các cuộc biểu tình và bạo động chống ông - được giới truyền thông gọi là cuộc "Cách mạng hoa nhài". Đây cũng là nhà lãnh đạo đầu tiên trong thế giới Arab bị lật đổ bởi biểu tình của nhân dân.
Theo Hiến pháp Tunisia, Chủ tịch Quốc hội Fouad Mebazaa đã đảm trách quyền điều hành đất nước và tổ chức tổng tuyển cử trong vòng 60 ngày. Quyền Tổng thống Mebazaa cũng ngay lập tức yêu cầu Thủ tướng Mohammed Ghannouchi thành lập một chính phủ liên minh đoàn kết dân tộc để lãnh đạo đất nước cho tới khi bầu được chính quyền mới.
2012 đến nay
Trong cuộc bầu cử năm 2012, đảng Hồi giáo dung hòa Ennahdha đã thắng cử và cùng với 2 đảng trung tả không tôn giáo CPR và Ettakatol lập chính phủ. Tuy nhiên, việc hình thành một hiến pháp mới kéo dài hơn là đã dự định trong vòng 1 năm. Trong thời gian này, 2 cuộc khủng bố và ám sát hai chính trị gia đối lập, Chokri Belaid và Mohamed Brahmi đã xảy ra làm gia tăng căng thẳng tình hình mà cao điểm là tháng 8 năm 2013. Có những cuộc biểu tình lớn vào mùa hè năm 2013 trong đó đe dọa sự tồn tại tiếp tục của chính phủ quốc gia tại thời điểm đó và quá trình dân chủ có nguy cơ tan vỡ.
Trong hoàn cảnh này, Tổng Liên đoàn Lao động Tunisia cố gắng tạo một cuộc đối thoại quốc gia nhưng đã thất bại, vì họ bị đảng Ennahdha tẩy chay. Tháng 9 năm 2013 với sự chuẩn bị tốt hơn lần trước, một nỗ lực thứ hai đã được khởi động. Kỳ này có tới 4 tổ chức xã hội dân sự - Bộ tứ Đối thoại Quốc gia Tunisia tham dự. Bộ Tứ đã tham gia các cuộc đàm phán diễn ra tại thời điểm đó giữa chính phủ Hồi giáo và các đảng phái chính trị khác nhau về việc thực hiện một cuộc chuyển giao quyền lực cho một hiến pháp dân chủ, và tổ chức bầu cử dân chủ cho chính phủ quốc gia.
Nhóm này đã thành công trong việc thuyết phục các đảng nắm chính quyền và các đảng đối lập trong quốc hội (Nidaa, Aljomhoury, Almassar, Afek, Aljabha chaabia, vv.) ngồi lại cùng bàn. Những cố gắng hòa giải, bao gồm các đảng phái và chính phủ cả tổng thống, thủ tướng và chủ tịch quốc hội, vào tháng 10 năm 2013, họ đã lập ra một chương trình hoạt động dẫn tới một mặt việc từ chức của các đảng cầm quyền, mặt khác việc thiết lập một chính phủ lâm thời bao gồm những nhà chuyên môn độc lập chuẩn bị cho cuộc bầu cử Tổng thống và Quốc hội mới vào cuối tháng 10 năm 2014. Tháng 2 năm 2015, trên nền tảng của Hiến pháp mới, quyền lực hành pháp được đặt trở lại vào tay của chính phủ dân cử với tổng thống hiện nay là Beji Caid Essebsi. Trong các cuộc thảo luận, 4 nhóm xã hội dân sự này đã đóng vai trò chủ động được xem là khá quan trọng đối với sự thành công của các cuộc đàm phán và chuyển đổi quyền lực trong hòa bình.
Kinh tế
Tunisia có một nền kinh tế đa dạng, từ nông nghiệp, khai thác mỏ, chế tạo, các sản phẩm hoá dầu và du lịch. Năm 2008 nước này có GDP trị giá $41 tỷ (các tỷ giá trao đổi chính thức), hay $82 tỷ (sức mua tương đương) . Lĩnh vực nông nghiệp chiếm 11,6% GDP, công nghiệp 25,7%, và dịch vụ 62,8%. Lĩnh vực công nghiệp chủ yếu gồm sản xuất vải vóc và giày da, sản xuất phụ tùng ô tô và máy điện. Dù Tunisia có mức tăng trưởng trung bình 5% trong thập kỷ qua, nước này vẫn tiếp tục gặp khó khăn với một tỷ lệ thất nghiệp cao đặc biệt trong giới trẻ.
Tunisia được xếp hạng là nền kinh tế có tính cạnh tranh cao nhất châu Phi và đứng hàng 40 thế giới theo xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế Thế giới. Tunisia đã tìm cáhc thu hút nhiều công ty quốc tế như Airbus và Hewlett-Packard.
Liên minh châu Âu vẫn là đối tác thương mại hàng đầu của Tunisia, hiện tại chiếm 72.5% nhập khẩu của Tunisian và 75% xuất khẩu của nước này. Tunisia là một trong những đối tác thương mại lâu đời nhất của Liên minh châu Âu tại vùng Địa Trung Hải và là đối tác thương mại lớn thứ 30 của tổ chức này. Tunisia là quốc gia Địa Trung Hải đầu tiên ký Hiệp ước Liên kết với Liên minh châu Âu, tháng 7 năm 1995, dù thậm chí trước ngày hiệp ước này có hiệu lực, Tunisia đã bắt đầu bãi bỏ các biểu thuế trên thương mại song phương với EU. Tunisia đã kết thúc quá trình bãi bỏ thuế quan cho các sản phẩm công nghiệp năm 2008 và vì thế là quốc gia Địa Trung Hải đầu tiên tham gia vào một vùng thương mại tự do với EU.
Tunisia cũng thu hút những khoản đầu tư lớn từ Vịnh Péc xích (đặc biệt từ Các tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất) những dự án lớn nhất gồm:
Cổng Địa Trung Hải: một dự án trị giá US$ 25 tỷ, để xây dựng một thành phố mới ở phía nam Tunis .
Thành phố Thể thao Tunis: một thành phố hoàn toàn thể thao hiện đang được xây dựng ở phía nam Tunis, Tunisia. Thành phố này sẽ gồm các toà nhà cũng như nhiều cơ sở thể thao và sẽ do Bukhatir Group xây dựng với chi phí 5 tỷ $5.
Cảng Tài chính Tunis: sẽ thực hiện trung tâm tài chính ngoài khơi đầu tiên của Bắc Phi tại Vịnh Tunis trong một dự án với giá trị tổng thể US$ 3 tỷ.
Thành phố Viễn thông Tunis: Một dự án trị giá US$ 3 để tạo ra một cổng Công nghệ Thông tin ở Tunis.
Thị trường bất động sản
Trong những năm gần đây Tunisia đã phát triển một thị trường mới. Từ đầu những năm 2000, thị trường bất động sản đã có bước tăng trưởng mạnh. Thị trường tập trung một phần vào nhà ở cho những cá nhân, những cũng gồm cả các dự án lớn có mục tiêu phục vụ du lịch và thị trường buôn bán. Những nhà đầu tư đáng chú ý nằm trong Các quốc gia Ả Rập Vịnh Péc xích.
Khai thác dầu và khí đốt
Sản lượng dầu của Tunisia khoảng 97,600 barrel/ngày. Giếng dầu chính là El bourma.
Năng lượng
Đa phần lượng điện được sử dụng ở Tunisia đều do nước này tự sản xuất, bởi công ty thuộc sở hữu nhà nước STEG (Société Tunisienne de l´Electricité et du Gaz).Năm 2008 tổng cộng 13,747 GHW điện được sản xuất tại nước này,.
Dầu mỏ và khí đốt
Sản xuất dầu mỏ bắt đầu năm 1966 tại Tunisia. Hiện tại có 12 giếng dầu. Dưới đây là danh sách các giếng dầu:
Năng lượng hạt nhân
Tunisia đang trong quá trình phát triển hai nhà máy điện hạt nhân trong một giai đoạn kéo dài 10 năm. Mỗi nhà máy trong số đó dự tính có sản lượng 900-1000 MW. Trong nỗ lực của họ nhằm phát triển năng lượng hạt nhân, Pháp được coi là một đối tác quan trọng. Tunisia và Pháp đã ký kết các thoả thuận, theo đó Pháp sẽ cung cấp huấn luyện, kỹ thuật cũng nhiều hỗ trợ khác .
Dự án Desertec
Dự án Desertec là một dự án năng lượng trên diện rộng có mục tiêu lắp đặt các panel năng lượng mặt trời, và một hệ thống đường dây nối Bắc Phi với châu Âu. Tunisia sẽ là một bên trong dự án này, nhưng chính xác những lợi ích họ sẽ được hưởng vẫn chưa được biết.
Giao thông
Nước này có 19,232 km đường bộ, và A1 Tunis-Sfax, P1 Tunis-Libya và P7 Tunis-Algeria là những đường cao tốc chính.
Có 30 sân bay tại Tunisia, và Sân bay Quốc tế Tunis Carthage và Sân bay Quốc tế Monastir là hai sân bay quan trọng nhất. Một sân bay mới, Sân bay Quốc tế Zine El Abidine Ben Ali, đã được hoàn thành vào cuối tháng 10 năm 2009, và dự định mở cửa tháng 12 năm 2009. Tuy nhiên, có lẽ các chuyến bay sẽ không bắt đầu trước mùa Lễ Phục sinh năm 2010. Sân bay nằm ở phía bắc Sousse tại Enfidha, và có lẽ sẽ phục vụ cho các khu resort Hamammet và Port El Kantoui, cùng với các thành phố nội địa như Kairouan. Có bốn hãng hàng không đóng trụ sở tại Tunisia: Tunisair, Karthago Airlines, Nouvelair và Sevenair.
Mạng lưới đường sắt do SNCFT điều hành, và tổng chiều dài đường sắt là 2135 km. Vùng Tunis có một mạng lưới tàu điện, được gọi là Metro Leger.
Tôn giáo
Hiến pháp quy định Hồi giáo là tôn giáo chính thức của nhà nước và đòi hỏi tổng thống phải là một tín đồ Hồi giáo. Tunisia có mức tự do tôn giáo khá cao, một quyền được quy định và bảo vệ trong hiến pháp đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của mỗi người. Nước này có một nền văn hoá khuyến khích chấp nhận các tôn giáo khác; tự do tôn giáo được thực hiện rộng rãi. Tuy nhiên, chính phủ đã bị cáo buộc hạn chế tự do của các tín đồ Hồi giáo khi cấm quàng khăn trùm đầu (Hijab). Chính phủ tin rằng Hijab là một "loại trang phục có nguồn gốc từ bên ngoài và có một ý nghĩa đảng phái".
Các cá nhân người Tunisian được khoan dung về tự do tôn giáo và nói chung không bị yêu cầu về những đức tin cá nhân.
Đa số dân Tunisia (98%) là tín đồ Hồi giáo, khoảng 1% theo Thiên chúa giáo và số còn lại (1%) theo Do Thái giáo hay các tôn giáo khác. Tuy nhiên, không có dữ liệu đáng tin cậy về số người thực hiện các nghi thức Hồi giáo. Một số báo cáo cho rằng người vô thần là nhóm lớn thứ hai trong nước (khiến nước này có thể đứng hạng cao trong số các quốc gia Bắc Phi) về vấn đề này.
Tunisia có một cộng đồng Thiên chúa giáo khá lớn khoảng 25,000 người; chủ yếu là Cơ đốc (20,000) và ở một mức độ thấp hơn là Tin Lành. Đạo Do Thái là tôn giáo lớn thứ ba trong nước với 1,500 tín đồ. Một phần ba dân số Do Thái sống tại hay xung quanh thủ đô. Số còn lại sống trên hòn đảo Djerba, nơi cộng đồng Do Thái có mặt từ khoảng 2,500 năm trước.
Djerba, một hòn đảo trong Vịnh Gabès, là quê hương của Hội đạo Do Thái El Ghriba, một trong những hội đạo Do Thái cổ nhất thế giới. Nhiều người Do Thái coi đó là một địa điểm hành hương với các nghi lễ được tiến hành mỗi năm một lần.
Các vùng thủ hiến và thành phố
Các vùng thủ hiến
Tunisia được chia thành 24 vùng thủ hiến, chúng gồm:
Các vùng thủ hiến được chia thành 264 "phái đoàn" hay "các quận" (mutamadiyat), và được chia nhỏ tiếp thành các khu vực đô thị (shaykhats) và các khu vực (imadats).
Các thành phố lớn
Quân đội
Các lực lượng vũ trang Tunisia được chia thành ba nhánh:
Lục quân
Không quân Tunisia
Hải quân
Chi tiêu quân sự của Tunisia chiếm 1.6% GDP (2006). Quân đội chịu trách nhiệm bảo vệ quốc gia và đảm bảo an ninh nội địa. Có vẻ trong những năm gần đây các lực lượng quốc phòng Tunisia đã tập trung hơn vào các nhóm Hồi giáo ở Bắc Phi. Hoa Kỳ đã tiến hành những cuộc tập trận với các lực lượng vũ trang Tunisia vì mối lo ngại này.
Địa lý
Tunisia là một quốc gia nằm ở bờ biển Địa Trung Hải của Bắc Phi, giữa đường giữa Đại Tây Dương và Châu thổ sông Nile. Tunisia giáp biên giới với Algérie ở phía tây và Libya ở phía đông nam. Đường bờ biển ngoặt gấp phía nam của nó khiến Tunisia có hai mặt giáp với Địa Trung Hải.
Dù có kích thước khá nhỏ, Tunisia có sự đa dạng địa lý và khí hậu khá lớn. Dorsal, một dải mở rộng của Dãy núi Atlas, chạy ngang Tunisia theo hướng đông bắc từ biên giới Algérie ở phía tây tới bán đảo Cape Bon. phía bắc Dorsal là Tell, một vùng có đặc điểm ở những quả đồi và đồng bằng thấp, dù góc phía tây bắc của Tunisia, nơi đất đai đạt tới độ cao 1,050 mét.
Sahil là một đồng bằng dọc theo bờ biển Địa Trung Hải phía đông Tunisia nổi tiếng với sự độc canh cây oliu. Bên trong nội địa từ Sahil, giữa Dorsal và một rặng đồi phía nam Gafsa, là các thảo nguyên. Đa phần vùng phía nam là đất đai bán khô cằn và sa mạc.
Tunisia có đường bờ biển dài 1,148 kilômét. Theo các thuật ngữ hàng hải, nước này tuyên bố một vùng tiếp giáp 24 hải lý, và một hải phận 12 hải lý.
Tunisia có khí hậu ôn hoà ở phía bắc, với mùa đông dễ chịu và nhiều mưa và một mùa hè nóng và khô. Miền nam đất nước là sa mạc. Đất đai phía bắc chủ yếu là núi non, đi dần về phía nam, tạo ra một đồng bằng trung tâm nóng và khô. Miền nam là bán khô cằn, và nhập vào Sahara. Một loạt các hồ muối, được gọi là chotts hay shatts, nằm ở đường phía đông tây ở mũi phía bắc Sahara, trải dài từ Vịnh Gabes vào trong Algérie. Điểm thấp nhất là Shatt al Gharsah, ở độ cao -17 m, và điểm cao nhất là Jebel ech Chambi, 1544 mét.
Vùng
Vùng Tunisia có một số sa mạc, gồm một phần của Sa mạc Sahara ở phía nam. Ở phía bắc và trung được bao quanh bởi Biển Địa Trung Hải. Tunisia không quá lạnh vào mùa đông để có tuyết, nhưng nhiệt độ vẫn hạ xuống dưới |0 °C.
Vào mùa hè nhiệt độ có thể lên tới 32 °C. Đa phần lãnh thổ Tunisia có bốn mùa.
Nhân khẩu
Đa số (98%) người Tunisia hiện đại là người Ả Rập hay người Berber đã Ả Rập hoá, và là những người nói tiếng Tunisia Ả Rập. Tuy nhiên, cũng có một cộng đồng nhỏ (nhiều nhất là 1%) người Berber sống tại vùng núi Jabal Dahar ở phía đông nam và trên hòn đảo Jerba, dù còn có nhiều người hơn nữa có tổ tiên là người Berber. Người Berber chủ yếu nói các ngôn ngữ Berber, thường được gọi là Shelha.
Cộng đồng châu Âu nhỏ (1%) gồm chủ yếu người Pháp và người Italia. Cũng có một cộng đồng Do Thái đã sống từ lâu ở nước này, lịch sử người Do Thái tại Tunisia có từ khoảng 2,000 năm trước. Năm 1948 số người Do Thái ước tính là 105,000, nhưng tới năm 2003 chỉ còn khoảng 1,500 người ở lại.
Người đầu tiên trong lịch sử được biết tới sống ở Tunisia hiện nay là người Berber. Nhiều nền văn minh và sắc tộc đã từng xâm lược, di cư tới, và đã bị đồng hoá trong nhiều thiên niên kỷ, với nhiều làn sóng dân cư qua chinh phục và định cư từ người Phoenicia/Carthaginia, La Mã, Vandal, Ả Rập, người Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman, và người Pháp.
Ngoài ra, sau thời kỳ Reconquista và sự trục xuất những người phi Thiên chúa và người Morisco khỏi Tây Ban Nha, nhiều người Moor Tây Ban Nha và người Do Thái đã tới đây ở cuối thế kỷ XV. Ngoài ra, từ cuối những năm 1800 tới sau Thế Chiến II, Tunisia là nơi sinh sống của nhiều người Pháp và người Italia (255,000 người châu Âu năm 1956), hầu như toàn bộ trong số họ, cùng với cộng đồng dân cư Do Thái, đã rời đi sau khi Tunisia độc lập.
Tôn giáo tại Tunisia chủ yếu là Hồi giáo, với đa số dân Tunisia (98%) là tín đồ. Một trong những cộng đồng Do Thái cổ nhất thế giới sống tại Jerba, nơi sự đa dạng tôn giáo phát triển. Hòn đảo phía nam Tunisia là nơi cư trú của 39 cộng đồng tôn giáo.
Ngôn ngữ
Tiếng Ả Rập là ngôn ngữ chính thức của Tunisia. Như tại toàn bộ các quốc gia khác thuộc thế giới Ả Rập, một biến thể địa phương của tiếng Ả Rập được công chúng sử dụng. Tiếng Ả Rập Tunisia rất gần gũi với ngôn ngữ Maltese. Cũng có một cộng đồng thiểu số nhỏ những người nói tiếng Shelha, một ngôn ngữ Berber.
Vì từng là thuộc địa của Pháp, tiếng Pháp cũng đóng một vai trò quan trọng ở nước này, dù không có vị thế chính thức. Nó được sử dụng rộng rãi trong giáo dục (ví dụ như ngôn ngữ giảng dạy khoa học tại các trường cấp hai), báo chí và trong kinh doanh. Đa phần người Tunisia có thể nói tiếng Pháp. Nhiều người Tunisia, đặc biệt là những người sống tại các vùng đô thị, dễ dàng sử dụng một ngôn ngữ pha trộn giữa tiếng Ả Rập Tunisia và tiếng Pháp, một loại ngôn ngữ lai thường được gọi không chính thức là 'Frarabic'.
Giáo dục
Giáo dục được ưu tiên lớn và chiếm 6% GNP. Một nền giáo dục căn bản cho trẻ em trong độ tuổi từ 6 đến 16 đã được quy định bắt buộc từ năm 1991. Tunisia xếp hạng 17 về "chất lượng hệ thống giáo dục [cao học]" và 21 về "chất lượng giáo dục tiểu học" trong Báo cáo Cạnh tranh Toàn cầu 2008-9, do Diễn đàn Kinh tế Thế giới đưa ra.
Tuy trẻ em nói chung được học tiếng Tunisia Ả Rập tại gia đình, khi bắt đầu theo học lúc 6 tuổi, chúng được dạy đọc và viết theo tiếng Ả Rập tiêu chuẩn. Từ 8 tuổi, trẻ em được dạy tiếng Pháp trong khi tiếng Anh được dạy khi trẻ lên 12.
Các trường cao đẳng và đại học tại Tunisia gồm:
École Polytechnique de Tunisie
International University of Tunis
Université Libre de Tunis
Université de l'Aviation et Technologie de Tunisie
Institut National d'Agronomie de Tunis
Université des Sciences de Tunis
Văn hoá
Tunisia có một nền văn hoá pha trộn vì một lịch sử lâu dài với những cuộc chinh phục như của người Phoenicia, La Mã, Vandal, Byzantine, Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha và người Pháp, tất cả đều để lại dấu ấn tại quốc gia này.
Thể thao
Môn thể thao phổ biến nhất ở Tunisia là bóng đá. Đội tuyển bóng đá quốc gia, cũng được gọi là "Những chú đại bàng Carthage" đã tham gia vào năm vòng chung kết World Cup. Thành tích của đội tuyển được liệt kê dưới đây:
Giải đấu hàng đầu của Tunisia là "Tunisian Ligue Professionnelle 1". Các câu lạc bộ lớn gồm Espérance Sportive de Tunis, Club Africain, và Étoile Sportive du Sahel.
Bóng ném
Đội tuyển quốc gia đã tham gia nhiều vòng chung kết bóng ném thế giới. Năm 2005 Tunisia giành hạng 4. Giải bóng ném quốc gia gồm 12 đội, với ES. Sahel và Esperance S.Tunis là các đội thống trị.
Vận động viên bóng ném Tunisia nổi tiếng nhất là Wissem Hmam. Tại giải vô địch bóng ném thế giới nam năm 2005 ở Tunis, Wisam Hmam là vận động viên có thành tích ghi điểm cao nhất giải.
Bơi lội
Tại Olympic năm 2008, vận động viên người Tunisia Oussama Mellouli đã giành một huy chương vàng nội dung bơi tự do 1500 mét.
Lễ hội
Lễ Matmata - Matmata (tháng 3)
Lễ Oriljazz (tháng 4)
Lễ "Tozeur, the Oriental, the African" (tháng 4)
Lễ hội Mùa xuân Quốc tế - Sbeitla (tháng 4)
Lễ hội thi ca Ả Rập - Tozeur - (tháng 4)
Lễ hội Jazz Carthage - Gammarth (tháng 4)
Tozeur’s International Oasis Festival - Tozeur (tháng 12)
Techno House festival - Gammarth (tháng 12)
Dar Sebastian celebrates opera festival - lyrical festival -(tháng 12)
Lễ hội Caravana Latina" - Tozeur (tháng 12)
Lễ hội Truyền thống Sahara - Douz (tháng 12)
Thành viên
Tunisia là một thành viên của các tổ chức sau: |
Tomato Torrent là trình khách BitTorrent chỉ chạy trên hệ điều hành Mac OS X. Tomato Torrent là một phân nhánh của Mainline, phiên bản hiện nay yêu cầu hệ điều hành Mac OS X 10.2 hoặc mới hơn. |
Torrentflux là một phần mềm chứa nhiều giao diện đồ họa khác nhau cho người dùng trình khách BitTornado. Torrentflux được viết bằng ngôn ngữ lập trình PHP kết hợp cơ sở dữ liệu MySQL chạy trên máy chủ. Phiên bản beta phát hành gần đây hỗ trợ chuẩn ADODB, cho phép sử dụng hệ cơ sở dữ liệu đa dạng hơn. Rất nhiều phiên bản chỉnh sửa Torrentflux hack đã ra đời để thêm các chức năng riêng. |
Giải bóng đá Các đội mạnh Toàn quốc 1996 là mùa giải thứ 14 của Giải bóng đá Vô địch Quốc gia và là mùa giải thứ 6 dưới tên gọi Giải bóng đá Các đội mạnh Toàn quốc. Giải khởi tranh từ ngày 10 tháng 3 và kết thúc vào ngày 6 tháng 10 năm 1996 với sự tham gia của 12 đội bóng. Đây là lần đầu tiên thang điểm mới được áp dụng trong giải (thắng 3, hòa 1, thua 0), cùng với đó 8 đội đứng đầu giành quyền tham dự Cúp Dunhill. Đội vô địch mùa giải này sẽ đoạt giải thưởng 120 triệu đồng.
Đồng Tháp đã giành được chức vô địch lần thứ hai sau khi đánh bại đương kim vô địch Công an TP. Hồ Chí Minh với tỷ số 3–1 trong trận chung kết tại sân vận động Cao Lãnh, đồng thời giành quyền tham dự Cúp C1 châu Á 1997–1998.
Thể thức thi đấu
Giải đấu chia làm hai giai đoạn:
Giai đoạn 1: 12 đội bóng thi đấu vòng tròn hai lượt trên sân nhà và sân khách để chọn 6 đội đứng đầu lọt vào vòng chung kết và 2 đội xếp cuối bảng xuống hạng A1.
Giai đoạn 2: 6 đội bóng được chia vào 2 bảng thi đấu vòng tròn 2 lượt, chọn 2 đội xếp đầu mỗi bảng vào trận chung kết và 2 đội xếp nhì bảng tranh giải ba.
Giai đoạn 1
Lịch thi đấu và kết quả
Bảng xếp hạng giai đoạn 1
Vòng chung kết
Bảng A
Các trận đấu bảng A diễn ra tại sân vận động Nha Trang, Khánh Hòa.
Sông Lam Nghệ An 1-1; 2-1 (29 tháng 9) An Giang
Công an TP. Hồ Chí Minh 1-0; 6-3 (1 tháng 10) An Giang
Công an TP. Hồ Chí Minh 2-0; 2-4 (3 tháng 10) Sông Lam Nghệ An
Bảng B
Các trận đấu bảng B diễn ra tại sân vận động Cao Lãnh, Đồng Tháp.
Khánh Hòa 1-1; 0-1 (29 tháng 9) Đồng Tháp
Khánh Hòa 3-1; 2-3 (1 tháng 10) Lâm Đồng
Đồng Tháp 1-1; 2-1 (3 tháng 10) Lâm Đồng
Tranh hạng ba
Chung kết
Sự việc xoay quanh giải đấu
Sau trận chung kết giữa Đồng Tháp và Công an TP. Hồ Chí Minh, các cầu thủ đội khách đã lao vào tấn công trọng tài Nguyễn Tuấn Hùng. Hậu vệ Chu Văn Mùi trực tiếp tham gia vào vụ việc bị treo giò vĩnh viễn, tiền đạo Lê Huỳnh Đức bị cấm thi đấu 6 tháng. Ngoài ra, Công an TP. Hồ Chí Minh cũng bị mất quyền tham dự vòng chung kết Cúp Quốc gia cuối năm đó. |
Transmission là phần mềm ứng dụng máy khách BitTorrent miễn phí và ít tiêu tốn tài nguyên hệ thống. Đây là phần mềm đa nền tảng dành cho người dùng cuối và có giao diện đơn giản và trực quan.
Transmission là phần mềm mã nguồn mở, (Giấy phép MIT). Các nền tảng để ứng dụng hoạt động bao gồm: Microsoft Windows (giao diện sẵn có), Mac OS X (sử dụng giao diện lập trình ứng dụng Cocoa), Linux/NetBSD/FreeBSD/OpenBSD (sử dụng công cụ GTK+ để tạo giao diện) và BeOS/ZETA (giao diện sẵn có).
Transmission sử dụng ít tài nguyên hệ thống hơn các trình khách BitTorrent khác, ví dụ Azureus.
Tính năng
Dùng một cổng duy nhất để tải tệp.
Hiển thị trên thanh Dock thông tin tải tệp và những tệp đã hoàn thành tải về.
Thanh công cụ tùy biến
Hỗ trợ Growl, một dạng thông báo toàn cục trong hệ điều hành Mac OS
Tự động kiểm tra và nâng cấp phiên bản mới
Universal binary, mã chương trình có khả năng chạy trên chíp PowerPC và Intel |
Giải bóng đá Hạng Nhất quốc gia 1997 là mùa giải thứ 15 của Giải bóng đá Vô địch Quốc gia và là mùa giải đầu tiên với tên gọi Giải bóng đá Hạng Nhất quốc gia. Giải đấu diễn ra từ ngày 9 tháng 3 đến 16 tháng 11 năm 1997, với 12 đội bóng thi đấu vòng tròn hai lượt trên sân nhà và sân khách. Hai đội xếp cuối bảng sẽ xuống giải Hạng Nhì. 8 đội đứng đầu giải đấu được quyền tham dự Cúp Dunhill.
Giải có sự tham gia lần đầu của đội Vĩnh Long và sự quay trở lại sau hai mùa giải vắng bóng của Công an Hải Phòng.
Thay đổi đội bóng
Đến giải Hạng Nhất
Thăng hạng từ giải A1 1996
Vĩnh Long
Công an Hải Phòng
Rời giải Hạng Nhất
Xuống hạng đến giải Hạng Nhì 1997
Thừa Thiên Huế
Cần Thơ
Lịch thi đấu và kết quả
Lịch thi đấu
Kết quả chi tiết
Vòng 1
Vòng 2
Vòng 3
Vòng 4
Vòng 5
Vòng 6
Vòng 7
Vòng 8
Vòng 9
Vòng 10
Vòng 11
Vòng 12
Vòng 13
Vòng 14
Vòng 15
Vòng 16
Vòng 17
Vòng 18
Vòng 19
Vòng 20
Vòng 21
Vòng 22
Bảng xếp hạng |
Giải bóng đá Hạng Nhất quốc gia 1998 là mùa giải thứ 16 của Giải bóng đá Vô địch Quốc gia và là mùa giải thứ hai dưới tên gọi Giải bóng đá Hạng Nhất quốc gia. Giải đấu diễn ra từ ngày 1 tháng 3 đến 14 tháng 6 năm 1998, với 14 đội bóng thi đấu vòng tròn hai lượt trên sân nhà và sân khách. Hai đội xếp cuối bảng sẽ xuống giải Hạng Nhì, còn hai đội xếp thứ 11 và 12 sẽ đấu với hai đội xếp thứ 3 và 4 giải Hạng Nhì để xác định 2 suất cuối cùng tham dự giải Hạng Nhất mùa sau.
Thay đổi đội bóng
Đến giải Hạng Nhất
Thăng hạng từ giải Hạng Nhì 1997
Nam Định
Long An
Bình Dương
Bình Định
Rời giải Hạng Nhất
Xuống hạng đến giải Hạng Nhì 1998
Vĩnh Long
An Giang
Lịch thi đấu và kết quả
Lịch thi đấu
Kết quả chi tiết
Vòng 1
Vòng 2
Vòng 3
Vòng 4
Vòng 5
Vòng 6
Vòng 7
Vòng 8
Vòng 9
Vòng 10
Vòng 11
Vòng 12
Vòng 13
Vòng 14
Vòng 15
Vòng 16
Vòng 17
Vòng 18
Vòng 19
Vòng 20
Vòng 21
Vòng 22
Vòng 23
Vòng 24
Vòng 25
Vòng 26
Bảng xếp hạng
Đấu play-off
Hải Quan thua đội xếp thứ 4 của giải Hạng Nhì là Thừa Thiên-Huế trong cặp trận giành quyền chơi ở giải Hạng Nhất mùa giải tiếp theo. Long An trụ hạng thành công do thắng trong cặp trận với Kiên Giang, đội đứng thứ 3 của giải Hạng Nhì.
Lượt đi
Lượt về
Tổng tỷ số là 2-2, Thừa Thiên Huế thắng nhờ luật bàn thắng sân khách.
Long An thắng với tổng tỷ số 5-0.
Kỷ luật
Ban tổ chức giải đã ra quyết định kỷ luật (cảnh cáo hoặc trừ điểm) một số đội bóng tham dự vì nghi ngờ có sự dàn xếp tỉ số trong 5 trận đấu sau:
Bình Dương - Nam Định (0-0, vòng 13 ngày 15 tháng 4)
Công an Hà Nội - Công an Hải Phòng (0-1, vòng 14 ngày 22 tháng 4)
Bình Dương - Khánh Hoà (4-4, vòng 15 ngày 29 tháng 4)
Khánh Hoà - Công an Hải Phòng (1-1, vòng 26 ngày 14 tháng 6)
Câu lạc bộ Quân đội - Hải Quan (2-2, vòng 26 ngày 14 tháng 6). |
Giải bóng đá Hạng Nhất quốc gia 1999–2000 là mùa giải thứ 17 của Giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam và là mùa giải thứ ba dưới tên gọi Giải bóng đá Hạng Nhất quốc gia. Giải đấu khởi tranh vào ngày 24 tháng 10 năm 1999 và kết thúc vào ngày 7 tháng 5 năm 2000 với 14 đội bóng tham dự. Đây cũng là mùa giải cuối cùng nhằm xác định 10 đội bóng sẽ thi đấu tại giải vô địch quốc gia chuyên nghiệp vào năm sau; 4 đội xếp cuối bảng sẽ tiếp tục chơi ở giải hạng Nhất.
Sông Lam Nghệ An giành chức vô địch trước 1 vòng đấu do hơn đội nhì bảng Công an Thành phố Hồ Chí Minh 4 điểm trước khi lượt đấu cuối diễn ra. Do cuối mùa giải Vĩnh Long bị kỷ luật và giáng xuống hạng Nhì, chỉ có 3 đội Đà Nẵng, Long An và Lâm Đồng ở lại hạng Nhất.
Thay đổi trước mùa giải
Thay đổi đội bóng
Đến giải Hạng Nhất
Thăng hạng từ giải Hạng Nhì 1998
Vĩnh Long
Thừa Thiên Huế
Đà Nẵng
Rời giải Hạng Nhất
Xuống hạng đến giải Hạng Nhì 1999–2000
Hải Quan
Bình Dương
Bình Định
Các đội bóng
Sân vận động
Nhân sự, nhà tài trợ và áo đấu
Thay đổi huấn luyện viên
Tóm tắt mùa giải
Bảng xếp hạng
Lịch thi đấu và kết quả
Lịch thi đấu
Vòng 1
Vòng 2
Vòng 3
Vòng 4
Vòng 5
Vòng 6
Vòng 7
Vòng 8
Vòng 9
Vòng 10
Vòng 11
Vòng 12
Vòng 13
Vòng 14
Vòng 15
Vòng 16
Vòng 17
Vòng 18
Vòng 19
Vòng 20
Vòng 21
Vòng 22
Vòng 23
Vòng 24
Vòng 25
Vòng 26
Tóm tắt kết quả thi đấu
Thống kê mùa giải
Theo cầu thủ
Cầu thủ ghi bàn hàng đầu
Dưới đây là danh sách cầu thủ ghi bàn của giải đấu.
Bàn phản lưới nhà
Ghi hat-trick
Kỷ lục
Thẻ vàng nhanh nhất: Nguyễn Liêm Thanh (Công an Thành phố Hồ Chí Minh), giây thứ nhất trong trận gặp Thể Công vòng 13.
Đội bóng nhận nhiều thẻ vàng nhất trong một trận: Nam Định - 7 thẻ vàng trong trận gặp Đà Nẵng.
Các giải thưởng
Giải thưởng tháng
Bắt đầu từ mùa giải này, ban tổ chức sẽ trao các giải thưởng dành cho cầu thủ, thủ môn, hậu vệ, huấn luyện viên xuất sắc nhất và bàn thắng đẹp nhất mỗi tháng.
Giải thưởng chung cuộc
Vua phá lưới: Văn Sỹ Thủy (Sông Lam Nghệ An) - 15 bàn
Cầu thủ xuất sắc nhất: Lê Huỳnh Ðức (Công an TP Hồ Chí Minh)
Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất: Phạm Hùng Dũng (Đà Nẵng)
Thủ môn xuất sắc nhất: Võ Văn Hạnh (Sông Lam Nghệ An)
Huấn luyện viên xuất sắc nhất: Nguyễn Thành Vinh (Sông Lam Nghệ An)
Bàn thắng đẹp nhất: Nguyễn Hồng Sơn (Thể Công)
Trọng tài trẻ xuất sắc nhất: Võ Minh Trí
Đội hình tiêu biểu:
Chú thích
Ghi chú |
Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Chuyên nghiệp 2000–01, tên gọi chính thức là Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Chuyên nghiệp Strata 2000–01 hay Strata V-League 2000–01 vì lý do tài trợ, là mùa giải thứ 18 của Giải bóng đá Vô địch Quốc gia và là mùa giải đầu tiên bóng đá Việt Nam chuyển sang cơ chế chuyên nghiệp. Giải khởi tranh vào ngày 3 tháng 12 năm 2000 và kết thúc vào ngày 27 tháng 5 năm 2001 với 10 đội bóng tham dự. Các đội thi đấu vòng tròn 2 lượt theo thể thức sân nhà - sân khách để xác định thứ hạng; hai đội xếp cuối bảng xuống thi đấu ở giải Hạng Nhất mùa sau.
Mùa giải lần này có một số thay đổi quan trọng, trong đó có việc các đội được phép sử dụng cầu thủ nước ngoài để thi đấu trong giải.
Sông Lam Nghệ An đã giành được chức vô địch nhờ chiến thắng trước Công an Thành phố Hồ Chí Minh trong khi đối thủ cạnh tranh trực tiếp, Nam Định bị Cảng Sài Gòn đánh bại ở lượt trận cuối.
Thay đổi trước mùa giải
Thay đổi đội bóng
Giải thường
Đội vô địch mùa giải này sẽ nhận được giải thưởng tiền mặt trị giá 1 tỷ đồng. Đội á quân nhận được 500 triệu đồng và đội hạng ba nhận được 250 triệu đồng.
Các đội bóng
Sân vận động
Nhân sự, nhà tài trợ và áo đấu
Thay đổi huấn luyện viên
Cầu thủ nước ngoài
Thể Công và Công an Hà Nội là hai đội bóng không sử dụng cầu thủ nước ngoài cho mùa giải này. In đậm cho biết tên cầu thủ được đăng ký chuyển nhượng giữa mùa.
Bảng xếp hạng
Lịch thi đấu và kết quả
Kết quả chi tiết
Tóm tắt kết quả
Tiến trình mùa giải
Vị trí các đội qua các vòng đấu
Thống kê mùa giải
Theo câu lạc bộ
Theo cầu thủ
Cầu thủ ghi bàn hàng đầu
Dưới đây là danh sách những cầu thủ ghi bàn của giải đấu.
Bàn phản lưới nhà
Ghi hat-trick
Kỷ luật
Nhận nhiều thẻ vàng nhất: Anh Tuấn (Thể Công) và Văn Tuấn (Cảng Sài Gòn) - 6 thẻ.
Thẻ vàng đầu tiên của giải: Đình Nghiêm (Đồng Tháp), phút thứ 5 trận gặp Nam Định vòng 1, ngày 3 tháng 12 năm 2000.
Thẻ vàng nhanh nhất: Vũ Như Thành (Thể Công), phút thứ 3 trận gặp Sông Lam Nghệ An vòng 3, ngày 17 tháng 12 năm 2000.
Kỷ lục
Bàn thắng sớm nhất: Nguyễn Thành Thắng (Công an Hải Phòng), phút thứ nhất trận gặp Công an Hà Nội ở vòng 10.
Bàn thắng muộn nhất: Đặng Phương Nam (Thể Công), phút thứ 94 trận gặp Đồng Tháp ở vòng 18.
Trận đấu nhiều khán giả nhất: Đồng Tháp gặp Công an Thành phố Hồ Chí Minh (vòng 15) - 22.000 người.
Trận đấu ít khán giả nhất: Cảng Sài Gòn gặp Khánh Hòa (vòng 15) và Khánh Hòa gặp Công an Hà Nội (vòng 18) - 2.000 người.
Vòng đấu nhiều khán giả nhất: Vòng 1 (70.000 người).
Vòng đấu ít khán giả nhất: Vòng 17 (35.000 người).
Đội thay huấn luyện viên nhiều nhất: Công an Thành phố Hồ Chí Minh và Khánh Hòa - mỗi đội 3 lần.
Các giải thưởng
Giải thưởng tháng
Thành tích thi đấu tại hai giải Chuyên nghiệp và Cúp Quốc gia sẽ được xét đến để trao các danh hiệu tháng.
Giải thưởng chung cuộc
Cầu thủ xuất sắc nhất: Nguyễn Hồng Sơn (Thể Công)
Thủ môn xuất sắc nhất: Đỗ Thành Tôn (Công an Hà Nội)
Hậu vệ xuất sắc nhất: Phạm Minh Đức (Công an Hà Nội)
Cầu thủ trẻ tiến bộ nhất: Thạch Bảo Khanh (Thể Công)
Bàn thắng đẹp nhất: Trần Công Minh (Đồng Tháp), ghi trong trận đấu giữa Đồng Tháp và Công an Hải Phòng ở vòng 5, ngày 31 tháng 12 năm 2000.
Giải phong cách: Cảng Sài Gòn
Đội hình tiêu biểu: |
Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Chuyên nghiệp 2001–02, tên gọi chính thức là Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Chuyên nghiệp Strata 2001–02 hay Strata V-League 2001–02 vì lý do tài trợ, là mùa giải thứ 19 của Giải bóng đá Vô địch Quốc gia và là mùa giải chuyên nghiệp thứ hai của V-League. Giải đấu khởi tranh vào ngày 2 tháng 12 năm 2001 và kết thúc vào ngày 12 tháng 5 năm 2002 với 10 câu lạc bộ tham dự.
Đây là mùa giải thứ 2 của V-League sử dụng thể thức thi đấu 2 năm, từ cuối năm trước đến giữa năm tiếp theo. Đến 22 năm sau (mùa giải 2023–24), giải đấu áp dụng trở lại thể thức này.
Thay đổi trước mùa giải
Thay đổi đội bóng
Các đội bóng
Sân vận động
Nhân sự, nhà tài trợ và áo đấu
Thay đổi huấn luyện viên
Cầu thủ nước ngoài
Thể Công là đội duy nhất trong số 10 đội tham dự mùa giải này không sử dụng ngoai binh. In đậm cho biết tên cầu thủ đã được đăng ký chuyển nhượng giữa mùa.
Bảng xếp hạng
Lịch thi đấu và kết quả
Tiến trình mùa giải
Vị trí các đội qua các vòng đấu
Play-off
Trận play-off diễn ra giữa đội xếp thứ 9 giải chuyên nghiệp và đội xếp thứ 4 giải Hạng Nhất.
LG Hà Nội ACB lên hạng nhờ luật bàn thắng vàng.
Thống kê mùa giải
Theo cầu thủ
Cầu thủ ghi bàn hàng đầu
Ghi hat-trick
Các giải thưởng
Giải thưởng tháng
Thành tích tại hai giải Chuyên nghiệp và Cúp Quốc gia được xét đến để trao giải thưởng tháng.
Giải thưởng chung cuộc |
Trong mạng máy tính, điều khiển lưu lượng (tiếng Anh: flow control) là quy trình quản lý số khung truyền dữ liệu giữa hai đầu kết nối của mạng lưới. Chúng ta cần phân biệt khái niệm này với khống chế tắc nghẽn (congestion control) - điều khiển luồng dữ liệu khi tắc nghẽn đã xảy ra . Các cơ chế điều khiển lưu lượng có thể được phân loại tùy theo việc máy nhận có gửi thông tin phản hồi (feedback) lại cho máy gửi hay không.
Điều khiển lưu lượng có vai trò quan trọng, vì tình trạng một máy tính gửi thông tin tới một máy tính khác, với một tốc độ cao hơn tốc độ mà máy tính đích có thể nhận và xử lý có thể xảy ra. Tình huống này có thể xảy ra nếu các máy tính nhận phải chịu tải giao thông về dữ liệu cao hơn máy tính nhận, hoặc nếu máy tính nhận có năng lực xử lý kém hơn máy tính gửi.
Điều khiển lưu lượng truyền
Điều khiển lưu lượng truyền được áp dụng khi dữ liệu được truyền từ thiết bị đầu cuối (terminal equipment - DTE) sang một trung tâm chuyển mạch (switching center) nào đấy, hoặc được truyền thông giữa hai thiết bị DTE với nhau. Tần số truyền tin phải được khống chế vì các yêu cầu của mạng lưới hoặc của các thiết bị truyền tin (DTE).
Điều khiển lưu lượng truyền có thể được áp dụng biệt lập trên mỗi chiều mà tín hiệu được truyền thông, cho phép tần số truyền tin trên mỗi chiều khác nhau. Phương pháp điều khiển lưu lượng truyền có hai cách, hoặc là dùng chế độ "ngưng-và-truyền" (stop-and-go) hoặc dùng hình thức cửa sổ di động (sliding window).
Điều khiển lưu lượng truyền có thể được thực hiện thông qua các đường điều khiển trong một giao diện truyền thông dữ liệu (xem cổng serial (serial port) và RS 232), hoặc bằng cách dành riêng một số ký hiệu cho việc điều khiển (in-band control characters) nhằm báo hiệu cho lưu lượng truyền bắt đầu hoặc ngừng lại (chẳng hạn các mã ASCII cho giao thức XON/XOFF). Các đường điều khiển thông dụng của RS 232 bao gồm
RTS (Request To Send - Máy địa phương sẵn sàng nhận dữ liệu, yêu cầu gửi dữ liệu sang).
CTS (Clear To Send - Máy ở xa sẵn sàng nhận dữ liệu).
DSR (Data Set Ready - Bộ điều chế dữ liệu (như modem) sẵn sàng để liên lạc (gọi hoặc nhận cuộc gọi) với máy ở xa.
DTR (Data Terminal Ready - Thiết bị nhận dữ liệu tại địa phương (như PC) sẵn sàng nhận dữ liệu, cho phép bộ điều chế dữ liệu (modem) liên lạc (gọi hoặc nhận cuộc gọi) với máy ở xa.
Phương pháp điều khiển trên thường được gọi là "điều khiển lưu lượng bằng phần cứng" (hardware flow control). Còn XON/XOFF thường được coi là "điều khiển lưu lượng bằng phần mềm" (software flow control).
Điều khiển lưu lượng mạch vòng mở
Cơ chế điều khiển lưu lượng mạch vòng mở (Open-loop flow control) có đặc điểm là nó không có thông tin phản hồi giữa máy nhận và máy truyền tin. Phương pháp điều khiển truyền thông đơn giản này được sử dụng rộng rãi. Việc bố trí tài nguyên phải theo kiểu "đặt chỗ trước" (prior reservation) hoặc "từ nút tới nút" (hop-to-hop). Điều khiển lưu lượng mạch vòng mở có một số vấn đề cố hữu về việc cố gắng sử dụng tối đa tài nguyên trong mạng ATM. Việc cấp phát tài nguyên - như dung lượng bộ nhớ dùng làm bộ đệm chứa dữ liệu chẳng hạn - được thực hiện khi thiết lập kết nối bằng CAC (Connection Admission Control - điều khiển đầu vào dành cho mạng ATM). Việc cấp phát này được tiến hành dựa trên những thông tin mà khi kết nối hoạt động thì các thông tin này đã trở nên cũ. Thường thì dung lượng tài nguyên được cấp phát vượt quá mức độ cần thiết. Điều khiển lưu lượng mạch vòng mở được sử dụng trong các dịch vụ CBR (Constant Bit Rate - Tần số bit bất biến), VBR (Variable Bit Rate - Tần số bit thay đổi) và UBR (Unspecified Bit Rate - Tần số bit không xác định) (Xem thêm hợp đồng giao thông (traffic contract) và khống chế tắc nghẽn (congestion control))
.
Điều khiển lưu lượng mạch vòng kín
Cơ chế điều khiển lưu lượng mạch vòng kín (Closed-loop flow control) có đặc điểm là mạng có khả năng thông báo lại sự tắc nghẽn còn tồn đọng trong mạng cho máy truyền tin. Máy truyền tin dùng thông tin này dưới nhiều hình thức để điều chỉnh hoạt động của nó cho thích ứng với các điều kiện hiện tại của mạng. Điều khiển lưu lượng mạch vòng kín được dùng trong các dịch vụ ABR (Available Bit Rate - Tần số bit khả dụng) (Xem thêm hợp đồng giao thông (traffic contract) và khống chế tắc nghẽn (congestion control)).
. |
Mošovce là một trong những làng lớn nhất vùng Turiec của Slovakia.
Lịch sử
Đây là vùng có nhiều toà nhà cổ trong 770 năm tuổi của vùng được bảo tồn. Vùng này được nhắc đến đầu tiên trong chứng thư của vua András II của Hungary. Lúc đầu gồm hai khu định cư: một là Machyuch nằm trong khu Starý Rad ngày nay và hai là Terra Moys (từ đó đã thành tên ngôi làng) ở vị trí của Vidrmoch ngày nay. Tên của khu vực thứ hai, với nghĩa "Đất của Mojš", đã khiến chúng ta tin rằng cả ngôi làng từng thuộc về một ông Mojs nào đó. Cái tên này có thể là một cái tên viết tắt của tên Mojtech của người Slav, tương tự như các tên Vojtech hay Mojmír. Ngôi làng từng mang nhiều tên khác nhau suốt lịch sử từ Mossovych, Mosocz, Mossowecz, villa regia Mayos alio nomine Mossovych, oppidioum Mayus sue Mosocz, Mosocz olim Mayus cho đến tên ngày nay là Mošovce. Tên gọi của một khu vực cổ kính riêng biệt của Mošovce, khu định cư Chornukov, đã được bảo tồn cho đến nay với tên gọi Čerňakov.
Mošovce lúc đầu là một khu định cư thuộc hoàng gia. Đến giữa thế kỷ 14 được trở thành một thị trấn đặc quyền dưới quyền điều khiển từ lâu đài hoàng gia tại Blatnica. Năm 1527 nó đã rơi vào tay của dòng họ Révay gồm những kẻ đã đàn áp các đặc quyền của Mošovce suốt gần 400 năm.
Trong quá khứ Mošovce là trung tâm thủ công nghiệp quan trọng của vùng Turiec. Thủ công nghiệp đã mở rộng một cách đáng kinh ngạc. Đã có khoảng 15 phường hội hoạt động trong thành thị. Phường làm giày và nổi tiếng nhất là phường buôn lông thú là những phường tồn tại lâu nhất. Mošovce ngày nay có thể được khắc hoạ như một điểm du lịch quan trọng với nhiều thắng cảnh đẹp.
Thắng cảnh
Một trong những di tích tuyệt vời nhất là ngôi nhà Manor House (thái ấp) với kiến trúc Rococo-Cổ điển được xây từ nửa cuối thế kỷ thứ 18 và với một công viên kiểu Anh rất rộng. Những địa điểm khác trong thị trấn gồm: nơi sinh của Ján Kollár, một nhà thờ Công giáo với kiến trúc Tân Gothic với bệ thờ rất giá trị được xây trên nền đất cổ, một nhà thờ Luther xây từ năm 1784, một lăng mộ nay trở thành bảo tàng thủ công mỹ nghệ và một nhà kính vơí kiến trúc Art-Nouveau, và lều vải được xây từ năm 1800.
Phong cảnh tự nhiên
Môi trường xung quanh Mošovce quả là có một không hai. Một loạt các đại lộ lịch sử có cây và các khu rừng nhỏ tạo nên một phong cảnh đẹp và đây ấn tượng gần vùng núi Veľká Fatra, một trong những dãy núi hấp dẫn nhất của Slovakia. Đá vôi cùng những khoáng chất dolomite mang hình thù tưởng tượng, cũng như vẻ đẹp tự nhiên của Blatnická và của thung lũng Gaderská gần đó, cuốn hút rất nhiều người từ mọi miền trên thế giới.
Văn hoá và truyền thống
Mošovce là quê hương của nhiều nhân vật nổi tiếng. Những vĩ nhân phải kể đến như nhà soạn nhạc Frico Kafenda (1883-1963), nhà văn Anna Lacková-Zora (1899-1988), nhà phê bình văn học đồng thời là nhà lịch sử học và nhà thơ Štefan Krčméry (1892-1955), nhà viết kịch Barôc Júr Tesák Mošovský và người thiết lập các đội cứu hoả đầu tiên của Slovakia Miloslav Schmidt.
Tuy nhiên, người quan trọng nhất sinh ra tại Mošovce có lẽ là nhà thơ người Slav, nhà triết học và nhà thuyết giáo Ján Kollár (1793–1852), người có ảnh hưởng lớn đến văn học của ít nhất hai quốc gia với bài thơ Slávy Dcera (Người con gái Slovan). Tác phẩm của ông được xem là nền tảng và động cơ cho những nhà ái quốc và những nhà hoạt động xã hội. Nó đã được dịch ra nhiều thứ tiếng thuộc nhóm ngôn ngữ gốc Slav cũng như các ngôn ngữ khác. |
LogMeIn Hamachi là một hệ thống VPN (Virtual Private Network - Mạng riêng ảo) sử dụng giao thức UDP với kiến trúc bảo mật mở.
Mỗi máy tính kết nối vào mạng Hamachi lần đầu sẽ được gán cho một ID; một máy chủ sẽ có nhiệm vụ dẫn đường cho các máy khách kết nối được với nhau, tạo thành một mạng LAN ảo qua Internet. Sau khi đã kết nối, các máy khách không cần thêm sự hỗ trợ nào khác từ máy chủ Hamachi nữa.
Mỗi mạng trong Hamachi chính là một mạng LAN ảo, với tên và mật khẩu khác nhau. Sau khi gia nhập vào mạng bạn có thể kết nối, chia sẻ dữ liệu với các máy tính khác cùng ở trong mạng.
Hamachi đã thu hút đông đảo người dùng trong việc chia sẻ dữ liệu qua mạng, nhất là để tạo ra các phòng game ảo trên Internet.
Cho đến tháng 3 năm 2007 Hamachi đã cấm một số IP đến từ Việt Nam. Nguyên nhân có thể do lượng kết nối đến quá nhiều trong khi dải IP quá hạn chế khiến cho máy chủ lầm tưởng bị spam. |
Hamachi có thể là:
Ông Kazuki Hamachi: người đứng đầu diễn đàn công nghiệp nguyên tử Nhật Bản.
Phần mềm Hamachi: Phần mềm tạo mạng LAN ảo qua Internet
Tên gọi Nhật Bản của Cá cam |
Giả Tịnh Văn (sinh ngày 7 tháng 10 năm 1974) là nữ diễn viên truyền hình Đài Loan được biết đến nhiều nhất với vai Triệu Mẫn trong phim truyền hình Ỷ thiên đồ long ký năm 2003.
Tiểu sử
Giả Tịnh Văn sinh ra tại Đài Bắc, Đài Loan, quê gốc ở Thiên Tân trong gia đình còn có em trai và em gái. Vì là chị cả nên cô được giáo dục rất nghiêm khắc như một cậu con trai. Cha của Gia Tịnh Văn là doanh nhân. Từ khi cô còn nhỏ, gia đình đã mở nhà hàng kinh doanh ăn uống có tên "天津卫" nên phần lớn thời thơ ấu của cô gắn liền với nhà hàng. Chuỗi nhà hàng của gia đình cô rất nổi tiếng tại địa phương nên Giả Tịnh Văn từ nhỏ đã có cơ hội gặp mặt rất nhiều ngôi sao nổi tiếng ghé thăm nhà hàng như Thành Long, Lâm Thanh Hà, được nữ diễn viên Đài Loan Điềm Nữu (恬妞) gửi tặng ảnh có kèm chữ ký.
Năm 15 tuổi, khi học năm thứ 3 sơ trung, Giả Tịnh Văn được phát hiện và mời tham gia đóng quảng cáo thương mại đầu tiên. Sau đó, cô tiếp tục xuất hiện nhiều hơn với vai trò người mẫu quảng cáo. Lên bậc cao trung, cô theo học lớp diễn xuất của trường nghệ thuật Hoa Cương (Taipei Hwa Kang Arts School) trong 2 năm. Do cha cô mở rộng công việc kinh doanh tại Đại lục nên ngay lập tức Giả Tịnh Văn quyết định đi theo phụ giúp. Năm 1993, Giả Tịnh Văn ghi danh ở khoa nghệ thuật phương Đông của Đại học Nam Khai Thiên Tân (Nankai University). Cô yêu thích và chú tâm ghi chép nhất trong các giờ văn học và hội họa cổ điển Trung Hoa. Cùng năm đó, cô được nhận vào Học viện Điện ảnh Bắc Kinh.
Không may công việc kinh doanh của cha cô thất bại nên buộc Giả Tịnh Văn phải bỏ dở việc học và quay lại Đài Loan gánh vác món nợ cho gia đình.
Đời tư
Năm 2005, Giả Tịnh Văn và doanh nhân Tôn Chí Hạo (孫志浩) kết hôn. Ngày 19 tháng 6 năm 2005, cô sinh con gái Tôn Linh Xuyến (孫翎茜) đặt tên thân mật là bé Ngô Đồng (梧桐妹). Ngày 3 tháng 4 năm 2009, cặp đôi nộp đơn ly dị. Ngày 12 tháng 7 năm 2010, cả hai chính thức ly dị.
Trong buổi phỏng vấn với kênh giải trí NetEase (網易娛樂), Giả Tịnh Văn chia sẻ về tình yêu với nam diễn viên Tu Kiệt Khải (修杰楷) kém tuổi, cô cho biết chuyện tình cảm hãy để thuận theo tự nhiên. Về việc bạn trai mới sẽ tương tác với con riêng, Giả Tịnh Văn tiết lộ con gái đã chấp nhân bạn trai mới của mẹ:"Ở thời điểm hiện tại mọi chuyện khá tốt". Tu Kiệt Khải thông qua trang Facebook cá nhân xác nhận Giả Tịnh Văn đang mang thai ở tuổi 40. Cặp đôi kết hôn tại Nhật Bản và em bé được dự kiến sinh sau khi Tu Kiệt Khải kết thúc nghĩa vụ quân sự.
Ngày 14 tháng 8 năm 2015, Giả Tịnh Văn sinh con gái Tu Doãn Phi (修允菲) có tên thân mật là BooBoo (咘咘). Ngày 28 tháng 11 năm 2016, Giả Tịnh Văn tuyên bố đang mang thai lần 3.
Danh sách phim
Phim truyền hình
Những mảnh vỡ của ký ức cô (2022)
Mẹ, đừng làm vậy! (2022)
The world between us (2019)
Tội nhân vô định (2019)
Năm Thành Hoá thứ mười bốn (2020)
Trường săn (2017)
Thái Bình Công chúa bí sử (2012)
Tiễn Ái (2009)
Vô Gian Hữu Ái (2009)
Tấn Dương Lão Thố Phường (2009)
Khúc hát bi thương (2006)
Cô Dâu Thứ 100 (2005)
Tân Vương Lý Thế Dân (2004)
Thần Y Hiệp Lữ (2004)
Rẽ Trái Rẽ Phải (2003)
Chí Tôn Hồng Nhan (2003)
Ỷ Thiên Đồ Long Ký (2003)
Tiếng sét ái tình (2003)
Song Long Hội (2002)
Hán Vũ Đế (2001)
Phi Long Tại Thiên (2000)
Tôi muốn nỗ lực thành người tốt (2000)
Trường Nam Của Tức Phụ (2000)
Thất Thế Phu Thê (1999)
Tiểu Lý Phi Đao (1999)
Đa Tình Đao Khách Vô Tình Đao (1999)
Cố Sự Nữ Nhân 3 (1999)
Tay Của Tôi Bị Trói (1996)
Bích Hải Minh Nguyệt Tâm (1996)
Tân Long Môn Khách sạn (1996)
Hồng Mai Các (1996)
Tam Quốc Anh Hùng Truyện (1996)
Tình ái Hồng Trần (1995)
Hoa Thủy Tinh (1995)
Cha Tôi Là Bá Chủ (1994)
Năm Đó Chúng Ta Đều Ác (1994)
My Family Is Natrium Sang Magu (1992)
Hữu Lương Hữu Noãn Để Quý Tiết (1992)
Mẫu Kê Đai Tiểu Áp (1992)
Trường Hoa Treo Tường (1991)
Giai Gia Phúc (1990)
Phim điện ảnh
Dòng thác (2021)
Chân Tình Cuồng Ái (1998) vai Tiểu Lan
Ác Nữ Liệt Truyện (1998) vai Tiểu Lục
Nhân dân Phúc Thành (1998) vai Niên Khinh Từ Mẫu
Đội phi hổ vai madam cường |
Ỷ Thiên Đồ Long Ký (tiếng Hoa: 倚天屠龙记 Yi Tian Tu Long Ji; tiếng Anh: The Heavenly Sword and Dragon Saber) là một bộ 40 tập phim được sản xuất năm 2003 bởi Công ty sản xuất âm thanh trung tâm Á Châu Bắc Kinh, hãng TCS (Đài Loan) sản xuất và hãng Mediacorp của Singapore. Phim là sự hợp tác của 3 hãng phim của 3 quốc gia: Đài Loan, Trung Quốc và Singapore.
Tóm tắt nội dung phim
Bối cảnh bộ phim diễn ra vào cuối đời Nguyên. Lúc bấy giờ, trong giới võ lâm lan truyền rằng nếu ai giữ được Đồ Long đao thì sẽ được làm bá chủ. Chính vì thế mà dẫn đến cuộc tranh giành Đồ Long đao
Các phái võ lâm ra sức truy lùng báu vật này, bất chấp thủ đoạn. Thành Côn - một đệ tử giả mạo của phái Thiếu Lâm ra tay sát hại cả gia đình Tạ Tốn dẫn đến việc giang hồ trở nên đầy sóng gió.
Nhân vật chính trong phim là Trương Vô Kỵ, con của ngũ hiệp Trương Thúy Sơn một đệ tử phái Võ Đang và Ân Tố Tố con gái của Bạch Mi Ân Vương của Minh giáo, nhưng sớm mồ côi cả cha lẫn mẹ, lại bị Huyền Minh nhị lão hạ độc. Cậu được tổ sư phái Võ Đang Trương Tam Phong đem gửi vào Thiếu Lâm tự để chữa trị nhưng bị từ chối, sau đó qua một sự kiện cậu được dẫn đến Hồ Điệp Cốc để trị thương.
Với bản tính kiên nhẫn, thật thà chất phác, Trương Vô Kỵ học được y thuật cao siêu, lấy được pho Cửu dương thần công quý giá và giải trừ được âm độc, đồng thời học được càn khôn đại na di. Sau khi dùng võ công siêu phàm của mình hóa giải trận quyết chiến võ lâm trên đỉnh Quang Minh và trở thành giáo chủ Minh giáo. Tuy nhiên trong tình cảm, chàng lại do dự mãi giữa tình yêu của quận chúa Mông Cổ Triệu Mẫn và chưởng môn phái Nga Mi Chu Chỉ Nhược...tuy nhiên sau cùng chàng đã chọn Triệu Mẫn.
Diễn viên
Tô Hữu Bằng vai Trương Thúy Sơn và Trương Vô Kỵ
Thích Tiểu Long vai Trương Vô Kỵ lúc nhỏ
Giả Tịnh Văn vai Triệu Mẫn
Cao Viên Viên vai Chu Chỉ Nhược
Trương Thiết Lâm vai Dương Tiêu
Viên Uyển vai Phạm Dao
Quách Phi Lệ vai Ân Tố Tố
Trần Tử Hàm vai Ân Ly (Thù Nhi)
Trần Tú Lệ vai Tiểu Chiêu
Bảo Dật Lâm vai Dương Bất Hối
Trương Ý Tịnh vai Dương Bất Hối lúc nhỏ
Từ Cẩm Giang vai Tạ Tốn
Cơ Kỳ Lân vai Ân Thiên Chính
Trương Quốc Lập vai Thành Côn (Viên Chân)
Vương Cương vai Thất vương gia
Vương Cương (khác) vai Tống Viễn Kiều
Lý Tiến Vinh vai Du Liên Châu
Hàn Phu Nhất vai Ân Lê Đình
Đào Hồng vai Kỷ Hiểu Phù
Lâm Tĩnh vai Đinh Mẫn Quân
Diêm Thanh Dư vai Kim Hoa bà bà
Nghiêm Mẫn Cừu vai Diệt Tuyệt sư thái
Lương Thiên vai Hồ Thanh Ngưu
Đổng Hiểu Yến vai Vương Nạn Cô
Thẩm Bảo Bình vai Hà Thái Xung
Phó Hưởng vai Thường Ngộ Xuân
Hách Bách Kiệt vai Vệ Bích
Lý Khánh Tường vai Chu Trường Linh
Hồ Tiểu Nhiễm vai Hoàng Sam Nữ Tử
Nhận xét
Được coi là bản phim với nhiều ngôi sao tên tuổi nhất. Dàn diễn viên trẻ đẹp nổi tiếng đến từ ba vùng đất Trung Hoa như Trương Vô Kỵ do Tô Hữu Bằng thể hiện; công chúa Mông Cổ Triệu Mẫn do diễn viên Đài Loan là Giả Tịnh Văn thể hiện; Cao Viên Viên - nữ diễn viên mệnh danh "ngọc nữ" của màn ảnh Trung Quốc nhận vai Chu Chỉ Nhược; Tiểu Chiêu do nữ diễn viên hãng phim Singapore là Trần Tú Lệ (quốc tịch Malaysia) thể hiện; Ân Tố Tố do nữ diễn viên hãng phim Singapore là Quách Phi Lệ thể hiện. Không chỉ vai chính, mà các vai phụ cũng đều là tên tuổi lớn như Đào Hồng, Từ Cẩm Giang, Thích Tiểu Long, Trương Thiết Lâm, Trương Quốc Lập, Vương Cương…
Thông tin thêm
Diễn viên Trần Sa Sa (sau đổi thành Trần Tử Hàm) đóng vai Ân Ly trong phim này cũng là người đóng vai Quách Phù trong Thần điêu đại hiệp (2006)
Diễn viên Từ Cẩm Giang đóng vai Tạ Tốn trong phim này cũng là người đóng vai Ngao Bái trong ba phiên bản Lộc Đỉnh ký 1992, Tiểu Bảo và Khang Hy 2000 và Lộc Đỉnh ký 2008; vai Ôn Phương Đạt trong Tân Bích huyết kiếm 1993; vai Âu Dương Phong trong Anh hùng xạ điêu (2008).
Diễn viên Giả Tịnh Văn đóng vai Triệu Mẫn trong phim này đã ủng hộ nữ diễn viên Đài Loan An Dĩ Hiên, người đóng vai Triệu Mẫn trong Ỷ Thiên Đồ Long ký (2009).
Diễn viên Cơ Kỳ Lân đóng vai Ân Thiên Chính trong phim này cũng là người đóng vai Vương Trùng Dương trong Anh hùng xạ điêu 2008.
Diễn viên Trần Tú Lệ đóng vai Tiểu Chiêu trong phim này từng đóng vai Quách Phù trong Thần điêu hiệp lữ 1998 (bản Singapore), vai Lam Phượng Hoàng trong Tiếu ngạo giang hồ 2000 (bản Singapore), sau này cô đóng vai Cam Bảo Bảo trong Thiên long bát bộ 2013 - 2014.
Phát sóng
Chú thích |
Song Long Hội (tiếng Hoa: 双龙会 Shuang Long Hui; tiếng Anh: Double Dragons) là một tập 30 phim được sản xuất năm 2002.
Tóm tắt phim
Bộ phim lấy bối cảnh thời vua Càn Long (Trương Thiết Lâm thủ vai) của triều đại nhà Thanh. Để bảo vệ nền thái bình của đất nước, vua Càn Long đã không ngần ngại phái người có tướng mạo giống vua là Hồng Lập (Trương Quốc Lập thủ vai) thay mặt ông xử lý việc triều chính, còn ông thì giả dạng thường dân đi thị sát dân tình.
Song Long Hội thật giả khó phân, tạo ra nhiều tình tiết ly kỳ hấp dẫn.
Diễn viên
Trương Thiết Lâm vai Càn Long
Trương Quốc Lập vai Hồng Lập
Vương Cương vai Hòa Thân
Đặng Tiệp vai Đại Mai
Giả Tịnh Văn vai Thanh Đình
Ngô Thần Quân vai Viên Minh Anh |
Khu chế xuất là khu công nghiệp đặc biệt chỉ dành cho việc sản xuất, chế biến những sản phẩm để xuất khẩu ra nước ngoài hoặc dành cho các loại doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ liên quan đến hoạt động xuất-nhập khẩu tại khu vực đó với các ưu đãi về các mức thuế xuất-nhập khẩu hay các ưu đãi về giá cả thuê mướn mặt bằng sản xuất, thuế thu nhập cũng như cắt giảm tối thiểu các thủ tục hành chính. Khu chế xuất có vị trí, ranh giới được xác định từ trước, có các cơ sở hạ tầng như điện, nước, đường giao thông nội khu sẵn có và không có dân cư sinh sống. Điều hành, quản lý hoạt động chung của khu chế xuất thường do một Ban quản lý khu chế xuất điều hành.
Mục tiêu
Mục đích chính của nó là để nâng cao kim ngạch xuất khẩu của các nước đang phát triên, bù đắp bớt một phần thâm hụt trong cán cân thanh toán. Nó còn có mục đích là thu hút vốn đầu tư nhằm giải quyết công ăn việc làm cho lực lượng lao động còn khá dồi dào vào các ngành nghề với định hướng xuất khẩu.
Quản lý xuất-nhập khẩu
Quan hệ trao đổi hàng hoá giữa các doanh nghiệp ngoài khu chế xuất với các doanh nghiệp chế xuất được coi là quan hệ xuất khẩu-nhập khẩu, nên phải thực hiện các quy định của pháp luật về xuất khẩu- nhập khẩu hàng hoá nói chung và phải khai báo, làm thủ tục hải quan.
Khu chế xuất và khu kinh tế mở
Ở nhiều khía cạnh, các khu chế xuất gần giống như các khu kinh tế mở, do đều là các ưu đãi nhất định nhằm mục tiêu phát triển kinh tế của quốc gia. Tuy nhiên, chúng không hoàn toàn giống nhau như nhiều người vẫn lầm tưởng. Khu chế xuất nhằm mục tiêu chính là xuất khẩu, trong khi khu kinh tế mở không những nhằm mục tiêu xuất khẩu mà còn tạo các điều kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp với định hướng vào thị trường nội địa. Nói chung, các khu kinh tế mở thường hay được lập ra tại các khu vực ít thuận lợi nhất nhằm mở mang, phát triển kinh tế tại khu vực đó, còn các khu chế xuất thường nằm tại các khu vực thuận tiện cho xuất-nhập khẩu, tức là gần với cảng hàng không hay cảng biển.
Hiện tại
Năm 2002 có khoảng 43 triệu người làm việc trong khoảng 3.000 khu chế xuất tại 116 quốc gia và vùng lãnh thổ. Các mặt hàng chủ lực trong các khu chế xuất hiện nay là quần áo, giày dép, đồ điện tử và đồ chơi. |
Nhà thờ Lớn Hà Nội (tên chính thức: Nhà thờ chính tòa Thánh Giuse, cũng gọi là Nhà thờ chính tòa Hà Nội) là nhà thờ chính tòa của Tổng giáo phận Hà Nội, nơi có ngai tòa của Tổng giám mục. Đây là một nhà thờ cổ kính tại thành phố này, thường xuyên diễn ra các sinh hoạt tín ngưỡng của các giáo dân Công giáo thuộc giáo xứ chính tòa cũng như của toàn tổng giáo phận. Linh mục chính xứ hiện nay là linh mục Antôn Nguyễn Văn Thắng.
Nhà thờ Lớn Hà Nội cũng là một trong những công trình kiến trúc Pháp thuộc tiêu biểu ở thành phố này.
Lịch sử
Khu đất
Theo một số tài liệu như của André Masson, sách của Louvet "La vie de Mgr. Puginier", tiểu thuyết lịch sử "Bóng nước Hồ Gươm" của Chu Thiên, các tài liệu trong Văn khố Hội Thừa sai Paris… thì khu đất này xưa kia thuộc khuôn viên của chùa Báo Thiên được xây dựng từ đời Nhà Lý. Đây là một ngôi chùa nổi tiếng tại kinh đô Đại Việt thời Lý – Trần. Sách Từ điển Đường phố Hà Nội của Đại học Hà Nội xuất bản viết: "Nền nhà thờ hiện nay nguyên là nền đất chùa Báo Thiên rất nổi tiếng, ở đây còn có một tháp gọi là tháp Báo Thiên". Sử liệu ghi nhận tháp Báo Thiên đã trải qua nhiều lần hư hại trước khi bị Vương Thông (tướng Nhà Minh) phá hủy. Tang thương ngẫu lục đầu thế kỷ 19 viết nền cũ của tháp bị đắp núi đất phủ lên, làm nơi xử tử tội nhân, còn chùa bị bỏ làm chợ, Lê Mạnh Thát phân tích đó là vào thời Lê Trung Hưng.
Theo Bùi Thiết trong Tự điển Hà Nội địa danh, chùa Báo Thiên đến cuối thế kỷ 18 đã bị phá hủy và nền chùa cũ trở thành đất họp chợ trước khi chuyển giao cho nhà thờ. Còn ông Thống sứ Bắc Kỳ Raoul Bonnal, người chứng kiến việc chuyển giao khu đất, đã viết trong cuốn Au Tonkin rằng Tổng đốc Nguyễn Hữu Độ đã cố gắng lấy lòng Giám mục bằng cách lấy lý do ngôi chùa đã đổ nát, gây nguy hiểm, và không tìm thấy hậu duệ của người thành lập ngôi chùa nên đã cho phá sập và chuyển nhượng khu đất cho nhà thờ.
Xây dựng
Trước nhà thờ tạm bằng gỗ, từ năm 1884 tới 1888, Giáo hội Công giáo tiến hành xây nhà thờ bằng gạch, tốn phí khoảng 200.000 franc Pháp. Khi đó, Giám mục xin chính quyền bảo hộ Pháp cho mở xổ số để quyên góp. Sau hai lần bị từ chối, cuối cùng ông cũng được chấp thuận mở hai đợt xổ số (đợt một năm 1883, đợt hai năm 1886), quyên góp được khoảng 30.000 franc Pháp, cộng với các nguồn tài trợ khác, đủ kinh phí hoàn thành nhà thờ.
Nhà thờ có tước hiệu là Nhà thờ Thánh Giuse (Saint Joseph). Vào năm 1678, Giáo hoàng Innôcentê XI tôn phong Thánh Giuse làm thánh quan thầy của Việt Nam. Lễ khánh thành nhà thờ được tổ chức vào dịp lễ Giáng Sinh năm Đinh Hợi (1887). Tuy vậy, chỉ từ thập niên 1920, nhà thờ chính tòa và tòa giám mục của Địa phận Tây Đàng Ngoài mới chuyển từ Sở Kiện đến vị trí ngày nay thuộc nội thành Hà Nội.
Nhà thờ hiện nay tọa lạc tại số 40 phố Nhà Chung, phường Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, nằm trên một khu đất rộng, liền kề với Tòa tổng giám mục Hà Nội, Đại chủng viện Thánh Giuse Hà Nội, Dòng Mến Thánh Giá Hà Nội, Tòa khâm sứ Hà Nội.
Kiến trúc
Nhà thờ được thiết kế theo phong cách kiến trúc Gothic trung cổ châu Âu, rất thịnh hành trong thế kỷ 12, dựa theo mẫu của Nhà thờ Đức Bà Paris với những mái vòm cuốn nhọn, hướng lên bầu trời. Vật liệu xây dựng chính của nhà thờ là gạch đất nung, tường trát bằng giấy bổi. Nhà thờ có chiều dài 64,5m, chiều rộng 20,5m và hai tháp chuông cao 31,5m với những trụ đá to nặng bốn góc. Trên đỉnh là cây thánh giá bằng đá.
Phía sảnh trong nhà thờ, có một cửa đi lớn, hai cửa nhỏ hai bên tháp. Các cửa đi và toàn bộ các cửa sổ đều cuốn nhọn theo nghệ thuật Gothique, kết hợp với các cửa cuốn nhọn là những bức tranh Thánh bằng kính màu rất đẹp và hài hòa tạo ra nguồn ánh sáng tự nhiên bên trong lòng nhà thờ. Kiến trúc Gothic của công trình cũng có sự kết hợp với kiến trúc bản địa, thể hiện ở hệ thống mái ngói đất nung bên ngoài và hệ thống chạm trổ nội thất. Khu cung thánh và các ban thờ được trang trí theo nghệ thuật dân gian truyền thống, chạm trổ hoa văn bằng gỗ sơn son thiếp vàng rất tinh vi độc đáo. Ở tòa gian chính có tượng thánh Giuse bằng đất nung cao hơn 2m.
Nhà thờ còn có một bộ chuông Tây, gồm bốn quả chuông nhỏ và một quả chuông boòng lớn, trị giá 20.000 franc Pháp thời đó. Đặc biệt là chiếc đồng hồ lớn gắn giữa mặt tiền nhà thờ. Đồng hồ có báo khắc, báo giờ, hệ thống chuông báo được liên kết với 5 quả chuông treo trên hai tháp.
Trung tâm quảng trường phía trước nhà thờ có đài Đức Mẹ bằng kim loại, xung quanh nhà thờ có đường kiệu, bồn hoa, phía sau có hang đá. Hiện nay không gian và cảnh quan nhà thờ bị chen lấn bởi sự phát triển của đô thị, mất đi sự tương xứng với quy mô đồ sộ của nhà thờ.
Hoạt động
Nhà thờ lớn Hà Nội là Nhà thờ chính tòa của Tổng Giáo phận Hà Nội, là một trong những trung tâm của các hoạt động Công giáo tại Hà Nội và các vùng phụ cận. Ngày thường (từ Thứ Hai đến Thứ Bảy), nhà thờ có 2 thánh lễ, ngày Chủ nhật có 7 thánh lễ. Ngoài ra, nhà thờ còn tổ chức lễ rước thánh Quan thầy của Tổng giáo phận Hà Nội là Thánh Giuse vào ngày 19 tháng 3 hàng năm. |
Ngô Thừa Ân (tiếng Trung phồn thể: 吳承恩; giản thể: 吴承恩; bính âm: Wú Chéng'ēn) (1500/1506 - 1581), tự Nhữ Trung (汝忠), hiệu Xạ Dương sơn nhân (射陽山人), là một nhà văn, nhà thơ Trung Quốc, sống trong thời nhà Minh.
Tiểu sử
Ông sinh tại huyện Liên Thủy, Hoài An, tỉnh Giang Tô. Gia đình ông làm nghề buôn bán nhỏ, chuyên bán chỉ và đồ thêu, nhưng lại có thú tàng trữ sách. Cả ông nội và cha Ngô Thừa Ân đều xuất thân là quan lại qua đường khoa cử.
Ông học tại Nam Kinh Thái học (Đại học Nam Kinh cổ) trong hơn 10 năm.
Tương truyền từ nhỏ, Ngô Thừa Ân đã say mê những truyện thần tiên yêu quái. Khi bị cha cấm, ông từng trốn cha mang những cuốn sách thể loại đó ra chợ ngồi đọc.
Lớn lên, ông tỏ ra là người có tính tình khẳng khái, những câu nói của ông lúc bấy giờ thể hiện tính cách của ông, "không để người đời thương hại", "trong lòng mài mãi dao trừ tà, muốn dẹp sạch đi, buồn không đủ sức"
Ngô Thừa Ân nổi tiếng văn hay chữ tốt và rất thích hài kịch. Ông từng viết nhiều tạp kĩ, lừng danh một thời.
Tuy là người đa tài nhưng Ngô Thừa Ân lại lận đận trên đường thi cử. Ngô Thừa Ân thi nhiều lần, nhưng không đỗ. Mãi tới năm khoảng 43 tuổi, ông mới đỗ tuế cống sinh. Sau đó, ông còn đi thi hai lần nữa nhưng đều hỏng. Năm 51 tuổi, vì cảnh nhà quẫn bách, ông đến Nam Kinh tìm việc nhưng cô thế không có nơi nương tựa nên không toại nguyện.
Sau mãi đến năm 67 tuổi, ông đến Bắc Kinh để được tuyển dụng làm quan, ông nhận một chức quan nhỏ (huyện thừa) tại huyện Trường Hưng (长兴). Chẳng bao lâu sau, vì không chịu được cảnh luồn cúi, ông từ chức ra về.
Ngô Thừa Ân còn được tiến cử vào giữ chức kỉ thiện trong Kinh Vương phủ, chuyên coi việc lễ nhạc và văn thơ, nhưng được 3 năm thì bất đắc chí từ quan về nhà. Lúc đó Ngô Thừa Ân đã 70 tuổi. Từ đây, Ngô Thừa Ân sống bằng nghề viết văn, thơ, được hơn 10 năm thì mất.
Tác phẩm
Sáng tác của ông khá phong phú, nhưng đã bị mất mát gần hết, do chỉ có một con gái và gia cảnh bần hàn, chẳng hạn như các tập tiểu thuyết Vũ Đĩnh chí (cũng là tiểu thuyết thần tiên ma quái), nên hiện chỉ còn lại một số thơ văn được tập hợp lại thành bộ Xạ Dương tiên sinh tồn cảo gồm 4 quyển.
Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông là Tây du ký viết lúc đã ngoài 70 tuổi. Cuốn tiểu thuyết này được nhiều thế hệ người Trung Quốc yêu thích và là một trong những cuốn tiểu thuyết cổ điển phổ biến nhất ở Trung Quốc và nhiều quốc gia khác. Nó cũng đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, như bản dịch tiếng Anh của Arthur Waley với tiêu đề Monkey (con khỉ).
Đương thời khi ông còn sống, Tây du ký chưa được người đời biết đến, mãi tới sau khi ông mất nhiều năm, một người cháu ngoại họ Dương mới mang công bố tiểu thuyết này.
Chú thích |
"November Rain" là ca khúc power ballad của ban nhạc rock người Mỹ Guns N' Roses. Được sáng tác bởi ca sĩ Axl Rose, ca khúc được phát hành dưới dạng đĩa đơn cho album phòng thu thứ ba của họ có tên Use Your Illusion I (1991). Ca khúc bao gồm nhiều đoạn hòa âm bởi dàn nhạc cổ điển, và là một trong những ca khúc dài nhất sự nghiệp của ban nhạc.
"November Rain" đạt vị trí số 3 tại Billboard Hot 100 và đây cũng là ca khúc có độ dài lớn nhất lịch sử có mặt trong top 10 của bảng xếp hạng này.
Hoàn cảnh ra đời
Theo Tracii Guns, Rose đã có ý tưởng về ca khúc này từ năm 1983. Trong một bài phỏng vấn, anh nói về hoàn cảnh ra đời của "November Rain":
"Chúng tôi làm bản EP cho L.A. Guns vào khi nào nhỉ, khoảng 1983? Cậu ấy đã chơi "November Rain" – phải, lúc đó nó đã có tên "November Rain" rồi – trên chiếc piano. Đoạn guitar solo thật sự tuyệt hảo. Nhớ lại lúc đó, đó có lẽ là thứ duy nhất mà cậu ấy biết cách chơi, nhưng quan trọng đó là của cậu ấy. Cậu ấy nói "Rồi có ngày nó sẽ trở nên rất tuyệt." Tôi bảo "Giờ nó đã tuyệt rồi" nhưng cậu ấy trả lời "Nhưng nó chưa hoàn chỉnh". Và cứ mỗi khi chúng tôi ở khách sạn hay bất cứ đâu có piano, cậu ấy lại chơi nó. Tôi liền hỏi "Khi nào thì cậu hoàn thiện nó vậy?" và cậu ta lại trả lời "À thực ra tôi cũng không rõ phải xử lý nó như thế nào.""
Năm 1985, Waggle Records (Pty.) Ltd. cho phát hành tại Úc LP có tên "November Rain"/ "In Concert and Beyond" thu âm trực tiếp ấn bản thô dạng mộc của ca khúc. Ấn bản này bao gồm phần chơi guitar acoustic, Rose phụ trách phần hát và hòa âm hợp ca ở phần nền giống như trong Use Your Illusion sau này, nhưng không có những đoạn solo guitar điện cũng như phân đoạn dài kết thúc. Cũng vì vậy, ấn bản trình diễn trực tiếp này chỉ có độ dài 4:43.
Slash có nhắc tới trong cuốn tự truyện của mình ấn bản dài tới 18 phút của "November Rain" với sự góp mặt của nghệ sĩ khách mời Manny Charlton (của nhóm Nazareth) vào năm 1986, ngay trước khi album Appetite for Destruction được thu âm.
Theo nội dung buổi trò chuyện với khán giả trong tour diễn Chinese Democracy (2006), không có một thành viên nào muốn tham gia vào việc sản xuất ca khúc này (ngoài ra còn có ca khúc "Estranged"). Slash và McKagan đều phản đối đoạn guitar bè để dẫn vào đoạn ballad với dàn nhạc, và cảm giác rằng lựa chọn của họ trong việc biến đây thành ca khúc rock hơn đều bị Rose ngăn cản. Tuy nhiên, Rose đã thảo luận kỹ lưỡng với họ trong thời gian ở phòng thu Can-Am (nơi mà một số album của nhóm được trộn âm). Những quan điểm âm nhạc khác nhau đã được tranh luận dữ dội, và chúng đều được ghi lại trong cuốn tự truyện của Slash. Slash cũng nói rằng đoạn solo mà mình chơi trong ấn bản album (không rõ là đoạn nào) chính là giai điệu mà ông chơi khi nghe ca khúc lần đầu tiên.
Amanda Rootes của Fluffy kể lại câu chuyện từ Bill Price, người từng sản xuất album Black Eye của cô ngay sau album Use Your Illusion: "Khi Axl tập trung cho phần hát của "November Rain", anh ấy yêu cầu tất cả mọi người để anh ấy một mình với một chiếc bô cho tới khi nó hoàn tất. Họ quay lại phòng thu 8 ngày sau đó và thấy Axl ngủ gật trong phòng thu với đống phân và vỏ hộp pizza."
Thông tin ca khúc
Với 8:57, đây là ca khúc dài thứ hai của album sau "Coma" (10:16), và là ca khúc dài thứ 3 trong sự nghiệp của ban nhạc sau "Estranged" trong Use Your Illusion II. Thứ hòa âm đặc biệt của ca khúc được thực hiện bởi dàn nhạc cổ điển, biên soạn bởi Rose. Hầu hết các buổi trình diễn trực tiếp của ban nhạc trong tour Use Your Illusion đều không có sự xuất hiện của dàn nhạc, và phần trình diễn trong lễ trao giải Video âm nhạc của MTV năm 1992 có thể coi là trường hợp đặc biệt. "November Rain" cũng là ca khúc dài nhất từng lọt vào top 10 bảng xếp hạng Billboard Hot 100.
"November Rain" từng được xếp hạng 1 trong danh sách The Rock năm 2006 – bảng xếp hạng hàng năm do thính giả New Zealand bầu chọn. Năm 2007, ca khúc có được vị trí thứ 2 tại cùng danh sách trên, chỉ xếp sau "Back in Black" của AC/DC.
Ca khúc cũng được xếp thứ 149 trong danh sách "200 ca khúc của thập niên 1990" bởi Pitchfork Media. Ở Chile, ca khúc có được vị trí 73 trong danh sách của đài Rock & Pop.
Video âm nhạc
Tính tự sự rất cao của video âm nhạc đã tạo nên sự hoành tráng của ca khúc. Đạo diễn bởi Andrew "Andy" Morahan, video kể lại câu chuyện Rose làm đám cưới với bạn gái lúc đó của mình Stephanie Seymour, xen lẫn là các đoạn trình diễn trên sân khấu. Đặc biệt hơn, video ngốn một khoản kinh phí lên tới 1 triệu $, trong đó có giá thành chiếc váy cưới mà Seymour sử dụng cùng nhiều trang thiết bị tân tiến nhất, giúp nó giành được Giải Video âm nhạc của MTV cho "Nghệ thuật làm phim xuất sắc nhất", và cũng trực tiếp biến đây thành một trong những video ca nhạc tốn kém nhất mọi thời đại. Slash cũng tạo nên một trong những cảnh quay đáng nhớ nhất của video, trong đó có cảnh quay bằng trực thăng khi anh đi ra từ nhà thờ để chơi đoạn solo đầu tiên, ngoài ra còn có đoạn chơi solo kết thúc ca khúc khi anh đứng trên chiếc piano của Rose. Phụ trách sản xuất Mark Roberton nhớ lại: "Quay phim có trách nhiệm vô cùng lớn khi tiền cảnh quá gần với Slash, và thực tế chiếc mũi của đàn piano đã ở mép khung hình. Một cú lia máy sai và tay guitar có thể đứng ở rất xa màn hình!" Video của "November Rain" dùng ấn bản dài nhất của ca khúc. Nhà hát Orpheum ở Los Angeles được sử dụng để quay từ buổi chiều tới đêm, và khác với thông thường, họ không bắt chước lại bất cứ cảnh quay nào. Giữa khi cảnh sử dụng chiếc camera trên đường ray bổ xuống để quay chi tiết các phím đàn của Slash được nghiên cứu lại và chuẩn bị cho cảnh tiếp theo, ban nhạc tranh thủ tận dụng hơn 1500 lần tập những ca khúc của họ.
Với cảnh quay ngoài trời trong đoạn Slash chơi solo đầu tiên, Rose có đề xuất thực hiện ở một cánh đồng "vô cùng ấn tượng". Tuy nhiên, vì video được thực hiện vào mùa đông, họ không thể tìm được một cánh đồng đủ đẹp để lên hình, buộc tất cả phải tới một nhà thờ hẻo lánh ở bang New Mexico. Tình cờ, đây chính là nhà thờ từng được quay trong bộ phim Silverado.
Brad Hartmaier là nhà thiết kế sản xuất cho những cảnh quay ở New Mexico của dự án Silverado trước đây. Khi thực hiện phác thảo tại quầy bar ở khách sạn, Hartmaier thiết kế nên 2 nhà thờ khác nhau với sự hỗ trợ của người dân. Chiếc nhà thờ bên ngoài là một công trình đổ nát bị bỏ lại giữa vùng hoang sơ, sau đó được tân trang sử dụng cho video. Rất nhiều nhân công đã làm việc 24 giờ mỗi ngày để xây dựng lại nhà thờ giống hệt với chiếc nhà thờ trong thành phố với họa tiết trên tường, cửa kính cửa sổ thủ công và nhiều đường nét trang trí đặc trưng của vùng. Hartmaier ở trong nhà thờ với chiếc bộ đàm cùng Slash khi chiếc trực thăng bay bên trên để tìm các góc quay. Slash hỏi ông đang làm gì vậy, ông trả lời: "Tôi là nhà thiết kế sản xuất, "gạch chéo" ("slash") đạo diễn nghệ thuật, "gạch chéo" người quản lý vật trang, "gạch chéo" họa sĩ, "gạch chéo" gã nghiên cứu điên rồ." Slash lập tức cười lớn "Haha,... Tôi đơn giản chỉ là "gạch chéo"." Hartmaier sau này nói về việc thực hiện video "Đây chính là trải nghiệm tuyệt vời nhất sự nghiệp của tôi."
Nigel Phelps vốn ban đầu được chỉ định là nhà thiết kế sản xuất cho video; Hartmaier vốn là đạo diễn nghệ thuật cho cảnh quay ở Los Angeles, rồi được chỉ định luôn là nhà thiết kế sản xuất cho cảnh quay ở New Mexico, còn Phelps chuyển sang hậu kỳ chỉnh sửa cho phần cảnh quay bên lề video.
Vị cha xứ trong ca khúc là người bạn người Ý của Rose có tên Gianantonio. Đây là những ngày cuối cùng phục vụ của vị cha xứ vốn từng làm việc tại nhà thờ này 8 năm trước khi ban nhạc tới quay phim.
"November Rain", "Don't Cry" và "Estranged" là bộ 3 video theo cùng một câu chuyện. Cho dù chưa từng được ban nhạc thừa nhận, song Rose và Del James từng đôi lần nhắc tới ý này. Những điểm tương đồng về sản xuất, phong cách cũng như dàn diễn viên là bằng chứng cho nhận định này. Ở đoạn cuốn của video, "November Rain" được ghi là phỏng theo truyện ngắn "Without You" của James, nằm trong cuốn The Language of Fear (1995). Câu chuyện kể về cuộc đời một ngôi sao nhạc rock bị ám ảnh bởi cái chết của người bạn gái qua đời vì tự sát (vốn được lấy cảm hứng từ mối quan hệ của Rose với Erin Everly).
Cho dù trong video chỉ có hình ảnh của Seymour qua đời và kết thúc bởi đám tang, mối liên hệ giữa video và câu chuyện trên có thể khẳng định rằng nhân vật đã tự sát. Cô có vẻ rõ ràng phiền muộn trong nhiều cảnh quay ở đám cưới, và trong đám tang, phần nắp quan tài chỉ che nửa khuôn mặt – một kỹ thuật thường được gia đình người thân sử dụng đối với người mới qua đời vì trầm cảm để mọi người có thể nhìn thấy mặt.
Video của ca khúc vẫn rất nổi tiếng cho tới tận cuối thập kỷ. Năm 1992, MTV xếp "November Rain" ở vị trí quán quân trong danh sách các video của năm. Sau đó, ca khúc cũng có được vị trí số một trong danh sách các video được xem nhiều nhất thập niên 1990. Ngoài ra, album cũng được độc giả tạp chí Metal Edge chọn là "Video xuất sắc nhất" năm 1992.
Trình diễn trực tiếp
Trước khi được đưa vào album Use Your Illusion I, ca khúc này từng được trình diễn tại Trung tâm Deer Creek ngày 29 tháng 4 năm 1991. Kể từ đó, "November Rain" trở thành sản phẩm chính của ban nhạc tại các buổi diễn. Ca khúc thường được dẫn dắt bởi Rose sau khi chơi "It's Alright" của Black Sabbath hay "Someone Saved My Life Tonight" của Elton John. Trong tour diễn giới thiệu album Chinese Democracy, mỗi phần chơi guitar solo được thể hiện bởi các nghệ sĩ khác nhau, bao gồm Robin Finck (2001) và Richard Fortus (2002–nay) cho đoạn đầu tiên, DJ Ashba (2009–2015) chơi đoạn thứ 2, còn Buckethead (2001–2002) và Bumblefoot (2006–2014) chơi đoạn kết.
Guns N' Roses từng trình diễn ca khúc này, song ca với Elton John tại buổi lễ Giải Video âm nhạc của MTV năm 1992.
Danh sách ca khúc
CD maxi
"November Rain" (ấn bản LP) – 8:57
"Sweet Child O' Mine" (ấn bản LP) – 5:55
"Patience" (ấn bản LP) – 5:53
Đĩa đơn casssette
"November Rain" (ấn bản LP) – 8:57
"Sweet Child O' Mine" (ấn bản LP) – 5:55
Đĩa đơn 7"
"November Rain" (ấn bản LP) – 8:57
"Sweet Child O' Mine" (ấn bản LP) – 5:55
12" maxi
"November Rain" (ấn bản LP) – 8:57
"Sweet Child O' Mine" (ấn bản LP) – 5:55
"Patience" (ấn bản LP) – 5:53
Make My Day (album không chính thức phát hành)
"November Rain" (ấn bản piano) - 9:45
"November Rain" (ấn bản guitar) - 4:57
Thành phần tham gia sản xuất
Guns N' Roses
Axl Rose – hát chính, piano, synthesizer đồng bộ hóa.
Slash – guitar lead.
Izzy Stradlin – guitar nền.
Duff McKagan – bass.
Matt Sorum – trống, hợp ca.
Dizzy Reed – keyboard.
Nghệ sĩ khách mời
Jonathan Merrill – chỉ huy dàn nhạc.
Shannon Hoon, Reba Shaw, Stuart Bailey – hát nền, hợp ca.
Johann Langlie – synthesizer đồng bộ hóa.
Xếp hạng
Xếp hạng tuần
Xếp hạng cuối năm
Chứng chỉ |
Cộng hòa Liên bang Nam Tư, còn được biết đến FR Yugoslavia trong tiếng Anh hoặc đơn giản là Nam Tư, là một quốc gia tồn tại ở vùng Balkan từ năm 1992 đến năm 2003, là kết quả sau khi Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư tan rã. Cộng hòa Liên bang Nam Tư bao gồm Cộng hòa Serbia và Cộng hòa Montenegro. Vào tháng 2 năm 2003, Nam Tư được chuyển đổi từ một Cộng hòa liên bang thành liên hiệp quốc gia chính thức được gọi là Liên minh Nhà nước Serbia và Montenegro. Năm 2006, Montenegro ly khai khỏi liên minh, tách thành hai quốc gia độc lập là Cộng hòa Serbia và Cộng hòa Montenegro.
Mong muốn là quốc gia thừa kế hợp pháp duy nhất của Nam Tư cũ đã không được công nhận bởi Liên Hợp Quốc, sau khi thông qua Nghị quyết 777 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, trong đó khẳng định rằng Cộng hòa Liên bang Xã hội Chủ nghĩa Nam Tư đã không còn tồn tại và Cộng hòa Liên bang Nam Tư là một nhà nước mới. Tất cả các nước cộng hòa cũ được quyền kế vị nhà nước cũ trong khi không nước nào tiếp tục tính cách pháp lý quốc tế của CHLBXHCN Nam Tư. Tuy nhiên, chính phủ của Slobodan Milošević phản đối bất kỳ tuyên bố nào như vậy, khiến Nam Tư không được phép gia nhập Liên Hợp Quốc.
Trong suốt quá trình tồn tại của mình, Nam Tư có mối quan hệ căng thẳng với Cộng đồng Quốc tế, khiến nhiều biện pháp trừng phạt đối với Nam Tư đã được ban hành trong Chiến tranh Nam Tư và Chiến tranh Kosovo nhằm chống lại nhà nước. Điều này cũng dẫn đến Siêu lạm phát ở Cộng hòa Liên bang Nam Tư. Nam Tư kết thúc tham gia vào các cuộc Chiến tranh Nam Tư với Hòa ước Dayton, trong đó công nhận nền độc lập của các nước Cộng hòa Croatia, Slovenia, Bosnia và Herzegovina, cũng như thiết lập mối quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia, và đảm bảo vai trò của người dân Serbia trong nền chính trị Bosnia. Sau đó, chủ nghĩa ly khai ngày càng gia tăng trong tỉnh tự trị Kosovo và Metohija, một khu vực của Serbia có đông dân cư là người Albania, dẫn đến một cuộc nổi dậy do Quân đội Giải phóng Kosovo, một nhóm ly khai người Albania. Chiến tranh Kosovo bùng nổ dẫn đến các lệnh trừng phạt của phương Tây và NATO ném bom nhắm vào Nam Tư. Xung đột kết thúc với việc thông qua Nghị quyết 1244 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, đảm bảo sự tách biệt về kinh tế và chính trị của Kosovo khỏi Nam Tư, được đặt dưới quyền của Phái đoàn hành chính lâm thời của Liên Hợp Quốc tại Kosovo của Liên Hợp Quốc.
Khó khăn kinh tế và chiến tranh dẫn đến ngày càng tăng sự bất mãn đối với chính phủ của Slobodan Milošević và các đồng minh của ông, những người đã điều hành cả Serbia và Montenegro như một chế độ độc tài hiệu quả. Điều này cuối cùng dẫn đến Cuộc lật đổ Slobodan Milošević và chính phủ của ông, và được thay thế bởi một chính phủ do Đối lập Dân chủ của Serbia và Vojislav Koštunica lãnh đạo, cũng tham gia Liên Hợp Quốc.
Cộng hòa Liên bang Nam Tư kết thúc vào năm 2003 sau khi Quốc hội Serbia và Montenegro bỏ phiếu thông qua Hiến chương Serbia và Montenegro, thành lập Liên minh Nhà nước Serbia và Montenegro. Như vậy, cái tên Nam Tư chỉ còn trong lịch sử. Chủ nghĩa ly khai gia tăng ở Montenegro, do Milo Đukanović dẫn đầu yêu cầu Hiến pháp Serbia và Montenegro bao gồm một điều khoản cho phép tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý về vấn đề độc lập của Montenegro, sau khoảng thời gian ba năm đã trôi qua. Năm 2006, Trưng cầu dân ý về độc lập của Montenegro 2006 đã được tiến hành, và được thông qua,. Điều này chính thức giải thể Liên minh Nhà nước Serbia và Montenegro, thành lập các nước cộng hòa độc lập của Serbia và Montenegro, biến Serbia thành một quốc gia độc lập. Đây có thể được coi là hành động cuối cùng kết thúc việc giải thể Nam Tư.
Ghi chú |
Gò Đống Đa là một gò đất và là một di tích nằm bên phố Tây Sơn, phường Quang Trung, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Tại đây vào năm 1789, quân Tây Sơn đã đại phá và đánh thắng quân Thanh trong Trận Ngọc Hồi - Đống Đa.
Đêm mồng 4 rạng mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789) trận đánh của quân Tây Sơn diễn ra với sự tham gia của nhân dân vùng Khương Thượng, do Đại Đô đốc Đặng Văn Long chỉ huy. Trận này quân Tây Sơn diệt tan đồn Khương Thượng của quân nhà Thanh. Tướng nhà Thanh là Sầm Nghi Đống phải tự tử ở núi Ốc (Loa Sơn) gần chùa Bộc bây giờ.
Lịch sử
Nơi đó có một gò đất, trên gò đất có một cây đa cổ thụ mọc um tùm, người quanh vùng gọi là gò Cây Đa. Khi lính Tây Sơn kéo đến vây tàn quân Thanh trốn theo chủ tướng thì thấy Sầm Nghi Đống đã treo cổ trên cành đa mà tự tử. Sau này, trẻ chăn trâu ra gò Cây Đa thường hát rằng: "Ông Đống treo cổ cây đa." Vì câu hát ấy mà về sau mới quen gọi là gò Đống Đa.
Trận thắng này đã mở đường cho đại quân Tây Sơn từ Ngọc Hồi thừa thắng tiến vào Thăng Long.
Nhà thơ đương thời Ngô Ngọc Du đã làm bài thơ Loa Sơn điếu cổ có câu:
Thánh Nam thập nhị kình nghê quán
Chiến điệu anh hùng đại võ công
Dịch là:
Thánh nam xác giặc mười hai đống
Ngời sáng anh hùng đại võ công.
Tương truyền sau chiến thắng, vua Quang Trung cho thu nhặt xác giặc xếp vào 12 cái hố rộng, lấp đất chôn và đắp cao thành gò gọi là "Kình nghê quán" (gò chôn xác "kình nghê" - 2 loài cá dữ ngoài biển, một cách gọi ám chỉ quân xâm lược Tàu). Theo truyền thuyết, 12 gò này nằm rải rác từ làng Thịnh Quang đến làng Nam Đồng. Năm 1851, do mở đường mở chợ, đào xẻ nhiều nơi thấy nhiều hài cốt, lại cho thu vào một hố cao lên nối liền với núi Xưa, thành gò thứ 13, tức là gò còn lại hiện nay. Còn 12 gò khác đã bị phạt đi khi Hoàng Cao Khải lập Thái Hà Ấp vào những năm 1890.
Chiến thắng Đống Đa cùng với Chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa dưới sự chỉ huy của Quang Trung đã phá tan 20 vạn quân Thanh, giải phóng thành Thăng Long.
Nhưng trên thực tế, có nhiều chứng cứ cho rằng Gò Đống Đa là một gò tự nhiên được hình thành từ cách đây khoảng 4000 năm.
Nhân kỷ niệm 200 năm chiến thắng Ngọc Hồi-Đống Đa, năm 1989, Công viên Văn hóa Đống Đa được thành lập trên cơ sở khu vực Gò Đống Đa. Đây là công trình kiến trúc mang tính lịch sử văn hóa nhằm ghi nhớ công ơn của người Anh hùng áo vải Quang Trung - Nguyễn Huệ. Tổng diện tích của công trình 21.745 m2 được chia làm 2 khu vực, gồm khu vực tượng đài, nhà trưng bày và khu vực gò.
Ngày hội Đống Đa
Hàng năm cứ vào ngày mồng 5 Tết, nhân dân thường tổ chức hội Gò Đống Đa để ôn lại những sự kiện lịch sử đã diễn ra tại nơi đây, đặc biệt có tục rước rồng lửa đã thành lễ hội truyền thống của người Hà Nội. Sau đám rước rồng lửa là lễ dâng hương, lễ đọc văn, cuộc tế diễn ra ở đình Khương Thượng, lễ cầu siêu ở chùa Đồng Quang.
Kỷ niệm 200 năm chiến thắng Đống Đa, khu tượng đài Quang Trung và công viên văn hóa Đống Đa đã được xây dựng tại khu đất bên cạnh gò lịch sử này, trông ra phố Đặng Tiến Đông, người chỉ huy trận đánh đồn Khương Thượng và đóng vai trò quan trọng trong chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa.
Trung Liệt miếu
Trên gò Đống Đa có một ngôi miếu, gọi là Trung Liệt miếu, được xây ở thế kỷ 19. Tuy nhiên, ngôi miếu này đã bị hư hại đáng kể, chỉ còn cổng miếu.
Chú thích |
Họ Tô hạp, danh pháp khoa học: Altingiaceae, trong một số tài liệu gọi là họ Sau sau, lấy theo tên gọi của chi Liquidambar, tuy nhiên Wikipedia luôn luôn ưu tiên cho tên gọi phù hợp với tên chi dẫn xuất khi có tên gọi tương ứng trong tiếng Việt (ở đây là chi Altingia), là một họ nhỏ của thực vật hai lá mầm thuộc bộ Tai hùm (Saxifragales), chỉ bao gồm 3 chi và khoảng 18 loài, tất cả đều là cây thân gỗ. Trong các hệ thống phân loại cũ, chúng thường được đặt trong họ Kim lũ mai (Hamamelidaceae).
Các chi
Altingia (11 loài ở khu vực đông nam châu Á): Các loại cây tô hạp.
Liquidambar (4 loài ở miền đông Bắc Mỹ và Trung Mỹ, một loài ở Tây Nam Á, hai loài ở Đông Á). Các tên gọi là sau sau, lau thau, sau trắng, cổ yếm, phong hương, lộ lộ thông v.v
Semiliquidambar (3 loài, tất cả là thực vật đặc hữu của Trung Quốc, tại đó người ta gọi là bán phong hạ - 半枫荷). |
Ga Hà Nội tên cũ là Ga Hàng Cỏ, là một nhà ga xe lửa lớn của Việt Nam nằm trên các quận Hoàn Kiếm và Đống Đa, Hà Nội. Từ đây, hành khách có thể làm thủ tục mua vé tàu hỏa đi các tuyến trong nước. Phía đường Lê Duẩn là khu A chuyên phục vụ các chuyến tàu Thống Nhất đi các tỉnh thành phía Nam. Phía đường Trần Quý Cáp là khu B chuyên phục vụ các chuyến tàu đi các tỉnh thành phía Bắc. Ga Hà Nội tọa lạc tại số 120, phố Lê Duẩn, phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, nhìn ra cuối phố Trần Hưng Đạo.
Lịch sử
Năm 1902, ga Hàng Cỏ được khánh thành và đưa vào khai thác cùng với cầu Long Biên là nhà ga xuất phát của đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn thuở ban đầu, rồi đường sắt Hà Nội - Hải Phòng (1903), đường sắt Hà Nội - Lào Cai (1905) và đến năm 1936 là đường sắt xuyên Việt (1936, nay là đường sắt Bắc Nam). Sau khi Cách mạng Tháng 8 thành công, ngày đêm các đoàn tàu đưa các đoàn quân Nam tiến từ các địa phương vào Nam chống quân Pháp. Năm 1954, lực lượng Việt Minh tiếp quản nhà ga. Năm 1972, nhà ga đã bị trúng một quả bom lớn của Mỹ. Ngôi nhà đại sảnh nơi treo chiếc đồng hồ lớn của nhà ga bị đánh sập hoàn toàn và từ năm 1972 đến năm 1975 tàu hỏa và các xe tải đều phải chạy vào ban đêm. Sau ngày thống nhất năm 1975, ga Hàng Cỏ được đổi tên thành ga Hà Nội và xây dựng lại nhà đại sảnh theo kiến trúc mới. Cùng với việc xây dựng ga Giáp Bát để vận chuyển hàng hóa, ga Hà Nội trở thành ga vận chuyển hành khách lớn nhất cả nước. Năm 1989, nhà ga được đầu tư, cải tạo, nâng cấp để phục vụ hành khách.
Tương lai
Theo đồ án quy hoạch, ga Hà Nội được xây dựng lại với chức năng là ga trung tâm tàu khách và tàu liên vận quốc tế đi tất cả các hướng; là ga trung tâm của tuyến đường sắt đô thị; là trung tâm về giao thông vận tải đa phương thức bao gồm mạng lưới đường bộ, đường sắt, thương mại, kinh doanh, văn hoá... của Thủ đô.
Ngoài ra quy hoạch cũng chỉ ra 9 phân khu với các công trình xây dựng cao từ 40 – 70 tầng. Dự kiến, với 98,1ha diện tích lập quy hoạch, dân số khu vực sẽ khoảng 44.000 người (trong đó có tái định cư tại chỗ 100% dân số hiện trạng khoảng 40.300 người).
Các tuyến đường sắt chính
Đường sắt Bắc Nam
Đường sắt Hà Nội - Lào Cai
Đường sắt Hà Nội - Quan Triều
Đường sắt Hà Nội - Đồng Đăng
Đường sắt Hà Nội - Hải Phòng
Giải thưởng
Giải thưởng của Nhà nước
Bằng khen của Chính phủ: 1992, 1997.
Cờ Thi đua của Chính phủ: 1999, 2003, 2004.
Huân chương Lao động hạng ba; 2000.
Huân chương Lao động hạng nhì: 2005.
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước: 2005.
Cờ của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tặng đơn vị Thi đua dẫn đầu về phong trào "Xanh, Sạch, Đẹp, An toàn vệ sinh lao động": 1993, 2002 - 2005.
Giải thưởng của ngành đường sắt Việt Nam
Đơn vị dẫn đầu Thi đua Ngành Đường sắt: 1995, 2001 - 2005
Cờ Thi đua xuất sắc nhất của Bộ Giao thông Vận tải: 1998, 2002.
Bằng khen " Đơn vị Chính quy - Văn hóa - An toàn " của Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam.
Đảng bộ Đường sắt Việt Nam công nhận: Đảng bộ trong sạch vững mạnh: 2001 - 2005.
Quy mô đường sắt
Ga Hàng Cỏ ban đầu nằm trong diện tích 216.000 m² tức hơn 21 ha, trong đó diện tích xây dựng là 105.000 m² nhà cửa, còn lại là sân ga, đường sắt.
Ga Hà Nội ngày nay đã có những thay đổi cả về diện tích và các nhánh và hiện là ga đường sắt lớn nhất tại Việt Nam.
Hình ảnh
Ga kế cận
Đường sắt đô thị |
"Pennyroyal Tea" là một bài hát của ban nhạc grunge Nirvana. Đây là bài hát thứ chín trong album năm 1993 của họ, In Utero. Bài hát đã có kế hoạch phát hành như một đĩa đơn vào tháng 4 năm 1994, nhưng nó đã bị trì hoãn lại do cái chết vào tháng đó của Kurt Cobain, tác giả bài hát và là thành viên ban nhạc.
Ý nghĩa bài hát
Pennyroyal là một loại dược thảo thỉnh thoảng cũng được dùng cho một loại thuốc phá thai. Một vài nghiên cứu đã viết rằng, bệnh đau dụng của Cobain cũng là một phần do loại thuốc này (sau này đã được phát hiện ra là do pinched nerve). Lời bài hát "I'm on warm milk and laxatives" cũng có thể nói về sự lạm dụng ma túy của Cobain, anh đã phải thỉnh thoảng dùng thêm thuốc nhuận tràng để chống lại chứng táo bón, kết quả của việc sử dụng ma túy.
Lịch sử
Theo cuốn lịch sử Nirvana do Michael Azerrad viết năm 1993 là Come As You Are, "Pennyroyal Tea" được Cobain sáng tác vào năm 1990, trong một căn hộ anh sống chung với tay trống của ban nhạc Dave Grohl ở Olympia, Washington. "Dave và tôi đang vặn nút điều chỉnh cho một cái 4-track," Cobain nói, "và tôi đã viết bài hát trong khoảng 30 giây. Và tôi ngồi xuống viết lời bài hát trong khoảng nửa giờ và sau đó chúng tôi đã thu âm nó." Tuy nhiên, bài hát không được thu âm chính thức cho đến năm 1993, bài hát mới được Steve Albini thu âm cho album In Utero. Một bản hòa âm lại do Scott Litt thực hiện được có trong phiên bản đã được kiểm duyệt của Walmart và Kmart trong album In Utero; Bản hòa âm này cũng có trong album tổng hợp năm 2002 những bài hát hay nhất của ban nhạc, Nirvana, và bản hòa âm tương tự cũng ngẫu nhiên có trong bài hát phía dưới.
Phiên bản khác
Một bản solo của "Pennyroyal Tea" đã xuất hiện trong album thu lại từ chương trình sử dụng guitar thường MTV Unplugged in New York. Một bản nhạc demo chơi ghi ta thường cũng có trong hộp băng nhạc của Nirvana năm 2004, With the Lights Out. Hộp băng DVD With the Lights Out cũng có một bản solo bài hát được biên tập lại từ buổi biểu diễn vào năm 1991.
Các bản cover
"Pennyroyal Tea" đã được các nghệ sĩ và ban nhạc sau hát lại:
Ban nhạc rock Mỹ Hole (ban nhạc có người đứng đầu là người vợ góa của Cobain, Courtney Love).
Nhạc sĩ nhạc rock người Mỹ Kristin Hersh.
Ban nhạc rock xứ Wales Manic Street Preachers.
Bài hát
Phần lớn các bản sao của bài hát "Pennyroyal Tea" làm hỏng bài hát nhưng chúng vẫn được tiêu thụ. Các bản sao chính thức hiện nay được bán tới hàng trăm đô la Mỹ. Thứ tự bài hát như sau:
"Pennyroyal Tea" (Scott Litt hòa âm lại)
"I Hate Myself and I Want to Die"
"Where Did You Sleep Last Night" (Leadbelly)
Vị trí trong bảng xếp hạng
Xếp hạng
Xếp thứ 8 trong "20 bài hát hay nhất của Nirvana" của tạp chí NME (2004)
Xếp thứ 2 trong "10 bài hát hay có trong album nhạc lẽ ra đã được phát hành thành đĩa đơn" của tạp chí Q (2004) |
Hệ thống vệ tinh định vị toàn cầu (tiếng Anh: Global Navigation Satellite System - GNSS) là tên dùng chung cho các hệ thống định vị toàn cầu sử dụng vệ tinh như GPS (Hoa Kỳ), Hệ thống định vị Galileo (Liên minh châu Âu) và GLONASS (Liên bang Nga) và Hệ thống định vị Bắc Đẩu (Trung Quốc) và NavIC (tên hoạt động của IRNSS) (Ấn Độ). |
Neo-classical metal là một nhánh xuất phát từ Heavy Metal và chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi nhạc cổ điển. Do đó cũng có thể coi neo-classical metal là thuộc trường phái nhạc bán cổ điển.
Định nghĩa
Thành phần
Âm thanh
Ban nhạc
Adagio
Angra
Aquaria
Dark Moor
DragonForce
Majestic
Mastercastle
Moi dix Mois
Nexus
Rhapsody
Red Law
Symphony X
Time Requiem
Ulver
Virtuocity
Vitalij Kuprij
Warmen
Winds
X Japan
Nhạc sĩ
Borislav Mitic
George Bellas
The Great Kat
Greg Howe
Jason Becker
Joe Stump
Jonas Hansson
Marcos De Ros
Marty Friedman
Michael Romeo
Muhammed Suiçmez
Paul Gilbert
Randy Rhoads
Timo Tolkki
Tony MacAlpine
Uli Jon Roth
Victor Smolski
Vinnie Moore
Yngwie J. Malmsteen
YOSHIKI
HIZAKI |
Hệ thống định vị Galileo là một hệ thống vệ tinh định vị toàn cầu (GNSS) được xây dựng bởi Liên minh châu Âu. Galileo khác với GPS của Hoa Kỳ và GLONASS của Liên bang Nga ở chỗ nó là một hệ thống định vị được điều hành và quản lý bởi các tổ chức dân dụng, phi quân sự.
Hệ thống định vị Galileo được đặt theo tên của nhà thiên văn học người Ý Galileo Galilei nhằm tưởng nhớ những đóng góp của ông.
Thông số của hệ thống
Vệ tinh
30 vệ tinh (27 vệ tinh hoạt động chính và 3 vệ tinh dự phòng)
Độ cao quỹ đạo: 23.222 km (quỹ đạo tầm trung)
Phân bố trên 3 mặt chính, góc nghiêng 56 độ
Tuổi thọ thiết kế của vệ tinh: > 12 năm
Trọng lượng vệ tinh: 675 kg
Kích thước vệ tinh: 2,7 m × 1,2 m × 1,1 m
Năng lượng từ pin mặt trời: 1500 W (tại thời điểm tuổi thọ thiết kế)
Dịch vụ cung cấp
Bốn dịch vụ về định vị sẽ được cung cấp bởi Galileo:
Dịch vụ mở (open service): miễn phí với mọi đối tượng. Người dùng có thể sử dụng 2 tần số L1 và E5A. Độ chính xác đối với máy thu 2 tần số là 4 m cho phương ngang và 8 m cho chiều thẳng đứng. Đối với máy thu 1 tần số (L1), độ chính xác là 15 m và 35 m, tương đương với GPS hiện thời.
Dịch vụ trả tiền (commercial service): dành cho các đối tượng cần có độ chính xác < 1 m với một khoản phí nhất định. Dịch vụ này sẽ được cung cấp thông qua tần số thứ 3 (E6).
Dịch vụ cứu hộ (safety of life service): dành riêng cho cứu hộ, độ bảo mật cao, chống gây nhiễu sóng.
Dịch vụ công cộng (public regulated service): dành riêng cho chính phủ và quân đội của các nước Liên minh châu Âu. Đặc biệt bảo mật, độ tin cậy cao.
Các giai đoạn của dự án
Lên kế hoạch và thử nghiệm
Cơ quan Vũ trụ châu Âu (ESA) đã chi khoảng 100 triệu euro cho việc lên kế hoạch, thành lập dự án. Với tổng chi phí khoảng 1,5 tỉ euro từ EU và ESA dành cho việc phóng và đưa vào hoạt động thử nghiệm hai vệ tinh cùng với trạm thu vào tháng 1, 2006.
Vệ tinh thử nghiệm 1
Ký hiệu: GIOVE-A (tiếng Ý: Jupiter, Galileo In-Orbit Validation Element), hay GSTB-V2A (Galileo System Test Bed)
Mang theo: máy phát tín hiệu, đồng hồ nguyên tử Rubidium
Khối lượng: 600 kg
Công suất: 700 W
Kích cỡ: 1,3 m × 1,8 m × 1,65 m
Ngày phóng: 28.12.2005
Tên lửa phóng: Soyus
Vệ tinh thử nghiệm 2
Ký hiệu: GIOVE-B hay GSTB-V2B
Mang theo: máy phát tín hiệu, đồng hồ nguyên tử Rubidium và Hiđrô
Khối lượng: 523 kg
Công suất: 943 W
Kích cỡ: 0,955 m × 0,955 m × 2,4 m
Ngày phóng: cuối năm 2007
Tên lửa phóng: Soyus
Trạm thu thử nghiệm
Ký hiệu: GSTB-V1
Hoàn thành và đưa vào hoạt động
Đến năm 2010 toàn bộ hệ thống được hoàn thành: 30 vệ tinh Galileo và các trung tâm điều khiển tại mặt đất, 2 trung tâm chính tại Oberpfaffenhofen (Đức) và Fucino (Ý), 1 dự bị tại Tây Ban Nha. Chi phí cho giai đoạn này khoảng 3 tỉ euro.
Các nước tham gia
Ngoài các nước thuộc khối Liên minh châu Âu (EU), còn có sự tham gia của các nước khác từ nhiều châu lục như Trung Quốc, Ấn Độ, Israel, Na Uy, Brasil, Chile, Úc,... |
Togo (phiên âm tiếng Việt: Tô-gô), hay Cộng hòa Togo (), là một quốc gia nằm ở phía Tây châu Phi có biên giới với Ghana ở phía Tây, Bénin ở phía Đông và Burkina Faso ở phía Bắc. Ở phia Nam Togo có bờ biển ngắn của vịnh Guinea, nơi mà đặt thủ đô Lomé của Togo.
Togo trải dài từ phía Bắc đến phía Nam khoảng 550 km và bề ngang 130 km. Togo có diện tích khoảng 56.785 km², dân số khoảng 6.145.000 người, mật độ 102 người/km². Ngôn ngữ chính thức là tiếng Pháp.
Lịch sử
Thời kì tiền thuộc địa (trước 1884)
Tên gọi Togo được dịch từ tiếng Ewé như vùng đất nơi có phá. Không có nhiều thông tin về giai đoạn này trước sự xuất hiện của người Bồ Đào Nha vào năm 1490. Vào giữa thể kỉ XI và XVI, nhiều bộ lạc khác nhau di cư đến Togo từ nhiều hướng: người Ewé từ phía Tây, người Mina và người Gun từ phía Đông. Hầu hết họ di cư đến vùng ven biển.
Việc buôn bán nô lệ bắt đầu từ thế kỉ XVI và trong hai thế kỉ sau đó, vùng ven biển của Togo là trung tâm buôn bán nô lệ cho người châu Âu, do đó Togo và các vùng lân cận mang tên gọi "Bờ biển Nô lệ".
Thời kì thuộc địa (1884 - 1960)
Năm 1884, một hiệp ước được vua Mlapa III kí với người Đức tại Togoville, theo đó Đức tuyên bố quyền bảo hộ đối với dải đất ven biển và dần dần mở rộng vùng kiểm soát những vùng nội địa. Ranh giới vùng chiếm đóng của Đức được xác lập sau sự kiện Đức chiếm đóng vùng nội địa Togo và đạt được thỏa thuận với Anh và Pháp. Năm 1905, vùng chiếm đóng trở thành Togoland thuộc Đế quốc thực dân Đức. Cư dân địa phương bị cưỡng bức lao động, trồng trọt bông, cà phê, ca cao và đóng thuế nặng. Một đoạn đường sắt và cảng Lomé được xây dựng để xuất khẩu nông sản. Người Đức tiến hành sử dụng kĩ thuật trồng trọt hiện đại và xây dựng cơ sở hạ tầng ở Togo.
Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Togo bị Anh và Pháp chiếm đóng, hình thành vùng lãnh thổ công quản Anh - Pháp. Ngày 7 tháng 12 năm 1916, chế độ công quản sụp đổ và Togo bị chia làm hai cho Anh và Pháp đô hộ. Ngày 20 tháng 7 năm 1922, Hội Quốc liên ủy nhiệm cho Anh chiếm phía Tây Togo và Pháp chiếm phía Đông. Đến năm 1945, Togo được quyền cử 3 người đại diện đến Quốc hội Pháp.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, hai lãnh thổ này được đặt thành lãnh thổ ủy thác Liên hợp quốc. Người dân Togoland thuộc Anh đã bỏ phiếu quyết định sáp nhập với Bờ biển Vàng để trở thành một phần của nước Ghana mới giành độc lập năm 1957. Togoland thuộc Pháp trở thành nước cộng hòa tự trị thuộc khối Liên hiệp Pháp năm 1959, trong khi Pháp vẫn giữ quyền kiểm soát các lãnh vực quốc phòng, ngoại giao và tài chính.
Thời kì độc lập (1960 - nay)
Nước Cộng hòa Togo được tuyên bố thành lập ngày 27 tháng 4 năm 1960. Trong cuộc bầu cử Tổng thống đầu tiên năm 1961, Sylvanus Olympio trở thành Tổng thống đầu tiên, đạt số phiếu 100% khi phe đối lập đã tẩy chay cuộc bầu cử. Ngày 9 tháng 4 năm 1961, Hiến pháp Togo chính thức được ban hành, theo đó cơ quan lập pháp cao nhất là Hội đồng lập pháp Quốc gia Togo.
Tháng 12 năm 1961, các lãnh tụ phe đối lập bị bắt vì tội chuẩn bị một âm mưu chống chính phủ. Một sắc lệnh được kí với nội dung giải tán các đảng đối lập. Olympio cố gắng giảm thiểu sự lệ thuộc vào Pháp bằng cách hợp tác với Hoa Kỳ, Anh và Tây Đức. Ông cũng từ chối các binh sĩ Pháp giải ngũ sau Chiến tranh Algeria và muốn có một vị trí trong Quân đội Togo. Những nguyên nhân trên dẫn đến cuộc đảo chính quân sự ngày 13 tháng 1 năm 1963, Olympio bị ám sát bởi một toán lính cầm đầu bởi Trung sĩ Eyadema Gnassingbé. Tình trạng khẩn cấp được ban bố sau đó ở Togo.
Quân đội trao quyền cho chính phủ lâm thời do Nicolas Grunitzky lãnh đạo. Tháng 5 năm 1963, Grunitzky được bầu làm Tổng thống nước Cộng hòa. Nhà lãnh đạo mới theo đuổi chính sách xây dựng quan hệ với Pháp. Ông cũng dự định ban bố Hiến pháp mới và thiết lập chế độ đa đảng.
Đúng 4 năm sau, ngày 13 tháng 1 năm 1967, Eyadéma Gnassingbé lật đổ Grunitzky trong một cuộc đảo chính không đổ máu và giành lấy chức Tổng thống. Ông thành lập Đảng Tập hợp Nhân dân Togo, cấm các đảng phái khác hoạt động và thiết lập chế độ độc đảng vào tháng 11 năm 1969. Eyadéma được bầu lại chức Tổng thống vào năm 1979 và 1986. Vào năm 1983, chương trình Tư nhân hóa được khởi động và đến năm 1991, các đảng khác được tái hoạt động. Năm 1993, EU đóng băng quan hệ với Togo và cho rằng các cuộc bầu cử năm 1993, 1998 và 2003 của Eyadéma là sự chiếm đoạt quyền lực. Tháng 4 năm 2004, đối thoại được nối lại giữa EU và Togo để tiến tới khôi phục sự hợp tác.
Eyadéma Gnassingbé bất ngờ qua đời ngày 5 tháng 2 năm 2005, sau 38 năm nắm quyền - thời gian dài nhất đối với bất kì nhà độc tài Phi châu nào. Sự kiện quân đội ngay lập tức đặt con trai ông ta, Faure Gnassingbé vào chức Tổng thống nhằm kích động lên sự phản ứng rộng rãi của thế giới, trừ nước Pháp.
Địa lý
Quốc gia ở Tây Phi, nằm giữa Ghana ở phía Tây và Bénin ở phía Đông, Bắc giáp Burkina Faso và Nam giáp vịnh Bénin. Togo trải dài từ Bắc đến Nam trên gần 700 km, trong khi chiều rộng chỉ khoảng 100 km. Vùng ven bờ biển thấp và lẫn cát, khí hậu nhiệt đới ẩm và mưa nhiều ở phía Nam. Vùng cao nguyên rừng rậm tương đối ít mưa và khô ở vùng trung tâm và các vùng thảo nguyên ở phía Bắc.
Kinh tế
Kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp trồng trọt (ngô, sắn, kê) và trao đổi hàng hóa. Khu vực kinh tế này cung cấp việc làm cho khoảng 65% lực lượng lao động. Ca cao, cà phê, bông vải, phosphat là các mặt hàng xuất khẩu chính, đóng góp khoảng 30% giá trị xuất khẩu. Trong lãnh vực công nghiệp, khai thác phosphat là quan trọng nhất, mặc dầu ngành này cũng gặp khó khăn do giá phosphat trên thị trường thế giới giảm và do cạnh tranh với nước ngoài gia tăng.
Togo là một trong các nước kém phát triển, tình hình kinh tế vẫn còn bấp bênh. Những cố gắng của chính phủ với sự giúp đỡ của Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế nhằm tiến hành những biện pháp cải cách kinh tế, khuyến khích đầu tư và tạo cán cân thăng bằng giữa thu nhập và tiêu dùng chưa thu được kết quả như mong muốn. Năm 1998, tổ chức Quỹ Tiền tệ Quốc tế ngưng tài trợ cho Togo và giá ca cao hạ làm cho GDP giảm 1%. Tăng trưởng GDP có dấu hiệu phục hồi kể từ năm 1999.
Togo được coi là một Thụy Sĩ của Tây Phi nơi đặt trụ sở của quỹ phát triển Cộng đồng Kinh tế Tây Phi (ECOWAS), Ngân hàng phát triển Tây Phi (BOAD) và các ngân hàng khu vực khác. Hơn 10 năm nay, Togo tiến hành cải cách kinh tế, bao gồm tư nhân hoá, minh bạch tài chính công, giảm chi tiêu chính phủ, ổn định chính trị và thúc đẩy thương mại, nhằm tìm lại vị trí trung tâm thương mại ở khu vực Tây Phi trước đây.
Trong một thập kỷ qua, với sự giúp đỡ của Ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Togo đã áp dụng những biện pháp cải cách kinh tế (tư nhân hóa, mở rộng hoạt động tài chính công…), giảm chi tiêu chính phủ.
Vì vậy Togo đã nhận được sự ủng hộ tích cực của các nhà tài trợ nước ngoài.
Từ đầu những năm 90, Togo đã trải qua cuộc khủng hoảng chính trị - xã hội dẫn đến việc nền kinh tế bị suy thoái và có nhiều rối loạn về thể chế, làm nản lòng các nhà đầu tư tiềm năng. Trong những điều kiện đó, tỷ lệ tăng trưởng GDP không giúp bù đắp được tỷ lệ tăng trưởng dân số. Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) ước tính tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người trong vòng 25 năm qua của Togo ở mức -1%. Còn về kinh tế, sức mua của các hộ gia đình đã sụt giảm một nửa giai đoạn từ 1983 đến 2006.
Tình hình kinh tế - xã hội của Togo chịu cảnh thiếu vắng những nhà cho vay vốn lớn. Việc ngừng viện trợ gần như liên tục của Liên minh châu Âu từ năm 1993 và tình trạng hỗn loạn sau cái chết của Tổng thống Eyadéma vào tháng 2 năm 2005 đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế đất nước. Kinh tế Togo vẫn chủ yếu dựa vào lĩnh vực nông nghiệp (nhất là bông, cà phê, cacao và cây lương thực) chiếm 41% GDP và sử dụng trên 75% dân lao động. Tuy nhiên, lĩnh vực bông hiện đang bị khủng hoảng do chưa thanh toán được các khoản nợ cho người sản xuất trong các vụ thu hoạch gần đây và do tình hình tài chính khó khăn của Công ty bông Tô-gô (SOTOGO).
Togo cũng là một trong những trung tâm quá cảnh và dịch vụ của khu vực (lĩnh vực dịch vụ chiếm 35% GDP). Cảng tự quản Lomé, điểm vào của hàng hoá đi những nước thuộc khu vực Sahara đã được hưởng lợi từ cuộc khủng hoảng tại Côte d’Ivoire trong những năm gần đây. Cuối cùng, trong lĩnh vực công nghiệp (24% GDP), nếu như xi măng, ngành công nghiệp khai thác hàng đầu của đất nước và cung cấp mặt hàng xuất khẩu chính hiện đang có sự năng động tích cực (mặc dù có sự giảm sút sản lượng vào năm 2006 do các địa điểm khai thác bị ngập lụt) thì sản xuất phosphat do thiếu đầu tư, đã không ngừng suy thoái những năm qua trong khi năm 2000, đây còn là sản phẩm xuất khẩu chính của Togo. Việc phục hồi lĩnh vực này đòi hỏi phải giải quyết các tranh chấp pháp lý hiện tại và có sự tham gia của một nhà đầu tư chiến lược lâu dài.
GDP năm 2006 của Togo là 2,089 tỷ USD, tỷ lệ tăng trưởng là 2%. GDP bình quân đầu người là 362 USD. Nếu tính theo ngang giá sức mua, GDP bình quân đầu người là 1400 USD và Tô-gô nằm trong số những nước đang phát triển.
Về mặt cải cách cơ cấu, Togo đã có những tiến bộ trong việc tự do hoá nền kinh tế, cụ thể là lĩnh vực thương mại và hoạt động cảng. Tuy nhiên, chương trình tư nhân hoá các lĩnh vực bông, viễn thông và nước dường như vẫn giậm chân tại chỗ. Về cải cách chính trị, Togo đã bắt đầu đối thoại với EU về việc bảo đảm các quyền tự do cơ bản, lập lại Nhà nước pháp quyền và mở rộng quyền lực chính trị sao cho dân chủ hơn. Trong khuôn khổ đó, một giải pháp thuận lợi có thể giúp Togo thực hiện những cam kết về tài chính của mình. Nước này hiện nay đang trong tình trạng nợ nhiều do không có sự trợ giúp tài chính từ bên ngoài trong khi Togo có khả năng nằm trong nhóm các nước được hưởng sự giúp đỡ theo Sáng kiến Các nước nghèo nợ nhiều.
Hành chính
Togo được chia thành 5 khu vực, 30 quận và 1 xã.
Năm khu vực hành chính của Togo gồm (trong ngoặc là thủ phủ vùng):
Central (Sokodé)
Kara (Kara)
Maritime (Lomé)
Plateaux (Atakpamé)
Savanes (Dapaong)
Năm khu vực này được chia tiếp thành 30 quận và 1 xã.
Chính trị
Togo theo thể chế đa nguyên bằng bản Hiến pháp phê chuẩn ngày 27 tháng 9 năm 1992. Tuy nhiên, từ năm 1967 đến nay, Liên minh đảng nhân dân Togo (RPT) của cố Tổng thống Eyadema Gnassingbe luôn nắm quyền. Tháng 2 năm 2005, Tổng thống Eyadema Gnassingbe đột ngột qua đời, giới quân sự đưa con trai ông là Faure Gnassingbe lên thay thế. Dưới sức ép trong nước và của AU, ECOWAS, Faure Gnassingbe buộc phải nhượng bộ, cho tổ chức bầu cử hợp hiến tháng 4 năm 2005. Kết quả: Faure Gnassingbe giành thắng lợi với 60,2% số phiếu. Các cuộc bạo động giữa chính phủ và phe đối lập trước và sau bầu cử khiến gần 500 người thiệt mạng và hàng chục nghìn người bỏ chạy khỏi thủ đô, gây nên một cuộc khủng hoảng nhân đạo. Nhờ trung gian hoà giải của Cộng đồng kinh tế Tây Phi (ECOWAS) trật tự tại Togo đã được lập lại.
- Tháng 8 năm 2006, chính phủ và phe đối lập ký thoả thuận cho phép các đảng phái đối lập tham gia chính phủ chuyển tiếp. Tháng 9 năm 2006, ông Yawovi Agboyibo, lãnh tụ đối lập được đề cử làm Thủ tướng.
- Tháng 10 năm 2007, Togo tiến hành bầu cử quốc hội, Đảng cầm quyền Liên minh Nhân dân Togo đã giành được thắng lợi và ông Komlan Mally được chỉ định làm Thủ tướng. Cộng đồng quốc tế đánh giá cuộc bầu cử quốc hội Togo tự do và công bằng. Sau sự kiện này, Liên minh châu Âu (EU) đã nối lại hợp tác kinh tế đầy đủ với Togo sau 14 năm trừng phạt. Để giành lại sự ủng hộ của quốc tế, chính quyền của Faure Gnassingbe cam kết mở rộng dân chủ trong nước, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại.
Đối ngoại
Tổng thống Togo thi hành chính sách đối ngoại đa dạng hóa, hướng đến châu Á trong đó có Việt Nam.
Togo thực thi chính sách Phong trào không liên kết, tham gia tích cực trong các vấn đề khu vực Tây Phi và trong Liên minh châu Phi. Quan hệ giữa Togo và các nước láng giềng nhìn chung tốt. Togo có mối quan hệ lịch sử văn hóa mật thiết với Pháp, Đức. Là thuộc địa cũ của Pháp nên xã hội Togo còn mang nhiều ảnh hưởng của nước thuộc địa. Togo có mối liên hệ chặt chẽ với Pháp về nhiều mặt: chính trị, kinh tế, quân sự, xã hội, văn hóa… Togo công nhận một Trung Quốc, đối với Trung Quốc Togo là đối tác thương mại ở khu vực Tây Phi. Năm 1987, Togo nối lại quan hệ với Israel.
Togo là thành viên Liên Hợp Quốc, Phong trào không liên kết, Liên minh châu Phi (AU), Cộng đồng Kinh tế Tây Phi (ECOWAS), Cộng đồng Pháp ngữ (Francophonie), FAO, IMF, WTO và nhiều tổ chức quốc tế và khu vực khác.
Quân sự
Quân đội Togo (tiếng Pháp: FAT Forces armées togolaises) bao gồm hải, lục, không quân và hiến binh. Tổng chi phí quân sự trong năm tài chính 2005 là 1,6 % Tổng thu nhập quốc dân. Togo đặt các căn cứ quân sự tại Lomé, Temedja, Kara, Niamtougou, and Dapaong. Không quân Togo được trang bị Dassault/Dornier Alpha Jet do Pháp và Đức sản xuất
Xã hội
Nhân khẩu
Đô thị
Dân tộc
Ngôn ngữ
Togo là quốc gia đa ngôn ngữ. Theo Ethnologue, có 39 ngôn ngữ khác nhau được nói tại Togo, nhiều trong số chúng được dùng bởi cộng đồng có số dân nhỏ hơn 100.000. Tiếng Pháp được công nhận là ngôn ngữ chính thức duy nhất của quốc gia. Hai ngôn ngữ bản địa có số người nói nhiều nhất được chỉ định làm ngôn ngữ quốc gia từ năm 1975 là tiếng Ewé và tiếng Kabiyé.
Tôn giáo
Căn cứ vào báo cáo về tự do tôn giáo của Hoa Kỳ năm 2012, trường Đại học Lomé ước tính năm 2004, Togo có 33% dân số theo thuyết vật linh, 28% theo Công giáo La Mã, 20% theo Hồi giáo Sunni, 9% theo Tin Lành, 5% theo các hệ phái Ki tô giáo khác và 5% còn lại không tôn giáo. Báo cáo trên cũng lưu ý rằng nhiều tín đồ Ki tô giáo và Hồi giáo cũng tiếp tục thực hành tín ngưỡng bản địa.
Công giáo được truyền bá rộng rãi từ giữa thế kỉ 15, với sự xuất hiện của người Bồ Đào Nha và các nhà truyền giáo Công giáo. Người Đức giới thiệu đạo Tin lành vào nửa sau thế kỉ 19, khi hàng trăm nhà truyền giáo của Hội Truyền giáo Bremen được gửi tới ven biển Ghana và Togo. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, các nhà truyền giáo Đức buộc phải rời đi, mở ra sự tự trị sớm của Hội thánh Phúc âm Ewe.
Giáo dục
Chiến dịch giáo dục miễn phí cho mọi trẻ em (từ 2-15 tuổi) được Chính phủ triển khai từ những năm 1970. Vào đầu những năm 1990, cả nước có khoảng 3/4 trẻ em đến tuổi được đến trường. Tuy nhiên, các trường truyền giáo vẫn giữ vai trò khá quan trọng (gần 1/2 số học sinh theo học). Togo có trường Đại học Lomé ở thủ đô Lomé, đào tạo chương trình đại học và cao đẳng.
Y tế
Chi phí y tế của Togo năm 2014 là 5,2% GDP, xếp thứ 45 thế giới. Tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh là 43,7 trên 1000 trẻ năm 2016. Tuổi thọ trung bình của nam giới là 62,3 năm 2016, trong khi chỉ số này ở nữ giới là 67,7. Vào năm 2008, có trung bình 5 bác sĩ trên 100,000 người. Theo một báo cáo của UNICEF năm 2013, khoảng 4% phụ nữ Togo phải trải qua cắt âm vật, đây là tỉ lệ rất thấp so với các quốc gia khác trong vùng.
Văn hóa
Người dân Togo ở thủ đô Lomé và các thành phố lớn như Bassar, Atakpamé, Bafilo... thì nay có cuộc sống khá văn minh theo kiểu châu Âu. Song các sắc tộc dân Togo ở miền quê, vùng xa vẫn còn giữ nhiều nét văn hóa, sinh hoạt riêng của họ. Trong số đó là cách làm nhà ở theo kiểu riêng mà họ gọi là nhà takienta, tức nhà tiểu vũ trụ vừa là nơi ở, nơi thờ, nơi cầu nguyện mưa thuận gió hòa để quanh năm làm ăn khá giả... Cuộc sống của họ có cái gì đó rất hòa hợp với thiên nhiên, thời tiết khiến ít bị ốm đau bệnh tật...
Nhà báo Lucille Reyboz của Pháp thường đến Togo, và mới đây chị có triển lãm ảnh tại Paris về kiểu làm nhà của người Tamberma, đặc biệt tại làng Koulangou, phía đông bắc Togo sát biên giới Bénin. Nhà takienta được làm bằng đất sét trộn với rơm rạ và bông vải. Nhà thường có hình tròn ống, vì người Togo quan niệm vũ trụ tròn như một cái ống. Một nhà có thể gồm 2, 3... ống đứng kề nhau, mỗi ống lại có "2 mắt" như mắt người để thông gió; có "miệng" như miệng người làm chỗ ra vào. Lucille Reyboz cho đây là nét nhân văn của người Togo. Trên đầu ống nhà được đan cây và đắp đất làm "sân thượng", có thể lên đó nhìn trời đoán mưa nắng, hoặc ban đêm ngắm trăng.
Ông N,tcha N,Dah Lapoili, già làng Koulangou cho biết: "Ngôi nhà takienta là nơi chúng tôi ở với tổ tiên mình".
Vào mùa mưa, để tránh bị ngấm nước, người Tamberma thường làm một mái lá úp trên nhà; mùa nắng có thể lấy xuống để... đun bếp! Các sắc tộc như người Tamberma còn sống không nhiều ở miền quê Togo. Đa số họ đã ra thành phố sinh sống làm ăn nên số nhà takienta còn tồn tại ở nơi nào thì khách du lịch châu Âu thường hay đến xem, tìm hiểu từ đó biết thêm về các sắc tộc trên thế giới, làm cho du lịch văn hóa trở nên hấp dẫn hơn.
Thể thao
Thế vận hội
Vào ngày 12 tháng 8 năm 2008, vận động viên chèo thuyền Kayak Benjamin Boukpeti (cha Togo và mẹ Pháp) giành huy chương đồng nội dung K1 Kayak có chướng ngại tại Thế vận hội Mùa hè 2008. Đây là huy chương đầu tiên Togo giành được tại một kì Olympic.
Bóng đá
Bóng đá là môn thể thao phổ biến nhất và được coi là môn thể thao quốc gia tại Togo. Tại Vòng chung kết World Cup 2006, Togo giành quyền tham dự nhưng không thắng trận nào ở vòng bảng.
Truyền thông
Lễ hội
Sự nghiên cứu về lịch sử và việc xuất bản sách
Chú thích |
GLONASS (tiếng Nga: ГЛОбальная НАвигационная Спутниковая Система - ГЛОНАСС; chuyển tự: Global'naya Navigatsionnaya Sputnikovaya Sistema) là hệ thống vệ tinh định vị toàn cầu của Liên bang Nga, dùng cho cả mục đích dân sự lẫn quân sự, tương tự như GPS (NAVSTAR) của Hoa Kỳ hay Galileo của Liên minh châu Âu. Nền của hệ là 24 vệ tinh, chuyển động trên bề mặt Quả Đất theo 3 mặt quỹ đạo với góc nghiêng 64,8°, và độ cao 19.100 km.
Vệ tinh đầu tiên của GLONASS được Liên Xô đưa lên quỹ đạo ngày 12 tháng 10 năm 1982. Trong các năm tiếp theo, nhiều vệ tinh được phóng lên, và vào ngày 24 tháng 9 năm 1993 hệ chính thức được đưa vào sử dụng sau khi đã bao phủ hết diện tích toàn cầu. Hệ thống này được coi là đối trọng với Hệ thống định vị toàn cầu GPS của Mỹ.
Các nguyên lý hoạt động
Các vệ tinh của hệ GLONASS liên tục phóng ra các tín hiệu định vị theo 2 dạng: tín hiệu định vị chính xác chuẩn (Ch) ở tần số L1 (1,6 GHz) và tín hiệu định vị chính xác cao (C) ở tần số L1 và L2 (1,2 GHz). Thông tin, cung cấp bởi tín hiệu định vị Сh, mở cho tất cả người dùng trên nền toàn cầu và liên tục và đảm bảo khi dùng máy thu GLONASS, khả năng xác định:
các tọa độ ngang với độ chính xác 50–70 m (độ tin cậy 99,7%);
các tọa độ đứng với độ chính xác 70 m (độ tin cậy 99,7%);
các véc-tơ thành phần của vận tốc với độ chính xác 15 cm/s (độ tin cậy 99,7%)
thời gian chính xác với độ chính xác 0,7 mcs (độ tin cậy 99,7%).
Các độ chính xác này có thể tăng lên đáng kể, nếu dùng phương pháp định vị vi phân và/hay các phương pháp đo bổ sung đặc biệt.
Tín hiệu C về cơ bản, được chỉ định dành cho các nhu cầu của Bộ Quốc phòng Nga, và việc sử dụng trái phép không được khuyến khích. Câu hỏi về việc cung cấp tín hiệu C cho nhu cầu dân sự đang trong tình trạng xem xét.
Để xác định các tọa độ không gian và thời gian chính xác cần nhận và xử lý các tín hiệu định vị từ không ít hơn 4 vệ tinh GLONASS. Khi nhận các tín hiệu sóng định vị GLONASS máy thu, dùng các phương pháp kỹ thuật sóng đã biết, đo các độ dài đến các vệ tinh nhìn thấy và đo các vận tốc chuyển động của chúng.
Các lần phóng
25 tháng 12 năm 2005, 8:07 Moskva, từ sân bay vũ trụ Baykonur, tên lửa mang Proton-K, đưa lên quỹ đạo một vệ tinh GLONASS và 2 vệ tinh GLONASS-M với nguồn mở sử dụng để làm đủ nhóm GLONASS.
26 tháng 12 năm 2006, tên lửa mang Proton-K, đưa lên quỹ đạo 3 vệ tinh GLONASS-M.
2007, có kế hoạch phóng 2 tên lửa mang Proton với 3 vệ tinh GLONASS-M trong mỗi chiếc
2008, phóng tên lửa mang Proton với 3 vệ tinh GLONASS-M và tên lửa Soyuz với 2 máy vũ trụ GLONASS-K mới.
GLONASS ngày nay
Vào thời điểm năm 2005, nhóm vệ tinh gồm 26 vệ tinh, gồm 21 vệ tinh đang hoạt động, còn ba cái chuẩn bị đưa vào hoạt động và 2 dùng để dự phòng thay thế. Số lượng này chưa đủ để bao phủ toàn bộ bề mặt Quả Đất (cần tối thiểu 24 vệ tinh hoạt động cùng một lúc).
Độ mở tích phân GLONASS trên Trái Đất: 80%
Độ mở tích phân GLONASS trên Nga: 94%
Đứt quãng tối đa của sự định vị trên Trái Đất: 2.4 giờ
Đứt quãng tối đa của sự định vị trên Nga: 0.5 giờ
Để tăng số lượng vệ tinh lên 18 trên lãnh thổ Nga để việc định vị liên tục được đảm bảo 100%. Trên phần còn lại của quả đất theo đây sự ngắt trong việc định vị có thể đạt đến полутора часов. Việc định vị liên tục thực sự trên toàn bộ khu vực của quả đất được bảo đảm trên nhóm quỹ đạo từ 24 vệ tinh.
Các máy vũ trụ làm việc trong thời gian hiện tại gồm 6 vệ tinh «GLONASS-M», (1 phóng vào năm 2003, 2 — vào 2005, 3 — vào 2006), có thời gian bảo hành tồn tại tích cực là 7 năm. Các vệ tinh này, khác với các máy thế hệ trước, phóng 2 tín hiệu dành cho các nhu cầu dân dụng, cho phép tăng độ chính xác của việc xác định vị trí.
Tương ứng với yêu cầu của Tổng thống LB Nga nhóm tối thiểu từ 18 vệ tinh cần hoàn tất vào năm 2007. Nhóm đầy đủ từ 24 vệ tinh tương ứng với chương trình liên bang «Hệ định vị toàn cầu» cần hoàn tất vào năm 2010.
Các vệ tinh «GLONASS-М» trong thành phần nhóm quỹ đạo sẽ ở trên không gian, như tối thiểu, đến năm 2015. Các thử nghiệm bay của các vệ tinh негерметичных thế hệ mới «GLONASS-K» với các đặc tính tốt hơn (thời gian bảo hành tăng lên 10 năm và tần số thứ ba của L-диапазон dành cho các nhu cầu dân dụng) cần được bắt đầu vào năm 2008. Vệ tinh này sẽ nhẹ hơn 2 lần so với thế hệ trước (ví dụ 700 kg so với 1415 kg ở «GLONASS-M»)
Trong tương lai, sau khi hoàn tất nhóm quỹ đạo từ 24 vệ tinh, để đảm bảo sự cung cấp của nó cần thực hiện mỗi năm 1 cuộc phóng 2 vệ tinh «GLONASS-К» trên tên lửa mang «Sojuz», để giảm khấu hao sử dụng.
Ngày 29 tháng 11 năm 2006, bộ trưởng Quốc phòng Sergey Ivanov, trong chuyến thăm Học viện định vị sóng và thời gian Nga, thông báo rằng hệ GLONASS trong thời gian tới sẽ dùng cho dân sự.
Năm 2019 trên quỹ đạo đang có 23 vệ tinh được phóng lên trong khoảng thời gian từ 2007-2019. Trong số này, có 13 vệ tinh được đưa vào quỹ đạo trong giai đoạn 2007-2011 có thời hạn làm việc là 7 năm và đã quá hạn sử dụng, một số trong 13 vệ tinh trên lẽ ra phải được thay thế từ rất lâu. Mười vệ tinh GLONASS khác được đưa lên quỹ đạo trong các năm 2012-2019 là những vệ tinh có thời hạn sử dụng 7 và 10 năm còn 4 vệ tinh nữa không được sử dụng theo đúng chức năng nhưng thời hạn sử dụng cũng đã đến ngưỡng.
Trong một cuộc phỏng vấn năm 2014, Nikolay Testoyedov - chủ tịch của ISS Reshetnev - tuyên bố rằng việc sản xuất vệ tinh GLONASS-M sẽ kết thúc vào năm 2015 và sau đó phiên bản mới hơn là GLONASS-K sẽ được sản xuất thay thế
Nga có kế hoạch đến năm 2024 sẽ tự sản xuất toàn bộ các linh kiện vệ tinh để tránh việc phải phụ thuộc vào linh kiện nhập khẩu Trong một bài báo năm 2015 đăng trên tờ báo Izvestia của Nga thì Nga đã bắt đầu phát triển phiên bản mới của vệ tinh GLONASS được trang bị các thành phần độc quyền do Nga sản xuất và có thể được tạo ra trong 4 - 5 năm. Tổng giám đốc của Roselectronics Andrei Zverev nói với báo Izvestia rằng chương trình thay thế nhập khẩu sẽ có kế hoạch đến năm 2019, 80% cơ sở thành phần điện tử của các vệ tinh sẽ được sản xuất trong nước. Tuy nhiên đến đầu năm 2019 thì những tuyên bố đầy tham vọng của đại diện các doanh nghiệp trong nước Nga về việc họ đã sẵn sàng thay thế các vật liệu, linh kiện chi tiết nhập khẩu vẫn chỉ dừng ở lời nói. Các thiết bị vũ trụ quá hạn nhưng vẫn phải sử dụng nên xác suất hỏng hóc lớn đang là một trong những vấn đề nghiêm trọng đối với hệ thống GLONASS. Chính phủ Nga năm 2019 từng tính đến khả năng dừng chế tạo vệ tinh GLONASS-K vì họ chưa có các linh kiện đồng bộ. Chương trình "thay thế nhập khẩu" bằng các linh kiện chi tiết tự sản xuất cho các vệ tinh GLONASS được Nga khởi động từ năm 2018 và được thiết kế cho giai đoạn đến năm 2023. Tuy nhiên, có những quan ngại rằng để thực hiện chương trình, cần phải có kinh phí nhưng nhà nước Nga có thể không cung cấp được một số tiền lớn như vậy, nhất là trong bối cảnh ngân sách liên bang dành để duy trì, phát triển và sử dụng hệ thống GLONASS trong giai đoạn 2012- 2020 đã bị điều chỉnh theo hướng cắt giảm mạnh.
Theo một bài báo từ năm 2015, dự kiến cuối năm 2019, Nga bắt đầu sản xuất các vệ tinh Glonass-K2, được phát triển bởi ISS Reshetnev (Hệ thống vệ tinh thông tin Reshetnev). Trong khi GLONASS-K có tới 90% thiết bị điện tử nhập từ nước ngoài thì GLONASS-K2 mới dự kiến sẽ sử dụng toàn bộ các thành phần làm tại Nga. Các vệ tinh GLONASS-K2 dự kiến sẽ được đưa lên quỹ đạo bắt đầu từ năm 2020. Tới tháng 12/2019, Nikolai Testoedov, Tổng Giám đốc của công ty cổ phần Hệ thống Vệ tinh Thông tin Vệ tinh cho biết vẫn còn 12% linh kiện điện tử trên vệ tinh Glonass phải nhập khẩu và đề ra nhiệm vụ đến năm 2026 100% linh kiện sẽ chế tạo trong nước. Việc chuyển đổi hệ thống Glonass sang các vệ tinh Glonass-K2 hoàn toàn sử dụng các linh kiện trong nước sẽ diễn ra sớm hơn 4 năm - dự kiến không phải vào năm 2030 như kế hoạch ban đầu, mà là vào năm 2026.
Hệ thống Glonass dự kiến sẽ chuyển sang sử dụng 34 vệ tinh mới Glonass-K2 vào năm 2030, tới lúc đó mới có thể nâng độ chính xác của hệ thống lên tới mức 5 cm. Trong giai đoạn 2021-2030, Nga dự định sẽ phóng tổng cộng 20 tên lửa Soyuz-2.1b và tên lửa Angara-A5, đưa 28 vệ tinh Glonass-K2 vào quỹ đạo
Việc phóng vệ tinh đầu tiên được lên kế hoạch thực hiện vào cuối năm 2017 - đầu năm 2018 nhưng sau đó dời lại vào cuối năm 2019 - đầu năm 2020, tiếp tục dời sang năm 2021 và lại tiếp tục bị hoãn lại đến năm 2022.
Sự cố 2010
3 vệ tinh định vị GLONASS - M phóng lên quỹ đạo ngày 5 tháng 12 năm 2010 từ sân bay vũ trụ Baikonur đã rơi xuống ngoài khơi quần đảo Hawaii, Thái Bình Dương do lỗi ở tên lửa đẩy Proton làm chệch hướng khi rời khỏi bệ phóng một góc 8 độ so với dự kiến. |
Quang phổ học hay Phổ học là ngành nghiên cứu về sự tương tác giữa vật chất và bức xạ điện từ (thông qua quang phổ điện tử, quang phổ nguyên tử,...). Về mặt lịch sử, quang phổ bắt nguồn từ nghiên cứu ánh sáng khả kiến phân tán theo bước sóng của nó, bởi một lăng kính. Sau đó, khái niệm này đã được mở rộng đáng kể để bao gồm bất kỳ tương tác nào với năng lượng bức xạ như là một hàm của bước sóng hoặc tần số của nó, chủ yếu là trong phổ điện từ, mặc dù sóng vật chất và sóng âm cũng có thể được coi là dạng năng lượng bức xạ; Gần đây, với độ khó rất lớn, ngay cả sóng hấp dẫn đã được liên kết với một chữ ký quang phổ trong bối cảnh của Đài quan sát sóng hấp dẫn giao thoa kế laser (LIGO) và giao thoa kế laser. Dữ liệu phổ thường được biểu diễn bằng phổ phát xạ, biểu đồ đáp ứng của mối quan tâm, như là một hàm của bước sóng hoặc tần số.
Quang phổ, chủ yếu trong phổ điện từ, là một công cụ thăm dò cơ bản trong các lĩnh vực vật lý, hóa học và thiên văn học, cho phép nghiên cứu thành phần, cấu trúc vật lý và cấu trúc điện tử của vật chất ở quy mô nguyên tử, quy mô phân tử, quy mô vĩ mô và hơn thế nữa khoảng cách thiên văn. Các ứng dụng quan trọng phát sinh từ quang phổ y sinh trong các lĩnh vực phân tích mô và hình ảnh y tế.
Giới thiệu
Quang phổ là các thuật ngữ được sử dụng để chỉ việc đo cường độ bức xạ như là một hàm của bước sóng và thường được sử dụng để mô tả các phương pháp phổ thực nghiệm. Các thiết bị đo quang phổ được gọi là máy quang phổ, máy đo quang phổ hoặc máy phân tích quang phổ.
Quan sát hàng ngày về màu sắc có thể liên quan đến quang phổ. Ánh sáng neon là một ứng dụng trực tiếp của quang phổ nguyên tử. Neon và các khí trơ có tần số phát thải đặc trưng (màu sắc). Đèn neon sử dụng va chạm của các electron với khí để kích thích những khí thải. Mực, thuốc nhuộm và sơn bao gồm các hợp chất hóa học được lựa chọn cho các đặc tính phổ của chúng để tạo ra màu sắc và màu sắc cụ thể. Một phổ phân tử thường gặp là nitơ dioxide. Nitrogen khí có tính năng hấp thụ màu đỏ đặc trưng, và điều này làm cho không khí bị ô nhiễm với nitơ dioxide có màu nâu đỏ. Hiện tượng tán xạ Rayleigh là hiện tượng tán xạ quang phổ chiếm màu của bầu trời.
Các nghiên cứu quang phổ là trung tâm cho sự phát triển của cơ học lượng tử và bao gồm lời giải thích của bức xạ đen của Max Planck, lời giải thích của Albert Einstein về hiệu ứng quang điện và giải thích về cấu trúc nguyên tử và quang phổ của Niels Bohr. Quang phổ được sử dụng trong hóa học vật lý và phân tích vì các nguyên tử và phân tử có quang phổ độc đáo. Kết quả là, các phổ này có thể được sử dụng để phát hiện, xác định và định lượng thông tin về các nguyên tử và phân tử. Quang phổ cũng được dùng trong thiên văn học và cảm nhận từ xa trên Trái Đất. Hầu hết các kính thiên văn nghiên cứu đều có máy quang phổ. Phổ đo được sử dụng để xác định thành phần hóa học và tính chất vật lý của các vật thể thiên văn (như nhiệt độ và vận tốc của chúng).
Lý thuyết
Một trong những khái niệm trung tâm trong quang phổ là cộng hưởng và tần số cộng hưởng tương ứng của nó. Cộng hưởng đầu tiên được đặc trưng trong các hệ thống cơ khí như con lắc. Các hệ thống cơ học dao động hoặc dao động sẽ trải qua các dao động biên độ lớn khi chúng được điều khiển ở tần số cộng hưởng của chúng. Một biểu đồ biên độ so với tần số kích thích sẽ có cực đại tập trung tại tần số cộng hưởng. Biểu đồ này là một loại phổ, với cực đại thường được gọi là một vạch phổ và hầu hết các vạch phổ có bề ngoài tương tự nhau.
Trong các hệ cơ học lượng tử, cộng hưởng tương tự là sự ghép của hai trạng thái đứng yên cơ học lượng tử của một hệ, chẳng hạn như một nguyên tử, thông qua một nguồn năng lượng dao động như photon. Sự kết hợp của hai trạng thái mạnh nhất khi năng lượng của nguồn khớp với chênh lệch năng lượng giữa hai trạng thái. Năng lượng của một photon có liên quan đến tần số của nó {\ displaystyle (\ nu)Ư bởi {\ displaystyle E = h \ nu} Ở đâu {\ displaystyle h} là hằng số của Planck, và do đó, phổ của đáp ứng hệ thống so với tần số photon sẽ đạt cực đại ở tần số hoặc năng lượng cộng hưởng. Các hạt như electron và neutron có mối quan hệ tương đương, mối quan hệ de Broglie giữa động năng của chúng với bước sóng và tần số của chúng và do đó cũng có thể kích thích các tương tác cộng hưởng.
Quang phổ của các nguyên tử và phân tử thường bao gồm một loạt các vạch quang phổ, mỗi vạch đại diện cho sự cộng hưởng giữa hai trạng thái lượng tử khác nhau. Giải thích của loạt bài này, và các mô hình quang phổ liên quan đến chúng, là một trong những điều bí ẩn thử nghiệm thúc đẩy sự phát triển và chấp nhận cơ học lượng tử. Chuỗi phổ hydro nói riêng lần đầu tiên được giải thích thành công bằng mô hình lượng tử Rutherford-Bohr của nguyên tử hydro. Trong một số trường hợp, các vạch quang phổ được phân tách và phân biệt tốt, nhưng các vạch quang phổ cũng có thể trùng nhau và dường như là một sự chuyển tiếp duy nhất nếu mật độ của các trạng thái năng lượng đủ cao. Loạt tên là dòng bao gồm chủ yếu, sắc nét, khuếch tán và hàng loạt cơ bản.
Phân loại phương thức
Một nhiễu xạ rất lớn nằm ở trung tâm của máy quang phổ ESPRESSO cực kỳ chính xác.
Quang phổ là một lĩnh vực đủ rộng có nhiều phân ngành tồn tại, mỗi ngành có nhiều triển khai các kỹ thuật quang phổ cụ thể. Các triển khai và kỹ thuật khác nhau có thể được phân loại theo nhiều cách.
Loại năng lượng bức xạ
Các loại quang phổ được phân biệt bởi loại năng lượng bức xạ liên quan đến tương tác. Trong nhiều ứng dụng, phổ được xác định bằng cách đo những thay đổi về cường độ và tần số của năng lượng này. Các loại năng lượng bức xạ được nghiên cứu bao gồm:
Bức xạ điện từ là nguồn gốc đầu tiên của năng lượng sử dụng cho nghiên cứu quang phổ. Các kỹ thuật sử dụng bức xạ điện từ thường được phân loại theo vùng bước sóng của phổ và bao gồm vi sóng, terahertz, hồng ngoại, cận hồng ngoại, tia cực tím, tia X và quang phổ gamma.
Các hạt, do sóng de Broglie của chúng, cũng có thể là một nguồn năng lượng bức xạ. Cả phổ điện tử và neutron thường được sử dụng. Đối với một hạt, nó động năng xác định bước sóng của nó.
Quang phổ âm học liên quan đến sóng áp lực bức xạ.
Phân tích cơ học động có thể được sử dụng để truyền năng lượng bức xạ, tương tự như sóng âm, đến vật liệu rắn.
Bản chất của sự tương tác
Các loại quang phổ cũng có thể được phân biệt bởi bản chất của sự tương tác giữa năng lượng và vật liệu. Những tương tác này bao gồm:
Quang phổ hấp thụ: Hấp thụ xảy ra khi năng lượng từ nguồn bức xạ được hấp thụ bởi vật liệu. Độ hấp thụ thường được xác định bằng cách đo phần năng lượng truyền qua vật liệu, với độ hấp thụ giảm phần truyền đi.
Quang phổ phát xạ: Phát xạ chỉ ra rằng năng lượng bức xạ được giải phóng bởi vật liệu. Phổ đen của vật liệu là phổ phát xạ tự phát được xác định bởi nhiệt độ của nó. Tính năng này có thể được đo bằng hồng ngoại bằng các dụng cụ như giao thoa kế bức xạ phát ra trong khí quyển. Phát xạ cũng có thể được gây ra bởi các nguồn năng lượng khác như ngọn lửa hoặc tia lửa hoặc bức xạ điện từ trong trường hợp huỳnh quang.
Quang phổ tán xạ đàn hồi và phổ phản xạ xác định cách bức xạ sự cố được phản xạ hoặc tán xạ bởi một vật liệu. Tinh thể học sử dụng sự tán xạ của bức xạ năng lượng cao, chẳng hạn như tia X và electron, để kiểm tra sự sắp xếp của các nguyên tử trong protein và tinh thể rắn.
Quang phổ trở kháng: Trở kháng là khả năng của một phương tiện để cản trở hoặc làm chậm sự truyền năng lượng. Đối với các ứng dụng quang học, điều này được đặc trưng bởi chỉ số khúc xạ.
Hiện tượng tán xạ không đàn hồi liên quan đến sự trao đổi năng lượng giữa bức xạ và vật chất làm thay đổi bước sóng của bức xạ tán xạ. Chúng bao gồm tán xạ Raman và Compton.
Quang phổ kết hợp hoặc cộng hưởng là các kỹ thuật trong đó năng lượng bức xạ kết hợp hai trạng thái lượng tử của vật liệu trong một tương tác kết hợp được duy trì bởi trường bức xạ. Sự kết hợp có thể bị phá vỡ bởi các tương tác khác, chẳng hạn như va chạm hạt và truyền năng lượng, và do đó thường đòi hỏi bức xạ cường độ cao để được duy trì. Quang phổ cộng hưởng từ hạt nhân (NMR) là phương pháp cộng hưởng được sử dụng rộng rãi, và quang phổ laser cực nhanh cũng có thể có ở các vùng phổ hồng ngoại và khả kiến.
Loại vật liệu
Các nghiên cứu quang phổ được thiết kế sao cho năng lượng bức xạ tương tác với các loại vật chất cụ thể.
Nguyên tử
Quang phổ nguyên tử là ứng dụng đầu tiên của quang phổ học được phát triển. Quang phổ hấp thụ nguyên tử và quang phổ phát xạ nguyên tử liên quan đến ánh sáng nhìn thấy và tia cực tím. Những sự hấp thụ và phát thải này, thường được gọi là các vạch phổ nguyên tử, là do sự chuyển đổi điện tử của các electron lớp vỏ ngoài khi chúng tăng và giảm từ quỹ đạo này sang quỹ đạo khác. Các nguyên tử cũng có quang phổ tia X riêng biệt do sự kích thích của các electron lớp vỏ bên trong đến trạng thái kích thích.
Các nguyên tử của các nguyên tố khác nhau có quang phổ riêng biệt và do đó quang phổ nguyên tử cho phép xác định và định lượng thành phần nguyên tố của mẫu. Sau khi phát minh ra máy quang phổ, Robert Bunsen và Gustav Kirchhoff đã phát hiện ra các nguyên tố mới bằng cách quan sát phổ phát xạ của chúng. Các dòng hấp thụ nguyên tử được quan sát trong phổ mặt trời và được gọi là các dòng Fraunhofer sau khi người phát hiện ra chúng. Một lời giải thích toàn diện về phổ hydro là một thành công ban đầu của cơ học lượng tử và giải thích sự dịch chuyển Lamb được quan sát trong phổ hydro, điều này càng dẫn đến sự phát triển của điện động lực học lượng tử.
Các triển khai hiện đại của quang phổ nguyên tử để nghiên cứu các chuyển đổi nhìn thấy và cực tím bao gồm quang phổ phát xạ ngọn lửa, quang phổ phát xạ nguyên tử plasma kết hợp cảm ứng, quang phổ phóng điện phát quang, quang phổ plasma gây ra bằng lò vi sóng và quang phổ phát xạ tia lửa hoặc hồ quang. Kỹ thuật nghiên cứu quang phổ tia X bao gồm quang phổ tia X và huỳnh quang tia X.
Phân tử
Sự kết hợp của các nguyên tử thành các phân tử dẫn đến việc tạo ra các loại trạng thái năng lượng độc đáo và do đó quang phổ duy nhất của sự chuyển tiếp giữa các trạng thái này. Phổ phân tử có thể thu được do trạng thái spin electron (cộng hưởng từ trường điện tử), quay phân tử, rung phân tử và trạng thái điện tử. Xoay là chuyển động tập thể của hạt nhân nguyên tử và thường dẫn đến quang phổ trong các vùng phổ sóng vi ba và milimet. Quang phổ quay và quang phổ vi sóng là đồng nghĩa. Rung động là chuyển động tương đối của hạt nhân nguyên tử và được nghiên cứu bằng cả phổ hồng ngoại và phổ Raman. Kích thích điện tử được nghiên cứu bằng quang phổ nhìn thấy và tia cực tím cũng như quang phổ huỳnh quang.
Các nghiên cứu về quang phổ phân tử đã dẫn đến sự phát triển của maser đầu tiên và góp phần vào sự phát triển tiếp theo của laser.
Pha lê và vật liệu mở rộng
Sự kết hợp của các nguyên tử hoặc phân tử thành tinh thể hoặc các dạng mở rộng khác dẫn đến việc tạo ra các trạng thái năng lượng bổ sung. Những tiểu bang này rất nhiều và do đó có mật độ cao của các tiểu bang. Mật độ cao này thường làm cho quang phổ yếu hơn và ít khác biệt hơn, nghĩa là rộng hơn. Chẳng hạn, bức xạ của người đen là do chuyển động nhiệt của các nguyên tử và phân tử trong vật liệu. Phản ứng âm thanh và cơ học là do chuyển động tập thể là tốt. Tuy nhiên, các tinh thể tinh khiết có thể có sự chuyển tiếp quang phổ riêng biệt và sự sắp xếp tinh thể cũng có ảnh hưởng đến quang phổ phân tử quan sát được. Cấu trúc mạng tinh thể thông thường của các tinh thể cũng tán xạ tia X, electron hoặc neutron cho phép nghiên cứu về tinh thể học.
Hạt nhân
Các hạt nhân cũng có các trạng thái năng lượng riêng biệt được phân tách rộng rãi và dẫn đến phổ tia gamma. Các trạng thái spin hạt nhân khác biệt có thể có năng lượng của chúng được phân tách bằng một từ trường, và điều này cho phép quang phổ cộng hưởng từ hạt nhân.
Các loại khác
Các loại quang phổ khác được phân biệt bằng các ứng dụng hoặc triển khai cụ thể:
Quang phổ cộng hưởng âm dựa trên sóng âm chủ yếu ở vùng âm thanh và siêu âm.
Quang phổ điện tử Auger là phương pháp được sử dụng để nghiên cứu các bề mặt của vật liệu ở quy mô vi mô. Nó thường được sử dụng liên quan đến kính hiển vi điện tử.
Quang phổ vòng xuống
Quang phổ Dichroism tròn
Quang phổ Raman chống Stokes mạch lạc là một kỹ thuật gần đây có độ nhạy cao và các ứng dụng mạnh mẽ cho quang phổ in vivo và hình ảnh.
Quang phổ huỳnh quang nguyên tử hơi lạnh
Quang phổ tương quan bao gồm một số loại phổ NMR hai chiều.
Quang phổ thoáng qua ở mức độ sâu đo lường nồng độ và phân tích các thông số của khuyết tật hoạt động điện trong vật liệu bán dẫn.
Quang phổ điện môi
Giao thoa kế phân cực kép đo các thành phần thực và ảo của chỉ số khúc xạ phức tạp.
Quang phổ tổn thất năng lượng điện tử trong kính hiển vi điện tử truyền qua.
Quang phổ hiện tượng điện tử đo các tính chất hóa lý và đặc điểm của cấu trúc điện tử của các hệ thống phân tử đa thành phần và phức tạp.
Quang phổ cộng hưởng điện từ
Quang phổ lực lượng
Quang phổ biến đổi Fourier là một phương pháp hiệu quả để xử lý dữ liệu phổ thu được bằng giao thoa kế. Quang phổ hồng ngoại biến đổi Fourier là một triển khai phổ biến của quang phổ hồng ngoại. NMR cũng sử dụng các biến đổi Fourier.
Quang phổ Hadron nghiên cứu phổ năng lượng / khối lượng của các hadron theo tính chất spin, chẵn lẻ và các tính chất hạt khác. Quang phổ baryon và quang phổ meson là các loại quang phổ hadron.
Hình ảnh siêu âm là một phương pháp để tạo ra một bức tranh hoàn chỉnh về môi trường hoặc các đối tượng khác nhau, mỗi pixel chứa một hình ảnh có thể nhìn thấy đầy đủ, có thể nhìn thấy gần hồng ngoại, gần hồng ngoại hoặc hồng ngoại.
Quang phổ đường hầm electron không đàn hồi sử dụng những thay đổi trong dòng điện do tương tác dao động điện tử không đàn hồi ở những năng lượng cụ thể cũng có thể đo được sự chuyển tiếp bị cấm về mặt quang học.
Sự tán xạ neutron không đàn hồi tương tự như quang phổ Raman, nhưng sử dụng neutron thay vì photon.
Quang phổ phân tích do tia laser gây ra, còn được gọi là quang phổ plasma gây ra bởi laser
Quang phổ laser sử dụng laser có thể điều chỉnh và các loại nguồn phát xạ kết hợp khác, chẳng hạn như bộ dao động tham số quang học, để kích thích chọn lọc các loài nguyên tử hoặc phân tử.
Quang phổ khối là một thuật ngữ lịch sử được sử dụng để chỉ phổ khối. Các khuyến nghị hiện tại là sử dụng thuật ngữ sau. Thuật ngữ "quang phổ khối" bắt nguồn từ việc sử dụng màn hình phosphor để phát hiện các ion.
Quang phổ mössbauer thăm dò tính chất của các hạt nhân đồng vị cụ thể trong các môi trường nguyên tử khác nhau bằng cách phân tích sự hấp thụ cộng hưởng của các tia gamma. Xem thêm hiệu ứng Mössbauer.
Điện toán quang đa biến là một kỹ thuật cảm biến nén quang học, thường được sử dụng trong môi trường khắc nghiệt, trực tiếp tính toán thông tin hóa học từ phổ dưới dạng đầu ra tương tự.
Quang phổ spin spin neutron đo động lực học bên trong protein và các hệ thống vật chất mềm khác.
Quang phổ quang học đo các sóng âm thanh được tạo ra khi hấp thụ bức xạ.
Quang phổ ảnh
Quang phổ quang nhiệt đo nhiệt phát triển khi hấp thụ bức xạ.
Quang phổ đầu dò bơm có thể sử dụng các xung laser cực nhanh để đo các chất trung gian phản ứng trong khoảng thời gian thứ hai giây.
Quang phổ hoạt động quang học Raman khai thác hiệu ứng tán xạ Raman và hoạt động quang học để tiết lộ thông tin chi tiết về các trung tâm trị liệu trong các phân tử.
Quang phổ Raman
Quang phổ bão hòa
Quét quang phổ đường hầm
Quang phổ
Quay nhiễu quang phổ dấu vết dao động tự phát của spin điện tử và hạt nhân.
Quang phổ giải quyết thời gian đo tốc độ phân rã của các trạng thái kích thích bằng các phương pháp phổ khác nhau.
Quang phổ kéo dài thời gian
Quang phổ hồng ngoại nhiệt đo bức xạ nhiệt phát ra từ vật liệu và bề mặt và được sử dụng để xác định loại liên kết có trong mẫu cũng như môi trường mạng tinh thể của chúng. Các kỹ thuật được sử dụng rộng rãi bởi các nhà hóa học hữu cơ, nhà khoáng vật học và nhà khoa học hành tinh.
Quang phổ grating thoáng qua đo lường sự lan truyền quasiparticle. Nó có thể theo dõi những thay đổi trong vật liệu kim loại khi chúng được chiếu xạ.
Quang phổ quang điện tử cực tím
Quang phổ tử ngoại nhìn thấy được
Quang phổ lưỡng sắc tròn rung
Quang phổ video
Quang phổ quang điện tử tia X
Ứng dụng
Giám sát chữa bệnh bằng vật liệu tổng hợp bằng sợi quang.
Ước tính thời gian tiếp xúc với gỗ phong hóa bằng cách sử dụng phổ hồng ngoại gần.
Đo các hợp chất khác nhau trong các mẫu thực phẩm bằng phương pháp quang phổ hấp thụ cả trong phổ nhìn thấy và hồng ngoại.
Đo các hợp chất độc hại trong mẫu máu
Phân tích nguyên tố không phá hủy bằng huỳnh quang tia X.
Nghiên cứu cấu trúc điện tử với các quang phổ khác nhau.
Lịch sử
Lịch sử của quang phổ học bắt đầu với các thí nghiệm quang học của Isaac Newton (1666-1672). Newton đã áp dụng từ "quang phổ" để mô tả cầu vồng màu sắc kết hợp với nhau để tạo thành ánh sáng trắng và được tiết lộ khi ánh sáng trắng truyền qua lăng kính. Trong những năm đầu thập niên 1800, Joseph von Fraunhofer đã có những tiến bộ thử nghiệm với máy quang phổ tán sắc cho phép quang phổ trở thành một kỹ thuật khoa học chính xác và định lượng hơn. Kể từ đó, quang phổ học đã chơi và tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong hóa học, vật lý và thiên văn học.
"Năm 1672, trong bài báo đầu tiên mà ông đệ trình lên Hội Hoàng gia, Isaac Newton đã mô tả một thí nghiệm trong đó ông cho phép ánh sáng mặt trời xuyên qua một lỗ nhỏ và sau đó qua lăng kính. Newton thấy rằng ánh sáng mặt trời, trông có vẻ trắng đối với chúng ta, là thực sự được tạo thành từ một hỗn hợp của tất cả các màu sắc của cầu vồng."
"Vào năm 1802, William Hyde Wollaston đã chế tạo một máy quang phổ cải tiến bao gồm một thấu kính để tập trung phổ của Mặt trời trên màn hình. Khi sử dụng, Wollaston nhận ra rằng các màu không được trải đều, mà thay vào đó là các mảng màu, xuất hiện dưới dạng các dải màu tối. Sau đó, vào năm 1815, nhà vật lý người Đức Joseph Fraunhofer cũng đã kiểm tra quang phổ mặt trời và tìm thấy khoảng 600 vạch tối như vậy (màu bị thiếu), hiện được gọi là vạch Fraunhofer, hay đường hấp thụ." |
Bí tích Thánh Thể là một loạt các hành động cử hành bởi các Kitô hữu và theo lời dạy của Giê-su được ký thuật trong Tân Ước, để tưởng nhớ Giê-xu theo những việc ông đã làm trong bữa Tiệc Ly. Giê-xu lấy bánh Thánh, bẻ ra, phân phát cho các môn đồ mà nói rằng "Này là mình Thầy", rồi lấy rượu nho đưa cho môn đồ mà phán rằng "Này là Máu Thầy". Nhìn chung, tín hữu Cơ Đốc thừa nhận có sự hiện diện của Giê-xu trong Thánh lễ này, mặc dù có những quan điểm khác nhau nhằm giải thích bản chất, thời điểm và không gian của sự hiện diện ấy. "Bí tích Thánh thể" thường được dùng để chỉ bánh và rượu nho được hiến tế trong Thánh lễ, trong khi "Tiệc Thánh" nhấn mạnh vào sự thông công giữa con người với Thiên Chúa, và giữa các tín hữu với nhau khi cử hành Thánh lễ.
Từ Eucharist có từ nguyên trong Hi văn εὐχαριστία và có nghĩa là tạ ơn, đến từ động từ εὐχαριστῶ (biết ơn), được tìm thấy trong 55 câu trong Tân Ước. Bốn trong số các câu Kinh Thánh này ghi lại lời tạ ơn của Giê-xu trước khi ngài phân phát bánh và rượu nho cho các môn đồ và công bố rằng ấy là thân thể và huyết của ngài.
Từ nguyên
Bí tích Thánh thể (Eucharist - từ tiếng Hi Lạp Εὐχαριστία eucharistia nghĩa là "tạ ơn") xuất hiện sớm trong lịch sử hội Thánh. Ignatius, Giám mục thành Antioch, tử đạo tại Roma khoảng năm 110, đã sử dụng thuật từ này cho cả Thánh lễ cũng như cho bánh và rượu nho, ba lần trong Thư gởi tín hữu ở Smyrna, và một lần trong Thư gởi tín hữu ở Philadelphia. Justin Martyr, khoảng năm 150, trong một đoạn văn miểu tả chi tiết Thánh lễ, viết "Bí tích Thánh thể" được các tín hữu dùng: "Đồ dùng này được gọi trong vòng chúng ta là Bí tích Thánh thể..." Ngày nay thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi trong các giáo hội Công giáo, Chính Thống giáo, Anh giáo và Giáo hội Luther, nhưng không phổ biến trong cộng đồng Kháng Cách.
Tiệc Thánh (Anh ngữ Communion hoặc Holy Communion, từ tiếng Latin communio, nghĩa là "chia sẻ với nhau"), được sử dụng bởi tín hữu Công giáo, Chính Thống giáo, Anh giáo, đặc biệt là tín hữu Kháng Cách. Trong giáo hội Công giáo và Chính Thống giáo, thuật từ này thường được áp dụng cho việc dự phần vào bánh và rượu nho được hiến tế hơn là cho toàn bộ Thánh lễ. Trong khi đó, các giáo hội khởi phát từ cuộc Cải cách Kháng Cách sử dụng thuật ngữ "Tiệc Thánh" để chỉ toàn bộ Thánh lễ, tập chú vào mối tương giao giữa các tín hữu, giữa cá nhân với hội Thánh và với Thiên Chúa, cũng là ngụ ý cho mối tương giao giữa các thân vị trong Ba Ngôi, lập nền cho các mối tương giao khác.
Kinh Thánh
Ba sách Phúc âm Đồng quan (Phúc âm Nhất lãm)
cũng như Thư thứ nhất của Phao-lô gởi tín hữu ở Corinth đều thuật lại sự kiện Giê-xu thiết lập Lễ Tiệc Thánh trong bữa ăn tối cuối cùng khi ngài bảo các môn đồ: "Hãy lấy mà ăn, này là thân thể ta... Hãy lấy mà uống, này là huyết ta... Hãy làm điều này để nhớ đến ta". Mọi ý nghĩa của việc cử hành lễ Tiệc Thánh đều lập nền trên mạng lịnh này. Chương 6 của Phúc âm John (Gioan hoặc Giăng) ký thuật lời của Giê-xu giúp chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa của Thánh lễ: "Vì thịt ta thật là đồ ăn, huyết ta thật là đồ uống. Người nào ăn thịt ta và uống huyết ta, thì ở trong ta và ta ở trong người". (John 6. 55,56).
Phúc âm Giăng không nhắc đến việc Giê-xu phân phát bánh và rượu nho, nhưng thuật lại việc ngài rửa chân cho các môn đồ, lời tiên tri về kẻ phản ngài, và giảng giải cho các môn đồ về tầm quan trọng của sự hiệp nhất giữa họ với ngài, và giữa họ với nhau.<ref>Tyndale Bible Dictionary / editors, Philip W. Comfort, Walter A. Elwell, 2001 ISBN 0-8423-7089-7, article: "John, Gospel of</ref>
Trong Thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô (khoảng năm 54-55), Sứ đồ Phao-lô là một trong những người đầu tiên miêu tả Tiệc Thánh với hàm ý kêu gọi tín hữu quay về với ý nghĩa thật của Thánh lễ này,
Thật vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: trong đêm bị nộp, Chúa Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: "Anh em nhận lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy." Cũng thế, cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói: "Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy." Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết. Vì thế, bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa. Ai nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh và uống Chén này. 29 Thật vậy, ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình." (Côrintô 11: 23-29)
Khi ấy, các tín hữu tại Côrintô (nhiều người thuộc tầng lớp trung và thượng lưu) có thói quen đến sớm tiệc tùng cùng nhau với thức ăn, thức uống sang trọng. Điều này làm sỉ nhục các tín hữu là nô lệ và nông dân là những người đến sau, có người phải chịu đói. Phao-lô dạy họ rằng tất cả tín hữu cùng nhau dự phần vào thân thể và huyết của Chúa, không phải đến để thưởng thức bữa ăn riêng của mình với thái độ phân biệt mà gây ra sự chia rẽ trong hội Thánh. Như thế, "chẳng còn phải là Tiệc Thánh của Chúa" mà là một sự "khinh bỉ Hội Thánh của Thiên Chúa." Thần học
Tiệc Thánh hoặc Bí tích Thánh thể luôn là tâm điểm của sự thờ phượng trong cộng đồng Cơ Đốc giáo, mặc dù có những giải thích khác nhau về Thánh lễ này. Đại thể, các truyền thống Công giáo, Anh giáo và Chính Thống giáo xem Bí tích Thánh thể là sự ứng nghiệm cho kế hoạch của Thiên Chúa nhằm cứu nhân loại khỏi tội lỗi, là sự hoài niệm và tái hiện sự đóng đinh và sự phục sinh của Giê-xu, là phương tiện giúp tín hữu hiệp nhất với Thiên Chúa và hiệp nhất với nhau, cũng như dâng lên lời tạ ơn về Thánh lễ này. Trong khi đó, các giáo hội thuộc cộng đồng Kháng Cách tập chú vào trải nghiệm của người dự Thánh lễ trong sự thông công với Thiên Chúa và với hội Thánh, cùng những lợi ích tâm linh như dự phần vào sự hiện diện huyền nhiệm của Chúa Cơ Đốc, sức mạnh củng cố đức tin và niềm hi vọng vào nước Chúa.
Công giáo Rôma
Theo Giáo hội Công giáo, Bí tích Thánh thể là một trong bảy phép bí tích, cũng được xem là "nữ hoàng của các phép bí tích", và là "bí tích chí Thánh". Bí tích Thánh thể là tưởng niệm sự thương khó, sự chết và sự sống lại của Chúa Ki-tô, nên được hiểu theo ý nghĩa đầy trọn nhất theo Kinh Thánh. Nói cách khác, bí tích này không chỉ là một sự hồi niệm mà còn là một sự hiện diện đích thực của các biến cố ấy. Do đó, Bí tích Thánh thể nên được hiểu là thực sự dự phần vào sự hiến tế Chúa Ki-tô, sự thể hiện trong hiện tại, một biến cố đã xảy ra trong quá khứ nhưng có giá trị mãi mãi.
Chỉ có linh mục (tiếng Anh priest, cũng có nghĩa là thầy tư tế), hoặc Giám mục, được ban cho thẩm quyền cử hành Thánh lễ và hiến tế trong Bí tích Thánh thể, nhân danh Chúa Ki-tô (in persona Christi). Linh mục chủ tế thay mặt Chúa Ki-tô, là Đầu của Hội Thánh, và hành lễ trước mặt Thiên Chúa trong danh nghĩa của Hội Thánh. Bánh phải là bánh không men và rượu phải làm từ nho.
Theo quan điểm của Giáo hội Công giáo Rôma, khi bánh và rượu được hiến tế trong Bí tích Thánh thể, chúng không còn là bánh và rượu thuần tuý nữa, mà đã trở nên thịt và máu thật của Chúa Ki-tô. Không phải là sự biến đổi trong vật chất, mà là trong bản thể. Sự hiến tế bánh và rượu nho thể hiện sự tách rời thân thể của Chúa Giê-su khỏi huyết của Ngài trên Đồi Sọ. Tuy nhiên, Giáo hội dạy rằng sau khi Chúa Giê-su phục sinh, thịt và huyết của Ngài không còn tách rời. Vì vậy, khi linh mục nói "Mình Chúa Ki-tô" lúc ban bánh và "Máu Chúa Ki-tô" khi ban rượu, người rước lễ, mặc dù chỉ nhận bánh, là nhận lãnh Chúa Ki-Tô cách đầy đủ và trọn vẹn.
Sự biến đổi huyền nhiệm của bánh và rượu nho trong Bí tích Thánh thể, được các tác giả thế kỷ 12 gọi là "sự biến thể" (transubstantiation).
Tóm lại, theo thuyết biến thể, bản thể của bánh và rượu nho biến đổi theo cách vượt quá sự hiểu biết của con người để trở nên Thân thể, Huyết, Linh hồn và Thần tính của Chúa Ki-tô, trong khi những yếu tố vật lý và hoá học của bánh và rượu vẫn tồn tại.
Chính Thống giáo
Các giáo hội Kitô giáo phương Đông có quan điểm tương tự với đức tin Công giáo khi cho rằng trong Thánh lễ, bánh và rượu nho thực sự trở nên thân thể và huyết của Chúa Cơ Đốc, dù họ không sử dụng các thuật ngữ của học thuyết biến thể, cũng không tìm cách giải thích tiến trình biến đổi của bánh và rượu.
Giáo hội Luther
Tín hữu giáo hội Luther chấp nhận giáo lý "Đồng thể" (Consubstantiation), theo đó thân thể và huyết của Giê-xu Cơ Đốc hiện diện trong, với và bên dưới bản thể của bánh và rượu nho.
Anh giáo
Bản Ba mươi chín Tín điều năm 1571 của Cộng đồng Anh giáo dạy rằng, "Bánh mà chúng ta ăn là để dự phần vào Thân thể Chúa Cơ Đốc", và "Chén Phước hạnh là để dự phần vào Huyết của Chúa Cơ Đốc", và khẳng định rằng "Thuyết Biến thể là một sự ghê tởm đối với Lời Thánh". Bản tín điều cũng xem sự sùng kính hoặc tôn thờ bánh và nước trong Thánh lễ là không phù hợp với lời dạy của Giê-xu và không nên thực hiện trong hội Thánh, rằng bất cứ ai dự lễ cách không xứng đáng sẽ không nhận lãnh sự hiện diện của Chúa Cơ Đốc, nhưng bị định tội.
Trong thực tế, Anh giáo tin vào sự hiện diện của Chúa Cơ Đốc trong Thánh lễ, nhưng mở rộng phạm vi giải thích sự hiện diện này từ quan điểm chấp nhận thuyết biến thể, đôi khi dẫn đến sự tôn kính dành cho bánh Thánh và rượu Thánh (phổ biến trong vòng tín hữu Công giáo Anh), đến niềm xác tín vào sự hiện diện phước hạnh của Giê-xu trong tâm linh người dự lễ, bánh và nước chỉ có giá trị biểu trưng (phổ biến trong vòng tín hữu Anh giáo Tin Lành).
Giám Lý
Tín hữu Giám Lý tin rằng Tiệc Thánh là sự trải nghiệm ân điển Thiên Chúa. Qua Thánh lễ này, tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa có thể đến với mọi người,Tiệc Thánh của Chúa không chỉ là một chỉ dấu của tình yêu trong vòng các tín hữu Cơ Đốc mà còn là một Thánh lễ của sự cứu chuộc qua sự chết của Chúa Cơ Đốc, để khi bởi đức tin tiếp nhận bánh chúng ta dự phần vào thân thể của Chúa Cơ Đốc; cũng một thể ấy chén phước hạnh mà chúng ta uống là để dự phần vào huyết của Ngài.
Giáo lý Biến thể, tin rằng bánh và nước thực sự trở nên thân thể và huyết của Chúa Cơ Đốc, không chỉ không phù hợp với Lời Thánh, mà còn là điều gớm ghiếc đối với Kinh Thánh, bác bỏ ý nghĩa thật của Thánh lễ và mở đường cho sự mê tín.
Thân thể của Chúa Cơ Đốc được ban cho, nhận lãnh và dự phần trong Lễ Tiệc Thánh chỉ trong ý nghĩa tâm linh, chỉ bởi đức tin mà chúng ta nhận lãnh và dự phần thân thể Chúa Cơ Đốc.
Tín hữu Giám Lý còn tin rằng Thánh lễ Tiệc Thánh là phương tiện của ân điển, qua đó tín hữu nhận lãnh sự hiện diện của Chúa Cơ Đốc, trong đó ẩn chứa những điều huyền nhiệm.Tiệc Thánh là sự hồi niệm và tưởng nhớ, nhưng sự hồi niệm này không chỉ đơn giản là nhớ lại. "Hãy làm điều này để nhớ đến ta" (Hi văn ἀνάμνησις-anamnesis). Hành động này còn có ý nghĩa tái hiện ân điển của Thiên Chúa... Chúa Cơ Đốc đã phục sinh và đang sống tại đây trong lúc này, không chỉ là sự hồi niệm một sự kiện trong quá khứ.
Thần học Calvin
Nhiều tín hữu thuộc cộng đồng Kháng Cách, nhất là những người chịu ảnh hưởng Thần học Calvin, tin rằng thân thể và huyết của Chúa Cơ Đốc không thực sự ngự vào bánh và rượu nho, nhưng theo lời của Calvin, "Chúa Thánh Linh hiệp nhất những điều bị phân cách trong không gian" và "những ai bởi đức tin tham dự Thánh lễ sẽ nhận lãnh nhiều lợi ích từ Chúa Cơ Đốc, song những người không tin mà dự Thánh lễ sẽ bị đoán phạt. Bởi đức tin (không chỉ đơn thuần bởi khả năng cảm nhận của trí tuệ), trong Chúa Thánh Linh, người dự lễ sẽ nhận lãnh Thiên Chúa hoá thân thành người (Giê-xu Cơ Đốc), giống như cảm giác được chạm đến ngài, hầu cho khi ăn bánh và uống nước thì Chúa Cơ Đốc ngự vào lòng của người có đức tin cũng giống như khi chúng ta ăn và nuốt thức ăn vậy".
Calvin quyết liệt bác bỏ việc sùng kính dành cho bánh và nước nho, xem đó là tội "thờ lạy hình tượng", cũng không chấp nhận học thuyết biến thể, nhưng xem bánh và nước nho là phương tiện giúp tín hữu hướng lòng về sự phục sinh và sự tái lâm của Giê-xu.
Thần học Zwingli
Bánh và rượu nho chỉ là biểu trưng cho thân thể và huyết của Giê-xu Cơ Đốc. Khi tham dự Thánh lễ Tiệc Thánh, tín hữu tưởng nhớ đến bữa Tiệc Ly, sự thương khó và sự chết chuộc tội của Giê-xu Cơ Đốc ("Ấy là Giê-xu, trong đêm Ngài bị nộp, lấy bánh, tạ ơn, rồi bẻ ra mà phán rằng: Nầy là thân thể ta, vì các ngươi mà phó cho; hãy làm điều này để nhớ đến ta. Cũng một thể ấy, sau khi ăn bữa tối rồi, Ngài lấy chén và phán rằng: Chén này là giao ước mới trong huyết ta; hễ khi nào các ngươi uống, hãy làm điều này để nhớ ta", 1Cor. 11.24,25).
Khởi phát từ Huldrych Zwingli, nhà lãnh đạo cuộc cải cách tôn giáo tại Thụy Sĩ vào thế kỷ 16, quan điểm này được chấp nhận rộng rãi trong nhiều giáo hội thuộc cộng đồng Kháng Cách, đặc biệt là các tín hữu Baptist.
Những tín hữu chấp nhận quan điểm thần học này dành cho Tiệc Thánh vị trí quan trọng trong giáo nghi vì, theo Tân Ước, đây là một trong hai Thánh lễ - cùng với lễ báp têm (rửa tội) - do chính Giê-xu thiết lập, đồng thời nhấn mạnh đến trải nghiệm thông công giữa người dự Thánh lễ với Thiên Chúa, và giữa cá nhân với hội Thánh. Thánh lễ cũng biểu trưng cho sự hiệp nhất của tín hữu với Chúa Cơ Đốc (Ngài là Đầu của Hội Thánh), ban cho tín hữu sức mạnh để khẳng quyết sự cứu rỗi, củng cố đức tin trong sống đạo, cũng là biểu tượng cho sự vui thoả và niềm hi vọng vào Vương quốc của Thiên Chúa.
Chú thích
Xem thêm
Cuộc đời Giê-xu theo Tân Ước
Giê-xu
Tiệc Ly
Chén Thánh
Tham khảo
1963 edition of The New Saint Joseph: First Communion Catechism, Baltimore Catechism
Anderson, S. E. The First Communion Chemnitz, Martin. The Lord's Supper. J. A. O. Preus, trans. St. Louis: Concordia, 1979. ISBN 0-570-03275-X
Dix, Dom Gregory. The Shape of the Liturgy. London: Continuum International, 2005. ISBN 0-8264-7942-1
Elert, Werner. Eucharist and Church Fellowship in the First Four Centuries. N. E. Nagel, trans. St. Louis: Concordia Publishing House, 1966. ISBN 0-570-04270-4
Felton, Gayle. This Holy Mystery. Nashville: Discipleship Resources, 2005. ISBN 0-88177-457-X
Father Gabriel. Divine Intimacy. Rockford, IL: Tan Books and Publishers, Inc., 1996 reprint ed. ISBN 0-89555-504-2
Grime, J. H. Close Communion and Baptists Jurgens, William A. The Faith of the Early Fathers. Collegeville, MN: The Liturgical Press, 1970. ISBN 0-8146-0432-3
Kolb, Robert and Timothy J. Wengert, eds. The Book of Concord: The Confessions of the Evangelical Lutheran Church. Minneapolis: Fortress Press, 2000. (ISBN 0-8006-2740-7)
Lefebvre, Gaspar. The Saint Andrew Daily Missal. Reprint. Great Falls, MT: St. Bonaventure Publications, Inc., 1999.
Macy, Gary. The Banquet’s Wisdom: A Short History of the Theologies of the Lord’s Supper. (2005, ISBN 1-878009-50-8)
McBride, Alfred, O.Praem. Celebrating the Mass. Our Sunday Visitor, 1999.
Nevin, John Williamson. The Mystical Presence: A Vindication of the Reformed or Calvinistic Doctrine of the Holy Eucharist. 1846; Wipf & Stock reprint, 2000. ISBN 1-57910-348-0.
Oden, Thomas C. Corrective Love: The Power of Communion Discipline. St. Louis: Concordia Publishing House, 1995. ISBN 0-570-04803-6
Sasse, Hermann. This Is My Body: Luther's Contention for the Real Presence in the Sacrament of the Altar. Eugene, OR: Wipf & Stock, 2001. ISBN 1-57910-766-4
Schmemann, Alexander. The Eucharist. St Vladimir's Seminary Press, 1997. ISBN 0-88141-018-7
Stoffer, Dale R. The Lord's Supper: Believers Church Perspectives Stookey, L.H. Eucharist: Christ's Feast with the Church. Nashville: Abingdon, 1993 ISBN 0-687-12017-9
Tissot, The Very Rev. J. The Interior Life. 1916, pp. 347–9.
Wright, N. T. The Meal Jesus Gave Us'' |
Bài này nói về một sự kiện tôn giáo, xin xem Bữa ăn tối cuối cùng (định hướng) cho các nghĩa khác.
Về bức tranh của Leonardo da Vinci xin xem Bữa ăn tối cuối cùng (Leonardo da Vinci).
Theo các sách phúc âm, Tiệc Ly là bữa ăn sau cùng Chúa Giê-su chia sẻ với các môn đồ trước khi ngài chết. Tiệc Ly cũng là tiêu đề của nhiều tác phẩm hội họa, nổi tiếng nhất có lẽ là bức tranh của danh họa Leonardo da Vinci. Theo các học giả, bữa ăn là dịp kỷ niệm Lễ Vượt qua, cử hành vào tối thứ Năm trước khi Chúa Giê-xu chịu đóng đinh trên thập tự giá vào thứ Sáu. Quan điểm này dựa trên ký thuật của các sách Phúc âm Nhất lãm, nhưng theo ký thuật của Phúc âm John (Gioan hoặc Giăng), Tiệc Ly được tổ chức trước Lễ Vượt qua, như vậy Chúa Giê-xu trút hơi thở cuối cùng ngay vào thời điểm giết con chiên trong lễ Vượt qua (ký thuật này được chấp nhận bởi Chính Thống giáo). Một số tín hữu Cơ Đốc tin rằng, qua sự xem xét cẩn trọng các ký thuật của các sách phúc âm, thời điểm tổ chức bữa Tiệc Ly là vào thứ Ba, và Chúa Giê-xu chịu đóng đinh vào thứ Tư.
Trong bữa Tiệc Ly, khi cầm bánh và rượu nho, Chúa Giê-xu bảo các môn đồ, "Hãy làm điều này để nhớ đến ta", (1 Cor 11.23-25).
Theo Kinh thánh, Tiệc Ly được tổ chức tại một nơi ngày nay gọi là Căn phòng Tiệc Ly trên núi Zion, ngay bên ngoài bức tường của Cổ thành Jerusalem.
Hồi niệm Tiệc Ly
Tín hữu Công giáo tưởng nhớ Tiệc Ly là sự kiện Chúa Giê-xu thiết lập hai bí tích: Thánh Thể và Truyền chức thánh, trong khi tín hữu Kháng Cách (Protestant) xem sự kiện này là "sự khởi đầu của Giao ước mới", đã được tiên báo bởi Tiên tri Jeremiah, được làm ứng nghiệm bởi Chúa Giê-xu tại bữa Tiệc Ly, khi Ngài phán "Hãy lấy ăn đi, (bánh) này là Thân thể Ta, vỡ ra vì các ngươi. Hãy lấy chén và uống; (rượu nho) này là Huyết Ta, đổ ra cho nhiều người để được tha tội". Nhiều tín hữu Cơ Đốc xem việc tưởng nhớ với Bánh và Rượu nho là sự ứng nghiệm cho ý nghĩa tiên báo của lễ Vượt qua, vì Chúa Giê-xu Cơ Đốc đã trở nên "sinh tế Lễ Vượt qua của chúng ta, đã hi sinh vì chúng ta" (1Cor. 5.7). Như thế, dự phần vào lễ Vượt qua nay trở nên dấu hiệu của Giao ước mới, trong sự hiểu biết đầy đủ về ý nghĩa của nghi thức này.
Cơ Đốc giáo tiên khởi đã thiết lập lễ tưởng nhớ trong hình thức của bữa ăn được gọi là "tiệc thương yêu" (agape feast). Agape trong Hi văn có nghĩa là yêu thương, theo ý nghĩa tình yêu thiên thượng hơn là tình yêu của con người. Tiệc yêu thương là bữa ăn cộng đồng, mỗi người đem thức ăn của mình đến để chia sẻ với người khác trong một căn phòng chung.
Nghi thức thờ phượng này được thể hiện trong lễ Misa theo truyền thống Công giáo, Giáo nghi Thần thượng trong Chính Thống giáo, hoặc lễ Vượt qua Cơ Đốc trong các giáo hội khác. Trong nghi thức thờ phượng này, Công giáo và Chính Thống giáo cử hành Bí tích Thánh thể (Eucharist). Eucharist trong Hi văn là eucharistos có nghĩa là tạ ơn.
Thuật ngữ Tiệc Thánh (Holy Communion'') được sử dụng trong nhiều truyền thống Cơ Đốc khác, nhấn mạnh đến bản chất của thánh lễ, như là "sự thông công mật thiết" giữa Thiên Chúa và con người, điều này chỉ có thể thực hiện được qua sự chết hiến tế của Chúa Giê-xu. |
"The Man Who Sold the World" là một bài hát do nhạc sĩ thuộc dòng nhạc rock David Bowie sáng tác. Đây cũng là tiêu đề cho album thứ ba của anh, album The Man Who Sold the World, phát hành vào năm 1970. Bài hát sau này đã được phổ biến rộng rãi bởi ban nhạc Nirvana trong album MTV Unplugged in New York của họ.
Ý nghĩa lời hát
Bài hát mang tính khái quát cao và có thể được hiểu theo nhiều nghĩa. Một hàm ý có thể hiểu là nói về một người đàn ông đang nói về việc sử dụng ma túy của mình. Nghĩa khác là người đàn ông đang nói với con người của chính bản thân mình trước khi anh ta bán tâm hồn mình.
We passed upon the stair, we spoke of was and when
Although I wasn't there, he said I was his friend
Which came as a surprise I spoke into his eyes
I thought you died alone, a long long time ago
Bài hát còn nói về một người đàn ông gặp lại con người cũ của mình tại thời điểm chuyển giao cuộc sống của mình. Con người cũ của ông ta là con người trước khi bán tâm hồn của mình đi. Con người cũ này nói rằng vẫn là bạn của người đàn ông đó, và làm ông này ngạc nhiên vì ông không thích con người cũ đó.
Oh no, not me
We never lost control
You're face to face
With The Man Who Sold The World
Con người cũ nói rằng mọi việc đều là kế hoạch hết rồi; không phải là một việc mới xảy ra. Anh ta đã bán tâm hồn để lấy tiền, sự nổi tiếng, mọi thứ khác một cách có suy nghĩ và nghĩ rằng việc đó chính là sự hy sinh.
I laughed and shook his hand, and made my way back home
I searched for form and land, for years and years I roamed
I gazed a gazley stare, at all the millions here
I must have died alone, a long long time ago
Người đàn ông này cười bởi vì sự khờ khạo của con người cũ. Người đàn ông nghĩ rằng lý do anh ta đã bán có thể như vậy nhưng khi mà anh ta đã đạt được mục đích anh ta sẽ chỉ cảm thấy mọi thứ đều trống rỗng như trước đây thôi. Hai câu hát cuối cùng nói về việc anh ta sẽ đi bộ hàng triệu năm để tìm kiếm cho sự khao khát thèm muốn đã dẫn dắt anh từ đầu.
Phiên bản khác
Bài hát có trong b-side trong đĩa đơn của Mỹ cho bài hát "Space Oddity" (1972) và bài "Life on Mars?" (1973). Bài hát cũng có trong các đĩa tổng hợp đa dạng của Bowie.
Một phiên bản thu âm lại do Brian Eno thực hiện có trong b-side của đĩa CD năm 1995 cho bài hát "Strangers When We Meet". Phiên bản này cũng có trong đĩa bonus tiếp theo sau một vài phiên bản của Outside - Phiên bản 2.
Các phiên bản hát lại
Lulu
Bài hát đã được ca sĩ Lulu hát lại vào năm 1974. Nó đã được phát hành như một đĩa đơn và như là một bài hát hay của ca sĩ đó. Bowie không chỉ sản xuất phiên bản này mà còn chơi saxophone solo cho nó.
Nirvana
Một phiên bản đã được biên tập lại và được ban nhạc rock Mỹ Nirvana thu âm vào năm 1993, trong buổi diễn cho chương trình MTV Unplugged. Bài hát đã được phát hành trong album MTV Unplugged in New York, album vào năm tiếp theo.
Bài hát đã được phát hành như một đĩa đơn quảng cáo cho album và nhận được yêu cầu phát trong chương trình nhạc alternative rock trên sóng phát thanh. Bài hát thường xuyên có mặt trong video âm nhạc của kênh truyền hình như MTV.
Here & Now
Ban nhạc Here & Now đã hát lại bài hát trong album "Fantasy Shift" làm năm 1983.
Vị trí xếp hạng trong bảng bình chọn |
là quá trình phát triển tự nhiên từ vật chất vô cơ thông qua sự phức tạp hóa các hợp chất cacbon, hình thành các đại phân tử protein và các nucleic làm thành một hệ tương tác có khả năng tự nhân bản và tự đổi mới.
Nghiên cứu về nguồn gốc sự sống là một trong những lĩnh vực được biết đến rất hạn chế mặc dầu hầu hết những hiểu biết của con người về bộ môn sinh học và thế giới tự nhiên là dựa trên nó. Mặc dù công việc nghiên cứu về lĩnh vực này rất chậm nhưng nó luôn luôn thu hút sự chú ý của nhiều người bởi vì đây là một câu hỏi rất lớn và rất khó. Một số những sự kiện đã cho chúng ta biết một phần điều kiện tạo nên sự sống, nhưng cơ chế bên trong tạo nên sự sống vẫn là một điều bí ẩn.
Những tư tưởng về sự sống đầu tiên: Aristotle, Pasteur, Darwin, Oparin
Vào thế kỉ thứ 4 trước Công nguyên, Aristotle đã trình bày dựa trên những điều mà con người thời đó biết được, ít nhất là ở châu Âu, rằng những vật thể sống phát sinh từ những vật thể không sống. Ví dụ như bọ chét và chuột phát sinh từ những đống rác cũ hay bột mì, những con giòi và ruồi trong thịt thối, rệp trong sương. Cuộc sống, nói ngắn gọn hơn, là bắt nguồn từ sự phát triển tự nhiên.
Những nhà khoa học đầu thế kỉ 18 đã lật đổ những học thuyết của Aristotle, nhưng phải đến những thí nghiệm của Louis Pasteur vào năm 1862 người ta mới chắc chắn rằng một nơi đã được vô trùng thì sẽ vĩnh viễn không có bất cứ sinh vật nào phát sinh trong nó được nữa. Ngoài ra ông cũng cho rằng sự sống chỉ có thể phát sinh từ những cơ thể sống phức tạp khác. Những công trình của Pasteur có thể được tóm tắt trong một định luật mà ngày nay chính là nền tảng của thuyết tiến hóa hiện đại: Định luật phát sinh sinh vật: "Mọi cuộc sống đều bắt đầu từ trứng" (nguyên bản tiếng Latinh omne vivum ex ovo). Và thực tế thuyết tiến hóa sinh học không hề có nhiệm vụ chứng minh sự sống từ đâu ra (cũng giống như thuyết vạn vật hấp dẫn không có nhiệm vụ chứng minh trọng lực từ đâu xuất hiện), nó chỉ có nhiệm vụ giải thích sự đa dạng mà thống nhất và thống nhất trong sự đa dạng của sự sống. Tuy nhiên sự sống hoàn toàn có thể bắt nguồn từ các chất hữu cơ đơn giản (abiogenesis).Trong tiếng Việt gọi là tiến hóa hóa học
Ngành khoa học sinh vật hiện đại đang phải đương đầu với một câu hỏi cao hơn: sự sống bắt nguồn "đầu tiên" ở đâu? Pasteur đã chứng minh rằng những sinh vật bậc cao không thể phát sinh một cách tự nhiên. Lý thuyết về tiến hóa của Charles Darwin đã đưa ra một cơ chế để giải thích điều này: sinh vật phải mất hàng triệu năm để tiến hóa từ những dạng cơ bản, nhưng nó sẽ không mang những đặc điểm như lúc trước nữa, nhưng những sinh vật cơ bản ấy sẽ từ đâu ra? Darwin rất quan tâm đến vấn đề này. Trong một lá thư gửi cho Joseph Dalton Hooker ngày 1 tháng 2 năm 1871, Darwin đã cho rằng sự sống bắt nguồn từ "một cái hồ nước ấm áp có chứa đầy các loại muối ammonia và phosphat, ánh sáng, nhiệt độ, điện,... để các hợp chất protein có thể hình thành và trải qua những biến đổi phức tạp". Tiếp theo đó, Darwin tìm cách lý giải luận điểm của mình "vào bây giờ, những điều kiện như thế nếu tồn tại sẽ bị biến mất ngay lập tức, ngoại trừ trước khi tất cả các sinh vật sống được sinh ra". Nói một cách khác, sự khai sinh các dạng sống phức tạp có thể một phần nào ngăn cản sự tạo thành những hợp chất hữu cơ cơ bản trên Trái Đất, một điều kiện khiến cho việc đi tìm câu trả lời cho câu hỏi trên nằm trong phòng thí nghiệm.
Câu trả lời cho câu hỏi của Darwin vẫn nằm ngoài tầm hiểu biết của khoa học hiện đại, và hầu như không có một tiến bộ nào trong lĩnh vực này vào thế kỉ 19. Năm 1936, Aleksandr Ivanovich Oparin, trong cuốn sách nổi tiếng của mình "The Origin of Life on Earth" (Nguồn gốc của sự sống trên Trái Đất), đã cho thấy rằng sự hiện diện của không khí chứa oxy và những hình thái sống phức tạp đã ngăn cản những chuỗi phản ứng có thể tạo nên sự sống. Oparin còn cho rằng, một "món súp nguyên thủy" với những hợp chất hữu cơ chỉ có thể tạo thành ở những nơi thiếu oxy, qua ánh sáng Mặt Trời. Sau đó, ông cho rằng chính những hợp chất hữu cơ cao phân từ hòa tan trong nước thành các dung dịch keo, các dung dịch keo này có thể hòa tan vào nhau tạo thanh những giọt rất nhỏ gọi là coacervate. Những giọt này có thể lớn lên nhờ hấp thụ các giọt khác, có thể sinh sản khi có những tác động cơ giới chia nó ra làm các hạt nhỏ hơn, do đó nó có các tính chất cơ bản của một tế bào nguyên thủy. Tất cả những học thuyết hiện đại đều khởi đầu từ những luận điểm của Oparin.
Những thuyết hình thành sự sống hiện đại
Trong thực tế không có một thuyết chuẩn nào về nguồn gốc sự sống. Tuy nhiên, những thuyết được người ta chấp nhận nhiều nhất đều được xây dựng trên một số những phát hiện về cấu trúc phân tử và tế bào. Chúng bao gồm những luận điểm sau:
Ở những điều kiện thích hợp, những vật chất không sống có thể tạo nên những phần cấu tạo nên tế bào sống, như amino acid. Điều này đã được chứng minh qua thí nghiệm Urey-Miller do Stanley L. Miller và Harold C. Urey vào năm 1953.
Những hợp chất phospholipid với độ dài thích hợp có thể tạo nên màng lipid, một trong hai thành phần chủ yếu của màng tế bào.
Quá trình trùng hợp của nucleotide trở thành những mạch RNA ngẫu nhiên dẫn đến sự nhân đôi các ribozyme (giả thuyết về "Thế giới RNA" của Carl Woesoe).
Những thúc đẩy tự nhiên về tính xúc tác tốt và tính đa dạng đã tạo nên các ribozyme có khả năng chuyển hóa peptide thành các hạt protein nhỏ. Từ đó, các oligopeptide cùng với RNA tạo thành những chất xúc tác tốt hơn hình thành. Do đó sinh ra các hạt ribosome, làm cho sự hình thành các protein được dễ dàng hơn.
Protein đã vượt qua ribozhyme về khả năng xúc tác, và trở thành một lớp màng sinh học cơ bản nhất. Acid nucleic chỉ còn tìm thấy trong các gen tế bào.
Nguồn gốc của các tế bào, trong khi chưa được rõ ràng, có thể gây ra tranh cãi về mức độ quan trọng và thứ tự của bước 2 và 3. Những hợp chất vô cơ và hữu cơ cơ bản nhất tạo nên sự sống là methane (CH4), ammonia (NH3), nước (H2O), hydro sulfide (H2S), carbon dioxide (CO2) và phosphat (PO43-). Cho đến năm 2006, chưa có một ai đã điều chế nhân tạo được một tế bào nguyên mẫu từ những chất cơ bản. Nhà sinh vật học John Desmond Bernal, đã đưa ra ba quá trình mà qua đó sự sống hình thành:
Bước 1: Sự hình thành các monomer
Bước 2: Sự hình thành các polymer
Bước 3: Sự tiến hóa từ các cấp độ phân tử lên đến tế bào
Bernal còn cho rằng: sự chọn lọc tự nhiên như Darwin có thể bắt đầu từ rất sớm, có khi từ giữa giai đoạn 1 và 2.
Nguồn gốc của các chất hữu cơ: Miller, Eigen và Wächtershäuser
Thí nghiệm Miller (do Harold Urey và học trò của mình là Stanley Miller) thực hiện vào năm 1953 nhằm tái tạo lại những điều kiện được cho rằng có từ lúc Trái Đất xuất hiện. Thí nghiệm sử dụng một hỗn hợp các chất khí như: methane, ammonia và hydro. Tuy nhiên, tỉ lệ của các chất khí trong khí quyển Trái Đất cổ đại vẫn là một điều gây tranh cãi. Đã có thời người ta nghĩ rằng một lượng oxy đáng kể trong bầu khí quyển, nhưng chính oxy lại ngăn cản sự hình thành các hợp chất hữu cơ.
Thí nghiệm cho thấy với những mắt xích hữu cơ đơn giản như amino acid có thể trùng hợp tạo thành một khối vật chất sống. Những chất hữu cơ cơ bản dĩ nhiên là khác xa so với những tế bào có thể tự sinh sản được. Tuy nhiên, trong một môi trường mà chưa có sự sống nào hình thành trước thì các chất hữu cơ này sẽ được tích trữ lại và đến một lúc nào đó sẽ có một sự tiến hóa hóa học. Hơn nữa, sự hình thành các polymer phức tạp từ các monomer dưới những điều kiện như thế không phải là một quá trình dễ dàng. Bên cạnh những monomer cần thiết, những hỗn hợp có tác dụng ngăn cản sự hình thành các polymer. Hơn nữa, theo như Brooks và Shaw trong cuốn Origins and Development of Living Systems (Nguồn gốc và sự phát triên của các hệ thống sống), không có một dấu hiệu địa lý nào cho thấy tồn tại sự tích tụ các chất hữu cơ như trên:
"Nếu có sự tích tụ nào của các chất hữu cơ, chúng ta nên hi vọng sẽ tìm được một nơi nào đó trên Trái Đất mà trầm tích chứa đầy nhưng hợp chất hữu cơ chứa nitơ, acid, chất khử, khoáng lưu huỳnh hay những thứ gì đó tương tự như thế; hay trong những trầm tích đã biến đổi, chúng ta ít nhất cũng phải tìm được những hợp chất nitơ. Thực tế là những chất như thế vẫn còn chưa được tìm thấy trên Trái Đất.
Một số nguồn khác tạo thành các hợp chất hữu cơ phức tạp đã được công nhận: ví dụ như những yếu tố từ ngoài Trái Đất như các thiên thạch. Ví dụ như trong phân tích quang phổ, các hợp chất hữu cơ đã được tìm thấy trong các thiên thạch và cả sao chổi. Vào 2004, một số hydrocarbon thơm đa vòng (PAH, viết tắt của polycyclic aromatic hydrocarbon) đã được tìm thấy khi quan sát các tinh vân. Sự hiện diện của PAH chính là nguồn gốc của "thế giới RNA" trong giả thuyết "thế giới PAH".
Có một số tranh cãi rằng vấn đề chủ yếu vẫn chưa được trả lời bằng thuyết này là làm cách nào mà những phân tử hữu cơ đơn giản lại có thể hình thành nên những hợp chất hữu cơ phức tạp, tương tác với nhau như thế nào để tạo thành một tế bào. Ví dụ, trong một môi trường nước, sự thủy phân các polymer tạo thành các monomer có ưu thế hơn sự ngưng tụ các monomer thành polymer. Thí nghiệm Miller cũng đã tạo thành những chất chắc chắn phải phản ứng với amino acid, từ đó, chấm dứt chuỗi peptide.
Vào đầu thập kỉ 1970, một vấn đề lớn được phát hiện về nguồn gốc sự sống đã được phát hiện bởi một nhóm nhà khoa học tại Hiệp hội Max Planck. Họ tìm các xem xét những bước tạm thời trong phản ứng giữa những chất trong "món súp nguyên thủy" và những bước tạm thời trong các bước nhân đôi các mạch carbon vòng. Kết quả là, trong phân tử carbon mạch vòng, bộ phận lưu trữ thông tin (có thể là RNA) đã tiết ra một chất enzyme, giúp cho sự tạo nên một hệ thống thông tin mới, cứ liên tục như thế cho đến khi một hệ thống thông tin cuối cùng hỗ trợ cho hệ thống đầu tiên. Hệ thống đó được gọi là quasispecies, trải qua quá trình chọn lọc tự nhiên rồi trở thành một sinh vật. Một trong những bằng chứng của thuyết carbon vòng là sự khám phá ra RNA, trong một số trường hợp có thể chuyển hóa thành ribozymes, một dạng enzyme tạo thành RNA.
Một câu trả lời cho sự biến hóa hóc búa này được đưa ra vào thập kỉ 1980 bởi Günter Wächtershäuser, trong một học thuyết mang tên "thế giới sắt – lưu huỳnh". Trong lý thuyết này, ông ta đã đưa ra một lý thuyết mới về sự tiến hóa sinh hóa học chính là nguồn gốc của sự sống. Hơn nữa, ông ta đã đưa ra một hệ thống rõ ràng về những chứng cứ sinh hóa từ những phản ứng khác tạo ra chất hữu cơ từ những chất khí cơ bản. Trái với những thí nghiệm của Miller, đòi hỏi rất nhiều những nguồn năng lượng khác như tia UV, sấm sét,... hệ thống Wächtershäuser bao gồm nguồn năng lượng khác: sắt sulfide và một số khoáng chất khác (ví dụ: khoáng pyrite). Năng lượng này được giải phóng từ những quá trình oxy hóa-khử những sulfide kim loại và là nguồn năng lượng chính để tạo ra những phân tử hữu cơ cơ bản và cả polymer. Vì vậy, có thể cho rằng một hệ thống như thế đã từng tồn tại và đã có một ảnh hưởng đến sự tự nhân đôi, chuyển hóa một cách tích cực tạo thành những thực thể, tiền thân của những sinh vật ngày nay. Cuốn sách Peptides by activation of amino acids with CO on (Ni,Fe)S surfaces: implications for the origin of life (Peptide bởi sự hoạt hóa với carbon oxide trên bề mặt (Ni,Fe)S: sự liên quan đến nguồn gốc sự sống) của ông xuất bản năm 1998 đã được đánh giá là thiếu tính khách quan do không đưa vào những chất hữu cơ mà những nhà khoa học khác cho là sẽ phản ứng với nhau hay bền. Sửa đổi mới nhất trong lý thuyết "thế giới sắt – lưu huỳnh" đã được đưa ra bởi William Martin và Michael Russell vào năm 2002. Theo như nghiên cứu của họ thì, phân tử đầu tiên của sự sống có thể đã được hình thành trong những mạch khoáng dưới đáy biển. Đây là một nơi có rất nhiều những khoáng chất có gốc sulfide được phun ra rồi đóng rắn lại tạo thành một hệ thống các hang động ngầm rất nhỏ. Do đó, hệ thống này có thể giải quyết những điểm yếu trong học thuyết Wächtershäuser.
Những hang động nhỏ được tạo ra là một cách để tập trung các chất được tổng hợp thành, do đó có nhiều khả năng tạo được các chất hữu cơ cấp cao.
Nhiệt độ trong những mạch khoáng cao chênh lệch với nhiệt độ thấp bên ngoài cho phép tạo nên một số nơi những vùng mà phản ứng thực hiện hiệu quả hơn những vùng khác (monomer ở vùng nóng, polymer ở vùng lạnh).
Dòng hải lưu qua vùng mạch khoáng khi đi ngang qua những hang động nhỏ cũng một phần làm sạch những nguồn nguyên liệu đã hết và cung cấp thêm nguồn nguyên liệu mới.
Mô hình đó cho phép một chuỗi bước tiến liên tiếp nhau nhằm tạo nên sự tiến hóa ở mức độ tế bào (hóa học, monomer, oligomer, peptide, protein, RNA, ribonucleoprotein, ADM) trong một cấu trúc nhỏ làm dễ dàng thay đổi giữa những bước phát triển.
Sự tạo thành lipid có nghĩa là đã "đóng cửa" các tế bào khỏi những tác nhân bất lợi, không cần thiết từ môi trường, cho đến khi tất cả những chức năng cơ bản của tế bào được thiết lập.
Bước phát triển kế tiếp là sự tổng hợp các màng lipid cuối cùng cho phép các cơ thể sống, cuối cùng cho phép các vật sống di chuyển dời khỏi những hệ thống hang động nhỏ để bắt đầu cuộc sống của riêng mình.
Sự bất đối xứng của sự sống
Một trong những vấn đề còn chưa giải quyết được đó chính là "tính hướng". Ví dụ: tất cả những monomer đều có quay về một phía (amino acid chủ yếu thuận tay trái, phân tử đường cấu tạo nên acid nucleic thì thuận tay phải). Tính hướng rất cần thiết cho cấu trúc các ribozyme (và ngay cả protein). Nguồn gốc của tính hướng có lẽ chỉ đơn giản được giải thích bằng tính không đối xứng của những phân tử đầu tiên theo ngẫu nhiên và tất cả những phân tử sau đều giống như thế. Một số nghiên cứu năm 2003 của các nhà khoa học tại Đại học Perdue cho thấy serine (một amino acid) có thể chính là nguồn gốc của tính không đối xứng của các phân tử hữu cơ. Serine tạo thành một liên kết mạnh các phân tử amino acid khác khiến chúng đều quay theo một hướng khiến 8 phân tử amino acid tiếp theo sẽ cùng quay trái hay cùng quay phải. Tuy nhiên, làm cách nào mà lại có nhiều phân tử serine quay trái như thế thì vẫn còn là một điều bí ẩn: làm cách nào mà phân tử tạo bởi sinh vật hầu hết chỉ quay về một phía trong khi hầu hết chúng là không đối xứng.
Vi khuẩn được biết sử dụng amino acid dạng D (tay phải) trong một vài kháng sinh peptide, trong đó các amino acid được xem như là "sai": D-glutamate, D-phenylalanine, D-aspartate, và D-valine được thấy kết hợp với nhau. Chú ý quan trọng là con đường sinh tổng hợp thông thường, trong đó DNA mã hóa cho 20 amino acid dạng L (tay trái), không thể tạo ra các amino acid dạng D. Ngược lại, các peptide chứa amino acid dạng D được tạo ra bằng các con đường sinh tổng hợp chuyên biệt và không liên quan gì đến sinh tổng hợp protein thông thường. Vi khuẩn sử dụng D- α –alanine và D-glutamate không chỉ trong các peptide chuyên biệt mà còn trong lớp peptidoglycan của vách tế bào"
Hai dạng L và D, tức là tay trái và tay phải của amio acid luôn tồn tại cùng một lúc. Trong đó, dạng L được mã hóa từ DNA và tham gia vào quá trình tổng hợp peptide (protein). Mặt khác, dạng D lại tham gia tạo các peptide của vách tế bào và tạo các kháng sinh peptide, là một dạng nội độc tố của vi khuẩn. Từ đó, ta thấy rằng 2 dạng tay trái và tay phải của amino acid cùng tồn tại và tham gia vào quá trình khác nhau: dạng tay Trái tham gia vào quá trình sinh trưởng của tế bào; còn dạng tay Phải tham gia vào bảo vệ tế bào
Như vậy, dạng tay phải của amino acid tồn tại khắp chung quanh ta, song song cùng một lúc với dạng tay trái của amino acid.
Ngoài ra còn có sự xuất hiện của các amino acid dạng D, dạng tay phải trong các hợp chất tự nhiên thông thường như mật ong, trà, hạt cacao. D-aspartic được thấy trong não của chuột, gà và người. Ở đây, nồng độ của D-aspartic dường như liên quan đến các giai đoạn phát triển vì nồng độ tăng và sau đó giảm nhanh xuống tới số lượng thấy được lập lại trong các mô trưởng thành. D-serine, D- α -alanine, and D-proline được thấy hiện diện trong huyết thanh người với tỷ lệ D/L là 0,24 và còn trong thận của chuột với tỷ lệ D/L lên tới 0,035. Các tỷ lệ trên cho thấy số lượng của dạng tay phải, dạng D, luôn nhỏ hơn số lượng của dạng tay trái, dạng L (vì con số tỷ lệ nhỏ hơn 1). Tuy nhiên, vẫn có sự xuất hiện của dạng tay phải song song với dạng tay trái chứ không bao giờ là 100% dạng tay trái.
Như vậy, như Pasteur đã nói rằng phân tử tham gia sự sống là bất đối xứng. Vì vậy, phân tử đó luôn luôn tồn tại cùng một lúc ở hai dạng tay phải và tay trái. Tuy nhiên, không ai biết chắc rằng cùng một phân tử thì có bao nhiêu tay trái và bao nhiêu tay phải vì điều này còn phải phụ thuộc vào điều kiện tồn tại của phân tử đó. Ví dụ như tỷ lệ tay trái/tay phải của D-serine, D- α -alanine, and D-proline trong huyết thanh người là 0,24. Nhưng trong các cơ quan khác thì chưa chắc đúng, chúng ta phải làm thực nghiệm mới biết được. |
Đảo Phú Lâm (tiếng Anh: Woody Island; tiếng Pháp: île Boisée; tiếng Trung Quốc: chữ Hán phồn thể:永興島, chữ Hán giản thể:永兴岛, bính âm: Yongxing Dao) là một đảo thuộc nhóm đảo An Vĩnh (Amphitrite Group), quần đảo Hoàng Sa, và là đảo tự nhiên lớn nhất trong cả hai quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Việt Nam, Đài Loan và Trung Quốc đều tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa, trong đó có đảo Phú Lâm.
Trung Quốc quản lý hòn đảo này từ năm 1956. Đảo Phú Lâm là nơi Trung Quốc đặt trụ sở chính quyền thành phố Tam Sa, thuộc tỉnh Hải Nam.
Đặc điểm
Đảo có tọa tọa độ địa lý . Đảo Phú Lâm nằm bên cạnh đảo Đá trên cùng một rặng san hô, diện tích lớn hơn đảo Đá (theo tài liệu của Ủy ban Nhân dân huyện Hoàng Sa Đà Nẵng Việt Nam là 1,5 km² so với 0,4 km²) nhưng cao độ thấp hơn rất nhiều (đảo Đá cao 50 ft = 15,2 m). Theo tài liệu của Trung Quốc thì độ cao trung bình của đảo Phú Lâm là 5,0m, điểm cao nhất của đảo Phú Lâm là bãi cát ở phía tây nam đảo cao 8,5 m so với mặt biển.
Trước khi Trung Quốc bồi đắp, đảo dài 1,84 km, rộng 1,165 km, diện tích tự nhiên khoảng 1,65 km². Theo tài liệu của Marwyn Samuels năm 1982, đảo Phú Lâm có chiều dài là 2 km và chiều rộng là 1,1 km. Các tài liệu của Việt Nam ghi theo thống kê đầu thế kỷ 20, cho rằng đảo dài khoảng 1,7 km, rộng khoảng 1,2 km diện tích tự nhiên đảo cùng với đảo Linh Côn xấp xỉ nhau (dù đảo Phú Lâm có nhỉnh hơn) khoảng trên 1,5 km². Hình dạng tự nhiên của đảo, theo tài liệu Trung Quốc, là gần như hình elíp cong tròn đều về các phía đông nam, nam, tây nam, tây, tây bắc, phía bắc bờ đảo gần thẳng rồi dần tạo thành góc nhọn về phía đông bắc, giống dạng vỏ ốc ngửa miệng về phía đông bắc. Sau khi Trung Quốc cải tạo xong thành đảo nhân tạo năm 2011, đảo Phú Lâm hiện có hình dạng như con ốc sên đang bò (đầu là đảo Đá), khi nhìn từ vệ tinh (ngoài không gian).
Theo James Horsburgh, vào giữa thế kỷ 19, đảo Phú Lâm có chu vi dạng tròn khoảng 3 dặm Anh (tức khoảng trên 4,8km). Phía tây có con suối nhiều nước ngọt chảy ra. Thực vật thì có nhiều cây nhỏ phủ kín và các cây dừa. Còn sách Đại Nam thực lục thì chép về Cồn Cát Trắng (Bạch Sa Đôi) được cho là đảo Phú Lâm ngày nay, có chu vi là 1.070 trượng (tức là khoảng 5,0km), khi đội Hoàng Sa khảo sát năm 1835. Theo Nguyễn Thông (1827–1884), quan nhà Nguyễn, thì vào giữa thế kỷ 19, trên một cồn cát, thuộc quần đảo Hoàng Sa được cho là đảo Phú Lâm ngày nay, có nước ngọt, chim biển nhiều không kể hết, có miếu cổ [Hoàng Sa Tự] lợp ngói. Lính [đội Hoàng Sa] đi ra đấy, thường mang hạt (quả) cây phương nam, trồng ở các phía trong và ngoài của miếu ấy, mong cho thành cây to để nhận biết được từ xa khơi.. Đến giữa thế kỷ 20, trên đảo vẫn có nhiều chim biển cư trú nên có một lớp phân chim khá dày, đã từng có một công ty Nhật Bản đến khai thác phân chim tại đây. Theo tạp chí Lữ hành gia của Trung Quốc, năm 1956-1957, thực vật trên đảo Phú Lâm chủ yếu là các loại cây dầu mè (ma phong đồng 麻瘋桐), thầu dầu (bì ma 蓖麻) và tị sương hoa (避霜花). Trên hòn đảo có tồn tại một sân bay có một đường băng lớn do Trung Quốc xây dựng từ cuối thế kỷ 20 và cải tạo vào đầu thế kỷ 21.
Tên gọi
Đảo có nhiều cây cối tươi tốt, được mô tả trong Đại Nam thực lục là "thụ mộc sâm mậu 樹木森茂", tức rừng rậm cây cổ thụ tươi tốt, nên mang tên Phú Lâm (chữ Hán là 富林, rừng giàu). Nhưng những nhà hàng hải Phương Tây mới là những người đầu tiên vẽ bản đồ chính xác và đặt tên chính thức cho đảo Phú Lâm và tất cả các đảo của quần đảo Hoàng Sa . Bản đồ Việt - Xiêm trong sách của John Crawfurd (năm 1828) "Journal of an Embassy from the Governor-general of India to the Courts of Siam and Cochin China: Exhibiting a View of the Actual State of Those Kingdoms", đã ghi tên gọi đảo Phú Lâm là Woody Island (đảo Cây gỗ). Đầu thế kỷ 19, James Horsburgh trong sách hướng dẫn hàng hải của mình được xuất bản năm 1852, đã giải thích rằng đảo mang tên Woody Island là do có nhiều cây cối bao phủ, trong đó có một số cây dừa. Trong quần đảo Hoàng Sa (The Paracels), James Horsburgh chỉ mô tả đặc điểm có thực vật mọc bên trên ở 3 đảo là: đảo Phú Lâm bao phủ bởi những cây gỗ nhỏ (trees) và vài cây dừa mọc bên suối; đảo Linh Côn bao phủ bởi những bụi cây nhỏ (brushwood) và ba cây dừa mọc ở giữa đảo cạnh dòng suối; đảo Cây có duy nhất một cây dừa (a coconut tree). Nhà Nguyễn thời Minh Mạng năm 1835, Đại Nam thực lục chỉ gọi đơn giản đảo là "Bạch Sa đôi", tức Cồn Cát Trắng, không khác biệt nhiều so với các đảo khác thuộc quần đảo, hay tên cũ là "núi Phật Tự". Tên gọi Việt Nam - đảo Phú Lâm, chỉ chính thức được gọi kể từ thời Pháp thuộc, qua dịch nghĩa của tên gọi quốc tế, tiếng Anh "Woody Island", hay tiếng Pháp "île Boisée" (đảo Rừng).
Trung Quốc gọi đảo này là Vĩnh Hưng Đảo (永兴岛), đặt theo tên một trong 2 con tàu đổ bộ lên quần đảo Hoàng Sa của chính quyền Trung Hoa Dân Quốc thời Tưởng Giới Thạch năm 1946
Lịch sử
Thời Nguyễn, chính quyền cho xây dựng Hoàng Sa Tự trên đảo Phú Lâm.
Trước thế chiến thứ hai, Pháp đã đặt một trạm khí tượng trên đảo này mang số hiệu 48859.
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, từ 1939-1945, Nhật Bản chiếm đóng đảo này và sáp nhập cả quần đảo vào Đài Loan thuộc Nhật. Cùng với đảo Ba Bình (thuộc quần đảo Trường Sa), đảo Phú Lâm đã bị quân đồng minh tấn công bằng không quân và hải quân.
Sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, vào tháng 6 năm 1946 Hải quân Pháp gửi chiến hạm Savorgnan de Brazza đến chiếm các đảo Hoàng Sa. Vì Chiến tranh Đông Dương bùng nổ dữ dội, vào tháng 9/1946 người Pháp rút quân khỏi Hoàng Sa.
Vào ngày 26 tháng 6 năm 1946, dựa trên Tuyên bố Cairo và Tuyên bố Potsdam, 4 tàu chiến của Trung Hoa Dân Quốc đổ bộ lên quần đảo với lý do giải giáp quân Nhật (đáng lẽ phải làm vào năm 1945). Ngày 7 tháng 1 năm 1947, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc tuyên bố họ đã chiếm giữ quần đảo Tây Sa nhưng thực ra mới chỉ chiếm đảo Phú Lâm mà họ gọi là đảo Vĩnh Hưng.
Ngày 17 tháng 1 năm 1947, pháo hạm Le Tonkinois của Hải quân Pháp đến quần đảo Hoàng Sa để đòi quân đội Tưởng Giới Thạch rút khỏi đây. Khi yêu cầu này bị từ chối, quân Pháp bèn đổ 10 quân nhân Pháp và 17 quân nhân Việt Nam chiếm giữ đảo Hoàng Sa (Pattle Island). Đến tháng 4 năm 1950, sau khi Trung Hoa Dân Quốc chạy ra Đài Loan, quân đội Tưởng Giới Thạch rút khỏi đảo Phú Lâm và đảo Ba Bình.
Bảy năm sau khi làm chủ được đại lục, chính quyền CHND Trung Hoa mới bí mật cho quân chiếm đóng đảo Phú Lâm vào đêm ngày 20, rạng ngày 21 tháng 2 năm 1956.
Trung Quốc cải tạo, vũ trang hóa đảo thành đảo nhân tạo
phải|nhỏ|600x600px|Bản đồ đảo Đá và đảo Phú Lâm (Woody Island, 永興島) của quần đảo Hoàng Sa (Paracel Islands).
Đường băng trên đảo Phú Lâm được Trung Quốc xây dựng xong lần đầu vào năm 1994, dài 2.400m (Trung Quốc bắt đầu xây sân bay này từ năm 1980). Chiều dài đảo (phần có đường băng sân bay xây dựng lần đầu năm 1994) dài khoảng 2,7 km, với khoảng 0,32 ÷ 0,33 km² đất được cải tạo bồi đắp thêm (nâng tổng diện tích của riêng đảo Phú Lâm lên khoảng 1,98 km²). Sau khi xây dựng xong đường băng dọc theo phía đông đảo năm 1994, theo tài liệu của Nhật Bản thì tổng diện tích đảo Phú Lâm là khoảng 1,85 km² (số liệu này phù hợp với số liệu về diện tích tự nhiên của đảo theo tài liệu của Ủy ban Nhân dân huyện Hoàng Sa Đà Nẵng Việt Nam là 1,5 km²). Nhưng tài liệu của Trung Quốc thì ghi diện tích đảo là 2,1 km² (số liệu này là gồm cả diện tích đảo Đá (0,08 km²), diện tích cải tạo bờ kè bến cảng, và cả con đường kè đá rộng 3 m kết nối đảo Đá với đảo Phú Lâm xây dựng năm 1979).
Từ năm 2005 đến năm 2011, Trung Quốc đã tiến hành bồi đắp cải tạo đảo quy mô lớn, với tổng diện tích bồi đắp thêm khoảng 1,13 km² (nâng tổng diện tích đất bồi đắp nhân tạo cho đảo Phú Lâm lên khoảng 1,45 km²) nối đảo Phú Lâm với đảo Đá (Diện tích tự nhiên của đảo Đá khoảng 7,15 ha tức 0,07 km². Số liệu của Trung Quốc là 0,08 km². Tài liệu của Việt Nam nhầm đảo Đá với đảo Bạch Quy (bởi cái tên phụ "Bàn Thạch" của đảo Bạch Quy) nên cho rằng đảo Đá có diện tích 0,4 km², còn đảo Bạch Quy thì cao 15 m cao nhất quần đảo.). Trong đợt này, Trung Quốc đã nạo vét mở rộng bến cảng ở phía nam, xây mới thêm một bến cảng ở phía tây, mở rộng kéo dài đường băng của sân bay cũ (xây trước năm 1994). Trung Quốc nâng cấp đường băng lên thành 2.760m x 55m (trên tổng chiều dài đất cải tạo là khoảng trên 3,0 km) và cảng nước sâu xây mới dài 1.000 mét. Đường băng này có khả năng đón nhận ít nhất tám máy bay thế hệ thứ tư như máy bay chiến đấu SU-30MKK và máy bay ném bom JH-7, trong khi các bến cảng có thể tiếp nhận những tàu có trọng tải từ 5.000 tấn trở lên. Hiện nay cơ sở hạ tầng trên đảo Phú Lâm đã hoàn chỉnh và được tổ chức như một thành phố, nhằm phục vụ mục đích quốc phòng và kinh tế của Trung Quốc trong toàn bộ khu vực Biển Đông. Sau khi bồi đắp, nối đảo Đá với đảo Phú Lâm lại thành một thì đảo mới này dài khoảng 3,1 km theo hướng đông bắc- tây nam, chiều rộng từ 0,68 ÷ 2,03 km theo hướng tây bắc- đông nam (phần đảo nhân tạo rộng khoảng 0,68 km), với tổng diện tích đảo Phú Lâm nối với đảo Đá lên tới khoảng 3,18 km². Theo tài liệu của Trung Quốc, chiều dài đảo 1,95 km (theo hướng tây tây bắc-đông đông nam) và rộng 1,35 km (theo hướng bắc đông bắc-nam tây nam) (số liệu này phù hợp với kích thước phần đảo chính của đảo Phú Lâm sau cải tạo năm 2011). Trên đảo còn có đài kiểm báo, kênh đào và nhiều tiện nghi quân sự khác. Năm 2012, sau khi cải tạo và vũ trang hóa xong đảo Phú Lâm, Trung Quốc lập ra thành phố Tam Sa quản lý tất cả các đảo Trung Quốc chiếm đóng ở biển Đông, đặt trụ sở hành chính trên đảo Phú Lâm. Đến năm 2020, sau khi cải tạo thành đảo nhân tạo các bãi ngầm thuộc quần đảo Trường Sa mà Trung Quốc chiếm giữ, và hoàn thành việc quân sự hóa chúng, Trung Quốc đã thành lập thêm các quận Tây Sa và Nam Sa thuộc thành phố Tam Sa. Toàn bộ đảo nhân tạo kết hợp hai đảo tự nhiên đảo Phú Lâm và đảo Đá trở thành quận Tây Sa.
Hiện nay, Trung Quốc đặt Bộ chỉ huy toàn thể lực lượng quân trú phòng quần đảo Hoàng Sa trên đảo Phú Lâm. Căn cứ quân sự này kiên cố nhất trên Biển Đông. Sách Ocean Yearbook 10 (Chicago 1993) cho biết có tới 4.000 binh sĩ Hải quân và Thủy quân Lục chiến trong vùng biển Hoàng Sa. Phần lớn số lính này đóng tại đảo Phú Lâm, số ít đóng trên đảo Linh Côn và các đảo thuộc nhóm Trăng Khuyết (Lưỡi Liềm).
Ngày 17 tháng 2 năm 2016, Trung Quốc đã đem tám bệ phóng tên lửa đất đối không HQ-9 đến đảo Phú Lâm, đe dọa an toàn hàng không khu vực. GS Jonathan London trả lời câu hỏi đài RFA cho việc làm này là trái với tinh thần luật pháp quốc tế và đó là một động thái lộ rõ ý muốn xâm lược của Trung Quốc và là hành vi hết sức ngu xuẩn vì tự cô lập mình.
Ngày 30 tháng 3 năm 2016, ông Hồng Lỗi, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc công khai thừa nhận, Trung Quốc đã bố trí tên lửa chống hạm YJ-62 ở đảo Phú Lâm. Đài CNBC của Mỹ ngày 2 tháng 5 năm 2018 dẫn các nguồn tin tình báo cho biết các tên lửa hành trình chống hạm YJ-12B và tên lửa đất đối không HQ-9B cũng đã được Trung Quốc lắp đặt trên ba thực thể Đá Chữ Thập, Đá Xu Bi, Đá Vành Khăn. Hệ thống tên lửa này có khả năng vươn tới các vị trí chiến lược của các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam, Phiippines, Malaysia.
Chiều ngày 20 tháng 8 năm 2020, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng nói tại cuộc họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao rằng vào đầu tháng 8, Trung Quốc đã đưa oanh tạc cơ H-6J ra đảo Phú Lâm. Thông tin này vẫn chưa được phía Trung Quốc xác nhận.
Miếu thần Hoàng Sa trên đảo Phú Lâm
Cuộc khảo sát đầu tiên là của nhà Thanh năm 1909 do Ngô Kính Vinh dẫn đầu xác nhận: “Ở trên mỗi đảo Hoàng Sa đều có một ngôi miếu nhỏ xây kiểu nhà đá, tất cả tường mái là đá san hô và vỏ sò”. Ba mặt miếu Hoàng Sa bên trái, bên phải và đằng sau đều trồng các loại cây do quân nhân đến đảo đem theo hạt giống gieo trồng như hạt quả thủy nam. Cửa vào Hoàng Sa Tự có khắc hai bên đôi câu:
Cô hồn miếu, cô hồn diễu diễu
孤魂庙,孤魂渺渺; (nghĩa là "Miếu Cô hồn, cô hồn lênh đênh");
Hoàng sa tự, bích huyết Hoàng sa
黄沙寺,碧血黄沙。 (nghĩa là "chùa Hoàng Sa, liệt sĩ Hoàng Sa").
Phía trên là bức Hoành phi có ghi "海不扬波" "Hải bất dương ba" có nghĩa là "Biển không nổi sóng"
Trong miếu có ghi niên hiệu "大南皇帝 保大十四年三月初一"Đại Nam Hoàng Đế Bảo Đại thập tứ niên tam nguyệt sơ nhất" (ngày mồng 1 tháng 3 năm Bảo Đại 14).
Sau khi Trung Quốc đổ quân chiếm đóng Phú Lâm, trong tạp chí "Lữ hành gia" quyển 6 xuất bản năm 1957 tại Bắc Kinh đã xác nhận niên đại trùng tu năm Bảo Đại 14 như trên. Năm 1974, sau khi Trung Quốc đổ quân chiếm đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, nhà khảo cổ Trung Quốc Hàn Chấn Hoa và đồng nghiệp đến Hoàng Sa khảo sát, đã ghi nhận di tích của Hoàng Sa Tự (黄 砂 寺) trên đảo Phú Lâm.
Trước đó, trong Đại Nam thực lục cũng có ghi chép về Miếu thần Hoàng Sa thời Minh Mạng được xây dựng trên một hòn đảo có bài khắc cổ Vạn lý ba bình. Sách này đề cập rằng vào tháng 6 âm lịch năm Ất Mùi niên hiệu Minh Mạng 16 (1835):
"建廣義黄沙神祠。黄沙,往廣義海分,有一白沙堆,樹木森茂,堆之中有井,西南有古廟,牌刻萬里波平四字。(白沙堆周圍一千七十丈,旧名佛寺山。東,西,南岸,什珊瑚石斜遶水面。北接珊瑚石,奕立,一堆周圍三百四十丈,高一丈三尺興沙堆岸,名磐灘石。)..."
"Dựng đền thờ thần [ở đảo] Hoàng Sa thuộc Quảng Ngãi (Quảng Nghĩa, 廣義). Hoàng Sa ở hải phận Quảng Ngãi, có một chỗ nổi cồn cát trắng, cây cối um tùm rậm rạp, giữa cồn cát có giếng, phía tây nam có miếu cổ, có tấm bài khắc 4 chữ "Vạn lý ba bình 萬里波平" (cồn Bạch Sa [cát trắng] chu vi 1070 trượng, tên cũ là núi Phật Tự, bờ đông, bờ tây, và bờ nam là vô số đá san hô thoai thoải uốn quanh mặt nước. Phía bắc, giáp với một cồn toàn đá san hô, chu vi 340 trượng, đứng sừng sững, cao hơn so với bờ cồn cát 1 trượng 3 thước, gọi là Bàn Than thạch). Năm ngoái vua toan dựng miếu lập bia ở chỗ ấy, bỗng vì sóng gió không làm được. Đến đây, mới sai cai đội Thủy quân là Phạm Văn Nguyên đem lính thợ Giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, chuyên chở vật liệu đến dựng miếu (cách tòa miếu cổ 7 trượng). Bên tả miếu dựng bia đá; phía trước miếu xây bình phong. Mươi ngày làm xong rồi về."
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Nhã, Hoàng Sa Tự là "bằng chứng hiển nhiên vết tích của việc xác lập chủ quyền của Việt Nam" tại Hoàng Sa. |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.