text
stringlengths 0
512k
|
---|
Angela Dorothea Merkel (IPA: //; sinh tại Hamburg, Đức, ngày 17 tháng 7 năm 1954) là một nhà chính trị Đức, là Thủ tướng Đức từ năm 2005 đến năm 2021. Bà là Thủ tướng tại vị lâu thứ 2 sau Helmut Kohl tính từ thời chia cắt Đông-Tây và bà cũng là Thủ tướng tại nhiệm lâu nhất sau khi nước Đức được tái thống nhất. Trong cương vị chủ tịch Đảng Liên minh Dân chủ Kitô giáo (Christlich Demokratische Union Deutschlands - CDU), Merkel thành lập chính phủ liên hiệp với Đảng anh em, Liên minh Xã hội Kitô giáo Bayern (Christlich-Soziale Union in Bayern - CSU) và Đảng Dân chủ Xã hội Đức (Sozialdemokratische Partei Deutschlands - SPD), sau những cuộc đàm phán kéo dài hai tháng nối tiếp cuộc bầu cử liên bang năm 2005.
Merkel, trúng cử vào Quốc hội Đức từ bang Mecklenburg-Vorpommern, là chủ tịch Đảng CDU từ năm 2000, chủ tịch nhóm Đảng CDU-CSU tại quốc hội từ năm 2002 đến năm 2005. Bà là phụ nữ đầu tiên đảm nhận chức vụ Thủ tướng Đức, cũng là công dân đầu tiên của Cộng hoà Dân chủ Đức vươn đến vị trí lãnh đạo nước Đức thống nhất, và là phụ nữ đầu tiên lãnh đạo nước Đức kể từ khi xứ sở này trở thành một quốc gia hiện đại năm 1871. Tính đến năm 2006, bà còn là thủ tướng trẻ tuổi nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Theo bình chọn của tạp chí Forbes năm 2006, Angela Merkel thế chỗ của Ngoại trưởng Hoa Kỳ Condoleezza Rice để đứng đầu danh sách 100 phụ nữ nhiều quyền lực nhất thế giới, và liên tục giữ vị trí này trong mười ba năm kế tiếp sau đó. Năm 2014, Merkel là nguyên thủ quốc gia tại nhiệm lâu nhất Liên minh Châu Âu. Năm 2015, bà được tạp chí Time bầu chọn là nhân vật của năm do vai trò lãnh đạo của bà trong cuộc khủng hoảng nợ công, khủng hoảng người nhập cư châu Âu cũng như cuộc khủng hoảng tại Ukraine. Tháng 10 năm 2018, bà thông báo sẽ thôi giữ chức chủ tịch Đảng CDU và sẽ không ra tranh cử nhiệm kỳ thứ năm trong cuộc bầu cử liên bang năm 2021.
Xuất thân
Angela Dorothea Kasner sinh tại Hamburg, Tây Đức, là con gái của ông Horst Kasner, một mục sư Giáo hội Luther và vợ ông là bà Herlind (nhũ danh Jentzsch), là giáo viên. Năm 1954, Horst Kasner đến quản nhiệm một nhà thờ ở Quitzow, gần Perleberg, và gia đình dời đến ở Templin. Angela Dorothea Kasner lớn lên ở vùng quê chỉ 80 km phía bắc Berlin, thuộc lãnh thổ của Cộng hoà Dân chủ Đức.
Giống hầu hết học sinh khác, Angela Dorothea Kasner là đoàn viên Đoàn Thanh niên Tự do Đức. Về sau bà trở thành uỷ viên quận đoàn và bí thư chuyên trách dân vận và tuyên truyền tại Viện Hàn lâm Khoa học (viện nghiên cứu khoa học quan trọng nhất của Cộng hoà Dân chủ Đức, thành lập năm 1946, tiếp nối truyền thống 250 năm của Viện Hàn lâm Khoa học Phổ).
Bà Angela Dorothea Kasner trong một cuộc nói chuyện trên truyền hình ngày 19 tháng 5 năm 2009 kể rằng mật vụ Stasi của chính quyền Cộng sản Đông Đức từng muốn tuyển mộ bà khi bà xin việc trong Đại học Bách khoa Ilmenau nhưng bị Merkel từ chối hồi thập niên 70. Sau đó bà không được nhận vào làm việc ở trường đại học.
Angela Dorothea Kasner theo học vật lý tại Đại học Leipzig từ năm 1973 đến năm 1978.
Năm 1977, Angela Dorothea Kasner kết hôn với Ulrich Merkel một nhà vật lý, và lấy họ Merkel của ông này làm họ của mình. Tên mới của bà là Angela Dorothea Merkel.
Bà Merkel làm việc và nghiên cứu tại Viện Hóa Lý Trung ương thuộc Viện Hàn lâm Khoa học từ năm 1978 đến năm 1990. Sau khi tốt nghiệp với học vị tiến sĩ vật lý, Merkel làm việc trong lĩnh vực hoá lượng tử (quantum chemistry).
Thủ tướng Merkel từng muốn vượt biên sang phương Tây và có cơ hội khi thăm thân ở Hamburg (Tây Đức) năm 1986 nhưng cuối cùng vì cha mẹ ở Đông Đức và các mối ràng buộc gia đình, bạn bè, bà đã quyết định trở về. Merkel cũng nói rằng bà đã mở một lon bia uống mừng khi bức tường Berlin sụp đổ năm 1989.
Năm 1989, sau khi Bức tường Berlin sụp đổ, Merkel tham gia phong trào dân chủ, gia nhập Đảng Demokratischer Aufbruch mới thành lập. Sau cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên ở Đông Đức, bà trở thành phụ tá phát ngôn của chính quyền lâm thời tiền thống nhất dưới quyền lãnh đạo của Lothar de Maizeiere. Trong cuộc tổng tuyển cử tổ chức vào tháng 12 năm 1990, sau khi đất nước thống nhất, Merkel đắc cử vào Bundestag (Quốc hội), từ một hạt bầu cử bao gồm hai quận Nordvorpommern và Rugen cùng thành phố Stralsund. Đảng của bà sáp nhập với Đảng CDU của Tây Đức và Merkel trở nên Bộ trưởng Phụ nữ và Thanh niên trong nội các của thủ tướng Helmut Kohl. Năm 1994, Merkel được bổ nhiệm vào chức vụ Bộ trưởng Môi trường và An toàn Lò Phản ứng Hạt nhân, vị trí này giúp bà trở nên một nhân vật được nhiều người biết đến và cung cấp một diễn đàn giúp bà xây dựng sự nghiệp chính trị. Là một trong những chính khách được Kohl ưu ái và là bộ trưởng nội các trẻ tuổi nhất, Kohl thường gọi Merkel là "das Madchen" ("cô gái").
Với khả năng nói tiếng Anh gần như hoàn hảo, khi nhận xét về xuất thân của mình là một "Ossi" (biệt danh chỉ các công dân Đông Đức), bà nói: "Bất cứ ai thực sự có một điều gì đó để bộc lộ thì không cần đến trang điểm". Không chỉ thông thạo Anh ngữ, Angela còn nói tiếng Nga lưu loát.
Năm 1977, bà kết hôn với Ulrich Merkel một nhà vật lý, và lấy họ Merkel của ông này làm họ của mình. Hai người li dị năm 1982. Từ năm 1998, bà kết hôn với một giáo sư hoá học ở Berlin tên Joachim Sauer. Bà không có con.
Lãnh tụ phe Đối lập
Khi chính phủ Kohl thất bại trong cuộc tổng tuyển cử năm 1998, Merkel được bổ nhiệm làm Tổng Thư ký Đảng CDU. Trong cương vị này, chỉ trong năm 1999 Merkel điều hành dẫn đến một chuỗi thắng lợi cho Đảng của bà tại sáu trong bảy cuộc bầu cử cấp bang, phá vỡ thế đa số của liên minh SPD-Đảng Xanh tại Bundesrat (Hội đồng Liên bang), thiết chế lập pháp đại diện cho các bang. Sau vụ bê bối tài chính bên trong Đảng liên quan đến nhiều nhân vật lãnh đạo Đảng CDU (kể cả Kohl và chủ tịch Đảng Wolfgang Schauble, người được chọn để kế nhiệm Kohl), Merkel chỉ trích người đỡ đầu trước đây của bà và xúc tiến một khởi đầu mới cho Đảng mà không có Kohl. Ngày 10 tháng 4 năm 2000, bà được bầu chọn để thay thế vị trí của Shaube, trở nên người phụ nữ đầu tiên giữ ghế chủ tịch Đảng, gây kinh ngạc cho nhiều nhà quan sát khi cá tính của bà đối nghịch với Đảng đã chọn bà vào vị trí lãnh đạo; Merkel là một phụ nữ và là tín hữu Kháng Cách, xuất thân từ miền đông nước Đức đa số chấp nhận đức tin Kháng Cách, trong khi CDU vẫn có tập quán lãnh đạo bởi nam giới, bảo thủ và chịu ảnh hưởng sâu đậm truyền thống Công giáo, với hậu thuẫn vững chắc ở miền tây và nam nước Đức. Tháng 10 năm 2001, mặc dù những cam kết làm trong sạch Đảng, Merkel từ chối đào sâu vào vụ tai tiếng về tài chính.
Sau khi trở nên lãnh tụ Đảng, Merkel nhận được sự ủng hộ đáng kể từ người dân Đức để trở nên nhân vật thách thức Thủ tướng Gerhard Schroder trong cuộc bầu cử năm 2002. Tuy vậy, bà không được ưa thích ngay bên trong Đảng, đặc biệt trong Đảng anh em, Liên minh Cơ Đốc Xã hội Bavaria – CSU, sau đó bị loại bởi lãnh đạo CSU, Edmund Stoiber, người trở nên đối thủ của Schroder nhưng lại không biết tận dụng vị trí dẫn đầu trong các cuộc thăm dò dư luận để thua cuộc trong gang tấc. Sau thất bại của Stoiber trong năm 2002, bên cạnh vai trò chủ tịch Đảng, Merkel nhận lãnh trách nhiệm lãnh đạo phe bảo thủ đối lập ở hạ viện tại Quốc hội Đức, Bundestag. Đối thủ của bà, Friedrich Merz, giữ vị trí này ở quốc hội trước cuộc bầu cử năm 2002, rút lui để nhường đường cho Merkel.
Diễn đàn chính trị
Merkel ủng hộ nghị trình cải cách liên quan đến hệ thống xã hội và kinh tế nước Đức, bà được xem là thiên về thị trường tự do; bà vận động sửa đổi luật lao động, dỡ bỏ những rào cản trong quy trình sa thải nhân viên và gia tăng số giờ làm việc trong tuần, bà cho rằng luật lệ hiện hành làm suy giảm tính cạnh tranh bởi vì các công ty không thể kiểm soát giá thuê mướn nhân công khi công việc kinh doanh đình trệ.
Merkel cho rằng chương trình cắt giảm năng lượng hạt nhân của nước Đức nên theo một lộ trình chậm hơn so với kế hoạch của chính phủ Schroder.
Merkel ủng hộ mối quan hệ mật thiết giữa Đức và Hoa Kỳ. Mùa xuân năm 2003, ngược lại lập trường chống đối quyết liệt của công luận, Merkel tỏ ý đồng tình với cuộc xâm lăng Iraq của Hoa Kỳ, miêu tả nó là "không thể tránh khỏi" và kết án Gerhard Schroder là có khuynh hướng chống Mỹ. Động thái này khiến bà bị những người chỉ trích gọi là kẻ xu nịnh nước Mỹ. Bà phê phán lập trường của chính phủ ủng hộ Thổ Nhĩ Kỳ gia nhập Liên minh châu Âu, thay vào đó bà ủng hộ quy chế "đối tác đặc quyền" cho quốc gia này. Do đó, bà được xem là có quan điểm phù hợp với tuyệt đại đa số người dân Đức, xuất phát từ nỗi lo làn sóng nhập cư có thể trở nên gánh nặng quá sức cho nước Đức, cùng với sự hiện diện của quá nhiều ảnh hưởng Hồi giáo bên trong Liên minh châu Âu.
Trả lời tờ Süddeutsche Zeitung khi được hỏi bà có từng cân nhắc xây dựng quan hệ tin cậy với ông Putin khi nhậm chức vào năm 2005 hay không, bà Merkel cho biết: "Đối với tôi, ngay cả khi ông ấy phát biểu tại Quốc hội năm 2001, tôi luôn thấy rõ rằng giữa chúng tôi có những khác biệt đáng kể. Đối với Tổng thống Nga, sự sụp đổ của Liên Xô là một sự kiện bi thảm, ngược lại, chúng tôi cảm thấy niềm vui khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, niềm vui của sự thống nhất nước Đức và châu Âu".
So sánh
Là một nữ chính khách đến từ một Đảng trung hữu, và là một khoa học gia, Merkel thường được so sánh bởi các nhà báo Đức cũng như Anh, với cựu Thủ tướng Anh Margaret Thatcher. Nhiều người thích gọi bà với biệt danh "Iron Lady" hay "Iron Girl"; song ngoại trừ biệt danh, các nhà bình luận chính trị nhận thấy ít có sự tương đồng giữa các nghị trình chính sự của hai nữ chính khách này.
Ứng cử Thủ tướng
Ngày 30 tháng 5 năm 2005, Merkel giành được sự đề cử của liên minh CDU/CSU để trở nên đối thủ của Thủ tướng Gerhard Schroder của Đảng SPD trong cuộc tổng tuyển cử năm 2005. Đảng của bà bắt đầu chiến dịch vận động tranh cử, dẫn trước với tỷ lệ 21% theo các cuộc thăm dò dư luận, mặc dù uy tín cá nhân của Merkel thấp hơn của thủ tướng đương nhiệm. Đã vậy, Merkel làm cho tình hình trở nên tồi tệ hơn khi hai lần lẫn lộn giữa lợi tức gộp và lợi tức ròng (gross income và net income) khi bà đem khả năng cạnh tranh của nền kinh tế làm trọng điểm cho lập trường của CDU trong một cuộc tranh luận trên truyền hình. Tuy vậy, bà giành lại lợi thế khi tuyên bố sẽ bổ nhiệm Paul Kirchhof, cựu thẩm phán tại Tòa án Hiến pháp Liên bang Đức và là một chuyên gia về chính sách tài chính, vào chức vụ bộ trưởng tài chính.
Kết quả cuộc bầu cử toàn quốc ngày 18 tháng 9 năm 2005 là bất phân thắng bại cho liên minh CDU/CSU của Merkel và Đảng SPD của Schroder, với CDU/CSU dành 35,2% phiếu bầu (CDU 27,8% và CSU 7,4%) trong khi SPD chiếm 34,2%. Cả liên minh SPD-Đảng Xanh và liên minh CDU/CSU với Đảng Dân chủ Tự do đều không có đủ số ghế cần thiết để chiếm thế đa số tại Bundestag, nên Schroder và Merkel đều không thể tuyên bố chiến thắng. Một đại liên minh giữa CDU/CSU và SPD gặp trở ngại là cả hai đều muốn nắm giữ cho mình chức thủ tướng. Tuy nhiên, sau ba tuần lễ thương thảo, hai Đảng đi đến thoả thuận theo đó Merkel sẽ là thủ tướng trong khi SPD nắm giữ 8 trong số 16 vị trí trong nội các. Thoả hiệp này được chuẩn thuận bởi hai Đảng vào ngày 14 tháng 11. Merkel được bầu vào chức vụ thủ tướng bởi đa số phiếu của đại biểu (397-217) trong kỳ họp của Bundestag ngày 22 tháng 11, song có đến 51 thành viên của liên minh cầm quyền bỏ phiếu trắng hoặc phiếu chống.
Những bản tường trình chỉ ra rằng chính phủ liên hiệp sẽ theo đuổi chính sách hỗn hợp, có một số khía cạnh mâu thuẫn với lập trường chính trị của Merkel trong cương vị lãnh đạo phe đối lập và ứng cử viên thủ tướng, với chủ trương cắt giảm chi tiêu công trong khi tăng thuế giá trị gia tăng (VAT), tiền bảo hiểm xã hội và nâng mức trần của thuế lợi tức. Luật bảo vệ nhân dụng không còn có giá trị cho nhân viên trong hai năm đầu làm việc, lương hưu sẽ bị đóng băng và các khoản trợ cấp dành cho người mua nhà lần đầu sẽ bị cắt giảm. Về đối ngoại, nước Đức sẽ duy trì mối quan hệ chặt chẽ với Pháp và các quốc gia Đông Âu, nhất là Nga, sẽ tiếp tục ủng hộ Thổ Nhĩ Kỳ gia nhập Liên minh châu Âu (EU). Tuy nhiên, không chắc là Đức sẽ vận động dỡ bỏ lệnh cấm vận của EU bán vũ khí cho Trung Quốc khi nhiều lần Merkel đã bày tỏ sự chống đối về điều này.
Merkel cho biết mục tiêu chính của chính phủ là giảm tỷ lệ thất nghiệp, và chính phủ nên được đánh giá qua sự thành bại trong nỗ lực này.
Thủ tướng
Chuyến công du nước ngoài đầu tiên của Merkel sau khi tuyên thệ nhậm chức là chuyến viếng thăm Paris để hội kiến với Tổng thống Pháp Jacques Chirac. Trong bài diễn văn của mình, Chirac nhấn mạnh đến tầm quan trọng của mối quan hệ đối tác Pháp-Đức đối với Âu châu. Sau đó, Merkel đến Bỉ để gặp gỡ các nhà lãnh đạo EU và Tổng thư ký NATO, Jaap de Hoop Scheffer, rồi đến Luân Đôn hội kiến với Thủ tướng Anh Tony Blair. Ngày 28 tháng 11 bà tiếp kiến quốc khách đầu tiên, Tổng thống Pohamba của Namibia, một cựu thuộc địa của Đức ở Phi châu. Ngày 30 tháng 11 năm 2005, trong bài diễn văn chính phủ đầu tiên, Merkel công bố mục tiêu cải thiện nền kinh tế Đức và hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp. Ngày 13 tháng 1 năm 2006, bà đến Hoa Kỳ trong chuyến viếng thăm đầu tiên trong cương vị thủ tướng.
Đầu năm 2006, các cuộc thăm dò dư luận cho thấy Angela Merkel, sau 100 ngày cầm quyền, giành được sự ủng hộ cao nhất trong vòng các thủ tướng lãnh đạo nước Đức kể từ năm 1949. Nhiều nhà phê bình kinh tế thường nhắc đến thuật ngữ "nhân tố Merkel" như là nguyên nhân của sự gia tăng nhanh chóng trong mức độ tín nhiệm của người tiêu dùng và mức chi tiêu trong thị trường.
Sau hai năm liên tiếp (2006 và 2007) giữ vị trí quán quân trong danh sách 100 phụ nữ quyền lực nhất thế giới, tháng 8 năm 2008, Angela Merkel lại tiếp tục là nhân vật số một theo bình chọn của Tạp chí Forbes kèm theo nhận xét, Với GDP 3, 3 ngàn tỷ USD, Đức là nền kinh tế lớn nhất châu Âu. Nỗ lực cải tổ của Merkel đã giúp phục hồi kinh tế và làm giảm tỷ lệ thất nghiệp (dù niềm tin của người tiêu dùng ở mức thấp nhất trong vòng 5 năm). Bà nâng cao tuổi về hưu, bổ nhiệm thêm phụ nữ vào các vị trí quan trọng trong chính quyền, tăng phụ cấp cho người chịu sinh thêm con. Có quan điểm cứng rắn trong các cuộc tranh luận, bà tiếp kiến Dalai Lama, trừng trị Mugabe, và muốn đồng euro thủ giữ vai trò quan trọng hơn trong thị trường tài chính trong lúc đồng đô-la đang suy yếu. Bà cũng cố biến nước Đức thành một quốc gia thân thiện hơn với môi trường bằng các biện pháp cắt giảm khí đốt nhà kính. Người dân Âu châu đã bỏ phiếu chọn bà là chính trị gia có nhiều ảnh hưởng nhất. – Tatiana Serafin.
Lập chính phủ
Ngày 28 tháng 9 năm 2009, Merkel hứa sẽ sớm thành lập tân chính phủ có khuynh hướng trung-hữu chỉ trong vài tuần tới, nói rằng việc cắt giảm thuế có thể xảy ra năm 2011 và bác bỏ đòi hỏi phải giảm chi vì cho rằng sẽ gây nguy hại cho việc phục hồi kinh tế. Cử tri Ðức ngày 27 tháng 9 đã chấm dứt liên minh tả khuynh-hữu khuynh nhiều bế tắc của Merkel và cho bà thế đa số thoải mái trong phía trung-hữu-nhờ vào chiến thắng của đồng minh mới là Đảng Dân chủ Tự do với khuynh hướng thân giới doanh nghiệp. "Ðức sẽ phải sớm có một chính phủ mới," Merkel nói, nói rằng quốc gia này chỉ mới thoát ra cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Sau đó bà có cuộc họp với lãnh đạo Đảng Dân chủ Tự do là Guido Westernwelle. Nước Ðức kỷ niệm 20 năm bức tường Berlin sụp đổ ngày 9 tháng 11/2009, và Merkel muốn chào đón các nhà lãnh đạo thế giới ngày 9 tháng 11 với thành phần chính phủ mới.
Kết quả cuộc bầu cử ngày 27/9, 2009 đưa quốc gia với nền kinh tế lớn nhất châu Âu về hướng thiên hữu, nhưng với người lãnh đạo là bà Merkel có tính thận trọng và luôn tìm sự thỏa thuận với mọi phe nhóm. Hiện không có chỉ dấu nào cho thấy sẽ có sự thay đổi lớn lao trong chính sách. Một trong những điểm căn bản trong lập trường tranh cử của Merkel là lời hứa hẹn đưa ra việc giảm thuế cho giới trung lưu. Ðảng Dân chủ Tự do muốn có sự thay đổi sâu rộng trong hệ thống thuế khóa, cắt thuế lợi tức cho cả thành phần giàu và nghèo. Merkel nói việc cắt giảm thuế có thể được thi hành vào năm 2011 hay 2012, nhưng không cho biết chi tiết rõ ràng vào lúc này.
Tác phẩm
Nguồn tham khảo
Đọc thêm |
Nam Định là thành phố tỉnh lỵ thuộc tỉnh Nam Định, Việt Nam.
Đây là một trong những thành phố được Pháp lập ra đầu tiên ở Liên bang Đông Dương. Nằm ở phía nam và là thành phố trung tâm tiểu vùng nam đồng bằng sông Hồng, Nam Định đã sớm trở thành một trung tâm văn hoá, chính trị và tôn giáo ngay từ những thời kỳ đầu thế kỷ XIII trong lịch sử Việt Nam. Năm 1262, nhà Trần cho xây dựng phủ Thiên Trường, đặt dấu mốc đầu tiên cho một đô thị Nam Định sau này. Trong suốt thời kỳ lịch sử từ Thiên Trường cho đến Nam Định ngày nay, trải qua các triều đại Trần, Hồ, Lê, Mạc, Tây Sơn, Nguyễn vùng đất này đã nhiều lần đổi tên như Thiên Trường, Vị Hoàng, Sơn Nam, Thành Nam rồi Nam Định. Danh xưng Nam Định chính thức có từ năm 1822, gọi là Trấn Nam Định, sau đến 1831 gọi là tỉnh Nam Định dưới thời vua Minh Mạng. Năm 1921, người Pháp đã phá Thành Nam quy hoạch lại và thành lập thành phố Nam Định. Lúc đó là thành phố cấp 3.
Trải qua hai cuộc kháng chiến, vai trò của thành phố Nam Định lại có thêm những lần thay đổi và ngày nay trở thành thành phố thuộc tỉnh Nam Định, đã được thủ tướng Chính phủ ký quyết định công nhận là đô thị loại I vào năm 2011. Thành phố Nam Định cũng đã được thủ tướng Chính phủ ký quyết định phê duyệt điều chỉnh quy hoạch xây dựng thành phố Nam Định thành trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học và xã hội của tỉnh Nam Định và của tiểu vùng Nam đồng bằng sông Hồng; đây cũng là một thành phố của vùng duyên hải Bắc Bộ.
Lịch sử
Nam Định là thành phố lâu đời có lịch sử lâu đời. Ngay từ thời Nhà Trần đã xây dựng Nam Định thành phủ Thiên Trường dọc bờ hữu sông Hồng, có 7 phường phố. Năm 1262, Trần Thánh Tông đổi hương Tức Mặc (quê gốc của nhà Trần) thành phủ Thiên Trường, sau đó phủ được nâng thành lộ. Năm Quang Thuận thứ 7 (1466), nhà Lê gọi là thừa tuyên Thiên Trường. Năm 1469 dưới thời vua Lê Thánh Tông, lần đầu tiên có bản đồ Đại Việt, Thiên Trường được đổi làm thừa tuyên Sơn Nam. Năm 1741, Thiên Trường là một phủ lộ thuộc Sơn Nam Hạ, bao gồm 4 huyện Nam Chân (Nam Trực), Giao Thủy, Mỹ Lộc, Thượng Nguyên. Năm 1831, là một phủ thuộc tỉnh Nam Định. Ngày nay là các huyện Giao Thủy, Xuân Trường, Nam Trực, Trực Ninh, Mỹ Lộc đều thuộc tỉnh Nam Định.
Dưới thời Nguyễn, Nam Định là một thành phố lớn cùng với Hà Nội và Huế. Thời đó Nam Định còn có trường thi Hương, thi Hội, có cả Văn Miếu như Hà Nội. Nam Định được công nhận là thành phố dưới thời Pháp thuộc ngày 17 tháng 10 năm 1921, hiện đã tròn 100 năm, sớm hơn cả Vinh, Mỹ Tho, Quy Nhơn, Cần Thơ, hay thậm chí là Huế (1929). Về quy mô dân số nội thành so với các thành phố ở miền Bắc chỉ đứng sau Hà Nội và Hải Phòng (đã có hơn 400.000 dân, mật độ dân số đạt 17.221 người/km² vào năm 2011). Từng có liên hiệp nhà máy dệt lớn nhất Đông Dương nên Nam Định còn được gọi là "Thành phố Dệt". Đây là thành phố có nhiều tên gọi chính và văn học: Thiên Trường, Vị Hoàng, Sơn Nam Hạ, Thành Nam, Non Côi sông Vị, thành phố Hoa Gạo, thành phố Dệt, thành phố lụa và thép (theo cách gọi của các nhà văn Ba Lan thời kỳ chiến tranh Việt Nam), thành phố bên sông Đào, Nam Định...
Nam Định là một trong số ít thành phố ở miền Bắc còn giữ lại được ít nhiều nét kiến trúc thời Pháp thuộc, có quán hoa, nhà Kèn, nhà thờ Lớn, các khu phố cổ từ thế kỷ XVIII-XIX, trong khi các tỉnh lỵ khác hầu hết được xây dựng và quy hoạch mới lại sau chiến tranh. Thành phố cũng từng có một cộng đồng Hoa kiều khá đông đảo vào giữa thế kỷ XIX chủ yếu đến từ tỉnh Phúc Kiến, đến nay con cháu họ vẫn sinh sống ở khu vực phố cổ: Hoàng Văn Thụ (Phố Khách), Lê Hồng Phong (Cửa Đông), Hai Bà Trưng (Hàng Màn, Hàng Rượu), Hàng Sắt, Bến Ngự, Bắc Ninh, Hàng Cau, Hàng Đồng, Hàng Đường...
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quy định trong Sắc lệnh số 77 ngày 21 tháng 12 năm 1945, Nam Định là thành phố đặt dưới quyền cấp kỳ (Bắc Bộ). Từ năm 1945 đến năm 1956, Nam Định là thành phố trực thuộc Trung ương. Ngày 3 tháng 9 năm 1957, sáp nhập thành phố Nam Định vào tỉnh Nam Định, là tỉnh lỵ tỉnh Nam Định. Ngày 8 tháng 8 năm 1964, chuyển 5 xã: Lộc An, Lộc Hạ, Lộc Hòa, Lộc Vượng, Mỹ Xá về huyện Mỹ Lộc quản lý. Năm 1965, hai tỉnh Hà Nam và Nam Định sáp nhập thành tỉnh Nam Hà, thành phố Nam Định trở thành tỉnh lỵ tỉnh Nam Hà. Ngày 13 tháng 6 năm 1967, Hội đồng Chính phủ quyết định sáp nhập toàn bộ huyện Mỹ Lộc vào thành phố Nam Định.
Năm 1975, hai tỉnh Nam Hà và Ninh Bình sáp nhập thành tỉnh Hà Nam Ninh, thành phố Nam Định là tỉnh lỵ tỉnh Hà Nam Ninh, gồm 10 phường: Cửa Bắc, Năng Tĩnh, Nguyễn Du, Phan Đình Phùng, Quang Trung, Trần Đăng Ninh, Trần Hưng Đạo, Trần Tế Xương, Trường Thi, Vị Xuyên và 15 xã: Lộc An, Lộc Hạ, Lộc Hòa, Lộc Vượng, Mỹ Hòa, Mỹ Hưng, Mỹ Phúc, Mỹ Tân, Mỹ Thắng, Mỹ Thành, Mỹ Thịnh, Mỹ Thuận, Mỹ Tiến, Mỹ Trung, Mỹ Xá. Ngày 27 tháng 4 năm 1977, sáp nhập 9 xã: Mỹ Thịnh, Mỹ Thuận, Mỹ Tiến, Mỹ Thành, Mỹ Hà, Mỹ Thắng, Mỹ Phúc, Mỹ Hưng, Mỹ Trung vào huyện Bình Lục. Ngày 12 tháng 1 năm 1984, sáp nhập 2 xã Mỹ Trung và Mỹ Phúc thuộc huyện Bình Lục vào thành phố Nam Định.
Ngày 23 tháng 4 năm 1985, chia phường Trường Thi thành 2 phường: Trường Thi và Văn Miếu; chia phường Năng Tĩnh thành 2 phường: Năng Tĩnh và Ngô Quyền; chia phường Cửa Bắc thành 2 phường: Cửa Bắc và Bà Triệu; chia phường Vị Xuyên thành 2 phường: Vị Xuyên và Vị Hoàng; chia phường Trần Tế Xương thành 2 phường: Trần Tế Xương và Hạ Long. Những năm 1991-1996, tỉnh Hà Nam Ninh tách thành 2 tỉnh Nam Hà và Ninh Bình, thành phố Nam Định trở lại là tỉnh lỵ tỉnh Nam Hà.
Từ ngày 6 tháng 11 năm 1996, tỉnh Nam Hà tách thành 2 tỉnh Nam Định và Hà Nam, thành phố Nam Định tiếp tục là tỉnh lỵ tỉnh Nam Định (chuyển 7 xã: Mỹ Thịnh, Mỹ Thuận, Mỹ Tiến, Mỹ Thành, Mỹ Hưng, Mỹ Hòa, Mỹ Thắng thuộc huyện Bình Lục của tỉnh Hà Nam về thành phố Nam Định quản lý). Ngày 2 tháng 1 năm 1997, sáp nhập 2 xã Nam Phong và Nam Vân của huyện Nam Ninh (nay là 2 huyện Nam Trực và Trực Ninh) vào thành phố Nam Định. Ngày 26 tháng 2 năm 1997, tách 11 xã: Mỹ Trung, Mỹ Hưng, Mỹ Hà, Mỹ Thắng, Mỹ Thịnh, Mỹ Tiến, Mỹ Thuận, Mỹ Thành, Mỹ Tân, Lộc Hòa để tái lập huyện Mỹ Lộc. Ngày 6 tháng 9 năm 1997, chuyển xã Lộc Hòa của huyện Mỹ Lộc vào thành phố Nam Định. Ngày 29 tháng 9 năm 1998, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định công nhận thành phố Nam Định là đô thị loại II.
Ngày 9 tháng 1 năm 2004, thành lập phường Lộc Vượng trên cơ sở 420,07 ha diện tích tự nhiên và 7.962 nhân khẩu của xã Lộc Vượng; thành lập phường Lộc Hạ trên cơ sở 349,50 ha diện tích tự nhiên và 6.931 nhân khẩu của xã Lộc Hạ; thành lập phường Thống Nhất trên cơ sở 36,53 ha diện tích tự nhiên và 1.200 nhân khẩu còn lại của xã Lộc Vượng; 0,60 ha diện tích tự nhiên và 221 nhân khẩu còn lại của xã Lộc Hạ; 13,70 ha diện tích tự nhiên và 1.464 nhân khẩu của phường Quang Trung; 18 ha diện tích tự nhiên và 4.193 nhân khẩu của phường Vị Hoàng; thành lập phường Cửa Nam trên cơ sở 127,60 ha diện tích tự nhiên và 4.828 nhân khẩu của xã Nam Phong; 50 ha diện tích tự nhiên và 1.300 nhân khẩu của xã Nam Vân; thành lập phường Trần Quang Khải trên cơ sở 90,60 ha diện tích tự nhiên và 8.489 nhân khẩu của phường Năng Tĩnh. Thành phố Nam Định có 20 phường và 5 xã.
Ngày 28 tháng 11 năm 2011, Thủ tướng Chính phủ công nhận thành phố Nam Định là đô thị loại I thuộc tỉnh Nam Định.
Ngày 1 tháng 9 năm 2019, chuyển 2 xã Lộc Hòa và Mỹ Xá thành 2 phường có tên tương ứng.
Thành phố Nam Định có 22 phường và 3 xã như hiện nay.
Địa lý
Địa lý
Thành phố Nam Định nằm ở phía bắc tỉnh Nam Định, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình
Phía tây và phía bắc giáp huyện Mỹ Lộc
Phía nam giáp huyện Vụ Bản và huyện Nam Trực.
Thành phố Nam Định cách trung tâm thủ đô Hà Nội 80 km về phía đông nam, cách thành phố Thái Bình 16 km về phía tây, cách trung tâm thành phố Hải Phòng 90 km về phía tây nam, cách thành phố Ninh Bình 28 km về phía đông bắc.
Địa hình
Thành phố Nam Định tương đối bằng phẳng, trên địa bàn thành phố không có ngọn núi nào. Thành phố có hai con sông lớn chảy qua là sông Hồng và sông Nam Định. Trong đó sông Nam Định (sông Đào) nối từ sông Hồng chảy qua giữa lòng thành phố đến sông Đáy làm cho thành phố là một trong những nút giao thông quan trọng về đường thủy cũng như có vị trí quan trọng trong việc phát triển thành phố trong tương lai. Như vậy thực ra Nam Định cũng là một thành phố ở ngã ba sông.
Khí hậu
Thành phố Nam Định mang tính chất khí hậu cận nhiệt đới ấm ẩm điển hình, theo phân loại khí hậu Koppen, có tháng lạnh dưới 18 độ. vào tháng 1 năm 1955 nhiệt độ thành phố xuống mức 3,0 độ C. Nhiệt độ cao kỷ lục của thành phố đạt được vào tháng 6/2016 với mức nhiệt trong lều khí tượng đạt 40,2 độ C. Nằm ở phía tây bắc của tỉnh Nam Định, lại nằm ở vị trí xa biển, so với các huyện Hải Hậu, Xuân trường, Nghĩa Hưng, nhiệt độ trong mùa đông của thành phố thấp hơn đôi chút vì chịu ảnh hưởng mạnh mẽ hơn của áp cao lạnh siberia, 16.4 độ vào tháng 1 ở thành phố so với 17.3 độ tại trạm Nghĩa Hưng, mùa hè nóng hơn so với các huyện ven biển..Thời tiết của thành phố Nam Định là sự giao thoa giữa Hải Phòng với Hà Nội. mùa lạnh thời tiết thường ấm hơn Hải Phòng và lạnh hơn Hà Nội, mùa hè nóng hơn Hải Phòng và mát hơn Hà Nội.
Dân số
Dân số tính đến ngày 1/4/2019 là 236.294 người. 10% dân số theo đạo Thiên Chúa.
Hành chính
Thành phố Nam Định có 25 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 22 phường: Bà Triệu, Cửa Bắc, Cửa Nam, Hạ Long, Lộc Hạ, Lộc Hòa, Lộc Vượng, Mỹ Xá, Năng Tĩnh, Ngô Quyền, Nguyễn Du, Phan Đình Phùng, Quang Trung, Thống Nhất, Trần Đăng Ninh, Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Tế Xương, Trường Thi, Văn Miếu, Vị Hoàng, Vị Xuyên và 3 xã: Lộc An, Nam Phong, Nam Vân.
Kinh tế
Từ năm 2008 đến nay, tốc độ phát triển kinh tế năm sau cao hơn năm trước, đạt bình quân 14,32%/năm; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và dịch vụ tăng (98,69%), tỷ trọng nông nghiệp (1,31%), tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu của thành phố chiếm 95% xuất khẩu của tỉnh, tăng bình quân 19%/năm. Năm 2013, tổng thu ngân sách đạt hơn 1.313 tỷ đồng (tăng gấp hai lần so với năm 2011). Năm 2016, thu nhập bình quân đầu người gần 69 triệu đồng/người.
Thương mại
Chợ Thành Nam (xưa)
Vốn là một đô thị đã có từ lâu đời, thành phố Nam Định được biết đến như một đầu mối giao thương hàng hoá ở Bắc bộ. Trong quá trình lịch sử phát triển trên địa bàn thành phố Nam Định đã hình thành một hệ thống chợ đầy đủ và quy mô phục vụ cho phát triển thương mại ở nơi đây. Tiêu biểu nhất phải kể đến là chợ Rồng và chợ Mỹ Tho nằm ở trung tâm thành phố, cũng là hai chợ cấp 1 của tỉnh Nam Định.
Chợ Rồng là một trong những chợ lớn và có lịch sử lâu đời ở Bắc Kỳ (cùng với chợ Đồng Xuân - Hà Nội, chợ Sắt - Hải Phòng). Chợ Rồng được xây dựng từ năm 1922 do kỹ sư người Pháp từng thiết kế tháp Eiffel và cầu Long Biên thiết kế. Năm 1991 chợ Rồng bị cháy lớn (trước đó từng bị ảnh hưởng của bom Mỹ) và bị hư hỏng nặng, phải phá bỏ hoàn toàn để xây dựng lại ngay trên nền xưa. Theo Quyết định số 012/2007/QĐ-BCT về việc quy hoạch tổng thể phát triển mạng lưới chợ Việt Nam, Chợ Rồng Nam Định có diện tích 10 000 m2.
Chợ Mỹ Tho là một trung tâm buôn bán lớn của tỉnh Nam Định. Đây là chợ đầu mối chuyên doanh các mặt hàng thực phẩm, công nghệ phẩm và hàng tiêu dùng.
Ngoài ra trên địa bàn thành phố còn có các chợ đầu mối như: Chợ Nguyễn Trãi, chợ đêm Phạm Ngũ Lão, chợ Lý Thường Kiệt; và các chợ truyền thống cấp 2: chợ Hoàng Ngân, chợ Cửa Trường, chợ Phù Long, chợ Đồng Tháp, chợ Năng Tĩnh, chợ Diên Hồng, chợ Văn Miếu, chợ Mỹ Trọng, chợ Kênh, chợ Năm Tầng, chợ Hạ Long, chợ Cầu Ốc, chợ Đò Quan, chợ Nam Vân, chợ Lộc An...
Trung tâm thương mại
Ngoài hệ thống chợ đã có từ lâu đời, trong phát triển theo hướng hiện đại, thành phố Nam Định đã quy hoạch và xây dựng các siêu thị, trung tâm thương mại đồng bộ đáp ứng nhu cầu mua sắm hiện đại của người dân.
Tiêu biểu như trung tâm thương mại Big C Nam Định, trung tâm thương mại Nam Định Tower, rạp phim Lotte Cinema Nam Định, siêu thị CoopMart, Micom Nam Định, các chuỗi siêu thị khác như Thế giới di động, siêu thị điện máy Media mart, Pico, Trần Anh, Điện máy xanh... tương lai là trung tâm thương mại Vincom Nam Định.
Giao thông
Giao thông qua thành phố Nam Định dày đặc và thuận tiện: quốc lộ 10 từ Hải Phòng, Thái Bình đi Ninh Bình chạy qua và Quốc lộ 21B nối Nam Định với Quốc lộ 1 và đường Hồ Chí Minh, quốc lộ 38B từ Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam xuống Nam Định, Ninh Bình. Quốc lộ 37 nối Hưng Yên với Nam Định, Thái Bình. Quốc lộ 21A đi Sơn Tây và các huyện Hải Hậu, Giao Thủy, Xuân Trường và bãi biển Quất Lâm, Đại lộ Thiên Trường đi Hà Nội. Tỉnh lộ 490 (đường 55) đi Nghĩa Hưng và bãi biển Thịnh Long. Từ ngoài có 13 tuyến đường xuyên tâm đi đến thành phố. Thành phố Nam Định còn có tuyến đường sắt Bắc Nam chạy qua. Ga Nam Định là một trong những ga lớn trên tuyến đường sắt Bắc Nam, thuận tiện cho hành khách vùng nam đồng bằng đi đến các thành phố lớn trong cả nước như Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Nam Định nằm bên hữu ngạn sông Hồng, thuận tiện cho giao thông đường thủy và thuộc tỉnh có 72 km bờ biển
Kiến trúc và quy hoạch đô thị
Các phố lớn của Nam Định là Đại lộ Thiên Trường, Đông A, Trần Hưng Đạo, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, Trần Phú, Trường Chinh, Giải Phóng, Lê Hồng Phong, Điện Biên, Hàng Tiện, Nguyễn Du, Hùng Vương, Nguyễn Công Trứ, Phù Nghĩa... Tượng đài Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn được đặt trước Nhà hát 3/2, bên bờ hồ Vị Xuyên của Thành phố. Cột cờ Thành Nam là một trong 3 cột cờ ở Việt Nam, mặt chính quay ra phố Tô Hiệu, mặt sau là đường Cột Cờ, được xây dựng từ thời Nguyễn vào năm 1833, đã được xếp hạng Di tích lịch sử Quốc gia năm 1962.
Gắn liền với lịch sử phát triển của Nam Định, cầu Đò Quan là một trong những điểm giao thông quan trọng nối hai bờ sông Đào. Bến Đò Quan đã từng là hải cảng lớn của xứ bắc (trước khi người Pháp xây dựng cảng Hải Phòng). Tàu của hãng Bạch Thái Bưởi chạy nhiều từ Nam Định đi khắp miền Bắc: Hà Nội, Hải Phòng, Vinh... và cả Sài Gòn. Hiện nay thay cho bến Đò Quan ngày xưa cây Cầu Đò Quan nối đôi bờ sông Đào. Từ cầu Đò Quan, về phía thượng lưu có cầu Tân Phong, phía hạ lưu có cầu Nam Định, hai cây cầu to lớn khép kín một vòng tròn đường vành đai S2 (bao gồm một phần QL10, một phần QL21B và đường Lê Đức Thọ). Nối liền với Thái Bình bằng cầu Tân Đệ qua sông Hồng.
Thành phố Nam Định có sự giao thoa giữa kiến trúc cổ điển Việt Nam, kiến trúc nhà liền kề mặt phố của đô thị cổ, kiến trúc Trung Hoa, kiến trúc phương Tây và kiến trúc hiện đại. Có thể chia thành phố Nam Định ngày nay thành ba khu vực: khu phố cổ, khu phố Pháp và các khu mới quy hoạch (Hòa Vượng, Hòa Xá, Cửa Nam, Thống Nhất, Mỹ Trung, khu TĐC Trầm Cá, khu TĐC Đồng Quýt, khu TĐC Phúc Trọng - Bãi Viên...).
Khu phố cổ
Thành phố đã từng có 40 phố cổ mang tên "Hàng" như Hàng Sắt, Hàng Đồng, Hàng Cau, Hàng Rượu, Hàng Thao, Hàng Mâm, Hàng Bát...
Thành phố Nam Định chủ yếu nằm ở phía bắc sông Đào (còn gọi là sông Nam Định). Nam Định là thành phố cổ thứ hai chỉ sau Hà Nội, có lịch sử xây dựng trước cả Phố Hiến và Hội An, nay đã hơn 750 tuổi. Nếu như Hà Nội xưa có 36 phố phường thì TP Nam Định cũng có 40 phố cổ. Những con phố nhỏ nằm ven bờ sông Đào mang dáng vẻ riêng gắn liền với hơn 750 năm phát triển của Thành Nam. Những phố cổ của Nam Định cũng như Hà Nội là các phố nghề như: Hàng Vàng, Hàng Bát, Hàng Kẹo, Hàng Mâm, Hàng Tiện, Hàng Nâu, Hàng Thao, Hàng Ghế, Hàng Sắt, Hàng Đồng, Hàng Vải Màn, Hàng Rượu, Hàng Sũ v.v... Hiện nay, một số phố không còn giữ lại được tên cổ như ở Hà Nội, và cũng không còn buôn bán những mặt hàng truyền thống tuy nhiên nó vẫn còn phần nào giữ được dáng vẻ cổ kính của nó. Hiện tại ở TP Nam Định còn một số phố mang tên gọi cổ là Hàng Tiện, Hàng Cấp, Hàng Cau, Hàng Thao, Hàng Đồng, Hàng Sắt, Bến Thóc, Bến Ngự, Cửa Trường, Tràng Thi... còn lại phần lớn đã được đổi tên thành Hai Bà Trưng, Hoàng Văn Thụ, Bắc Ninh... Thành phố đang phát triển mạnh lên phía bắc sông Vĩnh Giang và phía nam sông Đào.
Khu phố Pháp
Từ sau khi thành lập chính phủ Đông Dương năm 1890, người Pháp ở Nam Định đã tách lãnh thổ hành chính thành phố Nam Định ra khỏi huyện Mỹ Lộc, tổ chức thành 12 phố rồi đặt lại tên cho các đường phố.
Năm 1921, Pháp lập ra Thành phố Nam Định, quy hoạch thành 10 khu phố với 40 phố. Khi ấy, Pháp đã lập thêm phố mới sau khi bạt thành lấp hào như: Avenue Clémenceau (nay là Trần Phú), Boulevard Galliéni (nay là Hoàng Hoa Thám), Rue Francis Garnier (nay là Máy Tơ), Avenue Brière L isle (nay là Trần Quốc Toản), Boulevard Paul Bert (nay là Trần Hưng Đạo).
Kiến trúc hiện đại
Ngày nay chính quyền và nhân dân Nam Định đang xây dựng nhiều dự án đó là: khu đô thị mới Hoà Vượng, khu đô thị mới Thống Nhất, khu đô thị mới Mỹ Trung, khu đô thị mới Dệt may Nam Định, khách sạn 4 sao Nam Cường Nam Định, tổ hợp trung tâm thương thương mại chung cư cao cấp Nam Định Tower... đã nâng cấp công viên Vị Xuyên, Cung đường S2 nối tiếp 1/4 vòng tròn cùng cầu Tân Phong để hoàn thành đường vành đai hình tròn ôm gọn 50 km² nội đô thành phố hiện nay và các khu đô thị mới...
Giai đoạn 2017-2020: Xây dựng đường trục đô thị phía Nam sông Đào. Đoạn từ tỉnh lộ 490C đến cầu Tân Phong, hoàn thành khu đô thị dệt may, xây dựng khu hành chính trung tâm thành phố,...
Du lịch
Quần thể di tích lịch sử - văn hóa Trần, Bảo tàng tỉnh Nam Định, cột cờ thành Nam Định, nhà số 7 phố Bến Ngự, khu chỉ huy sở nhà máy Dệt, bảo tàng Dệt - May Việt Nam, cửa hàng ăn uống dưới hầm, cửa hàng cắt tóc dưới hầm, tượng Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đặt trước Nhà hát 3/2, công viên Vị Xuyên, công viên văn hóa Tức Mặc...
Văn hóa
TP. Nam Định có những nét riêng như những con phố nhỏ vào mùa hoa gạo, món ăn đặc sản địa phương hay tiếng còi tầm của nhà máy dệt. Cùng với các con phố cổ, hoa gạo được coi là loài cây đặc trưng của đất và người Nam Định. Khi nhắc đến thành phố Nam Định là nhắc tới những địa điểm văn hoá nổi bật như Hồ Vị Xuyên, ngã tư Cửa Đông, Văn Miếu, đền Trần, phố hoa Nguyễn Du, cửa hàng hoa Cửa Đông... tất cả đã tạo cho Thành Nam một dáng vẻ quyến rũ.
Thể thao
Thành phố Nam Định là trung tâm thể thao lớn vùng Nam Đồng bằng sông Hồng với cơ sở hạ tầng phục vụ cho thể thao khá quy mô và đồng bộ chỉ sau Hà Nội (ở miền Bắc), đã từng được chọn là một trong những điểm thi đấu của SeaGames 22 với số môn thi đấu nhiều thứ 3 (sau Hà Nội và TP Hồ Chí Minh). Từ năm 1941 đội Cotonkin của Nam Định đã vô địch Đông Dương trong giải đầu tiên. Câu lạc bộ bóng đá Nam Định đã nhiều lần thi đấu thành công ở giải Vô địch quốc gia Việt Nam (V.league 1) một lần vô địch năm 1985. Sân vận động Thiên Trường từng được giới thể thao đánh giá cao về quy mô và vẻ đẹp thẩm mỹ chỉ đứng sau SVĐ quốc gia Mỹ Đình. Ngoài ra còn có nhà thi đấu Trần Quốc Toản, bể bơi Trần Khánh Dư, trường đào tạo VĐV, Cung thể thao cấp vùng với nhà thi đấu đa năng 4000 chỗ ngồi và bể bơi có mái che với 1000 chỗ ngồi đạt tiêu chuẩn quốc tế. Nam Định cũng là nơi đăng cai chính, tổ chức nhiều môn thể thao nhất tại Đại hội TDTT toàn quốc lần thứ VII - 2014.
Ẩm thực
Ẩm thực Nam Định được biết đến với món phở Nam Định nổi tiếng. Ngoài ra còn có các món đặc sản, ẩm thực được sản xuất từ Thành Nam như: bánh gai bà Thi, chuối Ngự, kẹo Sìu Châu, bánh mì Ba Lan, bánh đậu xanh Hanh Tụ, nem nắm, bánh nhãn, bánh cuốn làng Kênh, xôi cá rô, xôi xíu, bánh xíu páo, bánh gối, sủi cảo, bánh xu kem.
Thành phố kết nghĩa
Mỹ Tho
Tại thành phố Nam Định có đường Mỹ Tho ở khu đô thị mới Thống Nhất, chợ Mỹ Tho và ở thành phố Mỹ Tho cũng có một ngôi trường mang tên trường THCS Nam Định.
Prato
Để thể hiện tình hữu nghị giữa hai thành phố, hai đất nước Ý - Việt, Nam Định đã đặt tên cho một công viên khang trang hiện đại tại cửa ngõ thành phố là "Công viên Prato". Ở thành phố Prato cũng có con đường mang tên Nam Định với 4 làn xe dài 1,8 km.
Hình ảnh
Thời Pháp thuộc
Hiện tại |
Máy xúc lật, là máy xây dựng thuộc loại thiết bị cơ giới, có công dụng chính để bốc xúc đất, đá và vật liệu rời, vận chuyển chúng trong gầu xúc của máy, để đổ lên thiết bị vận chuyển khác (ô tô tải) hay kho chứa với độ cao đổ nhất định cao hơn nền đất. Máy xúc lật hoàn toàn có thể dùng để đào đất đá từ mềm đến cứng vừa (đất cấp I, II), dạng rời hay liền thổ nhưng vị trí đào nằm ngang hoặc cao hơn vị trí máy đứng (cao hơn nền đất máy đứng). Máy xúc lật được sử dụng nhiều trong xây dựng, khai thác mỏ, vận tải (bốc xúc hàng hóa ở kho bãi).
Cấu tạo chung
Máy xúc lật có cấu tạo gồm: một máy kéo (máy cơ sở) được trang bị thêm hệ gầu xúc lật (bộ công tác) thường đặt ở phía trước máy kéo.
Phân loại
Theo cơ cấu công tác
Máy xúc lật đổ trước
Máy xúc lật quay nửa vòng
Theo cơ cấu di chuyển
Máy xúc lật bánh lốp
Máy xúc lật bánh xích |
Abu Musab al-Zarqawi (tiếng Ả Rập: أبومصعب الزرقاوي; 1966–2006) là ông trùm khủng bố người Jordan, cựu Thủ lĩnh mạng lưới khủng bố al-Qaeda tại Iraq.
Tiểu sử
Abu Musab al-Zarqawi, tên thật là Ahmad Fadeel al-Nazal al-Khalayleh (أحمد فضيل النزال الخلايله, ’Aḥmad Faḍīl an-Nazāl al-Ḫalāyla), sinh năm 1966 trong một gia đình nghèo Jordan gốc Palestine ở làng Zarqa, cách thủ đô Amman chừng 27 km. Trong thập niên 1980, Zarqawi rời Jordan gia nhập lực lượng những chiến binh Hồi giáo mujahedin tại Afghanistan chống lại quân đội Liên Xô cũ.
Năm 1992, Abu Musab al-Zarqawi về nước và lập gia đình, nhưng không kiếm được việc làm. Từ năm 1992 đến 1997, giới chức an ninh Jordan đã từng nhiều lần tống giam Abu Musab al-Zarqawi vì tội liên quan đến âm mưu lật đổ chế độ. Năm 1999 khi kế hoạch tổ chức khủng bố ở Jordan bị bại lộ Abu Musab al-Zarqawi chạy trốn sang Afghanistan và được Osama bin Laden trọng dụng. Sau khi Taliban bị lật đổ, Abu Musab al-Zarqawi chạy tới vùng Tây Bắc Iraq.
Từ năm 2003, Abu Musab al-Zarqawi là người chỉ huy của các vụ đánh bom, bắt cóc người ngoại quốc và chặt đầu con tin, đưa cảnh hành hình lên Internet. Cơ quan an ninh Mỹ treo giá cái đầu của Abu Musab al-Zarqawi là 25 triệu USD, bằng giá với Osama Bin Laden.
Ngày 24 tháng 6 năm 2004 tổ chức của Abu Musab al-Zarqawi gây hàng loạt các cuộc tấn công ở 6 thành phố của Iraq làm hơn 100 người chết và khoảng 320 người bị thương. Tháng 10 năm 2004 Abu Musab al-Zarqawi cam kết liên minh với Osama Bin Laden và thủ lĩnh mạng lưới al-Qaeda cũng tuyên bố Abu Musab al-Zarqawi là đại diện của mình ở Iraq, mặc dù trước đây Abu Musab al-Zarqawi được coi là một đối thủ của Bin Laden.
Tháng 2 năm 2005, Abu Musab al-Zarqawi trốn thoát một cuộc tập kích vây bắt của quân đội Mỹ tại thành phố Hit và Haditha gần sông Euphrates. Ngày 20 tháng 3 năm 2005, Toà án quân sự Jordan kết án vắng mặt 15 năm tù giam đối với Abu Musab al-Zarqawi vì tội âm mưu tấn công Đại sứ quán Jordan tại Baghdad. Ngày 24 tháng 5 năm 2005, thuộc hạ của Abu Musab al-Zarqawi đã công bố trên Internet rằng thủ lĩnh của họ đã bị thương và yêu cầu các tín đồ Hồi giáo cầu nguyện cho Abu Musab al-Zarqawi.
Ngày 10 tháng 11 năm 2005 mạng lưới khủng bố al-Qaeda ở Iraq của Abu Musab al-Zarqawi tiến hành loạt đánh bom nhằm vào ba khách sạn ở thủ đô Amman của Jordan làm 59 người chết và hơn 300 người bị thương. Ngày 17 tháng 11 năm 2005, trong một cuốn băng ghi âm đăng tải trên Internet, Abu Musab al-Zarqawi cảnh báo sẽ thực hiện các cuộc tấn công nhằm vào các địa điểm du lịch Jordan, dọa lấy đầu Quốc vương Jordan Abdullah II và bào chữa cho các vụ đánh bom vào ba khách sạn ở Amman.
Tháng 10 năm 2005 Abu Musab al-Zarqawi bị toà án quân sự Jordan tuyên án tử hình vắng mặt vì tội đã giết một người Mỹ tên là Laurence Foley. Ngày 18 tháng 12 năm 2005 Abu Musab al-Zarqawi lại bị toà án quân sự Jordan tuyên án tử hình vắng lần thứ hai về tội tổ chức các vụ tấn công khủng bố nhằm vào dân thường tại khu vực biên giới giữa nước này và Iraq.
Ngày 7 tháng 6 năm 2006 Abu Musab al-Zarqawi cùng 7 trợ lý thân tín đã thiệt mạng trong một vụ oanh kích của quân đội Mỹ tại Baquba, cách Baghdad khoảng 50 km. Việc khám nhiệm tử thi sau này cho thấy Abu Musab al-Zarqawi chết 52 phút sau khi ngôi nhà bị đánh bom sập. Abu Musab al-Zarqawi chết vì sức ép của vụ nổ. Đây là một tin mừng đối với chính phủ Mỹ và Iraq. Sau khi Abu Musab al-Zarqawi chết vị trí lãnh đạo mạng lưới al-Qaeda ở Iraq có thể do Abu al-Masri một người Ai Cập hoặc A.AL-Baghdadi một người Iraq lãnh đạo.
Chính phủ Iraq coi cái chết của Abu Musab al-Zarqawi là một thắng lợi trong nỗ lực tái lập ổn định và an ninh. Nhưng cái chết của Abu Musab al-Zarqawi cũng còn là cơ hội để các lực lượng chống đối hợp tác hiệu quả hơn và tranh thủ được sự ủng hộ của người dân Iraq hơn. |
Máy cạp là máy làm đất, cắt, vét và vận chuyển đất thường sử dụng trong xây dựng các công trình đập thủy lợi và đập thủy điện.
Lịch sử
Cấu tạo chung
Bảo đảm kỹ thuật |
Máy san là một loại máy xây dựng, dùng để san, đất và vật liệu phục vụ xây dựng đường, sân bay và các công trình khác cần công tác san đất.
Lịch sử
Cấu tạo
Bảo đảm kỹ thuật |
Trạm trộn bê tông nhựa là một loại thiết bị dùng để sản xuất bê tông nhựa thông qua quá trình trộn và gia nhiệt các loại đá khoáng sản, cốt liệu (bột đá/đá dăm), chất kết dính (thường là bitum, trong vài trường hợp là hắc ín) và có thể có các chất phụ gia khác. Toàn bộ trình tự quá trình phức tạp này được thực hiện thông qua một trung tâm điều khiển, với công suất khoảng 80 đến 320 tấn mỗi giờ.
Quy trình sản xuất
Về cơ bản có hai quy trình sản xuất:
Sản xuất liên tục: quá trình pha trộn diễn ra liên tục (không nghỉ). Các thành phần nguyên liệu được bổ sung liên tục vào quá trình trộn. Phương pháp này đặc biệt thích hợp kiểu trạm có dạng nhà máy.
Sản xuất gián đoạn (chu kỳ): các thành phần nguyên liệu được tính toán số lượng và cho vào máy trộn cùng 1 lượt. Phương pháp này linh hoạt hơn bởi vì nó cho phép thay đổi công thức hỗn hợp, hỗn hợp đạt được có chất lượng cao và có thể tùy chỉnh được thời gian pha và chu kỳ trộn.
Các loại trạm trộn bê tông nhựa
Trạm được xây dựng dạng nhà máy có kết cấu bê tông: loại trạm này có năng suất sản xuất cao có thể phân phối cho các công trình lớn như đường cao tốc hay các khu công nghiệp của các thành phố lớn, một số trạm dạng này có thể được xây dựng tại các khu mỏ khai thác đá để giảm chi phí vận chuyển nguyên vật liệu.
Loại trạm dễ dàng di chuyển và lắp đặt, có kết cấu khung thép: loại trạm này cung cấp bê tông nhựa tại chỗ theo từng giai đoạn cho các công trình ví dụ như xây dựng đường cao tốc. Khi hoàn thành giai đoạn thi công thì có thể tháo rời và di chuyển đến nơi khác.
Loại trạm có gắn bánh xe: thường được sử dụng khi công trình có quy mô nhỏ, ví dụ như ở các vùng nông thôn xa xôi, trạm gắn với 1 xe tải có thể di chuyển dễ dàng.
Cấu tạo
Trạm trộn bê tông nhựa thường gồm nhiều mô-đun với các tính năng cơ bản khác biệt:
Hệ thống định lượng nguyên vật liệu.
Máy sấy khô vật liệu khoáng.
Thiết bị lọc bụi.
Bộ phận gia nhiệt (đốt nóng).
Silô lưu trữ đá cốt liệu (giữ ở nhiệt độ cao)
Mô-đun trộn.
Kho lưu trữ hỗn hợp thành phẩm, kể cả những xe tải có bồn xoay để vận chuyển.
Kho lưu trữ cốt liệu.
Bồn chứa cho chất kết dính (hệ thống bồn chứa bitum) |
Localhost là một trình khách BitTorrent. Localhost là một phiên bản chỉnh sửa của trình khách Azureus phiên bản 2.3.0.4. Vì vậy localhost và Azureus có thể tương thích ngược với nhau. |
MLDonkey là một trình khách của mạng đồng đẳng có mã nguồn mở, cho phép tải tệp từ nhiều nguồn cung cấp khác nhau. MLDonkey còn được gọi dưới một tên khác là mạng đồng đẳng Overlay vì nó hoạt động trên mạng Overlay. Lúc mới ra đời MLDonkey chỉ chạy trên hệ điều hành Linux hỗ trợ giao thức eDonkey, giờ đây nó có thể chạy trên rất nhiều hệ điều hành khác nhau bao gồm: Unix-like, Mac OS X, Windows, MorphOS và hỗ trợ rất nhiều giao thức chia sẻ tệp đồng đẳng.
MLDonkey được bắt đầu phát triển vào cuối năm 2001. Người đầu tiên xây dựng dự án là Fabrice Le Fessant làm việc tại INRIA.
MLDonkey hỗ trợ các giao thức chia sẻ tệp ngang hàng sau đây, có giao thức chỉ hỗ trợ một phần, có giao thức hỗ trợ hoàn toàn:
BitTorrent
DirectConnect – Thông thường có rất nhiều người sử dụng chương trình MLDonkey thổi phồng kích thước tệp họ chia sẻ, những người này sẽ không được tiếp nhận tại rất nhiều hubs DC, các hubs DC này áp dụng một luật là không bịa đặt tệp chia sẻ (hiện tại chưa được thực hiện)
mạng EDonkey
FastTrack
Gnutella
Gnutella2
http/ftp
Kad Network
Overnet
OpenNap (hiện tại chưa được thực hiện)
SoulSeek (hiện tại chưa được thực hiện)
MLDonkey được viết bằng ngôn ngữ lập trình Ocaml và bản quyền được phát hành theo giấy phép GPL, chương trình được chia thành hai phần tách biệt, phần giao diện người dùng (tăng tính linh động của giao diện, người dùng có thể lựa chọn giao diện kiểu trình duyệt, telnet hoặc giao diện của hãng thứ ba) và phần mã thực hiện công việc giao tiếp với các trình khách trong mạng đồng đẳng khác. |
MooPolice là một trình khách BitTorrent nhỏ gọn và trong sạch (không chứa phần mềm quảng cáo và phần mềm gián điệp). MooPolice được viết dựa trên thư viện libtorrent của Linux/Unix. MooPolice hỗ trợ ánh xạ cổng UPnP (tiếng Anh: Universal Plug and Play), tải về nhiều tệp torrent cùng một thời điểm, DHT, trao đổi máy đồng đẳng (tiếng Anh: Peer exchange (PEX)), ngoài ra MooPolice có một giao diện người dùng trực quan và thân thiện với người dùng.
MooPolice là một lựa chọn tốt nhất cho yêu cầu tiêu tốn ít tài nguyên CPU và bộ nhớ. |
Tāj Mahal (tiếng Urdu: تاج محل, tiếng Hindi: ताज महल) là một lăng mộ nằm tại Agra, Ấn Độ. Hoàng đế Mogul Shāh Jahān (gốc Ba Tư, lên ngôi năm 1627); trong tiếng Ba Tư Shah Jahan (شاه جها) có nghĩa là "chúa tể thế giới" đã ra lệnh xây nó cho người vợ của mình là Mumtaz Mahal, khi bà qua đời. Công việc xây dựng bắt đầu năm 1631 và hoàn thành năm 1653. Một số tranh cãi xung quanh câu hỏi ai là người thiết kế Taj Mahal; rõ ràng một đội các nhà thiết kế và thợ thủ công đã chịu trách nhiệm thiết kế công trình và Ustad Ahmad Lahauri được coi là kiến trúc sư chính.
Taj Mahal nói chung được coi là hình mẫu tuyệt vời nhất của Kiến trúc Mogul, một phong cách tổng hợp các yếu tố của các phong cách Kiến trúc Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, và Hồi giáo. Tuy phần mái vòm bằng đá cẩm thạch trắng của lăng là phần nổi bật nhất, thực tế Taj Mahal là một tổng hợp các phong cách kiến trúc. Nó được liệt vào danh sách các Địa điểm Di sản Thế giới của UNESCO năm 1983 và được miêu tả là một "kiệt tác được cả thế giới chiêm ngưỡng trong số các di sản thế giới". Việc xây dựng Taj Mahal đã được giao phó cho một hội đồng quản trị của kiến trúc sư dưới sự giám sát của triều đình, bao gồm Abd ul-Karim Khan Ma'mur, Makramat Khan, và Ustad Ahmad Lahauri. Lahauri thường được coi là người thiết kế chính.
Nguồn gốc và cảm hứng
Shah Jahan, vị hoàng đế của Đế quốc Mogul trong giai đoạn cực thịnh của nó, nắm trong tay nhiều nguồn tài nguyên to lớn. Năm 1631 người vợ thứ ba của ông đã qua đời khi sinh đứa con gái thứ hai, và cũng là đứa con chung thứ mười bốn của họ. Shah Jahan được cho là không thể khuây khoả trước mất mát đó. Những cuốn biên niên sử triều đình thời kỳ đó chứa nhiều câu chuyện liên quan tới nỗi buồn đau của Shah Jahan trước cái chết của Mumtaz; chúng chính là cơ sở của những câu "chuyện tình" thường được cho là cảm hứng tạo nên Taj Mahal. Ví dụ, 'Abd al-Hamid Lahawri, đã ghi chép rằng, trước khi bà chết vị hoàng đế có "hai mươi sợi râu bạc," nhưng sau đó không còn sợi nào không bạc cả.
Việc xây dựng đền Taj Mahal đã bắt đầu tại Agra ngay sau cái chết của Mumtaz năm 1632. Lăng chính được hoàn thành năm 1648, và các công trình xung quanh cùng vườn cây hoàn thành năm năm sau đó. Tới thăm Agra năm 1663, nhà du lịch người Pháp François Bernier đã viết:
Tôi sẽ kết thúc bức thư này với những dòng miêu tả về hai lăng mộ tuyệt vời và chúng chính là sự vượt trội đáng kể nhất của Agra trước Delhi. Một lăng được Jehan-guyre [sic] xây lên để vinh danh người cha Ekbar; và Chah-Jehan đã xây lăng kia để tưởng nhớ vợ mình Tage Mehale, một phụ nữ đẹp và nổi tiếng khác thường, người được chồng yêu thương rất mực tới mức có ghi chép rằng trong suốt cuộc đời và khi bà chết đức vua đã luôn ở bên và hầu như đã muốn theo bà vào trong mộ.
Ảnh hưởng
Lăng Taj Mahal sở hữu và là nơi phát triển nhiều truyền thống kiến trúc, đặc biệt là kiến trúc Hindu, Ba Tư và kiến trúc Mogul trước đó. Một số cảm hứng đặc trưng lấy từ một số công trình Timur và Mogul đã thành công trước đó. Chúng gồm Gur-e Amir (mộ của Timur, người khởi lập triều Timur, tại Samarkand), Mộ của Humayun, Mộ Itmad-Ud-Daulah (thỉnh thoảng được gọi là Baby Taj), và chính Jama Masjid của Shah Jahan tại Delhi. Dưới sự bảo trợ của ông, công trình Mogul đã đạt tới đỉnh cao hoàn thiện mới. Trong khi các công trình Mogul chủ yếu được xây bằng đá sa thạch đỏ, Shah Jahan đã ủng hộ việc sử dụng đá cẩm thạch trắng được khảm các loại đá bán quý khác.
Các thợ thủ công Hindu, đặc biệt là các nhà điêu khắc và thợ đá, đã mở rộng phạm vi buôn bán ra toàn châu Á vào thời điểm đó, và tài nghệ của họ được những người chịu trách nhiệm xây lăng mộ lưu tâm tìm kiếm. Tuy kiến trúc cắt đá là đặc điểm chủ yếu của những công trình xây dựng ở thời kỳ đó nhưng nó lại ít ảnh hưởng tới Taj Mahal (chạm khắc chỉ là một hình thức của yếu tố trang trí), các công trình Ấn Độ khác như cung điện Man Singh tại Gwalior là một nguồn cảm hứng cho hầu hết kiến trúc cung Mogul và cũng là nguồn cảm hứng của đài kỷ niệm chhatris bên trong Taj Mahal.
Vườn
Phức hợp này được đặt trong và ngoài một charbagh lớn (một Vườn Mogul tiêu chuẩn thường được chia thành bốn phần).
Với kích thước 320 m × 300 m, vườn có những đường đi đắp cao chia mỗi phần của nó thành 16 bồn hoa hay luống hoa thấp. Một bể nước bằng đá marble cao ở trung tâm vườn, khoảng giữa mộ và cổng chính, và một bể phản chiếu gióng theo trục bắc nam phản chiếu hình ảnh Taj Mahal. Mọi nơi trong vườn đều được bố trí những đường đi với các hàng cây và vòi phun nước.
Vườn charbagh được vị hoàng đế Mogul đầu tiên là Babur đưa vào Ấn Độ, đây là kiểu thiết kế lấy cảm hứng từ các vườn cây Ba Tư. Charbagh có nghĩa phản chiếu các khu vườn thiên đàng (từ từ paridaeza trong tiếng Ba Tư—một khu vườn có tường bao). Trong các văn bản thần bí Hồi giáo thời kỳ Mogul, thiên đàng được miêu tả là một khu vườn lý tưởng, phong phú. Nước đóng một vai trò quan trọng trong những phần miêu tả đó: Ở Thiên đường, những cuốn sách đó viết, bốn con sông bắt nguồn từ một dòng suối ở trung tâm hay một quả núi, và chúng chia khu vườn thành bốn phần bắc, tây, nam và đông.
Đa số các charbagh của Mogul đều có hình tam giác, với một ngôi mộ hay ngôi đình lớn ở trung tâm vườn. Vườn Taj Mahal lại đặt yếu tố chính, ngôi mộ, ở phía cuối chứ không phải ở giữa vườn. Nhưng sự tồn tại của một Mahtab Bagh hay "Vườn Ánh trăng" mới được khám phá ở phía bên kia Yamuna cho ta một cách giải thích khác—rằng chính Yamuna được tích hợp vào thiết kế vườn, và mang ý nghĩa là một trong những dòng sông của Thiên đường.
Cách bố trí của khu vườn, và các đặc điểm kiến trúc của nó như các vòi phun nước, gạch, và các lối đi lát đá marble, những luống hoa theo các hình khác nhau cùng những đặc điểm khác, tương tự với Shalimar, và cho thấy vườn có thể cũng đã được kiến trúc sư Ali Mardan thiết kế. Early accounts of the garden describe its profusion of vegetation, including abundant roses, daffodils, and fruit trees.
Những lời miêu tả đầu tiên về khu vườn nói tới sự phong phú của các loài thực vật, gồm hoa hồng, thủy tiên hoa vàng, và các loại cây ăn quả. Khi Đế quốc Mogul suy tàn, khu vườn cũng tàn tạ theo. Khi người Anh nắm quyền kiểm soát Taj Mahal, họ đã thay đổi cảnh quan để khiến nó giống với những vườn cỏ tại Luân Đôn.
Các công trình phía ngoài
Phức hợp Taj Mahal được bao quanh bởi một bức tường đá sa thạch đỏ có bố trí lỗ châu mai ở ba cạnh. Mặt quay ra con sông không có tường bao. Bên ngoài bức tường là nhiều công trình phụ trợ khác, gồm cả lăng mộ của những người vợ khác của Shah Jahan, và một ngôi mộ lớn cho người hầu thân cận của Mumtaz. Các công trình đó, chủ yếu được xây dựng bằng đá sa thạch đỏ, nói chung nhỏ hơn các ngôi mộ Mogul cùng thời kỳ.
Phía bên trong (vườn), bức tường được xây mặt trước bằng những mái vòm với cột chống, một đặc điểm điển hình cả các đền thờ Hindu sau này đã được tích hợp vào các thánh đường Mogul. Bức tường được đặt rải rác một số ngôi nhà nhỏ (chattris) mái vòm, và các công trình nhỏ có thể từng được dùng làm nơi quan sát hay đài chiêm ngưỡng (như cái gọi là Ngôi nhà Âm nhạc, hiện được dùng như bảo tàng).
Cổng chính (darwaza) là một cấu trúc kỷ niệm được xây chủ yếu bằng đá marble. Phong cách làm ta liên tưởng tới phong cách kiến trúc Mogul của các vị hoàng đế Mogul trước đó. Cổng mái vòm của nó phản ánh hình ảnh cổng mái vòm của ngôi mộ, và trên các vòm cung pishtaq của nó được trang trí bằng những nét chữ viết. Cổng được trang trí với các motif hoa lá theo kiểu phù điêu đắp nổi thấp và pietra dura (khảm). Những vòm trần và những bức tường được trang trí các hình học phức tạp, như những hình được tìm thấy tại các công trình xây bằng đá sa thạch khác trong phức hợp.
Ở góc xa nhất của phức hợp, hai công trình xây bằng đá sa thạc đỏ lớn mở ra hai phía lăng mộ. Tường phía sau chúng song song với các bức tường bao phía tây và phía đông.
Hai công trình này là hình ảnh phản chiếu của nhau. Công trình phía tây là một thánh đường; phía đối diện của nó là jawab hay "sự đối diện", mục đích chính của nó là để tạo sự cân bằng kiến trúc (và có thể nó từng được sử dụng như một nhà khách ở thời Mogul). Sự khác biệt giữa chúng là jawab không có mihrab, một hốc tường bên trong hướng về phía Mecca, và sàn của jawab có kiểu thiết kế hình học, trong khi sàn thánh đường Hồi giáo được khảm 596 tấm thảm của người cầu nguyện bằng đá marble đen.
Thiết kế căn bản của thánh đường tương tự với những thánh đường khác được Shah Jahan xây dựng, đặc biệt là thánh đường Jama Masjid tại Delhi: một sảnh dài nổi lên với ba lớp mái vòm. Các thánh đường Mogul giai đoạn này chia sảnh điện thành ba khu vực: một điện chính với các điện nhỏ hơn ở hai bên. Tại Taj Mahal, mỗi điện dẫn tới một sảnh mái vòm lớn.
Mộ
Móng
Điểm nhấn của Taj Mahal là lăng mộ đá cẩm thạch trắng. Giống như hầu hết lăng mộ Mogul khác, các yếu tố căn bản đều có nguồn gốc Ba Tư: một tòa nhà đối xứng với iwan, một ô cửa hình vòm, trên đỉnh là một vòm lớn.
Lăng mộ đứng trên một bệ hình vuông. Cấu trúc nền lớn và có nhiều phòng. Phòng chính là nơi đặt bia kỷ niệm Shah Jahan và Mumtaz (mộ ở dưới một cấp).
Nền chủ yếu là hình khối với các cạnh xoi, khoảng 55 mét mỗi cạnh (xem sơ đồ nền, bên phải). Ở các cạnh dài, một pishtaq, hay lối đi có mái vòm lớn, bao quanh iwan, với một ban công hình vòm tương tự bên trên. Các vòm chính kéo dài trên mái tòa nhà bằng cách sử dụng mặt ngoài nối tiếp.
Mỗi bên vòm chính, các lối đi có mái vòm phụ được sắp xếp bên trên và bên dưới. Motif sắp xếp pistaq được lặp lại tại khu góc xoi.
Thiết kế hoàn toàn đồng nhất và như nhau ở mọi phía tòa nhà. Bốn tháp, ở mỗi góc chân cột, đối diện với các góc xoi, tạo thành khung bao mộ.
Vòm
Vòm đá marble trên mộ là điểm đáng chú ý nhất. Nó cao bằng với nền tòa nhà khoảng 35m. Chiều cao của nó nổi bật nhờ được đặt trên một cấu trúc hình trụ cao khoảng 7 mét.
Vì hình dạng của nó, vòm thường được gọi là vòm củ hành (cũng được gọi là amrud hay vòm ổi). Đỉnh vòm được trang trí một bông hoa sen, với vai trò nhấn mạnh chiều cao. Đỉnh cao nhất là một hình chạm đầu mái mạ vàng, theo phong cách pha trộn Ba Tư truyền thống và các yếu tố Hindu.
Hình dạng vòm được nhấn mạnh bởi bốn chattris (buồng) nhỏ hơn đặt ở bốn góc. Chattri vòm tuân theo hình dạng củ hành của vòm chính. Đáy hình cột của chúng mở qua mái mộ, và dẫn ánh sáng vào bên trong. chattris cũng có đỉnh là các hình chạm đầu mái mạ vàng.
Các đường xoắn ốc trang trí (guldastas) kéo dài từ cách cách đáy tường, và là điểm nhấn quang học cho chiều cao vòm.
Motif hoa sen được lặp lại trên cả chattris và guldastas.
Hình chạm đầu vòm
Đỉnh của mái vòm chính có một chóp nhọn (hay hình chạm) dát vàng. Cho tới những năm đầu 1800 đỉnh chóp được làm bằng vàng, ngày nay nó được làm từ đồng. Hình chóp chính là bằng chứng rõ ràng cho thấy có sự hòa nhập giữa truyền thống Ba Tư và những yếu tố trang trí Hindu. Trên cùng của hình chóp là một Mặt Trăng theo motif Hồi giáo truyền thống, có hai đầu nhọn hướng lên trời. Do vị trí của nó ở trên đầu mái, hai đầu nhọn của Mặt Trăng và đỉnh chóp tạo thành một hình đinh ba—gợi lại một biểu tượng truyền thống Hindu là Shiva. Những đỉnh tháp đều có dạng củ hành tương tự nhau. Đỉnh tháp trung tâm giống hệt như một chén đựng nước thánh của người Hindu ('kalash hay kumbh).
Tháp
Tại mỗi góc của mặt nền lăng mộ là các ngọn tháp theo kiểu giáo đường Hồi giáo: bốn ngọn tháp lớn cao hơn 40m. Một lần nữa các ngọn tháp đã thể hiện xu hướng chủ đạo cơ bản của Taj Mahal là sự đối xứng và thiết kế lặp lại.
Các ngọn tháp được thiết kế với công năng tương tự như các ngọn tháp truyền thống ở giáo đường Hồi giáo, đó là nơi các muezzin (thầy tu) kêu gọi những tín đồ sùng đạo cầu nguyện. Mỗi ngọn tháp được chia làm ba phần bằng nhau rõ rệt bởi hai ban công, dùng để rung chuông cho tháp. Trên đỉnh mỗi ngọn tháp là ban công cao nhất với một chhatri trên cùng, phản chiếu lại những thiết kế trên hầm mộ.
Chhatri của các ngọn tháp đều có những chi tiết hoàn thiện giống nhau: thiết kế hình hoa sen, trên cùng là hình chạm đầu mái. Mỗi ngọn tháp đều được xây hơi nghiêng ra phía ngoài của mặt nền, để cho khi tháp có bị sụp đổ (một sự cố thường xảy ra đối với những công trình cao tầng vào thời đó)thì các mảnh vụn cũng sẽ có xu hướng rơi ra xa hầm mộ.
Trang trí
Trang trí bên ngoài
Các trang trí bên ngoài đền Taj Mahal được đánh giá là những trang trí đẹp nhất thời vương triều Mogul. Một chi tiết trang trí nổi bật chính là các dòng chữ pishtaq nổi tiếng. Các chữ pistaq phía dưới được viết nhỏ hơn phía trên để khi từ dưới nhìn lên, ta có cảm tưởng là các chữ này to bằng nhau. Chúng được viết bằng sơn, hoặc bằng vữa, hoặc bằng đá khảm hoặc đơn giản hơn là chạm khắc thẳng vào vách tường.
Các đoạn văn trên tường đền Taj Mahal được viết theo kiểu Thuluth, một kiểu chữ rất đẹp và bóng bẩy do Amanat Khan tạo ra. Chúng được khảm bởi các loại đá quý như đá hoa và cẩm thạch, đặc biệt các đoạn chữ viết trên bệ đá cẩm thạch của đài tưởng niệm trong đền lại càng chi tiết và thanh nhã hơn. Một số đoạn văn bản trong kinh Koran cũng được trang trí trên tường đền, tương truyền rằng đích thân Amanat Khan đã chọn những đoạn này.Koch, p. 100.
Khi bước vào cổng Taj Mahal, có một dòng chữ viết như sau: O Soul, thou art at rest. Return to the Lord at peace with Him, and He at peace with you. (tạm dịch là: Này linh hồn, bạn đang yên nghỉ. Hãy trở về bên Thượng đế, bình yên với Ngài, và Ngài sẽ bình yên với bạn.)
Trang trí bên trong
Nội thất bên trong lăng Taj Mahal đã vượt ra khỏi những yếu tố trang trí truyền thống. Có thể nhận xét không hề cường điệu, lăng mộ đúng là một món trang sức. Những chi tiết trang trí ở đây không phải là tranh khảm mà là chạm khắc. Vật liệu trang trí trên bề mặt không phải là cẩm thạch hay ngọc bích mà là đá quý hay đá bán quý. Mỗi chi tiết trang trí ngoại thất của hầm mộ đều được đánh giá lại với nghệ thuật kim hoàn.
Xây dựng
Taj Mahal được xây trên một thửa đất ở phía nam của thành phố cổ Agra. Shah Jahan presented Maharajah Jai Singh với một cung điện lớn ở trung tâm Agra để trao đổi lấy đất xây dựng. Khu vực có diện tích gần 3 acre (khoảng 12.000 m2) được đào lên, lấp đầy bụi để giảm thấm, và ở độ cao so với bờ sông. Ở khu vực mộ, các giếng được đào lên và lấp đầu cuội sỏi để tạo móng cho mộ. Thay vì dùng tre chống đỡ, những người thợ đã xây dựng một giàn giáo bằng gạch lớn phản chiếu ngôi mộ. Giàn giáo rất to lớn theo ước tính mất khoảng vài năm để những người thợ tháo dỡ nó.
Theo truyền thuyết, Shah Jahan ra lệnh rằng bất cứ ai cũng có thể giữ những viên gạch lấy từ giàn giáo, và do đó nó đã bị những người nông dân tháo dỡ chỉ trong một đêm. 15 km (9,3 mi) đường dốc bằng đất đầm nện được xây dựng để vận chuyển đá cẩm thạch và các vật liệu khác đến để xây dựng công trình và các đội gồm 20 hoặc 30 con bà được dùng để kéo các khối đá trên các toa xe có cấu tạo đặc biệt. Một hệ thống ròng rọc phức tạp được sử dụng để nâng các khối đá lên đến vị trí thiết kế. Nước được lấy từ sông bằng một loạt các purs'', theo cơ chế dùng sức kéo của súc vật, đổ vào một hồ chứa nước lớn và đưa lên các bồn phân phối lớn. Nó được đưa qua 3 bồn chứa nhỏ hơn, từ đó cấp đến các phức hợp.
Các trụ và ngôi mộ mất khoảng 12 năm để hoàn thành. Phần còn lại của khu phức hợp mất thêm 10 năm và đã được hoàn thành theo thứ tự tháp, nhà thờ Hồi giáo và Jawab, và cổng. Vì phức hợp được xây dựng trong nhiều giai đoạn, nên có sự khác biệt về ngày hoàn thành do những quan điểm khác nhau về sự "hoàn thành". Ví dụ, riêng lăng mộ, về cơ bản hoàn thành năm 1643, nhưng công việc vẫn còn tiếp tục để hoàn thành những phần còn lại của khu phức hợp. Dự toán chi phí xây dựng có sự khác biệt do những khó khăn trong dự toán chi phí theo thời gian. Tổng chi phí đã được ước tính là khoảng 32 triệu Rupees tại thời điểm đó.
Vật liệu xây dựng Taj Mahal được lấy từ nhiều nơi trên khắp Ấn Độ và châu Á và có hơn 1000 con voi được sử dụng để vận chuyển vật liệu xây dựng. Đá cẩm thạch trắng mờ được mua từ Makrana, Rajasthan, jasper từ Punjab, jade và pha lê từ Trung Quốc. Turquoise từ Tây Tạng và Lapis lazuli từ Afghanistan, trong khi sapphire từ Sri Lanka và carnelian từ Ả Rập. Tổng cộng có 28 loại đá quý và bán quý được khảm vào đá cẩm thạch trắng.
Việc xây dựng Taj Mahal đã được giao phó cho một hội đồng quản trị của kiến trúc sư dưới sự giám sát của triều đình, bao gồm Abd ul-Karim Khan Ma'mur, Makramat Khan, và Ustad Ahmad Lahauri. Lahauri is generally considered to be the principal designer.
20.000 lao động được sử dụng từ khắp miền bắc Ấn Độ. Các nhà điêu khắc từ Bukhara, nhà thư pháp từ Syria và Ba Tư, người xếp lớp đá từ miền nam Ấn Độ, người cắt đá từ Baluchistan, một chuyên gia trong việc xây dựng tháp pháo, một người chỉ chuyên khắc hoa trên đá cẩm thạch, trong tổng số 37 người tạo ra tuyệt tác này. Một số thợ xây tham gia xây dựng Taj Mahal là:
Ismail Afandi (a.k.a. Ismail Khan) - trước đó làm việc cho Ottoman Sultan và được xem là một trong những người thiết kế mái vòm.
Ustad Isa, sinh ở Shiraz, đế quốc Ottoman hoặc Agra – có vai trò quan trọng trong việc thiết kế kiến trúc và mái vòm chính.
'Puru' từ Benarus, Ba Tư – là người giám sát kiến trúc.
Qazim Khan, người Lahore – cast the solid gold finial.
Chiranjilal - nhà điêu khắc trưởng và khảm đá.
Amanat Khan từ Shiraz, Iran – thư pháp trưởng.
Muhammad Hanif – giám sát phần xây nề.
Mir Abdul Karim và Mukkarimat Khan của Shiraz – phụ trách tài chính và quản lý sản xuất hàng ngày. |
Máy kéo là một loại máy móc sử dụng khung gầm bánh xích hoặc bánh lốp dùng động cơ điện hoặc động cơ diesel thành nguồn động lực để sử dụng sức kéo trong nông nghiệp,xây dựng... Máy kéo cũng có thể kéo theo hoặc gắn thêm một bộ phận hoặc công cụ cày, dùng để cày, và gọi chung là máy cày.
Lịch sử
Dụng cụ đầu tiên có sức mạnh dùng để trồng trọt ra đời vào khoảng đầu những năm 1800 gọi là Động cơ di động – có cỗ máy hoạt động bằng cơ khí chạy bằng các bánh xe có thể điều khiển dễ dàng bởi con người. Vào khoảng 1850, Động cơ máy kéo đầu tiên được phát triển, và lập tức được áp dụng vào nông nghiệp. Máy kéo đầu tiên bằng cơ khí gọi là máy cày. Máy cày được sử dụng như để cày đất thành những dãy dài, điều này chỉ làm được khi điều kiện đất cho phép như ở Hoa Kỳ, máy kéo cơ khí được sử dụng để cày, nhưng ở Anh và một số nước khác, máy cày được sử dụng cho kéo dây cáp. Những máy cày hoạt động bởi cơ khí vẫn còn được sử dụng cho tới thế kỷ 20, cho tới khi máy cày hiện đại hơn được phát triển.
Vào năm 1892, John Froelich ở Nông thôn Clayton, Iowa đã thành công chế tạo máy cày hoạt động bởi xăng. Chỉ có hai bộ máy được bán vào năm 1911, Khi công ty Twin City Traction Engine phát triển kiểu dáng, và đã thành công.
Tại Anh, động cơ máy kéo an toàn đầu tiên được ghi nhận được và được cấp bằng sáng chế bởi Herbert Akroyd Stuart, trong năm 1897. Dù gì, chương trình quảng cáo đầu tiên về máy kéo ba bánh đã thành công thiết kế bởi Dan Albone của năm 1902. Trong 1908, công ty Saunderson Tractor and Implement Co. của Bedford giới thiệu máy kéo kiểu bốn bánh, và đã trở thành máy kéo cho xí nghiệp lớn nhất ở ngoài Hoa Kỳ lúc đó.
Trong khi sự khởi đầu không được nhiều người biết đến, những cỗ máy hoạt động bởi xăng bắt đầu được phát triển vào những năm 1910s khi đó chúng đã được thiết kế nhỏ gọn hơn và có thêm nhiều khả năng. Henry Ford giới thiệu loại Máy kéo Fordson, sau đó đã được sản xuất hàng loạt trong những năm 1917. Chúng được chế tạo ở Hoa Kỳ, Đảo Ireland, Anh và Liên Xô và trong năm 1923, Máy kéo Fordson đã có mặt trong 77% của các chợ trong Hoa Kỳ. Máy kéo Fordson phân phối với cấu trúc, sử dụng sức mạnh của khối máy móc để giữ các bộ phận với nhau. Vào những năm 1920s, máy kéo hoạt động bởi xăng dựa trên nguyên tắc động cơ đốt trong trở thành phổ biến nhất.
Chú thích
Máy nông nghiệp
Thiết bị xây dựng |
Tàu kéo (tiếng Anh: Tugboat) hay tàu giòng là loại tàu có máy và dụng cụ như dây xích hoặc thừng bện cùng những thiết bị cơ khí để kéo hay đẩy các phương tiện nổi trên mặt nước mà không tự hành như: xà lan, phà, đốc nổi, cần cẩu nổi, bè, mảng. Tàu giòng còn có chức năng cứu nạn khi tàu bị hỏng máy hay mắc cạn, không vận hành được. Mũi tàu giòng vì vậy thường độn them lốp xe hoặc đệm cao su để khi áp lại đẩy tàu khác sẽ không bị thiệt hại.
Chú thích |
Scud là lớp các tên lửa đạn đạo chiến thuật được Liên Xô triển khai trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh và xuất khẩu rộng rãi tới nhiều nước khác trên thế giới. Thuật ngữ này xuất phát từ tên hiệu NATO SS-1 Scud vốn được các cơ quan tình báo phương Tây gán cho loại tên lửa này. Những tên tiếng Nga của nó là R-11 (phiên bản đầu tiên) và R-17 Elbrus (những phiên bản phát triển sau này). Cái tên Scud đã được các phương tiện truyền thông và nhiều thực thể khác dùng để chỉ không chỉ những tên lửa này mà cả nhiều loại tên lửa khác được phát triển tại các quốc gia khác dựa trên thiết kế của người Liên Xô. Thỉnh thoảng trên các phương tiện truyền thông đại chúng Hoa Kỳ, Scud được dùng để gọi tên lửa đạn đạo của bất kỳ một quốc gia nào không phải phương Tây.
Phát triển thời Liên Xô
Thuật ngữ Scud được sử dụng lần đầu tiên trong tên hiệu NATO SS-1b Scud-A, để chỉ loại tên lửa đạn đạo R-11. Tên lửa R-1 trước đó được NATO đặt tên hiệu SS-1 Scunner, nhưng là một bản thiết kế khác hẳn, hầu như sao chép trực tiếp từ loại V-2 của Đức Quốc xã. R-11 cũng sử dụng kỹ thuật học được từ V-2, nhưng có một thiết kế mới, nhỏ hơn và có hình dáng khác biệt so với V-2 và R-1. R-11 được Makeyev OKB thiết kế và bắt đầu đưa vào sử dụng năm 1957. Cải tiến mang tính cách mạng nhất của R-11 là ở động cơ, do A.M. Isaev thiết kế. Đơn giản hơn rất nhiều so với thiết kế nhiều buồng của V-2, và sử dụng một van đổi hướng chống dao động để ngăn chặn tiếng nổ của động cơ, nó là nguyên mẫu đầu tiên của những động cơ lớn hơn được sử dụng trong các tên lửa vũ trụ Nga sau này. Như mọi loại tên lửa đạn đạo thời kỳ đó, Scud-A sử dụng đầu dẫn quán tính với độ chính xác khá thấp, độ lệch mục tiêu theo ước tính của NATO lên tới 3.000 mét, do vậy nó ít có khả năng tiêu diệt mục tiêu nếu không sử dụng đầu đạn hạt nhân.
Các biến thể cải tiến là R-17 Elbrus / SS-1c Scud-B năm 1961 và SS-1d Scud-C năm 1965, cả hai đều có thể mang hoặc đầu nổ quy ước có sức nổ cao, hoặc một đầu đạn hạt nhân có sức công phá từ 5 tới 80 kiloton, hay một đầu đạn hóa học (VX nén). Các cải tiến làm tăng tầm bắn lên 300 km với Scud-B và 575 – 600 km với Scud-C. Đầu dẫn quán tính cải tiến giúp nâng cao đáng kể độ chính xác của Scud-B/C so với phiên bản Scud-A trước đó, độ lệch mục tiêu đã giảm xuống chỉ còn vài trăm mét. Với độ chính xác này, Scud-B/C đã có thể tiêu diệt mục tiêu chỉ với đầu đạn thông thường.
Biến thể SS-1e Scud-D được phát triển cuối thập niên 1980 có thể mang nhiều loại đầu đạn: loại quy ước có sức nổ mạnh, một loại đầu đạn nhiệt áp, hoặc đầu đạn mẹ chứa 40 đầu đạn con để sát thương diện rộng, hay 100 × 5 kg quả bom chống bộ binh nhỏ. Đầu dẫn cải tiến kết hợp quán tính với camera quang học, giúp nâng cao đáng kể độ chính xác của Scud-D, độ lệch mục tiêu đã giảm xuống chỉ còn khoảng 50 mét.
Tất cả các mẫu đều dài 11,25 mét (ngoại trừ Scud-A ngắn hơn 1 mét) và có đường kính 0,88 mét. Chúng được đẩy bằng một động cơ duy nhất sử dụng nhiên liệu kerosene và axit nitric với Scud-A, hay UDMH và RFNA (tiếng Nga: СГ-02 Тонка 250 (SG-02 Tonka 250)) với các mẫu khác.
Tác chiến
Tên lửa Scud (và cả các biến thể của nó) là một trong số ít các tên lửa đạn đạo đã được sử dụng trong chiến tranh thực tế, chỉ đứng thứ hai sau loại V-2 của Đức Quốc xã về số lượng sử dụng (SS-21 là loại tên lửa đạn đạo duy nhất khác được sử dụng "trong chiến tranh"). Libya đã trả đũa các cuộc không kích của Hoa Kỳ (Chiến dịch El Dorado Canyon) năm 1986 bằng cách bắn nhiều tên lửa Scud vào một trạm đồn trú bảo vệ bờ biển Hoa Kỳ tại hòn đảo Lampedusa thuộc nước Ý. Các tên lửa Scud cũng đã được sử dụng trong nhiều cuộc xung đột gồm với bên sử dụng gồm cả Liên Xô và các lực lượng cộng sản Afghanistan tại nước này, Iran và Iraq chống lại nhau trong cái gọi là "Cuộc chiến tranh của các thành phố" trong thời Chiến tranh Iran-Iraq. Tên lửa Scud cũng được Quân đội Iraq sử dụng trong Chiến tranh Vùng Vịnh chống lại các mục tiêu của Israel và liên quân tại Ả Rập Xê Út.
Hơn mười tên lửa Scud đã được Quân đội Liên Xô bắn từ Afghanistan vào các mục tiêu tại Pakistan năm 1988. Một số lượng nhỏ tên lửa Scud cũng được sử dụng bởi các lực lượng Nga tại Chechnya năm 1996, các lực lượng trong cuộc nội chiến năm 1994 và 2016 tại Yemen và những năm sau đó.
Các nước sở hữu hoặc từng sở hữu tên lửa Scud-B gồm: Afghanistan, Armenia, Azerbaijan, Belarus, Bulgaria, Georgia, Kazakhstan, Iran, Iraq, Libya, Ba Lan, Slovakia, Turkmenistan, Ukraina, Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất, Việt Nam, Yemen và Nam Tư. Cộng hòa Dân chủ Congo và Ai Cập đã đặt mua thêm các tên lửa Scud-C để bổ sung vào số Scud-B họ đã có. Syria đã muốn đặt hàng biến thể Scud-D, và tên lửa Al Hussein của Iraq cũng có tầm bắn tương tự Scud-D. Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên cũng có các tên lửa Scud sau các cuộc thử nghiệm tên lửa năm 2006.
Phát triển khác
Tất cả các phiên bản tên lửa "Scud" đều có nguồn gốc từ loại tên lửa V-2 của Đức Quốc xã (giống như đa số các loại tên lửa và rocket thời kỳ đầu của Mỹ). Những phiên bản Scud ban đầu có độ lệch mục tiêu cao vì kết cấu của chúng thiếu một hệ thống dẫn đường điện tử chính xác (công nghệ này đến thập niên 1980 mới ra đời). Về mặt này, Scud có thể được coi là một loại bom khu vực. Những cải tiến của Iraq đã giúp tăng tầm bắn, nhưng ảnh hưởng xấu tới độ chính xác. Phải tới phiên bản Scud-D ra đời năm 1989 thì độ chính xác của Scud mới đạt mức cao.
Tương tự như với một số loại tên lửa khác, lợi thế quân sự của loại vũ khí này là sự dễ dàng trong vận chuyển, chỉ cần một xe tải mang bệ phóng (TEL). Tính cơ động cho phép lựa chọn vị trí phóng ở bất kỳ khu vực nào và làm tăng khả năng sống sót của hệ thống vũ khí (tới mức trong số gần 100 bệ phóng tên lửa Scud của Iraq được các phi công và các lực lượng đặc biệt của Liên quân Anh - Mỹ - Israel - Ả Rập Xê Út tuyên bố đã phá hủy trong Chiến tranh Vùng Vịnh, không một vụ nào được xác nhận chính thức sau đó).
Cái tên "Scud" cũng được sử dụng để chỉ loại tên lửa đã được sửa đổi của Iraq. Được cải tiến để có tầm bắn xa hơn, nó đã trở thành loại vũ khí nổi bật trong "Cuộc chiến của các thành phố" khi Iraq bắn 190 tên lửa Scud vào các thành phố của Iran gồm cả thủ đô Tehran.
Các tên lửa đó cũng đã được sử dụng trong Chiến tranh Vùng Vịnh, khi một số tên lửa được bắn vào Israel (40) và Ả Rập Xê Út (46). Hệ thống tên lửa phòng không MIM-104 Patriot của Hoa Kỳ được tuyên bố là đã thành công trong việc bắn hạ nhiều tên lửa Scud, nhưng nhiều lời chỉ trích (xem Ted Postol) cho rằng mức độ chính xác của các tên lửa Patriot đã được phóng đại quá nhiều và trên thực tế tới 95% không trúng mục tiêu. Một vấn đề là các tên lửa Scud tự hủy khi chúng tới gần mục tiêu có nghĩa là rất khó để biến nó thành mục tiêu và để phân biệt mảnh nào của nó là đầu đạn và mảnh nào là mảnh vỡ đơn thuần. Các tên lửa là một trong những loại vũ khí tấn công đáng lo ngại nhất của Iraq, đặc biệt đối với Israel. Đã có lo ngại đặc biệt về việc chúng có thể được trang bị với các đầu đạn hóa học hay sinh học.
Cuối cuộc chiến các tên lửa Scud được cho là đã gây ra cái chết trực tiếp của một người Israel, một lính Ả Rập Xê Út và 28 binh sĩ Mỹ (tên lửa đã bắn trúng một doanh trại của Quân đội Mỹ tại Dhahran, Ả Rập Xê Út). Việc săn lùng các tên lửa Scud chiếm một phần ba lực lượng không quân của Liên quân. Vì chúng dễ dàng cơ động trên những chiếc xe chuyên chở TEL nên việc truy tìm gặp nhiều khó khăn; các lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ và Anh thường có trách nhiệm truy tìm và tiêu diệt chúng ngay phía trong giới tuyến quân địch. Việc loại trừ mối đe dọa từ phía các tên lửa Scud có tầm quan trọng đặc biệt đối với các nước trên bởi Israel đã đe dọa sẽ tham chiến chống Iraq nếu các cuộc tấn công tiếp tục diễn ra, điều này sẽ gây chia rẽ các nước Ả Rập chống Israel trong liên quân và ảnh hưởng tới những nỗ lực chiến tranh của Hoa Kỳ và Anh Quốc.
Người Iraq đã phát triển bốn phiên bản: Scud, Scud tầm xa hay Scud LR, Al Hussein, và Al Abbas. Do hạn chế về khả năng công nghệ, những tên lửa tự cải tiến này của Iraq thường bị nổ tung khi bay hoặc chỉ mang được các đầu đạn nhỏ có sức công phá thấp.
Các chương trình tên lửa của Bắc Triều Tiên, Iran, và Pakistan đã sử dụng công nghệ của Scud để phát triển các tên lửa có tầm bắn được cho là lên tới 1.300 đến 1.500 km.
Đặc điểm chung
Thông tin thêm
Mark Philippoussis, vận động viên quần vợt người Úc, có tên hiệu 'Scud' vì có tốc độ giao bóng lên tới trên 200 km/h.
Ghi chú |
Mô hình OSI (Open Systems Interconnection Reference Model, viết ngắn là OSI Model hoặc OSI Reference Model) - tạm dịch là Mô hình tham chiếu kết nối các hệ thống mở - là một thiết kế dựa vào nguyên lý tầng cấp, lý giải một cách trừu tượng kỹ thuật kết nối truyền thông giữa các máy tính và thiết kế giao thức mạng giữa chúng. Mô hình này được phát triển thành một phần trong kế hoạch Kết nối các hệ thống mở (Open Systems Interconnection) do ISO và IUT-T khởi xướng. Nó còn được gọi là Mô hình bảy tầng của OSI.
Mục đích
Mô hình OSI sắp xếp một giao thức với chức năng của nó vào một hoặc một nhóm các lớp tương ứng. Mỗi một tầng cấp có một đặc tính là nó chỉ sử dụng chức năng của tầng dưới nó, đồng thời chỉ cho phép tầng trên sử dụng các chức năng của mình. Một hệ thống cài đặt các giao thức bao gồm một chuỗi các tầng nói trên được gọi là "chồng giao thức" (protocol stack). Chồng giao thức có thể được cài đặt trên phần cứng, hoặc phần mềm, hoặc là tổ hợp của cả hai. Thông thường thì chỉ có những tầng thấp hơn là được cài đặt trong phần cứng, còn những tầng khác được cài đặt trong phần mềm.
Mô hình OSI này chỉ được ngành công nghiệp mạng và công nghệ thông tin tôn trọng một cách tương đối. Tính năng chính của nó là quy định về giao diện giữa các tầng cấp, tức quy định đặc tả về phương pháp các tầng liên lạc với nhau. Điều này có nghĩa là cho dù các tầng cấp được soạn thảo và thiết kế bởi các nhà sản xuất, hoặc công ty, khác nhau nhưng khi được lắp ráp lại, chúng sẽ làm việc một cách dung hòa (với giả thiết là các đặc tả được thấu đáo một cách đúng đắn). Trong cộng đồng TCP/IP, các đặc tả này thường được biết đến với cái tên RFC (Requests for Comments, dịch sát là "Đề nghị duyệt thảo và bình luận"). Trong cộng đồng OSI, chúng là các tiêu chuẩn ISO (ISO standards).
Thường thì những phần thực thi của giao thức sẽ được sắp xếp theo tầng cấp, tương tự như đặc tả của giao thức đề ra, song bên cạnh đó, có những trường hợp ngoại lệ, còn được gọi là "đường cắt ngắn" (fast path). Trong kiến tạo "đường cắt ngắn", các giao dịch thông dụng nhất, mà hệ thống cho phép, được cài đặt như một thành phần đơn, trong đó tính năng của nhiều tầng được gộp lại làm một.
Việc phân chia hợp lý các chức năng của giao thức khiến việc suy xét về chức năng và hoạt động của các chồng giao thức dễ dàng hơn, từ đó tạo điều kiện cho việc thiết kế các chồng giao thức tỉ mỉ, chi tiết, song có độ tin cậy cao. Mỗi tầng cấp thi hành và cung cấp các dịch vụ cho tầng ngay trên nó, đồng thời đòi hỏi dịch vụ của tầng ngay dưới nó. Như đã nói ở trên, một thực thi bao gồm nhiều tầng cấp trong mô hình OSI, thường được gọi là một "chồng giao thức" (ví dụ như TCP/IP).
Mô hình tham chiếu OSI là một cấu trúc phả hệ có 7 tầng, nó xác định các yêu cầu cho sự giao tiếp giữa hai máy tính. Mô hình này đã được định nghĩa bởi Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế (International Organization for Standardization) trong tiêu chuẩn số 7498-1 (ISO standard 7498-1). Mục đích của mô hình là cho phép sự tương giao (interoperability) giữa các hệ máy (platform) đa dạng được cung cấp bởi các nhà sản xuất khác nhau. Mô hình cho phép tất cả các thành phần của mạng hoạt động hòa đồng, bất kể thành phần ấy do ai tạo dựng. Vào những năm cuối thập niên 1980, ISO đã tiến cử việc thực thi mô hình OSI như một tiêu chuẩn mạng.
Tại thời điểm đó, TCP/IP đã được sử dụng phổ biến trong nhiều năm. TCP/IP là nền tảng của ARPANET, và các mạng khác - là những cái được tiến hóa và trở thành Internet. (Xin xem thêm RFC 871 để biết được sự khác biệt chủ yếu giữa TCP/IP và ARPANET.)
Hiện nay chỉ có một phần của mô hình OSI được sử dụng. Nhiều người tin rằng đại bộ phận các đặc tả của OSI quá phức tạp và việc cài đặt đầy đủ các chức năng của nó sẽ đòi hỏi một lượng thời gian quá dài, cho dù có nhiều người nhiệt tình ủng hộ mô hình OSI đi chăng nữa.
Mặt khác, có nhiều người lại cho rằng, ưu điểm đáng kể nhất trong toàn bộ cố gắng của công trình mạng truyền thông của OSI là nó đã thất bại trước khi gây ra quá nhiều tổn thất.
Tường trình các tầng cấp của mẫu hình OSI
Tầng 1: Tầng vật lý (Physical Layer)
Tầng vật lý định nghĩa tất cả các đặc tả về điện và vật lý cho các thiết bị. Trong đó bao gồm bố trí của các chân cắm (pin), các hiệu điện thế, và các đặc tả về cáp nối (cable). Các thiết bị tầng vật lý bao gồm Hub, bộ lặp (repeater), thiết bị chuyển đổi tín hiệu (converter), thiết bị tiếp hợp mạng (network adapter) và thiết bị tiếp hợp kênh máy chủ (Host Bus Adapter) - (HBA dùng trong mạng lưu trữ Storage Area Network). Chức năng và dịch vụ căn bản được thực hiện bởi tầng vật lý bao gồm:
Thiết lập hoặc ngắt mạch kết nối điện (electrical connection) với một môi trường truyền dẫn phương tiện truyền thông (transmission medium).
Tham gia vào quy trình mà trong đó các tài nguyên truyền thông được chia sẻ hiệu quả giữa nhiều người dùng. Chẳng hạn giải quyết tranh chấp tài nguyên (contention) và điều khiển lưu lượng.
Điều chế (modulation), hoặc biến đổi giữa biểu diễn dữ liệu số (digital data) của các thiết bị người dùng và các tín hiệu tương ứng được truyền qua kênh truyền thông (communication channel).
Cáp (bus) SCSI song song hoạt động ở tầng cấp này. Nhiều tiêu chuẩn khác nhau của Ethernet dành cho tầng vật lý cũng nằm trong tầng này; Ethernet nhập tầng vật lý với tầng liên kết dữ liệu vào làm một. Điều tương tự cũng xảy ra đối với các mạng cục bộ như Token ring, FDDI và IEEE 802.11.
Tầng 2: Tầng liên kết dữ liệu (Data-Link Layer)
Tầng liên kết dữ liệu cung cấp các phương tiện có tính chức năng và quy trình để truyền dữ liệu giữa các thực thể mạng (truy cập đường truyền, đưa dữ liệu vào mạng), phát hiện và có thể sửa chữa các lỗi trong tầng vật lý nếu có. Cách đánh địa chỉ mang tính vật lý, nghĩa là địa chỉ (địa chỉ MAC) được mã hóa cứng vào trong các thẻ mạng (network card) khi chúng được sản xuất. Hệ thống xác định địa chỉ này không có đẳng cấp (flat scheme). Chú ý: Ví dụ điển hình nhất là Ethernet. Những ví dụ khác về các giao thức liên kết dữ liệu (data link protocol) là các giao thức HDLC; ADCCP dành cho các mạng điểm-tới-điểm hoặc mạng chuyển mạch gói (packet-switched networks) và giao thức Aloha cho các mạng cục bộ. Trong các mạng cục bộ theo tiêu chuẩn IEEE 802, và một số mạng theo tiêu chuẩn khác, chẳng hạn FDDI, tầng liên kết dữ liệu có thể được chia ra thành 2 tầng con: tầng MAC (Media Access Control - Điều khiển Truy nhập Đường truyền) và tầng LLC (Logical Link Control - Điều khiển Liên kết Logic) theo tiêu chuẩn IEEE 802.2.
Tầng liên kết dữ liệu chính là nơi các thiết bị chuyển mạch (switches) hoạt động. Kết nối chỉ được cung cấp giữa các nút mạng được nối với nhau trong nội bộ mạng.
Tầng 3: Tầng mạng (Network Layer)
Tầng mạng cung cấp các chức năng và quy trình cho việc truyền các chuỗi dữ liệu có độ dài đa dạng, từ một nguồn tới một đích, thông qua một hoặc nhiều mạng, trong khi vẫn duy trì chất lượng dịch vụ (quality of service) mà tầng giao vận yêu cầu. Tầng mạng thực hiện chức năng định tuyến. Các thiết bị định tuyến (router) hoạt động tại tầng này - gửi dữ liệu ra khắp mạng mở rộng, làm cho liên mạng trở nên khả thi (còn có thiết bị chuyển mạch (switch) tầng 3, còn gọi là chuyển mạch IP). Đây là một hệ thống định vị địa chỉ lôgic (logical addressing scheme) – các giá trị được chọn bởi kỹ sư mạng. Hệ thống này có cấu trúc phả hệ. Ví dụ điển hình của giao thức tầng 3 là giao thức IP.
Tầng 4: Tầng giao vận (Transport Layer)
Tầng giao vận cung cấp dịch vụ chuyên dụng chuyển dữ liệu giữa các người dùng tại đầu cuối, nhờ đó các tầng trên không phải quan tâm đến việc cung cấp dịch vụ truyền dữ liệu đáng tin cậy và hiệu quả. Tầng giao vận kiểm soát độ tin cậy của một kết nối được cho trước. Một số giao thức có định hướng trạng thái và kết nối (state and connection orientated). Có nghĩa là tầng giao vận có thể theo dõi các gói tin và truyền lại các gói bị thất bại. Một ví dụ điển hình của giao thức tầng 4 là TCP. Tầng này là nơi các thông điệp được chuyển sang thành các gói tin TCP hoặc UDP. Ở tầng 4 địa chỉ được đánh là address ports, thông qua address ports để phân biệt được ứng dụng trao đổi.
Tầng 5: Tầng phiên (Session layer)
Tầng phiên kiểm soát các (phiên) hội thoại giữa các máy tính. Tầng này thiết lập, quản lý và kết thúc các kết nối giữa trình ứng dụng địa phương và trình ứng dụng ở xa. Tầng này còn hỗ trợ hoạt động song công (duplex) hoặc bán song công (half-duplex) hoặc đơn công (Simplex) và thiết lập các quy trình đánh dấu điểm hoàn thành (checkpointing) - giúp việc phục hồi truyền thông nhanh hơn khi có lỗi xảy ra, vì điểm đã hoàn thành đã được đánh dấu - trì hoãn (adjournment), kết thúc (termination) và khởi động lại (restart). Mô hình OSI uỷ nhiệm cho tầng này trách nhiệm "ngắt mạch nhẹ nhàng" (graceful close) các phiên giao dịch (một tính chất của giao thức kiểm soát giao vận TCP) và trách nhiệm kiểm tra và phục hồi phiên, đây là phần thường không được dùng đến trong bộ giao thức TCP/IP.
Tầng 6: Tầng trình diễn (Presentation layer)
Tầng trình diễn hoạt động như tầng dữ liệu trên mạng. Tầng này trên máy tính truyền dữ liệu làm nhiệm vụ dịch dữ liệu được gửi từ tầng ứng dụng sang địng dạng chung. Và tại máy tính nhận, lại chuyển từ định dạng chung sang định dạng của tầng ứng dụng. Tầng thể hiện thực hiện các chức năng sau:
- Dịch các mã ký tự từ ASCII sang EBCDIC.
- Chuyển đổi dữ liệu, ví dụ từ số interger sang số dấu phảy động.
- Nén dữ liệu để giảm lượng dữ liệu truyền trên mạng.
- Mã hoá và giải mã dữ liệu để đảm bảo sự bảo mật trên mạng.
Tầng 7: Tầng ứng dụng (Application layer)
Tầng ứng dụng là tầng gần với người sử dụng nhất. Nó cung cấp phương tiện cho người dùng truy nhập các thông tin và dữ liệu trên mạng thông qua chương trình ứng dụng. Tầng này là giao diện chính để người dùng tương tác với chương trình ứng dụng, và qua đó với mạng. Một số ví dụ về các ứng dụng trong tầng này bao gồm HTTP, Telnet, FTP (giao thức truyền tập tin) và các giao thức truyền thư điện tử như SMTP, IMAP, X.400 Mail.
Các giao diện
Ngoài các tiêu chuẩn đối với từng giao thức về truyền tải dữ liệu, còn có các tiêu chuẩn giao diện cho các tầng cấp khác nhau hội thoại với tầng cấp ở trên hoặc ở dưới nó (thường phụ thuộc vào hệ điều hành cụ thể đang được sử dụng). Ví dụ, Winsock của Microsoft Windows, Berkeley sockets của Unix và Giao diện tầng chuyển tải (Transport Layer Interface) của System V là những giao diện giữa các trình ứng dụng (tầng 5 trở lên) và tầng giao vận (tầng 4). NDIS (Network Driver Interface Specification - Đặc tả Giao diện Điều vận Mạng) và ODI (Open Data-Link Interface - Giao diện Liên kết Dữ liệu Mở) là các giao diện giữa phương tiện truyền (media) (tầng 2) và giao thức mạng (tầng 3).
Bảng liệt kê các thí dụ
Điều hành song song
For Fun
Mô hình bảy tầng cấp trên thường được mở rộng thêm dưới một hình thức hài hước, ám chỉ đến những nhan đề thông thường, không có tính kỹ thuật. Một trong những trò đùa là mô hình 10 tầng cấp, trong đó tầng 8 là tầng "người dùng", tầng 9 là "tài chính" và tầng 10 là "chính trị".
Kỹ thuật viên mạng truyền thông thường ám chỉ đến những nhan đề của tầng thứ 8, ý nói tầng người dùng là tầng có nhan đề, chứ không phải là mạng.
Mô hình OSI còn được gọi một cách diễu cợt là "mô hình Taco Bell" (cửa hàng bán thức ăn México), vì cửa hàng ăn này đã từng nổi tiếng với những cái bánh gói 7 lớp burrito.
Dick Lewis dùng một câu chuyện diễn tả điệp viên James Bond (007) phân phát một thông điệp mật để minh họa mô hình bảy tầng.
Những câu dễ nhớ (Mnemonics)
Tên của bảy tầng trong giao thức mô hình của OSI (Physical, Data link, Network, Transport, Session, Presentation và Application) có thể được ghi nhớ nhanh chóng bằng các cách viết tắt sau:
Anh Phải Sống Theo Người Địa Phương.
Anh Phải Sống Thế Nào Đây Phương
Anh Phải Sống Tới Ngày Động Phòng
Please Do Not Throw Sausage Pizza Away
All People Seem To Need Data Processing
APS Transports Network Data Physically (separates upper and lower layer groups)
APS Turds Never Develop Pubes
Please Do Not Tell Secret Passwords Anytime
A Perfect Student Needs To Drink Port |
Lệ Thu có thể là:
Ca sĩ Lệ Thu nổi tiếng từ trước 1975 ở Sài Gòn.
Ca sĩ Lệ Thu ở Thành phố Hồ Chí Minh sau 1975.
Nghệ sĩ cải lương Lệ Thu, em gái Nghệ sĩ nhân dân Lệ Thủy. |
Gentoo Linux là một bản phân phối Linux được đặt tên theo loài chim cánh cụt Gentoo. Nó hỗ trợ nhiều kiến trúc máy tính , dễ bảo dưỡng, linh hoạt và có khả năng tối ưu cho một cấu hình máy tính cụ thể .Sáng lập bởi Daniel Robbins
Gentoo Linux là một hệ điều hành được xây dựng ở lớp trên của Linux Kernel và dựa trên Hệ thống Quản lý Gói Khả Chuyển(Portable Package Management System). Trong đó, không giống như những bản phân phối thông thường, người dùng sẽ phải tự biên dịch mã nguồn theo cách của họ, với cấu hình của riêng họ. Nói chung thì trong Gentoo không có một phần mềm, ứng dụng nào được biên dịch sẵn ra file Binary nhưng để cho tiện đối với một số người mới tiếp cận thì các ứng dụng phổ biến với mã nguồn đồ sộ như Firefox hay LibreOffice sẽ được biên dịch sẵn. Hệ thống quản lý gói của Gentoo được xây dựng như một module một plug-in rất mềm dẻo dễ bảo trì và độ tương thích phần cứng là gần như không giới hạn. Người dùng Gentoo Linux thuộc nhóm Power user do đó Gentoo không thích hợp cho người dùng mới.
Các phiên bản đã có |
Tuấn Khanh có thể là :
Tuấn Khanh, nhạc sĩ trước năm 1975, tác giả bài hát Chiếc lá cuối cùng
Tuấn Khanh, nhạc sĩ nhạc trẻ, tác giả ca khúc Trả nợ tình xa, Chiếc lá đầu tiên, là nhạc sĩ đỡ đầu cho nhóm nhạc trẻ MTV và Trio 666
Tên tự của võ sĩ Trung Quốc Hoắc Nguyên Giáp
Đinh Tuấn Khanh, ca sĩ chính của nhóm Microwave
Nguyễn Tuấn Khanh, bí thư tỉnh ủy tỉnh Cà Mau
Nguyễn Tuấn Khanh, tác giả ca khúc Thu phai
Nguyễn Tuấn Khanh, tác giả ca khúc Ca dao tự tình |
MEPIS là một bản phân phối Linux dựa trên nền Debian, được Warren Woodford phát triển. MEPIS có thể cài đặt cào ổ cứng hoặc chạy trực tiếp trên CD |
Con đường tơ lụa là một hệ thống các con đường buôn bán nổi tiếng đã từ hàng nghìn năm nối Đông Á và Tây Nam Á.
Tên của nó bằng tiếng Anh, Silk Road, còn được đặt cho:
Con đường tơ lụa
Silk Road (chợ đen): là một trang deep web buốn bán ma túy bất hợp pháp, đã bị FBI gỡ xuống năm 2013.
Dự án SilkRoad Project
SilkRoad Inc.: công ty SilkRoad
Ban nhạc Silk Route Ấn Độ
Con đường tơ lụa (trò chơi trực tuyến): Trò chơi MMORPG miễn phí trực tuyến của công ty Joymax Hàn Quốc và được VDC-Net2E phát hành tại Việt Nam. |
Tranh làng Sình là một dòng tranh dân gian Việt Nam thuộc thôn Lại Ân, xã Phú Mậu, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế (cách trung tâm thành phố khoảng 10 km về phía Đông). Đây là dòng tranh mộc bản được sử dụng phổ biến ở cố đô Huế với mục đích cúng lễ. Tranh làng Sình khác với tranh Đông Hồ (Bắc Ninh), tranh Hàng Trống (Hà Nội) bởi chức năng duy nhất là phục vụ thờ cúng, cúng xong là đốt. Vì vậy, đến nay chỉ còn những bản khắc gỗ là hiện vật quý giá còn lưu giữ được ở nhà ông Kỳ Hữu Phước - một nghệ nhân làm tranh lâu năm ở làng Sình.
Làng Sình
Làng Sình là một làng nằm ven sông Hương được thành lập vào khoảng thế kỷ 15, đối diện bên kia sông là Thanh Hà, một cảng sông nổi tiếng thời các chúa ở Đàng Trong, còn có tên là Phố Lở, sau này lại có phố Bao Vinh, một trung tâm buôn bán sầm uất nằm cận kề thành phố Huế. Đây còn là một trung tâm văn hóa của vùng cố đô, có chùa Sùng Hoá trong làng đã từng là một trong những chùa lớn nhất vùng Hóa Châu xưa.
Nghề làm tranh ra đời tại làng cho tới hiện nay (2019) là khoảng 450 năm trước, tranh làm ra chủ yếu là để phục vụ cho việc thờ cúng của người dân khắp vùng. Ngày nay, tranh làng Sình đang mất dần đi yếu tố truyền thống xưa. Các bản khắc cũ còn lại với số lượng rất ít, các bản khắc mới đã xa rời với yếu tố gốc và người làm nghề cũng đã dùng chất liệu sơn công nghiệp thay cho các chất liệu màu truyền thống.
Cách in ấn và vẽ tranh
Tranh Sình có nhiều loại kích thước tùy thuộc vào khổ giấy dó. Giấy dó cổ truyền có khổ 25x70cm, được xén thành cỡ pha đôi (25x35), pha ba (25x23) hay pha tư (25x17). Tranh khổ lớn khi in thì đặt bản khắc nằm ngửa dưới đất, dùng một chiếc phết là một mảnh vỏ dừa khô đập dập một đầu, quét màu đen lên trên ván in. Sau đó phủ giấy lên trên, dùng miếng xơ mướp xoa đều cho ăn màu rồi bóc giấy ra. Với tranh khổ nhỏ thì đặt giấy từng tập xuống dưới rồi lấy ván in dập lên. Bản in đen phải chờ cho khô rồi mới đem tô màu.
Bản khắc của tranh được làm từ gỗ mít.
Nguyên liệu và cách tạo màu
Giấy in tranh là giấy mộc quét điệp, màu sắc trước đây được tạo từ các sản phẩm tự nhiên như từ:thực vật, kim loại hay từ sò điệp...
Bút vẽ làm từ cây dứa mọc hoang ngoài đồng.
Các màu thường được sử dụng trong tranh như màu đỏ (từ nước lá bàng); màu đen (từ tro rơm, tro lá cây); màu tím (của hạt cây mồng tơi); màu vàng (lá đung giã với búp hoa hòe)… Màu chủ yếu trên tranh làng Sình là các màu xanh dương, vàng, đơn, đỏ, đen, lục. Mỗi màu này có thể trộn với hồ điệp hoặc tô riêng, khi tô riêng phải trộn thêm keo nấu bằng da trâu tươi.
Sau này do nhiều nguyên nhân nên màu sắc được tạo nên từ phẩm hóa học.
Đề tài và nội dung tranh
Tranh Sình chủ yếu là tranh phục vụ tín ngưỡng, có khoảng 50 đề tài tranh. Các đề tài tranh chủ yếu phản ánh tín ngưỡng cổ xưa. Ngoài các đề tài về tín ngưỡng, phục vụ thờ cúng còn có tranh Tố Nữ , tranh tả cảnh sinh hoạt xã hội...
Tranh phục vụ tín ngưỡng có thể chia làm ba loại:
Tranh nhân vật, chủ yếu là tranh tượng bà, thường vẽ một người phụ nữ xiêm y rực rỡ với hai nữ tì nhỏ hơn đứng hầu hai bên. Tượng bà còn chia thành ba loại: tượng đế, tượng chùa, và tượng ngang. Loại tranh này dán trên bàn thờ riêng thờ quanh năm. Tranh con ảnh, gồm hai loại: ảnh xiêm vẽ hình đàn ông đàn bà; ảnh phền vẽ bé trai bé gái.
Các loại nhân vật còn lại là tranh ông Điệu, ông Đốc và Tờ bếp (có lẽ là tranh vẽ Táo quân).
Tranh đồ vật vẽ các thứ áo, tiền và dụng cụ để đốt cho người cõi âm: áo ông, áo bà, áo binh, tiền, cung tên, dụng cụ gia đình.. thường là tranh cỡ nhỏ.
Tranh súc vật (gia súc, voi, cọp và tranh 12 con giáp) để đốt cho người chết.
Tất cả các loại tranh này sẽ được đốt sau khi cúng xong. |
Đặc xá, hay đặc xá tha tù, là việc giảm hay miễn thời gian đáng ra phải thi hành án phạt tù cho một đối tượng nào đó là bị cáo hay là phạm nhân.
Đặc xá tại Anh
Đặc xá tại Canada
Đặc xá tại Đức
Đặc xá tại Hoa Kỳ
Đặc xá tại Ireland
Đặc xá tại Nga
Đặc xá tại Pháp
Đặc xá tại Ý
Đặc xá tại Việt Nam
Đặc xá là một chế định pháp lý ghi trong Hiến pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và truyền thống nhân đạo của dân tộc Việt Nam đối với những người phạm tội, khuyến khích họ hối cải, rèn luyện trở thành người có ích cho xã hội.
Đó là sự ghi nhận kết quả cải tạo, chấp hành tốt các nội quy, quy chế của phạm nhân và cũng là kết quả của quá trình cải tạo giáo dục phạm nhân, thể hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa trại giam, gia đình, các cơ quan có liên quan và xã hội.
Theo quy định tại Điều 103 của Hiến pháp Việt Nam năm 1992 Chủ tịch nước là người được trao quyền quyết định đặc xá. Và để giúp việc cho Chủ tịch nước trong vấn đề này có Hội đồng Tư vấn Đặc xá Trung ương. Hội đồng này do Phó thủ tướng thường trực làm Chủ tịch và các thành viên là lãnh đạo của Toà án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Văn phòng Trung ương đảng, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam... trong đó Bộ Công an là Cơ quan Thường trực của Hội đồng.
Điều kiện
Để được đặc xá, những người thuộc diện đối tượng, phổ biến là các phạm nhân phải có những điều kiên nhất định mới được hưởng chính sách này. Như điều kiện về thời gian tối thiểu đã thi hành hình phạt tù giam, quá trình lao động cải tạo trong trại giam như thế nào, đặc điểm nhân thân...
Khi đã có đủ những điều kiện thỏa mãn theo quy định, hồ sơ của họ sẽ được một hội đồng xét duyệt. Việc xét duyệt sẽ tiến hành công khai để đi đên quyết định cuối cùng rằng người đó có đáng được hưởng đặc xá hay không.
Số liệu
Năm 2000:
Nam 2001:
Năm 2002:
Năm 2003:
Năm 2004:
Năm 2005:
Đợt ngày 30 tháng 4 là 7.751 phạm nhân.
Đặc xá đợt ngày 2 tháng 9 là 10.428 phạm nhân.
Đợt nhân dịp Tết Ất Dậu là 8.428 phạm nhân. |
Tàu hỏa (hoặc xe lửa, tàu lửa) (Hán-Việt: 火車[hoả xa], nay ít dùng) là một hình thức vận tải đường sắt bao gồm một loạt các phương tiện được kết nối với nhau thường chạy dọc theo đường ray (hoặc đường sắt) để vận chuyển hành khách hoặc hàng hóa. Một con tàu có thể lắp một hay nhiều hơn số đầu tàu và các toa, trong đó có thể là toa hành khách và toa hàng. Nhiều con tàu lắp đặt 2 đầu máy ở 2 đầu tàu, gọi là hai đầu kéo. Một con tàu cũng có thể chạy ngược (tức đuôi tàu chạy trước, đầu máy chạy sau).
Lực cho đoàn tàu được cung cấp bởi một đầu máy riêng biệt hoặc các động cơ riêng lẻ trong một tổ máy nhiều bánh tự hành. Thuật ngữ "động cơ" thường được sử dụng thay thế cho đầu máy. Mặc dù trước đây động cơ đẩy hơi nước chiếm ưu thế, nhưng các loại đầu máy phổ biến nhất là động cơ diesel và điện, loại đầu máy này được cung cấp bằng dây trên không hoặc đường ray bổ sung. Xe lửa cũng có thể được kéo bằng ngựa, được kéo bằng động cơ hoặc cáp dẫn động bằng nước hoặc tời dây, chạy xuống dốc bằng trọng lực, hoặc chạy bằng khí nén, tuabin khí hoặc pin điện.
Đường chạy của tàu thường bao gồm hai đường ray chạy với khoảng cách cố định, có thể được bổ sung bằng các đường ray bổ sung như đường ray dẫn điện ("đường ray thứ ba") và đường ray giá đỡ. Đôi khi cũng sử dụng các đường ray đơn và đường dẫn maglev.
Tàu khách bao gồm các phương tiện chuyên chở hành khách và thường có thể rất dài và nhanh. Hệ thống đường sắt cao tốc bắt đầu mở rộng nhanh chóng vào cuối thế kỷ 20 và đây vẫn là một chủ đề chính của sự phát triển hơn nữa. Thuật ngữ " đường sắt hạng nhẹ " đôi khi được dùng để chỉ hệ thống tàu điện hiện đại, nhưng nó cũng có thể có nghĩa là một dạng trung gian giữa xe điện và xe lửa, tương tự như hệ thống vận chuyển nhanh bằng đường sắt hạng nặng.
Tàu chở hàng (hàng hóa) sử dụng toa hàng (hoặc toa xe / xe tải) để vận chuyển hàng hóa hoặc vật liệu (hàng hóa). Có thể vận chuyển hành khách và hàng hóa trên cùng một chuyến tàu bằng cách sử dụng một toa hỗn hợp.
Các toa tàu và máy móc được sử dụng để bảo dưỡng và sửa chữa đường ray, được gọi là thiết bị " bảo dưỡng đường "; những thứ này có thể được lắp ráp để bảo trì đường tàu. Tương tự, các đoàn tàu chuyên dụng có thể được sử dụng để cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho các ga dọc theo tuyến xe lửa, chẳng hạn như thu gom rác thải hoặc doanh thu.
Tên gọi "tàu hỏa" trong tiếng Việt ban đầu để chỉ loại tàu chạy bằng động cơ hơi nước, nhưng tên gọi này có thể được áp dụng cho cả các loại tàu chạy trên đường ray sử dụng động cơ điện hay diesel hay các công nghệ khác.tàu hỏa có thể chạy nhanh tới 150km/h - 450km/h
Phân loại
Có nhiều loại tàu khác nhau được thiết kế cho các mục đích cụ thể. Một đoàn tàu có thể bao gồm một tổ hợp của một hoặc nhiều đầu máy và các toa xe lửa kèm theo, hoặc một nhiều toa tự hành, hoặc đôi khi một toa được hỗ trợ đơn lẻ hoặc khớp nối được gọi là toa xe lửa. Các loại tàu đặc biệt chạy trên "đường sắt" được xây dựng theo mục đích tương ứng là một ray, đường sắt cao tốc, maglev, đường sắt khí quyển, đường sắt chạy bằng cao su, đường sắt leo núi và đường sắt răng cưa.
Một đoàn tàu chở khách bao gồm một hoặc nhiều đầu máy và (thường) một số toa. Ngoài ra, một đoàn tàu có thể hoàn toàn bao gồm các toa chở hành khách, một số hoặc tất cả các toa được chạy bằng điện; điều này được gọi là "nhiều đơn vị". Ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là Viễn Đông và Châu Âu, đường sắt cao tốc được sử dụng rộng rãi cho việc đi lại của hành khách. Các chuyến tàu chở hàng bao gồm ô tô, toa xe hoặc xe tải chứ không phải toa, mặc dù một số chuyến tàu bưu kiện và thư tín (đặc biệt là các Văn phòng Bưu điện Du lịch) có vẻ bề ngoài giống tàu chở khách hơn. Xe lửa cũng có thể có nhiều loại hỗn hợp, có cả chỗ ở cho hành khách và xe chở hàng. Các đoàn tàu hỗn hợp này rất có thể được sử dụng cho các dịch vụ chạy không thường xuyên, nơi việc cung cấp các đoàn tàu chở khách và hàng hóa riêng biệt sẽ không hiệu quả về chi phí, nhưng nhu cầu khác nhau của hành khách và hàng hóa có nghĩa là điều này được tránh nếu có thể. Các đoàn tàu đặc biệt cũng được sử dụng để bảo trì đường ray; ở một số nơi, điều này được gọi là "duy trì đường tàu".
Ở Vương quốc Anh, một đoàn tàu sử dụng hai đầu máy được gọi là đoàn tàu "hai đầu". Ở Canada và Hoa Kỳ, việc một đoàn tàu hàng dài do ba đầu máy trở lên đứng đầu là điều khá phổ biến. Một đoàn tàu có gắn đầu máy ở cả hai đầu được mô tả là "đầu và đuôi", phương pháp này thường được sử dụng khi không có sẵn phương tiện đảo chiều. Trường hợp đầu máy thứ hai được gắn tạm thời để hỗ trợ tàu hỏa khi đi lên các bờ dốc hoặc dốc (hoặc để cung cấp lực hãm cho đầu máy xuống dốc). Nhiều đoàn tàu có tải ở Mỹ được lắp ráp bằng cách sử dụng một hoặc nhiều đầu máy ở giữa hoặc ở phía sau đoàn tàu, sau đó chúng được vận hành từ xa từ cabin dẫn đầu. Cách thức này này được gọi là "DP" hoặc "Distributed Power (Công suất phân tán)".
Đầu máy hơi nước
Là loại đầu máy dùng động cơ, dùng than đốt cháy củi,tạo nhiệt đun nước làm tăng áp suất nước, xả van cho hơi nước đẩy piston và quay trục khuỷu.
Đầu máy diesel cổ điển
Dùng động cơ diesel, buồng bơm tăng áp diesel phun dầu áp lực cao vào buồng đốt, dầu tự cháy đẩy piston quay trục khuỷu và truyền lực đến bánh qua hộp số. Ngoài ra do momen lực của động cơ lúc khởi động yếu và khi nổ máy vào điểm chết có thể gây gãy trục khuỷu hoặc máy khó hoạt động nên trước khi khởi động máy, có một kích thủy lực đẩy đầu máy di chuyển cho đến khi vượt điểm chết.
Đầu máy diesel truyền động điện
Dùng động cơ diesel truyền momen quay đến một máy phát điện, sau đó máy phát điện truyền dòng điện vào nhiều động cơ điện, động cơ điện truyền lực trực tiếp vào hộp số đến bánh tàu. Động cơ điện có momen khởi động lớn nên thích hợp cho việc khởi động kéo nhiều toa nặng trong thời gian ngắn.
Đầu máy điện
Dùng dây điện trên cao, dưới đường ray hoặc cả hai để cấp điện cho động cơ điện hoạt động. Đầu máy điện có thể có một đầu máy chuyên dụng, hoặc như các tàu cao tốc như "JR 700" dùng nhiều động cơ điện dọc theo từng toa tàu.
Tàu đệm từ
Xem bài chi tiết: Tàu đệm từ
Toa tàu
Một toa tàu (bogie) là một toa xe có bánh hoặc xe đẩy. Theo thuật ngữ cơ học, bogie là một khung hoặc khung mang bánh xe, được gắn vào một chiếc xe. Nó có thể được cố định tại chỗ, như trên một xe tải chở hàng, gắn trên một khớp xoay, như trên một toa xe lửa hoặc đầu máy, hoặc bung ra như trong hệ thống treo của một chiếc xe bánh xích. Thông thường, mỗi toa xe, toa xe hoặc đầu máy có hai bogies, ở mỗi đầu một toa tàu. Một cấu hình thay thế, thường được sử dụng trong các phương tiện có khớp nối, đặt các bogies (thường là bogies Jacobs) dưới kết nối giữa các toa xe hoặc toa xe. Hầu hết các xe đều có hai trục, vì đây là thiết kế đơn giản nhất, nhưng một số xe được thiết kế cho tải cực nặng đã được chế tạo với tối đa năm trục cho mỗi trục. Toa hạng nặng có thể có nhiều hơn hai bogie bằng cách sử dụng các thanh đỡ nhịp để cân bằng tải trọng và kết nối các toa với nhau. Thông thường, sàn xe lửa ở mức cao hơn so với các bãi lầy, nhưng sàn của toa xe có thể thấp hơn giữa các toa, chẳng hạn như đối với tàu hai tầng để tăng không gian bên trong trong khi vẫn bị hạn chế về chiều cao, hoặc để tạo ra các toa tầng thấp dễ dàng tiếp cận, và ra vào.
Động lực
Những chuyến tàu đầu tiên được kéo bằng dây thừng, chạy bằng trọng lực hoặc kéo bằng ngựa, nhưng từ đầu thế kỷ 19 hầu như tất cả các chuyến tàu đều chạy bằng đầu máy hơi nước. Từ những năm 1910 trở đi, đầu máy hơi nước bắt đầu được thay thế bằng đầu máy diesel và điện; mặc dù các dạng động cơ mới này phức tạp và đắt tiền hơn nhiều so với năng lượng hơi nước, nhưng chúng ít tốn công hơn và sạch hơn. Đồng thời, các phương tiện tự hành nhiều đơn vị (cả diesel và điện) đã được sử dụng rộng rãi hơn nhiều trong dịch vụ hành khách. Vào những năm 1970, hầu hết các quốc gia đã hoàn thành việc động cơ hóa đầu máy xe lửa sử dụng hàng ngày. Đầu máy hơi nước vẫn được sử dụng trong các tuyến đường sắt di sản hoạt động ở nhiều quốc gia với mục đích giải trí và đam mê.
Lực kéo bằng điện khiến chi phí vận hành trung bình trên mỗi dặm tàu thấp hơn nhưng với chi phí ban đầu cao hơn, điều này chỉ có thể hợp lý trên các tuyến giao thông cao. Mặc dù chi phí cho mỗi dặm xây dựng cao hơn nhiều, nhưng sức kéo bằng điện vẫn khả thi hơn trong quá trình vận hành vì chi phí nhập khẩu động cơ diesel cao hơn đáng kể. Tàu điện nhận dòng điện qua đường dây trên không hoặc qua hệ thống điện đường sắt thứ ba.
Một công nghệ đang phát triển là pin nhiên liệu, kết hợp lợi thế của việc không cần hệ thống điện tại chỗ, với ưu điểm là nó vận hành không phát ra khí thải. Tuy nhiên, một trở ngại là chi phí ban đầu đáng kể liên quan đến xe chạy pin nhiên liệu.
Toa hành khách
Một toa tàu chở khách bao gồm các phương tiện chở khách và thường có thể rất dài và nhanh. Nó có thể là một đầu máy hoặc toa xe lửa tự cung cấp năng lượng, hoặc kết hợp của một hoặc nhiều đầu máy và một hoặc nhiều rơ moóc không được cung cấp năng lượng được gọi là toa xe, toa xe hoặc toa xe. Tàu khách đi giữa các ga đi, nơi hành khách có thể lên và xuống. Trong hầu hết các trường hợp, tàu khách hoạt động theo lịch trình cố định và có quyền sử dụng đường ray cao hơn tàu hàng.
Không giống như tàu hàng, tàu khách phải cung cấp nguồn điện đầu cuối cho mỗi toa để phục vụ các mục đích như chiếu sáng và sưởi ấm, v.v. Năng lượng này có thể được rút ra trực tiếp từ động cơ chính của đầu máy (được sửa đổi cho mục đích trên), hoặc từ một máy phát diesel riêng biệt trong đầu máy. Một toa máy phát điện riêng có thể được sử dụng để phục vụ hành khách trên các tuyến đường xa nơi không phải lúc nào cũng có sẵn đầu máy được trang bị thiết bị trích năng lượng.
Việc giám sát đoàn tàu chở khách là trách nhiệm của người chỉ huy, người này đôi khi được hỗ trợ bởi các thuyền viên khác như nhân viên phục vụ hoặc nhân viên khuân vác. Trong thời kỳ đỉnh cao của việc đi lại bằng đường sắt chở khách ở Bắc Mỹ, các chuyến tàu đường dài mang theo hai dây dẫn: người dẫn tàu chính được đi cùng với một người dẫn tàu Pullman, phụ trách các nhân viên phụ trách toa nằm.
Nhiều dịch vụ tàu khách uy tín đã được ban tặng một cái tên đặc biệt, một số đã trở nên nổi tiếng trong văn học và tiểu thuyết. Trong những năm qua, người đi tàu thường được gọi xe lửa chở khách là "véc ni", ám chỉ đến một thời đã qua của tàu thân gỗ với lớp trang trí bên ngoài rực rỡ và lạ mắt. “Chắn véc-ni” có nghĩa là tàu hàng chạy chậm cản trở tàu khách nhanh, gây chậm chuyến.
Một số tàu chở khách, cả đường dài và đường ngắn, có thể sử dụng toa hai tầng để chở nhiều khách hơn trên mỗi chuyến tàu. Thiết kế toa xe và sự an toàn chung của tàu khách đã phát triển vượt bậc theo thời gian, khiến việc đi lại bằng đường sắt trở nên an toàn đáng kể.
Tàu đường dài
Các chuyến tàu đường dài di chuyển giữa nhiều thành phố hoặc vùng của một quốc gia, và đôi khi băng qua một số quốc gia. Họ thường có xe ăn uống hoặc xe nhà hàng để hành khách có thể dùng bữa trong suốt hành trình. Tàu đi qua đêm cũng có thể có toa ngủ. Hiện nay phần lớn du lịch trên những khoảng cách hơn được thực hiện bằng đường hàng không ở nhiều quốc gia nhưng ở những quốc gia khác, di chuyển đường dài bằng đường sắt là cách phổ biến hoặc rẻ nhất để đi đường dài.
Đường sắt cao tốc
Một loại tàu đường dài đáng chú ý và đang phát triển là đường sắt tốc độ cao, thường chạy ở tốc độ trên và thường hoạt động trên đường đua chuyên dụng đã được khảo sát và chuẩn bị để đáp ứng tốc độ cao. Ví dụ thành công đầu tiên của hệ thống đường sắt chở khách tốc độ cao là Shinkansen của Nhật Bản, thường được gọi là "tàu cao tốc", bắt đầu hoạt động vào tháng 10 năm 1964.
Tàu có bánh nhanh nhất chạy trên đường ray là TGV của Pháp (Train à Grande Vitesse, nghĩa đen là "tàu cao tốc"), trong điều kiện thử nghiệm năm 2007, đạt tốc độ , gấp đôi tốc độ cất cánh của máy bay Boeing 727. TGV chạy với tốc độ tối đa là , ICE của Đức (Inter-City Express) và AVE của Tây Ban Nha (Alta Velocidad Española) cũng vậy. Tốc độ cao nhất hiện đạt được trong hoạt động theo lịch trình là trên đường sắt liên tỉnh Bắc Kinh - Thiên Tân và hệ thống đường sắt cao tốc Vũ Hán - Quảng Châu ở Trung Quốc.
Trong hầu hết các trường hợp, di chuyển bằng đường sắt tốc độ cao cạnh tranh về thời gian và chi phí với đường hàng không khi khoảng cách không vượt quá , do việc check-in và các thủ tục boarding tại sân bay có thể tốn thêm ít nhất hai giờ vào thời gian quá cảnh tổng thể. Ngoài ra, chi phí vận hành đường sắt trên những khoảng cách này có thể thấp hơn khi lượng nhiên liệu máy bay tiêu thụ của máy bay trong quá trình cất cánh và đạt độ cao cần thiết được tính đến. Di chuyển bằng đường hàng không trở nên cạnh tranh hơn về chi phí khi quãng đường di chuyển tăng lên vì nhiên liệu chiếm ít hơn trong tổng chi phí hoạt động của máy bay.
Một số hệ thống đường sắt tốc độ cao sử dụng công nghệ nghiêng để cải thiện độ ổn định trên các đoạn đường cong. Ví dụ về tàu nghiêng là Tàu chở khách nâng cao (APT), Pendolino, N700 Series Shinkansen, Acela của Amtrak và Talgo Tây Ban Nha. Nghiêng là một dạng động lực của siêu cao, cho phép cả giao thông tốc độ thấp và tốc độ cao sử dụng cùng một đoạn đường (mặc dù không đồng thời), cũng như tạo ra một chuyến đi thoải mái hơn cho hành khách.
Tàu hỏa liên thành phố
"Liên thành phố" là một thuật ngữ chung cho bất kỳ dịch vụ đường sắt nào sử dụng các chuyến tàu với các điểm dừng hạn chế để cung cấp các chuyến đi đường dài nhanh chóng. Các dịch vụ liên thành phố có thể được chia thành ba nhóm chính:
InterCity: sử dụng tàu cao tốc để kết nối các thành phố, bỏ qua tất cả các ga trung gian, do đó kết nối các trung tâm dân cư chính trong thời gian nhanh nhất có thể
Express: gọi tại một số trạm trung gian giữa các thành phố, phục vụ cộng đồng đô thị lớn hơn
Khu vực: gọi tại tất cả các trạm trung gian giữa các thành phố, phục vụ các cộng đồng nhỏ hơn dọc theo tuyến đường
Sự phân biệt giữa ba loại hình dịch vụ đường sắt liên thành phố có thể không rõ ràng; các chuyến tàu có thể chạy dưới dạng dịch vụ InterCity giữa các thành phố lớn, sau đó chuyển sang dịch vụ tàu tốc hành (hoặc thậm chí trong khu vực) để tiếp cận cộng đồng ở những điểm xa nhất của hành trình. Thực hành này cho phép các cộng đồng cận biên được phục vụ theo cách hiệu quả nhất về chi phí, với chi phí là thời gian hành trình dài hơn cho những người muốn đi đến ga cuối.
Tàu khu vực
Các chuyến tàu khu vực thường kết nối giữa các thị trấn và thành phố, phục vụ các cộng đồng nhỏ hơn ở thành thị (và một số vùng nông thôn) trên đường đi. Các dịch vụ này được cung cấp để đáp ứng nhu cầu giao thông địa phương ở các khu vực ít người dân đi lại.
Đường sắt tốc độ cao
Đường sắt tốc độ cao là một loại tàu đặc biệt. Các chuyến tàu cho dịch vụ đường sắt tốc độ cao hơn có thể hoạt động với tốc độ tối đa cao hơn các chuyến tàu liên thành phố thông thường nhưng tốc độ không cao bằng các chuyến tàu trong dịch vụ đường sắt cao tốc. Các dịch vụ này được cung cấp sau khi cải tiến cơ sở hạ tầng đường sắt thông thường để hỗ trợ các đoàn tàu có thể vận hành an toàn ở tốc độ cao hơn.
Tàu khoảng cách ngắn
Tàu ngoại ô
Đối với các khoảng cách ngắn hơn, nhiều thành phố có mạng lưới các chuyến tàu đi lại (còn được gọi là tàu ngoại ô) phục vụ nội thành và các vùng ngoại ô. Tàu hỏa là một phương tiện giao thông rất hiệu quả để đáp ứng nhu cầu giao thông lớn trong đô thị. So với vận tải đường bộ, nó chở được nhiều người với diện tích đất nhỏ hơn nhiều, không khí ít ô nhiễm. Đường sắt đi lại cũng di chuyển trong phạm vi dài hơn so với hệ thống vận chuyển nhanh với tần suất tương đối ít hơn và có thể chia sẻ đường ray với các đoàn tàu khác.
Một số toa xe có thể được thiết kế để có chỗ đứng hơn chỗ ngồi, hoặc tạo điều kiện cho việc mang theo xe đẩy, xe đạp hoặc xe lăn. Một số quốc gia có tàu khách hai tầng để sử dụng trong các khu phố. Tàu cao tốc và tàu hỏa hai tầng đang trở nên phổ biến hơn ở lục địa Châu Âu.
Đôi khi sự tắc nghẽn nghiêm trọng của các chuyến tàu đi lại có thể trở thành một vấn đề. Ví dụ, ước tính có khoảng 3,5 triệu hành khách đi trên tuyến Yamanote ở Tokyo, Nhật Bản, với 29 nhà ga. Để so sánh, tàu điện ngầm thành phố New York chở 5,7 triệu hành khách mỗi ngày với ga. Những chiếc xe đặc biệt có ghế băng có thể gập lại để chỉ cung cấp chỗ đứng trong giờ cao điểm buổi sáng trên tuyến này. Trước đây, đoàn tàu này gồm 2 toa, mỗi bên sáu cửa để rút ngắn thời gian lên xuống ga cho hành khách.
Tàu khách thường có tay nắm phanh khẩn cấp (hoặc "dây liên lạc") để công chúng có thể vận hành, nếu trường hợp khẩn cấp xảy ra (như nếu ai đó bị kẹt trên cửa toa tàu). Điều này làm cho đoàn tàu bị kéo dây khẩn cấp và trong một số trường hợp, tất cả các đoàn tàu trong khu vực phải dừng lại. Vì dây hãm khẩn cấp có thể khiến tất cả các đoàn tàu trong khu vực phải dừng lại gây ra sự chậm trễ, nên ai lạm dụng dây hãm khẩn cấp sẽ bị phạt rất nặng.
Các nhà điều hành xe lửa đi lại và ngoại ô khác nhau (ví dụ: Sydney Trains, NJ Transit, Paris RER) sử dụng tàu hai tầng. Tàu hai tầng tăng sức chứa ngay cả khi chạy ít hơn.
Tàu trong thành phố
Rapid transit (chuyển tuyến nhanh)
Các thành phố lớn thường có hệ thống vận chuyển nhanh chóng, còn được gọi là "tàu điện ngầm", "metro", "underground" hoặc "tube". Các đoàn tàu này chạy bằng điện, thường chạy bằng đường ray thứ ba và các tuyến đường sắt của chúng tách biệt với các phương tiện giao thông khác, thường không có giao cắt đồng mức. Thông thường chúng chạy trong các đường hầm ở trung tâm thành phố và đôi khi trên các cấu trúc trên cao ở các khu vực bên ngoài của thành phố. Chúng có thể tăng tốc và giảm tốc nhanh hơn các đoàn tàu đường dài, nặng hơn.
Thuật ngữ chung "chuyển tuyến nhanh" được sử dụng cho các phương tiện giao thông công cộng như tàu hỏa, tàu điện ngầm và đường sắt hạng nhẹ. Tuy nhiên, các dịch vụ trên Tàu điện ngầm Thành phố New York được gọi là "xe lửa", trong khi các dịch vụ trên Tàu điện ngầm London thường được gọi là "tàu điện ngầm" hoặc "tube".
Tàu điện (tram)
Ở Anh, sự phân biệt giữa đường tàu điện và đường sắt là chính xác và được quy định trong luật. Ở Canada và Hoa Kỳ, những tuyến đường sắt như vậy được gọi là xe đẩy hoặc xe điện. Sự khác biệt cơ bản giữa hệ thống đường sắt và hệ thống xe đẩy là hệ thống sau chủ yếu chạy trên các đường phố công cộng, trong khi xe lửa có quyền ưu tiên ngăn cách với các đường phố công cộng. Thường thì hệ thống đường sắt xuyên đô thị và đường sắt hiện đại kiểu Mỹ bị nhầm lẫn với hệ thống xe đẩy, vì hệ thống này cũng có thể chạy trên đường phố cho các đoạn đường ngắn hoặc dài trung bình. Trong một số ngôn ngữ, từ xe điện cũng dùng để chỉ các mạng lưới kiểu đường sắt nhẹ và liên đô thị, cụ thể là tiếng Hà Lan.
Chiều dài của xe điện hoặc xe đẩy có thể được xác định theo quy định của quốc gia. Đức có cái gọi là tiêu chuẩn Bo-Strab, giới hạn chiều dài của xe điện ở mức 75 mét, trong khi ở Mỹ, chiều dài xe thường bị giới hạn bởi chính quyền địa phương, thường chỉ cho phép một loại phương tiện duy nhất hoạt động trong hệ thống giao thông công cộng.
Đường sắt nhẹ (light rail)
Thuật ngữ "đường sắt hạng nhẹ" đôi khi được sử dụng cho một hệ thống xe điện hiện đại, mặc dù các tuyến đường sắt hạng nhẹ thường có quyền ưu tiên chủ yếu dành riêng, giống với đường sắt hạng nặng và ít giống đường tàu điện hơn. Nó cũng có thể có nghĩa là một dạng trung gian giữa xe điện và xe lửa, tương tự như tàu điện ngầm, ngoại trừ việc nó có thể có các đường cắt ngang mà sau đó thường được bảo vệ bằng các cổng băng qua đường. Theo thuật ngữ của Hoa Kỳ, các hệ thống này thường được gọi là "liên đô thị" vì chúng kết nối các khu đô thị lớn hơn trong vùng lân cận của một thành phố lớn với trung tâm của thành phố. Các hệ thống đường sắt hạng nhẹ hiện đại thường sử dụng quyền ưu tiên dành cho đường sắt hạng nặng bị bỏ hoang (ví dụ như các tuyến đường sắt cũ) để hồi sinh các khu vực bị tước đoạt và các khu vực tái phát triển trong và xung quanh các tụ điểm dân cư lớn.
Monorail (tàu 1 ray)
Monorail được phát triển để đáp ứng nhu cầu giao thông trung bình trong quá trình vận chuyển đô thị và bao gồm một đoàn tàu chạy trên một đường ray, thường là trên cao. Monorails đại diện cho một phần tương đối nhỏ của lĩnh vực đường sắt tổng thể. Hầu hết tất cả các tàu một ray đều sử dụng động cơ cảm ứng tuyến tính.
Maglev (tàu đệm từ)
Để đạt được hoạt động nhanh hơn nhiều trên , công nghệ maglev sáng tạo đã được nghiên cứu từ đầu thế kỷ 20. Công nghệ sử dụng nam châm để đẩy tàu lên phía trên đường ray, giảm ma sát và cho phép đạt tốc độ cao hơn. Một nguyên mẫu ban đầu đã được trình diễn vào năm 1913. Chuyến tàu maglev thương mại đầu tiên là một tàu đưa đón sân bay được giới thiệu vào năm 1984 tại Sân bay Birmingham ở Anh.
Tàu Maglev Thượng Hải, khai trương năm 2003, là dịch vụ tàu thương mại nhanh nhất trong số các loại tàu, hoạt động với tốc độ lên đến . Maglev vẫn chưa được sử dụng cho các tuyến vận tải công cộng liên thành phố.
Đoạn đường ray xe lửa
Đoạn đường ray xe lửa là quãng đường gồm các tuyến đường ray xe lửa để nối liền các địa phương. Một đoạn đường ray có thể có nhiều tuyến khác nhau.
Đoạn đường sắt dài nhất thế giới mà được dùng thường xuyên là Đường sắt xuyên Sibir dài 9288 km.
Cuối năm 2014, đoạn đường xe lửa chở hàng hoá dài 13.000 km nối giữa Tây Ban Nha và Trung Quốc là đoạn đường sắt dài nhất thế giới, bắt đầu từ Nghĩa Ô cho tới Madrid. Vào mùa Noel, nó sẽ chạy thử lần đầu tiên chở hàng hóa như rượu nho, thịt nguội và dầu ô liu từ Tây Ban Nha sang Trung Quốc, xuyên qua 6 nước, Pháp, Đức, Ba Lan, Belarus, Nga, và Kazakhstan.
Hiện thời quãng đường này mất 3 tuần (21 ngày) và hàng hóa phải được dỡ hàng 3 lần vì khổ đường khác nhau, tuy nhiên vẫn nhanh hơn 10 ngày so với đường thủy.
Tàu lửa ở Việt Nam
Năm 1881, người Pháp khởi công xây dựng đường sắt ở Việt Nam. Hiện tại có 3 khổ đường: loại 1 m, 1,435 m và đường lồng cả loại 1 m và 1,435 m. Tổng chiều dài đường sắt là 3.142,69 km, trong đó gồm 2632 km đường sắt chính, 402,69 km đường ga và 107,95 km đường nhánh. Trên đường sắt có 1777 cái cầu với chiều dài tổng cộng là 44073 m, trong đó 576 cầu có trạng thái kỹ thuật tốt với chiều dài 16.223 m còn lại 1.201 cầu trạng thái kỹ thuật xấu với chiều dài 27.850 m. Cấp tải trọng của cầu không đồng nhất từ T11 đến T22. Đường sắt Việt Nam đi xuyên qua các hầm chủ yếu ở hai tuyến: phía Nam trên tuyến đường Thống Nhất có 27 hầm với chiều dài tổng cộng là 8335 m; phía Bắc tuyến Hà Nội – Lạng Sơn có 8 hầm với tổng chiều dài là 3133,4 m.
Phân bố tập trung ở phía bắc dài 1.120 km (từ Tây sang Đông) và chạy dọc đất nước theo hướng Bắc – Nam (dài cả tuyến nhánh khoảng 2.010 km từ Hà Nội đến Sài Gòn).
Cả nước có 63 tỉnh thành thì tàu hỏa đi qua 35 tỉnh và thành phố, hầu hết đi qua các vùng đông dân và khu đô thị lớn.
Đường sắt đi qua các vùng dân cư, khu kinh tế và các trung tâm văn hoá: chiếm 57% dân cư, 47% về tổng diện tích đất đai và 60% về GDP.
Việt Nam có 15 tuyến chính:
Hà Nội – Sài Gòn: 1726,2 km
Hà Nội – Hải Phòng: 95,7 km
Hà Nội – Đồng Đăng: 163,3 km
Hà Nội – Lào Cai: 285 km
Hà Nội – Quan Triều: 54,7 km
Kép – Lưu Xá: 56,7 km
Kép – Cái Lân: 126 km
Yên Viên – Cái Lân: 132 km
Bắc Hồng – Văn Điển: 38,5 km
Mai Pha – Na Dương: 29,6 km
Cầu Giát – Nghĩa Đàn: 30 km
Diêu Trì – Quy Nhơn: 10,5 km
Đà Lạt – Trại Mát: 7,68 km
Phủ Lý – Thịnh Châu - Bút Sơn: 10 km
Bình Thuận – Phan Thiết: 12 km
Văn hóa
Âm nhạc
Ai nhanh hơn (Trần Thanh Tùng)
Bài ca xe lửa (Gốc: Down by the station) (Paul Mills, Slim Gaillard & lời Việt: Nguyễn Ngọc Thiện)
Down by the station (Paul Mills & Slim Gaillard)
Đi nhà trẻ (Đào Ngọc Dung)
Đi xe lửa (Diệp Minh Tuyền)
Đoàn tàu nhỏ xíu (Mộng Lân)
Hỏa xa (Tăng Nhật Tuệ)
I've been working on the railroad (Dân ca Mỹ)
Khúc nhạc trên tàu (Gốc: I've been working on the railroad) (Dân ca Mỹ & lời Việt: Nguyễn Ngọc Thiện)
Mời lên tàu lửa (Sưu tầm)
Tàu anh qua núi (Phan Lạc Hoa)
Tàu về quê hương (Hồng Vân)
Phim
Chunggington''' (2008 - nay)Little Einsteins: Go west, young train (2005) (nhân vật: Little Red Train)Little Einsteins: Annie, get your microphone (2008) (nhân vật: Little Red Train)Make way for Noddy: The great train chase (có xuất hiện trong tập khác nhưng không nhiều)Thomas & friends (1984 - nay)
Thơ Con tàu (Định Hải)
Game JumpStart Preschool'' (1998) (nhân vật:The Magic Train) |
Động vật có dây sống hay ngành Dây sống (danh pháp khoa học: Chordata) là một nhóm động vật bao gồm động vật có xương sống (Vertebrata), cùng một vài nhóm động vật không xương sống có quan hệ họ hàng gần. Chúng được kết hợp lại do ở một số giai đoạn trong cuộc đời thì chúng đều có dây sống- dây thần kinh ở lưng và rỗng, các khe hở thuộc hầu, trụ trong và đuôi có bắp thịt mở rộng về phía sau hậu môn. Tuy nhiên, một số nhà khoa học cho rằng những loài động vật có dây sống thực thụ cần phải có khoang túi thuộc hầu hơn là các khe hở.
Ngành Chordata được chia thành các phân ngành là: Urochordata (động vật có đuôi sống, Cephalochordata (động vật đầu sống, như lưỡng tiêm) và Vertebrata (động vật có xương sống). Ấu trùng của Urochordata có dây sống và dây thần kinh nhưng mất đi khi chúng trưởng thành. Cephalochordata có dây sống và dây thần kinh nhưng không có xương sống. Ở tất cả các dạng Vertebrata, ngoại trừ cá mút đá myxin, dây thần kinh ở lưng là rỗng được vây quanh bởi xương sống bằng chất sụn hoặc chất xương và dây sống nói chung bị giảm đi.
Ngành dây sống và hai ngành có quan hệ khác là Hemichordata và Echinodermata, tạo thành một siêu ngành gọi là Deuterostomia.
Người ta cũng đưa ra lý thuyết là ngành này có nguồn gốc là kết quả của sự thay đổi trong phát sinh loài, trong đó các dạng trưởng thành của loài vẫn giữ được các đặc điểm trước đó chỉ có ở dạng con non, diễn ra trong dạng tổ tiên nguyên thủy của chúng.
Các nhóm động vật có dây sống hiện còn tồn tại và các họ hàng của chúng được chỉ ra trong cây phát sinh loài dưới đây. Nó không hoàn toàn tương thích với các nhóm theo phân loại học truyền thống, vì phân loại động vật có dây sống luôn thay đổi, quan hệ giữa chúng chưa được hiểu rõ.
Nguồn gốc
Phần lớn các động vật phức tạp hơn sứa và các động vật cnidaria khác được chia thành 2 nhóm, Protostomia và Deuterostomia, và Động vật có dây sống thuộc nhóm Deuterostomia. Có thể Kimberella có tuổi 555 triệu năm là thành viên thuộc nhánh Protostomia. Nếu vậy, các nhánh Protostomia và Deuterostomia phải tách ra vào thời điểm trước Kimberella ít nhất 558 triệu năm, và do đó trước khi bắt đầu kỷ Cambri. Ernietta hóa thạch Ediacara có tuổi 549 - 543 triệu năm có thể là đại diện của Deuterostomia.
Các hóa thạch của một nhóm chính Deuterostomia, Echinodermata (các thành viên hiện đại của nhóm này gồm sao biển, hải sâm huệ biển) thì khá phổ biến vào đầu kỷ Cambri (542 triệu năm). Hóa thạch Rhabdotubus johanssoni thuộc Giữa Kỷ Cambri đã được phân tích thuộc nhóm Pterobranch Hemichordata. Các ý kiến khác nhau về liệu hóa thạch Yunnanozoon thuộc hệ động vật Chengjiang có từ Cambri sớm là Hemichordata hay Chordata. Một hóa thạch khác là Haikouella lanceolata cũng từ Chengjiang được phân tích là một loài thuộc ngành Chordata và có thể là Craniata, vì nó thể hiện các dấu hiệu của tim, động mạch, mang sơi, đuôi, dây thần kinh quấn nhau với não ở phần tận cùng phía trước, và mắt— mặc dù nó cũng có xúc tu quanh miệng của nó. Haikouichthys và Myllokunmingia cũng từ Hệ tầng Chengjiang được xem là cá. Pikaia được phát hiện sớm hơn nhiều nhưng từ Đá phiến sét Burgess ở Giữa Kỷ Cambri cũng được xem là động vật có dây sống nguyên thủy. Mặc khác các hóa thạch của động vật có dây sống ban đầu là rất hiếm vì các động vật có dây sống không xương sống không có xương hoặc răng, và chỉ có một loài được thông báo là còn tồn tại trong kỷ Cambri.
Phân loại học
Phân loại
Ngành Chordata
Phân ngành Urochordata –động vật đuôi sống hay động vật có bao (3.000 loài)
Phân ngành Cephalochordata - động vật đầu sống (30 loài)
Phân ngành Vertebrata (động vật có xương sống; 57.739 loài)
Siêu lớp Cá không hàm Agnatha (động vật có xương sống không hàm; 100+ loài)
Lớp Myxini hay Hyperotreti (cá mút đá myxin; 65 loài)
Lớp Conodonta (động vật răng nón)
Lớp Hyperoartia (cá mút đá)
Lớp Cephalaspidomorphi (cá giáp đầu, không hàm đại Cổ Sinh)
Lớp Pteraspidomorphi (cá không hàm đại Cổ Sinh)
Cận ngành Gnathostomata (động vật có quai hàm)
Lớp Placodermi (các dạng cá da phiến đại Cổ Sinh)
Lớp Chondrichthyes (cá sụn; 300+ loài)
Lớp Acanthodii (cá mập gai đại Cổ Sinh)
Siêu lớp Osteichthyes (cá xương; 30.000+ loài)
Lớp Actinopterygii (cá vây tia; khoảng 30.000 loài)
Lớp Sarcopterygii (cá vây thùy)
Siêu lớp Tetrapoda (động vật bốn chân; 18.000+ loài)
Lớp Amphibia (Động vật lưỡng cư; 6.000 loài)
Loạt Amniota (động vật có màng ối)
Lớp Sauropsida - (bò sát, khủng long, chim)
Lớp Aves (chim; 8.800-10.000 loài)
Lớp Synapsida (bò sát tương tự thú; 4.500+ loài)
Lớp Mammalia (động vật có vú/lớp thú, 5.800 loài)
Phát sinh loài
Lưu ý: Biểu đồ này chỉ ra quan hệ tiến hóa có thể là đúng nhất, bao gồm cả các đơn vị phân loại đã tuyệt chủng với ký hiệu †. |
Siri (phát âm là ) là một trợ lý cá nhân thông minh, là một phần của hệ điều hành iOS, iPadOS, watchOS, macOS, và tvOS của Apple Inc. Trợ lý dùng giọng nói và giao diện người dùng có ngôn ngữ tự nhiên để trả lời các câu hỏi, đưa ra các khuyến nghị và thực hiện hành động bằng cách chuyển các yêu cầu cho một bộ các dịch vụ Internet. Phần mềm này sẽ thích nghi với cách sử dụng ngôn ngữ, cách tìm kiếm và sở thích cá nhân của người dùng khi sử dụng. Kết quả trả lại được cá nhân hóa.
Siri là một sản phẩm phụ từ một dự án ban đầu được phát triển bởi Trung tâm Trí tuệ nhân tạo Quốc tế SRI. Công cụ nhận dạng giọng nói của nó được cung cấp bởi Nuance Communicationsvà Siri sử dụng công nghệ học máy tiên tiến để hoạt động. Những người lồng tiếng ban đầu ở Mỹ, Anh và Úc ghi lại giọng nói của họ vào khoảng năm 2005, không rõ về việc sử dụng của bản ghi trên Siri. Trợ lý thoại đã được phát hành dưới dạng một ứng dụng cho iOS vào tháng 2 năm 2010 và đã được Apple mua lại hai tháng sau đó. Sau đó, Siri đã được tích hợp vào iPhone 4S vào tháng 10 năm 2011. Lúc đó, ứng dụng riêng biệt cũng đã được xóa khỏi Cửa hàng ứng dụng iOS. Siri đã trở thành một phần không thể tách rời của các sản phẩm của Apple, đã được chuyển sang các thiết bị phần cứng khác trong những năm qua, bao gồm iPhone thế hệ mới, cũng như iPad, iPod Touch, Mac và Apple TV.
Siri hỗ trợ nhiều lệnh của người dùng, bao gồm thực hiện các tác vụ gọi điện, kiểm tra thông tin cơ bản, lập lịch trình các sự kiện, nhắc nhở, xử lý cài đặt thiết bị, tìm kiếm trên Internet, điều hướng, tìm thông tin về giải trí và có thể tương tác với các ứng dụng tích hợp trong iOS. Với việc phát hành iOS 10 vào năm 2016, Apple cho phép bên thứ ba truy cập vào Siri, bao gồm các ứng dụng nhắn tin của bên thứ ba, cũng như thanh toán, chia sẻ đi xe và các ứng dụng gọi qua Internet. Với việc phát hành của iOS 11, Apple đã cập nhật giọng nói của Siri cho rõ ràng và chân thật hơn; hỗ trợ các câu hỏi nối tiếp, biên dịch và thêm các hành động bổ sung của bên thứ ba.
Bản phát hành gốc của Siri trên iPhone 4S vào năm 2011 đã nhận được nhiều đánh giá trái chiều. Nó được khen ngợi về nhận dạng giọng nói và ngữ cảnh về thông tin người dùng, bao gồm các lịch hẹn, nhưng bị phê bình vì phải dùng lệnh cứng nhắc và thiếu linh hoạt. Nó cũng bị chỉ trích vì thiếu thông tin về địa điểm kế bên và không hiểu được một số phương ngữ tiếng Anh. Trong năm 2016 và 2017, một số báo cáo của các phương tiện truyền thông đã chỉ ra rằng Siri đang thiếu sự đổi mới, đặc biệt đối với các trợ lý mới từ các công ty công nghệ khác. Những nguồn trên chỉ ra giới hạn của Siri, nhận dạng tiếng nói tệ và việc tích hợp dịch vụ kém phát triển gây khó khăn cho Apple trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo và các dịch vụ dựa trên đám mây; người ta cho rằng lí do Apple chưa thể làm người dùng hài lòng là vì sự phát triển quá chậm chạp bởi họ ưu tiên bảo vệ quyền riêng tư người dùng, cũng như những cuộc tranh giành quyền lực trong công ty.
Lịch sử
Nguồn gốc
Siri là một phụ phẩm từ Trung tâm Trí tuệ nhân tạo Quốc tế SRI, và là một nhánh của dự án CALO do DARPA tài trợ. Nó được đồng sáng lập bởi Dag Kittlaus của SRI, Harry Saddler, Adam Cheyer và Tom Gruber.
Phát triển
Công cụ nhận dạng giọng nói của Siri được cung cấp bởi Nuance Communications, một công ty công nghệ thoại. Điều này đã không được chính thức công nhận bởi Apple hay Nuance trong nhiều năm, cho đến khi Giám đốc điều hành Nuance Paul Ricci xác nhận thông tin này tại hội nghị công nghệ năm 2011. [3] Hệ thống nhận dạng giọng nói sử dụng các kỹ thuật học máy tinh vi, bao gồm các mạng thần kinh xoắn và bộ nhớ dài hạn.
Ý tưởng đầu tiên của Apple về trợ lý cá nhân kỹ thuật số ban đầu là một video khái niệm vào năm 1987, được gọi là "Người điều hướng" "Knowledge Navigator".
Người lồng tiếng
Tiếng nói ban đầu của người Mỹ về Siri được Susan Bennett cung cấp vào tháng 7 năm 2005, không biết rằng nó sẽ được sử dụng cho trợ lý giọng nói. Một báo cáo từ The Verge vào tháng 9 năm 2013 về diễn viên lồng tiếng, công việc của họ và sự phát triển của máy móc, đã gợi ý rằng Allison Dufty là tiếng nói phía sau Siri, mặc dù điều này đã không được chứng minh khi Dufty viết trên trang web của cô rằng cô "Hoàn toàn, tích cực KHÔNG tiếng nói của Siri". Trích dẫn áp lực gia tăng, Bennett đã tiết lộ vai trò của mình là Siri vào tháng 10, và tuyên bố của cô đã được chứng minh bởi Ed Primeau, một chuyên gia pháp y về âm thanh của Mỹ. Apple đã không bao giờ xác nhận thông tin.
Giọng nói của người đàn ông gốc Anh được cung cấp bởi Jon Briggs, cựu phóng viên công nghệ. Sau khi phát hiện ra rằng ông là tiếng nói của Siri bằng cách xem truyền hình, ông lần đầu tiên nói về vai trò của mình vào tháng 11 năm 2011, đồng thời thừa nhận công việc bằng giọng nói của ông đã được thực hiện "năm hay sáu năm trước" mà không hề biết đến hình thức sử dụng cuối cùng của bản ghi âm.
Tiếng nói ban đầu của người Úc được cung cấp bởi Karen Jacobsen, một nghệ sỹ nói tiếng Anh nổi tiếng tại Úc cho công việc của cô là "cô gái GPS".
Trong một cuộc phỏng vấn giữa ba diễn viên lồng tiếng và The Guardian, Briggs nói rằng "Hệ thống ban đầu đã được ghi lại cho một công ty Mỹ tên là Scansoft, sau đó được Nuance mua, Apple chỉ đơn giản cho phép nó". |
Ba Tơ là một huyện thuộc tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam. Ngoài ra, tên gọi Ba Tơ còn có thể chỉ:
Thị trấn Ba Tơ: huyện lỵ huyện Ba Tơ
Khởi nghĩa Ba Tơ: cuộc nổi dậy giành chính quyền của quân dân châu Ba Tơ (nay là huyện Ba Tơ) dưới thời kháng chiến chống Pháp
Đội du kích Cứu quốc quân Ba Tơ: lực lượng vũ trang ra đời sau cuộc khởi nghĩa Ba Tơ, do Tỉnh ủy lâm thời Quảng Ngãi lãnh đạo
Ba Tơ
Quảng Ngãi |
Đường sông Việt Nam hay đường thủy nội địa Việt Nam là hệ thống các tuyến giao thông trên sông ở Việt Nam, được quản lý bởi Cục Đường thủy nội địa Việt Nam. Đường sông Việt Nam được phân ra thành đường sông do Trung ương quản lý và đường sông do địa phương quản lý với 6 cấp kỹ thuật từ cấp V đến cấp I và cấp đặc biệt.
Quy mô
Việt Nam có tới 2.360 con sông, kênh lớn nhỏ với tổng chiều dài khoảng 41.900 km, nhưng mới quản lý và khai thác được 8.036 km.
Mật độ sông và kênh trung bình ở Việt Nam 0,6 km/km², khu vực sông Hồng 0,45 km/km² và khu vực đồng bằng sông cửu Long là 0,68 km/km². Dọc bờ biển cứ khoảng 23 km có một cửa sông. Theo thống kê có 112 con sông đổ ra biển. Các sông lớn thường bắt nguồn từ nước ngoài chỉ có phần trung du và hạ lưu chảy trên địa phận Việt Nam.
Lưu lượng nước của các sông và kênh là 26.600 m³/s, trong tổng lượng nước này phần được sinh ra trên đất Việt Nam chiếm 38,5%, phần từ nước ngoài chảy vào Việt Nam chiếm khoảng 61,5%. Lượng nước không đồng đều giữa các hệ thống sông: hệ thống sông Mê Công chiếm 60,4%, hệ thống sông Hồng 15,1% và các con sông còn lại chiếm 24,5%.
Các hệ thống sông lớn
Hệ thống sông Kỳ Cùng - Bằng Giang.
Hệ thống sông Thái Bình.
Hệ thống sông Hồng.
Hệ thống sông Mã.
Hệ thống sông Lam (sông Cả).
Hệ thống sông Thu Bồn.
Hệ thống sông Ba (sông Đà Rằng)
Hệ thống sông Đồng Nai.
Hệ thống sông Mê Công (sông Cửu Long)
Các tuyến đường thủy chính
Việt Nam hiện có 45 tuyến giao thông đường thủy chính, trong đó Khu vực phía Bắc có 17 tuyến, Khu vực miền Trung phía có 10 tuyến, Khu vực phía Nam có 18 tuyến, cụ thể như sau:
Khu vực phía Bắc
Khu vực phía Bắc gồm 17 tuyến:
Tuyến Quảng Ninh - Hải Phòng - Việt Trì qua sông Đuống dài 154,5 km: Quy hoạch cấp II. Tĩnh không các cầu xây mới từ Hải Phòng đến cầu Bình tối thiểu đạt 9,5 m; từ cầu Bình lên thượng lưu tối thiểu đạt 7 m.
Tuyến Quảng Ninh - Ninh Bình (qua sông Đào Hải Phòng, sông Luộc, từ cửa Lục đến cảng Ninh Phúc dài 264 km): Quy hoạch cấp II (riêng đoạn từ cửa Văn Úc đến cầu Khuể là cấp đặc biệt). Tĩnh không cầu quy hoạch các đoạn tuyến như sau:
+ Sông Đào Hạ Lý (Hải Phòng) dài 3 km: Đoạn từ ngã ba Xi Măng (sông Cấm) đến ngã ba sông Rế, các cầu khi xây dựng mới tĩnh không tối thiểu đạt 4,75 m; đoạn từ ngã ba sông Rế đến ngã ba Niệm các cầu khi xây dựng mới tĩnh không tối thiểu đạt 7 m;
+ Sông Lạch Tray, sông Văn Úc, sông Kênh Khê, sông Luộc: Các cầu khi xây dựng mới tĩnh không tối thiểu đạt 7 m;
+ Đoạn sông Đào Nam Định từ ngã ba sông Đáy đến cảng Nam Định phục vụ tàu pha sông biển đến 1.000 T giữ nguyên quy hoạch cấp II; đoạn hạ lưu từ ngã ba sông Đáy đến cầu Đò Quan không cầu xây mới đạt 9 m, đoạn thượng lưu từ ngã ba sông Hồng đến cầu Đò Quan tĩnh không cầu xây mới đạt 7 m;
+ Tuyến sông Đáy đoạn từ ngã ba sông Đào Nam định đến Ninh Bình, phục vụ tàu pha sông biển đến 3.000 T (giảm tải) cập cảng Ninh Phúc, quy hoạch cấp đặc biệt.
Tuyến từ cảng Hà Nội đến cửa Lạch Giang (cửa sông Ninh Cơ), dài 196 km: Quy hoạch cấp I, đoạn cửa Lạch Giang đến kênh nối Đáy - Ninh Cơ là cấp đặc biệt.
Tuyến cửa Đáy - Ninh Bình (từ cửa Đáy đến cảng Ninh Phúc) dài 72 km: Phục vụ tàu pha sông biển đến 3.000T (giảm tải) cập cảng Ninh Phúc, quy hoạch cấp đặc biệt.
Tuyến Quảng Ninh - Ninh Bình (qua cửa Lạch Giang, kênh nối Đáy - Ninh Cơ) từ cửa Lục đến cảng Ninh Phúc dài 178,5 km: phục vụ tàu 3.000 T (giảm tải) cập cảng Ninh Phúc, quy hoạch cấp đặc biệt.
Tuyến Hà Nội - Việt Trì - Lào Cai từ cảng Hà Nội đến ngã ba Nậm Thi (thành phố Lào Cai) dài 365,5 km; cụ thể:
+ Đoạn Hà Nội - cảng Việt Trì dài 74 km trên sông Hồng: Quy hoạch cấp II;
+ Đoạn từ Việt Trì - cảng Yên Bái dài 125 km: Quy hoạch cấp III;
+ Đoạn từ cảng Yên Bái - ngã ba Nậm Thi (Lào Cai) dài 166 km: Quy hoạch cấp IV; nghiên cứu xây dựng đập dâng nước, âu tầu kết hợp thủy điện để nâng lên cấp III.
Tuyến Việt Trì - Hòa Bình từ cảng Việt Trì đến cảng Hòa Bình dài 74 km: Quy hoạch cấp III.
Tuyến Việt Trì - Tuyên Quang - Na Hang dài 186 km:
+ Đoạn từ Việt Trì - Tuyên Quang (ngã 3 Lô Gâm) dài 115 km: Quy hoạch cấp III;
+ Đoạn Tuyên Quang từ ngã 3 Lô Gâm đến hạ lưu đập thủy điện Tuyên Quang dài 71 km: Đoạn từ Tuyên Quang đến Chiêm Hóa quy hoạch cấp IV, đoạn từ Chiêm Hóa đến đập thủy điện Tuyên Quang (Na Hang) điều chỉnh đạt cấp V.
Tuyến Phả Lại - Đa Phúc từ cảng Phả Lại đến cảng Đa Phúc dài 86 km: Quy hoạch cấp III.
Tuyến Phả Lại - Á Lữ từ cảng Phả Lại đến cảng Á Lữ dài 35 km: Quy hoạch cấp III.
Tuyến Ninh Bình - Thanh Hóa từ cảng Ninh Phúc đến cảng Lễ Môn dài 129 km:
+ Đoạn sông Đáy từ cửa Đáy đến Ninh Bình dài 72 km, phục vụ tàu pha sông biển đến 3.000 T (giảm tải) cập cảng Ninh Phúc, quy hoạch cấp đặc biệt;
+ Đoạn sông Lèn từ bến Đò Lèn ra cửa Lạch Sung: Điều chỉnh đạt cấp I;
+ Đoạn sông Vạc, sông Lèn (từ bến đò Lèn đến ngã ba Bông), sông Mã (từ ngã ba Bông đến cảng Lệ Môn): Quy hoạch cấp III;
+ Các đoạn tuyến còn lại (kênh Yên Mô, kênh Nga Sơn) quy hoạch cấp IV, các cầu xây mới tĩnh không thông thuyền tối thiểu đạt 5,0 m.
Tuyến Vạn Gia - Ka Long từ Vạn Gia đến bến Ka Long (thành phố Móng Cái) dài 17 km: Quy hoạch cấp III.
Các tuyến vùng hồ (05 tuyến) bao gồm: Tuyến vùng hồ Hòa Bình dài 203 km; Tuyến vùng hồ thủy điện Sơn La từ đập thủy điện Sơn La đến đập thủy điện Lai Châu dài 175 km; Tuyến vùng hồ thủy điện Lai Châu từ đập thủy điện Lai Châu đến thượng lưu dài 64 km; Tuyến vùng hồ thủy điện Thác Bà từ đập thủy điện Thác Bà đến Cẩm Nhân dài 50 km; Tuyến vùng hồ thủy điện Tuyên Quang từ đập Tuyên Quang lên thượng lưu theo sông Gâm cũ dài 45 km: Quy hoạch cấp III.
Khu vực miền Trung
Khu vực miền Trung gồm 10 tuyến:
Tuyến sông Mã từ cửa Lạch Trào đến Hàm Rồng dài 19,5 km: Quy hoạch cấp II.
Tuyến sông Lèn từ cửa Lạch Sung đến bến đò Lèn dài 23,5 km: Tuyến phục vụ cho tàu 1.000 T ra vào cảng sông Lèn, quy hoạch đạt cấp I.
Tuyến sông Lam dài 108 km:
+ Đoạn từ cửa Hội - Bến Thủy dài 19 km: Quy hoạch cấp I;
+ Đoạn từ Bến Thủy - Đô Lương dài 89 km: Quy hoạch cấp III, các cầu xây mới tĩnh không tối thiểu đạt 5 m;
Tuyến sông Nghèn từ cửa Sót đến cầu Nghèn dài 34,5 km:
+ Đoạn từ cửa Sót đến cảng Hộ Độ dài 14 km: Giữ nguyên quy hoạch cấp III;
+ Đoạn cảng Hộ Độ - cầu Nghèn dài 20,5 km: Quy hoạch từ cấp III xuống cấp IV.
Tuyến sông Gianh từ cửa Gianh đến Đồng Lào dài 63,5 km;
+ Đoạn từ cửa Gianh đến cảng Gianh dài 2,5 km. Quy hoạch cấp I;
+ Đoạn từ cảng Gianh đến Lèn Bảng dài 29,5 km. Quy hoạch cấp III.
+ Đoạn từ Lèn Bảng đến Đồng Lào dài 33,5 km: Quy hoạch cấp III.
Tuyến sông Nhật Lệ từ cửa Nhật Lệ đến cầu Long Đại dài 23 km: Điều chỉnh cấp III toàn tuyến.
Tuyến trên sông Hiếu - sông Thạch Hãn từ cửa Việt đến đập Tràn dài 50 km:
+ Đoạn từ cửa Việt đến Đông Hà trên sông Hiếu: Quy hoạch cấp III;
+ Đoạn từ ngã ba Gia Độ đến đập Tràn trên sông Thạch Hãn: Điều chỉnh xuống cấp IV.
Tuyến sông Hương từ cửa Thuận An đến ngã ba Tuần dài 34 km: Chủ yếu phục vụ tàu chở khách tham quan du lịch, điều chỉnh từ cấp III xuống cấp IV, tĩnh không các cầu xây mới tối thiểu đạt 2,5 m; đoạn từ cửa Thuận An đến đập Thảo Long quy hoạch cấp III.
Tuyến Hội An - Cù Lao Chàm: Từ cảng Hội An đến cảng Bãi Làng dài 23,5 km:
+ Đoạn Hội An - Cửa Đại trên sông Thu Bồn dài 6,5 km: Quy hoạch cấp III.
+ Đoạn Cửa Đại - cảng Bãi Làng (Cù Lao Chàm), tuyến ra đảo dài khoảng 17 km: Quy hoạch cấp I.
Tuyến cảng sông Hàn - cảng Kỳ Hà dài 101 km:
+ Đoạn từ cảng sông Hàn đến ngã ba Vĩnh Điện dài 29 km và đoạn từ ngã ba Vĩnh Điện đến cảng Hội An dài 14,5 km: cấp IV;
+ Đoạn từ cảng Hội An đến cảng Kỳ Hà: cấp IV, các cầu được xây mới tĩnh không tối thiểu đạt 5 m.
Khu vực phía Nam
Khu vực phía Nam gồm 18 tuyến:
Tuyến cửa Tiểu - biên giới Campuchia dài 218 km: Đây là tuyến đường thủy nội địa song hành với tuyến hàng hải cho tàu 10.000 T hành thủy nên quy hoạch cấp đặc biệt.
Tuyến cửa Định An - biên giới Campuchia dài 211 km: toàn tuyến cấp đặc biệt gồm:
+ Đoạn từ cửa Định An đến ngã ba sông Vàm Nao dài khoảng 164 km: quy hoạch cấp đặc biệt, đồng thời đáp ứng cho tàu biển trọng tải đến 10.000T; đoạn từ ngã ba sông Vàm Nao đến thượng lưu cảng Bình Long (An Giang) quy hoạch cấp đặc biệt cho tàu đến 3.000 T;
+ Đoạn từ thượng lưu cảng Bình Long (An Giang) đến biên giới Campuchia dài khoảng 47 km: Quy hoạch cấp I.
Tuyến Sài Gòn - Cà Mau (qua kênh Xà No) từ ngã ba kênh Tẻ (giao với sông Sài Gòn đến cảng Cà Mau dài 336 km: Toàn tuyến là cấp II, tĩnh không các cầu xây mới đạt tối thiểu 7 m. Riêng một số đoạn khác cấp đồng thời thuộc các tuyến vận tải khác (sông Vàm Cỏ, Cổ Chiên, Hàm Luông, sông Hậu) là cấp đặc biệt; đoạn từ rạch Quang Trung - kênh Xà No đến Cà Mau quy hoạch đạt cấp III.
Tuyến Vũng Tàu - Thị Vải - Sài Gòn - Mỹ Tho - Cần Thơ từ cảng Bến Đình đến cảng Cần Thơ dài 242,5 km:
+ Đoạn Vũng Tàu - Thị Vải dài 28,5 km: Quy hoạch cấp đặc biệt;
+ Đoạn Thị Vải - Sài Gòn dài 65 km: Quy hoạch cấp II;
+ Đoạn Sài Gòn - Mỹ Tho dài 38,5 km: Quy hoạch cấp II;
+ Đoạn Mỹ Tho - Cần Thơ (qua sông Măng Thít) dài 110,5 km: Giữ nguyên quy hoạch cấp II. Riêng đoạn sông Cổ Chiên quy hoạch cấp đặc biệt.
Tuyến Sài Gòn - Kiên Lương qua kênh Lấp Vò Sa Đéc từ ngã ba kênh Tẻ qua Kiên Lương đến đầm Hà Tiên dài 320 km: Quy hoạch cấp III.
Tuyến duyên hải Sài Gòn - Cà Mau dài 367 km (gồm đoạn tuyến Sài Gòn - Đại Ngãi dài 179 km và đoạn Đại Ngãi - Cà Mau dài 188 km): Quy hoạch cấp III.
Tuyến kênh Sài Gòn - Bến Súc (sông Sài Gòn) từ ngã ba kênh Tẻ đến cảng Bến Súc dài 90 km: Điều chỉnh từ cấp III lên cấp II, các cầu khi xây dựng mới trên tuyến tĩnh không tối thiểu đạt 7 m.
Tuyến Sài Gòn - Bến Kéo (sông Vàm Cỏ Đông) từ ngã ba kênh Tẻ đến cảng Bến Kéo dài 142,9 km: Quy hoạch cấp III.
Tuyến Sài Gòn - Mộc Hóa (sông Vàm Cỏ Tây) từ ngã ba kênh Tẻ đến cảng Mộc Hóa dài khoảng 143,4 km: Quy hoạch cấp III.
Tuyến Sài Gòn - Kiên Lương (qua kênh Tháp Mười số 1) từ ngã ba kênh Tẻ đến Ba Hòn dài 288 km: Quy hoạch cấp III. Các cầu khi xây dựng mới có tĩnh không tối thiểu đạt 5 m.
Tuyến Mộc Hóa - Hà Tiên từ cảng Mộc Hóa đến Hà Tiên dài 214 km: Đoạn trên kênh Tân Châu là cấp đặc biệt; các đoạn còn lại điều chỉnh đạt cấp IV.
Tuyến Sài Gòn - Hiếu Liêm (sông Đồng Nai) từ ngã ba kênh Tẻ đến cảng Hiếu Liêm dài khoảng 90 km: Quy hoạch cấp III. Đoạn từ ngã ba kênh Tẻ đến hạ lưu cầu Đồng Nai quy hoạch cấp đặc biệt.
Tuyến kênh 28 - kênh Phước Xuyên từ thị trấn Cái Bè đến thị trấn Sa Rài (Tân Hồng, Đồng Tháp) dài 76 km: Đoạn ngã ba kênh Hồng Ngự - Vĩnh Hưng đến ngã 6 Mỹ Trung - Kênh 28 dài 54,5 km cấp III; Đoạn ngã 6 Mỹ Trung - Kênh 28 đến sông Tiền (nhánh cù lao Tân Phong) dài 21,3 km cấp IV, tĩnh không các cầu xây mới tối thiểu đạt 5 m.
Tuyến Rạch Giá - Cà Mau (từ cảng Tắc Cậu - cảng Cà Mau) dài 109 km: Quy hoạch cấp III.
Tuyến Sài Gòn - Hà Tiên (qua kênh Tháp Mười số 2) dài khoảng 277,6 km: Quy hoạch cấp III. Các cầu xây dựng mới trên tuyến tĩnh không tối thiểu 6 m.
Tuyến Cần Thơ - Cà Mau (kênh Quản Lộ - Phụng Hiệp) từ cảng Cần Thơ đến cảng Cà Mau dài 102 km (không bao gồm đoạn sông Hậu thuộc luồng hàng hải): Đoạn từ Vàm Cái Côn đến trước cổng ngăn mặn quy hoạch cấp III, tĩnh không tối thiểu 6 m. Đoạn từ cống ngăn mặn đến cảng Cà Mau điều chỉnh từ cấp III xuống cấp IV, tĩnh không các cầu xây mới tối thiểu đạt 3,5 m.
Tuyến sông Hàm Luông từ ngã ba sông Tiền đến cửa Hàm Luông dài khoảng 90 km: Quy hoạch cấp đặc biệt.
Tuyến sông Cổ Chiên từ cửa Cổ Chiên đến ngã ba sông Tiền dài 109 km.
+ Đoạn từ cửa Cổ Chiên đến ngã ba kênh Trà Vinh dài 46 km: cấp đặc biệt;
+ Đoạn từ ngã ba kênh Trà Vinh đến ngã ba Cổ Chiên dài 63 km: cấp đặc biệt.
Danh sách các tuyến đường sông quốc gia
Danh mục đường thủy nội địa quốc gia đã được Ban hành kèm theo Thông tư 15/2016/TT-BGTVT ngày 30 tháng 6 năm 2016 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải:
Cảng sông Việt Nam
Cảng sông Việt Nam được quản lý bởi Cục Đường thủy nội địa Việt Nam thuộc Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam trong khi các cảng biển Việt Nam được quản lý bởi Cục Hàng Hải Việt Nam. Cảng sông Việt Nam được phân loại theo quy mô (cảng đầu mối, cảng địa phương, cảng chuyên dùng) hoặc chức năng (cảng hàng hóa là cảng tổng hợp và cảng hành khách là cảng du lịch)
Lịch sử ngành đường sông Việt Nam
Ngày 11-8-1956, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Nghị định số 70/NĐ thành lập Cục Vận tải Đường thủy do ông Lý Văn Sâm làm Cục trưởng, trụ sở đóng tại số nhà 54 phố Hàng Chuối - Hà Nội.
Ngày 5-5-1965 Bộ GTVT ra Quyết định số 1046/QĐ giải thể Cục Vận tải Đường thủy để thành lập Cục Vận tải Đường biển và Cục Vận tải Đường sông.
Từ tháng 4-1966, máy bay Mỹ tăng cường đánh phá các trọng điểm GTVT ở Việt Nam trong đó có Long Đại, sông Gianh, Hoàng Mai, Bến Thủy, Hàm Rồng, kênh đào Nhà Lê (Kênh Gâm, Kênh Than), các đoạn sông thuộc Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh,...
Bộ GTVT có chủ trương đào và khai thác kênh Nhà Lê với chiều dài 500 km từ Ninh Bình xuyên qua Thanh Hóa, Nghệ An vào tậm Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh). Các đội khảo sát được huy động khẩn trương đo đạc. Các công trường nạo vét thủ công phân chia theo địa giới tỉnh được đồng loạt mở ra ở 4 tỉnh (Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh). Bộ GTVT thành lập Ban Chỉ đạo nạo vét toàn tuyến kênh, gọi tắt là Ban KT65 do ông Quang Tuần làm Trưởng ban.
Đến hết năm 1965, toàn tuyến kênh Nhà Lê đã nạo vét được 365.000m3. Những đoạn cạn nhất đã được đào sâu 0.5-0.6m. Khi thủy triều lên độ sâu đạt 1-1.2m. Các loại thuyền có trọng tải 10 tấn đã có thể đi lại thông suốt từ Thanh Hóa đến Vinh theo hai con nước triều trong tháng. Năm 1966, Bộ GTVT đã điều động 3 đại đội thanh niên xung phong tổng số gần 1.000 đội viên nam nữ chốt tại các khúc kênh quan trọng như kênh Son, kênh Ma Đa, kênh Cấm, kênh Sắt. Do nhu cầu vận chuyển hàng từ ngoài Bắc vào Nghệ An, Hà Tĩnh rất cấp bách, Cục Đường sông đã cho huy động các thuyền có trọng tải từ 15 tấn trở xuống đi làm nghĩa vụ vận tải trên tuyến kênh Nhà Lê từ Thanh Hóa vào Vinh. Ban khai thác kênh Nhà Lê năm 1966 gọi tắt là "Ban KT66" được Bộ GTVT thành lập, chịu trách nhiệm chủ huy các lực lượng vừa nạo vét kênh, vừa vận tải, vừa trực tiếp bắn máy bay địch, vừa rà phá bom từ trường.
Sau khi giải thể Ban KT66 ngày 28/3/1969, Cục Đường sông đã thành lập Công ty vận tải 208. Quý IV năm 1969, Bộ GTVT quyết định thành lập 2 nhà máy CK69 và CK71 nhằm tăng năng lực sửa chữa phương tiện cho Cục Đường sông. Ty Quản lý đường sông (QLĐS) được thành lập theo Quyết định số 641/QĐ-TC ngày 28/3/1969, là một tổ chức quản lý giúp việc cho Cục về chuyên môn kỹ thuật, về đào tạo, về nhân sự, chính trị tư tưởng, về tài chính đối với các Đoạn QLĐS của toàn miền Bắc. Trụ sở Ty đặt tại ngoại thành Hà Nội (Liên Mạc, Cổ Nhuế, Tương Mai). Do yêu cầu thời chiến, Cục đã thành lập thêm Đoạn QLĐS số 10 (Nghệ An), sau đó thành lập thêm các Đoạn QLĐS Hải Phòng, Hải Hưng và Hà Nội. Đến năm 1973 thành lập thêm Đoạn QLĐS Quảng Bình. Riêng kênh đào Nhà Lê có các trạm: KT601, KT603, KT605, KT607 và KT609. Các trạm này quản lý 346 km từ ngã ba Chính Đại vào đến Bến Thủy.
Ngày 11-8-1976 là mốc ra đời Phân Cục Đường sông miền Nam trực thuộc Cục Vận tải Đường sông, chính thức thống nhất Ngành Đường sông Việt Nam. Tính đến đầu năm 1978, các địa phương có đường sông, kênh đã làm xong việc điều tra cơ bản, xác định số lượng phương tiện vận tải thủy của tư nhân với 636 tàu, thuyền tổng trọng tải 43.282 tấn phương tiện; thành lập được 12 hợp tác xã vận tải đường sông. Đến hết năm 1980, Ngành Đường sông vẫn là ngành thực hiện khối lượng vận tải lớn trong toàn ngành GTVT (chiếm 38% về tấn và 40% về TKm). Hình thức đại lý liên hiệp vận chuyển ở một số mặt hàng trên một số tuyến đã đem lại kết quả bước đầu.
Sau Đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới; đường lối đổi mới cơ bản là phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCCN. Ngày 30/01/1993, thành lập Cục Đường sông Việt Nam (ĐSVN) trực thuộc Bộ GTVT trên cơ sở sáp nhập Tổng Công ty vận tải đường sông I và Khu Quản lý đường sông. Cục ĐSVN là cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành về giao thông vận tải đường sông trong phạm vi cả nước bao gồm sông hồ, kênh rạch, đường ven vịnh, đường từ bờ ra đảo và giữa các đảo.
Thông tin cần xem thêm
Cảng sông Việt Nam
Sông Việt Nam
Sông
Cầu bắc qua sông |
Good Old-Fashioned Lover Boy là đĩa đơn thứ 4 thuộc loại "Các đĩa đơn EP đầu tiên của Queen") và là bài hát thứ 8 trong al bum làm năm 1976 A Day at the Races của ban nhạc rock Anh Queen, được Freddie Mercury sáng tác. Bài hát là một trong số những bài hát Anh quốc Music Hall được viết bởi Freddie và Brian May có trong những album khác của Queen trong thập kỷ 70.
Bài hát được mở đầu với tiếng đàn piano và giọng hát của Mercury, và tiếp theo đó là tiếng bass và trống đệm thêm vào cho đoạn đầu. Đoạn nhạc thứ hai lại được viết theo hợp âm khác. Ở đoạn này, tiếng trống, bass và guitar rời rạc và sau đó là điệp khúc được hát bởi Freddie Mercury và Mick Stone. Tiếp theo đoạn ghi ta sô lô của Brian May là đoạn nhạc khác và hợp âm kết thúc bài hát. |
I Want It All là bài hát của ban nhạc rock Queen. Đây là bài hát thứ 4 trong album The Miracle và được viết bởi tay chơi ghi-ta Brian May.
Bản thân bài hát có chủ đề về nhạc hard rock và lời bài hát liên quan tới các cuộc biến động trong xã hội. Chính do điều này nên bài hát trở thành một bài hát chống lại chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi và đã được sử dụng như một quyền của những người đồng tính luyến ái và là một bài hát của nhóm thanh niên người Mỹ gốc Phi.
Bài hát đã đứng thứ 3 ở Anh và thứ 50 trong bảng bình chọn của tạp chí Billboard, Mỹ và đứng thứ 3 trong bảng xếp hạng Hot Mainstream Rock Tracks của Mỹ.
Xếp hạng |
Xin xem các mục từ khác có cùng tên ở Delilah (định hướng).
Delilah là một bài hát của ban nhạc rock Queen trong album Innuendo làm năm 1991. Mặc dù quyền tác giả là Queen nhưng bài hát thực sự là do Freddie Mercury sáng tác. Mercury là một người rất yêu mèo và một trong những con mèo của anh tên là Delilah, một con mèo tam thể cái. Đây là bài hát thứ 9 trong album, nằm giữa hai bài "These Are the Days of Our Lives" và "The Hitman".
Âm thanh "meo" trong bài hát được tay chơi ghi ta Brian May tạo ra bằng cách sử dụng một hộp âm thanh. |
"We Will Rock You" là tên một bài hát do Brian May sáng tác và được ban nhạc Queen thu âm và trình diễn. Một phiên bản của bài đã được dùng làm bài hát đầu tiên trong album News of The World làm năm 1977. Trong phiên bản này có nhịp dậm chân và vỗ tay theo điệp khúc mang sắc thái của bài hát. Khi được biểu diễn trực tiếp, bài hát này thường được trình diễn sau bài "We Are the Champions", một bài nổi tiếng khác của album. Bài hát cũng được sử dụng rộng rãi trong các sự kiện thể thao. Ban nhạc cũng đã từng biểu diễn bài hát theo một kiểu khác (kiểu "phiên bản nhanh") có tiết tấu nhanh và tràn ngập tiếng ghi ta, bass và trống. Ban nhạc cũng thường công diễn phiên bản này vào các năm của thập kỷ 1970, có thể thấy được qua album kép Live Killers.
Hiệu quả có được tiếng chân dậm nhịp đã có được khi ban nhạc ở trong một ngôi nhà thờ cổ, dẫm chân trên sàn gỗ để tạo ra âm thanh.
Bài hát được trình diễn bởi ban nhạc Queen và ca sĩ Axl Rose vào buổi hoà nhạc tưởng nhớ Freddie Mercury năm 1992.
Vào năm 2000, các thành viên còn lại của Queen (trừ John Deacon) đã thu âm một phiên bản theo loại nhạc rap với ban nhạc 5ive. Bài hát đã đứng thứ 1 ở Anh. Một bản cover khác của bài hát có trong video game Dance Dance Revolution Extreme và được hát bởi by Houseboyz.
Queen nói về kỷ lục
Brian May:
"Đó là một sự hưởng ứng trong trường hợp khá đặc biệt trong sự nghiệp của chúng tôi khi khán giả đã trở nên phần quan trọng hơn chúng tôi trong những lần biểu diễn. Họ đã hát theo tất cả các bài hát. Ở một nơi như Birmingham, thì là quá ầm ĩ đến mức chúng tôi phải dừng biểu diễn lại và để cho họ hát cùng mình. Cho nên cả Freddie và tôi đã nghĩ rằng đó hẳn là cuộc thử nghiệm thú vị để sáng tác bài hát với sự tham gia của khán giả. Cảm giác của tôi lúc đó là mọi người có thể dậm nhịp và vỗ tay, hát theo một motif đơn giản. Chúng tôi thu âm ở Wessex, trong một ngôi nhà thờ cổ có âm thanh tự nhiên cho bài hát. Ở đó không hề có sự tham gia của tiếng trống. Chỉ là chúng tôi, dẫm chân trên sàn nhà bằng gỗ rất nhiều lần, với những máy móc thô sơ và vỗ tay. Một ít lời hát, một ít ghi ta và đó chính là bài hát."
"Tại buổi hoà nhạc, tôi đã phát hiện ra, mọi người có xu hướng vỗ tay ba lần hơn là chân hai nhịp và một nhịp vỗ tay. Một việc thật ngạc nhiên là khi đi xem trận đá bóng hay các sự kiện thể thao nói chung và nghe mọi người làm như vậy. Một điều phấn khởi là nó đã trở thành một phần của tập quán, thói quen...Tôi rất hạnh phúc vì điều đó."
Tin bên lề
Trong khi thuộc về thế giới hậu rock and roll, đặc biệt là phổ biến trong các sự kiện thể thao, một trong những cách dùng đầy sáng tạo là việc dùng "We Will Rock You" có trong bộ phim Câu chuyện chàng Hiệp sĩ (A Knight's Tale), một phim về thời Trung cổ Anh.
Tay chơi oóc gan Nancy Faust của đội bóng chày Chicago White Sox đã cho nó trong danh sách bài hát của cô, còn những người hâm mộ Chicago White Sox thì hát: "We will, we will, SOX YOU!"
Đội bóng rổ Detroit Pistons thì sử dụng bài hát trong thời kỳ Bad Boys những năm thập kỷ 1980 và đầu những năm 1990. Đội Pistons hiện tại thường chơi bài hát trong các trò chơi ở nhà của họ, đặc biệt là từ khi thành phố của họ trở nên được biết đến qua bộ phim Detroit Rock City.
Ban nhạc Nickelback đã hát lại bài này trong bản bonus của mình trong chiến dịch quảng cáo cho Wal-Mart trong album All The Right Reasons làm năm 2005.
Bài hát này được sử dụng như một bài hát chính thức của trò chơi bóng đá Winning Eleven 5
Ban nhạc 5ive đã hát lại bài hát và phát hành nó như một đĩa đơn và đĩa này đã đứng thứ 1 ở Anh.
Một phiên bản của bài hát đã được trình diễn bởi ca sĩ nhạc pop Beyoncé, Britney Spears và Pink trong một quảng cáo khá dài cho Pepsi trên truyền hình. Khung cảnh là một đấu trường La Mã cổ đại; Pink, Beyoncé và Britney là những chiến sĩ chiến đấu với hoàng đế - do ca sĩ Enrico Iglesias đóng - bằng cách hát cùng khán giả bài hát "We Will Rock You". |
Động vật có xương sống (danh pháp khoa học: Vertebrata) là một phân ngành của động vật có dây sống, đặc biệt là những loài với xương sống hoặc cột sống. Khoảng 57.739 loài động vật có xương sống đã được miêu tả. Động vật có xương sống đã bắt đầu tiến hóa vào khoảng 530 triệu năm trước trong thời kỳ của sự bùng nổ kỷ Cambri, một giai đoạn trong kỷ Cambri (động vật có xương sống đầu tiên được biết đến là Myllokunmingia). Các xương của cột sống được gọi là xương sống. Vertebrata là phân ngành lớn nhất của động vật có dây sống và bao gồm phần lớn các loài động vật mà nói chung là rất quen thuộc đối với con người (ngoài côn trùng). Cá (bao gồm cả cá mút đá, nhưng thông thường không bao gồm cá mút đá myxin, mặc dù điều này hiện nay đang gây tranh cãi), động vật lưỡng cư, bò sát, chim và động vật có vú (bao gồm cả người) đều là động vật có xương sống. Các đặc trưng bổ sung của phân ngành này là hệ cơ, phần lớn bao gồm các khối thịt tạo thành cặp, cũng như hệ thần kinh trung ương một phần nằm bên trong cột sống. Các đặc trưng xác định khác một động vật thuộc loại có xương sống là xương sống hay tủy sống và bộ khung xương bên trong.
Bộ khung xương bên trong để xác định động vật có xương sống bao gồm các chất sụn hay xương, hoặc đôi khi là cả hai. Bộ khung xương ngoài trong dạng lớp áo giáp xương đã là chất xương đầu tiên mà động vật có xương sống đã tiến hóa. Có khả năng chức năng cơ bản của nó là kho dự trữ phốtphat, được tiết ra dưới dạng phosphat calci và lưu trữ xung quanh cơ thể, đồng thời cũng góp phần bảo vệ cơ thể luôn. Bộ khung xương tạo ra sự hỗ trợ cho các cơ quan khác trong quá trình tăng trưởng. Vì lý do này mà động vật có xương sống có thể đạt được kích thước lớn hơn động vật không xương sống, và trên thực tế về trung bình thì chúng cũng lớn hơn. Bộ xương của phần lớn động vật có xương sống, ngoại trừ phần lớn các dạng nguyên thủy, bao gồm một hộp sọ, cột sống và hai cặp chi. Ở một số dạng động vật có xương sống thì một hoặc cả hai cặp chi này có thể không có, chẳng hạn ở rắn hay cá voi. Đối với chúng, các cặp chi này đã biến mất trong quá trình tiến hóa.
Hộp sọ được coi là tạo thuận lợi cho sự phát triển của khả năng nhận thức do nó bảo vệ cho các cơ quan quan trọng như não bộ, mắt và tai. Sự bảo vệ này cũng được cho là có ảnh hưởng tích cực tới sự phát triển của tính phản xạ cao đối với môi trường thường tìm thấy ở động vật có xương sống.
Cả cột sống và các chi về tổng thể đều hỗ trợ cho cơ thể của động vật có xương sống. Sự hỗ trợ này tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển động. Chuyển động của chúng thường là do các cơ gắn liền với xương hay sụn. Hình dạng cơ thể của động vật có xương sống được tạo ra bởi các cơ. Lớp da che phủ phần nội tạng của cơ thể động vật có xương sống. Da đôi khi còn có tác dụng như là cấu trúc để duy trì các lớp bảo vệ, chẳng hạn vảy sừng hay lông mao. Lông vũ cũng được gắn liền với da.
Phần thân của động vật có xương sống là một khoang rỗng chứa các nội tạng. Tim và các cơ quan hô hấp được bảo vệ bên trong thân. Tim thường nằm phía dưới mang hay giữa các lá phổi.
Hệ thần kinh trung ương của động vật có xương sống bao gồm não bộ và tủy sống. Cả hai đều có đặc trưng là rỗng. Ở động vật có xương sống bậc thấp thì não bộ chủ yếu kiểm soát chức năng của các thụ quan. Ở động vật có xương sống bậc cao thì tỷ lệ giữa não bộ và kích thước cơ thể là lớn hơn. Não bộ lớn hơn như vậy làm cho khả năng trao đổi thông tin giữa các bộ phận của não bộ là cao hơn. Các dây thần kinh từ tủy sống, nằm phía dưới não bộ, mở rộng ra đến lớp da, các nội tạng và các cơ. Một số dây thần kinh nối trực tiếp với não bộ, kết nối não với tai và phổi.
Động vật có xương sống có thể tìm thấy ngược trở lại tới Myllokunmingia trong thời kỳ của sự bùng nổ kỷ Cambri (530 triệu năm trước). Cá không quai hàm và có mai (lớp Ostracodermi của kỷ Silur (444-409 triệu năm trước) và các loài động vật răng nón (lớp Conodonta)- một nhóm động vật có xương sống tương tự như lươn với đặc trưng là nhiều cặp răng bằng xương.
Phân loại
Truyền thống
Phân loại truyền thống chia động vật có xương sống thành 7 lớp, dựa trên các diễn giải truyền thống của các đặc điểm giải phẫu và sinh lý học tổng thể. Phân loại này là một trong các phân loại thường gặp nhất trong các sách giáo khoa, các miêu tả vắn tắt và các sách phổ biến kiến thức khoa học.
Phân ngành Vertebrata
Lớp Agnatha (cá không hàm)
Lớp Chondrichthyes (cá sụn)
Lớp Osteichthyes (cá xương)
Lớp Amphibia (động vật lưỡng cư)
Lớp Reptilia (động vật bò sát)
Lớp Aves (chim)
Lớp Mammalia (thú)
Trong khi phân loại truyền thống này về mặt sắp xếp trật tự tạo ra các nhóm cận ngành, nghĩa là các nhóm đó không chứa tất cả các hậu duệ từ một tổ tiên chung của lớp. Chẳng hạn, trong số các hậu duệ của bò sát đầu tiên có cả chim và thú, nhưng chúng lại tách ra thành các lớp khác, và như thế làm cho lớp bò sát trở thành cận ngành.
Một số các nhà khoa học sử dụng phân loại cho động vật có xương sống theo kiểu phát sinh chủng loài, tổ chức các nhóm động vật trong phạm vi động vật có xương sống theo lịch sử phát sinh và tiến hóa của chúng, đôi khi bỏ qua các diễn giải thông thường về giải phẫu và sinh lý học của chúng. Phân loại dưới đây lấy theo Janvier (1981, 1997), Shu và những người khác (2003), và Benton (2004).
Phân ngành Vertebrata
Liên lớp Agnatha hay Cephalaspidomorphi (cá mút đá và các loại cá không hàm khác, một số tổ tiên đối với các động vật có xương sống khác)
Phân thứ ngành Gnathostomata (động vật có quai hàm)
Lớp Placodermi † (các dạng cá da phiến thuộc đại Cổ sinh)
Lớp Chondrichthyes (cá sụn)
Lớp Acanthodii † (cá mập gai đại Cổ sinh)
Siêu lớp Osteichthyes (cá xương)
Lớp Actinopterygii (cá vây tia)
Lớp Sarcopterygii (cá vây thùy)
Siêu lớp Tetrapoda (động vật tứ chi)
Lớp Amphibia (động vật lưỡng cư, một số là tổ tiên đối với Amniota (động vật có màng ối)).
Lớp Synapsida † ("bò sát" tương tự như động vật có vú, đã tuyệt chủng, một số là tổ tiên đối với động vật có vú, đôi khi được phân loại trong lớp Reptilia)
Lớp Mammalia (động vật có vú)
Lớp Reptilia (bò sát, một số là tổ tiên đối với chim)
Lớp Aves (chim)
Phần lớn các lớp liệt kê ở đây là các đơn vị phân loại không "hoàn chỉnh": Từ Agnatha đã sinh ra động vật có quai hàm; từ cá xương sinh ra động vật đất liền (Tetrapoda); từ "động vật lưỡng cư" truyền thống đã sinh ra bò sát (theo truyền thống gộp cả "bò sát" giống như thú), và tới lượt mình, từ động vật bò sát đã sinh ra chim và thú.
Quan hệ phát sinh chủng loài
Trong phân loại học phát sinh chủng loài, các quan hệ giữa các động vật thông thường không chia thành các cấp bậc, mà được minh họa như là "cây phát sinh chủng loài" xếp lồng, được gọi là biểu đồ nhánh tiến hóa. Các nhóm phát sinh chủng loài được định nghĩa dựa trên các mối quan hệ của chúng với nhau chứ không phải là theo các đặc điểm tự nhiên, chẳng hạn như sự tồn tại của một cột sống. Kiểu cây phát sinh xếp lồng này thường được kết hợp với phân loại học truyền thống (như ở trên), trong thực tế gọi là phân loại học tiến hóa.
Biểu đồ nhánh tiến hóa dưới đây dựa theo Philippe Janvier và ctv, sử dụng trong Tree of Life Web Project
Tiến hoá
Quá trình di chuyển từ nước lên cạn:
Cá hoàn toàn sống ở nước -> Cá vây chân cổ -> Lưỡng cư cổ -> Bò sát cổ -> Chim cổ -> Thú cổ -> Người tối cổ -> Người hiện nay. |
Trong Thần thoai Hy Lạp, Gaia (tiếng Hy Lạp: Γαῖα; phát âm là // hay //; nghĩa là "mặt đất"), hay Gaea (Γῆ), là một trong các vị thần ban sơ, được người Hy Lạp tôn thờ là "đất mẹ", tượng trưng cho mặt đất. Gaia là vị thần thuở ban sơ và được coi như tổ tiên của vạn vật. Bà được tôn kính như nữ thần vĩ đại hay như Mẫu thần. Thần bầu trời Uranus, chồng bà, cũng do bà sinh ra. Hai người sinh ra dòng dõi các vị thần Titan (hậu duệ là các vị thần Olympus) và các Cyclops, Hecatonchire.
Trong thần thoại La Mã, bà được gọi là Terra.
Thần thoại
Thuở ban sơ, trong thế giới thần thoại Hy Lạp ban đầu chưa có gì cả ngoại trừ Hỗn mang Chaos. Thế rồi từ Chaos sản sinh ra Gaia, nữ thần Đất Mẹ với bộ ngực nở nang. Chaos còn sản sinh tiếp những vị thần khác: Tartarus (địa ngục vô tận), Erebus (vực thẳm và bóng tối khôn cùng), Nyx (đêm tối vô biên) và Eros (ái tình và dục vọng, nhưng đa phần đều cho rằng Eros là con của nữ thần Aphrodite và Ares).
Trong tập Theogony (Thần phả) của mình, nhà thơ Hy Lạp Hesiod đã kể lại rằng chính nữ thần Gaia có bộ ngực to lớn là nguồn gốc vô tận của tất cả các vị thần và loài người trên Trái Đất. Không thể tách ra hoàn toàn từ những nguyên tố của chính mình, từ Gaia đã sinh ra Uranus (bầu trời đầy sao), Pontus (biển cả) và Ourea (núi đồi hoang sơ). Sau đó, theo như Hesiod, Gaia cùng với đứa con đầu lòng của mình là Uranus sinh ra:
12 Titan (những người khổng lồ): Oceanus, Coeus, Crius, Hyperion, Iapetus, Theia, Rhea, Themis, Phoebe, Mnemosyne, Tethys và cuối cùng là Cronus, "trẻ nhất và đáng sợ nhất".
3 tên khổng lồ một mắt Cyclops hung bạo, tuy nhiên vì sự khéo léo, chúng được coi là những người thợ rèn điêu luyện, những người luyện ra vũ khí cho các vị thần. Các Cyclop bao gồm: Brontes (sét), Steropes (sấm) và Arges (chớp)
3 tên quái vật khổng lồ Hecatonchire với 100 cánh tay và 50 cái đầu: Cottus, Briareus, Gyges.
Vì ghê tởm và xấu hổ về hình thù quái dị của những Cyclops và Hecatonchire, Uranus bắt giam chúng vào địa ngục Tartarus vô tận. Sự hiện diện của những đứa con ở Tartarus, một phần ruột của mình, gây ra những cơn đau cùng cực và từ đó cũng hình thành trong Gaia những ý định chấm dứt cái ác của Uranus. Gaia tạo nên nham thạch, nham thạch định hình nên một cái liềm. Bà yêu cầu sự giúp đỡ từ những đứa con Titan của minh về việc sát hại người cha ác độc bằng lưỡi liềm bén nhọn. Nhưng chỉ có Cronus, đứa con út, là nhận lời. Đợi cho đến khi Uranus bị Gaia dụ xuống ăn nằm với mình để tránh xa bầu trời, nguồn sức mạnh của ông, Cronus dùng lưới liềm thiến đi bộ phận sinh dục của cha mình. Uranus bỏ chạy. Thần sống như đã chết, sức mạnh của thần chỉ còn trong kí ức. Từ những giọt máu và tinh dịch của Uranus rơi xuống đất sinh ra các nữ thần phục thù Erinyes, những gã khổng lồ Gigantes với nửa thân dưới là rắn (tiếng Anh gọi là Giants, bọn khổng lồ), khiên giáp sáng ngời và các vị tiên nữ của cây Tần bì Meliae. Từ tinh hoàn của Uranus rơi xuống biển, nữ thần ái tình và sắc đẹp Aphrodite được sinh ra từ những bọt biển (Aphrodite mang nghĩa là "sinh ra từ bọt biển").
Cronus lên ngôi, thả tất cả những đứa con Cyclop và Hecatonchire của Gaia. Dưới sự kính trọng của mọi người, Cronos trở thành vị vua của các thần linh và bắt đầu một Thời đại hoàng kim. Về sau, Cronus được lời tiên tri sẽ bị chính con sát hại và chiếm ngôi. Lo sợ lịch sử lặp lại, Cronus đã nuốt chửng những đứa con của mình với Rhea khi chúng vừa mới sinh ra: Hestia, Demeter, Hera, Hades, Poseidon. Nhưng nhờ sự giúp đỡ của Gaia, Zeus đã may mắn được mẹ mang đi thoát được. Khi đã đủ khôn lớn, Zeus quay lại giết cha và giải phóng các anh chị của mình.
Sau Uranus, Gaia kết hôn với Pontus và sinh ra những vị thần biển: Nereus, Thaumas, Phorcys, Ceto và Euribya. Với Tartarus, Gaia sinh ra Echidna và Typhon (đứa con cuối cùng của Gaia).
Zeus đã giấu Elara, một trong những người tình của mình, xuống đất để Hera không biết. Vì vậy đứa con của Elara và Zeus, tên khổng lồ Tityas, đôi lúc cũng được gọi là con của cả Gaia và Elara.
Gaia còn làm cho Aristaeus bất tử.
Gaia được cho là nguồn gốc của những lời tiên tri ở đền thờ Oracle ở Delphi (Joseph Fontenrose 1959 và một số người khác). Bà truyền quyền năng của mình, tùy theo những dị bản, cho Apollo, Poseidon và Themis. Tuy nhiên, Apollo là người nổi tiếng nhất về những lời tiên tri ở Delphi, vì đã giết một đứa con của Gaia, Python. Vì điều này, Hera trừng phạt Apollo bằng cách bắt làm người chăn cừu cho vua Admetus trong 9 năm.
Lời thề dưới danh nghĩa của nữ thần Gaia trong xã hội Hy Lạp cổ đại được công nhận như một lời thề có giá trị nhất.
Trong nghệ thuật cổ điển, hình tượng Gaia thường được mô tả theo hai hướng: một là hình ảnh người phụ nữ có nửa thân người trên gắn liền và nhô lên khỏi mặt đất; hai là hình ảnh bà nâng đứa bé Erichthonius (một vị vua tương lai của thành Athena).
Phả hệ
Tự sinh ra
Uranus
Pontus
Ourea
Nesoi
Cùng với Elara
Tityas
Với Aether (Khí quyển, con của Erebus và Nyx)
Aergia
Dolos
Với Oceanus
Kreousa
Triptolemos
Với Pontus
Ceto
Eurybia
Phorcys
Nereus
Thaumas
Với Poseidon
Antaeus
Charybdis
Laistrygon
Với Tartarus
Echidna
Typhon
Với Uranus
Các Cyclop
Arges
Brontes
Steropes
Các Hecatonchire
Briareus
Cottus
Gyges
Các Titan
Cronus
Rhea (vợ của Cronus)
Oceanus
Tethys (vợ của Oceanus, mẹ của 3000 vị nữ thần sông hồ khác)
Hyperion (Thần ánh sáng, là vị thần Mặt Trời thuở ban sơ)
Theia (cùng với Hyperion sinh ra Helios, Eos, Selene)
Mnemosyne (Trí nhớ, mẹ của các tiên nữ muse)
Themis (Công lý và trật tự, mẹ của Fates và Thần mùa cùng với Zeus)
Iapetus (Cha của Prometheus, Epimetheus, Menoetius và Atlas)
Coeus (Trí tuệ)
Phoebe (Mặt Trăng, vợ của Coeus, mẹ của Leto)
Crius (Cha của Pallas, Perses and Astraios)
Với Hephaestus
Erichthonius thành Athens
Chưa biết cha là ai
Python
Preme
Cecrops
Với Zeus
Manes
Còn lại
Muses
Mneme
Melete
Aoide
Gigantes
Erinyes
Meliae
Nghĩa của tên gọi Gaia
Gaia được ghép từ hai từ Ge và Aia. Trong các ngôn ngữ châu Âu, Ge thường gắn liền với đất (ví dụ: Geology là địa chất học, Geography là địa lý...). Aia là một từ cổ nghĩa là "bà". Vì vậy, Gaia có lẽ có nghĩa là "bà của Trái Đất". |
Giáp Hải (1517 - 1586), sau đổi Giáp Trừng, là một nhà chính trị thời nhà Mạc Việt Nam. Ông nổi bật với việc giữ những chức vụ quan trọng trong triều đình dưới thời Mạc Mậu Hợp, uy tín cá nhân đối với nhà vua và dân chúng.
Xuất thân
Giáp Hải tên hiệu là Tiết Trai, người làng Dĩnh Kế, huyện Phượng Nhỡn, tỉnh Bắc Giang. Nguyên quê cha ông ở làng Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Lúc bé mồ côi cha và nghèo, ở làng mẹ là làng Công Luận, huyện Tế Giang. Một hôm Giáp Hải chơi ở bến sông, có người lái buôn quê làng Dĩnh Kế bỏ xuống thuyền đem về nuôi làm con, đón thầy dạy học cho, việc học chóng tấn tới.
Sự nghiệp
Năm 1538, đời vua Mạc Đăng Doanh, Giáp Hải 21 tuổi, ông đỗ thứ nhất Tiến sĩ nhất giáp khoa Mậu Tuất, sau đổi tên là Trừng. Theo Phan Huy Chú nhận xét, do nhờ văn chương thi đỗ mà làm quan, bây giờ ai cũng tôn trọng. Bấy giờ ông thường ra ải Nam Quan bàn việc, ứng đáp tinh nhanh, người Minh gọi là Giáp Tuyên Phủ mà không gọi tên.
Năm 1562, đời Mạc Mậu Hợp, ông làm Thượng thư bộ lại, kiêm Đô ngự sử, tước Luân quận công. Nhân thấy sao Chổi mọc luôn, Giáp Hải dâng sớ cho nhà vua, khuyên răn vua nhưng vua không nghe theo.
Năm sau Giáp Hải được lệnh giữ việc 6 bộ, kiêm chức Đại học sĩ Đông các, coi việc tòa Kinh diên, gia phong tước Sách quận công.
Năm 1566, nhà Mạc sai Giáp Hải lúc ấy đang giữ chức Lại bộ thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ- Kế Khê bá và Đông các hiệu thư Phạm Duy Quyết lên đầu địa giới Lạng Sơn đón tiếp sứ thần Lê Quang Bí về nước. Quang Bí phụng mệnh đi sứ năm Gia Tĩnh thứ 27, bị nhà Minh giữ lại 18 năm, đến nay trở về.
Bấy giờ chính sách nhà Mạc ngày một kém, điềm tai biến luôn xuất hiện. Giáp Hải ngại mình quá được đầy đủ, mấy lần xin từ chức nhưng không được. Gặp bão lớn, ông lại dâng sớ khuyên răn vua, Mậu Hợp yên ủi, vời ông vào Kinh làm việc tại tiều, thăng Thái bảo dự việc triều chính. Giáp Hải mấy lần xin về hưu, Mậu Hợp quyến luyến không nghe. Lại mấy lần Giáp Hải dâng sớ, lời lẽ khẩn thiết, bất đắc dĩ Mậu Hợp phải cho, năm ấy ông 68 tuổi.
Mạc Mậu Hợp ban cho ông lá cờ thêu và câu đối:
Trạng đầu, tể tướng đẩu nam tuấn,
Quốc lão, đế sư thiên hạ tôn
Nghĩa là: đỗ trạng nguyên, làm tể tướng, danh cao như ngôi sao Đẩu của trời Nam; đã quốc lão, lại thầy của vua, được cả nước tôn trọng.Ông mất năm 69 tuổi. (1586). Sau 1 năm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm qua đời
Tác phẩm
Theo sách Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn, phần Văn tịch chí, liệt kê sách Loại hiến chương của nước Việt, viết rằng Giáp Hải viết sách Ứng đáp bang giao, gồm 10 quyển.
Thông tin khác
Ngày 16 tháng 8 năm 1998, một phát hiện quan trọng có liên quan đến Giáp Hải đã được phát lộ, trong khi tiến hành làm đường giao thông nông thôn nhân dân Thôn Cốc ( Trưởng Thôn Hà Văn Duy) xã Dĩnh Trì, thành phố Bắc Giang đã phát hiện ra tấm bia đá hộp hay còn được gọi là sách đá: Tiên Khảo Thái Bảo Giáp phu quân mộ chí, khắc năm Cảnh Lịch thứ 3 (năm 1549), căn cứ vào nội dung văn tự Hán – Nôm khắc trên tấm bia này cho biết rõ về nguồn gốc quê hương dòng họ Giáp ở Dĩnh Kế. Từ đó mới có cơ sở đính chính lại những điều mà các tác giả và sử viết trước đây còn tồn nghi.
Theo nội dung tấm bia trên được biết cụ nội của Giáp Hải là Giáp Thuận Trung, gặp loạn nhà Minh, nhà ở phía Nam thành Xương Giang, vì không theo sự sai khiến của phu dịch của nhà Minh, lãnh cư ở xã Như Thiết Thượng, huyện Yên Dũng, rồi làm mục trưởng hương ấy, khi chết an táng tại đó. Ông nội của Giáp Hải là Giáp Bảo Phúc trở lại quê cũ lập nghiệp lấy bà họ Ngô năm nhâm dần niên hiệu Hồng Đức thứ 13 (1482) sinh ra Giáp Hà là phụ thân của Giáp Hải. Ngoài 3 người con trai (Giáp Hảng, Giáp Trưng, Giáp Thanh), Giáp Hà còn sinh được một trưởng nữ gả cho Quốc tử giám xá sinh Trần Địch Triết. Như vậy, Giáp Hải không phải là con nuôi mà là con đẻ đích thực của dòng họ Giáp cha là cụ Giáp Hà, huý Đức Hưng, hiệu Khánh Sơn sinh ở Dĩnh Kế.
Nhận định
Khi soạn sách Lịch triều hiến chương loại chí, phần Nhân vật chí, Bậc phò tá tài đức, Phan Huy Chú viết về 4 người thời Lý, 10 người thời Trần, 18 người thời Lê và một người duy nhất thời Mạc là Giáp Hải. Phan Huy Chú cho rằng:thời Mạc có Trạng nguyên Giáp Hải công danh rõ rệt.
Vua nhà Mạc là Mạc Mậu Hợp ban cho ông lá cờ thêu và câu đối:Trạng đầu, tể tướng đẩu nam tuấn,Quốc lão, đế sư thiên hạ tônNghĩa là:đỗ trạng nguyên, làm tể tướng, danh cao như ngôi sao Đẩu của trời Nam; đã quốc lão, lại đế sư, được cả nước tôn trọng.
Lại có câu:
Từ bút văn tôn danh lưỡng quốc
Hoa triền thọ diẹu huyễn tam thai
Nghĩa là:văn chương tài giỏi vang hai nước; tuổi như sao thọ sáng chiếu trong hàng tam công.
Giai thoại
Trạng nguyên Giáp Hải đã được dân gian mang danh quê hương là Trạng Kế. Nơi ông vẫn ngồi học thủa nhỏ cùng với hòn đá, giếng nước đều gắn với ông bằng những tên gọi thân thuộc. Hòn đá ông Trạng, núi ông Trạng, giếng ông Trạng…Và khi ông qua đời, nhân dân đã an táng, xây lăng quan Trạng, lập đền thời quan Trạng. Nhân dân và Nho sĩ hai huyện Phượng Nhãn – Bảo Lộc của phủ Lạng Giang xưa lập văn chỉ, khắc bia các bậc tiên hiền, của quê hương trong đó có Trạng nguyên Giáp Hải và con ông là tiến sĩ Giáp Lễ. Đặc biệt nhân dân Dĩnh Kế đã lập đền thờ quan Trạng, tổ chức tế lễ rước sách uy nghiêm trong ngày hội làng và rằm tháng 3 âm lịch hàng năm.
Sau khi Mạc Đăng Dung tiếm ngôi nhà Lê, nhà Minh sai Mao Bá Ôn đem quân sang "hỏi tội". Mao Bá Ôn dừng quân nơi cửa ải, đưa ra bài thơ này gửi quan quân nhà Mạc với ý ví người An Nam như những thân bèo không đoàn kết. Bài thơ này đã được trạng nguyên Giáp Hải của Đại Việt hoạ lại với lời lẽ cứng rắn.
Bài thơ chữ Hán của Mao Bá Ôn
萍詩
隨田逐水冒秧鍼,
到處看來實不深。
空有根苗空有葉,
敢生枝節敢生心?
徒知聚處寧知散,
但識浮時那識沉。
大抵中天風惡氣,
掃歸湖海便難尋。
Bản phiên âm Hán-Việt:
Tuỳ điền trục thủy mạo ương châm,
Đáo xứ khan lai thực bất thâm.
Không hữu căn miêu không hữu diệp,
Cảm sinh chi tiết cảm sinh tâm?
Đồ tri tụ xứ ninh tri tán,
Đãn thức phù thì ná thức trầm?
Đại để trung thiên phong ác khí,
Tảo quy hồ hải tiện nan tầm.
Dịch nghĩa:
Dọc theo ruộng nước bám như châm,
Rễ bám vào đâu cũng chẳng thêm.
Vờ có căn nguyên, vờ có lẽ,
Dám chi sạch tiết, dám chi tâm?
Tụ rồi đã chắc chi khi tán,
Nổi đó nào hay đến lúc chìm?
Gặp trận trời cho cơn gió lốc,
Quét tan hồ bể khó mà tìm.
Dịch thơ:
Thơ vịnh bèo (Người dịch: Hoà thượng Trí Thủ)
Cao sâu theo nước mọc im lìm
Nông nỗi xưa nay vốn khó dìm
Ngọn gốc đã trơ không lá lảu
Cỗi cành sao lại cả gan tim?
Coi thường tản mát khi thường tụ
Biết lúc lênh đênh chả biết chìm
Ví gặp tung trời cơn bão táp
Cuốn theo về biển khó đâu tìm!
Khi nhận được bài thơ thì Trạng Giáp Hải đã có bài hoạ như sau:
Cẩm lân mật mật bất dung châm
Đái diệp liên căn khởi kế thâm
Thường dữ bạch vân tranh thủy diện
Khảng giao hồng nhật truỵ ba tâm
Thiên trùng lãng đả thành nan phá
Vạn trận phong xuy vĩnh bất trầm
Đa thiểu ngư long tàng nghiểu lý
Thái Công vô kế hạ câu tầm
'''Tạm dịch:
Sin sít hoa thêu cản mũi khâu
Mấy tầng gốc rễ vẫn chen nhau
Ganh cùng mây bạc trên làn sóng
Đâu để vầng hồng lọt đáy sâu
Nước vỗ, vỗ sao cho phá được
Gió to, to mấy có chìm đâu
Biết bao rồng cá nằm trong đó
Cụ Lã đừng hòng thả lưỡi câu!
Năm 1998, một nhóm công nhân đã phát hiện một hòm đá hình chữ nhật tại xã Dĩnh Trì. Hòm đá gồm hai phiến đá nhẵn chồng khít lên nhau. Phần áp mặt vào nhau của hai phiến đá có văn bản viết bằng chữ Nho. Sau khi dịch nghĩa, người ta biết đây là di văn của Giáp Hải, được ông soạn kỹ càng rồi yểm xuống mộ Khánh Sơn tiên sinh (cha đẻ Giáp Hải) vào năm Tân Dậu, 1549. Một điều thú vị là phần nắp đậy có những dòng chữ viết thêm cho biết ngôi mộ đã được chuyển từ núi Ngò về xã Dĩnh Trì hiện nay như thế nào. Như vậy, việc tranh cãi ông là người Bắc Giang hay Hà Nội (ngày nay) có lẽ sẽ đi đến hồi kết.
Tài liệu tham khảo
Lịch triều hiến chương loại chí, Nhà xuất bản giáo dục, 2007
Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1998
Đại Việt thông sử, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 2007.
Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nhà xuất bản giáo dục Hà Nội. 1988
Chú thích
Người Bắc Giang
Quan lại nhà Mạc
Nhà thơ Việt Nam thời Mạc
Nhà ngoại giao Việt Nam thời Mạc
Công tước nhà Mạc
Tiến sĩ nhà Mạc
Trạng nguyên Việt Nam |
Chủ nghĩa duy vật, còn gọi là thuyết duy vật hay duy vật luận (), là một trường phái triết học, một thế giới quan, một hình thức của chủ nghĩa triết học nhất nguyên cho rằng vật chất là chất cơ bản trong tự nhiên, và tất cả mọi thứ, bao gồm cả trạng thái tinh thần và ý thức, là kết quả của sự tương tác vật chất. Theo chủ nghĩa duy vật triết học, tâm trí và ý thức là sản phẩm phụ của các quá trình vật chất (như sinh hóa của não người và hệ thần kinh), mà không có chúng thì tâm trí và ý thức không tồn tại. Khái niệm này tương phản trực tiếp với chủ nghĩa duy tâm, trong đó tâm trí và ý thức là những thực tại bậc nhất mà vấn đề là chủ thể và tương tác vật chất là thứ yếu.
Chủ nghĩa duy vật có liên quan chặt chẽ với chủ nghĩa duy vật lý, với quan điểm rằng tất cả những gì tồn tại cuối cùng là vật chất. Chủ nghĩa vật lý triết học đã phát triển từ chủ nghĩa duy vật với các lý thuyết về khoa học vật lý để kết hợp các quan niệm phức tạp hơn về vật chất so với vật chất thông thường (ví dụ như không thời gian, năng lượng và lực lượng vật chất và vật chất tối). Do đó, thuật ngữ vật lý được ưa thích hơn chủ nghĩa duy vật bởi một số người, trong khi những người khác sử dụng các thuật ngữ này như thể chúng đồng nghĩa.
Các triết lý mâu thuẫn với chủ nghĩa duy vật hoặc chủ nghĩa duy vật lý bao gồm chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa đa nguyên, thuyết nhị nguyên thân-tâm, chủ nghĩa toàn tâm và các hình thức khác của nhất nguyên luận.
Tổng quan
Chủ nghĩa duy vật thuộc lớp của bản thể học mang tính nhất nguyên. Như vậy, nó khác với các lý thuyết bản thể học dựa trên thuyết nhị nguyên thân-tâm hoặc đa nguyên. Bên cạnh chủ nghĩa duy vật có thuyết nhị nguyên thân-tâm, chủ nghĩa hiện tượng, chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa sống còn và chủ nghĩa hai mặt. Đối với các giải thích số ít về hiện thực hiện tượng, chủ nghĩa duy vật sẽ trái ngược với chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa trung lập và chủ nghĩa tâm linh.
Mặc dù có số lượng lớn các trường phái triết học và các sắc thái tinh tế giữa chúng, tất cả các triết học được cho là thuộc một trong hai loại chính, được định nghĩa trái ngược với nhau: chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật. Mệnh đề cơ bản của hai loại này liên quan đến bản chất của thực tế. Sự khác biệt chính giữa chúng là cách chúng trả lời hai câu hỏi cơ bản: "thực tế bao gồm những gì?" và "nó bắt nguồn như thế nào?" Đối với những người duy tâm, tinh thần hoặc tâm trí hoặc các đối tượng của tâm trí (ý tưởng) là chính và là vấn đề thứ yếu. Đối với những người theo chủ nghĩa duy vật, vật chất là chủ yếu, và tâm trí hay tinh thần hay ý tưởng là thứ yếu, sản phẩm của vật chất tác động lên vật chất.
Quan điểm duy vật có lẽ được hiểu rõ nhất khi phản đối các học thuyết về chất phi vật chất được áp dụng cho tâm trí trong lịch sử của René Descartes; tuy nhiên, bản thân chủ nghĩa duy vật không nói gì về chất liệu nên được đặc trưng như thế nào. Trong thực tế, nó thường bị đồng hóa với một loạt các thuyết duy vật lý hoặc thuyết khác.
Chủ nghĩa duy vật thường gắn liền với chủ nghĩa giản lược, theo đó các đối tượng hoặc hiện tượng được phân chia ở một cấp độ mô tả, nếu chúng là chính hãng, phải được giải thích về các đối tượng hoặc hiện tượng ở một mức độ mô tả khác thông thường, ở mức độ giảm hơn. Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật không giản lược từ chối một cách rõ ràng khái niệm này, lấy hiến pháp vật chất của tất cả các chi tiết để phù hợp với sự tồn tại của các vật thể, tính chất hoặc hiện tượng thực sự không thể giải thích được trong các thuật ngữ được sử dụng cho các thành phần vật chất cơ bản. Jerry Fodor lập luận quan điểm này, theo đó các định luật và giải thích theo kinh nghiệm trong "các ngành khoa học đặc biệt" như tâm lý học hoặc địa chất là vô hình từ quan điểm của vật lý cơ bản.
Các nhà duy vật triết học hiện đại mở rộng định nghĩa về các thực thể khoa học khác có thể quan sát được như năng lượng, lực lượng và độ cong của không gian; tuy nhiên, các nhà triết học như Mary Midgley cho rằng khái niệm "vật chất" khó nắm bắt và được định nghĩa không chính xác.
Trong thế kỷ XIX, Karl Marx và Friedrich Engels đã mở rộng khái niệm chủ nghĩa duy vật để xây dựng một quan niệm duy vật về lịch sử tập trung vào thế giới thực nghiệm của con người (thực hành, bao gồm cả lao động) và các thể chế được tạo ra, tái tạo hoặc phá hủy bởi hoạt động đó (xem quan niệm duy vật về lịch sử). Họ cũng phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng, thông qua việc lấy phép biện chứng Hegel, tước bỏ các khía cạnh duy tâm của phép biện chứng này và hợp nhất chúng với chủ nghĩa duy vật .
Lịch sử
Trước công nguyên
Chủ nghĩa duy vật đã phát triển, có thể độc lập với nhau, ở một số khu vực địa lý Á-Âu trong thời gian Karl Jaspers gọi là Thời đại Trục (800-200 TCN).
Trong triết học Ấn Độ cổ đại, chủ nghĩa duy vật đã phát triển khoảng năm 600 TCN với các tác phẩm của Ajita Kesakambali, Payasi, Kanada và những người đề xướng trường phái triết học Cārvāka. Kanada trở thành một trong những người đề xướng sớm nguyên tử. Trường phái Nyaya - Vaisesika (600-100 TCN) đã phát triển một trong những hình thức thuyết nguyên tử sớm nhất (mặc dù bằng chứng của họ về Thiên Chúa và cho rằng ý thức của họ không phải là vật chất ngăn cản việc dán nhãn cho họ là những người duy vật).
Các triết gia theo thuyết nguyên tử Hy Lạp cổ đại như Leucippus, Democritus và Epicurus đã định hình các nhà duy vật sau này. Bài thơ Latin De Rerum Natura của Lucretius (99 - 55 TCN) phản ánh triết lý cơ học của Democritus và Epicurus. Theo quan điểm này, tất cả những gì tồn tại là vật chất và khoảng trống, và tất cả các hiện tượng là kết quả của các chuyển động và tập hợp khác nhau của các hạt vật chất cơ bản gọi là "nguyên tử" (nghĩa đen: "indivisibles"). De Rerum Natura cung cấp các giải thích cơ học cho các hiện tượng như xói mòn, bay hơi, gió và âm thanh. Những nguyên tắc nổi tiếng như "không gì có thể chạm vào cơ thể ngoài cơ thể" lần đầu tiên xuất hiện trong các tác phẩm của Lucretius.
Sau công nguyên
Vương Sung (27 - ~ 100 sau Công nguyên) là một nhà tư tưởng Trung Quốc sau công nguyên đầu tiên được cho là một nhà duy vật.
Triết gia theo chủ nghĩa duy vật Ấn Độ Jayaraashi Bhatta (thế kỷ thứ 6) trong tác phẩm Tattvopaplavasimha ("Sự đảo lộn của tất cả các nguyên tắc") đã bác bỏ nhận thức luận của Nyaya Sutra. Triết lý Cārvāka duy vật khoái lạc dường như đã chết một thời gian sau 1400; Khi Madhavacharya biên soạn Sarva-darśana-samgraha (một bản tóm tắt của tất cả các triết lý) vào thế kỷ 14, ông không có văn bản nào của Cārvāka / Lokāyata để trích dẫn hoặc tham khảo.
Vào đầu thế kỷ 12 al-Andalus, nhà triết học Ả Rập, Ibn Tufail (a.k.a. Abubacer), đã viết các bài thảo luận về chủ nghĩa duy vật trong tiểu thuyết triết học của mình, Hayy ibn Yaqdhan (Philosophus Autodidactus), trong khi mơ hồ báo trước ý tưởng của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Triết học hiện đại
Thomas Hobbes (1588-1679) và Pierre Gassendi (1592-1665) đại diện cho truyền thống duy vật đối lập với những nỗ lực của René Descartes (1596-1650) để cung cấp cho khoa học tự nhiên nền tảng nhị nguyên. Ở đó, theo sau nhà duy vật và vô thần abbé Jean Meslier (1664-1729) và các tác phẩm của các nhà duy vật người Pháp: Julien Offray de La Mettrie, Nam tước Đức-Pháp (1723-1789), Denis Diderot (1713-1784) và các nhà tư tưởng Khai sáng Pháp khác. Ở Anh, John "Walking" Stewart (1747-1822) khăng khăng coi vật chất là một khía cạnh đạo đức, có tác động lớn đến thơ ca triết học của William Wordsworth (1770-1850).
Trong triết học hiện đại muộn, nhà nhân chủng học vô thần người Đức Ludwig Feuerbach sẽ báo hiệu một bước ngoặt mới của chủ nghĩa duy vật thông qua cuốn sách Tinh hoa của Kitô giáo (1841), trong đó trình bày một ghi chép nhân văn về tôn giáo như là hình ảnh hướng ngoại của con người. Chủ nghĩa duy vật nhân học của Feuerbach (một phiên bản của chủ nghĩa duy vật coi nhân học duy vật là khoa học phổ quát) sau này sẽ ảnh hưởng lớn đến Karl Marx,, người cuối thế kỷ 19 đã xây dựng khái niệm chủ nghĩa duy vật lịch sử, cơ sở cho Marx và Friedrich Engels đưa ra chủ nghĩa xã hội khoa học:
Engels sau đó đã phát triển một triết lý tự nhiên "biện chứng duy vật" (Phép biện chứng tự nhiên, 1883). Thế giới quan của Engels đã được Georgi Plekhanov, cha đẻ của chủ nghĩa Mác Nga trao tặng danh hiệu " chủ nghĩa duy vật biện chứng ". Trong triết học Nga đầu thế kỷ 20, Vladimir Lenin đã phát triển thêm chủ nghĩa duy vật biện chứng trong cuốn sách Chủ nghĩa duy vật và phê bình Empirio (1909), kết nối các quan niệm chính trị do các đối thủ của ông đưa ra với các triết lý chống chủ nghĩa duy vật của họ.
Một trường phái tư tưởng duy vật theo chủ nghĩa tự nhiên hơn phát triển vào giữa thế kỷ 19 (cũng ở Đức) là chủ nghĩa duy vật Đức: các thành viên bao gồm Ludwig Büchner, Jacob Moleschott và Carl Vogt.
Triết học đương đại
Triết học phân tích
Các nhà triết học phân tích đương đại (ví dụ Daniel Dennett, Willard Van Orman Quine, Donald Davidson và Jerry Fodor) hoạt động trong khuôn khổ vật chất khoa học hoặc vật chất rộng rãi, tạo ra các tài khoản đối thủ về cách tốt nhất để điều chỉnh tâm trí, bao gồm chủ nghĩa chức năng, chủ nghĩa dị thường, lý thuyết nhận dạng, v.v.
Chủ nghĩa duy vật khoa học thường đồng nghĩa với, và thường được mô tả như là một chủ nghĩa duy vật giản lược. Vào đầu thế kỷ hai mươi mốt, Paul và Patricia Churchland đã ủng hộ một lập trường hoàn toàn tương phản (ít nhất, liên quan đến các giả thuyết nhất định); chủ nghĩa duy vật loại trừ cho rằng một số hiện tượng tinh thần đơn giản là không tồn tại, và việc nói về những hiện tượng tinh thần đó phản ánh một " tâm lý dân gian " hoàn toàn giả tạo và ảo giác nội tâm. Một nhà duy vật loại trừ có thể tin rằng một khái niệm như "niềm tin" đơn giản là không có cơ sở trên thực tế (ví dụ như cách khoa học dân gian nói về các căn bệnh do quỷ gây ra). Với chủ nghĩa duy vật có tính khử ở một đầu của một sự liên tục (lý thuyết của chúng ta sẽ giảm thành sự thật) và chủ nghĩa duy vật loại bỏ ở bên kia (một số lý thuyết nhất định sẽ cần phải được loại bỏ dưới ánh sáng của sự kiện mới), chủ nghĩa duy vật xét lại ở đâu đó ở giữa.
Triết học lục địa
Nhà triết học lục địa đương đại Gilles Deleuze đã cố gắng làm lại và củng cố các ý tưởng duy vật cổ điển. Các nhà lý luận đương đại như Manuel DeLanda, làm việc với chủ nghĩa duy vật được hồi sinh này, đã được xếp vào loại "chủ nghĩa duy vật mới" trong thuyết phục. Chủ nghĩa duy vật mới giờ đây đã trở thành lĩnh vực tri thức chuyên ngành của riêng mình, với các khóa học được cung cấp về chủ đề tại các trường đại học lớn, cũng như nhiều hội nghị, bộ sưu tập được chỉnh sửa và chuyên khảo dành cho nó. Cuốn sách Vibrant Matter (2010) của Jane Bennett đặc biệt là công cụ đưa các lý thuyết về bản thể luận chủ nghĩa và chủ nghĩa sống còn trở thành một lý thuyết phê phán bị chi phối bởi các lý thuyết của chủ nghĩa hậu cấu trúc luận về ngôn ngữ và diễn ngôn. Các học giả như Mel Y. Chen và Zakiyyah Iman Jackson, tuy nhiên, đã phê phán cơ quan này của văn học duy vật mới vì sự lơ là trong việc xem xét tính vật chất của chủng tộc và giới tính nói riêng. Học giả Métis Zoe Todd và Mohawk (Bear Clan, Six Nations) và học giả Anishinaabe Vanessa Watts, truy vấn định hướng thuộc địa của chủng tộc cho một chủ nghĩa duy vật "mới". Watts nói riêng mô tả các xu hướng coi vấn đề như một môn học về chăm sóc nữ quyền hay triết học như một xu hướng đó là quá đầu tư vào Reanimation của một mải tập trung vào truyền thống của cuộc điều tra tại các chi phí của một nền đạo đức bản địa của trách nhiệm. Trong khi, các học giả khác, chẳng hạn như Helene Vosters, lặp lại mối quan tâm của họ và đã đặt câu hỏi liệu có bất kỳ điều gì đặc biệt "mới" về cái gọi là "chủ nghĩa duy vật mới" này không, vì các bản thể học hoạt hình bản địa và các nhà hoạt họa khác đã chứng thực cái gọi là "rung cảm" của vật chất "trong nhiều thế kỷ. Các học giả khác như Thomas Nail đã phê phán các phiên bản "chủ nghĩa quan trọng" của chủ nghĩa duy vật mới vì đã phi chính trị hóa "bản thể học phẳng" và về bản chất là lịch sử.
Quentin Meillassoux đề xuất chủ nghĩa duy vật suy đoán, một sự trở lại thời hậu Kant cho David Hume cũng dựa trên các ý tưởng duy vật.
Xác định vật chất
Bản chất và định nghĩa của vật chất giống như các khái niệm quan trọng khác trong khoa học và triết học, đã có nhiều cuộc tranh luận. Có một loại vật chất duy nhất (hyle) mà mọi thứ được tạo ra, hoặc nhiều loại? Là vật chất liên tục có khả năng thể hiện nhiều dạng (hylomorphism) hay một số thành phần rời rạc, không thay đổi (nguyên tử)? Liệu nó có thuộc tính nội tại (lý thuyết chất) hay nó thiếu các thuộc tính này (nguyên liệu prima)?
Một thách thức đối với khái niệm truyền thống về vật chất là "công cụ" hữu hình xuất hiện cùng với sự phát triển của vật lý học trong thế kỷ 19. Thuyết tương đối cho thấy vật chất và năng lượng (bao gồm cả năng lượng phân bố không gian của các trường) có thể thay thế cho nhau. Điều này cho phép quan điểm bản thể học rằng năng lượng là nguyên liệu prima và vật chất là một trong những dạng của nó. Mặt khác, Mô hình chuẩn của vật lý hạt sử dụng lý thuyết trường lượng tử để mô tả tất cả các tương tác. Theo quan điểm này, có thể nói rằng các lĩnh vực là nguyên liệu prima và năng lượng là một tài sản của lĩnh vực này.
Theo mô hình vũ trụ thống trị, mô hình Lambda-CDM, dưới 5% mật độ năng lượng của vũ trụ được tạo thành từ "vật chất" được mô tả bởi Mô hình chuẩn, và phần lớn vũ trụ bao gồm vật chất tối và năng lượng tối, với rất ít sự đồng ý giữa các nhà khoa học về những thứ này được làm từ gì.
Với sự ra đời của vật lý lượng tử, một số nhà khoa học tin rằng khái niệm vật chất chỉ đơn thuần thay đổi, trong khi những người khác tin rằng vị trí thông thường không còn được duy trì. Chẳng hạn, Werner Heisenberg nói, "Bản thể luận của chủ nghĩa duy vật dựa trên ảo tưởng rằng loại tồn tại," thực tế "trực tiếp của thế giới xung quanh chúng ta, có thể được ngoại suy trong phạm vi nguyên tử. Tuy nhiên, phép ngoại suy này là không thể... các nguyên tử không phải là vật." Ông cho rằng "nguyên tử và những hạt cơ bản tự chúng không có thật; chúng hình thành một thế giới của tiềm năng và khả năng hơn là một đối tượng hoặc sự kiện". Max Planck còn đi xa hơn khi ông cho rằng "Không có vật chất nào hết. Tất cả mọi vật chất phát sinh và tồn tại chỉ vì một lực khiến hạt cơ bản của một nguyên tử rung động và giữ cho hệ thống hạt cơ bản của nguyên tử gắn kết với nhau. Chúng tôi phải giả định rằng đằng sau cái lực này tồn tại một Tâm trí có ý thức và thông minh. Tâm trí này là ma trận của mọi vật chất.". Tương tự như vậy, một số triết gia cảm thấy rằng những sự phân đôi này đòi hỏi phải chuyển từ chủ nghĩa duy vật sang chủ nghĩa vật lý. Những người khác sử dụng thuật ngữ "chủ nghĩa duy vật" và "chủ nghĩa duy vật lý" thay thế cho nhau. Ngày nay có những học giả tin rằng thực tại của chúng ta chỉ là một mô phỏng trên máy tính của nền văn minh tiên tiến nào đó.
Khái niệm về vật chất đã thay đổi để đáp ứng với những khám phá khoa học mới. Do đó, chủ nghĩa duy vật không có nội dung xác định độc lập với lý thuyết cụ thể về vật chất mà nó dựa vào. Theo Noam Chomsky, bất kỳ thuộc tính nào cũng có thể được coi là vật chất, nếu người ta định nghĩa vật chất sao cho nó có thuộc tính đó. Chính vì thế Lenin định nghĩa "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác".
Phê bình
Một số nhà phê bình phản đối chủ nghĩa duy vật như là một phần của cách tiếp cận quá hoài nghi, hẹp hòi hoặc theo chủ nghĩa giản lược để lý thuyết hóa, thay vì tuyên bố bản thể học rằng vật chất là chất duy nhất. Nhà vật lý hạt nhân và nhà thần học Anh giáo John Polkinghorne phản đối cái mà ông gọi là chủ nghĩa duy vật hứa hẹn. Tuyên bố rằng khoa học duy vật cuối cùng sẽ thành công trong việc giải thích các hiện tượng mà đến nay vẫn chưa thể giải thích. Polkinghorne thích " chủ nghĩa hai mặt " hơn chủ nghĩa duy vật.
Một số nhà duy vật khoa học đã bị chỉ trích vì không cung cấp định nghĩa rõ ràng cho những gì cấu thành nên vấn đề, để lại thuật ngữ "chủ nghĩa duy vật" mà không có bất kỳ ý nghĩa nhất định. Noam Chomsky tuyên bố rằng vì khái niệm vật chất có thể bị ảnh hưởng bởi những khám phá khoa học mới, như đã xảy ra trong quá khứ, các nhà duy vật khoa học đang giáo điều khi cho rằng điều ngược lại.
Từ các nhà khoa học
Rudolf Peierls, một nhà vật lý đóng vai trò chính trong Dự án Manhattan, đã bác bỏ chủ nghĩa duy vật, nói: "Tiền đề mà bạn có thể mô tả về mặt vật lý toàn bộ chức năng của con người [...] bao gồm cả kiến thức và ý thức, là không thể đo lường được. Vẫn còn thiếu một cái gì đó ".
Erwin Schrödinger nói: "Ý thức không thể được tính theo nghĩa vật lý. Đối với ý thức là hoàn toàn cơ bản. Nó không thể được tính theo bất cứ điều gì khác ".
Werner Heisenberg, người đã đưa ra nguyên lý bất định, đã viết, "Bản thể luận của chủ nghĩa duy vật dựa trên ảo tưởng rằng loại tồn tại," thực tế "trực tiếp của thế giới xung quanh chúng ta, có thể được ngoại suy trong phạm vi nguyên tử. Phép ngoại suy này, tuy nhiên, là không thể... Nguyên tử không phải là vật ".
Cơ học lượng tử
Một số nhà vật lý thế kỷ 20 (như Eugene Wigner và Henry Stapp) và các nhà vật lý và nhà văn khoa học thời hiện đại (như Stephen Barr, Paul Davies và John Gribbin) đã cho rằng chủ nghĩa duy vật là thiếu sót do một số phát hiện khoa học gần đây trong vật lý, như cơ học lượng tử và lý thuyết hỗn loạn. Năm 1991, Gribbin và Davies đã phát hành cuốn sách The Matter Myth, chương đầu tiên, "Cái chết của chủ nghĩa duy vật", bao gồm đoạn văn sau:
Vật lý kỹ thuật số
Sự phản đối của Davies và Gribbin được chia sẻ bởi những người đề xuất vật lý kỹ thuật số, những người xem thông tin hơn là vấn đề cơ bản. Nhà vật lý nổi tiếng và người đề xướng vật lý kỹ thuật số John Archibald Wheeler đã viết, "tất cả vật chất và mọi vật lý đều có nguồn gốc lý thuyết thông tin và đây là một vũ trụ có sự tham gia ". Sự phản đối của họ cũng được chia sẻ bởi một số người sáng lập lý thuyết lượng tử, như Max Planck, đã viết:
James Jeans đồng tình với Planck khi nói: "Vũ trụ bắt đầu giống như một ý nghĩ tuyệt vời hơn là một cỗ máy tuyệt vời. Tâm trí dường như không còn là kẻ xâm nhập tình cờ vào cõi vật chất ".
Từ các tôn giáo
Theo Constantin Gutberlet viết trong Từ điển bách khoa Công giáo (1911), chủ nghĩa duy vật, được định nghĩa là "một hệ thống triết học coi vật chất là thực tại duy nhất trên thế giới [...] phủ nhận sự tồn tại của Thiên Chúa và linh hồn". Theo quan điểm này, chủ nghĩa duy vật có thể được coi là không tương thích với các tôn giáo thế giới quy định sự tồn tại cho các đối tượng phi vật chất. Chủ nghĩa duy vật có thể bị nhầm lẫn với chủ nghĩa vô thần. Tuy nhiên, Friedrich Lange đã viết vào năm 1892, "Diderot không phải lúc nào cũng trong Encyclopædia bày tỏ ý kiến cá nhân của riêng mình, nhưng đúng là khi bắt đầu, ông chưa hiểu rõ về Chủ nghĩa vô thần và Chủ nghĩa duy vật".
Hầu hết Ấn Độ giáo và chủ nghĩa siêu việt coi tất cả vật chất là một ảo ảnh gọi là Maya, khiến con người không biết đến sự thật. Những trải nghiệm siêu việt như nhận thức của Brahman được coi là tiêu diệt ảo ảnh.
Joseph Smith, người sáng lập phong trào Latter Day Saint, đã dạy: "Không có thứ gọi là vật chất phi vật chất. Tất cả tinh thần là vật chất, nhưng nó tốt hơn hoặc tinh khiết hơn, và chỉ có thể được nhận ra bằng đôi mắt tinh khiết hơn; Chúng ta không thể nhìn thấy nó; nhưng khi cơ thể chúng ta được thanh lọc, chúng ta sẽ thấy rằng đó là tất cả vấn đề. " Yếu tố tinh thần này được cho là luôn tồn tại và được đồng tồn tại với Thiên Chúa.
Mary Baker Eddy, người sáng lập phong trào Khoa học Kitô giáo, đã phủ nhận sự tồn tại của vật chất trên cơ sở sự đồng nhất của Tâm trí (mà cô coi là từ đồng nghĩa với Thiên Chúa).
Từ các nhà triết học
Trong Phê bình Lý trí thuần túy, Immanuel Kant đã lập luận chống lại chủ nghĩa duy vật trong việc bảo vệ chủ nghĩa duy tâm siêu việt của mình (cũng như đưa ra các lập luận chống lại chủ nghĩa duy tâm chủ quan và thuyết nhị nguyên thân-tâm). Tuy nhiên, Kant với sự bác bỏ chủ nghĩa duy tâm của mình, lập luận rằng sự thay đổi và thời gian đòi hỏi một chất nền bền bỉ. Các nhà tư tưởng hậu hiện đại / hậu cấu trúc luận cũng bày tỏ sự hoài nghi về bất kỳ sơ đồ siêu hình bao gồm tất cả. Triết gia Mary Midgley cho rằng chủ nghĩa duy vật là một ý tưởng tự phản biện, ít nhất là dưới hình thức duy vật loại bỏ của nó.
Chủ nghĩa duy tâm
Các lập luận ủng hộ chủ nghĩa duy tâm, chẳng hạn như của Hegel và Berkeley, thường ở dạng lập luận chống lại chủ nghĩa duy vật; thật vậy, chủ nghĩa duy tâm của Berkeley được gọi là chủ nghĩa phi vật chất. Bây giờ, vật chất có thể được lập luận là dư thừa, như trong lý thuyết bó, và các thuộc tính độc lập với tâm trí, đến lượt nó, có thể được giảm xuống thành nhận thức chủ quan. Berkeley trình bày một ví dụ về cái sau bằng cách chỉ ra rằng không thể thu thập bằng chứng trực tiếp về vật chất, vì không có kinh nghiệm trực tiếp về vật chất; tất cả những gì có kinh nghiệm là nhận thức, cho dù là nội bộ hay bên ngoài. Như vậy, sự tồn tại của vật chất chỉ có thể được giả định từ sự ổn định (nhận thức) rõ ràng của nhận thức; Nó tìm thấy hoàn toàn không có bằng chứng trong kinh nghiệm trực tiếp.
Nếu vật chất và năng lượng được xem là cần thiết để giải thích thế giới vật chất, nhưng không có khả năng giải thích tâm trí, kết quả là thuyết nhị nguyên thân-tâm ra đời. Nguyên lý đột sinh, holism và triết lý quá trình tìm cách cải thiện những thiếu sót nhận thức của chủ nghĩa duy vật truyền thống (đặc biệt là thuyết cơ học) mà không từ bỏ hoàn toàn chủ nghĩa duy vật.
Các nhánh của chủ nghĩa duy vật
Chủ nghĩa duy vật Kitô giáo
Chủ nghĩa duy vật văn hóa
Chủ nghĩa duy vật biện chứng (Xem thêm Triết học tự nhiên Marx)
Chủ nghĩa duy vật lịch sử
Chủ nghĩa duy vật tiêu trừ (Eliminative materialism)
Chủ nghĩa duy vật cách mạng
Chủ nghĩa duy vật Pháp
Chủ nghĩa duy vật hoàn nguyên / Thuyết hoàn nguyên (Reductive materialism)
Chủ nghĩa duy vật Descartes
Charvaka |
Diễm xưa là một bài hát nổi tiếng của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết năm 1960, được phát hành trong băng nhạc Sơn Ca 7, lấy từ ý "Diễm của những ngày xưa". "Diễm xưa" cũng được dịch ra tiếng Nhật dưới nhan đề 美しい昔 (Utsukushii mukashi) và được Khánh Ly trình bày ở hội chợ Osaka năm 1970. "Diễm xưa" còn được đưa vào chương trình giáo dục về môn văn hóa Việt tại một trường đại học ở Nhật Bản. Đại học Kansai Gakuin cũng có một cuốn sách viết về bài "Diễm xưa" có kèm theo DVD để tiện cho việc nghiên cứu của sinh viên. Bài hát còn được đài truyền hình NHK chọn làm bản nhạc chính cho một bộ phim về cuộc hôn nhân giữa một người đàn ông Nhật lấy người vợ Việt Nam.
Hoàn cảnh sáng tác
Nguyên mẫu của bài hát là người con gái tên Ngô Vũ Bích Diễm
Trịnh Công Sơn đã kể lại:
Thuở ấy có một người con gái rất mong manh, đi qua những hàng cây long não lá li ti xanh mướt để đến Trường Đại học Văn khoa ở Huế.
Nhiều ngày, nhiều tháng của thuở ấy, người con gái ấy vẫn đi qua dưới những vòm cây long não. Có rất nhiều mùa nắng và mùa mưa cũng theo qua. Những mùa nắng, ve râm ran mở ra khúc hát mùa hè trong lá. Mùa mưa Huế, người con gái ấy đi qua nhạt nhòa trong mưa giữa hai hàng cây long não mờ mịt...
Nhà cô ấy ở bên kia sông, mỗi ngày phải băng qua một cây cầu rồi mới gặp hàng long não để đến trường.
Từ ban công nhà tôi nhìn xuống, cái bóng dáng ấy đi đi về về mỗi ngày bốn bận. Thời buổi ấy những người con gái Huế chưa hề dùng đến phương tiện có máy nổ và có tốc độ chóng mặt như bây giờ. Trừ những người ở quá xa phải đi xe đạp, còn lại đa số cứ đến trường bằng những bước đi thong thả hoàng cung. Đi để được ngắm nhìn, để cảm thấy âm thầm trong lòng, mình là một nhan sắc. Nhan sắc cho nhiều người hoặc chỉ cho một người thì có quan trọng gì đâu. Những bước chân ấy từ mọi phía đổ về những ngôi trường với những cái tên quen thuộc, đôi khi lại quá cũ kỹ.
Đi để được những con mắt chung quanh nhìn ngắm nhưng đồng thời cũng tự mình có thì giờ nhìn ngắm trời đất, sông nước và hoa lá thiên nhiên. Long não, bàng, phượng đỏ, muối, mù u và một dòng sông Hương chảy quanh thành phố đã phả vào tâm hồn thời con gái một lớp sương khói lãng mạn thanh khiết. Huế nhờ vậy không bao giờ cạn nguồn thi hứng. Thành cổ, đền đài, lăng tẩm khiến con người dễ có một hoài niệm man mác về quá khứ hơn và một phần nào cũng cứu rỗi cho con người ta khỏi vành đai tục lụy. Và từ đó Huế đã hình thành cho riêng mình một không gian riêng, một thế giới riêng. Từ đó con người bỗng đâm ra mơ mộng và ước mơ những cõi trời đất như không có thực.
Nhưng thật sự thực và mơ là gì? Thật ra, nói cho cùng, cái này chỉ là ảo ảnh của điều kia. Và với những ảo ảnh đó đã có một thời, khá dài lâu, những con người lớn lên trong thành phố nhỏ nhắn đó đã dệt gấm thiêu hoa những giấc mơ, giấc mộng của mình. Đó cũng là thời gian mà mỗi sớm tinh mơ, mỗi chiều, mỗi tối, tiếng chuông Linh Mụ vang xa trong không gian, chuyền đi trên dòng sông để đến với từng căn nhà khép hờ hay đang đóng kín cửa.
Thời gian trôi đi ở đây lặng lẽ quá. Lặng lẽ đến độ người không còn cảm giác về thời gian. Một thứ thời gian không bóng hình, không màu sắc. Chỉ có cái chết của những người già, vào mùa đông giá rét, mới làm sực tỉnh và bỗng chốc nhận ra tiếng nói thì thầm của lăng miếu, bia mộ ở những vùng đồi núi chung quanh.
Trong không gian tĩnh mịch và mơ màng đó, thêm chìm đắm vào một khí hậu loáng thoáng liêu trai, người con gái ấy vẫn đi qua đều đặn mỗi ngày dưới hai hàng cây long não để đến trường. Đi đến trường mà đôi lúc dường như đi đến một nơi vô định. Định hướng mà không định hướng bởi vì những bước chân ngày nào ấy dường như đang phiêu bồng trên một đám mây hoang lạc của giấc mơ.
Người con gái ấy đã đi qua một cây cầu bắc qua một dòng sông, qua những hàng long não, qua những mùa mưa nắng khắc nghiệt, để cuối cùng đến một nơi hò hẹn. Hò hẹn nhưng không hứa hẹn một điều gì. Bởi vì trong không gian liêu trai ấy hứa hẹn chỉ là một điều hoang đường. Giấc mơ liêu trai nào cũng sẽ không có thực và sẽ biến mất đi.
Người con gái đi qua những hàng cây long não bây giờ đã ở một nơi xa, đã có một đời sống khác. Tất cả chỉ còn là kỷ niệm. Kỷ niệm nào cũng đáng nhớ nhưng cứ phải quên. Người con gái ấy là "Diễm của những ngày xưa".
Nguyễn Đắc Xuân tả Diễm của Trịnh:
Khoảng năm 1962, gia đình Trịnh Công Sơn gặp khó khăn kinh tế, gian phố lớn ở đường Phan Bội Châu (Ngã Giữa) phải sang cho người khác và qua thuê một căn hộ ở tầng một dãy lầu mới xây ở đầu cầu Phủ Cam (Nhà số 11/3 Nguyễn Trường Tộ, hiện nay là nhà của anh chị Hoàng Phủ Ngọc Tường - Lâm Thị Mỹ Dạ).
Hằng ngày Trịnh Công Sơn đứng trên lầu ngắm các cô nữ sinh đi qua cầu Phủ Cam, đi dọc theo đường Nguyễn Trường Tộ đến trường Đồng Khánh. Trong đám xuân xanh ấy có cô Ngô Thị Bích Diễm - con gái thầy Ngô Đốc Kh.- người Hà Nội, dạy Pháp văn tại trường Đồng Khánh và trường Quốc Học Huế. Bích Diễm giống bố, người dong dõng cao, nét mặt thanh tú, bước đi thong thả nhẹ nhàng. Con người của Diễm rất hợp với cái tên Diễm và cũng thích hợp với tâm hồn bén nhạy của Trịnh Công Sơn.
Anh yêu Diễm mê mệt. Những ngày không thấy Diễm đi qua anh đau khổ vô cùng. Anh trông thấy con đường trước nhà "dài hun hút cho mắt thêm sâu". Nhưng anh cũng biết gặp Diễm để nói lên nỗi đau ấy không phải là chuyện dễ.
Thầy Ngô Đốc Khánh - thân sinh của Diễm, là một ông giáo rất nghiêm. Ông không thể chấp nhận một anh chàng chưa có bằng Đại học, tóc dài, cằm lún phún râu chuyện trò với các cô con gái đài các của ông. May sao lúc ấy họa sĩ Đinh Cường thuê nhà ở gần nhà Diễm để làm xưởng vẽ. Hai bạn canh chừng những khi thầy giáo có giờ dạy, mà Diễm đang ngồi ở nhà học bài thì hai bạn liền "liều" mình qua thăm. Những lần liều đầy mình ấy, có khi Diễm tiếp, có khi Diễm để cho người nhà tiếp và cũng có khi đang có bố ở nhà, Diễm tránh để cho khách ngồi chơi xơi nước rồi tự ý ra về. Khác với Ph.Th. (em ruột của ca sĩ Hà Thanh), Diễm biết Trịnh Công Sơn yêu mình và trái tim cô nhiều khi cũng rung động. Nhưng lúc ấy Diễm không thể vượt qua được sự nghiêm khắc của gia đình để nói cho tác giả Ướt mi biết điều đó.
Trịnh Công Sơn trút hết nỗi lòng yêu Diễm vào bài Diễm xưa như sau nầy Sơn đã kể lại nhiều lần. Có một điều lúc ấy Sơn không để ý: Những lúc Trịnh Công Sơn đến nhà Diễm, thì Ngô Vũ Dao Ánh - em gái của Diễm còn là một cô bé, nhỏ hơn Diễm đến bốn năm tuổi, chạy loăng quăng theo chị. Không ngờ chỉ mấy năm sau Dao Á trở thành một thiếu nữ xinh đẹp với khuôn mặt bầu bĩnh, dễ thương khác thường. Với cái cầu đã bắc từ hồi yêu Bích Diễm, nay Bích Diễm đã vào học Đại học ở Sài Gòn, tâm hồn của Sơn qua cây cầu cũ, nói như Đinh Cường "Sơn lại da diết với cái dáng vẻ khoan thai, áo lụa vàng của Dao Ánh để rồi thất vọng, để rồi...".
Khác với những lần yêu trước, thất vọng về Dao Ánh, Trịnh Công Sơn không bắt nhạc của anh phải mang cái gánh thất tình của anh. Không ngờ hai mươi năm sau, trải qua bao nhiêu dâu bể, từ bên Mỹ, Dao Ánh trở về Việt Nam tìm Trịnh Công Sơn. Không rõ Dao Ánh nói gì với Sơn, và còn gì nữa không, mà anh đã rất hài lòng với thực tại "Hai mươi năm xin trả nợ dài, Trả nợ một đời em đã phụ tôi" (Xin trả nợ người). Trong hai mươi năm ấy, Dao Ánh đã có gia đình, đã hiểu rõ cuộc đời, nên "hết phụ" tình Trịnh Công Sơn. Như Đinh Cường đã viết: "Tháng cuối cùng trước khi Sơn mất, Dao Ánh về thăm, suốt tuần sáng nào cô cũng đến ngồi trên chiếc xe lăn của Sơn, chỉ còn biết nhìn Sơn, cho đến chiều tối mới về nhà." Trịnh Công Sơn yêu Dao Ánh phải trải qua hai mươi năm mới "nhận" được lời đáp. Tuy đã quá muộn, nhưng trên cõi đời nầy có mấy ai được yêu và được nhận có một khoảng cách dài lâu đến thế đâu!
Hồi ức của Hoàng Tá Thích, em rể của Trịnh:
...ngày ngày người con gái mang tên Diễm trong chiếc áo lụa trắng của trường Đồng Khánh, vẫn thường đi ngang, băng qua cầu, rẽ tay mặt về nhà. Hình ảnh người con gái thùy mị mang nét kín cổng cao tường rất cổ điển đó đã làm cho anh không ngày nào không nhìn xuống đường chờ đợi:Lụa áo em qua phủ mặt đường
Gót nhỏ xanh xao tựa khói sươngDiễm mang đến cho anh một mối tình nhẹ nhàng và lãng mạn như hai chữ Diễm xưa. Có hôm thức dậy muộn, nhìn thấy bên cửa sổ có cài một nhành dạ lý hương, anh biết người đẹp đã đi qua nhà mình. Và mỗi lần thức dậy anh đều mong nhìn thấy cành hoa cài trên cửa: "Chiều nay còn mưa, sao em không lại, nhỡ mai trong cơn đau vùi, làm sao có nhau, hằn lên nỗi đau, bước chân em xin về mau".
Nhà văn hóa Huế, giáo sư Bửu Ý, đã kể lại một câu chuyện tình về Sơn và Diễm
Ngày xưa, cây cầu Phủ Cam tuy ngắn nhưng đầy duyên nợ. Trịnh Công Sơn ở căn gác tầng 2, số nhà 11/03 đường Nguyễn Trường Tộ. Hàng ngày, chàng cứ đứng lấp ló sau cây cột, lén nhìn một người đẹp. Nàng đi bộ từ bên kia sông, qua cầu Phủ Cam, dạo gót hồng dưới hàng long não, ngang qua chỗ Sơn ở là chàng cứ sướng ran cả người. Một tình yêu "hương hoa" kéo dài cho đến cuối đời chàng. Sau này, mỗi một mối tình tiếp theo của Sơn đều có hình ảnh cô gái đó. Tên cô là Diễm, người đã tạo cảm xúc cho Sơn sáng tác vô số bản tình ca bất hủ.
Diễn giải trong bài
Theo ca sĩ Thái Hòa, tháp cổ ở đây không phải là chùa Thiên Mụ hay tháp Chàm mà là cổ ba ngấn trắng ngần của các thiếu nữ Huế được khoe ra khi mặc áo dài bà Nhu.
Phát hành và sức ảnh hưởng
Bài "Diễm xưa" đầu tiên được dịch ra tiếng Nhật dưới nhan đề Utsukushii mukashi và được Khánh Ly trình bày ở hội chợ Osaka năm 1970
"Utsukushii Mukashi" được đài truyền hình l NHK chọn làm ca khúc chủ đề cho một phim bộ chiếu nhiều kỳ, nội dung về những khác biệt văn hóa trong gia đình giữa một người đàn ông Nhật lấy vợ Việt Nam.
Bản Utsukushii mukashi đã trở thành một trong 10 tình ca hay nhất mọi thời đại của Nhật Bản
Bản Utsukushii mukashi do ca sĩ Yoshimi Tendo trình bày đã xếp hạng 11 trong 20 ca khúc hay nhất trên kênh cáp của Nhật Bản năm 2004
Năm 2004 "Diễm xưa" là nhạc phẩm Á Châu đầu tiên được Đại học Kansai Gakuin đưa vào chương trình giáo dục của mình trong môn Văn hoá và Âm nhạc. Ngoài tài liệu về bài hát, nhà trường còn kèm theo DVD để sinh viên dễ dàng trong việc nghiên cứu học tập.
Năm 1970, hãng đĩa Myrica Music đã thu đĩa 2 bài hát Diễm Xưa và Ca Dao Mẹ của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn bằng hai ngôn ngữ Việt Nam và Nhật Bản.
Ca sĩ thể hiện
Khánh Ly
Lệ Thu
Hồng Nhung
Ngọc Lan
Thanh Lam
Phạm Thu Hà
Chú thích |
Justine Henin (phát âm tiếng Pháp: [ʒystin ɛnɛ̃]; sinh ngày 1 tháng 6 năm 1982) là cựu vận động viên quần vợt người Bỉ. Cô đã có tổng cộng 117 tuần xếp hạng số 1 thế giới và kết thúc năm ở vị trí số 1 vào các năm 2003, 2006 và 2007. Henin đến từ một quốc gia có ít thành công trong môn quần vợt, nhưng với tài năng của mình cô đã giúp Bỉ trở thành một thế lực hàng đầu trong làng quần vợt nữ cùng với người đồng hương Kim Clijsters và đưa đất nước đến với ngôi vô địch Fed Cup đầu tiên vào năm 2001. Cô được biết đến với phong cách chơi di chuyển toàn mặt sân và là một trong số ít các tay vợt nữ sử dụng cú trái một tay.
Henin đã giành được 7 danh hiệu Grand Slam đơn: 4 Pháp mở rộng, 2 Mỹ mở rộng và 1 Úc mở rộng. Cô nổi tiếng có một tinh thần thi đấu bền bỉ và có cú trái tay bằng một tay mà John McEnroe từng nhận xét đó là cú trái tay hay và đẹp nhất hơn bất cứ tay vợt nam nữ nào trên thế giới từng đánh.
Ngày 26 tháng 1 năm 2011, cô thông báo buộc phải giải nghệ một lần nữa vì chấn thương khuỷu tay. Trong tháng 6 năm 2011, cô được vinh danh là một trong 30 huyền thoại quần vợt nữ bởi Time.
Tuổi thơ
Cô bé Justine lớn lên ở ngôi làng nhỏ Rochefort, trong một ngôi nhà gần câu lạc bộ tennis Rochefort. Lần đầu Juju đặt chân lên một sân quân vợt là vào năm năm tuổi. Rất nhanh cô đã tỏ ra có năng khiếu đặc biệt và có một chương trình rèn luyện riêng.
Ngay từ nhỏ, Justine Henin đã rèn luyện được ý chí chiến đấu kiên cường để đạt được cái đích mà mình đặt ra. Ngay từ thuở đầu khi mới bắt đầu cầm vợt, cô đã có ước mơ trở thành một nhà vô địch và phấn đấu hết sức để đạt được điều đó. Nhận được sự ủng hộ của cả gia đình, mỗi mùa hè, người ta đều thấy mẹ của cô, một giáo viên dạy tiếng Pháp và lịch sử, chở cô sang Paris để xem giải Pháp Mở rộng cho đến khi bà qua đời bởi bệnh ung thư dạ dày khi cô mới 12 tuổi.
Cuộc sống gia đình
Ngày 16 tháng 11 năm 2002, cô cưới Pierre-Yves Hardenne, một huấn luyện viên quần vợt tại Château de Lavaux-Sainte-Anne. Từ đó, tên thi đấu của cô được đổi thành Justine Henin-Hardenne vì luật Bỉ không yêu cầu phụ nữ đổi họ theo chồng. Người ta thường nói tới đám cưới này như một điều tích cực đến sự nghiệp của cô vì sau đám cưới, cô có một năm thi đấu rất thành công khi liên tiếp giành được 3 chức vô địch Grand Slam cũng như huy chương vàng tại Thế vận hội Athena 2004.
Đầu tháng 1 năm 2007, nhiều hãng tin loan báo cô đã trở lại với tên cũ "Justine Henin" sau khi li dị chồng. Trên trang chủ của mình, Justine Henin đã khẳng định điều này.
Sự nghiệp quần vợt
Thành tích khi thi đấu ở các lứa tuổi trẻ
Năm 14 tuổi, cô gặp Carlos Rodriguez, huấn luyện viên người Argentina gắn bó với sự nghiệp của cô cho đến nay. Cùng với ông, cô đã nhanh chóng khẳng định được tài năng của mình bằng việc đoạt được một số giải thưởng quần vợt quan trọng nhất dành cho các tay vợt trẻ như vô địch giải Orange Bowl lứa tuổi U-14 năm 1996, cùng năm đó cô cũng giành chức vị trí quán quân giải vô địch châu Âu U-14 được tổ chức tại San Remo. Sang năm 1997, Henin chiến thắng tại Roland Garros dành cho các tay vợt thiếu niên ở nội dung đơn nữ.
Sau đó, trong khi các tay vợt cùng trang lứa tiếp tục rèn luyện bằng việc thi đấu thêm vài năm nữa ở các giải đấu dành cho thiếu niên. Cô và Rodriguez lại quyết định lập tức tham gia tranh đấu ở các giải thuộc hệ thống ITF (Các giải dành cho vận động viên chuyên nghiệp nhưng kém các giải thuộc hệ thống WTA Tour). Từ đó cho đến khi chính thức bắt đầu sự nghiệp vận động viên quần vợt chuyên nghiệp của mình vào năm 1999, Juju đã giành được 6 chức vô địch ITF đơn và 1 chức vô địch ở nội dung đánh đôi. Chức vô địch ITF thứ 7 cô giành được vào năm 2000 khi tham gia giải ở thành phố nơi cô sinh ra: Liege.
1999
Justine Henin tham gia giải đấu chuyên nghiệp thuộc hệ thống WTA Tour đầu tiên của mình tại Antwerpen, Bỉ vào tháng năm 1999 khi nhận được một xuất vé mời (Wild card) của ban tổ chức giải. Ngay lập tức, cô đã lọt vào trận chung kết trước khi đánh bại tay vợt người Pháp Sarah Pitkowski-Malcor để giành chức vô địch. Nhờ vậy Justine trở thành tay vợt thứ năm trong lịch sử giành chức vô địch một giải thuộc hệ thống WTA Tour ngay tại lần đầu tiên tham dự. Với thành tích này, cô có bước nhảy vọt trong bảng xếp hạng, từ vị trí thứ 178 trước khi tham dự giải, cô xếp thứ 106 sau chiến thắng tại Antwerpen.
Trong năm này, cô cũng lần đầu tiên khoác áo đội tuyển Bỉ thi đấu tại Fed Cup và giúp cho đội lọt vào bán kết của giải. Đồng thời Henin lần đầu tiên tham gia thi đấu tại một giải Grand Slam khi vượt qua vòng loại giải Pháp mở rộng và bốn tháng sau lọt thẳng vào vòng đấu chính của Mỹ Mở rộng.
2000
Năm 2000 là một năm kém may mắn đối với Henin. Juju bị chấn thương ở nửa đầu mùa giải khiến cô phải nghỉ thi đấu trong vòng hơn 4 tháng. Thành tích ấn tượng nhất của năm có lẽ là việc cô lọt vào vòng 4 của giải Mỹ mở rộng, sau khi đánh bại tay vợt hạt giống số 14, Anna Kournilova. Thành tích này cho phép cô lần đầu tiên lọt vào "Top 50" trong bảng xếp hạng của Hiệp hội quần vợt nữ.
2001
Justine Henin khởi đầu năm 2001 không thể nào ấn tượng hơn được. Cô dành liền hai chức vô địch tại hai giải đầu tiên mà mình tham gia là Gold Coast và Canberra. Nhưng nếu đem so sánh với những thành tích cô đạt được ở phần còn lại của năm thi hai chiến thắng này chưa thấm vào đâu. Đặc biệt là vào mùa hè 2001 khi cô liên tiếp lọt vào bán kết giải được xếp hạng Tier I, Berlin Open. Rồi bán kết giải Pháp mở rộng, vô địch giải 'S-Hertogenbosch và lọt vào trận chung kết Wimbledon. Những thành tích ấn tượng trên cho phép cô lọt vào "Top 10" WTA cũng như tham dự giải WTA Championships lần đầu tiên trong sự nghiệp.
Cô cũng là thành viên của đội tuyển Bỉ giành danh hiệu vô địch Cúp Fed năm 2001, danh hiệu đầu tiên trong lịch sử của đất nước nhỏ bé này.
2002
Năm thi đấu tương đối thành công của Justine Henin tuy cô không giành được danh hiệu nào nổi bật nào ngoài chiến thắng tại giải Tier I Berlin (chức vô địch một giải Tier I đầu tiên của cô). Việc thi đấu khá ổn định và thường xuyên lọt xâu vào các vòng đấu trong khiến Juju vững vàng trong top 10 và kết thúc năm 2002 ở vị trí thứ 5 trong bảng xếp hạng thế giới.
2003
Năm 2003 là năm Justine, bây giờ là bà Henin-Hardenne, khẳng định rằng mình có thể cạnh tranh danh hiệu số một thế giới. Có lẽ cô nhận thức được điều này khi lần đầu tiên trong sự nghiệp cô đánh bại Lindsay Davenport trong một trận đấu nghẹt thở kéo dài 3h13p, ở vòng 4 Úc Mở rộng, kết thúc với tỉ số 7–5, 5–7, 9–7. Tiếp nối thắng lợi đó, cô đã giành được những kết quả vô cùng ấn tượng để giành danh hiệu số một thế giới lần đầu tiên vào ngày 20 tháng 10 sau khi chiến thắng tại Zürich. Tổng kết toàn bộ năm 2003, cô đã chiến thắng tổng cộng 75 trận, chịu thua 11 lần. Lọt vào ít nhất là trận bán kết ở 18 giải trong tổng số 19 giải tham gia thi đấu. Juju giành được 8 danh hiệu vô địch trong đó có hai chức vô địch Grand Slam đầu tiên của cô sau chiến thắng tại các giải Pháp Mở rộng và Mỹ Mở rộng. Cô nhận được 3.667.430 $ tiền thưởng và ở tại ngôi vị số một thế giới vào tuần cuối cùng của năm.
2004
Henin khởi đầu năm 2004 cũng ấn tượng như năm 2003, thậm chí còn ấn tượng hơn, khi cô vô địch giải Úc Mở rộng và ba giải nhỏ nữa để trở thành tay vợt đạt được mức tiền thưởng 1 triệu U$ trong năm nhanh nhất trong lịch sử. Sau đó, một loạt vấn đề về sức khỏe khiến cô phải nghỉ thi đấu trong phần lớn thời gian còn lại của năm. Nhưng trong thời gian có thể thi đấu được, cô cũng kịp giành được một chiến thắng vô cùng ý nghĩa trong sự nghiệp khi dành huy chương vàng tại một kỳ Thế vận hội tại Athena 2004.
2005
Vận xui lại tiếp tục bám đuổi cô vào đầu năm 2005, trong một buổi tập chuẩn bị cho mùa giải mới, cô bị chấn thương đầu gối và phải nghỉ thi đấu ba tháng. Phải đến cuối tháng 3 Justine mới trở lại sân đấu tại Miami. Ngay lập tức, cô đã nhanh chóng dần lấy lại được phong độ cũ khi chỉ chịu thua Maria Sharapova ở trận tứ kết. Nhưng mùa giải trên sân đất nện của cô mới thực sự nổi bật, cô giành liên tiếp ba danh hiệu vô địch ở Charleston, Warszawa và Berlin trước khi đến Paris dự giải Pháp mở rộng. Năm nay, tại Roland Garros, dù rơi vào phần bảng rất khó tập trung đa số các chuyên gia sân đất nện nhưng tại giải Pháp mở rộng năm 2005 dường như không ai đủ sức chặn cô giành danh hiệu Grand Slam thứ tư của mình. Kết quả thắng Mary Pierce hai set cùng với tỉ số 6-1 là dẫn chứng hùng hồn nhất vì điều đó. Henin trở thành tay vợt thứ 4 trong lịch sử bất bại trên mặt sân đất nện kể cỏ khi tham dự giải Pháp mở rộng trong cùng một mùa giải. Mệt mỏi sau nhiều tháng thi đấu liên tục và gặp phải một chấn thương nhỏ, cô quyết định tới Wimbledon mà không có một trận đấu chuẩn bị nào trên mặt sân cỏ. Cô thua ngay tại vòng 1 và trở thành ĐKVĐ Roland Garros đầu tiên thua tại vòng một Wimbledon. Nửa sau của mùa giải kém may mắn hơn đối với Justine khi cô liên tiếp gặp phải những vấn đề nhỏ về sức khỏe, cô quyết định kết thúc mùa giải sớm vào tháng 10 và không tham dự WTA Championships dù đã đoạt đủ điểm để góp mặt.
2006
Từ rất lầu rồi Justine Henin mới có được một mùa giải thi đấu gần trọn vẹn như năm 2006. Cô đã không phụ lòng người hâm mộ khi giành lại được vị trí số một thế giới từ tay Amelie Mauresmo. Cô cũng trở thành một trong những tay vợt hiếm hoi lọt vào cả bốn trận chung kết Grand Slam trong cùng một năm. Cũng như trận chung kết giải WTA Championships mà cuối cùng cô giành chức vô địch. Thất bại đáng tiếc nhất của cô có lẽ là không giúp được đội Bỉ giành chức vô địch Fed Cup khi thua Italia ở trận chung kết. Nhìn lại cả năm, cô giành được 6 chức vô địch trong đó có một chức vô địch Grand Slam (Pháp mở rộng), cô cũng lần đầu vô địch giải WTA Championships, kiếm được 4.204.810 U$ tiền thưởng và thắng 60/68 trận đấu đã tham gia trong cả năm.
2007
Năm 2007, Justine Henin rút lui khỏi giải đấu đầu năm ở Sydney và sau đó là Úc mở rộng vì lý do gia đình. Tháng 2 cô trở lại, thi đấu rất thành công tại Doha Open và Dubai Open. Henin đã giành cả hai chức vô địch, đây cũng là năm thứ 4 cô chiến thắng tại Dubai, đánh bại Amelie Mauresmo của Pháp trong trận chung kết.
Vào tháng 3, Justine Henin lọt vào đến trận chung kết giải Miami, Mỹ, để thua tay vợt nước chủ nhà Serena Williams. Đây cũng là thành tích cao nhất của cô ở giải đấu này. Tiếp tục chuỗi thành công của mình, Henin giành chức vô địch tại Warsaw Open, giải đấu trên sân đất nện chuẩn bị cho French Open. Tiếp đến tại Berlin mở rộng, cô thi đấu cũng khá thành công, chỉ chịu gác vợt trước tay vợt Svetlana Kuznetsova 6-4 7-5 6-4 tại bán kết. Đây mới chỉ là thất bại thứ hai của Henin trong 16 lần 2 tay vợt này gặp nhau.
Henin khẳng định phong độ ấn tượng của mình khi vô địch giải Pháp mở rộng lần thứ ba liên tiếp, đồng thời vượt ngưỡng 15 triệu $ tiền thưởng trong toàn sự nghiệp thi đấu của mình. Đây cũng là lần thứ hai liên tiếp Henin không thua set nào tại Paris.
Sau tháng 5 thắng lợi tại Paris, cô sang Luân Đôn để bước vào cuộc chinh phục chức vô địch Grand Slam cuối cùng còn thiếu trong bảng thành tích của mình, Wimbledon. Sự chuẩn bị của cô khá tốt khi Henin giành chức vô địch tại Eastbourne cũng như lọt khá dễ dàng vào vòng tứ kết Wimbledon. Tại vòng đấu này, Justine có trận thử lửa đầu tiên, gặp Serena Williams, cô đã giành thắng lợi sau một trận đấu mà người hâm mộ đánh giá sẽ còn được nhắc lại trong nhiều năm nữa. Ở bán kết, đối thủ của cô là Marion Bartoli, một bất ngờ của giải, lần này, cô là người chịu thất bại sau khi để tay vợt trẻ người Pháp lội ngược dòng, lật ngược tình thế ở nửa cuối trận đấu.
Đấy cũng là thất bại cuối cùng của Henin trong năm 2007, lập lại thành tích của Steffi Graf năm 1989, với chuỗi 25 trận bất bại, vô địch cả năm giải đấu cuối cùng trong năm mà cô tham dự, trong đó có 1 chức vô địch Grand Slam, 1 chức vô địch WTA Championship và hai chức vô địch các giải Tier 1.
Tại giải Mỹ mở rộng, Henin giành được chức vô địch lần thứ hai khi hạ tay vợt Svetlana Kuznetsova (cựu vô địch giải này năm 2004) 6-1, 6-3 ở chung kết và không thua một set nào trong cả giải. Henin là người thứ hai hạ được cả hai chị em nhà Williams (Serena ở tứ kết và Venus ở bán kết) trong một giải Grand Slam (sau Martina Hingis năm 2001 tại giải Úc mở rộng).
Henin kết thúc năm ở ngôi vị số 1 thế giới sau khi lần thứ hai liên tiếp đăng quang tại giải WTA Championship sau khi vượt tay vợt người Nga Maria Sharapova trong trận chung kết kéo dài 3 giờ 24 phút (5-7,7-5,6-3) và là danh hiệu thứ 10 trong năm của cô. Henin trở thành tay vợt nữ đầu tiên giành được hơn 5 triệu đô la tiền thưởng trong năm, vượt qua kỉ lục cũ của người đồng hương Kim Clijster năm 2003 (gần 4,5 triệu).
2007 là một năm thành công của Henin, với 10 danh hiệu cá nhân (trong đó có 2 Grand Slam và WTA Championship), số tiền thưởng kỉ lục và vững vàng ở ngôi vị số 1 thế giới.
Giải nghệ
Ngày 14 tháng 5 năm 2008 Henin tuyên bố giải nghệ và yêu cầu Hiệp hội quần vợt nữ rút tên cô ra khỏi bảng xếp hạng quốc tế. Đây là một điều ngạc nhiên vì cô đang đứng vị trí số 1 trên thế giới và ứng cử viên sáng giá cho chức vô địch giải Pháp Mở Rộng năm 2008, giải đấu mà cô đã 3 lần vô địch.
Tuyên bố trở lại
Ngày 23 tháng 9 năm 2009, Henin tuyên bố sẽ trở lại tranh giải sau 16 tháng giải nghệ.
Giải nghệ lần 2
Ngày 26 tháng 1 năm 2011, Henin tuyên bố giải nghệ dứt khoát do chấn thương khuỷu tay của cô từ giải Wimbledon trước đã trở nên trầm trọng hơn.
Giải thưởng
2003
Vận động viên thể thao Bỉ của năm.
Vô địch thế giới ITF.
2004
Tay vợt WTA của năm (cho năm 2003).
Vận động viên thể thao Bỉ của năm.
Chung kết Grand Slam đơn nữ đã tham dự
Vô địch (7)
Thua ở trận chung kết (4)
Chung kết giải WTA Tour Championships đơn nữ đã tham dự
Vô địch (2)
Chung kết các giải WTA Tour đã tham dự
Vô địch (43)
Các danh hiệu ITF
Các chức vô địch ITF nội dung đơn nữ
Các chức vô địch ITF nội dung đôi nữ |
Khủng long là một nhóm bò sát thuộc nhánh Dinosauria, xuất hiện lần đầu vào kỷ Tam Điệp khoảng 243 - 233,23 triệu năm trước đây, mặc dù nguồn gốc chính xác và các mốc thời gian trong quá trình tiến hóa của chúng hiện vẫn đang tiếp tục được đào sâu nghiên cứu. Kể từ sau sự kiện tuyệt chủng Tam Điệp-Jura (201,3 triệu năm trước), khủng long trở thành nhóm động vật có xương sống chiếm ưu thế nhất xuyên suốt qua kỷ Jura cho đến cuối kỷ Phấn Trắng, khi sự kiện tuyệt chủng Phấn Trắng-Cổ Cận (66 triệu năm trước) làm tuyệt chủng hầu hết các nhóm khủng long và 3/4 các loài động vật, thực vật trên Trái Đất (trong đó đa số các loài bò sát khổng lồ bao gồm khủng long bị thiệt hại nặng nề nhất, các loài cá và lưỡng cư ít bị thiệt hại), sự kiện tuyệt chủng này đánh dấu sự kết thúc Đại Trung Sinh và bắt đầu Đại Tân Sinh. Các ghi nhận hóa thạch cho thấy chim đã tiến hóa từ khủng long có lông vũ, tiến hóa từ một nhóm lớn hơn là khủng long chân thú vào thế Jura muộn, và vài loài chim đã sống sót sau sự kiện tuyệt chủng 66 triệu năm trước rồi tiếp tục phát triển đa dạng như hiện nay. Do đó, chim là hậu duệ duy nhất còn sót lại ngày nay của khủng long, và khủng long vẫn chưa tuyệt chủng hoàn toàn như vẫn thường được nói mà một nhánh con cháu của chúng vẫn còn tồn tại đến tận ngày nay. Khủng long vì thế có thể được chia thành hai loại là khủng long phi điểu (tức là tất cả các loại khủng long khác chim) và chim.
Khủng long là một nhóm đa dạng từ phân loại sinh học, hình thái đến sinh thái. Chim, với hơn 10,000 loài còn sinh tồn, là nhóm động vật có xương sống đa dạng nhất ngoài bộ Cá vược. Theo các bằng chứng hóa thạch, các nhà cổ sinh đã nhận ra 500 chi và hơn 1000 loài khủng long phi điểu. Khủng long có mặt ở khắp các châu lục, qua những loài hiện còn (chim) cũng như những hóa thạch còn sót lại. Suốt nửa đầu của thế kỷ XX, trước khi chim được xem là khủng long, hầu hết cộng đồng khoa học tin rằng khủng long là động vật chậm chạp và biến nhiệt. Tuy nhiên hầu hết các nghiên cứu những năm 1970 đã chỉ ra rằng khủng long là động vật hoạt động tích cực với khả năng trao đổi chất cao và thích nghi tốt cho quan hệ xã hội. Một số ăn thực vật, số khác ăn thịt. Có bằng chứng cho thấy tất cả khủng long đều đẻ trứng, và xây tổ là một đặc điểm phụ của tất cả khủng long, cả chim lẫn phi điểu.
Tổ tiên khủng long đi bằng hai chân. Tuy thế rất nhiều chi khủng long đi bằng bốn chân, và một số chi có thể thay đổi giữa 2 dạng. Cấu trúc sừng và mào là phổ biến ở tất cả các nhóm khủng long, và vài nhóm thậm chí còn phát triển các biến đổi bộ xương như giáp mô hoặc gai. Trong khi khủng long hiện đại (chim) khá nhỏ để thuận tiện cho việc bay lượn (tất nhiên vẫn có một vài loài chim không thể bay), nhiều loài khủng long có cơ thể rất lớn. Chi khủng long chân thằn lằn lớn nhất có thể đạt tới chiều dài và chiều cao. Dù vậy, ý nghĩ rằng khủng long đa số đều to lớn là sai lầm, vì hóa thạch lớn có khuynh hướng được giữ lâu hơn. Nhiều chi khủng long khá là nhỏ, vi dụ Xixianykus chỉ dài khoảng .
Kể từ khi hóa thạch khủng long lần đầu tiên được ghi nhận trong những năm đầu thế kỷ XIX, khủng long đã trở thành một phần của văn hóa đại chúng và bộ xương hoặc mô hình hóa thạch của chúng là các điểm thu hút khách tham quan ở các viện bảo tàng. Kích thước khổng lồ của một số nhóm khủng long, cũng như bản chất có vẻ huyền bí và quái vật, đã đảm bảo cho sự xuất hiện của chúng trong những quyển sách và bộ phim bán chạy nhất như Jurassic Park. Sự nhiệt tình của công chúng đã dẫn đến các tài trợ đáng kể cho nghiên cứu khủng long, và những khám phá mới thường xuyên được cập nhật bởi các phương tiện truyền thông.
Từ nguyên
"Khủng long" (được người Việt dịch ra từ tiếng Trung 恐龍) là từ Hán-Việt có nghĩa là "rồng lớn". Đơn vị phân loại Dinosauria được nhà cổ sinh học Sir Richard Owen định nghĩa chính thức năm 1842 là "một tộc riêng hoặc phân bộ của bò sát Sauria", một nhóm các động vật được chấp nhận ở Anh và trên thế giới lúc bấy giờ. Tên có nguồn gốc . Mặc dù cái tên này thường được giải thích là có liên quan đến răng, móng vuốt hoặc những đặc điểm đáng sợ khác của khủng long, theo Owen nó đơn thuần chỉ để gợi lên kích thước và vẻ oai vệ của chúng.
Nhiều loại bò sát tiền sử khác như dực long, thương long, thằn lằn cá, thằn lằn đầu rắn và Dimetrodon cũng được công chúng thường coi là khủng long, nhưng thực ra là không phải. Dực long, là thành viên của nhánh Ornithodira, là họ hàng xa của khủng long. Các nhóm khác kể trên, cũng như khủng long và dực long, là thành viên của nhóm bò sát Sauropsida (nhánh 2 cung bên, gồm các loài bò sát và chim hiện nay), còn Dimetrodon thuộc nhóm Synapsida (nhánh một cung bên, tiến hóa thành thú có vú hiện nay).
Định nghĩa
Theo phương pháp phát sinh loài, khủng long thường được định nghĩa là nhóm động vật bao hàm tổ tiên chung gần đây nhất (MRCA) của Triceratops và chim, cũng như tất cả các hậu duệ của chúng. Có ý kiến cho rằng Dinosauria nên được định nghĩa trong tương quan với MRCA của Megalosaurus và Iguanodon, bởi lẽ đây là hai trong số ba chi phân loài được Richard Owen trích dẫn khi ông công nhận nhánh Dinosauria. Cả hai cách định nghĩa đều dẫn đến cùng một công thức phân loại: "Dinosauria = Ornithischia + Saurischia"; trong đó bao gồm các dòng dõi khủng long thấp hơn như: Ankylosauria (khủng long bọc giáp, ăn cỏ, đi đứng bằng bốn chân), Stegosauria (khủng long phiến sừng, ăn cỏ, đi đứng bằng bốn chân), Ceratopsia (khủng long có diềm cổ, ăn cỏ, đi đứng bằng hai hoặc bốn chân), Pachycephalosauria (khủng long sọ cứng, ăn cỏ, đi đứng bằng hai chân), Ornithopoda (khủng long ăn cỏ, đi đứng bằng hai hoặc bốn chân, bao gồm khủng long "mỏ vịt"), Theropoda (hầu hết là khủng long ăn thịt, và chim), và Sauropodomorpha (khủng long ăn cỏ, đi đứng bằng bốn chân, cổ và đuôi dài).
Chim hiện được công nhận là dòng dõi duy nhất còn tồn tại của khủng long. Theo phân loại truyền thống, chim được coi là một lớp động vật khác biệt đã tiến hóa từ khủng long, vốn lại một liên bộ riêng biệt. Tuy nhiên, phần lớn giới cổ sinh vật học đương đại bác bỏ cách phân loại truyền thống, mà thay vào đó phân loại theo lối phát sinh chủng loài; cách tiếp cận này đòi hỏi rằng, để một nhóm được coi là hợp lệ, tất cả hậu duệ của các loài thành viên cũng phải được quy vào nhóm. Vậy nên, chim được coi là khủng long và khủng long, do đó, chưa tuyệt chủng. Chim được xếp vào phân nhóm Maniraptora, thuộc nhánh Coelurosauria, phân bộ Therapoda, bộ Saurischia.
Nghiên cứu năm 2017 của Matthew Baron, David B. Norman và Paul M. Barrett đã đề xuất một thay đổi căn bản đối với hệ thống phân loài khủng long. Phân tích phát sinh chủng loại của Baron et al. đã phục hồi giả thuyết cho rằng Ornithischia gần gũi hơn với Therapoda khi so với Sauropodomorpha, trái ngược với kiểu gộp Therapoda và Sauropodomorpha cổ điển. Tuy nhiên, điều này sẽ khiến nhóm Sauropoda và hậu duệ của chúng không còn được tính là khủng long, vậy nên nhóm tác giả đã phải định nghĩa lại Dinosauria là tổ tiên chung cuối cùng của Triceratops horridus, Passer localus và Diplodocus carnegii, cũng như tất cả các hậu duệ của chúng. Họ đồng thời hồi sinh thuật ngữ Ornithoscelida để chỉ gộp Ornithischia và Theropoda.
Mô tả chung
Sử dụng một trong những định nghĩa trên, khủng long có thể được mô tả chung là những động vật thuộc nhóm Archosauria có chân sau duỗi thẳng bên dưới cơ thể khi đứng. Các nhóm bò sát tiền sử thường bị ngộ nhận là khủng long, mặc dù không chính xác, bao gồm: thằn lằn cá, thằn lằn sông, thằn lằn cổ rắn, dực long và pelycosauria (đặc biệt là chi Dimetrodon). Dực long là họ hàng xa của khủng long vì chúng cùng thuộc nhánh Ornithodira. Các nhóm còn lại, giống khủng long và dực long, đều thuộc nhánh Sauropsida (gồm bò sát và chim), ngoại trừ Dimetrodon thuộc nhánh Synapsida. Tất cả các nhóm kể trên có dáng đứng chi sau khác hoàn toàn khi so với khủng long thật sự.
Khủng long là động vật có xương sống phổ biến nhất trên Trái Đất vào Đại Trung Sinh, đặc biệt là trong kỷ Jura và kỷ Phấn Trắng. Các loài động vật khác bị hạn chế về kích thước và hốc sinh thái trong thời kỳ này; như động vật có vú chẳng hạn, hiếm khi đạt được kích thước của một con mèo nhà, hầu hết đều nhỏ nhắn và săn những con mồi tí hon. Khủng long là một nhóm động vật rất đa dạng và phong phú; tính đến năm 2018, hơn 900 chi khủng long phi điểu đã được xác định và tổng số chi được lưu lại trong bản ghi khảo cổ được ước tính vào khoảng 1850, gần 75% trong đó chưa được khám phá, và 1124 loài tính đến năm 2016. Một nghiên cứu năm 1995 suy đoán rằng, từng tồn tại 3.400 chi khủng long khác nhau trên thế giới, tính cả các loài không được lưu giữ trong bản ghi khảo cổ.
Năm 2016, số lượng loài khủng long tồn tại trong Đại Trung Sinh được ước tính rơi vào khoảng 1.543–2.468. Năm 2021, số lượng loài chim hiện đại được ước tính vào khoảng 10.806. Mặc dù tổ tiên chúng đi đứng bằng hai chân, một số loài khủng long đã phát triển dáng đi đứng bằng bốn chân; một số khác, như Anchisaurus và Iguanodon chẳng hạn, còn có thể chuyển dáng đi từ hai chân sang bốn chân. Các đặc điểm kiểu hình như sừng và mào xuất hiện rất phổ biến ở khủng long, một số thậm chí sở hữu giáp xương. Dù nổi tiếng về kích thước cơ thể khổng lồ, nhiều loài khủng long Đại Trung Sinh trên thực tế chỉ to bằng con người hoặc có khi còn bé hơn. Khủng long sinh sôi nảy nở ở nhiều nơi và bằng chứng hóa thạch cho thất phạm vi sống của chúng đã trải rộng khắp thế giới kể từ thế Jura sớm. Có bằng chứng chứng tỏ nhiều loài khủng long phi điểu, như Microraptor chẳng hạn, có khả năng bay hoặc ít nhất là liệng, và một số khác, như họ Spinosauridae chẳng hạn, có tập tính bán thủy sinh.
Đặc điểm giải phẫu
Mặc dù các khám phá gần đây đã khiến việc trình bày một bản danh sách các đặc điểm riêng biệt được thống nhất phổ quát của khủng long trở nên khó khăn hơn bao giờ hết, song hầu như tất cả các loài khủng long được phát hiện tới nay đều chia sẻ một số điểm đột biến nhất định khi so với tổ tiên chung của chúng. Một số nhóm khủng long về sau còn phát triển nhiều đặc điểm tách biệt, song vẫn bắt nguồn từ những đặc điểm tổ tiên mà được coi là điển hình của Dinosauria. Thuật ngữ để chỉ các đặc điểm như vậy là kiểu hình dẫn xuất chia sẻ (synapomorphy).
Năm 2011, nhà cổ sinh vật học Sterling Nesbitt liệt kê mười hai đặc tính dẫn xuất chia sẻ chung sau đây của nhánh Archosauria:
Ở hộp sọ, phía trước cửa sổ trên thái dương (supratemporal fenestra) còn có hố trên thái dương (supratemporal fossa).
Các mỏm lồi đốt cổ (epipophysis) hiện diện ở các đốt cổ nằm sau đốt đội (atlas) và đốt trục (axis).
Đỉnh của chỏm delta-ngực, tức mỏm xương chĩa ra để cung cấp chỗ bám cho cơ delta-ngực (deltopectoral), có thể nằm ở bất cứ vị trí nào kể từ khoảng 30% chiều dài của xương cánh tay.
Xương quay (radius) ngắn hơn hoặc bằng 80% xương cánh tay (humerus).
Mẩu chuyển thứ tư (fourth trochanter), tức mỏm xương chĩa ra để cung cấp chỗ bám cho cơ đùi-đuôi (caudofemoralis), trên xương đùi là một gờ nổi.
Mẩu chuyển thứ tư bất đối xứng, với rìa xa, thấp, tạo thành một góc dốc so với trục.
Trên xương sên (astragalus) và xương gót (calcaneum), xương mắt cá chân trên, mặt khớp gần nhất, bề mặt kết nối trên, của xương mác (fibula) chiếm ít hơn 30% chiều rộng của phần tử.
Các xương ngoài chẩm (exoccipital) ở phía sau hộp sọ không gặp nhau tại đường dọc đường giữa trên nền khoang nội sọ.
Ở khung chậu, các bề mặt khớp gần gốc đốt háng (ischium) với xương chậu (ilium) và xương mu (pubis) bị ngăn cách bởi một bề mặt lõm lớn (ở phía trên của đốt háng, một phần của khớp hông mở nằm giữa các tiếp xúc với xương mu và xương chậu).
Cạnh sống xương chày (cnemial crest) cong theo hướng trước-bên (anterolaterally).
Dãy lồi định hướng gần theo chiều từ trục chính giữa cơ thể ra xa (proximodistally) khác biệt hiện diện ở mặt sau của cuống xương chày xa.
Mặt khớp giữa xương mác và xương gót, tức bề mặt trên cùng của xương gót nối với xương mác, lõm xuống.
Nesbitt đồng thời bác bỏ một số kiểu hình dẫn xuất chung được đề xuất trước đó, những đặc điểm vốn có mặt ở cả họ Silesauridae, được ông phục hồi như một nhóm chị em của Dinosauria. Những đặc điểm này bao gồm một mẩu chuyển trước lớn, khối xương bàn chân II và IV có chiều dài không đều nhau, tiếp xúc giữa đốt háng và xương mu bị tiêu giảm, đỉnh cạnh sống hiện diện trên xương chày và mỏm từ dưới lên của xương sên, v.v.
Ngoài ra, một loạt các đặc điểm trên bộ xương khác được chia sẻ bởi các loài khủng long. Tuy nhiên, vì chúng là điểm chung của nhiều nhóm thằn lằn chúa khác hoặc không xuất hiện trong các loài khủng long thời kỳ đầu, những đặc điểm này không được coi là dẫn xuất chung. Ví dụ, ở động vật Hai cung bên, tổ tiên khủng long có hai cặp cửa sổ thái dương (các lỗ ở hộp sọ phía sau ổ mắt) và là thành viên của nhóm Hai cung bên Thằn lằn chúa, có thêm các lỗ mở ở mõm và hàm dưới. Ngoài ra, một số đặc điểm từng được cho là dẫn xuất chung hiện được biết là đã xuất hiện trước cả khủng long, hoặc vắng mặt ở những con khủng long sớm nhất và tiến hóa độc lập bởi các nhóm khủng long khác nhau. Chúng bao gồm một xương bả vai kéo dài, một xương cùng bao gồm ba hoặc nhiều đốt sống hợp nhất (ba được tìm thấy trong một số thằn lằn chúa khác, nhưng chỉ có hai được tìm thấy ở Herrerasaurus); và một ổ cối mở, hoặc ổ cắm hông, có một lỗ ở giữa ở bề mặt bên trong của nó (đóng vào ở Saturnalia). Một khó khăn khác trong việc xác định các đặc điểm chung của khủng long là khủng long sơ khai và các loài săn mồi khác từ thế Đệ Tam muộn thường được biết đến rất ít và giống nhau theo nhiều cách; những con vật này đôi khi bị xác định sai trong nhiều tài liệu.
Khủng long đứng với chân sau dựng đứng theo cách tương tự như hầu hết các động vật có vú hiện đại, khác biệt với hầu hết các loài bò sát khác có tư thế chân nằm ngang. Tư thế này xuất hiện là do sự phát triển của một ngách ở mặt bên trong khung chậu (thường là một ổ mở) và một đầu khác biệt hướng vào bên trong nằm trên xương đùi. Tư thế duỗi thẳng cho phép những con khủng long nguyên thủy dễ hô hấp hơn trong khi đang di chuyển, tăng sức chịu đựng và mức độ hoạt động vượt qua những loài bò sát xoải chân. Tay chân duỗi thẳng có lẽ đã hỗ trợ sự tiến hóa của kích thước cơ thể lớn bằng cách giảm lực uốn cong lên các chi. Một số thằn lằn chúa không phải khủng long, bao gồm rauisuchian, cũng có chân tay duỗi thẳng nhưng đạt được điều này nhờ cấu hình "trụ cột" của khớp hông, trong đó thay vì xương đùi chèn vào ổ cắm trên hông, xương chậu được xoay lại để tạo thành một kệ nhô ra.
Lịch trình tiến hóa
Nguồn gốc và sự tiến hóa sớm
Khủng long phân nhánh từ tổ tiên của chúng, một loài bò sát thuộc nhóm Archosauria, vào khoảng 230 triệu năm trước, trong khoảng Thế Tam Điệp giữa đến muộn, gần 20 triệu năm sau sự kiện tuyệt chủng Permi–Trias quét sạch khoảng 96% dạng sống dưới nước và 70% dạng sống có xương trên cạn. Độ tuổi của các thành hệ chứa hóa thạch của chi Eoraptor rơi vào khoảng 231.4 triệu năm. Các nhà cổ sinh vật học cho rằng Eoraptor sở hữu nhiều đặc điểm của tổ tiên chung của tất cả các loài khủng long; nếu đây là sự thật thì nó chỉ ra rằng những con khủng long đầu tiên đều là những săn mồi cỡ nhỏ đi bằng hai chân. Việc phát hiện ra các ornithodiran nguyên thủy giống khủng long như Marasuchus và Lagerpeton thuộc tầng đá có tuổi Tam Điệp trung ở Argentina chứng minh cho quan điểm này; phân tích những hóa thạch được phục dựng lại cho thấy rằng những động vật này là các loài săn mồi cỡ nhỏ đi bằng hai chân. Tuy vậy, khủng long có thể đã xuất hiện sớm hơn nữa, vào khoảng 243 triệu năm trước, dựa trên các mảnh hóa thạch còn sót lại của chi Nyasasaurus, tuy vậy những mảnh xương này đã bị biến dạng quá nhiều, khiến cho việc xác định nó có quan hệ thế nào với khủng long thành ra không chắc chắn.
Khi khủng long lần đầu tiên xuất hiện, chúng chưa phải là loài động vật có xương sống chiếm ưu thế. Các lục địa bấy giờ bị chiếm lĩnh bởi nhiều loài archosauria và thuộc Bộ Cung thú khác như aetosauria, cynodontia, ornithosuchidae, rauisuchia, và rhynchosauria. Hầu hết các nhóm này đã tuyệt chủng trong kỷ Tam Điệp thuộc một trong 2 làn sóng tuyệt chủng. Làn sóng đầu tiên, vào khoảng ranh giới giữa các tầng động vật Carnian và Norian (khoảng 215 triệu năm trước), nhánh gốc của archosauromorpha bao gồm các protorosaur bị tuyệt chủng. Tiếp theo đó là giai đoạn tuyệt chủng Trias-Jura (khoảng 200 triệu năm trước), hầu hết các nhóm thằn lằn chúa thời kỳ đầu như aetosauria, ornithosuchidae, phytosauria, và rauisuchia bị tuyệt chủng. Sự mất mát này để lại một hệ động vật trên cạn gồm crocodylomorpha (nhánh chứa cá sấu sau này), khủng long, thú, pterosauria, và rùa. Dòng dõi mới của khủng long ban đầu đa dạng hóa qua các tầng động vật Carnian và Norian trong kỷ Trias bằng cách chiếm các hốc sinh thái của các nhóm đã tuyệt chủng. ...
Tiến hóa và cổ địa sinh học
Sự tiến hóa của khủng long hậu Tam Điệp đi kèm theo những thay đổi của thảm thực vật và vị trí của các lục địa. Vào kỷ Tam Điệp muộn và kỷ Jura sớm, các khối đất liền ghép với nhau tạo thành một lục địa Pangea duy nhất, và hệ động vật của thế giới chủ yếu bao gồm các loài ăn thịt coelophysoidea và các loài ăn cỏ sauropodomorph sớm. Thực vật hạt trần (đặc biệt là cây lá kim), một nguồn thức ăn tiềm năng, phát triển trong thế Tam Điệp muộn. Các sauropodomorph nguyên thủy không có cơ chế tinh vi để nghiền thức ăn trong miệng, và do đó phải sử dụng phương pháp khác để băm nhỏ thức ăn trong hệ tiêu hóa. Sự đồng nhất tổng quát của các loài khủng long vẫn tiếp tục trong kỷ Jura giữa và muộn, các địa phương hầu hết đều có động vật ăn thịt lớn bao gồm Ceratosauria, đại long và Carnosauria và các loài khủng long hông chim, khủng long phiến sừng và khủng long chân thằn lằn lớn ăn thực vật. Ví dụ bao gồm thành hệ Morrison tại Bắc Mỹ và các thềm Tendaguru tại Tanzania. Khủng long ở Trung Quốc có một số khác biệt, với các loài khủng long chân thú sinraptorid chuyên biệt và các loài khủng long cổ dài khác thường như Mamenchisaurus. Khủng long bọc giáp và khủng long chân chim cũng trở nên phổ biến hơn, trong khi các chuẩn bản long (tổ tiên khủng long chân thằn lằn) tuyệt chủng. Cây lá kim và pteridophyte là những loài thực vật phổ biến nhất. Khủng long chân thằn lằn, giống như chuẩn bản long trước đây, không nghiền lá cây cỏ bằng miệng. Các loài khủng long hông chim bấy giờ đã phát triển các cách thức khác nhau để xử lý thức ăn trong miệng, bao gồm các cơ quan giống như má để giữ thức ăn trong mồm và các chuyển động hàm thích hợp để nghiền thức ăn. Một sự kiện tiến hóa đáng chú ý khác trong kỷ Jura là sự xuất hiện của những loài chim thực sự, có nguồn gốc từ nhánh khủng long đuôi rỗng maniraptora.
Vào kỷ Phấn trắng sớm, Pangea bắt đầu phân tách ra. Khủng long theo đó mà trở nên đa dạng hơn bao giờ hết. Phần đầu của thời đại này đã chứng kiến sự mở rộng của các loài khủng long vận giáp, iguanodontia và brachiosaurid tại châu Âu, Bắc Mỹ và phía bắc châu Phi. Những nhóm này sau đó bị thay thế ở châu Phi bằng các khủng long chân thú khác như các đại long xương gai và dị long răng cá mập lớn, và các khủng long chân thằn lằn như họ Rebbachisauridae và nhóm Titanosauria, cũng được tìm thấy ở Nam Mỹ. Ở châu Á, khủng long đuôi rỗng maniraptor, các khủng long chạy nhanh, các điểu long răng khía và các oviraptorosauria trở nên phổ biến, và các khủng long vận giáp và khủng long mặt sừng sớm như Psittacosaurus trở thành các động vật ăn cỏ chủ chốt. Trong khi đó, Úc là nơi cư trú của một số loài khủng long vận giáp nguyên thủy, họ Hypsilophodont và các iguanodontia. Các khủng long phiến sừng dường như đã tuyệt chủng vào một thời điểm nào đó trong kỷ Phấn trắng sớm hoặc Phấn trắng muộn sớm. Một thay đổi lớn trong kỷ Phấn trắng sớm, sẽ được khuếch đại vào cuối kỷ Phấn trắng, là sự tiến hóa của thực vật có hoa. Đồng thời, một số nhóm khủng long ăn cỏ đã phát triển những cách thức tinh vi hơn để tiêu hóa thức ăn. Những khủng long đầu giáp đã phát triển một phương pháp cắt lát với những chiếc răng xếp chồng lên nhau trong một khối răng, và những loài iguanodontia phát triển một phương pháp mài bằng khối răng, được nâng cấp ở các khủng long mỏ vịt. Một số loài khủng long chân thằn lằn cũng tiến hóa khối răng, được minh họa tốt nhất ở loài Nigersaurus.
Có ba hệ động vật khủng long chính vào cuối kỷ Phấn trắng. Ở các lục địa phía bắc của Bắc Mỹ và Châu Á, các khủng long chân thú chủ chốt là các bạo long chuẩn và nhiều loại maniraptora nhỏ khác nhau, với các loài động vật ăn cỏ chủ yếu là khủng long hông chim gồm mỏ vịt, mặt sừng, vận giáp và đầu dày. Ở các lục địa phía nam từng tạo nên lục địa Gondwana đang bị chia tách, các abelisaurid là loài khủng long chân thú phổ biến và các titanosauria là động vật ăn cỏ phổ biến. Cuối cùng, ở châu Âu, khủng long chạy nhanh, rhabdodontid, giáp long xương kết, và loài titanosauria là phổ biến. Thực vật có hoa phát xạ tiến hóa cao, với những đám cỏ đầu tiên xuất hiện vào cuối kỷ Phấn trắng. Các loài hadrosaurid ăn nghiền và ceratopsia ăn cắt thực vật trở nên vô cùng đa dạng trên khắp Bắc Mỹ và Châu Á. Khủng long chân thú cũng phát xạ tiến hóa thành các loài ăn cỏ hoặc ăn tạp, với các loài therizinosauria và ornithomimosauria trở nên phổ biến hơn.
Sự kiện tuyệt chủng kỷ Phấn Trắng - Cổ Cận, xảy ra vào khoảng 66 triệu năm trước, giết chết tất cả các nhóm khủng long ngoại trừ các loài chim neornithine. Một số nhóm Hai cung thú khác, chẳng hạn như cá sấu, sebecosuchia, rùa, thằn lằn, rắn, sphenodontia, và choristodera, cũng sống sót sau sự kiện này.
Các dòng dõi còn sót lại của các loài chim neornithine, bao gồm tổ tiên của các loài ratite (các loài chim lớn không bay), điểu cầm hiện đại, và một loạt các loài chim nước, đa dạng hóa nhanh chóng vào đầu kỷ Cổ Cận, chiếm các hốc sinh thái bị bỏ trống bởi sự tuyệt chủng của loài khủng long đại Trung Sinh ví dụ như các enantiornithine sống trên cây, hesperornithes thủy sinh, và thậm chí thay thế cả các loài khủng long chân thú trên cạn lớn (dưới dạng Gastornis, eogruiid, Bathornithid, ratite, geranoidid, mihirung và "chim khủng bố"). Người ta thường viện dẫn rằng các động vật có vú cạnh tranh với các neornithine để thống trị các hốc sinh thái trên cạn nhưng nhiều nhóm trong số này cùng tồn tại ôn hòa với các động vật có vú phong phú trong hầu hết đại Tân Sinh. Những con chim khủng bố và Bathornithid chiếm các hốc ăn thịt cùng với các động vật có vú ăn thịt, và rattie vẫn khá thành công trong vai trò là động vật ăn cỏ cỡ trung bình; eogruiid tương tự kéo dài từ thế Thủy Tân đến thế Thượng Tân, chỉ bị tuyệt chủng rất gần đây sau hơn 20 triệu năm cùng tồn tại với nhiều nhóm động vật có vú.
Phân loại
Khủng long là archosauria (thằn lằn chúa), nhóm bao gồm cá sấu hiện đại. Trong nhóm archosauria, khủng long được phân biệt chủ yếu bởi dáng đi của chúng. Chân khủng long ở ngay dưới cơ thể chúng, trong khi chân thằn lằn và cá sấu chỉa ra sang hai bên.
Nói chung, khủng long là một nhánh được chia thành hai phần Saurischia và Ornithischia. Saurischia gồm các loài khủng long có chung tổ tiên gần với chim hơn Ornithischia, trong khi Ornithischia có chung tổ tiên với Triceratops hơn Saurischia. Về mặt giải phẫu, hai nhóm này có thể được phân biệt rõ rệt nhất bởi cấu trúc xương chậu của chúng. Saurischia thời kỳ đầu - "hông thằn lằn", từ tiếng Hy Lạp sauros (σαῦρος) có nghĩa là "thằn lằn" và ischion (ἰσχίον) có nghĩa là "khớp hông" - giữ lại cấu trúc hông tổ tiên của chúng, với xương mu hướng về phía trước. Hình thức cơ bản này đã được sửa đổi bằng cách xoay các xương mu về phía sau ở các mức độ khác nhau trong một số nhóm (Herrerasaurus, Therizinosauroid, và chim). Saurischia bao gồm các loài khủng long chân thú (đi bằng hai chân và với nhiều chế độ ăn khác nhau) và khủng long dạng chân thằn lằn (động vật ăn cỏ cổ dài bao gồm các nhóm bốn chân tiên tiến).
Ngược lại, Ornithischia - "hông chim", từ tiếng Hy Lạp ornitheios (ὀρνίθειος) nghĩa là "thuộc về chim" và ischion (ἰσχίον) có nghĩa là "khớp hông" - có một cấu trúc khung chậu trông giống ở chim: xương mu định hướng chĩa ra sau. Không giống như các loài chim, Ornithischia cũng thường có một mỏm xương hướng về phía trước. Ornithischia bao gồm nhiều loài chủ yếu là động vật ăn cỏ. (chú thích: thuật ngữ "hông thằn lằn" và "hông chim" là những cách hiểu sai - loài chim tiến hóa từ khủng long với "hông thằn lằn".)
Phân loại
Phân loại rút gọn dưới đây của các nhóm khủng long dựa trên quan hệ tiến hóa, sắp xếp dựa trên danh sách khủng long Đại Trung Sinh của Holtz (2008).
† biểu thị cho nhóm không còn thành viên sinh tồn.
Dinosauria
Saurischia ("hông thằn lằn"; bao gồm Theropoda và Sauropodomorpha)
†Herrerasauria (khủng long ăn thịt đi hai chân sớm)
Theropoda (tất cả đi hai chân; hầu hết ăn thịt)
†Coelophysoidea (nhỏ, khủng long chân thú sớm, gồm Coelophysis và họ hàng)
†Dilophosauridae (có mào, khủng long chân thú ăn thịt sớm)
†Ceratosauria (có sừng, thú ăn thịt hàng đầu của các lục địa phía Nam trong kỷ Phấn Trắng)
Tetanurae ("đuôi cứng"; bao gồm hầu hết khủng long chân thú)
†Megalosauroidea (nhóm khủng long khổng lồ ăn thịt sớm)
†Carnosauria (Allosaurus và họ hàng)
Coelurosauria (nhóm khủng long có lông vũ, kích thước đa dạng và chiếm nhiều hốc sinh thái)
†Compsognathidae (coelurosauria sớm phổ biến với chi trước ngắn đi)
†Tyrannosauridae (Tyrannosaurus và họ hàng, chi trước ngắn)
†Ornithomimosauria ("giống như đà điểu"; hầu hết không có răng, có thể ăn thịt hoặc cỏ)
†Alvarezsauroidea (ăn côn trùng, chi trước có vuốt lớn)
Maniraptora ("bắt bằng tay"; có tay với ngón tay gầy và dài)
†Therizinosauria (ăn cỏ, sở hữu các móng vuốt lớn và cái đầu nhỏ)
†Oviraptorosauria (hầu hết không có răng, lối sống và thức ăn chưa rõ ràng)
†Archaeopterygidae (khủng long có cánh hoặc chim nguyên thủy)
†Deinonychosauria (cỡ nhỏ đến trung bình, giống chim, ăn thịt và có vuốt to ở chân)
Avialae (chim hiện đại và họ hàng đã tuyệt chủng)
†Scansoriopterygidae (avialan sơ khai cỡ nhỏ, có ba móng vuốt ở chi trước)
†Omnivoropterygidae (avialan sơ khai cỡ lớn, đuôi nhỏ)
†Confuciusornithidae (avialan cỡ nhỏ không có răng)
†Enantiornithes (avialan sơ khai sống trên cây, biết bay)
Euornithes (chim biết bay tân tiến)
†Yanornithiformes (chim kỷ Phấn Trắng ở Trung Quốc có răng)
†Hesperornithes (chim lặn)
Aves (chim hiện đại)
†Sauropodomorpha (ăn thực vật với đầu nhỏ, cổ và đuôi dài)
†Guaibasauridae (nhỏ, sơ khai, ăn tạp)
†Plateosauridae (sơ khai, đi bằng hai chân)
†Riojasauridae (sơ khai, nhỏ)
†Massospondylidae (sơ khai, nhỏ)
†Sauropoda (khủng long bốn chân kích cỡ khổng lồ và rất nặng)
†Vulcanodontidae (khủng long chân thằn lằn sơ khai với bôn chân hình cột)
†Eusauropoda ("khủng long chân thằn lằn thật sự")
†Cetiosauridae ("thằn lằn cá voi")
†Turiasauria (nhóm chân thằn lằn từ Châu Âu vào kỷ Tam Điệp và Phấn Trắng)
†Neosauropoda ("khủng long chân thằn lằn mới")
†Diplodocoidea (đuôi và cổ cực dài, răng rất hẹp và giống bút chì)
†Macronaria (hộp sọ vuông vắn, răng hình cái thìa hoặc bút chì)
†Brachiosauridae (cổ dài, chi trước cao hơn)
†Titanosauria (đa dạng; nặng cân, hông rộng; phổ biến ở các lục địa phía Nam vào kỷ Phấn Trắng)
†Ornithischia ("hông chim"; ăn thực vật)
†Heterodontosauridae (chân chim nguyên thủy nhỏ ăn tạp có răng giống răng nanh)
†Thyreophora (bốn chân, mang giáp tự vệ)
†Ankylosauria (có giáp, vài loài có đuôi trùy)
†Stegosauria (có gai hoặc tấm sừng trên lưng)
†Neornithischia ("hông chim mới")
†Ornithopoda (bốn hoặc hai chân, ăn thực vật; phát triển cách nghiền thức ăn sử dụng sự dẻo dai của hộp sọ và nhiều răng)
†Marginocephalia (phân biệt nhờ đặc điểm của đầu)
†Pachycephalosauria (hai chân, đầu dày hoặc có bướu trên đầu)
†Ceratopsia (bốn chân, đầu có diềm; nhiều loài có sừng)
Sinh học
Kích thước
Nhóm Sauropoda có các loài khủng long lớn và nặng nhất. Trong hầu hết thời kỳ khủng long, sauropoda nhỏ nhất vẫn lớn hơn hầu hết những loài động vật khác trong môi trường của nó, và sauropoda lớn nhất theo thứ lượng nặng hơn bất cứ động vật nào từng bước đi trên mặt đất. Các loài động vật có vú không lồ tiền sử như Paraceratherium vẫn được xem là lùn với saropoda, chỉ có cá voi mới bằng hoặc vượt hơn saropoda. Có nhiều lợi thế sauropoda nhận được từ kích thước lớn, bao gồm được bảo vệ khỏi khủng long ăn thịt, giảm sử dụng nặng lượng, và sống lâu, nhưng có thể lợi thế quan trọng nhất là chế độ ăn uống. Động vật lớn có hiệu quả tiêu hóa cao hơn động vật nhỏ, vì thức ăn có nhiều thời gian nằm trong hệ tiêu hóa của nó hơn. Điều này cũng cho phép chúng sống sót với thức ăn có giá trị dinh dưỡng thấp.
Lớn nhất và nhỏ nhất
Các nhà khoa học có thể sẽ không bao giờ tìm thấy khủng long to và nhỏ nhất. Bởi vì chỉ có một số nhỏ khủng long để lại hóa thạch sau khi chết, và hầu hết số hóa thạch này vẫn chưa được tìm thấy mà vẫn còn bị chôn vùi trong lòng đất. Rất ít mẫu vật được thu hồi là những bộ xương hoàn chỉnh, và dấu vết về da và mô mềm rất hiếm. Phục dựng một bộ xương hoàn chỉnh theo so sánh kích thước và hình thái xương của các loài tương tự nhau là một phương pháp phổ biến nhưng không đủ chính xác, và việc phục nguyên các bắp thịt, cơ quan chỉ là sự phỏng đoán dựa theo một số nguyên tắc sinh học
Loài khủng long cao nhất và nặng nhất được biết đến từ một bộ xương bảo quản tốt là Giraffatitan brancai (trước được xem là một loài Brachiosaurus). Hóa thạch của nó được phát hiện ở Tanzania giữa năm 1907 và 1912. Xương của nhiều cá thể tương tự về kích thước đã được ráp vào nhau thành một bộ xương hoàn chỉnh nay được trưng bày tại bảo tàng für Naturkunde Berlin; bộ xương này cao và dài , và có thể thuộc về một động vật nặng khoảng đến kg ( đến lb). Con khủng long có hóa thạch hoàn chỉnh dài nhất (27 mét, 89 ft) là Diplodocus, phát hiện ở Wyoming ở Mỹ và được trưng bày tại bảo tàng lịch sử tự nhiên Carnegie của Pittsburgh năm 1907.
Có nhiều loài khủng long lớn hơn, nhưng hiểu biết về chúng hoàn toàn nhờ các mẫu hóa thạch rời rạc. Hầu hết được thu thập từ 1970 hay sau đó, bao gồm cả Argentinosaurus, có thể nặng từ tới kg (90 tới 110 tấn ngắn); vài cá thể Diplodocus hallorum (trước đây Seismosaurus) dài tới và Supersaurus dài ; và cao nhất là Sauroposeidon cao , chạm vào cửa sổ toà nhà sáu tầng. Loài nặng nhất và dài nhất trong số chúng có thể là Amphicoelias fragillimus, được biết duy nhất từ một đốt sống nay đã thất lạc năm 1878. Suy ra từ hình minh họa đốt sống này, con vật này có thể dài và nặng hơn kg ( lb). Khủng long ăn thịt lớn nhất là Spinosaurus, chiều dài đạt đến 16-18 mét (52 to 60 ft), và nặng 8150 kg ( lb). Vài loài ăn thịt lớn khác là Giganotosaurus, Carcharodontosaurus và Tyrannosaurus.
Trong các loài khủng long phi chim (Avialae), loài nhỏ nhất chỉ có kích thước bằng bồ câu. Không ngạc nhiên, chúng là những theropoda họ hàng gần nhất với chim. Ví dụ, Anchiornis huxleyi, có bộ xương hoàn chỉnh dài 35 cm(1.1 ft). A. huxleyi là loài khủng long phi chim nhỏ nhất được mô tả từ cá thể trưởng thành, với cân nặng 110 gram. Khủng long ăn cỏ nhỏ nhất là Microceratus và Wannanosaurus, dài khoảng .
Hành vi
Nhiều loài chim hiện đại có tính xã hội cao, và thường sống thành bầy. Có đồng thuận chung rằng nhiều hành vi thông thường ở chim, cũng như ở cá sấu (họ hàng còn sinh tồn gần nhất của chim), cũng xuất hiện ở khủng long. Giải thích hành vi ở các loài hóa thạch chủ yếu dựa trên tư thế bộ xương và môi trường sống, máy tính mô hình hóa của cơ sinh học khủng long, và so sánh với động vật hiện đại có chung hốc sinh thái.
Bằng chứng đầu tiên cho thấy sống theo bầy là một hành vi thông thường ở khủng long là vào năm 1878 khi phát hiện 31 Iguanodon bernissartensis được cho là chết cùng nhau tại Bernissart, Bỉ, sau khi tất cả rơi vào một hố sụt sâu đầy nước và chết đuối. Các vùng hóa thạch như thế sau đó được phát hiện thêm. Dấu chân của hàng trăm hay hàng ngàn cá thể khủng long ăn cỏ được cho là khủng long mỏ vịt (hadrosauridae) cho thấy chúng có thể di chuyển theo đàn lớn, giống Bò rừng bizon Bắc Mỹ hay Linh dương nhảy. Dấu chân sauropoda cho thấy chúng di chuyển thành đàn nhiều loài khác nhau, ít nhất là tại Oxfordshire, Anh, mặc dù không có bằng chứng chính xác về cấu trúc đàn. Có nhiều loại khủng long lớn chậm, bao gồm nhiều theropoda, sauropoda, ankylosauria, ornithopoda, và ceratopsia, tạo thành một đàn các cá thể non. Ví dụ như ở vùng Nội Mông có hơn 20 bộ hóa thạch Sinornithomimus, từ một tới bảy tuổi. Sự tập hợp này được giải thích là một nhóm xã hội bị kẹt trong bùn. Điều này cũng khiến therapoda trở thành loài săn cùng nhau để giết các con mồi lớn. Tuy nhiên, cách sống này không phổ biến với chim hiện đại, cá sấu, bò sát khác.
Mào và diềm cổ ở vài nhóm khủng long, như marginocephalia, theropoda và lambeosaurinae, có thể quá mỏng manh để tự vệ, và vì vậy chúng được dùng để biểu thị sự hung hăng hay tình dục, mặc dù sự giao phối và lãnh thổ của khủng long được biết đến rất ít.
Một hóa thạch quan trong được phát hiện tại Sa mạc Gobi năm 1971. Một con Velociraptor tấn công Protoceratops, có bằng chứng cho thấy mỗi con thực sự tấn công con còn lại. Vài loài khủng long ăn thịt đồng loại được thừa nhận, bởi các dấu răng Majungasaurus trên xương của Majungasaurus khác tại Madagascar năm 2003.
So sánh ổ mắt khủng long với chim và bò sát được dùng để phỏng đoán các hành vi hàng ngày của khủng long. Mặc dù có gợi ý rằng khủng long hoạt động suốt ban ngày, các loài khủng long ăn thịt nhỏ như dromaeosauridae, Juravenator, và Megapnosaurus được cho là sống về đêm. Các loài ăn cỏ và ăn tạp vừa hay lớn như ceratopsia, Sauropodomorpha, Hadrosauridae, Ornithomimosauria hoạt động suốt một ngày, với các khoảng nghỉ ngắn, mặc dù Ornithomimosauria Agilisaurus sống ban ngày.
Vài ornithischia, như Oryctodromeus có một phần cuộc sống đào bới trong hang. Nhiều loài chim sống trên cây, điều này cũng đúng với chim Đại Trung Sinh, đặc biệt enantiornithes. Vài loài khủng long giống chim cũng sống tốt trên cây (gồm cả Microraptor) hầu hết khủng long phi chim sống trên mặt đất.
Giao tiếp
Các loài chim hiện đại giao tiếp bằng các tín hiệu thị giác và thính giác, và sự đa dạng về cấu trúc hiển thị thị giác trong các nhóm khủng long hóa thạch, như sừng, diềm, mào, cánh buồm và lông vũ, cho thấy tầm quan trọng của các cấu trúc này trong sinh học khủng long.[110] Tái thiết màu lông của loài Anchiornis huxleyi, cho thấy màu sắc trong giao tiếp thị giác ở khủng long phi chim là tất yếu.[111] Sự tiến hóa của âm thanh khủng long còn ít chắc chắn. Nhà cổ sinh vật học Phil Senter cho rằng những loài khủng long phi chim chủ yếu dựa vào thị giác hoặc những âm thanh như tiếng rít, nghiến răng hoặc vỗ tay và đập cánh (khả thi ở khủng long maniraptoran có cánh) để giao tiếp. Ông nói rằng chúng không có khả năng phát họa âm vì các họ hàng gần nhất của chúng, cá sấu và chim, sử dụng các phương tiện khác nhau để phát âm, cá sấu thông qua thanh quản và chim thông qua minh quản độc đáo, cho thấy chúng tiến hóa độc lập và tổ tiên chung của chúng không có hộp âm.[110]
Dấu vết sớm nhất của minh quản, cơ quan có đủ hàm lượng khoáng chất để bị hóa thạch, đã được tìm thấy trong một mẫu vật của loài Vegavis iaai giống vịt cách đây 69-66 triệu năm trước, và cơ quan này dường như không tồn tại ở khủng long phi chim. Tuy nhiên, trái ngược với Senter, các nhà nghiên cứu cho rằng khủng long có thể kêu và cơ quan phát âm minh quản thực chất phát triển từ bộ phận thanh quản, thay vì cho rằng hai hệ thống này phát triển độc lập.[112] Một nghiên cứu năm 2016 tìm ra rằng khủng long có thể đã tạo ra những tiếng kêu không mở mồm như tiếng kêu thủ thỉ, xuất hiện ở cả cá sấu và chim cũng như các loài bò sát khác. Cách phát âm như vậy đã phát triển độc lập ở thằn lằn chúa còn tồn tại nhiều lần, sau khi chúng bắt đầu tăng kích thước cơ thể.[113] Mào của các Lambeosaurini và khoang mũi của các ankylosaurid được đề xuất là các cơ quan làm cộng hưởng giọng nói,[114][115] mặc dù Senter nói rằng sự hiện diện của các buồng cộng hưởng trong một số loài khủng long không nhất thiết là bằng chứng cho sự tạo âm mở mồm vì nhiều loài rắn hiện đại sử dụng các buồng này để tăng cường tiếng rít của chúng.[110]
Sinh sản
Khủng long đẻ trứng có màng ối với vỏ cứng được cấu tạo chủ yếu bởi calci cacbonat. Hầu hết xây tổ rất phức tạp, có thể dạng cúp, vòm, đĩa, ụ, và cả đào hang. Vài loài chim hiện đại không xây tổ; chim uria thông thường đẻ trứng trên vách đá, và chim cánh cụt hoàng đế đực kẹp trứng giữa hai chân. Chim tiền sử và nhiều loài khủng long phi chim đẻ trứng vào tổ chung, và thường thì con đực ấm trứng. Chim hiện đại chỉ có một vòi trứng và chỉ đẻ một trứng/lần, chim nguyên thủy và khủng long có hai vòi trứng, giống cá sấu. Vì chi khủng long, như Troodon đẻ hai trứng mỗi một hay hai ngày, và làm trứng nở đồng thời bằng cách không ấp trứng tới khi tất cả trứng được đẻ.
Sự tuyệt chủng
Việc khám phá rằng chim là một loại khủng long cho thấy khủng long vẫn chưa tuyệt chủng như thường được nói. Tuy nhiên, tất cả khủng long phi chim và nhiều nhóm chim đã tuyệt chủng cách đây khoảng 66 triệu năm. Nhiều nhóm động vật khác cũng tuyệt chủng vào thời gian này, gồm cúc đá (thân mềm giống ốc anh vũ), mosasauridae, plesiosauria, pterosauria, và nhiều nhóm động vật có vú. Côn trùng hầu như không chịu sự ảnh hưởng nào, chúng trở thành thức ăn cho các loài còn sống sót. Sự kiện tuyệt chủng này được gọi là sự kiện tuyệt chủng kỷ Creta-Paleogen. Bản chất của sự kiện gây tuyệt chủng hàng loạt này đã được nghiên cứu từ những năm 1970; tới nay, nhiều giả thuyết được các nhà cổ sinh vật học hỗ trợ. Mặc dù hầu hết hưởng ứng rằng sự kiện va chạm tiểu hành tinh (hay thiên thạch) là nguyên nhân chính, vài nhà khoa học chỉ ra các nguyên nhân khác, hay ủng hộ ý kiến rằng có nhiều yếu tố góp phần vào sự biến mất đột ngột của khủng long.
Vào Đại Trung Sinh, không có mũ băng địa cực, và mực nước biển được cho là cao hơn ngày nay từ 100 tới 250 mét (300 tới 800 ft). Nhiệt độ hành tinh cũng đồng bộ hơn, nhiệt độ tại xích đạo chỉ cách tại địa cực . Trung bình, nhiệt độ không khí cao hơn; tại địa cực, nhiệt độ cao hơn ngày hôm nay .
Cấu tạo khí quyển Đại Trung Sinh là vấn đề tranh luận. Vài lý thuyết cho rằng nồng độ oxy cao hơn ngày nay, số khác cho rằng sự thích nghi sinh học ở chim và khủng long cho thấy hệ thống hô hấp phát triển xa hơn cần thiết nếu nồng độ oxy đạt mức cao. Vào cuối kỷ Phấn Trắng, môi trường là thay đổi đáng kể. Hoạt động núi lửa giảm, dẫn đến xu hướng cacbon dioxide giảm (do núi lửa phun nhiều chất này). Nồng độ oxy trong khí quyển cũng bắt đầu dao động và cuối cùng giảm xuống. Một số nhà khoa học đưa ra giả thuyết rằng biến đổi khí hậu, kết hợp với nồng độ oxy thấp, có thể trực tiếp dẫn đến sự tuyệt chủng của nhiều loài.
Sự va chạm của tiểu hành tinh
Lý thuyết va chạm tiểu hành tinh, nhận được sự chú ý rộng vào năm 1980 bởi Walter Alvarez cùng với cha là Luis Walter Alvarez và đồng nghiệp, cho rằng một tiểu hành tinh đã va vào Trái Đất vào khoảng 66 triệu năm về trước. Alvarez phát hiện các lớp trầm tích phân bố trên khắp thế giới có chứa hàm lượng iridi cao gấp nhiều lần, là bằng chứng cho vụ va chạm. Tiểu hành tinh (hay thiên thạch) được cho là rộng 5 tới 15 km (3 tới 9 mi) đã đâm vào bán đảo Yucatan ở México, tạo nên hố Chicxulub và gây nên sự kiện tuyệt chủng. Các nhà khoa học không chắc rằng khủng long đang phát triển hay suy tàn trước vụ va chạm.
Phun trào núi lửa tại trap Deccan
Trước năm 2000, các luận cứ cho rằng các dòng lũ bazan tại trap Deccan đã gây ra sự tuyệt chủng thường gắn liền với quan điểm cho rằng quá trình khủng long tuyệt chủng diễn ra từ từ, do các dòng lũ bazan được cho là bắt đầu diễn ra trong khoảng 68 Ma và kéo dài hơn 2 triệu năm. Bằng chứng gần đây nhất cho thấy các bẫy này đã phun trào hơn 800.000 năm kéo qua ranh giới K-T, và do đó có thể nó đóng vai trò trong sự tuyệt chủng và sự hồi phục sinh học chậm sau đó.
Các trap Deccan có thể là nguyên nhân gây tuyệt chủng theo một số cơ chế như sự giải phóng bụi và các sol khí sulfuric vào không khí làm ngăn chặn ánh sáng Mặt Trời và giảm quá trình quang hợp của thực vật. Ngoài ra, hoạt động núi lửa trap Deccan có thể sinh ra một lượng cacbon dioxide lớn gây ra hiệu ứng nhà kính khi bụi và sol khí chiếm toàn bộ khí quyển.
Trong những năm khi mà giả thuyết trap Deccan còn gắn với sự tuyệt chủng từ từ, Luis Walter Alvarez (1911 - 1988) đã cho rằng các nhà cổ sinh vật học bị lầm lạc do thiếu hụt dữ liệu. Trong khi khẳng định của ông ban đầu không được ủng hộ, nhưng các nghiên cứu thực địa sau đó về các lớp đáy hóa thạch lại nghiêng về phía tuyên bố của ông. Cuối cùng thì hầu hết các nhà cổ sinh vật học bắt đầu chấp nhận ý tưởng rằng sự tuyệt chủng hàng loạt vào cuối kỷ Creta chủ yếu hay một phần là do sự va chạm của tiểu hành tinh vào Trái Đất. Tuy nhiên, ngay cả Walter Alvarez cũng đã thừa nhận rằng có các thay đổi lớn khác trên Trái Đất đã xảy ra ngay trước sự va chạm, như mực nước biển tụt xuống và các hoạt động phun trào núi lửa diễn ra mạnh mẽ đã tạo ra các trap Deccan ở Ấn Độ, và các thay đổi này có thể đã góp phần tạo ra sự tuyệt chủng.
Khủng long sống sót qua vụ tuyệt chủng
Hóa thạch khủng long phi chim đôi khi được tìm thấy qua ranh giới Creta–Paleogen. Năm 2001, nhà cổ sinh vật học Zielinski và Budahn thông báo đã phát hiện một hóa thạch xương chân hadrosauridae ở lưu vực San Juan, New Mexico, và mô tả nó như một bằng chứng của khủng long thế Paleocen. Hóa thạch được cho là vào đầu kỷ Đệ Tam, khoảng 64.5 triệu năm trước. Nếu nó không bị hoạt động thời tiết làm thay đổi địa tầng, nó được xem là bằng chứng rằng một vài quần thể khủng long đã sống sót đến kỷ Đệ Tam. Chứng cứ khác bao gồm hóa thạch được tìm thấy trong thành hệ Hell Creek khoảng ( năm sau ranh giới Creta–Paleogen). Các báo cáo tương tự cũng đến từ các phần khác của thế giới, gồm cả Trung Quốc.
Ghi chú |
Cuộc đua thuyền Oxford - Cambridge là một trong những cuộc đua thuyền lớn nhất thế giới, đó là cuộc thi giữa 2 đại học: Cambridge và Oxford.
Thời gian và địa điểm đua
Cuộc đua được tổ chức vào cuối tháng 3 hoặc đầu tháng 4, đường đua là một khúc sông Thames dài 4,25 dặm giữa Putley và Mortlake. Cuộc đua được tổ chức dao động từ giữa trưa cho đến tầm 3 giờ chiều. Nó thu hút rất đông khán giả theo dõi, người xem tụ tập kín hai bên bờ sông, trên các con thuyền và số khác thì xem tại nhà qua ti vi.
Lần đầu tiên cuộc đua được tổ chức ở Henley vào năm 1829, nhưng sau đó vào năm 1845 đã được chuyển tới đường đua hiện nay. Chỉ tính đến năm 1966, thì đội trường Cambridge đã giành chiến thắng tổng cộng 61 lần, còn Oxford là 50 lần thắng trong đó có một lần thắng liên tiếp vào năm 1877.
1829 - Tại Henley-on-Thames
1839 tới 1842 - từ Westminster tới Putney
Các năm 1846, 1856, 1862, 1863 - Mortlake tới Putney
Do thời tiết mỗi năm mỗi khác, có năm thời tiết xấu, nước sông có thể bị động mạnh ở một số điểm trên đường đua, dẫn đến chìm thuyền. Thuyền của đội Cambridge bị đắm vào năm 1859, còn của Oxford năm 1925 và 1951, cả hai đội đều bị đắm năm 1929.
Trong năm 2006, Oxford đã ghi vào kỷ lục với đội đua nặng ký nhất trong lịch sử của cuộc đua thuyền.
Lịch sử
Cuộc đua truyền thống này bắt đầu bởi Charles Merivale, một sinh viên trường Cambridge, và bạn học của anh ta là Charles Wordsworth, học tại Oxford. Cambridge thách thức Oxford đua thi, và cuộc đua lại tiếp tục năm sau đó.
Kết quả
Trong cuộc đua năm 1948, đội Cambridge đã lập kỷ lục mới với thành tích 17 phút 50 giây.
Cambridge: 84 lần thắng
Oxford: 80 lần thắng
Hòa: 1
Những cuộc đua không chính thức thời chiến tranh |
Mùa len trâu là bộ phim đầu tay của đạo diễn Việt kiều Nguyễn Võ Nghiêm Minh được khởi quay tháng 9 năm 2003.
Bộ phim có kinh phí khoảng hơn 1 triệu USD, với sự tham gia của ba hãng: Hãng phim Giải Phóng Việt Nam, 3B Productions Pháp và Novak Prod Bỉ. Bộ phim được trình chiếu ở Pháp với tên Gardien de buffles và ở Mỹ với tên Buffalo boy.
Chuyện phim dựa trên tác phẩm Mùa len trâu trong tập truyện Hương rừng Cà Mau của nhà văn Sơn Nam, kể về cuộc sống của những người nông dân miền Nam đầu thế kỷ 20. Mỗi khi mùa mưa về, nước tràn ngập mọi nơi, có những người làm nghề "len trâu", đưa trâu đi tìm cỏ để sống qua mùa lũ.
Nội dung
Phim mở ra với cảnh một đứa trẻ trong lúc làm ruộng vớ phải một cọng dây cột vào một vật nặng.
Khi đến mùa nước lũ, nước tràn ngập cả vùng khiến cỏ chết hết và trâu cũng không thể ngủ dưới nước nên Kìm buộc phải đi len trâu (dẫn trâu lên vùng cao kiếm cỏ) cùng với đám chuyên len trâu của ông Lập, một ông chủ khó tính và du côn.
Vượt qua bao nhiêu hiểm trở và vất vả khi phải dẫn trâu đi dưới nước cả ngày, phải đánh nhau với đám côn đồ vì địa bàn, bị đám khác đi trước giành cỏ nên phải đi nơi khác... cuối cùng Kìm cũng trở về nhà, tuy nhiên một trong hai con trâu đã chết, chỉ còn lại lớp da và cặp sừng để làm kỷ niệm. Tính tình Kìm cũng trở nên du côn hơn, chửi thề nhiều hơn khiến cha anh khá buồn. Kìm rất thương con trâu còn lại nên cả ngày quấn quít bên nó, tuy nhiên vì hoàn cảnh gia đình quá túng quẫn không có tiền trả nợ, cha mẹ của Kìm phải bán trâu đi khiến anh đau lòng mà bỏ nhà ra đi.
Anh cùng Đẹt, người bạn chung đám len trâu của Lập, hợp tác đi len trâu cho những người khác. Đẹt tiết lộ cho Kìm biết rằng mình có người thương đã có con cùng, nhưng anh bỏ đi khi con chưa sinh. Vợ của Đẹt, tên Bân, và con khi biết Đẹt đang ở gần đó thì tìm đến, cùng Quang (một bạn cũ trong đám len trâu của Lập, cũng quen với Kìm) đi len trâu với Đẹt và Kìm. Kìm thấy Bân nên sinh tình cảm, nhưng Bân không đồng ý. Trong lúc len trâu, Kìm nghe tin mẹ đã bỏ cha mình, còn cha mình ở U Minh bệnh nặng nên tức tốc quay về. Kìm sống cùng cha những ngày cuối cùng trên con thuyền nhỏ bé, khi cha chết đi, anh được cha tiết lộ mình là kết quả từ một lần cha anh hiếp dâm em gái ông Lập. Anh nhờ vợ chồng bà Hai, những người lạ mới quen, giúp anh chôn xác cha mình cùng với chiếc cối đáng giá cả gia tài của gia đình bà Hai để xác không bị nước cuốn đi.
Sau khi chôn xác, anh trở lại với gia đình Đẹt và Quang. Sau một lần gặp mặt ông Lập cũng như bị vợ Đạt từ chối tình cảm, Kìm không muốn len trâu nữa nên quay về nhà bà Hai và phát hiện bà đã mất, anh sống cùng ông Hai đến khi ông mất. Một thời gian sau, hai vợ con của Đạt đến tìm Kìm và báo rằng Đẹt và Quang sau khi gặp ông Lập thì mất tích hơn 10 tháng bặt vô âm tính. Bân gửi con cho Kìm, bảo Kìm làm cha nó và một thân một mình chèo thuyền đi.
Kết phim quay lại cảnh đầu phim: vật nặng mà đứa trẻ kéo lên được là cái cối xay cột xác cha Kìm.
Diễn viên
Lê Thế Lữ: Kìm
Kiều Trinh: Bân
Hữu Thành: ông Định
Kra Zan Sram: Đẹt
Trương Văn Bé: Hai Tích
Ánh Hoa: bà Hai
Nguyễn Thị Thắm: bà Tư
Võ Hoàng Nhân: Lập
Trương Quang Thịnh: Quang
Nguyễn Văn Đây: Xuyến
Thạch Kim Long: Thanh
Cao Thị Thu Tâm: Lam
Nguyễn Hữu Phước: Thiều
Nguyễn Châu: cha Bân
Thạch Trung Trực: Kìm (5 tuổi)
Mai Văn Hiệp: quan thuế
Ngô Văn Phúc: quan thuế
Thành Lũy: quan thuế
Vương Quốc Thanh: quan thuế
Tống: thiếu nữ bị hiếp
Hậu trường
Đạo diễn Nguyễn Võ Nghiêm Minh vốn là một tiến sĩ vật lý và đây là bộ phim đầu tay của ông:
"...Tôi thường tìm cách trốn thoát cái chết chóc, đau khổ của chiến tranh bên ngoài bằng cách ráng đi vô coi phim. Vì ba tôi là quản lý rạp phim nên những người gác cửa rạp họ biết và để tôi vào xem không có gì khó khăn lắm. Xem phim, ngoài việc là phương tiện để tôi trốn thoát cái đau khổ của cuộc chiến tranh bên ngoài kia, nó còn là cửa sổ để tôi nhìn ra thế giới bên ngoài. Tôi xem phim Ấn Độ, Trung Quốc, Mỹ, Pháp... Trong cái nhìn của một đứa trẻ tám, chín tuổi thì ấn tượng đó rất là sâu đậm. Nhưng không chỉ ở Việt Nam mà cả ở Âu châu, ngay cả ở Mỹ cũng vậy, sống bằng nghề làm phim không là chuyện vô cùng khó khăn nên tôi đành tạm gác cái đam mê của mình lại.
Tôi chợt nghĩ, một là mình làm phim bây giờ, hai là mình chắc phải lãng quên giấc mơ này. Và tôi phải quyết định, không hẳn là bỏ hẳn ngành vật lý của mình, nhưng tôi phải giảm bớt vai trò của công việc vật lý để bắt đầu đi học làm phim và làm các phim ngắn. Rồi tôi bắt đầu viết kịch bản phim Mùa len trâu. Kịch bản viết rất là nhanh, tôi nhớ rằng tôi viết trong vòng khoảng 30 ngày. Tôi rất vui là kể từ khi viết kịch bản, bắt tay vào làm phim thì hầu như không có nhiều thay đổi."
Nhà văn Sơn Nam:
""Len" trong tiếng Khmer có nghĩa là đi tự do, "len trâu" có nghĩa là cho trâu đi tự do. Ở đây nước lụt, nước lụt từ 1m đến 4m. Người ta ở nơi lụt, người ta không có chỗ ở là phải, và trâu cũng không có chỗ ở. Cho nên nó phải đi đến những vùng đất cao để có cỏ cho nó ăn. Ở nhà tối nó ngủ không được, ngủ với nước sao mà ngủ được, và trưa thì làm sao cho nó ăn, cỏ đâu ra mà cho nó ăn. Người nuôi trâu, chủ nhà có trâu, phải đưa trâu đến vùng đất cao. Làm sao người làm ruộng nuôi trâu? Muốn nuôi trâu thì phải lùa trâu đi. Ngày thường trời nắng, nuôi trâu trong chuồng. Đến ngày trời mưa thì phải lùa trâu đi. Vì vậy cho nên phải đem trâu đi chỗ khác. Đưa trâu đến vùng bảy Núi. Nhưng nó xa nhà mình đến 30 – 40 km, xa quá sao mà đưa đi. Vì vậy, mình phải đưa nó đi lòng vòng, ăn hết cỏ chỗ này, nước lên, thì đưa trâu sang chỗ khác. Có khi đến ba bốn tháng mới đưa trâu về. Trâu dẫn đi phải có người giữ. Trâu không dẫn đi thì phải mướn người ta giữ. Người nghèo mướn ai bây giờ? Vậy thì để con cái đi giữ nó. Ngày trước trẻ con đi theo con trâu, áo quần không có, mùng mền không có, gạo cơm thiếu, đó là cả một chuyện khó khăn. Vì vậy đối với chúng tôi dân miệt dưới, tôi là dân miệt dưới, đó là một bài học cho thanh niên trở thành người lớn. Nhưng mà trẻ con ở đó không có được đi học. Học với ai. Thằng dốt học với thằng dốt, thằng du côn học với thằng du côn. Tôi rất hãnh diện, vì tác phẩm tôi viết đã gần 50 năm rồi, nhiều anh em tính làm phim, nhưng nghĩ làm hông nổi. Thời buổi này đâu còn trâu, máy cày hết rồi, thành ra tôi để đó coi, chờ xem. May mà có anh Nguyễn Võ Nghiêm Minh, ổng làm sao mà ổng có tiền ổng mướn trâu, thiên hạ sợ quá. Chứ làm sao thằng cha này có tiền mướn ba bốn trăm con trâu để đóng phim, dân làm phim Sài Gòn ngán Nguyễn Võ Nghiêm Minh, tưởng cha này là tỷ phú Việt kiều Mỹ hay gì đó.
Tôi hãnh diện, được thấy cái phim này, đối với đồng bào ở đồng bằng sông Cửu Long, tôi đã trả được một món nợ tinh thần. Tôi là một đứa con có hiếu với dân ở dưới. Tôi hy vọng các anh có phương tiện, phải làm sao chiếu ở dưới cho nhiều, và băng video in ra bán rẻ cho dân ở dưới coi. Họ sẽ rất hài lòng, họ thấy việc hợp tác giữa Việt, Pháp và Bỉ có kết quả rất lớn."
Giải thưởng
Mùa len trâu đã tham dự gần mười liên hoan phim khu vực và quốc tế và đã giành được những giải thưởng đáng kể:
Giải đặc biệt ở LHP Locarno, Thụy Sĩ
Giải đạo diễn mới xuất sắc nhất ở LHP Chicago, Mỹ
Giải Kỳ Lân Vàng, Grand prix của LHP Amiens, Pháp
Giải đặc biệt của LHP Amazonas, Brasil
Giải cao nhất của Liên hoan phim Asian Marine tổ chức tại Mukuhari (Nhật Bản) |
(1501-1561) tên thật là (theo như sử sách ông bị 1 chân khập khiễng) xuất thân từ lãnh địa Mikawa và lúc đầu phục vụ cho gia tộc Imagawa, nhưng ở đây ông không được xem trọng và bị đối xử một cách lạnh lẽo. Sau đó ông được một tướng của Takeda là Itagaki Nobutaka chú ý và đã mời ông gặp mặt Võ Điền Tín Huyền (Takeda Shingen) lãnh chúa xứ Kai. Haruyuki nhanh chóng chinh phục Shingen và được ban cho thu nhập 1000 thạch (1 thạch là số lượng lương thực 1 người thanh niên ăn trong 1 năm). Ông thường xuyên được Shingen mời góp ý kiến. Yamamoto nhanh chóng chứng tỏ bản thân với vị chủ mới trong các cuộc chinh phục, phục vụ một cách đắc lực cho Shingen trong các cuộc chiến ở Shinano. Sử sách ghi nhận Yamamoto là người thiết kế các xe công thành để hạ các đồn lũy và pháo đài ở Shinano. Nhờ vào đó ông được Shigen thưởng cho tên Kansuke và tăng thu nhập 4000 koku. Haruyuku còn đóng vai trò quan trọng trong trận chiến đánh bại gia tộc Murakami tại Toishi năm 1551, ông còn tham gia 4 trong 5 trận chiến trứ danh Kawanakajima với Uesugi Kenshin.
Vào năm 1561, trong trận Kawanakajima lần thứ 4, Shingen và Kenshin đã có một cuộc kịch chiến sau vài lần tránh đụng độ một cách trực diện. Kenshin đóng quân ở đồi Saijoyama trong khi quân Shingen cắm trại gần phía đông thành Kaizu. Yamamoto đã góp ý kiến Shingen chia 20.000 quân thành 2 cánh, 1 cánh sẽ đột kích vào sáng sớm vào đồi Saiyojama trong khi phần còn lại sẽ di chuyển đến Hachimanbara phục kích đường rút lui của quân Kenshin. Shingen đã đồng ý kế hoạch này và sai Kosaka Masanobu cùng với Baba Nobufusa dẫn phần lớn quân tiến về đồi Saijo trong khi đích thân Shingen dẫn số quân còn lại vượt sông Chikuma tiến về phía bình nguyên. Thật không may cho Shingen, bằng cách nào đó Kenshin đã nhận ra kế hoạch này và ngay trong đêm đã dẫn toàn bộ 11.000 quân rời khỏi đồi Saijo và vượt sông. Vào lúc bình minh, Kenshin mở một cuộc tổng đột kích vào nhóm quân ít ỏi của Shingen trong khi Kosaka và Baba đang ngỡ ngàng trước đồi Saijo không một bóng người. Người em tài năng của Shingen là Takeda Nobushige và người chú là Morozumi Masakiyo đã hi sinh ngay trong trận chiến.Takeda Yoshinobu người thừa kế của Shingen cũng bị thương nặng. Tin rằng vì kế hoạch của mình thất bại đã gây ra sự sụp đổ của chủ nhân hay chi ít cũng làm Takeda thiệt hại nặng nề, Yamamoto đã cầm lấy giáo và xông trận một cách dũng cảm. Dù đã 60 tuổi với 1 chân khập khiễng và chỉ một con mắt còn tốt nhưng ông đã chiến đấu dũng cảm và bị nhiều vết thương. Cuối cùng ông đã mổ bụng tự sát như 1 samurai chân chính.
Quân Shingen nhờ sự tiếp viện kịp thời của Baba và Kosaka đã không bị tiêu diệt hoàn toàn. Dù vậy Shingen vẫn hết sức đau lòng khi mất đi vị tham mưu trưởng Yamamoto Kansuke và đã cho mai tán ông tại ngay bãi chiến trường.
Yamato Kansuke còn là tác giả của quyển binh thư Heiho Okugi Sho. |
Thành phố Hanse Hamburg (đọc như "Hăm-buốc") tên đầy đủ là Thành phố Tự do và Hanse Hamburg () là một tiểu bang và là thành phố lớn thứ hai của Đức, có cảng Hamburg lớn thứ 2 trong Liên minh châu Âu.
Hamburg là thành phố thương mại quốc tế và cũng là trung tâm thương mại, văn hoá của phía bắc nước Đức, trung tâm của vùng đô thị Hamburg, một trong số tổng cộng là 11 vùng đô thị tại Đức.
Thể thao
Nhắc đến thể thao Hamburg, có lẽ nổi tiếng nhất là câu lạc bộ bóng đá Hamburger SV. Hamburger SV đã vô địch châu Âu 1 lần, vô địch bóng đá Đức 6 lần cùng nhiều danh hiệu khác. Sân vận động của câu lạc bộ mang tên công ty truyền thông AOL (trước năm 2001 là sân vận động Volkspark). Đây cũng là nơi tổ chức 3 trận đấu thuộc giải vô địch bóng đá thế giới 1974 và 5 trận đấu thuộc giải vô địch bóng đá thế giới 2006.
Hình ảnh
666x666px |
Thuật toán Dijkstra, mang tên của nhà khoa học máy tính người Hà Lan Edsger Dijkstra vào năm 1956 và ấn bản năm 1959, là một thuật toán giải quyết bài toán đường đi ngắn nhất từ một đỉnh đến các đỉnh còn lại của đồ thị có hướng không có cạnh mang trọng số không âm. Thuật toán thường được sử dụng trong định tuyến với một chương trình con trong các thuật toán đồ thị hay trong công nghệ Hệ thống định vị toàn cầu (GPS).
Lịch sử
Đâu là con đường ngắn nhất để đi từ Rotterdam đến Groningen, hay nói chung: từ thành phố này đến thành phố nhất định. Đây là thuật toán tìm đường đi ngắn nhất, mà tôi đã thiết kế trong khoảng hai mươi phút. Vào một buổi sáng đi mua sắm ở Amsterdam cùng vị hôn thê trẻ tuổi với sự mệt mỏi, chúng tôi ngồi trên sân thượng để uống một tách cà phê và tôi chỉ nghĩ liệu tôi có thể làm điều này không, và sau đó tôi đã thiết kế thuật toán tìm đường đi ngắn nhất. Như tôi đã nói, đó là một phát minh trong hai mươi phút. Trên thực tế, nó đã được xuất bản vào năm 1959, ba năm sau đó. Các ấn phẩm vẫn có thể đọc được, quả thật như vậy, và khá đẹp. Một trong những lý do khiến nó rất hay là tôi đã thiết kế nó mà không cần bút chì và giấy. Sau này tôi đã học được rằng một trong những lợi thế của việc thiết kế mà không cần bút chì và giấy là bạn gần như buộc phải tránh đi mọi sự phức tạp có thể tránh được. Cuối cùng, thuật toán đó đã trở thành một trong những nền tảng giúp tôi nổi tiếng, với sự kinh ngạc lớn của tôi.
—Edsger Dijkstra trong một cuộc phỏng vấn với Philip L. Frana, Communications of the ACM, 2001.Dijkstra đã nghĩ về bài toán đường đi ngắn nhất khi làm việc tại Trung tâm Toán học ở Amsterdam năm 1956 với tư cách là một lập trình viên để chứng minh khả năng của một máy tính mới có tên ARMAC. Mục tiêu của ông là chọn cả một bài toán và giải pháp (sẽ được tạo bởi máy tính) mà những người không thuần tính toán vẫn có thể hiểu được. Ông đã thiết kế thuật toán đường đi ngắn nhất và sau đó triển khai nó cho ARMAC bằng bản đồ giao thông được đơn giản hóa một chút của 64 thành phố ở Hà Lan. Một năm sau, ông gặp một vấn đề khác từ các kỹ sư phần cứng làm việc trên máy tính tiếp theo của học viện: giảm thiểu lượng dây cần thiết để kết nối các chân trên bảng điều khiển phía sau của máy. Như một giải pháp, ông đã phát hiện lại thuật toán Prim (được biết đến trước đó với Jarník, và cũng được Prim khám phá lại). Dijkstra đã xuất bản thuật toán vào năm 1959, 2 năm sau Prim và 29 năm sau Jarník.
Bài toán
Cho một đồ thị có hướng G=(V,E), một hàm trọng số w: E → [0, ∞) và một đỉnh nguồn s.
Cần tính toán được đường đi ngắn nhất từ đỉnh nguồn s đến mỗi đỉnh của đồ thị.
Ví dụ: Chúng ta dùng các đỉnh của đồ thị để mô hình các thành phố và các cạnh để mô hình các đường nối giữa chúng. Khi đó trọng số các cạnh có thể xem như độ dài của các con đường (và do đó là không âm).
Chúng ta cần vận chuyển từ thành phố s đến thành phố t.
Thuật toán Dijkstra sẽ giúp chỉ ra đường đi ngắn nhất chúng ta có thể đi.
Trọng số không âm của các cạnh của đồ thị mang tính tổng quát hơn khoảng cách hình học giữa hai đỉnh đầu mút của chúng. Ví dụ, với 3 đỉnh A, B, C đường đi A-B-C có thể ngắn hơn so với đường đi trực tiếp A-C.
Giới thiệu thuật toán
Xét đồ thị G =(X,E) với các cạnh có trọng số không âm.
- Dữ liệu nhập cho thuật toán là ma trận trọng số L (với qui ước L(h,k) = +∞ nếu không có cạnh nối từ đỉnh h đến đỉnh k)và hai đỉnh x,y cho trước.
- Dữ liệu xuất là đường đi ngắn nhất từ x đến y.à
Chứng minh
Ý tưởng của thuật toán được chứng minh như sau.
Chúng ta sẽ chỉ ra, khi một đỉnh v được bổ sung vào tập S, thì d[v] là giá trị của đường đi ngắn nhất từ nguồn s đến v.
Theo định nghĩa nhãn d, d[v] là giá trị của đường đi ngắn nhất trong các đường đi từ nguồn s, qua các đỉnh trong S, rồi theo một cạnh nối trực tiếp u-v đến v.
Giả sử tồn tại một đường đi từ s đến v có giá trị bé hơn d[v]. Như vậy trong đường đi, tồn tại đỉnh giữa s và v không thuộc S. Chọn w là đỉnh đầu tiên như vậy,
Mã giả
Phân tích
Với giải thuật đã mô tả ta dễ dàng thực hiện trực tiếp trên các đồ thị kích thước nhỏ,để có thể mã hóa và cài đặt hiệu quả cần đưa thêm các cấu trúc dữ liệu để sử dụng trong giải thuật.
Dữ liệu
Hàm d(u) dùng để lưu trữ độ dài đường đi ngắn nhất từ đỉnh nguồn s đến đỉnh u. Rõ ràng d(s)= 0. Ký hiệu là tập tất cả các đỉnh có cạnh đi tới đỉnh u. Nếu với mọi đã xác định được d(v) thì:
.
Để tính được giá trị nhỏ nhất này, như thông thường khi khởi tạo ta phải gán cho d(v)=, sau đó gặp giá trị nhỏ hơn thì thay thế lại.
Những đỉnh đã tính được d(v)hữu hạn được cho vào một hàng đợi có ưu tiên. Hàng đợi này luôn được bổ sung và sắp xếp lại nên một cấu trúc hợp lý là cấu trúc đống nhị phân (heap)...
Để theo dõi trạng thái của các đỉnh trong quá trình xét, ta dùng hàm COLOR(u) xác định với mọi . Lúc đầu các đỉnh được tô màu trắng (WHITE), khi cho vào hàng đợi nó được tô màu xám (GRAY), khi đã tính xong khoảng cách nó được tô màu đen(BLACK).
Nếu cần ghi lại đường đi ta sẽ phải dùng một hàm con trỏ PRE(u) để chỉ đỉnh đứng ngay trước đỉnh u trên đường đi ngắn nhất từ s tới u.
Thời gian chạy
Thuật toán Dijkstra bình thường sẽ có độ phức tạp là . Tuy nhiên ta có thể sử dụng kết hợp với cấu trúc heap, khi đó độ phức tạp sẽ là , nếu dùng Fibonacci Heap thì độ phức tạp giảm xuống còn . Trong đó m là số cạnh, n là số đỉnh của đồ thị đang xét. |
Gaia, cũng được viết là Gaya, Gæa, Gaea, Gaïa, Gaya, hay Ge, có thể có một trong các nghĩa sau (xem thêm Gaya (định hướng)):
Gaia (thần thoại), nữ thần Hy Lạp và La Mã, còn được gọi là Nữ thần Đất Mẹ
Giả thuyết Gaia, nhóm các lý thuyết khoa học về phương thức mà sự sống trên Trái Đất điều hoà sinh quyển của hành tinh để khiến nó thân thiện với sự sống. Cũng được gọi là khoa học hệ thống Trái Đất.
Triết lý Gaia, nhóm các quan điểm triết học dựa trên thuyết Gaia và khái niệm "hành tinh sống"
Gaia Online, một cộng đồng sinh hoạt theo mô hình diễn đàn lớn nhất trên Internet
Santos Gaia, một hậu vệ của đội bóng Anh Exeter City F.C.
Gaia (tàu không gian), kính thiên văn quan sát các ngôi sao của ESA |
Màng trinh là một màng mỏng nằm trong âm đạo, cách cửa âm đạo khoảng 2 cm. Màng trinh là màng che cửa âm đạo. Nhiều loài động vật cũng có màng trinh, bao gồm (nhưng không giới hạn) lạc đà không bướu, chuột lang, vượn, lợn biển, chuột chũi, cá voi có răng, tinh tinh, voi, chuột, vượn cáo và hải cẩu. Ở trẻ em, mặc dù màng trinh thường có hình khuyên, nó cũng có thể có hình dạng khác.
Ảnh hưởng của việc sinh hoạt tình dục và sinh đẻ có nhiều dạng khác nhau. Nếu màng trinh đủ tính đàn hồi, nó có thể khôi phục về gần với hình dáng ban đầu. Trong những trường hợp khác, một phần của màng trinh còn có thể sót lại, hoặc nó cũng có thể biến mất hoàn toàn. Một số thông tin cho rằng một số phụ nữ khi sinh ra đã không có màng trinh. Tuy nhiên, tờ báo New York Times đã đưa tin về khảo sát của bác sĩ chuyên khoa nhi với 1.100 bé gái sơ sinh cho thấy tất cả các bé gái khi sinh ra đều có màng trinh.
Có nhiều quảng cáo về việc vá lại màng trinh, nhưng những quảng cáo đó chỉ là sự khoa trương, thực ra màng trinh đã rách thì không thể vá lại. Vá màng trinh là rất khó, có thể nói là không tưởng, bởi màng trinh được kết dính với ống âm đạo luôn di động, mạch máu trong môi trường dễ nhiễm trùng. "Vá màng trinh" thực chất là dùng niêm mạc âm đạo, nhíu lại bằng vài mũi khâu, thực chất là làm chít hẹp một phần ống âm đạo, khi có va chạm, vết khâu sẽ rách ra, nhưng thủ thuật này không thể qua mắt các bác sĩ phụ khoa hoặc người có kinh nghiệm.
Cấu tạo
Phân loại
Kích thước và hình dạng cửa mình mỗi người đều khác nhau. Rất hiếm hoi, có phụ nữ được sinh ra mà không có màng trinh, trong khi một số khác (cũng rất hiếm) lại có màng trinh đóng (kín, không có lỗ). Những người này cần phải được bác sĩ phụ khoa tiến hành hymenotomy nhằm giúp kinh nguyệt có thể thoát ra ngoài. Không chỉ vậy, một số phụ nữ lại có màng trinh dày bất thường, họ cũng cần được tiến hành mở màng trinh nhằm tránh đau đớn khi giao hợp. Vào tuổi dậy thì của phụ nữ, cấu trúc chung của màng trinh có thể so sánh như của một scrunchie tóc, một thứ khá đàn hồi và có thể giãn rộng dễ dàng. Một số dạng màng trinh thường gặp là:
Hình khuyên – màng trinh có hình tròn bao lấy miệng âm đạo. Là loại màng trinh thường thấy nhất ở người thanh nữ. Thường chỉ cần để hai ngón tay hai bên đại âm thần, vạch chúng sang một bên là ta có thể thấy rõ màng trinh nếu màng còn nguyên vẹn. Khi màng này rách, thường rách theo một đường thẳng đứng ở giữa.
Vách ngăn – màn trinh là một hoặc nhiều dải giăng ngang miệng âm đạo.
Dạng sàng – màng trinh phủ hoàn toàn cửa mình và có nhiều lỗ nhỏ.
Đã sinh con – màng trinh rách, đạo mở rộng, ven thành cửa mình còn tàn tích của màng trinh cũ.
Cần lưu ý có một số phụ nữ có màng trinh thuộc loại co giãn được, sẽ không bị rách dù đã quan hệ tình dục.
Sự phát triển
Có một số thông tin cho rằng một số phụ nữ khi sinh ra đã không có màng trinh, nhưng đều này hiện nay đã bị bác bỏ. Báo New York Times đưa tin, một khảo sát cho thấy hầu như tất cả bé gái sinh ra đều có màng trinh (khảo sát trên 1.100 bé gái cho thấy tất cả đều có màng trinh)
Trong thời kì đầu của bào thai, hoàn toàn không có cửa vào âm đạo. Lớp mô mỏng che phủ âm đạo thời kì này thường sẽ phân chia không hoàn toàn trước khi sinh, hình thành nên màng trinh. Màng trinh thật ra là một phần dư sót lại trong thời kì thai nhi phát triển. Ở một số phụ nữ, màng trinh dày và che kín âm đạo gây trở ngại khi giao hợp và có triệu chứng không có kinh, hoặc nó đàn hồi đến mức tiếp tục tồn tại cho đến lần sinh con đầu tiên.
Rách màng trinh
Có nhiều quan điểm cho rằng phụ nữ sau khi quan hệ tình dục lần đầu tiên sẽ bị rách màng trinh. Tuy nhiên, vấn đề liệu thực sự phụ nữ chỉ rách màng trinh sau khi quan hệ tình dục lần đầu tiên hay không vẫn chưa được chứng minh. Ở lứa tuổi dậy thì của những nữ thiếu niên, màng trinh có độ co giãn tốt và có thể mở rộng ra để đưa băng vệ sinh dạng ống (tampon) cho vừa vặn. Theo một khảo sát, chỉ có 43% phụ nữ bị chảy máu khi quan hệ tình dục lần đầu, do màng trinh đã giãn nở đủ rộng để dương vật có thể đưa vào mà không bị rách màng trinh. Ngoài ra, một nghiên cứu vào tháng 3 năm 2004 tại Hoa Kỳ cho thấy 52% phụ nữ sau lần quan hệ tình dục đầu tiên vẫn có màng trinh nguyên vẹn.
Sau kì sinh nở đầu tiên, màng trinh thường sẽ bị rách hoàn toàn.
Tóm lại, chỉ có sự thâm nhập âm đạo do quan hệ tình dục, hiếp dâm hoặc phẫu thuật mới làm rách màng trinh. Các nguyên nhân khác (như thủ dâm, ngã xe đạp, ngã ngựa...) sẽ không gây rách màng trinh. Một số nguồn thông tin báo chí, diễn đàn hoặc ý kiến cho rằng thủ dâm, ngã xe đạp, ngã ngựa... cũng gây rách màng trinh, nhưng thực ra điều này là sai về kiến thức y khoa. Các chấn thương này thường gây chấn thương lên xương mu âm đạo, xương cụt, hay tới những cạnh mép của cửa âm đạo, nhưng không tạo nên chấn thương sâu nên không thể gây ra hiện tượng rách màng trinh
"Màng trinh" và "Trinh tiết"
Có nhiều quan niệm hợp nhất giữa 2 khái niệm "màng trinh" (hymen) và "trinh tiết, sự trong trắng" (Virgin). Thực chất, đây là hai khái niệm riêng. Màng trinh là khái niệm sinh học chỉ một bộ phận của phụ nữ, còn trinh tiết là một khái niệm xã hội, chỉ người chưa từng quan hệ tình dục (hoặc cũng có thể chỉ người đã quan hệ nhưng là do bị cưỡng hiếp), hoặc những phụ nữ một lòng chung thủy suốt đời với chồng.
Có sự lẫn lộn này là do màng trinh thường sẽ bị rách và gây chảy máu ở lần giao hợp đầu tiên. Các nguyên nhân khác như chơi thể thao, chạy nhảy, đi xe đạp, dùng băng vệ sinh... được một số báo chí cho là có thể gây rách màng trinh, nhưng thực ra sau những chấn thương như vậy, màng trinh sẽ liền lại như cũ.
Chú thích |
Con quỷ Maxwell là một thí nghiệm tưởng tượng của nhà vật lý người Scotland, James Clerk Maxwell, thực hiện vào năm 1867, để tìm hiểu về định luật hai của nhiệt động lực học. Theo định luật này, khi hai vật thể có cùng nhiệt độ được cho tiếp xúc với nhau, và được cô lập khỏi môi trường, chúng không thể biến đổi trạng thái để một vật có nhiệt độ cao hơn vật kia. Lý do là với các hệ cô lập thì entropy không bao giờ giảm, trong khi trạng thái hai vật thể có nhiệt độ bằng nhau đã có entropy cực đại. Thí nghiệm tưởng tượng của Maxwell muốn tạo ra một màng ngăn cách hai vật thể, gọi là con quỷ Maxwell, thúc đẩy trao đổi nhiệt một chiều khiến một vật có nhiệt độ cao hơn vật kia.
Mô tả thí nghiệm
Maxwell mô tả thí nghiệm của ông:
... nếu chúng ta tưởng tượng một nhân vật có thể theo dõi đường đi của từng phân tử, trong chiếc hộp có số lượng hữu hạn các phân tử, nhân vật này có thể làm được những thứ mà chúng ta không ngờ. Chúng ta đã biết trong hộp khí có cùng nhiệt độ, các phân tử chuyển động với vận tốc khác nhau, dù cho vận tốc trung bình của số lượng lớn phân tử được chọn ngẫu nhiên là đồng đều. Tường tượng rằng hộp này được chia làm hai ngăn, A và B, có một vách ngăn đục lỗ, được quản lý bởi nhân vật đặc biệt, nhìn rõ từng chuyện động của từng phân tử, và mở hay đóng lỗ, sao cho chỉ có phân tử chuyện động nhanh được đi từ A sang B, và phân tử chuyển động chậm từ B sang A. Nhân vật này, không cần thực hiện công cơ học vào hệ, đã làm nhiệt độ của B tăng và A giảm, mâu thuẫn với định luật hai nhiệt động lực học.
Nhân vật canh giữ lỗ trên vách ngăn giữa A và B sau này được gọi là con quỷ Maxwell.
Đánh giá
Thí nghiệm của Maxwell đã đặt ra câu hỏi cho các nhà vật lý.
Liệu con quỷ Maxwell có vi phạm định luật hai nhiệt động lực học?
Nhiều nhà vật lý đã thực hiện tính toán và nhận thấy định luật hai nhiệt động lực học không bị vi phạm, nếu tính cả trạng thái của con quỷ Maxwell vào hệ. Con quỷ sẽ cần phải thực hiện công để phân tách các phân tử, nhiều hơn là công mà nó có thể thu lại từ chênh lệch nhiệt độ hai bên hộp.
Ví dụ như năm 1929, Leó Szilárd và Léon Brillouin chỉ ra rằng con quỷ Maxwell cần phải đo được tốc độ của các phân tử, và động tác thu thập thông tin này cần tiêu tốn năng lượng. Ví dụ như nếu con quỷ kiểm tra vận tốc của các phân tử bằng cách gửi các photon tới các phân tử và nhận về photon phản xạ, nó cần có năng lượng để phát ra các photon. Việc tiêu tốn năng lượng của con quỷ làm tăng entropy của chính nó, ví dụ như entropy của hệ photon do quỷ phóng ra trong lúc đo đạc, và sự tăng này lớn hơn sự giảm entropy trong hộp khí, khiến entropy tổng cộng của cả hệ có tương tác lẫn nhau là tăng.
Năm 1960, Rolf Landauer nhận ra rằng một số phép đo không làm tăng entropy nhiệt động lực học nếu nó là quá trình nhiệt động lực học thuận nghịch. Do mối liên hệ giữa entropy nhiệt động lực học và entropy thông tin, điều này đồng nghĩa với việc các kết quả thông tin trong đo đạc sẽ không bị xoá. Nghĩa là con quỷ Maxwell cần lưu giữ thông tin đo đạc lại.
Tuy vậy, năm 1982, Charles H. Bennett, chỉ ra rằng, dù con quỷ Maxwell có chuẩn bị trước, nó sẽ dần tiêu thụ hết bộ nhớ của nó và để tiếp tục việc đo đạc, nó sẽ phải xoá bớt dần thông tin cũ trong bộ nhớ để ghi thông tin mới. Việc xoá thông tin là quá trình nhiệt động lực học không thuận nghịch và làm tăng entropy .
Ứng dụng
Các phiên bản của con quỷ Maxwell trong thực tế đã xuất hiện trong tự nhiên cũng như đã được chế tạo, và chúng đều tiêu tốn năng lượng khiến entropy tổng cộng luôn tăng.
Trong tự nhiên, các kênh ion hay các màng tế bào hoạt động có tính lọc lựa một chiều rất giống quỷ Maxwell. Bộ não và hệ thần kinh của động vật hoạt động với các van một chiều này.
Trong vật lý hạt, các bẫy đơn nguyên tử cũng là các con quỷ Maxwell, điều khiển trạng thái lượng tử của từng hạt. Công nghệ nano cũng được phát triển để tạo ra các màng hay van một chiều ở cỡ phân tử, phỏng theo hoạt động sinh hoá của tế bào sống.
Trên tầm vĩ mô hơn, các hệ thống ống cuộn Ranque-Hilsch cũng giúp tách khí nóng khỏi khí lạnh. Nó tách các phân tử dựa trên định luật bảo toàn động lượng, các phân tử chuyển động nhanh bị văng ra thành ngoài ống, còn các phân tử chuyển động chậm nằm ở gần tâm xoáy cuộn hơn. Các phần khí có nhiệt độ khác nhau được cho thoát ra các đầu khác nhau. Dù dụng cụ này cho phép tạo ra chênh lệch nhiệt độ, cần có năng lượng để làm các dòng khí chuyển động. |
Mafia (còn có tên Cosa Nostra) là một tổ chức tội phạm bí mật của người Sicilia được hình thành vào giữa thế kỉ 19 tại vùng đảo Sicilia thuộc Ý. Một trong những bộ phận hậu duệ của nó xuất hiện ở vùng ven biển miền đông Hoa Kỳ và Úc, được du nhập cùng với làn sóng di cư của người Sicilia và các cư dân khác thuộc miền nam của Ý. Ở Bắc Mỹ, Mafia dùng để chỉ các tổ chức tội phạm của Ý nói chung, chứ không hẳn là chỉ giới tội phạm của riêng cộng đồng Sicilia. Theo nhà sử học Paolo Pezzino "Mafia là một tổ chức tội phạm không những chỉ hoạt động trong một số lĩnh vực bất hợp pháp; mà còn là một tổ chức đa chức năng như là một thế lực của một vùng, một khu vực nhất định...".
Cosa Nostra là một liên minh không chặt chẽ của hàng trăm nhóm Mafia, còn được gọi là gia đình. Mỗi tổ chức này có quyền kiểm soát một vùng lãnh thổ riêng, thường là một thị trấn, một làng hay một vùng của một thành phố lớn và thường không có nhiều các hoạt động xâm lấn hay bạo lực giữa các địa bàn hoạt động của nhau. Qua thời gian cơ cấu tổ chức của các gia đình hình thành nên dạng liên minh vừa giữ quyền lực trung tâm vừa có các tổ chức bộ phận và Cosa Nostra được hình thành từ cuối những năm 1950.
Một số nhà quan sát cho rằng, Mafia chỉ là những dấu hiệu đặc trưng có nguồn gốc văn hoá như là "lối sống". Khi giải thích về Mafia, nhà dân tộc học người Sicilia Giuseppe Pitrè cho rằng: "Mafia theo quan niệm thông thường nói rộng ra, đây là một lực lượng đứng ra phán xử những mâu thuẫn, xung đột, quyền lợi hay những quan điểm khác nhau".
Nhiều người Sicilia không nhất trí về quan niệm mang tính tội phạm của các nhân vật trên, nhưng đều nhất trí rằng đây là một tổ chức hình thành để bảo vệ những người nghèo hèn trong xã hội. Cuối những năm 1950, trên bia mộ của một thủ lĩnh huyền thoại Mafia là Villalba Calogero Vizzini có ghi hàng chữ: "Ông là một Mafia; tuy phạm tội nhưng ông cũng rất tôn trọng pháp luật, bảo vệ lẽ phải và là một nhân cách vĩ đại. Đó là con người đáng kính". Ở đây Mafia có nghĩa là niềm kiêu hãnh, niềm vinh dự hay thậm chí là trách nhiệm xã hội như: quan điểm, chứ không phải một tổ chức. Tương tự như vậy, vào năm 1925, chủ tịch hạ viện Ý, ngài Vittorio Emanuele Orlando xuất hiện trước quốc hội và ông rất hãnh diện với tên gọi mafioso (thành viên của Mafia), vì từ này có hàm ý là danh giá, quý phái và hào phóng.
Từ nguyên
Có một số giả thuyết về nguồn gốc của từ này. Theo tiếng Sicilia, tính từ mafiusu có lẽ vay mượn từ gốc Arập là mahyas có nghĩa là " ba hoa, hiếu chiến" hay marfud có nghĩa là "đồ bỏ đi". Đại khái được dịch theo nghĩa chung là " thái độ nghênh ngang" hay cả nghĩa " tính gan dạ, anh hùng". Khi liên hệ với một người, theo ý kiến của nhà nghiên cứu Diego Gambetta, mafiusu vào thế kỉ 19 ở Sicilia được hiểu theo các nghĩa là: sự ức hiếp, tính kiêu ngạo, can đảm, mạnh dạn, kiêu hãnh.
Theo nhà dân tộc học người Sicilia Giuseppe Pitrè, mối liên hệ của từ này với những băng đảng tội phạm bí mật mới hình thành ở Sicilia và Ý mới chỉ sau này. Vì thế nguồn gốc từ Mafia mang tính chất hoang đường, lỏng lẻo và rất khó giải thích cặn kẽ. Thuật ngữ "Mafia" sau này được dùng trong cộng đồng Ý như đã nêu trên quả là một hiện tượng kỳ lạ. Từ "Mafia" xuất hiện lần đầu tiên trên công luận vào năm 1865 trong bản báo cáo của quận trưởng thị trấn Palermo ngài Filippo Antonio Gualterio. Leopoldo Franchetti, một quan chức chính phủ Ý tới Sicilia và đã viết một báo cáo cặn kẽ nhất về Mafia vào năm 1876. Ông coi Mafia là "tổ chức bạo lực" và mô tả cấu trúc của Mafia như sau: "Mafia chắc chắn là một hệ thống bạo lực chỉ có điều gọi nó như thế nào và xem nó có ảnh hưởng tới tính chất xã hội cũng như vai trò của nó đối với Sicilia như thế nào thôi. Chúng còn có một số tên gọi biến tướng ở những vùng khác nhau nữa". Ông cho rằng, Mafia ăn sâu bén rễ vào đời sống xã hội của Sicilia và nếu không dập tắt được nó, thì những kiến trúc xã hội của vùng đảo phía nam này sẽ bị nó lấn át.
Tên đích thực: Cosa Nostra
Theo một số thành viên của Mafia thì tên đích thực của Mafia là Cosa Nostra (của chúng ta). Theo tên Mafia đào tẩu Tommaso Buscetta thì từ "Mafia" là sự hư cấu mang tính văn chương. Những tên Mafia đào tẩu khác như Antonio Calderone và Salvatore Contorno cũng nói tương tự. Theo họ, tên thật sự của tổ chức này là "Cosa Nostra". Đối với một người, niềm vinh hạnh đứng trong tổ chức này thì không cần đặt tên cho nó. Các thành viên của Mafia giới thiệu với nhau hay các thành viên khác thuộc về "Cosa Nostra" (việc của chúng ta) hay la stessa cosa (việc giống nhau). Có nghĩa là "anh ta cũng giống như thế, đều là thành viên của Mafia, như anh thôi". Chỉ có những người ngoài thế giới Mafia mới cần tên để gọi chúng, sau đó viết hoa thành "Cosa Nostra".
Cosa Nostra được dùng lần đầu tiên vào năm 1960 ở Mỹ, do một tên là thành viên của Mafia nhưng sau đó ra toà làm nhân chứng. Cũng trong thời gian đó, nó trở thành tên riêng được FBI sử dụng và được các phương tiện thông tin đại chúng phổ biến rộng rãi. Sau đó thuật ngữ này được sử dụng khắp nơi thay thế cho tên gọi Mafia trước đây. Thậm chí FBI còn đề xướng một cách gọi là "La Cosa Nostra", trong tiếng Ý từ "la" được dùng như một mạo từ đứng trước danh từ Mafia, tương tự như "a, the" trong tiếng Anh.
Những tên khác
Trong lịch sử, Mafia mang nhiều tên khác nhau, như: xã hội danh giá. Các thành viên của Mafia cũng tự gọi họ là những con người danh giá.
Nghi thức của Cosa Nostra Sicilia
Một nghi thức hướng tới hình thành của hầu hết mọi gia đình Mafia là khi thành viên tập hợp thành một hội và sau đó trở thành một đội quân. Theo sự mô tả của Tommaso Buscetta, người bị thẩm phán Giovanni Falcone chất vấn, thì một thành viên mới gia nhập phải có ít nhất "ba người bảo lãnh" (có uy tín) của gia đình Mafia và người già nhất cảnh báo với anh ta là vào "nhà này" tức là phải bảo vệ những người yếu chống lại những kẻ mạnh; sau đó anh ta được chọc kim vào đầu ngón tay cho máu nhỏ xuống một bức hình, thường là tượng thánh để làm lễ tuyên thệ. Bức hình này được đặt trong lòng bàn tay của người mới gia nhập và châm vào lửa; khi hình cháy hết anh ta bắt đầu lời thề sẽ trung thành với luật lệ của Cosa Nostra, với lời trang trọng "máu thịt tôi sẽ chảy như bức hình này nếu tôi không giữ trọn lời thề của mình". Joseph Valachi là người đầu tiên nói lên điều đó trước toà. Ở Sicilia cũng có một điều luật im lặng gọi là omertà, cấm tất cả mọi người đàn ông bình thường, phụ nữ, trẻ em hợp tác với bất cứ một cảnh sát hay quan chức chính quyền nào, bằng không sẽ chết.
Lịch sử Cosa Nostra Sicilia
Nguồn gốc
Đã từ lâu, người ta đưa ra giả thuyết rằng Mafia ra đời vào thời trung cổ. Pentito Tommaso Buscetta quá cố(pentito- người cộng tác với pháp luật) cũng nghĩ như thế, nhưng các học giả đôi khi lại nghĩ khác. Có lẽ nguồn gốc của Mafia hình thành nên như một tổ chức xã hội bí mật nhằm bảo vệ người dân Sicilia chống lại mối đe doạ của quân xâm lược Catalan vào thế kỉ thứ 15. Tuy nhiên, có rất ít những chứng cứ ủng hộ những giả thuyết đó. Một khả năng khác có nguồn gốc từ "Robin Hood" gắn với xã hội ngoài pháp luật Sicilia, tồn tại lâu dài và được người dân nơi đây chấp nhận. Cách lý giải nữa về nguồn gốc này cho thấy rằng, Mafia là những kẻ phiến loạn chính đáng để bảo vệ người dân chống lại sự áp bức của quân xâm lược La Mã hay đội quân miền bắc nước Ý.
Sau cuộc cách mạng năm 1848 và năm 1860, Sicilia thất thủ và rơi vào hỗn loạn. Lúc đầu mafiosi(các hội hay thành viên mafia) biệt lập với nhau tạo thành những băng đảng ngoài pháp luật, chuẩn bị vũ khí để nổi dậy. Arthur John Dickie cho rằng, đây chỉ là cách biện hộ để đánh lừa và bắn giết cảnh sát mà thôi. Tuy nhiên khi chính phủ mới được hình thành ở Rome, thì rõ ràng là Mafia không có khả năng làm những việc ấy, chúng bắt đầu thay đổi phương pháp và chiến thuật trong suốt nửa cuối thế kỉ 19. Các khu rừng, các vùng đất của các quý tộc bắt đầu sinh lợi nhưng cũng rất nguy hiểm. Lúc đầu Palermo là địa bàn chính của những hoạt động này, nhưng sau đó Mafia Sicilia nhanh chóng ảnh hưởng sang miền tây của hòn đảo này. Để củng cố giao kèo giữa các băng đảng với nhau, nhằm tăng lợi nhuận và đảm bảo môi trường lao động an toàn, có thể Mafia đã được hình thành vào khoảng thời gian giữa thế kỉ 19.
Mafia sau khi thống nhất nước Ý
Năm 1860, nước Ý thống nhất các vùng lãnh thổ lần đầu tiên bao gồm cả Sicilia và Papal, Giáo hoàng phẫn nộ với chính phủ nước này. Từ năm 1870, Giáo hoàng cho rằng lãnh thổ bị bao vây bởi nước Ý và thúc giục nhà thờ không hợp tác với nước này. Nhìn chung nước Ý không khuyến khích bạo lực. Sicilia có tổ chức nhà thờ rất mạnh, nhưng lại đa dạng về sắc tộc chứ không mạnh về mặt tri thức và xã hội và lại có truyền thống đứng ngoài sự kiểm soát của chính quyền trung ương. Sự va chạm giữa chính quyền và nhà thờ tạo cho các băng đảng ở Sicilia đại diện cho những người dân nơi đây hợp tác với chính quyền trung tâm (chuẩn bị cho việc hình thành nước Ý thống nhất) chống lại các hoạt động của nhà thờ. Trải qua hai thập kỉ kể từ khi hình thành quốc gia thống nhất vào năm 1860, hoạt động của Mafia mới được công chúng chú ý tới, nhưng nó được quan niệm như một hệ thống giá trị và quan điểm hơn là một tổ chức.
Sự đề cập tới Mafia một cách chính thức bằng tư liệu bắt đầu từ những năm 1800, khi Galati đề cập tới vấn đề bạo lực của Mafia địa phương nhằm trục xuất Galati khỏi vùng rừng mà hắn chiếm cứ. Nhằm bảo vệ các đàn gia súc khỏi bị trộm cắp, mua chuộc các quan chức chính quyền là những nguồn thu nhập chính và bảo đảm cho hoạt động của Mafia giai đoạn đầu. Cosa Nostra
cũng du nhập những nghi thức hoạt động từ Tam Điểm hội, như trong buổi lễ kết nạp thành viên mới nổi tiếng.
Giai đoạn Phát- xít
Trong suốt giai đoạn chủ nghĩa Phát- xít nắm quyền ở Ý, Cesare Mori là quận trưởng thành phố Palermo, ông đã dùng quyền lực của mình để chống Mafia. Ông đã buộc nhiều tên Mafia phải chạy ra nước ngoài hay ra toà. Nhiều tay Mafia chạy sang Mỹ, trong số đó có Joseph Bonanno với biệt danh là Joe Bananas, sau này thống lĩnh toàn bộ hệ thống Mafia ở Mỹ. Tuy nhiên khi bị Mori truy quét thì nhiều tên Mafia lại tìm cách chui vào hàng ngũ Phát- xít, chúng lại tiếp tục bị phá vỡ và chính quyền Phát- xít tuyên bố rằng Mafia đã bị xóa sổ. Mặc dù Mafia đã bị suy yếu, nhưng nó không bị đánh đổ hoàn toàn như báo cáo. Mặc dù tấn công vào các đạo hữu của chúng, nhưng giới Mafia ở New York vẫn hết sức khâm phục Mussolini, đặc biệt là Vito Genovese (mặc dù hắn đến Mỹ từ Naples, chứ không phải Sicilia).
Sự hồi sinh thời hậu chiến
Khi Phát-xít sụp đổ, Mafia không phát triển mạnh lên cho tới khi nước này đầu hàng đồng minh và bị Mỹ chiếm đóng. Quân đội Mỹ đã sử dụng Mafia Ý để liên lạc trong giai đoạn của cuộc chiến ở Ý và Sicilia năm 1943. Lucky Luciano và những tay Mafia khác bị giam cầm ở Mỹ đã được trưng dụng để cung cấp thông tin cho quân đội Mỹ và dùng uy tín của Luciano để chiến dịch quân sự được tiến hành thuận lợi hơn. Hơn nữa, Luciano còn có nhiệm vụ bảo vệ các cảng biển của Mỹ khỏi bị quân Phít- xít phá hoại.
Có một số ý kiến cho rằng, cục chiến lược Mỹ đã cảnh báo với CIA rằng nên cẩn nhắc kỹ khi cho phép Mafia hoạt động trở lại trong vai trũ chống chính quyền ở Sicilia. Ở Mỹ, Mafia được quân đội huấn luyện cho tới năm 1943, đây trở thành bước ngoặt quan trọng nhất trong lịch sử Mafia và đã tạo nên hình thức hoạt động mới cho giai đoạn 60 năm sau. Hơn nữa nhà sử học Palermo Francesco Renda đã tranh luận rằng, không có sự liên minh như thế. Mafia đã lợi dụng tình trạng hỗn loạn của thời kì hậu Phát-xít để giành lại vị thế xã hội ở Sicilia. OSS (tiền thân của CIA) đã đưa ra một "báo cáo về tình hình Mafia" vào năm 1944, do W. E. Scotten đảm nhận, ông nhận định Mafia đã hồi sinh và cảnh báo về những hiểm hoạ của nó đối với trật tự xã hội và phát triển kinh tế. Ông còn viện dẫn thêm rằng, những lợi nhuận (nhìn từ góc độ của Mỹ) đã tạo ra lực lượng Mafia Sicilia chống lại ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản.
Chuyên gia nghiên cứu về buôn bán ma tuý, tiến sĩ Alfred W. McCoy cho rằng, Luciano đã được đánh đổi án ngồi tù để tại ngoại do những đóng góp của ông ta. Sau chiến tranh Luciano được phóng thích khỏi nhà tù và bị đày về Ý, tại đây hắn có điều kiện hoạt động phạm tội mà không bị cản trở. Hắn trở lại Sicilia năm 1946 để tiếp tục hoạt động, được McCoy đề cập tới trong cuốn "hoạt động buôn bán heroin ở Đông Nam Á" vào năm 1972. Luciano đó liên minh với Mafia đảo Coóc, phát triển mạng lưới buôn bán heroin toàn cầu; lúc đầu là nguồn cung cấp từ Thổ Nhĩ Kỳ nhập vào Mác-xây, trong cái gọi là "điểm trung chuyển Pháp". Sau khi Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu loại trừ cây thuốc phiện, hắn lại liên hệ với giới Mafia đảo Coóc để lấy hàng từ miền nam Việt Nam. Trong khi liên kết với các thủ lĩnh ở Mỹ trong đó có Santo Trafficante Jr, Luciano và những người kế vị của hắn đã lợi dụng tình trạng hỗn loạn do cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam để phát triển nguồn cung ứng heroin tại "vùng tam giác vàng", nơi đây đã nhanh chóng trở thành địa điểm cung cấp heroin lớn nhất cho Mỹ, Úc và nhiều quốc gia khác.
Phiên toà Maxi và cuộc chiến chống lại chính quyền
Cuộc chiến Mafia lần thứ hai diễn ra vào đầu những năm 1980, đây là cuộc xung đột lớn nhất trong nội bộ Mafia dẫn tới việc ám sát một số nhà chính trị, cảnh sát trưởng và các vị chánh án.
Salvatore Riina và đồng bọn Corleonesi rốt cuộc đã chiến thắng. Các thế hệ Mafia mới hướng tới lao động chân tay hơn là mánh khoé gian lận theo kiểu truyền thống. Để đáp lại xu thế phát triển này, người Ý đưa ra tên gọi là Cosa Nuova (cái mới) để đối lại Cosa Nostra và thể hiện sự cách tân.
Một trong những tay Mafia cộm cán đầu tiên(bị bắt và cộng tác với toà án) là Tommaso Buscetta bị mất hết đồng minh trong cuộc chiến và đã tiết lộ với chánh án Giovanni Falcone từ năm 1983. Điều này dẫn đến phiên toà Maxi (1986-1987) kết quả là hàng trăm tên Mafia đã bị lộ diện. Khi toà án tối cao Ý kết tội những tên này vào tháng 1 năm 1992 thì Riina tiến hành trả thù. Nhà chính trị Salvatore Lima đã bị giết vào tháng 3 năm 1992, ông đã nghi ngờ có sự liên kết giữa chính quyền với Mafia từ lâu(sau đó được Buscetta làm nhân chứng) và Mafia đã trút cơn tức gận lên ông. Falcone và người bạn chống Mafia của ông Paolo Borsellino cũng bị giết một vài tháng sau đó. Những điều đó dẫn đến sự phẫn nộ của công luận và đòi chính phủ phải trừng trị thích đáng, kết quả là Riina đó bị bắt vào tháng 1 năm 1993. Rất nhiều tên Mafia dần dần lộ diện. Rất nhiều tiền được trả cho các hoạt động liên quan tới giết người, ví dụ như vợ, anh chị em và cô dì, chú bác của kẻ đào tẩu Francesco Marino Mannoia đã bị giết.
Corleonesi đã trả thù bằng hàng loạt các vụ khủng bố đánh bom vào một số điểm du lịch trên lãnh thổ Ý. Các điểm Via dei Georgofili ở Florence, Via Palestro ở Milano, Piazza San Giovanni ở Laterano và Via San Teodoro ở Rome bị đánh bom làm cho 10 người bị thiệt mạng, 93 người bị thương và nhiều công trình bị phá huỷ, trong đó có khu triển lãm nghệ thuật Uffizi. Bernardo Provenzano lên thay Corleonesi, hắn tạm dừng chiến dịch khủng bố và thay vào đó là chiến dịch im lặng được gọi là pax mafiosi. Chiến dịch đó làm cho Mafia hồi phục dần dần như trước đây. Hắn đã bị bắt vào năm 2006 sau 43 năm hoạt động.
Mafia hiện đại ở Ý
Sự chia rẽ của Mafia ở Sicilia trong giai đoạn hiện nay là vì các ông chủ đang bị kết án và ở trong tù, trong đó có Riina và Bernardo Provenzano, nhưng cũng có kẻ chưa bị kết tội. Những ông chủ ở trong tù lâu năm rất khó chỉ đạo những hoạt động ở bên ngoài. Antonino Giuffrè, bạn thân của Provenzano đã nhanh chóng thay thế hắn ngay sau khi tên này vào tù năm 2002. Năm 1993, Cosa Nostra đã tiếp xúc trực tiếp với đại diện của thủ tướng Silvio Berlusconi.
Ông đã gợi ý bãi bỏ một số điều chống Mafia trong đạo luật 41 bis và đã trao quyền bầu cử riêng đối với Sicilia.
Giuffrè cho rằng tuyên bố không được khẳng định. Quốc hội Ý được sự ủng hộ của đảng Dân chủ-Tự do thiên chúa giáo của Silvio Berlusconi đã phải phê chuẩn lại đạo luật 41 bis đã bị hết hạn vào năm 2002, nhưng vẫn còn hiệu lực 4 năm nữa để áp dụng cho các tội phạm khác như khủng bố. Tuy nhiên theo bài báo của L'Espresso đăng trên một tờ báo hàng đầu của Ý, thì có khoảng 1/5 trong số 119 tên Mafia bị ngồi tù vì đạo luật 41 bis được phóng thích. Tổ chức ân xá quốc tế đã khẩn trương xem xét lại đạo luật 41 bis có đề cập tới "tội ác vô nhân tính hay đối xử đê hèn" đối với tù nhân.
Hơn nữa, Salvatore Riina như đã đề cập ở trên, nhà chính trị Giulio Andreotti, chánh án toà án tối cao Corrado Carnevale bị nghi ngờ có dính líu với Mafia trong một giai đoạn dài.
Cuối những năm 1990, Cosa Nostra bị suy yếu, lợi tức chính là do buôn bán ma tuý từ Calabria tới Ndrangheta. Năm 2006 chúng kiểm soát theo ước tính tới khoảng 80% lượng cocaine bán vào châu Âu. Mafia còn tống tiền các công ty lớn, nhỏ khác nữa. Ước tính có tới khoảng 7% thu nhập của Ý do các tổ chức tội phạm mang lại. Mafia đã trở thành một hoạt động kinh doanh lớn nhất ở Ý, đem lại lợi tức hơn 120 tỷ đô la Mỹ hàng năm.
Mười điều răn
Năm 2007, cảnh sát Sicilia đã tìm thấy 10 điều răn tại nơi ở của Salvatore Lo Piccolo (một trong những tay trùm Mafia). Cũng tương tự như 10 điều răn trong Kinh Thánh của Thiên Chúa Giáo, nhằm khuyên răn những chiến hữu của chúng trở thành những thành viên trung thành. Mười điều răn đó như sau:
1. Không ai được phép giới thiệu trực tiếp mình với một thành viên khác của chúng ta. Phải có một người thứ ba làm trung gian.
2. Không bao giờ được nhòm ngó tới vợ của bạn bè.
3. Không được để bị nhìn thấy cùng cảnh sát.
4. Không được đến quán rượu hay hộp đêm.
5. Luôn sẵn sàng với Cosa Nostra, đó là một nghĩa vụ. Thậm chí vợ sắp đẻ.
6. Phải tuyệt đối tôn trọng các cuộc hẹn.
7. Phải tôn trọng với các bà vợ.
8. Khi được hỏi về bất kỳ thông tin nào, phải nói sự thật.
9. Không được chiếm đoạt tiền của người khác hay của gia đình khác.
10. Những người không được trở thành thành viên của Cosa Nostra: Nếu có họ hàng gần trong ngành cảnh sát, trong gia đình có người dối trá, cư xử tồi và không có phẩm hạnh.
Theo lời luật của Antonino Calderone về Mười điều răn vào năm 1987: Luật lệ là không được động đến vợ của những người danh giá, không được ăn cắp của những người đàn ông danh giá và nói chung của bất cứ ai; không được dính tới mại dâm; không được giết những người đàn ông danh giá, trừ khi thật cần thiết; tránh cung cấp thông tin cho cảnh sát; không được tranh chấp với những người đàn ông danh giá để duy trì hòa khí; giữ kín về nội bộ Cosa Nostra với người bên ngoài; tránh giới thiệu bản thân với những đàn ông danh giá.
Những Mafia Sicilia nổi bật nhất
Vito Cascio Ferro bị Cesare Mori tống giam.
Calogero Vizzini (1877 – 1954): được coi là một trong những tên trùm Mafia có ảnh hưởng nhất ở Sicilia kể sau từ chiến tranh thế giới 2 cho tới khi hắn chết năm 1954.
Stefano Magaddino (1891 – 1974): được coi là "bố già uy quyền của Cosa Nostra", hoạt động ở các thành phố Buffalo và Detroit.
Giuseppe Genco Russo (1893 – 1976): sếp của Mussomeli, được coi là người kế thừa Calogero Vizzini.
Michele Navarra (1905 – 1958): đứng đầu gia đình Corleone từ năm 1930 tới 1958
Salvatore "Ciaschiteddu" Greco (1923 – 1978): đứng đầu gia đình Mafia ở Ciaculli, từng là thư ký đầu tiên của liên minh Mafia từ năm 1958.
Gaetano Badalamenti (1923 – 2004): sếp của gia đình Mafia ở Cinisi
Angelo La Barbera (1924 – 1975): chủ của gia đình Mafia ở Palermo
Michele Greco (1924 – 2008): chủ của gia đình Mafia ở Croceverde
Luciano Liggio (1925 – 1993 chủ của gia đình Mafia ở Corleone
Tommaso Buscetta (1928 – 2000): Mafia Sicilia trở thành nhân vật quan trọng năm 1984. Buscetta đứng ra làm chứng trong suốt phiên toà Maxi.
Salvatore Riina (sinh năm 1930): còn được gọi là Totũ Riina là một trong những thành viên khét tiếng của Mafia Sicilia. Hắn có biệt hiệu là "cục súc" hay được còn được gọi là "gã lùn"(U Curtu trong tiếng Sicilia) và hắn điều hành Mafia bằng bàn tay sắt trong giai đoạn từ những năm 1980 cho tới khi hắn bị bắt vào năm 1993.
Bernardo Provenzano(sinh năm 1933): người kế vị Riina là một trong những cánh tay phải của Corleonesi và là một trong những nhân vật có uy quyền nhất của Mafia Sicilia. Provenzano lẩn trốn pháp luật từ năm 1963. Hắn bị bắt vào ngày 11 tháng 4 năm 2006 tại Sicilia. Trước khi bị bắt, các nhà điều tra đã phải theo dõi hắn trong suốt 10 năm.
Stefano Bontade (1939 – 1981): sếp của gia đình Mafia ở Santa Maria di Gesu.
Leoluca Bagarella (sinh năm 1941): thành viên của gia đình Mafia Corleone bị bắt năm 1995
Salvatore Lo Piccolo (sinh năm 1942): được coi là một trong những người kế vị Provenzano.
Salvatore Inzerillo (1944 – 1981): sếp của gia đình Mafia ở Passo di Rigano
Giovanni 'Lo Scannacristiani' Brusca (sinh năm 1957): dính líu tới vụ ám sát chánh Giovanni Falcone.
Matteo Messina Denaro (sinh năm 1962): được coi là một trong những người kế vị Provenzano.
Michele Cavataio: bị chết do giao tranh giữa các băng Mafia năm 1969
Benedetto Santapaola (sinh 1938): nhân vật quan trọng nhất của Mafia ở Catania.
Cấu trúc của Cosa Nostra Sicilia
Cosa Nostra được các thành viên của Mafia coi là một "tổ chức danh giá", chuỗi các mệnh lệnh được tổ chức theo dạng hình kim tự tháp, giống như mô hình của liên minh hiện đại.
Cấu trúc truyền thống
1.Capo di Tutti Capi: là "ông chủ của mọi ông chủ"
2. Capo di Capi Re: "Hoàng đế của các ông chủ", danh hiệu thể hiện sự kính trọng đối với những Mafia cao tuổi đã nghỉ hưu.
3. Capo Crimine: "ông chủ phạm tội", còn gọi là Don - Đứng đầu gia đình Mafia phạm tội ác. Sếp của gia đình Mafia.
4. Capo Bastone: "sếp của câu lạc bộ", còn gọi là "Underboss" nhận mệnh lệnh cấp hai từ Capo Crimine. Còn được gọi là sếp phó.
5. Consigliere: cố vấn
6. Caporegime: "đội trưởng", người nắm giữ một đội quân khoảng 10 người thi hành nhiệm vụ.
7. Sgarrista hay Soldato: "người lính", là thành viên của Mafia có nghĩa vụ phục vụ như một người lính.
8. Picciotto:"người đàn ông bé nhỏ": một số lượng nhỏ những người ép buộc làm việc cho Mafia.
9. Giovane D'Onore: một hội gồm các thành viên, thường không phải gốc Ý và Sicilia
Cấu trúc của Mafia Ý
1. Capofamiglia: Sếp
2. Consigliere: cố vấn
3. Sotto Capo: sếp phó
4. Capodecina: ban lãnh đạo
5. Uomini D'onore: thành viên danh dự
Mafia Mỹ
Mafia Mỹ (hay còn được gọi là Cosa Nostra Mỹ), có nguồn gốc từ Mafia Sicilia nổi lên ở vùng ven biển miền đông nước Mỹ trong giai đoạn thế kỉ 19 theo làn sóng nhập cư của người Sicilia (hay còn được gọi là diaspora Ý). Mafia Mỹ gốc Ý thống trị các tổ chức tội phạm ở nước này. Nó duy trì các hoạt động phạm tội ở hầu hết các thành phố lớn như Chicago và New York; các thành phố ở vùng đông bắc và nhiều vùng khác, trong đó có: Philadelphia, Las Vegas, New Orleans và nhiều thành phố khác. Mafia nổi danh và đã đi vào nền văn hoá Mỹ; được dựng thành phim, truyền hình, quảng cáo thương mại và trò chơi game.
Mafia Mỹ gốc Ý, đặc biệt là 5 gia đình Mafia ở New York có nguồn gốc từ Mafia Sicilia và tồn tại biệt lập nhiều năm ở Mỹ. Ngày nay Mafia Mỹ liên kết với một số tổ chức tội phạm có nguồn gốc từ Ý, như Camorra có tổ chức đầu não ở Ý. Bị hiểu lầm là " Mafia gốc", nhưng cũng là một tổ chức tội phạm láng giềng lâu đời nhất không phải chỉ có hoạt động ở Mỹ. Năm 1986, theo báo cáo của chính phủ, ước tính có khoảng 1700 tổ chức Cosa Nostra với hàng ngàn thành viên của chúng. Báo cáo cũng chỉ ra rằng, Mafia Mỹ gốc Ý là tổ chức tội phạm lớn nhất nước Mỹ và nó tiếp tục thống lĩnh nghiệp đoàn tội phạm Mỹ, cho dù tiếp tục xuất hiện nhiều băng nhóm đường phố khắc.
Cosa Nostra Mỹ hoạt động mạnh nhất ở vùng New York,, Philadelphia, New England, Detroit và Chicago; tổng cộng có tới 26 gia đình Cosa Nostra trên toàn nước Mỹ.
Lịch sử
Xuất xứ: "bàn tay đen"
Các nhóm Mafia xuất hiện và hoạt động đầu tiên là xung quanh khu vực thành phố New York, ban đầu từ các khu vực nghèo khó của người Do Thái láng giềng, dần dần biến thành những tổ chức tội phạm quốc tế. Mafia Mỹ gốc Ý bắt đầu từ La Mano Nera, "bàn tay đen", tức là tống tiền những người Ý(và các cộng đồng nhập cư khác) xung quanh thành phố New York. Các băng "bàn tay đen" có thể đe doạ họ bằng thư, nếu những đòi hỏi không được đáp ứng. Thư đe doạ này đôi khi được điểm chỉ bằng dấu tay dính mực đen ở cuối thư. Đặc biệt là khi những băng tội phạm Sicilia nhập cư vào Mỹ, chúng hoạt động phạm pháp dưới dạng cho vay nặng lãi, mại dâm, ma tuý, buôn rượu lậu, cướp giật, bắt cóc, giết người. Nhiều người Ý di cư nghèo phải bám vào Mafia để mong có được vị thế và thoát khỏi nghèo đói.
Giuseppe Esposito là tên Mafia Sicilia đầu tiên nhập cư vào Mỹ. Hắn cùng với 6 người bạn của hắn chuồn sang Mỹ sau khi đã giết 11 chủ đất giàu có, một số vị quan chức tỉnh Sicilia. Hắn đã bị bắt ở New Orleans năm 1881 và bị dẫn độ về Ý.
New Orleans cũng là nơi ẩn náu đầu tiên của Mafia ở Mỹ, tại đó chúng thu hút sự chú ý cả ở trong nước và quốc tế. Ngày 15 tháng 10 năm 1890, viên sĩ quan cảnh sát của New Orleans tên là David Hennessey đã bị bắn chết theo lệnh ám sát. Hàng trăm tên Mafia Sicilia bị bắt và 19 tên trong số đó đã bị kết án về tội giết người. Nhưng sau đó được tha bổng, theo tin đồn là hối lộ và đe doạ những người làm chứng. Quá bất bình, những người dân của New Orleans đã xông vào giết chết 11 tên trong số 19 tên này. Hai tên bị treo cổ, 9 tên bị bắn và 8 tên trốn thoát.
Giai đoạn từ những năm 1910 đến những năm 1920 có 5 cụm băng đảng Mafia Sicilia hình thành ở thành phố New York.
Sự nổi lên trong giai đoạn ban hành đạo luật cấm rượu
Charles "Lucky" Luciano là một trong những ông chủ nổi tiếng nhất của thế giới ngầm ở Mỹ.
Sự hoạt động của Mafia bị giới hạn từ năm 1920, bị phá sản bởi đạo luật cấm sản xuất và buôn bán rượu. Hoạt động của băng đảng Al Capone những năm 1920 chỉ giới hạn trong phạm vi Chicago.
Cuối những năm 1920, có hai đảng phái tội phạm nổi lên, nguyên nhân căn bản là do cuộc chiến tranh Castellamarese nhằm giành quyền kiểm soát các tổ chức tội phạm giữa các băng đảng ở thành phố New York. Sau khi Joseph Masseria, một trong những thủ lĩnh của Mafia bị tiêu diệt, chiến tranh chấm dứt, hai băng đảng nhập lại thành một tổ chức thống nhất. Salvatore Maranzano, là thủ lĩnh đầu tiên của Mafia Mỹ; do tự ý giết người nên 6 tháng sau Charles "Lucky" Luciano trở thành thủ lĩnh mới. Maranzano ban hành ra một đạo luật chỉ đạo cho tổ chức này; hình thành nên cơ cấu các gia đình và giải quyết xung đột. Luciano thiết lập nên hội đồng để điều hành các hoạt động của tổ chức. Hội đồng bao gồm ông chủ của 6 hay 7 gia đình Mafia.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai
Năm 1951, Estes Kefauver thượng nghị sĩ của bang Tennessee đưa ra một nhận định rằng: "các tổ chức tội phạm nguy hiểm còn được gọi là Mafia có liên hệ với Liên Xô đang hoạt động ráo riết ở Mỹ".
Năm 1957, cảnh sát New York đã không ngăn cản được cuộc họp của Mafia Mỹ ở thị trấn nhỏ Apalachin thuộc New York. Cuộc họp này được gọi là hội nghị Apalachin. Rất nhiều tên tham dự bị bắt và sự kiện này đó buộc các tổ chức tội phạm phải thay đổi luật lệ hoạt động.
Năm 1963, Joseph Valachi là người của Cosa Nostra Mỹ đầu tiên cung cấp những thông tin bên trong của tổ chức này. Được FBI trưng dụng, Valachi đó cung cấp tên tuổi, cấu trúc, quyền lực, luật lệ, lời thề và thành viên của tổ chức này. Tất cả mọi điều đó còn được giữ kín cho đến mãi sau này.
Ngày nay, Cosa Nostra dính líu đến hầu hết các lĩnh vực hoạt động bất hợp pháp ở Mỹ. Nó bao gồm các lĩnh vực như giết người, tống tiền, buôn ma tuý, tham nhũng, đánh bạc, thâm nhập vào các lĩnh vực kinh doanh hợp pháp, nhập cư lao động bất hợp pháp, cho vay nặng lãi, mại dâm, khiêu dâm, gian lận thuế và đặc biệt hiện nay là lĩnh vực cổ phiếu.
Thâm nhập vào các hiệp hội lao động
Vào giữa thế kỉ 20, Mafia nổi danh bởi sự thâm nhập vào nhiều nghiệp đoàn lao động ở Mỹ. Đặc biệt là khi vị chủ tịch nghiệp đoàn lái xe tải Jimmy Hoffa bị mất tích và được cho là đó bị ám sát. Những năm 1980, chính phủ liên bang Mỹ kiên quyết loại bỏ ảnh hưởng của Mafia ra khỏi liên đoàn lao động.
Cấu trúc
Mafia đá phát triển thành 26 tổ chức (gia đình) ở tất cả các thành phố trên toàn bộ lãnh thổ Mỹ, với trung tâm là New York. Sau nhiều cuộc chiến, 5 gia đình đã thiết lập được sự kiểm soát ở New York, đó là: gia đình Bonanno, gia đình Colombo, gia đình Gambino, gia đình Genovese và gia đình Lucchese. Các gia đình nay đã tổ chức một hội nghị ngầm với những băng đảng trứ danh khác như Joe Porrello ở Cleveland và Al Capone.
1. Sếp trưởng: Là ông chủ của các gia đình, thường nắm vai trò như một người điều hành chung cho toàn bộ một tổ chức Mafia, còn được gọi là Don hay "bố già". Những ông sếp này nắm giữ toàn bộ các hoạt động của mọi thành viên trong gia đình. Tuỳ theo từng gia đình, sếp có thể được bầu chọn trong hội nghị gia đình. Trong quá khứ, sếp phải được bầu qua hội nghị gia đình; nhưng từ những năm 1950 những cuộc tụ họp thường thu hút sự chú ý.
2. Sếp phó: Sếp phó thường được sếp trưởng chỉ định trực tiếp, là người có vai trò thứ hai trong một gia đình Mafia. Là người dưới quyền và thay thế sếp trưởng trong trường hợp sếp trưởng chết đột ngột. Sếp phó nắm toàn bộ việc điều hành các đội trưởng, nhưng đều dưới quyền sếp trưởng.
3. Cố vấn: Có vai trò tư vấn cho gia đình và được coi là cánh tay phải của sếp trưởng. Cánh này thường có vẻ ít găng-tơ và sếp có thể tin tưởng. Họ thường là trung gian cho những cuộc đụng độ, đại điện và ấn định cho những cuộc gặp gỡ giữa các gia đình. Họ còn đảm bảo cho các hoạt động của các gia đình tránh những rắc rối với luật pháp, như đánh bạc hay cho vay nặng lãi. Những người này đa số là luật sư hay môi giới chứng khoán có uy tín và có mối quan hệ gần với sếp. Cố vấn không có lực lượng trong tay, nhưng lại có quyền lực lớn trong gia đình, thương thuyết các vụ "mua" hay hối lộ cảnh sát hay quan toà.
4. Đội trưởng: Có nhiệm vụ điều hành một đội, mỗi đội thường từ 4 đến 6 nhóm trong gia đình, cũng có thể hơn. Mỗi nhóm khoảng 10 người. Đội trưởng điều hành trực tiếp công việc của đội mình, nhưng cũng có giới hạn và theo đường lối của sếp trưởng. Thưởng phạt cũng do sếp trưởng nắm quyền. Đội trưởng có thể do sếp phó đề nghị, nhưng thường được sếp trưởng chỉ định trực tiếp.
5. Lính trơn: Họ là những thành viên cấu thành nên gia đình Mafia và phải có nguồn gốc Ý (gồm cả Sicilia). Lính trơn bắt đầu hoạt động trong gia đình khi đã trải qua thử thách. Khi có sự mở rộng đội, thì đội trưởng có thể đề nghị tăng cường lính mới, nhưng quyết định là sếp trưởng. Lính mới dưới quyền chỉ đạo của đội trưởng và phải phục tùng mệnh lệnh của đội trưởng. Lính làm việc độc lập để tạo kinh phí cho gia đình Mafia. Lính là tầng lớp hèn kém nhất trong gia đình. Họ còn được gọi là " thợ", thường hay bị thí mạng trong những trường hợp các phi vụ bại lộ, phải thi hành những vụ giết người từ những sếp đứng trên họ. Những người lính được tín nhiệm không được tấn công một người mà người đó không chống lại mình. Bắt đầu khởi nghiệp là lính, nhưng không phải là lính cho đến khi kết thúc sự nghiệp.
6. Cộng tác viên: Cộng tác viên nhưng không phải gồm những thành viên tập hợp thành một đám đông, tương tự như những đám trẻ hư hỏng đường phố. Những người này thường làm môi giới ma tuý và thường tiếp xúc trực tiếp với những thành viên thực sự của gia đình. Họ là những thành viên của gia đình và thường làm những công việc như chủ nhà hàng. Cộng tác viên có thể là đại biểu của liên đoàn lao động hay thương gia. Họ cũng phải là những người Ý hay Sicilia. Đôi khi cộng tác viên cũng là những người có quyền lực với đối với gia đình riêng của họ, ví dụ Joe Watts rất thân cận với John Gotti(một trong những sếp của 5 gia đình quyền thế ở New York).
Cấu trúc và hệ thống tổ chức của Mafia Mỹ được Salvatore Maranzano tạo ra (từng là ông chủ của mọi ông chủ của mạng lưới Mafia Mỹ, nhưng bị giết chết sau khi nắm chức này 6 tháng, Lucky Luciano lên thay và cũng là người có lẽ đó giết Salvatore Maranzano). Trong những năm gần đây, xuất hiện thêm hai vị trí trong hệ thống gia đình Mafia, đó là: sứ giả và sếp đường phố. Những vị trí này do Vincent Gigante đưa ra. Mỗi đội do một đội trưởng lãnh đạo và báo cáo với sếp trưởng. Khi sếp trưởng quyết định, anh ta không chỉ đạo trực tiếp xuống người lính mà phải theo một chuỗi mệnh lệnh. Trong trường hợp như thế, nếu có bị lộ thì chỉ có người bên dưới mới bị bắt. Cấu trúc này được Mario Puzo mô tả trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng "Bố già" phần II, trong mối liên hệ được gọi là " những cái đệm". Nó cung cấp cho hội đồng tình báo Mỹ một hình thức "cực kì hợp lý" để tham khảo.
Nghi thức
Ban đầu nghi thức được du nhập từ nhiều nguồn; như tình hữu ái của Thiên Chúa giáo, Tam Điểm hội giữa thế kỉ 19 ở Sicilia và cho đến nay cũng có ít biến đổi. Theo báo cáo của cảnh sát trưởng của Palermo năm 1875, trong buổi làm lễ gia nhập của một môn đồ mới thì phải có mặt của một nhóm sếp trưởng và các sếp phó. Một trong những vị này sẽ chọc vào ngón tay của người lính mới và nói với anh ta là phải bôi máu vào một bức hình thánh, thường là tượng thánh. Lời tuyên thệ phải được đọc sau khi bức tượng có máu cháy hết, đó là việc làm tượng trưng cho bản án dành cho những kẻ phản bội. Điều này được kẻ đào tẩu Tommaso Buscetta khẳng định lần đầu tiên. Việc xử lý một người lính nào đó phải do hội đồng lãnh đạo gia đình Mafia phê chuẩn, việc trả thù anh ta có thể kích thích chiến tranh. Trong trường hợp nếu có chiến tranh giữa các băng đảng thì căn hộ phải bỏ trống và có những người lính nằm trên đệm dưới sàn nhà, phải canh gác luân phiên và nhìn qua cửa sổ để sẵn sàng chiến đấu.
Các gia đình Mafia theo thành phố ở Mỹ
Lưu ý: Mafia gồm các thành viên, các cộng tác viên và gia đình ở các thành phố khác nhau. Nên các tổ chức này không chỉ giới hạn ở các thành phố này. Nhiều gia đình ở thành phố này, nhưng có ảnh hưởng tới thành phố khác.
Gia đình ở Buffalo
Gia đình ở Chicago
Gia đình ở Cleveland
Gia đình ở Kansas
Gia đình ở New England-Boston (gia đình Patriarca)
Gia đình ở New Jersey (gia đình DeCavalcante)
Gia đình ở New Orleans
5 gia đình ở New York (gia đình Genovese, gia đình Gambino, gia đình Lucchese, gia đình Bonanno, gia đình Colombo)
Đông bắc Pennsylvania (gia đình Bufalino)
Gia đình ở Omaha
Ở Philadelphia (gia đình Scarfo)
Gia đình ở Pittsburgh
Những tên Mafia nổi tiếng ở Mỹ
Joe Bonanno Joe Bananas' (1905-2002): sếp đầu tiên của gia đình Bonanno.
Al Capone (biệt danh: 'Scarface') (1899-1947): Trùm mafia nổi tiếng thời kì cấm rượu giai đoạn 1920-1930 ở Chicago.
Paul Castellano (1915-1985): sếp của gia đình Gambino, bị ám sát theo lệnh của John Gotti.
Lucky Luciano(1897-1962): sếp của các gia đình của thành phố New York, kiến tạo nên Mafia Mỹ hiện đại, sếp đầu tiên của gia đình Genovese.
Carlo Gambino 'Don Carlo' (1902-1976): sếp của gia đình Gambino mở rộng. Được xem như chủ tịch hiệp hội Mafia Mỹ từ năm 1957.
Gaetano Gagliano 'Tommy' (1884-1951): sếp đầu tiên của gia đình Lucchese
Sam Giancana: sếp của vùng Chicago giai đoạn 1956-1966.
John Gotti 'The Dapper Don' (1940-2002): sếp của gia đình Gambino. Nổi tiếng trong mối quan hệ với các phương tiện thông tin đại chúng.
Henry Hill (sinh năm 1943) Mob: phản bội và cuộc đời hắn được đưa lên phim Goodfellas nổi tiếng.
Vincent Mangano (1888-1951): Trùm mafia đầu tiên của gia đình Gambino.
Carlos Marcello: sếp của gia đình ở New Orleans những năm 1960.
Joe Profaci (1897-1962): sếp đầu tiên của gia đình Colombo.
Santo Trafficante, Jr.: người có quyền lực lớn nhất ở Florida và Cuba(trước năm 1959).
Joe Valachi 'Joe Cargo' (1903-1971): Mafia đầu tiên hợp tác với chính quyền làm chỉ điểm.
Luật bắt buộc ở Mỹ
Mối liên hệ giữa chính quyền Mỹ với Mafia
Không mấy khi chính phủ Mỹ hiệp lực với giới tội phạm để ám sát các nhà lãnh đạo nước ngoài. Tháng 8 năm 1960, Colonel Sheffield Edwards đề xuất phương án ám sát lãnh tụ Cuba Fidel Castro bằng cách dùng Mafia để ám sát. Từ tháng 8 năm 1960 đến tháng 4 năm 1961, Mafia đã lên kế hoạch dùng chất độc hay bắn để hạ sát Fidel (được đề cập trong cuốn báo cáo về nỗ lực ám sát Fidel Castro", trang 3 và 14 của CIA). Vụ việc có sự tham gia của các nhân vật của Mafia như Sam Giancana, Carlos Marcello, Santo Trafficante, Jr. và John Roselli.
Luật bắt buộc và Mafia
Trong một số gia đình Mafia, giết những người của chính quyền là điều bị cấm, vì có thể sẽ bị cảnh sát trả thù. Trong một số trường hợp, giết người thì bị hình phạt là cái chết. Tên Mafia Dutch Schultz người Do Thái được báo cáo là đã bị bắn chết bởi một Mafia Ý, vì hắn có kế hoạch ám sát ủy viên công tố Thomas Dewey của thành phố New York. Mafia có điều luật bắt buộc từ rất lâu. Viên cảnh sát thành phố New Orleans Joe Petrosino bị Mafia Sicilia bắn chết, sau người này được đúc tượng và bức tượng đó được đặt ở nơi đông người qua lại ở thành phố này.
Chương trình hành động RICO năm 1960 đã quy định hoạt động chống tội phạm và đưa ra kế hoạch bảo vệ nhân chứng. Đạo luật này mới bắt đầu thực hiện vào giai đoạn cuối những năm 1970 đầu những năm 1980. Chương trình này đã làm cho 2 bố già của thành phố New York là Anthony Corallo và Carmine Persico phải ra hầu toà vào năm 1985. Chương trình này vẫn còn hiệu lực cho tới cuối thế kỉ 20. Lực lượng phòng chống tội phạm Liên bang được thành lập tạo điều kiện cho việc loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội.
Lực lượng phòng chống tội phạm Liên bang được thiết lập vào năm 1960 do nỗ lực của Robert Kennedy (em út của tổng thống Mỹ). Lực lượng này đặt dưới quyền lãnh đạo của ban thanh tra thuộc bộ lao động Mỹ. Nó đã bị giải tán ở cấp Liên bang, nhưng vẫn tồn tại ở các địa phương. Tổ chức này đã phá được một số băng đảng tội phạm lớn. Tuy nhiên Mafia vẫn còn hoạt động mạnh ở Mỹ, dù chương trình hành động RICO có những thành công nhất định. Theo Selwyn Raab, tác giả của cuốn: Năm gia đình: sự ra đời, suy yếu và hồi sinh của các đế chế Mafia hùng mạnh ở Mỹ, thì sau sự kiện ngày 11 tháng 9 năm 2001 FBI lại chú ý đặc biệt tới các tên khủng bố, điều này góp phần làm hồi sinh các hoạt động của Mafia ở Mỹ. |
Nút là một thiết bị điểm được ghép nối lại, cùng với nhiều thiết bị khác, tạo nên một mạng lưới truyền thông. Mỗi một nút phải có một địa chỉ MAC (MAC address) riêng, hoặc một địa chỉ khống chế liên kết dữ liệu (Data Link Control address) nếu thiết bị ấy đạt tiêu chuẩn tối thiểu của mô hình OSI tầng 2. Các nút có thể là các máy tính, các máy Thiết bị kỹ thuật số hỗ trợ cá nhân (personal digital assistants), các điện thoại di động (cell phones), hoặc những thiết bị mạng truyền thông khác, như các bộ định tuyến (routers), các thiết bị chuyển mạch (switches), và các máy chủ truy cập (hubs). Những nút chịu trách nhiệm định tuyến truyền tải dữ liệu cho các thiết bị mạng truyền thông khác, cùng với cho chính bản thân mình, thì gọi là những nút siêu (supernodes).
Chú thích
Mạng máy tính
Viễn thông |
Charles "Lucky" Luciano (24 tháng 11 năm 1897 – 26 tháng 1 năm 1962) là một ông trùm mafia người Mỹ gốc Ý. Ông ta còn là "bố già", kẻ cầm đầu nghiệp đoàn tội phạm quốc gia và là kẻ cầm đầu đường dây buôn ma túy xuyên quốc gia trong thời Chiến tranh thế giới thứ hai.
Tiểu sử
Lucky Luciano sinh ra với tên Salvatore Lucania tại làng Lercara Friddi, một địa phương cách Corleone 16 dặm (26 km) về phía tây ở Sicilia.
Hoạt động tội phạm
Lên 10 tuổi, Luciano theo gia đình di cư sang Mỹ. Gia đình ông sống tại một khu phố người Ý ở thành phố New York. Ở tuổi đó cậu đã bắt đầu kiếm tiền bằng việc bắt những đứa trẻ khác trả tiền cho cậu vì đã "bảo vệ chúng".
Trong một cuộc tranh chấp ở tuổi này, Luciano đã gặp Meyer Lansky người cùng độ tuổi sau này đã trở thành cộng sự đắc lực của ông. Ngoài ra Fran Costello và Bugsy Siegel cũng là các nhân tố đầu tiên giúp Luciano tạo lập một vương quốc tội phạm có tổ chức về sau.
Hai người nhanh chóng lôi kéo thêm nhiều đứa trẻ gốc Ý cùng tuổi khác lập nên một băng nhóm nhỏ, để cạnh tranh việc trộm cắp vặt, đánh nhau với các băng nhóm khác.
Năm 1916, Luciano gia nhập "Five Points Gang", băng nhóm mà cảnh sát nghi ngờ là có dính líu tới những vụ sát nhân. Bằng khả năng tổ chức tài tình và khoa học, Luciano đã luôn cố gắng kế hoạch hóa mọi phi vụ phạm pháp. Do đó tổ chức ngày càng bành trướng và mở rộng. Với cộng sự đắc lực Costello lo phần mua chuộc quan chức và cảnh sát, Meyer Lansky - bộ óc tính toán thiên tài, Siegel lạnh lùng trong các cuộc chiến ẩu đả, Luciano đã tạo ra một bộ máy tội phạm sơ khai những năm thế kỷ 20. Cùng với Luật cấm rượu của Hoa Kỳ, tổ chức này giàu lên nhờ buôn bán rượu lậu.
Hợp tác với Chính quyền liên bang Hoa Kỳ
Chiến dịch Thế giới ngầm
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Chính phủ Hoa Kỳ quan ngại về một số lượng lớn công dân Hoa Kỳ có gốc gác từ Nhật Bản, Italy và Đức. Họ lo sợ rằng những người Hoa Kỳ gốc nước khác này có thể đồng cảm với cuộc chiến của Phe Trục và có thể gây ra mối đe dọa an ninh quốc gia.
Năm 1942, những mối nghi ngại này bắt đầu tập trung vào các hải cảng ở miền Đông sau khi tàu chiến chở binh sĩ Hoa Kỳ SS Normandie (sau này được đổi tên là USS Lafayette) bị cháy và lật khi đang đậu ở cảng của thành phố Manhattan, một hành động mà nhiều người cho rằng là hậu quả của sự trả thù
Hải quân Hoa Kỳ chịu trách nhiệm cuộc điều tra, đã tìm đến Lucky Luciano. Vào thời điểm đó, Luciano đang chịu án tù từ 30-50 năm. Hải quân Hoa Kỳ đưa ra một thỏa thuận giảm án tù để đổi lại sự hỗ trợ và cung cấp thông tin cho chiến dịch điều tra. Luciano đã chấp thuận. Đến nay, tính hiệu quả của chiến dịch mang tên "Chiến dịch Thế giới ngầm" do Hải quân Hoa Kỳ kết hợp với trùm mafia Luciano vẫn là một đề tài gây tranh cãi. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng sau năm 1942, không có thêm bất kỳ một tàu nào của Hải quân Hoa Kỳ bị phá hủy và không có bất kỳ cuộc đình công nào của giới công nhân khuân vác trên cảng ở New York.
Chiến dịch Husky
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai diễn ra dữ dội, quân Đồng minh bắt đầu vạch kế hoạch xâm chiếm Italy. Hoa Kỳ đóng vai trò dẫn đầu chiến dịch này và nhanh chóng quyết định rằng đảo Sicilia cần phải bị chiếm đóng trước tiên. Để chuẩn bị cho chiến dịch này, Chính phủ Hoa Kỳ đã tìm đến "các cộng sự cũ": Luciano và Mafia.
Việc sử dụng Luciano có lý vì nhiều lý do. Mafia luôn là cái gai trong mắt Nhà độc tài Italy Benito Mussolini và đã tiến hành chiến dịch trấn áp dã man. Điều quan trọng hơn là Luciano và các cộng sự của hắn có nhiều mối liên hệ tại đảo Sicilia vốn có thể cung cấp cho Hoa Kỳ những thông tin quan trọng và hỗ trợ hậu cần cần thiết cho cuộc xâm chiếm.
Theo báo cáo của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, việc sử dụng các mối liên hệ ở Sicilia là nhiệm vụ trước tiên cho cuộc xâm chiếm. Báo cáo này có đoạn khuyến nghị: "Thiết lập mối liên lạc với thủ lĩnh các nhóm hạt nhân ly khai, các nhóm cực đoan hoạt động mật, và những người lao động bất mãn, mafia và cung cấp cho họ mọi hỗ trợ có thể".
Chính phủ Hoa Kỳ đã yêu cầu các cộng sự mafia cung cấp các bản vẽ và hình ảnh về đường bờ biển và các bến cảng của đảo Sicilia. Những thông tin này được sử dụng để lập kế hoạch đổ bộ của quân Đồng minh vào đêm 9 tháng 7 năm 1943. Một số "cộng sự" ở đảo Sicilia còn chiến đấu cùng với các lực lượng của Hoa Kỳ chống lại Phát xít Ý và Đức quốc Xã. Theo phần lớn ghi chép, Luciano đóng vai trò trong việc thúc đẩy chiến dịch này và thậm chí còn đề nghị đích thân đến Sicilia để hỗ trợ. Sau 38 ngày, Đồng Minh thành công khi đẩy lùi quân Phát xít Ý ra khỏi Sicilia và cuộc chiến chiếm đảo Sicilia đã kết thúc.
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc vào năm 1945, Luciano vốn vẫn chịu án tù, đã kiến nghị tiểu bang New York khoan hồng cho ông. Luciano cho rằng sự hợp tác của ông ta trong Chiến dịch Thế giới ngầm và Chiến dịch Husky đảm bảo ông ta được thả tự do ngay lập tức. Tháng 1 năm 1946, Thống đốc bang New York khi đó là Thomas Dewey đã cho phép Luciano được hưởng khoan hồng. Tuy nhiên, quyết định này kèm theo việc Luciano không thể ở lại Hoa Kỳ và phải bị trục xuất về quê hương Italy. Dù không muốn, song Luciano đã chấp nhận trở về Italy vào ngày 9 tháng 2 năm 1946. Mặc dù vậy, Lucky Luciano vẫn là một nhân vật khét tiếng trong tổ chức tội phạm mafia ở cả Italy và Hoa Kỳ cho đến khi qua đời năm 1962. |
Entropy thông tin là một khái niệm mở rộng của entropy trong nhiệt động lực học và cơ học thống kê sang cho lý thuyết thông tin.
Entropy thông tin mô tả mức độ hỗn loạn trong một tín hiệu lấy từ một sự kiện ngẫu nhiên. Nói cách khác, entropy cũng chỉ ra có bao nhiêu thông tin trong tín hiệu, với thông tin là các phần không hỗn loạn ngẫu nhiên của tín hiệu.
Ví dụ, nhìn vào một dòng chữ tiếng Việt, được mã hóa bởi các chữ cái, khoảng cách, và dấu câu, tổng quát là các ký tự. Dòng chữ có ý nghĩa sẽ không hiện ra một cách hoàn toàn hỗn loạn ngẫu nhiên; ví dụ như tần số xuất hiện của chữ cái x sẽ không giống với tần số xuất hiện của chữ cái phổ biến hơn là t. Đồng thời, nếu dòng chữ vẫn đang được viết hay đang được truyền tải, khó có thể đoán trước được ký tự tiếp theo sẽ là gì, do đó nó có mức độ ngẫu nhiên nhất định. Entropy thông tin là một thang đo mức độ ngẫu nhiên này.
Khái niệm này lần đầu giới thiệu bởi Claude E. Shannon trong bài báo "A Mathematical Theory of Communication ", năm 1948. Trước đó von Neumann đã dùng đến công thức có entropy vào năm 1927.
Định nghĩa
Claude E. Shannon đã xây dựng định nghĩa về entropy để thoả mãn các giả định sau:
Entropy phải tỷ lệ thuận liên tục với các xác suất xuất hiện của các phần tử ngẫu nhiên trong tín hiệu. Thay đổi nhỏ trong xác suất phải dẫn đến thay đổi nhỏ trong entropy.
Nếu các phần tử ngẫu nhiên đều có xác suất xuất hiện bằng nhau, việc tăng số lượng phần tử ngẫu nhiên phải làm tăng entropy.
Có thể tạo các chuỗi tín hiệu theo nhiều bước, và entropy tổng cộng phải bằng tổng có trọng số của entropy của từng bước.
Shannon cũng chỉ ra rằng bất cứ định nghĩa nào của entropy, cho một tín hiệu có thể nhận các giá trị rời rạc, thoả mãn các giả định của ông thì đều có dạng:
với
K là một hằng số, chỉ phụ thuộc vào đơn vị đo.
n là tổng số các giá trị có thể nhận của tín hiệu.
i là giá trị rời rạc thứ i.
p(i) là xác suất xuất hiện của giá trị i.
Ngẫu nhiên rời rạc
Nếu một sự kiện ngẫu nhiên rời rạc x, có thể nhận các giá trị là 1..n, thì entropy của nó là:
với p(i) là xác suất xảy ra của giá trị i. Như vậy, entropy của x cũng là giá trị kì vọng của các độ ngạc nhiên của các giá trị mà x có thể nhận.
Entropy thông tin trong trường hợp phần tử tín hiệu ngẫu nhiên rời rạc còn được gọi là entropy Shannon.
Ngẫu nhiên liên tục
Nếu x là số thực ngẫu nhiên liên tục, thì định nghĩa entropy có thể được biểu diễn là:
với f là hàm mật độ xác suất. Định nghĩa này thường được gọi là entropy Boltzmann hay entropy liên tục, hay entropy vi phân.
Có thể chứng minh rằng entropy Boltzmann không phải là giới hạn của entropy Shannon khi n → ∞ và do đó không phải là độ đo mức độ hỗn loạn của thông tin.
Ví dụ
Một dòng chữ luôn chỉ có các ký tự "a" sẽ có entropy bằng 0, vì ký tự tiếp theo sẽ luôn là "a". Một dòng chữ chỉ có hai ký tự 0 và 1 ngẫu nhiên hoàn toàn sẽ có entropy là 1 bit cho mỗi ký tự.
Một dòng chữ tiếng Anh thông thường có entropy khoảng 1,1 đến 1,6 bit cho mỗi ký tự. Thuật toán nén PPM có thể tạo ra tỷ lệ nén 1,5 bit cho mỗi ký tự. Trên thực tế, tỷ lệ nén của các thuật toán nén thông dụng có thể được dùng làm ước lượng cho entropy của dữ liệu.
Entropy của dòng văn bản thuần thường được định nghĩa dựa trên mô hình Markov. Nếu các ký tự tiếp theo hoàn toàn độc lập với các ký tự trước đó, entropy nhị phân sẽ là:
với pi là xác suất của i.
Liên hệ với cơ học thống kê
Định nghĩa entropy của Shannon có liên hệ chặt chẽ với định nghĩa entropy trong cơ học thống kê. Chính các công trình của Ludwig Boltzmann hay Willard Gibbs trong cơ học thống kê đã kích thích việc sử dụng từ entropy trong lý thuyết thông tin. Theo Edwin Thompson Jaynes (1957), thực tế cơ học thống kê và nhiệt động lực học có thể coi là ứng dụng của lý thuyết thông tin: entropy trong nhiệt động lực học có thể cọi là độ đo của thông tin vi mô (mô tả các trạng thái vi mô của từng phần tử trong hệ vật lý) mà chưa được mô tả hết bởi các thông số vĩ mô của hệ nhiệt động lực học.
Ví dụ về tương quan giữa entropy nhiệt động lực học và entropy thông tin còn được thể hiện ở con quỷ Maxwell. Quỷ Maxwell có thể tạo ra được khi nó làm giảm entropy nhiệt động lực học nhưng làm tăng entropy thông tin và cả hệ vẫn tuân thủ định luật hai nhiệt động lực học với tổng entropy không đổi và quá trình hoạt động của quỷ là thuận nghịch. |
OSI có thể có một trong các nghĩa sau:
Mô hình OSI (ngành mạng máy tính)
Kết nối các hệ thống mở
Ban nhạc OSI
Open system interconnection, Tổ chức Sáng kiến Mã nguồn mở. |
Mỗi đội tuyển tham gia vòng chung kết World Cup 2006 có quyền đăng ký 23 cầu thủ, trong đó có tối thiểu 3 thủ môn. Hạn cuối cùng để nộp danh sách là ngày 15 tháng 5 năm 2006. Trong trường hợp chấn thương vào phút chót, các đội tuyển có thể thay đổi danh sách chậm nhất là vào 24 giờ trước trận đấu khai mạc giải. Trong danh sách dưới đây, những cầu thủ có ký hiệu (C) là người mang băng đội trưởng của đội. Thông tin về câu lạc bộ và số lần khoác áo của mỗi cầu thủ tính tại thời điểm đăng ký.
Bảng A
Costa Rica
Huấn luyện viên trưởng: Alexandre Guimarães
Ecuador
Huấn luyện viên trưởng: Luis Fernando Suárez
Đức
Huấn luyện viên trưởng: Jürgen Klinsmann
Ba Lan
Huấn luyện viên trưởng: Paweł Janas
Bảng B
Anh
Huấn luyện viên trưởng: Sven-Göran Eriksson
Paraguay
Huấn luyện viên trưởng: Aníbal Ruiz
Thụy Điển
Huấn luyện viên trưởng: Lars Lagerbäck
Trinidad và Tobago
Huấn luyện viên trưởng: Leo Beenhakker
Bảng C
Argentina
Huấn luyện viên trưởng: José Pekerman
Côte d'Ivoire
Huấn luyện viên trưởng: Henri Michel
Hà Lan
Huấn luyện viên trưởng: Marco van Basten
Serbia và Montenegro
Huấn luyện viên trưởng: Ilija Petković
Bảng D
Angola
Huấn luyện viên trưởng: Luís Oliveira Gonçalves
Iran
Huấn luyện viên trưởng: Branko Ivanković
Mexico
Huấn luyện viên trưởng: Ricardo Lavolpe
Bồ Đào Nha
Huấn luyện viên trưởng: Luiz Felipe Scolari
Bảng E
Cộng hòa Séc
Huấn luyện viên trưởng: Karel Brückner
Ghana
Huấn luyện viên trưởng: Ratomir Dujković
Ý
Huấn luyện viên trưởng: Marcello Lippi
Hoa Kỳ
Huấn luyện viên trưởng: Bruce Arena
Bảng F
Úc
Huấn luyện viên trưởng: Guus Hiddink
Brasil
Huấn luyện viên trưởng: Carlos Alberto Parreira
Croatia
Huấn luyện viên trưởng: Zlatko Kranjčar
Nhật Bản
Huấn luyện viên trưởng: Zico
Bảng G
Pháp
Huấn luyện viên trưởng: Raymond Domenech
Hàn Quốc
Huấn luyện viên trưởng: Dick Advocaat
Thụy Sĩ
Huấn luyện viên trưởng: Köbi Kuhn
Togo
Huấn luyện viên trưởng: Otto Pfister
Bảng H
Ả Rập Saudi
Huấn luyện viên trưởng: Marcos Paquetá
Tây Ban Nha
Huấn luyện viên trưởng: Luis Aragonés
Tunisia
Huấn luyện viên trưởng: Roger Lemerre
Ukraina
Huấn luyện viên trưởng: Oleg Blokhin
Ghi chú cuối trang
Đội hình
2006 |
SilkRoad Inc. là một công ty của Mỹ được thành lập vào năm 1991, tập trung vào thiết kế, kiến trúc, chiến lược, chính sách và sự an toàn cho những dịch vụ Internet, mạng và hệ thống đường dây. Công ty được biết đến nhiều nhất với công việc hệ thống mạng cho Không quân Hoa Kỳ. |
Trong lịch sử tồn tại của chính quyền Quốc gia Việt Nam (1950-1955) và chính quyền Việt Nam Cộng hòa (1955-1975). Trong quân đội trực thuộc của các chính quyền này (bao gồm các quân nhân đã phục vụ trong Quân đội Pháp, Quân đội Liên hiệp Pháp, kế tiếp là Quân đội Quốc gia, lực lượng vũ trang của các Giáo phái như: Giáo phái Cao Đài, Giáo phái Hòa Hảo và sau cùng là Quân đội Việt Nam Cộng hòa), có 173 vị được phong cấp tướng, trong đó có 74 vị đã từng tu nghiệp lớp Chỉ huy và Tham mưu tại trường Đại học Quân đội Hoa Kỳ (Xem danh sách) và 7 vị tướng Hải quân từng tu nghiệp lớp Chỉ huy và Tham mưu tại trường Cao đẳng Hải chiến Hoa Kỳ. (Xem danh sách)
01 Thống tướng
05 Đại tướng (Xem danh sách)
49 Trung tướng (Xem danh sách)
46 Thiếu tướng (Xem danh sách)
72 Chuẩn tướng' (Xem danh sách)Trong số này, gần 1/3 tướng lãnh được phong trong giai đoạn 1963-1965.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, có 38 tướng lãnh bị tập trung cải tạo, thời gian ngắn nhất là 2 năm và dài nhất là 17 năm. Trong đó: 7 Trung tướng, 11 Thiếu tướng và 20 Chuẩn tướng. (Xem danh sách)Xem thêm
Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Danh sách Đại tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Danh sách Trung tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Danh sách Thiếu tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Danh sách Chuẩn tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Danh sách tướng lĩnh Quân lực Việt Nam Cộng hòa bị tù lưu đày
Danh sách tướng lĩnh Quân lực Việt Nam Cộng hòa tốt nghiệp Đại học Chỉ huy và Tham mưu Quân đội Hoa Kỳ
Danh sách sĩ quan hải quân Quân lực Việt Nam Cộng hòa tu nghiệp ở trường Cao đẳng Hải chiến Hoa Kỳ
Danh sách 173 tướng lĩnh VNCH
Chú thích |
Trong thần thoại Hy Lạp, Tartarus (tiếng Hy Lạp: Τάρταρος) là vực thẳm bên dưới Trời (Uranus), Đất (Gaia) và Đại dương (Pontus). Nơi này được miêu tả là một chốn sâu thẳm, tối tăm, hoặc như là một vực sâu không đáy. Hades có thể được hiểu như Âm phủ, nơi mà linh hồn người chết sẽ quay về sau khi từ giã cuộc sống, và Tartarus, một phần của Hades, có thể được hiểu như Địa ngục, nơi những linh hồn tội lỗi sẽ chịu đày đọa và trừng phạt. Trong tập Gorgias, Platon viết rằng những linh hồn sẽ chịu phán xét sau khi chết, và những kẻ bị buộc tội sẽ bị đày xuống Tartarus.
Tương tự như những thực thể nguyên thủy trong thần thoại Hy Lạp như Uranus (Trời), Gaia (Đất), Pontus (Đại dương) hay Hades (Âm phủ), Tartarus cũng được nhắc đến như một thế lực sơ khai, một vị thần.
Tartarus trong thần thoại Hy Lạp
Trong thần thoại Hy Lạp, Tartarus (hay Tartaros) vừa là tên một vị thần vừa là một từ chỉ địa danh ở Âm phủ, thậm chí nơi này còn sâu hơn Hades. Theo một số trường phái huyền bí thì Tartaros còn là một thực thể vô cùng, sơ khai nhất, và từ đó sinh ra ánh sáng và vũ trụ.
Trong tác phẩm Theogony của Hesiod, Tartarus là vị thần thứ ba được sinh ra bởi Chaos. Nhà thơ Hesiod miêu tả vị trí của Tartarus thông qua một phép so sánh. Ông cho rằng một cái đe bằng đồng nếu rơi từ trời xuống đất phải mất 9 ngày. Cái đe còn phải đi thêm 9 ngày nữa để từ mặt đất xuống đến vùng Tartarus. Trong sử thi Iliad của Homer, thần Zeus khẳng định rằng khoảng cách giữa Hades đến Tartarus cũng như khoảng cách giữa trời và đất. Là một nơi khuất bóng Mặt Trời, sâu thẳm trong lòng đất, Tartarus bị bao quanh bởi một bức tường đống với ba lớp màn đêm bao phủ bên ngoài. Tartarus cùng với Chaos, Gaia và Uranus là những vị thần đầu tiên của vũ trụ.
Theo thần thoại Hy Lạp, mặc dù Hades là nơi của linh hồn người chết, thì Tartarus chứa đựng không ít những linh hồn. Khi Cronus, người lãnh đạo các Titan nắm quyền cai trị, ông giam tất cả những người khổng lồ một mắt Cyclops vào Tartarus. Một số truyền thuyết còn kể rằng ông cũng tống giam cả ba gã khổng lồ trăm tay trăm mắt xuống Tartarus. Zeus đã giải phóng tất cả những sinh vật này nhằm tăng thêm lực lượng trong trận chiến chống các Titan. Cuối cùng, sau khi chiến thắng các Titan, Zeus đã bắt nhốt hầu hết các Titan trong Tartarus. Tất cả đều bị canh giữ bởi ba gã Hecatonchire. Sau khi chiến thắng con quái vật Typhon, con của Tartarus và Gaia, Zeus cũng đã ném con quái vật đó xuống Tartarus.
Ban đầu, Tartarus chỉ dùng để giam giữ những kẻ được cho là hiểm họa đối với sự thống trị của các vị thần trên đỉnh Olympus. Trong các truyền thuyết về sau, Tartarus được biết đến như địa ngục để trừng phạt những kẻ tội lỗi, nơi mà họ phải gành chịu những hình phạt thích ứng với tội của mình. Ví dụ như Sisyphus, người đã báo cho cha của Asopus nơi mà Zeus đã bắt cóc con gái ông, Aegina. Zeus cho đó là một hành động chống đối lại quyền lực của thần linh nên đã ra lệnh đày Sisyphus xuống Tartarus. Ngày qua ngày, Sisyphus phải lăn một tảng đá nặng lên một triền dốc dài. Mỗi khi tảng đá được lăn đến đỉnh, nó lại lăn xuống, và Sisyphus lại phải bắt đầu lại từ đầu. Với hình phạt trên, Zeus muốn trừng phạt sự kiêu hãnh của Sisyphus, ám chỉ rằng trí óc, tài năng của người phàm không bao giờ có thể so sánh được với quyền lực của thần linh.
Ngoài ra còn có Ixion, người đầu tiên làm đổ máu một người thân trong gia đình khi lừa cha vợ của mình xuống một hố than nóng đỏ để không phải trả tiền cưới, phải chịu một hình phạt là sống trong một vòng lửa. Tantalus, sau khi được mời dự tiệc cùng các vị thần, quyết định bày một bàn tiệc, vờ như để trả ơn thần linh, vừa là để thử thách các vị thần. Ông ta giết con trai mình là Pelops và đem làm thức ăn dâng cho thần linh. Tantalus phải trả giá cho tội lỗi của mình giữa dòng sông lạnh cóng của Tartarus, thân mình bị buộc vào một tảng đá, và trái cây chín mọc đầy bên trên. Chịu một lời nguyền của sự đói khát bất tận, Tantalus luôn tìm cách với tới nước uống và trái cây, nhưng lần nào cũng vậy, mọi thứ đều bị đẩy ra khỏi tầm với của ông ta, lúc khát nước Tantalus cúi đầu xuống dòng sông, thì sông biến thành bùn đất. Còn khi đói, ông ta vươn lên cành cây để hái quả, nhưng những cành trĩu nặng quả ấy cứ cao mãi, vượt khỏi tầm tay của ông.
Theo Platon, Rhadamanthus, Aeacus và Minos là những người nhận trách nhiệm phán xét ở nơi đây. Rhadamanthus xét xử những linh hồn đến từ Châu Á; Aeacus xét xử những linh hồn đến từ Châu Âu và Minos là người bỏ lá phiếu quyết định và cũng đồng thời là người phán xét những người Hy Lạp.
Tartarus trong thần thoại La Mã
Trong thần thoại La Mã, Tartarus là nơi mà mọi kẻ tội lỗi bị gửi đến sau cái chết. Virgil miêu tả trong tác phẩm Aeneid rằng Tartarus là một nơi rộng lớn, bao quanh là con sông lửa Phlegethon và ba lớp tường dày để đề phòng những kẻ có tội trốn thoát. Nó được canh gác bởi một con hydra với 50 hàm sắc ngồi bên cạnh một cái cổng lớn được gia cố bằng các cột adamatine, một thứ vật liệu gần với kim cương, cứng đến nỗi hầu như không gì cắt nổi. Bên trong là một tòa lâu đài có tường dày và đỉnh bằng sắt. Tisiphone, một trong ba nữ thần Erinyes tượng trưng cho sự phục thù, đứng gác trên đỉnh của tòa lâu đài này suốt ngày đêm không ngủ với một sợi roi trong tay. Có một cái vực sâu vào lòng đất với độ sâu gấp đôi từ mặt đất lên tới đỉnh Olympus. Ở đáy của vực là nơi giam giữ các Titan, hai người con sinh đôi của Aloeus và nhiều người mang tội nặng khác. Những hình phạt trong đây hầu hết đều giống hình phạt trong thần thoại Hy Lạp.
Tartarus trong kinh Tân Ước
Trong Thư thứ nhì của Phê-rô trong Tân Ước có đoạn nói về Tartarus như nơi xử phạt dành cho các thiên thần có tội (2 Peter 2:4). |
Phần mềm máy chủ ứng dụng (tiếng Anh: Application Server) là một phần mềm (software engine) trong cung cấp ứng dụng phần mềm cho các máy trạm hoặc thiết bị, thông thường là qua mạng Internet sử dụng giao thức HTML. Máy chủ ứng dụng khác biệt với máy chủ Web thông qua việc sử dụng rất nhiều nội dung động do máy chủ tạo ra và tích hợp chặt chẽ tới máy chủ Cơ sở dữ liệu.
Phần mềm máy chủ ứng dụng đảm nhiệm phần lớn, nếu không nói là tất cả, các xử lý logic và truy cập CSDL của ứng dụng (hay còn gọi là tập trung hóa). Lợi ích chính của phần mềm máy chủ ứng dụng là sự dễ dàng trong phát triển ứng dụng do ứng dụng không cần được lập trình mà thay vào đó, chúng được nối rạp lại từ các cấu phần do máy chủ ứng dụng cung cấp. Ví dụ, Wiki là một phần mềm máy chủ ứng dụng cho phép người dùng tạo ra các nội dung động từ việc nối ráp các bài báo. Hơn nữa, Wikipedia là một bộ Wiki đã được ráp nối cung cấp một thư viện bách khóa được lưu trữ trên một hệ thống file và những thay đổi đối với bách khóa toàn thư được lưu trữ trong CSDL.
Phần mềm máy chủ ứng dụng chạy trên nhiều nền khác nhau và thuật ngữ này được áp dụng không chính thức cho hai loại ứng dụng phần mềm khác nhau. Thuật ngữ này được dùng để chỉ các phần mềm máy chủ của các ứng dụng trên nền Web, ví dụ như các nền tích hợp sử dụng trong thương mại điện tử, hệ thống quản lý nội dung, các bộ tạo web-site. Đồng thời, thuật ngữ này cũng được áp dụng như là đồng nghĩa với nền tảng ứng dụng Web (web application framework).
Các đặc điểm chung
Các sản phẩm phần mềm máy chủ ứng dụng thường sử dụng các phần mềm trung gian (middleware) để hỗ trợ ứng dụng giao tiếp lẫn nhau giữa các ứng dụng phụ thuộc như máy chủ Web, hệ thống CSDL và các phần mềm vẽ biểu đồ. Một số phần mềm máy chủ ứng dụng cung cấp API (giao diện lập trình ứng dụng) cho phép chúng độc lập với hệ điều hành. Cổng điện tử (portal) là một cơ chế phần mềm máy chủ ứng dụng phổ biến cung cấp một điểm truy cập tới nhiều ứng dụng khác nhau.
Lịch sử
Các ứng dụng, trong lịch sử, được lưu trữ trên các máy tính lớn (mainframe) và được chuyển tới các trạm truy cập (terminal). Chỉ có các tổ chức lớn, như chính phủ, ngân hàng và các tập đoàn lớn mới có thể có các trang thiết bị và nhân lực để hỗ trợ máy chủ lớn. Thập kỷ 60 chứng kiến sự xuất hiện của các máy tính mini. Máy tính mini nhỏ, yếu và rẻ hơn nhiều so với máy chủ lớn. Tuy vậy, các trạm truy cập vẫn được sử dụng để giao tiếp với ứng dụng.
Tiếp theo sự xuất hiện của máy tính cá nhân vào thập kỷ 80, và cụ thể hơn là giao diện đồ họa vào thập kỷ 90, mô hình tính toán máy chủ-máy trạm được phát triển. Trong kiến trúc máy chủ-máy trạm, ứng dụng được lưu trữ trên máy chủ và máy trạm đóng vai trò giao diện người dùng. Trong kiến trúc này, giao diện người dùng là một phần mèm máy tính chạy độc lập với máy chủ CSDL. Mặc dù điều này giải phóng máy chủ CSDL khỏi việc phải đồng thời xử lý dữ liệu vào giao diện người dùng, người quản trị lại phải cập nhật phần mềm máy trạm trên mỗi máy cá nhân khi cần thực hiện bất kỳ thay đổi nào.
Tiếp theo sự xuất hiện của Internet vào giữa thập kỷ 90, mô hình phần mềm máy chủ ứng dụng được phát triển. Máy chủ ứng dụng là sự qua trở lại của thời đại tính toán trên máy chủ lớn theo nghĩa cả phần mềm và giao diện được lưu trữ trên máy chủ. Sự khác nhau là máy trạm là một máy cá nhân sử dụng trình duyệt web. Máy chủ gửi các chỉ thị liên quan tới giao diện kèm với dữ liệu tới máy trạm. Phần mềm máy chủ ứng dụng lưu trữ các chỉ thị về giao diện người dùng trong các module giao diện và được gắn cho các dạng thức dữ liệu khác nhau. Khi một cấu phần của CSDL có một dạng thức dữ liệu cụ thể được yêu cầu, phần mềm máy chủ ứng dụng gửi các chỉ thị của module cùng với dữ liệu được yêu cầu tới máy trạm.
Phần mềm máy chủ ứng dụng Java
Tiếp theo thành công của nền Java, thuật ngữ phần mềm máy chủ ứng dụng đôi khi được dùng để chỉ Java Platform—Enterprise Edition (J2EE) hay Java EE 5 application server. Một số Phần mềm máy chủ ứng dụng Java phiên bản Enterprise nổi tiếng là WebLogic Server (BEA), JBoss (Red Hat), WebSphere Application Server và WebSphere Application Server Community Edition (IBM), JRun (Adobe), Apache Geronimo (Apache Software Foundation), Oracle OC4J (Oracle Corporation), Sun Java System Application Server (Sun Microsystems), SAP Web Application Server và Glassfish Application Server (dựa trên Java System Application Server của SUN).
JOnAS application server là phần mềm máy chủ ứng dụng mã nguồn mở đầu tiên đạt được chứng chỉ chính thức về tuân thủ các chuẩn Java Enterprise. BEA cung cấp phần mềm máy chủ ứng dụng được Java EE xác nhận đầu tiên và tiếp theo là triển kai tham chiếu GlassFish của Sun Microsystems.
Module Web modules là servlets và JavaServer Pages, và logic kinh doanh được xây dựng trong Enterprise JavaBeans (EJB-3 và các phiên bản tiếp theo). Dự án Hibernate cho phép triển khai EJB-3 cho JBoss Application server. Tomcat của Apache và JOnAS của ObjectWeb là các nền mà các module này có thể được chạy.
Java Server Page (JSP) là một servlet từ Java chạy các Web container—thuật ngữ của java tương đương với CGI scripts. JSP là một cách để tạo trang HTML thông qua việc chèn các tham chiếu tới logic của máy chủ trong cùng trang web. Các nhà lập trình HTML và Java có thể làm việc đồng thời và tham chiếu mã lệnh của nhau từ mã lệnh của mình. JavaBeans là các cấu phần lớp độc lập của kiến trúc Java do Sun Microsystems xây dựng.
Các phần mềm máy chủ ứng dụng nêu trên chủ yếu phục vụ các ứng dụng Web. Một số phần mềm máy chủ ứng dụng khác phục vụ các mạng khác. Ví dụ Máy chủ SIP (Session Initiated Protocol) phục vụ các mạng thoại (telephone)
Nền Microsoft
Đóng góp của Microsoft cho phần mềm máy chủ ứng dụng là.NET Framework. Công nghệ này bao gồm Windows Communication Foundation,.NET Remoting, Microsoft Message Queuing, ASP.NET, ADO.NET, và Internet Information Services.và Apache Server cũng là một phần mềm kèm theo của ứng dụng máy chủ Internet Information Services.
Các nền khác
Cũng có các nhà cung cấp khác cung cấp máy chủ ứng dụng mã nguồn mở. Ví dụ bao gồm Appaserver, Base4 và Zope.
Các giải pháp không dựa trên nền Java thường không có các tiêu chuẩn về tương thích. Vì vậy, tương thích giữa các sản phẩm không dựa trên Java kém hơn so với các sản phẩm dựa trên Java EE. Để giải quyết nhược điểm này các tiêu chuẩn về tích hợp ứng dụng doanh nghiệp và kiến trúc hướng dịch vụ (SOA) được xây dựng để kết nối các sản phẩm khác nhau. Các tiêu chuẩn này bao gồm Giao diện lập trình ứng dụng doanh nghiệp (BAPI), Tương thích dịch vụ Web (Web Service Interoperability) và Kiến trúc kết nối Java EE (Java EE Connector Architecture).
Ưu điểm của phần mềm máy chủ ứng dụng
Toàn vẹn dữ liệu và mã nguồn
Thông qua tập trung các xử lý logic vào một hoặc một số nhỏ máy chủ phần cứng, cập nhật và nâng cấp đối với ứng dụng cho tất cả mọi người dùng có thể được đảm bảo. Không hề có rủi ro về các phiên bản cũ của ứng dụng truy cập và thay đổi thông tin thông tin theo cách cũ và không tương thích.
Tập trung cấu hình
Thay đổi đối với cấu hình ứng dụng, ví dụ thay đổi máy chủ CSDL hay cấu hình hệ thống, có thể được thực hiện tập trung
An ninh
Một điểm quản lý tập trung đối với truy cập tới dự liệu và ứng dụng được coi là lợi ích về an ninh, chuyển trách nhiệm về xác thực khỏi lớp máy trạm có nhiều rủi ro mà không lộ lớp CSDL.
Hiệu suất
Thông qua giới hạn lưu lượng mạng chỉ để thực hiện các lưu lương hiển thị, người ta cho răng mô hình máy chủ - máy trạm cải thiện hiệu suất trong các ứng dụng lớn trong môi trường sử dụng nhiều.
Tổng chi phí sở hữu (TCO)
Tóm lại, các lợi ích nêu trên được cho là thể hiện tiết kiệm về chi phí cho công ty khi phát triển các ứng dụng doanh nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế, thách thức về kỹ thuật liên quan tới phát triển phần mềm tuân thủ theo các chuẩn đồng thời đảm bảo yêu cầu về phân phối phần mềm giảm phần nào những lợi ích này |
Tiền dưỡng liêm là khoản tiền do nhà nước thời Nguyễn cấp thêm ngoài lương bổng để nuôi lòng liêm khiết của quan lại. Tùy theo từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà mỗi triều đại có mức độ tiền dưỡng liêm khác nhau.
Lịch sử
Lương các quan chức ngày xưa thường không nhiều. Như trường hợp ông Lương Đắc Bằng làm đến thượng thư mà con là Lương Hữu Khánh còn phải đi cày thuê như tá điền để có đủ ăn.
Khái niệm "tiền dưỡng liêm" chính thức được đặt ra dưới thời nhà Lý và sau này nhấn mạnh trong thời Lê sơ. Vua Lý Thánh Tông, với chính sách ưu dụng đại thần, cho là: "Ân riêng mưa móc đượm nhuần / Đã tiền lại lúa ân cần dưỡng liêm". Năm 1473, vua Lê Thánh Tông định chế độ bổng lộc cho quan lại trong kinh, ngoài trấn, và đãi ngộ người hiền tài hợp lý: "Đặt quan để làm việc, tất phải có lương bổng để nuôi, rồi sau mới bắt phải thanh liêm được. Bởi vì người làm quan có đầy đủ thì mới bắt đầu làm điều thiện. Mặt khác, triều đình có gia ơn cho người làm quan thì họ mới gia ơn cho dân. Do đó, để cho người làm quan giữ được đức thanh liêm thì lương bổng phải hậu và phải bảo đảm nuôi sống được họ" và "Những nơi ít việc và nơi rất ít việc, những chức thong thả và những chức rất thong thả, tiền bổng có khác nhau". Cũng trong thời Hồng Đức, theo Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí, vua cấp thêm cho các quan "Liêm lộc điền" (ruộng dưỡng liêm cho các quan), tức là cấp ruộng đất để tự làm cho đủ ăn, khỏi lấy tiền của dân, cũng như Luật Hồng Đức quy định hình phạt rất nghiêm khắc với hành vi tham nhũng, hối lộ. Năm 1498, vua Lê Hiến Tông đã ban lệnh "cấp tiền quý bổng liêm khiết" cho quan lại liêm chính như tiền thưởng thêm.
Đối tượng được hưởng
Vào thời Nguyễn, lệ cấp tiền dưỡng liêm chỉ được đặt ra trong những năm cuối triều Gia Long và lúc đầu chỉ để dành cho quan lại đứng đầu cấp phủ, huyện như tri phủ, tri huyện. Vua Gia Long cho rằng "Phủ, huyện ở gần nhân dân, chức nhỏ nhưng việc nhiều, ngoài bổng chính ra, cấp thêm tiền gạo dưỡng liêm để tỏ đặc cách". Còn vua Minh Mạng thì nói rằng "tiền dưỡng liêm là để khuyến khích tiết tháo trong sạch"
Sau này, các chức như thự Tri phủ, thự Tri huyện, Tri châu, Đồng tri phủ cũng được cấp loại tiền này. Đặc biệt, vào đầu triều vua Tự Đức còn cấp tiền cho các phái viên thu thuế quan và từ khi có lệ cấp tiền bổng lộc cho quan lại tại kinh thành thì một số chức quan cấp tỉnh cũng được hưởng như Quản đạo, Án sát, Bố chánh, Tuần vũ, Tổng đốc.
Mặc dù cùng là đối tượng được hưởng chế độ tiền dưỡng liêm nhưng tất cả đều là quan lại cấp địa phương. Quan chức thuộc bộ máy trung ương ở kinh thành đều không nằm trong chế độ ưu đãi này.
Chế độ tiền dưỡng liêm
Năm 1815 khoản dưỡng liêm của Tri phủ gồm 25 quan tiền, 25 phương gạo. Tri huyện thì 20 quan tiền, 20 phương gạo. Việc cấp tiền dưỡng liêm cho phủ, huyện cũng chia thành 4 kỳ trong năm để cấp phát cùng chế độ lương bổng.
Từ năm 1831, vua Minh Mạng chia các phủ, huyện, châu cả nước làm 4 hạng là tối yếu khuyết (tối quan trọng), yếu khuyết (quan trọng), trung khuyết (bình thường), giản khuyết (ít việc). Tùy theo 4 hạng trên mà mức độ tiền dưỡng liêm khác nhau. Đầu năm 1840, lệ tiền, gạo dưỡng liêm có thay đổi, khoản dưỡng liêm chỉ cấp bằng tiền, số gạo kèm theo cũng được đổi ra thành tiền. Quy chế nhận tiền dưỡng liêm ngày càng chặt chẽ: ban đầu được cấp phát theo hàng quý, quan mới đến trấn nhậm dù vào tháng giữa quý vẫn được cấp cả quý, quan thuyên chuyển đi nơi khác dù vào tháng đầu quý cũng không được trả lại tiền đã nhận ở quý đó. Về sau thì quan đến trấn nhậm vào tháng đầu quý thì cấp cả quý, đến tháng giữa thì cấp nửa quý, tháng cuối thì miễn cấp. Quan thuyên chuyển vào tháng đầu quý thì phải trả lại cả quý, vào tháng giữa quý thì trả lại một nửa, vào tháng cuối quý thì không cần phải trả lại.
Giá trị thực tế của khoản tiền dưỡng liêm dưới triều Gia Long, Minh Mạng rất lớn, tương đương với số lương bổng họ được nhận thực hàng tháng. Điều này có ý nghĩa rất lớn về vật chất vì quan lại có thể dựa vào tiền dưỡng liêm để đủ tiền sinh sống và bảo vệ tính thanh liêm cần thiết cho mình. Tiền dưỡng liêm thật sự là một biện pháp tương đối hữu hiệu trong việc ngăn ngừa tệ nạn tham nhũng trong hàng ngũ quan lại triều Nguyễn.
Ghi chú |
Xem thêm các nghĩa khác tại OSI
Kết nối các hệ thống mở (tiếng Anh: Open Systems Interconnection, viết tắt là OSI) là một nỗ lực tiêu chuẩn hóa mạng máy tính do Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế (ISO), cùng với Bộ phận Tiêu chuẩn Hoá Viễn thông của ITU (ITU-T) tiến hành từ năm 1982.
Trước khi OSI ra đời, việc thiết kế mạng lưới truyền thông là hoàn toàn do những nhà kinh doanh tự phát triển và ở dưới sự khống chế của bản quyền về kỹ thuật, chẳng hạn như những tiêu chuẩn về giao thức truyền thông trong "Kiến trúc hệ thống mạng truyền thông" (System network architecture) của IBM, appletalk của Apple, netware của Novell Inc. và DECnet của Digital Equipment Corporation. OSI là một cố gắng của các tổ chức trong công nghiệp hòng giải quyết mâu thuẫn giữa các nhà kinh doanh, để tất cả có thể cùng đồng tình với một tiêu chuẩn về kỹ thuật mạng truyền thông, đồng thời tạo điều kiện cho các sản phẩm của những nhà kinh doanh khả năng liên tác (phối hợp và làm việc) với nhau (interoperability). Tại thời điểm đó, các mạng truyền thông lớn hỗ trợ nhiều bộ giao thức truyền thông (network protocol suites) khác nhau là một hiện tượng bình thường, đồng thời vấn đề nhiều thiết bị mạng không giao lưu được với nhau, vì thiếu một giao thức chung, cũng không hiếm.
Mô hình tham chiếu OSI (thuộc về thời kỳ trước khi giao thức OSI ra đời, vào năm 1977) là một tiến bộ quan trọng trong việc giảng dạy về lý thuyết mạng lưới truyền thông. Nó khuyến khích ý tưởng về một mô hình chung của giao thức tầng cấp, định nghĩa sự liên tác giữa các thiết bị và phần mềm dành cho việc kết nối mạng lưới truyền thông.
Song có ý kiến cho rằng chồng giao thức (protocol stack) của OSI đề ra quá phức tạp và bất khả thực thi. Với chủ trương sử dụng kỹ thuật "nâng cấp đồng bộ" (forklift upgrade) trong công nghệ mạng lưới truyền thông, mô hình này đòi hỏi một cách cụ thể việc huỷ bỏ toàn bộ những giao thức hiện đang sử dụng, thay thế chúng với mô hình mới, áp đặt việc thay đổi trên toàn bộ các tầng cấp của chồng giao thức. Sự đòi hỏi này gây khó khăn rất lớn cho việc thực hiện và nó bị nhiều nhà kinh doanh và người sử dụng phản kháng, là những người đã đầu tư khá nhiều trong kỹ thuật mạng lưới truyền thông. Thêm vào đó, các giao thức của OSI lại do nhiều hội đồng đóng góp, thành ra trong đó có rất nhiều yêu cầu về chức năng đối lập với nhau, tạo nên một số lượng lớn những đặc trưng phụ, không cần thiết. Vì số lượng các đặc trưng phụ quá cao, nhiều sự thực thi của các nhà kinh doanh trở nên vô dụng vì chúng không thể liên tác với nhau, biến toàn bộ năng lực cống hiến vào việc gây dựng mô hình trở nên vô dụng. Ngay cả việc chính phủ Mỹ đòi hỏi sự đồng bộ hóa tất cả các đơn đặt hàng theo tiêu chuẩn của OSI cũng không cứu vãn nổi tình thế.
Phương cách của OSI cuối cùng bị bộ giao thức TCP/IP của Internet che khuất. Tính thực dụng của TCP/IP trong liên kết mạng lưới truyền thông, cùng với hai công trình thực thi của những giao thức đã được đơn giản hóa, biến TCP/IP thành tiêu chuẩn khả thi. Chẳng hạn, dự kiến về thư điện tử (e-mail) trong tiêu chuẩn X.400 của OSI dày bằng mấy quyển sách, trong khi dự kiến về thư điện tử của Internet trong giao thức thư điện tử SMTP (Simple Mail Transfer Protocol) chỉ chiếm mấy chục trang trong RFC 2821. Dầu sao, chúng ta cũng nên để ý rằng, sau một khoảng thời gian, rất nhiều các bản dự thảo RFC, mở rộng dự kiến của giao thức SMTP trước đây, đã được thêm vào, làm cho số lượng tài liệu hoàn chỉnh của nó cũng dày lên, chiếm một độ dày bằng mấy quyển sách, tương tự.
Rất nhiều các giao thức và bản thiết kế kỹ thuật trong giao thức tầng cấp của OSI đã bị hủy bỏ, và được thay thế bằng những cái mới, trong đó có thiết bị token-bus, truyền tải gói dữ liệu CLNP, truyền tải hồ sơ FTAM, và giao thức thư điện tử X.400. Một số trong đó còn sót lại, và thường ở dưới thể dạng hết sức đơn giản. Cấu trúc thư mục (directory structure) X.500 vẫn còn được dùng khá nhiều, đại đa phần vì giao thức nguyên bản cồng kềnh của nó đã bị lột bỏ rất nhiều và hầu như được thay thế bằng LDAP (Lightweight Directory Access Protocol). Giao thức IS-IS vẫn còn tiếp tục được nhiều công ty viễn thông dùng là một giao thức định tuyến truyền tải, và nó đã được ứng dụng vào giao thức Internet. Nhiều hệ thống SONET cũ vẫn còn dùng giao thức TARP (TID Address Resolution Protocol - sử dụng CLNP và IS-IS) để phiên dịch địa chỉ (Target Identifier) của một nút SONET nào đó. Người ta vẫn thường thấy các giao thức và thiết kế kỹ thuật của tầng cấp ISO được dùng trong các hệ thống cũ, trừ phi những hệ thống này được nâng cấp, thay thế, hoặc hủy bỏ.
Sự xụp đổ của dự án OSI năm 1996 gây những tổn thất trầm trọng đến danh tiếng và tính hợp pháp của các tổ chức tham gia, đặc biệt là ISO. Điều đáng tiếc nhất là việc những cơ quan ủng hộ OSI quá trì trệ trong việc nhận biết và thích ứng với tính ưu việt của bộ giao thức TCP/IP.
Đọc thêm
Marshall T. Rose, The Open Book (Prentice-Hall, Englewood Cliffs, 1990)
David M. Piscitello, A. Lyman Chapin, Open Systems Networking (Addison-Wesley, Reading, 1993) |
Phương có thể là một trong các nghĩa sau:
Phương hướng: Các phương đứng, phương ngang hay phương Đông, phương Tây, phương Nam, phương Bắc.
Phương: một đơn vị cân đong khối lượng dùng khi đong gạo...
Phương: tên gọi khác của dân tộc Cơ-Tu |
Leipzig (), là thành phố trực thuộc bang và cũng là thành phố đông dân cư nhất của bang Sachsen, Cộng hòa Liên bang Đức. Nguồn gốc của cái tên này là từ Lipsk trong tiếng Slav. Vị trí của thành phố là nơi gặp nhau của những con sông Pleiße, Elster Trắng và Parthe.
Dân số thành phố vượt ngưỡng 100.000 vào năm 1870 và trở thành thành phố lớn từ đấy. Từ năm 1190 thành phố là một địa điểm tổ chức hội chợ quan trọng trong Trung Âu. Bên cạnh và trước Frankfurt am Main một thời gian dài thành phố là trung tâm lịch sử của ngành in sách và buôn bán sách. Ngoài ra Leipzig còn có một trong các trường đại học lâu đời nhất: Đại học Leipzig (Universität Leipzig). Thành phố là một phần của vùng đô thị Tam giác Sachsen, một trọng điểm giao thông quan trọng và là một trong những khu vực kinh tế phát triển nhất ở miền đông nước Đức.
Lịch sử
Khởi nguyên
Leipzig có nguồn gốc từ ngôn ngữ Slav Lipsk, có nghĩa là "khu định cư nơi có cây Đoạn mọc".
Leipzig lần đầu tiên xuất hiện trong các văn kiện vào năm 1015 trong biên niên sử của Bishop Thietmar thuộc Merseburg và thành phố đã được hưởng các đặc ân về thương mại vào năm 1165 của Bá tước Otto. Leipzig về cơ bản được định hình trong lịch sử Sachsen và của Đức và luôn được biết đến là một địa điểm thương mại. Hội chợ Buôn bán Leipzig, bắt đầu vào thời Trung Cổ, đã trở thành một sự kiện quốc tế quan trọng và là hội chợ thương mại lâu đời nhất còn tồn tại trên thế giới.
Đã có các ghi chép về các hoạt động đánh cá nhằm mua bán trên sông Pleisse tại Leipzig từ năm 1305, khi Bá tước Dietrich Trẻ đã chấp nhận quyền đánh cá của nhà thờ và Tu viện Thánh Thomas.
Có một số tu viện bên trong và xung quanh thị trấn, bao gồm một tu viện Benedectine mà sau đó được đặt tên Barfussgässchen (Lối đi Chân trần), tu viện của thấy tu người Ireland gần nơi mà nay là Ranstädter Steinweg (Via Regia Cổ).
Việc thành lập Đại học Leipzig vào năm 1409 đã khởi đầu cho việc thành phố phát triển thành một trung tâm của ngành luật và xuất bản tại Đức, và tiếp theo là địa điểm đặt Reichsgericht (Tòa Dân sự Tối cao), và Thư viện Quốc gia Đức (thành lập năm 1912). Triết gia-nhà toán học Gottfried Wilhelm Leibniz được sinh ra tại Leipzig năm 1646, và đã học tập tại Đại học Leipzig từ năm 1661 đến 1666.
Ngày 24 tháng 12 năm 1701, một hệ thống chiếu sáng đường phố bằng nhiên liệu dầu đã được giới thiệu. Thành phố đã phải thuê đội bảo vệ đèn với kế hoạch làm việc rõ ràng để bảo đảm 700 chiếc đèn được thắp đúng thời điểm.
Thế kỷ 19
Khu vực Leipzig từng là nơi diễn ra Trận Leipzig năm 1813 giữa Đế chế thứ nhất Pháp và một liên minh bao gồm Phổ, Nga, Áo và Thụy Điển. Đây là trận chiến lớn nhất tại châu Âu trước khi diễn ra Chiến tranh thế giới thứ nhất và đã chấm dứt sự hiện diện của Napoléon tại Đức và cuối cùng đã dẫn tới cuộc lưu vong đầu tiên của ông tại Elba. Năm 1913, Đài kỉ niệm Trận chiến giữa các Quốc gia nhân dịp kỉ niệm 100 năm sự kiện này đã được hoàn thành.
Với việc có một ga cuối của tuyến tàu hỏa đường dài đầu tiên của Đức tới Dresden (kinh đô của Sachsen) vào năm 1839, Leipzig trở thành một trung tâm của giao thông đường sắt khu vực Trung Âu, với Ga Trung tâm Leipzig là Ga đầu tuyến lớn nhất về diện tích tại châu Âu. Ga tàu hỏa có hai lối vào đại sảnh lớn, theo truyền thống thì lối phía đông dành cho tuyển đế hầu Sachsen và lối phía tây dành cho Hoàng đế Đức.
Leipzig trở thành một trung tâm của phong trào tự do Đức và Sachsen. Đảng Lao động Đức đầu tiên, Hội Liên hiệp Toàn thể Công nhân Đức (Allgemeiner Deutscher Arbeiterverein, ADAV) được thành lập tại Leipzig vào ngày 23 tháng 5 năm 1863 bởi Ferdinand Lassalle; khoảng 600 công nhân từ khắp nước Đức đã di chuyển tới thành phố để tham gia sự kiện thành lập hội bằng tuyến đường sắt mới. Leipzig đã mở rộng nhanh chóng hướng tới con số một triệu cư dân. Các khu vực Gründerzeit khổng lồ được xây dựng, và phần lớn trong số chúng vẫn tồn tại bất chấp hai cuộc thế chiến và các hoạt động phá hủy sau đó.
Thế kỷ 20
Với việc mở cửa xưởng sản xuất thứ 5 vào năm 1907, Leipziger Baumwollspinnerei đã trở thành công ty bông sợi lớn nhất tại lục địa châu Âu, với 240.000 nhân công. Sản lượng hàng ngày là hơn 5 triệu kilôgram sợi.
Thị trưởng thành phố từ năm 1930 đến 1937 là Carl Friedrich Goerdeler, ông là một người đối lập nổi tiếng của chế độ Đức Quốc xã. Ông từ chức vào năm 1937 và sau đó, người phó Đức Quốc xã của ông đã ra lệnh phá hủy bức tượng Felix Mendelssohn vốn là biểu trưng của thành phố. Vào Kristallnacht (Đêm Kính vỡ) năm 1938, một trong số những tòa nhà có ý nghĩa nhất về mặt kiến trúc của thành phố, giáo đường Do Thái theo kiến trúc Phục hưng từ năm 1855 đã bị phá hủy. Hàng nghìn lao động đã dừng chân tại Leipzig trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Thành phố cũng bị thiệt hại nặng nề do các vụ ném bom của phe Đồng Minh trong Thế chiến II. Không giống như những thành phố láng giềng Dresden là thành phố phải chịu các vụ ném bom theo đợt với sức công phá lớn. Leipzig chỉ mất đi một số công trình ngoại vi chứ không mất đi khu vực trung tâm với một mức độ tàn phá lớn, tuy nhiện hậu quả cũng thể hiện tại nhiều nơi.
Lực lượng bộ binh của quân Đồng Minh tiến đến Leipzig vào cuối tháng 4 năm 1945. Sư đoàn Bộ binh số 2 và Sư đoàn Bộ binh số 69 của Hoa Kỳ đã chiến đấu bên trong thành phố vào ngày 18 tháng 4 và hoàn tất việc chiếm giữ sau các trận chiến dữ dội tại đây, cuộc chiến diễn ra trên từng đường phố, từng căn nhà, vào ngày 19 tháng 4 năm 1945. Sau đó Hoa Kỳ trao lại quyền quản lý thành phố cho Hồng quân Liên Xô. Leipzig về sau là một trong các thành phố chính của Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức).
Vào giữa thế kỷ 20, hội chợ thương mại của thành phố được thừa nhận và hồi phục lại tầm quan trọng như là một địa điểm gặp gỡ giữa các thành viên của khối kinh tế Comecon, là tổ chức mà Đông Đức là một thành viên. Vào thời điểm này, hội chợ thương mại được tổ chức ở một địa điểm phía nam thành phố, gần Đài kỉ niệm Trận chiến giữa các Quốc gia.
Vào tháng 10 năm 1989, sau các buổi cầu nguyện cho hòa bình tại Nhà thờ Thánh Nicôla, được thành lập từ năm 1983 như là một phần của phong trào hòa bình, Cuộc tuần hành Thứ hai đã bắt đầu và trở thành cuộc biểu tình chống chế độ cộng sản Đông Đức nổi bật nhất.
Địa lý
Leipzig nằm tại nơi hợp dòng của các dòng sông Weisse Elster, Pleisse và Parthe thuộc phần cực nam của đồng bằng Bắc Đức, một phần của đồng bằng Bắc Âu tại nước Đức. Địa điểm này có nét đặc trưng với những vùng đầm lầy như Rừng ven sông Leipzig, ngoài ra cũng có một số khu vực đá vôi ở phía bắc của thành phố. Phong cảnh chủ yếu là bằng phẳng song cũng có một số dấu tích của băng tích và những ngọn đồi nhỏ.
Mặc dù có một số công viên rừng bên trong thành phố, song các khu vực xung quanh Leipzig tương đối hiếm rừng. Trong thế kỷ 20, đã có một vài mỏ khai thác lộ thiên tại khu vực thành phố, nhiều mỏ nay được chuyển đổi thành các hồ nước.
Leipzig nằm tại nơi giao cắt của nhiều tuyến đường lịch sử được biết tới như Via Regia (xa lộ Vua), con đường đi ngang ba các vùng đất của người German theo chiều đông tây, và Via Imperii (xa lộ Hoàng Đế), một tuyến đường theo chiều bắc - nam.
Leipzig tường là một thành phố có tường thành bao bọc dưới thới Trung Cổ và hiện nay có một tuyến đường vành đai xung quanh trung tâm thành phố tương ứng với bức tường thành cổ.
Hành chính
Leipzig từ năm 1992 được chia thành 10 quận hành chính, và 63 khu phố. Một số trong đó là các ngôi làng ngoại ô xa xôi nhưng thuộc địa giới của Leipzig.
Khí hậu
Leipzig có khí hậu lục địa với nhiệt độ mùa hè có thể lên tới 30 °C (vào 10 ngày trong năm 2010) và thường xuyên xuống tới mức dưới 0 °C (62 ngày trong năm 2010). Cũng như phần lớn nước Đức, tuyết thường rơi đều đặn vào một số ngày trong tuần, hay theo tháng vào mùa đông.
Ngày nóng nhất tại Leipzig từng được ghi nhận trong lịch sử là vào 9 tháng 8 năm 1992 với nhiệt độ lên đến 38,8 °C, còn nhiệt độ lạnh nhất xuất hiện vào ngày 14 tháng 1 năm 1987 với chỉ −24,1 °C.
Nhân khẩu
Dân số Leipzig xấp xỉ nửa triệu người với tỷ lệ thất nghiệp là khoảng 17%. Trước khi nước Đức tái thống nhất, dân số thành phố là 700.000 người. Nhiều cư dân của thành phố trong lứa tuổi lao động đã di cư về các khu vực ở phía tây để tìm kiếm công việc, ngoài ra tỷ lệ sinh thấp cũng đóng góp vào việc dân số suy giảm. Tuy nhiên số trẻ em sinh ra tại thành phố năm 2000 là 5.414 trẻ, con số cao nhất kể từ khi tái thống nhất. Trong khi đó có 5788 người qua đời tại Leipzig năm 2010, song dân số thành phố vẫn tăng 4000 do nhập cư. Độ tuổi trung bình của cư dân thành phố là 44.
Tỷ lệ dân nhập cư hay không có nguồn gốc dân tộc Đức tại Leipzig là khá thấp nếu đem so sánh với các thành phố khác tại Đức; số cư dân nước ngoài trên thực tế đã giảm từ 28.177 năm 2008 xuống 24.881 vào năm 2010. Năm 2011, chỉ có khoảng 10% dân số thành phố thuộc các thế hệ nhập cư thứ nhất và thứ hai so với con số trung bình toàn quốc là 20%.
Số người dân tộc thiểu số (thế hệ thứ nhất và thứ hai) tại Leipzig theo nguồn gốc quốc gia vào ngày 31 tháng 12 năm 2010
Kiến trúc
Leipzig có nhiều toà nhà đại diện cho lối kiến trúc Gründerzeit và cũng của lối kiến trúc Plattenbau từ thời kỳ Đông Đức trước đây. Tòa nhà của Đại học Giáo hội đã bị chế độ cộng sản phá hủy vào năm 1968 hiện đang được tái xây dựng với vai trò là một tòa nhà thế tục. Thành phố có một số công viên và khu rừng cùng một sở thú bao gồm căn chuồng lớn nhất trên thế giới dành cho loài động vật linh trưởng.
Văn hóa
Thắng cảnh chính
Nhà thờ Thánh Thomas (Thomaskirche): Là công trình nổi tiếng nhất với vai trò là nơi Johann Sebastian Bach từng làm việc với vai trò người điều khiển ca đoàn và là nơi có hợp xướng thiếu nam lừng danh Thomanerchor
Đài tưởng niệm Felix Mendelssohn ở mặt trước của nhà thờ này. Bị Đức Quốc xã phá hủy vào năm 1936, được xây dựng lại vào ngày 18 tháng 10 năm 2008.
Nhà thờ Thánh Nicolas (Nikolaikirche), là nơi Bach cũng từng làm việc. Montagsgebet hàng tuần (Thứ hai cầu nguyện) được tổ chức ở đây vào thập kỉ 1980 và là điểm khởi đầu cho những cuộc biểu tình vào Thứ hai chống lại chế độ Cộng hòa Dân chủ Đức.
Völkerschlachtdenkmal (Đài tưởng niệm Trận đánh giữa các Quốc gia): một trong những đài kỉ niệm lớn nhất tại châu Âu, được xây để kỉ niệm trận chiến thắng lợi chống lại quân xâm lược của Napoleon
Gewandhaus: Trụ sở của dàn nhạc Gewandhaus nổi tiếng, đây là tòa nhà thứ ba mang tên này.
Tòa thị chính Cũ: Tòa thị chính cũ được xây từ năm 1556 và hiện là một bảo tàng về lịch sử thành phố
Tòa thị chính Mới: Tòa thị chính mới được xây dựng trên phần còn lại của Pleißenburg, một lâu đài từng là nơi diễn ra cuộc tranh luận năm 1519 giữa Johann Eck và Martin Luther
City-Hochhaus Leipzig: được xây dựng năm 1972, từng là một phần của một trường đại học và là tòa nhà cao nhất thành phố
Städtisches Kaufhaus (Cơ quan lưu trữ của thành phố): tòa nhà mẫu hội chợ đầu tiên của thế giới và hiện nay là nơi đặt trụ sở của các văn phòng, cửa hàng bán lẻ, nhà hàng và các phòng học tạm của Trường Đại học Leipzig
Bundesverwaltungsgericht: Trụ sở Tòa án Hành chính Tối cao Liên bang Đức hiện nay từng là nơi đặt Reichsgericht, tòa án nhà nước cao nhất từ năm 1888 đến 1945
Vườn thực vật Leipzig là vườn thực vật lâu đời nhất tại Đức
Trong số các trụ sở cơ quan tại Leipzig, đáng chú ý có nhà hát opera và Vườn động vật Leipzig, địa điểm sau là nơi sinh sống thuận lợi lớn nhất thế giới đối với các loài động vật linh trưởng. Trung tâm của Hội chợ thương mại Leipzig ở phía bắc thành phố là tòa nhà kính nổi trên mặt nước lớn nhất thế giới. Leipzig cũng được biết đến với các ngõ nhỏ qua các ngôi nhà hay tòa nhà lớn.
Âm nhạc
Johann Sebastian Bach từng làm việc tại Leipzig từ năm 1723 đến năm 1750, ông chỉ đạo đội hợp xướng nhà thờ Thánh Thomas, tại nhà thờ Thánh Thomas, nhà thờ Thánh Nicolas và Paulinerkirche, trường đại học ki-tô giáo của Leipzig (bị phá hủy vào năm 1968). Nhà soạn nhạc Richard Wagner đã sinh ra tại Leipzig vào năm 1813, ở Brühl. Robert Schumann cũng từng hoạt động âm nhạc tại Leipzig, được Felix Mendelssohn mời sau đó khi thành lập nhạc viện đầu tiên của Đức tại thành phố vào năm 1843. Gustav Mahler là nhạc trưởng thứ hai (làm việc dưới sự chỉ đạo của Artur Nikisch) tại Nhà hát Leipzig từ tháng 6 năm 1886 cho đến tháng 5 năm 1888, và đã đạt được sự công nhận lớn đầu tiên của ông khi hoàn thành và công bố vở nhạc kịch Die Drei Pintos của Carl Maria von Weber, và Mahler cũng đã hoàn thành Bản giao hưởng số 1 của mình khi sinh sống tại thành phố.
Nhạc viện ngày nay đã trở thành là Đại học Âm nhạc và Sân khấu Leipzig Trường đào tạo một loạt lãnh vực, bao gồm cả nghệ thuật và đào tạo sư phạm, với tất cả các ngành nhạc cụ giao hưởng, âm thanh, giảng giải, huấn luyện, nhạc thính phòng dương cầm, chỉ huy dàn nhạc, soạn nhạc, chỉ huy hợp xướng. Các thể loại âm nhạc bao gồm jazz, nhạc thịnh hành, ca kịch hay nhạc nhà thờ. Ở các ban kịch nghệ còn dạy về diễn xuất và kịch nghệ.
Bach-Archiv về tư liệu và nghiên cứu về cuộc sống và công việc của Bach và gia đình ông đã được Werner Neumann phát hiện tại Leipzig vào năm 1950. Bach-Archiv tổ chức cuộc thi Johann Sebastian Bach Quốc tế uy tín, bắt đầu vào năm 1950 như là một phần của lkex hội âm nhạc đánh dẫu hai tăm năm ngày mất của Bach. Cộc thi hiện được tổ chức hai năm một lần với ba thể loại thay đổi. Bach-Archiv cũng tổ chức biểu diễn, đặc biệt là lễ hội Bachfest Leipzig quốc tế và quản lý bảo tàng Bach.
Truyền thống âm nhạc của thành phố đã được thể hiện với danh tiếng toàn cầu của Dàn nhạc Gewandhaus Leipzig và Đội hợp xướng Thánh Thomas. Với trên 60 năm, Leipzig đã tổ chức chương trình "hòa nhạc trường học" lâu đời nhất cho trẻ em tại Đức. Với trên 140 buổi biểu diễn mỗi năm ở các khu vực như Gewandhaus và trên 40.000 trẻ em quan tâm cũng những người trẻ tuổi học và sáng tác âm nhạc.
Đối với âm nhạc đương đại, Leipzig được biết đến với nhạc cảnh âm nhạc độc lập của mình và các sự kiện tiểu văn hóa. Leipzig đã có trên 20 năm là chủ nhà của lễ hội ân nhạc Gothic lớn nhất thế giới, Wave-Gotik-Treffen (WGT) được tổ chức hành năm với hàng nghìn người hâm mộ đến từ khắp châu Âu tụ họp vào đầu mùa hè. Leipzig Pop Up là hội chợ âm nhạc hàng năm với nhạc cảnh độc lập cũng như một lễ hội âm nhạc diễn ra tại Lễ Ngũ Tuần vào cuối tuần. Một số địa điểm biểu diễn nhạc sống diễn ra hàng ngày. là một trong những câu lạc bộ sinh viên lâu đời nhất tại châu Âu với nhiều thể loại khác nhau. Với trên 15 năm, "Tonelli's" là buổi biểu diễn miễn phí hàng ngày trong tuần, mặc dù vé vào cửa có thể áp dụng vào thứ Bảy.
Bill và Tom Kaulitz, thành viên của nhóm Tokio Hotel, sinh ra tại Leipzig vào năm 1989, và Till Lindemann của Rammstein cũng đã sinh ra tại thành phố vào năm 1963. Nhóm nhạc black metal Na Uy Mayhem đã đánh dấu buổi biểu diễn trực tiếp thứ 1993 của họ tại câu lạc bộ Eiskeller vào ngày 26 tháng 11 năm 1990.
Nghệ thuật
Tòa nhà phức hợp Grassi Museum gồm có ba bộ sưu tập chính của Leipzig tại: Bảo tàng Dân tộc học, Bảo tàng Nghệ thuật ứng dụng, và Bảo tàng Dụng cụ âm nhạc (bảo tàng cuối cùng thuộc Đại học Leipzig). Đại học Leipzig cũng quản lý Bảo tàng Cổ vật.
Sự kiện thường niên
Triển làm ô tô quốc tế Auto Mobil International (AMI)
AMITEC, hội chợ về bảo trì, giữ gìn, bảo quản và phục hồi xe cộ tại Đức và Trung Âu
A cappella: Festival nhạc xướng âm, do Ensemble amarcord tổ chức
Bach-Fest: Lễ hội Johann Sebastian Bach
Chợ Giáng sinh Christmas (từ 1767)
Dokfestival: festival quốc tế về phim tài liệu và phim hoạt hình
Jazztage, festival nhạc jazz đương đại
Ladyfest Leipzig (tháng 8) Emancipatoric, Festival nữ quyền nhạc Punk & Electro
Leipzig Book Fair: hội chợ sách lớn thứ hai tại Đức sau Frankfurt
OPER unplugged với Âm nhạc, khiêu vũ và sân khấu do Heike Hennig & Co tổ chức
Stadtfest: festival thành phố
Wave-Gotik-Treffen tại Lễ Ngũ Tuần: festival goth hay "văn hóa tăm tối" lớn nhất thế giới
Leipzig Pop Up
Thể thao
Có trên 300 câu lạc bộ thể thao trong thành phố với 78 môn khác nhau. Trên 400 cơ sở thể thao hiện diện để phục vụ các cư dân và thành viên của các câu lạc bộ.
Hiệp hội bóng đá Đức (DFB) đã được thành lập tại Leipzig vào năm 1900. Thành phố là nơi bốc thăm của Giải vô địch bóng đá thế giới 2006, và đã tổ chức bốn trận đấu trong vòng bảng cùng một trận trong vòng 1/16 tại sân vận động trung tâm. Leipzig cũng đã đăng cai Cúp thế giới môn đấu kiếm vào năm 2005 và một số cuộc thi đấu thế thao quốc tế khác vào mỗi năm.
Kể từ khi bắt đầu thế kỷ 20, khúc côn cầu trên băng đã có được tỉnh phổ biến và một số câu lạc bộ địa phương đã lập các phòng ban chuyên dụng để phục vụ môn thể thao này. Ngày nay Sư tử Xanh Leipzig là cây lạc bộ khúc côn cầu trên băng nổi tiếng nhất của thành phố.
VfB Leipzig, nay là 1. FC Lokomotive Leipzig, đã chiến thắng giải vô địch bóng đá quốc gia lần đầu tiên vào năm 1903.
Từ năm 1950 đến 1990 Leipzig là chủ nhà của Deutsche Hochschule für Körperkultur (DHfK) (Trường trung học giáo dục thế chất Đức), đại học thể thao quốc gia của Cộng hòa Dân chủ Đức.
Handball-Club Leipzig là một trong những câu lạc bộ bóng ném nữ thành công nhất tại Đức, đã giành được 20 chức vô dịch trong nước kể từ năm 1956 và 3 danh hiệu vô địch nữ Liên đoàn bóng ném châu Âu.
Leipzig đã từng xin đăng cai Thế vận hội Mùa hè 2012. Việc ứng cử đã không thành công khi Ủy ban Olympic quốc tế đưa số ứng cử viên xuống còn 5, cuộc canh trạnh cuối cùng đã đem chiến thắng về tay Luân Đôn vào ngày 6 tháng 7 năm 2005.
Hồ Markkleeberg (Markkleeberger See) là một hồ mới ở trước mặt Markkleeberg, một khu ngoại ô ở phía nam của Leipzig. Một mỏ than lộ thiên trước đây, nó được làm cho ngập nước vào năm 1999 và được phát triển vào năm 2006 để trở thành một địa điểm du lịch. Tại mặt đông nam là trường thi đấu vượt chướng ngại vật trên dòng nước nhân tạo chỉ dùng lực bơm duy nhất tại Đức, công viên xuồng Markkleeberg (Kanupark Markkleeberg), một địa điểm với đối thủ Eiskanal tại Augsburg với việc tập dượt và thi đấu ua thuyền canoe/kayak quốc tế.
Vào tháng 6 năm 2009 Red Bull đã tiến vào thị trường bóng đá địa phương sau khi bị từ chối quyền mua FC Sachsen Leipzig vào năm 2006. Câu lạc bộ RB Leipzig mới được thành lập hiện đang cố gắng thăng hạng và đưa Bundesliga quay trở lại tầm khu vực.
Hai đội có cơ sở tại Leipzig là các thành viên của Unihockey-Bundesliga, giải khúc côn cầu trong nhà ngoại hạng Đức. MFBC Löwen Leipzig đã đứng thứ nhì vào năm 2009, SC DHFK Leipzig vào năm 2008.
Ẩm thực
Một món ăn địa phương xuất hiện ở tất cả các mùa là Leipziger Allerlei, một món hầm gồm có các loại rau theo mùa và tôm.
Leipziger Lerche là một món bánh ngọt được nhồi quả hạnh ép, quả hạch và mứt dâu tây; tên gọi ("chiền chiện Leipzig")xuất phát từ một món pâté chiền chiện từng là đặc sản của Leipzig cho đến khi có lệnh cấm săn chim sơn ca tại Sachsen năm 1876.
Gose là một phương pháp lên men chua khi ủ bia có nguồn gốc tại khu vực Goslar và đến thế kỷ 18 đã trở nên phổ biến tại Leipzig.
Giáo dục
Đại học
Đại học Leipzig được hình thành từ năm 1409, là một trong những đại học lâu đời nhất tại châu Âu. Người từng đạt giải Nobel, Werner Heisenberg từng làm việc tại đây với vai trò là một giáo sư vật lý (từ 1927 đến 1942), cũng như những người từng đạt giải Nobel khác là Gustav Ludwig Hertz (vật lý), Wilhelm Ostwald (hóa học) và Theodor Mommsen (văn học). Nhưng người là cựu cán bộ giảng dạy của trường gồm có nhá khoáng vật học Georg Agricola, nhà văn Gotthold Ephraim Lessing, triết gia Ernst Bloch, ngời sáng lập tâm lý vật lý học Gustav Theodor Fechner, và nhà tâm lý học Wilhelm Wundt. Trong số các cựu sinh viên nổi danh của trường có nhà văn Johann Wolfgang Goethe và Erich Kästner, nhà toán học và triết gia Gottfried Leibniz và triết gia Friedrich Nietzsche, nhà hoạt động chính trị Karl Liebknecht, và nhà soạn nhạc Richard Wagner. Thủ tướng Đức từ năm 2006, Angela Merkel, từng học ngành vật lý tại Đại học Leipzig. Đại học có khoảng 30.000 sinh viên.
Học viện Văn học Đức là một bộ phận của Đại học Leipzig, được thành lập từ năm 1955 dưới tên gọi "Johannes R. Becher-Institut". Rất nhiều nhà văn có tiếng đã tốt nghiệp tại học viện này, trong đó có Heinz Czechowski, Kurt Drawert, Adolf Endler, Ralph Giordano, Kerstin Hensel, Sarah và Rainer Kirsch, Angela Krauß, Erich Loest, Fred Wander. Sau khi đóng cửa vào năm 1990, học viện đã được tái lập năm 1995 với đội ngũ giảng viên mới.
Nghệ thuật thị giác và Nhà hát
"Viện Nghệ thuật thị giác" (Hochschule für Grafik und Buchkunst) được thành lập vào năm 1764. Năm 2006, viện có 530 sinh viên ghi danh trong các ngành học về hội họa và đồ họa, thiết kế sách/thiết kế đồ họa, nhiếp ảnh và nghệ thuật truyền thông.
Đại học Âm nhạc và Sân khấu có hàng loạt lĩnh vực khác nhau, từ đào tạo bằng nhạc cụ, âm thanh, giải thích, huấn luyện, nhạc thính phòng piano, chỉ đạo dàn nhạc, chỉ đạo dàn hợp xướng và sáng tác nhạc để phục vụ diễn xuất và kịch nghệ.
Đại học Khoa học Ứng dụng
Đại học Khoa học Ứng dụng Leipzig (HTWK) có xấp xỉ 6200 sinh viên năm 2007 và là cơ sở giáo dục bậc cao lớn thứ hai tại Leipzig. Trường được thành lập vào năm 1992 trên cơ sở hợp nhất một vài trường cũ. Với vai trò là một trường đại học khoa học ứng dụng (tiếng Đức: Fachhochschule) trường cí vị thế is thấp hơn một trường đại học, với phần thực hành được chú trọng hơn. HTWK có nhiều lớp kĩ sư, cũng như khoa học máy tính, toán học, quản trị kinh doanh, quản lý thư viện, nghiên cứu bảo tàng và công tác xã hội. Các cơ sở vật chất của trường chủ yếu nằm tại phía nam thành phố.
Khác
Trường Nghiên cứu Quản lý Leipzig, (tiếng Đức Handelshochschule Leipzig (HHL)), là trường kinh doanh lâu đới nhất tại Đức.
Trong số các viện nghiên cứu nằm tại Leipzig, có ba viện thuộc về Học hội Max Planck là viện Toán học trong Khoa học Tự nhiên Max Planck (Max-Planck-Institut für Mathematik in den Naturwissenschaften), viện Nhận thức con người và Khoa học Não Max Planck (Max-Planck-Institut für Kognitions- und Neurowissenschaften) cùng viện Nhân loại Tiến hóa Max Planck (Max-Planck-Institut für evolutionäre Anthropologie). Có hai viện thuộc Học hội Fraunhofer. Các viện khác là Trung tâm Nghiên cứu Môi trường Helmholtz, một bộ phận của Tổ chức Trung tâm Nghiên cứu Đức Helmholtz, và Viện Nghiên cứu Tầng đối lưu Leibniz.
Kinh tế
Trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai, Leipzig không chỉ là một trung tâm thương mại quan trọng với Hội chợ Thương mại Leipzig mà còn là một trung tâm công nghiệp quan trọng không kém. Các ngành công nghiệp truyền thống là xuất bản và in ấn, đúc, kỹ thuật, ngành công nghiệp lông thú, công nghiệp dệt (Leipziger Baumwollspinnerei, Sächsische Wollgarnfabrik) và có các hãng chế tạo dương cầm (Blüthner, Ludwig Hupfeld AG, Wilhelm Schimmel, Feurich).
Trong thời kì Đông Đức, Leipzig vẫn là một địa điểm thương mại quan trọng. Các quận của Leipzig vào năm 1972 đã đóng góp 9,3% sản xuất công nghiệp của Đông Đức. Ngoài các ngành công nghiệp nói trên, ngành công nghiệp của thành phố còn bao gồm khai thác than, phát điện, công nghiệp hóa chất được phát triển mạnh ở phía nam của Leipzig. Với việc tái thông nhất nước Đức, Leipzig đã trở thành nơi có kinh tế kết hợp với các ngành như thiết bị xây dựng, thiết bị làm đất, nhà máy đúc, vật đúc, máy dò tìm, công nghệ thông tin và truyền thông, dịch vụ tòa nhà, thiết bị khai mỏ lộ thiên, cần cẩu và băng tải và nhà máy hóa chất. Các loại đất màu mỡ ở những vùng đất thấp ở khu vực Leipzig dùng cho nông nghiệp.
Các công ty có văn phòng hay trụ sở tại Leipzig vào những vùng lân cận là:
Amazon
Blüthner: chế tạo dương cầm
BMW
DHL
Porsche
Siemens
Future Electronics
Có thể tìm thấy nhiều quầy bán rượu, nhà hàng và cửa hiệu ở trung tâm thành phố được cả người Đức lẫn du khách nước ngoài lui tới. Ga Trung tâm Leipzig Central nằm tại một trong các trung tâm mua sắm lớn nhất tại thành phố.
Các lĩnh vực phi sản xuất lớn nhất trong thành phố bao gồm các trường trung học và đại học trong và xung quanh vùng Leipzig/Halle. Đại học Leipzig thu hút hàng triệu euro tiền đầu tư hàng năm và đang tiến hành xây những công trình khổng lồ để chào mừng 600 năm thành lập.
DHL đang trong quá trình chuyển các hoạt động hàng không của mình từ Sân bay Brussels tới Sân bay Leipzig/Halle. Amazon.com có một trung tâm phân phối lớn gần sân bay.
Thành phố cũng có trụ sở của European Energy Exchange là công ty năng lượng lớn nhất khu vực Trung Âu.
Kirow Ardelt AG, công ty đứng đầu thế giới về cần trục, đặt trụ sở tại Leipzig.
Future Electronics – công ty hành đầu thế giới về phân phối linh kiện điện tử đã chuyển Trung tâm Phân phối EMEA về Leipzig.
Truyền thông
MDR, một trong những hãng phát thanh-truyền hình công cộng của Đức, có trụ sở chính và trường quay chương trình truyền hình chính tại thành phố. Hãng cung cấp chương trình tới các mạng lưới truyền hình và phát thanh khác nhau và sở hữu trong tay một dàn nhạc giao hưởng, đội hợp xướng một nhóm múa ba lê.
Leipziger Volkszeitung (LVZ) là nhật báo duy nhất của thành phố. Được hình thành từ năm 1894, tờ báo đã xuất bản dưới nhiều chế độ chính trị. Đây là tờ báo đầu tiên trên thế giới được xuất bản hành ngày. Tạp chí nguyệt san Kreuzer chuyên biệt về văn hóa, lễ hội và nghệ thuật tại Leipzig.
Do từng được biết đến với một số lượng lớn các nhà xuất bản, Leipzig đã từng được gọi là Buch-Stadt (thành phố sách). Chỉ một vài nhà xuất bản được cho phép hoạt động trong những năm tháng dưới chế độ Cộng hòa Dân chủ Đức, và trong thời gian đó Frankfurt đã phát triển thành một trung tâm xuất bản quan trọng hơn, nổi tiếng nhất trong số chúng là các chi nhánh của Brockhaus và Insel Verlag. Reclam, hình thành từ năm 1828, từng là một nhà xuất bản lớn của thành phố. Thư viện Đức (Deutsche Bücherei) tại Leipzig là một phần của Thư viện Quốc gia Đức.
Giao thông
Leipzig nằm tại nơi giao nhau của hai tuyến đường thời trung cổ là Via Regia và Via Imperii và do vậy đã trở thành một trung tâm giao thông quan trọng. tuyến đường sắt nối giữa hai nơi đầu tiên tại Đức là tuyến từ Leipzig tới Dresden từ năm 1839. Đặc biệt là từ sau khi thay đổi chế độ, các nguồn vốn đầu tư cho việc hiện đại hóa và mở rộng mạng lưới xa lộ, đường sắt và đường hành không đã khiến cho Leipzig ngày nay đã có một hệ thống cơ sở hạ tầng ưu việt.
Đường bộ
Leipzig có thể tiếp cận bằng một số tuyến xa lộ: ở phía bắc có đường cao tốc liên bang A 14, phía tây là A 9 và phía nam là đường A 38. Ba tuyến đường cao tốc này tạo thành một phần hình tam giác của tuyến xa lộ vành đai quanh cả Halle và Leipzig. Phía nam tới Chemnitz cũng có một phần tuyến A 72 đang được dự tính xây dựng. Các dự án mở rộng và xây mới cũng bao gồm các tuyến đường xa lộ liên bang. Vì vậy, một tuyến lộ mới có tên B 87 từ Leipzig tới Torgau (để thay thế A16) đã được lên kế hoạch. Tuy nhiên tại đây, lộ trình chính xác vẫn chưa được biết. Ngoài ra còn có tuyến B 181 tới Merseburg.
Các tuyến đường liên bang đi qua thành phố là Bundesstraßen B 2, B 6, B 87, B 181, B 184 và B 186.
Tuyến đường vành đai, vốn tương ứng với tường thành cổ trước đây, bao quanh trung tâm thành phố Leipzig, hiện bị hanh chế giao thông tại nhiều phần.
Giống như hầu hết các thành phố lớn khác tại Đức, Leipzig có một sơ đồ giao thông được thiết kế để mục vụ cho xe đạp thân thiện. Hiện có một mạng lưới giao thông dành cho xe đạp rộng lớn. Tại hầu hết các tuyến đường một chiều ở trung tâm thành phố, những người đi xe đạp được cho pháp đi theo cả hai chiều. Một vài đường dành cho xe đạp đã được xây dựng hay tuyên bố xây dựng từ năm 1990.
Tàu hỏa
Nhà ga Trung tâm Leipzig mở cửa từ năm 1915, nằm tịa nơi giao nhau của các tuyến đường sắt quan trọng theo hướng bắc-nam và tây-đông. Tàu Intercity-Express chạy giữa Berlin và München dừng tại Leipzig và cách xấp xỉ 1 giờ từ Ga Trung tâm Berlin và 6 giờ từ Ga Trung tâm München.
Leipzig cũng có một mạng lưới giao thông công cộng bản địa trải rộng. Mạng lưới xe điện và xe buýt của thành phố hoạt động dưới sự điều hành của Leipziger Verkehrsbetriebe. Hệ thống xe điện của Leipzig, với chiều dài 209 km (khoảng 140 mi) là một trong các hệ thống cùng loại dài nhất tạic ác thành phố nước Đức.
Một tuyến đường sắt ngầm được gọi là "city tunnel" đang được xây dựng và tuyến này sẽ nối các ga tàu hỏa tới trung tâm thành phố với chi phí vượt quá 500 triệu euro.
Hàng không
Sân bay Leipzig/Halle là sân bay chính trong khu vực phụ cận của thành phố. Sân bay Leipzig/Halle có một số chuyến bay thuê bao theo mùa cũng như các chuyến bay định kì. Sân bay quân sự cũ nằm gần Altenburg, Thuringia được gọi là Sân bay Leipzig-Altenburg cách trung tâm thành phố Leipzig khoảng nửa giờ đi xe Leipzig cho đến trước năm 2010 từng được hãng Ryanair khai thác.
Đường thủy
Trong nửa đầu thế kỷ 20 việc xây dựng kênh đào Elster-Saale nối giữa sông Elster Trắng và Saale đã được khởi công tại Leipzig để kết nối hệ thống các đường thủy. Việc bùng nổ Thế chiến thứ 2 đã làm cho hầu hết công việc phải dừng lại, dẫu cho một số công việc vẫn có thể tiếp tục do việc sử dụng lao động cưỡng bức. Cảng Lindenauer hầu như đã hoàn thành song chưa kết nối tương ứng được với kênh đào Elster-Saale và kênh đào Karl-Heine. Các dòng sông Leipzig (Elster Trắng, Neue Luppe Pleiße và Parthe) chảy trong khu vực đô thị có lòng sông chủ yếu là nhân tạo và được một số kênh bổ sung lượng nước. Các tuyến đường thủy này chỉ thích hợp cho các thuyền du lịch nhỏ đi lại.
Thông qua việc cải tạo và tái phục hồi các dòng nước và luồng lạch hiện có ở phía nam thành phố và các mỏ lộ thiên ngập nước, hệ thống giao thông đường thủy của thành phố đã được mở rộng. Thành phổ đã ủy nhiệm một kế hoạch để nối kênh đào Karl Heine và cảng Lindenauer đã bỏ hoang vào năm 2008. Còn nhiều việc phải làm để hoàn thành kênh Elster-Saale. Việc này nếu hoàn thành sẽ cho phép các tàu thể thao có thể đi từ Leipzig tới tận Elbe.
Quan hệ quốc tế
Leipzig kết nghĩa với:
Addis Ababa, Ethiopia (2004)
Birmingham, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland (1992)
Bologna, Ý (1962, ký kết mới vào năm 1997)
Brno, Cộng hòa Séc (1973, ký kết mới vào năm 1999)
Frankfurt, Đức (1990)
Hanover, Đức (1987)
Herzliya, Israel (2010)
Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam (2021)
Houston, Hoa Kỳ (1993)
Kyiv, Ukraina (1961, ký kết mới vào năm 1992)
Lyon, Pháp (1981)
Nam Kinh, Trung Quốc (1988)
Thessaloniki, Hy Lạp (1984)
Travnik, Bosnia và Herzegovina (2003)
Cộng tác
Kraków, Ba Lan (1973, ký kết mới vào năm 1995) |
Nguyễn Văn Hiếu (1929-1975) nguyên là Thiếu tướng Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tử nạn được truy thăng Trung tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên tại trường Võ bị Quốc gia do Chính phủ Quốc gia Việt Nam mở ra tại Nam Cao nguyên Trung phần vào đầu thập niên 50 của thế kỷ trước. Ông đã từng chỉ huy các Sư đoàn Bộ binh và được cử giữ chức Phụ tá Đặc biệt trong Ủy ban chống tham nhũng thuộc Phủ Phó Tổng thống Trần Văn Hương, một vị trí phù hợp với con người và tính cách của ông. Bản thân ông đã được một số tài liệu đánh giá là liêm khiết, không tham nhũng.
Do chống tham nhũng, ông được cho là đã làm mất lòng nhiều tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa, vốn có nhiều tai tiếng vì tham nhũng. Nhiều người cũng cho rằng đây là lý do dẫn đến việc ông bị đồng ngũ ám sát trong văn phòng tại bản doanh Bộ Tư lệnh Quân đoàn III ở Biên Hòa ngày 8 tháng 4 năm 1975, khi đang giữ chức Tư lệnh phó đặc trách Hành quân của Quân đoàn.
Tiểu sử & Binh nghiệp
Ông sinh ngày 23 tháng 06 năm 1929 tại Thiên Tân, Trung Quốc nhưng quê nội ở Bắc Ninh và quê ngoại ở Hà Đông. Ở Thượng Hải, ông học tại trường Collège Français de Shanghai. Năm 1948, ông đậu bằng Baccalauréat en mathématiques (Tú tài toàn phần ban Toán). Năm 1949, trong khi đang học năm thứ 1 ban Kỹ thuật tại Đại học Aurore (thuộc Dòng Tên của Pháp) thì Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp quản Thượng Hải, ông theo gia đình trở về Sài Gòn, sau đó (đầu năm 1950) gia đình ông chuyển ra Hà Nội.
Quân đội Quốc gia Việt nam
Cuối tháng 10 năm 1950, thi hành lệnh động viên của Quốc trưởng Bảo Đại, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 49/300.479. Theo học khóa 3 Trần Hưng Đạo tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt, khai giảng ngày 5 tháng 11 năm 1950. Ngày 25 tháng 6 năm 1951 mãn khóa tốt nghiệp Á khoa với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Tuy nhiên sau đó ông bị bệnh lao phổi phải nằm nhà thương Lanessan Hà Nội một thời gian. Đến đầu năm 1953 ông xuất viện và được chuyển đến phục vụ tại Phòng 3 Bộ Tổng tham mưu dưới quyền Đại tá Trưởng phòng Trần Văn Đôn, đồng thời ông được thăng cấp Trung úy tại nhiệm. Đến tháng 6 năm 1954, ông được thăng cấp Đại úy.
Quân đội Việt Nam Cộng hòa
Sau khi Quân đội Quốc gia được cải danh thành Quân đội Việt Nam Cộng hòa vào cuối năm 1955, ông vẫn tiếp tục phục vụ thêm một thời gian nữa ở Bộ Tổng tham mưu. Trung tuần tháng 8 năm 1957, ông được thăng cấp Thiếu tá, và chuyển đi làm Phó phòng 3 của Bộ Tư lệnh Quân đoàn I, do Trung tướng Trần Văn Đôn làm Tư lệnh Quân đoàn. Ngày 1 tháng 8 năm 1962, ông được giữ chức Trưởng phòng 3 Quân đoàn I, do Thiếu tướng Lê Văn Nghiêm làm Tư lệnh Quân đoàn.
Đầu năm 1963, ông được cử đi du học lớp Chỉ huy Tham mưu cao cấp tại Học viện Chỉ huy và Tham mưu Fort Leavenworth thuộc Kansas, Hoa Kỳ, đến ngày 10 tháng 5 tốt nghiệp về nước. Ngày 1 tháng 6 cùng năm, ông được thăng cấp Trung tá và được cử giữ chức Tham mưu trưởng Sư đoàn I Bộ binh, do Đại tá Đỗ Cao Trí làm Tư lệnh.. Ngày 11 tháng 11 năm 1963 (sau vụ đảo chính 1/11/1963), bàn giao chức Tham mưu trưởng Sư đoàn 1 lại cho Trung tá Tôn Thất Khiên, sau đó ông được cử giữ chức Tham mưu trưởng Quân đoàn I thay thế Đại tá Trần Thanh Phong đi nhận chức Tư lệnh Sư đoàn 1.
Ngày 1 tháng 1 năm 1964, ông được chuyển về Quân đoàn II nhận chức Tham mưu trưởng Quân đoàn do Trung tướng Đỗ Cao Trí làm Tư lệnh. Ngày 7 tháng 9 cùng năm, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh thay thế Thiếu tướng Linh Quang Viên về Trung ương làm Giám đốc Nha An ninh Quân đội. Ngày 24 tháng 10 cùng năm, bàn giao Sư đoàn 22 lại cho Đại tá Nguyễn Xuân Thịnh, ông chuyển về Quân đoàn II tái nhiệm chức vụ Tham mưu trưởng Quân đoàn.
Tháng 5 năm 1965, ông được thăng cấp Đại tá tại nhiệm. Đến ngày 23 tháng 6 năm 1966, tái nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh thay thế Đại tá Nguyễn Thanh Sằng đi làm Tư lệnh phó Quân đoàn II. Ngày Quốc khánh Đệ Nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1967, ông được thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm. Ngày 11 tháng 8 năm 1969, bàn giao Sư đoàn 22 lại cho Chuẩn tướng Lê Ngọc Triển nguyên Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Quốc gia Quang Trung. Ngay sau đó, thuyên chuyển về Quân khu 3, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh thay thế Thiếu tướng Phạm Quốc Thuần đi làm Chỉ huy trưởng Trường Bộ binh Thủ Đức. Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1970, ông được thăng cấp Thiếu tướng tại nhiệm. Trung tuần tháng 6 năm 1971, bàn giao chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 5 lại cho Đại tá Lê Văn Hưng (nguyên Tư lệnh phó), ông được cử đi làm Tư lệnh phó Quân đoàn I do Trung tướng Hoàng Xuân Lãm làm Tư lệnh Quân đoàn.
Thượng tuần tháng 2 năm 1972, ông được Phó Tổng thống Trần Văn Hương cử giữ chức vụ Thứ trưởng Đặc trách bài trừ tham nhũng. Đây là giai đoạn mà nạn tham nhũng hoành hành trong giới lãnh đạo Quân đội Việt Nam Cộng hòa với những tai tiếng về buôn lậu, ăn cắp quân nhu và tiền viện trợ quân sự. Trên cương vị này, ông đã tiến hành hàng loạt các cuộc điều tra về tham nhũng, mà đặc biệt là cuộc điều tra về vụ tham nhũng trong Quỹ Tiết kiệm Quân đội. Đây là vụ án tham nhũng lớn nhất được ông tiến hành, thực hiện trong 5 tháng và được ông công bố đầy đủ chi tiết và bằng chứng buộc tội trên màn truyền hình toàn quốc ngày 14 tháng 7 năm 1972., buộc hàng loạt sĩ quan, trong đó có 2 tướng lĩnh là Tổng trưởng Quốc phòng, Trung tướng Nguyễn Văn Vỹ, và Trung tướng Lê Văn Kim với 7 Đại tá bị cách chức. Quỹ Tiết kiệm Quân đội bị buộc phải giải tán. Tuy nhiên, chính do những cuộc điều tra tham nhũng của ông đã gây đụng chạm đến quyền lợi của giới lãnh đạo quân sự biến chất, thậm chí ở cấp cao nhất. Sau vụ án Quỹ Tiết kiệm Quân đội, Tổng thống Thiệu đã thu hẹp quyền hạn điều tra tham nhũng của tướng Hiếu ở cấp Quận trưởng, và cần có sự chấp thuận tiên quyết trước khi khởi công điều tra ở cấp Tỉnh trưởng. Điều này khiến ông nản lòng và ông đã xin trở về phục vụ trong quân đội và tuyên bố: "chúng ta phải sửa những sai lầm của chúng ta hoặc Cộng sản sẽ sửa chữa nhưng sai lầm đó cho chúng ta".
Vào tháng 5 năm 1972, Tướng Hiếu đã nói với các viên chức Sứ Quán là chiến dịch chống tham nhũng sẽ không đi tới đâu vì các Bộ trưởng trong Nội các và Thủ tướng không cộng tác với ông.
Ngày 29 tháng 10 năm 1973, thuyên chuyển về Quân đoàn III, ông được cử làm Tư lệnh phó Quân đoàn đặc trách Hành quân. Ngày 2 tháng 4 năm 1975, kiêm Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn III để nhận bàn giao từ Thiếu tướng Phạm Văn Phú (nguyên Tư lệnh Quân đoàn II) phần lãnh thổ 2 tỉnh cuối cùng còn lại của Quân khu 2 là Bình Thuận và Ninh Thuận được sát nhập vào Quân đoàn III, Quân khu 3. 2 ngày sau, ngày 4 tháng 4 bàn giao chức Tư lệnh Tiền phương cho Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, vẫn giữ chức Tư lệnh phó Đặc trách Hành quân.
Bị ám sát
Vào ngày 8 tháng 4 năm 1975, ông bị ám sát bởi cận vệ của Tướng Toàn, Đại úy Đỗ Đức, trong văn phòng riêng tại bản doanh Bộ tư lệnh Quân đoàn III bởi một một viên đạn bắn vào cằm xuyên lên não. Theo tư liệu của C.I.A công bố. Ông mất khi mới có 46 tuổi.
Ngay sau đó, Bộ Tổng tham mưu cử Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi đương nhiệm Chỉ huy trưởng Trường Bộ binh Thủ Đức thay thế vào chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn III kiêm Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn, trách nhiệm bảo vệ phòng tuyến Phan Rang.
Sáng ngày 10 tháng 4 năm 1975, Phó Tổng thống Trần Văn Hương thay mặt Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đến tư thất trong cư xá sĩ quan Chí Hòa để viếng linh cữu và truy thăng cho ông cấp bậc Trung tướng đồng thời truy tặng Bảo quốc Huân chương Đệ tam đẳng kèm Anh dũng Bội tinh với nhành Dương liễu.
Tang lễ của ông được tổ chức trọng thể theo lễ nghi Quân cách. An táng tại Nghĩa trang Quốc gia Biên Hòa (Nghĩa trang Quân đội) cạnh mộ phần cố Đại tướng Đỗ Cao Trí.
Huy chương
Bảo quốc Huân chương đệ tam đẳng
Anh dũng Bội tinh với nhành dương liễu
Nhận định
Báo cáo đánh giá tháng 5 năm 1958 của các cố vấn Mỹ tại Quân khu I:
Đại tá John Hayes, Cố vấn trưởng Mỹ tại Sư đoàn 5 Bộ binh đánh giá ngày 7 tháng 2 năm 1970:
Tờ trình tháng 11 năm 1974 của Sứ Quán Mỹ:
Thái độ đối với giới chức Mỹ
Cách chung tuy tướng Hiếu tỏ vẻ "thân thiện và dễ cộng tác... với các giới chức Mỹ tại Vùng 3 Chiến thuật, ông giữ một khoảng cách và kín đáo.".
Đối với các cố vấn quân sự Mỹ "ông chứng tỏ sẵn sàng tiếp nhận những ý kiến thiết thực. Không thể nhấn mạnh cho đủ ông là một vị tướng dũng mãnh, và ông chỉ đem ra ứng dụng những ý kiến khả dĩ đem tới cải tiến hiệu năng tác chiến cho Sư đoàn". Ông chống đối chính sách Việt Nam hoá chiến tranh của chính phủ Hoa Kỳ và áp lực của giới Cố vấn Mỹ tại Quân đoàn III muốn các đơn vị của Sư đoàn 5 phải hành quân diệt địch khi chưa được huấn luyện chiến đấu hoàn hảo. Ông dám trình bày "quan điểm đối nghịch, phát biểu tự do và công khai" khiến một vài sĩ quan Cố vấn Mỹ lấy làm phật ý và khó chịu, nỗ lực gây áp lực đòi cách chức Tư lệnh Sư đoàn 5. Họ thành công với sự toa rập của tướng Nguyễn Văn Minh, người kế vị tướng Đỗ Cao Trí trong chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III. "Việc cách chức tướng Hiếu, theo như một viên chức Sứ Quán tường trình ngày 17 tháng 6 năm 1971, là một tin động trời, trước hết vì tướng Hiếu nổi danh là một nhân vật liêm chính và vì lòng thương lính mãnh liệt của ông."
Tính cách
Một điểm nổi bật trong cá tính của tướng Hiếu là trực tính. Ông không ngại tỏ thái độ phản đối chống lại giới chức nắm quyền lạm quyền hay sai quấy, thậm chí có những lần ông đã chống lệnh của thượng cấp.
Đối với Tổng thống Diệm:
Đối với tướng Peers, Tư lệnh First Field Force Vietnam:
Đối với Tướng Abrams, Tư lệnh MACV:
Đối với tướng Đỗ Cao Trí, Tư lệnh Quân đoàn III:
Đối với giới chức Cố vấn Mỹ Quân đoàn III:
Đối với tướng Nguyễn Văn Vỹ, Tổng trưởng Bộ Quốc phòng:
Đối với tướng Trần Thiện Khiêm, Thủ tướng:
Đối với tướng Nguyễn Văn Minh:
Đối với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và tướng Đặng Văn Quang:
Những nghi vấn về cái chết
Chiều ngày 8 tháng 4 năm 1975 có tin loan báo ra từ Bộ Tư lệnh Quân đoàn III ở Biên Hòa là ông đã chết ngay tại trong văn phòng làm việc. Giới quân sự nghi ngay tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn III, vì ông Toàn mang tiếng tham nhũng thuộc loại hạng gộc, trong khi đó ông Hiếu rất thanh liêm và hơn nữa, đã từng giữ chức Đặc trách chống tham nhũng thuộc phủ Phó Tổng thống Trần Văn Hương.
Ngày hôm sau, sau khi tham dự buổi họp báo của phát ngôn viên quân sự, thông tấn xã UPI loan tin như sau:
Gia đình
Thân phụ: Cụ Nguyễn Văn Hướng (Quê quán Bắc Ninh. Từng giữ chức Phụ tá Giám đốc Công an Nguyễn Đình Tại ở Hà Nội (1950), Giám đốc Công an Bắc Phần (1953), Phụ tá Tổng Giám đốc Công an Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Lễ ở Sài Gòn (1955).
Thân mẫu: Cụ Nguyễn Thị Nghiêm (Quê quán Hà Đông. Từng là Trợ giáo trường Pháp-Việt tại Thượng Hải).
Phu nhân: Bà Phạm Thị Thu Hường (Quê quán Hà Nội)Ông bà có sáu người con gồm: 3 trai (Dũng, Cảm, Hoàng) và 3 gái (Anh Thư, Thu Hà, Thu Hằng)Tướng Hiếu có một người chị họ là bà Nguyễn Thị Khánh, vợ của ông Trần Đại Nghĩa và một người anh họ là ông Nguyễn Quang Đích, thư ký riêng của Đại tướng Văn Tiến Dũng. Hai người này là con cụ Nguyễn Văn Thường (anh cụ Hướng), bác ruột của ông.
Tối ngày 29 tháng 4 năm 1975, bà quả phụ tướng Hiếu cùng 6 người con được di tản bằng trực thăng ra Hạm đội 7 Hoa Kỳ đậu ở ngoài khơi Vũng Tàu, sau đó sang định cư tại Philadelphia, Pennsylvania, Hoa Kỳ.
Chú thích |
Tầng ứng dụng (tiếng Anh: Application layer) là tầng thứ bảy trong bảy tầng cấp của mô hình OSI. Tầng này giao tiếp trực tiếp với các tiến trình của ứng dụng và thi hành những dịch vụ thông thường của các tiến trình đó; tầng này còn gửi các yêu cầu dịch vụ tới tầng trình diễn (Presentation layer).
Những dịch vụ thông thường của tầng ứng dụng cung cấp sự chuyển đổi về ngữ nghĩa giữa các tiến trình ứng dụng có liên quan. Chú ý: những ví dụ về các dịch vụ của trình ứng dụng thường được quan tâm bao gồm tệp ảo (virtual file), thiết bị cuối ảo (virtual terminal), và các giao thức dành cho việc thao tác và thuyên chuyển các tác vụ (manipulation and transfer of batch processing jobs).
Ví dụ
AppleShare
AIM, AOL Instant Messenger Protocol - Giao thức tin nhắn nhanh AOL
APPC, Advanced Program-to-Program Communication
BitTorrent Dòng xoáy của bit
BOOTP, Bootstrap Protocol - Giao thức tự mồi
CFDP, Coherent File Distribution Protocol - Giao thức phân bổ tập tin chặt chẽ
DCAP, Data Link Switching Client Access Protocol - Giao thức truy cập trình khách chuyển mạch liên kết dữ liệu
DHCP, Dynamic Host Configuration Protocol - Giao thức cấu hình động máy chủ
DNS, Domain Name System - Giao thức (dịch vụ) tên miền
ENRP, Endpoint Handlespace Redundancy Protocol - Giao thức dư xử lý dung lượng điểm cuối
Finger, User Information Protocol - Giao thức thông tin người dùng
FTAM, File Transfer Access and Management - Truy cập truyền tải văn kiện và quản lý
FTP, File Transfer Protocol - Giao thức truyền tải văn kiện
Gopher, Giao thức Gopher
HTTP, S-HTTP, (Secure) HyperText Transfer Protocol - giao thức truyền siêu văn bản (an toàn)
H.323, Packet-Based Multimedia Communications System - hệ thống truyền thông đa phương tiện dùng gói tin
IMAP, IMAP4, Internet Message Access Protocol (version 4) - Giao thức truy cập thông điệp Internet (phiên bản 4)
IRC, Internet Relay Chat Protocol - giao thức trò chuyện trực tuyến trên Internet
iTMS, iTunes Music Store Protocol - Giao thức lưu trữ âm nhạc iTunes
LDAP, Lightweight Directory Access Protocol - Giao thức truy cập thư mục hạng nhẹ
LPD, Line Printer Daemon Protocol - Giao thức dịch vụ nền cho máy in dòng
MIME, S-MIME, Multipurpose Internet Mail Extensions và Secure MIME
Modbus
NAT, Network Address Translation
NIS, Network Information Service - dịch vụ thông tin mạng
NNTP, Network News Transfer Protocol
NTP, Network Time Protocol
PNRP, Peer Name Resolution Protocol
POP, POP3, Post Office Protocol (version 3)
Rlogin, đăng nhập từ xa đối với các hệ thống Unix
RMON, Remote Monitoring MIBs (RMON1 and RMON2)
RTSP, Real Time Streaming Protocol
SAP, Session Announcement Protocol
SDP, Session Description Protocol
SIP, Session Initiation Protocol
SLP, Service Location Protocol
SMB, Server Message Block
SMTP, Simple Mail Transfer Protocol
SNMP Simple Network Management Protocol
SNTP, Simple Network Time Protocol
SOAP, Simple Object Access Protocol
TCAP, Transaction Capabilities Application Part
TELNET, Terminal Emulation Protocol of TCP/IP
TFTP, Trivial File Transfer Protocol - Giao thức truyền tải văn kiện đơn giản
TSP, Time Stamp Protocol
URL, Uniform Resource Location
VTP, Virtual Terminal Protocol
X.400, Message Handling Service Protocol
X.500, Directory Access Protocol (DAP) - Giao thức truy cập thư mục
XMPP, Extensible Messaging and Presence Protocol
Whois (và RWhois), Remote Directory Access Protocol - Giao thức truy nhập thông tin thư mục từ xa |
Tầng trình diễn là tầng thứ sáu trong bảy tầng cấp của mô hình OSI. Tầng này đáp ứng những nhu cầu dịch vụ mà tầng ứng dụng đòi hỏi, đồng thời phát hành những yêu cầu dịch vụ đối với tầng phiên.
Tầng trình diễn chịu trách nhiệm phân phát và định dạng dữ liệu cho tầng ứng dụng, để dữ liệu được tiếp tục xử lý hoặc hiển thị. Tầng này giải phóng tầng ứng dụng khỏi gánh nặng của việc giải quyết các khác biệt về cú pháp trong biểu diễn dữ liệu. Chú ý: Ví dụ, một trong những dịch vụ của tầng trình diễn là dịch vụ chuyển đổi tệp văn bản từ mã EBCDIC sang mã ASCII.
Tầng trình diễn là tầng đầu tiên nơi người dùng bắt đầu quan tâm đến những gì họ gửi, tại một mức độ trừu tượng cao hơn so với việc chỉ coi dữ liệu là một chuỗi gồm toàn các số không và số một. Tầng này giải quyết những vấn đề chẳng hạn như một chuỗi ký tự phải được biểu diễn như thế nào - dùng phương pháp của Visual Basic ("13,thisisastring") hay phương pháp của C/C++ ("thisisastring\0").
Việc mã hoá dữ liệu cũng thường được thực hiện ở tầng này, tuy việc đó có thể được thực hiện ở các tầng ứng dụng, tầng phiên, tầng giao vận, hoặc tầng mạng; mỗi tầng đều có những ưu điểm và nhược điểm. Một ví dụ khác, thông thường, việc biểu diễn cấu trúc được chuẩn hóa tại tầng này và thường được thực hiện bằng cách sử dụng XML. Cũng như các dữ liệu đơn giản, chẳng hạn chuỗi ký tự, các cấu trúc phức tạp hơn cũng được chuẩn hóa ở tầng này. Hai ví dụ thường thấy là các 'đối tượng' (objects) trong lập trình hướng đối tượng, và chính phương pháp truyền tín hiệu video theo dòng (streaming video).
Trong những trình ứng dụng và giao thức được sử dụng rộng rãi, sự tách biệt giữa tầng trình diễn và tầng ứng dụng hầu như không có. Chẳng hạn HTTP (HyperText Transfer Protocol), vốn vẫn được coi là một giao thức ở tầng ứng dụng, có những đặc tính của tầng trình diễn, chẳng hạn như khả năng nhận diện các mã hệ dành cho ký tự để có thể chuyển đổi mã một cách thích hợp. Việc chuyển đổi sau đó được thực hiện ở tầng ứng dụng.
Ví dụ
AFP, AppleTalk Filing Protocol - giao thức tệp Apple
LPP, Lightweight Presentation Protocol - giao thức trình diễn nhẹ
NCP, NetWare Core Protocol - giao thức nhân Netware
NDR, Network Data Representation - biểu diễn dữ liệu mạng
XDR, External Data Representation - biểu diễn dữ liệu ngoại vi
X.25 PAD, Packet Assembler/Disassembler Protocol |
Trang này liệt kê những sự kiện quan trọng vào tháng 3 năm 2006.
Thứ năm, ngày 2 tháng 3
Menzies Campbell được bầu dẫn đầu đảng Dân chủ Tự do ở Vương quốc Anh.
Một nhóm vũ trang, sau này mới biết là cảnh sát Kenya, tấn công tòa soạn nhật báo chính The Standard và đài TV KTN của họ, sau khi họ xuất bản bản tin nói rằng Tổng thống Mwai Kibaki họp bí mật với người đối lập quan trọng Kalonzo Musyoka. BBC
Thứ sáu, ngày 3 tháng 3
Chính phủ Hoa Kỳ phát hành cho Associated Press tên của hơn 300 tù binh đang bị giữ tại Vịnh Guantánamo (Cuba), sau bốn năm đòi hỏi. BBC VNN
Đảng cầm quyền Đại hội Dân tộc Phi (ANC) giành được 66% số phiếu trong cuộc bầu cử địa phương năm 2006 tại Cộng hòa Nam Phi.
Ca sĩ rock người Anh Gary Glitter bị tuyên án 3 năm vì tội lạm dụng với hai bé gái ở Vũng Tàu. Ông được phép trở về Vương quốc Anh cuối năm nay.
Chủ nhật, ngày 5 tháng 3
Cuộc họp 10 ngày của Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc và Chính Hiệp khai mạc tại Bắc Kinh. BBC VNN VOA
Milan Babić, cựu thủ lĩnh của cộng hòa ly khai Krajina Serbi, tự sát trong tù, ông đã bị tuyên án vì tội ác chiến tranh. VOA
Hàng vạn người biểu tình tại Bangkok, Thái Lan và đòi Thủ tướng Thaksin Shinawatra từ chức. VNN VOA
Crash đoạt giải phim hay nhất, Lý An đoạt giải đạo diễn xuất sắc nhất cho phim Brokeback Mountain, Reese Witherspoon đoạt giải nữ diễn viên xuất sắc nhất, và Philip Seymour Hoffman đoạt giải diễn viên xuất sắc nhất trong lễ trao Giải Oscar thứ 78. BBC VNN VOA
Thư ba, ngày 7 tháng 3
Đảng Lao động đạt thêm hơn 500 ghế sau cuộc bầu cử địa phương ở Hà Lan.
Một loạt bom nổ ở Varanasi, thành phố thiêng liêng của Ấn Độ giáo thuộc Uttar Pradesh (Ấn Độ), 15 người bị thiệt mạng.
Thư năm, ngày 9 tháng 3
Tổng Thư ký LHQ Kofi Annan khởi đầu Quỹ Cứu trợ Khẩn cấp Trung ương để hỗ trợ các vùng châu Phi đang bị nạn đói.
Các nhà thiên văn học công bố rằng con tàu thăm dò Cassini đã nhận ra mạch nước phun trên Mặt Trăng Enceladus của Sao Thổ, lần đầu tiên họ tìm thấy nước lỏng ngoài Trái Đất.
Công ty Dubai Ports World của UAE thử giải quyết cuộc tranh cãi về vụ thu mua một số cảng Mỹ bằng cách hứa hẹn là họ sẽ chuyển giao các cảng cho một công ty Mỹ.
Quân đội Hoa Kỳ nói rằng có ý định đóng cửa Nhà tù Abu Ghraib tại Iraq.
Loài chuột núi Lào được nhận ra là một phần của một họ gặm nhấm mà các nhà sinh vật học trước đây tưởng bị biến mất 11 triệu năm trước đây.
Thư sáu, ngày 10 tháng 3
Phi thuyền Mars Reconnaissance Orbiter của NASA tiến vào quỹ đạo Sao Hỏa.
Thư bảy, ngày 11 tháng 3
Cựu Tổng thống Nam Tư Slobodan Milošević qua đời trong nhà tù tại Den Haag, Hà Lan.
Chủ nhật, ngày 12 tháng 3
Venezuela thêm một ngôi sao và đổi quốc huy trên quốc kỳ (cờ mới được minh họa).
Thứ ba, ngày 14 tháng 3
Lee Hae-chan, Thủ tướng Hàn Quốc từ chức sau khi bị chỉ trích vì chơi golf khi ngành đường sắt đình công trên toàn quốc.
Thứ tư, ngày 15 tháng 3
Ukraina đổi chính sách thuế quan đối với hàng hóa qua biên giới của cộng hòa ly khai Transnistria, làm quan hệ giữa hai nước này căng thẳng hơn.
Đại hội đồng Liên Hợp Quốc bỏ phiếu gần nhất trí thành lập một tổ chức nhân quyền mới, tên là Hội đồng Nhân quyền, thay cho Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc hiện nay.
Thi hài của cựu Tổng thống Nam Tư Slobodan Milošević được bay về Serbia để chôn, sau ông qua đời trong nhà tù tại La Hay, Hà Lan.
Thứ bảy, ngày 18 tháng 3
Tòa án Hình sự Quốc tế bắt giữ người đầu tiên là Thomas Lubanga, cựu chủ tịch của Liên minh người Congo yêu nước (UPC). Đây là vụ đầu tiên của tòa này.
Thứ tư, ngày 22 tháng 3
Tổ chức ly khai vũ trang ETA tuyên bố ngừng bắn trong chiến dịch ly khai người Basque từ Tây Ban Nha.
Thứ năm, ngày 23 tháng 3
Ba người Canada bị bắt làm con tin tại Iraq được giải thoát.
Thứ bảy, ngày 25 tháng 3
Nigeria đồng ý đưa ra cựu tổng thống Liberia Charles Taylor để ra tòa vì tội ác chiến tranh tại Sierra Leone.
Chủ nhật, ngày 26 tháng 3
Bầu cử Quốc hội Ukraina
Đại hội Thể thao Khối Thịnh vượng chung Anh 2006 bế mạc tại Melbourne, Úc. Đoàn chủ nhà xếp thứ nhất với 81 huy chương vàng, bỏ xa đoàn xếp thứ 2 (Anh).
Thứ ba, ngày 28 tháng 3
Abdul Rahman, một người cải đạo Kitô giáo đang bị xét xử vì tội bội giáo tại Afghanistan, được phóng thích vì lý do tâm thần.
Người dân Israel bỏ phiếu bầu một quốc hội mới.
Hàng triệu người dân Pháp xuống đường biểu tình phản đối đạo luật lao động mới.
Thứ tư, ngày 29 tháng 3
Đảng Kadima của Ehud Olmert thắng cuộc bầu cử quốc hội Israel.
Cựu tống thống Liberia Charles Taylor bị nhà cầm quyền Nigeria bắt trong lúc tìm cách trốn thoát, đã được đem đến Sierra Leone để ra tòa vì tội ác chiến tranh. |
Trang này liệt kê những sự kiện quan trọng vào tháng 4 năm 2006.
Chủ nhật, ngày 2 tháng 4
Người dân Thái Lan bầu cử quốc hội trong không khí chính trị căng thẳng.
Thứ ba, ngày 4 tháng 4
Thủ tướng Thái Lan Thaksin Shinawatra tuyên bố sẽ từ chức sau nhiều cuộc biểu tình chống đối và đảng ông giành được 61% số phiếu trong cuộc bầu cử quốc hội.
Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam Đào Đình Bình từ chức và Thứ trưởng thường trực Nguyễn Việt Tiến bị khởi tố trong vụ bê bối PMU 18.
Thứ sáu, ngày 7 tháng 4
Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu cắt tất cả các viện trợ trực tiếp cho Palestine sau khi nhóm Hamas thắng cử.
Hội địa lý Quốc gia Hoa Kỳ khánh thành Phúc âm Giu-đa, một văn kiện ngộ đạo tiếng Ai Cập cổ (Coptic) mới được tạo lại mà có thể được viết vào thế kỷ 2.
Chủ nhật, ngày 9 tháng 4
Người dân Ý tham gia cuộc bầu cử Quốc hội.
Cảnh sát dùng hơi cay đẩy lùi hàng trăm người tham gia biểu tình chống vua Gyanendra tại Nepal.
Thứ hai, ngày 10 tháng 4
Hơn một triệu người biểu tình ở ít nhất 140 thành phố khắp nước Hoa Kỳ để chống H.R. 4437, một bán đạo luật để hạn chế nhập cư trái phép từ México vào Hoa Kỳ. Các biểu tình đã bắt đầu từ tháng 2.
Tại Ý, Romano Prodi và liên minh trung tả L′Unione tuyên bố chiến thắng cuộc bầu cử Quốc hội, nhưng liên minh trung hữu Nhà Tự do đứng đầu là Thủ tướng Ý Silvio Berlusconi tranh cãi những kết quả.
Thứ ba, ngày 11 tháng 4
Tại thành phố Mashhad, Tổng thống Iran Mahmoud Ahmadinejad tuyên bố rằng nước ông đã tinh luyện chất urani thành công.
Chính phủ Israel quyết định rằng từ nay Ariel Sharon được coi bị mất hết khả năng cầm quyền, sau khi ông bị cơn đột quỵ.
Thứ tư, ngày 12 tháng 4
Các nhà cổ sinh vật học đào lên xương hóa thạch của loài Australopithecus anamensis tại Trung Awash (Ethiopia) để giúp chứng tỏ một số giai đoạn quan trọng trong con đường tiến hóa của loài người.
Thứ sáu, ngày 14 tháng 4
Hai bom nổ trong nhà thờ Hồi giáo Jama Masjid được xây vào thế kỷ 17 tại Delhi (Ấn Độ), ít nhất 13 người bị thương.
Ehud Olmert tiếp theo Ariel Sharon làm Thủ tướng Israel chính thức, sau khi chính phủ quyết định rằng ông Sharon được coi bị mất hết khả năng cầm quyền sau cơn đột quỵ.
Thứ bảy, ngày 15 tháng 4
Quân đội Tchad đẩy lùi cuộc tấn công của Mặt trận Đoàn kết cho Thay đổi tại thủ đô N'Djamena. Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc chỉ trích cuộc tấn công này. BBC VOA
Tchad buộc tội Sudan ủng hộ âm mưu đảo chính của Mặt trận Đoàn kết cho Thay đổi đã làm 400 người trở lên bị thiệt mạng tại N'Djamena, và họ cắt quan hệ giữa hai nước này.
Thứ ba, ngày 18 tháng 4
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam khai mạc tại Hà Nội.
Thứ ba, ngày 19 tháng 4
Han Myeong-sook trở thành nữ Thủ tướng đầu tiên của Hàn Quốc.
Bầu cử Thượng viện Thái Lan
Tòa án Tối cao Ý công nhận Romano Prodi thắng cử trong cuộc tổng tuyển cử nhưng đối thủ Silvio Berlusconi không chịu thua.
Thứ tư, ngày 20 tháng 4
Chủ tịch nước Trung Quốc Hồ Cẩm Đào công du đến Hoa Kỳ.
Thứ năm, ngày 21 tháng 4
Nữ vương Elizabeth II của Vương quốc Anh và 16 quốc gia thuộc Khối Thịnh vượng chung Anh tổ chức sinh nhật thứ 80 của bà, và công ty BBC tổ chức 80 năm sau được hiến chương hoàng gia đầu tiên.
Thứ sáu, ngày 22 tháng 4
Tổng thống Iraq Jalal Talabani yêu cầu chính khách người Shia Jawad al-Maliki làm thủ tướng và lập chính phủ.
Vua Gyanendra của Nepal kêu gọi đề cử Thủ tướng sau nhiều cuộc biểu tình.
Thứ ba, ngày 25 tháng 4
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam bế mạc tại Hà Nội, ông Nông Đức Mạnh tái đắc cử chức Tổng Bí thư.
Sau nhiều cuộc biểu tình đòi dân chủ tại Nepal, vua Gyanendra bổ nhiệm Girija Prasad Koirala làm Thủ tướng của một chính phủ mới.
Thứ tư, ngày 26 tháng 4
Thủ tướng Quần đảo Solomon Snyder Rini từ chức, tránh bị bất tín nhiệm ở Nghị viện.
Thứ năm, ngày 27 tháng 4
Tháp Tự do bắt đầu được xây dựng tại Thành phố New York, ở cùng chỗ Trung tâm Thương mại Thế giới bị sụp đổ.
Thứ sáu, ngày 28 tháng 4
Chung Mong-koo, chủ tịch Công ty Hyundai Motor, bị cảnh sát bắt ở Hàn Quốc trong cuộc điều tra về biển thủ.
Thứ bảy, ngày 29 tháng 4
Thủ tướng Ý Silvio Berlusconi tuyên bố sẽ từ chức để đối thủ Romano Prodi được lên chức. |
Tầng phiên là tầng thứ năm trong bảy tầng mô hình OSI. Tầng này đáp ứng các yêu cầu dịch vụ của tầng trình diễn và gửi các yêu cầu dịch vụ tới tầng giao vận.
Tầng phiên cung cấp một cơ chế để quản lý hội thoại giữa các tiến trình ứng dụng của người dùng cuối. Tầng này hỗ trợ cả lưỡng truyền (full duplex) và đơn truyền (half-duplex), và thiết lập các quy trình đánh dấu điểm hoàn thành (checkpointing), trì hoãn (adjournment), kết thúc (termination), và khởi động lại (restart).
Thông thường, tầng phiên hoàn toàn không được sử dụng, song có một vài chỗ nó có tác dụng. Ý tưởng là cho phép thông tin trên các dòng (stream) khác nhau, có thể xuất phát từ các nguồn khác nhau, được hội nhập một cách đúng đắn. Cụ thể, tầng này giải quyết những vấn đề về đồng bộ hóa, đảm bảo rằng không ai thấy các phiên bản không nhất quán của dữ liệu, hoặc những tình trạng tương tự.
Một chương trình ứng dụng trực quan rõ ràng là chương trình hội thoại trên mạng (web conferencing). Tại đây, chúng ta cần phải đảm bảo các dòng dữ liệu âm thanh và hình ảnh khớp nhau, hay nói cách khác, chúng ta không muốn gặp vấn đề lipsync (sự không đồng bộ giữa hình ảnh người nói và âm thanh được nghe thấy). Chúng ta cũng còn muốn "điều khiển sàn" (floor control), ví dụ như việc đảm bảo hình ảnh được xuất hiện trên màn ảnh và lời nói được tiếp âm là của người phát biểu, hoặc được chọn theo một tiêu chí nào đó khác.
Một ứng dụng lớn khác nữa là trong các chương trình truyền hình trực tiếp, trong đó các dòng âm thanh và hình ảnh, phải được hòa nhập với nhau một cách liền mạch, sao cho ta không có đến một nửa giây không phát hình hay nửa giây mà hai hình được phát đồng thời.
Tóm lại: tầng phiên thiết lập, quản lý, và ngắt mạch (phiên) kết nối giữa các chương trình ứng dụng đang cộng tác với nhau. Nó còn bổ sung thông tin về luồng giao thông dữ liệu (traffic flow information).
Các ví dụ
ADSP, AppleTalk Data Stream Protocol
ASP, AppleTalk Session Protocol
H.245, Call Control Protocol for Multimedia Communication
iSNS, Internet Storage Name Service
L2F, Laer 2 Forwarding Protocol
L2TP, Layer 2 Tunneling Protocol
NetBIOS, Network Basic Input Output System
PAP, Printer Access Protocol
PPTP, Point-to-Point Tunneling Protocol
RPC, Remote Procedure Call Protocol
RTP, Real-time Transport Protocol
RTCP, Real-time Transport Control Protocol
SMPP, Short Message Peer-to-Peer
SCP, Secure Copy Protocol
SSH, Secure Shell
ZIP, Zone Information Protocol |
Arjen Robben (; sinh ngày 23 tháng 1 năm 1984) là cựu cầu thủ bóng đá người Hà Lan thi đấu ở vị trí tiền đạo cánh.
Robben nổi lên từ câu lạc bộ Groningen từ mùa giải 2000-2001 tại giải vô địch Hà Lan. 2 năm sau, anh ký hợp đồng với PSV, CLB mà ở đó anh đã giành được chức vô địch Hà Lan và được trao Giải thưởng Johan Cruyff . Một số câu lạc bộ hàng đầu ở giải Ngoại hạng Anh đã theo đuổi để giành lấy chữ ký của Robben. Tuy nhiên, sau khi kết thúc mùa giải 2004, câu lạc bộ Chelsea mới có được chữ ký chính thức của cầu thủ chạy cánh người Hà Lan.
Sự khởi đầu của Robben tại Chelsea không được thuận lợi khi anh liên tục dính chấn thương, nhưng sau khi trở lại Robben đã góp phần không nhỏ vào chức vô địch giải ngoại hạng của Chelsea. Mùa giải 2004-05, anh cũng nhận được danh hiệu cầu thủ hay nhất tháng 11 năm 2005.
3 mùa giải ở Anh, mặc dù thi đấu khá ấn tượng mỗi lần ra sân nhưng anh liên tục bị hành hạ bởi những chấn thương, biệt danh "Đôi chân pha lê" cũng đã gắn liền với tên tuổi Robben.
Bắt đầu mùa giải 2007-2008, Robben chuyển sang thi đấu cho Real Madrid với hợp đồng trị giá 35 triệu Euro. Trong mùa giải đầu tiên khoác áo Real, Robben đã giành chức vô địch Tây Ban Nha, và cũng là chức vô địch quốc gia thứ 4 anh giành được trong 6 năm thi đấu.
Tháng 8 năm 2009, Robben chuyển tới Bayern Munich với giá 25 triệu Euro và ngay trong ngày ra mắt câu lạc bộ mới anh đã ghi 2 bàn thắng đẹp mắt vào lưới Wolfsburg.Trong mùa giải đầu tiên của anh ở CLB, Bayern đã giành được chức vô địch Bundesliga, đây cũng là chức vô địch quốc gia thứ năm của anh trong 8 năm, và lọt vào đến trận chung kết UEFA Champions League 2010. sau mùa giải đầu tiên của mình với CLB vùng Bavarian, Robben còn được trao danh hiệu cầu thủ bóng đá xuất sắc nhất năm tại Đức. Ngày 4 tháng 7 năm 2019, Arjen Robben chính thức giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế sau 20 năm thi đấu chuyên nghiệp. Tuy nhiên năm 2020, anh đã bất ngờ quay trở lại sân cỏ để thi đấu cho Groningen.
Khởi đầu sự nghiệp
Sinh tại thị trấn Bedum thuộc tỉnh Groningen, Hà Lan, Robben chơi bóng từ khi còn rất nhỏ. Anh đã chơi cho câu lạc bộ ở địa phương VV Bedum. Với khả năng điều khiển bóng và kỹ thuật dắt bóng thiên bẩm của mình, Robben đã lọt vào mắt xanh của các huấn luyện viên câu lạc bộ Groningen. Ngay sau đó anh nhanh chóng ký hợp đồng chuyên nghiệp với CLB Groningen.
Sự nghiệp cấp câu lạc bộ
Groningen
CLB Groningen là nơi Robben gia nhập trong mùa giải 1999-2000. Anh đã ghi 2 bàn trong giải vô địch quốc gia cùng năm đó. Huấn luyện viên Jan van Dijk đã điền tên cầu thủ chạy cánh Robben vào đội hình một của Groningen vào tháng 11 năm 2000 trong trận tiếp Twente. Sau mùa đông năm đó, Robben đã giành được vị trí chính thức trong màu áo Groningen. Trong 19 lần ra sân năm 2000-2001, anh đã ghi được 2 bàn thắng. Robben ở CLB Groningen trong suốt mùa tiếp theo, anh đã chơi 28 trận và ghi được 6 bàn cho Groningen trong mùa 2001-2002. Robben chuyển tới PSV với hợp đồng 3.9 triệu Euro đầu mùa 2002-2003.
PSV
Mùa đầu tiên tại PSV, Robben chơi 33 trận và ghi được 12 bàn thắng. Anh xuất sắc giành được danh hiệu cầu thủ PSV của năm cùng với tiền đạo Mateja Kezman, người cùng với anh tạo thành một cặp đôi ăn ý và được các fan hâm mộ của PSV đặt tên là "Batman và Robben". Anh đã giúp PSV giành chức vô địch lần thứ 17, giành được giải cầu thủ triển vọng của Hà Lan cùng năm đó. Tại Luân Đôn, khi PSV gặp Manchester United, huấn luyện viên Alex Ferguson đã nhận thấy tài năng của Robben và liên hệ với PSV. Chủ tịch của PSV Harry van Raaij đã nói với Manchester cái giá 7 triệu Euro nếu muốn mang Robben về sân Old Trafford. Ngay sau đó, chủ tịch sở hữu CLB Chelsea Roman Abramovich đã trả tới 18 triệu Euro cho chữ ký của cầu thủ chạy cánh người Hà Lan và PSV đã đồng ý thương vụ này.
Chelsea
Robben đã không có màn ra mắt cho Chelsea tới tháng 11 năm 2004, anh đã bị gãy xương bàn chân khi va chạm với Olivier Dacourt trong một trận giao hữu trước khi bước vào mùa bóng với Roma.
Ngay sau đó Robben đã chứng minh tầm quan trọng của mình trong suốt mùa giải 2004-05 tại Chelsea, ngay khi trở lại sau chấn thương, anh đã giành danh hiệu cầu thủ hay nhất tháng 11 năm 2004 tại giải ngoại hạng . Robben đã kết thúc mùa giải 2004-05 với 7 bàn thắng. Cùng năm đó anh đã lọt vào danh sách đề cử những cầu thủ trẻ hay nhất trong năm, tuy nhiên Wayne Rooney của Manchester United đã đánh bại Robben để giành giải thưởng cao quý này. Sang mùa giải 2005-06, Robben trở thành một phần không thể thiếu ở cánh trái của Chelsea. Trong 28 trận ra sân, Robben ghi 6 bàn và đóng góp công vào chức vô địch lần thứ 2 liên tiếp của Chelsea dưới thời huấn luyện viên Mourinho.
CLB Real Madrid dưới thời huấn luyện viên Bern Schuster và chủ tịch Ramon Calderon tỏ ra rất quan tâm tới cầu thủ chạy cánh người Hà Lan.
Real Madrid đã có được sự phục vụ của Robben vào tháng 8 năm 2007 . Anh đã nói trên website chính thức của CLB Chelsea: "Thật khó để rời bỏ nơi này bởi tôi đã có một khoảng thời gian 3 năm tuyệt vời tại đây, và tôi cũng có rất nhiều những người bạn. Tôi không có thời gian để nói hết những lời chia tay bởi hợp đồng sẽ hết hạn vào 10 giờ tối và buổi sáng tôi phải bay ngay. Nhưng nếu tôi có 1 ngày, tôi muốn quay trở lại và nói tạm biệt tới người hâm mộ bởi tôi còn nợ họ một lời cảm ơn, mọi người luôn tốt với tôi. Trong 3 năm ở đây tôi đã giành được mọi danh hiệu của nước Anh."
Real Madrid
Robben hoàn thành hợp đồng chuyển tới Madrid trong 5 năm vào ngày 22 tháng 8 năm 2007 với giá trị 24 triệu bảng Anh (35 triệu Euro). Màn ra mắt của anh vào ngày 18 tháng 9 trong trận tiếp Werder Bremen tại UEFA Champions League. Robben đã trở thành mắt xích quan trọng trong đội hình của Real, với những bước chạy thần tốc bên cánh trái, rất nhanh Robben đã chiếm được vị trí chính thức bên trái hàng tiền vệ.
Mặc dù tiền vệ người Hà Lan đã chứng minh được giá trị của mình nhưng khi chuẩn bị vào mùa giải 2009-10, anh đã không thể cạnh tranh được với bản hợp đồng bom tấn của Real là Kaká mới chuyển về từ AC Milan. Real đã đồng ý với lời đề nghị 25 triệu Euro của Bayern Munich. Robben khẳng định rằng anh không muốn ra đi nhưng CLB muốn bán anh
Bayern Munich
Ngày 28 tháng 8 năm 2009, Robben chuyển tới Bayern với giá 25 triệu Euro. Anh khoác áo số 10, chiếc áo của một cầu thủ Hà Lan khác đã từng mặc là Roy Makaay. Màn ra mắt của anh ngay vào ngày hôm sau. Anh vào sân ở hiệp 2 trong trận gặp VfL Wolfsburg và ngay lập tức ghi 2 bàn thắng giúp Bayern đánh bại các nhà vô địch của mùa giải trước . Ngày 9 tháng 3 năm 2010, Robben ghi bàn thắng quyết định trong trận Bayern thua 2-3 (chung cuộc hòa 4-4) trước Fiorentina, điền tên Bayern Munich vào 8 đội mạnh nhất.
Ngày 7 tháng 4 năm 2010, Arjen Robben đã ghi một bàn thắng tuyệt đẹp vào lưới Manchester United bằng cú vô lê từ pha đá phạt góc của Ribéry. Trận đấu kết thúc với tỉ số 3-2 (chung cuộc 4-4) và Manchester United bị loại bởi luật bàn thắng sân khách , Bayern tiếp tục tiến vào vòng bán kết Champions League.
Ngày 17 tháng 4 năm 2010, Robben lập cú hat-trick đầu tiên của anh ở Bundesliga trong trận gặp Hannover 96 tại Allianz Arena. Trận đấu kết thúc với tỉ số 7–0 cho Bayern. vào ngày 8 tháng 5 năm 2010, Anh giành được chức vô địch Bundesliga đầu tiên với Bayern Munich sau khi ghi 2 bàn trong chiến thắng 3–1 trước Hertha BSC Berlin, đồng thời cũng là vua phá lưới của Bayern.
Một tuần sau, Bayern Munich thi đấu trong trận chung kết Cúp bóng đá Đức gặp Werder Bremen, tại Sân vận động Olympic-Berlin. Bayern Munich đã giành chiến thắng 4–0 và Arjen Robben đã ghi bàn mở tỉ số từ chấm phạt đền qua đó đã giúp Bayern có được danh hiệu DFB-Pokal thứ 15 của họ.
Ngày 25 tháng 5 năm 2010 Robben được trao giải thưởng cầu thủ của năm tại Đức cho năm 2010. Anh giành chiến thắng với số phiếu bầu kỉ lục 72.1% và là người Hà Lan đầu tiên được nhận giải thưởng này.
Trong Mùa giải 2010–11, sau khi các xét nghiệm y tế xác nhận rằng gân kheo của anh đã không được chữa trị đúng cách, Robben phải nghỉ thi đấu trong 2 tháng. Chủ tịch Bayern Karl-Heinz Rummenigge tuyên bố rằng "Tất nhiên, Bayern Munich đang rất tức giận","Thêm một lần nữa CLB chúng tôi lại phải thanh toán chi phí điều trị cho cầu thủ sau khi cậu ấy gặp chấn thương nghiêm trọng khi thi đấu cho đội tuyển quốc gia" ngày 15 tháng 1 năm 2011, anh quay trở lại sau chấn thương vào sân thay người trong trận hòa 1–1 gặp VfL Wolfsburg.
Robben được đề cử cho giải thưởng "Tiền vệ xuất sắc nhất UEFA Champions League", nhưng không giành được giải. Anh cũng được đề cử cho giải thưởng Quả bóng vàng châu Âu danh tiếng và giải FIFA Puskás, là giải thưởng dành cho tác giả của bàn thắng đẹp nhất trong năm và được đề cử vào đội hình "FIFPro World XI 2010" của FIFA nhờ vào mùa giải thành công với Bayern Munich.
Mùa giải 2012-2013, Robben cùng với Bayern München giành cú ăn 3 (vô địch Bundesliga, Cúp quốc gia Đức và UEFA Champions League) trong đó chính Robben là người ghi bàn thắng quyết định trong trận chung kết UEFA Champions League giúp Bayern thắng Borussia Dortmund 2-1.
Ngày 19/5/2019, sau khi giúp Bayern München vô địch Bundesliga lần thứ 7 liên tiếp, Robben chính thức chia tay đội bóng.
Groningen
Ngày 27/6/2020, sau hơn một năm nghỉ thi đấu, Robben bất ngờ thông báo sẽ quay trở lại khoác áo câu lạc bộ Groningen. Anh sẽ bắt đầu thi đấu trở lại từ mùa 2020/2021.
Vào ngày 15 tháng 7 năm 2021, Robben tuyên bố từ giã sự nghiệp bóng đá chuyên nghiệp.
Sự nghiệp quốc tế
Euro 2004
Robben đã chơi 42 trận cho tuyển quốc gia Hà Lan, ghi được 11 bàn. Trận đấu đầu tiên trong màu áo tuyển quốc gia ở Euro 2004, khi huấn luyện viên Dick Advocaat gọi các cầu thủ trẻ như Wesley Sneijder và John Heitinga.
World Cup 2006
Robben chơi kì World Cup đầu tiên vào năm 2006. Trong 6 trận, anh đã ghi 2 bàn . Ngay trận đầu tiên gặp Serbia và Montenegro, Robben đã ghi bàn vào phút thứ 18, anh cũng được trao giải cầu thủ hay nhất trận đấu. Trong trận gặp Bờ Biển Ngà, Robben tiếp tục nhận được danh hiệu này lần thứ 2 và do đó trở thành một trong 8 cầu thủ tại World Cup giành được giải cầu thủ hay nhất trận hơn 1 lần.
Euro 2008
Tại Euro 2008, huấn luyện viên Marco van Basten, chuyển sang đội hình 4-2-3-1 với hàng tiền vệ gồm Rafael van der Vaart, Wesley Sneijder và Dirk Kuyt. Trong trận vòng bảng gặp Pháp, Hà Lan giành chiến thắng 4-1, Robben được thay vào hiệp 2, anh cướp bóng từ chân hậu vệ đối phương gần giữa sân và đi bóng qua 3 hậu vệ tạt bóng cho Robin van Persie sút tung lưới Grégory Coupet.
World Cup 2010
Tại World Cup 2010, Robben là một mắt xích quan trọng trong đội hình Hà Lan, anh đã chơi rất hay và góp công lớn đưa Hà Lan vào tới trận chung kết sau khi vượt qua Uruguay trong trận bán kết. Tại trận chung kết, đội tuyển Hà Lan bị đánh bại bởi đội tuyển Tây Ban Nha.
Robben cũng nổi tiếng với tình huống ăn vạ, cuốn tròn người trông như một quả bóng trong trận gặp Brasil.
World Cup 2014
Tại World Cup 2014, Robben cũng là một cầu thủ quan trọng trong đội hình đội tuyển Hà Lan, dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên Louis van Gaal. Trong trận mở màn gặp đội tuyển Tây Ban Nha anh đã ghi 2 bàn ở phút 53 và 80 giúp đội tuyển Hà Lan đánh bại đội tuyển Tây Ban Nha với tỷ số 5-1 trả thù cho kỳ World Cup 2010 mà Tây Ban Nha đánh bại họ với tỷ số 1-0. Trong trận gặp Úc anh đã có 1 cú ghi bàn đẹp mắt ở phút 20 giúp đội tuyển Hà Lan đánh bại đối thủ tỷ số 3-2. Mặc dù từ vòng 1/8 trở đi anh không ghi thêm bàn thắng nào, song anh cũng giúp Hà Lan tranh tới hạng 3 của kỳ World Cup 2014.
cút
Ngày 16 tháng 11 năm 2014, Robben lập cú đúp trong trận Hà Lan thắng Latvia với tỉ số 6–0 ở lượt trận thứ năm của vòng loại Euro 2016. Tuy nhiên Hà Lan không thể góp mặt tại Pháp vào mùa hè năm 2016 do chỉ xếp thứ tư chung cuộc với 13 điểm, 4 trận thắng, 1 trận hòa và 5 trận thua.
Sau khi đội tuyển Hà Lan dừng bước ở vòng loại World Cup 2018, Arjen Robben chính thức chia tay đội tuyển quốc gia sau 14 năm gắn bó, tổng cộng anh đã thi đấu 96 trận và ghi được 37 bàn thắng.
Thống kê sự nghiệp
Bàn thắng quốc tế
Câu lạc bộ
Đội tuyển quốc gia
|-
|2003||3||1
|-
|2004||8||2
|-
|2005||6||3
|-
|2006||10||2
|-
|2007||4||0
|-
|2008||6||2
|-
|2009||8||1
|-
|2010||7||4
|-
|2011||1||0
|-
|2012||10||2
|-
|2013||10||5
|-
|2014||13||6
|-
|2015||1||2
|-
|2016||1||1
|-
|2017||7||5
|-
!Tổng cộng||96||37
|}
Cuộc sống riêng
Robben cưới bạn gái Bernadien Elillert vào ngày 9 tháng 6 năm 2007 tại Gronnigen. Hai người gặp nhau từ hồi học phổ thông . Họ có một đứa con trai, Luka, sinh năm 2008 và một cô con gái Lynn năm 2010. Cha của Robben, Hans, cũng đồng thời là người đại diện của anh.
Robben có thể nói trôi chảy tiếng Hà Lan, Đức, Anh và Tây Ban Nha
Danh hiệu
Câu lạc bộ
PSV
Eredivisie (1): 2002–03
Cúp Johan Cruijff (1): 2003
Peace Cup (1): 2003
Chelsea
Premier League (2): 2004–05, 2005–06
Cúp FA (1): 2007
Cúp Liên đoàn (2): 2005, 2007
Siêu cúp Anh (1): 2005
Real Madrid
La Liga (1): 2007–08
Siêu cúp Tây Ban Nha (1): 2008
Bayern Munich
Bundesliga (8): 2009–10, 2012–13, 2013–14, 2014–15, 2015–16, 2016–17, 2017–18, 2018–19
DFB-Pokal (1): 2010, 2013
DFB-Supercup (1): 2010–11
UEFA Champions League (1): 2012–13
FIFA Club World Cup (1): 2013
UEFA Super Cup (1): 2013
Hà Lan
FIFA World Cup (1): 2010 (Á quân)
FIFA World Cup (1): 2014 (Hạng 3)
Cá nhân
Cầu thủ trẻ Hà Lan xuất sắc nhất năm (1): 2003
Premier League Bàn thắng đẹp của tháng (1): tháng 12 năm 2005
Bàn thắng đẹp của tháng ở Đức (3): tháng 1 năm 2010, tháng 3 năm 2010, tháng 4 năm 2010
Cầu thủ U-21 của năm (UEFA): 2005
Premier League Đội hình của năm (1): 2005
Premier League Cầu thủ xuất sắc nhất tháng (1): tháng 11 năm 2004
Der Kicker Player Of The Year (1): 2010
Cầu thủ xuất sắc nhất năm (Đức) (1): 2010
Chú thích |
José Mário dos Santos Mourinho Félix () (sinh ngày 26 tháng 1 năm 1963) là một cựu cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá người Bồ Đào Nha. Ông hiện đang là HLV trưởng của AS Roma.
Mourinho được công nhận là một trong những huấn luyện viên bóng đá xuất sắc nhất thế giới hiện nay với triết lý bóng đá thực dụng hiện đại kết hợp với các yếu tố ngoài sân cỏ như tâm lý chiến vô cùng sắc sảo và thông minh. Ông còn được gọi là "Người Đặc biệt", biệt danh ông tự đặt cho bản thân khi lần đầu đến nước Anh huấn luyện cho Chelsea mà sau này được giới truyền thông Anh sử dụng rộng rãi.
Mourinho nổi tiếng với cá tính mạnh mẽ, khác biệt như hay nói thẳng, sẵn sàng chỉ trích đối thủ và giới truyền thông, cũng như tự đề cao bản thân. Có nhiều người chỉ trích ông vì những tích cách đó nhưng xét về mặt thực tế, những tính cách có phần "ngông" của Mourinho đã giúp ông chiến thắng đối thủ về mặt tâm lý và góp phần gián tiếp vào những chiến thắng của Mourinho trên sân cỏ. Ông từng thành công khi dẫn dắt các câu lạc bộ bóng đá như Porto, Chelsea và Inter Milan.
Ông là con trai của thủ môn người Bồ Đào Nha José Mourinho Félix, Mourinho bắt đầu sự nghiệp bóng đá với tư cách là một cầu thủ nhưng sau đó chuyển sang công tác huấn luyện do thiếu kỹ năng chơi bóng. Sau thời gian làm việc trong vai trò một trợ lý và một huấn luyện viên đội trẻ trong thập niên 1990, ông trở thành thông dịch viên cho Sir Bobby Robson. Ở đó, Mourinho đã học được nhiều điều từ huấn luyện viên kỳ cựu này và làm việc với ông ta tại Sporting Lisbon và FC Porto ở Bồ Đào Nha, trước khi theo ông này đến Barcelona, Tây Ban Nha.
Ông bắt đầu tập trung vào huấn luyện và gây ấn tượng với thời gian huấn luyện ngắn nhưng thành công tại Benfica và União de Leiria. Ông trở về Porto năm 2002, với chức danh là huấn luyện viên trưởng, và sớm đưa đội bóng này trở thành một thế lực đáng chú ý với các danh hiệu Vô địch quốc gia Bồ Đào Nha, Cúp quốc gia Bồ Đào Nha và UEFA Cup vào năm 2003. Thành công lớn hơn đến vào năm 2004 khi Mourinho dẫn dắt đội bảo vệ chức vô địch quốc gia Bồ Đào Nha và giành được danh hiệu cao quý nhất ở cấp câu lạc bộ là UEFA Champions League.
Mourinho chuyển đến Chelsea ngay sau đó và giành được hai danh hiệu Vô địch quốc gia Anh Premier League liên tiếp trong các năm 2005 và 2006, cùng với các danh hiệu quốc nội khác. Ông thường dấy lên các cuộc tranh cãi vì tính hay nói thẳng của mình, tuy nhiên những chiến thắng của ông tại Chelsea và Porto tiếp tục khẳng định ông là một trong những huấn luyện viên bóng đá hàng đầu thế giới, điều đó được thừa nhận bởi đồng nghiệp của ông và giới báo chí. Thêm vào đó, ông được vinh danh là huấn luyện viên bóng đá xuất sắc nhất thế giới do Liên đoàn quốc tế về Lịch sử và Thống kê bóng đá (IFFHS) trong các năm 2004-2005 và 2005-2006.
Sau những bất đồng với hệ thống lãnh đạo của Chelsea, ông chuyển tới Ý huấn luyện CLB Inter Milan ở giải vô địch quốc gia Serie A, ký hợp đồng ba năm với Inter vào giữa năm 2008. Chỉ trong ba tháng, ông đã giành được danh hiệu Ý đầu tiên của mình, Siêu cúp Italia, và hoàn thành mùa giải đầu tiên tại Ý với chức vô địch quốc gia. Mùa giải sau đó, ông giành được "cú ăn ba đầu tiên" trong lịch sử Ý, Vô địch Serie A, Coppa Italia và UEFA Champions League, trở thành huấn luyện viên thứ ba trong lịch sử bóng đá giành hai danh hiệu UEFA Champions League với hai câu lạc bộ khác nhau, sau Ernst Happel và Ottmar Hitzfeld. Ông nhận giải huấn luyện viên xuất sắc nhất thế giới của FIFA năm 2010.
Tháng 5 năm 2010, ông chuyển sang làm huấn luyện viên cho Real Madrid. Ngay mùa giải đầu tiên ông giành chức vô địch Copa del Rey. Mùa thứ hai ông chiến thắng ở La Liga và trở thành người thứ tư sau Tomislav Ivić, Ernst Happel, và Giovanni Trapattoni giành được danh hiệu vô địch Bồ Đào Nha, Anh, Italy, Tây Ban Nha.
Sau khi rời khỏi Real Madrid tháng 6 năm 2013, Mourinho trở lại Anh để làm huấn luyện viên Chelsea lần thứ 2. Mùa giải 2014-2015, Chelsea đã giành chức vô địch giải Ngoại hạng Anh. Tuy nhiên, sau khi không đạt được kết quả tốt ở Ngoại hạng Anh mùa bóng 2015-16, Mourinho bị Chelsea sa thải ngày 17 tháng 12 năm 2015.
Cuối tháng 5 năm 2016, Mourinho được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng Manchester United. Sau hai năm rưỡi, ông bị sa thải vào ngày 18 tháng 12 năm 2018. Năm 2019, ông ký hợp đồng dẫn dắt câu lạc bộ Tottenham Hotspur và bị sa thải vào ngày 19 tháng 4 năm 2021 sau 17 tháng dẫn dắt câu lạc bộ.
Sau khi rời khỏi Tottenham, Mourinho chuyển sang Italia để dẫn dắt AS Roma với tham vọng đưa AS Roma thành một thế lực mới của bóng đá Ý. Mourinho cũng đã có sự khởi đầu như mơ và chiến thắng trong trận đấu thứ 1000 của mình với AS Roma.
Thân thế
José Mário dos Santos Félix Mourinho sinh năm 1963 trong một gia đình trung lưu ở thành phố Setúbal, con trai của Mourinho Félix và Maria Julia Mourinho. Cha ông chơi bóng đá chuyên nghiệp cho Belenenses và Vitoria de Setubal, khoác áo đội tuyển Bồ Đào Nha một lần trong sự nghiệp của mình. Mẹ của ông là giáo viên trường tiểu học xuất thân từ một gia đình khá giả; người chú của cô tài trợ xây dựng sân vận động bóng đá Vitória de Setubal. Tuy nhiên, sự sụp đổ của chế độ António de Oliveira Salazar của Estado Novo trong tháng 4 năm 1974 đã dẫn đến việc gia đình của bà mất đi tất cả ngoại trừ một tài sản ở vùng Palmela.
Mourinho là một đứa trẻ hòa đồng và đầy tính cạnh tranh và mẹ của ông khuyến khích ông thành công bằng chính nỗ lực của mình. Bóng đá là một phần quan trọng trong cuộc đời của ông và cha của ông từng rất ấn tượng với kiến thức của ông về bóng đá. Gắn với sự nghiệp bóng đá ở Porto và Lisbon, Félix thường xuyên phải xa con trai mình. Tuy nhiên, Mourinho cố gắng để dành thời gian với bố và ngay khi còn là một thiếu niên; ông đi bằng bất kỳ phương tiện có thể để xem các trận đấu bóng đá vào cuối tuần. Vào thời gian này, cha ông đã chuyển sang công tác huấn luyện và José Mourinho trở thành một học viên bóng đá, quan sát các buổi tập và thăm dò các đội bóng đối thủ.
Mourinho muốn theo bước của cha mình bằng cách trở thành một cầu thủ bóng đá và ông gia nhập đội trẻ của Belenenses. Tốt nghiệp loại ưu, ông chơi ở Rio Ave (nơi cha của ông là huấn luyện viên), Belenenses và Sesimbra, nhưng thực tế rằng ông không thể trở thành cầu thủ chuyên nghiệp do thiếu tốc độ và sức mạnh cần thiết. Nhận ra các điểm yếu của mình, ông đã chọn để theo đuổi ước mơ trở thành một huấn luyện viên bóng đá chuyên nghiệp. Mẹ ông có những suy nghĩ khác và ghi danh ông trong một trường kinh tế. Mourinho đi học ở đó nhưng đã bỏ học ngay sau ngày đầu tiên, ông quyết định tập trung vào thể thao, và đã chọn để học ở Instituto de Educação Física Superior (ISEF), Đại học Kỹ thuật Lisbon, nghiên cứu khoa học thể thao. Ông dạy giáo dục thể chất tại nhiều trường khác nhau sau năm năm, đạt được bằng tốt nghiệp, luôn được điểm cao trong suốt khóa học. Sau khi tham dự các khóa đào tạo huấn luyện được tổ chức bởi Liên đoàn bóng đá Anh và Scotland, cựu huấn luyện viên Andy Roxburgh đã chú ý đến nỗ lực và sự tập trung vào chi tiết của chàng trai trẻ người Bồ Đào Nha. Mourinho đã tìm cách xác định lại vai trò của huấn luyện viên trong bóng đá bằng cách pha trộn lý thuyết huấn luyện với các kỹ năng vận động viên và kỹ thuật tâm lý.
Sự nghiệp huấn luyện viên
Bước khởi đầu
Sau khi từ bỏ công việc giáo viên thể dục, Mourinho muốn trở thành huấn luyện viên chuyên nghiệp tại quê nhà và trở thành huấn luyện viên đội trẻ tại Vitoria de Setubal trong những năm 1990, tiếp đó là với cương vị chuyên viên thể lực tại Estrela da Amadora, sau đó trinh sát viên tại Ovarense. Mourinho khát khao những thách thức lớn hơn nữa và cơ hội đã đến năm 1992 khi ông được làm thông dịch viên cho một huấn luyện viên nước ngoài hàng đầu. Bobby Robson được bổ nhiệm làm huấn luyện viên của Sporting Lisbon và ông cần một huấn luyện viên địa phương thông thạo tiếng Anh làm thông dịch viên. Trong vai trò là thông dịch viên, Mourinho bắt đầu có những thảo luận về chiến thuật và công tác huấn luyện với Bobby Robson. Robson bị Sporting Lisbon sa thải vào tháng 12 năm 1993 nhưng lại được đối thủ của đội bóng Bồ Đào Nha là FC Porto bổ nhiệm ông làm huấn luyện viên trưởng và Mourinho tiếp tục công tác huấn luyện và thông dịch cho các cầu thủ tại câu lạc bộ mới. Với đội hình gồm những cầu thủ như Ljubinko Drulovic, Domingos Paciencia, Rui Barros, Jorge Costa và Vitor Baia, Porto đã thống trị bóng đá Bồ Đào Nha những năm sau đó. Với Bobby và Mourinho, Porto đã đi đến bán kết Champion League năm 1993-1994, vô địch Portuguese Cup năm 1994, Portuguese Championship mùa 1994–95 và 1995–96, Siêu Cup Bồ Đào Nha năm 1994, 1995 and 1996. Kế thừa những gì mà Bobby và Mourinho để lại, Porto đã giành được 3 chức vô địch liên tiếp những năm sau đó.
Sau hai năm ở Porto, bộ đôi này chuyển sang F.C. Barcelona vào năm 1996, Mourinho tiếp tục thể hiện khả năng ngôn ngữ của mình học tập tiếng Catalan cho những thách thức mới. Ông chuyển đến Barcelona và dần trở thành một nhân vật nổi bật trong đội ngũ nhân viên của Barcelona với việc thông dịch tại các buổi họp báo, lập kế hoạch các buổi tập luyện và giúp đỡ các cầu thủ thông qua tư vấn và phân tích chiến thuật của đối phương. Sự hợp tác này đã đạt được kết quả khi Barcelona kết thúc mùa giải với chức vô địch Cúp C2. Robson chuyển sang câu lạc bộ khác vào mùa giải sau đó, nhưng lần này Mourinho đã không đi theo vì Chủ tịch Josep Lluis Nunez của Barcelona rất ấn tượng với phẩm chất đặc biệt và trình độ ngoại ngữ của ông nên đã giữ lại làm trợ lý huấn luyện viên. Cả hai vẫn là bạn bè tốt, Mourinho sau đó nói về Robson:
Ông bắt đầu làm việc với người kế nhiệm của Robson, Louis van Gaal, và ông đã học được nhiều từ phong cách "Hoa tulip thép": sự quyết đoán khi bố trí những chiến thuật linh hoạt, cùng với đó là cách dùng người đầy tính bất ngờ. Vị trợ lý và huấn luyện viên trưởng kết hợp phương pháp của họ trong các trận đấu và Barcelona giành La Liga hai lần trong hai năm đầu làm huấn luyện viên của Van Gaal. Van Gaal thấy rằng số hai của mình có thực lực tốt hơn nhiều cho một vị trí trợ lý chuyên môn. Ông cho Mourinho phát triển riêng của phong cách huấn luyện của mình và giao cho ông nhiệm vụ huấn luyện FC Barcelona B. Van Gaal cũng cho Mourinho tiếp phụ trách các đội bóng đầu tiên (làm trợ lý của Mourinho tự) cho danh hiệu nhất định, như Copa Catalunya mà Mourinho giành được trong năm 2000.
Benfica và União de Leiria
Cơ hội để trở thành huấn luyện viên trưởng đã đến vào tháng 9 năm 2000 tại Benfica để thay thế Jupp Heynckes sau vòng thứ tư Primeira Liga. BLĐ Benfica muốn chỉ định Jesualdo Ferreira trong vài trò là một trợ lý, nhưng Mourinho đã từ chối và chọn Carlos Mozer, một cựu hậu vệ của Benfica, làm "cánh tay phải" của mình.
Mourinho chỉ trích gay gắt Ferreira, người mà giống như một thầy giáo của Mourinho vì trong những năm 1980 khi Mourinho là sinh viên tại Lisbon Superior Institute for Physical Education thì Ferreira là một giáo viên ở đó, "Đây là câu chuyện của một con lừa, nó đã làm việc 30 năm nhưng không bao giờ trở thành con ngựa."
Mourinho và Mozer đã chứng tỏ họ là một sự kết hợp tốt, họ đã chiến thắng thuyết phục 3–0 trước đối thủ cạnh tranh Sporting Lisbon vào tháng 12. Tuy nhiên trong cuộc bầu cử chủ tịch Benfica João Vale e Azevedo đã thất bại, và vị chủ tịch mới đắc cử Manuel Vilarinho muốn một người nổi tiếng hơn làm huấn luyện viên. Mặc dù Vilarinho không có ý định sa thải ngay lập tức, Mourinho đã dùng chiến thắng trước Sporting để kiểm tra ý định của chủ tịch, ông yêu cầu câu lạc bộ gia hạn thêm hợp đồng 1 năm. Vilarinho từ chối và Mourinho đã từ chức khỏi vị trí của mình ngay lập tức. Ông rời Sporting Lisbon ngày 5 tháng 12 năm 2000 sau 9 trận. Sau này, Vilarinho đã ăn năn vì khả năng đánh giá yếu kém đã để mất Mourinho:
Mourinho tìm được công việc mới của mình tháng 4 năm 2001 với União de Leiria,với 7 trận đấu ông giúp cho câu lạc bộ có được vị trí cao nhất trong lịch sử xếp thứ 5 mùa giải 2000-11 Primeira Liga. Trong mùa giải thứ hai tại União de Leiria, câu lạc bộ đã cạnh tranh vị trí thứ ba và thứ tư trong tháng một. Sau trận thắng 2–1 Paços de Ferreira ngày 27 tháng một, đội xếp thứ ba kém 3 điểm so với đội dẫn đầu và xếp trên 2 ông lớn Porto và Benfica với cách biệt 1 điểm. Mourinho đã gây ra sự chú ý bởi các câu lạc bộ lớn hơn của Bồ Đào Nha.
Porto
Mourinho đã tới thay thế Octávio Machado trên băng ghế huấn luyện của FC Portovào tháng 1 năm 2002. Tại thời điểm này Porto ở vị trí thứ 5 tại Primeira Liga (sau Sporting, Boavista, Leiria và Benfica), đã bị loại khỏi Portuguese Cup và xếp cuối bảng Champions League giai đoạn lượt về. Mourinho dẫn dắt đội bóng đến vị trí thứ ba Primeira Liga với cú nước rút dài hời gần như hoàn hảo (Thắng 11–Hòa 2–Thua 2) và đưa ra lời hứa "làm cho Porto vô địch năm tới."
Ông nhanh chóng xác định các cầu thủ trụ cột mà ông tin họ sẽ là trụ cột của một Porto hoàn hảo: Vítor Baía, Ricardo Carvalho, Costinha, Deco, Dmitri Alenichev và Hélder Postiga. Gọi lại đội trưởng Jorge Costa sau 6 tháng cho Charlton Athletic mượn. Và bổ sung một số bản hợp đồng mới Nuno Valente và Derlei từ União de Leiria; Paulo Ferreira từ Vitória de Setúbal; Pedro Emanuel từ Boavista; và Edgaras Jankauskas; Maniche từ Benfica.
2002–2003
Năm 2003, Mourinho có danh hiệu Primeira Liga đầu tiên với thành tích Thắng 27–Hòa 5–Thua 2, hơn Benfica 11 điểm. Với 86 điểm có được trên 102 điểm tối đa là một kỷ lục ở Primeira Liga kể từ khi mỗi đội thắng được 3 điểm. Mourinho cũng giành được Portuguese Cup (đấu với câu lạc bộ cũ Leiria) và UEFA Cup final trước Celtic trong tháng 5 năm 2003.
2003–2004
Mùa giải tiếp theo chứng kiến những thành công hơn nữa: ông đã dẫn dắt Porto giành chiến thắng trong một trận đấu Siêu cúp Bồ Đào Nha, đánh bại Leiria 1-0. Tuy nhiên họ đã thua UEFA Super Cup 0-1 AC Milan, với pha ghi bàn của Andriy Shevchenko. Porto đã thống trị Primeira Liga và họ kết thúc mùa giải với cách biệt tám điểm, và một chuỗi trận bất bại mà chỉ kết thúc với Gil Vicente, họ bảo vệ danh hiệu thành công trước 5 vòng đấu cuối. Porto mất cúp Bồ Đào Nha vào tay Benfica tháng 5 năm 2004, nhưng hai tuần sau đó, Mourinho đã giành được một giải thưởng lớn: vô địch UEFA Champions League với một chiến thắng 3–0 trước AS Monaco tại Đức. Porto đã loại bỏ Manchester United, Olympique Lyonnais, Deportivo La Coruña trên đường đến ngôi vô địch.
Chelsea
Mourinho chuyển đến Chelsea năm sau và đã giành được hai danh hiệu Premier League liên tiếp trong năm 2005 và 2006, và các danh hiệu khác trong nước. Ông thường có những phát biểu gây tranh cãi, nhưng chiến thắng của ông tại Chelsea và Porto đã giúp ông trở thành một trong những huấn luyện viên bóng đá hàng đầu thế giới. Ông được trao tặng danh hiệu huấn luyện viên bóng đá xuất sắc nhất thế giới do Liên đoàn Thống kê và Lịch sử Bóng đá Thế giới (IFFHS) trong 2 năm 2004-05 và 2005-06.
Mâu thuẫn với Roman Abramovich
Mâu thuẫn giữa Jose Mourinho và Roman Abramovich bắt đầu từ khi Andriy Shevchenko và Michael Ballack chuyển đến Chelsea vào mùa hè năm 2006. Hai cầu thủ này là 2 ngôi sao của bóng đá thế giới mà Roman Abrmovich hi vọng sẽ mang đến cho Chelsea danh hiệu vô địch Champion League - danh hiệu Chelsea đang thiếu nhưng kết quả là phong độ không tốt của cả hai cầu thủ này, đặc biệt là Andriy Shevchenko đã khiến họ thường xuyên phải ngồi ghế dự bị và điều này làm ông Roman Abramovich không hài lòng. Và mâu thuẫn giữa 2 bên trở nên càng thêm trầm trọng khi mùa giải 2006/2007 Chelsea đã mất 2 danh hiệu Premier League về tay Manchester United và nhất là thất bại trước Liverpool tại Champion League khiến báo chí loan tin rằng Jose Mourinho sẽ rời Chelsea sau khi kết thúc mùa giải 2006/2007 tuy nhiên danh hiệu FA Cup và những lời tuyên bố sẽ ở lại của Jose Mourinho đã khiến những tin đồn tạm lắng xuống.
Ngày 8 tháng 7 năm 2007, Avram Grant được Roman Abramovich mang về Chelsea với vai trò giám đốc kỹ thuật nhưng bị Jose Mourinho phản ứng mạnh mẽ và tuyên bố Avram Grant sẽ không được can thiệp vào nội bộ đội bóng. Đầu mùa giải 2007/2008 Chelsea F.C. có những bước khởi đầu tương đối tốt khi vươn lên dẫn đầu bảng tại Premier League sau 4 vòng đấu đầu tiên, tuy nhiên sau đó chấn thương của Frank Lampard và Didier Drogba đã khiến phong độ của Chelsea sụt giảm tệ hại khi để thua Aston Villa và hòa Blackburn Rovers, mất luôn ngôi đầu bảng. Mâu thuẫn giữa Jose Mourinho và Andriy Shevchenko lại bùng nổ trở lại khi tiền đạo người Ukraina bỏ lỡ nhiều cơ hội ghi bàn. Và cuối cùng trận hòa Rosenborg 1-1 vào ngày 19 tháng 9 năm 2007 tại Champion League như "giọt nước tràn ly" mâu thuẫn giữa Jose Mourinho và Roman Abrmovich; cuối cùng sáng ngày 20 tháng 9 năm 2007, Jose Mourinho đệ đơn xin từ chức và được ban lãnh đạo Chelsea chấp thuận với khoản bồi thường lên đến 12 triệu bảng Anh, lập nên kỉ lục về mức bồi thường đối với huấn luyện viên bóng đá kèm 1 điều khoản là ông sẽ không được dẫn dắt 1 đội bóng Premier League nào nũa trong vòng 1 năm, do đó, Jose Mourinho đã từ chối lời mời của Tottenham Hotspur.
Theo một số nguồn tin thì Mourinho bị đuổi khỏi Chelsea chỉ vì một tin nhắn nói xấu Abramovich. Ngày Abramovich gọi Mourinho vào phòng làm việc của mình nhằm thông báo về quyết định bổ nhiệm Grant. Trước mặt Abramovich, Mourinho gật gù tỏ vẻ ngoan ngoãn mà chẳng phản đối gì. Cựu huấn luyện viên Porto thậm chí không tỏ chút khó chịu nào trên khuôn mặt. Abramovich yên tâm là Mourinho tán thành với ông. Sau đó, Mourinho rời khỏi phòng Abramovich rồi lấy điện thoại ra nhắn cho Chủ tịch Chelsea - Bruce Buck rằng:
Song điều đáng chú ý là Buck và Abramovich thời điểm đó dùng cùng một chiếc điện thoại Nokia N95 màu đen. Trong một buổi họp giữa Buck và Abramovich vào ngày 1 tháng 9 năm 2007, 2 người để điện thoại ngay cạnh nhau và Abramovich đã cầm nhầm chiếc của Buck về nhà. Để rồi, ông phát hiện ra cái tin nhắn kia của Mourinho. Abramovich tức sôi máu, cộng thêm việc Chelsea liên tiếp thua Aston Villa (2 tháng 9) hòa Blackburn (15 tháng 9) và Rosenborg (19 tháng 9), ông liền đuổi việc Mourinho. Tuy nhiên, thông tin này không được xác nhận và không kiểm chứng được.
Sự ra đi của Jose Mourinho đã làm bàng hoàng các cổ động viên và các cầu thủ Chelsea; họ càng tức giận hơn nữa khi Avram Grant, 1 người ít tên tuổi lên thay vị trí của Mourinho. Nhưng đến cuối mùa giải năm đó chính Avram Grant đã giúp Chelsea suýt vô địch Champions League 2007-08 khi vào đến trận chung kết, điều mà Mourinho không thể làm được sau nhiều năm dẫn dắt Chelsea, tuy nhiên, như thế với chủ tịch Abramovich là chưa đủ và Avram Grant cũng bị sa thải ngay sau đó.
Inter Milan
Ngày 2 tháng 6 năm 2008, Mourinho bắt đầu sự nghiệp tại Inter Milan thay thế cho Roberto Mancini. Ở đây ông có thành công rực rỡ nhất trong sự nghiệp huấn luyện viên của mình.
Ngày 02 tháng 6 năm 2008, Mourinho được chỉ định làm người kế nhiệm của Roberto Mancini tại Inter trong một hợp đồng ba năm. Ông đã chọn Giuseppe Baresi, một cựu cầu thủ Inter và cựu huấn luyện viên trưởng của học viện trẻ làm trợ lý cho ông. Đến cuối kỳ chuyển nhượng, ông đã mang lại ba cầu thủ mới vào là cầu thủ chạy cánh Mancini, tiền vệ Sulley Muntari Ghana và cầu thủ chạy cánh người Bồ Đào Nha Ricardo Quaresma.
Trong mùa giải đầu tiên của ông là huấn luyện viên trưởng Inter, Mourinho đã giành được Siêu Cúp Ý sau khi đánh bại đối thủ truyền kiếp A.S. Roma trên chấm phạt đền và hoàn thành ngôi đầu Serie A. Tuy nhiên, đội lại bị loại với tổng tỉ số 2-0 bởi Manchester United trong trận knock-out đầu tiên vòng 1/8 của UEFA Champions League, và ông cũng không thành công để giành Coppa Italia, (Inter bị đánh bại với tổng tỉ số 3-1 của Sampdoria trong trận bán kết).
Mặc dù thành công trong nước của mình trong chiến thắng Scudetto, mùa giải đầu tiên của Jose Mourinho ở Italia đã được xem là đáng thất vọng của một số người hâm mộ Inter khi họ thất bại trong việc cải thiện màn trình diễn của người tiền nhiệm Roberto Mancini của mình tại Champions League. Inter đặt trong một loạt các buổi trình diễn mờ nhạt của nhóm trong đó có một cú sốc khi thua trước sân nhà 1-0 trong cuộc đụng đầu với Panathinaikos.
Mourinho cũng gây ra những tranh cãi ngay trong bóng đá Ý thông qua các mối quan hệ gây tranh cãi của ông với giới báo chí Ý và các phương tiện truyền thông, và mối hận thù với chính các huấn luyện viên hàng đầu Serie A như: huấn luyện viên Carlo Ancelotti của AC Milan, Luciano Spalletti của Roma, và Claudio Ranieri của Juventus. Tại một cuộc họp báo tháng 3 năm 2009, ông xúc phạm hai đối thủ đầu tiên bằng cách tuyên bố họ sẽ kết thúc mùa giải mà không có giành một danh hiệu nào, và cáo buộc các nhà báo thể thao Ý.
Ngày 16 tháng năm 2009, Inter đoạt danh hiệu Serie A. Ngày 28 tháng 7 năm 2009, Mourinho đã được đồn là sẽ sang Manchester United khi Alex Ferguson nghỉ hưu.
Theo chân Mourinho, trong đợt chuyển nhượng. Adriano rời Inter vào tháng 4 năm 2009, và việc xuất cảnh của tiền đạo người Brazil đã được theo sau bộ đôi người Argentina Julio Cruz và Hernán Crespo. Tiền vệ tấn công huyền thoại Bồ Đào Nha Luís Figo là cựu binh đã giải nghệ. Figo rời Inter theo Mancini. Mourinho đã ký hợp đồng với tiền đạo Argentina Diego Milito. Có lẽ chữ ký của ông đáng chú ý nhất ở mùa hè mùa giải thứ hai của ông là có được một thỏa thuận trao đổi Zlatan Ibrahimovic để lấy tiền đạo Cameroon của Barcelona - Samuel Eto'o.
Ricardo Quaresma từ câu lạc bộ cũ của Mourinho FC Porto được xem như là một mắt xích còn thiếu trong đội hình Inter, nhưng đã gây tất vọng và sau đó bị đẩy đến Chelsea ở giữa mùa giải. Inter thiếu một tiền vệ sáng tạo. Trong nỗ lực của họ để đối phó với vấn đề này, Inter đã ký hợp đồng với tiền vệ người Hà Lan Wesley Sneijder từ Real Madrid.
Mourinho một lần nữa gây ra tranh cãi trong mùa hè với các luận điểm của mình với huấn luyện viên đội tuyển quốc gia Italia - Marcello Lippi. Lippi dự đoán rằng Juventus sẽ giành Scudetto ở mùa 2009-10. Các năm trước, Lippi đều dự đoán Inter sẽ vô địch.
Inter chật vật trong 2 trận đấu đầu tiên của mùa giải mới. Tuy nhiên, như ông đã xây dựng một tiền vệ đáng gờm với Sneijder ở trung tâm cùng Thiago Motta, cựu binh Javier Zanetti và Dejan Stankovic. Inter đã ghi điểm số hơn 30 bàn thắng (tính đến cuối tháng mười một).
Có thể điểm lại một số sự kiện của ông ở Inter như: Ngay ở trận đầu tiên ra mắt khán giả tại Serie A, Mourinho đã khơi mào cho một cuộc "đấu khẩu" và đối thủ của ông là giám đốc của CLB Catania, Pietro Lo Monaco. Trong khi ông này cho rằng Mourinho "xứng đáng nhận một cái tát" thì "Mr Special One" đáp lại bằng một câu nói đầy mỉa mai. "Lo Monaco? Tôi không biết ông ta… Tôi chỉ biết Tibetan Monaco (thầy tu), Bayern Monaco (Bayern Munich) hay Monaco Grand Prix…". Cho đến thời điểm này, câu "Monaco là ai?" vẫn được là coi là một câu nói lột tả tất cả sự kiêu ngạo của Mourinho. Trong buổi ra mắt, Mourinho đã nói tiếng Italia, cụ thể là ngôn ngữ ở vùng Milan, một ấn tượng khá sâu sắc với các CĐV Inter về một huấn luyện viên biết nói thông thạo tiếng địa phương. Đây có thể coi là một sự chuẩn bị khá tốt của Mourinho bởi trước khi nhận lời dẫn dắt Inter, ông đã phải bỏ ra gần 1 năm để thuê gia sư học tiếng Italia.
Với 2 năm dẫn dắt Inter, Mourinho tiếp tục duy trì được thành tích bất bại trên sân nhà. Trong suốt mùa giải vừa qua, Inter của Mourinho đã thắng tổng cộng 15 trận và chỉ chịu chia điểm đúng 4 lần tại San Siro. Một thành tích có thể coi là đáng nể với tài năng của cựu huấn luyện viên Chelsea. Sau một mùa giải tiếp quản Inter và tiếp quản bộ khung được xây dựng bởi người tiền nhiệm Roberto Mancini để lại, Mourinho bắt đầu tăng cường lực lượng cho Nerazzurri. Đẩy Ibrahimovic ra đi, Mourinho lần lượt đưa Lucio, Samuel Eto’o, Sneijder, Thiago Motta và Diego Milito về San Siro. Trong năm bản hợp đồng điển hình này, thương vụ Sneijder được đánh giá là thẵnh công nhất khi tiền vệ người Hà Lan là mắt xích quan trọng bậc nhất mang về cú ăn ba vĩ đại nhất cho Inter.
Trong cuộc đời cầm quân, Mourinho đã tuyên bố ông sẽ không thua tại Stamford Bridge và ông đã chứng minh mình không nói khoác. Inter làm khách tại thành London với thắng lợi 2-1 mong manh ở vòng 1/8. Tại sân nhà, với lối chơi phòng ngự phản công hợp lý, Inter đã có chiến thắng 1-0 và có tên ở vòng tứ kết sau khi vượt qua Chelsea với tổng tỷ số 3-1. Ngoài ra dưới sự dẫn dắt của Leonardo (AC Milan), các tifosi mong chờ vào một luồng gió mới giúp Rossoneri có thể tạo ra được một đối thủ lớn với Inter nhưng ở ngay vòng đấu thứ 2 khi hai đội chạm trán nhau, Inter đã chứng minh rằng vẫn tồn tại một khoảng cách rất lớn giữa hai gã khổng lồ thành Milan bằng chiến thắng hủy diệt 4-0.
Khi Inter vượt qua Barcelona tại bán kết Champions League, Mourinho đã lao vào trong sân bóng, chạy khắp sân và ăn mừng như một đứa trẻ. Hành động của người từng có thời gian làm việc tại Camp Nou với tư cách là trợ lý ngôn ngữ đã khiến cho các cầu thủ của Barcelona "nóng mặt". Điển hình nhất là trường hợp của Valdes khi thủ thành của Barca đã không thể kiên nhẫn và có hành động xô xát với huấn luyện viên người Bồ. Với tài năng của mình, Mourinho đã mang về cho Inter một chiến thắng tưng bừng trước đương kim vô địch châu Âu Barcelona. Chơi tại San Siro, Inter đã tận dụng thành công những lợi thế của mình và có chiến thắng 3-1 dù cho họ là đội bóng bị dẫn bàn trước. Chiến tích này vẫn được lấy nền tảng từ lối chơi phòng ngự phản công sắc sảo.
Bất chấp sự cao ngạo về tính cách, Mourinho vẫn đi vào lịch sử Italia với tư cách là huấn luyện viên đầu tiên một đội bóng Serie A có được cú ăn 3 lịch sử. Chiến thắng 2-0 đầy thuyết phục trước Bayern Munich trong trận chung kết đã giúp Inter hoàn tất cú ăn ba danh hiệu: Scudetto, Coppa Italia và Champions League. Đây chính là đỉnh cao trong sự nghiệp của huấn luyện viên luôn tự coi mình là "người đặc biệt". Đây cũng sẽ là lời chia tay ấn tượng nhất cho của Mourinho trước khi ông ra đi tìm cho mình thử thách ở những cuộc phiêu lưu mới. Từ tháng 5/2010, Mourinho chuyển sang làm huấn luyện viên cho câu lạc bộ xuất sắc nhất thế kỉ 20: Real Madrid.
Real Madrid
Mourinho đã đến Real Madrid để đón chờ những thử thách mới trong sự nghiệp cầm quân của mình sau khi đạt được đến đỉnh cao cùng Inter Milan trong mùa giải vừa qua với cú ăn ba vĩ đại. Hầu như tất cả mọi người đều tin rằng huấn luyện viên Mourinho sẽ sớm có được những thành công ở Real Madrid bởi đội bóng này vốn đã là một tập thể rất mạnh của những ngôi sao sáng giá nhất trên bầu trời bóng đá. Tuy nhiên, chiến thuật gia người Bồ Đào Nha cho rằng ông vẫn còn phải làm rất nhiều việc mới có thể biến Real Madrid trở thành một cỗ máy chiến thắng. Ông nói:
"Ai cũng đang nói tới những chiến thắng và cả các danh hiệu. Nhưng điều đó sẽ không thể trở thành hiện thực nếu như chúng ta không làm việc nghiêm túc." và "Tôi đang lên các kế hoạch cho Real Madrid trong thời gian tới để đảm bảo rằng chúng tôi có được sự chuẩn bị tốt nhất trước khi bước vào mùa bóng mới. Ở đây, vẫn còn rất nhiều việc phải làm và nên nhớ rằng Real Madrid đã trắng tay trong cả mùa giải vừa qua."
Jose Mourinho cũng chính thức chỉ định cựu trung vệ của Real, Aitor Karanka vào ban huấn luyện của Club Blanco ở mùa giải tiếp theo. Karanka là vị huấn luyện viên thứ tư của Jose Mourinho sau Rui Faria, Silvino Louro và Jose Morais. Và cũng giống như những người này, hợp đồng của Karanka với Real Madrid sẽ có thời hạn 4 năm, còn mức lương cụ thể chưa được tiết lộ. Nhưng dẫu sao, được trở về Real lại được làm việc cạnh "Người đặc biệt" có lẽ đã là niềm vinh dự quá lớn cho Karanka.
Sau khi ký hợp đồng với Angel Di Maria, huấn luyện viên Jose Mourinho cho biết ông sẽ tiếp tục mua những cầu thủ với mục tiêu phục vụ cho sự phát triển của đội bóng. Trong những mùa giải vừa qua, Real Madrid là một trong những đội bóng mà vai trò của huấn luyện viên thường không được đánh giá cao trong những thương vụ chuyển nhượng. Đa số các vụ mua bán cầu thủ đều do tay các vị chủ tịch "đạo diễn", như vụ Chủ tịch Perez mua Figo hay Zidane. Chính vì vậy, nhằm tránh vào vết xe đổ của các đời huấn luyện viên trước, Jose Mourinho đã tuyên bố rằng ông sẽ chỉ mua những cầu thủ với mục tiêu phục vụ cho sự phát triển của đội bóng. Tính tới thời điểm này, Real Madrid mới chỉ chào đón ba tân binh là Di Maria, Pedro Leon và Canales, những cầu thủ còn khá trẻ. Mourinho đã cho biết: "Chúng tôi không phải những nhà vô địch trên thị trường chuyển nhượng. Chúng tôi sẽ không ký hợp đồng với những cầu thủ đắt giá nhất thế giới, hay xuất sắc nhất thế giới. Chúng tôi muốn những cầu thủ có tiềm năng cao song lại có giá cả phải chăng. Chúng tôi muốn đầu tư cho tương lai của đội bóng."
Mặc dù CLB đoạt được vài danh hiệu ở đấu trường quốc nội, nhưng đối với chủ tịch Florentino Perez như thế là chưa đủ, cho nên vào cuối mùa giải 2012-13 Mourinho bị buộc phải chia tay Real Madrid sau khi đội 3 năm liên tục bị loại ở vòng bán kết Champions League. Người kế nhiệm Mourinho tại Real Madrid, Carlo Ancelotti, chỉ 1 năm sau đã giúp CLB lên ngôi vô địch tại Champions League 2013-14.
Quay trở lại Chelsea
Ngày 3 tháng 6 năm 2013, sau ba năm gắn bó với Real Madrid, Mourinho lần thứ hai quay trở lại nước Anh với tư cách là huấn luyện viên trưởng của câu lạc bộ Chelsea
Trong lần trở lại Chelsea sau nửa đầu mùa giải 2013-2014 với kết quả không được như ý muốn, Mourinho đã đề nghị ông chủ Roman Abramovich cho phép ông áp dụng lối chơi bóng thực dụng sở trường và được ông chủ chấp thuận, đồng thời bổ sung các cầu thủ trẻ hợp với phong cách của ông. Với sự thay đổi này Chelsea đã có kết quả tích cực rõ rệt, đến vòng 26 giải Ngoại Hạng Anh, Chelsea đã lên ngôi đầu bảng và tràn trề cơ hội vô địch. Đây cũng là bước đi khôn ngoan của Mourinho khi ông được nắm trong tay nhiều quyền lực hơn, được tự quyết về chiến thuật lẫn chiến lược phát triển đội bóng. Điển hình là ông đã cho phép bán đi tiền vệ Juan Mata cho Manchester United, cầu thủ được bình chọn xuất sắc nhất CLB trong 2 mùa giải liên tiếp 2011-2012, 2012-2013 vì ông cho rằng Juan Mata không hợp với phong cách bóng đá thực dụng của ông. Ban đầu sự việc này làm cho nhiều cổ động viên không hài lòng đồng thời cũng gây sốc cho nhiều người, tuy nhiên ông đã chứng minh bản thân ông đúng khi đưa Chelsea giành chiến thắng liên tiếp, dẫn đầu bảng xếp hạng sau 26 vòng đấu mà không cần sử dụng tiền vệ Juan Mata. Ông đã thay thế vị trí tiền vệ hộ công của Juan Mata bằng tài năng trẻ Oscar.
Ngày 17 tháng 12 năm 2015, Mourinho bị Chelsea sa thải sau khi không đạt được kết quả tốt ở giải Ngoại hạng mùa bóng 2015-16. Do mới gia hạn hợp đồng vào tháng 8 năm 2015, theo hợp đồng mới ông sẽ được bồi thường 50 triệu euro nếu bị cho nghỉ việc. Tuy nhiên có nguồn tin cho rằng ông sẽ chỉ nhận được khoản 10 triệu bảng, do phía Chelsea cho rằng ông đã vi phạm hợp đồng khi cư xử không đúng mực của ông với nữ bác sĩ Eva Carneiro của đội hồi đầu mùa giải.
"Chelsea và Jose Mourinho hôm nay đi đến quyết định chia tay trên cơ sở đồng thuận. Cảm ơn Jose vì đóng góp to lớn của ông kể từ khi trở lại làm HLV năm 2013", thông báo của đội chủ sân Stamford Bridge có đoạn. Lý do đi đến quyết định sa thải được đưa ra: "Ban lãnh đạo và Jose đều nhận ra những kết quả gần đây là không đủ tốt, nên cách tốt nhất cho cả hai bên là đi những con đường khác nhau. Chelsea gửi những lời chúc tốt đẹp đến Mourinho và khẳng định nhà cầm quân 52 tuổi vẫn để lại một nền móng vững chắc và di sản cho sân Stamford Bridge.".
Manchester United
Ngày 27 tháng 5 năm 2016, José Mourinho ký hợp đồng có thời hạn 5 năm với CLB Manchester United, giúp ông có cơ hội gắn bó với Quỷ Đỏ đến năm 2020. Trả lời buổi hợp báo, ông vô cùng phấn khích: "Trở thành HLV của Man Utd là một vinh dự đặc biệt trong bóng đá. Đây là đội bóng nổi tiếng và được cả thế giới ngưỡng mộ. Nói về CLB này là nói về một điều huyền bí và lãng mạn, mà không một đội bóng khác có thể sánh kịp. Tôi luôn cảm thấy thân thuộc với Old Trafford. Nơi đây từng lưu giữ nhiều kỷ niệm đặc biệt trong sự nghiệp của tôi, và tôi cũng có quan hệ đặc biệt nồng ấm với người hâm mộ Man Utd. Tôi nôn nóng được trở thành HLV đội bóng của họ, đắm chìm trong sự ủng hộ tuyệt vời của họ những năm tới đây". Ngay từ năm đầu tiên dẫn dắt đội bóng, ông đã mang về Quỷ đỏ chức vô địch Community Shield khi Manchester United đánh bại đương kim vô địch ngoại hạng Anh Leicester City 2-1 vào ngày 7 tháng 8 năm 2016. Một tuần sau, Quỷ đỏ lại thắng AFC Bournemouth 3-1 trong lần đầu tiên vị huấn luyện viên người Bồ Đào Nha ra mắt Manchester United ở giải Ngoại Hạng Anh. Ngày 11 tháng 9 năm 2016 trong trận Derby Manchester, đội bóng của Mourinho thua 2-1 trước gã hàng xóm Manchester City của Pep Guardiola, đây cũng là lần thua thứ 8 của người đặc biệt trước Pep. Vào ngày 23 tháng 10 năm 2016, José Mourinho có lần đầu tiên trở về mái nhà cũ Chelsea kể từ lúc ông rời đi vào tháng 12 năm 2015, nhưng lần này là một kỷ niệm buồn, Man United thua thảm 4-0 trên sân khách và đội bóng của ông cách vị trí thứ nhất 6 điểm. Tại Cúp liên đoàn ngày 26 tháng 10 năm 2016, Mourinho có màn báo thù ngọt ngào tại Old Traford trước Pep khi Manchester United vượt qua Manchester City với tỷ số 1-0, Juan Mata là tác giả duy nhất của bàn thắng ở phút thứ 54. Sau khi bị liên đoàn bóng đá Anh phạt tiền khi ông có những lời phàn nàn với trọng tài Anthony Taylor, không lâu sau ông lại một lần nữa vướn vào rắc rối với trọng tài, Mourinho bị trọng tài chính Mark Clattenburg truất quyền chỉ đạo trong trận hòa 0-0 trước Burnley ngày 29 tháng 10 năm 2016. Ngày 29 tháng 1 năm 2017, Man United thua Hull City 1-2 tại sân nhà nhưng vẫn lọt vào chung kết cúp liên đoàn Anh sau hai lượt trận (United thắng Hull City tộng tỷ số 3-2). Manchester United thắng Southampton 3-2 tại chung kết với bàn thắng của Jesse Lingard và cú đúp của Ibrahimovic, Mourinho trở thành vị huấn luyện viên đầu tiên của câu lạc bộ đạt được một danh hiệu chính thức trong mùa giải đầu tiên.
Ngày 24 tháng 5 năm 2017, Manchester United giành được danh hiệu Europa League sau khi đánh gục đối thủ từ Hà Lan Ajax Amsterdam 2-0 với các bàn thắng của Paul Pogba và Mkhitaryan. Mourinho được hưởng trọn nhiềm vui cuối mùa cùng các học trò và quan trọng hơn danh hiệu này giúp họ có được một tấm vé vào thẳng vòng bảng Champions League sau 2 năm vắng bóng. Đây cũng là danh hiệu chính thức thứ 2 trong mùa đầu tiên ở cương vị thuyền trưởng Quỷ Đỏ và người đặc biệt hiện vẫn đang nắm giữ 100% kỷ lục thắng tất cả những trận chung kết cúp Châu Âu trên danh nghĩa huấn luyện viên.
Ngày 18 tháng 12 năm 2018, sau trận thua Liverpool 1-3, Mourinho đã bị sa thải. Khi đó, Manchester United sở hữu 19 điểm với 7 trận thắng sau 17 trận thi đấu tại Ngoại Hạng Anh.
Tottenham Hotspur
Ngày 20 tháng 11 năm 2019, Mourinho trở thành tân huấn luyện viên trưởng của Tottenham sau khi người tiền nhiệm Pochettino bị sa thải. Mourinho gây sự chú ý của giới truyền thông vào ngày 26 tháng 11 năm 2019, khi ông nói rằng cậu bé nhặt bóng Callum Hynes đã "kiến tạo" cho Spurs bàn thắng thứ hai trong chiến thắng 4–2 trước Olympiacos.
Mourinho đã có trận thắng thứ 300 của mình tại bóng đá Anh khi Tottenham đánh bại West Ham United với tỷ số 2–0 vào ngày 23 tháng 6 năm 2020.
Ông có đầu tiên trên cương vị huấn luyện viên tại St James' Park vào ngày 15 tháng 7 năm 2020 khi Tottenham đánh bại Newcastle với tỷ số 3-1.
Vào ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại Cúp EFL,ông đã chiến thắng trước đội bóng cũ Chelsea F.C. ngay tại Sân vận động Tottenham Hotspur và đã hòa 1-1 nhưng đã thắng trên loạt luân lưu với tỉ số 5-4 và bước vào vòng Tứ kết
Vào ngày 4 tháng 10 năm 2020, ông cùng Tottenham Hotspur giành chiến thắng đậm 6–1 trước câu lạc bộ cũ của ông là Manchester United tại Old Trafford. Ở vòng đấu thứ 9, Tottenham Hotspur đánh bại Aston Villa 5-2 trên sân khách và qua đó chiếm ngôi đầu bảng ngoại hạng Anh của Leicester, và được báo chí ca ngợi là ứng viên sáng giá cho chức vô địch Ngoại hạng Anh mùa bóng 2020-2021. Ngày 16 tháng 12 năm 2020, Tottenham Hotspur bắt đầu sa sút bằng trận thua Liverpool 1-2 trên sân Anfield và qua đó đánh mất ngôi đầu bảng. Họ tiếp tục thi đấu không thành công bằng các trận thua và hòa liên tiếp, và rơi xuống vị trí thứ 9 sau trận thua 1-2 trước Westham ngày 21 tháng 2 năm 2021. Tại vòng đấu 31 và 32, Tottenham Spurs liên tục mất điểm (thua và hòa) trong hai trận đấu trước Manchester United (1-3) và Everton (2-2) sau khi dẫn bàn trước từ sớm, và trở thành câu lạc bộ bị mất nhiều điểm nhất khi ở thế dẫn bàn trong mùa giải (mất tới 20 điểm tính đến vòng đấu 32).
Ngày 19 tháng 4 năm 2021, câu lạc bộ Tottenham Hotspur ra thông báo chấm dứt hợp đồng với Jose Mourinho (cùng với đội ngũ huấn luyện của ông). Đây là động thái sau loạt trận đáng thất vọng của Tottenham Hotspur dưới sự dẫn dắt của ông, như bị loại khỏi vòng 16 đội UEFA Europa League bởi Dinamo Zagreb (dù đã thắng tới 2-0 ở lượt đi), thất bại (hoặc hòa) liên tiếp nhiều trận sau khi ở thế dẫn bàn (Ở mùa bóng 2020-2021, Spurs là câu lạc bộ mất điểm nhiều nhất ở Ngoại hạng Anh sau khi có bàn thắng dẫn trước cho đến lúc đó). Đây là lần đầu tiên trong sự nghiệp huấn luyện viên, Mourinho bị sa thải mà không giành được bất cứ danh hiệu nào.
AS Roma
Ngày 4 tháng 5 năm 2021, câu lạc bộ A.S. Roma ra thông báo chính thức đạt được thỏa thuận với Jose Mourinho, theo đó, ông sẽ chính thức dẫn dắt câu lạc bộ kể từ đầu mùa giải 2021-2022, thay thế huấn luyện viên Paulo Fonseca, người sẽ chấm dứt công việc khi mùa giải 2020-2021 kết thúc. Theo thỏa thuận này, AS Roma ký hợp đồng 3 năm với Mourinho (cho tới năm 2024).
Vào ngày 12 tháng 9 năm 2021, Mourinho đã cán mốc 1,000 trận đấu trên cương vị huấn luyện viên với chiến thắng 2-1 trước Sassuolo. Ông giúp đội bóng đoạt danh hiệu UEFA Europa Conference League lần đầu tiên khi hạ Feyenoord 1-0 tại trận chung kết, qua đó trở thành HLV đầu tiên trong lịch sử giành cả chức vô địch ở cả 3 giải đấu cúp của châu Âu. Bước sang mùa giải 2022-23, Mourinho đưa đội vào chung kết Europa League, nhưng thua Sevilla 1-4 trên loạt sút luân lưu sau khi hòa 1-1 cả trận, qua đó Jose Mourinho lần đầu thất bại ở chung kết Cup châu Âu.
Phong cách huấn luyện
Là một trong những huấn luyện viên bóng đá xuất sắc nhất thế giới hiện nay, khi mới chỉ ngoài 40 tuổi Mourinho đã đoạt vô số những danh hiệu và am hiểu sâu rộng về các nền bóng tại các giải vô địch quốc gia Bồ Đào Nha, Anh, Italia, Tây Ban Nha.
Mourinho luôn đề cao tính thực dụng và kết quả cuối cùng chứ không phải là lối chơi hoa mỹ, đẹp mắt. Tất cả các đội bóng do Mourinho huấn luyện đều ưu tiên cho lối chơi áp sát toàn sân, phòng ngự chủ động và phản công nhanh. Mourinho luôn có tư duy giữ sạch lưới nhà trước khi ghi bàn vào lưới đối thủ. Vì vậy trong giai đoạn đầu dẫn dắt Chelsea từ 2004-2007 và Inter sau đó thì Chelsea và Inter Milan thường có những chiến thắng tối thiểu, 2 đội bóng này rất ít khi thất bại và cũng ít bị thủng lưới. Chiến thắng tối thiểu nhưng đem đến kết quả tối đa và Mourinho đã biến những đội bóng mà ông dẫn dắt thành những đội bóng rất khó bị đánh bại. Triết lý của ông cho lối chơi này là: “Nếu bạn thắng 10-0, bạn huỷ diệt một trận đấu. Nếu bạn có 10 trận thắng 1-0, bạn huỷ diệt cả giải đấu”.
Bằng chứng là các kỷ lục điểm số vô địch Ngoại hạng Anh với 95 điểm, chỉ thủng lưới 15 bàn trong một mùa giải của Chelsea.
Khi chuyển đến Real Madrid, CLB truyền thống ưu tiên lối chơi tấn công nên Mourinho có phần nào gượng ép thay đổi phong cách thực dụng của mình để đáp ứng ý nguyện của ban lãnh đạo Real Madrid, và thực tế Mourinho cũng đập tan những hoài nghi về lối chơi ghi ít bàn thắng bằng chức vô địch La Liga với Real Madrid mùa giải 2011-2012 với kỷ lục điểm số 100 điểm, kỷ lục bàn thắng ghi được là 121 bàn trong một mùa giải. Điều này cho thấy khi cần thiết Mourinho cũng có thể biến đội bóng của ông trở thành một đội bóng tấn công mạnh mẽ chứ không phải chỉ biết phòng ngự phản công như thường thấy.
Tuy nhiên vào giai đoạn Mourinho dẫn dắt Real Madrid thì CLB đại kình địch Barcelona đang ở giai đoạn "cực thịnh", đồng thời Mourinho phải từ bỏ một phần phong cách thực dụng thường thấy dẫn đến Real Madrid thường có những kết quả không tốt vào giai đoạn 2012-2013, kèm theo là mâu thuẫn với một số cầu thủ và ban lãnh đạo nên Mourinho đã chia tay Real Madrid để quay về với CLB Chelsea, nơi ông được tự do sử dụng phong cách của mình.
Để áp dụng thành công lối chơi thực dụng, mẫu cầu thủ ưa thích của Mourinho đều là những cầu thủ toàn diện về tấn công lẫn phòng thủ, tốc độ, thể lực và cả tinh thần thi đấu mạnh mẽ. Ngay cả một tiền đạo hay tiền vệ tấn công khi cần thiết vẫn phải tham giam phòng ngự để bảo vệ kết quả có lợi. Hoặc để chơi rắn, áp sát đối phương liên tục Mourinho ưa thích các mẫu cầu thủ có thể hình và thể lực tốt, tốc độ cao để phòng ngự từ giữa sân, ngăn cản các đường bóng của đối thủ như Michael Essien, Claude Makélélé, Sami Khedira...đồng thời có khả năng chuyền xa, sút xa tốt để phản công nhanh như Xabi Alonso, Wesley Sneijder, Frank Lampard.. Các tiền đạo ưa thích của Mourinho như Drogba, Diego Milito..đều là những mẫu tiền đạo có thể hình, quyết đoán khi dứt điểm, có khả năng tranh chấp tốt, khả năng ghi bàn bằng đầu tốt, sút xa. Mourinho cũng ưa dùng những cầu thủ tấn công 2 bên cánh có tốc độ cao, thường di chuyển vào trong để ghi bàn như Cristiano Ronaldo, Eden Hazard, Robben...
Lối chơi thực dụng đồng nghĩa với việc Mourinho đề cao tính kỷ luật cao và tuân thủ chiến thuật, các cầu thủ do ông huấn luyện đều phải chấp hành tuyệt đối các yêu cầu về chiến thuật của ông. Các cầu thủ có lỗi chơi ngẫu hứng như Kaká hoặc không tuân theo chiến thuật của ông thường sẽ phải ngồi ghế dự bị, bất chấp tài năng của họ ra sao. Điều đó nói lên tính cách nghiêm khắc và cứng rắn của Mourinho.
Mourinho cũng nổi tiếng với vai trò là một nhà quản lý nhân sự, khi ông đến đội bóng nào thì các cầu thủ đều rất tin tưởng ông. Những cầu thủ do ông phát hiện đưa về đội bóng đều đa số là các bản hợp đồng thành công, dưới sự dẫn dắt của Mourinho rất nhiều cầu thủ trở nên hoàn thiện hơn hoặc đạt đến đẳng cấp siêu sao như Cristinno Ronaldo, Mesut Ozil, Frank Lampard, Wesley Sneijder, Raphael Varane, Eden Hazard, Oscar.. ông cũng thành công trong việc nâng cao phong độ và khả năng thi đấu lâu dài cho những cầu thủ lớn tuổi như Makelele, Lampard, John Terry..
Với cá tính mạnh mẽ và bản chất thông minh, Mourinho luôn sử dụng những phát ngôn "tâm lý chiến" trước và sau trận đấu tấn công vào đối thủ giúp ông đạt không ít những kết quả có lợi. Đồng thời ông luôn bảo vệ học trò trước những dư luận truyền thông giúp cho đội bóng của ông luôn thi đấu ổn định.
Tuy nhiên, theo Paul Pogba, Mourinho có phong cách ngược lại với Ole Gunnar Solskjær, khi mà Ole không bao giờ chống lại cầu thủ (hàm ý Mourinho thường đi ngược với cầu thủ: "Những gì tôi trải qua với HLV Solskjaer ở thời điểm này rất khác. Ông ấy không bao giờ chống lại cầu thủ của mình... .. Tôi từng có mối quan hệ rất tốt với HLV Mourinho. Mọi người đều thấy điều đó. Nhưng ngày hôm sau, bạn không biết điều gì xảy ra. Đó là điều kỳ lạ mà tôi từng trải qua dưới thời HLV Mourinho. ". Trong những lần bị sa thải ở Real Madird (2013), Chelsea (2015), Manchester United (2018), Mourinho đều ra đi sau những bất đồng với các cầu thủ của câu lạc bộ, như vụ việc chỉ trích thậm tệ các cầu thủ Chelsea ở đầu mùa bóng 2015-2016, chỉ trích các cầu thủ Manchester United như Luke Shaw, Paul Pogba (ông còn gọi Pogba là con virus), hay gần nhất là việc chỉ trích thậm tệ cầu thủ Tottenham Hotspur sau khi bị loại khỏi Europa League 2020-2021, và những sự chỉ trích này diễn ra ngay trước truyền thông.
Mùa bóng 2020-2021 khi dẫn dắt Tottenham Hotspur bị coi là một thất bại của ông khi để thua tới 10 trận (nhiều nhất trong sự nghiệp cầm quân), và bị thua hoặc gỡ hòa sau khi đã dẫn trước phần lớn thời gian ở nhiều trận. Nhiều bình luận viên thể thao đã chỉ trích ông bảo thủ không thay đổi chiến thuật cho phù hợp với đội hình Tottenham mà chỉ khư khư giữ lối chơi thụ động lùi sâu.
Thống kê sự nghiệp huấn luyện viên
Danh hiệu trong sự nghiệp huấn luyện viên
Porto
Primeira Liga: 2002–03, 2003–04
Taça de Portugal: 2002–03
Supertaça Cândido de Oliveira: 2003
UEFA Champions League: 2003–04
UEFA Cup: 2002–03
Chelsea
Premier League: 2004–05, 2005–06, 2014–15
FA Cup: 2006–07
EFL Cup: 2004–05, 2006–07, 2014–15
FA Community Shield: 2005
Internazionale
Serie A: 2008–09, 2009–10
Coppa Italia: 2009–10
Supercoppa Italiana: 2008
UEFA Champions League: 2009–10
Real Madrid
La Liga: 2011–12
Copa del Rey: 2010–11
Supercopa de España: 2012
Manchester United
EFL Cup: 2016–17
FA Community Shield: 2016
UEFA Europa League: 2016–17
AS Roma
UEFA Europa Conference League: 2021–22
Các danh hiệu cá nhân
Đoạt danh hiệu huấn luyện viên Xuất sắc nhất do UEFA trao tặng năm 2002/03 và 2003/04
Đoạt danh hiệu huấn luyện viên đội bóng của năm do UEFA trao tặng năm 2002/03, 2003/04 và 2004/05
Huấn luyện viên trong năm của Serie A 2009, 2010
Đoạt danh hiệu huấn luyện viên Xuất sắc nhất do Portuguese Liga trao tặng năm 2002/03 và 2003/04
Đoạt danh hiệu huấn luyện viên Xuất sắc nhất do World Soccer Magazine trao tặng năm 2003/04 và 2004/05
Đoạt danh hiệu huấn luyện viên Xuất sắc nhất do BBC Sport trao tặng năm 2004/05
Đoạt danh hiệu huấn luyện viên Xuất sắc nhất năm: Onze d'Or (Onze Vàng) do tạp chí Onze Mondial trao tặng năm 2005
Đoạt danh hiệu huấn luyện viên Xuất sắc nhất tháng 11/ 2004, 1/ 2005, 3/ 2007 do FA Premier League trao tặng
Đoạt danh hiệu huấn luyện viên Xuất sắc nhất do FA Premier League trao tặng năm 2004/05, 2005/06 và 2014/15
Đoạt danh hiệu huấn luyện viên Xuất sắc nhất (Oscar del Calcio) do Hiệp hội cầu thủ chuyên nghiệp Italia (AIC) bầu chọn năm 2009
Đoạt danh hiệu huấn luyện viên Xuất sắc nhất Thế giới do IFFHS trao tặng năm 2004, 2005 và 2010
Đoạt danh hiệu huấn luyện viên Xuất sắc nhất Thế giới do Hiệp hội truyền thông thể thao quốc tế AIPS trao tặng năm 2010
Đoạt danh hiệu huấn luyện viên Xuất sắc nhất do tạp chí World Soccer trao tặng năm 2010.
Đoạt danh hiệu huấn luyện viên Xuất sắc nhất Bồ Đào Nha do FPF trao tặng năm 2010, 2011
Đoạt danh hiệu huấn luyện viên Xuất sắc nhất Thế giới do FIFA trao tặng năm 2010
Các câu lạc bộ đã huấn luyện
Benfica 2000 - 2001
U.D. Leiria 2001 - 2002
FC Porto 2002 - 2004
Chelsea FC 6/2004 - 8/2007, 6/2013 - 12/2015
Inter Milan 6/2008 - 5/2010
Real Madrid 5/2010 - 6/2013
Chelsea 6/2013 - 12/2015
Manchester United 2016 - 12/2018
Tottenham Hotspur 11/2019 - 4/2021
A.S. Roma 5/2021 -
Chú thích |
Đi trên mây (tên tiếng Anh: A Walk in the Clouds) là một bộ phim lãng mạn của đạo diễn Alfonso Arau phát hành năm 1995. Bộ phim có sự tham gia diễn xuất của Keanu Reeves, Giancarlo Giannini, Anthony Quinn và Aitana Sánchez-Gijón. Nhạc phim được viết bởi Maurice Jarre.
Câu chuyện
Năm 1945, Paul Sutton trở về sau Chiến tranh thế giới thứ hai và bắt đầu kiếm sống bằng nghề bán sô cô la. Trên một chuyến xe, Paul Sutton gặp Victoria Aragon, một sinh viên đại học Columbia đang về thăm nhà ở thung lũng Napa, California. Victoria Aragon khi đó đang mang thai với một giáo sư, cô lo sợ khi về gặp gia đình, đặc biệt là người cha Alberto. Paul Sutton nhận lời đóng giả chồng của Victoria để cùng cô về nhà và dự định sẽ ra đi ngay sáng hôm sau.
Nhà Victoria là một trang trại trồng nho mang tên "Mây"...
Nhân vật
Paul Sutton (Keanu Reeves): Xuất thân từ cô nhi viện, tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai, trở lại cuộc sống từ biệt vợ đi bán sô cô la.
Victoria Aragon (Aitana Sánchez-Gijón): Sinh viên đại học Columbia.
Alberto Aragon (Giancarlo Giannini): Cha của Victoria Aragon, chủ gia đình.
Don Pedro Aragon (Anthony Quinn): Ông nội của Victoria Aragon
Maria Jose Aragon (Angélica Aragón): Mẹ của Victoria Aragon
Pedro Aragon, Jr. (Freddy Rodriguez): Em trai Victoria Aragon, cũng đi học xa
Betty Sutton (Debra Messing): Vợ của Paul Sutton |
Delilah có thể là một trong các nghĩa sau:
Delilah: một nhân vật trong quyển sách Book of Judges trong Kinh thánh Hebrew.
Delilah Rene: tên một nghiệp đoàn quốc gia của Hãng phát thanh tư nhân Hoa Kỳ.
Dalilah: một bà già xảo quyệt trong truyện Nghìn lẻ một đêm.
Delilah: tên của một mật hiệu của cái máy di động cho phép thông tin truyền âm bảo mật do Alan Turing phát triển.
Delilah: tên một bài hát nổi tiếng của Tom Jones.
Delilah: một cái tên khác của cocktail White Lady.
Delilah: tên một bài hát của ban nhạc rock Queen. |
Chi Cạp nia (Bungarus) là một chi rắn thuộc họ Rắn hổ (Elapidae) có nọc độc, tìm thấy chủ yếu ở Ấn Độ và Đông Nam Á. Chi này có 15 loài và 8 phân loài. Các tên gọi phổ biến trong tiếng Việt là rắn cạp nong, cạp nia, mai gầm, hổ khoang v.v.
Phân bố
Các loài cạp nong, cạp nia được tìm thấy chủ yếu tại tiểu lục địa Ấn Độ (bao gồm cả Sri Lanka và miền đông Pakistan) và Đông Nam Á (bao gồm cả Indonesia Việt Nam và Borneo).
Miêu tả
Các loài rắn này thường có chiều dài khoảng 1-1,5 m, mặc dù có cá thể dài tới 2 m đã được quan sát thấy. Cạp nong (B. fasciatus) có thể dài tới 2,5 m. Phần lớn các loài rắn này có lớp vảy trơn và bóng được sắp xếp thành các khoang đậm màu, bao gồm các khoang đen và khoang màu sáng xen kẽ. Điều này giúp chúng ngụy trang khá tốt tại môi trường sinh sống của chúng tại các đồng cỏ và các cánh rừng có nhiều bụi rậm. Các vảy dọc theo sống lưng có hình lục giác. Đầu thon mảnh và các mắt có con ngươi tròn. Chúng có tiết diện ngang hình tam giác và phẳng ở phần lưng-hông. Đuôi hẹp dần thành điểm nhọn.
Sinh sản
Chúng là loại động vật đẻ trứng và rắn cái đẻ khoảng 6 -12 trứng trong ổ bằng lá cây và sống ở đó cho đến khi trứng nở.
Thức ăn và hành vi
Các loài rắn trong chi này là các loại động vật ăn thịt rắn, con mồi chủ yếu của chúng là các loài rắn khác (bao gồm cả những loài có nọc độc) và chúng ăn thịt cả đồng loại. Chúng cũng ăn thịt cả các loài thằn lằn nhỏ.
Tất cả các loài thuộc chi này đều kiếm ăn về đêm. Ban ngày chúng khá hiền lành, nhưng trở nên hung dữ hơn về đêm. Tuy nhiên, nói chung chúng khá nhút nhát và thông thường hay ẩn giấu đầu của chúng trong phần thân được cuộn tròn lại để tự vệ. Trong tư thế như vậy, đôi khi chúng sẽ quất đuôi như một dạng của sự tiêu khiển và cảnh báo.
Nọc độc
Các loài trong chi Bungarus có nọc độc với độc tính đối với hệ thần kinh, có hiệu lực cao hơn nhiều lần so với nọc rắn hổ mang. Cú cắn của chúng rất nguy hiểm và gây ra trụy hệ hô hấp đối với nạn nhân. Trước khi có thuốc chữa rắn cắn có tác dụng được điều chế ra, thì tỷ lệ tử vong của nạn nhân lên tới 75%. Vì các vết cắn của chúng ít khi sưng hay đau nhiều, nạn nhân có thể nhận được cấp cứu quá trễ sau khi triệu chứng tê liệt thần kinh đã bột phát ; một điều may mắn là chúng rất ít khi hung hãn. Năm 2001, tiến sĩ Joe Slowinski đã bị một con cạp nia non cắn trong khi tiến hành nghiên cứu thực địa về chúng tại Myanma, do không kịp nhận sự hỗ trợ y tế nên đã tử vong.
Các loài
*) Bao gồm cả nguyên chủngT) Loài điển hình. |
Trận Verdun là một trận lớn chính của mặt trận phía Tây trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trận đánh nổ ra giữa quân đội Đức và Pháp từ 21 tháng 2 đến 19 tháng 12 năm 1916 xung quanh Verdun-sur-Meuse ở đông bắc Pháp.
Người Đức đã lập kế hoạch trận đánh này dựa trên ý tưởng ban đầu của Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Đức là Thượng tướng Erich von Falkenhayn, nhằm "rút sạch máu" quân Pháp. Trận đánh này là một trong những cuộc giáp chiến tiêu biểu của cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất vì nó thể hiện tinh thần chiến đấu dũng mãnh của các binh sĩ tham chiến, với những phút giây quang vinh cũng như thảm khốc của họ. Với ý nghĩa lịch sử lớn lao. đây là trận chiến kéo dài nhất trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, và là trận đẫm máu thứ hai sau Trận Somme (1916). Chiến dịch kinh hoàng này cũng được xem là trận đánh lâu dài bậc nhất trong lịch sử, với thời gian kéo dài đến 10 tháng. Kết quả là hơn 300.000 người chết và hơn 450.000 người bị thương cho cả 2 bên. Đây là trận đánh đẫm máu nhất Thế chiến I tính đến thời điểm đó.
Khẩu hiệu nổi tiếng của quân Pháp phòng thủ trong trận này là "Chúng sẽ không vượt qua" (Ils ne passeront pas) của Robert Nivelle. Cuối cùng, quân Đức phải hứng chịu tổn thất nặng nề và chẳng thể nào chiếm được Verdun, song đây là một chiến thắng kiểu Pyrros của quân Pháp - tổn thất kinh khiếp của họ chứng tỏ chiến lược "hút sạch máu" quân Pháp của quân Đức đã phần nào gặt hái được thành công. Vì không thể hồi phục hoàn toàn sau thắng lợi ở Verdun, quân Pháp - phải dựa dẫm vào quân Anh để chống nhau với quân Đức ở Mặt trận phía Tây. Thất bại của người Đức đã gắn liền với tên tuổi của Falkenhayn, khiến cho ông bị sa thải. Ở bên kia chiến hào, Tổng tư lệnh Quân đội Pháp Joseph Joffre bị sa thải vào tháng 12 năm 1916, trở thành một "tổn thất" ở Verdun. Đối với người Pháp, trận chiến này là siêu điển hình cho những chết chóc của họ trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất. Đồng thời, do người Pháp quá cả tin vào hệ thống phòng ngự của mình trong chiến thắng này, họ đã thảm bại trong cuộc tấn công của Đức Quốc xã vào năm 1940.
Giá trị của Verdun
Verdun có một giá trị biểu tượng to lớn đối với nước Pháp. Trong lịch sử, nó đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ khu vực nội địa nhờ vào vị trí chiến lược trên sông Meuse. Vua Attila người Hung chưa bao giờ thành công trong việc vây hãm xã. Khi chia tách Đế chế Frank của Charlemagne, Hiệp ước Verdun năm 843 đã quy định xã là một phần của Đế quốc La Mã Thần thánh. Sau Hiệp ước Munster năm 1648 cho phép sáp nhập Verdun vào Pháp. Verdun đã đóng một vai trò quan trọng trong phòng tuyến được xây dựng sau Chiến tranh Pháp-Phổ năm 1870. Để bảo vệ trước mối đe dọa của Đế chế Đức từ phía Đông, các phòng tuyến giữa Verdun và Toul và giữa Epinal và Belfort đã được xây dựng. Verdun bảo vệ hướng xâm nhập phía Bắc vào đồng bằng Champagne và hướng tiếp cận với thủ đô Pháp là Paris.
Trong năm 1914, Verdun đã đứng vững trước các cuộc tấn công của Quân đội Đức, và phòng tuyến đã chịu được đến cả các cuộc pháo kích của đại pháo Big Bertha. Các đơn vị đã được đồn trú trong các thành cổ do Vauban xây dựng từ thế kỷ thứ 17. Cuối thế kỷ thứ 19, một hệ thống ngầm dưới mặt đất đã được xây dựng để làm công binh xưởng, bệnh viện, và cả doanh trại cho quân Pháp.
Bối cảnh trước trận đánh
Verdun là một mũi nhọn trong hệ thống phòng phủ của Pháp. Do sự uốn khúc quanh nhiều phía của sông Meuse, quân Pháp gặp phức tạp khi phòng thủ khu vực này. Ở đây, người Pháp cho xây dựng nhiều đồn lũy, trong đó có pháo đài Douaumont và pháo đài Vaux. Tuy nhiên, sau khi các đồn lũy ở Liège, Namur và Maubeuge bị đạn pháo Đức phá hủy, các tướng lĩnh Pháp không còn tin tưởng vào các cứ điểm ở Verdun. Pháo binh ở Verdun bị rút đi theo mệnh lệnh vào ngày 12 tháng 8 năm 1915, làm suy yếu đi đáng kể khả năng phòng thủ của các cứ điểm. Khi đó, thống chế Joseph Joffre cần pháo binh cho một đợt phản công đang lên kế hoạch. Hệ thống phòng ngự đôi chỗ bị cắt giảm chỉ còn một dãy chiến hào, thay vì ba dãy như yêu cầu. Hệ thống hàng rào dây thép gai ở trong tình trạng tồi tệ. Quân số càng ngày càng bị suy giảm và không có tổ chức. Lực lượng phòng thủ đồn trú tại các pháo đài bị cắt đến mức chỉ còn khoảng vài chục binh sĩ mỗi nơi. Mặt khác, tình hình yên tĩnh trong ở đây một vài tháng đó làm sự sao lãng chú ý của tướng lĩnh Pháp vào khu vực này. Không ai nghĩ đến một đợt tấn công của người Đức nhằm chiếm đất.
Bên cạnh đó, có hai hệ thống đường tiếp tế hậu cần cho Verdun, một từ Nancy và một từ Bar-le-Duc. Nhưng tuyến đường từ Nancy đến đây đã bị quân Đức cắt đứt khi chiếm Saint-Mihiel năm 1914. Do vậy, nguồn tiếp liệu duy nhất của Verdun là tuyến đường sắt nối từ Bar-le-Duc đến đây. Tuy nhiên, tuyến đường sắt này lại không đủ điều kiện cho việc vận chuyển các vũ khí hạng nặng. Bên cạnh tuyến đường sắt này là một con đường hàng tỉnh. Thêm vào đó là khả năng thông tin liên lạc yếu kém của quân Pháp với tuyến sau, tất cả càng làm cho cụm cứ điểm Verdun trở nên yếu ớt.
Sau khi nước Đức không thể giành được chiến thắng nhanh chóng trong năm 1914, cuộc đại chiến nhanh chóng sa lầy vào bế tắc. Chiến tranh chiến hào đã được phát triển và không một bên nào có thể vượt qua. Trong năm 1915 mọi nỗ lực nhằm phá vỡ bế tắc của Quân đội Đức tại Ypres, của quân Anh tại Neuve Chapelle và của quân Pháp tại Champagne đã thất bại với con số thương vong khủng khiếp.
Năm 1915, quân Đức phải chiến đấu trên 2 mặt trận, phía Đông là quân Nga, phía Tây là quân Anh - Pháp. Tình hình này mà tiếp tục kéo dài thì rất bất lợi cho Đức, vì họ không có dự trữ nhân lực và tài nguyên nhiều như các nước đối thủ. Mục tiêu của Đức lúc này là phát động một chiến dịch tấn công lớn nhằm loại một nước đối thủ khỏi cuộc chiến.
Tổng tham mưu trưởng Quân đội Đức, tướng Erich von Falkenhayn quyết định nhằm mũi tiến công chính vào quân Pháp thay vì quân Nga, vì ông cho rằng người Nga sẽ sớm phải rút khỏi chiến tranh vì họ đang có nguy cơ đối mặt với một cơn bão táp cách mạng. Một khi quân Pháp đại bại thì quân Anh sẽ cũng phải nản chí. Ông tin rằng mặc dù một bước đột phá lớn có thể sẽ không bao giờ xảy ra, tuy nhiên quân Pháp vẫn có thể bị đánh bại nếu phải chịu đựng quá nhiều tổn thất, Falkenhayn mô tả mục đích chiến dịch là cú "chích máu đến chết" dành cho quân Pháp. Do vậy ông đã chuẩn bị kế hoạch tấn công vào một vị trí mà người Pháp không thể rút lui, vừa do lý do chiến lược, vừa vì thể diện quốc gia. Do vậy, người Đức hy vọng dồn một gánh nặng của cuộc chiến tiêu hao sinh lực đối phương lên vai người Pháp. Xã Verdun sur Meuse được chọn làm vị trí "chích máu" vì tính chiến lược của nó:
Verdun này được bao vây bằng một vòng các pháo đài phòng thủ nhưng bị cô lập ba phía. Thông tin liên lạc của quân Pháp ở đây rất nghèo nàn. Nó là một cứ điểm quan trọng của người Pháp lấn sâu vào trong phòng tuyến quân Đức. Mặt khác, xã này bảo vệ con đường tiến trực tiếp đến Paris.
Chiếm được Verdun sẽ uy hiếp trực tiếp đến các nhà máy sản xuất pháo binh ở Briey-Thionville và khu công nghiệp sắt ở Metz, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền công nghiệp quốc phòng Pháp.
Verdun là một biểu tượng quốc gia của Pháp, người Pháp thà chết chứ không thể rút lui.
Quân Đức không phải di chuyển nhiều quân trong khu vực, nếu không vị trí được chọn sẽ là Somme. Quân Đức có đường xe lửa phục vụ hậu cầu chỉ cách đó 20 dặm, trong khi quân Pháp chỉ có một con đường tiếp liệu duy nhất từ Bar-le-Duc đến Verdun.
Do vậy, Verdun được xem như một phương tiện nhằm phá hủy tiềm lực quân đội Pháp hơn là một chiến dịch quân sự thông thường. Trong thư gửi cho Hoàng đế Đức (Kaiser) là Wilhelm II, Erich von Falkenhayn viết:
Và Hoàng đế đã tán thành với vị Thượng tướng này. Erich von Falkenhayn tập trung khoảng 42 sư đoàn với 10 sư đoàn trực tiếp tham gia trận đánh 10 sư đoàn dự trữ tuyến 2. Kế hoạch tấn công Verdun mang tên Chiến dịch Tòa án (Operation Gericht). Việc tập trung quân này không thoát khỏi sự chú ý của quân Pháp, trung tá Émile Driant chỉ huy Trung đoàn Kỵ binh 56 và 59 đã thông báo cho tổng chỉ huy quân Pháp về khu vực này. Thống chế chỉ huy quân đội Pháp lúc đó là Joseph Joffre liền gửi một lực lượng công binh đến để chuẩn bị. Tuy nhiên, tướng Herr chỉ huy ở Verdun phàn nàn "Mỗi khi tôi yêu cầu tăng cường lực lượng pháo binh, tổng hành dinh lại rút đi của tôi 2 khẩu pháo". Đến giữa tháng 1 năm 1916, sự chuẩn bị của quân Đức về cơ bản đã hoàn thành. Thông tin tình báo này đã được Phòng nhì Tình báo Quân đội Pháp (2è bureau) thuộc bộ tổng tham mưu quân đội Pháp xác nhận, bằng không ảnh và qua khai thác quân đảo ngũ người Alsace và người Lorraine, tuy nhiên tướng Joseph Joffre vẫn làm ngơ. Mặc dù Verdun được phòng thủ sơ sài do pháo binh hạng nặng đã được di chuyển khỏi các pháo đài, nhưng do thông tin tình báo tốt của Pháp cộng với sự chậm trễ tấn công của quân Đức vì lý do thời tiết xấu đã cho phép quân Pháp tăng cường hai Sư đoàn 72 và 51 của Tập đoàn quân 30 vào vị trí.
Binh lực đôi bên
Đức
Ngày 20 tháng 2, bốn tập đoàn quân Đức gồm những đơn vị tinh nhuệ và ưu tú nhất của Quân đội Đức đã tập kết gần Verdun, tổng quân số của Đức tham gia trận đánh lên đến hơn 1.000.000 quân, trang bị 1.200 khẩu pháo và súng cối, trong đó có hơn 500 khẩu pháo có cỡ nòng trên 200mm, toàn bộ các lực lượng trên liên kết lại dưới quyền tướng Erich von Falkenhayn và Hoàng Thái tử Wilhelm.
Mũi nhọn của cuộc tấn công là Tập đoàn quân số 5, với 350.000 binh sĩ, chiếm gần 1/4 binh lực quân Đức, sẽ đồng loạt tấn công pháo đài Douaumont mà trọng tâm là làng Bois des Caurers. Theo kế hoạch, pháo binh luôn đóng vai trò quan trọng cho việc hỗ trợ quân tấn công, nhưng lần này quân Đức sẽ tấn công với chiến thuật mới, tiếng pháo vừa dứt, bộ binh đồng loạt xung phong, các khẩu pháo sẽ được kéo theo sau để yểm trợ tức thì, giảm thiểu tối đa thiệt hại cho bộ binh.
Pháp
Do nắm được rất ít thông tin về kế hoạch của quân Đức nên trong thời điểm trước trận đánh chỉ có hai sư đoàn thuộc Tập đoàn quân số 30 Pháp đang đóng tại Verdun và các khu vực xung quanh, tuyến phòng ngự thứ nhất gồm các dãy hào và công sự phòng thủ xen kẽ, mà trung tâm là pháo đài Douaumont, do hai trung đoàn kinh kỵ binh Pháp trấn thủ. Hệ thống hỏa lực riêng của các pháo đài không được chỉ huy Pháp chú trọng, trên toàn tuyến quân Pháp chỉ có hơn 200 khẩu pháo, mỗi pháo đài chỉ có 30-50 binh sĩ bố phòng, tuyến tiếp tế duy nhất đến Verdun là Bar-le-Duc. Tuy gặp nhiều khó khăn trong công tác tổ chức phòng thủ, quân Pháp nắm trong tay nhiều cụm cứ điểm phòng ngự mạnh như pháo đài Vaux, cao điểm 304, cứ điểm Fleury.....pháo binh Pháp được cho là thiếu sức mạnh và phối hợp rất lỏng lẻo, nhưng lại được bố trí trên các ngọn đồi, dãy núi, giúp cho pháo có thể bắn trực xạ vào lực lượng tấn công với độ chính xác tuyệt đối. Giai đoạn đầu cuộc chiến, quân Pháp không có bất kỳ sĩ quan cấp tướng nào phụ trách việc phòng thủ Verdun, nhưng đến đêm ngày 24 tháng 2, ba ngày sau đợt tấn công thứ nhất của quân Đức, Tư lệnh quân Pháp-tướng Joseph Joffre đã báo động tình trạng khẩn cấp, quyết định tăng viện Tập đoàn quân Dự bị số 2 (190.000 quân, 180 khẩu pháo) do tướng Phillipe Pétain chỉ huy cho chiến trường Verdun
Trận chiến
Giai đoạn 1
Vào 7h sáng ngày thứ năm, 21 tháng 2 năm 1916, tự tin vào sự vượt trội của pháo hạng nặng của mình, quân Đức mở màn trận đánh bằng một trận pháo kích dữ dội kéo dài 9 giờ rưỡi với hơn 1.000.000 lượt pháo kích trên toàn chiến tuyến dài 40 km của 1.200 khẩu pháo các loại, bao gồm 542 pháo hạng nặng, với hy vọng nhanh chóng đập tan quân Pháp và san bằng toàn bộ phòng tuyến. Tổng cộng quân Đức đã bắn khoảng hơn 2.000.000 viên đạn pháo trong vòng 2 ngày đầu tiên của trận chiến tàn khốc. Vào khoảng 16h cùng ngày, 2 sư đoàn quân Đức tấn công trên một trận tuyến dài 6 km ở Bois des Caures, pháo binh Đức tiến hành cơ động theo ngay, nhằm tăng tầm hoạt động sau khi triển khai tiếp ngay trên địa hình đã cắt đứt liên lạc giữa hai tuyến của quân Pháp, quân Pháp ở Bois des Caures hoàn toàn bị nghiền nát dưới trận mưa đạn pháo. Chỉ sau vài tiếng đồng hồ pháo kích, toàn bộ khu rừng cây biến mất dưới trận mưa đạn. Quân Pháp với hai trung đoàn kị binh nhẹ 56 và 59 gồm 1.300 quân với súng trường, lựu đạn và lưỡi lê dưới sự chỉ huy của Émile Driant, đã chống trả khốc liệt 60.000 quân Đức với pháo binh hạng nặng trong vòng hai ngày. Lần đầu tiên, quân Đức sử dụng súng phun lửa để làm sạch các chiến hào. Ngày 23 tháng 2, Bois des Caurers thất thủ, quân Đức tiêu diệt được tướng Driant cùng với khoảng 1.200 binh lính, quân Pháp chỉ còn 100 người sống sót. Tuy nhiên, khoảng thời gian quý báu hai ngày đã cho phép quân Pháp tăng cường phòng thủ Verdun.
Tuy nhiên, quân Đức tiến quân rất chậm, thực tế là việc sử dụng pháo binh của quân Đức có lợi trong giai đoạn đầu nay lại gây ra những phiền phức cho lực lượng tấn công. Địa hình bị cày nát trở nên không ổn định và nguy hiểm, quân Đức liên tục phải tiến quân theo hàng dọc nhằm tránh những chướng ngại vật. Trái ngược hẳn lại tất cả những dự tính, quân Đức gặp phải những ổ đề kháng của quân Pháp trên đường tiến quân. Tại những vị trí tưởng chừng đã thất thủ của quân Pháp, những người sống sót đã tập trung lại và kháng cự, có lúc chỉ một khẩu súng máy đủ chặn đứng một trung đoàn. Quân Pháp trong tình trạng thảm hại của mình đã ngoan cố chống trả và làm chậm đáng kể bước tiến của quân Đức. Vào ngày 24 tháng 2, hàng phòng ngự thứ hai của quân Pháp bị chọc thủng, một phòng tuyến mới của quân Pháp được hình thành với 270 khẩu pháo cố gắng đáp trả. Hai sư đoàn Pháp nhanh chóng được gửi tới tăng viện cho lực lượng ngoài phòng tuyến. Cùng với những người sống sót sau trận pháo kích, họ đã chặn bước tiến của quân Đức.
Ngày 25 tháng 2, trung đoàn 24 Brandenburg Đức chiếm pháo đài Douaumont, với 60 quân phòng thủ. Đây được xem làm một diễn biến bất ngờ cho quân Đức, khi một binh sĩ Đức bị sức ép của pháo hất xuống hào của pháo đài. Anh quyết định bò vào bên trong pháo đài và phát hiện ra bên trong duy nhất chỉ còn một tên lính Pháp đang phòng thủ. Pháo đài này được xem như trung tâm của hệ thống phòng thủ Pháp. Đây là như một chiến thắng quan trọng cho quân Đức, mang lại thảm họa và làm tổn hại đến hệ thống phòng ngự của quân thù. Như thế người Đức đã có được lợi thế về chiến lược. Từ đây, pháo của quân Đức ở Douaumont chĩa trực tiếp đe dọa Verdun. Sự thất thủ của xã tưởng chừng là một điều hiển nhiên. Vì vậy, quân Pháp phản kích quyết liệt nhằm tái chiếm lại pháo đài này. Trong suốt thời gian của cuộc chiến, hai bên đã giao chiến với nhau 13 lần ở khu vực pháo đài này.
Giai đoạn 1 của trận Verdun kết thúc. Tuy nhiên những mục tiêu ban đầu của tướng von Falkenhayn đã không đạt được. Đó là một mặt trận bị giới hạn, địa hình tiến quân quá phức tạp. Mặt khác, sự tan rã của quân Pháp đã chứng minh cho kế hoạch ban đầu của quân Đức.
Giai đoạn 2
Tối ngày 24 tháng 2, tổng tham mưu trưởng quân Pháp, tướng Noël Édouard de Castelnau khuyên tướng Joseph Joffre gửi ngay Tập đoàn quân số 2 dưới sự chỉ huy của đại tá Phillipe Pétain ra mặt trận. Đây là tập đoàn quân dự trữ chiến lược, đặt dưới sự chỉ huy của Pétain từ năm 1915. Joffre quyết định cử Pétain làm tổng chỉ huy mặt trận Verdun. Pétain là một con người thực dụng, ông quyết định tăng cường hỏa lực pháo binh cho chiến tuyến, hàng phòng thủ của quân Pháp được tổ chức lại, tạo thành một tuyến nối hai bờ sông Meuse các pháo đài cũng được tăng cường hỏa lực. Bên cạnh đó, ông cũng tăng cường hỗ trợ hậu cần. Ngày 27 tháng 2, quân Đức bắt đầu tấn công vào làng Douaumont nhưng bị liên tục bị đẩy lùi. Thời tiết xấu với mưa tuyết nặng hạt và sự phòng ngự bền bỉ của Trung đoàn 33 Pháp đã cầm chân quân Đức tại đây, sau một tuần giao chiến quân Đức chỉ chiếm được cánh trái của làng. Điều này đã giúp cho quân Pháp kịp chuyển 90.000 quân và 23.000 tấn vũ khí ra đến Verdun qua tuyến đường giữa Bar-le-Duc đến Verdun. Đây là tuyến đường huyết mạch duy nhất nuôi sống phòng tuyến Verdun, được mệnh danh là Con đường thần thánh (La Voie Sacrée). Mặt khác, trái với đề nghị của các chỉ huy khu vực, Pétain ra lệnh cấm tổ chức bất kỳ cuộc phản công nào để tránh tổn thất lực lượng.
Tương tự như nhiều cuộc tấn công khác ở mặt trận phía tây, lực lượng Đức bị dần mất uy lực yểm trợ của pháo binh. Do bị pháo kích liên tục, địa hình mặt trận bị biến thành một biển bùn dẫn tạo nên khó khăn lớn cho sự di chuyển của pháo binh. Mặt khác, các mũi tiến công của quân Đức rơi vào tầm bắn của pháo binh Pháp ở bờ tây của sông Meuse. Tập đoàn quân số 5 của Đức tấn công với số lượng lớn ở hướng nam của bờ đông sông Meuse, ngày càng gặp phải tổn thất nặng hơn. Lực lượng này liên tục bị tấn công tạt sườn bởi pháo binh của Pétain ở bờ tây. Ngày 2 tháng 3, khi chiếm được làng Douaumont, toàn bộ 4 trung đoàn của quân Đức đã hoàn toàn bị tiêu diệt.
Không có khả năng tiến quân xa hơn, ngày 6 tháng 3, quân Đức quyết định chuyển hướng tấn công. Bên bờ tây (bờ trái) là các cứ điểm Le Mort Homme, Bois des Bourrus, Bois de Cumière và Bois des Corbeaux. Các đơn bị đặc biệt tinh nhuệ của quân Đức vượt sông Meuse ở Brabant và Champneuville, mục tiêu chính là các cứ điểm trên đồi 304 và đồi Le Mort Homme là nơi tập trung các khẩu trọng pháo của Pháp, không chiếm được hai cứ điểm này, quân Đức không thể uy hiếp được Verdun từ cánh phải. Kết thúc ngày 6 tháng 3, lực lượng tấn công Đức đã hội quân được với lực lượng vượt sông. Trong ngày này cứ điểm Bois des Corbeaux thất thủ, quân Đức tiến sâu thêm và bắt rất nhiều tù binh Pháp và đặt hàng loạt đơn vị Pháp trong vòng vây, đây được xem như bước tiến quan trọng của người Đức từ đầu chiến dịch. Nhưng cũng từ thời điểm này, quân Pháp sau khi bị đánh tan đã xốc lại đội hình và hai bên giành giật nhau từng thước đất, các tổ chiến đấu của Pháp kháng cự tới người cuối cùng, tới viên đạn cuối cùng.
Sáng sớm ngày 8 tháng 3, quân Pháp tổ chức phản công chiếm lại Bois des Corbeaux khiến quân Đức phải hủy bỏ kế hoạch sử dụng đây như bàn đạp tấn công đồi Le Mort Homme. Đến ngày 9 tháng 3 quân Đức tiến công cứ điểm Le Mort Homme. Nhưng ở đây họ lại phơi mình trực tiếp ra trước tầm đạn pháo của người Pháp và tiếp tục chịu tổn thất khủng khiếp. Sang đến ngày 10 tháng 3, người Đức lại chiếm lại Bois de Corbeaux với cái giá là 70% lực lượng tấn công bị tiêu diệt. Sau 5 ngày tấn công liên tục, quân Đức hoàn toàn kiệt quệ và không còn khả năng tấn công.
Sang đến ngày 14 tháng 3, quân Đức với lực lượng tăng viện tiếp tục tổ chức tấn công vào đồi Le Mort Homme, trận đánh được bắt đầu bằng một cơn mưa pháo kích xuống đầu quân phòng thủ và tiếp đó la vũ khí hóa học. Quân phòng thủ Pháp chiến đấu dũng cảm đến người cuối cùng nhưng không thể cản được bước tiến của quân Đức. Họ bị đẩy khỏi đỉnh Le Mort Homme, tuy nhiên vẫn trụ lại ở sườn phía nam của quả đồi. Trong khi đó, quân Pháp sử dụng cao điểm 304 làm nơi yểm trợ hỏa lực cho đồi Le Mort Homme. Pháo binh ở đây bắn với sự chính xác cao độ, gây nên những thiệt hại không nhỏ cho quân Đức. Do vậy, người Đức hiểu rằng muốn chiếm được Le Mort Homme, phải tiêu diệt được cao điểm 304. Đến ngày 20 tháng 3, cao điểm 304 hoàn toàn bị Sư đoàn 11 Bavaria của Đức bao vây, nhưng không một lính Đức nào chạm được tới đỉnh đồi do quân Pháp chống trả kịch liệt, tuy nhiên họ lại bi Sư đoàn 11 quét sạch khỏi Bois d'Avocourt và các làng Malancourt và Bethincourt.
Mặt khác, ở bờ đông (bờ phải) của sông Meuse, quân Đức cũng tổ chức tấn công vào pháo đài Vaux. Tuy nhiên do chậm trễ về hậu cần đã làm chậm kế hoạch tấn công của người Đức. Ngày 7 tháng 3, quân Đức với 5 sư đoàn từ pháo đài Douaumont tổ chức tấn công vào các cứ điểm bờ phải sông là pháo đài Vaux, Côte du Poivre và Avocourt. Tuy nhiên trước sự chuẩn bị chắc chắn của người Pháp, quân Đức đã không tiến sâu được nhiều, họ chỉ chiếm được những làng ở ngoại vi Vaux và bị chặn đứng ở Côte du Poivre, đây được xem như mốc son cho sự phòng thủ của người Pháp. Sang đến ngày 9 tháng 3, quân Đức chỉ tiến đến sát được dãy hào vòng ngoài của pháo đài Vaux, người Pháp đã rút kinh nghiệm từ các trận đánh ở pháo đài Douaumont, Pétain đã tái vũ trang đầy đủ lại tất cả những pháo đài còn lại của mình.
Kết thúc giai đoạn 2 của cuộc chiến, mặc dù đạt được một số thành công nhưng quân Đức không tạo được một bước ngoặt nào thực sự quan trọng, họ bị chặn đứng trên toàn bộ trận tuyến. Đây là những trận đánh cực kì đẫm máu, với tổn thất khủng khiếp về người cho cả hai bên với phía quân Đức là 54.000 người và phía quân Pháp 65.000 người chỉ trong tháng 3 trung bình mỗi ngày có khoảng 4.000 người thiệt mạng. Những trận đánh này được mệnh danh là "chiến tranh của những chiến tranh". Hàng loạt đơn vị Pháp bị xóa sổ gần hoặc phải xây dựng lại hoàn toàn, Pétain yêu cầu sự chi viện của Joffre nhưng ông này đang chuẩn bị tập trung quân cho trận đánh ở sông Somme sau này. Điều này làm Pétain tuyên bố "Bộ tổng chỉ huy gây cho tôi nhiều phiền phức hơn là kẻ thù" (Le GQG me donne plus de mal que les Boches).
Giai đoạn 3
Ngày 9 tháng 4, người Đức thay đổi chiến thuật tấn công, họ tổ chức tấn công đồng loạt trên tất cả các cứ điểm. Bên bờ tây người Đức tổ chức tấn công cùng lúc vào cao điểm 304 và đồi Le Mort Homme. Cùng với quân số và khí tài tăng viện, tướng Đức Max von Gallwitz nhận được lệnh phải quét sạch quân Pháp ở đây. Trong khi đó, quân Pháp hoàn toàn kiệt quệ và không còn lực lượng dự trữ, tuy nhiên hỏa lực mạnh của pháo binh Pháp đã đẩy lùi quân Đức tại đồi Le Mort Homme. Quân Đức chỉ chiếm được phần chân đồi và cao điểm thấp nhất với tổn thất lớn về nhân mạng, các cao điểm quan trọng vẫn nằm trong tay người Pháp. Đây được xem như trận đánh khốc liệt nhất ở bờ tây sông, lực lượng tham chiến cả hai bên chỉ còn 1/10. Tại cao điểm 304, quân Đức cố gắng chọc thủng phòng tuyến của quân Pháp, nhưng cũng chỉ cũng chỉ chiếm được dãy hào thứ nhất tại rìa chân đồi, người Pháp vẫn tiếp tục đứng vững trước quân Đức và ra sức phản kích quyết liệt. Bên kia sông, quân Đức nỗ lực chiếm pháo đài Vaux, sang đến ngày 10 tháng 4, người Đức chiếm được đống đổ nát của khu làng Vaux sau 24 giờ chiến đấu. Pétain nổi tiếng với mệnh lệnh ngày hôm đó "Những đợt tấn công điên cuồng của quân đội đế chế Đức đã bị đập tan khắp nơi. Dũng cảm lên, chúng ta sẽ có chúng" (Les assauts furieux des armées du Kronprinz ont partout été brisés. Courage... on les aura). Từ cao điểm 304, người Pháp sử dụng hỏa lực từ pháo binh, các khí cầu và máy bay khiến cho quân Đức không thể thiết lập các vị trí phòng thủ cũng như bố trí pháo binh tấn công. Trong 12 ngày kế tiếp, trời mưa liên tục đã biến bãi chiến trường thành một biển nước ngập đến đầu gối. Sau đó các trận phản kích của quân Pháp đã đẩy quân Đức ra khỏi các cao điểm 304 và Le Mort Homme. Cho đến hết tháng 4, trên toàn mặt trận không có một trận đánh nào đáng kể.
Cũng trong thời gian này, tướng von Gallwitz đã thuyết phục thành công chỉ huy của mình là tướng Schmidt von Knobelsdorf với quan điểm sẽ là vô nghĩa nếu tấn công đồi Le Mort Homme khi chưa hạ được cao điểm 304, người Đức âm thầm chuẩn bị cho một trận đánh mới, Sư đoàn 11 Bavaria sau một thời gian chiến đấu cũng đã hao tổn nặng nề được lệnh thay thế. Tướng von Gallwitz, nguyên là một sĩ quan pháo binh, quyết định tập trung hỏa lực pháo binh cho trận đánh này, ba sư đoàn Đức và hơn 500 khẩu pháo được tập kết trong một khu vực có chiều ngang chưa đầy 2 km.
Giai đoạn 4
Đến thời điểm này, bộ tham mưu quân Đức bắt đầu cảm thấy lo ngại về sự suy giảm chất lượng chiến đầu của quân sĩ ngoài tiền tuyến. Người Đức đưa một binh đoàn ra tiền tuyến trong vòng nhiều tháng liền, các thiệt hại được bổ sung bằng các tân binh trẻ 18 tuổi, hoàn toàn không có kinh nghiệm chiến đấu. Vì vậy, khả năng sống sót của họ là không cao. Người Pháp thì ngược lại, Pétain sử dụng chiến thuật quay vòng. Mỗi một sư đoàn Pháp chiến đấu ở mặt trận trong một thời gian ngắn, rút về tuyến sau và được thay thế bằng một sư đoàn khác. Do vậy, quân Pháp luôn có lực lượng mới để chiến đấu, khoảng 70 trên tổng số 90 sư đoàn Pháp đều đã chiến đấu ở Verdun, trong khi chỉ có 25% quân Đức tham gia trận đánh. Một câu nói phổ biến trong quân đội Pháp thời kì này là:"Verdun, tôi đã ở đó" (Verdun, j'y étais).
Tuy nhiên, đến đây lại xảy ra lục đục ở bộ tổng tham mưu quân Pháp. Tướng Pétain bất hòa với tướng Joffre về quan điểm phòng ngự. Joffre cho rằng Pétain quá thụ động, quan trọng hơn khi Pétain yêu cầu kéo dài thời gian nghỉ ngơi cho binh sĩ, Joffre đã cho rằng điều này sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch phản công ở Somme. Cuối cùng, Pétain bị điều lên làm tổng chỉ huy tập đoàn quân trung tâm, vị trí của ông ở Verdun được thay thế bằng Robert Nivelle, một viên tướng thiên về quan điểm tấn công. Cánh tay phải Nivelle là tướng Charles Mangin, được mệnh danh là "gã đồ tể", với lý do luôn yêu cầu thực hiện những cuộc tấn công không ngừng nghỉ nhằm chiếm lại pháo đài Douaumont.
Sáng ngày 3 tháng 5, người Pháp chịu tổn thất kinh hoàng nhất từ đầu trận đánh khi 500 khẩu pháo đồng loạt khai hỏa trong vòng 36 giờ liên tục xuống đỉnh 304. Trận pháo kích khủng khiếp này thậm chí làm cao điểm 304 thấp đi 7m, phòng tuyến quân Pháp trở nên hỗn loạn trong cơn mưa đạn. Vào đêm thứ hai của cuộc pháo kích, quân Đức dễ dàng chiếm được cao điểm 304 sau khi quân Pháp đã bị bẻ gãy. Tuy nhiên, họ lại mất tiếp ba ngày với những trận đánh giáp lá cà đẫm máu trước khi hoàn toàn nắm giữ được cao điểm này, tổng cộng có khoảng 10.000 lính Pháp đã chết tại cao điểm này.
Sau khi cao điểm 304 thất thủ, số phận của Le Mort Homme nhanh chóng được định đoạt. Tất cả các họng pháo của quân Đức chuyển mục tiêu mới, một cơn bão lửa tương tự dội xuống đồi Le Mort Homme, quân Pháp ở đây hoàn toàn sụp đổ. Sự hỗn loạn xảy ra cả ở phía quân Đức, 13 trung đoàn quân Đức trên tuyến phòng ngự mất hoàn toàn liên lạc. Máy bay trinh sát xác định cột khói bụi ở Le Mort Homme có độ cao đến 800 mét.
Trong khi đó, bên bờ đông của sông Meuse, một tai nạn kinh hoàng khác xảy ra cho quân Đức tại pháo đài Douaumont. Sáng ngày 8 tháng 5, do bất cẩn khi chuẩn bị bữa sáng, kho xăng của súng phun lửa phát nổ, tạo ra một tiếng nổ khủng khiếp. Vụ nổ này phủ một lớp bồ hóng lên rất nhiều binh lính Đức sống sót. Bị chấn động bởi tiếng nổ, quân Đức nhầm lẫn những người lính Đức với khuôn mặt đen bóng vì bồ hóng với binh lính thuộc địa da đen của quân Pháp. Người Đức liền nổ súng vào chính những đồng ngũ của mình. Kết thúc ngày hôm đó, cùng với hậu quả của vụ nổ kho lựu đạn và súng phun lửa, người ta đếm được hơn 700 xác chết. Những người chết được cho vào một căn phòng trong pháo đài và xây tường bít kín lại. Ngày nay bức tường và di thể của những người lính Đức vẫn còn trong căn phòng đó. Sự cố này ảnh hưởng nghiêm trọng đến kế hoạch tấn pháo đài Vaux, Bois de la Caillette và cụm phòng thủ Thiaumont của người Đức. Đến thời điểm này, người Đức nhận thấy, không chỉ quân Pháp, chính họ cũng đang bị "trích máu cho đến chết" trong cuộc chiến khủng khiếp này.
Ngày 13 tháng 5, sau cuộc họp của bộ tổng tham mưu, quân Đức đã quyết định thay đổi hướng tấn công. Dựa trên tình hình, người Đức quyết định để cánh quân ở bờ tây nghỉ ngơi, và triển khai tấn công ở bờ đông với hai sư đoàn của Tập đoàn quân số 3. Từ đó, mục tiêu kế tiếp của người Đức là pháo đài Vaux.
Tuy nhiên, quân Pháp lại tổ chức phản công trong sự kinh ngạc của người Đức. Từ ngày 16 đến ngày 22 tháng 5, pháo đài Douaumont bị pháo kích nặng nề, lực lượng cả hai bên sử dụng pháo cỡ lớn và lựu đạn hóa học, rạng sáng ngày 22 tháng 5, hai trung đoàn bộ binh Pháp dưới sự chỉ huy của tướng Charles Mangin chiếm được nóc của pháo đài Douamont, và thậm chí là được một phần của pháo đài. Pháo binh của hai bên hoạt động hiệu quả đến mức lực lượng cả hai bên bị đều bị cắt khỏi hậu quân, trong số 200 quân tấn công, chỉ có 40 quân Pháp có khả năng đến được nóc pháo đài. Sau hai ngày quyết đấu đẫm máu với những trận đánh giáp lá cà mặt đối mặt, quân Đức phòng thủ được tăng viện, trong khi quân Pháp bị đẩy bật khỏi pháo đài do kiệt quệ về vũ khí và bị tràn ngập về số lượng, hơn 1.000 lính Pháp bị bắt làm tù binh. Kết cục toàn bộ lực lượng tấn công chỉ còn vài người sống sót quay về tới Verdun, trận đánh này đã gây ra một hậu quả tâm lý khủng khiếp cho người Pháp, tướng Mangin ngay lập tức bị cách chức.
Ngày 1 tháng 6, bằng việc sử dụng tập trung súng phun lửa và pháo binh, quân Đức chiếm được Bois de la Caillette, Bois Fumin thẳng đường tiến đến pháo đài Vaux. Mất cứ điểm này, pháo đài Vaux bị uy hiếp do không còn hỏa lực hỗ trợ, quân Pháp ở đây có 600 quân, dưới sự chỉ huy của thiếu tá Sylvain Raynal. Rạng sáng ngày 2 tháng 6, pháo đài Vaux hứng chịu một trận bão lửa của quân Đức với khoảng 1.500 đến 2.000 quả đạn/giờ. Quân Đức hoàn toàn bao vây pháo đài và chiếm một số cửa, cuộc chiến ác liệt diễn ra, giành giật nhau từng đường hầm một. Sự phòng thủ từ pháo đài và phòng tuyến cộng với sự yểm trợ chính xác của pháo binh, tạo thành một hàng rào chặn bước tiến quân Đức. Sylvain Raynal tổ chức phòng thủ kiên cường trong điều kiện không còn vũ khí và đặc biệt cạn kiệt nước uống. Đến ngày 7 tháng 6, khi tình hình không còn có thể kiểm soát nổi, Raynal quyết định đầu hàng với điều kiện bảo toàn danh dự của toàn bộ lực lượng đồn trú. Người Đức chấp nhận, đích thân Hoàng thái Đức, Friedrich Wilhelm Victor August Ernst ra đón chào Raynal, tặng ông một thanh kiếm để bày tỏ lòng ngưỡng mộ. Sau này, ba người Driant, Pétain và Raynal được coi là những người hùng của nước Pháp trong trận Verdun. Liền sau vài ngày sau đó, quân Pháp tổ chức phản công chiếm lại pháo đài nhưng thất bại và phải chịu một tổn thất nặng nề. Kết quả là Nivelle bị Pétain nghiêm cấm tổ chức bất kì cuộc phản kích nào. Sau đó, pháo đài Vaux trở thành một cứ điểm vững chắc làm bàn đạp cho những cuộc tấn công tiếp theo của quân Đức.
Trong khi đó, vào ngày 4 tháng 6 năm 1916, trên Mặt trận phía Đông, Đại tướng Nga Aleksey Alekseyevich Brusilov đã phát động Chiến dịch Tổng tấn công nhằm vào Quân đội Áo-Hung, và sự thảm bại của quân Áo-Hung đã buộc quân Đức phải chi viện 10 Sư đoàn cho họ, làm giảm bớt gánh nặng cho quân Pháp tại Verdun.
Giai đoạn 5
Ngày 22 tháng 6, ba tập đoàn quân Đức tổ chức tấn công dọc phòng tuyến Fleury và pháo đài Souville. Sau khi pháo kích với đạn nổ và khí gas mới, và sự im lặng của quân Pháp, quân Đức tiến quân. Trái với sự mong đợi, đợt pháo kích mở màn gây ra rất ít tổn thất cho người Pháp và họ tổ chức kháng cự kịch liệt. Cuộc chiến diễn ra ác liệt nhất tại làng Fleury, binh lính hai bên giành giật nhau từng thước đất. Sau hai ngày giao chiến ác liệt quân Đức chiếm được cứ điểm Thiaumont, pháo đài Souville vẫn đứng vững.
Vào thời điểm này, quân Pháp tại Verdun đã rơi vào tình trạng hoảng loạn. Pétain và Nivelle thậm chí đã tính đến việc rút lui toàn bộ bờ tây sông Meuse. Tuy nhiên, Pétain e ngại việc rút quân sẽ gây ra một tâm lý hoảng loạn cho người Pháp. Bộ tổng chỉ huy Pháp lúc này chấp nhận bảo vệ Verdun bằng mọi giá, thất bại của Verdun bị coi là thất bại của nước Pháp. Để trấn an tinh thần binh sĩ, Joffre và de Castelnau tuyên bố gửi 4 sư đoàn tăng viện, nhưng thực tế là các sư đoàn này được gửi đến mặt trận Somme. Mangin được gọi trở lại chiến trường.
Vào lúc này, người Đức cũng trong tình trạng không khá hơn gì nhiều. Tập đoàn quân số 5 Đức bị yêu cầu phải tiết kiệm sinh lực và vũ khí do chỉ còn khoảng 1/3 binh lực (~100.000 so với 300.000 quân ban đầu), các tập đoàn quân còn lại cũng trong tình trạng tồi tệ, chỉ còn 50-80.000 quân đủ khả năng tham chiến, quân tăng viện không thể đáp ứng các yêu cầu của Bộ Tư lệnh do hầu hết là tân binh. Tướng von Knobelsdorf cân nhắc đến việc mở cuộc tấn công cuối cùng, nhưng những vùng đất mà quân Đức chiếm được lại không thể giữ lâu mà cũng không thể bỏ. Sự chú ý lúc này của người Đức chuyển sang mặt trận Somme và mặt trận phía Đông. Ngày 1 tháng 7, trận Somme mở màn khiến binh lực cả hai bên phải dồn sang để chia sẻ nhưng không vì thế mà cuộc chiến ở đây bớt quyết liệt (quân Đức chuyển 9 sư đoàn tới Somme, trong khi quân Pháp là 13 sư đoàn). Hai bên vẫn liên tục tấn công và phản kích lẫn nhau trong tình trạng kiệt quệ về vũ khí và sức lực.
Người Đức lại thay đổi chiến thuật, thay vì tấn công đồng loạt, họ tập trung hỏa lực vào một mũi nhằm tăng hiệu quả. Lần này họ tập trung vào giữa Bois de Chapitre và Fleury, một cánh khác tấn công pháo đài Tavannes. Sau khi bắn 63.000 quả đạn hóa học vào phòng tuyến quân Pháp, 40.000 quân Đức tấn công. Tại đây họ kinh ngạc phát hiện ra người Pháp đã có mặt nạ phòng độc thế hệ mới, và chúng hoạt động vô cùng hiệu quả, hỏa lực pháo binh và súng máy của quân Pháp mãnh liệt đến mức, người Đức không thể tiến lên tạo ra một sự hỗn loạn kinh khủng cho quân Đức. Thậm chí, chỉ huy Trung đoàn 3 từ chối tiến quân vì không muốn hy sinh vô ích tân binh, Cuối cùng người Đức cũng chọc thủng được hàng phòng thủ, cứ điểm Fleury cũng thất thủ, quân Đức chỉ còn cách pháo đài Souville khoảng 500 mét. Tuy nhiên, thay vì tận dụng được lỗ thủng của phòng tuyến đối phương để tấn công Verdun, tạo bước ngoặt cho trận đánh, các chỉ huy Đức lại quyết định tấn công pháo đài Souville. Tình cờ, lực lượng ở đây lại được tăng viện thêm một đại đội quân Pháp rút chạy từ các nơi về.
Sáng ngày 12 tháng 7, 27.000 quân Đức tấn công pháo đài Souville, tuy nhiên chỉ có hai đại đội của Trung đoàn Bộ binh 147 là có khả năng tấn công. Cuối cùng một bộ phận nhỏ cũng chiếm được nóc pháo đài, tuy nhiên do không có lực lượng tăng viện cũng như mất hỏa lực yểm trợ từ pháo binh, họ nhanh chóng bị quân thù đẩy lui. Cũng trong ngày này, khi ca ngợi sự ngoan cố và đấu tranh bằng chết của quân Pháp, tướng Nivelle kết thúc bằng câu nói nổi tiếng "Chúng sẽ không vượt qua" (Ils ne passeront pas), phấn khích quân sĩ và nhân dân Pháp đang uể oải. Kể từ thời điểm này trở đi, tướng Falkenhayn yêu cầu ngừng tiến công để chuyển một phần pháo, đạn dược và quân lính sang mặt trận phía Đông và mặt trận Somme. Các cuộc đụng độ chỉ diễn ra ở quy mô rất nhỏ. Ngày 15 tháng 7, tướng Mangin liều lĩnh tổ chức một cuộc phản kích vào Fleury, tuy nhiên, do không có được sự hỗ trợ của pháo binh, quân Pháp chịu thiệt hại lớn.
Sang đến tháng 8, quân Đức quyết định tổ chức một cuộc tấn công nữa vào Fleury, hai bên giành giật nhau cứ điểm Fleury đến ngày 17 tháng 8 thì Đức chiếm được nhưng lại chịu một đòn phản kích của quân Pháp nên phải rút lui. Lúc này, tại tổng hành dinh của quân Đức, người ta không còn bất kì hy vọng gì về một chiến thắng, tất cả lực lượng dữ trữ của quân Đức đều cạn kiệt. Tuy nhiên cuộc chiến giữa hai bên vẫn tiếp tục, chiến tuyến trở thành một bể bùn khổng lồ do sự cày phá của đạn pháo cả hai bên. Quân sĩ cả hai bên đều trong tình trạng tuyệt vọng, không có vũ khí, đạn dược, nước uống, hai bên chỉ ra sức củng cố hầm hào, công sự hòng chờ đợi cuộc tấn công cuối cùng, mặt trận tương đối tĩnh lặng trong thời gian này.
Tuy nhiên, ngày 4 tháng 9, một thảm họa xảy ra cho quân Pháp tại đường ngầm Tavannes, vốn là nơi tập trung dự trữ đạn dược và trú quân của người Pháp từ đâu cuộc chiến. Đoạn đường này dài 1.300 mét, nối liền Verdun và Metz, được xem như điểm phòng thủ chiến lược cho người Pháp. Sáng ngày 4 tháng 9, do một tai nạn khiến lửa bắt nổ vào kho đạn, và phát hỏa toàn bộ hệ thống chiếu sáng bên trong. Toàn bộ đường ngầm biến thành một hỏa ngục. Quân Pháp hoảng loạn, không để lỡ thời cơ, quân Đức tập trung hỏa lực bắn vào đường hầm làm tình cảnh tồi tệ hơn. Nhờ đó, họ đã tiêu diệt được khoảng hơn 500 lính Pháp.
Giai đoạn 6
Cuộc chiến dai dẳng giữa hai bên tiếp tục, đến cuối tháng 8, bộ chỉ huy quân Đức trở nên mệt mỏi. Tướng von Knobelsdorf bị cách chức, tướng Von Falkenhayn bị thuyên chuyển đến România. Kaiser Wilhelm II chỉ định Thống chế Paul von Hindenburg làm Tổng Tham mưu trưởng và Erich Ludendorff làm Thượng tướng Bộ binh, Phó Tổng Tham mưu trưởng thứ nhất của Quân đội Đức. Dưới áp lực của Hoàng thái tử Wilhelm, Ludendorff buộc phải ngừng mọi cuộc tấn công trên toàn mặt trận. Tuy nhiên, không may cho người Đức, quân Pháp lúc này không muốn kết thúc trận đánh. Họ tiếp tục tấn công vào các vị trí của quân Đức-vốn đã chịu quá nhiều tổn thất từ đầu cuộc chiến, trở nên rất khó phòng thủ. Do vậy, quân Đức tiếp tục gánh chịu những tổn thất lớn hơn. Quân Pháp tổ chức một kế hoạch phản công tỉ mỉ với lực lượng tăng viện mới, hơn 40 sư đoàn tăng viện với gần 500.000 quân từ Paris được đưa tới Verdun để củng cố. Cùng lúc đó, Nivelle đưa ra một chiến thuật tấn công mới, lực lượng bộ binh sẽ tiến quân cùng lúc theo tầm bắn của pháo binh. Như vậy, khi pháo binh vừa bắn dứt, thì bộ binh đồng thời tiến sát tới phòng tuyến đối phương. Để phục vụ cho chiến thuật tấn công này, ông cho thiết lập một hệ thống điện thoại đặc biệt nhằm phối hợp chính xác tọa độ giữa bộ binh và pháo binh. Ông cho sử dụng siêu pháo Creusot-Schneider 400 mm và cho xây dựng hẳn một hệ thống đường sắt để vận chuyển pháo từ Verdun ra chiến trường.
Sáng ngày 21 tháng 8, quân Pháp tổ chức phản công, sau một ngày bắn cấp tập, gây nên sự hoảng loạn lớn cho quân Đức. Tuy nhiên, vào ngày hôm sau, pháo binh Pháp đột nhiên im lặng. Quân Đức đang trong tình thế chờ đó một cuộc tiến công bộ binh, bèn nổ pháo bắn và bị lộ vị trí. Ngay lập tức, quân Pháp phản pháo, tiêu diệt 70% lực lượng pháo binh Đức. Sang đến ngày 23 tháng 8, pháo hạng nặng Creusot-Schneider trực tiếp đe dọa Douaumont, hai phát đạn bắn trúng vào trung tâm của pháo đài làm hư hỏng toàn bộ hệ thống chiếu sáng và một phát đạn bắn trúng vào quân y viện bên trong pháo đài, giết sạch tất cả những người có mặt, quân Đức chịu tổn thất nặng nề buộc phải cho rút lui khỏi Douaumont. Tuy nhiên, đại úy Prollius và vài người lính vẫn quyết định ở lại pháo đài. Sáng hôm sau, quân Pháp tiến quân, chiến thuật mới của Nivelle tỏ ra rất hoàn hảo, quân Đức bị đẩy lùi trên phần lớn chiến tuyến, pháo đài Douaumont nhanh chóng bị thất thủ. Tại chiến tuyến giữa pháo đài Vaux và Bois de Fumin, quân Pháp chịu rất nhiều tổn thất. Tuy nhiên, đến tối ngày hôm đó, lực lượng phòng ngự Đức ra đầu hàng.
Sáng ngày 24, quân Pháp tổ chức tấn công vào pháo đài Vaux mặc dù không có sự yểm trợ của pháo binh. Tại đây súng máy của quân Đức gây thiệt hai khủng khiếp cho quân địch, tiêu diệt được khoảng 1.000 lính. Một ngoại lệ đã diễn ra, cả hai bên cùng ngưng bắn để thu dọn xác chết. Trước áp lực mới của quân Pháp, lực lượng ở pháo đài Vaux bị cắt rời khỏi cánh quân chính. Do vậy lần đầu tiên, Quân đội Đức đề cấp khái niệm rút lui chiến thuật. Được sự đồng ý của Thượng tướng Ludendorff, quân Đức rút lui khỏi pháo đài. Quân Pháp chỉ biết được điều này khi nghe radio vào sáng hôm sau.
Trước thắng lợi này, Nivelle được cử làm tổng chỉ huy quân đội Pháp, thay thế vị trí của Joseph Joffre, Mangin làm tổng chỉ huy mặt trận Verdun. Mangin quyết định tổ chức tiếp một đợt phản kích vào các vị trí của quân Đức. Ngày 11 tháng 12, quân Pháp tiếp tục tấn công theo chiến thuật mới, tuy nhiên họ vấp phải sự kháng cự mãnh liệt của quân Đức và phải gánh chịu tổn thất nặng nề. Cuối cùng, người Pháp cũng giành lại được các cứ điểm Bezonvaux, Bois de Hassoule, Bois de Chauffour và Louvemont, đẩy lui người Đức về các vị trí trước ngày 21 tháng 2. Đến ngày 19 tháng 12, Bộ Tổng Tham mưu Đức thừa nhận chiến dịch Verdun đã hoàn toàn thất bại, với hơn 11.000 binh sĩ và sĩ quan ra đầu hàng quân Pháp. Số còn lại không chịu tiếp tục tham chiến, do vậy toàn bộ Quân đội Đức buộc phải rút lui về vị trí ban đầu. Chiến dịch Verdun đã kết thúc bế tắc với phần thắng nghiêng về quân Pháp. Mặc dù rất đẫm máu, nhưng Chiến dịch đã không thể quyết định người thắng kẻ thua trên Mặt trận phía Tây. Cảnh tượng bãi chiến trường Verdun sau Chiến dịch rất khủng khiếp, với đầy thây của các binh sĩ trận vong.
Kết quả
Sau 10 tháng giao tranh khốc liệt, hai bên gánh chịu những thiệt hại kinh khủng. Theo con số chính thức mà Pháp công bố năm 1916, thiệt hại của quân Pháp là 350.231 người, trong số đó có 162.308 người bị chết. Theo thống kê năm 1918, thiệt hại của quân Đức ước chừng khoảng 337.000 người, trong số đó 100.000 người chết. Vậy rõ ràng, quân Pháp tổn hại có phần nhiều hơn quân Đức. Tổng số thiệt hại của hai bên lên đến 714.231 người. Theo tác giả Jan Philipp Reemtsma, tổng số tử sĩ ở Verdun là 698.000 quân, trong đó bao gồm 362.000 quân Pháp và 336.000 quân Đức. Trong khi đó, kết quả của trận đánh là không bên này thu được thêm một phần đất nào của đối phương hay bất kì một chiến thắng chiến lược nào. Tuy người Đức đã phần nào gặt hái được thành công trong kế hoạch "hút sạch máu" quân thù, bản thân họ cũng bị "chích máu" và phải chấm dứt chiến lược "Phía Tây" của mình. Và Chiến dịch Verdun được coi là một chiến thắng kiểu Pyrros - tức là một chiến thắng phải trả giá quá nặng - của người Pháp, tiếp nối những chiến dịch vô ích của họ ở Champagne và Artois. Tuy có những người coi trận Verdun là biểu trưng cho tinh thần bất khất của dân tộc Pháp, có ý kiến xem đây là một chiến thắng kiểu Pyrros mẫu mực. Mặc dù cuộc chiến đấu đã gia tăng đáng kể tinh thần người Pháp, nước Pháp bị khánh kiệt, gây nên những nghi vấn về thắng lợi cuối cùng của cuộc chiến. Năm 1917 - là năm theo sau chiến thắng đắt giá ở Verdun, chứng kiến những vụ nổi loạn của binh sĩ Pháp. Quân đội Pháp cũng không thể hoàn toàn hồi phục sau Chiến dịch khốc liệt này và từ đó họ phải dựa dẫm vào người Anh trên Mặt trận phía Tây của cuộc Đại chiến (chưa kể là chính thắng lợi của họ ở Verdun cũng là nhờ có Chiến dịch Somme của quân Anh và Chiến dịch Brusilov của quân Nga trên Mặt trận phía Đông). Có thể thấy, sau Cách mạng Tháng Mười Nga và sự kiện nước Nga rời khỏi cuộc chiến, Pétain - người hùng trận Verdun đã tuyên bố vào năm 1918 rằng gánh nặng chiến tranh thuộc về quân Anh và quân Mỹ mới tham chiến. Không chỉ quân lực Pháp mà cả nước Pháp có lẽ cũng không bao giờ trở lại như trước trận Verdun được nữa.
Rốt cuộc, cả hai bên tham chiến đều không thực sự thắng trận Verdun, do đó Chiến dịch này không hề quyết định. Tuy vậy nhưng để xác định người thất bại thì thật dễ: giới trẻ Pháp và Đức. Chiến dịch Verdun cùng với Chiến dịch Somme đẫm máu và thất bại của quân Nga ở Mặt trận phía Đông đã khiến cho quân Hiệp Ước trở nên khó có thể đánh bại quân Đức mà không hứng chịu tổn thất kinh hoàng. Đối với Đức, thất bại của cuộc Tổng tấn công Verdun cùng với thất bại của Kế hoạch Schlieffen (1914) và cuộc Tổng tấn công Mùa xuân 1918 đã trở thành một chuỗi chiến bại gây nên sự bất mãn của nhân dân đối với Hoàng đế Đức và chủ nghĩa quân phiệt Phổ. Sau thất bại ở Verdun, họ cũng không thể nào mở một cuộc tấn công đại quy mô cho tới năm 1918. Vốn đã bị rung chuyển bởi Chiến dịch Somme của quân Anh, sự tham chiến của Romania và thất bại Verdun, Bộ Tổng Tham mưu Đức mất niềm tin vào chiến dịch.
Trận đánh khốc liệt này là siêu điển hình của những thương vong của người Pháp trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, và thể hiện sự thù địch lâu dài của dân tộc Đức với Pháp. Thống kê năm 1918 cho thấy người ta đã thu nhặt được 15 vạn hài cốt tử sĩ còn chưa được chôn trên tử địa. Sau Chiến dịch đẫm máu, người ta vẫn có thể nhìn thấy di hài của các tử sĩ trên chiến địa Verdun - địa danh lịch sử đã trở nên không thể nào quên. Đến nay, bãi chiến trường hãy còn nguy hiểm, do ẩn dưới đó còn có đạn dược chưa nổ. Chính vào năm 1984, Thủ tướng Tây Đức Helmut Kohl có gặp gỡ Tổng thống Pháp François Mitterrand tại Verdun, cả hai nhà lãnh đạo cùng tưởng niệm các binh sĩ đôi bên bị thiệt mạng trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Tuy nhiên, tháng 11 năm 1998, Thủ tướng Đức Gerhard Schröder quyết định không tham gia lễ kỷ niệm chung Pháp - Đức với Tổng thống Pháp Jacques Chirac.
Ý nghĩa
Với sự đẫm máu và khốc liệt đứng ngang hàng với trận Somme (1916) và trận Passchendaele (1917) kinh hoàng (hai trận này đã chìm sâu trong kỳ ức của người Anh cũng như trận Verdun đối với người Pháp), trận Verdun trở thành biểu tượng cho lòng can trường và chủ nghĩa anh hùng, cũng như sự khủng khiếp của Chiến tranh thế giới thứ nhất và sự hủy diệt tận cùng của con người. Mặt khác, sự thành công của hệ thống pháo đài phòng thủ đã được người Pháp lựa chọn cho hệ thống phòng ngự Maginot của mình sau này. Trong Chiến dịch này, về chiến thuật, Quân đội Đức đã thực hiện xuất sắc kỹ thuật vận chuyển Bộ binh của họ, và đến năm 1918 họ sẽ chứng kiến hiệu quả lớn lao của kỹ thuật ấy, khi họ đánh tan nát một Tập đoàn quân Pháp.
Tuy trận này có ảnh hưởng lâu dài và trở thành một trong những thiên trường ca vĩ đại nhất của niềm vinh quang dân tộc Pháp, hậu quả của "chiến thắng" Verdun oai hùng hãy còn bám theo tâm trí người Pháp sau khi chiến tranh kết thúc. Cả một thế hệ đã uể oải vì cuộc chiến, tin rằng "chúng ta không thể làm nên một Verdun nữa". Và sự quá cả tin của quân Pháp vào hệ thống pháo đài phòng thủ Maginot đã thể hiện tư tưởng bị động của họ và dẫn đến thảm bại của họ trong cuộc tấn công của Đức Quốc xã vào năm 1940, khiến cả Quân đội và chính quyền Cộng hòa Pháp đều bị sụp đổ. Do đó, so với các sự kiện khác trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, trận Verdun là trận đánh quan trọng nhất dẫn đến đại bại của quân Pháp trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai.
Trận Verdun đã kết liễu quyền chỉ huy quân đội của cả Joffre và Falkenhayn - vị tướng đã hoàn toàn mất uy tín vì chiến bại đắt giá này ngay sau những thắng lợi dồn dập của ông trên Mặt trận phía Đông. Không lâu sau đó, Falkenhayn thắng lớn trong chiến dịch România, nhưng chiến công này vẫn không thể khôi phục thanh danh của ông. Trong khi đó, cái giá của chiến thắng Verdun đã khiến cho Pétain trở thành một Pyrros thời hiện đại.
Một số cựu binh nổi tiếng của trận Verdun
Người Đức
Chỉ huy của tập đoàn quân số 6 Đức tại trận Stalingrad, vốn được mệnh danh là "trận Verdun của sông Volga" trong Chiến tranh thế giới thứ hai, thống chế Friedrich Paulus nguyên là trung úy thuộc trung đoàn kị binh nhẹ số 2 Phổ. Ông đã tham dự trận đánh vào cứ điểm Fleury.
Thống đốc Paris vào năm 1942, tướng Karl-Heinrich von Stülpnagel nguyên là chỉ huy một trung đoàn tại Verdun trong trận đánh tại Le Mort Homme. Vào năm 1944, ông tham dự vào kế hoạch ám sát Adolf Hitler, bị phát hiện, ông đã định tự sát nhưng chỉ bị một mù. Ông mất vài tuần sau đó.
Một trong số những viên tướng giỏi nhất của Hitler sau này, chỉ huy Tập đoàn quân số 4, cụm tập đoàn quân Trung tâm và bộ Tổng tư lệnh mặt trận phía Tây của Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai, thống chế Hans Günther von Kluge, nguyên là pháo thủ trong trận đánh Verdun. Ông cũng tham gia vào kế hoạch ám sát Hilter và cũng tự sát trước khi bị lực lượng SS bắt.
Tham mưu trưởng của Hitler, trung tướng Wilhelm Keitel nguyên là sĩ quan tham mưu của tập đoàn quân số 10 dự phòng, đóng quân trên bờ sông Meuse.
Hai chiến lược gia của chiến tranh chớp nhoáng Blitzkrieg của người Đức sau này là đại tướng Heinz Guderian và thống chế Erich von Manstein đều tham dự trận đánh Verdun. Guderian là sĩ quan tham mưu trinh sát của tập đoàn quân số 5, von Manstein là sĩ quan tham mưu của tướng von Gallwitz.
Chỉ huy của lực lượng SA Ernst Röhm và Phó Quốc Trưởng Rudolf Hess đều tham dự trận đánh Verdun.
Người Pháp
Thống chế Philippe Pétain, chỉ huy quân Pháp ở Verdun, trở thành anh hùng dân tộc Pháp. Nhưng ông lại trở thành người đứng đầu chính phủ Vichy, cộng tác với quân Đức Quốc xã chiếm đóng Pháp, trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Khi nước Pháp được giải phóng, Philippe Pétain bị tuyên án tử hình vì tội phản bội Tổ quốc, về sau được ân xá xuống tù chung thân.
Chỉ huy của hải quân Pháp, phó thủ tướng của chính phủ Vichy, đô đốc François Darlan nguyên là trung úy pháo binh hải quân, tham chiến trong trận Verdun.
Chỉ huy lực lượng kháng chiến Pháp trong Chiến tranh thế giới thứ hai, người lập nên nền cộng hòa thứ 4, Thống chế Charles de Gaulle là một sĩ quan trong trận Verdun. Ông bị thương và bị bắt làm tù binh trong một trận đánh gần pháo đài Douaumont.
Chỉ huy tập đoàn quân số 1 của quân kháng chiến Pháp, chỉ huy của lực lượng viễn chinh Pháp tại Đông Dương, thống chế Jean de Lattre de Tassigny đã tham chiến trong trận đánh Verdun cùng trung đoàn bộ binh 93.
Chỉ huy quân Pháp tại Đông Dương trong thời điểm trước khi diễn ra trận Điện Biên Phủ, chỉ huy quân Pháp tại Algérie, tướng Raoul Salan cũng tham chiến tại Verdun. |
"We Are the Champions" là bài hát do Freddie Mercury sáng tác, được ban nhạc Queen thu âm và biểu diễn. Bài hát cũng là một trong những bài hay nhất và phổ biến nhất của ban nhạc và đã trở thành ca khúc cho sự chiến thắng trong thể thao.
Bài hát chủ yếu dựa trên tiếng đàn piano của Mercury còn Taylor và Deacon thì đệm thêm trống và ghi ta bass. May bổ sung thêm vài đoạn ghi ta, một ít vào lúc mở đầu và sau đó thì đã chơi sô lô trong hợp âm ở cuối bài. Mercury đã sử dụng nhiều hợp âm của 'jazz' (các hòa âm chính và phụ thứ 6, 7, 9, 11 và 13), và đoạn điệp khúc đã có những âm điệu như 4 và 5 hòa âm hợp lại. Giọng ca chính đòi hỏi phải có yêu cầu cao và trong các buổi diễn trực tiếp, Mercury thường để Taylor đảm nhiệm phần cao nhất của giai điệu.
Bài hát có trong album News of the World làm năm 1977 và đứng sau bài "We Will Rock You. Hai bài hát này hay được dùng kể kết thúc trong các buổi công diễn của Queen. Như truyền thống, bài này cũng đã là bài cuối cùng trong buổi diễn kỷ niệm Freddie Mercury vào năm 1992.
Bài hát cũng là ví dụ cho Kanye West, Dame Dash, Beanie Sigel, Cam'ron, Young Chris & Twista trong bài hát "Champions" của họ.
Những nhận xét về "We Are the Champions"
Queen nói về bài hát
Freddie (1985): "Tôi phải chiến thắng tất cả, nếu không thì không thành công. Công việc của tôi đảm bảo mọi người có thời gian tốt. Đó là một phần bổn phận của tôi. Đó là mọi việc phải làm để điều khiển cảm xúc. Bài hát We Are the Champions được những người hâm mộ đá bóng hát vì đó là bài hát của người chiến thắng. Tôi không thể tin rằng ai đó sẽ không viết bài hát mới để vượt qua nó".
Freddie: "Chắc chắn đó có thể là mối liên quan, nhưng tôi đã nghĩ đến bóng đá khi tôi sáng tác bài hát. Tôi muốn đóng góp một bài hát, một điều gì đó mà những người hâm mộ có thể hiểu được. Đó là mục đích lớn nhất; Tôi nghĩ là chúng tôi đã biết được người nghe hiểu như thế nào. Nó như là một buổi chiêu đãi. Khi chúng tôi trình diễn nó tại một buổi nhạc riêng ở Luân Đôn, những người hâm mộ thực sự đã hát cùng như một khẩu hiệu bóng đá. Dĩ nhiên là tôi đã sáng tác bài hát có một chút nhạc kịch chứ không chỉ là khẩu hiệu bóng đá. Tôi chắc chắn là không nghĩ đến đám đông khi tôi viết bài hát. Tôi không hề nghĩ đến âm nhạc Anh những ngày này. Nó thật sự có nghĩa là coi những nhạc sĩ như những người hâm mộ. Tôi cho rằng nó có thể được hiểu như phiên bản bài "I Did It My Way" của tôi. Chúng tôi đã làm điều này và chắc chắn là không dễ dàng. Không có giường cho những bông hồng như bài hát đã nói đến. Và nó vẫn không dễ dàng gì."
Brian May (1991): "Tôi có thể hiểu một vài người đã nói We Are the Champions như một sự khoa trương. Nhưng bài hát không nói lên ban nhạc Queen là nhà vô địch mà nó nói tất cả chúng ta là vô địch. Bài hát đã làm cho buổi diễn như một trận bóng đá thực sự nhưng tất cả mọi người đều ở cùng một bên."
Brian: "Bạn biết không, các bài hát không hẳn là như những gì trong lời bài hát. Nhiều đoạn trong bài hát có thể xuất hiện khác nhau. Tôi thường nhận thấy sự khác nhau giữa văn xuôi và thơ. Văn xuôi thì có nghĩ chính xác như lời văn viết trong khi thơ thì có thể có nghĩa ngược lại. Bài hát này cũng như vậy. Tuy nhiên thì cách viết của Freddie thì thường xuyên hay đùa cợt như bạn đã biết đấy. Bài hát này mang tính kịch trường. Freddie rất thuần thục với nghệ thuật của anh. Bạn có thể nói, anh ấy cưới âm nhạc của anh ấy, như trong bài 'I Did It My Way' hay bài 'There's No Business Like Show Business' của anh ấy. Tôi phải nói rằng khi anh ấy mới chơi lần đâu cho chúng tôi nghe trong phòng thu tất cả chúng tôi đều bò lăn ra mà cười. Rất nhiều người ghét chúng tôi bởi vì chúng tôi để họ ra bên ngoài và có mọi thứ mà không có mặt họ. Nhưng bài hát không hề nói bất cứ điều gì chống lại khán giả của chúng tôi. Khi trong bài hát nói 'chúng tôi' ('we') nó có nghĩa là 'chúng tôi là các fan'. Khi chúng tôi thực hiện buổi biểu diễn đặc biệt đó, những người hâm mộ thật là tuyệt vời. Họ quá hiểu bài hát".
Brian (1998): "Bài hát của anh ấy(Freddiey) đã nói tất cả: Lily of the Valley, Killer Queen, Bohemian Rhapsody, The March of the Black Queen, We Are the Champions, The Miracle, Play the Game và rất nhiều bài hát đều có cảm xúc của việc ghi điểm. Freddie không bao giờ muốn nói về lời hát của anh ấy: 'Họ nên tự nói về bản thân họ' - anh ấy nói cụt lủn như vậy. Nhưng sự tưởng tượng những lời bài hát đã được biên soạn với sự kỳ diệu của giai điệu đã làm cho anh ấy trở thành một trong những nhạc sĩ thực sự độc đáo trong thời đại của chúng ta."
Roger Taylor (1998): "Bài hát gây sự ngạc nhiên cho người nghe. Tôi đã nghe bài này vào lúc cuối của World Cup, kết quả thật sự tuyệt vời."
Brian (1999): "Bạn có thể nhận thấy sự kiêu ngạo trong bài hát. Nhưng trong buổi diễn thì không có ai là người thua cả và những giây phút thua của mỗi chúng ta đã bị quên đi, do vậy, bài hát như là một sự tự khẳng định mình. Tôi nhớ là đã nói, anh không thể làm điều này, Fred. Anh sẽ bị giết. Và anh đã trả lời, 'Vâng, chúng ta có thể sẽ như vậy.'"
Roger (1999): "'Không có thời gian cho người thua cuộc' là một lời khá ngớ ngẩn nhưng đó chỉ là câu nói đùa."
John Deacon (2001): "Một trong những bài hát hay nhất của chúng tôi."
Brian (2003): "Tôi nhớ là đã cảm thấy bài hát có sắc thái ngạo mạn khi lần đầu tiên Freddie hát cho chúng tôi nghe và tôi chắc chắn là tôi cũng đã nói điều đó. Nhưng đã có một sự ngạo mạn mà không nhân nhượng trong Freddie; đó chính là niềm tin của anh ấy và anh đã nói lên niềm tin đó."
Các phiên bản cover
Gavin DeGraw đã hát bài này trong album Killer Queen: A Tribute to Queen.
Trong buổi diễn từ thiện Live 8, ban nhạc rock Green Day đã hát lại bài này.
Robbie Williams đã hát bài này trong phim A Knight's Tale.
William Hung đã hát lại bài này trong album thứ hai của anh Hung for the Holidays.
Ban nhạc Oplus đã hát lại bài này trong trận Chung kết Đường lên đỉnh Olympia năm thứ 16 |
Chất diệp lục (diệp lục tố, chlorophyll) là sắc tố quang tổng hợp màu xanh lá cây có ở thực vật, tảo, vi khuẩn lam. Từ này có nguồn gốc Hán-Việt: Từ "diệp" là lá và "lục" là xanh. Ngoài chất diệp lục, carotenoid, anthocyanin và xantophyl cũng là các sắc tố cảm quang được tìm thấy ở thực vật và một số sinh vật quang tổng hợp khác. Các sắc tố này được cố định trong màng lục lạp của lục lạp.
Chất diệp lục hấp thu mạnh nhất ánh sáng xanh dương và đỏ, kém ở phần xanh lá của phổ điện từ, do đó màu của mô chứa chất diệp lục giống màu của lá cây.
Cấu trúc hoá học
Sắc tố quan trọng nhất của diệp lục chứa một nguyên tử magiê (Mg) ở trung tâm phân tử.
Hình ảnh |
Kim cương là một trong hai những dạng thù hình quý được biết đến nhiều nhất của carbon (dạng còn lại là than chì), có độ cứng rất cao và khả năng khúc xạ cực tốt làm cho nó có rất nhiều ứng dụng trong cả công nghiệp và ngành kim hoàn. Kim cương được cho là một loại khoáng sản với những tính chất vật lý hoàn hảo. Chúng là những vật liệu tốt để tạo ra các bề mặt nhám và chỉ có những viên kim cương khác, những tinh thể carbon dạng lồng hay ADNR mới có thể cắt kim cương được. Điều đó có nghĩa là chúng có thể giữ bề mặt đánh bóng rất lâu và rất tốt. Khoảng 150 triệu cara (30.000 kg) kim cương được khai thác mỗi năm với tổng giá trị là 10 tỷ đô la Mỹ. Ngoài ra khoảng 100.000 kg kim cương hàng năm được điều chế nhân tạo.
Một viên kim cương được đánh giá theo một hệ thống chất lượng 4C: "carat" (khối lượng), "clarity" (độ trong suốt), "color" (màu sắc) và "cut" (cách cắt) và hiện nay có khi người ta còn đánh giá theo tiêu chuẩn 6C, thêm "cost" (giá cả) và certification (giấy chứng nhận, kiểm định). Chỉ khoảng 20% sản lượng kim cương trên thế giới được dùng làm hàng trang sức, 80% kim cương kém phẩm chất hơn được sử dụng trong công nghiệp và các ứng dụng nghiên cứu. Mặc dù kim cương nhân tạo được sản xuất với khối lượng gần gấp 4 lần so với kim cương tự nhiên nhưng phần lớn chúng được dùng vào mục đích công nghiệp vì hầu hết chúng là những viên kim cương nhỏ và không hoàn hảo, tuy hiện điều này đã cải thiện rõ rệt với những công nghệ làm kim cương nhân tạo mới.
Khoảng 49% kim cương được khai thác ở Trung Phi và Nam Phi, mặc dù một số lượng lớn kim cương cũng được tìm thấy ở Canada, Ấn Độ, Nga, Brasil, Úc. Hầu hết chúng được khai thác ở những miệng núi lửa đã tắt, sâu trong lòng Trái Đất nơi mà áp suất và nhiệt độ cao làm thay đổi cấu trúc của các tinh thể. Việc khai thác kim cương cũng là nội dung của những cuộc tranh chấp. Cũng có một số tranh cãi rằng tập đoàn De Beers đã lợi dụng độc quyền trong ngành cung cấp kim cương để điều khiển giá cả của thị trường, mặc dù thị phần công ty đã giảm xuống 50% trong những năm gần đây.
Nguồn gốc
Sự hình thành
Kim cương được tạo thành từ những khoáng vật có chứa carbon dưới nhiệt độ và áp suất rất cao. Trên Trái Đất, mọi nơi đều có thể có kim cương bởi vì ở một độ sâu nào đó thì sẽ tồn tại nhiệt độ đủ cao và áp lực đủ lớn để tạo thành kim cương. Trong những lục địa, kim cương bắt đầu hình thành ở độ sâu khoảng 150 km (90 dặm), nơi có áp suất khoảng 5 gigapascal và nhiệt độ khoảng 1200 độ C (2200 độ F). Trong đại dương, quá trình này xảy ra ở các vùng sâu hơn do nhiệt độ cần cao hơn nên cần áp suất cũng cao hơn. Khi những áp suất và nhiệt độ dần giảm xuống thì viên kim cương cũng theo đó mà lớn dần lên.
Kim cương không có nguồn gốc từ bề mặt Trái đất. Thay vào đó chúng hình thành ở nhiệt độ cao và áp lực xảy ra trong lớp vỏ Trái Đất khoảng 100 dặm bên dưới bề mặt của Trái đất.
Hầu hết những viên kim cương được phát hiện đã được chuyển đến bề mặt Trái đất do các vụ phun trào núi lửa từ sâu trong lòng đất. Những vụ phun trào này bắt đầu trong lớp phủ vỏ trái đất (mantle), và trên đường đi lên, chúng xé ra những mảnh đá lớp phủ đưa những viên kim cương lên bè.
Những khối này từ lớp phủ được gọi là xenoliths. Chúng chứa những viên kim cương được hình thành ở điều kiện nhiệt độ và áp suất cao của lớp phủ.
Người ta tìm kiếm kim cương bằng cách khai thác đá có chứa xenoliths hoặc bằng cách khai thác đất và trầm tích hình thành khi đá chứa kim cương cuốn trôi lên bề mặt trong quá trình lớp vỏ trái đất thay đổi theo thời gian.
Một số viên kim cương được cho là hình thành trong điều kiện nhiệt độ / áp suất cao của vùng hút chìm hoặc vị trí va chạm của tiểu lục địa. Một số được chuyển đến Trái đất trong các thiên thạch. Tuy nhiên, cho đến hiện nay không có mỏ kim cương thương mại nào được phát triển có nguồn gốc này.
Qua những nghiên cứu tỉ lệ các đồng vị (giống như phương pháp xác định niên đại lịch sử bằng C-14) ngoại trừ việc sử dụng những đồng vị bền như C-12 và C-13, carbon trong kim cương có nguồn gốc từ những nguồn hữu cơ và vô cơ. Các nguồn vô cơ có sẵn ở lớp trung gian của Quả Đất còn các nguồn hữu cơ chính là các loại cây đã chết chìm xuống dưới mặt đất trước khi biến thành kim cương. Cả hai nguồn này có tỉ lệ 13C:12C khác nhau rất lớn. Kim cương được cho rằng đã hình thành trên mặt đất trước đây rất lâu, khoảng 1 tỉ năm đến 3,5 tỉ năm.
Ngoài ra kim cương còn có thể được hình thành trong những hiện tượng có áp suất và nhiệt độ cao khác. Người ta có tìm thấy trong tâm thiên thạch những tinh thể kim cương có kích thước cực kì nhỏ sau khi chúng rơi xuống đất tạo nên một vùng có áp suất và nhiệt độ cao để phản ứng tạo kim cương xảy ra. Những hạt bụi kim cương được dùng trong khoa học hiện đại để xác định những nơi đã có thiên thạch rơi xuống.
Sự hình thành của kim cương tự nhiên đòi hỏi rất cụ thể điều kiện tiếp xúc với các vật liệu carbon chịu áp lực cao, dao động khoảng từ 4.41 đến 5.88 triệu tấn (4,5 và 6 GPa), nhưng ở một phạm vi nhiệt độ tương đối thấp giữa khoảng 900 và 1.300 °C (1.650 và 2.370 °F).
Kim cương nhân tạo được tổng hợp theo 2 phương pháp chính là phương pháp cao áp cao nhiệt HPHT (High pressure High temperature) sử dụng nhiệt độ và áp suất cực kỳ cao nhằm tái tạo môi trường giống như môi trường tái tạo kim cương trong lòng đất và phương pháp bốc hơi lắng tụ hóa học CVD (Chemical Vapor Deposition) sử dụng sự bốc hơi hóa học của hợp chất khí Carbon dưới tác động của tia nhiệt plasma tạo sự phân chia phân tử khí cho đến khi chỉ còn lại nguyên tử C lắng tụ và phát triển trên mầm kim cương có sẵn, có kim loại đóng vai trò như một dung môi chất xúc tác như nickel, cobalt, sắt và tùy theo mạng tinh thể carbon bị thay thể bằng nguyên tố nào mà kim cương sẽ có màu đó, tạp chất thường gặp nhất trong kim cương là nitơ, một phần nhỏ nitơ trong tinh thể kim cương làm cho kim cương có màu vàng thậm chí màu nâu.
Kim cương ở bề mặt Trái Đất
Những hòn đá mang kim cương bị kéo lại gần đến nơi núi lửa phun do áp suất. Khi núi lửa phun, nham thạch phải đi qua vùng tạo ra kim cương 90 dặm (150 km). Điều đó rất hiếm khi xảy ra. Ở dưới có những mạch nham thạch ngầm vận chuyển nham thạch và lưu giữ ở đó nhưng sẽ không trào ra khi núi lửa hoạt động. Những mạch chứa kim cương thường được tìm thấy ở những lục địa cổ bởi vì chúng chứa những mạch nham thạch cổ lâu nhất.
Các nhà địa chất học sử dụng các dấu hiệu sau để tìm những vùng có kim cương: những khoáng vật ở vùng đó thường chứa nhiều chromi hay titani, cũng rất thông dụng trong những mỏ đá quý có màu sáng.
Khi kim cương được các ống nham thạch đưa gần lên mặt đất, chúng có thể bị "rò rỉ" qua một khu vực lớn xung quanh. Một ống nham thạch được đánh giá là nguồn kim cương chính. Ngoài ra còn có thể kể đến một số viên kim cương rải rác do các nhân tố bên ngoài (môi trường, nguồn nước). Tuy nhiên, số lượng này cũng không lớn.
Kim cương còn có thể bị đưa lên mặt đất khi có sự đứt gãy các lục địa mặc dù điều này vẫn chưa được hiểu rõ ràng và hiếm xảy ra.
Đặc tính địa chất
Cách sử dụng kim cương như một vật trang trí rất quen thuộc đối với nhiều người. Do dưới ánh sáng Mặt Trời, nó có nhiều màu nên nó còn được gọi là lửa và được đánh giá cao trong nhiều sách lịch sử. Khoảng năm 1900, những chuyên gia địa chất học đã đề ra phương án để phân loại kim cương dựa vào 4 đặc tính, còn nổi tiếng với tên 4C - "carat" (khối lượng), "color" (màu sắc), "clarity" (độ trong) và "cut" (cách cắt).
Giá của những viên kim cương trên thị trường thường được dựa vào quy tắc 4C. Đôi khi có người còn đánh giá kim cương theo tiêu chí 5C: ngoài 4C kể trên, còn có "cost" (giá cả), hoặc 6C với certification (giấy kiểm định, giấy chứng nhận của các công ty uy tín trên thế giới như GIA).
Một số tiêu chuẩn khác không nằm trong 4C nhưng vẫn ảnh hưởng nhiều đến giá cả: ví dụ như ánh huỳnh quang mà nó có thể tạo ra hay cũng như lịch sử của viên kim cương, đơn vị khoa học nào đã lượng giá viên kim cương, và đồng thời một chữ C khác: "cleanliness" (sạch sẽ).
Có bốn tổ chức địa chất có đủ khả năng đánh giá giá trị của viên kim cương. Trong khi khối lượng và góc cắt được tính toán theo công thức thì độ trong và màu sắc được đánh giá bằng mắt thường của một người có kiến thức sâu rộng.
Viện Đá quý Hoa Kỳ (Gemological Institute of America) (GIA) nổi tiếng nhất và là nơi đưa ra các tiêu chuẩn đầu tiên về kim cương.
Hiệp hội Đá quý Hoa Kỳ (American Gemological Society) (AGS) tuy không được đánh giá cao và rộng rãi như GIA nhưng cũng có một ảnh hưởng nhất định.
Phòng thí nghiệm Đá quý Thế giới (IGL) là nơi được tôn trọng nhất trong giới khoa học nhưng cũng bị chỉ trích vì thiếu công bằng khi đánh giá kim cương của các nước nghèo, không như GIA và AGS.
Phòng thí nghiệm Đá quý châu Âu (EGL) cũng được cho là giống IGL.
Carat
Carat là đơn vị dùng để đo khối lượng của đá quý nói chung. Một carat được định nghĩa là 200 milligram. Một điểm, bằng 1% carat hay 2 mg, được dùng để đánh giá các viên kim cương có khối lượng dưới 1 carat. Giá của viên kim cương tăng khi khối lượng tăng. Tháng 9 năm 2005 khi đánh giá những viên kim cương có khối lượng khác nhau cho thấy:
Giá của mỗi carat kim cương không tăng đều theo khối lượng kim cương. Tuy nhiên một viên kim cương 0,95 carat lại có giá rẻ đáng kể so với một viên 1,05 carat.
Trong mua bán kinh doanh lớn, người ta mua kim cương theo khối lượng và kích thước trung bình của những viên kim cương trong lô hàng. Tổng khối lượng carat (t.c.w) là một từ thường được ký hiệu để chỉ tổng khối lượng kim cương chứa trên một món hàng, rất thông dụng trên vòng cổ, vòng tay và những món trang sức khác.
Độ trong
Độ trong được đánh giá dựa vào kết quả khi nhìn dưới kính lúp 10 lần số lượng các vết trầy xước, màu sắc của những vết gãy, vị trí của chúng, tất cả đều được dùng để đánh giá kim cương.
Để xác định độ trong hay còn gọi là độ tinh khiết của kim cương, các chuyên gia sẽ đặt ngửa nó lên bằng kính hiển vi ở độ phóng đại 10x và quan sát bằng mắt thường. Có năm yếu tố quan trọng trong việc xác định độ tinh khiết của một viên kim cương bao gồm kích thước của bào tử, số lượng, vị trì, bản chất tự nhiên, màu sắc và độ nổi.
Khi độ trong nâng cao lên khi số kim cương đạt được tiêu chuẩn đó thấp hơn. Chỉ có 20% kim cương có thể đủ để làm đồ trang sức, 80% cho công nghiệp, trong đó có 20% kim cương có những vết trầy thấy rõ bằng mắt thường. Những người mua bình thường rất khó có thể nhìn thấy những vết như thế này.
Những vết xước không ảnh hưởng nhiều đến tính chất tinh thể của viên kim cương. Tuy nhiên, những vết mờ có thể làm giảm sự tán sắc ánh sáng. Vết nứt lớn có thể làm cho kim cương vỡ.
Kim cương có thể được đánh giá là không có khuyết điểm nào cho đến không hoàn hảo.
Màu sắc
Tạp chất thường gặp nhất trong kim cương là nitơ, một phần nhỏ nitơ trong tinh thể kim cương làm cho kim cương có màu vàng thậm chí màu nâu.
Một cấu trúc tinh thể nguyên chất sẽ làm cho viên kim cương không màu. Tuy nhiên, hầu hết những viên kim cương đều không hoàn hảo. Tùy theo màu sắc có thể tăng hay giảm giá trị của viên đá. Những đốm nhỏ màu vàng sẽ làm giảm giá trị kim cương đi rất nhiều trong khi màu hồng hay xanh dương (như viên kim cương Hope) sẽ làm tăng giá trị của viên kim cương.
Trong tiêu chuẩn GIA thì viên kim cương không màu là "D" và vàng là "Z". Đôi khi người ta còn sử dụng các phương pháp quang học phức tạp để xác định màu. Những viên kim cương có điểm màu thật thấp hay thật cao rất hiếm, và cũng rất đắt tiền. Từ D-F là những viên không màu, từ G-J là gần như không màu, K-M là hơi có màu, N-Y là màu vàng nhạt hay nâu. Tuy nhiên, viên kim cương có màu vàng nhạt Z rất hiếm có và có giá trị rất cao.
Trái với màu vàng và màu nâu, những màu khác khó tìm thấy hơn và có giá trị hơn. Chỉ cần viên kim cương hơi hồng hay xanh lam thì giá trị đã rất cao rồi. Tùy theo mạng tinh thể carbon bị thay thể bằng nguyên tố nào mà kim cương sẽ có màu đó. Những màu thường gặp là vàng, hồng, xanh dương, xanh lá cây, đỏ, nâu,...
Các nhà khoa học sử dụng một thang đo khác dựa vào độ quý hiếm của những viên đá.
Cắt sắt
Kĩ thuật cắt kim cương vừa là một môn khoa học vừa là một nghệ thuật. Nó miêu tả quá trình viên kim cương được thành hình và đánh bóng từ dạng viên đá đầu tiên đến một viên ngọc sáng ngời.
Có rất nhiều công trình nghiên cứu toán học được nghiên cứu nhằm làm cho lượng ánh sáng mà nó phản xạ được là nhiều nhất. Một trong số đó là công trình của nhà toán học yêu thích khoáng vật Marcel Tolkowsky. Ông là người nghĩ ra cách cắt hình tròn và đã đề ra các tỉ lệ thích hợp cho nó. Một viên kim cương được cắt theo kiểu hình tròn hiện đại trên bề mặt có tất cả 57 mặt. Trong đó, phần trên có 33 mặt và phần dưới có 24 mặt. Phần trên có nhiệm vụ tán xạ ánh sáng thành nhiều mằu sắc khác nhau trong khi phần bên có nhiệm vụ phản xạ ánh sáng.
Tolowsky đã đưa ra các tỉ lệ sau
Tỉ lệ giữa đường kính mặt trên cùng và đường kính mặt giữa: 53%
Tỉ lệ giữa độ sâu và đường kính mặt giữa: 59,3%
Góc giữa mặt dưới và phương ngang: 40,75°
Góc giữa mặt trên và phương ngang: 34,5°
Tỉ lệ giữa độ sâu phần dưới và đường kính mặt giữa: 43,1%
Tỉ lệ giữa độ sâu phần trên và đường kính mặt trên: 16,2%
Ngoài ra ở chóp dưới viên kim cương phải nhọn, nếu không thì ánh sáng sẽ đi qua dễ dàng. Thế nhưng trong thực tế thì người ta thường làm với đường kính bằng 1-2% đường kính mặt giữa.
Viên kim cương nào càng khác những tiêu chuẩn của Tolowsky thì ánh sáng sẽ bị phản xạ càng ít. Tuy nhiên trong xã hội hiện đại, người ta coi trọng đến khối lượng của viên kim cương nhiều hơn, dẫn đến việc những viên kim cương được gọt giũa rất ẩu để tăng khối lượng của chúng. Chỉ cần viên kim cương có khối lượng lúc sau cùng là 1 carat thì sẽ là một món tiền lớn hơn viên 0,95 carat. Vì vậy, người ta thường làm phần dưới có độ sâu lớn. Do đó, một viên kim cương cắt xấu nặng 1 carat sẽ có đường kính chỉ bằng một viên 0,85 carat cắt tốt. Người ta thường dựa vào tỉ lệ độ sâu phần đáy để biết nhanh viên kim cương đó có cắt đúng hay không. Lý tưởng là khi tỉ lệ 62,5%. Ngoài ra viên kim cương 1 carat sẽ có đường kính là 6,5 mm. Nhanh chóng hơn, đường kính một viên kim cương sẽ gấp 6,5 lần khối lượng tính bằng carat, hay 11,1 lần khối lượng tính bằng cm³.
Hình dáng
Kim cương không đẹp và ít chiết quang nếu như nó ở dạng thô. Nó buộc phải được cắt để làm tôn thêm vẻ đẹp riêng của nó. Có vô số cách cắt được nghĩ ra từ xưa đến nay để làm nhiệm vụ đó. Số đó có khi không có một con số cụ thể nào để làm tiêu chuẩn cụ thể như cách cắt "tròn", "bánh mì" (hạt dưa), "vuông", "trái tim", "hoa hồng". Cách cắt cũng phụ thuộc rất nhiều vào thời trang. Những cách cắt mới thường được đánh giá là làm đổi mới nhãn hiệu của mình hơn là sự sáng tạo thực sự.
Chất lượng
Chất lượng của một viên kim cương được đánh giá rộng rãi bằng tiêu chuẩn 4C. Thông thường một viên kim cương đã được cắt được tin là làm tăng thêm giá trị của viên kim cương hơn dù khối lượng của nó bị giảm đi hơn 30% trong quá trình cắt do làm tăng lên độ trong và làm tôn lên màu sắc của viên kim cương.
Một viên kim cương tốt khi được cắt tốt khi được nhìn từ trên xuống phải có màu trắng. Nếu được cắt không tốt, khi nhìn từ trên cao xuống sẽ có màu đen ở chính giữa, và đôi khi có một cái bóng ở đỉnh viên kim cương.
Độ rực rỡ của một viên kim cương tỷ lệ thuận theo độ chính xác mặt cắt của nó :
Vết cắt lý tưởng: ánh sáng được phản chiếu chính xác. Viên Kim cương có một vẻ đẹp rực rỡ.
Vết cắt quá nông: ánh sáng bị mất ra hai bên khiến viên kim cương mất đi độ sáng.
Vết cắt quá sâu: ánh sáng thoát ra khỏi đáy khiến viên kim cương có vẻ tối và mờ.
Có một số chiếc máy được chế tạo ra để kiểm tra chất lượng kim cương như FireScope, IdealScope, Heart & Arrow Viewer, GemEx, BrillianceScope, ASET,...
Tính chất
Kim cương là một tinh thể không màu gồm carbon nguyên chất trong đó một nguyên tử carbon đều có liên kết với 4 nguyên tử carbon khác gần đó nhất. Chúng ta sử dụng kim cương vì những tính chất vật lý vô cùng quý giá của chúng. Một trong số đó là độ cứng rất cao, độ khúc xạ tốt, cách nhiệt cao. Những tính chất trên là những tính chất cơ bản trong những lĩnh vực có sử dụng kim cương.
Tính chất vật lý
Cấu trúc tinh thể
Tinh thể có cấu trúc lập phương nên có tính đối xứng cao và chứa những nguyên tử carbon bậc 4. Vì có một nguyên tử carbon liên kết với 4 nguyên tử carbon gần nhất nên kim cương có rất nhiều tính chất riêng. Than chì, một dạng thù hình khác của carbon, có một cấu trúc tinh thể hình bình hành khiến cho chúng có những tính chất vật lý khác hẳn so với kim cương. Than chì là một chất mềm, màu xám, đục. Một nguyên tố khác trong nhóm carbon là silic khi kết hợp với carbon cũng tạo thành hợp chất có cấu trúc tinh thể giống kim cương mà người ta gọi là Moissanit. Khối lượng riêng của kim cương là 3,50 g/cm³.
Lonsdaleite cũng là một dạng thù hình của kim cương nhưng được tìm thấy ở những nơi khác có cấu trúc lục giác. Chúng rất khó tìm thấy trong tự nhiên nhưng đó chính là bản chất của kim cương nhân tạo. Một dạng tinh thể kì dị khác của kim cương là carbondo, dạng kim cương không màu, hay có màu xám hoặc đen với cấu trúc tinh thể rất nhỏ gọi là spherulite.
Độ cứng
Kim cương là vật chất cứng nhất được tìm thấy trong tự nhiên, với độ cứng là 10 trong thang độ cứng Mohs cho các khoáng vật. Kim cương còn chịu được áp suất giữa 175 và 250 gigaPascal trong những đợt kiểm tra khác nhau. Điều này đã được biết đến từ rất lâu, và đó chính là nguồn gốc của tên gọi "kim cương".
Những viên kim cương cứng nhất được tìm thấy ở vùng New England của bang New South Wales (Úc). Những viên kim cương này thường nhỏ, dùng để đánh bóng những viên kim cương khác. Độ cứng của chúng được xác định dựa vào điều kiện hình thành nên chúng. Viên kim cương cứng nhất khi chúng được hình thành chỉ trải qua một giai đoạn. Những viên kim cương khác do hình thành qua nhiều giai đoạn nên tạo thành những lớp, vết khiến độ cứng kim cương giảm (Taylor, 1990).
Ngành công nghiệp sử dụng kim cương có từ rất lâu vì tính chất cứng rắn của chúng. Nó là khoáng vật có giá trị cao nhất trong hơn 3.000 mẫu khoáng vật mà con người biết đến. Vì là vật chất cứng rắn nhất trong thiên nhiên, kim cương được dùng để đánh bóng, cắt mọi bề mặt, ngay cả một viên kim cương khác. Các ngành công nghiệp thông thường dùng kim cương như là một mũi khoan, lưỡi cưa hay bột mài. Một ứng dụng rất có triển vọng là làm chất bán dẫn: một số viên kim cương có màu xanh lam chính là chất bán dẫn thiên nhiên, trái ngược với các loại kim cương có màu khác là những chất cách điện tốt. Những viên kim cương nhân tạo dùng trong công nghiệp không phù hợp với việc làm trang sức nhưng có ưu điểm là làm giảm giá thành sản phẩm. Ngay từ thời cổ đại người ta đã biết dùng kim cương làm các mũi khoan và làm dụng cụ khắc chữ.
Độ cứng của kim cương cũng khiến cho nó phù hợp hơn với vai trò của một món trang sức. Bởi vì nó chỉ có thể bị làm trầy bởi một viên kim cương khác nên nó luôn luôn sáng bóng qua thời gian. Khác với những loại đá quý khác chỉ có thể mang vào những dịp đặc biệt, kim cương phù hợp với trang phục thường ngày vì chúng rất khó bị trầy xước. Do đó, trên những chiếc nhẫn đính hôn hay nhẫn cưới, người ta thường đính kim cương lên, và những tập đoàn nữ trang hàng đầu thế giới vẫn luôn hô hào khẩu hiệu "diamonds are forever" để quảng cáo rầm rộ cho trang sức đính kim cương.
Độ giòn
Khác với độ cứng, chỉ khả năng chống lại những vết trầy xước, độ giòn của kim cương chỉ từ trung bình khá đến tốt. Độ giòn chỉ khả năng khó bị vỡ của vật liệu. Độ giòn của kim cương một phần là do cấu trúc tinh thể của kim cương không chống chịu tốt lắm. Kim cương do đó cũng dễ bị vỡ hơn so với một số vật liệu khác, và câu chuyện lưu truyền về việc kiểm định kim cương bằng đe và búa của vua chúa xưa chỉ là truyền thuyết. Ngày nay, người ta thường dùng cối xay bằng thép nghiền nát kim cương để làm bột đánh bóng
Màu sắc
Kim cương có rất nhiều màu sắc: không màu, xanh dương, xanh lá cây, cam, đỏ, tía, hồng, vàng, nâu và cả đen. Những viên kim cương có những vệt màu sáng được gọi là những viên kim cương màu. Nếu viên kim cương có màu rất đậm, chúng sẽ được gọi là "có màu sắc rực rỡ". Kim cương có màu là loại kim cương chứa một lượng nhỏ tạp chất, do trong cấu trúc của nó, một nguyên tử carbon bất kỳ trong mạng tinh thể bị thay thế bởi một nguyên tử của nguyên tố khác. Thông thường nguyên tố đó là nitơ khiến cho kim cương có màu vàng. Nguyên tử kim cương nguyên chất không có màu. Kim cương có độ màu cực trắng sẽ được đánh giá là loại D, còn thấp nhất là Z, chỉ viên kim cương có màu hơi vàng ngả sang nâu thì mới được đánh giá cao nhất.
Độ bền nhiệt độ
Ở áp suất khí quyển (1 atm) kim cương không ổn định có tính chất giống như than chì có thể bị phân hủy. (ΔG = −2.99 kJ / mol). Kim cương sẽ cháy ở khoảng 800 °C, nếu có đủ oxy. Điều này được miêu tả vào cuối thế kỷ XVIII nhưng cũng tìm thấy được trong những cuốn sách cổ thời La Mã. Nhưng, do có một hàng rào động năng lớn, kim cương gần như không tự phân hủy. Dưới tác dụng của nhiệt độ và áp suất bình thường thì một viên kim cương chỉ có thể bị biến thành than chì sau một khoảng thời gian bằng khoảng thời gian để vũ trụ hình thành cho tới nay (15 tỷ năm).
Phương diện điện từ
Tính chất quang học
Kim cương có khả năng tán sắc tốt, do có chiết suất biến đổi nhanh với bước sóng ánh sáng. Điều này giúp kim cương biến những tia sáng trắng thành những màu sắc, tạo nên sức hấp dẫn riêng của kim cương khi là một món trang sức.
Chiết suất cao của kim cương, vào khoảng 2,417, lớn hơn so với 1,5 của các thủy tinh thông thường, cũng dễ làm xuất hiện sự phản xạ toàn phần trên mặt trong của kim cương tạo độ lấp lánh. Độ lấp lánh của viên kim cương, đặc trưng cho cách ánh sáng tác động lên một viên kim cương, thường được miêu tả là "adamantine".
Một số viên kim cương có phát xạ ánh sáng (hầu hết là màu xanh dương) dưới tia cực tím, một số có màu đỏ tía. Hầu hết các viên kim cương phát xạ ánh sáng xanh trắng, vàng hay xanh lá cây dưới tác dụng của tia X và dùng trong khai mỏ để tách riêng kim cương có khả năng phát sáng và những viên đá bình thường khác không có khả năng này. Trong điều kiện thường, hầu hết các viên kim cương đều không phát ánh sáng, trừ ánh sáng xanh dương mặc dù các loại kim cương màu có thể phát quang nhiều màu hơn.
Tính dẫn điện
Ngoại trừ kim cương xanh dương vốn là một chất bán dẫn, mọi loại kim cương còn lại là chất cách điện tốt. Nguyên nhân là do trong phân tử kim cương xanh dương có chứa nguyên tử bo tạp chất, là một chất cho điện tử và tạo ra một chất bán dẫn loại p. Tuy nhiên, các loại kim cương màu xanh dương không chứa tạp chất bo, như loại khai thác ở mỏ kim cương Argyle tại Úc, có màu như vậy là do chứa nhiều hiđrô nên là một chất cách điện.
Tính dẫn nhiệt
Không giống như những chất cách điện tốt khác, kim cương là một chất truyền nhiệt tốt bởi vì các nguyên tử được liên kết chặt chẽ với nhau. Hầu hết các viên kim cương xanh có chứa bo thay thế cho carbon trong mạng nguyên tử cũng có khả năng truyền nhiệt cao. Một viên kim cương nhân tạo nguyên chất có hệ số truyền nhiệt vào khoảng 2.000-2.500 W/(m.K), cao gấp 4 đến 5 lần so với đồng và là cao nhất trong tất cả những chất đã được biết trong nhiệt độ phòng. Do đó, người ta dùng nó trong những thiết bị bán dẫn để giúp cho silic và các vật liệu bán dẫn khác không bị quá nóng. Mức năng lượng các lỗ trống trên kim cương vào khoảng 5,4-6,4 eV.
Khai thác và thị trường
Khoảng 49% kim cương được khai thác ở Trung Phi và Nam Phi, mặc dù một số lượng lớn kim cương cũng được tìm thấy ở Canada, Ấn Độ, Nga, Brasil, Úc. Hầu hết chúng được khai thác ở những miệng núi lửa đã tắt, sâu trong lòng Trái Đất nơi mà áp suất và nhiệt độ cao làm thay đổi cấu trúc của các tinh thể. Việc khai thác kim cương cũng là nội dung của những cuộc tranh chấp. Cũng có một số tranh cãi rằng tập đoàn De Beers đã lợi dụng độc quyền trong ngành cung cấp kim cương để điều khiển giá cả của thị trường, mặc dù thị phần công ty đã giảm xuống 50% trong những năm gần đây.
Chỉ khoảng 20% sản lượng kim cương trên thế giới được dùng để chế tác đồ trang sức, 80% kim cương kém phẩm chất hơn được sử dụng trong công nghiệp và các ứng dụng nghiên cứu. |
"I Was Born To Love You" là một bài hát do Freddie Mercury sáng tác và biểu diễn vào năm 1985. Bài hát có trong album Mr. Bad Guy. Sau cái chết của Mercury, ban nhạc Queen đã thu âm bài này cho album của họ Made in Heaven làm năm 1995.
Thông tin thêm
Phiên bản ban đầu của bài hát đã được sử dụng trong bộ phim truyền hình "Pride" của Nhật Bản trên kênh truyền hình Fuji vào năm 2004 có diễn viên là Kimura Takuya và Yūko Takeuchi. Những bài hát khác của Queen cũng có trong vở kịch này.
Lời bài hát
Lời bài hát có đoạn:
...I was born to love you
With every single beat of my heart
Yes, I was born to take care of you
Every single day of my life
I wanna love you
I love every little thing about you
I wanna love you, love you, love you... |
Too Much Love Will Kill You là một bài hát do Brian May, tay chơi ghi ta trong ban nhạc Queen, Frank Musker và Elizabeth Lamers sáng tác. Bài hát được thu âm vào khoảng trước và trong năm 1988, và nó dự định được đưa vào album 'The Miracle' làm năm 1989, nhưng có tin nói rằng Freddie Mercury không muốn cho bài hát vào trong album này, viện cớ bài hát là "Hay, nhưng không hay lắm" ("Good, but not that good"). Vào năm 1992, Brian May đã biểu diễn nó trong buổi hoà nhạc kỷ niệm Freddie Mercury. Bài hát cũng có trong album sô lô của anh cùng năm và được phát hành như một bài hát riêng lẻ và đã được đứng trong danh sách 10 bài hát hay nhất ở Anh. Bài hát mà tất cả (hoặc phần lớn) những người hâm mộ Queen nghe mà không có sự tham gia của Freddie là bài "Too Much Love Will Kill You" xuất hiện trong album 'Made In Heaven' làm năm 1995 của ban nhạc, trong bài đã thêm một số lời trong album phát hành 4 năm sau cái chết của Freddie. Kể từ khi đó thì có rất nhiều cuộc tranh luận giữa những người hâm mộ xem ai là người thể hiện bài hát hay nhất.
Vị trí xếp hạng của bài hát do Brian May thể hiệnMỹ - xếp thứ 5 (9 tuần ltrong bảng xếp hạng)Hà Lan - xếp thứ 1 (xếp thứ một trong 3 tuần, 12 tuần có trong bảng xếp hạng)Úc - xếp thứ 18 (11 tuần trong bảng xếp hạng)
Vị trí xếp hạng của bài hát do Queen thể hiệnAnh - xếp thứ 15Mỹ - N/A |
Chiết suất trong tiếng Việt có thể là:
Một tính chất vật lý của vật liệu, xem bài Chiết suất.
Tỷ lệ chiết khấu trong ngành tài chính, ngân hàng. Xem bài Chiết khấu. |
Hiệp sĩ hay Kị sĩ (tiếng Anh: Knight) là tầng lớp thấp nhất trong giới quý tộc ở Châu Âu thời trung cổ, vì thế không mang tính chất thừa kế. Vào thời kì Trung Cổ và Hậu Trung Cổ, nhiệm vụ chính của một kị sĩ là chiến đấu, đặc biệt là dưới hình thức kị binh hạng nặng. Gần đây, kị sĩ đã trở thành một tước hiệu dành cho những người nổi tiếng như Andrew Wiles, Alex Ferguson, Paul McCartney, Elton John hay Edmund Hillary. Kị sĩ phương Tây có tính chất rất giống với tầng lớp võ sĩ Samurai của Nhật Bản.
Lịch sử của các kị sĩ liên quan đến sự phát triển của xã hội thời đó, điều kiện lịch sử, và kĩ thuật cho phép xuất hiện các loại kị binh nặng.
Nguồn gốc của từ
Trong tiếng Việt
Kị sĩ (騎士) là bản dịch trực tiếp của từ "knight" trong tiếng Anh qua tiếng Hán. Còn hiệp sĩ (俠士) nghĩa gốc chỉ những người hành hiệp trượng nghĩa (hiệp khách), về sau bị biến nghĩa và trở thành từ đồng nghĩa với kị sĩ như hiện tại.
Trong tiếng Trung, tiếng Hàn và tiếng Nhật thì từ "Kị sĩ" được sử dụng một cách tiêu chuẩn. Còn trong tiếng Việt hiện đại, cả hai thuật ngữ kị sĩ và hiệp sĩ đều được sử dụng luân phiên.
Trong tiếng Anh
Từ knight trong tiếng Anh hiện đại bắt nguồn từ tiếng Anh cổ là cniht với nghĩa là một người hầu vào tuổi thiếu niên, hay cũng chỉ có thể có nghĩa đơn giản là một thiếu niên. Do đó, cnithhad (hay knighthood) cũng có nghĩa là tuổi dậy thì.
Trong một số các ngôn ngữ châu Âu khác, những từ chỉ hiệp sĩ liên quan trực tiếp đến vai trò cưỡi ngựa của họ: trong tiếng Đức là ritter, tiếng Hà Lan là ruiter, cả hai đều có nghĩa là kị binh.
Một số nơi khác chịu ảnh hưởng của tiếng Latinh, ngựa là caballus, từ đó xuất hiện các từ chỉ hiệp sĩ tương ứng: chevalier (tiếng Pháp), caballero (tiếng Tây Ban Nha), cavaleiro (tiếng Bồ Đào Nha), cavalieri (tiếng Ý).
Ngoài ra, trong xã hội, ít nhất là trong xã hội Hy Lạp, có một sự liên hệ giữa địa vị xã hội và số ngựa mà người ấy có. Những nhà quý tộc lớn nhất thời bấy giờ như chức vụ Hipparchus và nhân vật Xanthippe, đến từ những từ chỉ ngựa άλογο (álogho), ίππος (íppos). Một trong những cái tên thường gặp ở những nhà quý tộc là Philip, có nghĩa là "người thích ngựa". Tiếng Hy Lạp ιππευς (hippeus) mang nghĩa là kị sĩ.
Sự hình thành
Trong thời kì Trung Cổ, một hiệp sĩ không có địa vị xã hội một cách cụ thể. Cho đến thế kỉ thứ 10 ở Pháp, những hiệp sĩ được gọi là miles, chỉ một chiến binh trong thời phong kiến. Một số họ cũng nghèo như nông dân. Tuy nhiên, vai trò của họ tăng lên dần theo thời gian. Họ dần dần giàu lên và bắt đầu chiếm giữ nhiều đất đai hơn. Cuối cùng, đánh nhau trên lưng ngựa cũng trở thành nhiệm vụ của họ.
Đến thế kỉ 12, hiệp sĩ được cho là một người lính mang áo giáp cưỡi ngựa, và trở thành một đẳng cấp được chính thức công nhận và được gọi là esquire. Bởi vì trang bị cho bản thân trên chiến trường với ngựa và áo giáp là rất đắt so với thời ấy cho nên cũng liên quan đến gia tài của họ. Dần dà, những nhà quý tộc, những người lãnh đạo trong thời chiến, bắt đầu phản ứng bằng cách gia nhập vào đẳng cấp mới hình thành ấy. Những nhà quý tộc giàu có cũng đào tạo những người con trai của họ thành những chiến binh và cuối cùng, trở thành hiệp sĩ, nơi mà họ sẽ được vinh danh vào một buổi lễ tấn phong hiệp sĩ. Từ đó trở đi, tất cả những người quý tộc nam đều được mong đợi sẽ trở thành một hiệp sĩ. Các hiệp sĩ thường phải thề phải trung thành với chủ mình, độc thân (hoặc nếu có vợ thì chung thủy), bảo vệ những người Công giáo khác, và luôn tuân theo tất cả các luật lệ của nhà cầm quyền; mặc dù những điều này thay đổi theo từng thời kì.
Đẳng cấp: từ thời vua Henry III của Anh, một hiệp sĩ là một quý tộc cấp thấp, được lãnh đạo bởi một "hiệp sĩ nam tước", lãnh đạo khoảng 10 người và có cờ hiệu riêng nhưng không có những đặc quyền của một nam tước. Sau năm 1296, bất cứ một hiệp sĩ nào cũng có dấu hiệu riêng.
Cùng với sự phát triển của chiến thuật sử dụng bộ binh dùng giáo và cung thủ, vai trò của kị binh, nhất là kị binh nặng bị giảm xuống nhiều. Các nhà quý tộc nhận ra rằng không phải có nhiều kị binh là sẽ chiến thắng mà còn nhờ các yếu tố khác.
Những bộ áo giáp mạ vàng, biểu tượng của hiệp sĩ ra đời vào khoảng thế kỉ 15-16, thường gặp ở những trường đấu. Tên gọi của quân mã trên bàn cờ vua (knight) cũng ra đời vào thời kì này, khoảng 1440. Trong những cuộc thập tự chinh, vai trò của kị binh lại tăng lên rất nhiều, nhưng ở dạng kị binh nhẹ (không mang áo giáp hay chỉ là áo giáp da). Tuy nhiên, kị binh như thế không được cho là hiệp sĩ.
Hiệp sĩ trở thành một tước hiệu bởi triều đình Anh và tách khỏi sự liên quan đến quân đội vào năm 1611 do vua James I của Anh.
Trở thành một Hiệp Sĩ
Trong suốt thời kì trung Cổ, bất cứ ai cũng có thể cũng trở thành một hiệp sĩ, nhưng do trang bị rất đắt tiền, hiệp sĩ thường xuất thân từ những gia đình giàu có hay quý tộc. Quy trình trở thành một hiệp sĩ gồm 3 giai đoạn: từ người hầu cho các lãnh chúa, người hầu riêng cho các hiệp sĩ và cuối cùng sau khi qua các đợt huấn luyện sẽ được phong làm hiệp sĩ.
Quá trình bắt đầu vào năm các cậu bé 7 tuổi, các cậu bé sẽ được gửi đến nhà một lãnh chúa như một người hầu. Ở đó, họ sẽ học cách cư xử, phép lịch sự, sạch sẽ và tôn giáo từ những người hầu nữ trong gia đình lãnh chúa và học cách săn bắn cùng cách nuôi chim ưng, một số kỹ năng phụ khác như chuẩn bị ngựa, cưỡi ngựa, cách sử dụng tất cả các loại áo giáp và vũ khí.
Đến năm 14 tuổi, cậu bé sẽ đi theo hầu một hiệp sĩ khác. Điều này cho phép họ học thêm nhiều điều khác từ những trận đấu của chủ. Nhiệm vụ chính của họ là chuẩn bị ngựa và binh khí cho chủ nhân. Điều này rèn luyện cho các cậu bé tính cách của một hiệp sĩ: kiên nhẫn, rộng rãi và nhất là, trung thành. Những vị hiệp sĩ kia sẽ chỉ dạy cậu bé mọi điều để trở thành một hiệp sĩ. Khi các cậu bé lớn hơn một ít, họ sẽ theo chủ vào chiến trường, và giúp đỡ hiệp sĩ đó nếu họ bị thương. Một số cậu bé đã được phong hiệp sĩ ngay trên chiến trường nhờ sự chiến đấu dũng cảm, nhưng hầu hết chỉ được phong tước hiệp sĩ bởi những lãnh chúa sau khi đã huấn luyện hoàn chỉnh.
Các cậu bé sẽ trở thành một hiệp sĩ vào khoảng 18-21 tuổi. Một khi đã hoàn tất việc đào tạo, họ sẽ được phong tước. Khi đó, họ sẽ phải cầu nguyện cả đêm, xưng tội trước ngày phong tước trong một nhà thờ. Sau đó phải tắm rửa sạch sẽ, mặc áo trắng và quần màu vàng, áo khoác tím, rồi được phong tước bởi vua hay lãnh chúa. Vào thời Trung Cổ, những cậu bé như vậy sẽ phải thề tuân theo quy định của một kị sĩ, và không bao giờ chạy trốn khỏi chiến trường. Và mọi phụ nữ sẽ gõ nhẹ lên áo giáp của họ. Họ cũng có thể được phong tước ngay trên chiến trường, lúc mà lãnh chúa đơn giản chỉ cần đặt tay hay thanh kiếm của mình lên vai của họ và nói: "Ngươi là hiệp sĩ".
Sau khi các kĩ thuật quân sự khác được phát triển, vai trò của kị sĩ ngày càng bị áp đảo bởi lính bộ và về sau là súng ống. Từ đó, hiệp sĩ chỉ dành cho một số rất ít người trong giới quý tộc. Hiệp sĩ từ đó chỉ còn là một chức vụ mang tính chất danh dự hay chỉ còn là một chức quý tộc nhỏ.
Hiệp sĩ trong thời đại phong kiến
Hiệp sĩ gắn liền với những triều đại phong kiến. Được tạo thành chủ yếu ở vùng đất về sau được gọi là Pháp, một hiệp sĩ thường được trả công sau các trận đánh bằng đất, nhưng đôi khi cũng bằng tiền. Hiệp sĩ được hỗ trợ về mặt kinh tế bởi những nông dân làm việc trên đất của mình và từ nhà thờ.
Trong thời kì chiến tranh, vua hay nữ hoàng có thể ra lệnh tập trung tất cả các hiệp sĩ vào cuộc chiến, có thể là phòng thủ hay xâm lược các nước khác. Các nhà quý tộc thường thuê những người khác để đi thay cho mình, còn một số khác nói rằng mình không thể đánh nhau.
Về sau, người ta thích quân đội thường xuyên bởi vì họ có thể sử dụng quân đội lâu hơn, chuyên nghiệp hơn và trung thành hơn. Điều này dẫn đến việc các hiệp sĩ được trả lương bằng tiền từ các lãnh chúa và từ đó các hiệp sĩ được phép thu thuế để lấy lương của mình.
Một kỵ sĩ có quyền mang thắt lưng trắng và quần màu vàng để thể hiện đẳng cấp quý tộc của mình.
Những dòng họ hiệp sĩ thừa kế
Tại Ireland có ba dòng họ hiệp sĩ có thể thừa kế, dòng thứ nhất và ba đã mất tích. Đó là:
Knight of Glin, hay Black Knight
Knight of Kerry, hay Green Knight
White Knight
Điều luật hiệp sĩ
Trong chiến tranh, một hiệp sĩ phải dũng cảm trong chiến đấu, không bao giờ tìm cách chạy trốn, trung thành với vua của đất nước mình và với Chúa, sẵn sàng hi sinh bản thân cho những điều tốt đẹp hơn. Một hiệp sĩ phải lịch sự, sẵn sàng tha thứ. Đối với những phụ nữ quý tộc, phải luôn vui vẻ và nhẹ nhàng.
Những dòng hiệp sĩ – tu sĩ
Hiệp sĩ Cứu tế, thành lập vào cuộc thập tự chinh thứ nhất, từ 1099 đến nay
Hiệp sĩ dòng Thánh Lazarus thành lập năm 1100, giải thể năm 1830
Hiệp sĩ dòng Đền, thành lập năm 1118, bị giải thể năm 1307
Hiệp sĩ Giéc-man, thành lập năm 1190, tồn tại đến năm 1525
Một số khác được hình thành trên bán đảo Iberia như tại Avis (1143), Alcantara (1156), Calatrava (1158), Santiago de Compostela (1164).
Những dòng hiệp sĩ
Sau khi những cuộc thập tự chinh thất bại và những ý tưởng về quân sự thành hình và phát triển, những dòng hiệp sĩ phát triển mạnh mẽ vào khoảng thế kỉ 14-15, bao gồm những dòng lớn sau:
Order of the Garter, thành lập bởi vua Edward III của Anh vào 1348
Order of the Golden Fleece, thành lập bởi Công tước Philip III của Burgundy vào 1430
L'Ordre de Saint-Michel, thành lập bởi vua Louis XI của Pháp vào 1469
Order of St. George, thành lập bởi Ekaterina II của Nga vào 1769
Ý nghĩa danh dự
Vào khoảng 1560, những danh hiệu hiệp sĩ danh dự được thiết lập, được thành lập khác với những danh hiệu dùng trong quân đội. Những danh hiệu như thế rất phổ biến vào thế kỉ 17-18. Danh hiệu hiệp sĩ vẫn còn tồn tại ở:
Anh và các nước thuộc Khối Thịnh vượng chung Anh
Hầu hết các nước tại châu Âu
Malaysia
Thái Lan
Những hiệp sĩ hiện đai được phong dựa vào cống hiến của họ cho xã hội. Khi được phong tước, nếu được phong thì tên của họ sẽ được thêm vào từ "Sir" (ngài), nếu là phụ nữ thì là "Dame" (quý bà). Tước chỉ đi với tên, chứ không đi với họ. Ví dụ như Elton John, có thể gọi là Sir Elton hay Sir Elton John chứ không bao giờ là Sir John. Vợ của những hiệp sĩ cũng có tước hiệu "Lady", nhưng sẽ đi với họ của chồng. Ví dụ, vợ của Paul McCartney sẽ được gọi là Lady McCartney chứ không phải là Lady Paul McCartney hay Lady Heather McCartney. Cũng có thể dùng tước hiệu "Dame" để gọi họ, nhưng nó chỉ tồn tại trong những văn bản trang trọng.
Ở Hà Lan cũng có một số dòng họ hiệp sĩ thừa kế, trong đó nổi tiếng nhất là ba dòng Willems-Orde, Orde van de Nederlandse Leeuw và Orde van Oranje Nassau.
Ở Ý, Cavalieri là một tước hiệu tương đương.
Trong các tác phẩm
Hình tượng hiệp sĩ được xây dựng nhiều trong các tác phẩm nghệ thuật:
Trong truyện Don Quixote của Miguel de Cervantes
Trong phim "Câu truyện chàng hiệp sĩ" (A Kight's tale) do Brian Helgeland đạo diễn (2001)
Trong phim First Knight do Jerry Zucker đạo diễn (1995)
Trong phim King Arthur do Antoine Fuqua đạo diễn (2004)
Trong trò chơi Heroes of Might and Magic III: The Shadow of Death |
Định lý cuối cùng của Fermat (hay còn gọi là định lý Fermat lớn) là một trong những định lý nổi tiếng trong lịch sử toán học. Định lý này phát biểu như sau:
Không tồn tại các nghiệm nguyên dương a, b, c thoả mãn an + bn = cn trong đó n là một số nguyên lớn hơn 2.
Định lý này đã làm khó không biết bao bộ óc vĩ đại của các nhà toán học lừng danh trong gần 4 thế kỉ. Cuối cùng nó được Andrew Wiles chứng minh vào năm 1993 sau gần 8 năm ròng nghiên cứu, phát triển từ chứng minh các giả thiết có liên quan. Tuy nhiên chứng minh này còn thiếu sót và đến năm 1995 Wiles mới hoàn tất, công bố chứng minh trọn vẹn sau 358 năm nỗ lực chứng minh của các nhà toán học. Bằng chứng được mô tả là một 'bước tiến tuyệt vời' trong trích dẫn cho giải thưởng Abel năm 2016. Bằng chứng của Định lý cuối cùng của Fermat cũng đã chứng minh được rất nhiều định lý module và mở ra toàn bộ các phương pháp tiếp cận mới cho nhiều vấn đề khác và nâng tầm kỹ thuật tính toán module. Những vấn đề chưa được giải quyết đã thúc đẩy sự phát triển của lý thuyết đại số ở thế kỉ 19 và sự chứng minh của định lý Module ở thế kỉ 20. Đây là định lý trứ danh nhất trong lịch sử toán học. Trước khi nó được chứng minh thì định lý đã được ghi vào sách kỷ lục Guinness thế giới như là một vấn đề toán học khó nhất mọi thời đại, một trong những lý do định lý này được gọi như vậy là vì có một lượng khổng lồ các bài chứng minh không thành công.
Tổng quan về định lý
Nguồn gốc của định lý Pythagoras
Phương trình Pythagoras, x2 + y2 = z2, có vô số các số nguyên dương cho x, y, z thỏa mãn; các nghiệm này được gọi là bộ ba số Pythagoras. Vào khoảng năm 1637, Fermat đã viết trong một quyển sách rằng phương trình tổng quát hơn là an + bn = cn, không có nghiệm nào là số nguyên dương, nếu n là số nguyên lớn hơn 2. Mặc dù ông tuyên bố có cách chứng minh chung về giả thuyết của ông, Fermat đã không để lại chi tiết về chứng minh của mình, và không có bất kỳ chứng minh nào của ông đã từng được tìm thấy. Khẳng định của ông đã được phát hiện khoảng 30 năm sau cái chết của ông. Tuyên bố này, được gọi là Định lý cuối cùng của Fermat, đã tồn tại trong toán gần 3,5 thế kỷ. Tuyên bố cuối cùng của Fermat đã trở thành một trong những vấn đề nổi bật nhất chưa được giải quyết của toán học. Những nỗ lực để chứng minh nó đã thúc đẩy sự phát triển đáng kể trong lý thuyết số, và theo thời gian Định lý cuối cùng của Fermat đã nổi bật như là một vấn đề chưa được giải quyết trong toán học.
Sự phát triển và những nghiệm sau đó
Với trường hợp đặc biệt n = 4 do chính Fermat chứng minh, điều này đã giảm thiểu việc chứng minh bằng cách chỉ cần chứng minh định lý này cho các số mũ là số nguyên tố (sự thu nhỏ chứng minh này được coi là bình thường để chứng minh). Trong hai thế kỷ tiếp theo (1637-1839), phỏng đoán đã được chứng minh chỉ với các số nguyên tố 3, 5 và 7, mặc dù Sophie Germain đã đổi mới và chứng minh một cách tiếp cận có liên quan đến toàn bộ bậc của số nguyên tố. Vào giữa thế kỷ 19, Ernst Kummer đã mở rộng điều này và chứng minh được định lý cho tất cả các số nguyên tố thông thường, để lại các số nguyên tố bất thường được phân tích riêng lẻ. Dựa trên công trình của Kummer và sử dụng các nghiên cứu máy tính phức tạp, các nhà toán học khác có thể mở rộng cách chứng minh để bao gồm tất cả các số nguyên tố chính lên đến bốn triệu, nhưng một bằng chứng cho thấy tất cả các số mũ là không thể tiếp cận được (có nghĩa là các nhà toán học thường xem là một bằng chứng không thể, nó quá khó, không thể chứng minh được với kiến thức hiện tại).
Hoàn toàn tách biệt, khoảng năm 1955, các nhà toán học người Nhật Goro Shimura và Yutaka Taniyama nghi ngờ một liên kết có thể tồn tại giữa các đường cong elliptic và dạng modular, hai lĩnh vực toán học hoàn toàn khác nhau. Được biết đến vào thời điểm đó là giả thuyết Taniyama-Shimura, và (cuối cùng) là định lý modular, nó tự đứng vững, không có kết nối rõ ràng với Định lý cuối cùng của Fermat. Nó được xem là quan trọng, nhưng nó (như định lý của Fermat) được xem là không thể chứng minh được.
Năm 1984, Gerhard Frey nhận thấy một liên kết rõ ràng giữa hai vấn đề không liên quan và chưa được giải quyết trước đây. Một phác thảo cho thấy điều này có thể được chứng minh đã được đưa ra bởi Frey. Bằng chứng đầy đủ cho thấy hai vấn đề này có liên quan mật thiết với nhau, được xây dựng bởi Ken Ribet vào năm 1986 dựa trên cách chứng minh từng phần của Jean-Pierre Serre, người đã chứng minh được tất cả nhưng chỉ một phần được gọi là "dự đoán epsilon" (xem định lý của Ribet và đường Frey). Các giấy tờ của Frey, Serre và Ribet chỉ ra rằng nếu Định lý mô đun có thể được chứng minh cho ít nhất là bán ổn định lớp đường cong elliptic, thì một cách chứng minh của Định lý cuối cùng của Fermat cũng sẽ tự động được thực hiện. Kết nối được mô tả dưới đây: bất kỳ nghiệm nào có thể trái ngược với Định lý cuối cùng của Fermat cũng có thể được sử dụng để đảo lại với Định lý mô đun. Vì vậy, nếu định lý Mô-đun đã được tìm thấy là đúng, thì theo định nghĩa không có cách giải nào đảo với Định lý cuối cùng của Fermat có thể tồn tại, điều này cũng phải là đúng.
Mặc dù cả hai vấn đề này đều là những vấn đề khó khăn được xem là "hoàn toàn không thể tiếp cận" được vào thời điểm đó, nhưng đây là gợi ý đầu tiên của một lộ trình mà theo đó Định lý cuối cùng của Fermat có thể được mở rộng và chứng minh cho tất cả các con số, chứ không phải chỉ một số con số. Điều quan trọng là các nhà nghiên cứu lựa chọn một chủ đề nghiên cứu thực sự là không giống như Định lý Cuối cùng của Fermat, Định lý mô đun là một lĩnh vực nghiên cứu chủ yếu mà một cách chứng minh được yêu cầu rộng rãi và không chỉ là một sự kỳ quặc lịch sử, do đó thời gian làm việc trên đó có thể được chứng minh là vô cùng chuyên nghiệp. Tuy nhiên, ý kiến chung cho rằng điều này chỉ đơn giản cho thấy cái không thực tế của chứng minh Taniyama-Shimura phỏng đoán. Phản hồi được trích dẫn từ nhà toán học John Coates:
"Bản thân tôi rất hoài nghi rằng mối liên hệ tuyệt vời giữa Định lý Cuối cùng của Fermat và giả thuyết Taniyama-Shimura sẽ thực sự dẫn đến bất cứ điều gì, bởi vì tôi phải thú nhận rằng tôi không nghĩ rằng giả thuyết Taniyama-Shimura có thể chứng minh được., nó dường như không thể chứng minh. Tôi phải thú nhận rằng tôi nghĩ có lẽ tôi sẽ không chứng kiến điều đó trong suốt cuộc đời mình. "
Khi nghe Ribet đã chứng minh liên kết của Frey là đúng, nhà toán học người Anh Andrew Wiles, người đã có một niềm đam mê từ thời thơ ấu với Định lý cuối cùng của Fermat và có nền tảng làm việc với đường cong elliptic và các lĩnh vực liên quan, quyết định thử chứng minh giả thuyết Taniyama-Shimura như một cách để chứng minh Định lý Cuối cùng của Fermat. Năm 1993, sau sáu năm làm việc bí mật về vấn đề này, Wiles đã thành công trong việc chứng minh đủ các giả thuyết để chứng minh Định lý Cuối cùng của Fermat. Bản báo cáo của Wiles có quy mô và phạm vi lớn. Một lỗ hổng đã được phát hiện trong một phần của bài báo gốc của ông trong quá trình xem xét lại và cần thêm một năm nữa và hợp tác với một học sinh cũ, Richard Taylor, để giải quyết. Kết quả là, chứng minh được công bố cuối cùng năm 1995 được kèm theo một báo cáo thứ hai nhỏ hơn cho thấy rằng các bước cố định là hợp lệ. Thành tựu của Wiles được báo cáo rộng rãi trong báo chí nổi tiếng và được phổ biến rộng rãi trong các cuốn sách và chương trình truyền hình. Các phần còn lại của dự đoán Taniyama-Shimura-Weil, bây giờ đã được chứng minh và được gọi là định lý Mô đun, sau đó được chứng minh bởi các nhà toán học khác, người đã xây dựng dựa trên công trình của Wiles từ năm 1996 đến năm 2001. Nhờ chứng minh của mình, Wiles được vinh danh và nhận được nhiều giải thưởng, bao gồm giải thưởng Abel năm 2016.
Các phát biểu tương đương của định lý
Có một số cách khác để tuyên bố định lý cuối cùng của Fermat có toán học tương đương với câu lệnh ban đầu của vấn đề.
Để biểu diễn chúng, chúng ta sử dụng ký hiệu toán học: để N là tập các số tự nhiên 1,2,3,..., để là tập các số nguyên 0, ± 1, ± 2,..., và để cho là tập các số hợp các số ngẫu nhiên trong đó a và b thuộc với b ≠ 0, Dưới đây, chúng ta sẽ gọi một nghiệm cho xn + yn = zn, trong đó một hoặc nhiều x, y, hoặc z có giá trị là 0 thì cách giải sẽ trở nên bình thường. Một nghiệm mà cả ba không phải là giá trị 0 thì sẽ trở nên bất thường.
Để so sánh, chúng ta bắt đầu với công thức ban đầu.
Phát biểu gốc: Với n, x, y, z ∈ (nghĩa là: x, y, z là tất cả các số nguyên dương) và n > 2 thì phương trình xn + yn = zn vô nghiệm.
Các phương pháp phổ biến nhất của đối tượng theo cách này. Ngược lại, gần như tất cả các sách giáo khoa toán học đều ghi rõ nó qua :
Lịch sử toán học
Pythagoras và Diophantus
Bộ ba số Pythagoras
Trong thời cổ đại, người ta biết rằng một tam giác có các cạnh lần lượt có tỷ lệ tương ứng là 3 : 4 : 5 sẽ là một tam giác vuông. Điều này đã được sử dụng trong xây dựng và sau đó sớm được dùng trong hình học. Trong thời cổ đại, điều này đã được phát hiện ra chỉ là một ví dụ của một nguyên tắc chung rằng bất kỳ tam giác nào có tổng bình phương hai cạnh bất kỳ bằng bình phương cạnh còn lại thì tam giác đó là tam giác vuông.
Đây được gọi là định lý Pythagoras, và một bộ ba số thỏa mãn được điều kiện này được gọi là bộ ba số Pythagoras. Nó được đặt tên dựa trên tên của nhà toán học Hy Lạp cổ đại - Pythagoras. Ví dụ các bộ ba (3, 4, 5) và (5, 12, 13). Có rất nhiều bộ ba số như vậy, và các phương pháp để tạo ra bộ ba số đó được nghiên cứu ở nhiều nền văn hóa khác nhau, bắt đầu với người Babylon, sau đó lần lượt là các nhà toán học Hy Lạp, Trung Quốc và Ấn Độ. Về mặt toán học, định nghĩa của một bộ ba số Pythagoras là một tập gồm ba số nguyên (a, b, c) thỏa mãn phương trình: a2+ b2 = c2.
Định lý cuối cùng của Fermat xem xét phương trình này cho bậc lớn hơn 2, và cho biết mặc dù có vô số bộ ba nguyên dương thỏa mãn phương trình cho n = 2, không có nghiệm dương nào cho n > 2.
Phương trình Diophantine
Phương trình Fermat, xn + yn = zn với các nghiệm là số nguyên dương, là một ví dụ về phương trình Diophantine, được đặt tên theo tên của nhà toán học Alexandrian ở thế kỷ thứ ba, Diophantus, người đã nghiên cứu chúng và phát triển phương pháp để giải một số phương trình Diophantine. Một vấn đề Diophantine điển hình là tìm hai số nguyên x và y sao cho tổng của chúng và tổng bình phương bằng hai số A và B tương ứng:
A = x + y
B = x2 + y2
Công việc chính của Diophantus là nghiên cứu cuốn Arithmetica, nhưng trong đó chỉ còn một vài phần công việc của ông là còn tồn tại. Phỏng đoán của Fermat về Định lý Cuối cùng của ông đã được truyền cảm hứng khi đọc một ấn bản mới của một cuốn sách Arithmetica, được Claude Bachet xuất bản và dịch sang tiếng La-tin vào năm 1621.
Phương trình Diophantine đã được nghiên cứu trong hàng ngàn năm. Ví dụ, phương trình Diophantine bậc hai x2 + y2 = z2 được giải bởi các bộ ba số Pythagoras, ban đầu được giải quyết bởi người Babylon (khoảng 1800 TCN). Cách giải cho các phương trình Diophantine tuyến tính, như 26x + 65y = 13, có thể được tìm thấy bằng thuật toán Euclide (khoảng thế kỷ 5 trước công nguyên). Nhiều phương trình Diophantine có một hình thức tương tự như phương trình của Định lý Cuối cùng của Fermat theo quan điểm của đại số. Ví dụ, có vô số các số nguyên dương x, y, và z sao cho xn + yn = zm trong đó n và m là các số nguyên tố tự nhiên.
Giả thuyết của Fermat
Vấn đề II.8 trong ấn bản 1621 của Arithmetica được viết bởi Diophantus. Vì phía bên phải của sách là lề quá nhỏ để chứa cách chứng minh của Fermat về "định lý cuối cùng" của Fermat.
Vấn đề II.8 của Arithmetica hỏi làm thế nào một số bình phương nhất định được chia thành hai số bình phương khác; nói cách khác, với một số k nhất định, tìm hai số u và v sao cho k2 = u2 + v2. Diophantus cho thấy làm thế nào để giải quyết vấn đề tổng và bình phương khi k = 4.
Vào khoảng năm 1637, Fermat đã viết bài toán cuối cùng của mình trong bản sao của Arithmetica bên cạnh vấn đề tổng bình phương của Diophantus.
Sau cái chết của Fermat năm 1665, con trai của ông, Clément-Samuel Fermat, đã sản xuất một ấn bản mới của cuốn sách (1670) với những nhận xét của cha mình. Mặc dù thời gian đó, nó không hẳn thực sự là một định lý. Sau này, nó đã được biết đến như Định lý Cuối cùng của Fermat bởi vì nó là tập cuối của các định lý được khẳng định của Fermat mà vẫn không được chứng minh.
Không biết liệu Fermat có thực sự tìm ra cách chứng minh hợp lệ cho tất cả các số mũ n không, nhưng dường như nó là không chắc chắn. Chỉ có một bằng chứng liên quan của ông đã tồn tại, cụ thể là cho trường hợp n = 4, như mô tả trong phần Bằng chứng cho số mũ cụ thể. Trong khi Fermat đặt ra các trường hợp n = 4 và n = 3 như là những thách thức đối với các nhà toán học, như Marin Mersenne, Blaise Pascal, và John Wallis. Ông chưa bao giờ đưa ra một trường hợp chung. Hơn nữa, trong ba mươi năm cuối cùng của cuộc đời, Fermat không bao giờ viết về "cách chứng minh kỳ diệu thực sự" của ông về trường hợp chung, và không bao giờ xuất bản nó. Van der Poorten cho thấy rằng mặc dù sự thiếu sót của một chứng minh là không đáng kể, sự thiếu thách thức có nghĩa là Fermat nhận ra rằng ông không có cách chứng minh nào cả; Trích dẫn Weil thì người ta cho rằng Fermat phải có một thời gian ngắn lừa dối mình với một ý tưởng không thể cứu vãn được nữa.
Các kỹ thuật mà Fermat có thể đã sử dụng trong một "cách chứng minh kỳ diệu" là không được biết đến.
Taylor và chứng minh của Wiles dựa vào các kỹ thuật của thế kỷ 20. Cách chứng minh của Fermat có thể đã được có bản hóa bằng cách so sánh.
Trong khi giả thuyết lớn của Harvey Friedman ngụ ý rằng bất kỳ định lý có thể chứng minh nào (bao gồm định lý cuối cùng của Fermat) có thể được chứng minh bằng cách sử dụng 'số học cơ bản', thì một bằng chứng cần phải là "cơ bản" chỉ theo nghĩa kỹ thuật và có thể liên quan đến hàng triệu bước, quá lâu để có được bằng chứng của Fermat.
Giả thiết Fermat
Định lý này được gọi là định lý cuối cùng của Fermat hay định lý Lớn Fermat là vì vào năm 1630, Fermat cho rằng không thể tìm được nghiệm (nguyên) cho phương trình bậc ba. Điều lý thú ở đây là phỏng đoán này được Fermat viết lại trên lề cuốn sách Arithmetica của Diophantus mà không chứng minh, nhưng có kèm theo dòng chữ: “Tôi có một phương pháp rất hay để chứng minh cho trường hợp tổng quát, nhưng không thể viết ra đây vì lề sách quá hẹp." Việc ông có thực sự chứng minh được định lý đó hay không vẫn còn gây tranh cãi, nhưng vấn đề này đã trở thành một vấn đề nổi tiếng trong toán học. Các nhà toán học hết thế hệ này đến thế hệ khác đã cố sức và đều thất bại trong việc tìm ra lời giải cho định lý này.
Với những dòng viết tay đó, nhà toán học người Pháp Pierre de Fermat đã chính thức buông lời thách đố đối với thế hệ các nhà toán học sau ông. Nhiều nhà toán học đã dành cả cuộc đời để cố chứng minh định lý phát biểu nghe có vẻ hết sức đơn giản này.
Hành trình mấy trăm năm để giải lời thách đố, cùng với sự phức tạp của lời giải hàng trăm trang, từ bao thế hệ các nhà toán học đã làm người ta vừa nghi ngờ dòng ghi chú của Fermat, vừa tò mò, thán phục ông.
Lịch sử chứng minh định lý lớn Fermat
Cho tới đầu thế kỷ 20 các nhà toán học chỉ chứng minh định lý này là đúng với n = 3, 4, 5, 7 và các bội số của nó. Nhà toán học người Đức Ernst Kummer đã chứng minh định lý này là đúng với mọi số nguyên tố tới 100 (trừ 3 Số nguyên tố phi chính quy là 37, 59, 67).
Nhà toán học vĩ đại người Thụy Sĩ Leonhard Euler (1707 – 1783) đã chứng minh định lý cho trường hợp n = 3 và n = 4.
Năm 1828, Dirichlet chứng minh cho trường hợp n = 5.
Vào những năm 1840, Gabriel Lamé chứng minh với n = 7.
200 năm sau Fermat, định lí mới được chứng minh với n = 3, 4, 5, 6 và 7.
Định lý quá khó và Bell trong cuốn sách “Bài toán cuối cùng” đã phải viết rằng: có lẽ nền văn minh của chúng ta cáo chung trước khi các nhà toán học tìm ra lời giải cho bài toán.
Tuy vậy, năm 1908, định lý Fermat đột ngột gây được sự chú ý trở lại nhờ công của một nhà công nghiệp và tiến sĩ toán người Đức tên là Paul Wolfskehl. Do gặp phải một chuyện bất hạnh trong đời sống riêng, ông quyết định sẽ tự sát vào lúc nửa đêm. Trong khi chờ đợi, ông tình cờ đọc một chứng minh của Kummer liên quan đến định lí Fermat. Chìm đắm trong sự suy tư, ông vượt qua giờ phút định mệnh lúc nào không biết. Sự đam mê toán học đã hồi sinh cuộc đời ông. Ông quyết định dành gần hết gia sản của mình lập nên giải thưởng Wolfshehl dành tặng cho người nào tìm ra lời giải của định lý Fermat. Trị giá giải thưởng là 100.000 mác tương đương 1,75 triệu USD, lớn hơn giải Nobel.
Khi giải thưởng được thông báo, các bài dự thi ùn ùn đổ về Đại học Gottingen. Ngay trong năm treo giải, có 621 “lời giải” được đệ trình và mấy năm sau thì số thư từ chất cao đến 3m. Tất cả đều sai.
Quá trình giải của Andrew Wiles
Trong lịch sử công cuộc tìm lời giải cho "Định lý cuối cùng của Fermat" có người phải tự tử và có những người tự lừa chính mình. Cuối cùng sau gần 4 thế kỷ, nhà toán học người Anh, Andrew Wiles cũng công bố lời giải độc nhất vô nhị vào mùa hè năm 1993 và bản chỉnh sửa cuối cùng vào năm 1995, với lời giải dài 200 trang.
Tháng 5 năm 1993, Wiles khoe với vợ của mình là đã giải thành công.
Tháng 6 năm 1993, "Elliptic Curves and Modular Forms", Wiles lần đầu tiên công bố là ông đã giải được Định lý lớn Fermat.
Trong tháng 7 và tháng 8 năm 1993, Nick Katz, đồng nghiệp của Wiles tại Đại học Princeton, trao đổi email với ông về những điểm chưa hiểu rõ, trong đó nhắc rằng trong chứng minh của ông có 1 sai lầm căn bản.
Tháng 9 năm 1993, Wiles nhận ra chỗ sai và cố gắng sửa. Trong ngày sinh nhật của vợ ông, ngày 6 tháng 10, bà nói chỉ cần quà sinh nhật là một chứng minh đúng, thế nhưng, dù đã cố gắng hết sức, Wiles vẫn không làm được.
Tháng 11 năm 1993, ông gởi email công bố là có trục trặc trong phần của chứng minh đó của mình.
Sau nhiều tháng thất bại trong việc tìm hướng giải quyết, Wiles sắp chịu thua. Trong tuyệt vọng, ông yêu cầu giúp đỡ. Richard Taylor, một sinh viên cũ của ông, đã tới Princeton cùng nghiên cứu với ông.
Ba tháng đầu 1994, ông cùng Taylor tìm mọi cách sửa chữa vấn đề nhưng vô hiệu.
Tháng 9 năm 1994, ông quay lại nghiên cứu một vấn đề căn bản mà chứng minh của ông được xây dựng dựa trên đó.
Ngày 19 tháng 9 năm 1994 phát hiện cách sửa chữa chỗ trục trặc đơn giản và đẹp, dựa trên một cố gắng chứng minh đã làm 3 năm trước. Sau khi coi lại cẩn thận, ông mừng rỡ nói với phu nhân là đã làm được.
Tháng 5 năm 1995 đăng lời giải trên Annals of Mathematics (Đại học Princeton).
Tháng 8 năm 1995 hội thảo ở Đại học Boston, giới toán học công nhận chứng minh là đúng.
Helen G. Grundman, giáo sư toán trường Bryn Mawr College, đánh giá tình hình của cách chứng minh đó như sau:
"Tôi nghĩ là ta có thể nói, vâng, các nhà toán học hiện nay đã bằng lòng với cách chứng minh Định lý lớn Fermat đó. Tuy nhiên, một số sẽ cho là chứng minh đó của một mình Wiles mà thôi. Thật ra chứng minh đó là công trình của nhiều người. Wiles đã có đóng góp đáng kể và là người kết hợp các công trình lại với nhau thành cái mà ông đã nghĩ là một cách chứng minh. Mặc dù cố gắng khởi đầu của ông được phát hiện sau đó là có sai lầm, Wiles và người phụ tá Richard Taylor đã sửa lại được, và nay đó là cái mà ta tin là cách chứng minh đúng Định lý lớn Fermat."
"Chứng minh mà ta biết hiện nay đòi hỏi sự phát triển của cả một lãnh vực toán học chưa được biết tới vào thời Fermat. Bản thân định lý được phát biểu rất dễ dàng và vì vậy xem ra có vẻ đơn giản một cách giả tạo; bạn không cần biết rất nhiều về toán để hiểu bài toán. Tuy nhiên, để rồi nhận ra rằng, theo kiến thức tốt nhất của bạn, cần phải biết rất nhiều về toán mới có thể giải được nó. Vẫn là một câu hỏi chưa có lời đáp rằng liệu có hay không một cách chứng minh Định lý lớn Fermat mà chỉ liên quan tới toán học và các phương pháp đã có vào thời Fermat. Chúng ta không có cách nào trả lời trừ phi ai đó tìm ra một chứng minh như vậy." |
Köln hay Koeln (), còn được viết là Cologne theo tên tiếng Anh, cho đến năm 1919 là Cöln, dưới thời của người La Mã đầu tiên là oppidum ubiorum, rồi Colonia Claudia Ara Agrippinensium, là thành phố lớn thứ tư của Đức theo dân số và diện tích. Thành phố có lịch sử 2.000 năm, có nhiều di sản kiến trúc và văn hóa, nơi diễn ra nhiều sự kiện quốc tế quan trọng.
Năm 1850, dân số thành phố vượt quá con số 100.000, từ đó Köln trở thành một thành phố lớn theo lối hiểu ngày nay. Giữa năm 2005, dân số chính thức (có đăng ký cư trú) của Köln là 975.907. Thế nhưng, nếu tính cả những người đăng ký Köln là nơi cư trú thứ hai, thành phố có tổng cộng 1.022.627 dân cư. Vì thế mà Köln được gọi là thành phố triệu dân, mặc dù về mặt chính thức, Köln chỉ là thành phố triệu dân trong những năm 1975 và 1976 do sáp nhập hành chính mà sau này lại bị hủy bỏ. Ngày nay Köln là thành phố lớn nhất bang Nordrhein-Westfalen với 1.010.269 dân [2011].
Köln trở nên quan trọng vì thành phố từ ngày thành lập bởi người La Mã luôn luôn đóng vai trò nổi bật trong lịch sử như là một trung tâm đô thị và trung tâm của quyền lực nhà thờ. Điều này còn được hỗ trợ bởi vị trí của thành phố nằm trên điểm giao nhau của những con đường thương mại quan trọng Đông-Tây cùng với việc chuyển tải hàng hóa trên sông Rhein. Vì thế mà Köln trở thành một địa điểm thương mại quan trọng và ngày nay là một trọng điểm giao thông với lưu lượng giao thông đường sắt cao nhất nước Đức. Cảng sông Rhein là một trong những cảng lục địa quan trọng nhất châu Âu. Thành phố trước đây mang nặng dấu ấn của công nghiệp đã trải qua một biến đổi cấu trúc hướng về khu vực dịch vụ trong những thập niên cuối thế kỷ XX: Ngày nay Köln là một trung tâm của truyền thông đại chúng, công nghệ và khoa học. Köln là một trong những thành phố đại học lớn, con số 85.183 sinh viên ghi danh chiếm khoảng 8,5% tỷ lệ dân số. Với tỷ lệ người nước ngoài là 17,2% (175.515 người, thời điểm cuối 2004) Köln là một trong những thành trì đa văn hóa, chứa đựng một trong những cộng đồng người Thổ Nhĩ Kỳ lớn nhất Đức. Đi kèm theo sự đa dạng về chủng tộc, tôn giáo và văn hóa, cũng như ở nhiều thành phố lớn tương tự, là tính khoan nhượng và tự do ở mức độ cao trong phần lớn người dân. Vì thế, thành phố cũng được xem là một trung tâm của những người đồng tính luyến ái, nam cũng như nữ.
Địa lý
Vị trí địa lý và khí hậu
Khu vực thành phố trải dài trên 405,15 km² (tả ngạn sông Rhein 230,25 km², hữu ngạn sông Rhein 174,87 km²). Köln nằm trên 50°5633" vĩ độ bắc và 6°5732" kinh độ đông. Điểm cao nhất (trong Königsforst) nằm trên mực nước biển 118,04 m, điểm thấp nhất 37,5 m (trong Worringer Bruch).
Köln nằm trong Vịnh Köln, một quang cảnh thung lũng giữa vùng Bergisches Land và vùng Eifel, ngay sau khi sông Rhein chảy ra khỏi vùng Rheinisches Schiefergebirge. Vị trí thuận lợi này mang lại cho Köln một khí hậu có nhiều đặc điểm:
Nhờ vào vùng chắn Eifel, thành phố mà đặc biệt là phần tả ngạn sông Rhein nằm về phía được chắn gió và không có mưa của gió tây.
Đồng thời, do trao đổi không khí với vùng phụ cận ít nên tạo điều kiện thuận lợi cho bầu không khí ấm áp. Nội thành của Köln là nơi ấm nhất của bang Nordrhein-Westfalen.
Đi cùng với điều này là độ ẩm cao vì nước sông Rhein bốc hơi nhưng trao đổi không khí lại ít, đặc biệt là trong mùa hè thường mang lại tiết trời nồm ẩm và nhiều cơn mưa giông.
Köln nằm trong vùng chuyển tiếp giữa khí hậu biển và khí hậu lục địa với mùa đông ấm áp (nhiệt độ trung bình tháng 1 là 2,4 °C) và mùa hè mát (nhiệt độ trung bình tháng 7 là 18,3 °C). Lượng mưa trung bình trong năm là 798 mm, nằm trong trung bình của nước Đức.
Địa chất
Köln nằm trong một khu vực có địa hình bậc thang tăng cao dần từ sông Rhein. Nền đất thuộc về Phân đại Đệ Tam, một phần chỉ thành hình từ Phân đại Đệ Tứ và bao gồm nhiều tầng trầm tích. Một ngoại lệ là phần cực đông của thành phố, thuộc về nền của vùng Rheinisches Schiefergebirge.
Đất trồng chịu nhiều ảnh hưởng của đất màu mỡ từ đồng bằng đất phù sa cạnh sông Rhein và vùng Löß về phía tây cũng như đất không được tốt lắm về phía đông của thành phố (đồng cỏ, rừng), chuyển tiếp sang vùng Bergisches Land.
Köln và sông Rhein
Sông Rhein, sau khi chảy ra khỏi vùng núi Schiefergebirge ở phía nam của Köln được gọi là Hạ Rhein, chảy vào thành phố tại Godorf và ra khỏi thành phố tại Worringen. Sông Rhein đã mang lại cho thành phố thịnh vượng và chất lượng cao cho cuộc sống nhiều như thế nào thì người ta cũng sợ lụt của nó nhiều như thế.
Cơn lụt tồi tệ nhất từng được ghi chép lại xảy ra vào tháng 2 năm 1784, khi nhiệt độ tăng đột ngột sau một mùa đông cực dài và lạnh. Sông Rhein trong thời điểm này đã đóng băng, tuyết tan cũng như băng vỡ ra đã tạo nên mực nước kỷ lục 13,55 m (mực nước thường là 3,48 m). Nước lũ cùng với những tảng băng đá nặng trên đấy đã tàn phá phần lớn các công trình xây dựng bên bờ sông cũng như tất cả tàu thuyền. Đã có 65 người chết. Mülheim nằm hữu ngạn sông Rhein đã bị phá hủy hoàn toàn.
Trong thế kỷ XX, ba đợt "lụt của thế kỷ" vào những năm 1926, 1993 và 1995 đã đạt mực nước cho đến 10,69 m. Bắt đầu từ 2005 một phương án bảo vệ chống lụt bắt đầu được tiến hành, dùng tường di động hay cố định để bảo vệ thành phố cho đến mực nước 11,30 m. Công trình dự định đến cuối năm 2007 sẽ hoàn thành.
Thế nhưng nhiều lần sông Rhein cũng đã chỉ mặt ngược lại của nó: nước cạn. Vào ngày 2 tháng 9 năm 2003 vào lúc 8:00 giờ mực nước sông Rhein xuống đến mức thấp kỷ lục 0,80 m. Thế nhưng mực nước 0,00 m có nghĩa là luồng nước cho tàu chạy rộng 150 m ở giữa sông vẫn còn độ sâu 1 m. Giao thông tàu thủy trên sông đã có nhiều hạn chế lớn nhưng không bị đình chỉ như ở sông Elbe.
Hệ thực vật và động vật
Köln có diện tích xanh lớn mà trong khu vực đông dân cư thường được tạo thành công viên, trong các quận ngoại thành thường là rừng canh tác. Bên cạnh đó còn có nhiều khu bảo tồn tự nhiên thí dụ như Worringer Bruch nằm về phía cực đông tả ngạn sông Rhein, nguyên là một nhánh sông Rhein đã được lấp đất. Đấy là quê hương của nhiều loại thực vật và động vật hiếm cũng như một quang cảnh rừng và đồng ngập nước. Ở hữu ngạn sông Rhein chủ yếu là rừng và đồng cỏ.
Bên cạnh chim bồ câu và chuột, những loài động vật có mặt tại khắp mọi nơi và ở nhiều chỗ đã được cảm nhận như là một tai họa, là cáo đỏ (Vulpes vulpes) vào thành phố với số lượng đáng kể. Ngày nay chúng ở ngay trong nội thành và sử dụng vườn nhỏ cũng như công viên làm khu vực săn bắt.
Ban đầu được mang vào Đức để nuôi trong lồng và sau đó được tự do, nhiều chim két xanh (Psittacula krameri) đã chọn Köln làm quê hương mới và hiện nay đã có nhiều bầy chim két này sinh sống trong thành phố.
Lịch sử
Köln là thành phố lâu đời nhất trong số các thành phố lớn của Đức: Tên Köln, vào thời người La Mã là Colonia Claudia Ara Agrippinensium xuất phát từ hoàng hậu La Mã Agrippina. Người vợ của Claudius sanh ra tại Köln và đã nâng nơi này lên trở thành thành phố vào năm 50 sau Công Nguyên. Trong thời kỳ của người La Mã, Köln là nơi ngự trị của thống đốc tỉnh Germania Inferior. Vào khoảng năm 80 Công Nguyên, với kênh đào dẫn nước từ Eifel, Köln đã nhận được một trong những ống dẫn nước La Mã (aqueduct) dài nhất.
Trong thời gian đầu của thời Trung cổ, Köln cũng đã là một thành phố quan trọng. Vào khoảng năm 455 người Frank chiếm lĩnh thành phố La Mã này. Cho đến đầu thế kỷ thứ VI là nơi chính của một vương quốc Frank tự chủ, Köln được sáp nhập vào vương quốc của Chlodwig tiếp theo sau đó nhưng vẫn giữ được tính tự chủ cao. Dân cư người La Mã sống bên cạnh những người Frank đã chiếm lĩnh thành phố một thời gian dài. Trong thời gian từ thế kỷ thứ VI đến thế kỷ thứ VIII đã có sự tiếp biến văn hóa giữa hai phần dân cư thành phố. Người Frank tiếp nhận nhanh chóng những thành tựu văn hóa của dân cư thành phố người La Mã, thí dụ như trong lĩnh vực kỹ thuật xây dựng hay sản xuất thủy tinh. Vào cuối thời kỳ của dòng họ Merowinger, Köln là nơi thành phố ngự trị của hoàng đế. Chậm nhất là từ thời dòng họ Karolinger, Giám mục hay tổng Giám mục của Köln là một trong những nhân vật quan trọng nhất trong vương quốc. Dưới triều đại Otto, Köln đã đóng một vai trò quan trọng trong việc tiếp cận giữa Thánh chế La Mã dân tộc Đức và Đế quốc Byzantine. Từ thế kỷ X, dưới sự lãnh đạo của các vị tổng Giám mục có tầm quan trọng và thông thạo về chính trị, Köln đã trở thành trung tâm tôn giáo không còn bàn cãi. Qua việc mang di cốt của ba vị vua thánh về thành phố bởi tổng Giám mục Rainald của Dassel trong năm 1164, Köln đã trở thành một địa danh hành hương hàng đầu. Giữa thời Trung cổ, Köln trở thành thành phố lớn nhất Đức, vì thế mà thành trì cũng phải được mở rộng nhiều lần: Từ năm 1180 (theo các văn kiện của ngày 27 tháng 7 và 18 tháng 8) thành trì rộng nhất Đức thời đấy bắt đầu được xây dựng và hoàn thành vào năm 1225. 12 cổng thành kết hợp vào thành trì bán nguyệt của thành phố muốn nhắc đến Jerusalem. Từ thế kỷ XII, bên cạnh Jerusalem, Constantinopel và Roma, Köln mang thêm từ "Sancta" trong tên của thành phố: Sancta Colonia Dei Gratia Romanae Ecclesiae Fidelis Filia – Köln thần thánh của ơn trời và người con gái trung thành của nhà thờ La Mã. Một nhà thờ gây ấn tượng và lớn đến mức không nơi nào có thể sánh bằng được quyết định xây dựng. Lễ đặt viên đá đầu tiên của Nhà thờ lớn Köln được tiến hành vào năm 1248.
Trong năm 1259 người dân thành phố Köln nhận được quyền ưu tiên được phép mua trước tất cả các hàng hóa được chuyên chở trên sông Rhein (Stapelrecht), góp phần vào cuộc sống sung túc của dân cư thành phố. Cuộc chiến nhiều năm giữa các tổng Giám mục Köln và các dòng dõi quý tộc tạm thời chấm dứt vào năm 1288 qua trận Worringen, nơi đạo quân của tổng Giám mục đã thất bại trước đạo quân của bá tước von Berg và của dân cư thành phố Köln. Từ đấy thành phố không còn là đất riêng của tổng Giám mục nữa và vị tổng Giám mục chỉ được phép vào thành phố khi tiến hành nghi lễ tôn giáo.
Năm 1582 tổng Giám mục Köln Gebhard Truchsess von Waldburg ly khai nhà thờ Công giáo và cưới bà Agnes von Mansfeld-Eisleben là người của đạo Tin Lành. Ông đã bị Giáo hoàng Gregor XIII khai trừ ra khỏi đạo và Ernst của Bayern, một người được tin cậy theo đạo Công giáo được cử làm người kế tục, ngoài những việc khác cũng là vì nếu không thì vị tổng Giám mục Köln đã có thể lật bỏ đa số Công giáo trong hội nghị tuyển hầu bầu hoàng đế của Thánh Chế La Mã (Kurfürstenkollegium). Chiến tranh Köln vì thế đã diễn ra từ 1583 đến 1588, trong đó các thành phố Deutz, Bonn và Neuss đã bị tàn phá. Cuộc chiến với sức hủy hoại của nó chỉ là một mường tường trước cho xung đột về tôn giáo kế tiếp theo đó trong nước Đức.
Thành phố Köln không bị tàn phá trong cuộc Chiến tranh 30 năm, một phần cũng vì thành phố đã trả tiền chuộc cho các đạo quân vây hãm và xâm chiếm. Köln thu được lợi nhuận cao trong cuộc chiến tranh này qua sản xuất và buôn bán vũ khí.
Lịch sử của thành phố "Köln thần thánh" chấm dứt khi quân đội Pháp kéo vào thành phố năm 1794 trong thời gian của cuộc Cách mạng Pháp. Cũng như toàn bộ vùng đất tả ngạn sông Rhein, thành phố Köln thuộc về nước Cộng hòa Pháp và được sáp nhập vào Roerdepartement có thủ phủ là thành phố Aachen. Nhiều người dân Köln đã đón mừng quân đội cách mạng Pháp như là những người giải phóng. Người Do Thái và người theo đạo Tin Lành bị phân biệt đối xử trước đó nay được đặt ngang hàng. Mặc dù thường phải đóng tiền đảm phụ quốc phòng cao người dân Köln vẫn trung thành với đế quốc của Napoléon, người đã đến thăm thành phố vào năm 1804. Trong năm 1815 thành phố Köln và vùng đất Rheinland bị Vương quốc Phổ thôn tính. Köln trở thành thành phố quan trọng nhất trong nước Phổ sau Berlin không chỉ vì hoạt động của các ngân hàng tại Köln. Trong năm 1880 việc xây dựng Nhà thờ lớn Köln được hoàn thành sau 632 năm dưới sự đốc thúc của hoàng đế Phổ - ít nhất là cũng tạm thời hoàn thành vì mãi cho đến ngày hôm nay công việc sửa chữa vẫn cần thiết sau Chiến tranh thế giới thứ hai và vì hư hỏng gạch xây dựng do môi trường. Do việc sửa chữa có lẽ không bao giờ chấm dứt nên nhà thờ lớn còn được gọi là "công trường xây dựng vĩnh cửu".
Cuối thế kỷ XIX thành phố được mở rộng sau khi xây dựng vòng thành phòng thủ ngoài. Công việc định cư "phố mới" đã nối kết thành phố với làng mạc vùng phụ cận đang tăng trưởng nhanh chóng và tạo điều kiện sáp nhập chúng vào thành phố. Sau thành trì cũ đượcc đập bỏ chỉ còn lại một vài công trình xây dựng tiêu biểu nhờ vào can thiệp của Bộ Văn hóa Phổ.
Trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai thành phố đã bị tàn phá đến 90% qua các cuộc bỏ bom diện rộng của không quân Anh (vào ban đêm) và Mỹ (vào ban ngày). Từ tháng 1 đến tháng 3 năm 1945 1.800 thành viên của phong trào kháng chiến người Đức và người nước ngoài đã bị Đức Quốc xã giết chết trong Đợt tội phạm thời cuối chiến tranh.
Mãi đến năm 1959 Köln mới đạt lại được dân số của thời gian trước chiến tranh. Trong năm 1975 nhờ vào cải tổ hành chính Köln có dân số hơn 1 triệu người và bên cạnh Berlin, Hamburg và München. Thế nhưng với việc tách Wesseling vào năm 1976 dân số lại giảm dưới ranh giới 1 triệu.
Tôn giáo
Kitô giáo
Trong lịch sử, Köln cũng như vùng sông Rhein chịu nhiều ảnh hưởng của Công giáo, khoảng 14% dân cư theo đạo Công giáo, 20% theo đạo Tin Lành, 10% (đa số là người di dân vào) theo đạo Hồi, 30% còn lại theo các đạo khác hay không có tôn giáo.
Chậm nhất là từ năm 313 Köln là nơi ngự trị của tổng Giám mục. Nhà thờ của tổng Giám mục trong thời gian này không được rõ. Từ thời Gothic Nhà thờ chính tòa Köln đã là biểu tượng của thành phố.
Sau việc chuyển những cái được cho là hài cốt của ba vua thánh về thành phố vào ngày 23 tháng 7 năm 1164, Köln đã nhanh chóng trở thành một trong những nơi hành hương quan trọng nhất trong Thánh Chế La Mã. Chuyến đi du lịch đầu tiên của hoàng đế và hoàng hậu vừa được lên ngôi bao giờ cũng dẫn từ Aachen đến thánh cốt của ba vị vua này. Đoàn người hành hương đã mang nhiều tiền đến thành phố, dẫn đến việc định cư ngày càng nhiều và dân số thành phố đã tăng nhảy vọt. (Trong thời Trung cổ, Köln là thành phố lớn nhất châu Âu). Tổng Giám mục Philipp I von Heinsberg đã đặt làm một hòm chứa thánh cốt mạ vàng và người kế thừa ông đã cho xây một nhà thờ chính tòa mới vào năm 1248. Tranh cãi với hội đồng thành phố và việc trục xuất tổng Giám mục sau đó đã làm cho việc xây dựng ngày càng chậm đi và cuối cùng là ngừng hẳn. Không ngại ngùng trong việc buôn bán, Köln đã phát triển thành trung tâm buôn bán di vật vì người thời Trung cổ tin rằng sở hữu một vật thánh hay xương cốt của một vị thánh sẽ mau chóng được giải thoát. Điều này đã mang lại cho thành phố cái tên "Köln thần thánh".
Tầm quan trọng của tôn giáo cũng được nhận thấy trên biểu trưng của thành phố, miêu tả 3 vương miện của ba vị vua thánh và 11 giọt nước mắt của thánh Ursula và các vị đồng hành đã chết vì đạo tại Köln. Cũng cần phải nhắc đến một trong nhiều đỉnh cao của "Köln thần thánh" trong lịch sử Kitô giáo hằng nghìn năm là Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ 20 từ 15 tháng 8 đến 21 tháng 8 năm 2005. Tròn 26.000 người tình nguyện từ 160 quốc gia đã chào mừng khách đến từ 196 quốc gia tại các thành phố Köln, Bonn và Düsseldorf. Giáo hoàng Benedict XVI cũng đến thăm Köln trong dịp này và một lần nữa đã công nhận danh hiệu "Köln thần thánh".
Đạo Do Thái
Cộng đồng người Do Thái tại Köln là cộng đồng lâu đời nhất ở phía bắc dãy núi Alpen, đã tồn tại từ năm 321 dưới thời hoàng đế Constantine I.
Năm 1183 tổng Giám mục chỉ định cho người Do Thái một vùng đất riêng để có thể sống một cách tương đối yên ổn. Khu vực trong phố cổ này có cổng riêng có thể đóng lại và chỉ dành riêng cho người Do Thái. Thế nhưng người Do Thái lại bị đuổi ra khỏi thành phố dần dần và trong thời gian từ 1424 cho đến cuối thế kỷ XVIII không một người Do Thái nào được phép ở trong thành phố mà không có sự đồng ý của hội đồng thành phố. Sau khi quân đội cách mạng Pháp vào, dân cư người Do Thái – cũng như người theo đạo Tin Lành – được đặt ngang hàng với người dân theo đạo Công giáo. Trong thời gian của Chủ nghĩa Xã hội Quốc gia, người Do Thái đã được phép định cư dưới thời thống trị của Phổ lại bị đuổi đi với việc thúc ép di dân ra nước ngoài. Nhiều nhà thờ Do Thái đã bị đốt cháy trong đợt bài trừ người Do Thái tháng 11 năm 1938. Những người Do Thái còn lại sau 1941 bị bắt giam trong Fort IX (một pháo đài của quân đội Phổ ở ngoại vi thành phố) và trong khu đất hội chợ Köln, sau đó họ bị chở đi đến các trại tập trung. 8.000 người Do Thái ở Köln đã bị những người Quốc xã giết chết.
Cộng đồng người Do Thái tại Köln ngày nay có trên 4.857 thành viên. Họ có một nghĩa trang riêng, một trường học, nhà trẻ, thư viện, câu lạc bộ thể thao, một quán ăn, trung tâm thanh thiếu niên và một nhà dưỡng lão.
Đạo Hồi
Vì người di dân từ Thổ Nhĩ Kỳ và con cháu của họ có một tỷ lệ cao và cũng vì vị trí trung tâm trong nước Cộng hòa Liên bang Đức cũ, các tổ chức Hồi giáo-Thổ Nhĩ Kỳ quan trọng nhất đều đặt trụ sở tại Köln và vùng lân cận.
Địa điểm hành hương
Thành phố Köln là một địa điểm hành hương không phải chỉ vì Ba Vua Thánh mà còn vì Thánh Albertus Magnus tại St.Andreas. Thêm vào đó là Adolph Kolping của Nhà thờ Minoriten, Johannes Duns Scotus, một nhà triết học quan trọng cũng của Nhà thờ Minoriten, Edith Stein (Theresia Benedicta a Cruce) một nữ triết gia và nữ tu sĩ trong thời Đức Quốc xã.
Phát triển dân số
Trong một thời gian ngắn của thập niên 1970, Köln đã là thành phố triệu dân: cùng với lần sáp nhập hành chính cuối cùng, vào ngày 1 tháng 1 năm 1975 dân số đạt đến con số 1 triệu. Thế nhưng sau khi thành phố Wesseling lại được tách ra từ ngày 1 tháng 7 năm 1976, dân số thành phố lại tụt xuống dưới ranh giới 1 triệu. Vào ngày 10 tháng 6 năm 2005 dân số chính thức của Köln theo Cơ quan Xử lý dữ liệu và Thống kê của bang Nordrhein-Westfalen là 975.907 người.
Chính trị
Trong thời kỳ của người La Mã, đô đốc chỉ huy hạm đội sông Rhein đồng thời cũng là người điều hành hành chính của thành phố. Thời gian sau đấy, vì là trụ sở của địa hạt tổng Giám mục nên vị tổng Giám mục có toàn quyền tại Köln. Trong một thời gian dài Köln đã cố gắng tách rời thành phố ra khỏi quyền hạn của tổng Giám mục, việc mà cuối cùng cũng đã thành công trong thế kỷ XIII. Ngay từ năm 1180 Köln đã có một hội đồng thành phố, 2 thị trưởng được hội đồng lựa chọn hằng năm. Sau khi thuộc về Vương quốc Phổ năm 1815, Köln là một thành phố độc lập và đồng thời cũng là nơi đặt trụ sở của một hội đồng quận chỉ được giải thể trong cuộc cải tổ hành chánh năm 1975. Từ năm 1815 đứng đầu thành phố là một thị trưởng, bên cạnh ông là một hội đồng thành phố
Trong thời gian Đức Quốc xã, thị trưởng thành phố là người do đảng NSDAP chỉ định. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ủy ban quân quản của vùng do quân đội Anh chiếm đóng chỉ định một thị trưởng mới và áp dụng các luật lệ về hành chánh theo gương Anh. Theo đấy, thành phố có một hội đồng thành phố do người dân bầu, thành viên của hội đồng được gọi là "nghị sĩ thành phố". Ban đầu, hội đồng chọn thị trưởng là người đứng đầu và đại diện thành phố, giữ chức vụ với tính cách danh dự (không có lương). Thêm vào đấy từ năm 1946 hội đồng cũng lựa chọn một người chuyên nghiệp điều hành hành chính thành phố (Oberstadtdirektor). Năm 1999 hai vị trí song đôi này được bãi bỏ. Từ đấy chỉ còn người thị trưởng chuyên điều hành công việc hành chánh. Thị trưởng là người đứng đầu hội đồng, lãnh đạo hành chánh thành phố và cũng là người đại diện cho thành phố. Từ đấy thị trưởng được bầu trực tiếp từ người dân.
Truyền thống chính trị và phát triển
Truyền thống lâu đời của một thành phố đế chế tự do, dân cư gần như chỉ chịu ảnh hưởng Công giáo trong một thời gian dài và đối lập kéo dài nhiều thế kỷ giữa nhà thờ và giới trung lưu đã tạo cho Köln một bầu không khí chính trị riêng biệt. Tại Köln đã thành hình nhiều nhóm có lợi ích chung vượt qua ranh giới đảng phái. Các quan hệ đan kết thành hình từ đấy, cái được gọi là Bè lũ Köln (Kölner Klüngel), đã liên kết chính trị, kinh tế và văn hóa với nhau trong một hệ thống chiếu cố, cam kết và phụ thuộc lẫn nhau. Việc này thường hay dẫn đến một tỷ lệ phân chia lạ thường trong cơ quan hành chánh thành phố và đôi lúc đã biến chất đến tham nhũng: Qua vụ "scandal rác" về tiền hối lộ và tiền ủng hộ đảng phái trái phép được lật tẩy năm 1999, không những nhà doanh nghiệp Helmut Trienekens phải vào tù mà toàn bộ giới lãnh đạo các đảng lớn cũng bị lật đổ.
Huy hiệu thành phố Köln
Tấm khiên có hai màu đỏ và trắng là màu của Hiệp hội Thương gia Đức (Hanse) thời Trung cổ. Là trung tâm thương mại quan trọng, Köln không những nằm trong hiệp hội của các thương gia và thành phố thương mại này mà còn cùng với Lübeck là thành phố sáng lập ra hiệp hội và vì thế là một trong những thành phố thuộc hiệp hội lâu đời nhất trong nước Đức.
Ba chiếc vương miện có trên huy hiệu từ thế kỷ thứ 12 muốn nhắc đến Ba Vua Thánh mà hài cốt đã được tổng Giám mục Köln Reinald của Dassel mang từ Milano về, được gìn giữ trong một hòm mạ vàng phía sau bàn thờ của Nhà thờ Lớn.
Có trên huy hiệu của thành phố từ thế kỷ XVI là 11 giọt nước mắt hay ngọn lửa nhắc đến Thánh Ursula. Theo truyền thuyết, Ursula là một công chúa vùng Bretagne (Pháp) đã bị người Hun đang vây hãm thành phố Köln giết chết khi đang trên đường về từ một cuộc hành hương đến Roma.
Bao bọc lấy huy hiệu của thành phố Köln là con chim đại bàng hai đầu của đế chế, mang thanh kiếm và cây quyền trượng, nhắc đến việc thành phố từ năm 1475 trong thời Trung cổ là một thành phố độc lập thuộc trong Thánh Chế La Mã dân tộc Đức. Chim đại bàng có 2 đầu vì hoàng đế La Mã cũng đồng thời là vua Đức.
Các thành phố kết nghĩa
Văn hóa và thắng cảnh
Trong thời Trung cổ, Köln đã trở thành một trung tâm giáo dục, nghệ thuật quan trọng và đồng thời cũng là trung tâm của nhà thờ. Nhà thờ lớn Köln là nhà thờ Gothic lớn nhất trong Bắc Âu, lưu giữ hòm đựng hài cốt của Ba Vua Thánh. Nhà thờ lớn Köln – là di sản văn hóa thế giới từ năm 1996 – là biểu tượng chính của thành phố. Köln bị tàn phá nặng nề trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Ngày nay Köln là một trung tâm văn hóa với nhiều hội chợ về nghệ thuật, phòng triển lãm tranh và viện bảo tàng quan trọng, thành phố cũng có một cuộc sống âm nhạc và nghệ thuật sống động. Ngoài ra, cùng với Hamburg và Berlin, Köln được xem là thành trì của giới đồng tính luyến ái.
Nhà hát
Köln có rất nhiều nhà hát. Thuộc thành phố là "Sân khấu Thành phố Köln" (Bühnen der Stadt Köln) với sân khấu kịch và nhà hát opera (thành lập năm 1822). Các sân khấu nổi tiếng khác là Nhà hát Arkadas, Nhà hát Nghệ thuật (Arttheater), Nhà hát Atelier, Nhà hát Solana, Nhà hát Casamax, Nhà hát Cassiopeia, Comedia, Nhà hát Freises Werkstatt (Freies Werkstatt-Theater), Nhà hát Gloria, Hänneschen-Theater (Nhà hát múa rối của thành phố), Nhà hát Horizont, Nhà hát Nghệ nhân Köln (Kölner Künstler-Theater), Musical Dome, Nhà hát Piccolo, Nhà hát Múa rối Lapislazuli, Nhà hát Senftöpfchen, Studiobühne Köln, Theater am Dom, Theater am Sachsenring, Nhà hát Der Keller, Theater im Bauturm, Theater im Hof, Theater Tiefrot, Theaterhaus Köln và Nhà hát Nhân dân Millowitsch (Volkstheater Millowitsch).
Âm nhạc
Köln là quê hương của nhiều dàn nhạc giao hưởng nổi tiếng. Năm 1857 dàn nhạc Gürzenich được thành lập nhân dịp khai trương hội trường hòa nhạc cùng tên. Từ năm 1888 thành phố là người tài trợ của dành nhạc.
Dàn nhạc giao hưởng nổi tiếng thứ hai là WDR-Sinfonie-Orchester được thành lập năm 1945.
Trường Đại học Âm nhạc Köln là trường đại học âm nhạc lớn nhất châu Âu và đã góp phần quan trọng vào đời sống âm nhạc của thành phố. Trường Âm nhạc Rhein với nhiều cơ sở tại Köln tổ chức giảng dạy âm nhạc cho thiếu niên và nhi đồng trong khắp thành phố.
Văn học
Từ Goethe qua Heine cho đến Celan, nhiều nhà văn tiếng Đức đã viết về Köln. Thành phố cũng là quê hương của người đoạt Giải thưởng Nobel về văn học Heinrich Böll. Trong nhà Văn hóa Köln hay nhân dịp lễ hội lit.cologne nhiều nhà văn trong và ngoài nước được mời tham dự trong khi các nhà văn tại Köln xuất hiện trên các khán đài đọc sách tại Quảng trường Brüssel hay trong các buổi gặp gỡ được tổ chức trong các hiệu bán sách, quán cà phê và quán rượu.
Viện bảo tàng
Trong số lớn các viện bảo tàng ở Köln với nhiều bộ sưu tập có giá trị cao phải kể đến Viện bảo tàng Ludwig (Nghệ thuật Đương đại và Hiện đại), Viện Bảo tàng Wallraf-Richartz (nghệ thuật từ Trung cổ đến thế kỷ XIX) cũng như là Viện Bảo tàng La Mã-German (nghệ thuật, nữ trang và vật dùng hằng ngày từ thời đại La Mã và triều đại Merowing của người Frank).
Các viện bảo tàng khác của Köln là:
Agfa-Photo-Historama (Lịch sử nhiếp ảnh)
Viện bảo tàng Thể thao & Opympia Đức
Domschatzkammer Köln
Viện bảo tàng giáo khu tổng Giám mục (Köln) (Erzbischöfliches Diözesanmuseum)
Viện bảo tàng lịch sử tiền
Imhoff-Schokoladenmuseum (Viện bảo tàng sôcôla)
Viện bảo tàng Käthe Kollwitz
Viện bảo tàng lễ hội hóa trang
Hiệp hội nghệ thuật Köln (Nghệ thuật đương đại)
Viện bảo tàng thành phố Köln
Viện Bảo tàng Nghệ thuật ứng dụng (Köln)
Viện bảo tàng Nghệ thuật Đông Á (Köln)
Viện bảo tàng Schnütgen (Nghệ thuật thờ cúng thời Trung cổ)
Viện bảo tàng Rautenstrauch-Joest (Dân tộc học)
Kiến trúc
Khu phố cổ Köln và khu vực phụ cận đã bị tàn phá phần lớn bởi các cuộc không kích trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong cuộc tái kiến thiết đường đi tuy được xây dựng lại như cũ như việc xây dựng được thực hiện theo phong cách của những năm 1950. Vì thế mà nhiều phần của thành phố chịu ảnh hưởng của kiến trúc sau chiến tranh, bên cạnh đó là vài công trình xây dựng còn tồn tại hay được tái kiến tạo vì có tầm quan trọng.
Köln thời La Mã
Nhiều phần còn sót lại của các công trình xây dựng La Mã được tìm thấy khắp trong nội thành, một phần là dưới mặt đất thí dụ như dưới tòa thị chính. Trên mặt đất là những phần còn lại của tường thành La Mã, thí dụ như Tháp La Mã Köln.
Köln thời Trung cổ
Nhiều công trình xây dựng quan trọng thời Trung cổ vẫn còn tồn tại hay được tái kiến thiết thí dụ như tòa thị chính, tòa nhà lễ hội Gürzenich hay Overstolzenhaus là căn nhà ở lâu đời nhất thành phố. Nhiều phần của tường thành thời Trung cổ vẫn còn tồn tại, trong đó là nhiều cổng thành như Eigelsteintor và Gereonsmühle.
Köln thời Vương quốc Phổ
Vòng đai đồn lũy Köln nằm trong các quận phía bên ngoài của thành phố và đã là thành trì bảo vệ thành phố trong thời kỳ thuộc Vương quốc Phổ. Ngày nay có thể thăm viếng một vài pháo đài nằm trong vòng đai xanh bên ngoài. "Khu phố mới" được xây dựng như một vòng đai bao bọc khu phố cổ lịch sử, trải dài từ thành trì thời Trung cổ đến vòng đai đồn lũy bên trong. Khu phố được xây dựng từ 1880 cho đến khoảng 1920 và đã là khu phố mới lớn nhất trong thời gian đó trong nước Đức. Thời trước trong khu phố này có đủ các phong cách kiến trúc từ Trường phái Lịch sử qua phong cách Nghệ thuật Mới đến Trường phái Biểu hiện, thế nhưng sau Chiến tranh thế giới thứ hai chỉ còn giữ lại được một phần của vẻ đẹp ngày xưa. Ngày nay khu phố này không còn thuần túy là một khu dân cư nữa mà là trung tâm của nhiều hoạt động doang thương và văn hóa khác nhau. Hình dáng cũ có thể được hồi tưởng lại trên một vài đường phố như Khu phố đại học, một vài căn nhà của giới quý tộc trong Khu phố Bỉ. Ở về phía bắc, nhà thờ St. Agnes (Köln) là một thí dụ điển hình cho trời kỳ Tân Gothic vùng Rhein.
Giữa hai cuộc thế chiến
Dưới thời của nguyên là thị trưởng Konrad Adenauer, một vài công trình xây dựng quan trọng được tiến hành tại Köln trong những năm 1920. Khu hội chợ với Tháp Hội chợ Köln nổi bật được kiến tạo theo phong cách của Trường phái Biểu hiện Gạch nung (tiếng Đức: Backsteinexpressionismus). Cũng có cùng phong cách này là Hansahochhaus, một trong những căn nhà cao tầng đầu tiên của Đức. Vào thời điểm xây dựng năm 1924 căn nhà này là căn nhà cao nhất châu Âu. Trường Đại hox được xây dựng theo phong cách của Hiệp hội Công trình Đức
Thời gian sau chiến tranh và phát triển mới
Năm 1945, sau khi Köln chỉ còn là một đống đổ nát, ban quân quản Mỹ và sau đó là Anh tiến hành những bước đầu tiên tái kiến thiết thành phố. Việc tạo nên chỗ ở có giá rẻ đứng hàng đầu nên quang cảnh thành phố Köln sau chiến tranh chịu nhiều ảnh hưởng của những căn hộ chung cư được xây dựng vội vã và thường là đồng dạng. Mặc dù vậy, nổi bật trong thời gian này là một vài dự án tạo phong cách và định hướng, biến Köln thành Mecca của phong cách xây dựng thành phố hiện đại. Trong đó phải kể đến việc kiến tạo quảng trường Nhà thờ lớn, khu liên hợp nhà hát opera và nhà hát sân khấu do kiến trúc sư Wilhelm Riphahn thiết kế. Năm 1967 Hohe Straße (Đường Cao), con đường mua sắm nổi tiếng của Köln, là đường đầu tiên được chuyển thành khu vực dành riêng cho người đi bộ.
Thập niên 1960 và 1970 đã mang lại cho Köln đặc biệt là kiến trúc chỉ từ bê tông, gây thiệt hại không thể sửa đổi lại được cho cảnh quang thành phố. Mãi đến thập niên 1980 người dân thành phố Köln mới nghĩ đến chất lượng. Sau khi xây dựng tháp viễn thông Colonius, nội thành Köln bắt đầu được nâng cao về giá trị. Viện bảo tàng Ludwig, tòa nhà hòa tấu nhạc và đường hầm qua sông Rhein đã kết nối thành phố với sông Rhein từ năm 1986 thông qua một đường đi dạo dọc bờ sông rất đẹp; song song với đó, vòng đai giao thông nội thành được giảm áp lực qua việc xây dựng tàu điện ngầm và được tái khánh thành vào năm 1987 dưới hình dạng mới. Tiếp nối theo đấy trong thập niên 1990 là căn nhà cao tầng MediaPark cũng như là Lanxess Arena. Viện bảo tàng Wallraf Richartz và tòa nhà mua sắm Weltstadthaus (Köln) là những thí dụ hiện nay cho việc cải tạo một cách thận trọng bộ mặt của khu vực trung tâm của thành phố Köln.
Nhà thờ
Biểu tượng nổi bật hơn hẳn của Köln là Nhà thờ chính tòa Köln kiểu Gothic, nhà thờ Gothic lớn nhất thế giới.
Cũng quan trọng không kém về lịch sử văn hóa là 12 nhà thờ trong nội thành theo phong cách Kiến trúc Rôman (tiếng Anh: Romanesque): St. Severin, St. Maria Lyskirchen, Basilika St. Andreas, St. Aposteln, St. Gereon, St. Ursula, St. Pantaleon, St. Maria im Kapitol, Groß St. Martin, St. Georg, St. Kunibert va2 St. Cäcilien. Phần lớn các nhà thờ này đã hư hại nặng trong chiến tranh, mãi đến năm 1985 việc tái kiến thiết mới hoàn thành.
Trong nội thành còn có các nhà thờ Gothic Minoritenkirche và St. Peter cũng như các nhà thời kiểu Baroque St. Mariä Himmelfahrt, St. Maria trên đường Kupfergasse, St. Maria vom Frieden và Ursulinenkirche St. Corpus Christi. Người theo đạo Tin Lành chỉ được phép hành lễ công khai từ năm 1802. Họ được người Pháp chuyển giao nhà thờ Gothic Antoniterkirche để dùng cho mục đích này. Tương tự như thế là nhà thờ Kartäuserkirche, thuộc về sở hữu đạo Tin Lành từ năm 1923. Nhà thờ Trinitatiskirche là nhà thờ Tin Lành được xây dựng đầu tiên trong vùng tả ngạn sông Rhein của Köln. Trong khu phố Mülheim, thời đấy thuộc về Công quốc Berg, đã có Nhà thờ Hòa Bình đã được xây dựng ngay từ năm 1786. Nhà thờ St. Engelbert trong khu Köln-Riehl là nhà thờ hiện đại đầu tiên của Köln.
Cầu sông Rhein
Köln có tổng cộng 8 chiếc cầu bắc qua sông Rhein, trong đó là 2 cầu cho xe hỏa.
Cầu Hohenzollern (Hohenzollernbrücke) với cấu tạo vòng cung thép là đặc điểm của toàn cảnh nội thành, đây là chiếc cầu dành cho tàu hỏa có lưu lượng giao thông lớn nhất châu Âu. Cầu Nam (Südbrücke) là chiếc cầu giảm áp lực giao thông hàng hóa trên Cầu Hohenzollern.
Cầu xa lộ Rodenkirchen (Rodenkirchener Autobahnbrücke) về phía nam và Cầu xa lộ Köln-Merkenich - Leverkusen là cầu qua sông Rhein của xa lộ vòng đai Köln.
Tổng cộng có 4 chiếc cầu được xây dựng khác nhau dẫn dòng giao thông trog khu vực nội thành qua sông Rhein:
Cầu Severin (Severinsbrücke) đã có thời gian được lắp đặt công trình nghệ thuật từ đèn ống huỳnh quang của nghệ nhân HA Schult. Đấy là một quả địa cầu có kết cấu dạng lưới theo kinh độ và vĩ độ, trên đó có gắn đèn ống huỳnh quang nhiều màu khác nhau tạo thành hình dáng của các châu lục. Nhô lên từ điểm là thành phố Köln trên quả địa cầu là một hình dáng màu đỏ trong tư thế hân hoan, là chỗ nhô lên duy nhất trên quả địa cầu này. Cầu Bách thú (Zoobrücke) cũng được dùng trong một sự kiện nghệ thuật năm 2000. Cầu Mülheim (Mülheimer Brücke) là một cầu treo trong khi Cầu Deutz (Deutzer Brücke) là một cầu dầm, đã được tái khánh thành ngay từ năm 1947 sau khi tất cả các chiếc cầu của Köln bị phá hủy trong chiến tranh.
Công viên và diện tích xanh
Về phía tả ngạn sông Rhein, Köln có 2 vòng đai xanh, một vòng trong và một vòng ngoài. Vòng đai xanh bên trong dài 7 km, rộng hằng trăm mét và có diện tích là 120 ha. Vòng đai thành quách bên trong của Köln bị phá hủy sau Chiến tranh thế giới thứ nhất trong khuôn khổ của Hiệp định Versailles, vì thế nên tại đây đã có thể hình thành công viên xanh lớn của thành phố.
Vòng đai xanh bên ngoài cũng thành hình sau khi phá hủy vòng đai thành quách bên ngoài. Trong dự án ban đầu, diện tích xanh lớn nhất của Köln này được quy hoạch bao trùm cả thành phố nhưng không được hiện thực hoàn toàn vì lý do kinh tế. Mặc dầu vậy, 800 ha diện tích xanh cũng đã thành hình trong những năm 1920.
Vườn hoa Thành phố với 5 ha (lúc ban đầu là 11 ha) là công viên lâu đời nhất và chắc chắn cũng là một trong những công viên đẹp nhất của Köln. Công viên lâu đời 175 năm này được xây dựng theo kiểu công viên vườn hoa và từ hơn 100 năm nay cũng có một nhà hàng với vườn bia. Tại đấy cũng có một câu lạc bộ nhạc Jazz.
Trong Công viên Nhân dân đã hơn 100 tuổi là những nơi nướng thịt suốt đêm vào lúc thời tiết ấm áp, thường cũng có nhiều người chơi nhạc đến tham dự. Ngoài ra công viên này cũng là nơi tổ chức nhiều sự kiện văn hóa, thí dụ như ca kịch thường được trình diễn trong vườn cam (tiếng Anh: Orangery).
Khu diện tích xanh nằm trên một vùng đất cao gần cạnh hồ Aachener Weiher là một địa điểm gặp gỡ được ưa thích, đặc biệt là trong giới sinh viên. Ngọn đồi thoai thoải này hình thành từ những đống đổ nát trong chiến tranh được đổ đống lên tại đây. Từ ngày 7 tháng 8 năm 2004, tên mới của công viên tưởng nhớ đến những nạn nhân trong Chiến tranh thế giới thứ hai: Công viên Hiroshima-Nagasaki. Từ năm 1985, Köln là thành viên của liên minh các thành phố quốc tế chống vũ khí nguyên tử, các gọi là "Liên Minh Hiroshima-Nagasaki".
Thuộc vào trong những công viên đẹp của Köln là Blücherpark trong khu phố Bilderstöckchen và Vorgebirgspark trong Raderthal, mặc dù là được tạo dáng rất khác nhau nhưng cùng được kiến tạo vào đầu thế kỷ XX theo thiết kế của kiến trúc sư Fritz Encke. Công viên Klettenberg (Klettenbergpark) trong khu phố cùng tên được kiến tạo giữa 1905 và 1908 từ hào rãnh quân sự.
Cũng đáng được tham quan là Vườn bách thú Köln, Vườn thực vật Flora, Công viên Rhein (Rheinpark), khu vực triển lãm vườn liên bang năm 1959 tại Deutz.
Về phía Bắc của Köln là khu vực nghỉ ngơi và chơi thể thao Hồ Fühling (Fühlinger See), bao gồm 7 hồ được kết nối với nhau và một đường đua thuyền. Tại đây có thể tắm, bơi, lặn, câu cá, lướt gió, chèo xuồng canoe và các loại thuyền khác.
Thể thao
Bóng đá: 1. FC Köln, Fortuna Köln, Viktoria Köln...
Khúc côn cầu trên băng: Kölner Haie
Bóng rổ: RheinEnergie Köln
Đua xe đạp: Adler Köln, PSV Köln
Bóng ném: VFL Gummersbach
Bóng chày: Cologne Cardinals, Cologne Dodgers
American Football: Cologne Centurions, Cologne Chargers, Cologne Falcons
Cầu lông: BC Schwarz-Weiß Köln
Khúc côn cầu: Blau-Weiß Köln, Rot-Weiß Köln, Schwarz-Weiß Köln und Marienburger Sport Club (MSC)
Quần vợt: Blau-Weiß Köln
Điền kinh: ASV Köln
Cuộc sống về đêm
Các điểm đến vào cuối tuần được nhiều người ưa thích là khu phố cổ, khu phố sinh viên Kwartier Latäng, khu phố Friesen cũng như là khu vực phía nam của thành phố chung quanh quảng trường Chlodwid (Chlodwigplatz) và đường Altenburger (Altenburger Strasse). Ngoài ra Köln còn có Pascha trong Ehrenfeld là nhà chứa lớn nhất châu Âu.
Lễ hội hóa trang
Lễ hội hóa trang Köln – "mùa thứ năm" trong năm – bắt đầu vào ngày 11 tháng 11 trên Quảng trường Chợ cũ (Köln) (Alter Markt (Köln)). Sau đó lễ hội hóa trang tạm thời ngưng đến khi sang năm mới. Vào năm mới, lễ hội sẽ kéo dài cho đến ngày thứ Tư của Tuần Chay (tiếng Anh: Ash Wednesday).
Đỉnh cao của lễ hội hóa trang tại Köln là các buổi lễ hội hóa trang trên đường phố và trong quán rượu, bắt đầu vào ngày Weiberfastnacht, tức là ngày thứ Năm trước ngày thứ Hai của tuần Chay (tiếng Đức: Rosenmontag), hầu như đặt thành phố Köln vào một "tình trạng khẩn cấp" trong vòng 6 ngày sau đó, vì công sở, trường học và cửa hàng gần như bị tê liệt hoàn toàn. Trong thời gian này có nhiều cuộc diễu hành hóa trang trên đường phố mà lớn nhất là vào ngày thứ Hai của tuần Chay.
Ẩm thực
Köln có một truyền thống ẩm thực lâu đời đã phong phú hóa các nguyên liệu tại chỗ với nhiều nguyên tố được nhập khẩu. Là thành phố có một vị trí nổi bật trong thương mại quốc tế nên ngay từ thời xưa cá trích, sò và đặc biệt là rất nhiều gia vị đã được sử dụng trong lúc nấu ăn. Trong thời Trung cổ, khi vẫn còn có nhiều trong sông Rhein, cá hồi được xem là thức ăn của người nghèo trong khi cá trích lại là niềm hãnh diện cho bếp nấu ăn của người có tiền. Món ăn Heringstip với táo, hành tây và kem sữa vẫn còn là một chứng minh cho đến hôm nay.
Đất màu mỡ và khí hậu đã mang lại một vai trò nổi bật cho rau cải trong ẩm thực Köln. Món ăn chua ngọt cổ điển của ẩm thực Köln là thịt rán chua ngọt Rhein (Rheinischer Sauerbraten), lúc ban đầu được chế biến từ thịt ngựa, được cho thêm rất nhiều nho khô. Rau cải theo mùa được ưa thích nhiều nhất là cải bắp cuốn (Brassica oleracea)và măng tây (Asparagus).
Quán bia đóng vai trò quan trọng ở Köln: đầu tiên chỉ là nơi bán bia của các hãng nấu bia tại Köln, các quán bia dần dần phát triển trở thành nơi chính bán các thức ăn bình dân của Köln. Bên cạnh các món ăn đã được nhắc đến tại đây còn có các món "nặng" như Krüstchen (thịt rán, trứng và bánh mì), giò heo và Rievkooche (bột khoai tây chiên).
Kinh tế và hạ tầng cơ sở
Kinh tế Köln mang dấu ấn của công nghiệp thực phẩm, công nghiệp chế tạo ô tô, công nghiệp hóa và truyền thông. Khu vực thứ ba của kinh tế với nghiên cứu, hành chánh, hội chợ, bảo hiểm, ngân hàng và trụ sở chính của những nhà máy lớn cũng đóng vai trò quan trọng. Thêm vào đó là ngành du lịch. Tuy nhiên phải nhắc đến ngành công nghiệp tuy nhỏ, nhưng đã làm cho Köln nổi tiếng khắp thế giới: Nước Hoa Cologne ([Eau de Cologne hay Kölnisch Wasser). Hãng nước hoa 4711 được gia đình Muehlens thành lập từ năm 1792, đã biến tên thành phố Cologne thành khái niệm nước hoa vì nhiều người vẫn quen gọi nước hoa là Eau de Cologne
Hội chợ
Các hội chợ được biết đến nhiều nhất trong khuôn khổ của Hội chợ Köln là:
Anuga: Hội chợ chuyên ngành về thực phẩm và công nghiệp thực phẩm
Photokina Hội chợ chuyên ngành quan trọng nhất của công nghiệp ảnh.
ART Cologne Hội chợ chuyên ngành về Nghệ thuật Hiện đại
Triển lãm Mô tô và Xe đạp thế giới (IFMA)
Giao thông
Về phía đông nam của thành phố, trong quận Porz, là Cảng hàng không Köln/Bonn, một trong những cảng hàng không Đức có khối lượng chuyển tải hàng hóa lớn nhất (hơn 650.000 tấn trong năm 2005). Từ năm 1994 cảng có tên là Cảng hàng không Konrad Adenauer. Bên cạnh Cảng hàng không Leipzig-Halle, cảng hàng không Köln/Bonn là cảng hàng không Đức duy nhất không có hạn chế bay đêm. Cảng có 139 đường bay đến 38 nước.
Nhà ga chính Köln là trung tâm phía tây của giao thông đường sắt quốc tế của nước Đức. Từ đây có đường tàu hỏa đi khắp nơi.
Giao thông công cộng bao gồm nhiều đường tàu nhanh (S-Bahn), tàu điện và xe buýt. Köln có tròn 1.200 taxi phục vụ suốt ngày đêm.
Một đặc biệt là Tuyến cáp treo Rhein (Rheinseilbahn), tuyến cáp treo vượt sông duy nhất trong nước Đức.
Đại học
Hiện nay Köln có 11 trường đại học công và tư với nhiều ngành học khác nhau, tạo dấu ấn trên hình ảnh thành phố Köln là một trong ba thành phố đại học lớn nhất Đức. Köln có tiếng là thành phố đa văn hóa cũng nhờ vào 1/10 dân số là sinh viên đến từ khắp nước Đức và khắp nơi trên thế giới.
Truyền thông
Với khoảng 30.000 đến 40.000 người làm việc trong lãnh vực truyền thông, Köln là một trong những địa điểm quan trọng của giới truyền thông bên cạnh Berlin, Hamburg và München. Chỉ riêng đài phát thanh và truyền hình của tiểu bang, Westdeutscher Rundfunk (WDR), đã có 3.500 nhân viên tại Köln. Trụ sở chính của WDR đặt tại Köln, cũng như trụ sở của đài truyền hình tư nhân RTL và nhiều đài phát thanh.
Một số trường học về truyền thông quan trọng tại Köln là Đại học Nghệ thuật cho Truyền thông (Kunsthochschule für Medien) và Trường Phim ảnh Quốc tế Köln (Internationale Filmschule Köln). Đặc biệt là trong khu phố được gọi là "Khu phố Bỉ" có rất nhiều hãng sản xuất phim nhỏ, nhưng thường không tự quay phim mà hỗ trợ dịch vụ và trang bị kỹ thuật cho các hãng sản xuất phim lớn.
Khu vực truyền thông lớn của Köln là MediaPark, được xây dựng trên một khu nối toa tàu hỏa cũ vào năm 1999. Trong các tòa nhà hiện đại của MediaPark, trong đó có Tháp Köln cao 148 mét, là trụ sở của khoảng 250 công ty với khoảng 5.000 nhân viên, trong số đó hơn 60% hoạt động trong lĩnh vực truyền thông và thông tin.
Một khu vực truyền thông quan trọng khác là trung tâm truyền thông Mülheim. Trên khu đất của một nhà máy cũ, chung quanh hội trường tổ chức sự kiện E-Werk là trụ sở của nhiều nhà nghệ thuật và văn phòng đại diện. Tại đấy cũng có một vài xưởng phim truyền hình, sản xuất phim cho đài truyền hình tư nhân Sat.1 và các đài khác.
Ngoài ra, nằm về phía tây bắc của thành phố, trên khu đất của một phi trường quân sự cũ là Coloneum, là khu liên hợp xưởng phim lớn nhất châu Âu với diện tích 35 ha và 20 xưởng phim (25.000 m²). Về phía tây nam thành phố, giữa Köln và Hürth cũng là một khu lien hợp xưởng phim của endemol, sản xuất nhiều show cho các đài truyền hình RTL và Sat.1.
Nhân vật nổi tiếng
Hiện nay Köln có 23 công dân danh dự (xem danh sách công dân danh dự Köln).
Các người con nổi tiếng của Köln được liệt kê trong danh sách các người con của thành phố Köln và danh sách các tổng Giám mục của Köln. |
Chi Lợn (hay Heo theo phương ngữ miền Nam của tiếng Việt) là một chi động vật móng guốc có nguồn gốc ở đại lục Á-Âu được gộp nhóm tổng thể với danh pháp khoa học là Sus, thuộc họ Lợn (Suidae). Lợn rừng đã được thuần hóa và được nuôi như là một dạng gia súc để lấy thịt cũng như da. Các sợi lông cứng của chúng còn được sử dụng để làm một số loại bàn chải, da có thể dùng để sản xuất bóng bầu dục. Ngoài ra, phân của lợn nhà cũng được dùng làm phân chuồng để cải tạo đất.
Đặc điểm
Chi Lợn là các loài động vật ăn tạp, chúng ăn cả thức ăn có nguồn gốc động và thực vật cũng như thức ăn thừa của con người. Trong điều kiện hoang dã, chúng là các động vật chuyên đào bới, tức là luôn dũi đất để tìm kiếm thức ăn. Lợn là động vật rất dễ huấn luyện, vì thế cùng với đặc tính đào bới và khứu giác rất nhạy của chúng nên ở một số nơi người ta còn dùng chúng để tìm nấm, đặc biệt là ở châu Âu. Ngoài ra, người ta còn nuôi heo mọi (một dạng của lợn ỉ Việt Nam) để làm động vật cảnh, đặc biệt là ở Mỹ.
Một đàn lợn con thông thường có từ 6 đến 12 con. Tuy nhiên, trong điều kiện nuôi nhốt, thỉnh thoảng người ta thấy hiện tượng lợn mẹ ăn thịt các con sơ sinh của nó, có lẽ là do thiếu chất. Lợn có 44 răng, mõm và tai lớn, chân có 4 ngón, 2 ngón giữa lớn hơn và có lông cứng. Thời kỳ mang thai của lợn trung bình là 114 ngày.
Lợn không có tuyến bài tiết mồ hôi, vì thế chúng phải tìm các nơi râm mát hay ẩm ướt (các nguồn nước, vũng bùn v.v) để tránh bị quá nóng trong điều kiện thời tiết nóng. Chúng cũng dùng bùn làm lớp bảo vệ để khỏi bị cháy nắng.
Phân bố
Với khoảng một tỷ cá thể sống bất cứ lúc nào, lợn nhà là một trong những loài động vật có vú nhiều nhất trên thế giới.
Tổ tiên của lợn nhà là lợn rừng, là một trong những động vật có vú nhiều và phân bố rộng nhất. Nhiều phân loài tự nhiên phân bố gần như hoàn toàn ở cả các vùng khí hậu khắc nghiệt của lục địa Á-Âu và các đảo cũng như châu Phi, từ Ireland và Ấn Độ đến Nhật Bản và phía bắc đến Siberia.
Từ lâu bị cô lập với những con lợn khác trên nhiều hòn đảo của Indonesia, Malaysia và Philippines, lợn đã phát triển thành nhiều loài khác nhau, bao gồm lợn rừng, lợn râu và lợn hoang đảo. Con người đã đưa lợn vào Úc, Bắc Mỹ và Nam Mỹ, và nhiều hòn đảo khác.
Thức ăn
Lợn là loài ăn tạp, có nghĩa là chúng tiêu thụ cả thực vật và động vật. Trong tự nhiên, chúng chủ yếu ăn lá, rễ, quả và hoa, ngoài ra còn có một số côn trùng và cá. Lợn nhà được cho ăn chủ yếu là ngô và bột đậu nành với hỗn hợp vitamin và khoáng chất bổ sung vào chế độ ăn uống. Theo truyền thống, chúng được nuôi ở các trang trại bò sữa, do khả năng sử dụng lượng sữa dư thừa cũng như váng sữa từ phô mai và bơ. Lợn trưởng thành sẽ tiêu thụ ba đến năm gallon nước mỗi ngày. Khi được nuôi như thú cưng, chế độ ăn tối ưu chủ yếu là rau sống, mặc dù một số có thể cho lợn ăn thức ăn viên nhỏ..
Các loài
Giống lợn rừng
Sus barbatus: Lợn râu; Malaysia, Indonesia
Sus bucculentus†: Lợn rừng Đông Dương
Sus cebifrons: Lợn rừng Visayas
Sus celebensis: Lợn rừng Celebes
Sus daelius: Lợn rừng Poulter
Sus falconeri†
Sus habeoncosus Lợn rừng Malaysia
Sus heureni Lợn rừng Flores
Sus hysudricus†
Sus philippensis: Lợn rừng Philippines
Sus salvanius Lợn rừng lùn, lợn rừng còi; đông bắc Ấn Độ, Himalaya
Sus scrofa (còn gọi là [[Sus domestica|S. domesticus]]) Lợn nhà, lợn lòi, lợn rừng; châu Âu, châu ÁSus strozzi†Sus timoriensis Lợn rừng TimorSus verrucosus Lợn rừng Java, Indonesia, Philippines
Giống lợn nuôi
Lợn Móng Cái
Lợn Ba Xuyên
Lợn Yorkshire
Lợn Landrace
Lợn Mường Khương
Lợn Thuộc Nhiêu
Lợn ỉ
Heo mọi
Các giống lai
Giống lợn nhà Tamworth thông thường hay được cho lai ghép với lợn rừng để sản sinh ra một giống lợn mà người ta gọi là "lợn thời kỳ đồ sắt", chúng tương tự như lợn nhà thời kỳ nguyên thủy. Lợn con mới sinh ra này giống như lợn rừng non. "Lợn thời kỳ đồ sắt" là loài vật có sức thu hút phổ biến (vì tính tò mò, hiếu kỳ) tại các trang trại. Lợn lai kiểu này giống lợn nhà hơn lợn rừng, nhưng khó huấn luyện hơn lợn nhà và nói chung được dùng để lấy thịt làm xúc xích. Các giống lợn nhà khác cũng được lai với lợn rừng sản xuất thịt ít mỡ hơn thịt lợn nhà.
Trong cuốn sách The Variation Of Animals And Plants Under Domestication, Charles Darwin đã viết: Lợn rừng châu Âu và lợn nhà Trung Quốc có lẽ gần như là khác biệt một cách chắc chắn: Ngài F. Darwin đã cho giao phối một con lợn nái Trung Quốc với lợn rừng đực Alpine, đã được thuần hóa một phần, nhưng các con lợn con, mặc dù có một nửa máu đã thuần hóa trong huyết quản của chúng, lại là cực kỳ hoang dã trong việc nuôi nhốt, và không dễ dàng ăn các loại nước gạo như những con lợn Anh thông thường.
Các tên gọi trong tiếng Việt
Trong tiếng Việt có nhiều từ để gọi các loại lợn (heo) khác nhau, chủ yếu áp dụng cho lợn đã thuần hóa (lợn nhà):Lợn nái hay heo nái - Lợn cái nuôi để sinh sản ra lợn conLợn sề - Lợn nái giàLợn bột hay heo sữa - Lợn con đang bú mẹLợn hạch - Lợn đực đã thiếnLợn ỉ - Một giống lợn của Việt Nam, có mõm ngắn, lưng võng và bụng sệ với lớp da màu đen hay xám.Lợn lang hay heo bông - Lợn lông đốm đen-trắngLợn mọi - Một dạng lợn ỉ, rất chậm lớn, chủ yếu nuôi làm cảnhLợn lòi - Đồng nghĩa của lợn rừngHeo nọc - Lợn đực chuyên dùng để phối giống.
Những từ này hiện còn được áp dụng cho cả lợn rừng (bất kể chúng có được nuôi hay không).
Quan hệ với con người
Lợn nhà, đặc biệt là các giống nhỏ, thường được nuôi làm thú cưng. Lợn nhà được làm vật nuôi; sản phẩm thu được bao gồm thịt của chúng (được gọi là thịt lợn), da và lông được sử dụng để làm bàn chải. Vì khả năng tìm kiếm thức ăn và khứu giác tốt, chúng được sử dụng để tìm nấm cục ở nhiều nước châu Âu. Cả lợn rừng và lợn hoang thường bị săn bắn.
Những sợi lông tương đối ngắn, cứng và thô của lợn đã từng được sử dụng rất phổ biến trong cọ vẽ mà vào năm 1946, Chính phủ Úc đã phát động Chiến dịch lông lợn. Vào tháng 5 năm 1946, để đối phó với sự thiếu hụt lông lợn cho cọ vẽ để sơn nhà trong thời kỳ bùng nổ xây dựng sau Thế chiến II, Không quân Hoàng gia Úc (RAAF) đã chuyển 28 tấn lông lợn từ Trung Quốc, nguồn cung cấp duy nhất tại thời điểm đó.
Thực phẩm
Thịt lợn được bán tại Việt Nam dưới nhiều tên gọi như thịt lợn nạc, thịt lợn mông, thịt ba chỉ. Các chân của nó được bán dưới tên gọi là chân giò. Đầu lợn, còn gọi là thủ lợn-trước đây khi thịt lợn còn rất khan hiếm chỉ được dành cho tầng lớp có đẳng cấp tại nhiều thôn quê. Các loại cơ quan nội tạng của lợn cũng được bán như tim, gan, lòng non, lòng già, dạ dày, cật v.v. Máu của nó cũng được dùng để làm tiết canh. Các món ăn có nguồn gốc từ phương Tây hiện cũng khá phổ biến như thịt lợn muối xông khói, giăm bông thịt lợn, pa tê gan lợn v.v. Một điểm cần lưu ý là những người theo Hồi giáo và Do Thái giáo bị cấm không được ăn thịt lợn dưới bất kỳ hình thức nào, do lợn bị coi là giống động vật không sạch sẽ.
Chăm sóc sức khỏe
Da người rất giống với da lợn, do đó da lợn đã được sử dụng trong nhiều nghiên cứu tiền lâm sàng. Ngoài việc cung cấp sử dụng trong nghiên cứu y sinh và để thử nghiệm thuốc, những tiến bộ di truyền trong chăm sóc sức khỏe của con người đã tạo ra một phương pháp dùng lợn nhà để cấy ghép dị hợp cho con người.
Trong văn hóa
Tôn giáo
Thời Hy Lạp cổ đại, lợn là con vật để hiến tế cho nữ thần Demeter và nó là con vật yêu thích của nữ thần này. Phần mở đầu của các lễ hiến tế Eleusis được bắt đầu bằng việc hiến tế con lợn.
Lợn là một trong số 12 con vật tượng trưng cho chu kỳ 12 năm của Địa Chi trong nhiều tính toán liên quan tới Can-Chi của người Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên v.v. Nó gắn liền với địa chi Hợi. Những người tin tưởng vào chiêm tinh học Trung Hoa luôn gắn con vật với đặc điểm, đặc tính cá nhân. Xem bài: Hợi.
Người Hồi giáo bị cấm không được ăn thịt lợn, những vẫn có thể ăn trong trường hợp sắp chết đói và chẳng có thực phẩm khác ngoài thịt lợn theo kinh Qur’an.
Người Do Thái cũng bị cấm ăn thịt lợn, theo luật Kashrut.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã kể một câu chuyện ngụ ngôn về đứa con trai hoang đàng. Khi ăn chơi hết tiền cậu ta phải xin làm người nuôi lợn thuê, mong ước là có thể ăn thức ăn của lợn như không ai cho.
Cũng trong Phúc Âm, Chúa Giêsu thực hiện một phép màu bằng cách làm cho con quỷ ám ảnh con người đi vào một bầy lợn và sau đó làm nó phải chạy trốn tới một vách đá và sau đó bị chết đuối.
Lợn và người
Lợn đôi khi được dùng để ví với người. Winston Churchill nói rằng: "Con chó ngước lên nhìn chúng ta. Con mèo nhìn xuống chúng ta, còn con lợn thì coi chúng ta là ngang hàng".
Tại Hoa Kỳ, một số trường phổ thông (sơ, trung và cao cấp) cũng như trường đại học có các con vật lấy phước là lợn hay tương tự như lợn. Đáng chú ý nhất trong số này là Đại học Arkansas với con vật lấy phước của đội thể thao của trường là một con lợn lòi (Sus scrofa).
Sự chuyển hóa ma thuật biến con người thành lợn được dùng làm cốt truyện trong nhiều câu chuyện, chẳng hạn trong thiên sử thi Odyssey của Homer, trong đó đoàn thủy thủ của con tàu anh hùng bị nữ thần Circe biến thành lợn.
Trư Bát Giới, một nhân vật trong Tây du ký của người Trung Quốc, là một vị thần trên thiên đình có hình dạng nửa người nửa lợn.
Trong nhiều nên văn hóa (ngoại trừ người theo đạo Hồi thường không ăn thịt lợn), lợn là món không thể thiếu để cúng kiến hoặc dùng trong các lễ hội làng, thủ lợn (đầu heo) thường dành cho người già nhất hay người chức cao nhất. Trong lục súc tranh công, một truyện thơ cổ Việt Nam có viết:
Việc quan, hôn, tang, tế, vô hồi (hết thảy'')
Thảy thảy cũng lấy heo làm trước. |
Hoạt động tư vấn là hoạt động thu thập, xử lý thông tin, vận dụng kiến thức chuyên môn, phát hiện vấn đề, đề xuất giải pháp, phương án, lập dự án và giám sát, đánh giá do các tổ chức chuyên môn, cá nhân Việt Nam thực hiện độc lập, khách quan theo yêu cầu của người sử dụng tư vấn.
Nhà tư vấn là tổ chức chuyên môn hoặc cá nhân thực hiện cung ứng dịch vụ tư vấn.
Kỹ sư tư vấn là một người độc lập thực hiện dịch vụ tư vấn kỹ thuật cho khách hàng và được trả thù lao, họ thường làm việc trong các công ty tư vấn. Các kỹ sư tư vấn phải đủ trình độ và kinh nghiệm chuyên môn để tư vấn các dịch vụ kỹ thuật.
Các kỹ sư tư vấn cung cấp các dịch vụ kỹ thuật chuyên nghiệp, các kiến thức chuyên sâu cho các tổ chức trong lĩnh vực công cộng cũng như tư nhân. Các kỹ sư tư vấn cũng hoạt động như một người làm việc độc lập và họ tư vấn cho khách hàng, họ chịu trách nhiệm tìm các giải pháp sáng tạo cho các vấn đề kỹ thuật và đưa ra lời khuyên chiến lược cho việc kinh doanh và quản lý.
Các giải pháp và dịch vụ các kỹ sư tư vấn cung cấp bao gồm:
nghiên cứu đầu tư và tiền khả thi
nghiên cứu tác động môi trường và tác động xã hội
thiết kế sơ bộ và thiết kế xây dựng hoặc thiết kế chế tạo
giám sát, kiểm định công tác xây dựng bao gồm cả quản lý dự án hiện trường.
trợ giúp và tư vấn kỹ thuật
nghiên cứu, quản lý tài sản
Kỹ sư tư vấn là một chuyên gia vê lập kế hoạch (quy hoạch), thiết kế và xây dựng cho các công trình hạ tầng của khu vực công cộng và tư nhân. Nghề kỹ sư tư vấn hướng đến mục tiêu mang lại lợi ích cho toàn bộ xã hội bằng cách áp dụng các nền tảng an toàn hơn, sạch hơn, và hiệu quả hơn.
Tư vấn xây dựng giúp cho khách hàng - chủ đầu tư xây dựng - tổ chức việc khảo sát xây dựng, thiết kế xây dựng và tổ chức đấu thầu để mua sắm thiết bị đầu tư, đấu thầu xây lắp công trình, giám sát thi công xây dựng, nghiệm thu công việc đã hoàn thành.
Dịch vụ tư vấn
Âm thanh
Hàng không
Điều hòa không khí
Cấp nhiệt và thông gió
Kiến trúc
Hóa chất
Điện
Điện tử
Kết cấu
Thi công
Đấu thầu
Chấm thầu
Dầu khí
Quản lý
Thủy lực
Đường biển
Cơ khí
Khai thác kim loại
Khai thác mỏ
Công nghệ hạt nhân
An toàn
Kỹ thuật vệ sinh
Dệt
Môi trường |
Xe điện mặt đất (, hoặc ở Mỹ là Streetcar hay Trolley), cũng được gọi là tàu điện, tàu điện trên phố là một loại phương tiện chở khách công cộng chạy bằng điện trên các đường ray ở đường phố, di chuyển song song với các phương tiện giao thông đường bộ.
Thuật ngữ xe điện trước kia thường chỉ loại phương tiện này chạy trên các phố, trong khu vực trung tâm thành phố, lấy điện từ các đường dây. Hầu hết xe điện đều chạy theo các tuyến cố định và là một bộ phận của hệ thống giao thông công cộng của đô thị. Ở một số thành phố, các tuyến xe điện vươn xa tới các vùng ngoại ô đông dân cư và phục vụ số lượng hành khách đông đảo như tàu điện ngầm thông thường. Với ưu điểm tiện lợi trong tiếp cận hành khách, dễ trung chuyển với xe buýt và tàu điện ngầm, xe điện được xếp vào hạng đường sắt trọng tải nhẹ. Hiện nay do hệ thống xe điện mặt đất do thực dân Pháp xây dựng ở Việt Nam đã bị dỡ bỏ từ lâu, cụm từ xe điện bây giờ thường ám chỉ tới phương tiện giao thông chạy bằng ắc quy và pin như xe đạp điện, xe máy điện, ô tô điện.
Hệ thống xe điện mặt đất từng rất thịnh hành và từng là phương tiện chuyên chở hành khách công cộng chính yếu ở nhiều đô thị lớn trên thế giới. Tuy nhiên với sự bùng nổ dân số và sự gia tăng phương tiện cá nhân, nhiều nơi đã thu hẹp mạng lưới này hoặc thay thế bằng xe buýt thuận tiện hơn cho đường phố. Trước thời kỳ điện khí hóa, các phương tiện này còn vận hành bằng than, lò hơi áp suất và sức kéo động vật. Hiện nay, nguồn năng lượng phổ biến nhất trên hầu hết các tuyến xe là điện, theo sau là xăng, khí thiên nhiên và hydro.
Thuật ngữ tàu điện cũng có thể chỉ các loại phương tiện vận tải trên đường ray chạy điện nói chung, như tàu điện ngầm, tàu đệm từ.
Lịch Sử
Tàu Chạy Bằng Ngựa
Chuyến tàu điện chở người đầu tiên là tuyến Swansea and Mumbles Railway, ở Wales, UK,
Sử dụng
Trên toàn thế giới có nhiều hệ thống xe điện mặt đất khác nhau. Nhiều hệ thống đã ra đời từ những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 và trở thành một phần trong lịch sử phát triển của nhiều đô thị châu Âu và châu Á. Sau nhiều biến động của thời cuộc, nhiều mạng lưới xe điện đã bị ngừng vào giữa thế kỷ trước, và nhiều mạng lưới cũ được chỉnh trang và nâng cấp đáng kể nhằm phục vụ du lịch và bảo tồn bản sắc đô thị. Hiện nay xe điện và đường sắt nhẹ vẫn tiếp tục được phát triển và ngày càng trở nên phổ biến trên nhiều đô thị văn minh trên thế giới.
Thống kê
Tính đến tháng 10 năm 2015, tàu điện mặt đất đang hoạt động ở 388 thành phố, 206 trong số đó là ở châu Âu.
Ở Việt Nam
Từ thời Pháp thuộc đã có tàu điện ở Hà Nội, nhưng nay đã bị phá bỏ. Người dân vẫn quen gọi leng keng tiếng tàu điện
Mỗi đoàn tàu có 2 hoặc 3 toa, ở toa đầu có chia ra 2 hạng vé: hạng nhất, hạng nhì. Hạng nhất có ghế đệm, ngồi ngang nhìn thẳng; hạng nhì ngồi dọc ghế cứng...
Cách đây hơn 1 thế kỷ, tàu điện được xây dựng ở Hà Nội. Lịch sử tàu điện Hà Nội như sau:
Tháng 5/1890, Công ty Điện địa Đông Dương xin phép chính quyền thực dân thành lập một cơ sở khai thác giao thông bằng tàu điện gọi là “Nhà máy xe điện” thuộc vào Công ty này (tên Pháp là Usine de la Société des tramways électriques de L’ Indochine). Nhà máy đó đặt ở đầu làng Thuỵ Khuê nên dân Hà Nội ngày ấy gọi là “Nhà máy tàu điện Thuỵ Khuê”.
Ngày 13 tháng 9 năm 1900, tàu chạy thử tuyến đường đầu tiên Bờ Hồ - Thuỵ Khuê. Chợ Đồng Xuân đông hẳn lên và suốt ngày nhộn nhịp. “Nhà tàu” hái ra tiền, thu bộn lợi.
Do vậy sang năm 1901 có thêm đường Bờ Hồ - Thái Hà ấp, khánh thành ngày 10/11/1901. Lúc đó đường tàu chạy dọc Hàng Bông sang Cửa Nam, theo đường Sinh Từ (nay là Nguyễn Khuyến) rẽ sang trước mặt Văn Miếu rồi ra đường Hàng Bột (nay là Tôn Đức Thắng).
2 năm sau, người ta bỏ đoạn Cửa Nam – Sinh Từ - Văn Miếu mà cho tàu chạy theo phố Hàng Đẫy (nay là Nguyễn Thái Học) tới lưng Văn Miếu thì rẽ sang Hàng Bột (phố Tôn Đức Thắng ngày nay).
Năm 1906, tuyến đường xe điện Bờ Hồ - Chợ Mơ được xây dựng và khánh thành ngày 18/12/1906. Ít năm sau, kéo dài đường Bờ Hồ - Thuỵ Khuê lên tận Chợ Bưởi.
Năm 1915 đường Bờ Hồ - Thái Hà ấp được kéo vào thị xã Hà Đông nhưng phải dừng ở bên này Cầu Đơ vì cây cầu này yếu, không chịu được tải trọng của tàu.
Trong năm 1929 đó có thêm được tuyến Yên Phụ - ngã Tư Đồng Lầm (nay là ngã tư Đại Cồ Việt – Lê Duẩn) để rồi mãi tới tháng 5 năm 1943 mới nối xuống trước cửa nhà thương Vọng (nay là bệnh viện Bạch Mai).
Như vậy là tới năm 1929, từ ga Trung tâm Bờ Hồ (Ga Tàu điện Bờ Hồ nay là ngôi nhà “Hàm cá mập”) toả ra 6 ngã: lên Yên Phụ, lên chợ Bưởi, sang Cầu Giấy, vào Hà Đông, xuống chợ Mơ và Vọng, tức cũng là toả ra 6 cửa ô nối nông thôn với nội thành…
Thời Pháp thuộc mỗi đoàn tàu có hai hoặc ba toa, ở toa đầu có chia ra hai hạng vé: hạng nhất, hạng nhì. Hạng nhất có ghế đệm, ngồi ngang nhìn thẳng; hạng nhì ngồi dọc ghế cứng. Hàng hoá chất ở dưới ghế, thúng mủng quang gánh móc ở bên ngoài toa cuối.
Mạng lưới đường xe điện cũ vào khoảng 30 km và bao gồm 5 tuyến đường và Bờ Hồ chính là trạm trung tâm.
Trong những thập niên đầu của thế kỉ XX tàu điện gần như là một trong những biểu tượng của Hà Nội xưa và cũng là phương tiện giao thông chính của khu vực Hà Nội./.
(Theo vov.vn)
Danh sách các quốc gia có hệ thống xe điện mặt đất và đường sắt nhẹ |
Xe cứu hỏa hay xe chữa cháy là một loại xe chuyên dụng dùng để dập tắt các đám cháy. Mục đích chính của xe cứu hỏa bao gồm vận chuyển lính cứu hỏa đến một sự cố cũng như mang theo thiết bị cho các hoạt động cứu hỏa và cứu hộ cứu nạn. Một số xe cứu hỏa có chức năng chuyên dụng,như dập tắt đám cháy và cứu hộ cứu nạn.
Nhiều xe cứu hỏa dựa trên khung gầm xe thương mại được nâng cấp và tùy chỉnh thêm cho các yêu cầu chữa cháy.Chúng thường được trang bị còi báo động và đèn chiếu sáng cho xe dùng trong trường hợp khẩn cấp,cũng như các thiết bị liên lạc như radio hai chiều và công nghệ thông tin liên lạc.
Xe bơm
Xe bơm được thiết kế để bơm nước sử dụng động cơ bơm và nguồn nước cấp ngay trên xe và nó có thể được tái nạp nước thông qua một trụ nước cứu hỏa, bể nước hay bất kỳ một nguồn nước nào đó có thể tiếp cận để hút nước bơm chữa cháy.
Các xe cứu hỏa kiểu này cũng được gọi là xe bơm bởi vì chúng được dùng để bơm nước vào các téc nước có sẵn trên xe để phun nước bằng vòi rồng dập tắt đám cháy. Có nhiều kiểu thiết kế xe cứu hỏa với vị trí bơm được đặt ở bên trên, bên cạnh, phía trước hay phía sau xe hoặc thậm chí là bên trái và bên phải của xe. Thỉnh thoảng, xe bơm cũng được sử dụng làm súng phun nước để kiểm soát đám đông chẳng hạn như chống bạo động ở một số quốc gia không có xe chuyên dụng để chống bạo loạn. Các xe bơm có thể mang theo một khối lượng nước nhất định nhưng cũng có thể dựa trên nguồn cung cấp nước từ trụ nước hay bể nước cứu hỏa.
Mục đích lớn nhất của xe bơm là ngăn chặn trực tiếp đám cháy bùng phát lớn khó kiểm soát. Nó có thể mang theo một số dụng cụ như thang, câu liêm, rìu, bình bọt, và thiết bị thông gió. Ngày nay, một xe bơm cứu hỏa có thể là một phương tiện phục vụ nhiều mục đích mang theo các thiết bị cứu hoả, cứu hộ cứu nạn, phản ứng nhanh... chuyên nghiệp. Không nhất thiết phải phân biệt rõ ràng giữa xe bơm và xe thang hay một xe cứu hộ cứu nạn (xem thêm Phương tiện cứu hộ).
Xe thang
Một xe thang cứu hỏa khác biệt xe bơm cứu hỏa là nó không có nguồn cung cấp nước trên xe. Thay vào đó các xe thang được trang bị một hệ thống thang dài hoạt động bằng thủy lực, các thiết bị hỗ trợ chữa cháy khác, rất nhiều dụng cụ cứu hộ, phương tiện thoát hiểm, và thiết bị khẩn cấp khác.
Cứu hỏa môi trường hoang dã đòi hỏi các phương tiện đặc biệt có thể đi trên đường núi, độc lập hoạt động, gầm và bộ treo có khoảng cách lớn từ mặt đất. Các xe cứu hỏa loại cho môi trường hoang dã và xe cấp nước cứu hoả môi trường hoang dã có thể có dung tích chứa nước nhỏ hơn, nhưng có khả năng tiếp cận những địa điểm nơi xe cứu hoả đô thị không thể tới được.
Thang quay là hình thức thang thường thấy nhất trên các xe thang, ngoài ra trong một đội cứu hộ còn có các thành phần khác như cứu hộ, xe đèn và các đơn vị đặc biệt khác. "Xe bánh lái", một xe thang kiểu sơ mi rơmoóc cần có hai người lái. Nó có hai vô lăng riêng biệt cho các bánh trước và bánh sau (thiết bị lái bánh sau thỉnh thoảng giống kiểu tay bánh lái hơn là vô lăng). Xe này thường được sử dụng ở những khu phố hẹp, nơi các xe dài hơn không thể tiếp cận. Hiện việc sử dụng xe thang kiểu này đang dần giảm tại Hoa Kỳ; tuy nhiên, một số thành phố lớn như Baltimore, Maryland, San Francisco, California hay Portland, Oregon, vẫn phải dựa phần lớn vào chủng loại xe này.
Thuật ngữ "Xe lái" và "Xe Móc với Thang riêng biệt" không thay đổi lẫn nhau được. Các công ty xe tải thường sản xuất xe thang. Theo tên gọi chung "xe thang", có rất nhiều kiểu xe thang. Thang phía sau, ở giữa, thang vươn thẳng, và thang khớp nối là những kiểu chính. Nói chung, xe thang mang theo nhiều loại thang và móc kéo khác nhau.Thang rõ ràng để phục vụ nhiều mục đích; móc cũng vậy nhưng thường thường là để kéo đổ tường giúp phát hiện những khu vực cháy bên trong, và cho phép tiếp cận chữa cháy. Móc cũng có thể dùng để kéo đổ cửa sổ... Về mặt kỹ thuật phương tiện mang theo móc và thang có thể được coi là "xe móc và kết hợp với thang".
Xe thang có thể vươn tới độ cao 112 mét (tương đương trên 328 feet). Thang thường có nhiều đoạn được lắp đặt trên một hệ thống khớp thủy lực. Nếu lắp thêm một cánh tay phụ, thang có khả năng vươn cao trên mái nhà. Những thang như vậy được trang bị thêm thiết bị điều khiển, chiếu sáng, đường dẫn nước cố định, ổ cấp điện và các mũi phun khí nén. Cáng có thể được đưa xuống dọc theo thang này. Một số xe thang có thể được điều khiển hoạt động từ xa trong trường hợp xử lý đám cháy hoá chất độc hại và nguy hiểm.
Trang thiết bị khác
Nhiều lực lượng cứu hộ y tế cũng có những phương tiện đặc biệt như xe cứu thương hay xe tải hỗ trợ,xe cứu hộ cứu nạn...
Ở một số nước, đội cứu hỏa cũng là đội cứu trợ y tế,thường được dùng để đưa các kĩ thuật viên y tế đến những nơi có tình huống khẩn cấp bởi vì đội cứu hỏa thường phản ứng nhanh hơn so với đội xe cứu thương của các bệnh viện. Việc này đôi khi cũng làm nhiều người khó hiểu khi thấy đội cứu hỏa thực hiện nhiệm vụ mà không có đám cháy nào cả,nhưng thực tế thì số lượng cuộc gọi cứu hộ cứu nạn và trợ giúp y tế ở một số khu vực thường nhiều hơn số cuộc gọi cứu hỏa.
Ở những khu vực rừng rậm, một loại xe cứu hỏa đặc biệt là brush truck hay xe chữa cháy cứu hộ cứu nạn rừng được sử dụng. Đó là những loại xe có khả năng đi trên những địa hình gồ ghề để có thể tiến đến sát ngọn lửa và tiến hành dập tắt đám cháy.
Tóm tắt lịch sử của trang thiết bị cứu hỏa
Ctesibius ở Alexandria được xem là người sáng chế ra chiếc bơm cứu hỏa đầu tiên vào khoảng thế kỷ 2 trước CN. Bơm cứu hỏa được tái sáng chế lại ở châu Âu trong những năm 1500, theo lời kể lại là đã được dùng ở Augsburg vào năm 1518 và Nürnberg vào năm 1657. Một quyển sách về phát minh năm 1655 đã đề cập tới một loại máy bơm hơi nước (được gọi là máy cứu hỏa) được dùng để "đưa một cột nước lên cao 40 feet", nhưng không cho biết nó có thể di chuyển được hay không.
Những chiếc máy bơm đầu tiên dùng nguồn nước từ các thùng chứa. Sau đó nước được dẫn qua các ống gỗ ở phía dưới đường, và nắp của ống dẫn sẽ được kéo ra để lắp vòi hút nước vào. Hệ thống sau đó được kết hợp với trụ nước cứu hỏa, nơi áp lực được tăng lên khi có báo động cháy. Tuy nhiên điều này gây hại cho hệ thống dẫn nước và không ổn định. Ngày nay hệ thống trụ cứu hỏa sử dụng van thường được giữ dưới áp suất ổn định, và khi cần thiết có thể tăng thêm áp suất. Áp suất ở các trụ cứu hỏa đã giúp giảm bớt việc bơm nước vào các vòi chữa cháy. Ở các vùng quê thì thiết bị cứu hỏa vẫn phải trông cậy vào các thùng chứa nước hay các nguồn khác để lấy nước vào máy bơm.
Luật pháp thời thuộc địa của Hoa Kỳ quy định mỗi ngôi nhà phải có một xô nước ở trước bậc lên xuống (đặc biệt là vào ban đêm) để phòng trường hợp có cháy, đội cứu hỏa thời đó sẽ tạt nước vào đám cháy.
Hình ảnh các xe cứu hỏa |
Titanic là chiếc tàu vượt đại dương chở khách chạy bằng động cơ hơi nước đã đi vào lịch sử ngành hàng hải vì vụ tai nạn hàng hải đã xảy ra với nó cũng như những bí ẩn liên quan. Tên chính thức của nó là RMS Titanic (RMS là viết tắt của Royal Mail Ship). Tàu bắt đầu được đóng vào năm 1909 và được hạ thủy năm 1912. Là con tàu lớn, hiện đại, lộng lẫy và sang trọng nhất lúc đó, Titanic mang theo tham vọng thống trị tuyến đường biển xuyên Đại Tây Dương của công ty sở hữu nó, hãng vận tải biển The White Star Line. Tuy nhiên, trong chuyến vượt Đại Tây Dương đầu tiên và cũng là cuối cùng của nó vào tháng 4 năm 1912, Titanic đã đắm do đâm vào một tảng băng trôi, khiến hơn 1.500 người tử nạn. Vụ đắm tàu này đã đi vào lịch sử như là vụ tai nạn hàng hải nghiêm trọng nhất trong thời bình.
Thảm họa Titanic đã là đề tài cho hàng loạt các cuộc điều tra, kiện tụng, giả thuyết ly kì đồng thời dẫn đến các thay đổi lớn trong quy định an toàn hàng hải quốc tế. Titanic cũng trở thành bối cảnh và đề tài cho rất nhiều tác phẩm văn học, hội họa và điện ảnh.
Các đặc điểm
Xưởng đóng tàu Harland and Wolff
Titanic là một chiếc tàu biển chở khách của Công ty White Star Line được đóng tại xưởng đóng tàu Harland and Wolff ở Belfast và được thiết kế để cạnh tranh với những chiếc tàu sang trọng và có tốc độ nhanh Lusitania và Mauretania của Công ty Cunard Line đối thủ trên Đại Tây Dương. Titanic và những chiếc tàu chị em với mình Olympic cùng Gigantic, đều thuộc hạng Olympic và được dự định trở thành những chiếc tàu lớn nhất, sang trọng nhất từng hoạt động. (Cái tên Gigantic theo kế hoạch đã được đổi thành Britannic sau thảm hoạ.) Titanic được chủ tịch của Harland and Wolff Lord Pirrie, lãnh đạo phòng thiết kế của Harland and Wolff Thomas Andrews và quản lý Alexander Carlisle thiết kế, các kế hoạch thường xuyên được gửi tới giám đốc quản lý của White Star Line J. Bruce Ismay để lấy ý kiến và sự đồng thuận. Việc đóng tàu Titanic, được J.P. Morgan và International Mercantile Marine Co. của ông hỗ trợ vốn bắt đầu từ ngày 31 tháng 3 năm 1909. Titanic No. 401 được hạ thủy hai năm hai tháng sau ngày 31 tháng 5 năm 1911. Việc lắp đặt trang bị cho tàu Titanic hoàn thành vào ngày 31 tháng 3 năm sau.
Titanic dài 882 feet 9 inches (269 m) và rộng 92 feet 6 inches (28 m) ở sườn ngang (dài hơn 6 inches so với chiếc tàu chị em là RMS Olympic). Tổng lượng chất tải đăng ký là 46.328 tấn, và chiều cao từ mặt nước tới boong tàu là 60 feet (18 m). Nó có hai động cơ hơi nước ngược pít tông bốn xi lanh và một tuốc bin Parsons. Những động cơ này làm quay ba chân vịt. Có 25 nồi hơi hai đầu và bốn cái một đầu kiểu Scotch được đun nóng bởi 159 lò đốt than khiến nó có thể đạt tới tốc độ tối đa 23 knot (43 km/g). Chỉ ba trong số bốn chiếc ống khói cao 63 foot (19 m) của nó hoạt động; chiếc thứ tư được dùng thông gió, và được thêm vào để con tàu có hình dáng ấn tượng hơn. Titanic có thể chở tổng cộng 3.547 người gồm cả thủy thủ đoàn, và bởi vì nó có chở thư, tên của nó được thêm tiền tố RMS (Royal Mail Steamer) cũng như SS (Steam Ship).
Titanic được coi là một đỉnh cao của kiến trúc hàng hải và là một tiến bộ công nghệ, và được tạp chí The Shipbuilder ca ngợi là "không thể chìm".
Titanic có vỏ hai lớp, chứa 44 bể nước dùng cho nồi hơn và đồ dằn để giữ nó cân bằng trên biển
(những chiếc tàu sau này cũng có vỏ hai lớp). Titanic có số thuyền cứu sinh lớn hơn tiêu chuẩn, tổng số 20 chiếc (dù vẫn chưa đủ cho toàn bộ hành khách), và những nhà thiết kế đã thảo luận về việc lắp đặt thêm số thuyền cứu sinh, phụ thuộc vào các vấn đề về chi phí. Titanic được chia thành 16 khoang với cửa ngăn, đóng mở bằng các then cửa điện từ và hoạt động với động tác tắt bật đơn giản từ đài chỉ huy của thuyền trưởng. Tuy nhiên, tính kín nước của cửa ngăn không đạt tới toàn bộ chiều cao của boong, mà chỉ tới boong hạng hai (E-Deck). Titanic vẫn nổi khi bốn khoang bất kỳ ngập nước, hay mười một trong số mười bốn khu thuộc ba khoang ngập nước, hay bốn khoang đầu/cuối ngập nước, ngoài ra nó sẽ chìm.
Sự xa hoa tột bậc
Ở thời đó, Titanic là chiếc tàu xa hoa và lộng lẫy nhất. Nó có một bể bơi trên boong, một phòng tập thể dục, một nhà tắm Thổ Nhĩ Kỳ, một thư viện, và một sân squash. Các phòng hạng nhất thông thường được ốp bằng những thanh gỗ chạm khắc tỉ mỉ, đồ đạc đắt tiền và các trang trí sang trọng khác. Hơn nữa, quán Café Parisienne cung cấp những món ăn tuyệt vời cho khách hạng nhất với một hàng hiên ngập nắng cùng những trang trí tinh xảo.
Trang bị tại các phòng hạng hai và hạng ba có lẽ cũng được xếp hàng sang trọng so với những phòng đồng hạng trên các con tàu khác thời ấy. Titanic có ba thang máy dành riêng cho những khách hạng nhất và một sự cải tiến khác, thêm một thang dành cho khách hạng hai.
Nơi được trang trí đẹp nhất trong nội thất con tàu chắc chắn là cầu thang khu vực hạng nhất, nằm giữa ống khói thứ nhất và thứ hai. Cầu thang kéo dài xuống boong hạng hai và được trang trí bằng các phiến gỗ sồi và có lan can mạ vàng, trên đỉnh là một vòm kim loại kính trang trí tỉ mỉ để lấy ánh sáng trời. Đỉnh cầu thang là một tấm gỗ lớn treo một chiếc đồng hồ với những chữ số biểu tượng theo Honour and Glory crowning Time. Một cầu thang tương tự nhưng ít được trang trí hơn nằm giữa ống khói thứ ba và thứ tư.
So sánh với chiếc Olympic
Titanic hầu như giống hệt với chiếc Olympic trước đó và chỉ có một chút khác biệt — một số khác biệt này đã được Bruce Ismay chỉ ra dựa trên những quan sát của ông với chiếc Olympic. Hai trong số những khác biệt đáng chú ý nhất là nửa phần đường đi dạo phía trước của chiếc Titanic trên boong hạng nhất (A-Deck) (dưới boong đặt thuyền cứu sinh) đã được bao kín cách biệt với thời tiết bên ngoài, và hình dạng boong hạng hai của nó hoàn toàn khác so với chiếc Olympic. Titanic có một nhà hàng đặc sản tên gọi Café Parisienne, một đặc điểm mãi tới năm 1913 chiếc Olympic mới có. Một số thiếu sót trên chiếc Olympic, như tiếng kẽo kẹt của khớp nối co giãn phía đuôi, đã được chỉnh sửa trên chiếc Titanic. Những khác biệt khác, như ánh sáng tự nhiên vào boong hạng nhất có hình tròn trong khi ở chiếc Olympic có hình oval. Phòng lái chiếc Titanic hẹp và dài hơn trên chiếc Olympic. Những khác biệt này, và một số thay đổi khác khiến chiếc Titanic lớn hơn chiếc Olympic 1.004 tấn.
Hành khách
Danh sách hành khách hạng nhất trên chuyến đi đầu tiên của Titanic gồm một số người giàu có và nổi tiếng nhất thế giới. Trong số họ có nhà triệu phú John Jacob Astor IV, người được coi là giàu nhất trên tàu và bà vợ Madeleine đang mang thai; nhà công nghiệp Benjamin Guggenheim; người sở hữu tập đoàn bán hàng Macy's Isidor Straus và vợ Ida; triệu phú người Denver Margaret "Molly" Brown người được xem là chưa bao giờ biết gục ngã; Ông Cosmo Duff Gordon và vợ, nhà thiết kế thời trang Lady Duff-Gordon chuyên thiết kế quần áo lót cho giới quý tộc; trùm dịch vụ xe chở khách công cộng George Dunton Widener, vợ Eleanor và con trai 27 tuổi, Harry Elkins Widener; Ủy viên Đường sắt Pennsylvania John Borland Thayer, vợ Marion và con trai 17 tuổi, Jack; nhà báo William Thomas Stead; Charles Hays, chủ tịch Grand Trunk Railway của Canada, với vợ, con gái, con rể và hai nhân viên, Noël Leslie, Nữ bá tước của Rothes; sĩ quan phụ tá Tổng thống Hoa Kỳ Archibald Butt; tác gia nổi tiếng Helen Churchill Candee; tác gia Jacques Futrelle, vợ ông May, và bạn bè, những đạo diễn sân khấu Broadway Henry và Rene Harris; nhà văn và họa sĩ Francis Davis Millet; doanh nhân hàng không Pierre Maréchal Sr.; diễn viên phim câm Mỹ Dorothy Gibson, giám đốc điều hành White Star Line J. Bruce Ismay (sống sót sau vụ thảm hoạ) và, trong số những người tham gia đóng tàu, Thomas Andrews, có mặt trên boong để quan sát vấn đề có thể xảy ra và đánh giá mức độ hoạt động của con tàu mới.
Những người khách hạng nhất khác, cũng nổi tiếng trong giai thoại về chiếc Titanic là Giáo sư A.P. Kiehl và Tướng Sam Hawkins đều là nhân vật tưởng tượng.
Trong số những hành khách khoang hạng hai có Lawrence Beesley, một nhà báo đã viết một trong những bài bình luận trực tiếp về chuyến đi và sự kiện đắm tàu. Ông rời tàu trên chiếc Thuyền cứu sinh số 13. Cha Thomas R.D. Byles là một linh mục Công giáo đang trên đường tới Hoa Kỳ tham gia lễ cưới của người em trai. Cũng trong số khách hạng hai còn có Michel Navratil, một người Pháp đã bắt cóc hai con trai của mình là Michel Jr. và Edmond và đang đưa chúng sang Mỹ.
Cả J. P. Morgan và Ton Hershey đều có kế hoạch đi trên chiếc Titanic nhưng đã hủy chỗ trước chuyến đi.
Thảm hoạ
Đêm ngày 14-15 tháng 4 năm 1912, chiếc Titanic đâm phải một núi băng và chìm, với con số thiệt hại nhân mạng lớn. Nhiều con số về số người hành khách và thủy thủ đoàn thiệt mạng đã được đưa ra. Điều tra của Thượng viện Hoa Kỳ đưa ra con số 1.517 người thiệt mạng trong vụ tai nạn, trong khi cuộc điều tra của Anh cho con số này là 1.490 người.
Dù sao chăng nữa, mức độ thảm khốc của sự kiện này đã được xếp hạng là một trong những thảm hoạ hàng hải lớn nhất và nổi tiếng nhất trong thời bình. Thiết kế của Titanic sử dụng một số kỹ thuật tiên tiến nhất thời ấy, và chiếc tàu được hầu như tất cả mọi người tin rằng "không thể chìm". Đó là một cú sốc lớn, bởi dù có những kỹ thuật tiên tiến và thủy thủ đoàn giàu kinh nghiệm, chiếc Titanic đã chìm với số thiệt hại nhân mạng to lớn. Các phương tiện truyền thông đại chúng nóng lên vì những nạn nhân Titanic là người nổi tiếng, vì những huyền thoại về điều đã diễn ra trên boong tàu, vì những thay đổi sau đó của luật hàng hải, và sự khám phá xác tàu Titanic vào năm 1985 bởi một đội do Robert Ballard và Jean Louis Michel dẫn đầu khiến chiếc Titanic vẫn rất nổi tiếng dù đã nhiều năm trôi qua. Rõ ràng núi băng đã phá vỡ các tấm vỏ tàu, làm thủng một lỗ lớn khiến nước băng lạnh giá tràn vào trong Titanic.
Thảm họa và những mốc thời gian
Chiếc Carpathia tới New York
Chiếc Carpathia bỏ neo tại Bến 54 ở Đường số 12 Little West ở New York với những người sống sót. Nó tới vào buổi đêm và được hàng ngàn người chờ đón. Titanic đã dự định bỏ neo tại Bến 59 ở Đường số 20. Carpathia thả những chiếc thuyền cứu sinh rỗng của Titanic tại Bến 59, chúng thuộc sở hữu của White Star Line, trước khi đưa những hành khách còn sống sót xuống Bến 54.
Cả hai bến đều thuộc Bến Chelsea được xây dựng dành riêng cho những con tàu chở khách hạng sang thời đó.
Khi tin tức về thảm họa lan đi, nhiều người bị sốc vì chiếc tàu Titanic có thể chìm với số thiệt hại nhân mạng lớn đến như vậy, dù nó được đóng với nhiều kỹ thuật tân tiến. Báo chí đầy những câu chuyện và những miêu tả về thảm họa và luôn săn lùng tin tức mới nhất. Nhiều hội từ thiện được lập ra để giúp các nạn nhân và gia đình họ, nhiều gia đình đã mất đi lao động chính, hay, trong trường hợp những người khách hạng ba còn sống sót, mọi thứ họ có. Người dân Southampton bị ảnh hưởng nhiều nhất vụ đắm tàu. Theo tờ Hampshire Chronicle ngày 20 tháng 4 năm 1912, hầu như 1.000 gia đình địa phương đều bị ảnh hưởng trực tiếp. Hầu như mọi con phố thuộc quận Chapel trong thị trấn đều mất ít nhất một người dân và hơn 500 gia đình mất một thành viên của họ.
Điều tra, các quy định an toàn và Californian
Thậm chí trước khi những người sống sót về tới New York, những cuộc điều tra đã được lên kế hoạch nhằm tìm hiểu điều gì đã xảy ra với Titanic, và điều cần làm để tránh một tai nạn tương tự. Thượng viện Hoa Kỳ đã bắt đầu cuộc điều tra về thảm hoạ Titanic ngày 19 tháng 4, một ngày sau khi chiếc Carpathia cập cảng New York.
Chủ tịch cuộc điều tra, Thượng nghị sĩ William Alden Smith, muốn thu thập những lời chứng từ phía hành khách và thủy thủ đoàn khi các sự kiện vẫn còn nóng hổi trong tâm trí họ. Smith cũng cần yêu cầu trình diện tòa án đối với các công dân Anh khi họ vẫn đang trên lãnh thổ Mỹ. Cuộc điều tra của người Mỹ kéo dài tới ngày 25 tháng 5.
Sir Mersey được chỉ định lãnh đạo cuộc điều tra thảm họa của Phòng thương mại Anh Quốc. Cuộc điều tra của người Anh diễn ra từ ngày 2 tháng 5 tới 3 tháng 7. Mỗi cuộc điều tra đều lấy lời tường thuật từ cả các hành khách và thủy thủ đoàn Titanic, thủy thủ đoàn chiếc The Californian của Leyland Line, Thuyền trưởng Arthur Rostron chiếc Carpathia và các chuyên gia khác.
Những cuộc điều tra cho thấy nhiều quy định an toàn đã quá lỗi thời và cần thiết phải có các luật mới. Nhiều cải tiến về quy định an toàn hàng hải đối đã được áp dụng, gồm cả việc cải tiến thân tàu và thiết kế vách ngăn, quyền đi lại của hành khách trên toàn bộ con tàu, các yêu cầu về thuyền cứu sinh, thiết kế áo phao, huấn luyện an toàn, thông tin cho hành khách, luật về liên lạc radio, vân vân. Những nhà điều tra cũng thấy rằng Titanic có đủ chỗ trên thuyền cứu sinh cho toàn bộ hành khách hạng nhất, nhưng khách các hạng còn lại không hề được quan tâm. Trên thực tế, đa số hành khách ở khoang hạng ba, hay hạng bét, không hề biết vị trí các thuyền cứu sinh ở đâu, cũng không có nhiều lối để lên các boong trên nơi đặt thuyền. (Theo báo cáo của Lloyd's, tỷ lệ khách nam trên khoang hạng nhất sống sót cao hơn tỷ lệ này của phụ nữ và trẻ em ở khoang hạng ba.)
Cả hai cuộc điều tra vụ tai nạn đều thấy rằng chiếc Californian và Thuyền trưởng Stanley Lord, đã không thể giúp đỡ Titanic một cách hiệu quả. Những lời chứng trước cuộc điều tra cho thấy, lúc 10:10 tối, chiếc Californian quan sát thấy ánh sáng của một con tàu ở phía nam; sau đó Thuyền trưởng Lord và sĩ quan hạng ba (người thay Lord chỉ huy lúc 10:10) đồng ý với nhau rằng đó là một chiếc tàu chở khách. Chiếc Californian đã cảnh báo con tàu kia về một núi băng khiến họ phải dừng lại trong đêm. Lúc 11:50 tối, sĩ quan đã thấy ánh sáng trên con tàu kia tắt đi, giống như con tàu bỗng nhiên biến mất nhưng lại thấy ánh sáng phía trái của nó. Các tín hiệu Morse gửi tới con tàu kia, theo lệnh của Lord, đã được đánh đi năm lần trong khoảng 11:30 và 1:00 sáng, nhưng không hề được nhận biết. (Theo lời khai, đèn tín hiệu Morse của chiếc Californian chỉ có tầm hoạt động bốn dặm.)
Thuyền trưởng Lord đã đi ngủ lúc 11:30; tuy nhiên, sĩ quan hạng nhì, khi ấy đang trực, đã thông báo cho Lord rằng lúc 1:15 sáng con tàu kia đã bắn một quả pháo hiệu, tiếp đó là bốn quả nữa. Lord ngờ vực không biết chúng có phải là những "tín hiệu nội bộ công ty" hay không, có nghĩa là màu sắc được sử dụng để xác nhận tên hiệu. Sĩ quan thứ hai nói rằng anh ta "không biết", và rằng toàn bộ những quả pháo hiệu đều màu trắng. Thuyền trưởng Lord ra lệnh cho thủy thủ đoàn tiếp tục đánh tín hiệu Morse cho con tàu kia, và đi ngủ tiếp. Ba phát pháo hiệu tiếp sau được quan sát thấy lúc 1:50 và sĩ quan hạng nhì thấy con tàu kia trông rất kỳ lạ, như đang nghiêng trên mặt nước. Lúc 2:15 sáng, Lord được thông báo không còn nhìn thấy con tàu kia nữa. Lord một lần nữa hỏi những phát pháo hiệu có màu gì, và được trả lời tất cả đều màu trắng.
Californian cuối cùng cũng đã trả lời. Lúc 5:30 sáng sĩ quan hạng nhất đánh thức sĩ quan điện tín, thông báo với anh ta việc quan sát thấy nhiều phát pháo hiệu trong đêm và yêu cầu anh ta liên lạc với một con tàu nào đó. Chiếc Frankfurt đã thông báo với anh ta việc tàu Titanic chìm, Thuyền trưởng Lord được thông tin và con tàu bắt đầu tới hỗ trợ.
Những cuộc điều tra cũng khám phá thực tế tàu Californian ở gần Titanic hơn con số 19½ dặm (36 km) mà Thuyền trưởng Lord tưởng, và rằng đúng ra Lord đã phải đánh thức sĩ quan điện tín ngay sau khi nhận được tin về những phát pháo hiệu, và vì thế có thể hành động kịp thời để ngăn chặn thảm hoạ. Trước việc sĩ quan điện tín trên Californian không làm việc, 29 quốc gia đã phê chuẩn Luật Radio năm 1912, hợp lý hóa thông tin radio, đặc biệt trong trường hợp khẩn cấp.
Sống sót và tử nạn
Thống kê chung
Theo báo cáo của ủy ban điều tra thành lập bởi Thượng viện Hoa Kỳ, trong tổng số 2.223 người trên tàu, chỉ 706 người sống sót; 1.517 người thiệt mạng. Trong số hành khách hạng nhất, 199 người được cứu (60,5%) và 130 người chết. Trong số hành khách hạng hai, 119 (44%) người sống và 166 người chết. Trong số hành khách hạng ba, 174 người được cứu (24,5%) và 536 người chết. Thủy thủ đoàn, 194 người được cứu (22%) và 682 người chết. Đặc biệt, toàn bộ nhân viên kỹ thuật 35 người (trong đó gồm 25 kỹ sư, 6 kỹ sư điện, 2 kỹ sư nồi hơi, một kỹ sư đường ống và một thư ký) đều thiệt mạng.
Đa số người chết do không chịu nổi sự giảm thân nhiệt trong nước có nhiệt độ 28 °F (−2 °C). Ngoài ra, tỉ lệ tử vong cao cũng vì các thuyền cứu sinh đã không chở tối đa số người có thể. Cũng theo bản báo cáo trước Thượng viện Hoa Kỳ, Nếu các thuyền cứu sinh chở đủ sức chứa, 1.178 người có thể đã được cứu sống.
Người sống sót cuối cùng
Millvina Dean (sinh 2 tháng 2 năm 1912), là người nhỏ tuổi nhất trên tàu Titanic, bà đã mất vào ngày 31 tháng 5 2009, là hành khách qua đời cuối cùng của tàu Titanic.
Hai người liên quan tới Titanic đã mất là:
Barbara Joyce Dainton (họ tiền hôn West) (24 tháng 5 năm 1911 – 16 tháng 10 năm 2007)
Lillian Gertrud Asplund (21 tháng 10 năm 1906 – 6 tháng 5 năm 2006) người Mỹ cuối cùng còn sống và cũng là người cuối cùng còn nhớ về vụ đắm tàu Titanic, mất tại nhà ở Shrewsbury, Massachusetts. Asplund, khi ấy mới 5 tuổi, đã mất cha và ba người anh em trai (một cặp sinh đôi) trong thảm hoạ. Mẹ bà Selma Asplund và người em trai Felix, khi ấy lên 3, sống sót. Với cái chết của Lillian Gertrude Asplund, tất cả những người hành khách trải nghiệm thảm họa đắm tàu Titanic đều đã qua đời.
Những giả thuyết về nguyên nhân thảm họa
Sai lầm khi đóng tàu
Dù chủ đề này hiếm khi được tranh luận, có một số ý kiến về việc liệu Titanic có được chế tạo theo những tiêu chuẩn được coi là đáp ứng đủ những yêu cầu kỹ thuật thời ấy. Những lời đồn đại về những sai lầm trong khi đóng tàu gồm cả những vấn đề với các cửa an toàn và thiếu hay không có các bu lông riêng tại các tấm thân tàu. Một số người nói rằng đây là một nguyên nhân chính dẫn tới đắm tàu và rằng núi băng, cộng với sự thiếu hụt bu lông cùng các đinh vít, cuối cùng đã dẫn tới kết cục thảm họa. Nhiều người tin rằng nếu các vách ngăn nước đảm bảo ngăn kín các khoang với nhau (chúng chỉ cao 10 feet trên mực nước), con tàu đã có thể nổi.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng vỏ tàu Titanic được liên kết bằng đinh tán (rivet), là cách thông thường để liên kết các tấm kim loại với nhau, trong khi các bu lông có thể tháo ra được và vì thế yêu cầu phải được xiết chặt định kỳ trừ khi đai ốc và bu lông được hàn sau khi đã được bắt vít. Kỹ thuật hàn năm 1912 còn ở mức sơ khai, vì thế điều đó đã không diễn ra. Tuy khi các vấn đề về đinh tán của Titanic đã được xác định thông qua những mẫu vỏ tàu còn lại, nhiều chiếc khác cùng thời được áp dụng kỹ thuật tương tự đã không chìm sau các vụ va chạm. Có ý kiến cho rằng các đinh tán của Titanic không được tôi đầy đủ, khiến chúng giòn và dễ gãy khi xảy ra va chạm.
Việc các cửa ngăn đảm bảo kín nước có thể tăng khả năng sống sót của con tàu như Titanic, nhưng chúng cũng không thể đảm bảo khả năng sống sót của một con tàu với nhiều hư hỏng ngầm dưới mặt nước như Titanic sau vụ va chạm như vậy với núi băng: một núi băng lớn. Thậm chí nếu các khoang vẫn hoàn toàn kín nước, trọng lượng nước sẽ vẫn kéo phần mũi tàu chìm xuống tới lúc các điểm không kín nước ở boong trên bị ngập và nước vẫn tràn được vào tàu qua các cửa mạn và tàu vẫn chìm. Cũng cần lưu ý rằng các boong kín nước sẽ ảnh hưởng tới việc đi xuống những khoang bên dưới tàu và lại cần phải có những cửa sập kín nước, tất cả chúng đều phải hoàn toàn kín để có thể ngăn nước không tràn vào những nơi khác trên tàu. Khi vấn đề các boong kín nước có thể làm tăng khả năng sống sót của tàu không vẫn còn là một câu hỏi, nói chung tới tận ngày nay kiểu boong này vẫn bị coi là không có tính thực tiễn đối với tàu thủy thương mại (dù một số tàu quân sự, với nhiều nguy cơ bị ngập hơn khi trúng phải thủy lôi hay các loại mìn khác của đối phương, có được áp dụng kiểu boong này).
Cũng cần lưu ý rằng chiếc Olympic, được chế tạo tương tự từ cùng một xưởng đóng tàu như Titanic, đã nhiều lần xảy ra va chạm trong suốt đời hoạt động của nó, một vụ xảy ra trước khi Titanic chìm; và vỏ chiếc Olympic đã được sửa đổi để bảo vệ nó khỏi bị ngập khi có một vụ va chạm tương tự như con tàu em xấu số của nó. Không một vụ va chạm nào dẫn tới nguy cơ chìm tàu, cho thấy những chiếc tàu chở khách lớp Olympic được chế tạo đảm bảo yêu cầu và không hề có lỗi kỹ thuật.
Âm mưu phá hoại
Một lớp quan điểm nhỏ khác cho rằng đúng ra không phải Titanic mà chiếc Olympic đã chìm. Những người ủng hộ quan điểm này đưa ra bằng chứng của họ, gồm cả vụ tai nạn Hawke, hầu như đã làm hư hại chiếc Olympic. Động cơ được đưa ra là đánh đắm chiếc Olympic/Titanic để đòi tiền bảo hiểm. Những người này cũng nêu ra thực tế là cả hai chiếc đều được đưa lên ụ khô ở cùng xưởng tàu trong cùng một thời gian (có lẽ để sơn phết lại), và một con tàu với 3000 chiếc chăn trên boong (cho những người sống sót) đã đi trước tới điểm xảy ra va chạm, và những chi phí sửa chữa có lẽ được dành để chỉnh trang cho hai con tàu giống nhau hơn. Lý thuyết này đã bị bác bỏ hoàn toàn khi xác tàu được tìm thấy năm 1985.
Bánh lái của Titanic và khả năng xoay trở
Dù bánh lái của Titanic không quá nhỏ theo yêu cầu đối với một con tàu ở cỡ của nó, thiết kế bánh lái không được áp dụng kỹ thuật tiên tiến. Theo những nhà nghiên cứu thuộc Hội Lịch sử Titanic: Bánh lái dài và mỏng của Titanic là bản copy của một chiếc tàu thép chạy buồm thế kỷ XIX. So với thiết kế bánh lái chiếc Mauretania hay Lusitania của Cunard, bánh lái của Titanic quá nhỏ. Rõ ràng không nhà thiết kế nào chú ý tới những tiến bộ trong kỹ thuật chế tạo bánh lái bản rộng, và không chú ý nhiều tới việc một con tàu dài 882½ feet (269 m) như nó sẽ xoay trở thế nào trong tình huống khẩn cấp, hay để tránh va chạm với một núi băng. Đây chính là Gót chân Achilles của Titanic.
Một sai lầm còn nghiêm trọng hơn với Titanic chính là định dạng động cơ ba chân vịt của nó, với hai động cơ hơi nước pittông truyền động cho hai chân vịt bên, và một tuốc bin hơi nước truyền động riêng cho chân vịt giữa. Các động cơ píttông có thể đảo chiều, còn động cơ tuốc bin không đảo chiều được. Khi Sĩ quan hạng nhất Murdoch ra lệnh đảo chiều động cơ để tránh núi băng, ông đã không lưu ý rằng việc này có thể gây ảnh hưởng tới khả năng quay của con tàu. Bởi vì động cơ giữa không thể đảo chiều khi tàu thực hiện "lùi hết tốc độ", đơn giản nó chỉ ngừng quay. Hơn nữa, chân vịt giữa được đặt phía trước bánh lái tàu, càng làm giảm hiệu quả quay của bánh lái.
Nếu Murdoch cho đảo chiều động cơ bên trái, và giảm tốc độ trong khi vẫn giữ chuyển động bình thường của hai chân vịt kia (như đã được đề nghị trong quy trình huấn luyện với kiểu tàu này), các chuyên gia đưa ra giả thuyết rằng Titanic có thể đã đi vòng quanh được núi băng và tránh được vụ va chạm. Tuy nhiên, với khoảng cách gần giữa con tàu với núi băng ở thời điểm phòng chỉ huy không hề được thông báo về vấn đề này, có lẽ nó cũng khó xảy ra.
Thêm nữa, các chuyên gia Titanic đưa ra giả thuyết nếu Titanic không đổi hướng chuyển động và lao thẳng về phía núi băng thì vụ va chạm chỉ ảnh hưởng tới khoang thứ nhất, hay nhiều nhất là hai khoang của tàu. Chiếc tàu chở khách Arizona của Guion cũng đã có vụ va chạm đối đầu với một núi băng năm 1879, và dù bị hư hại nặng nề nhưng vẫn cố về được St John's, Newfoundland để sửa chữa. Tuy nhiên, một số người cho rằng Titanic có lẽ không thể sống sót sau vụ va chạm như vậy bởi tốc độ của nó cao hơn và vỏ cũng lớn hơn chiếc Arizona và vì thế lực của cú đâm sẽ làm tổn hại tới tình trạng toàn vẹn kết cấu của nó.
Do lỗi của tài công Robert Hichens và Joseph Bruce Ismay
Trong cuộc trả lời phỏng vấn với phóng viên của tờ nhật báo buổi sáng The Daily Telegraph phát hành tại Luân Đôn. Nữ doanh nhân kiêm văn sĩ người Anh Louise Patten - cháu nội của Charles Lightoller (1874 - 1952), sĩ quan bậc 2 trên tàu cũng là thành viên sống sót duy nhất trong ban chỉ huy Titanic tiết lộ "một bí ẩn thực sự về vụ đắm tàu" là do:
Tài công Robert Hichens (1882 - 1940) do quá hoảng loạn trước hiểm họa núi băng trước mặt, nên đã vận hành tàu nhầm lẫn trong việc đổi hướng lái (do tàu Titanic được đóng vào thời điểm ngành hàng hải quốc tế chuyển từ thuyền buồm sang tàu sử dụng động cơ hơi nước. Nguyên lý bẻ lái sang trái khi muốn tàu rẽ phải và ngược lại. Còn với máy hơi nước thì muốn rẽ bên nào chỉ việc điều khiển bánh lái theo hướng đó).
Mệnh lệnh từ Joseph Bruce Ismay (1862-1937), Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc điều hành (CEO) Hãng White Star Line - cơ quan chủ quản RMS Titanic đang có mặt trên tàu. Viên chủ tàu Joseph Bruce Ismay không muốn cỗ phương tiện khổng lồ từng được mệnh danh là "không thể bị đắm" lại đứng yên giữa biển, chờ cứu hộ tới trong khi cứ chìm dần. Mệnh lệnh ban ra từ Joseph Bruce Ismay là bất khả kháng, buộc thuyền trưởng Edward John Smith phải tuân thủ. Nếu như Titanic tắt máy ngừng chuyển động và đứng yên tại chỗ, rất có thể con tàu sẽ trụ được chí ít tới khi lực lượng cứu hộ xuất hiện. Nếu tiếp tục dịch chuyển, đương nhiên áp lực nước sẽ khiến lỗ thủng ngày càng mở rộng khiến tàu nhanh chìm hơn.
Ảnh hưởng, tác động từ thảm họa
Vụ đắm tàu RMS Titanic là một yếu tố gây ảnh hưởng tới thủ tục, thiết kế tàu, và thay đổi văn hóa hàng hải sau đó, như được liệt kê dưới đây.
Tuần tra cảnh báo núi băng Quốc tế
Thảm họa Titanic dẫn tới việc triệu tập Hội nghị Quốc tế về An toàn trên Biển tại Luân Đôn, ngày 12 tháng 11 năm 1913. Ngày 30 tháng 1 năm 1914, một hiệp ước được hội nghị thông qua dẫn tới sự hình thành quỹ quốc tế về Tuần tra Núi băng Quốc tế, một cơ quan của Lực lượng Bảo vệ Bờ biển Hoa Kỳ tới ngày nay vẫn đảm nhiệm việc quan sát và thông báo vị trí các núi băng ở Bắc Đại Tây Dương có thể là một mối đe dọa đối với giao thông xuyên Đại Tây Dương. Các bên tham gia cũng đồng ý đưa hành khách trên tàu đều được đảm bảo chỗ trên thuyền cứu sinh, các cuộc tập luyện an toàn phải được tiến hành đầy đủ, và liên lạc radio phải hoạt động 24/24 giờ và có thêm một nguồn điện dự phòng riêng, để không bao giờ bỏ qua bất kỳ một yêu cầu hỗ trợ nào. Thêm nữa, hội nghị cũng đồng thuận việc bắn pháo hiệu màu đỏ phải được hiểu là tín hiệu cầu cứu. Hiệp ước này theo dự định sẽ có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 1915, nhưng đã bị trì hoãn bởi Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Thiết kế của tàu thủy
Vụ đắm tàu Titanic cũng dẫn tới sự thay đổi trong thiết kế tàu thủy, và nhiều chiếc đang hoạt động như Olympic, cũng được tái trang bị để tăng độ an toàn. Bên cạnh việc tăng số lượng thuyền cứu sinh trên bong, những cải tiến khác như tăng cường độ thân vỏ và tăng chiều cao của các cửa kín nước. Các cửa kín nước trên Titanic chỉ cao 10 feet (3 m) trên mực nước, và sau khi Titanic đắm, các cửa kín nước trên những con tàu khác được kéo dài để đảm bảo các khoang kín nước hoàn toàn. Tuy Titanic có đáy hai lớp nhưng nó lại không có vỏ hai lớp; sau khi Titanic đắm, những con tàu mới được thiết kế với hai lớp vỏ; tương tự, những đáy hai lớp trên các con tàu khác (gồm cả Olympic) được kéo dài thêm lên trên mực nước biển, nhờ thế chúng cũng có vỏ hai lớp.
Đổi tên
Sau thảm hoạ, cái tên Gigantic bị coi là không còn thích hợp cho chiếc tàu chở khách hạng sang lớp Olympic thứ ba nữa. Nó được đổi tên thành Britannic. (Vì Chiến tranh thế giới thứ nhất, chiếc Britannic không còn được dùng chở khách; nó đã đắm khi đang hoạt động như một chiếc tàu cứu thương.)
Thuyền cứu sinh
Không một nguyên nhân nào liên quan tới số thiệt hại nhân mạng to lớn của thảm họa Titanic khiến mọi người giận dữ bằng nguyên nhân nó không mang theo đủ thuyền cứu sinh. Đây một phần do luật thời ấy, được đưa vào áp dụng từ năm 1894, chỉ yêu cầu phải có tối thiểu 16 thuyền cứu sinh đối với những chiếc tàu trên 10.000 tấn. Từ thời điểm ấy, kích thước các con tàu đã tăng lên nhanh chóng, có nghĩa theo luật Titanic chỉ bị yêu cầu phải mang theo số thuyền cứu sinh đủ cho chưa tới một nửa số người trên boong. Thực tế, White Star Line đã trang bị vượt yêu cầu khi thêm bốn chiếc thuyền gấp— đủ chỗ cho hơi nhỉnh hơn một nửa số hành khách và thủy thủ.
Trên những con đường hàng hải đông đúc ở Bắc Đại Tây Dương, mọi người đều cho rằng nếu một thảm họa nghiêm trọng có xảy đến với một con tàu, thì nó sẽ nhanh chóng nhận được sự hỗ trợ từ các con tàu khác, và rằng thuyền cứu sinh chỉ để chở hành khách và thủy thủ từ con tàu bị nạn sang những con tàu cứu hộ. Vì thế việc mang theo số thuyền cứu sinh đủ cho toàn bộ số người trên boong bị coi là không cần thiết.
Khi thiết kế, Titanic cũng đã được dự đoán trước yêu cầu tăng số lượng thuyền cứu sinh của Phòng thương mại Anh Quốc trong tương lai. Vì thế các cần trục thả thuyền cứu sinh có khả năng thả bốn thuyền với mỗi hai cần trục đã được thiết kế và lắp đặt, khiến cho nó có tổng năng lực dự trữ lên tới 64 thuyền. Nhưng những con thuyền cứu sinh dự phòng đã không bao giờ được trang bị. Thường có ý kiến cho rằng J. Bruce Ismay, Chủ tịch White Star, đã bác bỏ việc lắp đặt thêm những chiếc thuyền đó để tăng tối đa diện tích tản bộ trên boong của hành khách. Harold Sanderson, Phó chủ tịch International Merchantile Marine đã bác bỏ ý kiến này trong cuộc điều tra của người Anh.
Thuyền cứu sinh thiếu không phải là nguyên nhân duy nhất khiến số tổn thất nhân mạng cao đến như vậy. Sau vụ va chạm với núi băng, thủy thủ đoàn đã mất tới một giờ để đánh giá mức độ hư hỏng, nhận biết được điều sắp xảy đến, thông báo tới những hành khách hạng nhất, và hạ chiếc thuyền cứu sinh đầu tiên. Sau đó, thủy thủ đoàn làm việc khá hiệu quả, mất tổng cộng 80 phút để hạ toàn bộ 16 thuyền cứu sinh. Vì số thủy thủ được chia làm hai đội, mỗi đội một phía mạn tàu, nên họ mất khoảng 10 phút để đưa người lên thuyền và hạ nó xuống biển.
Một nguyên nhân nữa gây ra tỷ lệ tử vong cao liên quan tới thuyền cứu sinh là sự chần chừ không muốn lên đó của hành khách. Xét cho cùng, họ cảm thấy mình đang trên một con tàu không có vẻ đang chìm. Và vì thế, một số thuyền cứu sinh được hạ xuống với rất ít người, đáng chú ý nhất là thuyền số 1, với sức chở 40 người nhưng chỉ được hạ xuống với 12 người bên trên.
Huyền thoại và bí ẩn
Sử dụng tín hiệu SOS
Vụ đắm tàu Titanic không phải là lần đầu tiên mã cấp cứu Morse "SOS" được công nhận quốc tế được sử dụng. Tín hiệu SOS (Save our Soul hay Save our ship) được đề xuất lần đầu tiên tại Hội nghị Quốc tế về Liên lạc Điện tín trên Biển ở Berlin năm 1906. Nó đã được cộng đồng quốc tế phê chuẩn năm 1908 và được sử dụng rộng rãi từ đó. Tuy nhiên, tín hiệu SOS hiếm khi được các điện tín viên Anh dùng, vì họ vẫn ưa thích mã CQD cũ hơn. Ban đầu sĩ quan điện tín Jack Phillips sử dụng mã CQD cho tới khi sĩ quan điện tín thứ hai Harold Bride nói nửa đùa nửa thật, "Dùng SOS đi; cách mới đấy, và có lẽ đây cũng là cơ hội cuối cùng để anh dùng nó." Phillips, người đã chết đuối trong vụ đắm tàu, sau đó dùng xen lẫn một số thông điệp bằng SOS giữa những mã CQD truyền thống.
Huyền thoại ban nhạc Titanic
Một số sự kiện diễn ra trong thảm hoạ Titanic đã trở thành huyền thoại. Một trong những câu chuyện nổi tiếng nhất là ban nhạc trên tàu Titanic. Ngày 15 tháng 4, ban nhạc tám người của Titanic, do Wallace Hartley chỉ huy, đã tập trung tại phòng khách khoang hạng nhất cố gắng giữ hành khách bình tĩnh và tin tưởng. Sau đó họ chuyển ra chơi nhạc phía trước boong. Các thành viên ban nhạc đã chơi trong buổi cầu nguyện ngày Chủ Nhật sáng hôm trước, và họ vẫn tiếp tục chơi thậm chí cả khi con tàu rõ ràng sắp chìm.
Không ai trong số thành viên ban nhạc sống sót sau vụ đắm tàu, và có nhiều quan điểm về bản nhạc cuối cùng của họ. Một số nhân chứng nói rằng bài cuối cùng được chơi là thánh ca "Nearer, My God, to Thee." Tuy nhiên, có ba luồng ý kiến về bài hát này và không ai biết chắc được chính xác bài nào, nếu quả thực như vậy, đã được chơi. Hartley được cho là đã kể với một người bạn rằng nếu mình ở trên một con tàu sắp chìm thì bài "Nearer, My God, to Thee" sẽ là một trong những bài được ông chơi. Cuốn sách A Night to Remember (Một đêm đáng nhớ) của Walter Lord lại đưa ra lời kể của sĩ quan điện tín Harold Bride rằng trước khi tàu chìm, ông đã nghe thấy bài "Autumn" (Mùa thu) (một bài thánh ca tương tự như bài kia nhưng có liên quan tới hàng hải với dòng viết về "những vùng nước rộng lớn"). Mọi người cho rằng Bride có thể nói bài hát đó là "Autumn" hay "Songe d'Automne," một bài hát ragtime phổ biến thời ấy. Những người khác nói họ đã nghe thấy bài "Roll out the Barrel."
Xác của Hartley đã được tìm thấy và nhận dạng. Được coi là một anh hùng, đám tang của ông tại Anh Quốc được hàng ngàn người tham dự.
Lời nguyền và các giả thuyết khác về nguyên nhân đắm tàu
Giống như với nhiều sự kiện nổi tiếng khác, cùng với thời gian nhiều giả thuyết khác nhau đã được đưa ra giải thích nguyên nhân vụ đắm tàu Titanic. Những giả thuyết cho rằng không phải một núi băng mà là một lời nguyền đã gây ra thảm họa cũng thường xuất hiện trên báo chí và những cuốn sách. Đa số những giả thuyết này đều bị các chuyên gia về Titanic bác bỏ, bởi chúng đều không có đủ cơ sở thực tế ủng hộ.
Năm 2003 Thuyền trưởng L. M. Collins, một cựu thành viên của Ice Pilotage Service đã xuất bản cuốn The Sinking of the Titanic: The Mystery Solved cho rằng, dựa trên chính những kinh nghiệm thám sát băng của ông và những lời kể của nhân chứng ở hai vụ điều tra sau thảm họa, Titanic không phải đâm vào một núi băng mà là một tảng băng chìm. Kết luận của ông dựa trên ba phần lời chứng chính.
Một giả thuyết khác cho rằng Titanic đã bị hy sinh, bởi vì, khi việc đóng tàu hoàn tất, nó bị cho là một nguy cơ thua lỗ tài chính. Những người ủng hộ giả thuyết này đưa ra chứng cớ rằng, tất cả mọi người liên quan, cả công ty và những sĩ quan trên boong đều đã nhận được những lời cảnh báo núi băng và Titanic vẫn giữ hướng chạy chứ không đi chếch về phía nam.
Thậm chí còn có cả một huyền thoại về lời nguyền. Khi con tàu đang được đóng tại xưởng tàu ở Belfast, nhiều công nhân theo đạo Công giáo đã nhiều lần bỏ việc để phàn đối những lời báng bổ kinh khủng với Giáo hội Công giáo và Đức Mẹ đồng trinh Maria do những công nhân theo đạo Tin lành dùng sơn phun lên trên vỏ tàu. Một trong những người công nhân đã nói, "Con tàu này sẽ không hoàn thành chuyến đi đầu tiên của nó". Những lời báng bổ đã được những người công nhân tiếp than khi con tàu dừng tại Cobh, Ireland nhìn thấy.
Một huyền thoại tương tự cho rằng Titanic được đánh số vỏ 390904 (con số này nếu viết ngược (nhìn qua gương) sẽ giống "no pope", nghĩa là "không cần có giáo hoàng"). Đây là một câu chuyện hoang đường.
Một câu chuyện tưởng tượng khác trong quần chúng cho rằng Titanic chở theo một xác ướp Ai Cập đã bị nguyền rủa. Xác ướp, có tên hiệu Shipwrecker (Kẻ làm đắm tàu), sau khi nhiều lần đổi chủ đã gây ra những tai họa khủng khiếp cho những người sở hữu, và lần trả thù cuối cùng chính là vụ chìm tàu nổi tiếng này. Câu chuyện này không hề chính xác.
Một câu chuyện hoang đường khác cho rằng chai sâm panh được dùng trong lễ rửa tội Titanic đã không vỡ trong lần thả đầu tiên, đây là điềm xui xẻo với một con tàu. Trên thực tế, Titanic không có lễ rửa tội, bởi theo lệ thường White Star Line hạ thủy tàu mà không cần làm lễ rửa tội.
Sarnoff và các báo cáo điện tín
Một câu chuyện nửa thực nửa ngờ thường được nhắc tới cho rằng người đầu tiên nhận được tin tức về vụ đắm tàu là David Sarnoff, người sau này sẽ làm chủ đế chế truyền thông RCA. Sarnoff không phải là người đầu tiên biết tin (dù Sarnoff luôn quảng cáo điều này) nhưng ông và những người khác quả thật đã ở tại trạm điện tín Marconi bên trên Tòa nhà Wanamaker ở Thành phố New York, và trong ba ngày liên tục nhận và thông báo tin tức về thảm họa cũng như cung cấp tên những người còn sống sót cho những người thân đang chờ bên ngoài.
Sự vô dụng, hay là vụ đắm tàu Titan
Cuốn truyện ngắn xuất bản năm 1898 của Morgan Robertson có tên Sự vô dụng, hay là vụ đắm tàu Titan (Futility, or the Wreck of the Titan), viết 14 năm trước chuyến đi của Titanic xấu số, đã được tìm thấy với rất nhiều chi tiết giống với thảm họa Titanic: truyện nói về một tàu viễn dương sang trọng tên là Titan, con tàu cuối cùng đã đâm vào một tảng băng và chìm trong một đêm tháng 4 yên ả trong khi đang trên đường đến New York; rất nhiều người đã chết vì thiếu thuyền cứu sinh. Cả Titan và cái cách nó "chết" có những nét tương đồng đến kinh ngạc với Titanic khiến cho truyện ngắn của Robertson vẫn tiếp tục được in ra cho đến ngày nay, gieo rắc sự sợ hãi.
Lễ kỷ niệm lần thứ 100
Ngày 16 tháng 4 năm 2012, lễ kỷ niệm 100 năm ngày tàu Titanic đắm đã được tổ chức khắp thế giới. Vào ngày đó Khu Titanic tại Belfast đã được hoàn thành và đưa vào sử dụng từ cuối tháng 3. Vùng này đã được khôi phục và một dự án tưởng niệm cũng được khánh thành để kỷ niệm những liên hệ của con tàu Titanic với Belfast, thành phố nơi con tàu được chế tạo.
Những thảm họa hàng hải có quy mô tương đương
Thời ấy vụ đắm tàu Titanic là một trong những thảm họa hàng hải lớn nhất trong lịch sử, số lượng người thiệt mạng lớn chưa từng có trên con đường đến Bắc Mỹ. Nó vẫn là thảm họa hàng hải dân sự lớn nhất trong lịch sử Anh Quốc. Thảm họa hàng hải dân sự lớn nhất trên Đại Tây Dương tới thời điểm này là vụ đắm tàu SS Norge ngoài khơi Rockall năm 1904 với 635 người thiệt mạng. Tuy nhiên, số người chết trong vụ Titanic không cao bằng con số này trong vụ nổ và đắm chiếc tàu hơi nước Sultana trên Sông Mississippi năm 1865, với ước tính 1.700 người thiệt mạng. Hai năm sau thảm hoạ Titanic, một chiếc tàu chở khách Canadian, chiếc Nữ hoàng Ireland đã đắm trên Sông Saint Lawrence với 1.012 người thiệt mạng sau khi va chạm với chiếc tàu chở than Na Uy Storstad. Trong hai vụ đắm tàu RMS Lusitania và RMS Leinster con số thiệt hại nhân mạng cũng rất lớn. Cả hai đều bị các tàu ngầm Đức tiêu diệt trong Chiến tranh Thế giới Thứ nhất.
Một thảm họa tương tự Titanic là vụ chiếc tàu Hans Hedtoft. Tháng 1 năm 1959 chiếc Hans Hedtoft, một chiếc tàu chở khách Đan Mạch xuất phát từ Greenland, đã đâm vào một núi băng và đắm. Hans Hedtoft cũng đang thực hiện chuyến đi biển đầu tiên của mình và cũng được quảng cáo "không thể chìm" vì những tiến bộ kỹ thuật áp dụng trong thiết kế. Năm 1987, chiếc MV Doña Paz, đắm tại Philippines sau khi va chạm với chiếc tàu chở dầu Vector và bắt lửa, số người chết được tuyên bố trong khoảng 1.500 tới 4.000 người. Năm 2002, chiếc phà MV Joola thuộc sở hữu chính phủ Sénégal đã lật úp ngoài khơi Gambia gây ra cái chết của ít nhất 1.863 người.
Những thảm họa hàng hải lớn nhất diễn ra trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiếc RMS Lancastria đã đắm khi sơ tán khỏi Dunkirk tháng 6 năm 1940 với hơn 4.000 người thiệt mạng. Đây là thảm họa hàng hải tồi tệ nhất Anh Quốc. Tuy nhiên, những thảm họa hàng hải có số lượng người chết lớn nhất trong Chiến tranh thế giới thứ hai thuộc về những chiếc tàu Đức. Vụ đắm tàu Wilhelm Gustloff với số người chết lên tới hơn 9.000 người vẫn là thảm họa ghê gớm nhất trong lịch sử hàng hải về số lượng người chết trên chỉ một chiếc tàu (đắm ngày 30 tháng 1 năm 1945 sau khi bị ngư lôi Xô viết tấn công). Chiếc SS Cap Arcona (trớ trêu thay, đóng vai chiếc Titanic trong bộ phim năm 1943 về thảm họa này) đã bị Không quân Hoàng gia Anh đánh đắm ngày 3 tháng 5 năm 1945, với số người chết lên tới hơn 7.700. Chiếc Goya cũng đắm với khoảng 7.000 người chết, sau trận chiến với tàu ngầm Liên Xô ngày 16 tháng 4 năm 1945.
Titanic không phải là chiếc tàu duy nhất của White Star Line đắm gây thiệt hại nhân mạng. Chiếc RMS Tayleur, cũng từng được đem so sánh với vụ đắm tàu Titanic, đã đắm sau khi mắc cạn tại Ireland. Tayleur cũng là chiếc tàu được chế tạo với những kỹ thuật tiên tiến khi nó chìm ngay trong lần đi biển đầu tiên năm 1854. Trong số 558 hành khách và thủy thủ, 276 người đã chết. White Star Line trước đó cũng đã mất chiếc RMS Atlantic trên vùng đá ngầm gần Nova Scotia năm 1873 với 546 người thương vong, và chiếc SS Naronic năm 1893, có lẽ vì va chạm với núi băng gần vị trí Titanic đắm, cả 74 người trên boong đều thiệt mạng. Ba năm trước Titanic, ngày 24 tháng 1 năm 1909, một chiếc tàu chở khách hạng sang và "không thể đắm được" của White Star Line, chiếc RMS Republic đã đắm 50 hải lý ngoài khơi Nantucket làm thiệt mạng sáu người. Chiếc tàu chị em của Titanic, chiếc Britannic đắm trên Biển Địa Trung Hải khi đang hoạt động như một chiếc tàu cứu thương trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Nhiều ý kiến trái ngược nhau về việc nó bị một quả ngư lôi tấn công hay đã không may mắn đâm vào một quả thủy lôi (vụ đắm tàu đã được chứng minh do mìn gây ra). Ba tư người đã chết khi một chiếc thuyền cứu sinh được đưa xuống trước khi tàu ngừng lại hoàn toàn và thuyền cứu sinh đã bị hút vào những chân vịt vẫn đang quay.
Tái khám phá
Ý tưởng tìm kiếm xác tàu Titanic và thậm chí trục vớt nó từ đáy biển đã xuất hiện chỉ một thời gian ngắn sau khi con tàu đắm. Nhưng những nỗ lực xác định vị trí chính xác của nó mãi tới ngày 1 tháng 9 năm 1985 mới mang lại thành công, khi một nhóm thám hiểm hỗn hợp Mỹ-Pháp do Jean-Louis Michel tại Ifremer và Tiến sĩ Robert Ballard tại Viện Hải dương Woods Hole dẫn đầu, trên con tàu tìm kiếm Knorr, đã phát hiện thấy xác tàu qua camera video trên tàu lặn Argo. Xác tàu được tìm thấy ở độ sâu 12.500 feet (3800 m), phía đông nam Newfoundland ở , cách 13 hải lý (24 km) so với vị trí mọi người thường cho là Titanic đang yên nghỉ.
Khám phá đáng chú ý nhất của đội là việc chiếc tàu đã vỡ đôi, phần đuôi nằm cách phần mũi 1.970 feet (600 m) và nằm ngược chiều. Đã có nhiều lời tường thuật không đồng nhất từ phía các nhân chứng về việc chiếc tàu có bị vỡ ra hay không, và cả những cuộc điều tra của người Anh và người Mỹ đều cho rằng chiếc tàu chìm ở tình trạng nguyên vẹn. Tới tận khi xác tàu được tìm thấy, ý kiến chung vẫn cho rằng con tàu không hề bị vỡ. Năm 2005, một lý thuyết cho rằng một phần phía dưới của Titanic đã vỡ ra ngay trước khi con tàu vỡ làm đôi. Lý thuyết này dựa trên cuộc khảo sát hai mảnh thân tàu do History Channel tài trợ.
Phần mũi đã chìm sâu hơn 60 feet (18 m) trong lớp bùn đáy biển. Ngoài những phần gãy vỡ, mũi tàu hầu như còn nguyên vẹn, bởi nước bên trong đã cân bằng với áp lực nước bên ngoài. Phần đuôi ở tình trạng kém hơn. Khi phần đuôi chìm, nước đẩy không khí bên trong ra khiến vỏ và boong phần này bị xé rách. Tốc độ rơi xuống đáy biển của phần đuôi cũng khiến hư hại càng nặng thêm. Xung quanh xác tàu là một vùng rộng lớn những mảnh rác (gồm cả rất nhiều than), đồ đạc, đồ ăn và các vật dụng cá nhân trên diện tích hơn một dặm vuông (2.6 km²). Những vật liệu mềm, như gỗ và thảm, đã bị các sinh vật dưới đáy biển tiêu huỷ. Những xác người cũng cùng số phận.
Những lần khám phá sau vào khu vực boong thấp của tàu, như được tường thuật lại trong cuốn Ghosts of the Titanic của tiến sĩ Charles Pellegrino, cho thấy đa số đồ gỗ trong phòng khánh tiết của Titanic vẫn nguyên vẹn. Một lý thuyết mới đã xuất hiện cho rằng đa phần đồ gỗ tại các boong phía trên không bị các sinh vật biển phá hủy mà chỉ bị rơi ra và trôi mất. Lý thuyết này được lời chứng từ phía các nạn nhân còn sống sót ủng hộ. Tương tự, khi quay bộ phim Titanic của James Cameron, đồ vật tại Cầu thang chính rơi ra khi chúng bị nước tràn vào trong cảnh nước tràn vào tàu. Điều này khiến nhà sử học Don Lynch và nghệ sĩ Ken Marschall tin rằng điều xảy ra trên thực tế tại Cầu thang chính cũng tương tự (như được đề cập trong phần bình luận DVD của bộ phim).
Dù cuộc điều tra của Anh đã quả quyết rằng về mặt toán học hư hại xảy ra với con tàu không thể lớn hơn mười hai feet vuông, trong quan niệm của mọi người núi băng đã cắt một vệt dài 300 feet (90 m) vào sườn Titanic. Vì phần vỏ tàu bị núi băng làm hư hại đã chìm trong bùn, các nhà khoa học phải sử dụng siêu âm để xem xét khu vực và phát hiện núi băng đã làm vỡ vỏ tàu, khiến nước tràn vào trong Titanic giữa các tấm thép. Trong những lần lặn tiếp sau, các nhà khoa học đã mang lên nhiều mảnh nhỏ của vỏ tàu. Một cuộc phân tích chi tiết cho thấy tấm thép vỏ tàu đã mất tính dẻo và trở nên giòn trong nước băng lạnh, khiến nó có khả năng chống biến dạng kém. Hơn nữa, những đinh tán vỏ tàu còn mỏng manh hơn mọi người từng nghĩ. Không biết liệu những đinh tán làm bằng thép tốt hơn có thể cứu vãn con tàu được không.
Những mẫu thép lấy lên từ xác tàu cho thấy chúng chứa phần trăm phosphor và lưu huỳnh rất cao (bốn lần và hai lần lớn hơn loại thép thông thường ngày nay), với tỷ lệ Mangan sulfua (MnS) là 6.8:1 (so với tỷ lệ 200:1 của thép hiện nay). Tỷ lệ phosphor cao gây ra các vết nứt, sun phua hình thành các hạt thép sulphide khiến những vết nứt dễ kéo dài hơn, và việc thiếu măng gan khiến thép giảm tính dẻo. Các mẫu được tìm thấy trải qua quá trình chuyển đổi mềm-giòn ở nhiệt độ 32 °C (theo chiều dọc) và 56 °C (theo chiều ngang—so với nhiệt độ chuyển đổi −27 °C với thép ngày nay— thép ngày nay sẽ trở nên giòn như vậy trong khoảng nhiệt độ −60 và −70 °C). Tính không đẳng hướng như vậy có lẽ do quá trình cán nóng ảnh hưởng tới hướng kết hợp của sulphide. Có lẽ loại thép này đã được sản xuất tại các lò acid-lined, open-hearth ở Glasgow, điều này có thể giải thích thành phần cao của phosphor và sun phua, thậm chí so với cả thép thời ấy.
Tiến sĩ Ballard và đội thám hiểm của ông không hề mang lên một đồ vật nào , vì coi đó như hành động cướp lăng mộ. Tuy nhiên, theo luật hàng hải quốc tế, việc phát hiện đồ vật còn lại là hành động cần thiết để thiết lập quyền khai thác đối với một xác tàu. Những năm sau khi được khám phá, Titanic đã trở thành chủ đề của một số vụ kiện tụng liên quan tới quyền sở hữu những đồ vật tại vị trí xác tàu.
Tranh chấp và sở hữu
Ngay khi được phát hiện năm 1985, một cuộc tranh cãi pháp lý về quyền sở hữu xác tàu cũng những thứ bên trong đã diễn ra.
Ngày 7 tháng 6 năm 1994, RMS Titanic Inc. được trao quyền sở hữu và khai thác xác tàu bởi Tòa án quận Đông Virginia, Hoa Kỳ. (Xem Admiralty law) RMS Titanic Inc., một chi nhánh của Premier Exhibitions Inc., cùng các công ty tiền thân của nó đã tiến hành bảy chuyến thám hiểm xác tàu trong giai đoạn 1987 và 2004 và lấy đi hơn 5.500 đồ vật. Vật lớn nhất là một mảnh vỏ tàu nặng 17 tấn, được lấy đi năm 1998. Nhiều vật trong số đó hiện đang được trưng bày trong các bảo tàng.
Từ đầu năm 1987, một cuộc thám hiểm với sự cộng tác Pháp-Mỹ, gồm cả công ty tiền nhiệm của RMS Titanic Inc., đã tiến hành các chiến dịch thu gom đồ vật, trong 32 lần lặn, họ đã khám phá gần 1.800 vật và chúng đều được đưa về Pháp để lưu giữ và phục chế. Năm 1993, người quản lý của Pháp tại Văn phòng Hàng hải của Bộ vận tải, du lịch đã trao cho công ty tiền thân của RMS Titanic Inc. quyền sở hữu đối với những đồ vật tìm được năm 1987.
Trong một bản kiến nghị ngày 12 tháng 2 năm 2004, RMS Titanic Inc. yêu cầu Tòa án địa phương trao cho họ "quyền đối với toàn bộ đồ vật (gồm cả những mảnh xác tàu) là đối tượng của văn kiện này theo luật về những đồ vật được tìm thấy" hay, đổi lại, một khoản bồi thường khai thác 225 triệu dollar. RMS Titanic Inc. không gộp trong kiến nghị này yêu cầu về quyền sở hữu những đồ vật được tìm thấy trong năm 1987. Nhưng họ thực sự yêu cầu tòa án tuyên bố rằng, dựa trên văn bản hành chính Pháp, "những đồ vật được trục vớt trong chuyến thám hiểm năm 1987 thuộc sở hữu một cách độc lập của RMST." Sau khi xem xét, tòa án đã ra văn bản ngày 2 tháng 7 năm 2004, theo đó từ chối trao quyền sử dụng điều lệ công nhận thân thiện giữa quốc gia và công nhận quyết định năm 1993 của vị quản lý Pháp, và bác bỏ yêu cầu của RMS Titanic Inc. rằng họ phải được trao quyền sở hữu các vật được tìm thấy từ năm 1993 theo luật hàng hải về những đồ vật tìm được.
RMS Titanic Inc. kháng án tại Tòa phúc thẩm Hoa Kỳ. Theo quyết định của tòa ngày 31 tháng 1 năm 2006 tòa án công nhận "sự thích đáng và rõ ràng trong việc áp dụng luật khai thác hàng hải đối với những xác tàu mang tính lịch sử như Titanic" và từ chối áp dụng luật hàng hải về những đồ vật tìm được. Tòa cũng phán xét rằng tòa án quận không có quyền phán xử đối với "những đồ vật năm 1987", và vì thế hủy bỏ phần phán quyết của tòa ngày 2 tháng 7 năm 2004. Nói cách khác, theo quyết định này, RMS Titanic Inc. có quyền sở hữu đối với những đồ vật được tòa án Pháp công nhận (có giá trị 16.5 triệu dollar Mỹ vào thời điểm ấy) và tiếp tục là bên xin sở hữu (salvor-in-possession) xác tàu Titanic. Tòa phúc thẩm đưa vụ này sang Tòa địa phương để phán quyết quyền khai thác (225 triệu dollar theo yêu cầu của RMS Titanic Inc.).
Tình trạng hiện tại của xác tàu
Nhiều nha khoa học, trong đó có Robert Ballard, lo ngại rằng những lần viếng thăm của những người khách du lịch trong tàu lặn và việc tìm kiếm những đồ vật còn sót lại bên trong đang làm tình trạng hư hại của xác tàu trở nên nghiêm trọng hơn. Những vi khuẩn dưới nước đã liên tục ăn mòn vỏ thép của Titanic từ khi chiếc tàu đắm, nhưng vì những hư hại xảy ra sau này với những chiếc tàu lặn du lịch, Cơ quan Quản lý Hải dương và Khí quyển đã ước tính rằng "vỏ và cấu trúc tàu có thể sụp đổ xuống đáy biển trong vòng 50 năm tới." Nhiều nhà khoa học và nhà bảo tồn cũng phàn nàn về việc một đoàn thám hiểm Pháp đã lấy đi tháp canh trên cột buồm tàu.
Cuốn sách Quay trở lại Titanic của Ballard, được Hội Địa lý Quốc gia Hoa Kỳ xuất bản có chứa nhiều bức hình cho thấy tình trạng xuống cấp của boong đi dạo và sự hư hại được cho là bởi những tàu lặn du lịch gây ra khi đỗ xuống; tuy nhiên, Ballard là người đầu tiên đưa một camera vào bên trong xác tàu, và cũng là người đầu tiên nhiều lần liên tục đi vào bên trong xác tàu bằng tàu lặn. Cột buồm hầu như đã hư hại hoàn toàn và Ballard đã nhiều lần đưa ra lời cáo buộc rằng chiếc chuông và đèn bằng đồng trên đó đã bị những kẻ hôi đồ lấy đi, dù trên chính những bức hình do ông ta chụp đều cho thấy chiếc chuông không bao giờ có mặt trên cột buồm -nó đã được phát hiện trên đáy biển. Thậm chí tấm biển ghi nhớ do Ballard để lại sau chuyến khảo sát lần thứ hai của ông ta cũng được cho là đã bị lấy đi; Ballard đã thay tấm biển này năm 2004. Những cuộc khảo sát gần đây, đáng chú ý nhất là của James Cameron, đã lặn xuống xác tàu để tìm hiểu kỹ về địa điểm và khám phá những phần chưa từng được xem xét của chiếc tàu trước khi Titanic bị phá hủy hoàn toàn.
Văn hóa đại chúng
Vụ đắm tàu Titanic đã trở thành chủ đề của nhiều cuốn tiểu thuyết mô tả những sự kiện hư cấu xảy ra trên boong tàu, như Titanic: The Long Night của Diane Hoh. Nhiều cuốn sách tham khảo khác về thảm họa này cũng đã được xuất bản từ khi Titanic đắm, những cuốn đầu tiên xuất hiện chỉ sau vài tháng. Một số người sống sót như thủy thủ Lightoller và hành khách Jack Thayer đã viết những cuốn sách kể lại kinh nghiệm của mình. Một số người khác, như Walter Lord, người viết A Night to Remember, đã tiến hành những nghiên cứu và phỏng vấn riêng của mình về những sự kiện đã xảy ra trên tàu.
Titanic đã là đề tài và bối cảnh của rất nhiều bộ phim nhựa và phim truyền hình. Nổi tiếng nhất trong số đó là:
Saved from the Titanic (1912)
In Nacht und Eis (1912)
Atlantic (1929)
Titanic (1943)
Titanic (1953)
A Night to Remember (1958)
S.O.S. Titanic, TV movie (1979)
Raise the Titanic! (1980)
Titanic, TV mini-series (1996)
Titanic (1997)
Bộ phim được xem nhiều nhất là bộ phim năm 1997 Titanic, đạo diễn bởi James Cameron với hai vai diễn chính của Leonardo DiCaprio và Kate Winslet. Nó là một trong những bộ phim có lãi cao nhất trong lịch sử, đồng thời đã giành 11 trên 14 Giải Oscar, ngang ngửa với bộ phim huyền thoại Ben-Hur (1959) và sau đó là Chúa tể của những chiếc nhẫn: Sự trở về của Đức vua (2003) với số giải lớn nhất.
Câu chuyện cũng đã được đưa vào vở nhạc kịch, Titanic của Broadway, kịch bản Peter Stone với âm nhạc bởi Maury Yeston. Titanic được trình chiếu từ năm 1998 tới 2000. Vở nhạc kịch Broadway năm 1960 The Unsinkable Molly Brown nói về cuộc đời của người hành khách thoát nạn Margaret Brown, trong đó có một phần các sự kiện trên Titanic. Richard Morris viết kịch bản với nhạc của Meredith Willson. Phiên bản điện ảnh của tác phẩm này được phát hảnh năm 1964.
Một số loại hình giải trí khác bao gồm Titanic: Adventure Out of Time, một trò chơi trên máy tính lấy bối cảnh Titanic. Starship Titanic là một trò chơi khác diễn ra tại vũ trụ Hitchhiker's Guide to the Galaxy và là một sự nhái lại thảm họa Titanic. Nhiều xâu diễn truyền hình tại các nước phương Tây cũng đã đề cập đến thảm họa Titanic. Trong một số bộ phim như Time Bandits, Cavalcade và Ghostbusters II, Titanic có xuất hiện dù ngắn ngủi.
Trong một vở kịch truyền hình mang tên Upstairs, Downstairs, nhân vật Lady Marjorie Bellamy và người may đồ của cô, Maude Roberts, đã là những hành khách trên tàu Titanic khi nó chìm. Roberts đã được đưa lên một thuyền cứu sinh trong khi Lady Marjorie đã chìm cùng con tàu.
Titanic cũng đã trở thành chủ đề cho các nhạc phẩm, nổi tiếng nhất trong số đó có lẽ là The Sinking of the Titanic (1969), một tác phẩm của nhà soạn nhạc Gavin Bryars. Bản ghi đầu tiên của nhạc phẩm này xuất hiện trong Obscure Records của Brian Eno'''s vào năm 1975. Một bản thu âm khác vào năm 1994 được phối khí bởi Aphex Twin thành Raising the Titanic (sau đó được đưa vào album 26 Mixes for Cash).
Năm 1982, nhà soạn nhạc và ca sĩ nổi tiếng Francesco De Gregori xuất bản album Titanic, với ba nhạc phẩm (Titanic, I muscoli del capitano and L'abbigliamento di un fuochista) nói về con tàu cũng như thủy thủ đoàn.
Đấu giá
Năm 2015, bức ảnh chụp tảng băng được cho là tàu Titanic đã đâm phải và chìm được bán với giá 21.000 bảng Anh (32.000 USD) tại phiên đấu giá các vật kỷ niệm liên quan tới vụ đắm tàu Titanic của Hãng Henry Aldridge & Son ở Devizes, Wiltshire (Anh). Bức ảnh này do trưởng bộ phận tiếp tân Prinz Adalbert đi trên một con tàu khác ngang qua khu vực tàu Titanic bị nạn chụp ngày 16-4-1912, tác giả vào thời điểm chụp đã không hề biết về thảm kịch vừa xảy ra trước đó.
Một hiện vật khác là chiếc bánh quy có dòng chữ "Spillers and Bakers Pilot" do một hành khách tên là James Fenwick đi trên tàu Carpathia (con tàu tới ứng cứu tàu Titanic khi gặp nạn) giữ lại. James Fenwick có được chiếc bánh quy này từ một trong những chiếc xuồng cứu hộ và để nó trong một chiếc phong bì, dán lại cùng dòng chữ bên ngoài: "Bánh quy Pilot từ xuồng cứu hộ tàu Titanic tháng 4-1912". Chiếc bánh quy sau này đã bán cho một nhà sưu tập ở Hi Lạp với giá 15.000 bảng Anh (23.000 USD).
Thư viện ảnh
Chú giải
a. Thời gian đưa ra là thời gian của tàu, tức giờ địa phương cho vị trí của tàu Titanic trên Đại Tây Dương. Trong đêm đắm, nó đang ở khoảng một tiếng rưỡi trước EST và hai giờ sau GMT.
b. Cuốn Titanic của Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ và Leo Marriott xác định nó là tàu Olympic, cuốn Khám phá Titanic của Robert Ballard và cuốn Không thể chìm: Câu chuyện đầy đủ về RMS Titanic của Daniel Allen Butler xác định đó là Titanic.
Xem thêm
Danh sách các xác tàu
Danh sách hành khách trên tàu Titanic
Danh sách thủy thủ trên tàu Titanic
Danh sách các vụ tai nạn đường sắt và tàu thủy
SS Nomadic
RMS Carpathia
Những con tàu chị em của Titanic HMHS Britannic
RMS Olympic
Violet Jessop
Tổ chức Hàng hải Quốc tế
Ghi chú
Tham khảo
Beesley, Lawrence, The Loss of the SS Titanic: Its Story and Its Lessons, by One of the Survivors (June, 1912)
Brander, Roy. The RMS Titanic and its Times: When Accountants Ruled the Waves. Elias P. Kline Memorial Lecture, October 1998 http://www.cuug.ab.ca/~branderr/risk_essay/Kline_lecture.html
Butler, Daniel Allen. Unsinkable: The Full Story of RMS Titanic. Stackpole Books, 1998, 292 pages
Collins, L. M. The Sinking of the Titanic: The Mystery Solved Souvenir Press, 2003 ISBN 0-285-63711-8
Eaton, John P. and Haas, Charles A. Titanic: Triumph and Tragedy (2nd ed.). W.W. Norton & Company, 1995 ISBN 0-393-03697-9
Eaton, John P. and Haas, Charles A. Falling Star: The Misadventures of White Star Line Ships, c. 1990 W.W. Norton & Company, 1990 ISBN 0-3930-2873-7
Gardener, R & van der Vat, D The Riddle of the Titanic Orion 1995
Kentley, Eric. Discover the Titanic Ed. Claire Bampton and Sue Leonard. 1st ed. New York: DK, Inc., 1997. 22. ISBN 0-7894-2020-1
Lord, Walter (1997). A Night to Remember Introduction by Nathaniel Philbrick. Bantam. ISBN 0-553-27827-4
Lynch, Donald and Marschall, Ken. Titanic: An Illustrated History Hyperion, 1995 ISBN 1-56282-918-1
Lynch, Donald and Marschall, Ken. Ghosts of the Abyss: A Journey into the Heart of The Titanic. A Hodder & Stoughton and Madison Press Books. 2003. ISBN 0-340-73416-7
McCarty, Jennifer Hooper and Tim Foecke. (2008). What Really Sank the Titanic: New Forensic Discoveries. New York: Citadel Press. 10-ISBN 0-8065-2895-8; 13-ISBN 978-0-8065-2895-3 (cloth)
O'Donnell, E. E. Father Browne's Titanic Album Wolfhound Press, 1997. ISBN 0-86327-758-6
Quinn, Paul J. Titanic at Two A.M.: An Illustrated Narrative with Survivor Accounts. Fantail, 1997 ISBN 0-9655209-3-5
Wade, Wyn Craig, The Titanic: End of a Dream Penguin Books, 1986 ISBN 0-14-016691-2
US Coast Guard. International Ice Patrol History. Page viewed May 2006. History of the IIP
Beveridge, Bruce. Olympic & Titanic: The Truth Behind the Conspiracy
Chirnside, Mark. The Olympic-Class Ships
Layton, J. Kent. Atlantic Liners: A Trio of Trios
Ballard, Robert B. Lost Liners
Pellegrino, Charles R. Her Name, Titanic Avon, 1990 ISBN 0-380-70892-2 |
Nürnberg, còn có tên tiếng Anh là Nuremberg, là một thành phố lớn của Đức, nằm trong vùng phía Bắc của bang Bayern. Với dân số 510.632 người (thời điểm 31.12.2021), đây là trung tâm kinh tế và văn hóa của vùng Franken, lớn thứ hai tiểu bang Bayern. Cùng với các thành phố lân cận Fürth, Erlangen, và Schwabach, Nürnberg tạo thành một khu kỹ nghệ (Ballungsgebiet) với 1,3 triệu dân. Tháng 4 năm 2005, Nürnberg và vùng phụ cận đã trở thành Vùng đô thị Nürnberg với dân số là 3,5 triệu người có diện tích là 21.300 km vuông, được ghi vào danh sách của các vùng đô thị Đức.
Lịch sử
Từ năm 1050-1571, do có vị trí trên các tuyến thương mại chủ chốt, thành phố mở rộng và tăng đáng kể tầm quan trọng. Nürnberg thường được xem là "thủ đô không chính thức" của Đế quốc La Mã Thần thánh, đặc biệt bởi vì Reichstage (nghị viện) và các tòa án thường nhóm họp tại lâu đài Nürnberg. Nghị viện của Nürnberg đã là một phần quan trọng trong cơ cấu hành chính của đế quốc. Năm 1219, Nürnberg trở thành một thành phố tự do dưới thời Hoàng đế Frederick II. Nürnberg cùng Augsburg nhanh chóng trở thành một trong hai trung tâm thương mại lớn trên tuyến đường từ Ý đến Bắc Âu.
Trong năm 1298, người Do thái của thị xã bị buộc tội báng bổ chủ nhà và 698 người đã bị giết trong một trong rất nhiều thảm sát Rintfleisch. Đằng sau vụ thảm sát trong năm 1298 cũng là mong muốn kết hợp các phần phía bắc và phía nam của thành phố, được chia bởi sông Pegnitz. Người Do Thái đã được cho định cư trong khu vực hay bị ngập lũ, nhưng khi lãnh đạo thành phố thực hiện, trung tâm thị trấn này đã có tầm rất quan trọng để phát triển trong tương lai. Do đó, những người Do thái đã được di dời đi. Khu vực này hiện là chợ thành phố, nhà thờ Frauenkirche và Rathaus (toà thị chính). |
Kim cương có thể là:
Khoáng vật
Kim cương, một dạng vật chất carbon tinh thể, được biết đến như là một trong những dạng vật chất rắn cứng nhất có trong tự nhiên, thường được dùng trong khoa học và trang sức.
Thực vật
Một tên gọi khác của loài Lan kim tuyến, một loài thực vật thuộc họ Phong lan.
Địa danh
Núi Kim Cương tại miền Bắc Triều Tiên.
Phật giáo
Kim Cương (hay Kim Cang) là một khái niệm có thể mang nhiều nghĩa trong Phật giáo:
Kim cương thừa (zh. 金剛乘, sa. vajrayāna) là tên gọi một trường phái Phật giáo xuất hiện trong khoảng thế kỉ thứ 5, 6 tại Bắc Ấn Độ.
Kim cương kinh là sự gọi tắt của bộ Kim cương Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh (zh. 金剛般若波羅密多經, sa. vajracchedikā-prajñāpāramitā-sūtra), một bộ kinh quan trọng thuộc hệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh, được lưu truyền rộng rãi vùng Đông Á. Kinh còn mang những tên ngắn khác là Kim cương kinh, Kim cương bát-nhã kinh.
Bất Không Kim Cương (zh. 不空金剛 bùkōng jīngāng, ja. fukū kongō, sa. amoghavajra), cũng được gọi ngắn là Bất Không (sa. amogha), còn mang hiệu là Trí Tạng (zh. 智藏), 705-774, là một Đại sư của Mật tông và cũng là một trong bốn dịch giả danh tiếng nhất của Thánh điển Phật giáo tại Trung Quốc – song song với Cưu-ma-la-thập, Chân Đế và Huyền Trang. Sư được xem là vị Tổ thứ sáu của Mật giáo tại đây.
Tượng tám vị Kim cương (Bát bộ Kim Cương) trong chùa.
Tên người
Nghệ sĩ kịch nói Kim Cương
Siêu mẫu Võ Kim Cương |
Trong các ngành tin học và viễn thông, tầng vận chuyển là tầng thứ tư trong bảy tầng của mô hình OSI. Tầng này chịu trách nhiệm đáp ứng các đòi hỏi về dịch vụ của tầng phiên và đưa ra các yêu cầu dịch vụ đối với tầng mạng (Network Layer).
Tầng vận chuyển cung cấp dịch vụ xuyên dụng chuyển dữ liệu giữa các máy chủ (hosts). Tầng này chịu trách nhiệm sửa lỗi (error recovery), điều khiển lưu lượng dữ liệu, đảm bảo dữ liệu được chuyển tải một cách trọn vẹn. Trong Bộ giao thức liên mạng - TCP/IP, chức năng này thường được thực hiện bởi giao thức định hướng kết nối TCP.
Giao vận kiểu datagram, UDP - Giao thức Datagram Người dùng, không cung cấp dịch vụ sửa lỗi hay điều khiển lưu lượng dữ liệu mà dành nhiệm vụ này cho phần mềm ứng dụng. Mục đích của tầng giao vận là cung cấp dịch vụ xuyên dụng chuyển dữ liệu giữa các người dùng đầu cuối, nhờ đó các tầng trên không phải quan tâm đến việc cung cấp dịch vụ truyền dữ liệu đáng tin cậy và hiệu quả.
Tầng giao vận thường biến dịch vụ đơn giản, có độ tin cậy thấp của tầng mạng thành một dịch vụ mạnh hơn. Có một danh sách dài liệt kê những dịch vụ có thể được cung cấp bởi tầng này. Không có một dịch vụ nào trong đó là bắt buộc cả, bởi vì không phải chương trình ứng dụng nào cũng yêu cầu tất cả những dịch vụ hiện có. Một số dịch vụ làm lãng phí chi phí phụ, hoặc trong vài trường hợp còn gây phản tác dụng.
Định hướng kết nối (Connection-Oriented) Dịch vụ này thường dễ dùng hơn là các mô hình phi kết nối (connection-less model), vì thế cho nên ở những nơi mà tầng mạng chỉ cung cấp dịch vụ phi kết nối, thường có dịch vụ hướng kết nối được xây dựng chồng lên trên nó, tại tầng giao vận.
Phân phát theo trật tự đã gửi (Same Order Delivery) Tầng mạng thường không đảm bảo các gói dữ liệu đến theo trật tự mà nó được gửi, song đặc tính này lại là một đặc tính có ưu điểm, nhưng thông thường đây lại là một đặc tính được trọng dụng, vì vậy cho nên tầng giao vận phải đảm bảo việc này. Cách đơn giản nhất là gắn cho mỗi gói dữ liệu một con số, để cho thiết bị nhận sắp xếp lại trật tự của các gói dữ liệu.
Dữ liệu đáng tin cậy (Reliable Data) Mạng truyền thông nền tảng có thể có độ nhiễu cao, và dữ liệu nhận được không phải bao giờ cũng giống như dữ liệu đã được gửi. Tầng giao vận có thể sửa lỗi này: thường là bằng cách cung cấp một giá trị tổng kiểm của dữ liệu, giá trị đó phát hiện một số dạng sai sót nhỏ. Đương nhiên, truyền thông tín hiệu hoàn toàn không có lỗi là một việc không khả thi, song giảm đáng kể số lỗi không được phát hiện là một việc có thể thực hiện được. Tầng giao vận còn có thể truyền lại những gói dữ liệu bị thất lạc trên đường truyền.
Điều khiển lưu lượng (Flow Control) Lượng bộ nhớ trong máy tính chỉ có hạn. Nếu không điều khiển lưu lượng dữ liệu, thì một máy tính lớn có thể làm ngập một máy khác với lượng thông tin quá lớn làm máy tính đó không kịp xử lý dữ liệu. Hiện tại, vấn đề này không phải là một vấn đề lớn, vì giá của bộ nhớ rẻ, trong khi giá của băng thông (bandwidth) lại đắt, song trước đây, vấn đề này đã là một vấn đề quan trọng. Việc điều khiển lưu lượng cho phép thiết bị nhận dữ liệu nói "Khoan nào!" trước khi nó bị tràn. Đôi khi chức năng này đã được mạng nền tảng cung cấp, song tầng giao vận có thể gắn thêm chức năng này nếu chưa có.
Định hướng byte (Byte Orientation) Thay vì giải quyết các vấn đề theo từng gói dữ liệu, tầng giao vận có thể bổ sung khả năng nhìn dữ liệu truyền thông như là một dòng các byte (ký tự). Cách này dễ giải quyết hơn là khi các gói dữ liệu có kích thước ngẫu nhiên, song nó ít khi khớp với mô hình truyền thông mà thông thường sẽ là một dãy các thông điệp có kích thước do người dùng xác định.
Cổng (Port) Về căn bản, cổng là phương pháp đánh địa chỉ các thực thể khác nhau tại cùng một địa điểm. Ví dụ, dòng đầu tiên trên một địa chỉ gửi thư có thể hiểu là một dạng cổng, nó phân biệt giữa các cư dân khác nhau trong cùng một ngôi nhà. Các chương trình ứng dụng lắng nghe thông tin trên các cổng riêng của nó, và chính vì vậy mà chúng ta có thể dùng nhiều chương trình ứng dụng mạng trong cùng một lúc.
Trên Internet có rất nhiều dịch vụ của tầng giao vận, song hai dịch vụ thường dùng nhất là TCP và UDP. TCP phức tạp hơn, nó cung cấp kết nối và dòng định hướng byte, dòng này hầu như không có lỗi, với các dịch vụ điều khiển lưu lượng dữ liệu, nhiều cổng, và phân phát dữ liệu đúng trật tự. UDP là một dịch vụ datagram đơn giản, nó cung cấp khả năng giảm lỗi hạn chế (limited error reduction) và có nhiều cổng. TCP là chữ viết tắt của thuật ngữ tiếng Anh "Transmission Control Protocol" - tạm dịch là "Giao thức điều khiển truyền vận". UDP là chữ viết tắt của thuật ngữ tiếng Anh "User Datagram Protocol" - tạm dịch là "Giao thức datagram người dùng". Các lựa chọn khác bao gồm Giao thức kiểm soát tắc nghẽn gói dữ liệu (Datagram Congestion Control Protocol - DCCP) và Giao thức truyền vận điều khiển dòng (Stream Control Transmission Protocol - SCTP).
Một vài dịch vụ, chẳng hạn như định hướng kết nối (connection orientation) có thể được cài đặt tại tầng giao vận hay tầng mạng. Tư tưởng là tầng mạng cài đặt một tập các lựa chọn nào dễ nhất: đối với một số mạng truyền thông, cài đặt truyền thông phi kết nối là việc dễ dàng nhất, trong khi đối với các mạng khác, việc cài đặt truyền thông hướng kết nối lại dễ hơn cả. Tầng giao vận sử dụng nhóm các lựa chọn đơn giản nhất này để cài đặt bất cứ tổ hợp của các lựa chọn nào mà trong thực tế được mong muốn.
Ví dụ
AEP, AppleTalk Echo Protocol
ATP, AppleTalk Transaction Protocol
CUDP, Cyclic UDP
DCCP, Datagram Congestion Control Protocol
FCP, Fiber Channel Protocol
FCIP, Fiber Channel over TCP/IP
IL, IL Protocol
iSCSI, Internet Small Computer System Interface
NBP, Name Binding Protocol
NetBEUI, NetBIOS Extended User Interface
SPX, Sequenced Packet Exchange
RTMP, Routing Table Maintenance Protocol
SCTP, Stream Control Transmission Protocol
SCSI, Small Computer System Interface
SSL, Secure Socket Layer
TCP, Transmission Control Protocol
TLS, Transport Layer Security
UDP, User Datagram Protocol |
You're My Best Friend là một bài hát có tình cảm mãnh liệt, tiết tấu gấp gáp, do John Deacon sáng tác và được ban nhạc Queen biểu diễn. Bài hát ban đầu có trong album A Night At The Opera năm 1975 và sau đó đã được phát hành như một đĩa đơn. Bài hát này cũng có trong album Greatest Hits làm năm 1981.
Bài hát được sáng tác cho Veronica, vợ của John Deacon. Trong bài hát này, John Deacon chơi một chiếc đàn piano điện tử Wurlitzer và sử dụng âm bass của chiếc đàn này. Âm thanh 'bark' của tiếng bass trong đàn Wurlitzer chính là điều dễ nhận thấy nhất trong cả bài hát.
John Deacon: Ồ, Freddie không thích chiếc đàn piano điện tử, nên tôi mang nó về nhà và bắt đầu học cách chơi đàn và về cơ bản thì bài hát đã hình thành khi tôi đang học chơi piano. Bài hát đã được viết cho nhạc cụ đó và nghe khá hay với nó. Bạn biết không, phần lớn các bài hát được viết cho loại nhạc cụ đó
Freddie Mercury: Tôi từ chối chơi những thứ đó [the Wurlitzer]. Nó rất nhỏ và khó chịu và tôi không thích chúng. Tại sao phải chơi những thứ này khi bạn có một chiếc đại dương cầm yêu thích ? Tôi nghĩ, cơ bản là anh ấy muốn tạo hiệu quả như mình [John] mong muốn
Trong văn hoá đại chúng
Vào năm 2004, bài hát đã xuất hiện trong phim Shaun of the Dead. Bài hát cũng có trong những khoảnh khắc cuối cùng của Will & Grace năm 2006, và có cả trong phim The Break-Up. |
Tầng mạng (tiếng Anh: network layer) là tầng thứ ba trong bảy tầng của mô hình OSI. Tầng này chịu trách nhiệm đáp ứng các yêu cầu dịch vụ từ tầng giao vận và đưa ra những yêu cầu dịch vụ đối với tầng liên kết dữ liệu.
Tầng mạng đánh địa chỉ cho các thông điệp và dịch các địa chỉ lôgic và tên sang địa chỉ vật lý. Tầng này còn quyết định tuyến truyền thông từ nguồn đến đích, đồng thời quản lý những vấn đề về giao thông, chẳng hạn như chuyển mạch, định tuyến (routing), và khống chế sự tắc nghẽn của các gói dữ liệu.
Về căn bản, tầng mạng chịu trách nhiệm phân phát các gói dữ liệu từ đầu này sang đầu kia (end-to-end, từ nguồn đến đích), trong khi tầng liên kết dữ liệu lại chịu trách nhiệm phân phát gói dữ liệu từ nút này sang nút khác (hop-to-hop, giữa hai nút mạng trung gian có đường liên kết (link) trực tiếp).
Tầng mạng cung cấp các phương tiện có tính chức năng và quy trình để truyền các chuỗi dữ liệu có độ dài đa dạng từ nguồn tới đích, qua một hay nhiều mạng máy tính, trong khi vẫn duy trì chất lượng dịch vụ (quality of service) đòi hỏi bởi tầng giao vận. Tầng mạng thi hành chức năng định tuyến, điều khiển lưu lượng dữ liệu, phân đoạn và hợp đoạn mạng (network segmentation/desegmentation), và kiểm soát lỗi (error control).
Tầng mạng xử lý việc truyền thông dữ liệu trên cả đoạn đường từ nguồn đến đích, và đồng thời truyền bất cứ tin tức gì, từ bất cứ nguồn nào tới bất cứ đích nào mà chúng ta cần. Nếu ở tầng mạng mà chúng ta không liên lạc được với một địa điểm nào đấy, thì chúng ta chẳng còn cách nào để có thể liên lạc được với nó. Sau đây là một số những điểm mà tầng mạng cần quan tâm:
Mạng có tính chất định hướng kết nối (connection-oriented) hay phi kết nối (connectionless)
Ví dụ, thư thường (snail mail) có tính phi kết nối, bởi vì chúng ta có thể gửi một bức thư cho ai đó mà không cần người đó phải làm gì, và họ sẽ nhận được bức thư. Trong khi đó, hệ thống điện thoại lại định hướng kết nối, vì nó đòi hỏi người ở đầu bên kia nhấc máy điện thoại lên, trước khi sự truyền tin được thiết lập. Giao thức tầng mạng của mô hình OSI có thể định hướng kết nối hoặc phi kết nối. Tầng liên mạng của TCP/IP (tương đương với tầng mạng OSI) chỉ hỗ trợ giao thức liên mạng phi kết nối.
Địa chỉ toàn cầu (Global Addresses) là gì
Mỗi người trên mạng truyền thông cần có một địa chỉ duy nhất. Địa chỉ này xác định người đó là ai. Địa chỉ này thường có cấu trúc phả hệ, vì thế bạn có thể là "Nguyễn Văn An" đối với người thành phố Huế, hoặc "Nguyễn Văn An, Huế" đối với người ở Việt Nam, hoặc "Nguyễn Văn An, Huế, Việt Nam" với mọi người trên toàn thế giới. Trong mạng Internet, những địa chỉ này được gọi là số IP.
Chuyển tiếp một thông điệp
Đây là một vấn đề liên quan nhiều đến những ứng dụng di động, vì trong những ứng dụng này, người dùng có thể nhanh chóng di chuyển từ nơi này sang nơi khác, và chúng ta phải bố trí sao cho thông điệp của người ấy đi theo họ. Phiên bản 4 của giao thức IP (IPv4) - không thực sự hỗ trợ việc này, cho dù nó cũng đã được người ta sửa đổi (hack) ít nhiều kể từ khi nó bắt đầu đi vào hoạt động. Phiên bản 6 sắp tới, IPv6, có một giải pháp được thiết kế tốt hơn, điều đó có thể làm cho loại ứng dụng này hoạt động suôn sẻ hơn.
Trong hệ thống bưu điện truyền thống, hay còn được gọi là thư thường, nhiệm vụ này do người đưa thư đảm nhiệm (tới một mức độ nào đấy).
Ví dụ
IP/IPv6, Internet Protocol
DVMRP, Distance Vector Multicast Routing Protocol
ICMP, Internet Control Message Protocol
IGMP, Internet Group Multicast Protocol
PIM-SM, Protocol Independent Multicast Sparse Mode
PIM-DM, Protocol Independent Multicast Dense Mode
SLIP, Serial Line IP
IPSec, Internet Protocol Security
IPX, Internetwork Packet Exchange
RIP, Routing Information Protocol
NLSP, NetWare Link State Protocol
X.25, Packet Level Protocol
X.75, Packet Switched Signaling Between Public Networks
DDP, Datagram Delivery Protocol
Bộ giao thức ISO (ISO protocol suite)
DECnet (Giao thức mạng truyền thông của công ty Digital Equipment Corporation, Mỹ.) |
Đánh bạc (hay cờ bạc, bài bạc, trò đỏ đen, kiếp đỏ đen) là trò chơi rủi ro lấy tiền hay một vật có giá trị ra để đánh cược. Đánh bạc cũng có thể được hiểu là việc chấp nhận được thua bằng tiền hay bằng một vật có giá trị dựa vào kết quả chưa rõ ràng của một sự kiện với một mục đích có thêm tiền bạc hoặc giá trị vật chất. Do vậy đánh bạc dựa trên 3 yếu tố: sự tính toán, cơ hội và phần thưởng. Thông thường, các kết quả hay biến cố nói trên sẽ được biết rõ ràng trong thời gian ngắn, chẳng hạn như việc lắc xúc xắc hoặc quay bi trên bàn roulette; tuy vậy các biến cố xa hơn cũng được sử dụng, như đánh bạc cho kết quả của cả một mùa giải thể thao (vd: cá độ bóng đá).
Hoạt động đánh bạc là một phần quan trọng trong thương mại quốc tế. Vào năm 2009, thị trường đánh bạc hợp pháp được ước tính có tổng giá trị lên đến 335 tỷ đô la. Đánh bạc không chỉ dùng tiền mà còn có thể sử dụng những vật phẩm có giá trị khác. Ví dụ, trong trò chơi Đánh bi, người chơi có thể đặt cược bằng những viên bi. Tương tự, trong các trò chơi như "Pogs" hoặc "Magic: The Gathering", người chơi có thể sử dụng những đĩa nhỏ hoặc thẻ giao dịch làm tiền cược.
Thuật ngữ
Thuật ngữ "gaming" trong ngữ cảnh này thường ám chỉ đến các trường hợp hoạt động đã được phê duyệt cụ thể bởi pháp luật. Hai từ này không hoàn toàn trái ngược nhau; tức là một công ty "gaming" cung cấp các hoạt động "gambling" (cờ bạc) hợp pháp cho công chúng và có thể được điều chỉnh bởi một trong nhiều "gaming control board" (Ủy ban kiểm soát trò chơi), ví dụ như "Nevada Gaming Control Board" (Ủy ban kiểm soát trò chơi Nevada). Tuy nhiên, phân biệt này không được quan sát phổ biến trong thế giới nói tiếng Anh. Ví dụ, ở Vương quốc Anh, cơ quan quản lý hoạt động cờ bạc được gọi là "Gambling Commission" (Ủy ban cờ bạc), chứ không phải "Gaming Commission" (Ủy ban trò chơi). Từ "gaming" được sử dụng phổ biến hơn kể từ sự gia tăng của trò chơi máy tính và trò chơi điện tử để mô tả các hoạt động không nhất thiết liên quan đến đánh cược, đặc biệt là trò chơi trực tuyến, tuy vẫn chưa thể thay thế hoàn toàn định nghĩa cũ là định nghĩa chính trong từ điển thông thường. "Gaming" cũng đã được sử dụng để né tránh luật pháp về "gambling". Truyền thông và những người khác đã sử dụng một thuật ngữ hoặc một thuật ngữ khác để đặt nền tảng cho cuộc trò chuyện về các chủ đề này, dẫn đến sự thay đổi nhận thức trong công chúng.
Lịch sử
Cờ bạc xuất hiện từ thời kỳ đồ đá cũ, khi lịch sử vẫn chưa được viết lại. Ở vùng đất Mesopotamia, người ta sử dụng xúc xắc sáu mặt sớm nhất, khoảng 3000 năm trước Công nguyên. Tuy nhiên, chúng được làm từ astragali, các hạt xương đã tồn tại hàng ngàn năm trước đó. Ở Trung Quốc, người ta đã rất phổ biến việc đánh bạc từ thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên, và cược vào những trận đấu giữa các con vật đã trở nên phổ biến. Trò chơi xổ số và domino (nguồn gốc của Pai Gow) đã xuất hiện ở Trung Quốc vào đầu thế kỷ thứ 10.
Bài bài xuất hiện vào thế kỷ thứ 9 ở Trung Quốc. Có hồi ký ghi lại việc đánh bạc ở Nhật Bản ít nhất từ thế kỷ thứ 14.
Trò chơi bài Poker, một trò chơi đánh bạc nổi tiếng ở Hoa Kỳ, xuất phát từ trò chơi Ba Tây có tên là As-Nas ở Ba Tư, đã tồn tại từ thế kỷ 17.
Casino đầu tiên được biết đến là Ridotto, và nó bắt đầu hoạt động từ năm 1638 tại thành phố Venice, Ý.
Vương quốc Anh
Trải qua nhiều thế kỷ, đánh bạc đã trở thành một hoạt động giải trí chính phổ biến ở Vương quốc Anh. Nữ hoàng Elizabeth I phê chuẩn tổ chức một cuộc xổ số vào năm 1569. Đua ngựa đã trở thành một chủ đề ưa thích trong hơn ba thế kỷ. Hoạt động này đã được quy định chặt chẽ. Lịch sử cho thấy rằng phần lớn sự phản đối đến từ các tín đồ không tuân theo (Nonconformist Protestants) và các nhà cải cách xã hội.
Hoa Kỳ
Đánh bạc đã trở thành một hoạt động phổ biến ở Hoa Kỳ trong nhiều thế kỷ. Tuy nhiên, trong suốt thời gian đó, luật pháp đã hạn chế đánh bạc ở nhiều khu vực. Vào đầu thế kỷ 20, đánh bạc gần như bị cấm hoàn toàn trên toàn bộ Hoa Kỳ và trở thành một hoạt động không hợp pháp, điều này đã làm tăng sự phát triển của mafia Mỹ và các tổ chức tội phạm khác. Ở cuối thế kỷ 20, thái độ của công chúng đối với đánh bạc đã thay đổi và các luật pháp chống đánh bạc cũng đã được nới lỏng.
Pháp lý
Nhiều địa phương cũng như quốc gia, hoặc cấm cờ bạc hoặc kiểm soát nó chặt chẽ bằng cách cấp phép. Các quy định như vậy thường dẫn đến du lịch cờ bạc và cờ bạc bất hợp pháp trong các quốc gia mà nó không được cho phép. Sự tham gia của các chính phủ, thông qua các quy định và thuế, đã dẫn đến một kết nối chặt chẽ giữa các chính phủ và các tổ chức trò chơi, nơi cờ bạc hợp pháp cung cấp doanh thu chủ yếu cho ngân sách, chẳng hạn như tại các vùng lãnh thổ Monaco hoặc Macao.
Có luật yêu cầu rằng tỷ lệ cược trong các thiết bị chơi game là ngẫu nhiên theo thống kê, để ngăn chặn việc cản trở một số kết quả trả tiền thưởng cao. Vì các kết quả thưởng phạt cao có xác suất rất thấp, sự thiên vị cho nhà cái dễ dàng bị bỏ qua trừ khi tỷ lệ cược được kiểm tra một cách cẩn thận.
Hầu hết các khu vực pháp lý mà cho phép đánh bạc đòi hỏi người tham gia phải trên một độ tuổi nhất định. Trong một số khu vực pháp lý, tuổi cờ bạc khác nhau tùy thuộc vào loại cờ bạc. Ví dụ, ở nhiều bang của Mỹ, người chơi phải trên 21 tuổi mới được vào sòng bạc, nhưng có thể mua một vé xổ số khi đến tuổi 18.
Thu hồi tài sản
Theo Thông luật, chủ yếu là hệ thống pháp luật Anh, một hợp đồng đánh bạc có thể không cung cấp cho một casino quyền được mua, cho phép thu hồi vốn bị đánh cắp trong một số tình huống. Trong vụ kiện Lipkin Gorman v Karpnale Ltd, có một luật sư đã sử dụng tiền bị đánh cắp để đánh bạc tại một sòng bạc, Thượng Nghị viện Vương quốc Anh bác bỏ phán quyết trước đây của Tòa án thượng thẩm, bắt các sòng bạc trả lại tiền bị đánh cắp cho người bị mất tiền. Tiền lệ của Luật Hoa Kỳ có phần tương tự.
Tôn giáo
Quan điểm tôn giáo về cờ bạc khác biệt khá nhiều. Các bài thơ Hindu cổ xưa như Lament của Gambler và Mahabharata làm chứng cho sự phổ biến của cờ bạc trong xã hội Ấn Độ cổ đại. Tuy nhiên, các văn bản Arthashastra (khoảng thế kỷ 4 TCN) khuyến cáo đánh thuế và kiểm soát cờ bạc. Chính quyền Do Thái cổ đại phản đối cờ bạc, thậm chí con bạc chuyên nghiệp được cho là không đủ điều kiện làm chứng tại tòa án.
Giáo hội Công giáo cho rằng không có trở ngại về đạo đức đối với đánh bạc, miễn là đánh bạc công bằng, tất cả người chơi đều có một cơ hội hợp lý để thắng bạc và không có gian lận liên quan, các bên liên quan không biết trước kết quả đặt cược (trừ khi họ đã tiết lộ thông tin này). Cờ bạc đã thường được xem như là tệ nạn xã hội, với các hậu quả được ghi chép trong các tác phẩm châm biếm của Balzac. Vì những lý do xã hội và tôn giáo, pháp lý của hầu hết các nước hạn chế cờ bạc, và Pascal cũng chủ trương như vậy miễn là các điều kiện sau đây được đáp ứng; các con bạc có thể đủ khả năng chấp nhận thua cược, dừng lại khi đã đạt giới hạn, động cơ đánh bạc chỉ là giải trí và không thu lợi cá nhân dẫn đến việc "yêu tiền" hoặc đánh bạc để kiếm sống. Nói chung, các giám mục Công giáo có quan điểm phản đối đánh bạc với lý do nó cám dỗ mọi người quá thường xuyên và tạo ra các vấn đề, có thể dẫn đến nghiện cờ bạc, đặc biệt là tác động tiêu cực đến người nghèo; đôi khi họ cũng trích dẫn tác dụng phụ như làm tăng việc cho vay nặng lãi, mại dâm, tham nhũng, vô đạo đức của công chúng. Trong ít nhất một trường hợp, các giám mục ở đối diện với sòng bạc đã bán đất được sử dụng để xây dựng nó. Một số mục sư giáo xứ cũng đã phản đối sòng bạc với lý do bổ sung: Họ sẽ mất khách hàng từ trò chơi bingo tại nhà thờ và lễ hội hàng năm, nơi các trò chơi như blackjack, roulette, craps, và poker được sử dụng để gây quỹ từ thiện cho nhà thờ.
Mặc dù luật sharia có nhiều cách giải thích trong thế giới Hồi giáo, đồng thuận của các ulema với cờ bạc là haraam (tội lỗi). Trong nhận định đưa ra trong quá trình cấm cờ bạc, các luật gia Hồi giáo mô tả cờ bạc như là hành động phi Koran và có hại cho cộng đồng Hồi giáo. Các thuật ngữ Hồi giáo cho cờ bạc là maisar, tuy vậy nó có nghĩa khác là tiền nhanh. Trong các vùng của thế giới thực hiện pháp luật sharia đầy đủ như Aceh, hình phạt cho các con bạc người Hồi giáo có thể lên tới 12 roi hoặc phạt tù một năm, và phạt tiền đối với những người cung cấp địa điểm chơi cờ bạc. Một số quốc gia Hồi giáo cấm cờ bạc; hầu hết các nước khác quản lý nó chặt chẽ.
Đạo Phật
Đức Phật đã xác định cờ bạc là nguồn gốc của sự phá hủy trong Kinh Singalovada.
Đạo Hindu
Các bài thơ Hindu cổ như "Than vãn của kẻ đánh bạc" và "Mahabharata" chứng tỏ sự tồn tại của cờ bạc trong xã hội Ấn Độ cổ đại, đồng thời nhấn mạnh tác động tiêu cực của nó. Văn bản "Arthashastra" (khoảng thế kỷ 4 trước Công nguyên) khuyến nghị thuế và kiểm soát đánh bạc.
Do Thái giáo
Các nhà lãnh đạo Do Thái cổ xưa không tán thành việc đánh bạc, thậm chí không cho phép người đánh bạc chuyên nghiệp làm chứng trong tòa án.
Kitô giáo
Công giáo
Giáo hội Công giáo cho rằng không có cản trở đạo đức nào đối với đánh bạc, miễn là nó công bằng, tất cả những người đặt cược có cơ hội thắng hợp lý, không có gian lận, và các bên liên quan không có thông tin thực tế về kết quả đặt cược (trừ khi họ đã tiết lộ thông tin này), và miễn là đáp ứng các điều kiện sau đây: người đánh cờ có đủ khả năng để thua cược và dừng lại khi đạt đến giới hạn, và động cơ là để giải trí và không phải là lợi ích cá nhân dẫn đến "sự yêu của tiền" hoặc làm thu nhập. Nhìn chung, các giám mục Công giáo đã phản đối việc đánh bạc ở các sòng bạc vì nó thường xuyên kích thích con người trở thành nghiện cờ bạc hoặc gây ảnh hưởng tiêu cực đặc biệt đối với người nghèo; họ đôi khi cũng đề cập đến các tác động phụ như tăng cường cho vay nặng lãi, mại dâm, tham nhũng và tội phạm công cộng chung. Một số linh mục giáo xứ cũng chống lại sòng bạc vì lý do thêm là nó sẽ cướp khách hàng của trò Bingo và các lễ hội hàng năm của nhà thờ, nơi các trò chơi như blackjack, roulette, craps và poker được sử dụng để gây quỹ. Thánh Tôma Aquino đã viết rằng đánh bạc nên bị cấm đặc biệt khi người đặt cược thua là dưới tuổi vị thành niên hoặc không có khả năng đồng ý với giao dịch. Đánh bạc thường được coi là có hệ quả xã hội, như được châm biếm bởi Balzac. Vì các lý do xã hội và tôn giáo này, hầu hết các quy định pháp luật hạn chế đánh bạc, như được tán thành bởi Pascal.
Công giáo Kháng cự
Quan điểm về đánh bạc giữa các tôn giáo Công giáo Kháng cự có sự khác biệt, với một số cản trở hoặc cấm thành viên của họ tham gia đánh bạc. Người Mặc áo, theo tư tưởng của ngoại hình thiêng liêng, chống lại đánh bạc vì họ cho rằng đó là một tội lỗi sinh ra từ lòng tham. Các giáo phái khác cản trở đánh bạc bao gồm Hội thánh Chúa Cứu Thế, Hội thánh Phương pháp Hàn Quốc, Hội thánh Wesleyan Cơ đốc giáo, Lữ đoàn Cứu Thế và Hội thánh Nazarene.
Những giáo phái Cơ Đốc khác chống lại đánh bạc bao gồm Mê-nô-nít, Anh em Schwarzenau, Người Tin lành, Giáo Hội Cải cách Cơ đốc giáo ở Bắc Mỹ, Giáo hội Công đồng Tin Lành, Hội thánh Baptist Miền Nam, Hội thánh Cơ Đốc Giáo Mỹ, và Hội thánh Cửu Sắc thái đức Adventista.
Các tôn giáo Cơ Đốc khác
Các nhà thờ khác chống lại đánh bạc bao gồm Nhân chứng Giê-hô-va, Hội Thánh Chúa Jesus Kitô Các Thánh Cuối Cùng, Iglesia ni Cristo, và Hội Thánh Của Chúa Thuộc Về Tất Cả Mọi Người.
Hồi giáo
Có sự nhất trí giữa các Ulema (những nhà học giả Hồi giáo) rằng đánh bạc là haram (cấm hoặc đồi trụy). Trong các luận điểm được đưa ra trong quá trình cấm đánh bạc, các nhà pháp lý Hồi giáo mô tả đánh bạc là không tuân thủ Kinh Quran và tổng quát gây hại cho Ummah Hồi giáo (Cộng đồng). Thuật ngữ tiếng Ả Rập cho đánh bạc là Maisir.
Ở một số khu vực trên thế giới thực hiện toàn bộ Luật Shari'ah, như Aceh, các hình phạt đối với người Hồi giáo đánh bạc có thể lên đến 12 cái roi hoặc tù một năm và tiền phạt đối với những người cung cấp nơi để tiến hành đánh bạc. Một số quốc gia Hồi giáo cấm đánh bạc; hầu hết các quốc gia khác quy định nó.
Đạo Bahá'í
Theo Sách Thiêng Liêng Nhất của Đạo Bahá'í, đoạn 155, đánh bạc bị cấm.
Tại Việt Nam
Theo quy định Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật hình sự năm 2009. Điều 248: Người nào đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào được thua dưới dạng tiền mặt hay hiện vật ít nhất từ 2 hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 5-50 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 2-7 năm: "Có tính chất chuyên nghiệp; tiền hoặc hiện vật dùng để đánh bạc có giá trị rất lớn hoặc đặc biệt lớn; tái phạm nguy hiểm. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 3-30 triệu đồng".
Mặt khác theo quy định tại tiểu mục 6.2 mục 6 Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự thì: Tiền hoặc hiện vật có giá trị từ 1 triệu đồng đến dưới 10 triệu đồng là có giá trị lớn;Tiền hoặc hiện vật có giá trị từ 10 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng</u> là có giá trị rất lớn; Tiền hoặc hiện vật có giá trị từ một trăm triệu đồng trở lên là có giá trị đặc biệt lớn.
Theo Nghị định 06/2017/NĐ-CP về kinh doanh đặt cược đua ngựa và đá bóng quốc tế, cá độ không được coi là hình thức đánh bạc. Công dân Việt Nam từ 21 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật được phép tham gia vào hoạt động này. Tuy nhiên, đến năm 2022, việc triển khai nghị định này vẫn chưa được thực hiện. Do vậy, nó vẫn được xem là hành vi đánh bạc trái phép.
Hậu quả tiêu cực
Các nghiên cứu cho thấy mặc dù nhiều người tham gia cờ bạc như một hình thức giải trí hoặc để kiếm thu nhập, cờ bạc, giống như bất kỳ hành vi nào liên quan đến sự biến đổi trong hóa chất não, có thể trở thành một nghiện hành vi. Nghiện hành vi có thể xảy ra với tất cả những hậu quả tiêu cực trong cuộc sống của một người mà không có vấn đề về sức khỏe vật lý như những người ám thị hay nghiện ma túy và rượu bia.
Nghiện cờ bạc có nhiều triệu chứng. Những người chơi cờ bạc thường đánh cờ để cố gắng lấy lại tiền mà họ đã mất, và một số người đánh cờ để giảm những cảm giác vô ích và lo lắng.
Ở Vương quốc Anh, Cơ quan Tiêu chuẩn Quảng cáo đã chỉ trích một số công ty cá cược vì đăng quảng cáo giả dạng như các bài viết tin tức, gợi ý một cách sai lệch rằng một người đã trả nợ và chi trả chi phí y tế bằng cách đánh cờ trực tuyến. Các công ty này đối diện với nguy cơ bị phạt.
Một nghiên cứu năm 2020 về 32 quốc gia phát hiện ra rằng càng có nhiều hoạt động cờ bạc trong một quốc gia, thì thị trường chứng khoán của quốc gia đó càng không ổn định.
Những định kiến tâm lý
Người chơi cờ bạc có thể có những quan điểm và suy nghĩ không đúng về khả năng xảy ra của các sự kiện và sự ảnh hưởng đến việc đặt cược của họ.
Ưu tiên cho kết quả có khả năng. Khi chơi cờ bạc, người ta thường ưu tiên đặt cược vào kết quả có khả năng xảy ra cao hơn. Đối với các cuộc thi thể thao, người chơi thường ưa thích đặt cược cho đội yêu thích và có thể chấp nhận mức cược cao hơn để có lợi thế trên kết quả ít có khả năng xảy ra.
Định kiến Lạc quan/Định kiến Mong muốn. Người chơi cờ bạc thường lạc quan và tin vào khả năng xảy ra của sự kiện. Ví dụ, người hâm mộ đội bóng trong NFL thích đặt cược cho đội của họ với tỷ lệ cược ngang hàng, bất kể số tiền cược là nhỏ hay lớn.
Khó lòng đặt cược ngược lại với kết quả mong muốn. Mọi người thường không muốn đặt cược ngược lại kết quả mà họ mong muốn vì nó xung đột với niềm tin và lòng trung thành của họ. Người chơi cờ bạc cũng có xu hướng tránh đặt cược chống lại ứng cử viên hoặc đội bóng mà họ ưa thích, dù được đề xuất mức cược thuận lợi. Điều này phản ánh sự đánh đổi giữa lợi ích tài chính và lòng trung thành trong quyết định của họ.
Định kiến tỷ lệ. Người chơi cờ bạc thường ưa thích các cược với tỷ lệ xấu hơn được lấy từ một mẫu lớn, ví dụ như rút một quả bóng màu đỏ từ một hũ có 89 quả bóng màu đỏ và 11 quả bóng màu xanh, hơn là từ một mẫu nhỏ, ví dụ như rút một quả bóng màu đỏ từ một hũ có 9 quả bóng màu đỏ và 1 quả bóng màu xanh.
Lỗi tưởng tượng người chơi cờ bạc/định kiến gần đây tích cực. |
Gelsenkirchen là một thành phố nằm về phía bắc của vùng Ruhr trong tiểu bang Nordrhein-Westfalen. Trong nước Đức, thành phố Gelsenkirchen được biết đến nhiều nhất như là quê hương của câu lạc bộ bóng đá FC Schalke 04.
Thành phố với ranh giới ngày nay là kết quả của nhiều cải tổ về hành chính. Thông qua đó, nhiều làng và cả nhiều thành phố lớn, trong đó có các thành phố ngày xưa là Großstadt (từ 1926), Buer (từ 1912 là quận Buer) được sáp nhập vào Gelsenkirchen. Ngay từ năm 1903, với việc sáp nhập lần đầu tiên, dân số thành phố đã vượt quá ranh giới 100.000 người và Gelsenkirchen đã trở thành một thành phố lớn từ đấy. Ngày nay Gelsenkirchen với tròn 270.000 dân cư đứng hàng thứ 10 trong 30 thành phố lớn của Đức. Ngày xưa Gelsenkirchen còn có tên là "thành phố của 1.000 ngọn lửa vì có rất nhiều ống đốt khí trong khai thác quặng mỏ.
Chú thích |
Đặng Thì Thố (chữ Hán: 鄧時措, 1526 – ?) là thủ khoa của khoa thi năm Kỉ Mùi năm Quang Bảo thứ 6 (1559) dưới thời vua Mạc Tuyên Tông. Ông là hậu duệ của Quốc công Đặng Tất, quê làng An Lạc (còn gọi là làng Thạc), huyện Thanh Lâm (nay thuộc xã An Châu, thành phố Hải Dương). Hiện nay, ở các xã An Châu, Nam Trung và Nam Chính (Nam Sách) vẫn còn gia phả ghi về cụ Tổ Đặng Thì Thố - giỗ ngày 12 tháng 10 âm lịch.
Ông đỗ tiến sĩ cập đệ khoa Kỉ Mùi năm Quang Bảo thứ 6 (1559) dưới thời vua Mạc Tuyên Tông, tuy nhiên theo bảng tra các vị tam khôi của Viện Hán-Nôm thì ông chỉ đỗ thám hoa (tiến sĩ cập đệ đệ nhất giáp đệ tam danh). Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú cũng chép rằng ông là Hội nguyên Đình nguyên Thám hoa.
Sau đó, ông trở thành quan của triều đình nhà Mạc, làm đến chức tả thị lang bộ Binh, hàn lâm viện.
Mộ của ông táng tại An Lạc, được con cháu trùng tu năm 2005.
Con trai ông là Đặng Thì Mẫn (1549 - ?) cũng đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa thi năm Hoằng Định thứ 14 (Quý Sửu, 1613) thời Lê Kính Tông.
Ghi chú |
Trần khi viết hoa có thể là:
Họ Trần phổ biến ở Trung Quốc, Việt Nam...
Nước Trần (1045 TCN–478 TCN) trong lịch sử Trung Quốc.
Nhà Trần (557–589) trong lịch sử Trung Quốc.
Nhà Trần (1226–1400) trong lịch sử Việt Nam.
Nhà Hậu Trần (1407–1414)
Đảo Trần thuộc tỉnh Quảng Ninh.
Khi viết thường, trần có thể là:
Giới hạn trên
Trần, phần phía trên đầu, bên trong của công trình xây dựng, là giới hạn trên của nó.
Trong kinh tế, giá trần và giá sàn là giá cao nhất và giá thấp nhất trong phạm vi quy định trước. |
Fernando Alonso Díaz (sinh ngày 29 tháng 7 năm 1981 tại Oviedo, Tây Ban Nha) là tay đua Công thức 1 người Tây Ban Nha. Alonso đã từng hai lần đoạt chức vô địch F1 vào các năm 2005 và 2006. Mùa giải 2021, Alonso thi đấu cho đội đua Alpine.
Sự nghiệp
Những năm đầu sự nghiệp
Năm 3 tuổi, bố của Alonso mua một chiếc xe kart định tặng cho chị gái Lorena của anh. Nhưng người chị gái đã không thích món đồ chơi tốc độ này, ngược lại thì Alonso lại rất thích thú vì thế anh đã được sở hữu chiếc xe kart đầu tiên và bắt đầu lái xe kart từ khi còn rất nhỏ.
Do gia đình không dư dả về kinh tế nên họ không mua những chiếc lốp ướt. Vì thế mà ở những cuộc đua có trời mưa, Alonso phải đua bằng lốp khô. Đến năm 7 tuổi thì Alonso bắt đầu giành được những chiến thắng ở cấp độ địa phương, nhờ thế anh nhận được sự tài trợ của những ông chủ trường đua, giúp anh có điều kiện tham gia các giải đấu cao hơn. Lớn hơn một chút, Alonso còn nhận làm thợ máy cho các tay đua nhỏ tuổi hơn để kiếm thêm tiền.
Từ năm 1999, Alonso chính thức đi theo con đường đua xe chuyên nghiệp. Anh đã đoạt chức vô địch giải Euro Open by Nissan 1999, và có cơ hội lần đầu được lái thử chiếc xe F1 ở trường đua Jerez vào tháng 12 năm 1999. Alonso đã không bỏ lỡ cơ hội, anh đã tạo được ấn tượng tốt với đội đua Minardi và được nhận làm tay đua dự bị ở đội này.
Trong năm 2000 Alonso cũng tham gia giải International Formula 3000 để tích lũy thêm kinh nghiệm, anh đã giành hạng tư ở giải đấu này.
Minardi (2001)
Năm 2001, Alonso trở thành tay đua chính thức của Minardi. Đây là một đội đua yếu nên Alonso đã không ghi được điểm số nào.
Renault lần một (2002-2006)
Năm 2002, Alonso chấp nhận công việc tay đua dự bị ở đội đua Renault.
Năm 2003, Alonso giành lại được suất đua chính thức và bắt đầu khẳng định tên tuổi của mình bằng việc giành pole đầu tiên và podium đầu tiên ở chặng đua GP Malaysia. Đến cuối mùa giải, anh giành thêm một pole nữa ở GP Hungary, lần này thì anh đã không bỏ lỡ cơ hội giành chiến thắng đầu tiên trong sự nghiệp. Năm 2004, Alonso có 4 lần lên podium.
Đỉnh cao sự nghiệp của Alonso là ở hai năm 2005 và 2006. Mỗi năm anh giành được 7 chiến thắng để đoạt được chức vô địch. Alonso là tay đua người Tây Ban Nha đầu tiên giành được chức vô địch F1, cũng là người đã chấm dứt thời kỳ vàng son của Michael Schumacher. Ngày 25 tháng 9 năm 2005 anh đoạt giải tay đua vô địch thế giới lần đầu tiên khi mới 24 tuổi 59 ngày, trở thành tay đua trẻ nhất vô địch giải đua Công thức 1 và kỷ lục này tồn tại đến năm 2008 thì bị Lewis Hamilton vượt qua (hiện kỷ lục này đang thuộc về Sebastian Vettel).
Mclaren lần một (2007)
Năm 2007, Alonso chuyển đến Mclaren với tư cách tay đua số một thế giới, vừa đoạt chức vô địch hai năm liên tiếp. Tuy nhiên anh đã gặp sự cạnh tranh quyết liệt của Lewis Hamilton, năm đó mới chỉ là một tân binh. Sau chặng đua GP Monaco, Hamilton tiết lộ anh phải làm nhiệm vụ đánh chặn để giúp Alonso chiến thắng, dẫn đến việc đội đua Mclaren bị điều tra hành vi dàn xếp kết quả (nhưng đã không bị phạt). Còn ở GP Hungary, Alonso bị phạt 5 bậc xuất phát do đã cố tình ngăn Hamilton thực hiện vòng chạy phân hạng cuối cùng.
Và để gây sức ép lên Mclaren, Alonso được cho là đã đe dọa sẽ tiết lộ hành vi ăn cắp công nghệ Ferrari của Mclaren. Đây là thông tin mà Alonso biết thông qua tay đua thử Pedro De la Rosa, đồng hương Tây Ban Nha của Alonso. Sau đó thì vụ việc này cũng bị vỡ lở và Mclaren vừa bị phạt 100 triệu USD vừa bị trừ sạch điểm đội đua (vì thế đã để mất danh hiệu vô địch đội đua vào tay Ferrari). Mối quan hệ của Alonso và Mclaren vì thế đã bị xấu đi nhanh chóng, hệ quả là hai bên phải chấm dứt hợp đồng trước thời hạn.
Tổng kết mùa giải cả Alonso và Hamilton cùng ghi được 109 điểm và cùng giành được 4 chiến thắng nhưng Alonso xếp dưới Hamilton một bậc do thua chỉ số phụ. Sự cạnh tranh quyết liệt của hai người đã gây hại cho đội đua Mclaren khi họ để mất nốt danh hiệu vô địch cá nhân vào tay Kimi Raikkonen của đội Ferrari.
Renault lần hai (2008-2009)
Năm 2008, Alonso trở lại đội đua đã giúp anh lên đỉnh vinh quang là Renault. Ở thời điểm này thì Renault không còn mạnh như các năm 2005-2006 nhưng Alonso vẫn kịp tỏa sáng với hai chiến thắng liêp tiếp ở GP Singapore và GP Nhật Bản. Cuối mùa giải thì đội trưởng của Renault là Flavio Briatore và tay đua Nelson Piquet.Jr bị kết tội cố tình gây tai nạn để dàn xếp kết quả ở chặng đua Singapore, tuy nhiên Alonso được xác định là không liên quan nên không bị tước chiến thắng.
Năm 2009, Alonso có một lần lên podium, vẫn là ở Singapore.
Ferrari (2010-2014)
Năm 2010, Alonso chuyển đến Ferrari. Ngay lập tức anh giành được chiến thắng ở chặng đua mở màn của mùa giải ở GP Bahrain. Ở chặng đua GP Đức, đội đua Ferrari ra lệnh cho đồng đội Felipe Massa nhường đường, giúp cho Alonso có được chiến thắng thứ hai. Anh giành thêm ba chiến thắng nữa ở giai đoạn cuối mùa giải (ở Italia, Singapore và Hàn Quốc) để trở thành người dẫn đầu Bảng xếp hạng tổng trước chặng đua cuối cùng. Đáng tiếc là ở chặng đua này (GP Abu Dhabi) Alonso chỉ về đích ở vị trí thứ bảy nên để mất chức vô địch vào tay Sebastian Vettel.
Năm 2011, Alonso chỉ có một chiến thắng ở GP Anh và xếp thứ tư chung cuộc.
Năm 2012, Alonso thi đấu rất ổn định, giành được ba chiến thắng và nhiều lần lên podium. Một lần nữa kéo được cuộc đua vô địch với Vettel đến chặng cuối cùng ở Brasil. Nhưng giấc mơ vô địch một lần nữa dang dở do anh bị mất quá nhiều điểm ở hai chặng đua Bỉ và Nhật Bản (đều do gặp tai nạn ở pha xuất phát).
Năm 2013, một lần nữa Alonso kết thúc mùa giải ở vị trí Á quân bằng chiến thuật chạy ổn định, chắt chiu từng điểm số (chiến thắng hai lần, chỉ bỏ cuộc một lần ở GP Malaysia).
Trong giai đoạn 2010 đến 2013 nói trên, Alonso là tay đua duy nhất mang về chiến thắng cho Ferrari. Sang năm 2014, Ferrari rơi vào giai đoạn thoái trào. Alonso không có thêm chiến thắng nào nhưng vẫn là tay đua duy nhất mang về podium cho đội đua Italia.
Mclaren lần hai (2015-2018)
Năm 2015, Alonso tái hợp với Mclaren trong một dự án đầy tham vọng với Honda. Đáng tiếc là những mục tiêu to lớn của cả Alonso và Mclaren đều không thành hiện thực. Alonso và người đồng đội từng vô địch F1 là Jenson Button thường phải ngụm lặn ở nửa cuối bảng xếp hạng suốt 4 mùa giải.
Alonso không thể tham gia chặng đua mở màn mùa giải 2015 ở Úc do bị chấn thương ở đợt test trước mùa giải. Đúng một năm sau, anh có thể tham gia chặng đua này nhưng lại gặp tai nạn khủng khiếp với Esteban Gutierrrez, tai nạn này khiến anh phải nghỉ chặng đua tiếp theo ở Bahrain.
Vì quá chán nản nên Alonso đã bỏ chặng đua GP Monaco 2017 để sang Mỹ đua giải Indy500. Cuối năm 2018, Alonso cũng quyết định rời F1 để đi săn danh hiệu Triple Crown.
Tạm nghỉ F1 (2019-2020)
Năm 2019-2020: Alonso tham gia nhiều giải đua khác nhau. Anh giành thêm một chiến thắng ở giải đua Le Mans 24h và vô địch giải World Endurance Championship. Tuy nhiên Alonso một lần nữa thất bại ở giải đua Indy500.
Renault lần ba (2021-)
Năm 2021, Fernando Alonso quay trở lại F1, anh thi đấu cho đội đua Alpine (thuộc hãng xe Renault). Sau khởi đầu chật vật (không ghi điểm ở ba trong năm chặng đua đầu tiên) thì Alonso phần nào đã lấy lại được phong độ. Ở GP Hungary, anh đánh chặn quyết liệt Lewis Hamilton, gián tiếp giúp cho người đồng đội Esteban Ocon giành được chiến thắng.
Cuộc sống cá nhân
Fernando Alonso sinh ngày 29 tháng 7 năm 1981 ở Oviedo, Asturias, Tây Ban Nha trong một gia đình giai cấp lao động. Bố anh, José Luis Alonso là một thợ cơ khí, còn mẹ anh Ana Díaz là một nhân viên bán hàng. Alonso có một chị gái tên Lorena là một bác sỹ.
Fernando Alonso từng có một đời vợ. Anh và ca sỹ Raquel del Rosario đám cưới vào tháng 11 năm 2006 và ly dị vào tháng 12 năm 2011, hai người chưa có con.
Alonso là cổ động viên của câu lạc bộ bóng đá Real Oviedo (đội bóng quê hương) và Real Madrid, anh cũng thường xuyên tham gia các trận bóng đá gây quỹ từ thiện trước mỗi chặng đua GP Monaco. Bên cạnh đó thì Alonso cũng rất có hứng thú với môn đua xe đạp và từng có ý định thành lập một đội đua xe đạp riêng.
Ngoài ra thì Alonso còn sở hữu một khu thể thao phức hợp (bảo tàng, sân golf và trường đua kart) mang tên mình ở quê nhà Oviedo.
Thống kê thành tích
* Mùa giải đang diễn ra |
Pyridoxamin là một trong các hợp chất có thể được gọi là vitamin B6, cùng với pyridoxal và pyridoxin.
Nó là hợp chất dẫn xuất từ vòng pyridin, với các nhóm thay thế là hyđrôxyl, mêtyl, aminomêtyl và hyđrôxymêtyl.
Nó khác với pyridoxin ở nhóm thay thế tại vị trí '4'.
Đôi khi nó được dùng như là 'pyridoxamin đihyđrôclorua'.
Xem bài chính về vitamin B6 để có thêm thông tin.
Nó được chuyển hóa thành dạng hoạt hóa sinh học là pyridoxal 5-phốtphat. |
Đại Thế Chí Bồ Tát, chữ Hán: 大勢至菩薩 hay Đắc Đại Thế Bồ Tát (chữ Hán: 得大勢菩薩),tiếng Phạn: महास्थामप्राप्त/ Mahāsthāmaprāpta, là một vị Đại Bồ tát thể hiện ánh sáng trí tuệ trong Phật giáo Đại Thừa, là bậc đại sĩ trợ tuyên chánh pháp cho Đức Phật A Di Đà ở Tây phương Cực Lạc.
Hồng danh và tiền thân
Đại Thế Chí Bồ Tát còn được gọi là Đắc Đại Thế Bồ tát, Đại Tinh Tấn Bồ tát, Vô Biên Quang Bồ tát, Linh Cát Bồ tát,… hay vắn tắt là Thế Chí.
Ngài là vị Bồ tát thường dùng ánh sáng trí tuệ chiếu khắp mọi loài, khiến chúng sanh mười phương thế giới thoát khổ đau, thành tựu đạo quả Bồ đề. Đắc Đại Thế Bồ tát vì Bồ tát có hạnh nguyện đại hùng đại lực đại từ bi, dùng hạnh nguyện này để trụ trong Ta bà thế giới, điều phục và tiếp độ chúng sanh cang cường.
Trong Kinh Đại Bi Liên Hoa (Kinh Bi Hoa), tiền thân của Đại Thế Chí Bồ Tát là Ni-ma vương tử, người con thứ hai của Chuyển luân vương Vô Tránh Niệm (sau này là Đức Phật A Di Đà). Bồ tát được Phật Bảo Tạng thọ ký rằng, trong đời vị lai vô lượng vô biên kiếp, sau khi Đức Phật Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Sơn Vương Như Lai nhập Niết-bàn (tức Quán Thế Âm Bồ Tát thành Phật trong đời vị lai), Đại Thế Chí Bồ tát sẽ thay ngài tiếp quản chánh pháp và thế giới phương tây, thành Phật hiệu là Thiện Trụ Trân Bảo Sơn Vương Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn.
Biểu tượng và hình ảnh
Kinh Quán Thế Âm Bồ tát thụ kí (Đại 12, 353 hạ) nói: "Tây phương cách đây trăm nghìn ức cõi; có Phật hiệu là A Di Đà Như Lai, Ứng cúng, Chính biến tri, hiện đang nói pháp. Đức Phật ấy có 2 vị Bồ tát, một là Quán Thế Âm, hai là Đại Thế Chí". Đức Phật A Di Đà là Giáo chủ của thế giới Cực Lạc phương tây, Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí là 2 vị thị giả giúp Phật A Di Đà trong việc giáo hóa chúng sinh, vì thế được gọi là Tây Phương Tam Thánh.
Trong bức tranh vẽ "Tây Phương Tam Thánh", Bồ Tát Đại Thế Chí cầm cành hoa sen màu xanh đứng bên tay phải Đức Phật A Di Đà, bên tay trái là Bồ Tát Quán Thế Âm cầm nhành dương liễu và bình tịnh thủy.
Theo kinh Quán Vô Lượng Thọ, Bồ tát thân cao tám mươi muôn ức na do tha do tuần, da màu vàng tử kim, trong thiên quang của Bồ tát có 500 hoa báu, mỗi một hoa báu có 500 đài báu, trong mỗi đài đều hiện quốc độ tịnh diệu của mười phương chư Phật, nhục kế như hoa Bát đầu ma, giữa nhục kế có một bình báu, khác hình tượng Quan Thế Âm Bồ tát.
Theo phẩm A-lợi-đa-la-đà-la-ni-a-lỗ-lực, hai Bồ tát đều toàn thân màu vàng, phóng hào quang trắng, tay phải cầm phất trần trắng, tay trái cầm hoa sen, thân hình Bồ tát Đại Thế Chí nhỏ hơn Quán Thế Âm.
Còn trong Hiện đồ mạn đồ la thai tạng giới của Mật tông, ngài là vị thứ hai ở phương trên trong viện Quan Âm, ngồi trên hoa sen đỏ, thân màu trắng, tay trái cầm hoa sen mới nở, tay phải co ba ngón giữa đặt trước ngực. Mật hiệu là Trì luân kim cương, hình Tam muội da là hoa sen mới nở. |
Pyridoxin là một trong các hợp chất có thể gọi là vitamin B6, cùng với pyridoxal và pyridoxamin. Pyridoxin hỗ trợ sự cân bằng natri và kali cũng như xúc tiến sự sản xuất các tế bào hồng cầu. Nó có liên hệ với khả năng miễn dịch trước ung thư và hỗ trợ chống lại sự hình thành của homocystein. Người ta cũng cho rằng pyridoxin có thể giúp trẻ em với các trở ngại về nhận thức, và cũng có thể ngăn chặn gầu, eczema và bệnh vẩy nến. Ngoài ra, pyridoxin cũng giúp cân bằng các thay đổi hoóc môn ở phụ nữ và hỗ trợ hệ miễn dịch. Thiếu pyridoxin có thể sinh ra các chứng bệnh như bệnh thiếu máu, tổn thương thần kinh, tai biến ngập máu, các vấn đề về da và đau ở miệng.
Nó là dẫn xuất từ vòng pyridin, với các nhóm thay thế hyđrôxyl, mêtyl và hyđrôxymêtyl.
Nó khác với pyridoxamin ở nhóm thay thế tại vị trí '4'.
Nó thường được sử dụng như là 'pyridoxin hyđrôclorua'.
Nó được chuyển hóa thành dạng hoạt hóa sinh học là pyridoxal 5-phốtphat.
Nó là một chất cần thiết trong sản xuất các mônôamin truyền dẫn thông tin thần kinh như serotonin, dopamin, noradrenalin và adrenalin do nó là cofactor của enzym axít decarboxylaza thơm. Enzym này chịu trách nhiệm chuyển hóa các chất như 5-hyđrôxytryptophan (5-htp) thành serotonin và 3,4-đihyđrôxyphênylalanin (L-dopa) thành dopamin, noradrenalin và adrenalin. Như thế nó liên quan đến việc điều trị các chứng trầm cảm và lo âu.
Xem bài chính về vitamin B6 để có thêm thông tin. |
Dortmund (, tiếng La tinh: Tremonia) là một thành phố nằm về phía đông của vùng Ruhr. Dortmund là thành phố lớn nhất cũng như là trung tâm kinh tế và thương mại của Westfalen. Tùy theo thời điểm thống kê và nguồn, thành phố đứng hàng từ thứ sáu đến thứ tám trong số các thành phố lớn nhất Đức. Đây cũng là thành phố có tỉ lệ người nước ngoài khá cao( khoảng 30% dân số).
Dortmund phát triển từ một thành phố công nghiệp trở thành một nơi của công nghệ cao trong bang Nordrhein-Westfalen: được biết đến trước kia đạc biệt là qua thép, than đá và bia cũng như qua câu lạc bộ bóng đá Borussia Dortmund, việc biến đổi từ công nghiệp nặng qua dịch vụ và nghiên cứu cho đến công nghệ cao đã hoàn tất. Mặc dầu vậy thành phố vẫn còn có một trong những tỷ lệ thất nghiệp cao nhất trong miền tây nước Đức. Dortmund là trọng điểm giao thông quan trọng nhất về phía đông của vùng Ruhr và là điểm thu hút cho vùng phù cận chịu nhiều ảnh hưởng nông thôn. Từ khi vượt qua ngưỡng 100.000 người dân vào năm 1895, Dortmund là một thành phố lớn.
Biểu tượng của thành phố là Nhà thờ thánh Reinold (Reinoldikirche), Chữ U Dortmund, Tháp Florian cũng như là Sân vận động Westfalen, Công viên Westfalen và Hội trường Westfalen (Westfalenhallen). |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.