text
stringlengths
0
512k
Chữ ký số là một tập con của chữ ký điện tử. Có thể dùng định nghĩa về chữ ký điện tử cho chữ ký số: Chữ ký điện tử là thông tin đi kèm theo dữ liệu (văn bản, hình ảnh, video...) nhằm mục đích xác định người chủ của dữ liệu đó. Cũng có thể sử dụng định nghĩa rộng hơn, bao hàm cả mã nhận thực, hàm băm và các thiết bị bút điện tử. Chữ ký số khóa công khai (hay hạ tầng khóa công khai) là mô hình sử dụng các kỹ thuật mật mã để gắn với mỗi người sử dụng một cặp khóa công khai - bí mật và qua đó có thể ký các văn bản điện tử cũng như trao đổi các thông tin mật. Khóa công khai thường được phân phối thông qua chứng thực khóa công khai. Quá trình sử dụng chữ ký số bao gồm 2 quá trình: tạo chữ ký và kiểm tra chữ ký. Khái niệm chữ ký điện tử - mặc dù thường được sử dụng cùng nghĩa với chữ ký số nhưng thực sự có nghĩa rộng hơn. Chữ ký điện tử chỉ đến bất kỳ phương pháp nào (không nhất thiết là mật mã) để xác định người chủ của văn bản điện tử. Chữ ký điện tử bao gồm cả địa chỉ telex và chữ ký trên giấy được truyền bằng fax. Lịch sử Con người đã sử dụng các hợp đồng dưới dạng điện tử từ hơn 100 năm nay với việc sử dụng mã Morse và điện tín. Vào năm 1889, tòa án tối cao bang New Hampshire (Hoa Kỳ) đã phê chuẩn tính hiệu lực của chữ ký điện tử. Tuy nhiên, chỉ với những phát triển của khoa học kỹ thuật gần đây thì chữ ký điện tử mới đi vào cuộc sống một cách rộng rãi . Vào thập kỷ 1980, các công ty và một số cá nhân bắt đầu sử dụng máy fax để truyền đi các tài liệu quan trọng. Mặc dù chữ ký trên các tài liệu này vẫn thể hiện trên giấy nhưng quá trình truyền và nhận chúng hoàn toàn dựa trên tín hiệu điện tử. Hiện nay, chữ ký điện tử có thể bao hàm các cam kết gửi bằng email, nhập các số định dạng cá nhân (PIN) vào các máy ATM, ký bằng bút điện tử với thiết bị màn hình cảm ứng tại các quầy tính tiền, chấp nhận các điều khoản người dùng (EULA) khi cài đặt phần mềm máy tính, ký các hợp đồng điện tử online... Các ưu điểm của chữ ký số Việc sử dụng chữ ký số mang lại một số lợi điểm sau: Khả năng xác định nguồn gốc Các hệ thống mật mã hóa khóa công khai cho phép mật mã hóa văn bản với khóa bí mật mà chỉ có người chủ của khóa biết. Để sử dụng chữ ký số thì văn bản cần phải được mã hóa bằng hàm băm (văn bản được "băm" ra thành chuỗi, thường có độ dài cố định và ngắn hơn văn bản) sau đó dùng khóa bí mật của người chủ khóa để mã hóa, khi đó ta được chữ ký số. Khi cần kiểm tra, bên nhận giải mã (với khóa công khai) để lấy lại chuỗi gốc (được sinh ra qua hàm băm ban đầu) và kiểm tra với hàm băm của văn bản nhận được. Nếu 2 giá trị (chuỗi) này khớp nhau thì bên nhận có thể tin tưởng rằng văn bản xuất phát từ người sở hữu khóa bí mật. Tất nhiên là chúng ta không thể đảm bảo 100% là văn bản không bị giả mạo vì hệ thống vẫn có thể bị phá vỡ. Vấn đề nhận thực đặc biệt quan trọng đối với các giao dịch tài chính. Chẳng hạn một chi nhánh ngân hàng gửi một gói tin về trung tâm dưới dạng (a,b), trong đó a là số tài khoản và b là số tiền chuyển vào tài khoản đó. Một kẻ lừa đảo có thể gửi một số tiền nào đó để lấy nội dung gói tin và truyền lại gói tin thu được nhiều lần để thu lợi (tấn công truyền lại gói tin). Tính toàn vẹn Cả hai bên tham gia vào quá trình thông tin đều có thể tin tưởng là văn bản không bị sửa đổi trong khi truyền vì nếu văn bản bị thay đổi thì hàm băm cũng sẽ thay đổi và lập tức bị phát hiện. Quá trình mã hóa sẽ ẩn nội dung của gói tin đối với bên thứ 3 nhưng không ngăn cản được việc thay đổi nội dung của nó. Một ví dụ cho trường hợp này là tấn công đồng hình (homomorphism attack): tiếp tục ví dụ như ở trên, một kẻ lừa đảo gửi 1.000.000 đồng vào tài khoản của a, chặn gói tin (a,b) mà chi nhánh gửi về trung tâm rồi gửi gói tin (a,b3) thay thế để lập tức trở thành triệu phú!Nhưng đó là vấn đề bảo mật của chi nhánh đối với trung tâm ngân hàng không hẳn liên quan đến tính toàn vẹn của thông tin gửi từ người gửi tới chi nhánh, bởi thông tin đã được băm và mã hóa để gửi đến đúng đích của nó tức chi nhánh, vấn đề còn lại vấn đề bảo mật của chi nhánh tới trung tâm của nó Tính không thể phủ nhận Trong giao dịch, một bên có thể từ chối nhận một văn bản nào đó là do mình gửi. Để ngăn ngừa khả năng này, bên nhận có thể yêu cầu bên gửi phải gửi kèm chữ ký số với văn bản. Khi có tranh chấp, bên nhận sẽ dùng chữ ký này như một chứng cứ để bên thứ ba giải quyết. Tuy nhiên, khóa bí mật vẫn có thể bị lộ và tính không thể phủ nhận cũng không thể đạt được hoàn toàn. Thực hiện chữ ký số khóa công khai Chữ ký số khóa công khai dựa trên nền tảng mật mã hóa khóa công khai. Để có thể trao đổi thông tin trong môi trường này, mỗi người sử dụng có một cặp khóa: một công khai và một bí mật. Khóa công khai được công bố rộng rãi còn khóa bí mật phải được giữ kín và không thể tìm được khóa bí mật nếu chỉ biết khóa công khai. Toàn bộ quá trình gồm 3 thuật toán: Thuật toán tạo khóa Thuật toán tạo chữ ký số Thuật toán kiểm tra chữ ký số Xét ví dụ sau: Bob muốn gửi thông tin cho Alice và muốn Alice biết thông tin đó thực sự do chính Bob gửi. Bob gửi cho Alice bản tin kèm với chữ ký số. Chữ ký này được tạo ra với khóa bí mật của Bob. Khi nhận được bản tin, Alice kiểm tra sự thống nhất giữa bản tin và chữ ký bằng thuật toán kiểm tra sử dụng khóa công cộng của Bob. Bản chất của thuật toán tạo chữ ký đảm bảo nếu chỉ cho trước bản tin, rất khó (gần như không thể) tạo ra được chữ ký của Bob nếu không biết khóa bí mật của Bob. Nếu phép thử cho kết quả đúng thì Alice có thể tin tưởng rằng bản tin thực sự do Bob gửi. Thông thường, Bob không mật mã hóa toàn bộ bản tin với khóa bí mật mà chỉ thực hiện với giá trị băm của bản tin đó. Điều này khiến việc ký trở nên đơn giản hơn và chữ ký ngắn hơn. Tuy nhiên nó cũng làm nảy sinh vấn đề khi hai bản tin khác nhau lại cho ra cùng một giá trị băm. Đây là điều có thể xảy ra mặc dù xác suất rất thấp. Một vài thuật toán chữ ký số Full Domain Hash, RSA-PSS..., dựa trên RSA DSA ECDSA ElGamal signature scheme Undeniable signature SHA (thông thường là SHA-1) với RSA Tình trạng hiện tại - luật pháp và thực tế Tất cả các mô hình chữ ký số cần phải đạt được một số yêu cầu để có thể được chấp nhận trong thực tế: Chất lượng của thuật toán: một số thuật toán không đảm bảo an toàn; Chất lượng của phần mềm/phần cứng thực hiện thuật toán; Khóa bí mật phải được giữ an toàn; Quá trình phân phối khóa công cộng phải đảm bảo mối liên hệ giữa khóa và thực thể sở hữu khóa là chính xác. Việc này thường được thực hiện bởi hạ tầng khóa công cộng (PKI) và mối liên hệ khóangười sở hữu được chứng thực bởi những người điều hành PKI. Đối với hệ thống PKI mở, nơi mà tất cả mọi người đều có thể yêu cầu sự chứng thực trên thì khả năng sai sót là rất thấp. Tuy nhiên các PKI thương mại cũng đã gặp phải nhiều vấn đề có thể dẫn đến những văn bản bị ký sai. Những người sử dụng (và phần mềm) phải thực hiện các quá trình đúng thủ tục (giao thức). Chỉ khi tất cả các điều kiện trên được thỏa mãn thì chữ ký số mới là bằng chứng xác định người chủ (hoặc người có thẩm quyền) của văn bản. Một số cơ quan lập pháp, dưới sự tác động của các doanh nghiệp hy vọng thu lợi từ PKI hoặc với mong muốn là người đi tiên phong trong lĩnh vực mới, đã ban hành các điều luật cho phép, xác nhận hay khuyến khích việc sử dụng chữ ký số. Nơi đầu tiên thực hiện việc này là bang Utah (Hoa Kỳ). Tiếp theo sau là các bang Massachusetts và California. Các nước khác cũng thông qua những đạo luật và quy định và cả Liên hợp quốc cũng có những dự án đưa ra những bộ luật mẫu trong vấn đề này. Tuy nhiên, các quy định này lại thay đổi theo từng nước tùy theo điều kiện về trình độ khoa học (mật mã học). Chính sự khác nhau này làm bối rối những người sử dụng tiềm năng, gây khó khăn cho việc kết nối giữa các quốc gia và do đó làm chậm lại tiến trình phổ biến chữ ký số.
Cleopatra VII Philopator (; 70/69 TCN10 tháng 8 năm 30 TCN) là nhà cai trị thực sự cuối cùng của Vương triều Ptolemaios thuộc Ai Cập, mặc dù trên danh nghĩa thì vị pharaon cuối cùng là người con trai Caesarion của bà. Là một thành viên của nhà Ptolemaios, bà là hậu duệ của vị vua sáng lập Ptolemaios I Soter, một vị tướng gốc Macedonia Hy Lạp và là người bạn của Alexandros Đại đế. Sau khi Cleopatra qua đời, Ai Cập đã trở thành một tỉnh của đế quốc La Mã, đặt dấu chấm hết cho thời kỳ Hy Lạp hóa kéo dài từ triều đại của Alexandros (336–323 TCN). Ngôn ngữ mẹ đẻ của bà là tiếng Hy Lạp Koine và bà cũng là nhà cai trị đầu tiên của nhà Ptolemaios học tiếng Ai Cập. Vào năm 58 TCN Cleopatra có thể đã đi cùng với người cha của bà Ptolemaios XII khi ông phải sống lưu vong ở Roma sau một cuộc nổi loạn ở Ai Cập mà đã cho phép người con gái đầu lòng của ông Berenice IV lên ngôi vương. Berenice đã bị giết vào năm 55 TCN khi Ptolemaios XII quay trở lại Ai Cập cùng với sự hỗ trợ quân sự từ người La Mã. Khi Ptolemaios XII qua đời vào năm 51 TCN, Cleopatra và em trai bà là Ptolemaios XIII đã lên ngôi với tư cách là những người đồng trị vì, nhưng sự bất đồng giữa họ đã khiến một cuộc nội chiến nổ ra. Sau khi thất bại trong trận Pharsalus (48 TCN) ở Hy Lạp trước kình địch Julius Caesar (quan chấp chính và độc tài La Mã) trong cuộc nội chiến của Caesar, chính khách La Mã Pompey đã bỏ chạy tới Ai Cập. Dù Pompey từng là đồng minh của Ptolemaios XIII, nhưng vị vua này lại nghe theo lời của hoạn quan hạ sát Pompey trước khi Caesar đến nơi và chiếm đóng thành Alexandria. Caesar đã cố gắng để hòa giải Ptolemaios XIII với Cleopatra nhưng viên cố vấn trưởng của Ptolemaios XIII, Potheinos đã xem những điều kiện mà Caesar đã đưa ra như là sự ủng hộ dành cho Cleopatra, nên đã đem quân bản bộ vây hãm Caesar cùng Cleopatra trong cung điện. Cuộc vây hãm này chấm dứt khi lực lượng tiếp viện của Caesar tới nơi vào đầu năm 47 TCN và Ptolemaios XIII đã qua đời một thời gian ngắn sau đó trong trận sông Nil. Em gái ông là Arsinoe IV đã bị lưu đày tới Ephesus vì vai trò của mình trong trong cuộc bao vây. Caesar tuyên bố Cleopatra cùng em trai là Ptolemaios XIV trở thành những người đồng trị vì của Ai Cập, nhưng vẫn duy trì một mối quan hệ tình ái bí mật với Cleopatra và đã có cùng bà một người con trai tên là Caesarion. Cleopatra sau đó tới Roma như là một Nữ vương chư hầu vào năm 46 và 44 TCN, bà đã ở tại trang viên của Caesar trong khoảng thời gian này. Sau cái chết của Caesar và Ptolemaios XIV (do bà chủ mưu) vào năm 44 TCN, Cleopatra đã tấn phong con mình là Caesarion làm vua đồng cai trị. Trong cuộc nội chiến của những người Giải phóng vào năm 43–42 TCN, Cleopatra đứng về phía chế độ Tam hùng lần thứ hai được Octavianus, Marcus Antonius và Marcus Aemilius Lepidus thiết lập nên. Sau cuộc gặp mặt tại Tarsos vào năm 41 TCN, bà đã có mối quan hệ tình ái với Antonius. Ông đã sử dụng quyền lực của mình để hành quyết Arsinoe IV theo lời yêu cầu của Cleopatra và ngày càng phải trông cậy vào hỗ trợ của Cleopatra về cả mặt tài chính và quân sự trong cuộc xâm lược vào đế quốc Parthia và vương quốc Armenia của mình. Tại lễ ban tặng của Alexandria, những người con của Cleopatra với Antonius được chính thức tuyên bố rằng là sẽ được phong tặng những vùng đất khác nhau nằm dưới thẩm quyền của Antonius. Sự kiện này, cùng với đám cưới của Antonius với Cleopatra và việc ly dị Octavia Minor, chị gái của Octavianus, đã dẫn đến cuộc chiến tranh cuối cùng của Cộng hòa La Mã. Sau khi tiến hành một cuộc chiến tranh tuyên truyền, Octavianus đã buộc các đồng minh của Antonius trong Viện nguyên lão La Mã phải bỏ trốn khỏi Roma vào năm 32 TCN và đã khai chiến với Cleopatra. Sau khi đánh bại hạm đội liên hợp của Antonius và Cleopatra trong trận Actium vào năm 31 TCN, quân đội của Octavianus đã xâm lược Ai Cập vào năm 30 TCN, đánh bại Antonius khiến ông phải tự sát. Khi Cleopatra biết được rằng Octavianus đã lên kế hoạch để đưa bà tới Roma với mục đích là cho cuộc diễu binh mừng chiến thắng, bà đã uống thuốc độc tự tử (mặc dù vậy người ta vẫn thường hay tin rằng bà đã bị cắn bởi một con rắn mào). Đến ngày nay, Cleopatra là một hình tượng nổi tiếng trong văn hóa phương Tây. Danh tiếng của bà được truyền tải dưới hình thức nhiều câu chuyện được sân khấu hóa, là đề tài của những tác phẩm hội họa, sân khấu, kịch và âm nhạc. Câu chuyện về bà được miêu tả trong nhiều tác phẩm như vở kịch Antony và Cleopatra của William Shakespeare; Caesar và Cleopatra của George Bernard Shaw; vở Opera Cléopâtre của Jules Massenet và bộ phim điện ảnh Cleopatra (1963). Tên gọi Tên gọi Cleopatra có nguồn gốc từ tên gọi trong tiếng Hy Lạp là Kleopatra (), có nghĩa là "Vinh quang của người cha" ở dạng dành cho nữ giới. Nó được bắt nguồn từ kleos (), "vinh quang", kết hợp cùng với pater (), "tổ tiên", sử dụng sở hữu cách patros (). Dạng dành cho nam giới sẽ được viết là Kleopatros () hoặc Patroklos (). Cleopatra là tên người em gái của Alexandros Đại đế, cũng như là tên của Cleopatra Alcyone, vợ của Meleager trong Thần thoại Hy Lạp. Thông qua cuộc hôn nhân của Ptolemaios V Epiphanes với Cleopatra I Syra (một công chúa Seleukos), tên gọi này đã được nhà Ptolemaios chấp nhận. Cleopatra đã thông qua tước hiệu Thea Philopatora () có nghĩa là "Vị Nữ thần yêu thương cha của Ngài". Tiểu sử Bối cảnh lịch sử Các vị pharaon của nhà Ptolemaios đã được vị Tư tế tối cao của Ptah trao vương miện tại Memphis, Ai Cập, nhưng họ lại cư ngụ tại thành phố Alexandria với phần đông cư dân là người Hy Lạp và là một thành phố đa văn hóa, thành phố này được Alexandros Đại đế của Macedonia thành lập. Họ nói tiếng Hy Lạp và cai trị Ai Cập như là các vị vua Hy Lạp thời kỳ Hy Lạp hóa. Họ khước từ việc học ngôn ngữ bản địa của người Ai Cập. Trái lại, Cleopatra lại có thể nói được nhiều ngôn ngữ khác nhau khi trưởng thành và người cai trị đầu tiên của nhà Ptolemaios học tiếng Ai Cập. Bà còn có thể nói được tiếng Ethiopia, Trogodyte, Hebrew (hoặc tiếng Aram), Ả Rập, một thứ tiếng Syria (có thể là Syriac), Media, Parthia và Latin, mặc dù vậy những người La Mã cùng thời với bà sẽ lại thích nói chuyện với bà bằng tiếng Hy Lạp mẹ đẻ của bà hơn. Ngoài tiếng Hy Lạp, Ai Cập và Latin, những ngôn ngữ trên phản ánh khao khát của Cleopatra trong việc khôi phục lại những vùng đất ở Bắc Phi và Tây Á vốn đã từng thuộc về đế chế Ptolemaios. Người La Mã đã bắt đầu can thiệp vào Ai Cập từ trước khi triều đại của Cleopatra VII bắt đầu. Khi Ptolemaios IX Lathyros qua đời vào cuối năm 81 TCN, ông được kế vị bởi người con gái Berenice III của mình. Tuy nhiên, với việc phe đối lập trong triều đình hoàng gia chống lại ý tưởng về một vị Nữ vương trị vì duy nhất, Berenice III đã chấp nhận đồng trị vì và kết hôn với người anh họ và cũng là con ghẻ của bà, Ptolemaios XI Alexander II, sự dàn xếp này đã được nhà độc tài La Mã Sulla thực hiện. Việc tiến hành các cuộc hôn nhân giữa anh chị em ruột mang tính loạn luân này của nhà Ptolemaios đã được mở đầu bởi Ptolemaios II với người chị gái Arsinoe II của ông. Mặc dù là một tập tục lâu đời của hoàng gia Ai Cập, nó lại bị những người Hy Lạp đương thời coi là ghê tởm. Tuy nhiên, vào triều đại của Cleopatra VII, nó được coi là một sự dàn xếp thông thường đối với các vị vua Ptolemaios. Ptolemaios XI đã sát hại người vợ-mẹ kế của mình chỉ một thời gian ngắn sau đám cưới của họ vào năm 80 TCN, nhưng chính bản thân vị vua này đã bị hành quyết một cách công khai ngay sau đó trong một cuộc bạo loạn vốn là hậu quả của vụ ám sát. Ptolemaios XI và thậm chí có lẽ là Ptolemaios IX hoặc Ptolemaios X Alexander I, đã đem Nhà Ptolemaios làm vật thế chấp cho các khoản vay của Roma, vì vậy người La Mã có đủ cơ sở pháp lý để tiếp quản Ai Cập, chư hầu của họ. Tuy vậy, thay vào đó người La Mã đã chọn cách phân chia vương quốc Ptolemaios giữa những người con hoang của Ptolemaios IX, họ đã trao Cyprus cho Ptolemaios của Cyprus và Ai Cập cho Ptolemaios XII. Thời thơ ấu Cleopatra VII được sinh ra vào đầu năm 69 TCN, là con gái của pharaon Ptolemaios XII Auletes và một người mẹ không rõ danh tính, mà nhiều nguồn tài liệu cho là Cleopatra VI Tryphaena (cũng còn được biết đến như là Cleopatra V Tryphaena). Tên của Cleopatra V (hoặc VI) Tryphaena không còn xuất hiện trong các văn kiện chính thức chỉ một vài tháng sau khi Cleopatra VII được sinh ra vào năm 69 TCN. Ba người con sau của Ptolemaios XII đều được sinh ra trong hoàn cảnh người vợ của ông vắng mặt. Cleopatra có hai người chị em gái, Berenice IV và Arsinoe IV cũng như hai người em trai, Ptolemaios XIII và Ptolemaios XIV. Vị gia sư thời thơ ấu của bà là Philostratos, nhờ có ông mà bà đã học được nghệ thuật diễn thuyết và triết học Hy Lạp. Theo Duane W. Roller và Joann Fletcher thì trong giai đoạn niên thiếu của mình, Cleopatra có lẽ đã học tập tại Musaeum, bao gồm cả thư viện Alexandria. Triều đại và cuộc sống lưu vong của Ptolemaios XII Vào năm 65 TCN, vị quan giám sát Marcus Licinius Crassus đã tranh luận trước Viện nguyên lão La Mã rằng Roma nên sáp nhập Ai Cập, thế nhưng dự luật do người này đề xuất và một dự luật tương tự vào năm 63 TCN của quan bảo dân Servilius Rullus đều đã bị bác bỏ. Ptolemaios XII đã ứng phó với mối đe dọa sáp nhập có thể xảy ra bằng cách biếu tặng các khoản tiền thưởng và những món quà xa hoa cho các chính khách La Mã hùng mạnh như là Pompey Vĩ đại trong chiến dịch của ông chống lại Mithridates VI của Pontos và cuối cùng là Julius Caesar sau khi trở thành Chấp chính quan La Mã vào năm 59 TCN. Tuy nhiên, sự hoang phí một cách bừa bãi của Ptolemaios XII đã khiến cho ông bị khánh kiệt và ông buộc phải vay nợ từ vị chủ ngân hàng La Mã Gaius Rabirius Postumus. Năm 58 TCN, người La Mã đã sáp nhập Cyprus và khiến cho người em trai của Ptolemaios XII là Ptolemaios của Cyprus bị buộc tội hải tặc, phải tự tử hơn là lưu đày suốt đời tới Paphos. Ptolemaios XII đã giữ thái độ im lặng một cách công khai về cái chết của người em trai mình, một quyết định mà cùng với việc nhượng lại vùng lãnh thổ lâu đời của nhà Ptolemaios cho người La Mã đã hủy hoại sự tin tưởng của thần dân đối với ông, vốn đã tức giận với những chính sách kinh tế của ông từ trước đó. Ptolemaios XII sau đó đã buộc phải rời khỏi Ai Cập để lưu vong, đầu tiên ông tới Rhodes, tiếp đó là Athens và cuối cùng là tới trang viên của vị tam hùng Pompey nằm trên ngọn đồi Alban gần Praeneste. Ptolemaios XII đã dành gần một năm ở tại khu ngoại ô của Roma, có vẻ như người con gái 11 tuổi của ông là Cleopatra đã đi cùng với ông. Berenice IV đã phái một đoàn sứ giả tới Roma để biện hộ cho sự cai trị của mình và phản đối việc phục vị cho cha mình là Ptolemaios XII, thế nhưng Ptolemaios đã thuê các sát thủ để sát hại những người đứng đầu đoàn sứ thần, một vụ việc được che đậy bởi những chính khách La Mã hùng mạnh vốn ủng hộ cho ông. Khi Viện nguyên lão La Mã từ chối lời đề nghị của Ptolemaios XII về một đội quân hộ tống và những điều khoản để ông quay trở về Ai Cập, ông đã quyết định rời Roma vào cuối năm 57 TCN và lưu trú tại ngôi đền Artemis ở Ephesus. Những người La Mã ủng hộ tài chính cho Ptolemaios XII vẫn quyết tâm khôi phục lại quyền lực cho ông. Pompey đã thuyết phục Aulus Gabinius, vị tổng đốc La Mã của Syria, xâm lược Ai Cập và khôi phục lại Ptolemaios XII, đề nghị ông 10.000 talent cho sứ mệnh dự kiến này. Bất chấp việc điều này khiến cho ông vi phạm bộ luật La Mã, Gabinius đã xâm lược Ai Cập vào mùa xuân năm 55 TCN bằng con đường đi qua xứ Judea của nhà Hasmonea, tại đó Hyrcanus II đã phái Antipater người Idumaea, cha của Herod Vĩ đại, cung cấp cho người La Mã một đạo quân dẫn đường cùng với tiếp tế. Dưới quyền chỉ huy của Gabinius còn có vị tướng kỵ binh trẻ tuổi Marcus Antonius, một người đã trở nên nổi tiếng sau khi ngăn cản Ptolemaios XII tàn sát các cư dân của Pelousion và giải cứu được thi hài của Archelaos, phu quân của Berenice IV, sau khi người này ngã xuống trong trận đánh và bảo đảm cho Archelaos được an táng theo đúng địa vị hoàng gia của mình. Cleopatra, lúc này 14 tuổi, sẽ đi cùng với đoàn viễn chinh La Mã đến Ai Cập. Nhiều năm sau đó Marcus Antonius đã nói rằng ông yêu bà ngay từ thời điểm đó. Gabinius đã bị đưa ra xét xử ở Roma vì tội lạm dụng quyền lực của mình, tuy lần này được tha bổng, nhưng trong lần xét xử thứ hai của mình vì tội nhận hối lộ thì Gabinius đã bị xử lưu đày. Gabinius chỉ được triệu hồi bảy năm sau đó vào năm 48 TCN bởi Julius Caesar. Crassus đã lên thay thế làm Tổng đốc của Syria và được mở rộng quyền chỉ huy tỉnh của mình cho tới tận Ai Cập, thế nhưng Crassus đã bị người Parthia giết chết trong trận Carrhae vào năm 53 TCN. Ptolemaios XII sau khi giành lại được quyền lực đã cho hành quyết Berenice cùng với những người giàu có đã ủng hộ cho bà ta rồi chiếm đoạt của cải của họ. Vị quốc vương Ai Cập đã cho phép những binh sĩ đồn trú La Mã của Gabinius mà phần lớn là người gốc German và Gaul, quấy nhiễu người dân trên các đường phố của Alexandria và phong cho người ủng hộ tài chính La Mã lâu năm của mình là Rabirius Postumus làm trưởng quan tài chính của ông. Rabirius Postumus đã không thể thu hồi được toàn bộ số nợ của Ptolemaios XII vào lúc vị vua này qua đời, do đó nó được chuyển qua cho những người kế vị của ông là Cleopatra VII và Ptolemaios XIII. Trong vòng một năm, Rabirius Postumus đã bị đặt dưới sự giam giữ phòng ngừa và được đưa quay trở về Roma sau khi mạng sống của ông bị đe dọa vì làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên của Ai Cập. Bất chấp những vấn đề này, Ptolemaios XII, người vốn qua đời vì nguyên nhân tự nhiên, đã để lại một di chúc mà trong đó lựa chọn Cleopatra VII và Ptolemaios XIII làm những người đồng kế vị của ông, đồng thời giám sát các dự án xây dựng quan trọng như là ngôi đền Edfu, ngôi đền Dendera và làm ổn định lại nền kinh tế. Vào ngày 31 tháng 5 năm 52 TCN, Cleopatra đã được phong làm nhiếp chính cho Ptolemaios XII theo như được chỉ ra bởi một dòng chữ khắc trong ngôi đền Hathor tại Dendera. Kế vị ngai vàng Ptolemaios XII đã qua đời vào thời điểm trước ngày 22 tháng 3 năm 51 TCN, khi đó Cleopatra, trong hành động đầu tiên khi là Nữ vương, đã bắt đầu chuyến hành trình của bà tới Hermonthis, gần Thebes, để thiết lập một con bò thiêng Buchis mới, mà vốn được thờ cúng như là một vật trung gian cho vị thần Montu trong tôn giáo Ai Cập cổ đại. Cleopatra đã phải đối mặt với nhiều vấn đề cấp bách và tình trạng khẩn cấp chỉ một thời gian ngắn sau khi kế vị. Chúng bao gồm nạn đói do hạn hán và mực nước lũ thấp của sông Nil, những hành vi coi thường luật pháp do lực lượng Gabiniani chủ mưu, họ vốn là những người lính La Mã được Gabinius để lại để đồn trú Ai Cập nhưng lúc này đang thất nghiệp và đã bị đồng hóa. Thừa hưởng các khoản nợ của người cha, Cleopatra cũng còn nợ Cộng hòa La Mã 17,5 triệu drachma. Năm 50 TCN, Marcus Calpurnius Bibulus, cựu Chấp chính quan của Syria, đã phái hai người con trai cả của mình tới Ai Cập, nhiều khả năng là để thương lượng với lực lượng Gabiniani và tuyển mộ họ làm binh sĩ trong lúc đang phải phòng thủ Syria một cách tuyệt vọng để chống lại người Parthia. Tuy nhiên, lực lượng Gabiniani đã tra tấn và sát hại cả hai, có lẽ là cùng với sự giúp đỡ bí mật từ một vị quan lại cấp cao trong triều đình của Cleopatra. Cleopatra đã đưa các thủ phạm tới chỗ Bibulus như là tù nhân để ông trừng phạt nhưng Bibulus đã gửi họ quay trở lại chỗ Cleopatra và trừng phạt bà vì đã can thiệp vào những vấn đề mà đáng lẽ ra phải được xử lý bởi Viện nguyên lão La Mã. Bibulus đã đứng về phía Pompey trong cuộc nội chiến của Caesar, trong cuộc chiến tranh này Bibulus được giao trọng trách ngăn cản hạm đội của Caesar cập bến ở Hy Lạp, một nhiệm vụ mà ông đã thất bại và sau cùng đã cho phép Julius Caesar tới được Ai Cập để truy đuổi Pompey. Vào ngày 29 tháng 8 năm 51 TCN, các văn kiện chính thức đã bắt đầu ghi lại Cleopatra với vai trò là người cai trị duy nhất, bằng chứng này cho thấy rằng bà đã loại bỏ người em trai Ptolemaios XIII như là người đồng cai trị. Tuy nhiên, Ptolemaios XIII vẫn có được những đồng minh hùng mạnh, đáng chú ý nhất là viên thái giám Potheinos, người gia sư thời thơ ấu của ông, nhiếp chính và là người quản lý tài sản của ông. Những thành viên khác tham gia vào âm mưu chống lại Cleopatra bao gồm Achillas, một tướng lĩnh quân đội nổi tiếng, Theodotos của Chios, một gia sư khác của Ptolemaios XIII. Cleopatra dường như đã cố gắng thiết lập một liên minh trong thời gian ngắn với người em trai Ptolemaios XIV, nhưng vào mùa thu năm 50 TCN Ptolemaios XIII đã chiếm được thế thượng phong trong cuộc xung đột giữa họ và bắt đầu ký các văn kiện với tên của mình trước tên của người chị gái, tiếp theo đó là việc thiết lập năm trị vì đầu tiên của ông vào năm 49 TCN. Vụ ám sát Pompey Vào mùa hè năm 49 TCN, Cleopatra và lực lượng của bà vẫn còn đang chiến đấu chống lại Ptolemaios XIII bên trong thành phố Alexandria khi người con trai của Pompey là Gnaeus Pompeius đến và tìm kiếm sự trợ giúp về mặt quân sự thay mặt cho người cha của mình. Sau khi quay trở về Ý từ cuộc chiến tranh ở Gaul và vượt qua sông Rubicon vào tháng 1 năm 49 TCN, Caesar đã buộc Pompey cùng với những người ủng hộ phải bỏ chạy tới Hy Lạp trong một cuộc nội chiến La Mã. Có lẽ trong sắc lệnh chung cuối cùng của họ, cả Cleopatra và Ptolemaios XIII đều đã đồng ý lời yêu cầu của Gnaeus Pompeius và viện trợ cho cha mình 60 tàu cùng 500 quân, bao gồm cả lực lượng Gabiniani, một động thái mà đã giúp xóa bỏ một vài khoản nợ đối với Roma. Thất bại trong cuộc chiến chống lại người em trai của mình, Cleopatra đã buộc phải chạy trốn khỏi Alexandria và rút lui về vùng đất Thebes. Vào mùa xuân năm 48 TCN, Cleopatra đã đi đến Syria cùng với người em gái Arsinoe IV của bà để tập hợp một đạo quân xâm lược mà sẽ tiến về Ai Cập. Bà đã quay trở về cùng với một đạo quân, nhưng đường tiến quân trở về Alexandria của bà đã bị chặn lại bởi lực lượng của người em trai, bao gồm cả một số Gabiniani được huy động để chiến đấu chống lại bà, vì vậy bà đã hạ trại bên ngoài thành phố Pelousion ở phía đông khu vực châu thổ sông Nin. Ở Hy Lạp, Caesar và Pompey giao chiến với nhau tại trận Pharsalus mang tính quyết định vào ngày 9 tháng 8 năm 48 TCN. Phần lớn đạo quân của Pompey đã bị tiêu diệt trong trận chiến này trong khi số còn lại phải tháo chạy tới Tyros, Liban. Vốn có mối quan hệ thân thiết với nhà Ptolemaios, Pompey cuối cùng đã quyết định đến Ai Cập trú ẩn, tại đó ông có thể bổ sung cho lực lượng của mình. Tuy nhiên, các cố vấn của Ptolemaios XIII đã lo sợ ý định của Pompey về việc sử dụng Ai Cập làm căn cứ quyền lực của bản thân trong một cuộc nội chiến La Mã kéo dài. Trong một âm mưu được lên kế hoạch bởi viên thái giám Theodotos, Pompey sau khi được gửi thư mời đã mắc mưu mà đi thuyền tới gần Pelousion, chỉ để bị phục kích và đâm chết vào ngày 28 tháng 9 năm 48 TCN. Ptolemaios XIII tin rằng mình đã chứng minh được khả năng của bản thân và đồng thời cố gắng xoa dịu tình hình bằng cách gửi cái đầu được ướp của Pompey tới cho Caesar, người đã đặt chân đến Alexandria vào đầu tháng 10 và chọn cung điện hoàng gia làm chỗ trú ngụ. Caesar đã bày tỏ sự thương tiếc và bất bình về việc sát hại Pompey, ông cũng kêu gọi Ptolemaios XIII và Cleopatra VII giải tán lực lượng của họ và hòa giải với nhau. Quan hệ tình cảm với Julius Caesar Ptolemaios XIII đã tới Alexandria ở cương vị chỉ huy đạo quân của mình, trong sự thách thức rõ ràng đối với yêu cầu của Caesar rằng ông phải giải tán quân đội và để lại đạo quân của mình trước khi đến. Cleopatra ban đầu đã phái sứ giả tới chỗ Caesar, nhưng khi được nghe kể lại rằng Caesar có sở thích quan hệ tình ái với những phụ nữ vương gia, bà đã đến Alexandria để đích thân gặp ông. Sử gia Cassius Dio ghi lại rằng bà đơn giản đã làm như vậy mà không báo cho người em trai của mình, bà đã ăn mặc hấp dẫn và quyến rũ chính khách người La Mã bằng trí thông minh của mình. Plutarch thì lại cung cấp một câu chuyện hoàn toàn khác biệt và có lẽ mang tính thần thoại mà cho rằng bà được quấn bên trong một tấm thảm trải giường và được mang lén vào trong cung điện để gặp Caesar. Khi Ptolemaios XIII nhận ra rằng chị gái của mình đang sống như vợ chồng với Caesar trong cung điện, ông đã cố gắng kích động cư dân của Alexandria tiến hành nổi loạn nhưng không may bị Caesar bắt giữ. Caesar đã sử dụng các kỹ năng hùng biện của mình để trấn an đám đông nổi loạn. Caesar sau đó đưa Cleopatra VII và Ptolemaios XIII ra trước hội đồng Alexandria, tại đó Caesar đã công khai bản di chúc được viết lại của Ptolemaios XII—do Pompey nắm giữ trước đây - mà chỉ định Cleopatra và Ptolemaios XIII là những người đồng kế vị. Caesar sau đó đã cố gắng để sắp đặt cho hai người em ruột khác của bà là Arsinoe IV và Ptolemaios XIV làm đồng cai trị của Cyprus, qua đó không chỉ loại bỏ những đối thủ cạnh tranh tiềm năng đối với ngai vàng Ai Cập mà còn xoa dịu được các thần dân của nhà Ptolemaios vốn vẫn còn cảm thấy chua xót vì để mất Cyprus vào tay người La Mã trong năm 58 TCN. Potheinos, đánh giá rằng bản giao kèo này thực sự đã thiên vị Cleopatra hơn Ptolemaios XIII và rằng đạo quân 20.000 người của vị vua này, bao gồm cả lực lượng Gabiniani, nhiều khả năng có thể đánh bại được đạo quân 4.000 người không được hỗ trợ của Caesar. Chính vì thế, Potheinos đã lệnh cho Achillas đưa lực lượng của họ tới Alexandria để tấn công cả Caesar và Cleopatra. Hệ quả là cuộc vây hãm cung điện với Caesar và Cleopatra bị mắc kẹt cùng nhau ở bên trong đã kéo dài cho tới tận năm 47 TCN. Sau khi Caesar xử tử Potheinos thành công, Arsinoe IV tham gia với Achillas và được tôn lên làm Nữ vương, nhưng ngay sau đó vị gia sư của bà là Ganymedes đã giết Achillas và thay thế tư lệnh. Để Ptolemaios XIII, một người đang bị giam cầm, có thể gia nhập vào quân đội của Arsinoe IV, Ganymedes đã đánh lừa Caesar bằng cách yêu cầu Ptolemaios XIII làm người đàm phán giữa hai bên. Vào khoảng thời gian giữa tháng 1 và tháng 3 năm 47 TCN, quân tiếp viện của Caesar dưới sự lãnh đạo của Mithridates của Pergamon và Antipater người Idumaea đã đến nơi. Ptolemaios XIII và Arsinoe IV đã rút quân tới sông Nin, tại đó Caesar đã tấn công họ. Ptolemaios XIII đã cố gắng bỏ chạy bằng thuyền nhưng nó bị lật úp và chết đuối. Ganymedes có lẽ đã bị giết trong trận đánh, Theodotos đã bị Marcus Brutus tóm được ở châu Á nhiều năm sau đó và bị hành quyết, trong khi đó Arsinoe IV đã bị buộc phải diễu hành trong lễ khải hoàn của Caesar ở Roma trước khi bị lưu đày tới đền Artemis tại Ephesus. Cleopatra rõ ràng là đã vắng mặt trong những sự kiện này và ở lại cung điện, rất có thể bởi vì bà đang mang thai người con của Caesar kể từ tháng 9 năm 47 TCN. Nhiệm kỳ làm Chấp chính quan của Caesar đã hết hạn vào cuối năm 48 TCN. Tuy nhiên, vị tướng Marcus Antonius của ông đã giúp đảm bảo cho Caesar được bầu làm độc tài trong thời hạn là một năm, cho tới tháng 10 năm 47 TCN, nó cho phép Caesar có quyền lực hợp pháp để giải quyết những tranh chấp triều đại ở Ai Cập. Để tránh lập lại sai lầm của Berenice IV trong việc chỉ có duy nhất một Nữ vương cai trị, Caesar đã lựa chọn Ptolemaios XIV mới 12 tuổi làm người đồng cai trị với Cleopatra VII đã 22 tuổi trong một cuộc hôn nhân bình thường giữa hai chị em ruột, nhưng Cleopatra vẫn bí mật tiếp tục sống với Caesar. Niên đại chính xác cho việc Cyprus quay trở lại dưới sự kiểm soát của bà vẫn chưa được biết rõ, mặc dù vậy bà đã có một tổng đốc tại đó vào năm 42 TCN. Caesar được cho là đã tham gia vào một chuyến du hành bằng thuyền trên sông Nin cùng với Cleopatra và tham quan các di tích, mặc dù đây có thể là một câu chuyện lãng mạn phản ánh xu hướng của những người La Mã giàu có sau này và không phải là một sự kiện lịch sử có thật. Sử gia Suetonius đã cung cấp nhiều chi tiết đáng chú ý về chuyến đi này, bao gồm việc sử dụng một chiếc thuyền thalamegos được xây dựng đầu tiên bởi Ptolemaios IV, nó có chiều dài và cao , khi được hoàn thiện nó gồm các căn phòng ăn, những phòng nghi lễ, các điện thờ thiêng liêng và những lối đi dạo dọc theo hai bong tàu giống như là một biệt thự nổi. Caesar có thể đã có một sự thích thú đối chuyến du hành sông Nin này nhờ vào sự đam mê của ông đối với địa lý; ông đã đọc rất kỹ các tác phẩm của Eratosthenes và Pytheas và có lẽ muốn khám phá đầu nguồn của dòng sông này, thế nhưng họ đã quay trở lại trước khi đến được Ethiopia. Caesar đã rời Ai Cập vào khoảng tháng 4 năm 47 TCN, được cho là để đương đầu với con trai của vua Mithridates Đại đế là Pharnaces II của Pontos, người đang gây nên sự bất ổn cho Roma ở Anatolia. Có khả năng rằng, Caesar đã cưới một người phụ nữ La Mã nổi tiếng tên là Calpurnia, đồng thời muốn tránh bị bắt gặp cùng với Cleopatra khi mà bà đã sinh một người con trai cho ông. Ông đã để lại ba quân đoàn ở Ai Cập, sau này tăng lên thành bốn, dưới sự chỉ huy của một nô lệ được giải phóng tên là Rufio, để bảo đảm địa vị mỏng manh của Cleopatra, nhưng cũng có lẽ là để giữ cho các hành động của bà dưới sự kiểm soát. Caesarion, người con trai được cho là của Cleopatra với Caesar, được sinh ra vào ngày 23 tháng 6 năm 47 TCN và ban đầu được đặt tên là "Pharaon Caesar" theo như những gì được lưu giữ lại trên một tấm bia đá tại Serapeion ở Memphis. Có lẽ do cuộc hôn nhân với Calpurnia vẫn không đem lại người con nào nên Caesar đã giữ sự im lặng một cách công khai về Caesarion (nhưng có lẽ đã chấp nhận tư cách làm cha của mình trong bí mật). Mặt khác, Cleopatra đã đưa ra những tuyên bố chính thức được lặp đi lặp lại về huyết thống của Caesarion, với Caesar là người cha. Cleopatra VII và vị vua đồng trị vì hư danh của bà là Ptolemaios XIV đã tới thăm Roma vào khoảng thời gian cuối năm 46 TCN, có lẽ là không có Caesarion, và được đưa tới ở biệt thự của Caesar ở bên trong Horti Caesaris. Giống như với người cha Ptolemaios XII của họ, Julius Caesar đã trao tặng địa vị hợp pháp Người bạn và đồng minh của nhân dân La Mã cho cả Cleopatra VII và Ptolemaios XIV (), vốn dành cho các vị Vua chư hầu trung thành với Roma. Trong số những người khách đến thăm Cleopatra tại biệt thự của Caesar ở phía bên kia sông Tiber có cả vị nguyên lão Cicero, người đã nhận xét bà là người kiêu ngạo. Sosigenes của Alexandria, một thành viên thuộc triều đình của Cleopatra, đã giúp đỡ Caesar trong việc tính toán cho bộ lịch Julius mới, mà có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 45 TCN. Ngôi đền Venus Genetrix, được xây dựng trong Chợ Caesar vào ngày 25 tháng 9 năm 46 TCN, có chứa một bức tượng bằng vàng của Cleopatra (được đặt ở đó ít nhất là cho đến thế kỷ thứ 3 TCN), liên kết người mẹ của người con trai của Caesar trực tiếp với nữ thần Venus, tổ mẫu của người La Mã. Bức tượng này cũng còn liên kết nữ thần Isis với Tôn giáo La Mã một cách khéo léo. Sự hiện diện của Cleopatra ở Roma rất có thể đã có một tác động đến những sự kiện của lễ hội Lupercalia diễn ra một tháng trước vụ ám sát Caesar. Marcus Antonius đã có ý đội vương miện lên đầu của Caesar, nhưng Caesar đã từ chối, đây rất có thể là một việc làm mang tính dàn dựng, có lẽ là để đánh giá tâm trạng của công chúng La Mã về việc chấp nhận vương quyền theo phong cách Hy Lạp hóa. Cicero, vốn có mặt tại lễ hội này, đã hỏi một cách chế nhạo về nguồn gốc của chiếc vương miện này, một sự ám chỉ rõ ràng tới vị Nữ vương nhà Ptolemaios mà ông ghét cay ghét đắng. Caesar đã bị ám sát vào 15 tháng 3 năm 44 TCN, nhưng Cleopatra đã ở lại Roma cho tới tận khoảng giữa tháng 4, với hy vọng hão huyền về việc Caesarion được công nhận là người thừa kế của Caesar. Tuy nhiên, di chúc của Caesar đã ghi rõ rằng người cháu Octavianus là người thừa kế của mình và Octavianus đã đến Ý vào cùng khoảng thời điểm Cleopatra quyết định khởi hành về Ai Cập. Một vài tháng sau, Cleopatra đã hạ độc thủ giết hại người em trai và cũng là người đồng trị vì Ptolemaios XIV và thay thế ông bằng Caesarion. Trong cuộc Nội chiến La Mã Octavianus, Marcus Antonius và Lepidus đã thành lập Chế độ Tam hùng lần thứ hai vào năm 43 TCN, trong đó mỗi người trong số họ được bầu với nhiệm kỳ 5 năm để khôi phục lại trật tự của nền cộng hòa và đưa những kẻ ám sát Caesar ra xét xử. Cleopatra đã nhận được thư từ cả Gaius Cassius Longinus, một trong những người đã ám sát Caesar và Publius Cornelius Dolabella, cựu chấp chính quan của Syria và là một người ủng hộ trung thành của Caesar, yêu cầu hỗ trợ về mặt quân sự. Bà đã quyết định viết cho Cassius một bức thư cùng với lời bào chữa rằng vương quốc của bà đang phải đối mặt với quá nhiều vấn đề nội bộ trong khi đó lại phái bốn quân đoàn được Caesar để lại ở Ai Cập tới cho Dolabella. Tuy nhiên, những quân đoàn này đã bị Cassius đoạt mất ở Palestine. Trong lúc Serapion, tổng đốc của Cleopatra ở Cyprus, đem cả tàu thuyền đào ngũ sang phe Cassius, Cleopatra đã đưa hạm đội của bà tới Hy Lạp để đích thân giúp đỡ Octavianus và Antonius, thế nhưng hạm đội của bà đã bị hư hỏng nặng trong một cơn bão ở Địa Trung Hải và bà đã đến quá muộn để có thể tham chiến. Vào mùa thu năm 42 TCN, Antonius đã đánh bại lực lượng của những người ám sát Caesar tại trận Philippi ở Hy Lạp, khiến cho Cassius và Marcus Junius Brutus phải tự sát. Đến cuối năm 42 TCN, Octavianus đã giành quyền kiểm soát đối với phần lớn nửa phía Tây của Cộng hòa La Mã và Antonius là nửa phía đông, còn Lepidus thì gần như chỉ còn là thứ yếu. Vào mùa hè năm 41 TCN, Antonius đã thiết lập tổng hành dinh tại Tarsos ở Anatolia và gửi một số bức thư triệu tập Cleopatra tới đó, ban đầu bà đã từ chối cho tới khi vị sứ giả của Antonius là Quintus Dellius thuyết phục bà đến. Cuộc gặp mặt này đã cho phép Cleopatra làm sáng tỏ sự hiểu lầm rằng bà đã ủng hộ cho Cassius trong cuộc nội chiến và giải quyết vấn đề trao đổi lãnh thổ ở vùng Cận Đông, nhưng Antonius rõ ràng cũng khao khát thiết lập một mối quan hệ cá nhân và lãng mạn với Nữ vương. Cleopatra đã đi thuyền ngược dòng sông Kydnos tới Tarsos trong chiếc thalamegos của bà, bà mời Antonius cùng với các sĩ quan của ông tham gia vào những bữa tiệc xa hoa trong hai đêm trên boong tàu của mình. Cleopatra đã cố gắng để tự minh oan cho việc bà bị coi như là một người ủng hộ của Cassius với lý lẽ rằng bà thực sự đã cố gắng giúp đỡ Dolabella ở Syria, đồng thời thuyết phục Antonius hành quyết người em gái Arsinoe IV đang bị lưu đày tại Ephesus. Viên cựu tổng đốc ở Cyprus của Cleopatra cũng đã bị giao lại cho bà để xử tử. Cuộc tình với Marcus Antonius Cleopatra đã mời Antonius đến Ai Cập trước khi rời khỏi Tarsos, điều này đã khiến cho Antonius đến thăm Alexandria vào tháng 11 năm 41 TCN. Antonius đã được cư dân của Alexandria chào đón nồng nhiệt vì những hành động anh hùng của ông trong việc khôi phục lại quyền lực cho Ptolemaios XII trước đây và đến Ai Cập mà không có một đạo quân chiếm đóng nào giống như Caesar đã làm. Ở Ai Cập, Antonius đã tiếp tục tận hưởng lối sống hoàng gia xa hoa mà ông đã từng chứng kiến trên boong con thuyền đậu tại Tarsos của Cleopatra. Ông cũng đã ra lệnh cho các cấp dưới của mình, như là Publius Ventidius Bassus, đánh đuổi người Parthia khỏi Anatolia và Syria. Cleopatra đã cẩn thận lựa chọn Antonius làm người tình của mình để sinh thêm những người thừa kế khác cho bà, vì ông được coi là nhân vật La Mã quyền lực nhất sau cái chết của Caesar. Với quyền lực của một tam hùng, Antonius còn có đủ thẩm quyền để khôi phục lại những vùng đất cũ của nhà Ptolemaios, mà hiện đang nằm trong tay của người La Mã, cho Cleopatra. Một điều rõ ràng là cả Cilicia và Síp đều đã nằm dưới sự kiểm soát của Cleopatra vào thời điểm 19 tháng 11 năm 38 TCN, cho nên việc chuyển giao này có thể đã diễn ra từ trước đó vào mùa đông năm 41–40 TCN, trong thời gian bà ở cùng với Antonius. Vào mùa xuân năm 40 TCN, Marcus Antonius đã rời Ai Cập do bởi những rắc rối ở Syria, tại đó vị tổng đốc Lucius Decidius Saxa đã bị giết chết và quân đội của người này đã bị Quintus Labienus chiếm giữ, một người vốn là một sĩ quan cũ của Cassius và lúc này đang phục vụ dưới trướng đế quốc Parthia. Cleopatra đã cấp cho Antonius 200 tàu phục vụ cho cuộc chiến và chúng đóng vai trò như là khoản thanh toán cho các vùng lãnh thổ mới đoạt được của bà. Bà sẽ không gặp lại Antonius cho tới tận năm 37 TCN, thế nhưng bà vẫn giữ quan hệ thư từ với ông và có dấu hiệu cho thấy rằng bà đã cài đặt gián điệp trong doanh trại của ông. Vào cuối năm 40 TCN, Cleopatra đã sinh hạ một cặp song sinh, một con trai tên là Alexandros Helios và một con gái tên là Cleopatra Selene II, cả hai đều được Antonius thừa nhận là con của ông. Helios (mặt trời) và Selene (mặt trăng) là biểu tượng của một kỷ nguyên mới của sự hồi sinh xã hội, cũng như là một dấu hiệu cho thấy Cleopatra đã hy vọng Antonius sẽ tái lập được các kỳ công của Alexandros Đại đế bằng việc chinh phục Ba Tư. Chiến dịch Parthia của Marcus Antonius ở phía đông đã bị gián đoạn bởi những sự kiện của cuộc chiến tranh Perusine (41–40 TCN), khởi đầu bởi người vợ đầy tham vọng của ông, Fulvia, với hy vọng chống lại Octavianus và biến chồng mình trở thành nhà lãnh đạo duy nhất của Roma. Có giả thuyết cho rằng Fulvia muốn tách Antonius ra khỏi Cleopatra, thế nhưng cuộc chiến này đã xảy ra ở Ý ngay cả trước khi Cleopatra gặp mặt Antonius tại Tarsos. Fulvia và người em trai của Antonius là Lucius Antonius cuối cùng đã bị Octavianus vây hãm tại Perusia (ngày nay là Perugia, Ý) và họ bị trục xuất khỏi Ý, sau đó Fulvia qua đời tại Sikyon ở Hy Lạp trong khi đang cố gắng tới chỗ Antonius. Cái chết đột ngột của bà đã dẫn tới một sự hòa giải giữa Octavianus và Antonius tại Brundisium ở Ý vào tháng 9 năm 40 TCN. Mặc dù hiệp định ký kết tại Brundisium đã củng cố sự kiểm soát của Antonius đối với các tỉnh của Cộng hòa La Mã nằm ở phía đông biển Ionia, nó cũng quy định rằng ông phải nhượng lại Italia, Hispania và Gaul cũng như kết hôn với chị gái của Octavianus là Octavia Trẻ, một đối thủ tiềm tàng của Cleopatra. Vào tháng 12 năm 40 TCN, Cleopatra đã tiếp đón Herod I (Vĩ đại) ở Alexandria như là một vị khách không mời và là một người lánh nạn, người đã chạy trốn khỏi Judea do tình hình hỗn loạn tại đó. Herod đã từng được Marcus Antonius đưa lên làm tetrarch ("tứ đầu") tại đó thế nhưng giữa Herod và Antigonos II Mattathias thuộc triều đại Hasmonea lâu đời lại sớm xung đột. Antigonos đã bỏ tù anh trai của Herod và cũng là một tetrarch, Phasael, người đã bị hành quyết trong lúc Herod đang bỏ trốn tới triều đình của Cleopatra. Cleopatra tỏ ý muốn sẽ hỗ trợ Herod bằng biện pháp quân sự thế nhưng Herod từ chối và đi tới Roma, nơi ông được hai tam hùng Octavianus và Marcus Antonius bổ nhiệm làm vua của Judea. Hành động này đã đặt Herod vào một tình thế đối đầu với Cleopatra, vốn có khao khát phục hồi lại những vùng lãnh thổ cũ của nhà Ptolemaios mà vương quốc Herod cũng nằm trong đó. Các mối quan hệ giữa Marcus Antonius và Cleopatra có lẽ đã xấu đi khi ông không chỉ cưới Octavia mà còn sinh với bà hai người con, Antonia Già vào năm 39 TCN và Antonia Nhỏ vào năm 36 TCN; không những vậy ông còn di chuyển đại bản doanh tới Athens. Tuy nhiên, địa vị của Cleopatra ở Ai Cập đã an toàn. Địch thủ Herod của bà lúc này đang bận rộn với một cuộc nội chiến ở Judea đòi hỏi sự hỗ trợ lớn về mặt quân sự của người La Mã, nhưng lại không nhận được gì từ Cleopatra. Bởi vì quyền lực bộ ba tam hùng của Marcus Antonius và Octavianus hết hạn vào ngày 1 tháng 1 năm 37 TCN, cho nên Octavia đã dàn xếp một cuộc gặp gỡ tại Tarentum, tại đó chế độ tam hùng đã chính thức được kéo dài tới năm 33 TCN. Cùng với hai quân đoàn được Octavianus nhượng lại và một nghìn binh sĩ khác được mượn bởi Octavia, Marcus Antonius đã di chuyển tới Antioch, tại đây ông đã tiến hành chuẩn bị cho cuộc chiến tranh chống lại người Parthia. Antonius đã triệu tập Cleopatra đến Antioch để thảo luận các vấn đề cấp thiết như về vương quốc của Herod và sự hỗ trợ tài chính cho chiến dịch Parthia của ông. Cleopatra đã đưa cặp sinh đôi của bà lúc này đã 3 tuổi tới Antioch, tại đó Marcus Antonius đã được gặp họ lần đầu tiên và cũng tại nơi này họ có thể đã được nhận các tên hiệu đầu tiên là Helios và Selene như là một phần trong những kế hoạch tham vọng dành cho tương lai của Antonius và Cleopatra. Để ổn định lại phía đông, Antonius không chỉ mở rộng lãnh thổ của Cleopatra mà còn thiết lập những vương triều trị vì mới và các vị vua chư hầu sẽ trung thành với ông, tuy vậy cuối cùng thì họ sẽ tồn tại lâu hơn ông. Trong sự sắp xếp này, Cleopatra đã giành được những vùng lãnh thổ quan trọng trước kia của nhà Ptolemaios ở khu vực Cận Đông, bao gồm gần như toàn bộ Phoenicia (Liban), trừ Tyre và Sidon vẫn còn nằm trong tay của người La Mã. Bà còn nhận được Ptolemais Akko (ngày nay là Acre, Israel), một thành phố được Ptolemaios II thành lập. Nhờ vào mối quan hệ về huyết thống với nhà Seleukos của mình, bà đã được ban cho vùng đất Koile Syria dọc theo thượng nguồn sông Orontes. Bà thậm chí còn được ban cho vùng đất nằm xung quanh Jericho ở Palestine, nhưng bà đã cho Herod thuê lại vùng lãnh thổ này. Do sự mất uy tín của vị vua Nabataea Malichus I (một người anh em họ của Herod), Cleopatra còn được nhận một phần của vương quốc Nabataea nằm xung quanh Vịnh Aqaba trên bờ Biển Đỏ, bao gồm Ailana (ngày nay là Aqaba, Jordan). Về phía Tây, Cleopatra nhận được Cyrene nằm dọc theo bờ biển Libya, cũng như Itanos và Olous ở Crete. Mặc dù chúng vẫn được quản lý bởi những quan chức người La Mã, tuy nhiên những vùng lãnh thổ này đã làm giàu thêm cho Ai Cập của bà và khiến cho bà tuyên bố mở đầu một kỷ nguyên mới bằng đồng tiền xu niên đại kép của mình vào năm 36 TCN. Ý định mở rộng lãnh thổ của nhà Ptolemaios bằng việc nhượng lại các vùng lãnh thổ trực tiếp nằm dưới sự kiểm soát của người La Mã của Antonius đã bị đối thủ Octavianus khai thác. Octavianus tạo nên làn sống ở Roma chống lại việc trao quyền cho một Nữ vương ngoại quốc mà khiến cho nền cộng hòa phải chịu phí tốn. Octavianus còn nuôi dưỡng câu chuyện rằng Antonius đã bỏ bê người vợ La Mã đạo đức của ông là Octavia và đã ban cho cả chị lẫn vợ của mình là Livia đặc ân sacrosanctus (en) đặc biệt. Cornelia Africana, con gái của Scipio Africanus, là người phụ nữ La Mã đang còn sống đầu tiên được đúc tượng dành riêng cho mình. Điều này đã được tiếp nối bởi Octavia và Livia, những bức tượng của họ nhiều khả năng đã được dựng trong Chợ Caesar để ganh đua với bức tượng của Cleopatra đã được Caesar dựng lên khi còn sống. Năm 36 TCN, Cleopatra đã đi cùng Antonius tới sông Euphrates trong chuyến hành trình nhằm xâm lược đế quốc Parthia. Bà sau đó đã quay trở về Ai Cập, có lẽ do tình trạng mang thai của bà. Vào mùa hè năm 36 TCN, bà đã hạ sinh Ptolemaios Philadelphos, người con trai thứ hai của bà với Antonius. Chiến dịch Parthia của Antonius vào năm 36 TCN đã trở thành một thất bại hoàn toàn khi ông gặp nhiều yếu tố bất lợi, bao gồm sự phản bội của Artavasdes II xứ Armenia, người đã đào ngũ sang phía Parthia. Sau khi mất khoảng 30.000 người, nhiều hơn cả Crassus tại Carrhae (một sự sỉ nhục mà ông hy vọng trả thù), Antonius cuối cùng đã đến được Leukokome gần Berytus (ngày nay là Beirut, Lebanon) vào tháng 12, ông đã chìm đắm trong rượu trước khi Cleopatra đến nơi để chu cấp tiền bạc và y phục cho đạo quân tơi tả của ông. Antonius vì muốn tránh khỏi những cạm bẫy chính trị khi quay trở về Roma nên đã cùng Cleopatra quay trở lại Alexandria để thăm người con trai mới sinh của hai người. Lễ ban tặng của Alexandria Khi Antonius chuẩn bị cho một cuộc viễn chinh Parthia khác vào năm 35 TCN, lần này là nhắm vào đồng minh Armenia của họ, Octavia đã đi đến Athens cùng với 2.000 quân mà được cho là để trợ giúp Antonius, nhưng dường như điều này là nằm trong một âm mưu được Octavianus nghĩ ra để sỉ nhục Antonius vì những thất bại của ông. Antonius đã nhận số binh sĩ này nhưng lại nói với Octavia rằng bà không được đi về phía đông của Athens trong khi ông và Cleopatra cùng nhau đi đến Antiochia. Tuy nhiên, hai người đột nhiên hủy bỏ ý định đông chinh để quay về Alexandria. Khi Octavia quay trở về Roma, dù Octavianus đã miêu tả chị gái mình như là một nạn nhân bị Antonius đối xử bất công nhưng bà vẫn từ chối rời gia đình của Antonius. Sự tự tin của Octavianus ngày càng tăng lên vì ông đã loại bỏ được những đối thủ của mình ở phía Tây, bao gồm Sextus Pompeius và thậm chí là Lepidus, thành viên thứ ba của chế độ tam hùng, ông này đã bị giam lỏng tại nhà sau khi nổi dậy chống lại Octavianus ở Sicilia. Quintus Dellius đã được cử làm sứ giả của Antonius tới chỗ vua Artavasdes II của Armenia vào năm 34 TCN để thương lượng một liên minh hôn nhân tiềm năng mà sẽ gả người con gái của vua Armenia cho người con trai của Antonius và Cleopatra là Alexandros Helios. Khi điều này bị từ chối, Antonius đã tiến quân tới Armenia, đánh bại lực lượng của họ và bắt giữ đức vua cùng với gia đình hoàng gia Armenia. Antonius sau đó đã tổ chức một cuộc diễu binh quân sự ở Alexandria mô phỏng theo một cuộc diễu binh mừng chiến thắng của La Mã. Ông đã ăn mặc như là thần Dionysos khi tiến vào thành phố trên một cỗ chiến xa và đưa những tù binh hoàng gia yết kiến Cleopatra; bà lúc này đang ngồi trên một ngai vàng phía trên một bục bằng bạc. Tin tức về sự kiện này đã bị chỉ trích nặng nề ở Roma khi mà các nghi lễ và nghi thức truyền thống của người La Mã thay vào đó lại được thưởng thức bởi một Nữ vương Ai Cập. Trong một sự kiện tổ chức tại Gymnasium ngay sau lễ diễu binh mừng chiến thắng, được biết đến như là Lễ ban tặng Alexandria, Cleopatra đã mặc lễ phục như là Isis và tuyên bố rằng bà là Nữ vương của các vị Vua cùng với người con trai Caesarion của bà là Vua của các vị Vua, trong khi Alexandros Helios được tuyên bố là vua của Armenia, Media và Parthia, còn người con trai hai tuổi Ptolemaios Philadelphos được tuyên bố là Vua của Syria và Cilicia. Cleopatra Selene được ban cho Crete và Cyrene. Antonius và Cleopatra cũng có thể đã làm đám cưới trong buổi lễ này. Antonius đã gửi một thông báo tới Roma yêu cầu phê chuẩn những yêu sách về lãnh thổ trên. Octavianus đã muốn công khai nó cho mục đích tuyên truyền, nhưng hai viên chấp chính quan, vốn đều là những người ủng hộ Antonius, đã ngăn không cho nó được phơi bày trước công chúng. Vào cuối năm 34 TCN, tiếp sau Lễ ban tặng Alexandria, Antonius và Octavianus đã tiến hành một cuộc chiến tranh tuyên truyền sôi nổi mà sẽ kéo dài suốt nhiều năm. Antonius đã tuyên bố rằng đối thủ của ông đã loại bỏ Lepidus một cách bất hợp pháp khỏi chế độ tam hùng của họ và ngăn cản không cho ông tuyển mộ quân đội ở Ý, trong khi đó Octavianus buộc tội Antonius giam giữ bất hợp pháp vị vua của Armenia, cưới Cleopatra bất chấp việc vẫn đang còn kết hôn với chị mình là Octavia và tuyên bố một cách vô lý rằng Caesarion là người thừa kế của Caesar thay vì Octavianus. Những lời buộc tội và tin đồn nhảm cùng với cuộc chiến tranh tuyên truyền đã định hình nên những cảm nhận phổ biến về Cleopatra khởi đầu từ toàn bộ các tác phẩm văn chương thời đại Augustus cho tới các phương tiện truyền thông đại chúng khác nhau ở thời hiện đại. Cleopatra được đồn là đã tẩy não Marcus Antonius bằng sự mê hoặc và ma thuật và nguy hiểm như là Helen thành Troy trong việc phá hủy nền văn minh. Tác phẩm Satires của Horace còn lưu giữ một bài tường thuật rằng Cleopatra đã từng hòa tan một viên ngọc trai đáng giá 2,5 triệu drachma trong giấm chỉ để giành chiến thắng một cuộc đánh cuộc trong bữa tiệc tối. Lời buộc tội rằng Antonius đã đánh cắp những cuốn sách từ Thư viện Pergamon để bổ sung cho thư viện Alexandria sau này hóa ra chỉ là một sự thêu dệt được thú nhận bởi Gaius Calvisius Sabinus. Một văn kiện giấy cói có niên đại vào tháng 2 năm 33 TCN chứa đựng chữ ký viết tay của Cleopatra VII. Nó liên quan đến việc miễn thuế cho Publius Canidius Crassus (hoặc Quintus Caecillius), một cựu chấp chính quan La Mã và là người bạn thân tình của Antonius và cũng là người sẽ chỉ huy lực lượng trên bộ của Antonius ở Actium. Một chữ viết quanh chữ cái được viết bằng tay trái tại phần dưới cùng của cuộn giấy cói đọc là "thực thi nó" (), rõ ràng là chữ ký của Nữ vương, vì nó là thông lệ của nhà Ptolemaios để phê chuẩn các văn kiện nhằm chống sự giả mạo. Xung đột với Octavianus và trận Actium Trong một bài diễn văn trước Viện nguyên lão La Mã trong ngày đầu tiên giữ chức vụ Chấp chính quan vào ngày 1 tháng 1 năm 33 TCN, Octavianus đã buộc tội Antonius cố gắng phá vỡ nền tự do của người La Mã và sự toàn vẹn lãnh thổ khi là một nô lệ cho vị Nữ vương phương Đông của ông. Trước khi quyền lực tuyệt đối chung của Antonius và Octavianus hết hiệu lực vào ngày 31 tháng 12 năm 33 TCN, Antonius đã tuyên bố Caesarion là người thừa kế đích thực của Julius Caesar trong một nỗ lực để nhằm làm suy yếu dần dần Octavianus. Vào ngày 1 tháng 1 năm 32 TCN, những người trung thành với Antonius là Gaius Sosius và Gnaeus Domitius Ahenobarbus đã được bầu làm chấp chính quan. Vào ngày 1 tháng 2 năm 32 TCN, Sosius đã đọc một bài diễn văn gay gắt chỉ trích Octavianus và đề xuất những đạo luật chống lại ông, người lúc này là một công dân bình thường chứ không hề nắm giữ chức vụ công nào. Trong phiên họp tiếp theo của Viện nguyên lão, Octavianus đã tiến vào tòa nhà của Viện nguyên lão cùng với các cận vệ được vũ trang và tập trung chống lại các chấp chính quan bằng những sự buộc tội của riêng ông. Bị đe dọa bởi hành động này, vào ngày tiếp theo, cả hai chấp chính quan và hơn hai trăm nguyên lão, vẫn còn ủng hộ cho Antonius, đã chạy trốn khỏi Roma và gia nhập phe của Antonius. Antonius và Cleopatra đã cùng nhau đi đến Ephesus vào năm 32 TCN, tại đó bà đã cung cấp cho ông 200 trong tổng số 800 tàu hải quân mà ông có thể có được. Domitius Ahenobarbus, cảnh giác với sự tuyên truyền của Octavianus vốn đã ăn sâu vào công chúng, cố gắng thuyết phục Antonius không cho Cleopatra tham gia vào chiến dịch chống lại Octavianus. Publius Canidius Crassus đã phản biện rằng Cleopatra đang tài trợ cho cuộc chiến này và là một vị quân vương có thẩm quyền. Cleopatra đã từ chối lời thỉnh cầu của Antonius rằng bà nên trở về Ai Cập và cho rằng bằng cách ngăn chặn Octavianus ở Hy Lạp, bà có thể bảo vệ Ai Cập dễ dàng hơn. Sự khẳng định của Cleopatra tham gia vào trận chiến ở Hy Lạp đã dẫn đến sự đào ngũ của những người La Mã nổi tiếng như Domitius Ahenobarbus và Lucius Munatius Plancus. Vào mùa xuân năm 32 TCN, Antonius và Cleopatra đã đi đến Athens. Tại đây bà thuyết phục Antonius gửi cho Octavia một lời tuyên bố ly hôn chính thức. Nhân cơ hội này, Munatius Plancus khuyên Octavianus nên tịch thu di chúc của Antonius, vốn được nắm giữ bởi các Trinh nữ của Vestal. Mặc dù là một sự vi phạm các quyền thiêng liêng và hợp pháp, Octavianus đã đoạt được văn kiện trên từ ngôi đền thờ Vesta bằng vũ lực và nó sẽ là một công cụ hữu ích trong cuộc chiến tranh tuyên truyền chống lại Antonius và Cleopatra. Octavianus đã nêu bật một số phần của bản di chúc trên, như Caesarion là người thừa kế được chỉ định của Caesar, rằng Lễ ban tặng của Alexandria là hợp pháp, rằng Antonius nên được chôn cất bên cạnh Cleopatra ở Ai Cập thay vì ở Roma và rằng Alexandria sẽ trở thành kinh đô mới của cộng hòa La Mã. Để bày tỏ sự trung thành với Roma, Octavianus đã quyết định bắt đầu việc xây dựng lăng mộ của bản thân mình tại Campus Martius. Địa vị pháp lý của Octavianus cũng đã được cải thiện bằng việc được bầu làm chấp chính quan vào năm 31 TCN. Với việc di chúc của Antonius được công khai, Octavianus đã có được cái cớ của mình và Roma tuyên bố chiến tranh với Cleopatra, chứ không phải với Antonius. Lý lẽ hợp pháp cho cuộc chiến tranh này ít dựa vào việc giành được những vùng lãnh thổ của Cleopatra, cùng với việc những vùng lãnh thổ cũ của La Mã được cai trị bởi con cái của bà với Antonius và dựa nhiều vào cơ sở lập luận rằng bà đang cung cấp sự hỗ trợ về quân sự cho một công dân bình thường ngay lúc này vì quyền lực tam hùng của Antonius đã hết hạn. Antonius và Cleopatra đã có một hạm đội lớn hơn Octavianus, nhưng các thủy thủ của Antonius và hải quân của Cleopatra đã không được huấn luyện tốt toàn bộ, khá nhiều trong số họ có lẽ đến từ các thuyền buôn, trong khi Octavianus đã có một lực lượng thiện chiến. Antonius muốn vượt qua biển Adriatic và phong tỏa Octavianus tại Tarentum hoặc Brundisium, thế nhưng Cleopatra, vốn quan tâm chủ yếu đến việc bảo vệ Ai Cập, đã gạt bỏ kết hoạch tấn công trực tiếp Ý. Antonius và Cleopatra đã thiết lập tổng hành dinh trú đông của họ tại Patrai ở Hy Lạp và vào mùa xuân năm 31 TCN, họ đã di chuyển tới Actium dọc theo phía Nam Vịnh Ambracia. Cleopatra và Antonius đã có được sự ủng hộ từ nhiều vị vua đồng minh khác nhau; về phần Herod thì do vốn đã có sẵn mâu thuẫn với Cleopatra lại thêm ở Judea vừa mới xảy ra một trận động đất nên ông viện cớ để vắng mặt trong chiến dịch này. Cleopatra và Antonius cũng đánh mất sự ủng hộ từ Malichus I của Nabataea, mà sẽ chứng minh là có vai trò chiến lược quan trọng. Hai người đã để thua một vài cuộc giao tranh nhỏ trước Octavianus ở xung quanh Actium trong mùa hè năm 31 TCN, trong khi nhiều người, bao gồm cả người chiến hữu lâu năm của Antonius là Quintus Dellius, liên tiếp đào ngũ sang phe Octavianus. Các vị vua đồng minh, bắt đầu bằng Amyntas của Galatia và Deiotaros của Paphlagonia, cũng bắt đầu đổi phe theo Octavianus. Trong khi một số tướng lĩnh trong doanh trại của Antonius đề xuất việc từ bỏ hẳn hải chiến để rút quân lên bờ thì Cleopatra lại ra sức cổ súy cho một trận hải chiến nhằm giữ hạm đội của Octavianus tránh xa khỏi Ai Cập. Vào ngày 2 tháng 9 năm 31 TCN, hạm đội của Octavianus, dưới sự chỉ huy của Marcus Vipsanius Agrippa, đã chạm trán với lực lượng của Antonius và Cleopatra tại trận Actium. Cleopatra, trên chiếc soái hạm Antonias của mình, chỉ huy 60 tàu tại cửa vịnh Ambracia, nằm ở hậu phương của hạm đội, đây có thể là một đề nghị từ các sĩ quan của Antonius để ngăn cho bà không tham gia vào trận chiến. Antonius đã ra lệnh rằng các con thuyền của họ nên nhổ neo trên boong để có nhiều cơ hội hơn trong việc truy đuổi hoặc chạy trốn khỏi kẻ thù. Cleopatra, vốn luôn quan tâm đến việc bảo vệ Ai Cập, đã sử dụng điều này để nhanh chóng di chuyển xuyên qua những khu vực chiến đấu ác liệt trong một cuộc rút lui chiến thuật tới Peloponnese. Antonius đã đuổi theo và lên con tàu của bà, vốn được nhận biết nhờ vào những cánh buồm tím đặc trưng của nó, khi mà cả hai người đã rời bỏ trận chiến và tiến về Tainaron. Antonius được cho là đã tránh mặt Cleopatra trong chuyến hành trình kéo dài ba ngày, cho tới khi những người hầu của bà đang đợi ở Tainaron nài nỉ ông nói chuyện với bà. Trận Actium đã diễn ra ác liệt mà không có Cleopatra lẫn Antonius cho tới tận sáng ngày 3 tháng 9, tiếp sau đó là sự đào ngũ hàng loạt của các sĩ quan, binh sĩ và những vị vua đồng minh về phe của Octavianus. Sụp đổ và qua đời Trong khi Octavianus chiếm đóng Athens, Antonius và Cleopatra đã cập bến tại Paraitonion ở Ai Cập. Hai người sau đó đã đi theo hai hướng khác nhau, Antonius tới Cyrene để tuyển mộ thêm nhiều binh sĩ và Cleopatra cập cảng ở Alexandria trong một nỗ lực nhằm giả vờ rằng bà đã giành được chiến thắng ở Hy Lạp. Chúng ta cũng không chắc chắn liệu rằng bà thực sự đã hành quyết Artavasdes II của Armenia vào thời điểm này hay không và gửi thủ cấp của vua Armenia tới cho Artavasdes I, vua của Media Atropatene, đối thủ của ông này, trong một nỗ lực để thiết lập liên minh với vị vua này. Lucius Pinarius, viên thống đốc của Cyrene do Marcus Antonius bổ nhiệm, nhận được tin báo rằng Octavianus đã giành được thắng lợi trong trận Actium trước khi những sứ giả của Antonius đến. Pinarius đã hành quyết những sứ giả này và đào ngũ về phe của Octavianus, đồng thời giao nộp cho Octavianus 4 quân đoàn dưới sự chỉ huy của mình, đây là lực lượng mà Antonius khao khát muốn có được. Antonius suýt chút nữa đã tự sát sau khi nghe được tin về điều này nhưng các sĩ quan tham mưu của ông đã kịp ngăn cản. Ở Alexandria, ông đã xây dựng một ngôi nhà tranh ẩn dật trên hòn đảo Pharos mà ông gọi giễu cợt là Timoneion, theo tên nhà triết học Timon của Athens, vốn nổi tiếng nhờ sự nhạo báng và tính ghét người của mình. Herod Vĩ đại, người đã đích thân khuyên Antonius sau trận Actium rằng ông nên phản bội Cleopatra, đã đi tới Rhodes để gặp Octavianus và từ bỏ vương quyền của mình vì lòng trung thành với Antonius. Octavianus, bị ấn tượng bởi bài diễn văn và thấy được sự trung thành của Herod, đã cho phép ông ta giữ nguyên tước vị của mình ở Judea, cô lập Antonius và Cleopatra hơn nữa. Cleopatra có lẽ đã bắt đầu xem Antonius như là một gánh nặng vào cuối mùa hè năm 31 TCN, khi bà chuẩn bị trao Ai Cập cho người con trai Caesarion. Cleopatra đã lên kế hoạch để nhường ngôi lại cho con, còn mình thì đưa hạm đội từ Địa Trung Hải vào Biển Đỏ và sau đó căng buồm tới một bến cảng ngoại quốc, có lẽ ở Ấn Độ, tại đó bà có thể dành thời gian để hồi phục. Tuy nhiên, những kế hoạch trên cuối cùng đã bị từ bỏ khi Malichus I của Nabataea, được sự thông báo từ viên tổng đốc Syria của Octavianus là Quintus Didius, đã thiêu trụi hạm đội của Cleopatra để trả thù cho những tổn thất của mình trong một cuộc chiến tranh với Herod mà chủ yếu là do Cleopatra châm ngòi. Cleopatra đã không còn lựa chọn nào khác ngoài việc ở lại Ai Cập và đàm phán với Octavianus. Người ta đã thuật lại rằng, tại thời điểm này, Cleopatra đã bắt đầu việc thử nghiệm nồng độ của nhiều loại độc tố khác nhau trên các tù nhân, hoặc thậm chí là những người hầu của bà, mặc dù nhiều khả năng đây là sự tuyên truyền của những người ủng hộ Octavianus sau này. Cleopatra đã cho phép Caesarion đứng vào hàng ngũ ephebi, mà cùng với những bức phù điêu trên một tấm bia đá đến từ Koptos có niên đại là vào ngày 21 tháng 9 năm 31 TCN, cho thấy rằng Cleopatra lúc này đang chuẩn bị cho người con trai của bà trở thành vị vua duy nhất của Ai Cập. Để bày tỏ sự đoàn kết, Antonius cũng đã cho phép Marcus Antonius Antyllus, người con trai của ông với Fulvia, đứng vào hàng ngũ ephebi tại cùng thời điểm này. Những bức thư tín và các sứ giả riêng rẽ từ Antonius và Cleopatra sau đó đã được gửi đến chỗ Octavianus, lúc này vẫn còn đóng quân ở Rhodes, mặc dù vậy Octavianus dường như chỉ trả lời Cleopatra. Cleopatra đã thỉnh cầu rằng con cái của bà nên được thừa kế Ai Cập và rằng Antonius nên được phép sống lưu vong ở Ai Cập. Bà đã ngay lập tức gửi tặng Octavianus những món quà xa xỉ và cam kết sẽ biếu nhiều tiền bạc trong tương lại. Octavianus đã cử nhà ngoại giao Thyrsos tới chỗ Cleopatra sau khi bà đe dọa tự thiêu bản thân cùng với một lượng lớn châu báu của mình trong một ngôi mộ đang được xây dựng. Thyrsos đã khuyên bà nên giết Antonius để được tha mạng, nhưng khi Antonius nghi ngờ về ý định xấu xa này, ông đã quất roi đánh vị sứ giả và tống cổ ông ta về chỗ Octavianus mà không đưa ra bất kỳ thỏa thuận nào. Sau các cuộc đàm phán kéo dài mà cuối cùng không đi đến kết quả, Octavianus bắt đầu lên đường xâm chiếm Ai Cập vào mùa xuân năm 30 TCN, dừng chân tại Ptolemais ở Phoenicia và nhận được đồ tiếp tế mới cho đạo quân của mình từ người đồng minh mới Herod. Octavianus đã di chuyển về phía nam và nhanh chóng chiếm được Pelousion, trong khi Cornelius Gallus, hành quân về phía đông từ Cyrene, đã đánh bại lực lượng của Antonius gần Paraitonion. Octavianus đã tiến vào Alexandria một cách nhanh chóng, thế nhưng Antonius đã quay trở về và giành được một thắng lợi nhỏ trước đội quân mệt mỏi của Octavianus bên ngoài trường đua xe ngựa của thành phố. Tuy nhiên, vào ngày 1 tháng 8 năm 30 TCN, hạm đội và tiếp theo là lực lượng kỵ binh của Antonius đã đầu hàng Octavianus. Cleopatra đã ẩn mình trong lăng mộ của bà cùng với những người hầu thân cận; bà gửi một thông điệp tới cho Antonius rằng bà đã tự sát. Tuyệt vọng, Antonius đã đáp lại điều này bằng cách tự đâm vào bụng và qua đời ở tuổi 53. Theo Plutarch, ông vẫn còn đang hấp hối khi được mang tới chỗ Cleopatra ở tại lăng mộ của bà, ông đã nói với bà rằng ông đã chọn chết một cách danh dự và bà có thể tin tưởng người chiến hữu của Octavianus là Gaius Proculeius hơn bất cứ ai trong số những người tùy tùng của ông. Tuy nhiên, chính Proculeius lại là người đã xâm nhập vào lăng mộ của bà bằng cách sử dụng một cái thang và ngăn cản Nữ vương, không cho bà có thể tự thiêu bản thân cùng với kho báu của mình. Cleopatra sau đó đã được cho phép ướp xác và chôn cất Antonius bên trong lăng mộ của bà trước khi bà được hộ tống tới cung điện. Octavianus đã tiến vào Alexandria, chiếm đóng cung điện và bắt giữ ba người con út của Cleopatra. Theo Livius, khi gặp Octavianus, bà đã thẳng thừng nói rằng: "Ta sẽ không để bị áp giải trong một cuộc diễu binh chiến thắng" (), một sự ghi chép hiếm có về lời tuyên bố chính xác của bà. Octavianus đã hứa sẽ giữ cho bà còn sống nhưng lại không đưa ra lời giải thích nào về các kế hoạch tương lai của ông cho vương quốc của bà. Khi một người do thám thông báo cho bà biết rằng Octavianus đã lên kế hoạch để đưa bà cùng các con của mình tới Roma trong ba ngày, bà đã chuẩn bị tự sát, bởi vì bà không muốn bị dắt đi diễu hành trong một cuộc diễu binh mừng chiến thắng của La Mã giống như người em gái Arsinoe IV của mình. Chúng ta không rõ liệu rằng Cleopatra đã tự sát ở tuổi 39 trong cung điện hay là trong lăng mộ của bà vào tháng 8 năm 30 TCN. Người ta nói rằng bà đã được hộ tống bởi những người hầu của mình là Eiras và Charmion, họ cũng đã tự sát. Octavianus được cho là đã nổi giận vì điều này nhưng đã chôn cất bà theo tập tục hoàng gia bên cạnh Antonius trong ngôi mộ của bà. Thầy thuốc của Cleopatra, Olympos, đã không giải thích về nguyên nhân cái chết của bà, mặc dù niềm tin phổ biến cho rằng bà đã cho phép một con rắn mào, hoặc hổ mang Ai Cập, cắn và đầu độc bà. Plutarch thuật lại câu chuyện này, nhưng sau đó đưa ra giả thuyết về một công cụ (knestis) đã được sử dụng để đưa thuốc độc vào bằng cách cào xước, trong khi Cassius Dio nói rằng bà đã tiêm thuốc độc bằng một cái kim (belone) và Strabo đã phán đoán về một loại thuốc mỡ nào đó. Không có con rắn độc nào được tìm thấy cùng với thi thể của bà, nhưng bà đã có những vết chích nhỏ li ti trên cánh tay của mình mà có thể gây ra bởi một cái kim. Cleopatra đã quyết định gửi Caesarion tới Thượng Ai Cập trong những thời khắc cuối cùng của mình, có lẽ cùng với các kế hoạch để chạy trốn tới Nubia, Ethiopia hoặc Ấn Độ. Caesarion, lúc này là Ptolemaios XV, đã quay trở về Alexandria với hy vọng Octavianus sẽ cho phép mình làm vua nhưng chỉ tại vị được có 18 ngày thì bị Octavianus hạ lệnh hành quyết vào ngày 29 tháng 8 năm 30 TCN. Octavianus đã bị thuyết phục bởi lời khuyên từ triết gia Arius Didymus rằng thế giới này chỉ có chỗ dành cho một Caesar. Cùng với sự sụp đổ của vương quốc Ptolemaios, Ai Cập đã trở thành một tỉnh của La Mã, đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ Hy Lạp hóa. Vào tháng 1 năm 27 TCN, Octavianus đã được ban tước hiệu Augustus và nắm giữ được các quyền hạn về hiến pháp khiến cho ông trở thành vị hoàng đế La Mã đầu tiên, mở đầu cho thời kỳ Nguyên thủ của đế quốc La Mã. Vương quốc của Cleopatra và vai trò là một quân chủ Tiếp nối truyền thống của các vị vua Macedonia, Cleopatra đã cai trị Ai Cập và các vùng lãnh thổ khác, như Cyprus, với tư cách là một quân chủ chuyên chế và giữ vai trò như là nhà lập pháp duy nhất của vương quốc. Bà còn là người đứng đầu về tôn giáo trong vương quốc của mình, chủ trì toàn bộ các nghi lễ tôn giáo dành cho những vị thần của cả Ai Cập và Hy Lạp. Bà đã giám sát quá trình xây dựng những ngôi đền khác nhau dành cho các vị thần Ai Cập và Hy Lạp, một giáo đường cho người Do Thái ở Ai Cập và thậm chí đã xây dựng Caesareum của Alexandria dành cho giáo phái thờ cúng thuộc về người bảo trợ và người tình của bà, Julius Caesar. Cleopatra đã trực tiếp tham gia vào các công việc nhà nước trong lãnh thổ của bà, giải quyết các cuộc khủng hoảng, như là nạn đói, bằng việc ra lệnh phân phát lương thực trong các kho thóc của hoàng gia cho những người dân đang đói khát trong một thời kỳ hạn hán vào đầu triều đại của bà. Mặc dù nền kinh tế chỉ huy mà bà đã quản lý lại mang tính lý tưởng nhiều hơn là thực tế, chính quyền đã cố gắng áp đặt việc kiểm soát giá cả, thuế quan và sự độc quyền của nhà nước đối với các loại hàng hóa nhất định, ấn định tỉ giá hối đoái cho các loại ngoại tệ cũng như những luật lệ cứng rắn ép buộc người nông dân không được rời khỏi làng của họ trong mùa gieo trồng và thu hoạch. Những khó khăn hiện rõ về tài chính đã dẫn đến việc Cleopatra phải làm giảm giá trị tiền xu, vốn bao gồm tiền bạc và đồng nhưng lại không có tiền xu bằng vàng giống như của một số vị tiên vương Ptolemaios của bà. Di sản Con cái và người nối dõi Sau khi bà tự sát, ba người con của bà là Cleopatra Selene II, Alexandros Helios và Ptolemaios Philadelphos được đưa tới Roma cùng với chị gái của Octavianus là Octavia, một người vợ cũ của cha họ, với vai trò là giám hộ. Cleopatra Selene II và Alexandros Helios có mặt trong lễ khải hoàn La Mã của Octavianus vào năm 29 TCN. Không rõ số phận của Alexandros Helios và Ptolemaios Philadelphos sau thời điểm đó ra sao. Về phần Cleopatra Selene II, Octavia đã sắp xếp đám cưới giữa bà và Juba II, con trai của Juba I, vua của vương quốc Numidia ở Bắc Phi đã bị Caesar biến thành một tỉnh La Mã năm 49 TCN do ông ủng hộ kẻ thù của Caesar là Pompey. Sau khi đám cưới được tổ chức năm 25 TCN, hoàng đế Augustus đã bổ nhiệm Juba II cùng Cleopatra Selene làm nhà cai trị Mauretania. Tại đây, họ đã định đô tại thành phố Iol của Carthage năm xưa và đổi tên nó thành Caesarea Mauretaniae (Cherchell, Algérie ngày nay). Cleopatra Selene II đã chiêu mộ nhiều học giả, nghệ sĩ và cố vấn viên từ triều đình của mẹ bà ở Alexandria đến phục vụ bà tại Caesarea, một thành phố nay đã thấm nhuần nền văn hóa Hy Lạp hóa của Hy Lạp. Ngoài ra bà đã đặt tên con trai mình là Ptolemaios của Mauretania nhằm tôn vinh di sản triều đại Ptolemaios của họ. Cleopatra Selene II mất vào khoảng năm 5 TCN, và khi Juba II mất vào năm 23/24 CN, ngai vị đã được kế thừa bởi con trai ông là Ptolemaios. Tuy nhiên, Ptolemaios có lẽ đã bị xử tử bởi hoàng đế La Mã Caligula năm 40, lấy cớ rằng Ptolemaios đã phạm thượng khi tự cho đúc tiền dành cho riêng mình một cách bất hợp pháp và sử dụng regalia (những thứ chỉ vua chúa dùng) dành riêng cho hoàng đế La Mã. Ptolemaios của Mauretania là vị vua được biết đến cuối cùng của triều đại Ptolemaios, mặc dù nữ vương Zenobia của Đế quốc Palmyra tồn tại ngắn ngủi trong thời kỳ khủng hoảng thế kỷ thứ 3 có tuyên bố là hậu duệ của Cleopatra. Sự thờ phụng Cleopatra vẫn tồn tại đến muộn nhất là vào năm 373 khi một người chép lại cuốn sách về thần Isis người Ai Cập có tên là Petesenufe có giải thích rằng rằng ông đã "phủ vàng lên hình tượng của Cleopatra". Ghi chép trong văn chương và sử học La Mã Tuy có đến tận 50 bộ sử La Mã cổ đại nhắc đến Cleopatra nhưng chúng chỉ bao gồm những ghi chép ngắn gọn về trận Actium, việc bà tự tử hay những thông tin mang tính tuyên truyền của Augustus về những khuyết điểm của bà. Tác phẩm Cuộc đời của Antonius viết bởi Plutarchus trong thế kỷ thứ 1 tuy không phải là một cuốn tiểu sử về Cleopatra, nhưng lại chứa đựng những ghi chép kỹ lưỡng nhất về cuộc đời của bà. Plutarchus tuy sống sau Cleopatra một thế kỷ, nhưng đã dựa vào nguồn tư liệu chính như Philotas của Amphissa, một người có quyền ra vào cung điện Ptolemaios, hay từ một nhà vật lý học tư của Cleopatra hay từ Quintus Dellius, một người bạn tâm tình của cả Antonius và Cleopatra. Tác phẩm của Plutarchus bao gồm cả quan điểm về bà của Augustus (vốn là tiêu chuẩn thời bấy giờ) cũng như những nguồn không bị tiêu chuẩn đó ràng buộc, chẳng hạn như theo lời kể của các nhân chứng. Sử gia người La Mã gốc Do Thái Josephus sống vào thế kỷ 1 đã cung cấp những thông tin có giá trị về cuộc đời của Cleopatra thông qua mối quan hệ ngoại giao của bà với Herod Vĩ đại. Tuy nhiên, tác phẩm này lại chủ yếu dựa vào hồi ký của Herod và những thông tin có khuynh hướng thiên vị của Nikolaos xứ Damascus, người từng là thủ hộ cho con cái của Cleopatra trước khi chuyển đến Judea để làm cố vấn và một người ghi chép biên niên sử dưới trướng của Herod. Tác phẩm Lịch sử La Mã được hoàn thành vào đầu thế kỷ thứ 3 bởi Cassius Dio tuy không bao hàm được một cách hoàn toàn sự phức tạp của thế giới Hy Lạp hóa thời hậu kỳ nhưng vẫn cung cấp những ghi chép liền mạch về thời kỳ mà Cleopatra cai trị. Cleopatra được đề cập một cách ít ỏi trong cuốn hồi ký De Bello Alexandrino của một viên sĩ quan vô danh phục vụ Julius Caesar. Các tác phẩm của Cicero, một người quen biết Cleopatra, cung cấp một bức chân dung không tốt về bà. Các tác giả thời kỳ Augustus như Vergilius, Horatius, Propertius và Ovidius duy trì những quan điểm tiêu cực về Cleopatra được chính quyền La Mã phê chuẩn dù Vergilius đã phát triển tư tưởng coi Cleopatra là một nhân vật lãng mạn và của thể loại kịch mêlo hoành tráng. Horatius coi sự tự sát của Cleopatra là một lựa chọn tích cực - một ý tưởng được đồng thuận bởi Geoffrey Chaucer thời Hậu kỳ Trung cổ. Các sử gia Strabo, Velleius, Valerius Maximus, Pliny Già và Appianus tuy không cung cấp thông tin đầy đủ như Plutarch, Josephus hay Cassius Dio nhưng lại đề cập đến một số chi tiết về cuộc đời của bà mà đã không còn tồn tại trong các tài liệu lịch sử khác. Những chữ khắc trên tiền xu Ptolemaios đương thời và một số tài liệu giấy cói Ai Cập đã đưa ra những thông tin xác thực quan điểm của Cleopatra, tuy nhiên những tài liệu này rất hạn chế nếu so với các tác phẩm văn học La Mã. Tác phẩm Libyka rời rạc được ủy nhiệm bởi con rể Cleopatra là Juba II cung cấp một cái nhìn thoáng qua về sự tồn tại của những tài liệu sử học chứa đựng quan điểm của bà. Giới tính có lẽ là điều khiến Cleopatra bị mô tả như một nhân vật thứ yếu và tầm thường trong các tác phẩm sử học thời cổ đại, thời trung cổ và thậm chí thời hiện đại về Ai Cập và thế giới Hy-La cổ đại. Điển hình như nhà sử học Ronald Syme (1903–1989) đã khẳng định rằng bà ít quan trọng với Julius Caesar, chỉ những tuyên truyền của Octavianus đã nâng tầm quan trọng của bà lên cao quá mức. Tuy phần nhiều coi Cleopatra là một trong những người có sức quyến rũ sung mãn, chỉ có hai người bạn tình của bà được biết đến đó là Julius Caesar và Marcus Antonius - hai người La Mã nổi tiếng nhất thời bấy giờ và là những người có nhiều khả năng nhất để đảm bảo sự tồn vong triều đại của bà. Plutarchus mô tả Cleopatra là một người có cá tính mạnh mẽ và quyến rũ hơn là mang vẻ đẹp thể chất. Miêu tả trong văn hóa Miêu tả trong nghệ thuật thời cổ đại Tượng Cleopatra được mô tả trong nhiều tác phẩm nghệ thuật cổ đại mang phong cách Ai Cập cũng như Hy Lạp thời kỳ Hy Lạp hóa và La Mã. Những tác phẩm còn sót lại bao gồm tượng toàn thân, tượng chân dung, phù điêu và tiền đúc, cũng như trên một đồ trang sức đá chạm thời cổ đại mang hình Cleopatra và Marcus Antonius theo phong cách Hy Lạp, hiện được bảo quản tại ở Bảo tàng Altes, Berlin. Những tác phẩm đương đại miêu tả Cleopatra được sản xuất cả trong lẫn ngoài lãnh thổ của triều đại Ptolemaios Ai Cập. Thí dụ, có một bức tượng bằng đồng mạ vàng lớn của Cleopatra đã từng tồn tại bên trong Đền Venus Genetrix ở Roma. Đây là lần đầu tiên mà một người sống có tượng được đặt bên cạnh một vị thần trong một ngôi đền La Mã. Nó được dựng lên ở đó bởi Julius Caesar và vẫn còn nằm ở trong ngôi đền này ít nhất cho đến thế kỷ thứ 3. Việc nó tồn tại có lẽ do nhờ vào sự bảo trợ của Caesar, mặc dù Augustus cũng đã không hạ lệnh loại bỏ hay phá hủy những tác phẩm nghệ thuật miêu tả Cleopatra ở Alexandria. Về phần những bức tượng La Mã còn tồn tại, có một bức tượng Cleopatra phong cách La Mã có kích thước như người thật đã được tìm thấy gần Tomba di Nerone, Roma dọc theo đường Via Cassia và hiện đang nằm trong Museo Pio-Clementino, Bảo tàng Vatican. Trong tác phẩm "Cuộc đời của Antonius", Plutarchus đã tuyên bố rằng các bức tượng công cộng của Marcus Antonius đã bị Augustus hạ lệnh phá dỡ nhưng những bức tượng của Cleopatra thì vẫn được bảo tồn sau khi bà chết nhờ người bạn Archibius của bà đã trả cho hoàng đế 2.000 ta-lăng để ngăn cản chúng phải chịu chung số phận như những bức tượng của vị hôn phu của bà. Kể từ những năm 1950, các học giả đã bắt đầu tranh luận liệu bức tượng Vệ nữ đồi Esquilino—được phát hiện vào năm 1874 trên đồi Esquilino ở Roma, hiện nằm trong Palazzo dei Conservatori thuộc Viện bảo tàng Capitolino dựa trên kiểu tóc và nét mặt của tượng, vương miện hoàng gia đeo trên đầu và rắn hổ mang Ai Cập đội mặt trời quấn quanh chân đế cột, liệu có phải của Cleopatra hay không. Những người phỉ báng lý thuyết này cho rằng các đặc điểm trên khuôn mặt của bức tượng này khác với trên bức tượng chân dung hiện nằm ở Berlin và những chân dung của Cleopatra trên tiền đúc và khẳng định rằng việc bà được mô tả như thần Vệ nữ trần truồng (tức là Aphrodite trong thần thoại Hy Lạp) là một điều không chắc chắn. Tuy nhiên, bà được mô tả là nữ thần Isis trong một bức tượng Ai Cập. Vệ nữ đồi Esquilino thường được cho là một bản sao La Mã thế kỷ 1 của một bức tượng Hy Lạp theo trường phái Pasiteles từ giữa thế kỷ 1 TCN. Chân dung trên tiền xu Những mẫu tiền xu còn sót lại của Cleopatra bao gồm những mẫu vật từ mọi năm trong triều đại của bà, từ năm 51 đến 30 TCN. Cleopatra là nữ vương duy nhất của vương triều Ptolemaios tự mình phát hành tiền xu nhân danh mình và bà gần như chắc chắn là người đã truyền cảm hứng cho người tình của mình là Caesar để trở thành người La Mã đầu tiên cho đúc chân dung của mình trên những đồng tiền do bản thân phát hành. Cleopatra cũng là nữ vương ngoại quốc đầu tiên có hình ảnh xuất hiện trên một đồng tiền La Mã. Những đồng tiền được phát hành trong giai đoạn mà bà kết hôn với Marcus Antonius mang chân dung của cả hai miêu tả Cleopatra mang những đặc điểm giống như chồng, như chiếc mũi đại bàng và một cái cằm nhô ra phía trước. Những đặc điểm khuôn mặt tương đồng này tuân theo một quy ước nghệ thuật đại diện cho sự hài hòa lẫn nhau giữa cặp vợ chồng hoàng gia. Những đặc điểm mạnh mẽ, gần như nam tính trên khuôn mặt của bà trên những đồng tiền này tạo nên sự nổi bật, khác biệt hoàn toàn so với những hình ảnh dịu dàng, mượt mà hay thậm chí là mang những hình ảnh lý tưởng về bà trên những tác phẩm điêu khắc theo phong cách Hy Lạp lẫn Ai Cập. Những đặc điểm nam tính trên khuôn mặt của bà trên tiền xu tương tự như của cha bà Ptolemaios XII Auletes và có lẽ giống như tổ tiên của bà là Arsinoe II (316 – 260 TCN) hay những miêu tả về những nữ vương thời kỳ xa xưa như Hatshepsut và Nefertiti. Rất có thể là vì tính chính trị mà khuôn mặt của Antonius được miêu tả để không chỉ giống với khuôn mặt của bà mà còn như những tổ tiên người Hy Lạp gốc Macedonia đã thành lập nên triều đại Ptolemaios. Điều này nhằm cho dân chúng Ai Cập biết rằng chồng bà là một thành viên hợp pháp của hoàng gia. Chữ khắc trên tiền được viết bằng tiếng Hy Lạp, nhưng theo danh cách ("nominative case") như tiền La Mã chứ không phải theo sở hữu cách ("genitive case") như tiền Hy Lạp. Ngoài ra, chữ được khắc theo kiểu vòng tròn dọc theo các cạnh của đồng xu thay vì được đúc theo chiều ngang hay theo chiều dọc như phong tục Hy Lạp. Những khía cạnh trên tiền xu của họ đại diện cho sự tổng hợp của văn hóa Hy Lạp và La Mã và có lẽ cũng là một lời tuyên bố về sự ưu việt của vợ chồng Antonius hoặc Cleopatra so với thần dân của mình - một điều mà đối với các học giả hiện đại là chưa rõ ràng. Diana E. E. Kleiner cho rằng, trên một trong những đồng tiền đúc có hình ảnh kép của đôi vợ chồng, Cleopatra đã khiến mình trông nam tính hơn so với các bức chân dung khác và bà giống như một nữ vương chư hầu La Mã được chào đón hơn là một nhà cai trị người Hy Lạp. Cleopatra trên thực tế đã cho đúc những hình ảnh nam tính của mình trên tiền xu trước khi có quan hệ tình ái với Antonius, như trong lần phải sống lưu vong một thời gian ngắn ở Syria và Levant. Về điều này, Joann Fletcher giải thích rằng bà muốn được biểu lộ giống như cha mình và qua đó là một người thừa kế hợp pháp cho một vị vua nam giới của vương triều Ptolemaios. Nhiều đồng tiền khác, chẳng hạn như một chiếc tetradrachma bạc được đúc vào một khoảng thời gian nào đó sau khi Cleopatra kết hôn với Antonius vào năm 37 TCN mô tả bà mặc một chiếc áo hoàng gia với một kiểu tóc 'dưa'. Sự kết hợp giữa kiểu tóc này và một chiếc áo choàng cũng được mô tả trong hai bức tượng chân dung bằng đá cẩm thạch còn sót lại. Kiểu tóc 'dưa' của Cleopatra – tóc buộc lại thành một búi, cũng là một kiểu tóc mà tổ tiên nhà Ptolemaios của bà là Arsinoe II và Berenice II (266 – 221 TCN) đã mang trên những hình ảnh trên tiền xu của họ. Sau chuyến viếng thăm Roma của bà vào năm 46–44 TCN, kiểu tóc này đã được những phụ nữ La Mã thời trang đón nhận. Tuy nhiên, nó đã sớm bị bỏ rơi, dọn chỗ cho một vẻ đẹp khiêm tốn và có phần khắc khổ hơn dưới giai đoạn cai trị bảo thủ của Augustus. Tượng chân dung Hy-La Trong số những bức tượng chân dung mang phong cách Hy Lạp-La Mã còn sót lại của Cleopatra, tác phẩm điêu khắc được gọi là 'Cleopatra của Berlin', nằm trong bộ sưu tập Antikensammlung Berlin của Bảo tàng Altes, sở hữu chiếc mũi đầy đủ, trong khi bức tượng chân dung được gọi là 'Cleopatra của Vatican' bị hư hỏng với một cái mũi đã vỡ. Cả hai bức tượng 'Cleopatra của Berlin' và 'Cleopatra của Vatican' đều đội vương miện, mang những đặc điểm khuôn mặt tương tự và có lẽ đã từng giống như khuôn mặt của bức tượng đồng tọa lạc bên trong đền Venus Genetrix. Cả hai bức tượng đều có niên đại từ giữa thế kỷ thứ 1 TCN và được tìm thấy trong các biệt thự La Mã dọc theo đường Via Appia ở Ý, bức tượng "Cleopatra của Vatican" đã được khai quật tại Villa dei Quintili. Francisco Pina Polo cho biết rằng những miêu tả của Cleopatra trên tiền xu chắc chắn thể hiện đúng hình ảnh của bà và bức tượng chân dung Berlin đã chứng thực điều đó khi cả hai đều có những điểm tương đồng như mái tóc búi lại, vương miện đội trên đầu và một cái mũi chim ưng. Một bức chân dung điêu khắc thứ ba của Cleopatra được các học giả chấp nhận hiện nằm tại Bảo tàng Khảo cổ học ở Cherchel, Algérie. Bức chân dung này có hình dáng hoàng gia và các đặc điểm khuôn mặt tương tự như hai bức tượng chân dung Berlin và Vatican nhưng có kiểu tóc độc đáo hơn và thậm chí có thể mô tả con gái của Cleopatra VII là Cleopatra Selene II. Một bức tượng chân dung La Mã bằng đá cẩm thạch Paros khác của Cleopatra, mang một chiếc mũ kền kền theo phong cách Ai Cập, hiện nằm ở Bảo tàng Capitoline. Những bức tượng chân dung khác có thể, chưa được xác thực, của Cleopatra bao gồm một chiếc ở Bảo tàng Anh, Luân Đôn, được làm từ đá vôi, có lẽ chỉ mô tả một người phụ nữ trong đoàn tùy tùng của bà trong chuyến đi đến Roma. Người phụ nữ được thể hiện trong bức tượng chân dung này có các đặc điểm khuôn mặt tương tự như các bức chân dung khác (bao gồm cả mũi chim ưng), nhưng không đội chiếc vương miện và mang một kiểu tóc khác. Tuy nhiên, bức tượng ở Bảo tàng Anh có thể đại diện cho Cleopatra ở một giai đoạn nào khác trong cuộc đời của bà và cũng có thể tiết lộ nỗ lực để loại bỏ việc sử dụng những phù hiệu hoàng gia (tức là diadem) để khiến mình hấp dẫn hơn với công dân Cộng hòa La Mã. Duane W. Roller cho rằng, bức tượng trong Bảo tàng Anh, cùng với những bức tượng nằm trong Bảo tàng Ai Cập, Cairo, Bảo tàng Capitoline, Roma và trong bộ sưu tập riêng của Maurice Nahmen (1868–1948), trong khi có các đặc điểm và kiểu tóc tương tự như bức tượng Berlin nhưng lại không đội vương miện hoàng gia, rất có thể đại diện cho các thành viên hoàng tộc hoặc thậm chí những phụ nữ người La Mã bắt chước kiểu tóc mốt của Cleopatra. Hội họa Trong ngôi nhà của Marcus Fabius Rufus tại Pompeii, Ý, một bức tranh tường phong cách Pompeii thứ hai có niên đại vào giữa thế kỷ thứ 1 TCN thể hiện nữ thần Venus mang trên tay thần Ái tình ở gần cửa đền thờ lớn có lẽ là một mô tả về Cleopatra VII trong hình dạng Venus Genetrix cùng với con trai Caesarion. Việc đặt làm bức tranh này xảy ra đồng thời với việc dựng lên ngôi đền Venus Genetrix trong Forum của Caesar vào tháng 9 năm 46 TCN, nơi mà Julius Caesar đã cho dựng một bức tượng mạ vàng miêu tả Cleopatra. Bức tượng này có khả năng hình thành nền tàng cho những tác phẩm miêu tả bà trong cả nghệ thuật điêu khắc cũng như bức tranh này tại Pompeii. Người phụ nữ trong bức tranh đội một vương miện hoàng gia trên đầu và giống như bức tượng chân dung Vatican Cleopatra. Căn phòng với bức tranh đã bị chủ nhân của nó xây bịt kín, có lẽ phản ứng với việc Caesarion bị hành quyết vào năm 30 TCN theo lệnh của Octavianus, khi những mô tả công khai về con trai của Cleopatra sẽ không thuận lợi với những người La Mã trong chế độ mới. Đằng sau chiếc vương miện màu vàng của bà với một viên ngọc màu đỏ là một tấm màn mờ với những nếp nhăn gợi ý kiểu tóc 'dưa' được Nữ vương ưa chuộng. Da trắng ngà, mặt tròn, mũi khoằm dài và đôi mắt tròn và lớn là những đặc điểm chung trong mô tả về các vị thần của cả người La Mã và Ptolemaios. Roller khẳng định rằng "dường như có chút nghi ngờ rằng đây là một mô tả về Cleopatra và Caesarion trước cánh cửa của Ngôi đền Venus trong Forum Julium và như vậy, nó trở thành bức tranh đương thời duy nhất còn tồn tại của nữ vương". Một bức tranh khác từ Pompeii, có niên đại từ đầu thế kỷ thứ 1 CN và nằm trong ngôi nhà Giuseppe II, chứa một bức tranh có thể có vẽ Cleopatra VII cùng với con trai Caesarion. Cả hai đều đội vương miện hoàng gia trong khi người đàn bà nằm tựa đầu và uống thuốc độc tự tử. Bức tranh ban đầu được cho là miêu tả một nữ quý tộc Carthage, Sophonisba, người đã uống thuốc độc và tự tử theo lệnh của người yêu là Masinissa, vua của Numidia vào khoảng thời gian cuộc chiến tranh Punic lần thứ hai (218–201 TCN) kết thúc. Các lập luận ủng hộ việc bức tranh đó miêu tả Cleopatra bao gồm sự liên kết mạnh mẽ giữa gia đình của Cleopatra với gia đình hoàng gia Numidia, Masinissa và Ptolemaios VIII là cộng sự trong khi con gái riêng của Cleopatra đã kết hôn với hoàng tử Numidia là Juba II. Sophonisba cũng là một nhân vật ít tên tuổi hơn khi bức tranh này được tạo ra, trong khi việc tự sát của Cleopatra nổi tiếng hơn nhiều. Không có một con rắn độc nào có mặt trong bức tranh, nhưng nhiều người La Mã thời bấy giờ đã giữ quan điểm rằng Cleopatra đã nhận được thuốc độc theo một cách khác thay vì bị một con rắn độc cắn. Một loạt các cánh cửa đôi trên bức tường nằm ở hậu cảnh của bức tranh, được đặt ở vị trí rất cao so với những người ở trong đó, gợi ý bố cục được mô tả của lăng mộ Cleopatra ở Alexandria. Một người hầu nam giữ miệng của một con cá sấu Ai Cập nhân tạo (có thể là một cái khay xử lý phức tạp), trong khi một người đàn ông khác đang đứng, ăn mặc như một người La Mã. Năm 1818, một bức tranh vẽ bằng sáp màu mà ngày nay đã mất tích đã được phát hiện tại Đền Serapis tại Villa Adriana gần Tivoli, Lazio, Ý mô tả Cleopatra tự tử với một con rắn độc cắn vào ngực của bà. Một phân tích hóa học được thực hiện năm 1822 đã xác nhận rằng bức tranh được tạo thành từ một phần ba sáp và hai phần ba nhựa cây. Độ dày của bức tranh trên những vị trí cơ thể trần truồng của Cleopatra và những chỗ được che bằng vải được báo cáo là tương tự như những bức tranh chân dung xác ướp Fayum. Một bức tranh khắc thép được xuất bản bởi John Sartain năm 1885 mô tả bức tranh như được mô tả trong báo cáo khảo cổ cho thấy Cleopatra mặc quần áo và đồ trang sức chính xác của Ai Cập trong thời kỳ Hellenistic, cũng như vương miện chói sáng của các vị vua nhà Ptolemaios, giống như chân dung trên các đồng tiền khác nhau của họ được đúc trong thời gian họ trị vì. Sau khi Cleopatra tự tử, Octavianus đã ủy thác vẽ một bức tranh mô tả bà bị rắn cắn, dùng hình ảnh này thay cho chỗ của bà trong suốt cuộc diễu hành chiến thắng của ông ở Roma. Bức tranh chân dung về cái chết của Cleopatra được mang khỏi Roma cùng với phần lớn các tác phẩm nghệ thuật và kho báu được Hoàng đế Hadrianus sử dụng để trang trí biệt thự riêng của mình, nơi nó được tìm thấy trong một ngôi đền Ai Cập. Bình Portland Bình Portland, một bình thủy tinh chạm đá La Mã có niên đại vào thời kỳ Augustus và hiện nằm trong Bảo tàng Anh bao gồm một miêu tả mà có thể là của Cleopatra với Marcus Antonius. Theo cách giải thích này, có thể nhìn thấy Cleopatra đang níu Antonius và cố gắng kéo ông về phía mình trong khi một con rắn độc đang nhoi lên giữa hai chân bà, thần tình yêu Eros đang bay ở phía trên và Anton, người được cho là tổ tiên của gia tộc Antonia, đang nhìn một cách vô vọng khi hậu duệ của mình là Antonius đang đưa gia tộc đến bờ diệt vong. Phía bên kia của chiếc bình có lẽ có một cảnh của Octavia Minor, bị bỏ rơi bởi chồng cũ Antonius, nhưng đã bị anh trai là hoàng đế Augustus quan sát. Chiếc bình này do đó được tạo ra không sớm hơn năm 35 TCN, khi Antonius cho Octavia trở về Ý còn mình ở lại với Cleopatra ở Alexandria. Nghệ thuật Ai Cập bản địa Bức tượng chân dung của Cleopatra trong Bảo tàng Hoàng gia Ontario đại diện cho một bức tượng chân dung của Cleopatra theo phong cách Ai Cập. Có niên đại từ giữa thế kỷ thứ 1 TCN, có lẽ đây là mô tả sớm nhất về Cleopatra như một nữ thần và pharaon cầm quyền Ai Cập. Tác phẩm điêu khắc này cũng có đôi mắt rõ ràng tương đồng với những bản sao La Mã của tác phẩm điêu khắc của vương quốc Ptolemaios. Quần thể đền Dendera gần Dendera, Ai Cập, chứa hình ảnh chạm khắc theo phong cách Ai Cập dọc theo các bức tường bên ngoài của Đền thờ Hathor mô tả Cleopatra và người con trai trẻ của bà là Caesarion, như một người trưởng thành và một vị pharaon đang cầm quyền, đang cúng các vị thần. Augustus đã cho khắc tên ông ở đó sau khi Cleopatra chết. Một bức tượng đá bazan đen lớn có chiều cao hiện được đặt tại Bảo tàng Hermitage ở Saint Petersburg, Nga, ban đầu được cho là thể hiện Arsinoe II, vợ của Ptolemaios II, nhưng phân tích gần đây đã chỉ ra rằng nó có thể mô tả hậu duệ của bà là Cleopatra VII do ba uraeus (rắn đội mặt trời) tô điểm cho chiếc mũ của cô, một sự gia tăng so với chiếc mũ có hai uraeus được sử dụng bởi Arsinoe II, tượng trưng cho sự cai trị của bà trên Hạ và Thượng Ai Cập. Người phụ nữ trong bức tượng bazan này cũng cầm một sừng dê kết hoa quả kép (dikeras), một thứ có thể được nhìn thấy trên tiền xu của cả Arsinoe II lẫn Cleopatra VII. Trong tác phẩm Kleopatra und die Caesaren (2006), Bernard Andreae cho rằng bức tượng bazan này, giống như các bức chân dung Ai Cập được lý tưởng hóa khác, không chứa các đặc điểm của khuôn mặt thực tế và do đó mà không thể nhận biết về ngoại hình. Adrian Goldsworthy viết rằng, mặc dù được thể hiện trong phong cách nghệ thuật Ai Cập bản địa, Cleopatra có lẽ chỉ ăn mặc như một người bản xứ cho một số nghi thức và thay vào đó, bà thường ăn mặc như một vị vua chúa người Hy Lạp, bao gồm dải buộc đầu Hy Lạp mà ta thường thấy trong các bức tượng chân dung của bà. Sự tiếp nhận thời Trung Cổ và Cận đại Trong thời hiện đại, Cleopatra đã trở thành một biểu tượng của văn hóa đại chúng, một danh tiếng được hình thành bởi những vở kịch có niên đại từ thời kỳ Phục Hưng cũng như nghệ thuật thị giác, chẳng hạn như hội họa và phim ảnh. Những tài liệu này phần lớn vượt qua phạm vi và quy mô của các ghi chép trong văn học về bà trong thời kỳ Cổ đại cổ điển và đã có những tác động lớn hơn về quan điểm của công chúng về Cleopatra nói chung. Nhà thơ người Anh thế kỷ 14 Geoffrey Chaucer trong tác phẩm The Legend of Good Women của mình đã bối cảnh hóa Cleopatra cho thế giới Kitô giáo thời Trung cổ. Miêu tả của ông về Cleopatra và Antonius, một chàng hiệp sĩ xuất sắc vướng vào một tình yêu kiểu hiệp sĩ Trung cổ (courtly love), đã được hiểu trong thời hiện đại như là một bài thơ châm biếm khôi hài và châm biếm kỳ thị nữ giới. Tuy nhiên, Chaucer nhấn mạnh rằng mối quan hệ của Cleopatra với chỉ hai người đàn ông không giống như cuộc đời của một kẻ đi quyến rũ người khác và ông đã viết tác phẩm này một phần trong phản ứng của mình đối với những mô tả tiêu cực về Cleopatra trong De Mulieribus Claris và De casibus Virorum Illustrium bởi nhà thơ Ý thế kỷ 14 Giovanni Boccaccio. Nhà nhân văn học thời kỳ Phục hưng Bernardino Cacciante, trong tác phẩm Libretto apologetico delle donne của mình, là người Ý đầu tiên bảo vệ danh tiếng của Cleopatra và chỉ trích nhận thức đạo đức và kỳ thị phụ nữ trong tác phẩm của Boccaccio. Những tác phẩm lịch sử bằng tiếng Ả Rập hay của thế giới Hồi giáo đề cập đến triều đại của Cleopatra, chẳng hạn như Bãi cỏ bằng vàng của Al-Masudi, mặc dù tác phẩm này sai lầm khi nói rằng Octavianus đã chết ngay sau khi Cleopatra tự sát. Trong nghệ thuật thị giác, những mô tả điêu khắc về Cleopatra trong hình tượng một nhân vật khỏa thân đang tự tử được khởi đầu với các nhà điêu khắc thế kỷ 16 như Bartolommeo Bandinelli và Alessandro Vittoria. Các bản in sớm mô tả Cleopatra bao gồm những tác phẩm của các nghệ sĩ thời Phục Hưng như Raffaello và Michelangelo, cũng như các tác phẩm khắc gỗ Quattrocento thế kỷ 15 trong các ấn phẩm minh họa về các tác phẩm của Boccaccio. Cleopatra cũng xuất hiện trong bức vẽ của các bản thảo có hình minh hoạ, chẳng hạn như miêu tả của bà và Marcus Antonius nằm trong một ngôi mộ theo phong cách Gothic của nghệ nhân Boucicaut năm 1409. Trong nghệ thuật biểu diễn, cái chết của nữ vương Elizabeth I của Anh năm 1603 và sự xuất bản của một bức thư được cho là Cleopatra ở Đức đã truyền cảm hứng cho Samuel Daniel để thay đổi và tái xuất bản vở kịch Cleopatra năm 1594 của ông vào năm 1607. Tiếp theo là nhà viết kịch William Shakespeare đã cho biểu diễn tác phẩm Antony and Cleopatra lần đầu tiên vào năm 1608, cung cấp một cái nhìn sâu, tục tĩu về Cleopatra, một điều hoàn toàn trái ngược với vị Nữ vương Đồng trinh của Anh. Cleopatra cũng xuất hiện trong các vở opera, như trong Giulio Cesare in Egitto năm 1724 của George Frideric Handel, thể hiện tình yêu của Caesar và Cleopatra. Mô tả thời hiện đại và hình ảnh thương hiệu Ở Anh quốc thời kỳ Victoria, Cleopatra gắn liền với nhiều khía cạnh của văn hóa Ai Cập cổ đại và hình ảnh của bà được sử dụng để tiếp thị các sản phẩm gia dụng khác nhau, bao gồm đèn dầu, in thạch bản, bưu thiếp và thuốc lá. Các tiểu thuyết hư cấu như Cleopatra của H. Rider Haggard (1889) và Une nuit de Cléopâtre ("Một đêm của Cleopatra") của Théophile Gautier (1838) mô tả nữ vương là một người phụ nữ phương Đông đầy gợi cảm và huyền bí, trong khi tác phẩm Cleopatra (1894) của nhà Ai Cập học Georg Ebers có nền tảng chính xác hơn về lịch sử. Nhà soạn kịch người Pháp Victorien Sardou và nhà soạn kịch người Ireland George Bernard Shaw đã xuất bản các vở kịch về Cleopatra, trong khi những vở kịch như Antony and Cleopatra của F. C. Burnand đã mô tả châm biếm về Nữ vương, kết nối bà và môi trường mà bà sống với thời hiện đại. Antony and Cleopatra của Shakespeare được coi là kinh điển trong thời đại Victoria. Sự nổi tiếng của nó đã dẫn đến nhận thức rằng bức họa năm 1885 của Lawrence Alma-Tadema mô tả cuộc gặp gỡ của Antonius và Cleopatra trên một con thuyền loạn lạc ở Tarsus, mặc dù Alma-Tadema tiết lộ trong một bức thư riêng tư rằng bức tranh miêu tả cuộc họp tiếp theo của họ tại Alexandria. Trong truyện ngắn Đêm Ai Cập (chưa hoàn thành) năm 1825, Alexander Pushkin đã phổ biến những tuyên bố bị phần lớn mọi người từ chối của nhà sử học La Mã thế kỷ thứ 4 Sextus Aurelius Victor rằng Cleopatra đã bán dâm cho đàn ông với cái giá là mạng sống của họ. Tiếng tăm của Cleopatra cũng đã được lan rộng ra bên ngoài thế giới phương Tây và Trung Đông khi học giả nhà Thanh Nghiêm Phục (1854–1921) đã viết một cuốn tiểu sử quy mô về bà. Bộ phim câm kinh dị Pháp Cléopâtre của Georges Méliès là bộ phim đầu tiên mô tả nhân vật Cleopatra. Những bộ phim Hollywood thế kỷ 20 đã bị ảnh hưởng bởi các phương tiện truyền thông thời Victoria trước đó, đã giúp định hình nhân vật Cleopatra do Theda Bara đóng trong phim Cleopatra (1917), do Claudette Colbert trong Cleopatra (1934) và do Elizabeth Taylor trong Cleopatra (1963). Ngoài vai diễn của cô như một Nữ vương 'ma cà rồng', Cleopatra của Bara cũng kết hợp các yếu tố của chủ nghĩa phương Đông thế kỷ 19, chẳng hạn như chủ nghĩa độc tài trộn lẫn với tính dâm đãng cởi mở và nguy hiểm của nữ giới. Nhân vật Cleopatra của Colbert phục vụ như một người mẫu quyến rũ (Glamour Model) để bán các sản phẩm theo chủ đề Ai Cập trong các cửa hàng bách hóa vào thập niên 1930, một điều có thể liên kết kỹ thuật quay phim của đạo diễn Cecil B. DeMille và tầm quan trọng của các mặt hàng tiêu dùng nhắm vào khán giả nữ. Để chuẩn bị cho bộ phim có sự tham gia của Taylor với vai Cleopatra, các tạp chí phụ nữ đầu thập niên 1960 đã quảng cáo cách sử dụng trang điểm, quần áo, đồ trang sức và kiểu tóc để đạt được một vẻ đẹp 'Ai Cập' tương tự như nữ vương Cleopatra và Nefertiti. Vào cuối thế kỷ 20, không chỉ có bốn mươi ba phim riêng biệt về Cleopatra, mà còn khoảng hai trăm vở kịch và tiểu thuyết, bốn mươi lăm vở opera và năm vở ballet nói về bà. Các tác phẩm viết Trong khi những truyền thuyết về Cleopatra vẫn tồn tại trên các phương tiện thông tin đại chúng, những khía cạnh quan trọng trong sự nghiệp của bà phần lớn không được để ý tới, chẳng hạn như việc bà đã từng là một chỉ huy hải quân, công việc quản lý hành chính và các ấn phẩm về y học Hy Lạp cổ đại. Chỉ có một phần rời rạc những tác phẩm y học và mỹ phẩm do Cleopatra viết còn tồn tại, chẳng hạn như những gì được Galen bảo quản, bao gồm các biện pháp chữa bệnh tóc, hói đầu và gàu, cùng với một danh sách các đơn vị đo lường nhằm cho mục đích dược lý. Aëtius xứ Amida quy một công thức cho xà phòng thơm là của Cleopatra, trong khi Paulus xứ Aegina bảo quản công thức hướng dẫn bảo quản tóc quăn và tóc chết được khẳng định là của bà. Tuy nhiên, việc quy kết một số tác phẩm là của Cleopatra bị Ingrid D. Rowland nghi ngờ, bà nêu rõ rằng một "Cleopatra được gọi là Berenice" được một nữ y sĩ người La Mã thể kỷ thứ 3 hoặc thế kỷ thứ 4 tên là Metrodora trích dẫn, có khả năng đã bị các học giả thời Trung Cổ đúc kết lại thành Cleopatra VII. Tổ tiên Cleopatra VII là thành viên của triều đại Ptolemaios người Hy Lạp Macedonia, nguồn gốc châu Âu của họ bắt nguồn từ miền bắc Hy Lạp. Thông qua cha mình, Ptolemaios XII Auletes, bà là hậu duệ của hai chiến hữu nổi tiếng của vua Alexandros Đại đế của Macedonia, bao gồm cả Ptolemaios I, người sáng lập nên Vương quốc Ai Cập và Seleukos I Nikator, người sáng lập nên vương quốc Seleukos ở Tây Á. Trong khi tổ tiên bên nội của Cleopatra có thể truy tìm được thông qua cha bà, danh tính của mẹ bà không được biết rõ. Bà có có thể là con gái của Cleopatra VI Tryphaena (còn được gọi là Cleopatra V Tryphaena), một người có thể là em họ hoặc thậm chí là em gái của cha bà–Ptolemaios XII. Cleopatra là thành viên duy nhất của vương triều Ptolemaios mà được biết đến là có một vài tổ tiên không phải là người Hy Lạp, vì bà là hậu duệ của Apama, người vợ người Ba Tư đến từ Sogdia của Seleukos I. Người ta thường tin rằng các thành viên nhà Ptolemaios không kết hôn với người Ai Cập bản địa. Michael Grant khẳng định rằng chỉ có một người tình người Ai Cập duy nhất và không có bất cứ người vợ người Ai Cập của một vị vua Ptolemaios được biết đến, tiếp tục tranh luận rằng Cleopatra không hề mang một giọt máu Ai Cập nào và đã tự xem mình như là một người Hy Lạp. Stacy Schiff viết rằng Cleopatra là một người Hy Lạp với chút ít dòng dõi Ba Tư và cho rằng hiếm khi một vị vua Ptolemaios có một người tình người Ai Cập bản địa. Trong khi đó, Roller lại khẳng định rằng Cleopatra có thể là con gái của một người phụ nữ Hy Lạp Macedonia lai Ai Cập thuộc một gia đình làm thầy tư tế cúng thần Ptah (một giả thuyết không được chấp nhận trong rộng rãi về Cleopatra). Tuy nhiên, phải lưu ý rằng, dù bà có là hậu duệ ai đi chăng nữa, thì bà vẫn coi trong di sản Ptolemaios Hy Lạp của bà nhiều nhất. Những lời xác nhận cho rằng Cleopatra VII là con ngoài giá thú chưa bao giờ xuất hiện trong bât kỳ tuyên truyền La Mã nào chống lại bà. Strabo là nhà sử học đại duy nhất thời cổ đã tuyên bố rằng những người con của Ptolemaios XII sinh ra sau Berenice IV, bao gồm cả Cleopatra VII, đều là con ngoài giá thú. Vợ của Ptolemaios XII, Cleopatra V (hoặc VI) đã bị trục xuất khỏi triều đình của ông vào cuối năm 69 TCN, một vài tháng sau khi Cleopatra VII được sinh ra, trong khi ba đứa con khác nhỏ tuổi hơn của Ptolemaios XII được sinh ra trong sự vắng mặt của vợ. Mức độ hôn nhân cận huyết cao của gia tộc Ptolemaios cũng được minh hoạ bởi những tổ tiên trực tiếp Cleopatra và sẽ được tái dựng lại cây phả hệ ở dưới. Cây phả hệ ở dưới liệt kê Cleopatra V, vợ của Ptolemaios XII, là con gái của Ptolemaios X và Berenice III, qua đó khiến bà vừa trở thành là em con chú vừa là cháu gái của chồng mình. Tuy nhiên, Cleopatra V cũng có thể là con gái Ptolemaios IX, qua đó khiến bà trở thành em gái ruột của chính chồng mình. Những thông tin bị nhầm lẫn trong các tài liệu cổ đã khiến các học giả đánh gọi vợ của Ptolemaios XII là Cleopatra V hoặc Cleopatra VI. Người thứ hai có thể trên thực tế là một cô con gái của Ptolemaios XII và thường được một số người sử dụng như là một dấu hiệu cho thấy rằng Cleopatra V thực chất đã qua đời vào năm 69 TCN thay vì bỗng nhiên xuất hiện vào năm 58 TCN sau nhiều năm mất tích và nắm quyền đồng trị vị cùng cô con gái là Berenice IV (lúc mà Ptolemaios XII phải lưu vong tại Roma).
Hà Huy Khoái (sinh ngày 24 tháng 11 năm 1946) là Giáo sư, Tiến sĩ khoa học ngành toán học của Việt Nam, cựu Viện trưởng Viện Toán học Việt Nam, Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học các nước thế giới thứ ba, Tổng biên tập Tạp chí Pi của Hội Toán học Việt Nam (do Giáo sư Ngô Bảo Châu sáng lập). Lĩnh vực ông nghiên cứu chủ yếu là Lý thuyết Nevanlinna (p-adic và phức), không gian Hyperbolic, xấp xỉ Diophantine và các L-hàm. Tiểu sử Ông sinh làng Thịnh Xá, xã Sơn Thịnh, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1963, ông tốt nghiệp Trường Trung học Phổ thông Huỳnh Thúc Kháng, thành phố Vinh, Nghệ An. Theo ông kể, cha ông khuyên nên theo học ngành toán, vì vào thời đó (1958-1963) vụ Nhân văn-Giai phẩm còn sôi động, để tránh khỏi rơi vào hoàn cảnh tương tự. Năm 1967, ông tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Hà Nội chuyên ngành toán học. Ông bảo vệ luận án tiến sĩ năm 1978, dưới sự hướng dẫn của Yuri Ivanovich Manin, với đề tài p-Adic Interpolation and the Mellin-Mazur Transform, và là tiến sĩ khoa học năm 1984 tại Viện Toán học, Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô. Ông được phong chức danh Phó giáo sư năm 1983 và Giáo sư năm 1991. Từ năm 2001-2007 ông là Viện trưởng Viện Toán học Việt Nam. Năm 2004, ông được bầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học thế giới thứ ba. Ông còn là Phó chủ tịch Hội Toán học Việt Nam, Ủy viên Hội đồng chức danh giáo sư Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng chức danh giáo sư ngành Toán (2009-2018), ủy viên Hội đồng khoa học ngành Toán của Quỹ Nafosted. Một trong số những học trò có PGS.TS. Tạ Thị Hoài An, nhà toán học nữ trẻ tuổi tại Viện Toán học. Gia đình Vợ ông là Phó giáo sư, Tiến sĩ sử học Đinh Thị Thu Cúc. Trong gia đình ông còn có nhiều người theo nghiệp toán. Đó là Hà Huy Hân giảng viên Học viện Kỹ thuật Quân sự; GS. TSKH Hà Huy Vui; GS. TSKH Hà Huy Bảng làm việc ở Viện Toán học Việt Nam Các con của ông: con trai Hà Huy Minh từng đoạt huy chương đồng tại kỳ thi Olympic toán học quốc tế dành cho học sinh phổ thông năm 1989, con trai thứ hai Hà Huy Thái là giảng viên Toán-Kinh tế ở Paris (Universite Evry). Xuất bản Một số công trình khoa học (Cùng với Nguyễn Văn Khuê) Holomorphic mappings on Banach analytic manifolds. Func. Analyz i ego Priloz., T.4, N.4, 1973 (Tại Nga). On p-adic Interpolation. Mat. Zametki, t.26, 1, 1979 (Tại Nga). On p-adic L-functions associated to elliptic curves. Mat. Zametki, t.26, 2, 1979 (Tại Nga). On p-adic meromorphic function. Duke Math. J., Vol. 50, 1983. (Cùng với My Vinh Quang) On p-adic Nevanlinna Theory. Lecture Notes in Math. 1351, 138-152. La hauteur des fonctions holomorphes p-adiques de plusieurs variables. C. R. A. Sc. Paris, 312, 1991, 751-754. La hauteur d'une suite de points dans et l'interpolation des fonctions holomorphes de plusieurs variables. C. R. A. Sc. Paris, 312, 1991, 903-905. Sur les series L associées aux formes modulaires. Bull. Soc. math. France, t. 120, 1992, 1-13. (Cùng với Nguyễn Văn Khuê) Finite codimensional subalgebras of Stein algebras and semiglobally Stein algebras. Trans. Amer, Math. Soc. 1992, 503-509 (Cùng với Mai Van Tu) p-adic Nevanlinna-Cartan Theorem, Internat. J. Math, Vol.6, N.5, 1995, 710-731. Hyperbolic surfaces in , Proc. Amer. Math. Soc., Vol. 125, 1997, pp. 3527–3532. (Cùng với Tạ Thị Hoài An) On uniqueness Polynomials and bi-URS for p-adic Meromorphic Functions. J. Number Theory, 87, 211-221 (2001). (Cùng với Vũ Hoài An) Value Distribution for p-adic hypersurfaces, Taiwanese J. Math., 7 (2003), no.1, 51-67 (with Vu Hoai An). (Cùng với Yang Chung-Chun) On the functional equation P(f) = Q(g), Adv. Complex Anal. Appl., 3, Kluwer Acad. Publ., Boston, MA, 2004, 201-207. Some remarks on the genericity of unique range sets for meromorphic functions, Sci. China Ser. A, 48(2005), 262-267. p-Adic Fatou-Bieberbach mappings, Inter. J. Math, 16 (2005), No.3. Unique range sets and decomposition of meromorphic functions, trong Jean-Paul Brasselet, José Luis Cisneros-Molina, David Massey, José Seade and Bernard Teissier, Singularities I: Algebraic and Analytic Aspects, Contemporary Math., 475 (2008), 95-105. (Cùng với Vũ Hoài An) Value distribution problem for p-adic meromorphic functions and their derivatives, Ann. Fac. Sci.Toulouse., XX (2011), 135-149 (with Vu Hoai An). (Cùng với Vũ Hoài An và Le Quang Ninh) Uniqueness Theorems for Holomorphic Curves with Hypersurfaces of Fermat–Waring Type, Complex Analysis and Operator Theory, 8 (2014): 1747–1759 (Cùng với Vũ Hoài An và Phạm Ngọc Hoa) On functional equations for meromorphic functions and applications, Archiv der Mathematik, 109 (2017): 539–549 Báo khác On Contemporary Mathematics in Vietnam, trong Seki, Founder of Modern Mathematics in Japan, 375-383 Le Van Thiem—the Founder of Contemporary Mathematics in Vietnam, Acta Mathematica Vietnamica, 45 (2020): 3-10 Các hoạt động xã hội khác Ngoài các công trình về toán học, Hà Huy Khoái viết nhiều bài về khoa học, giáo dục, văn hoá, chủ yếu đăng trên tạp chí Tia sáng. Ông còn thường xuyên tham gia ôn luyện cho đội tuyển thi Olympic toán học quốc tế dành cho học sinh phổ thông của Việt Nam. Đến nay, tuy ông đã không tham gia quản lý song ông vẫn rất tâm huyết với toán học Việt nam.
Bá Vương biệt Cơ (; tiếng Anh: Farewell, my Concubine) là bộ phim điện ảnh chính kịch lịch sử được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của Lý Bích Hoa, được đạo diễn bởi Trần Khải Ca cùng sự tham gia của các diễn viên Trương Quốc Vinh, Củng Lợi và Trương Phong Nghị. Bộ phim kể về sự cống hiến của kép hát Trình Điệp Y đối với tinh hoa của nghệ thuật dân tộc, chứa đựng nội hàm văn hóa sâu sắc, khí thế hào hùng, cảm xúc mạnh mẽ, cốt truyện chi tiết và sâu sắc. Tên phim và tiểu thuyết được lấy từ vở Kinh kịch lâu đời Bá Vương biệt Cơ, diễn cảnh là Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ vĩnh biệt người vợ yêu quý của ông là nàng Ngu Cơ thời Hán Sở tranh hùng. Phim đã giành giải Phim xuất sắc nhất tại Liên hoan phim Cannes lần thứ 46 (năm 1993) ở Pháp, trở thành phim Trung Quốc đầu tiên và duy nhất cho đến nay đã giành được giải thưởng này. Tác phẩm cũng được coi là một trong những bộ phim Trung Quốc hay nhất mọi thời đại. Ngoài ra, phim còn giành được giải Quả cầu vàng của Mỹ cho phim nói tiếng nước ngoài hay nhất và được đề cử Oscar lần thứ 66 cho phim nói tiếng nước ngoài hay nhất, đồng thời được tạp chí Time bình chọn là một trong "Top 100 phim bất hủ" năm 2015. Năm 2006, tạp chí Premier xếp nhân vật Cúc Tiên do Củng Lợi thủ vai thứ 89 trong "100 màn trình diễn vĩ đại nhất mọi thời đại". Năm 2018, nhân kỷ niệm 25 năm phát hành, bộ phim đã được phát hành lại tại Đài Loan trong một phiên bản được khôi phục với định dạng kỹ thuật số. Vào năm 2020, bộ phim cũng được trình chiếu lại tại Hàn Quốc. Cốt truyện Bá Vương biệt cơ là câu chuyện xoay xung quanh số phận nhân vật Trình Điệp Y (Trương Quốc Vinh thủ vai), trong mối quan hệ giữa anh với nghệ thuật Kinh kịch và người bạn diễn Đoàn Tiểu Lâu (Trương Phong Nghị), qua đó thể hiện chủ đề chính của bộ phim: tình yêu nghệ thuật, nỗi ám ảnh và sự phản bội. Phim lấy bối cảnh Trung Hoa từ năm 1924 đến năm 1977. Năm 1977, một năm sau khi kết thúc cuộc Cách mạng Văn hóa, hai người đàn ông bước lên sân khấu Kinh kịch. Một tiếng nói từ hậu trường cho biết hai người từ hơn 22 năm đã không còn diễn xuất với nhau. Sau đó, phim thuật lại chuyện năm 1924, khi hai đứa trẻ mồ côi là Trình Điệp Y (程蝶衣 hay Trình Đắc Di trong bản tiếng Việt, lúc nhỏ còn có tên là Tiểu Đậu Tử, trong phim tiếng Việt gọi là Đức Chí) và Đoàn Tiểu Lâu (段小樓, lúc nhỏ còn được gọi là Tiểu Thạch Đầu, bé đầu đá, trong bản tiếng Việt còn gọi là Sĩ Tứ), được đào tạo với Thầy Quan sư phó về nghệ thuật Kinh kịch – Điệp Y đóng vai nữ (hoa đán 花旦 vai nữ và Tiểu Lâu đóng vai nam), bao gồm các phương pháp đào tạo tàn bạo và vô nhân đạo. Sau đoạn phim này, phim chiếu cảnh Điệp Y đã lớn và đảm nhiệm vai Ngu Cơ, ái thê của Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ trong vở kịch Bá Vương biệt cơ, lúc đó Điệp Y và Tiểu Lâu đã trở thành diễn viên Kinh kịch nổi tiếng và được yêu thích. Quá trình phim đan xen với những biến động chính trị của Trung Quốc trong thế kỷ XX: Nhật chiếm đóng, giải phóng bởi những người Cộng sản và khủng bố thời Cách mạng Văn hóa. Tiểu Lâu yêu một người phụ nữ, và làm Điệp Y ghen tức. Khi Đức Chí cùng Sĩ Tứ đã trở thành đôi bạn diễn Trình Điệp Y - Đoàn Tiểu Lâu, nổi danh với vở tuồng kinh điển Bá Vương biệt cơ, anh đã tự gắn đời mình với người bạn diễn, cũng như Ngu cơ một lòng với Sở Vương. Cuộc đời họ bắt đầu dậy sóng khi Đoàn Tiểu Lâu rước về nhà một cô gái thanh lâu tên Cúc Tiên (菊仙, trong bản phim tiếng Việt là Diệu Linh, do Củng Lợi thủ vai), điều làm tổn thương Trình Điệp Y vô cùng. Cùng thời gian này, một nhân vật quyền thế hay được gọi là Viên đại nhân xuất hiện, và phải lòng chính Trình Điệp Y... Một Trình Điệp Y cố chấp và nhầm lẫn, một Đoàn Tiểu Lâu thiếu dứt khoát, và một Cúc Tiên thông minh, sắc sảo không ngờ, mối quan hệ giữa ba nhân vật này trải dài trong yêu thương, đau khổ, ghen tuông, khó xử, giữa một giai đoạn đầy biến động của xã hội Trung Hoa. Đỉnh điểm của tấn bi kịch này là cái chết của Cúc Tiên trong Cách mạng Văn hoá (1966), sau khi cô chứng kiến Đoàn Tiểu Lâu, đấng trượng phu của đời mình bỗng chốc hèn kém như thế nào khi cả ba bị đem ra đấu tố. Và người khóc cho cô nhiều nhất lại chính là Trình Điệp Y, anh vẫn sống cho tới lần tái ngộ cùng Đoàn Tiểu Lâu trong một nhà hát cũ. Trong màn trình diễn cuối cùng đó, Trình Điệp Y đã tuốt gươm tự sát như nhân vật Ngu cơ, để có thể một lòng một dạ với "Bá Vương" của mình - mà giờ đây anh đã thấu rõ đó chính là Kinh kịch chứ không phải riêng Đoàn Tiểu Lâu, cũng như để có thể giữ vẹn giấc mơ của anh, giữ vẹn ảo tưởng và nỗi ám ảnh của anh. Cốt truyện của bộ phim được lồng song song với cốt truyện của vở tuồng. Sự chung thủy của người thiếp Ngu Cơ với Bá Vương có nét tương đồng với sự phụ thuộc tận tuỵ của Điệp Y với Tiểu Lâu. Quá trình tuyển chọn diễn viên Bá Vương biệt cơ đã được lên kế hoạch thực hiện từ năm 1988. Ý tưởng thực hiện bộ phim xuất phát từ chính Trương Quốc Vinh. Anh đọc được tiểu thuyết cùng tên của Lý Bích Hoa, và nhờ người quản lý liên lạc với Từ Phong - nhà sản xuất bộ phim - đề nghị hợp tác thực hiện một bộ phim dựa theo tiểu thuyết này. Từ Phong liên lạc với Trần Khải Ca và mời ông làm đạo diễn cho bộ phim. Ban đầu, người dự định được chọn vào vai Đoàn Tiểu Lâu là Thành Long, nhưng công ty quản lý e ngại vai diễn có tính chất đồng tính sẽ làm ảnh hưởng đến hình ảnh của anh nên đã từ chối. Lý Bích Hoa tuyên bố rằng nếu không phải là Trương Quốc Vinh vào vai Trình Điệp Y thì bà sẽ không để tiểu thuyết của mình được dựng thành phim. Riêng Trương Quốc Vinh thì cho rằng, mình không đủ đẹp để diễn một Trình Điệp Y được miêu tả trong tiểu thuyết (nhân vật Trình Điệp Y được Viên đại nhân ngợi ca trong tiểu thuyết với những câu: "Một nụ cười đem đến cả mùa xuân. Một giọt lệ làm đen tối đất trời... Chỉ có nàng, chỉ có nàng mới có được vẻ đẹp nhường ấy..."). Đến năm 1991, ứng cử viên hàng đầu cho vai Trình Điệp Y là nam diễn viên Tôn Long. Tuy nhiên, do một số vấn đề, cuối cùng vai diễn này không được giao cho anh. Về sau, Từ Phong cho biết bà cảm thấy vẻ đẹp cứng cỏi của Tôn Long không phù hợp với nhân vật Trình Điệp Y . Trần Khải Ca sau đó đã đề cử nam diễn viên Lôi Hán, nhưng anh lại không qua được vòng phỏng vấn (mặc dù sau này vẫn tham gia bộ phim với vai người học trò của Trình Điệp Y). Cho đến một ngày, một người bạn ở Hồng Kông gởi đến cho Trần Khải Ca tờ tạp chí City Magazine (số kỷ niệm 15 năm phát hành - 1991). Trên trang bìa là hình ảnh Trương Quốc Vinh trong trang phục vai Đán của vở Kinh kịch Kỳ tương hội (奇雙會), với một dòng chú thích: "Khải Ca, liệu anh có bị mê hoặc?". Chính bức ảnh này đã khiến Trần Khải Ca quyết định giao vai Trình Điệp Y cho Trương Quốc Vinh. Trương Quốc Vinh đã đến Bắc Kinh sáu tháng để học Kinh kịch và tham gia bộ phim, đây cũng là lần đầu tiên một diễn viên Hồng Kông được mời vào một phim của Trung Quốc đại lục. Tác phẩm liên quan Vở Kinh kịch Bá Vương biệt cơ Tiểu thuyết Bá Vương biệt cơ Vở nhạc kịch Bá Vương biệt cơ Giải thưởng và các đề cử quan trọng 1993 Cannes Film Festival Cành cọ vàng Giải thưởng FIPRESCI cho phim xuất sắc nhất 1993 British Academy Award Phim nước ngoài hay nhất 1993 Mainichi Film Concours Phim nước ngoài hay nhất 1994 Chinese Performance Art Association Giải thưởng đặc biệt (Trương Quốc Vinh) 1993 L.A. Film Critics Association Phim nước ngoài hay nhất Boston Society of Film Critics Phim nước ngoài hay nhất 1993 Japanese Critic Society Nam diễn viên xuất sắc nhất (Trương Quốc Vinh) 1993 New York Film Critics Circle Awards Phim nước ngoài hay nhất Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất (Củng Lợi) 1993 International Film Festival Giải thưởng Silver Frog của Art of Cinematography (Cố Trường Vệ) 1993 Oscar Đề cử: Phim nước ngoài hay nhất Đề cử: Quay phim xuất sắc nhất (Cố Trường Vệ) 1994 Golden Globe Award Phim nước ngoài hay nhất 1994 International Film Festival Đề cử: Giải thưởng Golden Frog của Art of Cinematography (Cố Trường Vệ) Thông tin thêm Tại Liên hoan phim Cannes 1993, Trương Quốc Vinh đã được một thành viên trong ban giám khảo bỏ phiếu cho cả hai hạng mục Nam diễn viên xuất sắc nhất và Nữ diễn viên xuất sắc nhất. Ngoài việc được bình chọn là Phim Trung Quốc được yêu thích nhất mọi thời đại năm 2005, Bá Vương biệt cơ còn là một trong hai phim Trung Quốc lọt vào danh sách 100 phim hay nhất mọi thời đại do tạp chí Time bình chọn cùng với bộ phim Trùng Khánh Sâm Lâm của đạo diễn Hong Kong Vương Gia Vệ.
Vụ hỏa hoạn ITC (ITC là viết tắt của International Trade Center, nghĩa là Trung tâm Thương mại Quốc tế) là vụ cháy lớn xảy ra tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 29 tháng 10 năm 2002, hậu quả đã làm 60 người chết và thiêu rụi phần lớn tòa nhà ITC, gây chấn động dư luận Thành phố Hồ Chí Minh và cả Việt Nam. Về tòa nhà Trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC) là tòa nhà văn phòng và trung tâm mua sắm, toạ lạc trên khu đất được bao bọc bởi các trục đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Lê Lợi, Nguyễn Trung Trực và Lê Thánh Tôn tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Tòa nhà có sáu tầng lầu với tổng diện tích 6.500m², được xây dựng vào năm 1970, thời đó có tên là Thương xá Tam Đa hay Crystal Palace. Tòa nhà được sửa chữa vào năm 1985, vừa được sử dụng làm tòa nhà văn phòng với 59 phòng cho thuê, vừa như một trung tâm mua sắm với 172 quầy mua bán vàng bạc đá quý. Ngoài ra tòa nhà còn có một vũ trường tên Blue, sân trượt băng và nhà hàng, căng tin. Vụ hỏa hoạn Diễn biến Thông tin về vụ cháy được thông báo vào khoảng 13h30 chiều ngày Thứ Ba, 29 tháng 10. Các nhân chứng có mặt đều thấy ngọn lửa phát ra từ vũ trường tại tầng hai và nhanh chóng bao trùm cả tòa nhà. Để thoát ra khỏi đám cháy, nhiều người đã trèo xuống bằng đường ống nước, thậm chí nhảy xuống từ tầng 3, tầng 4, dẫn đến gặp nhiều chấn thương. Đến 14 giờ, cột khói to đã bùng lên, cao hàng trăm mét. Nhiều gia đình, cửa hàng nằm trên đường Lê Thánh Tôn, Lê Lợi vội vàng di dời đồ đạc ra khỏi nhà. Lúc này, lãnh đạo Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã có mặt tại hiện trường, huy động sự tiếp viện của lực lượng chữa cháy Quân khu 7, Bộ Tư lệnh quân sự thành phố, Sân bay Tân Sơn Nhất. Đội cảnh sát chữa cháy trên sông nhận lệnh tiếp nước chữa cháy từ Bến Bạch Đằng. Tổng cộng có hơn 50 xe chữa cháy với hàng trăm người tham gia làm nhiệm vụ. Trong khi đó, xe cứu thương liên tiếp chở nạn nhân về trung tâm cấp cứu trên đường Hàm Nghi. Hàng chục vòi cứu hoả phun nước vào trong. Tuy nhiên phần lá phông chắn gió hai bên tòa nhà đã cản nước rất nhiều. Cả tầng 2-3 rực lửa. Tầng 4, 5, 6 khói mù mịt ngất trời. Tại một góc tòa nhà phía đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, ngọn lửa hoành hành dữ dội, 4 xe cứu hoả tập trung chĩa vòi rồng vào đây. Gió thổi to khiến ngọn lửa đôi lúc lại bùng lên, khí nóng và khói bao trùm toàn khu vực. Lúc 16h, ngọn lửa đã được khống chế, khói dịu bớt. Tuy nhiên những ống vòi phun quá yếu, không thể phun nước được vào tới bên trong tòa nhà. Hơn 49 văn phòng các doanh nghiệp đang kinh doanh dần bị thiêu rụi. Một số thi thể bị cháy đen được nhìn thấy ở hành lang tầng 4 và 5 phía đường Nguyễn Trung Trực. Lãnh đạo thành phố quyết định cho đập tường, đưa lực lượng đột nhập vào phun nước dập lửa từng tầng. Ông Lê Tấn Bửu chỉ huy đội cứu hỏa cho thành lập ngay 3 đội trinh sát với 20 người, đập tường khu vực tầng 3, từ phía mặt đường Lê Lợi. Khu vực góc đường Lê Lợi - Nguyễn Trung Trực được dành toàn bộ cho xe bệnh viện và nhân viên y tế. Qua ngày 30 tháng 10, cuộc tìm kiếm thi thể các nạn nhân vẫn tiếp tục, khói vẫn bốc cao và toàn khu vực vẫn bị phong toả. Nguyên nhân Nguyên nhân dẫn đến hỏa hoạn phát sinh khi hàn các bulong định vị trên trần buổi chiều ngày xảy ra hỏa hoạn. Thợ hàn để vảy xỉ nhiệt độ khoảng 1.700 độ C bắn vào xốp cách âm (có thể bắt cháy từ nhiệt độ 300 độ C) gây cháy lan nhanh và cháy lớn. Sau khi đám cháy lan rộng, thợ hàn không kiểm soát được đám cháy, đã đóng cửa phòng xảy ra cháy và để mặc cho đám cháy tiếp tục phát triển. Hậu quả Vụ hỏa hoạn khiến 60 người chết và làm bị thương khoảng 100 người. Tổng thiệt hại tài sản nhiều tỷ đồng. Các đơn vị thiệt hại do cháy có mua bảo hiểm gồm ITC (mua bảo hiểm của Bảo Minh 12 tỷ đồng, đã được tạm ứng đền bù 5 tỷ đồng), Công ty bảo hiểm quốc tế Mỹ AIA mua bảo hiểm 7,2 tỷ đồng đã nhận đủ. So với những vụ cháy thường gặp trong năm thường xảy ra vào mùa khô ở các khu ổ chuột, khu dân cư nghèo, đông đúc thì đây là một trong những trường hợp hỏa hoạn ở trong cao ốc hiếm gặp nhưng lại có nhiều khả năng tái diễn trong tương lai, trong điều kiện các cao ốc được xây lên ngày càng nhiều tại Thành phố Hồ Chí Minh. Phản ứng quốc tế Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ: Tôi vô cùng bàng hoàng khi biết tin về vụ cháy lớn xảy ra tại Thành phố Hồ Chí Minh của Việt Nam... Thay mặt chính phủ và nhân dân Trung Quốc, và với danh nghĩa của riêng tôi, tôi xin gửi lời chia buồn sâu sắc nhất và lời chia buồn chân thành nhất". cho bạn, và thông qua bạn, cho những gia đình bị mất tích." Liên minh châu Âu người đứng đầu chính sách đối ngoại Javier Solana: "Châu Âu bị sốc khi biết về địa ngục và toàn bộ châu Âu bày tỏ sự đồng cảm sâu sắc nhất tới gia đình của những người đã thiệt mạng." Giáo hoàng John Paul II đã gửi điện chia buồn tới gia đình các nạn nhân vụ hỏa hoạn ở Thành phố Hồ Chí Minh. Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush: "Tôi bị sốc khi biết về vụ hỏa hoạn lớn đã cướp đi sinh mạng của rất nhiều người dân vô tội tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hãy để chúng tôi bày tỏ quan điểm của mình thông cảm với gia đình của các nạn nhân." Bộ trưởng Thông tin Pakistan Sheikh Rashid: "Chúng tôi bày tỏ sự đồng cảm chân thành tới những người phải chịu đựng vì địa ngục." Phiên toà ITC Trong nhóm tội vi phạm các quy định về phòng cháy, chữa cháy có 5 bị can gồm Nguyễn Văn Phương (tức Paul Nguyễn - Việt kiều Mỹ, chủ vũ trường Blue), Huỳnh Quang (nhân viên kỹ thuật ánh sáng vũ trường Blue), Lâm Nghĩa Hòa (chủ cơ sở cửa sắt Nam Thông tại 72 Calmette), Nguyễn Phú Tín và Phan Viết Thanh (thợ hàn của Nam Thông -người trực tiếp gây ra vụ cháy). 6 bị can còn lại bị đề nghị truy tố về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, gồm Chung Thị Mỹ Lệ (nguyên giám đốc ITC), Lê Hồng Thăng (nguyên đội trưởng bảo vệ, phòng cháy chữa cháy của ITC), Lê Ngọc Thủy (phó ban quản lý Blue, vợ của Paul Nguyễn), Lưu Nhật Tuấn (tổng quản lý Blue), Nguyễn Trọng Cường (trưởng ban quản lý Blue) và Huỳnh Quý (nhân viên kỹ thuật ánh sáng Blue). Cơ quan Cảnh sát điều tra đã đình chỉ điều tra với bị can Giang Quốc Trung, một trong 3 thợ hàn gây ra vụ cháy vì đã chết trong hỏa hoạn. Theo kết luận điều tra, Phương khi cho cải tạo, sửa chữa vũ trường đã không yêu cầu thực hiện an toàn phòng cháy mà chỉ chú ý tới lợi nhuận. Quang được giao nhiệm vụ trực tiếp giám sát việc hàn sửa nhưng không buộc thợ hàn che chắn. Hòa và các thợ hàn của cơ sở Nam Thông biết hàn điện gần các tấm xốp cách âm dễ gây cháy nhưng không che chắn. Mỹ Lệ thiếu kiểm tra công việc cấp dưới, không phát hiện sai sót của Cường, Thủy. Thăng không triển khai, thực hiện hết chức trách đôn đốc, kiểm tra nội quy phòng cháy chữa cháy tại ITC. Nhật Tuấn và Quý trực tiếp đề xuất, xét duyệt phương án sửa chữa vũ trường nhưng bỏ mặc, không kiểm tra khi sửa chữa. Chuyển đổi Sau vụ cháy, đơn vị giám định thiệt hại của vụ cháy đã khẳng định Tòa nhà ITC đã bị sức nóng và ngọn lửa xâm hại quá nhiều, các khối bêtông bị tác động mạnh, nứt và hư hỏng, không thể phục hồi. Do đó, tòa nhà ITC đã bị đập bỏ. Năm 2007, UBND TP. Hồ Chí Minh cấp phép Dự án xây dựng Toà tháp SJC trên nền cũ của Tòa nhà ITC. Tòa tháp SJC mới sẽ cao 208m, có diện tích gần 4.000m², gồm 54 tầng cao và 6 tầng hầm, bao gồm tổ hợp trung tâm thương mại, văn phòng, căn hộ, nhà hàng... Tuy nhiên, việc xây dựng tòa tháp mới bị đình trệ nhiều năm, cho đến tận ngày 2 tháng 12 năm 2016 mới chính thức được khởi công và dự kiến hoàn thành sau 4 năm. Chú thích Hỏa hoạn tại Việt Nam Việt Nam năm 2002 Hỏa hoạn năm 2002 Lịch sử Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh
Bài này nói về một hiệp ước ký tại Schengen. Về thị trấn mang tên này của Luxembourg, xin xem Schengen. Hiệp ước Schengen là hiệp ước về tự do đi lại do hầu hết các nước Châu Âu ký kết. Hiệp ước Schengen được thỏa thuận xong ngày 19 tháng 6 năm 1990. Đến ngày 27 tháng 11 năm 1990, sáu nước bao gồm Pháp, Đức, Luxembourg, Bỉ, Hà Lan và Ý chính thức ký Hiệp ước Schengen, mở đầu cho làn sóng gia nhập khối Schengen của các quốc gia châu Âu. Hiệp ước quy định quyền tự do đi lại của công dân các nước thành viên. Đối với công dân nước ngoài, chỉ cần có thị thực của một trong các nước thành viên là được phép đi lại tự do trong toàn bộ khu vực Schengen. Tính đến 1 tháng 1 năm 2023, tổng số quốc gia công nhận hoàn toàn hiệp ước này là 27 nước, được gọi là các quốc gia thuộc khối Schengen. Các quốc gia này bao gồm Ba Lan, Cộng hòa Séc, Hungary, Slovakia, Slovenia, Estonia, Latvia, Litva, Malta, Iceland, Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan, Đan Mạch, Hà Lan, Bỉ, Luxembourg, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Đức, Áo, Ý, Hy Lạp, Thụy Sĩ, Liechtenstein và Croatia (trong đó có 22 nước thuộc khối Liên minh châu Âu). Tiền lệ Trước công ước Schengen, đã có các hiệp ước bãi bỏ việc kiểm soát giấy tờ của người đi lại giữa một số nước ở châu Âu: Liên minh thuế quan Benelux (Benelux Customs Union) gồm 3 nước Bỉ, Hà Lan, Luxembourg ký kết tại London (sau đó thay thế bằng Liên minh kinh tế Benelux (Benelux Economic Union) ký năm 1958), được áp dụng từ 1 tháng 1 năm 1948, cho phép các công dân của 3 nước trong Liên minh được đi lại tự do trong khu vực (và không phải khai thuế quan) Liên minh Hộ chiếu Bắc Âu (Nordic Passport Union) được ký ngày 1 tháng 7 năm 1954 giữa các nước Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy, Phần Lan (Iceland gia nhập ngày 1 tháng 12 năm 1955), áp dụng từ 1 tháng 5 năm 1958, cũng cho phép các công dân của Liên minh đi lại tự do trong khu vực mà không cần mang theo thẻ căn cước hay thẻ hộ chiếu Lịch sử Ngày 14 tháng 6 năm 1985, trên con tàu mang tên Công chúa Marie-Astrid thả neo tại khúc sông Mosel ở ngã 3 biên giới Pháp, Đức, Luxembourg, cạnh thị trấn nhỏ Schengen của Luxembourg, năm nước trong cộng đồng châu Âu là Pháp, Bỉ, Hà Lan, Luxembourg và Tây Đức đã ký một hiệp ước bãi bỏ việc kiểm soát biên giới giữa năm nước, để cho công dân các nước này đi lại tự do trong vùng lãnh thổ thuộc năm nước, gọi là "vùng Schengen". Ngày 19 tháng 6 năm 1990, các nước này lại ký thêm một thỏa thuận về việc áp dụng và thay thế hiệp ước ký trước, gọi là "Công ước về việc áp dụng hiệp ước Schengen giữa các chính phủ các nước trong Liên minh kinh tế Benelux, Cộng hòa Liên bang Đức và Cộng hòa Pháp, liên quan tới việc bãi bỏ từng bước các việc kiểm soát các biên giới chung" (Convention d'application de l'accord de Schengen entre les gouvernements des états de l'Union économique du Benelux, la Répuplique fédérale d'Allemagne, et la République française, relatif à la suppression graduelle des contrôles aux frontières communes), gọi tắt là Công ước Schengen. Các thành viên và ngày gia nhập 14 tháng 6 năm 1985: Pháp, Bỉ, Hà Lan, Luxembourg, Tây Đức (đến ngày 3 tháng 10 năm 1990 là CHLB Đức) 17 tháng 11 năm 1990: Ý 25 tháng 6 năm 1992: Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha 6 tháng 11 năm 1992: Hy Lạp 28 tháng 4 năm 1995: Áo 19 tháng 12 năm 1996: Đan Mạch, Thụy Điển, Phần Lan, Na Uy, Iceland (2 nước sau không thuộc Cộng đồng châu Âu, nhưng ở trong Liên minh Hộ chiếu Bắc Âu) 1 tháng 5 năm 2004: đảo Síp, Estonia, Latvia, Litva, Ba Lan, Hungary, Malta, Slovakia, Cộng hòa Séc và Slovenia (các nước này chưa áp dụng) 16 tháng 10 năm 2004: Thụy Sĩ (ngoài Liên minh châu Âu, đã trưng cầu ý dân chấp thuận ngày 5 tháng 6 năm 2005) 2011: Liechtenstein. Tuy nhiên, Liechtenstein không cấp thị thực Schengen cho những công dân cần thị thực để nhập cảnh vào khối này, mà đề nghị các du khách xin thị thực tại một quốc gia Schengen khác. Ngày 1 tháng 1 năm 2023: Croatia Các vùng lãnh thổ không theo hiệp ước Các lãnh thổ ngoài châu Âu dưới đây: Của Pháp: Guadeloupe, Martinique, Guyane thuộc Pháp, Réunion, Mayotte, Saint-Barthélemy, Saint-Martin, Nouvelle Calédonie, Polynésie thuộc Pháp, Saint Pierre và Miquelon, Vùng đất phía Nam và châu Nam Cực thuộc Pháp, Wallis và Futuna Của Hà Lan: quần đảo Antille thuộc Hà Lan, Aruba Của Đức: quần đảo Helgoland (ở biển Bắc) Của Na Uy: Quần đảo Svalbard Của Đan Mạch: đảo Greenland và Quần đảo Faroe (trên lý thuyết không thuộc vùng Schengen nhưng trên thực tế có việc đi lại tự do giữa vùng Schengen và các lãnh thổ này) Của Ý: thị xã Livigno (tỉnh Sondrio, vùng Lombardia) và Campione (nằm lọt trong đất Thụy Sĩ) Của Síp: miền Bắc đảo Síp Các quốc gia châu Âu chưa gia nhập San Marino: không gia nhập nhưng có biên giới mở với Ý Monaco: coi như một phần của Pháp, nhà chức trách Pháp kiểm soát hải cảng Monaco Vatican: có biên giới mở với Ý và đã ngỏ ý muốn gia nhập, hiện có sự hợp tác chặt chẽ về an ninh trong hệ thống thông tin Schengen (système d'information de Schengen) Andorra: có biên giới mở với Pháp và Tây Ban Nha Hy Lạp: tuy trên lý thuyết đã gia nhập hiệp ước Schengen, nhưng đối với công dân của Cộng hòa Macedonia nếu muốn nhập cảnh vào Hy Lạp từ một nước thuộc khối Schengen khác vẫn phải xin thị thực của Hy Lạp) Anh và Ireland: chỉ ký thỏa thuận hợp tác về an ninh và cảnh sát, chưa ký thỏa thuận bãi bỏ kiểm soát biên giới. Thời gian áp dụng 26 tháng 3 năm 1995: Đức, Bỉ, Pháp, Hà Lan, Luxembourg, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha 26 tháng 10 năm 1997: Ý 1 tháng 12 năm 1997: Áo 8 tháng 12 năm 1997: Hy Lạp (trên lý thuyết, đến 26 tháng 3 năm 2000 mới thực sự áp dụng, tuy nhiên đối với công dân Cộng hòa Macedonia vẫn phải xin visa của Hy Lạp ngay cả khi đến từ một nước thành viên khác) 25 tháng 3 năm 2001: Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy, Phần Lan, Iceland 21 tháng 12 năm 2007: Estonia, Latvia, Litva, Ba Lan, Cộng hòa Séc, Slovakia, Slovenia, Hungary, Malta (áp dụng ở biên giới đường bộ và đường thủy, riêng đường hàng không kể từ 30 tháng 3 năm 2008) Tháng 11 năm 2008: Thụy Sĩ 2009: đảo Síp 2011: Liechtenstein 2023: Croatia Các biện pháp an ninh Theo khoản 2 điều 2 của Công ước, các nước ký kết có quyền tái thiết lập tạm thời việc kiểm soát biên giới hoặc một khu vực nhất định, vì lý do an ninh. Ví dụ như trường hợp của Pháp trong dịp tổ chức lễ kỷ niệm 60 năm ngày quân đồng minh đổ bộ lên bờ biển Normandy (chiến dịch Neptune) (ngày 6 tháng 6 năm 2004) hoặc CHLB Đức trong thời gian tổ chức giải vô địch bóng đá thế giới 2006 (đề phòng các hooligan phá rối). Vấn đề an ninh hàng không Dù không có kiểm soát biên giới, những hành khách di chuyển bằng đường hàng không giữa các nước trong vùng Schengen vẫn phải trình thẻ căn cước hoặc hộ chiếu khi check-in. Đây không phải là quy định của Công ước Schengen, mà là quy định bảo đảm an ninh của ngành hàng không. Khách sạn và nhà nghỉ Theo quy định của công ước Schengen, mọi khách sạn và nhà nghỉ trong vùng phải đăng ký tên, tuổi, số thẻ căn cước hay hộ chiếu của mọi công dân nước khác khi vào lưu ngụ, vì vậy khi check-in vào khách sạn hay nhà nghỉ thì phải xuất trình thẻ căn cước hoặc hộ chiếu. Thị thực vùng Schengen Đối với những công dân bên ngoài khối Schengen, trừ khi hộ chiếu của họ được khối Schengen miễn thị thực, muốn nhập cảnh vào vùng Schengen phải xin một thị thực đồng nhất gọi là thị thực Schengen tại đại sứ quán hay lãnh sự quán của một nước mà mình muốn tới đầu tiên hoặc lưu trú lâu nhất, sau đó có thể tự do đi lại trong vùng Schengen. Loại thị thực này thường chỉ có thời hạn lưu trú tối đa là 90 ngày (đối với mục đích du lịch, thăm thân) hoặc lâu hơn nếu họ có ý định học tập, làm việc trong khối Schengen.
eMule là một chương trình chia sẻ tệp đồng đẳng hoạt động trên mạng eDonkey và mạng Kad. eMule được phát triển trên nền Windows, và mã nguồn được lấy làm nền tảng cho các chương trình tương tự là xMule (chạy trên nền Linux) cùng với người anh em đa nền aMule. Các tính năng nổi bật của eMule bao gồm trao đổi tệp trực tiếp giữa các máy trạm, khả năng phục hồi nhanh các nội dung tải về bị hư hỏng, và hệ thống điểm để khuyến khích tải lên. Ngoài ra, eMule sử dụng giải thuật nén Zlib cho nội dung vận chuyển nhằm tiết kiệm băng thông. Một tính năng thú vị khác của eMule hay bất kì chương trình eDonkey client là cho phép sử dụng các địa chỉ dạng 'ed2k' để tải về tệp tương ứng (tương tự như khi tải một tệp sử dụng giao thức http). Các địa chỉ này giúp người dùng tránh nguy cơ tải về một tệp giả mạo nhờ vào việc kiểm tra giá trị băm (hash) của tệp. Các địa chỉ này được gọi là "đáng tin cậy". eMule kiểm tra tệp tải về hoàn thành có đúng với bản gốc hay không bằng cách sử dụng giải thuật MD4. eMule được viết bằng ngôn ngữ Visual C++ trên nền .NET của Microsoft. Do eMule là một trong những chương trình mã nguồn mở rất phổ biến trên Internet nên nó có rất nhiều bản sửa đổi không chính thức. Lịch sử Dự án eMule được khởi đầu vào ngày 13 tháng 5 năm 2002 bởi lập trình viên Hendrik Breitkreuz (còn được biết đến là Merkur). Merkur cảm thấy không thỏa mãn khi sử dụng chương trình client gốc của eDonkey2000 nên đã quyết định viết một chương trình tốt hơn. Trong thời gian phát triển eMule, dự án nhận thêm sự tham gia của 7 lập trình viên khác. Mã nguồn đầu tiên phiên bản 0.02 được công bố trên SourceForge vào ngày 6 tháng 7 năm 2002. Sau đó ngày 4 tháng 8 năm 2002, bản cài đặt được đầu tiên của eMule phiên bản 0.05a được phát hành. 'Hệ thống tính điểm' lần đầu tiên xuất hiện ở phiên bản 0.19a vào ngày 14 tháng 9 năm 2002. Trang web chính thức của dự án eMule bắt đầu hoạt động vào ngày 8 tháng 12 năm 2003. Từ ngày xuất hiện trên SourceForge đến nay, eMule đã được tải về hơn 199 triệu lần (tính đến ngày 31 tháng 5 năm 2006) và luôn dẫn đầu trong bảng xếp hạng phần mềm mã nguồn mở được tải về nhiều nhất trên Internet (đứng thứ 2 là Azureus, một chương trình BitTorrent client). Hiện nay dự án eMule vẫn được tiếp tục được hoàn thiện bởi 16 thành viên: 2 người phát triển, 2 quản lý dự án (bao gồm Merkur), 3 người kiểm tra và 9 người dò lỗi. Trang web chính thức do 7 người phát triển và 4 người quyền quản trị để duy trì trang web hoạt động tốt. Các sự kiện gần đây Từ phiên bản 0.40a, eMule bắt đầu hỗ trợ mạng Kad. Mạng này sử dụng giao thức Kademlia, một giao thức chia sẻ phân tán và không cần máy chủ trung tâm như mạng eDonkey truyền thống. Một tính năng được thêm vào trong các phiên bản gần đây là hỗ trợ tìm kiếm Unicode (cho phép tìm kiếm các tệp có tên không phải là ký tự la tinh) và khả năng tìm kiếm trên các máy chủ những tệp hoàn chỉnh cho tệp tải về đang thiếu (tính năng này không hỗ trợ trên mạng Kad). Các phiên bản mới còn có thêm tính năng "Danh sách đen" liệt kê các địa chỉ IP kết nối không thành công. Một IP khi bị vào danh sách này sẽ được xem như là IP chết và bị cấm kết nối trong một khoảng thời gian ngắn, từ 15 – 45 phút. Tuy nhiên, tính năng này gây tranh cãi trong cộng đồng người dùng vì nhiều người cho rằng nó dẫn đến tình trạng thiếu nguồn tải về và do đó làm chậm tốc độ tải. Ví dụ, một nguồn có thể rơi vào tình trạng ngoại tuyến chỉ trong vài phút (do lỗi mạng hay khởi động lại hệ thống) nhưng vẫn bị cấm đến 45 phút. Một vài tính năng thêm vào khác bao gồm khả năng chạy eMule từ một tài khoản hạn chế quyền nhằm tăng độ an toàn cho hệ thống, khả năng xử lý lỗi thông minh (ví dụ trường hợp tải tệp có kích thước 9,28Mb, nếu có một đoạn của tệp bị lỗi trong quá trình truyền thì chương trình eMule không cần tải về lại toàn bộ tệp, mà nó chỉ cần tải về đoạn tệp bị lỗi sau đó nó tự lắp ghép để hoành chỉnh tệp như bản gốc) eMule hiện nay đã được xem như một sản phẩm khá ổn định do đó khoảng cách giữa 2 phiên bản được giãn rộng ra, thường vào khoảng 2 đến 3 tháng. Phiên bản mới nhất là v0.50a được phát hành vào ngày 7 tháng 4 năm 2010. eMule khuyến cáo nên thay đổi thiết lập mặc định giá trị cổng (ví dụ nên sử dụng cổng có giá trị là 20000 thay vì 4662), vì hiện nay rất nhiều ISP làm nghẹt cổng mặc định của giao thức P2P làm tốc độ tải tệp của chương trình rất thấp. Trang web chính thức và trang web giả mạo Địa chỉ trang web chính thức của eMule tại http://www.emule-project.net. Bạn có thể tải về phiên bản mới nhất của eMule tại đây. Các phiên bản cũ hơn được lưu tại trang http://sourceforge.net/projects/emule. Các trang web có tên miền tương tự thường đề nghị bạn trả một khoản phí để đăng nhập hoặc để tải về phiên bản mới nhất là trang web giả mạo, ví dụ trang: www.emule.org www.emule.net Khái niệm cơ bản Nhận dạng tệp Tất cả các tệp đều có giá trị băm để kiểm tra xem tệp tải về có đúng như bản gốc không. Giá trị băm này phụ thuộc vào nội dung của tệp, nó không phải là tên tệp. Điều này cho phép mọi người đều có thể tìm kiếm tệp mình cần mà không cần biết tện tệp mình cần tìm có tên là gì. Tệp được chia thành các khối có kích thước 9,28 Mb (khối cuối cùng của tệp có thể nhỏ hơn 9,28 Mb). Giá trị băm của tệp được tính toán như sau: đầu tiên tính toán giá trị kiểm tra theo thuật giải MD4 của mỗi khối, sau đó kết nối giá trị kiểm tra MD4 của tất cả các khối thành một chuỗi, tính toán giá trị kiểm tra MD4 của chuỗi này sẽ ra giá trị băm của tệp. Định danh các máy đồng đẳng Tương tự như giá trị băm của tệp, mỗi máy đồng đẳng trong mạng cũng có một định danh duy nhất. Giá trị định danh của các máy đồng đẳng được giữ bí mật tuyệt đối bằng giải thuật bắt tay khóa công khai / khóa riêng, tránh trường hợp các định danh của các máy đồng đẳng bị sử dụng sai mục đích. Tải tệp Sau khi xác định nguồn của tệp cần tải (có một hoặc nhiều máy đồng đẳng trong mạng đang chia sẻ tệp này), chương trình eMule sẽ liên hệ với các máy đồng đẳng này để yêu cầu cho nó tải tệp. Mỗi chương trình eMule đều duy trì một danh sách 'hàng đợi tải về', bao gồm tất cả các máy đồng đẳng khác đang có yêu cầu tệp. Khi một máy đồng đẳng trong danh sách hàng đợi tải về đến lượt, chương trình eMule ở hai máy liên hệ với nhau và bắt đầu trao đổi tệp. Chương trình eMule có tính thông minh để luôn luôn yêu cầu các khối của tệp hiếm nhất, ít máy đồng đẳng cung cấp nhất để tránh hiện tượng nút cổ chai. Nếu máy đồng đẳng đã có đủ hầu hết các khối hiếm thì nó vẫn yêu cầu các khối còn lại, chương trình eMule chỉ cho phép chia sẻ các khối của tệp đã hoàn chỉnh. Nén dữ liệu Trước khi dữ liệu được gửi đi, eMule nén dữ liệu này lại bằng giải thuật zlib với tỉ lệ nén chặt nhất để giảm băng thông mạng. Sau khi đã nén xong eMule chọn gói dữ liệu theo thứ tự từ nhỏ đến lớn để bắt đầu truyền đi. Classic server dựa trên ed2k Xem: mạng EDonkey Kết nối vào mạng Mấu chốt của mạng Edonkey là máy chủ eD2k. Mỗi máy đồng đẳng đều phải kết nối vào máy chủ để vào mạng chia sẻ. Khi máy đồng đẳng đã kết nối vào máy chủ, máy chủ sẽ kiểm tra xem các máy đồng đẳng khác có kết nối tự do vào máy của bạn không. Nếu có, máy chủ sẽ đặt cho máy bạn một định danh có giá trị cao, bằng không giá trị định danh sẽ có giá trị thấp. Sau khi đã gán giá trị định danh cho máy bạn, eMule sẽ gửi tất cả các tệp bạn chia sẻ cho máy chủ. Máy chủ sẽ thêm tên tệp và giá trị băm của từng tệp vào cơ sở dữ liệu của nó. Tìm tệp Khi đã kết nối vào mạng EDonkey, máy đồng đẳng có thể tìm kiếm từ khóa có trong tên tệp. Cuộc tìm kiếm có thể là cục bộ hoặc toàn cục. Nếu là tìm kiếm cục bộ (chỉ tìm tại máy chủ bạn kết nối tới) thì thời gian tìm kiếm sẽ nhanh hơn nhưng có ít kết quả. Nếu là tìm kiếm toàn cục (tìm kiếm tất cả các máy chủ có trong mạng) thì thời gian tìm kiếm sẽ lâu hơn nhưng có nhiều kết quả tìm kiếm hơn. Mỗi máy chủ khi nhận được yêu cầu tìm kiếm, nó sẽ tìm kiếm từ khóa trong cơ sở dữ liệu của nó và trả lại tên tệp (cùng giá trị băm) tương ứng với từ khóa. Chú ý: máy chủ giả mạo trong mạng sẽ không đưa ra kết quả cho bất kỳ yêu cầu tìm kiếm nào. Tìm kiếm nguồn gốc của tệp Có thể tìm tệp tải về bằng chức năng tìm kiếm của eMule hoặc rất nhiều trang web cung cấp liên kết dạng eD2k. Khi bắt đầu có yêu cầu tải tệp xác định, đầu tiên eMule truy vấn máy chủ cục bộ và tất cả các máy chủ khác trong mạng để xác định nguồn gốc của tệp. Máy chủ sẽ tìm kiếm giá trị băm của tệp trong cơ sở dữ liệu của nó và trả về kết quả tìm được cho máy có yêu cầu. Kết quả sẽ là một máy đồng đẳng khác trong mạng đang có ít nhất một khối hoàn chỉnh (9,28Mb) của tệp, giá trị băm của tệp này tương ưng với giá trị băm có lưu trong cơ sở dữ liệu của máy chủ Mạng phân tán Kad (dựa trên giao thức Kademlia) Kết nối vào mạng Điều duy nhất cần để kết nối vào mạng là cung mồi, lưu trữ thông tin về địa chỉ IP và cổng của chương trình một máy khách eMule đang kết nối trong mạng Kad. Thông thường, một máy muốn kết nối vào mạng Kad tìm cung mồi thông qua một máy chủ ed2k. Một khi đã được kết nối vào mạng Kad, máy khách sẽ yêu cầu các máy khác trong mạng kiểm tra khả năng kết nối của nó. Có 2 khả năng xảy ra. Thứ nhất, nếu máy khách có thể được kết nối tự do từ bất kì máy nào trong mạng, nó sẽ được cung cấp một ID và được gán trạng thái mở. Trong trường hợp ngược lại, máy khách sẽ được gán trạng thái bị chặn bởi tường lửa. Kể từ phiên bản 0.44a, mạng Kad hỗ trợ khả năng Buddy để giúp các máy khách bị tường lửa. Một buddy là một máy khách trong mạng có trạng thái mở (và do đó có thể kết nối tự do với bất kì máy nào). Máy buddy này đóng vai trò như một cầu nối chuyển tiếp giữa máy bị chặn bởi tường lửa và một máy khách khác trong mạng Kad. Tính năng này giúp cho 2 máy bị tường lửa có thể kết nối và chia sẻ với nhau. Tìm kiếm trên Kad Trên mạng Kad tất cả các dạng tìm kiếm đều hoạt động theo một phương thức và được tổng quát hóa thành một hàm tìm kiếm lookup(giá trị cần tìm kiếm). Giá trị cần tìm kiếm là một giá trị băm, đại diện cho một máy khách, một tên tệp, một nguồn tải về,... Do Kad là một mạng phân tán, tất cả hoạt động đều thực hiện thông qua các máy khách vì không tồn tại bất kì máy chủ nào. Về phương thức hoạt động, có thể xem như mỗi máy khách là một máy chủ con, chịu trách nhiệm cho một số nội dung và từ khóa nhất định. Khi nhận được một yêu cầu tìm kiếm từ một máy khách khác, nó kiểm tra xem từ khóa tìm kiếm có phải do mình quản lý hay không. Trong trường hợp từ khóa do máy khách quản lý, nó sẽ gởi về kết quả tìm kiếm dưới dạng địa chỉ nguồn tải về tương ứng với từ khóa. Nếu không phải, nó sẽ sử dụng một thuật toán để xác định một (hay một số) máy khách có khoảng cách đến từ khóa gần hơn khoảng cách từ bản thân nó đến từ khóa. Sau khi xác định nó sẽ chuyển yêu cầu đến máy khách đó. Thuật toán này khá phức tạp nhưng hiệu quả, bảo đảm sau log(2^n) bước chuyển (n là tổng số máy khách trong mạng Kad) sẽ tìm ra máy chịu trách nhiệm cho từ khóa. Độ phức tạp này chính là tính chất cốt yếu của tất cả các mạng DHT (Distributed Hashing Table), trong đó bao gồm Kad. Các luật cơ bản cho người dùng eMule eMule và tất cả các chương trình chia sẻ tệp của mạng eDonkey đều hỗ trợ chia sẻ theo hai cách cơ bản sau: 1) Mọi người bắt buộc phải chia sẻ tệp: Tệp được chia sẻ có kích thước lớn hơn 9500 Kb sẽ chia thành các khối (trunk), vì vậy người nhận sẽ bắt đầu chia sẻ khối đã tải xong ngay cả khi cả tệp chưa tải xong. Người nhận bắt buộc phải chia sẻ theo cách này cho đến khi tệp được tải hoàn chỉnh. 2) Mọi người bắt buộc phải chia sẻ băng thông để tăng luồng dữ liệu của mạng: phiên bản chính thức của eMule bắt buộc người dùng thiết lập tốc độ tải về tối đa không được lớn hơn 4 lần tốc độ tải lên tối đa. Giới hạn này không áp đặt nếu tốc độ tải lên tối đa được đặt từ 10KB/s trở lên. Mặc dù có rất nhiều bản chỉnh sửa của eMule, nhưng thật khó để tìm ra một bản chỉnh sửa mà không tuân theo luật 2. Thêm nữa nếu người dùng cố gắng phá vỡ luật này bằng cách giới hạn tốc độ tải lên có thể sẽ làm chậm tốc độ tải về do có thứ hạng xấu đối với người cung cấp tệp (tính toán thông qua hệ thống điểm của eMule). Và rất nhiều máy đồng đẳng gian lận thường bị cấm không cho kết nối vào mạng bởi các công cụ bổ sung do các bản chính sửa thêm (tính năng cấm máy kết nối không hỗ trợ trong phiên bản eMule chính thức). eMule có tính năng giới hạn tốc độ tải về và tải lên để không vượt quá ngưỡng đặt bởi người dùng. Các phiên bản eMule cũ hơn bản 0.47a không thể chia sẻ tệp lớn hơn 4.189.500 Kb (441 khối). Đây là một giới hạn kế thừa từ giao thức ed2k. Từ phiên bản 0.47a giới hạn kích thước của tệp là 256 GB. Tổng kết Cả hai mạng eDonkey và Kad tuy có khác nhau về nguyên lý hoạt động nhưng đều nhằm vào một mục đích tìm kiếm tệp và nguồn cho tệp. Mục đích chính của mạng Kad là loại bỏ sự phụ thuộc của mạng vào máy chủ trung tâm và tăng khả năng mở rộng mạng (nhờ vào độ phức tạp logarithmic của thuật toán tìm kiếm). Ngược lại, trong eDonkey hay các mạng tương tự, tất cả tìm kiếm đều phải thông qua máy chủ trung tâm. Do đó khi mạng mở rộng, số lượng tìm kiếm đến máy chủ sẽ trở nên rất lớn và đến một lúc sẽ vượt quá giới hạn tính toán của máy chủ khiến cho hiệu suất mạng bị suy giảm nặng nề (hãy tưởng tượng một yêu cầu tìm kiếm cần vài phút để nhận được kết quả!). Hơn nữa, nếu máy chủ trung tâm có vấn đề thì cả mạng sẽ đổ vỡ. Vấn đề này thực sự nghiêm trọng kể từ vài năm trở lại đây, không phải từ giới hạn kĩ thuật mà là từ các rắc rối về pháp lý. Gần đây nhất là sự kiện máy chủ nổi tiếng Razorback bị đóng cửa do sức ép từ các nhà điều tra vi phạm bản quyền Mỹ. Do đó trong tương lai gần các hoạt động chia sẻ đồng đẳng sẽ có khuynh hương phân tán hóa, và các mạng như Kad sẽ trở nên phổ thông với mọi người dùng. Các bản sửa đổi của eMule Như các chương trình mã nguồn mở phổ biến khác, eMule có rất nhiều biến thể, gọi là mods (các bản sửa đổi). Một vài bản còn làm phân nhánh mã của eMule, và phát triển độc lập với phiên bản chính thức, như eMule Plus. eMule Plus không có giao thức Kademlia. Các phiên bản không chính thức khác theo sau phát hành của eMule, và phân phối phiên bản chỉnh sửa của họ dựa trên những cải tiến của eMule trong phiên bản mới. Gần đây Neomule đang thử nghiệm tính năng mã hóa để chống ISP làm nghẹt đường truyền. Đó có thể là một tin tốt cho người dùng không muốn thay đổi nhà cung cấp dịch vụ Internet, nhưng có thể dẫn tới sự giới hạn băng thông nghiêm nghặt hơn của ISP. Liên kết đến các bản sửa đổi Một vài liên kết đến bản sửa đổi eMule phổ biến: eMule Plus MorphXT eMule Xtreme Neomule Hệ thống điểm thưởng Giới thiệu Hệ thống điểm thưởng dùng để thưởng cho người dùng cung cấp tệp trong mạng. Hệ thống hàng đợi trong eMule dựa trên thời gian người dùng phải chờ trong hàng đợi để tải tệp. Hệ thống điểm thưởng cung cấp một phương thức thay đổi thời gian chờ bằng cách so sánh thời gian tải lên và tải về giữa hai máy đồng đẳng khác nhau trong hàng đợi, máy nào tải lên cho nó nhanh hơn thì nó sắp xếp trước trong hàng đợi. Phương thức thay đổi thời gian chờ được tính bằng cách lượng dữ liệu vận chuyển giữa hai máy đồng đẳng. Giá trị này có thể xem ở cửa sổ chi tiết của các chương trình client. Tính toán điểm thưởng Thứ tự của máy đồng đẳng trong hàng đợi của một máy đồng đẳng khác phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố khác nhau, bao gồm thời gian nó đã chờ trên hàng đợi, quyền ưu tiên cho tải lên một tệp xác định và điểm của các người dùng khác đánh giá nó. Các nhân tố trên đều có một giá trị tương ứng, tổng của các nhân tố trên là điểm dùng để xếp thứ tự các máy đồng đẳng trong một hàng đợi của một máy xác định. Điểm thưởng được tính như sau: Nếu máy đồng đẳng đã tải lên ít hơn 1MB, có điểm là 1. Nếu máy đồng đẳng tải lên nhiều hơn 1MB, nhưng chưa tải về bất cứ khối nào của tệp, có điểm là 10. Không phải hai trường hợp trên: Tính toán theo công thức sau: tổng lượng dữ liệu tải lên x 2 / tổng lượng dữ liệu tải về. Tính toán theo công thức sau: Bình phương của tổng lượng dữ liệu tải lên + 2. Chọn lựa giá trị nhỏ hơn trong 2 giá trị trên, gọi giá trị đấy là x. Nếu x < 1, điểm = 1. Nếu x > 10, điểm = 10. Không phải 2 trường hợp trên thì điểm = x. Ghi chú Giá trị điểm không phải toàn cục: giữa hai máy đồng đẳng khác nhau, điểm của một máy đồng đẳng thứ ba do hai máy chấm sẽ khác nhau. Điểm của máy bạn sẽ được theo dõi bởi một máy đồng đẳng khác trong mạng. Điều này tránh các trường hợp giả mạo điểm thưởng. Hệ thống điểm thưởng là một hệ thống điều khiển máy bạn từ xa để tải lên cho bạn, ngay cả khi chương trình client không hỗ trợ hệ thống điểm thưởng, nó vẫn bị điều khiển để cung cấp thông tin giúp các máy khác chấm điểm. Nếu máy đồng đẳng bị điều khiển từ xa không hỗ trợ hệ thống điểm, thì nó sẽ không tải về được từ các máy khác. Điểm của các máy đồng đẳng được lưu trong tệp clients.met. Giá trị băm định danh người dùng dùng để xác định các máy đồng đẳng được lấy làm giá trị cơ sở trong tệp. Người dùng không thể biết điểm của chính mình. Sẽ có máy đồng đẳng khác trong mạng chia sẻ sử dụng hệ thống chấm điểm khác. Màu sắc của thanh tiến trình Mỗi tiến trình tải tệp về được biểu diễn bằng một thanh màu. Màu đen diễn tả phần của tệp đã tải về xong. Màu đỏ diễn tả phần của tệp chưa xác định được máy đồng đẳng nào sẽ cho tải về. Bóng của màu xanh da trời khác nhau diễn tả các phần của tệp đã xác định được máy đồng đẳng cung cho phép tải về. Màu xanh da trời càng tối thì càng có nhiều nguồn cung cấp phần của tệp. Màu vàng biểu diễn phần này đang được tải về. Thanh màu xanh lá biểu diễn tổng quá trình tải tệp Thanh màu xanh lá diễn tả tệp đã tải về hoàn thành Thanh màu đỏ tối diễn tả tiến trình tải tệp đang bị tạm dừng hoặc hãm tải về. Thanh tải về Nếu bạn mở cửa sổ xem thông tin chi tiết về tệp đang tải, bạn sẽ nhìn thấy mỗi nguồn cung cấp của tài nguyên tương ứng với một thanh màu. Để xem thông tin này nhắp đúp vào tên tệp (hoặc nháy đơn, điều này tùy thuộc vào thiết lập trong Option -> Display). Dưới đây là thanh màu diễn tả các ý nghĩa khác nhau: (shaded style) Màu đen diễn tả bạn đã có phần của tệp. Màu xanh da trời diễn tả phần của tệp bạn đang cần tải về. Màu trắng bạc diễn tả phần của tệp chưa xác định được nguồn cung cấp. Màu xanh lá diễn tả đang tải phần của tệp. Màu vàng diễn tả phần này chưa xử lý (nhưng đã yêu cầu tải) Số nguồn cung cấp Bốn giá trị xx/yy+aa (zz) hiển thị sau thanh thanh tiến trình là số nguồn cung cấp tệp và có các ý nghĩa sau. xx – Số nguồn cung cấp hữu ích yy – Tổng các nguồn cung cấp + aa – Số lần yêu cầu các tệp khác của nguồn cung cấp (Chỉ hiển thị khi hiệu lực Advanced Control) zz – Nguồn hiện đang vận chuyển Tính hiệu lực của tệp chia sẻ Mỗi tệp chia sẻ được biểu diễn tương ứng bằng một thanh màu, các màu có ý nghĩa tương ứng với màu dùng trong thanh tải về. Màu đỏ diễn tả phần đang thiếu ở tất cả các nguồn. Các bóng màu của màu xanh da trời diễn tả sự phổ biến của phần này trong mạng. Tình trạng mạng chia sẻ (dữ liệu cho mạng eDonkey) Số người dùng hiện tại: 3 – 5 triệu (số người dùng chính xác sẽ không được hiển thị vì từ khi các máy chủ mới xuất hiện nó thường gian lận số người dùng, số người dùng hiệt tại mới nhất có thể tìm được tại trang web: Slyck.com ). Số người chia sẻ tệp: ~600 triệu.
Ấn Độ Liên hoan phim quốc tế Ấn Độ IFFK Liên hoan phim Kolkata Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất Liên hoan phim quốc tế Dubai Trang chính thức Hàn Quốc Liên hoan phim quốc tế Pusan (Busan) Liên hoan phim quốc tế Puchon (Bucheon) Indonesia Liên hoan phim quốc tế Jakartal Iran Liên hoan phim quốc tế Fajr Israel Liên hoan phim quốc tế Haifa Liên hoan phim Jerusalem Nepal Phim Nam Á Liên hoan phim quốc tế miền núi Kathmandu Nga Pacific Meridian (Vladivostok) Nhật Bản leading digital short film festival in the world Liên hoan phim quốc tế Tokyo Liên hoan phim tài liệu quốc tế Yamagata Pakistan Liên hoan phim Kara (Karachi) Philippines Liên hoan phim quốc tế CineManila Singapore Liên hoan phim quốc tế Singapore Thái Lan Liên hoan phim quốc tế Bangkok Liên hoan phim thế giới Bangkok Triều Tiên Liên hoan phim Bình Nhưỡng Trung Quốc Liên hoan phim Kim Mã (Đài Bắc) Liên hoan phim Kim Tượng Liên hoan phim quốc tế Thượng Hải Liên hoan video và phim đồng tính châu Á Việt Nam Liên hoan phim Việt Nam
Sông Moskva (tiếng Nga: Москва-река) là một con sông ở Trung Nga, chảy trong tỉnh Moskva và một phần của tỉnh Smolensk tại Nga, đồng thời là sông nhánh phía tả ngạn của sông Oka. Sông Oka lại là sông nhánh của sông Volga. Chiều dài của con sông này là 503 km. Diện tích lưu vực của nó là 17.600 km². Nó bị đóng băng trong giai đoạn tháng 11-12 và nằm dưới băng cho đến tháng Ba-Tư. Các sông nhánh chính của nó là Ruza, Istra, Yauza, Pakhra và Severka. Đặc điểm Sông này bắt nguồn từ vùng đầm lầy Starkovskoe trong khu vực bình nguyên Smolensk-Moskva. Trong tiếng Nga, người ta gọi đầu nguồn của nó là "Москворецкая лужа" (tức vũng nước Moskva). Ở phần thượng nguồn (16 km tính từ đầu nguồn) nó vượt qua tỉnh Smolensk, chảy qua hồ Mikhailovskoe (theo quan điểm của một số nhà khoa học thì bắt đầu từ đây người ta mới tính là sông Moskva). Nó đổ vào sông Oka cạnh thị trấn Kolomna. Độ chênh lệch về chiều cao tính từ đầu nguồn đến của sông là 155,5 m. Sông này được cung cấp nước từ các nguòn như: tuyết (61 %), nước ngầm (27 %) và mưa (12 %). Các trận lũ băng mùa xuân cung cấp 65% lưu lượng hàng năm. Lưu lượng trung bình nhiều năm tại thượng nguồn (làng Barsuki) là 5,8 m³/s, tại Zvenigorod là 38 m³/s, tại cửa sông là 150 m³/s. Do sự xả nước ấm trong phạm vi thành phố Moskva nên trạng thái đóng băng không ổn định. Các sông nhánh chính: tả ngạn — Ruza, Istra, Yauza; hữu ngạn - Pakhra, Severka. Lưu lượng dòng chảy của sông Moskva được các hồ chứa nước (Mozhaiskoe, Ruzskoe, Ozerninskoe, Istrinskoe) và các đập nước Petrovo-Dalnii và Rublyovo điều chỉnh. Sông Moskva cho phép tàu thuyền đi lại trên quãng đường khoảng 210 km tính từ cửa sông. Nước của sông này được dùng để cung cấp nước ngọt cho thành phố Moskva. Ngoài ra, theo kênh đào Moskva, từ hồ chứa nước Ivankovskoe trên sông Volga mỗi năm nước chảy vào sông này khoảng 1,8 km³. Hệ thống sông nhánh xả ra khoảng 22 m³/s nước. Dành cho mục đích vận tải thủy trong giới hạn thành phố Moskva người ta đã xây dựng các đập chắn nước Karamyshevskaya và Perervinskaya, ở phía dưới là các đập chắn nước có âu thuyền như Trudkommuny, Andreevskaya, Sophinskaya, Phaustovskaya và Severskaya. Chất lượng nước của con sông này rất thấp do nước thải từ Moskva. Thành phố Moskva (Москвa), thủ đô của Nga, nằm trên hai bờ sông này, ngoài ra nó cũng chảy qua Zvenigorod, Voskresensk, Kolomna, Zhukovsky, Bronnitsy và Mozhaisk. Nguồn gốc tên gọi Thành phố Moskva được đặt theo tên của con sông này. Nguồn gốc của tên gọi là không rõ ràng, có một số giả thiết tồn tại . Một trong các giả thiết là tên gọi này có từ tiếng Phần Lan cổ, có nghĩa là "tối", "đục". Theo một giả thiết khác, tên gọi này có nguồn gốc từ tiếng Komi, với nghĩa là "sông của bò" hay từ tiếng Mordovia với nghĩa là "sông của gấu".
Về một con sông ngắn tại Cộng hòa Séc, xem bài sông Desná. Sông Desna (tiếng Nga: Деснa) là một con sông tại Nga và Ukraina, sông nhánh phía tả ngạn của sông Dnepr, đồng thời cũng là sông nhánh dài nhất của sông Dnepr. Từ này có nghĩa là "tay phải" trong tiếng Slav cổ phía đông. Sông này dài khoảng 1.130-1.187 km. Đặc điểm Nó chảy qua các tỉnh Smolensk, Bryansk (Nga) và Chernigov, Kiev (Ukraina). Chiều dài có thể cho phép giao thông thủy là 535 km (từ thị trấn Zhukovka). Ở đầu nguồn hai bờ sông thấp và là các đầm lầy, phía dưới Bryansk thì bờ phải cao hơn. Sau khi sông Seim đổ vào thì thung lũng triền sông được mở rộng, với nhiều sông nhánh và sự phân dòng. Thời kỳ đóng băng kéo dài từ tháng 12 năm trước đến đầu tháng 4 năm sau. Về mùa xuân có các trận lũ lớn do băng, tuyết tan. Lưu lượng nước trung bình tại cửa sông là 360 m³/s. Nó chảy vào sông Dnepr ở phần phía bắc của Kiev. Thời Trung cổ, sông Desna là một tuyến giao thông thủy quan trọng, nối liền khu vực Kiev với lưu vực sông Đông (theo sông Seim) và lưu vực sông Oka (theo sông Bolva). Sông nhánh Sông Desna có 31 sông suối nhánh, bao gồm 18 bên hữu ngạn và 13 bên tả ngạn. Các sông đáng chú ý nhất bao gồm: Hữu ngạn: Sudost, Snov Tả ngạn: Bolva, Navlya, Nerussa, Seim, Ostyor Thành phố, thị trấn ven sông Tỉnh Smolensk: Elnya, Desnogorsk, Ekimovichy Tỉnh Bryansk: Zhukovka (cửa sông nhánh Vetjma), Seltso, Bryansk, Vygonichy, Trubchevsk, Belaya Berezka Tỉnh Chernigov: Novgorod-Severskii, Makoshino, Chernigov, Ostyor, làng Desna. Linh tinh Desna cũng là tên gọi phổ biến của R-9 Desna, một loại tên lửa xuyên lục địa do Liên Xô phát triển trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Lịch sử Arirang TV bắt đầu phát sóng vào ngày 3 tháng 2 năm 1997, thực hiện bởi tổ chức phi lợi nhuận phát thanh truyền hình quốc tế Hàn Quốc (Korea International Broadcasting Foundation). Ban đầu, kênh này chỉ có trên truyền hình cáp và vệ tinh tại Hàn Quốc và hướng đến người nước ngoài sinh sống hay tham quan Hàn Quốc. Năm 1999, Arirang TV lập kênh truyền hình vệ tinh và phát sóng bằng tiếng Anh, Trung, Tây Ban Nha, Hàn Quốc, Ả Rập, Nga, Việt Nam và Indonesia. 2015, Arirang UN được thành lập và phát sóng bằng tiếng Anh. Từ năm 2018, các kênh Arirang được phát sóng ở 105 quốc gia.
Nicole Camille Richie (sinh ngày 21 tháng 9 năm 1981) là diễn viên, ca sĩ và người giao thiệp rộng Mỹ được biết đến như con gái nuôi của ca sĩ Lionel Richie và với vai diễn trong chương trình truyền hình The Simple Life.
Sông Amur hay Hắc Long Giang (tiếng Nga: Амур; tiếng Trung giản thể: 黑龙江, phồn thể: 黑龍江. bính âm: Hēilóng Jiāng), tức "Hắc Long Giang" hay là "sông Rồng đen"; tiếng Mông Cổ: Хара-Мурэн, Khara-Muren có nghĩa là "sông Đen"; tiếng Mãn: Sahaliyan Ula cũng có nghĩa là "sông Đen"), với tổng chiều dài lên đến 4.444 km, nó trở thành con sông lớn thứ 10 trên thế giới, tạo thành biên giới tự nhiên giữa miền Viễn Đông của Nga và vùng Mãn Châu (tỉnh Hắc Long Giang) của Trung Quốc. Tên gọi Trong lịch sử, người ta thường gọi một con sông chỉ đơn giản là "nước". Có những từ tương tự cho "nước" hoặc "sông" trong một số ngôn ngữ Á châu: ví dụ: 물 mul ("nước") trong tiếng Triều Tiên, muren hoặc mörön ("sông") trong tiếng Mông Cổ và 水 midu> mizu ("nước") trong tiếng Nhật. Tên "Amur" có thể đã phát triển từ một từ gốc của nước, kết hợp với một công cụ sửa đổi kích thước cho "Nước lớn". Tên tiếng Trung Quốc của sông, Hắc Long Giang (黑龍江), có nghĩa là sông Rồng Đen, và tên tiếng Mông Cổ của nó, Khar mörön (Cyrillic: Хар мөөөө), có nghĩa là Sông Đen. Sông Amur được gọi là Hara-Muren trong tiếng Mông Cổ, Silkar ở Tungusian, Sahaliyan Ula ở Mãn Châu. Tên cổ của nó là Yushui, Wanshui và Heishui. Tên tiếng Nga Amur có nguồn gốc từ tên tiếng Mông Cổ Amar, có nghĩa là yên tĩnh hoặc yên bình. Lịch sử Trước khi người Nga đặt chân đến vùng này vào thế kỷ 19, sông Amur đã được người Mãn đặt tên là sahaliyan ula, có nghĩa là Hắc giang (sông Đen), là nơi tổ tiên họ đã sinh sống trong một thời gian dài và nhà Thanh luôn coi con sông này như là một dòng sông linh thiêng. Trong nhiều tư liệu lịch sử đã có hai thực thể địa chính trị được biết đến như là Nội Mãn Châu và Ngoại Mãn Châu. Tỉnh Hắc Long Giang của Trung Quốc nằm ở phía nam con sông này và được đặt tên theo tên gọi trong tiếng Trung của con sông, cũng như tỉnh Amur của Nga nằm ở phía bắc con sông. Sông Amur là một biểu tượng và là một yếu tố địa chính trị quan trọng trong quan hệ Nga-Trung. Sông Amur đã có tầm quan trọng đặc biệt trong thời kỳ sau sự chia rẽ về chính trị giữa Trung Quốc và Liên Xô trong thập niên 1960. Đối với nhiều cư dân định lượng hàng thế kỷ của Thung lũng Amur bao gồm các dân tộc Tungus (Evenk, Solon, Ducher, Nữ Chân, Nanai, Ulch), Mông Cổ (Daur), một số người Ainu và, gần nơi của họ, người Nivkh. Đối với nhiều nhóm trong số này, đánh bắt cá ở Amur và các nhánh sông của nó là nguồn sinh kế chính của họ. Cho đến thế kỷ 17, những người này không được người châu Âu biết đến và ngay cả người Hán ở Trung Quốc đại lục cũng ít biết đến, đôi khi họ gọi chung là những Dã Nhân Nữ Chân. Thuật ngữ tiếng Trung Yúpí Dázi 魚皮韃子 (Ngư Bì Đát Tử, "Tatars (Thát Đát) da cá") đã được áp dụng cho người Nanai và các nhóm liên quan, do quần áo truyền thống làm bằng da cá của họ. Người Mông Cổ, cai trị khu vực vào thời nhà Nguyên, đã thiết lập một sự hiện diện quân sự hạn chế trên vùng hạ lưu Amur trong thế kỷ 13 và 14; tàn tích của một ngôi đền thời Nguyên đã được khai quật gần làng Tyr. Vào giai đoạn cầm quyền của các Hoàng đế Minh Thành Tổ và Minh Tuyên Tông (đầu thế kỷ 15), triều đại nhà Minh đã đến Amur trong nỗ lực của họ để thiết lập quyền kiểm soát các vùng đất tiếp giáp với Trung Quốc ở phía đông bắc, sau này được gọi là Mãn Châu. Các cuộc thám hiểm do thái giám Yishiha đứng đầu đã đến Tyr nhiều lần trong khoảng thời gian từ 1411 đến đầu những năm 1430, xây dựng lại (hai lần) Đền Yongning và có được ít nhất là sự trung thành danh nghĩa của các bộ lạc hạ lưu Amur với chính quyền nhà Minh. Một số nguồn tin cũng cho biết sự hiện diện của Trung Quốc trong cùng thời kỳ ở giữa sông Amur - một pháo đài tồn tại ở Aigun trong khoảng 20 năm trong thời Thành Tổ ở ​​bờ trái (phía tây bắc) của Amur ở hạ lưu từ cửa sông Zeya. Aigun triều đại nhà Minh này nằm ở bờ đối diện với Aigun sau này được di dời sau thời nhà Thanh. Trong mọi trường hợp, sự hiện diện của nhà Minh trên Amur chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn; Ngay sau khi Minh Thành Tổ qua đời, biên giới của nhà Minh đã rút về miền nam Mãn Châu. Ảnh hưởng văn hóa và tôn giáo của Trung Quốc như Tết Nguyên Đán, "Thần Trung Quốc", các họa tiết Trung Quốc như rồng, xoắn ốc, cuộn, và hàng hóa vật chất như nông nghiệp, chăn nuôi, sưởi ấm, nồi nấu sắt, lụa và bông lan truyền giữa người bản xứ Amur chẳng hạn như Udeghes, Ulchis và Nanai. Các cuộc thám hiểm Cossack của Nga do Vassili Poyarkov và Yerofey Khabarov dẫn đầu đã khám phá Amur và các nhánh của nó lần lượt vào năm 1643-44 và 1649-51. Người Cossack đã thành lập pháo đài Albazin ở thượng nguồn Amur, tại địa điểm của kinh đô cũ của Solon. Vào thời điểm đó, nhà Thanh của người Mãn đang bận rộn với việc chinh phục Trung Quốc; nhưng vài thập kỷ sau, trong thời Khang Hy (1661-1722), họ chuyển sự chú ý sang sân sau của người Mãn Châu ở phương bắc. Aigun được tái lập gần địa điểm được cho là của nhà Minh vào khoảng năm 1683-1684, và một cuộc thám hiểm quân sự đã đi ngược dòng để đánh bại người Nga, nơi mà Albazin đã tước quyền thống trị của nhà Thanh để triều cống chồn zibelin mà người Solon và Daur của khu vực này phải làm hàng năm. Albazin đã thất thủ trong một chiến dịch quân sự ngắn vào năm 1685. Điều ước Nerchinsk, được ký kết năm 1689, đánh dấu sự kết thúc của chiến sự: họ phải rời khỏi toàn bộ thung lũng Amur, và điểm hội tụ của sông Shilka và sông Argun ở hạ lưu rơi vào tay Trung Quốc. Fedor Soimonov được gửi đến để lập bản đồ khu vực Amur nhỏ được khám phá vào năm 1757. Ông đã lập bản đồ Shilka, một phần trong lãnh thổ Trung Quốc, nhưng đã bị buộc quay trở lại khi đến đoạn hợp lưu với Argun. Sự thịnh vượng của Nga đối với Kitô giáo Chính thống đối với các dân tộc bản địa dọc theo sông Amur được xem là mối đe dọa của nhà Thanh. Vùng Amur vẫn là một hậu phương tương đối của Đế quốc Thanh trong một thế kỷ rưỡi tiếp theo, với Aigun thực tế là thị trấn lớn duy nhất trên sông. Người Nga xuất hiện trở lại trên sông vào giữa thế kỷ 19, buộc nhà Thanh phải giao tất cả các vùng đất phía bắc của dòng sông cho Đế quốc Nga bằng Điều ước Ái Hồn (1858). Các vùng đất phía đông Ussuri và hạ lưu Amur cũng được Nga mua lại, theo Công ước Bắc Kinh (1860). Việc mua lại các vùng đất ở Amur và Ussuri được theo sau bởi sự di cư của những người định cư Nga đến khu vực và xây dựng các thành phố như Blagoveshchensk và sau đó là Khabarovsk. Vô số tàu hơi nước sông, được xây dựng ở Anh, đã phục vụ Amur vào cuối thế kỷ 19. Sa hoàng Nicolas II của Nga, sau đó là Tsarovitch, đã đến thăm Vladivostok và sau đó du ngoạn trên sông. Nạo vét khai thác được nhập khẩu từ Mỹ để làm việc sa khoáng vàng của dòng sông. Hàng rào và giao thông đường sông bị cản trở rất nhiều bởi Nội chiến Nga 1918-22. Hồng quân Liên Xô có đội tàu Amur Flotilla tuần tra trên sông trên những chiếc thuyền sông bị cô lập. Trong những năm 1930 và trong Chiến tranh, người Nhật đã có một đội tàu riêng trên sông. Năm 1945, Liên Xô một lần nữa đưa đội tàu của mình lên sông. Các pháo hạm Yangtse cũ của Đức là Vaterland và Otter, phục vụ Hải quân Quốc gia Trung Quốc, đã tuần tra Amur trong những năm 1920. Ngày nay, các ngành kinh tế quan trọng trong lưu vực sông Amur bao gồm luyện kim, khai thác quặng sắt, các kim loại màu, vàng, than, thủy điện, lúa mì, kê, đậu tương, nghề cá, gỗ và thương mại Nga-Trung. Mỏ dầu Đại Khánh, là mỏ dầu lớn thứ tư trên thế giới, nằm gần thành phố Đại Khánh trong tỉnh Hắc Long Giang, chỉ cách con sông này vài trăm kilômét. Dòng chảy Chảy dọc theo miền đông bắc châu Á trên 4.444 km (2.761 dặm), từ các dãy núi ở đông bắc Mông Cổ tới biển Okhotsk (gần Nikolayevsk-na-Amure), nó tưới tiêu cho một khu vực đáng kể, bao gồm nhiều loại cảnh quan đa dạng như hoang mạc, thảo nguyên, lãnh nguyên và rừng taiga, cuối cùng chảy vào Thái Bình Dương thông qua eo biển Tatar. Phần chiều dài chính của sông Amur là 2.874 km. Con sông bắt đầu trên những ngọn đồi ở phía tây của Đông Bắc Trung Quốc ở độ cao 303 mét (994 ft) sau khi có sự hợp lưu của hai sông Shilka và Argun tại gần thôn Lĩnh Lạc Cổ (洛古河, miền tây huyện Mạc Hà (漠河) thuộc tỉnh Hắc Long Giang, Trung Quốc) và Pokrovka (Nga) để trở thành sông Amur. Nó chảy về phía đông tạo thành biên giới giữa Trung Quốc và Nga, và từ từ tạo ra một vòng cung lớn về phía đông nam khoảng 400 km (250 dặm), nhận được nhiều nhánh sông và đi qua nhiều thị trấn nhỏ. Tại Hô Mã, nó được nhập vào bởi một nhánh chính, Hô Mã He. Sau đó, nó tiếp tục chảy về phía nam cho đến khi, giữa các thành phố Blagoveshchensk ở Nga và Hắc Hà ở Trung Quốc, nó mở rộng đáng kể khi nó được nối với một trong những nhánh sông quan trọng nhất của nó là sông Zeya. Sông Amur sau đó uốn thành hình vòng cung ở phía đông và quay về hướng đông nam một lần nữa tại ngã ba sông với sông Bureya, sau đó không nhận được một nhánh quan trọng nào trong gần 250 km (160 dặm) trước khi hợp lưu với nhánh sông lớn nhất của nó, Tùng Hoa, tại Đồng Giang. Tại nơi hợp lưu với Tùng Hoa, dòng sông rẽ theo hướng đông bắc, chảy về phía Khabarovsk, nơi nó nối với Ussuri và từ đó ngừng xác định biên giới Nga-Trung Quốc. Bây giờ, dòng sông lan rộng ra như một con sông phân dòng, chảy theo hướng bắc-đông bắc qua một thung lũng rộng ở phía đông nước Nga, đi qua Amursk và Komsomolsk-na-Amure. Thung lũng thu hẹp sau khoảng 200 km (120 dặm) và dòng sông lại chảy về phía bắc trên đồng bằng tại ngã ba sông với Amgun. Không lâu sau, Amur chảy mạnh về phía đông và vào một cửa sông tại Nikolayevsk-na-Amure, khoảng 20 km (12 mi) về phía hạ lưu, nó chảy vào Eo biển Tatar. Các sông nhánh chính là: Ingoda, Onon, Shilka, Kherlen, Argun, Zeya, Selemdzha Bureya, Tùng Hoa, Nộn Giang Ussuri, Amgun Sông Amur là ranh giới tự nhiên của tỉnh Hắc Long Giang thuộc Trung Quốc ở phía nam với tỉnh Amur, tỉnh tự trị Do Thái (Evreyskaya avtonomnaya oblast) và vùng Khabarovsk thuộc Nga ở phía bắc. Phần hạ lưu sông Amur chảy qua vùng Khabarovsk. Nó chảy qua các thành phố sau: Hô Mã (Trung Quốc, bờ nam) Blagoveshchensk (Nga, bờ bắc) Hắc Hà (Trung Quốc, bờ nam) Gia Ấm (Trung Quốc, bờ nam) Đồng Giang (Trung Quốc, bờ nam) Phủ Viễn (Trung Quốc, bờ nam) Khabarovsk (Nga, bờ nam) Komsomolsk-na-Amur (Nga, bờ bắc) Amursk (Nga, bờ bắc) Nikolayevsk-na-Amur (Nga, bờ bắc) Môi trường hoang dã Người ta tin rằng có ít nhất 123 loài cá từ 23 họ sinh sống ở Amur. Phần lớn là thuộc phân họ Gobioninae thuộc bộ Cá chép, theo sau là số lượng họ Cá hồi. Một số loài là đặc hữu. Pseudaspius và Mesocottus là các chi đơn loài chỉ được tìm thấy ở Amur và một số sông ven biển gần đó. Bốn loài thuộc họ Cá tầm có thể được tìm thấy: Cá tầm Kaluga, cá tầm Amur, cá tầm Sakhalin và cá tầm nhỏ. Cá tầm Kaluga và Amur là loài đặc hữu. Cá tầm nhỏ được giới thiệu từ sông Obi vào những năm 1950. Lưu vực sông là nơi sinh sống của nhiều loại cá săn mồi lớn như cá lóc Trung Quốc, cá taimen, cá nheo sông Amur, cá chép cũng như các quần thể phân bố cực bắc của rùa mai mềm bắc Trung Quốc và sen hồng. Cầu và đường hầm Cây cầu lâu dài đầu tiên bắc qua sông Amur, Cầu Khabarovsk với chiều dài tổng thể 2.590 mét (8.500 ft), được hoàn thành vào năm 1916, cho phép các đoàn tàu trên Đường sắt xuyên Sibir đi qua sông quanh năm mà không cần sử dụng phà hoặc đường ray trên đỉnh băng sông. Năm 1941, một đường hầm đường sắt cũng được bổ sung. Sau đó, một cây cầu đường bộ và đường sắt kết hợp qua Amur tại Komsomolsk-on-Amur (1975; 1400 m) và cầu đường bộ và đường sắt Khabarovsk (1999; 3890 m) đã được xây dựng. Cầu đường sắt Tongjiang-Nizhneleninskoye đã được đề xuất vào năm 2007 bởi Valery Solomonovich Gurevich, phó chủ tịch của Khu tự trị Do Thái ở Nga. Cây cầu đường sắt bắc qua Amur sẽ kết nối Đồng Giang với Nizhneleninskoye, một ngôi làng ở Khu tự trị Do Thái. Phần cầu của Trung Quốc đã hoàn thành vào tháng 7 năm 2016. Vào tháng 12 năm 2016, công việc bắt đầu ở phần cầu của Nga. Cây cầu dự kiến sẽ mở cửa vào năm 2020.
Hắc Long Giang (黑龙江, sông rồng đen) có thể là: Tên Trung Quốc của sông Amur, nằm tại ranh giới giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Nga. Tỉnh Hắc Long Giang nằm tại đông bắc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Kịch bản phim (hay còn gọi là kịch bản văn học) là khâu đầu tiên của việc sản xuất ra một bộ phim, có thể được phỏng theo (chuyển thể) một tác phẩm khác như tiểu thuyết, vở kịch hay truyện ngắn, hoặc có thể là một tác phẩm gốc. Nó bao gồm kịch bản phim điện ảnh và kịch bản phim truyền hình. Người viết kịch bản được gọi là nhà biên kịch. .. Khái niệm Theo từ điển tiếng Việt do Giáo sư Hoàng Phê chủ biên, Nxb Khoa học xã hội định nghĩa: “Kịch bản là vở kịch ở dạng văn bản”. Mỗi loại hình văn học nghệ thuật, điện ảnh hay truyền hình (có thể coi truyền hình cũng là một loại hình mang tính chất nghệ thuật, bởi truyền hình là sự kết hợp của điện ảnh và báo chí) đều có những đặc thù riêng, đặc trưng và tính chất riêng. Vì thế, khái niệm kịch bản đi vào từng loại hình được biến hoá sao cho phù hợp với những tính chất đặc trưng riêng của nó. Do đó, nó có nhiều hình thức biểu hiện đa dạng chứ không phải chỉ là vở kịch ở dạng vản bản, vấn đề này chúng tôi xin đề cập phân tích ở những phần sau.
BGP, viết tắt của từ tiếng Anh Border Gateway Protocol, là giao thức tìm đường nòng cốt trên Internet. Nó hoạt động dựa trên việc cập nhật một bảng chứa các địa chỉ mạng (prefix) cho biết mối liên kết giữa các hệ thống tự trị (autonomous system, tập hợp các hệ thống mạng dưới cùng sự điều hành của một nhà quản trị mạng, thông thường là một nhà cung cấp dịch vụ Internet, ISP). BGP là một giao thức vector đường đi (path vector). Khác với các giao thức tìm đường khác như RIP (vector độ dài), OSPF (trạng thái liên kết), BGP chọn đường bằng một tập các chính sách và luật. Phiên bản BGP hiện nay là phiên bản 4, dựa trên RFC 4271. BGP hỗ trợ tìm đường liên vùng phi lớp (CIDR Classless Inter-Domain Routing) và dùng kỹ thuật kết hợp đường đi để giảm kích thước bảng tìm đường (ví dụ nếu một mạng chiếm 255 địa chỉ lớp C từ 203.162.0.0/24 - 203.162.254.0/24 thì chỉ dùng 1 địa chỉ 203.162.0.0/16 để định danh mạng) BGP được sử dụng thay thế cho EGP và xóa hẳn mạng xương sống NSFNET nhằm giúp cho Internet trở thành một hệ thống phân tán đúng nghĩa. Ngoài việc sử dụng BGP giữa các AS, BGP cũng có thể được sử dụng trong các mạng riêng quy mô lớn do OSPF không đáp ứng được. Một lý do khác là dùng BGP để hỗ trợ multihome. Đa số người sử dụng Internet thường không sử dụng BGP một cách trực tiếp. Chỉ có các nhà cung cấp dịch vụ Internet sử dụng BGP để trao đổi đường đi. BGP là một trong những giao thức quan trọng nhất đảm bảo tính kết nối của Internet. Hoạt động của BGP Các thiết bị tìm đường (router) sử dụng BGP kết nối từng cặp (peering) với nhau bằng cách thiết lập phiên làm việc trên giao thức TCP qua cổng 179. Phiên kết nối này được duy trì bằng việc gửi các thông điệp keep-alive 19 byte mỗi 60 giây (mặc định). Có bốn loại thông điệp BGP là open (mở phiên kết nối), update (thông báo hoặc rút lại một đường đi), notification (thông báo lỗi), keep-alive (duy trì phiên kết nối) BGP có 4 thông điệp kết nối Thứ tự ưu tiên trong cơ chế tìm đường của BGP Chọn đường đi tường minh trong bảng trước(so với đường đi mặc định) Chọn đường đi có trọng số cao nhất (weight) (chỉ với router của Cisco) Chọn đường đi có độ ưu tiên cục bộ cao nhất (local preference) Chọn đường đi do chính người quản trị mạng cài đặt trên router (static route, có thuộc tính origin là INCOMPLETE) Chọn đường đi đi qua ít AS nhất (AS path ngắn nhất) Chọn đường đi có nguồn gốc bên trong trước (origin = IGP < EGP) Chọn đường đi có độ ưu tiên gần/xa thấp nhất MED (Multi exit discriminator) Chọn đường đi ra bên ngoài trước (external path) Chọn đường đi có độ đo IGP đến hop tiếp theo thấp nhất (IGP metric to the next hop) Chọn đường đi tồn tại trong bảng lâu nhất (oldest one) Chọn đường đi đến router tiếp theo có BGP ID thấp nhất Các vấn đề hiện tại của BGP Đường đi không ổn định, thay đổi liên tục theo chu kỳ (route flapping) Sự tăng trưởng của kích thước bảng tìm đường Độ trễ của việc hội tụ bảng tìm dường (thời gian để cập nhật bảng tìm đường cho tất cả router khi có sự thay đổi, convergence delay) Vòng lặp trong việc chuyển thông tin đường đi (looping behavior) Độ tin cậy và cơ chế mã hóa thông tin
Bảng dưới đây so sánh tổng thể và thông tin công nghệ của các chương trình hỗ trợ giao thức BitTorrent. Để biết thêm chi tiết về từng chương trình ấn chuột vào tên chương trình tương ứng. Bảng so sánh này chưa bao gồm tất cả các chương trình BitTorrent hiện có và có thể chưa cập nhật những chức năng mới nhất của các chương trình. Tính năng Tính năng (tiếp tục) Ghi chú
Chòm sao Thiên Nga 天鵝, (tiếng La Tinh: Cygnus) là một trong 48 chòm sao Ptolemy và cũng là một trong 88 chòm sao hiện đại, mang hình ảnh con thiên nga. Chòm sao này có diện tích 804 độ vuông, nằm trên thiên cầu bắc, chiếm vị trí thứ 16 trong danh sách các chòm sao theo diện tích. Chòm Thiên Nga cùng với chòm sao Thiên Ưng và Thiên Cầm ở hai bên bờ Ngân Hà tạo thành thế chân vạc. Ba ngôi sao chính (sao alpha) của ba chòm sao này tạo thành mảng sao Tam giác mùa hè nổi tiếng. Bản thân chữ thập trong chòm sao này cũng là một mảng sao mang tên Bắc Thập tự. Chòm sao Thiên Nga nằm kề các chòm sao Tiên Vương, Thiên Long, Thiên Cầm, Hồ Ly, Phi Mã, Hiết Hổ. Người xưa hình dung chòm sao này như một con thiên nga đang trải cánh ngang qua dải Ngân Hà và bay về phía Nam. Các ngôi sao đáng quan tâm Chòm sao Thiên Nga có nhiều ngôi sao sáng và một số thiên thể đáng quan tâm. Sao Deneb, ký hiệu α Cygni, với cấp sao biểu kiến 1,25m là ngôi sao sáng nhất trong chòm sao Thiên Nga, sáng thứ 20 trên bầu trời. Tên đầy đủ của nó Deneb el Adige, còn gọi là Arided, Aridif hay Arrioph có nghĩa là cái đuôi của hình thiên nga. Deneb là một trong ba ngôi sao tạo nên mảng sao Tam giác mùa hè. Các đỉnh còn lại của mảng sao sáng này là sao Sao Chức Nữ trong chòm Thiên Cầm và sao Sao Ngưu Lang thuộc chòm Thiên Ưng. Mảng sao Bắc Thập Tự bao gồm các ngôi sao thuộc chòm sao Thiên Nga, tạo nên đầu, ức, cánh và đuôi thiên nga. Sao Albireo, có nghĩa là cái mỏ, ký hiệu: β Cygni tạo nên đầu thiên nga. Albireo có khối lượng lớn hơn Mặt Trời khoảng 5 lần, ở khoảng cách 385 năm ánh sáng. Sao Sadr, hay Sadir, Sador, ký hiệu: γ Cygni có nghĩa là ức lớn gấp 12 lần khối lượng Mặt Trời. Sao Gienah, ký hiệu: ε Cygni, trong tiếng Ả Rập có nghĩa là cánh, nằm bên cánh đông nam của thiên nga. Đây là sao có chuyển động riêng lớn nhất trong số các sao nằm trên hình thiên nga. Do chuyển động tiến động của trục Trái Đất, sau khoảng 10.000 năm Gienah sẽ trở thành sao Bắc cực thay cho Polaris ngày nay. Sao 61 Cygni là một sao mờ, chỉ có thể nhìn bằng mắt thường trong điều kiện quan sát tốt. Đây là ngôi sao đầu tiên được xác định khoảng cách đến Trái Đất. Trong chòm Thiên Nga có khoảng 400 sao biến đổi (tiếng Anh: Variable star) đã biết đến, trong đó có ba tân tinh. Một trong các sao biến đổi sáng nhất là Kappa Cygni thuộc nhóm sao biến đổi kiểu Mira Ceti. Tiếp đó là các sao biến đổi U Cygni, P Cygni, SS Cygni, R Cygni, RT Cygni, W Cygni, Z Cygni, V 456 Cygni. Nova Cygni là một trong những tân tinh được quan tâm. Các thiên thể đáng quan tâm Tinh vân Bắc Mỹ (NGC 7000) nằm gần sao Deneb về hướng Đông. Tên gọi của nó có được do nó tương ứng với hình dạng châu lục này. Tinh vân Pelican (IC 5070) nằm ở gần đó. Tinh vân Veil (NGC 6960, 6962, 6979, 6992, và 6995) nằm gần Epsilon Cygni về hướng Nam. Đây là tàn dư của một siêu tân tinh chiếm khoảng 3 độ góc của bầu trời. Tinh vân Crescent (NGC 6888) nằm ở giữa Gamma Cygni và Eta Cygni được hình thành từ sao Wolf-Rayet HD 192163. Một số lượng lớn siêu tân tinh được quan sát trong Thiên hà Firework (NGC 6946), nằm ở vị trí trên ranh giới giữa chòm sao Thiên Nga và Tiên Vương nhiều hơn ở bất kỳ thiên hà nào khác. Nguồn tia X Cygnus X-1, nằm gần sao Eta Cygni là một trong những thiên thể được biết đến nhiều nhất trong chòm sao này. Đây là nguồn X-quang đầu tiên được khám phá trong chòm sao Thiên Nga nhờ máy dò X-quang được phóng lên vũ trụ năm 1964.gdf Lịch sử và thần thoại Thần thoại Hy Lạp Chòm sao giống như một con chim với đôi cánh lớn và cái cổ dài, duyên dáng trong khi bay. Trong Thần thoại Hy Lạp chòm sao đại diện cho những con chim thiên nga khác nhau trong truyền thuyết. Zeus đã tự mình cải trang để quyến rũ Leda, người đã sinh ra Gemini, Helent của Troia và Clytemnestra. Orpheus đã biến thành thiên nga sau khi bị giết, kể rằng anh ấy đã được đặt trên trời, bên cạnh Lyre (Lyra) của anh ấy. Cuối cùng, kể rằng 1 ông vua có tên là Cycnus là người thân hoặc người yêu của Phaëthon. Con trai của Apollo, anh ấy đã lừa người cha của mình để ông ấy cho phép cậu cưỡi cỗ xe mặt trời, những đã bị mất kiểm soát và bị thần Zeus đánh hạ. Đau buồn sau cái chết của Phaethon, quyết tâm cho anh ấy một nơi chôn cất thích hợp, Cycnus đã lao xuống đáy sông Eridanus để tìm anh ta. Sau rất nhiều lần lao xuống dòng sông, anh ấy đã biến thành một con thiên nga Cygnus, và hiện trên bầu trời ngày nay. Thiên Nga cùng với những chòm sao khác trong biểu tượng Hoàng đạo của Nhân Mã (Đặc biệt là Lyra và Aquila cùng với chính Nhân Mã có thể là một phần quan trọng của nguồn gốc thần thoại của Stymphalian Birds, một trong mười hai kỳ công của Heracles). Thần thoại Trung Hoa Trong thần thoại Trung Quốc, chòm sao Thiên Nga chính là chiếc cầu do những con quạ bay lên bầu trời (鵲橋, "Ô kiều") để đôi vợ chồng Ngưu Lang Chức Nữ có thể gặp nhau trong một đêm. Trong Ovid's Metamorphoses có ba người tên đều tên là Cygnus và tất cả bọn họ đều biến thành những con Thiên nga. Người đầu tiên có liên quan đến Phaethon đã được miêu tả ở trên, là con của Sthenelus và ông vua xứ Liguria. Thứ hai là một cậu bé tới từ Tempe, muốn Phyllius đưa cho mình ba con vật đã được thuần hoá như một món quà tặng. Sau khi bị Phyllius từ chối. Cygnus tự ném mình ra khói một vách đá trong sự tức giận. Thay vì cái chết, cậu bé lại được biến thành một con Thiên nga và bay đi. Người thứ ba tên là Cygnus là con trai của Neptune. Anh ấy là chiến binh trong Chiến tranh thành Troia, người không thể bị huỷ diệt dưới mọi vũ khí đau đớn nào, nhiều lần đã khiến kẻ thù của anh ấy, Achilles bị thất bại. Achilles cuối cùng đã giết anh ấy bằng cách đập nát mặt của anh ta cùng với cái khiên, những Neptune đã cứu anh ấy bằng cách biến anh ấy thành một con thiên nga.
Tử vi trong tiếng Việt có thể là: Tử vi, phép bói bằng Kinh Dịch Tử Vi viên, một trong Tam viên theo thiên văn học cổ đại Trung Quốc Hoa tử vi, tên một chi và một loài thực vật
Vạn diệp tập (tiếng Nhật: 万葉集 Man'yōshū) - với nghĩa khái quát có thể được hiểu là "tập thơ lưu truyền vạn đời", "tuyển tập hàng vạn bài thơ", "tập thơ vạn trang", "tập thơ vạn lời", "tập thơ của mười ngàn chiếc lá" là tuyển tập thơ của Nhật Bản lớn nhất và cổ xưa nhất còn lại đến ngày nay. Tập thơ có lẽ được Otomo Yakamochi (mất năm 785) và một số người khác biên soạn vào cuối năm 759 đời Thiên hoàng Junnin thời kỳ Nara, theo lệnh của hoàng đế đương triều. Tác giả Vạn diệp tập quy tụ những tác giả trên toàn cõi Nhật Bản suốt bốn thế kỷ: từ hoàng đế, công chúa, vương phi, tướng lĩnh, cho tới binh sĩ, nông dân, người đốn củi, kẻ ăn mày... với gần 400 nhà thơ được định danh, còn lại là khuyết danh. Có thể thấy sự có mặt của chủ biên Otomo Yakamochi trong 16 tập với 415 thi phẩm. Đó là chưa kể ông còn đưa thêm vào thơ của cha ông là Tabito và của họ hàng nhà ông. Tuy nhiên, Yakamochi hoàn toàn xứng đáng, ông và cha của ông được đánh giá là hai trong năm nhà thơ lỗi lạc nhất của Vạn diệp tập, gọi là "Vạn diệp ngũ đại gia" hay "Vạn diệp ngũ danh bút": bao gồm thi thánh Kakinomoto no Hitomaro (662?-710), nhà thơ của thiên nhiên Yamabe no Akahito (700-736), nhà thơ nhân thế Yamanoue no Okura (660-733), nhà thơ của nhãn quan trào lộng Ōtomo no Tabito (665-731) và thi nhân của cái tôi mang phong cách cá nhân rất hiện đại Ōtomo no Yakamochi (718?-785). Phân loại Phân loại theo thể thơ Toàn bộ Vạn diệp tập gồm 20 cuốn với 4496 bài thơ viết bằng chữ Nhật kana hay manyogana, hệ thống ghi âm tiếng Nhật bằng chữ Hán, sử dụng 3 thể thơ truyền thống của Nhật: Tanka (短歌 đoản ca), thể loại thơ với 31 âm tiết trong 5 câu trong theo cú pháp 5+7+5+7+7, chiếm số lượng lớn nhất trong Vạn diệp tập với 4173 bài. Chōka (長歌 trường ca, còn gọi là nagauta), thể loại thơ không giới hạn về số câu, có khi dài đến 150 câu, trong Vạn diệp tập có 262 bài. Sedoka (旋頭歌 toàn/tuyền đầu ca, tức thể thơ lặp lại phần đầu), mỗi bài có 38 âm tiết chia 6 dòng (5+7+7 và 5+7+7), trong Vạn diệp tập có 61 bài. Một số tài liệu làm tròn số Vạn diệp tập gồm 4500 bài thơ trong đó có 4200 bài tanka, 260 chōka và 60 sedoka. Trong khi hai thể chōka và sedoka đạt được vẻ đẹp tráng lệ trong thời Nara nhưng đã không còn được ưa chuộng về sau, và các nhà nghiên cứu hiện nay khi tìm hiểu những thể loại này thường chỉ còn dựa vào hợp tuyển Vạn diệp tập, thì thể tanka vẫn tiếp tục phát triển và được đánh giá là thể thơ quan trọng nhất của mười hai thế kỷ thơ ca Nhật Bản, xứng đáng với tên gọi về sau là waka (和歌, Hòa ca, thơ Nhật). Mặc dù waka nguyên là tên chung cho các loại thơ khác nhau của người Nhật phân biệt với thơ Trung Quốc, nhưng từ cuối thế kỷ 8 trở đi chữ waka được xem là đồng nghĩa với tanka. Phân loại theo đề tài Là một bộ bách khoa thư về văn hóa, con người và đất nước Nhật Bản cổ xưa, Vạn diệp tập bao quát những đề tài hết sức rộng lớn tập trung trong ba mảng chính: Tạp ca (zoka) miêu tả những chuyến ngao du, những bữa tiệc, những truyền thuyết, nói chung là những vấn đề xã hội; Tương văn ca (somonka) chủ yếu nói về tình yêu nam nữ; Vãn ca (banka) là những bi ca về cái chết. Ngoài kiểu phân loại có lẽ dựa theo cách phân chia thơ ca Trung Hoa như trên, còn có thể xếp các bài trong Vạn diệp tập theo chủ đề: thơ thù tạc, thơ trữ tình, thơ tự sự, thơ thường nhật, thơ nhật ký, thơ viễn du, v.v. Tuy nhiên hầu như không có các bài thơ giáo huấn, thơ thời sự, thơ châm biếm hay phản ánh chiến tranh, những đề tài phổ biến trong thơ ca Trung Hoa đương thời (thơ Đường), mặc dù ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa rất lớn trong đời sống Nhật Bản giai đoạn này, và các nhà thơ Nhật Bản cổ xưa rất am hiểu thơ Trung Hoa. Điều đó chứng tỏ nguồn cảm hứng thơ ca của các thi nhân Nhật Bản cổ đại hoàn toàn từ tiếng nói, tình cảm, tâm hồn và quê hương xứ sở Nhật Bản. Phân chia theo lịch đại Cách phân chia này cho phép tách thơ của Vạn diệp tập thành 4 thời kỳ: Thời kỳ đầu kéo dài từ huyền sử đến loạn Jinshin năm 672. Những nhà thơ của thời kỳ này đều thuộc tầng lớp cao nhất trong giới quý tộc cung đình, như các thiên hoàng và hoàng thân quốc thích. Thời kỳ này nổi tiếng với những bài thơ của nhà thơ nữ vĩ đại, công chúa Nukada, như những đóa hoa đầu mùa đẹp nhất của thể loại waka và văn chương nữ lưu. Thời kỳ thứ hai gồm khoảng 40 năm trước khi thành lập kinh đô Nara vào những năm 710, đây là thời kỳ của nhà thơ trữ tình kiệt xuất Kakinomoto no Hitomaro mà chiếc bóng vĩ đại của ông như che phủ Vạn diệp tập với 19 bài choka và 75 bài tanka, và 380 bài thơ mà Vạn diệp tập lấy từ Hitomaro ca tập (Hitomaro kashu) mà người ta không biết rõ bài nào đích thực là sáng tác của Hitomaro. Thời kỳ thứ ba gồm 30 năm đầu của thế kỷ thứ VIII, với các nhà thơ nổi tiếng như Akahito, Tabito, Okura v.v.. Thời kỳ thứ tư của Vạn diệp tập gồm 30 năm từ năm 730 đến 760, với hình bóng của Yakamochi trong những năm trước khi ông đạt 42 tuổi vào năm 759. Yakamochi đã trở thành niềm vinh quang chói sáng trong thời đại cuối cùng của Vạn diệp tập. Khái quát về các quyển thơ Quyển 1: hoàn toàn là tạp ca Quyển 2: tương văn ca và vãn ca Quyển 3: gồm cả ba thể tài tạp ca, tương văn ca, vãn ca Quyển 4: tương văn ca Quyển 5: đủ thể tài, có hai bài thơ chữ Hán và nhiều đoạn văn xuôi bằng chữ Hán. Quyển 6: tạp ca Quyển 7: hầu hết là thơ khuyết danh, nhiều thể tài Quyển 8: các bài tương văn ca, chia thành bốn mùa và mùa nào cũng có thơ tình Quyển 9: đầy đủ ba thể tài hơn cả Quyển 10: là tập dài nhất, chứa đến 539 bài thơ Quyển 11 và 12: rất giống nhau về phong cách, xếp theo loại thơ và tất cả đều khuyết danh, ngoại trừ các bài của Hitomaro Quyển 13: đủ loại thơ, có cả thơ vấn đáp (mondo) Quyển 14: là tập thơ duy nhất xếp loại theo thơ địa phương, nổi tiếng với Những bài ca phương Đông (Azuma uta) Quyển 15: xếp thơ theo trình tự thời gian trong những cuộc du hành hay đối đáp về tình yêu Quyển 16: tạp ca Từ quyển 17 đến 20: là một loại nhật ký thơ ca của Yakamochi gồm thơ của ông và các thân hữu Những đề tài chính Khi xem xét hệ thống đề tài của Vạn diệp tập, có thể nhận thấy đề tài tình yêu và quan hệ nam nữ thấm đẫm trong rất nhiều bài thơ và luôn là tâm điểm của Vạn diệp tập, thậm chí nhiều cuốn toàn thơ tình (quyển 8, quyển 2). Tình yêu trong Vạn diệp tập phản ánh những xúc cảm chân thành rất con người, không hề có sự khác biệt trong cách biểu cảm giữa một hoàng đế, một cung phi hay một nông dân, một người phụ nữ thuộc tầng lớp hạ lưu. Cũng có thể nhận thấy đặc điểm lớn phân biệt bản chất thơ tình trong Vạn diệp tập với thơ ca của những thời đại về sau cũng như với thơ tình Trung Hoa đương thời: thơ tình trong Vạn diệp tập luôn sử dụng hình thức biểu hiện tình yêu của một cá thể (hầu hết là tác giả) với một cá thể khác. Yêu không chỉ là nhận thức của người nói hướng tới một đối tượng bên ngoài, mà còn là sự tác động lên đối tượng ấy bằng những hành động như nụ hôn, ôm ấp, ngủ cùng, hoặc nằm cùng v.v. bao hàm những quan hệ thể xác cụ thể. Tình yêu trong Vạn diệp tập phản ánh đời sống tinh thần hòa ái tươi tắn không bị gò bó trong bất cứ một ràng buộc nào của mọi tầng lớp người dân Nhật Bản cổ đại. Gần gũi với đề tài tình yêu, Vạn diệp tập còn bộc lộ đời sống tinh thần hết sức phong phú của con người qua những bài vãn ca bi thương viết khi đối diện với cái chết. Có năm loại vãn ca trong hợp tuyển: dạng vãn ca quan phương viết khi hoàng đế băng hà hay một thành viên trong hoàng tộc qua đời; những vãn ca do vợ hoặc chồng viết nhân cái chết của người kia; những bài văn tế của nhà thơ viết cho những người hoàn toàn xa lạ, chẳng hạn khi thấy một thi thể vô thừa nhận; những xúc cảm của con người tuôn ra đầu ngọn bút trong khoảng khắc ngắn ngủi trước khi chết (như khi sắp bị hành hình); và cuối cùng là những vãn ca viết để khóc thương cho những nhân vật truyền thuyết. Có một đặc điểm dễ nhận thấy ở đây, trừ trường hợp một số vãn ca viết cho một lễ tưởng niệm đặc biệt, phần lớn các vãn ca, do tính chất riêng tư của nó, có thể được xếp vào một thể loại thơ tình đã được chuyên biệt hóa, thực sự là tiếng lòng khóc than cho số kiếp người yêu. Bên cạnh đề tài về tình yêu và nỗi bi ca, những bài thơ trong Vạn diệp tập nuôi dưỡng một tình yêu vĩnh cửu với thiên nhiên tương đối khác biệt với tình yêu con người và những xúc cảm do mất mát người thân tạo ra. Có lẽ bởi tình yêu khó tìm, mất mát khó tránh, nhưng tình cảm với thiên nhiên lại thường trực và bao giờ cũng có thể viết nên một bài thơ tả cảnh tuyệt đẹp. Thiên nhiên trong các bài thơ của Vạn diệp tập là những thắng cảnh nổi tiếng trên đất nước Phù Tang với ngọn núi Fuji, hồ Omi, vùng Yoshino, biển Iwami, cánh đồng hoa Murasaki, những đám mây hoa anh đào, hoa mận trong tuyết trắng và lá thu phong đỏ thắm. Tuy nhiên, chiếm số lượng lớn lao trong hợp tuyển, thiên nhiên không thuộc về những bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của các vùng miền, của bốn mùa, mà rất phổ biến trong các bài tình ca hay vãn ca. Có lẽ bởi vì tình yêu, hoa nở, chim, gió, ánh trắng có ý nghĩa với thi nhân và dường như hoa lá cỏ cây trong con mắt thi nhân cũng có đời sống của chúng. Một đặc điểm dễ nhận thấy là thiên nhiên được miêu tả không chỉ thuần Nhật, cách thức miêu tả thiên nhiên cũng hoàn toàn khác thơ cổ Trung Hoa vốn thiên về ước lệ và cá nhân nhà thơ hoàn toàn là khách quan so với ngoại cảnh. Những bài thơ trong Vạn diệp tập luôn cho thấy hình bóng con người như là một phần của thiên nhiên, thiên nhiên và con người luôn hòa trộn trong những xúc cảm thống nhất, cân bằng. Đối diện với thiên nhiên khiến tâm trạng nhà thơ luôn hướng về người yêu dấu. Đề tài về tình yêu và thiên nhiên ở trên không lấn át những đề tài khác: tình cảm mẹ con, tình bạn, tâm trạng của người lính thú xa nhà, sự hoài vọng tuổi thanh xuân của những người đã ở tuổi mãn chiều xế bóng, nỗi đau khi đối diện với bệnh tật, cảm hứng trước bầu rượu của thi nhân và được tập hợp thành từng cụm đề tài của Vạn diệp tập như những bài ca phương Đông, những bài ca lính thú, những bài ca xưa, mười ba bài tụng ca về rượu, thơ xướng họa v.v. Ý nghĩa Với tất cả sự đồ sộ của khối lượng, sự bao quát lớn lao các tầng lớp sáng tác "từ quốc vương cho đến người đốn củi" và sự phong phú tuyệt vời về đề tài, công trình Vạn diệp tập không chỉ là kiệt tác của thời đại Nara mà còn xứng đáng là ngọn hải đăng của thơ ca Nhật Bản, không chỉ là tổng tập của thi ca Nhật Bản cổ đại mà còn xứng đáng là công trình độc nhất vô nhị không có bất cứ một công trình nào về sau được coi là tương đương với nó.
Véctơ tách dòng (vector cloning) là một phân tử DNA có kích thước nhỏ cho phép cài gắn một đoạn DNA ngoại lai vào nhằm mục đích nhân đoạn DNA ngoại lai lên với số lượng lớn. Các đặc điểm cần có của một véctơ tách dòng: Có khả cài gắn các đoạn DNA ngoại lai Có kích thước nhỏ để xâm nhập tế bào chủ Có thể tái bản độc lập không phụ thuộc vào bộ gen của tế bào chủ. Có chứa các gen chỉ thị, chọn lọc (gen kháng kháng sinh, gen chỉ thị màu...) Các loại vectơ tách dòng thường dùng: Plasmid, Cosmid, Phage, BAC (Bacterium artificial chromosomes), YAC (yeast artificial chromosomes).
Giải trình tự DNA là quy trình xác định trình tự của phân tử DNA. Hiện nay, trong lĩnh vực sinh học nói chung và sinh học phân tử nói riêng thì việc giải trình tự nucleotide của một đoạn gen hay của cả bộ gen của một loài sinh vật là một kỹ thuật hết sức quan trọng mang tính quyết định để xác định kiểu loài Từ những năm 1977 một số phương pháp giải trình tự gen đã được phát minh như: Phương pháp giải trình tự gen theo phương pháp hóa học (Alan Maxam và Walter Gilbert) Phương pháp giải trình tự gen bằng enzyme hay phương pháp Dideoxy (Frederick Sanger) Cả hai phương pháp này đã đánh dấu bước ngoặt lớn trong lịch sử phát triển của bộ môn sinh học hiện đại. Ngày nay, rất nhiều máy giải trình tự gen tự động đều dựa trên nguyên tắc chính là phương pháp giải trình tự gen của Sanger.
Phương pháp Dideoxy hay còn gọi là phương pháp gián đoạn chuỗi (chain-determination method) là một phương pháp xác định trình tự DNA được Frederick Sanger phát triển vào năm 1977. Nguyên tắc Nguyên tắc cơ bản của phương pháp Dideoxy dựa vào hoạt động của enzyme DNA polymerase trong quá trình tổng hợp DNA. Enzyme DNA polymerase xúc tác gắn các nucleotide vào mạch đơn DNA đang tổng hợp ở vị trí 3'có chứa nhóm -OH tự do, khi gặp nucleotide không có nhóm 3'-OH thì phản ứng tổng hợp bị dừng lại. Đặc trưng của phương pháp là sử dụng dideoxynucleotide để làm ngừng phản ứng tổng hợp DNA một cách ngẫu nhiên. Trong phản ứng sử dụng đoạn DNA mồi là đoạn DNA mạch đơn có kích thước (17-24 nucleotide, Primer). Nguyên lý Phương pháp đọc trình tự DNA dideoxy dựa trên nguyên lý PCR thông thường, nhưng chỉ dùng một mồi duy nhất và bổ sung thêm các loại 2’,3’-dideoxynucleotide (ddATP, ddCTP, ddGTP và ddTTP). Sợi DNA cần đọc trình tự được xử lý dưới dạng sợi đơn. Khuôn DNA này được bổ sung một hỗn hợp bốn deoxynucleotide bình thường (dATP, dTTP, dCTP và dGTP) với hàm lượng dư. Hỗn hợp thứ hai gồm cả bốn ddNTP, mỗi loại với hàm lượng hạn chế và được đánh dấu với một đuôi phát huỳnh quang khác nhau. Và cuối cùng phải có DNA polymerase I. Do cả bốn nucleotide bình thường đều có mặt, kéo dài chuỗi diễn ra bình thường cho tới khi DNA polymerase chèn ngẫu nhiên một ddNTP (màu khác) thay cho dNTP bình thường (dòng đứng). Nếu tỷ lệ giữa nucleotide bình thường và dideoxy rất cao thì một số sợi DNA sẽ thành công trong việc bổ sung hàng trăm nucleotide trước khi bị chèn dideoxy làm dừng quá trình. Sau khi phản ứng kết thúc, các phân đoạn được tách theo độ dài từ dài nhất đến ngắn nhất. Độ phân giải điện di rất tốt, đến mức phân tách được hai sợi hơn kém nhau chỉ một nucleotide. Mỗi ddNTP phát quang một màu khác nhau dưới tia laser và máy quét tự động cung cấp một bản in của trình tự . Quy trình dideoxynucleotide để đọc trình tự DNA Dideoxynucleotide là một phân tử nhân tạo, chúng thiếu nhóm hydroxyl ở cả hai vị trí 2’ và 3’ cacbon của phân tử đường (hay thiếu oxy tại 2’ và 3’ cacbon trên vòng so với phân tử đường ribose). So với deoxynucleotide chỉ thiếu một oxy tại vị trí 2’ nên có nhóm 3’hydroxyl trên phân tử đường. Thông thường trong quá trình sao chép DNA, một nucleoside triphosphate tự nhiên bắt cặp base với nucleotide của sợi khuôn, được liên kết bằng liên kết phosphodieste giữa nhóm 5’-α-phosphate với nhóm 3’ hydroxyl của nucleotide cuối cùng của chuỗi phát triển. Tuy nhiên , nếu một dideoxynucleotide được gắn vào đầu của chuỗi kéo dài, tổng hợp DNA sẽ dừng lại do một liên kết phosphodiester không được hình thành với nucleotide đến tiếp theo (do không có nhóm 3’hydroxyl trên ddNTP). Việc kết thúc tổng hợp DNA là tính chất hoàn hảo của phương pháp đọc trình tự dideoxynucleotide, mặc dù các điều kiện thí nghiệm khác cần phải được thỏa mãn trước khi một trình tự DNA có thể được xác định. Theo nguyên tắc, bước đầu tiên trong quy trình thí nghiệm chuẩn để đọc trình tự DNA dideoxyribonucletide yêu cầu bắt cặp một oligonucleotide tổng hợp (17-24 Nucle, mồi) với một phân đoạn đã được xác định của một sợi vector nhân dòng gần vị trí chèn của DNA nhân dòng. Oligonucleotide hoạt động như một trình tự mồi bằng cách cung cấp một nhóm 3’hydroxyl cho sự khởi động tổng hợp DNA. Mẫu DNA và mồi được chia thành bốn ống phản ứng, mỗi ống chứa bốn dNTP và một trong bốn ddNTP được đánh dấu phóng xạ. Nồng độ của mỗi dideoxyribonucletide trong mỗi ống phản ứng được điều chỉnh thận trọng (bằng khoảng 1% của dNTP) để đảm bảo gắn vào hỗn hợp các chuỗi phát triển tại vị trí có thể và không chỉ ở nơi xảy ra đầu tiên của nucleotide bổ trợ của khuôn (nucleotide đầu sau mồi). Sự phát triển của chuối phát triển dừng lại khi có một ddNTP gắn vào, như vậy mỗi chuỗi phát triển sẽ chứa một dideoxyribonucleotide ở đầu 3’. Sau phản ứng mỗi ống phản ứng chứa một bộ duy nhất các đầu kéo dài nucleotide gắn vào mồi do mỗi ống phản ứng chứa một loại ddNTP và kết thúc chuỗi kéo dài khi ddNTP gắn vào sợi phát triển . Sau các chu kỳ nhân lên DNA khuôn mẫu từ mồi liên kết, các đoạn DNA tạo thành được biến tính nhiệt và phân tách theo kích thước bằng cách sử dụng điện di trên gel . Trong công bố ban đầu năm 1977, sự hình thành các vòng bắt cặp bazơ của ssDNA là nguyên nhân gây ra khó khăn nghiêm trọng trong việc phân giải các dải tại một số vị trí. Điều này thường được thực hiện bằng cách sử dụng gel polyacrylamide -urea biến tính với mỗi phản ứng trong số bốn phản ứng chạy ở một trong bốn làn đường riêng lẻ (làn A, T, G, C). Các dải DNA sau đó có thể được nhìn thấy bằng phương pháp ghi tự động hoặc ánh sáng UV, và trình tự DNA có thể được đọc trực tiếp từ phim X-quang hoặc hình ảnh gel .
Trong hóa học, ái lực electron là năng lượng được một nguyên tử, trung hòa điện tích và cô lập (ở thể khí), hấp thụ khi có một electron được thêm vào tạo thành khí ion có điện tích -1 điện tích nguyên tố. Nó có giá trị âm khi năng lượng được nhả ra. Đa số các nguyên tố hóa học có ái lực electron âm. Điều này nghĩa là chúng không cần nhận năng lượng để bắt electron; thay vào đó, chúng nhả ra năng lượng. Nguyên tử càng có nhiều khả năng bắt thêm các electron có ái lực electron càng âm. Chlor là nguyên tố hóa học có ái lực electron mạnh nhất; radon có ái lực electron yếu nhất. Mặc dù ái lực electron biến đổi khá hỗn loạn trong bảng tuần hoàn, một số quy luật vẫn có thể được phát hiện. Nói chung, phi kim có ái lực electron âm hơn kim loại. Tuy nhiên, các khí hiếm là ngoại lệ, chúng có ái lực electron dương. Bảng tuần hoàn theo mức độ ái lực electron, theo kJ/mol. Quy luật Ái lực electron tuân theo quy tắc octet. Các nguyên tố nhóm 17 (fluor, chlor, brom, iod, và astatin) có xu hướng bắt electron và tạo ra anion có điện tích bằng -1 điện tích nguyên tố. Các khí hiếm trong nhóm 18 đã có đủ octet, và do đó việc thêm một electron đòi hỏi năng lượng lớn, tuy nhiên vẫn có thể thực hiện được. Các nguyên tố nhóm 2, bắt đầu từ beryli và nhóm 12 bắt đầu từ kẽm cũng có ái lực electron với giá trị dương vì chúng có vỏ s hay vỏ d đã điền đầy. Các nguyên tố trong nhóm 15 có ái lực electron thấp và nitơ thậm chí có ái lực electron với giá trị dương. Lý do là các vỏ electron được điền một nửa cũng khá bền. Ái lực electron có giá trị tăng lên trong cùng một hàng từ trái qua phải (do bán kính các nguyên tử giảm dần, làm gia tăng sức hút từ hạt nhân, và số electron trong vỏ ngoài tăng dần, khiến nguyên tử cân bằng bền hơn) trong bảng tuần hoàn và giảm đi khi đi từ trên xuống trong cùng một nhóm (do bán kính các nguyên tử và số electron ở vỏ ngoài tăng lên, các electron đẩy lẫn nhau, làm giảm mức độ cân bằng của nguyên tử). Ái lực electron phân tử Ái lực electron không chỉ được định nghĩa cho các nguyên tố hóa học, mà còn áp dụng cho các phân tử. Ví dụ, ái lực electron của benzen là dương, còn của naphthalen là gần bằng 0 và của anthracen là dương. Thí nghiệm in silico cho thấy ái lực electron của hexacyanobenzen mạnh hơn fullerene.
Bùi Thanh Liêm (30 tháng 6 năm 1949 - 26 tháng 9 năm 1981) là một Thiếu tá phi công bay thử nghiệm của Không quân nhân dân Việt Nam. Ông là phi hành gia dự bị cho chuyến bay Soyuz 37 trong chương trình khoa học không gian "Interkosmos" của Liên Xô. Năm 1980, ông được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh. Thân thế và sự nghiệp Bùi Thanh Liêm sinh ngày 30 tháng 6 năm 1949 tại Hà Nội; cha ông là liệt sĩ Bùi Đình Lợi - Trưởng ban Quân báo thuộc Trung đoàn 148, mặt trận Tây Bắc. Cha ông qua đời vào năm 1950 khi Bùi Thanh Liêm mới tròn 6 tháng tuổi và chị gái ông chỉ mới lên hai. Năm 1966, Bùi Thanh Liêm tốt nghiệp Trung học phổ thông (cấp 3), ông tình nguyện gia nhập Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông trúng tuyển phi công, được quân đội cử đi đào tạo tại Liên Xô trở thành phi công tiêm kích MIG-21. Về nước ông được biên chế thuộc Trung đoàn không quân Sao Đỏ 921, Quân chủng Phòng không - Không quân. Trong chiến tranh Việt Nam ông đã bắn rơi 2 chiếc máy bay của không lực Hoa Kỳ, chiến công đầu của ông là bắn rơi một máy bay F-4E và ông đã được tặng thưởng 2 Huy hiệu Bác Hồ. Năm 1973, ông được bổ nhiệm làm Phi đội trưởng. Từ năm 1974 đến năm 1978, ông được cử đi học tại Học viện Không quân mang tên Yuri Alekseyevich Gagarin (tại Monino, Liên Xô). Năm 1978, trở về nước ông được bổ nhiệm làm Trung đoàn phó - Tham mưu trưởng trung đoàn không quân Sao Đỏ 921, Quân chủng Phòng không - Không quân. Tháng 4 năm 1979, ông được tuyển chọn là một trong hai ứng viên Du hành vũ trụ Việt Nam theo chương trình khoa học không gian Interkosmos của Liên Xô. Được đào tạo tại Trung tâm huấn luyện phi hành gia mang tên Yuri A. Gagarin (TsPK im. Y.A.Gagarin. Sau khi hoàn thành xuất sắc khóa huấn luyện vũ trụ tổng hợp và chuẩn bị cho chuyến bay trên tàu vũ trụ "Liên hợp". Anh hùng phi công Phạm Tuân được chỉ định vào đội bay chính của tàu vũ trụ Soyuz-37, còn Bùi Thanh Liêm được chỉ định vào phi hành đoàn thứ hai (dự bị cho phi hành gia Phạm Tuân). Năm 1980, Sau khi hoàn thành chương trình Interkosmos ông trở lại vị trí công tác tại Đoàn không quân Sao Đỏ 921 và tiếp tục phục vụ cho đến khi hy sinh trong khi thi hành nhiệm vụ. Ngày 4 tháng 9 năm 1980, Bùi Thanh Liêm được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh và Huân chương Lao động hạng Nhất. Ngày 26 tháng 9 năm 1981, ông đã hy sinh trong một tai nạn máy bay MiG-21 khi đang thực thi nhiệm vụ huấn luyện trên vịnh Bắc Bộ. Gia đình Cha: Bùi Đình Lợi, liệt sĩ trong giai đoạn Kháng Chiến Chống Pháp. Mẹ: bà Ngọc Yến, từng là trưởng phòng Tổ chức của Nhà máy Bánh kẹo Hải Hà, Hà Nội. Bà có chồng và con trai là liệt sĩ và đã được Nhà nước tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Vợ: Dương Thị Tuyến, làm việc trong cơ quan của Bộ Nội vụ, bà là con gái của nhà Cách mạng Dương Quang Đông - nguyên Ủy viên thường vụ Xứ ủy Nam Bộ giai đoạn 1943-1945. Lịch sử thụ phong quân hàm Huân chương Huân chương Hồ Chí Minh hạng Nhất. Huân chương Lao động hạng Nhất. Huân chương Chiến công hạng Nhất, Nhì, Ba. Huân chương Chiến sỹ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba. 2 Huy hiệu Bác Hồ
Quảng trường hay còn gọi là công trường là không gian hoạt động công cộng của đô thị, được tạo nên bởi các sự kết hợp hoặc hạn định của kiến trúc thích hợp xung quanh, gắn kết với mạng lưới giao thông, kết nối những thành tố độc lập thành một tổng thể. Công năng Công năng cơ bản của quảng trường là nơi sinh hoạt chính trị, văn hóa như hội họp, mít tinh, là nơi tổ chức các lễ hội tôn giáo... sau dần phát triển thêm là nơi kỷ niệm, vui chơi, biểu diễn, giao tiếp, nghỉ ngơi... Không gian quảng trường Yếu tố cấu thành quảng trường là không gian. Không gian được cấu thành từ các thành phần: Bình diện ngang (mặt nền, đường...) Bình diện đứng (công trình xây dựng, hàng cây hay vật giới hạn nào đó...) Bình diện đỉnh (mái công trình, kết thúc đỉnh của vật giới hạn...) Các cách giới hạn không gian quảng trường Vây bọc: dùng tường, cây xanh, kiến trúc... vây bọc một không gian cần thiết. Che đậy: sử dụng cấu kiện nào đó như vải bạt, giàn hoa v.v... để hình thành một không gian yếu và ảo. Nâng nền: Không gian nâng cao so với không gian chung quanh. Nền cong lõm: không gian lõm với các không gian nâng cao xung quanh hình thành nên những không gian tuỳ thuộc. Nền chìm: mặt nền chìm tự giới hạn một không gian. Nền nghiêng: Bề mặt nghiêng cũng xác định một không gian. Nền biến đổi: bậc dốc của mặt nền hay sự thay đổi của chất đất cũng góp phần thay đổi không gian quảng trường. Phân loại quảng trường Quảng trường thị chính Quảng trường thị chính có công năng hội họp chính trị, văn hoá, đại lễ, diễu hành, duyệt binh và các sinh hoạt lễ hội dân gian truyền thống. Ví dụ: Quảng trường Ba Đình Việt Nam, Quảng trường Thiên An Môn, Trung Quốc,... Quảng trường kỷ niệm Quảng trường kỷ niệm dùng để kỷ niệm một sự kiện quan trọng nào đó, hay nhân vật nào đó có công với đất nước, quê hương. Thông thường ở trung tâm hay ở một bên quảng trường đặt đài hay tháp hay một công trình kiến trúc mang tính kỷ niệm. Ví dụ: Quảng trường Petersburg kỷ niệm Cách mạng tháng 10 Nga. Quảng trường giao thông Quảng trường giao thông là một bộ phận của hệ thống giao thông đô thị. Nó có tác dụng phân luồng giao thông hợp lý, có thể là nơi đỗ xe công cộng, đảm bảo lưu thông thuận tiện, thoáng, thông suốt, an toàn. Ví dụ: Quảng trường Taksim, Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ Quảng trường thương nghiệp Quảng trường thương nghiệp phục vụ cho yêu cầu giao dịch, buôn bán thương mại, là phương thức kết hợp không gian nội thất của khu trung tâm thương nghiệp với không gian bên ngoài và không gian bán lộ thiên. Quảng trường thương nghiệp thường kết hợp với việc bố trí đường đi bộ, tạo ra các tiện nghi để nghỉ ngơi, giao du, ăn uống... là một trong những trung tâm sinh hoạt chủ yếu của đô thị. Quảng trường tôn giáo Quảng trường tôn giáo là không gian đặt trước giáo đường, đình chùa, từ đường để tổ chức những lễ hội tôn giáo. Ví dụ: Quảng trường trước Đại giáo đường ở Ý hay Đức... Quảng trường nghỉ ngơi, biểu diễn văn hoá... Loại quảng trường này là không gian xanh trong đô thị để mọi người có thể nghỉ ngơi, biểu diễn... góp phần tái sản xuất sức lao động. Trong quảng trường có thể có những bệ, đài, ghế ngồi, bồn hoa, chậu cây cảnh, bể nước, đài phun nước, các tiểu phẩm đô thị... Ví dụ: Quảng trường Piazza Duomo ở Milano, Ý
Trần Tiêu (1900 - 1954) là một nhà văn Việt Nam. Ông là em ruột của Khái Hưng và là "cộng tác viên thân tín" của Tự Lực văn đoàn. Trần Tiêu sinh tại xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Sau khi đậu bằng thành chung, ông mở trường dạy tư. Trần Tiêu không có ý định viết văn nhưng được sự khuyến khích của Khái Hưng nên cũng bước vào nghề văn khi đã 36 tuổi, và có một vài tiểu thuyết như Con trâu, Chồng con. Sau cách mạng tháng Tám, Trần Tiêu viết tiểu thuyết Làng Cầm đổi mới phản ánh sự thay đổi của làng Cổ Am. Khác với Khái Hưng, Trần Tiêu đi theo cách mạng, làm Ủy viên Hội đồng nhân dân xã Cổ Am và tham gia kháng chiến chống Pháp một thời gian. Sau vì ốm nặng Trần Tiêu trở về Hải Phòng chữa bệnh rồi dạy học tư ở trường trung học Bạch Đằng. Ông mất ở Hà Nội năm 1954. Ông là cha của giáo sư, Nghệ sĩ Nhân dân Trần Bảng và ông nội của diễn viên, đạo diễn Trần Lực. Tác phẩm Trần Tiêu chuyên viết về đề tài nông thôn. Các tác phẩm chính: Con trâu (tiểu thuyết) - Đăng trên báo Ngày Nay từ số 140 ngày 10 tháng 12 năm 1938, sau đó in thành sách do nhà xuất bản Đời Nay ấn hành năm 1940. Chồng con (tiểu thuyết, 1941) Năm hạn (tập truyện ngắn, 1942) Sau lũy tre (tập truyện ngắn, 1942) Truyện quê (đoản thiên tiểu thuyết, 1942) - Nhà xuất bản Lượm lúa vàng. Làng Cầm đổi mới (tiểu thuyết) Ghi chú Chú thích Năm 1938, nhà văn Trần Tiêu đã chính thức là thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn. Danh sách thành vuên chính thức được Tú Mỡ công bố trên tạp chí Văn học số 5-6 năm 1938 và số 1 năm 1939 thì nhóm gồm có 8 thành viênbao gồm cả Trần Tiêu.
Hội họa dân gian Việt Nam là thuật ngữ mô tả một loại hình mỹ thuật Vẽ cái Tranh Mỹ thuật Lâu đời Của Trung Hoa Năm 900 TCN Lịch sử Tranh dân gian Việt Nam có lịch sử rất lâu đời, đã từng có thời gian phát triển rất mạnh mẽ, ngày nay nó có phần giảm sút nhưng vẫn còn được giữ gìn bảo tồn trong một số làng nghề và một số gia đình làm tranh. Về cơ bản có hai loại tranh chính là tranh Tết và tranh thờ. Sở dĩ chúng xuất hiện rất sớm là bởi vì nó với hai loại chính là tranh tết và tranh thờ xuất hiện gần như cùng lúc với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt và việc thần thánh hóa các hiện tượng tự nhiên. Vào thời nhà Lý (thế kỷ 12) đã bắt đầu xuất hiện những gia đình hay thậm chí là cả một làng chuyên làm khắc ván, làm tranh. Đến cuối đời nhà Trần nhiều nơi đã in được tiền giấy (là một cách thể hiện của tranh dân gian) và sang đời nhà Hồ tiền giấy đã được phát triển mạnh. Tời thời kỳ Lê sơ việc in khắc tranh đã được tiếp thu thêm kỹ thuật khắc ván in của Trung Quốc và sau khi vào Việt Nam đã được cải tiến thêm cho phù hợp. Cùng với đó là sự phân hoá của tranh dân gian xuất hiện ngày càng rõ nét. Đến đời nhà Mạc (thế kỷ 16) một thay đổi đặc biệt đã xảy ra, tranh dân gian không còn là sản phẩm riêng của những người nông dân nghèo khó nữa, mà đã được cả tầng lớp quý tộc ở kinh thành Thăng Long ưa thích, thường sử dụng vào dịp Tết Nguyên Đán. Sang thế kỷ 18 - 19, tranh dân gian đã dần đi vào giai đoạn ổn định và phát triển mạnh mẽ. Nghề làm tranh đã lan truyền rộng rãi hầu khắp cả nước. Cùng với đó là sự phân hóa, những dòng tranh mới xuất hiện, được gọi tên theo địa danh nơi sản xuất, đã có những phong cách riêng của mình. Nét riêng của mỗi dòng tranh được thể hiện ngay từ quy trình làm tranh cũng như trong mỗi đường nét của tranh. Đó là sự khác biệt giữa kỹ thuật khắc ván in, kỹ thuật vẽ, nguyên liệu làm tranh, cách pha chế tạo màu sắc riêng... Đặc điểm Tranh dân gian Việt Nam dù có nhiều dòng tranh khác nhau nhưng nhìn chung đều được dựng hình theo kiểu lấy các nét khoanh, lấy các mảng màu và bao lại toàn hình. Các thành phần trong tranh không có một điểm nhìn cố định mà hầu hết được thiết kế để có thể quan sát di động, từ nhiều góc độ khác nhau. Cách tạo màu cũng vậy, tất cả đều nhằm làm cho bức tranh thật dễ nhìn. Cách vẽ, in ấn Do đặc điểm của tranh dân gian là để phục vụ đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, phục vụ việc thờ cúng, trang hoàng cho ngày Tết cho nên cần phải có số lượng lớn mà giá cả không được đắt. Vì thế mà người làm tranh đã sử dụng phương pháp khắc ván rồi từ đó sao in ra nhiều bức tranh. Nhìn chung cách in tranh chủ yếu là sử dụng ván khắc. Các bản ván khắc chủ yếu làm từ gỗ. Đầu tiên nghệ nhân sẽ khắc lên bản gỗ đường nổi thể hiện những đường nét chính của tranh, sau này khi in tranh ra giấy, người làm tranh lại tiếp tục tô vẽ để hoàn thiện bức tranh đó, còn đối với một số tranh đơn giản thì người thợ không cần tô vẽ thêm nữa mà tranh được đưa ra khi in xong. Nghệ thuật in tranh qua các bản gỗ khắc nổi xuất hiện từ xa xưa, được lưu truyền từ đời nay qua đời khác. Ngoài các dòng tranh sử dụng phương pháp khắc thì còn có những bức tranh vẽ tay của các nghệ nhân. Phương pháp vẽ tranh trực tiếp này chủ yếu được dùng ở vùng các dân tộc thiểu số ở vùng núi miền Bắc như người: Tày, Nùng, Dao... Nguyên liệu và cách tạo màu cho tranh có 3 loại Tranh thường được in hoặc vẽ trực tiếp lên giấy. Loại giấy phổ biến thường được các dòng tranh dùng hơn cả là giấy dó. Từ loại giấy này có thể làm ra giấy điệp, loại giấy mà tranh Đông Hồ sử dụng in hình. Đặc điểm của loại giấy này là độ bền rất cao, mà lại xốp nhẹ, không nhoè khi viết vẽ, ít bị mối mọt, hoặc giòn gãy, ẩm nát. Với đặc tính chống ẩm rất cao, giấy dó giúp cho các bức tranh không bị ẩm mốc, trường tồn cùng thời gian. Mỗi dòng tranh thường có cách tạo màu, pha chế màu sắc riêng, nhưng nhìn chung thì màu sắc cho những bức tranh thường được tạo nên từ những nguyên liệu đơn giản, dân dã bằng rất nhiều phương pháp khác nhau. Ví dụ như trong tranh Đông Hồ, thường chỉ có 3 đến 4 màu mà thôi, màu sắc được tạo nên từ: Than xoan tạo màu đen, Rỉ đồng tạo màu xanh, Hoa hòe tạo màu đỏ, Lá chàm tạo màu xanh mát, Màu vàng ấm lấy từ hoa hoè hay quả dành dành, Màu trắng óng ánh thì dùng vỏ trai điệp ở biển nghiền mịn Màu đen của tranh được làm từ tro rơm nếp hay tro lá tre được đốt và ủ kỹ, Màu vàng cũng tạo nên từ hoa hoè, Màu son của sỏi đồi tán nhuyễn. Màu Vàng Thun Những màu sắc đó lại được pha với dung dịch hồ nếp cổ truyền tạo cho tranh Đông Hồ một vẻ óng ả và trong trẻo. + màu sắc trong tranh Hàng Trống: thường chỉ có 3 đến 5 màu, màu sắc dùng phẩm màu để vẽ. Bố cục của tranh Hầu hết tranh dân gian được vẽ theo quan niệm "sống" hơn "giống". Đường nét của mỗi bức tranh hết sức gạn lọc, thuần khiết, cốt sao rung cảm thẩm mỹ cho người xem hơn là vẽ đúng luật. Các thành phần trong tranh không có một điểm nhìn cố định mà hầu hết được thiết kế để có thể quan sát di động, từ nhiều góc độ khác nhau. Đề tài và nội dung của tranh dân gian Do ra đời để đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của người dân, gắn bó chặt chẽ với đời sống thường nhật của người dân nơi thôn dã cho nên đề tài của tranh hết sức phong phú. Tranh phản ánh từ những gì gần gũi, thân thiết nhất với người dân cho đến những điều thiêng liêng cao quý trong các tranh thờ. Những truyện Nôm như Truyện Kiều và Nhị Độ Mai cũng được dùng làm đề tài tranh. Truyện Kiều thì có cảnh ba chị em đi tảo mộ gặp Kim trọng. Nhị Đọ Mai thì vẽ cảnh Hạnh Nguyên đi cống Hồ. Những đề tài dân dã như: cóc, chuột, đàn gà, hái dừa, đánh ghen, khiêng trống, đánh vật... Cùng tồn tại với những đề tài như: Phú Quý, Tố Nữ,... Lịch sử Việt Nam cũng là một đề tài được tranh dân gian đề cập đến rất nhiều, như: bà Trưng Trắc cưỡi voi xung trận, Ngô Quyền đánh quân Nam Hán, Đinh Bộ Lĩnh cờ lau tập trận... rồi sang thời kỳ lịch sử hiện đại có Việt Nam độc lập, bình dân học vụ, bắt sống giặc lái máy bay, Bác Hồ về thăm làng... Nội dung của tranh cũng hết sức phong phú, đa dạng. Mỗi bức tranh đều mang một ý nghĩa nhân sinh riêng, biểu hiện nhiều góc độ tâm trạng của con người, mang trong nó là cả những ước vọng của người dân, từ những ước mong giản dị cho tới những điều cao quý. Đó có thể là mong ước về một cuộc sống no ấm của nhà nông với sự thể hiện của tranh "Mẹ con đàn lợn", hay sự thể hiện ý chí kiên cường bất khuất của đấng nam nhi với "Tranh gà trống" sặc sỡ và oai vệ, và nó cũng thể hiện cho 5 đức tính quý của con người: văn (vẻ đẹp – mào gà), vũ (cứng rắn – cựa gà), nhân (lòng thương yêu đồng loại – khi kiếm được mồi luôn gọi đàn đến cùng ăn), dũng (sức mạnh – gặp kẻ thù thì kiên quyết chống lại), tín (hàng ngày báo giờ rất đúng). Tranh gà đẹp và ý nghĩa như thế, nên nhà thơ Đoàn Văn Cừ đã viết trong bài thơ Chợ têt: "Lũ trẻ còn mải ngắm bức tranh gà/ Quên cả chị bên đường đang đứng gọi". Còn tranh "Đám cưới chuột" lại là một minh chứng sống động và hóm hỉnh cho quan hệ mạnh hiếp yếu trong xã hội. Chuột làm đám cưới phải lo lễ vật cống cho mèo, cầu xin mèo để yên cho đám cưới được tiến hành. Dù được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng tranh dân gian của các dòng tranh đều có điểm giống nhau là luôn đề cao cái đẹp, đề cao đạo lý làm người, giáo dục những phẩm chất tốt và cầu mong những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Về nội dung, tranh dân gian Việt Nam có thể chia 4 nhóm: Tranh thờ: được các trung tâm làm tranh dân gian dành một tỉ lệ lớn. Sử dụng ở các chùa, đền, điện, phủ và nhà dân để canh gác, trừ tà, yểm quỷ ("Vũ Đình - Thiên Ất", "Tiến Tài - Tiến Lộc", "Táo quân - Thổ công", "Ngũ Hổ"...). Tranh làng Sình (Huế), Đồ Thế (Nam Bộ) - theo mê tín để đốt thế mạng cho người sống; Tranh chúc tụng: chủ yếu là tranh Tết ("Gà - Lợn", "Thất Đồng", "Tam Đa"...); Tranh sinh hoạt: phong phú, vui vẻ, đôi khi có tính châm biếm nhẹ nhàng ("Tứ quý", "Tứ dân", "Đánh ghen", "Hứng dừa"...); Tranh minh hoạ - lịch sử: được chọn lọc để miêu tả lý thú ("Truyện Kiều", "Trê - Cóc", "Bà Triệu cưỡi voi", Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo...). Những dòng tranh chính Cùng với những đổi thay của đất nước, tranh dân gian cũng vậy, có nhiều dòng tranh xuất hiện. Có dòng tranh thì phát triển mạnh mẽ nhưng cũng có những dòng tranh nhanh chóng biến mất. Ngày nay, dù thời gian đã làm mai một đi, các dòng tranh dân gian hiện không còn ở thời kỳ cực thịnh, nhưng những giá trị to lớn của mỗi dòng tranh vẫn còn đó, như là một chứng tích của xã hội Việt Nam một thời, nó sẽ vãn mãi là di sản của dân tộc Việt Nam. Có một số dòng tranh dân gian chính đã một thời cực thịnh và ngày nay còn lưu giữ được một phần, như: Tranh dân gian Đông Hồ (Bắc Ninh) Tranh Hàng Trống (Hà Nội) Tranh Kim Hoàng (Hà Tây) Tranh làng Sình (Huế) Dòng tranh dân gian Đông Hồ Đọc bài: Tranh Đông Hồ Nhắc tới tranh dân gian Việt Nam không thể không nói tới dòng tranh khắc gỗ Đông Hồ. Dòng tranh này ra đời từ khoảng thế kỷ 17 và phát triển cho đến nửa đầu thế kỷ 20 sau đó suy tàn dần. Mang trong mình những nét tinh túy riêng với những giá trị văn hóa to lớn. Những khác biệt của dòng tranh này so với cách dòng tranh khác được thể hiện từ những khâu như vẽ mẫu, khác bản in, sản xuất và chế biến màu cho đến in vẽ tranh. Đây là dòng tranh khắc ván, sử dụng ván gỗ để in tranh, tranh có bao nhiêu màu thì có bấy lần in. Dòng tranh này có đề tài rất phong phú, nó phản ảnh hầu như tất cả những gì diễn ra trong cuộc sống, sinh hoạt thường ngày cũng như những mối quan hệ xã hội ở miền nông thôn Bắc Bộ. Từ những gì dân dã nhất như hái dừa, đánh ghen, gà trống,... cho tới những bức tranh thờ: Phú Quý, Nhân Nghĩa... Do đề tài gần gũi tranh Đông Hồ đã được người dân đón nhận và sớm đi vào đời sống văn hoá của họ. Mỗi khi Tết đến dường như hầu hết các gia đình ở nông thôn miền Bắc đều có treo một vài tờ tranh Đông Hồ. Cùng với thời gian, với sức mạnh mang trong mình, tranh Đông Hồ ngày càng lan tỏa ra các vùng xung quanh, để rồi nó đã trở thành một phần không thể thiếu của đời sông văn hóa tinh thần của người dân. Dù đã có thời gian đi vào lãng quên, nhưng ngày nay dòng tranh này vẫn còn giữ được những giá trị to lớn của nó. Tranh Đông Hồ vẫn tồn tại như là một biểu tượng văn hoá của người dân Việt. Các tác phẩm: Gà mái, Bà Triệu, Thạch Sanh, Hứng dừa, Gà Đại Cát, Đám cưới chuột Dòng tranh Hàng Trống Đọc bài: Tranh Hàng Trống Tranh Hàng Trống là một dòng tranh dân gian được làm chủ yếu ở các phố Hàng Trống, Hàng Nón... của Hà Nội. Dòng tranh này có nhiều điểm riêng biệt so với các dòng tranh dân gian khác. Nhìn chung thì tranh Hàng Trống có phần nổi trội hơn về thể loại tranh thờ, do ảnh hưởng Phật giáo và Đạo giáo, với hình tượng tương đối giản dị mà thể hiện khả công phu, không bao giờ thiếu sắc thái uy vệ về ý nghĩa. Tranh được tạo hình không giống tranh hiện đại mà cũng không giống tranh cổ điển. Với các gam màu chủ yếu là lam, hồng, đôi lúc có thêm lục, đỏ, da cam, vàng... Tỷ lệ được tạo không hề đúng với công thức chuẩn mà chỉ sao cho thật thuận mắt và ưa nhìn. Khác với dòng tranh Đông Hồ, nó không được in tất cả bằng ván khắc mà chỉ in "một nửa", in những đường nét chính sau đó lại tô vẽ lại, cụ thể kỹ thuật tranh Hàng Trống kết hợp đường nét in đen từ bản khắc gỗ, với việc tô màu phẩm bằng tay, dùng bút mềm quệt phẩm nước, luôn luôn tạo được những chuyển sắc đậm nhạt tinh tế làm cho màu sắc rất uyển chuyển. Nhờ vậy, mà nó đáp ứng được đòi hỏi của khách mua tranh chốn kinh kỳ. Các tác phẩm: Ngũ Hổ, Bịt mắt bắt dê, chợ quê, Phật Bà Quan Âm Tranh Kim Hoàng Đọc bài: Tranh Kim Hoàng Tranh Kim Hoàng là sản phẩm tranh ra đời từ sự hợp nhất 2 làng Kim Bảng và Hoàng Bảng vào năm Chính Hòa thứ 22 (1701). Dân làng thường làm tranh từ Rằm tháng 11 âm lịch cho tới Tết Nguyên Đán. Điểm khác biệt của dòng tranh này là nó không sử dụng giấy in quyét điệp như tranh Đông Hồ mà cũng không sử dụng giấy xuyên như tranh Hàng Trống mà in trên giấy Đỏ, giấy Hồng Điều hay giấy Tàu vàng. Tranh làng Sình Đọc bài: Tranh làng Sình Nghề làm tranh tại làng Sình (nằm ven bờ sông Hương, Huế) đã ra đời không biết từ bao giờ, và tranh của làng đa phần phục vụ cho việc thờ cúng của người dân khắp vùng. Tranh làng Sình chủ yếu là tranh phục vụ tín ngưỡng. Với khoảng hơn 50 đề tài tranh phản ảnh tín ngưỡng cổ sơ, người dân thờ tranh cầu mong người yên, vật thịnh... Tranh có nhiều cỡ khác nhau, ứng với nó là kiểu in vẽ cũng khác nhau. In tranh khổ lớn thì đặt bản khắc nằm ngửa dưới đất, dùng một chiếc phết là một mảnh vỏ dừa khô đập dập một đầu, quét màu đen lên trên ván in. Sau đó phủ giấy lên trên, dùng miếng xơ mướp xoa đều cho ăn màu rồi bóc giấy ra. Với tranh nhỏ thì đặt giấy từng tập xuống dưới rồi lấy ván in dập lên. Bản in đen chờ cho khô thì đem tô màu. Màu tô của tranh làng Sình tuy không được tỉa tót và vờn đậm nhạt như tranh Hàng Trống, nhưng mỗi màu đều có chỗ cố định trên tranh, tạo nên sự hòa sắc phù hợp với ý nghĩa từng tranh. Điểm nổi bật ở tranh làng Sình là đường nét và bố cục còn mang tính thô sơ chất phác một cách hồn nhiên. Nhưng nét độc đáo nhất của nó lại là ở chỗ tô màu. Khi đó nghệ nhân mới được thả mình theo sự tưởng tượng tự nhiên.Đập Con Muỗi Vì Công Lý
La Liệt (tên tiếng Anh: Lo Lieh, Law Lit; tên khai sinh là Vương Lập Đạt, 29 tháng 6 năm 1938 - 2 tháng 11 năm 2002) là một diễn viên điện ảnh người Hoa. La Liệt Sinh ra ở Pematangsiantar vào ngày 29 tháng 6 năm 1939. Thời gian đầu, ông sống ở Indonesia nhưng sau đó cha mẹ gửi ông trở lại Trung Quốc và theo học trường diễn xuất ở Hồng Kông. Ông bắt đầu tập luyện võ thuật vào năm 1962 và gia nhập Hãng phim Shaw Brothers cùng năm. La Liệt và trở thành một trong những diễn viên nổi tiếng nhất trong các bộ phim võ thuật và Kung fu Hồng Kông vào cuối những năm 1960 và 1970. Ông mất tại Hồng Kông vì bệnh tim. Các phim đã đóng Lồng hổ 2 - Đồng tiền đen Long Hổ quyết đấu Tinh Võ Môn 1995 ...
{{Infobox Weapon |name=Steyr AUG |image= |caption=Steyr AUG A1 với nòng |origin= |type=Súng trường tấn côngCarbineSúng máy hạng nhẹVũ khí cấp tiểu độiSúng tiểu liên |is_ranged=yes |service=1978-nay |used_by=Xem Các quốc gia sử dụng |wars=Đông Timor Chiến tranh Afghanistan (2001-nay) Chiến tranh IraqNội chiến SyriaXung đột Lahad Datu 2013 |designer=Steyr Mannlicher |design_date=1977 |manufacturer=Steyr Mannlicher |production_date=1978-nay |number= |variants=Xem Steyr AUG#Các biến thể |weight= (standard rifle) (carbine) (subcarbine) (LMG) (SMG) |length= (standard rifle) (carbine) (subcarbine) (LMG) (SMG) |part_length= (standard rifle) (carbine) (subcarbine) (LMG) (SMG) |width= |height= (SMG) |cartridge=5.56x45mm NATO 9x19mm Parabellum (SMG) |action=Nạp đạn bằng khí nén, khóa nòng xoay |rate= 680–750 viên/phút |vận tốc đầu nòng= (standard rifle) |range= 300 m |max_range= |feed= * 5.56×45mm NATO: Hộp tiếp đạn có thể tháo rời 30, 42 viên, 9×19mm Parabellum: Hộp tiếp đạn 25, 32 viên của MPi 69 |sights= Kính ngắm Swarovski 1.5x, thước ngắm sắt gập }} Súng Steyr AUG (Armee Universal Gewehr = súng quân dụng phổ thông) là một loại súng trường tấn công của Áo theo kiểu Bullpup với cỡ đạn 5,56x45mm NATO. Súng được công ty Steyr Mannlicher GmbH & Co KG giới thiệu vào năm 1976.Quân đội Áo chính thức sử dụng súng AUG với tên gọi StG 77 vào năm 1977, thay thế súng trường tự động StG 58 sử dụng cỡ đạn 7.62mm (dưới giấy phép của FN FAL). Kể từ 1978, AUG trở thành súng tiêu chuẩn của quân đội Áo và các lực lượng cảnh sát khác. Ngoài ra, nhiều lực lượng vũ trang khác cũng sử dụng AUG như quân đội Argentina (từ năm 1985), Ireland, Luxembourg, Ả Rập Xê Út, Tunisia (từ năm 1978), New Zealand, Bolivia, Ecuador, Pakistan, Cục Hải quan và Biên phòng Hoa Kỳ (từ năm 1988).Súng thường sử dụng ống ngắm Swarovski 1.5x. Thiết kế Steyr AUG phiên bản tiêu chuẩn có độ dài 790 mm, nòng dài 508 mm với trọng lượng 3,6 kg. AUG có kết cấu chính bằng nhựa cao phân tử, chỉ được gia cố kim loại ở các vị trí cần thiết. AUG có thiết kế bullpup với vành bao quanh cò rất lớn, giúp xạ thủ có thể sử dụng dễ dàng kể cả khi đeo găng tay, ngoài ra vành bao này có chức năng tăng độ chắc chắn cho tay nắm chính. Một tay nắm phụ cũng được bố trí sẵn để thuận tiện cho xạ thủ trong việc cầm nắm. AUG có thiết kế theo kiểu mô-đun tích hợp, cụ thể gồm 6 khối chính: Nòng, kính ngắm tích hợp, buồng đạn, cò, báng và hộp tiếp đạn. Nòng của AUG có 4 rãnh xoắn theo tỉ lệ 1:9 giúp ổn định đường đạn với các cỡ nòng có thể thay thế dễ dàng: tiêu chuẩn (508 mm), tiểu liên (350 mm), carbine (407 mm) và súng máy hạng nhẹ (621 mm). Mặc định, AUG bản tiêu chuẩn sẽ được trang bị kính ngắm Swarovski có độ phóng đại 1,5x, đặt hơi lệch về phía phải bên cạnh thước ngắm cơ khí dự phòng mà không có hệ thống ray Picatinny (chỉ có ở các phiên bản cải tiến). Đặc điểm Cơ cấu vận hành Các biến thể Steyr AUG A1: phiên bản đầu tiên của dòng AUG, dùng ống ngắm swarovski 1,5x. Steyr AUG A2: cải tiến từ AUG A1, sử dụng được nhiều loại kính ngắm nhờ hệ thống ray picatiny. Steyr AUG A3: giới thiệu vào năm 2005, phiên bản hiện đại của AUG, có 4 thanh ray picatiny. Steyr AUG A3 SF: Steyr AUG A3 SF, còn được gọi là AUG A2 Commando hoặc StG 77 A2, tương tự như AUG A2 nhưng có vài điểm khác biệt với ống nhắm có độ phóng đại 1,5× hoặc 3×. Nó đã được thông qua bởi lực lượng đặc biệt Áo (Jagdkommando) vào cuối năm 2007. Steyr AUG PARA: biến thể sử dụng đạn 9x19mm Parabellum, tương thích với hộp tiếp đạn của MPi 69. Giới thiệu lần đầu vào năm 1988. AUG A3 Para XS: là phiên bản 9mm của AUG A3 và hoạt động tương tự như AUG PARA. Nó có nòng 325 mm (12.8 in) và được gắn thêm thanh ray picatiny. Steyr AUG HBAR: (Heavy Barreled Automatic Rifle) là một phiên bản dài hơn, nặng hơn để sử dụng như một khẩu súng máy hạng nhẹ hoặc vũ khí cấp tiểu đội. Steyr AUG LMG: (Light Machine Gun) là phiên bản súng máy hạng nhẹ của AUG, dựa trên khẩu Steyr AUG HBAR, được gắn thêm chân chống chữ V. Steyr AUG DMR: là biến thể súng trường thiện xạ của AUG, dựa trên khẩu HBAR nhưng nó có chân chống ở đằng trước nòng súng. Steyr AUG P: phiên bản bán tự động của AUG với nòng ngắn, thích hợp với một số đơn vị thực thi pháp luật. Steyr AUG M203: là một khẩu AUG được gắn thêm ống phóng lựu M203. Steyr AUG AG-C: là một khẩu AUG được gắn thêm ống phóng lựu AG-C. Các quốc gia sử dụng
Ngôi sao điện ảnh (hay minh tinh màn bạc) là nhân vật nổi tiếng được biết đến với vai diễn chính trong một bộ phim. Nguồn gốc Trong những năm đầu của thời kỳ phim câm, tên của các diễn viên không được quảng cáo hay xuất hiện trong phim như hiện nay. Một số diễn viên phải giúp xây dựng thiết bị quay, dọn dẹp và làm những việc vặt khác xung quanh trường quay. Nhưng khi những người đi xem chiếu bóng quan tâm nhiều hơn đến những người biểu diễn thu hút sự chú ý của họ và muốn biết thêm thông tin về những diễn viên, những xưởng phim và chủ nhiệm phim phải nghĩ lại về cách xử sự của họ đối với diễn viên. Khi nhu cầu càng tăng lên, tên của những diễn viên chính bắt đầu được công khai và được cho vào phim, như tên của Florence Lawrence, được nhắc đến như "ngôi sao điện ảnh đầu tiên," trước đấy cô chỉ được biết đến như "Biograph Girl" vì cô làm cho Xưởng phim Biograph, và Mary Pickford, trước đấy được biết đến như "Little Mary." Những xưởng phim thuê những diễn viên dưới hợp đồng dài hạn. Họ khai thác hệ thống ngôi sao như phương tiện để quảng bá và bán phim của họ. "Phương tiện truyền bá ngôi sao" được quay thành phim để trưng bày những tài năng đặc biệt và sức lôi quốn của những ngôi sao điện ảnh được ưa thích nhất của xưởng phim. Đặc quyền Theo truyền thống, những người đạt được danh hiệu "ngôi sao" trong ngành điện ảnh được đối xử đặc biệt, được hưởng đặc quyền và nhận mức lương cao. Một số người trở nên cực kỳ giàu có, như Marilyn Monroe, một trong những ngôi sao điện ảnh lớn nhất trong lịch sử. Hơn nữa, một vài ngôi sao thực sự rất có duyên và quan tâm đến người hâm mộ cũng như những người khác. Khác với những ngôi sao điện ảnh thành lập các công ty sản xuất phim để kiếm nhiều tiền hơn, và những người được nhận phần trăm lợi nhuận dành cho vai chính trong một bộ phim, như là Lana Turner trong phim Imitation of Life (1959), kiếm được hàng triệu đô-la, ngôi sao điện ảnh đầu tiên được trả 1.000.000 USD cho vai chính là Elizabeth Taylor trong phim Cleopatra (1963). Xuất hiện trong phim Siêu nhân (1978), ngôi sao Marlon Brando nhận được gần 4.000.000 USD cho 8 phút trên màn ảnh với vai cha của Siêu nhân, Jor-El. Nữ diễn viên ngôi sao được trả thù lao cao nhất Hollywood là Julia Roberts trong khi nam diễn viên được trả cao nhất là Arnold Schwarzenegger với thù lao 30 triệu đô-la.
Nền văn minh La Mã cổ đại đã có lịch sử lâu đời và để lại nhiều giá trị to lớn cho nhân loại ngày nay trong nhiều lĩnh vực. . Cơ sở hình thành văn minh La Mã cổ đại Địa lý Bán đảo Ý dài và hẹp vươn ra Địa Trung Hải, với dãy Alpes về phía Bắc ngăn cách với châu Âu. Bán đảo Ý trong trên bản đồ như một chiếc ủng, bao bọc ba mặt là biển, phía Nam bán đảo là đảo Sicilia, phía Tây là đảo Corse và Sardegna. Bán đảo Ý có những điều kiện thuận lợi để hình thành và phát triển một nền văn minh: những đồng bằng phì nhiêu bên sông Po, Trung Ý và đảo Sicilia cùng với khí hậu ấm áp mưa nhiều; bán đảo Ý cũng là nơi có lượng khoáng sản phong phú như đồng, chì, sắt, v.v.; giao thông biển rất thuận lợi cho việc buôn bán, giao lưu với các nền văn minh khác trong vùng. Nền văn minh La Mã là nơi khá sớm có con người cư trú, có thể khẳng định vào loại sớm nhất với lục địa châu Âu. Bán đảo Ý là nơi hội tụ của các nền văn minh Đông và Tây Địa Trung Hải, Bắc Phi. Mặc dù sự cực thịnh của nền văn minh La Mã không được các nhà nghiên cứu đánh giá sớm hơn các nền văn minh lân cận, như nền văn minh Ai Cập cổ đại hay nền văn minh Tây Á nhưng lại phát triển rực rỡ và cực thịnh. Từ thời đồ đá cũ đã xuất hiện những cư dân sống ở bán đảo. Thời kỳ này, sự di cư của các cư dân từ các lục địa vào bán đảo Ý và bị cách biệt với phần còn lại của châu Âu bởi dãy núi Alpes nên việc giao lưu gần như bắt buộc với các nền văn minh khác quanh biển Địa Trung Hải. Cư dân của La Mã tương đối thuần nhất do phạm vi hẹp và tương tự một ốc đảo ở Nam châu Âu, được gọi chung là người Ý. Dân cư Người dân có mặt sớm nhất ở trên bán đảo Italia được gọi là Italiot, trong đó bộ phận sống trên đồng bằng latium là người gốc Latinh (Latin), ngoài ra còn có một số nhỏ người gốc Gôloa và gốc Hy Lạp Quá trình phát triển của nền văn minh La Mã Lịch sử Lịch sử của La Mã có thể được chia ra thành ba thời kỳ chính như sau: Thời kỳ cổ đại Estrusque, Từ thế kỷ thứ 8 đến hết thế kỷ thứ 4 TCN Ở thời kỳ này, xã hội La Mã còn manh mún, các chủ đất chưa thống nhất và phân chia tranh giành ảnh hưởng và cân bằng lẫn nhau. Kinh tế dựa vào nông nghiệp là chủ yếu, lãnh thổ La Mã chủ yếu tập trung tại miền Nam Ý ngày nay. Thời kỳ Cộng hòa La Mã, (từ thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ thứ 1 TCN Thời kỳ này hình thành một nhà nước cộng hòa tại Roma mà về sau ảnh hưởng rất lớn đến đường lối chính trị của nhiều quốc gia Tây Phương, và cho đến ngày nay vẫn còn giá trị. Thời kỳ Đế quốc La Mã (Từ thế kỷ thứ 1 TCN đến năm 476) Đó là thời kỳ phát triển rực rỡ của La Mã bằng việc bành trướng lãnh thổ, Đế quốc La Mã có lãnh thổ hầu như toàn bộ khu vực Địa Trung Hải. Lần lượt các vùng lãnh thổ như, Hy Lạp (146 TCN), cùng với lãnh thổ Tiểu Á, Syria, Phoenicia, Palestine và Ai Cập bị sáp nhập vào Đế quốc La Mã. Trong thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 2, Đế quốc La Mã phát triển cực thịnh, lãnh thổ rộng lớn, các đô thị của La Mã được xây dựng và để lại cho đến ngày nay, như Londinium, (London ngày nay), Lucdium, (Lyon ngày nay), Köln, Strasburg, Viên... Nhưng từ thế kỷ thứ 2, Đế quốc La Mã có nhiều tranh giành quyền lực và suy yếu. Đến thế kỷ thứ 4, nhiều cư dân bên ngoài xâm nhập và Đế quốc La Mã bị chia hai: Tây La Mã và Đông La Mã (gọi là Đế chế Byzantine). Tây La Mã bị sụp đổ vào năm 476; và Đế quốc Đông La Mã bị sụp đổ vào năm 1453. Các mốc lịch sử Theo truyền thuyết, năm 753 TCN người dân ở đồng bằng Latium đã dựng nên một toà thành bên bờ sông Tevere. Họ đã lấy tên người cầm đầu là Romulus để đặt cho toà thành đó, vì vậy có tên là Roma. Giai đoạn 753 - 510 TCN, đứng đầu nhà nước là vua, dưới vua có Viện nguyên lão và Đại hội nhân dân. Vì vậy thời kì này còn được gọi là thời kì Vương chính. Thời kì Cộng hoà La Mã vào khoảng từ năm 510 đến năm 30 TCN (thế kỉ I TCN). Giai đoạn này quyền lực tối cao nằm trong tay Viện nguyên lão do dân bầu, đứng đầu Viện nguyên lão là hai quan chấp chính có quyền lực ngang nhau. Từ đó, việc chính quyền trở thành việc chung của dân (res publica). Đây cũng là giai đoạn La Mã sử dụng sức mạnh quân sự của mình để mở rộng lãnh thổ. Thế kỉ VIII TCN, La Mã chỉ là một thành bang nhỏ bé năm ở miền trung bán đảo Ý thì đến thế kỉ I TCN, La Mã đã trở thành một đế quốc rộng lớn bao trùm toàn bộ những vùng đất quanh bờ Địa Trung Hải. Thời kì Đế quốc La Mã từ năm 30 TCN đến năm 476 sau Công nguyên. Do hàng thế kỉ sử dụng chiến tranh để mở rộng bờ cõi nên vai trò các tướng lĩnh ở La Mã ngày càng tăng, xu hướng độc tài đã xuất hiện. Năm 47 TCN, một viên tướng đã lập nhiều chiến công của La Mã là Julius Caesar định nắm hết quyến lực vào tay mình nhưng không thành, ông bị ám sát bởi những người bảo vệ cho nền Cộng hoà. Năm 27 TCN, cháu của Julius Caesar là Octavius, bằng những biện pháp khôn khéo hơn đã lôi kéo dần những nhân vật của Viện nguyên lão, loại trừ những người không thể lôi kéo. Năm 27 TCN, Viện nguyên lão đã suy tôn Octavius là Augustus (Đấng tối cao). Vậy là từ năm 30 thuộc thế kỉ I TCN nền Cộng hoà La Mã đã bị xoá bỏ. Thế kỉ III sau Công nguyên, chính quyền La Mã bắt đầu bước vào giai đoạn suy yếu. Chiến tranh quanh Địa Trung Hải không còn cung cấp đủ số lượng nô lệ cho các đại điền trang và các khu mỏ để bù lại số lượng nô lệ đã chết. Số nô lệ còn lại do cuộc sống quá cực khổ nên cũng nổi loạn hay bỏ trốn rất nhiều. Nền kinh tế bị khủng hoảng, quân đội suy yếu. Nhân cơ hội đó, các bộ tộc Germanie từ bên ngoài tràn vào cướp phá. Năm 330, Hoàng đế La Mã Constantinus I đã dời đô từ Rôma sang Constantinopolis thuộc khu vực Byzantium. Năm 395, đế quốc La Mã bị chia ra làm hai, Đông La Mã và Tây La Mã. Nhà nước Tây La Mã định đô ở Ravenna, sau đó vào năm 476 thì bị người Germanie tiêu diệt. Còn nhà nước Đông La Mã lấy Constantinopolis làm kinh đô, thì đến năm 1453 bị đế quốc Ottoman thôn tính. Văn hoá La Mã Ngôn ngữ Ngôn ngữ chính thức của La Mã là tiếng Latin, thuộc nhóm gốc Ý của hệ Ấn-Âu. Với bảng mẫu tự chữ cái trên cơ sở của bảng chữ cái Hy Lạp. Tuy vậy, bảng chữ cái Latin lại có đời sống rộng rãi và trường tồn cùng với các bước phát triển văn học. Ngôn ngữ Latin được xem như là thứ ngôn ngữ của sự tao nhã, lãng mạn và được phát triển lên một tầm cao mới vào thế kỷ 1 TCN. Thực tế, ngôn ngữ của Đế quốc La Mã là thứ tiếng Latin dân dã (vulgar Latin), khác nhiều với ngôn ngữ Latin kinh điển ở ngữ pháp và từ vựng và cách phát âm. Hội họa, văn học và âm nhạc Xem bài chính: Hội họa La Mã, Văn học La Mã, Điêu khắc La Mã và Âm nhạc La Mã Có rất nhiều thể loại hội họa của thời kỳ đầu La Mã chịu ảnh hưởng theo lối thời Etruscan, đặc biệt ở các truyền thống hội họa công cộng. Vào thế kỷ thứ 3 TCN, hội họa Hy Lạp ảnh hưởng lên La Mã do chiến tranh và chiến lợi phẩm mang lại. Rất nhiều gia đình ở La Mã đã treo các bước tranh phong cảnh của các họa sĩ Hy Lạp. Nghệ thuật điêu khắc của La Mã thể hiện những người trai trẻ với vẻ đẹp cân đối cổ điển, về sau mở ra trường phái pha trộn chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa duy tâm. Văn học Latin chịu sự ảnh hưởng nặng nề của các tác giả Hy Lạp cổ đại. Một số tác phẩm thời kỳ Đế quốc La Mã thể hiện bằng các thiên anh hùng ca về chiến thắng vĩ đại của Đế chế. Dưới thời nền Cộng hòa mở rộng, bắt đầu xuất hiện các thể loại như, thi ca, kịch nói, sử học và bi kịch. Thể thao và các hoạt động Ở các thành phố cổ của La Mã có một nơi gọi là campus, là nơi để các binh sĩ tập luyện, thường gần khu vực có sông Tiber. Về sau, campus trở thành các trường đua của La Mã và khu vực hoạt động thể thao, nơi mà có Julius Caesar và Augustus thường hay lui tới. Bắt chước campus ở Roma, nhiều khu vực thuộc doanh trại quân đội cũng thực hiện xây dựng các khu vực như thế. Tại các campus, các chàng trai trẻ của cư dân lân cận bị thu hút đến rèn luyện và thi đấu, ở đó có các môn về nhảy, đấu vật, đấm box và đua ngựa. Môn đua ngựa, ném lao và bơi lội là những môn luôn được ưa thích hơn cả. Ở các miền quê, những trò câu cá và đi săn ngự trị. Phụ nữ không mấy khi tham gia vào các trò chơi của cánh đàn ông. Chơi bóng là trò chơi được ưa chuộng, và ở La Mã có rất nhiều người chơi bóng, bao gồm có bóng ném (Expulsim Ludere), khúc côn cầu trên cỏ và một vài trò chơi từ bóng đá. Một thú chơi được ưa thích là các cuộc tranh tài của các đấu sỹ. Các đấu sỹ chiến đấu với nhau một mất một còn với các loại vũ khí và trong các kịch bản cũng rất khác nhau. Một cuộc đấu nổi tiếng về sự can đảm và được nhiều người nhớ đến đó là dưới thời Hoàng đế Claudius. Các cuộc trình diễn mãnh thú cũng được ưa chuộng ở La Mã, các mãnh thú có nguồn gốc bên ngoài cũng được tham gia trình diễn hoặc tham gia trận đấu. Một người tù hay một đấu sỹ sẽ phải tự bảo vệ mạng sống của mình và được phóng thích nếu chiến thắng trong cuộc đấu với mãnh thú. Khoa học ứng dụng Niềm kiêu hãnh về công nghệ của La Mã được thể hiện ở rất nhiều công trình khoa học ứng dụng mà về sau này các nhà khoa học còn kinh ngạc khi nghiên cứu. Nhiều công trình bị hư hại hoặc biến mất, nhưng ngày nay vẫn còn nhiều chứng cứ và vết tích chỉ cho ta thấy mức độ to lớn và giá trị khoa học của chúng. Tuy vậy, nhiều nhà khoa học nổi tiếng về các nền văn minh khác nhau cho rằng công nghệ của nền văn minh La Mã thiếu tính sáng tạo và tiên tiến. Một báo cáo khoa học mới đây là một khích lệ hiếm có; Xã hội Roma với đích đến là kết nối các chiến binh, những người mà phải cai trị đất nước có tư tưởng rộng lớn, và luật Roma soạn ra không chú trọng đến điều sở hữu trí tuệ hoặc khuyến khích phát minh. Khái niệm về khoa học và công nghệ thực tế không tồn tại khi đó, sự tiến bộ luôn luôn lấy nền tảng từ thủ công, với một nhóm thợ thủ công luôn hiềm khích và ganh tị với công nghệ mới giống như bí mật trong thương mại. Tuy nhiên, một vài công nghệ bảo vệ tính mạng (trong chiến đấu) lại được người La Mã chú trọng và phát triển khá tốt, góp phần bảo vệ sức mạnh cai trị của La Mã và có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đến châu Âu sau này. Kỹ nghệ La Mã được thực hiện trong một không gian rộng lớn của trên một tầm cao mới và có kế thừa, đã góp phần xây dựng hàng trăm con đường, cây cầu, hệ thống dẫn nước, các phòng tắm, rạp hát và các đấu trường. Rất nhiều các công trình, ví dụ như đấu trường Colosseum, Pont du Gard và Pantheon, vẫn còn đứng vững làm chứng tích cho công nghệ và văn hóa Roma. Kiến trúc xây dựng La Mã có niềm tự hào về các công trình kiến trúc của họ, khi mà có sự kết hợp các kiến thức truyền thống của nền văn minh Hy Lạp kinh điển. Tuy nhiên, do sự bành trướng của cộng hòa La Mã, mà các công trình xây dựng của Roma gần như cùng kiểu của Hy Lạp đương thời. Mặc dù vậy, vẫn có sự khác nhau giữa hai trường phái La Mã và Hy Lạp về kiểu cách trong xây dựng, La Mã vay mượn cứng nhắc sự chính xác, đề án phác thảo, tính cân xứng từ Hy Lạp. Ngoài ra từ hai kiểu cột mới là kiến trúc hỗn hợp và kiểu Toscana, một nửa là kiểu mái vòm với phong cách từ Etruscan, Roma đã có khá nhiều cách tân vào cuối thời Cộng hòa La Mã. Điểm đặc biệt ở thời gian thế kỷ 1 TCN, La Mã đã bắt đầu biết dùng bê tông, thay thế cho đá cẩm thạch như nguồn vật liệu xây dựng chính và cho phép xây dựng nhiều công trình kiến trúc phức tạp hơn. Đồng thời ở thế kỷ 1 TCN, Vitruvius lần đầu tiên cho ghi chép các kiến thức kiến trúc xây dựng vào sử học. Về sau thế kỷ thứ 1 CN, La Mã cũng bắt đầu cho sản xuất thủy tinh ngay sau khi Syria phát hiện ra chúng. Đồ chạm khảm cũng theo đoàn quân viễn chinh ở Hy Lạp quay về La Mã. Rất nhiều vật dụng của La Mã được sản xuất từ bê tông. Một trong những giá trị kiến trúc của người La Mã cổ đại thể hiện qua các cầu vòm bằng đá. Nhờ những chiếc cầu này mà hệ thống giao thông nối liền các vùng của đế chế La Mã trở nên thuận lợi. Công trình kiến trúc La Mã nổi tiếng hay được nhắc đến là đấu trường Colosseum và Khải hoàn môn. Kiến trúc sư La Mã nổi tiếng thời đó là Vitruvius. Điêu khắc La Mã có cùng phong cách với điêu khắc Hy Lạp. Những bức tượng còn lại ở thành Roma và những phù điêu trên Khải hoàn môn là hiện vật tiêu biểu cho điêu khắc La Mã. Sử học Từ thế kỉ III TCN, người La Mã đã có viết sử nhưng họ viết bằng chữ Hy Lạp. Người đầu tiên viết sử La Mã bằng chữ Hy Lạp là Phabiut. Người viết sử La Mã bằng chữ Latinh (Latin) đầu tiên là Cato (234-149 TCN). Sau đó còn nhiều người khác như: Plutac (50 - 125 SCN),Tacitus (56 - 117 SCN). Nhà sử học nổi tiếng nhất của La Mã ở thế kỉ II TCN là Polybius (200 - 118 TCN), gốc là người Hy Lạp. Bộ sử thi của ông gồm 40 quyển thuật lại một cách khái quát lịch sử của Hy Lạp, La Mã và các nước Đông bộ Địa Trung Hải trong khoảng 100 năm (từ 264 đến 146 TCN). Polybius là nhà sử học đầu tiên chú ý đến phương pháp sử học, chú ý đến việc biên soạn lịch sử nhiều nước và nhất là nhận thức rõ tác dụng giáo dục của lịch sử với cuộc sống. Coi quan điểm sử học là triết học, lấy sự việc thật để dạy người đời. Triết học Các nhà triết học La Mã cũng đã kế thừa truyền thống của triết học Hy Lạp, kế thừa những tư tưởng duy vật của Đêmôcrit. Những nhà triết học tiêu biểu thời kì đó như: Lucretius, Ciceron. Ngoài ra,sau này còn có những đại diện xuất sắc của trường phái"Khắc kỷ" như Seneca và Marcus AUrelius Luật pháp Bộ luật thành văn cổ nhất ở La Mã là bộ Luật 12 bảng. Nó được gọi như vậy vì được khắc vào 12 bảng đá vào năm 452 TCN. Luật La Mã là hệ thống luật cổ, được xây dựng năm (449 TCN), áp dụng cho thành Roma và sau đó là cả Đế quốc La Mã. Các nguồn của Luật La Mã thời Cổ đại được sưu tập trong Corpus Iuris Civilis được tái khám phá trong thời kỳ Trung cổ và mãi cho đến thế kỷ 19 vẫn được xem là nguồn luật pháp quan trọng trong phần lớn các quốc gia châu Âu. Vì thế mà người ta cũng có thể gọi các luật lệ có hiệu lực trên lục địa châu Âu trong thời kỳ Trung cổ và trong thời gian đầu của thời kỳ Hiện đại là Luật La Mã. Trong thời gian cuối của thời Cổ đại Hoàng đế Justinian I đã ra lệnh sưu tập lại các bản văn luật cũ. Tác phẩm luật mà sau này được biết đến dưới tên Corpus Iuris Civilis bao gồm các quyển sách dạy về luật (công bố năm 533), tập san các bài văn của các luật gia La Mã (tiếng La Tinh: digesta hay pandectae), các đạo luật do hoàng đế ban hành (Codex Iustinianus, công bố năm 534) và các đạo luật đã được sửa đổi bổ sung (novellae). Khoa học tự nhiên Các nhà khoa học người La Mã cổ đại cũng có công sưu tập, tổng hợp những kiến thức khoa học khắp vùng Địa Trung Hải. Những nhà khoa học nổi tiếng thời đó như Plinius, Ptôlêmê, Hêrôn. Y học Tôn giáo Thần thoại cổ xưa của La Mã có đặc điểm rằng các thần không ngự trị ở đỉnh cao mà có yếu tố kết hợp giữa thần thánh và con người. Không giống như thần thoại Hy Lạp, người La Mã không vị cách hóa các thần, mà có thể hình dung như những siêu tục. Người La Mã luôn tin tưởng trong mỗi con người, địa thế, đồ vật đều có một thần bản mệnh của chính nó, kiểu như là linh hồn. Đến thời Cộng hòa La Mã, tôn giáo là sự tuân phục của hệ thống các thầy tu, thầy tế bề trên, mà họ là những người nắm giữ các vị trí ở Nghị viện La Mã. Các trường dòng ở Roma có một vị trí quan trọng, ở đó các Đại Giáo chủ nắm giữ quyền lực lớn nhất. Các giáo chủ nắm giữ việc thờ cúng các vị thần khác nhau, nhằm tạo niềm tin được che chở. Dưới thời Đế quốc La Mã, hoàng đế là người nắm giữ mệnh lệnh của các thần, và có quyền thờ cúng để tăng thêm sức mạnh, quyền uy. Kết hợp với tín ngưỡng của Hy Lạp cổ đại, các thần La Mã cũ được tăng thêm sức mạnh từ các thần Hy Lạp. Theo cách này, thần Jupiter là cách hiểu của sự chuyển tải từ vị thần Zeus, thần Mars (vị thần của chiến tranh) là thần Ares và Neptune (thần của biển) là thần Poseidon. Dưới sự cai trị của La Mã, rất nhiều dân tộc khác nhau cũng hình thành các tín ngưỡng và tôn giáo khác, như tín ngưỡng Ai Cập, tín ngưỡng Tây Á đa dạng. Đến thế kỷ thứ 2, đạo Cơ Đốc bắt đầu lan tỏa vào Đễ quốc La Mã, có sự hiềm khích và xung đột. Đạo Cơ Đốc bắt đầu được công nhận chính thức dưới triều vua Constantinus I, và tất cả các đạo khác chống đối đạo Cơ Đốc bị cấm ở Đế chế vào năm 391 bằng sắc lệnh của Hoàng đế Theodosius I. Nói đến tôn giáo ở đế quốc La Mã cổ đại phải nói đến đạo Kitô, mặc dù đạo Kitô không phải ra đời tại Roma. Du nhập từ đầu Công nguyên nhưng đến năm 337 đạo Kitô mới được phát triển mạnh mẽ. Theo truyền thống, người sáng lập ra Kitô giáo là Jesus Christus, Con Thiên Chúa, nhập thể trong lòng nữ đồng trinh Maria. Jesus ra đời vào đêm 24 rạng 25 tháng 12 năm 1 (Công nguyên) tại Bethlehem (thuộc Palestine ngày nay). Đến năm 30 tuổi, Jesus bắt đầu đi rao giảng Phúc Âm. Thánh Kinh của Kitô giáo có Cựu ước (tiếp nhận từ Do Thái giáo) và Tân ước. Giáo lý của đạo tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi (tam vị nhất thể). Đạo Kitô có quan niệm về cứu rỗi, thiên đường, địa ngục, thiên thần,... Về tổ chức, lúc đầu các tín đồ đạo Kitô tổ chức thành những cộng đoàn vừa mang tính chất tôn giáo, vừa giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Đến thế kỉ II, các cộng đoàn Kitô dần phát triển thành Giáo hội. Khi mới ra đời, đạo Kitô bị các hoàng đế La Mã và tầng lớp quan lại địa phương trấn áp rất tàn bạo. Vụ đàn áp đẫm máu nhất là vụ bách hại vào năm 64, dưới thời hoàng đế Nero, cướp đi sinh mạng của rất nhiều Ki-tô hữu. Nhưng số người theo đạo Kitô không những không giảm mà ngày càng tăng lên. Về sau, Giáo hội đề ra nguyên tắc "vương quốc thì trả cho vua, thiên quốc thì trả cho Chúa trời" tức là tôn giáo không dính dáng đến chính trị. Thấy đàn áp mãi không có tác dụng, các hoàng đế La Mã nghĩ tới biện pháp chung sống. Năm 311, một hoàng đế La Mã đã ra lệnh ngưng đàn áp các tín đồ Kitô. Năm 313, đạo Kitô được hoàng đế La Mã công nhận là hợp pháp. Năm 337, một hoàng đế La Mã lúc đó là Constantinus Đại đế đã gia nhập đạo Kitô. Việc Hoàng đế theo đạo Kitô dẫn tới sự truyền giáo được mở rộng. Ngân quỹ quốc gia cũng được chi ra để đóng góp cho Nhà thờ. Đạo Kitô được truyền bá rộng khắp trong vùng đất quanh Địa Trung Hải. Sau này, khi đế quốc La Mã tan vỡ thì đạo Kitô đã hầu như ăn sâu và lan rộng khắp châu Âu. Chú thích
Đại hội Điện ảnh Việt Nam Quốc tế (Vietnamese International Film Festival hay ViFF) là một đại hội điện ảnh diễn ra hai năm một lần do hai tổ chức phi lợi nhuận Hội Văn học Nghệ thuật Việt Mỹ (VAALA) và Hội Văn hóa Ngôn ngữ Việt Nam (VNLC) tổ chức bắt đầu từ năm 2003. ViFF thường diễn ra tại Đại học California tại Irvine và nhiều địa điểm quanh vùng Little Saigon của Quận Cam, California, Mỹ. Vừa là một đại hội điện ảnh và vừa là một sinh hoạt cộng đồng người Việt tại Quận Cam, cho đến nay ViFF là đại hội điện ảnh duy nhất dành riêng cho các nhà làm phim gốc Việt trên toàn thế giới. Vì vậy, nhiều cuộn phim của nhiều nhà làm phim có gốc Việt, kể cả trong nước, đã tụ tập tại đây. Các phim của nhà đạo diễn Trần Anh Hùng, người đã được đề cử cho giải Oscar, đã được chiếu tại ViFF. Các lần première (công chiếu lần đầu tiên) đáng kể tại ViFF là lần première thế giới của phim First Morning (Buổi sáng đầu năm) của Victor Vu, và lần première Bắc Mỹ của phim Thung lũng hoang vắng của Phạm Nhuệ Giang. Đại hội Điện ảnh Việt Nam Quốc tế 2007 Đại hội Điện ảnh Việt Nam Quốc tế lần ba được tổ chức từ ngày 12 đến 15 tháng 4 và từ ngày 19 đến 22 tháng 4 năm 2007 tại trường Đại học California tại Irvine. Đại hội lần này trình chiếu 51 phim, bao gồm 13 phim dài (features) và 38 phim ngắn, trong đó phim Dòng máu anh hùng (The Rebel) do Charlie Nguyễn đạo diễn và Sống trong sợ hãi (Living in Fear) của đạo diễn Bùi Thạc Chuyên được chiếu lần đầu tiên (première), và phim Vượt sóng (Journey From The Fall) của đạo diễn Hàm Trần. Đại hội Điện ảnh Việt Nam Quốc tế 2009 Đại hội Điện ảnh Việt Nam Quốc tế lần 4 được tổ chức từ ngày 2 đến 5 tháng 4 và từ ngày 9 đến 12 tháng 4 năm 2009 tại khu vực trường Đại học California tại Irvin, trung tâm Film and Video Center của trường đại học UCI, rạp Edward University Cinema 6, trường đại học UCLA, và Viện Bảo Tàng Bowers, Santa Ana.. Đại hội Điện ảnh Việt Nam Quốc tế 2011 Đại hội điện ảnh VIFF lần thứ 5, được tổ chức từ ngày 7 đến 17 tháng 4 năm 2011, với chủ đề "Bước tiến mới" ("Reel Momentum"), cũng là lớn nhất từ trước đến nay, với 67 phim được chiếu từ tổng số hơn 100 phim tham gia, trong đó có những phim như: Cánh đồng bất tận, Bẫy rồng, Antoine (phim tài liệu của nữ đạo diễn người Canada, Laura Bari), Saigon Electric ("Saigon Yo").... Những phim được giải thưởng : Giải Trống Đồng cho phim truyện: Bi, Đừng sợ ! - đạo diễn Phan Đăng Di Giải Trống Đồng cho phim ngắn: Phía Sau Cái Chết, đạo diễn Tạ Nguyên Hiệp Phim truyện bình chọn bởi khán giả: Touch, đạo diễn Minh Đức Nguyễn Phim ngắn bình chọn bởi khán giả: Fading Light (Theo Hướng Đèn Mà Đi), đạo diễn Thiện Đỗ; và Things You Don’t Joke About, đạo diễn Việt Nguyễn Spotlight Award: Mother Fish (đạo diễn Đỗ Khoa) Nam nữ diễn viên xuất sắc: Đỗ Hải Yến và Dustin Nguyễn trong phim Cánh đồng bất tận Chú thích
Securities Analysis (tiếng Anh của "Phân tích chứng khoán") là một cuốn sách quan trọng về phân tích tài chính và phân tích cơ bản được viết bởi Benjamin Graham và David Dodd và được xuất bản năm 1934. Benjamin Graham và David Dodd đã thay đổi mãi mãi hệ thống thuyết và thực hành đầu tư vào năm 1934 khi xuất bản cuốn Phân tích chứng khoán. Trên toàn thế giới, Phân tích chứng khoán vẫn được đánh giá là một trong những bộ giáo khoa kinh điển về phân tích cổ phiếu và trái phiếu. Nó cũng được xem là cuốn kinh thánh cho đầu tư giá trị. Các lần in sau vẫn được sử dụng làm sách giáo khoa tại Đại học Columbia, ở đấy ông Graham dạy nhiều sinh viên như là Warren Buffett. Sách Đánh giá "Các ý tưởng của Graham và Dodd đã vượt qua tất cả các điều kiện thị trường và 75 năm sàng lọc - khiến chúng trở nên xác đáng cho đầu tư hiện đại hơn bao giờ hết. Các bài tiểu luận của Klarman và những nhà đầu tư giá trị huyền thoại khác đã minh họa rõ ràng rằng dù bối cảnh thị trường có thể thay đổi rất nhiều so với những năm trước, nhưng các đăc điểm của nhà đầu tư không thay đổi, và phương pháp ứng dụng có kỷ luật các nguyên tắc của cuốn Phân tích chứng khoán tiếp tục mang lại một lợi thế quan trọng trong đầu tư" (Andre F.Perold) "Không cuốn sách nào mạng lại cho bạn những công cụ đầu tư thông minh hơn Phân tích chứng khoán. Cuốn sách xứng đáng là một phiên bản vô song từ tác phẩm kinh điển của Ben Graham cho thiên niên kỷ mới" (Mason Hawkins)
Saponin là một Glycosyd tự nhiên thường gặp trong nhiều loài thực vật. Tiền tố latinh sapo có nghĩa là xà phòng; và thực tế thường gặp từ "saponification" có nghĩa là sự xà phòng hóa trong cả tiếng Anh và tiếng Pháp. Saponin có tính chất chung là khi hoà tan vào nước có tác dụng làm giảm sức căng bề mặt của dung dịch tạo nhiều bọt, có tính chất phá huyết, độc đối với động vật máu lạnh nhất là đối với cá, tạo thành phức với cholesterol, có vị hắc và làm hắt hơi mạnh. Một vài động vật cũng có saponin như các loài hải sâm, cá sao. Các saponin đều là các chất quang hoạt. Thường các steroid saponin thì tả triền còn triterpenoid saponin thì hữu triền. Điểm nóng chảy của các sapogenin thường rất cao. Dưới tác dụng của enzym có trong thực vật hay vi khuẩn hoặc do axít loãng, saponin bị thủy phân thành các phần gồm genin gọi là sapogenin và phần đường gồm một hoặc nhiều phân tử đường. Các đường phổ biến là D-glucoza, D-galactoza, L-arabinoza, axít galactunoic, axít D-glucuronic... Phần genin có thể có cấu trúc cholan như sapogeninsteroid hoặc sapogenintritecpen dạng β-amirin (axít olenoic), dạng α-amirin (axít asiatic), dạng lupol (axit buletinie) hoặc tritecpen bốn vòng. Dựa vào cấu trúc của phần sapogenin, người ta chia saponin ra làm 3 nhóm lớn là triterpenoit saponin, steroit saponin và glicoancaloit dạng steroit. Saponin có loại axít, trung tính hoặc kiềm. Trong đó, triterpenoit saponin thường là trung tính hoặc axít (phân tử có nhóm –COOH). Steroit saponin nhóm spirostan và furostan thuộc loại trung tính còn nhóm glicoancaloit thuộc loại kiềm.
Surimi (擂り身, nghĩa là "thịt xay" trong tiếng Nhật) là một loại thực phẩm truyền thống có nguồn gốc từ cá của các nước châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc. Cá nguyên liệu được tiến hành rửa, phi lê, xay nhỏ, băm nhuyễn và phối trộn các nguyên liệu phụ, định hình, xử lý nhiệt sẽ cho sản phẩm được gọi là surimi. (Các sản phẩm truyền thống như giò cá, chả cá của Việt Nam cũng là thịt xay nhưng không nên gọi tùy tiện là surimi.) Surimi là thịt cá thờn bơn cao cấp được tách xương, rửa sạch, nghiền nhỏ, không có mùi vị và màu sắc đặc trưng, có độ kết dính vững chắc, là một chế phẩm bán thành phẩm, là một nền protein, được sử dụng rộng rãi làm làm nhiều sản phẩm gốc thủy sản khác. Dinh dưỡng Tuỳ theo loại cá dùng làm surimi và dạng surimi mong muốn mà surimi có thành phần dinh dưỡng khác nhau. Theo Bảng thành phần dinh dưỡng trong thực phẩm (Food Nutrient Database 16-1) của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA), surimi từ cá chứa khoảng 76% nước, 15% protein, 6,85% carbonhydrat, 0,9% chất béo và 0,03% cholesterol. Surimi có hàm lượng protein cao, lipid thấp, không có cholesterol và glucid, cơ thể dễ hấp thụ. Protein của surimi có khả năng trộn lẫn với các loại protit khác, nâng cao chất lượng của các loại thịt khi trộn lẫn với thịt bò, thịt heo, hay thịt gà...Đặc biệt surimi có tính chất tạo thành khối dẻo, mùi vị và màu sắc trung hòa, nên từ chất nền surimi người ta có thể chế biến ra các sản phẩm mô phỏng có giá trị cao như: tôm, thịt, sò, điệp, cua, ghẹ, xúc xích... Lịch sử Surimi được người dân một số vùng ở Đông Á chế biến từ hơn 900 năm trước đây. Tại Nhật Bản, surimi được sử dụng để chế biến món kamaboko và nhiều món ăn khác. Ngành công nghiệp chế biến surimi bắt đầu phát triển ở Nhật Bản trong những năm 1960. Cho đến nay, khoảng 2 triệu đến 3 triệu tấn cá trên toàn thế giới (chiếm 2% đến 3% sản lượng thủy sản cung cấp) được sử dụng làm nguyên liệu chế biến surimi. Hoa Kỳ và Nhật Bản là những nhà sản xuất surimi lớn nhất trong khi Thái Lan nhập khẩu khá nhiều. Sản lượng surimi của Trung Quốc cũng khá lớn còn Việt Nam, Chile, Pháp và Malaysia là các nhà sản xuất mới nổi. Sản xuất Trước tiên, thịt nạc từ cá hoặc động vật trên cạn được tách hoặc băm nhỏ, sau đó được rửa nhiều lần để loại bỏ mùi vị không mong muốn. Kết quả là thớ thịt được băm nhuyễn và được nghiền thành hỗn hợp nhuyễn. Tùy thuộc vào cấu trúc mong muốn và hương vị của sản phẩm surimi, hỗn hợp nhuyễn được trộn với phụ gia thực phẩm như bột, lòng trắng trứng, muối, dầu thực vật, sorbitol, đường, protein đậu tương, gia vị và các chất điều vị như transglutaminaza và mì chính (bột ngọt). Nếu surimi được đóng gói và trữ lạnh, cần bổ sung chất bảo quản trong quá trình làm nhuyễn hỗn hợp. Trong hầu hết các trường hợp, cần chế biến surimi ngay để dễ tạo hình cho sản phẩm. Chú thích
Hóa dược theo định nghĩa của IUPAC là một ngành khoa học dựa trên nền tảng hóa học để nghiên cứu các vấn đề của các ngành khoa học sinh học, y học và dược học. Hóa dược bao gồm việc khám phá, phát minh, thiết kế, xác định và tổng hợp các chất có tác dụng hoạt tính sinh học, nghiên cứu sự chuyển hóa, giải thích cơ chế tác động của chúng ở mức độ phân tử, xây dựng các mối quan hệ giữa cấu trúc và tác dụng sinh học hay tác dụng dược lý (gọi là SAR) và mối quan hệ định lượng giữa cấu trúc và tác dụng sinh học hay tác dụng dược lý (gọi là QSAR). Hóa dược là một ngành khoa học thể hiện cao sự kết hợp giữa hóa hữu cơ và sinh hóa, hóa tin học, dược lý, sinh học phân tử, toán thống kê và hóa lý. Một định nghĩa khác của Hóa dược là một ngành khoa học giao giữa hóa học và dược học nghiên cứu các vấn đề thiết kế và phát triển dược phẩm. Hóa dược bao gồm việc xác định, tổng hợp và phát triển các hóa chất mới phù hợp cho mục đích trị liệu. Hóa dược cũng bao gồm cả việc nghiên cứu các thuốc đã sẵn có, các hoạt tính sinh học mới và các mối quan hệ định lượng giữa cấu trúc và tác dụng sinh học (QSAR). Quy trình phát hiện dược phẩm Khám phá Việc khám phá là việc xác định các hợp chất hoạt động mới, thường được gọi là "hit", mà thường được tìm thấy bằng cách kiểm tra nhiều hợp chất (hợp chất của thư viện) cho các mong muốn đặc tính sinh học. Trong khi một số phương pháp tiếp cận đối với việc xác định các số truy cập tồn tại, thành công nhất của các kỹ thuật dựa vào trực giác hóa học và sinh học phát triển thông qua năm đào tạo hóa học-sinh học nghiêm ngặt. Các nguồn khác của số truy cập có thể đến từ nguồn tự nhiên, như thực vật, động vật, hoặc nấm. Số lần có thể có nguồn gốc cũng từ các thư viện hóa học tổng hợp, chẳng hạn như những người tạo ra thông qua bộ sưu tập hóa học tổ hợp hoặc hợp chất hóa học lịch sử đó được kiểm tra vi-số lượng lớn so với chỉ tiêu sinh học trong câu hỏi.
Xem các nghĩa khác tại SAR (định hướng) SAR là từ viết tắt của Structure-Activity Relationship của tiếng Anh. SAR dùng để chỉ mối quan hệ giữa cấu trúc hóa học của các hoạt chất với hoạt tính sinh học hay hoạt tính dược lý của chúng. SAR thường được sử dụng trong hóa dược, đặc biệt là tổng hợp hóa dược. Ngoài SAR, hóa dược cũng thường sử dụng QSAR, là bước phát triển hơn của SAR.
Trong bộ môn giải tích, một nguyên hàm của một hàm số thực cho trước f là một hàm F có đạo hàm bằng f, nghĩa là, F′ = f. Quá trình tìm nguyên hàm được gọi là tích phân bất định. Tìm một biểu thức cho nguyên hàm là công việc khó hơn so với việc tìm đạo hàm, và không phải luôn luôn thực hiện được. Tuy nhiên, bất kỳ hàm số liên tục trên đoạn hay khoảng từ giá trị a đến b, thì đều tồn tại nguyên hàm của hàm số đó trên đoạn/khoảng từ a đến b nêu trên. Nguyên hàm được liên hệ với tích phân thông qua định lý cơ bản của giải tích, cung cấp một phương tiện tiện lợi để tính toán tích phân của nhiều hàm số. Định nghĩa Cho hàm số f xác định trên K. Hàm số F được gọi là nguyên hàm của hàm số f trên K nếu F(x) khả vi trên K và F(x) = f(x) với mọi x thuộc K. Thí dụ: (1) Hàm số f (x) = cos x có nguyên hàm là F (x) = sin x vì (sin x)' = cos x (tức F '(x) = f (x)). (2) Hàm số f (x) = ax có nguyên hàm là F(x) = vì = ax. Giả sử hàm số F là một nguyên hàm của hàm số f trên K. Khi đó: với mỗi hằng số C, hàm số y = F(x) + C cũng là một nguyên hàm của f trên K và ngược lại với mỗi nguyên hàm G của f trên K thì tồn tại một hằng số C sao cho G(x) = F(x) + C với mọi x thuộc K. Do đó ta thấy nếu F là một nguyên hàm của f trên K thì mọi nguyên hàm của f trên K đều có dạng F(x) + C với số thực C. Vậy F(x) + C với số thực C là họ tất cả các nguyên hàm của f trên K. Kí hiệu: Người ta chứng minh được mọi hàm số liên tục trên K đều có nguyên hàm trên K Tính chất Nếu f và g là hai hàm số liên tục trên K thì (với mọi số thực k khác 0). Ví dụ: . Ý nghĩa Các nguyên hàm có ý nghĩa quan trọng vì chúng được dùng để tính toán các tích phân, sử dụng định lý cơ bản của giải tích: nếu F là một nguyên hàm của f, thì: Vì lý do này, tập hợp tất cả các nguyên hàm của một hàm f cho trước đôi khi được gọi là tích phân bất định''' của f và được ký hiệu bằng dấu tích phân, không có các cận: Nếu F là một nguyên hàm của f, và hàm f xác định trên một khoảng nào đó, thì mọi nguyên hàm G khác của f khác với F bởi một hằng số: tồn tại một số C sao cho G(x) = F(x) + C với mọi x. Nếu tập xác định của F gồm hai hay nhiều khoảng, thì có thể chọn những hằng số khác nhau trên mỗi khoảng. Ví dụ là nguyên hàm tổng quát nhất của trên tập xác định của nó. Mọi hàm liên tục f đều có nguyên hàm. Có nhiều hàm số có nguyên hàm nhưng không thể biểu diễn dưới dạng các hàm sơ cấp. Ví dụ: Nguyên hàm của một số hàm số cơ bản Nguồn:
Bộ Kinh Vân (Tiếng Trung Quốc: 步驚雲) là một nhân vật hư cấu trong bộ truyện tranh Phong Vân của hai tác giả Hồng Kông Mã Vinh Thành và Đan Thanh. Thuở nhỏ anh có tên là Hoắc Kinh Giác, sau khi gia nhập Thiên Hạ Hội, anh lấy lại tên là Bộ Kinh Vân. Bộ Kinh Vân được giang hồ biết đến với một tính cách khá kỳ lạ: với bản chất lạnh lùng, trầm tĩnh và ít biểu lộ tình cảm ra bên ngoài, anh ta thường bị cho là quá lạnh nhạt và nhẫn tâm. Tình cảm của anh ta dành cho thế giới gần như không có, có chăng chỉ là đối với rất ít người như: Nhiếp Phong (sư đệ tại Thiên Hạ Hội), Hoắc Bộ Thiên - cha nuôi, Khổng Từ (tình yêu đầu tiên), Sở Sở (con gái của Vu Nhạc, người đã tặng cánh tay kì lân cho Bộ Kinh Vân), người vợ Tử Ngưng­­ và sư phụ Vô Danh, con trai Bộ Thiên, con gái Tiểu Đình. Nhân vật Bộ Kinh Vân được diễn viên Hà Nhuận Đông thể hiện trong bộ phim Phong Vân: Hùng Bá Thiên Hạ. Tu luyện võ công 9 tuổi, làm con nuôi trong nhà họ Hoắc, Kinh Vân được kế phụ Hoắc Bộ Thiên truyền cho bộ Hoắc gia kiếm pháp. Có thể nói, Kinh Vân có được lòng hiếu võ là từ Hoắc Bộ Thiên. Sau cái chết của cả gia đình dưới tay Thiên Hạ Hội, Bộ Kinh Vân gặp gỡ Vô Danh, và lén học được một chiêu mạnh nhất trong Mạc Danh Kiếm Pháp là Bi Thống Mạc Danh. Điều kỳ lạ là đệ tử Kiếm Thần của Vô Danh tư chất không tầm thường, lại luyện Mạc Danh Kiếm Pháp từ nhỏ mà chỉ còn mỗi chiêu đó không sao luyện thành, còn Kinh Vân học lén mà lại thành công. Vô Danh giải thích là do kiếm ý bi thống, đầy oán sầu hợp với trải nghiệm và tính cách của Kinh Vân. Sau khi bị Vô Danh từ chối nhận làm đồ đệ, anh tim đến với Thiên Hạ Hội, với mục đích trà trộn vào hòng trả mối thù giết hại gia đinh. Một điều bất ngờ đã xảy ra: Hùng Bá, bang chủ Thiên Hạ Hội đã đặc biệt quan tâm tới Bộ Kinh Vân và ngay lập tức chọn anh ta làm đệ tử - đường chủ thứ 2, sau Tần Sương và truyền dạy một trong ba tuyệt học của mình là Bài Vân Chưởng - chính là môn sở trường của anh. Nhờ cơ duyên, anh có được kiếm phổ Thánh Linh Nhị thập nhị thức (22 thức Thánh Linh kiếm pháp) của Kiếm Thánh. Nhiều chuyện phức tạp diễn ra sau đó, dẫn đến việc Hùng Bá bị 3 anh em Phong Vân Sương tiêu diệt. Tiếp theo đó là cuộc xâm lăng của người Đông Doanh (cách người Trung Quốc xưa gọi Nhật Bản). Vô Danh cuối cùng cũng nhận anh làm đồ đệ, còn giúp anh đã ngộ ra một bộ kiếm pháp mới, và được Vô Danh đặt tên là Tam Bá Kiếm. Ba chiêu kiếm tuy là kiếm nhưng lại có sự bá đạo của đao, đạt đến cảnh giới Hữu Hình Kiếm Khí. Sau này, dựa trên kiếm ý đó, anh ta cũng sáng tạo ra một bộ chưởng pháp khác, tên gọi là Tam Bá Chưởng. Từ lúc đó cho tới trận quyết đấu với Đoạn Lãng (trong trận quyết chiến với Ma kì lân Đoạn Lãng để đề thăng công lực Bộ Kinh Vân đã tìm đến Thần Y và phục Nghịch càn khôn; ngoài ra Bộ Kinh Vân còn có Tý kỳ lân cũng là một sản phẩm của Thần Y) - kết thúc phần 2 truyện, Bộ Kinh Vân không học thêm 1 võ công nào nữa; tuy nhiên công lực thì có đột phá rất lớn nhờ Phục Long Nguyên. Sau này, nhờ cơ duyên, trong thành cổ ở Đại Mạc, Bộ Kinh Vân học được Vô Cầu Dịch Quyết. Đây không hẳn là chiêu số của một loại võ công nào mà là một bộ tâm pháp và chiêu ý, với yếu chỉ là "Vạn vật vi nhất khí tự hóa". Vũ khí Tuyệt Thế Hảo Kiếm - một thanh kiếm đặc biệt, toàn một màu đen lạnh lẽo, là thanh kiếm mà rất nhiều đúc kiếm sư bỏ ra công sức mà không tạo thành được. Bọn họ chỉ có thể tạo ra được kiếm hình, chứ không thể tạo được kiếm hồn. Bái Kiếm Sơn Trang đúc cả ngàn thanh kiếm cũng chỉ cho ra được một thanh Tuyệt Thế Hảo Kiếm... Theo truyền thuyết thì thanh kiếm này dùng để giết Hỏa Kỳ Lân, một hung thú trong Tứ Linh. Truyền thuyết cũng nói rằng thanh kiếm này được đúc từ khối thiên thạch mang tên Hắc Hàn. Có cùng xuất xứ với thứ thép rèn nên Tuyết Ẩm, vốn là đá năm xưa Nữ Oa dùng để vá trời lưu lạc xuống trần gian. Nếu Bạch Lộ (đúc thành tuyết Ẩm) là vật chí hàn thứ nhất trong thiên địa, coi Hắc Hàn là vật thiên địa chí hàn thứ hai cũng không ngoa. Nhưng trong màu đen của thép ẩn chứa một trái tim, hoàn toàn khác với hàn khí của Bạch Lộ tán phát ra ngoài, hóa khí thành băng. Màu đen và hàn khí của kiếm hút lấy sức mạnh vạn vật biến thành của mình. Nhưng Tuyệt thế hảo kiếm cũng là một thanh kiếm mang nặng sát nghiệt, tuy có đủ năng lực cứu nhân gian, nhưng cũng ngạo khí bất khuất, dù làm ngọc nát cũng không làm ngói lành, chỉ xứng với kiếm thủ chân chính cũng hắc ám như nó. Kinh Vân và Tuyệt Thế Hảo Kiếm nhân kiếm hợp nhất, tâm kiếm tương thông giúp Vân sau này đạt tới cảnh giới thượng thừa trong kiếm đạo. Kiếm đã từng bị mẻ khi giao phong với Tuyết Ẩm đao, sau được Đế Thích Thiên rèn lại, trên thân kiếm có một vết nứt ở giữa sống kiếm. Vết nứt hình thành khi Ma Khôi đột phá Kiếm giới trốn vào nhân gian.
Dịch vụ web (tiếng Anh: web service) là sự kết hợp các máy tính cá nhân với các thiết bị khác, các cơ sở dữ liệu và các mạng máy tính để tạo thành một cơ cấu tính toán ảo mà người sử dụng có thể làm việc thông qua các trình duyệt mạng. Bản thân các dịch vụ này sẽ chạy trên các máy chủ trên nền Internet chứ không phải là các máy tính cá nhân, do vậy có thể chuyển các chức nǎng từ máy tính cá nhân lên Internet. Người sử dụng có thể làm việc với các dịch vụ thông qua bất kỳ loại máy nào có hỗ trợ web service và có truy cập Internet, kể cả các thiết bị cầm tay. Do đó các web service sẽ làm Internet biến đổi thành một nơi làm việc chứ không phải là một phương tiện để xem và tải nội dung. Điều này cũng sẽ đưa các dữ liệu và các ứng dụng từ máy tính cá nhân tới các máy phục vụ của một nhà cung cấp dịch vụ web. Các máy phục vụ này cũng cần trở thành nguồn cung cấp cho người sử dụng cả về độ an toàn, độ riêng tư và khả nǎng truy nhập. Các máy phục vụ ứng dụng sẽ là một phần quan trọng của các web service bởi vì thường thì các máy chủ này thực hiện các hoạt động ứng dụng phức tạp dựa trên sự chuyển giao giữa người sử dụng và các chương trình kinh doanh hay các cơ sở dữ liệu của một tổ chức nào đó. Một số nhà quan sát ngành công nghiệp này cho rằng web service không thực sự là một khái niệm mới và phản ánh một phần không nhỏ khái niệm mạng máy tính vốn đã trở nên quen thuộc trong nhiều nǎm qua. Web service chủ yếu dựa trên một lời gọi thủ tục từ xa không chặt chẽ mà có thể thay thế các lời gọi thủ tục từ xa chặt chẽ, đòi hỏi các kết nối API phù hợp đang phổ biến hiện nay. Dịch vụ web sử dụng XML chứ không phải C hay C++, để gọi các quy trình. Tuy nhiên các chuyên gia khác lại cho rằng web service là một dạng API dựa trên phần mềm trung gian, có sử dụng XML để tạo phần giao diện trên nền Java 2 (J2EE) hay các server ứng dụng .NET. Giống như các phần mềm trung gian, web service sẽ kết nối server ứng dụng với các chương trình Client.
Nguyễn Hữu Đang (1913-2007) là một nhà báo, từng bị thực dân Pháp bắt tù 1930, cũng từng là thứ trưởng Bộ Thanh Niên, tham gia Mặt Trận Dân chủ Đông Dương (1937-1939), một trong những người sáng lập nên Hội truyền bá Quốc ngữ (1938-1945), từng tham gia phong trào Văn hóa Cứu Quốc (1943-1946), Ủy ban Giải phóng Dân tộc tại Tân Trào 1945. Ông là người chỉ huy dựng Lễ đài Độc lập tại Quảng trường Ba Đình, nơi Hồ Chí Minh và Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra mắt quốc dân. Ông đã bị kết án 15 năm tù vì tội kích động bạo loạn trong vụ án Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm. Tiểu sử Nguyễn Hữu Đang (bí danh Phạm Đình Thái) sinh ngày 15 tháng 8 năm 1913 trong một gia đình trí thức tại làng Trà Vi, xã Vũ Công, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Ông thuộc về đời thứ 11 của dòng họ Nguyễn Phúc Trà Vi. Cụ tổ là Nguyễn Phúc Độ, con trai thứ 37 của Chúa Nguyễn Phúc Chu. Ông tham gia Hội Sinh viên thị xã Thái Bình thuộc Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội và bị Pháp bắt vào cuối năm 1930 và bị giam hai tháng rưỡi tại thị xã Thái Bình. Mùa hè năm 1931, Nguyễn Hữu Đang bị đưa ra tòa xét xử, nhưng được tha, vì dưới tuổi thành niên. Sau đó, ông lên Hà Nội theo học Trường Cao đẳng Sư phạm. Sau khi tốt nghiệp Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội, Nguyễn Hữu Đang tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936-1939) trên lĩnh vực báo chí, viết và làm biên tập viên cho các báo Thời báo, Ngày mới và Tin tức. Ông hoạt động công khai ở Hà Nội, là đồng chí thân thiết của Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Trần Huy Liệu, Phan Thanh, Nguyễn Văn Tố. Trong thời kỳ Đảng Cộng sản Đông Dương rút vào hoạt động bí mật (1939-1945), ông hoạt động trong khối trí vận của đảng, chuyên lo việc vận động giới tư sản và trí thức, là một trong những người sáng lập ra Hội Truyền bá Quốc ngữ (do Đảng Cộng sản Đông Dương đứng đằng sau hậu thuẫn) và làm Tổng Thư ký Hội. Năm 1943, ông tham gia Ban chấp hành Hội Văn hóa cứu quốc và gia nhập Tráng đoàn Lam Sơn của tổ chức Hướng đạo sinh Việt Nam. Mùa hè 1944, Nguyễn Hữu Đang tham gia tổ chức và chủ trì Hội nghị Giáo khoa thư Toàn quốc ở Hà Nội. Mùa thu 1944, ông bị bắt và bị giam giữ một tháng tại Nam Định. Tham gia Chính phủ cách mạng Tháng 8 năm 1945, ông được Đại hội Quốc dân ở Tân Trào bầu vào Ủy ban Dân tộc Giải phóng Trung ương (Chính phủ Lâm thời khởi nghĩa) gồm 15 ủy viên. Khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Hữu Đang được phân công làm Trưởng ban Tổ chức Ngày tuyên bố Độc lập 2/9/1945. Ngày nay trên sách báo người ta hay nhắc đến câu nói của Hồ Chí Minh khi giao việc dựng Lễ đài Độc lập với thời gian hết sức gấp gáp, trang thiết bị thiếu thốn: "Có khó mới giao cho chú" (tức Nguyễn Hữu Đang). Từ 11/1945 đến tháng 12/1945, ông tham gia Chính phủ Lâm thời, lần lượt giữ chức Thứ trưởng Bộ Thanh niên, Chủ tịch Ủy ban Vận động Hội nghị Văn hóa Toàn quốc, Trưởng ban Tuyên truyền Xung phong Trung ương, phụ trách báo Toàn dân Kháng chiến (báo của cơ quan trung ương Hội Liên Hiệp). Năm 1947, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ tháng 6/1949 đến tháng 10/1954, ông được cử làm Trưởng ban Thanh tra Bình dân học vụ. Hoạt động văn nghệ tuyên truyền Từ tháng 11/1954 đến tháng 4/1958, ông làm biên tập viên tuần báo Văn nghệ thuộc Hội Nhà văn Việt Nam. Trong Kháng chiến chống Pháp, ông trải qua nhiều chức vụ khác nhau trong lĩnh vực tuyên truyền kháng chiến. Ông cũng là một trong những nhà văn đầu tiên phê phán sai lầm của Cải cách ruộng đất. Năm 1954-1958 ông làm biên tập cho báo Văn Nghệ. Vụ Nhân văn Giai phẩm Cuối 1956, ông làm biên tập báo Nhân Văn và cộng tác với báo Giai Phẩm. Báo giới ngoài nước đều nhất loạt ghi nhận vai trò chủ yếu của Nguyễn Hữu Đang trong phong trào Nhân văn Giai phẩm (1956-1958). Trang web Diễn đàn gọi ông là lãnh đạo, Talawas cho là chủ chốt, trang web Nhịp Cầu Thế giới dùng từ thủ lĩnh. Tài liệu cùng thời chỉ trích Nhân văn Giai phẩm tại Hà Nội, cũng nói vậy. Báo Nhân dân, dưới ngòi bút Như Phong khẳng định Nguyễn Hữu Đang trực tiếp chỉ đạo từ đầu đến cuối công cuộc phá hoại bằng báo chí ấy (12-5-1958). Trong Nhân Văn số 1, Nguyễn Hữu Đang ký tên XYZ (một trong những bút hiệu của Hồ Chí Minh). Trong bài này, Nguyễn Hữu Đang cố ý dùng giọng văn của Hồ Chí Minh khi nói chuyện với cán bộ, nhằm tỏ ý giễu cợt chủ tịch Hồ Chí Minh. Báo Nhân văn số 6 có bài kích động người dân xuống đường biểu tình. Song Đảng viên, công nhân nhà in Xuân Thu (nơi in báo Nhân văn) đã phát hiện ra và thông báo với chính quyền để xử lý. Tháng 4 năm 1958, ông bị bắt. Cùng với nhiều văn nghệ sĩ, trí thức tham gia phong trào Nhân văn-Giai phẩm, ông bị coi là "phản Đảng", "đầu cơ cách mạng". Tại phiên tòa xét xử kín ông cùng bà Lưu Thị Yên (bút hiệu Thụy An) ngày 21 tháng 1 năm 1960, ông bị kết án 15 năm tù vì tội "phá hoại chính trị", "làm gián điệp" và bị đưa lên giam giữ tại Hà Giang. Trong một cuộc phỏng vấn với nhà phê bình văn học Thụy Khuê: "Thực chất phong trào Nhân văn Giai phẩm, nếu đứng về mặt chính trị, thì đó là một cuộc đấu tranh của một số người trí thức, văn nghệ sĩ và một số đảng viên về chính trị nữa, là chống - không phải chống đảng cộng sản đâu, mà đấy là chống- cái chủ nghĩa Stalin và chống chủ nghĩa Mao Trạch Đông." Suốt thời gian trong tù ông bị cách biệt với thế giới bên ngoài và không hề tham gia một chút gì vào cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam. Sau khi ra tù vào năm 1973, ông bị quản thúc tại quê nhà Thái Bình gần 20 năm. Tuy bị quản thúc, nhưng sau ngày 30/4/1975, chính quyền cũng thả lỏng . Ông vẫn đi lại giữa các địa phương để thăm người thân và bạn bè, nhưng vẫn bị giám sát và theo dõi. Cuối đời Năm 1986, sau Đại hội Đảng VI, ông bắt đầu được phục hồi danh dự và được coi là "lão thành cách mạng". Từ năm 1990, ông được hưởng lương hưu trí. Từ năm 1993, ông về sống ở Hà Nội, được cấp một căn hộ tại khu nhà B tập thể Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Ông không có vợ con. Ông qua đời ngày 8 tháng 2 năm 2007 tại Hà Nội. Trong tang lễ của ông, đại diện chính quyền đọc điếu văn còn nhắc tội trạng: "phạm sai lầm tham gia nhóm Nhân văn Giai phẩm". Ban Tang lễ của Bộ Giáo dục và đào tạo, Hội Khuyến học Việt Nam, tuần báo Văn Nghệ được thành lập. Thi hài ông được hỏa táng và đưa về quê an táng ngày 11 tháng 2 năm 2007. Các bài viết của Nguyễn Hữu Đang Cần phải chính quy hơn nữa - báo Nhân văn số 4 ra ngày 5/11/1956 Hiến pháp Việt Nam 1946 và Hiến pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ như thế nào? - báo Nhân văn số 5 ra ngày 20/11/1956 Bộ Vòng Xơ Men - báo Lao động đầu tháng 12/1993 Truyện tiếu lâm bên lề một hội nghị văn hóa gửi đăng báo Lao động nhưng chưa xác nhận. Ngày Độc lập - hồi ký 200 trang đã có hợp đồng với Nhà xuất bản Văn hóa. Nhận định Theo nhà thơ Hoàng Cầm, "Ông Nguyễn Hữu Đang làm việc gì cũng rất..., tôi dùng hai chữ của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng nói, ông Đang là một con người "hùng hổ - kiên quyết"" Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, bạn thân và đồng nghiệp làm cùng tòa soạn báo với Nguyễn Hữu Đang, cho rằng: "Nguyễn Hữu Đang (có thái độ) tiêu cực. Ở đâu cũng thấy không vừa ý. Người có caractère, ở đâu cũng có ảnh hưởng đến anh em. Anh em toà soạn khen là chí công, vô tư, nhưng tư tưởng rất là nguy hiểm. Một điển hình của một chiến sĩ làm cách mạng nhưng lại bất mãn"
Chính trị (Tiếng Anh: politics) là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, cũng như các dân tộc và các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực Nhà nước; là sự tham gia của nhân dân vào công việc của Nhà nước và xã hội, là hoạt động chính trị thực tiễn của giai cấp, các đảng phái chính trị, các nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích. Từ khi xuất hiện, chính trị ảnh hưởng tới quá trình tồn tại và phát triển của mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia, dân tộc và toàn nhân loại. Trước khi chính trị học ra đời với tư cách là một khoa học (political science) nghiên cứu chính trị như một chỉnh thể, có đối tượng, phương pháp, khái niệm, phạm trù..., đã có các quan niệm, quan điểm, thậm chí tư tưởng, học thuyết của các học giả khác nhau bàn về các khía cạnh của chính trị. Khái niệm Các quan niệm trước Chủ nghĩa Mác-Lênin Ở phương Tây thời kỳ cổ đại, nổi lên các triết gia, chính trị gia lỗi lạc về chính trị:  Herodotus: Được mệnh danh là người "cha của chính trị học". Từ chỗ nghiên cứu và phân tích sự khác biệt giữa các hình thức chính thể: Quân chủ, Quý tộc và Dân chủ, ông khẳng định chính trị tốt nhất là thể chế hỗn hợp của các chính thể này. Platon: Chính trị là “nghệ thuật cung đình”  liên kết trực tiếp của người anh hùng và sự thông minh. Sự liên kết đó được thực hiện bằng sự thống nhất tư tưởng và tinh thần hữu ái. Chính trị là nghệ thuật cai trị. Cai trị bằng sức mạnh là độc tài, cai trị bằng nghệ thuật mới là đích thực.  Aristotle: Chính trị là sản phẩm của sự phát triển tự nhiên- là hình thức giao tiếp cao nhất của con người; con người là động vật chính trị; quyền lực chính trị có thể được phân chia thành lập pháp, hành pháp và tư pháp.  Ở phương Đông cổ đại, nhất là ở Trung Quốc thời kỳ "bách gia chư tử"  -  trăm hoa đua nở  -  trăm nhà đua tiếng cũng xuất hiện những tư tưởng chính trị kiệt xuất. Nổi bật nhất là các quan niệm của Khổng tử, Hàn Phi tử, Lăo tử...  Khổng tử: Chính trị là công việc của người quân tử, là làm cho chính đạo, chính danh. Ông xây học thuyết về Nho gia với các quan điểm Tam cương, Ngũ thường - là cơ sở nền tảng cho các xã hội phong kiến phương Đông lúc bấy giờ và cả sau này.  Hàn Phi tử: Ông quan niệm để thực hiện hoạt động chính trị cần thiết phải xây dựng và ban hành pháp luật. Với luận thuyết nổi tiếng về thế, thuật và pháp - ông là đại diện tiêu biểu của phái Pháp gia.  Lão tử: Với quan điểm "vô vi nhi trị"  -  không làm gì mà mọi người tự thuần phục, tự tìm đến với con đường chính đạo thì đó là cái gốc của nghệ thuật trị nước Thời kỳ đêm trường trung cổ: Chính trị được các nhà Thần học và chủ nghĩa duy tâm như Tômat Đa-Canh...cho rằng "chính trị có nguồn gốc từ quyền lực tối cao của Thượng đế". Thời kỳ các học thuyết và  tư tưởng tư sản về chính trị: Nổi tiếng với các thuyết "tam quyền phân lập, khế ước xã hội". Chính trị được quan niệm là công việc của những "công dân" có tài sản.  Các tư tưởng và học thuyết nêu trên ít nhiều đã đề cập được những vấn đề cơ bản của chính trị như vấn đề tổ chức Nhà nước, các hình thức Nhà nước và các chính thể, vấn đề quyền lực Nhà nước, thủ lĩnh chính trị....Tuy nhiên do những hạn chế về lập trường, quan điểm, điều kiện lịch sử- xã hội mà các học thuyết đó ít nhiều còn bộc lộ những quan điểm thô sơ, chất phác, thậm chí là sai lầm về chính trị. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin Nghiên cứu một cách nghiêm túc các quan điểm trước đi trước về chính trị, đồng thời vận dụng một cách khoa học các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin đã đề xuất những nhận định về chính trị như sauː Chính trị là lợi ích, là quan hệ lợi ích, là đấu tranh giai cấp trước hết vì lợi ích giai cấp. Cái căn bản nhất của chính trị là việc tổ chức quyền lực nhà nước, là sự tham gia vào công việc Nhà nước, là định hướng cho nhà nước, xác định hình thức, nội dung, nhiệm vụ của Nhà nước. Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Đồng thời, chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế. Chính trị là lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm nhất, liên quan tới vận mệnh hàng triệu người. Giải quyết những vấn đề chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, cũng như các dân tộc và các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực Nhà nước; là sự tham gia của nhân dân vào công việc của Nhà nước và xã hội, là hoạt động chính trị thực tiễn của giai cấp, các đảng phái chính trị, các nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đương lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích Các quan điểm hiện nay Hiện nay, trên thế giới đã hình thành 4 cách hiểu khác nhau về chính trị: Nghệ thuật của phép cai trị Những công việc của chung Sự thỏa hiệp và đồng thuận Quyền lực và cách phân phối tài nguyên hay lợi ích Nếu quan niệm rằng chính trị chỉ là những hoạt động xoay quanh vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước thì, theo lý luận của chủ nghĩa Marx, trong xã hội cộng sản tương lai sẽ không có chính trị bởi vì lúc đó nhà nước đã tiêu vong. Nói cách khác, chính trị sẽ dần dần trở nên thừa thãi và mất hẳn trong xã hội lý tưởng của nhân loại – xã hội cộng sản. Chính trị theo nghĩa rộng hơn là hoạt động của con người nhằm làm ra, gìn giữ và điều chỉnh những luật lệ chung mà những luật lệ này tác động trực tiếp lên cuộc sống của những người góp phần làm ra, gìn giữ và điều chỉnh những luật lệ chung đó. Với cách hiểu như thế này thì dù trong xã hội cộng sản, chính trị vẫn còn tồn tại và vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng đối với từng con người cũng như toàn xã hội. Trong bất kỳ xã hội nào thì cũng cần những luật lệ chung để hoạt động nhịp nhàng và khoa học, tránh tình trạng vô tình hay cố ý xâm phạm quyền lợi, lợi ích, tài sản, sức khỏe hay thậm chí tính mạng của người khác hay của cộng đồng. Một ví dụ đơn giản, xã hội dù có phát triển đến đâu thì cũng cần có luật giao thông để con người có thể lưu thông một cách trật tự và hiệu quả. Hay, con người không thể sống trong một xã hội mà tình trạng an ninh không đảm bảo (cướp bóc, khủng bố chẳng hạn) do thiếu luật lệ. Mặc dù phần lớn xã hội hiện nay trên thế giới không tránh khỏi các hiện tượng cướp bóc và khủng bố nhưng phải thừa nhận rằng pháp luật đã góp phần ngăn chặn đáng kể những hành vi bất lương đó. Nguồn gốc và bản chất Nguồn gốc kinh tế chính trị Xét về sự xuất hiện của chính trị trong lịch sử nhân loại: Chính trị ra đời gắn liền với sự xuất hiện của giai cấp và nhà nước. Sự xuất hiện đó lại liên quan chặt chẽ đến vấn đề tư hữu tư liệu sản xuất -  tư hữu những của cải dư thừa của xã hội- cũng tức là liên quan đến hoạt động kinh tế. Để bảo vệ cho sự tư hữu về tư liệu sản xuất đó, những tầng lớp "trên" của xã hội đã tổ chức ra nhà nước nhằm mục đích cưỡng chế các giai tầng xã hội khác. Như vậy chính trị xuất hiện trong lịch sử xuất phát từ kinh tế. Xét trên góc độ lợi ích: Chủ nghĩa Marx-Lenin khẳng định chính trị chính là lợi ích, là quan hệ giữa các giai cấp trong việc phân chia lợi ích. Như vậy chính trị chính là sự biểu hiện tập trung của kinh tế. Xét trên quan điểm về các hình thái kinh tế, xã hội: Chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng, bao gồm hệ tư tưởng chính trị, nhà nước, các đảng phái xuất hiện khi xã hội phân chia thành các giai cấp dựa trên cơ sở hạ tầng kinh tế. Như vậy, chính Cơ sở hạ tầng kinh tế là yếu tố quyết định đến sự hình thành các quan điểm và các thiết chế chính trị Bản chất giai cấp của chính trị Mối quan hệː Chính trị bao giờ cũng là sự bộc lộ mối quan hệ giữa các giai cấp: Trong một xã hội có giai cấp, chính trị với những thiết chế được đặt ra là để xác lập mối quan hệ giữa các giai cấp. Khái niệm quan hệ chính trị cho chúng ta thấy, đó là quan hệ giữa các giai cấp, trong việc giành, giữ và tổ chức quyền lực Nhà nước. Trong các quan hệ đó, các giai cấp xác định đâu là giai cấp thống trị, đâu là giai cấp, tầng lớp bị thống trị, đâu là giai cấp, tầng lớp tham gia vào thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Đảng phái, Nhà nướcː Bản chất chính trị của giai cấp thể hiện ở sự tổ chức thành Đảng phái, thành Nhà nước để giai cấp thống trị đạt được mục đích trấn áp giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội vì lợi ích trước hết và trên hết của giai cấp mình. Thông qua hoạt động của các Đảng phái là đội tiên phong của chính mình, đồng thời thông qua hoạt động của Nhà nước, giai cấp thống trị gián tiếp can thiệp vào các hoạt động tổ chức sản xuất và đời sống xã hội. Quyền lực chính trịː Bản chất chính trị của giai cấp còn liên quan đến vấn đề quyền lực chính trị. Karl Marx khẳng định "Quyền lực chính trị thực chất là bạo lực có tổ chức của giai cấp này, trấn áp giai cấp khác". Mỗi một giai cấp sẽ có cách thức sử dụng quyền lực chính trị khác  nhau. Chế độ phong kiến sử dụng quyền lực tuyệt đối thuộc về một người, chế độ tư sản sử dụng   9 quyền lực trên cơ sở thuyết Tam quyền phân lập; chế độ xã hội chủ nghĩa quyền lực được xuất phát từ nhân dân và có sự phân công, phân nhiệm trong sử dụng Văn hóa tư tưởng chính trịː Bản chất giai cấp của chính trị thể hiện ở chế độ văn hóa chính trị, bao gồm hệ tư tưởng, nền tảng pháp lý và các giá trị, chuẩn mực được áp dụng cho toàn xã hội Lịch sử Lịch sử chính trị kéo dài trong suốt lịch sử loài người và không giới hạn trong các thể chế chính phủ hiện đại. Frans de Waal lập luận rằng những con tinh tinh đã tham gia chính trị thông qua việc "thao túng xã hội để bảo đảm và duy trì các vị trí có ảnh hưởng". Các hình thức ban đầu của con người về tổ chức xã hội - các nhóm người và bộ lạc còn thiếu các cấu trúc chính trị tập trung. Chúng được gọi là xã hội không nhà nước. Có một số lý thuyết và giả thuyết khác nhau liên quan đến sự hình thành nhà nước sớm tìm cách khái quát hóa để giải thích tại sao nhà nước phát triển ở một số nơi mà không phải là những nơi khác. Các học giả khác tin rằng việc khái quát hóa là không có giá trị và mỗi trường hợp hình thành nhà nước sớm nên được xử lý riêng biệt. Các lý thuyết tự nguyện cho rằng các nhóm người khác nhau đã cùng nhau hình thành các nhà nước do kết quả của một số lợi ích hợp lý được chia sẻ chung. Các lý thuyết chủ yếu tập trung vào sự phát triển của nông nghiệp, và áp lực dân số và tổ chức theo sau và dẫn đến sự hình thành nhà nước. Một trong những lý thuyết nổi bật nhất về sự hình thành nhà nước sơ khai và sơ cấp là giả thuyết thủy lợi, cho rằng nhà nước là kết quả của nhu cầu xây dựng và duy trì các dự án thủy lợi quy mô lớn. Các lý thuyết xung đột về sự hình thành nhà nước coi xung đột và sự thống trị của một số dân số đối với dân số khác là chìa khóa cho sự hình thành các quốc gia. Trái ngược với các lý thuyết tự nguyện, những lập luận này tin rằng mọi người không tự nguyện đồng ý tạo ra một nhà nước để tối đa hóa lợi ích, nhưng các nhà nước đó hình thành do một số hình thức áp bức của một nhóm người đối với các nhóm người khác. Một số lý thuyết lại cho rằng chiến tranh là rất quan trọng đối với sự hình thành nhà nước. Ý thức hệ chính trị Ý thức hệ chính trị hay hệ tư tưởng chính trị là toàn bộ những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, của một giai cấp về: giành và giữ quyền lực nhà nước; xác định chế độ chính trị; hình thức tổ chức nhà nước; và quan hệ với các giai cấp, tầng lớp khác. Hệ tư tưởng chính trị có vai  trò vô cùng quan trọng, thể hiện ở những điểm sauː Đó là kim chỉ nam soi đường cho quá trình đấu tranh của một giai cấp. Chỉ có hệ tư tưởng chính trị mới chứa đựng những mục tiêu và phương pháp để một giai cấp tiến lên giành chính quyền. Hệ tư tưởng chính trị xác định mối quan hệ giữa giai cấp này với giai cấp khác. Hệ tư tưởng chính trị mô tả chế độ chính trị, xác định hình thức và bản chất Nhà nước, các cơ chế phân chia quyền lực chính trị. Hệ tư tưởng chính trị xác định mục tiêu, nội dung và phương thức lãnh đạo, quản lý xã hội. Trong quan hệ với thể chế chính trị, hệ tư tưởng chính trị là mục đích, là nội dung của thể chế đó. Hệ tư tưởng chính trị nào thì xác định thể chế chính trị đó; trong quan hệ với hệ thống chính trị, hệ tư tưởng chính trị là  là “hạt nhân tinh thần”, là phần “linh hồn” của hệ thống đó. Khổng Tửː Triết gia Khổng Tử (551– 471 TCN) là một trong những nhà tư tưởng đầu tiên có cách tiếp cận riêng đến Học thuyết chính trị. Căn bản trong học thuyết của ông là "quân tử (người cầm quyền) nên học tự kỷ luật, nên cai trị người dân của mình bằng chính gương của mình, và nên đối xử với họ bằng tình thương và sự quan tâm." Niềm tin chính trị của ông gắn chặt với luân thường đạo lý và đạo đức cá nhân. Ông cho rằng chỉ những người quân tử liêm khiết và tuân theo đạo của người quân tử thì mới được cầm quyền, và những tư cách của những nhân vật đó phải kiên định với địa vị trong xã hội. Ông ta cũng nói rằng "Triều đại tốt cốt ở vua làm tròn bổn phận của vua, bề tôi làm tròn bổn phận của bề tôi, cha làm tròn bổn phận của cha, và con làm tròn bổn phận của con." Platoː Triết gia Hy Lạp cổ đại Plato (428– 328 TCN) nói trong sách Nền Cộng hòa (The Republic) rằng tất cả những chế độ chính trị theo truyền thống như (dân chủ, quân chủ, chính thể đầu sỏ,chính thể hào hiệp - democracy, monarchy, oligarchy và timarchy) vốn đã đồi bại, tham nhũng và nhà nước nên được điều hành bởi tầng lớp những người cầm quyền cũng là triết gia được giáo dục tốt. Họ được đào tạo từ lúc chào đời và được chọn dựa trên năng lực: "những người có kỹ năng đặc biệt về quan sát tổng quan xã hội." Aristotleː Trong cuốn Chính trị của mình, triết gia Hy Lạp cổ đại Aristotle (384–322 TCN) quả quyết rằng về bản chất, con người là một động vật chính trị. Ông ta cho rằng luân thường và chính trị có liên kết chặt chẽ với nhau, và một đời sống thật sự đạo đức chỉ có thể có ở những người tham gia vào chính trị. Giống như Plato, Aristotle thấy rằng có nhiều hình thức nhà nước khác nhau, và ông cho rằng hình thức "đúng" của nhà nước có thể biến thành một hình thức nhà nước "lệch lạc", nơi mà thể chế bị mục nát. Theo ông, chế độ quân chủ, có một người cai trị, sẽ biến thành chuyên chế; chế độ quý tộc, với một nhóm nhỏ người cai trị, sẽ biến thành chính thể đầu sỏ; và xã hội có tổ chức (polity) do nhiều người dân cùng cai trị thì sẽ biến thành chế độ dân chủ. Theo nghĩa này, Aristotle không dùng từ "democracy" như nghĩa hiện nay là nó mang nghĩa rộng, nhưng có nghĩa đen là do demos, hay thường dân cai trị. Một cái nhìn chính xác hơn về dân chủ mà Aristotle đề cập đến chỉ là chính quyền quần chúng (ochlocracy). Niccolò Machiavelliː Trong sách của mình, cuốn The Prince (Quân vương), nhà lý luận chính trị người Ý ở giai đoạn Phục Hưng ông Niccolò Machiavelli đề nghị một tầm nhìn thế giới về chính trị để miêu tả các phương pháp thực tế cho chế độ chuyên quyền để giành và giữ quyền lực chính trị. Ông thường được xem là người phản đối quan điểm đạo đức truyền thống đối với người cầm quyền: "đối với Machiavelli, không có nền tảng đạo đức mà ở đó phân xử sự khác nhau giữa việc sử dụng quyền lực hợp pháp hay bất hợp pháp." Thuật ngữ Machiavellian (cũng có nghĩa là xảo quyệt) ra đời, đề cập đến một người thiếu đạo đức dùng các cách mánh khóe để cố thủ quyền hành. Học thuyết của ông đã được các lãnh đạo học tập và thực hành kể cả những lãnh đạo chuyên chế toàn trị như Benito Mussolini và Adolf Hitler, những người đã biện hộ cho việc hành động tàn bạo của mình là cho mục đích an toàn quốc gia. Tuy nhiên, nhiều học giả đã nghi vấn quan điểm này của chủ thuyết Machiavelli, cho rằng "Machiavelli không sáng tạo ra chủ nghĩa Machiavelli", và chưa từng là một 'Machiavellian' quỷ quyệt như ông đã bị gán cho." Thay vào đó, Machiavelli xem trạng thái ổn định của quốc gia là mục tiêu quan trọng hàng đầu, và tranh luận rằng theo truyền thống phẩm chất tốt được xem là khát vọng mang tính đạo đức, như tính độ lượng, đã không được ưa thích đối với người lãnh đạo và có thể dẫn đến việc mất quyền lực chính trị.John Stuart Millː Vào thế kỷ XIX, John Stuart Mill là người đi tiên phong trong việc dùng khái niệm tự do trong chính trị. Ông ta đã thấy được rằng dân chủ sẽ là sự phát triển chính trị chủ chốt trong thời đại ông ta và, trong cuốn Bàn về tự do (On Liberty) của mình, ông đã cổ vũ cho việc bảo vệ tốt hơn các quyền cá nhân và chống lại ảnh hưởng của nhà nước và sự cầm quyền của đa số. Ông ta cho rằng tự do là quyền quan trọng nhất của loài người. Một nhà bình luận cho rằng cuốn Bàn về tự do như là một lời bảo vệ hùng hồn và mạnh mẽ nhất cho chủ nghĩa tự do chúng ta có." Ông cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của tự do ngôn luận, và tuyên bố rằng chúng ta không thể chắc chắn rằng ý kiến mà chúng ta cố gắng ngắt lời là ý kiến sai trái, và nếu chúng ta chắc chắn như vậy thì việc ngắt lời vẫn là điều sai quấy." Karl Marx là một trong số những nhà tư tưởng chính trị có ảnh hưởng trong lịch sử. Học thuyết của ông chỉ trích chủ nghĩa tư bản và ông biện luận rằng trong tương lai sẽ có "sự suy tàn không tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản vì các nguyên nhân kinh tế, và được thay thế bởi chủ nghĩa xã hội." Ông ta định nghĩa lịch sử có liên quan đến đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản, hay giai cấp sở hữu tư liệu sản xuất, và giai cấp vô sản, hay giai cấp lao động. Cuộc đấu tranh được sự công nghiệp hóa tăng cường. Nhiều phong trào chính trị sau đó dựa trên tư tưởng của Marx, cho ra các phiên bản rất khác nhau của chủ nghĩa cộng sản; bao gồm Chủ nghĩa Marx-Lenin, Chủ nghĩa Mao, và Chủ nghĩa Marx tự do. Có thể nói rằng người đã người thể hiện học thuyết chủ nghĩa Marx có ảnh hưởng nhất là Lenin, người sáng lập ra Liên Xô. Ông đã sáng tạo học thuyết cách mạng dựa trên nền tảng tư tưởng Marx. Tuy nhiên, những nhà tư tưởng theo Chủ nghĩa Marx tự do đã thách thức sự diễn dịch chủ nghĩa Marx của Lenin; như trường hợp Cornelius Castoriadis, đã miêu tả nhà nước Liên Xô là một hình thức của "chủ nghĩa tư bản quan liêu" hơn là nhà nước cộng sản thực sự. Thể chế chính trị Thể chế chính trị (Political Institute) là những quy định, quy chế, chuẩn mực, quy phạm, nguyên tắc, luật lệ...nhằm điều chỉnh và xác lập các quan hệ chính trị. Mặt khác là những dạng thức cấu trúc tổ chức, các bộ phận chức năng cấu thành của một chủ thể chính trị hay hệ thống chính trị. Thể chế chính trị là hình thức biểu hiện của hệ tư tưởng chính trị, là "con đẻ" của hệ tư tưởng chính trị. Hệ thống chính trị là một bộ phận cấu thành của thể chế chính trị. Thể chế chính trị tồn tại dưới hai dạng thức: Các quy định, quy chế, quy phạmː Những điều này tồn tại trong các tuyên ngôn về Cương Lĩnh chính trị, điều lệ của một Đảng cầm quyền, những chỉ thị, Nghị quyết của Đảng đó. Đồng thời cũng là các quy định Pháp luật mang tính thành văn hoặc bất thành văn của một quốc gia do giai cấp thống trị ban hành và cưỡng chế thực hiện trên phạm vi toàn lãnh thổ quốc gia đó. Các quy phạm pháp luật này là tồn tại chủ yếu của thể chế chính trị dưới dạng này và chứa trong các Hiến pháp, pháp luật....của quốc gia Các hình thức cấu trúc tổ chức. Điều này hàm chỉ các tổ chức là thực thể cấu thành hệ thống chính trị có chức năng thực thi quyền lực chính trị Tổ chức chính trị Tổ chức chính trị hay Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các thiết chế quyền lực chính trị, được xã hội thừa nhận bao gồm các tổ chức chính trị như Đảng phái, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội có mối quan hệ mang tính pháp quy với nhau cùng liên kết nhằm thực hiện mục tiêu chính trị phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị. Cấu thành hệ thống chính trị bao gồm các thực thể nhưː Đảng chính trị, Nhà nước, các tổ chức đại diện cho các lực lượng khác nhau trong xã hội. Đảng phái chính trị Đảng là một tổ chức xã hội tự nguyện, tập hợp những người có những đặc điểm chung nhất định, tuân thủ theo những quy tắc nhất định, cùng thực hiện những nhiệm vụ nhất định nhằm thỏa mãn mục tiêu nào đó. Khi một Đảng có mục tiêu chính trị, tập hợp những người có chung một đặc điểm là cùng một giai cấp, cùng có mong muốn đấu tranh giành quyền lực chính trị, thì Đảng đó là Đảng chính trị Đảng chính trị là bộ phận tích cực nhất và có tổ chức của một giai cấp, làm công cụ đấu tranh cho lợi ích của giai cấp mình. Các Đảng chính trị xuất hiện ngay từ những giai đoạn phát triển đầu tiên của xã hội có giai cấp, gắn liền với những sự khác nhau về lợi ích của các giai cấp và của các tập đoàn hợp thành giai cấp. Nhưng lịch sử thực sự của các Đảng chính trị chỉ bắt đầu từ thời kì Đại cách mạng tư sản Pháp (cuối thế kỷ XVIII). Đảng chính trị là một tổ chức xã hội tự nguyện, liên minh của những người cùng tư tưởng, theo đuổi những mục đích chính trị nhất định; cố gắng giành ảnh hưởng lãnh đạo đối với đời sống chính trị và tổ chức xã hội, ra sức giành và giữ chính quyền để thực hiện đường lối của mình. Là một bộ phận cấu thành của kiến trúc thượng tầng, Đảng chính trị hành động bằng thuyết phục, truyền bá các quan điểm tư tưởng, bằng cách tập hợp những người cùng chí hướng. Đảng chính trị có những phương tiện vật chất như các cơ quan báo chí, thông tin và xuất bản. Đảng thu hút vào hàng ngũ của mình bộ phận tích cực nhất của giai cấp, chứ không bao giờ toàn bộ giai cấp. Tùy theo giai cấp đóng vai trò như thế nào trong đời sống và trong sự phát triển xã hội (vai trò cách mạng tiến bộ, bảo thủ, phản động) mà đảng của nó thể hiện vai trò đại diện cho lợi ích của giai cấp. Nhà nước Xem thêmː Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp Nhà nước là một thiết chế quyền lực đặc biệt, là một công cụ do Đảng chính trị và giai cấp thống trị lập ra nhằm duy trì sự thống trị và đảm bảo quyền lợi của giai cấp đó, đồng thời trấn áp giai cấp, tầng lớp khác. Về hình thức, tuỳ vào từng quan hệ sản xuất xã hội khác nhau trong lịch sử mà tồn tại các kiểu và các hình thức Nhà nước khác nhau. Ở xã hội chiếm hữu nô lệ, có bốn phương thức hình thành Nhà nước gồm: Phương thức Aten, Phương thức Roma cổ  đại, phương thức Giec  - manh và phương thức phương Đông cổ đạiỞ xã hội phong kiến, quyền lực tập trung mạnh mẽ vào một vị vua được gọi là "thiên tử". Do đó, vua là người đứng đầu nắm toàn bộ quyền hành điều khiển Nhà nước, tiếp đến là hệ thống quan lại, quý tộc từ trung ương đến địa phương. Sang chế độ tư bản chủ nghĩa thì Nhà nước được tổ chức theo học thuyết Tam quyền phân lập với nhiều hình thức khác nhau: Chính thể quân chủ lập hiến, chính thể cộng hoà tổng thống, chính thể cộng hoà đại nghị. Đặc điểm chung của Nhà nước tư sản là sự phân chia quyền lực nhà nước thành các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các quyền này độc lập, đối trọng, kiềm chế và kiểm soát lẫn nhau. Nhà nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền tảng quyền lực Nhà nước là thống nhất thuộc về nhân dân, nhưng có sự phân chia với nhau trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.  Nhà nước có vai trò vô cùng quan trọng, là trụ cột của hệ thống chính trị. Thông qua các cơ chế quyền lực, Nhà nước  quản lý toàn bộ các mặt của đời sống xã hội: Quyền lập pháp giúp Nhà nước ban hành pháp luật, quyền hành pháp giúp Nhà nước tổ chức và thực thi pháp luật, quản lý nền sản xuất, quản lý đời sống xã hội, quyền tư pháp giúp Nhà nước kiểm sát và xét xử các hành vi vi phạm pháp luật, chống lại chế độ kinh tế, chính trị của quốc gia, dân tộc..Hoạt động của Nhà nước chính là trung tâm của sự vận hành hệ thống chính trị. Các tổ chức liên minh đại diện Xem thêmː Liên Hợp Quốc Các tổ chức liên minh, liên kết, đại diện cho các lực lượng khác nhau trong xã hội. Đó là các tổ chức đoàn kết toàn dân tộc, các tổ chức đại diện cho quyền và lợi ích của các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội. Các tổ chức này góp phần tham gia vào hoạt động của hệ thống chính trị trong việc tạo ra khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo vệ lợi ích cho các giai tầng xã hội trước giai cấp thống trị. Một mặt các tổ chức này đóng vai trò lớn trong hệ thống chính trị, góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống này; mặt khác, trong nhiều trường hợp chính các tổ chức này lại là nguyên nhân phá vỡ hệ thống chính trị hiện thời. Đó là khi một giai cấp tiến bộ trong lịch sử ra đời, có tổ chức tiên phong, đại diện xong chưa nắm được quyền lực chính trị. Khi đó, thông qua con đường bạo lực cách mạng, nó sẽ lật đổ chính quyền của giai cấp thống trị lỗi thời, lạc hậu, cũng tức là đạp đổ hệ thống chính trị hiện thời để xây dựng lên một hệ thống chính trị mới mang bản chất giai cấp của chính nó. Khoa học chính trị Chính trị học Chính trị học là nghiên cứu quyền lực chính trị, phương thức giành quyền lực chính trị, các thiết chế và các hình thức tổ chức thực hiện quyền lực chính trị, các kiểu hệ thống chính trị đã có trong lịch sử và đang tồn tại trong thời đại ngày nay. Chính trị học cũng nghiên cứu quá trình hoạt động chính trị nhằm giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực chính trị. Chú ý nghiên cứu làm rõ các vấn đề: mục tiêu chính trị trước mắt và mục tiêu lâu dài mang tính hiện thực; những biện pháp, phương tiện, thủ thuật, hình thức tổ chức có hiệu quả để đạt các mục tiêu đề ra; sự lựa chọn và sắp xếp cán bộ. Chính trị học cũng nghiên cứu các mối quan hệ về lí luận chính trị của các chế độ xã hội. Triết học chính trị Triết học chính trị nghiên cứu các vấn đề cơ bản về nhà nước, chính quyền, chính trị, tự do, công lý, tài sản, quyền, luật và việc thực thi luật pháp bởi các cơ quan thẩm quyền. Mục tiêu nghiên cứu của triết học chính trị nhằm lý giải về mối quan hệ cũng như sự tồn tại của các vấn đề trên một cách thấu đáo bởi các nhà triết học; cụ thể là trả lời các câu hỏi như những yếu tố kể trên là gì, tại sao lại phải có chúng, cái gì khiến cho chính quyền là hợp pháp, những quyền và tự do nào cần được bảo vệ và tại sao, luật pháp là gì và khi nào có thể hủy bỏ luật một cách hợp lẽ. Xã hội học chính trị Xã hội học chính trị đương đại liên quan đến, nhưng không giới hạn, việc nghiên cứu về các mối quan hệ giữa nhà nước, xã hội và công dân. Nghiên cứu về sự hình thành chính trị xã hội của nhà nước hiện đại; sự bất bình đẳng xã hội giữa các nhóm (giai cấp, chủng tộc, giới tính) ảnh hưởng đến chính trị như thế nào; các quan điểm, tư tưởng, tính cách, phong trào xã hội và xu hướng bên ngoài của các tổ chức chính thức của quyền lực chính trị ảnh hưởng đến chính trị chính thức; nghiên cứu mối quan hệ quyền lực trong và giữa các nhóm xã hội (ví dụ như gia đình, nơi làm việc, quan liêu, truyền thông...). Nói cách khác, xã hội học chính trị thường liên quan đến các xu thế xã hội, hệ thống chính trị ảnh hưởng đến các quá trình hoạt động chính trị cũng như tìm hiểu xem các lực lượng xã hội khác nhau làm việc cùng nhau như thế nào để thay đổi các chính sách chính trị. Từ quan điểm này, chúng ta có thể xác định ba khung lý thuyết chính đó làː đa nguyên, lý thuyết ưu tú hoặc quản lý và phân tích lớp (mà trùng lặp với chủ nghĩa Mác phân tích) Kinh tế chính trị học Kinh tế chính trị học là một môn khoa học xã hội nằm trong khoa học kinh tế, nghiên cứu về kinh tế để rút ra các kết luận về kinh tế và từ đó rút ra các kết luận về chính trị. Theo Enghen: “Kinh tế chính trị học theo nghĩa rộng nhất là khoa học về những quy luật chi phối sự sản xuất và sự trao đổi những tư liệu sinh hoạt vật chất trong xã hội loài người…”  Theo nghĩa hẹp, kinh tế chính trị học nghiên cứu một phương thức sản xuất cụ thể và tìm ra quy luật vận động của riêng nó. Kinh tế chính trị học là môn khoa học xã hội nghiên cứu những cơ sở kinh tế chung của đời sống xã hội tức là các quan hệ kinh tế trong những giai đoạn nhất định của xã hội loài người. Xã hội chính trị Địa chính trị Địa chính trị (tiếng Anh: Geo-politics) là lĩnh vực nghiên cứu về tác động của các yếu tố địa lý tới hành vi của các quốc gia và quan hệ quốc tế. Cụ thể, địa chính trị xem xét việc các yếu tố như vị trí địa lý, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, dân số, hay địa hình tác động như thế nào tới chính sách đối ngoại của một quốc gia và vị thế của quốc gia đó trong hệ thống quốc tế. Tham nhũng chính trị Tham nhũng chính trị là việc sử dụng quyền lực của các quan chức chính phủ vì lợi ích cá nhân bất hợp pháp. Hành vi bất hợp pháp của một chủ văn phòng chỉ là tham nhũng chính trị chỉ khi hành động đó liên quan trực tiếp đến các nghĩa vụ chính thức của họ, được thực hiện theo luật màu sắc hoặc liên quan đến việc buôn bán ảnh hưởng Các hình thức tham nhũng khác nhau, bao gồm hối lộ, tống tiền, chủ nghĩa địa phương, bảo trợ, ảnh hưởng đến việc bán rong và biển thủ. Tham nhũng có thể tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hình sự như buôn lậu ma túy, rửa tiền và buôn bán người, mặc dù không hạn chế trong các hoạt động này. Sử dụng sai quyền lực của chính phủ cho các mục đích khác, như đàn áp các đối thủ chính trị và tàn bạo của cảnh sát nói chung. Các hoạt động tạo thành sự tham nhũng bất hợp pháp khác nhau tùy thuộc vào quốc gia hoặc thẩm quyền. Ví dụ, một số thực tiễn về chính sách tài chính hợp pháp tại một nơi có thể là bất hợp pháp ở một nơi khác. Trong một số trường hợp, các quan chức chính phủ có quyền hạn rộng hoặc không rõ ràng, làm cho việc phân biệt giữa các hành động pháp lý và bất hợp pháp rất khó khăn. Trên toàn cầu, hối lộ ước tính khoảng hơn 1 nghìn tỷ đô la Mỹ mỗi năm.  Một quốc gia tham nhũng chính trị tự do được biết đến như một nhà kleptocracy, nghĩa đen là "cai trị bởi kẻ trộm". Một số hình thức tham nhũng - hiện nay được gọi là "tham nhũng về thể chế"  - được phân biệt với hối lộ và các loại lợi ích cá nhân rõ rệt khác. Một vấn đề tương tự về tham nhũng phát sinh trong bất kỳ tổ chức nào phụ thuộc vào sự hỗ trợ tài chính từ những người có quyền lợi có thể mâu thuẫn với mục đích chính của tổ chức. Chính trị toàn cầu Chính trị toàn cầu đặt tên cho cả hai lĩnh vực nghiên cứu các mô hình chính trị và kinh tế của thế giới và lĩnh vực đang được nghiên cứu. Trọng tâm của lĩnh vực đó là các quá trình toàn cầu hoá chính trị khác nhau liên quan đến vấn đề quyền lực xã hội. Các ngành học nghiên cứu các mối quan hệ giữa các thành phố, quốc gia-quốc gia, vỏ-các quốc gia, các tập đoàn đa quốc gia, các tổ chức phi chính phủvà các tổ chức quốc tế.  khu vực hiện tại của cuộc thảo luận bao gồm quốc gia và dân tộc quy định mâu thuẫn, dân chủ và chính trị của quốc gia tự quyết, toàn cầu hóa và mối quan hệ của mình để nghiên cứu chế độ dân chủ, xung đột và hòa bình, chính trị so sánh, kinh tế chính trị, và kinh tế chính trị quốc tế về môi trường. Một lĩnh vực quan trọng của chính trị toàn cầu là cuộc tranh luận trong lĩnh vực chính trị toàn cầu về tính hợp pháp.  Có thể lập luận rằng, chính trị toàn cầu nên được phân biệt với lĩnh vực chính trị quốc tế, nhằm tìm hiểu mối quan hệ chính trị giữa các quốc gia, và do đó có một phạm vi hẹp hơn. Tương tự, quan hệ quốc tế nhằm tìm hiểu mối quan hệ kinh tế và chính trị chung giữa các quốc gia, là một lĩnh vực hẹp hơn chính trị toàn cầu. Thủ lĩnh chính trị Thủ lĩnh chính trị là một cá nhân kiệt xuất trong lĩnh vực chính trị, xuất hiện và trưởng thành từ phong trào cách mạng của quần chúng ở những điều kiện lịch sử nhất định, có sự giác ngộ về lợi ích, mục tiêu và lý tưởng của giai cấp, có tri thức, có năng lực tổ chức và tập hợp quần chúng để giải quyết những nhiệm vụ chính trị do lịch sử đặt ra. Một số thủ lĩnh chính trị nổi tiếng nhưː Chủ tịch Hồ Chí Minh, Lãnh tụ Cuba Fidel Castro, Chủ tịch Mao Trạch Đông Về trình độ hiểu biết: Người thủ lĩnh chính trị nhất thiết phải là người thông minh, hiểu biết sâu rộng các lĩnh vực; có tư duy khoa học; nắm vững được quy luật phát triển theo hướng vận động của quá trình chính trị; có khả năng dự đoán được tình hình; làm chủ được khoa học và công nghệ lãnh đạo, quản lý. Về phẩm chất chính trị: thủ lĩnh chính trị phải là người giác ngộ lợi ích giai cấp; đại diện tiêu biểu cho lợi ích giai cấp; trung thành với mục tiêu lý tưởng đã chọn; dũng cảm đấu tranh bảo vệ lợi ích giai cấp, có bản lĩnh chính trị vững vàng trước những diễn biến phức tạp của lịch sử.  Về năng lực tổ chức: thủ lĩnh chính trị là ngưới có khả năng về công tác tổ chức, nghĩa là biết đề ra mục tiêu đúng; phân công nhiệm vụ đúng chức năng cho cấp dưới và cho từng người; biết tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị; có khả năng động viên, cổ vũ, khích lệ mọi người hoạt động; có khả năng kiểm soát, kiểm tra công việc. Về đạo đức, tác phong:  thủ lĩnh chính trị phải là người có tính trung thực, công bằng không tham lam, vụ lợi; cởi mở và cương quyết; có lối sống giản dị; có khả năng giao tiếp và có quan hệ tốt với mọi người; biết lắng nghe ý kiến của người khác; có lòng tin vào chính bản thân mình; có khả năng tự kiểm tra bản  thân, khả năng giữ gìn và bảo vệ ý kiến của mình; có lòng say mê công việc và lòng tin vào cấp dưới. Về khả năng làm việc: có sức khỏe tốt, khả năng làm việc với cường độ cao, có khả năng giải quyết vấn đề một cách sáng tạo, những lúc phong trào lâm vào khó khăn, thủ lĩnh chính trị có thể đưa ra được những quyết đinh sáng suốt; nhạy cảm và năng động; biết cảm nhận cái mới và đấu tranh vì cái mới. Quyền lực chính trị Xem thêmː Tam quyền phân lập Quyền lực là sức mạnh để thực hiện  hành vi tác động đến người khác thông qua sự thừa nhận của họ. Quyền lực là năng lực buộc người khác phải thực hiện ý chí của mình. Quyền lực là một quan hệ xã hội đặc biệt, xuất hiện khi có sự chỉ huy  -  phục tùng của một người hay một nhóm người đối với một người hay một nhóm người khác. Nếu chỉ có chủ thể quyền lực mà không có đối tượng chịu sự tác động của quyền lực thì quyền lực đó là rỗng không Quyền lực chính trị là quyền sử dụng sức mạnh của một hay liên minh giai cấp, tập đoàn xã hội để đạt mục đích thống trị xã hội, thoả mãn lợi ích giai cấp mình. Đặc điểm của quyền lực chính trị là quyền lực xã hội nhằm để giải quyết lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia, nhân loại; là khả năng áp đặt và thực thi các giải pháp phân bổ giá trị có lợi cho một giai cấp; là sức mạnh bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp giai cấp khác. Đấu tranh chính trị Đấu tranh chính trị là việc sử dụng các phương tiện chính trị buộc một đối thủ phải làm theo ý muốn, dựa trên ý định thù địch. Thuật ngữ chính trị mô tả tương tác được tính toán giữa chính phủ và đối tượng mục tiêu bao gồm cả số dân của chính phủ, quân đội hoặc tổng dân số của một quốc gia khác. Các chính phủ sử dụng nhiều kỹ thuật để ép buộc các hành động nhất định, qua đó đạt được lợi thế tương đối so với đối thủ. Các kỹ thuật bao gồm các hoạt động tuyên truyền và tâm lý, phục vụ mục tiêu quốc gia và quân sự tương ứng. Tuyên truyền có nhiều khía cạnh và một mục đích chính trị thù địch và cưỡng chế. Các hoạt động tâm lý là dành cho các mục tiêu chiến lược và chiến thuật quân sự và có thể được dành cho các nhóm quân đội và dân sự thù địch Mục tiêu cuối cùng của đấu tranh chính trị là thay đổi quan điểm và hành động của đối phương nhằm ủng hộ lợi ích của một quốc gia mà không sử dụng quyền lực quân sự. Kiểu thuyết phục hoặc ép buộc có tổ chức này cũng có mục đích thực tế để cứu mạng sống bằng cách tránh sử dụng bạo lực nhằm mục đích chính trị hơn nữa. Do đó, chiến tranh chính trị cũng liên quan đến "nghệ thuật làm bạn bè nồng nhiệt và làm phiền kẻ thù, giúp đỡ vì một người gây ra và từ bỏ kẻ thù" Phong trào chính trị Phong trào chính trị là một nhóm xã hội hoạt động, hành động cùng nhau để đạt được mục tiêu chính trị, trên phạm vi địa phương, khu vực, quốc gia hoặc quốc tế. Các phong trào chính trị phát triển, điều phối,  ban hành,  sửa đổi, diễn giải và sản xuất các tài liệu nhằm mục đích giải quyết các mục tiêu nhất định nào đó. Một phong trào xã hội trong lĩnh vực chính trị có thể được tổ chức xung quanh một vấn đề hoặc tập hợp các vấn đề hoặc xung quanh một tập hợp các mối quan tâm chung của một nhóm xã hội. Trong một đảng chính trị, một tổ chức chính trị cố gắng gây ảnh hưởng hoặc kiểm soát chính sách của chính phủ, thường bằng cách chỉ định ứng cử viên của họ và ứng cử viên vào các vị trí chính trị và chính phủ. Ngoài ra, các bên tham gia vào các chiến dịch bầu cử và tiếp cận giáo dục, kháng nghị những hành động nhằm thuyết phục công dân hoặc các chính phủ phải có hành động về các vấn đề và mối quan tâm đó là trọng tâm của phong trào. Kinh tế chính trị Kinh tế chính trị là các quá trình và hiện tượng trong đời sống kinh tế, chính trị và xã hội, bản chất, quy luật chi phối sự vận động của các quá trình, hiện tượng kinh tế khách quan vận dụng vào các hoạt động kinh tế để đạt hiệu quả kinh tế cao trên cơ sở phân tích quá trình, hiện tượng,dự báo. Kinh tế chính trị không dựa vào đơn thuần tiến trình lịch sử, mô tả đơn thuần các sự kiện lịch sử mà căn cứ vào tiến trình lịch sử phát triển của các quan hệ sản xuất, dùng phương pháp tư duy và lý luận lôgic để vạch ra những quy luật kinh tế chi phối sự vận động của mỗi phương thức sản xuất. Kinh tế chính trị không chỉ dừng lại ở tiếp cận các sự kiện mà phải thâm nhập vào bản thân đời sống kinh tế xã hội, chỉ ra các phương pháp vận dụng lý thuyết kinh tế vào đời sống thực tế. Ngoài ra, Kinh tế chính trị là ngành nghiên cứu những quan hệ sản xuất của con người trong mối liên hệ qua lại với lực lượng sản xuất, với kiến trúc thượng tầng. Nó đi sâu vạch rõ bản chất của các hiện tượng và quá trình kinh tế để rút ra quy luật chi phối sản xuất, phân phối, trao đối, tiêu dùng, tức là rút ra các quy luật kinh tế của sự vận động xã hội. Đối tượng của kinh tế chính trị là nghiên cứu một cách toàn diện, tổng hợp về các quan hệ sản xuất. Chủ nghĩa trọng thương: đối tượng là lĩnh vực lưu thông, chủ yếu là ngoại thương.  Chủ nghĩa trọng nông: đối tượng là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.  Kinh tế chính trị tư sảnː những quy luật kinh tế song cho rằng chủ nghĩa tư bản là tuyệt đối, vĩnh viễn, không nhìn thấy toàn bộ quy luật vận động và phát triển xã hội.  Kinh tế chính trị hiện đại. Tập trung vào kinh tế thuần tuý, tách kinh tế khỏi chính trị, che đậy quan hệ sản xuất và mâu thuẫn giai cấp. Văn hóa chính trị Văn hóa là toàn bộ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra hoặc tác động vào nhằm phục vụ mục đích cuộc sống con người. Văn hóa chính trị là một lĩnh vực, một biểu hiện đặc biệt của văn hóa của loài người trong xã hội có giai cấp, văn hóa chính trị được hiểu là trình  độ phát triển của con người thể hiện ở trình độ hiểu biết về chính trị, trình độ tổ chức hệ thống tổ chức quyền lực theo một chuẩn giá trị xã hội nhất định nhằm  điều hòa các quan hệ lợi ích giữa các giai cấp và bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền, phù hợp với xu thế phát triển và tiến bộ xã hội. Sẽ là rất khó nếu có thể liệt kê tất cả các các giá trị, chuẩn mực của văn hoá chính trị. Nhưng  trong tất cả các kiểu, các hình thức văn hoá chính trị, có thể xem xét các hệ giá trị cấu thành một nền văn hoá chính trị như sauː trình độ giác ngộ lý luận chính trị, lập trường, quan điểm của giai cấp. Hệ thống các giá, trị chuẩn mực phù hợp với lợi ích của giai cấp được cụ thể hoá dưới dạng các quy phạm pháp luật, có chức năng điều chỉnh hành vi của toàn xã hội. Tập hợp những giá trị được quy phạm hoá thành những chuẩn mực có chức năng điều chỉnh các chủ thể tham gia vào đời sống chính trị Nhân vật chính trị Chính khách hay Nhà Chính trị hay Chính trị gia là một người hoạt động tích cực trong Đảng chính trị hoặc một người giữ hoặc tìm kiếm vị trí trong Chính phủ. Ở các quốc gia dân chủ, các chính trị gia tìm kiếm các vị trí tự chọn trong chính phủ thông qua bầu cử hoặc, đôi khi, bổ nhiệm tạm thời để thay thế các chính trị gia đã chết, từ chức hoặc đã bị bãi nhiệm.Tại các quốc gia phi dân chủ, họ sử dụng các phương tiện khác để đạt được quyền lực thông qua cuộc hẹn, hối lộ, cuộc cách mạng và mưu đồ. Một số chính trị gia cũng có kinh nghiệm trong nghệ thuật hoặc khoa học. Các nhà chính trị đề xuất, hỗ trợ và tạo ra các luật lệ hoặc chính sách chi phối đất đai. Nói chung, một "nhà chính trị" có thể là bất cứ ai đang tìm cách đạt được quyền lực chính trị ở bất kỳ cơ quan hành chính nào. Chính khách của bất cứ quốc gia nào cũng phải biết diễn thuyết nghĩa là hùng biện, có ngữ điệu, diễn giải có logic, nói đúng, rõ ràng bản chất sự việc, nguyên nhân các vấn đề và các giải pháp khắc phục. Chính khách là một nghề nên rất chuyên nghiệp do đó họ rất giữ danh giá, gắn bó với cộng đồng (đối tượng mà họ kiếm phiếu). Chính trị chính là sản phẩm của chính khách. Học giả chính trị là người chuyên nghiên cứu, tìm hiểu sâu, chi tiết về lĩnh vực chính trị. Đó là những người tự học, thường xuyên, không mệt mỏi và có phương pháp tiếp cận tốt đối với lĩnh vực chính trị. Các học giả chính trị thường có ảnh hưởng, đóng góp, cống hiến quan trọng trong lĩnh vực chính trị thường có các giải thưởng cao quý hoặc được vinh danh ở cấp độ quốc gia hoặc quốc tế. Các công trình nghiên cứu của họ có tầm ảnh hưởng quan trọng trong lĩnh vực giáo dục cao cấp, ảnh hưởng đến một số trường đại học. Ngoài ra các học giả chính trị cũng là một giáo sư đại học, nhà văn chính trị, nhà phê bình chính trị, phóng viên chính trị hoặc giữ các chức vụ quan trọng trong các trường đào tạo về chính trị.
Vanxơ hay van (; ; ) là loại nhạc nhảy xuất phát từ châu Âu với nhịp ba. Có những thể loại sau: Wien Waltz (Lướt nhanh), Boston Waltz (Vừa phải), Slow Waltz (Chậm) và cả Jazz Waltz. Ngoài ra Waltz còn có một số những loại điệu biến thể như Minuet và Scherzo. Tuy nhiên cũng có thể dùng điệu này trong việc lồng ghép hoặc những bài hát. Waltz bắt nguồn từ "walzen" trong tiếng Đức cổ, nghĩa là "uốn", "xoay" hoặc "lướt đi", là một điệu nhảy trong khiêu vũ cổ điển và folk dance (nhảy dân gian), theo nhịp 3/4. Waltz ra đời ở ngoại ô thành Viên (Áo) và ở những vùng núi cao của nước Áo. vào khoảng giữa những năm 1780, điệu waltz bắt đầu thịnh hành khi nó được biểu diễn trong các lễ hội khiêu vũ tại cung điện Hapsburg, rồi dần dần lan ra các quốc gia khác trong những năm sau đó. Mặc dù vào thời kỳ đầu, waltz bị phản đối khá kịch liệt nhưng về sau waltz, đặc biệt là tư thế của nó, đã trở thành hình mẫu cho các điệu khiêu vũ khác. Vào thế kỷ 19 và 20, nhiều biến thể mới của waltz ra đời và phát triển, bao gồm các điệu waltz theo nhịp 2/4, nhịp 6/8 và cả nhịp 5/4. Giữa thế kỷ 18, điệu allemande - điệu nhảy dân gian Đức, một hình thái của điệu waltz trở nên rất phổ biến ở Pháp. Lúc đầu, điệu nhảy này chỉ có tư thế tay của các vũ công bắt chéo mỗi khi di chuyển, giống tư thế của một số điệu nhảy dân gian khác, nhưng nó đã nhanh chóng cải biến thành một điệu nhảy độc lập với tư thế tay ôm ngang lưng và tay còn lại đưa lên không trung, như những gì chúng ta thấy ở điệu waltz ngày nay. Đến cuối thế kỷ 18, điệu nhảy dân dã cổ điển có nguồn gốc từ nước Áo này mới được tầng lớp quý tộc châu Âu chấp nhận, và dù tư thế thay đổi nhưng nó vẫn giữ nguyên nhịp điệu 3/4 của mình. Tuy nhiên, việc phản đối điệu waltz vào thời đó vẫn còn tiếp tục. Các vũ sư chuyên nghiệp nhận thấy sự đe doạ tiềm tàng của điệu nhảy này đối với nghề nghiệp của họ; vì các bước đi cơ bản của waltz rất dễ học trong một thời gian tương đối ngắn, trong khi, điệu minuet (mơ-nu-et) và các điệu nhảy quý tộc khác đòi hỏi phải luyện tập thường xuyên bởi chúng bao gồm việc học những kỹ thuật khá phức tạp lẫn việc thay đổi khoảng cách và cách di chuyển của người nhảy. Điệu waltz cũng bị phản đối xét trên phương diện đạo đức bởi những cá nhân cho rằng tư thế ôm ngang lưng tương đối sát người nhau của đôi bạn nhảy và cả bước xoay ngửa người trong waltz. Đặc biệt là những nhà lãnh đạo tôn giáo coi đó như một hành vi thô tục và tội lỗi. Một phiên toà xuyên lục địa đã diễn ra dai dẳng nhằm chống lại waltz. Cũng vì lý do đó mà waltz được chấp nhận khá muộn ở Anh, vùng đất của các giáo phái. Tháng 7 năm 1816, điệu waltz được đưa vào trình diễn trong một buổi khiêu vũ ở Luân Đôn bởi hoàng thân nhiếp chính. Ngay sau đó ít ngày một bài xã luận trên tờ "Thời Đại" (The Times) đã nghiêm khắc phê bình: "Chúng tôi vô cùng xót xa khi biết rằng một điệu nhảy không đứng đắn của nước ngoài được gọi là Waltz đã được đưa ra giới thiệu (vì chúng tôi tin chắc đây là lần đầu) tại triều đình Anh vào thứ 6 vừa qua… thật là quá đủ khi phải chứng kiến một tư thế khêu gợi, hai tay của đôi bạn nhảy đan vào nhau và khoảng cách cơ thể lại quá gần khi họ nhảy, cũng quá đủ khi nhận ra rằng sự kín đáo trang nhã, vốn được coi như một nét đặc trưng của phụ nữ Anh kể từ trước đến nay, đã bị loại bỏ bởi điệu nhảy này. Chừng nào mà điệu nhảy tục tĩu này còn gắn liền với gái mại dâm và những người đàn bà lẳng lơ thì, chúng tôi nghĩ rằng, nó không đáng được để ý tới. Nhưng giờ đây khi nó đã len lỏi vào giới quý tộc, chúng tôi nhận thấy phải có nghĩa vụ cảnh báo các bậc phụ huynh đừng để con gái của các vị đến gần sự lây lan chết người này. Thậm chí đến cuối năm 1866, trong 1 bài xã luận trên một tạp chí tiếng Anh, Belgravia đã viết: "Sau nhiều ngày đi công tác xa về và rồi ta bắt gặp chị em mình, vợ mình, với một thái độ thiếu cảnh giác nhất, để cho một kẻ lạ mặt nắm tay, ôm chặt ngang người, bước lòng vòng trong căn hộ nhỏ, và lý do duy nhất cho tất cả chuyện này gắn tên "âm nhạc", thì ta có thể ít nhiều nhận ra sự nguy hiểm của điệu nhảy ma quái này." Rất nhiều lời phản đối đến từ phía những người lớn tuổi, nhưng ít ai biết nữ hoàng Victoria của Anh là một chuyên gia rất điêu luyện và dành nhiều tình cảm cho điệu waltz! Nhưng lịch sử tự thân nó cứ lặp đi lặp lại và sự phản đối chỉ càng làm cho waltz ngày càng lan rộng. Sau Cách mạng Pháp, giai cấp tư sản nhanh chóng nồng nhiệt đón nhận waltz. Riêng Pari đã có tới gần 700 vũ trường khiêu vũ cổ điển! Một du khách người Đức khi đến Pari vào năm 1804 đã nói: "Tình yêu đối với điệu waltz cũng như sự du nhập của điệu nhảy có nguồn gốc Đức này khá mới mẻ và đã trở thành một trong nhưng mốt mới dân dã kể từ sau chiến tranh, giống như thuốc lá vậy". Điệu waltz lần đầu tiên được giới thiệu ở Mỹ là vào năm 1834 ở Boston. Lorenzo Papanti, một vũ sư người Boston, đã trình diễn tại dinh thự Beacon Hill của phu nhân Otis. Nhiều người trong giới thượng lưu đã rất kinh ngạc trước những gì mà họ gọi là "một cuộc trình diễn thô tục". Đến giữa thế kỷ 19, waltz mới có một vị trí vững chắc trong xã hội Mỹ. Âm nhạc đóng một vai trò rất quan trọng trong khiêu vũ, và mọi điệu vũ đều phụ thuộc vào sự tương thích của nhạc nền. Điệu waltz đã trở nên nổi tiếng khoảng năm 1839 nhờ 2 nhà soạn nhạc thiên tài người Áo – Franz Lanner và Johann Straus. Đây là hai nhà soạn nhạc vĩ đại nhất của thếy kỷ 19, họ đã đặt nền tảng cho điệu waltz Viên, một phiên bản tốc độ nhanh của waltz. Trong khoảng thế kỷ 19, hai phiên bản khác của điệu waltz cũng bắt đầu phát triển. Một điệu có tên là điệu nhảy Boston, với nhịp điệu chậm hơn và các bước di chuyển dài hơn. Mặc dù điệu nhảy này không còn tồn tại sau chiến tranh thế giới I, nó vẫn giữ phong cách nhảy của người Anh, hay còn gọi phong cách toàn cầu phát triển đến tận ngày nay. Biến tướng thứ hai của waltz là một điệu nhảy với phong cách một bước dài bằng 3 phách. Điệu nhảy này vẫn còn cho tới ngày nay. Điệu Waltz thường thấy trong những bản nhạc nhẹ, dân ca và nhạc cổ điển từ châu Âu. Tại Việt Nam, nó thường được viết trong những bản nhạc trước năm 1975. Một số bản nhạc viết ở điệu Waltz: Danube Waves Le beau Danube bleu Danse Villageoise (Beethoven) Valse năm Si Mineur (Waltz B Minor) (Frédéric Chopin) Greensleeves (Dân ca Anh) Valse des Fleurs (Tchaikovsky) Một số nhạc Giáng sinh...
Trong mật mã học, Advanced Encryption Standard (tiếng Anh, viết tắt: AES, nghĩa là Tiêu chuẩn mã hóa tiên tiến) là một thuật toán mã hóa khối được chính phủ Hoa Kỳ áp dụng làm tiêu chuẩn mã hóa. Giống như tiêu chuẩn tiền nhiệm DES, AES được kỳ vọng áp dụng trên phạm vi thế giới và đã được nghiên cứu rất kỹ lưỡng. AES được chấp thuận làm tiêu chuẩn liên bang bởi Viện tiêu chuẩn và công nghệ quốc gia Hoa Kỳ (NIST) sau một quá trình tiêu chuẩn hóa kéo dài 5 năm (Xem thêm: quá trình thiết kế AES). Thuật toán được thiết kế bởi hai nhà mật mã học người Bỉ: Joan Daemen và Vincent Rijmen. Thuật toán được đặt tên là "Rijndael" khi tham gia cuộc thi thiết kế AES. Rijndael được phát âm là "Rhine dahl" theo phiên âm quốc tế (IPA: ). Quá trình phát triển Thuật toán được dựa trên bản thiết kế Square có trước đó của Daemen và Rijmen; còn Square lại được thiết kế dựa trên Shark. Khác với DES sử dụng mạng Feistel, Rijndael sử dụng mạng thay thế-hoán vị. AES có thể dễ dàng thực hiện với tốc độ cao bằng phần mềm hoặc phần cứng và không đòi hỏi nhiều bộ nhớ. Do AES là một tiêu chuẩn mã hóa mới, nó đang được triển khai sử dụng đại trà. Mô tả thuật toán Mặc dù 2 tên AES và Rijndael vẫn thường được gọi thay thế cho nhau nhưng trên thực tế thì 2 thuật toán không hoàn toàn giống nhau. AES chỉ làm việc với các khối dữ liệu (đầu vào và đầu ra) 128 bít và khóa có độ dài 128, 192 hoặc 256 bít trong khi Rijndael có thể làm việc với dữ liệu và khóa có độ dài bất kỳ là bội số của 32 bít nằm trong khoảng từ 128 tới 256 bít. Các khóa con sử dụng trong các chu trình được tạo ra bởi quá trình tạo khóa con Rijndael. Mỗi khóa con cũng là một cột gồm 4 byte. Hầu hết các phép toán trong thuật toán AES đều thực hiện trong một trường hữu hạn của các byte. Mỗi khối dữ liệu 128 bit đầu vào được chia thành 16 byte (mỗi byte 8 bit),có thể xếp thành 4 cột, mỗi cột 4 phần tử hay là một ma trận 4x4 của các byte,nó được gọi là ma trận trạng thái, hay vắn tắt là trạng thái (tiếng Anh: state, trạng thái trong Rijndael có thể có thêm cột). Trong quá trình thực hiện thuật toán các toán tử tác động để biến đổi ma trận trạng thái này. Mô tả mức cao của thuật toán Mở rộng khóa (KeyExpansion) Là quá trình tạo các vòng khóa từ khóa chính, mỗi khóa con chứa 4 byte. Quá trình mã hóa Bao gồm các bước: Khởi động vòng lặp AddRoundKey — Mỗi cột của trạng thái đầu tiên lần lượt được kết hợp với một khóa con theo thứ tự từ đầu dãy khóa. Vòng lặp SubBytes — đây là phép thế (phi tuyến) trong đó mỗi byte trong trạng thái sẽ được thế bằng một byte khác theo bảng tra (Rijndael S-box). ShiftRows — dịch chuyển, các hàng trong trạng thái được dịch vòng theo số bước khác nhau. MixColumns — quá trình trộn làm việc theo các cột trong khối theo một phép biến đổi tuyến tính. AddRoundKey Vòng lặp cuối SubBytes ShiftRows AddRoundKey Tại chu trình cuối thì bước MixColumns không thực hiện. Bước SubBytes Các byte được thế thông qua bảng tra S-box. Đây chính là quá trình phi tuyến của thuật toán. Hộp S-box này được tạo ra từ một phép biến đổi khả nghịch trong trường hữu hạn GF (28) có tính chất phi tuyến. Để chống lại các tấn công dựa trên các đặc tính đại số, hộp S-box này được tạo nên bằng cách kết hợp phép nghịch đảo với một phép biến đổi affine khả nghịch. Hộp S-box này cũng được chọn để tránh các điểm bất động (fixed point).
{{Thông tin nhân vật | name = Chân Tử Đan | image_size = | image = Donnie_Yen_20230319.jpg | caption = Chân Tử Đan vào năm 2023 | quê quán = Đài Sơn, Quảng Đông, Trung Quốc | birth_date = | birth_place = Quảng Châu, Quảng Đông, Trung Quốc | quốc tịch = | occupation = Diễn viênVõ sĩĐạo diễnNhà sản xuất Doanh nhân | years_active = 1983 - nay | spouse = | othername = Donnie Yen | awards = Chỉ đạo hành động xuất sắc nhất2006 Long Hổ mônChỉ đạo hành động xuất sắc nhất2003 Thiên cơ biến2007 Đạo hỏa tuyếnChỉ đạo hành động xuất sắc nhất2003 Thiên cơ biến2005 Sát phá lang2008 Đảo hỏa tuyến Kim tượngDiễn viên xuất sắc nhất 2009 (Diệp Vấn) | module = }} Chân Tử Đan (tiếng Trung: 甄子丹, tiếng Anh: Donnie Yen Ji-dan, sinh ngày 27 tháng 7 năm 1963) là nam diễn viên, nhà chỉ đạo võ thuật kiêm nhà sản xuất điện ảnh người Trung Quốc. Ông nổi tiếng trên màn ảnh truyền hình và màn ảnh rộng qua những vai diễn có sử dụng võ thuật, và là một trong những ngôi sao võ thuật hàng đầu châu Á lẫn cả Hollywood. Về diễn xuất, ông từng hai lần nhận được đề cử giải Kim Tượng. Ông được coi là người trẻ nhất trong số những nhà chỉ đạo võ thuật xuất sắc nhất thế giới, từng nhiều lần được trao giải thưởng về chỉ đạo võ thuật tại các liên hoan phim Hồng Kông và châu Á. Tiểu sử Chân Tử Đan sinh ra ở Quảng Châu, Quảng Đông, Trung Quốc, là con của nữ danh sư Thái cực quyền Mạch Bảo Thiền (麥寶嬋) và ông Chân Vân Long (甄雲龍), một nhà biên tập báo. Năm hơn 1 tuổi, ông theo ba tới Hồng Kông, trong khi mẹ ở lại Quảng Đông vì lý do thủ tục. Đến năm 9 tuổi mẹ ông mới sang được Hồng Kông, gia đình lại chuyển sang Boston, tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ, nơi mẹ ông sẽ mở viện nghiên cứu võ thuật Trung Hoa. Bấy giờ ông rất tích cực học võ và đàn dương cầm cổ điển. Người em gái của ông, cô Chân Tử Tinh (甄子菁) cũng có học võ, sau này cũng trở thành diễn viên, sau khi tham gia bộ phim Adventures of Johnny Tao: Rock Around the Dragon. Từ nhỏ ông rất thích học và nghiên cứu võ thuật, từng là đệ tử của nhiều phái võ khác nhau như Thái Cực Đạo, Wushu. Thần tượng của ông lúc này là Lý Tiểu Long, ông hâm mộ đến mức bắt chước cột một dải lụa ở ống chân để giắt cây côn nhị khúc. Sự say mê võ thuật khiến ông lơ là, chán nản việc học. Ông bỏ học, gia nhập băng đảng và thường tham gia những cuộc đánh lộn, có khi băng đảng của ông đã gây ra án mạng. Điều đó khiến cha mẹ ông lo sợ, họ đưa ông trở về Quảng Đông. Trở về quê nhà, ông đi theo con đường của một võ sĩ Wushu. Ông đến Bắc Kinh để luyện tập trong đội tuyển Wushu Trung Quốc. Thời gian đầu ông đến Quảng Châu tập luyện với võ sư Lý. Ông Lý là người đã làm cho Chân Tử Đan bỏ đi phong cách Híp-pi lập dị kiểu Mĩ. Thời gian này ông còn học võ với sư phụ Ngô Bân, người từng dạy võ cho Lý Liên Kiệt. Năm 1983, khi sắp trở về Mĩ, Chân Tử Đan làm một chuyến du lịch ở Hồng Kông. Lúc này đạo diễn Viên Hoà Bình đang quay phim Tiếu Thái Cực, ông đã tìm rất lâu nhưng không ra một nam diễn viên phù hợp cho vai chính. Chị của Viên Hòa Bình, người từng theo học võ của mẹ Chân Tử Đan, đã giới thiệu "con trai của Mạch sư phụ" cho họ Viên, và Viên Hoà Bình đã mời ông thử đóng bộ phim Thiên sư chàng tà của ông Viên, trong vai trò một người đóng thế. Sự nghiệp Thời gian đầu Bộ phim đầu tiên mà Chân Tử Đan thủ vai chính là Tiếu Thái Cực, sản xuất năm 1984 khi ông 21 tuổi. Phim này nói về môn võ Thái cực quyền. Tiếu Thái Cực chưa phải là một thành công lớn tuy nhiên đã giới thiệu được tên tuổi của Chân đến với khán giả năm 1985 ông tham gia khóa diễn xuất của TVB với tư cách học viên dự thính. Trong những ngày đầu đóng phim, Chân Tử Đan đã nhờ đến thẩm mỹ viện để chỉnh sửa lại cặp mắt một mí và hàm răng không mấy ngăn nắp của mình. Sự sửa đổi dung mạo này được thể hiện rõ trong giai đoạn tiếp theo, từ sau phim Lồng Hổ 1. Tuy vậy, từ đó đến năm 1989, ông chỉ được giao những vai phụ. Năm 1989, bộ phim Tiêu diệt nhân chứng đưa tên tuổi Chân Tử Đan vào hàng ngũ những diễn viên võ thuật ăn khách. Hai năm sau, ông hợp tác với Quan Chi Lâm và Ngô Đại Duy trong bộ phim về đề tài rửa tiền: Lồng Hổ 2. Tiếp theo đó là các phim Con gái quỷ Satan, Nộ hỏa uy long, tuy nhiên không được nhiều người chú ý. Năm 1992, Chân Tử Đan mang đến một cái nhìn khác cho khán giả nhờ 2 vai phản diện trong Hoàng Phi Hồng 2: Nam nhi đương tự cường và Tân Long Môn khách sạn. Nổi bật nhất là vai trong phim Hoàng Phi Hồng 2, đây là lần đầu Chân Tử Đan được hợp tác với các diễn viên gạo cội như Trương Thiết Lâm, Khương Đại Vệ, và diễn viên nổi tiếng thời đó là Lý Liên Kiệt. Trận đấu giữa Nạp Lan Nguyên Thuật (Chân Tử Đan đóng) với Hoàng Phi Hồng (Lý Liên Kiệt đóng), phối hợp vận dụng nhiều loại vũ khí như đao, côn... tạo nên những thế võ đẹp mắt, được liệt vào hàng kinh điển trong lịch sử phim võ thuật. Về sau, Chân Tử Đan còn hợp tác với Lý Liên Kiệt ở phim Anh Hùng (2002), và cuộc giao đấu giữa Trường Không (Chân Tử Đan đóng) với Vô Danh (Lý Liên Kiệt đóng) đã được bầu chọn là một trong những màn đấu võ hay nhất trên màn ảnh từ trước tới nay. Với phim Hoàng Phi Hồng: Nam nhi đương tự cường, Chân Tử Đan được đề cử giải nam diễn viên phụ xuất sắc nhất ở liên hoan phim Hồng Kông. Phim Tân Long Môn khách sạn quy tụ khá nhiều ngôi sao ăn khách thời đó: Trương Mạn Ngọc, Lương Gia Huy, Lâm Thanh Hà. Chân Tử Đan đóng vai thái giám, vai phản diện chính với màn quyết đấu ác liệt cuối phim. Phim gặt hái được nhiều thành công lớn. Diễn viên ăn khách Năm 1993 đánh dấu mốc trong sự nghiệp của Chân Tử Đan, khi vai chính trong bộ phim Thiếu niên Hoàng Phi Hồng của Từ Khắc được hoan nghênh nhiệt liệt. Trong phim này, Chân đóng vai chính Hoàng Kì Anh, cha của Hoàng Phi Hồng. Vai chính còn lại do Vu Vinh Quang thể hiện. Trận đấu kết thúc phim diễn ra trên biển lửa giữa Hoàng Kì Anh, Con Khỉ Sắt (Vu Vinh Quang đóng) và Ác tăng đã để lại nhiều ấn tượng và trở thành đề tài cho nhiều phim nhái sau này. Thiếu niên Hoàng Phi Hồng là một thành công lớn nối tiếp loạt phim về nhân vật truyền kỳ Hoàng Phi Hồng, nhưng riêng với Chân Tử Đan, bộ phim đã đưa ông lên hàng những ngôi sao võ thuật trong điện ảnh Hồng Kông. Đến năm 2002, Thiếu niên Hoàng Phi Hồng được trình chiếu tại phương Tây và được hoan nghênh nhiệt liệt, góp phần đưa tên tuổi ông ra ngoài châu Á. Trong năm này ngoài vai Hoàng Kì Anh, ông còn có một vai phản diện trong Hồ Điệp kiếm và vai Tô Khất Nhi múa túy quyền trong Tô Khất Nhi. Năm 1994, đạo diễn nổi tiếng Hollywood Steven Seagal mời Chân Tử Đan vào vai Lý Tiểu Long trong bộ phim Lý Tiểu Long truyền kỳ, tuy nhiên ông đã từ chối. Trong năm này ông tham gia 3 phim, trong đó có vai chính phim truyền hình Hồng Hi Quan, 2 phim điện ảnh còn lại là Mã Hí cuồng phong và Vịnh Xuân quyền. Trong Vịnh Xuân quyền, ông đóng vai người tình của Nghiêm Vịnh Xuân do Dương Tử Quỳnh đóng. Năm 1995, phim Tinh Võ Môn của ATV ra đời, đã gây nên một cơn sốt mới ở các nước nói tiếng Hoa và Đông Nam Á. Phim dài 18 tập, lấy bối cảnh thời Dân quốc, kể về những giai đoạn quan trọng trong đời nhân vật huyền thoại Trần Chân. Nhân vật Trần Chân từng được thể hiện qua Lý Tiểu Long, Thành Long và Lý Liên Kiệt, nay được thể hiện qua Chân Tử Đan và đã tạo nên được nhiều ấn tượng mới. Tại Việt Nam, người ta biết đến ông nhiều bởi vai này và nhiều người gọi anh là Trần Chân. Mặc dù bộ phim thành công, nhưng nhìn về lối trình diễn võ thuật lúc bấy giờ, ông cho thấy sự chịu ảnh hưởng nhiều bởi vai Trần Chân của Lý Tiểu Long, từ cách diễn tả trên nét mặt đến những pha múa võ có lẫn tiếng hét đặc trưng của họ Lý. Năm 1997, ông thành lập hãng phim Bullet, đồng thời thử sức trong vai trò đạo diễn với phim Chiến lang truyền thuyết (Legend of the wolf). Trong phim này ông đóng vai chính Văn Hiến, ngoài ra còn có nữ diễn viên đang lên lúc đó là Lý Nhược Đồng. Bộ phim không đặc sắc về nội dung, tuy nhiên lại thành công lớn về mặt doanh thu, với rất nhiều những màn đánh lộn được diễn tả chân thực. Hãng phim tồn tại 2 năm, với các phim Nhật Bản bản (1999) và Nụ hôn sát nhân (1998). Phim Nụ hôn sát nhân có sự tham gia của người đẹp Ngô Thần Quân, do Chân Tử Đan đạo diễn và thủ vai chính, được trao giải "Phim xuất sắc nhất năm 1998" bởi hội phê bình điện ảnh Hồng Kông và tại Liên hoan phim Udine của Ý. Năm 2002, ông tham gia siêu phẩm Anh hùng của đạo diễn Trương Nghệ Mưu. Bộ phim đã đưa tên tuổi của ông ra thế giới. Đạo diễn họ Trương vốn khắt khe, đã tỏ ra rất khâm phục khả năng biểu diễn võ thuật của Chân Tử Đan trong phim này. Vai của Chân Tử Đan chỉ xuất hiện trong một cảnh quay, đạo diễn họ Trương sử dụng như một phương pháp tô điểm. Ông đánh từ đầu tới cuối trong sự xuất hiện của mình, và cảnh quay phải mất tới 20 ngày. Thời gian này Chân Tử Đan còn nổi lên với vai trò người chỉ đạo, dàn dựng các pha đấu võ thuật. Các phim nổi tiếng nhất được ông chỉ đạo võ thuật là: Code name 2:Puma, Thiên cơ biến I và II, Nụ hôn sát nhân... Trong công việc, Chân nổi tiếng là người nghiêm túc và khá kén chọn, ông không phải là người sẵn sàng nắm bắt tất cả các cơ hội tiến thân tại Holywood. Từng từ chối đóng vai Lý Tiểu Long trong Truyện Lý Tiểu Long và sau đó là năm 2003, khi ông khước từ lời mời xuất hiện bên cạnh Angelina Jolie trong Tomb Raider II vì "tôi thích những gì mới mẻ và sáng tạo, còn vai diễn đó lại chẳng khác gì những vai trước đây của tôi". Chân được đạo diễn Guillermo del Toro ở Hollywood mời đóng phim lần thứ ba: Blade I, và lần này ông đã nhận lời. Vai diễn người tuyết tuy chỉ là vai nhỏ, với màn võ thuật tô điểm, nhưng cũng đủ ấn tượng để ông được mời tiếp vào phim Highlander: End game của Douglas Aarniokoski (2000); tuy nhiên phim này không thành công. Vai diễn tiếp theo của Chân Tử Đan tại Hollywood là vai phản diện trong Hiệp sĩ Thượng Hải của Thành Long, vai này ban đầu được giao cho Robin Shou, bạn diễn của Chân trong phim Lồng Hổ 2, nhưng Shou mắc việc không nhận được và vai đã được giao cho Chân Tử Đan. Một lúc làm nhiều vai trò, nhưng mỗi năm ông vẫn đều đặn đóng xong một bộ phim, các phim Thiên cơ biến 2 và Love on the Rocks cũng tạo nên một số ấn tượng nhất định. Năm 2005, Chân Tử Đan vào vai Sở Chiêu Nam trong Thất kiếm của Từ Khắc, tuy nhiên bộ phim đã không có được thành công như mong đợi. Thành công nối tiếp Sau thất bại của Thất kiếm, Chân Tử Đan đã gặp gỡ đạo diễn trẻ mới nổi Diệp Vĩ Tín. Sự gặp gỡ này đã đánh dấu mốc mới trong sự nghiệp của Chân Tử Đan. Tính cho tới nay, họ đã hợp tác với nhau 4 phim, tất cả đều nổi tiếng, đó là bộ ba Sát Phá Lang, Long Hổ Môn, Đạo hỏa tuyến và Diệp Vấn. Trong Sát Phá Lang, Chân Tử Đan vào vai cảnh sát Mã Quân, lạnh lùng, có vẻ cô độc nhưng là một người có tình cảm. Vai diễn mang lại cho Chân nhiều chỗ diễn nội tâm. Trong phim, ấn tượng nhất có đoạn giao đấu đầy máu me, kịch tính giữa Chân Tử Đan - Ngô Kinh và trận đánh trong phòng khách giữa Chân Tử Đan - Hồng Kim Bảo. Sau thành công của Sát Phá Lang, bộ đôi này tiếp tục hợp tác làm bộ Long Hổ Môn rồi Đạo Hỏa Tuyến. Những phim này đều nhận được nhiều đề cử và giải thưởng. 2008 là một năm thành công của Chân Tử Đan, khi ông liên tiếp xuất hiện trong các bộ phim "bom tấn": Giang sơn & mỹ nhân, Họa bì, và Diệp Vấn. Giang sơn & mĩ nhân, tuy nhiên không thành công như hứa hẹn. Còn Họa Bì, một phim kinh dị cổ trang đã lập kỉ lục về doanh thu phòng vé, phim cũng nhận được nhiều giải thưởng cũng như đề cử. Tuy vậy, thành công và tạo nên nhiều ảnh hưởng hơn cả là Diệp Vấn. Phim Diệp Vấn kể về một giai đoạn quan trọng trong cuộc đời của danh sư Diệp Vấn, trong phim này Chân Tử Đan đã trình diễn một phong cách khác trước, đó là không sử dụng những cú đá song phi nổi tiếng của mình mà phần lớn các pha võ thuật đều dùng tay - một nét độc đáo của Vịnh Xuân quyền. Để diễn được các pha võ này, ông đã luyện Vịnh Xuân 8 tháng, cũng như giảm 5 ký để phù hợp với vai Diệp Vấn. Về diễn xuất, vai diễn có chút hài hước và nhiều trường đoạn nội tâm hơn các phim trước đây ông tham gia. Ông Diệp Chuẩn, con trai của Diệp Vấn sau khi xem phim này đã khen ngợi Chân và cho rằng ông là người thích hợp nhất để đóng vai này. Với vai Diệp Vấn, lần đầu tiên Chân Tử Đan được đề cử giải "Nam diễn viên chính xuất sắc nhất" tại liên hoan phim HKFA 2009, ngoài ra phim Diệp Vấn còn nhận được 11 đề cử khác, trong đó có giải "phim xuất sắc", "diễn viên phụ xuất sắc nhất" và "đạo diễn xuất sắc nhất". Về doanh thu, phim đạt 100 triệu Nhân dân tệ và 25 triệu Đô la Hồng Kông sau 1 tuần khởi chiếu, trở thành phim võ thuật đoạt doanh thu cao nhất từ trước tới giờ.China Box Office January 12-18, 2009- boxofficemojo.com Trong thời gian quay bộ phim này, Chân Tử Đan từng bị đưa ra so sánh với ảnh đế Lương Triều Vĩ khi Lương cũng quay một phim mang tên Nhất đại tôn sư Diệp Vấn với Vương Gia Vệ, tuy nhiên sau khi phim công chiếu, Chân Tử Đan đã nhận được nhiều khen ngợi, trong đó có lời khen của Lương Triều Vĩ. Sau thành công của Diệp Vấn, bộ đôi Diệp-Chân sẽ thực hiện tiếp phim Diệp Vấn 2. Trong một bài phỏng vấn gần đây, Chân Tử Đan nói rằng ông đang cầm trong tay 5 kịch bản, và có thể sẽ phải quay liền 5 phim trong năm 2009. Năm 2009, Chân Tử Đan tham gia bộ phim Thập nguyệt vi thành với vai chính là một tay đệ tử của "bác thằng bần", cùng một vai nhỏ trong bộ phim Kiến quốc đại nghiệp. Sau đó, ông tham gia đóng vai chính trong bộ phim cổ trang Cẩm y vệ của đạo diễn Lý Nhân Cảng. Năm 2010, Chân Tử Đan cho ra mắt 1 bộ phim mới Huyền thoại Trần Chân của đạo diễn Lưu Vĩ Cường, trong phim có sự góp mặt của nữ diễn viên Thư Kỳ. Sau đó, ông đang tiếp tục tham gia hai dự án phim khác là Quan Vân Trường. Năm 2018, Chân Tử Đan cho giới thiệu bộ phim Thân phận đặc biệt (Special ID) cùng với nhân vật Cảnh Điềm, Trâu Triệu Long và đóng vai Trần Tự Long, một cảnh sát có tính gan gốc, cau có nhưng lại hòa đồng với người mẹ và bạn bè của ông ấy. Ông được giao nhiệm vụ điều tra băng đảng ma túy và phải tiêu diệt thế giới ngầm xã hội đen vô cùng khắc nghiệt và tàn nhẫn nhất của Trung Quốc để ngăn chặn một âm mưu độc ác của tên trùm tội phạm xã hội đen Trường Mao Hùng. Cách duy nhất để ông báo cáo về trụ sở là cố tình bị bắt giam. Sau nhiều lần như vậy, tên trùm Trương Mao Hùng bắt đầu nghi ngờ thân phận của ông. Hắn tìm mọi cách loại bỏ mọi sự xâm nhập vào băng đảng xã hội đen của Trần Tử Long. Khi đến Trung Quốc đại lục, Trần Tử Long đối mặt với cánh tay phải Trương Mao Hùng là Sunny, được giao nhiệm vụ xử tử những cảnh sát nằm vùng. Đột phá tại Hollywood Sau khi diễn những bộ phim thực cổ, ông được đóng vai là một cảnh sát trưởng, bảo vệ những người khỏi những tên xấu xa như "Điểm nổ", "Công bằng cho xã hội",... Từ những bộ phim này, ông đã trở nên nổi tiếng nhất với những kỹ năng võ thuật kiểu mới theo một cách mạnh mẽ, biết hi sinh vì mọi thứ, không bao giờ bỏ cuộc,... Năm 2017 đánh dấu lần đầu tiên Chân Tử Đan và Lưu Đức Hoa cùng nhau diễn xuất trong bộ phim Trùm Hương Cảng. Bộ phim Trùm Hương Cảng lấy cảm hứng từ hai nhân vật có thật trong lịch sử Hong Kong: trùm xã hội đen Ngô Tích Hào - biệt danh Hào "thọt", và cảnh sát trưởng Lữ Lạc. Nếu như Hào "thọt" từng được Lữ Lương Vĩ thể hiện trong Bả Hào (1991), thì chính Lưu Đức Hoa từng vào vai Lôi Lạc mưu trí nhưng không kém phần gian xảo qua hai tập phim Thám trưởng 500 triệu Lôi Lạc (1991).. Điều ấn tượng của Trùm Hương Cảng là có sự tham gia của hai ngôi sao lớn của điện ảnh Hong Kong. Là nhân vật chính được ưu tiên cả về đất diễn lẫn lối khai thác, ông trùm Hào "thọt" là linh hồn của tác phẩm dưới sự thể hiện thuyết phục từ Chân Tử Đan. Có thể nói đây là bộ phim Chân Tử Đan khẳng định thêm tài năng diễn xuất của mình. Công việc ngoài diễn xuất Chỉ đạo võ thuật Ngoài diễn xuất, Chân Tử Đan còn làm đạo diễn hành động và nhà chỉ đạo võ thuật. Đây là nghề tay trái của Chân nhưng lại mang lại cho ông bộ sưu tập giải thưởng đáng nể: 7 giải thưởng và 2 đề cử, trong đó có 3 Kim Tượng và 2 Kim Mã. Ông làm công việc chỉ đạo võ thuật từ những năm đầu của sự nghiệp, với phim ăn khách Lồng Hổ 1. Những phim nổi tiếng nhất do anh chỉ đạo các pha hành động và đấu võ là: Lồng Hổ 2, Vịnh Xuân quyền, Chiến Lang truyền thuyết, Code name 2:Puma, Thiên cơ biến I và II, Nụ hôn sát nhân, Blade II, Sát phá lang, Long Hổ Môn,... Năm 2008, khi làm phim Diệp Vấn, do đã đảm nhận nhiều công việc (tập võ, diễn xuất), vai trò đạo diễn võ thuật của Chân đã được giao lại cho Hồng Kim Bảo. Đạo diễn Trở thành đạo diễn từ năm 34 tuổi với phim Chiến lang truyền thuyết (Legend of the wolf), cho đến nay, Chân Tử Đan đã đạo diễn 6 phim, trong đó cũng có những phim thành công. Phim Nụ hôn sát nhân năm 1997 đã được trao giải "một trong những phim hay nhất năm 1998" bởi hội phê bình điện ảnh Hồng Kông và tại Liên hoan phim Udine của Ý. Các phim Thiên cơ biến, Chiến lang truyền thuyết, Tân Đường Sơn đại huynh đều được xếp vào loại ăn khách. Ông là ứng cử viên duy nhất (trong số 6 ứng cử viên) của Hồng Kông đạt được giải thưởng "Đạo diễn trẻ xuất sắc nhất" tại Liên hoan phim Yubari, Nhật Bản. Nhà sản xuất Chân Tử Đan từng đóng vai trò nhà sản xuất và đồng sản xuất cho 5 phim: Họa bì, Đảo hỏa tuyến, Long Hổ Môn, Nụ hôn sát nhân, Chiến lang truyền thuyết. Năm 1997 ông từng mở hãng phim tên là Bullet nhưng nay đã giải tán. Làm mẫu cho nhân vật trong game Năm 2004, Chân Tử Đan lần đầu tham gia trong ngành công nghiệp Game, với game nổi tiếng Onimusha III của hãng Capcom. Ông giữ vai trò quan trọng trong game hành động nổi tiếng này, khi đảm nhận công việc chỉ đạo võ thuật và biểu diễn mẫu cho nhân vật. Năm 2006, Game Long Hổ Môn ra đời dựa theo bộ phim ông thủ vai chính. Chân cũng làm mẫu cho chuyển động của nhân vật chính trong Game này. Phong cách võ thuật Chân Tử Đan thường được coi là diễn viên có phong cách biểu diễn võ thuật đặc biệt. Jung Sang Kyo, một ký giả của tờ tạp chí võ thuật Mookas có lời nhận xét: "Lý Tiểu Long thuộc nhóm diễn viên chuyên dùng các thế võ hiện đại, Lý Liên Kiệt thuộc nhóm chuyên dùng võ thuật truyền thống Trung Hoa. Còn Chân Tử Đan thì thuộc nhóm của riêng anh." Với phong cách đánh võ độc đáo và đẹp mắt, Chân Tử Đan thường được mời vào các phim ở tư cách khách mời nhằm câu khách, như trong Thánh bài II, anh đóng vai cảnh sát và chỉ xuất hiện ở đoạn loạn đả cuối phim, ngoài ra có thể kể đến những màn trình diễn võ thuật ngắn ngủi trong Hiệp sĩ Thượng Hải, Anh hùng, Love on the Rocks, Thiên cơ biến II, gần đây (2009) thì có All's Well, Ends Well 2009. Phong cách võ thuật trên màn ảnh của Chân Tử Đan được đánh giá mạnh mẽ, có tính thực chiến cao. Năm 2017, giới võ thuật Trung Quốc ồn ào bởi võ sĩ MMA nghiệp dư Từ Hiểu Đông đã đánh bại nhanh chóng võ sư danh tiếng Ngụy Lôi thuộc dòng võ thuật truyền thống Trung Quốc. Từ Hiểu Đông cho rằng võ truyền thống Trung Quốc không có tính thực chiến cao. Khi được hỏi về đối thủ trong các ngôi sao võ thuật màn ảnh thì Từ Hiểu Đông cho rằng chỉ có Chân Tử Đan là đối thủ xứng tầm. Đời tư Chân Tử Đan từng đính hôn với nữ diễn viên Vạn Ỷ Văn từng đóng cặp với anh trong Tinh Võ Môn (1995). Năm 2003, anh kết hôn với người mẫu Uông Thi Thi, hoa hậu Hoa kiều Toronto năm 2000, kém anh 19 tuổi. Hôn lễ tổ chức tại Toronto, Canada. Đến nay họ đã có với nhau hai con, một gái tên là Jasmin và trai tên James. Chân Tử Đan có con riêng tên là Man Cheuk Yen. Danh sách phim Phim điện ảnh Phim truyền hình {| class="wikitable" |- ! Năm!! Tên phim!! Tên gốc tiếng Trung!! Vai diễn!! Kênh!! Ghi chú |- | 1987 || Hình cảnh bản sắc || 刑警本色 || "Dick Kwan" || Hồng Kông - TVB || |- | 1988 || Vô miện cấp tiên phong || 無冕急先鋒 || || Hồng Kông - TVB || |- | 1989 || Phi Hổ quần anh || 飛虎群英 || "Trương Hạo Nam" || Hồng Kông - TVB || |- |rowspan="2"| 1991 || Cuộc đời mới || 命運迷宮 || "Jun" || Hồng Kông - TVB || |- | Cán thám quần anh || 幹探群英 || "Dan" hay "Bomb" || Hồng Kông -TVB || |- | 1994 || Hồng Hi Quan || 洪熙官: 決戰螳螂拳 || "Hồng Hi Quan" || Hồng Kông - ATV || hay The Kungfu master |- | 1995 || Tinh Võ Môn || 精武門 || Jing Wu Men || "Trần Chân" || Hồng Kông - ATV || |- | 1999-2000 || Báo đen || La Puma - Kämpfer mit Herz || đồng đạo diễn, chỉ đạo võ thuật || Đức - RTL || |- | 2001 || Tân Tinh Võ Môn || 精武門 || Jing Wu Men || "Trần Chân" || Hồng Kông - ATV || hay Tục Tinh Võ Môn |- |} Game Onimusha III (2004)Long Hổ Môn'' (2006)
Paititi là "thành phố mất tích" của người Inca, nơi trốn ẩn huyền bí của họ tại miền Đông của Peru. Lịch sử Sau khi Francisco Pizarro xâm chiếm vương quốc Inca vào năm 1533, những người Inca cuối cùng lùi về ngôi thành trì trên núi Vilcabamba. Từ đấy họ đã tiến hành một cuộc chiến tranh du kích kéo dài gần 40 năm chống lại những người Tây Ban Nha chiếm đóng. Mãi đến năm 1572, những người Tây Ban Nha xâm chiếm Nam Mỹ (conquistador) mới có thể chiếm được thành Vilcabamba và giết chết vị vua Inca cuối cùng là Túpac Amaru. Thế nhưng tại thời điểm này thành gần như đã bị bỏ trống, người dân đã mang theo toàn bộ châu báu của các vị vua Inca chạy trốn về phía đông vào trong rừng rậm. Mãi đến năm 2001 câu chuyện này mới có thể được xác nhận sau khi nhà khảo cổ học người Ý Mario Polia tìm thấy tờ tường trình của nhà truyền đạo Andrea Lopez trong các văn thư lưu trữ của dòng tu Jesus (tiếng Anh: Society of Jesus) tại Roma. Trong văn kiện ra đời vào khoảng năm 1600 này, Lopez đã mô tả một thành phố lớn nhiều vàng, bạc và đá quý, được người thổ dân gọi là Paititi. Lopez đã báo tin này cho Giáo hoàng tại Roma. Nhiều giả thuyết cho rằng vị trí chính xác của Paititi đã được tòa thánh Vatican giữ bí mật từ đấy. Trong các phương tiện truyền thông, Paitit thường được xem là Eldorado. Thế nhưng huyền thoại về Eldorado có nguồn gốc từ cao nguyên Columbia chứ không phải tại Peru. Các chuyến khảo sát Từ 1990 nhiều nhà nghiên cứu và khảo cổ học đã có nhiều nỗ lực lớn tìm kiếm dấu vết của truyền thuyết về Paitit. Các chuyến đi khảo sát dẫn đến khu vực Madre de Dios gần như vẫn hoàn toàn chưa được khai phá nằm về phía đông của Cuzco hay trong vùng về phía đông của hồ Titicaca tại Bolivia. 1925 - Percy Harrison Fawcett (Mato Grosso, mất tích) 1972 - Bob Nichols 1997 - Lars Hafksjold (Madre de Dios, Peru) Tháng 5 đến tháng 9 năm 2001 - Koto Mama khảo sát giai đoạn III (vùng Amazonas) 1984 đến 2002 – tổng cộng 12 cuộc khảo sát của Gregory Deyermenjian trong vùng Madre de Dios 2002 - Jacek Palkiewicz (Madre de Dios) Tháng 6 năm 2004 - Gregory Deyermenjian 2005 – cho đến thời điểm này là chuyến khảo sát cuối cùng của Thierry Jamin và Herbert Cartagena Kết quả của các đi chuyến khảo sát mang lại nhiều hứa hẹn. Đường mòn Inca, hình khắc trên đá cũng như nhiều dấu tích và đã được tìm thấy. Người ta đã có kế hoạch tiến hành thêm ít nhất một chuyến khảo sát nữa trong năm 2006.
Nhà Tống là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi kết thúc thời kỳ Ngũ đại Thập quốc. Trong suốt thời gian tồn tại, nhà Tống thường xuyên xung đột với các quốc gia phương bắc là Liêu, Tây Hạ và Kim. Cuối cùng, nhà Tống bị chinh phục bởi nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo. Chính quyền nhà Tống là chính quyền đầu tiên trong lịch sử phát hành tiền giấy trên phạm vi toàn quốc và cũng là chính quyền Trung Quốc đầu tiên thành lập lực lượng hải quân thường trực. Vào thời nhà Tống, con người lần đầu sử dụng thuốc súng và nhận thức được hướng bắc trắc địa thông qua la bàn. Nhà Tống được phân chia thành hai thời kỳ rõ rệt: Bắc Tống và Nam Tống. Trong thời kỳ Bắc Tống (960–1127), hoàng triều có kinh đô đặt tại thành phố phía bắc Biện Kinh (nay là Khai Phong), kiểm soát phần lớn khu vực mà ngày nay người ta gọi là Hoa Đông. Thời kỳ Nam Tống (1127–1279) mở ra sau khi nhà Tống để mất quyền kiểm soát nửa phía bắc lãnh thổ vào tay nhà Kim của người Nữ Chân trong Chiến tranh Kim–Tống. Giữa giai đoạn giao tranh với nhà Kim, triều đình nhà Tống phải rút lui về phía nam sông Dương Tử và thành lập kinh đô mới tại Lâm An (nay là Hàng Châu). Mặc dù để mất vùng đất được xem là "nơi phát tích của nền văn minh Trung Hoa" nằm dọc theo sông Hoàng Hà, kinh tế Nam Tống vẫn phát triển mạnh mẽ do đế quốc này đông dân và sở hữu rất nhiều đất nông nghiệp. Nam Tống củng cố đáng kể sức mạnh hải quân nhằm bảo vệ vùng biển cũng như biên giới đất liền và thực hiện các sứ mệnh hàng hải ở nước ngoài. Để đẩy lùi nhà Kim và sau đó là người Mông Cổ, nhà Tống tiến hành phát triển nhiều công nghệ quân sự mới mang tính cách mạng bằng cách áp dụng thuốc súng. Năm 1234, người Mông Cổ chinh phục hoàn toàn nhà Kim, làm chủ miền bắc Trung Quốc và duy trì mối quan hệ không mấy hòa hảo với Nam Tống. Năm 1259, Mông Kha, đại hãn thứ tư của Đế chế Mông Cổ, qua đời khi đang bao vây pháo đài Điếu Ngư ở Trùng Khánh. Em trai Mông Kha là Hốt Tất Liệt trở thành đại hãn mới, dù không được nhóm lãnh đạo Mông Cổ ở phía tây công nhận hoàn toàn. Năm 1271, Hốt Tất Liệt tự xưng là Hoàng đế Trung Hoa và thành lập nhà Nguyên. Năm 1279, sau hai thập kỷ giao tranh không liền mạch, quân đội của Hốt Tất Liệt cuối cùng cũng chinh phục được nhà Tống khi quân Nam Tống thua trận Nhai Môn. Cuộc xâm lược của người Mông Cổ rốt cuộc đã tái thống nhất toàn cõi Trung Quốc dưới quyền cai trị của nhà Nguyên. Từ đầu thế kỷ thứ 9 đến cuối thế kỷ 11, dân số Trung Quốc đã tăng gần gấp đôi. Điều này là kết quả của việc mở rộng hoạt động trồng lúa ở miền trung và miền nam Đế quốc Tống, áp dụng canh tác giống lúa chín sớm có nguồn gốc từ Nam Á và Đông Nam Á, sản xuất dư thừa lương thực. Điều tra dân số ghi nhận Bắc Tống có khoảng 20 triệu hộ gia đình, gấp đôi nhà Hán và nhà Đường. Người ta ước tính rằng dân số Bắc Tống là 90 triệu người và dân số nhà Minh là 200 triệu người. Sự gia tăng dân số đáng kể này đã thúc đẩy một cuộc cách mạng kinh tế ở Trung Quốc thời tiền hiện đại. Quy mô dân số mở rộng, các thành phố xuất hiện ngày một nhiều và sự ra đời của nền kinh tế quốc dân đã dẫn đến việc chính quyền trung ương dần không còn tham gia trực tiếp vào các vấn đề kinh tế. Tầng lớp thân sĩ đảm nhận vai trò quan trọng hơn trong hoạt động quản trị cơ sở và xử lý công việc địa phương. Thời nhà Tống, đời sống xã hội vô cùng sôi động. Dân thành thị tụ tập để chiêm ngưỡng và mua bán các tác phẩm nghệ thuật có giá trị, quần chúng từ mọi tầng lớp hòa lẫn với nhau ở các lễ hội hay câu lạc bộ tư nhân và các thành phố thì có nhiều khu vui chơi giải trí náo nhiệt. Sự khuếch trương nhanh chóng của nghề in khắc gỗ và sự ra đời của kỹ thuật in chữ rời vào thế kỷ 11 đã giúp văn học, tri thức được phổ biến rộng rãi. Suốt triều đại, công nghệ, khoa học, triết học, toán học và kỹ thuật đều có những bước phát triển mạnh mẽ. Các triết gia như Trình Di và Chu Hi đã thổi nguồn sinh khí mới cho Nho giáo bằng những bài luận mới mẻ, thấm nhuần quan niệm Phật giáo và nhấn mạnh một kiểu tổ chức văn bản cổ điển mới truyền tải những đường lối cốt lõi của học thuyết Tân Nho giáo. Mặc dù đã có từ thời nhà Tùy, hệ thống khoa cử nổi bật hơn nhiều vào thời nhà Tống. Quan chức có được quyền lực thông qua khoa cử, đóng vai trò chính trong quá trình sĩ đại phu thay thế tiết độ sứ trở thành tầng lớp tinh hoa trong xã hội. Lịch sử Bắc Tống, 960–1127 Sau khi soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu, Tống Thái Tổ () dành 16 năm để chinh phục nhiều tiểu quốc còn lại trên khắp Trung Quốc, thống nhất được phần lớn vùng lãnh thổ từng thuộc về hai đế chế Hán và Đường, kết thúc thời kỳ phân liệt Ngũ đại Thập quốc. Tại Khai Phong, Tống Thái Tổ xây dựng một chính quyền trung ương tập quyền cao độ bao trùm cả đế quốc. Định đô ở Khai Phong được xem như dấu mốc khởi đầu thời kỳ Bắc Tống. Tống Thái Tổ đảm bảo tính ổn định hành chính bằng cách thúc đẩy hệ thống khoa cử, trong đó thiết lập phương thức lựa chọn quan chức nhà nước theo năng lực và thành tích (thay vì theo địa vị quý tộc hay địa vị quân sự), đồng thời xúc tiến các dự án đảm bảo thông tin liên lạc hiệu quả trên khắp đất nước. Trong một dự án như vậy, các họa sĩ vẽ bản đồ chi tiết ở từng địa phương rồi tập hợp chúng lại với nhau thành một tập bản đồ lớn. Tống Thái Tổ cũng thúc đẩy những đổi mới khoa học và công nghệ mang tính đột phá, hỗ trợ cho nhiều công trình như tháp đồng hồ thiên văn do kỹ sư Trương Tư Huấn thiết kế và xây dựng. thế=Painted image of a portly man sitting in a red throne-chair with dragon-head decorations, wearing white silk robes, black shoes, and a black hat, and sporting a black mustache and goatee.|trái|nhỏ|225x225px|Tống Thái Tổ (), tranh chân dung cung đình. |viền Triều đình nhà Tống duy trì quan hệ ngoại giao với Chola ở Ấn Độ, Fatima ở Ai Cập, Srivijaya, Hãn quốc Khách Lạt ở Trung Á, Vương quốc Cao Ly ở Triều Tiên và một số quốc gia khác cùng là đối tác thương mại với Nhật Bản. Tống sử thậm chí còn đề cập tới sự xuất hiện vào năm 1081 của một đại sứ quán Đông La Mã thừa mệnh Hoàng đế Michael VII Doukas. Tuy nhiên, chính những quốc gia láng giềng thân cận mới tác động mạnh mẽ đến chính sách đối nội và đối ngoại của nhà Tống. Ngay từ những năm đầu thành lập dưới thời Tống Thái Tổ, nhà Tống đã phải tiến hành xen kẽ các biện pháp chiến tranh và ngoại giao với nhà Liêu của người Khiết Đan ở phía đông bắc và Tây Hạ của người Đảng Hạng ở phía tây bắc. Nhà Tống sử dụng sức mạnh quân sự với mong muốn dẹp yên nhà Liêu và chiếm lại Yên Vân thập lục châu, một vùng đất đai do người Khiết Đan kiểm soát, mà theo truyền thống được coi như một phần của Trung Quốc bản thổ (hầu hết các phần lãnh thổ Bắc Kinh và Thiên Tân ngày nay). Quân Liêu đẩy lùi quân Tống, tổ chức nhiều chiến dịch thường niên uy hiếp Bắc Tống mãi cho tới năm 1005, khi Hiệp ước Thiền Uyên chấm dứt tình trạng giao tranh biên giới dai dẳng. Người Hán buộc phải triều cống cho người Khiết Đan, mặc dù điều này thực tế ít gây thiệt hại cho kinh tế Bắc Tống vì chính nhà Liêu lại phụ thuộc vào việc nhập khẩu một lượng lớn hàng hóa từ Bắc Tống. Đáng chú ý hơn, nhà Tống đã phải công nhận nhà Liêu bình đẳng với mình về mặt ngoại giao. Nhà Tống kiến tạo một cánh rừng phòng thủ rộng lớn dọc theo biên giới Tống–Liêu để ngăn chặn các đợt tấn công tiềm tàng của kỵ binh Khiết Đan. Đầu thế kỷ 11, nhà Tống giành được một số chiến thắng quân sự trước Tây Hạ, đỉnh cao là chiến dịch do nhà bác học, tướng lĩnh kiêm chính khách Thẩm Quát (1031–1095) chỉ huy. Tuy nhiên, chiến dịch trên không đem lại thành công chung cuộc khi viên sĩ quan đối địch với Thẩm Quát không tuân theo mệnh lệnh trực tiếp, khiến nhà Tống để mất phần lãnh thổ vừa giành được từ Tây Hạ. Nhà Tống chiến tranh với Đại Việt hai lần, lần đầu vào năm 981 và lần thứ hai kéo dài từ năm 1075 đến năm 1077, liên quan tới vấn đề tranh chấp biên giới và việc nhà Tống cắt đứt quan hệ thương mại với Đại Việt. Sau khi quân Đại Việt đột kích Quảng Tây, gây thiệt hại nặng nề, chỉ huy quân Tống là Quách Quỳ (1022–1088) dẫn quân tới tận Thăng Long (Hà Nội ngày nay). Tổn thất to lớn mà cả hai bên phải gánh chịu đã buộc tướng Đại Việt là Lý Thường Kiệt (1019–1105) phải chọn giải pháp hòa bình, cho phép hai quốc gia cùng từ bỏ nỗ lực tham chiến. Năm 1082, Bắc Tống và Đại Việt tiến hành trao trả lãnh thổ chiếm đóng và tù binh chiến tranh. thế=An oval shaped pillow with flat sides. It is made of black cloth with an image of a white bird sitting on a branch stitched into it.|trái|nhỏ|Một cái gối làm từ sa thạch, có niên đại từ thời Bắc Tống, thế kỷ 12. |200x200px Suốt thế kỷ 11, nhiều cuộc đấu chính trị đã diễn ra giữa các đại thần trong triều đình nhà Tống, xoay quanh cách tiếp cận, quan điểm và chính sách khác nhau về việc xử lý một xã hội phức tạp và một nền kinh tế đang phát triển mạnh mẽ của đế quốc. Phó tể tướng theo chủ nghĩa lý tưởng hóa Phạm Trọng Yêm (989–1052) là người đầu tiên đón nhận làn sóng phản ứng chính trị dữ dội khi ông cố gắng tiến hành cải cách "Khánh Lịch tân chính", bao gồm các biện pháp cải thiện hệ thống tuyển dụng quan chức, tăng lương cho các chức quan nhỏ và thiết lập các chương trình tài trợ để có thêm nhiều người được giáo dục tốt, đủ điều kiện phục vụ nhà nước. Sau khi Phạm Trọng Yêm bị buộc phải từ chức, Vương An Thạch (1021–1086) nhậm chức tể tướng. Với sự hậu thuẫn của Tống Thần Tông (1067–1085), Vương An Thạch chỉ trích gay gắt hệ thống giáo dục và bộ máy quan liêu. Tìm cách giải quyết những gì mà bản thân coi là hủ bại và cẩu thả, Vương An Thạch thực hiện hàng loạt cải cách gọi là "Tân pháp", liên quan tới việc đổi mới thuế giá trị đất, thành lập một số công ty độc quyền chính quyền, hỗ trợ dân quân địa phương và đặt ra những tiêu chuẩn cao hơn cho kỳ khoa cử để có thể tuyển dụng được những quan chức có trình độ quản trị nhà nước. Tân pháp đã tạo ra các phe phái đối lập trong triều đình. Phái "Biến pháp" của Vương An Thạch bị phản đối bởi phái "Cựu đảng" do sử gia kiêm tể tướng Tư Mã Quang (1019–1086) cầm đầu. Khi người của phe này thay thế phe kia nắm giữ đa số vị trí quan trọng trong triều đình, họ sẽ giáng chức và điều chuyển các quan chức đối thủ tới vùng biên cương xa xôi. Một trong những nạn nhân quyền đấu nổi tiếng nhất là nhà thơ, chính khách Tô Đông Pha (1037–1101), người bị bỏ tù rồi mất chức vì dám chỉ trích cải cách của Vương An Thạch. thế=A wooden carving of a sitting Buddhist figure in loose fitting, painted robes.|nhỏ|267x267px|Một bức tượng tạc bằng gỗ đa sắc thời nhà Liêu (907–1125), tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. Đời Tống Huy Tông, nổ ra nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân quy mô lớn chống lại triều đình, điển hình là cuộc khởi nghĩa Lương Sơn Bạc do Tống Giang (tức Tống Công Minh) lãnh đạo ở Sơn Đông và cuộc khởi nghĩa của Phương Lạp ở Giang Nam. Trong khi triều đình vẫn đang liên tục chia rẽ chính trị và loay hoay với các vấn đề nội bộ, nhà Tống bắt đầu chú ý tới những sự kiện đáng báo động đang diễn ra ở nhà Liêu. Người Nữ Chân, một bộ tộc thần phục nhà Liêu, đã nổi dậy và tuyên bố khai sinh nhà Kim (1115–1234). Hoạn quan Đồng Quán (1054–1126) khuyên Tống Huy Tông (1100–1125) nên bắt tay với người Nữ Chân. Liên minh Tống–Kim được thiết lập thông qua Hải thượng chi minh, tiến hành một chiến dịch quân sự chung chinh phục hoàn toàn nhà Liêu vào năm 1125. Trong quá trình đó, quân Tống viễn chinh đã phá bỏ cánh rừng phòng thủ dọc biên giới Tống–Liêu. Tuy nhiên, màn trình diễn tệ hại và nội lực yếu kém của quân đội nhà Tống không thoát khỏi tầm quan sát của người Nữ Chân, họ lập tức phá vỡ liên minh, phát động Chiến tranh Kim–Tống, cao điểm trong hai năm 1125 và 1127. Không phải đối mặt với cánh rừng phòng thủ, quân Kim hành quân nhanh chóng qua đồng bằng Hoa Bắc tiến đến Khai Phong. Trong Sự kiện Tĩnh Khang ở lần xâm lược thứ hai, người Nữ Chân không chỉ chiếm được kinh đô, mà còn bắt sống cả Thượng hoàng Huy Tông và Hoàng đế Khâm Tông cùng hầu hết thành viên triều đình Bắc Tống. Các lực lượng tàn dư của nhà Tống tập hợp lại dưới quyền Tống Cao Tông (1127–1162), rút về phía nam sông Dương Tử để thành lập một kinh đô mới tại Lâm An. Cuộc chinh phạt Hoa Bắc của người Nữ Chân và chuyến dời đô từ Khai Phong tới Lâm An của triều đình nhà Tống chính là ranh giới phân chia hai thời kỳ Bắc Tống và Nam Tống. Sụp đổ trước cuộc xâm lược của nhà Kim, nhà Tống mất quyền kiểm soát miền bắc Trung Quốc. Giờ đây, khi đã làm chủ được cái gọi là "Trung Quốc bản thổ", nhà Kim tự coi mình là những người cai trị Trung Quốc chính danh. Họ chọn "thổ" làm nguyên tố đại diện hoàng triều và màu vàng làm màu hoàng gia. Theo thứ tự trong thuyết Ngũ hành, "thổ" theo sau "hỏa", nguyên tố đại diện cho hoàng triều Tống. Động thái mang tính ý thức hệ trên cho thấy nhà Kim coi như thiên mệnh của nhà Tống đã chấm dứt và họ sẽ thay thế nhà Tống trở thành những người cai trị Trung Quốc bản thổ hợp pháp. Nam Tống, 1127–1279 Mặc dù đã suy yếu và bị đẩy về phía nam sông Hoài, Nam Tống vẫn tìm ra những phương án mới để củng cố nền kinh tế vững mạnh và tự vệ trước nhà Kim. Quân đội Nam Tống được chỉ huy bởi những tướng lĩnh có năng lực như Nhạc Phi và Hàn Thế Trung. Chính quyền tài trợ cho các dự án đóng tàu và cải thiện bến cảng quy mô, đồng thời tiến hành xây dựng nhiều mốc hiệu và kho tàng cảng biển để hỗ trợ thương mại hàng hải với nước ngoài. Những cảng biển quốc tế lớn như Tuyền Châu, Quảng Châu và Hạ Môn, là điểm tựa của ngành thương mại Trung Quốc. Để bảo vệ và hỗ trợ cho vô số tàu thuyền qua lại vì lợi ích hàng hải ở Biển Hoa Đông, Hoàng Hải, Đông Nam Á, Ấn Độ Dương và Biển Đỏ, cần phải có hải quân thường trực. Do đó, năm 1132, triều đình Nam Tống đã thành lập lực lượng hải quân thường trực đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, có trụ sở chính đặt tại Định Hải. Với hải quân chuyên nghiệp, năm 1161, Nam Tống sẵn sàng đối đầu với nhà Kim trên sông Dương Tử. Trong trận Đường Đảo và Thái Thạch, hải quân Nam Tống đã sử dụng tàu chiến mái guồng trang bị máy trebuchet phóng bom thuốc súng. Mặc dù có tới 7 vạn binh sĩ, hơn 600 tàu chiến, nhưng hải quân Kim do Hoàn Nhan Lượng (Hải Lăng vương) chỉ huy vẫn nhận thất bại trong cả hai trận chiến với hải quân Nam Tống chỉ có vỏn vẹn 3 nghìn binh sĩ và 120 tàu chiến, khi phải hứng chịu những đợt tấn công chớp nhoáng bằng bom thuốc súng từ các tàu chiến mái guồng. Nam Tống tiếp tục phát triển sức mạnh hải quân. Một thế kỷ sau khi thành lập, quân chủng hải quân của đế quốc này đã có tới 52 nghìn lính thủy đánh bộ. Chính quyền Nam Tống tịch thu đất đai của thân sĩ để tăng huê lợi, phục vụ cho các dự án quốc gia kể trên, một hành động gây ra sự bất bình và làm mất đi lòng trung thành trong nội bộ tầng lớp lãnh đạo, nhưng không ngăn cản được tâm thế sẵn sàng phòng thủ của nhà Tống. Vấn đề tài chính công trở nên tồi tệ hơn bởi thực tế là nhiều gia đình chủ đất giàu có – một số có quan chức làm việc cho triều đình – đã sử dụng mối quan hệ xã hội với những người đang tại chức để được miễn thuế. thế=A wooden carving of a slightly overweight Buddha, sitting in a cross legged position. Clothing, including a shirt that covers the shoulders but leaves the chest exposed, and long, baggy pants, are carved into the statue.|nhỏ|267x267px|Tượng Bồ Tát bằng gỗ trong tư thế ngồi, nhà Kim (1115–1234). Mặc dù Nam Tống có thể kiềm chế được nhà Kim, nhưng họ lại sắp sửa phải đối mặt với một thế lực mới thống trị vùng thảo nguyên, sa mạc và đồng bằng phía bắc nhà Kim. Người Mông Cổ, do Thành Cát Tư Hãn () lãnh đạo, ban đầu mới chỉ xâm lược nhà Kim vào hai năm 1205 và 1209 thông qua nhiều cuộc đột kích lớn khắp biên giới, nhưng tới năm 1211, họ quyết định tập hợp một lực lượng khổng lồ để tổng lực chinh phạt nhà Kim. Nhà Kim thất trận, buộc phải phục tùng và cống nạp cho Mông Cổ như một nước chư hầu; khi người Nữ Chân đột ngột dời đô từ Bắc Kinh đến Khai Phong, người Mông Cổ liền cho rằng đây là một động thái nổi loạn. Dưới sự chỉ huy của Oa Khoát Đài (), người Mông Cổ chinh phục cả nhà Kim lẫn Tây Hạ trong hai năm 1233, 1234. Mông Cổ từng liên minh với Nam Tống, nhưng liên minh này nhanh chóng đổ vỡ khi Nam Tống chiếm lại ba cố đô là Khai Phong, Lạc Dương và Trường An ngay khi nhà Kim diệt vong. Sau cuộc xâm lược Đại Việt lần đầu vào năm 1258, tướng Mông Cổ Ngột Lương Hợp Thai tấn công Quảng Tây từ Thăng Long, như một phần chiến lược phối hợp tác chiến vào năm 1259 của người Mông Cổ với các đạo quân chia làm hai nhóm, một nhóm giáp công Tứ Xuyên dưới sự lãnh đạo của Đại hãn Mông Kha, nhóm còn lại tấn công Sơn Đông và Hà Nam. Ngày 11 tháng 8 năm 1259, Mông Kha qua đời giữa cuộc vây hãm pháo đài Điếu Ngư ở Trùng Khánh. Cái chết của Mông Kha và cuộc khủng hoảng kế vị ngay sau đó đã buộc Húc Liệt Ngột kéo phần lớn lực lượng Mông Cổ ra khỏi Trung Đông, nơi họ sẵn sàng chiến đấu với các chiến binh Mamluk (những người đã chặn đứng nhóm quân Mông Cổ còn lại tại Ain Jalut). Dù liên minh với Hốt Tất Liệt, nhưng người của Húc Liệt Ngột cũng chẳng thể giúp gì nhiều trong cuộc chinh phạt Nam Tống do vướng vào cuộc nội chiến với Hãn quốc Kim Trướng. Hốt Tất Liệt tiếp tục nỗ lực tấn công Nam Tống, giành được một chỗ đứng tạm thời ở bờ nam sông Dương Tử. Mùa đông năm 1259, Ngột Lương Hợp Thai lên phía bắc để hội quân với Hốt Tất Liệt lúc này đang bao vây Ngạc Châu, Hồ Bắc. Dù đã sẵn sàng để giành lấy Ngạc Châu, nhưng vì cuộc nội chiến đang chờ xử lý với người em trai A Lý Bất Ca, Hốt Tất Liệt đành phải trở lại phía bắc với phần lớn lực lượng của mình. Khi Hốt Tất Liệt vắng mặt, quân Nam Tống thừa lệnh Thừa tướng Giả Tự Đạo, lập tức tổ chức phản kích và đã thành công trong việc đẩy quân Mông Cổ quay trở lại bờ bắc sông Dương Tử. Tiếp tục có những giao tranh nhỏ dọc biên giới Tống–Mông cho đến năm 1265, khi Hốt Tất Liệt thắng một trận quan trọng ở Tứ Xuyên. Từ năm 1268 đến 1273, Hốt Tất Liệt triển khai hải quân phong tỏa sông Dương Tử và bao vây Tương Dương, chướng ngại vật cuối cùng trên con đường xâm lược lưu vực sông Dương Tử trù phú. Năm 1271, Hốt Tất Liệt chính thức tuyên bố thành lập nhà Nguyên. Năm 1275, 13 vạn quân Nam Tống dưới quyền Giả Tư Đạo bị "tổng tư lệnh" mới bổ nhiệm của Hốt Tất Liệt là tướng Bá Nhan đánh bại. Năm 1276, quân Nguyên kiểm soát hầu hết lãnh thổ Nam Tống, bao gồm cả kinh đô Lâm An. Năm 1279, trong trận Nhai Môn, Trương Hoằng Phạm chỉ huy quân Nguyên dập tắt nỗ lực kháng chiến cuối cùng của Nam Tống trên đồng bằng Châu Giang. Hoàng đế Nam Tống cuối cùng, Tống Thiếu Đế, khi đó mới 13 tuổi, đã tự sát cùng Thừa tướng Lục Tú Phu và 1.300 thành viên hoàng tộc. Bá Nhan theo lệnh Hốt Tất Liệt, không làm hại những thành viên hoàng tộc Nam Tống còn lại; Tống Cung Đế bị phế xuống làm "Doanh quốc công" nhưng rồi cũng bị đày tới Tây Tạng, nơi ông chọn con đường xuất gia. Tống Cung Đế buộc phải tự sát theo lệnh chắt nội của Hốt Tất Liệt, Cách Kiên Hãn, người sợ rằng cựu hoàng Nam Tống sẽ lãnh đạo một cuộc đảo chính. Nhiều hoàng thân Nam Tống vẫn tiếp tục sinh sống và làm việc dưới thời nhà Nguyên, chẳng hạn như Triệu Mạnh Phủ và Triệu Ung. Văn hóa và xã hội thế=A square painting of a branch with a cluster of white flowers at the end. The branch is superimposed over a red square with rounded edges.|trái|nhỏ|210x210px|Mạt lị hoa đồ, đầu thế kỷ 12; Những bức tranh nhỏ dạng album tròn, khắc họa khung cảnh thiên nhiên, đã phổ biến rộng rãi vào thời Nam Tống. Trung Quốc thời nhà Tống là kỷ nguyên của một bộ máy hành chính tinh vi và một tổ chức xã hội phức tạp. Nhà Tống sở hữu nhiều thành phố thuộc vào dạng lớn nhất thế giới đương thời (Khai Phong và Hàng Châu có dân số hơn một triệu người). Trong mỗi thành phố, người dân có cơ hội tham gia các hoạt động giải trí và câu lạc bộ xã hội, đồng thời được cung cấp dịch vụ giáo dục và tôn giáo thông qua nhiều trường học, đền thờ. Chính quyền nhà Tống thực hiện nhiều chương trình phúc lợi xã hội, thành lập nhà hưu trí, phòng khám công cộng và xây dựng nghĩa trang cho người nghèo. Nhà Tống hỗ trợ một dịch vụ bưu chính diện rộng mô phỏng theo hệ thống bưu chính thời nhà Hán (202 TCN–220), giúp thông tin liên lạc được cung cấp nhanh chóng trên khắp đế quốc. Chính quyền trung ương tuyển dụng hàng nghìn nhân viên bưu điện ở nhiều cấp bậc khác nhau để triển khai dịch vụ tại các bưu cục nhỏ và trạm bưu điện lớn. Ở vùng nông thôn, nông dân sở hữu mảnh đất của riêng mình, làm tá điền trả tiền thuê đất hoặc làm nông nô trong các điền trang lớn. Mặc dù phụ nữ có địa vị xã hội thấp hơn nam giới (theo luân lý Nho giáo), họ vẫn được hưởng nhiều đặc quyền về mặt xã hội và luật pháp, được nắm quyền đáng kể trong gia đình hay các doanh nghiệp riêng. Khi xã hội ngày càng thịnh vượng, cha mẹ chu cấp của hồi môn ngày một nhiều cho con gái xuất giá, phụ nữ đương nhiên cũng có thêm nhiều quyền sở hữu tài sản hợp pháp mới. Trong một số trường hợp nhất định, một cô con gái chưa cưới chồng, không có anh em trai hoặc một bà mẹ còn sống không có con trai, có thể được hưởng phân nửa gia tài chưa chia của cha mình. Có rất nhiều phụ nữ tần tảo và có học thức tốt. Đối với họ, việc dạy dỗ con trai lúc còn niên thiếu là một thói quen phổ biến. Mẹ của nhà khoa học, tướng lĩnh, nhà ngoại giao kiêm chính khách Thẩm Quát đã dạy ông những điều cơ bản nhất về chiến lược quân sự. Cũng không thiếu những nhà văn, nhà thơ là nữ giới, chẳng hạn như Lý Thanh Chiếu (1084–1151), người nổi danh ngay trong chính thời đại của mình. thế=A landscape oriented parchment with twenty-one characters written vertically in seven columns.|phải|nhỏ|Thư pháp của Hoàng Đình Kiên (1045–1105), một nhà thư pháp nổi tiếng và là cộng sự của Tô Đông Pha. Tôn giáo ở Trung Quốc trong thời kỳ này có ảnh hưởng to lớn đến đời sống, tín ngưỡng và sinh hoạt thường nhật của con người, thể loại văn học lấy chủ đề tâm linh cũng đã trở nên phổ biến. Các vị thần chính trong Đạo giáo, Phật giáo, vong linh tổ tiên, cùng nhiều vị thần khác trong tín ngưỡng dân gian Trung Quốc được thờ cúng với lễ vật hiến tế. Thẩm Đan Sâm khẳng định rằng có nhiều nhà sư Phật giáo từ Ấn Độ đến Trung Quốc vào thời nhà Tống hơn so với thời nhà Đường (618–907). Việc người ngoại quốc đến Trung Quốc để buôn bán hoặc sinh sống lâu dài đã giúp nhiều tôn giáo nước ngoài du nhập vào nước này. Các tôn giáo thiểu số ở Trung Quốc bao gồm Hồi giáo Trung Đông, Do Thái giáo Khai Phong và Mani giáo Ba Tư. Dân chúng hào hứng với đời sống gia đình và xã hội sôi động, tận hưởng các lễ hội cộng đồng như Tết Nguyên tiêu hay Tiết Thanh minh. Thành phố có nhiều khu vui chơi giải trí với một loạt trò tiêu khiển không ngớt, có người múa rối, diễn viên nhào lộn, diễn viên kịch, ảo thuật gia nuốt kiếm, người kể chuyện, ca sĩ, nhạc sĩ, gái mại dâm và đủ địa điểm để thư giãn, chẳng hạn như trà thất, nhà hàng hay những buổi tiệc tùng có tổ chức. Đông đảo người dân tham gia các câu lạc bộ xã hội; có câu lạc bộ trà, câu lạc bộ ẩm thực lạ, câu lạc bộ sưu tầm đồ cổ, tác phẩm nghệ thuật, câu lạc bộ yêu ngựa, câu lạc bộ thơ ca và câu lạc bộ âm nhạc. Giống như sự phong phú trong ẩm thực và phương thức nấu ăn theo vùng miền, phong cách trình diễn nghệ thuật thời nhà Tống cũng rất đa dạng tại mỗi khu vực khác nhau. Mặc dù diễn viên kinh kịch trình diễn bằng văn ngôn vốn không phải là thứ ngôn ngữ bình dân, nhưng loại hình kịch sân khấu này vẫn rất phổ biến trong cả giới tinh hoa lẫn quần chúng nói chung. Bốn rạp kinh kịch bề thế nhất ở Khai Phong có thể chứa vài nghìn khán giả mỗi rạp. Ngoài ra còn có những trò triêu khiển trong nhà đáng chú ý như cờ vây hay cờ tướng, thu hút được nhiều người tham gia. Khoa cử và tầng lớp thân sĩ thế=A long, portrait oriented painting of a bare-chested, bearded man sitting on a mat under a tree, reading.|trái|nhỏ|346x346px|Liễu ấm cao sĩ đồ, tranh Trung Quốc thế kỷ 11. Vào thời nhà Tống, hệ thống công vụ tuyển dụng quan chức được chú trọng nhiều hơn; nó dựa trên bằng cấp mà các thí sinh giành được thông qua một nhóm kỳ thi giàu tính cạnh tranh gọi là khoa cử, như một nỗ lực nhằm chọn ra những cá nhân có năng lực quản trị xuất sắc nhất. Lấy tài năng đã qua chứng minh làm tiêu chí tuyển dụng quan chức nam giới là một ý tưởng có lịch sử lâu đời ở Trung Quốc. Hệ thống công vụ từng được thể chế hóa trên quy mô nhỏ vào thời Tùy–Đường, nhưng mãi tới thời nhà Tống mới gần như trở thành phương tiện duy nhất để tuyển dụng quan chức cho chính quyền. Sự khuếch trương của ngành công nghiệp in ấn giúp giáo lý Nho giáo được phổ biến rộng rãi, gia tăng số lượng thí sinh đủ điều kiện giáo dục để tham gia các kỳ thi. Điều này có thể thấy rõ thông qua số lượng thí sinh tham gia kỳ giải thí tăng từ 3 vạn người mỗi năm vào đầu thế kỷ 11, lên thành 40 vạn người vào cuối thế kỷ 13. Hệ thống công vụ và khoa cử thúc đẩy chế độ nhân tài, mức độ linh hoạt xã hội và cả sự bình đẳng trong cạnh tranh cho những người muốn giành được một vị trí chính thức trong chính quyền. Sử dụng thống kê mà triều đình nhà Tống thu thập, Edward A. Kracke, Yoshiyuki Sudo và Hà Bỉnh Lệ ủng hộ giả thuyết cho rằng không có gì đảm bảo một người sẽ có cùng mức độ quyền lực với cha, ông nội hoặc ông cố của mình, nếu những người đàn ông thế hệ trước này từng là quan chức nhà nước. Robert Hartwell và Robert P. Hymes đã chỉ trích mô hình giả thuyết trên, cho là nó quá chú trọng đến vai trò của gia đình hạt nhân, chỉ xem xét tới ba đời tổ tiên đằng nội của thí sinh mà bỏ qua thực tế nhân khẩu học thời nhà Tống rằng có một tỷ lệ đáng kể nam giới trong mỗi thế hệ không có con trai nối dõi, cũng như bỏ qua luôn vai trò của đại gia đình. Nhiều người cảm thấy như mình bị tước đoạt quyền lợi bởi họ cho là hệ thống quan liêu ủng hộ tầng lớp chủ đất, những người có khả năng chi trả cho dịch vụ giáo dục vượt trội. Một trong những nhà phê bình văn học nổi tiếng nhất bàn về vấn đề này là nhà thơ Tô Đông Pha. Tuy nhiên, Tô Đông Pha cũng chỉ là sản phẩm của thời đại mà ông đang sống, vì với sự chuyển giao từ thời nhà Đường sang thời nhà Tống, danh tính, thói quen hay thái độ của một sĩ đại phu đã trở nên ít quý tộc hơn và cũng quan liêu hơn. Vào đầu triều đại, chức vụ cao trong chính quyền do hai nhóm tinh hoa nắm giữ một cách không cân xứng: một nhóm công thần có ràng buộc với hoàng đế khai quốc và một nhóm thế gia, sử dụng địa vị thị tộc truyền đời, các mối quan hệ gia đình và liên minh hôn nhân để đảm bảo được bổ nhiệm. Cuối thế kỷ 11, nhóm công thần mất chỗ đứng. Trong khi đó, đảng phái chính trị và chủ nghĩa bè phái trong triều đình đã làm suy yếu chiến lược liên minh hôn nhân của nhóm thế gia, để rồi nhóm này không còn phân biệt được trong xã hội và bị thay thế bởi vô số gia tộc thân sĩ. thế=Five pieces of pale green pottery. From left to right, a cylindrical bowl with a large, flat rim, a vase with a long, thin stem and a short, almost spherical body, a tall, thin glass, a wider vase with no stem, and a small opening at the top, and a vase with a long, but wide stem and an almost spherical body.|nhỏ|Men ngọc Long Tuyền, Chiết Giang, thế kỷ 13. thế=An older woman sits in front of a machine consisting of a vertically aligned wheel composed of about two dozen flat wooden spokes, with a string for an outside rim. The wheel is held up by a simple wooden pole stand. Two other older women watch the first.|nhỏ|Phưởng xa đồ, một bức tranh của họa sĩ Bắc Tống Vương Cư Chính, là một trong những hình minh họa sớm nhất của phát minh này. Do tốc độ gia tăng dân số chóng mặt và bộ máy hành chính thì chấp nhận số lượng quan chức hạn chế (khoảng 2 vạn người trong thời nhà Tống), tầng lớp thân sĩ đông đảo hơn sẽ đảm nhận công việc cơ sở ở cấp địa phương. Không bao gồm sĩ đại phu tại chức, thân sĩ là các thí sinh đỗ đạt nhưng chưa được bổ nhiệm, gia sư địa phương và quan chức về hưu. Chính những người đàn ông có học thức này đã giám sát công việc địa phương và tài trợ cơ sở vật chất cần thiết cho cộng đồng; bất kỳ huyện lệnh nào được bổ nhiệm đều phải dựa vào sự hợp tác của một số ít hoặc nhiều thân sĩ trong khu vực. Ví dụ, chính quyền nhà Tống – trừ giai đoạn cải cách giáo dục thời Tống Huy Tông – chi rất ít tiền ngân khố để duy trì các trường học cấp châu và huyện; thay vào đó, phần lớn quỹ trường học được lấy từ nguồn tài chính tư nhân. Vai trò hạn chế của quan chức chính quyền thời nhà Tống là một điểm khác biệt so với thời nhà Đường (618–907), khi chính quyền quản lý chặt chẽ thị trường và công việc địa phương. Giờ đây, chính quyền đã dần không còn điều tiết hoạt động thương mại và giao cho thân sĩ tự thực hiện các nhiệm vụ thiết yếu trong cộng đồng mà họ đang cư trú. Tầng lớp thân sĩ tự làm mình khác biệt trong xã hội thông qua hoạt động theo đuổi tri thức, sưu tầm cổ vật, trong khi nhà của những chủ đất tiếng tăm lại thu hút được nhiều thị thần, bao gồm các nghệ nhân, nghệ sĩ, gia sư và người làm trò mua vui. Bất chấp sự coi thường dành cho nghề buôn bán, thương mại và thương nhân, đến từ giới sĩ đại phu ưu tú có trình độ văn hóa cao, chủ nghĩa giao thương vẫn giữ một vai trò nổi bật trong văn hóa, xã hội thời nhà Tống. Một sĩ đại phu sẽ bị đồng nghiệp khinh bỉ nếu tìm cách kiếm thêm thu nhập ngoài khoản lương nhà nước. Tuy nhiên, điều này không ngăn được nhiều sĩ đại phu quản lý các mối quan hệ kinh doanh thông qua chi nhánh trung gian. Luật, tư pháp và khoa học pháp y thế=A painting of a play being staged in a courtyard. In the center, a man in loose black robes appears in mid-bow or mid-dance. To the left, two men dressed as guards are holding a third man, dressed in the same attire as the man in the center. To the right, a heavy set man sits in a throne. Behind him stand three women in white face paint and a man dressed in the same attire as the man in the center.|phải|nhỏ|Chiết hạm đồ, tranh đầu thế kỷ 12. Hệ thống tư pháp nhà Tống giữ lại hầu hết pháp điển của nhà Đường, cơ sở cho nhiều bộ luật truyền thống ở Trung Quốc mãi cho tới thời hiện đại. Huyện úy duy trì luật pháp và trật tự trong khu vực pháp lý đô thị, đôi khi mạo hiểm đến cả vùng nông thôn. Huyện lệnh, người giám sát các phiên tòa, không chỉ nắm vững luật thành văn mà còn phải đề cao đạo đức trong xã hội. Các huyện lệnh như Bao Thanh Thiên (999–1062) nổi tiếng là hiện thân của sự ngay thẳng, luôn duy trì công lý và không bao giờ làm trái quy tắc của bản thân. Trong mỗi phiên tòa, họ sẽ chỉ rõ người hoặc bên có tội và đưa ra hình phạt thích đáng, thường là dưới hình thức đòn roi. Một cá nhân hoặc một bên bị đưa ra xét xử vì tội hình sự hoặc dân sự không được coi là hoàn toàn vô tội cho đến khi chứng minh được điều ngược lại, ngay cả người buộc tội cũng bị huyện lệnh xem xét với mức độ nghi ngờ cao. Do chi phí kiện cáo tốn kém và việc người bị buộc tội hình sự sẽ phải ngồi tù ngay lập tức, dân chúng thích giải quyết tranh chấp, cãi vả một cách riêng tư mà không cần sự can thiệp của chính quyền. Trong cuốn Mộng Khê bút đàm, Thẩm Quát từng lập luận chống lại nhiều niềm tin truyền thống của người Trung Quốc về ngành giải phẫu học; điều này có lẽ đã thúc đẩy mối quan tâm dành cho công tác khám nghiệm tử thi ở Trung Quốc trong thế kỷ 12. Bác sĩ kiêm thẩm phán Tống Từ (1186–1249) đã viết một công trình khoa học pháp y tiên phong bàn về việc khám nghiệm tử thi để xác định nguyên nhân cái chết (do bóp cổ, đầu độc, đuối nước, hay đánh đập, v.v). Qua đó, chứng minh nạn nhân bị giết, tự tử hay gặp tai nạn. Tống Từ nhấn mạnh tầm quan trọng về tiêu chuẩn hành vi của mỗi nhân viên điều tra và việc thư ký phải ghi lại kết quả chính xác trong quá trình khám nghiệm tử thi. Quân đội và phương pháp tác chiến thế=A long, landscape oriented painting of eight figures. From left to right, the first, third, fifth, sixth, and eighth people are armed, with the first and last men most heavily armed, carrying both a bow and a sword, with the other three carrying either a bow or a sword but not both. Each of the men wears a thin, flat, black cap. The third and sixth figure are also a head shorter than the rest of the figures.|phải|nhỏ|300x300px|Trung hưng tứ tướng của họa sĩ Nam Tống Lưu Tùng Niên (1174–1224); danh tướng Nhạc Phi (1103–1142) đứng thứ hai từ trái qua. Quân đội nhà Tống chủ yếu được tổ chức để đảm bảo rằng nó không thể đe dọa tới quyền kiểm soát đế quốc. Điều này đôi khi làm giảm đi hiệu quả chiến đấu. Xu mật viện, cơ quan chính quyền trung ương chịu trách nhiệm về lực lượng quân đội, hoạt động dưới quyền xu mật sứ, người không có khả năng kiểm soát hoàn toàn cấm quân. Cấm quân được phân chia cho ba nguyên soái thống lĩnh, mỗi người chịu trách nhiệm độc lập trước hoàng đế. Và cũng vì hoàng đế hiếm khi đích thân dẫn binh, quân Tống thiếu sự thống nhất trong chỉ huy. Nhiều tướng lĩnh thành đạt bị coi là mối đe dọa đối với hoàng quyền và thường bị miễn nhiệm hoặc thậm chí là xử tử (nổi tiếng nhất là Lý Cương, Nhạc Phi và Hàn Thế Trung). Mặc dù quân nhân bị sĩ đại phu coi thường trong một trật tự xã hội có thứ bậc, một người vẫn có thể giành được địa vị và phẩm giá bằng cách trở thành những sĩ quan cấp cao với thành tích chiến trường hiển hách. Vào thời cực thịnh, quân Tống có một triệu binh sĩ được chia thành các trung đội 50 người, các đại đội gồm hai trung đội và các tiểu đoàn 500 người. Lính dùng nỏ được tách ra khỏi bộ binh thông thường, tổ chức thành đơn vị riêng, được đánh giá là lực lượng tinh nhuệ trong chiến đấu, cung cấp giải pháp hiệu quả chống lại kỵ binh. Chính quyền mong muốn được tài trợ cho những thiết kế nỏ tân tiến có khả năng gia tăng tầm bắn. Trong khi đó, những tay nỏ cự phách rất có giá trị khi được sử dụng trong vai trò lính bắn tỉa tầm xa. Kỵ binh Tống sử dụng một loạt loại vũ khí khác nhau bao gồm phủ thương, kiếm, cung, giáo và hỏa thương. trái|nhỏ|253x253px|Liệu Địch tháp, tháp chùa cao nhất Trung Quốc thời tiền hiện đại, được xây dựng vào năm 1055. Ban đầu được dự định chỉ đơn thuần là một công trình kiến trúc Phật giáo, nhưng sau đó dần được sử dụng như một tháp canh quân sự. Chiến lược quân sự và huấn luyện quân sự được xem xét như những ngành khoa học có thể nghiên cứu, hoàn thiện. Binh sĩ được kiểm tra kỹ năng sử dụng thành thạo vũ khí và năng lực vận động thể chất. Quân đội được huấn luyện sao cho biết cách tiến lên khi cờ hiệu được vẫy, dừng lại khi có tiếng chuông và tiếng trống. Hải quân Tống đóng vai trò quan trọng trong quá trình củng cố đế quốc vào thế kỷ thứ 10; trong cuộc chiến với Nam Đường, họ đã tập trung bảo vệ nhiều cây cầu phao lớn bắc qua sông Dương Tử để bảo đảm hoạt động hành quân và tiếp vận. Hải quân Tống sở hữu những tàu chiến cỡ lớn có thể chứa được 1 nghìn binh sĩ trên boong. Tàu chiến mái guồng di chuyển nhanh được xem như phương tiện cơ giới thiết yếu trong bất kỳ trận hải chiến thành công nào. Trong trận chiến ngày 23 tháng 1 năm 971, làn mưa tên từ các tay nỏ bên phía quân Tống đã tiêu diệt quân đoàn voi chiến của Nam Hán. Trận thua này không chỉ đánh dấu sự khuất phục của Nam Hán trước nhà Tống, mà còn là lần cuối cùng đơn vị voi chiến được sử dụng như một sư đoàn chính quy trong quân đội Trung Quốc. Có tổng cộng 347 luận thuyết quân sự được viết vào thời nhà Tống, thống kê trong Tống sử. Tuy nhiên, chỉ một số ít còn tồn tại tới ngày nay, chẳng hạn như Vũ kinh tổng yếu ra đời năm 1044. Đây là cuốn sách liệt kê công thức thuốc súng đầu tiên được biết đến, đưa ra nhiều công thức thích hợp áp dụng cho một số loại bom thuốc súng khác nhau. Ngoài ra, Vũ kinh tổng yếu cũng cung cấp mô tả, thông tin chi tiết và hướng dẫn bảo trì, sửa chữa các bộ phận, thiết bị thành phần của súng phun lửa bơm pít tông đôi. Nghệ thuật, văn học và triết học thế=A wooden carving of a female human figure, sitting with one knee on the ground and one knee pointing up, with a hand resting on that knee. The carving includes loose fitting clothing, which is covered mainly in gold foil.|phải|nhỏ|Tượng Bồ Tát bằng gỗ từ thời nhà Tống (960–1279). Nghệ thuật thị giác được nâng tầm nhờ những tiến bộ mới trong các lĩnh vực như vẽ tranh phong cảnh, tranh chân dung. Thân sĩ dành thời gian rảnh rỗi để vẽ tranh, làm thơ hoặc viết thư pháp. Nhà thơ kiêm chính khách Tô Đông Pha cùng cộng sự Mễ Phất (1051–1107) rất thích sưu tầm đồ cổ, thường mượn hoặc mua các tác phẩm nghệ thuật về để nghiên cứu và sao chép. Thơ ca và văn học hưởng lợi nhờ sự phổ biển, phát triển của thể thơ từ. Một số lượng lớn bách khoa toàn thư đã được biên soạn, bao gồm các tác phẩm sử học và hàng chục chuyên luận về chủ đề kỹ thuật. Bộ thông sử đồ sộ Tư trị thông giám bao gồm 1 nghìn tập, chứa 9,4 triệu Hán tự. Thể loại văn học du ký phổ biến với các tác phẩm của Tô Đông Pha và nhà địa lý học Phạm Thành Đại (1126–1193). Trong Thạch chung sơn ký, Tô Đông Pha sử dụng lối bài luận thuyết phục để lập luận cho một quan điểm triết học. Mặc dù đã có dạng sơ khai từ thế kỷ thứ nhất, tới thời nhà Tống, một loại địa chí hoàn thiện gọi là phương chí mới ra đời, thay thế cho đồ kinh truyền thống. Hoàng cung có rất nhiều họa sĩ, nhà thư pháp, nhà thơ và người kể chuyện. Tống Huy Tông tích cực bảo trợ nghệ thuật và là một nghệ sĩ có tiếng, danh mục bộ sưu tập của ông được liệt kê có hơn 6 nghìn bức tranh. Trương Trạch Đoan (1085–1145) là ví dụ điển hình cho một họa sĩ cung đình được trọng vọng, tác giả của bức tranh toàn cảnh quy mô Thanh minh thượng hà đồ. Tống Cao Tông khởi xướng một dự án nghệ thuật lớn trong thời trị vì của ông, mang tên Hồ già thập bát phách, lấy cảm hứng từ cuộc đời Thái Văn Cơ (sinh. 177). Hồ gia thập bát phách là cử chỉ ngoại giao mà Tống Cao Tông dành cho nhà Kim trong thời gian ông thương lượng để người Nữ Chân chịu thả mẹ mình. thế=A portrait of an older, balding man in a half pale green and half sky blue robe. He is sitting on an armchair holding a thin wooden stick, possibally a folded up fan.|trái|nhỏ|246x246px|Chân dung Thiền sư Trung Quốc Vô Chuẩn Sư Phạm, được vẽ vào năm 1238. Về triết học, Phật giáo Trung Quốc đã suy giảm ảnh hưởng nhưng vẫn giữ được vị thế trong lĩnh vực nghệ thuật và trong hoạt động từ thiện ở các tu viện. Phật giáo tác động sâu sắc đến phong trào Tân Nho giáo mới chớm nở, do Trình Di (1033–1107) và Chu Hi lãnh đạo. Phật giáo Đại thừa ảnh hướng đến Phạm Trọng Yêm và Vương An Thạch thông qua quan niệm về chủ nghĩa phổ quát đạo đức. Trong khi đó, siêu hình học Phật giáo chi phối học thuyết tiền Tân Nho giáo của Trình Di. Chính các tác phẩm triết học của Trình Di đã tác động tới Chu Hi. Mặc dù các công trình của Chu Hi không được đồng nghiệp đương thời chấp nhận, việc ông bình luận và nhấn mạnh bốn tác phẩm Nho học kinh điển trong bộ Tứ thư như tài liệu Nho giáo nhập môn đã hình thành nên cơ sở của học thuyết Tân Nho giáo. Đến năm 1241, dưới sự bảo trợ của Tống Lý Tông, bộ Tứ thư và lời bình kèm theo của Chu Hi trở thành học liệu tiêu chuẩn dành cho những thí sinh muốn đỗ đạt khoa cử. Hai quốc gia Đông Á là Nhật Bản và Hàn Quốc cũng áp dụng giáo trình của Chu Hi, lần lượt gọi nó với cái tên Shushigaku (朱子學) và Jujahak (주자학). Ảnh hưởng liên tục của Phật giáo có thể thấy trong nhiều tác phẩm hội họa như La hán tẩy sam của Lâm Đình Khuê. Tuy nhiên, Phật giáo bị một số người chỉ trích hoặc thậm chí là khinh bỉ. Chính khách kiêm sử gia Âu Dương Tu (1007–1072) gọi tôn giáo này là một "lời nguyền" chỉ có thể được phá giải bằng cách nhổ bỏ khỏi văn hóa Trung Hoa và thay thế bằng diễn ngôn Nho giáo. Phật giáo sẽ không thể nào thực sự phục hưng nếu nhà Nguyên không cai trị Trung Quốc kéo theo sự bảo trợ mà Hốt Tất Liệt dành cho Phật giáo Tây Tạng và nhà sư Bát Tư Ba trong vai trò lạt-ma lãnh đạo. Cảnh giáo, một tông phái Cơ Đốc giáo du nhập vào Trung Quốc từ thời nhà Đường, cũng sẽ được hồi sinh dưới sự cai trị của người Mông Cổ. Ẩm thực và phục trang thế=A red, square tray with cut off corners. Inlaid into the tray in gold foil is a design depicting two birds perched on a branch of a large, lowering plant.|phải|nhỏ|210x210px|Một khay đựng thức ăn bằng sơn mài màu đỏ với thiết kế khắc hình hoa mẫu đơn và hai con chim đuôi dài, có niên đại từ thế kỷ 12 đến đầu thế kỷ 13. Luật cấm xa hoa quy định những loại thực phẩm được ăn, loại trang phục được mặc của mỗi người dân, tùy theo địa vị và tầng lớp xã hội. Quần áo được làm bằng vải gai dầu hoặc bông, giới hạn hai màu tiêu chuẩn là đen và trắng. Nông dân, binh sĩ, nghệ nhân và thương gia mặc quần dài. Thương gia giàu sang thì có quyền mặc nhiều loại quần áo trang trí công phu và áo cánh dài qua thắt lưng. Trang phục quy chuẩn của sĩ đại phu được xác định một cách chặt chẽ theo hệ thống thứ hạng xã hội. Tuy nhiên, theo thời gian, những quy tắc về trang phục dựa trên phẩm bậc của quan chức dần không còn được chấp hành nghiêm túc. Quan chức biểu lộ địa vị thông qua những chiếc áo bào truyền thống dài chấm đất, có màu sắc đa dạng; thể hiện phẩm bậc thông qua các loại mũ mão hoặc đai lưng cụ thể.     Phụ nữ mặc áo dài, áo cánh dài đến đầu gối, váy, áo khoác dài tay, ngắn tay, nếu khá giả thì còn có thể đeo thêm khăn quàng cổ tím quanh vai. Sự khác biệt chính trong trang phục của phụ nữ so với nam giới là chúng được buộc thít ở bên trái, thay vì bên phải. Món ăn chính trong khẩu phần ăn của những người thuộc tầng lớp thấp vẫn là cơm trắng, thịt lợn và cá muối. Năm 1011, thời Tống Chân Tông, Vương quốc Chăm Pa gửi 3 vạn giạ lúa giống làm cống vật cho nhà Tống. Lúa Chăm Pa chịu hạn tốt, phát triển đủ nhanh để nông dân có thể thu hoạch hai thay vì chỉ một vụ mùa mỗi năm. Thực đơn nhà hàng và tửu quán thời nhà Tống đều được ghi chép lại. Những thực đơn này liệt kê yêu cầu dành cho các buổi lễ ăn hỏi, yến tiệc, lễ hội. Chúng bật mí một chế độ ăn uống đa dạng, xa hoa dành cho những người thuộc tầng lớp thượng lưu. Thời điểm này, sản phẩm từ sữa rất hiếm xuất hiện trong ẩm thực đương thời. Thịt bò cũng ít khi được tiêu thụ vì bò đực là loài động vật có giá trị sức kéo và thịt chó thì không có trong chế độ ăn uống của người giàu. Mặc dù dân nghèo có thể chọn ăn thịt chó khi cần thiết, nhưng đó cũng không phải là món ăn trong chế độ ăn uống thông thường của họ. Người dân thường tiêu thụ quả chà là, táo tàu, lê, mơ, mận hậu, nước lê, nước vải ép, đồ uống mật ong trộn gừng; dùng nhiều loại gia vị như ớt Tứ Xuyên, gừng, xì dầu, dầu thực vật, dầu mè, muối và giấm. Kinh tế thế=A long, horizontally aligned section of painting that details several large trading barges docked along a river. The barges have curved bottomed hull and vertical wooden walls that are topped in a line of roofing tiles, but do not have actual roofs. Only one of the ships has a mast, although all of the ships do have large rudders.|phải|nhỏ|300x300px|Tàu Trung Quốc trong bức tranh Thanh minh thượng hà đồ của Trương Trạch Đoan (1085–1145); Các tàu Trung Quốc thời nhà Tống đã có vách ngăn kín nước ở phần thân tàu. Nhà Tống có một trong những nền kinh tế thịnh vượng và phát triển nhất thế giới trung cổ. Người Trung Quốc đầu tư tiền vào các công ty cổ phần cùng rất nhiều tàu buồm, khi mà lợi nhuận tiền tệ được đảm bảo từ hoạt động thương mại trong và ngoài nước sôi động dọc theo kênh Đại Vận Hà và sông Dương Tử. Doanh nghiệp tư nhân và những gia đình thương nhân có tiếng được phép chiếm lĩnh các ngành công nghiệp chưa bị nhà nước độc quyền. Cả công nghiệp tư nhân và công nghiệp do chính quyền kiểm soát đều đủ sức theo kịp tốc độ gia tăng dân số. Nghệ nhân, thương nhân thành lập nhiều phường hội, buộc chính quyền phải tìm cách đối phó mỗi khi tiến hành đánh thuế, trưng dụng hàng hóa, đặt giá cả tiêu chuẩn và mức lương tối thiểu cho người lao động. Ngành công nghiệp sắt có sự tham gia của các nhà khởi nghiệp tư nhân với lò luyện của riêng họ và các cơ sở nấu luyện sắt do chính quyền giám sát. Nền kinh tế nhà Tống đủ ổn định để sản xuất hơn một trăm triệu kilôgam sản phẩm bằng sắt mỗi năm. Nạn phá rừng quy mô lớn ở Trung Quốc sẽ còn tiếp tục xảy ra nếu không có sự đổi mới từ thế kỷ 11, khi người ta sử dụng than đá thay cho than củi trong các lò cao nấu gang. Sắt được dùng chủ yếu để chế tạo vũ khí và áo giáp cho quân đội, một phần dùng để đúc nhiều sản phẩm thiết yếu, đáp ứng nhu cầu nội địa ngày càng gia tăng. Giao thương sản phẩm bằng sắt phát triển nhờ hệ thống kênh đào mới xây dựng, tạo điều kiện thuận lợi để dòng sản phẩm từ các trung tâm sản xuất có thể tiếp cận thị trường lớn ở kinh đô. thế=Three pieces of white porcelain. From left to right, a vase with a grooved, fat body, a short, thin stem, and small opening with a large flat rim extending from it, a simple bowl with a thin brown trim around the outside rim, and a container in the shape of a granary, with several viable support posts, a tiled roof, and a staircase leading to a door, all built into the piece.|phải|nhỏ|Trái: Một chiếc bình gốm sứ thời Bắc Tống với men gốm trong suốt có tông màu xanh lam, từ Cảnh Đức Trấn, thế kỷ 11; Giữa: Một chiếc bát sứ quý thời Bắc hoặc Nam Tống với trang trí hoa sen khía, viền kim loại và men tráng màu xanh lam trong suốt, từ Cảnh Đức Trấn, thế kỷ 12 hoặc 13; Phải: Mô hình thu nhỏ của một kho thóc thời Nam Tống với nắp mái và ô cửa có thể tháo rời, đồ sứ thanh bạch với men xanh lam trong suốt, Cảnh Đức Trấn, thế kỷ 13. Năm 1085, số lượng tiền xu mà nhà Tống đúc thường niên đã chạm mức sáu tỷ đồng. Chính quyền nhà Tống là chính quyền đầu tiên trên thế giới phát hành tiền giấy. Để phục vụ hoạt động in tiền, triều đình thành lập một số công xưởng do nhà nước điều hành ở Huệ Châu, Thành Đô, Hàng Châu và An Kỳ. Có rất đông lao động làm việc trong các công xưởng này. Năm 1175, người ta ghi nhận hơn một nghìn nhân công làm việc trong công xưởng Hàng Châu mỗi ngày. Sức mạnh kinh tế của nhà Tống ảnh hưởng mạnh mẽ tới nền kinh tế của các quốc gia khác. Trong ghi chép của mình vào năm 1154, nhà địa lý học người Ma rốc al-Idrisi từng mô tả về năng lực xuất chúng của những đoàn tàu buôn Trung Quốc ở Ấn Độ Dương trong các chuyến hải trình thường niên, mang sắt thép, đao kiếm, nhung lụa và nhiều loại hàng dệt may khác tới Aden, sông Ấn và sông Euphartes. Ở chiều ngược lại, người nước ngoài cũng có những tác động nhất định tới nền kinh tế Trung Quốc. Nhiều người Hồi giáo Tây Á và Trung Á sang Trung Quốc buôn bán, trở thành lực lượng ưu việt trong ngành xuất nhập khẩu, thậm chí còn được bổ nhiệm làm cán bộ giám sát các vấn đề kinh tế. Giao thương đường biển với Đông Nam Á, thế giới Ấn Độ giáo, thế giới Hồi giáo và Đông Phi đã mang lại cho các thương gia khoản tài sản kếch xù và thúc đẩy ngành đóng tàu ở Phúc Kiến phát triển vượt bậc. Tuy nhiên, việc tham gia vào các dự án dài hạn ở hải ngoại tiềm ẩn nhiều rủi ro. Để giảm thiểu nguy cơ mất tiền oan khi đầu tư vào thương mại hàng hải với nước ngoài, Ebrey, Walthall và Plais thuật lại: Các nhà đầu tư [thời nhà Tống] thường chia khoản đầu tư của họ cho nhiều con tàu và mỗi con tàu lại có nhiều nhà đầu tư đứng sau. Một nhà quan sát từng cho rằng chính sự háo hức hùn vốn vào thương mại nước ngoài đã tạo nên dòng thất thoát tiền đồng. Ông viết, 'Dân ven biển biết rất rõ thương nhân ngoại quốc vì là đồng hương hoặc người quen...Họ cho thương nhân tiền để mang theo tàu, mua rồi đem về hàng hóa nước ngoài. Đầu tư từ mười đến một trăm quan tiền, người dân thường xuyên thu về lợi nhuận vài trăm phần trăm.' Khoa học và kỹ thuật thế=An ink on paper diagram of a trebuchet. A long arm with a spherical cap rests on top of a large square platform. The square platform is supported by four plain cut square beams, which connect to an open undercarriage. Rope hangs between the end of the pole that does not have the cap to the inside of the undercarriage, as far away from the start of the rope as possible. The assembly moves on four wheels attached to the sides of the undercarriage.|phải|nhỏ|273x273px|Hình minh họa máy phóng trebuchet từ bản thảo Vũ kinh tổng yếu năm 1044. Những chiếc máy phóng như thế này được sử dụng để phóng loại bom nổ sơ khai nhất. Chiến tranh thuốc súng Nhờ sự có mặt của thuốc súng, những tiến bộ trong công nghệ vũ khí – như súng phun lửa sơ khai, lựu đạn nổ, hỏa thương, súng thần công và mìn – đã giúp nhà Tống đánh đuổi nhiều kẻ thù cho đến khi diệt vong vào cuối thế kỷ 13. Vũ kinh tổng yếu ra đời năm 1044, là cuốn sách đầu tiên trong lịch sử cung cấp công thức thuốc súng và cách áp dụng cụ thể cho từng loại bom khác nhau. Năm 1259, khi đang giao chiến với quân Mông Cổ, viên quan Lý Tăng Bá viết trong Khả trai tạp khảo rằng thành Thanh Châu gửi tới Tương Dương và Dĩnh Châu khoảng một đến hai vạn quả bom vỏ sắt cùng một lúc, đồng thời vẫn đang tiếp tục chế tạo từ một đến hai nghìn quả như vậy mỗi tháng. Ở bên kia chiến tuyến, quân Mông Cổ chiêu mộ binh sĩ miền bắc Trung Quốc và dùng chính loại bom thuốc súng kể trên để chiến đấu với quân Tống. Mãi thế kỷ 14, súng cầm tay và súng thần công mới được tìm thấy ở Châu Âu, Ấn Độ và Trung Đông trong giai đoạn đầu của thời đại chiến tranh thuốc súng. Đo khoảng cách và định hướng cơ học Ngay từ thời nhà Hán, khi nhà nước cần đo chính xác quãng đường đi lại trên khắp đế quốc, người Trung Quốc đã biết dùng dụng cụ đo đường cơ học. Hành trình kế Trung Quốc là một cỗ xe có bộ bánh răng được dẫn động nhờ chuyển động xoay của bánh xe; từng đơn vị lý sẽ được đánh dấu bằng tiếng trống hoặc tiếng chuông. Các thông số kỹ thuật của hành trình kế thế kỷ 11 được viết bởi Lư Đạo Long, nhân vật có khá nhiều trích dẫn trong Tống sử. Thời nhà Tống, hành trình kế cũng được kết hợp với một thiết bị cơ khí phức tạp khác gọi là cỗ xe chỉ nam. Cỗ xe chỉ nam, ban đầu được chế tạo bởi Mã Quân vào thế kỷ thứ 3, đặc trưng bởi một bánh răng vi sai cho phép hình nộm gắn trên xe luôn chỉ về hướng nam, bất kể nó chuyển động như thế nào. Bánh răng vi sai hiện nay đã được ứng dụng trong ô tô hiện đại, giúp áp một lượng mô-men xoắn bằng nhau cho bốn bánh xe ngay cả khi chúng đang quay với tốc độ khác nhau. Nhà bác học, phát minh và thiên văn học thế=A diagram of the interior of a clocktower. The clock mechanism has several large gears, however it is not apparent how they would receive stimulus to move.|nhỏ|278x278px|Sơ đồ bên trong tháp đồng hồ thiên văn ở Khai Phong, có trong cuốn sách của Tô Tụng, được viết vào năm 1092 và được xuất bản dưới dạng bản in vào năm 1094. Các cá nhân như Thẩm Quát (1031–1095) và Tô Tụng (1020–1101) là hiện thân của những nhà bác học có tiến bộ ở tất cả mọi lĩnh vực mà họ nghiên cứu, bao gồm thực vật học, động vật học, địa chất học, khoáng vật học, cơ học, từ học, khí tượng học, kỹ thuật đo thời gian, thiên văn học, dược phẩm, khảo cổ học, toán học, bản đồ học, quang học, phê bình nghệ thuật, thủy lực học, v.v. Thẩm Quát là người đầu tiên phát hiện ra độ lệch địa từ của hướng bắc trắc địa khi thử nghiệm với la bàn. Ông đưa ra giả thuyết rằng khí hậu đang biến đổi theo thời gian. Thẩm Quát xây dựng một lý thuyết về sự hình thành đất liền, liên quan đến các khái niệm được chấp nhận trong ngành địa mạo học hiện đại. Ông là người thứ hai thí nghiệm quang học với phòng tối, chỉ vài thập kỷ sau khi người đầu tiên là Ibn al-Haytham thực hiện. Thẩm Quát cải tiến thiết kế của một số dụng cụ thiên văn như ống ngắm, thứ cho phép ông cố định vị trí sao Bắc cực (vốn đã dịch chuyển sau nhiều thế kỷ). Nhà bác học này cũng nổi tiếng ở lĩnh vực đồng hồ thủy lực, phát minh ra một loại đồng hồ nước bể tràn có chức năng nội suy bậc cao – hiệu quả hơn so với nội suy tuyến tính – trong việc hiệu chuẩn thước đo thời gian. Tô Tụng nổi tiếng nhất với chuyên luận về phép đo thời gian viết vào năm 1092, trong đó mô tả và minh họa chi tiết tháp đồng hồ thiên văn cao 12 m chạy nhờ thủy lực của ông, được xây dựng ở Khai Phong. Tháp đồng hồ có một hỗn thiên nghi và một thiên cầu lớn đều được điểu khiển bởi một cơ cấu bộ thoát sơ khai hoạt động không liên tục (tương tự như bộ thoát verge trong máy đồng hồ trung cổ ở phương tây, có nguồn gốc từ máy đồng hồ thời cổ đại Hy–La). Nó còn được trang bị một bánh răng xoay với 133 hình nộm được hẹn giờ để quay qua các cánh cửa chớp đã đóng, đồng thời rung chuông, đánh trống và trình bảng thông báo. Trong cuốn sách của mình, Tô Tụng xuất bản một tập bản đồ thiên thể gồm năm biểu đồ chiêm tinh. Những biểu đồ này có phép chiếu hình trụ tương tự như phép chiếu Mecrator – phát kiến được Gerardus Mercator giới thiệu trong tấm bản đồ năm 1569 của ông. Người Trung Quốc thời nhà Tống cũng dành thời gian để quan sát siêu tân tinh. Bình đồ địa cầu Tô Châu thạch khắc thiên văn đồ vốn được chuẩn bị vào năm 1193, để chỉ dẫn thái tử về những phát hiện thiên văn học. Vài thập kỷ sau, nó mới được khắc lên đá. Toán học và bản đồ học thế=An image, probably a printout of a photograph, of a map of eastern China, complete with rivers. The area of the map covered by land features a near perfect grid pattern, which because it does not overlap any text, is clearly the work of the original mapmaker.|phải|nhỏ|213x213px|Vũ tích đồ được chạm khắc lên đá vào năm 1137, nằm trong Rừng bia Tây An. Bản đồ hình vuông cạnh 0,91 m này có tỷ lệ chia độ là 100 lý cho mỗi ô lưới chữ nhật. Đường bờ biển và hệ thống sông ngòi của Trung Quốc được xác định rõ ràng và chính xác trên bản đồ. Toán học Trung Quốc có rất nhiều bước tiến đáng chú ý trong thời nhà Tống. Tam giác Pascal có hình minh họa sớm nhất ở Trung Quốc trong một cuốn sách xuất bản năm 1261 của nhà toán học Dương Huy, mặc dù từng được mô tả trước đó bởi Giả Hiến, vào khoảng năm 1100. Dương Huy đưa ra những quy tắc để xây dựng các sắp xếp tổ hợp trong ma phương, cung cấp bằng chứng lý thuyết cho mệnh đề thứ bốn mươi ba của Euclid về hình bình hành và là người đầu tiên sử dụng hệ số âm của 'x' trong phương trình bậc hai. Tần Cửu Thiều cùng thời với Dương Huy, là người đầu tiên đưa ký hiệu số 0 vào toán học Trung Quốc; trước đó, với bộ que tính, người ta dùng khoảng trống để biểu đạt giá trị 0. Ông cũng được biết đến với việc nghiên cứu định lý số dư Trung Quốc, công thức Heron và dữ liệu thiên văn dùng để xác định ngày đông chí. Tác phẩm lớn nhất của Tần Cửu Thiều, Số thư cửu chương, phát hành vào năm 1247. Hình học là nhân tố không thể thiếu trong ngành trắc địa và bản đồ học. Bản đồ Trung Quốc lâu đời nhất còn tồn tại có niên đại vào khoảng thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên, nhưng mãi tới thời của Bùi Tú (224–271), độ cao địa hình, lưới tọa độ hình chữ nhật và tỷ lệ khoảng cách chia độ tiêu chuẩn mới được đưa vào bản đồ địa lý. Tiếp nối những công trình sẵn có, Thẩm Quát đã chế tạo nên một mô hình địa hình. Ông sử dụng tỷ lệ thống nhất 1:900.000 khi vẽ bản đồ. Một tấm bản đồ hình vuông có cạnh khoảng 0,9 m – được khắc trên đá vào năm 1137 – tuân theo tỷ lệ lưới tọa độ thống nhất là cứ 100 lý cho mỗi ô vuông, phác thảo chính xác đường nét sông ngòi, bờ biển ở Trung Quốc, kéo dài tới tận Ấn Độ. Bản đồ địa hình cổ nhất được biết đến trên thế giới ở dạng bản in, đến từ bộ bách khoa toàn thư do Dương Giai biên tập vào năm 1155, hiển thị miền tây Trung Quốc mà không có lưới tọa độ – yếu tố đặc trưng ở những tấm bản đồ Trung Quốc khác được vẽ chuyên nghiệp hơn. Mặc dù địa chí đã có từ năm 52 thời nhà Hán và địa chí kèm theo bản đồ minh họa (gọi là đồ kinh) đã xuất hiện từ thời nhà Tùy, nhưng địa chí minh họa phổ biến hơn nhiều vào thời nhà Tống, khi người ta dùng nó chủ yếu để phục vụ mục đính chính trị, hành chính và quân sự. Kỹ thuật in chữ rời thế=A rectangular ink on paper diagram with several hundred dots, several of which are organized into constellations, such as a drawn bow (bottom center) and a tree (top left).|trái|nhỏ|Một biểu đồ chiêm tinh từ cuốn Tân nghi tượng pháp yếu của Tô Tụng xuất bản năm 1092, có phép chiếu hình trụ tương tự như phép chiếu Mercator. Vị trí sao Bắc cực đã được hiệu chỉnh nhờ các quan sát thiên văn của Thẩm Quát. Tập bản đồ thiên thể của Tô Tụng thực sự là bản in lâu đời nhất. Kỹ thuật in chữ rời do Tất Thăng (990–1051) phát minh, lần đầu được mô tả bởi nhà khoa học kiêm chính khách Thẩm Quát trong cuốn Mộng khê bút đàm năm 1088 của ông. Bộ phôi chữ bằng đất sét nung đời đầu của Tất Thăng được truyền lại cho một người cháu của Thẩm Quát và được bảo quản rất cẩn thận. Sự xuất hiện của chữ rời đã khuyến khích việc sử dụng rộng rãi các phương pháp in âm bản để in hàng nghìn tài liệu và một khối lượng lớn văn học viết, được tiêu thụ mạnh mẽ bởi cộng đồng người đọc sách đang phát triển. Tiến bộ trong ngành in ảnh hưởng sâu sắc tới nền giáo dục và cả tầng lớp sĩ đại phu, vì số lượng sách ngày càng nhiều còn sách in hàng loạt thì rẻ hơn so với sách chép tay tốn công. Do đó, sự phát triển của ngành in và văn hóa in ấn là chất xúc tác trực tiếp thúc đẩy tính linh hoạt xã hội và mở rộng quy mô của tầng lớp học giả tinh hoa – đáng kể nhất là trong khoảng thế kỷ 11 đến thế kỷ 13. Chữ rời do Tất Thăng phát minh cuối cùng đã phải nhường chỗ cho mộc bản, vì những hạn chế của hệ thống Hán tự đồ sộ. Tuy nhiên, kỹ thuật in chữ rời vẫn tiếp tục được sử dụng và cải tiến trong những giai đoạn tiếp theo. Sĩ đại phu nhà Nguyên Vương Trinh đã cải thiện quy trình sắp chữ được nhanh hơn, khi thay phôi chữ đất sét của Tất Thăng bằng phôi chữ gỗ và thử nghiệm cả phôi chữ đúc bằng thiếc. Năm 1490, Hóa Toại (1439–1513) sinh sống vào thời nhà Minh, cho ra đời bộ phôi chữ bằng kim loại đầu tiên (làm từ đồng). Năm 1638, tờ Kinh báo áp dụng kỹ thuật in chữ rời thay thế cho in mộc bản. Tới thời nhà Thanh, các dự án in ấn lớn bắt đầu sử dụng kỹ thuật in chữ rời. Năm 1725, để in 66 bản sao của cuốn bách khoa toàn thư Cổ kim đồ thư tập thành gồm 5.020 tập, người ta phải chế tác tới 250.000 phôi chữ rời bằng đồng. Đến thế kỷ 19, máy in ép kiểu châu Âu thay thế kỹ thuật in chữ rời cũ của Trung Quốc, trong khi kỹ thuật in mộc bản truyền thống ở Đông Á hiện tại chỉ còn được dùng thưa thớt, chủ yếu mang tính mỹ học. Kỹ thuật thủy lực và hàng hải Điểm đổi mới đáng chú ý nhất trong lĩnh vực hàng hải Trung Quốc thời nhà Tống có lẽ là sự ra đời của la bàn đi biển từ tính, cho phép định hướng chính xác trong môi trường biển khơi, bất kể thời tiết. Kim chỉ nam được mô tả lần đầu trong Mộng khê bút đàm của Thẩm Quát. Chu Úc là người đầu tiên đề cập tới việc thủy thủ sử dụng hữu hiệu kim chỉ nam, trong cuốn Bình châu khả đàm phát hành năm 1119 của mình. phải|nhỏ|202x202px|Hình cắt mặt bên thể hiện nguyên lý hoạt động chung của âu tàu. Ngoài ra, cũng có nhiều tiến bộ đáng kể khác trong kỹ thuật thủy lực và công nghệ hàng hải vào thời nhà Tống. Phát minh âu tàu vào thế kỷ thứ 10 giúp duy trì mực nước khác nhau ở mỗi đoạn kênh riêng biệt, hỗ trợ đáng kể cho an toàn giao thông kênh đào, nhất là với những sà lan cỡ lớn. Sáng kiến vách ngăn kín nước cho phép tàu có thể nổi ngay cả trong trường hợp thân tàu bị thủng. Vào thế kỷ 11, người Trung Quốc đã dùng xưởng cạn để sửa chữa tàu thuyền. Họ nẹp thanh ngang vào sườn tàu để tăng sức chống chịu nhờ một cấu trúc dạng khung xương. Bánh lái gắn ở đuôi tàu xuất hiện tại Trung Quốc từ thế kỷ thứ 1 với bằng chứng là một mô hình tàu trong lăng mộ thời nhà Hán. Vào thời nhà Tống, người Trung Quốc đã nghĩ ra cách nâng và hạ cơ học bánh lái để tàu có thể di chuyển ở những vùng nước có độ sâu khác nhau. Họ sử dụng mỏ neo có phần răng được sắp xếp theo hình tròn, thay vì theo một hướng. David Graff và Robin Higham khẳng định rằng sự sắp xếp này "khiến mỏ neo đáng tin cậy hơn" khi neo đậu tàu. Kỹ thuật kết cấu và kiến trúc thế=A wide, octagonal pagoda. It has four tall, functional floors made of brick, and an additional five, short, purely decorative floors made of wood. Each floor is separated by an eave, and the top five floor's eaves look as if they were simply stacked right on top of one another.|nhỏ|267x267px|Lăng Tiêu tháp cao 42 m ở Chính Định, Hà Bắc. Kiến trúc thời nhà Tống đạt đến tầm cao mới về độ tinh xảo. Dụ Hạo và Thẩm Quát đã viết những cuốn sách phác thảo về lĩnh vực bố cục kiến trúc, tay nghề thủ công, kỹ thuật kết cấu lần lượt vào thế kỷ thứ 10 và 11. Thẩm Quát từng lưu trữ những đoạn hội thoại bằng văn bản của Dụ Hạo mô tả về các vấn đề kỹ thuật như việc lắp đặt các thanh giằng xiên để làm thành hệ giằng chống gió trên tháp chùa. Ông cũng bảo tồn các kích thước và đơn vị đo lường cụ thể mà Dụ Hạo thiết lập cho nhiều loại công trình khác nhau. Kiến trúc sư Lý Giới (1065–1110), người xuất bản cuốn Dinh tạo pháp thức vào năm 1103, đã mở rộng đáng kể các tác phẩm của Dụ Hạo và biên soạn một bộ quy tắc xây dựng chuẩn mực được áp dụng bởi các cơ quan chính quyền và thợ thủ công trên khắp đế quốc. Ông đề cập tới các phương pháp xây dựng, thiết kế và ứng dụng tiêu chuẩn dành cho hào và công sự, công trình đá, công trình gỗ, công trình tre, công trình gạch, kỹ thuật cưa, khoan và tiện, kỹ thuật chạm khắc gỗ, kỹ thuật lát và tráng men gạch, kỹ thuật xây tường, sơn và trang hoàng; cung cấp tỷ lệ công thức vữa phù hợp. Trong Dinh tạo pháp thức, Lý Giới đưa ra nhiều hình minh họa chi tiết, sống động về thành phần kiến trúc và mặt cắt của các tòa nhà. Những hình minh họa này tiết lộ nhiều ứng dụng khác nhau của đấu củng, dầm mút thừa, kết cấu mộng âm dương ở dầm nối và dầm ngang; trình bày sơ đồ nhiều kiểu xây dựng hội trường khác nhau theo kích thước phân loại. Ông cũng phác thảo các đơn vị và phép đo kích thước tiêu chuẩn của tất cả thành phần công trình được mô tả và minh họa trong tác phẩm của mình. thế=A painting of people boating in a lake. There is a small island in the center of the lake, connected to the mainland by an arched bridge. The entire lake is surrounded by a low wall.|trái|nhỏ|210x210px|Kim Minh trì tranh tiêu đồ của Trương Trạch Đoan, khắc họa khung cảnh Khai Phong, thời Bắc Tống. Chính quyền hỗ trợ cho nhiều dự án xây dựng quy mô lớn, chẳng hạn như những tháp chùa cao chót vót hay cầu đường bộ khổng lồ (cầu cạn hoặc cầu vòm nhiều nhịp, làm bằng gỗ hoặc đá). Vào thời nhà Tống, người ta dựng nhiều tháp chùa cao hơn mười tầng. Hai trong số những tháp chùa nổi tiếng nhất là Thiết tháp xây năm 1049 thời Bắc Tống và Lục Hòa tháp xây năm 1165 thời Nam Tống. Liệu Địch tháp xây năm 1055 ở Hà Bắc là tháp chùa cao nhất với tổng chiều cao 84 m. Rất nhiều cây cầu đủ rộng để hai làn phương tiện có thể lưu thông đồng thời, một số cây cầu dài tới 1.220 m. Chính quyền cũng tự giám sát xây dựng các công trình nhà nước như văn phòng hành chính, cung điện, công sự thành phố, đền thờ tổ tiên và đền thờ Phật giáo. Kiến trúc sư, thợ thủ công, thợ mộc và kỹ sư kết cấu không có được địa vị như sĩ đại phu Nho giáo. Ở Trung Quốc, kiến thức kiến trúc được truyền miệng từ người này qua người khác – trong vài trường hợp là từ cha sang con trai – suốt hàng nghìn năm. Những ngôi trường đào tạo kiến trúc và kỹ thuật kết cấu được biết đến là đã tồn tại vào thời nhà Tống; từng có một trường kỹ thuật danh tiếng ở tỉnh Phúc Kiến, do kỹ sư cầu đường Thái Tương (1012–1067) làm hiệu trưởng. thế=A diagram showing multiple elaborately carved triangular brackets attached to each of the vertical support beams inside of a building.|phải|nhỏ|260x260px|Hình minh hoạ thành phần công trình từ sách hướng dẫn xây dựng Dinh tạo pháp thức của Lý Giới, in năm 1103. Bên cạnh các di tích và tài liệu hướng dẫn xây dựng, các tác phẩm nghệ thuật miêu tả công trình hay cảnh quan thành phố cũng hỗ trợ giới học giả hiện đại trong nỗ lực tái tạo và nhận diện sắc thái kiến trúc thời nhà Tống. Những nghệ sĩ như Lý Thành, Phạm Khoan, Quách Hy, Trương Trạch Đoan, Tống Huy Tông đã vẽ mô phỏng cận cảnh các công trình đơn lẻ cũng như toàn cảnh các thành phố lớn với những cầu vòm, điện, đình, tháp chùa và tường thành Trung Quốc đặc trưng. Nhà khoa học kiêm chính khách Thẩm Quát nổi tiếng với những lời chỉ trích dành cho thể loại nghệ thuật liên quan tới kiến trúc, cho rằng điều quan trọng hơn cả với một nghệ sĩ là chụp được cái nhìn phong cảnh tổng thể, chứ không phải tập trung vào góc cạnh nhà cửa. Thẩm Quát phê bình tranh của Lý Thành vì không tuân thủ nguyên tắc "nhìn điểm nhỏ từ góc nhìn lớn" khi khắc họa các tòa nhà. Khảo cổ học thế=A heavily tarnished bronze bowl adorned with several carvings of squares that curl in on themselves at the bottom. It has three stubby, unadorned legs and two small, square handles coming off from the top rim.|trái|nhỏ|212x212px|Các học giả thời nhà Tống khẳng định đã thu thập được những bảo vật có niên đại từ thời nhà Thương, chẳng hạn như chiếc đỉnh bằng đồng này. Ngoài thú sưu tầm đồ cổ của tầng lớp thân sĩ, sĩ đại phu thời nhà Tống đặc biệt quan tâm tới việc thu thập cổ vật từ các địa điểm khảo cổ. Mục đích của họ là hồi sinh các bảo vật cổ trong nghi lễ nhà nước. Sĩ đại phu nhà Tống tuyên bố rằng họ đã tìm được những món bảo vật đồng điếu, có niên đại từ thời nhà Thương (1600–1046 TCN), mang ký tự chữ viết của triều đại này. Một số cố gắng tái tạo bảo vật đồng chỉ bằng trí tưởng tượng, mà không cần quan sát hiện vật hữu hình; cách làm việc này bị Thẩm Quát chỉ trích trong tác phẩm năm 1088 của ông. Thực tế, Thẩm Quát đã chỉ ra nhiều vấn đề trong ngành khảo cổ học đương thời. Ông phản đối ý kiến của đồng nghiệp khi họ cho rằng các bảo vật là sản phẩm được tạo ra bởi những "nhà hiền triết" trong truyền thuyết hoặc tầng lớp quý tộc cổ đại; đưa ra kết luận đúng đắn rằng đồ thủ công mỹ nghệ cổ đại thực chất là tác phẩm của nghệ nhân và thường dân thời trước. Thẩm Quát cũng không hài lòng với việc đồng nghiệp chỉ theo đuổi khảo cổ học nhằm nâng cấp nghi lễ nhà nước, vì ông không những có cách tiếp cận khảo cổ học liên ngành, mà còn nhấn mạnh việc nghiên cứu chức năng và điều tra quy trình sản xuất ban đầu của cổ vật. Thẩm Quát kết hợp văn bản cổ với mô hình hỗn thiên nghi hiện có, để tạo ra một phiên bản hỗn thiên nghi theo tiêu chuẩn cũ. Ông mô tả một số loại vũ khí cổ đại, chẳng hạn như nỏ có ống ngắm chia tỷ lệ. Trong quá trình thử nghiệm tiết nhịp âm nhạc cổ đại, Thẩm Quát đề xuất nên treo biên chung bằng một loại cán rỗng ruột. Bất chấp sự quan tâm quá mức của thân sĩ đối với khảo cổ học hầu như chỉ đơn thuần là để phục sinh nghi lễ nhà nước, một số đồng nghiệp của Thẩm Quát có cách làm việc tương tự ông. Âu Dương Tu (1007–1072) cùng thời với Thẩm Quát, đã biên soạn một danh sách phân tích các bản chà nổi trên đá và đồng, có thể xem là ý tưởng tiên phong trong ngành kim thạch học và khảo cổ học. Trong thế kỷ 11, các sĩ đại phu nhà Tống đã khám phá ra khu miếu Vũ Lương (78–151). Họ chà nổi phù điêu và họa tiết chạm khắc trên các bức tường lăng mộ, để tiện đem đi nơi khác phân tích. Nhận xét về mức độ tin cậy của những dấu tích lịch sử ra đời nhiều năm sau sự kiện, Triệu Minh Thành khẳng định ".. chữ khắc trên đá và đồng được tạo ra cùng thời điểm với sự kiện mà chúng mô tả nên hoàn toàn đáng tin cậy và người ta có thể nhận ra ở chúng nhiều điểm khác biệt." Sử gia R.C. Rudolph nói rằng việc Triệu Minh Thành (1081–1129) và nhiều học giả nhà Tống nhấn mạnh công tác tham khảo nguồn tài liệu đương thời để xác định niên đại chính xác, tương tự như mối quan tâm của sử gia người Đức Leopold von Ranke (1795–1886). Hồng Mại (1123–1202) chỉ trích gay gắt bác cổ đồ – thứ mà ông gọi là danh mục khảo cổ "lố bịch" của triều đình – được biên soạn giữa những năm Chính Hòa và Tuyên Hòa (1111–1125) thời Tống Huy Tông. Hồng Mại thu lượm bảo vật cổ thời nhà Hán rồi đem so sánh với các mô tả được cung cấp trong bác cổ đồ và phát hiện ra nhiều điểm sai lệch tới mức ông phải "ôm bụng mà cười." Theo Hồng Mại, Thừa tướng Sái Kinh (1047–1126) là người phải chịu trách nhiệm cho những sai sót trầm trọng trên khi cấm các học giả đọc và tham khảo sử liệu cũ.
Lý Tiểu Long (tiếng Trung: 李小龍, tiếng Anh: Bruce Lee, 27 tháng 11 năm 1940 – 20 tháng 7 năm 1973), tên khai sinh là Lý Chấn Phiên, là một cố võ sư, diễn viên kiêm nhà làm phim người Mỹ gốc Hoa. Ông là người sáng lập Tiệt quyền đạo, một triết lý võ thuật kết hợp rút ra từ các môn chiến đấu khác nhau thường được cho là đã mở đường cho võ tổng hợp hiện đại (MMA). Lý Tiểu Long được các nhà phê bình, giới truyền thông và các võ sĩ khác coi là võ sĩ có ảnh hưởng nhất mọi thời đại và là biểu tượng văn hóa đại chúng của thế kỷ 20, người đã thu hẹp khoảng cách giữa Đông và Tây. Ông được ghi nhận là người quảng bá phim điện ảnh hành động Hồng Kông thuộc Anh và giúp thay đổi cách thể hiện người Châu Á trong phim Mỹ. Sinh ra ở San Francisco và lớn lên ở Hồng Kông thuộc Anh, ông được cha giới thiệu với ngành công nghiệp điện ảnh Hồng Kông khi còn là một diễn viên nhí. Tuy nhiên, đây không phải là những bộ phim võ thuật. Kinh nghiệm võ thuật ban đầu của ông bao gồm Vịnh Xuân Quyền (do Diệp Vấn huấn luyện), Thái cực quyền, Quyền anh (chiến thắng một giải đấu quyền anh dành cho lứa tuổi học sinh ở Hồng Kông) và dường như thường xuyên đánh nhau trên đường phố (đánh nhau trong khu phố và trên sân thượng). Năm 1959, ông có quốc tịch Mỹ do được sinh ra, có thể chuyển đến Seattle. Năm 1961, ông đăng ký vào Đại học Washington . Chính trong thời gian ở Mỹ này, ông bắt đầu tính đến việc kiếm tiền bằng cách dạy võ thuật, mặc dù ông khao khát có được sự nghiệp diễn xuất. Ông mở trường võ thuật đầu tiên của mình, hoạt động bên ngoài nhà ở Seattle. Sau đó, sau khi mở thêm trường thứ hai ở Oakland, California, ông đã từng thu hút sự chú ý đáng kể tại Giải vô địch Karate Quốc tế Long Beach năm 1964 ở California bằng cách biểu diễn và diễn thuyết. Sau đó, ông chuyển đến Los Angeles để giảng dạy, nơi các học sinh của ông bao gồm Chuck Norris, Sharon Tate và Kareem Abdul-Jabbar. Vào những năm 1970, các bộ phim do Hollywood và Hồng Kông sản xuất của ông đã nâng các bộ phim võ thuật Hồng Kông lên một tầm cao mới về mức độ phổ biến và được hoan nghênh, làm dấy lên làn sóng quan tâm của phương Tây đối với võ thuật Trung Quốc. Hướng đi và giọng điệu trong các bộ phim của ông đã ảnh hưởng và thay đổi đáng kể các bộ phim võ thuật và võ thuật trên toàn thế giới. Ông được chú ý nhờ các vai diễn trong năm phim điện ảnh võ thuật của Hồng Kông vào đầu những năm 1970: Đường Sơn đại huynh (1971), Tinh Võ Môn (1972); Mãnh Long quá giang (1972), Long Tranh Hổ Đấu (1973) (phim hợp tác giữa công ty Warner Brothers của Hollywood và công ty Hiệp Hòa của Lý Tiểu Long) và Trò Chơi Tử Thần. Trong đó phim Mãnh Long quá giang (1972) do Lý Tiểu Long tự viết kịch bản và làm đạo diễn, hai phim Long Tranh Hổ Đấu (1973) và Trò Chơi Tử Thần do Robert Clouse làm đạo diễn. Lý Tiểu Long đã trở thành một nhân vật mang tính biểu tượng được biết đến trên toàn thế giới, đặc biệt là với người Trung Quốc, dựa trên vai diễn của ông về chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc trong các bộ phim của mình, và trong số những người Mỹ gốc Á vì đã bất chấp định kiến ​​của người châu Á. Ban đầu học Vịnh Xuân quyền, thái cực quyền, quyền anh và chiến đấu đường phố, anh ấy đã kết hợp chúng với những ảnh hưởng khác từ nhiều nguồn khác nhau thành tinh thần của triết lý võ thuật cá nhân của mình, mà anh ấy gọi là Tiệt quyền đạo (Con đường của cách đánh chặn nắm đấm). Ông qua đời vào ngày 20 tháng 7 năm 1973 tại Hồng Kông thuộc Anh, ở tuổi 32. Kể từ khi qua đời, ông tiếp tục là người có ảnh hưởng nổi bật đối với các môn thể thao chiến đấu hiện đại, bao gồm judo, karate, võ tổng hợp và quyền anh, cũng như văn hóa đại chúng hiện đại bao gồm phim, truyền hình, truyện tranh, hoạt hình và trò chơi điện tử. Time đã gọi ông là một trong 100 người quan trọng nhất của thế kỷ 20. Gia thế Lý Tiểu Long có 2 chị gái Lý Thu Nguyên và Lý Thu Phượng, anh trai Lý Trung Sâm và em trai Lý Chấn Huy (李振輝). Cha là ông Lý Hải Tuyền (李海泉), nghệ sĩ viết kịch của Hồng Kông thuộc Anh, thuộc một trong tứ đại danh hài kịch nói Quảng Đông. Mẹ là bà Hà Ái Du (何愛瑜), con lai người Đức – Trung Quốc được Hà Cam Đường (何甘棠), nhà tư sản của tập đoàn Jardine Matheson, nhà hoạt động xã hội nhận nuôi. Ông Hà Cam Đường là em cùng mẹ khác cha với nhà tư sản Hà Đông (何東), người nhà thuộc gia tộc Hà Hồng Sân. Con trai ruột của Lý Tiểu Long sau này là Lý Quốc Hào cũng là một diễn viên điện ảnh võ thuật như ông. Năm 1939, cha của Lý Tiểu Long là ông Lý Hải Tuyền dẫn theo vợ Hà Ái Du và 3 người con (Lý Thu Nguyên, Lý Thu Phượng và Lý Trung Sâm) từ Hồng Kông thuộc Anh sang khu phố người Hoa (Chinatown) thuộc San Francisco, Mỹ để theo đoàn biểu diễn kịch nói tiếng Quảng Đông ở Mỹ. Lý Tiểu Long sinh năm 1940 tại thành phố San Francisco (Mỹ) nên ông có quốc tịch Mỹ, quê gốc ở Thuận Đức, Phật Sơn, Quảng Đông. Cha ông ban đầu đặt tên ông là Lý Chấn Phiên, mong muốn ông một ngày nào đó có thể nổi tiếng tại thành phố San Francisco. Lý Tiểu Long sinh ra vào buổi sáng sớm và theo âm lịch Trung Quốc là năm Canh Thìn, cha mẹ ông đặt nhũ danh là "Tế Phượng", còn nghệ danh Lý Tiểu Long (Bruce Lee) bắt đầu từ phim Tế Lộ Tường/The Kid (1950). Còn tên tiếng Anh "Bruce" của Lý Tiểu Long được đặt theo gợi ý của Mary Glover, người y sĩ đã đỡ đẻ tại bệnh viện Đông Hoa, San Francisco. Năm 1941, khi 1 tuổi, Lý Tiểu Long cùng gia đình trở về Hồng Kông thuộc Anh và sống ở căn hộ số 218 đường Nathan. Lý Tiểu Long và em trai ban đầu được nhận vào trường tiểu học St. Mary's Canossian College. Năm 1949, theo yêu cầu của nhà thờ Công giáo, tất cả các nam sinh phải chuyển sang trường Đức Tin (Tak Sun School) sau đó sang trường trung học Công giáo La Salle College. Mặc dù thời niên niếu của Lý Tiểu Long sống trong gia đình khá giả nhưng khu dân cư ngày một đông người, dẫn tạo ra cuộc xung đột băng đảng giành địa bàn, trở nên đông đúc, nguy hiểm hơn. Sự nghiệp diễn xuất Quá trình vào làng điện ảnh của ông cũng có màu sắc truyền kỳ. Khi Lý Tiểu Long sinh ra tại Mỹ, một phim điện ảnh đen trắng của Hồng Kông có tên là Golden Gate Girl (金門女, "Kim Môn Nữ") đang quay tại San Francisco (Mỹ) cần một em bé người Hoa, bố mẹ liền bế Lý Tiểu Long đi đóng phim. Cuối cùng Lý Tiểu Long vừa sinh ra đã trở thành một trong những người Hoa có mặt sớm nhất trong phim của Hồng Kông quay tại Mỹ. Phim Golden Gate Girl này được công chiếu vào ngày 27 tháng 5 năm 1941 ở Hồng Kông. Năm 1946, khi 6 tuổi, ông tham gia phim điện ảnh đen trắng mang tên The Birth of Mankind 1946 của Hồng Kông thuộc Anh. Lúc nhỏ Lý Tiểu Long có vóc người gầy yếu, cha ông muốn con trai có thân hình khỏe mạnh nên đã dạy Thái cực quyền cho ông từ năm lên 7 (năm 1947). Năm 1948, ông tham gia vào phim điện ảnh đen trắng của Hồng Kông là Wealth is Like a Dream 1948. Cùng năm 1949, khi 9 tuổi, ông tham gia vào hai phim điện ảnh đen trắng của Hồng Kông là Sai See in the Dream 1949 và The Story of Fan Lei-fa 1949 (phim còn có tựa khác là The Story Of Fan Lihua 1949). Năm 1950, ông lần đầu xuất hiện với nghệ danh Lý Long trong phim điện ảnh đen trắng của Hồng Kông là Tế Lộ Tường 1950 (細路祥, The Kid 1950). Vì một phần trong tiêu đề phụ của phim Tế Lộ Tường và sau đó xuất hiện trên các tờ báo có ghi tên "Lý Long" (李龍). Phim Tế Lộ Tường 1950 này được công chiếu tại Hồng Kông thuộc Anh vào ngày 30 tháng 5 năm 1950. Sau đó ông tiếp tục tham gia trong hai phim điện ảnh đen trắng của Hồng Kông là Blooms and Butterflies 1950 và Bird On The Wing (1950). Lý Tiểu Long bị đuổi học năm lớp 4 do đánh nhau và vắng mặt nhiều lần nên chuyển sang trường St. Francis Xavier's College. Theo tiểu sử chuyên sâu của Matthew Polly, Bruce Lee: A Life, biệt danh của Lý Tiểu Long ở trường là của Gorilla (Con Khỉ Đột). Ông có được biệt danh có phần "xấu hổ" này bởi vì, như Hawkins Cheung, bạn học của ông tại trường St. Francis Xavier, nhớ lại, "trông cậu ta vạm vỡ và thường di chuyển với hai cánh tay 'bè' ra ở hai bên". Hầu hết các học sinh đều sợ Lý Tiểu Long, nhưng vì Hawkins Cheung là một trong những người bạn thân nhất của ông, Hawkins Cheung đã gọi Lý Tiểu Long bằng một cái tên mà chỉ có mình anh gọi: Chicken Legs (Chân Gà), vì thân hình vạm vỡ của Lý Tiểu Long nhưng đôi chân có phần gầy gò. Hawkins Cheung nói rằng Lý Tiểu Long thường nổi giận với anh khi bị gọi bằng cái tên này và sẽ rượt theo anh chạy khắp sân trường. Năm 1951, khi 11 tuổi, ông tham gia phim điện ảnh đen trắng của Hồng Kông là Infancy 1951. Năm 1953, khi 13 tuổi, ông tham gia vào hai phim điện ảnh đen trắng của Hồng Kông là A Myriad Homes 1953 (phim còn có tựa khác là A Home of a Million Gold 1953) và Blame it on Father 1953. Ông tham gia thêm 3 phim điện ảnh đen trắng của Hồng Kông cùng năm 1953 là The Guiding Light 1953 (phim còn có tựa khác là A Son Is Born 1953), A Mother's Tears 1953 (phim còn có tựa khác là A Mother Remembers 1953), In the Face of Demolition 1953. Trong đó, phim In the Face of Demolition 1953 là phim đầu tiên Lý Tiểu Long được đóng vai nam chính tên là Hoa Tể, dù khi đó ông mới 13 tuổi. Phim được công chiếu tại Hồng Kông thuộc Anh vào ngày 27 tháng 11 năm 1953. Từ các vai nhí này, tài năng diễn xuất của ông dần bộc lộ. Ông diễn rất tự nhiên, diễn như không diễn. Mặc dù xuất thân từ một gia đình trung lưu, Lý Tiểu Long lại là một người mê trà, và đặc biệt thích đánh nhau trên đường phố, trong khu phố và trên sân thượng. "Khi còn là một đứa trẻ ở Hồng Kông, tôi là một kẻ bắt nạt và luôn đi gây ra những trận đánh nhau", Lý Tiểu Long từng nói với tạp chí Đai đen Black Belt Magazine. "Chúng tôi sử dụng dây xích và những cây bút có những con dao nhỏ giấu bên trong. Rồi một ngày nọ, tôi bắt đầu tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi không có nhóm của mình bên cạnh mỗi khi tôi đánh nhau". Tiết lộ này chính là bước ngoặt giúp thay đổi cuộc đời huyền thoại họ Lý khi ông bắt đầu nghĩ về việc học võ thuật vào năm 13 tuổi (năm 1953). "Tôi chỉ bắt đầu học kung fu khi tôi cảm thấy bất an" ông nói. Ông quyết tâm học võ và ông theo học Vịnh Xuân quyền cùng danh sư Diệp Vấn. Diệp Vấn về sau là trưởng môn hệ phái Vịnh Xuân quyền Hồng Kông. Thực tế người trực tiếp đào tạo Vịnh Xuân Quyền cho Lý Tiểu Long là Wong Shun-leung (đệ tử giỏi nhất của Diệp Vấn). Năm 1954, khi 14 tuổi, Lý Tiểu Long theo học vũ đạo cha-cha-cha. Sau đó ông còn tham gia trong 5 phim điện ảnh đen trắng của Hồng Kông là An Orphan's Tragedy 1955 (phim này cha của ông là Lý Hải Tuyền đóng chung với ông, công chiếu tại Hồng Kông thuộc Anh vào ngày 11 tháng 2 năm 1955), Love 1955, Love Part 2 1955, We Owe It to Our Children 1955 và The Faithful Wife 1955. Sau đó, Lý Tiểu Long tham gia vào phim điện ảnh có màu của Hồng Kông là Orphan's Song 1955. Phim Orphan's Song 1955 này là phim điện ảnh có màu đầu tiên mà Lý Tiểu Long từng tham gia. Năm 1956, khi 16 tuổi, Lý Tiểu Long tham gia phim điện ảnh đen trắng của Hồng Kông là The Wise Guys Who Fool Around 1956 (phim còn có tựa khác là Sweet Time Together 1956). Sau đó Lý Tiểu Long lại tham gia phim điện ảnh có màu của Hồng Kông là Too Late For Divorce 1956. Năm 1957, khi 17 tuổi, Lý Tiểu Long tham gia vào phim điện ảnh có màu của Hồng Kông là The Thunderstorm 1957. Trong phim này, Lý Tiểu Long vào vai nam chính có tên là Chow Chung. Phim này được công chiếu tại Hồng Kông thuộc Anh vào ngày 14 tháng 3 năm 1957. Sau đó Lý Tiểu Long tham gia vào phim điện ảnh trắng đen của Hồng Kông là Darling Girl 1957. Với vũ đạo cha-cha-cha, ông giành chức vô địch trong Giải vô địch cha-cha-cha thuộc địa vương thất (Crown Colony Cha-Cha Championship) tại Hồng Kông thuộc Anh dành cho lứa tuổi học sinh vào năm 1958 (khi đó ông 18 tuổi). Cũng trong năm này Lý Tiểu Long có một vai nam chính tên là Sam trong phim điện ảnh có màu của Hồng Kông là The Orphan (phim được công chiếu ở Hồng Kông thuộc Anh vào ngày 3 tháng 3 năm 1960, khi đó Lý Tiểu Long đã sang Mỹ). Bộ phim này đã thể hiện đúng hiện trạng Hồng Kông thời đó khi Hội Tam Hoàng đang hoành hành. Cùng năm 1958 đó, ông tham gia Giải vô địch quyền Anh liên trường Hồng Kông (Hong Kong Inter-School Boxing Championship). Ông đã đánh bại nhà vô địch 3 năm liền là David Kefield để đoạt chức vô địch trong năm đó. Thành danh trong võ nghiệp Những lớp võ đầu tiên khi sang Mỹ Năm 1959, do có xích mích với Hội Tam Hoàng mà Lý Tiểu Long bị cảnh sát của Hồng Kông thuộc Anh điều tra. Vì lo lắng cho con nên bố mẹ ông đã quyết định đưa ông sang Mỹ, quay lại với San Francisco. Với 15 đô la Mỹ của bố và 100 đô la Mỹ của mẹ, Lý Tiểu Long đã đến Mỹ và sống với một người bạn cũ của bố là võ sư Nghiêm Kính Hải (James Yimm Lee). Ông làm việc kiếm tiền trong cộng đồng người Hoa và về sau chuyển tới Seattle, Washington để làm việc cho Thiệu Hán Sinh (sinh năm 1900), một người bạn khác của cha ông. Lý Tiểu Long đã theo học với Thiệu Hán Sinh một số bài võ như Tinh võ hội tiết quyền, Thất tinh Đường lang băng bộ quyền của Đường Lang Quyền, Hồng Gia Quyền và Nam Quyền. Lý Tiểu Long sống trong một căn phòng trên gác của 1 nhà hàng (do Ruby Chow làm chủ) tại Seattle với vai trò bồi bàn. Cuối cùng Lý Tiểu Long gia nhập trường Trung học Công nghệ Edison tại Seattle. Tại đây, Lý Tiểu Long gặp và kết bạn với võ sư Jesse Glover, người Mỹ đang theo học chuyên ngành tâm lý học và là nhà vô địch judo. Lý Tiểu Long tập judo với Jesse Glover. Lý Tiểu Long đã thu hút võ sư James DeMile người Mỹ vào nhóm học trò đầu tiên của mình từ màn thể hiện kung fu của ông trước công chúng khi ông đang học tại trường Trung học Công nghệ Edison ở Seattle. Trong lúc tìm kiếm một tình nguyện viên trong khán giả, Lý Tiểu Long (khi đó 19 tuổi) đã phát hiện ra James DeMile (20-21 tuổi), cựu vô địch quyền anh hạng nặng của Lực lượng Không quân Mỹ. Lý Tiểu Long chú ý đến dáng người thể thao của James DeMile và gọi anh ấy lên sân khấu. James DeMile nghĩ rằng anh sẽ dễ dàng ngăn cản Lý Tiểu Long vì đối thủ của anh ta chỉ cao 5'7" và nặng không quá 140 pound, nhưng Lý Tiểu Long đã sớm đánh bại anh ta. Quá ấn tượng, James DeMile quay sang Lý Tiểu Long sau buổi biểu diễn để hỏi liệu anh ta có thể theo học võ của ông hay không. Những buổi biểu diễn võ thuật công khai này đã thu hút một lượng nhỏ người theo dõi. Jesse Glover từng được tiếp cận với kung fu cổ điển từ võ sư Nghiêm Kính Hải (James Yimm Lee) nên bắt đầu mở một lớp học kung fu của riêng mình và Leroy Garcia và James DeMile đã đến và hỗ trợ anh ấy, đây là lớp học liên quan đến nghệ thuật Trấn Phan độc lập đầu tiên. Lý Tiểu Long biết được và không cho Jesse Glover dạy võ. Jesse Glover sau đó có xin phép Lý Tiểu Long nhưng Lý Tiểu Long vẫn không cho dạy (Theo bài phỏng vấn của Jesse Glover trên tạp chí Kung Fu năm 1994). Lý Tiểu Long quyết định chia sẻ kiến thức võ thuật của mình. Khởi đầu là những buổi đấu khẩu không chính thức giữa những người bạn sau này trở thành một công việc kinh doanh ba trường dạy võ, củng cố cách tiếp cận tiên phong của Lý Tiểu Long đối với nghệ thuật chiến đấu tay đôi. Lý Tiểu Long khi đó đã phát triển phương pháp của riêng mình mà ông gọi là kung fu phi cổ điển nên ông đề nghị Jesse Glover học võ từ ông. Và Jesse Glover trở thành học trò đầu tiên của Lý Tiểu Long (sau này Jesse Glover xuất bản hai sách có tựa là "Kung Fu phi cổ điển của Lý Tiểu Long"/Bruce Lee's Non-Classical Gung Fu và "Kung Fu phi cổ điển"/Non-Classical Gung Fu). Leroy Garcia và James DeMile lần lượt trở thành học trò thứ 2 và 3 của Lý Tiểu Long. Lý Tiểu Long đã đo tốc độ đấm và đóng của ông bằng đồng hồ bấm giờ điện tại nhà của Jesse Glover. Trong cuốn sách "Bruce Lee - Between Wing Chun and Jeet Kun Do", Jesse Glover nói rằng, Lý Tiểu Long có thể tung một cú đấm trong khoảng 5 phần trăm trên một giây (0,05 giây) từ khoảng cách 3 feet và có thể áp sát từ khoảng cách 5 feet trong khoảng 8 phần trăm giây trên một giây (0,08 giây). Trong khi thời gian riêng của Jesse Glover từ 3 feet là từ 11 đến 18 phần trăm giây (0,11 và 0,18 giây). Đóng cửa từ khoảng cách 5 feet, họ ở độ dưới 20 (0,21–0,23). Cả nhóm học trò của Lý Tiểu Long đã luyện tập bên ngoài nhà hàng của Ruby Chow, nơi Lý Tiểu Long làm phục vụ bàn. Sau một ca dài nhận đơn đặt hàng và phục vụ khách hàng, James DeMile đã giới thiệu Lý Tiểu Long với một trong ba người đàn ông mà sau này ông sẽ công nhận là người hướng dẫn, võ sư karate Taky Kimura (Mộc Thôn, người Nhật, 38 tuổi). Lý Tiểu Long đã có 1 cuộc tỷ võ với võ sư Taky Kimura và đánh hạ Taky Kimura. Taky Kimura sau đó trở thành bạn tốt của Lý Tiểu Long, truyền dạy các chiêu thức của Karate cho Lý Tiểu Long. Lý Tiểu Long dạy lại Kung fu cho Taky Kimura. Taky Kimura trở thành một phần của những học trò đầu tiên của Lý Tiểu Long ở Mỹ, trong đó có Jesse Glover, James DeMile, Ed Hart, Skipp Ellsworth và LeRoy Garcia. Trong cuốn sách "Disciples of the Dragon", James DeMile đã nói rằng tất cả học trò của Lý Tiểu Long khi đó đều làm hình nộm để Lý Tiểu Long luyện tập. Một trong những lý do khiến Lý Tiểu Long sửa đổi các kỹ thuật của Vịnh Xuân Quyền và tạo ra Tiệt Quyền Đạo là vì người phương Tây to lớn và khỏe hơn Lý Tiểu Long và một khi họ học được những điều cơ bản của Vịnh Xuân Quyền, họ có thể trở thành mối đe dọa thực sự đối với ông. Sau đó Jesse Golver giúp Lý Tiểu Long nhận thêm nhiều học trò hơn. Lý Tiểu Long bắt đầu dạy võ trong sân sau và ở công viên của thành phố để kiếm thêm tiền. Học trò của Lý Tiểu Long có rất nhiều người không phải là người Hoa, điều này cho thấy ông đã phá bỏ nguyên tắc không dạy võ Trung Quốc cho người nước ngoài suốt hàng ngàn năm qua. Taky Kimura trở thành học trò, trợ lý của Lý Tiểu Long và vào thời điểm đó, là "bạn thân" của ông. Họ cùng nhau, họ luyện tập, đấu kiếm, huấn luyện và sau đó thành lập võ quán đầu tiên của Lý Tiểu Long (gọi là "Chấn Phiên Võ Quán", trong đó "Chấn Phiên" là tên thật của Lý Tiểu Long) vào năm 1960. Họ thuê một căn phòng nhỏ ở tầng hầm có lối vào nửa cửa từ Phố 8 ở Khu Phố Tàu (Chinatown) của Seattle, nơi Taky Kimura trở thành Trợ lý Huấn luyện viên đầu tiên của Lý Tiểu Long. Tháng 3 năm 1961, 21 tuổi, Lý Tiểu Long vào học khoa Triết học của Đại học Washington. Cũng vào khoảng thời gian này ông đã mở lớp dạy Kung fu cho sinh viên của trường. Một trong những người bạn gái thuở đầu của Lý Tiểu Long là một sinh viên người Mỹ gốc Nhật Bản tên là Amy Sanbo. Lúc đầu, cô từ chối những lời tỏ tình lãng mạn của ông, nhưng Lý Tiểu Long vẫn kiên trì theo đuổi đến cùng. Bước ngoặt thật sự đến khi cô khi vô tình giẫm lên một chiếc đinh trong lớp học múa ba lê và sau đó phải di chuyển bằng nạng. Khi Lý Tiểu Long nhận thấy Amy Sanbo đang chật vật để leo lên một cầu thang có bậc thềm cao, ông nhấc cô lên và bế cô lên lầu. Hai người đã có một mối quan hệ gắn bó trong hai năm sau khoảnh khắc đó. Sau đó Lý Tiểu Long đã có lần đấu võ với 1 võ sư Judo là Wally Jay. Cuộc tỉ võ bất phân thắng bại và Lý Tiểu Long đã kết bạn với Wally Jay. Wally Jay đã truyền dạy các chiêu thức của Judo và Jujitsu cho Lý Tiểu Long và các cộng sự của ông. Lý Tiểu Long dạy lại kung fu cho Wally Jay. Võ sư Nghiêm Kính Hải (James Yimm Lee) ở Oakland, Mỹ đã giúp Lý Tiểu Long xuất bản cuốn sách đầu tiên của ông vào đầu năm 1963. Sách có tựa đề là "Kung Fu Trung Quốc: Nghệ thuật tự vệ triết học" ("Chinese Kung-Fu: The Philosophical Art of Self Defense"). Đây là cuốn sách do Lý Tiểu Long viết thể hiện quan điểm và triết lý võ thuật của ông. Nó mô tả phong cách kung fu ban đầu của ông chủ yếu dựa trên Vịnh Xuân Quyền. Trong cuốn sách "Tưởng nhớ sư phụ: Lý Tiểu Long, Nghiêm Kính Hải và sự sáng tạo Tiệt Quyền Đạo" (Remembering the Master: Bruce Lee, James Yimm Lee and the Creation of Jeet Kune Do) của Sid Campbell và Greglon Yimm Lee (con trai của Nghiêm Kính Hải), số lượng xuất bản ban đầu của sách "Kung Fu Trung Quốc: Nghệ thuật tự vệ triết học" là 1500 bản. Cuốn sách được bán thông qua công ty Oriental Book Sales của Nghiêm Kính Hải với giá 5 đô la Mỹ. Ngoài cuốn sách, một biểu đồ hướng dẫn Kung Fu Trung Quốc đi kèm có sẵn với giá 1 đô la Mỹ. Mùa hè năm 1963, Lý Tiểu Long cầu hôn với cô bạn gái Amy Sanbo sau 2 năm hẹn hò nhưng Lý Tiểu Long lại bị cô từ chối. Sau đó hai người chia tay nhau. Kế đó Lý Tiểu Long đại diện cho trường Đại học Washington đi thuyết giảng trong 1 buổi tọa đàm về Triết học và biểu diễn kung fu tại Trường trung học Garfield. Tại đây ông gặp Linda C. Emery (nhỏ hơn ông 5 tuổi, người mà sau này trở thành vợ của ông). Lý Tiểu Long đã biểu diễn thốn quyền, một kĩ thuật đặc thù của nguyên lý "đoản kiều phát lực" trong võ phái Vịnh Xuân Quyền. Linda C. Emery bị cuốn hút trước sự thuyết giảng và phong cách ra đòn kung fu của Lý Tiểu Long. Cuối cùng, cô ấy đã trở thành học trò kung fu của Lý Tiểu Long khi cô học dự bị y khoa tại Đại học Washington (học cùng trường với Lý Tiểu Long). Lý Tiểu Long trở lại Hồng Kông thuộc Anh với bạn là Doug Palmer. Đây là lần đầu Lý Tiểu Long về thăm gia đình kể từ khi sang Mỹ. Trong lần trở lại Hồng Kông thuộc Anh này, Lý Tiểu Long có quay lại với Diệp Vấn xin theo học nốt phần cuối bài Mộc nhân thung mà Lý Tiểu Long chưa học hết, nhưng bị Diệp Vấn từ chối. Sau đó ông phải quay lại Seattle, Mỹ để tiếp tục việc học tập của mình, đồng thời bắt đầu nghiên cứu tìm cách dung hợp kỹ thuật của các võ phái để phát triển một đường hướng riêng. Ngày 25 tháng 10 năm 1963 (23 tuổi), Lý Tiểu Long có buổi hẹn hò đầu tiên với Linda C. Emery. Họ đã có buổi ăn tối tại tầng trên cùng của nhà hàng Space Needle. Thời gian này Lý Tiểu Long dời "Chấn Phiên Võ Quán" của ông từ tầng hầm ở Phố 8, Khu Phố Tàu (Chinatown) của Seattle tới đường 4750 University, Seattle gần khu sân bãi của trường đại học và tại đây, ông dạy một vài đệ tử trong số đó có cả người Mỹ. Nhờ Nghiêm Kính Hải (James Yimm Lee) giới thiệu, Lý Tiểu Long làm quen và kết bạn với Ed Parker. Ông được Ed Parker truyền dạy thêm những chiêu thức karate thượng thừa cho ông. Năm 1964, Lý Tiểu Long bàn với Nghiêm Kính Hải (James Yimm Lee) kế hoạch mở "Chấn Phiên Võ Quán" thứ hai tại Oakland, California. Kế hoạch được thực hiện, Lý Tiểu Long nghỉ học ở Đại học Washington (dù ông chỉ còn 1 năm học nữa là tốt nghiệp), rời Seattle để bắt đầu võ quán thứ hai ở Oakland. Người bạn tốt của Lý Tiểu Long là Taky Kimura đảm đương vai trò người đứng đầu. Còn Nghiêm Kính Hải (James Yimm Lee) cũng sẽ giảng dạy kung fu trong võ quán này trong những lúc Lý Tiểu Long vắng mặt. "Chấn Phiên Võ Quán" ở Seattle thì Lý Tiểu Long giao lại cho võ sư Jesse Golver trông coi. Ngày 2 tháng 8 năm 1964, võ sư Ed Parker, được biết đến như cha đẻ của karate Mĩ (Kempo), mời Lý Tiểu Long đi tham gia Giải vô địch karate quốc tế Long Beach, California (Long Beach International Karate Championships), nơi Lý Tiểu Long được ra mắt với cộng đồng võ thuật quốc tế. Lý Tiểu Long xuất hiện tại buổi khai mạc của giải đấu và biểu diễn đòn Nhất Thốn quyền (còn được gọi là Nhật Tự Xung Quyền) với Robert Baker (võ sư đến từ Stockton, California) và hít đất với 2 ngón tay. Theo Sách Kỷ lục Guinness Thế giới, Lý Tiểu Long nắm giữ bảy danh hiệu liên tục từ buổi biểu diễn năm 1964 này. Ông có thể thực hiện 400 lần hít đất trên một tay, 200 lần hít đất trên hai ngón tay và 100 lần hít đất trên một ngón tay cái. Lý Tiểu Long cũng có thể đấm 9 lần trong một giây trong khi kỹ thuật "cú đấm một inch" của ông có thể buộc một đối thủ nặng 75 kg (Robert Baker) văng ra xa 6 mét, chỉ có một số ít. Ed Paker đã trao giải vô địch Karate cho Lý Tiểu Long vì buổi trình diễn cống hiến cho khán giả tại giải đấu này. "Tôi đã nói với Bruce (Lý Tiểu Long) rằng đừng biểu diễn kiểu này nữa", Robert Baker nhớ lại và nói thêm: "Khi ông ấy (Lý Tiểu Long) đấm tôi lần trước, tôi phải nghỉ làm ở nhà vì cơn đau ở ngực không thể chịu nổi". Trong cuộc phỏng vấn sau đó, khi được phóng viên hỏi rằng ông đã dùng loại võ gì để đánh văng Robert Baker, Lý Tiểu Long đáp rằng chính là võ kung fu. Từ đó trong từ điển tiếng Anh đã xuất hiện hai chữ Kung fu. Danh tiếng của Lý Tiểu Long càng ngày nổi ở Mỹ. Robert Baker sau đó xin làm học trò của Lý Tiểu Long. Đoạn phim chất lượng cao, duy nhất hiện có về buổi biểu diễn Vịnh Xuân Quyền năm 1964 của Lý Tiểu Long được quay bằng máy ảnh 16 mm. Chủ sở hữu duy nhất của video dài 8.5 phút này là công ty Rising Sun Productions có trụ sở tại California. Chủ sở hữu của công ty này và được báo cáo là người phát hiện ra video này là Don Warrener. Các thế hệ chất lượng kém hơn của đoạn phim này có thể được xem trên Internet. Lý Tiểu Long đã gặp võ sư Jhoon Rhee người Hàn Quốc tại giải vô địch karate quốc tế này. Jhoon Rhee đạt kết quả tốt trong giải đấu. Jhoon Rhee kết bạn với Lý Tiểu Long - một mối quan hệ mà cả hai đều có lợi khi là võ sĩ. Lý Tiểu Long đã dạy cho Jhoon Rhee một cú đấm cực nhanh gần như không thể đỡ được. Jhoon Rhee đặt tên cho nó là "Accupunch". Tại giải giải vô địch karate quốc tế này còn có sự hiện diện Jay Sebring và William Dozier, một nhà sản xuất, người đang tìm kiếm một diễn viên cho một bộ phim truyền hình mà ông ta đang làm. Jay Sebring đưa bộ phim Những màn biểu diễn của Lý Tiểu Long (Demonstrations of Bruce Lee) cho William Dozier, người rất ấn tượng với khả năng siêu phàm của Lý Tiểu Long. Ngày 4 tháng 8 năm 1964, khi 24 tuổi, Lý Tiểu Long trở lại Seattle để cầu hôn Linda C. Emery (khi đó cô đã mang thai Lý Quốc Hào được 4 tháng). Ngày 17 tháng 8 cùng năm 1964 thì ông cưới Linda C. Emery. Taky Kimura làm phù rể cho lễ cưới của Lý Tiểu Long. Theo quy định của Mỹ và phương Tây, sau khi lấy chồng, Linda C. Emery phải lấy họ Lee (Lý) của Lý Tiểu Long gắn vào tên mình. Từ đó cô ấy được gọi là Linda Lee. Khi đó Linda Lee còn thiếu vài tín chỉ nữa là tốt nghiệp Đại học Washington, nhưng cô đã cùng Lý Tiểu Long dừng việc học ở Đại học Washington. Ngay sau đó đôi vợ chồng trẻ chuyển đến Oakland. Jay Sebring mời Lý Tiểu Long đến Los Angeles diễn thử trong bộ phim truyền hình có tên là Những màn biểu diễn của Lý Tiểu Long. Lý Tiểu Long lập tức bay tới Los Angeles, California để diễn thử. Tiếc này bộ phim này không bao giờ được hoàn thành và không thể công chiếu vì mâu thuẫn giữa Lý Tiểu Long và William Dozier. Võ sư Wally Jay trao giải triển lãm kỷ niệm cho Lý Tiểu Long trong buổi biểu diễn kung fu của ông tại câu lạc bộ Island Judo Jujitsu (của Wally Jay) ở Alameda, California. Nghiên cứu và sáng tạo ra Tiệt quyền đạo, tiền thân của MMA ngày nay Giao đấu với Hoàng Trạch Dân năm 1964 và những tranh cãi Lý Tiểu Long từng đưa ra lời thách đấu công khai trong một buổi biểu diễn tại một nhà hát ở khu phố Tàu (Chinatown), nơi ông tuyên bố có thể đánh bại bất kỳ võ sĩ nào ở San Francisco. Tháng 11 năm 1964, chỉ vài tháng sau khi cưới Linda Lee, Lý Tiểu Long nhận được lời thách đấu của Hoàng Trạch Dân (Wong Jack-man), một thầy dạy Kungfu tại khu phố Tàu (Chinatown), Oakland của Mỹ. Theo kể lại của Linda Lee, Hoàng Trạch Dân lên án việc Lý Tiểu Long đã phá bỏ nguyên tắc không dạy võ Trung Quốc cho người nước ngoài, chỉ trích Lý Tiểu Long nhận đệ tử toàn là người nước ngoài, làm mất lòng nhiều võ sư Trung Quốc ở San Francisco. Hoàng Trạch Dân phản đối quan điểm cho rằng Lý Tiểu Long đang đấu tranh để giành quyền dạy võ cho người da trắng vì hầu hết học sinh của ông là người Trung Quốc. Hoàng Trạch Dân nói rằng anh ta đã yêu cầu một trận đấu công khai với Lý Tiểu Long vì lời thách đấu công khai của Lý Tiểu Long tại San Francisco. Hoàng Trạch Dân nói rằng sau khi một người quen chung gửi một bức thư từ Lý Tiểu Long mời anh ta chiến đấu, anh ta đã đến "Chấn Phiên Võ Quán" tại Oakland của Lý Tiểu Long để thách đấu với ông. Lý Tiểu Long và Hoàng Trạch Dân có thỏa thuận với nhau rằng nếu Lý Tiểu Long thua, ông sẽ phải đóng cửa võ quán của mình hoặc ngưng dạy những người da trắng, còn nếu Hoàng Trạch Dân thua, ông ta sẽ phải ngừng dạy võ. Hoàng Trạch Dân không tin là Lý Tiểu Long sẽ dám nhận lời thách đấu, và cố trì hoãn trận đấu. Lý Tiểu Long đã nhận lời và yêu cầu họ không phải đợi. Theo tác giả Norman Borine, Hoàng Trạch Dân muốn biết các quy tắc của trận đấu và vạch ra những hạn chế đối với các kỹ thuật như đánh vào mặt, đá vào háng và đâm vào mắt. Lý Tiểu Long không trả lời nên Hoàng Trạch Dân phải đồng ý rằng sẽ có một cuộc quyết đấu mà không có giới hạn nào kỹ thuật nào. Nghiêm Kính Hải (James Yimm Lee), Linda Lee, William Chen (một võ sư Thái Cực Quyền) và David Chin là những nhân chứng của trận đấu giữa Lý Tiểu Long và Hoàng Trạch Dân được tổ chức riêng tại Chinatown, Oakland vào tháng 12 năm 1964, khi đó Lý Tiểu Long 24 tuổi và Hoàng Trach Dân 23 tuổi. Theo Linda Lee, trận đấu chỉ kéo dài ba phút với phần thắng quyết định cho Lý Tiểu Long. Lý Tiểu Long đã từng đưa ra một mô tả, mà không nêu tên rõ ràng của Hoàng Trạch Dân, trong một cuộc phỏng vấn với Tạp chí Đai đen (Black Belt Magazine) của Mỹ rằng: "Tôi đã đánh nhau ở San Francisco với một con mèo Kung-Fu (Hoàng Trạch Dân), và sau một cuộc chạm trán ngắn ngủi, tên khốn đó bắt đầu bỏ chạy. Tôi đuổi theo tên đó và, như một kẻ ngốc, liên tục đấm tên đó vào sau đầu và lưng nó. Chẳng mấy chốc, nắm đấm của tôi bắt đầu sưng lên vì đánh vào cái đầu cứng của tên đó. Ngay lúc đó tôi nhận ra Vịnh Xuân Quyền không quá thực dụng và bắt đầu thay đổi cách chiến đấu của mình." Linda Lee kể lại cảnh đó trong cuốn sách "Bruce Lee: Người đàn ông mà tôi từng biết" (Bruce Lee: The Man Only I Knew) (1975) như sau: "Hai người bước ra, cúi chào trang trọng và sau đó bắt đầu chiến đấu. Hoàng Trạch Dân áp dụng thế đánh cổ điển trong khi Lý Tiểu Long, lúc đó vẫn đang sử dụng phong cách Vịnh Xuân Quyền của mình, đã tung ra một loạt cú đấm thẳng. Trong vòng một phút, người của Hoàng Trạch Dân đã cố gắng để dừng cuộc chiến khi Lý Tiểu Long bắt đầu nhiệt tình hơn với việc chiến đấu. Nghiêm Kính Hải cảnh báo họ nên để cuộc chiến tiếp tục. Một phút sau, khi Lý Tiểu Long tiếp tục cuộc tấn công một cách nghiêm túc, Hoàng Trạch Dân bắt đầu lùi lại nhanh nhất có thể. Ngay lập tức, trong khoảnh khắc, mẩu tin lưu niệm có nguy cơ biến thành một trò hề khi Hoàng Trạch Dân thực sự quay đầu và bỏ chạy. Nhưng Lý Tiểu Long đã vồ lấy anh ta như một con báo đang lao tới và đẩy anh ta xuống sàn, nơi Lý Tiểu Long bắt đầu đấm anh ta vào trạng thái mất tinh thần. "Đủ chưa?" Lý Tiểu Long hét lên, "Đủ rồi!", Hoàng Trạch Dân cầu xin. Lý Tiểu Long yêu cầu trả lời lần thứ hai cho câu hỏi của ông để đảm bảo rằng ông hiểu rằng đây là kết thúc của cuộc chiến." Điều này trái ngược với lời kể của Hoàng Trạch Dân và William Chen về trận đấu khi họ nói rằng trận đấu kéo dài bất thường 20–25 phút. Hoàng Trạch Dân không hài lòng với lời kể của Lý Tiểu Long về trận đấu trên Tạp chí Đai đen (Black Belt Magazine) của Mỹ và đã xuất bản phiên bản của riêng anh ấy trên Tuần báo Thái Bình Dương của Trung Quốc (Chinese Pacific Weekly), một tờ báo tiếng Trung ở San Francisco. Bài báo, được đăng trên trang nhất, bao gồm một mô tả chi tiết về cuộc chiến của Hoàng Trạch Dân, kết thúc bằng lời mời ra mắt công chúng màn tái đấu nếu Lý Tiểu Long nhận thấy thông tin của anh không chính xác hoặc không trung thực. Lý Tiểu Long không đưa ra phản hồi công khai nào về bài báo và chuyển khỏi khu vực ngay sau đó. Trong "Bruce Lee: A Life" của Matthew Polly, người chia sẻ một vài hiểu biết sâu sắc từ quá trình phỏng vấn và nghiên cứu sâu rộng của mình, anh ấy nói rằng theo David Chin, người thay mặt Hoàng Trạch Dân dàn xếp trận đấu, Lý Tiểu Long đã áp đảo Hoàng Trạch Dân với loạt tấn công mở đầu của ông khi Hoàng Trạch Dân đang đến gần để chào theo thông lệ, khiến Hoàng Trạch Dân quay lưng lại và bỏ chạy. Lý Tiểu Long đuổi theo anh ta quanh phòng cho đến khi Hoàng Trạch Dân vấp ngã. Lý Tiểu Long nhảy lên người Hoàng Trạch Dân và tung những cú đấm trời giáng, buộc David Chin phải can thiệp và giải cứu Hoàng Trạch Dân. Nghiêm Kính Hải (James Yimm Lee), bạn cũ của cha của Lý Tiểu Long, cũng ra ngăn Lý Tiểu Long lại, phòng ngừa án mạng xảy ra. Hoàng Trạch Dân sau đó bày tỏ sự hối hận vì đã chiến đấu với Lý Tiểu Long. Anh ta cho rằng đó là sự kiêu ngạo của cả Lý Tiểu Long và bản thân anh ta. Nghiên cứu và sáng tạo ra Tiệt quyền đạo Sau khi dùng Vịnh Xuấn Quyền trong cuộc đấu với Hoàng Trạch Dân không mấy hiệu quả, Lý Tiểu Long bắt đầu suy nghĩ về bản thân. Ông muốn sáng tạo ra một nghệ thuật tư tưởng võ học mới. Đó chính là cơ sở sau này cho môn võ Tiệt quyền đạo (Jeet Kune Do), "Nghệ thuật chiến đấu bằng cách chặn đứng đòn tấn công của đối phương" đã được ra đời. Ông đã từng vật lộn với việc đặt tên cho nghệ thuật của mình khi ông liên tục tránh xa bất kỳ kiểu kết tinh nào và do đó hạn chế bản chất của nó, tuy nhiên, nhu cầu đơn giản để đề cập đến nó theo một cách cụ thể nào đó đã chiến thắng và cái tên Tiệt quyền đạo ra đời. Tên của môn võ này chữ Hán là 截拳道 (Tiệt quyền đạo). "Tiệt" có nghĩa là "cắt đứt" hay "một đoạn". Ý nghĩa này theo Lý Tiểu Long là vì môn võ khi đánh cắt đứt đường quyền của đối thủ, trước khi đối thủ có thì giờ phản ứng. Tiệt quyền đạo (nghĩa là "con đường của cách đánh chặn nắm đấm") là một môn võ bao gồm đòn thế của nhiều môn phái như quyền Anh của Anh, Muay Thái của Thái Lan, Judo của Nhật Bản, Jujitsu của Nhật Bản, Aikido của Nhật Bản, Karate của Nhật Bản, Escrima của Philippines, Savate của Pháp, Taekwondo của Hàn Quốc, Hapkido của Hàn Quốc, Catch Wrestling của Anh, võ Trung Hoa - Hồng Gia Quyền, Vịnh Xuân Quyền, Thái Cực Quyền, Đường Lang Quyền, Nam Quyền,... trong đó đặc biệt nhấn mạnh các kỹ thuật của Vịnh Xuân Quyền (như bài Mộc nhân thung cải cách) được Lý Tiểu Long gọi chung là Kungfu. Quan trọng hơn bộ tấn và cách di chuyển của Tiệt quyền đạo được lấy từ môn Đấu kiếm của phương Tây. Tiệt quyền đạo còn là sự kết hợp tài tình giữa nghệ thuật khiêu vũ cha-cha-cha của châu Mỹ và tinh hoa võ học của châu Á. Ông là người đã sáng tạo ra một hình thái cơ thể hoàn toàn mới, một kết hợp độc đáo giữa nghệ thuật và võ thuật, tiền thân của Võ tổng hợp (MMA) ngày nay. Lý Tiểu Long tin rằng, "võ sĩ giỏi nhất không phải là võ sĩ quyền anh, karate hay judo. Võ sĩ giỏi nhất là người có thể thích nghi với mọi môn phái, tự áp dụng môn phái riêng của bản thân và không tuân theo bất cứ hệ thống môn phái nào". Năm 2004, Chủ tịch UFC Dana White gọi Lý Tiểu Long là "cha đẻ của võ thuật tổng hợp (MMA)". Dana White nói rằng: "Hãy nhìn vào cách ông ấy tập luyện, cách ông ấy ra đòn, những gì ông ấy viết. Với Lý Tiểu Long, môn phái hoàn hảo là chẳng có môn phái nào cả. Bạn học được từ mỗi thứ một chút. Kết hợp những điểm mạnh của nhiều môn phái khác nhau và rồi có thể đánh bại tất cả đối thủ." Ngày 1 tháng 2 năm 1965, Lý Quốc Hào (Brandon Lee) con trai duy nhất của ông và Linda Lee chào đời tại Oakland, California. Cái tên "Quốc Hào" được Lý Tiểu Long đặt cho con trai ông để biểu thị rằng con trai của ông sẽ là niềm tự hào của đất nước. Sau đó khoảng 1 tuần, ngày 8 tháng 2 năm 1965, cha Lý Tiểu Long qua đời tại Hồng Kông thuộc Anh và Lý Tiểu Long đã trở về Hồng Kông dự đám tang cha (nhưng không kịp). Theo phong tục cổ, người con coi là bất hiếu nếu vắng mặt khi cha mất, vì vậy Lý Tiểu Long đã quỳ gối suốt từ cửa tới bình đựng tro hỏa táng của cha mà khóc. Tháng 5 năm 1965 Lý Tiểu Long sử dụng số tiền còn lại từ bộ phim đang quay dang dở là Những màn biểu diễn của Lý Tiểu Long (Demonstrations of Bruce Lee) để bay trở lại Mỹ đưa Linda Lee và Lý Quốc Hào quay lại Hồng Kông thuộc Anh để giải quyết gia sản của người cha để lại (sau này người em ruột của Lý Tiểu Long là Lý Chấn Huy thông qua phim "Bruce Lee, My Brother 2010" để kể lại rằng gia đình của Lý Tiểu Long từng chia làm hai phe tranh chấp tài sản với nhau). Trong khi ở Hồng Kông, Lý Tiểu Long đưa Lý Quốc Hào đến gặp danh sư Diệp Vấn. Đến tháng 9 năm 1965 ông cùng vợ và con quay trở lại Seattle, Mỹ. Sau đó Lý Tiểu Long đã có một buổi phỏng vấn trên truyền hình Mỹ vào tháng 10 năm 1965. Tại buổn phỏng vấn này, ông từng nói rằng: "Hãy sống như là Nước. Bởi vì khi cho Nước vào cốc, Nước sẽ là cốc. Khi cho Nước vào chai, Nước sẽ thành chai. Khi cho Nước vào lọ, Nước sẽ thành lọ. Nước có thể chảy từng giọt. Nước có thể chảy thành dòng. Nước có thể Phá hủy" Sau đó ông tuyên bố rằng kung fu của ông là võ của Trung Quốc, là loại võ tổ tiên của Karate và Jujitsu. Ngoài việc chỉ ra giới hạn của Karate và Jujitsu, Lý Tiểu Long còn biểu diễn vài đường quyền của ông tại buổi phỏng vấn trên truyền hình Mỹ vào tháng 10 năm 1965 này. Việc này khiến cho nhiều võ sư ở khắp nơi đều muốn tìm Lý Tiểu Long để tỷ võ. Chế độ luyện tập Lý Tiểu Long nổi tiếng với thể chất mạnh mẽ được tạo phát triển nhờ chế độ luyện tập chuyên nghiệp của ông. Sau trận đấu với Hoàng Trạch Dân vào năm 1965, Lý Tiểu Long đã thay đổi cách tiếp cận đối với việc luyện võ. Lý Tiểu Long cảm thấy rằng rất nhiều võ sư đã không dành đủ thời gian cho thể chất – bao gồm các yếu tố: sức mạnh cơ bắp, khả năng chịu đựng của cơ bắp, hệ thống tim mạch và tính linh hoạt. Ông đã theo phương pháp thể hình truyền thống để xây dựng những cơ bắp đồ sộ và toàn diện. Chương trình tập luyện Weight training mà Lý Tiểu Long sử dụng trong thời gian lưu trú tại Hồng Kông thuộc Anh năm 1965 nhấn mạnh vào cánh tay. Tại thời điểm đó, Lý Tiểu Long tập biceps curl (bó cơ tay trước) có trọng lượng 70 đến 80 lb tương đương 32 đến 36 kg mỗi tay 3 hiệp 8 lần, cùng với các bài tập khác, chẳng hạn như squat (gánh tạ), push-up (chống đẩy), reverse curl (chống đẩy đảo ngược), concentration curl (nông độ cơ bắp), French presse (tập tạ kiếu Pháp), wrist curls (sức mạnh cổ tay) và reverse wrist curl (trồng cây chuối), Lý Tiểu Long thực hiện từ 6 đến 12 lần mỗi hiệp. lý Tiểu Long luôn luôn thử nghiệm với các bài tập hàng ngày để tối đa hóa thể chất của mình và đẩy cơ thể vượt qua giới hạn của nó. Ông sử dụng nhiều bài tập khác nhau, bao gồm cả nhảy dây. Lý Tiểu Long tin rằng các cơ bụng là một trong những nhóm cơ quan trọng nhất đối với một võ sư, bởi hầu như tất cả các chuyển động đều đòi hỏi một mức độ nào đó nhóm cơ này. Mito Uyehara nhớ lại rằng: "Bruce Lee luôn luôn cảm thấy rằng nếu phần bụng của bạn không được phát triển, thì việc đánh đấm không phải là chuyện của bạn". Theo Linda Lee (vợ của Lý Tiểu Long), ngay cả khi không tập luyện, Lý Tiểu Long thường xuyên sẽ thực hiện các bài tập gập bụng liên tục và các bài tập bụng khác suốt cả ngày khi ở nhà, chẳng hạn như trong quá trình xem truyền hình. Bà cho biết Lý Tiểu Long: "Bruce (Tiểu Long) phát cuồng về những bài tập cơ bụng. Ông ấy luôn luôn thực hiện đứng lên, ngồi xuống, dậm chân tại chỗ, nâng cơ bụng và gia tăng thể lực." Lý Tiểu Long tập từ 7 giờ sáng đến 9 giờ sáng, bao gồm các bài tập bụng, rèn luyện tính linh hoạt và chạy. Từ 11 đến 12 giờ ông thường tập cử tạ và đạp xe. Một bài tập điển hình của ông là chạy 2 – 6 dặm (3.6 – 9.6 km) từ 15 – 45 phút, khi chạy ông thay đổi tốc độ trong 3 – 5 phút. sẽ đạp xe tương đương với 10 dặm (khoảng 16 km) trong 45 phút bằng xe đạp của phòng tập. Ông thỉnh thoảng thực hiện với nhảy dây 800 lần sau khi đi đạp xe. Sau đó lại thực hiện bài tập để tôi luyện nắm đấm của mình, bao gồm đấm mạnh vào xô đá thô và sỏi 500 lần vào những ngày tập luyện. Sự nghiệp điện ảnh Diễn viên trong phim truyền hình The Green Hornet (Thanh Phong Hiệp) (1966 - 1967) Năm 1966, Lý Tiểu Long cùng gia đình dời đến Los Angeles sống trong một căn hộ tại Wilshire, Westwood. Đây là nơi ông làm việc cho phim truyền hình Mỹ gọi là The Green Hornet trong vai Kato. Bộ phim The Green Hornet bắt đầu được quay và Lý Tiểu Long được trả $400 cho mỗi phần. Nội dung bộ phim kể về hai nhân vật đeo mặt nạ đen gọi là The Green Hornet hành hiệp trượng nghĩa, chuyên đi bắt tội phạm trước khi cảnh sát Mỹ ra tay, giúp các cảnh sát Mỹ phá nhiều vụ án khó. Đoàn phim Hollywood từng cười nhạo Lý Tiểu Long khi đó. Không phải diễn xuất của Lý Tiểu Long tệ – chỉ là do ông di chuyển quá nhanh so với tốc độ lia máy của đoàn phim Hollywood, Mỹ. Sau khi ông thực hiện một cảnh quay, không ai có thể nhìn thấy những động tác mà Lý Tiểu Long thực hiện, dẫn đến tiếng cười chế giễu từ các diễn viên Mỹ và đoàn làm phim Mỹ, Lý Tiểu Long sau đó đã bước vào phòng thay đồ với một tâm trạng rất tồi tệ. Sau đó, ông đã tự sửa đổi bằng cách thực hiện chậm lại. Nhờ đưa Tiệt quyền đạo lên phim, Lý Tiểu Long bắt đầu để lại dấu ấn trong bộ phim truyền hình Mỹ 26 tập The Green Hornet (tên tiếng Hoa là Thanh Phong Hiệp) này và được trả một khoản thù lao 1800$ sau khi bộ phim phát sóng. Bộ phim được phát sóng từ ngày 9 tháng 9 năm 1966 đến ngày 17 tháng 3 năm 1967. Thời gian này trong năm 1966, Lý Tiểu Long bắt đầu viết sách "Phương pháp chiến đấu của Lý Tiểu Long" (Bruce Lee's Fighting Method). Đây là một cuốn sách gồm nhiều tập về khả năng võ thuật của Lý Tiểu Long trong việc luyện Tiệt quyền đạo. Văn bản mô tả các kỹ thuật chiến đấu, triết lý và phương pháp huấn luyện kung fu của Lý Tiểu Long. Mitoshi Uyehara, người sáng lập và chủ sở hữu Tạp chí Đai đen (Black Belt Magazine), dần dần trở thành bạn của Lý Tiểu Long, do Lý Tiểu Long đã đóng góp nhiều bài báo cho ấn phẩm trong suốt những năm 1960. Mitoshi Uyehara, một võ sư theo đúng nghĩa của mình, là nhân vật chủ chốt trong việc sắp xếp tài liệu của Lý Tiểu Long để xuất bản. Tuy nhiên, Lý Tiểu Long quyết định không xuất bản tác phẩm này vì ông sợ rằng những người hướng dẫn sẽ sử dụng kiến thức chiến đấu trong văn bản này để quảng cáo cho họ (sau khi Lý Tiểu Long qua đời, người vợ của ông là Linda Lee đã nhờ Mitoshi Uyehara giúp đỡ trong việc xuất bản sách "Phương pháp chiến đấu của Lý Tiểu Long" này vào năm 1978). Làm khách mời trong hai bộ phim truyền hình Batman (1966 - 1968) và Ironside (1967 - 1975) Từ ngày 9 tháng 9 cùng năm, bộ phim The Green Hornet trở nên rất ăn khách và Lý Tiểu Long được chương trình truyền hình Where the Action Is của Mỹ mời làm khách mời tham dự cùng năm 1966 để quảng bá cho vai Kato trong bộ phim The Green Hornet. Tuy nhiên bộ phim vấp phải vấn đề hình ảnh vì hai nhân vật The Green Hornet đeo mặt nạ đen và hành hiệp trượng nghĩa giống với hai nhân vật Batman và Robin trong phim truyền hình Mỹ Batman (1966 - 1968) phát sóng cùng lúc tại Mỹ. Thực tế hai nhân vật The Green Hornet khiến khán giả Mỹ yêu thích hơn cả Batman và Robin. Sau đó phim truyền hình Mỹ Batman (1966 - 1968) mời Lý Tiểu Long và Van Williams (vai The Green Hornet) cùng tham gia vào ba tập phim đặc biệt của mình là các tập 41 "The Spell of Tut" (phát sóng ngày 28 tháng 9 năm 1966), tập 51 "A Piece of the Action" (phát sóng ngày 1 tháng 3 năm 1967) và tập 52 "Batman's Satisfaction" (phát sóng ngày 2 tháng 3 năm 1967) để kéo lại doanh thu phòng vé cho Batman (1966 - 1968). Đầu năm 1967 võ sư Jhoon Rhee người Hàn Quốc (học trò của Lý Tiểu Long) đã mời Lý Tiểu Long đến Washington, D.C. tham dự Giải vô địch Karate toàn quốc (National Karate Championship). Tại giải này, Lý Tiểu Long đã gặp võ sư Joe Lewis tại khách sạn Mayflower, cả hai đều là khách mời của giải này. Joe Lewis đang cố giành phần thắng trong giải đấu còn Lý Tiểu Long khi đó đang có sự xuất hiện đặc biệt với vai Kato. Lý Tiểu Long từng gặp Chuck Norris tại New York, nay gặp lại Chuck Norris tại giải đấu này. Chuck Norris đấu với Joe Lewis và giành phần thắng. Tuy nhiên Victor Moore đã đánh bại Chuck Norris để trở thành nhà vô đich của giải đấu. Sau khi trận chung kết kết thúc, Lý Tiểu Long được mời lên biểu diễn Tiệt quyền đạo của ông cho mọi người xem. Lý Tiểu Long đã dùng Tiệt quyền đạo với Victor Moore và nhanh chóng hạ gục Victor Moore. Victor Moore phải lắc đầu bái phục Lý Tiểu Long. Đây cũng là lý do truyền thông Mỹ phong tặng Lý Tiểu Long là một trong những người tạo nên cách mạng trong thế giới võ thuật. Giải thưởng đánh giá cao (Appreciation Award) đã được trao cho Lý Tiểu Long tại giải Karate này. Tháng 2 cùng năm 1967 Lý Tiểu Long mở "Chấn Phiên Võ Quán" thứ ba của ông tại đường 628 College, khu phố Tàu (Chinatown) của thành phố Los Angeles, Mỹ. Nơi đây từng được lên phim truyền hình The Green Hornet/Thanh Phong Hiệp (1966 - 1967) của Lý Tiểu Long. Võ sư Dan Inosanto người Philippines (người từng dạy cho Lý Tiểu Long cách dùng côn nhị khúc) trợ giúp Lý Tiểu Long như một phụ tá hướng dẫn. Lý Tiểu Long thực sự yêu thích xe hơi, khi còn đang dạy võ ở Mỹ, ông đã mua một chiếc Chevrolet Nova (chiếc xe có nhãn dán ở cửa sổ phía sau với dòng chữ Chiếc xe này được bảo vệ bởi Green Hornet). Một người bạn thỉnh thoảng cho Lý Tiểu Long lái chiếc siêu xe Shelby Cobra, nhưng thứ ông thực sự muốn là chiếc xe thể thao mà người bạn thân nhất của ông ta là Steve McQueen sở hữu: một chiếc Porsche Targa. Khi mẹ của Lý Tiểu Long gửi cho ông số tiền kiếm được từ một căn hộ mà bà đã bán ở Hồng Kông, ông đã đi thẳng đến cửa hàng để mua chiếc Porsche Targa. Lúc này Lý Tiểu Long đã kết bạn với võ sư Muhammad Ali. Nhờ đi xem những trận đấu boxing của Muhammad Ali và được Muhammad Ali truyền dạy thêm chiêu thức boxing, Lý Tiểu Long càng ngày càng hoàn thiện Tiệt quyền đạo của ông hơn. Đến ngày 17 tháng 3 năm 1967, tập 26 của phim The Green Hornet (Thanh Phong Hiệp) được trình chiếu. Bộ phim sau đó được nói rằng phải bỏ dở vì Lý Tiểu Long, nhân vật phụ, trở nên nổi tiếng còn hơn cả nam chính Van Williams của phim. Tuy nhiên có một số ý kiến cho rằng vì Hollywood muốn phim truyền hình Batman (1966 - 1968) "được sống" nên mới không cho quay tiếp phần 2 của The Green Hornet. Võ sư Ed Parker một lần nữa tổ chức Giải vô địch karate quốc tế Long Beach (Long Beach International Karate Championships) tại Long Beach, California trong năm 1967. Lý Tiểu Long được Ed Parker mời đến tham dự giải đấu. Ông gặp lại võ sư Chuck Norris và Joe Lewis tại giải đấu lần này. Đoạn phim năm 1967 đã được giữ nguyên ở chất lượng cao hơn đoạn phim năm 1964 trước đó. Kỳ này Joe Lewis và Chuck Norris lần lượt ra thử đòn của Lý Tiểu Long. Lý Tiểu Long đã thể hiện tốc độ thần tốc của mình, tung ra những đòn chớp mắt trước khi đối thủ kịp cản phá. Lý Tiểu Long sau đó thực hiện Vịnh Xuân Quyền khi bị bịt mắt, thăm dò điểm yếu của đối thủ trong khi ghi điểm bằng những cú đấm và hạ gục các đối thủ. Sau đó, Lý Tiểu Long thực hiện cú đấm một inch vào một số tình nguyện viên (trong đó có Joe Lewis và Chuck Norris). Đáng chú ý nhất là sau đó Lý Tiểu Long đã tham gia vào một trận đấu toàn diện với đối tác đấu kiếm Nghiêm Kính Hải (James Yimm Lee), cả hai đều đội mũ trùm đầu bằng da. Có thể thấy Lý Tiểu Long đang thực hiện khái niệm Tiệt quyền đạo của mình về chuyển động tiết kiệm, sử dụng động tác chân từng được võ sư Muhammad Ali truyền dạy để tránh xa phạm vi trong khi phản công bằng những cú đấm sau lưng và những cú đấm thẳng. Lý Tiểu Long cũng ngăn chặn các cuộc tấn công của Nghiêm Kính Hải bằng những cú đá bên hông và nhanh chóng thực hiện một số pha quét và đá đầu. Đối thủ không bao giờ có thể kết nối với một cú đánh sạch, nhưng một khi đã có thể áp sát bằng một cú đá xoáy. Đoạn phim đánh nhau đã được tạp chí Black Belt đánh giá vào năm 1995, kết luận rằng: "hành động trong buổi biểu diễn này diễn ra nhanh và dữ dội như bất cứ thứ gì trong phim của Lý Tiểu Long". Ngoài ra, từ năm 1967, Lý Tiểu Long còn dạy võ với mức lương tới 250$ mỗi giờ cho những người nổi tiếng như Steve McQueen, James Coburn, James Garner, Lee Marvin, Roman Polanski và Kareem Abdul-Jabbar. Chuck Norris và Sharon Tate thì đến võ quán của Lý Tiểu Long tại Oakland, California để học Tiệt quyền đạo của ông. Sau đó Lý Tiểu Long còn được mời đóng vai khách mời trong tập 7 "Tagged for Murder" của phim truyền hình Mỹ Ironside (1967 - 1975). Tập phim này phát sóng vào ngày 26 tháng 10 năm 1967. Đầu năm 1968, Lý Tiểu Long được mời làm Giám khảo khách mời (Guest Judge) tại Giải vô địch Karate toàn quốc (National Karate Championship) tại Washington, D.C.. Cuối giải đấu, Lý Tiểu Long được nhận Giải giám khảo khách mời (Guest Judge Award) nhờ những phán quyết công tâm của ông suốt giải đấu Bắt đầu đạo diễn kịch bản và chỉ đạo võ thuật Đạo diễn kịch bản cho phim The Wrecking Crew (1968) Trong năm 1968, Lý Tiểu Long bắt đầu làm đạo diễn kịch bản cho phim Mỹ The Wrecking Crew (1968). Ông còn tham gia chỉ đạo võ thuật trong phim. Lý Tiểu Long nhận xét rằng ông "đã cố gắng dạy Dean Martin (người đóng vai nam chính trong phim) cách đá nhưng anh ấy quá lười biếng và quá vụng về" và họ chủ yếu phải dựa vào Mike Stone đóng thế. Lý Tiểu Long còn nói rằng nữ diễn viên Sharon Tate và nữ diễn viên Nancy Kwan (nữ diễn viên người Trung Quốc-Mỹ) giỏi hơn, "họ làm những công việc phụ khá tốt mà tôi chỉ cần dạy họ ở mức tối thiểu". Lý Tiểu Long chia sẻ thêm rằng nữ diễn viên Nancy Kwan đã tiếp cận ông, muốn ông trở thành giáo viên dạy riêng dài hạn của cô ấy nhưng Lý Tiểu Long đã nói với cô ấy rằng cô ấy sẽ không đủ khả năng chi trả cho ông. Phim The Wrecking Crew (1968) mang lại doanh số phòng vé khá cao cho Hollywood từ khi công chiếu vào ngày 25 tháng 12 năm 1968 vì những màn võ thuật trong phim rất chân thật. Tại Mỹ và Canada, phim có doanh thu 2,4 triệu đô la. Làm khách mời trong hai phim truyền hình Blondie (1968 - 1969) và Here Come the Brides (1968 - 1970) Đầu năm 1969, Lý Tiểu Long được mời làm Khách mời đặc biệt (Special Guest) tại Giải vô địch Karate toàn quốc (National Karate Championship) tại Washington, D.C.. Cuối giải đấu, Lý Tiểu Long lên võ đài biểu diễn Tiệt quyền đạo với võ sư Chuck Norris. Buổi biểu diễn rất đặc sắc khi Lý Tiểu Long phá được mọi chiêu thức karate của Chuck Norris. Lý Tiểu Long được nhận Giải khách mời đặc biệt (Special Guest Award) trong giải đấu này. Sau đó, Lý Tiểu Long được mời vào vai thầy dạy võ Karate (vai khách mời) trong tập 13 "Pick on a Bully Your Own Size" của phim truyền hình Mỹ Blondie (1968 - 1969). Tập phim này phát sóng vào ngày 9 tháng 1 năm 1969. Lý Tiểu Long lại vào vai khách mời trong tập 25 "Marriage Chinese Style" của phim truyền hình Mỹ Here Come the Brides (1968 - 1970). Tập phim này phát sóng vào ngày 9 tháng 4 năm 1969. Ngày 19 tháng 4 năm 1969 con gái Lý Hương Ngưng (Shannon Lee) của Lý Tiểu Long và Linda Lee cất tiếng khóc chào đời. Đạo diễn kịch bản và diễn xuất trong phim Marlowe (1969) Lý Tiểu Long tập tiếp tục làm đạo diễn kịch bản cho phim Mỹ Marlowe (1969). Trong phim này, Lý Tiểu Long vừa làm đạo diễn kịch bản, vừa đóng vai phụ trong phim. Vai của Lý Tiểu Long trong phim là Winslow Wong - một nhân vật phản diện, dùng tiền ép nam chính Philip Marlowe (do James Garner thủ vai) làm chuyện xấu cho mình. Sau đó Philip Marlowe dùng mưu khiến nhân vật của Lý Tiểu Long bị rơi từ sân thượng tòa nhà xuống đất tử vong. Phim đạt doanh số phòng vé cao từ khi công chiếu vào ngày 19 tháng 9 năm 1969 vì sự nổi bật từ vai phụ của Lý Tiểu Long, đặc biệt là sức mạnh của Tiệt quyền đạo được Lý Tiểu Long thể hiện. Ở châu Âu, phim đã bán được 375.668 vé ở Tây Ban Nha và 120.408 vé ở Pháp, trong tổng số 496.076 vé được bán ở Tây Ban Nha và Pháp. Đạo diễn kịch bản cho phim A Walk in the Spring Rain (1970) Mùa xuân năm 1970, Lý Tiểu Long được mời về Hồng Kông thuộc Anh tham gia chương trình truyền hình Enjoy Yourself Tonight (歡樂今宵). Lý Tiểu Long và con trai Lý Quốc Hào 5 tuổi bay về Hồng Kông trong sự chào đón của khán giả hâm mộ bộ phim The Green Hornet (Thanh Phong Hiệp). Lý Tiểu Long đã biểu diễn Tiệt quyền đạo trên sóng truyền hình Hồng Kông, dùng Thốn quyền đấm vỡ miếng gỗ trên sóng truyền hình Hồng Kông, khiến cho việc Lý Tiểu Long tự lập môn hộ riêng mình truyền đến võ quán Vịnh Xuân Quyền của Diệp Vấn. Diệp Vấn rất tức giận và kể từ đó cho đến khi qua đời, Diệp Vấn không bao giờ gặp mặt Lý Tiểu Long nữa. Sau khi xong chương trình, Lý Tiểu Long thăm gia đình rồi đưa Lý Quốc Hào bay về Mỹ. Lý Tiểu Long lại được mời làm Khách mời danh dự (Guest of Honor) tại Giải vô địch Karate toàn quốc (National Karate Championship) tại Washington, D.C.. Cuối giải đấu, Lý Tiểu Long lên võ đài biểu diễn Tiệt quyền đạo với Chuck Norris. Kỳ này Chuck Norris cũng dùng Tiệt quyền đạo đã được dạy từ Lý Tiểu Long để đối phó lại Tiệt quyền đạo của Lý Tiểu Long. Tuy nhiên do Lý Tiểu Long ra đòn nhanh hơn nên mọi chiêu thức của Chuck Norris đều bị ông hóa giải. Lý Tiểu Long được nhận Giải khách mời danh dự (Honorable Guest Award) của giải đấu. Sau đó cùng năm 1970, Lý Tiểu Long được một người bạn thân là nhà sản xuất Stirling Silliphant mời làm đạo diễn kịch bản cho phim Mỹ A Walk in the Spring Rain (1970). Ông cũng tham gia chỉ đạo võ thuật trong phim và ông cũng đưa Tiệt quyền đạo vào phim điện ảnh của Mỹ. Đặc biệt là cảnh đánh nhau giữa nhân vật chính Will Cade (do Anthony Quinn thủ vai) và con trai ông ấy trong phim, Lý Tiểu Long đích thân hướng dẫn cho họ từng động tác tấn công, phòng thủ theo phong cách Tiệt quyền đạo (ra đòn nhanh, dứt khoát, mạnh với chiêu thức đơn giản nhất). Phim A Walk in the Spring Rain (1970) này tiếp tục mang lại doanh số phòng vé khá cao cho Hollywood từ khi công chiếu vào ngày 17 tháng 6 năm 1970 vì những màn võ thuật trong phim rất chân thật. Lên kịch bản cho phim truyền hình Kung Fu và tranh cãi Trong hồi ký của mình, vợ của Lý Tiểu Long, Linda Lee khẳng định rằng Lý Tiểu Long đã từng tạo ra ý tưởng, lên kịch bản cho phim truyền hình Kung Fu, sau đó kịch bản này đã bị Warner Bros đánh cắp (Theo Bruce Lee: Người đàn ông duy nhất tôi đã biết, trang 130–131). Theo nhà viết tiểu sử Matthew Polly, Lý Tiểu Long không phải là người lên kịch bản cho phim truyền hình Kung Fu. Ed Spielman đã tạo ra nhân vật Kwai Chang Caine, và bộ phim mà Ed Spielman viết cùng Howard Friedlander vào năm 1969 là nguồn gốc của phi công và loạt phim tiếp theo. Lần đầu tiên Ed Spielman viết một kịch bản về một samurai đi đến Trung Quốc và học kung fu. Khoảng năm 1967, Ed Spielman đã đưa nó cho cộng sự Howard Friedlander, người đề nghị biến Trung Quốc thành phương Tây; Ed Spielman sau đó quyết định biến nhân vật chính thành một nhà sư Thiếu Lâm nửa Mỹ nửa Trung Quốc. Năm 1969, Peter Lampack của William Morris đã đưa kịch bản này cho Fred Weintraub, vào thời điểm đó là giám đốc điều hành của Warner Brothers. Fred Weintraub nhận được kịch bản hoàn chỉnh vào ngày 30 tháng 4 năm 1970. Sau đó thông qua người bạn là Sy Weintraub), Fred Weintraub đã gặp Lý Tiểu Long và coi ông ấy là người lý tưởng cho vai diễn này nên đã cố gắng cùng ông ấy phát triển kịch bản với tư cách là diễn viên chính, nhưng đã bị Lý Tiểu Long từ chối. Howard Friedlander đổ lỗi cho sự xuất hiện của Richard D. Zanuck và David Brown với tư cách là giám đốc điều hành cấp cao của Warners Brothers khiến dự án phim bị hủy bỏ, bởi vì "sự đồng thuận chung là công chúng sẽ không sẵn sàng chấp nhận một anh hùng Trung Quốc" Chấn thương năm 1970 và viết sách Đạo của Tiệt quyền đạo Trong năm 1970, khi 30 tuổi, Lý Tiểu Long bị chấn thương nặng ở dây thần kinh dưới cùng ở lưng dưới trong khi tập luyện cử tạ. Bác sĩ nói rằng ông không thể tiếp tục luyện võ được nữa. Ông được các bác sĩ chỉ định đeo nẹp lưng trong 6 tháng để hồi phục chấn thương. Đây là khoảng thời gian rất mệt mỏi và chán nản đối với Lý Tiểu Long, người luôn hoạt động thể chất rất tích cực. Tiền trở nên eo hẹp khi các vai diễn ở Hollywood tỏ ra khó kiếm, và vợ của ông là Linda Lee phải làm việc buổi tối tại một dịch vụ trả lời điện thoại để giúp gia đình ông thanh toán các hóa đơn. Bác sĩ có nói với Linda Lee rằng cơ thể của Lý Tiểu Long không có chất béo, chỉ có cơ bắp, nhìn bề ngoài thì cơ thể của ông có năng lượng, nhưng thực chất sức khỏe bên trong không ổn, do cơ thể ông rất cần chất béo để giống với người khỏe mạnh bình thường. Trong suốt những tháng ngày phục hồi sức khỏe, Lý Tiểu Long bắt đầu viết về phương pháp luyện tập của mình chứng nghiệm từ chính bản thân cho môn võ Tiệt quyền đạo. Tiền đề cho sách "Đạo của Tiệt quyền đạo" (Tao of Jeet Kune Do). Nhiều câu nói của Lý Tiểu Long trong sách này bắt nguồn từ những nghiên cứu của chính ông về các trường phái triết học và võ thuật khác nhau, và đôi khi là cách diễn giải những cách diễn đạt trước đó của những người khác mà ông đã viết ra để hướng dẫn riêng mình thành lời của chính mình. Chỉ đạo võ thuật và diễn xuất trong phim truyền hình Longstreet (1971 - 1972) Lý Tiểu Long phục hồi sức khỏe vào khoảng tháng 12 năm 1970 thì tiếp tục bắt tay vào công việc. Từ tháng 12 năm 1970 đến đầu năm 1971, Lý Tiểu Long vào vai phụ Li Tsung trong phim truyền hình Mỹ Longstreet (1971 - 1972). Nhân vật Li Stung này là một nhà buôn đồ cổ và chuyên gia Tiệt quyền đạo, người trở thành huấn luyện viên võ thuật của nhân vật chính Mike Longstreet (do James Franciscus thủ vai). Trong bộ phim, nữ chính Nikki Bell (do Marlyn Mason thủ vai) luôn gọi nhân vật Li Stung của Lý Tiểu Long một cách miệt thị là "Monkey" (Con Khỉ), do dáng dấp nhỏ bé của Lý Tiểu Long so với dàn diễn viên Mỹ trong bộ phim. Lý Tiểu Long đã đưa những quan điểm triết học vào bộ phim này. Lý Tiểu Long chỉ xuất hiện trong 4 tập của bộ phim này, bao gồm tập 1 "The Way of the Intercepting Fist" (phát sóng vào ngày 16 tháng 9 năm 1971), tập 6 "Spell Legacy Like Death" (phát sóng vào ngày 21 tháng 10 năm 1971), tập 9 "Wednesday's Child" (phát sóng vào ngày 11 tháng 11 năm 1971) và tập 10 "I See, Said the Blind Man" (phát sóng vào ngày 18 tháng 11 năm 1971). Ngoài ra, Lý Tiểu Long còn kiêm thêm vai trò chỉ đạo võ thuật trong phim truyền hình Mỹ dài 23 tập này. Bộ phim truyền hình này có doanh thu phòng vé khá cao nhờ những màn đấu võ của Lý Tiểu Long trong phim. Lý Tiểu Long từng tiết lộ trên truyền hình Mỹ rằng vai Li Tsung này là vai diễn mà ông thích nhất vào lúc đó, bởi tính cách nhân vật này giống y đúc tính cách của ông ở ngoài đời. Cũng trong năm 1971, Lý Tiểu Long có ý định hoàn thành chuyên luận "Đạo của Tiệt quyền đạo" (Tao of Jeet Kune Do) mà ông đã bắt đầu trong thời gian ông dưỡng bệnh vào năm 1970. Tuy nhiên, sự nghiệp điện ảnh và công việc đã ngăn cản ông làm điều đó. Ông cũng do dự về việc xuất bản cuốn sách của mình vì ông cảm thấy rằng tác phẩm này có thể bị sử dụng sai mục đích. Mục đích của Lý Tiểu Long khi viết cuốn sách là ghi lại cách suy nghĩ của một người về võ thuật. Đó là một cuốn sách chỉ dẫn, không phải là một bộ dạy học hay sách ""Cách để"" ("How to") để học võ thuật (sau này vợ ông là Linda Lee cho phát hành sách "Đạo của Tiệt quyền đạo" trong tuyển tập sách "Những ký ức về Lý Tiểu Long" vào năm 1975 sau khi ông đã qua đời). Dở dang khi lên kịch bản cho phim The Silent Flute (Tiếng sáo vô thanh) Lý Tiểu Long vẫn muốn phát triển các dự án phim và truyền hình ở Hollywood, nhưng Warner Brosthers miễn cưỡng chấp nhận dự án kịch bản truyền hình mà ông đã phát triển (cốt truyện tương tự, nhưng không giống với Kung Fu). Kịch bản phim này được gọi là kịch bản phim The Silent Flute (Tiếng sáo vô thanh). Ấn Độ được chọn là nơi để quay phim vì Warner Brothers không thể hồi hương tiền mà các bộ phim của họ đã tạo ra ở Ấn Độ do các quy định về ngoại hối. Kịch bản phim này được bật đèn xanh với điều kiện bộ phim phải được quay ở Ấn Độ để sử dụng số tiền chưa sử dụng trong tài khoản của Warner Brothers ở Ấn Độ. Lý Tiểu Long hình dung bộ phim của mình là một lời giới thiệu thú vị về triết học phương Đông, cũng như võ thuật. Như ông đã viết trong lời tựa cho kịch bản: "Câu chuyện minh họa một sự khác biệt lớn giữa tư duy phương Đông và phương Tây. Người phương Tây bình thường này sẽ bị thu hút bởi khả năng bắt ruồi bằng đũa của một người nào đó, và có lẽ sẽ nói rằng điều đó không liên quan gì đến việc anh ta chiến đấu giỏi như thế nào. Nhưng người phương Đông sẽ nhận ra rằng một người đàn ông đã đạt được sự tinh thông hoàn toàn về một nghệ thuật như vậy sẽ bộc lộ sự hiện diện của tâm trí anh ta trong mọi hành động... Sự tinh thông thực sự vượt qua bất kỳ nghệ thuật cụ thể nào." Tháng 2 năm 1971, Lý Tiểu Long cùng James Coburn, Stirling Silliphant (hai học trò của Lý Tiểu Long) bay sang Ấn Độ để khảo sát những cảnh quay cho phim The Silent Flute (Tiếng sáo vô thanh). Họ mất một tháng trời tìm kiếm song miễn cưỡng để từ bỏ do James Coburn bỏ dở kế hoạch. Sau khi Lý Tiểu Long từ bỏ kịch bản phim này, kịch bản gốc đã được viết lại, thay thế một số cảnh bạo lực bằng các chủ đề hài hước. Kịch bản phim The Silent Flute (Tiếng sáo vô thanh) này sau đó được đổi tên thành Circle of Iron, được quay và được công chiếu vào ngày 1 tháng 5 năm 1978 tại Canada. Trước những sự kiện gần đây, James Coburn đã đề nghị với Lý Tiểu Long rằng ông nên thử vận may của mình trong ngành công nghiệp điện ảnh Hồng Kông đang ngày càng phát triển. Chuyến du ngoạn này đã giúp cho Lý Tiểu Long có ý tưởng cho bộ phim Trò Chơi Tử Thần về sau. Trong năm 1971 khi 31 tuổi Lý Tiểu Long kết thúc chuyến du ngoạn ngắn ngủi quay trở lại Hồng Kông để thu xếp cho mẹ là Hà Ái Du tới Mỹ để cùng chung sống với vợ chồng ông. Việc quay phim Đường Sơn đại huynh (1971) ở Thái Lan và Hồng Kông Trong thời điểm này ông đang là một siêu sao của phim The Green Hornet đã trở thành phim truyền hình ăn khách nhất ở Hồng Kông thuộc Anh. Được khuyến khích bởi sự quan tâm đến Hồng Kông, Lý Tiểu Long đã nhờ người bạn thời thơ ấu Unicorn Chan gửi sơ yếu lý lịch của ông cho công ty Shaw Brothers, công ty sản xuất phim lớn nhất Hồng Kông thuộc Anh. Họ đề nghị cho Lý Tiểu Long một hợp đồng dài hạn nhưng chỉ 2.000 đô la Mỹ cho mỗi bộ phim, Lý Tiểu Long đã từ chối. Một lời đề nghị khác bất ngờ xuất hiện từ Châu Văn Hoài (Raymond Chow), một nhà sản xuất phim đã rời công ty Shaw Brothers vào năm 1970 để thành lập một công ty mới tên là Gia Hòa Châu Văn Hoài, nhận thức được lời đề nghị bị từ chối từ Shaw Brothers, đã bị ấn tượng bởi các cuộc phỏng vấn của Lý Tiểu Long trên truyền hình và đài phát thanh Hồng Kông, cũng như sự tự tin của ông trong một cuộc điện thoại đường dài. Trong cuộc điện thoại đó, Lý Tiểu Long đã xác định bộ phim hành động hay nhất đang chiếu ở Hồng Kông thuộc Anh và đảm bảo với Châu Văn Hoài rằng ông có thể làm tốt hơn nữa. Sau đó Lý Tiểu Long quay lại Mỹ. Vào tháng 6 năm 1971, Châu Văn Hoài đã cử một trong những nhà sản xuất của mình, Liu Liang-Hua (vợ của đạo diễn Lo Wei) đến Los Angeles để gặp và thương lượng với Lý Tiểu Long. Lý Tiểu Long sau đó đã ký hợp đồng quay hai phim cho công ty Gia Hòa với giá 15.000 đô la Mỹ (10.000 đô la cho Đường Sơn đại huynh 1971 và 5.000 đô la khi hoàn thành bộ phim thứ hai có tựa đề dự kiến là King of Chinese Boxers). Điều này giúp gia đình của Lý Tiểu Long bớt lo lắng về tài chính và cho phép vợ ông là Linda Lee nghỉ việc làm thêm. Lý Tiểu Long đã dừng việc dạy võ cho những người nổi tiếng như Steve McQueen, James Coburn, James Garner, Lee Marvin, Roman Polanski và Kareem Abdul-Jabbar trong năm 1971. Sau đó ông để vợ con ở Mỹ rồi bay sang Hồng Kông thuộc Anh để làm việc cho hãng phim Gia Hòa của Châu Văn Hoài. Lý Tiểu Long được hãng phim Gia Hòa cấp một căn hộ với đồ đạc có sẵn ở đường số 2 Man Wan - Cửu Long, Hồng Kông thuộc Anh. Với kinh nghiệm diễn xuất 25 phim điện ảnh Hồng Kông lúc nhỏ, diễn xuất 6 bộ phim truyền hình Mỹ lúc trưởng thành, diễn xuất 1 phim điện ảnh Mỹ lúc nổi tiếng, làm đạo diễn kịch bản cho 3 phim điện ảnh Mỹ và 1 phim truyền hình Mỹ, làm chỉ đạo võ thuật cho 2 phim điện ảnh Mỹ và 1 bộ phim truyền hình Mỹ, Lý Tiểu Long đã đủ sức thuyết phục được đoàn phim của Châu Văn Hoài cho ông làm chỉ đạo võ thuật, đạo diễn kịch bản trong phim Đường Sơn đại huynh (1971). Châu Văn Hoài yêu cầu Lý Tiểu Long bay đến Thái Lan bằng máy bay do công ty sắp xếp nhưng ông từ chối, ông ở lại Hồng Kông 5 ngày để gặp mặt các thành viên trong đoàn phim rồi mới bay cùng chuyến với đoàn phim cùng sang Thái Lan. Nguyên Hoa, trợ lý của Lý Tiểu Long suốt 3 năm liền (người sau này cũng trở thành một diễn viên nổi tiếng từng tham gia trong các phim Tinh Võ Môn, Long tranh hổ đấu và Tuyệt đỉnh Kungfu đóng cùng Châu Tinh Trì) đã đi cùng Lý Tiểu Long. Sau đó Nguyên Hoa kết hôn và vợ mới của Nguyên Hoa cũng đi cùng. Lâm Chánh Anh (19 tuổi) lúc này cũng bắt đầu làm việc cho Lý Tiểu Long và cùng chỉ đạo võ thuật cho những bộ phim của Lý Tiểu Long như Đường Sơn đại huynh, Tinh Võ Môn, Long Tranh Hổ Đấu, Mãnh Long quá giang, Trò Chơi Tử Thần. Nữ diễn viên Y Y cũng đi theo Lý Tiểu Long quay phim Đường Sơn đại huynh này. Ngày 22 tháng 7 năm 1971, đoàn phim bắt đầu bấm máy Đường Sơn đại huynh tại một vùng thị trấn nhỏ Pak Chong hẻo lánh của Thái Lan, điều kiện sinh hoạt khó khăn. Khi Lý Tiểu Long đến Pak Chong, các công ty điện ảnh đối thủ đã cố gắng hết sức để lôi kéo ông ra khỏi công ty Gia Hòa, bao gồm cả công ty Shaw Brothers, với một lời đề nghị mới và cải tiến hơn. Một nhà sản xuất phim từ Đài Loan bảo Lý Tiểu Long xé hợp đồng và hứa sẽ lo liệu mọi vụ kiện. Tuy nhiên Lý Tiểu Long là một người giữ lời hứa, không có ý định xem xét các lời đề nghị đó, mặc dù điều đó đã gây thêm căng thẳng cho phim trường. Nhân vật của Lý Tiểu Long trong phim là một nhân vật có thật Trịnh Triều An, là người nhà Thanh, Trung Quốc sang Thái Lan, giúp đỡ người nhà Thanh ở đất Thái chống lại bọn cường quyền xấu xa. Phim đang được quay suôn sẻ bởi đạo diễn Wu Chia Hsiang trong vài ngày đầu thì đạo diễn Lo Wei (chồng của nhà sản xuất Liu Liang-hua) được công ty Gia Hòa thay vào. Lý Tiểu Long từng viết thư gửi cho vợ ông với nội dung miêu tả Lo Wei là "người tình nổi tiếng" và là "một người tầm thường khác với khí chất vượt trội gần như không thể chịu nổi". Đạo diễn Lo Wei từng không hài lòng với kịch bản gốc và viết lại nó mà Lý Tiểu Long không hề hay biết. Khi đó nhóm diễn viên Hồng Kông theo đoàn phim là Lâm Chánh Anh (19 tuổi, vai Ah Yen trong phim Đường Sơn đại huynh), Trần Hội Nghị (vai Ah Pei trong phim Đường Sơn đại huynh) và Peter Chan Lung (vai tên tay sai và người gác cổng của Hsiao Mi trong phim Đường Sơn đại huynh) không có ấn tượng gì với Lý Tiểu Long và cho rằng võ công của Lý Tiểu Long chỉ là hư danh. Nhóm này cử ra thanh niên Lâm Chánh Anh đến thách đấu với Lý Tiểu Long trong một khách sạn tại Thái Lan. Lúc đó Lâm Chánh Anh cũng không tin rằng Lý Tiểu Long mạnh như lời đồn. Lâm Chánh Anh đặt một chiếc gối trước ngực, Lý Tiểu Long đá cả Lâm Chánh Anh và chiếc gối bay vào trong phòng. Đến lúc này, Lâm Chánh Anh, Trần Hội Nghị và Peter Chan Lung mới thay đổi suy nghĩ ban đầu về Lý Tiểu Long. Lý Tiểu Long rất ấn tượng với cá tính của Lâm Chánh Anh và ngay sau đó viết thư mời Lâm Chánh Anh trở thành phụ tá riêng cho mình. Một đêm nọ, việc quay cảnh đánh nhau lớn trong ngôi nhà băng phải dừng lại trong một giờ vì Lý Tiểu Long làm mất kính áp tròng, và hàng chục người đang bó tay tìm kiếm nó giữa hàng ngàn mảnh băng vụn. Cuối cùng thì Lý Tiểu Long cũng tự mình tìm thấy nó, khiến đạo diễn Lo Wei tự hỏi liệu có phải ông đã để nó trong túi từ lâu và cố tình gây rối hay không. Lúc đó Lâm Chánh Anh còn trẻ nên rất nóng tính và thường xuyên đánh nhau. Trong quá trình quay phim "Đường Sơn đại huynh" ở Thái Lan, Lâm Chánh Anh bị cảnh sát Thái Lan bắt giữ do đánh nhau với người Thái Lan bản địa, và Lý Tiểu Long đã phải bảo lãnh Lâm Chánh Anh ra khỏi nhà tù của Thái Lan. Mặc dù không được đi học nhiều, nhưng Lâm Chánh Anh có những cuộc bàn luận sôi nổi với Lý Tiểu Long về võ thuật và Lý Tiểu Long rất thích điều này.. Thời gian này trên phim trường, Lý Tiểu Long đã có sự tương tác võ thuật rộng rãi với một số diễn viên đóng thế người Thái Lan (một trong số họ là cựu vô địch hạng bantamweight Muay Thái), và trao đổi thông tin cũng như kỹ năng với họ giữa các lần tỷ võ. Lý Tiểu Long được cho là không mấy ấn tượng và gọi những cú đá Muay Thái của họ là "telegraphed". Thực tế Lý Tiểu Long thích những cú đá Taekwondo hơn và luôn đưa những cú đá của Taekwondo lên phim. Sau vài ngày quay phim đầu tiên đầy biến cố và đôi khi hỗn loạn ở Pak Chong, đến đầu tháng 8 năm 1971, quá trình quay phim đã tăng tốc và tiến triển tốt. Lý Tiểu Long và Lo Wei đã hợp tác, nhưng họ vẫn xung đột trong một số cảnh phim Lý Tiểu Long cũng do dự khi đồng ý với ý tưởng quay những cảnh mạo hiểm của Lo Wei. Phim còn có 1 cảnh nóng giữa Trịnh Triều An (do Lý Tiểu Long thủ vai) với 1 cô kỹ nữ tên là Wu Man (do nữ diễn viên Thái Lan là Marilyn Bautista thủ vai). Marilyn Bautista thậm chí còn khỏa thân lộ ngực ở trong phim. Lúc đầu Lý Tiểu Long ái ngại nhưng cuối cùng ông đã đồng ý quay cảnh đó vì đạo diễn Lo Wei khẳng định rằng điều đó sẽ bổ sung vào hình ảnh mới của nhân vật của ông như một chiến binh có mục đích trả thù. Sau đó Lý Tiểu Long lại có thêm 1 cảnh nóng nữa với một cô gái mại dâm người Thái Lan nhưng cảnh này đã bị cắt bỏ khi phát sóng ở Châu Á, Châu Phi. Đây là phim đầu tiên Lý Tiểu Long có những cảnh hôn môi và những cảnh nóng với một nữ diễn viên người Thái Lan và một cô gái mại dâm người Thái Lan. Cuối tháng 8 năm 1971 nữ diễn viên Miêu Khả Tú (nữ diễn viên Hồng Kông) mới sang Thái Lan nên cô chỉ quay một vài cảnh ngắn cho phim Đường Sơn đại huynh với vai khách mời là một cô gái xinh đẹp bán hàng giải khát ven đường. Khi ở Thái Lan, Lý Tiểu Long thường xuyên viết thư cho vợ ông ở Mỹ là Linda Lee, nói với cô rằng ông nhớ cô và các con, và mong được gặp họ ở Hồng Kông sau khi phim hoàn thành. Để đổi lấy tiền vé máy bay (từ nhà của họ ở Los Angeles đến Hồng Kông), công ty Gia Hòa muốn Lý Tiểu Long làm một bộ phim ngắn (short film) cho họ có tên là "Lý Tiểu Long và Tiệt Quyền Đạo", dài khoảng 15 phút và do nữ diễn viên Miêu Khả Tú thuyết minh. Theo báo chí Hồng Kông đưa tin, công ty Gia Hòa ban đầu đã lên kế hoạch cho bộ phim ngắn này cùng với việc phát hành một bộ phim sắp tới khác của họ có tên The Hurricane (hay còn gọi là Cơn lốc vàng), với sự tham gia của Miêu Khả Tú và do Lo Wei viết kịch bản và đạo diễn. Điều này sẽ quảng bá Miêu Khả Tú và giới thiệu các thế võ Tiệt quyền đạo của Lý Tiểu Long với công chúng Hồng Kông trước khi công chiếu Đường Sơn đại huynh. Nhưng bộ phim ngắn đã không thể được thực hiện, có lẽ vì không có đủ thời gian. Đoàn làm phim quay trở lại Hồng Kông vào ngày 3 tháng 9 năm 1971 để quay thêm vài cảnh trong phim. Ngày 6 tháng 9 năm 1971, ông bay đến Mỹ để gặp gia đình và quay các tập tiếp theo của phim truyền hình Longstreet (1971 - 1972) (bộ phim mà ông còn làm chỉ đạo võ thuật xuyên suốt 23 tập phim). Lại gặp vấn đề với phim truyền hình Kung Fu và việc lên kịch bản cho phim truyền hình Ah Sahm Trong khi Lý Tiểu Long ở Thái Lan quay Đường Sơn đại huynh, Fred Weintraub đã mang kịch bản phim Kung Fu (phim được Linda Lee cho rằng là do Lý Tiểu Long lên ý tưởng ban đầu) đến cho Tom Kuhn, người đứng đầu bộ phận truyền hình của Warner Brosthers. Warner Brosthers và ABC đã công bố hợp đồng phim truyền hình của họ cho Kung Fu vào ngày 22 tháng 7 năm 1971 và bắt đầu tiền sản xuất (bao gồm cả việc tuyển diễn viên). Lý Tiểu Long, trở về từ Thái Lan, đã thử vai nam chính Kwai Chang Caine, nhưng hãng phim miễn cưỡng thuê một diễn viên Trung Quốc vì lo ngại về giọng nói, tính cách dữ dội của ông, được coi là không phù hợp để thể hiện một nhân vật trầm tính, trầm lặng, và cũng bởi vì Lý Tiểu Long "quá chân thực." Kịch bản phim truyền hình Kung Fu này sau đó được quay và phát sóng tại Mỹ từ ngày 14 tháng 10 năm 1972 đến ngày 26 tháng 4 năm 1975 với 3 mùa. Đầu tháng 10 năm 1971, một tháng trước khi công ty Warner Brothers chính thức chỉ định David Carradine cho vai Kwai Chang Caine, Ted Ashley, giám đốc điều hành của Warner Brothers, người đã nhìn thấy tiềm năng của Lý Tiểu Long và không muốn để mất ông vào tay Paramount, đã đề nghị cho Lý Tiểu Long một hợp đồng phát triển độc quyền để tạo ra chương trình truyền hình của riêng ông, bao gồm khoản ứng trước "25.000 đô la (vào thời điểm đó) - đủ tiền để trả phần lớn khoản thế chấp của ông". Lý Tiểu Long đã trình bày một kịch bản phim truyền hình có tên là Ah Sahm,. Nội dung phim kể về một võ sĩ ở Old West của Mỹ. Tuy nhiên, Lý Tiểu Long đã gặp khó khăn khi giới thiệu kịch bản phim truyền hình này cho công ty Warner Brosthers và công ty Paramount. Lý Tiểu Long đã không ký thỏa thuận với Ted Ashley vì muốn xem Đường Sơn đại huynh công chiếu tại rạp ở Hồng Kông thuộc Anh như thế nào. Kịch bản phim truyền hình Mỹ Ah Sahm này sau đó được đổi tên thành Warrior và được quay vào năm 2017 (theo yêu cầu của Lý Hương Ngưng - con gái của Lý Tiểu Long), được phát sóng tại Mỹ từ ngày 5 tháng 4 năm 2019 cho đến nay với ba mùa. Thời kỳ rực rỡ Doanh thu phòng vé khổng lồ của Đường Sơn đại huynh (1971) Ngày 23 tháng 10 năm 1971, phim Đường Sơn đại huynh được công chiếu tại Queen's Theatre thuộc quận Trung tâm của Hồng Kông. Lý Tiểu Long cùng vợ là Linda Lee khi đó đã đưa Lý Quốc Hào, Lý Hương Ngưng bay từ Mỹ sang Hồng Kông để cùng xem phim với khán giả tại rạp chiếu phim. Phim đã gây được tiếng vang lớn trong ngành phim võ thuật, thu về hơn 3.5 triệu đô la Mỹ chỉ trong khoảng 3 tuần, trong khi Lý Tiểu Long chỉ nhận được 15.000 đô la Mỹ. Phim võ thuật đầu tiên do Lý Tiểu Long đóng chính này đã đánh bại kỷ lục phòng vé được nắm giữ bởi bộ phim nhạc kịch The Sound of Music, với sự tham gia của Julie Andrew, được phát hành năm 1965. Đường Sơn đại huynh là một cơn sốt phòng vé bất ngờ tại thời điểm đó. Nó vẫn là bộ phim có doanh thu cao nhất mọi thời đại ở Hồng Kông vào thời điểm đó. Tại Mỹ, phim được công chiếu dưới tên tiếng Anh là The Big Boss. Phim tiếp tục thu về gần 50 triệu đô la Mỹ sau khi công chiếu trên toàn thế giới vào thời điểm đó, so với ngân sách eo hẹp ban đầu của đoàn phim là 100.000 đô la Mỹ, gấp khoảng 500 lần khoản đầu tư ban đầu của đoàn phim. Khi phim Đường Sơn đại huynh này thành công rực rỡ, Lý Tiểu Long đã từ bỏ kế hoạch trở thành ngôi sao phim truyền hình và thay vào đó ông tập trung vào phim điện ảnh với màn ảnh rộng. Thời gian này, Lý Tiểu Long cho con trai là Lý Quốc Hào đi học tại trường St. Francis Xavier ở Hồng Kông, ngôi trường ngày xưa ông từng theo học. Đề cập đến kịch bản phim truyền hình The Warrior (hay Kung Fu) trong chương trình The Pierre Berton Show (1971) của Canada Cũng trong năm 1971 Lý Tiểu Long được mời phỏng vấn trong chương trình truyền hình Canada "The Pierre Berton Show" hướng dẫn bởi Pierre Berton, lúc đó Pierre Berton đang làm phim tại Hồng Kông. Chương trình này được phát sóng vào ngày 8 tháng 12 năm 1971 và chỉ làm phim về sự thực và ít đề cao các kĩ xảo điện ảnh trong phim võ thuật. Trong cuộc phỏng vấn tại chương trình đó, Lý Tiểu Long nói rằng ông đã phát triển ý tưởng cho một bộ phim truyền hình Mỹ có tên là The Warrior, do chính anh ấy đóng vai chính, kể về một võ sĩ ở Miền Tây Cổ của Mỹ (cùng ý tưởng với phim Kung Fu, được phát sóng vào năm sau), nhưng rằng ông gặp khó khăn khi giới thiệu nó cho hai công ty Warner Brothers và Paramount. Sau đó trong cuộc phỏng vấn, Pierre Berton đã hỏi Lý Tiểu Long về "những vấn đề mà bạn phải đối mặt với tư cách là một anh hùng Trung Quốc trong một bộ phim truyền hình dài tập của Mỹ". Lý Tiểu Long đã trả lời: "Chà, câu hỏi như vậy đã được đặt ra, trên thực tế, nó đang được thảo luận. Đó là lý do tại sao phim truyền hình The Warrior có lẽ sẽ không được chiếu." Lý Tiểu Long nói thêm: "Họ nghĩ rằng đó là một rủi ro trong kinh doanh. Tôi không trách họ. Nếu tình hình đảo ngược, và một ngôi sao Mỹ đến Hồng Kông, và tôi là người có tiền, tôi sẽ có mối quan tâm của riêng tôi về việc liệu sự chấp nhận có ở đó hay không?". Tuy nhiên, Lý Tiểu Long chắc chắn đã được cân nhắc cho vai chính trong phim truyền hình The Warrior. Bản thân David Carradine trong một cuộc phỏng vấn vào năm 1989 và trong cuốn sách Spirit of Shaolin của ông ta, nói rằng Lý Tiểu Long đề cập tên phim truyền hình trên chương trình là The Warrior nhưng thực chất là đề cập lại phim truyền hình Kung Fu mà Lý Tiểu Long đã từng bị từ chối. David Carradine khẳng định chắc chắn rằng Lý Tiểu Long đã bị bỏ qua cho vai diễn trong phim truyền hình Kung Fu này. Người ta cáo buộc rằng một giám đốc điều hành giấu tên của ABC đã nói rằng: "Bạn không thể biến một diễn viên Trung Quốc cao 5 foot 6 (tầm 1 mét 67 cm) thành ngôi sao của Mỹ". Việc quay phim Tĩnh Võ Môn ở Hồng Kông Sau khi tham dự chương trình truyền hình Canada "The Pierre Berton Show", trong tháng 12 năm 1971, Lý Tiểu Long bắt tay vào quay phim Hồng Kông tiếp theo của công ty Gia Hòa có tên là Tĩnh Võ Môn. Ông tiếp tục vào vai nam chính kiêm đạo diễn kịch bản, chỉ đạo võ thuật cho phim. Lần đầu tiên kỹ thuật đánh bằng côn nhị khúc của ông được ông đưa lên phim. Nội dung phim kể về Trần Chân (Chen Zhen), do Lý Tiểu Long thủ vai, là đệ tử của Hoắc Nguyên Giáp (một nhân vật nổi tiếng của Trung Hoa, người sáng lập ra Tinh Võ Môn). Đạo diễn Lo Wei không chỉ tiếp tục làm đạo diễn cho phim này mà còn đóng vai phụ là Thanh tra Lo của đồn cảnh sát thân Nhật. Nữ diễn viên Miêu Khả Tú đóng vai nữ chính Nguyên Lệ Nhi, hôn thê của Trần Chân. Lâm Chánh Anh vào vai 1 võ sinh karate bị Lý Tiểu Long đánh trầy mặt trong phim. Robert Baker là học trò và là bạn của Lý Tiểu Long và được Lý Tiểu Long tiến cử cho vai Petrov người Nga trong phim này. Giọng của Robert Baker cũng được Lý Tiểu Long lồng tiếng trong phiên bản tiếng Quảng Đông và tiếng Quan Thoại, có thêm âm vang. Nguyên Hoa tiếp tục cùng Lý Tiểu Long chỉ đạo võ thuật trong phim. Phim được dàn dựng hoàn toàn trong trường quay. Ngoài việc chỉ đạo võ thuật, Nguyên Hoa còn đóng vai 1 võ sư karate Nhật Bản kiếm chuyện với Trần Chân (do Lý Tiểu Long thủ vai) ở công viên và bị Trần Chân đánh gục. Trong phim còn có thanh niên Thành Long 17 tuổi (với nghệ danh là Trần Nguyên Long) tham gia, vừa đóng vai phụ là một võ sinh của Tinh Võ Môn, vừa là diễn viên đóng thế cho vai Hiroshi Suzuki (vai Hiroshi Suzuki này do diễn viên Riki Hashimoto người Nhật Bản đóng chính). Đặc biệt là trong cảnh chiến đấu cuối cùng khi Lý Tiểu Long đá Thành Long bay lên không trung. Đây là phim thứ hai mà nhân vật của Lý Tiểu Long bị chết (sau phim điện ảnh Mỹ Marlowe 1969), cũng như lần thứ ba anh hôn một cô gái (do nữ diễn viên Miêu Khả Tú thủ vai) trên phim ảnh (sau hai cảnh hôn của Lý Tiểu Long với nữ diễn viên Marilyn Bautista và 1 cô gái điếm người Thái Lan trong phim Đường Sơn đại huynh 1971). Đạo diễn phim kỳ cựu Lo Wei, từng làm đạo diễn cho phim Đường Sơn đại huynh, đã phạm sai lầm không thể tha thứ khi ông ta nói với một tờ báo rằng chính ông ta đã dạy Lý Tiểu Long cách thực hiện các pha hành động trước ống kính. Tệ hơn nữa, Lo Wei còn còn tự gọi mình là "The Dragon's Mentor". Theo Thành Long kể lại, khi biết được chuyện này, Lý Tiểu Long giận dữ chạy tới nơi Lo Wei đang quay phim Tinh Võ Môn và dùng lời lẽ cãi nhau với ông ta. Cảm xúc của Lý Tiểu Long càng leo thang và ông dọa đánh Lo Wei. Đạo diễn Lo Wei sau đó trốn sau lưng vợ ông ta là Liu Liang-Hua. Lý Tiểu Long chỉ bình tĩnh lại khi Liu Liang-Hua can thiệp và trấn an ông. Phim được quay xong vào tháng 1 năm 1972. Trong khoảng tháng 1 năm 1972 này, nữ diễn viên Đài Loan là Đinh Phối (Betty Ting Pei, khi đó cô ấy mới 24 tuổi) từ Thụy Sĩ sang Hồng Kông thuộc Anh. Đinh Phối gặp Lý Tiểu Long lần đầu tiên tại Hyatt Regency Hong Kong khi ông đang ở cùng vợ Linda Lee và Châu Văn Hoài (chủ của công ty Gia Hòa). Đinh Phối và Lý Tiểu Long nhanh chóng trở thành bạn bè (theo dư luận thì sau đó Đinh Phối và Lý Tiểu Long bắt đầu hẹn hò với nhau). Khi đó ở Philippines công chiếu phim Philippines có tựa là The Pig Boss (1972), nghe giống với phim The Big Boss (Đường Sơn đại huynh) của Lý Tiểu Long. Thậm chí diễn viên Ramon Zamora người Philipines trong phim đó cũng bắt chước theo phong cách của Lý Tiểu Long. Lý Tiểu Long tuyên bố đây là dòng phim ăn theo tên tuổi của mình, là một thể loại phim phụ và một xu hướng liên quan đến ông. Ông đặt tên cho dòng phim này là những phim Bruceploitation (mang hàm ý tiêu cực, ghép từ hai chữ "Bruce" + "ploitation", trong đó "Bruce" là Lý Tiểu Long, còn "ploitation" là "sự bóc lột"). Doanh thu phòng vé của Tinh Võ Môn (1972) vượt mặt phim Đường Sơn đại huynh (1971) Ngày 22 tháng 3 năm 1972 phim Tinh Võ Môn (tên tiếng Anh ban đầu là Fist of Fury) được công chiếu tại Hồng Kông. Tại Mỹ, phim Tinh Võ Môn được công chiếu với tên tiếng Anh thứ hai là The Chinese Connection.. Tựa đề The Chinese Connection đó là một phương tiện để khai thác sự nổi tiếng của một phim Mỹ khác có tên là The French Connection (do Gene Hackman đóng vai chính), được công chiếu tại Mỹ vào năm 1971. Sau đó các rạp phim của Mỹ lấy tên tiếng Anh ban đầu của phim Tinh Võ Môn là Fist of Fury gán vào tựa của phim Đường Sơn đại huynh 1971, khiến cho ngày nay cái tên Fist of Fury dễ gây nhầm lẫn giữa hai phim của Lý Tiểu Long. Vào năm 1980 hãng Columbia Pictures của Mỹ đã phát hành lại The Chinese Connection (Tinh Võ Môn 1972), cùng với The Big Boss (Đường Sơn đại huynh 1971), dưới dạng một bộ phim kép được hãng phim chấp thuận với khẩu hiệu: "Còn gì tuyệt vời hơn một phim của Lý Tiểu Long? Hai phim của Lý Tiểu Long!". Phim Tinh Võ Môn này đạt doanh thu còn hơn cả phim Đường Sơn đại huynh (1971), với khoảng 100 triệu đô la Mỹ (vào thời điểm đó) thu về sau khi phim được phát sóng trên khắp thế giới, so với tiền đầu tư ban đầu chỉ có 100.000 đô la Mỹ. Phim đã thu về gấp 1000 lần ngân sách cho công ty Gia Hòa. Đây là phim Hồng Kông có doanh thu cao nhất mọi thời đại cho đến thời điểm đó. Phim cũng góp phần đưa tên tuổi của Lý Tiểu Long ra ngoài biên giới, đưa tên tuổi của Lý Tiểu Long liệt vào hàng siêu sao Hồng Kông. Lý Tiểu Long thu về được một khoản lợi nhuận đủ để trang trải một vài thứ. Lý Tiểu Long được bình chọn là một trong Top 10 ngôi sao điện ảnh hàng đầu của tờ Daily News Trung Quốc ở nước ngoài (Overseas Chinese Daily News). Ngoài ra, ông còn được Tạp chí Đai đen (Black Belt Magazine) giới thiệu vào Đại sảnh Danh vọng Đai đen (The Black Belt Hall of Fame). Mặc dù Lý Tiểu Long không tốt nghiệp Đại học Washington nhưng ông đã được trao bằng Tiến sĩ Danh dự (Honorary Doctorate Degree) trong năm 1972 này. Sau đó Lý Tiểu Long còn xuất hiện trên kênh TVB của Hồng Kông thuộc Anh trong một cuộc vận động ủng hộ những người gặp thiên tai ở Hồng Kông thuộc Anh. Chương trình quyên góp do Lý Tiểu Long kêu gọi này đã nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt của khán giả. Thành lập và điều hành Công ty điện ảnh Hiệp Hòa Do mâu thuẫn giữa Lý Tiểu Long và đạo diễn Lo Wei khi quay phim Tinh Võ Môn (1972) nên sau đó Lý Tiểu Long đã từ chối quay phim Tiếu diện hổ, vì phim này do Lo Wei tiếp tục làm đạo diễn. Lý Tiểu Long đã tự viết ra một kịch bản phim có tựa đề là Mãnh Long quá giang. Để giải quyết vấn đề giữa Lý Tiểu Long và đạo diễn Lo Wei, Châu Văn Hoài liền nảy ra một ý tưởng rằng công ty Gia Hòa sẽ thành lập ra một công ty con (một hãng phim riêng) và cho Lý Tiểu Long toàn quyền ra quyết định trong công ty đó, còn đạo diễn Lo Wei vẫn sẽ quay phim Tiếu diện hổ của ông ấy tại Đài Loan, nước sông không phạm nước giếng nữa. Tháng 4 năm 1972, Lý Tiểu Long và Châu Văn Hoài (chủ của công ty Gia Hòa) cùng nhau thành lập Công ty điện ảnh Hiệp Hòa (tên tiếng Anh là Concord Production Inc., tên tiếng Trung là 協和電影公司). Đây là một công ty sản xuất phim điện ảnh được thành lập tại Hồng Kông thuộc Anh. Lý Tiểu Long chịu trách nhiệm về các quyết định sáng tạo của công ty và Châu Văn Hoài chịu trách nhiệm quản lý công ty. Công ty Gia Hòa của Châu Văn Hoài chịu trách nhiệm phân phối phim. Lee Estate của Lý Tiểu Long sở hữu 51% cổ phần của công ty Hiệp Hòa, 49% cổ phần còn lại thuộc về Châu Văn Hoài. Như vậy, Lý Tiểu Long gần như là đã làm giám đốc của 1 công ty điện ảnh của riêng ông. Đây là lần đầu tiên một diễn viên Hồng Kông thành lập 1 hãng phim riêng. Lâm Chánh Anh, Nguyên Hoa và nữ diễn viên Miêu Khả Tú đều rời đạo diễn Lo Wei để sang công ty Hiệp Hòa phụ tá cho Lý Tiểu Long. Với việc ông đang làm chủ của 3 "Chấn Phiên Võ Quán" tại Seattle, Oakland và Los Angeles, Mỹ, cộng thêm hiện giờ ông là Giám đốc của công ty điện ảnh Hiệp Hòa, thu nhập của ông mỗi tháng rất cao. Thực tế, Lý Tiểu Long là một người rất biết làm ăn kinh doanh. Việc quay phim Mãnh Long quá giang ở Hồng Kông và Ý Sau khi thành lập công ty Hiệp Hòa, Lý Tiểu Long lập tức bắt tay vào quay ngay phim Mãnh Long quá giang tại Hồng Kông, phim đầu tiên của công ty Hiệp Hòa. Với phim này, Lý Tiểu Long vừa là người viết kịch bản phim, nhà sản xuất phim, đạo diễn phim, chỉ đạo võ thuật trong phim, tạo nhịp điệu trong nhạc nền soundtrack của phim và là nam chính trong phim. Lý Tiểu Long là diễn viên Hồng Kông đầu tiên tự mình thực hiện hết những công việc trên trong 1 phim điện ảnh. Theo những hình ảnh hậu trường được công ty Gia Hòa công bố, khi đoàn phim quay các cảnh ở Hồng Kông thuộc Anh, nữ diễn viên Đinh Phối (Betty Ting Pei) của Đài Loan từng đến phim trường thăm Lý Tiểu Long và chụp hình cùng Lý Tiểu Long, Miêu Khả Tú, Chuck Norris. Vợ của Lý Tiểu Long là Linda Lee cũng từng đưa Lý Quốc Hào và Lý Hương Ngưng đến phim trường thăm Lý Tiểu Long, nhưng cô lại không gặp được Đinh Phối. Sau khi quay những cảnh trong nhà ở Hồng Kông thuộc Anh, tháng 5 năm 1972 Lý Tiểu Long đưa đoàn làm phim Mãnh Long quá giang (trong đó có Unicorn Chan, Miêu Khả Tú, Lâm Chánh Anh, Nguyên Hoa,...) sang Roma (Ý) để quay những ngoại cảnh trong phim. Đây là phim Hồng Kông đầu tiên có quay ngoại cảnh ở Châu Âu. Lý Tiểu Long vào vai nam chính Đường Long sang Roma, Ý dạy võ Tiệt quyền đạo và giúp đỡ cho nhà hàng người Hoa tại đó tránh bọn mafia và côn đồ địa phương. Miêu Khả Tú vào vai nữ chính Trần Thanh Hoa, chủ của nhà hàng người Hoa tại Roma, Ý. Đây là phim đầu tiên Lý Tiểu Long sử dụng cùng lúc 2 cặp côn nhị khúc. Thành phần du đãng trong phim này đều là người nước ngoài được Lý Tiểu Long mời tham gia phim: diễn viên Jon T. Benn của Mỹ vào vai ông chủ của du đãng trong phim, diễn viên Robert Wall của Mỹ (học trò của Lý Tiểu Long) vào vai Bob/Tom/Fred trong phim, võ sư hapkido Hwang In-shik của Hàn Quốc vào vai 1 võ sinh karate người Nhật Bản, nhà phê bình John Derbyshire người Mỹ gốc Anh vào vai 1 tên côn đồn mafia. Phim này có nhiều cảnh hài hước hơn hai phim Đường Sơn đại huynh (1971) và Tinh Võ Môn (1972). Trong phim cũng có 1 cảnh nóng hài hước khi nữ diễn viên Malisa Longo người Ý vào vai 1 cô gái điếm dẫn Đường Long (do Lý Tiểu Long thủ vai) vào phòng. Sau đó nữ diễn viên cởi hết quần áo ra cho Đường Long xem, nhưng Đường Long nhanh chóng bỏ chạy ra khỏi phòng. Cảnh thoát y trước ống kính này của nữ diễn viên Malisa Longo đã khiến cho tên tuổi của cô nổi tiếng khắp thế giới vào thời đó. Nhà sản xuất Andre E. Morgan người Mỹ cũng được Lý Tiểu Long mời vào vai 1 khách hàng trong nhà hàng của Trần Thanh Hoa (do Miêu Khả Tú thủ vai) tại Ý. Võ sư karate Chuck Norris cũng được Lý Tiểu Long mời sang Roma cùng tham gia vào phim. Cảnh đấu giữa Đường Long (do Lý Tiểu Long thủ vai) với Colt (do Chuck Norris thủ vai) tại Đấu trường La Mã là cảnh giao đấu cuối cùng của Lý Tiểu Long trong phim. Lý Tiểu Long đã quay phim "trong thời gian dài, tạo khung hình để bạn có thể nhìn thấy toàn bộ cơ thể của họ. Ông đã sử dụng ánh sáng ấn tượng, khiến cả hai người trông lớn hơn ngoài đời thực." Đặc biệt là ông quay kỹ hai con mèo của nước Ý tại Đấu trường La Mã. Theo lời Unicorn Chan kể lại, khi quay phim Mãnh Long quá giang này, Lý Tiểu Long từng bị cơn đau đầu hành hạ khiến đoàn phim phải nghỉ quay vài ngày, sau khi ông hồi phục thì lập tức cho quay phim tiếp. Tháng 6 năm 1972, Lý Tiểu Long quay xong phim thì đưa đoàn phim quay về Hồng Kông. Việc quay phim Trò Chơi Tử Thần ở Hàn Quốc Tháng 7 năm 1972, Lý Tiểu Long bắt tay vào viết kịch bản phim tiếp theo cho công ty Hiệp Hòa của ông. Lý Tiểu Long đặt tên cho kịch bản phim này là Trò Chơi Tử Thần (Tử vong đích du hý, 死亡的遊戲). Châu Văn Hoài từng nghe tên này xong thì khuyên Lý Tiểu Long hãy lấy tên khác cho phim vì cái tên này mang lại điềm xấu. Tuy nhiên Lý Tiểu Long vẫn để nguyên tên phim. Ý tưởng của kịch bản phim này xuất phát từ chuyến du ngoạn Ấn Độ tìm cảnh để quay phim The Silent Flute (Tiếng sáo vô thanh) vào năm ngoái. Lý Tiểu Long tiếp tục vừa là người viết kịch bản phim, nhà sản xuất phim, đạo diễn phim, chỉ đạo võ thuật trong phim và là nam chính trong phim Trò Chơi Tử Thần này. Tháng 8 năm 1972, công ty Hiệp Hòa của Lý Tiểu Long đưa đoàn phim sang Hàn Quốc. Sau đó Lý Tiểu Long cho tiến hành quay phim Trò Chơi Tử Thần tại Hàn Quốc. Bối cảnh của chùa trong phim này là ở chùa Beopjusa trong Vườn quốc gia Songnisan ở Hàn Quốc. Robert Baker, học trò của Lý Tiểu Long, được cân nhắc cho 1 vai diễn trong phim nhưng sau đó vai được trao cho võ sĩ Robert Wall người Mỹ. Hồng Kim Bảo (20 tuổi) đã được Lý Tiểu Long chọn vào vai Chiến binh thứ ba, nhưng vào thời điểm Lý Tiểu Long sẵn sàng đóng phim cùng cậu ấy, Hồng Kim Bảo đã chuyển sang một phim khác, và Chieh Yuan đã tham gia thay vai của cậu ấy. Thành Long (18 tuổi) vào vai một fan hâm mộ xin chữ ký của nam chính Hải Thiên (do Lý Tiểu Long thủ vai) trong phim. Nội dung phim kể về nam chính Hải Thiên (do Lý Tiểu Long thủ vai), để cứu em gái và em trai của mình, Hải Thiên đã tham gia một nhóm võ sĩ được thuê để lấy kho báu quốc gia Trung Quốc. Kho báu này đã bị đánh cắp và được giấu trên tầng cao nhất của một ngôi chùa năm tầng ở Hàn Quốc tên là Palsang-jon - ngôi chùa bằng gỗ duy nhất ở Hàn Quốc, với mỗi tầng được bảo vệ bởi các võ sĩ, những người phải bị đánh bại nếu nhóm của Hải Thiên muốn leo lên tầng cao nhất. Nhóm của Hải Thiên cùng các nhân vật do James Tien và Chieh Yuan thủ vai xông vào chùa. Tại chân chùa, họ đấu với 10 người, đều là đai đen Karate (trong đó có Lâm Chánh Anh, Nguyên Hoa và Unicorn Chan). Khi ở trong chùa, họ gặp phải một đối thủ khác nhau ở mỗi tầng, mỗi tầng lại khó khăn hơn tầng trước. Trong phim Lý Tiểu Long có biểu diễn khả năng sử dụng côn nhị khúc và võ Tiệt quyền đạo. Mặc dù ngôi chùa được cho là có năm tầng, nhưng các cảnh hoàn chỉnh chỉ được quay ở ba tầng: "Đền Hổ", nơi Lý Tiểu Long đối mặt với Dan Inosanto (học trò của Lý Tiểu Long); "Đền rồng", nơi Lý Tiểu Long chiến đấu với cao thủ hapkido là Ji Han-jae; và tầng cuối cùng, được gọi là "Ngôi đền vô danh", nơi ông chiến đấu với Kareem Abdul-Jabbar (học trò của Lý Tiểu Long). Cao thủ hapkido khác là Hwang In-shik, một bậc thầy về phong cách thiên về đá, dự kiến đóng vai người bảo vệ tầng một, trong khi học trò lâu năm và là bạn tốt của Lý Tiểu Long là Taky Kimura được yêu cầu đóng vai người bảo vệ tầng hai. Do thành công của những bộ phim trước đó của Lý Tiểu Long, công ty Warner Brothers của Hollywood, Mỹ bắt đầu muốn đưa Lý Tiểu Long quay về với Hollywood. Họ mời các nhà sản xuất Fred Weintraub và Paul Heller để quay phim cùng với Lý Tiểu Long. Khi Lý Tiểu Long đang quay phim Trò Chơi Tử Thần thì nhận được lời đề nghị đóng vai chính trong phim Máu và Sắt (Blood and Steel), phim kung fu đầu tiên do hãng phim Hollywood (Warner Brothers) sản xuất và với kinh phí chưa từng có cho thể loại này (850.000 đô la Mỹ). Việc này khiến cho Lý Tiểu Long bị dao động, muốn dừng quay phim Trò Chơi Tử Thần. Tháng 10 năm 1972 Lý Tiểu Long cho dừng việc quay phim Trò Chơi Tử Thần lại. Khi đó đoàn phim đã quay được đoạn phim dài hơn 100 phút cho phim Trò Chơi Tử Thần (từ đó cho đến khi Lý Tiểu Long qua đời, Lý Tiểu Long không thể quay thêm một phút giây nào cho phim này nữa, đoạn phim này cũng bị thất lạc tại công ty Gia Hòa). Ông đưa đoàn phim bay từ Hàn Quốc về Hồng Kông thuộc Anh. Thời gian này Lý Tiểu Long đã truyền dạy võ công cho con trai Lý Quốc Hào 7 tuổi của ông. Ông còn "mớm" cả nghề điện ảnh cho Lý Quốc Hào. Sau này Lý Quốc Hào từng nói rằng: "Trong ký ức đầu tiên của mình, tôi luôn muốn trở thành một tài tử điện ảnh, và tôi đã đeo đuổi ý định này từ rất nhỏ. Tôi không bao giờ nghĩ rằng mình sẽ có một con đường khác". Ngày 30 tháng 10 năm 1972, tại Lễ trao Giải thưởng Kim Mã lần thứ 10 ở Đài Loan, Lý Tiểu Long (khi đó ông đã cùng Đinh Phối và Miêu Khả Tú bay đến Đài Loan để tham dự buổi lễ) nhận giải thưởng Giải kỹ thuật đặc biệt (Special Technical Award) trong phim Tinh Võ Môn (1972). Ngoài ra Tinh Võ Môn (1972) của ông cũng được đề cử cho giải Phim truyện hay nhất (Best Feature Film). Làm đạo diễn kịch bản kiêm chỉ đạo võ thuật cho phim Fist of Unicorn (1973) Sau khi về lại Hồng Kông, tháng 11 năm 1972, Lý Tiểu Long được bạn thân là Unicorn Chan mời làm đạo diễn kịch bản, chỉ đạo võ thuật trong phim Hồng Kông có tên là Fist of Unicorn (phim còn có tựa khác là Bruce Lee and I). Trong phim này, Unicorn Chan đóng vai chính Ah-Lung. Các cảnh hành động và chiến đấu trong phim đều do Lý Tiểu Long làm đạo diễn và biên đạo. Theo hình ảnh hậu trường được công ty Gia Hòa công bố, nữ diễn viên Đinh Phối (Betty Ting Pei) của Đài Loan xuất hiện tại phim trường Fist of Unicorn để thăm Lý Tiểu Long và chụp hình lưu niệm cùng Lý Tiểu Long. Ngày 2 tháng 12 năm 1972, sư phụ của Lý Tiểu Long là Diệp Vấn mất tại nhà số 149, phố Tung Choi Vượng Giác, Cửu Long, Hồng Kông vì căn bệnh ung thư thanh quản. Diệp Vấn đã qua đời dưới sự tiếc thương của rất nhiều người. Lý Tiểu Long đến viếng tang thì bị anh em trong Vịnh Xuân Quyền khiển trách việc ông khiến Diệp Vấn sư phụ đau lòng về cuối đời. Ngày linh cữu của Diệp Vấn được đưa đi, Lý Tiểu Long luôn bồn chồn lo lắng và không thể quay thành công cảnh phim nào của phim Fist of Unicorn trong ngày hôm đó. Trong tháng 12 năm 1972, Hội đồng Võ thuật Thế giới đã bình chọn Lý Tiểu Long là Vua Kungfu, khi đó Lý Tiểu Long đã 32 tuổi. Doanh thu phòng vé của phim Mãnh Long quá giang (1972) vượt trội hơn Tinh Võ Môn (1972) Ngày 30 tháng 12 năm 1972, phim Mãnh Long quá giang (tên tiếng Anh ban đầu là The Way of The Dragon) được công chiếu tại Hồng Kông. Tại Mỹ, phim được công chiếu dưới tên tiếng Anh thứ hai là The Return of The Dragon. Ban đầu phim chỉ dành cho thị trường Châu Á, nhưng cuối cùng lại "chịu trách nhiệm duy trì đà phát triển của phim võ thuật ở Mỹ". Theo Gene Freese, cảnh chiến đấu cuối cùng giữa Lý Tiểu Long và Chuck Norris được nhiều người coi là "trận chiến vĩ đại nhất trong phim từng được quay". Cảnh chiến đấu này đã được liệt kê là một trong những cảnh chiến đấu hay nhất mọi thời đại trong một số ấn phẩm. Ngoài ra, trong cảnh này, Lý Tiểu Long đã trình diễn và phổ biến một kỹ thuật mà sau này được gọi là the oblique kick (tạm dịch là "đạp gối"). Kỹ thuật này thường được sử dụng bởi một số võ sĩ võ tổng hợp (MMA) hiện đại, đáng chú ý nhất là nhà vô địch UFC hạng cân pound-for-pound Jon Jones, người đã tuyên bố rằng Lý Tiểu Long là nguồn cảm hứng luyện võ của anh. Phim này có doanh thu phòng vé vượt trội hơn nhiều so với hai phim trước là Đường Sơn đại huynh (1971) và Tinh Võ Môn (1972). Phim đã thu về khoảng 130 triệu đô la Mỹ (vào thời điểm đó) sau khi công chiếu trên toàn thế giới, so với 130.000 đô la Mỹ (vào thời điểm đó) tiền đầu tư ban đầu thì công ty Hiệp Hòa và công ty Gia Hòa đã thu về số tiền gấp 1000 lần ngân sách. Mãnh Long quá giang 1972 trở thành phim có doanh thu cao nhất mọi thời đại của Hồng Kông vào thời điểm đó. Phim đã nâng tầm Lý Tiểu Long và võ sư Chuck Norris lên thành một trong những ngôi sao hành động sáng giá. Tại Giải Kim Mã lần thứ 11 diễn ra vào ngày 30 tháng 10 năm 1973 (3 tháng sau khi Lý Tiểu Long qua đời) tại Đài Loan, phim Mãnh Long quá giang (1972) được đánh giá là Á quân của giải thưởng Phim truyện xuất sắc nhất và được công nhận cho giải thưởng Biên tập phim xuất sắc nhất (nếu Lý Tiểu Long khi đó mà còn sống, chắc chắn ông sẽ được lên sân khấu nhận giải này tại Đài Loan). Sau đó, phim Mãnh Long quá giang (1972) này được xếp hạng 95 trong danh sách "100 phim hay nhất của điện ảnh thế giới" năm 2010 của tạp chí Empire. Hoàn thành việc làm đạo diễn kịch bản kiêm chỉ đạo võ thuật cho phim Fist of Unicorn (1973) Ngày 30 tháng 12 năm 1972 (cùng ngày công chiếu phim Mãnh Long quá giang (1972) ở Hồng Kông), võ sư Nghiêm Kính Hải (James Yimm Lee, bạn của cha của Lý Tiểu Long, học trò của Lý Tiểu Long) qua đời ở tuổi 52 do ung thư phổi bởi khói hàn. Nghe tin này, Lý Tiểu Long đang vui chuyện doanh thu phòng vé phim Mãnh Long quá giang (1972) cao ngất ngưỡng thì trở nên đau buồn. Ngày 31 tháng 12 năm 1972, phim Hồng Kông do Lý Tiểu Long làm đạo diễn kịch bản kiêm chỉ đạo võ thuật là Fist of Unicorn được quay xong. Phim Fist of Unicorn này được công chiếu vào ngày 1 tháng 3 năm 1973 tại Hồng Kông thuộc Anh. Lý Tiểu Long trở thành khách mời ngoài ý muốn trong phim. Lý do là vì Lý Tiểu Long chỉ xuất hiện chớp nhoáng qua cảnh quay hậu trường trong phim, cho thấy ông đang tập luyện Tiệt quyền đạo cùng các diễn viên và các diễn viên đóng thế trong phim. Phim đã thu về được 722,848.9 đô la Hồng Kông và bán được 398,022 vé khi công chiếu tại Pháp nhờ những pha võ thuật chân thật trong phim. Trên một số bìa DVD của phim Fist of Unicorn (1973) có hình của Lý Tiểu Long, mặc dù ông không đóng vai chính trong phim này. Việc quay phim Long Tranh Hổ Đấu ở Hồng Kông Sau khi lo xong phim Fist of Unicorn, tháng 1 năm 1973, Lý Tiểu Long bắt đầu xem xét kịch bản phim Máu và Sắt (Blood and Steel) của công ty Warner Brothers bên Hollywood, Mỹ. Câu chuyện có các nhân vật chính anh hùng gốc Châu Á, người da trắng và người da đen vì các nhà sản xuất muốn một bộ phim thu hút được nhiều khán giả quốc tế nhất có thể. Lý Tiểu Long sau đó chỉnh sửa lại nội dung của kịch bản và đổi tên kịch bản phim từ Máu và Sắt thành Long Tranh Hổ Đấu. Nội dung được Lý Tiểu Long sửa lại là nhân vật "ông Lý" (do Lý Tiểu Long thủ vai), một đệ tử Thiếu Lâm tự dùng võ Tiệt quyền đạo, vâng lời sư phụ đi trừng phạt kẻ phản bội sư môn (tên họ Hàn, do diễn viên Thạch Kiên thủ vai). Biết được chị gái của mình bị đệ tử của tay họ Hàn hại chết, với sự giúp sức của một tổ chức an ninh, ông Lý quyết định tham gia giải thi đấu võ nhằm đột nhập vào sào huyệt của bọn chúng là một hòn đảo. Đầu tháng 2 năm 1973, Lý Tiểu Long đại diện cho công ty Gia Hòa và công ty Hiệp Hòa bay sang Hollywood, Mỹ để ký hợp đồng hợp tác cùng sản xuất phim Long Tranh Hổ Đấu. Lý Tiểu Long còn mở một studio phim tại Los Angeles, Mỹ để tiện cho sau này ông có thể quay thêm phim ở Hollywood (tuy nhiên ông không ngờ rằng ông không có cơ hội để sử dụng studio phim ở Los Angeles này). Sau đó, Hà Ái Du (Grace Lee), mẹ của Lý Tiểu Long, gặp ông tại Los Angeles, Mỹ. Lý Tiểu Long thổ lộ với bà rằng ông không muốn sống thêm nữa và bà không phải lo về tài chính, tuy nhiên bà nghĩ con trai bà nói vớ vẩn (theo lời Hà Ái Du kể lại trên các phương tiện truyền thông sau khi Lý Tiểu Long qua đời). Ngày 20 tháng 2 năm 1973, Lý Tiểu Long từ Mỹ bay về Hồng Kông để tham dự ngày lễ thể thao tại trường St. Francis Xavier (ngôi trường ngày xưa ông từng học và con trai ông là Lý Quốc Hào đang theo học). Sau đó Lý Tiểu Long cùng đạo diễn Robert Clouse của Hollywood tiến hành casting từng vai diễn trong phim Long Tranh Hổ Đấu. Rod Taylor là lựa chọn đầu tiên cho vai võ sĩ kém may mắn Roper trong phim Long Tranh Hổ Đấu. Tuy nhiên, Rod Taylor đã bị loại sau khi Lý Tiểu Long cho rằng anh ấy quá cao so với vai diễn. John Saxon, người có đai đen Judo và Shotokan Karate (anh ta từng theo học đại sư Hidetaka Nishiyama trong ba năm), trở thành lựa chọn ưu tiên. Trong quá trình đàm phán hợp đồng, người đại diện của John Saxon nói với các nhà sản xuất phim rằng nếu họ muốn có anh ấy, họ sẽ phải thay đổi cốt truyện để nhân vật Williams bị giết thay vì Roper. Lý Tiểu Long và Robert Clouse đồng ý, kịch bản phim sau đó đã được thay đổi. Chuck Norris ban đầu được Lý Tiểu Long cân nhắc cho vai O'Hara trong phim Long Tranh Hổ Đấu nhưng ông ta đã từ chối. Chuck Norris nói rằng một trận thua trong phim điện ảnh trước Lý Tiểu Long (trong phim Mãnh Long quá giang) là đủ đối với ông ấy. Sau đó Lý Tiểu Long chọn học trò của mình là diễn viên Robert Wall người Mỹ vào vai O'Hara. Khi đó Robert Wall lấy nghệ danh là Bob Wall. Cuối tháng 2 năm 1973, Lý Tiểu Long có cơ hội chứng tỏ bản thân hơn khi phim Long Tranh Hổ Đấu (tên tiếng Anh là Enter The Dragon) được khởi quay. Đây chính là bộ phim đầu tiên do công ty Warner Brothers (của Hollywood) ở Mỹ và công ty Hiệp Hòa (của Lý Tiểu Long) ở Hồng Kông hợp tác sản xuất. Với phim này, Lý Tiểu Long tiếp tục vừa là người viết kịch bản, nhà sản xuất, biên kịch, đạo diễn, đạo diễn kịch bản, chỉ đạo võ thuật và đóng vai chính ông Lý trong phim. Lâm Chánh Anh theo phụ tá Lý Tiểu Long trong việc chỉ đạo võ thuật và đóng vai võ sư vô danh trong phim. Phim được quay tại địa điểm ở Hồng Kông. Các cảnh chiến đấu trong phim đều do Lý Tiểu Long dàn dựng. Cảnh phim mà Lý Tiểu Long nói rằng phong cách của ông là "Chiến đấu mà không cần chiến đấu" dựa trên một giai thoại nổi tiếng liên quan đến thế kỷ 16 của Nhật Bản là samurai Tsukahara Bokuden. Thanh niên Thành Long (19 tuổi, với nghệ danh là Trần Nguyên Long) có những vai lính canh khác nhau trong phim, từng xuất hiện ôm khóa ông Lý (do Lý Tiểu Long thủ vai) từ phía sau nhưng nhanh chóng bị ông Lý đánh văng. Nguyên Hoa vừa đóng vai võ sĩ vô danh trong phim, vừa là diễn viên đóng thế kép chính của Lý Tiểu Long trong phim, chịu trách nhiệm thực hiện các pha nguy hiểm thể dục dụng cụ như nhào lộn và nhảy ngược trong trận đánh mở màn. Thanh niên Hồng Kim Bảo (21 tuổi) cũng có một vai trong cảnh đánh nhau mở màn với ông Lý (do Lý Tiểu Long) ở đầu phim, nhanh chóng bị ông Lý đánh hạ. Wong Shun-leung (người trực tiếp truyền thụ Vịnh Xuân Quyền cho Lý Tiểu Long ngày xưa) cũng được Lý Tiểu Long mời đến phim trường chỉ đạo võ thuật. Một tin đồn xung quanh việc quay phim này cho rằng nam diễn viên Bob Wall (Robert Wall, vai O'Hara trong phim) không thích Lý Tiểu Long và các cảnh đánh nhau của họ trong phim là đánh nhau thật, không phải là dàn dựng. Tuy nhiên, Bob Wall đã phủ nhận điều này. Ông ta nói rằng mình và Lý Tiểu Long là bạn tốt dù có đánh nhau thật ở trong phim. Lý Tiểu Long, sau khi bị chọc ghẹo hoặc bị thách thức, đã đánh nhau vài trận thực sự với các nhân vật phụ trong phim và một số kẻ đột nhập vào phim trường trong quá trình quay phim. Các cảnh trên đảo của ông Hàn được quay tại một dinh thự có tên là Palm Villa gần thị trấn ven biển Stanley. Biệt thự hiện đã bị phá bỏ và khu vực xung quanh vịnh Tai Tam Bay được tái phát triển mạnh mẽ, nơi các võ sĩ được quay phim khi lên bờ. Trong lúc quay bộ phim này, Lý Tiểu Long từng bị một võ sư vô danh đột nhiên xuất hiện đấm vào mặt ông, khiến ông bị ngã xuống và bị bất tỉnh (từ đó dân gian đồn rằng đó là công phu "Điểm huyệt hẹn ngày chết"). Sau khi "làm xong việc", tên võ sư vô danh đó nhanh chóng biến mất. Lý Tiểu Long đã tỉnh lại khi đã được đưa vào bệnh viện và hôm sau ông lại tiếp tục cho quay phim. Một hôm khi đang quay phim, Lý Tiểu Long đột nhiên bị ngất tại phim trường. Đoàn phim một lần nữa đưa Lý Tiểu Long đi bệnh viện. Sau khi khỏe lại, Lý Tiểu Long nhanh chóng xuất viện, quay lại phim trường để tiếp tục quay phim. Phim Long Tranh Hổ Đấu hoàn thành vào tháng 4 năm 1973, khi Lý Tiểu Long 32 tuổi. Sau khi đóng xong phim này, Lý Tiểu Long bị sụt gần 15 kg. Trong phim này, Lý Tiểu Long có bày tỏ một số quan điểm về võ thuật của mình, đúng như mong ước của ông là dùng điện ảnh để truyền bá võ thuật. Tiếp tục quay tiếp phim Trò Chơi Tử Thần ở Hồng Kông Trong tháng 4 năm 1973, Lý Tiểu Long tiếp tục quay tiếp phim Trò Chơi Tử Thần nhưng lần này là quay ở Hồng Kông, vì đợt trước đoàn phim của ông đã quay hết ngoại cảnh ở Hàn Quốc. Khi đó Miêu Khả Tú từng được coi là "Hồng nhan tri kỷ" của Lý Tiểu Long sau khi đóng chung trong ba phim Đường Sơn đại huynh (1971), Tinh Võ Môn (1972) và Mãnh Long quá giang (1972). Lý Tiểu Long luôn muốn giao vai nữ chính trong phim của mình cho cô. Một lần Lý Tiểu Long đã mời Miêu Khả Tú đến phim trường Trò Chơi Tử Thần rồi bày tỏ ý định đưa cô vào vai nữ chính, vai em gái của nam chính Hải Thiên (do Lý Tiểu Long thủ vai), trong phim. Tuy nhiên cô đã từ chối, vì lúc đó dư luận đang đồn đãi nhiều về quan hệ giữa hai người. Cô vui vẻ chụp hình lưu niệm với Lý Tiểu Long rồi ra về. Lý Tiểu Long sau đó đã sửa lại kịch bản phim Trò Chơi Tử Thần, biến nữ chính trong phim từ em gái thành vợ của nhân vật Hải Thiên. Và Lý Tiểu Long đã chọn nữ diễn viên Đinh Phối (Betty Ting Pei) của Đài Loan vào vai nữ chính, vợ của Hải Thiên, trong phim này. Do lo cho sức khỏe của Lý Tiểu Long trên phim trường nên vợ ông là Linda Lee thường đưa Lý Quốc Hào và Lý Hương Ngưng đến phim trường thăm ông. Cái chết Những ngày trước khi chết Lúc này Lý Tiểu Long đã cùng vợ con ở lại Hồng Kông để sinh sống. Khi đó ông luôn có một sự cảnh giác đối với mọi người xung quanh và Hội Tam Hoàng ở Hồng Kông, đặc biệt là ông luôn mang theo súng cá nhân bên mình khi đi ra đường ở Hồng Kông. Khi đó Lý Tiểu Long đã đắc tội với rất nhiều võ sư khi nêu ra khuyết điểm trong loại võ của họ rồi tự ông lập ra Tiệt quyền đạo. Điều này khiến cho Lý Tiểu Long đi đến đâu trên khắp thế giới đều có võ sư xuất hiện đòi thách đấu với Lý Tiểu Long. Trong đó có những người đấu võ công bằng với Lý Tiểu Long, cũng có những người muốn mượn cớ đấu võ với Lý Tiểu Long rồi ra tay nhẫn tâm nhằm khiến cho Lý Tiểu Long bị tàn phế hoặc bị mất mạng. Lý Tiểu Long còn đắc tội với nhiều hãng phim vì những phim do ông tham gia đạt doanh thu phòng vé cao hơn họ. Ngoài ra, ông còn đắc tội với Hội Tam Hoàng ở Hồng Kông nữa, đặc biệt là khi xưa Hội Tam Hoàng từng ép Lý Tiểu Long phải trốn sang Mỹ năm 19 tuổi. Ngày 10 tháng 5 năm 1973, Lý Tiểu Long lại bị đau đầu và ông dùng thuốc giảm đau là Equagesic. Sau khi uống xong thì ông bị động kinh. Vợ ông là Linda Lee nhanh chóng gọi cho bác sĩ chuyên về thần kinh là Peter Wu đến cứu ông. Peter Wu đã giúp Lý Tiểu Long vượt qua cơn động kinh. Sau đó Peter Wu còn tiến hành phẫu thuật cho Lý Tiểu Long, lấy phần thuốc Equagesic trong bao tử của ông ra ngoài. Theo lời của Peter Wu, trong bao tử của Lý Tiểu Long khi đó có chứa nhiều chất cần sa và ông ta đã lấy hết nó ra ngoài. Không rõ là Lý Tiểu Long đã dùng hoặc đã nghiện cần sa từ lúc nào. Có một giả thuyết cho rằng có thể trong một lần Lý Tiểu Long bị đau đầu, ông đã dùng thử cần sa, kết quả là cơn đau đầu của ông đã giảm lại nên ông đã dùng cần sa đến khi nghiện, khiến cho bao tử của ông đã chứa đầy cần sa. Sau việc này, Lý Tiểu Long đã nghe lời khuyên của bác sĩ Peter Wu. Đó là tránh dùng thuốc Equagesic. Cảm thấy sức khỏe của Lý Tiểu Long không ổn, Châu Văn Hoài cho đoàn phim Trò Chơi Tử Thần tạm dừng quay, đợi Lý Tiểu Long khỏe hẳn mới quay tiếp. Lý Tiểu Long không đồng ý, cứ muốn quay tiếp phim. Vai nữ chính trong phim này do Đinh Phối (Betty Ting Pei) đảm nhiệm nhưng không rõ lý do vì sao cô ấy vẫn chưa xuất hiện tại phim trường để quay. Với lý do nữ chính chưa đến phim trường để quay, Lý Tiểu Long đã nghe lời của Châu Văn Hoài cho dừng quay phim trong vòng vài tháng, rồi sang Mỹ để giải quyết việc kinh doanh 3 "Chấn Phiên Võ Quán" của ông tại đó. Khi đó Lý Tiểu Long đã gọi điện mời sư huynh Wong Shun-leung của Vịnh Xuân quán tham gia vào phim Trò Chơi Tử Thần của mình. Wong Shun-leung không hứa sẽ tham gia phim nhưng hứa sẽ casting phim vào tháng 6 năm 1973. Cuối tháng 5 năm 1973, Lý Tiểu Long bay về Hồng Kông thuộc Anh nhưng buổi casting của Wong Shun-leung đã không diễn ra. Giữa tháng 7 năm 1973 võ sư Lý Huỳnh ở Việt Nam công khai thách đấu với Lý Tiểu Long trên truyền hình, sự kiện này được báo chí Việt Nam và Hồng Kông đưa tin, tuy nhiên Lý Tiểu Long đã không còn cơ hội để nhận lời thách đấu này nữa. Ngày 16 tháng 7 năm 1973 mưa to do cơn bão lớn tại Hồng Kông. Lý Tiểu Long tiêu phí 2000 $ để điện thoại cho Unicorn Chan, người đang quay phim ở Manila của Philippines, trong phòng của ông tại khách sạn. Lý Tiểu Long nói với Unicorn Chan rằng ông thực sự thấy lo lắng về những cơn đau đầu mà mình đang phải chịu đựng. Ngày 18 tháng 7 năm 1973 mái nhà của Lý Tiểu Long tại đường Cumberland ở Hồng Kông bị thổi tung vì mưa to gió lớn. Tới sáng ngày 20 tháng 7 năm 1973, Lý Tiểu Long viết một bức thư cho vị luật sư Adrian Marshall. Nội dung thư cho biết ông muốn thảo luận với Adrian Marshall trên chuyến đi trở về Los Angeles, Mỹ. Lý Tiểu Long đã có tấm vé sẵn sàng trở về Mỹ cho buổi trình diễn Tiệt quyền đạo trước công chúng, và ông dự định sẽ xuất hiện trên chương trình truyền hình của Johnny Carson. Diễn biến cái chết Châu Văn Hoài đến nhà Lý Tiểu Long và hai người cùng bàn bạc về kế hoạch quay tiếp phim Trò Chơi Tử Thần. Linda Lee hôn tạm biệt Lý Tiểu Long và nói rằng cô phải ra ngoài làm mấy việc lặt vặt (đi chợ) và sẽ gặp ông vào buổi tối. Châu Văn Hoài và Lý Tiểu Long tới thăm nữ diễn viên Đinh Phối (Betty Ting Pei) tại căn hộ của cô số 67 đường Beacon Hill Road, Kowloon Tong, Hồng Kông để bàn về vai nữ chính (vợ của Hải Thiên) của cô trong phim Trò Chơi Tử Thần. Họ dự định sẽ có bữa ăn tối để gặp diễn viên George Lazenby người Úc và mời ông ta vào vai sư phụ của Hải Thiên trong phim. Khi đang xem lại kịch bản phim Trò Chơi Tử Thần vào lúc 17:00, Lý Tiểu Long kêu bị đau đầu, hỏi mượn tạm thuốc giảm đau của Đinh Phối. Do không biết việc Lý Tiểu Long phải tránh dùng thuốc Equagesic, Đinh Phối đã đưa cho Lý Tiểu Long 1 viên Equagesic, một loại thuốc mạnh dựa trên aspirin mà cô ấy thường tự sử dụng. Có thể do quá đau đầu nên Lý Tiểu Long đã quên việc bác sĩ Peter Wu từng khuyên ông tránh dùng thuốc Equagesic. Chẳng cần hỏi viên thuốc mà Đinh Phối đang đưa cho mình là thuốc gì, Lý Tiểu Long đã lập tức uống ngay viên Equagesic đó. Và rồi Lý Tiểu Long đã nằm lại trên giường của Đinh Phối để ngủ tạm, chờ đến bữa tối. Châu Văn Hoài ra về và nói sẽ gặp lại họ sau. Châu Văn Hoài và George Lazenby gặp nhau tại nhà ăn và ngồi chờ Lý Tiểu Long và Đinh Phối tới, nhưng cả hai đều không xuất hiện. Lúc 21:00, Châu Văn Hoài nhận được cú điện thoại của Đinh Phối. Cô nói rằng cô đã cố đánh thức Lý Tiểu Long nhưng ông không thức dậy được nữa. Châu Văn Hoài lập tức đến căn hộ của Đinh Phối và cố gắng gọi cho bác sĩ riêng của Lý Tiểu Long ít nhất 20 lần. Sau đó, điện thoại không kết nối được, Châu Văn Hoài đã gọi cho bác sĩ riêng của Đinh Phối, người đến sau 20 phút. Ông ta không phát hiện ra nhịp tim hay hơi thở của Lý Tiểu Long nữa. Ông ấy đã cố gắng hô hấp nhân tạo (CPR) cho Lý Tiểu Long trước khi gọi xe cấp cứu đưa Lý Tiểu Long đến bệnh viện Queen Elizabeth. Lý Tiểu Long đã không được đưa đến bệnh viện cho đến lúc đồng hồ quá 23:00, 6 giờ đồng hồ sau khi Lý Tiểu Long uống một viên thuốc giảm đau do Đinh Phối đưa cho và nằm xuống chợp mắt. Lý Tiểu Long đã không thể tỉnh lại được nữa và ông đã vĩnh viễn ra đi. Bệnh viện thông báo rằng Lý Tiểu Long đã chết khi đang trên đường đến bệnh viện. Bác sĩ đã rất ngạc nhiên khi biết Lý Tiểu Long bị hôn mê lâu như vậy vào buổi tối hôm đó nhưng thật không may Đinh Phối đã không gọi ông ta tới giúp sớm hơn cô ấy có thể. Hiện trường Lý Tiểu Long chết là trên giường của Đinh Phối nên vợ của Lý Tiểu Long là Linda Lee cũng bị sốc. Bởi vậy truyền thông khắp nơi trên thế giới cũng rộ tin đồn Lý Tiểu Long đã ngoại tình với Đinh Phối. Trong vòng 4 giờ đồng hồ từ 17:00 đến 21:00, có thể Lý Tiểu Long có quan hệ tình dục với Đinh Phối rồi bị thượng mã phong mà chết, sau đó Đinh Phối gọi mãi không thấy ông tỉnh dậy. Năm 1975, hai năm sau cái chết của ông, Đinh Phối cho ra mắt phim Lý Tiểu Long và tôi (1975) kể về chuyện tình giữa cô và Lý Tiểu Long ngày xưa, trong phim có rất nhiều cảnh nóng giữa Đinh Phối và Lý Tu Hiền - người đóng vai Lý Tiểu Long trong phim. Tuy nhiên cũng có quan điểm cho rằng Lý Tiểu Long đã tự sát vì ông từng tiết lộ với mẹ của ông rằng ông không muốn sống nữa. Lại có quan điểm cho rằng Lý Tiểu Long bị Hội Tam Hoàng ở Hồng Kông thanh toán, bởi vì Lý Tiểu Long từng vì Hội Tam Hoàng mà phải chạy sang Mỹ lúc 19 tuổi, cuối đời thì ông luôn mang súng bên người khi ra ngoài đường ở Hồng Kông. Có ý kiến cho rằng Lý Tiểu Long từng bị trúng công phu "Điểm huyệt hẹn ngày chết" của một võ sư vô danh khi ông đang quay phim Long Tranh Hổ Đấu (1973) (3 tháng trước khi ông chết) nên mới đột ngột tử vong như vậy. Nguyên nhân cái chết của Lý Tiểu Long được truyền thông khắp thế giới đồn đoán, bàn tán rất nhiều. Danh tiếng của Lý Tiểu Long càng ngày càng nổi hơn, đi khắp nơi trên toàn thế giới sau khi ông chết. Dựa trên những thông tin được cung cấp từ Cựu thám tử cảnh sát Hồng Kông là Philip Chan, chính quyền Hồng Kông thuộc Anh đưa ra kết luận cuối cùng rằng Lý Tiểu Long chết tại Hồng Kông vì chứng phù não (não bị sưng to) do phản ứng dị ứng và lao lực quá độ. Nhân viên điều tra mô tả sự ra đi của Lý Tiểu Long là "cái chết do tai nạn rủi ro". Bộ phim Trò Chơi Tử Thần (Game Of the Death) đã phải trì hoãn lại tận 4 năm sau vì nam diễn viên chính đã mất. Mất đi người bạn, đồng thời bị đổ lỗi và cũng nhận được những lời đe dọa sẽ đến lấy mạng từ những người hâm mộ của Lý Tiểu Long vì cái chết của ông, Đinh Phối (Betty Ting Pei) bị mắc chứng tâm thần phân liệt trong một thời gian. Ngày 25 tháng 7 năm 1973, tang lễ của Lý Tiểu Long được tổ chức tại Hồng Kông thuộc Anh và đã có hơn 25.000 người hâm mộ, bạn bè tới dự. Taky Kimura là một trong sáu người khiêng quan tài tại đám tang của Lý Tiểu Long, năm người còn lại là: Dan Inosanto, Steve McQueen, James Coburn, Peter Chin và Lý Chấn Huy (Robert Lee, em trai của Lý Tiểu Long). Tranh cãi về cái chết Donald Teare, một nhà pháp y được giới thiệu bởi Scotland Yard mà đã giám sát hơn 1,000 khám nghiệm tử thi, đã được ủy nhiệm xem xét trường hợp của Lý Tiểu Long. Ông ta kết luận là "death by misadventure" (tạm dịch là "cái chết do tai nạn rủi ro") gây ra bởi sưng não bất thình lình do phản ứng bởi sự pha trộn những chất khác cùng với thuốc Equagesic. Bác sĩ Donald Langford, một nhà truyền đạo Baptist và bác sĩ của Lý Tiểu Long ở Hồng Kông, nói rằng: "Không ai chết chỉ vì một viên thuốc Equagesic. Không có thuốc đau nhức nào đã giết Lý Tiểu Long." Ông ta nói thêm: "Người ta không dám nói thẳng là Lý Tiểu Long chết vì đã ăn chất cần sa, tìm thấy được trong bao tử anh ta, mà anh đã sử dụng thường xuyên trong một thời gian vì có stress với danh vọng của mình. Lúc ban đầu của cuộc điều tra, bác sĩ Peter Wu và một số bác sĩ khác được bảo là không nên đặt quan trọng vai trò của cần sa trong cái chết của anh ta." Ý kiến ban đầu của bác sĩ Peter Wu, bác sĩ chuyên về thần kinh, mà đã chữa cho Lý Tiểu Long khi ông bị động kinh vào ngày 10 tháng 5 năm 1973, cho là nguyên nhân của cái chết có thể là do phản ứng đối với cần sa hay Equagesic. Ông ta cho biết: "Chúng tôi đã lấy ra nhiều chất cần sa trong bao tử của anh ta trong tháng 5". Ở Nepal có nhiều vấn để về hệ thần kinh liên quan đến cần sa, đặc biệt làm cho não sưng lên (cerebral edema).". Tuy nhiên, Peter Wu chính thức đã từ bỏ ý kiến này, chính thức cho biết: Cuốn sách The Death of Bruce Lee: A Clinical Investigation (Cái chết của Lý Tiểu Long: một điều tra y khoa) cho thấy là cơ thể Lý Tiểu Long đã không chịu được loại thuốc Equagesic khi anh ta bị động kinh vào ngày 10 tháng 5 năm 1973. Lý Tiểu Long đã tránh dùng loại thuốc đó cho tới buổi tối định mệnh vào ngày 20 tháng 7 năm 1973, khi anh ta dùng Equagesic sau đó bị chết vì sưng não. Phần mộ Ngày 30 tháng 7 năm 1973, sau một tang lễ nhỏ thứ hai của Lý Tiểu Long ở Seattle, Washington, tại Butterworth trên đại lộ East Pine, Lý Tiểu Long được chôn cất ở Nghĩa trang Lake View của Mỹ. Ông được chôn cất cùng với bộ quần áo ưa thích mà ông từng mặc trong phim Long Tranh Hổ Đấu. Trên mộ của ông ghi tên ông là Bruce Lee và Lý Chấn Phiên (tên khai sinh của ông). Tiễn đưa ông bao gồm Steve McQueen, James Coburn, Dan Inosanto, Taky Kimura, Peter Chin, Chuck Norris và người em trai của ông, Lý Chấn Huy (Robert Lee). Gia đình Xem thêm:Lý Quốc Hào. Lý Tiểu Long có một con trai là Lý Quốc Hào (Brandon Lee) cũng tham gia đóng phim. Trong một lần khi diễn xuất trong phim tâm lý The Crow (Con Quạ) có cảnh quay bắn súng, một viên đạn trong khẩu Magnum 44 đã trúng vào người anh (đáng lẽ ra khẩu súng này không có đạn) và khiến anh qua đời vào năm 1993, khi anh được 28 tuổi. Ngôi mộ của anh được chôn bên cạnh mộ của cha anh là Lý Tiểu Long tại Mỹ. Vinh danh Lý Tiểu Long là 1 trong 7 nhà võ thuật lớn của thế giới Năm 1972 - 1973 Hội đồng Võ thuật Thế giới đã bình chọn Lý Tiểu Long là Vua Kungfu Sau khi Lý Tiểu Long qua đời, một số diễn viên lấy nghệ danh giống Lý Tiểu Long như: Bruce Le, Bruce Li, Bruce Ly, Bruce Lai, Bruce Chen, Bruce Lie, Bruce Leung, Saro Lee, Bruce Thai, Brute Lee, Myron Bruce Lee, Lee Bruce và Bruce Lei/Dragon Lee. Ngoài ra còn có những diễn viên trông giống nhau ("Lee-alikes"). Ban đầu Lý Tiểu Long không thích dòng phim ăn theo mình (dòng phim được ông đặt tên là dòng phim Bruceploitation, nghĩa là "Bruce" + "sự bóc lột"), nhưng ngày nay dòng phim này được coi là một cách để bày tỏ lòng kính trọng đối với Lý Tiểu Long. Tại Giải Kim Mã lần thứ 11 diễn ra vào ngày 30 tháng 10 năm 1973 tại Đài Loan, phim Mãnh Long quá giang (1972) của Lý Tiểu Long được đánh giá là Á quân của giải thưởng Phim truyện xuất sắc nhất và được công nhận cho giải thưởng Biên tập phim xuất sắc nhất (nếu Lý Tiểu Long khi đó mà còn sống, chắc chắn ông sẽ được lên sân khấu nhận giải này tại Đài Loan). Em trai của Lý Tiểu Long, Lý Chấn Huy (Robert Lee Jun-fai) là một nhạc sĩ nhạc pop nổi tiếng ở Hồng Kông. Ông ta là ca sĩ chính của Thunderbirds, một nhóm nhạc thành công vào giữa những năm 1960 và hát các ca khúc bằng tiếng Anh. Lý Chấn Huy đã phát hành một tác phẩm dành tặng riêng cho anh trai Lý Tiểu Long của mình với cái tên "The Ballad of Bruce Lee" vào năm 1974. Người hâm mộ phong Lý Tiểu Long là Thánh của Võ thuật. Những diễn viên như Lâm Chánh Anh, Nguyên Hoa, Châu Tinh Trì, Chân Tử Đan, Lý Liên Kiệt, Thành Long, Hồng Kim Bảo đều thần tượng Lý Tiểu Long, lấy niềm cảm hứng từ Lý Tiểu Long mà sản xuất ra nhiều bộ phim võ thuật đỉnh cao về sau. Linda Lee (vợ cũ của Lý Tiểu Long) đã viết cuốn sách về Lý Tiểu Long vào năm 1975 có tựa đề Bruce Lee: Người đàn ông duy nhất mà tôi đã biết (ISBN 0-446-89407-9), và từ truyện này đã được dựa vào để chuyển thể thành phim vào năm 1993 Dragon: The Bruce Lee Story (Linda Lee được vào vai bởi nữ nghệ sĩ Lauren Holly trong phim này.). Năm 1979, với người chủ trì buổi lễ Joe Green, Thị trưởng Los Angeles, Tom Bradley, chính thức tuyên bố ngày 8 tháng 6 là Ngày Lý Tiểu Long. Năm 1980, tờ báo Asahi Shimbun đã phong Lý Tiểu Long là Nhân vật tiêu biểu của thập niên 70 Năm 1986, người Đức phong Lý Tiểu Long là người châu Á có hiểu biết rộng nhất trong võ thuật Linda Lee Bleecker (vợ cũ của Lý Tiểu Long, khi đó cô đã tái hôn với Tom Bleecker nên cô đã thêm họ Bleecker vào tên của cô) viết thêm cuốn sách về Lý Tiểu Long vào năm 1989 The Bruce Lee Story (ISBN 0897501217). Năm 1993, sau cái chết của Lý Quốc Hào, Lý Tiểu Long được gắn sao trên Đại lộ Danh vọng Hollywood. Từ năm 1993, Hollywood của Mỹ hằng năm đều làm lễ tưởng niệm cho Lý Tiểu Long Tháng 11 năm 1998, Hiệp hội Võ thuật Trung Quốc đã trao Giải Ngôi sao điện ảnh tối cao cho Lý Tiểu Long. Năm 1999, Tạp chí Thành Đạt của Mỹ cũng bình chọn Lý Tiểu Long là anh hùng của thế kỷ XX và ông là Trung Quốc duy nhất được bình chọn này. Tạp chí TIME của Mỹ cũng đã gọi Lý Tiểu Long là một trong 100 nhân vật quan trọng nhất của thế kỷ 20. với tư cách là một trong những anh hùng, biểu tượng vĩ đại nhất và có ảnh hưởng nhất. Chính phủ Hoa Kỳ đã tuyên bố phát hành một loại vé để xem những bộ phim điện ảnh mà Lý Tiểu Long từng tham gia, sau đó những bộ phim như Điệp Viên 007, Thám Tử Sherlock Holmes cũng chịu ảnh hưởng từ ông. Lý Tiểu Long được chọn là 1 trong "3 nhà nghệ nhân danh dự của thế giới", và đồng thời cũng là người Hoa đầu tiên được nhận danh hiệu này. Lý Tiểu Long là 1 trong 100 nhân vật vĩ đại nhất toàn cầu do truyền hình của Hoa Kỳ công bố vào năm 2000. Tạp chí People của Mỹ vinh danh Lý Tiểu Long là 1 trong "200 hình tượng Văn hóa Vĩ đại của lịch sử Thế giới", tin này do Đài truyền hình Mỹ thực hiện vào tháng 7 năm 2003 Năm 2004 Lý Tiểu Long được gắn một ngôi sao nằm trên Đại lộ Ngôi sao (Tinh quang đại đạo) của Hồng Kông, gần bờ sông ở Tsim Sha Tsui. Cùng năm 2004, Chủ tịch UFC Dana White gọi Lý Tiểu Long là "cha đẻ của võ thuật tổng hợp (MMA)". Ngày 26 tháng 11 năm 2005, thành phố Mostar ở Bosnia và Herzegovina vinh danh Lý Tiểu Long bằng một bức tượng đồng trên Quảng trường Tây Ban Nha. Bức tượng là tượng đài công cộng đầu tiên về Lý Tiểu Long chính thức được công bố trên thế giới, với một bức tượng đồng khác của Lý Tiểu Long ở Hồng Kông được khánh thành một ngày sau đó (ngày 27 tháng 11 năm 2005), đánh dấu sinh nhật lần thứ 65 của Lý Tiểu Long. Trung Quốc phát sóng bộ phim truyền hình dài 50 tập mang tên Huyền thoại Lý Tiểu Long 2008 kể về cuộc đời của Lý Tiểu Long từ khi ông đoạt giải cha-cha-cha năm 18 tuổi đến khi ông qua đời. Diễn viên Trần Quốc Khôn có gương mặt và dáng vóc khá giống với Lý Tiểu Long ngoài đời nên đã được chọn vào vai Lý Tiểu Long trong bộ phim này. Trước đó Trần Quốc Khôn từng không tự tin nhận vai Lý Tiểu Long nhưng nhờ Châu Tinh Trì hết lòng ủng hộ nên Trần Quốc Khôn cuối cùng cũng chịu nhận vai này. Còn vai Linda Lee do nữ diễn viên xinh đẹp người Mỹ là Michelle Lang thủ vai. Con gái của Lý Tiểu Long là Lý Hương Ngưng, được coi là giám đốc sản xuất của bộ phim này. Bộ phim được phát sóng tại Trung Quốc từ ngày 12 tháng 10 năm 2008. Danh sách phim điện ảnh, phim truyền hình và chương trình truyền hình Sách do Lý Tiểu Long viết Sách được phát hành lúc ông đang sống Kung Fu Trung Quốc: Nghệ thuật tự vệ triết học (Chinese Kung-Fu: The Philosophical Art of Self Defense) (đầu năm 1963) Sách được phát hành sau khi ông qua đời Đạo của Tiệt quyền đạo (Tao of Jeet Kune Do) (năm 1975) Phương pháp chiến đấu của Lý Tiểu Long (Bruce Lee's Fighting Method) (năm 1978) Giải thưởng
Trường Đại học Cần Thơ ( – CTU) là một trường đại học đa ngành lớn có vị thế trụ cột trong hệ thống giáo dục bậc cao của Việt Nam, được Chính phủ xếp vào nhóm trường đại học trọng điểm quốc gia của cả nước. Trường là một trong ba trường đại học tại Việt Nam đạt chuẩn đào tạo quốc tế của Hệ thống đại học ASEAN. Ngoài đào tạo, trường đồng thời là trung tâm nghiên cứu khoa học và chính sách quản lý của Việt Nam. Tiền thân của Trường Đại học Cần Thơ là Viện Đại học Cần Thơ được thành lập từ năm 1966. Theo quá trình phát triển đến nay, tính đến năm 2022 trường đã có 115 chương trình đào tạo bậc đại học chính quy trải dài từ hệ đại trà đến hệ chất lượng cao và 48 chương trình đào tạo bậc thạc sĩ và 20 chương trình tiến sĩ. Số lượng người hiện theo học ở các bậc là 50.903 người tại các cơ sở đào tạo (bao gồm cơ sở Hòa An và Sóc Trăng). Hiện nay Trường Đại học Cần Thơ đang có đề xuất và xin hỗ trợ về thủ tục từ Bộ Giáo dục và Đào tạo để nâng cấp lên thành đại học vùng thứ tư của Việt Nam. Lãnh đạo Đảng ủy Bí thư: GS.TS Nguyễn Thanh Phương Phó Bí thư thường trực: Lê Phi Hùng Phó Bí thư: GS.TS Hà Thanh Toàn Hội đồng trường Chủ tịch: GS.TS Nguyễn Thanh Phương Phó Chủ tịch: PGS.TS Nguyễn Chí Ngôn Thư ký: TS Lê Thanh Sơn Ban giám hiệu Hiệu trưởng: GS.TS Hà Thanh Toàn Phó hiệu trưởng: PGS.TS Trần Trung Tính Phó hiệu trưởng: GS.TS Trần Ngọc Hải Phó hiệu trưởng: PGS.TS Nguyễn Hiếu Trung Đơn vị trực thuộc Trường có 4 trường đào tạo, 12 khoa, 3 viện nghiên cứu và 1 trường phổ thông (trường Trung học phổ thông Thực hành sư phạm). Ngoài ra còn một số trung tâm và phòng ban chức năng khác phục vụ việc quản lý và đào tạo. Tại khu II Đại học Cần Thơ, Xuân Khánh, Ninh Kiều, Cần Thơ (cơ sở đào tạo chính): Các Trường trực thuộc Trường Bách khoa Trường Kinh tế Trường Nông nghiệp Trường Công nghệ Thông tin và Truyền thông Trường Thủy sản Các Khoa đào tạo Khoa Luật Khoa Sư phạm Khoa Sau Đại học Khoa Dự bị Dân tộc Khoa Khoa học Tự nhiên Khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn Khoa Khoa học Chính trị Khoa Môi trường và Tài nguyên Thiên nhiên Khoa Giáo dục Thể chất Các Viện, Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí Hậu Viện Nghiên cứu Phát triển Đồng bằng sông Cửu Long Viện Công nghệ Sinh học và Thực phẩm Trung tâm Bồi dưỡng Nghiệp vụ Sư phạm Trung tâm Đào tạo, Nghiên cứu và Tư vấn kinh tế Trung tâm Điện - Điện tử Trung tâm Điện tử Tin học Trung tâm Liên kết Đào tạo Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng công nghệ Các Trung tâm khác Trung tâm Học liệu Trung tâm Quản lý chất lượng Trung tâm Thông tin và Quản trị mạng Trung tâm Đánh giá năng lực Ngoại ngữ Trung tâm Kiểm định và Tư vấn Xây dựng Trung tâm Dịch vụ Khoa học Nông nghiệp Trung tâm Chuyển giao Công nghệ và Dịch vụ Trung tâm Tư vấn, Hỗ trợ và Khởi nghiệp sinh viên Các đơn vị khác Trường Trung học phổ thông Thực hành Sư phạm Ban Quản lý dự án ODA Không gian sáng chế Nhà Xuất Bản Đại học Cần Thơ Tạp chí Khoa học Trường ĐHCT Tại khu I Đại học Cần Thơ, Hưng Lợi, Ninh Kiều, Cần Thơ Khoa Ngoại ngữ Trung tâm Ngoại ngữ Tại khu III Đại học Cần Thơ, An Phú, Ninh Kiều, Cần Thơ Trung tâm Công nghệ Phần mềm Công ty TNHH một thành viên Khoa học Công nghệ Tại khu Hòa An Đại học Cần Thơ, Hòa An, Phụng Hiệp, Hậu Giang Khoa Phát triển Nông thôn Trung tâm Giáo dục Quốc phòng & An ninh Chương trình đào tạo đạt chuẩn, chương trình tiên tiến - chất lượng cao Quy mô đào tạo - Đội ngũ giảng viên - Chất lượng đào tạo Quy mô đào tạo Số lượng sinh viên: 44.500 Số lượng chương trình bậc đại học: 109 (2 chương trình tiên tiến, 8 chương trình chất lượng cao) Số lượng học viên sau đại học: 2.500 Số lượng chương trình thạc sĩ: 48 (3 chương trình quốc tế) Số lượng chương trình tiến sĩ: 19 Đội ngũ giảng viên Tính đến ngày 15 tháng 10 năm 2021, trường có 1.800 viên chức và người lao động với 100% cán bộ giảng dạy trình độ từ đại học trở lên. Đến ngày 20 tháng 4 năm 2023, trường có 691 Thạc sĩ, 589 Tiến sĩ, 163 Phó giáo sư và 18 Giáo sư. Chất lượng và xếp hạng Thông qua khảo sát năm 2019, có 96,3% sinh viên tốt nghiệp có việc làm (khảo sát năm 2019) . Theo bảng xếp hạng uniRank năm 2018, Đại học Cần Thơ đứng đầu tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, đứng thứ 3 tại miền Nam và đứng thứ 5 tại Việt Nam. Theo bảng xếp hạng Webometrics năm 2019, Đại học Cần Thơ đứng đầu tại miền Nam và đứng thứ 3 tại Việt Nam. Còn theo bảng xếp hạng Quacquarelli Symonds (QS) Đại học Cần Thơ nằm trong nhóm 300 trường đại học/ nhóm trường đại học tốt nhất châu Á.. Trường Đại học Cần Thơ hiện đang dẫn đầu cả nước về đào tạo nhóm ngành nông - lâm - ngư nghiệp. Kiểm định chất lượng Vào ngày 15/7/2013, trường đã đạt được chứng nhận kiểm định AUN-QA của tổ chức ASEAN University Network, chứng nhận bằng cấp của trường có giá trị sử dụng tại các nước Đông Nam Á. Đến năm 2020, trường có 5 chương trình đạt chuẩn AUN-QA, đồng thời trường tiến hành chuẩn bị hồ sơ với 8 chương trình khác, dự kiến kiểm định và công nhận trong năm 2021. Nghiên cứu khoa học - Hợp tác quốc tế Trường Đại học Cần Thơ đã chủ trì nhiều đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ, cấp Trường, mở rộng hợp đồng NCKH và chuyển giao tiến độ khoa học và kỹ thuật phục vụ kinh tế xã hội vùng ĐBSCL và trong cả nước, các chương trình nghiên cứu quốc gia có liên kết với các trường đại học trong và ngoài nước được thực hiện trên nhiều địa bàn ở ĐBSCL và trong cả nước đem lại hiệu quả kinh tế và xã hội cao. Nghiên cứu khoa học Trường Đại học Cần Thơ thực hiện nhiều đề tài/nhiệm vụ nghiên cứu khoa học hằng năm: Năm 2016: 289 đề tài, tổng kinh phí 43,3 tỷ đồng. Năm 2017: 282 đề tài, tổng kinh phí 48,6 tỷ đồng. Năm 2018: 256 đề tài, tổng kinh phí 31,5 tỷ đồng. Năm 2019: 302 đề tài, tổng kinh phí 36,0 tỷ đồng. Năm 2020: 414 đề tài, tổng kinh phí 51,8 tỷ đồng. Tạp chí khoa học Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần Thơ, mã số ISSN: 1859-2333, được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp Giấy phép sửa đổi, bổ sung số 101/GP-BTTTT, ngày 10 tháng 4 năm 2015, cho phép Tạp chí xuất bản 9 kỳ một năm, trong đó có 3 kỳ xuất bản bằng ngôn ngữ tiếng Anh. Công bố khoa học Năm 2020, trường có 1.665 công trình nghiên cứu hoặc bài báo khoa học được xuất bản với 721 công bố trên các tạp chí quốc tế (bao gồm ISI: 260, Scopus: hơn 500), 465 công bố trên các tạp chí trong nước, hơn 150 công bố trên các kỷ yếu hội thảo trong nước và quốc tế (83 công bố trong nước và 80 công bố quốc tế). Thông qua tạp chí khoa học Trường Đại học Cần Thơ, trường đã công bố hơn 300 công trình (bao gồm 288 công trình trên ấn phẩm tiếng Việt và 28 công trình trên ấn phẩm tiếng Anh). Hợp tác quốc tế Năm 2020, trường Đại học Cần Thơ thực hiện 14 dự án hợp tác quốc tế với nguồn kinh phí đạt xấp xỉ 9,7 tỷ đồng. Khen thưởng Huân chương Lao động hạng Nhất (1996, 2016) Huân chương Độc lập hạng Nhì (2005), hạng Ba (2004). Danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới (2005) Khuôn viên đào tạo, cơ sở vật chất, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ Tính đến năm 2020, cơ sở vật chất của trường bao gồm 378 giảng đường, hội trường, phòng học có diện tích 58.881m², thư viện (tính cả Trung tâm học liệu) có diện tích 11.795m²., 15 phòng học ngoại ngữ, đa phương tiện, biên dịch với diện tích 830m², 134 phòng thí nghiệm, thực hành thí nghiệm với diện tích 42.715m², 10.945m² diện tích các phòng làm việc của giáo sư, phó giáo sư và giảng viên cơ hữu. Trường có hơn 60.000m² không gian thể dục thể thao với nhà thể dục thể thao (4.965m²), sân vận động và sân thể dục thể thao (55.879m²). Sinh viên được sinh hoạt nội trú trong các khu ký túc xá của trường với 1.330 phòng có diện tích hơn 73.000m² cùng hệ thống nhà ăn rải rác khắp khuôn viên trường có tổng diện tích hơn 2.000m². Khuôn viên trường được phân tán tại nhiều địa điểm với cơ sở chính đặt tại khu II đường 3 tháng 2 quận Ninh Kiều (TP. Cần Thơ). Các cơ sở khác phục vụ cho một hoặc một số chức năng đào tạo, nghiên cứu, kinh doanh hoặc chuyển giao công nghệ. Định hướng phát triển Trong giai đoạn 2020 - 2025, trường Đại học Cần Thơ sẽ tự chủ về tài chính, chuyển trường Đại học Cần Thơ thành Đại học Cần Thơ và thành lập 04 trường và 02 phân hiệu đại học thuộc Đại học Cần Thơ gồm: Trường Nông nghiệp - Đại học Cần Thơ Trường Bách khoa - Đại học Cần Thơ Trường Kinh tế - Đại học Cần Thơ Trường Công nghệ thông tin và Truyền thông - Đại học Cần Thơ Phân hiệu Đại học Cần Thơ tại Hòa An, tỉnh Hậu Giang Phân hiệu Đại học Cần Thơ tại tỉnh Sóc Trăng Thành viên các tổ chức Hệ thống đại học ASEAN (AUN) Lịch sử Từ 1966 đến 1975 Xem thêm Viện Đại học Cần Thơ Viện Đại học Cần Thơ được thành lập ngày 31 tháng 3 năm 1966. Được thiết kế bởi kiến trúc sư Nguyễn Quang Nhạc, cựu trưởng khoa kiến trúc, Trường đại học Kiến Trúc. Đây là viện đại học thứ năm của Việt Nam Cộng hòa (bốn viện đại học kia là Viện đại học Sài Gòn, Viện đại học Huế, Viện đại học Đà Lạt, và Viện đại học Vạn Hạnh). Viện Đại học Cần Thơ có bốn phân khoa đại học: Khoa học, Luật khoa và Khoa học Xã hội, Văn khoa, và Sư phạm. Sau đó viện đại học này mở thêm phân khoa Canh nông. Ngoài ra, Phân khoa Sư phạm có Trường Trung học Kiểu mẫu. Năm đầu tiên đó có 985 sinh viên ghi danh học với viện trưởng là Giáo sư Phạm Hoàng Hộ. Viện đại học có ba khuôn viên: trụ sở chính ở Công trường Hòa Bình trong thành phố, một số phân khoa đặt ở Cái Răng và khuôn viên thứ ba ở Cái Khế. Trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân (1968) cơ sở ở Công trường Hòa Bình gồm thư viện, giảng đường và phòng thí nghiệm khoa học trong thị xã bị quân Mặt trận Giải phóng tiến chiếm. Trong cuộc phản công hai bên đánh nhau gây thiệt hại nặng nề nhưng sau đó được tái thiết. Từ 1975 đến nay Sau năm 1975, Viện Đại học Cần Thơ được đổi thành Trường đại học Cần Thơ. Khoa Sư phạm được tách thành Khoa Sư phạm Tự nhiên và Khoa Sư phạm Xã hội đào tạo giáo viên phổ thông trung học gồm Toán học, Vật lý học, Hóa học, Sinh vật học, Văn học, Lịch sử, Địa lý, và Ngoại ngữ. Sau đó mở rộng thành 5 Khoa: Toán - Lý (1980), Hóa - Sinh (1980), Sử - Địa (1982), Ngữ văn (1983) và Ngoại ngữ (1983). Trường Cao đẳng Nông nghiệp được đổi tên thành Khoa Nông nghiệp, đào tạo 2 ngành Trồng trọt và Chăn nuôi. Đến năm 1979, Khoa Nông nghiệp được mở rộng thành 7 Khoa: Trồng trọt (1977), Chăn nuôi - Thú y (1978), Thủy nông và Cải tạo đất (1978), Cơ khí Nông nghiệp (1978), Chế biến và Bảo quản Nông sản (1978), Kinh tế Nông nghiệp (1979), và Thủy sản (1979). Năm 1978, Khoa đại học Tại chức được thành lập, có nhiệm vụ quản lý và thiết kế chương trình bồi dưỡng và đào tạo giáo viên phổ thông trung học và kỹ sư thực hành chỉ đạo sản xuất cho các tỉnh ĐBSCL. Thời gian đào tạo là 5 năm. Từ năm 1981 do yêu cầu của các địa phương, công tác đào tạo tại chức cần được mở rộng hơn và trường đã liên kết với các tỉnh mở các trung tâm Đào tạo - Bồi dưỡng đại học Tại chức mà tên gọi hiện nay là Trung tâm Giáo dục Thường xuyên: Tiền Giang - Long An - Bến Tre, Vĩnh Long - Đồng Tháp, Cần Thơ, An Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Kiên Giang và Minh Hải. Năm 1987, để phục vụ phát triển kinh tế thị trường phù hợp với chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, Khoa Kinh tế Nông nghiệp đã liên kết với trường đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh mở thêm 4 ngành đào tạo Cử nhân Kinh tế: Kinh tế Tài chính - Tín dụng, Kinh tế Kế toán Tổng hợp, Kinh tế Ngoại thương và Quản trị Kinh doanh. Tương tự, năm 1988, Khoa Thủy nông đã mở thêm hai ngành đào tạo mới là Thủy công và Công thôn đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà cửa và cầu đường nông thôn ở ĐBSCL. Ngoài việc thành lập và phát triển các khoa, Đại học Cần Thơ còn tổ chức các Trung tâm nghiên cứu khoa học nhằm kết hợp có hiệu quả 3 nhiệm vụ Đào tạo - nghiên cứu khoa học - Lao động sản xuất. Từ năm 1985 đến năm 1992 có 7 Trung tâm được thành lập: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Công nghệ Sinh học (1985), Năng lượng mới (1987), Nghiên cứu và Phát triển Hệ thống Canh tác ĐBSCL (1988), Điện tử - Tin học (1990), Nghiên cứu và Phát triển Tôm-Artemia (1991), Ngoại ngữ (1991), Thông tin Khoa học & Công nghệ (1992). Tháng 4 năm 2003, Khoa Y- Nha - Dược được tách ra để thành lập Trường Đại học Y Dược Cần Thơ trực thuộc Bộ Y tế. Tháng 10 năm 2022, trường thành lập Trường Kinh tế, Trường Nông nghiệp, Trường Công nghệ Thông tin và Truyền thông, Khoa Giáo dục thể chất trên cơ sở các khoa và bộ môn cùng tên (riêng trường Bách khoa từ khoa Công nghệ), thành lập Trường Bách khoa trên cơ sở khoa Công nghệ, thành lập Viện Công nghệ Sinh học và Thực phẩm trên cơ sở sáp nhập Viện nghiên cứu và phát triển Công nghệ Sinh học và Bộ môn Công nghệ thực phẩm của khoa Nông nghiệp. Trường Thủy sản là trường tiếp theo được thành lập trên cơ sở nâng cấp khoa Thủy sản vào tháng 12 cùng năm. Hiện nay trường Đại học Cần Thơ có 6 trường (1 trường đào tạo chương trình phổ thông từ lớp 10 đến lớp 12, 6 trường đào tạo chương trình đại học và sau đại học), 12 khoa và 3 viện. Lãnh đạo qua các thời kỳ
Ra () hay Re ( hoặc ; ) là Thần mặt trời theo văn hóa Ai Cập cổ đại. Vào Vương triều thứ Năm ông trở thành vị thần tối cao trong tôn giáo Ai Cập cổ, và được miêu tả là ánh nắng mặt trời vào buổi trưa. Ý nghĩa của tên "Ra" chưa hoàn toàn chắc chắn, nhưng nhiều người nghĩ nếu nó không mang nghĩa là mặt trời thì nó có thể mang một số nghĩa liên quan tới 'sức mạnh sáng tạo' hay là 'người sáng tạo'. Vai trò Đối với người Ai Cập, mặt trời đại diện cho ánh sáng, ấm áp, và tăng trưởng. Điều này làm cho các vị thần mặt trời rất quan trọng vì mặt trời được xem là người cai trị của tất cả những gì ông đã tạo ra. Người ta thường biểu thị bằng đĩa mặt trời, một vị thần với hình hài đầy đủ hay con mắt của Thần Ra. Ra được hình dung là đang du hành trên một trong hai con thuyền mặt trời được gọi là Mandjet - Con thuyền của hàng triệu năm hoặc thuyền của buổi sáng, và Mesektet - thuyền của buổi tối. Hai con thuyền này đưa ông đi trên chuyến hành trình của mình xuyên qua bầu trời và xuống tận thế giới âm ty. Khi Ra du hành trên con thuyền mặt trời của mình, ông đi cùng với các vị thần khác nhau bao gồm Thần Sia (Thần của nhận thức) và Hu (Thần thi hành các mệnh lệnh) cũng như Heka (Thần của sức mạnh ma thuật). Thỉnh thoảng ông được sự giúp đỡ của gia đình 9 vị thần Ennead trên hành trình của mình, bao gồm Set người đã vượt qua con rắn hỗn mang độc ác Apep, và Mehen người bảo vệ chống lại những con quái vật của thế giới âm ty. Apep, một con rắn khổng lồ đã cố gắng ngăn chặn cuộc hành trình của con thuyền mặt trời mỗi đêm bằng cách làm chi phối hay ngăn cản cuộc hành trình nhờ bài hát của nó với ánh mắt thôi miên. Vào buổi tối, người Ai Cập tin rằng Thần Ra dưới hình hài của Atum hoặc dưới hình dạng của một con cừu đực (Khnum). Mesektet hay Con thuyền của Ban đêm sẽ chở ông xuyên qua thế giới Âm ty và quay trở lại phía đông để chuẩn bị cho sự tái sinh của mình. Những huyền thoại về Thần Ra đại diện cho mặt trời mọc là sự tái sinh của mặt trời bởi Nữ thần Bầu trời Nut, do đó việc gán các khái niệm về sự tái sinh và đổi mới của Thần Ra cũng như làm tăng vai trò của mình như là một thần sáng tạo là điều dễ hiểu. Mô tả Ra được thể hiện dưới nhiều hình dạng. Hình dạng phổ biến nhất là một người với đầu chim ưng và có đội vương miện với một đĩa mặt trời trên đĩnh đầu, ngoài ra còn ở dạng một người với đầu của bọ hung (Thần Ra trong hình dạng của Khepri), hay là người với đầu của Cừu đực (hình dạng của Khnum). Thần Ra còn thường được miêu tả dưới hình dạng đầy đủ của một con cừu đực, bọ hung, phượng hoàng, diệc, rắn, bò đực, mèo, hoặc sư tử cũng như nhiều loài sinh vật khác.. Ngoài ra, vầng hào quang trên đĩa mặt trời của thần Ra mạnh tới mức không người phàm tục hay vị thần nào có thể nhìn được. Trong văn hóa đại chúng Trong nhiều tác phẩm giả tưởng dành cho thiếu niên của Rick Riordan, The Serpent's Shadow (2012), The Throne of Fire (2011). Mối liên hệ với các vị thần khác Cũng như nhiều vị thần Ai Cập được tôn thờ, bản sắc của Thần Ra thường được kết hợp với các thần khác, tạo thành một sự hòa trộn giữa các vị thần. Atum và Atum-Ra Atum-Ra (Ra-Atum) là một vị thần được tổng hợp và hình thành từ hai vị thần hoàn toàn riêng biệt, tuy nhiên Ra chia sẻ nhiều điểm tương đồng với Atum hơn so với Amun. Atum được liên kết chặt chẽ hơn với ánh nắng mặt trời, và cũng là thần sáng tạo của Ennead. Cả Ra và Atum được coi là cha đẻ của các vị thần và các vị vua, và được tôn thờ rộng rãi. Trong thần thoại cổ xưa, Atum là cha đẻ của Tefnut và Shu, và ông được sinh ra từ đại dương Nun. Ra-Horakhty Trong thần thoại Ai Cập về sau này, Ra-Horakhty là biểu hiện của một hoặc nhiều vị thần tổng hợp. Nó được hiểu là "Ra dưới hình hài Horus ở đường chân trời". Người ta gợi ý rằng Ra-Horakhty đơn giản là cuộc hành trình của mặt trời từ đường chân trời từ Đông sang Tây như Ra, hoặc có nghĩa để biểu thị Ra là thần biểu tượng của hy vọng và sự tái sinh. (Xem phần trước: Ra và mặt trời). Khepri và Khnum Khepri được biểu thị dưới dạng một con bọ cánh cứng (bọ hung) lăn quả cầu mặt trời lên vào buổi sáng, và đôi khi được coi là biểu hiện của thần Ra vào buổi sáng. Tương tự như vậy, thần Khnum đầu cừu đực cũng được coi là biểu hiện của thần Ra vào buổi tối. Ý tưởng về việc các vị thần khác nhau (hoặc khía cạnh khác nhau của Ra) ngự trị trong nhiều thời điểm khác nhau trong ngày là khá phổ biến. Khepri và Khnum đại diện cho bình minh và hoàng hôn, Ra thường là đại diện của buổi trưa khi mặt trời lên tới đỉnh điểm. Đôi khi hiện thân dưới dạng Horus được sử dụng thay vì Thần Ra.
Nguyễn Kim (chữ Hán: 阮淦, 1468–1545), là một nhà chính trị và quân sự giai đoạn Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông được xem là người lãnh đạo trên thực tế của chính quyền và quân đội Lê trung hưng, đã tích cực đối kháng nhà Mạc sau khi nhà Lê sơ sụp đổ. Ông đã đem các con em chạy sang Ai Lao, chiêu tập binh mã, tôn lập vua Lê Trang Tông, đặt nền móng gây dựng lại nhà Lê và mở đầu thời kỳ Nam–Bắc triều (1533–1592). Ông là nội tổ phụ của các chúa Nguyễn và vua Nguyễn sau này, đồng thời cũng là ngoại tổ phụ của các chúa Trịnh. Các vua Hậu Lê từ Lê Thần Tông (cháu ruột Trịnh Tùng) cũng là hậu duệ trực tiếp bên họ ngoại của ông. Miếu hiệu của ông là Triệu Tổ, thụy là Tĩnh Hoàng đế dù ông không phải là vua hoặc chúa nào ở nhà Nguyễn. Thân thế Theo Đại Nam thực lục (bộ sử của nhà Nguyễn soạn), tổ tiên họ Nguyễn trước là một họ có danh gia vọng tộc ở xứ Thanh Hóa Cha của Nguyễn Kim là Trừng Quốc công Nguyễn Văn Lưu, ông nội của Nguyễn Kim là Phó Quốc công Nguyễn Như Trác. Nguyễn Kim là con trưởng, làm quan triều Lê, chức Hữu vệ điện tiền tướng quân, tước An Thanh hầu. Theo sách Đại Việt thông sử, dưới triều Mạc Đăng Dung: Hữu vệ Điện tiền tướng quân An Thanh hầu Nguyễn Kim là anh của Nguyễn Hoằng Dụ. Theo nhóm tác giả Đinh Công Vỹ, Phan Duy Kha, Lã Duy Lan, trong cuốn sách Nhìn lại lịch sử, nhóm tác giả này nghiên cứu phả hệ họ Nguyễn- Gia Miêu cho rằng Nguyễn Kim và Nguyễn Hoằng Dụ chỉ là anh em họ. Người sinh ra Nguyễn Kim là Nguyễn Văn Lưu, anh Nguyễn Văn Lang và bác Nguyễn Hoằng Dụ. Sách Nguyễn Phước Tộc Thế Phả do Hội Đồng Trị Sự Nguyễn Phúc Tộc Huế ấn hành năm 1995, trong phần Thủy Tổ phả ghi Thân phụ ngài Nguyễn Kim là Trừng Quốc công Nguyễn Văn Lưu, ông nội ngài là Phó Quốc công Nguyễn Như Trác. Hội Đồng Nguyễn Phước Tộc Hải Ngoại ở Hoa Kỳ ghi nhận Thân phụ ngài Nguyễn Kim là ngài Nguyễn Hoằng Dụ, tức ngài Nguyễn Văn Lưu, ông nội ngài là ngài Nguyễn Văn Lang. Một số Hội Đồng Nguyễn Phước Tộc Hải Ngoại khác lại chỉ ghi là Trừng Quốc công Nguyễn Văn Lưu và vài nơi còn ghi chú rõ không phải là ngài Nguyễn Hoằng Dụ. Khởi binh chống nhà Mạc Bối cảnh Năm Canh Dần (1530), Mạc Đăng Dung chiếm ngôi vua được 3 năm, sợ nhân tâm không ổn định, bèn truyền ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh. Tháng Giêng năm 1530, Mạc Đăng Doanh lên ngôi vua, đổi niên hiệu là Đại Chính, tôn Mạc Đăng Dung làm Thái thượng hoàng. Lê Ý, con trai An Thái công chúa khởi binh chống lại, xưng niên hiệu Quang Thiệu, hiệu triệu tướng sĩ các xứ Thanh Hóa, Nghệ An hợp binh đánh nhà Mạc. Lê Ý bị Mạc Quốc Trinh bắt vào tháng 11. Thời ấy cha con Mạc Đăng Doanh do thoán nghịch, nên hào kiệt không phục, thổ tù các nơi khởi binh. Nguyễn Kim đóng ở nước Ai Lao, Trịnh Ngung, Trịnh Ngang chiếm cứ xứ Thái Nguyên, Vũ Văn Uyên chiếm cứ xứ Tuyên Quang; các tướng đều danh nghĩa phục quốc. Các xứ Thanh, Nghệ, Tuyên, Hưng đều không theo họ Mạc. Khởi binh chống nhà Mạc Năm 1529, Nguyễn Kim ở Thanh Hoa lúc ấy giữ chức Hữu vệ Điện tiền tướng quân An Thanh hầu, đem con em chạy sang nước Ai Lao. Chúa nước Sạ Đầu cho rằng Đại Việt và nước họ có quan hệ môi răng, mới đem nhân dân và đất đai Sầm Châu cấp cho Nguyễn Kim. Từ đó Nguyễn Kim nuôi dưỡng sĩ tốt, chiêu nạp kẻ chạy trốn, làm phản, ngấm tìm con cháu họ Lê lập nên để mưu khôi phục. Tháng 12 năm 1530, Nguyễn Kim lánh nạn ở châu Sầm Thượng, Sầm Hạ nước Ai Lao thu dụng được vài nghìn người, 30 con voi và 300 con ngựa. Theo lời thỉnh cầu của các tướng, bèn dẫn quân về Thanh Hoa. Nguyễn Kim đóng quân ở Lôi Dương, bị phục binh của Ngọc Trục hầu, tướng của Mạc Đăng Doanh đánh bại. Mùa xuân năm Tân Mão (1531), Mạc Đăng Doanh sai tướng Tây Quốc công Nguyễn Kính đánh Nguyễn Kim ở xứ Thanh Hoa. Nguyễn Kim đón đánh, phá tan quân của Nguyễn Kính, sai quân đóng giữ các huyện. Nguyễn Kính lại đánh vào Đông Sơn, Nguyễn Kim phá được, giết và bắt sống vài trăm người, rồi dẫn quân ra Gia Viễn, Điềm Độ chiêu dụ và chiếm đất. Tháng 9 năm 1531, trời đổ mưa nhiều, nước sông dâng tràn, nhà Mạc dùng chiến thuyền tiến đánh, quân Nguyễn Kim tán loạn, không thể cố thủ. Nguyễn Kim dẫn quân trở về Ai Lao. Xứ Thanh Hoa bị đói to. Lập vua Lê Trang Tông Năm 1533, cựu thần nhà Lê gồm An Thanh hầu Nguyễn Kim, Hòa Trung hầu Lại Thế Vinh, Lỵ quốc công Trịnh Duy Thuận, Phúc Hưng hầu Trịnh Duy Duyệt và Tả Đô đốc Trịnh Duy Liệu dựng người con rốt của vua Lê Chiêu Tông tên Duy Ninh làm vua Trang Tông; lên ngôi vua tại Ai Lao, đặt niên hiệu là Nguyên Hòa. Vua Lê Trang Tông tấn phong cho tứ vị công thần khai quốc. Nguyễn Kim là Thượng phụ Thái sư Hưng Quốc công; Trịnh Kiểm là Dực Quận công, Trịnh Công Năng là Tuyên Quận công; Lại Thế Vinh là Hòa Quận công lại ban cho mỗi vị một quả ấn và một thanh gươm để làm tướng soái tự mang quan bản bộ đi tiêu diệt quân Mạc và phủ dụ dân chúng ở các địa phương hướng về nhà Lê trung hưng. Sau khi phong Nguyễn Kim làm Thái sư Hưng Quốc công Chưởng nội ngoại sự, lấy Trung nhân Đinh Công làm Thiếu úy Hùng Quốc Công, còn lại, người nào cũng được phong thưởng, vua Trang Tông sai Trịnh Duy Liệu vượt biển sang nhà Minh, tâu cáo tội trạng của Mạc Đăng Dung và xin nhà Minh đánh dẹp. Vua Minh nhận tờ tấu, giao xuống đình nghị, định cất quân sang hỏi tội Mạc Đăng Dung. Mạc Đăng Dung nghe tin liền viết thư cho vua nhà Minh, triều Minh cho Mạc Đăng Dung là dối trá nhưng đạo quân của tướng Minh là Cừu Loan, tuy kéo đến sát biên giới, vẫn do dự không tiến. Tiến quân về nước Mùa xuân năm Kỷ Hợi 1539, vua Lê Trang Tông phong Đại tướng quân Dực Nghĩa hầu Trịnh Kiểm, tước Dực Quận công. Trịnh Kiểm vốn theo Thái sư Nguyễn Kim đi đánh dẹp, lập nhiều chiến công. Nguyễn Kim thấy có tài, bèn gả con gái cho. Lại phong tước cho các tướng khác, sai họ đem quân chia đường tiến binh, thanh thế lẫy lừng. Đánh vào vùng Lôi Dương, đánh bại quân nhà Mạc. Năm 1542, vua Lê Trang Tông lấy Thuỵ quận công Hà Thọ Tường làm Ngự doanh đề thống ngự giá để mưu việc tiến đánh, sai Thái sư Hưng quốc công Nguyễn Kim thống đốc tướng sĩ các dinh đi trước, tiến đánh các nơi ở Thanh Hoa, Nghệ An. Tướng lĩnh cũ và hào kiệt hai trấn này phần nhiều theo về, thế quân càng thêm mạnh. Năm 1543, Mạc Đăng Dung, Mạc Đăng Doanh đều đã chết, Mạc Phúc Hải lên ngôi vua. Vua Lê Trang Tông thân chinh đánh Mạc Phúc Hải, lấy được Tây Đô, phá quân của Hoằng vương Mạc Chính Trung, Tổng trấn Thanh Hoa là Đại tướng quân Trung Hậu hầu dẫn quân đầu hàng. Bấy giờ, Thái sư Hưng Quốc công Nguyễn Kim còn ở Ai Lao chưa theo đi. Vua Lê Trang Tông sai Tuyên quận công Trịnh Công Năng mang chiếu thư về gọi. Nguyễn Kim bèn chỉnh đốn bộ ngũ lên đường ngay, bái yết vua ở hành tại sông Nghĩa Lộ. Lê Trang Tông gia thăng Kim làm thái tể, sai làm đô tướng, tiết chế tướng sĩ các dinh, chia đường cùng tiến, bình định vùng tây nam. Cái chết Nguyễn Kim bị Trung Hậu hầu Dương Chấp Nhất đầu độc vào năm Ất Tỵ (1545). Trung Hậu hầu vốn là hàng tướng nhà Mạc, xuất thân hoạn quan, làm quan đến chức Chưởng bộ, nghe tin vua Lê Trang Tông nổi quân, liền dùng kế trá hàng, muốn hại vua Lê Trang Tông. Việc không thành, Trung Hậu hầu mời Thái tể Nguyễn Kim đến dinh, bỏ ngầm thuốc độc trong quả dưa dâng lên trước mâm cỗ. Nguyễn Kim tin thật, ăn dưa, bị trúng độc, đến khi về thấy trong người khó chịu rồi mất. Hôm đó là ngày 20 tháng 5 năm Ất Tỵ (1545), niên hiệu Nguyên Hòa thứ 14. Trung Hậu hầu liền trốn đi, sau lại về với Mạc Phúc Hải. Vua Lê Trang Tông vô cùng thương tiếc, truy tặng là Chiêu Huân Tĩnh công, đặt tên thụy là Trung Hiến, sai quan đem về quê ở Tống Sơn mai táng. Nhận định Lê Quý Đôn nhận định trong sách Đại Việt thông sử: Gia đình Triệu Tổ Tĩnh Hoàng Đế có 3 vị phu nhân • Chánh thất phu nhân Nguyễn Thị Mai (阮氏梅) (không rõ năm sinh, năm mất) về sau được truy tôn là Triệu Tổ Tĩnh Hoàng hậu bà vốn có xuất thân cao quý, con ông Nguyễn Minh Biện (người quê ở Phạm Xá, Hải Dương) làm quan nhà Lê chức Đặc Tiến Phụ Quốc Thượng Tướng Quân Thư Vệ Sự. Bà sinh ra Nguyễn Hoàng và mất vào ngày 23 tháng Giêng âm lịch (không rõ năm) táng chung vào lăng Trường Nguyên ở núi Thiên Tôn, tỉnh Thanh Hóa. Năm Giáp Tý (1748) đời chúa Nguyễn Phúc Khoát truy tôn bà : Từ Tín Chiêu Đức Ý Phi đến năm Bính Dần (1806) Hoàng đế Gia Long chính thức truy tôn thụy hiệu đầy đủ là Từ Tín Chiêu Ý Hoằng Nhân Thục Tức Tĩnh Hoàng hậu (慈信昭懿弘仁淑德靖皇后), bà phối thờ với Triệu Tổ ở Triệu Miếu trong Hoàng thành. • Thứ phu nhân Đỗ Thị Tín (杜氏信) không rõ tiểu sử, Sinh ra Nguyễn Thị Ngọc Bảo. • Thứ phu nhân (Khuyết danh) không rõ tiểu sử, sinh ra Nguyễn Uông. Con cái • Nguyễn Uông (mất 1545), được vua Lê Trang Tông phong làm Lãng Quận công sau khi Nguyễn Kim bị hạ độc chết (nhưng Nguyễn Uông về sau bị em rể Trịnh Kiểm giết trừ hậu hoạ). • Nguyễn Hoàng (1525 - 1613) mẹ là chánh thất Nguyễn Thị Mai Triệu Tổ Tĩnh Hoàng hậu ông được vua Lê Trang Tông phong làm Hạ Khê hầu, sai đem quân đi đánh giặc. Về sau Nguyễn Hoàng trở thành người mở đầu cho sự nghiệp của các chúa Nguyễn ở miền nam Việt Nam. • Nguyễn Thị Ngọc Bảo (mất 1586) mẹ là Thứ phu nhân Đỗ Thị Tín, về sau lấy Trịnh Kiểm sinh ra Trịnh Tùng rồi chết cháy trong cơn hoả hoạn ở phủ đệ của Trịnh Tùng tại An Trường được phong thụy là Từ Nghi Vương Thái Phi (慈儀王太妃). Truy tặng Thời chúa Tiên Nguyễn Hoàng, tôn thụy hiệu là Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Vĩ Tích Chiêu Huân Tĩnh vương. Đến đời Chúa Vũ Nguyễn Phúc Khoát thì cải thụy thành Di Mưu Thùy Dụ Khâm Cung Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Vĩ Tích Chiêu Huân Tĩnh vương, và truy tôn phi là Từ Tín Chiêu Ý Đức phi. Đời vua Gia Long năm thứ 5 lại truy tôn là Di Mưu Thùy Dụ Khâm Cung Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Khải Vận Nhân Thánh Tĩnh Hoàng đế, miếu hiệu là Triệu Tổ, lăng gọi là Trường Nguyên, và truy tôn phi là Từ Tín Chiêu Ý Hoằng Nhân Thục Đức Tĩnh Hoàng hậu. Lăng Triệu Tường, tên lăng chính thức là Trường Nguyên. Lăng tọa lạc tại vùng núi Triệu Tường nên thường gọi là lăng Triệu Tường, nơi hợp táng Nguyễn Kim và vợ. Từ sau ngày nhà Nguyễn cáo chung (1945) rồi chiến tranh liên miên, khu vực lăng Trường Nguyên không được chăm sóc, dân Mường được dồn về đây lập nghiệp, thiếu ý thức tôn trọng di tích nên các kiến trúc xưa bị vi phạm hầu như không còn gì. Vào hai năm 2006–2007, dòng họ Nguyễn Phúc ở Huế đã đích thân về đây trùng tu khôi phục lại nơi thờ vọng, bia và nhà bia ở chân núi Triệu Tường. Khu vực lăng Triệu Tường mở ra một địa điểm du lịch sinh thái tâm linh. Không gian bên trong thành Triệu Tường chia làm 3 khu vực: Khu vực chính ở giữa xây Miếu Triệu Tường thờ Nguyễn Kim và Nguyễn Hoàng. Khu vực phía đông dựng miếu thờ Trừng Quốc công (Nguyễn Văn Lưu – thân phụ của Nguyễn Kim), khu vực phía tây dành làm nơi trú ngụ của các quan và gia đình hộ lăng và trại lính canh lăng.
Hội đồng Tương trợ Kinh tế (tiếng Nga: Совет экономической взаимопомощи Sovyet Ekonomičeskoy Vzaimopomošči, SEV (СЭВ, SEW); tiếng Anh: Council of Mutual Economic Assistance, COMECON hoặc CMEA), còn gọi là tổ chức hợp tác kinh tế của các quốc gia thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn 1949–1991. Các quốc gia thành viên Dưới đây là danh sách các quốc gia thành viên, và năm quốc gia đó gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế: Bulgaria – tháng 1/1949. Tiệp Khắc – tháng 1/1949. Hungary – tháng 1/1949. Ba Lan – tháng 1/1949. România – tháng 1/1949. Liên Xô – tháng 1/1949. Albania - tháng 2/1949. Cộng hòa Dân chủ Đức – 1950. Mông Cổ - 1962. Cuba – 1972. Việt Nam – 1978. Ngoài ra còn một số quan sát viên. Algerie. Lào. Triều Tiên. Ethiopia. SEV còn ký hiệp định với một số nước như: Nam Tư. México. Phần Lan. Nicaragoa. Trung Quốc. Iraq. Angola. Mozambique. Afghanistan. Nam Yemen. Lịch sử Nền tảng Comecon được thành lập vào năm 1949 bởi Liên Xô, Bulgaria, Tiệp Khắc, Hungary, Ba Lan và Romania. Các yếu tố chính trong sự hình thành của Comecon dường như là mong muốn hợp tác và củng cố mối quan hệ xã hội chủ nghĩa quốc tế của Joseph Stalin ở cấp độ kinh tế với các quốc gia kém hơn ở Trung Âu và hiện đang ngày càng bị cắt đứt khỏi thị trường truyền thống của họ và nhà cung cấp ở phần còn lại của châu Âu. Tiệp Khắc, Hungary và Ba Lan vẫn quan tâm đến viện trợ Marshall bất chấp các yêu cầu đối với 1 nền kinh tế thị trường và tiền tệ chuyển đổi. Những yêu cầu này, chắc chắn sẽ dẫn đến mối quan hệ kinh tế mạnh mẽ hơn đối với các thị trường châu Âu tự do hơn Liên Xô, hoàn toàn không thể chấp nhận được đối với Stalin, vào tháng 7/1947, đã ra lệnh cho các chính phủ cộng sản Đông Âu này rút khỏi Hội nghị Paris về phục hồi châu Âu Chương trình. Điều này đã được mô tả là "khoảnh khắc của sự thật" trong khi vực châu Âu sau Thế chiến II. Theo quan điểm của Liên Xô, "khối Anh-Mỹ" và "các nhà độc quyền Mỹ... có lợi ích không có gì giống với người dân châu Âu" đã từ chối sự hợp tác Đông-Tây trong khuôn khổ được Liên Hợp Quốc đồng ý, đó là, thông qua Ủy ban Kinh tế Châu Âu. Tuy nhiên, như mọi khi, động cơ chính xác của Stalin là "không thể hiểu được". Họ có thể đã "tiêu cực hơn tích cực", với Stalin "lo lắng hơn để giữ các quyền lực khác ra khỏi các quốc gia đệm lân cận so với việc tích hợp chúng." Hơn nữa, quan niệm đối xử không phân biệt đối xử của các đối tác thương mại của GATT không tương thích với các quan niệm về tình đoàn kết xã hội chủ nghĩa. Trong mọi trường hợp, các đề xuất cho 1 liên minh hải quan và hội nhập kinh tế của Trung và Đông Âu ít nhất là từ các cuộc cách mạng năm 1848 (mặc dù nhiều đề xuất trước đó đã có ý định ngăn chặn "mối đe dọa" của Nga và/hoặc cộng sản) và giao dịch giữa các bang vốn có trong các nền kinh tế kế hoạch tập trung đòi hỏi một số kiểu phối hợp: nếu không, 1 người bán độc quyền sẽ phải đối mặt với 1 người mua độc quyền, không có cơ cấu để định giá. Comecon được thành lập tại 1 hội nghị kinh tế ở Matxcơva ngày 5/1/1949, tại đó 6 nước thành viên sáng lập được đại diện; nền tảng của nó đã được công bố vào ngày 25/1; Albania đã tham gia 1 tháng sau đó và Đông Đức vào năm 1950. Nghiên cứu gần đây của nhà nghiên cứu Rumani Elena Dragomir cho thấy Rumani đóng 1 vai trò khá quan trọng trong việc tạo ra Comecon vào năm 1949. Dragomir lập luận rằng Rumani quan tâm đến việc tạo ra 1 hệ thống hợp tác của Khăn để cải thiện quan hệ thương mại với các nền dân chủ khác. đặc biệt với những người có khả năng xuất khẩu thiết bị công nghiệp và máy móc sang Romania. Theo Dragomir, vào tháng 12/1948, nhà lãnh đạo Rumani Gheorghe Gheorghiu-Dej đã gửi thư cho Stalin, đề xuất thành lập Comecon. Lúc đầu, kế hoạch dường như được di chuyển nhanh chóng. Sau khi gạt bỏ cách tiếp cận dựa trên công nghệ, giá cả của Nikolai Voznesensky hướng đi có vẻ là hướng tới sự phối hợp các kế hoạch kinh tế quốc gia, nhưng không có thẩm quyền cưỡng chế từ chính Comecon. Tất cả các quyết định sẽ yêu cầu phê chuẩn nhất trí, và thậm chí sau đó các chính phủ sẽ chuyển riêng chúng thành chính sách. Vào mùa hè năm 1950, có lẽ không hài lòng với những tác động có lợi cho chủ quyền cá nhân và tập thể hiệu quả của các quốc gia nhỏ hơn, Stalin " dường như đã khiến nhân viên của Comecon bất ngờ, " khiến hoạt động bị đình trệ gần như hoàn toàn, vì Liên Xô đã chuyển hướng trong nước sang tự trị và quốc tế theo hướng" 1 hệ thống đại sứ quán trong các vấn đề của các nước khác "chứ không phải bởi "phương tiện hiến pháp". Phạm vi của Comecon đã chính thức bị giới hạn vào tháng 11/1950 thành "những câu hỏi thực tế về tạo thuận lợi cho thương mại." 1 di sản quan trọng của giai đoạn hoạt động ngắn ngủi này là nguyên tắc Sofia, được thông qua tại phiên họp của hội đồng Comecon tháng 8/1949 tại Bulgaria. Điều này hoàn toàn làm suy yếu quyền sở hữu trí tuệ, làm cho các công nghệ của mỗi quốc gia có sẵn cho 1 khoản phí danh nghĩa mà ít hơn nhiều so với chi phí tài liệu. Điều này, một cách tự nhiên, mang lại lợi ích cho các nước Comecon ít công nghiệp hóa, và đặc biệt là Liên Xô tụt hậu về công nghệ, với chi phí của Đông Đức và Tiệp Khắc, và ở mức độ thấp hơn là Hungary và Ba Lan. (Nguyên tắc này sẽ suy yếu sau năm 1968, vì rõ ràng là nó không khuyến khích nghiên cứu mới và khi Liên Xô bắt đầu có nhiều công nghệ thị trường hơn.) Thời đại Khrushchev Sau cái chết của Stalin năm 1953, Comecon lại bắt đầu tìm thấy chỗ đứng của mình. Đầu những năm 1950, tất cả các quốc gia Comecon đã áp dụng các chính sách tương đối tự trị; bây giờ họ lại bắt đầu thảo luận về việc phát triển các chuyên ngành bổ sung, và vào năm 1956, 10 ủy ban thường trực đã phát sinh, nhằm tạo điều kiện cho sự phối hợp trong những vấn đề này. Liên Xô bắt đầu đánh đổi hàng hóa sản xuất của Comecon. Đã có nhiều cuộc thảo luận về việc điều phối kế hoạch 5 năm. Tuy nhiên, 1 lần nữa, rắc rối nảy sinh. Các cuộc biểu tình của Ba Lan và cuộc nổi dậy của Hungary đã dẫn đến những thay đổi lớn về kinh tế và xã hội, bao gồm việc từ bỏ năm 1957 trong kế hoạch 5 năm của Liên Xô 1956, khi chính phủ Comecon đấu tranh để thiết lập lại tính hợp pháp và hỗ trợ phổ biến của họ. Vài năm tiếp theo chứng kiến ​​1 loạt các bước nhỏ hướng tới hội nhập kinh tế và thương mại gia tăng, bao gồm cả việc giới thiệu "đồng rúp chuyển đổi", sửa đổi các nỗ lực chuyên môn hóa quốc gia, và 1 điều lệ năm 1959 được mô phỏng theo Hiệp ước Rome năm 1957. Tuy nhiên, 1 lần nữa, những nỗ lực trong kế hoạch trung tâm xuyên quốc gia đã thất bại. Vào tháng 12/1961, 1 phiên họp của hội đồng đã phê chuẩn các Nguyên tắc cơ bản của Phòng Lao động Xã hội Chủ nghĩa Quốc tế, trong đó nói về sự phối hợp chặt chẽ hơn của các kế hoạch và "tập trung sản xuất các sản phẩm tương tự ở một hoặc một số nước xã hội chủ nghĩa". Vào tháng 11/1962, Thủ tướng Liên Xô Nikita Khrushchev đã tiếp nối điều này với lời kêu gọi "một cơ quan lập kế hoạch chung." Điều này đã bị Tiệp Khắc, Hungary và Ba Lan phản đối, nhưng mạnh mẽ nhất là Rumani ngày càng mang tính dân tộc. rằng họ nên chuyên về nông nghiệp. Trung và Đông Âu, chỉ có Bulgaria vui vẻ đảm nhận vai trò được giao (cũng là nông nghiệp, nhưng trong trường hợp của Bulgaria, đây là hướng đi được chọn của đất nước ngay cả khi là 1 quốc gia độc lập trong những năm 1930). Về cơ bản, vào thời điểm Liên Xô đang kêu gọi hội nhập kinh tế chặt chẽ, họ không còn quyền áp đặt nó nữa. Mặc dù có sự hội nhập chậm chạp trong gia tăng, dầu mỏ, điện và các lĩnh vực khoa học / kỹ thuật khác và năm 1963 thành lập Ngân hàng Hợp tác Kinh tế Quốc tế, các nước Comecon đều tăng giao dịch với phương Tây tương đối nhiều hơn so với nhau. Thời đại Brezhnev Từ khi thành lập đến năm 1967, Comecon chỉ hoạt động trên cơ sở các thỏa thuận nhất trí. Ngày càng rõ ràng rằng kết quả thường là thất bại. Năm 1967, Comecon đã thông qua "nguyên tắc của bên quan tâm", theo đó bất kỳ quốc gia nào cũng có thể từ chối bất kỳ dự án nào họ chọn, vẫn cho phép các quốc gia thành viên khác sử dụng các cơ chế của Comecon để điều phối các hoạt động của họ. Về nguyên tắc, 1 quốc gia vẫn có thể phủ quyết, nhưng hy vọng là họ thường chọn chỉ bước sang 1 bên thay vì phủ quyết hoặc là người tham gia bất đắc dĩ. Điều này nhằm mục đích, ít nhất là 1 phần, trong việc cho phép Romania lập biểu đồ kinh tế của riêng mình mà không để Comecon hoàn toàn hoặc đưa nó vào tình trạng bế tắc. Cũng cho đến cuối những năm 1960, thuật ngữ chính thức cho các hoạt động của Comecon là hợp tác. Thuật ngữ hội nhập luôn luôn bị tránh vì ý nghĩa của sự thông đồng tư bản độc quyền. Tuy nhiên, sau phiên họp của hội đồng "đặc biệt" tháng 4/1969 và sự phát triển và thông qua (1971) của Chương trình toàn diện để mở rộng và cải thiện hợp tác và phát triển hơn nữa về hội nhập kinh tế xã hội chủ nghĩa của các nước thành viên Comecon, các hoạt động của Comecon đã chính thức gọi là hội nhập (cân bằng "sự khác biệt về sự khan hiếm tương đối của hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia thông qua việc loại bỏ một cách có chủ ý các rào cản đối với thương mại và các hình thức tương tác khác"). Mặc dù sự cân bằng như vậy không phải là điểm then chốt trong việc hình thành và thực thi các chính sách kinh tế của Comecon, hội nhập kinh tế được cải thiện luôn là mục tiêu của Comecon. Mặc dù hội nhập như vậy vẫn là một mục tiêu, và trong khi Bulgaria ngày càng hội nhập chặt chẽ hơn với Liên Xô, thì tiến bộ theo hướng này lại liên tục bị thất vọng bởi kế hoạch trung tâm quốc gia phổ biến ở tất cả các nước Comecon, bởi sự đa dạng ngày càng tăng của các thành viên (vào thời điểm này bao gồm Mông Cổ và sẽ sớm bao gồm Cuba) và bởi "sự bất cân xứng áp đảo" và dẫn đến sự mất lòng tin giữa nhiều quốc gia thành viên nhỏ và "siêu nhân" Liên Xô, vào năm 1983, "chiếm 88% lãnh thổ của Comecon và 60% dân số của nó. "Trong giai đoạn này, đã có một số nỗ lực để rời khỏi kế hoạch trung tâm, bằng cách thành lập các hiệp hội công nghiệp trung gian và kết hợp ở nhiều quốc gia khác nhau (thường được trao quyền để đàm phán các thỏa thuận quốc tế của riêng họ). Tuy nhiên, các nhóm này thường tỏ ra "khó sử dụng, bảo thủ, không thích rủi ro và quan liêu", tái tạo các vấn đề mà họ đã dự định giải quyết. 1 thành công kinh tế của những năm 1970 là sự phát triển của các mỏ dầu của Liên Xô. Trong khi không nghi ngờ gì ", Trung và Đông Âu phẫn nộ khi phải trả một số chi phí để phát triển nền kinh tế của người chồng và kẻ áp bức đáng ghét của họ," họ được hưởng lợi từ giá thấp cho nhiên liệu và các sản phẩm khoáng sản khác. Do đó, các nền kinh tế Comecon thường cho thấy sự tăng trưởng mạnh mẽ vào giữa những năm 1970. Họ hầu như không bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973. Một lợi ích kinh tế ngắn hạn khác trong giai đoạn này là mang lại cơ hội đầu tư và chuyển giao công nghệ từ phương Tây. Điều này cũng dẫn đến việc nhập khẩu các thái độ văn hóa phương Tây, đặc biệt là ở Trung Âu. Tuy nhiên, nhiều cam kết dựa trên công nghệ phương Tây đã không thành công (ví dụ, nhà máy máy kéo Ursus của Ba Lan đã không làm tốt với công nghệ được cấp phép từ Massey Ferguson); đầu tư khác bị lãng phí vào những thứ xa xỉ cho giới thượng lưu, và hầu hết các quốc gia Comecon đã mắc nợ phương Tây khi dòng vốn chết dần khi mờ dần vào cuối những năm 1970, và từ năm 1979 đến 1983, tất cả Comecon đều trải qua thời kỳ suy thoái (với các trường hợp ngoại lệ có thể có của Đông Đức và Bulgaria) họ không bao giờ phục hồi trong thời kỳ Cộng sản. Romania và Ba Lan đã trải qua sự suy giảm lớn trong mức sống. Hoạt động Sau khi thành lập hội đồng không ngừng đẩy mạnh quan hệ hợp tác kinh tế bằng cách phối hợp giữa các nước theo Xã hội chủ nghĩa. Trong các kế hoạch kinh tế dài hạn, như phân công sản xuất theo hướng chuyên ngành trong phạm vi các nước Xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh mua bán và trao đổi hàng hóa, phát triển công nghiệp nông nghiệp giao thông vận tải và hợp tác khoa học kỹ thuật. Tuy thế trong hoạt động của mình,Hội đồng Tương trợ Kinh tế cũng bộc lộ nhiều thiếu sót, sai lầm như khép kín cửa và không hòa nhập vào được nền kinh tế thế giới đang ngày càng quốc tế hoá cao độ, nặng về hàng hoá trao đổi mang tính bao cấp, nền kinh tế chỉ huy... Trước sự sụp đổ chế độ Xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và trước biến đổi về tình hình thế giới, sự tồn tại của Hội đồng Tương trợ Kinh tế không còn thích hợp nữa. Do đó hội nghị đại biểu các nước thành viên vào ngày 28 tháng 6 năm 1991 quyết định chấm dứt mọi hoạt động.
Ra có thể là: Ra, vị thần trong tín ngưỡng, thần thoại thời Ai Cập cổ đại Viết tắt cho nguyên tố hóa học Radi Ra: một trong 14 tỉnh của Cộng hoà Fiji RA: viết tắt trong thiên văn học để chỉ Right Ascension hay xích kinh
Rê có thể là: Thần Rê của Ai Cập cổ đại Nốt nhạc Rê, ký hiệu là D Động từ chỉ một công việc trong sản xuất lúa gạo nhằm tách thóc ra khỏi các loại mùn vẩn, thóc lép nhờ tác động của gió, thường bằng cách quạt: Rê thóc Động từ chỉ sự lôi kéo vật (nặng) đi chậm chạp: Rê cái tủ lên gác, rê lưới (đánh bắt thủy sản). Trong môn bóng đá, là một trong các động tác kỹ thuật: Rê (dắt) bóng.
Dịch hạch có thể là: Dịch hạch, một bệnh nhiễm khuẩn cấp tính và nghiêm trọng do Yersinia pestis gây ra. Tiểu thuyết Dịch hạch của Albert Camus với đề tài nói về bệnh dịch hạch. bg:Чума (пояснение) cy:Pla de:Plage en:Plague fr:Plague it:Plague nl:Plaag pl:Pla tr:Veba (anlam ayrımı)
Động cơ tua bin khí (tiếng Anh - Gas turbine engine) là loại động cơ nhiệt dạng rotor, trong đó chất giãn nở sinh công là không khí. Động cơ này gồm ba bộ phận chính, đó là máy nén khí (tiếng Anh: compressor); buồng đốt (loại hở); và turbine. Turbine quay máy nén thông qua trục động cơ. So với một loại động cơ nhiệt khác rất thông dụng là động cơ piston (điển hình là động cơ diesel hay động cơ xăng) thì động cơ tuốc bin khí có nhiều nhược điểm hơn như: chi phí chế tạo đắt do những đòi hỏi về vật liệu cũng như công nghệ chế tạo rất khắt khe và cần độ chính xác cao (chỉ có các nước phát triển có công nghệ tiên tiến như Mỹ, Nga, Đức, Anh, Pháp, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc mới chế tạo được loại động cơ này), có hiệu suất nhiệt động lực học thấp hơn (chỉ bằng khoảng 2/3 so với động cơ diesel) dẫn đến tính kinh tế kém hơn do tiêu tốn lượng nhiên liệu lớn, hiệu suất giảm sút nhanh khi chạy ở tốc độ thấp và tiêu hao một lượng nhiên liệu rất lơn. Nhưng ưu điểm nổi bật của động cơ tua bin khí là cho công suất cực mạnh với một khối lượng và kích thước nhỏ gọn: chỉ số công suất riêng (mã lực/kg) của loại động cơ này lớn gấp hàng chục lần so với động cơ piston, qua đó cho phép máy bay trang bị động cơ loại này bay nhanh hơn nhiều so với động cơ piston. Do vậy, loại động cơ này nhanh chóng có vị trí quan trọng trong ngành hàng không kể từ nửa sau của thế kỷ XX cho đến nay. Ngoài ra thì nó cũng được sử dụng cho mục đích sản xuất điện năng (các nhà máy điện khí sử dụng động cơ tua bin khí với nhiên liệu là khí hoá lỏng để quay máy phát điện và tạo ra điện năng). Nguyên tắc hoạt động Máy nén khí quay làm không khí từ cửa hút của máy nén được nén lại để tăng áp suất, trong quá trình đó không chỉ áp suất mà nhiệt độ cũng tăng (ngoài ý muốn). Đây là quá trình tăng nội năng của không khí trong máy nén. Sau đó không khí chảy qua buồng đốt. Tại đây, nhiên liệu được đưa vào để trộn và đốt một phần không khí, quá trình cháy là quá trình gia nhiệt đẳng áp trong đó không khí bị gia nhiệt tăng nhiệt độ và thể tích mà không tăng áp suất. Thể tích không khí được tăng lên rất nhiều và có nhiệt độ cao được thổi về phía tuốc bin với vận tốc rất cao. Tua bin là khối sinh công. Tại đây, không khí tiến hành giãn nở để sinh công: nội năng được biến đổi thành cơ năng; áp suất, nhiệt độ và vận tốc không khí giảm xuống, biến thành động năng (dưới dạng mô men xoắn) tại cánh tua bin, tạo ra chuyển động quay cho trục động cơ và quay máy nén cùng với quạt (với các động cơ turbofan, turbopropeller và turboshaft) để cho động cơ tiếp tục làm việc. Phần năng lượng còn lại của dòng khí nóng chuyển động với vận tốc cao tiếp tục sinh công có ích tuỳ thuộc theo thiết kế đầu ra của từng dạng động cơ: có thể phụt thẳng ra phía sau, thông qua phễu phụt, tạo ra phản lực (nếu là động cơ phản lực); hoặc quay tua bin tự do (tiếng Anh: 'Power Turbine', viết tắt 'PT') để sinh công năng hữu dụng đối với các loại động cơ tuốc bin khí khác ngoài động cơ phản lực. Các đặc điểm của động cơ tuốc bin khí: Động cơ dạng rotor: trong động cơ này, bộ phận sinh công chính là tua bin. Nó tạo ra momen xoắn bằng cách quay theo một chiều nhất định (hoặc có thể đảo chiều quay) và dẫn động trục động cơ (vừa đóng vai trò là trục đỡ cũng như trục dẫn động) được nối liền với nó (tương tự như động cơ điện), trong khi với động cơ piston thì khối công năng chính là piston. Nó chuyển động tịnh tiến bên trong xi lanh. Để có thể biến chuyển động tịnh tiến của piston bên trong xi lanh thành chuyển động quay thì động cơ piston cần phải có trục khuỷu. Trục khuỷu được nối với piston thông qua thanh truyền. Bên cạnh vai trò vừa là trục đỡ (nó đỡ piston thông qua thanh truyền và các chi tiết khác), vừa là trục dẫn động (tương tự như trục động cơ ở các động cơ tuốc bin khí) ra thì trục khuỷu cũng đóng một vai trò khác là trục biến đổi chuyển động. Trục khuỷu dẫn xuất momen xoắn tới các trục dẫn động khác thông qua các bộ truyền (như bộ truyền xích, bộ truyền bánh răng (hay còn được gọi là hộp số), bộ truyền đai,...). Điểm giống nhau là cả 2 loại động cơ này đều hoạt động nhờ sự giãn nở của dòng không khí sau khi được đốt nóng. Động cơ loại hở (tuyến khí hở): không khí từ lối vào của máy nén qua buồng đốt và ra khỏi tuốc bin đều chảy qua khoảng không gian hở không có vùng không gian bị đóng kín (ví dụ như ở động cơ piston: không khí sinh công trong xi lanh là vùng không gian kín ngăn cách với bên ngoài bằng các van xu páp). Vì tính chất hở như vậy đảm bảo cho quá trình cháy trong buồng đốt là quá trình cháy đẳng áp (áp suất giữ nguyên) nếu cháy trong không gian kín quá trình cháy sẽ làm tăng áp suất không khí, điều này làm cho áp suất trong buồng đốt cao hơn áp suất tại máy nén, không khí bị gia nhiệt có thể bị thổi ngược lại, gây hư hại máy nén. Động cơ quá trình liên tục: chu trình nhiệt động lực học của động cơ tuốc bin khí là chu trình Brayton. Về cơ bản, động cơ tuốc bin khí cũng có 4 giai đoạn (hay còn gọi là 4 kỳ) là nạp, nén, cháy-giãn nở sinh công và thải, tương tự động cơ piston. Nhưng điểm khác biệt ở chỗ: với các động cơ piston, thì tất cả 4 kỳ trên cùng diễn ra tại cùng một bộ phận (cụ thể hơn là tại xi lanh của động cơ) nhưng ở các thời điểm khác nhau, luân phiên theo thứ tự nhưng bị gián đoạn bởi piston cần phải có một khoảng thời gian để đi từ điểm chết dưới lên điểm chết trên (kỳ 2, nén) hay đi từ điểm chết trên xuống điểm chết dưới (nửa sau kỳ 3, giãn nở sinh công). Chính khoảng thời gian đó khiến cho quá trình 4 kỳ này diễn ra ở động cơ piston bị gián đoạn. Còn với các động cơ tuốc bin khí thì 4 kỳ này diễn ra liên tục nhưng tại các "khối" khác nhau: tại máy nén là giai đoạn nạp (kỳ 1) và nén không khí (kỳ 2); tại buồng đốt là giai đoạn đốt cháy nhiên liệu (nửa đầu kỳ 3); tại tua bin là giai đoạn giãn nở sinh công của dòng khí nóng (nửa cuối kỳ 3). Sau khi đi hết tuốc bin thì dòng khí này được thải ra bên ngoài (kỳ 4). Chính nhờ sự "liên tục" này mà công suất của các động cơ tua bin khí luôn vượt xa so với các loại động cơ nhiệt khác. Máy nén khí Máy nén khí là một trong các bộ phận chính của động cơ tua bin khí có chức năng làm tăng nội năng (áp suất) không khí tạo áp suất cho đỉnh trên (đỉnh 3 hình đồ thị P-v của chu trình Brayton) cho quá trình giãn nở sinh công (giai đoạn 3-4 trong đồ thị P-v Brayton) áp suất sau máy nén càng cao thì hiệu suất nhiệt động lực học càng lớn, do đó máy nén khí quyết định hiệu suất của động cơ. Tại các động cơ tuốc bin khí hiện đại đòi hỏi tỷ số nén (Áp suất sau máy nén/áp suất trước máy nén) phải đạt từ 10-20. Tất cả các loại máy nén khí trong động cơ tuốc bin khí đều sử dụng rãnh có thiết diện nở ra (diffuser) để biến động năng (vận tốc) của dòng không khí thành nội năng (áp suất). Máy nén khí của các động cơ tua bin khí gồm các loại sau: Máy nén ly tâm (tiếng Anh: Centrifugal compressor): không khí từ cửa hút, dưới tác dụng của lực ly tâm mà chạy theo các rãnh khí giữa các cánh ly tâm trên bề mặt máy nén chạy ra bán kính lớn hơn. Máy nén quay tạo cho không khí có vận tốc tuyệt đối ngày càng cao. Và khi chuyển động ly tâm theo chiều bán kính, các rãnh khí trên bề mặt của máy nén ly tâm có dạng thiết diện nở ra (diffuser) làm giảm vận tốc tương đối và đồng thời làm tăng áp suất của không khí sau khi nén (động năng giảm, nội năng tăng – định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng). Ưu điểm lớn nhất mà loại máy nén này mang lại là cấu tạo đơn giản và độ bền cao, giúp tiết kiệm được đáng kể chi phí chế tạo, bảo dưỡng. Tuy nhiên, với các động cơ cần công suất lớn thì máy nén ly tâm cần phải có kích thước (theo bán kính) rất lớn nên chúng không được phù hợp và được thay thế bằng máy nén dọc trục. Máy nén dọc trục (tiếng Anh: Axial-flow compressor), hay còn được gọi là máy nén hướng trục: đây là loại máy nén được sử dụng phổ biến nhất trong các động cơ tua bin khí hiện nay bởi hiệu suất và công suất mà loại máy nén này mang lại cho các động cơ tua bin khí vượt xa máy nén ly tâm. Đồng thời, nhờ có hình dạng thon dài (dạng điếu xì gà) nên chúng vẫn đảm bảo kích thước của các động cơ tua bin khí là thon gọn nhất. Trong loại máy nén này thì không khí bị các đĩa cánh quạt gia tăng vận tốc tuyệt đối và lùa không khí chảy dọc trục trong các rãnh khí giữa các cánh quạt. Tương tự như các rãnh khí trên bề mặt của máy nén ly tâm, thì các rãnh khí giữa các cánh quạt của máy nén dọc trục cũng có dạng thiết diện nở ra (diffuser), làm giảm vận tốc tương đối và đồng thời làm tăng áp suất của không khí sau khi nén. Không khí bị nén tại một tầng được dẫn hướng và nén tiếp trong các tầng tiếp theo. Các máy nén dọc trục đều cần phải có nhiều tầng cánh bởi hiệu suất cũng như công suất nén khí của một tầng cánh máy nén đơn lẻ rất kém, kém hơn nhiều so với máy nén ly tâm. Các động cơ tua bin khí hiện đại thường có từ 6 đến 20 tầng máy nén, giữa các tầng cánh máy nén quay là các tầng cánh dẫn hướng trung gian được gắn cố định vào stator. Máy nén ly tâm kết hợp máy nén dọc trục: loại máy nén hỗn hợp này cho phép kết hợp ưu điểm của cả hai loại máy nén cơ bản trên. Loại này được sử dụng chủ yếu trong động cơ tua bin trục (Turboshaft) của máy bay trực thăng. Buồng đốt Buồng đốt là bộ phận sinh nhiệt chính của các động cơ tua bin khí. Ống lửa của chúng là loại ống lửa hở. Chúng thường có khoảng từ 7 đến 20 ống, được bố trí thành vòng tròn xung quanh trục động cơ, phía sau khối máy nén và phía trước khối tua bin. Mỗi ống lửa có một vòi phun nhiên liệu được đặt ở mặt phía trước. Các ống lửa thường có dạng hình côn, chúng được đặt so le gối đầu và được hàn với nhau. Tại các đường hàn đó có rất nhiều các lỗ nhỏ (đường kính lỗ 0,5-1mm): không khí của dòng thứ cấp chảy từ bên ngoài chảy qua các lỗ này sẽ tạo thành các lớp khí làm mát sát mặt ống lửa bên trong để bảo vệ ống lửa. Ngoài ra trên các đốt của ống lửa còn có các lỗ to để dòng không khí thứ cấp từ bên ngoài đi vào để làm chất giãn nở sinh công và để làm nguội dòng lửa nóng trước khi đi vào tuốc bin. Không khí từ máy nén gặp các ống lửa sẽ bị chia thành hai dòng khí dòng khí sơ cấp &ndash để đốt cháy nhiên liệu, dòng khí này chiếm khoảng 30% khối lượng khí và 70% còn lại là dòng khí thứ cấp để làm mát, bảo vệ ống lửa không bị quá nhiệt và làm chất giãn nở sinh công. Dòng khí sơ cấp đi thẳng vào ống lửa qua các khe xoáy tại mặt trước ống lửa sẽ tạo thành dòng xoáy trộn với sương nhiên liệu được phun ra từ vòi phun nhiên liệu và được đốt mồi bằng bugi (nến điện) lúc khởi động. Sau đó, quá trình cháy là liên tục và không cần đến nến điện nữa. Dòng khí thứ cấp chảy bao bọc bên ngoài ống lửa, một phần dòng khí này đi vào các lỗ nhỏ trên mối hàn tiếp giáp các đốt ống để đi vào bên trong ống lửa, tạo thành lớp khí làm mát trên mặt trong để bảo vệ ống lửa không bị hỏng do quá nhiệt. Phần còn lại đi vào các lỗ lớn trên các đốt ống để hòa vào dòng lửa phụt phần khí này để làm chất giãn nở sinh công và để giảm bớt nhiệt độ của dòng lửa phụt trước khi đi vào tuốc bin. Tại trung tâm, dòng lửa phụt có nhiệt độ lên tới khoảng 1500-1600 °C nhưng đến khi đi vào tuốc bin thì nhiệt độ chỉ còn lại khoảng từ 800-1000 °C Mặt sau của ống lửa để hở hướng thẳng vuông góc vào đĩa cánh tuốc bin. Cơ cấu buồng đốt hở cho phép quá trình cháy, gia nhiệt trong buồng đốt là quá trình đẳng áp: không khí tăng nhiệt độ lên rất cao, sinh thể tích rất lớn, sinh vận tốc phụt rất cao nhưng áp suất tại điểm vào và ra khỏi buồng đốt là như nhau (điểm 2 và điểm 3 trên đồ thị P-v của chu trình Brayton). Điều này cho phép luồng khí nóng trong buồng đốt chỉ phụt mạnh về khối tuốc bin mà không bị thổi ngược về khối máy nén. Tuabin Tuabin chính là khối sinh công của động cơ tuabin khí. Nó biến đổi nội năng của của dòng khí nóng có áp suất và vận tốc cao thành động năng (dưới dạng mô men xoắn). Dòng khí nóng giãn nở và sinh công tại cánh tuabin (các tài liệu kỹ thuật của phương Tây gọi là "cánh tua bin", còn các tài liệu kỹ thuật của Nga lại gọi là "lá tua bin"). Sở dĩ tua bin có thể làm được điều này bởi thiết diện rãnh khí giữa các cánh tuốc bin là dạng thiết diện hội tụ (converge), trong khi thiết diện rãnh khí giữa các cánh máy nén (với máy nén dọc trục) hay trên bề mặt máy nén (máy nén ly tâm) là dạng thiết diện nở ra (diffuser). Dạng thiết diện này làm cho vận tốc tương đối trong các rãnh khí giữa các cánh tua bin tăng lên và làm giảm áp suất cũng như nhiệt độ của dòng khí. Tua bin yêu cầu việc làm mát cần phải diễn ra liên tục (cả ở cánh và đĩa tuabin) trong suốt cả quá trình hoạt động chúng bởi vì chúng là bộ phận chịu nhiệt lớn nhất của cả động cơ. Nếu việc làm mát không diễn ra liên tục thì rất dễ dẫn đến việc chúng bị hỏng, hoặc thậm chí bị phá hủy hoàn toàn, dẫn đến tai nạn, do bị quá nhiệt. Chính vì lý do này mà các tua bin (chủ yếu là cánh tua bin) được chế tạo rỗng để cho phép dòng chất làm mát (có thể là chất lỏng hoặc chất khí, tuỳ thuộc vào khu vực hoạt động của động cơ) đi vào và làm mát chúng từ bên trong. Ngoài ra, tua bin cũng phải chịu ứng suất, áp suất rất lớn và quay với tốc độ rất cao trong môi trường có tính ăn mòn bởi nhiệt độ rất khủng khiếp. Tua bin được nối với máy nén khí và các phụ tải khác thông qua trục động cơ. Trong các động cơ máy bay, thường chỉ có các tuốc bin nối với máy nén khí mà không có tuốc bin tự do (không nối với máy nén), còn tại các động cơ với những công năng khác thường bố trí tuốc bin tự do để nâng cao hiệu suất động cơ nâng cao tính năng vận hành của động cơ. Hệ thống thấp áp – cao áp Về mặt hiệu suất, sẽ là tốt nhất nếu như với mỗi tầng máy nén khác nhau thì sẽ tương ứng với một tầng tuốc bin quay theo các vận tốc quay khác nhau (tầng máy nén phía ngoài quay chậm hơn, tầng máy nén phía trong quay nhanh hơn) nhưng như vậy sẽ rất phức tạp về mặt thiết kế cũng như chế tạo. Do đó, để đảm bảo hợp lý về chế tạo và hiệu suất, người ta đã chia khối máy nén thành hai khối nhỏ: máy nén thấp áp (các tầng phía trước) và máy nén cao áp (các tầng phía sau). Khối tuốc bin cũng được chia tương tự thành hai khối nhỏ: tuốc bin cao áp (các tầng phía trước) và tuốc bin thấp áp (các tầng phía sau). Tuốc bin thấp áp lai máy nén thấp áp, tuốc bin cao áp lai máy nén cao áp. Như vậy, hai khối máy nén - tuốc bin này quay theo các vận tốc góc khác nhau. Chúng là hai hệ trục đồng trục: trục cao áp bên ngoài và trục thấp áp bên trong. Phân loại Động cơ tuốc bin khí là động cơ có số lượng nhiều nhất và là động cơ chính của ngành hàng không (chúng được trang bị với số lượng áp đảo động cơ piston), ngoài ra nó còn được lắp cho các mục đích khác như cho các trạm phát điện tuốc bin khí hay cho các tàu chiến tốc độ cao, tàu hoả, thậm chí một số loại xe tăng (như xe tăng M1 Abrams của Mỹ). Động cơ hàng không Động cơ tuốc bin khí cho ngành hàng không vì tính năng khối lượng – kích thước có tầm quan trọng rất lớn nên đa số là loại động cơ có máy nén dọc trục và có hai khối cao áp, thấp áp. Đối với động cơ phản lực thì động cơ có thêm các bộ phận cực kỳ quan trọng là phễu phụt (propelling nozzle) và buồng đốt tăng lực. Động cơ tuốc bin cánh quạt Đây là loại động cơ tuốc bin khí kết hợp với cánh quạt quay ngoài tạo lực đẩy cho máy bay (tiếng Anh - Turbopropeller engine, viết tắt TurboProp; tiếng Nga - Турбовинтовый двигатель, viết tắt ТВД). Động cơ loại này có hiệu suất cao nhất nên tính kinh tế cũng là cao nhất trong các loại động cơ tuốc bin của hàng không, nhưng vì đặc điểm sử dụng cánh quạt quay ngoài nên loại động cơ này cho vận tốc thấp nhất. Do đó, loại động cơ này thường được trang bị trên các máy bay cỡ lớn cần các động cơ có công suất lớn cũng như tính kinh tế và độ ổn định cao, nhưng không cần vận tốc lớn của quân đội, điển hình như loại máy bay vận tải Lockheed C-130 Hercules (và biến thể gunship Lockheed AC-130 của nó) của Mỹ hoặc máy bay ném bom hạng nặng Tupolev Tu-95 của Liên Xô/Nga Cánh quạt được nối vào trục động cơ qua hộp số giảm tốc. Đặc điểm của loại động cơ này là tuốc bin của động cơ vừa lai máy nén vừa lai tải chính là cánh quạt nên phải thiết kế tuốc bin sao cho sử dụng được hết năng lượng của dòng khí nóng sau buồng đốt. Với loại động cơ này, dòng khí sau khi ra khỏi tuốc bin có vận tốc còn rất thấp, nhiệt độ, áp suất gần cân bằng với môi trường. Vì cánh quạt được nối với trục động cơ nên khi thay đổi tốc độ sẽ ảnh hưởng nhiều đến chế độ làm việc của toàn bộ động cơ nên tính linh hoạt của loại động cơ này không được tốt (hiệu suất giảm rất nhanh khi giảm công suất, tốc độ). Loại này cũng được trang bị cho trực thăng, mô men quay từ trục động cơ được truyền qua hộp số và chuyển hướng để quay cánh quạt nâng nằm ngang trên nóc chiếc trực thăng (tiếng Anh: Turboshaft). Điểm khác biệt giữa động cơ turboshaft và turbopropeller đó chính là động cơ turboshaft sử dụng kết hợp cả 2 loại máy nén là dọc trục và hướng tâm, trong khi động cơ turbopropeller chỉ sử dụng một trong hai loại máy nén trên (thường là máy nén dọc trục bởi kích thước nhỏ gọn và hiệu suất rất cao mà nó đem lại). Động cơ tuốc bin phản lực Động cơ tuốc bin phản lực (tiếng Anh - Turbojet engine, viết tắt TurboJet; tiếng Nga - Турбореактивный двигатель, viết tắt - ТРД), là động cơ tuốc bin khí dùng động năng của dòng khí nóng phụt thẳng về phía sau tạo phản lực đẩy máy bay về phía trước. Đây là loại động cơ trang bị chủ yếu cho các máy bay tiêm kích thuộc thế hệ thứ nhất và thế hệ thứ hai. Loại động cơ này cho vận tốc cao nhất trong số các loại động cơ tuốc bin của hàng không, điều này đặc biệt quan trọng với các máy bay tiêm kích, nhưng tính kinh tế của chúng lại thấp nhất bởi chúng tiêu tốn lượng nhiên liệu lớn nhất. Tuốc bin của loại động cơ này chỉ khai thác một phần năng lượng dòng khí nóng sau buồng đốt chỉ đủ để quay máy nén khí, phần năng lượng còn lại dùng để phụt thẳng vào môi trường tạo phản lực qua phễu phụt (chính vì vậy hiệu suất của loại động cơ này thấp). Các loại động cơ phản lực phải có thêm một thiết bị là "phễu phụt" (propelling nozzle) lắp phía sau tuốc bin để tăng tốc độ dòng khí phụt ra ngoài nhằm tạo ra phản lực đẩy lớn nhất. Nếu là động cơ cho máy bay dưới tốc độ âm thanh thì phễu phụt có hình hội tụ (converge) còn đối với máy bay siêu âm thì áp dụng phễu phụt siêu âm (hội tụ – nở rộng hay còn gọi là phễu phụt De Laval theo tên nhà kỹ thuật người Hà Lan). Động cơ tuốc bin phản lực có buồng đốt tăng lực Là một loại của động cơ tuốc bin phản lực dùng cho các máy bay chiến đấu cao tốc, nhất là các máy bay tiêm kích, chúng vốn rất cần sự phát triển tốc độ chiến đấu nhất thời thật cao. Về cấu tạo động cơ này rất giống các động cơ tuốc bin phản lực thông thường nhưng có thêm buồng đốt thứ cấp phía sau tuốc bin và phía trước phễu phụt. Buồng đốt này được gọi là buồng đốt tăng lực, hay còn có tên khác là "buồng đốt sau" (afterburner). Các máy bay trang bị động cơ này chỉ có máy bay tiêm kích. Chúng chỉ sử dụng buồng đốt tăng lực để tăng tốc độ trong thời gian ngắn (tính theo giây) như khi bổ nhào để tấn công mục tiêu mặt đất, tránh tên lửa hay máy bay địch hoặc khi cất cánh. Động cơ tuốc bin hai viền khí Có tài liệu tiếng Anh gọi loại này là turbofan. Đây là loại động cơ mà các cánh quạt tầng ngoài cùng của máy nén áp thấp có cấu tạo và kích thước đặc biệt để lùa và chia không khí ra thành hai dòng: một dòng chảy vào bên trong động cơ và dòng còn lại chảy vòng qua bên ngoài và song song với dòng không khí bên trong động cơ, tạo thành lực đẩy trực tiếp. Hai dòng khí này hòa vào nhau tại phễu phụt, chính vì vậy mà loại động cơ này được được gọi là động cơ hai viền khí (tiếng Anh: two-contour turbojet, tiếng Nga: двухконтурный турбо-двигатель). Đây là phương án trung gian giữa động cơ tuốc bin cánh quạt và động cơ tuốc bin phản lực. Đối với loại động cơ này có một chỉ số rất quan trọng đó là hệ số hai viền khí (tiếng Anh: Bypass ratio) m là tỷ lệ thể tích của khối khí chạy bên ngoài so với khối khí chạy bên trong động cơ, (đối với động tuốc bin phản lực thuần túy m = 0) chỉ số càng lớn thì động cơ có hiệu suất càng tốt và càng giống động cơ tuốc bin cánh quạt và vận tốc càng thấp, hệ số này lớn hơn 2 thì không thể phát triển được vận tốc siêu âm. Còn các động cơ siêu âm có hệ số m thấp hơn hoặc bằng 2. Động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt Có tài liệu tiếng Anh gọi loại động cơ này là động cơ turbofan nhưng có tài liệu lại gọi turbofan là động cơ hai viền khí nói chung. Trong trường hợp chung nhất, Động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt trong tiếng Anh - Turbopropeller jet, viết tắt PropJet hay TurboFan; tiếng Nga - Турбовентиляторный реактивный двигатель, viết tắt - ТВРД. Động cơ phản lực cánh quạt là một phiên bản nhánh của động cơ hai viền khí trong đó cánh quạt ngoài nằm hẳn ra ngoài được bao bằng vỏ capote ngoài, vỏ này ngắn nên hai dòng khí bên ngoài và bên trong động cơ không hòa vào nhau. Nhìn bên ngoài rất dễ nhận ra loại động cơ này vì vỏ capote ngoài này ngắn tạo thành 2 lớp vỏ giật cấp. Đây là động cơ có hệ số m cao thường từ 6-10 và nghiêng về tính chất động cơ cánh quạt. Loại động cơ này được trang bị rộng rãi trên hầu hết các máy bay hiện nay, từ các máy bay chở khách và vận tải dân dụng (Các máy bay hành khách dân dụng nổi tiếng của Boeing và Airbus đều trang bị loại động cơ này) cho đến các mẫu máy bay ném bom hạng nặng nhiều động cơ (như Boeing B-52 Stratofortress, Rockwell B1 Lancer và Nothrop Grumman B-2 Spirit của quân đội Mỹ hay Tupolev Tu-160 của Nga) và các dòng máy bay tiêm kích từ thế hệ thứ ba cho đến nay. Không chỉ các mẫu máy bay ném bom hạng nặng và máy bay tiêm kích mà các máy bay trinh sát (như Lockheed U-2) và máy bay vận tải Boeing C-17 Globemaster III) cũng sử dụng loại động cơ này. Lý do khiến cho các động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt được trang bị rộng rãi như vậy bởi vì chúng không chỉ có hiệu suất cao và công suất lớn, gần như không thua kém gì các động cơ tuốc bin phản lực thuần, mà các động cơ này còn có tính kinh tế tốt, chúng tiêu hao ít nhiên liệu hơn, cũng như việc bảo dưỡng chúng cũng không khác biệt quá nhiều so với các động cơ phản lực thuần. Động cơ cố định Ngoài ngành Hàng không, động cơ tuốc bin khí còn được trang bị cho một số mục đích khác. Ví dụ: cho hệ động lực của tàu biển cao tốc hoặc cho một số trạm phát điện giờ cao điểm. Vì động cơ tuốc bin khí có hiệu suất thấp hơn động cơ diesel nhưng có công suất rất cao nên người ta chỉ dùng loại động cơ này cho các hoạt động không kéo dài lâu: các trạm phát điện tuốc bin khí chỉ phát điện vào giờ cao điểm sử dụng điện (từ 18h đến 22h), khi yêu cầu lượng điện của các giờ này cao hơn mức trung bình vài lần nhưng thời gian không lâu. Các tàu cao tốc trang bị động cơ tuốc bin khí cũng chỉ dùng động cơ này hết công suất khi cần triển khai tốc độ tối đa trong thời gian ngắn. Vì được bố trí tại những vị trí không đòi hỏi cao về yêu cầu kích thước và khối lượng nên để tăng hiệu suất của cụm động cơ tuốc bin khí người ta còn kết hợp với các chu trình phụ như "tái tạo" (regeneration), làm lạnh khí nén (intercooling), tận dụng nhiệt khí thải. Các cụm động cơ này thường được trang bị máy nén khí ly tâm bởi hiệu suất cao nhưng cấu tạo lại đơn giản nên việc sửa chữa cũng tốn ít thời gian và chi phí hơn nhiều so với máy nén dọc trục. Và một đặc điểm rất nổi bật của động cơ tuốc bin khí ngoài ngành hàng không là nó có tuốc bin tự do (không nối với máy nén) để lai phụ tải chính. Đối với loại động cơ này các tuốc bin cao áp, thấp áp không sử dụng hết tiềm năng năng lượng của dòng khí nóng sau buồng đốt nó chỉ lấy đủ nhu cầu quay hai máy nén cao áp và thấp áp, còn phần năng lượng còn lại sẽ tiếp tục được giãn nở sinh công trong các tầng tuốc bin tự do để sinh công có ích cho phụ tải chính.
Năm 2046 (MMXLVI) là một năm thường bắt đầu bằng Thứ hai. Trong lịch Gregory, nó sẽ là năm thứ 2046 của Công nguyên hay của Anno Domini; năm thứ 46 của thiên niên kỷ 3 và của thế kỷ 21; và năm thứ bảy của thập niên 2040. Sinh Mất
Nhóm Ngân hàng Thế giới (tiếng Anh: World Bank Group, viết tắt WBG) là một tổ chức tài chính đa phương có mục đích trung tâm là thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội ở các nước đang phát triển bằng cách nâng cao năng suất lao động ở các nước này. Sơ lược Nhóm Ngân hàng Thế giới bao gồm năm tổ chức tài chính thành viên, đó là Ngân hàng Quốc tế Tái thiết và Phát triển, Hội Phát triển Quốc tế, Công ty Tài chính Quốc tế, Trung tâm Quốc tế Giải quyết Mâu thuẫn Đầu tư, và Cơ quan Đảm bảo Đa phương. Ngân hàng Quốc tế Tái thiết và Phát triển (IBRD): được chính thức thành lập ngày 27/12/1945 với trách nhiệm chính là cấp tài chính cho các nước Tây Âu để họ tái thiết kinh tế sau Chiến tranh thế giới II và sau này là cho phát triển kinh tế ở các nước nghèo. Sau khi các nước này khôi phục được nền kinh tế, IBRD cấp tài chính cho các nước đang phát triển không nghèo. Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA): được thành lập năm 1960 chuyên cấp tài chính cho các nước nghèo. Tổng công ty Tài chính Quốc tế (IFC): thành lập năm 1956 chuyên thúc đẩy đầu tư tư nhân ở các nước nghèo. Trung tâm Quốc tế Giải quyết Mâu thuẫn Đầu tư (ICSID): thành lập năm 1966 như một diễn đàn phân xử hoặc trung gian hòa giải các mâu thuẫn giữa nhà đầu tư nước ngoài với nước nhận đầu tư. Cơ quan Bảo lãnh Đầu tư Đa phương (MIGA): thành lập năm 1988 nhằm thúc đẩy FDI vào các nước đang phát triển. Thuật ngữ "Ngân hàng Thế giới" (WB) thường đề cập đến IBRD và IDA. Chức năng, nhiệm vụ Chức năng của WB được phân công cho các tổ chức thành viên thực hiện. IBRD và IDA đi vay (phát hành trái phiếu) và cho các nước thành viên vay lại (hiện WB có 188 nước thành viên). Không phải nước thành viên nào cũng được vay WB. Cá nhân và công ty không được WB cho vay. Chính phủ của những nước đang phát triển nhưng có thu nhập quốc dân trên đầu người trên 1305 USD/năm được vay của IBRD. Các khoản vay này có lãi suất chỉ cao hơn lãi suất mà WB đã đi vay một chút. Chính phủ của các nước nghèo, có thu nhập quốc dân trên đầu người dưới 1305 USD/năm (trong thực tế là dưới 805USD/năm) được vay của IDA. Các khoản vay sẽ không đòi lãi suất và có thời hạn lên tới 35-40 năm. Trong hai thập kỳ đầu kể từ khi được thành lập, IBRD đã dành hơn 2/3 tổng giá trị các khoản cho vay của mình cho các dự án phát triển năng lượng và giao thông vận tải. Trong hai thập niên 1960 và 1970, các dự án phát triển cơ sở hạ tầng vẫn quan trọng nhất, song hoạt động của IBRD và IDA đã rất đa dạng, từ hỗ trợ giáo dục, y tế, dinh dưỡng, kế hoạch hóa gia đình, đến hỗ trợ phát triển nông thôn và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ. Các hoạt động của IBRD và IDA đều trực tiếp liên quan đến giúp đỡ người nghèo và mang hình thức hỗ trợ tài chính lẫn kỹ thuật. Từ thập niên 1980, ngoài đầu tư vào vốn vật chất và vốn con người, IBRD và IDA bắt đầu cho vay để cải cách cơ cấu kinh tế và điều chỉnh chính sách ở các nước đang phát triển. Phản ứng nhạy bén và chú trọng xóa nghèo là các mục tiêu hiện này của IBRD và IDA. IFC cho các dự án tư nhân ở các nước đang phát triển vay theo giá thị trường nhưng là vay dài hạn hoặc cấp vốn cho họ. Sự tham gia của IFC như một sự bảo đảm đối với các nhà đầu tư khác quan tâm tới dự án và khuyến khích họ đầu tư vào dự án. MIGA cung cấp những bảo đảm trước các rủi ro chính trị (rủi ro phi thương mại) để các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư trực tiếp vào các nước đang phát triển. Tổ chức bộ máy WB có hơn 40 văn phòng đặt tại các nước. WB có quan hệ chặt chẽ với IMF. Các Tổng giám đốc Như một thông lệ, các tổng giám đốc của WB đều do đương kim tổng thống Hoa Kỳ chỉ định, và sau đó thường được Đại hội đồng bầu chọn và không có sự phản đối. Điều này ngược với các giám đốc của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) luôn là người châu Âu. Các Nhà kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới Nhà kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới (tên gọi đầy đủ của chức vụ này là "Phó tổng giám đốc phụ trách phát triển và kinh tế học, nhà kinh tế trưởng") là cấp bậc quản lý cao nhất về chuyên môn trong Ngân hàng Thế giới. Người mang chức vụ này là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất tới kinh tế thế giới, và thường là những học giả kinh tế xuất chúng mới được mời giữ chức vụ này. Chức vụ này bắt đầu có từ năm 1982. Anne Krueger - giai đoạn 1982-1986 Stanley Fischer - 1988-1990 Lawrence Summers - 1991-1993 Joseph E. Stiglitz - 1997–2000 Nicholas Stern - 2000–2003 François Bourguignon - 2003–nay Chú thích
Tập hợp được sắp được dùng với nhiều nghĩa khác nhau trong lý thuyết sắp Một tập hợp X được trang bị một quan hệ nhị phân R thỏa mãn tính chất phản xạ (với mọi a thuộc tập này ta luôn có aRa), bất đối xứng (nếu aRb và bRa thì a=b) và tính chất bắc cầu (nếu aRb và bRc thì aRc) thì tập này được gọi là tập được sắp một phần (Partially ordered set). Nếu quan hệ R ngoài các tính chất nói trên còn thỏa thêm tính chất toàn phần (với mọi a và b trong tập, ta có aRb hoặc bRa) thì tập đó được gọi là tập được sắp toàn phần (Total order). Trong một số tài liệu, tính chất toàn phần còn được gọi là tính chất so sánh được. Một tập được sắp toàn phần sẽ được gọi là tập sắp tốt (Well-order) khi và chỉ khi mọi tập con không rỗng của nó có phần tử nhỏ nhất.
Đội tuyển bóng đá quốc gia Đức () là đội tuyển bóng đá nam quốc gia đại diện Đức trong các giải đấu môn thể thao bóng đá nam quốc tế kể từ năm 1908. Hiệp hội bóng đá Đức (Deutscher Fußball-Bund, thành lập năm 1900) là cấp quản lý của đội tuyển. Kể từ khi DFB được tái lập năm 1949, đội tuyển đại diện cho Cộng hòa Liên bang Đức. Sau thời kỳ Đồng Minh chiếm đóng Đức, đã từng có hai đội tuyển quốc gia khác của Đức được FIFA công nhận: Đội tuyển Saarland đại diện cho Saarland (1950–1956) và Đội tuyển Đông Đức đại diện cho Cộng hòa Dân chủ Đức (1952–1990). Thành tích của cả hai đều được ghép vào lịch sử đội tuyển quốc gia Đức hiện tại. Tên gọi chính thức và mã hiệu "Germany FR (FRG)" được viết gọn thành "Germany (GER)" sau khi 2 miền nước Đức tái thống nhất năm 1990. Đức là một trong những đội tuyển thành công nhất trên đấu trường quốc tế với khối thành tích: 4 lần vô địch World Cup (1954, 1974, 1990 và 2014), 1 lần vô địch Cúp Liên đoàn các châu lục 2017 và 3 lần vô địch Euro (1972, 1980 và 1996). Họ cũng từng 3 lần giành vị trí á quân ở Euro và 4 lần á quân ở World Cup cũng như 4 lần ở vị trí thứ ba. Còn ở đấu trường Olympic, đội tuyển Đông Đức cũ từng giành huy chương vàng vào năm 1976 trong khi đội tuyển Tây Đức (tiền thân của đội tuyển Đức ngày nay) giành một huy chương bạc và ba huy chương đồng. Sau khi bế mạc World Cup 2014, đội tuyển Đức giành hệ số Elo cao nhất trong lịch sử của tất cả các đội tuyển quốc gia, với kỷ lục 2200 điểm. Sau khi giành Cúp Liên đoàn các châu lục 2017, đội trở thành một trong bốn - cùng với Brazil, Argentina và Pháp - giành được 3 danh hiệu bóng đá nam quan trọng nhất mà FIFA công nhận: World Cup, Confederations Cup và Olympic. Các đội này cũng đều đã giành chức vô địch lục địa (Euro (Châu Âu)/Copa América (Nam Mỹ)) tương ứng với họ. Đội tuyển Đức cũng là đội tuyển thuộc Liên đoàn bóng đá châu Âu đầu tiên và duy nhất từ trước đến nay giành chức vô địch World Cup trên đất Nam Mỹ. Đức cũng là đội tuyển châu Âu duy nhất đã tham dự mọi kỳ World Cup từ trước tới nay khi họ chủ động tham gia và được cho phép với chỉ một lần bị FIFA cấm tham dự năm 1950 do ảnh hưởng chính trị từ Chiến tranh thế giới lần thứ hai rồi liên tục dự World Cup tới nay. Đảm nhận công tác dẫn dắt và huấn luyện đội tuyển từ ngày 1 tháng 8 năm 2021 là Hans-Dieter Flick. Lịch sử Những năm đầu (1899–1942) Giữa các năm 1899 và 1901, trước khi hình thành đội tuyển quốc gia, họ đã có 5 trận đấu quốc tế không chính thức giữa các đội bóng khác nhau của Đức và Anh, mà kết quả là đa phần đội Đức bị đánh bại với tỉ số đậm. 8 năm sau khi thành lập Hiệp hội bóng đá Đức (DFB), trận đấu chính thức đầu tiên của đội tuyển quốc gia Đức diễn ra ngày 5 tháng 4 năm 1908 gặp Thụy Sĩ tại Basel, với kết quả Thụy Sĩ thắng 5–3. Có một điều trùng hợp là, trận bóng của đội Đức đầu tiên sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất năm 1920, trận đấu đầu tiên sau chiến tranh thế giới lần thứ hai năm 1950 khi Đức vẫn còn bị cấm tham dự các trận bóng quốc tế, và trận bóng đầu tiên năm 1990 với các cầu thủ Đông Đức, tất cả đều là các trận đá với Thụy Sĩ. Chức vô địch thế giới lần đầu tiên của Đức cũng là trên đất Thụy Sĩ. Trong thời gian đầu các cầu thủ đều do DFB lựa chọn, và không có một huấn luyện viên chính thức nào. Huấn luyện viên đầu tiên của đội tuyển Đức là Otto Nerz, một giáo viên thể thao đến từ Mannheim, người lãnh đạo đội bóng từ 1926 tới 1936. Hiệp hội bóng đá Đức đã không thể đến được Uruguay để tham dự World Cup đầu tiên vào năm 1930 vì ảnh hưởng của cuộc Đại Suy thoái, nhưng đội tuyển đã giành được vị trí thứ ba tại World Cup 1934 trong lần đầu tiên họ tham dự. Sau khi có màn trình diễn nghèo nàn tại thế vận hội Mùa hè 1936 ở Berlin, Sepp Herberger được cử làm huấn luyện viên. Năm 1937 ông cùng với đội bóng nhanh chóng được đặt biệt danh là Breslau Elf (mười một cầu thủ Breslau) khi họ có trận thắng 8–0 trước Đan Mạch tại thành phố mà thời đó thuộc Đức là Breslau, Hạt Silesia (nay là Wrocław, Ba Lan). Sau khi Áo trở thành một phần của Đức trong lần Anschluss (sáp nhập) tháng 3 năm 1938, lúc đó đội tuyển Áo – một trong những đội bóng mạnh của châu Âu vào thời điểm đó vì cách thức hoạt động chuyên nghiệp – đã bị giải thể mặc dù đã vượt qua vòng loại của World Cup 1938. Do yêu cầu của các chính trị gia Đức Quốc xã, năm hay sáu cầu thủ người Áo, đến từ các câu lạc bộ Rapid Wien, Austria Wien, First Wien FC, đã được gọi vào đội tuyển Đức với mục đích thống nhất quốc gia trên mọi phương diện bởi các lý do chính trị. Trong giải vô địch thế giới 1938 khởi tranh từ 4 tháng 6, tuyển Đức thống nhất này chỉ có một trận hòa 1–1 với Thụy Sĩ, và thua 2–4 trước chủ nhà với nhiều khán giả tại Paris. Kết quả bị loại ngay ở vòng đầu tiên là một trong những kết quả tồi tệ nhất của đội tuyển Đức trong lịch sử tham dự World Cup (ngoại trừ các năm 1930 và 1950 khi họ không được phép tham gia). Trong Thế chiến lần hai, đội bóng đã có 30 trận thi đấu quốc tế từ tháng 9 năm 1939 đến tháng 11 năm 1942, khi đội tuyển bị ngừng hoạt động do đa số các cầu thủ bị buộc gia nhập quân đội. Nhiều cầu thủ quốc gia đã được quy tụ về với huấn luyện viên Herberger biệt danh Rote Jäger với nhiệm vụ là các nhân viên không quân nhằm bảo vệ các cầu thủ tránh khỏi lửa đạn chiến tranh. Thời kỳ chia cắt (1945–1990) Sau chiến tranh thế giới lần hai, Đức bị cấm tham dự các sự kiện thể thao quốc tế đến năm 1950 và DFB không là thành viên đầy đủ của FIFA, và không một trong 2 đội bóng Đức nào —Tây Đức và Đông Đức—được tham dự World Cup 1950 khi 2 chính quyền của đất nước bị FIFA cấm vì trừng phạt chiến tranh. Đức còn có đội tuyển Saarland khi xứ này bị tách khỏi Đức dưới sự bảo hộ của Pháp (1946-1956) trước khi gia nhập Tây Đức. Nhà nước Cộng hòa Liên bang Đức hay còn gọi là Tây Đức, tiếp tục duy trì sự hoạt động của DFB (Liên đoàn bóng đá của nước Tây Đức). Khi FIFA và UEFA công nhận, DFB đã bắt đầu và tiếp tục những thành tích của đội tuyển có từ trước thời gian chiến tranh. Đội tuyển Thụy Sĩ một lần nữa là đội đầu tiên gặp Đức vào năm 1950. Và Tây Đức đã vượt qua vòng loại và được tham dự World Cup 1954. Năm 1949, những người cộng sản đã thành lập Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức). Năm 1952, Hiệp hội bóng đá Cộng hòa Dân chủ Đức (Deutscher Fußball-Verband der DDR-DFV) và đội bóng quốc gia đầu tiên được thành lập. Họ là đội duy nhất đánh bại đội vô địch Tây Đức tại FIFA World Cup 1974 trong trận bóng duy nhất giữa 2 đội cùng 1 nước/1 dân tộc và trong lịch sử Đức thời Chiến tranh Lạnh. Đông Đức đã giành huy chương vàng môn bóng đá nam ở thế vận hội Mùa hè 1976. Khi tái thống nhất nước Đức bởi 2 nhà nước tại 2 miền 3/10/1990, DFB sáp nhập Liên đoàn bóng đá Đông Đức, 1990 là năm cuối mà Đức chơi bóng với tư cách quốc gia dân tộc/thực thể không thống nhất và bị chia cắt. Vô địch World Cup 1954 Đội tuyển Tây Đức với người đội trưởng Fritz Walter, gặp các đội Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Tư và Áo. Khi gặp Hungary ở vòng bảng, Đức bị thua 3–8. Tây Đức gặp lại tuyển Hungary với "đầu tàu" là huyền thoại Ferenc Puskás trong trận chung kết với sức mạnh của đội Hungary lúc đó đã không bị đánh bại trong 32 trận liên tiếp. Với diễn biến kịch tính, đội Tây Đức đã giành chiến thắng 3–2 khi Helmut Rahn ghi bàn thắng quan trọng ở phút 84. Chiến thắng này còn được gọi là "Sự kỳ diệu ở Bern" (Das Wunder von Bern). Những kỷ niệm chiến bại: bàn thắng trên sân Wembley và trận bóng thế kỷ Sau khi xếp thứ tư ở World Cup 1958 và chỉ vào tới vòng tứ kết tại World Cup 1962, hiệp hội DFB đã có sự thay đổi. Họ đưa ra và khuyến khích cách làm bóng đá chuyên nghiệp, những câu lạc bộ chơi tốt nhất được quy tụ trong giải đấu mới là Bundesliga. Năm 1964, Helmut Schön trở thành huấn luyện viên trưởng thay cho Herberger khi ông đã tại vị trong 28 năm. Ở World Cup 1966, Tây Đức vào trận chung kết gặp chủ nhà Anh sau khi đánh bại Liên Xô ở bán kết. Trong thời gian đá bù giờ, bàn thắng đầu tiên của Geoff Hurst trở thành một trong những bàn thắng gây tranh cãi nhất trong lịch sử World Cup: trọng tài biên đã căng cờ báo hiệu bóng đã lăn qua vạch vôi khung thành và bàn thắng được tính, sau khi bóng nẩy từ xà ngang. Nhưng các thước phim ghi lại cho thấy dường như bóng chưa lăn qua vạch khung thành. Hurst sau đó ghi thêm một bàn thắng nữa giúp đội tuyển Anh giành chiến thắng chung cuộc 4–2. Đội tuyển Tây Đức gặp lại tuyển Anh ở tứ kết tại World Cup 1970 và đã trả được món nợ khi chiến thắng 3–2, trước khi họ bị thua 4–3 trong thời gian hiệp phụ của trận bán kết gặp Italia. Trận này có tới 5 bàn thắng trong hiệp phụ và là một trong những trận bóng kịch tính nhất trong lịch sử giải vô địch bóng đá thế giới, và thường được gọi là "Trận bóng thế kỷ" đối với cả Đức và Ý. Tây Đức cuối cùng giành được vị trí thứ ba của giải sau khi chiến thắng Uruguay 1–0. Gerd Müller với 10 bàn thắng trở thành vua phá lưới của giải. Vô địch World Cup 1974 trên sân nhà Năm 1971, Franz Beckenbauer trở thành đội trưởng của đội tuyển quốc gia. Ông đã dẫn dắt đội tuyển đoạt chức vô địch châu Âu Euro 1972, khi đánh bại Liên Xô 3–0 trong trận chung kết. Là chủ nhà của World Cup 1974, họ đã giành chức vô địch lần thứ hai khi thắng Hà Lan 2–1 trong trận chung kết ở thành phố Munich. Có hai trận đấu đáng nhớ của tuyển Tây Đức tại giải năm 1974. Ở vòng đấu bảng thứ nhất họ gặp tuyển Đông Đức và để thua 0-1. Tây Đức vào trận chung kết gặp đội Hà Lan có lối chơi "Bóng đá tổng lực" khi đó của đội trưởng Johan Cruijff. Hà Lan dẫn trước từ một quả phạt đền. Tuy nhiên, Tây Đức đã dồn lên tấn công và nhận được một quả phạt đền với bàn thắng của Paul Breitner trước khi Gerd Müller ghi bàn ấn định chiến thắng. Cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980 Tây Đức đã không bảo vệ được các chức vô địch của họ ở hai sự kiện thể thao lớn tiếp theo. Họ thua đội tuyển Tiệp Khắc trong trận chung kết Euro 1976 ở loạt sút luân lưu với kết quả chung cuộc 5–3. Tại World Cup 1978, Đức bị loại ở vòng đấu loại trực tiếp sau khi thua đội tuyển Áo 2–3. Sau đó Helmut Schön nghỉ hưu và người trợ lý của ông, Jupp Derwall, lên thay thế. Giải đấu đầu tiên của Tây Đức dưới quyền chỉ đạo của Derwall đã thành công, khi họ đoạt chức vô địch châu Âu lần thứ hai tại Euro 1980 khi đánh bại Bỉ 2–1 ở trận chung kết. Tây Đức vào tới trận chung kết của World Cup 1982 với nhiều trận đấu khá vất vả trước đó. Họ để thua 1–2 trước Algeria trong trận đầu ra quân, nhưng đã vào được vòng đấu loại trực tiếp bằng chiến thắng gây tranh cãi 1–0 trước tuyển Áo. Ở bán kết họ gặp Pháp, với kết quả hòa 3–3 trong 120 phút thi đấu và chiến thắng 5–4 ở loạt đá luân lưu. Tại trận chung kết, Tây Đức thua 1–3 trước đội Ý. Trong giai đoạn này, cầu thủ Gerd Müller ghi được tổng cộng 14 bàn thắng ở hai kỳ World Cup (1970 và 1974). Ông có 10 bàn thắng ở giải năm 1970 và là vua phá lưới của giải. (Kỷ lục tổng số 14 bàn thắng của Müller tại World Cup bị Ronaldo phá vỡ vào năm 2006 và sau đó đến lượt Miroslav Klose phá vỡ vào năm 2014 với 16 bàn thắng). Triều đại Beckenbauer Sau khi Tây Đức bị loại ở vòng bảng của Euro 1984, Franz Beckenbauer trở lại làm huấn luyện viên đội tuyển quốc gia thay thế cho Derwall. Tại World Cup 1986, Tây Đức đứng ở vị trí á quân trong lần thứ hai liên tiếp sau khi đánh bại Pháp 2–0 ở bán kết, nhưng thua Argentina của Diego Maradona ở trận chung kết với tỷ số 2–3. Tại Euro 1988, Tây Đức đứng đầu bảng đấu khi đánh bại Tây Ban Nha (lần cuối cùng Đức đánh bại những người Tây Ban Nha ở cấp độ đội tuyển quốc gia trong một giải đấu bóng đá chính thức cho đến nay) và Đan Mạch cũng như hòa Ý nhưng trên sân nhà thì niềm hi vọng của đội Tây Đức khi vô địch đã một lần nữa bị tan vỡ khi họ để thua Hà Lan 1-2 ở bán kết. Ở giải vô địch bóng đá thế giới 1990, Tây Đức lần thứ ba vô địch World Cup, và cũng lập lên kỷ lục với ba lần liên tiếp họ vào chung kết. Với Lothar Matthäus là đội trưởng, họ đánh bại Nam Tư (4–1), Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất (5–1), Hà Lan (2–1), Tiệp Khắc (1–0), và Anh (1–1, 4–3 sút luân lưu) trên con đường vào trận chung kết gặp Argentina. Tây Đức thắng 1–0, với bàn thắng duy nhất ở phút 85 lập bởi Andreas Brehme nhờ quả phạt đền. Beckenbauer, người giành chức vô địch World Cup 1974 với tư cách là đội trưởng, do đó trở thành cầu thủ thứ 2 vô địch World Cup với vai trò là đội trưởng và huấn luyện viên. Tham dự Thế vận hội Trước năm 1984, môn bóng đá nam ở Olympic dù lớn nhưng đã bị coi là sự kiện nghiệp dư, tức đã có nghĩa chỉ các cầu thủ nghiệp dư mới được phép tham gia. Vì điều này nên Tây Đức chưa từng đạt được thành công lớn tương tự như ở giải vô địch bóng đá thế giới, ngay cả khi FIFA cho phép các cầu thủ chuyên nghiệp được dự giải (riêng đối với châu Âu và Nam Mỹ thì lại phải dùng đội hình chưa từng dự World Cup) ở tại Thế vận hội Mùa hè 1988 ở Seoul thì đội tuyển bóng đá quốc gia Đức cũng mới chỉ đạt được huy chương đồng khi thắng Ý 3-0 ở trận tranh hạng 3. Tây Đức cũng từng lọt vào vòng 2 ở cả Thế vận hội Mùa hè 1972 và Thế vận hội Mùa hè 1984. Mặt khác, đội tuyển Đông Đức có kết quả tốt hơn một chút, khi họ đã từng giành được một huy chương vàng, một huy chương bạc và hai huy chương đồng (tính cả thời điểm đội Đông Đức và Tây Đức thống nhất làm một). Từ năm 1992 thì giải giành cho lứa U23 nên không được tính ở đây. Khi nước Đức được tái thống nhất hòa bình làm 1 thì danh hiệu vô địch kỳ Olympic 1976 của cầu thủ tuyển Đông Đức cũ là thuộc về đội tuyển bóng đá quốc gia Đức. Thời kỳ Berti Vogts (1990–1998) Tháng 2 năm 1990, vài tháng sau khi Bức tường Berlin sụp đổ trong cuộc Cách mạng hòa bình 1989-1990, hai đội tuyển Đông Đức và Tây Đức được sáp nhập lại và đội tuyển Đức tham gia vòng loại Giải vô địch bóng đá châu Âu 1992. Sau khi Tây Đức giành vô địch World Cup 1990 ở tại Ý, trợ lý huấn luyện viên Berti Vogts lên thay thế huấn luyện viên về hưu Beckenbauer. Các thành viên của Hiệp hội bóng đá Đông Đức Deutscher Fußball-Verband cũ chấp nhận trở về gia nhập DFB trong tháng 11, trong khi mùa giải 1990–91 vẫn tiếp tục diễn ra với sự tái cấu trúc giải đấu được tiến hành trong năm 1991–92. Trận bóng đầu tiên của đội Đức thống nhất là với đội tuyển Thụy Sĩ diễn ra ngày 19 tháng 12. Tại Euro 1992, Đức vào tới trận chung kết nhưng để thua 0–2 trước Đan Mạch. Ở World Cup 1994, họ bị loại ở tứ kết trong trận thua 1–2 trước Bulgaria. Đội Đức sau khi đất nước thống nhất giành được danh hiệu lớn đầu tiên khi họ vô địch Euro 1996 ở Anh, trở thành đội bóng châu Âu đầu tiên vô địch lần thứ ba. Họ thắng đội chủ nhà Anh ở bán kết, và thắng đội Séc 2–1 nhờ luật bàn thắng vàng trong thời gian hiệp phụ ở trận chung kết. Tuy nhiên tại World Cup 1998, Đức bị loại ở tứ kết trong trận thua 0–3 trước Croatia, tất cả bàn thắng đều được ghi sau khi hậu vệ Christian Wörns nhận thẻ đỏ trực tiếp. Vogts từ chức sau trận đấu và Erich Ribbeck thay thế vị trí của ông. 2000–2006: Thời kỳ Oliver Kahn/Michael Ballack Ở Euro 2000, trong vòng đấu bảng tại trận đầu tiên Đức hòa Rumani, sau đó thua 0-1 trước Anh và cuối cùng xếp cuối bảng sau trận thua 0-3 trước Bồ Đào Nha (đội đã vào vòng sau trước đó và chỉ sử dụng đội hình phụ trong trận đấu đó). Kết thúc giải đấu, Ribbeck tuyên bố từ chức ngay lập tức và Rudi Völler thay thế vào chiếc ghế nóng. Tham dự World Cup 2002, những kỳ vọng của người hâm mộ đối với Đức là thấp do các kết quả thi đấu "nghèo nàn" của đội bóng tại vòng đấu loại và lần đầu tiên họ không giành được tấm vé trực tiếp mà phải thi đấu với Ukraina. Đức xếp thứ nhất sau vòng bảng, và lần lượt thắng 1–0 ba lần liên tiếp trước các đội tuyển Paraguay ở vòng đấu loại trực tiếp, đội tuyển Hoa Kỳ ở tứ kết, và đồng chủ nhà với Nhật Bản là Hàn Quốc tại bán kết, trong đó Michael Ballack ghi hai bàn, mặc dù thế anh phải nhận thẻ vàng thứ hai trong trận gặp Hàn Quốc và bị treo giò ở trận chung kết. Tại chung kết họ gặp Brasil, cũng là trận đầu tiên mà hai đội gặp nhau trong World Cup. Đức thua 0–2 với hai bàn thắng đều do Ronaldo lập công. Cuối giải đấu, thủ môn và đội trưởng Oliver Kahn giành Quả bóng Vàng, và là lần đầu tiên trong lịch sử World Cup một thủ môn đạt được danh hiệu cầu thủ xuất sắc nhất giải. Đức một lần nữa bị loại ở vòng bảng tại Euro 2004, với hai trận đầu bị cầm hòa và họ để thua trận thứ ba trước Cộng hòa Séc (đội xếp thứ hai sau vòng bảng). Völler từ chức sau đó, và Jürgen Klinsmann được bổ nhiệm làm huấn luyện viên. Nhiệm vụ chính của Klinsmann là dẫn dắt đội tuyển quốc gia có một lối chơi tốt ở World Cup 2006 trên đất Đức. Klinsman quyết định sẽ thôi không cho Kahn giữ băng đội trưởng và tuyên bố rằng Kahn và thủ môn dự bị trong một thời gian Jens Lehmann sẽ cạnh tranh trực tiếp cho vị trí thủ môn chính thức. Quyết định này làm Kahn nổi giận và cuối cùng Lehmann đã giành được chiến thắng. Hi vọng cho đội nhà cũng không có nhiều, với sự không có mặt của hậu vệ Christian Wörns (sau khi Wörns phê phán Klinsmann đã coi cầu thủ này như người dự bị trong đội tuyển), một lựa chọn gây nhiều tranh cãi ở Đức vào thời điểm đó. Đội Italia thắng Đức 4–1 trong tháng 3 ở trận giao hữu, và Klinsmann bị phê phán dữ dội khi đội tuyển chỉ xếp hạng 22 thế giới khi bước vào FIFA World Cup 2006. Là chủ nhà, Đức giành chiến thắng cả ba trận vòng bảng và đứng đầu bảng. Họ thắng Thụy Điển 2–0 ở vòng 16. Đức gặp Argentina ở tứ kết. Trận đấu có tỉ số hòa 1–1 trong 90 phút, và Đức giành chiến thắng 4–2 ở loạt sút luân lưu. Tại bán kết, một lần nữa họ gặp Italia, trận đấu không có tỉ số trong 90 phút chính thức và cho đến gần cuối thời gian hiệp phụ thứ hai đội Đức bị thủng lưới hai bàn. Ở trận tranh giải ba, Đức thắng Bồ Đào Nha với tỉ số 3–1.Miroslav Klose nhận Chiếc giày Vàng nhờ danh hiệu vua phá lưới của giải. Jürgen Klinsmann Jürgen Klinsmann trở thành người thay thế Rudi Völler chỉ vì Liên đoàn bóng đá Đức không tìm được người "dám" ngồi vào chiếc ghế huấn luyện viên trưởng đội tuyển Đức đầy mạo hiểm. Trước đó, Klinsmann - cựu tiền đạo nổi tiếng của đội tuyển Đức đã từng vô địch thế giới (1990) và châu Âu (1996) - chưa từng dẫn dắt bất kỳ đội bóng nào. Lên nắm quyền, Klinsmann đã mời các đồng đội cũ tham gia vào ban huấn luyện, gọi nhiều cầu thủ trẻ vào đội tuyển và thay đổi lối chơi của đội tuyển theo hướng tấn công. Nhiều quyết định của ông gây ra rất nhiều tranh cãi như tước băng đội trưởng của Oliver Kahn rồi trao cho Michael Ballack, sa thải huấn luyện viên thủ môn Sepp Maier, chọn Jens Lehmann là người trấn giữ khung thành thay thế cho Oliver Kahn, thuê các huấn luyện viên thể lực người Hoa Kỳ và chỉ trở về Đức từ Hoa Kỳ khi dẫn dắt đội tuyển thi đấu. Các kết quả giao hữu trước World Cup 2006 không tốt càng làm cho ông bị chỉ trích dữ dội và còn bị yêu cầu từ chức. Tuy nhiên, kết quả (xếp thứ 3) và lối chơi tấn công đầy cống hiến của đội tuyển Đức tại vòng chung kết World Cup 2006 ngay trên sân nhà đã làm sống dậy "tinh thần yêu nước mới" của nước Đức. Sau vòng chung kết, một phong trào đề nghị Jürgen Klinsmann ở lại vị trí huấn luyện viên trưởng đã được phát động nhưng ông đã tuyên bố từ chức ngay sau đó. 2006-2021: Joachim Löw Trước khi trở thành huấn luyện viên trưởng đội tuyển Đức ngày 12 tháng 7 năm 2006, Joachim Löw là trợ lý của Jürgen Klinsmann. Vòng chung kết Euro 2008 Joachim Löw dẫn dắt đội tuyển Đức khá thành công, lọt vào tới trận chung kết và chỉ chịu thất thủ 0-1 trước Tây Ban Nha. Tiếp đó ông chỉ huy "Những cỗ xe tăng" vượt qua vòng loại World Cup 2010 khu vực châu Âu một cách đầy ấn tượng. Vòng chung kết World Cup 2010 trên đất Nam Phi, Đức được xem là một trong những ứng viên hàng đầu cho chức vô địch. Thế nhưng do để thua nhà vô địch Tây Ban Nha ở bán kết, nên Đức chỉ xếp thứ ba sau khi thắng Uruguay 3-2 ở trận tranh hạng ba. Dù sao thì chiếc cúp vô địch vẫn đang chờ đợi đội bóng với đội hình trẻ nhất của đội tuyển Đức trong vòng 76 năm trở lại đây, bởi vì trận thắng ngoạn mục 4-1 trước Anh và 4-0 trước Argentina tại World Cup 2010 đã chứng minh được điều đó. Tại World Cup 2014 trên đất Brasil, Joachim Löw đã đưa đội tuyển Đức vào tới trận chung kết. Trên đường tới trận này đội tuyển Đức đã loại các đội mạnh như Bồ Đào Nha ở vòng bảng và Pháp ở tứ kết, và nhất là đội chủ nhà Brasil với trận thắng khó tin 7-1 ở bán kết và đánh bại đội tuyển Argentina với tỉ số 1-0 ở trận chung kết để lần thứ 4 lên ngôi vô địch. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một đội bóng châu Âu vô địch World Cup trên đất châu Mỹ. Tại Euro 2016, đội tuyển Đức đã dừng bước ở bán kết sau thất bại 0-2 trước tuyển Pháp. Đức có lần đầu tiên giành chức vô địch Cúp Liên lục địa khi đánh bại Chile 1-0 với bàn thắng duy nhất của tiền đạo Lars Stindl để đăng quang tại Confederations Cup 2017 trên đất Nga. Dù phải trải qua hai giải đấu đáng thất vọng và đáng quên là World Cup 2018 và UEFA Nations League 2018-19, đội tuyển Đức đã cải cách, thay đổi được nhân sự, lối chơi của mình một cách khoa học, tiến bộ hơn mà điển hình là việc Joachim Löw đã thẳng tay quyết định loại bỏ 3 trụ cột của đội tuyển Đức là Thomas Müller, Mats Hummels và Jérôme Boateng khỏi danh sách triệu tập cầu thủ lên đội tuyển quốc gia của ông để tập trung phát triển các cầu thủ trẻ, được giới truyền thông gọi là "cuộc cách mạng trẻ hóa của ĐT Đức" chỉ vì lí do rất đơn giản: Joachim Löw nói rằng lý do ông loại 3 trụ cột này là vì họ chơi không tốt chút nào, nếu không muốn nói là chơi rất tệ ở World Cup 2018 và một số giải đấu sau đó. Đã có khá nhiều người chỉ trích HLV Löw vì họ cho rằng, 3 cầu thủ mà ông đã loại khỏi đội tuyển vẫn còn thi đấu tốt nhưng cuối cùng ông vẫn giữ lại quyết định trên. Và ĐT Đức đã giành vé tham dự Euro 2020 sau khi vượt qua vòng loại cũng một phần nhờ sự cải cách đó của HLV Joachim Löw khi ông đã tạo dựng được một môi trường lành mạnh cho các cầu thủ trẻ mới được gọi lên tuyển và tạo dựng cơ hội cho họ thể hiện tài năng của mình. Euro 2008 & FIFA World Cup 2010 Euro 2008 Đức tranh vé vào Euro 2008 với sự dẫn dắt của huấn luyện viên mới là Joachim Löw từ khi Klinsmann nghỉ hưu. Tại giải đấu, họ thắng hai trong ba trận ở vòng bảng và tiến vào vòng đấu loại trực tiếp. Ở tứ kết, Đức thắng 3–2 trước Bồ Đào Nha, và thắng Thổ Nhĩ Kỳ với cùng tỉ số ở bán kết. Họ để thua 0–1 trước Tây Ban Nha ở chung kết và giành ngôi á quân. FIFA World Cup 2010 Tại World Cup 2010 trên đất Nam Phi, Đức đứng đầu vòng bảng và tiến vào vòng đấu loại trực tiếp. Tại vòng 16 đội, Đức thắng Anh 4–1. Trận đấu có nhiều tranh cãi khi bàn thắng hợp lệ của tiền vệ Frank Lampard đã không được công nhận do trọng tài chính đã không nhìn thấy bóng lăn qua vạch vôi của khung thành. Trong trận tứ kết, Đức thắng Argentina 4–0, cũng như Miroslav Klose phá kỷ lục của Gerd Müller với 14 bàn thắng tại World Cup. Đức gặp Tây Ban Nha ở bán kết và thua với tỉ số 1–0. Họ đánh bại Uruguay 3–2 và giành vị trí thứ ba của giải đấu. Thomas Müller giành danh hiệu Chiếc giày Vàng và cầu thủ trẻ xuất sắc nhất. Euro 2012 & FIFA World Cup 2014 – Chức vô địch lần thứ tư Euro 2012 Tại Euro 2012, Đức nằm ở bảng B cùng với Bồ Đào Nha, Hà Lan, và Đan Mạch. Đức đã thắng cả ba trận ở vòng bảng. Đức thắng tiếp Hy Lạp ở tứ kết và lập kỷ lục 15 trận thắng liên tiếp ở mọi trận bóng quốc tế. Ở bán kết, Đức thua Ý sát nút với tỉ số 1–2. FIFA World Cup 2014 Đức giành vị trí nhất bảng trong vòng loại World Cup 2014. Kết quả bốc thăm chia bảng FIFA World Cup 2014 đưa Đức nằm ở bảng G, cùng với Bồ Đào Nha, Ghana, và Hoa Kỳ. Trận ra quân họ gặp Bồ Đào Nha mà được người hâm mộ đặt cho biệt danh là "trận bóng của đội có mọi tài năng chống lại đội của Siêu sao thế giới (Cristiano Ronaldo)", với kết quả Bồ Đào Nha để thua 4–0 với cú hat-trick của Thomas Müller và một bàn thắng của Mats Hummels. Trong trận gặp Ghana, Đức dẫn trước với pha ghi bàn của Mario Götze ở hiệp hai, nhưng sau đó họ bị thủng lưới hai bàn liên tiếp, tuy vậy rồi ở phút thứ 71 Miroslav Klose kịp thời ghi bàn thắng gỡ hòa giúp Đức có trận hòa 2–2 với Ghana và tránh được khỏi một trận thua. Với bàn thắng này, Klose san bằng kỷ lục ghi 15 bàn thắng ở World Cup của cựu tiền đạo Brasil Ronaldo. Ở trận cuối vòng bảng họ thắng nhẹ nhàng Hoa Kỳ với tỉ số 1–0 do công của Thomas Müller đều giúp cho cả hai đội đi tiếp, và Đức bước vào vòng 16 đội gặp đội tuyển Algeria. Ở vòng 16 đội gặp Algeria, trận đấu không có bàn thắng trong 90 phút thi đấu chính thức và phải bước vào hiệp phụ. Ở phút thứ 92 của hiệp phụ thứ nhất, André Schürrle ghi bàn từ đường chuyền của Thomas Müller, và Mesut Özil ghi bàn thứ hai ở phút thứ 120. Mặc dù Algeria ghi được một bàn gỡ danh dự nhưng không đủ giúp họ đi tiếp vào tứ kết và kết thúc trận đấu Đức giành chiến thắng 2–1 và bước vào tứ kết gặp đội tuyển Pháp. Ở trận tứ kết gặp Pháp, Mats Hummels ghi bàn duy nhất ở phút thứ 13 bằng một cú đánh đầu tung nóc lưới thủ môn Hugo Lloris từ pha đá phạt của Toni Kroos giúp Đức giành chiến thắng 1–0 và lập kỷ lục bốn lần liên tiếp vào bán kết. Chiến thắng 7–1 ở bán kết trước Brasil là một thời điểm lịch sử đối với cả hai đội và World Cup. Đức trở thành đội đầu tiên trong lịch sử ghi được 5 bàn trong vòng 18 phút ở hiệp một. Họ ghi được 4 bàn chỉ trong vòng 400 giây và tỷ số là 5–0 cho đến hết hiệp một với các bàn thắng của Thomas Müller, Miroslav Klose, Sami Khedira và 1 cú đúp của Toni Kroos. Miroslav Klose cũng ghi bàn thứ 16 của anh trong lịch sử World Cup ở phút thứ 23 và trở thành cầu thủ ghi nhiều bàn nhất của giải vô địch bóng đá thế giới, phá vỡ kỷ lục của Ronaldo. Trong hiệp 2, cầu thủ vào thay André Schürrle ghi thêm 2 bàn và Đức dẫn trước 7–0, tỷ số lớn nhất đối với đội tuyển Brasil trong một trận đấu. Brasil ở những phút cuối cùng có được bàn thắng danh dự của cầu thủ Oscar. Đây là trận thua tồi tệ nhất của Brasil trong lịch sử World Cup từ trước tới nay, trong khi đó Đức cũng lập lên nhiều kỷ lục ở World Cup với chiến thắng này, bao gồm kỷ lục của Klose, đội đầu tiên vào bán kết 4 lần liên tiếp, đội đầu tiên ghi 7 bàn thắng ở trận đấu thuộc vòng loại trực tiếp của World Cup, 5 bàn thắng liên tiếp nhanh nhất trong lịch sử World Cup (bốn bàn được ghi chỉ trong 400 giây), đội bóng đầu tiên ghi 5 bàn trong hiệp một của bán kết cũng như trở thành chủ đề nóng nhất được cập nhật trên trang Twitter sau khi các phương tiện truyền thông đồng loạt đưa tin Đức ghi bàn thắng thứ 4. Trận chung kết diễn ra tại sân Maracana ở Rio de Janeiro ngày 13 tháng 7 giữa Đức với Argentina được giới truyền thông đưa tin là trận đấu giữa cầu thủ hay nhất thế giới (Lionel Messi) đối đầu với đội bóng hay nhất thế giới (Đức). Bàn thắng của Mario Götze ở phút thứ 113 của hiệp phụ đưa Đức giành chiến thắng trước Argentina với tỉ số 1–0, trở thành đội bóng châu Âu đầu tiên vô địch FIFA World Cup trên đất Nam Mỹ như 1 vinh dự lịch sử bóng đá rất là to lớn. Thủ môn Manuel Neuer giành được danh hiệu Găng tay Vàng và Thủ môn xuất sắc nhất giải đấu. Euro 2016 & Cúp Liên đoàn các châu lục 2017 Tại Euro 2016, Đức nằm ở bảng C với sự góp mặt của Ba Lan, Bắc Ireland và Ukraina. Đức vượt qua vòng bảng suôn sẻ với 2 trận thắng 2–0 trước Ukraina, 1–0 trước Bắc Ireland và trận hòa 0-0 trước Ba Lan. Bước vào vòng 16 đội, Đức tiếp tục thể hiện sức mạnh khi loại Slovakia với tỉ số 3-0 do công của Jérôme Boateng, Mario Gómez và Julian Draxler. Vào vòng tứ kết, với vị thế cửa trên, Đức để hòa Ý với tỉ số 1-1 trong suốt 120 phút thi đấu. Đầu tiên, Mesut Özil mở tỉ số trận đấu ở phút thứ 65. Tuy vậy, Ý kịp thời gỡ hòa với bàn thắng trên chấm phạt đền do công của Leonardo Bonucci ở phút thứ 78 sau tình huống Jérôme Boateng đã bất cẩn để bóng chạm tay trong vòng cấm. Nhưng một lần nữa Cỗ xe tăng Đức lại thể hiện bản lĩnh vượt trội của mình khi đả bại Ý trên loạt sút luân lưu 11m với tỉ số 6-5, đây là lần đầu tiên Đức thắng Ý trong một trận đấu chính thức. Nhưng vào đến bán kết, Đức đã gục ngã trước chủ nhà Pháp với tỉ số 2-0, qua đó chính thức về nước sớm và nhìn "Những chú gà trống Pháp" vào trận chung kết để đối đầu với Bồ Đào Nha (đội sau đó lên ngôi vô địch). Tại Cúp Liên đoàn các châu lục 2017 trên đất Nga, Đức tham dự với tư cách đương kim vô địch thế giới, họ coi đây là một giải đấu giao hữu lớn nhưng không quá quan trọng và chỉ mang sang đội hình B với những cầu thủ trẻ và ít kinh nhiệm cần được cọ xát luyện tập và học hỏi, họ nằm ở bảng B cùng Chile, Úc và Cameroon, Đức dễ dàng đứng đầu khi thắng Úc 3-2, hòa Chile 1-1, thắng Cameroon 3-2, tại bán kết Đức thắng México 4-1, sau đó hạ Chile trong trận tái đấu tại chung kết 1-0 do công của Lars Stindl, qua đó vô địch giải đấu. Đội tuyển Đức 1 lần nữa lại vươn lên đứng đầu trong bảng xếp hạng FIFA và rồi đã duy trì nó cho đến tận vòng chung kết World Cup 2018. FIFA World Cup 2018 Mặc dù Đức chiến thắng tất cả các trận đấu ở vòng loại World Cup 2018 và Confederations Cup năm trước với vị thế là một đội bóng lớn mạnh, Đức đã bắt đầu chiến dịch World Cup 2018 của họ bằng trận thua Mexico lần đầu tiên trong lịch sử các kỳ World Cup tại bảng F. Đây là trận thua đầu tiên của họ trong một trận đấu vòng bảng kể từ World Cup 2010 và thất bại đầu tiên của họ trong một trận mở màn kể từ World Cup 1982. Đức sau đó đánh bại Thụy Điển 2–1 trong trận đấu kế tiếp nhờ bàn thắng gỡ hòa của Marco Reus và cú đá phạt tung nóc lưới Thụy Điển phút bù giờ của Toni Kroos để sống lại hi vọng đi tiếp. Tuy nhiên, Đức bất ngờ thua sốc Hàn Quốc 0-2 ở tại lượt cuối, dẫn đến lần đầu tiên kể từ năm 1938 đội bị loại ngay từ vòng bảng . Trong trận thua này, Đức đã tung ra tổng cộng 28 cú dứt điểm với 6 lần trúng khung thành của Hàn Quốc, nhưng hàng phòng ngự của Hàn Quốc mà tiêu biểu là thủ môn Cho Hyun-woo đã thi đấu kiên cường và không một lần để thủng lưới. Còn thủ môn và đội trưởng Manuel Neuer, anh đã có 1 kỳ World Cup đáng quên nhất trong lịch sử, trong đó vào những phút cuối cùng của trận đấu, Neuer đã mắc một sai lầm nghiêm trọng khi anh đã quyết định tham gia tấn công lên giữa sân cùng đồng đội trong khi Hàn Quốc đang ào ạt tấn công để rồi mất bóng khiến cho Son Heung-min dễ dàng đưa bóng vào lưới trống sau khi nhận đường chuyền dài từ hàng hậu vệ. Đội tuyển Hàn Quốc đã chơi tốt tại vòng chung kết World Cup 2018 và đánh bại nhà đương kim vô địch Đức là 1 danh dự và kỳ tích lớn đối với đội bóng của siêu sao đội trưởng Son Heung-min và người mở tỷ số Kim Young-gwon và cũng là 1 kỳ World Cup tồi tệ nhất của toàn thể người dân nước Đức khi phải chứng kiến việc đội nhà phải trắng tay về nước sớm là sự thật và càng sốc hơn nữa khi một trong những đội tuyển hùng mạnh nhất châu Âu lại để thua thảm một đội tuyển được coi là cửa dưới đến từ châu Á. Đức dẫm chân vào vết giầy của rất nhiều đội đương kim vô địch bị loại ngay ở vòng bảng World Cup gần đây như Pháp (2002), Italy (2010) và Tây Ban Nha (2014). Nỗi thất vọng của họ còn nhân lên gấp bội khi kết thúc vòng bảng với vị trí cuối cùng, có 3 điểm như Hàn Quốc nhưng thua hiệu số bàn thắng bại. UEFA Nations League 2018-19 & Vòng loại Euro 2020 Tại UEFA Nations League 2018-19, Đức nằm cùng bảng A1 với Hà Lan & nhà đương kim vô địch World Cup 2018 Pháp, họ hòa Pháp 0-0 tại sân nhà, sau đó thua Hà Lan 0-3 tại sân khách, thua Pháp 1-2 tại Paris & kết thúc giải đấu khi hòa Hà Lan 2-2 tại sân nhà, chung cuộc Đức đứng cuối bảng A1, đối diện nguy cơ xuống hạng B. Tại Vòng loại Euro 2020, Đức nằm cùng bảng C với Hà Lan, Bắc Ireland, Belarus & Estonia, Đức thắng Hà Lan 3-2, hạ Belarus 2-0 trên sân khách, hủy diệt Estonia 8-0, nhưng thua Hà Lan 2-4 tại sân nhà, thắng Bắc Ireland 2-0 tại Belfast, tiếp tục thắng đậm Belarus 4-0 và kết thúc chiến dịch khi hạ Bắc Ireland 6-1 trên sân nhà, chung cuộc Đức đứng nhất bảng C & giành quyền dự Euro 2020 tổ chức hè 2021 do ảnh hưởng của COVID-19. UEFA Nations League 2020-21 Tại UEFA Nations League 2020-21, do UEFA sửa đổi thể thức nên Đức không bị xuống hạng, Đức nằm cùng bảng A4 với Tây Ban Nha, Thụy Sĩ & Ukraina, Đức hòa Tây Ban Nha 1-1 tại sân nhà, hòa Thụy Sĩ cùng tỷ số tại Basel, thắng Ukraina 2-1 tại Kiev, họ để Thụy Sĩ cầm hòa 3-3, thắng Ukraina 3-1 tại sân nhà sau đó thua sốc Tây Ban Nha 0-6 tại Seville. Theo UEFA, đây là trận thua thảm họa lịch sử đối với bóng đá Đức. Lần gần nhất họ thua cách biệt tới 5 bàn trong một trận đấu là ở World Cup 1954 (thua Hungary 3-8 ở vòng bảng). Lùi xa hơn thì vào năm 1931, Đức thua Áo 0-6 trong một trận giao hữu. Thế nên trận thua 0-6 là trận thua đậm nhất lịch sử của đội tuyển Đức trong một trận đấu quốc tế thuộc FIFA. Thất bại được xem là đậm nhất lịch sử của Đức đến nay được ghi nhận là trận thua 0-9 trước Anh vào năm 1909, ở giải quốc tế Đức lần thứ 4. Nhưng khi đó bóng đá vẫn là nghiệp dư. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử đội tuyển Đức thua tới 6 bàn không gỡ. Cả trận, họ hứng chịu 23 cú dứt điểm và 10 trong số đó hướng trúng khung thành. Trận thua này khiến Đức dừng bước tại Nations League. Dưới sự dẫn dắt của HLV Joachim Low, "Cỗ xe tăng" đã sa sút liên tục trong hai năm qua. Họ bị loại ngay vòng bảng ở ba giải đấu chính thức gần nhất, gồm Nations League 2020-21, Nations League 2018-19 và World Cup 2018. Chiếc ghế của Low vì thế lung lay dữ dội, tuy nhiên, Liên đoàn Bóng đá Đức vẫn tỏ thái độ ủng hộ nhà cầm quân 60 tuổi. Trường đoàn Oliver Bierhoff nói: "Trận thua này sẽ không thay đổi điều gì. Chúng tôi vẫn tin tưởng Low và không việc gì phải nghi ngờ điều ấy" . Euro 2020- giải đấu cuối cùng của Joachim Low Vào tháng 3, DFB cho biết: "Joachim Loew sẽ kết thúc công việc HLV tuyển quốc gia sau Euro diễn ra vào năm 2021. Ông đã yêu cầu chấm dứt hợp đồng vốn kéo dài đến hết World Cup 2022. DFB đã đồng ý với điều này". Tại Euro 2020, Đức nằm cùng bảng F với Pháp, Bồ Đào Nha & Hungary, trận ra quân Đức thua Pháp 0-1 do Hummels phản lưới nhà, sau đó thắng Bồ Đào Nha 4-2, cầm hòa Hungary 2-2 và xếp thứ 2 vòng bảng, Đức gục ngã trước Anh với tỷ số 2-0 tại vòng 16 đội. Đây là trận đấu khép lại 15 năm dẫn dắt đội tuyển Đức của Joachim Low. 2021-nay: Thời kỳ Hansi Flick & Julian Nagelsmann Sau thất vọng tại Euro 2020, Hansi Flick, cựu huấn luyện viên Bayern Munich tiếp nhận cương vị huấn luyện viên trưởng. Thành công chỉ tiếp nối sau đó khi Đức tiếp tục đánh bại Liechtenstein, Armenia, Iceland, Romania và Bắc Macedonia tại vòng loại World Cup 2022. Vào ngày 11 tháng 10 năm 2021, Đức đánh bại Bắc Macedonia với tỷ số 4–0 để trở thành đội đầu tiên giành vé tham dự World Cup 2022 tại Qatar. Tại Nations League 2022–23, Đức đã có chiến thắng đầu tiên trước Ý với tỷ số 5–2. Đây là trận thứ 4 và là trận thắng đầu tiên của Đức trong giải đấu, tuy nhiên Đức đã đứng thứ 3 chung cuộc tại bảng A3. Tại Giải vô địch bóng đá thế giới 2022, Đức cùng bảng E với Tây Ban Nha, Nhật Bản và Costa Rica, tại trận ra quân Đức để thua Nhật Bản 1-2, sau đó hòa Tây Ban Nha 1-1, dù thắng Costa Rica 4-2 tại lượt trận cuối, tuy nhiên Đức chỉ đứng thứ 3 bảng E và phải chia tay giải đấu lần thứ 2 liên tiếp. Hansi Flick chính thức bị DFB sa thải cùng 2 trợ lý Marcus Sorg và Danny Röhl vào ngày10/9/2023 sau thất bại 1-4 trước Nhật Bản ngay trên sân nhà trong trận giao hữu chuẩn bị cho Euro 2024, Rudi Völler, Hannes Wolf và Sandro Wagner sẽ tạm thời dẫn dắt đội. Đến ngày 21/9, DFB thông báo bổ nhiệm Julian Nagelsmann dẫn dắt Đức, thay thế Hansi Flick bị sa thải. Ông ký hợp đồng dẫn dắt Đức tới ngày 31/7/2024, thời điểm Euro 2024 vừa khép lại. Hình ảnh Sân vận động Đức không có sân vận động quốc gia duy nhất, do vậy đội tuyển bóng đá quốc gia của họ thường chơi trên các sân vận động khác nhau trong toàn nước Đức. Họ đã chơi các trận đấu trên sân nhà ở 39 thành phố khác nhau, bao gồm các trận khi đội Đức chơi ở sân Viên, Áo trong giai đoạn giữa 1938 và 1942. Đội tuyển quốc gia Đức thường hay chơi (cho tới nay đã 42 lần) tại sân vận động ở thành phố Berlin, và cũng là nơi mà lần đầu tiên đá trên sân nhà gặp đội tuyển Anh năm 1908. Những thành phố khác bao gồm: Hamburg (34 trận), Stuttgart (29), Hanover (24) và Dortmund. Những thành phố nổi bật khác bao gồm Munich, cũng là nơi tổ chức nhiều sự kiện thể thao lớn cũng như của bóng đá Đức, bao gồm trận chung kết FIFA World Cup 1974 nơi đội tuyển Đức lên ngôi vô địch trước đội tuyển Hà Lan. Logo và áo đấu Logo chính thức của Đội tuyển Đức là hình chim Đại bàng đen Bundesadler từ Quốc huy, bao ngoài bởi 3 lớp hình tròn, với cung phía dưới hình tròn ngoài cùng được cách điệu theo ba màu đen-đỏ-vàng của Quốc kỳ. Giữa hai hình tròn trong cùng là dòng chữ Deutscher Fussball-Bund ("Hiệp hội Bóng đá Đức" trong tiếng Đức nhưng chữ "ß" được thay bằng "ss"). Tại các kỳ World Cup, 4 ngôi sao vàng sẽ đựoc in lên trên cùng để tượng trưng cho 4 lần vô địch thế giới. Adidas là nhà sản xuất trang phục lâu năm nhất cho đội tuyển Đức, nhà tài trợ này bắt đầu cung cấp cho đội tuyển từ năm 1954 và hợp đồng vẫn còn kéo dài. Trong những năm 1970, đội tuyển Đức mặc áo đấu của hãng Erima (một thương hiệu của Đức, cũng từng là chi nhánh của Adidas). Trang phục chính của đội tuyển luôn có áo phông màu trắng, quần đùi màu đen cùng với tất trắng. Những màu này giống với màu của cờ thế kỷ 19 của Vương quốc Phổ. Từ 1988, các nhà thiết kế áo thi đấu đã kết hợp thêm các chi tiết của cờ Đức (với một ngoại lệ tại World Cup 2002, khi trang phục của đội tuyển có thuần túy màu đen và trắng). Màu sắc của trang phục phụ có một vài sự thay đổi theo thời gian. Tại World Cup 2014, trang phục chính của đội tuyển với áo và quần đều màu trắng, khác so với trang phục truyền thống, lý do này là màu sắc của bộ quần áo không phù hợp với các quy định của FIFA trong suốt cả giải đấu này. Vào những năm 1954 và 2016, tất của đội tuyển Đức được đổi thành màu đen (ngoại trừ trận tứ kết Euro 2016 gặp đội tuyển Ý, đội tuyển Đức đã đi tất màu trắng). Tại UEFA Nations League 2018-19, trang phục của tuyển Đức từ áo, quần đến tất đều được đổi thành màu trắng nguyên vẹn như tại World Cup 2014. Về mặt lịch sử, trang phục phụ với áo màu xanh và quần trắng thường được sử dụng hơn so với các bộ khác, với màu xanh giống với màu của logo DFB – mặc dù đôi khi người ta hiểu nhầm rằng màu xanh giống với màu áo của đội tuyển Ireland, đội đầu tiên gặp đội tuyển Đức trong trận đấu giao hữu quốc tế sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Tuy nhiên, đội bóng đầu tiên đá với đội tuyển này sau chiến tranh thế giới lần thứ hai lại chính thức là đội Thụy Sĩ. Các màu khác như đỏ, xám, xanh,... cũng thường được sử dụng. Màu sắc thay đổi từ đen sang đỏ bắt đầu từ năm 2005 khi Jürgen Klinsmann đã kiến nghị thay đổi màu áo, nhưng đội tuyển Đức vẫn sử dụng trang phục màu trắng truyền thống khi đội tuyển chơi trên sân nhà tại World Cup 2006. Năm 2010, trang phục thay đổi sang quần màu trắng và áo màu đen xám, mặc dù vậy đội tuyển vẫn mặc trang phục chính với quần đen và áo trắng lúc thi đấu. Trang phục phụ của đội tuyển thay đổi sang áo có dải màu đỏ và đen với chữ màu trắng, quần màu đen. Áo đấu chính Danh hiệu Giải đấu 20px20px Vô địch thế giới: 4 Vô địch (4): 1954; 1974; 1990; 2014 Á quân (4): 1966; 1982; 1986; 2002 Hạng ba (4): 1934; 1970; 2006; 2010 Cúp Liên đoàn các châu lục: 1 Vô địch (1): 2017 Hạng ba (1): 2005 Vô địch châu Âu: 3 Vô địch (3): 1972; 1980; 1996 Á quân (3): 1976; 1992; 2008 Bóng đá nam tại Olympic: 1976 1980 1964; 1972; 1988 U.S. Cup Vô địch: 1993 'Giải đấu Bốn Quốc gia' Hạng ba: 1988 Giải thưởng 'FIFA World Cup Fair Play Trophy' Người chiến thắng: 1974 'FIFA Confederations Cup Fair Play Award' Người chiến thắng: 2017 'FIFA Team of the Year' Người chiến thắng (3): 1993, 2014, 2017 'Giải thưởng Thể thao Thế giới Laureus dành cho Đội của năm' ' Người chiến thắng: 2015 'Đội bóng thế giới của năm' ' Người chiến thắng (2): 1990, 2014 'Giải vô địch bóng đá thế giới không chính thức' ' Người sở hữu: 31 lần 'Đội thể thao của năm của Đức' Người chiến thắng (10): 1966, 1970, 1974, 1980, 1990, 1996, 2002, 2006, 2010, 2014 'Silbernes Lorbeerblatt' ' Người chiến thắng (7): 1954, 1972, 1974, 1980, 1990, 1996, 2014 Giải đấu Giải vô địch bóng đá thế giới Đức là đội tuyển tham dự nhiều vòng chung kết World Cup thứ hai chỉ sau Brazil, Đức cũng chính là đội tuyển giàu thành tích thứ hai World Cup sau Brazil. {| class="wikitable" style="text-align: center;" width="560px;" |- !width=150|Năm !width=150|Kết quả !width=60| !width=60| !width=60| !width=60|Thua !width=60| !width=60| |- |1930|| colspan="7" |Không tham dự |- bgcolor=#CD7F32 | 1934||Hạng 3||4||3||0||1||11||8 |- |1938||Vòng 1||2||0||1||1||3||5 |- |1950|| colspan="7" |Bị cấm thi đấu |- bgcolor=gold | 1954||Vô địch||5||4||0||1||25||14 |- | 1958||Hạng 4||6||2||2||2||12||14 |- | 1962||Tứ kết||4||2||1||1||4||2 |- bgcolor=silver | 1966||Á quân||6||4||1||1||15||6 |- bgcolor=#CD7F32 | 1970||Hạng 3||6||5||0||1||17||10 |- bgcolor=gold |style="border: 3px solid red"| 1974||Vô địch||7||6||0||1||13||4 |- | 1978||Vòng 2||6||1||4||1||10||5 |- bgcolor=silver | 1982|| rowspan="2" |Á quân||7||4||1||2||17||14 |- bgcolor=silver | 1986||7||4||1||2||13||7 |- bgcolor=gold | 1990||Vô địch||7||5||2||0||15||5 |- | 1994|| rowspan="2" |Tứ kết||5||3||1||1||9||7 |- | 1998||5||3||1||1||8||6 |- bgcolor=silver | 2002||Á quân||7||5||1||1||14||3 |- bgcolor=#CD7F32 |style="border: 3px solid red"| 2006|| rowspan="2" |Hạng 3||7||6||0||1||14||6 |- bgcolor=#CD7F32 | 2010||7||5||0||2||16||5 |- bgcolor=gold | 2014||Vô địch||7||6||1||0||18||4 |- | 2018|| rowspan="2" |Vòng 1||3||1||0||2||2||4 |- | 2022 |3 |1 |1 |1 |6 |5 |- || 2026 || colspan="7" |Chưa xác định |- |Tổng cộng||20/224 lần: Vô địch||108||66||20*||20||242||130 |} FIFA Confederations Cup Giải vô địch bóng đá châu Âu Đức là đội tuyển tham dự nhiều vòng chung kết Euro nhất từ 1972-nay, Đức cũng là đội tuyển giàu thành tích nhất Euro với 3 chức vô địch và 3 chức á quân. UEFA Nations League Cầu thủ Kỷ lục Cầu thủ in đậm vẫn còn thi đấu cho đội tuyển quốc gia.Số lần khoác áo đội tuyển quốc gia Số bàn thắng Kỷ lục khác Cầu thủ tham dự nhiều kỳ World Cup nhất: Lothar Matthäus - 5 lần (cũng là kỉ lục thế giới cùng với thủ môn Mexico Antonio Carbajal và thủ môn Ý Gianluigi Buffon) Cầu thủ tham dự nhiều trận đấu tại World Cup nhất: Lothar Matthäus - 25 trận (kỉ lục thế giới) Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng tại World Cup nhất: Miroslav Klose - 16 bàn Cầu thủ tham dự nhiều trận đấu tại Euro nhất: Thomas Häßler và Jürgen Klinsmann - 13 trận Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng tại Euro nhất: Jürgen Klinsmann - 5 bànTính tại các vòng chung kết World Cup và Euro Đội hình Những cầu thủ sau đây được triệu tập cho các trận đấu giao hữu với Nhật Bản và Pháp vào ngày 9 và 12 tháng 9 năm 2023.Số liệu thống kê chính xác đến ngày 12 tháng 9 năm 2023, sau trận gặp Pháp.'' Triệu tập gần đây Dưới đây là tên các cầu thủ được triệu tập trong vòng 12 tháng. INJ INJ INJ Rút lui vì chấn thương. Huấn luyện viên & đội trưởng Ghi chú * Đội trưởng danh dự. Thống kê huấn luyện viên Chú thích Tính cả thắng trên loạt sút luân lưu. Tính cả thành tích trước khi Đức chia cắt (1936–1942 – 70 trận: 42 thắng, 13 hòa, 15 thua) và Tây Đức (1950–1964 – 97 trận: 52 thắng, 14 hòa, 31 thua; không thi đấu và không có huấn luyện viên từ 1942 tới 1950). Tính đến ngày 27 tháng 7 năm 2014. Ban huấn luyện Lịch đấu 2022 2023 Chú thích
Nhà Nguyên (tiếng Trung: 元朝, bính âm: Yuán Cháo) hay Đại Nguyên (Tiếng Trung: 大元, bính âm: Dà Yuán) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu lần đầu tiên Trung Hoa chịu sự cai trị của một triều đại do người dân tộc thiểu số lập ra. Triều Nguyên do Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt lập nên vào năm 1271, định đô tại Đại Đô sau khi Đế quốc Mông Cổ bị phân nhánh thành 4 quốc gia và Hốt Tất Liệt lên ngôi hoàng đế, đến năm 1279 thì công diệt Nam Tống, thống nhất Trung Quốc, kết thúc cục diện phân chia hơn 400 năm từ thời Đường mạt. Trong thời kỳ từ Nguyên Thế Tổ đến Nguyên Vũ Tông, quốc lực triều Nguyên đạt đến đỉnh cao, về quân sự thì bình định Tây Bắc, song thất bại khi tiến hành các chiến dịch chinh phạt Nhật Bản và các quốc gia Đông Nam Á, nhất là thất bại trong ba lần đưa quân xâm chiếm Đại Việt. Đến giữa triều đại, hoàng vị triều Nguyên nhiều lần thay đổi, tình hình chính trị không đi vào quỹ đạo. Năm 1351 thời Nguyên Huệ Tông thì khởi nghĩa Khăn Đỏ bùng nổ. Năm 1368, Chu Nguyên Chương sau khi lập nên triều Minh Trung Hoa đã phái đại tướng Từ Đạt dẫn quân bắc phạt, công hãm Đại Đô, nhà Nguyên nói riêng và Đế quốc Mông Cổ nói chung đã sụp đổ. Tàn dư còn lại của triều đình nhà Nguyên đào thoát đến Mạc Bắc, sử gia sau đó gọi là Bắc Nguyên. Năm 1388, Bắc Nguyên Hậu Chủ bỏ quốc hiệu Đại Nguyên, Bắc Nguyên sụp đổ. Triều Nguyên kế thừa lãnh thổ của Đế quốc Mông Cổ, trải qua nhiều lần mở rộng, đến năm 1310 tức thời Nguyên Vũ Tông thì đạt tới mức độ cực thịnh, phía tây đến Thổ Lỗ Phiên, phía tây nam gồm Tây Tạng, Vân Nam và bắc Miến Điện, phía bắc đến Nam Bộ Đô Bá và hồ Baikal, phía đông sông Obi, phía đông đến biển Nhật Bản - diện tích này lớn hơn cả thời Hán, Đường giai đoạn hoàng kim.. Triều Nguyên là nước tông chủ của bốn hãn quốc lớn là Kim Trướng, Sát Hợp Đài, Oa Khoát Đài và Y Nhi, ngoài ra, các nước phiên thuộc của triều Nguyên bao gồm có vương quốc Cao Ly (lãnh thổ bảo hộ) cùng một số quốc gia Đông Nam Á. Trên phương diện kinh tế, nhà Nguyên lúc này vẫn lấy nông nghiệp làm chủ đạo, tuy nhiên năng lực sản xuất về tổng thể ở mức thấp so với triều Tống. Song có phát triển lớn về kỹ thuật sản xuất, diện tích đất khai khẩn, sản lượng lương thực, xây dựng thủy lợi và diện tích trồng bông. Do người Mông Cổ là dân tộc du mục, thời kỳ còn ở thảo nguyên họ lấy chăn nuôi làm sinh kế chủ đạo, kinh tế đơn nhất, không có chế độ thổ địa. Khi đánh chiếm Hoa Bắc, người Mông Cổ tiến hành tàn sát và cướp bóc gây thiệt hại nghiêm trọng. Sau khi diệt Kim, do Da Luật Sở Tài khuyến gián, Oa Khoát Đài đồng ý cho khôi phục nông nghiệp, khuyến khích người Hán khai khẩn. Sau khi Hốt Tất Liệt đăng cơ, triều Nguyên thực thi khuyến khích sản xuất, an phủ dân lưu tán. Đến thời Nguyên, diện tích trồng bông không ngừng mở rộng, sản phẩm bông vải tại Giang Nam khá hưng thịnh. Sản xuất mang tính thương phẩm phát triển, khiến đương thời kinh tế nông thôn về cơ bản tự cung tự cấp tiến vào quan hệ kinh tế tiền tệ thương phẩm trên một số phương diện. Do Nguyên Đế tập trung khống chế một lượng lớn thợ thủ công nghiệp, kinh doanh sản xuất hàng công nghệ thường dùng, sản xuất thủ công nghiệp quan doanh đặc biệt phát triển, còn thủ công nghiệp dân gian có hạn chế. Không giống như các vương triều chinh phục khác, triều Nguyên không đề cao văn hóa bản thân mà tích cực tiếp thu văn hóa Trung Hoa, đồng thời kết hợp văn hóa Tây Á, song cũng đề xướng người Mông Cổ ở vị trí tối cao. Triều Nguyên hết sức tôn sùng Phật giáo Tạng, về chính trị sử dụng một lượng lớn người Sắc Mục (tức người Trung-Tây Á và Âu), địa vị của học giả Nho giáo bị hạ thấp, và trong thời gian đầu triều Nguyên từng một thời gian dài không tổ chức khoa cử. Do văn hóa sĩ đại phu suy thoái, trật tự xã hội truyền thống từ thời Tống sụp đổ, kinh tế phát triển nhanh chóng. Hiện tượng này trên phương diện chính trị thể hiện qua trọng dụng tư lại, trên phương diện nghệ thuật và văn học biểu hiện qua hí kịch và nghệ năng phát triển việc lấy thứ dân làm đối tượng, trong đó có Nguyên khúc là hưng thịnh nhất. Quốc hiệu Năm 1271, Hốt Tất Liệt đặt quốc hiệu Đại Nguyên (), thiết lập nhà Nguyên. "Dà Yuán" () là từ mệnh đề "" ()(nghĩa là Vĩ đại thay dương khí mùa Xuân khai sáng) trong Thập Dực của Dịch Kinh và liên quan đến quẻ Càn (). Bản sao trong tiếng Mông Cổ là Dai Ön Ulus, cũng được kết xuất là Ikh Yuan Üls hoặc Yekhe Yuan Ulus. Trong tiếng Mông Cổ, Dai Ön (tiếng Mông Cổ trung đại dịch ra tiếng Hán là "Dà Yuán") thường được sử dụng kết hợp với "Yeke Mongghul Ulus" ("Mông Cổ quốc"), dẫn đến (). Hơn nữa, nhà Nguyên đôi khi còn được gọi là "Đế quốc Đại Hãn" hay "Khả hãn quốc Đại Hãn", đặc biệt xuất hiện trên một số bản đồ nhà Nguyên, kể từ khi các hoàng đế nhà Nguyên giữ danh hiệu danh là Đại Hãn. Tuy nhiên, cả hai thuật ngữ này cũng có thể đề cập đến khả hãn trong Đế quốc Mông Cổ do các Đại Hãn trực tiếp cai trị trước khi thực sự thành lập nhà Nguyên bởi Hốt Tất Liệt vào năm 1271. Lịch sử Lịch sử triều Nguyên thông thường có thể phân thành hai giai đoạn, năm 1206 Thiết Mộc Chân thống nhất Mông Cổ, lập quốc tại Mạc Bắc, định quốc hiệu là Đại Mông Cổ Quốc, đến năm 1271 Hốt Tất Liệt kiến đô tại Hán địa, tức khu vực cư dân Hán, cải quốc hiệu thành Đại Nguyên, tổng cộng 65 năm, gọi là thời kỳ Đại Mông Cổ Quốc, hay Đế quốc Mông Cổ. Giai đoạn thứ hai kéo dài cho đến năm 1368 khi Nguyên Huệ Tông đào thoát từ Trung Quốc về chính quê hương Mông Cổ bây giờ của họ, kéo dài tổng cộng 97 năm, là giai đoạn tồn tại thực sự của triều Nguyên. Sau khi Nguyên Huệ Tông đào thoát về Mông Cổ, vẫn duy trì quốc hiệu Đại Nguyên, đến năm 1402 thì Quỷ Lực Xích sát hại Thuận Thiên Đế Khôn Thiếp Mộc Nhi, cải quốc hiệu thành Thát Đát, tổng cộng kéo dài 34 năm, gọi là thời kỳ Bắc Nguyên. Do Đế quốc Mông Cổ, triều Nguyên và Bắc Nguyên có quan hệ thừa kế liên tục, do vậy bài viết giới thiệu cả ba thời kỳ. Thống nhất Mông Cổ Thời Liêu, các bộ lạc trên thảo nguyên Mông Cổ do triều đình Liêu cai quản. Sau khi Kim diệt Liêu, thừa dịp quân Kim nam hạ tiến công Tống mà không chú ý tới phía bắc, Hợp Bất Lặc Hãn kiến lập Mông Ngột Quốc, tức giai đoạn đầu của quốc gia Mông Cổ, sau đó người Mông Cổ thường xâm nhập biên cảnh của Kim. Sau khi Hợp Bất Lặc mất, Yêm Ba Hài Hãn trở thành đại hãn, song sau đó bị người Tháp Tháp Nhi bán cho triều đình Kim, rồi bị Kim Hi Tông hành quyết, sự kiện này khởi nguồn cho mối thù của người Mông Cổ với Kim. Sau khi Kim Chương Tông mất, đầu thế kỷ 13, triều Kim dưới quyền Hoàn Nhan Vĩnh Tế dần suy lạc, Thiết Mộc Chân thuộc Khất Nhan bộ của Mông Cổ bắt đầu thống nhất thảo nguyên Mông Cổ. Trước sau dưới viện trợ quân sự của thủ lĩnh Khắc Liệt bộ là Vương Hãn và thủ lĩnh Trát Đáp Lan bộ là Trát Mộc Hợp, Thiết Mộc Chân đánh bại người Miệt Nhi Khất, lực lượng dần lớn mạnh. Năm 1189, sau tranh đoạt kịch liệt, Thiết Mộc Chân được quý tộc Khất Nhan bộ tôn làm đại hãn của bộ lạc. Tuy nhiên, việc bộ tộc của Thiết Mộc Chân dần lớn mạnh làm tổn hại đến địa vị của Trát Mộc Hợp trên thảo nguyên, do vậy Trát Mộc Hợp liên hiệp với các bộ tộc như Thái Xích Ô, hợp binh tiến công Thiết Mộc Chân. Trát Mộc Hợp tạm thời chiến thắng, song vì bạo ngược nên các thủ lĩnh bộ lạc dưới quyền bất mãn, bộ chúng hướng tâm sang Thiết Mộc Chân, lực lượng của Thiết Mộc Chân từng bước lớn mạnh. Năm Thừa An thứ 1 (1196), bộ tộc Tháp Tháp Nhi phản Kim, Hoàng đế Kim Chương Tông phái Thừa tướng Hoàn Nhan Tương đem quân chinh thảo. Thiết Mộc Chân liên hiệp với Khắc Liệt Bộ, lấy danh nghĩa báo thù, đánh tan Tháp Tháp Nhi bộ. Sau chiến tranh, triều đình Kim phong cho Thiết Mộc Chân chức Củ quân thống lĩnh, do vậy ông có thể sử dụng danh nghĩa quan viên của Kim để hiệu lệnh bộ chúng Mông Cổ. Năm Khánh Nguyên thứ 6 (1200), Thiết Mộc Chân và Vương Hãn hội quân, đại thắng trước liên quân Miệt Nhi Khất-Thái Xích Ô. Năm Gia Thái thứ 1 (1201), Thiết Mộc Chân đánh bại liên quân 11 bộ tộc dưới quyền Trát Mộc Hợp. Năm Gia Thái thứ 2 (1202), liên quân Thiết Mộc Chân và Vương Hãn đánh bại liên quân của Trát Mộc Hợp cùng người Nãi Man, Thái Xích Ô, Tháp Tháp Nhi, Miệt Nhi Khất..Cuối cùng, Thiết Mộc Chân bình định cao nguyên Mông Cổ, thống nhất các bộ tộc Mông Cổ, vào mùa xuân năm 1206, các quý tộc Mông Cổ tại đầu nguồn sông Oát Nan (nay là sông Onon) lần đầu triệu tập Đại hội Khuruldai, Thiết Mộc Chân nhận xưng hiệu Thành Cát Tư Hãn, kiến quốc Đại Mông Cổ Quốc, sau này được tôn xưng là Nguyên Thái Tổ.. Phạt Kim và khoách trương Kim và người Mông Cổ có thù truyền thế, Thành Cát Tư Hãn có ý phạt Kim báo thù, tuy nhiên Tây Hạ và Kim liên minh, nhằm tránh bị Tây Hạ khiên chế nên Mông Cổ ba lần suất quân (1205, 1207, 1209-1210) tiến công, buộc Tây Hạ Tương Tông xưng thần. Năm 1210, Thành Cát Tư Hãn và Kim đoạn giao, sang năm sau Chiến tranh Mông-Kim bùng phát. Trong Chiến dịch Dã Hồ Lĩnh và trận Cối Hà Bảo, quân Mông Cổ đại phá 45 vạn quân Kim, sau đó đánh vào khu vực Hoa Bắc và tiến hành đồ sát hàng loạt thành trì. Năm 1214, quân Mông Cổ bao vây thủ đô Trung Đô (nay là Bắc Kinh) của Kim, Kim Tuyên Tông buộc phải xưng thần. Năm 1215, quân Mông Cổ nam hạ công chiếm Trung Đô, đồng thời có được danh tướng Da Luật Sở Tài, nhân vật này có công lớn trong việc trợ giúp người Mông Cổ củng cố Hoa Bắc. Năm 1217, Thành Cát Tư Hãn do Tây chinh Khwarezm nên mệnh cho Mộc Hoa Lê thống lĩnh Hán địa, phong người này làm "Thái sư quốc vương", mệnh cho Mộc Hoa Lê tiếp tục tiến công Kim. Nhằm củng cố Hán địa, Mộc Hoa Lê thu hàng thế lực tự vệ địa phương như của Sử Thiên Trạch, Trương Nhu, Nghiêm Thực và Trương Hoành, sử gọi là "Hán tộc tứ đại thế hầu", về sau họ cũng phò tá Hốt Tất Liệt kiến lập triều Nguyên. Mộc Hoa Lê thông qua chiến tranh khiến cho cương vực Kim chỉ còn lại Hà Nam và Quan Trung, đồng thời năm 1231 ông phái binh tiến công Cao Ly, khiến triều đình Cao Ly đào thoát đến đảo Giang Hoa。 Ở phía tây, để lập tuyến đường thông sang phương tây, ngay từ năm 1209-1210 Mông Cổ đã buộc người Úy Ngột Nhi tại đông bộ Tân Cương và người Cáp Lạt Lỗ tại thung lũng sông Y Lê quy thuận. Trong khi Kim thiên đô và tiến đến diệt vong, Khwarezm dưới quyền Muhammad II quật khởi tại Trung Á, đại thần địa phương của nước này tại Otrar là Inalchuq hai lần đồ sát thương đội Mông Cổ đồng thời làm nhục sứ thần Mông Cổ, Thành Cát Tư Hãn bèn quyết tâm phát động Tây chinh lần thứ nhất. Năm 1218, tướng Mông Cổ là Triết Biệt giết Hoàng đế Tây Liêu Khuất Xuất Luật, công chiếm khu vực Tarim. Tháng 6 năm sau Thành Cát Tư Hãn đích thân đem quân chủ lực Mông Cổ gồm 10 vạn người Tây chinh Khwarezm. Muhammad II không kháng cự lại nổi quân Mông Cổ, lo sợ nên đào thoát, quân Mông Cổ đồ sát các thành trấn, và đến năm 1221 thì Khwarezm diệt vong. Thành Cát Tư Hãn mệnh Tốc Bất Đài và Triết Biệt truy sát Muhammad II, Muhammad II cuối cùng mất tại biển Caspia. Con trai của Muhammad II là Jalal ad-Din anh dũng kháng địch trong trận Parwan, song cuối cùng phải đào thoát đến Ấn Độ, năm 1224 phục quốc tại Tabriz. Năm 1230, Jalal ad-Din bị tướng quân Mông Cổ Xước Nhi Mã Hãn công diệt. Tốc Bất Đài và Triết Biệt cuối cùng vào năm 1222 cùng Tát Mã Nhĩ Hãn xuất phát đi qua bắc bộ cao nguyên Iran, tiến công các quốc gia Nam Kavkaz rồi vượt dãy Kavkaz đến Khâm Sát (Kipchak, miền nam Nga), trong khoảng thời gian đó công chiếm không ít quốc gia. Trong trận sông Kalka năm 1223 tại lãnh thổ nay thuộc Ukraina, quân Mông Cổ đánh tan liên quân các quốc gia Rus Kiev và Khâm Sát, đồng thời tiến quân theo hướng tây đến sông Dnister thuộc miền tây Ukraina ngày nay, sau chuyển sang vây đánh Kiev, rồi trở về phía đông. Tháng 9 năm 1223, quân Mông đang tiến công Volga Bulgaria tại trung thượng du sông Volga thì vượt sông về Trung Á. Thành Cát Tư Hãn đem lãnh thổ mới mở rộng phân phong cấp cho trưởng tử Truật Xích, thứ tử Sát Hợp Đài và tam tử Oa Khoát Đài, tứ tử Đà Lôi lĩnh Mông Cổ bản thổ, Oa Khoát Đài trở thành người kế thừa đại hãn. Năm 1225, sau khi Mông Cổ hồi quân, do Tây Hạ không phối hợp Tây chinh, Thành Cát Tư Hãn suất quân nhằm tiêu diệt Tây Hạ. Năm 1227, Thành Cát Tư Hãn bệnh mất, Đà Lôi giám quốc.。 Hãn hệ chuyển di Đà Lôi giám quốc hai năm, trong Đại hội Khuruldai năm 1229, Oa Khoát Đài được tôn làm Đại hãn của Mông Cổ, sau này được tôn xưng là Nguyên Thái Tông. Năm 1231, Oa Khoát Đài Hãn suất quân nam chinh triều Kim, đồng thời mệnh Đà Lôi từ Hán Trung mượn đường Nam Tống theo Hán Thủy tiến công Biện Kinh, năm sau Đà Lôi trong trận Tam Phong Sơn tại Hà Nam đã đánh tan quân Kim. Năm 1234, liên quân Mông-Tống liên hiệp công phá Thái châu, Kim Ai Tông tự sát, triều Kim diệt vong. Mặc dù Nam Tống phát động Đoan Bình nhập Lạc nhằm thu phục đất Hà Nam, song cuối cùng toàn bộ khu vực Hoa Bắc bị Mông Cổ chiếm lĩnh. Năm 1235, Oa Khoát Đài Hãn định đô tại Cáp Lạp Hòa Lâm (Karakorum, nay thuộc Mông Cổ), sau đó suất quân báo thù Nam Tống, cướp bóc khu vực Lưỡng Hoài rồi về bắc. Nhằm đề phòng Hán nhân thế hầu tại Hoa Bắc làm phản, Mông Cổ phái Tham mã xích quân tiến trú Hán địa; tiến hành hai lần điều tra nhân khẩu, đem một nửa số người Hán phân phong cho công thần Mông Cổ. Do nhu cầu về nhân tài trị lý quốc gia, Oa Khoát Đài Hãn tiếp thu kiến nghị của Da Luật Sở Tài, vào năm 1238 mệnh Truật Hốt Đức và Lưu Trung tổ chức khoa cử, sử xưng Mậu Tuất tuyển thí. Kỳ khảo thí này chọn được các danh sĩ như Dương Hoán.. Tại phía tây, năm 1235 Oa Khoát Đài Hãn mệnh con cả của Truật Xích là Bạt Đô, cùng Quý Do và Mông Kha, Tốc Bất Đài phát động Tây chinh lần thứ hai, sử xưng Bạt Đô tây chinh, tổng chỉ huy là Bạt Đô và Tốc Bất Đài. Từ năm 1236 đến 1242, quân Mông Cổ công chiếm thảo nguyên Khâm Sát, các công quốc Rus Kiev, và các quốc gia Trung Đông Âu nay thuộc Hungary, Romania, Ba Lan, Litva, Séc, Slovakia, Nam Tư cũ, Bulgaria, và La Mã Thần thánh. Tháng 11 năm 1241, Oa Khoát Đài Hãn mất, Hoàng hậu Thoát Liệt Ca Na giám quốc. Tháng 3 năm 1246, trong Đại hội Khuruldai, con của Oa Khoát Đài là Quý Do trở thành đại hãn của Mông Cổ, sau này được tôn xưng là Nguyên Định Tông. Năm 1247, các bộ tộc Thổ Phồn quy phụ Mông Cổ, sử xưng Lương châu hội minh. Tháng 8 năm 1248, Quý Do mất, Hoàng hậu Hải Mê Thất lập người trong tộc là Thất Liệt Môn giám quốc. Tuy nhiên, trong đại hội vào tháng 7 năm 1251, do Bạt Đô và Ngột Lương Hợp Thai ra sức ủng hộ dòng Đà Lôi, khiến Thất Liệt Môn thuộc dòng Oa Khoát Đài để mất hãn vị. Mông Kha kế thừa hãn vị, sau được tôn xưng là Nguyên Hiến Tông。 Mông Kha sau khi tức vị vào năm 1252 thì tiến hành trung ương tập quyền hóa, tại Hán địa, Trung Á và Iran cho đặt trung thư tỉnh, phân khiển chư vương thuộc dòng Đà Lôi quản lý các khu vực, cho em là Hốt Tất Liệt tổng lĩnh Hán địa. Trong thời gian Hốt Tất Liệt thống trị Hán địa, ông sử dụng một lượng lớn quan lại và nho sĩ là người Hán, củng cố khu vực Hoa Bắc, đồng thời cùng Ngột Lương Hợp Thai đi vòng diệt Đại Lý vào năm 1253. Năm 1258, chính quyền họ Thôi tại Cao Ly kết thúc, Cao Ly trở thành nước phiên thuộc của Mông Cổ. Cùng năm đó, Mông Kha Hãn tuyên bố phân binh thành ba lộ nam chinh Nam Tống, Mông Kha Hãn suất quân tiến công Hợp Châu thuộc Tứ Xuyên (nay là Trùng Khánh), Hốt Tất Liệt tiến công Ngạc Châu thuộc Hồ Bắc (nay là Vũ Xương), Ngột Lương Hợp Thai từ Yến Dương thuộc Vân Nam (nay thuộc bắc bộ Lệ Giang, Vân Nam) qua An Nam nhằm tiến công Quảng Nam Tây lộ rồi tiến tiếp đến Kinh Hồ Nam lộ, tam quân có ý đồ hội hợp tại Hoa Trung rồi xuôi Trường Giang vây đánh Lâm An. Năm sau, Mông Kha Hãn chiến tử tại thành Điếu Ngư thuộc Hợp Châu, nhóm Hốt Tất Liệt đình chỉ nam chinh, về bắc đoạt vị. Ở phía tây, Mông Kha Hãn phái em là Húc Liệt Ngột tây chinh Tây Á, sử xưng Mông Cổ tây chinh lần ba, năm 1256 Húc Liệt Ngột công diệt tổ chức ám sát Hồi giáo Hashshashin. Năm 1258, quân Tây chinh công chiếm Baghdad- lãnh địa cuối của vương triều Abbas Lưỡng Hà. Năm sau, quân Mông Cổ giành thắng lợi trước Vương triều Ayyub, năm 1260 chiếm lĩnh Damas và Aleppo. Tuy nhiên, Húc Liệt Ngột biết tin Mông Kha từ trần khi nam chinh Nam Tống thì lập tức suất đại quân về thủ đô tranh vị. Quân Mông Cổ lưu lại Tây Á chiến bại trong trận Ain Jalut tại Israel ngày nay trước vương triều Mamluk Ai Cập, Tây chinh lần ba kết thúc.。 Đại tai càn nguyên Mông Kha Hãn từ trần, Hốt Tất Liệt lập tức hòa đàm với Nam Tống, về Hoa Bắc tranh đoạt hãn vị với em là A Lý Bất Ca tại Mông Cổ. Ngày 5 tháng 5 năm 1260, dưới sự ủng hộ của một bộ phận tông vương và đại thần Mông-Hán, Hốt Tất Liệt tự lập làm hoàng đế của Mông Cổ tại Khai Bình (sau gọi là Thượng Đô, nay thuộc huyện Đa Luân, Nội Mông), đặt niên hiệu là Trung Thống. Sau khi Hốt Tất Liệt đăng cơ không lâu, A Lý Bất Ca tại thủ đô Cáp Lạp Hòa Lâm triệu tập đại hội Khuruldai, được A Tốc Thai cùng các tông vương và đại thần khác lập làm đại hãn của Mông Cổ, đồng thời được ủng hộ từ các hãn quốc Kim Trướng, Sát Hợp Đài, Oa Khoát Đài. Chiến tranh tranh đoạt hãn vị cuối cùng kết thúc vào ngày 21 tháng 8 năm 1264 khi A Lý Bất Ca đầu hàng, vị thế của Hốt Tất Liệt được đảm bảo。 Nhằm trở thành một hoàng đế của Trung Quốc, Hốt Tất Liệt cho thi hành Hán pháp, nội dung chủ yếu có cải nguyên kiến hiệu, năm 1267 Hốt Tất Liệt hãn thiên đô tới Trung Đô (nay là Bắc Kinh), kinh đô cũ của triều Kim, đồng thời mệnh Lưu Bỉnh Trung xây dựng thành Trung Đô. Năm 1272, Hốt Tất Liệt Hãn đổi Trung Đô thành Đại Đô (tiếng Đột Quyết là Khanbaliq, ý là đế đô), chuyển Thượng Đô thành bồi đô. Ngày 18 tháng 12 năm 1271, Hốt Tất Liệt hãn công bố "Kiến quốc hiệu chiếu", chọn ý "đại tai càn nguyên" trong "Dịch Kinh", đổi quốc hiệu từ Đại Mông Cổ Quốc thành Đại Nguyên, kiến quốc triều Nguyên, tức Nguyên Thế Tổ. Năm 1260, triều Nguyên đặt trung thư tỉnh, đến năm 1263 thiết lập Xu mật viện, năm 1268 thiết lập Ngự sử đài. Triều Nguyên còn cho đặt "đại ty nông ty" đồng thời đề xướng nông nghiệp, thi hành chính sách Hán pháp như tôn Khổng sùng Nho đồng thời hết sức phát triển Nho học. Tuy nhiên, nhằm bảo lưu chế độ nguyên bản của Mông Cổ, cuối cùng triều Nguyên hình thành chế độ chính trị lưỡng nguyên Mông-Hán. Nguyên Thế Tổ thông qua chiến tranh mà đạt được hãn vị của Mông Cổ, cuối cùng lại thành hoàng đế Trung Quốc, do ông chiếm hãn vị một cách bất hợp pháp và tôn sùng Hán pháp, khiến tông thất Mông Cổ không thừa nhận hãn vị của Hốt Tất Liệt. Trong số bốn hãn quốc lớn thì có ba hãn quốc không phụng mệnh lệnh của Hốt Tất Liệt, Đế quốc Mông Cổ hoàn toàn giải thể. Ban đầu, Nguyên Thế Tổ còn phải tập trung vào chiến tranh với A Lý Bất Ca và chỉnh đốn quốc nội, do vậy không rảnh để đối phó với Nam Tống, ông phái Hác Kinh đi đề xuất nội dung nghị hòa mang tính áp bức. Đương thời, Tống Cung Đế còn nhỏ tuổi, Tạ thái hậu buông rèm chấp chính, song đại quyền trong tay Giả Tự Đạo. Giả Tự Đạo khi xưa từng nói dối mình đánh lui quân Mông Cổ, nay lo bị lộ nên giam cầm Hác Kinh. Năm 1262, Nam Tống mốc nối với thế hầu Lý Thản, bùng phát nổi loạn Lý Thản. Sau khi bình định bạo loạn, Nguyên Thế Tổ kiên quyết phế bỏ Hán nhân thế hầu, cho người Mông Cổ trực tiếp quản lý sự vụ địa phương, đồng thời chuẩn bị chinh phạt Nam Tống. Năm 1268, Nguyên Thế Tổ phát động chiến tranh diệt Tống, trước tiên phái Lưu Chỉnh và A Truật suất quân tiến công Tương Dương, sử gọi là trận Tương Phàn. Năm 1274, quân Nguyên công hạ Tương Dương, tướng Lã Văn Hoán của Tống đầu hàng, sau đó Sử Thiên Trạch và Bá Nhan suất quân theo Hán Thủy nam hạ Trường Giang, mục tiêu là Kiến Khang. Năm 1275, hàng tướng Lã Văn Hoán suất liên quân thủy quân-lục quân Nguyên đánh tan thủy quân Nam Tống tại Vu Hồ, sử gọi là trận Đinh Gia Châu. Năm sau, quân Nguyên công hãm Lâm An, Tạ thái hậu và Tống Cung Đế đầu hàng quân Nguyên. Quân Nguyên dần công hạ các địa phương tại Hoa Nam, năm 1278 thì triều đình Nam Tống thoái đến Nhai Sơn thuộc Quảng Đông. Tháng 3 năm sau, Trương Hoằng Phạm công diệt hải quân Nam Tống trong Hải chiến Nhai Sơn, Lục Tú Phu ôm tiểu hoàng đế Triệu Bính nhảy xuống biển tự vẫn, Nam Tống mất. Triều Nguyên thống nhất khu vực Trung Quốc, kết thúc cục diện phân liệt kéo dài hơn 500 năm từ sau loạn An Sử thời Đường. Triều Nguyên từng yêu cầu một số quốc gia hoặc khu vực xung quanh (gồm Nhật Bản, Đại Việt, Chiêm Thành, Miến Điện, Java) phải thần phục, gia nhập quan hệ triều cống của triều Nguyên, song bị cự tuyệt, Nguyên Thế Tổ do vậy xuất binh tiến công các quốc gia này, trong đó xâm nhập Nhật Bản là trứ danh nhất, quân Nguyên do Phạm Văn Hổ chỉ huy không thích hợp và gặp phải bão nên thất bại. Do triều đình Nguyên cần ban thưởng lượng lớn tiền của cho tông thất quý tộc, công thêm chi tiêu nhiều, tài chính dần căng thẳng, triều thần vì vấn đề tài chính mà phát sinh tranh chấp, phân liệt thành phái Nho thần chủ yếu gồm người Hán và người Mông Cổ Hán hóa như Hứa Hành, và phái lý tài chủ yếu gồm người Sắc Mục và người Hán như A Hợp Mã, Lô Thế Vinh và Tang Ca. Phái Nho thần nhận định triều đình Nguyên cần phải tiết giảm kinh phí, giảm miến thuế thu. Phái lý tài thì nhận định Nam nhân (người Hán tại lãnh thổ Nam Tống cũ) còn tàng trữ lượng lớn tài vật, cần phải tịch thu để giải quyết vấn đề tài chính. Do Nguyên Thế Tổ tín nhiệm A Hợp Mã nên thiết lập thượng thư tỉnh để giải quyết vấn đề tài chính. Tuy nhiên, phái Nho thần lấy Thái tử Chân Kim vốn bị Hán hóa sâu sắc làm trung tâm, cùng đối kháng với A Hợp Mã, cuối cùng A Hợp Mã bị thích sát, song Thái tử Chân Kim lại bệnh mất. Nguyên Thế Tổ không tín nhiệm phái Nho thần, vẫn nhiệm dụng quan viên phái lý tài để giải quyết vấn đề tài chính, khiến tình hình tài chính xấu đi. Bình định Tây Bắc Nguyên Thế Tổ từ trần vào năm 1294, mặc dù Thái tử Chân Kim mất sớm song con thứ ba của Chân Kim là Thiết Mục Nhĩ được phong làm "hoàng thái tử bảo" đồng thời được trấn thủ Hòa Lâm (tức Karakorum). Sau đó, trong Đại hội Khuruldai, Thiết Mục Nhĩ được sự ủng hộ của nhóm trọng thần Bá Nhan và Ngọc Tích Thiếp Mộc Nhi, chiến thắng trước anh cả là Cam Ma Lạt và anh hai là Đáp Lạt Ma Bát Lạt mà kế vị, tức Nguyên Thành Tông. Nguyên Thành Tông chủ yếu là tuân thủ thận trọng pháp luật và quy tắc thời kỳ Nguyên Thế Tổ, tin dùng cháu là Hải Sơn (con của anh hai) trấn thủ Hòa Lâm để bình định loạn Hải Đô tại Tây Bắc, đồng thời hạ lệnh đình chỉ chinh phạt Nhật Bản và Đại Việt. Trên phương diện nội chính, Nguyên Thành Tông tập trung chỉnh đốn chính trị quốc nội, giảm miễn thuế một phần cho Giang Nam. Tuy nhiên, do Nguyên Thành Tông ban thưởng quá độ, tài sản trong quốc khố thiếu thốn. Tháng một năm 1307, Nguyên Thành Tông từ trần, do Thái tử Đức Thọ mất sớm nên Tả thừa tướng A Hốt Thai ủng hộ Hoàng hậu Bốc Lỗ Hãn và An Tây vương A Nan Đáp (tôn sùng Hồi giáo) giám quốc, đồng thời có ý để cho A Nan Đáp xưng đế. Em của Hải Sơn là Ái Dục Lê Bạt Lực Bát Đạt và Hữu thừa tướng Cáp Lạt Cáp Tôn phát động Đại Đô chính biến. Họ xử trảm A Hốt Thai, khống chế cục thế Đại Đô, ủng hộ Hải Sơn xưng đế, tức Nguyên Vũ Tông. Hoàng hậu Bốc Lỗ Hãn và A Nan Đáp bị Nguyên Vũ Tông xử trảm, bộ hạ người Hồi của A Nan Đáp lui đến khu vực Thổ Lỗ Phồn tại Tây Vực. Nguyên Vũ Tông sách phong cho Ái Dục Lê Bạt Lực Bát Đạt (sau là Nguyên Nhân Tông) là hoàng thái đệ, giao ước với nhau rằng dòng của Vũ Tông và dòng của Nhân Tông thay nhau xưng đế, tức Vũ-Nhân chi ước. Thời kỳ Nguyên Vũ Tông, triều Nguyên gia phong Khổng Tử là "Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương", đồng thời cấp cho gia tộc và đệ tử của Khổng Tử một số xưng hiệu. Nhằm giải quyết nguy cơ tài chính có từ thì kỳ Nguyên Thành Tông, Nguyên Vũ Tông cho lập 'Thường bình thương' để kiềm chế vật giá, hạ lệnh in rất nhiều tiền, song khiến tiền giấy mất giá trị nghiêm trọng. Ngoài ra, ông đưa Trung thư tỉnh vốn có quyền tuyên sắc và dụng nhân giao cho Thượng thư tỉnh. Năm 1311, Nguyên Vũ Tông do chìm đắm trong trụy lạc, uống rượu quá độ mà từ trần, Hoàng thái đệ Ái Dục Lê Bạt Lực Bát Đạt kế vị, tức Nguyên Nhân Tông. Tại phía tây bắc, ngay từ thời kỳ Nguyên Thế Tổ, do vị thế đại hãn của Thế Tổ không được bốn hãn quốc lớn thừa nhận nên Hải Đô của Hãn quốc Sát Hợp Đài có ý chiếm đoạt hãn vị của Mông Cổ. Hải Đô quản lý khu vực Hiệp Mật Lập (nay ở phía đông nam của Ngạch Mẫn, Tân Cương) đồng thời hữu hảo với Hãn quốc Kim Trướng. Nhằm tránh việc bị Hải Đô đánh sau lưng khi nam chinh Nam Tống, Nguyên Thế Tổ giúp đỡ Bát Lạt đoạt được hãn vị của Sát Hợp Đài nhằm áp chế Hải Đô. Tuy nhiên vào năm 1268, Hải Đô cùng Bát Lạt và Kim Trướng hãn Mang Ca Thiếp Mộc Nhi lấy lý do Nguyên Thế Tổ Hán hóa quá độ, trái ngược với phép tắc của tổ tông, cùng tổ chức đại hội Khuruldai kết minh phản Nguyên bên sông Talas. Họ tôn Hải Sơn làm minh chủ, cùng phân chia Trung Á hành tỉnh, liên hiệp đối kháng triều Nguyên và Hãn quốc Y Nhi, sử gọi là loạn Hải Đô. Nguyên Thế Tổ phái Bá Nhan đem quân về phía bắc bình loạn, Hải Đô và Sát Hợp Đãi hãn Đốc Oa sử dụng phương thức du kích chiến. Năm 1287, liên quân Hải Đô thông đồng với chư vương trấn thủ Liêu Đông Nãi Nhan và Cáp Đan tập kích Hòa Lâm, Nguyên Thế Tổ đích thân suất đại quân đánh bại họ, phái Ba Nhan, Ngọc Tích Thiếp Mộc Nhi và Lý Đình bình định Nãi Nhan tại Đông Bắc, chủ trì quân sự tại Tây Bắc. Năm 1289, Hải Đô lại tiến công Hòa Lâm, cuối cùng thế lực của Hải Đô bị đẩy đến phía tây dãy núi Altai. Cáp Đan tiến hành du kích chiến tại khu vực Liêu Đông-Cao Ly, đến năm 1292 thì bại vong。 Sau khi Nguyên Thành Tông tức vị, lệnh cho Hải Sơn tổng lĩnh chư quân tại Mạc Bắc. Năm 1301, liên quân Hải Đô bị Hải Sơn và Tấn vương Cam Ma Lạt đánh tan. Hải Đô từ trần sau chiến dịch, con là Sát Bát Nhi kế vị, Hãn quốc Oa Khoát Đài bị Đốc Oa khống chế. Năm 1303, do Đốc Oa chiến bại trước Kim Trướng hãn Thoát Thoát Mông Kha nên ông ta cùng với Sát Bát Nhi cùng phái sứ giả thỉnh hòa với triều đình Nguyên, Thoát Thoát Mông Cổ cũng chuyển sang thỉnh hòa với Nguyên, cùng với Y Nhi hãn vốn ủng hộ Nguyên, đến đây bốn hãn quốc lớn đều thừa nhận địa vị tông của triều Nguyên. Không lâu sau, Hãn quốc Oa Khoát Đài bị Hãn quốc Sát Hợp Đài và Nguyên Vũ Tông trước sau công diệt mà mất, Sát Bát Nhi đầu hàng triều Nguyên。 Vận động Hán hóa và chính biến Nguyên Nhân Tông hết sức nỗ lực nhằm cải biến cục diện tài chính khô kiệt, chính chế hỗn loạn từ thời Nguyên Vũ Tông, ông thi hành chính sách "dĩ Nho trị quốc", đồng thời giảm bớt người thừa trong bộ máy, tăng cường trung ương tập quyền để chỉnh đốn triều chính. Ông từng lệnh Vương Ước đem "Đại học diễn nghĩa" dịch ra văn tự Mông Cổ, cho rằng đó là sách để trị thiên hạ. Ông cũng cho dịch các thư tịch như "Trinh Quán chính yếu" và "Tư trị thông giám" sang văn tự Mông Cổ, lệnh người Mông Cổ và người Sắc Mục đọc và học tập. Năm 1312, Nguyên Nhân Tông cho Nho sư của mình là Vương Ước được đặc bái làm Tập hiền đại học sĩ, đồng thời cho chấp thuận kiến nghị "hưng khoa cử" của Vương Ước, đến đây khôi phục chế độ khoa cử. Khoa cử lần này lấy Trình-Chu lý học làm nội dung khảo thí, sử xưng Diên Hựu phục khoa, cuối cùng chọn được 56 người như Hộ Đô Đáp Nhi, Trương Khởi Nham làm tiến sĩ. Ông cũng dựa nhiều vào văn thần người Hán, xử tử đám Thừa tướng Thác Khắc Thác, bài trừ những người có tư tưởng khác biệt trong triều. Trên phương diện tài chính, Nguyên Nhân Tông thủ tiêu phương sách kinh tế thời Nguyên Vũ Tông, vào năm 1314 cho thanh tra điền sản địa phương tại các nơi Giang Chiết, Giang Tây, Hà Nam, sử xưng Diên Hựu kinh lý. Nguyên Nhân Tông dùng Sàng Ngột Nhi thống quân, đánh bại Sát Hợp Đài hãn Dã Tiên Bất Hoa nhằm bình định khu vực Tây Bắc. Tuy nhiên, Nguyên Nhân Tông không ngăn cản được Thái hậu Đáp Kỉ can dự triều chính, cũng không chế tài được trọng thần Thiết Mộc Điệt Nhi vốn được Thái hậu trọng dụng tham tiền làm trái. Trên phương diện vấn đề kế thừa, Nguyên Nhân Tông để Vương Ước phụ trợ Hoàng thái tử Thạc Đức Bát Lạt, đồng thời nghe theo kiến nghị của Thiết Mộc Điệt Nhi mà phế trừ Vũ-Nhân chi ước. Ông cho con trưởng của Nguyên Vũ Tông là Hòa Thế Lạt đi đầy bằng cách để trấn thủ Vân Nam, cho con thứ của Nguyên Vũ Tông là Đồ Thiếp Mục Nhĩ bị đày ra đảo Hải Nam. Mùa đông cùng năm, cựu thần của Nguyên Vũ Tông do thấy phẫn nộ nên ủng hộ Hòa Thế Lạt làm phản, cuối cùng thất bại nên chạy đến Mạc Bắc, nương nhờ Hãn quốc Sát Hợp Đài. Năm 1320, Nguyên Nhân Tông từ trần, Hoàng thái tử Thạc Đức Bát Lạt tức vị, tức Nguyên Anh Tông. Nguyên Anh Tông kế tục thi hành chính sách 'dĩ Nho trị quốc", tăng cường trung ương tập quyền và thể chế quan liêu như trong thời Nguyên Nhân Tông. Đồng thời vào năm 1323 hạ lệnh biên thành và ban bố pháp điển chính thức của triều Nguyên là "Đại Nguyên thông chế", tổng cộng có 2539 điều. Ông còn hạ lệnh loại bỏ thế lực của Thiết Mộc Điệt Nhi trong triều đình. Tuy nhiên, phái bảo thủ gồm người Mông Cổ và Sắc Mục hỗ trợ Thiết Mộc Điệt Nhi chán ghét tân chính của Nguyên Anh Tông, có ý phát động chính biến. Năm 1323, nghĩa tử của Thiết Mộc Điệt Nhi là Thiết Thất nhân thời cơ Nguyên Anh Tông đến Thượng Đô tránh nóng, tại Nam Pha ở phía nam Thượng Đô thích sát Nguyên Anh Tông và Tể tướng Bái Trụ, sử xưng Nam Pha chi biến, dòng hậu duệ của Nguyên Nhân Tông từ đó không có khả năng đoạt lại hoàng vị. Dã Tôn Thiết Mộc Nhi là con trưởng của Cam Ma Lạt, là người trấn thủ Hòa Lâm, ông suất binh nam hạ, giết bạn thần thích sát Nguyên Anh Tông đồng thời xưng đế, tức là Thái Định Đế. Thái Định Đế triệu hồi Đồ Thiếp Mục Nhĩ từ Hải Nam về phong làm Hoài vương. Tháng bảy năm 1328, Thái Định Đế từ trần tại Thượng Đô, Thừa tướng Đảo Lạt Sa lập con của Thái Định Đế là A Tốc Cát Bát còn nhỏ tuổi làm hoàng đế, tức là Thiên Thuận Đế. Tuy nhiên, Yến Thiếp Mộc Nhi và Bá Nhan ủng hộ lập Chu vương Hòa Thế Lạt đang tại Mạc Bắc, Đồ Thiếp Mộc Nhĩ tại Giang Lăng, cùng năm Đồ Thiếp Mộc Nhĩ đến Đại Đô kế vị, tức là Nguyên Văn Tông. Yến Thiếp Mộc Nhi suất quân công nhập Thượng Đô, Thiên Thuận Đế không rõ kết cục. Năm sau, Hòa Thế Lạt xưng đế tại Hòa Lâm, tức Nguyên Minh Tông. Nguyên Văn Tông từ bỏ đế vị, phái Yến Thiếp Mộc Nhi nghênh Nguyên Minh Tông kế vị, đồng thời được lập làm hoàng thái tử. Tuy nhiên, Yến Thiếp Mộc Nhi hạ độc giết Nguyên Minh Tông, phục vị cho Nguyên Văn Tông, sử xưng Thiên Lịch chi biến. Thời kỳ Nguyên Văn Tông đại hưng văn trị, năm 1329 thiết lập Khuê Chương các, quản lý giảng giải sách kinh sử, khảo sát việc trị loạn trong lịch sử. Theo lệnh thì toàn bộ con cháu của huân quý đại thần đều phải đến Khuê Chương các học tập. Tại Khuê Chương các thiết lập Nghệ Văn giám, chuyên môn phụ trách dịch điển tịch Nho gia sang văn tự Mông Cổ, còn có chức năng giáo khám. Cùng năm, Nguyên Văn Tông hạ lệnh biên soạn "Nguyên kinh thế đại điển", hai năm thì biên thành, đây là một công trình đồ sộ ghi chép về chế độ phép tắc của triều Nguyên. Tuy nhiên, Thừa tướng Yến Thiếp Mộc Nhi cậy công khinh thường triều đình, khiến triều chính thêm hủ bại. Năm 1332, Nguyên Văn Tông từ trần, nhằm tẩy sạch tội độc sát Nguyên Minh Tông, di chiếu lập con thứ của Minh Tông là Ý Lân Chân Ban còn nhỏ tuổi làm hoàng đế, tức Nguyên Ninh Tông. Tuy nhiên, Nguyên Ninh Tông tại vị không được hai tháng thì mất, không lâu sau thì Yến Thiếp Mộc Nhi cũng mất. Con trưởng của Nguyên Minh Tông là Thỏa Hoan Thiếp Mục Nhĩ được hoàng hậu của Văn Tông là Bốc Đáp Thất Lý triệu hồi từ Tĩnh Giang (nay là Quế Lâm, Quảng Tây) và lập làm hoàng đế, tức là Nguyên Huệ Tông, còn gọi là Nguyên Thuận Đế. Huệ Tông mất nước Đầu thời kỳ tại vị của Nguyên Huệ Tông, năm 1335 con của Yến Thiếp Mộc Nhi là Đường Kỳ Thế âm mưu lật đổ Huệ Tông để lập nghĩa tử của Văn Tông là Đáp Lạt Hải. Thừa tướng Bá Nhan đập tan phản loạn, song nhân vật này thuộc phái bảo thủ và khống chế triều chính, quyền lực rất lớn. Ông cấm chỉ người Hán tham chính đồng thời thủ tiêu khoa cử, do vậy phát sinh xung đột với Nguyên Huệ Tông. Năm 1340, Nguyên Huệ Tông dưới sự bang trợ của cháu Bá Nhan là Thoát Thoát cuối cùng phế truất Bá Nhan. Nguyên Huệ Tông cùng Thoát Thoát điều hành chính sự vào thời kỳ đầu, triều đình Nguyên thi hành một loạt biện pháp cải cách như ban hành pháp quy "Chí chính điều cách", khiến chính trị cách tân, mâu thuẫn xã hội hòa hoãn, sử xưng Chí Chính tân chính. Năm 1243, Nguyên Huệ Tông hạ lệnh biên soạn "Liêu sử", "Kim sử", "Tống sử", do Hữu thừa tướng Thoát Thoát chủ trì, hai năm thì biên thành. Tuy nhiên, giai đoạn sau Nguyên Huệ Tông lười nhác chính sự, dẫn đến việc vào năm 1350 phát sinh thiên tai nhân họa rồi dẫn đến dân biến. Hậu kỳ của triều Nguyên, đặc biệt là từ năm 1340 đến 1350, trong nước thường phát sinh hạn hán, ôn dịch và thủy tai, khu vực Hoàng Hà chịu nạn lụt hết sức nghiêm trọng. Trong khi đó, triều đình Nguyên không ngừng thu các loại thuế, khiến sinh hoạt của bách tính càng thêm gian khổ, do vậy Bạch Liên giáo dần thịnh hành, trở thành thế lực đối kháng với triều Nguyên. Ngay từ năm 1325 đã phát sinh sự kiện Triệu Sử Tư, Quách Bồ Rá lãnh đạo khởi sự vũ trang tại Hà Nam. Năm 1338, tại Viên Châu thuộc Giang Tây (nay là Nghi Xuân, Giang Tây), nhóm giáo đồ Bạch Liên giáo dưới quyền Bành hòa thượng, Chu Tử Vượng khởi nghĩa thất bại, Bành hòa thượng chạy đến Hoài Tây. Năm 1350, triều đình Nguyên hạ lệnh cải cách tiền tệ, cho đúc "Chí Chính thông bảo", đồng thời phát hành lượng lớn "Trung Thống nguyên bảo giao sao" mới, khiến vật giá gia tăng nhanh chóng. Năm sau, Nguyên Huệ Tông phái Giả Lỗ trị thủy Hoàng Hà, muốn phục hồi dòng chảy cũ, huy động sử dụng tới 15 vạn dân phu, 2 vạn binh sĩ. Tuy nhiên, quan lại thừa cơ thủ lợi, gây bất mãn trong dân chúng. Các thủ lĩnh Bạch Liên giáo là Hàn Sơn Đồng, Lưu Phúc Thông quyết định vào tháng 5 sẽ lãnh đạo giáo chúng khởi sự, song âm mưu bị lộ nên Hàn Sơn Đồng bị giết. Lưu Phúc Thông lập con của Hàn Sơn Đồng là Hàn Lâm Nhi làm thủ lĩnh tối cao, nói rằng Hàn Sơn Đồng là cháu đời thứ tám của Tống Huy Tông, đề ra kỳ hiệu "phục Tống", lấy khăn đỏ làm dấu hiệu. Sau đó, Quách Tử Hưng tại Hào Châu thuộc An Huy khởi sự, nhóm Chi Ma Lý chiếm lĩnh Từ Châu, đây là Hồng Cân quân hệ phía đông. Tại Hồng Cân quân hệ phía tây, Bành Oánh Ngọc, Trâu Phổ Thắng và Từ Thọ Huy tại Kỳ Châu thuộc Hồ Bắc khởi sự, đặt quốc hiệu là "Thiên Hoàn". Thế lực của Hồng Cân quân có ở khắp nơi tại Giang Bắc, Giang Nam, Lưỡng Hồ và Tứ Xuyên, ngoài Hồng Cân quân còn có lực lượng như của Trương Sĩ Thành khởi sự, dân biến báo trước sự diệt vong của triều Nguyên. Triều đình Nguyên phái binh trấn áp Hồng Cân quân tại các nơi, Thừa tướng Thoát Thoát tự suất quân nam hạ công hãm quân Chi Ma Lý tại Từ Châu, trong một thời gian áp chế được quân dân biến. Tuy nhiên, vào năm 1354 Thoát Thoát khi tấn công quân Trương Sĩ Thành tại Cao Bưu thì bị đại thần triều đình hạch hỏi nên không giành được chiến thắng chung cuộc. Lực lượng của Từ Thọ Huy cuối cùng phân liệt thành lực lượng dưới quyền Trần Hữu Lượng tại Lưỡng Hồ và lực lượng dưới quyền Minh Ngọc Trân tại Tứ Xuyên. Bộ hạ Chu Nguyên Chương của Quách Tử Hưng tại Lưỡng Hoài vào năm 1356 lấy Nam Kinh làm căn cứ địa bắt đầu mở rộng địa bàn, đến năm 1363 tiến hành tác chiến với Trần Hữu Lượng đang chiếm cứ Lưỡng Hồ, cuối cùng trong trận hồ Bà Dương thì thu được thắng lợi. Năm 1365, sau khi chiếm lĩnh Lưỡng Hồ, Chu Nguyên Chương vào mùa đông đông tiến nhằm tiến công Trương Sĩ Thành đang chiếm cứ duyên hải Giang Tô. Năm 1367, sau khi bình định Trương Sĩ Thành, Chu Nguyên Trương tiếp tục nam hạ áp chế Phương Quốc Trân tại Chiết Giang, đến đây Giang Nam không còn thế lực nào phản kháng Chu Nguyên Chương. Ngoài ra, Phúc Kiến từ năm 1357 đến năm 1368 phát sinh biến loạn của quân Sắc Mục, sử xưng loạn Ispah. Đồng thời kỳ, quân Nguyên dưới quyền Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi và Lý Tư Tề phản kích Hồng Cân quân tại phương bắc. Năm 1363 Hồng Cân quân tại phương bắc cuối cùng trong chiến dịch An Phong chiến bại trước Trương Sĩ Thành lúc này đã hàng Nguyên, Lưu Phúc Thông chiến tử còn Hàn Lâm Nhi đi về phía nam nương nhờ Chu Nguyên Chương song sau đó bị giết. Chu Nguyên Chương sau khi thống nhất Giang Nam đến năm 1367 hạ lệnh Bắc phạt, ông phái Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân suất quân Minh phân biệt tiến công Sơn Đông và Hà Nam, đồng thời phong tỏa Đồng Quan nhằm để phòng quân Nguyên tại Quan Trung tiếp viện cho Trung Nguyên. Năm 1368, Chu Nguyên Chương xưng là hoàng đế, lập ra nhà Minh. Tháng tám năm 1368, quân Minh công hãm Đại Đô của Nguyên, Nguyên Huệ Tông đào thoát về bắc, sách sử coi đây là năm triều Nguyên kết thúc. Tuy nhiên, triều đình Nguyên vẫn tại Thượng Đô, sách sử gọi triều đình Nguyên từ đó về sau là Bắc Nguyên. Triều đình Minh nhận định Nguyên Huệ Tông thuận thiên minh mệnh, do vậy đặt thụy hiệu là Nguyên Thuận Đế Thời kỳ Bắc Nguyên Năm 1368, triều đình Nguyên đào thoát về thảo nguyên Mông Cổ, Nguyên Huệ Tông thoái đến Thượng Đô, năm sau lại đến Ứng Xương. Ông duy trì sử dụng quốc hiệu "Đại Nguyên", sử xưng Bắc Nguyên. Đương thời, ngoại trừ Nguyên Huệ Tông chiếm cứ Mạc Nam và Mạc Bắc, tại Quan Trung có tướng Nguyên Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi trú thủ tại Định Tây thuộc Cam Túc, triều đình Nguyên còn thống trị khu vực Đông Bắc và Vân Nam. Nhằm chiếm lĩnh phương bắc, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương chọn cách phân binh làm hai lộ, đó là Bắc phạt lần một. Nguyên Huệ Tông sau khi chiến bại vào năm 1370 từ trần tại Ứng Xương, con là Nguyên Chiêu Tông sau khi tức vị thì đào thoát về phía bắc đến Hòa Lâm thuộc Mạc Bắc. Tướng Minh là Phùng Thắng đoạt lấy khu vực Cam Túc. Mặt trận khác, tướng Nguyên Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi tại Mạc Bắc nhiều lần giao chiến với các tướng Minh như Từ Đạt. Minh Thái Tổ từng nhiều lần viết thư chiêu hàng song Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi bác bỏ, được Chu Nguyên Chương gọi là "đương thế kỳ nam tử". Tháng tư năm 1378, Nguyên Chiêu Tông từ trần, em là Nguyên Thiên Nguyên Đế kế vị tiếp tục đối kháng với triều Minh, nhiều lần xâm phạm lãnh thổ của Minh. Tại khu vực Đông Bắc và Vân Nam, năm 1371 Liêu Dương hành tỉnh bình chương Lưu Ích hàng Minh, triều Minh chiếm Liêu Ninh. Tuy nhiên lãnh thổ còn lại của khu vực Đông Bắc vẫn do Thái úy Nạp Cáp Xuất của Nguyên khống chế, Nạp Cáp Xuất đóng 20 vạn quân tại Kim Sơn (nay là khu vực phía nam sông Bắc Liêu thuộc Xương Đồ, Liêu Ninh), đối kháng với quân Minh trong cả thập niên, nhiều lần cự tuyệt sự chiêu dụ của triều Minh. Năm 1387, Phùng Thắng, Phó Hữu Đức, Lam Ngọc phát động Bắc phạt lần thứ năm, mục tiêu là công chiếm Kim Sơn của Nạp Cáp Xuất. Trải qua nhiều lần giao chiến, đến tháng 10 năm 1387 thì Nạp Cáp Xuất đầu hàng Lam Ngọc, triều Minh chiếm lĩnh khu vực Đông Bắc. Tướng Nguyên trấn thủ Vân Nam là Lương vương Bả Táp Lạt Ngõa Nhĩ Mật, sau khi triều đình Nguyên triệt thoái về thảo nguyên vẫn tiếp tục trung thành. Năm 1371, Minh Thái Tổ phái Thang Hòa lĩnh binh bình định Minh Ngọc Trân đang chiếm cứ Tứ Xuyên, đồng thời khuyến hàng Lương vương nhưng không thành. Tháng 12 năm 1381, quân Minh công nhập Vân Nam, đến năm 1382 thì Lương vương đào thoát khỏi Côn Minh rồi tự sát, sau đó quân Minh công chiếm Đại Lý, bình định khu vực Vân Nam. Nhằm triệt để loại trừ thế lực Bắc Nguyên, Minh Thái Tổ vào tháng 5 năm 1388 lệnh cho Lam Ngọc suất lĩnh 15 vạn quân tiến hành Bắc phạt lần thứ sáu. Quân Minh vượt qua sa mạc Gobi đến Bộ Ngư Nhân Hải (tức hồ Buir) đánh tan quân Bắc Nguyên, bắt hơn tám vạn người, Nguyên Thiên Nguyên Đế và con trưởng của ông là Thiên Bảo Nô đào tẩu, song ấu tử Địa Bảo Nô bị quân Minh bắt giữ, đến đây quốc thế Bắc Nguyên đại suy. Năm 1388, Nguyên Thiên Nguyên Đế bị hậu duệ của A Lý Bất Ca là Dã Tốc Điệt Nhĩ sát hại, Bắc Nguyên không còn tiếp tục sử dụng niên hiệu cùng quốc hiệu Đại Nguyên (có thuyết nói rằng là vào năm 1402 khi Quỷ Lực Xích giết Nguyên Đế Khôn Thiếp Mộc Nhi sau đó cải quốc hiệu sang Thát Đát), Bắc Nguyên mất. Cương vực Tiền thân của triều Nguyên là đế quốc Mông Cổ, năm 1206 Thành Cát Tư Hãn khi lập quốc đã chiếm hữu khu vực Mạc Nam-Mạc Bắc và Lâm Mộc Trung (nay là khu vực hồ Baikal). Nhờ công lao của Thành Cát Tư Hãn cùng các hãn khác của Mông Cổ, Đế quốc đông đến biển Nhật Bản và Cao Ly, bắc đến hồ Baikal, phía nam đối đầu với Nam Tống, phía tây đến Đông Âu, biển Đen và khu vực Lưỡng Hà. Thành Cát Tư Hãn phân cương thổ cho chư vương, Đông đạo chư vương là các em trai của Thành Cát Tư Hãn, đại đa số được phân phong tại khu vực đông bộ và đông bắc Tắc Bắc (phía bắc Vạn Lý Trường Thành), tính phụ thuộc rất cao. Tây đạo chư vương là các con trai của Thành Cát Tư Hãn, tính độc lập rất cao, trong đó phân phong cho con cả là Truật Xích tại khu vực thảo nguyên Khâm Sát ở phía bắc biển Aral và biển Caspi, sau này Bạt Đô thành lập Hãn quốc Kim Trướng tại đó; phong cho con thứ là Sát Hợp Đài tại lãnh thổ cũ của Tây Liêu ở phía bắc sông Syr Darya, sử xưng Hãn quốc Sát Hợp Đài; con thứ ba là Oa Khoát Đài được phân phong tại lãnh thổ cũ của Nãi Man, sau này Hải Đô lập nên Hãn quốc Oa Khoát Đài; lãnh thổ ban đầu của Mông Cổ thì do ấu tử Đà Lôi quản lý, sau này do Đại hãn trực tiếp quản lý. Lúc này, khu vực Hoa Bắc hay Hán địa, khu vực Transoxiana, khu vực Iran và Thổ Phồn do Đại hãn Mông Cổ trực tiếp quản lý. Năm 1252, sau khi Mông Kha thuộc dòng Đà Lôi tức vị, lệnh cho em là Húc Liệt Ngột tây chinh Tây Á, cuối cùng lập nên Hãn quốc Y Nhi, cùng các Tây đạo chư vương gọi chung là Tứ đại hãn quốc. Mông Kha lệnh cho Hốt Tất Liệt an trị Hán địa, cuối cùng nam diệt Đại Lý. Tuy nhiên, Mông Kha trong lúc tiến công Nam Tống thì từ trần, sau đó Hốt Tất Liệt và A Lý Bất Ca tranh vị khiến Tứ đại hãn quốc nối tiếp nhau không chịu sự quản chế của Đại hãn, Đế quốc đến đây phân liệt。 Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt thấy Tứ đại hãn quốc không phục tùng mình, do vậy đem khu vực Iran cắt nhượng cho Húc Liệt Ngột (về sau lập Hãn quốc Y Nhi), đem Transoxiana cắt nhượng cho Hãn quốc Sát Hợp Đài để đổi lấy sự ủng hộ của họ. Năm 1279, Nguyên Thế Tổ nam diệt Nam Tống, thống nhất khu vực Trung Quốc, cương vực đương thời là: bắc đến nam bộ Siberia vượt quá hồ Baikal, nam đến biển Đông, tây nam bao gồm Tây Tạng và Vân Nam ngày nay, tây bắc đến đông bộ Tân Cương ngày nay, đông bắc đến Ngoại Hưng An Lĩnh, biển Okhotsk, biển Nhật Bản, bao gồm đảo Sakhalin, tổng diện tích vượt quá 13 triệu km². Từ sau khi tiêu diệt Nam Tống, Nguyên nhiều lần xung đột với các quốc gia Nhật Bản, Miến Điện, Java, tuy nhiên cương thổ về đại thể là ổn định. Năm 1309 trong thời kỳ Nguyên Vũ Tông, Nguyên và Hãn quốc Sát Hợp Đài trước sau công diệt Hãn quốc Oa Khoát Đài, Nguyên đoạt lất lãnh thổ phía đông của Hãn quốc Oa Khoát Đài, lãnh thổ đạt đến 14 triệu km². Các quốc gia phiên thuộc của Nguyên như Cao Ly, Miến Điện, Đại Việt, Chiêm Thành, Java và Hãn quốc Kim Trướng, Hãn quốc Sát Hợp Đài, Hãn quốc Y Nhi. Ở phía bắc có các bộ tộc Mạc Bắc, phía nam có các quốc gia Nam Dương, tây có Tứ đại hãn quốc. Trong đó có hai quốc gia phiên thuộc trực thuộc, đó là Cao Ly và Pagan Miến Điện, phân biệt lập ra Chinh Đông hành tỉnh và Miến Trung hành tỉnh.。 Tại phía tây bắc, năm 1268 Hải Đô của Hãn quốc Oa Khoát Đài có ý đồ đoạt hãn vị nên liên hiệp với Hãn quốc Kim Trướng và Hãn quốc Sát Hợp Đài phản Nguyên, sử xưng Hải Đô chi loạn. Đến năm 1304 trong thời kỳ Nguyên Thành Tông, triều đình Nguyên và ba hãn quốc này đạt thành hòa nghị, họ cùng Hãn quốc Y Nhi thừa nhận địa vị tông chủ của Nguyên, trở thành quốc gia phiên thuộc của Nguyên, song cơ cấu hành chính do Nguyên thiết lập (như hành trung thư tỉnh và tuyên chính viện) không bao gồm các lãnh thổ này. Nguyên Thành Tông ban cho quân chủ của Hãn quốc Y Nhi các ấn tỉ khắc bằng Hán văn như "Chân mệnh hoàng đế hòa thuận vạn di chi bảo", về thực chất là đã thừa nhận tính độc lập của Y Nhi. Đến năm 1309 thuộc thời kỳ Nguyên Vũ Tông, Nguyên và Hãn quốc Sát Hợp Đài trước sau công diệt Hãn quốc Oa Khoát Đài, trong thời gian Nguyên Văn Tông tại vị cho biên soạn "Kinh thế đại điển", liệt Hãn quốc Kim Trướng, Hãn quốc Sát Hợp Đài, Hãn quốc Y Nhi là quốc gia phiên thuộc của Nguyên. Phân cấp hành chính Phân cấp hành chính của triều Nguyên về đại thể là kế thừa chế độ triều Kim và triều Tống, tuy nhiên có hai khác biệt: thời Nguyên diện tích mà các lộ quản lý giảm thiểu, một lộ chỉ có hai châu; triều Nguyên trên cấp lộ thiết lập đơn vị hành tỉnh, cuối cùng hành tỉnh thay thế lộ trở thành khu hành chính cấp một, hình thành chế độ tỉnh, đây là lần đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc toàn quốc thực thi chế độ hành tỉnh. Phân chia hành chính triều Nguyên từ cao xuống thấp phân thành hành tỉnh, lộ, phủ, châu và huyện, ngoài ra còn có lãnh thổ do Tuyên chính viện quản lý tương đương với hành tỉnh, "phúc lý" do Trung thư tỉnh trực tiếp quản lý cùng thổ ti ngang cấp châu. Phúc lý là lộ phủ do Trung thư tỉnh trực tiếp quản lý, Tuyên chính viện chủ quản khu vực Thổ Phồn. Thủ trưởng hành chính chủ yếu là người Mông Cổ, người Hán là phó. Mỗi tỉnh đặt một thừa tướng, bên dưới có bình chương, tả hữu thừa tướng tức quan viên 'tham tri chính sự', danh xưng nói chung tương đồng với Trung thư tỉnh. Thời Nguyên, các khu vực hành chính dưới cấp hành tỉnh đều đặt Đạt lỗ hoa xích làm thủ trưởng địa phương, đồng thời cho người Hán hoặc người thuộc dân tộc bản địa làm phó, để tạo thuận lợi cho người Mông Cổ khống chế địa phương. Mỗi lộ có Đạt lỗ hoa xích làm chủ, tổng quản là một người cấp phó. Tại phủ châu huyện đều cho Đạt lỗ hoa xích làm chủ, doãn làm phó. Châu, huyện đều đều được phân thành ba hạng là thượng, trung, hạ; tại các trung hạ châu đổi châu doãn thành tri châu. Thổ ty phân thành Tuyên úy sứ, Tuyên phủ sứ và An phủ sứ, tại Hồ Quảng hành tỉnh cho đặt 15 an phủ ty; tại Hồ Quảng và Tứ Xuyên phân đến bốn 'quân'. An phủ ty và quân đặt tại biên cảnh, khoảng tương đương với hạ châu tại nội địa, cũng đặt Đạt lỗ hoa xích làm chủ, người phó là nhân sĩ địa phương. Cấp cơ bản dưới cấp huyện theo phường lý chế trong thành và thôn xã chế tại nông thôn. Phương lý chế trong thành phân thành các đơn vị gọi là ngung (như Đông Tây ngung, Tây Nam ngung), dưới ngung đặt phường, đặt chức phường quan, phường ti. Dưới phường đặt lý hoặc xã, đặt chức lý chính, xã trưởng; có nơi đặt hạng chứ không đặt lý, đặt chức hạng trưởng. Thôn xã chế dưới cấp huyện đặt các hương, đặt chức hương trưởng, có nơi đặt lý chính. Dưới cấp hương đặt đô, đặt chức chủ thủ. Dưới đô đặt thôn xã, xã đặt chức xã trưởng。 Hành trung thư tỉnh có tên đầy đủ là "Mỗ mỗ đẳng xứ hành trung thư tỉnh", gọi tắt là "Mỗ mỗ hành trung thư tỉnh" hoặc "Mỗ mỗ hành tỉnh", bắt nguồn từ Hành thượng thư tỉnh của triều Kim. Bắt nguồn từ việc văn hóa tại các lãnh thổ mới chinh phục được có khác biệt lớn, do vậy chính phủ trung ương đặt đơn vị ngoại phái để quản lý. Do nhu cầu chiến tranh, hành tỉnh ngoài việc phụ trách hành chính còn phụ trách quân sự, cuối cùng hình thành khu hành chính cấp một. Ngay từ thời kỳ Mông Cổ đã thiết lập ba đoạn sự quan hoặc hành thượng thư tỉnh là Yên Kinh (Hoa Bắc Hán địa), Biệt Thất Bát Lý (Tây Liêu và Tân Cương ngày nay), A Mẫu Hà (khu vực Transoxiana). Những năm đầu triều Nguyên, phạm vi quản lý của hành tỉnh rất lớn, thay đổi tương đối thường xuyên, chủ yếu do quan viên cấp tể chấp thuộc Trung thư tỉnh tạm đến một khu vực phụ trách hành chính hoặc chinh phạt. Năm 1260, Nguyên Thế Tổ cho đặt 10 lộ tuyên phủ ty trong toàn quốc, năm thứ hai thì bãi bỏ. Năm sau, đổi sang đặt 10 lộ tuyên úy ty, dần thành định chế, đồng thời cho đặt Thiểm Tây Tứ Xuyên hành tỉnh. Sau đó đến khi diệt Tống mới bãi bỏ, phần nhiều chọn chế độ song hành tuyên úy ti và hành tỉnh. Hành tỉnh đại đa số đặt tại cương vực Tây Hạ, Đại Lý và lãnh thổ mới chiếm từ Nam Tống, gọi là "Trung thư tỉnh thần xuất hành tỉnh sự", sau khi diệt Nam Tống đem toàn quốc phân thành phúc lý trực thuộc Trung thư tỉnh, lãnh thổ do Tuyên chính viện quản lý và hơn mười hành trung thư tỉnh, đồng thời đặt hành tỉnh chuyên quản chinh thảo ngoại quốc. Năm 1321 trong thời kỳ Nguyên Anh Tông tổng cộng đặt 11 hành tỉnh (bao gồm Chinh Đông hành tỉnh đặt tại quốc gia phiên thuộc là Cao Ly). Đến những năm cuối triều Nguyên, số hành tỉnh tăng đến 15. Khu hành chính cấp một Phúc lý: Do Trung thư tỉnh trực tiếp quản lý, là khu vực phụ cận Đại Đô, ước đoán nay bao trùm Hà Bắc, Sơn Đông, Sơn Tây và bộ phận Nội Mông. Lãnh thổ trực thuộc Tuyên chính viện: Tuyên chính viện ngoài việc quản lý sự vụ Phật giáo toàn quốc, còn quản lý sự vụ quân chính tại khu vực Thổ Phồn, ước đoán nay bao trùm Thanh Hải, Tây Tạng. Hành trung thư tỉnh: Thời kỳ từ Nguyên Thế Tổ đến Nguyên Thành Tông đặt 10 đơn vị: Thiểm Tây, Liêu Dương, Cam Túc, Hà Nam Giang Bắc, Tứ Xuyên, Vân Nam, Hồ Quảng, Giang Chiết, Giang Tây, Lĩnh Bắc. Ngoài ra, các lãnh thổ Cáp Mật Lực (nay là địa khu Cáp Mật), Bắc Đình đô nguyên soái phủ (Biệt Thất Bát Lý) và Hỏa Châu nằm về phía tây của Cam Túc hành tỉnh không thuộc quyền quản lý của hành tỉnh nào.. Chinh thảo hành tỉnh: Chinh Tống hành tỉnh: như Thiểm Tây Tứ Xuyên hành tỉnh, Hà Đông hành tỉnh, Bắc Kinh hành tỉnh, Sơn Đông hành tỉnh, Tây Hạ Trung Hưng hành tỉnh, Nam Kinh Hà Nam phủ đẳng lộ hành tỉnh, Vân Nam hành tỉnh, Kinh Hồ hành tỉnh, Giang Hoài hành tỉnh. Sau khi diệt Tống, định hình giống như hành trung thư tỉnh. Chinh Ngoại hành tỉnh: Tại Cao Ly cho đặt Chinh Đông hành tỉnh (còn gọi là Nhật Bản hành tỉnh), tại Miến Điện cho đặt Miến Trung hành tỉnh (còn gọi là Chinh Miến hành tỉnh), tại An Nam cho đặt Giao Chỉ hành tỉnh (còn gọi là An Nam hành tỉnh), tại Chiêm Thành cho đặt Chiêm Thành hành tỉnh. Chúng đều là cấu trúc mang tính lâm thời, hoàn thành công việc thì lập tức bãi bỏ, chỉ có Chinh Đông hành tỉnh đến sau trung kỳ triều Nguyên, ổn định thành tước Cao Ly vương. Thừa tướng hành tỉnh phân biệt do quốc vương bản địa hoặc chủ tướng quân viễn chinh đảm nhiệm, là quốc gia phiên thuộc, có tính chất không giống với hành tỉnh khác. Bình loạn hành tỉnh: Đối phó với dân biến thời Nguyên mạt, triều đình Nguyên trước sau tại các nơi như Tế Ninh, Chương Đức, Ký Ninh, Bảo Định, Chân Định, Đại Đồng đặt trung thư phân tỉnh. Triều đình còn phân biệt thiết lập Hoài Nam Giang Bắc hành tỉnh, Phúc Kiến hành tỉnh, Sơn Đông hành tỉnh, Quảng Tây hành tỉnh, Giao Đông hành tỉnh và Phúc Kiến Giang Tây hành tỉnh. Ngoài ra, quân khởi nghĩa thời Nguyên mạt cũng đặt hành tỉnh để thuận tiện trong việc thống trị, như Giang Nam hành tỉnh, Biện Lương hành tỉnh, Lũng Thục hành tỉnh, Giang Tây hành tỉnh của Thiên Hoàn; Giang Nam hành tỉnh, Ích Đô hành tỉnh của Hàn Tống; cùng với Giang Tây hành tỉnh, Hồ Quảng hành tỉnh, Giang Hoài hành tỉnh, Giang Chiết hành tỉnh do Chu Nguyên Chương đặt. Chế độ chính trị Việc kế thừa hoàng vị của triều Nguyên và đế quốc Mông Cổ khác biệt với các vương triều trước của Trung Quốc, chọn thực thi chế độ tiến cử qua đại hội Khuruldai, do vương thất quý tộc cùng bầu ra lãnh tụ. Các hoàng đế của triều Nguyên cũng kiêm nhiệm chức vụ khả hãn của đế quốc Mông Cổ, do hãn vị của Nguyên Thế Tố không được thừa nhận qua đại hội Khuruldai, khiến bốn hãn quốc lớn không phục, đến thời Nguyên Thành Tông mới khôi phục quan hệ tông chủ. Sau khi Nguyên Thế Tổ kiến lập triều Nguyên, có ý lập Chân Kim làm thái tử, định lập cấu trúc cha truyền con nối, tuy nhiên do Chân Kim mất sớm nên vấn đề kế thừa lại nổi lên. Triều Nguyên sau đó thường vì hoàng thái tử mất sớm hoặc huynh đệ tranh vị mà hỗn loạn bất an, trung kỳ còn có hiệp định Vũ-Nhân chi ước mà theo đó hệ của Vũ Tông và hệ của Nhân Tông sẽ luân phiên kế thừa hoàng vị, tuy nhiên do Nguyên Nhân Tông phế trừ hiệp định nên tình hình lại hỗn loạn. Vấn đề kế thừa của triều Nguyên đến thời Nguyên Huệ Tông mới ổn định, song đã tiếp vào mạt kỳ của triều đại. Chế độ chính trị của triều Nguyên và của triều Kim đều thừa tập chế độ của triều Tống, chọn thi hành chế độ văn võ phân quyền, lấy Trung thư tỉnh tổng quản chính vụ, Xu mật viện quản lý binh quyền. Tuy nhiên, Trung thư tỉnh của triều Nguyên đã trở thành cơ quan hành chính tối ao trung ương, Nguyên không đặt Môn hạ tỉnh, Thượng thư tỉnh khi đặt khi không, chỉ có thời Thế Tổ và Vũ Tông là đặt, do vậy quyền lực của Môn hạ tỉnh và Thượng thư tỉnh đều giao cho Trung thư tỉnh. Trung thư lỉnh quản lý Lục bộ, chủ trì chính vụ toàn quốc, hình thành tiên phong cho chế độ nội các Minh-Thanh. Cơ cấu tổ chức này kế thừa thể chế Nam Tống, cách xưng hô với tể tướng cò Trung thư lệnh, Ty thống soái bá quan và tổng lý chính vụ. thường để hoàng thái tử kiêm nhiệm. Bên dưới phân thành tả-hữu thừa tướng, nếu thiếu Trung thư lệnh thì tổng lĩnh sự vụ Trung thư tỉnh. Bình chương chính sự cũng đứng thứ hai, phàm là trọng sự của quân đội và quốc gia thì không thể không tham gia quyết định. Phó tướng có tả hữu thừa, tham chính. Lục bộ tổng cộng có Lại bộ, Hộ bộ, Lễ bộ, Binh bộ, Hình bộ và Công bộ, trong có Thượng thư, Thị lang. Thượng thư tỉnh chủ yếu phụ trách sự vụ tài chính, song lúc đặt lúc phế.  Xu mật viện quản lý quân sự, ngự sử đài phụ trách đốc sát, đại thể tương đồng với chế độ triều Tống, tuy nhiên tại địa phương đặt Hành trung thư tỉnh, Hành xu mật viện và Hành ngự sử đài. Ngoài ra, còn có Tập hiền viện quản lý giáo dục, Tuyên huy viện quản lý ngự thiện, Thông chính viện quản lý dịch trạm, ngoài ra còn có Thái thường lễ nghi viện, Thái sử viện, Thái y viện và Tương tác viện, bỏ cửu tự chư giám của các triều đại trước. Cuối cùng, thành lập mới có Tuyên chính viện (ban đầu là Tổng chế viện), phụ trách Phật giáo và sự vụ quân chính của khu vực Thổ Phồn, là cơ quan không có trước đây. Xúc tiến Hán pháp và bài xích Hán pháp Triều Nguyên giữa việc xúc tiến chế độ phép tắc của người Hán và duy trì luật cũ của Mông Cổ thường phát sinh xung đột, và phân liệt thành phái thủ cựu và phái sùng Hán. Ngay từ sau khi Thành Cát Tư Hãn công chiếm Hán địa, người Mông Cổ dựa vào Da Luật Sở Tài và Mộc Hoa Lê xúc tiến Hán pháp để duy trì chế độ phép tắc của người Hán. Đương thời, cận thần Biệt Điệt kiến nghị trục xuất người Hán đồng thời biến Trung Nguyên thành đại mục trường để thu lấy của cải, song bị Da Luật Sở Tài phản đối, ông nhận định có thể dùng phương thức trưng thu thuế để có được của cải, do đó bảo lưu chế độ phép tắc của Hán địa. Ông tích cực cải biến tác phong tàn sát toàn thành nếu kháng cự khi bị công chiếm của quân Mông Cổ, nỗ lực đề xướng Nho học, chỉnh đốn lại trị, là người sáng lập xúc tiến Hán pháp thời Nguyên. Nhằm thuận lợi trong quản lý Hán địa, Mộc Hoa Lê hợp tác với tứ đại thế hầu Hán tộc, dần củng cố quản lý với các nơi như Hà Bắc, Sơn Tây. Sau này, Hốt Tất Liệt khi quản lý Hán địa tích cực xúc tiến Hán pháp, sử dụng lượng lớn phụ tá và Nho sĩ người Hán lập ra chế độ phép tắc, như Lưu Bỉnh Trung, Hứa Hành hay Diêu Xu, đồng thời đề xuất chủ trương "hành Hán pháp", tích cực thúc đẩy trào lưu học tập Hán văn. Hốt Tất Liệt rất quen thuộc điển tịch và chế độ lễ nghi Hán văn, đồng thời có thể dùng Hán văn sáng tác thi ca, cũng như làm hình thức quy định pháp luật, Thái tử cần phải học tập Hán văn. Tiếp thu đề nghị xưng hiệu "Nho giáo đại tông sư" của nho sĩ Nguyên Hảo Vấn và Trương Đức Huy. Hốt Tất Liệt tại Đại Đô kiến nguyên xưng đế, lập ra triều Nguyên theo khuôn mẫu Trung Quốc, lập một số thể chế chính trị theo mô hình trung ương tập quyền truyền thống Trung Quốc, như Tam tỉnh lục bộ hay Ty nông ty, sử dụng cơ cấu thống trị của Trung Nguyên để thống trị nhân dân, sử dụng Lưu Bỉnh Trung và những người khác quy hoạch kiến lập thủ đô Đại Dô. Tuy nhiên, sau phản loạn Lý Thản thì Nguyên Thế Tổ dần không sử dụng người Hán. Do bốn hãn quốc lớn và phải thủ cựu vương thất Mông Cổ đều bất mãn trước việc Nguyên Thế Tổ thi hành Hán pháp nên làm phản hoặc xa cách. Nguyên Thế Tổ trong những năm cuối dần lãnh đạm với Nho thần, sử dụng phái lý tài gồm người Sắc Mục và người Hán như A Hợp Mã, Lô Thế Vinh và Tang Ca, Hán pháp cuối cùng chưa thành một bộ thể chế hoàn chỉnh. Sau này, Nguyên Nhân Tông, Nguyên Anh Tông, Nguyên Văn Tông và Nguyên Huệ Tông càng có thể thuần thục vận dụng Hán văn tiến hành sáng tác. Một số quý tộc Mông Cổ nhập cư Trung Nguyên ái mộ văn hóa Hán, còn thỉnh Nho sinh đến nhà giáo dục cho con. Trên phương diện học tập còn phiên dịch nhièu điển tịch Hán văn, như "Thông giám tiết yếu", "Luận ngữ", "Mạnh tử", "Đại học", "Trung dung", "Chu lễ", "Xuân thu", "Hiếu kinh". Tuy nhiên, phái sùng Hán và phái thủ cựu thường phát sinh xung đột và chính biến, như Nam Pha chi biến. Chế độ tuyển tài Trên phương diện tuyển dụng nhân tài, triều Nguyên thời gian đầu cực kỳ ít cử hành khoa cử, do đó quan viên cao cấp được tuyển dụng theo quan hệ xa gần với triều đình Nguyên mà quyết định, chủ yếu theo phương thức thế tập, ân ấm, tuyển cử. Ngoài ra, còn có phương thức tư lại thăng tiến thành quan liêu, khác biệt lớn với chế độ triều Tống. Triều Tống có giới hạn rõ giữa quan và lại, tư lại đại đa số cuối cùng vẫn là tư lại, tuy nhiên triều Nguyên do thiếu khoa cử chọn người tài, nên sử dụng phương thức tuyển cử hoặc khảo thí tư lại để thăng làm quan, điều này phá bỏ vách ngăn quan lại, khiến quan lại trở thành quan hệ trên dưới. Trên phương diện khoa cử tuyển tài, Oa Khoát Đài nghe theo kiến nghị của Da Luật Sở Tài, triệu tập danh Nho giảng kinh tại Đông cung, đưa con em đại thần đến nghe giảng. Ngoài ra còn đặt "Biên tu sở" tại Yên Kinh, "Kinh tịch sở" tại Bình Dương, xúc tiến học tập văn hóa cổ đại Hán tộc. Năm 1234 đặt "Kinh thư quốc tử học", cho Phùng Chí Thường làm tổng giáo tập, lệnh 18 người là con em thị thần nhập học, học tập văn hóa Hán. Năm 1238, Thuật Hốt Đức và Lưu Trung cử hành Mậu Tuất tuyển thí, lần khoa cử đầu tiên này chọn được 4.030 người, đồng thời lập nho hộ nhằm bảo hộ sĩ đại phu. Tuy nhiên, cuối cùng triều đình phế trừ khoa cử, chuyển về chế độ tuyển cử, về sau hai lần tổ chức vào năm 1252 và 1276, tổng cộng tuyển 1890 Nho hộ. Sau khi Nguyên Thế Tổ tức vị, chính thức thiết lập Quốc tử học, cho Hứa Hành làm Tập hiền đại học sĩ kiêm Quốc tử tế tửu, chọn con em Mông Cổ vào học, học văn sử kinh điển Nho gia, bồi dưỡng nhân tài thống trị. Năm 1289, Nguyên Thế Tổ hạ chiếu phân đẳng cấp hộ tịch nhân khẩu Giang Nam, năm sau chính thức thi hành chế độ tuyển cử, đẳng cấp lần này trở thành căn cứ hộ kế về sau. Đến năm 1313, Nguyên Nhân Tông vốn đề xướng Hán hóa đã hạ chiếu khôi phục khoa cử, tháng 8 năm 1314 cử hành hương thí tại 17 khảo trường trên toàn quốc, tháng hai và tháng 3 năm 1315 lần lượt cử hành hội thí và điện thí tại Đại Đô, do cử hành vào thời gian niên hiệu Diên Hựu, nên sử xưng "Diên Hựu phục khoa". Lần khoa cử này lấy Trình-Chu lý học làm nội dung khảo thí. Triều Nguyên trước sau tổng cộng cử hành 16 lần khoa cử, tuyển chọn khoảng hơn 1.100 tiến sĩ người Mông Cổ, Sắc Mục, Hán nhân, Nam nhân. Tuy nhiên, nhằm bảo vệ người Mông Cổ và người Sắc Mộc, khảo thí rất khó với người Hán, và nhóm này chỉ có thể giành được một nửa hạn ngạch, điều này khiến con em Mông Cổ và Sắc Mục mất tính tích cực học tập văn hóa Hán tộc và tinh thần tiến thủ. Khi triều Nguyên diệt vong, trong số xả thân tuẫn quốc có rất nhiều người xuất thân từ khoa cử, có thể thấy phục hồi khoa cử đối với sĩ đại phu Hán tộc Hoài-Nhu có hiệu quả nhất định. Quan hệ đối ngoại Triều Nguyên thường xuyên trao đổi ngoại giao với các nước, các sứ tiết, nhà truyền giáo, thương lữ các nơi phái đến liên tục, trong đó có anh em thương nhân Venezia Niccolò và Maffeo Polo và con của Niccolò là Marco Polo nhận được tín nhiệm của hoàng đế triều Nguyên. Triều đình Nguyên từng yêu cầu một số quốc gia hoặc khu vực xung quanh (bao gồm Nhật Bản, Đại Việt, Chiêm Thành, Miến Điện, Java) thần phục, tiếp nhận quan hệ triều chống với triều Nguyên, tuy nhiên bị cự tuyệt, do đó triều Nguyên phái khiển quân đội tiến công các quốc gia hoặc khu vực này, trong đó nổi danh nhất là Chiến tranh Nguyên-Nhật, cũng là bi thảm nhất Vương triều Cao Ly có lãnh thổ là bán đảo Triều Tiên, sau này gia tộc Thôi (Choe) thống trị chính quyền, quốc vương biến thành bù nhìn. Cao Ly trước sau thần phục triều Liêu và triều Kim, Mông Cổ sau khi trỗi dậy cùng Cao Ly phạt Kim, đồng thời hẹn ước là nước huynh đệ. Năm 1225, Mông Cổ yêu cầu Cao Ly triều cống cho mình, khi sứ tiết Mông Cổ đến biên giới Uiju (Nghĩa Châu) thì bị Cao Ly làm hại, đương thời Mông Cổ bận Tây chinh nên không tiến hành chinh thảo. Năm 1231, Oa Khoát Đài Hãn phái Tát Lễ Tháp suất binh xâm nhập Cao Ly, lãnh tụ chính quyền Thôi thị là Thôi Vũ (Choe Woo) kháng cự thất bại, thủ đô Cao Ly là Tùng Đô (Songdo, nay là Kaesong) bị đánh chiếm, sử xưng Chiến tranh Cao Ly-Mông Cổ. Quân Mông Cổ đặt nhiều vị Đạt lỗ hoa xích để giám sát chính sự của Cao Ly. Năm sau, Thôi Vũ giết Đạt lỗ hoa xích, ủng hộ Cao Ly Cao Tông từ Tùng Đô dời đến đảo Giang Hoa (Ganghwa), tiến hành trường kỳ kháng Mông, ngoài ra còn có lực lượng Tam Biệt Sao (Sambyeolcho) kháng cự quân Mông đến năm 1273. Tuy nhiên, triều đình Cao Ly phân liệt thành phái văn có ý phản chiến, và chính quyền Thôi thị có ý kháng Mông. Thời Quý Do, Mông Kha, Mông Cổ lại bốn lần thảo phạt lãnh địa Cao Ly, năm 1258 chính quyền Thôi thị bị lật đổ, sau đó Cao Ly Cao Tông khiển vương tử đến xưng thần, chính thức trở thành nước phiên thuộc của Mông Cổ. Năm 1283, nhằm phục vụ thảo phạt Nhật Bản, Nguyên Thế Thổ cho đặt Chinh Đông hành tỉnh tại Cao Ly, quốc vương của Cao Ly là tả thừa tướng của hành tỉnh, nội chính chịu sự khống chế của người Mông Cổ. Quân chủ của Cao Ly từ thời Trung Liệt Vương kết hôn với công chúa Mông Cổ, người kế thừa quân chủ Cao Ly theo ước định cần phải trú tại Đại Đô của Nguyên để trưởng thành theo phương thức của người Mông Cổ, sau đó mới có thể về Cao Ly. Sau khi Cao Ly trở thành nước phiên thuộc của triều Nguyên, Nguyên Thế Tổ sáu lần khiển sứ giả yêu cầu Nhật Bản (thời Mạc phủ Kamakura) triều cống, song đều thất bại, đo đó bắt đầu Chiến tranh Nguyên-Nhật. Năm 1274, quân Nguyên phát động chiến tranh xâm nhập Nhật Bản lần thứ nhất, sử thư Nhật Bản xưng là chiến dịch Bunei (文永の役), triều đình Nguyên phái hơn 32 nghìn người Đông chinh Nhật Bản, cuối cùng do gặp phải bão nên thương vong thảm trọng. Năm 1281, Hốt Tất Liệt lại phát động chiến tranh xâm nhập Nhật Bản lần thứ nhì, sử thư Nhật Bản xưng là chiến dịch Koan (弘安の役), do Phạm Văn Hổ, Lý Đình suất hơn 10 vạn quân Giang Nam, nhưng do quân Nhật tích cực kháng cự, và quân Nguyên lại gặp phải bão, nên cuối cùng lại chịu thảm bại. Nhận định phổ biến là bão và quân Nguyên không giỏi thủy chiến là các nguyên nhân lớn nhất dẫn đến thất bại. Sau này, Nguyên Thế Tổ lại chuẩn bị đông chinh lần thứ ba, song do đại thần khuyến gián, lại thêm việc xuất binh tiến công An Nam nên bãi bỏ. Sau đó, Nguyên Thế Tổ nhiều lần khiển sứ song đều bị Nhật Bản cự tuyệt, quan hệ thông sứ mãi không thể kiến lập, song giao lưu kinh tế và văn hóa vẫn rất phồn thịnh, người Nhật Bản sang Nguyên hầu hết là thương nhân và thiền tăng. Triều đình Nguyên hạ lệnh cho quan ty duyên hải khai thông mậu dịch hải ngoại với Nhật Bản, cảng chủ yếu là Khánh Nguyên (nay là Ninh Ba). Lãnh thổ Đại Việt (An Nam) nằm tại miền bắc Việt Nam ngày nay, từ thời Ngũ Đại-Bắc Tống đã độc lập với Trung Hoa. Mông Kha Hãn vào năm 1257 phái Ngột Lương Hợp Thai tiến công Đại Việt (thời Trần), Chiến tranh Mông-Việt bùng phát. Sau khi kết thúc giao tranh, quân Mông Cổ thua lui về Vân Nam, nhưng Trần Thái Tông xưng thần trên danh nghĩa với Mông Cổ, được Mông Kha Hãn phong làm An Nam quốc vương. Tuy nhiên, Mông Cổ vẫn chưa bỏ mộng chinh phạt Đại Việt, họ tiếp tục đưa ra nhiều yêu sách đòi Trần Thái Tông và con là Trần Thánh Tông phải kê khai dân số, gửi quân chi viện, chịu sự giám sát của quan darugachi, đích thân sang chầu,... những điều khoản này phần này nhiều bị các vua Trần từ chối. Tình hình càng căng thẳng hơn sau khi Trần Thánh Tông nhường ngôi cho Trần Nhân Tông năm 1278. Đương thời phía nam của Đại Việt có nước Chiêm Thành, năm 1282 Quốc vương Chiêm Thành là Indravarman IV khiển sứ triều cống triều Nguyên, Nguyên Thế Tổ nhân đó đặt Kinh Hồ Chiêm Thành hành trung thư tỉnh, cho A Lý Hải Nha làm bình chương chính sự. Do Chiêm Thành câu lưu sứ giả của Nguyên, Nguyên Thế Tổ dựa vào đó phát binh phân thủy bộ tiến công. Ông bổ nhiệm Toa Đô suất thủy quân từ Quảng Châu vượt biển công kích Chiêm Thành. Năm sau, thủy quân Mông Cổ đánh hạ thành mà Indravarman IV cứ thủ, Indravarman IV cầu hòa, song sau khi Mông Cổ thoái quân lại giết sứ giả. Năm 1284, Nguyên Thế Tổ phái Trấn Nam vương Thoát Hoan, A Lý Hải Nha và Toa Đô suất quân mượn đường Đại Việt tiến công Chiêm Thành, song Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông phản kháng nên hai bên bùng phát chiến tranh. Quân Nguyên xâm nhập Đại Việt với quy mô lớn, đánh chiếm được kinh đô Thăng Long. Tuy nhiên, hai vua Trần và các tướng tôn thất tài ba như Trần Quang Khải, Trần Hưng Đạo suất lĩnh quân Việt tích cực kháng cự, lại thêm quân Nguyên mắc phải ôn dịch. Cuối cùng, quân Nguyên triệt thoái vào năm 1285, trên đường bị quân Việt tập kích, tổn thất quá bán. Năm 1288, triều đình Nguyên lại tiến hành nam chinh song vẫn thất bại, sau đó Trần Nhân Tông thỉnh hòa. Cuộc chiến tranh kéo dài này đến thời Nguyên Thành Tông mới ngưng, An Nam và Chiêm Thành về sau duy trì triều cống triều đình Nguyên. Đương thời, có nhiều quốc đảo tại Đông Nam Á triều cống cho triều đình Nguyên, hữu danh có Mã Lan Đan (nay là Malacca), Tô Mộc Đô Lạp (nay là Sumatra). Năm 1292, Nguyên Thế Tổ mệnh Diệc Hắc Mê Thất, Sử Bật và Cao Hưng đem thủy quân Phúc Kiến nam chinh Vương quốc Majapahit trên đảo Java, đồng thời làm khuất phục nước lân cận của Majapahit là Cát Lang, song trúng kế bị đột kích, chiến bại trở về, song sau đó Majapahit vẫn phái sứ giả đến triều cống. Ngoài ra, Nguyên Thế Tổ còn phái sứ giả chiêu hàng Lưu Cầu Quốc (nay là Đài Loan hoặc Ryukyu), song sứ giả chỉ đến Bành Hồ rồi về. Đại Lý kế thừa Nam Chiếu từ thời Đường, do Đoàn Tư Bình kiến quốc vào năm 937, chiếm hữu khu vực Vân Nam ngày nay. Năm 1252, Mông Kha Hãn mệnh Hốt Tất Liệt và Ngột Lương Hợp Thai từ Tứ Xuyên đi đường vòng về phía nam diệt Đại Lý, Quốc vương Đoàn Hưng Trí của Đại Lý bị giáng làm Đại Lý thế tập tổng quản. Thổ Phồn từ thời vãn Đường đã tiến vào suy thoái, song Phật giáo Tạng truyền tại đây lại ngày càng hưng thịnh, thế lực của lạt ma vượt quá địa vị của tán phổ (quân chủ). Năm 1247, con thứ của Oa Khoát Đài Hãn là Khoát Đoan triệu thỉnh lạt ma Ban Trí Đạt (Pandit) đến Lương Châu, sử xưng Lương Châu hội minh, từ sau đó lạt ma Thổ Phồn và đại hãn Mông Cổ hình thành quan hệ bố thí. Khi Hốt Tất Liệt nam chinh Đại Lý, phân binh thảo phạt Thổ Phồn, Lạt ma Ban Trí Đạt và tán phổ đầu hàng, Thổ Phồn mất. Nguyên Thế Tổ phong người kế nhiệm Ban Trí Đạt là Bát Tư Ba (Phagpa) là "đế sư", kiêm nhiệm tổng chế viện (sau đổi thành tuyên chính viện) viện sứ, nắm quyền lực thống trị khu vực Ô Tự Tạng (U-Tsang), khiến người thống trị Tây Tạng chuyển từ tán phổ sang lạt ma. Vào sơ kỳ của triều Nguyên, Miến Điện nằm dưới quyền cai trị của vương triều Pagan. Nguyên Thế Tổ phái sứ giả chiêu hàng song Pagan không chấp thuận, phái quân xâm nhập Vân Nam, Chiến tranh Nguyên-Miến bùng phát, sau đó quân Nguyên cũng nhiều lần tiến công Miến Điện. Năm 1283, Nguyên Thế Tổ phái quân xâm nhập Miến Điện, hai năm sau quốc vương của Miến Điện thỉnh hòa. Năm 1287, Miến Điện lâm vào nội loạn, quân Nguyên thừa cơ tiến công Miến Điện, thành Pagan bị phá, Miến Điện trở thành phiên thuộc của triều Nguyên, Narathihapate mất vương vị, triều đình Nguyên lập Miến Trung hành tỉnh, sau đó bổ nhiệm quốc vương Pagan làm tả thừa tướng của hành tỉnh, trở thành bù nhìn của triều Nguyên. Năm 1368, người Shan lập Vương quốc Ava tại miền đông của Miến Điện. Người Môn kiến đô tại Martaban, năm 1369 thiên đô đến Pegu, kiến lập vương triều Pegu, hai vương quốc nam bắc giao chiến. Thủ lĩnh của người Shan cầm giữ Miến Điện vương, khiến Nguyên Thành Tông phái quân Nguyên thảo phạt, cuối cùng Ava phái sứ triều cống. Vương quốc Lan Na nằm tại phía đông của Ava, từng liên hiệp với Ava kháng cự quân Nguyên, triều Nguyên nhiều lần thảo phạt song chưa thành, đến thời Nguyên Thái Định Đế mới nội phụ. Đương thời, tại khu vực Thái Lan ngày nay còn có Vương quốc Sukhothai, Vương quốc Ayutthaya cùng các tiểu quốc khác. Đến cuối thời Nguyên Thế Tổ, Ayutthaya bắt đầu tiến cống triều đình Nguyên, đến cuối thời Nguyên thì vương quốc này thôn tính các tiểu quốc khác, thống nhất thành Xiêm La. Thời kỳ Đế quốc Mông Cổ tiến hành ba lần tây chinh cũng là lúc Giáo hoàng La Mã đề xướng Thập tự quân đông chinh Tây Á nhằm thu phục Jerusalem. Do Giáo hoàng La Mã rất cần viện trợ từ bên ngoài để chống lại tín đồ Hồi giáo, và các quốc gia Cơ Đốc giáo tại châu Âu vừa trải qua Tây chinh lần thứ hai của Mông Cổ, lại thêm giao thông giữa phương đông và phương tây lúc này rất tiện lợi, nên nhiều lần phái sứ giả về phía đông để hiểu rõ về cường quốc phương đông này. Năm 1245, Giáo hoàng La Mã từng phái Giovanni da Pian del Carpine qua Hãn quốc Kim Trướng đến Hòa Lâm yết kiến Quý Do Hãn, về nước ghi chép thành "Ystoria Mongalorum". Năm 1253, Quốc vương Louis IX của Pháp phái Guillaume xứ Rubrouck lấy danh nghĩa truyền giáo đến Hòa Lâm yết kiến Mông Kha Hãn, về nước ghi chép thành sách ký sự. Năm 1316, một người Ý là Odorico xứ Pordenone theo đường biển đến Đại Đô, tham gia khánh điển cung đình của Nguyên Thái Định Đế, về nước ghi chép thành sách ký sự, phạm vi xa đến Tây Tạng, miêu tả khá tỉ mỉ Đại Đô và cung đình. Trứ danh nhất là nhà thám hiểm người Ý Marco Polo, ông cùng cha và chú đến Nguyên vào năm 1275 yết kiến Nguyên Thế Tố, đến năm 1291 mới rời đi. Ông đảm nhiệm chức vụ quan viên trong triều đình Nguyên, từng đến các địa phương của Nguyên, "Marco Polo du ký" của ông phản ánh nhiều góc độ của triều Nguyên, hấp dẫn người châu Âu đến Trung Quốc. Ngoài ra, triều Nguyên và các quốc gia khu vực chau Phi cũng có qua lại, Uông Đại Uyên vào năm 1330 và 1337 hai lần vượt biển qua nhiều địa phương tại Nam Dương và Tây Dương, cuối cùng ghi chép thành "Đảo di chí lược", có ảnh hưởng đến Trịnh Hòa hạ Tây Dương vào sơ kỳ thời Minh. Quân sự Quân đội truyền Nguyên chiếu theo quan hệ mà phân thành bốn đẳng cấp Mông Cổ quân, Tham mã xích quân, Hán quân và Tân phụ quân. Mông Cổ quân và Tham mã xích quan chủ yếu là kỵ binh. Hán quân và Tân phụ quân đại đa số là bộ quân, và cũng có một bộ phận là kỵ binh. Thủy quân sắp xếp thành Thủy quân vạn hộ phủ, hay thủy quân thiên hộ sở. Pháo quân do pháo thủ và thợ chế pháo tạo thành, sắp xếp thành Pháo thủ vạn hộ phủ, pháo thủ thiên hộ sở, đặt pháo thủ tổng quản.。 Mông Cổ quân là cốt cán trong quân đội triều Nguyên, chủ yếu là người Mông Cổ hợp thành. Mông Cổ quân được sáng lập ngay từ thời Thành Cát Tư Hãn thống nhất Mông Cổ, thời bình chăn nuôi trên thảo nguyên, thời chiến tạm thời tập hợp. Sử dụng vạn hộ chế (Tumen) binh dân hợp nhất, theo cơ số 10 sắp xếp thành thập hộ, bách hộ, thiên hộ. Người trong độ tuổi từ 15 tuổi đến 70 tuổi đều phục vụ binh dịch, trước độ tuổi đó đã hợp thành "tiệm đinh quân". Thời kỳ triều Nguyên, trong quân hộ tại Hán địa và Giang Nam ban hành chế độ đinh nam ứng dịch. Tham mã xích quân còn có tên là Thiêm quân, cùng với phát triển của chiến tranh, người thống trị cần một bộ phận quân đội Mông Cổ trấn thủ trường kỳ tại khu vực chinh phục được, do vậy trưng dụng bộ phận sĩ binh từ trong các bộ tộc Mông Cổ, hợp thành Tham mã xích quân chuyên sử dụng vào việc đồn trú phòng thủ. Từ khi kiến lập vào năm 1217 khi Mộc Hoa Lê thảo phạt Kim, do năm bộ tộc Là Hoằng Cát Lạt, Ngột Lỗ Ngột, Mang Ngột, Trát Lạc Diệc Nhi và Diệc Khất Liệt Tư tổ thành, sau khi tây chinh Khwarezm các dân tộc Hồi, Duy Ngô Nhĩ và Đột Quyết trở thành một bộ phận của Tham mã xích quân. Tham mã xích quân giỏi về hỏa pháo và Hồi Hồi pháo (máy bắn đá) phương tây, có sức công thành mạnh. "Xuống ngựa liền tụ tập chăn thả, lên ngựa liền chuẩn bị chiến tranh".」。 Sau khi chiếm lĩnh Hán địa, Mông Cổ lấy dân làm binh, tức Hán binh, chủ yếu hợp thành từ hàng quân Nữ Chân và Khiết Đan của Kim, binh sĩ Nam Tống đầu hàng Mông Cổ thời kỳ đầu, thế lực vũ trang người Hán địa phương và bách tính Hán địa được trưng dụng. Oa Khoát Đài Hãn vào năm 1229 thu nạp và cải biên hàng quân Nữ Chân và Khiết Đan của Kim, trưng dụng sĩ binh quy mô lớn trong dân hộ tại Hán địa, bổ sung số lượng binh sĩ cho Hán quân, đem tổ chức và danh xưng chức vụ trong Mông Cổ quân áp dụng cho hệ thống Hán quân. Các vạn hộ của Hán quân có quân số không giống nhau, "lớn có 5, 6 vạn, nhỏ không dưới 2, 3 vạn". Hán quân có phân biệt "cựu quân" và "tân quân"; cựu quân chủ yếu là hàng quân và thế lực vũ trang địa phương, tân quân chỉ tân binh là bách tính bị trưng dụng tại Hán địa. Sau khi Nguyên Thế Tổ tức vị, trọng tâm thống trị của Nguyên từ thảo nguyện Mạc Bắc chuyển đến Hán địa Trung Nguyên. Nguyên Thế Tổ tiến hành cải cách đối với thể chế quân đội; dần hình thành hai hệ thống lớn là túc vệ quân tại trung ương và trấn thú quân tại địa phương, xác định quan hệ tổ chức và lệ thuộc của quân Nguyên. Trong chiến tranh đối ngoại của Nguyên, Hán quân phát huy vai trò trọng yếu. Tân phụ quân chủ yếu là hàng quân được thu nạp và cải biên trong thời gian chinh phục Nam Tống, còn được gọi là Tân phụ Hán quân, Nam quân. Danh hiệu trong Tân phụ quân phức tạp, triều đình Nguyên dựa vào đặc điểm khác biệt mà đặt danh xưng, như khoán quân, thủ hiệu quân hay diêm quân. Ước tính đương thời Tân phụ quân có trên dưới hai mươi vạn binh sĩ, Hoàng đế đem Tân phụ quân phân đến thị vệ quân và trấn thú quân; hoặc lập mới quân phủ gồm người Mông Cổ, Hán nhân, Nam nhân, quản lĩnh quân nhân của Tân phụ quân. Mỗi khi chiến sự phát sinh, trước tiên điều tân phụ quân trong các quân xuất chinh, thời gian còn lại họ làm đồn điền và công dịch. Do tiêu hao trong chiến tranh kéo dài và yếu tố tự nhiên, số lượng binh sĩ Tân phụ quân ngày càng giảm thiếu, cuối cùng sa sút. Phòng vệ của triều Nguyên phân thành hai hệ thống lớn là Túc vệ và trấn thú. Túc vệ quân do khiếp tiết và thị vệ thân quân cấu thành, trong đó khiếp tiết quân duy trì chế độ 'tứ khiếp tiết phiên trục túc vệ' từ thời Thành Cát Tư Hãn, số lượng thường trên vạn người, công thần triều Nguyên là Bác Nhĩ Hốt, Bác Nhĩ Thuật, Mộc Hoa Lê, Xích Lão Ôn hoặc hậu nhân của họ kiêm nhiệm khiếp tiết trưởng. Trong chiến tranh, khiếp thiết là lực lượng cơ sở của toàn quân, được gọi là "dã khách hoát lặc" (đại trung quân); thị vệ thân quân dùng vào việc bảo vệ Đại Đô, 'vệ' đặt đô chỉ huy sứ hoặc soái sứ, lệ thuộc Xu mật viện. Trấn thú quân gồm Mông Cổ quân và Tham mã xích quân trấn thủ khu vực trọng yếu gần kinh kỳ, Mông Cổ quân và Tham mã xích quân tại Hoa Bắc, Thiểm Tây, Tứ Xuyên do đô vạn hộ phủ (đô nguyên soái phủ) tại địa phương thống lĩnh, lệ thuộc Xu mật viện. Tại phương nam, Mông Cổ quân, Hán quân, Tân phụ quân cùng trú thủ, trọng điểm phòng ngự là khu vực Giang-Hoài, lệ thuộc các hành tỉnh. Các lực lượng trấn thú khi khẩn cấp thì do Xu mật viện thống lĩnh, thời bình thì hành tỉnh quản lý sự vụ thường ngày, song quân vụ trọng yếu như điều khiển canh phòng do Xu mật viện quyết định. Thủy quân triều Nguyên khởi đầu khi chuẩn bị chiến tranh diệt Tống, cụ thể vào năm 1270 Mông Cổ mệnh Lưu Chỉnh gây dựng thủy quân quy mô lớn. Trong trận Tương Phàn, thủy quân và lục quân Nguyên hiệp đồng bao vây Tương Dương. Sau khi Nguyên chiếm thành, hàng tướng Lã Văn Hoán lãnh đạo thủy quân cùng lục quân theo bờ sông hiệp đồng trong trận Đinh Gia Châu, đánh tan thủy quân tinh nhuệ của Nam Tống. Sau đó, Trương Hoằng Phạm đem thủy quân Nguyên vượt biển về phía nam truy kích hải quân Nam Tống, cuối cùng tiêu diệt trong Hải chiến Nhai Sơn. Do vậy, thủy quân Nguyên trong chiến tranh diệt Tống có chức năng trọng yếu. Triều Nguyên dung hợp kỹ thuật hàng hải của Nam Tống và Ả Rập, khiến kỹ thuật hải quân thêm thành thục. Tuy nhiên trong đối ngoại, Chiến tranh Nguyên-Nhật và Chiến tranh Nguyên-Java kết thúc với thất bại của Nguyên, chỉ thắng lợi trong chiến tranh với Chiêm Thành. Lãnh thổ Đại Việt (An Nam) nằm tại miền bắc Việt Nam ngày nay, từ thời Ngũ Đại-Bắc Tống đã độc lập với Trung Hoa. Mông Kha Hãn vào năm 1257 phái Ngột Lương Hợp Thai tiến công Đại Việt (thời Trần), Chiến tranh Mông-Việt bùng phát. Sau khi kết thúc giao tranh, quân Mông Cổ thua lui về Vân Nam, nhưng Trần Thái Tông xưng thần trên danh nghĩa với Mông Cổ, được Mông Kha Hãn phong làm An Nam quốc vương. Tuy nhiên, Mông Cổ vẫn chưa bỏ mộng chinh phạt Đại Việt, họ tiếp tục đưa ra nhiều yêu sách đòi Trần Thái Tông và con là Trần Thánh Tông phải kê khai dân số, gửi quân chi viện, chịu sự giám sát của quan darugachi, đích thân sang chầu,... những điều khoản này phần này nhiều bị các vua Trần từ chối. Tình hình càng căng thẳng hơn sau khi Trần Thánh Tông nhường ngôi cho Trần Nhân Tông năm 1278. Năm 1284, Nguyên Thế Tổ phái Trấn Nam vương Thoát Hoan, A Lý Hải Nha và Toa Đô suất quân mượn đường Đại Việt tiến công Chiêm Thành, song Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông phản kháng nên hai bên bùng phát chiến tranh. Quân Nguyên xâm nhập Đại Việt với quy mô lớn, đánh chiếm được kinh đô Thăng Long. Tuy nhiên, hai vua Trần và các tướng tôn thất tài ba như Trần Quang Khải, Trần Hưng Đạo suất lĩnh quân Việt tích cực kháng cự, lại thêm quân Nguyên mắc phải ôn dịch. Cuối cùng, quân Nguyên triệt thoái vào năm 1285, trên đường bị quân Việt tập kích, tổn thất quá bán. Năm 1288, triều đình Nguyên lại tiến hành nam chinh song vẫn thất bại, sau đó Trần Nhân Tông thỉnh hòa. Cuộc chiến tranh kéo dài này đến thời Nguyên Thành Tông mới ngưng, An Nam và Chiêm Thành về sau duy trì triều cống triều đình Nguyên. Đương thời, có nhiều quốc đảo tại Đông Nam Á triều cống cho triều đình Nguyên, hữu danh có Mã Lan Đan (nay là Malacca), Tô Mộc Đô Lạp (nay là Sumatra). Năm 1292, Nguyên Thế Tổ mệnh Diệc Hắc Mê Thất, Sử Bật và Cao Hưng đem thủy quân Phúc Kiến nam chinh Vương quốc Majapahit trên đảo Java, đồng thời làm khuất phục nước lân cận của Majapahit là Cát Lang, song trúng kế bị đột kích, chiến bại trở về, song sau đó Majapahit vẫn phái sứ giả đến triều cống. Ngoài ra, Nguyên Thế Tổ còn phái sứ giả chiêu hàng Lưu Cầu Quốc (nay là Đài Loan hoặc Ryukyu), song sứ giả chỉ đến Bành Hồ rồi về. Nhân khẩu Nhân khẩu thời Nguyên có điểm đặc trưng, ngay từ thời đế quốc Mông Cổ, dân phương bắc đã không ngừng chạy xuống nam, hiện tượng này đến thời Nguyên Huệ Tông vẫn tiếp tục xảy ra, triều đình Nguyên luôn cấm đoán song không thể chấm dứt được. Trong thời gian đế quốc Mông Cổ chinh phục Tây Hạ, Kim và Nam Tống, quân Mông Cổ thường hay tiến hành đồ sát và cướp bóc trên quy mô lớn Sau đó, do dịch bệnh và mất mùa đói kém nên một lượng lớn nhân khẩu khu vực Đông Á cũng biến mất, trong đó khu vực Hoa Bắc nguyên thuộc Kim và khu vực Xuyên-Thiểm tứ lộ nguyên thuộc Nam Tống hết sức nghiêm trọng. Đây được xem là tai họa thảm khốc nhất trong lịch sử Trung Quốc, cũng là nguyên nhân chính dẫn đến phong trào di dân "Hồ Quảng điền Tứ Xuyên". Sau khi Kim diệt vong năm 1234, khu vực Hoa Bắc ước tính có 1,1 triệu hộ với 6 triệu người, chỉ bằng 13% so với mức 53,53 triệu người vào năm 1208. Trong thời gian chiến tranh Tống-Mông, số người thiệt mạng trong biên cảnh Nam Tống là khoảng 15 triệu người, chủ yếu tập trung tại khu vực Xuyên Thiểm tứ lộ. Sau khi quân Nguyên hoàn toàn tiêu diệt thế lực kháng Nguyên tại Tứ Xuyên vào năm 1279, theo điều tra thì khu vực chỉ còn hơn 9 vạn hộ và hơn 50 vạn người, chỉ bằng 4% so với mức năm 1231 tức trước khi quân Mông Cổ xâm lược Xuyên-Thiểm tứ lộ. Thời Đại Mông Cổ Quốc có 2 lần tiến hành thống kê hộ khẩu, lần thứ nhất là vào năm 1235 khi Oa Khoát Đài Hãn thi hành "Ất Mùi tịch hộ", có tư liệu về nhân khẩu của khu vực Hoa Bắc; lần sau là vào năm 1252 khi Mông Kha Hãn hoàn thành "Nhâm Tý tịch hộ", cho thấy nhân khẩu Hoa Bắc có sự gia tăng ở mức thấp. Năm 1271, Hốt Tất Liệt Hãn cải quốc hiệu thành "Đại Nguyên", kiến lập triều Nguyên. Tuy nhiên, trong thời gian từ thời Nguyên Thành Tông đến những năm đầu Chí Chính thời Nguyên Huệ Tông, chính cục triều Nguyên khổng ổn định, mỗi năm đều phải ứng phó với rất nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân, tuy nhiên về mặt xã hội thì cơ bản có tình trạng ổn định, kinh tế nhìn chung cũng thể hiện tăng trưởng, khiến nhân khẩu gia tăng, theo ước tính vào năm Chí Chính thứ 10 (1351) thì ở mức cao nhất. Những năm Chí Chính (1341-1370) thời Nguyên Huệ Tông, toàn quốc nhiều lần xảy ra mất mùa đối kém và dịch bệnh trên quy mô lớn, cuối cùng bùng phát thành khởi nghĩa Hồng Cân quân, sau cuộc khởi nghĩa này thì nhân khẩu suy giảm rất lớn. Sau khi Minh Thái Tổ kiến quốc có luận: "trong cuộc cách mạng đời trước, tùy tiện tiến hành giết chóc, làm trái ý trời mà hại dân, Trẫm thực không thể nhịn". Thống kê nhân khẩu vào thời Nguyên không hoàn toàn chuẩn xác, bỏ mất những hộ chạy trốn, đi nương nhờ ở nơi khác. Triều đình không thống kê hộ khẩu của Lĩnh Bắc đẳng xứ hành trung thư tỉnh (vùng Nội Mông-Mông Cổ-nam Siberi), Vân Nam đẳng xứ hành trung thư tỉnh, các cư dân ở những khu vực thổ ty Tây Nam và Tuyên Chính viện (Tây Tạng); nhân khẩu thuộc sở hữu riêng của chư vương, quý tộc, quân tướng Mông Cổ; ngoài "chức sắc hộ kế" ở các châu huyện. Các học giả hiện đại chỉ có thể căn cứ theo số liệu nguyên thủy trong sách sử lưu giữ được để suy đoán, do vậy số liệu có thể sai khác lớn. Hiện tượng nhân khẩu chạy trốn hết sức nghiêm trọng, như vào năm 1241, trong số 1.004.656 hộ có nguyên tịch ở các lộ do Hốt Đô Hổ cai quản, thì có đến 280.746 hộ bỏ trốn, chiếm 28%. Ngoài ra, mối quan hệ dân tộc ngày càng mật thiết, hiện tượng vãng lai và tạp cư tương đối phổ biến. Từ thời kỳ chiến tranh Mông-Kim, một lượng lớn người Hán không ngừng bị buộc phải dời đến thảo nguyên Mông Cổ hay khu vực nam bắc Thiên Sơn, Liêu Dương đẳng xứ hành trung thư tỉnh và Vân Nam đẳng xứ hành trung thư tỉnh; Các quan viên, quân hộ hay thương nhân người Mông Cổ và Sắc Mục di cư với số lượng lớn đến nội địa Trung Nguyên; khu vực Vân Nam có khoảng trên dưới 10 vạn người Mông Cổ cư trú; các thành thị chính trị như Thượng Đô và Đại Đô, các thành thị thương nghiệp như Hàng Châu, Tuyền Châu, Trấn Giang đều có nhiều người Mông Cổ, người Duy Ngô Nhĩ, người Hồi giáo, người Đảng Hạng, người Nữ Chân hay người Khiết Đan cư trú, giữa các dân tộc có sự giao lưu kinh tế và văn hóa, bang trợ lẫn nhau. Do tỷ lệ người Mông Cổ và người Hán hết sức chênh lệch, văn hóa và chế độ của người Hán cũng ưu việt hơn so với người Mông Cổ, triều đình Nguyên do vậy bảo hộ địa vị của người Mông Cổ, chủ trương Mông Cổ chí thượng chủ nghĩa, thi hành chính sách phân chia chế độ với bốn tầng lớp dân cư: Mông Cổ nhân, Sắc Mục nhân (người Tây Vực và Tây Hạ), Hán nhân (người Hán nguyên thuộc Kim), Nam nhân (người Hán nguyên thuộc Nam Tống). Triều đình Nguyên trao cho Mông Cổ nhân và Sắc Mục nhân quyền lợi rất lớn, bắt Hán nhân và Nam nhân phải chịu thuế và lao dịch nặng, áp bức dân tộc và áp bức giai cấp rất trầm trọng. Ảnh hưởng Ở thời Nhà Nguyên, một nền văn hóa đa dạng đã phát triển. Những thành tựu văn hóa chính là sự phát triển của kịch và tiểu thuyết cùng sự gia tăng sử dụng tiếng địa phương. Vì sự cai trị trên toàn vùng Trung Á đã được thống nhất, thương mại giữa Đông và Tây gia tăng mạnh mẽ. Các mối liên hệ rộng lớn của Mông Cổ với Tây Á và châu Âu khiến việc trao đổi văn hóa diễn ra ở mức độ rất cao. Các nhạc cụ phương Tây xuất hiện và làm phong phú thêm cho các môn nghệ thuật biểu diễn Trung Quốc. Từ giai đoạn này số người theo Hồi giáo ở tây bắc và tây nam Trung Quốc ngày càng gia tăng. Cảnh giáo và Công giáo La Mã, hai nhánh của Kitô giáo, cũng trải qua một giai đoạn thanh bình. Phật giáo Tây Tạng phát triển, dù Đạo giáo trong nước bị người Mông Cổ ngược đãi. Các hoạt động triều đình và các kỳ thi dựa trên các tác phẩm kinh điển Khổng giáo, vốn đã bị bãi bỏ ở miền bắc Trung Quốc trong giai đoạn chia rẽ, được người Mông Cổ tái lập với hy vọng giữ được trật tự xã hội như ở thời Hán. Lĩnh vực du ký, bản đồ, và địa lý, cũng như giáo dục khoa học có bước phát triển so với trước đó. Một số phát minh quan trọng của Trung Quốc như thuốc súng, kỹ thuật in, sản xuất đồ sứ, bài lá và sách thuốc lan truyền sang châu Âu, trong khi kỹ thuật chế tạo đồ thủy tinh mỏng và cloisonné cũng trở nên phổ biến ở Trung Quốc. Những bản du ký đầu tiên của người phương Tây cũng bắt đầu xuất hiện ở thời kỳ này. Nhà du lịch nổi tiếng nhất là Marco Polo người thành Venezia (Ý), ông đã tới "Cambaluc," thủ đô của Khan vĩ đại (Bắc Kinh hiện nay), và cuộc sống ở đó theo miêu tả của ông khiến châu Âu kinh ngạc. Cuốn sách về các cuộc du lịch của ông, Il milione (hay Những cuộc phiêu lưu của Marco Polo), xuất hiện vào khoảng năm 1299. Những tác phẩm của John of Plano Carpini và William of Rubruck cũng cung cấp một số chi tiết đầu tiên về người Mông Cổ sang phương Tây. Người Mông Cổ tiến hành nhiều dự án công cộng lớn. Đường sá và giao thông thủy được tổ chức lại và cải tiến thêm. Để ngăn nguy cơ phát sinh nạn đói, các kho lương thực được xây dựng trên khắp đế chế. Thành phố Bắc Kinh được xây dựng lại với các cung điện mới gồm cả các hồ, đồi núi và công viên nhân tạo. Ở thời Nhà Nguyên, Bắc Kinh trở thành điểm kết thúc của Đại Vận Hà, khi ấy đã được cải tạo toàn bộ. Những cải tiến cho mục đích thương mại đó thúc đẩy thương mại trong lục địa cũng như thương mại trên biển ra toàn Châu Á tạo điều kiện thuận lợi cho những tiếp xúc trực tiếp đầu tiên giữa Trung Quốc và châu Âu. Những nhà du lịch Trung Quốc tới phương Tây có thể giúp đỡ các kỹ thuật mới như cơ khí thủy lợi. Những tiếp xúc với phương Tây cũng khiến các loại lương thực chính khác du nhập vào Trung Quốc, như kê cùng các sản phẩm lương thực từ bên ngoài khác và cách chế biến chúng. Danh sách đế vương Thế phả nhà Nguyên
Đệ Nhất Phu nhân Hoa Kỳ là chức danh không chính thức dành cho bà chủ Nhà Trắng, và thường vị trí này thuộc về phu nhân Tổng thống Hoa Kỳ. Đệ Nhất Phu nhân hiện nay là Jill Biden, cựu Đệ Nhị Phu nhân (2009-2017), khi ông Joe Biden trở thành Tổng thống Hoa Kỳ vào cùng ngày. Cũng có những phụ nữ, không phải phu nhân tổng thống, phục vụ trong cương vị Đệ Nhất Phu nhân, do tổng thống còn độc thân hoặc góa vợ, hoặc khi phu nhân tổng thống không thể hoặc không muốn thực thi nhiệm vụ của Đệ Nhất Phu nhân. Khi ấy, vị trí này được dành cho một phụ nữ là người thân hoặc bạn của tổng thống. Nguồn gốc Mặc dù thuật ngữ Đệ Nhất Phu nhân đã được dùng từ trước, việc sử dụng danh hiệu này cho người phối ngẫu của người đứng đầu ngành hành pháp là một phát kiến của người Mỹ. Trong thời kỳ lập quốc, không có sự đồng thuận cho danh hiệu dành cho vợ của tổng thống. Nhiều Đệ Nhất Phu nhân trong giai đoạn này thường cho biết họ thích được gọi theo những cách khác nhau ví dụ như "Phu nhân", "Hoàng hậu", "Bà Tổng thống". Martha Washington thường được nhắc đến như là "Quý bà Washington". Theo truyền thuyết, Dolley Madison là người đầu tiên được gọi là Đệ Nhất Phu nhân, vào năm 1849, trong bài điếu văn của Tổng thống Zachary Taylor đọc trong tang lễ của bà. Song không có văn kiện nào về bài điếu văn này còn được lưu giữ đến ngày hôm nay. Khoảng giữa năm 1849 và 1877, danh hiệu này được dùng trong các nhóm xã hội tại Washington, D. C., chứng từ lâu đời nhất được lưu giữ là dòng nhật ký ghi ngày 3 tháng 11 năm 1863 của William Howard Russell, khi ông nhắc đến những mẫu chuyện về "vị Đệ Nhất Phu nhân của đất nước". Danh hiệu Đệ Nhất Phu nhân lần đầu được thừa nhận trên cả nước là vào năm 1877, khi một nhà báo, Mary Clemmer Ames, nhắc đến Lucy Webb Hayes như là "Đệ Nhất Phu nhân của đất nước" lúc đang tường thuật lễ nhậm chức của Rutherford B. Hayes. Hayes rất được yêu thích, do đó những bài tường thuật thường xuyên về các hoạt động của bà giúp quảng bá danh hiệu này rộng khắp Washington. Năm 1911, một vở hài kịch nổi tiếng của nhà soạn kịch Charles Nirdlinger có tên "Đệ Nhất Phu nhân của Đất nước" giúp gắn kết danh hiệu này với công luận, và vào năm 1934, xuất hiện trong từ điển. Trong chính quyền, Đệ Nhất Phu nhân Hoa Kỳ đôi khi được gọi tắt là "FLOTUS" (chữ đầu của cụm từ tiếng Anh "First Lady of the United States"), tương tự với cách gọi tắt dành cho Tổng thống Hoa Kỳ là POTUS. Vai trò Đệ Nhất Phu nhân không phải là một chức danh dân cử, cũng không có nhiệm vụ chính thức và không có lương bổng. Tuy vậy, Đệ Nhất Phu nhân thường tham dự nhiều nghi lễ chính thức cũng như tham gia quốc sự cùng với tổng thống hoặc thay mặt tổng thống. Thường khi, các Đệ Nhất Phu nhân dành nhiều thì giờ cho các hoạt động nhân đạo và từ thiện. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, nhiều Đệ Nhất Phu nhân thủ giữ vai trò tích cực trong các cuộc vận động cho tổng thống. Hillary Clinton còn tiến xa hơn khi đảm trách một nhiệm vụ chính thức trong chính phủ Clinton, xúc tiến những cải cách cho hệ thống chăm sóc sức khoẻ. Danh hiệu này cũng được dùng cho vợ của một nhân vật lãnh đạo trong chính quyền hoặc cho một phụ nữ được xem là biểu tượng cho một phong trào hoạt động tích cực, thí dụ như Maria Shriver được gọi là "Đệ Nhất Phu nhân California", hoặc Mary J Blige là "First Lady of Soul". Phu nhân Phó Tổng thống Hoa Kỳ được gọi là Đệ Nhị Phu nhân Hoa Kỳ, mặc dù danh hiệu này không được sử dụng phổ biến bằng Đệ Nhất Phu nhân. Ở tiểu bang Michigan, chồng của bà Thống đốc Jennifer Granholm thường được gọi là Đệ Nhất Phu quân (First Gentleman). Các Đệ Nhất Phu nhân Hoa Kỳ Những phụ nữ trong danh sách này được công nhận bởi Thư viện Đệ Nhất Phu nhân Quốc gia là "Đệ Nhất Phu nhân": Đệ Nhất Phu nhân "nhiệm quyền" Những phụ nữ trong danh sách này không phải là người phối ngẫu của tổng thống, nhưng hành động trong cương vị Đệ Nhất Phu nhân khi vị trí này bị khuyết hoặc khi Đệ Nhất Phu nhân không thể hoặc không muốn thực thi nhiệm vụ: Các cựu Đệ Nhất Phu nhân còn sống Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2023 có 5 cựu Đệ Nhất Phu nhân còn sống. Trong đó, cựu Đệ Nhất Phu nhân cao tuổi nhất là Rosalynn Carter và trẻ tuổi nhất là Melania Trump và cựu Đệ Nhất Phu nhân qua đời gần đây nhất là Barbara Bush vào ngày 17 tháng 4 năm 2018, ở tuổi 92, được xếp theo thứ tự nhiệm kỳ:
Metro AG là tập đoàn của các công ty bán sỉ và bán lẻ Đức. Tập đoàn có trụ sở chính ở Düsseldorf, Đức. Tổng số nhân viên là 300.000 người trong số đó có 110.000 người ở Đức (tháng 12 năm 2011 ). Theo thông tin trên trang Metro Việt Nam , Metro, hoạt động tại 33 nước, lớn đứng thứ ba ở Âu Châu và thứ tư trên thế giới. Otto Beisheim – tỷ phú, doanh nhân Đức (sinh 1924), sáng lập tập đoàn năm 1964. Quy mô Nếu tổng cộng toàn bộ doanh số của các bộ phận, METRO là hãng bán lẻ thứ hai ở Châu Âu, sau Carrefour của Pháp. Nếu phần bán hàng tại kho (hoạt động mang lại doanh số lớn nhất) không được coi là bán lẻ thì hãng còn đứng sau Tesco và một vài hãng bán lẻ khác ở Châu Âu. Các bộ phận bán hàng Metro and Makro Cash and Carry (các cửa hàng của Makro ở Anh và những quốc gia Châu Âu đã chuyển sang tay hãng SHV năm 1998): mang lại gần nửa doanh thu năm 2004, là bộ phận có mặt ở tất cả các quốc gia mà hãng hoạt động. Real: hệ thống siêu thị với 265 cửa hàng ở Đức và 34 ở một số nước khác năm 2005. Extra: có hệ thống siêu thị cỡ nhỏ hơn của Real. Tới năm 2005, toàn bộ 443 cửa hàng đều ở Đức. Media Markt và Saturn: Media Markt là công ty thiết bị điện tử dân dụng có cửa hàng ở Đức và vài nước Châu Âu khác. Saturn là hệ thống bán hàng điện tử giải trí cũng có cửa hàng ở Đức và một số nước châu Âu. Geleria Kaufhof: hệ thống cửa hàng bán đồ gia dụng ở Đức và Bỉ. Hiện diện ở các châu lục Tính tới đầu năm 2007, METRO có cửa hàng ở: Châu Âu: 26 nước (phần lớn các nước Tây Âu và Bắc Âu) Châu Á: Trung Quốc, Pakistan, Ấn Độ, Nhật Bản, Kazakhstan, và Việt Nam. Tình hình tài chính Năm 2003, METRO đạt tổng doanh thu gần 54 tỷ Euro. Lợi nhuận trước thuế 817 triệu Euro, lợi nhuận sau thuế 496 triệu Euro. Những năm đầu thế kỷ, METRO có mức tăng trưởng thấp hơn các hãng bán buôn, bán lẻ toàn cầu khác, chủ yếu là do tình hình kinh tế Đức không mấy sáng sủa. Năm 2016 Metro Việt Nam đã được bán lại cho đối tác kinh doanh Thái Lan Hệ thống siêu thi tại Việt Nam Dưới đây là danh sách hệ thống siêu thị Metro cũ tại Việt Nam. Năm 2016, hệ thống này được bán lại cho Thai Charoen Corporation (TCC) Group và đổi tên thành MM Mega Market
Phạm Lãi (chữ Hán: 范蠡) (525 TCN - 455 TCN), biểu tự Thiếu Bá (少伯), còn gọi là Phạm Bá (范伯), Si Di Tử Bì (鸱夷子皮) hay Đào Chu Công (陶朱公), là một danh thần của nước Việt (khác với nước Việt Nam) thời Xuân Thu Chiến Quốc, nổi tiếng thông tuệ, học thức và vai trò quan trọng trong việc giúp Việt Vương Câu Tiễn tiêu diệt nước Ngô, quốc gia trước đó nhờ vào Ngũ Tử Tư và Tôn Vũ đã đánh bại nước Sở . Ông nổi tiếng như một thần đồng, từ kinh sử, văn học, đến kinh tế lẫn chính trị đều hơn người, các tác phẩm của ông như Binh pháp (兵法) và Dưỡng ngư kinh (养鱼经) đã thất lạc, chỉ còn sót lại dẫn cú trong Văn tuyển (文选). Ngoài ra ông còn tập Đào Chu công sinh ý kinh (陶朱公生意经) nói về thương mại cũng rất nổi tiếng. Mưu thần phục quốc Phạm Lãi, người nước Việt thời Việt vương Câu Tiễn. Ông xuất thân bần hàn nhưng tài học hơn người, từ kinh tế, chính trị, văn học và thiên văn không gì không tinh thông. Khi Việt vương Câu Tiễn muốn đem quân sang đánh nước Ngô, Phạm Lãi can nhưng Câu Tiễn không nghe. Kết quả là bị Ngô Phù Sai đánh cho đại bại ở Cối Kê, bị bắt làm tù binh. Sau đó, Việt vương được tha cho về nước. Về tới nước, Câu Tiễn bên trong nuôi chí phục thù, nhưng ngoài mặt giả vờ tuân phục, hằng năm đều đặn triều cống. Việt vương giao Phạm Lãi bí mật luyện tập quân đội, tích trữ quân lương. Cùng lúc, Phạm Lãi và bạn thân là đại thần Văn Chủng dùng mỹ nhân kế tuyển lựa người đẹp trong nước là Thi Di Quang (tức Tây Thi - một trong Tứ đại Mỹ nhân Trung Hoa) và Trịnh Đán (sau được gọi là Đông Thi) dâng cho vua nước Ngô là Ngô Phù Sai làm cho Ngô vương hoang dâm, xa xỉ, bỏ bê chính sự, giết hại trung thần Ngũ Tử Tư (một trong những trụ cột chính của đất nước). Cuối cùng Câu Tiễn đánh úp nước Ngô, tiêu diệt được Ngô Phù Sai rửa được cái nhục ở Cối Kê (năm 473 TCN). Rút lui đúng lúc Khi đại sự thành công, Phạm Lãi cho rằng vua Việt có tướng cổ cao, môi dài mỏ quạ, là người nhẫn tâm mà ghét kẻ có công, cùng ở lúc hoạn nạn thì được chứ lúc an lạc thì không được, nên không ở lại làm quan mà bí mật trốn đi ở ẩn. Theo Sử ký - nguồn tài liệu đáng tin cậy hơn cả - Phạm Lãi đến nước Tề, cha con cùng tự cày cấy làm ăn.Được mấy năm thì giàu có nổi danh thiên hạ.Vua Nước Tề biết Phạm lãi là người hiền sai sứ mang ấn tướng quốc đến mời ông vào triều làm tướng quốc.Nhưng làm được ba năm thì ông ngậm ngùi than :"Ở nhà thì có hàng ngàn lạng vàng,làm quan thì đến công, khanh ,tướng quốc,kẻ áo vải được thế là tột bậc rồi,giữ mãi cái tiếng tăm lừng lẫy này là không tốt!".Bèn trả ấn tướng quốc,đem tất cả tài sản chia cho bạn bè,hàng xóm láng giềng và người nghèo.Chỉ giữ lại và mang những của thật quý lẻn đi.Phạm lãi dừng chân ở đất Đào,cho nơi đó là ở giữa thiên hạ,tiện đường đổi chác,buôn bán để làm giàu.Phạm lãi đổi tên gọi mình là Đào Chu Công và cũng chỉ sau mấy năm lại trở thành người giàu có nổi danh thiên hạ.Sau đó lại chia phần lớn tài sản cho bạn bè và xóm làng .Và lại kinh doanh lại từ đầu.Cuối đời để lại tài sản cho con trai và qua đời ở Đất Đào .Vì Phạm Lãi giàu mà có đức nên người đời sau tôn thờ là ông Thần Tài. Có thuyết nói rằng ông rủ người đẹp Tây Thi lên thuyền đi vào Ngũ Hồ, cắt đứt mọi mối quan hệ với thế giới bên ngoài, sống cuộc đời phóng khoáng tự do, khi ca hát, khi câu cá, lúc đọc sách, mặc cho thời gian trôi qua. Nhưng có thuyết khác bác bỏ ý trên, Đông Chu liệt quốc cho rằng khi diệt được Ngô, Câu Tiễn định mang Tây Thi về Việt nhưng vợ Câu Tiễn ghen và sợ chồng mình mê đắm Tây Thi mà mất nước như Phù Sai nên bí mật sai người bắt nàng, buộc đá vào cổ và đẩy xuống sông cho chết. Vì thế Phạm Lãi chỉ đi một mình. Kinh thương Trong suốt quãng đời ẩn danh, mưu sinh bằng nghề buôn, ông đã đúc kết cho mình và cho thiên hạ được 18 nguyên tắc kinh doanh hết sức quý giá truyền lại cho đến nay. Sách cổ Trung Hoa sau này ghi lại với tựa là Đào Chu công sinh ý kinh (陶朱公生意经), còn gọi là Đào Chu Công kinh thương thập bát tắc (陶朱公经商十八则), Đào Chu công thương huấn (陶朱公商训) hay Đào Chu công thương kinh (陶朱公商经). Mười tám quy tắc kinh doanh được phân chia thành ba mục cụ thể rõ ràng. VỀ CON NGƯỜI: Sinh ý yếu cần khẩn: Kinh doanh cần phải cần cù siêng năng, công việc phải luôn luôn khẩn trương thực hiện mới đạt hiệu quả cao. Do là công việc quan trọng liên quan cơm áo, gạo tiền...(sinh ý = cầu ý chí kiếm sống, hay sinh tồn, tồn tại...) nên cần phải cần cù và khẩn trương, thiết nghĩ không còn gì đúng hơn thế nữa... Dụng độ yếu tiết kiệm: Chi dụng hàng ngày và mọi phí tổn phải chú ý tiết kiệm và có lợi nhất. Người làm thương mại dịch vụ chủ yếu lấy công làm lời nên việc tích tiểu thành đại, góp gió thành bão bao giờ cũng ưu tiên. Tiếp nạp yếu khiêm hoà: Khi giao tiếp, thương lượng cần phải khiêm tốn, cung kính, hoà nhã. Người làm kinh doanh bao giờ cũng quan trọng thể diện và uy tín, nên giữ bộ mặt và sĩ diện của mình hết sức quan trọng, tránh lệ thuộc đua chen hoặc mang tiếng là phô trương thái quá, thiếu khiêm tốn và hách dịch, quan liêu, thất lễ. VỀ PHƯƠNG THỨC KINH DOANH: Mãi mại yếu tuỳ thời: Làm kinh doanh, mua bán phải tùy theo thời điểm mà kinh doanh, không được dự đoán sai nhu cầu thị trường hoặc mua bán sau đuôi thiên hạ. Những dự báo sai bao giờ cũng đưa đến kết quả thảm hại, sai một ly đi một dặm... Vượng khiếm yếu thức nhân: Phải biết rõ nhân viên và đối tác giàu hay nghèo, tránh tình trạng thâm lạm công quỹ, dây dưa công nợ, gây ra nợ khó đòi hoặc thất thoát do hoàn cảnh túng bần họ làm liều. Trương mục yếu kê tra: Tài khoản, sổ sách, hồ sơ khách hàng, hàng hoá trong kho, trong thuyền, trên xe hoặc nguồn nguyên liệu, vật liệu phải thường xuyên kê khai, công khai tài chính và số liệu, đảm bảo tra xét chu đáo rõ ràng nhằm vừa quản lý tốt, vừa dự báo tình hình chính xác, vừa chống thất thoát, vừa chuẩn bị kịp thời cho các kế hoạch làm việc sắp tới...Tránh bê bối sổ sách, thâm hụt ngân quỹ, thất thoát tài sản, hư hao lãng phí... Ưu liệt yếu phân biệt: Phàm làm chủ phải có cặp mắt xét đoán, biết nhìn người và phân biệt thị phi, trắng đen rõ ràng; phải biết phân biệt và xét đoán kẻ tốt người xấu để tuyển dụng, uỷ quyền, tổ chức công việc và phân công nhân viên, phải biết nhìn người để lựa chọn đối tác đàng hoàng nghiêm chỉnh, tránh chọn nhầm đối tác xấu có thể gây tác hại lớn khi giao dịch; phải biết ưu điểm và khuyết điểm của nhân sự dưới quyền, thế mạnh và thói xấu của những người xung quanh nhằm tránh giao sai người thiếu năng lực, sai việc, sai địa điểm, sai trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. Dụng nhân yếu phương chính: Dùng người tâm phúc hoặc thuộc cấp trong tổ chức phải là những người phương cương chính trực,có tài đức, ngay thẳng để vừa giúp mình giữ gìn kỷ luật, giúp làm gương cho người xung quanh tránh tiêu cực, bè lũ, phe phái gây mất đoàn kết, gây thiệt hại trong quản lý điều hành. Xuất nhập yếu cẩn thận: Hàng hoá, sổ sách, tiền bạc thu chi hàng ngày phải cẩn thận, ghi chép, lưu trữ phải chính xác. Phải có công cụ và phương tiện lưu trữ, bảo quản tránh cháy, nổ, hư hỏng. công tác xuất nhập phải được đối chiếu thường xuyên, cần chính xác tránh gây sai lệch, thất thoát hoặc tạo điều kịên cho kẻ xấu lợi dụng. Hoá sắc yếu diện nghiệm: Hàng hoá muốn mua, nhập kho phải được xem xét thấy tận mắt, đến tận nơi, sờ tận tay. Phải đạt tiêu chuẩn tra xét, kiểm soát, kiểm nghiệm nhằm tránh mua trâu vẽ bóng hoặc mua hàng kém chất lượng. Kỳ hạn yếu ước định: Làm ăn phải coi trọng chữ tín, đúng kỳ hạn tránh tình trạng bị phạt hay bồi thường vì trễ hẹn. Tồn lưu yếu kiểm soát: Hàng hoá trong kho bãi phải được kiểm soát, bảo vệ che đậy, tránh thất thoát, mất trộm, hư hỏng vì mưa nắng, thời tiết nóng ẩm, lũ lụt... VỀ XÃ HỘI: Nha môn yếu thông giám: Làm ăn bất kỳ nơi đâu phải hiểu biết luật pháp, thuế suất, đặt quan hệ quen biết với cơ quan công quyền nhằm tạo thuận lợi cho việc kê khai giấy tờ, hàng hoá. Việc thông qua cơ quan công quyền để họ giám sát việc kinh doanh là một bước đi khôn ngoan để có thể thăm dò tình hình, tin tức chính trị xã hội nhằm có đối sách thích hợp. Mặt khác, mối quen biết có thể tạo tiền đề cho những lúc cần giải cứu về rắc rối luật pháp trong kinh doanh hoặc tạo vỏ bọc bảo vệ an toàn cho chính doanh nghiệp. Thịnh vượng yếu tích đức: Càng phát đạt thì phải càng tích đức hành thiện, vừa làm quảng cáo cho sản phẩm vừa tạo quan hệ tốt đẹp với cộng đồng, nhằm lôi kéo thiện cảm của cộng đồng để họ ủng hộ thương hiệu và sản phẩm. Dụng vốn yếu tương hỗ: Buôn có bạn, bán có phường. Đối với đối tác kinh doanh cùng ngành nghề nên có sự hợp tác mật thiết, nên giúp đỡ lẫn nhau về vốn tài chính, để dễ mượn thị trường hoặc bạn hàng. Hoặc những khi hàng hoá, thị trường bị thiếu hụt, có thể hỗ trợ lẫn nhau. Mặt khác, thương hội có thể tạo điều kiện xúc tiến thương mại ở những nơi xa lạ. Xử thế yếu độ lượng: Đối xử thuộc hạ phải độ lượng, làm công tác tư tưởng và động viên thường xuyên để họ trung thành và cống hiên sức lực và tài trí. Những khi thuộc cấp phạm lỗi thường khen trước chê sau, xử sự nhẹ nhàng thấu tình đạt lý để họ tâm phục khẩu phục. Giữ vững đội ngũ nhân sự ổn định dưới quyền chính là giữ vững sự phát triền bền lâu cho chính cơ ngơi của mình. Lời khuyên Văn Chủng Theo Sử ký, khi bỏ sang Tề, trong thư Phạm Lãi gửi cho Văn Chủng có đoạn viết: "Phi điểu tận, lương cung tàng. Giảo thố tử, tẩu cẩu phanh. Việt vương vi nhân trường cảnh điểu uế, khả dữ cộng hoạn nạn, bất khả dữ cộng lạc. Tử hà bất khứ?" Dịch nghĩa: Chim bay mất hết, cung tốt được cất đi. Thỏ khôn chết, chó săn bị nấu. Việt vương là người cổ dài, miệng diều hâu, chỉ có chung hoạn nạn mà không thể chung phú quý. Thầy sao còn chưa lui về? Văn Chủng nhận được thư, cáo bệnh không vào triều. Có người sàm tấu Văn Chủng muốn phản loạn. Câu Tiễn ép Văn Chủng tự sát bằng cách ban cho ông thanh kiếm và viết "Tử giáo quả nhân phạt Ngô thất thuật, quả nhân dụng kì tam nhi bại Ngô, kì tứ tại tử, tử vi ngã tòng tiên vương thí chi." (Dịch nghĩa: Thầy dạy quả nhân 7 thuật phạt Ngô, quả nhân dùng 3 đánh bại Ngô, còn 4 ở lại với thầy, thầy vì ta theo tiên vương mà thử.). Văn Chủng bèn tự sát. Theo một tài liệu khác Văn Chủng bị chém chết dù Văn Chủng không có tội gì. Cũng từ đó mà có thành ngữ "Thỏ tử cẩu phanh", dùng để ám chỉ thói đời đen bạc, lấy oán trả ân, các vị vua hung bạo bất nhân, khi đã lập quốc thành công rồi thì trở mặt giết hại các công thần. Cứu nước không cứu nổi con Theo Sử ký, con thứ Phạm Lãi phạm tội giết người, bị giam ở nước Sở. Phạm Lãi quen tướng quốc Sở là Trang Sinh, sai con mang 1.000 dật (24.000 lượng) vàng đi "đút lót" cho Trang Sinh xin tha con mình. Ông muốn sai đứa con út đi, nhưng người con cả nhất định đòi đi, nếu không sẽ tự sát; vợ ông cũng muốn để người con cả đã chín chắn vì sợ cậu con út còn ít tuổi. Cuối cùng ông đành nghe theo. Người con cả đến nước Sở gặp Trang Sinh, đưa vàng và ngỏ lời nhờ tha cho em mình. Trang Sinh nhận lời, bảo con Phạm Lãi cứ về, rồi em sẽ được thả mà không được hỏi lý do tại sao. Trang Sinh vốn là người ngay thẳng, định bụng sau khi xong việc sẽ hoàn lại vàng cho Đào Chu công. Sau đó Trang Sinh vào tâu vua Sở Huệ Vương, mượn điềm thiên văn tai ương để xui vua Sở phóng thích tù nhân, làm điều phúc đức tránh tai hoạ. Vua Sở nghe theo, bèn ra lệnh sẽ thả hết phạm nhân. Con cả Phạm Lãi chưa về ngay, lại lấy tiền riêng của mình mang theo là 100 dật, nhờ cậy một vị quan khác nước Sở nghe ngóng tình hình. Nghe tin vị đó báo lại là vua Sở sẽ đại xá, anh ta nghĩ rằng đáng lý mình không phải phí vàng đem đút lót mà em mình vẫn được thả, nên quay lại nhà Trang Sinh. Trang Sinh biết ý anh ta muốn đòi vàng, bèn trả lại; nhưng trong bụng thấy xấu hổ vì bị trẻ con nghĩ rằng mình là kẻ tham lam, bèn vào tâu vua Sở rằng: Tôi nghe thiên hạ dị nghị rằng đại vương nhận tiền đút lót của Phạm Lãi nên mới đại xá thiên hạ, làm giảm ân đức của người. Vậy xin chém riêng con Phạm Lãi để thiên hạ thấy sự nghiêm minh, nhân đức của đại vương! Vua Sở nghe theo, bèn sai mang con thứ Phạm Lãi trong ngục ra chém, còn những phạm nhân khác đều tha. Người con cả mang xác em về. Bà vợ khóc than, Phạm Lãi nói: Sở dĩ tôi muốn sai thằng út đi, vì khi nó sinh ra, nhà ta đã khá giả; vì thế nó sẽ không tiếc của mang hối lộ người ta. Còn thằng cả sinh ra khi nhà ta còn nghèo khó, nó sẽ tiếc của. Bởi thế lúc nó đi, tôi biết là nó sẽ phải mang xác em nó về. Phạm Lãi hiểu nhân tình thế thái, không những hiểu từng đứa con, còn hiểu cả Trang Sinh nữa; tuy ông có thể cứu nước Việt nhưng lại không cứu nổi con mình. Nhận Định Tư Mã Thiên nhận định: "Phạm Lãi ba lần đổi chỗ ở mà thành danh trong thiên hạ. Không phải ông ta chỉ bỏ đi một cách dễ dàng và thế là hết. Ông ta ở đâu, là nổi danh ở đấy". Phạm Lãi là tướng tài duy nhất sống sót, bởi ông đã sớm nhận ra con người của Câu Tiễn. Ông được người đời sau khen là: Chú thích ^ a b c d e Nước Việt Thừa tướng Trung Quốc Nhân vật quân sự Xuân Thu Người họ Phạm tại Trung Quốc Người Trung Quốc lưu vong Nhà văn nhà Chu f g h i j k Sử ký: quyển 41, Thế gia - Việt vương Câu TIễn thế gia ^ Cuốn Tây Thi của Lợi Bảo, dịch giả Ông Văn Tùng, tr.679 ^ Cuốn Tây Thi của Lợi Bảo, dịch giả Ông Văn Tùng, tr.651
Huyền Quang có thể là một trong các nghĩa sau: Huyền Quang: pháp hiệu của một tổ sư thuộc dòng Trúc Lâm Yên Tử. Huyền Quang: tên một ngôi chùa tại Úc. Huyền Quang: tên một con đường ở Thành phố Bắc Ninh. Thích Huyền Quang: tăng thống thứ tư của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
Đảng Dân chủ Việt Nam là "chính đảng của tư sản dân tộc và tiểu tư sản, trí thức yêu nước và tiến bộ Việt Nam", hoạt động từ năm 1944, tên ban đầu là Việt Nam Dân chủ Đảng hay Việt Nam Tân dân chủ Đảng. Tiền thân là Tổng hội sinh viên Đại học Tổng hợp Hà nội năm 1940, sau các nhóm sinh viên yêu nước hợp nhất thành lập đảng. Đảng tham gia Việt Minh, Dương Đức Hiền tham gia Tổng bộ Việt Minh, sau đó lại tách ra,..., và tham gia Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam. Trong Quốc hội khóa I năm 1946 đảng giành 46 ghế, do Đỗ Đức Dục và Tôn Quang Phiệt lãnh đạo. Đảng có 2 ghế trong Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam (Dương Đức Hiền, Cù Huy Cận) và 4 ghế trong chính phủ lâm thời, đến tháng 3 năm 1946 (Dương Đức Hiền, Cù Huy Cận, Vũ Trọng Khánh, Vũ Đình Hòe). Ở Nam bộ ban đầu các đảng viên hoạt động như là nhóm Tân Dân chủ (Huỳnh Văn Tiểng lãnh đạo, năm 1945). Sau khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ tháng 12 năm 1946, đảng lại gia nhập Việt Minh. Từ năm 1954 đến 1975 đảng hoạt động tại miền Bắc Việt Nam (Đảng bộ tại miền Nam về hình thức tách ra năm 1961 vẫn lấy ngày thành lập năm 1944, thành lập Đảng Dân chủ tham gia Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam tới 1975), và từ 1975 đến 1988 trên toàn Việt Nam. Kể từ Quốc hội khóa II, ứng cử viên tranh cử trong khối Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Lịch sử Hình thành Nhóm Dương Đức Hiền Trong bối cảnh và điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam những năm 1939–1945, các tầng lớp trí thức, sinh viên, viên chức và một số người thuộc các tầng lớp trung lưu khác ở thành thị đã có những chuyển biến về tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc và khả năng tham gia đấu tranh chống đế quốc, phong kiến. Thời kỳ này trong giới trí thức đã hình thành nhiều nhóm và tổ chức khác nhau, nổi lên trong đó là nhóm của ông Dương Đức Hiền được hình thành từ đầu năm 1941 gồm những trí thức đã tốt nghiệp các trường Đại học Luật, Y, Dược, Khoa học, Nông Lâm và những sinh viên người Bắc, Trung, Nam bộ hoạt động trong Tổng hội Sinh viên Đông Dương. Họ là những người muốn tìm con đường đấu tranh cứu nước, giải phóng dân tộc. Hoạt động của nhóm trí thức Dương Đức Hiền trong buổi đầu là những hình thức hợp pháp, mang đặc trưng của giới thanh niên, học sinh, sinh viên, mang tính chất tự phát, chưa có nội dung cách mạng sâu sắc, nhưng đã góp phần khơi gợi lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, ý thức chống xâm lược, chống chế độ cường quyền bất công, yêu thương đồng bào trong giới trí thức, sinh viên, học sinh, viên chức, tư sản dân tộc và đã gây được tiếng vang trong một số thành phố. Chính quyền thực dân Pháp lo sợ, tìm cách đối phó bằng nhiều thủ đoạn: mua chuộc, lôi kéo, doạ dẫm, kiểm duyệt gắt gao nội dung các vở kịch, các bài diễn thuyết, cho tay chân đi kích động chia rẽ, khủng bố... Sở Liêm phóng Hà Nội đã gọi ông Dương Đức Hiền đến để đe doạ, Đại Việt Nguyễn Tường Tam, Quốc Dân đảng Vũ Hồng Khanh cũng gặp gỡ ông để thuyết phục ông tham gia đảng của họ. Lúc này Đảng Cộng sản Đông Dương thực hiện chủ trương: tranh thủ, vận động trí thức, tư sản dân tộc và các tầng lớp trung gian ở thành thị (nhất là ở các thành phố lớn) ủng hộ mặt trận Việt Minh. Đảng đã chú ý đến hoạt động của nhóm trí thức Dương Đức Hiền và cử cán bộ đến gặp gỡ, đưa chương trình hoạt động, điều lệ tổ chức của Mặt trận Việt Minh cho nhóm nghiên cứu. Nhiều cuộc gặp gỡ bí mật đã diễn ra để trao đổi, giúp nhóm nhận rõ tình hình thế giới và tình hình trong nước, nhận rõ âm mưu của thực dân Pháp, phát xít Nhật và tình thế thất bại cuối cùng của phe phát xít và việc cần phải đoàn kết với những người cộng sản, với công nông, dùng bạo lực đánh đuổi phát xít Nhật và  thực dân Pháp, giải phóng cho dân tộc.   Tháng 2 năm 1944, nhóm trí thức Dương Đức Hiền đã có sự phân công: Anh em quê ở Bắc bộ thì hoạt động ở ngoài Bắc, còn anh em quê ở Nam bộ thì về Nam vận động trí thức, sinh viên, học sinh, viên chức trong đó để có sự phối hợp hoạt động của hai miền. Đoàn về Nam có Đặng Ngọc Tốt, Trần Bửu Kiếm, Huỳnh Văn Tiểng, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Việt Nam, Lê Văn Nhàn, Vương Văn Lễ, Tạ Bá Tòng... Đoàn tổ chức đi bằng xe đạp xuyên Việt, từ Hà Nội đến Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ với lý do công khai "do chiến tranh, việc học hành có nhiều trắc trở, anh em phải nghỉ học về quê hương và phương tiện giao thông lúc này khó khăn nên phải đi bằng xe đạp". Đoàn đi đến thị xã Ninh Bình thì bị mật thám Pháp bắt giữ và đưa trở lại Hà Nội, giam tại nhà pha Hoả Lò. Nhưng sau những trận tra hỏi, không lấy được chứng cứ gì để trị tội, họ phải thả ra, anh em lại tiếp tục lên đường về Nam. Các anh em còn lại ở ngoài Bắc hoạt động rất tích cực và ngày càng tập hợp được nhiều người có cùng chí hướng. Thành lập Ngày 30 tháng 6 năm 1944, ông Dương Đức Hiền đã bí mật triệu tập một cuộc họp gồm 8 người: luật sư Dương Đức Hiền, bác sĩ Nha khoa Nguyễn Dương Hồng, nhà thơ, kỹ sư canh nông Cù Huy Cận, bác sĩ Huỳnh Bá Nhung... tại một lớp học của trường Hoài Đức sơ tán (để tránh các trận oanh tạc của máy bay quân đồng minh đánh phá các cơ sở quân sự của Nhật ở Hà Nội) tại làng Thanh Xuân, cách thị xã Hà Đông 2 km, nằm ngay ven đường Hà Đông đi Hà Nội. Cuộc họp bí mật này đã quyết định thành lập một tổ chức cách mạng, đặt tên là Việt Nam Dân chủ Đảng (sau đổi tên là Đảng Dân chủ Việt Nam) và thông qua Cương lĩnh, Chương trình hành động, Điều lệ đầu tiên của Đảng. Đặt cơ sở trên tư tưởng liên minh với các lực lượng cách mạng để tranh đấu cho độc lập dân tộc và xây dựng chế độ dân chủ mới, tuy còn sơ lược nhưng Cương lĩnh, Chương trình hành động đầu tiên của Đảng đã xác định rõ mục tiêu đấu tranh cơ bản là: Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc", phù hợp nguyện vọng của mọi tầng lớp yêu nước, tiến bộ lúc bấy giờ. Đảng xây dựng tổ chức phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng giải phóng dân tộc do mặt trận Việt Minh lãnh đạo (tổ chức chặt chẽ từ Trung ương đến cơ sở, tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung (các cơ quan chỉ huy cấp nào đều do đại biểu cấp ấy bầu ra; tất cả các chủ trương hoặc công việc đều quyết định theo sự thoả thuận của đa số), do đó tổ chức hoạt động của Đảng đã nhanh chóng gây được ảnh hưởng, nhất là các tầng lớp trung gian ở thành phố và thị xã. Sau hội nghị thành lập ở Thanh Xuân, những người sáng lập Đảng Dân chủ Việt Nam đã bí mật tổ chức một số Hội nghị để bàn về phương hướng hoạt động cụ thể. Đầu tháng 7 năm 1944, lấy danh nghĩa một chính đảng cách mạng, Đảng Dân chủ Việt Nam đã tự nguyện gia nhập Mặt trận Việt Minh. Từ đó, Đảng luôn luôn đoàn kết chặt chẽ với các tổ chức cách mạng trong Mặt trận, góp phần vận động đấu tranh cách mạng chống Nhật, chống Pháp, tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho đất nước. Giai đoạn trước 1945 Trong thời kỳ chuẩn bị và tiến hành Cách mạng tháng 8 năm 1945, yêu cầu vận động, tranh thủ, đoàn kết các tầng lớp trung gian ở thành thị ủng hộ và tham gia cách mạng là yêu cầu quan trọng, cấp thiết trước mắt. Để góp phần tích cực thực hiện yêu cầu đó, Đảng Dân chủ Việt Nam đã nhanh chóng xây dựng, phát triển tổ chức và hoạt động trên cả nước, nhất là ở các thành phố, thị xã và ở các cơ quan chính quyền. Tháng 11 năm 1944, Trung ương Đảng Dân chủ trương ra tờ báo Độc lập, cơ quan tuyên truyền vận động cách mạng của Đảng. Dương Đức Hiền và Nguyễn Đình Thi chịu trách nhiệm bài vở, Văn Cao phụ trách in ấn. Những bài luận văn như "Gấp tiến tới Tổng khởi nghĩa", bài "Mệnh lệnh khởi nghĩa của Việt Minh", "Nghị quyết của Đảng Dân chủ Việt Nam hưởng ứng tổng khởi nghĩa"... cùng các bài nhạc "Tiến quân ca" (Văn Cao), "Du kích ca" (Đỗ Nhuận), "Thanh niên cứu quốc ca" (Nguyễn Đình Thi)... đã gây thêm chất men hào hùng cho không khí tiền khởi nghĩa, thúc giục, động viên các tầng lớp tiểu tư sản, trí thức, công chức, học sinh, sinh viên hăng hái tham gia phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (ngày 9 tháng 3 năm 1945) lãnh đạo của Đảng Dân chủ đã bí mật triệu tập một cuộc hội nghị nghiên cứu bản Chỉ thị "Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" của Đảng Cộng sản Đông Dương để nắm rõ tình hình và phương hướng hành động. Với chiến lược đề ra là: tích cực lột mặt nạ và đập tan các hạng Việt gian đầu hàng Nhật, đặc biệt là các nhóm Đại Việt, các Đảng viên đã đi xuống các địa bàn, chỉ đạo các cơ sở Đảng, tích cực tuyên truyền, vận động những người trí thức, sinh viên, viên chức và cả những người thuộc tầng lớp trung gian khác tham gia đấu tranh vạch trần bản chất cướp bóc của Nhật và thuyết Đại Đông Á bịp bợm của họ, kiên quyết chống chính phủ Đế quốc Việt Nam và các đảng phái thân Nhật, góp phần phá tan ảnh hưởng của lực lượng thân Nhật trong các tầng lớp nhân dân. Ngày 16 tháng 8 năm 1945, Quốc dân Đại hội Tân Trào khai mạc. Đoàn đại biểu Đảng Dân chủ Việt Nam tham gia Quốc dân Đại hội Tân Trào có luật gia Dương Đức Hiền, bác sĩ nha khoa Nguyễn Dương Hồng, nhà thơ – kỹ sư canh nông Cù Huy Cận, nữ sinh Thanh Thủy... Dương Đức Hiền và Cù Huy Cận đã được bầu vào Uỷ ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam. Được tin Tổng hội viên chức Hà Nội tổ chức một cuộc mít tinh lớn tại Nhà hát lớn vào chiều ngày 17 tháng 8 để ủng hộ Chính phủ Đế quốc Việt Nam đang hoang mang, rệu rã, Uỷ ban Khởi nghĩa quyết định biến cuộc mít tinh ấy thành cuộc mít tinh của quần chúng ủng hộ cách mạng. Chiều hôm đó, cùng với đông đảo hội viên các đoàn thể cứu quốc ở nội và ngoại thành, các đội tuyên truyền xung phong, các đảng viên Đảng Dân chủ và các đội tuyên truyền xung phong Dân chủ Đảng... đã được huy động đến nhà hát thành phố. Cuộc mít tinh vừa khai mạc thì cờ đỏ sao vàng xuất hiện, các đội viên tuyên truyền xung phong Việt Minh xông lên giành lấy diễn đàn, thông báo tin quân Nhật đã đầu hàng đồng minh vô điều kiện, kêu gọi đồng bào ủng hộ Việt Minh khởi nghĩa. Đảng viên Đảng Dân chủ đã phân phát lời hiệu triệu ký tên là: "Ban xung phong của Dân chủ Đảng trong Việt Minh". Bản hiệu triệu viết: Ở Bắc bộ, Đảng Dân chủ Việt Nam đã tham gia Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định và các thị xã quan trọng như Hà Đông, Hưng Yên, Hải Dương, Kiến An, Phú Thọ và một số huyện lỵ. Ở Nam bộ, trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, những người trong Tân dân chủ Đoàn đã tích cực tuyên truyền cương lĩnh, chương trình hành động của Việt Minh, in và rải truyền đơn lời kêu gọi của kỳ bộ Việt Minh Nam bộ, phổ biến tin tức về thắng lợi của Hồng quân Liên Xô và Đồng Minh trong chiến tranh thế giới thứ Hai, về phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân trong cả nước. Đồng thời kiên quyết đấu tranh chống các đảng phái thân Nhật như đảng “Việt Nam Quốc gia độc lập”, đảng “Đại Việt”, loại bỏ ảnh hưởng của các đảng phái đó trong các tầng lớp trí thức, sinh viên, học sinh, viên chức và tư sản dân tộc ở miền Nam, hướng họ đi theo Việt Minh. Các thành viên Tân dân chủ Đoàn còn được Mặt trận Việt Minh giao nhiệm vụ: Đưa người vào phong trào Thanh niên Tiền phong hoạt động công khai, nhằm phân hóa, lôi kéo đông đảo thanh niên trong phong trào này ủng hộ Việt Minh, cô lập những phần tử thân Nhật. Họ đã dần dần nắm được cán bộ chủ chốt và tổ chức cơ sở của Thanh niên Tiền phong ở Sài Gòn cũng như ở nhiều tỉnh Nam bộ. Đến những ngày gần Tổng khởi nghĩa, Mặt trận Việt Minh Nam bộ đã hoàn toàn nắm được phong trào Thanh niên Tiền phong với những khẩu hiệu "Việt Nam độc lập", "Chính phủ Cộng hoà Dân chủ", "Chính quyền về tay Việt Minh" và biến phong trào này trở thành lực lượng tham gia Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Sài Gòn và các tỉnh Nam bộ. Trong những ngày Tổng khởi nghĩa, họ đã phối hợp với các đoàn thể cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh ở Sài Gòn, Chợ Lớn và một số thị xã, thị trấn quan trọng ở Nam Bộ, vận động các tầng lớp nhân dân xuống đường biểu tình giành lấy chính quyền về tay Việt Minh. Sau khi Cách mạng tháng Tám giành được thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị cải tổ Uỷ ban Dân tộc giải phóng do Quốc dân Đại hội ở Tân Trào cử ra thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đại biểu của Đảng Dân chủ Việt Nam tham gia Chính phủ lâm thời gồm có: Dương Đức Hiền – Bộ trưởng Bộ Thanh Niên, Vũ Đình Hoè – Bộ trưởng bộ Quốc gia Giáo dục, Cù Huy Cận – Bộ trưởng không giữ bộ nào. Giai đoạn 1945–1946 Sau Cách mạng Tháng Tám, Đảng Dân chủ Việt Nam cùng với Đảng Cộng sản và các đoàn thể cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh tham gia vào việc xây dựng chính quyền mới, đấu tranh với các đảng phái như Đại Việt, Việt Quốc, Việt Cách, chống thực dân Pháp quay trở lại xâm lược. Trong cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hơn 40 đại biểu của Đảng Dân chủ đã được nhân dân tín nhiệm bầu vào Quốc hội. Ở Hà Nội, trong số 6 người đã trúng cử đại biểu Quốc hội thì có tới 4 người là đại biểu của Đảng Dân chủ, gồm: Nguyễn Văn Luyện, Vũ Đình Hoè, Hoàng Văn Đức, Nguyễn Thị Thục Viên. Ngày 15 tháng 8 năm 1946, Đại hội lần thứ Nhất Đảng Dân chủ Việt Nam khai mạc tại Nhà hát lớn Hà Nội và họp trong 6 ngày từ 15 đến 20 tháng 8 năm 1946 tại số nhà 101 đại lộ Gambetta, nay là phố Trần Hưng Đạo. Tham dự Đại hội gồm 235 đại biểu. Đại hội đã nhận định tình hình thế giới và trong nước, qua đó, Đại hội xác định nhiệm vụ hiện tại của cách mạng Việt Nam. Các đại biểu đã tham gia góp ý cho Đảng cương mới do Đỗ Đức Dục soạn thảo và làm rõ khái niệm Dân chủ mới mà Đảng "cương quyết mang ra thực hiện trong công cuộc kiến thiết nước Việt Nam": Tuyên bố khôi phục Đảng Dân chủ Ngày 1 tháng 6 năm 2006, ông Hoàng Minh Chính cựu Tổng Thư ký Đảng Dân chủ dưới thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ra tuyên bố phục hồi hoạt động của Đảng Dân chủ Việt Nam. Đảng này lấy lại tên cũ là Đảng Dân chủ Việt Nam, để nhấn mạnh đảng được phục hoạt và phát triển ở thế kỷ 21, các nhà lãnh đạo đảng thường sử dụng tên gọi tắt khác là Đảng Dân chủ thế kỷ 21, tên này được sử dụng rộng rãi thay vì dùng tên chính thức.. Tuy nhiên, theo ông Huỳnh Văn Tiểng, cố Uỷ viên Thường vụ Đảng Dân chủ Việt Nam từ năm 1944 đến năm 1988, thì: "Bản thân ông Chính đã bị khai trừ khỏi Đảng Dân chủ từ lâu; khi không được sự đồng tình của số đông cựu đảng viên ông không có quyền và không đủ tư cách đứng ra khôi phục Đảng". Và "Đảng Dân chủ hiện nay mà ông Hoàng Minh Chính lên tiếng 'khôi phục' thì về bản chất đã khác Đảng Dân chủ từng tồn tại từ năm 1944 đến 1988."
Phố Hiến (chữ Nôm: 庯憲) là một địa danh lịch sử ở thành phố Hưng Yên. Vào các thế kỷ 17-18, nơi đây là một thương cảng cổ nổi tiếng của Việt Nam. Lúc ấy, phố Hiến là một đô thị trải dài theo bờ tả ngạn sông Hồng. Ngoài kinh đô Thăng Long - Kẻ Chợ là thủ đô phồn vinh nhất nước, Phố Hiến đã là một đô thị nổi bật đứng ở vị trí thứ hai. Dân gian có câu: "Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến". Văn bia chùa Thiên ứng, dựng năm Vĩnh Tộ thứ 7 (1625, đời vua Lê Thần Tông) đã ghi: "Phố Hiến nổi tiếng trong bốn phương là một tiểu Tràng An" - tức một Kinh đô thu nhỏ . Phố Hiến trong lịch sử Lịch sử - địa lý Ngay từ thế kỷ 10, vùng Đằng Châu ở phía bắc thành phố Hưng Yên ngày nay vốn là một lãnh địa của sứ quân Phạm Bạch Hổ, ông đã gây dựng nơi đây thành thủ phủ một vùng đất rộng lớn và là một trung tâm quân sự thời 12 sứ quân. Đến thời Tiền Lê, vùng đất này tiếp tục là thực ấp của Lý Công Uẩn. Thế kỷ 13, dưới thời nhà Trần, khi nhà Nguyên diệt Tống, một số kiều dân Trung Quốc tị nạn đã kéo sang Việt Nam, lập nên làng Hoa Dương. Cùng lúc đó, một số người Việt từ nhiều địa phương khác nhau cũng dần dần đến sinh sống tại địa điểm tụ cư này để buôn bán và làm ăn. Theo sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục, thì tên Phố Hiến có xuất xứ từ chữ Hiến của Hiến Doanh hay Hiến Nam, vốn là cơ quan hành chính của trấn Sơn Nam xưa. Sách ấy chép:"...vì là sở lỵ của ty Hiến sát sứ Sơn Nam đời cố Lê nên có tên gọi vậy". Các tác giả của sách Đại Nam nhất thống chí cũng đã thừa nhận ý kiến này. Và có nhiều khả năng là tên gọi Phố Hiến lần đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ 15 trong công cuộc cải cách hành chính của vua Lê Thánh Tông. Tuy nhiên, phải đến thế kỷ 17, Phố Hiến mới trở thành một trung tâm chính trị - kinh tế có nhiều mối giao lưu quốc tế. Lúc này, ở Phố Hiến có lị sở của trấn thủ xứ Sơn Nam, ty Hiến sát xứ Sơn Nam, các trạm tuần ty kiểm soát thuyền bè trong ngoài nước, một đoạn sông tấp nập các thuyền bè đi lại và đỗ bến, những chợ phố đông đúc, các thợ thủ công và thương nhân người Việt, người Hoa, Nhật Bản và phương Tây. Phố Hiến xưa nằm sát bên bờ tả ngạn sông Hồng, nhưng do phù sa bồi đắp nên ngày nay đã ở cách dòng sông khoảng chừng 2 km. Theo đường sông, Phố Hiến cách Hà Nội 55 km. Trước đây từ Thăng Long xuôi thuyền xuống Phố Hiến mất khoảng 2 ngày, ngược dòng lên Kinh đô mất 3 ngày. Vị trí của Phố Hiến có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các tuyến giao thông đường thủy thuộc hệ thống sông Hồng-sông Thái Bình nằm trong vùng đồng bằng Bắc Bộ. Các nhà địa chất chia châu thổ Bắc Bộ thành 3 vùng tương ứng với ba thời kỳ thành tạo lớn: Thượng châu thổ với đỉnh của các triền sông là Việt Trì; Trung châu thổ với đỉnh là Cổ Loa; và Hạ châu thổ với đỉnh là Phố Hiến, từ đó các nhánh sông trải ra vùng đồng bằng như những chiếc nan quạt. Bằng đường thủy, từ Phố Hiến có thể liên lạc tới hầu hết các địa phương thuộc các trấn Sơn Nam, Hải Dương, An Quảng. Phố Hiến là nơi trung chuyển, cửa ngõ án ngữ hoặc thông thương của mọi tuyến giao thương đường sông từ vùng biển Bắc Bộ đi sâu vào đất liền tới Kinh thành Thăng Long, qua các tuyến sông Đáy, sông Hồng, sông Thái Bình. Cùng với các tuyến giao thương đường sông, các tuyến giao thương ven biển đã nối liền Phố Hiến với các thị trường xa hơn. Từ thời nhà Trần, các thương nhân người Hoa ở Xích Đằng đã có những mối liên hệ với các cảng Hội Triều (Thanh Hoá), Càn Hải và Hội Thống (Nghệ An). Thế kỷ 17-18, các quan hệ thương mại giữa Phố Hiến và vùng Sơn Nam với các phố cảng Đàng Trong thông qua các khách buôn nước ngoài càng được tăng cường, như các bến đò Phục Lễ, Phù Thạch, Thanh Hà (Thuận Hoá), Hội An. Qua hai hệ thống sông Đàng Ngoài và sông Đáy, Phố Hiến còn bắt nhịp với các tuyến giao thương quốc tế ở biển Đông, như Nhật Bản, Trung Quốc, các nước Đông Nam Á, cũng như với các nước phương Tây như Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp... Đô thị - dân cư Ngoài vị trí trung tâm trấn Sơn Nam, Phố Hiến chủ yếu mang diện mạo của một đô thị kinh tế. Kết cấu của nó bao gồm một bến cảng sông; một tập hợp chợ; khu phường phố; và hai thương điếm phương Tây (Hà Lan và Anh). Mạch máu giao thương của Phố Hiến là sông Xích Đằng - đoạn sông Nhị Hà chảy sát Phố Hiến. Đây là nơi trung chuyển và là điểm tụ hội của những đoạn đường sông từ biển Đông vào tới kinh thành Thăng Long như tuyến Đàng Ngoài, nhiều tuyến sông khác. Bến cảng Phố Hiến là nơi các tàu thuyền ngoại quốc lưu đỗ để làm thủ tục kiểm soát và xin giấy phép đi tiếp tới Kinh đô. Cùng với bến cảng sông là một các khu chợ khá sầm uất như chợ Vạn ở bến Xích Đằng, chợ Hiến bên cạnh lị sở Sơn Nam, chợ Bảo Châu... Những chợ này đã vượt khỏi khuôn khổ những chợ địa phương để chở thành các chợ liên vùng. Thuyền bè từ Thăng Long - Kẻ Chợ và các trấn gần xa trong nước cũng như nước ngoài đã đến đây buôn bán, trao đổi hàng hoá. Khu phường phố là khu định cư của người Việt và các kiều dân ngoại quốc (chủ yếu là người Hoa) sản xuất và buôn bán với tính chất cố định ở Phố Hiến. Dựa theo các văn bia ở chùa Hiến (1709) và chùa Chuông (1711), Phố Hiến thời đó có khoảng 20 phường Qua các bi ký, có thể đọc được 13 phố và 32 tên cửa hiệu buôn bán như các Tân Thị, Tân Khai, Tiên Miếu, Hậu Trường… Trong thế kỷ 17, có hai thương điếm phương Tây đã được dựng lên ở Phố Hiến: thương điếm Hà Lan (1637-1700) và thương điếm Anh (1672-1683). Đây là văn phòng đại diện kiêm nhà kho của các Công ty Đông Ấn của Hà Lan và Anh. Đây là một quần thể kiến trúc được xây bằng gạch, nằm ở phía dưới Phố Hiến, quãng gần thôn Nễ Châu và Vạn Mới. Từ thế kỷ 18, quần thể kiến trúc này đã bị huỷ hoại trở thành đồng ruộng. Đến cuối thế kỷ 19 được tác giả người Pháp G. Dumoutier miêu tả lại Phố Hiến mang những nhu cầu tâm linh văn hoá của nhiều cộng đồng người khác nhau, thể hiện qua những công trình kiến trúc. Nổi bật là các phong cách kiến trúc Việt Nam và phong cách kiến trúc Trung Hoa (với sắc thái vùng Phúc Kiến, phía Nam Trung Quốc), thấp thoáng có phong cách kiến trúc châu Âu (nhà thờ Gô-tích Phố Hiến). Nhiều khi, các phong cách kiến trúc đó pha trộn lẫn nhau. Nhà thờ Kitô giáo ở Phố Hiến là một nhà thờ cổ, xây dựng từ thế kỷ 17 theo kiểu Gô-tích. Cũng như ở các đô thị Việt Nam khác, bên cạnh những kiến trúc bằng gạch ngói, đại bộ phận nhà ở của dân đều bằng gỗ tre nứa, lại ở sát nhau. Nhiều vụ hoả hoạn đã xảy ra. Trong lịch sử, Phố Hiến là một đô thị đa quốc tịch, trong đó nhiều nhất là người Việt và người Hoa. Những kiều dân ngoại quốc khác ở đây là Nhật, Xiêm La, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp… Phần lớn người Việt cự ngụ ở Phố Hiến là từ các địa phương khác đổ về sinh sống làm ăn, đó là một cộng đồng cư dân tứ xứ. Bên cạnh cộng đồng người Việt, đông đảo người Hoa đã đến cư trú tại Phố Hiến. Địa điểm tụ cư đầu tiên của người Hoa ở Phố Hiến là Hoa Dương, sau gộp thêm các xã Hoa Điền (Lương Điền), Hoa Cái (Phương Cái) hợp thành Tam Hoa. Các cửa hiệu của Hoa Kiều được tập trung ở Phố Khách, phố Bắc Hoà, Nam Hoà; nhiều nhà xây gạch ngói. Họ xây dựng nhiều đình, đền, chùa, miếu, quảng hội thờ các vị nhân thần người Trung Quốc như Quan Vân Trường, Dương Qúy Phi, Lâm Tức Mặc. Khi việc buôn bán giữa phương Tây và Phố Hiến sa sút thì các Hoa thương vẫn trụ lại, gần như nắm giữ độc quyền các hoạt động ngoại thương. Lúc này cũng có hiện tượng một số Hoa thương ở Phố Hiến di cư ngược trở lại Thăng Long - Hà Nội, như trường hợp các gia đình họ Phan ở phố Hàng Ngang. Hiện nay, vẫn có tới 14 họ thuộc các Hoa Kiều sinh sống ở Phố Hiến - Hưng Yên như các họ Ôn, Tiết, Hoàng, Lý, Trần, Bạch, Quách, Mã, Thái, Hà, Hứa, Từ, Lâm, Khu. Người Nhật cũng đã đến Phố Hiến từ rất sớm vào khoảng đầu thế kỷ XVII. Họ thường mang bạc, đồng đến mua đổi lấy các loại tơ hoặc vải lụa. Một số khác là các giáo sĩ và giáo dân Nhật Bản, có tên đạo theo chữ La Tinh, đã đi theo và phục vụ các giáo sĩ phương Tây tới Đàng Ngoài giảng đạo. Vì đã sinh sống lâu năm ở Việt Nam, những người Nhật này thường làm một số nghề như hoa tiêu dẫn tàu vào cửa sông, phiên dịch, môi giới… Tại Phố Hiến trước đây có một khu đất được gọi là Nghĩa trang Nhật Bản. ở Phố Hiến ngoài người Trung Quốc và Nhật Bản còn có các thương nhân châu á khác đến buôn bán như Xiêm La, Mã Lai, Lữ Tống (Philíppin)... Phương Tây, ngoài người Hà Lan và người Anh đã từng lập thương điếm ở Phố Hiến, còn một số người Bồ Đào Nha và Pháp. Người Bồ Đào Nha là người phương Tây Phố Hiến sớm nhất. Đó là những thương nhân độc lập, không lập công ty, không đặt thương điếm. Không ít những người Pháp cũng sống ở Phố Hiến vào những năm 80 của thế kỷ XVII. Thương điếm của Công ty Ấn Độ Pháp thành lập ở Phố Hiến năm 1680. Phát triển và suy thoái Phố Hiến từ nơi tụ cư, một thị trấn phát triển thành một đô thị lớn vào thế kỷ XVII đã luôn mang tính nổi trội đậm sắc thái kinh tế. Lúc đầu là các hoạt động buôn bán qua mạng lưới chợ. Sau đó, thương nghiệp ngày càng phát triển và trở thành hoạt động kinh tế mũi nhọn chủ yếu, đặc biệt là ngoại thương do lợi thế là một bến sông, đầu mối của các tuyến giao thông vùng. Điểm tụ cư ban đầu của số người Hoa tị nạn (làng Hoa Dương) cũng là một hạt nhân kinh tế sẽ phát triển mạnh mẽ trong những thời kỳ sau. Bước chuyển về chất trong đời sống kinh tế của Phố Hiến là khi có sự tác động của một nhân tố chính trị vào nền tảng kinh tế đó và hệ quả là sự chuyển dịch trọng tâm từ những yếu tố nội sinh sang những yếu tố ngoại sinh. Các lái buôn Hà Lan là những người phương Tây đặt thương điếm sớm nhất ở Phố Hiến. Những thập kỷ đầu, công việc buôn bán của thương điếm Hà Lan ở Phố Hiến diễn ra khá suôn sẻ và được nhà nước Lê - Trịnh chiếu cố ưu tiên so với những người ngoại quốc khác. Sau khi cuộc chiến Trịnh - Nguyễn chấm dứt, chúa Trịnh dần tỏ thái độ lạnh nhạt với Hà Lan, lại thêm sự cạnh tranh của các lái buôn phương Tây khác, đặc biệt là người Anh. Người Anh đến Phố Hiến muộn hơn người Hà Lan. Trong những năm đầu, thương điếm Anh ở Phố Hiến làm ăn tương đối phát đạt, cạnh tranh với các đối thủ của mình như các thương nhân Hà Lan, Trung Quốc, một phần nhờ tài tháo vát, ứng xử khôn khéo của W. Gyfford. Thời kỳ phồn thịnh nhất của Phố Hiến là vào khoảng giữa thế kỷ XVII (1630-1680). Sau đó là quá trình suy thoái, diễn ra trong gần 2 thế kỷ để cuối cùng trở thành tỉnh lị Hưng Yên. Biểu hiện rõ nhất của sự suy thoái của Phố Hiến là sự sa sút trong các hoạt động buôn bán với nước ngoài. Mặt khác, lúc này tình hình chính trị khu vực và hệ thống kinh tế thương mại biển Đông cũng đã có những chuyển biến. Trung Quốc bãi bỏ lệnh hải cấm, mở ra một thị trường đông đúc hấp dẫn. Nhật Bản cũng chuyển sang chiến lược xuất khẩu bạc, vàng, tơ lụa. Các tuyến buôn bán đường biển trực tiếp trở nên thông thoáng hơn, không cần qua khâu trung gian, như trường hợp Đàng Ngoài. Trong hoàn cảnh đó, ngoại thương Việt Nam và ở Phố Hiến nói riêng đã giảm thiểu đáng kể. Các thương điếm phương Tây ở Phố Hiến và Kẻ Chợ lần lượt đóng cửa, các tàu buôn phương Tây hầu như rất ít còn lại vùng Đàng Ngoài. Phố Hiến vắng hẳn các khách buôn nước ngoài, trừ người Trung Quốc là còn ở lại buôn bán. Thế kỷ XIX, khi kinh đô chuyển vào Huế, một làn sóng của thương nhân Trung Hoa ồ ạt nhập cư vào Hà Nội, một số gia đình Hoa Kiều trước kia từ Kẻ Chợ di cư đến Phố Hiến nay quay ngược trở về Hà Nội, phần nào cũng làm cho Phố Hiến trở nên vắng đi. Cũng trong quá trình suy thoái về kinh tế, Phố Hiến đã mất dần đi vai trò quan trọng về chính trị. Bến cảng Phố Hiến do sự bồi lở của sông Hồng ngày càng trở nên bất tiện, làm Phố Hiến ngày càng cách xa dòng sông. Vì vậy, năm 1726, chính quyền Lê - Trịnh đã chuyển dời trấn lị Sơn Nam sang bên hữu ngạn sông Hồng thuộc huyện Duy Tiên. Năm 1741, trấn Sơn Nam được tách thành Sơn Nam thượng và hạ, trọng tâm chính trị đã chuyển xuống mạn dưới, ở Vị Hoàng (Nam Định). Cũng trong thế kỷ XVIII, nhiều biến động xã hội - chính trị đã diễn ra tại địa bàn Phố Hiến. Năm 1730, đê Mạn Trù vỡ, dân của nhiều vùng ở Sơn Nam trở nên nghèo đói, phải tha phương cầu thực. Tiếp đến là những cuộc khởi nghĩa của Hoàng Công Chất và Nguyễn Hữu Cầu đã tàn phá vùng này, càng làm cho tiềm lực kinh tế của Phố Hiến kiệt quệ. Rồi sau đó là cuộc chiến giữa Tây Sơn và chúa Trịnh. Sang đến thế kỷ XIX, dưới triều Nguyễn, vai trò một đô thị kinh tế, một thương cảng quốc tế của Phố Hiến ngày nào giờ đây không còn nữa. Năm 1804, dưới thời Gia Long, trấn lị Sơn Nam thượng từ Phố Hiến đã được di chuyển về Châu Cầu (Phủ Lý). Năm 1831, với cuộc cải cách của vua Minh mạng, tỉnh Hưng Yên được thành lập, thành tỉnh được xây dựng trên địa bàn Phố Hiến cũ, mang nhiều chức năng quân sự, nhưng đã mất đi hoàn toàn vai trò kinh tế của một trạm hải quan, lúc này đã được chuyển qua bến Ninh Hải (Hải Phòng). Quần thể di tích Phố Hiến Trải qua những biến cố lịch sử và sự thay đổi của tự nhiên, Phố Hiến vẫn còn được bảo tồn với 16 di tích được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa quốc gia, các di tích như: đền Mây ở Xích Đằng (thờ tướng quân Phạm Phòng Át), đền Ngọc Thanh ở Nễ Châu (thờ vợ thứ của vua Lê Đại Hành), đền Trần (thờ Trần Hưng Đạo), đền Ủng (thờ Phạm Ngũ Lão), Văn Miếu Xích Đằng, Kim Chung Tự, Thiên Ứng Tự, Thiên Hậu cung, đền Mẫu, Đông Đô Quảng Hội…... Các chùa lớn ở Phố Hiến có chùa Chuông, chùa Hiến (Thiên Ứng tự), chùa Nễ Châu. Ngoài ra còn có nhiều đình, văn miếu. Người Hoa sinh sống ở Phố Hiến đã để lại nhiều công trình kiến trúc tôn giáo như đền Mẫu (thờ Dương Quý Phi), đền Thiên Hậu (thờ Lâm Tức Mặc), Võ Miếu (thờ ba anh em Lưu Bị, Quan Vân Trường và Trương Phi)… Nhiều lễ hội gắn liền với các di tích được duy trì hàng năm, tái hiện hình ảnh mấy trăm năm trước của Phố Hiến thu hút hàng vạn lượt khách du lịch trong và ngoài nước đến tham quan, tìm hiểu, nghiên cứu… Quần thể di tích Phố Hiến nằm trên địa phận của Phố Hiến xưa, nay thuộc phần đất từ thôn Đằng Châu (phường Lam Sơn) tới thôn Nễ Châu (phường Hồng Châu) trên một diện tích khoảng chừng 5 km2 ở thành phố Hưng Yên đã được xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt. Đông Đô Quảng Hội Đông Đô Quảng Hội nằm trên đường Phố Hiến, phường Hồng Châu. Xưa kia, nơi đây thuộc trung tâm Phố Hiến hạ, thôn Mậu Dương, tổng An Tảo, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Đây là nơi hội họp của các thương nhân nước ngoài, chủ yếu là người Hoa, đồng thời đó cũng là nơi thờ tam thánh: Thần Thái Y (thần làm nghề thuốc); Thần Hoa Quang (dạy dân làm các nghề thủ công); Thần Nông (dạy dân làm ruộng, trồng trọt, chăn nuôi). Đền Mây Đền Mây là một di tích quốc gia được công nhận từ năm 1992. Đền nằm bên sông Hồng, cạnh bến đò Mây xưa thuộc xã Đằng Châu, nay là phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên, nơi đã được dân gian ca ngợi "Trăm cảnh nghìn cảnh không bằng Bến Lảnh, Đò Mây". Đền Mây cũng như chùa Chuông ở phố Hiến là hai di tích nổi tiếng vì còn lưu giữ được phong cách kiến trúc thuần Việt. Đền Mây là nơi thờ tướng quân Phạm Bạch Hổ thời 12 sứ quân (tức Phạm Phòng Át), một vị tướng để lại nhiều dấu ấn qua các thời kì: nhà Ngô, loạn 12 sứ quân và nhà Đinh. Đền Kim Đằng Đền Kim Đằng nằm ở trung tâm thôn Kim Đằng, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Đền được xây dựng trên mảnh đất mà tướng quân Đinh Điền chọn làm đại bản doanh khi về đây tuyển binh để giúp Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp 12 sứ quân. Hiện nay, Đền Kim Đằng còn giữ được nhiều nét kiến trúc thời Hậu Lê và thời Nguyễn. Đền có kiến trúc kiểu chữ đinh, bao gồm 5 gian tiền tế và 3 gian hậu cung. Tòa tiền tế được làm kiểu chồng diêm 2 tầng, 8 mái. Nối tiếp với tiền tế là 3 gian hậu cung lợp ngói mũi. Gian trung tâm đặt tượng tướng quân Đinh Điền và phu nhân Phan Thị Môi Nương, được tạo tác trong tư thế ngồi tọa thiền... Ngoài ra trong di tích còn lưu giữ một số bức hoành phi, câu đối ca ngợi công đức của thần. Hàng năm, lễ hội Đền Kim Đằng được tổ chức từ ngày 15 đến ngày 17 tháng 11 âm lịch để tưởng nhớ tới ngày mất của tướng quân Đinh Điền và phu nhân. Tướng quân Đinh Điền cùng Nguyễn Bặc Lưu Cơ, Trịnh Tú và Đinh Bộ Lĩnh kết nghĩa anh em. Khi đất nước xảy ra loạn 12 sứ quân, mấy anh em bằng hữu đã theo sứ quân Trần Lãm chiếm giữ vùng Bố Hải (Thái Bình). Khi đã trở thành Vạn Thắng Vương, Đinh Bộ Lĩnh giao cho Đinh Điền chỉ huy 10 đạo quân đi thu phục các sứ quân khác. Khi đến trang Đằng Man, thấy địa thế đẹp, ông liền cho dựng đại bản doanh và chọn 3 người họ Phan, họ Phạm và họ Nguyễn ở trang Đằng Man làm gia tướng và chọn người con gái họ Phan tên là Môi Nương làm vợ. Khi Lê Hoàn lên ngôi vua thay cho Đinh Toàn, Đinh Điền và Nguyễn Bặc cùng Phạm Hạp dấy binh nhưng không thành, Đinh Điền lui quân về trại Đằng Man.Khi Đinh Điền và phu nhân mất, nhân dân trại Đằng Man đã lập đền thờ trên nền doanh trại, 3 gia tướng của Đinh Diền cũng được phối thờ tại đây. Chùa Chuông Chùa Chuông có tên chữ là Kim Chung Tự nằm tại thôn Nhân Dục, phường Hiến Nam, được mệnh danh là "Phố Hiến đẹp nhất danh lam". Văn miếu Xích Đằng Chùa Nễ Châu Chùa Nễ Châu được khởi dựng vào thời Tiền Lê từ thế kỷ thứ 10. Tương truyền, khi Lê Hoàn đóng quân để chống giặc ngoại xâm nhà Tống ở Nễ Châu, đã cho người xây dựng một ngôi chùa. Khi chùa được xây xong, Lê Hoàn nói: làng nào đủ tiền trả công thợ thì chùa sẽ thuộc về làng đó. Nhờ vào sự giúp đỡ của gia đình bà Nguyễn Thị Ngọc Thanh (người làng Nễ Châu), dân làng Nễ Châu đã đủ tiền trả công thợ nên chùa thuộc về làng từ đó. Thấy bà Ngọc Thanh xinh đẹp, Lê Hoàn đã lấy bà làm vợ. Trong thời gian này, bà đã có nhiều công sức giúp nghĩa quân của Lê Hoàn đánh bại quân xâm lược nhà Tống. Khi Lê Hoàn lên ngôi hoàng đế, bà đã không theo nhà vua về kinh đô Hoa Lư mà xin ở lại quê hương để chăm sóc cha mẹ già yếu, Sau khi bà mất, nhà vua đã cho lập đền thờ ở đối diện chùa Nễ Châu và sắc phong làm “Ngọc Thanh Hoàng hậu”. Chú thích
Tinh Võ Môn(Tên tiếng Anh của bộ phim: Fist of Fury) là bộ phim truyền hình HongKong do Đài truyền hình ATV sản xuất và phát hành vào năm 1995. Đây là 1 trong những bộ phim quy tụ dàn diễn viên nổi tiếng và đình đám nhất của ATV vào thời điểm đó. Tóm tắt nội dung Diễn viên Thanh bang Lưu Chí Vinh vai Thái Lục Căn Doãn Thiên Chiếu vai Thái Ngạc Phú Tùng San vai Cô Tuyết Kỳ Hon Yee-Sang vai Thái Kim Hổ Lương Dật Hổ vai Lượng Hán Matthew Ng Ting vai Bính Châu Tiểu Lâm vai Tâm Tinh Võ Môn Cao Hùng vai Hoắc Nguyên Giáp Chân Tử Đan vai Trần Chân Ngô Đình Diệp vai Lương Tấn Tinh Bobby Tsang Wai-Ming vai Đại Công Nhật Bổn Dương Trạch Lâm vai Võ Điền Hạnh Hùng Vạn Ỷ Văn vai Võ Điền Nhu Mỹ Bào Khởi Tịnh vai Võ Điền Phu nhân Mễ Kỳ vai Ông Trợ lý Lâm Chí Hào vai Thạch Đỉnh Anh Minh Tiển Hạo Anh vai Thạch Đỉnh Hồng Mẫn Diễn viên khác Khương Hạo Văn vai A Trung Đới Mộng Mộng vai Tiểu Yến Hứa Nhị Ngưu vai Chú Toàn Giang Đào vai Thám trưởng Thượng Hải Phùng Quốc vai Trinh thám của Tôn Trung Sơn tại Thượng Hải Ngô Nguyên Tuấn vai Sư phụ Thạch Đỉnh Anh Minh La Liệt vai Nguyên soái Lạc Đạt Hoa vai Thiếu soái Hùng Hân Hân vai Hồng Tinh Trịnh Thứ Phong vai Hồng Báo Quan Vĩ Luân vai Sơn Bản Chí Trợ Mak Gei vai Thám trưởng tập cuối
Tranh Hàng Trống một trong những dòng tranh dân gian Việt Nam được làm chủ yếu tại phố Hàng Nón, Hàng Trống của Hà Nội xưa. Hàng Trống xưa kia thuộc đất cũ của thôn Tự Tháp, tổng Tiền Túc (sau đổi thành Thuận Mỹ), huyện Thọ Xương, nay thuộc quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Phố Hàng Trống nằm kề các phố Hàng Nón, Hàng Hòm, Hàng Quạt... là nơi chuyên sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ nhất là đồ thờ như: tranh thờ, trống, quạt, lọng, cờ... Dòng tranh này hiện nay gần như đã bị mai một hết, chỉ còn lưu giữ trong các viện bảo tàng. Chính vì vậy, những nghệ nhân vẽ tranh Hàng Trống giảm hẳn. Hiện, chỉ còn duy nhất nghệ nhân [Lê Đình Nghiên] còn gắn bó với nghệ thuật tranh Hàng Trống và những nét tinh hoa của dòng tranh đó Sơ lược Dòng tranh này cũng như các dòng tranh phổ biến khác đều có hai dòng tranh chính là tranh thờ và tranh Tết. Nhưng chủ yếu là tranh thờ dùng trong sinh hoạt tín ngưỡng phục vụ đền phủ của Đạo giáo nhất là tranh thờ của Đạo Mẫu (Mẫu Liễu Hạnh ở phủ Giầy, Nam Định), như tranh Tứ Phủ cộng đồng, Bà chúa thượng ngàn, Mẫu Thoải, Ngũ Hổ, Ông Hoàng cưỡi cá, cưỡi ngựa, cưỡi rắn, Ông Hoàng Mười, Bà Chúa Ba, Đức Thánh Trần... rất đẹp. Loại tranh này thường được các cụ chạm bằng vàng hay bạc thật dát mỏng. Tranh Tết thì Chúc phúc, Tứ quý,... Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng có lẽ dòng tranh Hàng Trống xuất hiện từ khoảng thế kỷ 16 và thịnh nhất vào khoảng cuối thế 19, đầu thế kỷ 20 và sau đó dần suy tàn. Và chịu ảnh hưởng rõ rệt của các luồng tư tưởng, văn hoá, tôn giáo, của vùng miền, các dân. Là kết quả của sự giao thoa tinh hoa giữa Phật giáo, Nho giáo; giữa loại hình tượng thờ, điêu khắc ở đình chùa với những nét đẹp trong sinh hoạt văn hoá hằng ngày. Dòng tranh Hàng Trống thực sự phát triển cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX nhưng tới thế kỷ 20 dòng tranh này bắt đầu suy tàn, nhất là kể từ sau kết thúc kháng chiến chống Mỹ hầu như các nhà làm tranh đều giải nghệ. Nhiều nhà làm tranh còn đốt bỏ hết những dụng cụ làm tranh như ván, bản khắc, một phần do thú chơi tranh của người Hà Nội đã đổi khác, một phần do việc làm tranh không có thu nhập cao nên nhiều người đã chuyển nghề. Đặc điểm Cách in ấn và vẽ Tranh Hàng Trống sử dụng kỹ thuật nửa in nửa vẽ, tranh chỉ in ván nét lấy hình, còn màu là thuốc nước, tô bằng bút lông mềm rộng bản, một nửa ngọn bút chấm màu, còn nửa ngọn bút kia chấm nước lã, tô tranh theo kỹ thuật vờn màu. Tranh chỉ có một bản đen đầu tiên, sau khi in thì tranh được tô màu lại bằng tay. Từ các bản khắc gốc, những bức tranh đã được in ra, bằng mực Tàu mài nguyên chất. Sau đó là công đoạn bồi giấy. Tùy thuộc từng tranh cụ thể mà có tranh chỉ bồi một lớp, có tranh lại phải bồi đến 2 hay 3 lớp giấy. Khi hồ đã khô thì mới có thể vẽ màu lại. Có khi phải mất đến 3, 4 ngày mới hoàn thành một bức tranh. Tranh được in trên giấy dó bồi dày hay giấy báo khổ rộng. Có những tranh bộ khổ to và dài, thường bồi dày, hai đầu trên dưới lồng suốt trục để tiện treo, phù hợp với kiểu kiến trúc nhà cao, cửa rộng nơi thành thị. Ván khắc được làm bằng gỗ lồng mực hoặc gỗ thị. Mực in truyền thống dùng bằng những chất liệu dân dã nhưng cầu kỳ và tinh xảo trong chế tác. Màu sắc và cách tạo màu Tranh dùng các gam màu chủ yếu là lam, hồng đôi khi có thêm lục, đỏ, da cam, vàng... Tỷ lệ được tạo không hề đúng với công thức chuẩn mà chỉ để cho thật thuận mắt và ưa nhìn. Tranh Hàng Trống được tô màu bằng bút lông và phẩm nhuộm nên màu sắc đậm đà hơn tranh Đông Hồ. Đề tài nội dung và thể thức tranh Đề tài của tranh rất phong phú nhưng chủ yếu là tranh thờ như: Hương chủ, Ngũ hổ, Độc hổ, Sơn trang, Ông Hoàng Ba, Ông Hoàng Bảy, Phật Bà Quan Âm... Ngoài ra cũng có những bức tranh chơi như các bộ Tứ Bình (4 bức) hoặc Nhị bình (2 bức). Tứ bình thì có thể là tranh Tố nữ, Tứ dân (ngư, tiều, canh, mục) hoặc Tứ quý (Bốn mùa). Tứ bình còn có thể trình bày theo thể liên hoàn rút từ các truyện tích như Nhị độ mai, Thạch Sanh, Truyện Kiều. Nhị bình thì vẽ những đề tài như "Lý ngư vọng nguyệt" (Cá chép trông trăng) hoặc "Chim công múa" có tính cách cầu phúc, thái bình. Những bức về đề tài dân dã như cảnh "Chợ quê" hay "Canh nông chi đồ" cũng thuộc loại tranh Hàng Trống.
Chi Dứa (danh pháp khoa học: Ananas) thuộc về họ Dứa (Bromeliaceae). Được biết đến nhiều nhất là loài Ananas comosus, là loại dứa cho quả ăn được. Chi này có nguồn gốc từ khu vực Nam Mỹ và được đưa tới các đảo khu vực Caribe nhờ những thổ dân Anh điêng Carib. Năm 1493, Christopher Columbus lần đầu tiên đã nhìn thấy các loại cây của chi này tại Guadeloupe. Nó được đưa sang châu Âu và từ đây nó được người Anh và Tây Ban Nha phát tán tới các đảo trên Thái Bình Dương. Các cánh đồng trồng dứa thương phẩm được thành lập tại Hawaii, Philippines, Đông Nam Á, Florida và Cuba. Dứa đã trở thành một trong những loại cây ăn trái phổ biến nhất trên thế giới. Các lá dai mọc thành cụm hình hoa thị. Các lá dài và có hình dạng giống mũi mác và có mép lá với răng cưa hay gai. Hoa mọc từ phần trung tâm của cụm lá hình hoa thị, mỗi hoa có các đài hoa riêng của nó. Chúng mọc thành cụm hình đầu rắn chắc trên thân cây ngắn và mập. Các đài hoa trở thành mập và chứa nhiều nước và phát triển thành một dạng phức hợp được biết đến như là quả dứa (quả giả), mọc ở phía trên cụm lá hình hoa thị. Từ Ananas có nguồn gốc từ tiếng Guarani để chỉ cây dứa. Các loài, thứ Ananas ananassoides Ananas ananassoides thứ typicus Ananas arvensis: (Brasil) Ananas bracteatus: (Brasil) Ananas bracteatus thứ albus Ananas bracteatus thứ hondurensis Ananas bracteatus thứ paraguariensis Ananas bracteatus thứ rudis Ananas bracteatus thứ striatus (Nam Mỹ) Ananas bracteatus thứ tricolor Ananas bracteatus thứ typicus Ananas comosus - dứa (Brasil) Ananas erectifolius Ananas genesio-linesii (Brasil) Ananas guaraniticus (Argentina, Paraguay) Ananas macrodontes (Brasil) Ananas microcephalus (nhiệt đới châu Mỹ) Ananas microcephalus thứ major (Nam Mỹ) Ananas microcephalus thứ minor (Nam Mỹ) Ananas microcephalus thứ missionensis (Argentina) Ananas microcephalus thứ mondayanus (Nam Mỹ) Ananas microstachys thứ typicus Ananas mordilona Ananas pancheanus (Colombia) Ananas parguazensis (Nam Mỹ) Ananas pyramidalis Ananas sativus (nhiệt đới châu Mỹ) Ananas sativus thứ hispanorum Ananas sativus thứ lucidus Ananas sativus thứ muricatus Ananas sativus thứ sagenarius Ananas sativus f. typicus Ananas sativus thứ variegatus Ananas strictus (Paraguay) Ananas viridis Chú thích
Chi Dứa gai (danh pháp khoa học: Bromelia) là một chi thực vật có nguồn gốc ở khu vực nhiệt đới châu Mỹ, với đặc trưng là các hoa với đài hoa bị nứt sâu, thuộc họ Dứa (Bromeliaceae). Trong tiếng Việt, nó có thể gọi là dứa gai hay dứa dại, tuy nhiên tên gọi dứa dại khá mơ hồ, xem phần lưu ý. Tên gọi này được đặt theo tên của nhà thực vật học người Thụy Điển là Olaf Bromelius (mất năm 1705). Một số loài Nó bao gồm các loài sau: Bromelia alsodes Bromelia alta Bromelia antiacantha Bromelia arenaria Bromelia balansae Bromelia chrysantha Bromelia flemingii Bromelia goeldiana Bromelia goyazensis Bromelia hieronymii Bromelia horstii Bromelia humilis Bromelia karatas Bromelia macedoi Bromelia palmeri Bromelia pinguin Bromelia scarlatina Bromelia serra Bromelia sylvicola Các sợi dứa gai khá dai thu được từ B. serra và B. hieronymi, cả hai đều được gọi là chaguar, là một trong những yếu tố cơ bản trong nền kinh tế của bộ lạc Wichí tại khu vực bán khô cằn Gran Chaco của Argentina. Lưu ý Trong tiếng Việt, từ dứa dại còn được dùng để chỉ một bộ, họ và chi có danh pháp khoa học tương ứng là Pandanales, Pandanaceae và Pandanus không có quan hệ họ hàng gì với chi này và nó được dùng để chỉ các đơn vị phân loại của nhóm thực vật này. Chú thích
SA8000 là một hệ thống các tiêu chuẩn trách nhiệm giải trình xã hội để hoàn thiện các điều kiện làm việc cho người lao động tại các doanh nghiệp, trang trại hay văn phòng, do Social Accountability International (SAI) phát triển và giám sát. Hướng dẫn cụ thể để thực hiện hay kiểm tra các tiêu chuẩn xã hội theo SA8000 có sẵn tại trang chủ của tổ chức này (SA8000). SAI cũng đưa ra chương trình tập huấn SA8000 và các tiêu chuẩn làm việc cho các nhà quản lý, công nhân và các nhà kiểm tra tiêu chuẩn xã hội. Tổ chức này cũng hoạt động trong vai trò của nhà môi giới trung gian để cấp phép và giám sát các tổ chức kiểm tra chính sách xã hội nhằm cấp chứng chỉ cho những người (doanh nghiệp) sử dụng lao động đạt tiêu chuẩn SA8000 cũng như hướng dẫn để các doanh nghiệp đó phát triển phù hợp với các tiêu chuẩn tương tác đã đưa ra. SA8000 dựa trên Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, Công ước quốc tế về quyền trẻ em của Liên hợp quốc và một loạt các công ước khác của Tổ chức lao động quốc tế (ILO). SA8000 bao gồm các lĩnh vực sau của trách nhiệm giải trình: Lao động trẻ em: Bao gồm các vấn đề liên quan đến lao động của trẻ em dưới 14 (hoặc 15 tuổi tùy theo từng quốc gia) và trẻ vị thành niên 14(15)-18. Lao động cưỡng bức: Bao gồm các vấn đề liên quan đến lao động tù tội, lao động để trả nợ cho người khác v.v An toàn và sức khỏe tại nơi làm việc: Các quy định về vận hành, sử dụng máy móc thiết bị, các điều kiện về môi trường như độ chiếu sáng, độ ồn, độ ô nhiễm không khí, nước và đất, nhiệt độ nơi làm việc hay độ thông thoáng không khí, các theo dõi-chăm sóc y tế thường kỳ và định kỳ (đặc biệt các chế độ cho lao động nữ), các trang thiết bị bảo hộ lao động mà người lao động cần phải được có để sử dụng tùy theo nơi làm việc, các phương tiện thiết bị phòng cháy-chữa cháy cũng như hướng dẫn, thời hạn sử dụng, các vấn đề về phương án di tản và thoát hiểm khi xảy ra cháy nổ, an toàn hóa chất (MSDS). Quyền tham gia các hiệp hội: Công đoàn, nghiệp đoàn Phân biệt đối xử: Các vấn đề về phân biệt đối xử theo các tiêu chuẩn tôn giáo-tín ngưỡng, dân tộc thiểu số, người nước ngoài, tuổi tác, giới tính. Tiêu chuẩn SA8000 không cho phép có sự phân biệt đối xử. Kỷ luật lao động: Các vấn đề liên quan đến các hình thức kỷ luật được phép và không được phép (đánh đập, roi vọt, xỉ nhục, đuổi việc, hạ bậc lương, quấy rối tình dục v.v) Thời gian làm việc: Nói chung được đưa ra tương thích với các tiêu chuẩn trong bộ Luật lao động của từng quốc gia cũng như các tiêu chuẩn của ILO về thời gian làm việc thông thường, lao động thêm giờ, các ưu đãi về thời gian làm việc đối với lao động nữ (trong hay ngoài thời kỳ thai sản và nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi). Lương và các phúc lợi xã hội khác (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế v.v) Quản lý doanh nghiệp: Các vấn đề về quản lý của giới chủ, bao gồm các vấn đề liên quan đến quyền được khiếu nại của người lao động và nghĩa vụ phải trả lời hay giải đáp khiếu nại của chủ. Quan hệ cộng đồng: Bao gồm quan hệ với các tổ chức, cơ quan khác hay dân cư trong khu vực. Chi phí giám định để có thể cấp chứng chỉ cho một doanh nghiệp, trang tại hay văn phòng nào đó dao động theo quy mô và lực lượng lao động được sử dụng. Nó có thể lên tới 10.000-12.000 USD cho các xí nghiệp lớn (thời giá 2005). Năm 2005, Clean Clothes Campaign thông báo đã phát hiện các chứng cứ cho thấy có sự vi phạm lặp lại các tiêu chuẩn SA8000 tại một số xí nghiệp đã có chứng chỉ SA8000 do tổ chức kiểm tra các tiêu chuẩn xã hội trung gian cấp.
Chu trình Brayton là một chu trình nhiệt động lực học, đặt tên theo George Brayton (1830-1892), một kỹ sư người Mỹ, người đã phát triển nó. Năm 1872, Brayton đăng ký bằng sáng chế cho động cơ đốt trong mang tên "Ready Motor" ("Mô tơ Sẵn sàng"). Không giống với chu trình bốn thì của động cơ Otto hay động cơ Diesel, động cơ của Brayton dùng một xylanh nén khí riêng và một xylanh giãn nở riêng. Ngày nay, chu trình Brayton là nguyên lý hoạt động của động cơ tuốc bin khí. Giống như với các động cơ đốt trong khác, chu trình Brayton là hệ mở, dù cho, trong nghiên cứu nhiệt động lực học, đôi khi có thể đặt giả thuyết rằng khí thải ra được dùng lại để ở đầu vào, để hệ tương đương với hệ kín. Chu trình Brayton còn được biết đến với tên gọi chu trình Joule. Mô hình Động cơ với chu trình Brayton có ba thành phần: Máy nén khí Buồng trộn khí với nhiên liệu Buồng giãn nở Trong động cơ Brayton của thế kỷ 19, không khí được hút vào máy nén khí chạy bằng piston và xylanh, và quá trình nén có thể coi một cách lý tưởng là đẳng entropy. Khí nén được đưa sang buồng trộn để hòa với nhiên liệu, tạo áp suất không đổi (quá trình đẳng áp). Hỗn hợp khí nhiên liệu nóng và cao áp được đánh lửa trong buồng giãn nở và năng lượng trong phản ứng hóa học giữa không khí và nhiên liệu được giải phóng, làm hỗn hợp giãn nở, đẩy piston của buồng giãn nở; theo quá trình đẳng entropy. Một phần công năng sản sinh bởi buồng giãn nỏ được cung cấp cho máy nén khí, thông qua các tay quay . Ngày nay chu trình Brayton được nhắc đến trong động cơ tuốc bin khí. Động cơ này cũng có ba phần: Buồng nén khí Buồng đốt Buồng giãn nở làm quay tuốc bin Không khí được hút vào buồng nén, được làm tăng áp suất theo quá trình gần với đẳng entropy. Khí đã nén chạy sang buống đốt, nơi nhiên liệu được phun vào và đánh lửa, làm tăng nhiệt độ khí trong một quá trình đẳng áp, do buồng đốt mở thông cho dòng chảy vào và ra. Khí ở áp suất và nhiệt độ cao được giãn nở tại buồng giãn nở đẩy các cánh quạt của tuốc bin; theo quá trình giãn nở đẳng entropy. Một phần công năng cung cấp cho tuốc bin được dùng vào việc nén khí ở buồng nén khí. Trên thực tế, quá trình nén khí và giãn nở không thực sự đẳng entropy; và công năng bị hao hụt trong các quá trình này làm giảm hiệu suất nhiệt động lực học của động cơ. Công có ích do động cơ sinh ra được thể hiện bằng diện tích hình khép kín 1 – 2 – 3 – 4. Diện tích này càng lớn thì công có ích và hiệu suất càng lớn, để tăng diện tích này thì phải tăng áp suất sau máy nén của điểm 2;3 (áp suất của điểm 4;1 là áp suất môi trường không thể giảm xuống được) nên hiệu suất động cơ được quyết định bằng tỷ số nén. Việc tăng tỷ số nén giúp cải thiện hiệu suất và công suất của hệ thống Brayton. Ứng dụng Các cải tiến sau có thể thực hiện để làm tăng hiệu suất của động cơ kiểu Brayton: Gia nhiệt nhiều giai đoạn: dòng khí sau khi đã đi qua buồng giãn nở, lại được đưa qua buồng đốt thứ hai để gia nhiệt trước khi cho qua tầng giãn nở cuối. Việc này làm tăng công suất cho một tỷ số nén nhất định, mà không cần tăng tỷ số nén vượt quá ngưỡng chịu đựng của kim loại hay vật liệu cấu tạo nên động cơ. Chú ý là phương pháp này không phải là phương pháp đốt tăng lực, một phương pháp làm tăng công suất, nhưng làm giảm đáng kể hiệu suất. Làm lạnh khí nén (tiếng Anh: intercooling): dòng khí sau khi đi qua buồng nén thứ nhất, được làm lạnh, rồi lại cho qua buồng nén thứ hai, trước khi đi vào buồng đốt. Việc này tuy đòi hỏi nhiều nhiên liệu hơn trong buồng đốt để làm tăng nhiệt độ dòng khí lên tương đương so với các động cơ Brayton thông thường, nó làm giảm nhiệt dung riêng của dòng khí trước khi đi vào buồng nén thứ hai. Nhờ vậy, quá trình nén gần với quá trình nén đẳng nhiệt làm tăng tỷ số nén với cùng một công suất nén. Điều này dẫm đến giảm công cần nén khí, và lợi thế tổng cộng trong tiêu hao năng lượng. Tái tạo (tiếng Anh: regeneration), dòng khí thải còn nóng của động cơ được cho qua buồng trao đổi nhiệt với dòng khí sau máy nén trước khi đi vào buồng đốt. Việc này giúp tiết kiệm nhiên liệu, giảm hao tổn nhiệt. Ngoài ra, nhiệt lượng của khí thải cũng có thể dùng dùng cho mục đích khác, như hâm nóng nước trong các hệ thống vũ trụ. Chu trình Brayton cũng có thể được kết hợp với chu trình Rankine, tạo ra chu trình kết hợp có hiệu suất tổng cộng cao hơn.
Lê Văn Duyệt (1763 hoặc 1764 – 28 tháng 8 năm 1832) còn gọi là Tả Quân Duyệt, là một nhà chính trị, nhà quân sự lớn trong lịch sử Việt Nam. Ông là một trong các chỉ huy chính của quân đội chúa Nguyễn Ánh trong cuộc chiến với Tây Sơn. Khi chiến tranh kết thúc và nhà Nguyễn được thành lập, ông trở thành một đại thần, phục vụ hai triều vua Gia Long (tức Nguyễn Ánh) và Minh Mạng. Ông nội ông là người gốc Quảng Ngãi, vào Tiền Giang lập nghiệp nên ông sinh ra tại Tiền Giang. Lê Văn Duyệt gia nhập quân đội Gia Định, cùng chúa Nguyễn Ánh chống lại nhà Tây Sơn từ năm 1781. Ông cầm quân thắng nhiều trận lớn, nên nhanh chóng thăng tiến trong hàng ngũ của quân Gia Định tới chức chỉ huy Tả Quân vào thời điểm cuộc chiến kết thúc. Sau khi nhà Nguyễn thành lập, ông trở thành một vị quan, tướng quân giữ nhiều chức vụ quan trọng của triều đình, nhiều lần công cán ở cả phía Bắc thành và hai lần được cử làm Tổng trấn Gia Định Thành. Việc cai trị của ông đã góp công lớn giúp ổn định và phát triển khu vực Nam kỳ, khiến cho vùng này từ một khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh thành một khu vực bình yên và giàu có. Thêm vào đó, Lê Văn Duyệt phản đối việc nối ngôi của Minh Mạng đồng thời bảo vệ các tín đồ Công giáo khỏi chính sách bế quan tỏa cảng và trọng Nho giáo của nhà vua. Những việc này đã khiến ông thường xuyên xung đột với nhà vua và dẫn đến việc triều đình đã hạch tội và cho phá mộ sau khi Lê Văn Duyệt mất. Vì việc này, người con nuôi của ông là Lê Văn Khôi đã nổi dậy chống lại triều đình. Sau khi cuộc nổi dậy bị dập tắt, Lê Văn Duyệt tiếp tục bị truy tội đến mãi đời Thiệu Trị thì vụ án mới được xét lại, và ông mới được phục hồi danh dự. Tiểu sử Lê Văn Duyệt, còn gọi là Tả Quân Duyệt, sinh năm 1763 hoặc 1764 tại vàm Trà Lọt, thuộc làng Hòa Khánh, huyện Kiến Phong, tỉnh Định Tường, về sau gọi là xã Hòa Khánh thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang). Ông nội của Lê Văn Duyệt là Lê Văn Hiếu từ làng Bồ Đề, huyện Chương Nghĩa (Mộ Đức), tỉnh Quảng Ngãi vào đây sinh sống. Sau khi Lê Văn Hiếu qua đời vì dịch bệnh thiên thời, cha ông là Lê Văn Toại rời vùng Trà Lọt đến ngụ tại vùng Rạch Gầm, làng Long Hưng, huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường, về sau gọi là xã Long Hưng thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang). Lê Văn Toại có tất cả bốn người con trai Lê Văn Duyệt là con trưởng, có 5 người em. Sử cũ mô tả ông là người thấp bé, nhưng lại có sức mạnh hơn người, ông sinh ra là người liên giới tính và không phải chịu hoạn khi làm quan từng được coi là một trong "ngũ hổ tướng" ở Gia Định. Sự nghiệp Theo Chúa Nguyễn, chống Tây Sơn Năm 1781, một lần chúa Nguyễn Phúc Ánh bị quân Tây Sơn đánh đuổi chạy đến Trà Lọt, có ngụ tại nhà ông Lê Văn Toại. Cảm ơn cứu mạng, Lê Văn Duyệt được Chúa Nguyễn tuyển dụng làm thái giám, lãnh nhiệm vụ bảo vệ cung quyến. Lúc bấy giờ, ông vừa tròn 17 tuổi. Theo sách Quốc triều sử toát yếu thì trong trận đánh tại Đồng Văn, ông bị quân Tây Sơn bắt, nhưng sau đó trốn về được. Tháng 11 (âm lịch) năm 1784, ông gặp lại Nguyễn Phúc Ánh, rồi gắn bó chặt chẽ với vị chúa này, trong đó có hai lần ông hộ giá sang Xiêm (Thái Lan). Năm Đinh Mùi (1787), Nguyễn Ánh về lại Gia Định, Lê Văn Duyệt xin cho chiêu mộ binh lính và thuộc theo Tả quân. Tháng 11 (âm lịch) năm 1793, Lê Văn Duyệt được Nguyễn Ánh phong cấp từ thuộc nội cai đội lên làm thuộc nội vệ úy, vì "tuy sinh ra là người (thái) giám, (nhưng là) người mạnh dữ mà đánh giỏi, có công tùng chinh". Kể từ đó, Chúa Nguyễn thường bàn việc binh với Lê Văn Duyệt. Năm Đinh Tỵ (1797) Lê Văn Duyệt đổi làm Vệ úy vệ Điều vũ, rồi dời làm Thần sách quân Tả đồn chánh thống trấn thủ thành Diên Khánh. Năm Kỷ Mùi (1799), theo Nguyễn Ánh đi đánh Quy Nhơn, quân đến đồn Đạm Thủy (Nước Ngọt) đốt kho lương kẻ địch, chém được tướng Tây Sơn là Đoàn Lượng Giảng và đem đầu ấy đến nộp Ánh ở Cù Mông, tiếng quân cả vang. Tháng 11 (âm lịch) năm 1800, ông được cử theo Tiết chế Nguyễn Văn Thành đi giải vây thành Quy Nhơn. Hai ông hợp quân đánh thắng một trận lớn, nhưng sau đó nảy sinh hiềm khích. Cũng sách trên chép: ...Thành hay uống rượu, lúc gần ra trận, cầm hồ rót rượu, rót cho Duyệt một chén và nói rằng: "Uống rượu để thêm sức mạnh". Ông Duyệt nói: "Ai tánh hay sợ mới uống rượu để cho thêm sức mạnh, còn như tôi thời trước mắt không coi (đó là) trận dữ, cần chi phải uống rượu". Thành có ý thẹn, từ đó giận Duyệt. Tháng Giêng (âm lịch) năm 1801, chúa Nguyễn sai các tướng là Nguyễn Văn Trương, Tống Phước Lương đi trước, Võ Di Nguy và Lê Văn Duyệt theo sau, đánh chiếm cửa biển Thị Nại (trận Thị Nại năm 1801)). Khi lâm trận, tướng Võ Di Nguy bị trúng đạn chết, ông Duyệt càng gắng sức đánh. Nguyễn Ánh thấy tướng sĩ chết nhiều quá, sai tạm lui quân nhưng Lê Văn Duyệt không chịu, liều chết đánh phá gần hết binh thuyền Tây Sơn. Trận ấy được khen là "võ công đệ nhất" của nhà Nguyễn và là "võ công lớn nhất" của Lê Văn Duyệt . Lê Văn Duyệt đã thắng thủy quân Tây Sơn, lại tiến quân lên bộ đánh ở 2 cầu Đông Giang, Tân Hội, liền đánh vỡ được, bắt sống được Đô đốc Tây Sơn là Nguyễn Bá Phong. Tháng 4 (âm lịch) cùng năm, ông theo chúa Nguyễn ra đánh Phú Xuân. Trước đó, Nguyễn Anh do dự giữa việc cứu quân ở thành Bình Định hay đánh ra Phú Xuân, Lê Văn Duyệt bàn kế đánh Phú Xuân trước. Tháng sau, đại binh vào cửa Tư Hiền, ông và Lê Chất phá được đồn quân Tây Sơn ở Quy sơn (tức núi Linh Thái), bắt sống được Phò mã Nguyễn Văn Trị và Đô đốc Phan Văn Sách. Đến ngày 3 tháng 5 (tức ngày 15 tháng 6 năm 1801), ông cùng chúa Nguyễn tiến vào nội thành Phú Xuân sau khi đánh tan đội thủy quân của nhà Tây Sơn, khiến Vua Cảnh Thịnh phải tháo chạy ra Bắc. Sau đó, chúa Nguyễn sai Tiết chế Lê Văn Duyệt (có Lê Chất dẫn quân đi thuyền theo) đem quân bộ vào Quảng Nam, Tống Viết Phước (hay Phúc) đem quân thủy, chia đường vào cứu thành Bình Định. Đến Quảng Ngãi, Tống Viết Phước đánh nhau với quân Tây Sơn và bị giết. Duyệt và Chất nối tiếp đốc quân đánh thắng Tây Sơn và bắt được tướng Nguyễn Văn Khôi, Hồ Văn Tự. Xét công, chúa Nguyễn phong cấp Đô thống chế Tả dinh quân Thần sách là Lê Văn Duyệt làm Đô thống chế quận công chưởng Tả dinh quân Thần sách. Đô thống chế Tả đồn quân Ngự lâm là Lê Chất làm Đô thống chế Tả đồn. Lê Văn Duyệt sau đó không kịp cứu quận công Võ Tánh và Lễ bộ Ngô Tùng Châu. Vì lương hết, hai ông đều đã tuẫn tiết vào cuối tháng 5 (âm lịch) năm 1801. Tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng tái chiếm thành Bình Định. Lê Văn Duyệt bày kế không tấn công mà cho binh mai phục các nơi hiểm yếu đợi quân Tây Sơn vào Nam tiếp viện sẽ phục kích. Từ sau khi Tống Viết Phước bị Tây Sơn giết, Lê Văn Duyệt càng đánh càng quyết liệt, khi hành quân ai hơi lui là đem chém ngay, không rộng tha ai. Mỗi khi thắng trận giết hết giặc, nói rằng để làm lễ tế Tống Viết Phước. Nguyễn Ánh lo Duyệt giết hại quá, dụ răn Duyệt. Ngày mùng 1 tháng 5 năm Nhâm Tuất (tức 31 tháng 5 năm 1802), chúa Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi tại Phú Xuân, đặt niên hiệu là Gia Long. Lê Văn Duyệt được phong làm "Khâm sai Chưởng Tả Quân dinh Bình Tây tướng quân, tước quận công" để cùng với Lê Chất đem bộ binh ra Bắc truy diệt vua quan nhà Tây Sơn. Theo phối hợp còn có binh thuyền do tướng Nguyễn Văn Trương chỉ huy. Đến tháng 6 (âm lịch), thì quân bộ sang Linh giang (tức sông Gianh ở Quảng Bình) rồi hiệp với quân thủy đánh lấy Nghệ An, Thanh Hóa, và Thăng Long. Đến lúc ấy, nhà Tây Sơn kể như bị diệt. Làm đại thần nhà Nguyễn Dưới triều Gia Long Năm Gia Long thứ 2 (1803), Lê Văn Duyệt tâu rằng khi xưa Nguyễn Ánh đã hứa với tướng sĩ hễ lấy lại được kinh thành (Huế) thì sẽ cho binh sĩ về nghỉ ngơi, mà nay Ánh đã lấy được kinh thành lẫn Bắc Hà, nếu không thi hành thì sẽ làm mất chữ tín và loạn nhân tâm người Nam Hà. Gia Long không chấp nhận. Tháng 3 (âm lịch) năm 1803, Lê Văn Duyệt phá tan cuộc nổi dậy của người dân thiểu số ở Đá Vách (Quảng Nghĩa, nay là Quảng Ngãi), được vua khen thưởng. Tháng 8 (âm lịch) năm đó, cha ông – Lê Văn Toại được vua cho mời ra Huế ban khăn áo. Khi Gia Long ra Bắc, Lê Văn Duyệt được giao chức Cẩm y vệ cai đội để giữ kinh. Ông nội Duyệt là Lê Văn Hiếu được tặng chức Cẩm y vệ cai cơ, cha là Lê Văn Toại chức Chưởng cơ. Năm 1808, lại sai Lê Văn Duyệt mang quân đến Đá Vách. Thấy Phó quản cơ Lê Quốc Huy, vì nhiễu hại quá, nên dân mới nổi dậy. Lê Văn Duyệt bèn xin lệnh chém chết viên quan này, từ đó Quảng Nghĩa lại được yên. Năm 1809, Tham luận Nguyễn Văn Tài vì bị Lê Văn Duyệt quở trách nên tố cáo ông tội mưu phản. Sau khi xét hỏi, Nguyễn Văn Tài bị tội vu cáo và bị xử tử. Nguyên do cũng vì tính tình Lê Văn Duyệt nghiêm khắc, tướng sĩ dưới quyền không ai dám nhìn mặt, quan chức đồng liêu cũng sợ sệt. Chỉ có Lê Chất là tướng thân cận, thường hay bàn bạc việc triều chính. Tháng 6 (âm lịch) năm 1812, vua cho triệu tổng trấn Gia Định thành Nguyễn Văn Nhơn về, cử Lê Văn Duyệt vào thay (kiêm lĩnh cả 2 trấn Bình Thuận, Hà Tiên) và cho Trương Tấn Bửu làm phó tổng trấn, Ngô Nhân Tịnh làm hiệp (tổng) trấn. Tháng 2 (âm lịch) năm 1813, nhận lệnh vua, Lê Văn Duyệt và hiệp trấn Ngô Nhân Tĩnh đem 13.000 quân thủy đưa Nặc Chân về nước Chân Lạp (Campuchia ngày nay). Tại đây, ông thấy quân Xiêm cứ dòm ngó Chân Lạp, bèn xin Gia Long cho đắp thành Nam Vang cho vua nước này ở (trước đó ở thành La Bích), đắp thành Lô Yêm để trữ lương, đồng thời lưu binh ở lại bảo hộ (Nguyễn Văn Thoại được cử ở lại). Tất cả đều được vua nghe theo . Trở về Gia Định Thành, Lê Văn Duyệt thi hành nhiều chính sách cai trị và trấn áp tội phạm. Năm 1815, Lê Văn Duyệt được chỉ triệu về kinh để bàn nghị về ngôi thái tử. Khi ấy, Nguyễn Huỳnh Đức thay ông làm tổng trấn và Trịnh Hoài Đức làm hiệp trấn. Tháng 4 (âm lịch) năm 1816, vua ra lệnh thâu ấn của Nguyễn Văn Thành, giam Nguyễn Văn Tuyên (con ông Thành) vào ngục, vì ông Tuyên có làm một bài thơ bị Lê Văn Duyệt (vốn có hiềm khích với ông Thành từ trước) mật tâu, cho là có ý mưu phản. Duyệt sau đó vì các mối hiềm khích mà thúc ép xét xử cha con Thành. Tham tri bộ Lại Trần Văn Tuần bảo rằng: Trung quân (Nguyễn Văn Thành) với Tả quân (Lê Văn Duyệt) là người đồng công cộng thể, Trung quân ngày nay như thế thì ông ngày sau thế nào? Duyệt nghe lời nói ấy cũng hơi buồn, thôi không tức giận Thành nữa. Sang tháng 5 (âm lịch) năm đó, dân thiểu số ở Đá Vách lại nổi dậy, Trấn thủ Phan Tấn Hoàng đánh bị thua. Gia Long lại sai Lê Văn Duyệt đem quân tới đàn áp. Lê Văn Duyệt nhân đó xin đắp lũy dài, đem lính 6 cơ đóng thú gọi là đạo quân Bình Man (lũy này ngoài lũy trồng tre, dưới đào hào tiếp giáp phủ Thăng Bình tỉnh Quảng Nam, Nam đến Đông Xanh, giáp phủ Hoài Nhơn tỉnh Bình Định, địa giới dài 37.497 trượng). Năm 1817, xét công thần Vọng Các, ấm thụ cho con thừa tự Lê văn Duyệt là Lê Văn Yên làm Kiêu kỵ đô úy. Tháng Giêng (âm lịch) năm 1819, Lê Văn Duyệt nhận mệnh đi kinh lược các vùng: Thanh Hóa, Nghệ An và Thanh Bình (nay đổi là Ninh Bình). Vì các nơi ấy thường mất mùa, sinh ra nhiều trộm cướp, quan sở tại không kiềm chế được. Đến nơi, ông dâng sớ về triều "nói việc khổ của dân, xin tha thuế cho dân, lại phải lựa quan trấn để an tập dân", được vua y cho . Ở Thanh Hóa, ông nhận Lê Văn Khôi làm con nuôi. Ông Khôi nguyên là người ở Cao Bằng, vì khởi binh chống Nguyễn, bị quan quân đuổi đánh, phải chạy vào Thanh Hóa, gặp ông Duyệt đang làm Kinh lược ở đấy, bèn xin ra đầu thú . Những người phản loạn ra hàng được Lê Văn Duyệt cho xin thu nạp (người quê ở Thanh Hóa hơn 420 người đặt làm cơ Thanh Thuận, người quê Nghệ An hơn 480 người đặt làm cơ An Thuận). Tháng 9 (âm lịch), vua triệu Lê Văn Duyệt về triều. Sang tháng 12 (âm lịch), Gia Long cho đòi ông và Thượng thư bộ Lễ Phạm Đăng Hưng vào cung lãnh di chiếu, tôn Nguyễn Phúc Đảm lên ngôi (tức vua Minh Mạng) đồng thời cho ông Duyệt cai quản quân 5 dinh Thần sách. Cũng trong năm này, theo Vũ Man tạp lục của tướng Nguyễn Tấn và Viêm Giao trưng cổ ký của Cao Xuân Dục, thuận theo lời tâu của Lê Văn Duyệt, Vua cho xây Trường lũy (Tĩnh Man trường lũy), dài xấp xỉ 200 km, bắt đầu từ huyện Trà Bồng (Quảng Ngãi) đến huyện An Lão (Bình Định), để phòng ngự các cuộc nổi dậy của người thiểu số ở đây . Dưới triều Minh Mạng Năm 1820, Minh Mạng cử Lê Văn Duyệt vào Nam làm tổng trấn Gia Định thành lần thứ hai, thay cho Nguyễn Huỳnh Đức vừa mất hồi tháng 9 (âm lịch) năm 1819. Tất cả các việc thăng giáng quan lại, dấy lợi trừ hại, việc thành, mưu kế ngoài biên, đều được tiện nghi làm việc. Những người Thanh Nghệ, Bắc Thành ra hàng Duyệt trước kia (cơ Thanh Thuận và An Thuận) được cho theo vào Gia Định Thành để ông sai khiến. Thuộc hạ thân tín của Lê Văn Duyệt là Trần Nhật Vĩnh, đang làm Tham hiệp Thanh Hoa cũng được cho vào Gia Định giữ Thiêm sự Hình bộ. Minh Mạng mới lên ngôi, gọi là quốc hiếu, cấm việc tang lễ. Khi ấy cha Lê Văn Duyệt qua đời, triều đình đặc cách cho Duyệt chế áo sổ gấu để tang cha, làm lễ xong thì mặc lại áo quốc hiếu. Vua tặng cha Duyệt hàm Thống chế. Lúc bấy giờ, ở nước Chân Lạp có thầy tu tên Kế (sư Kế) vận động dân nổi dậy, cướp phá nhiều nơi thuộc trấn Phiên An. Quan trấn là Đào Văn Lý cản ngăn không được. Khi ông Duyệt đến, bèn cử phó tổng trấn Huỳnh Công Lý đem quân đi đánh, đuổi quân sư Kế chạy về Chân Lạp. Tháng 9 (âm lịch) năm ấy, sư Kế xua quân vây hãm thành Nam Vang, làm vua nước ấy phải đưa thư sang cáo cấp. Xem thư, Lê Văn Duyệt liền sai thống chế Nguyễn Văn Trí đem quân sang cứu viện, đến tháng 10 (âm lịch) thì giết được sư Kế và đánh tan quân nổi dậy. Cũng vào tháng 9 (âm lịch) năm đó, phó tổng trấn Huỳnh Công Lý tham lam trái phép, bị quân nhân tố cáo hơn mười việc. Lê Văn Duyệt đem việc ấy tâu lên. Sau khi tra án, Huỳnh Công Lý bị khép vào tội chết (1821) . Khâm sai chưởng dinh lĩnh Trung quân phó tướng thự lý ấn vụ là Trương Tấn Bửu lĩnh chức Phó tổng trấn thành Gia Định. Năm thứ 3 (1822), đặc cách tặng mẹ Duyệt là Nguyễn Thị làm phu nhân, ban cho sắc cáo trục. Tháng 10 (âm lịch) năm 1822, vua sai Lê Văn Duyệt điều động quân và dân (được hơn 39.000 người) để tiếp tục đào kênh Vĩnh Tế (đến tháng 5 âm lịch năm 1824 thì xong). Năm 1822, sứ giả nước Anh là John Crawfurd ghé Gia Định để xin Tổng trấn cho ra Huế gặp vua Minh Mạng. Nhà vua sau đó từ chối. Crawfurd cũng nhận ra sự đố kỵ của các quan triều đình đối với Lê Văn Duyệt. Họ đặc biệt muốn biết liệu Lê Văn Duyệt có tự ý mở quốc thư ra xem trước khi giao cho triều đình hay không. Năm 1823, sứ giả Miến Điện là Gibson được vua Ava phái đến Việt Nam để thiết lập ngoại giao nhằm cô lập Xiêm. Sứ đoàn được Lê Văn Duyệt tiếp đón tại Gia Định. Triều đình sau đó từ chối và cho người đưa sứ đoàn Miến Điện về nước. Trong dịp này, Gibson đặc biệt chú ý tới hình thức hành hình tội phạm bằng cách cho voi giày, được quan Tổng trấn sử dụng thường xuyên. Gibson đánh giá quan Tổng trấn là người cực kỳ hà khắc và chuyên quyền. Tháng 8 (âm lịch) năm 1823, ông về kinh [Huế] chầu, Phó tổng trấn Trương Tấn Bửu quyền lĩnh ấn vụ Tổng trấn, nhưng Tấn Bửu ốm nên Tiền quân Trần Văn Năng làm Phó tổng trấn thay. Cùng thời gian, thị vệ Trần Văn Tình từ Gia Định về kinh ngầm báo cáo tội trạng của Trần Nhật Vĩnh, thuộc hạ thân cận của Lê Văn Duyệt. Lê Văn Duyệt sau khi biết tin, vào chầu, đòi chém Trần Văn Tình nếu không sẽ trả ấn và từ chức Tổng trấn. Năm 1824 (Tết Nguyên Đán Giáp Thân), vua cho Lê Văn Yên (Kiêu kỵ đô úy, con nối dõi Duyệt) làm Phò mã đô úy, lấy Trưởng công chúa thứ 10 là Ngọc Ngôn. Sau đó, Lê Văn Duyệt về ở luôn Gia Định cho đến cuối đời. Năm 1824, Chân Lạp xin dâng đất 3 phủ là Lợi-kha-vát, Chân Xâm, Mật Luật cho Nguyễn Văn Thoại. Lê Văn Duyệt đề nghị chỉ nhận Chân Xâm, Mật Luật. Tháng 11 (âm lịch), Thị đốc học sĩ Trần Văn Tuân bị án giảo giam hậu, vì lời tâu của ông. Trước đây, ông Tuân đi công cán ở Chân Lạp, được người Chân Lạp tin yêu; đến khi về lại Gia Định, người Chân Lạp vẫn thường qua lại đưa đồ và hỏi thăm. Sau, nhân bắt được lá thư của vua Chân Lạp gửi cho ông Tuân, Lê Văn Duyệt bèn đem việc ấy chiểu theo luật "Giao thông ngoại cảnh" (tức luật ngoại giao với nước ngoài) mà tâu lên. Năm 1824, xảy ra vụ án Mỹ Đường - Tống Thị Quyên do Duyệt mật tâu. Vua sai bắt Tống Thị đóng cũi giải đến cho Duyệt đem dìm chết đi. Khi Lê Chất (Tổng trấn Bắc Thành) và Lê Văn Duyệt (Tổng trấn Gia Định Thành) cùng vào Huế chầu, cả hai bàn nhau rằng họ là kẻ võ biền ít học, nay thời bình nên xin từ chức. Minh Mạng không cho. Năm thứ 6 (1825), Minh Mạng cho vợ Duyệt là Đỗ Thị Phẩn 1000 quan tiền. (Đỗ Thị là cung nữ, lúc đầu trung hưng vua ban cho Duyệt). Năm 1827, Xiêm đánh Vạn Tượng, Chao Anouvong thua chạy sang Nghệ An xin nhà Nguyễn giúp. Lê Văn Duyệt đề nghị thâu nhận và trợ giúp binh lực cho Vạn Tượng, sẵn sàng đối đầu Xiêm. Minh Mạng bác bỏ. Từ đó, tấu chương về chuyện biên giới Nghệ An chỉ trích lục những chuyện quan yếu cho Duyệt. Cùng năm 1827, Lê Văn Duyệt vào kinh chầu, Minh Mạng phong cho cha Duyệt là Lê Văn Toại hàm Đô thống chế nhất phẩm, mẹ là Nguyễn Thị nhất phẩm phu nhân. Duyệt thường lập 1 đội thuộc binh cho vợ là Đỗ Thị Phẩn, đặt 3 Cai đội làm sách phòng biên quê quán. Bộ Binh nói là vi phạm luật lệ, Minh Mạng cười nói rằng trẫm với Lê Văn Duyệt há có lệ nào đâu, cho làm như thế. Triều đình cũng nhận định Lê Văn Duyệt có uy danh rất lớn ở phương Nam, sứ Xiêm rất sợ và hay hỏi thăm "Lê công mạnh khỏe không?" khi sang nước ta. Năm 1828, thuộc hạ cũ của Lê Văn Duyệt là Trần Nhật Vĩnh bị bắt giam. Theo triều đình, Trần Nhật Vĩnh là người nhanh nhẹn được Duyệt tin dùng. Nhật Vĩnh là người rất hiểm giảo, lại tham bẩn cậy thế kinh doanh việc riêng, thậm chí cướp vợ người, dỡ nhà người, chiếm tài sản của người, ai cũng sợ ngược độc không dám phát giác. Triều đình sai người bí mật điều tra và bắt tội Vĩnh rồi báo cho Duyệt. Trần Nhật Vĩnh sau đó bị xử chém. Năm 1832, Tổng trấn Bắc Thành Lê Chất chết, triều đình bãi bỏ trấn Bắc Thành. Lê Văn Duyệt xin cho bãi bỏ trấn Gia Định. Minh Mạng chưa cho. Đêm 30 tháng 7 năm Nhâm Thìn (tức 28 tháng 8 năm 1832), Chưởng Tả Quân lãnh Gia Định Tổng trấn Lê Văn Duyệt mất tại chức, thọ 69 tuổi. Sau đó, Triều đình truy tặng ông chức "Tá vận công thần đặc tấn Tráng võ tướng quân – Tả Quân đô thống phủ chưởng phủ sự, Thái bảo Quận Công", thụy là "Oai Nghị". Vụ án Lê Văn Duyệt Lược kể Sau khi Lê Văn Duyệt mất, Minh Mạng cho bãi chức tổng trấn Gia Định thành, và đổi 5 trấn ra thành 6 tỉnh, là: Gia Định, Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang và Hà Tiên . Lại đặt các chức tổng đốc, tuần phủ, bố chính, án sát, lãnh binh như các tỉnh ở ngoài Bắc. Đến khi Bạch Xuân Nguyên đến làm bố chính tại Phiên An (tức tỉnh Gia Định), nói rằng phụng mật chỉ truy xét việc riêng của Lê Văn Duyệt, rồi đòi hỏi chứng cứ, đồng thời trị tội các tôi tớ của ông Duyệt. Vì việc này, con nuôi ông Duyệt là Lê Văn Khôi bèn khởi binh chống lại (xem cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi). Nhận được tin cáo cấp, Minh Mạng liền sai quân đi đánh dẹp, đồng thời ban trách Lê Văn Duyệt đã "che chở quân phỉ đảng, để gây nên bọn loạn" . Tuy nhiên, một số tài liệu cho rằng Minh Mạng vốn có thù hằn lâu ngày với Lê Văn Duyệt, có thể vì: Ông Duyệt không ủng hộ việc Minh Mạng lên ngôi mà ủng hộ con của Hoàng tử Cảnh khi Gia Long băng hà. Lê Văn Duyệt nhiều lần lạm quyền, hoặc làm sai ý triều đình , đặc biệt là sau khi Gia Long qua đời. Lê Văn Duyệt ít học, bản chất quan võ nóng nảy, nói năng cộc lốc, chẳng biết chiều đón ý Vua, khi tấu đối thường không vừa ý Minh Mạng Ông Duyệt tỏ ý ủng hộ các nhà truyền đạo Thiên Chúa châu Âu làm nghịch ý Minh Mạng. Ông Duyệt được hưởng quyền "nhập triều bất bái" (vào triều không phải lạy) từ thời Gia Long, nên sau này ông không lạy Minh Mạng. Điều này đã làm vua khó chịu . Theo tác giả Huỳnh Minh, dù không ưa nhưng Minh Mạng chưa thể làm gì Lê Văn Duyệt, vì công lao và uy quyền của ông quá lớn . Cho nên sau khi triều đình dẹp xong cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi (1835), nhân Phan Bá Đạt ở Đô sát Viện dâng sớ kể tội Tả Quân, Minh Mạng liền dụ cho đình thần nghị xử. Nội các là Hà Văn Quyền, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Quỳnh dâng sớ tội trạng của Lê Văn Duyệt. Đến khi nghị án xong, có bảy tội nên trảm (chém), hai tội nên giảo (thắt cổ), một tội phải sung quân (tự tiện bắt biền binh đóng thuyền). Bảy điều đáng làm tội xử trảm (chém): Sai người riêng đi Miến Điện kết ngoại giao. Xin tống thuyền Anh Cát Lợi đến thành để tỏ có. Xin giết thị vệ Trần Văn Tình để khóa miệng người. Kháng sớ giữ lại người được tuyên triệu điệu bổ quan viên. Cậy bè đảng xin tăng thọ cho Lê Chất. Chứa riêng giấy đóng ấn vua sẵn. Gọi mả cha là lăng, nói với người xưng là "cô". Hai điều đáng xử tội giảo (thắt cổ): Cố xin dung nạp Miến Điện để thỏa việc làm bậy. Nói với người rằng xin được thơ phụ tiên có câu "Trần Kiều hoàng bào". Án dâng lên, những người nguyên nghị trảm quyết đều đổi làm trảm giam hậu, những đứa trẻ dưới 15 tuổi tạm giam lại. Những trẻ bé không biết gì thì tha không bắt. Phát nô 13 đứa đàn bà, đều tha cả. Việc chém xác cũng không thi hành. Lạng Bình hộ phủ Trần Huy Phác xin những thê thiếp con cháu Duyệt đều xử trảm quyết. Quảng Yên hộ phủ Lê Dục Đức tâu xin những đứa phạm 16 tuổi trở lên, đều xin đem giết đi. Bình Phú Tổng đốc Vũ Xuân Cẩn, Ninh Thái Tổng đốc Hoàng Văn Trạm cũng xin y đình nghị, lại nói rằng hoặc nên lấy công bù tội, châm chước quyết định thế nào ra tự ơn trời. Sau đó, Minh Mạng ra dụ có đoạn rằng: Tội Lê Văn Duyệt nhổ từng cái tóc mà kể cũng không hết, nói ra đau lòng, dù có bửa quan quách mà giết thây cũng là đáng tội. Song nghĩ hắn chết đã lâu và đã truy đoạt quan tước, xương khô trong mả, chẳng cần gia hình chi cho uổng công. Vậy cho Tổng đốc Gia Định đến chỗ mả hắn cuốc bỏ núm mộ san bằng mặt đất và khắc đá dựng bia ở trên viết to mấy chữ: "Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ" (Chỗ này là nơi hoạn quan Lê Văn Duyệt chịu hình phạt)… Sau đó, lệnh được thực hiện theo như lời dụ. Ngoài ra, mộ cha mẹ ông ở Long Hưng (nay thuộc Châu Thành, Tiền Giang) cũng bị đục bỏ tước hiệu khắc trên bia. Được phục hồi danh dự Năm Tân Sửu (1841) Vua Thiệu Trị lên ngôi, ban lệnh tha tội các thân thuộc của Lê Chất và Lê Văn Duyệt . Tháng 2 (âm lịch) năm đầu Tự Đức (1848), Đông Các đại học sĩ Võ Xuân Cẩn dâng sớ xin lục dụng những con cháu của Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt và Lê Chất. Lời tâu làm Vua cảm động, bèn cho con cháu ông Thành làm Chánh đội,, cho cháu Văn Duyệt là Điển làm chư quân Cai đội. Tự Đức năm thứ 2 (1849), đình thần xin rửa tội cho Lê Văn Duyệt. Cấp trả khu vực mộ của Lê Văn Duyệt cho người cháu (gọi Văn Duyệt bằng ông chú bác) là Lê Văn Niên trông coi. Mộ cha mẹ Lê Văn Duyệt ở thôn Long Thịnh cũng đều cho tu sửa. Tuy nhiên, mãi đến năm tháng 4 (âm lịch) năm 1868, nhà vua mới chính thức ban lệnh truy phục chức hàm cho Nguyễn Văn Thành (là Chưởng trung quân Đại tướng quân Quận công) và Lê Văn Duyệt (là Chưởng Tả Quân Đại tướng quân), đồng thời cho thờ trong miếu Trung hưng công thần ở Huế . Nhận xét khái quát Không chỉ có tài quân sự, Lê Văn Duyệt còn là một nhà chính trị. Làm tổng trấn Gia Định Thành hai lần (lần 1: 1812-1816, lần 2: 1820 -1832), ông đã thực hiện chính sách trị an tốt, và có công lớn trong việc giữ gìn an ninh cho xứ sở. Ông cho đắp đường, đào kênh, củng cố thành lũy, lập hai cơ quan từ thiện là "Anh hài" và Giáo dưỡng ...Đồng thời ông cũng có cách ứng xử khéo léo, rộng rãi đối với những người phương Tây đến buôn bán ở Sài Gòn. Bấy giờ, nhiều người kính phục, gọi ông là "Ông Lớn Thượng", hay " Đức Thượng Công"... Một vài nước lân cận cũng tỏ ra kiêng nể ông . Thông tin liên quan Đời tư Đến năm 17 tuổi thì ông mới hoạn để chính thức làm thái giám. Thuở trẻ, ông thích đá gà, nuôi gà chọi. Ngoài ra, ông cũng là người sành thưởng thức hát bội và thường tự tay cầm chầu. Có thể tư chất yếu đuối có phần hơi nữ tính khiến ông bị Minh Mạng đặt chữ chửi bới trên mộ rằng "lại cái" (quyền yêm). Sau này, do ông lập được nhiều công lao, khi lên ngôi, Gia Long đã gả một người cung nhân tên là Đỗ Thị Phẫn (hay Phận) về làm vợ ông, dù ông là thái giám. Con trai cả của Lê Văn Phong (em trai Lê Văn Duyệt) là Lê Văn Yên (hoặc Yến) được cho làm con thừa tự Lê Văn Duyệt. Năm Minh Mệnh thứ 5 (1824) Yến lấy Công chúa Ngọc Ngôn, năm 1835 vụ án Lê Văn Duyệt phát ra, Yến bị xử tử. Với vụ án oan Tống Thị Quyên Sách Đại Nam chính biên liệt truyện (Sơ tập, Quyển 2) chép: Năm Minh Mạng thứ năm (1824), có người bí mật tố cáo rằng Mỹ Đường thông dâm với mẹ ruột là Tống thị (Quyên). Tống thị vì thế thị dìm nước cho chết, còn Mỹ Đường thì phải giao trả hết ấn tín và dây thao, đồng thời bị giáng xuống làm thứ dân, con trai con gái chỉ được biên chép phụ ở phía sau sổ tôn thất... Lúc bấy giờ có tin đồn người mật tâu là Lê Văn Duyệt. Tuy nhiên, có người lại cho rằng đây là mưu sâu của nhà vua nhằm làm mất uy tín ông, đồng thời ly gián ông với phe ủng hộ "dòng trưởng" nối ngôi (tức ủng hộ Hoàng tôn Đán, tên thật là Nguyễn Phúc Mỹ Đường, con Hoàng tử Cảnh). Ngôi mộ của tả quân Nhà nghiên cứu Huỳnh Minh, trong sách Gia Định xưa cho biết: "Theo lời các cố lão, ngôi mộ tại Gia Định Bình Hòa xã là ngôi mộ chôn bằng hình sáp, còn hài cốt thật thì về an táng tại làng Long Hưng, thuộc tỉnh Định Tường. (Tiền Giang ngày nay)" Tuy nhiên, tháng 4 năm 2006, sau một cuộc khảo sát ông Lý Việt Dũng đã đưa ra kết quả ngược lại. Dựng tượng Ngày 4 tháng 2 năm 2008, tượng Tả Quân Lê Văn Duyệt đã được đặt trang trọng tại điện thờ tại Lăng Ông (số 1 đường Vũ Tùng, có cổng Tây tại số 126 đường Lê Văn Duyệt, phường 1, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh). Tượng được đúc bằng đồng nguyên chất, cao 2,65 m, nặng 3 tấn do nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng thực hiện. Đây là ý tưởng của tạp chí Xưa & nay và Hội Khoa học lịch sử Việt Nam trong chương trình Đúc tượng đồng cho lăng Ông. Giao thiệp với ngoại quốc Anh Năm 1822, đại sứ nước Anh John Crawfurd trên hành trình đi sứ Xiêm và Cochin China [Việt Nam] đã ghé Sài Gòn và có cuộc gặp với quan Tổng trấn thành Gia Định.Crawfurd được biết rằng vua nước Cochin China hiện đang ở Huế, còn Chao-Kun [Tả Quân?], vị Thống đốc Lower Cochin China [Nam Kỳ], thì đang ở Saigun. Crawfurd nóng lòng được gặp vị quan ở Saigun đó, bởi ngoại trừ Kachao [Kẻ Chợ] ở Tonquin [Đông Kinh], thì [Sài Gòn] là nơi giàu có nhất vương quốc này. Ngày 2 tháng 9 năm 1822, đoàn hơn 30 người của Crawfurd được dẫn đi gặp Tổng trấn Lê Văn Duyệt, Crawfurd và một số người được chở bằng năm con voi. Nơi tiếp khách trong thành Phiên An quá đơn sơ nếu so với chỗ của người Hoa. Người Việt Nam có tục tiếp khách trên mấy cái bàn thấp (bộ ván ngựa), trải chiếu hoa lên trên, quan lớn thì ngồi hàng đầu, quan nhỏ ngồi lần lượt phía sau. Ở giữa sảnh đường là một bộ bàn hơi cao hơn mấy cái khác, dành cho quan Tổng trấn. Đoàn của Crawfurd được mời ngồi ghế, bên phải quan Tổng trấn. Ngồi bên trái quan Tổng trấn là vị Phó tổng trấn [Trương Tấn Bửu], vị quan già khoảng 70 tuổi trông đáng kính và đẹp lão. Quan Tổng trấn nghe đồn là một thái giám, nhưng không công khai, ông ta không có râu; tuy nhiên, người Việt dù có thích để râu thì không quá rậm rạp. Tiếng nói của quan Tổng trấn nhỏ nhẹ và khá giống giọng nữ nhưng không dễ nhận ra. Lúc này, vị Tổng trấn đã 58 tuổi, vẻ mặt sôi nổi và thông minh, ông ta hơi thấp bé và gầy, nhưng hoạt bát và không thấy cơ thể bị khuyết tật gì. Có điều, ông ta đã rụng khá nhiều răng. Ông ấy cũng ăn mặc giản dị với bộ đồ lụa và chiếc khăn quấn đầu màu đen. Crawfurd tặng quà cho Tổng trấn, ông ấy từ chối, rất khác biệt với các vị quan tham lam ở Xiêm. Một lần nữa, vị Tổng trấn lại đòi hỏi phải có thư của vua Anh gửi cho vua Việt, bởi vì chỉ có vua mới gửi thư cho vua. Nếu chỉ có thư của Toàn quyền Ấn Độ [một vị quan] thì ông ấy chỉ giúp chuyển nó cho vị quan Tượng binh [Mandarin of Elephants], người kiêm nhiệm Ngoại giao ở Huế. Vị quan Tượng binh này có thể là Chưởng Tượng quân kiêm quản lý Thương bạc sự vụ Nguyễn Đức Xuyên. Quan Tổng trấn thậm chí còn không mở thư của Toàn quyền Hastings ra xem mà chỉ nhờ sơ qua phong bì rồi trả lại Crawfurd. Ngoài ra, vị Tổng trấn còn mời đoàn Crawfurd xem một buổi biểu diễn đấu nhau giữa voi và cọp. Crawfurd được tặng trâu, heo, gà vịt, heo quay.. đổi lại, Crawfurd bí mật tặng quan Tổng trấn thuốc súng. Người Cochin China rất mê đá gà (chọi gà). Ông Tổng trấn, chơi đá gà hai lần một tháng và mời nhiều quan chức tham dự. Tại Huế, ngày 12 tháng 10 năm 1822, không có cuộc gặp mặt nhà vua nào được tổ chức cho đoàn của Crawfurd. Ông được cho phép quay lại Đà Nẵng bằng đường bộ để tham quan. Trước khi rời Huế, Crawfurd đến phủ của vị quan Tượng binh (kiêm Ngoại giao) để thương thảo lần cuối. Quan Tượng binh đã chất vấn Crawfurd một số điều về cuộc ghé thăm Sài Gòn như: Crawfurd tự nguyện dâng thư của Toàn quyền Anh cho Tổng trấn [Lê Văn Duyệt] hay là ông ta [Lê Văn Duyệt] ép? Và rằng: Không ai được phép xem thư của nhà vua trước khi nó được trình lên ngài ấy cả. Crawfurd nhận ra sự ghen ghét của triều đình đối với quan Tổng trấn thành Gia Định. Theo tìm hiểu của Crawfurd, Lê Văn Duyệt không chỉ là nhân vật đứng đầu cả nước về đẳng cấp và quyền lực, mà còn ở sự cứng rắn, tài năng và liêm chính của ông ta. Việc Lê Văn Duyệt phải rời kinh đô để đi trấn thủ Gia Định là một mất mát lớn, khiến những quan chức tham lam không còn bị ai kiềm chế. Minh Mạng cố nhiên đố kị với uy danh của quan Tổng trấn. Miến Điện Việc giao thiệp với Miến Điện (hoặc Diến Điện, vương quốc Ava) là một trong những bằng cớ đầu tiên mà nhà Nguyễn dùng để kết tội chém và thắt cổ Lê Văn Duyệt. Đại Nam Thực lục và Liệt truyện chép:Quý mùi, năm Minh Mệnh thứ 4 [1823], mùa đông, quốc vương nước Diến Điện sai sứ đến thông hiếu. Khi trước Tổng trấn Gia Định là Lê Văn Duyệt sai thuộc hạ là Nguyễn Văn Độ đi thuyền buôn sang các nước bên ngoài nước Hồng Mao tìm mua đồ binh dụng, bị gió bạt đến trấn Đào Quai nước Diến Điện. Vua Miến Điện sai bồi thần là Hợp Thời Thông Thụ Nhĩ Miêu Ty Chỉ-Tu-Giá Tha đem quốc thư và phẩm vật đến dâng, xin nước ta tuyệt giao với nước Xiêm. Sứ giả đến Gia Định, Duyệt cho dịch thư ấy ra tâu lên, việc giao cho đình thần bàn, khước lời xin ấy trả cả lễ cống. Sai Quản cơ Nguyễn Văn Uẩn và Chánh tuần hải đô dinh Hoàng Trung Đồng đem binh thuyền và mang lương tiền 6 tháng, đưa sứ giả đến địa đầu Diến Điện thì về. Lại sai bộ Lễ đem việc ấy báo cho nước Xiêm. Người Xiêm gửi thư đến tạ.Trong quyển sách của mình, John Crawfurd cũng ghi lại tường trình của sứ giả Miến Điện khi đến Việt Nam. Sứ giả Miến Điện là Gibson, có cha là người Anh, đã tường thuật khá chi tiết về hành trình và các sự kiện ở Gia Định Thành lúc ấy. Đối với Lê Văn Duyệt, Gibson được trực tiếp gặp mặt và trao đổi nhiều lần....Ngày 12 tháng 6 năm 1823, viên thư ký của quan Tổng trấn (Lê Văn Khôi hoặc Trần Nhật Vĩnh) đến chỗ sứ đoàn để hỏi tình hình dịch thuật quốc thư và trao thư mời dự tiệc ở dinh thự Tổng trấn. Sứ đoàn được gặp Lê Văn Duyệt, lúc ấy khoảng 50-60 tuổi, vóc người nhỏ nhưng linh hoạt, dáng dấp của người cựu binh. Quan Tổng trấn vốn người gốc Mitho, theo phò tá cố vương Gialong. Ông từng lưu vong ở Xiêm với Gialong. Sau nhiều công trạng, ông leo lên các cấp bậc cao hơn. Ông được kính nể bởi người dân Việt Nam và kinh sợ bởi người Kambojans và Siam... Ngày 10 tháng 8, sứ đoàn thấy rằng cứ mỗi tuần lại có 3 hoặc 4 phạm nhân bị hành quyết. Quan Tổng trấn rất nghiêm khắc trong việc thực thi công lý, không cho phép ai thoát tội. Ngài cho rằng những kẻ tội nhân đó không có ích gì cho xã hội mà chỉ là gánh nặng. Vị quan đưa sứ đoàn từ Cần Giờ lên Sài Gòn, vừa bị kết tội nhận hối lộ và tham nhũng. Ông ta bị tịch thu tài sản và hai vợ chồng bị đóng gông cổ. Ông quan này ăn chặn tiền lương của công nhân đào kênh Hà Tiên, và tống tiền nông dân làng bên cạnh. Tổng số tiền đó chưa tới 1.000 quan tiền. Khi đi qua chợ vào buổi chiều để xem voi biểu diễn, sứ đoàn thấy chỗ hành hình 3 phạm nhân hồi sáng, vẫn còn mấy cái gông nằm đó... ...sứ đoàn có buổi hội đàm với quan Tổng trấn. Ông cho biết việc ông về kinh là vì sứ mệnh bang giao này, ông muốn nó được thực hiện và nhà vua Minh Mạng hiếm khi nào hành động trái với lời khuyên của ông... Quan Tổng trấn dường như có đầy đủ thông tin về kết quả cuộc chiến của hoàng đế Napoleon Bonaparte, nhất là trận Waterloo và cái chết của ông ấy ở St. Helena. Quan Tổng trấn thương xót cho Napoleon và nói cho các viên quan Việt Nam rằng, sai lầm duy nhất của Napoleon là ông ấy có tham vọng quá to lớn. Và sau khi làm cho thế giới hỗn loạn bằng những cuộc chiến, Napoleon chẳng mang lại điều gì tốt đẹp cho nước Pháp. Quan Tổng trấn ca ngợi người Anh, nhưng lại cho rằng họ cũng quá đỗi tham vọng... Trong thời gian này, sứ đoàn gặp phải hai vụ việc tàn khốc cho thấy sự nghiêm khắc và chuyên quyền cực lớn của quan Tổng trấn. Một viên quan thuộc đoàn tùy tùng về kinh với quan Tổng trấn đến xin ông cho mình được đi sau vài ngày do vợ bệnh, quan Tổng trấn tức giận với lời cầu xin, lập tức sai lính kéo viên quan ra cổng chém đầu ngay tức khắc. Cùng lúc ấy, một viên quan khác, người gốc Tonquin, làm giám sát việc đào kênh Athien, đến chào hỏi quan Tổng trấn. Quan Tổng trấn trước đó đã nghe một số điều không tốt về hành vi của viên quan này, trong khi viên quan chưa kịp lạy xong 4 lạy theo lễ, quan Tổng trấn ra lệnh kéo viên quan ra chợ hành hình... Quan Tổng trấn Lê Văn Duyệt và hai vị quan người Pháp Vanier và Cheneaux thì lại ủng hộ liên minh với Miến Điện...Trong triều đình nhà Nguyễn, không một ai có đủ thông minh trừ ngài Tổng trấn Lê Văn Duyệt, người thường hay cười trước sự ngu xuẩn của các vị quan khác. Thậm chí Lê Văn Duyệt còn gợi ý nhẹ nhàng nhà vua Minh Mạng về ý định hoang đường của nhà vua, bởi thực tế thì Minh Mạng cũng chỉ là một chư hầu của hoàng đế Trung Hoa mà thôi... Hiện nay, đạo Công giáo vẫn được công khai tôn thờ ở phần miền nam của đất nước, nơi người theo đạo được bảo vệ và khích lệ bởi Tổng trấn Tai-kun... Đường phố Từ thời Pháp thuộc, ở thị xã Vĩnh Yên thuộc tỉnh Vĩnh Yên cũ (ngày nay là thành phố Vĩnh Yên thuộc tỉnh Vĩnh Phúc) có một tuyến phố mang tên là phố Lê Văn Duyệt. Sau khi tiếp quản Vĩnh Yên vào năm 1954, chính quyền mới đã cho đổi tên phố này thành tên mới là phố Tân Lập, nay gọi là phố Lê Xoay. Từ năm 1929, tại Sài Gòn, chính quyền thuộc địa cũng cho đặt tên đường Lê Văn Duyệt cho một con đường nhỏ ở phía sau chợ Tân Định. Đến năm 1955 thì đổi tên thành đường Mã Lộ cho đến nay. Ở Thành phố Hồ Chí Minh trước năm 1975 (khi đó là thành phố Sài Gòn và tỉnh Gia Định) có tới hai con đường mang tên Lê Văn Duyệt. Ngày 14 tháng 8 năm 1975, đường Lê Văn Duyệt của đô thành Sài Gòn cũ đổi thành đường Cách Mạng Tháng Tám; còn đường Lê Văn Duyệt của tỉnh Gia Định cũ (nay thuộc địa bàn quận Bình Thạnh) cũng bị đổi tên và nhập chung với đường Đinh Tiên Hoàng (đoạn từ cầu Bông đến Lăng Ông Bà Chiểu), tuy nhiên đã được đổi lại thành Lê Văn Duyệt vào ngày 11 tháng 7 năm 2020. Ngoài ra trước năm 1976, quận 3 còn có phường Lê Văn Duyệt, ngày nay là địa bàn các phường 10 và 11. Tên đường Lê Văn Duyệt vốn có từ trước năm 1975 nhưng vẫn được giữ nguyên, không bị thay đổi thành tên khác cho đến ngày nay tại một số thành phố, thị xã, thị trấn ở miền Nam và miền Trung như Bạc Liêu, Mỹ Tho, Trà Ôn (thuộc Vĩnh Long), Lái Thiêu (thuộc Bình Dương), Đà Nẵng, Phước Long (thuộc Bình Phước). Hiện nay, tại Bạc Liêu có một con đường mang tên ông tại phường 3, thành phố Bạc Liêu. Tại thị xã La Gi, Phan Thiết, từ năm 2009 có đường Lê Văn Duyệt, từ đường Tôn Đức Thắng đến đường Kinh tế mới Tân An, dài 2200m x rộng 8m. Ở thành phố Biên Hòa, Đồng Nai, đường số 11 Khu công nghiệp Biên Hòa I nối từ Cù lao Phố đến Ngã ba Vũng Tàu được đổi thành đường Lê Văn Duyệt năm 2012. Đà Nẵng cũng có con đường tên Lê Văn Duyệt chạy dọc sông Hàn thuộc quận Sơn Trà.
Vuze (trước đây có tên Azureus) là một trình khách BitTorrent tự do dùng để trao đổi tập tin thông qua giao thức BitTorrent. Vuze được viết bằng Java, và sử dụng Bộ máy Azureus. Ngoài tính năng bittorrent, Vuze còn cho phép người dùng xem, đăng tải và chia sẻ DVD và nội dung video HD do người dùng tự tạo. Nội dung được biểu diễn qua các kênh và thể loại trong đó có show truyền hình, video âm nhạc, điện ảnh, video game, v.v. Ngoài ra, nếu người dùng muốn đăng tải nội dung tự tạo, họ có thể bán nó. Vuze ra mắt đầu tiên với tên Azureus vào tháng 6 năm 2003 tại SourceForge.net, chủ yếu là để thử nghiệm Bộ công cụ Widget Chuẩn (Standard Widget Toolkit) của Eclipse. Hiện nay nó là một trình khách BitTorrent khá phổ biến. Bộ máy Azureus được phát hành theo Giấy phép Công cộng GNU, và là phần mềm tự do. Tuy nhiên, nhiều phần trong nền tảng Vuze mới được thêm vào có thêm những điều khoản cấp phép hạn chế hơn, và không còn có thể cài đặt bộ máy Azureus bằng trình cài đặt mới nhất mà không phải chấp nhận giấy phép Vuze từ đầu. Tính năng Azureus cho phép người sử dụng đặt tốc độ tải về và tải lên khác nhau cho từng tệp được chỉ định. Azureus cho phép người dùng mở một vài tệp đã hoàn thành mặc dù tệp tổng thể chưa tải về xong. Và hơn thế Azureus có khả năng tự đảm nhiệm vai trò là máy theo dõi, cho mọi người tự chia sẻ tệp mà không cần thông qua trang web để lưu trữ tệp torrent. Azureus hỗ trợ giao thức mã hóa gói tin gửi đi, một phương pháp chống làm nghẹt băng thông (một phương pháp luôn cố gắng tự chặn các gói tin gửi đi bởi chương trình BitTorrent). Các chức năng của Azureus có thể mở rộng nhờ vào rất nhiều công cụ bổ sung, ví dụ công cụ bổ sung rất phổ biến của Azureus là Xác định quốc gia và một bổ sung cho phép Azureus tương thích với mạng lưới Nodezill, một kho lưu trữ ẩn danh chia sẻ và phát hành rất nhiều tệp torrent. DHT Phiên bản Azureus 2.3.0.0 giới thiệu thêm chức năng mới là Cơ sở dữ liệu phân phối (Distributed Database) (một dạng khác của DHT, cụ thể là Kademlia), một chức năng mở rộng của giao thức BitTorrent, chức năng này giúp Azureus hoạt động độc lập với máy theo dõi, ngăn ngừa khả năng máy theo dõi bị sập hoặc xử lý chậm danh sách các máy đồng đẳng khác trong quần thể. Mặt trái của chức năng này là tính bí mật của máy theo dõi, và các máy trong quần thể không muốn các máy ngoài quần thể thay đổi tệp torrent, vì vậy Azureus hiểu rằng không chia sẻ với các máy đồng đẳng ngoài quần thể thông tin. Một số người chỉ trích rằng chức năng DHT đơn giản chỉ là phát triển lại chức năng cũ của giao thức P2P. Giao diện Giao diện chính của Vuze Từ phiên bản 3.0, Vuze bắt đầu bằng giao diện Vuze chính, được thiết kế để quảng bá cho nội dung Vezu. Tại đây, người dùng có thể duyệt tập tin trên Mạng Vuze, chia sẻ torrent với bạn bè, và tán gẫu. Mọi thứ trong giao diện cổ điển vẫn tồn tại, nhưng bị ẩn đi. Giao diện cổ điển Người dùng nâng cấp từ các phiên bản trước sẽ vẫn giữ được giao diện cổ điển theo mặc định. Với người nào cài đặt lần đầu hoặc cài đặt lại, có thể bỏ qua lớp Vuze bằng một vài thao tác. Sự khác biệt đáng chú ý nhất giữa giao diện cổ điển và giao diện chính là phần đầu và phần cuối của trang. Ngoài ra, không có tính năng Mạng Vuze. Khi tệp đang trong quá trình tải về, người sử dụng có thể xem rất nhiều thống kê khác nhau bao gồm: Tốc độ tải về và tải lên và thời gian ước tính hoàn thành. Phần trăm hoàn thành của mỗi tập tin đang tải về và thông tin chi tiết về từng mảnh của tập tin, số thứ tự của mảnh, mảnh đang được tải về hay không. Tên tập tin, kích thước và cấp độ hoàn thành của tập tin trong thư mục đang tải về. Dữ liệu của máy ngang hàng gồm có địa chỉ IP, tốc độ mà bạn đang tải lên/xuống từ đó, cổng chạy BitTorrent, và trình BitTorrent mà họ đang sử dụng. "Tốc độ swarm" tổng cộng và trung bình. Thống kê nâng cao khác như tỷ lệ, tổng dung lượng tải lên/xuống, mạng, ước lượng giới hạn tải lên/xuống, hoạt động lưu bộ đệm, và chi tiết về cơ sở dữ liệu phân bố. Giao diện nâng cao Giao diện "nâng cao" là sự pha trộn giữa giao diện cổ điển và chính. Khác biệt lớn nhất là phần đầu và cuối trang, lớp Mạng Vuze được giữ lại. Lịch sử Azureus Vuze được phát hành đầu tiên vào tháng 6 năm 2003 tại SourceForge.net với tên Azureus. Con ếch độc màu xanh nước biển (Dendrobates azureus) được đồng sáng tạo Tyler Pitchford chọn làm biểu trưng và tên chương trình. Vuze Vào năm 2006 "Vuze" (còn có tên Zudeo) được phát hành với nỗ lực thay đổi chương trình thành một chương trình "xã hội" do một nhóm các lập trình viên gốc thành lập nên Azureus Inc., một thời gian ngắn sau đó đổi tên thành Vuze, Inc. Một phiên bản Azureus không có Vuze được phát hành cùng với Vuze trong giai đoạn beta. Những bản phát hành sử dụng phiên bản đánh số 3.0, trong khi phiên bản không có Vuze tiếp tục với con số phát hành 2.5. Phản ứng đầu tiên với sự thay đổi này là sự bối rối vì cách đặt số phiên bản này. Vuze sau đó nhập chung vào Azureus. Không lâu sau, phiên bản chỉnh sửa "Không Vuze" được phát hành trên The Pirate Bay, và đến ngày 15 tháng 9, có mặt với phiên bản lên tới 3.1.1.0. Vào ngày 16 tháng 6 năm 2008 những lập trình viên Azureus/Vuze quyết định dừng phát hành các phiên bản với tên Azureus, và kết thúc việc đổi tên trong phiên bản 3.1. Tuy nhiên bộ máy trình khác vẫn giữ nguyên tên Azureus. Thay đổi giấy phép Cho đến phiên bản 2.5.0.4, Azureus được phát hành với giấy phép Công cộng Chung GNU (GPL); bắt đầu từ phiên bản 3, giấy phép hiển thị khi cài đặt đã thay đổi. Tuy nó vẫn nói rằng "Ứng dụng Azureus" được phát hành theo GPL, để hoàn thành cài đặt, nó yêu cầu người dùng phải đồng ý với các điều khoản của "Nền tảng Vezu", trong đó có thêm những hạn chế về việc sử dụng, dịch ngược, và cấp phép về sau. Cũng giống như nhiều giấy phép tương tự, giấy phép Azureus có những lời cấm những người "dưới 18 tuổi" sử dụng phần mềm. Chỉ trích Do được viết trên ngôn ngữ lập trình Java nên Azureus phải chạy trên máy ảo Java. Điều này dẫn đến Azureus chiếm rất nhiều tài nguyên CPU và bộ nhớ, tuy nhiên nguyên nhân một phần cũng do Azureus có rất nhiều tính năng bổ sung. Với Azureus phiên bản 2.4.0.0 người sử dụng chỉ cần có GCJ (phiên bản 4.1.0 hoặc mới hơn) để chạy chương trình. Với sự hỗ trợ của GCJ Azureus có thể hoạt động ở trạng thái mã giả mà không cần biên dịch chương trình ra mã máy tương ứng, làm tăng khả năng hoạt động độc lập của Azureus, giờ đây Azureus hoạt động không phụ thuộc vào máy ảo Java.
Cộng hòa miền Nam Việt Nam là tên gọi một chính thể ở miền Nam Việt Nam tồn tại song song với chính thể Việt Nam Cộng hòa bắt đầu từ ngày 8 tháng 6 năm 1969, quản lý các vùng lãnh thổ bên ngoài khả năng kiểm soát bởi Việt Nam Cộng hòa. Chính thể này thành lập bởi Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam tổ chức trong ba ngày 6 đến 8 tháng 6 trong đó thông qua bản Nghị quyết cơ bản thành lập chế độ Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, xác nhận rõ đây không phải một nước mà là một chính thể. Đến khi Việt Nam Cộng hòa sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 thì Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tiếp quản toàn bộ lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hợp nhất thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Lịch sử Theo tài liệu của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thì chính phủ của Cộng hòa Miền Nam Việt Nam được 75 quốc gia công nhận vào cuối tháng 5 năm 1975. Tháng 7 năm 1975, cả hai nước Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nộp đơn gia nhập Liên Hiệp Quốc. Tháng 8, Mỹ bỏ phiếu chống việc gia nhập này. Việc phủ quyết được đánh giá là đã chấm dứt lộ trình dài 12-14 năm thống nhất hai nước, thúc ép cả hai nước mau chóng tiến hành thống nhất. Tháng 2 năm 1976, chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ra Nghị định về việc giải thể khu, hợp nhất tỉnh ở miền Nam, sau khi sắp xếp lại có 21 tỉnh thành.
Cuộc cách mạng công nghiệp hay còn gọi là Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất là cuộc cách mạng trong lĩnh vực sản xuất; là sự thay đổi cơ bản các điều kiện kinh tế xã hội, văn hóa và kỹ thuật, xuất phát từ nước Anh sau đó lan tỏa ra toàn thế giới. Trong thời kỳ này, nền kinh tế giản đơn, quy mô nhỏ, dựa trên lao động chân tay được thay thế bằng công nghiệp và chế tạo máy móc quy mô lớn. Tên gọi "Cách mạng công nghiệp" thường dùng để chỉ giai đoạn thứ nhất của nó diễn ra ở cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Giai đoạn hai hay còn gọi là Cách mạng công nghiệp lần thứ hai tiếp tục ngay sau đó từ nửa sau thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Ảnh hưởng của nó diễn ra ở Tây Âu và Bắc Mỹ trong suốt thế kỷ 19 và sau đó là toàn thế giới. Ý kiến về thời gian diễn ra Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất không thống nhất, nhưng nói chung là ở nửa cuối thế kỷ 18 đến nửa đầu thế kỷ 19. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất bắt đầu với sự phát triển sản xuất hàng hóa của ngành công nghiệp dệt. Sau đó, với nhu cầu cung cấp máy móc và năng lượng cho công nghiệp dệt, các kỹ thuật gia công sắt thép được cải thiện và than đá sử dụng với khối lượng lớn. Thương mại mở rộng tạo điều kiện cho sự ra đời của kênh đào giao thông và đường sắt. Bên cạnh đó, đường giao thông được nâng cấp lớn cho hoạt động giao thương nhộn nhịp. Động cơ hơi nước sử dụng nhiên liệu than và máy móc dẫn động bằng cơ khí đã đưa đến gia tăng năng suất lao động đột biến. Sự phát triển các máy công cụ trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ 19 tạo thuận lợi cho lĩnh vực chế tạo máy, phục vụ những ngành sản xuất khác. Cách mạng công nghiệp lần thứ hai bắt đầu vào khoảng thập kỷ 1860, khi các tiến bộ kinh tế và kỹ thuật có được nhờ phát triển điện tín, điện thoại, đường sắt và việc áp dụng dây chuyền sản xuất hàng loạt. Đến cuối thế kỷ 19, động lực của Cách mạng công nghiệp lần 2 chủ yếu là động cơ đốt trong và máy móc sử dụng điện. Năm 1914, năm bắt đầu Thế chiến thứ nhất, giai đoạn thứ hai này kết thúc. Cách mạng Công nghiệp lần thứ ba bắt đầu khoảng 1960, khi có các tiến bộ về hạ tầng điện tử, máy tính và công nghệ kĩ thuật số trên nền tảng là sự phát triển của chất bán dẫn, siêu máy tính (thập niên 1960), máy tính cá nhân (thập niên 1970 và 1980) và Internet (thập niên 1990). Cho đến cuối thế kỷ 20, quá trình này cơ bản hoàn thành nhờ những thành tựu khoa học công nghệ cao. Năm 1997, khi cuộc khủng hoảng tài chính châu Á nổ ra là bước đánh dấu giai đoạn thứ ba kết thúc. Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư bắt đầu vào đầu thế kỷ 21, tiếp sau những thành tựu lớn từ lần thứ 3 để lại, được hình thành trên nền tảng cải tiến của cuộc cách mạng số, với những công nghệ mới như in 3D, robot, trí tuệ nhân tạo, Internet of Things, S.M.A.C, công nghệ nano, sinh học, vật liệu mới,... Hiện tại cả thế giới đang ở trong giai đoạn đầu của cuộc cách mạng này và là chiến lược bản lề cho các nước đang phát triển tiến đến để theo kịp với xu hướng thế giới và mở ra bước ngoặt mới cho sự phát triển của con người. Tác động của cách mạng công nghiệp là vô cùng sâu rộng. Không chỉ làm thay đổi đời sống con người, các cuộc cách mạng công nghiệp còn dẫn tới sự thay đổi toàn diện hình thái kinh tế – xã hội. Sau cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, giai cấp tư sản đã tích lũy đủ tài sản và quyền lực, dẫn tới việc chủ nghĩa tư bản đã thắng thế chế độ phong kiến. Sau cách mạng công nghiệp lần thứ hai, các nhà máy lớn sản xuất theo dây chuyền đã thay thế các xưởng sản xuất nhỏ, dẫn tới việc chủ nghĩa tư bản độc quyền đã thay thế chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, đồng thời giai cấp công nhân và một số phong trào chính trị đi theo chủ nghĩa xã hội đã hình thành. Cách mạng Công nghiệp lần thứ ba dẫn tới sự ra đời của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư hứa hẹn sẽ làm thay đổi hình thái kinh tế - xã hội của nhân loại thêm một lần nữa. Điều kiện ra đời Nguyên nhân Sau thời kỳ Thập tự chinh, những chiến binh trở về mang theo những vật phẩm quý giá và mới lạ với xã hội châu Âu thời bấy giờ như nước hoa, các loại gia vị mới, các sản phẩm bằng thép,... Việc này thúc đẩy việc trao đổi mua bán của các thương nhân châu Âu. Vào thế kỷ 15, kinh tế hàng hóa ở Tây Âu đã khá phát triển, nhu cầu về thị trường tăng cao. Giai cấp tư sản Tây Âu muốn mở rộng thị trường sang phương Đông, mơ ước tới những nguồn vàng bạc từ phương Đông. Tại Tây Âu, tầng lớp quý tộc cũng tăng lên, do đó nhu cầu về các mặt hàng đặc sản, cao cấp có nguồn gốc từ phương Đông như tiêu, quế, trầm hương, lụa tơ tằm (dâu tằm tơ), ngà voi,... đã tăng vọt. Trong khi đó, Con đường tơ lụa mà người phương Tây đã biết từ thời cổ đại lúc đó lại đang bị Đế quốc Ottoman theo đạo Hồi chiếm giữ khiến cho hoạt động giao thương của phương Tây không thể qua đây được, vì vậy chỉ có cách tìm một con đường đi mới trên biển. Lúc đó người Tây Âu đã có nhiều người tin vào giả thuyết Trái Đất hình cầu. Họ cũng đã đóng được những con tàu buồm đáy nhọn, thành cao, có khả năng vượt đại dương, mỗi tàu lại đều có la bàn và thước phương vị, điều đó đã tăng thêm sự quyết tâm cho những thủy thủ dũng cảm. Những phong trào tri thức tại Châu Âu Những phong trào tri thức tại Châu Âu đã tạo ra nền tảng kiến thức cho các cuộc cách mạng công nghiệp ở châu lục này. Những cuộc phát kiến địa lý lớn thế kỉ 15–16 Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha là hai nước đi đầu trong phong trào phát kiến địa lý. Năm 1415 một trường hàng hải do Hoàng tử Henrique sáng lập và bảo trợ. Từ đó, hàng năm người Bồ Đào Nha tổ chức những cuộc thám hiểm men theo bờ biển phía tây châu Phi. Năm 1486, đoàn thám hiểm Bồ Đào Nha do Bartolomeu Dias chỉ huy đã tới được cực nam châu Phi, họ đặt tên mũi đất này là mũi Hảo Vọng. Năm 1497, Vasco da Gama đã dẫn đầu đoàn thám hiểm Bồ Đào Nha tới được Ấn Độ. Ông được phong làm Phó vương Ấn Độ Người Tây Ban Nha lại đi tìm Ấn Độ theo hướng Mặt Trời lặn. Năm 1492, một đoàn thám hiểm do Cristoforo Colombo chỉ huy đã tới được quần đảo miền trung châu Mĩ, nhưng ông lại tưởng là đã tới được Ấn Độ. Ông gọi những người thổ dân ở đây là Indians. Sau này, một nhà hàng hải người Ý là Amerigo Vespucci mới phát hiện ra Ấn Độ của Colombo không phải là Ấn Độ mà là một vùng đất hoàn toàn mới đối với người châu Âu. Amerigo đã viết một cuốn sách để chứng minh điều đó. Vùng đất mới đó sau này mang tên America. Năm 1519–1522, Ferdinand Magellan đã dẫn đầu đoàn thám hiểm Tây Ban Nha lần đầu tiên đi vòng quanh thế giới. Một hạm đội gồm 5 tàu với 265 người đã vượt Đại Tây Dương tới bờ biển phía đông của Nam Mỹ. Họ đã đi theo một eo biển hẹp gần cực nam châu Mỹ và sang được một đại dương mênh mông ở phía bên kia. Suốt quá trình vượt đại dương mênh mông đó, đoàn tàu buồm của Magellan hầu như không gặp một cơn bão đáng kể nào. Ông đặt tên cho đại dương mới đó là Thái Bình Dương. Magellan đã thiệt mạng ở Philippines do trúng tên độc của thổ dân. Đoàn thám hiểm của ông cũng chỉ có 18 người sống sót trở về được tới quê hương. 247 người thiệt mạng trên tất cả các vùng biển và các hòn đảo trên thế giới vì những nguyên nhân khác nhau. Những thành công lớn nhất mà chuyến đi đạt được là lần đầu tiên con người đã đi vòng quanh thế giới. Tác dụng của những cuộc phát kiến địa lý Các nhà thám hiểm bằng những chuyến đi thực tế đầy dũng cảm của mình đã chứng minh cho giả thuyết Trái Đất hình cầu. Họ còn cung cấp cho các nhà khoa học rất nhiều hiểu biết mới về địa lý, thiên văn, hàng hải, sinh vật học,... Sau những cuộc phát kiến này, một sự tiếp xúc giữa các nền văn hóa trên thế giới diễn ra do các cá nhân có nguồn gốc văn hóa khác nhau như các giáo sĩ, nhà buôn, những người khai phá vùng đất mới, những quân nhân... Một làn sóng di cư lớn trên thế giới trong thế kỉ 16–18 với những dòng người châu Âu di chuyển sang châu Mĩ, châu Úc. Nhiều nô lệ da đen cũng bị cưỡng bức rời khỏi quê hương xứ sở sang châu Mĩ. Hoạt động buôn bán trên thế giới trở nên sôi nổi, nhiều công ty buôn bán tầm cỡ quốc tế được thành lập. Những cuộc phát kiến địa lý này cũng gây ra không ít hậu quả tiêu cực như nạn cướp bóc thuộc địa, buôn bán nô lệ da đen và sau này là chế độ thực dân. Thắng lợi của phong trào cách mạng tư sản (thế kỷ 16–18) Sự phát triển của thị trường trên quy mô toàn thế giới đã tác động tới sự phát triển của nhiều quốc gia, trước hết là các nước bên bờ Đại Tây Dương, sự thay đổi về mặt chế độ xã hội sẽ diễn ra là điều tất yếu. Giai cấp tư sản ngày càng lớn mạnh về mặt kinh tế nhưng họ chưa có địa vị chính trị tương xứng, chế độ chính trị đương thời ngày càng cản trở cách làm ăn của họ. Thế kỉ 16-18 đã diễn ra nhiều cuộc cách mạng tư sản ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Bước chuyển đó đã được thực hiện qua hàng loạt những cuộc cách mạng tư sản như: Cách mạng tư sản Hà Lan (1566-1572), Cách mạng tư sản Anh (1640-1689), Chiến tranh giành độc lập ở Bắc Mỹ (1775–1783), Cách mạng tư sản Pháp (1789–1799),... Các cuộc biến động xã hội đó tuy cách xa nhau về không gian, thời gian cũng cách xa nhau hàng thế kỉ nhưng đều có những nét giống nhau là nhằm lật đổ chế độ lạc hậu đương thời, tạo điều kiện cho kinh tế tư bản phát triển. Với sự thắng lợi của các cuộc cách mạng tư sản và sự ra đời của các quốc gia tư bản, công nghiệp thương nghiệp đã có điều kiện phát triển mạnh mẽ. Lịch sử nhân loại đang bước sang một giai đoạn văn minh mới. Khởi đầu của Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất Cuộc cách mạng công nghiệp được khởi đầu tại Anh với các nhà phát minh tiên phong đều là những người Anh. Điều kiện ra đời Cách mạng công nghiệp ở Anh Phong trào Khai sáng tại Châu Âu đã sản sinh ra hàng loạt các nhà bác học nổi tiếng như Isaac Newton với những phát kiến vĩ đại trong toán học, vật lý học, hóa học, tự nhiên học tạo ra nền tảng tri thức cho các tiến bộ trong kỹ nghệ sản xuất. Về tự nhiên, Anh có nhiều mỏ than, sắt và các mỏ này lại nằm gần nhau, điều đó rất thuận lợi về mặt kinh tế khi khởi đầu cuộc cách mạng công nghiệp. Các dòng sông ở Anh tuy không dài nhưng sức chảy khá mạnh, đủ để chạy các máy vận hành bằng sức nước. Hải cảng Anh thuận lợi để đưa hàng hóa đi khắp thế giới. Về nguyên liệu, Anh có thuận lợi là nguồn lông cừu trong nước và bông nhập từ Mỹ, đó là những nguyên liệu cần thiết cho ngành dệt. Về mặt xã hội, giai cấp quý tộc Anh sớm tham gia vào việc kinh doanh và họ trở thành tầng lớp quý tộc mới, có quyền lợi gắn liền với tư sản, có cách nhìn của tư sản. Nhu cầu về lông cừu đã dẫn tới phong trào đuổi những người nông dân ra khỏi ruộng đất để các nhà quý tộc biến đất đai đó thành đồng cỏ nuôi cừu. Lực lượng nông dân bị dồn đuổi ra khỏi ruộng đất đã cung cấp một lượng lớn lao động cho các công trường thủ công ở các thành thị. Về mặt kinh tế, Anh quốc có thể bóc lột tài nguyên từ các thuộc địa rộng lớn để làm nguồn vốn cho công nghiệp hóa, tiêu biểu là Ấn Độ. Nhà kinh tế học nổi tiếng Utsa Patnaik dựa trên dữ liệu chi tiết về thuế và mậu dịch thương mại trong gần hai thế kỷ, đã tính toán rằng thực dân Anh đã bòn rút khoảng 45.000 tỷ USD (theo thời giá năm 2017) của Ấn Độ trong giai đoạn 1765 đến 1938, lớn gấp 17 lần GDP của nước Anh năm 2017. Thuộc địa Ấn Độ đã phải cung phụng để nước Anh phát triển. Cuộc cách mạng công nghiệp tại Anh phụ thuộc lớn vào tài chính từ những phi vụ chiếm đoạt có hệ thống ở Ấn Độ.. Thành tựu của Cách mạng công nghiệp Năm 1733, John Kay đã phát minh ra "thoi bay" (flying shuttle). Phát minh này đã làm người thợ dệt không phải lao thoi bằng tay và năng suất lao động lại tăng gấp đôi. Năm 1764, James Hargreaves đã chế được chiếc xe kéo sợi kéo được 16–18 cọc sợi một lúc, giúp tăng năng suất gấp 8 lần. Ông lấy tên con gái mình là Jenny để đặt cho máy đó. Năm 1769, Richard Arkwright đã cải tiến việc kéo sợi không phải bằng tay mà bằng sức vật, sau này còn được kéo bằng sức nước. Năm 1779, Samuel Crompton đã cải tiến máy với kỹ thuật cao hơn, kéo được sợi nhỏ lại chắc, vải dệt ra vừa đẹp vừa bền Năm 1785, phát minh quan trọng trong ngành dệt là máy dệt vải của linh mục Edmund Cartwright. phát minh này đã tăng năng suất dệt lên tới 40 lần. Phát minh trong ngành dệt cũng tác động sang các ngành khác. Lúc bấy giờ, các nhà máy dệt đều phải đặt gần sông để lợi dụng sức nước chảy, điều đó bất tiện rất nhiều mặt. Năm 1784, James Watt phụ tá thí nghiệm của trường Đại học Glasgow (Scotland) đã phát minh ra máy hơi nước. Nhờ phát minh này, nhà máy dệt có thể đặt bất cứ nơi nào. Không những thế phát minh này còn có thể coi là mốc mở đầu quá trình cơ giới hóa. Ngành luyện kim cũng có những bước tiến lớn. Năm 1784, Henry Cort đã tìm ra cách luyện sắt "puddling". Mặc dù phương pháp của Henry Cort đã luyện được sắt có chất lượng hơn nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về độ bền của máy móc. Năm 1885, Henry Bessemer đã phát minh ra lò cao có khả năng luyện gang lỏng thành thép. Phát minh này đã đáp ứng được về yêu cầu cao về số lượng và chất lượng thép hồi đó. Cách mạng cũng diễn ra trong ngành giao thông vận tải. Năm 1814, Stephenson phát minh ra chiếc đầu máy xe lửa đầu tiên chạy bằng hơi nước. Đến năm 1829, vận tốc xe lửa đã lên tới 14 dặm/giờ. Thành công này đã làm bùng nổ hệ thống đường sắt ở châu Âu và châu Mỹ. Năm 1807, Robert Fulton đã chế ra tàu thủy chạy bằng hơi nước thay thế cho những mái chèo hay những cánh buồm. Những hệ quả của Cách mạng công nghiệp Nhiều khu công nghiệp xuất hiện, dân tập trung ra các thành thị ngày một nhiều dẫn tới quá trình đô thị hóa thời cận đại. Nhiều đô thị với dân số trên 1 triệu người dần hình thành. Làm chuyển biến nền sản xuất nhỏ thủ công sang sản xuất lớn bằng máy móc, nâng cao năng suất lao động, làm ra khối lượng sản phẩm lớn cho xã hội. Giai cấp vô sản cũng ngày càng phát triển về số lượng. Với điều kiện sống cực khổ lúc đó, mỗi ngày lại phải làm việc từ 14 đến 16 giờ, họ bị bóc lột nặng nề được trả đồng lương chết đói, điều kiện ăn ở tồi tàn nên những cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đã sớm nổ ra. Năm 1811–1812, ở Anh đã nổ ra phong trào đập phá máy móc. Đó là một biểu hiện đấu tranh bộc phát. Bãi công là một hình thức đấu tranh phổ biến của giai cấp vô sản. Nhiều cuộc bãi công cũng đã nổ ra. Ở Anh, 1836–1848 còn nổ ra phong trào Hiến chương. Quyết liệt hơn, ở Pháp, Đức còn nổ ra những cuộc khởi nghĩa. Năm 1831–1834 tại Lyon (Pháp) và Silesia (Đức) đã nổ ra những cuộc khởi nghĩa. Những cuộc đấu tranh này chứng tỏ giai cấp vô sản đang trở thành lực lượng chính trị độc lập, đòi hỏi thay đổi sự thống trị của giai cấp tư sản. Tại các thuộc địa, người dân bản xứ cũng bị giới chủ tư bản tại các nước chính quốc (Anh, Pháp) bóc lột nặng nề. Trong toàn bộ lịch sử 200 năm cai trị của Anh tại Ấn Độ, hầu như không có sự gia tăng thu nhập bình quân đầu người. Trong nửa cuối thế kỷ 19, thu nhập bình quân của dân Ấn Độ đã giảm một nửa. Tuổi thọ trung bình của người Ấn giảm 20% từ năm 1870 đến 1920. Hàng chục triệu người đã chết đói do chính sách mà thực dân Anh gây ra. Ngoài ra cách mạng công nghiệp còn gây ra một số hệ quả tiêu cực như: Bùng nổ dân số, ô nhiễm môi trường, giai cấp tư sản bóc lột sức lao động của giai cấp vô sản nên đã gây ra mâu thuẫn giữa hai giai cấp này So sánh - Sản xuất công nghiệp : + Là làm mọi sản phẩm, mọi mặt hàng đều được sản xuất bằng máy móc. Có nhân công để điều hành máy móc, mang lại nhiều năng xuất hơn sản xuất thủ công. - Sản xuất thủ công : + Là mọi sản phẩm, mọi mặt hàng đều được sản xuất bằng tay. Dùng tay và các công cụ giản đơn, thô sơ để lao động, sản xuất. Có các thợ thủ công làm việc theo lối thủ công, ít năng xuất hơn sản xuất công nghiệp. Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra từ những năm 60 của thế kỷ XVIII đến và kết thúc vào những năm 40 của thế kỷ XIX ở châu Âu và Bắc Mỹ. Đó là thời kỳ mà hầu hết nông nghiệp, xã hội nông thôn đã trở thành công nghiệp và đô thị. Ngành công nghiệp sắt và dệt, cùng với sự phát triển của động cơ hơi nước, đóng vai trò trung tâm trong Cách mạng Công nghiệp. nhỏ|Hình ảnh của Puffing Billy động cơ hơi nước lấy trong bảo Tàng Khoa học ở London. Cách mạng công nghiệp lần thứ 2 Cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra từ năm 1870 đến năm 1914, ngay trước Thế chiến I. Đó là giai đoạn tăng trưởng của các ngành công nghiệp đã có từ trước và mở rộng các ngành mới, như thép, dầu, điện, và sử dụng điện để sản xuất hàng loạt. Các tiến bộ kỹ thuật chủ yếu trong giai đoạn này bao gồm điện thoại, bóng đèn, đĩa hát và động cơ đốt trong,... Cách mạng công nghiệp lần thứ 3 Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba, tạm được xem là cuộc cách mạng kỹ thuật số, đề cập đến sự tiến bộ của công nghệ từ các thiết bị cơ điện tử tương tự sang công nghệ số ngày nay. Kỷ nguyên bắt đầu vào những năm 1980 và vẫn đang diễn ra. Những tiến bộ trong Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ ba bao gồm máy tính cá nhân, internet và công nghệ thông tin và truyền thông (ICT).Tiến bộ trong Cách mạng Công nghiệp lần thứ ba bao gồm các máy tính cá nhân, internet, công nghệ thông tin và mạng xã hội. Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được xây dựng dựa trên những Kỹ thuật số, cuộc cách Mạng, đại diện cho những cách mới công nghệ trở nên nhúng trong xã hội và ngay cả cơ thể con người. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được đánh dấu bởi công nghệ mới đột phá trong một số trường, bao gồm cả robotics, trí thông minh nhân tạo, công nghệ nano, công nghệ sinh học, Internet Vạn Vật, in 3D và xe tự lái. Trong cuốn sách của mình mang tên "Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư" của Giáo sư Klaus Schwab, người sáng lập và Chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế Thế giới đã mô tả cuộc cách mạng lần thứ tư này khác biệt cơ bản với ba lần trước, đặc trưng chủ yếu là những tiến bộ trong công nghệ. Các công nghệ này có tiềm năng tiếp tục kết nối hàng tỷ người trên web, cải thiện đáng kể hiệu quả kinh doanh và tổ chức, giúp tái tạo môi trường tự nhiên bằng cách quản lý tài sản tốt hơn. "Làm chủ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư" là chủ đề của Hội nghị thường niên Diễn đàn Kinh tế Thế giới năm 2016 tại Davos-Klosters, Thụy Sĩ. Phát minh khoa học kỹ thuật Vào thế kỷ 17 và 18, khoa học đã đạt được những thành tựu lớn đặc biệt trong các ngành thiên văn, vật lý, hóa học, y học. Người phát triển và ủng hộ tính đúng đắn của học thuyết Copernicus là nhà bác học Đức, Johannes Kepler. Kepler đã đưa ra 3 định luật về sự chuyển động của các thiên thể. Định luật thứ nhất, ông khẳng định Trái Đất chuyển động quanh Mặt Trời, không những thế ông còn xác định được quỹ đạo chuyển động của nó không phải là đường tròn mà là hình elíp. Định luật thứ hai, Kepler chứng minh vận tốc chuyển động của hành tinh tăng lên khi đang tới gần Mặt Trời và giảm dần khi nó chuyển động xa Mặt Trời. Định luật thứ ba, ông đã xác lập được công thức toán học giữa thời gian cần để hành tinh chuyển động hết một vòng quanh Mặt Trời và khoảng cách giữa nó với Mặt Trời. Galileo Galilei, một nhà thiên văn học người Ý đã chế tạo ra kính thiên văn để quan sát bầu trời. Galilei cũng là người ủng hộ nhiệt tình học thuyết Copernicus. Ông còn là người trực tiếp làm thực nghiệm về sự rơi tự do trên tháp nghiêng Piza. Có thể nói Galilei là người tiến hành hàng loạt thí nghiệm một cách có hệ thống. Vì vậy, sau này người ta coi Galilei là cha đẻ của phương pháp thực nghiệm khoa học. Một nhà vật lý người Anh, William Gilbert trong một quyển sách xuất bản năm 1600 đã giải thích Trái Đất như một cục nam châm khổng lồ tạo ra một từ trường (nhưng không mạnh), điều đó làm kim la bàn chỉ xoay về hướng Bắc. Ông còn nghiên cứu về hiện tượng tĩnh điện. Ông thấy rằng không chỉ có hổ phách khi bị chà xát mới hút các vật nhẹ mà có những thứ khác như thủy tinh,... cũng có tính chất như vậy. Ông gọi đó là "hiện tượng hổ phách" - electric (từ electron theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là "hổ phách"). Isaac Newton là một nhà bác học người Anh, ông được coi là nhà vật lý vĩ đại nhất của thế kỉ 18. Đóng góp vĩ đại nhất của Newton nằm trong 3 định luật mang tên ông mà nổi bật là định luật Vạn vật hấp dẫn. Có thể coi Newton là hòn đá tảng của nền vật lý cổ điển. Tác phẩm vĩ đại của Newton là Các nguyên lý toán học của triết học tự nhiên. Về hóa học, Joseph Priestley là một luật sư người Anh đã khám phá ra oxy. Y học cũng có nhiều tiến bộ. Andreas Vesalius, một nhà khoa học người Bỉ đã cho in cuốn sách về cấu trúc cơ thể người. Để viết được cuốn sách này, ông đã phải nghiên cứu rất nhiều tử thi. Ông phê phán những người chỉ biết vùi đầu vào những cuốn sách của các nhà y học thời cổ đại. William Harvey, một nhà sinh lý người Anh đã nghiên cứu rất nhiều về hệ tuần hoàn của chim, cá, ếch. Ông đã mô tả về hệ tuần hoàn máu trong cơ thể người qua quyển sách Tiến hành giải phẫu đối với sự chuyển động của tim và máu trong cơ thể loài vật. Vào thế kỷ 19, cuộc cách mạng tri thức trong thế kỷ 18 đã tạo điều kiện cho những tiến bộ ở những thế kỷ sau đó. John Dalton, một giáo viên người Anh cho rằng mọi vật chất đều cấu tạo bởi các nguyên tử. Nguyên tử của các chất khác nhau thì có khối lượng khác nhau. Các nguyên tử hợp thành từng đơn vị (bây giờ ta gọi là phân tử). Ông còn miêu tả chúng bằng những công thức hóa học. Một phát minh vĩ đại về mặt hóa học là Bảng hệ thống tuần hoàn năm 1869 của Dmitri Mendeleev, một nhà hóa học Nga. Ông đã sắp xếp các chất hóa học thành từng nhóm theo khối lượng riêng, tính chất riêng của chúng. Ông còn dự đoán một số chất mà loài người sẽ phát hiện ra để lấp vào chỗ trống trong bảng tuần hoàn của ông với một sự chính xác đáng kinh ngạc. Năm 1800, Alessandro Volta (Ý) đã chế tạo ra pin do tác động của hoạt động hóa học. Năm 1831, Michael Faraday đã chứng minh dòng điện sẽ xuất hiện khi ta di chuyển ống dây qua một từ trường. Phát minh của Faraday đã tạo cơ sở cho việc chế tạo ra máy phát điện sau này. Năm 1860 James Clerk Maxwell, một nhà khoa học người Scotland, đã đưa ra lý thuyết giải thích ánh sáng bản chất cũng là một dạng của sóng điện từ mà trong khoảng mắt người nhìn thấy được. Tới năm 1885, Heinrich Hertz đã chứng minh được tốc độ khác nhau của các loại sóng điện từ khác nhau. Sau này người ta lấy tên Hertz để đặt cho đơn vị đo chu kỳ. Năm 1895, một nhà khoa học người Đức khác là Wilhelm Röntgen đã tạo ra một loại tia có thể đâm xuyên qua các vật thể rắn, ánh sáng không thể xuyên qua được. Ông gọi đó là tia X. Năm 1898, hai nhà bác học Pierre Curie và Marie Curie đã tinh chế được chất radium và phát hiện ra tính phóng xạ của nó. Về mặt thông tin, phát minh quan trọng phải kể tới là năm 1876 Alexander Graham Bell đã phát minh ra máy điện thoại đầu tiên. 1879 Thomas A. Edison đã có những cải tiến vượt bậc cho các bằng sáng chế trước đó về bóng đèn dây tóc, nhờ đó mà lần đầu tiên, con người đã có thể dùng điện để thắp sáng các bóng đèn. Cũng vào thời điểm này, Nikola Tesla đã có rất nhiều phát minh mang tính cách mạng trong lĩnh vực điện từ trường, chế tạo các máy phát điện xoay chiều, các loại động cơ điện nhiều pha, đồng thời đặt nền móng cho việc truyền tải và phân phối điện xoay chiều sau này. Ông cũng là người đi tiên phong trong việc nghiên cứu về radio và tia X. Về mặt kĩ thuật, đầu thế kỉ 19 khí đốt và gas đã được người Anh và Pháp đưa vào phục vụ cuộc sống. 1897 một kĩ sư người Đức là Rudolf Diesel đã chế ra một loại động cơ đốt trong không cần bugi, sử dụng dầu cặn nhẹ. Động cơ Diesel chính là mang tên ông. Về y học, phát minh quan trọng của thế kỉ 19 phải kể tới Louis Pasteur, ông đã đế ra cách ngừa bệnh mới là sử dụng vaccine. Về sinh học, phát minh quan trọng của thế kỉ 19 phải kể tới Charles Darwin. Năm 1859 Darwin đã cho ra đời tác phẩm Nguồn gốc các loài qua con đường chọn lọc tự nhiên. Trong tác phẩm đó ông trình bày 3 ý tưởng chủ yếu: đấu tranh sinh tồn, chọn lọc tự nhiên, sự tồn tại của giống thích ứng với môi trường tốt nhất đã trở thành cơ sở của học thuyết tiến hóa cổ điển. Về di truyền học, Gregor Mendel (Áo) đã đưa ra học thuyết chứng minh sự di truyền những phẩm chất của thế hệ trước cho thế hệ sau qua những phân tử cực nhỏ, mà sau này được gọi là gene. Về tâm lý học, cuối thế kỷ 19 có hai phát minh quan trọng là của Ivan Pavlov và Sigmund Freud. Pavlov đã phát hiện ra phản xạ có điều kiện. Thử nghiệm của Pavlov đã giải thích nhiều hành vi của con người không giải thích được bằng lý trí, thực tế chỉ là sự phản ứng máy móc trước các kích thích đã trở thành tập tính. Còn học thuyết của Freud thì giải thích nhiều hành động của con người xuất phát từ những nhu cầu, ước muốn tiềm ẩn. Freud đã tạo ra ngành phân tâm học. Phát minh học thuyết chính trị Vào thế kỷ 19 ra đời học thuyết về quyền tự do cá nhân và quốc gia dân tộc. Những cuộc cách mạng tư sản đã tạo điều kiện giải phóng con người khỏi những sự kiềm chế độc đoán của chế độ phong kiến. Con người ngày càng có ý thức về quyền tự do của các cá nhân và quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Trong điều kiện như vậy, những học thuyết về quyền tự do cá nhân và quyền của các dân tộc đã được hình thành. Về quyền tự do cá nhân phải kể tới những tư tưởng của John Stuart Mill qua tác phẩm Luận về tự do. Mill đã nêu lên nguyên tắc là cá nhân có thể làm bất cứ điều gì miễn là không hại tới người khác, không ảnh hưởng tới quyền tự do của người khác. Trong thực tế cuộc sống, việc thực hiện nguyên tắc này còn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ dân trí và sự nghiêm minh của pháp luật. Alexis de Tocqueville thì viết tác phẩm Nền dân chủ Hoa Kỳ. Qua tác phẩm này, ông cho rằng trào lưu dân chủ đang lên là không thể nào ngăn cản được. Ông ca ngợi tinh thần dân chủ, sự thành công và sức mạnh vật chất của nước Mỹ, nhưng ông cũng đồng thời phê phán tính cách thiếu tế nhị, ngạo mạn, thực dụng của nền văn hóa Mỹ theo cách nhìn của người Pháp. Về quyền của các dân tộc thì lại có hai xu hướng trái ngược nhau. Xu hướng thứ nhất cho rằng mỗi dân tộc đều có quyền chọn cách sống riêng cho dân tộc mình, không dân tộc nào khác có quyền xâm phạm. Nhà ái quốc người Ý Giuseppe Mazzini đã để cả cuộc đời mình kiên quyết đấu tranh bảo vệ quan điểm này. Các cuộc đấu tranh của những nhà yêu nước ở vùng Balkan chống lại sự thống trị của ngoại bang cũng là một cách bảo vệ quan điểm đó. Xu hướng thứ hai thì ngược lại, một số nhà lý luận của các dân tộc lớn thì cho là dân tộc mình siêu đẳng hơn, có sứ mệnh phải giúp các dân tộc khác khai hóa văn minh, chỉ bảo cho các dân tộc kém hơn cách sống hợp lý. Họ còn lợi dụng học thuyết của Darwin về cạnh tranh sinh tồn để áp dụng vào xã hội. Lý luận này được giới thực dân rất ủng hộ vì nó chứng minh cho sự "cần thiết" của các cuộc chiến tranh xâm lược các vùng đất chưa phát triển. Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội đã xuất hiện từ thế kỉ 16 với tác phẩm về Utopia của Sir Thomas More, tư tưởng này phản ánh ước mơ một xã hội công xã nông thôn thanh bình dựa trên nền sản xuất nông nghiệp kết hợp với thủ công nghiệp. Các nhà tư tưởng chủ nghĩa xã hội của thế kỉ 19 đã thấy sự tất yếu của một xã hội công nghiệp. Từ đó họ nảy sinh tư tưởng xây dựng một hạn chế bóc lột, hạn chế sự cách biệt giàu nghèo, khắc phục những mặt tiêu cực của xã hội tư bản. Tiêu biểu cho các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng của thế kỉ 19 là Saint Simon, Charles Fourier và Robert Owen. Saint Simon nhận thấy mâu thuẫn giữa các nhà một bên là các nhà tư sản giàu có và một bên là những người làm thuê rất nghèo khổ. Ông chủ trương xây dựng một xã hội mới do "những nhà công nghiệp sáng suốt" điều hành, trong đó mọi người đều lao động theo kế hoạch và được hưởng thụ bình đẳng. Để xây dựng một xã hội như vậy, ông chủ trương thuyết phục các nhà tư bản chứ không theo con đường bạo lực cách mạng. Charles Fourier cũng phê phán sự bất công của xã hội tư bản, ông vạch rõ "sự nghèo khổ sinh ra từ bản thân sự thừa thãi". Ông vạch ra dự án xây dựng các công xã Falange trong đó mọi người đều lao động, coi lao động là nguồn vui. Trong các công xã có sự kết hợp giữa công nghiệp với nông nghiệp. Sự hưởng thụ sản phẩm được chia theo tỉ lệ: 5/12 cho lao động, 4/12 cho tài năng, 3/12 cho những người góp vốn xây dựng Falange. Ông kêu gọi những người giàu có góp vốn xây dựng Falange, nhưng lời kêu gọi của ông chẳng được ai đáp lại. Robert Owen vốn xuất thân từ một người làm thuê, biết làm ăn và trở thành ông chủ. Ông đã bỏ vốn của mình ra làm gương, xây dựng một cơ sở làm ăn. Trong cơ sở của Owen tài sản được coi là của chung, mọi người đều cùng làm việc mỗi ngày là 10 giờ, có nhà trẻ cho công nhân nữ gửi con nhỏ, lợi nhuận làm ra được thì chia công bằng,... Việc làm đó của ông sau này đã bị thất bại vì sản phẩm của xưởng ông làm ra không đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Ông bỏ sang Mỹ thí nghiệm ý tưởng của mình lần nữa nhưng cũng thất bại và cuối cùng phải bỏ về Anh trong cảnh nghèo khó. Học thuyết của các nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng đầy tính nhân đạo nhưng đều thất bại khi đem ra thi hành. Nói như chúng ta ngày nay là thiếu tính khả thi. Tuy vậy, những tư tưởng của họ đã ảnh hưởng quan trọng tới sự ra đời học thuyết về chủ nghĩa xã hội khoa học sau này do Karl Marx xây dựng. Kark Marx và Friedrich Engels đã xây dựng về học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học qua tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản xuất bản tháng 2 năm 1848. Trong Tuyên ngôn Marx và Engels đã chứng minh lịch sử loài người là lịch sử của sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội nối tiếp thay thế nhau, xã hội sau sẽ tạo ra năng suất lao động cao hơn xã hội trước. Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển trong xã hội có giai cấp. Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản sẽ dẫn tới sự xuất hiện một xã hội mới công bằng hơn, tiến bộ hơn. Giai cấp công nhân, tổ chức ra chính đảng của mình lãnh đạo một cuộc cách mạng vô sản, tiến lên xây dựng chính quyền của mình và thiết lập mối quan hệ giữa công nhân các nước theo tinh thần quốc tế vô sản. Đầu thế kỉ 20, Vladimir Ilyich Lenin đã phát triển thêm lý luận của Marx và Engels và vận dụng lý luận đó vào hoàn cảnh nước Nga, chỉ đạo phong trào đấu tranh ở Nga đi tới thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Thành tựu văn học nghệ thuật Văn học Lịch sử thời cận đại đã được văn học châu Âu phản ánh một cách sinh động, đặc biệt là văn học Pháp. Sau thất bại của Napoléon Bonaparte và sự phục hồi tạm thời của các thế lực bảo hoàng, ở Pháp đã xuất hiện một dòng văn học lãng mạn thể hiện sự nuối tiếc một thời vàng son đã qua của giới quý tộc. Đại biểu cho trào lưu này là François-René de Chateaubriand. Victor Hugo là một nhà văn tiêu biểu cho trào lưu lãng mạn tiến bộ. Ông thể hiện sự thông cảm với những người nghèo khổ qua các tác phẩm Những người khốn khổ, Nhà thờ Đức bà Paris. Qua các tác phẩm, Hugo thể hiện lòng khát khao muốn vươn tới một xã hội tốt đẹp, công bằng và chan chứa tình nhân đạo. Xã hội tư bản khắc nghiệt, tàn bạo cũng đã được phản ánh qua dòng văn học hiện thực mà tiêu biểu là Honoré de Balzac. Những tác phẩm tiêu biểu của ông như Eugénie Grandet, Miếng da lừa,... và nhiều tác phẩm khác. Những tác phẩm đó của Balzac đã được tập hợp trong bộ Tấn trò đời. Những tác phẩm như Đỏ và đen của Stendhal, Viên mỡ bò của Guy de Maupassant cũng phản ánh xã hội tư bản đầy bất công, tàn bạo. Văn học Nga của thế kỉ 19 cũng có những đóng góp quan trọng với các tác phẩm như Chiến tranh và hoà bình của Lev Nikolayevich Tolstoy. Những nhà văn tên tuổi khác của nền văn học Nga thế kỉ 19 phải kể tới là Ivan Sergeyevich Turgenev, Nikolai Vasilevich Gogol, Fyodor Mikhailovich Dostoevsky, Bielixki... Nghệ thuật Âm nhạc thời cận đại thế kỷ 18 với sự đóng góp của những nhạc sĩ lớn như Johann Sebastian Bach, Wolfgang Amadeus Mozart, thì đến thế kỷ 19 có sự đóng góp vĩ đại của Ludwig van Beethoven, Frédéric Chopin... Hội họa theo xu hướng lãng mạn thường đi tìm những phương trời xa lạ. Danh họa Eugène Delacroix) thường vẽ những kị sĩ Ả Rập, những cuộc đi săn. Đến cuối thế kỉ 19, danh họa người Tây Ban Nha Francisco Goya đã vẽ những cảnh tàn khốc trong cuộc chiến tranh chống Napoléon. Điêu khắc thế kỷ 19 không để lại nhiều tác phẩm như thời Phục Hưng. Nhà điêu khắc Frédéric Bartholdi đã hoàn thành bức tượng Nữ thần Tự do để Chính phủ Pháp gửi tặng nước Mỹ. Một phiên bản nhỏ, cao gấp 1,5 lần người thật của bức tượng này cũng được đặt tại Hà Nội ở một công viên Vườn hoa Bà Đầm, tiếc rằng phiên bản này ngày nay không còn nữa. Chúng ta chỉ còn thấy dấu vết qua đồng 50 xu tiền Đông Dương xưa kia. Khải Hoàn Môn ở Paris và nhiều dinh thự ở Paris cũng còn giữ lại được một số tác phẩm điêu khắc giá trị của thế kỷ 19. Kiến trúc Âu – Mỹ của thế kỷ 19 rất đa dạng, thể hiện một sự giao lưu văn hóa rộng mở. Nét mới về kiến trúc giai đoạn này là quan điểm hiện thực xâm nhập vào kiến trúc qua các vật liệu mới như thép, bê tông, kính dày. Một nhà kiến trúc Louis Sulivan đã đưa vào các công trình kiến trúc tư tưởng công năng. Theo ông, các công trình kiến trúc phải được thiết kế phù hợp với chức năng của chúng. Chẳng hạn một ngân hàng hiện đại không thể giống một đền đài tôn giáo, một thương xá không thể giống một lâu đài trung cổ. Đặc biệt là kiến trúc hành chính thời kì này thể hiện một phong cách rõ rệt mà tiêu biểu là tòa nhà Quốc hội Mỹ (1793-1851) và tòa nhà Quốc hội Anh (1840-1865). Thế kỷ 19 đã đánh dấu bước ngoặt căn bản chuyển từ lao động bằng tay sang lao động bằng máy. Loài người đã chuyển từ nền văn minh nông nghiệp sang nền văn minh công nghiệp. Nền văn minh công nghiệp đã tạo ra cách nhìn mới, kéo theo những biến đổi lớn về chính trị, văn hóa, xã hội. Loài người bước vào một giai đoạn mới của văn minh nhân loại.
Dãy núi Võ Đang là một dãy núi và Di sản thế giới nằm ở tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Võ Đang () cũng có thể là: Địa điểm Bắc Võ Đang, là quần thể đền thờ và dãy núi Đạo giáo nằm tại Lữ Lương, tỉnh Sơn Tây Võ Đang, một thị trấn nằm ở huyện Long Nam, Giang Tây Võ thuật Võ Đang quyền, võ thuật Trung Quốc xuất phát từ núi Võ Đang Võ Đang phái, là môn phái võ thuật Đại Võ Đang Chi Thiên Địa Mật Mã hay đơn giản là Đại Võ Đang là một bộ phim võ thuật Trung Quốc phát hành năm 2012. Phim Võ Đang, phim truyền hình Trung Quốc ra mắt năm 2003
Marcel Reich-Ranicki sinh ngày 2 tháng 6 năm 1920 – 18 tháng 9 năm 2013 là một nhà báo và nhà phê bình văn học người Đức. Cuộc đời Ông sinh tại Włocławek Marceli Reich, con của David và Helene Reich, Reich-Ranicki sống từ năm 1929 tại Berlin và tốt nghiệp trường trung học phổ thông tại Berlin-Wilmersdorf năm 1937. Đơn xin học tại trường Đại Học Humboldt (Humboldt-Universität zu Berlin) đã bị từ chối vì ông là người gốc Do Thái. Sau khi bị bắt về tại tập trung ở Ba Lan vào năm 1938, vào mùa thu năm 1942 ông đã có thể cùng với vợ là Teofila trốn thoát ra khỏi trại tập trung Warsaw, nơi ông làm biên dịch cho hội đồng người Do Thái do phát xít dựng lên và đã viết cho tờ báo "Gazeta Żydowska" của trại tập trung dưới bút danh là Wiktor Hart. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai ông là sĩ quan của tình báo Ba Lan, chỉ huy các điệp vụ chống lại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Năm 1948 với lý lịch của một người lãnh sự là "Marceli Ranicki", ông được gửi đến đại sứ quán Ba Lan tại London làm công sứ. Cuối năm 1949 ông được gọi trở về Ba Lan và đầu năm 1950 bị sa thải ra ngoài ngành tình báo. Đầu tiên ông làm báo nhưng sau đó bị cấm xuất bản tại Ba Lan. Trong một chuyến đi nghiên cứu vào năm 1958 ông đi từ Ba Lan sang Đức và ở lại cùng với gia đình tại thành phố Frankfurt am Main. Thành viên của Nhóm 47, Siegfried Lenz và Wolfgang Koeppen đã giúp ông ổn định cuộc sống tại Đức. Từ 1960 đến 1973 ông là nhà phê bình văn học của tờ tuần báo Die Zeit tại thành phố Hamburg, từ 1973 đến 1988 là trưởng ban biên tập văn học của tờ báo Frankfurter Allgemeine Zeitung. Ở đấy ông đã có công lớn trong việc biên tập Hợp tuyển Frankfurt (Frankfurter Anthologie) do chính ông thành lập, cho đến nay đã có trên 1.500 bài thơ của các tác giả tiếng Đức cùng với diễn giải đã được sưu tập trong đó. Từ ngày 25 tháng 3 năm 1988 đến 14 tháng 12 năm 2001 ông là người dẫn chương trình Das literarische Quartett (Bộ Tứ Văn học) trên đài truyền hình ZDF và nhờ vào đó mà được các tầng lớp quần chúng rộng rãi biết đến. Trong giới chuyên môn ông đã được gọi là "Giáo hoàng văn học" từ rất lâu trước chương trình truyền hình này. Từ 1968 cho đến 1969 ông giảng dạy tại nhiều trường đại học Mỹ, từ 1971 đến 1975 ông là giáo sư thỉnh giảng tại Stockholm và Oppsala. Từ 1974 ông là giáo sư cộng tác của Trường Đại học Eberhard Karl (Eberhard-Karls-Universität) tại Tübingen. Năm 1990 Reich-Ranicki là giáo sư của trường Đại học Heinrich Heine tại Düsseldorf và năm 1991 là giáo sư của trường Đại học Karlsruhe. Trước khi mất, Reich-Ranicki sống với vợ tại Frankfurt am Main. Con trai của ông Andrzej là giáo sư tại Edinburgh. Ông mất ngày 18 tháng 9 năm 2013 tại Frankfurt am Main Tác phẩm Literarisches Leben in Deutschland. Kommentare u. Pamphlete. Piper 1965 Deutsche Literatur in Ost und West Piper 1966 Literatur der kleinen Schritte. Deutsche Schriftsteller heute. Piper 1967 Die Ungeliebten. Sieben Emigranten 1968 Über Ruhestörer. Juden in der deutschen Literatur. München. Piper Verlag. 1973. Nachprüfung, Aufsätze über deutsche Schriftsteller von gestern Piper Verlag 1977 (Hg.) Frankfurter Anthologie. Band 1–27, Insel Verlag, Frankfurt am Main 1978–2004. Entgegnung, Zur deutschen Literatur der siebziger Jahre DVA 1981 Thomas Mann und die Seinen, Deutsche Verlags-Anstalt, Stuttgart 1987, ISBN 3421063648 Lauter Verrisse, dtv, 1993, ISBN 3423115785 Die Anwälte der Literatur Deutsche Verlags-Anstalt 1994 Der Fall Heine Deutsche Verlags-Anstalt 1997 Mein Leben, Deutsche Verlags-Anstalt, Stuttgart 1999, ISBN 3423130563 Sieben Wegbereiter. Schriftsteller des 20. Jahrhunderts, Deutsche Verlags-Anstalt, München 2002, ISBN 3421055149 Meine Bilder. Porträts und Aufsätze. Deutsche Verlags-Anstalt, München 2003, ISBN 3421056196 Unser Grass Deutsche Verlags-Anstalt, München 2003, ISBN 3421057966 Vom Tag gefordert. Reden in deutschen Angelegenheiten. DTV, München 2003, ISBN 3423131454 Meine Geschichten. Von Johann Wolfgang von Goethe bis heute. Insel Verlag, Frankfurt a. M. 2003, ISBN 3458171665 (Hg.) Der Kanon. Die deutsche Literatur Erzählungen 10 Bände und ein Begleitband. Insel Verlag, Frankfurt a. M. 2003, ISBN 3458067604 Giải thưởng và khen tặng Tiến sĩ danh dự của trường Đại học Uppsala (1972) Heine-Plakette (1976) Giải Ricarda-Huch (1981) Huy chương Wilhelm-Heinse của Học viện Khoa học và Văn học tại Mainz (1983) Goethe-Plakette của thành phố Frankfurt am Main (1984) Giải Thomas-Mann (1987) Giải Bambi (1989) Giải thưởng truyền hình Bayern (1991) Giải Hermann-Sinsheimer về văn học và báo chí (1991) Tiến sĩ danh dự của trường Đại học Augsburg và trường Đại học Otto-Friedrich Bamberg (1992) Giải Ludwig Börne (1995) Giải thuyết trình CICERO (1996) Tiến sĩ danh dự của trường Đại học Heinrich-Heine Düsseldorf (1997) Giải thưởng văn hóa bang Hessen (1999) Giải Friedrich Hölderlin của thành phố Bad Homburg và giải thưởng văn học Samuel-Bogumil-Linde, Thorn/Göttingen (2000) Máy quay phim vàng (2000) Tiến sĩ danh dự của trường Đại học Utrecht (2001) Tiến sĩ danh dự của trường Đại Học Ludwig-Maximilian München (2002) Giải Goethe của thành phố Frankfurt (2002) Großes Verdienstkreuz mit Stern der Bundesrepublik Deutschland (2003) Giải thưởng văn hóa châu Âu (2004) Giải thưởng Quốc gia tại Đức Staatspreis des Landes Nordrhein-Westfalen (2005) Tiến sĩ danh dự của trường Đại học Tự do Berlin Freie Universität Berlin và của trường Đại Học Tel Aviv (2006) Giải Ludwig Börne (2010) Chương trình truyền hình Das literarische Quartett (1988 - 2002) Solo Lauter schwierige Patienten
Chủ nghĩa duy tâm, còn gọi là thuyết duy tâm hay duy tâm luận (), là trường phái triết học khẳng định rằng mọi thứ đều tồn tại bên trong tinh thần và thuộc về ý thức. Đây là một cách tiếp cận tới hiểu biết về sự tồn tại, chủ nghĩa duy tâm thường được đặt đối lập với chủ nghĩa duy vật, cả hai đều thuộc lớp bản thể học nhất nguyên chứ không phải nhị nguyên hay đa nguyên. Chủ nghĩa duy tâm có hai khuynh hướng: Chủ nghĩa duy tâm chủ quan phủ nhận sự tồn tại của thế giới khách quan và coi nó là một cái gì đó hoàn toàn do tính tích cực của chủ thể không quy định. Chủ nghĩa duy tâm khách quan coi cơ sở của hết thảy mọi sự vật tồn tại, cái bản chất sâu sắc nhất của thế giới là những nguyên lý "khách quan", tồn tại độc lập với con người, có trước tự nhiên và có trước loài người, luôn luôn vận động và biến đổi được gọi là "ý niệm tuyệt đối", "tinh thần tuyệt đối", "lý tính thế giới"... Cách tiếp cận tới chủ nghĩa duy tâm của các triết gia phương Tây khác với cách tiếp cận của các nhà tư tưởng phương Đông. Đối với nhiều triết gia phương Tây, ý niệm có quan hệ với tri thức trực tiếp của các hình ảnh hoặc quan niệm trí óc chủ quan. Khi đó nó thường được đặt cạnh chủ nghĩa hiện thực mà chân lý được xem là tồn tại tuyệt đối trước tri thức của con người và độc lập với tri thức của con người. Các nhà duy tâm nhận thức luận có thể khẳng định rằng những thứ duy nhất mà có thể được "biết chắc" một cách trực tiếp là các ý niệm. Trong tư tưởng phương Đông, như được phản ánh trong chủ nghĩa duy tâm Ấn Độ giáo, khái niệm chủ nghĩa duy tâm sử dụng ý nghĩa ý thức, về cốt yếu là ý thức sống động của một Thượng đế có mặt ở mọi nơi, làm nền tảng cho mọi hiện tượng. Một kiểu chủ nghĩa duy tâm châu Á là chủ nghĩa duy tâm Phật giáo. Lịch sử Chủ nghĩa duy tâm là tên của một loạt các quan điểm triết học với các hàm ý và khuynh hướng khác nhau. Các quan điểm này được nhiều nhà triết học thuộc nhiều nền văn minh khác nhau phát triển tại các thời điểm khác nhau trong lịch sử. Chủ nghĩa duy tâm phương Đông Một số truyền thống Ấn Độ giáo và tông phái Phật giáo có thể được coi là theo chủ nghĩa duy tâm. Một số tông phái Phật giáo được gọi là các phái duy thức vì họ chú trọng vào ý thức mà không có một Thượng đế hay linh hồn. Chủ nghĩa duy tâm phương Tây Antiphon Trong tác phẩm chính Chân lý, Antiphon viết: "Thời gian là một ý nghĩ hay một độ đo, không phải một chất". Câu này diễn tả thời gian như là một đối tượng tinh thần, nội tại và thuộc về quan niệm, chứ không phải một đối tượng có thực bên ngoài. Điều này nguợc với tinh thần của Thuyết tương đối mà Einstein đã tìm ra, phủ định sự đánh đồng tính chất(độ dài-ngắn) của thời gian ở các hệ quy chiếu khác nhau, khẳng định thời gian cũng là 1 "chất". Plato Plato đề xuất một thuyết duy tâm như là một lời giải cho bài toán về các phạm trù. Một phạm trù là mọi thứ cùng có một tính chất cụ thể nào đó. Ví dụ, bức tường, mặt trăng và một tờ giấy trắng đều có màu trắng; "trắng" là phạm trù mà tất cả những thứ gì màu trắng cùng chia sẻ. Plato lập luận rằng chính các phạm trù, các Hình thức hay các ý niệm Plato là có thật, chứ không phải từng vật cụ thể. Do quan niệm này khẳng định rằng các thực thể tinh thần đó là "có thực", nên nó được gọi là "chủ nghĩa hiện thực Plato (điều này rất dễ gây nhầm lẫn); theo nghĩa này, "chủ nghĩa hiện thực" đối lập với thuyết duy danh (nominalism) - quan niệm rằng các trừu tượng hóa trong trí óc chỉ là những các tên không có sự tồn tại độc lập. Tuy nhiên, nó là một hình thức của chủ nghĩa duy tâm vì nó đặt vị thế của ý niệm về các phạm trù lên cao hơn so với những sự vật vật lý. Plotinus Schopenhauer đã viết về triết gia Tân Plato này như sau: "Nhờ Plotinus, chủ nghĩa duy tâm mà đến thời điểm đó đã có mặt từ rất lâu ở phương Đông đã lần đầu tiên xuất hiện trong triết học phương Tây, vì tư tưởng đó cho rằng linh hồn đã tạo nên thế giới bằng cách bước từ vĩnh cửu vào trong thời gian, với lời giải thích: 'Vì không có nơi nào dành cho vũ trụ này ngoài linh hồn hay tâm thức' (neque est alter hujus universi locus quam anima), và tư tưởng duy tâm về thời gian được diễn tả trong câu sau: 'Ta không nên chấp nhận thời gian bên ngoài linh hồn hay tâm thức' (oportet autem nequaquam extra animam tempus accipere)." George Berkeley Trong khi tìm hiểu xem ta có thể biết những gì một cách chắc chắn, Giám mục Berkeley đã quyết định rằng tri thức của ta phải được dựa trên các nhận thức của ta. Điều đó dẫn ông tới kết luận rằng đằng sau nhận thức của ta thật sự không có đối tượng thực "khả tri" nào, rằng cái "có thực" là chính nhận thức. Tư tưởng đó được đặc tả trong khẩu hiệu của Berkeley: "Esse est aut percipi aut percipere" hay "Tồn tại nghĩa là nhận thức hay được nhận thức", có nghĩa là một thứ gì đó chỉ tồn tại, theo cách cụ thể mà nó được xem là tồn tại, khi nó đang được nhận thức (nhìn thấy, sờ thấy,...) bởi một chủ thể. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan hay chủ nghĩa duy tâm giáo điều này đã dẫn đến việc ông đặt toàn bộ sức nặng của sự minh giải lên các tri giác của ta. Điều này để lại cho Berkeley một vấn đề, tương tự như với các hình thức khác của chủ nghĩa duy tâm, đó là giải thích tại sao mỗi người trong chúng ta đều có vẻ có các tri giác ít nhiều giống nhau về một đối tượng. Ông đã giải quyết vấn đề này bằng cách đưa Chúa trời vào can thiệp với vai trò nguyên nhân trực tiếp của mọi tri giác của ta. Arthur Collier Arthur Collier đã công bố những khẳng định giống như của Berkeley tuy rằng không có bằng chứng là hai người cùng thời này đã có ảnh hưởng lẫn nhau. Collier cho là hình ảnh tiêu biểu của một ngoại thể là thực tế độc nhất mà ta có thể biết được. Vật chất, vì chỉ là nguyên nhân cho tấm hình đại diện đó, là không thể tưởng tượng được và do đó không là gì đối với chúng ta. Một thế giới bên ngoài không có liên hệ gì với một người quan sát, trong vai trò chủ đề tuyệt đối, không tồn tại trong các nhận thức của con người. Vì chỉ là một biểu lộ của tâm trí, vũ trụ không thể nào tồn tại dưới dạng chúng ta đang thấy nếu không có tâm trí để lãnh hội nó. Collier bị ảnh hưởng từ sách An Essay Towards the Theory of the Ideal or Intelligible World (xuất bản năm 1701) của John Norris. Những ý tưởng duy tâm của Collier thường bị bác bỏ bởi những người không có khả năng phân biệt giữa một ý tưởng, hay hình ảnh, và vật thể mà ý tưởng đó miêu tả. Jonathan Edwards Jonathan Edwards, một nhà thần học người Mỹ, đã bắt đầu học tại Đại học Yale vào năm 1716 khi ông mới 13 tuổi. Sau khi đọc học thuyết về các ý niệm của John Locke, ông đã bắt đầu ghi chép một cuốn sổ với nhan đề "Tâm thức." Trong đó, vào tuổi 14, ông viết rằng những thứ duy nhất có thực là tâm thức. Ông cho rằng vật chất tồn tại chỉ với vai trò một ý niệm trong một tâm thức. Do lối tư duy thần học, ông khẳng định rằng không gian là Chúa trời, do không gian vô tận. Sau khi trưởng thành, ông đã không tiếp tục hoàn thiện những ghi chép duy tâm sơ khai này. Immanuel Kant Immanuel Kant cho rằng khi ta nhận thức thế giới, tâm thức ta định hình thế giới theo không gian và thời gian. Kant chú trọng vào quan niệm rút từ chủ nghĩa kinh nghiệm Anh (và các triết gia của trường phái đó như Locke, Berkeley và Hume) cho rằng tất cả những gì ta có thể biết là các ấn tượng trí óc, hoặc các hiện tượng, mà thế giới bên ngoài (có thể tồn tại hoặc không tồn tại) tạo ra một cách độc lập trong tâm thức ta; tâm thức ta không bao giờ có thể nhận thức thế giới bên ngoài một cách trực tiếp. Kant bổ sung rằng tâm thức không phải là một tấm bảng trống trơn (ngược lại với John Lock) mà nó được trang bị các phạm trù để sắp xếp tổ chức các ấn tượng giác quan. Kiểu chủ nghĩa duy tâm này của Kant mở ra một thế giới của các trừu tượng hóa (nghĩa là, các phạm trù phổ quát mà tâm thức sử dụng để hiểu về các hiện tượng) để cho lý tính khám phá, nhưng trái ngược với chủ nghĩa duy tâm Plato ở chỗ nó khẳng định sự không chắc chắn về một thế giới không thể biết được ở bên ngoài tâm thức của chính ta. Ta không thể tiếp cận vật tự thân (tiếng Đức: Ding an Sich) nằm ngoài thế giới tâm thức của ta. (Chủ nghĩa duy tâm của Kant được gọi là chủ nghĩa duy tâm siêu nghiệm.) Fichte Johann Fichte phủ nhận vật tự thân của Kant, ông cho rằng ý thức tự xây dựng cơ sở cho mình, rằng cái tôi tinh thần của bản thân không dựa vào thế giới bên ngoài, và rằng giả thiết về một vật bên ngoài thuộc bất cứ kiểu nào cũng giống như thừa nhận về một vật chất có thực. Ông là người đầu tiên thử xây dựng một lý thuyết về tri thức mà không dựa trên bất cứ một phỏng đoán nào, trong đó không có cái gì bên ngoài tư duy được giả thiết là tồn tại bên ngoài phân tích khởi đầu về khái niệm. Nhờ đó nhận thức có thể đặt nền móng chỉ trên chính nó, và không giả định bất cứ điều gì mà không suy dẫn từ đó trước nhất. (Quan điểm này khá tương tự với chủ nghĩa duy tâm thực tế (actual idealism) của Giovanni Gentile, chỉ khác ở chỗ lý thuyết của Gentile tiến xa hơn, đến chỗ thậm chí phủ nhận cả cơ sở cho một bản ngã hay cái tôi được tạo ra từ tư duy.) Hegel Hegel, một nhà triết học khác mà hệ thống của ông cũng được gọi là chủ nghĩa duy tâm, lập luận trong tác phẩm Khoa học Logic (Wissenschaft der Logik 1812-1814) rằng các phẩm chất hữu hạn không "có thực" một cách đầy đủ, vì chúng phụ thuộc vào sự quyết định của các phẩm chất hữu hạn khác. Mặt khác, "sự vô hạn" định tính lại có thể tự quyết hơn, và do đó sẽ xứng đáng hơn để được gọi là "có thực" một cách đầy đủ. Tương tự, những sự vật tự nhiên hữu hạn kém "thực" hơn - vì chúng kém tự quyết định hơn - so với những thứ thuộc về tinh thần như những người có đạo đức trách nhiệm, những cộng đồng luân lý, và Thượng đế. Do đó, học thuyết nào khẳng định các phẩm chất hữu hạn hay các đối tượng tự nhiên là hoàn toàn có thực, chẳng hạn chủ nghĩa duy vật, học thuyết đó đã nhầm lẫn. Hegel gọi triết học của ông là chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối, để đối lập với "chủ nghĩa duy tâm chủ quan" của Berkeley và "chủ nghĩa duy tâm siêu nghiệm" của Kant và Fichte. Khác với chủ nghĩa duy tâm của Hegel, các học thuyết này không dựa trên phê phán về sự hữu hạn. Các nhà "duy tâm chủ nghĩa" mà triết học của họ gần với triết học của Hegel nhất là Plato và Plotinus. Không có ai trong ba nhà tư tưởng này liên hệ chủ nghĩa duy tâm của họ với luận đề nhận thức luận rằng những gì ta biết là các "ý niệm" trong tâm thức của ta. Schopenhauer Trong quyển I của tác phẩm Parerga and Paralipomena, Schopenhauer đã viết bài "Phác họa về một lịch sử của học thuyết về quan niệm và cái có thực". Ông định nghĩa quan niệm (ideal) là các hình ảnh trí óc cấu thành nên tri thức chủ quan. Đối với ông, quan niệm là cái có thể đóng góp cho tâm thức của ta. Những hình ảnh trong đầu ta là những gì tạo nên quan niệm. Schopenhauer nhấn mạnh rằng ta bị giới hạn trong ý thức của chính ta. Ta chỉ nhận biết về thế giới qua hình thức một đại diện hay một hình ảnh trí óc của các đối tượng. Ta chỉ biết trực tiếp các đại diện chứ không nhận biết trực tiếp đối tượng. Mọi đối tượng bên ngoài tâm thức đều được nhận thức một cách gián tiếp qua sự điều hành của tâm thức chính ta. Phê phán chủ nghĩa duy tâm Immanuel Kant Trong ấn bản thứ hai (1787) của tác phẩm "Phê phán lý tính thuần túy" (Kritik der reinen Vernunft), Kant đã viết một mục có tiêu đề "Phản luận về chủ nghĩa duy tâm" để phân biệt giữa chủ nghĩa duy tâm siêu nghiệm của ông với chủ nghĩa duy tâm giáo điều của Berkeley. Bên cạnh phản luận này, trong cả hai ấn bản 1780 và 1787, mục "Sự ngộ biện về lý tính thuần túy" (Von den Paralogismen der reinen Vernunft) có hàm ý phê phán chủ nghĩa duy tâm còn nhiều vấn đề của René Descartes, chẳng hạn "tôi tồn tại". Ông nói rằng chỉ từ "sự bột phát của ý nghĩ", không thể suy diễn rằng cái 'tôi' là một đối tượng; ông không bao giờ nói thẳng rằng "Descartes đã sai" như Russell hay Nietszche tiếp sau ông. Đúng 100 năm sau, Nietzsche đã làm điều này trong tác phẩm "Phía sau thiện và ác" (Jenseits von Gut und Böse). Søren Kierkegaard Søren Kierkegaard đã tấn công triết học duy tâm của Hegel trong nhiều tác phẩm của mình, nhưng cô đọng và súc tích nhất là trong cuốn Afsluttende uvidenskabelig Efterskrift (1846). Trong đó, Kierkegaard, trong vai triết gia Johannes Climacus, lập luận rằng một hệ thống logic là có thể nhưng một hệ thống hiện sinh là không thể. Hegel lập luận rằng một khi người ta đã đạt đến hiểu biết tột cùng về cấu trúc lôgic của thế giới, người ta cũng đạt được một hiểu biết về cấu trúc lôgic của tâm thức Thượng đế. Climacus cho rằng chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của Hegel đã sai lầm khi xóa nhòa sự tách biệt giữa sự hiện hữu và tư duy. Climacus còn lập luận rằng bản chất không bất tử của ta đặt giới hạn cho hiểu biết của ta về thực tại. Ông nói "Những cái gọi là hệ thống thường có đặc điểm là chúng thủ tiêu sự tách biệt giữa thiện và ác và tiêu diệt tự do, và chúng thường bị đặt vấn đề về đặc điểm đó. Có lẽ người ta có thể biểu đạt một cách dứt khoát không kém, khi người ta nói rằng mọi hệ thống như vậy đều làm tiêu tan khái niệm tồn tại... Khái niệm là một con người cá nhân là một điều đã bị xóa bỏ, tất cả các nhà triết học lý thuyết đều lẫn lộn giữa bản thân và cả loài người; do đó ông ta trở nên một cái gì đó vô cùng vĩ đại, nhưng đồng thời lại chẳng là cái gì cả." Friedrich Nietzsche Friedrich Nietzsche là người đầu tiên phê phán thẳng thắn chủ nghĩa duy tâm, các phê phán của ông đã được phổ biến bởi David Stove (xem mục sau). Ông đã dọn đường cho phương pháp kinh nghiệm tổng quát của Stove khi lập luận rằng luận cứ của Kant cho chủ nghĩa duy tâm siêu nghiệm của ông đã lấy cơ sở là một phép lặp thừa (tautology) hay nói cách khác, xem như vấn đề đưa ra đã được quyết định là đúng mà không phải thảo luận thêm. Do đó nó là một lập luận không có giá trị. Trong tác phẩm "Phía sau thiện và ác" (Jenseits von Gut und Böse), Phần 1 Về định kiến của các triết gia Mục 11, ông đã châm chọc Kant vì đã tự ngưỡng mộ bản thân do ông đã đảm nhận và (ông cho rằng) đã giải quyết thành công "vấn đề khó khăn nhất của siêu hình học." Trích dẫn lời Nietzsche: "Nhưng chúng ta hãy suy nghĩ; đã đến lúc làm điều đó rồi. 'Làm sao mà các phán đoán tổng hợp tiên nghiệm lại là khả thi?' Kant đã tự hỏi, và câu trả lời thực sự của ông là gì? 'Nhờ vào một năng lực' - nhưng không may không chỉ bằng 5 chữ,... Tuần trăng mật của triết học Đức đã đến. Tất cả các nhà thần học trẻ tuổi của trường dòng Tübingen chui vào các bụi rậm để tìm các 'năng lực.'...'Nhờ vào một năng lực' - ông đã nói, hoặc ít nhất đã có ý như vậy. Nhưng câu trả lời đó là thế nào? Một lời giải thích? Hay đơn giản chỉ là một sự lặp lại của câu hỏi? Thuốc phiện gây ngủ bằng cách nào? 'Nhờ vào một năng lực,' đó là năng lực gây ngủ , ngài bác sĩ trong hài kịch Moliére trả lời." Cũng trong cuốn sách đó, bên cạnh chủ nghĩa duy tâm của Kant, Nietzsche còn tấn công chủ nghĩa duy tâm của Schopenhauer và Descartes bằng một luận cứ tương tự như phê phán của Kant đối với Descartes. Trích lời Nietzsche: "Vẫn có những người tự ngắm mình, họ tin rằng có những "điều đáng tin cậy trực tiếp" (immediate certainties); chẳng hạn, "tôi tư duy," hay như cách diễn đạt của Schopenhauer, "tôi muốn"; mặc dù tri thức ở đây nắm bắt đối tượng của nó một cách thuần túy và trần trụi như "vật tự thân", mà không có bất cứ sự ngụy tạo nào về phía chủ thể hoặc khách thể. Nhưng "sự đáng tin cậy trực tiếp" đó, cũng như "tri thức tuyệt đối" và "vật tự thân", bao hàm một contradictio in adjecto, (sự mâu thuẫn giữa danh từ và tính từ). Tôi phải nhắc đi nhắc lại cả trăm lần; chúng ta thật sự phải tự giải phóng mình khỏi sự mê hoặc của từ ngữ!" G. E. Moore Phê phán đầu tiên trong khuôn khổ triết học phân tích đối với chủ nghĩa duy tâm là của Moore, một trong những người sáng lập triết học phân tích. Bài phát biểu Phản bác chủ nghĩa duy tâm (The Refutation of Idealism) vào năm 1903 là một trong những thể hiện đầu tiên của quá trình Moore sử dụng phân tích như là một phương pháp triết học đúng đắn. Moore xem xét cách ngôn của triết học Berkeley esse est percipi: "là có nghĩa là được nhận thức (bởi ai đó)". Ông xem xét kỹ càng từng từ một trong 3 từ của câu cách ngôn, và thấy rằng nó phải có nghĩa rằng khách thể và chủ thể nhất thiết có quan hệ với nhau. Do đó, ông lập luận rằng, đối với các nhà duy tâm, "màu vàng" và "cảm giác về màu vàng" nhất thiết đồng nhất - một vật màu vàng nhất thiết phải được nhận thức (bởi vật khác) là có màu vàng. Nhưng, trong một động thái tương tự với luận cứ câu hỏi mở, cũng có vẻ rõ ràng rằng có một sự khác biệt giữa "màu vàng" và "cảm giác về màu vàng". Đối với Moore, nhà duy tâm đã sai lầm vì "cái esse được cho là được percipi, chỉ vì cái được trải nghiệm được cho là đồng nhất với trải nghiệm về nó". Tuy phản bác về chủ nghĩa duy tâm này là tuyên bố mạnh mẽ đầu tiên của triết học phân tích để phê phán các tiền bối duy tâm, luận cứ này đã cho thấy rằng phương pháp kinh nghiệm tổng quát (theo thuật ngữ của thời kỳ sau Stove, xem phần sau) là không đúng đắn về lôgic. Các luận cứ được phát triển bởi Nietzsche (trước Moore), Russell (ngay sau Moore) và Stove (80 năm sau) đã đóng đinh lên cỗ quan tài dành cho luận cứ "chủ đạo" hỗ trợ chủ nghĩa duy tâm. Bertrand Russell Mặc dù Bertrand Russell đã có một tác phẩm rất nổi tiếng, "Các vấn đề của triết học" (The Problems of Philosophy) (ngay vào năm 1943 đã được in lần thứ 17), viết cho độc giả đại chúng thay vì độc giả hàn lâm, rất ít người nhắc đến các phê bình của ông ngay cả khi ông đã hoàn toàn thấy trước phương pháp kinh nghiệm tổng quát của David Stove cả về hình thức lẫn nội dung (xem mục sau về phương pháp của David Stove). Chương 4 (Chủ nghĩa duy tâm) làm nổi bật tiền đề lặp thừa của Berkeley dành cho việc đề xuất chủ nghĩa duy tâm. Trích Russell (1912:42-43): "Nếu ta nói rằng những sự vật được biết phải ở trong tâm thức, thì hoặc ta đang giới hạn năng lực nhận thức của tâm thức một cách quá mức, hoặc ta đang phát biểu một câu tự lặp thừa không hơn không kém. Chỉ là một sự lặp thừa nếu ta có ý rằng 'trong tâm thức' đồng nghĩa với 'được nắm bắt bởi tâm thức'. Nhưng nếu ta muốn nói điều đó, thì ta sẽ phải thừa nhận rằng, theo nghĩa đó, những gì có trong tâm thức lại có thể không thuộc về tinh thần. Do đó, khi ta nhận ra được bản chất của tri thức, ta sẽ thấy luận cứ của Berkeley sai cả về chất cũng như hình thức, và cơ sở của ông cho quan niệm rằng 'ý niệm' - nghĩa là các đối tượng được nhận thức - phải thuộc về tinh thần là không đúng đắn. Do vậy, ta có thể loại bỏ cơ sở của ông cho việc ủng hộ chủ nghĩa duy tâm" A.C. Ewing Published in 1933 A.C. Ewing according to David Stove mounted the first full length book critique of Idealism, entitled Idealism; a critical survey. Stove does not mention that Ewing anticipated his GEM. David Stove Nhà triết học người Úc David Stove đã lập luận một cách gay gắt rằng chủ nghĩa duy tâm đã dựa trên cái mà ông gọi là "luận cứ tồi nhất thế giới". Phê phán của ông về chủ nghĩa duy tâm có lẽ là phê phán có tính tàn phá mạnh nhất đối với chủ nghĩa duy tâm chủ quan trong triết học. Nhìn từ góc độ lôgic, phê phán của ông không khác với phê phán của Russell hay Nietzsche, nhưng Stove đã được trích dẫn rộng rãi nhất và đã nêu bật được một cách rõ ràng nhất các sai lầm của những người đề xướng chủ nghĩa duy tâm. Ông đặt tên cho hình thức lập luận mà Berkeley đã nghĩ ra là Phương pháp kinh nghiệm tổng quát. Berkeley cho rằng "(tâm thức) bị lừa rằng nó có thể và nó đang nhận thức về các vật thể hiện hữu độc lập với tâm thức, mặc dù cùng lúc đó chúng lại được nắm bắt bởi tâm thức hoặc tồn tại trong chính tâm thức" ((the mind) is deluded to think it can and does conceive of bodies existing unthought of, or without the mind, though at the same time they are apprehended by, or exist in, itself). Stove lập luận rằng tuyên bố này được phát triển từ một phép lặp thừa rằng không thể nghĩ đến một thứ gì trong khi không phải nó đang được nghĩ đến, tới kết luận rằng không gì có thể tồn tại mà không được nghĩ đến. Dưới đây là phiên bản của Stove về phương pháp kinh nghiệm tổng quát (PPKNTQ) của Berkeley (1991:139): 1) Ta không thể có cây-ngoài-tâm-thức trong tâm thức, mà không có nó trong tâm thức. 2) Do đó, ta không thể có cây-ngoài-tâm-thức trong tâm thức. 1) Do là một phát biểu lặp thừa (tautology - self-referential statement), nên tiền đề của lập luận này là hiển nhiên đúng. 2) Kết luận không hiển nhiên đúng. Logic từ 1) đến 2) là sai, do các tiền đề lặp thừa chỉ có thể dẫn đến các kết luận lặp thừa.
Mãnh long quá giang (tiếng Trung: 猛龍過江; tiếng Anh: The way of the dragon, Fury of the dragon, Meng Long quojiang) là một phim võ thuật do Lý Tiểu Long đạo diễn, do hãng Concort phát hành năm 1972, với các diễn viên: Lý Tiểu Long, Miêu Khả Tú, Chuck Norris, Robert Wall.... Nội dung Phim dài 100 phút, nói về chuyến đi sang Ý dạy võ của võ sư trẻ Đường Long (Lý Tiểu Long). Những cảnh đầu phim khá hài hước: Đường Long vào một tiệm ăn và không biết phải gọi món gì, anh chỉ đại và lần lượt được đưa ra những món súp khó ăn nhất. Từ đầu đến cuối phim, vai Đường Long của Lý Tiểu Long khá ngớ ngẩn trong giao tiếp. Do sự ngớ ngẩn đó, Đường Long rất được Trần Thanh Hoa (Miêu Khả Tú đóng) yêu mến. Cô giới thiệu anh đến một võ đường. Sự khinh khỉnh pha lẫn ngơ ngác của anh- lại được cô gái đẹp quấn quýt bên mình khiến Đường Long bị ghen ghét. Bọn họ diễu võ dương oai trước mặt anh, những đòn Karatedo hỗn tạp và thiếu thuần túy tung ra. Đường Long chỉ khẩy cười và bay lên đá vào tấm đỡ: ba võ sinh không giữ nổi phải ngã ra đằng sau. Từ đó họ kính phục Đường Long và nhờ anh dạy võ Trung Hoa cho họ. Võ Đường này còn mở một nhà hàng, vì chuyện chỗ ở nên mỗi ngày đều bị bọn côn đồ đến ức hiếp, tiểu tướng của bọn đó là một tên người Trung Quốc. Đường Long rất ghét tên này và nhận sẽ đứng ra bảo vệ võ quán cũng như nhà hàng. Nhiều cuộc quấy rối của bọn côn đồ diễn ra, Đường Long và các môn sinh hết sức chống đỡ, khiến bọn chúng sợ hãi. Lúc này anh chế ra phi tiêu bằng tre để đánh với súng đạn của bọn chúng, cảnh này cho thấy sự tôn vinh vẻ đẹp võ thuật phi súng đạn của con rồng họ Lý. Bên cạnh đó còn thấy vẻ đẹp Á Đông thể hiện qua 2 cặp Côn nhị khúc. Âm mưu không thành, bọn xã hội đen phải thuê một số võ sư ở nước ngoài về thách đấu với Lung trong đó cao thủ nhất là Colt (Chuck Norris). Đường Long nhận lời thách đấu... Đường Long chiến thắng tất cả riêng Colt thì hẹn riêng anh ra một chỗ vắng. Một trận đấu kinh điển ở đấu trường Colosseum nổ ra, với sự chứng kiến của 2 chú mèo. Bên lề bộ phim Mãnh Long Quá Giang là phim điện ảnh thứ ba của Lý Tiểu Long được đưa vào lịch sử của điện ảnh Hồng Kông vì những sự kiện sau đây: Đây là phim Hồng Kông đầu tiên có quay ngoại cảnh ở Châu Âu Đây là lần đầu tiên một diễn viên Hồng Kông thành lập 1 hãng phim riêng (hãng phim Concort) Thành phần du đãng trong phim này toàn là người nước ngoài Phim đầu tiên Lý Tiểu Long sử dụng cùng lúc 2 cặp côn nhị khúc Lý Tiểu Long là người Hồng Kông đầu tiên tự thực hiện tất cả các vai trò quan trọng như đạo diễn, diễn xuất, viết kịch bản. Ngoài ra, các nhân vật nhập cư từ nước ngoài như Chuck Norris và Robert Wall đều là môn đệ và là bạn của Lý Tiểu Long do chính Lý Tiểu Long mời đến.
Quách Tử Nghi (chữ Hán: 郭子儀; 5 tháng 9, 697 – 9 tháng 7, 781), là một danh tướng nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông phục vụ dưới 4 đời Hoàng đế nhà Đường là Đường Huyền Tông, Đường Túc Tông, Đường Đại Tông và Đường Đức Tông, có công rất lớn trong việc dẹp loạn An Sử. Do thanh thế lớn, ông được phong tước Phần Dương quận vương (汾陽郡王), và người đời gọi ông là Quách Lệnh Công (郭令公). Thân thế Quách Tử Nghi quê ở Hoa Châu, huyện Trịnh (nay là huyện Hoa, tỉnh Thiểm Tây). Tổ 6 đời là Quách Trí (郭智), người Tấn Dương, Thái Nguyên (nay là Thái Nguyên, Sơn Tây), làm Thái thú quận Trung Sơn, rồi Thứ sử Dĩnh Châu thời Bắc Ngụy. Tổ 5 đời Quách Tiến (郭进), làm chức Tư mã Đồng Châu thời Tây Ngụy, em trai của Thái phó Quách Huy thời nhà Tùy. Cha ông là Quách Kính Chi (郭敬之), từng giữ chức Thứ sử 5 châu dưới thời Đường, tặng Kì Quốc công (祁国公). Mẹ ông là Hướng thị (向氏), phong Ngụy Quốc phu nhân (魏国夫人). Quách Tử Nghi được mô tả là người cao hơn 6 thước, dáng vẻ anh dũng. Quách Tử Nghi theo đuổi nghiệp võ, thi đỗ đầu trong một kỳ thi, được bổ nhiệm làm "Trưởng sử tả vệ". Trong vài chục năm cho đến trước năm 755, Quách Tử Nghi không có đóng góp nào đặc biệt trên quan trường. Dẹp loạn An Sử Giao tranh ở Hà Bắc Tháng 11 năm 755, lúc đó Tử Nghi đã 59 tuổi, Tiết độ sứ Phạm Dương là An Lộc Sơn khởi binh chống lại nhà Đường, tự xưng là Yên đế. Quân Yên khí thế mạnh mẽ, sang năm 756 nhanh chóng đánh chiếm nhiều vùng đất thuộc Hà Bắc và Hà Nam. Trước tình thế nguy cấp, Đường Huyền Tông bổ nhiệm Quách Tử Nghi làm Tiết độ sứ Sóc Phương, mang quân về phía đông dẹp loạn. Tháng 4 năm 756, Quách Tử Nghi giành lại được 2 quận Vân Trung và Mã Ấp. Sau đó ông tiến quân đến Tỉnh Hình, phối hợp với Tiết độ sứ Hà Đông là Lý Quang Bật. Hai tướng cùng nhau đánh chiếm được 2 huyện Cửu Môn và Cảo Thành do tướng Yên là Sử Tư Minh cố thủ trên 40 ngày. Quân Đường chiếm được 9 huyện của quận Thường Sơn, đường rút lui của quân Yên bị uy hiếp. Sử Tư Minh tuy thua nhưng có quân đông, khí thế còn mạnh. Khi Quách Tử Nghi và Lý Quang Bật lui lại Thường Sơn để phòng thủ bèn mang quân đuổi theo. Quách Tử Nghi bèn sai 500 quân giương oai tiến lên phía bắc để đánh lừa Tư Minh. Tư Minh không biết là nghi binh, mang quân cấp tốc đuổi theo trong 3 ngày 3 đêm. Khi quân Yên đuổi tới huyện Hành Đường thì người ngựa đã rất mệt mỏi, lúc đó mới phát hiện ra phía trước chỉ có 500 quân Đường, bèn quay trở lại sông Sa Hà nghỉ ngơi. Quách Tử Nghi thừa lúc quân Yên mệt mỏi bèn mang quân đánh úp, giành thắng lợi lớn. An Lộc Sơn nghe tin Tư Minh thua trận bèn sai Thái Hy Đức mang 2 vạn bộ binh và kỵ binh tới chi viện, lại sai Ngưu Đình Giới mang 1 vạn quân tới hỗ trợ Tư Minh. Tư Minh có 5 vạn quân trong tay. Quách Tử Nghi không vội giao chiến, vẫn dùng chiến thuật trì hoãn khiến quân địch nản lòng. Ông mang quân lên phía bắc, dụ Tư Minh đuổi theo. Tư Minh được tăng viện, yên tâm mang quân đuổi. Tử Nghi đến đóng quân ở Hằng Dương, củng cố lại thành trì. Sử Tư Minh mang quân tới đánh thành không được. Hễ Tư Minh có ý định lui thì Quách Tử Nghi mang quân ra truy kích. Tư Minh quay trở lại đánh thì quân Đường lại rút vào thành cố thủ. Sử Tư Minh tiến lui đều không được, rất mệt mỏi. Lúc đó Quách Tử Nghi báo cho Lý Quang Bật tới trợ chiến, quân Đường có tổng cộng 10 vạn người, tổ chức tấn công quy mô vào quân Yên ở Gia Sơn, kết quả diệt hơn 4 vạn quân Yên, bắt sống 1000 người. Sử Tư Minh thua to, bị ngã ngựa, may mắn trốn thoát, chạy về cố thủ ở Bác Lăng. Quách Tử Nghi và Lý Quang Bật mang quân vây hãm Bác Lăng. Trận Gia Sơn đẩy quân Yên vào thế nguy khốn. An Lộc Sơn từ Lạc Dương mang quân đánh Tràng An bị Kha Thư Hàn án ngữ ở Đồng Quan không tiến lên được, phía sau thì Quách Tử Nghi và Lý Quang Bật vây bọc. Nhiều tướng Yên đầu hàng nhà Đường, các trinh thám đi đưa thư cũng đều bị quân Đường bắt được. An Lộc Sơn chán nản định bàn cách bỏ Lạc Dương rút về căn cứ Phạm Dương và Bình Lư. Rút về Linh Vũ Quách Tử Nghi và Lý Quang Bật kiến nghị Đường Huyền Tông cố thủ giữ chân An Lộc Sơn ở Đồng Quan, còn hai cánh quân Lý, Quách tấn công căn cứ Phạm Dương của Lộc Sơn. Nhưng Đường Huyền Tông không nghe theo, nóng lòng muốn thắng lợi, bèn ép Kha Thư Hàn xuất kích từ Đồng Quan ra đánh quân Yên. Thư Hàn không thể chống lệnh đành mang quân ra đánh, bị thảm bại. Quân Yên thắng lớn thừa cơ tiến vào Trường An. Đường Huyền Tông phải bỏ chạy vào đất Thục. Tình hình nhà Đường rất nghiêm trọng, cả hai kinh Lạc Dương và Trường An đều thất thủ, uy thế quân Yên lên cao, Đường Huyền Tông bị mất uy tín với tướng sĩ vì sủng ái Dương Quý phi và anh Dương Phi là Dương Quốc Trung. Tháng 7 năm 756, Thái tử Lý Hanh bèn lên ngôi ở Linh Vũ, tức là Đường Túc Tông. Lực lượng của Đường Túc Tông mới tập hợp khá nhỏ yếu, Quách Tử Nghi và Lý Quang Bật đang chiếm ưu thế ở Hà Bắc, được lệnh về Linh Vũ hộ giá. Qua một năm tập hợp và củng cố, quân Đường ở phương Bắc mạnh lên nhiều. Trong khi đó nội bộ quân Yên lại chia rẽ. An Lộc Sơn bị con là An Khánh Tự giết chết để cướp ngôi, mãnh tướng Sử Tư Minh mang gần 10 vạn quân ly khai không nghe lệnh Khánh Tự. Nhân thời cơ đó, Đường Túc Tông hạ lệnh phản công để thu hồi hai kinh (Lạc Dương, Trường An). Thu hồi hai kinh Tháng 4 năm 757, Túc Tông phong con là Lý Bảo làm Nguyên soái, Quách Tử Nghi làm Phó nguyên soái, lãnh trách nhiệm thu hồi hai kinh. Lý Bảo là hoàng tử nắm quyền tối cao nhưng không có thực tài, chiến sự trông hết vào Quách Tử Nghi. Tháng 5 năm 757, Quách Tử Nghi tiến từ Phượng Tường về phía đông chuẩn bị đánh Trường An. Đến Thanh Cừ thì quân Đường gặp quân Yên do Lý Quy Nhân, An Thủ Trung chỉ huy. Hai bên giữ nhau 7 ngày không giao chiến. Hai tướng Yên dùng mưu giả thua tháo lui. Quách Tử Nghi mắc mưu đuổi theo, hai tướng Yên dàn 9.000 quân thành hình con rắn dài đón đánh. Tử Nghi đánh vào giữa, hai đầu "trường xà" kéo lại vây bọc, đánh quân Đường thua to. Tử Nghi phải lui quân về giữ Vũ Công. Đường Túc Tông điều thêm quân tiếp viện cho Lý Bảo và Tử Nghi. Ông đề nghị mượn thêm quân nước Hồi Hột láng giềng để chống những đạo quân thiện chiến của Yên, được 4.000 người dưới quyền tướng Bộc Cố Hoài Ân. Sang tháng 9 năm đó, Tử Nghi có 15 vạn quân, lại tấn công Tràng An lần thứ 2. Ngày 27 tháng 9, Tử Nghi kéo đến phía tây Trường An. An Thủ Trung và Lý Quy Nhân mang 10 vạn quân ra địch. Quách Tử Nghi sai Lý Tự Nghiệp cầm tiền quân, tự mình đi trung quân, sai Vương Âu Lễ làm hậu quân. Lý Tự Nghiệp và Lý Quy Nhân giao tranh giằng co mấy trận không phân thắng bại. An Thủ Trung điều một cánh quân sang phía đông đánh vây bọc quân Đường. Quách Tử Nghi phát hiện, bèn sai Bộc Cố Hoài Ân (người Thiết Lặc, Hồi Hột) dẫn 4000 quân Hồi Hột ra giao chiến, giết hơn nửa quân Yên. Cánh quân Yên đi tập kích bị đánh bại. Quách Tử Nghi lại sai Hoài Ân vòng ra phía sau đánh úp quân Yên, đồng thời thúc tiền quân và trung quân cùng lúc tấn công ồ ạt. Sau hơn nửa ngày giao chiến, quân Đường giết 6 vạn quân Yên. Quân Yên thua chạy vào thành Trường An. Lý Bảo chủ trương cho binh sĩ nghỉ ngơi nên dừng lại không truy kích. An Thủ Trung, Trương Thông Nho và Lý Quy Nhân hoảng sợ, nhân lúc đêm tối bỏ thành rút chạy. Ba ngày sau, Lý Bảo và Quách Tử Nghi mới mang quân đuổi theo quân Yên. Nhưng quân Đường triển khai chậm nên quân Yên có thời gian chỉnh đốn lại. Vua Yên An Khánh Tự sai Nghiêm Trang mang quân từ Lạc Dương sang phía tây tiếp viện cho Trường An, gặp tàn quân Yên thua chạy về, tập hợp lại được 15 vạn người. Ngày 15 tháng 10, Quách Tử Nghi đụng độ quân Yên ở Tân Điếm. Quân Yên dựa vào núi bày trận, Tử Nghi cho đại quân tấn công chính diện, còn Bộc Cố Hoài Ân mang quân Hồi Hột đánh úp phía sau. Thấy cánh quân chính diện yếu thế, Hoài Ân dẫn quân thần tốc tới Nam Sơn, đánh mạnh vào sườn quân Yên. Quân Yên vốn sợ quân Hồi Hột, nên thấy quân Hồi Hột đến đều bỏ chạy. Quách Tử Nghi thừa cơ thúc 2 cánh quân chính diện tấn công ồ ạt. Quân Yên thua to, Nghiêm Trang và các tướng dẫn tàn quân chạy về phía đông. Quách Tử Nghi dẫn quân truy sát. An Khánh Tự được tin cánh quân chủ lực đi cứu Trường An bị đánh bại rất sợ hãi, dẫn 300 kỵ binh và 1000 bộ binh bỏ Lạc Dương chạy về Nghiệp Thành. Ngày 18 tháng 10, quân Đường thừa thắng tiến vào Lạc Dương. Đường Túc Tông nghe tin Quách Tử Nghi giành lại hai kinh, phong ông làm Đại quốc công (代国公). Thượng hoàng Đường Huyền Tông nghe tin cũng có lời khen ngợi. Bại binh Nghiệp Thành Tháng 9 năm 758, Quách Tử Nghi cùng Lý Quang Bật và 7 Tiết độ sứ nhà Đường được lệnh đi đánh An Khánh Tự ở Nghiệp Thành. Quân Đường có tổng cộng 60 vạn người. Đường Túc Tông lại cho rằng vì Tử Nghi và Quang Bật có công trận ngang nhau, không thể đặt ai trên ai, nên sai hoạn quan Ngư Triều Ân làm tổng chỉ huy. Quách Tử Nghi mang quân từ Hạnh Viên vượt sông, bao vây tấn công Vệ Châu. An Khánh Tự dẫn 7 vạn quân chia làm 3 ngả, tăng viện cho Vệ Châu. Tử Nghi bố trí 3000 tay cung nấp sau lũy đất rồi dẫn quân ra khiêu chiến. An Khánh Tự thúc quân ra đánh. Tử Nghi giả thua chạy, quân Yên đuổi theo. Bất thần các tay nỏ vùng dậy bắn, giết hơn nửa quân Yên. Tử Nghi cũng quay trở lại đánh giết. An Khánh Tự thua lớn, bỏ chạy về Nghiệp Thành rồi sai người cầu cứu Sử Tư Minh. Tư Minh vốn đã hàng nhà Đường, nhưng bất mãn vì phát hiện Đường Túc Tông có ý trừ khử mình, bèn mang 10 vạn quân trở lại chống nhà Đường, từ Phạm Dương đi cứu An Khánh Tự. Tháng 2 năm 759, Tiết độ sứ 9 phương của nhà Đường dẫn quân đông đảo tới bao vây Nghiệp Thành. Sử Tư Minh thấy thế quân Đường mạnh mẽ bèn dẫn quân đến Phẫu Dương đóng lại không tiến. Quân Đường dẫn nước sông Chương vào thành. Trong thành nước ngập rất nguy cấp, nhưng An Khánh Tự vẫn cố phòng thủ chờ viện binh của Sử Tư Minh. Hoạn quan Ngư Triều Ân không hiểu việc quân sự nên dùng dằng không ra lệnh đánh thành. Sử Tư Minh thấy quân Đường vây lâu ngày không hạ được thành, bèn tiến quân. Tư Minh tiến lên hạ trại cách quân Đường 50 dặm, chia một cánh quân đi cướp lương quân Đường, các cánh quân nhỏ khác đến tập kích ban đêm khiến quân Đường bị tổn thất khá nặng. Quân Đường bị thiếu lương đều dao động. Sau đó Tư Minh dẫn 5 vạn quân đánh thẳng vào đại trại quân Đường. Quân Đường thua lớn, Quách Tử Nghi cùng các Tiết độ sứ chạy tản mỗi người một nơi. Tử Nghi rút về Hà Dương để giữ Lạc Dương. Ngư Triều Ân vốn ganh ghét với công trạng của Tử Nghi, dâng sớ kể tội ông làm quân Đường bại trận ở Nghiệp Thành. Đường Túc Tông bèn triệu ông về triều, sai Lý Quang Bật chỉ huy quân đội. Nhiều tướng sĩ biết tin ông bị cách chức đều đứng ở ven đường khóc đưa tiễn. Đường Đế dùng Lý Quang Bật thay Quách Tử Nghi cầm quân ở Hà Dương. Năm 761, Lý Quang Bật bị thua trận ở Hà Dương, vì vậy triều đình lại dựa vào Quách Tử Nghi. Đầu năm Bảo Ứng (762), hai đạo Thái Nguyên và Giáng Châu làm phản, triều đình khủng cụ, phong Quách Tử Nghi làm Phần Dương quận vương (汾陽郡王), xuất binh dẹp hai trấn. Không lâu sau, Đường Túc Tông băng hà, Đường Đại Tông lên ngôi (tháng 5 năm 762), nghe lời gièm pha của Trình Nguyên Chấn thì lại nghi ngờ ông, tước binh quyền và giam lỏng ông tại nhà. Lực lượng quân Yên tàn hại lẫn nhau, bị suy yếu và cuối cùng bị đánh bại năm 763. Chống Thổ Phiên Năm 763, 20 vạn quân Thổ Phiên tấn công vào kinh thành Trường An. Đường Đại Tông chạy về phía đông đến Thiểm Châu, lại trọng dụng Quách Tử Nghi, phong ông làm Phó nguyên soái Quan Nội, chỉ huy hơn 4000 quân tản mát các nơi mới tập hợp về. Tử Nghi dùng kế nghi binh, phô trương thanh thế, khiến quân Thổ Phiên cuối cùng phải rút lui. Quách Tử Nghi thu phục kinh thành Trường An lần thứ 2. Từ đó ông mới được sự tín nhiệm của Đường Đại Tông. Đại Tông xấu hổ thổ lộ sai lầm đã không sớm trọng dụng ông. Năm 764, bộ tướng cũ của Tử Nghi là Bộc Cố Hoài Ân dẫn quân lên phía bắc chiếm cứ Hà Đông chống lại triều đình. Tháng 7 năm đó Quách Tử Nghi được phong làm Tiết độ sứ Sóc Phương đi đánh Hoài Ân. Các thủ hạ của Hoài Ân đều là quân cũ dưới quyền Tử Nghi, nghe tin ông đến bèn bỏ Hoài Ân theo hàng ông. Hoài Ân cô thế, dẫn 300 quân chạy đến Linh Vũ, lôi kéo các bộ lạc Hồi Hột, Thổ Phiên chống nhà Đường. Tổng số quân hai bộ lạc có 10 vạn người, vòng qua Mân Châu tiến sát đến Phụng Thiên. Trước thế mạnh của quân địch, vua Đại Tông lại sai Tử Nghi đi đánh. Quân Hồi Hột và Thổ Phiên nghe uy danh Tử Nghi đều sợ, tự rút lui về. Tháng 9 năm 765, Bộc Cố Hoài Ân lại dẫn quân các bộ tộc Hồi Hột, Thổ Phiên, Đảng Hạng, nói dối họ là Quách Tử Nghi đã qua đời nên cùng nhau vào đánh nhà Đường. Các bộ tộc theo Hoài Ân tập hợp được 30 vạn quân tấn công. Kinh thành Trường An lại bị uy hiếp. Quách Tử Nghi đề nghị Đường Đại Tông điều quân các trấn về giữ, tự mình mang quân ra Kim Dương bảo vệ kinh thành. Vừa đến Kim Dương, Tử Nghi bị 10 vạn quân Thổ Phiên và Hồi Hột đến bao vây. Ông vẫn bình tĩnh điều quân phòng thủ không vội giao tranh, chỉ sai người đi thăm dò tình hình địch. Không lâu sau Tử Nghi phát hiện ra giữa hai bộ tộc Hồi Hột và Thổ Phiên có rạn nứt, vì Bộc Cố Hoài Ân đột nhiên qua đời nên Thổ Phiên muốn đặt quân Hồi Hột dưới quyền thống lĩnh của mình. Chỉ huy quân Hồi Hột là Dược Cát La em Khả Hãn Hoài Nhân, sợ bị quân Thổ Phiên thôn tính nên dẫn quân từ phía bắc đến phía tây thành. Tử Nghi nhân đó sai Lý Quang Toán sang bên quân Hồi Hột thuyết phục, nhắc lại việc hợp tác đánh An Khánh Tự và đề nghị cùng đánh Thổ Phiên. Dược Cát La ngạc nhiên vì Tử Nghi còn sống, đề nghị được gặp ông. Quang Toán về báo lại, Tử Nghi bèn thân hành đi gặp Cát La, dù nhiều người, trong đó có con trai ông là Quách Hy can ngăn là mạo hiểm. Trước sự ngăn cản gay gắt của Quách Hy, Tử Nghi sai người trói Hy lại rồi chỉ mang theo vài tùy tùng sang trại Dược Cát La. Khi ông đến gần doanh trại quân Hồi Hột, Dược Cát La vẫn nghi hoặc, sợ ông có viện binh nên sai quân giương cung cầm giáo. Tử Nghi bèn tự mình bỏ áo giáp, cởi mũ sắt và buông giáo xuống ngựa đi vào. Dược Cát La nhận ra đúng là Tử Nghi, cùng các tù trưởng ra đón, tỏ thái độ rất kính phục. Nghe theo lời dụ của Tử Nghi, Hồi Hột đồng tình trở giáo đánh lại Thổ Phiên. Thổ Phiên nghe tin Hồi Hột ngả theo nhà Đường, bèn nhân lúc đêm tối dẫn quân chạy về phía tây. Quách Tử Nghi bèn sai Bạch Vân Quang mang quân cùng Dược Cát La truy kích. Tự ông lĩnh đại quân tiến sau. Liên quân Đường - Hồi Hột đuổi quân Thổ Phiên đến Xích Sơn Tây Nguyên, Linh Đài, đánh bại quân địch, chém 5 vạn quân, bắt hơn 1 vạn tù binh và hàng vạn súc vật, cứu hơn 4000 thợ thủ công và phụ nữ bị quân Thổ Phiên bắt đi. Các cánh quân bộ tộc khác nghe tin Thổ Phiên bị đánh bại bèn rút lui. Sang năm 767, Thổ Phiên vẫn quấy nhiễu biên giới nhà Đường. Quách Tử Nghi giữ chức Phó nguyên soái, đóng quân ở Hà Trung và Mân Châu, lãnh trách nhiệm phòng thủ khiến quân địch không vào được. Qua đời Năm 767, Ngư Triều Ân đố kỵ Quách Tử Nghi, khi ông cầm quân ở ngoài đã sai kẻ vô lại đi phá mộ cha Tử Nghi. Vua Đại Tông lo lắng Tử Nghi sẽ bất mãn làm phản, nhưng Tử Nghi về triều tâu về trấn an vua Đại Tông, Đại Tông mới yên tâm. Năm 779, Đường Đại Tông chết. Thái tử Lý Quát lên ngôi Hoàng đế, tức Đường Đức Tông. Đức Tông thấy ông tuổi đã cao bèn triệu ông về triều, phong làm Thành Sơn lăng sứ, tước hiệu là Thượng phụ (尚父), chức Thái úy, Trung thư lệnh. Năm đó ông đã 83 tuổi. Năm 781, tức năm Kiến Trung thứ 3 thời Đường Đức Tông, Thượng phụ Quách Tử Nghi qua đời, thọ 85 tuổi. Ông kết thúc sự nghiệp trọn vẹn, mang tước Phần Dương quận vương (汾陽郡王), cả nhà vinh hiển được phong tước vị sang trọng. Gia đình có ngũ đại đồng đường, con trai có nhiều người làm Phò mã, con gái nhiều người lấy hoàng tử, rất quý hiển đương thời. Trong đó Ý An hoàng hậu là cháu gái của ông, con gái của Phò mã Quách Ái, người đã cưới Thăng Bình công chúa - con gái Đường Đại Tông. Ông được người đời sau tôn làm Ông Đa Phúc trong ba ông Phúc Lộc Thọ. Nhận định Quách Tử Nghi nhiều năm chinh chiến, lập được nhiều công lao với nhà Đường nhưng trước sau nhất mực trung thành với triều đình, không tỏ ra kiêu ngạo cậy công. Sau loạn An Sử, nhiều Tiết độ sứ ly khai nhà Đường, nhưng ông được cầm cánh quân lớn vẫn không hai lòng; bị thưởng phạt bất công nhưng không tỏ ý bất mãn. Ông quản lý quân đội rộng lượng, khiến tướng sĩ hết lòng vì mình. Quách Tử Nghi trở thành công thần có được kết cục trọn vẹn ít có trong lịch sử Trung Quốc. Sử sách nhận định về ông như sau: Công trùm trời đất mà chủ không nghi, địa vị vượt muôn người mà không ai đố kỵ Gia đình Thê thiếp: Hoắc Quốc phu nhân Vương thị (霍国夫人王氏), người Vạn Niên, Kinh Triệu, là con gái Đại đô đốc Cổn Châu Vương Thủ Nhất. Ban đầu phong Lang Da huyện quân (琅琊县君), sau thăng Thái Nguyên quận quân (太原郡君) rồi Quốc phu nhân. Lương Quốc phu nhân Lý thị (凉国夫人李氏), người Nhạc Đô, Thiện Châu. Nam Dương phu nhân Trương thị (南阳夫人张氏). Kính Tiết phu nhân Hàn thị (劲节夫人韩氏). Thị thiếp Triệu thị (赵氏). Con trai: đến 6 người là do Vương thị sinh ra. Quách Diệu (郭曜), từng nhậm Khai Dương phủ Quả Nghị đô úy, cùng Quách Tử Nghi bình định loạn An Sử, nhậm Vệ úy khanh, Thái tử Chiêm sự, Thái tử Thiếu bảo, tước Thái Nguyên Quận công (太原郡公), sau tập phong tước Đại Quốc công (代国公) của cha. Mất năm Kiến Trung thứ 4 (783) thời Đường Đức Tông, thụy hiệu Hiếu (孝). Quách Phong (郭锋) Quách Cán (郭旰), chết trong loạn An Sử. Quách Hi (郭晞), cùng Quách Tử Nghi thu phục lưỡng kinh, công lao to nên nhậm Hồng Lư khanh, Điện trung giám, Kiểm giáo Công bộ Thượng thư kiêm Thái tử Tân khách, tước Triệu quốc công (赵国公). Mất năm Trinh Nguyên thứ 10 (794) đời Đường Đức Tông, tặng Thượng thư Binh bộ. Quách Cương (郭钢), nhậm Sóc phương Tiết độ sứ, phụ tá của Đỗ Hi Toàn (杜希全) Quách Quân (郭钧). Quách Phách (郭昢), không có truyện. Quách Ái (郭曖), cưới Thăng Bình công chúa, con gái của Đường Đại Tông. Từng nhậm Điện trung giám, Kiểm giáo Tản tá kị Thường thị, Thái thường khanh, tước Quảng Dương Huyện nam (广阳县男), sau cải thành Thanh Nguyên Huyện hầu (清源县侯), rồi tập phong Đại quốc công (代国公) tước vị. Mất năm Trinh Nguyên thứ 16 (800), tặng Thượng thư Tả phó xạ, sau thăng Thái phó. Ông là cha của Ý An hoàng hậu Quách thị, chính thê của Đường Hiến Tông. Quách Chú (郭铸), tập phong Đại Quốc công (代国公). Quách Chiêu (郭钊), nhậm Tả kim ngô Đại tướng quân, Kiểm giáo Công bộ Thượng thư, Mân Ninh Tiết độ sứ, Tư nông khanh, Hà Dương tam thành Tiết độ sứ, Hà Trung doãn, Binh bộ Thượng thư. Quách Tung (郭鏦), cưới con gái Đường Thuận Tông, Hán Dương Công chúa, nhậm Kiểm giáo Quốc tử Tế tửu, Hữu kim ngô Tướng quân, Thái tử Chiêm sự, Nhàn cứu Cung uyển sứ, phong Thái Nguyên Quận công (太原郡公), truy tặng Thượng thư Tả phó xạ. Quách Tiêm (郭銛), cưới con gái Đường Thuận Tông, Tây Hà Công chúa, nhậm Điện trung giám, Thái tử Chiêm sự, Nhàn cứu Cung uyển sứ. Quách Ngộ (郭晤), không có truyện. Quách Thự (郭曙), nhậm Tư Nông thiếu khanh, sau có công dẹp Chu Thử nên phong Tả Kim ngô vệ Đại tướng quân, tước Kỳ quốc công (祁国公). Quách Ánh (郭映), làm chức Thái tử Tả dụ đức. Con gái: Trưởng nữ, lấy Thành Đô huyện lệnh Lư Nhượng Kim (卢让金). Nhị nữ, lấy Ngạc Châu quan sát sứ Ngô Trọng Phụ (吴仲孺). Tam nữ, lấy Vệ úy khanh Trương Tuấn (张浚). Tứ nữ, lấy Điện trung thiếu giám Lý Đổng Thanh (李洞清). Ngũ nữ, lấy Tư môn Lang trung Trịnh Hồn (郑浑). Lục nữ, lấy Phần Châu biệt giá Trương Ung (张邕). Thất nữ, lấy Hòa Châu thứ sử Triệu Túng (赵纵). Bát nữ, lấy Thái thường tự thừa Vương Tể (王宰).
Lý Liên Kiệt (sinh ngày 26 tháng 4 năm 1963) là một nam diễn viên võ thuật nổi tiếng người Trung Quốc, ngoài ra ông còn là nhà sản xuất, nhà hoạt động từ thiện. Cho đến nay ông được mọi người biết đến qua hai vai diễn chính cùng tên trong hai bộ phim Hoàng Phi Hồng và Hoắc Nguyên Giáp, các vai diễn trong phim Anh hùng, Long môn phi giáp, Đầu danh trạng, Truyền thuyết Bạch Xà và gần đây là Hoa Mộc Lan. Vào năm 2017, Lý Liên Kiệt đã giới thiệu tới công chúng môn võ Công Thủ Đạo với tư cách là người sáng lập dựa trên nền tảng của Thái cực quyền. Tiểu sử Lý Liên Kiệt tập wushu từ 8 tuổi với võ sư Ngô Bân, cùng một sư phụ với Chân Tử Đan, ông đã sớm bộc lộ năng khiếu và tư chất để trở thành một cao thủ. Thuở nhỏ, giống như đàn anh Lý Tiểu Long, Lý Liên Kiệt không có một thể trạng tốt cho việc học võ. Ông yếu đuối, lại sống trong một gia đình có quá nhiều áp lực, nên nhiều lần đã định bỏ cuộc. Nhưng được sư phụ động viên, ông đã vượt qua được. Năm 1974, Lý Liên Kiệt mới 11 tuổi, đã trở thành nhà vô địch giải Wushu trẻ toàn Trung Quốc. Mọi người gọi ông là "thần đồng võ thuật". Lúc này Lý Liên Kiệt đã nhận được nhiều lời mời đóng phim và quảng cáo, nhưng nghĩ mình chưa đạt tới trình độ siêu đẳng, ông trở về với sư phụ Hồ Bình. Tên tuổi của ông được nhiều người trên thế giới biết đến sau khi biểu diễn cho Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon xem tại Nhà Trắng năm 1974. Nhiều năm sau, Lý Liên Kiệt liên tục giật giải quán quân trong các kỳ thi võ thuật, với màn múa thương và kiếm rất đẹp mắt (1975, 1977, 1978). Đến năm 1979, ông đoạt giải thành tựu Vàng của Tổng hội võ thuật Trung Quốc khi mới 16 tuổi. 3 năm sau, Lý Liên Kiệt tham gia bộ phim điện ảnh đầu tiên: Thiếu Lâm tự, bộ phim làm ngất ngây khán giả hâm mộ phim võ thuật, đưa tên tuổi của ông vào hàng ngôi sao mới của điện ảnh Trung Quốc, bắt đầu có ảnh hưởng đến khán giả ở Đông Nam Á, Nhật và Mỹ. Ông tiếp tục đóng các phim về Thiếu Lâm và gây được tiếng vang rất lớn. Nghiệp diễn Lý Liên Kiệt được yêu thích không phải nhờ khả năng diễn xuất mà là các thế võ đẹp, lạ, mạnh mẽ đúng chất Thiếu Lâm của ông. Năm 1982 đánh dấu bước ngoặt đối với chàng trai họ Lý, vai diễn trong loạt ba bộ phim Thiếu Lâm Tự đã gây được tiếng vang lớn và tạo bước đệm đầu tiên trên con đường khẳng định tên tuổi trong lĩnh vực điện ảnh của Lý Liên Kiệt. Năm 1991, với bộ phim Hoàng Phi Hồng kinh điển, Lý Liên Kiệt đã đưa tên tuổi của mình đến được Hollywood, khán giả Đông Nam Á thì đâu đâu cũng nhắc đến Hoàng Phi Hồng, Dì mười ba, Quỷ Cước Thất là các nhân vật trong phim này. Phần thành công của phim cũng nhờ sự đạo diễn tài tình của Từ Khắc và Viên Hòa Bình. Tiếp đến là hàng loạt các phim kinh điển: Phương Thế Ngọc, Hoàng Phi Hồng 2 & 3... đã đưa ông đến đỉnh cao vinh quang, trước hết là một hình tượng anh hùng trong lòng người châu Á, sau đó là thế giới. Nhưng Lý Liên Kiệt không ham danh vọng, ông đã dừng đóng phim một thời gian, có người thắc mắc thì ông nói: "Tôi từ nhỏ đã khổ cực, mục đích sống của tôi chỉ là thoát khỏi khổ cực, chứ danh tiếng thì không đem lại hương vị gì". Một thời gian sau người ta nghe Lý có chuyện cãi vã về vấn đề tiền bạc với một đạo diễn, và dính líu tới Hội Tam Hoàng Thượng Hải. Hiểu rằng ông đang khó khăn, nhiều đạo diễn có ý mời,Lý Liên Kiệt đã chọn đạo diễn Vương Tinh. Các phim ông đóng lúc này khá "khác" với hình tượng, những vai xã hội đen rùng rợn và hài hước nhiều hơn, ít khi đánh đấm, lại đi bên cạnh là một mỹ nhân hết sức gợi cảm như kiểu Mỹ: Cận vệ Trung Nam Hải với Chung Lệ Đề và Thử Đảm Uy Long với Khâu Thục Trinh... Cho đến khi Viên Hòa Bình, nhà chỉ đạo võ thuật nổi tiếng nhất bấy giờ mời ông đóng bộ Tinh Võ anh hùng - một phim về Trần Chân, mà nhiều diễn viên võ thuật đã rất thành công như Lý Tiểu Long với Tinh Võ Môn (1972), Chân Tử Đan với loạt phim truyền hình Tinh Võ Môn (1995). Và Lý Liên Kiệt đã làm dậy lại được hình tượng này - cũng như hình tượng anh hùng võ thuật cổ truyền của mình. Tên tuổi của ông lại được tung hô, Lý Liên Kiệt hoạt động rầm rộ hơn trước. Ông hợp tác với nhiều diễn viên nổi tiếng, như Trương Học Hữu, Khâu Thục Trinh, Châu Tinh Trì, Trương Mạn Ngọc... Đến năm 2001, đạo diễn Trương Nghệ Mưu lần đầu tiên làm phim võ hiệp: Anh Hùng, Lý Liên Kiệt đóng vai chính. Đây là lần thứ hai Lý Liên Kiệt với lối võ đẹp mắt đối đầu với Chân Tử Đan - lối võ mạnh mẽ. Cả hai lại bất phân thắng bại: vai Vô Danh của Lý Liên Kiệt chiến thắng, nhưng sự thật là vai Trường Không của Chân Tử Đan giả thua. Người hâm mộ vẫn luôn chờ đợi lần hợp tác thứ ba của hai võ sư nổi danh này. Cuộc đối đầu của họ trong Hoàng Phi Hồng 2 và cuộc đối đầu trong tư tưởng, âm nhạc tại Ngự Viên trong phim Anh Hùng đã đem lại sự mầu nhiệm, hai nhà đạo diễn tài ba Từ Khắc và Trương Nghệ Mưu không ngớt lời khen 2 pha võ này. Trong phim Anh Hùng, bên cạnh Chân Tử Đan, còn có Lương Triều Vĩ, Trương Mạn Ngọc, Chương Tử Di, Trần Đạo Minh là những diễn viên "chuyên trị" diễn xuất nội tâm. Nên nhiều người đánh giá diễn xuất của Lý là lép vế, tuy nhiên thành công về nghệ thuật của phim là một điều không ai mơ hồ chối cãi được. Anh Hùng có thể là bộ phim đẹp nhất đời của Lý Liên Kiệt. Ông đến Hollywood sau Lý Tiểu Long, Thành Long, cùng một lúc với Dương Tử Quỳnh, trước Chân Tử Đan, một điều không nhiều người mong muốn - là bị đồng hóa theo phim Mỹ - đã trở thành sự thật. Nhưng dù sao khi xem lại Hoàng Phi Hồng, Phương Thế Ngọc, Tiếu ngạo giang hồ hay Tinh Võ anh hùng người ta đã có thể quên đi Cradle 2 The Grave, The One, Danny the dog... mà không trách sự Tây hóa trong phim Lý Liên Kiệt. Năm 2006, phim võ thuật Hoắc Nguyên Giáp được công chiếu trên toàn thế giới, được xem như bộ phim võ thuật cuối cùng của Lý Liên Kiệt. Trong Hoắc Nguyên Giáp, Lý Liên Kiệt thủ vai chính Hoắc Nguyên Giáp, một nhân vật có thật trong lịch sử đã lập ra Tinh Võ Môn, từng đánh bại những võ sĩ ngoại quốc và Nhật Bản trên võ đài, lấy lại uy danh cho người Trung Quốc trong một thời kì xã hội phong kiến đang lụi tàn dần. Trước kia, trong phim Tinh Võ anh hùng, Lý Liên Kiệt đã từng thủ vai Trần Chân - một trong những đệ tử nổi tiếng nhất của Hoắc Nguyên Giáp. Hoắc Nguyên Giáp được công chiếu vào 26 tháng 1 năm 2006 tại Hồng Kông, tiếp theo đó vào 22 tháng 12 năm 2006 tiến ra các rạp của Hoa Kỳ và ngay lập tức leo lên đứng vị trí số 2 top phim ăn khách nhất trong tuần công chiếu đầu tiên. "I stepped into the martial arts movie market when I was only 16. I think I have proved my ability in this field and it won't make sense for me to continue for another five or 10 years. Huo Yuanjia is a conclusion to my life as a martial arts star." Tạm dịch: Tôi bước vào thị trường phim võ thuật này từ khi mới 16 tuổi. Cho tới giờ tôi nghĩ mình đã chứng tỏ đủ khả năng trên lĩnh vực này và chẳng còn chút gì hứng khởi cho tôi tiếp tục chặng đường này trong năm hay mười năm sắp tới nữa. Hoắc Nguyên Giáp là cái kết của cuộc đời tôi với tư cách là một ngôi sao võ thuật. Bộ phim Hollywood năm 2007 của Lý Liên Kiệt, Cuộc chiến khốc liệt (tựa đề tiếng Anh: War), được công chiếu vào tháng 8 năm đó chính là sự tái ngộ của ông với nam diễn viên Jason Statham, trước kia từng đóng cặp với ông trong The One. Đáng tiếc War chỉ thu được 23 triệu đô trên màn ảnh, trở thành một trong những phim có doanh thu thấp nhất của Lý tại thị trường Hoa Kỳ. Tuy nhiên phim lại tạo ra một cú hit trong lĩnh vực video, thu được gần 52 triệu đô la tổng tiền thuê, tức là gấp đôi so với khi công chiếu trên màn ảnh. Ngoại trừ Romeo phải chết và Anh Hùng, những bộ phim của Lý Liên Kiệt thường chỉ đạt những thành công khiêm tốn tại Hoa Kỳ như Nụ hôn của rồng, The One, Unleashed, Cradle 2 the Grave, và cả phim Hoắc Nguyên Giáp. Cuối năm 2007, Lý Liên Kiệt trở lại Trung Quốc tham gia một bộ phim chiến tranh do Hồng Kông - Trung Quốc hợp tác sản xuất Đầu danh Trạng cùng Lưu Đức Hoa và Kim Thành Vũ. Bộ phim đã thành công vang dội về mặt doanh thu và đưa ông lên bục nhận giải nam diễn viên chính xuất sắc nhất của lễ trao giải phim Hồng Kông (Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông). Lý Liên Kiệt và đàn anh của mình - diễn viên hài võ thuật Thành Long lần đầu cùng góp mặt trên màn ảnh qua bộ phim Vua Kung Fu; phim được khởi quay từ tháng 7 năm 2007 và lần đầu công chiếu vào 18 tháng 4 năm 2008 đã gặt hái thành công lớn về doanh thu. Phim dựa trên truyền thuyết về Tề Thiên đại thánh Tôn Ngộ Không từ một trong tứ đại danh tác của Trung Quốc - Tây du ký. Ngoài ra Lý Liên Kiệt còn tham gia đóng vai phản diện Tần Thủy Hoàng trong bộ phim hành động giả tưởng Xác ướp 3: Lăng mộ Tần Vương cùng nam diễn viên Brendan Fraser và Dương Tử Quỳnh, cùng một vai nhỏ trong bộ phim Kiến quốc đại nghiệp. Năm 2010, lần đầu tiên Lý Liên Kiệt thử sức với thể loại tâm lý với bộ phim Hải dương thiên đường. Bộ phim được xây dựng dựa trên một câu chuyện có thật, kể về một người đàn ông sắp chết (Lý Liên Kiệt đóng) đã kiên cường giúp cậu con trai mắc chứng tự kỷ chiến đấu chống lại bệnh tật. Đây là bộ phim đầu tiên không thuộc thể loại hành động trong suốt 25 năm sự nghiệp điện ảnh của ông, Lý Liên Kiệt cho biết ông đã hoàn toàn bị kịch bản phim thu hút bởi tính nhân văn và những bài học sâu sắc mà bộ phim chuyển tải. Lý Liên Kiệt ra mắt hai bộ phim võ thuật trong năm 2011 là Truyền thuyết Bạch Xà cùng với Tân Long Môn khách sạn do Từ Khắc làm đạo diễn, làm lại từ bộ phim cùng tên do chính ông đóng vai trò sản xuất năm 1992. Lý Liên Kiệt trở lại diễn xuất ở Hollywood trong bộ phim The Expendables (tựa đề tiếng Việt: Biệt đội đánh thuê), một bộ phim hành động quy tụ một dàn diễn viên nổi tiếng, gồm những siêu sao hành động như Sylvester Stallone, Jason Statham, Dolph Lundgren, Steve Austin, Terry Crews, Mickey Rourke... ngôi sao của Die Hard - Bruce Willis và thống đốc bang California - "Kẻ hủy diệt" Arnold Schwarzenegger cũng góp một vai nhỏ trong phim. Sau đó Lý tiếp tục tham gia vào phần 2 và 3 của phim vào năm 2012 và 2014. Hai năm trở lại đây, sự nghiệp diễn xuất của Lý Liên Kiệt gặp trục trặc vì phải đối mặt với căn bệnh cường tuyến giáp. Sức khoẻ nam diễn viên đã giảm sút nghiêm trọng, Lý Liên Kiệt có thể không thể nhận vai diễn vì bệnh tật bắt buộc ông không được vận động mạnh.  "Tôi không phải Hoắc Nguyên Giáp, không phải Hoàng Phi Hồng, càng không phải anh hùng, tôi cũng như các bạn, chỉ là một người bình thường, cũng phải đối mặt với nỗi lo rằng một ngày nào đó không thể tiếp tục công việc được nữa" - nam diễn viên chia sẻ trong một buổi gặp gỡ báo chí gần đây. Lý Liên Kiệt ban đầu đã được xác định để cùng xuất hiện với Vin Diesel trong bộ phim xXx: The Return of Xander Cage. Tuy nhiên đến phút chót ông lại phải rời dự án do gặp vấn đề về sức khỏe và vai diễn sau đó đã được thay thế bởi Chân Tử Đan. Vai diễn mới nhất của Lý Liên Kiệt là vai Khương Tử Nha trong phim Phong Thần Bảng ra mắt vào tháng 7 năm 2016. Một năm sau, ông ấy quay về Mỹ để đóng vai một bộ phim hành động mới cùng với một số diễn viên. "Xoay quanh bộ phim này có một số điều chỉnh cụ thể từ các pha hành động theo dạng tự do của các nhân vật phụ theo khuynh hướng trực diện" (Bộ phim "Cha tôi là anh hùng"). Dựa theo các loại mô phỏng bằng vật dụng tự chế, ông được xem là nhân vật chính hay nhất trong bộ phim. Năm 2018 Lý Liên Kiệt đã trở lại màn ảnh với vai diễn mới trong dự án phim “Hoa Mộc Lan” (Mulan) do Disney đầu tư chính sản xuất. Đây là lần tái ngộ tiếp theo trên màn ảnh giữa Lý Liên Kiệt và Chân Tử Đan. Sáng lập Công Thủ Đạo Tối ngày 15 tháng 11 năm 2017, buổi giới thiệu Công thủ đạo tổ chức tại Bắc Kinh với sự có mặt của Jack Ma, Lý Liên Kiệt, Ngô Kinh, Văn Chương, Phó chủ tịch Liên hiệp võ thuật quốc tế Ngô Đình Quý, Phó chủ tịch võ thuật Trung Quốc Ngô Bân. Lý Liên Kiệt và Jack Ma mang đến buổi quảng bá và giới thệu Công thủ đạo tốn kém với hiệu ứng kỹ xảo cầu kỳ. Phim với sự tham gia hợp tác của 11 ngôi sao võ thuật hàng đầu hiện thu hút hơn 150 triệu lượt người xem trên Youku.m này so với những người khác. “Công thủ đạo không chỉ là một bộ phim, đây còn là trận đấu lớn. Câu chuyện lấy cảm hứng từ võ thuật truyền thống, tạo ra thế võ mới” - Lý Liên Kiệt chia sẻ. Theo Nhân dân Nhật báo, với tuyên bố từ Lý Liên Kiệt, ngày 15 tháng 11 đã chính thức khép lại câu chuyện về vở kịch mang tên “siêu phẩm màn ảnh Công thủ đạo”, đánh dấu sự ra đời của môn võ Công thủ đạo. Gia đình Lý Liên Kiệt hiện đang theo đuổi tư tưởng Phật giáo Tây Tạng của thiền sư Lho Kunsang dòng Drikung Kagyu tại tu viện thuộc Ca-nhĩ-cư phái. Năm 1987, Lý Liên Kiệt lấy Hoàng Thu Yến (Huang Qiuyan-黄秋燕), đồng diễn viên phim "Thiếu Lâm Tự 2: Thiếu Lâm tiểu tử", thành viên đội tuyển Wushu Bắc Kinh và có với bà hai con gái; họ chia tay năm 1990. Năm 1999, Lý Liên Kiệt tái hôn với Lợi Trí (利智), nữ diễn viên Hồng Kông gốc Thượng Hải. Họ có với nhau hai con gái: Jane (sinh năm 2000) và Jada (sinh năm 2002). Năm 2004, khi cơn sóng thần Á châu nổi lên càn quét thì Lý Liên Kiệt đang ở Maldives và chỉ bị thương nhẹ bởi một mảnh gỗ thuyền trong khi đang bảo vệ con gái 4 tuổi Jane, mặc dù có những lời đồn rằng ông đã bị thiệt mạng. Khi đó, hai bố con đang bơi trong một bể bơi gần bờ biển thì cơn sóng ập tới. Năm 2009, Lý Liên Kiệt - lúc đó đã chính thức nhập quốc tịch Hoa Kỳ sau một thời gian dài hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật thứ bảy tại đây; quyết định nhập tịch Singapore. Ngày 28 tháng 7 năm 2009, chủ tịch Quỹ tài trợ Hiệp hội Chữ thập đỏ Trung Quốc 壹基金 (một quỹ từ thiện của Lý) tuyên bố rằng Lý chính thức là công dân Singapore; mục đích của Lý vì sự nghiệp giáo dục của hai cô con gái. Lý là người gia nhập quốc tịch Singapore tiếp theo tấm gương của nữ minh tinh Hoa ngữ Củng Lợi. Danh sách phim Các giải thưởng Ảnh đế 27 năm 2008 trong phim "Đầu danh trạng".
Thái uý (chữ Hán: 太尉, hay thái úy) là một chức quan võ cao cấp trong quân đội một số triều đại phong kiến của Trung Quốc và Việt Nam. Lịch sử Chức vị này vốn có nguồn gốc từ thời nhà Tần, đứng sau chức Đại lương tạo. Thời Tần và tiền Hán, chức Thái úy là một trong tam công và đứng đầu các võ quan, bên cạnh Thừa tướng và Ngự sử đại phu (御史大夫). Theo Sử ký và Hán thư, khác với chức Thừa tướng, Thái úy không phải là chức quan lúc nào cũng được đặt ra. Tuy nhiên từ thời Hán Vũ Đế do chiến tranh liên miên với quân Hung nô, Thái úy trở thành một chức quan thường xuyên, và được đổi thành Đại tư mã. Chức này gia tặng thêm Đại tướng quân hoặc Phiêu Kị tướng quân. Sang thời Đông Hán, chức này lại tiếp tục cải lại, trở thành một chức riêng biệt và cụ thể, cùng với Tư không và Tư đồ gọi là Tam công. Chức này đến trước thời nhà Minh thì bị bãi bỏ. Thời Tây Hán, hai cha con Chu Bột (có công trấn áp loạn Lã hậu) và Chu Á Phu (có công trấn áp loạn 7 nước Ngô Sở) đều làm đến Thái úy. Thời Tam quốc, Tư Mã Ý Tào Ngụy giữ chức thái úy khi đem quân chinh phạt Công Tôn Uyên ở Liêu Đông. Ở Việt Nam, chức quan này được lần đầu tiên đặt ra từ thời Tiền Lê, Lê Hoàn phong cho Phạm Cự Lạng chức vị Thái úy vì có công lao to lớn trong việc giúp Hoàng đế lên ngôi. Thời nhà Lý, triều đình đặt thêm Phụ quốc Thái úy, tương đương Tể tướng để giúp đỡ các Hoàng đế, đặc biệt là Lý Thường Kiệt khi giúp đỡ Lý Nhân Tông, Đỗ Anh Vũ khi giúp đỡ Lý Anh Tông và Tô Hiến Thành khi giúp đỡ Lý Cao Tông. Sang thời nhà Trần, Thái úy là chức gia thêm cho các thân vương trong tôn thất. Thời Hậu Lê, đời Lê Thánh Tông, năm Hồng Đức thứ 2 (1471), phẩm trật của Thái úy là Chánh nhất phẩm, có Nguyễn Xí, Trịnh Khả là những Thái úy tiếng tăm nhất. Từ năm 1578, đời Lê Thế Tông, Thái úy chỉ là chức gia thêm cho võ tướng và thân thần. Sang thời nhà Nguyễn, chức vị này bị bãi bỏ hoàn toàn.
Mạc Hiển Tích (chữ Hán: 莫顯績 1060—1189) là người đỗ đầu tại khoa thi năm Quảng Hựu thứ 2 (Bính Dần, 1086) thời vua Lý Nhân Tông. Quê ông ở làng Lũng Động, huyện Chí Linh (nay thuộc xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Sau khi thi đỗ ông được bổ làm Hàn lâm học sĩ rồi thăng lên đến Thượng thư. Lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi là cháu 5 đời của ông. Nghi vấn Đại Việt sử lược chép rằng: Năm Kỷ Dậu [năm 1189 - ND] là năm Thiên Tư Gia Thụy thứ 4... Nhà vua sai Thái phó là Ngô Lý Tín, Đô quan lang trung là Lê Năng Trường xét xử về cái vụ tranh tụng quan Thiếu sư là Mạc Hiển Tích. Bọn Lê Năng Trường sợ Mạc Hiển Tích nên không dám tìm tòi tra xét. Người trong nước cười giễu rằng: Ngô phụ quốc là Lan, Lê đô quan là Kích. Xét xử một vụ kiện tụng Mạc Hiển Tích mà chỉ bàn loanh quanh rồi thôi. Lúc bấy giờ vua thì còn nhỏ tuổi, Mạc Hiển Tích lại tư thông với bà Thái hậu. Cho nên đương thời bấy giờ người ta sợ Hiển Tích là như vậy. Lan, Kích là tên hai người cuồng... Điều này xem ra đáng ngờ do ông đỗ thủ khoa năm 1086 theo như Đại Việt Sử ký Toàn thư đã chép. Nếu ông đỗ khi khoảng 20 tuổi thì từ 1086 tới 1189 đã trên 103 năm, nghĩa là ông phải cỡ 120 tuổi, khó có thể còn cường tráng để tư thông với Thái hậu. Chú thích
Đây là bảng so sánh các trang web cung cấp tệp torrent cho các chương trình BitTorrent sử dụng để tải tệp theo giao thức đồng đẳng. Bảng so sánh này bao gồm cả máy chủ theo dõi, chỉ mục và cơ chế tìm kiếm. Chú ý: Một số trang đòi hỏi phải đăng ký, nếu cơ sở dữ liệu thành viên của nó quá số người dụng hạn định các trang web sẽ không cho đăng ký.
Lễ hội lăn phomat (Cheese rolling festival) là một trong những lễ hội “điên khùng” nhất thế giới và khiến bất kì ai tham dự cũng không thể quên. Lễ hội có từ thế kỉ 15 và diễn ra thường niên ở đồi Cooper (Anh) vào dịp Bank Holiday mùa xuân (thứ hai cuối cùng của tháng 5). Hình thức lễ hội là biến tấu từ nghi thức thả cho các vật lăn xuống từ đỉnh đồi như bụi cây đang cháy, bánh kẹo để chào đón năm mới và cầu cho mùa màng tốt tươi từ xa xưa. Cách thức chơi rất đơn giản. Một tảng phô mai Gloucester (một loại phô mai cứng có hình dạng như bánh xe, nặng khoảng 3–4 kg) được bọc trong vỏ gỗ, trang trí bằng ruy băng tròn khổng lồ được thả lăn xuống chân đồi dốc, người chơi đuổi theo được miếng phô mai sẽ là người thắng cuộc. Tưởng chừng như dễ ăn, nhưng bạn có biết vận tốc của miếng phô mai có thể đạt đến 112 km/h không? Vì thế để giành chiến thắng, bạn sẽ phải chạy thục mạng cùng với nhiều người khác từ trên một ngọn đồi rất dốc để nhặt được nó. Theo quy định của sự kiện này, có khoảng 20 người tham gia. Để đảm bảo an toàn cho người chơi, nhiều năm nay BTC đã thay thế miếng phô mai bằng miếng bọt biển để làm giảm tốc độ lăn. Dù bị trượt ngã, lăn dài trên các vũng bùn đất khi mãi chạy theo những miếng phô mai này, nhưng những người tham gia vẫn rất hào hứng. Giải thưởng cho người thắng cuộc là miếng phô mai nặng 3–4 kg. Lễ hội nổi tiếng với những âm thanh náo động, những tiếng hút sáo và cả những tai nạn nhỏ do chạy quá nhanh từ đỉnh đồi dốc 200 mét. Nhiều lần, cảnh sát khu vực đã cảnh cáo ban tổ chức lễ hội vì sự ồn ào do những người tham gia gây ra nhưng bất thành, lễ hội vẫn được tổ chức đều đặn hàng năm. Bên cạnh sự nguy hiểm đến từ vụ va chạm, những người tham gia cũng khó tránh khỏi các tai nạn chí mạng khác khi lăn từ trên dốc xuống như gãy xương, trật đốt sống cổ, … Cảnh sát ở Anh đã từng muốn cấm việc tổ chức sự kiện này song những người tham gia đã từ chối và tiếp tục tổ chức nó vào ngày 28 tháng 5 thường niên. Mặc dù do phải lăn lộn theo, nhiều người bị thương nhưng hầu hết mọi người đều cảm thấy vui vẻ.
Hollywood là một khu của thành phố Los Angeles, California, Hoa Kỳ, nằm về phía tây bắc của thành phố này. Được biết đến như một trung tâm lịch sử điện ảnh, Hollywood đại diện cho ngành giải trí và điện ảnh của Hoa Kỳ. Ngày nay, những ngành phục vụ cho công nghiệp điện ảnh của nước này cũng được mở rộng ra những vùng lân cận như Burbank và Westside, nhưng những ngành quan trọng như biên tập, kỹ xảo, hậu sản xuất và ánh sáng trong phim ảnh vẫn được duy trì tại Hollywood. Lịch sử Trong thập niên 1880, Henderson Wilcox, một người Mỹ ở Kansas bị liệt hai chân do một cơn sốt thương hàn, đã cùng với vợ mình là bà Daeida quyết định chuyển nhà từ Topeka đến Los Angeles. Vào năm 1886, Wilcox mua 0,6 km² đất ở vùng nông thôn phía tây thành phố trên dãy núi Passe de Cahuenga. Chính Daeida Wilcox là người đã chọn tên cho vùng đất mà họ sở hữu, Hollywood. Cái tên mà bà tham khảo từ một vùng đất của những người di dân Đức mà bà từng có dịp đến thăm ở Ohio trong chuyến đi xuyên miền Đông. Cách phát âm của cái tên làm bà hài lòng và bà còn gọi đó là the ranch. Một thời gian sau, Harvey Wilcox bắt tay vào vẽ bản đồ của thành phố và nhận được sự phê chuẩn của chính quyền vào ngày 1 tháng 2 năm 1887. Đây cũng là lần đầu tiên cái tên Hollywood xuất hiện một cách chính thức. Cùng với vợ mình cũng là người cố vấn, Harvey Wilcox đã vẽ nên Prospect Avenue (ngày nay là Hollywood Boulevard) như con đường chính của thành phố. Và cũng bắt đầu tiến hành bán đất theo lô. Cũng trong thời gian này Daeida đã cho lấp các vực nước sâu trong thành phố để xây dựng hai nhà thờ, một trường học và một thư viện. Những người nhà Wilcox cũng đã mang đến một số cây nhựa ruồi Anh (English holly) để trồng nhằm tạo sự hợp lý cho tên của thành phố nhưng do khác biệt khí hậu mà giống cây này đã không thể nào sống được và dự án này đành bở dở. Vào năm 1900, Hollywood đã có thêm một bưu điện, tờ báo của riêng mình, một khách sạn và hai chợ nhằm phục vụ cho một cộng đồng gần 500 người. Los Angeles, trong thời gian này có dân số khoảng 100.000 người nằm cách Hollywood 11 km về phía Đông. Và hai thành phố này bị chia cắt bởi những cultures d'agrumes. Chỉ có một đường tàu điện duy nhất đi từ Prospect Avenue đến Los Angeles nhưng sự phục vụ lại không ổn định và kéo dài đến 2 tiếng đồng hồ. Chính tình hình này dẫn đến nhiều sự chuyển đổi theo hướng tốt đẹp hơn về sau. Năm 1902, chứng kiến sự ra đời của khách sạn nổi tiếng Hollywood Hotel ở cạnh phía Tây Highland Avenue và đối diện Prospect Avenue. Con đường này vào lúc này rất dơ bẩn và không có cả gạch lát nhưng về sau đã cải thiện để xe cộ có thể di chuyển được. Vào những năm tiếp theo dân số thành phố ngày càng đông hơn. Vào năm 1904, cùng với sự xuất hiện của đường tàu điện mới đã cải thiện đáng kể thời gian di chuyển từ Los Angeles đến Hollywood. Và cũng chính trong lúc này cái tên the Hollywood Boulevard đã xuất hiện và nhanh chóng trở thành phổ biến để chỉ Prospect Avenue và đoạn nối liền ở Los Angeles. Và vào năm 1910, các uỷ viên của hội đồng thành phố đã bỏ phiếu cho việc sáp nhập Hollywood vào Los Angeles với mục đích chính là có thể tận dụng sự tiếp tế nước sạch cho thành phố. Chính việc này dẫn đến việc hình thành hệ thống dẫn nước Los Angeles. Và một trong những nguyên nhân khác của việc bỏ phiếu là để tiến tới tiếp xúc với hệ thống cống ngầm của Los Angeles. Chính việc sáp nhập này đã làm Prospect Avenue được đổi tên thành Hollywood Boulevard và hàng loạt nhà cũng phải thay đổi số theo.
Sơn Dương là một huyện miền núi thuộc tỉnh Tuyên Quang, Việt Nam. Địa lý Huyện Sơn Dương nằm ở phía nam của tỉnh Tuyên Quang, huyện lỵ của huyện là thị trấn Sơn Dương, nằm cách thành phố Tuyên Quang khoảng 30 km về phía nam, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 103 km về phía bắc, có vị trí địa lý: Phía đông giáp huyện Đại Từ và huyện Định Hóa thuộc tỉnh Thái Nguyên Phía tây giáp huyện Đoan Hùng và huyện Phù Ninh thuộc tỉnh Phú Thọ Phía nam giáp huyện Lập Thạch, huyện Sông Lô và huyện Tam Đảo thuộc tỉnh Vĩnh Phúc Phía bắc giáp thành phố Tuyên Quang và huyện Yên Sơn. Huyện Sơn Dương diện tích 790,62 km², dân số là 182.030 người. Điểm cao nhất của huyện Sơn Dương là núi Lịch với độ cao gần 1km. Hành chính Huyện Sơn Dương có 31 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Sơn Dương (huyện lỵ) và 30 xã: Bình Yên, Cấp Tiến, Chi Thiết, Đại Phú, Đông Lợi, Đồng Quý, Đông Thọ, Hào Phú, Hồng Lạc, Hợp Hòa, Hợp Thành, Kháng Nhật, Lương Thiện, Minh Thanh, Ninh Lai, Phú Lương, Phúc Ứng, Quyết Thắng, Sơn Nam, Tam Đa, Tân Thanh, Tân Trào, Thiện Kế, Thương Ấm, Trung Yên, Trường Sinh, Tú Thịnh, Văn Phú, Vân Sơn, Vĩnh Lợi. Lịch sử Trải qua các thời kỳ lịch sử, huyện Sơn Dương có nhiều thay đổi về địa giới, hành chính. Khi nhà nước Văn Lang ra đời, Sơn Dương thuộc bộ Văn Lang. Dưới chế độ Bắc thuộc, Sơn Dương trực thuộc các phủ, quận do thống trị phương Bắc lập ra. Huyện Sơn Dương ngày nay được sáp nhập từ hai huyện: Để Giang và Đăng Đạo. Cả hai huyện từ thời Lý - Trần - Lê Sơ đến trước năm 1833, thuộc phủ Đoan Hùng, trấn Sơn Tây. Huyện Sơn Dương, đời Trần gọi là huyện Đáy Giang thuộc lộ Quốc Oai. Thời thuộc Minh gọi là huyện Để Giang (để là đáy, giang là sông). Đến thời Lê, năm Quang Thuận thứ 10 (1469) sáp nhập vào phủ Đoan Hùng, trấn Sơn Tây. Đến thời Lê Trung Hưng đổi tên thành huyện Sơn Dương, bao gồm có 9 tổng: Ất Sơn, Yên Lịch, Lương Viên, Đồng Chương, Linh Xuyên, Mẫn Hóa, Hội Kế, Hữu Vu, Gia Mông (Từ xã Tuân Lộ ngày nay đến hết các xã hạ huyện Sơn Dương). Huyện Đăng Đạo thời thuộc Minh là huyện Đương Đạo, phủ Tuyên Hóa. Năm Quang Thuận thứ 10 (1469) nhập vào phủ Đoan Hùng. Năm Minh Mệnh thứ nhất (1820) đổi tên thành huyện Đăng Đạo, phủ Đoan Hùng, trấn Sơn Tây. Gồm 7 tổng: Kim Quan Thượng, Khang Lực, Tứ Lân, Phượng Liễn, Hồng La, Bắc Hoàng, Đồng Liêu (từ xã Phúc Ứng ngày nay đến các xã thượng huyện Sơn Dương và một số xã của huyện Yên Sơn). Năm Minh Mệnh thứ 14 (1833) sáp nhập huyện Đăng Đạo vào huyện Sơn Dương. Ngày 18 tháng 4 năm 1888, Thống sứ Bắc Kỳ tách huyện Sơn Dương ra khỏi tỉnh Sơn Tây nhập vào tỉnh Tuyên Quang, (tỉnh Tuyên Quang được thành lập năm 1831). Năm 1891, tỉnh Tuyên Quang bị xóa bỏ, các đơn vị hành chính của tỉnh Tuyên Quang được chia vào đạo quan binh 2 và đạo quan binh 3. Năm 1900, tỉnh Tuyên Quang được tái lập, Sơn Dương dưới quyền quản lý nhà nước trực tiếp của tỉnh Tuyên Quang. Ngày 10 tháng 3 năm 1945, cuộc khởi nghĩa ở đình Thanh La (xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương ngày nay), tiến đánh giải phóng đồn Đăng châu, thành lập Châu Tự Do, bao gồm các xã vùng thượng huyện Sơn Dương; các xã vùng hạ huyện Sơn Dương gọi là châu Kháng Địch. Năm 1946, châu Tự Do và châu Kháng Địch sáp nhập lại thành huyện Sơn Dương. Năm 1976, Tuyên Quang và Hà Giang được sáp nhập thành tỉnh Hà Tuyên. Sơn Dương trở thành một trong những huyện trọng điểm kinh tế của Hà Tuyên. Năm 1991, Hà Tuyên được chia thành hai tỉnh: Tuyên Quang và Hà Giang, Sơn Dương là đơn vị hành chính thuộc Tuyên Quang, bao gồm thị trấn nông trường Tân Trào và 33 xã: Bình Yên, Cấp Tiến, Chi Thiết, Đại Phú, Đông Lợi, Đồng Quý, Đông Thọ, Hào Phú, Hồng Lạc, Hợp Hòa, Hợp Thành, Kháng Nhật, Kỳ Lâm, Lâm Xuyên, Lương Thiện, Minh Thanh, Ninh Lai, Phú Lương, Phúc Ứng, Quyết Thắng, Sơn Nam, Tam Đa, Tân Trào, Thanh Phát, Thiện Kế, Thương Ấm, Trung Yên, Trường Sinh, Tú Thịnh, Tuân Lộ, Văn Phú, Vân Sơn, Vĩnh Lợi. Ngày 29 tháng 8 năm 1994, thành lập thị trấn Sơn Dương, thị trấn huyện lỵ huyện Sơn Dương trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã Kỳ Lâm. Ngày 15 tháng 7 năm 1999, giải thể thị trấn nông trường Tân Trào. Dân cư thuộc thị trấn nông trường hiện đang sinh sống trên địa bàn các xã Minh Thanh, Tú Thịnh, Phúc Ứng, Bình Yên, Thượng Ấm, Tân Trào và thị trấn Sơn Dương được giao về các xã và thị trấn nói trên quản lý. Ngày 1 tháng 1 năm 2020, sáp nhập 2 xã: Tuân Lộ và Thanh Phát thành xã Tân Thanh, sáp nhập 2 xã: Sầm Dương và Lâm Xuyên thành xã Trường Sinh. Huyện Sơn Dương có 1 thị trấn và 30 xã như hiện nay. Kinh tế Chủ yếu thu nhập của người dân quanh đây là trồng cây công nghiệp ngắn ngày (trồng mía phục vụ nhà máy đường sơn dương) và một phần trồng cây công nghiệp (trồng rừng). Di tích Huyện có di tích lịch sử là chiến khu Tân Trào. Tân Trào cũng là tên của một nông trường chè và một nhà máy chế biến chè của huyện. Đình Tân Trào: Một ngôi đền nhỏ thờ thần sông, núi của làng Tân Lập. Đình được dựng vào năm Quý Hợi (1923) theo kiểu nhà sàn cột gỗ, ba gian, hai chái, mái nhà lợp lá cọ, sàn lát ván. Chú thích
nhỏ|Tiếng Chuông xe đạp cổ điển Xe đạp là một loại phương tiện đơn hoặc đôi chạy bằng sức người hoặc gắn thêm động cơ trợ lực,điều khiển bằng bàn đạp,có hai bánh xe được gắn vào khung,một bánh trước dùng để điều hướng và một bánh sau để dẫn động. Xe đạp xuất hiện lần đầu vào thế kỷ XIX ở Châu Âu. Trong thời gian ngắn chỉ hơn 200 năm mà sang đầu thế kỷ 21 thị trường thế giới đã dung nạp và sử dụng hơn 1 tỷ chiếc xe đạp. Con số này vượt xa số lượng xe ô tô, cả về tổng số và số lượng kiểu xe. Xe đạp là phương tiện giao thông chính ở nhiều nơi trên thế giới. Đồng thời xe đạp cũng là một môn thể thao và giải trí như môn đua xe đạp; đối với trẻ con xe đạp là một món đồ chơi trong khi người lớn dùng xe đạp như dụng cụ rèn luyện thân thể. Giới hữu chức cũng dùng xe đạp trong quân đội và cảnh sát. Vì tiện lợi nên xe đạp có mặt trong ngành dịch vụ chuyển phát nhanh. Hình dạng và cấu hình cơ bản của một chiếc "xe đạp an toàn" điển hình đã thay đổi rất ít kể từ lần đầu được phát triển vào khoảng năm 1885. Tuy nhiên, nhiều chi tiết đã được cải thiện, đặc biệt là từ sự ra đời của vật liệu hiện đại và thiết kế dựa trên hỗ trợ của máy tính. Chính những điều này đã cho phép phổ biến các thiết kế chuyên dụng của nhiều loại xe đạp. Phát minh ra xe đạp đã có một tác động to lớn đối với xã hội, cả về văn hóa và tiến bộ các phương pháp công nghiệp hiện đại. Một số bộ phận cấu tạo cũng đóng vai trò quan trọng cho phát triển của ô tô ban đầu được phát minh để sử dụng cho xe đạp, bao gồm vòng bi, lốp khí nén, bánh xích điều khiển bằng xích và nan hoa của bánh xe. Nguyên gốc từ Từ "xe đạp" lần đầu xuất hiện trong văn bản tiếng Anh vào năm 1868, được sử dụng trong báo The Daily News để miêu tả "Bysicles và trysicles" trên "Champs Elysées và Bois de Boulogne". Nó đã xuất hiện lần đầu vào năm 1847 trong một ấn phẩm tiếng Pháp để mô tả một phương tiện hai bánh không rõ danh tính, có thể là một chiếc xe ngựa. Thiết kế của chiếc xe đạp đã tiến xa hơn so với xe đạp đầu tiên, dù hai thuật ngữ này đã được sử dụng một cách trùng hợp trong một khoảng thời gian. Còn có những từ khác để chỉ "xe đạp" như "bike", "xe đạp đạp bằng chân", "xe đạp chân", hoặc "cycle". Trong Unicode, mã ký tự cho "xe đạp" là 0x1F6B2. Ký tự số thập lục phân 🚲 trong HTML tạo ra biểu tượng 🚲. Mặc dù "bike" và "cycle" thường được sử dụng hoán đổi để chỉ hai loại xe hai bánh, những thuật ngữ này vẫn có sự biến đổi theo vùng miền trên toàn thế giới. Ví dụ, ở Ấn Độ, "xe đạp" chỉ đề cập đến phương tiện hai bánh sử dụng sức đạp chân, trong khi thuật ngữ "bike" được sử dụng để mô tả một phương tiện hai bánh sử dụng động cơ đốt trong hoặc động cơ điện làm nguồn động cơ thay vì xe máy. Lịch sử Trước đây người ta cho rằng xe đạp được sáng chế bởi bá tước Sivrac vào năm 1790, với cái tên Célérifère(célérité có nghĩa là nhanh). Nó là một cái máy bằng gỗ, không có bánh xe để lái; việc chuyển hướng đòi hỏi phải lắc mạnh phần trước của xe. Ngày nay các sử gia về kỹ thuật cho rằng không có chiếc xe nào tên làCélérifère cũng như bá tước Sivrac, đó chỉ là những hình ảnh sai vì xe đạp không tay lái rất khó điều khiển. Célérifère đồ chơi thì có thể có, nhưng không thể chạy nó trong thực tiễn. Năm 1817, nam tước người Đức là Baron Karl von Drais đã phát minh ra chiếc xe mang tên ông gọi là Draisienne (xe của Drais) được xem là tổ tiên của xe đạp. Drais đã giới thiệu mô hình xe này cho công chúng tại Mannheim vào mùa hè 1817 và tại Paris năm 1818. Người lái ngồi dạng chân trên một khung gỗ được hỗ trợ bởi hai bánh xe và đẩy chiếc xe bằng hai chân của mình trong khi chỉnh hướng bằng bánh xe phía trước. Xe hai bánh được gắn thiết bị cơ khí đầu tiên có thể đã được Kirkpatrick MacMillan, một thợ rèn người Scotland, lắp ráp vào năm 1839, mặc dù tuyên bố này còn đang tranh cãi. Ông cũng là trường hợp được ghi nhận đầu tiên của một hành vi phạm tội gây tai nạn giao thông bằng xe đạp, khi một tờ báo Glasgow năm 1842 báo cáo tai nạn, trong đó có viết một "quý ông ẩn danh của vùng Dumfries-shire cưỡi một chiếc xe đạp được thiết kế khéo léo" đâm vào một cô bé ở Glasgow và bị phạt năm shilling. Sáng kiến lắp thêm bàn đạp cho bánh trước được cho là thuộc về hai anh em Ernest Michaux và Pierre Michaux, thợ đóng xe ở Paris. Vào năm 1865, khi phải sửa chữa một cái Draisienne, họ đã lắp cho nó một chỗ để chân, mô phỏng tay quay trong máy quay tay của họ. Tuy nhiên, trước đó, vào năm 1849, có thể một thợ cơ khí Đức là Heinrich Fischer đã sáng chế ra pê đan trước hai anh em Michaux. Pêđan ở bánh trước khiến cho bánh trước có kích thước lớn (lớn hơn bánh sau) để tăng quãng đường đi trong mỗi vòng đạp. Cải tiến này đã mang lại tên gọi mới cho thiết bị, bicycle (xe đạp). Một số phát minh sau này đã sử dụng ổ đĩa phía sau bánh xe, nổi tiếng nhất là xe đạp sử dụng các thanh điều khiển của Thomas McCall, người Scotland năm 1869. Cũng trong năm đó, xe đạp có bánh xe với nan hoa của Eugène Meyer, người Paris, đã được cấp bằng sáng chế. Vélocipède(tiếng Pháp), chiếc xe đạp làm bằng sắt và gỗ, phát triển thành xe "penny-farthing" (trong lịch sử cơ khí được coi là "chiếc xe đạp bình thường"). Nó bao gồm một khung thép hình ống trên đó có gắn bánh xe có nan hoa với lốp cao su rắn. Những chiếc xe đạp này rất khó đi do chỗ ngồi cao và phân bố trọng lượng không tốt. Năm 1868 Rowley Turner, một đại lý bán hàng của Công ty máy khâu Coventry (mà nhanh chóng trở thành Công ty Coventry Machinist), mang một chiếc xe đạp của Michaux tới Coventry, Anh. Chú của ông, Josiah Turner, và đối tác kinh doanh James Starley, sử dụng chiếc xe đạp này để sản xuất xe đạp nhãn hiệu 'Coventry Model', và công ty trở thành nhà máy sản xuất xe đạp đầu tiên của Anh. Xe đạp vốn được làm bằng gỗ. Từ năm 1869 các xe đạp này đã được làm bằng thép. Năm 1879, một người Anh là Lawson đã sáng chế xích để truyền động cho bánh sau. Sáng chế này kèm theo các cải tiến ở khung, đùi, đĩa, pêđan, hệ tay lái và phuộc. Năm 1885, J.K. Sartley cho bánh trước có cùng đường kính với bánh sau và làm cái khung bằng ống thép. Năm 1887, John Boyd Dunlop, một nhà sáng chế Scotland, tiếp tục cải tiến bánh xe với việc dùng ống hơi bằng cao su, do bánh xe lúc trước còn rất xóc. Năm 1890, Roberton ở Anh và Édouard Michelin ở Pháp làm cho bánh có thể tháo lắp được. Năm 1920, do xe quá nặng nên người ta đã đổi thành ruột rỗng cho xe nhẹ hơn, chất liệu của xe thì được đổi thành hợp kim. Năm 1973 xe địa hình được chế tạo ở California. Trước khi ô tô trở nên phổ biến, xe đạp và xe ngựa là hai phương tiện chính để di chuyển cá nhân. Việc xây dựng đường bằng vào cuối thế kỷ 19 được thúc đẩy bởi sự quảng cáo rộng rãi, sản xuất và sử dụng phổ biến của hai loại phương tiện này. Vào đầu thế kỷ 21, đã có hơn 1 tỷ chiếc xe đạp được sản xuất trên toàn thế giới. Xe đạp là phương tiện phổ biến nhất trên thế giới và mẫu xe đạp phổ biến nhất, dù hoạt động bằng sức người hoặc động cơ phương tiện giao thông, là chiếc Flying Pigeon Trung Quốc, với số lượng vượt quá 500 triệu chiếc. Phương tiện thứ hai về số lượng nhiều nhất là chiếc xe máy Honda Super Cub, có hơn 100 triệu chiếc được sản xuất, trong khi ô tô được sản xuất nhiều nhất, chiếc Toyota Corolla, đã đạt hơn 44 triệu đơn vị và còn tiếp tục tăng. Cấu tạo Có thể nói từ khi ra đời tới nay, chiếc xe đạp đã được con người cải tiến rất nhiều về cấu tạo cũng như những tính năng của nó. Từ những chiếc xe đạp đầu tiên chỉ phục vụ mục đích đi lại là chính, thì ngày nay chiếc xe đạp không những phục vụ đi lại, mà nó còn là một phương tiện thi đấu thể thao, giải trí... So với thiết kế sơ khai cách đây hơn 200 năm, thì chiếc xe đạp ngày nay đã có sự thay đổi rõ rệt về cấu tạo. Chiếc xe đạp đầu tiên của loài người có cấu tạo khá đơn giản, chỉ gồm có hai chiếc bánh xe và khung xe; toàn bộ đều được làm bằng gỗ. Ngày nay, xe đạp tuy rằng có rất nhiều kiểu dáng khác nhau, được sử dụng với những mục đích khác nhau nhưng chúng vẫn có một số điểm chung về cấu tạo và nguyên lý truyền động. Phân chia theo công dụng thì xe đạp bao gồm những bộ phận chính sau: a. Hệ thống truyền lực gồm: Bàn đạp (pê-đan) (1), đùi, trục giữa (2), đĩa (3), xích (4), líp (5). Líp xe đạp nhận truyền động từ xích và chuyển đến bánh sau của xe, làm bánh xe quay và chỉ quay theo chiều thuận. Nhờ có líp, người đi xe không cần đạp bàn đạp liên tục mà bánh xe vẫn chuyển động về phía trước theo quán tính. Líp gồm hai bộ phận chính là: vành và cốt: Vành líp (1) có răng ở phía ngoài và trong. Răng ngoài để ăn khớp với xích, răng trong có dạng răng cưa nghiêng về một phía ăn khớp với cá líp (2) là một lưỡi thép nhỏ. Cốt líp (3) có hai rãnh để đặt hai cá líp, trong mỗi rãnh có một lò xo nhỏ hoặc một cái lẫy làm bằng sợi thép nhỏ có tính đàn hồi (gọi là râu tôm) luôn tì vào cá. Cốt líp lắp chặt với moay-ơ bánh sau bằng ren. Bình thường, đầu nhọn của cá líp quay theo chiều thuận (chiều kim đồng hồ) nhờ bộ phận truyền động xích. Trong khi đó, lò xo đẩy cá líp lên làm răng trong vành líp mắc vào cá líp kéo cốt líp quay theo cùng chiều với vành của líp, làm bánh xe quay theo. Khi đang đi xe, nếu ta không đạp bàn đạp, vành líp không quay, theo quán tính bánh xe vẫn lăn về phía trước, cốt líp cùng cá líp quay theo chiều kim đồng hồ, khi quay cá líp trượt trên răng trong của vành líp, ép lò xo xuống, đồng thời phát ra tiếng kêu "tạch tạch". Khi xe đang đứng yên, nếu ta quay đùi đĩa theo chiều ngược chiều kim đồng hồ làm răng trong trượt lên cá líp nên cốt líp không quay được, do đó bánh xe không quay. Bởi vậy líp được gọi là khớp quay một chiều. b. Hệ thống chuyển động: Bánh xe (trước và sau) (6). Bánh xe gồm: trục, moay-ơ, nam hoa, vành, săm, lốp. - Trục được làm bằng thép, bánh xe quay trên trục thông qua ổ bi. - Moay- ơ thường làm bằng thép, được liên kết với vành bánh xe bằng nan hoa. - Nan hoa làm bằng thép. - Vành bánh xe làm bằng hợp kim nhôm hoặc thép, có đường kính thông thường là 650mm. - Săm, lốp được chế tạo từ cao su tổng hợp giúp tăng độ êm cho xe trong quá trình chuyển động. Hệ thống truyền lực và chuyển động có tác dụng truyền lực và truyền động. Khi chúng ta đạp bàn đạp, lực truyền qua đùi xe làm trục giữa quay, đĩa quay kéo xích chuyển động, xích kéo líp cùng bánh sau quay (bánh chủ động), khi bánh xe quay và lăn trên mặt đường làm cho xe chuyển động về phía trước. Nguyên tắc truyền động như sau: Lực từ chân người đạp -> bàn đạp -> đùi xe -> trục giữa -> đĩa -> xích -> líp -> bánh xe sau -> xe chuyển động. Chuyển động được truyền từ trục tới xích, líp nhờ sự ăn khớp giữa các mắt xích và răng trên đĩa, líp nên được gọi là truyền động xích. Vận tốc của xe đạp ngoài sự phụ thuộc vào tốc độ đạp của người đi xe còn phụ thuộc vào tỉ số truyền của bộ truyền động xích.. Tỷ số truyền này được tính theo công thức sau: Trong đó: D1: đường kính của đĩa (mm) Z1: số răng của đĩa n1: tốc độ quay của đĩa (vòng/phút) D2: đường kính của líp (mm) Z2: số răng của líp n2: tốc độ quay của líp (vòng/phút) Tốc độ quay của đĩa n1 phụ thuộc vào tốc độ đạp chân nhanh hay chậm của người đi xe. Tốc độ của xe phụ thuộc vào tốc độ quay của bánh xe sau (tốc độ quay của líp) n2. Như vậy, với một tốc độ quay n1 của đĩa, chúng ta có thể có nhiều tốc độ quay n2 của bánh xe khác nhau nhờ việc thay đổi đường kính D1 (thay đổi số răng Z1) hoặc D2 (thay đổi số răng Z2). Tỉ số truyền i>1 nghĩa là: khi tốc độ quay của đĩa là n1 thì bánh xe quay nhanh hơn i lần (n2=i.n1). Tuy nhiên, nếu thiết kế tỉ số truyền càng lớn thì lực đạp lên bàn đạp càng lớn. Do vậy, tỉ số truyền không được quá lớn. Căn cứ vào tốc độ tối đa có thể đạt được của xe đạp mà người ta thiết kế tỉ số truyền sao cho phù hợp với mục đích sử dụng, ta có thể thấy rất rõ điều này trong các loại xe đạp địa hình. c. Hệ thống lái gồm: Tay lái (ghi đông) (7), cổ phuốc (8). Hệ thống lái giúp chúng ta có thể điều khiển xe một cách nhẹ nhàng và dễ dàng nhất có thể khi muốn chuyển hướng. Bánh xe trước làm nhiệm vụ dẫn hướng, hướng chuyển động của xe phụ thuộc vào hướng chuyển động của bánh xe trước, do người điều khiển bẻ tay lái (ghi - đông) sang phải hoặc sang trái. Nguyên tắc truyền động như sau: Tay người đi xe -> tay lái của xe (ghi- đông) -> cổ phuốc -> càng trước -> bánh xe trước -> hướng chuyển động của xe. d. Hệ thống phanh gồm: tay phanh (9), dây phanh (10), cụm má phanh (11). Đây là một phát minh lớn giúp người điều khiển xe đạp làm chủ vận tốc khi di chuyển trên đường để có được sự an toàn tối thiểu khi điều khiển xe. e. Khung chịu lực (12): Trước kia khung xe được cấu tạo bằng vật liệu gỗ, nhưng ngày nay khung xe đã được thay thế bởi vật liệu thép. Vì ưu điểm của vật liệu thép là có độ cứng, độ bền và tuổi tho cao hơn so với khung gỗ. Khung xe chính là xương sống của xe đạp, liên kết toàn bộ các bộ phận khác lại với nhau thành một khối thống nhất. f. Yên xe (13): giúp cho người điều khiển xe đạp có được vị trí thoải mái và hợp lý nhất. Ngoài ra xe đạp còn có các bộ phận khác như: chắn bùn, chắn xích, chuông, đèn... và một chi tiết tuy nhỏ nhưng rất quan trọng trong xe đạp đó là ổ bi. Ổ bi dùng để giảm ma sát giữa các chi tiết có chuyển động quay tròn tương đối với nhau như: moay-ơ với trục bánh trước, trục bánh sau... Cấu tạo của ổ bi gồm: nồi, bi, côn. Côn được lắp vào trục (hoặc được chế tạo liền trục như ở trục giữa). Nồi lắp và moay-ơ. Khi làm việc, bi lăn giữa nồi và côn. Ổ bi được lắp giữa trục bánh xe và moay-ơ. Nếu không có ổ bi, khi quay moay-ơ sẽ cọ xát lên trục gây ma sát lớn, nhiệt độ tại mối ghép tăng làm cho chi tiết bị mài mòn nhanh Xe đạp còn được coi là một môn thể thao với các thể loại khác nhau: Trong nhà, đường trường, địa hình, trial, v.v. và được thi đấu trong ASIAD, Asian Indoor Games, SEA Games, Olympic... Khía cạnh xã hội và lịch sử Trong đời sống hằng ngày nhỏ|Cyclists in Greymouth, New Zealand (c.1898-1905) Vào đầu thế kỷ 20, xe đạp đã đóng một vai trò quan trọng trong việc giảm tình trạng đông đúc tại các khu chung cư trong trung tâm thành phố. Điều này cho phép người lao động dễ dàng di chuyển từ những căn nhà lớn ở ngoại ô vào trung tâm, giảm bớt sự phụ thuộc vào việc sử dụng ngựa. Ngoài ra, xe đạp cũng mang đến sự linh hoạt cho mọi người trong việc tham quan và du lịch trong nước, nhờ khả năng tiết kiệm năng lượng gấp ba lần so với việc đi bộ và tốc độ di chuyển nhanh hơn gấp ba đến bốn lần. trái|nhỏ|Đường dành cho xe đạp tại New York City, Hoa Kỳ (2008) Trong các thành phố đông đúc trên toàn cầu, quy hoạch đô thị thường áp dụng hạ tầng đường dành riêng cho xe đạp như đường dành cho xe đạp để giảm tắc nghẽn giao thông và ô nhiễm không khí. Nhiều thành phố trên khắp thế giới đã triển khai các chương trình được gọi là các hệ thống chia sẻ xe đạp hoặc các chương trình xe đạp cộng đồng. Chương trình đầu tiên trong số này là Kế hoạch Xe Đạp Trắng tại Amsterdam vào năm 1965. Sau đó là xe đạp màu vàng tại La Rochelle và xe đạp màu xanh tại Cambridge. Những sáng kiến này bổ sung hệ thống vận tải công cộng và cung cấp lựa chọn thay thế cho giao thông có động cơ để giúp giảm tắc nghẽn và ô nhiễm. Ở châu Âu, đặc biệt ở Hà Lan và một số khu vực của Đức và Đan Mạch, việc đi xe đạp đến nơi là điều phổ biến. Ở Copenhagen, một tổ chức của người đi xe đạp điều hành Đại sứ quán Xe đạp để thúc đẩy việc đi xe đạp cho cả việc đi làm và tham quan. Vương quốc Anh có chương trình miễn thuế (IR 176) cho phép nhân viên mua xe đạp mới không bị thuế để sử dụng cho việc đi làm. Ở Hà Lan, tất cả các ga tàu hỏa đều cung cấp bãi đậu xe đạp miễn phí hoặc nơi đậu xe an toàn với một khoản phí nhỏ, và các ga lớn còn có cửa hàng sửa chữa xe đạp. Đạp xe rất phổ biến đến mức nơi đỗ xe có thể bị quá tải, trong khi ở một số nơi như Delft, tình trạng đậu xe thường bị quá tải. Ở Trondheim, Na Uy, họ đã phát triển hệ thống Thang máy xe đạp Trampe để khuyến khích người đi xe đạp bằng cách hỗ trợ trên những dốc đường dốc. Xe buýt ở nhiều thành phố còn có máy giữ xe đạp được gắn ở phía trước. Còn ở một số thị trấn ở các quốc gia khác, văn hóa đạp xe đã trở thành một phần không thể thiếu của bức tranh vùng đất suốt nhiều thế hệ, thậm chí không cần sự hỗ trợ chính thống. Điều này đúng cho trường hợp của Ílhavo, Bồ Đào Nha. Ở những thành phố không tích hợp xe đạp vào hệ thống giao thông công cộng, người đi làm thường sử dụng xe đạp như một phần quan trọng của chế độ di chuyển kết hợp, trong đó xe đạp được sử dụng để di chuyển tới và từ các trạm tàu hoặc các hình thức giao thông nhanh khác. Một số sinh viên, sau khi lái xe từ nhà đến bãi đỗ xe trường, tiếp tục bằng xe đạp để đến lớp học. Sử dụng xe đạp gập càng trở nên phổ biến trong những tình huống như này, bởi chúng tiện lợi hơn khi cần mang theo. Ví dụ, Los Angeles đã quyết định loại bỏ một số chỗ ngồi trên một số tàu để tạo thêm không gian cho xe đạp và xe lăn. trái|nhỏ|Người đi xe đạp trong thành phố Copenhagen, Đan Mạch Cũng có một số công ty tại Hoa Kỳ, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ, đang phát triển cả thiết kế xe đạp độc đáo và tạo điều kiện thân thiện với xe đạp tại nơi làm việc. Ví dụ, Foursquare, với CEO Dennis Crowley, đã "đạp xe đến các cuộc họp... khi đang gọi vốn từ các nhà đầu tư rủi ro" trên một chiếc xe đạp hai bánh và đã chọn vị trí mới cho trụ sở tại New York dựa trên tiện ích đối với người đi xe đạp. Chỗ đỗ xe đạp tại văn phòng cũng đã được tích hợp vào kế hoạch trụ sở. Mitchell Moss, người điều hành của Trung tâm Chính sách và Quản lý Giao thông Rudin tại Đại học New York, đã nói vào năm 2012: "Đi xe đạp đã trở thành lựa chọn hàng đầu đối với công nhân công nghệ cao được giáo dục". Xe đạp đóng vai trò quan trọng trong việc vận chuyển ở nhiều quốc gia đang phát triển. Cho đến gần đây, ở các nước châu Á, xe đạp đã trở thành một phần không thể thiếu của cuộc sống hàng ngày. Chúng được sử dụng rộng rãi nhất để di chuyển đến nơi làm việc, trường học, mua sắm và trong cuộc sống hàng ngày. Tại châu Âu, xe đạp cũng được sử dụng phổ biến. Ngoài ra, chúng còn giúp người dùng duy trì sức khỏe thông qua việc vận động. Xóa đói giảm nghèo nhỏ|Men in Uganda using a bicycle to transport bananas nhỏ|Tanzanian boy transporting fodder on his bicycle to feed his family cattle Xóa đói giảm nghèo thông qua xe đạp là ý tưởng rằng việc cung cấp xe đạp và hạ tầng vận chuyển phù hợp có thể giảm đáng kể nghèo đói. Điều này đã được thực hiện qua nhiều dự án thử nghiệm ở Nam Á và châu Phi. Nghiên cứu thực hiện tại châu Phi (Uganda và Tanzania) và Sri Lanka trên hàng trăm hộ gia đình đã chỉ ra rằng một chiếc xe đạp có thể tăng thu nhập của một gia đình nghèo lên đến 35%. Giải phóng phụ nữ nhỏ|"Thả lỏng – nhưng đứng vững"; Frances Willard học cách lái xe đạp Xe đạp an toàn đã mở ra cho phụ nữ khả năng tự do vận chuyển chưa từng có, góp phần vào sự giải phóng của họ tại các quốc gia phương Tây. Khi xe đạp trở nên an toàn và giá cả hợp lý hơn, nhiều phụ nữ đã có cơ hội tiếp cận tự do cá nhân mà xe đạp tượng trưng, và từ đó, xe đạp đã trở thành biểu tượng của Phụ nữ mới cuối thế kỷ 19, đặc biệt là tại Anh và Hoa Kỳ. Sự bùng nổ của xe đạp trong thập kỷ 1890 cũng thúc đẩy phong trào vận động cho việc mặc gọi là trang phục hợp lý, giúp giải phóng phụ nữ khỏi những chiếc corset và váy dài đến mắt cá cùng các trang phục hạn chế khác, thay thế bằng chiếc bloomers khiến đó làm cho người ta phải kinh ngạc vào thời điểm đó. Xe đạp đã được các nhà nữ quyền và những người ủng hộ quyền bình đẳng giới thế kỷ 19 nhận biết như một "máy tự do" dành cho phụ nữ. Susan B. Anthony, một nhà nữ quyền Mỹ, đã nói trong cuộc phỏng vấn trên báo New York World vào ngày 2 tháng 2 năm 1896: "Tôi nghĩ rằng nó đã đóng góp nhiều hơn bất kỳ điều gì khác để giải phóng phụ nữ trên toàn thế giới. Tôi vui mừng mỗi khi thấy một phụ nữ điều khiển xe đạp. Điều này mang lại cho họ cảm giác tự tin và độc lập ngay từ khi họ ngồi lên yên xe; và họ tự do đi xa, hình ảnh của sự độc lập phụ nữ." Năm 1895, Frances Willard, người đứng đầu của Hội Nữ Hồi giáo Kiểm rượu, đã viết cuốn sách "A Wheel Within a Wheel: How I Learned to Ride the Bicycle, with Some Reflections by the Way", một hồi ký 75 trang với hình minh họa khen ngợi "Gladys," chiếc xe đạp của cô, vì tác động "làm phấn khích" đối với sức khỏe và tinh thần lạc quan của cô. Willard đã sử dụng ẩn dụ về xe đạp để khuyến khích những người nữ quyền khác hành động. Năm 1985, Georgena Terry thành lập công ty sản xuất xe đạp dành riêng cho phụ nữ đầu tiên. Thiết kế của cô tập trung vào hình dạng của khung và kích thước bánh xe được lựa chọn để phù hợp tốt hơn với người phụ nữ, bằng cách làm ngắn ống trên và tạo khoảng cách thích hợp hơn. Ý nghĩa kinh tế trái|nhỏ|Quảng cáo Xe đạp Columbia từ năm 1886 Ngành sản xuất xe đạp đã chứng tỏ là một nền tảng đào tạo cho các ngành công nghiệp khác và đã dẫn đến sự phát triển của các kỹ thuật làm việc với kim loại tiên tiến, không chỉ cho việc chế tạo khung xe mà còn cho việc sản xuất các thành phần đặc biệt như vòng bi, ốc vít và bánh răng. Những kỹ thuật này sau này đã cho phép các thợ làm kim loại và thợ cơ khí có kỹ năng phát triển các thành phần được sử dụng trong các loại phương tiện như ô tô và máy bay vào giai đoạn đầu của chúng. Anh em Wright, một cặp doanh nhân, điều hành Wright Cycle Company thiết kế, sản xuất và bán xe đạp của họ trong thời kỳ đại bùng nổ xe đạp vào những năm 1890. Họ cũng đã giúp giảng dạy các mô hình công nghiệp sau này được áp dụng, bao gồm cơ khí hóa và sản xuất hàng loạt (sau này được sao chép và áp dụng bởi Ford và Tập đoàn General Motors), tích hợp dọc (sau này cũng được sao chép và áp dụng bởi Ford), quảng cáo mạnh mẽ (lên đến 10% tổng số quảng cáo trong các tạp chí ở Hoa Kỳ vào năm 1898 là của nhà sản xuất xe đạp), đẩy mạnh việc cải thiện đường xá (có lợi ích phụ là làm quảng cáo và cải thiện doanh số bán hàng thông qua việc cung cấp nhiều nơi để đi xe), tất cả đều được thực hiện lần đầu bởi Pope. Ngoài ra, các nhà sản xuất xe đạp đã áp dụng mô hình thay đổi hàng năm (sau này bị chê trách là kế hoạch lạm dụng, và thường được ghi cho General Motors), mô hình này đã rất thành công. Những chiếc xe đạp đầu tiên là một ví dụ về việc tiêu tiền để thể hiện đẳng cấp và phong cách, và chúng đã được những tầng lớp thượng lưu ưa chuộng. Ngoài ra, bằng cách trở thành một nền tảng cho các phụ kiện, mà cuối cùng có thể đắt hơn cả chiếc xe đạp, chúng đã mở đường cho sự ra đời của sản phẩm như búp bê Barbie. Xe đạp đã thúc đẩy sự xuất hiện hoặc cải thiện nhiều loại hình kinh doanh mới, bao gồm người đưa thư bằng xe đạp, thợ may di động, trường đua ngựa, và các trường đua xe đạp. Những đường đua của xe đạp sau này đã được sử dụng cho các cuộc đua xe máy và ô tô sớm. Ngoài ra, đã xuất hiện nhiều phát minh mới, như bộ nâng spoke của bánh xe đạp, đèn chiếu sáng đặc biệt, tất cả đều đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của xe đạp và thậm chí là sản phẩm khác ngoài lĩnh vực này, như trường hợp của Charles Bennett với "dây đeo nịt chống động", sau này được gọi là "jock strap". nhỏ|Một người đàn ông sử dụng xe đạp để chở hàng ở Ouagadougou, Burkina Faso. Hơn nữa, xe đạp đã tiên đoán sự thay đổi trong cách di chuyển của con người, từ việc sử dụng phương tiện công cộng sang việc sở hữu xe cá nhân, một xu hướng mà sau này đã bùng nổ với sự xuất hiện của ô tô. Công ty của J. K. Starley đã đổi tên thành Rover Cycle Company Ltd. vào cuối những năm 1890, và sau đó khi họ bắt đầu sản xuất ô tô, họ lại tiếp tục thay đổi tên thành Rover Company. Trong khi đó, Morris Motors Limited (tại Oxford) và Škoda cũng bắt đầu kinh doanh từ việc sản xuất xe đạp, cùng với những bước đầu của anh em Wright trong lĩnh vực này. Đồng thời, Alistair Craig, người sau này thành lập công ty sản xuất động cơ Ailsa Craig Engines, cũng bắt đầu sự nghiệp từ việc sản xuất xe đạp tại Glasgow vào tháng 3 năm 1885. Nói chung, các nhà sản xuất xe đạp ở Hoa Kỳ và châu Âu thường trước đây lắp ráp xe đạp từ các khung và bộ phận của riêng họ hoặc từ các công ty khác sản xuất. Tuy nhiên, các công ty lớn như Raleigh trước đây thường tự sản xuất gần như tất cả các bộ phận của xe đạp (bao gồm cả giữa khung, trục bánh xe, và nhiều bộ phận khác). Trong những năm gần đây, cách sản xuất của các nhà sản xuất xe đạp này đã thay đổi mạnh, và hiện tại, gần như không còn hãng sản xuất nào tự sản xuất riêng các khung xe đạp của họ nữa. Nhiều công ty mới hoặc quy mô nhỏ chủ yếu tập trung vào thiết kế và tiếp thị sản phẩm của họ, còn việc sản xuất thường được giao cho các công ty châu Á. Chẳng hạn, hiện nay khoảng 60% số lượng xe đạp trên toàn cầu được sản xuất tại Trung Quốc. Tuy có sự dịch chuyển trong quy trình sản xuất, khi các quốc gia như Trung Quốc và Ấn Độ trở nên giàu có hơn, việc sử dụng xe đạp trong nước họ đã giảm đi do khả năng mua ô tô và xe máy ngày càng dễ dàng hơn. Một trong những nguyên nhân chính khiến xe đạp Trung Quốc thâm nhập thị trường nước ngoài mạnh mẽ là chi phí lao động thấp ở Trung Quốc. Đồng thời, theo sự gia tăng của cuộc khủng hoảng tài chính châu Âu, ở Ý vào năm 2011, số lượng xe đạp bán ra (1.75 triệu chiếc) đã vượt qua số lượng ô tô mới được bán ra. Tác động môi trường nhỏ|Bicycles in Utrecht, Netherlands Việc sử dụng xe đạp không chỉ có ý nghĩa kinh tế sâu sắc bằng cách giải phóng người sử dụng khỏi việc tiêu thụ nhiên liệu động cơ (Ballantine, 1972), mà còn mang lại một loạt các lợi ích khác. Xe đạp không chỉ là một phương tiện giao thông chi phí thấp, nhanh chóng, và thân thiện với môi trường, mà còn mở rộng môi trường vật chất hữu ích cho con người theo lời tuyên bố của Ivan Illich. Trong khi các lựa chọn thay thế như ô tô và đường cao tốc có thể gây suy thoái và hạn chế môi trường cũng như khả năng di chuyển của con người, xe đạp là sự lựa chọn thông minh và bền vững. Hiện nay, trên toàn cầu có khoảng hai tỷ chiếc xe đạp đang được sử dụng bởi mọi lứa tuổi và tầng lớp xã hội, từ trẻ em, sinh viên, chuyên gia, người lao động cho đến công chức và người cao tuổi. Tất cả họ đều trải nghiệm sự tự do và cơ hội tập thể dục tự nhiên mà việc sử dụng xe đạp mang lại. Điều này không chỉ giúp cải thiện sức khỏe cá nhân mà còn đóng góp vào việc giảm lượng khí thải carbon vào môi trường. Chế tạo Thị trường xe đạp toàn cầu trị giá 61 tỷ USD vào năm 2011. , 130 triệu chiếc xe đạp đã được bán ra mỗi năm trên toàn cầu và 66% trong số đó được sản xuất tại Trung Quốc. Trộm cắp nhỏ|A bicycle wheel remains chained in a bike rack after the rest of the bicycle has been stolen at east campus of Duke University in Durham, North Carolina. Xe đạp thường là mục tiêu của những vụ trộm phổ biến do giá trị của chúng và dễ dàng bán lại. Số lượng xe đạp bị mất mát hàng năm rất khó để xác định chính xác, vì nhiều tội phạm không bao giờ được báo cáo. Theo một khảo sát của Tạp chí Giao thông Bền vững Quốc tế Montreal, khoảng 50% những người tham gia khảo sát, người đi xe đạp tích cực, đã từng trải qua việc mất xe đạp do trộm cắp. Đáng chú ý, hầu hết các xe đạp đều có số seri, thông tin này có thể được sử dụng để xác minh danh tính trong trường hợp xe bị mất cắp.
Hệ nhị phân (hay hệ đếm cơ số hai hoặc mã nhị phân) là một hệ đếm dùng hai ký tự để biểu đạt một giá trị số, bằng tổng số các lũy thừa của 2. Hai ký tự đó thường là 0 và 1; chúng thường được dùng để biểu đạt hai giá trị hiệu điện thế tương ứng (có hiệu điện thế, hoặc hiệu điện thế cao là 1 và không có, hoặc thấp là 0). Do có ưu điểm tính toán đơn giản, dễ dàng thực hiện về mặt vật lý, chẳng hạn như trên các mạch điện tử, hệ nhị phân trở thành một phần kiến tạo căn bản trong các máy tính đương thời. Lịch sử Hệ nhị phân được nhà toán học cổ người Ấn Độ Pingala phác thảo từ thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên. Một bộ trọn 8 hình bát quái với 64 hình sao sáu cạnh, tương đồng với 3 bit và 6 bit trong hệ số nhị phân, đã được ghi lại trong điển tịch cổ Kinh Dịch. Nhiều tổ hợp nhị phân tương tự cũng được tìm thấy trong hệ thống bói toán truyền thống của châu Phi, ví dụ như Ifá, và trong môn bói đất của phương Tây. Tổ hợp thứ tự của những hình sao sáu cạnh trong Kinh Dịch, đại diện cho một dãy số nguyên thập phân từ 0 đến 63, cùng với một công thức để sinh tạo dãy số ấy, đã được học giả và nhà triết học người Trung Hoa tên là Thiệu Ung (邵雍), thế kỷ 11, thiết lập. Dầu vậy, không có ghi chép nào để lại, thể hiện bằng chứng là Thiệu Ung thông hiểu cách tính toán, dùng hệ nhị phân. Trong thế kỷ 17, nhà triết học người Đức tên là Gottfried Leibniz đã ghi chép lại một cách trọn vẹn hệ thống nhị phân trong bài viết "Giải thích về thuật toán trong hệ nhị phân" (Explication de l'Arithmétique Binaire). Hệ thống số mà Leibniz dùng chỉ bao gồm số 0 và số 1, tương đồng với hệ số nhị phân đương đại. Năm 1854, nhà toán học người Anh, George Boole đã cho xuất bản một bài viết chi tiết về một hệ thống lôgic mà sau này được biết là đại số Boole, đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử toán học. Hệ thống lôgic của ông đã trở thành nền tảng trong việc kiến tạo hệ nhị phân, đặc biệt trong việc thực thi hệ thống này trên bảng điện tử. Vào năm 1937, nhà toán học và kỹ sư điện tử người Mỹ, Claude Elwood Shannon, viết một luận án cử nhân tại MIT, trình bày phương thức kiến tạo hệ thống đại số Boole và số học nhị phân dùng các rơ-le và công tắc lần đầu tiên trong lịch sử. Bài viết với đầu đề "Bản phân tích tượng hình của mạch điện dùng rơ-le và công tắc" (A Symbolic Analysis of Relay and Switching Circuits). Bản luận án của ông đã được chứng minh là có tính khả thi trong việc thiết kế mạch điện kỹ thuật số. Tháng 11 năm 1937, ông George Stibitz, lúc đó đang làm việc tại Bell Labs, hoàn thành việc thiết kế một máy tính dùng các rơ-le và đặt tên cho nó là "Mô hình K" (Model K) - chữ K ở đây là chữ cái đầu tiên của từ kitchen trong tiếng Anh, nghĩa là "nhà bếp", nơi ông lắp ráp máy tính của mình. Máy tính của ông có thể tính toán dùng phép tính cộng của hệ nhị phân. Cơ quan Bell Labs vì thế đã ra lệnh và cho phép một chương trình nghiên cứu tổng thể được thi hành vào cuối năm 1938 dưới sự chỉ đạo của ông Stibitz. Máy tính số phức hợp (Complex Number Computer) của họ, được hoàn thành vào ngày 8 tháng 1 năm 1940, có thể giải trình số phức hợp. Trong một cuộc luận chứng tại hội nghị của Hội Toán học Mỹ (American Mathematical Society), được tổ chức tại Dartmouth College vào ngày 11 tháng 9 năm 1940, ông Stibitz đã có thể truyền lệnh cho Máy tính số phức hợp từ xa, thông qua đường dây điện thoại, bằng một máy điện báo đánh chữ (teletype). Đây là máy tính đầu tiên được sử dụng với phương pháp điều khiển từ xa dùng đường dây điện thoại. Một số thành viên tham gia hội nghị và được chứng kiến cuộc thuyết trình bao gồm John von Neumann, John Mauchly và Norbert Wiener, đã viết lại sự kiện này trong hồi ký của mình. Biểu thức Bất cứ số nào cũng có thể biểu đạt được trong hệ nhị phân bằng một dãy đơn vị bit (binary digit, số ký nhị phân), do đó có thể được diễn giải bằng bất cứ một cơ cấu có khả năng thể hiện hai thể trạng biệt lập. Bản liệt kê những dãy ký tự sau đây cho phép sự giải nghĩa tương đồng với những giá trị số trong hệ nhị phân: 1 0 1 0 0 1 1 0 1 0 | - | - - | | - | - x o x o o x x o x o y n y n n y y n y n Giá trị số biểu đạt trong mỗi trường hợp trên phụ thuộc vào giá trị mà nó được gán ghép để đại diện. Trong máy tính, những giá trị số được biểu hiện bằng hai hiệu điện thế khác nhau; trong đĩa từ tính (magnetic disk) thì chiều phân của các lưỡng cực từ có thể được dùng để biểu hiện hai giá trị này. Một giá trị biểu đạt trạng thái "dương", "có" hoặc "chạy" không có nghĩa là giá trị tương tự với số một trong hệ số, song nó còn tuỳ thuộc vào kiến trúc của hệ thống đang được dùng. Song hành với chữ số Ả Rập thường dùng, số nhị phân thường được biểu đạt bằng hai ký tự 0 và 1. Khi được viết, các số nhị phân thường được ký hiệu hóa gốc của hệ số. Những phương thức ký hiệu thường được dùng có thể liệt kê ở dưới đây: 100101 binary (đặc tả phân dạng hệ số) 100101b (chữ b nối tiếp ám chỉ phân dạng hệ số nhị phân - lấy chữ đầu của binary trong tiếng Anh, tức là "nhị phân") bin 100101 (dùng ký hiệu dẫn đầu để đặc tả phân dạng hệ số nhị phân - bin cũng được lấy từ binary) 1001012 (ký hiệu viết nhỏ phía dưới ám chỉ gốc nhị phân) Khi nói, mỗi ký tự số của các giá trị số nhị phân thường được phát âm riêng biệt, để phân biệt chúng với số thập phân. Chẳng hạn, giá trị "100" nhị phân được phát âm là "một không không", thay vì "một trăm", để biểu đạt cụ thể tính nhị phân của giá trị đang nói đến, đồng thời đảm bảo sự chính xác trong việc truyền tin qua lại. Vì giá trị "100" tương đương với giá trị "4" trong hệ thập phân, nên nếu được truyền đạt là "một trăm" thì nó sẽ gây sự hỗn loạn trong tư duy. Biểu đạt giá trị dùng hệ nhị phân Cách đếm trong hệ nhị phân tương tự như cách đếm trong các hệ thống số khác. Bắt đầu bằng số ở hàng đơn vị với một ký tự, việc đếm số được khai triển dùng các ký tự cho phép để ám chỉ giá trị, theo chiều tăng lên. Hệ thập phân được đếm từ ký tự 0 đến ký tự 9, trong khi hệ nhị phân chỉ được dùng ký tự 0 và 1 mà thôi. Khi những ký tự cho một hàng đã dùng hết (như hàng đơn vị, hàng chục, hàng trăm trong hệ thập phân), thì con số tại hàng tiếp theo (về bên trái) được nâng giá trị lên một vị trí, và con số ở hàng hiện tại được hoàn trả lại vị trí đầu tiên dùng ký tự 0. Trong hệ thập phân, chu trình đếm tương tự như sau: 000, 001, 002,... 007, 008, 009, (số cuối cùng ở bên phải quay trở lại vị trí ban đầu trong khi số tiếp theo ở bên trái được nâng cấp lên một giá trị) 010, 011, 012,... ... 090, 091, 092,... 097, 098, 099, (hai số bên phải chuyển về vị trí ban đầu trong khi số tiếp theo ở bên trái được nâng cấp lên một giá trị) 100, 101, 102,... Sau khi một con số đạt đến ký tự 9, thì con số ấy được hoàn trả lại vị trí ban đầu là số 0, đồng thời gây cho con số tiếp theo ở bên trái được nâng cấp lên một vị trí mới. Trong hệ nhị phân, quy luật đếm số tương đồng như trên cũng được áp dụng, chỉ khác một điều là số ký tự được dùng chỉ có 2 mà thôi, tức là ký tự 0 và 1 được dùng mà thôi. Vì vậy, khi một con số đã chuyển lên đến ký tự một trong hệ nhị phân, sự nâng cấp của giá trị bắt nó hoàn trả lại vị trí ban đầu, tức là số 0, và nâng cấp con số tiếp theo về bên trái lên một giá trị: 000, 001, (số cuối bên phải được hoàn trả lại vị trí ban đầu, trong khi số ở hàng bên cạnh về phía tay trái được nâng cấp lên một giá trị) 010, 011, (hai số cuối bên phải được hoàn trả lại vị trí ban đầu, trong khi số ở hàng bên cạnh về phía tay trái được nâng cấp lên một giá trị) 100, 101,... Nhị phân đơn giản hóa Để đơn giản hoá hệ nhị phân, chúng ta có thể nghĩ như sau: Chúng ta dùng hệ thập phân. Điều này có nghĩa là các giá trị của mỗi hàng số (hàng đơn vị, hàng chục v.v..) chỉ được biểu đạt bởi một trong 10 ký tự mà thôi: 0, 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, hoặc 9. Chúng ta ai cũng thông thuộc với những ký tự này và cách dùng của chúng trong hệ thập phân. Khi chúng ta đếm các giá trị, chúng ta bắt đầu bằng ký tự 0, luân chuyển nó đến ký tự 9. Chúng ta gọi nó là "một hàng". Với những con số ở trên trong một hàng, chúng ta có thể liên tưởng đến vấn đáp về tính nhân. Số 5 có thể hiểu là 5 × 100 (100=1) tương đương với 5 x 1, vì bất cứ một số nào có mũ 0 cũng đều bằng 1 (tất nhiên là loại trừ số 0 ra). Khi khai triển sang bên trái một vị trí, chúng ta nâng số mũ của 10 lên một giá trị, vì vậy để biểu đạt 50, chúng ta dùng phương pháp tương tự và số này có thể được viết như 5 x 101, hoặc đơn giản hơn 5 x 10. Khi chúng ta đã dùng hết các ký tự trong hệ thập phân, chúng ta chuyển vị trí sang bên trái và bắt đầu với số 1, đại diện cho hàng chục. Tiếp đó chúng ta hoàn trả hàng "đơn vị" về ký tự đầu tiên, số không. Hệ nhị phân có gốc 2, cũng hoạt động trên cùng một nguyên lý như hệ thập phân, song chỉ dùng 2 ký tự để đại diện cho hai giá trị: 0 và 1. Chúng ta bắt đầu bằng hàng "đơn vị", đặt số 0 trước tiên, rồi nâng cấp lên số 1. Khi đã lên đến số 1, chúng ta không còn ký tự nào nữa để tiếp tục biểu đạt những giá trị cao hơn, do vậy chúng ta phải đặt số 1 ở "hàng hai" (tương tự như hàng chục trong hệ thập phân), vì chúng ta không có ký tự "2" trong hệ nhị phân để biểu đạt giá trị này như chúng ta có thể làm được trong hệ thập phân. Trong hệ nhị phân, giá trị 10 có thể biểu đạt bằng hình thức tương tự như (1 x 21) + (0 x 20). Giá trị này bằng 2 trong hệ thập phân. Nhị phân sang thập phân tương đồng: Để quan sát công thức biến chuyển cụ thể từ hệ này sang hệ kia, xin xem thêm phần Phương pháp chuyển hệ dưới đây. Ngược lại, chúng ta có thể suy nghĩ theo một cách khác. Khi chúng ta đã dùng hết các ký tự trong hệ thống số, chẳng hạn dãy số "11111", chúng ta cộng thêm "1" vào phía bên trái và hoàn trả tất cả các con số ở vị trí bên phải về số "0", tạo thành 100000. Phương thức này cũng có thể dùng được cho các ký tự ở giữa dãy số. Chẳng hạn với dãy số 100111. Nếu chúng ta cộng thêm 1 vào số này, chúng ta phải chuyển vị trí về bên trái một vị trí bên cạnh các con số 1 trùng lặp (vị trí thứ tư), nâng cấp vị trí này từ số 0 lên số 1, rồi hoàn trả tất cả các con số 1 bên tay phải về vị trí số không, tạo thành 101000. Các phép tính dùng hệ nhị phân Phép tính dùng trong hệ nhị phân cũng tương tự như các phép tính được áp dụng trong các hệ khác. Tính cộng, tính trừ, tính nhân và tính chia cũng có thể được áp dụng với các giá trị số nhị phân. Tính cộng Phép tính đơn giản nhất trong hệ nhị phân là tính cộng. Cộng hai đơn vị trong hệ nhị phân được làm như sau: 0 + 0 = 0 0 + 1 = 1 1 + 0 = 1 1 + 1 = 0 (nhớ 1 lên hàng thứ 2) Cộng hai số "1" với nhau tạo nên giá trị "10", tương đương với giá trị 2 trong hệ thập phân. Điều này xảy ra tương tự trong hệ thập phân khi hai số đơn vị được cộng vào với nhau. Nếu kết quả bằng hoặc cao hơn giá trị gốc (10), giá trị của con số ở hàng tiếp theo được nâng lên: 5 + 5 = 10 7 + 9 = 16 Hiện tượng này được gọi là "nhớ" hoặc "mang sang", trong hầu hết các hệ thống số dùng để tính, đếm. Khi tổng số vượt lên trên gốc của hệ số, phương thức làm là "nhớ" một sang vị trí bên trái, thêm một hàng. Phương thức "nhớ" cũng hoạt động tương tự trong hệ nhị phân: 1 1 1 1 1 (nhớ) 0 1 1 0 1 + 1 0 1 1 1 ------------- = 1 0 0 1 0 0 => 1 0 0 1 0 1 Bản sửa đổi a b c d e f 1 1 1 1 1 0 (nhớ) 0 1 1 0 1 + 1 0 1 1 1 Hoặc ta có thể ghi thành 1 1 1 1 1 0 (nhớ) 0 0 1 1 0 1 + 0 1 0 1 1 1 ------------- = 1 0 0 1 0 0 (tính chất số 0 đứng ở đầu tiên không có giá trị) Ở cột f hàng nhớ là bằng 0 (khởi tạo giá trị bộ nhớ ban đầu không có gì nên bằng 0) Chính xác thì phép tính được thực hiện theo dạng (nhớ) + số đầu tiên + số thứ 2 f. 0 + 1 + 1 = 1 0 => 0 vào kết quả (1 vào nhớ) e. 1 + 0 + 1 = 1 0 => 0 vào kết quả (1 vào nhớ) d. 1 + 1 + 1 = 1 1 => 1 vào kết quả (1 vào nhớ) " Chú thích cho phép tính c: g h 0 0 (nhớ) 1 0 + 0 1 = 1 1 h. 0 + 0 + 1 = 1 => 1 vào kết quả (0 vào nhớ) g. 0 + 1 + 0 = 1 => 1 => KQ = 1 1 " c. 1 + 1 + 0 = 1 0 => 0 vào kết quả (1 vào nhớ) b. 1 + 0 + 1 = 1 0 => 0 vào kết quả (1 vào nhớ) a. 1 + 0 + 0 = 1 => 1 vào kết quả => 100100 P/s: Phép tính trên do tự tính có gì sai xin chỉ giáo Trong ví dụ trên, hai số được cộng với nhau: 011012 (13 thập phân) và 101112 (23 thập phân). Hàng trên cùng biểu đạt những số nhớ, hoặc mang sang. Bắt đầu bằng cột cuối cùng bên phải, 1 + 1 = 102. 1 được mang sang bên trái, và 0 được viết vào hàng tổng phía dưới, cột cuối cùng bên phải. Hàng thứ hai từ cột cuối cùng bên phải được cộng tiếp theo: 1 + 0 + 1 = 102; Số 1 lại được nhớ lại và mang sang, và số 0 được viết xuống dưới cùng. Cột thứ ba: 1 + 1 + 1 = 112. Lần này 1 được nhớ và mang sang hàng bên cạnh, và 1 được viết xuống hàng dưới cùng. Tiếp tục khai triển theo quy luật trên cho chúng ta đáp án cuối cùng là 1001002. Trong Đánh thức tài năng quyển 5, tập 22 đã ghi các kiến thức này. Tính trừ Phép tính trừ theo quy chế tương tự: 0 − 0 = 0 0 − 1 = 1 (mượn 1 ở bit tiếp theo) 1 − 0 = 1 1 − 1 = 0 Một đơn vị nhị phân được trừ với một đơn vị nhị phân khác như sau: * * * * (hình sao đánh dấu các cột phải mượn) 1 1 0 1 1 1 0 − 1 0 1 1 1 --------------- =1 0 1 0 1 1 1 1 1 1 1 (bit mượn) 1 1 0 1 1 1 0 - 1 0 1 1 1 ----------------- =1 0 1 0 1 1 1 Trừ hai số dương cũng tương tự như "cộng" một số âm với giá trị tương đồng của một số tuyệt đối; máy tính thường dùng ký hiệu Bù 2 để diễn đạt số có giá trị âm. Ký hiệu này loại trừ được nhu cầu bức thiết phải có một phương pháp làm phép trừ biệt lập. Xin xem thêm chi tiết trong chương mục Bù 2. Tính nhân Phép tính nhân trong hệ nhị phân cũng tương tự như phương pháp làm trong hệ thập phân. Hai số A và B được nhân với nhau bởi những tích số cục bộ: với mỗi con số ở B, tích của nó với số một con số trong A được tính và viết xuống một hàng mới, mỗi hàng mới phải chuyển dịch vị trí sang bên trái, hầu cho con số cuối cùng ở bên phải đứng cùng cột với vị trí của con số ở trong B đang dùng. Tổng của các tích cục bộ này cho ta kết quả tích số cuối cùng. Vì chỉ có hai con số trong hệ nhị phân, nên chỉ có 2 kết quả khả quan trong tích cục bộ: Nếu con số trong B là 0, tích cục bộ sẽ là 0 Nếu con số trong B là 1, tích cục bộ sẽ là số ở trong A Ví dụ, hai số nhị phân 1011 và 1010 được nhân với nhau như sau: 1 0 1 1 (A) × 1 0 1 0 (B) -------------- 0 0 0 0 ← tương đương với 0 trong B + 1 0 1 1 ← tương đương với một trong A + 0 0 0 0 + 1 0 1 1 --------------- = 1 1 0 1 1 1 0
Trần Xuân Bách (23 tháng 5 năm 1924 – 1 tháng 1 năm 2006) là chính khách, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, từng là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, là người có chủ trương đa đảng ở Việt Nam. Tiểu sử Ông tên thật là Vũ Thiện Tuấn quê tại xã Nam Ninh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Nay là xã Nam Thanh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Ông đã từng giữ các chức vụ: Phó Bí thư Tỉnh ủy Ninh Bình, Giám đốc Công an Khu III, Chánh Văn phòng Liên khu ủy III, Bí thư Tỉnh ủy các tỉnh: Nam Định, Sơn Tây, Nam Hà, Trưởng ban Tôn giáo vận Trung ương, Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, Ủy viên Bộ Chính trị. Trần Xuân Bách đã tham gia Bộ chỉ huy tối cao chiến dịch giải phóng Campuchia năm 1979 với tư cách là Phó Chính ủy, (Chính ủy là ông Lê Đức Thọ) sau đó ông làm trưởng Ban B68 của Đảng Cộng sản Việt Nam (chỉ đạo bộ máy hành chính của Campuchia). Ông là Bí thư Trung ương Đảng từ khóa V (1982), Chánh Văn phòng Trung ương Đảng. Tại Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), ông được bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng và được giao nhiệm vụ nghiên cứu về lý luận, phụ trách về tư tưởng - văn hoá và khoa giáo của Đảng kiêm Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương, dưới thời ông Nguyễn Văn Linh làm Tổng Bí thư Đảng. Ông là đại biểu Quốc hội các khóa II, III, IV, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội các khóa III, IV. Bê bối và kỷ luật Ông đã có nhiều bài viết và phát biểu theo hướng đổi mới mạnh mẽ theo xu hướng đa nguyên, đa đảng khi trào lưu cải tổ do Gorbachov đưa ra đang lan tràn trong nhiều nước cộng sản. Do đó, tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (tháng 3 năm 1990), Trần Xuân Bách đã bị phê phán gay gắt và bị kỷ luật, phải ra khỏi Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương nhưng không bị khai trừ khỏi Đảng. Sau một thời gian ông được Bộ trưởng Bộ ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch mời về làm tại ban nghiên cứu ở Bộ Ngoại giao cho đến tháng 8 năm 1990 thì nghỉ hưu. Giáo sư Carl Thayer cho biết, "ông Bách không được đi nước ngoài, không được gặp hay tiến xúc với người nước ngoài, tất cả những gì về ông thì bỗng dưng trở nên kín kẽ. Và ông trở thành nhân vật vô danh tiểu tốt kể từ năm 1990 cho đến ngày ông qua đời." Ông từng phát biểu: "Dân chủ không phải là ban ơn, không phải là mở rộng dân chủ hay dân chủ mở rộng… Dân chủ là quyền của dân, với tư cách là người làm nên lịch sử, không phải là ban phát - do tấm lòng của người lãnh đạo này hay người lãnh đạo kia. Thực chất của dân chủ là khơi thông trí tuệ của toàn dân tộc và đưa đất nước đi lên kịp thời đại...". Cuối đời Do lâm bệnh nặng, ông đã mất hồi 15 giờ 34 phút, ngày 1 tháng 1 năm 2006. Ông được mai táng tại nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội, nơi chôn cất các nhân vật lãnh đạo cao cấp. Tặng thưởng Ông đã được tặng thưởng các Huân chương Kháng chiến hạng nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hạng nhất, Huân chương Angkor của Nhà nước Campuchia. Đời tư Theo cuốn Bên thắng cuộc thì lúc sinh thời ông đã hai lần lập gia đình. Năm 1956 ông ly dị và sống độc thân 20 năm. Cho đến năm 1976 thì ông kết hôn với người vợ thứ hai là bà Nguyễn Thị Đức Thịnh. Ông và bà có với nhau 2 người con gái sinh năm 1977 và 1982. Sau khi ông Bách bị kỷ luật, cách chức ủy viên Bộ chính trị, ủy viên Trung ương Đảng thì bà Thịnh bị cơ quan "cho ra đứng vỉa hè, giữ xe máy cho khách đến liên hệ với cơ quan". Các bài viết của Trần Xuân Bách Chủ nghĩa xã hội thật sự là gì?
Hệ thống thông tin di động toàn cầu (tiếng Anh: Global System for Mobile Communications; tiếng Pháp: Groupe Spécial Mobile; viết tắt: GSM) là một công nghệ dùng cho mạng thông tin di động. Dịch vụ GSM được sử dụng bởi hơn 2 tỷ người trên 212 quốc gia và vùng lãnh thổ. Các mạng thông tin di động GSM cho phép có thể chuyển vùng (roaming) với nhau do đó những máy điện thoại di động GSM của các mạng GSM khác nhau ở có thể sử dụng được nhiều nơi trên thế giới. GSM là chuẩn phổ biến nhất cho điện thoại di động (ĐTDĐ) trên thế giới. Khả năng phú sóng rộng khắp nơi của chuẩn GSM làm cho nó trở nên phổ biến trên thế giới, cho phép người sử dụng có thể sử dụng ĐTDĐ của họ ở nhiều vùng trên thế giới. GSM khác với các chuẩn tiền thân của nó về cả tín hiệu và tốc độ, chất lượng cuộc gọi. Nó được xem như là một hệ thống Mạng thông tin di động thế hệ thứ hai (second generation, 2G). GSM là một chuẩn mở, hiện tại nó được phát triển bởi 3rd Generation Partnership Project (3GPP). Đứng về phía quan điểm khách hàng, lợi thế chính của GSM là chất lượng cuộc gọi tốt hơn, giá thành thấp và dịch vụ tin nhắn. Thuận lợi đối với nhà điều hành mạng là khả năng triển khai thiết bị từ nhiều người cung ứng. GSM cho phép nhà điều hành mạng có thể sẵn sàng dịch vụ ở khắp nơi, vì thế người sử dụng có thể sử dụng điện thoại của họ ở khắp nơi trên thế giới. Giao diện vô tuyến GSM là mạng điện thoại di động thiết kế gồm nhiều tế bào (cell) do đó các máy điện thoại di động kết nối với mạng bằng cách tìm kiếm các cell gần nó nhất. Các mạng di động GSM hoạt động trên 4 tần số. Hầu hết thì hoạt động ở tần số 900 MHz và 1800 MHz. Vài nước ở Châu Mỹ thì sử dụng tần số 850 MHz và 1900 MHz do tần số 900 MHz và 1800 MHz ở nơi này đã bị sử dụng trước. Và cực kỳ hiếm có mạng nào sử dụng tần số 400 MHz hay 450 MHz chỉ có ở Scandinavia sử dụng do các băng tần khác đã bị cấp phát cho việc khác. Các mạng sử dụng tần số 900 MHz thì đường lên (từ thuê bao di động đến trạm truyền dẫn uplink) sử dụng tần số trong dải 890–915 MHz và đường xuống downlink sử dụng tần số trong dải 935–960 MHz. Và chia các băng tần này thành 124 kênh với độ rộng băng thông 25 MHz, mỗi kênh cách nhau một khoảng 200 kHz. Khoảng cách song công (đường lên & xuống cho 1 thuê bao) là 45 MHz. Ở một số nước, băng tần chuẩn GSM900 được mở rộng thành E-GSM, nhằm đạt được dải tần rộng hơn. E-GSM dùng 880–915 MHz cho đường lên và 925–960 MHz cho đường xuống. Như vậy, đã thêm được 50 kênh (đánh số 975 đến 1023 và 0) so với băng GSM-900 ban đầu. E-GSM cũng sử dụng công nghệ phân chia theo thời gian TDM (time division multiplexing), cho phép truyền 8 kênh thoại toàn tốc hay 16 kênh thoại bán tốc trên 1 kênh vô tuyến. Có 8 khe thời gian gộp lại gọi là một khung TDMA. Các kênh bán tốc sử dụng các khung luân phiên trong cùng khe thời gian. Tốc độ truyền dữ liệu cho cả tám kênh là 270.833 kbit/s và chu kỳ của một khung là 4.615 m. Công suất phát của máy điện thoại được giới hạn tối đa là 2 watt đối với băng GSM 850/900 MHz và tối đa là 1 watt đối với băng GSM 1800/1900 MHz. Mã hóa âm thanh GSM sử dụng khá nhiều kiểu mã hóa thoại để nén tần số audio 3,1 kHz vào trong khoảng 6.5 and 13 kbit/s. Ban đầu, có 2 kiểu mã hoá là bán tốc (haft rate -5.6 kbps)và toàn tốc (Full Rate -13 kbit/s)). Để nén họ sử dụng hệ thống có tên là mã hóa dự đoán tuyến tính (linear predictive coding - LPC). GSM được cải tiến hơn vào năm 1997 với mã hóa EFR (mã hóa toàn tốc cải tiến -Enhanced Full Rate), kênh toàn tốc nén còn 12.2 kbit/s. Sau đó, với sự phát triển của UMTS, EFR được tham số lại bởi kiểu mã hóa biến tốc, được gọi là AMR-Narrowband. Có tất cả bốn kích thước cell site trong mạng GSM đó là macro, micro, pico và umbrella. Vùng phủ sóng của mỗi cell phụ thuộc nhiều vào môi trường. Macro cell được lắp trên cột cao hoặc trên các toà nhà cao tầng, micro cell lại được lắp ở các khu thành thị, khu dân cư, pico cell thì tầm phủ sóng chỉ khoảng vài chục mét trở lại nó thường được lắp để tiếp sóng trong nhà. Umbrella lắp bổ sung vào các vùng bị che khuất hay các vùng trống giữa các cell. Bán kính phủ sóng của một cell tuỳ thuộc vào độ cao của anten, độ lợi anten thường thì nó có thể từ vài trăm mét tới vài chục km. Trong thực tế thì khả năng phủ sóng xa nhất của một trạm GSM là 35 km (22 dặm). Một số khu vực trong nhà mà các anten ngoài trời không thề phủ sóng tới như nhà ga, sân bay, siêu thị... thì người ta sẽ dùng các trạm pico để chuyển tiếp sóng từ các anten ngoài trời vào. Lịch sử Vào đầu thập niên 1980 tại châu Âu người ta phát triển một mạng điện thoại di động chỉ sử dụng trong một vài khu vực. Sau đó vào năm 1982 nó được chuẩn hoá bởi CEPT (European Conference of Postal and Telecommunications Administrations) và tạo ra Groupe Spécial Mobile (GSM) với mục đích sử dụng chung cho toàn châu Âu. Mạng điện thoại di động sử dụng công nghệ GSM được xây dựng và đưa vào sử dụng đầu tiên bởi Radiolinja ở Phần Lan. Vào năm 1989 công việc quản lý tiêu chuẩn vá phát triển mạng GSM được chuyển cho viện viễn thông châu Âu (European Telecommunications Standards Institute - ETSI), và các tiêu chuẩn, đặc tính phase 1 của công nghệ GSM được công bố vào năm 1990. Vào cuối năm 1993 đã có hơn 1 triệu thuê bao sử dụng mạng GSM của 70 nhà cung cấp dịch vụ trên 48 quốc gia. Cấu trúc mạng GSM Một mạng GSM để cung cấp đầy đủ các dịch vụ cho khách hàng cho nên nó khá phức tạp vì vậy sau đây sẽ chia ra thành các phần như sau: chia theo phân hệ: Phân hệ chuyển mạch NSS: Network switching SubSystem Phân hệ vô tuyến RSS = BSS + MS: Radio SubSystem Phân hệ vận hành và bảo dưỡng OMS: Operation and Maintenance SubSystem BSS Base Station Subsystem= TRAU + BSC + BTS TRAU: bộ chuyển đổi mã và phối hợp tốc độ BSC: bộ điều khiển trạm gốc BTS: trạm thu phát gốc MS: chính là những chiếc di động gồm: ME và SIM ME Mobile Equipment: phần cứng và phần mềm SIM: lưu trữ các thông tin về thuê bao và mật mã / giải mật mã. Chức năng của BSC: điều khiển một số trạm BTS xử lý các bản tin báo hiệu Khởi tạo kết nối. Điều khiển chuyển giao: Intra & Inter BTS HO Kết nối đến các MSC, BTS và OMC Chức năng của BTS: Thu phát vô tuyến Ánh xạ kênh logic vào kênh vật lý Mã hóa và giải mã Mật mã / giải mật mã Điều chế / giải điều chế. BSS nối với NSS thông qua luồng PCM cơ sở 2 Mbps Mạng và hệ thống chuyển mạch Network and Switching Subsystem (phần này gần giống với mạng điện thoại cố định). Đôi khi người ta còn gọi nó là mạng lõi (core network). Phần mạng GPRS (GPRS care network) Phần này là một phần lắp thêm để cung cấp dịch vụ truy cập Internet. Và một số phần khác phục vụ việc cung cấp các dịch vụ cho mạng GSM như gọi, hay nhắn tin SMS... Máy điện thoại - Mobile Equipment Thẻ SIM (Subscriber identity module) Modul nhận dạng thuê bao (Subscriber identity module) Một bộ phận quan trọng của mạng GSM là modul nhận dạng thuê bao, còn được gọi là thẻ SIM. SIM là 1 thẻ nhỏ, được gắn vào máy di động, để lưu thông tin thuê bao và danh bạ điện thoại. Các thông tin trên thẻ SIM vẫn được lưu giữ khi đổi máy điện thoại. Người dùng cũng có thể thay đổi nhà cung cấp khác, nếu đổi thẻ SIM. Một số rất ít nhà cung cấp dịch vụ mạng ngăn cản điều này bởi việc chỉ cho phép 1 máy dùng 1 SIM hay dùng SIM khác, nhưng do họ sản xuất, được gọi là tình trạng Khóa SIM. Ở Australia, Bắc Mỹ và châu Âu, một số nhà khai thác mạng viễn thông tiến hành khóa máy di động họ bán. Lý do là giá của các máy này được những nhà cung cấp đó tài trợ, và họ không muốn người dùng mua máy đó để xài cho hãng khác. Người dùng cũng có thể liên hệ với nhà sản xuất để đăng ký gỡ bỏ khóa máy. Số được khóa theo máy di động là số Nhận dạng máy di động quốc tế IMEI (International Mobile Equipment Identity), chứ không phải số thuê bao. Một vài nước như Bangladesh, Belgium, Costa Rica, India, Indonesia, Malaysia, và Pakistan tất cả các máy di động đều được bỏ khóa (Tất nhiên, cả Việt Nam nữa).
Nông Thị Trưng (6 tháng 12 năm 1920 – 26 tháng 1 năm 2003) là một nữ cán bộ cách mạng lão thành, đã tham gia Việt Minh trong phong trào chống Pháp ở Việt Nam từ đầu thập niên 1940. Bà từng giữ chức Chánh án Toà án nhân dân Tỉnh Cao Bằng. Tiểu sử Bà có tên thật là Nông Thị Bảy, có tài liệu ghi Nông Thị Ngát, quê ở huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Theo hồi ký của thiếu tướng Lê Quảng Ba, Nông Thị Trưng là đội viên du kích trẻ tuổi nhất trong đội du kích đầu tiên của tỉnh Cao Bằng, do Lê Thiết Hùng chỉ huy. Trong vòng tám tháng vào năm 1941-1942, bà đã làm giao liên cho "Già Thu", bí danh của Hồ Chí Minh lúc đó. Tên Trưng của bà do "Già Thu" đặt, có ý muốn bà noi gương Trưng Trắc, Trưng Nhị. Cùng với các đảng viên và nhân dân Hà Quảng có điều kiện ở gần Hồ Chí Minh, bà đã được ông trực tiếp dạy văn hóa. Bà được Hồ Chí Minh kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 25 tháng 12 năm 1941. Bà là một trong những phụ nữ đầu tiên của Cao Bằng sớm tham gia cách mạng, và trở thành một trong những cán bộ, đảng viên cốt cán của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hoạt động cách mạng Tờ báo Xuân Phụ Nữ năm Đinh Sửu 1997 xuất bản trong nước một bài viết có tựa đề "Cô Học Trò Nhỏ của Bác Hồ" được tác giả Thiên Lý viết theo lời kể của chính Nông Thị Trưng có đoạn: "Tháng 7 năm 1941, được tin (chính quyền) châu Hà Quảng đưa lính cơ tới bắt, ngay đêm ấy tôi trốn ra rừng, rồi được Châu uỷ đem qua Bình Mãng (Trung Quốc) lánh nạn tại nhà một đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc. Một hôm đồng chí Lê Quảng Ba và Vũ Anh đến đón tôi từ Trung Quốc về Pắc Bó gặp Bác. Về Pắc Bó đã nửa đêm, anh Đại Lâm người giữ trạm đầu nguồn đưa ngay chúng tôi đi gặp "ông Ké". Lội ngược suối càng đi nước càng sâu, khi đến thác thứ ba, anh Đại Lâm thổi sáo, từ trên thác có thang tre thả xuống. Trèo thang lên, thấy một cái lán dựng ngay trên bờ suối. Trong lán có ông cụ ngồi đọc sách. Tôi chắp tay "Cháu chào cụ ạ". Ông cụ nhìn lên hai mắt rất sáng, ân cần bảo: "Cháu đến rồi à, cháu ngồi xuống đây nói chuyện". Tôi nhìn xuống sàn, thấy toàn cây to bằng bắp chân. Cụ bảo hai lần tôi mới dám ngồi. Cụ tỉ mỉ hỏi gia cảnh, rồi khuyên tôi: "Từ nay cháu đã có một gia đình lớn là gia đình cách mạng, đừng luyến tiếc gia đình nhỏ nữa. Cháu cặm cụi làm ăn cũng không đủ để nộp sưu thuế đâu. Mình lấy lại được nước rồi từng gia đình sẽ được đàng hoàng. Từ nay ai hỏi thì cháu nói mình là cháu chú Thu, tên Trưng". Bác đặt tên ấy là muốn tôi noi theo gương bà Trưng". Nông Thị Trưng đã học tập lý luận cách mạng cùng "Già Thu" trong khoảng 8 tháng. "Từ đấy tôi ở lại lán anh Đại Lâm, mỗi ngày vào lán của Bác một giờ để học tập. Bác dạy cho tôi từ chuyện thế giới, chuyện cộng sản chủ nghĩa đến cả những cách ứng xử thường ngày như "Đừng làm một việc gì có thể khiến dân mất lòng tin. Mượn một cái kim, một con dao, một buổi là phải đem trả. Trong ba lô nếu có màn, phải để ở ngoài cửa, hỏi xem chủ nhà có bằng lòng mới đem vào. Cháu là nữ, trước bàn thờ có cái giường để các cụ ngồi ăn cỗ, cháu không được ngồi...". Tám tháng được Bác chỉ dạy tôi học được hơn cả mấy chục năm học lý luận tập trung sau này". Đoạn hồi ký trên còn được đăng tại Tạp chí Công nghiệp. Khi biết Nông Thị Trưng là người ham học, hàng ngày lấy than và que để viết chữ và vẽ hình, Hồ Chí Minh đã gửi cho bà một số vở, bút viết, với bài thơ mà sau này được đưa vào sách giáo khoa Việt Nam: Vở này ta tặng cháu yêu taTỏ chút lòng yêu cháu gọi là Mong cháu ra công mà học tậpMai sau cháu giúp nước non nhà Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Nguyên thì bài thơ được viết năm 1944 và có tên "Tặng cháu Nông Thị Trưng". Hồ Chí Minh cũng tặng Nông Thị Trưng quyển Binh pháp Tôn Tử để bà hiểu biết thêm về quân sự, nhằm cùng đội du kích sáng tạo cách tổ chức, hoạt động và cách đánh Pháp. Sau ngày 2 tháng 9 năm 1945, chồng bà đưa cho bà xem bức ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập ở quảng trường Ba Đình. Khi đó bà mới biết người dạy học cho mình chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ năm 1964 đến năm 1980 (trước khi nghỉ hưu), bà được phân công làm Chánh án Toà án nhân dân tỉnh Cao Bằng. Ngày Hồ Chí Minh qua đời, bà tham gia đoàn cán bộ và nhân dân Cao Bằng về Hà Nội dự tang lễ. Với tư cách là cán bộ hoạt động thân cận với Hồ Chủ tịch ngay từ những ngày buổi đầu cách mạng, bà vinh dự được túc trực bên linh cữu hai lần, vào sáng và chiều ngày 8 tháng 9 - 1969. Gia đình Tạp chí Asia Times đã dẫn lại tin đồn cho rằng Nông Thị Trưng là mẹ đẻ của Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 2001. Tuy nhiên, Nông Đức Mạnh đã khẳng định đây là tin đồn vô căn cứ, và rằng cha mẹ ông là ông Nông Văn Lại và bà Hoàng Thị Nhị, quê ông ai cũng biết hàng năm tháng ba âm lịch (tết thanh minh) ông luôn về quê để tảo mộ cha mẹ (hai người đều mất sớm), và ông còn có em trai, em gái ở quê. Chồng bà Nông Thị Trưng là ông Hoàng Văn Thạch, họ yêu nhau lúc bà 19 tuổi rồi xây dựng gia đình với nhau. Ông Thạch sớm tham gia cách mạng và lấy tên là Hoàng Hồng Tiến, ông từng bị quân Pháp bắt giam ở nhà tù Hoả Lò, rồi đày đi nhà tù Sơn La từ năm 1941 đến năm 1945. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông được giải thoát khỏi nhà tù, năm 1946 là Bí thư Tỉnh uỷ Lạng Sơn. Qua đời Đầu năm 2003, bà qua đời. Báo Nhân dân có đăng tin buồn, lấy từ Thông tấn xã Việt Nam. Thông báo này cũng từng công bố trên website của báo, ở địa chỉ số 5 phố Lý Thường Kiệt, phường Phan Chu Trinh, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Chú thích
Dược điển Việt Nam là dược điển do Hội đồng dược điển Việt Nam biên soạn. Đây là tập hợp tất cả các tiêu chuẩn cho dược phẩm của Việt Nam (và có mặt trên thị trường Việt Nam) và tiêu chuẩn áp dụng sẽ căn cứ vào ấn bản mới nhất. Không giống như các quốc gia khác là có các ấn bản theo chu kỳ, Dược điển Việt Nam đến nay có năm bản ấn hành Dược điển Việt Nam I (tập 1: 1970-1977; tập 2: 1983) Dược điển Việt Nam II (tập 1: 1990; tập 2: 1991; tập 3: 1994) Dược điển Việt Nam III (2005). Dược điển Việt Nam IV (2010). Dược điển Việt Nam V (2018). Dược điển Việt Nam cập nhật đổi mới theo chu kì mỗi 5 năm 1 lần, tùy theo hoàn cảnh hiện thời. Các tài liệu tham khảo để xây dựng Dược điển Việt Nam từ nhiều dược điển trên thế giới gồm: Dược điển Hoa Kỳ (USP), Dược điển Anh (BP) Dược điển tham chiếu Trong một số trường hợp, nếu một thuốc cần kiểm định nhưng không có trong Dược điển Việt Nam thì có thể dùng các Dược điển tham chiếu mà không cần phải thẩm định lại. Các Dược điển tham chiếu gồm 5 dược điển sau: Dược điển Hoa Kỳ (USP) Dược điển Anh (BP) Dược điển châu Âu (EP) Dược điển Quốc tế (IP) Dược điển Nhật Bản (JP)
Karaoke là một hình thức giải trí bằng cách đệm nhạc theo lời bài hát trên màn hình. Từ karaoke có gốc từ 空 kara (không, cũng như trong môn võ karate - từ kara có nghĩa là không) và oke オーケストラ (ōkesutora có nghĩa là "dàn nhạc", có gốc từ tiếng Anh orchestra) trong tiếng Nhật. Thông thường một bài hát được ghi âm bao gồm người hát và nhạc đệm. Thay vì bài hát có cả nhạc đệm và xướng âm, các video karaoke có nhạc của bài hát. Phần xướng âm sẽ được người tham gia hát trực tiếp (và không phải là chuyên nghiệp), người sẽ cầm microphone hát theo những dòng chữ lời bài hát hiện trên màn hình trên nền nhạc giai điệu của bài hát. Lịch sử Nguồn gốc của karaoke ở Nhật Bản không thể tách rời khỏi các quán bar chơi piano và guitar truyền thống vốn là địa điểm giải trí chủ yếu của các doanh nhân Nhật từ nhiều năm về trước. Karaoke do ông Inoue Daisuke người Nhật phát minh vào năm 1971, khi ông 31 tuổi. Lúc ấy Inoue là một người chơi keyboard trong một câu lạc bộ. Karaoke lần đầu tiên được biết đến tại một quầy bar ở thành phố Kobe của Nhật Bản. Tại Nhật Bản thời đó, hình thức giải trí âm nhạc đã khá phổ biến trong những buổi tiệc. Theo như một câu chuyện được kể lại rằng, tại một quán bar, trong một buổi biểu diễn, khi cây ghi ta không đến chơi được vì bị ốm, người chủ cửa hàng đã chuẩn bị những bǎng nhạc thu thanh sẵn và ca sĩ lại hát theo bǎng. Hình thức này đã được nhiều khách hưởng ứng và thậm chí họ cũng muốn thử hát. Nhận thấy đó là một thị trường đầy tiềm năng, chủ cửa hàng đã cho sản xuất những máy karaoke được đặt tại các cửa hàng, các khách sạn, và được ghi sẵn nhiều bài hát. Karaoke sẽ tiếp tục có những bước tiến xa hơn trong cả hai phát triển công nghệ và phổ biến. Ngày nay karaoke đã phổ biến hầu như khắp thế giới. Năm 2004, Inoue được trao giải Ig Nobel về hòa bình do phát minh của mình. Người phát minh karaoke không đăng ký bản quyền. Xu hướng mới đến từ Tây Nhật Bản Có một câu nói ở Nhật Bản rằng "xu hướng mới đến từ phương Tây của Nhật Bản". Siêu thị và phòng tắm hơi đầu tiên của Nhật Bản đã được thành lập tại khu vực Kansai, và Kansai đã liên tục tạo ra các doanh nghiệp độc đáo và các sản phẩm như một mì ăn liền hoặc cửa bán vé tự động. Đặc biệt trong số các thành phố trong khu vực Kansai, Kobe có bầu không khí đô thị đầu tiên. Có một câu nói rằng "thời trang đến từ Kobe". Người ta nói rằng thời trang của phụ nữ trẻ được công nhận đầu tiên tại Kobe và trở nên phổ biến ở Tokyo sau đó. Kể từ cảng Kobe được mở cửa cho thương mại quốc tế trong năm 1868, vào đêm trước của Minh Trị Duy tân, Kobe đã dẫn đường hướng đến giao lưu quốc tế, và thu hút nhiều người nước ngoài đến đây sinh sống và làm việc. Khu dân cư kiểu phương Tây, trong đó người nước ngoài sử dụng để sống là nằm ở Kitano-cho, nơi một lễ hội nhạc jazz được tổ chức hàng năm, cho thấy Kobe là một thánh địa cho người hâm mộ nhạc jazz. Ngoài ra, nhiều người nước ngoài tham gia "Liên hoan Kobe", được biết đến với cuộc diễu hành của mình sinh động với nhịp điệu samba và khiêu vũ. như vậy khuynh hướng âm nhạc có thể nằm đằng sau sự ra đời của karaoke. Công nghệ đổi mới sáng tạo và dàn karaoke Mặc dù karaoke là lần đầu tiên một giải trí chủ yếu cho những người kinh doanh, nó đã phát triển được một giải trí trên toàn quốc, nhờ sự phát triển công nghệ và kinh doanh mới được gọi là "dàn karaoke". Ban đầu trong hình thức của băng đệm một bài hát nổi tiếng, karaoke tiến hóa để các đĩa nhỏ gọn, có thể xác định vị trí bắt đầu của một bài hát ngay lập tức. Sự phát triển này cũng có thể tăng cường cảnh video để tạo ra một bầu không khí thích hợp cho mỗi bài hát được thực hiện, hiển thị trên một màn hình TV cùng với các từ. Sử dụng đổi mới công nghệ như đĩa video, đĩa laser, và CD-G, karaoke đã phát triển được một ngành công nghiệp giải trí lớn. Bộ gia đình sử dụng karaoke cũng đã trở nên phổ biến, làm cho vui chơi giải trí trước đây là hạn chế đến tối các điểm có thể có trong nhà. Tuy nhiên, có một trở ngại cho mục tiêu này của doanh nghiệp: vì hầu hết các ngôi nhà Nhật Bản đứng gần nhau và vẫn đang được xây dựng bằng gỗ, cách âm kém, nó sẽ rất khó chịu của những người hàng xóm hát vào micro vào ban đêm. Nắm bắt khi cơ hội được tạo ra bởi vấn đề này, các nhà doanh nghiệp tạo ra các dàn karaoke, một cơ sở bên đường có chứa đóng cửa phòng cách nhiệt cho ca hát. Chúng được quảng cáo như là một nơi mà bạn có thể hát với nội dung trái tim của bạn. Dàn karaoke đầu tiên xuất hiện vào năm 1984 tại một cánh đồng lúa ở vùng nông thôn của tỉnh Okayama, phía Tây của khu vực Kansai (nay là Kinki). Nó được xây dựng từ một chiếc xe vận tải hàng hóa chuyển đổi. Kể từ đó, các dàn karaoke được xây dựng trên cơ sở trống khắp Nhật Bản, và trong các khu vực đô thị, phòng karaoke, trong đó bao gồm các khoang được thực hiện bởi phòng phân vùng và cách âm trong một tòa nhà, đã được giới thiệu và thiết lập một. Như các cơ sở này đã được thành lập chủ yếu để cung cấp chỗ để vui chơi ca hát, họ đã trở thành phổ biến rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực dân số - lao động nữ văn phòng, bà nội trợ, sinh viên đại học, và thậm chí cả học sinh trung học. Từ dàn karaoke được cơ sở đóng cửa, họ đã trở thành một đối tượng của công chúng quan tâm như nơi trú ẩn tiềm năng cho những hành động xấu trong giới trẻ. Mặt khác, tuy nhiên, vì không phải một vài gia đình thích hát với nhau trong dàn karaoke. Dàn karaoke cũng đóng một vai trò như là một nơi để giao tiếp trong gia đình qua việc ca hát. Điều này là rất quan trọng tại một thời điểm khi khoảng cách thế hệ và sự tan vỡ gia đình là một mối quan tâm trên toàn quốc. Làm thế nào, sự bùng nổ karaoke đã lan rộng ra nước ngoài, được hưởng không chỉ ở Hàn Quốc và Trung Quốc mà còn ở khu vực Đông Nam Á, Mỹ và châu Âu. Kể từ khi hát karaoke sẽ hiển thị những từ và những cảnh của một bài hát trên một màn hình, nó cũng đã được thu hút sự chú ý của các nước đang cố gắng để cải thiện tỷ lệ biết chữ của họ, như là một công cụ giáo dục tốt. Với công nghệ ngày càng phát triển, để phục vụ tốt hơn cho nhu cầu của mọi người thì micro karaoke không dây ra đời. Micro không dây là loại micro karaoke không có dây cáp kết nối trực tiếp từ micro đến âm ly, mixer, thiết bị thu âm thanh. Loại mic này còn có tên gọi là micro vô tuyến. Với các tần số hoạt động UHF hoặc VHF, loại mic này hoạt động hoàn toàn dựa trên bộ phận truyền tải vô tuyến. Bộ phận này chạy bằng năng lượng pin và được gắn bên trong thân mic. Do đó, thiết bị này rất linh hoạt di chuyển trong một phạm vi nhất định mà vẫn có thể truyền tải âm thanh tốt. Kỷ lục Karaoke Phần Lan phá kỷ lục thế giới về số người cùng hát karaoke 1 lần với hơn 80 ngàn người cùng hát"Hard Rock Hallelujah"vào ngày 26 tháng 5 năm 2006 tại Helsinki sau khi ban nhạc Lordi thắng giải Eurovision Song Contest. Hungary đã giữ kỷ lục về thời gian hát karaoke lâu nhất với thời gian 1011 giờ 1 phút, trong khoảng thời gian từ 20 tháng 7 năm 2011 đến 31 tháng 8 năm 2011. Mỗi bài hát có ít nhất 3 phút và ngăn cách giữa 2 bài không quá 30 giây. Không có bài nào lặp lại trong 2 giờ. Chú thích
Đại Từ là một huyện nằm ở phía tây nam tỉnh Thái Nguyên, Việt Nam. Địa lý Vị trí địa lý Huyện Đại Từ nằm ở phía tây bắc của tỉnh Thái Nguyên, nằm cách thành phố Thái Nguyên khoảng 25 km, có vị trí địa lý: Phía đông giáp thành phố Thái Nguyên, thành phố Phổ Yên và huyện Phú Lương Phía tây giáp huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang Phía nam giáp huyện Bình Xuyên và huyện Tam Đảo thuộc tỉnh Vĩnh Phúc Phía bắc giáp huyện Định Hóa. Dân số Dân số toàn huyện khoảng 160.598 người (năm 2012). Mật độ dân số đạt 282 người/km². Các dân tộc chủ yếu tại địa bàn huyện là Kinh, Tày, Nùng, Dao, Sán Dìu phân bố khá đồng đều trên toàn huyện. Theo tổng điều tra dân số và nhà ở 1/4/2009, trong 10 năm (1999-2009) dân số của huyện giảm 2.900 người do có nhiều người di chuyển đi nơi khác. Khí hậu Đại Từ có lượng mưa lớn (trung bình 1.700-1.800 mm/năm) độ ẩm trung bình 70%-80%, nhiệt độ trong năm từ 22 °C-27 °C, cao nhất trong tháng 6 năm 2013 (32 °C), lạnh nhất trong tháng 1 năm 2014 (6 °C). Tài nguyên Đất đai Tổng diện tích đất tự nhiên toàn huyện là 57.890 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 26,87%; đất lâm nghiệp chiếm 45,13%; còn lại là đất phi nông nghiệp chiếm 28%. Trong tổng diện tích hiện có thì diện tích đất chưa sử dụng chiếm 17,35%, chủ yếu là đất đồi núi và sông suối. Trên địa bàn huyện đất được hình thành bởi 8 nhóm, trong đó có 4 nhóm đất chính là: - Đất xám mùn trên núi có: 16.400 ha chiếm tỷ lệ 28,37% - Đất Feralit phát triển trên đá biến chất: 15.107 ha chiếm 26,14% - Đất Feralit phát triển trên phù sa cổ: 1.3036 ha chiếm 22,55% - Đất phù sa Gley phát triển trên phù sa cổ: 13.247 ha chiếm 22,94% Rừng Diện tích rừng toàn huyện là 24.469 ha. Trong đó rừng trồng trên 9.000 ha, rừng tự nhiên 15.000 ha. Hiện nay nhiều diện tích rừng trồng đã đến tuổi khai thác, mặt khác diện tích đất có khả năng lâm nghiệp còn khá lớn, cần phủ xanh để nâng cao độ che phủ và cũng là tiềm năng để phát triển cây lâm nghiệp có giá trị cao. Khoáng sản Đại Từ có khá nhiều tài nguyên khoáng sản: Nhóm nguyên liệu cháy: Chủ yếu là than nằm ở 8 xã của huyện là: Yên Lãng, Hà Thượng, Phục Linh, Minh Tiến, An Khánh, Cát Nê, trữ lượng lớn tập trung ở mỏ Làng Cẩm và mỏ Núi Hồng: 17 triệu tấn. Nhóm khoáng sản: bao gồm nhiều loại khoáng sản quý như thiếc, wolfram, vàng, chì, kẽm, barit, pyrit, granit phân bố ở nhiều xã trong huyện, trong đó tập trung nhiều nhất tại mỏ đa kim Núi Pháo, trữ lượng khoảng 100 triệu tấn. Vật liệu xây dựng: gồm các mỏ đất sét, đá, cát, sỏi... Hành chính Huyện Đại Từ có 29 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn: Hùng Sơn (huyện lỵ), Quân Chu và 27 xã: An Khánh, Bản Ngoại, Bình Thuận, Cát Nê, Cù Vân, Đức Lương, Hà Thượng, Hoàng Nông, Khôi Kỳ, Ký Phú, La Bằng, Lục Ba, Minh Tiến, Mỹ Yên, Na Mao, Phú Cường, Phú Lạc, Phú Thịnh, Phú Xuyên, Phúc Lương, Phục Linh, Tân Linh, Tân Thái, Tiên Hội, Vạn Thọ, Văn Yên, Yên Lãng. Lịch sử Huyện Đại Từ được đặt từ thời nhà Trần. Sách Thiên hạ lợi bệnh toàn thư chép: "Năm Vĩnh Lạc thứ 17 (1419)… dồn huyện TNông vào huyện An Định; huyện Phú Lương, huyện Đại Từ vào huyện Tuyên Hóa". Đầu nhà Lê, huyện Đại Từ thuộc phủ Thái Nguyên; năm 1466 thuộc thừa tuyên Thái Nguyên; năm 1469 thuộc thừa tuyên Ninh Sóc; năm 1490 thừa tuyên Ninh Sóc đổi lại là xứ Thái Nguyên, Đại Từ thuộc xứ Thái Nguyên, toàn huyện có 22 xã, trang. Từ thời Tây Sơn đến đầu thời Nguyễn, hai huyện Đại Từ và Văn Lãng thuộc phủ Phú Bình (trấn Thái Nguyên, sau là tỉnh Thái Nguyên). Năm 1835, nhà Nguyễn cắt châu Định (Định Hóa) và 3 huyện Đại Từ, Văn Lãng, Phú Lương khỏi phủ Phú Bình để lập phủ Tòng Hóa. Thời vua Đồng Khánh (1886 - 1889), huyện Đại Từ có 7 tổng, gồm 28 xã, trang, phường; huyện Văn Lãng có 7 tổng, gồm 12 xã, trang. Năm Khải Định thứ 6 (1922), huyện Văn Lãng gộp vào huyện Đại Từ thành huyện Đại Từ gồm 9 tổng, 38 xã. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, bỏ cấp tổng, các xã, làng, xóm ở Đại Từ có nhiều biến động do việc phân chia địa giới hành chính và đặt tên mới cho phù hợp. Huyện Đại Từ khi đó gồm có thị trấn Đại Từ và 29 xã: An Khánh, Bản Ngoại, Bình Thuận, Cát Nê, Cù Vân, Đức Lương, Hà Thượng, Hoàng Nông, Hùng Sơn, Khôi Kỳ, Ký Phú, La Bằng, Lục Ba, Minh Tiến, Mỹ Yên, Na Mao, Phú Cường, Phú Lạc, Phú Thịnh, Phú Xuyên, Phục Linh, Phúc Lương, Phúc Thọ, Quân Chu, Tân Thái, Tiên Hội, Vạn Thọ, Văn Yên, Yên Lãng. Năm 1965, Quốc hội ban hành quyết định sáp nhập 2 tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái, huyện Đại Từ thuộc tỉnh Bắc Thái. Ngày 27 tháng 10 năm 1967, thành lập thị trấn nông trường Quân Chu. Ngày 1 tháng 10 năm 1983, xã Phúc Thọ (xã có nhiều diện tích đất đai bị chìm trong lòng Hồ Núi Cốc) sáp nhập với các xóm Tân Thắng, Đồng Đẳng của xã Phúc Thuận (huyện Phổ Yên), xóm Yên Ninh của xã Phúc Trìu (huyện Đồng Hỷ) thành xã Phúc Tân thuộc huyện Đồng Hỷ. Đồng thời, xóm Quyết Tiến của xã Tân Thái sáp nhập vào xã Bình Thuận. Huyện Đại Từ còn lại thị trấn Đại Từ, thị trấn nông trường Quân Chu và 28 xã: An Khánh, Bản Ngoại, Bình Thuận, Cát Nê, Cù Vân, Đức Lương, Hà Thượng, Hoàng Nông, Hùng Sơn, Khôi Kỳ, Ký Phú, La Bằng, Lục Ba, Minh Tiến, Mỹ Yên, Na Mao, Phú Cường, Phú Lạc, Phú Thịnh, Phú Xuyên, Phục Linh, Phúc Lương, Quân Chu, Tân Thái, Tiên Hội, Vạn Thọ, Văn Yên, Yên Lãng. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, tỉnh Thái Nguyên được tái lập từ tỉnh Bắc Thái, huyện Đại Từ thuộc tỉnh Thái Nguyên. Ngày 10 tháng 4 năm 1999, xã Phục Linh được chia thành 2 xã: Phục Linh và Tân Linh. Ngày 13 tháng 1 năm 2011, thị trấn Quân Chu được thành lập trên cơ sở một phần diện tích và dân số của hai xã Quân Chu và Cát Nê sau khi giải thể thị trấn nông trường Quân Chu. Ngày 13 tháng 12 năm 2013, sáp nhập xã Hùng Sơn vào thị trấn Đại Từ để thành lập thị trấn Hùng Sơn. Ngày 14 tháng 5 năm 2019, Bộ Xây dựng ký Quyết định số 371/QĐ-BXD, công nhận thị trấn Hùng Sơn là đô thị loại IV thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Ngày 10 tháng 4 năm 2023, sáp nhập xã Quân Chu vào thị trấn Quân Chu. Huyện Đại Từ có 2 thị trấn và 27 xã như hiện nay. Cơ sở hạ tầng Giao thông vận tải: Hệ thống tỉnh lộ dài 80 km, hơn 400 km đường giao thông liên xã. Quốc lộ 37 nối huyện Đại Từ với huyện Sơn Dương tỉnh Tuyên Quang dài 32 km. Tuyến đường sắt Quan Triều - Núi Hồng chạy qua hệ thống các tuyến đường giao thông trong huyện. Tuy nhiên đa phần các tuyến giao thông liên huyện, liên xã có chất lượng chưa tốt. Điện: Hệ thống điện lưới quốc gia đã đảm bảo cung cấp cho 31/31 xã, thị trấn với trên 90% dân số được sử dụng điện sinh hoạt. Thủy lợi: Hệ thống các công trình thủy lợi cơ bản đã đáp ứng nhu cầu tưới tiêu cho trên 60% diện tích đất canh tác. Di tích Đại Từ là nơi ra đời của tổ chức cơ sở Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên của tỉnh Thái Nguyên. Trên địa bàn huyện có 162 địa điểm di tích lịch sử văn hoá đã kiểm kê và 4 di tích được xếp hạng cấp quốc gia. Các di tích lịch sử văn hóa quan trọng: Nơi kỷ niệm ngày Thương binh - Liệt sĩ (27 tháng 7): là một ngôi chùa thuộc thị trấn Hùng Sơn, được nhà nước tôn tạo và được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia ngày 17/7/1997. Với diện tích 3000m² gồm: nhà lưu niệm; bia là tảng đá vân mây trắng hình trụ, chóp nhọn, cao hơn 3m, rộng gần 3m, nặng gần 7 tấn. Nơi đây ngày 27/7/1947, 300 cán bộ, bộ đội và đại diện các tầng lớp nhân dân địa phương họp mặt nghe công bố thư Bác Hồ, ghi nhận sự ra đời ngày Thương binh liệt sĩ ở nước ta. 11 xã được Nhà nước công nhận là xã ATK trong kháng chiến chống Pháp Núi Văn, núi Võ: nằm dưới chân núi Tam Đảo thuộc 2 xã Văn Yên - Ký Phú, cách khu du lịch hồ Núi Cốc 15 km về phía tây bắc. Một di tích gắn với tên tuổi và quê hương vị danh tướng Lưu Nhân Chú với những đóng góp to lớn cho cuộc kháng chiến chống giặc Minh thế kỷ 15 và triều đại nhà Lê. Ông đã từng dự hội thề Lũng Nhai năm 1416 kết nghĩa anh em với Lê Lợi. Những năm 1425 -1426 Lưu Nhân Chú chỉ huy nhiều cuộc khởi nghĩa đánh đuổi giặc Minh, chiến tích năm 1427 tại ải Chi Lăng chém tướng giặc Liễu Thăng đánh tan 10 vạn quân viện binh. Ông cùng hoàng tử Từ Tế (con trai cả vua Lê Lợi) xây thành Đông Quan và cũng chính bản thân ông đã làm sứ giả đàm phán buộc Vương Thông rút quân về nước để nước Đại Việt được thái bình. Năm 1485, vua Lê Thánh Tông đã truy phong ông tước "Thái phó vinh quốc công". Khu di tích núi Văn, núi Võ được nhà nước xếp hạng cấp quốc gia. Dấu tích cùng với truyền thuyết đẹp gắn với danh tướng Lưu Nhân Chú và đội nghĩa binh của ông. Kinh tế Nông nghiệp Cây trồng lương thực (lúa, ngô) và đặc biệt cây chè là thế mạnh của huyện. Các cây công nghiệp ngắn ngày chính gồm lạc, đậu tương... Cây chè là cây kinh tế mũi nhọn, là cây tạo ra sản phẩm hàng hoá vừa xuất khẩu, vừa tiêu thụ nội địa. Diện tích toàn huyện có 5.124 ha, trong đó chè kinh doanh có 4.470 ha, hàng năm cho sản lượng búp tươi đạt trên 30 ngàn tấn. Cây chè của Đại Từ nói riêng và Thái Nguyên nói chung hiện nay không ngừng cải thiện chất lượng. Giống chè trung du cũ cho năng xuất thấp và chất lượng kém cạnh tranh đang dần được thay thế bằng những giống chè mới LDP1, 777, Bát Tiên v.v là những chè đã được nghiên cứu và chọn lọc từ viện nghiên cứu cây chè Việt Nam, Viện khoa học nông nghiệp. Các giống chè này năng xuất lớn và chất lượng tốt đang góp phần cải nâng cao chất lượng nguyên liệu đầu vào cho các máy chè đồng thời tạo thu nhập tốt hơn cho người dân trồng chè. Giống cây chè nói riêng và nhiều giống cây khác có giá trị cao phục vụ cho nông nghiệp, trồng rừng, cây sinh thái cảnh quan...nhằm tạo đa dạng sinh học cho môi trường và lấy gỗ cho các ngành sản xuất khác đang được các vườn giống trong huyện ứng dụng công nghệ sinh học trong quá trình gieo trồng rất tốt đáp ứng không chỉ nhu cầu trong huyện trong tỉnh mà còn bán sang nhiều tỉnh lân cận. Đặc biệt trong lĩnh vực này hiện nay một số hộ gia đình kinh doanh cá thể cũng rất mạnh dạn đầu tư và làm chủ công nghệ tạo ra được những vườn giống tốt có quy mô rất lớn và chuyên nghiệp. Họ còn tham gia sản xuất cây giống cho chương trình hợp tác phát triển Đức Deutscher Entwicklungs Dients (DED) được các chuyên viên của tổ chức này đánh giá cao. Ngành sản xuất cây chè và giống cây trồng hiện đang có thể là điểm sáng của nông nghiệp Đại Từ đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho người dân trong những năm gần đây. Công nghiệp Chủ yếu là khai thác, sơ chế khoáng sản và chế biến nông sản. Huyện có 2 mỏ than là mỏ Làng Cẩm, xã Phục Linh và mỏ Núi Hồng, xã Yên Lãng. Dự án mỏ đa kim Núi Pháo do công ty trách nhiệm hữu hạn khai thác chế biến khoáng sản Núi Pháo làm chủ đầu từ bắt đầu được triển khai từ năm 2010. Du lịch Điểm du lịch quan trọng nhất của Đại Từ là khu du lịch Hồ Núi Cốc với diện tích 25 km², dung tích 175 triệu m³. Đây là khu du lịch thu hút nhiều khách trong và ngoài tỉnh đến nghỉ và tham quan, đồng thời cũng là nơi cung cấp nước phục vụ sản xuất và nước sinh hoạt cho các huyện phía nam của tỉnh Thái Nguyên. Khu du lịch hồ Núi Cốc có nhiều hoạt động dịch vụ vui chơi, giải trí, tham quan và nghỉ dưỡng như: du thuyền trên mặt hồ thăm các đảo, thăm huyền thoại cung (nghe kể truyền thuyết câu chuyện tình thủy chung chàng Cốc - nàng Công), thăm công viên cổ tích, vườn thú, Vui chơi tắm mát ở công viên nước. Tại đây có hệ thống khách sạn, nhà hàng ăn uống phong phú từ bình dân đến cao cấp. Ngoài ra còn có một số điểm di tích lịch sử khác như: Núi Văn - Núi Võ ở Văn Yên và Ký Phú; Di tích 27/7 (xã Hùng Sơn), Khu đài tưởng niệm Thanh niên xung phong (xã Yên Lãng); Khu di tích chiến khu Nguyễn Huệ (xã Yên Lãng); Nơi thành lập chi bộ Đảng đầu tiên (xã La Bằng) và các khu du lịch sinh thái Vườn Quốc gia Tam Đảo trải dài trên 11 xã. Đại Từ còn là nơi nối liền khu di tích lịch sử ATK (huyện Định Hoá) với Tân Trào (tỉnh Tuyên Quang). Chú thích
Mỗi kỳ cúp bóng đá thế giới kể từ năm 1966 tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland đều lấy hình ảnh một vật riêng làm đại diện cho mình, gọi là linh vật (tiếng Anh: mascot). Mỗi linh vật là một biểu tượng vui, thể hiện rõ nét văn hoá của quốc gia đăng cai World Cup và tính chất bóng đá thời kỳ đó.